ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRIỆU THỊ THANH HƯƠNG NGHIÊN CỨU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY LƯU TƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRIỆU THỊ THANH HƯƠNG NGHIÊN CỨU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY LƯU TƯƠNG Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. DƯƠNG THU HẰNG
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Nghiên cứu truyện thơ Nôm
Tày Lưu Tương” dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Dương Thu Hằng là kết quả
nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 05 tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn
Triệu Thị Thanh Hương
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam được hoàn thành tại Đại học
Sư phạm Thái Nguyên. Có được luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc tới PGS.TS. Dương Thu Hằng, người đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp
đỡ tôi với những chỉ dẫn khoa học quý báu trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn “Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương”.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên,
Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm -
Đại học Thái Nguyên, Trung tâm học liệu - Đại học Thái Nguyên, Thư viện Quốc
gia Việt Nam đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt
những kiến thức khoa học chuyên ngành Văn học Việt Nam cho bản thân tôi trong
thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi
trong thời gian thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện luận văn một cách hoàn chỉnh nhất
song do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, Cô
giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 05 tháng 7 năm 2018
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 1
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 10
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 10
7. Bố cục của luận văn ....................................................................................... 11
NỘI DUNG ....................................................................................................... 12
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA
TÀY VÀ TRUYỆN THƠ NÔM LƯU TƯƠNG ................................ 12
1.1. Khái quát về văn hóa Tày ...................................................................... 12
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên ................................................................................. 12
1.1.2. Đặc điểm văn hóa - xã hội ..................................................................... 13
1.2. Truyện thơ Nôm Tày ............................................................................. 17
1.2.1. Khái quát chung ..................................................................................... 17
1.2.2. Quá trình phát triển của truyện thơ Nôm Tày ....................................... 20
1.3. Truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương .......................................................... 21
1.3.1. Vấn đề văn bản ...................................................................................... 21
1.3.2. Tóm tắt cốt truyện ................................................................................. 27
Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
LƯU TƯƠNG ....................................................................................... 30
2.1. Ca ngợi tài trí và sức mạnh của người anh hùng ................................... 30
2.1.1. Ca ngợi tài trí của người anh hùng ........................................................ 30
iii
2.1.2. Ca ngợi sức mạnh của người anh hùng ................................................. 34
2.2. Lưu giữ giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc Tày ........... 39
2.2.1. Niềm tin vào mẹ Hoa ............................................................................. 39
2.2.2. Niềm tin vào thế giới siêu hình ............................................................. 41
2.2.3. Truyền thống sống tương thân, tương ái ............................................... 45
2.3. Quan niệm tình yêu và hạnh phúc lứa đôi bao dung, phóng khoáng ......... 50
2.3.1. Tình yêu vượt không gian, thời gian với công chúa Long cung ................ 50
2.3.2. Tình yêu ân nghĩa nơi trần thế với công chúa con vua Sở ......................... 54
Chương 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
LƯU TƯƠNG ......................................................................................... 58
3.1. Kết cấu ................................................................................................... 58
3.1.1. Mở lời - một sáng tạo mới ..................................................................... 59
3.1.2. Truyện lồng truyện ................................................................................ 60
3.1.3. Sự kết hợp tự sự - trữ tình ..................................................................... 64
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................... 71
3.2.1. Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương ................... 71
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương .... 73
3.3. Ngôn ngữ dân tộc Tày qua truyện thơ Nôm Lưu Tương ....................... 80
3.3.1. Hệ thống từ ngữ, hình ảnh mang đậm bản sắc văn hóa Tày ................. 80
3.3.2. Sự hòa điệu giữa tiếng Tày và tiếng Kinh ............................................. 87
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 96
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc Tày, truyện thơ Nôm Tày là thể
loại xuất hiện khá muộn nhưng để lại giá trị quan trọng cần được bảo lưu và trao
truyền cho thế hệ sau. Trước nguy cơ mai một những nét đẹp văn hóa truyền thống
trong thời kỳ hội nhập, việc sưu tầm, phục dựng, công bố và nghiên cứu, giới thiệu
các truyện thơ Nôm Tày còn đang lưu truyền và có nguy cơ thất lạc là một việc
làm có ý nghĩa.
Văn bản truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương do Nông Phúc Tước và Bế Sĩ Uông
sưu tầm, biên dịch (NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2013) là một trong những tác
phẩm thể hiện được sự đam mê, yêu thích và trách nhiệm đối với vốn di sản truyền
thống của các trí thức Tày hiện đại. Trải qua rất nhiều thử thách, khó khăn, các tác
giả đã quyết tâm hoàn thiện được tác phẩm để giới thiệu tới người đọc. Giá trị nội
dung và giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm này nếu được làm rõ sẽ góp phần
khẳng định rõ hơn vị trí của thể loại độc đáo trong kho tàng văn học, văn hóa Tày.
Là một người con dân tộc Tày của quê hương Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn - nơi
đã lưu truyền truyện thơ Nôm Lưu Tương, chúng tôi mong muốn góp phần giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc nghiên cứu và giới thiệu tác
phẩm đến đông đảo bạn đọc. Đặc biệt chúng tôi hy vọng có thể giới thiệu tác
phẩm này cho giáo viên và học sinh các trường phổ thông trong các giờ dạy văn
học địa phương trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Vì những lý do nêu trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu
truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về truyện thơ
Năm 1983, tác giả Võ Quang Nhơn trong cuốn Văn học dân gian các dân tộc
ít người ở Việt Nam [35] đã đánh giá cao vị trí của truyện thơ Nôm trong văn học
dân tộc các dân tộc ít người ở Việt Nam. Sách gồm bảy chương, trong đó ông đã
dành hẳn một chương để nói về truyện thơ - thể loại được coi là “một dấu nối
1
giữa văn học truyền miệng và văn học thành văn” và “sự phân biệt giàu nghèo và
theo đó là sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp” là một trong những tiền đề
để truyện thơ ra đời [35, tr.393]. Về đề tài của truyện thơ, tác giả cho rằng chúng
rất phong phú, “chúng đề cập đến nhiều mặt trong hiện thực xã hội của các dân
tộc anh em: hoặc thân phận những đứa trẻ mồ côi; hoặc cuộc sống cực nhục của
những người lao động nghèo khổ; hoặc khát vọng lập công cứu nước trả thù nhà
của các chàng trai; hoặc các mốc lịch sử lớn trong đời sống các dân tộc... Đặc
biệt là đề tài về cuộc đấu tranh cho tự do yêu đương, cho quyền sống của người
phụ nữ trong lòng xã hội cũ là một đề tài khá phổ biến. Đó là khát vọng dân chủ
thiết tha, mãnh liệt của quần chúng trong lòng xã hội phong kiến mà quyền sống
con người bị chà đạp, bóp nghẹt nặng nề, được phản ánh vào trong nền văn học
truyền thống các dân tộc anh em” [35, tr.395-396].
Trên Tạp chí văn học năm 1997, số 7, Lê Trường Phát có bài viết “Về mô
hình cốt truyện của truyện thơ các dân tộc thiểu số” [39]. Tác giả nhận xét: Ở
truyện thơ Nôm của người Việt “mọi người hầu như đã nhất trí rằng phần lớn cốt
truyện của thể loại này được xây dựng theo mô hình “kết thúc có hậu” gồm ba
chặng: Gặp gỡ - Tai biến - Đoàn tụ. Nói “phần lớn” bởi lẽ mô hình cốt truyện này
chỉ áp dụng với những tác phẩm mà đề tài chủ đạo là tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên,
đây là đề tài chủ yếu, cơ bản của thể loại” [39, tr.52]. Ở truyện thơ các dân tộc
thiểu số, với 20 tác phẩm (của 05 dân tộc: Tày, Thái, Mường, H’mông, Chăm) đã
được dịch sang tiếng Việt tính đến năm 1997, Lê Trường Phát nhận thấy loại tác
phẩm thể hiện đề tài tình yêu có kết thúc bi kịch (kết thúc không có hậu) chiếm số
lượng áp đảo. Trong số 20 tác phẩm có tới 13 tác phẩm thuộc kiểu kết thúc bi
kịch. Ông khẳng định: Ở truyện thơ các dân tộc thiểu số, “kiểu kết thúc bi kịch
mới phổ biến và tiêu biểu” [39, tr.54]. Nhưng “riêng ở nhóm truyện thơ Tày -
Nùng, tình hình ngược lại: kiểu “kết thúc có hậu” chiếm tỉ lệ lấn át” [39, tr.54]. Sở
dĩ có hiện tượng này, “chính là do vai trò tham gia sáng tạo tác phẩm của các
Nho sĩ, thầy đồ người Việt miền xuôi lên; họ mang theo ảnh hưởng của truyện
Nôm Việt vào truyện thơ Tày - Nùng. “Kết thúc có hậu” là một cách để dân gian
2
tấn công (tất nhiên trong mơ ước) vào lễ giáo phong kiến (mà thực chất là tín điều
Nho giáo) trong lĩnh vực tình yêu và hôn nhân” [39, tr.54].
Tác giả Phan Đăng Nhật, năm 2004 có bài Truyện thơ, in trong cuốn sách
Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại của Vũ Anh
Tuấn [57]. Khi phân loại truyện thơ, ông đưa ra hai tiêu chí phân loại: Phân loại
truyện thơ theo phương thức diễn xướng, nguồn gốc tác phẩm. Truyện thơ được
chia làm 04 nhóm:
- Nhóm truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian.
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc.
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình thơ ca dân gian các dân tộc.
- Nhóm truyện thơ thiên về khuynh hướng thuyết giáo đạo đức của truyện
thơ Nôm Kinh.
Phân loại truyện thơ theo tiêu chí đề tài, theo cách này, truyện thơ được ông
chia làm 03 loại:
- Truyện thơ về tình yêu.
- Truyện thơ về người nghèo khổ.
- Truyện thơ về chính nghĩa.
Về vấn đề hình thành truyện thơ, Phan Đăng Nhật cho rằng “truyện thơ ra
đời do nhu cầu lịch sử - xã hội của thời đại của nó. Lúc bấy giờ trong xã hội các
dân tộc thiểu số đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa tình yêu chân
chính của đôi lứa với đòi hỏi khắt khe, lạnh lùng nhiều khi tàn bạo của gia đình và
xã hội; mâu thuẫn giữa kẻ nghèo khó và kẻ giàu sang; mâu thuẫn giữa chính
nghĩa và phi nghĩa. Lúc này vấn đề thân phận của con người được đặt ra và đòi
hỏi phải đáp ứng thoả đáng” [57, tr.401].
2.2. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu về truyện thơ Tày
Đầu tiên, chúng ta biết đến 08 tác phẩm truyện thơ Tày (truyện Nam Kim -
Thị Đan, Lưu Đài - Hán Xuân, Kim Quế, Chim sáo, Trần Châu, Đính Quân,
Quảng Tân - Ngọc Lương, Vượt biển) trong bài “Mấy ý nghĩ về truyện thơ cổ Tày
- Nùng”, viết giới thiệu cho hai tập Truyện thơ Tày - Nùng, xuất bản năm 1964, do
3
nhà thơ Nông Quốc Chấn giới thiệu [11]. Bài viết đã có những nhận xét quan
trọng về những nét đặc biệt trong nền văn học cổ điển Tày - Nùng, về hai nội dung
chính của tám truyện thơ trên (một là, tính cách anh hùng, chí khí dũng cảm, tinh
thần vượt mọi khó khăn gian khổ để vươn lên tới đích; hai là, thiết tha với quyền
sống con người lao động, yêu quý chính nghĩa và điều thiện, căm thù phi nghĩa và
tội ác, về những yếu tố tiêu cực (triết lý duy tâm không tưởng và tính giai cấp mơ
hồ). Ngoài ra bài viết còn có những nhận xét quan trọng về hình thức nghệ thuật
của truyện thơ như: cách bố cục câu chuyện, bút pháp mô tả, thể thơ và lời thơ.
Tác giả Lục Văn Pảo, năm 1992, trong Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3 đã có
bài viết “Truyện Nôm Tày” [36]. Tác giả đã đưa ra những lý lẽ thuyết phục rằng
truyện thơ Tày là sản phẩm song trùng: Một mặt là sản phẩm của một loại hình
thức văn học dân tộc ra đời, song cũng là sản phẩm được sinh ra bởi chữ Nôm.
Không có chữ Nôm Tày thì không có truyện thơ Tày tồn tại như ngày nay. Tác giả
đã đưa ra một danh mục truyện thơ Nôm Tày được sưu tầm trong nhiều năm, gồm
có 47 truyện (Trong đó có 39 truyện thuộc nhóm truyện do người Tày sáng tác, 06
truyện bắt nguồn từ các truyện Nôm Kinh, 2 truyện có nguồn gốc từ truyện dân
gian Trung Quốc). Quả thực, đây là số lượng tác phẩm có quy mô đồ sộ mà ít dân
tộc nào sánh được. Tuy nhiên danh mục này, còn có thể tiếp tục bổ sung. Bài viết
đã khẳng định: “Xét về nội dung, những truyện thơ này phản ánh cuộc sống của
người Tày khá phong phú, đa dạng. Việc tìm hiểu tư tưởng xã hội người Tày trong
lịch sử, nhất là bộ phận phong tục tập quán, nếp sống đã qua thì kho tàng này
dường như chiếm địa vị độc tôn nếu không muốn nói là duy nhất...” [36, tr.20].
Năm 2003, nhóm tác giả Triều Ân, An Định, Hoàng Quyết, Hoàng Thị Cành,
do Triều Ân chủ biên trong Chữ Nôm Tày và truyện thơ [6], có đưa ra những bằng
chứng nhằm giải thích sự kiện: “Truyện thơ Tày xuất hiện từ bao giờ?”. Nhóm tác
giả cho rằng “Suy nghĩ tìm tòi truyện thơ Tày xuất hiện từ bao giờ, ta thấy có nét
chung là xuất hiện từ sau khi có văn tự Nôm Tày (là thế kỉ thứ V); đi vào cụ thể
từng pho truyện ta sẽ thấy sự xuất hiện khác nhau về thời điểm ta cần đọc xem
xét nội dung truyện cũng như bối cảnh lịch sử, tương quan lịch sử của truyện
4
đó” [6, tr.32-33]. Nhóm tác giả đã phân loại nguồn gốc truyện thơ Tày từ trước
năm 1945, và “tổng quát lại, ta biết truyện thơ Nôm Tày bắt nguồn từ xã hội
người Tày là chủ yếu (trừ truyện Sơn Bá - Chúc Anh Đài gốc Trung Quốc hoặc có
một vài truyện mượn tích hoặc truyện của người Việt để Tày hóa như Tống Trân -
Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa...). Trong truyện thơ Nôm Tày, dù có mượn tên
nhân vật (như vua nước ngoài) mượn tên đất nước dưới miền xuôi hoặc dưới âm
phủ, ta hãy quên những tên rất thật ấy đi để thấy giá trị hiện thực, nhân đạo... của
truyện. Tên nhà vua, tên đất, lúc này chỉ còn có giá trị ước lệ, vay mượn “cho có
chuyện” mà thôi” [6, tr.35-36]. Nhóm tác giả đã giới thiệu 05 truyện thơ rất phổ
biến và được hâm mộ trong dân tộc Tày, đó là Nàng Kim, Nàng Hán, Nàng
Quyển, Nàng Ngọc Long, Nàng Ngọc Dong và có những lời nhận xét, phân tích về
nội dung, nghệ thuật của 05 truyện thơ một cách xác đáng với tư cách là những
người am hiểu truyện thơ Nôm Tày. Sau đây là một vài lời nhận xét chung nhất
cho 05 truyện thơ này: “Qua 05 truyện thơ về các “Nàng”, ta dễ nhận thấy một
điều là các nhân vật nữ thuộc tuyến chính nghĩa đều là những người phúc hậu,
người tốt, hiền lành. Dù tác giả (khuyết danh, dân gian) có xây dựng các nàng có
nguồn gốc từ đâu, là người trần thế hay tiên nữ giáng trần, đều nhằm mục đích
gây được cảm tình từ đầu cho người đọc, người nghe và “thông qua các nhân vật
“Nàng” truyện thơ ca ngợi tự do, nhất là tự do luyến ái, tự do hôn nhân... Ở họ
tình yêu nào cũng trong sáng thuỷ chung, tình phu thê nào cũng trọn vẹn, tình mẫu
tử nào cũng thiết tha sâu sắc... Họ là những người có đạo đức, tôn trọng chính
nghĩa, lễ nghĩa, tu nhân tích đức...” [6, tr.88-89].
Tiếp tục, trong công trình Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại năm 2004 [7],
Triều Ân có nói lại vài nét về truyện thơ Nôm và tác phẩm Thị Đan. Trong phần
truyện thơ Nôm Tày, tác giả nhắc lại thời điểm ra đời truyện thơ Tày, phân loại
nguồn gốc truyện thơ Nôm Tày cùng một vài đặc điểm nghệ thuật truyện thơ Nôm
Tày và giới thiệu ba thể loại với ba tác phẩm: Lượn cùng tác phẩm “Hồng nhan tứ
quý”; khúc hát then và tác phẩm “Khảm hải”; truyện thơ Nôm và tác phẩm “Thị
Đan”. Trong phần tác phẩm Thị Đan, Triều Ân đã kể lại nội dung câu chuyện,
5
cùng với những lời nhận xét về nhân vật, giá trị nội dung của truyện: “Truyện thơ
Nôm “Thị Đan” có tính nhân dân lại có tính chiến đấu nữa. Tác phẩm đã nêu lên
được quan niệm, ước vọng về luyến ái theo nhân sinh quan của nhân gian. Truyện
thơ mang nội dung tố cáo chế độ phong kiến cũ hà khắc đã tỏa chiết tình cảm trai
gái đồng thời mong muốn một luyến ái tự do, một hôn nhân nhân đạo” [7, tr.40].
Tiếp đó, tác giả đưa ra những nét chung về nội dung ba áng thơ, đó là nỗi đau đời
của kiếp người xưa, một trong những nỗi đau là người phụ nữ với tập tục cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy; nét chung thứ hai về nội dung là mơ ước và hy vọng của
người xưa, mà một trong những mơ ước đó là “muốn có một tình yêu trong sáng
thuỷ chung trong một chế độ nào đó bênh vực, bảo vệ cuộc sống con người với tất
cả lòng nhân đạo, bênh vực tự do luyến ái, tự do hôn nhân” [7, tr.46]; nét chung
cuối cùng là những mặt tiêu cực về nội dung, cả ba thể loại đều có chung quan
niệm về cuộc sống nhân sinh, “quan niệm mọi sự an bài đều do Bụt Cả, do trời,
do số phận” [7, tr.50].
Trong Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn Sự tương đồng và khác biệt về
nội dung giữa truyện thơ Tày và truyện thơ Thái, năm 2009 [42], Triệu Thị
Phượng đã so sánh truyện thơ Tày với truyện thơ Thái và chỉ ra sự tương
đồng và khác biệt về đề tài, chủ đề, tư tưởng - tình cảm - thái độ của nhân vật giữa
truyện thơ Tày và truyện thơ Thái. Công trình đã phần nào cho chúng ta hiểu thêm
về mối quan hệ văn hóa giữa hai dân tộc Tày và Thái.
Năm 2006, trong Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Tìm hiểu truyện thơ Tày Nhân
Lăng về phương diện thi pháp kết cấu cốt truyện và nhân vật, [53], Đỗ Thị Hùng
Thúy đã nêu một luận điểm đáng chú ý: “...Qua việc tìm hiểu thi pháp kết cấu cốt
truyện thơ Nhân Lăng chúng tôi nhận thấy: Truyện thơ Nhân Lăng là sự lựa chọn,
lắp ghép các môtíp khác nhau từ những truyện cổ khác nhau về người mồ côi của
người dân tộc Tày để tạo nên một kết cấu cốt truyện mới..." [53].
Một công trình có đóng góp không nhỏ vào việc nghiên cứu truyện thơ Tày,
đó là Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại năm
2004 của tác giả Vũ Anh Tuấn [57]. Tác giả đã nghiên cứu truyện thơ Tày từ
6
nguồn gốc thể loại, quá trình phát triển cho đến việc tìm hiểu các phương diện của
thi pháp thể loại (thi pháp cấu trúc, thi pháp nhân vật và đặc điểm thi pháp lời văn
nghệ thuật). Về nguồn gốc của truyện thơ Tày, tác giả phân tích cả nguồn gốc nội
sinh trong quá trình phát triển văn hóa tộc người và nguồn gốc ngoại sinh trong
quá trình tiếp biến văn hóa tộc người. Về quá trình phát triển, tác giả nêu ra ba
thời kì như sau:
Thời kì đầu tiên là thời kì có số lượng áp đảo của loại truyện thơ về đề tài
tình yêu, trong đó “số lượng truyện thơ tình yêu kiểu trữ tình - tự sự nghiêng về
đặc điểm trữ tình giàu chất thơ biểu hiện tâm trạng tiêu biểu hơn là các truyện
thơ trữ tình nghiêng về đặc điểm tự sự” [57, tr.71]. Loại truyện thơ này kế thừa
truyền thống trữ tình của dân ca. Thời kì này vào khoảng trước thế kỷ thứ XVII
[57, tr.110].
Thời kì thứ hai là “sự hình thành và phát triển chủ yếu những truyện thơ về
sự nghèo khổ. Trong đó, phần lớn là những truyện cổ tích sinh hoạt được kể lại
bằng thơ” [57, tr.72]. Ở thời kì này, “truyện thơ tình yêu tiếp tục phát triển nâng
cao, nhưng đây là thời điểm ý thức cá nhân về quyền sống đã trở thành khát vọng
cháy bỏng trong một thời đại phong kiến tỏa chiết mạnh mẽ. Do đó, màu sắc lãng
mạn nhạt dần để thay vào đó tính phản kháng quyết liệt đến mức không còn kết
thúc có hậu ở những truyện mang đậm bản sắc tộc người” [57, tr.72]. Thời kì này
là từ thế kỷ VXII trở đi [57, tr.114].
Thời kì thứ ba là thời kì “nở rộ khuynh hướng truyện thơ đề tài chính nghĩa
có cách kết thúc thiên về thuyết giáo đạo đức. Đây cũng là thời kì chữ Nôm Tày đã
hoàn chỉnh, thời kì giao lưu Tày - Kinh có tính đột biến và cũng là thời kì bùng nổ
đấu tranh giai cấp, cả cộng đồng Tày trực tiếp tham gia vào làn sóng nông dân
khởi nghĩa” [57, tr.72-73]. Ở thời kì này, truyện thơ Tày “được mang một hình
thức tồn tại mới: thành văn. Người tiếp nhận truyện thơ Tày đã có thể hưởng thụ
bằng những cách thức khác nhau: đọc, ngâm, kể, hát". Ở thời kì này, “truyện thơ
Nôm Tày đã được hoàn thiện và thật sự trở thành điểm nối giữa văn học dân gian
với văn học thành văn” [57, tr.73]. Thời kì này, theo tác giả, có lẽ bắt đầu từ giữa
thế kỷ XVIII trở đi [57, tr.117].
7
Có thể thấy, chuyên khảo Truyện thơ Tày, nguồn gốc, quá trình phát triển và
thi pháp thể loại của tác giả Vũ Anh Tuấn là một chuyên khảo có giá trị khoa học,
nghiên cứu một cách có hệ thống và công phu về truyện thơ Tày. Truyện thơ của
dân tộc Thái, dân tộc Mường cũng phong phú không kém và cũng đã được công
bố, sưu tầm không ít, nhưng cho đến nay giới nghiên cứu văn học dân gian các
dân tộc thiểu số nước ta chưa có được những công trình tương tự về chúng như
cuốn sách của nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn.
2.3. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu về truyện thơ Nôm Lưu Tương
Đối với truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương do Nông Phúc Tước và Bế Sĩ Uông
sưu tầm, biên dịch (NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2013) đến nay chúng tôi chưa
tìm thấy một công trình nghiên cứu cụ thể nào. Duy chỉ có bài viết Nét đặc trưng
văn hóa trong truyện thơ Nôm Tày đăng trong Tạp chí Văn học nghệ thuật số 394,
tháng 4/2017 của tác giả Cao Thị Hảo [17] có đoạn viết về Lưu Tương như sau: đó
là lòng mến khách, sẵn sàng sẻ chia, giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó
khăn là một trong những nét đẹp truyền thống của người Tày. Trong các tác phẩm
truyện thơ Nôm, ta thường gặp sự tương thân tương ái giữa người với người.
Trong Lưu Tương, khi vua Sở chạy giặc Phàn, bị lạc ở trong rừng phải vào một
nhà dân xin được giúp đỡ:
Vua vào đứng dưới chân thang gác
Chắp tay xin cô bác chủ nhà
Chủ nhà đã chân tình nói lời cảm thông:
Ai đã lìa gia chương đều thấu
Dẫu nghèo đói chẳng chối khách nhờ
Mời ông hãy lên nhà ngồi nghỉ
Chủ nhà lên tiếng giục vợ con:
Cơm nguội liệu có còn hay hết
Nếu hết thì bắc bếp nấu ngay
[57, tr.162]
8
Lời nói, cử chỉ của ông chủ nhà đối với vua Sở thể hiện tình cảm, việc làm
của người dân nơi rừng sâu bản vắng, luôn sẵn lòng giúp đỡ người hoạn nạn. Đó
cũng là tấm lòng, cử chỉ thường thấy trong sự ứng xử giữa người với người ở đồng
bào dân tộc Tày xưa nay.
Như vậy, nhìn lại việc nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày, có thể thấy một bề
dày lịch sử đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên
cứu chuyên biệt và hệ thống về truyện Lưu Tương. Do vậy, với tư cách là một
người Tày sống ở Bắc Kạn - nơi tác phẩm đã và đang được lưu truyền, chúng tôi
lựa chọn Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương là đề tài nghiên cứu với
mong muốn góp phần nhỏ bé của mình trong việc bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa cổ truyền của dân tộc trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, người viết hi vọng có thể làm rõ được những giá trị
nổi bật về nội dung và nghệ thuật của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương, nhằm giới
thiệu đến đông đảo bạn đọc về một truyện thơ tiêu biểu của dân tộc Tày được lưu
truyền ở tỉnh Bắc Kạn hiện còn ít người biết đến. Qua đó, góp phần bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người Tày trong thời kỳ hội nhập
và phát triển hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến khái niệm truyện
thơ Nôm Tày, quá trình hình thành và phát triển truyện thơ Nôm Tày, giới thiệu
những vấn đề về tác phẩm Lưu Tương: văn bản, biên dịch, quá trình xuất bản…
- Làm rõ những giá trị của tác phẩm trên phương diện nội dung và nghệ thuật.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là văn bản truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là vấn đề văn bản, giá trị nội dung và
giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương (NXB Văn hóa dân tộc, Hà
9
Nội 2013). Trong chừng mực có thể, luận văn sẽ đặt tác phẩm trong tương quan so
sánh với tác phẩm khác cùng thể loại truyện Nôm Tày.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn, người viết vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp đi vào tiếp cận tác phẩm ở
phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này thực hiện khi so sánh
truyện Lưu Tương với những tác phẩm truyện thơ Nôm Tày khác để tìm ra nét
tương đồng và khác biệt. Ngoài ra, người viết cũng đối chiếu, so sánh bản dịch
giữa bản tiếng Tày với bản tiếng Việt để thấy được bản dịch đã dịch sát ý chưa.
Từ đó có thể làm rõ hơn về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Phương pháp tổng hợp: Đây là phương pháp cơ bản giúp người viết đưa ra
được những nhận định khái quát, khoa học. Sử dụng phương pháp này khi xử lí
kết quả thống kê, phân tích để đi đến những đánh giá toàn diện, tạo chiều sâu cho
luận văn.
Ngoài ra, luận văn của chúng tôi còn sử dụng các thao tác nghiên cứu khác
như: hệ thống, thống kê, liên ngành…
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của
truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương trong một hệ thống hoàn chỉnh. Kết quả nghiên
cứu của đề tài sẽ cung cấp một tư liệu hữu ích cho người học, người nghiên cứu
nói riêng và người đọc, nhất là người đọc dân tộc Tày, nói chung.
- Luận văn cũng chỉ ra một số điểm tương đồng và khác biệt của Lưu Tương
với các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày khác, góp phần làm phong phú hơn thành
tựu nghiên cứu về thể loại truyện thơ Nôm Tày nói riêng, “túi khôn” của người
Tày nói chung.
10
7. Bố cục của luận văn
Luận văn của chúng tôi, ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham
khảo, phần Nội dung của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1. Khái quát chung một số vấn đề về văn hóa Tày và truyện thơ
Nôm Lưu Tương.
Chương 2: Giá trị nội dung của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương.
Chương 3: Giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương.
11
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ VĂN HÓA TÀY VÀ TRUYỆN THƠ NÔM LƯU TƯƠNG
1.1. Khái quát về văn hóa Tày
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Dân tộc Tày là dân tộc có số dân đông đứng ở vị trí thứ hai, thứ ba sau dân
tộc Kinh (dân tộc Việt), là cư dân bản địa, giữ vai trò chủ thể từ nhiều ngàn năm
nay ở khu vực Đông Bắc Việt Nam. Đồng bào Tày được phân bố ở khắp các tỉnh,
thành trong cả nước, nhưng tập trung chủ yếu nhất ở các tỉnh thuộc Việt Bắc như:
Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, kể cả
vùng ngoại vi tiếp giáp với các tỉnh trên. Sống ở địa bàn chiến lược quan trọng,
vùng biên giới, ngoài việc xây dựng và bảo tồn các yếu tố văn hóa truyền thống
trong sáng, lành mạnh, mang tính đặc trưng của dân tộc, đồng bào Tày cũng đã
sớm tự ý thức được sự sinh tồn và phát triển của mình. Dựng cờ xướng nghĩa,
chống áp bức, chống ngoại xâm, bảo vệ biên cương Tổ quốc trở thành truyền
thống quý báu của dân tộc. Trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, dân
tộc Tày đã sớm hòa nhập vào khối cộng đồng thống nhất quốc gia dân tộc Việt
Nam để cùng nhau trường tồn, giữ gìn bảo vệ non sông gấm vóc đất nước.
Đồng bào Tày chủ yếu cư trú ở vùng Việt Bắc, đây là địa bàn có điều kiện tự
nhiên khá đa dạng và phong phú. Là vùng núi, nơi có những cánh rừng bạt ngàn
bao phủ, cung cấp cho người dân nhiều nguồn lợi như gỗ để xây dựng nhà cửa, là
nguồn lương thực phong phú như măng, nấm hương, mộc nhĩ, củ mài, mật ong,
các loại rau rừng… Ngoài ra Việt Bắc còn có rất nhiều chim muông, thú quý. Tất
cả đã làm phong phú thêm cho nền kinh tế tự cung tự cấp, cải thiện đời sống của
con ngươi nơi đây.
Là vùng núi nhưng Việt Bắc còn được bao bọc bởi nhiều sông, suối, ao, hồ.
Ta có thể kể đến các con sông lớn như sông Cầu, sông Kì Cùng, sông Thương,
sông Lô, sông Bằng Giang,… Chính những con sông này đã cung cấp nguồn nước
12
phục vụ cho nông nghiệp, cung cấp lượng tôm, cá dồi dào. Hơn nữa, đây còn là
những danh lam thắng cảnh nổi tiếng đã tạo nhiều cảm hứng cho các nhà thơ, nhà
văn, họa sĩ, nhạc sĩ sáng tác, sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị nghệ thuật.
Nằm trên vùng núi Việt Bắc nên vùng đồng bào Tày giàu đẹp, có nhiều tiềm
năng để phát triển nông nghiệp và chăn nuôi, có nhiều lâm thổ sản quý giá và
những nguồn lợi vô tận về khoáng sản như thiếc, kẽm, boxit, đồng, vàng, apatit,…
Ngoài ra, ở vùng này khí hậu, đất đai khá phong phú tạo nên sự đa dạng về thực
vật và động vật, hình thành nhiều loại cây trồng, vật nuôi.
Nhờ sự đa dạng, phong phú của điều kiện tự nhiên, hơn nữa vùng Việt Bắc
lại tiếp giáp với đất nước Trung Quốc nơi có nền văn hóa lâu đời bởi vậy người
Tày cũng có điều kiện tiếp xúc với sự đa dạng của các nền văn hóa khác nhau.
Dân tộc Tày đã xây dựng nên nền văn hóa truyền thống mang đặc trưng tộc người
và đặc trưng miền núi sâu sắc, làm đa dạng và phong phú nền văn hóa truyền
thống Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm văn hóa - xã hội
1.1.2.1. Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất là toàn bộ cơ sở vật chất được sử dụng trong cuộc sống,
được xem như một nhu cầu của cuộc sống do chính con người sáng tạo ra trong
hoạt động thực tiễn. Trong văn hóa vật chất, nhà cửa là đề tài quan trọng và phức
tạp nhất. Bởi lẽ nó là một tổ hợp về sinh hoạt văn hóa của cư dân.
Nhìn chung nhà của dân tộc Tày chủ yếu là nhà sàn. Nhà sàn của dân tộc
Tày chủ yếu gồm ba bộ phận chính: nóc, sườn và tường vách. Sườn và nóc là hai
bộ phận liên kết với nhau tạo thành ngôi nhà. Bộ phận sườn ngôi nhà không những
là bộ phận quan trọng mà nó còn thể hiện kết cấu về trình độ kỹ thuật, những đặc
điểm địa phương dân tộc người và sự chuyển biến của các kiểu dạng trong lịch sử.
Bộ sườn của ngôi nhà bao gồm các vì kèo. Mỗi một vì kèo, chúng ta biết được các
kiểu dạng của nhà. Đồng bào Tày cũng phân loại nhà sàn dân gian theo hàng cột
và đặt cho mỗi một kiểu dạng một cái tên, phản ánh trình độ phát triển của từng
kiểu dạng như: kiểu vì bốn và sáu hàng cột, kiểu vì năm và kiểu vì sáu hàng cột…
13
Quá trình chuyển biến của các kiểu dạng đó của ngôi nhà gắn liền với quá trình
chuyển biến trong đời sống kinh tế xã hội của đồng bào. Tuy nhiên tùy thuộc vào
những đặc điểm có tính đặc trưng tộc người ở các địa phương mà các ngôi nhà
được xây dựng theo những đặc trưng riêng biệt theo những quan điểm thẩm mĩ
của từng vùng. Trong ngôi nhà sàn, từ cách bố trí không gian thờ cúng tổ tiên, nơi
tiếp khách, bếp núc cho tới buồng ngủ của mỗi thành viên trong gia đình đều thể
hiện rõ phong tục, tập quán, nền nếp của đồng bào Tày.
Bên cạnh nhà cửa thì trang phục chính là một yếu tố tạo nên vẻ đẹp văn hóa
đặc sắc cho dân tộc Tày, bởi trang phục chính là một hiện tượng lịch sử. Nó phản
ánh điều kiện sản xuất, trình độ phát triển, kinh tế xã hội, phong tục, tập quán của
mỗi dân tộc và những tác động của môi trường sinh sống, sự trao đổi, tiếp thu các
yếu tố trong khu vực lịch sử văn hóa. Trang phục đầu tiên của người Tày là khố và
váy (đàn ông dùng khố, đàn bà dùng váy). Cùng với khố và váy thì áo ra đời đánh
dấu bước phát triển quan trọng về trang phục. Với người Tày, áo là nơi chứa đựng
linh hồn sống của con người. Mỗi khi đau ốm, áo người ốm được đem đi xem bói
hoặc để cúng, người Tày gọi là “slửa khoăn” (áo linh hồn). Một thời gian sau, đàn
ông Tày cũng dần vứt bỏ khố và chuyển sang dùng quần. Đó là chiếc quần lửng hay
còn gọi là quần cộc, dài tới đầu gối, hay quá một chút ít. Quần lửng bằng vải dệt
màu trắng hay nhuộm chàm, cách đây vài chục năm trở về trước rất thịnh hành
trong giới đàn ông người Tày, nay lác đác vẫn còn. Ngày nay, ở người Tày phụ nữ
vẫn còn mặc váy dài, áo ngắn hoặc dài đến đầu gối, thắt lưng ngoài áo, đầu chít
khăn, vai quàng khăn, đeo đồ trang sức ở tay, cổ, tai… Với nam giới thì mặc áo
ngắn, quần cộc, đầu quấn khăn, lưng đeo dao hoặc kiếm. Đó cũng là những trang
phục rất ấn tượng và đẹp mắt khác xa hoàn toàn các trang phục của các dân tộc
khác. Ngày nay, trang phục truyền thống Tày vẫn phổ biến nhất là trong các ngày lễ
cổ truyền, trong ngày thường, họ mặc trang phục gần như người Kinh. Điều đó,
chứng tỏ rằng: cùng với sự phát triển của kinh tế thì hiện nay về trang phục của
người Tày cũng có xu thế hội nhập. Giờ đây người Tày đã dần thay đổi trang phục
truyền thống bằng những bộ quần áo tiện dụng hơn. Chính vì vậy, việc giữ gìn trang
phục của người Tày là điều hết sức quan trọng và cần thiết.
14
Văn hóa vật chất của đồng bào Tày còn thể hiện trong vấn đề ẩm thực. Nguồn
lương thực chính là những sản vật tự nhiên, tự cung tự cấp: gạo, ngô, khoai, sắn,
tôm, cá,… hoặc các loài gia súc, gia cầm như: trâu, bò, gà, vịt… Người Tày có hai
hình thức tổ chức ăn uống là ăn uống thường ngày và ăn uống vào dịp lễ tết. Tết lớn
nhất trong năm là tết tháng Giêng (tết Nguyên Đán) thường có những món ăn
truyền thống như: bánh gio (pẻng đắng), bánh bỏng (khẩu sli), chè lam, bánh chưng.
Tiếp đến là tết Thanh minh (tảo mộ) vào ngày mồng ba tháng ba âm lịch. Món ăn
chủ yếu trong tết này là xôi đỏ đen được làm bằng lá cẩm, bánh lá ngải, bánh trứng
kiến, thịt gà, thịt vịt… Đến tháng năm âm lịch là tết Đoan ngọ, món ăn là bánh gio,
rượu nếp… Tết lớn thứ hai trong năm là người Tày coi trọng là tết Rằm tháng bảy.
Đầy không chỉ là ngày xá tội vong nhân, thờ cúng tổ tiên mà còn là ngày gia đình,
dòng họ đoàn tụ, sum họp; con cái thể hiện lòng biết ơn, tình cảm hiếu thuận đối với
cha mẹ… Ngày này, họ thường ăn các món vịt quay, lợn quay lá mác mật, bánh củ
chuối, bánh gai… Văn hóa dân tộc Tày chịu ảnh hưởng của các tộc lân cận như
Hoa, Việt... (xuất phát từ một tộc người ở Trung Hoa, nhưng lại có quan hệ máu
thịt với tộc người Việt). Qua quá trình lịch sử, đặc biệt trong thời kì tự chủ, triều
đình có quan tâm đến việc học hành của cư dân Tày. Nhà Mạc khi chạy lên đóng
đô ở Cao Bằng, ra sức đào tạo tầng lớp nho sĩ. Quan lại người Việt chạy lên đây bị
Tày hóa. Do vậy tầng lớp trí thức nho học Tày hình thành, văn hóa Việt đã ảnh
hưởng lớn tới văn hóa Tày. Tam giáo được cư dân Tày tiếp thu gần giống với
người Việt, nhưng ở mức độ thấp, trong sự kết hợp với các tín ngưỡng vật linh
vốn có từ lâu đời trong dân gian. Việc chế biến món ăn một mặt có những sáng
tạo, một mặt tiếp thu từ kĩ thuật chế biến của tộc người Hoa, Việt... Họ chế biến
ngô một cách tinh tế. Thức ăn chính là gạo tẻ nhưng việc chế biến các món ăn từ
gạo nếp lại càng được chú trọng. Trong ngày tết cốm, các loại xôi màu là món ăn
hấp dẫn. Thịt lợn, vịt quay thường được làm cầu kì...
Nói đến văn hóa vật chất truyền thống, ngoài nhà cửa, trang phục, ăn uống
không thể không đề cập đến phương tiện sinh hoạt vật chất truyền thống khác, gắn
với các hình thái kinh tế tạo nên cuộc sống vật chất của người Tày như: dụng cụ
15
sinh hoạt gia đình (chum, vại, ống tre nứa, điêng, xoỏng…); dụng cụ để sản xuất
(cày, bừa, lỏng, liềm, cuốc, bai…); dụng cụ sản xuất thủ công nghiệp gia đình
(máy kéo sợi, khung dệt vải…); dụng cụ đánh bắt cá, sản vật tự nhiên (súng kíp,
cung, nỏ, vợt, chài…).
Có thể nói văn hóa vật chất của người Tày khá phong phú, đa dạng, vừa độc
đáo thể hiện những nét riêng của tộc người. Đó cũng là nét đẹp trong con người
Tày nói riêng và người Việt Nam nói chung.
1.1.2.2. Văn hóa tinh thần
Khi tìm hiểu văn hóa tinh thần của một cộng đồng dân tộc người bản địa có quá
trình lịch sử lâu dài, bền vững, phong phú, phức tạp và tương đối phát triển như cộng
đồng Tày để sát với thực tiễn nghiên cứu của đề tài này chúng tôi chỉ giới hạn phần
tìm hiểu văn hóa tinh thần của người Tày ở một số vấn đề như: tín ngưỡng, phong
tục, ngôn ngữ. Sau đây là một số vấn đề văn hóa tinh thần của người Tày mà chúng
tôi đã tìm hiểu được qua thực tiễn và qua các tài liệu liên quan:
Trước hết là vấn đề tín ngưỡng - phong tục. Giống như các dân tộc khác, dân
tộc Tày cũng có tục thờ các vị thần: thần tổ tiên, thần bếp, thần thổ công… ngoài
ra theo số phận mà tục thờ đá, thờ mô đất, thờ gốc cây… và còn nhiều hình thức
thờ thần nữa. Tất cả đều xuất phát từ tín ngưỡng tô tem giáo và sự phát triển một ý
niệm tôn giáo bản địa trong tâm thức của người Tày. Chính vì vậy mà tín ngưỡng
dân gian, các phong tục tập quán Tày cũng hết sức đa dạng trên nhiều phương
diện: cưới xin, sinh đẻ, ma chay, cúng giỗ… Đặc biệt đám cưới Tày có các nghi
thức như: lễ dạm hỏi, lễ mỉnh hom (mừng lá số hợp nhau), lễ kha cáy (xem chân
gà), lễ sên tết, lễ ăn hỏi, lễ cưới chính thức và sau cùng là lễ “tẻo lòi” hay còn gọi
là lễ “slam nâư” (lại mặt nhà gái của vợ chồng mới cưới). Trong việc hiếu (đám
tang), người Tày cũng có một tổ chức gọi là Phường làng. Người Tày coi việc báo
hiếu cha mẹ là vô cùng hệ trọng. Con cái phải lo việc an nghỉ cuối cùng cho cha
mẹ mình hết sức chu đáo thì mới được cộng đồng yêu quý, nể phục vì sự “trọn
đạo”. Một đám ma diễn ra nhiều ngày (khoảng từ 3 đến 7 ngày) khá tốn kém và
nhiều nghi lễ phức tạp hơn so với đám cưới.
16
Ngoài ra trong phong tục tập quán Tày cho đến nay vẫn còn nhiều nét đẹp
chứa chan tình người. Đối với người Tày mất lòng tin là một sai lầm không thể tha
thứ. Tuy nhiên cũng như tại gia đình các dân tộc Việt Nam, người Tày có phong
cách nhu mì, giản dị, quý mến bạn bè và đặc biệt rất hiếu khách. Đó cũng là những
yếu tố quyết định sự hình thành những thuần phong mỹ tục ngàn năm của đồng
bào Tày.
Bên cạnh phong tục tập quán, tín ngưỡng thì ngôn ngữ Tày cũng là thứ của
cải vô cùng quý báu của cộng đồng dân tộc. Hàng ngàn năm nay, bên cạnh việc sử
dụng tiếng Kinh và có khi sử dụng trong giao tiếp bằng một vài thứ tiếng của các
dân tộc khác, đồng bào Tày vẫn giữ gìn và ngày càng góp phần làm cho tiếng Tày
giàu đẹp. Tuy nhiên, để biểu thị các khái niệm xã hội, chính trị, pháp lý, khoa
học… thì tiếng Tày phải vay mượn từ tiếng Hán và đặc biệt từ tiếng Kinh (Việt).
Sự vay mượn được hình thành trong thực tiễn đời sống nên phù hợp với quy luật,
điều đó đã làm cho tiếng Tày trở nên phong phú, có sức sống mãnh liệt. Hiện nay,
đã có một loạt các nhà thơ, nhà văn sáng tác văn học bằng tiếng Tày, thậm chí đã
có trí thức Tày dịch trọn vẹn thiên Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du sang
tiếng Tày… Có thể khẳng định, ngôn ngữ Tày là thứ ngôn ngữ riêng của người
Tày, ngôn ngữ làm giàu có thêm kho tàng văn hóa dân tộc.
1.2. Truyện thơ Nôm Tày
1.2.1. Khái quát chung
Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng bao gồm nhiều dân tộc. Bên cạnh dân
tộc Việt là dân tộc chủ thể, còn có các dân tộc thiểu số khác sống rải rác trên mọi
miền đất nước. Các dân tộc có khác nhau, đều chung nguồn gốc Bách Việt. Từ
những buổi đầu dựng nước cho đến ngày nay, các dân tộc thiểu số đã có nhiều
đóng góp đáng kể trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng truyền thống
lịch sử, văn hoá của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, ngoài tính chung, mỗi dân tộc đều có
văn hoá riêng, có ngôn ngữ, phong tục tập quán, cũng như văn học nghệ thuật
riêng. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số có những thành tựu độc đáo với
17
những sắc thái riêng biệt. Diện mạo của văn học dân gian Việt Nam được nhìn
nhận đầy đủ, chính xác hơn trên mối quan hệ tổng thể với văn học dân gian các
dân tộc thiểu số. Đó là một nền văn học dân gian thống nhất, đa dạng. Cho nên,
việc nghiên cứu, tìm hiểu văn học dân gian các dân tộc thiểu số là cần thiết, thể
hiện rõ đường lối dân tộc, đường lối văn hóa và văn nghệ của Đảng ta, đó là bình
đẳng dân tộc, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam, nhằm góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa
Việt Nam vừa thống nhất vừa đa dạng.
Nói đến nền văn học dân gian dân tộc Tày, không thể không nói đến truyện
thơ. Đây là một thể loại phổ biến và tiêu biểu trong sáng tác văn học của dân tộc
Tày và là một phần không nhỏ tạo nên diện mạo truyện thơ của các dân tộc thiểu
số nói chung. Truyện thơ Nôm của dân tộc Tày gắn bó mật thiết với đời sống tinh
thần của người Tày, là niềm tự hào của họ. Cho đến nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học quan tâm, nghiên cứu về truyện thơ Tày.
Đến với truyện thơ Nôm Tày, chúng tôi thực sự bị cuốn hút bởi những vấn đề
mà các tác phẩm văn học dân gian đó đặt ra, mặc dù nó dường như rất cũ như trong
các thể loại văn học dân gian khác cũng và đã thể hiện, song nó cũng rất thân thuộc,
gần gũi bởi những vấn đề có tính chất thời đại, mang màu sắc dân tộc, gần gũi với đại
chúng nhân dân... Về hình thức thể loại, truyện thơ Nôm Tày thường là những
truyện cổ tích dân gian được thể hiện bằng lối văn vần, thể thất ngôn trường thiên,
gieo vần ở tiếng thứ năm và thứ bảy mỗi câu. Nội dung cốt truyện rõ ràng, mạch
lạc, có nhân vật chính diện, có nhân vật phản diện, và đều nổi bật ở các chủ đề, nội
dung như: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, chính nghĩa thắng gian tà, nghĩa nhân
thắng cường bạo, ca ngợi tình yêu chung thủy, son sắt... Đề cao những nhân vật chính
diện có tài trí, đạo đức, vì nước vì dân. Phê phán, đả kích hoặc trừng trị những nhân
vật phản diện gian ác, cường quyền, nhũng nhiễu dân lành,...
Hầu hết các truyện thơ Nôm Tày đều khuyết danh, không ghi niên đại sáng tác,
cũng không thấy ghi niên đại sao chép, hoặc không rõ được sao chép từ đâu. Theo
quan điểm của các nhà nghiên cứu thì truyện thơ Nôm Tày thường được chia ra
18
làm hai loại. Loại thứ nhất gồm những truyện có kết cấu đơn giản, nhiều yếu tố
thần thoại, chủ đề Tiên, Phật được đề cao, như các truyện: Lưu Đài - Hán Xuân, Kim
Quế, Nam Kim - Thị Đan. Loại thứ hai gồm những truyện có nội dung xã hội phức
tạp hơn, có nhiều tình tiết mang tính chất tiểu thuyết, như các truyện: Đính Quân,
Quảng Tân - Ngọc Nương, Tần Chu, Lý Thế Khanh, Lưu Tương,...
Sự ra đời của truyện thơ Nôm Tày sức phù hợp với điều kiện và yêu
cầu phản ánh xã hội đương thời, bởi khả năng nhận thức nghệ thuật của thể loại
này rất lớn. Truyện thơ Nôm Tày chứa đựng đa dạng các tính cách, hoàn cảnh, sự
kiện, số phận, chi tiết về xã hội và đời sống nội tâm của con người. Tuy nhiên,
truyện thơ Nôm Tày còn một vài lĩnh vực chưa thoát hẳn ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa cổ đại, nhưng rõ ràng đã đánh dấu một bước tiến dài về mặt thể loại,
ngôn từ, khẳng định sức mạnh của chữ Nôm Tày - Nùng về phương diện diễn đạt,
nhất là diễn đạt tư tưởng, tình cảm, cảm xúc... của nhiều loại nhân vật khác nhau
một cách tinh tế.
Có thể khẳng định rằng, ra đời khi nền văn học viết đã phát triển, truyện thơ
Nôm Tày được xem là sự tích hợp hoàn hảo giữa văn học truyền miệng và văn học
thành văn. Các yếu tố của văn học dân gian Tày như: thành ngữ, tục ngữ, ca dao,
truyền thuyết, điển tích, điển cố và các loại hình văn học dân gian khác như: Then,
Sli, Lượn được kết hợp nhuần nhuyễn tạo nên sức hấp dẫn riêng của truyện thơ
Nôm Tày. Đặc biệt, nhiều giá trị văn hóa vật chất tộc người Tày như văn hóa nhà
ở, đất ở, trang trí, kiến trúc, vật nuôi, nhạc cụ,... được tái hiện cụ thể và sinh động.
Không chỉ là tác phẩm văn học, truyện thơ Nôm Tày còn là một hình thức
sinh hoạt văn hóa - văn nghệ vừa cổ truyền vừa hiện đại. Tuy đã có sự tiếp thu,
giao thoa, ảnh hưởng của nhiều tầng văn hóa như: Văn hóa Việt, văn hóa Hán...
nhưng yếu tố văn hóa Tày vẫn thể hiện vô cùng sâu đậm trong quan niệm về cuộc
sống, về con người và thế giới vạn vật… Từ góc nhìn văn hóa tộc người, truyện
thơ Nôm Tày là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa tinh thần đáng trân trọng của
người Tày. Trong tác phẩm “Chữ Nôm Tày và truyện thơ” nhà nghiên cứu, sưu
tầm văn hóa dân gian Hoàng Triều Ân đã khẳng định:“Ngày nay người Tày còn
19
bảo tồn được những di sản văn hóa dày trang như những “Truyện thơ Nôm Tày”
đủ biết chúng có giá trị đến chừng mực nào, mà người thuộc thế hệ hôm nay, mai
sau cần cùng nhau nghiên cứu, khai thác bộ phận văn học ấy” [8].
Bằng việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương”,
chúng tôi muốn giới thiệu tới những ai quan tâm đến văn học Tày và truyện thơ Nôm
Tày. Hy vọng chúng tôi sẽ có được những thu nhận ban đầu thực sự xác đáng, khoa
học đối với kho tàng truyện thơ dân gian của dân tộc Tày.
1.2.2. Quá trình phát triển của truyện thơ Nôm Tày
Truyện thơ dân gian dân tộc Tày là thể loại xuất hiện muộn nhất trong kho
tàng di sản văn hóa truyền thống của tộc người này. Có thể nói là gạch nối giữa
văn học dân gian và văn học hiện đại của dân tộc Tày, xuất hiện khi nền giáo dục
nho học đã lan tỏa, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của đồng bào Tày, cùng với
sự ra đời chữ Nôm Tày - thứ văn tự được hình thành nhờ sự sáng tạo trên cơ sở
chữ Hán Nho.
Trong công trình nghiên cứu Truyện thơ Tày, nguồn gốc, quá trình phát triển
và thi pháp thể loại, tác giả Vũ Anh Tuấn đã cho rằng xét về nguồn gốc, truyện
thơ Tày có nguồn gốc nội sinh trong quá trình phát triển văn hóa tộc người và
nguồn gốc ngoại sinh trong quá trình tiếp biến văn hóa tộc người. Điều đó chứng
tỏ trước yêu cầu của đời sống tinh thần, sự giao lưu văn hóa, yêu cầu thể hiện và
đáp ứng những đòi hỏi của tình cảm con người trong hoàn cảnh xã hội bất công,
đã ra đời một thể loại văn học có quy mô và sức biểu đạt độc đáo. Nhà nghiên cứu
Vũ Anh Tuấn chia quá trình phát triển truyện thơ Tày theo ba giai đoạn như sau:
Giai đoạn đầu, truyện thơ chủ yếu về đề tài tình yêu nhằm giãi bày tâm trạng,
giàu chất trữ tình. Loại này dựa trên truyền thống trữ tình của dân ca, nhất là dân
ca tình yêu. Giai đoạn này vào khoảng trước thế kỷ XVII.
Giai đoạn thứ hai, truyện thơ về cảnh nghèo khổ, trên cơ sở cổ tích sinh hoạt
được kể bằng thơ. Truyện thơ tình yêu tiếp tục phát triển nâng cao. Đây cũng là
giai đoạn ý thức về quyền sống con người, về cá nhân con người - khát vọng cháy
bỏng trong một xã hội bị phong tỏa bởi những tín điều phong kiến. Màu sắc lãng
mạn phai dần nhường chỗ cho một tinh thần phản kháng mãnh liệt đến mức không
còn kết thúc có hậu. Giai đoạn này từ thế kỷ XVII trở đi.
20
Giai đoạn thứ ba, truyện thơ về đề tài chính nghĩa phát triển mạnh mẽ, thiên
về thuyết giáo đạo đức với lối kết thúc quen thuộc của loại hình tự sự dân gian.
Thời kỳ này chữ Nôm Tày đã hoàn chỉnh trong bối cảnh giao lưu văn hóa Tày
Kinh - Thời kỳ bùng nổ đấu tranh giai cấp, cả cộng đồng Tày trực tiếp tham gia
vào làn sóng nông dân khởi nghĩa. Truyện thơ được ghi chép bằng chữ Nôm Tày
và mang hình thức thành văn. Người tiếp nhận đã có thể thưởng thức bằng nhiều
phương thức như đọc, ngâm, kể, hát. Đây là giai đoạn truyện thơ Nôm Tày đạt đến
độ hoàn thiện và thật sự trở thành điểm nối giữa văn học dân gian với văn học
thành văn. Giai đoạn này có lẽ bắt đầu từ giữa thế kỷ XVIII trở đi.
Quan điểm trên cũng có điểm thống nhất với các tác giả khi lý giải nguồn
gốc truyện thơ các dân tộc thiểu số. Phan Đăng Nhật cho rằng truyện thơ ra đời
khi trong xã hội các dân tộc thiểu số đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn - mâu thuẫn
giữa tình yêu chân chính của lứa đôi với đòi hỏi khắt khe, nhiều khi đến tàn bạo
của gia đình và xã hội; mâu thuẫn giữa người nghèo khó và kẻ giàu sang, giữa
chính nghĩa và phi nghĩa. Lúc đó vấn đề thân phận con người được đặt ra và đòi
hỏi phải đáp ứng. Võ Quang Nhơn cho rằng sự phân biệt giàu nghèo, sự phân biệt
giai cấp và đấu tranh giai cấp là một trong những tiền đề làm truyện thơ ra đời.
Nếu xét đề tài thì đề tài truyện thơ rất phong phú, trong đó đặc biệt là đề tài về
cuộc đấu tranh cho tự do yêu đương.
Truyện thơ Nôm Lưu Tương có lẽ được ra đời trong giai đoạn thứ ba. Vì nội
dung truyện đã phản ánh thời kỳ xã hội có giai cấp, có sự xâm lược giữa các nước
láng giềng (nước Phàn - nước Sở). Truyện cũng phản ánh thời kỳ chiến tranh khốc
liệt của nhân dân ta, đồng thời cũng ngợi ca những chiến công, kì tích của người
anh hùng dân tộc,…
1.3. Truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương
1.3.1. Vấn đề văn bản
Truyện thơ Lưu Tương được lưu truyền chủ yếu trong vùng đồng bào Tày ở
Việt Bắc, gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Hà Giang, dưới dạng văn bản sách Nôm Tày, viết bằng bút lông trên giấy
dó, thứ giấy đồng bào tự sản xuất từ vỏ cây dó và cây dướng.
21
Văn bản truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương do Nông Phúc Tước và Bế Sĩ Uông
chọn tuyển và hoàn thiện từ hai bản chữ Nôm Tày cùng tên của ông Nông Phúc
Cảnh, xã Kim Hỷ, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, đã mất năm 1975 và một bản ở xã
Phong Huân, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn do ông Bế Sĩ Uông sưu tầm. Nay cả
người sưu tầm và người cung cấp đều mất nên không biết người lưu giữ và cung
cấp văn bản là ai. Cả hai văn bản khi sưu tầm được đều không còn nguyên vẹn do
sự hủy hoại tự nhiên của thời gian. Bản tìm được ở Chợ Đồn bị mục nát nhiều nên
mất trang, mất chữ nhiều hơn nên các nhà biên soạn chọn bản tìm được ở Na Rì
làm bản chính. Hiện nay cả hai bản chữ Nôm Tày đều đã bị thất lạc, sau khi ông
Bế Sĩ Uông qua đời. Trước đây ông Uông giữ hai bản Nôm này và chỉ chuyển cho
ông Tước bản đã chuyển ngữ từ Nôm Tày sang chữ Tày - Nùng (chữ Tày - Nùng
được xây dựng, hình thành trên cơ sở bộ chữ cái tiếng Việt, ghi âm theo tiếng Tày,
ra đời và phổ cập từ năm 1960 đến năm 1975 tại khu Tự trị Việt Bắc).
Truyện thơ Nôm Lưu Tương được các nhà nghiên cứu sưu tầm và chuyển
ngữ cách đây hơn 40 năm. Truyện thơ bao gồm 18 chương, ngoài chương “Mở
lời’ (khay cằm) ở đầu, có 1672 câu thơ thất ngôn trường thiên phần tiếng Tày,
phần dịch sang tiếng Việt là 1676 câu thơ.
Là người dân tộc Tày - người con của quê hương Bắc Kạn, nơi mà các trí
thức Tày đã tìm thấy truyện thơ Nôm Lưu Tương, ngoài việc đọc truyện bằng bản
dịch tiếng Việt, tôi đã rất hứng thú khi đọc và ngẫm bản tiếng Tày. Đặc biệt khi
nghiên cứu, so sánh giữa bản dịch và bản tiếng Tày, tôi đã mạnh dạn đưa ra những
nhận xét và đánh giá như sau:
* Về dung lượng
Trong phần mở lời (khay cằm): bản tiếng Tày (chữ Nôm) có 66 câu, bản dịch
có 69 câu, nhiều hơn bản Tày ba câu. Còn trong phần nội dung: gồm 18 đoạn thơ,
bản chữ Nôm có 1672 câu, bản dịch có 1676 câu nhiều hơn bản Nôm 4 câu thơ, trong
đó có 13/18 đoạn có số câu thơ tương ứng (bằng nhau) giữa bản Nôm và bản dịch, đó
là các đoạn: 1, 2, 3, 7, 8, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 18. Có 5/18 đoạn số câu thơ không
bằng nhau, cụ thể như sau:
22
Số câu thơ trong bản Nôm Số câu thơ trong bản dịch Đoạn (tiếng Tày) (tiếng Việt)
4 31 33
5 58 59
6 70 69
9 242 240
17 154 158
Như vậy, so sánh trong tổng số 1738 câu thơ bản chữ Nôm và 1745 câu bản
dịch, chúng tôi thấy bản dịch nhiều hơn bản chữ Nôm là bảy câu thơ. Có thể do bản
Nôm hàm súc và cô đọng, khái quát hơn bản dịch. Bởi vì rất nhiều từ ngữ tiếng Tày
khi dịch sang tiếng Việt cần được giải nghĩa một cách rõ ràng và cụ thể hơn.
Đối với chương Mở lời (khay cằm) bản dịch nhiều hơn ba câu thơ, đó là
những câu thơ trong các đoạn sau:
Chương Câu thơ trong bản tiếng Tày và
dịch nghĩa Câu thơ tương ứng trong bản dịch sang tiếng Việt
Chắng sai hẩu lục quan lồng thẻ Liền sai cho tiểu nam xuống thế
(Liền sai cho con quan xuống thế) Đầu thai làm con đẻ hai người
Mạn ngoạt slinh lục chài pền tiểng Mong mãn nguyện nở nhụy nam giai
(Mong sinh được con trai hiền tài) Lớn lên thành người tài có ích Mở lời Hẩu quan pây Nam Ngả slon slư Đi học chữ mãi chốn Nam Nga Ngộ vạ vằn pjục lừ liệng mỉnh Mong có được dăm ba chữ nghĩa (Cho quan đi Nam Nga học Có chút vốn sau để nuôi thân Để sau này có chút nuôi thân)
Trong phần nội dung truyện, có đoạn 17, bản dịch nhiều hơn bản chữ Nôm
bốn câu thơ, đoạn này kể việc khi Vua Sở chạy loạn vào rừng được dân bản cưu
mang sinh sống qua ngày. Lúc nghe tin Lưu Tương trở về và dẹp yên giặc Phàn,
Vua đã dò tìm thông tin chính thống qua người dân, đó là Lý Lan - chủ nhà khi
Vua xin nghỉ trọ qua đêm trên đường trở về kinh đô:
23
Đoạn Câu thơ trong bản tiếng Tày và Câu thơ tương ứng trong bản dịch
dịch nghĩa sang tiếng Việt
Cạ sliểu ngần tởi cổ tuyền mà
Xam cạ vua Sở gia nhằng bấu Rằng nợ bạc thử nói nguyên do
Lý Lan khan cơ cấu tung gia Ngươi có biết Sở vua còn, mất?
Bắc bắm cảng pây mà phuối chạ Lý Lan kể tình thật trong nhà
Vua dăm cằm bấu cạ piết minh Thấy rể vua đi qua giải giặc
17 (Bảo thiếu bạc từ xưa thử hỏi Tay cầm gươm kim ngọc Như Lai
Vua Sở liệu có còn sống Quân Phàn ngụy đầu rơi hàng vạn
Lý Lan kể hết sự tình trong nhà Từ nay được yên ổn quốc gia
Nói nhỏ chuyện gần, chuyện xa Hết chuyện gần, chuyện xa to nhỏ
Vua không nói, không cho biết mình) Vua vẫn giấu chẳng lộ rõ mình
Trong đoạn này, bản dịch thêm bốn câu để lý giải cụ thể hơn việc Vua Sở
hành khất trong rừng thì mọi người dân đều không ai nhận ra đó là vua nước Sở.
Cũng chính vì điều này mà Vua đã thấu hiểu hơn tình cảnh nghèo khó, túng quẫn
của người dân. Sau này, khi trở về kinh đô, Vua đã trả ơn cho họ.
* Về thể thơ
Về cơ bản truyện thơ Nôm Lưu Tương cũng giống như các truyện thơ Nôm
khác, truyện sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên (mỗi câu thơ bảy chữ, chữ thứ
năm vần với chữ thứ bảy ở câu trước). Trong bản dịch cơ bản đã dịch tương đối
sát nội dung văn bản tác phẩm, làm rõ phẩm chất, tính cách, cuộc đời nhân vật
chính Lưu Tương. Tuy nhiên, khi so sánh chúng tôi thấy, ngữ âm tiếng Tày và vần
nhịp trong bản chữ Nôm hay hơn, nhất là khi truyện thơ được kể trong môi trường
“diễn xướng” (nghe nghệ nhân kể). Trong truyền thống văn hóa dân gian Tày,
những câu truyện thơ được kể lại trong những đêm trăng thanh vắng, bản làng
quây quần bên bếp lửa của ngôi nhà sàn 5 gian giữa bản, nghệ nhân là một người
am hiểu, thuộc lớp “bề trên” (các bậc cao niên) kể lại câu truyện, có thể hòa điệu
trong những lời phong slư với giai điệu êm ái, du dương trầm lắng, hồn nhiên
thấm sâu vào tâm hồn người nghe.
24
* Về bản dịch
Khi tìm hiểu, so sánh giữa bản tiếng Tày và bản dịch sang tiếng Việt, chúng
tôi thấy có những đoạn thơ, câu thơ dịch khá hay và sát nghĩa, nhờ đó đã lột tả
được đúng suy nghĩ, hành động của nhân vật chính Lưu Tương:
Lưu Tương cảng thuổn ỷ lương nga
Đảy bjoóc bân khả bấu slương
Xâm khảu toọng công nương chắng cạ:
Noọng slinh bấu pền cần vô đố
Puồn lai mà hỉn chùa Vinh Sơn
Bấu chử noọng ru phương ngản quảng
Bân vận hẩu ẻn nhạn ngộ căn
Bấu che bjoóc bưởng âm lẻ rọi
Thuổn tuyển bjoóc tẻ rởi quá mùa
Rọi bjoóc cỏi slương co đuổi cáng.
(Đoạn 3)
Đoạn này được dịch là:
Lưu Tương nói hết ý cùng nàng
Được hoa về gia san khôn xiết
Nếu bỏ hoa trời giết chẳng thương
Chạnh lòng ngọc Công Nương mới nói:
Em sinh xuống hạ giới thủy âm
Phải ngày xấu duyên than lận đận
Xuống Vinh Sơn thơ thẩn giải buồn
Đâu phải kẻ du hồn lãng đãng
May trời xui én nhạn gặp nhau
Không chê hoa thì xâu nhặt tạm
Hết tiết thời hoa rụng héo tàn
Xâu hoa hãy thương cành nhớ cội.
25
Hay ở trong đoạn thơ thứ 6:
Hẩu quan oóc tập mạ slam vằn
Nhằng thiên hạ lai cần bấu độ
Lệnh vua hẩu hồi cổ quê hương
Trong bản dịch là:
Cho quan ra tập ngựa ba ngày
Những sỹ tử chẳng may không đỗ
Lệnh vua cho hồi cố quê hương
Hay trong đoạn 10, tả việc công chúa - vợ Lưu Tương nằm mơ, gặp ác mộng.
Nàng lo lắng không ngủ được, tỉnh dậy thấy mình đã khóc đến mức nước mắt ướt
đẫm gối:
Cằn vằn cáy khăn xinh chắc kháo
Rụ slức nàng hộn háo bấu nòn
Nặm tha tốc rằm mon puồn toọng
Bản dịch là:
Đêm vắng gà gáy sôi xao xác
Tỉnh giấc nàng ngơ ngác bần thần
Buồn bã nước mắt đầm ướt gối
Tuy vậy, ngoài những đoạn thơ, câu thơ được dịch sát nghĩa, chúng tôi còn
thống kê được khá nhiều đoạn thơ, câu thơ dịch chưa sát, chưa đúng, cụ thể như:
Tên pỏ roọng Lưu Tủ cần khôn (Câu 57)
Lục tặt ten Lưu Tương cần hiến (Câu 58)
Trong bản dịch là:
Bố Lưu Tú, Thị Nhan tên mẹ
Cùng đặt tên con trẻ Lưu Tương
Ở đây, dịch đúng và sát nghĩa phải là:
Tên bố là Lưu Tương người khôn
Đặt tên con Lưu Tương người hiền (được hiểu là người
hiền tài, nhân đức)
26
Có những câu thơ dịch không đúng nghĩa làm mất đi ý nghĩa của câu
chuyện, thậm chí làm giảm bớt “bản sắc”, “sắc thái” Tày trong truyện. Chẳng hạn,
ở đoạn 17 có câu thơ: Kin tạm tón khẩu cưa đuổi khỏi được dịch là: Ăn tạm bữa
rau dưa không muối trong khi dịch đúng và sát nghĩa phải là: Ăn tạm bữa cơm với
muối cùng tôi. Như vậy, hiện tượng dịch không sát nghĩa khiến nội dung bản sắc
Tày bị giảm nhiều. Trong đoạn thơ 14 có câu: Slíp cằm cạ phua hiến Lưu Tương
được dịch là Mười câu cả mười gọi Lưu Tương (Câu 1778) là chưa sát ý. Dịch
đúng phải là: Mười câu đều nói đến Lưu Tương chồng hiền (ý nói là người hiền
lành, nhân nghĩa).
Tuy trong bản dịch còn một số hạn chế nhưng đã thể hiện sự nỗ lực, kì công
của các dịch giả - những trí thức Tày trong việc đưa truyện thơ Nôm Tày Lưu
Tương đến gần với bạn đọc. Trong một chừng mực có thể, trong tương lai chúng
tôi có thể sẽ tiếp tục nghiên cứu, so sánh bản dịch của truyện thơ Nôm này để định
hướng cho các giáo viên trung học có thể lựa chọn những đoạn thơ, câu thơ tiêu
biểu dạy cho học sinh trong chương trình Ngữ văn địa phương của tỉnh nhà. Đó có
thể là một cầu nối tốt cho việc lưu giữ, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa
của đồng bào Tày nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung.
1.3.2. Tóm tắt cốt truyện
Vợ chồng Lưu Tú - Thị Nhan hiếm muộn con nên đã làm lễ cầu mẹ Hoa sau
đó sinh được quý tử đặt tên là Lưu Tương. Hai vợ chồng những mong con sau này
khôn lớn trở thành người tài giỏi.
Lúc bấy giờ Vua Long Đình Đại La (âm phủ) có công chúa xinh đẹp là Công
Nương đã đến tuổi trưởng thành. Nhà vua đã tổ chức lập đài cho công chúa kén rể,
thanh niên trong 12 nước âm phủ kéo về để công chúa lựa chọn. Trong 10 ngày
liền nhưng không một ai lọt mắt công chúa. Nàng rất buồn rầu và quyết định lên
dương thế (chùa Vinh Sơn) để tìm “nhân duyên”. Nàng gặp gỡ Lưu Tương, hai
người “tình trong như đã”, họ trao khăn vàng được ướp hoa thơm làm tin rồi chia
tay nhau. Lưu Tương đi học hành, ngày càng văn võ toàn tài song chàng luôn
tương tư, nhìn vật tin càng nhớ về người xưa. Chàng đến Long Châu mong gặp
người cũ, thầy bói gieo quẻ tình duyên của hai người trắc trở vì nàng là con Long
27
Vương (âm phủ). Lưu Tương trở về nhà, cha mẹ rất vui mừng, ước mong con
thành tài giỏi.
Khi Vua nước Sở chọn người tài, Lưu Tương đã tham dự và đỗ đạt, được làm
quan, được nhà vua cho về quê “vinh quy bái tổ”.
Bấy giờ, giặc phương Bắc (nước Phàn) sang xâm lược. Họ sang nước Sở
thách đố. Trong khi không một ai giải đố được thì Lưu Tương đã giải được, Vua
liền ban thưởng vàng và hứa gả con quan cho chàng. Vua Phàn vẫn mưu cơ xâm
lược và tiếp tục thách đố nước Sở, Lưu Tương vẫn là người được vua chọn tham
gia giải đố và chiến thắng. Vua đã gả công chúa cho chàng.
Tiếp tục mưu đồ xâm lược của mình, nước Phàn đã loan báo rằng Lưu Tương
là người nước Phàn bị lưu lạc đến An Nam, họ đòi bắt Lưu Tương về nước. Nước
Sở đã tìm một người giống hệt Lưu Tương sang thay thế, Vua Phàn biết mình bị
lừa đã kéo quân sang xâm lược. Lưu Tương tạm biệt công chúa lên đường đánh
giặc, dẹp loạn. Với tài trí và sức mạnh phi thường, Lưu Tương liên tiếp giành
thắng lợi. Hai nước ôn hòa, từ đó nhân dân được sống trong bình an, hạnh phúc.
Và khi ấy, Lưu Tương đã có con trai lên ba tuổi.
Kí ức dội về, Lưu Tương xem khăn và lại nhớ “người xưa, chốn cũ”, mong
ngày gặp lại. Khăn “vật tin” đã biến thành én nhạn báo tin, “người xưa” sẽ tìm lại
Lưu Tương trong ngày 15/8 âm lịch. Khi ngủ, vợ Lưu Tương gặp ác mộng bị cướp
của, nàng đã đi xem bói biết rằng sẽ có Long Vương cướp chồng vào ngày 15/7
âm lịch. Vua Sở đã cho quân vây quanh, đến ngày 13/8 âm lịch thì mây, mưa,
sấm, chớp rung trời, công chúa vô cùng lo sợ. Thế rồi, Long Vương kéo lên dương
gian, Lưu Tương biến mất.
Lưu Tương đã xuống đến Long Vương gặp người cũ. Vua đã tổ chức yến
tiệc, phong chức phò mã cho chàng.
Nhân lúc biết nước Sở mất Lưu Tương, giặc Phàn sang xâm lược và cướp công
chúa. Vua Sở trốn thoát thân vào rừng và được người dân cưu mang, giúp đỡ.
Hai mẹ con công chúa bỏ trốn, chạy loạn, đi ăn xin từng bữa. Khi đến biển
hồ họ than khóc gọi Lưu Tương, Lý Ngư nghe thấy đã tâu với Long Vương. Long
28
Vương cho Lưu Tương và công chúa lên dương gian. Con trai Lưu Tương đi ăn
xin đã gặp lại cha. Họ đoàn tụ, vậy là Lưu Tương có hai người vợ. Họ cùng nhau
sống ấm êm, hạnh phúc.
Lần nữa, Lưu Tương ra tay dẹp giặc Phàn rồi tìm lại vua Sở. Gia đình Lưu
Tương được đoàn tụ, Vua Sở trả ơn những người dân đã cưu mang mình lúc bần
hàn. Từ đó, dân gian được sống trong sung túc, bình an.
* Tiểu kết:
Ở chương 1, chúng tôi đã khái quát một số vấn đề cơ bản về truyện thơ Nôm
Tày, quá trình hình thành và phát triển của truyện thơ Nôm Tày và đôi nét về truyện
thơ Nôm Tày Lưu Tương. Có thể nói, truyện thơ Nôm Tày là một thể loại có số
lượng khá phong phú trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc Việt Nam, tuy
nhiên việc tìm hiểu, biên dịch và nghiên cứu thể loại này chưa nhiều, đặc biệt là
việc tìm hiểu đối với những tác phẩm cụ thể. Vậy, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là cần
tiến hành biên dịch và nghiên cứu, khai thác kho tàng truyện thơ Nôm Tày một
cách khẩn trương và có tính hệ thống hơn, khoa học hơn nhằm khai thác được
nguồn di sản phong phú và đa dạng không chỉ của riêng đồng bào dân tộc Tày mà
của cả nền văn học dân gian Việt Nam.
Những truyện thơ Nôm Tày đều được hình thành từ nguồn mạch văn hóa dân
gian Tày, được phát triển và tồn tại theo quy luật của đời sống dân gian. Lưu Tương
là một truyện Nôm Tày như thế. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của truyện thơ
Nôm Tày rất đa dạng và phong phú, có sự giao thoa hòa điệu với truyện Nôm Kinh.
Tuy nhiên bản sắc Tày, truyền thống của đồng bào Tày với những sáng tạo độc đáo
trong tư duy cũng như nghệ thuật thể hiện cũng là những phương diện cần đi sâu
nghiên cứu. Đây cũng là nhiệm vụ khoa học đối với chương 2 và chương 3 của luận
văn này.
29
Chương 2
GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TRUYỆN NÔM LƯU TƯƠNG
2.1. Ca ngợi tài trí và sức mạnh của người anh hùng
2.1.1. Ca ngợi tài trí của người anh hùng
Một trong những chủ đề lớn của truyện thơ Tày là nêu cao tinh thần yêu
nước, dũng cảm đấu tranh chống ngoại xâm, giữ vững địa bàn cư trú, bảo vệ cuộc
sống yên lành của nhân dân. Hàng chục truyện thơ có kết cấu xoay quanh biến cố
về tình yêu và sự kết hôn nhưng kết thúc cốt truyện vẫn hướng vào chủ đề lớn là
trị giặc, cứu nước. Có thể kể đến nhiều nhân vật tiêu biểu, từ gương dũng cảm của
Đính Quân đến tài năng trí dũng song toàn của Tứ Thư, Lưu Tương… Tất cả các
nhân vật đó đều được các nghệ sĩ dân gian khẳng định với một nhiệt tình khẳng
định cao độ, một tinh thần ca ngợi say sưa.
Nội dung truyện Nôm Tày Lưu Tương tập trung kể về nhân vật Lưu Tương -
người anh hùng của nước Sở. Chàng là người “văn võ toàn tài”, hết lòng cứu dân,
cứu nước. Mặc dù trải qua nhiều gian nan, thử thách ở cả cõi trần, cõi âm, Lưu
Tương vẫn khẳng định nhất quán sức mạnh, tài trí của mình.
Lưu Tương là nhân vật chính trong truyện, chàng có một sự xuất thân đặc
biệt, là người con cầu tự. Vợ chồng Lưu Tú - Thị Nhan hiếm muộn con đã cầu Mẹ
Hoa (mẻ Bjoóc) mà có được Lưu Tương và là người con duy nhất của họ. Trong
phần Mở lời (khay cằm), tác phẩm đã thuật lại việc vợ chồng Lưu Tú sắm sửa lễ
vật đến chùa Lôi Âm để cầu khấn, sau đó có họ quý tử, đặt tên là Lưu Tương. Họ
rất mong mỏi con trai sau này sẽ khôn lớn tài giỏi:
Bố Lưu Tú, Thị Nhan tên mẹ
Cùng đặt tên con trẻ: Lưu Tương
Mong sau này lớn khôn tài giỏi
Khắp bản trên xóm dưới cùng mừng
Nuôi con mười ba xuân đã lớn
Đi học chữ mãi chốn Nam Nga
Mong có được dăm ba chữ nghĩa
Có chút vốn sau để nuôi thân.
30
Lưu Tương bao năm miệt mài đèn sách, xa quê hương, đến phố thị để học
hành. Một biểu hiện của bản sắc Tày đó là sự chăm chỉ, quyết tâm trong học hành.
Đó còn là biểu thị của sự quyết tâm đỗ đạt, thành tài. Mười tám tuổi, Lưu Tương
đã xa gia đình, lập thân:
Thầy sẽ dạy nên người đỗ bảng
Luận ngữ thông, tài cán học văn
Kinh sử rèn dần dần khác giỏi
Quan chịu khó học hỏi nhiều ngày
Xuân tiếp thu mê say đèn sách
Thơ phú cùng kinh lược làu thông
Hơn mọi người văn chương sáng tỏ
Tinh thông cả thập võ, bách thi.
Trong bản làng, chòm xóm người Tày, việc có người học hành đỗ đạt không
chỉ đem niềm vui, niềm tự hào cho mỗi gia đình, dòng họ đó mà còn trở thành
niềm vui, niềm tự hào của cả xóm làng. Lưu Tương học hành đỗ đạt trở về được cả
bản đón mừng:
Quan trở về quê hương bản quán
Họ hàng cùng xóm bản đón mừng
Thấy quan vẻ tinh thông chững chạc
Bố mẹ cùng cô bác trong nhà
Mọi người thấy quan về mừng chúc
Bày rượu thịt tươm tất mâm bàn
Mọi người cùng hân hoan chúc phú
Bố mẹ quan mở mặt nhờ con
Tỏ bày lời thiệt hơn ao ước:
Thằng này chắc sẽ được nên người
Số được hưởng lộc trời phú quý.
Như một sự tiên báo, sau bao ngày dùi mài kinh sử và với tài trí phi thường,
văn võ toàn tài, Lưu Tương đã đến kinh kì dự thi và đỗ đạt làm quan nước Sở.
31
Niềm tin, niềm vui đến bất ngờ: Lưu Tương trở thành quan trạng thứ ba, phút chốc
được cấp ngựa, lọng hoa hầu hạ. Sau chuyến về quê vinh quy bái tổ, Lưu Tương
trở lại chốn quan trường, một dạ trung quân, minh chính khiến lòng dân đoàn kết,
thiên hạ bình an. Điều đó thể hiện rõ người con trai - người anh hùng dân tộc Tày
đã có công góp phần sức mạnh, tài trí của mình gây dựng một nền độc lập, no ấm
cho quê hương, cho dân tộc. Và đó cũng chính là niềm mơ ước tự ngàn xưa của
đồng bào Tày:
Bách quan cùng nhất quyết trung quân
Triều đình quan võ văn một dạ
Cùng đồng tam phò tá triều vua
Làm quan qua nhiều thu minh chính
Thiên hạ được yên định bình an
Không lo nạn gian quan giặc giã
Ngày ngày sống no đủ an nhàn.
Thiên hạ yên bình, an cư chẳng được bấy lâu. Nước Sở lâm vào tình trạng bị
nước Phàn (giặc phương Bắc) mưu mô xâm lược. “Thời thế sinh anh hùng”, có thể
coi những dịp giải đố của Lưu Tương đối với việc thách đố của nước Phàn càng
tôn lên thêm sự thông minh, tài giỏi của người anh hùng dân tộc Tày, như một sự
ngợi ca vẹn toàn. Khi nước Phàn thách đố: phân biệt ngọn và gốc của đoạn gỗ
sơn; phân biệt đôi ngựa giống hệt nhau, đâu là con, là mẹ. Trong khi các quan đã
trổ hết tài, việc giải đố đã kéo dài tới mười ngày vẫn chưa phân thắng bại, vua Sở
đã hết sức lo lắng, hoang mang, thậm chí vua đã khóc, thì lúc ấy Lưu Tương xuất
hiện như một vị cứu tinh:
Lưu Tương quỳ kính cẩn tâu vua
Việc này mặc tôi lo chớ ngại
Sứ Phàn đố, ta giải là xong.
Dùng đoạn gỗ làm cân bạc thử
Đầu gốc nặng hơn chỉ năm phân
Sứ Phàn ngồi bần thần xin phục.
…
32
Đôi ngựa hãy nhốt giam ba buổi
Sẽ biết ngay chẳng vội, chẳng lo
Bị khát sẽ hí to đòi nước
Lưu Tương bê chảo nước đi vào
Con con sẽ nhảy nhao đòi trước
Con nào nhìn thấy nước hí vang.
Lưu Tương quan tài năng mưu lược
Liền chỉ ngay ra được mẹ, con.
Sứ Phàn phục trí khôn xin chịu
Khen trạng Lưu khéo liệu thông minh
Mười bánh vàng vua ban trao thưởng.
Sứ Phàn thua chưng hửng quay về
Lưu Tương xứng trạng nguyên tài giỏi.
Một sự ban thưởng xứng đáng cho trạng Lưu Tương, mười bánh vàng (pẻng
kim, tương đương 26 chỉ vàng bây giờ) [59, tr.129]. Đó là sự ban thưởng về vật
chất, ngoài ra Lưu Tương còn được vua hứa gả công chúa cho.
Tiếp tục khẳng định tài trí tinh anh của Lưu Tương được thể hiện ở việc Lưu
Tương đã tìm được cách cho con hạc lẻ bạn biết ăn và gáy. Thực chất đó vẫn là
mưu mô của nước Phàn muốn xâm lược nước Sở, Vua Phàn tặng cho vua Sở một
con hạc đặc biệt, loài này nó chỉ ăn và gáy khi có đủ đôi. Con hạc cứ ủ rũ, không
ăn, không gáy. Vua Sở đã nhờ đến Lưu Tương giải cứu: Lưu Tương đã cho làm
chiếc gương soi, hạc nhìn gương thấy bóng mình tưởng bạn liền ăn, liền uống và
gáy. Vua Sở vui mừng khôn xiết, nể phục tài trí của Lưu Tương, vua quyết gả
công chúa cho chàng.
Tao khang nghĩa ân sâu bách tuế
Màn loan chăng bốn phía chắn che
Lưu Tương lòng thỏa thuê hoa nở
Có phúc được tiên nữ kết duyên
Vợ chồng như uyên ương hôn hỉ.
33
Qua hai lần giải đố trên, tác giả dân gian đã ca ngợi trí thông minh nhạy bén,
sắc sảo của Lưu Tương. Theo quan niệm của đồng bào Tày cho rằng: vì là dân tộc
thiểu số, địa bàn sinh sống trên miền núi cao, khí hậu khắc nghiệt, xa những khu
trung tâm… đã tạo nên tính cách của những con người nơi đây thường tự ti, nhút
nhát và không tránh khỏi những ngây thơ, “ấu trĩ”. Thế nhưng, qua nhân vật Lưu
Tương, chúng ta thấy rằng, người Tày không những chăm chỉ, hiếu học mà còn có
thể lập nên những công trạng lớn, làm nên những việc có ích cho đồng bào, cho
bản làng, cho quốc gia, dân tộc.
2.1.2. Ca ngợi sức mạnh của người anh hùng
Nếu giống như những câu chuyện khác, việc Lưu Tương đỗ đạt làm quan và
được ban thưởng thì có thể kết thúc truyện một cách tự nhiên, hợp lí. Bởi lẽ Lưu
Tương đã đỗ đạt, đã khẳng định được tài trí của mình, và đã kết hôn cùng công
chúa, sống một cuộc sống vinh hoa, phú quý. Vậy mà, phải chăng đồng bào Tày
không muốn dừng lại ở đây? Câu chuyện về anh hùng Lưu Tương đến đây mới
được một chặng đường, câu chuyện lại được tiếp tục với những trang viết li kì,
độc đáo hơn. Lưu Tương không chỉ khẳng định mình bằng trí thông minh “tài
văn” mà còn khẳng định quyết tâm hơn “tài võ” của mình qua hai lần chiến thắng
giặc Phàn.
Lần thứ nhất, khi giặc Phàn tiếp tục mưu mô xâm lược nước Sở, họ loan báo
rằng Lưu Tương chính là người nước Phàn bị lưu lạc sang An Nam. Họ tìm cách
đòi bắt Lưu Tương trở về nước. Trước thông tin đó, vua Sở đã tìm cách cho quan
lính dò tìm bằng được một người thật giống Lưu Tương để sang thay thế, mong
giữ được Lưu Tương. Thế rồi, vua Phàn biết mình bị lừa đã kéo quân sang xâm
lược nước Sở.
Ba trăm rưởi trâu bò khao tiệc
Vua Phàn cắt đặt việc chư quân
Tròn tháng kéo sát gần nước Sở
Mười tám vạn binh mã hung hăng
Voi ngựa như bướm ong bãi tập
34
Bốn phương nhìn tấp nập những người
Mười ngày kéo tới nơi ải bắc
Quân Phàn đóng ăng ắc xung quanh
Hai bên thế giao tranh đối địch
Vua Phàn điều tám chục vạn binh
Vua Sở nghe báo tin hốt hoảng
Sở vương lo mọi đoạn đứt hơi
Giờ biết lấy ai người cứu nạn
Lưu Tương tạm biệt công chúa lên đường đánh giặc dẹp loạn. Lúc này chàng
xuất hiện như một người anh hùng, với khí phách hiên ngang, lòng quyết tâm cao
hơn núi:
Công chúa nàng hãy ở đợi ta
Hãy chăm sóc mẹ cha, đừng khóc
Tại giặc mưu cướp nước loạn bang
Tạm xa, lo việc quan cứu nước
Dễ mấy ai cũng được vua tin
Nếu thua, bị hành hình cả họ
Việc quân nào ai tỏ trước sau
Chịu khó sẽ có ngày nhàn nhã.
Cầm đầu ba vạn rưỡi quân binh, trăm hai quân “giữ dinh nội diện”, Lưu
Tương lên đường. Nơi cửa ải biên cương xa xôi nghìn trùng, với bao trắc trở và
hiểm nguy rình rập. Lưu Tương không hề nhụt lòng, nản chí mà luôn vững dạ,
vững tâm, đoàn kết binh lính, quan sát mọi địa hình, bày binh bố trận tiến công
oanh liệt. Có thể nói trong đoạn tả cảnh chiến trận của đội quân Lưu Tương với
giặc Phàn mang âm hưởng của sử thi. Nổi bật lên người anh hùng chiến chận, một
dũng sĩ chỉ huy tài ba, khí phách ngang tàng, tiếng súng pháo làm long trời lở đất,
quân giặc chết thây chất đầy rừng rú:
Lưu Tương liền giục quân nghênh chiến
Dậy vang tiếng trống nện thúc quân
Cờ vàng lẫn cờ hồng phần phật
Súng pháo bắn dậy đất long trời
35
Hay:
Tiến đánh đôi ba trận giao tranh
Giặc Phàn chết chất đầy rừng rú
Tám vạn quân vua Sở đánh hăng
Xác giặc chết ngổn ngang như lá
Rồi:
Quân giặc chết như là ong kiến
Nơi nơi tiếng rên rống gào than
Chiêng mõ dậy lâm san ầm ã
Giặc chạy loạn các ngả núi rừng
Quân Phàn chạy tứ tung kinh hãi
…
Xác giặc chất đầy sông, đầy ruộng
Lưu Tương truyền quân chặt lấy đầu
Chất đầy năm thuyền to chưa hết
Phần bỏ lại dễ đến hai phần
Lưu Tương lệnh hồi quân văn võ
Chiến lợi phẩm vô số chất đầy
Chuyển ba tháng đêm ngày không hết
Súng pháo hỏng la liệt bỏ không
Quân Phàn chạy cởi trần về nước.
Từ bấy, hai nước ôn hòa. Nhân dân sống trong bình an, sung túc. Lưu Tương
được phong làm Quan nguyên súy. Vua ban chiếu lập nước An Nam. Nhân dân
sống đoàn kết, thân ái. Vợ chồng Lưu Tương đã có con trai nối dõi lên ba tuổi.
Lần thứ hai chiến thắng giặc Phàn là khi Lưu Tương từ cõi âm (Long cung)
trở về. Chẳng là từ khi Lưu Tương tuổi mười tám đôi mươi, chàng đã có dịp gặp
gỡ công chúa Long Vương ở chùa Vinh Sơn. Hai người đã thề hẹn và trao khăn
ướp hoa làm vật tin “mong ước én kết nhạn nên duyên”. Họ chia tay nhau trong
một buổi chiều tà đầy lưu luyến, mộng mơ:
36
Chia tay chùa Vinh Sơn đôi ngả
Lưu Tương đi cách xã viễn phương
Công chúa ngự sơn dương thân độc
Lại trở xuống phủ ngọc Long Vương
Lưu Tương đi khác mường khuất mặt.
Sau bao năm xa cách, khi Lưu Tương đã đỗ đạt, lấy công chúa, có con trai
lên ba tuổi thì bỗng dưng vào tháng 7 âm lịch Long Vương kéo quân lên dương
gian và Lưu Tương biến mất. Đó là chuyến xuống Long cung gặp người cũ của
Lưu Tương. Chàng được vua thết đãi yến tiệc và phong chức phò mã. Sống hoan
hỉ nơi Long cung khá lâu, dường như Lưu Tương đã tạm quên vợ con nơi trần thế.
Khi nghe Lý Ngư vào tâu chuyện vợ con Lưu Tương khóc than gọi Lưu Tương.
Long nữ đã xin vua cha cùng Lưu Tương trở lên trần thế. Lúc này Lưu Tương một
lần nữa ra tay dẹp giặc Phàn, cứu nước Sở đang trong tình trạng loạn lạc, chia lìa:
Lưu Tương đã đột ngột trở về
Quân quốc nhộn sơn khê như bướm
Đóng quân khắp mọi chốn An Nam
Ánh lửa chiếu sáng choang trời đất
…
Lưu Tương truyền ba vạn tinh binh
Trận này quyết quân mình phải thắng
Bắt giặc Phàn thua trận thất kinh
Quân Phàn chạy điêu linh tứ tán
…
Giặc Phàn thua tơi bời khốn khổ
Binh tướng chết quá nửa thiệt thân
Phần bị đói chết nằm rừng vắng
Bỏ quê hương làng bản vợ con
37
Lưu Tương trở về cùng người vợ chốn Long cung, chàng đón được vợ con,
tìm lại được vua Sở đi chạy loạn. Gia đình được đoàn tụ. Từ đó mọi người được
sống trong bình yên.
Trong đoạn tả, kể chuyện Lưu Tương làm phò mã nước Sở và Long vương,
chúng ta thấy câu chuyện có dáng dấp giống truyện thơ Tày Đính Quân. Đính
Quân cũng là người văn võ toàn tài, có công đánh giặc dẹp loạn. Đính Quân vùa là
phò mã của nước Hán vừa là phò mã của nước Sở. Nhờ đó mà hai nước càng tăng
cường hòa hiếu. Truyện thơ Đính Quân đề cao tinh thần bảo vệ chính nghĩa mà
đại diện là bố con Hán Đô, Đính Quân. Đó là những người ngay thẳng, thủy
chung, nhân hậu có tài năng siêu quần, có công lao to lớn với đất nước.
Nội dung truyện Lưu Tương cũng có một số nét tương đồng với truyện thơ
Nôm Tày Trương Hản do Nông Phúc Tước và Bế Sỹ Uông sưu tầm. Nhân vật
chính trong truyện - Trương Hản cũng là một chàng trai thông minh, nhân đức, mồ
côi cha mẹ từ khi vừa lập gia đình. Chàng phải bán ruộng, vườn để làm ma báo
hiếu cho cha mẹ. Lâm vào cảnh nghèo, bố vợ lật lọng gọi con gái về gả cho người
khác. Một hôm chàng vô tình đến khu chùa hoang trong rừng, Bụt hiện lên bảo
chàng làm lại nhà chùa. Sau đó, Trương Hản được Bụt trả công, gặp con gái
mường Trời nên duyên chồng vợ. Hai vợ chồng được hưởng hạnh phúc và giàu
có. Bỗng có giặc ngoại xâm. Nhờ có vợ tiên giúp đỡ, Trương Hản đã đánh tan
quân giặc, được vua ban thưởng ruộng vườn, vàng bạc. Có tên quan nịnh thần đòi
đổi vợ tiên không được bèn lập kế tiến vua. Trương Hản thông minh đã thắng
cuộc được vua phong quan trạng. Vợ tiên hết hạn phải về trời, chàng gặp lại vợ cũ,
hai người thành thân, sinh con trai kế nghiệp. Từ đó, họ hưởng hạnh phúc trong
cuộc sống quyền quý và sung túc. Câu chuyện giáo dục con người sống phải có
tâm, có nhân, có đức; ở hiền, làm việc thiện sẽ gặp may; ở ác, làm việc thiếu nhân
đức sẽ bị trời trừng phạt [58, tr.5]. Trong truyện thơ Trương Hản cũng ngợi ca
người anh hùng nhân đức, dẹp giặc; cũng được vua ban thưởng; cũng có vợ tiên.
Có điều khác với Lưu Tương là Trương Hản không lấy cùng lúc hai người vợ và
Trương Hản không phải là con cầu tự.
38
2.2. Lưu giữ giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc Tày
2.2.1. Niềm tin vào mẹ Hoa
Người Tày quan niệm: “Con trai con gái hoa trái của mường”; con người và
muôn vật đều do một bà mẹ sinh ra, đó là mẹ Hoa. Quan niệm này được ghi lại
như sau:
“Mẻ Bioóc păn mà, mẻ Hoa păn hẩư”
(Mẹ nụ dành cho/Mẹ Hoa chia tới)
Mẹ Hoa đi theo cuộc đời của mỗi con người và gắn bó với từng số phận. Mẹ
Hoa chăm sóc cho từng cuộc đời của mỗi con người và quyết định số phận từ khi
chưa lọt lòng cho đến hết tuổi thanh xuân (khi đã lập gia đình). Chính vì vậy mỗi
khi ốm đau, sống chết, mạnh khỏe đều tùy thuộc vào mẹ Hoa. Trẻ ốm thì người
Tày lại lo lắng chắc là mình đã làm gì đó để mẹ Hoa phật ý, mẹ Hoa giận. Gặp
cảnh gia đình hiếm muộn, người ta nghĩ là do mẻ Bjoóc ở mường trên chưa biết
hoặc chưa kịp ban phúc lành cho gia đình hoặc mẻ Bjoóc (mẹ Hoa) giận mà không
chia con cho mình, tức là chưa ban hoa thì phải làm lễ cầu hoa. Bởi vì người Tày
quan niệm có một đấng chí tôn vô thượng là mẹ Hoa. Mọi cuộc đời, mọi số phận
trên thế gian này đều tuỳ thuộc ý chí mẹ Hoa định đoạt... Hoa là biểu tượng của sự
sinh sôi...”. Cho nên ai hiếm muộn con đều phải làm lễ cầu Hoa, biện sửa lễ vật để
tỏ lòng thành, mời bà Bụt có đông con (biểu tượng của mẻ Pựt Xích Ca, tức là Bụt
Luông) đến hộ làm lễ cầu Hoa đặng sẽ được như ý. Nếu mẻ Bjoóc ban cho hoa
vàng thì sẽ có con trai, hoa bạc thì sẽ có con gái, hoa tươi thì trường sinh, hoa héo
thì sẽ chết yểu. Hiện tượng này một mặt phản ánh trình độ thấp kém về khoa học và
kinh tế, mặt khác đó là dấu vết của phương thức tư duy nguyên thủy - đồng nhất con
người với thế giới tự nhiên.
Từ quan niệm về mẹ Hoa, trong đời sống, tín ngưỡng tâm linh của người Tày
nảy sinh ra những lễ lạt về Hoa, như: “hồn hoa” (Khoăn bjoóc), Hoa ở mường trời
và hoa ở mường người, rồi lại có hoa tiên (hoa mọc trên vách đá)… Chính bởi lẽ
đó, mà mẹ Hoa vẫn sống mãi trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Tày từ
thế hệ này qua thế hệ khác, truyền từ đời nay sang đời khác, cứ thế cho đến hôm
nay và cả mai sau.
39
Trong phần Mở lời (khay cằm) ở truyện Nôm Lưu Tương, tác giả dân gian đã
kể, tả khá chi tiết việc vợ chồng Lưu Tú - Thị Nhan cầu mẹ Hoa xin con:
Vợ chồng cùng đi đến chùa thiêng
Chùa Lôi Âm mọi miền nức tiếng
Vợ chồng cùng khấn kiến lạy sư
Chăp tay trình thực hư mọi sự:
“Vợ chồng chẳng sinh nở là sao?”
Thầy thông tuệ học cao hiểu rộng
Thầy giở sách kinh tụng tức thì
Chợt như ánh sao Khuê vụt sáng
Thị Nhan đội mâm án lạy trời
Khói hương lên thấu nơi Bà Mụ
Thương vợ chồng Lưu Tú - Thị Nhan
Liền sai cho tiểu nam xuống thế
Đầu thai làm con đẻ hai người.
[59, tr.104]
Vậy, Lưu Tương là người con cầu tự. Trong quan niệm của người Tày, người
con cầu tự có vai trò khá đặc biệt. Từ việc xuất thân khác lạ, có yếu tố thần linh,
những người con cầu tự đều mang trong mình một sứ mệnh cao cả. Cuộc đời họ
hứa hẹn một tương lai tốt đẹp, thành danh. Họ là người có chí lớn, tài giỏi, thông
minh, là niềm tự hào cho dòng họ, cho bản làng, quê hương. Dù có gặp nhiều trắc
trở, gian truân trong cuộc đời, cuối cùng họ cũng sẽ hưởng một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Với ý nghĩa như vậy, trong truyện thơ Nôm Lưu Tương, chúng ta nhận
thấy điều mong ước và dự báo đó từ chính cha mẹ của Lưu Tương:
Bố mẹ quan mở mặt nhờ con
Tỏ bày lời thiệt hơn ao ước:
Thằng này chắc sẽ được nên người
Số được hưởng lộc trời phú quý
40
Ở Việt Nam, có câu chuyện cầu tự thú vị được ghi lại là câu chuyện vua cầu
tự sinh con trai. Trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên có chép: Vua Lý
Thánh Tông ngoài 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi nên đã đi khấn ở chùa chiền
khắp nơi. Đến năm 1066, Nguyên phi Ỷ Lan sinh được hoàng tử Càn Đức - sau
này lên ngôi lấy danh hiệu là Lý Nhân Tông. Bộ Quốc sử cũng ghi chép rằng, cả
hai cha con vua Lê Thánh Tông và vua Lê Hiến Tông cũng đều là con cầu tự. Đến
nay, khi khoa học đã phát triển thì có thể đã có những giải thích thỏa đáng về con
cầu tự. Tuy nhiên, theo quan niệm của người xưa, con cầu tự thường là con trai để
rồi lập thân, lập nghiệp, lập nên những kì tích lớn lao. Lưu Tương là nhân vật hội
tụ đủ các yếu tố tốt đẹp của người con cầu tự: đẹp trai, sáng sủa, thông minh từ bé.
Bản thân chàng luôn có ý chí quyết tâm trong việc học hành, thi cử. Hầu như ta
không hề thấy có sự vất vả, lo lắng của song thân về người anh hùng này. Ngay cả
khi Lưu Tương gặp chuyện buồn hay trở ngại, chúng ta đều thấy hiện lên một anh
hùng tài trí và bản lĩnh phi phàm.
Con người là quý giá, là cao quý. Đó là quan niệm chung có tính nhân loại.
Ở trong tâm thức dân gian Tày, quan niệm đó cũng được thể hiện nhất quán trong
cách thể hiện mọi khía cạnh đời sống - sinh hoạt xã hội. Vì yêu con người, quý
con người cho nên từ xa xưa người Tày cổ đã kì diệu hóa nguồn gốc con người
như thần thoại của họ. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, trong quan niệm của
người Tày cổ về con người cũng có một quá trình lịch sử, hơn thế là những nét
riêng của họ.
2.2.2. Niềm tin vào thế giới siêu hình
Nét độc đáo trong quan niệm về thế giới của người Tày đó là sự tương hợp
giữa Mường trời và Trần gian. Thực chất trong vô số tác phẩm truyện thơ khi nói
đến mường trời là nói về mường người ở trần gian. Thứ gì ở mường người có thì
mường trời cũng có, chỉ có điều ở mường người đã đẹp thì lên đến mường trời
càng trở nên đẹp đẽ hơn. Người trần có thể tự do đi lại, xem, ngắm mọi thứ trên
mường trời:
41
Chèo lên chốn Phong Lưu, Phú Quý
Con Phật xuống mọi chỗ hân hoan
Nàng tiên xuống xe loan dạo cảnh
Con Phật gảy đàn tính dây tơ
(Chèo khửn khái Phong Lưu, Phú Quý
Lủc Vủt lồng têm tỉ ngân giang
Nàng tiên lồng hỉn loan, hỏn đính
Lủc Vủt lồng tói tính sai sơ
(Khảm hải)
Với trí tưởng tượng phong phú, với tình cảm tha thiết chân thực của người miền
núi, đồng bào người Tày đã miêu tả thế giới trần gian lên mường trời rồi mỹ hóa nó
đến mức lý tưởng. Qua đó, giúp độc giả hiểu rằng bất cứ một hình thái tín ngưỡng
hay tôn giáo nào suy cho cùng cũng đều là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú,
niềm đam mê, lòng tin vô hạn của con người trước sức mạnh của tự nhiên.
Truyện thơ Nôm Tày cũng nhắc đến thế giới dưới mặt đất. Thường hay xuất
hiện trong truyện thơ Nôm Tày đó là có một giống vật quỷ quái được gọi là thuồng
luồng (nguộc). Theo quan niệm của người Tày, thuồng luồng là một giống vật thiên
biến vạn hóa, nguyên hình là một con rắn đen, khổng lồ, có cái miệng rộng màu đỏ
và có cái mào đỏ chót như mào gà và to như cái quạt giấy. Thuồng luồng thường
biến thành những người con trai, con gái xinh đẹp lên trần gian và bắt lấy hồn người
con trai, con gái trên trần gian. Khi hồn mất, người sẽ chết.
Hình tượng quái gở của thuồng luồng xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm
truyện thơ với vai trò đại diện cho lực lượng của tự nhiên mà con người chưa lý
giải, chế ngự được, hoặc là những lực lượng đáng sợ, đại diện cho cái ác, cái xấu.
Trong truyện thơ Nôm Lưu Tương, quan niệm về thế giới tâm linh thể hiện
khá rõ. Tuy nhiên, đó là thế giới hai cõi: trần gian và long cung, một thế giới thực,
một thế giới huyền bí nhưng gần gũi, đan xen. Lưu Tương sống nơi trần thế hay
42
chốn Long cung nhưng chúng ta nhận thấy không hề có sự ngăn cách về không
gian, thời gian và cũng không có lực lượng phản diện. Đặc biệt, khi cần thiết nhân
vật đều xuất hiện ngay và mở lòng giúp dân, giúp nước, giúp những người thân
của mình. Khi nước Sở bị giặc Phàn xâm lược, Vua Sở, vợ con Lưu Tương đã lưu
lạc, bơ vơ vào rừng kiếm sống. Trong khi buồn bã khóc than, tiếng khóc ấy đã lọt
đến tai Lưu Tương ở chốn long cung:
Nàng than gọi Lưu Tương phò mã (Câu 1166)
Làm sao nỡ dứt bỏ vợ con
Hay :
Tiếng khóc mười tiếng than trách vọng (Câu 1178)
Mười câu cả mười gọi Lưu Tương
Lần này, Lưu Tương trở lại trần gian cùng với người vợ long cung. Chàng
một lần nữa ra tay đánh dẹp giặc Phàn, cứu nước Sở thoát cảnh li tán, tha phương :
Lưu Tương đi âm phủ đã về
Dẹp loạn đón vua về ngự điện
Dân sự khắp mọi chốn hồi hương
Trâu bò về chật chuồng đầy ruộng
Lưu Tương đuổi hết được giặc Phàn
Dân sự khắp mọi mường tụ hội
Có một điều thể hiện rõ bản sắc Tày, đó là việc xem bói, tin vào thầy bói,
niềm tin vào thế giới siêu hình. Khi Lưu Tương đi học, vì nhớ người thương nên
xin trở về để tìm gặp gỡ, chàng đã xem bói và được thầy gieo quẻ: Chàng với công
chúa Long cung khó thành đôi vì âm dương cách trở:
Nàng con vua hạ giới Long vương
Hai người bị âm dương cách mặt.
Lưu Tương tin vào điều đó, rồi tiếp tục con đường học tập, lập sự nghiệp,
công danh của mình. Chàng luôn được khẳng định tài trí thông minh, tài ba trong
đánh giặc cứu nước. Hay lần xem bói của vợ Lưu Tương khi nàng nằm mơ bị
tranh nhà, cướp của, mất chồng:
43
Sư ông biết mọi sự ngẫm suy
Cất miệng giọng thầm thì mới nói
Chúa chờ mười lăm tới, tháng thu (15/7 âm lịch)
Long vương lên tranh phu, cướp phụ
Quẻ này báo mất cửa bỏ nhà
Bốn phương gió phật phờ u ám.
Với đồng bào Tày, ngày tết Trung nguyên (15/7 âm lịch) là tết lớn thứ hai
trong năm, được đồng bào tổ chức với ý nghĩa “xá tội vong nhân”. Người Tày có
câu “Bươn chiêng vằn xo ết - Bươn chết vằn thíp thí” nghĩa là “Tháng Giêng ngày
mùng một - Tháng bảy ngày mười bốn”. Với đồng bào Tày đây là ngày Tết quan
trọng nhất, gia đình sum họp, làm cơm, làm bánh trái cúng tổ tiên. Trong ngày
này, ngoài việc cúng tổ tiên, người ta còn làm mâm cúng ngoài sàn cho những linh
hồn không ai thờ tự (phi pjài). Ngày này không hái quả, tranh ăn với ma lang
thang, để tránh chúng quấy rầy, gây đau ốm. Việc thầy bói gieo quẻ vào ngày này
Long vương sẽ xuất hiện và Lưu Tương biến mất là hợp lý bởi vào ngày này, ranh
giới giữa cõi trần và cõi âm rất mong manh. Đây cũng là một yếu tố kì ảo của câu
chuyện. Ước mơ của đồng bào Tày không chỉ muốn có cuộc sống ấm no hạnh
phúc ở cõi trần mà vươn xa hơn, họ còn mong muốn và mơ về niềm hạnh phúc đó
có ở cả cõi âm (Long cung). Để chắp nối cho ước mơ vĩ đại đó, không gì khác
hơn, giống như các câu chuyện cổ tích, yếu tố thần kỳ, kỳ ảo sẽ giúp họ thực hiện
ước mơ chính nghĩa và nhân văn ấy.
Người Tày tin rằng trời đất, quỷ thần là những lực lượng siêu nhiên, có tác động
to lớn đến cuộc sống con người. Khi Nho giáo thâm nhập vào xã hội Tày, sức mạnh
của ông Trời đã được chuyển hóa từ bình diện tự nhiên sang bình diện xã hội. Sức
mạnh đó không đơn thuần chỉ là trời có khả năng tạo ra hạn hán mất mùa, hay mùa
màng bội thu, mà trời có vai trò quyết định đến cuộc đời sướng khổ của con người.
Chính nhờ có quan niệm, suy nghĩ này mà trong khá nhiều truyện thơ Tày đã phản
ánh những con người luôn tin tưởng vào những điều tốt đẹp của cuộc sống, không
ngừng phấn đấu, vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
44
Lưu Tương là một đại diện thể hiện rõ nét đẹp văn hóa Tày. Chàng đã gặp
công chúa Long cung như một “duyên nợ”, chàng học hành đỗ đạt làm quan,
chàng tham gia đánh giặc cứu nước. Song chàng cũng tin vào thế giới siêu hình
(tin thầy bói) để rồi qua bao cách trở, gian nan, chàng vẫn có được hạnh phúc vẹn
toàn. Phải chăng đó cũng là niềm mong ước của đồng bào Tày, của nhân dân ta.
2.2.3. Truyền thống sống tương thân, tương ái
Nhân vật trong truyện thơ Tày đã thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của
mình đối với cuộc sống một cách rõ ràng. Đây là những tư tưởng, tình cảm, thái
độ đã được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ dân gian, gắn liền với sự tự ý thức về
mình và về cuộc đời. Nhân vật trong truyện thơ Tày mang tư tưởng “số mệnh”
theo quan niệm duy tâm thần bí. Đây là tư tưởng khá nặng nề trong quan niệm và
suy nghĩ của các nhân vật trong truyện thơ. Họ đều có chung một suy nghĩ rằng,
mọi việc xảy ra trên đời đều là do số phận định đoạt. Con người sống ở trên đời là
phải chấp nhận theo sự sắp đặt của số phận, coi việc gánh chịu đó là “lẽ thuận
dòng đời”, như là một quy luật, không thể nào khác. Chẳng hạn như Chiêu Đức -
nhân vật chính trong truyện thơ cùng tên vốn là con nhà giàu có, thế rồi khi lâm
vào cảnh khốn cùng, chàng vẫn quyết tâm học hành để sau này trở nên khá giả và
tự nuôi thân. Cuối cùng Chiêu Đức cũng được hưởng cuộc sống hạnh phúc, ấm no
như “số mệnh” đã định đoạt. Chàng là nhân vật điển hình “trí dũng hiếu trung”, là
trang nam nhi tiêu biểu của thời đại.
Ngoài ra, trong quan niệm và suy nghĩ của họ sống có tình có nghĩa là điều
mà họ luôn tâm niệm (tình nghĩa trong tình yêu đôi lứa, tình nghĩa với những
người thân trong gia đình, với làng xóm, quê hương...). Quan niệm sống có tình có
nghĩa dường như là thước đo thể hiện phẩm chất của người bình dân xưa. Bên
cạnh đó, trong truyện thơ Tày một tình cảm được biểu hiện nhất quán của trai gái
khi yêu nhau, đó là tình yêu chân thành, chung thuỷ. Cho dù là tình yêu thiên giới
hay tình yêu trần thế thì họ vẫn luôn chân thành, chung thuỷ sắt son với người
mình yêu, sẵn sàng vượt qua gian lao, thử thách.
Trong truyện thơ Tày, Trời, Phật, thần linh... là một thế lực tối ưu, có thể giúp
con người vượt qua những tai ương, thử thách để đi đến những thắng lợi cuối cùng
trong cuộc sống. Họ đã tin tưởng tuyệt đối vào những thế lực đó. Trước mọi khó
45
khăn họ đều cầu cứu những thế lực này. Chân thật như những gì dân tộc mình vốn
có, dân tộc Tày sống rất tình nghĩa, chân thật, giản dị và rất hòa thuận. Trong gia
đình, trong bản làng không bao giờ thấy người ta to tiếng với nhau. Họ sống hòa
thuận, tương thân tương ái, khi cay đắng, ngọt bùi đều cùng động viên, chia sẻ với
nhau rất tình nghĩa. Đặc biệt, họ rất trân trọng nguyên tắc sống “tốt đời đẹp đạo”,
tôn trọng đạo đức, lễ nghĩa, truyền thống. Trong gia đình, con cái luôn vâng lời,
kính trọng cha mẹ, ghi nhớ công lao nuôi nấng của cha mẹ... (Truyện Thị Đan,
Chiêu Đức, Nàng Kim...). Người Tày, thường sống quây quần thành bản, làng. Do
đó tình cảm bản làng của họ rất thân thiết. Đây là nét đẹp truyền thống của người
Tày. Họ sinh sống chan hòa, cùng làm ruộng, phát nương, làm rẫy, cùng chống thú
dữ, kẻ gian, gần gũi, thương yêu, đùm bọc nhau... Mười phương thiên hạ đều là anh
em đó là truyền thống tốt đẹp, đảm bảo cho mọi người chung sống trong bản
mường, cùng tồn tại và phát triển, tạo nên sức mạnh cộng đồng để khắc phục những
điều kiện bất lợi trong thiên nhiên, chống lại kẻ áp bức bóc lột và kẻ thù xâm lược.
Trong bài viết Nét đặc trưng văn hóa trong truyện thơ Nôm Tày đăng trong
Tạp chí Văn học nghệ thuật số 394, tháng 4/2017, tác giả Cao Thị Hảo [17] đã
viết: đó là lòng mến khách, sẵn sàng sẻ chia, giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh
khó khăn là một trong những nét đẹp truyền thống của người Tày. Trong các tác
phẩm truyện thơ Nôm, ta thường gặp sự tương thân tương ái giữa người với
người. Trong Lưu Tương, khi vua Sở chạy giặc Phàn, bị lạc ở trong rừng phải vào
một nhà dân xin được giúp đỡ:
Vua vào đứng dưới chân thang gác
Chắp tay xin cô bác chủ nhà
Chủ nhà đã chân tình nói lời cảm thông:
Ai đã lìa gia chương đều thấu
Dẫu nghèo đói chẳng chối khách nhờ
Mời ông hãy lên nhà ngồi nghỉ
Chủ nhà lên tiếng giục vợ con:
Cơm nguội liệu có còn hay hết
Nếu hết thì bắc bếp nấu ngay
[59. tr.162]
46
Lời nói, cử chỉ của ông chủ nhà đối với vua Sở thể hiện tình cảm, việc làm
của người dân nơi rừng sâu bản vắng, luôn sẵn lòng giúp đỡ người hoạn nạn. Đó
cũng là tấm lòng, cử chỉ thường thấy trong sự ứng xử giữa người với người ở đồng
bào dân tộc Tày hiện nay.
Chúng tôi tán đồng nhận định trên. Không chỉ ca ngợi ước mơ, khát vọng của
người Tày về một cuộc sống hòa bình, truyện thơ Nôm Lưu Tương còn ca ngợi
truyền thống nhân văn của đồng bào Tày, đó là lòng mến khách, giúp đỡ nhau khi
gặp hoạn nạn. Khi vua Sở chạy loạn, trốn vào rừng, ông đã được những người dân
bản cưu mang. Với họ, giúp đỡ nhau trong cơn hoạn nạn là rất cần thiết, không
toan tính, không mong được trả ân nghĩa:
Gia chủ hãy thương tới ban ơn
Bố thí cho bát cơm kẻ đói
Chủ nhà lên tiếng hỏi đôi câu
Ông là người nơi đâu bị lạc
Đừng nói lời đói khát thảm thương
Ai đã lìa gia chương đều thấu
Dẫu nghèo đói chẳng chối khách nhờ
Mời ông hãy lên nhà ngồi nghỉ
Chắc ông đã đói nhịn nhiều ngày
Người lả thêm mặt mày héo hắt.
Chủ nhà lên tiếng giục vợ con
Cơm nguội liệu có còn hay hết
Nếu hết thì bắc bếp nấu ngay
Để khách đệm dạ dày ấm bụng
Lúc nghèo rét đói túng giúp nhau
Gạo tết nhất lo sau nếu hết
Mấy ai không có việc đến nhà
Chủ nhà rất tôn trọng người khách, họ cho rằng việc tiếp đón khách nhất là
đối với người đang trong cơn hoạn nạn khó khăn càng trở nên quan trọng hơn bao
47
giờ hết. “Gạo tết nhất lo sau nếu hết” là câu nói thể hiện lòng mến khách của chủ
nhà nơi rừng sâu này.
Quả thực, tình cảm yêu thương, quý trọng con người của đồng bào Tày thể
hiện rất rõ ở lòng hiếu khách. Có khách đến nhà là mừng. Lòng mến khách của họ
không ồn ào, hình thức mà thật kín đáo, chân tình và tế nhị. Họ niềm nở đón
khách, họ làm bữa mời khách thật nhanh và nhẹ nhàng. Với người Tày, nếu gần
đến bữa cơm mời khách mà khách không ở lại ăn sẽ là điều không hay, do vậy,
người Tày thường nấu cơm nhiều phòng khi có khách đến sẽ không phải nấu
thêm. Đồng bào Tày có thói quen không bao giờ vét sạch nồi cơm vì họ kiêng kỵ
và cho rằng vét sạch nồi sẽ nghèo đói suốt đời. Phong tục đó đến nay vẫn được lưu
giữ trong các gia đình Tày.
Thêm nữa, người Tày quan niệm: con người dù trong hoàn cảnh khốn khó
đến mấy, cùng đường đến mấy thì vẫn “tồn tại” được khi mỗi người còn có sức
khỏe và chăm chỉ lao động:
Hết rẩy khẩu lâm san liệng pác.
Mì lèng ná lo dác pác cò
Dịch:
Phát rẫy trồng lúa nương rừng vắng
Có sức khỏe thời chẳng đói mồm.
Như một triết lý sống của đồng bào Tày: chỉ cần có sức khỏe, có niềm tin,
nghị lực, có đất, con người sẽ tự mình lo kiếm sống, không lo cái đói, cái rét nữa.
Là Vua nước Sở, trị vì một dân tộc, được sống trong no đủ, thế nhưng khi “thất
thế” chạy loạn, Vua Sở đã thấu tất cả, dường như đây là một dịp để nhà vua hiểu
nhân dân, sống cùng nhân dân. “Bàn tay ta làm nên tất cả”. Đói khát, ăn xin…Rồi
gắn bó với thiên nhiên, nơi núi rừng, con người vẫn tồn tại. Có thể thấy rằng, qua
việc chạy loạn đó mà Vua Sở đã thấu hơn bài học trong cuộc sống, người dân luôn
chăm chỉ lao động, sống có tình có nghĩa, bám bản bám làng, yêu và gắn bó với
quê hương tha thiết… Vua thấu hơn triết lý ở đời: “không ai giàu ba họ, không ai
khó ba đời”. Hôm nay có thể là ông hoàng, bà chúa nhưng có thể ngày mai chỉ là
48
nô lệ, là kẻ hành khất tha hương, cầu thực mà thôi. Chất nhân văn, chất triết lý của
truyện thơ Nôm Lưu Tương là ở chỗ đó.
Cố sức làm nương tược đừng lười
Trời sinh đất nuôi người chẳng đói.
Sở vương cất lời nói: Ơn người
Có lòng thương yêu tôi đói rách
Cứu sinh kẻ hành khất ấm thân
Đời đời nhớ công ơn cứu mạng
Được cưu mang ăn uống nặng ơn
Có chí ắt làm nên kịp họ
Làm nương gạo mới có được ăn
Lạy trời đất tạ ơn gia chủ
Gặp khó phải chịu khó làm ăn
Còn sống xem xung quanh ăn ở
Ngày ngày thắt dao rựa vào rừng
Việc Lưu Tương tìm lại Vua Sở lưu lạc, giúp vua Sở trả ơn những người dân
đã cưu mang thể hiện nghĩa tình sâu sắc của đồng bào Tày.
Sở vương ngự ngai vàng thấy mặt
Vua mừng vui được gặp ân nhân
Phán truyền mọi quan dân được rõ
Lại cho về quê cũ làm ăn
Nhớ nhau hãy hạ lâm thăm thú
Công nuôi nấng đói khổ lao đao
Chẳng có vàng bạc nào đền đủ
Sắc phong chức quan phủ coi dân
Quan Lý Hiến cám ơn ân đức
Mọi người và chầu chực Sở vương
Ơn vua ban phong quan quyền quý
Khắp thiên hạ cai trị an dân
Truyền lệnh ai có công được thưởng.
49
Nhìn chung truyện thơ của các dân tộc thiểu số là tiếng nói của người nghèo
bị áp bức bóc lột, người trung hậu thủy chung, người nhân đức, những người khao
khát xứng đáng được sống tự do hạnh phúc. Nằm trong mạch nguồn đó, truyền
thống tương thân, tương ái, sống có tình có nghĩa của đồng bào Tày thể hiện trong
truyện thơ Nôm Lưu Tương rất đáng quý. Thiết nghĩ, những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp đó nếu được tích hợp trong giáo dục học đường thì các thế hệ học
sinh, đặc biệt học sinh vùng đồng bào Tày sẽ “thẩm thấu” tốt hơn, hiệu quả hơn
bao lời răn dạy khác. Các em sẽ thấy được cách ứng xử đầy tính nhân văn của một
tộc người, thấy được lối sống đầy thủy chung, ân nghĩa của họ. Từ đó, mỗi người
sẽ nhận ra chính mình, tự rèn luyện mình trong cuộc sống muôn màu thời hiện tại.
Đây cũng là một khát mong của người nghiên cứu đối với chương trình giáo dục
địa phương môn Ngữ văn trong thời gian tới.
2.3. Quan niệm tình yêu và hạnh phúc lứa đôi bao dung, phóng khoáng
2.3.1. Tình yêu vượt không gian, thời gian với công chúa Long cung
Tình yêu và hạnh phúc đôi lứa luôn là chủ đề lớn và như một dòng chảy bất
tận của thơ ca dân gian mọi dân tộc. Đọc Lưu Tương chúng ta nhận thấy một tình
yêu đẹp vượt mọi không gian, thời gian giữa Lưu Tương với công chúa Long cung
Lưu Tương gặp gỡ công chúa Long vương ở chùa Vinh San, hai người gặp
gỡ như một “nhân duyên” tiền định. Lưu Tương là con cầu tự, công chúa dưới
Long Cung. Người trần, người âm - hai thế giới khác biệt nhau, thế nhưng họ có
sự gặp gỡ kì lạ. Công chúa đã được vua cha cho kén rể tới 10 ngày trời mà không
ai lọt mắt nàng. Buồn bã, cô đơn, nàng đã đến chùa Vinh San vãn cảnh. Vẻ đẹp
thiên nhiên tươi tắn, muôn hoa khoe sắc như cô gái đang tuổi mộng mơ:
Thoắt trôi lên đến quán Vinh Sơn
Liễu hoa nở rập rờn ngan ngát
Nàng tự vượt sơn nhạc vườn tiên
Công chúa nàng thiếu niên ngồi nghỉ
…
Dương gian hoa thiên lý nở vàng
Công chúa tự trách than mọi đoạn
Trời đất định vận hạn nhân duyên
Nên mới lên vườn tiên dương thế.
50
Với đoạn tả cảnh chùa, chúng ta thấy ở đây, truyện thơ Tày có sự tương đồng
với thơ ca trung đại, đặc biệt có sự giao thoa với thơ ca Trung Quốc; với bút pháp
tả cảnh có tính ước lệ:
Lưu Tương cất tiếng nói đạo duyên
Đây đích thực con tiên xuống thế
Cất lời ướm hỏi thử ngọc nàng
Anh xin bông mậu đàn ấp ủ
Hay hoa đã có chủ rào trông
Ơn em nếu có lòng bố thí?
Công chúa nàng trộm nghĩ mới thưa:
Gặp quan anh may nhờ phúc đức
E hoa này chẳng được thơm tươi
Em đâu dám tặng người quyền quý!
Lưu Tương nói hết ý cùng nàng
Được hoa về gia san khôn xiết
Nếu bỏ hoa trời giết chẳng thương
Chạnh lòng ngọc Công Nương mới nói:
Em sinh xuống hạ giới thủy âm
Phải ngày xấu duyên thân lận đận
Xuống Vinh Sơn thơ thẩn giải buồn
Đâu phải kẻ du hồn lãng đãng
May trời xui én nhạn gặp nhau
Không chê hoa thì xâu nhặt tạm
Hết tiết thời hoa rụng héo tàn
Xâu hoa hãy thương cành nhớ cội.
Hai người gặp gỡ, tâm sự, họ gặp nhau như “duyên trời” định sẵn:
Lưu Tương bèn nói với Công Nương:
Áo rách được lây hương thơm thảo
Lọt bóng được trộm ngắm dung nhan
Nghĩa càn khôn trời ban được gặp
Hai người chuyện tâm đắc Vinh San
51
Sau giây phút gặp gỡ, làm quen, Công nương đã mạnh dạn bày tỏ lòng mình:
nàng tuổi 18, ở chốn Long cung, vẫn “giường đơn, gối chiếc”, câu chuyện dường
đã thiết tha, thân mật hơn thì trời đã về chiều, họ đành chia tay trong buổi chiều tà
đầy lưu luyến, không nỡ buông rời. Với công chúa Long cung, nàng như đã tìm
được “ý trung nhân” cho mình. Với Lưu Tương, chàng thầm thề hẹn ngày “tái
ngộ” với công chúa khi thành danh. Bởi “tình trong như đã” nên họ đã trao nhau
vật tin, để cùng giữ lời thề nguyền, họ mong ước sẽ thành đôi lứa:
Có thương đổi giữ hơi khăn áo
Của anh trao thiếu nữ làm tin
Về nhà nhớ nho sinh hãy ngắm.
Còn nàng thì:
Còn có tấm khăn vàng Tây Hán
Tặng cho anh khác bản làm tin
Mai kia anh một mình buồn vắng
Được ngắm khăn thay mặt đỡ buồn
Như sứ giả đến luôn thăm bạn
Mong ước én kết nhạn nên duyên.
Ngọc nữ quay trở về chốn Long cung, còn Lưu Tương tiếp tục con đường
học vấn với mong ước thành danh, đỗ đạt. Tình yêu đầu, mối duyên gặp gỡ giữa
Lưu Tương và Công chúa Long cung thật đẹp, tuy rất lưu luyến, bịn rịn, chàng
luôn nhớ đến “nữ nhi” và nhìn khăn vàng lòng càng buồn thêm. Thế nhưng, người
trai Tày ấy đã mang trong mình chí lớn “dọc ngang trời đất”, dẹp đông, dẹp tây.
Chàng hứa hẹn là “người hùng” của bản làng. Chính cha mẹ chàng đã luôn ước
mong điều đó:
Bố mẹ quan mở mặt nhờ con
Tỏ bày lời thiệt hơn ao ước:
Thằng này chắc sẽ được nên người
Số được hưởng lộc trời phú quý
52
Như đã phân tích, người Tày quan niệm về “nhân duyên” rất rõ. Niềm tin, lời
thề hẹn giữa Lưu Tương và công chúa Long vương như nhân duyên tiền định. Dẫu
vượt bao thời gian xa xôi, cách trở, họ vẫn sẽ hội ngộ cùng nhau. Lưu Tương
xuống Long cung gặp gỡ người xưa, chàng được thết đãi, được phong làm phò
mã, yến tiệc ngày đêm hỉ hả. Ở chốn long cung, dường như con người đều trân
trọng, đề cao trí thông minh, sức mạnh và vẻ đẹp tài hoa của người anh hùng.
Trong đoạn truyện tả Lưu Tương hạnh phúc bên người vợ chốn Long cung khiến
cho người đọc như lạc vào một thế giới cổ tích kỳ ảo. Tình yêu đã lên ngôi: Họ đã
gặp gỡ, thề nguyền, trải qua bao thời gian cách trở, tưởng chừng như đã bặt vô âm
tín. Nay gặp lại, tất cả với họ như thuở ban đầu gặp gỡ, mặc dù xưa nay việc kết
hôn giữa người trần gian và Long cung là rất hiếm có:
Xưa nay dương kết thủy mấy khi
Vì nhân duyên chuẩn y định thất
Văn võ cùng vui chúc tân duyên
Yến tiệc mười ngày đêm hỉ hả
Liền phong chức phò mã quan sang
Thủy tiên cùng Lưu Tương bệ kiến
Thụ sắc phong cửa điện Long vương
Thủy Tiên cùng Lưu Tương thành thất
Duyên nghĩa như xếp đặt từ xưa
Như tiết trời xuân thu nhật nguyệt
Vui tày hội hoa điệp móc mây…
Lưu Tương vui vẻ, hạnh phúc bên người vợ mới chốn Long cung. Chàng
dường như quên đi vợ con trên trần thế. Phải chăng đó là dụng ý của tác giả dân
gian. Họ chắp nối cho ước mơ con người không chỉ bằng lòng với cuộc sống bình
an chốn dương gian mà còn ước mơ khi xuống Long cung - một thế giới thần tiên
hư ảo khác, họ cũng được hưởng trọn niềm hạnh phúc của tình yêu lứa đôi, của
cuộc sống ấm no, sung túc. Hay đây cũng là một sự khẳng định tình yêu thủy
chung, vượt không gian. Nếu như trong các truyện dân gian khác, chúng ta thấy
các mối tình đẹp đều ở nơi trần thế hoặc cõi tiên (mường trời) thì ở đây ta bắt gặp
53
một tình yêu khác cõi - cõi trần và cõi âm (long cung). Đó cũng là một điều đặc
biệt trong truyện thơ Nôm Lưu Tương.
2.3.2. Tình yêu ân nghĩa nơi trần thế với công chúa con vua Sở
Khi dẹp được giặc Phàn, nước Sở bình yên. Với chiến công vĩ đại đó, Lưu
Tương xứng đáng được phong chức tước. Vua Sở đã gả công chúa cho chàng.
Cuộc sống coi như yên bề gia thất, chàng đã có con trai lên ba tuổi nối dõi. Nếu
như ở một số truyện Nôm khác, đến đây sẽ là một kết thúc hợp lý và có hậu, phù
hợp với ước nguyện của nhân dân. Lưu Tương cũng là một truyện thơ Nôm không
thoát khỏi motif truyện “anh hùng cứu quốc được thưởng”. Tuy nhiên trong truyện
thơ này, phải chăng nghệ sỹ dân gian đã ở một thời kỳ khác, ước mơ của đồng bào
Tày lúc bấy giờ lớn lao hơn, vươn xa hơn. Việc Lưu Tương đồng ý lấy công chúa
nước Sở như là một việc làm của người anh hùng “cứu nhân độ thế”. Đó là để
nhân dân được sống bình an, hạnh phúc. Bởi lẽ, trong tâm tư, chàng chưa hề nguôi
ngoai nhớ đến “người cũ” và vật tin xưa kia.
Dù đã yên bề gia thất, công thành danh toại nhưng Lưu Tương luôn nhớ về
người xưa, nhớ đến vật tin: khăn vàng ướp hoa vàng…Một đặc sắc của truyện thơ
dân gian Tày. Vào mùa xuân, mùa trẩy hội. Trai gái thường du xuân gặp gỡ,
truyền thống người Tày kỷ vật thân thiết của các đôi nam thanh nữ tú là chiếc
khăn: chiếc khăn vấn đầu, chiếc khăn tay nhỏ vuông vắn… Chiếc khăn được ướp
hương hoa như nhắn nhủ một tình yêu chung thủy. Lưu Tương đã không giấu
diếm vợ về mối tình xưa cũ tuổi mười tám, đôi mươi của mình:
Lưu Tương nhớ bạn tình buồn bã
Giãi bày cùng công chúa mọi đàng
…
Anh xin kể tường tận cùng em
Ngày trước đi học hành viễn lộ
Gặp người ở chùa cổ Vinh San
Ngời ngời như hoa ban đang nở
Trót hẹn cùng tiên nữ nặng tình
54
Đã trau nhau khăn xinh đính ước
Giờ lại thành gia thất cùng em
Nhớ khăn xưa giở xem đâu tá
Vừa giở liền biến hóa mất tăm
Biến thành én cánh vàng bay khuất.
[59, tr.148]
Công chúa nghe chuyện buồn bã, than khóc, nàng lo sợ, nài nỉ van xin Lưu
Tương đừng bỏ vợ con, tiếng khóc than của nàng nghe thật thương cảm, xót xa:
Chàng hãy ở dương gian cùng thiếp
Thân em đâu tham nguyệt thay hoa
Ai giúp nuôi con ta khôn lớn
Nước mắt ròng, đau đớn ruột gan
Mong gà chóng gáy tàn trời sáng
Công chúa buồn than vãn gia chương.
[59, tr.150]
Trong quan niệm dân gian của người Tày, vũ trụ được phân chia ba tầng (ba
cõi). Tầng âm dưới mặt đất, dưới nước do Long vương cai quản. Tầng dương gian
trên mặt đất, nơi con người sinh sống do vua quan các triều đại cai quản. Tầng
không trung, mường trời, nơi linh hồn người chết trú ngụ vĩnh viễn do Ngọc Hoàng
cai quản. Ba cõi đều có mối liên hệ với nhau. Vì theo dân gian xưa ba cõi rất gần
nhau, người ba cõi đều nói chung một thứ tiếng, họ có thể chèo thuyền “lên” và
“xuống” gặp nhau. Chỉ có một điều ghi nhận là: Người trong ba cõi không tìm cách
hại nhau, thống trị nhau. Do đó, chi tiết tưởng như kì ảo nhưng lại hoàn toàn hợp lý
với quan niệm của đồng bào Tày đó là việc Lưu Tương biến mất khỏi cung thành
nước Sở mặc dù đã được quân lính vây quanh:
Long vương hô hoán vũ mở đường
Phút chốc đã lọt dương, nội phủ
Lảnh lót tiếng thiếu nữ thủy cung
Xuống Long vương sống chung, em đợi
Lưu Tương nghe tiếng gọi không thưa
Biến mất tăm, tiếng chưa kịp dứt.
55
Một tình yêu đẹp, tình yêu thủy chung vượt không gian được ngợi ca. Lưu
Tương “biến mất” để rồi lại “hiện hữu” nguyên hình chốn Long cung với người
xưa, nghĩa cũ, với hạnh phúc sum vầy. Cũng đã dày công tìm hiểu, nghiên cứu,
chúng tôi đã được các bậc cao niên người Tày Bắc Kạn cho biết: chi tiết Lưu
Tương có hai người vợ ở hai cõi khác nhau phải chăng là sự ngợi ca một tình yêu
song hành? Hay đó là một ngụ ý sâu xa hơn của tác giả dân gian, đó là sự thể hiện,
sự khẳng định một cái nhìn phóng khoáng trong quan niệm hôn nhân, trong tình
yêu của người Tày. Ở đây, chúng ta không hề nhận thấy bóng dáng của sự ghen
ghét, sự đố kỵ, của lòng tham… mà hơn hết, chỉ thấy sự bao dung, độ lượng, sự
chân thành, đó là tình yêu thương, sẻ chia của những con người đầy nhân nghĩa, vị
tha. Đây là lời công chúa Long cung nói với vợ cả Lưu Tương:
Em là con Long vương thủy hạ
Đường xuôi ngược thông tỏa đất trời
Chính thê duyên lứa đôi nhường chị
Em xin làm vợ bé thứ hai
Chị đừng nói thêm lời bứt rứt.
Và đây là lời đáp lại:
Quế Hoa nàng mặt ngọc chắp tay
Nhà cửa việc sau này để chị
Tôi là người quen chịu khó khăn
Có thương cho nấu ăn, rửa bát
Ơn chị lo bao quát cửa nhà.
Cũng vì lẽ đó mà gia đình Lưu Tương được sống trong ấm êm, đoàn tụ. Cuộc
sống vốn vậy, khi biết cho đi điều ân nghĩa ta sẽ nhận lại mọi điều tốt đẹp. Bài học
nhân sinh vừa sâu lắng tình đời vừa thấm đượm tình nghĩa đã khiến truyện thơ
Nôm Lưu Tương lắng đọng trong lòng độc giả mai hậu.
* Tiểu kết:
Lưu Tương là một truyện thơ Nôm tiêu biểu của dân tộc Tày vùng Bắc Kạn.
Nội dung truyện đã ca ngợi, khẳng định sức mạnh, tài trí của người anh hùng Lưu
56
Tương; lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Tày và đặc biệt truyện thơ
này đã thể hiện quan niệm tình yêu lứa đôi bao dung, phóng khoáng. Nhân vật
chính của truyện - Lưu Tương là người con cầu tự. Sự ra đời có nét riêng biệt ấy
đã làm cơ sở để chàng trở thành một anh hùng của bản làng, của dòng họ, của dân
tộc. Lưu Tương trong truyện lập những chiến công oanh liệt, cứu nước, cứu dân,
hiên ngang trong chiến trận như người anh hùng trong những sử thi nổi tiếng. Bản
sắc Tày, truyền thống tương thân, tương ái của đồng bào Tày đã được thể hiện rõ
nét trong thiên truyện. Việc Lưu Tương có hai người vợ ở hai cõi khác nhau (cõi
trần và cõi âm) đã khẳng định: với đồng bào Tày từ xa xưa, họ không chỉ mơ ước
có được cuộc sống sung túc, bình an nơi trần thế mà khát khao lớn hơn của họ là
được sống hạnh phúc cả ở một thế giới khác (cõi khác); hơn nữa điều đó thể hiện
sự bao dung, độ lượng, sự chân thành của những con người đầy nhân nghĩa, vị tha.
Chính điều đó đã tạo nên nét đặc sắc của truyện thơ Nôm Lưu Tương.
Để miêu tả, khắc họa chân dung nhân vật chính, đồng thời thể hiện những
ước mơ, khát vọng của đồng bào Tày, tác giả dân gian đã xây dựng cốt truyện
bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo; bằng ngôn ngữ Tày chân thực nhưng
cũng đầy trữ tình lắng sâu… Điều này sẽ được chúng tôi làm rõ hơn trong chương
3 của luận văn.
57
Chương 3
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM TÀY LƯU TƯƠNG
3.1. Kết cấu
Khi nhắc đến kết cấu trong tác phẩm văn học, nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng: kết cấu là một phương tiện cơ bản và quan trọng không thể thiếu của một
sáng tác văn học. Khái niệm kết cấu được hiểu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh
động của tác phẩm. Nó sắp xếp, gắn kết toàn bộ các yếu tố, thành phần để tạo nên
một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn. Không có kết cấu, những yếu tố, những thành
phần chỉ là những mảnh vụn rời rạc.
Xem xét một số truyện thơ Nôm Tày cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm
Kinh (Thạch Sanh, Phạm Tử - Ngọc Hoa, Lưu Bình - Dương Lễ, Tổng Tân - Cúc
Hoa), xét riêng về mặt kết cấu, sự sáng tạo của người Tày thể hiện trên hai
phương diện. Thứ nhất, họ đã thay đổi kết cấu cốt truyện theo phương thức: gặp
gỡ - tai biến - lưu lạc thành kết cấu cốt truyện xâu chuỗi, lắp ghép (trường hợp
truyện Thạch Sanh). Thứ hai, việc gia tăng chất trữ tình cho cốt truyện, thêm vào
nhiều phiến đoạn lột tả diễn biến tâm trạng nhân vật, miêu tả cảnh thiên nhiên đã
biến đổi kiểu kết cấu tác phẩm tự sự thuần túy của người Kinh thành tác phẩm có
kết cấu tự sự - trữ tình trong truyện thơ Nôm Tày (các tác phẩm còn lại). Xu
hướng trữ tình hóa tác phẩm tự sự làm cho nội dung truyện thơ Nôm Tày được mở
rộng đồng thời ghi dấu thành công nghệ thuật xuất sắc của tác giả người Tày. Xu
hướng này cũng cho thấy sự giao thoa, tiếp biến văn hóa sâu sắc giữa hai dân tộc
Kinh - Tày. Những thành công nghệ thuật đặc sắc của bản Tày vừa là minh chứng
cho quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam vừa cho thấy vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn của văn hóa Tày, tâm hồn Tày.
Trong truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương, ngoài việc kế thừa kết cấu các truyện
Nôm khác, truyện Nôm này còn có kiểu kết cấu khác lạ và mới mẻ. Đó là truyện
có thêm chương đầu tiên - chương Mở lời; kết cấu kiểu truyện lồng truyện; sự kết
hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong tác phẩm. Điều đó tạo nên sức hấp dẫn
riêng của thiên truyện này.
58
3.1.1. Mở lời - một sáng tạo mới
Như trong phần Lời nói đầu cuốn truyện thơ Nôm Lưu Tương, dịch giả
Nông Phúc Tước đã đưa ra nhận xét: Truyện Nôm Tày Lưu Tương không
giống với nhiều truyện thơ dân gian Tày khác đã được sưu tầm và giới thiệu,
đó là trong kết cấu truyện có thêm chương “Mở lời” (Khay cằm). Phải chăng
đã có sự giao thoa ảnh hưởng bởi nền văn học hiện đại của các dân tộc tiến bộ
xung quanh? [59, tr.7]. Chương “Mở lời” gồm 66 câu thơ tiếng Tày (phần
dịch sang tiếng Việt gồm 69 câu) có nội dung kể về xuất thân, lai lịch và số
phận của nhân vật chính trong truyện là Lưu Tương.
Như vậy, chương Mở lời được coi là lời mở đầu cho câu chuyện sắp kể.
Nội dung chủ yếu là khái quát về xuất thân, số phận nhân vật chính. Đọc
chương Mở lời, người đọc sẽ bị cuốn hút bởi những tình tiết, những sự kiện sẽ
diễn ra đối với nhân vật. Do đó, chương Mở lời có tác dụng lôi cuốn người
nghe, người đọc, tạo sự hứng thú, sự tò mò tìm hiểu câu chuyện theo diễn tiến
của nó.
Kể về truyện hoa mạ nở vàng
Nói đến truyện Lưu quan ngày trước
…
Xưa nay người hiếm con, muộn cháu
Thường biện lễ cúng thấu Mẹ Hoa
…
Mong mãn nguyện nở nhụy nam giai
Lớn lên thành người tài hữu ích
…
Lưu Tương tìm sư ông dạy học
Chốn sơn lâm mây móc tỏa vây
Tìm đến chốn Sơn Tây, Nhị Hạ
Mặc xa xôi vất vả kiếm tìm.
(Chương Mở lời - Lưu Tương)
59
Với việc trích một số câu trong chương Mở lời, độc giả có thể thấy, phần
Mở lời dường như đã khái quát được xuất thân của Lưu Tương (là người con
cầu tự), sinh ra và lớn lên đã có trí thông minh, được cha mẹ cho ăn học đầy
đủ. Ngoài ra, Lưu Tương còn là nhân vật được mọi người đặt nhiều niềm tin,
nhiều kì vọng. Với đồng bào Tày, khi gia đình hiếm muộn con mà cầu Mẹ
Hoa sinh được con trai là một điều may mắn và thiêng liêng cho gia đình ấy.
Việc gửi gắm khát mong của người Tày vào nhân vật Lưu Tương - người con
cầu tự cũng có thể là vì lẽ đó. Đọc hết câu chuyện, chúng ta thấy, niềm mong
đợi ấy của đồng bào Tày đã trở thành hiện thực - một hiện thực đẹp hơn trong
truyện cổ tích vậy.
3.1.2. Truyện lồng truyện
Cũng giống như các truyện Nôm khác, truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương có
kết cấu tuyến tính. Các nhân vật, sự kiện được tả, kể theo trình tự thời gian. Tuy
nhiên, khi nghiên cứu chúng tôi thấy có sự khác biệt, đó là trong truyện Lưu
Tương có kết cấu kiểu “truyện lồng truyện”. Nếu như trong môt số truyện khác,
chúng ta thấy chủ yếu tác giả sẽ tập trung kể về một câu chuyện như: câu chuyện
tình yêu đẹp hay câu chuyện chiến trận… Và thường thì từ đầu đến cuối truyện,
người đọc sẽ cảm nhận được duy nhất nhất một tình yêu đẹp, thủy chung. Chẳng
hạn như truyện Phạm Tải - Ngọc Hoa, Lưu Đài - Hán Xuân… hay cả thiên truyện
“tuyệt bút” của đại thi hào Nguyễn Du - Truyện Kiều. Thế nhưng đọc Lưu Tương
chúng ta thấy các câu chuyện được kể xen lồng vào nhau, tạo nên sự khác biệt so
với một số truyện thơ Nôm khác.
Lưu Tương được kể như một người anh hùng với chí lớn lập thân, lập
nghiệp, cứu nước, cứu mường (việc Lưu Tương hai lần đánh thắng giặc Phàn cứu
nước Sở khỏi cảnh ly tán, hiểm nguy). Lồng vào đó là câu chuyện tình của Lưu
Tương với công chúa Long vương từ thời trai trẻ. Điều đặc biệt hơn, cuộc đời Lưu
Tương được kể lại trong cả một quá trình từ xuất thân (con cầu tự) -> học hành đỗ
đạt -> được vua ban thưởng -> kết hôn lần 1 nơi trần thế -> ly tán -> kết hôn lần 2
chốn Long cung -> đoàn tụ nơi trần thế với hai người vợ thuộc hai cõi khác nhau
(trần - âm).
60
Truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương được tách thành 18 đoạn truyện. Mở đầu
mỗi đoạn là một câu có tính công thức:
Lại kể đoạn công chúa kén chồng (Câu 51)
Mười hai nước trai thanh hội đủ (Câu 52)
Hoặc một loạt các câu mở đoạn khác trong truyện, mỗi câu đều có nội dung
khái quát về đoạn truyện sẽ được kể theo diễn biến các sự kiện:
- Lại kể đoạn chàng Lưu tìm ngãi (Câu 206)
Lạy thầy xong quan vội đi ra (Câu 207)
- Lại kể đoạn nước Phàn mưu lược (Câu 334)
Chúng chọn kế lấy ngựa tiến vua (Câu 335)
- Lại kể đoạn Phàn ngụy ngoại bang (Câu 497)
Ngày đêm ngự đền vàng mưu kế (Câu 498)
- Lại kể đoạn tình cũ Lưu Tương (Câu 737)
Ngày trước đã trao khăn thề thốt (Câu 738)
- Lại kể đoạn Sở bang công chúa (Câu 1210)
Mẹ con ẩn rừng rú ăn xin (Câu 1211)
- Lại kể đoạn ngọc nữ Long vương (Câu 1287)
Sai quân dậy bốn phương về muộn (Câu 1288)
- Lại kể đoạn thân vua chạy loạn (Câu 1378)
Ngày đêm phải làm bạn vượn, hươu (Câu 1379)
- Lại kể đoạn vua quan về điện (Câu 1536)
Dân sự khắp mọi chốn bình yên (Câu 1537)
Đánh giá về lối trần thuật trên, tác giả Lê Trường Phát đã nhận định: “Với
một hình thức ngôn ngữ thích hợp như thế phù hợp với một trình độ tư duy thẩm
mĩ còn ít nhiều đơn giản của những người nông dân công xã nông thôn miền núi.
Ở đây, dù chỉ qua phân tích mô hình lời kể chuyện đoạn hay là lời mở đầu của
mỗi đoạn, chúng ta cũng có thể thấy rằng ở truyện thơ hoàn toàn vắng bóng các
kiểu kết cấu phức tạp như phải có những đoạn hồi thuật, hồi tưởng, những đoạn
đồng hiện hai hoặc ba sự kiện song hành xảy ra. Mặt khác, ta cũng thấy… như
61
thế, một lần nữa khẳng định truyện thơ được diễn xướng theo phương thức kể là
chính, chứ không phải theo phương thức xem hay đọc tác phẩm bằng mắt như văn
học viết, cho dù truyện thơ có được ghi thành văn bản” [38, tr.222].
Những công thức mở đầu này có đặc điểm mang lại màu sắc khách quan cho
truyện kể. Người kể chuyện xuất hiện qua những lời trần thuật gián tiếp, không bình
luận, không phát ngôn quan điểm luân lý xã hội. Nó chỉ có ý nghĩa khẳng định
chuyện đã qua, chuyện đã được truyền miệng, đã có trong đời sống dân gian, nay
được kể lại bằng “phương thức lưu hành mới”:
Chép ra truyện hoa mạ nở thơm
Thuật lại truyện hoa vàng Bjoóc Lả
(Bjoóc Lả)
Ở dưng ta chép truyện giải buồn
Đời xưa có truyền ngôn đây đó
Chép để bài truyện cũ Nam bang
(Lý Thế Khanh)
Cổ kim còn truyền lại đời đời
Có gốc ngọn thành lời dạy bảo
Cầm bút chép truyện thảo lại sau…
(Tam Mậu Ngọ)
Ở đây, người kể chuyện mời mọi người nghe với ý muốn đi thẳng vào câu
chuyện với những “cái gì nó phải xảy ra, thì nó sẽ xảy ra”. Đi thẳng vào một câu
chuyện có tính chất xã hội, đã phổ biến nhưng không quá đột ngột, phải có cái
công thức mở đầu. Cái công thức này chưa vượt xa được cái công thức “ngày xửa
ngày xưa” của truyện cổ tích.
Đây là nét tương đồng với truyện thơ Nam Kim - Thị Đan:
Ngồi nhàn chép câu chuyện trong trắng
Quản bút trong tay những đêm khuya vắng
Chép câu chuyện hoa nguyệt lưu truyền
Ai chưa thành nhân duyên hãy nhớ
[44, tr.897]
62
Trong phần kết, đối với vấn đề thi pháp lời văn nghệ thuật truyện thơ Nôm
Tày, chúng ta không thể không trở lại với nhóm truyện thơ có khuynh hướng
thuyết giáo đạo đức, được ảnh hưởng khá rõ truyện Nôm Kinh. Đây là loại truyện
thơ phần nhiều có tính chất luận đề thuyết giáo đạo đức theo quan niệm phong
kiến (trung, hiếu, tiết, nghĩa) lẫn đạo đức theo quan niệm Phật giáo (Tu nhân tích
đức, ở hiền gặp lành, ác giả ác báo…). Phần kết của truyện thơ Nôm Tày Lưu
Tương đã thể hiện tương đối rõ khuynh hướng này:
Ơn vua ban phong quan quyền quý
Khắp thiên hạ cai trị an dân
Truyền lệnh ai có công được thưởng
Quốc gia được thịnh vượng nhiều xuân
Đặt thành truyện muôn dân được biết
Truyện Lưu Tương xin hết dừng lời
Ai tài giỏi xin mời bổ khuyết
Để truyện mãi truyền kiếp lưu phương
Hết câu truyện Lưu Tương tài giỏi
Mong trẻ già, trai gái đọc chơi
Học đời xưa rèn người đời mới.
[59, tr.194]
Liên hệ, so sánh phần kết của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương với một số
truyện thơ Nôm Tày khác trong nhóm dòng thơ kết thúc tác phẩm - cũng đã trở thành
công thức, chúng tôi thấy tính chất lý tưởng hóa, ca ngợi nhà nước phong kiến:
Tích đức đời sau thường gặp đức
… Trần Chu sau hóa xác lên tiên
Vợ chồng sống nghìn năm kế thế
Trần Chu coi bốn bể dưới trên
Muôn dân được đội ơn vui thú
Khắp thiên hạ mọi xứ cười vui
Nhất đội ơi vua trời sung sướng.
63
Hay kết thúc trong truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân:
Đức vua đang ngự ở ngai rồng…
Còn Trạng đang chức cả ngôi trên
Đuổi hết giặc, nước yên phẳng lặng…
Lưu Đài kết Hán Thị đẹp duyên
Chép thành truyện lưu truyền hậu thế
[5, tr.944]
Tất nhiên, người đọc, người nghe các truyện thơ có công thức mở đầu và
công thức kết thúc như thế đều nhận ra rằng: tính lý tưởng hóa về một hình mẫu
xã hội và gia đình tràn trề sự thịnh vượng và hạnh phúc này chỉ có trong giấc mơ
cổ tích. Đó là một “thực tại đặc chất cổ tích” được “lưu hành theo phương thức
mới” trong truyện thơ Nôm Tày, với những ngôn ngữ được “diễn đạt theo phong
cách trang trọng, cầu kì, với những thành ngữ, công thức Hán - Việt ít nhiều có
tính bác học” - đúng như Võ Quang Nhơn đã từng nhận xét. Đọc, nghiên cứu
truyện Nôm Lưu Tương đã giúp cho chúng ta được trang bị thêm về kiểu kết cấu
“truyện lồng truyện” trong những áng truyện thơ Nôm - “túi khôn” của người Tày
nói riêng và của nhân loại nói chung.
3.1.3. Sự kết hợp tự sự - trữ tình
Nếu như trong truyện thơ Nôm Kinh (bình dân) có kết cấu cốt truyện tự sự là
chủ yếu thì truyện thơ Nôm Tày xét trên quá trình phát triển của thể loại có hai kiểu
kết cấu: kết cấu trữ tình - tự sự (ở giai đoạn đầu) và kết cấu tự sự - trữ tình (ở giai
đoạn sau). Sở dĩ có sự thay đổi này bởi trong truyện thơ Nôm Tày đã thấy sự xuất
hiện yếu tố trữ tình. Chất trữ tình trong truyện thơ Nôm Tày có thể biểu hiện ở dạng
cốt truyện giàu chất trữ tình hay xuất hiện kiểu nhân vật trữ tình, có khi là những
đoạn miêu tả phong cảnh thiên nhiên đậm màu sắc trữ tình... Có thể nhận thấy xu
hướng trữ tình hóa tác phẩm tự sự trong truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương qua những
phương diện như cốt truyện, tâm trạng nhân vật.
Từ xưa đến nay, theo cách hiểu truyền thống, khi nói đến tính tự sự người ta
nhắc đến cốt truyện. Tác phẩm hình thành trên cơ sở một hay nhiều câu chuyện.
64
Truyện có thể được kể lại hấp dẫn nhờ tài năng của người kể. Truyện thơ Nôm
Tày Lưu Tương là kiểu truyện lồng trong truyện. Đã là truyện, tác phẩm này cũng
không nằm ngoài quỹ đạo loại hình tự sự. Đó là những nghịch cảnh, nghịch lý trớ
trêu như người trần yêu quý người “âm”; các triều đại tranh giành địa giới lẫn
nhau, chiến tranh liên miên xảy ra… Có những đoạn thơ “Tình” xuất hiện trước
chi phối sự lựa chọn các tình tiết, sự kiện, nhân vật làm cho “Sự” được rõ ràng,
rành rẽ hơn. “Sự” và “Tình ” lúc thống nhất trong một chỉnh thể trọn vẹn, khi bổ
sung tôn nhau lên. Có khi ranh giới giữa “Sự” và “Tình” tạm thời bị xóa nhoà, che
lấp. “Sự” và “Tình” giao thoa hòa quyện với nhau, nhưng cũng có lúc tách bạch
rạch ròi, tương đối độc lập. “Sự” xuất hiện như hòa vào cái dàn trải mênh mông
của cảm xúc trữ tình. Mỗi chi tiết, hành động của nhân vật đều gắn với những
trạng thái tình cảm con người.
Trong Lưu Tương, có nhiều phiến đoạn “Sự” và “Tình” gắn kết như vậy.
Chẳng hạn, việc Lưu Tương đi xa học hành, mong ngày đỗ đạt, thành tài là “Sự”,
còn chất “Tình” là dòng chảy tâm trạng nhân vật đan xen trong suốt nhiều năm
chàng xa xứ, nhưng chưa lúc nào nguôi nhớ nhà, nhớ quê, đặc biệt là nhớ người
xưa (công chúa Long cung). Tâm trạng này được tác giả miêu tả nhiều lần khi Lưu
Tương ngắm vật tin và nhớ công chúa khôn nguôi:
Bỗng nhớ đến nữ nhi ngày trước
Xâu hoa còn hương ướp trong khăn
Nhân duyên nghĩa tháng năm thương nhớ
Hay:
Nhìn khăn lòng đau thắt buồn thân
Nhớ quá, chàng lấy cân trả bạc
Lưu Tương đến trường học lạy thầy
Con xin nghỉ vài ngày về bản
Rồi giữa chợ ồn ã, đông người, chàng vẫn ôm mối tương tư:
Lưu Tương đứng giữa chợ nhớ nàng
Ai người hiểu lòng chàng trăm mối
65
Hay khi đã thành thân với công chúa nước Sở, Lưu Tương vẫn không nguôi
nhớ đến mối duyên xưa cũ:
Nhớ đến khăn Tây Hán sầu lòng
Chép miệng quan trách thân xa xót.
Ngoài ra chất trữ tình bộc lộ qua tâm trạng nhân vật. Tâm trạng của nhân vật
trữ tình như được đan cài vào từng sự kiện, hữu “Sự’’ hữu “Tình’’, chúng quấn
quýt với nhau khó tách bạch. Cũng chỉ khi “Sự ”và “Tình” đi liền nhau thì truyện
thơ mới có được sự mạch lạc và trở thành một thể thống nhất trọn vẹn. Trong
dòng tự sự mênh mông của truyện thơ Lưu Tương, xuất hiện nhiều đoạn xen vào
yếu tố trữ tình. Tác phẩm được mềm hoá bởi những dòng tâm trạng, cảm xúc, tính
chất kể và tả cũng bớt nặng nề. Tính trữ tình làm sống dậy thế giới hiện thực
khách quan, giúp chúng ta đi sâu vào thế giới của những suy tư, nỗi niềm tâm
trạng trong nhân vật. Truyện thơ Lưu Tương đã xây dựng được tính cách khái quát
và riêng biệt của nhân vật ở dạng “trữ tình”. Lưu Tương có xuất thân đặc biệt (là
con cầu tự), công chúa Long vương đã được vua cha cho kén rể tới 10 ngày liền
mà nàng chẳng chọn được ai. Nàng quyết lên dương gian những mong gặp được “ý
trung nhân”. Lưu Tương và công chúa đã gặp nhau tại chùa Vinh Sơn. Ngay giây
phút ban đầu gặp gỡ, tình yêu giữa hai người như đã nảy nở. Họ đã thề hẹn, trao
nhau vật tin. Khi xa nhau, họ không bi thương tiêu cực, không oán hận sầu đau, có
chăng chỉ là lời trách móc nhẹ nhàng:
Ai ngờ bạn bội ước lòng gian
Lại lấy gái dương gian làm vợ
Đó cũng là nét điểm xuyết làm tăng tính chân thực của hình tượng nhân vật.
Tỏa sáng hơn cả vẫn là tấm lòng đôn hậu, nghĩa tình của Công chúa Long vương,
khi nàng đã định thất cùng Lưu Tương ở chốn Long cung yên ổn nhưng nàng vẫn
quyết theo chồng lên dương gian để cứu nước Sở đang trong cảnh loạn lạc, li tán.
Hơn nữa nàng đã cùng Lưu Tương cứu vợ con của chàng và tìm lại vua Sở, giúp
vua Sở trả ơn nghĩa những người đã cưu mang. Có thể nói rằng, ở đây họ quý mến
nhau ở cách cư xử tình người, cảm phục nhau ở sự tài trí, giỏi giang. Những bản
66
tính và phẩm chất cao đẹp của đồng bào Tày được ngợi ca, vinh danh. Lưu Tương
có được hai người vợ mà vẫn sống thủy chung và hạnh phúc. Có thể nói hiếm khi
chúng ta bắt gặp một nhân vật anh hùng Tày có hai người vợ khác cõi. Ấy vậy mà
nhân vật Lưu Tương đã lo mọi bề yên ổn, hai người vợ thấu cảm, chung tình; cuộc
sống gia đình họ vẫn ôn hòa, hạnh phúc. Như số trời “tiền duyên” đã định, hay đó
là sự phản ánh hiện thực của lịch sử đồng bào Tày: những người tài giỏi, thông
minh, trí dũng phi thường, đỗ đạt quan trạng được phép có hai thê, bởi họ xứng
đáng được chăm lo, phụng dưỡng? Họ là biểu tượng cao đẹp của cả một dòng tộc,
một bản làng, một triều đại hay một dân tộc đương thời:
Lưu Tương cùng bách chức tụ về
Nàng Quế Hoa chính thê đạo chị
Ba vợ chồng đẹp ý giường hoa
Số trời đã định ra thê thiếp
Hai nàng nhan sắc đẹp như nhau
Lưu Tương lo trước sau yên ổn
Ba người được hưởng bổng nhà vua
Mọi người được vui đùa yên ổn
Văn võ khắp mọi chốn an nhàn
Dân chăm lo nông trang như cũ
Trẻ già mừng mùa vụ bội thu
Mọi người chẳng toan lo ăn ở
Thiên hạ khắp mọi xứ vinh hoa.
Ngoài ra, chất trữ tình trong truyện Lưu Tương còn được bộc lộ qua khung
cảnh thiên nhiên tươi đẹp, đậm chất Tày. Sự xuất hiện của thiên nhiên trong
truyện thơ Nôm Lưu Tương được gắn chặt với việc thể hiện tâm tình con người.
Khi Lưu Tương và công chúa Long vương gặp gỡ nhau lần đầu tại chùa Vinh Sơn,
lúc này tâm trạng công chúa đang buồn bã nên cảnh cũng có chút u buồn như lòng
người vậy:
67
Tiếng ong điệp rền rĩ ngân nga
Nàng tự than với hoa cùng nhị
Dương gian hoa thiên lý nở vàng
Công chúa tự trách than mọi đoạn
Trời đất định vận hạn nhân duyên
Nên mới lên vườn tiên dương thế.
Thế nhưng đến đoạn hai người tái ngộ ở chốn Long cung sau bao năm tháng
xa cách, họ được đoàn tụ và kết thành đôi lứa. Lúc này cảnh vật xung quanh thật
đẹp đẽ tươi vui:
Hai người chơi lầu tây khoái lạc
Ra ngắm chốn sơn nhạc thạch bàn
Hoa bưởi cùng hoa lan hoàng điệp
Hoa đẹp dẫu còn ít vẫn thơm
Thiên lý nở trong vườn soi nước
Mẫu đơn nở ngụy tím thanh tân
Mùi hoa lồm thoảng hương ngan ngát
Ong điệp vượt sơn nhạc vào ra
Tiếng ong ve tìm hoa thưởng nhụy.
Sống giữa đại ngàn, say sưa với thiên nhiên của đại ngàn, đồng bào Tày
vươn dài, trải rộng mọi cảm xúc của mình với muôn vật của tự nhiên. Vẻ đẹp ấy
lúc nào cũng treo ra trước trán, trải ra trước mắt và sóng đôi với họ suốt mọi
chặng đường. Chỉ trong một đoạn thơ ngắn nhưng hình ảnh của các loài hoa đều
xuất hiện, hoa đẹp, hoa thơm… mà lại ở chốn Long cung càng gợi cho người đọc
sự liên tưởng phong phú, kì diệu. Ở đây, thiên nhiên xuất hiện như nói hộ tiếng
lòng hân hoan của vợ chồng Lưu Tương.
Thiên nhiên trong truyện không chỉ đẹp, thơ mộng mà có lúc dữ dội đến mức
ghê rợn làm tăng thêm nỗi lo sợ, khắc khoải của nhân vật. Ấy là đoạn miêu tả
thiên nhiên khi công chức nước Sở (vợ cả của Lưu Tương) đang lo lắng sự kiện
“tranh phu, cướp phụ” sắp diễn ra theo lời thầy bói đã phán:
68
Qua đến ngày mười ba tháng tám
Bỗng nghe tiếng nổi sấm rung trời
Ầm ã rặt tiếng người, gươm giáo
Mây đỏ lẫn mây trắng mây đen
Mưa rơi khắp sơn xuyên sầm sập
Nước lũ dâng đỏ ngập ruộng nương
Gió thổi khắp mọi mường vần vũ
Công chúa lòng lo sợ trong nhà
Mồm nói nước mắt sa giọt giọt
Biết sao hết chua xót hỡi quan
Chàng hãy ở dương gian cùng thiếp.
Thiên nhiên không còn là sinh thể vô tri nữa mà trở thành người bạn, một
nhân vật thực thụ. Đây là điểm sáng của truyện thơ Nôm Lưu Tương trong nghệ
thuật truyền thống “lấy thiên nhiên làm tâm cảnh”. Bút pháp miêu tả nội tâm nhân
vật làm cho truyện thơ vượt lên trên các thể loại khác của văn học dân gian.
Trong Lưu Tương, nhân vật được đặt trong cả ba chiều thời gian, không gian đồng
hiện: quá khứ - hiện tại - tương lai. Những chiều kích đó được thể hiện bằng cách
khắc họa thêm những chi tiết, tình tiết trong cuộc đời nhân vật. Chi tiết là kết quả
của sự vật, còn tình tiết là kết quả của sự việc. Chi tiết mang nhiều yếu tố tự sự,
nhưng tình tiết lại chứa đựng chất trữ tình. Truyện thơ Lưu Tương có nhiều chi
tiết, sự kiện... Những chi tiết này đóng nhiều vai trò khác nhau nhưng một trong
các chức năng là biểu đạt tâm trạng con người. Chẳng hạn, sự kiện Lưu Tương
quyết tâm đi học hành rồi đi thi để mong đỗ quan trạng chỉ đóng vai trò như điểm
tựa, chỗ dựa để khơi nguồn cho dòng chảy cảm xúc chan chứa của con người. Nó
như là một cái cớ để Lưu Tương và công chúa Long cung phải xa cách, lìa xa, để
rồi họ luôn bộc lộ tâm trạng trong hoàn cảnh “ái biệt ly” và chất trữ tình cũng giúp
họ bày tỏ mong ước đoàn tụ. Mọi chi tiết tự sự khác được nói đến cũng cùng
chung mục đích đó. Yếu tố trữ tình xuất hiện khá linh hoạt và ở vị trí nào nó cũng
69
là cơ sở nhằm xây nên những trạng thái tình cảm của nhân vật. Không gian xuất
hiện cũng nhằm đi vào chiều sâu tâm trạng nhân vật. Lời giãi bày với thầy dạy của
Lưu Tương ở đoạn 4, đoạn 5 đã thể hiện chàng là người không quên tình nghĩa,
chàng luôn nhớ về quê hương, về cha mẹ và đặc biệt nhớ “bóng hồng” nơi vươn
hoa lạ, luôn giữ gìn vật tin và mong gặp lại công chúa Long cung. Rất nhiều đoạn
thơ miêu tả những chiến công oanh liệt của dũng sĩ Lưu Tương khi dẹp giặc Phàn.
Bên cạnh đó, người đọc vẫn thấy hiện lên trong bề sâu của những dòng thơ đầy
chất tự sự ấy là nỗi niềm khắc khoải, chờ đợi ngày hội ngộ của Lưu Tương với
công chúa. Chàng Lưu Tương bên ngoài vẫn giúp đời, cứu người bằng trí tuệ mẫn
tiệp, cách phân xử công minh, thấu lý đạt tình, tài ba trong việc cầm quân đánh
giặc nhưng tâm trạng chàng lại đau đáu lời thề hẹn từ thuở hàn vi.
Khái quát lại, có thể thấy, mọi chi tiết tự sự được sử dụng đều khiến tác
phẩm có xu hướng trữ tình hóa. Không chỉ để làm phông, nền cho tâm trạng như
một yếu tố phụ mà trữ tình đóng vai trò khá quan trọng trong cốt truyện. Không có
nó, nhân vật sẽ đơn điệu nhạt nhẽo, cốt truyện thuần tuý chỉ là sự kiện rời rạc.
Dòng tâm trạng của nhân vật cũng vì thế mà không thể trôi chảy tự nhiên, thuận
lợi và dễ dàng trong chiều dài 1804 câu thơ (bản tiếng Tày). Điều quan trọng hơn
xu hướng trữ tình đã làm cho tâm trạng nhân vật trong tác phẩm trở nên mới mẻ,
sinh động, phong phú. Xu hướng trữ tình hóa các diễn biến tâm trạng khiến cho
tác phẩm bớt đi sự tẻ nhạt, tăng độ hấp dẫn. Thử hình dung, nếu truyện thơ
Nôm Lưu Tương không chêm xen vào dòng chảy tình cảm những khúc đoạn mang
dấu vết trữ tình thì các đoạn thơ chỉ như sự lặp lại một cách vụng về những việc
làm, sự kiện, tình tiết được kể lại trong cuộc đời nhân vật. Chính yếu tố trữ tình
giúp cho tác phẩm có một sợi dây liên hệ bền chặt giữa các chi tiết đồng thời làm
những phiến đoạn miêu tả tâm trạng nhân vật trở nên thật hơn. Xu hướng trữ tình
hóa tác phẩm tự sự góp phần tạo nên nét đặc sắc cho truyện thơ Nôm Tày nói
chung, truyện Lưu Tương nói riêng.
70
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Nôm Lưu Tương
Giống như các truyện thơ Nôm khác, Lưu Tương cũng là một truyện thơ
Nôm có hệ thống nhân vật khá phong phú. Có thể chia thành hai tuyến nhân vật là
nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Nhân vật chính diện được kể đến nhiều
hơn, tiêu biểu như: nhân vật chính Lưu Tương là con cầu tự của vợ chồng Lưu Tú
- Thị Nhan; vua Sở, công chúa nước Sở sau là vợ của Lưu Tương; Long vương,
công chúa Long cung (sau là vợ hai của Lưu Tương); con trai Lưu Tương; Lý Lan,
Lý Ngư… Nhân vật phản diện: chủ yếu nói đến trong truyện là vua nước Phàn,
giặc Phàn (luôn mưu kế cướp nước Sở).
Trong hệ thống truyện Nôm Tày có khá nhiều kiểu nhân vật. Đó là kiểu nhân
vật người mồ côi như Lưu Đài trong truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân, Nhân Lăng
trong truyện thơ Nhân Lăng… Đó là kiểu nhân vật người lao động hiền lành tốt
bụng hoặc nhân vật dũng sĩ như Nhân Lăng trong truyện Nhân Lăng, Đính Quân
trong truyện thơ Đính Quân, Lưu Tương trong truyện thơ Lưu Tương… Hay các
kiểu nhân vật phụ nữ có đức, có tài, thủy chung, gan dạ như Hán Xuân trong
truyện Lưu Đài - Hán Xuân, nhân vật Thị Trinh trong truyện Kim Nữ - Chiêu
Đức… Nhân Lăng trong truyện thơ cùng tên trên đường đi gặp Pựt Lớn để tìm câu
trả lời cho số phận của mình, chưa biết sẽ ra sao nhưng chàng rất vị tha, thương
người đến vô tư. Gặp ai chàng cũng nói thật lòng, ai nhờ việc gì chàng cũng giúp
đỡ tận tình. Thói thường, người ta chỉ giúp người khác khi họ đã hoàn thành công
việc của mình. Với Nhân Lăng thì lại khác. Để thực hiện lời hứa giúp người, chàng
phải đổi bằng nhiều công làm cho nhà “Ông Pựt khó tính”. Tất nhiên, tuân theo chiều
hướng phát triển của cốt truyện cổ tích “kết thúc có hậu”, Nhân Lăng được đền bù
xứng đáng. Chàng “thắng cuộc” lấy được nhà “tòa ngang dãy dọc” của Thạch Sùng,
lấy được công chúa Quyển Vương, lên làm Phò mã. Phần thưởng của Nhân Lăng
biểu hiện tính “lý tưởng hóa” nhân vật trong thi pháp cổ tích. Lưu Tương cũng là một
nhân vật tương tự như vậy. Chàng đã chăm chỉ học hành đỗ đạt, thành tài. Hơn nữa,
Lưu Tương còn được miêu tả như một người anh hùng khi chàng bao lần chiến thắng
71
giặc Phàn, đem lại cho nước Sở cuộc sống hòa bình, ấm no. Với những chiến công
đó, Lưu Tương cũng được ban thưởng rất xứng đáng: nhiều vàng bạc, phong cho
quan trạng, lấy công chúa. Điều phát triển hơn trong truyện Nôm Lưu Tương là nhân
vật chính không chỉ được “vinh danh” và hưởng lộc ở cõi trần (cõi nhân vật ra đời)
mà còn tiếp tục được đề cao ở cõi âm (Long cung).
Thế giới nhân vật trong truyện thơ Tày thật phong phú. Cùng với Nhân Lăng,
còn có Chiêu Đức, Lưu Đài, Lưu Tương… đều là những người có nhân thân, xuất
thân kì lạ, khác thường, báo hiệu về sau họ đều đổi phận qua bao tai biến, trở
thành những con người phi thường. Chiêu Đức vốn là con của thần linh, bị xử tội
oan, đã lên đài chịu tội chém, nhưng có đàn ruồi vàng từ đâu bay tới phủ kín người
chàng. Chiêu Đức được minh oan, lên đường đi học được các phép thuật kì lạ, trở
về đánh giặc cứu nước [57, tr.174]. Lưu Tương là con cầu tự của vợ chồng Lưu Tú
- Thị Nhan hiếm muộn con. Khi dâng lễ cầu Mẹ Hoa xin con, họ đã được Mẹ Hoa
sai tiểu nam xuống thế đầu thai và Thị Nhan sinh ra Lưu Tương khôi ngô tuấn tú
từ bé. Như vậy Lưu Tương cũng có sự xuất thân kì lạ, hứa hẹn sẽ làm nên những
chuyện phi thường. Các nhân vật nam như họ đều là những người có đức, có tài,
quyết chí trong học hành, thủy chung trong tình yêu, tận tụy vì nghĩa cả, hết lòng
vì bản làng, vì dân tộc, vì đất nước. Tựu trung lại, có thể khẳng định thế giới nhân
vật chính diện trong truyện thơ tự sự - trữ tình Tày phản ánh cái đẹp nghệ thuật
trong truyền thống dân chủ hồn nhiên gắn liền với cái tốt, cái sáng, cái sạch, gắn
liền với phẩm cách cần cù làm lụng trong lao động, hiền hòa, rộng rãi trong quan
hệ và một khi thấy giặc dữ là đánh, thấy núi chắn là mở, thấy người đẹp, người tốt
mắc nạn là ra tay cứu giúp.
Thế giới nhân vật chính diện trong truyện Lưu Tương còn có thể kể đến như
các nhân vật: Vua nước Sở, công chúa nước Sở, Long vương và công chúa Long
vương. Họ đều là những con người đầy nhân nghĩa, chính trực, vị tha. Cả vua Sở
và Long vương đều là người rất trân trọng, cảm phục con người tài hoa, trí dũng
như Lưu Tương. Vua Sở còn thể hiện rõ phẩm chất tốt đẹp của mình khi “sa cơ lỡ
vận”, bị lưu lạc vào rừng, xin ăn từng bữa. Vua Sở rất cảm kích tấm lòng của
72
những người dân đã cưu mang mình và có dịp là vua trả ơn huệ cho họ. Với Long
Vương, việc ông đồng ý cho Lưu Tương cùng công chúa lên trần gian để tìm lại
Vua Sở, tìm lại vợ con Lưu Tương là một việc làm rất nhân văn. Long vương không
chỉ mong cho con gái mình được hạnh phúc mà còn biết lo cho cả những người
xung quanh mình, thậm chí ở một cõi khác mình (trần gian). Khép lại truyện thơ
Nôm Lưu Tương, độc giả vẫn cảm thấy hài lòng, mãn nguyện khi Lưu Tương cùng
lúc có hai người vợ, ở hai cõi khác nhau. Điều này thật hiếm xuất hiện trong các
truyện thơ Tày cùng thời. Hai người vợ của Lưu Tương không có biểu hiện của sự
ghen ghét, đố kị mà ở đây, chúng ta chỉ thấy một gia đình hạnh phúc, ấm êm. Phải
chăng đây cũng là một mơ ước đáng có của đồng bào Tày khi xưa.
Trong truyện Nôm Tày, cũng như kết cấu cổ tích, bao giờ cũng có hai tuyến
nhân vật đối lập. Đối lập với thế giới nhân vật chính diện đã phân tích ở trên là thế
giới nhân vật phản diện cũng rất đặc trưng. Kiểu nhân vật này cũng thấy có đủ mọi
hạng người: bất tài, tham lam, độc ác, nham hiểm, ngu ngốc, kiêu ngạo, hợm
hĩnh… Đó là vợ chồng chúa cả chúa hai trong Kim Quế, Hoàng Thằng trong
Chiêu Đức, Thạch Sùng trong Nhân Lăng, Ngô Cương trong Lưu Đài - Hán Xuân,
Vua Phàn trong Lưu Tương… Với lòng tham, mong muốn mở rộng bờ cõi, đã bao
lần vua Phàn bày mưu tính kế sang xâm lược nước Sở. Có lúc ông dùng cả những
thủ đoạn tinh vi (việc thách đố, loan tin Lưu Tương là người nước Phàn…), tuy
nhiên, dưới sự trợ giúp đắc lực của Lưu Tương, nước Sở mặc dù bao lần “hiểm
nguy”, thậm chí đã tan tác, chia lìa thì sau cùng vẫn trở lại một nước bình an, vua
tôi đoàn kết, nhân dân sống trong sung túc, ấm no. Một kết thúc viên mãn, thỏa
lòng mong ước của độc giả nhiều thế hệ. Đó cũng là mơ ước chung của một tộc
người chiếm số đông trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện Lưu Tương
Ðể xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng
đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Ðiều này đòi hỏi nhà
văn phải hiểu đời và hiểu người. Nhưng có một điều không kém phần quan trọng
là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy sao cho có sức thuyết phục mạnh
73
mẽ đối với người đọc. Ðây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây
dựng nhân vật trong các tác phẩm văn học.
Trong truyện thơ Nôm Lưu Tương, chúng ta nhận thấy, nghệ sỹ dân gian đã
không dành nhiều tâm sức để khắc họa nhân vật theo lối thông thường như tả tỉ
mỉ, chi tiết về ngoại hình cũng như thế giới nội tâm của nhân vật. Tuy nhiên, một
số nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính Lưu Tương cũng đã hiện lên khá rõ từ
ngoại hình, hành động đến nội tâm.
Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác
phong, diện mạo... Ðây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật. Nếu
như văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật với những chi tiết ước lệ,
tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết chân thực và cụ
thể sinh động. M. Gorki khuyên các nhà văn phải xây dựng nhân vật của mình
đúng như những con người sống và phải tìm thấy, nêu lên, nhấn mạnh những
nét riêng độc đáo, tiêu biểu trong dáng điệu, nét mặt, nụ cười, khóe mắt... của
nhân vật. Ngoại hình nhân vật cần góp phần biểu hiện nội tâm. Ðây cũng chính
là sự thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi
tính cách, đời sống bên trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của
nhân vật cũng thay đổi theo. Khi xây dựng ngoại hình nhân vật, nhà văn cần thể
hiện những nét riêng biệt, cụ thể của nhân vật nhưng qua đó, người đọc có thể
nắm bắt được những đặc điểm chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng
lớp, thời đại... Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay cho
thấy nhà văn bao giờ cũng chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc
họa nhân vật.
Ngoại hình của nhân vật Lưu Tương được miêu tả khá cụ thể, qua cảm nhận,
đánh giá của các nhân vật khác. Lưu Tương được miêu tả với vẻ đẹp chân chất,
mộc mạc, vẻ đẹp, phẩm chất được toát lên từ thần thái, đặc biệt ở gương mặt. Rất
nhiều câu nói đến cụm từ “nả mjạc” (gương mặt đẹp, hiền tài), đó là gương mặt rất
đẹp theo quan niệm của người Tày. Công chúa Long vương trong lần đầu gặp Lưu
Tương đã thốt lên rằng:
74
Chắng cạ đuổi nả mjạc pỉ quan (Câu 107)
(Mới nói cùng anh (quan) mặt đẹp)
Khi Lưu Tương đỗ quan trạng, vua Sở đã hứa gả công chúa cho chàng. Và
đây là lần đầu Công chúa nước Sở được gặp Lưu Tương, nàng đã nói: Đảy hăn
quan nả mjạc báo khôn ngoan có nghĩa là Được gặp quan mặt đẹp khôn ngoan.
Câu này trong bản dịch cũng tương đối sát ý: Nhìn tướng mạo cao lớn đẹp trai.
Hay trong lời của con trai Lưu Tương khi nói về cha mình: Pỏ khỏi lẻ Lưu Tương
nả mjạc (Câu 1240) (Bố tôi là Lưu Tương tài, đẹp).
Lời của công chúa nước Sở khi lưu lạc và gặp lại Lưu Tương: Đảy hăn quan
nả mjạc Lưu Tương (Câu 1263) nghĩa là: Được thấy rõ quan mặt đẹp Lưu Tương.
Hay trong câu 1373 (đoạn thơ 16): Chạ ơn quan nả mjạc Lưu Tương nghĩa là Trả
ơn quan mặt đẹp Lưu Tương.
Bên cạnh việc miêu tả nhân vật Lưu Tương, tác giả dân gian cũng dành nhiều
đoạn thơ, câu thơ tả nhân vật công chúa Long vương - một người phụ nữ đẹp
người, đẹp nết, giàu lòng nhân ái, vị tha:
Ngoài câu 17: Phản cạ nàng nả mjạc chủa công (Phán bảo con gái đẹp chúa
công) ý nó công chúa rất xinh đẹp, chúng tôi nhận thấy câu thơ miêu tả rõ nhất về
ngoại hình nhân vật này là: Chỏi chỏi như bjoóc lồm đang nở. Nàng đẹp ngời ngời
như hoa lồm đang nở. Trong truyện cổ và thơ ca dân gian Tày thường ví von hoa lồm
(một loài hoa nở vào mùa thu, hoa nhỏ, có đài, màu ngà, thơm dịu) để ví với vẻ đẹp
và sự thanh khiết, cao sang, đài các của các thiếu nữ tuổi mười tám, đôi mươi.
Ngoài ra, trong câu chuyện, bạn đọc cũng rất ấn tượng với cách miêu tả
ngoại hình nhân vật công chúa Long cung:
Thứ ba sinh nữ hiền công chúa
Số hợp bạn âm phủ chẳng sai
Vua cha lòng mừng vui khôn xiết
Phán bảo con gái đẹp chúa công
Chốn nào lòng thành tâm thì kết
Lập xuân cho ong điệp thành đôi
….
75
Chính giữa ngọc thiếu nữ chúa công
Ngời ngời như hoa lồm đang nở
Tên nàng hiệu là chúa Công Nương
Thoáng nhìn như bóng gương sáng rực
(Câu 24) (Ngời ngời như hoa lồm đang nở). Bjoóc lồm (hoa lồm) biểu tượng
cho vẻ đẹp cao sang, đài các của người phụ nữ. Ẩn trong biểu tượng hoa lồm là vẻ
đẹp về phẩm hạnh, phẩm chất của người con gái Tày (xinh đẹp, dịu dàng, giàu
lòng nhân ái, vị tha, bao dung…).
Trong con mắt của Lưu Tương, công chúa Long cung có nét đẹp rực rỡ, khác
hẳn người phàm trần:
Chợt thấy nàng gái lạ hoa ban
Xâu hoa chùa Vinh San e ấp
Chắc đây người tiên ngọc xuống trần
Không phải người thế đông nào lại
Người trần không xinh gái nhường này.
Bóng hồng đã như chiếm lấy “hồn” nho sinh ngay từ giây phút đầu tiên gặp mặt:
Lưu Tương ngắm ngất ngây mặt ngọc
Lòng tương tư bóng nguyệt xốn xang.
Các nhân vật còn được khắc họa rõ nét hơn qua việc miêu tả hành động của
họ, đặc biệt là nhân vật chính của chuyện. Lưu Tương là nhân vật được tác giả dân
gian dành nhiều đoạn tả hành động phi thường, tài trí của chàng. Hành động nhân
vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật. Ðây là phương diện đặc biệt
quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì việc làm của mỗi người là căn cứ
quan trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lý tưởng, phẩm chất cũng như
những đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của người đó. Hơn nữa, trong các tác
phẩm thuộc thể loại truyện thơ Nôm, tính cách nhân vật không phải ngay từ đầu
đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có tác dụng bộc lộ quá trình phát
triển của tính cách và thúc đẩy sự diễn biến của hệ thống cốt truyện... Thông qua
các mối quan hệ, sự đối xử giữa các nhân vật trong những tình huống khác nhau,
người đọc có thể xác định được những đặc điểm, bản chất, bản lĩnh của nhân vật.
76
Thông thường, khi miêu tả hành động nhân vật, các nhà văn thường kết hợp
với những biểu hiện nội tâm tương ứng vì đằng sau mỗi hành động, bao giờ cũng
có một tâm trạng hoặc một động cơ nào đó. Dùng nội tâm để lí giải hành động, sử
dụng hành động để làm sáng tỏ nội tâm là một hiện tượng phổ biến trong việc
miêu tả nhân vật.
Là người tài trí, anh hùng, Lưu Tương còn được miêu tả khá rõ về đời sống
nội tâm. Đó là con người thủy chung, giàu tình nghĩa trong tình yêu. Mối tình đầu
của chàng với công chúa Long cung là mối tình đẹp vượt không gian. Đoạn tả Lưu
Tương “tương tư” công chúa Long Vương, chàng xin thầy tạm nghỉ việc học về
tìm “nhân ngãi”. Trong không gian họp chợ người đông tấp nập nhưng chàng vẫn
dõi tìm bóng dáng người đẹp: Lưu Tương dặng chang háng chứ ruyên/Bấu mì cần
thông tuyền chắc đuổi (Lưu Tương đứng giữa chợ nhớ nàng/Ai người hiểu lòng
chàng trăm mối).
Chưa hết, mối tình đẹp ấy của Lưu Tương đã được Trời Phật chứng giám, họ
đã thề nguyền, đính ước và trao nhau vật tin. Sau bao xa cách, lưu lạc mà Lưu
Tương nhìn khăn vẫn nhớ về người xưa: Chứ thâng khân Tây Hản chạn
dăng/Chíp pác quan thán khoăn lo đát (Nhớ đến khăn Tây Hán sầu lòng/Chép
miệng quan trách thân xa xót). Ở đây có cụm từ Tày chạn dăng có nghĩa là buồn
không muốn nói. Lúc này Lưu Tương đã có vợ con thế nhưng chàng vẫn không
thể nguôi ngoai nỗi nhớ về công chúa Long cung. Ý buồn không muốn/chẳng
muốn nói gì của một người đàn ông có chí “dọc ngang trời đất” đã cho ta thấy rõ
được nội tâm nhân vật. Lưu Tương đã yêu tha thiết công chúa Long cung, đã nặng
lòng, nặng nghĩa với nàng, nên dù cho thế nào, họ vẫn luôn mong ngày hội ngộ
nên duyên.
Nội tâm nhân vật công chúa nước Sở - Vợ Lưu Tương cũng được tác giả dân
gian đặc tả qua một số đoạn thơ. Khi đang có cuộc sống bình an, hạnh phúc bên
chồng con thì bỗng Lưu Tương nhắc kể chuyện xưa. Công chúa nước Sở đã rất lo
lắng, mất ăn mất ngủ, thậm chí gặp ác mộng về việc nhà cửa tan nát, gia đình ly
tán. Việc miêu tả nội tâm nhân vật được thể hiện rõ qua tiếng khóc của nàng, tiếng
77
khóc thể hiện sự lo lắng, nỗi khổ đau khôn cùng khi hạnh phúc sắp tuột khỏi tay:
Pác cảng tốc nặm tha rọi rọi (Câu 844) nghĩa là Miệng nói nước mắt sa giọt giọt.
Hay trong câu: Nặm tha tốc lằm nả rọi luây (Câu 849) (Nước mắt tuôn rơi ướt hết
mặt). Người phụ nữ đẹp khi khóc cũng đẹp. Nỗi lo lắng, phiền muộn của công
chúa nước Sở ở đây như là một dự báo về tương lai của nàng. Gia đình sẽ chia lìa
đôi ngả, có điều trong câu chuyện này, thế giới trần - âm không phải hoàn toàn
cách biệt, nàng chỉ khóc than thôi cũng đã thấu đến chốn long cung.
Thế giới nội tâm các nhân vật còn được miêu tả ở nỗi lo lắng của vua Sở khi
nước Phàn mưu kế xâm lược, thách đố mà nước Sở chưa ai giải đố được (đoạn 7):
Sở vương toọng lo nhả bấu dăng
Hỏm khảu ngòi hết lăng vô đố
Bấu giỏi việc vua chúa lẻ hư
Phầy mẩy hăn nả nu rự bấu
Dịch là:
Sở vương cùng lo thắt chẳng rằng
Túm tụm phán lăng nhăng vô đố
Không giỏi việc vua chúa là hư
Cháy nhà mới lộ ra mặt chuột
Hay:
Pác cảng toọng lo slấu tư lương
Vua Sở nẳng nưa chường hác hảy
Bấu mì cần lo đảy đoạn slương
Dịch:
Miệng nói lòng lo nghĩ hoang mang
Vua Sở ngự ngai vàng bật khóc
Chẳng có ai lo được thật thương
Là một ông vua trị vì đất nước, vậy mà trong lúc bế tắc, hoang mang vua
cũng khóc. Tiếng khóc ấy biểu hiện sự lo lắng cho vận mệnh quốc gia, tiếng khóc
ấy chan chứa tình yêu thương nhân dân, đồng loại. Có thể khẳng định rằng, đây là
những đoạn thơ thể hiện sự quan sát tinh tế của người kể chuyện trong tác phẩm.
78
Bên cạnh đó, để miêu tả sự quyết tâm đánh giặc, chiến thắng giặc Phàn của
nhân vật Lưu Tương, chúng ta có thể liệt kê một loạt các câu thơ sau: (Đoạn 9):
+ Lưu Tương chiếm sloong bưởng thậm slương (Câu 599)
Lưu Tương lòng day dứt xót thương
+ Lưu Tương chiếm tận địa khẻo toan (Câu 605)
Lưu Tương quan sát mọi địa hình
+ Lưu Tương liền kẻo quân oóc tỏn (Câu 612)
Lưu Tương liền phục quân nghênh chiến
+ Lưu Tương liện ngự ản sloong phương (Câu 619)
Quân Lưu Tương án ngữ các phương
+ Lưu Tương quan thông rụ khôn ngoan (Câu 633)
Quan Lưu Tương biết rõ địch quân
+ Lưu Tương tuyền quân hẳm au hua (Câu 663)
Lưu Tương truyền quân chặt lấy đầu
+ Lưu Tương tưởng anh hùng thậm khôn (Câu 671)
Tướng Lưu Tương mưu lược thật khôn
Trong chiến trận, anh hùng Lưu Tương luôn biết rõ “Địch - Ta” nên trận nào
cũng chiến thắng oanh liệt, vang dội. Với dân tộc Tày, họ ca ngợi giá trị của con
người quý hơn mọi giá trị tiền bạc. Điều đó đã được các thế hệ ông cha đúc kết
lại: "Ngần chèn tang tôm nhả/Tha nả tảy xiên kim" (Tiền bạc như đất cỏ/Danh dự
tựa ngàn vàng). Việc Lưu Tương quyết tâm đánh giặc và thắng giặc còn là biểu
hiện của việc giữ gìn danh dự, phẩm chất của một dòng họ, một tộc người.
Nhìn chung, dù nhân vật trong các truyện thơ Nôm Tày chưa phải là các
nhân vật có cá tính rõ nét, nhưng ở họ đã thể hiện những đặc điểm của con người
miền núi: cần cù, chịu khó, thương người, nghĩa tình sâu nặng. Điều này cũng
phần nào thể hiện tính dân tộc của các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày. Những
người nghèo khổ, thật thà ấy lại là những người vượt khó để tu luyện thành tài, thi
đỗ trạng nguyên. Khi đất nước lâm nguy, chính những người này lại trở thành
những nhân vật anh hùng cứu nước, cứu vua. Nhân Lăng, Chiêu Đức, Lý Thế
79
Khanh, Nho Hương, Lưu Tương... đều là những nhân vật như vậy. Mỗi dân tộc,
cộng đồng người luôn có những điệu hồn riêng để làm nên bản sắc của mình, bước
đầu tìm hiểu nét đặc trưng văn hóa Tày trong một số truyện thơ Nôm Tày đã cho
thấy một khuôn diện riêng đóng góp cho văn học dân tộc thiểu số Việt Nam. Đây
là mạch nguồn góp phần quan trọng bồi đắp cho văn học Tày hiện đại phát triển.
3.3. Ngôn ngữ dân tộc Tày qua truyện thơ Nôm Lưu Tương
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ dùng trong tác phẩm văn học
chính là thứ ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được gia công và lựa chọn qua bàn
tay người nghệ sĩ. Nó là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng
tạo, tài năng của nhà văn, đồng thời là yếu tố gần gũi nhất, bộc lộ rõ nhất giá trị
nội dung, để qua đó làm nổi lên bức tranh hiện thực mang đậm dấu ấn văn hóa
vùng miền. Theo Nguyên Ngọc: “… Toàn bộ cái gọi là bản sắc tinh túy và sâu xa
nhất của một nền văn hóa dân tộc đều lắng đọng trong ngôn ngữ của dân tộc ấy.
Và văn hóa lắng đọng trong ngôn ngữ”. Chính vì vậy, nghiên cứu bản sắc dân tộc
trong sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số nói chung, các sáng tác truyện thơ
dân gian nói riêng không thể không chú ý đến ngôn ngữ. Mỗi dân tộc đều có một
ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ dân tộc Tày trong truyện thơ Nôm Lưu Tương cũng rất
phong phú, mang đậm tính dân tộc.
3.3.1. Hệ thống từ ngữ, hình ảnh mang đậm bản sắc văn hóa Tày
Như trên đã phân tích, khi nghiên cứu truyện Nôm Tày Lưu Tương, chúng tôi
muốn đề xuất thêm một tài liệu cho việc dạy học chương trình Ngữ văn địa
phương. Việc lựa chọn những đoạn thơ tiêu biểu, những từ ngữ, hình ảnh mang
đậm bản sắc văn hóa Tày để cung cấp cho học sinh hiểu rõ hơn về bản sắc văn hóa
của dân tộc Tày là cần thiết.
Dễ thấy, việc sử dụng từ ngữ mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc là một biện
pháp đặc thù để thể hiện tư tưởng tình cảm, cũng như hình tượng nghệ thuật trong
truyện thơ Nôm Tày. Điều mà chúng ta thường gặp nhất là những loài hoa, loài
chim ở vùng đồng bào miền núi Đông Bắc của tổ quốc. Những loài hoa ấy là để
gợi mở bày tỏ nhiều mặt của cuộc sống xã hội đương thời. Có thể để gợi về vẻ đẹp
của mùa xuân, có thể để tả tình cảm lứa đôi, hay tình bè bạn,... Qua thống kê,
80
chúng tôi thấy cũng giống như một số truyện Nôm khác, trong truyện thơ Nôm
Lưu Tương xuất hiện một số loài hoa như sau:
Trước hết là bjoóc mạ (hoa mạ), đó là loại cây thân gỗ mọc hoang ở rừng
thấp ven khe suối, cây cao từ 5 đến 10 m. Hoa nở thành chùm, màu vàng sặc sỡ,
nở vào giữa và cuối mùa xuân. Bjoóc mạ tượng trưng cho tình yêu. Một số truyện
thơ Nôm Tày thường sử dụng hình ảnh hoa mạ để mở đầu câu chuyện:
Vào tiết xuân hoa Bjoóc mạ nở rực rỡ
Xin kể câu chuyện chàng Nhân Lăng
(Truyện Nhân Lăng)
Kể về truyện hoa mạ nở vàng
Nói đến truyện Lưu quan ngày trước
(Lưu Tương)
Với vẻ đẹp rực rõ tượng trưng cho mùa xuân, cho tình yêu và tuổi trẻ, hoa
mạ đã trở thành một biểu tượng đẹp hầu như trong truyện Nôm Tày nào cũng xuất
hiện. Ngày nay, chúng ta cũng bắt gặp hình ảnh hoa mạ trong các sáng tác của một
số nhà thơ người Tày, tiêu biểu như nhà thơ Dương Khâu Luông - Bắc Kạn. Tác
giả đã xuất bản tập thơ song ngữ Tày - Việt Lặng lẽ mùa hoa mạ (Cỏi dằng slì
bjoóc mạ) với 65 bài thơ ngắn viết theo một thể thơ mới của người Tày bản Hon -
Vùng Hồ Ba Bể - Bắc Kạn (thể Bjoóc mạ) - một thể thơ giống như thơ đối đáp
(phuối pác) của người Tày, mỗi bài thơ chỉ có từ 2 đến 3 câu. Lối thơ ngắn gọn,
hàm súc, tinh tế, ý tứ sâu sắc. Tái hiện điệu hồn dân tộc, tập thơ đã được đông đảo
bạn đọc yêu thơ biết đến. Sau đây là trích dẫn một số bài thơ của tập thơ này:
Trên thân cây gỗ mục
Vẫn mọc lên những cánh nấm
Lặng lẽ tỏa hương.
(Trên cây gỗ mục)
Hay bài Như anh tan vào em:
Hạt muối vô tình rơi vào cốc nước
Tan ra không nhìn thấy
Như anh tan vào em.
81
Chúng ta cũng bắt gặp một số loài hoa khác như Bjoóc lạp, Bjoóc lả, Bjoóc
lồm (bjoóc rồm), hoa phặc phiền:
Trong truyện Lưu Đài - Hán Xuân có đoạn tả: Chỏi chỏi như Bjoóc lạp bươn
slam/Rực rỡ như hoa lạp tháng ba. Bjoóc lạp (hoa lạp) là một thứ hoa rừng nở vào
mùa xuân, rất thơm. Ở đây là để chỉ nàng Hán Xuân (nhìn nàng rực rỡ xinh đẹp
đến tuyệt đỉnh). Hoặc Lè ngòi hăn Bjoóc lả hải mòn/Liếc nhìn thấy Bjoóc lả hái
dâu (Truyện Bjoóc Lả) tả vẻ đẹp rực rỡ mà kín đáo của nàng Bjoóc Lả đang độ
tuổi xuân thì.
Hoa là biểu tượng cho cái đẹp. Từ lâu, hoa được dân gian xem như là tiêu
chuẩn thẩm mĩ của con người. Khi cảm nhận về vẻ đẹp của người, đặc biệt là vẻ
đẹp của người phụ nữ thì tất cả khuôn mặt, nụ cười, giọng nói, dáng vẻ... đều có
thể so sánh với hoa, hoa của đại ngàn, hoa của mùa xuân.
- Mặt mũi nàng đẹp tựa như hoa
- Nét mặt như hoa nở xinh tân
- Nhìn tươi như hoa mới nở
- Câu nói như hoa lồm thơm tỏa
- Lời nói như hoa mạ nở vàng
Những cung bậc cảm xúc của con người đều lấy Hoa làm thước đo:
Tôi mừng như hoa nở mùa xuân
Như hoa phặc phiền trước của chùa tiên
Đang như hoa đại ngàn mùa xuân.
Hoa phặc phiền (vặc viền) là loài hoa tiên rực rỡ, cả thế gian này chỉ có một
bông ở vách đá hồ Ba Bể - Bắc Kạn. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp lí tưởng, cao quý
của muôn hoa, ước mơ về tình yêu thương hạnh phúc.
Cho đến những vật dụng trong đám cưới đều được trang trí bằng hoa văn là hoa:
Nhất tôi mừng chiếc ấm vân hoa
Tôi mừng chén vàng hoa nở
Nhà người có chiếu hoa rất đẹp
Mừng hết thảy giường đẹo giường hoa
82
Và hình ảnh ngôi nhà cũng đều sánh tựa hoa: Nhà người sáng như thể hoa
ban. Người Tày nói về hoa với một tình cảm sâu sắc và ngưỡng mộ.
Hoa là con người, người Tày quan niệm con người và muôn vật đều do một
tay bà sinh. Mỗi con người là một bông hoa do “Mẻ Bjoóc păn mà, mẻ va păn
hẩu” (Mẹ Hoa phân cho, mẹ Hoa chia lại), đầu thai vào lòng người mẹ trần gian.
- Tôi quét bàn thờ mẹ Hoa
Công người đưa hoa đến
Công người tiễn hoa cho
Đưa hoa xuống thế gian thành đóa
Hôm nay được kết nghĩa hợp hôn
- Đưa dâu về nhà chồng kế nghiệp
Đưa đến bông hoa đẹp hoa xin
Những đoạn thơ tả hoa trong truyện như một bức tranh thiên nhiên muôn
ngàn hương sắc, căng tràn sức sống giữa mùa xuân. Hoa trong quan hệ với bướm
ong là biểu tượng cho tuổi trẻ, cho khát vọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. (“mật
mèng”- bướm ong. Mật mèng trong tiếng Tày không hề có ý nghĩa “trăng hoa”
như ý nghĩa ong bướm trong tiếng Kinh).
Ngày hội hôn, trai gái hội ngộ, giao duyên được sánh như: “ngày hội bướm
và hoa. Một quy luật của tự nhiên, “Xuân nào chẳng có bướm tìm hoa”, nhưng,
thật tinh tế bởi hoa - vẻ đẹp của người con gái đang ở độ đẹp nhất, như“ nhị hoa
đang nở, khiến ong bướm đang hội chợ đón chờ”. Quả thật, không còn cách diễn
đạt nào đẹp hơn thế!
- Thế gian có hàng rừng hoa nở
Nhiều hoa ong bướm lượn mùa xuân
- Bạn cũng như nhị hoa đang nở
Ong bướm đang hội chợ đón chờ
Có thể thấy trong truyện thơ, đặc sắc nhất là biểu tượng hoa - hoa của đại
ngàn giữa mùa xuân. Nó góp phần biểu đạt thế giới tâm hồn vốn đã giàu đẹp, tạo
nên những nét đẹp văn hóa mang đậm bản sắc Tày [21, tr.84].
83
Để khắc tả tình cảm vợ chồng yêu nhau thắm thiết thì truyện thơ Tày mượn
hình tượng của loài chim uyên ương để mô tả. Uyên ương là tên hai loài chim sống ở
nước như con vịt, con ngỗng. Con trống gọi là uyên, con mái gọi là ương. Con trống
và con mái bao giờ cũng đi theo nhau thành đôi, không bao giờ xa lìa nhau.
Chàng sao vội thác bỏ thảm thương
Đâu biết cảnh uyên ương xa cách
(Truyện Tần Chu - Quyển Vương)
Để biểu thị lòng thương nhớ nhau, trông ngóng, mong chờ lỗi buồn tha thiết,
truyện thơ Tày dùng hình tượng các loài chim khảm khắc, queng quý để thể hiện.
“Điếp lủc chứ mìa sim bổi rổi.
Mặc se pang mèng nhỏi roọng sương,
Khảm khắc roọng nạo nùng sẩy khát”.
(Nhớ vợ nhớ con lòng bối rối.
Để mặc đàn ve sầu kêu gọi đến thương,
Chim khảm khắc kêu thảm thiết trong rừng).
(Truyện Quảng Tân)
Trong truyện Lưu Tương có câu: Khảm khắc roọng nỉ non chang ngản (Câu
1056) (Khảm khắc gọi nỉ non sơn dạ).
Khảm khắc là loại chim rừng lông đen, to bằng chim cuốc. Tương truyền,
ban ngày hai vợ chồng chim khảm khắc đi kiếm ăn rồi lạc nhau. Đêm đến, hai vợ
chồng tìm gặp nhau, phát ra những tiếng hót não nùng, tha thiết suốt đêm trường.
Trong văn học Tày, hình tượng chim khảm khắc và chim queng quý biểu thị lòng
thương nhớ nhau, tìm ngóng, mong chờ, buồn bã, cô đơn... Trong câu Khảm khắc
roọng nỉ non chang ngản miêu tả tâm trạng nhân vật vua Sở khi lưu lạc vào rừng, ăn
xin, phát nương làm rẫy kiếm sống cùng bà con dân bản. Mỗi khi đêm về vua thường
buồn bã, khóc thương, xót xa cho bản thân và không nguôi nhớ về gia đình, thương vợ,
thương con cũng đang tình cảnh lưu lạc, chia lìa.
Trong truyện Lưu Tương, độc giả còn bắt gặp những câu nói được coi như
một triết lý sống của đồng bào Tày, như câu: Chập khỏ lẻ chịu khỏ hết kin (Câu
1133) (Gặp khó phải chịu khó làm ăn). Đó là câu nói của Vua Sở khi chạy loạn
84
vào rừng. Trong cuộc đời mỗi người sẽ không ít gặp những khó khăn, gian truân,
vất vả. Tuy vậy, họ luôn biết vượt khó vươn lên. Họ tin vào một tương lai tốt đẹp.
Đó là tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống của người Tày.
Điều đặc biệt hơn khi nghiên cứu truyện thơ Nôm Lưu Tương chúng tôi thấy
đó là cách sử dụng con số 10. Số 10 được xem là con số hoàn hảo nhất trong dãy số.
Số 10 còn có nghĩa sâu xa là với một cánh cửa này đóng lại, cánh cửa khác sẽ mở ra.
Còn trong Thiên chúa giáo thì số 10 thể hiện trong 10 điều răn để chỉ dạy cho các con
chiên. Đây là con số hoàn hảo, mang ý nghĩa về sự hoàn mỹ, mỹ mãn. Theo trường
phái Pytago thì 10 cũng là một con số hết sức thiêng liêng. Theo đó, ý nghĩa số 10
là sự thể hiện những gì bạn làm được tốt hơn bạn nghĩ và nó cũng ẩn chứa rằng,
khi một cánh cửa khép lại, luôn có một cánh cửa mới sẽ mở ra.
Đối với truyện thơ Nôm Lưu Tương, chúng tôi nhận thấy phải chăng việc sử
dụng con số này khá nhiều lần, dường như chủ yếu để diễn tả các sự việc, sự kiện
kết thúc (không được như mong đợi, không hẳn là sự tròn trịa, viên mãn như ý
nghĩa của con số này), mà ngược lại để mở ra một sự kiện, một diễn biến mới hợp
lý hơn, hiệu quả hơn:
Đầu tiên là việc Công chúa Long vương đã có 10 ngày liền kén chồng mà
vẫn không đạt được kết quả:
Công chủa nàng oóc chọn slíp vằn (Câu 53)
Công chúa nàng chọn lựa mười ngày
Chính việc kết thúc như vậy mới mở ra trang truyện tiếp theo Công chúa lên
vãn cảnh chùa Vinh San và gặp gỡ Lưu Tương, sau này họ thành duyên đôi lứa
cho dù thuộc hai mường (âm - dương) khác biệt.
Hay trong đoạn 6, tả Lưu Tương đi tham gia thi quan trạng, chàng đã đi hết
10 ngày mới tới trường thi, biểu hiện sự gian nan và vượt khó của Lưu Tương:
Slíp vằn pây thâng tỉ trường thi (Câu 275)
Mười ngày quan đến lọt trường thi
và cũng trong kỳ thi đó, Lưu Tương đã đỗ quan trạng, thành danh rồi được Vua
ban thưởng một cách xứng đáng.
85
Khi quân Phàn sang thách đố nước Sở, họ đi 10 ngày mới tới được nước Sở
(đoạn 7):
Slíp vằn fượt ngản moóc sơn lâm (Câu 347)
Mười ngày vượt mây tỏa sơn lâm
Vua, quân nước Sở cũng trong 10 ngày liền vẫn chưa có ai giải đố được:
Slíp vằn nhằng nẳng dú đuổi căn (Câu 379)
Mười ngày vẫn ngồi luận cùng nhau
Trong khi Vua Sở vô cùng lo lắng đến phát khóc thì quan Lưu Tương xuất
hiện và đã giải đố chính xác, khiến nước Phàn bị thua cuộc, rút lui trở về.
Lần khác, quân Phàn lại kéo sang xâm lược nước Sở, họ hành quân đi tới 10
ngày ròng mới đến ải bắc (đoạn 9):
Slíp vằn liện oóc thâng ải bắc (Câu 564)
Mười ngày kéo tới nơi ải bắc
Đặc sắc hơn, trong đoạn 13, chỉ với 13 câu thơ (Từ câu 1008 đến câu 1030)
mà có tới ba lần sử dụng con số 10:
Quân Phàn kéo quân đi 10 ngày tới biên giới:
Slíp vằn kẻo oóc thâng piên chái (Câu 1008)
Mười ngày kéo tới nơi biên giới
Vua Sở cho chọn 10 tướng mạnh giỏi để đánh giặc Phàn:
Lược slíp tưởng mạnh tái rườn vua (Câu 1019)
Chọn mười tướng mạnh giỏi triều đình
Thế nhưng trong lần này không có quan trạng Lưu Tương - là một tướng giỏi
tài ba, với mưu lược, binh lược khôn ngoan cho nên nước Sở đã bại trận, vua tôi
tan tác, chia lìa….
Cảnh điện phủ nước Sở bị giặc Phàn phá tan hoang:
Slíp vằn phả đèn chua Sở váng (Câu 1030)
Mười ngày phá tan hoang điện phủ.
Việc sử dụng con số 10 trong truyện thơ Nôm Lưu Tương là khá đặc biệt. Để
rõ hơn ý nghĩa của việc sử dụng con số này, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
chưa tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Phải chăng, số 10 ngoài việc biểu thị sự tròn
86
đầy, viên mãn, việc kết thúc một chu kỳ còn là một biểu hiện của “bản sắc” Tày?
Họ mong ước những điều tốt đẹp hơn, ý nghĩa hơn trong cuộc sống, hay chính qua
đây, tác giả dân gian đã khắc họa càng rõ nét hơn hình tượng người anh hùng -
người con cầu tự Lưu Tương.
3.3.2. Sự hòa điệu giữa tiếng Tày và tiếng Kinh
Đọc, tìm hiểu, so sánh bản phiên âm tiếng Tày, chúng tôi thấy nghệ sĩ dân
gian đã dùng ngôn ngữ của dân tộc mình để miêu tả, xây dựng cốt truyện, mang
sắc thái riêng của đồng bào Tày. Tuy truyện Lưu Tương đã được các nhà nghiên
cứu sưu tầm và chuyển ngữ cách đây hơn 40 năm, nhưng bản phiên âm tiếng Tày
đến với bạn đọc mới cách đây 5 năm (năm 2013). Trong bản tiếng Tày (do ông
Nông Phúc Tước và Bế Sĩ Uông chọn tuyển và hoàn thiện) hiện được lưu truyền
vẫn còn xuất hiện nhiều từ ngữ tiếng Việt (tiếng Kinh hay tiếng phổ thông). Có thể
coi đây là sự hòa điệu giữa tiếng Tày và tiếng Kinh hay sự giao hòa, giao lưu văn
hóa Kinh - Tày. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “người Tày cổ đã đóng góp -
ngay từ đầu - vào sự hình thành văn hóa - văn minh Việt cổ (Đông Sơn - Âu Lạc).
Các nhà nghiên cứu văn hóa cũng nhấn mạnh mối quan hệ Tày - Kinh theo nghĩa
giao hòa chứ không phải vay mượn. Dẫn giải điều này chúng ta thấy ở tục lệ thờ
cúng tổ tiên, thờ thần Bà Mụ,… của người Tày giống như người Kinh. Trong
khuôn khổ đề tài này, chúng tôi đưa ra một số nhận xét về sự hòa điệu giữa tiếng
Tày và tiếng Kinh ở truyện thơ Nôm Lưu Tương.
Trong bản tiếng Tày, các dịch giả đã dùng nhiều tiếng Kinh để diễn tả, kể các
sự kiện, chi tiết trong truyện. Một loạt các từ ngữ được dùng đều thuộc tiếng Kinh
như: dân, muôn dân, tụng kinh, công nương, tiên, văn chương, quê hương, bình
an, nước, thiên hạ, khôn ngoan, quân binh, đối địch, xuân thu nhật nguyệt, âm
phủ, thành thị, phân xử, bách quan, lệnh vua, nam nhi, thơ phú, sinh tử, sắc
phong, khuyên… Hoặc có đoạn, trích hẳn tiếng Kinh, như:
Quan keo phuối: Đầu đuôi như một!
Mọi cần lo khổn chước ngoắc hua
Quan Nồng ả pác khua: Báu chử!
87
Dịch:
Quan Kinh nói: “Hai đầu như một!”
Nhìn hai đầu chằn chặn như nhau
Mọi người lo hết chước lắc đầu
Quan Nùng miệng cười chua: “Khong phải!” (không phải.)
Phải chăng các dịch giả không nắm được hết vốn từ của tiếng Tày cổ? Hoặc
đó là những tiếng có sự hòa điệu với tiếng Kinh. Nếu thống kê trong thời đại ngày
nay, việc sử dụng ngôn ngữ Tày của đồng bào có khoảng 60% là từ ngữ tiếng Tày,
40% là từ ngữ tiếng Kinh. Điều đó cho thấy, việc sử dụng nhiều từ ngữ Kinh để
diễn tả câu chuyện cổ là hoàn toàn hợp lí. Ta bắt gặp một loạt từ ngữ trong bản
tiếng Tày vừa có sự phát âm vừa hoàn toàn đồng nghĩa với từ tiếng Kinh như:
khôn ngoan, chịu khỏ (chịu khó), công chủa (công chúa), sinh tử, cai tị (cai trị),
sắc phong, khuyên, nhân ruyên (nhân duyên)… Ngoài ra, trong bản tiếng Tày
cũng sử dụng kết hợp nhiều tiếng Kinh (đoạn 6):
Pù slung fượt đại ngản non cao
Bách điểu roọng lao xao rặp rỉ
Slíp vằn pây thâng tỉ tường thi
Thành lụy chổn đế đô lạng đạng
Dịch là:
Vượt đại ngàn núi hiểm non cao
Bách điểu hót lao xao lảnh lót
Mười ngày quan đến lọt trường thi
Thành quách chốn kinh kì nghiêm ngặt
Hay trong đoạn 7:
Chủa nàng cắp Lưu Tương pền thóa
Ruyên kết ngịa bạn khỏa slị nho
Ỷ như cảnh xuân thu nhật nguyệt
Dịch là:
Thủy tiên cùng Lưu Tương thành thất
Duyên nghĩa như xếp đặt từ xưa
Như tiết trời xuân thu nhật nguyệt
88
Tác giả Võ Quang Nhơn đã có sự phân tích hiện tượng sử dụng đan xen các
thứ ngôn ngữ khác nhau trong cùng một truyện thơ Tày - Nùng, ông rút ra nhận
xét sau: Nhìn chung, do mâu thuẫn diễn ra từ hạt nhân trung tâm của nội dung
truyện thơ (mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực) nên đã lôi kéo theo cả mâu
thuẫn trong kết cấu và diễn biến của truyện cho đến ngôn từ, một yếu tố quan
trọng trong nghệ thuật truyền thống, cũng chịu sự chi phối của mâu thuẫn đó.
Thông thường khi nói đến đạo lí, đến cương thường… ngôn ngữ truyện thơ được
diễn đạt theo phong cách trang trọng, cầu kì với những thành ngữ, công thức Hán
- Việt ít nhiều có tính chất bác học… Thế nhưng khi hiện thực cuộc sống tràn vào
truyện thơ một cách mãnh liệt thì các tác giả không tự cưỡng lại được, phá vỡ
ngôn ngữ kiểu cách, trang trọng để dùng ngôn ngữ thường ngày bình dị, sống
động, trần trụi.
Khi chúng tôi nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương do Nông Phúc
Tước và Bế Sĩ Uông sưu tầm, biên dịch thấy rằng: chỉ thống kê cứ khoảng 40 câu
đã có khoảng 10 đơn vị từ tiếng Việt cổ và các đơn vị từ Hán - Việt như:
Lại cạ đoạn mỉnh vua ẩn ngản (Câu 1384)
Một mình dú kẻ moóc lâm san (Câu 1391)
Lưu Tương pây thủy phủ tẻo mà (Câu 1395)
Đối địch tức Phàn gia liệu đảy. (Câu 1396)
Sở vương điếp đâư slẩy lặc chồm (Câu 1397)
Đức vua toọng mửng chồm mừa các (Câu 1400)
Khổn pjết đin hương lân quê cổ (Câu 1404)
Tiền quân cảng đuổi mẻ thân slinh (Câu 1409)
…
Sự phối hợp giữa 4 yếu tố theo quan niệm của Nông Quốc Chấn - một nhà
thơ nổi tiếng người Tày ở Bắc Kạn là: ý (nội dung), tứ (cấu trúc ngôn từ), tình
(cảm hứng chủ đạo) và hình (hình tượng, hình ảnh) cũng có nghĩa là sự hài hòa
của “hình thức mang tính nội dung”. Nhờ đó, ngôn ngữ truyện thơ Tày có sức hấp
dẫn đặc biệt trong cảm quan thẩm mĩ của đồng bào, trải bao thế hệ. Đó là sự nhịp
89
nhàng, cân đối giữa bước đi của câu thơ trong nhạc điệu với những chi tiết, hình
ảnh được chọn lọc và biểu hiện có tính liên hoàn kết chuỗi đầy ấn tượng tạo hình.
Có thể nói rằng, trong vẻ đẹp ngôn ngữ truyện thơ Tày cũng có một tâm hồn Tày
trong tâm hồn Việt. Từ nguồn mạch đến thế kỷ XVII, ngôn ngữ truyện thơ Tày
phát triển theo xu hướng “ngôn ngữ Tày - Việt giao hòa” là một quy luật. Xem xét
từ cội nguồn và quá trình xây dựng tiếng Tày, chúng ta thấy rằng: Bộ phận từ gốc
Tày - Nùng vẫn là cơ bản và có ý nghĩa nền móng, bởi nó được sử dụng nhiều
nhất trong giao tiếp gia đình, mường bản hàng ngày. Đây là vốn từ vựng cơ bản,
bao gồm những từ chỉ sự vật và hiện tượng thiên nhiên: cây cối, con vật, thời gian,
không gian… và những từ chỉ hoạt động vật chất và trạng thái tinh thần của con
người trong cộng đồng có tính xã hội.
Sự vay mượn vốn từ cũng như cách thức diễn tả giữa các ngôn ngữ có sự
giao lưu sâu sắc là quy luật thành tạo và phát triển của mọi ngôn ngữ, phản ánh sự
phát triển không ngừng trình độ tư duy của một dân tộc. Về phương diện này, ở
tiếng Tày cũng có những biểu hiện rất đậm nét, bộc lộ qua những điểm sau đây:
do điều kiện cư trú liền kề, do những nhu cầu lịch sử - xã hội, suốt mấy trăm năm
Nhà nước phong kiến chủ trương học chữ Hán để phát triển dân trí, do đó tiếng
Tày đã thu hút một số lượng từ vựng kể là từ Hán - Việt để diễn đạt những khái
niệm trừu tượng thuộc các lĩnh vực văn học nghệ thuật và khoa học kỹ thuật… Sự
tiếp xúc và thu hút này sâu sắc đến mức ngày nay có những từ khó có thể xác định
là Tày - Nùng mượn của Hán hay ngược lại.
Ví dụ: pây tàng (tàng - đường, con đường); khai tu (khai - mở)…
Mặt khác, hai tộc người Kinh và Tày đã có hàng ngàn năm giao lưu văn hóa,
hơn thế là sự hòa nhập nhân chủng, khiến cho tiếng Việt ngày càng có ảnh hưởng
sâu sắc vào tiếng Tày - Nùng. Tiếng Tày đã mượn của tiếng Việt nhiều từ vựng ở
đủ mọi loại hư từ, chỉ từ quan hệ, từ Hán - Việt (qua tiếng Việt)… Ví dụ như: Xẹ
(sẽ), đạ (đã), cụng (cũng), nhựng (những),… Tuy nhiên, các từ có nguồn gốc từ
bên ngoài khi nhập vào tiếng Tày - Nùng đều chịu sự chi phối chặt chẽ của cơ cấu
nội tại tiếng Tày - Nùng (trật tự cú pháp) ngữ pháp, chuyển nghĩa tinh tế, sáng
tạo… Ví dụ: sai sơ (say sưa), xiết xa (thiết tha)…
90
Ở chiều ngược lại, trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Kinh, tiếng Tày đã có
tác động trở lại tiếng Việt trên cả hai phương diện ngữ âm và từ vựng. Có thể nói
một phần đã tạo thành thứ ngôn ngữ hòa hợp, chẳng những gần gũi về cơ chế mà
còn đan xen bổ sung cho nhau tạo ra hàng loạt từ mới. Ví dụ như: bọt/pọt, bắt/pắt,
đường/tàng, gốc/cốc, băm/pằm, giặc/slấc… Ở cấp độ từ vựng cũng cho thấy ít
nhất có bốn khả năng kết hợp Kinh - Tày tạo từ mới:
- Tày cùng nghĩa nhưng làm định ngữ: dao pha, đòn càn, ống bang, mưa phùn…
- Tày mất nghĩa tạo nên nét khái quát: chó má, xin xỏ, nhỏ nhoi, súng ống,
kiêng khem, xấu xí, cau có, tục tằn, tỉa tót…
- Tày còn nghĩa tạo nên kết hợp đẳng lập trong cấu tạo: củi đuốc, bơi lội, xối
xả, sợ hãi, đưa đón, mờ mịt, trông coi…
- Tày mất nghĩa và chỉ còn tính chất chỉ định: trắng nõn, xanh lè, thơm phức,
béo phì, trắng lốp…
Ngoài ra còn có những hiện tượng căn ke lại nhau như: đất thịt/đin nựa,
nạc/nực…
Mặt khác, do điều kiện sống ở bản làng miền núi có địa hình phức tạp, ngôn
ngữ Tày cũng có những sắc thái riêng, sự giàu có riêng: Người Kinh nói “rậm như
rừng” thì người Tày nói “rậm như mả hủi”, người Kinh nói “qua làng nọ, lại làng
kia”, người Tày nói “lên bản trên, xuống bản dưới”… có những sự vật hầu như
tiếng Tày phong phú cụ thể đến từng chi tiết: cùng nghĩa từ “chuồng” của người
Kinh, ta thấy trong tiếng Tày có tàu (mạ), làng (vài), coọc (mu), lậu (cáy, pết)…
cho bốn loại vật nuôi: chuồng ngựa, chuồng trâu, chuồng lợn, chuồng gà/vịt… Có
thể nói, tiếng Tày đã có một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và phát triển ngày
càng giàu và đẹp [29, tr.192].
Cộng đồng người Việt là một khối cư dân hùng hậu bao gồm nhiều tộc người từ
xa xưa đã có tên chung là người Bách Việt. Do điều kiện cư trú, trình độ phát triển
kinh tế, văn hoá và thời gian cư trú của mỗi tộc người trên lãnh thổ Việt Nam không
giống nhau nên mối quan hệ về mặt văn hoá với người Việt của mỗi tộc người diễn ra
ở từng thời điểm, từng cấp độ và từng mức độ sâu đậm khác nhau. Trong quan hệ văn
91
hóa Tày - Việt có sự tác động qua lại khá sâu sắc theo cả hai chiều Tày - Việt và Việt
- Tày vì cả hai tộc người đều có thời gian hình thành tộc người tương đương nhau và
trình độ kết cấu tộc người cũng như trình độ kinh tế, văn hóa - xã hội không quá
chênh lệch. Khi nghiên cứu văn hóa của người Việt, nhiều nhà nghiên cứu đều có ý
kiến tương đối thống nhất: văn hóa của người Tày có dấu ấn và chiếm vị trí khá quan
trọng trong văn hóa của người Việt, đặc biệt ngôn ngữ Tày [73, tr.192] đã có những
ảnh hưởng qua lại nhất định với tiếng Việt.
Quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người đã được phản ánh khá rõ qua
sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa các cộng đồng nói chung và giữa tộc người Tày - Việt
nói riêng. Tiếng Tày đã ảnh hưởng khá đậm nét đến tiếng Việt cả về thanh điệu, từ
vị cơ bản và một số từ chỉ địa danh. Sự tiếp xúc ngôn ngữ đã làm cho ngôn ngữ
tiếng Việt xa dần với ngôn ngữ Môn - Khơme về mặt cấu tạo và lại càng xích lại
gần tiếng Tày về mặt thanh điệu và từ vựng. Hiện tượng song ngữ từ cặp đôi khá
phổ biến giữa tiếng Việt và tiếng Tày - Thái.
Do kết quả phát triển của lịch sử, với số dân đông hơn, với trình độ kinh tế,
xã hội, văn hóa phát triển cao hơn, tộc người Việt trong tiến trình lịch sử đã tỏ rõ
vai trò chủ thể đối với toàn thể cộng đồng, đã tạo nên ảnh hưởng tích cực, đã góp
phần hiệu quả thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, văn hóa của các tộc người anh em khác.
Chính tính chủ thể trong quan hệ tộc người và quan hệ văn hóa tộc người của tộc
người Việt đã chi phối nền văn hoá của các tộc người khác phát triển theo quỹ đạo
chung của một nền văn hoá có sự thống nhất trong đa dạng - nền văn hóa mang
tính quốc gia. Trong lịch sử văn hóa tộc người, tộc người Tày cũng đã không
ngừng tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa, yếu tố ngôn ngữ của người Kinh
và các tộc người khác để làm giàu văn hóa và làm phong phú ngôn ngữ tiếng Tày.
Tìm hiểu sự hòa điệu giữa tiếng Tày và tiếng Kinh trong truyện thơ Nôm Lưu
Tương giúp chúng ta hiểu hơn về sự giao lưu, tiếp biến văn hóa, đặc biệt là ở tiếng
nói, ngôn ngữ của đồng bào Tày.
* Tiểu kết:
Như vậy, qua việc tìm hiểu giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm Lưu Tương,
chúng tôi nhận thấy:
92
Về kết cấu, Lưu Tương là truyện thơ Nôm có sự sáng tạo khá rõ rệt nằm ở
chương Mở lời (khay cằm) của truyện. Với chương này, tác giả dân gian đã giúp
cho người đọc, người nghe hình dung ra khái quát về nội dung, sự kiện, nhân vật
chính sẽ được kể ở các chương truyện tiếp sau. Ngoài ra, truyện thơ Nôm Lưu
Tương có kiểu kết cấu “truyện lồng truyện”, câu chuyện tình yêu - chiến trận xen
kẽ với câu chuyện hôn nhân khác cõi của nhân vật Lưu Tương.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, Lưu Tương đã xây dựng một hệ thống nhân
vật khá phong phú với hai tuyến chính - tà quen thuộc. Một số biện pháp miêu tả,
so sánh, lồng ghép nội tâm nhân vật trong quá trình kể chuyện đã giúp cho hệ
thống nhân vật nói chung, nhân vật chính Lưu Tương nói riêng hiện lên khá rõ nét
và để lại ấn tượng nhất định cho độc giả, đặc biệt đối với đồng bào Tày.
Về ngôn ngữ, Lưu Tương là tác phẩm có đóng góp đáng kể về ngôn ngữ cho
kho tàng truyện thơ Nôm Tày. Tác phẩm đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ mang
đậm bản sắc văn hóa Tày, đồng thời có sự kết hợp hòa điệu giữa tiếng Tày và
tiếng Kinh một cách khéo léo khiến thiên truyện vừa độc đáo vừa gần gũi với bạn
đọc các thế hệ và thuộc các dân tộc khác nhau.
Từ việc nghiên cứu giá trị nghệ thuật của thiên truyện, chúng ta có thêm sự
hiểu biết về bản sắc Tày được gửi gắm qua các sáng tác nghệ thuật. Từ đó, góp
thêm tiếng nói tự hào về truyền thống, về mạch nguồn văn hóa của các dân tộc
thiểu số Việt Nam.
93
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập quốc tế là
một việc làm cần thiết nhằm bảo tồn và phát huy sự đa dạng văn hóa góp phần
phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số... Nghiên cứu và giới thiệu các tác phẩm
cụ thể như truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương có ý nghĩa không nhỏ, thể hiện ý thức
tộc người và trách nhiệm của mỗi người Tày nói riêng, người Việt Nam nói chung.
2. Có thể khẳng định rằng, nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày là một vấn đề
phức tạp, khó khăn khi chúng ta nghiên cứu nó chủ yếu dựa vào các văn bản tác
phẩm Nôm đã được dịch ra tiếng Việt. Để tìm hiểu sâu kỹ được các truyện thơ
Nôm Tày, mỗi chúng ta cần phải trang bị những kiến thức nhất định về văn hóa
tộc người và văn hóa của tộc người Tày. Đó là việc cần phải biết khai thác triệt để
những giá trị xuất sắc nhất trên văn bản dịch có đối chiếu với nguyên bản trong
những trường hợp cụ thể và cần thiết.
3. Về nội dung, truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương đã góp phần lưu giữ nhiều
giá trị văn hóa quý báu của người Tày như: ca ngợi tài trí và sức mạnh của người
anh hùng; lưu giữ giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống tương thân, tương ái...
hay quan niệm về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi bao dung, phóng khoáng...Những
giá trị này rất nên và rất cần được trao truyền cho thế hệ sau để mỗi công dân Tày
nói riêng, mỗi người con đất Việt nói chung hiểu hơn và biết tiếp thu, kế thừa
những truyền thống quý báu đó.
4. Về nghệ thuật, truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương bên cạnh việc kế thừa các
đặc điểm cơ bản của kho tàng truyện thơ Nôm Tày còn có những điểm sáng như:
kết cấu thú vị với sự sáng tạo ra phần Mở lời (khay cằm) - một chương ngắn mở
đầu thiên truyện rất sáng tạo; kết cấu “truyện lồng truyện”, sự kết hợp hài hòa,
khéo léo giữa “sự” và “tình”; đặc biệt việc sử dụng hệ thống từ ngữ mang đậm bản
sắc Tày, sự hòa điệu giữa tiếng Tày và tiếng Kinh trong câu chuyện đã tạo nên sức
cuốn hút nhất định đối với độc giả, đặc biệt là độc giả người Tày có lòng tự hào về
văn hóa truyền thống dân tộc.
94
5. Qua việc nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương”,
chúng tôi cũng muốn gửi gắm khát mong đề xuất trích dạy tác phẩm trong chương
trình Ngữ văn phổ thông đối với phần văn học địa phương tỉnh Bắc Kạn nói riêng
và các tỉnh vùng Đông Bắc tổ quốc nói chung. Điều này, cơ bản phù hợp với định
hướng của Chương trình giáo dục phổ thông mới những năm sau theo hướng phát
triển năng lực và phẩm chất người học. Chúng tôi cũng hy vọng, kết quả nghiên
cứu của đề tài này sẽ tạo cơ sở cần thiết cho những đánh giá tiếp theo về truyện
thơ Nôm Tày Lưu Tương, để tác phẩm thực sự đến gần hơn với những người say
mê và trân trọng văn học cổ, trân trọng những giá trị truyền thống rất đỗi tự hào
của cha ông, nhất là trong hoàn cảnh đất nước đang hội nhập ngày một sâu rộng
như hiện nay.
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1975), Chữ Nôm - Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Phụ lục:
Chữ Nôm Tày, Nxb Khoa học xã hội, H.
2. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, H.
3. Triều Ân (chủ biên) (1994), Truyện thơ Nôm Tày, Tập 1, Nxb Văn hóa dân
tộc, H.
4. Triều Ân (chủ biên) (1994), Ca dao Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
5. Triều Ân (chủ biên) (1995), Truyện thơ Nôm Tày, Tập 2, giải ba công trình
nghiên cứu năm 1995 của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
6. Triều Ân (chủ biên) (2003), Chữ Nôm Tày và truyện thơ, Nxb Văn học, H.
7. Triều Ân (2004), Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại, Nxb Văn học, H.
8. Hoàng Triều Ân (2008), Văn học Hán Nôm dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân
tộc, H.
9. Triều Ân (2011), Ba truyện thơ Nôm Tày từ truyện Nôm khuyết danh Việt
Nam, Nxb VHTT, H.
10. Phương Bằng - Lã Văn Lô (1992), Lượn slương, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
11. Nông Quốc Chấn (chủ biên) (1964), Truyện thơ Tày - Nùng, Tập 1, Nxb
Văn học, H.
12. Nông Quốc Chấn (chủ biên) (1964), Truyện thơ Tày - Nùng, Tập 2, Nxb
Văn học, H.
13. Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Mạc Phi, Hoàng Thao, Hà Văn Thư
(1975), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam - Văn học dân tộc thiểu số, Nxb Văn
hóa Viện văn học, H.
14. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người, Nxb
Văn hóa thông tin, Tạp chí văn hóa nghệ thuật.
15. Triệu Thị Kiều Dung (2014), Sưu tầm và nghiên cứu giá trị các văn bản chữ
Nôm Tày ở Cao Bằng, đề tài NCKH cấp cơ sở, Sở KH&CN tỉnh Cao Bằng.
16. Phạm Hoàng Giang (2007), Bước đầu tìm hiểu về thể thức hoán dụ trong
truyện thơ Nôm Tày - Nùng, Tạp chí Hán Nôm (số 2).
96
17. Cao Thị Hảo (2017), Nét đặc trưng văn hóa trong truyện thơ Nôm Tày, Tạp
chí Văn học nghệ thuật (số 394).
18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, H.
19. Hà Bích Hiền (2000), Truyện Nôm Tày, điểm nối giữa văn học dân gian và văn
học Tày, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
20. Kiều Thu Hoạch (1992), Truyện Nôm, nguồn gốc và bản chất thể loại, Nxb
Khoa học xã hội, H.
21. Vi Hồng (1979), Sli - lượn dân ca trữ tình Tày Nùng, Nxb Văn hóa, H.
22. Lê Thương Huyền (2011), “Thơ Lẩu” của người Tày ở Hà Vị (Bạch Thông -
Bắc Kạn, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Thái Nguyên.
23. Hà Thu Hương (2006), Quan hệ văn hóa Tày - Việt trong tiến trình lịch sử
tư tưởng văn hóa Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 3).
24. Đỗ Hồng Kỳ (1997), Những biểu hiện của tôn giáo tín ngưỡng trong truyện
thơ Nôm Tày, Nùng. Tạp chí Văn hóa dân gian (số 3).
25. Đinh Gia Khánh (1997), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
26. Hà Vũ Khanh - Hoàng Hưng (1961), Nam Kim - Thị Đan - Ty Văn hóa Cao
Bằng xuất bản.
27. Đàm Thùy Linh, (năm 2009), Luận văn thạc sĩ, “Hát quan lang của người Tày
ở Thạch An, Cao Bằng tiếp cận dưới góc độ văn học dân gian”.
28. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày Nùng, Nxb văn hóa, H.
29. Hoàng Ngọc La (chủ biên), Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002), Văn
hóa dân gian Tày, Sở VHTT Thái Nguyên.
30. Nguyễn Lộc (1984), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Khoa học xã hội, H.
31. Dương Khâu Luông (2017), Lặng lẽ mùa hoa mạ, Thơ song ngữ Tày - Việt,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
32. Phương Lựu (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, H.
33. Nguyễn Thị Nhàn (2009), Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và truyện Kiều,
Nxb Đại học sư phạm.
97
34. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb Văn
hóa, H.
35. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người, Nxb ĐH và
THCN, H.
36. Lục Văn Pảo (1992), Truyện Nôm Tày, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 3).
37. Lục Văn Pảo (1992), Lời dẫn trong cuốn Pụt Tày, Nxb Khoa học xã hội, H.
38. Lê Trường Phát (1996), Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số -
chuyên luận. (LATS Ngữ văn: 5.04.01). Thư viện quốc gia Việt Nam.
39. Lê Trường Phát (1997), Về mô hình cốt truyện của truyện thơ các dân tộc
thiểu số, Tạp chí Văn học (số 7), H.
40. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục. H.
41. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển
học, Hà Nội - Đà Nẵng.
42. Triệu Thị Phượng (2009), Sự tương đồng và khác biệt về nội dung giữa truyện
thơ Tày và truyện thơ Thái, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Thái Nguyên.
43. Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng (1993), Văn hóa truyền thống Tày - Nùng,
Nxb Văn học dân tộc, H.
44. Hoàng Quyết (1994), Nam Kim - Thị Đan, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
45. Hoàng Quyết, Triều Ân (1994), Truyện thơ Nôm Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
46. Trần Đình Sử, Lê Bán Hán, Nguyễn Khắc Phi (1998), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, H.
47. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, H.
48. Hà Đình Thành (2003), Báo cáo tóm tắt đề tài nghiên cứu cấp bộ Văn hóa
dân gian Tày - Nùng ở Việt Nam, Thư viện Viện nghiên cứu văn hóa, H.
49. Phạm Thế Thành (2005), Bản sắc Tày trong thơ Nông Quốc Chấn, Luận văn
thạc sĩ khoa học ngữ văn, Đại học sư phạm Thái Nguyên.
50. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản lần 2), Nxb Giáo
dục, H.
51. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, (in lần thứ
4 có sửa chữa bổ sung), Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
98
52. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
Nxb Giáo dục, H.
53. Đỗ Thị Hùng Thúy (2006), Tìm hiểu truyện thơ Tày Nhân Lăng về phương diện
thi pháp kết cấu cốt truyện và nhân vật, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Thái Nguyên.
54. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi - phê bình tiểu luận, Nxb Văn hóa
dân tộc, H.
55. Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn, Hoàng Ngọc La (1991), Văn hóa dân gian
Tày dưới góc độ lịch sử, Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ - M: B91 -
26 - 04. Lưu trữ thư viện ĐHSP Việt Bắc.
56. Nguyễn Minh Tuân (2004), Về tác phẩm truyện thơ Tày - Nùng Lưu Đài Hán
Xuân, Tạp chí Hán Nôm (số 3).
57. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và thi
pháp thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, H.
58. Nông Phúc Tước, Bế Sĩ Uông (sưu tầm) (2008), Trương Hản, Nxb Đại học
Thái Nguyên.
59. Nông Phúc Tước, Bế Sĩ Uông (sưu tầm) (2013), Lưu Tương, Nxb Văn hóa
dân tộc, H.
60. Bế Sĩ Uông, Ma Trường Nguyên (1983), Tam Mậu Ngọ - Sở Văn hóa Bắc
Thái xuất bản.
61. Đặng Nghiêm Vạn (1983), Xung quanh vấn đề nghiên cứu các dân tộc ở
miền núi Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, H.
62. Nhà xuất bản sự thật (1956), Văn hóa là gì, trích dịch trong bộ“Đại bách
khoa toàn thư của Liên Xô”.
63. Nhiều tác giả (1974), Bước đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, Sở Văn hóa
thông tin Việt Bắc, H.
64. Nhiều tác giả (1974), Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb Khoa học xã hội.
65. Nhiều tác giả (1992), Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam, Viện Dân tộc học
xuất bản.
66. Nhiều tác giả (1993), Văn hóa dân gian Cao Bằng, Hội Văn nghệ Cao bằng
xuất bản.
99
67. Nhiều tác giả (1996), Văn hóa truyền thống Tày Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
68. Nhiều tác giả (1998), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Nxb Giáo dục, H.
69. Nhiều tác giả (1981), Kỉ yếu hội thảo “Một số vấn đề lịch sử văn hoá các
dân tộc ở Việt Bắc”, Bảo tàng Việt Bắc xuất bản.
70. Nhiều tác giả (2000), Sưu tầm nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, Nxb
văn hóa dân tộc, H.
71. Nhiều tác giả (2000), Tuyển tập văn xuôi dân tộc và miền núi thế kỷ XX, Nxb
Văn hóa dân tộc, H.
72. Nhiều tác giả (2003), Bách khoa tri thức phổ thông, Nxb Văn hóa thông tin, H.
73. Nhiều tác giả (2004), Bản sắc và truyền thống văn hóa các dân tộc tỉnh
Bắc Kạn, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
74. Tổng tập truyện thơ Nôm của các dân tộc thiểu số Việt Nam (2014), tập 16:
Truyện thơ Nôm Tày (Trần Thu Hường, Hoàng Phương Mai), Nxb Khoa học
xã hội, H.