ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ HÒA
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM THỂ LOẠI
NAM ÔNG MỘNG LỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thái Nguyên - Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ HÒA
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM THỂ LOẠI
NAM ÔNG MỘNG LỤC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S NGÔ GIA VÕ
Thái Nguyên - Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ của thầy cô giáo trong Khoa Ngữ Văn, Khoa Sau
đại học, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên. Đặc biệt là sự
hướng dẫn, chỉ bảo của thầy Ngô Gia Võ, người trực tiếp hướng dẫn tôi làm
luận văn. Qua đây, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy Ngô
Gia Võ và toàn thể thầy cô khác trong Khoa, trong Trường - những người đã
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, người
thân, những người đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho
tôi thời gian vừa qua.
Thái Nguyên, 10/ 08/ 2011
Học viên
Nguyễn Thị Hòa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là luận văn do tôi thực hiện bằng sự nỗ lực của
mình dưới sự hướng dẫn của thầy Ngô Gia Võ. Những số liệu thống kê trong
luận văn đều là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, đích thực của cá nhân tôi.
Luận văn chưa được công bố trong công trình nghiên cứu nào.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hoà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục .................................................................................................................................... i
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. VẤN ĐỀ TÁC GIẢ, VĂN BẢN VÀ THỂ LOẠI CỦA NAM ÔNG
MỘNG LỤC ............................................................................................................... 11
1.1 Tác giả Hồ Nguyên Trừng ............................................................................... 11
1.1.1 Cuộc đời .................................................................................................... 11
1.1.2 Con người .................................................................................................. 12
1.1.3 Quan niệm về văn chương của tác giả ...................................................... 13
1.2 Văn bản Nam Ông mộng lục ............................................................................ 18
1.2.1. Quá trình truyền bản nguyên tác chữ Hán ................................................ 18
1.2.2. Quá trình hoàn chỉnh các bản dịch Quốc ngữ ........................................... 19
1.3 Thể loại ............................................................................................................ 20
1.3.1 Lí thuyết về thể loại và vấn đề thể loại trong văn học trung đại Việt Nam ....... 20
1.3.2 Việc nghiên cứu thể loại của Nam Ông mộng lục ..................................... 29
TIỂU KẾT .............................................................................................................. 35
CHƢƠNG 2. MỐI QUAN HỆ VĂN SỬ TRONG NAM ÔNG MỘNG LỤC
DƢỚI GÓC ĐỘ THỂ LOẠI ................................................................................... 36
2.1 Những truyện kí có dấu ấn riêng ...................................................................... 36
2.1.1 Những truyện ký viết về người thân của tác giả ........................................ 36
2.1.2 Những truyện kí mang màu sắc tôn giáo ................................................... 43
2.1.3 Những ghi chép về thơ của riêng tác giả ................................................... 45
2.2 Những truyện kí có mối liên hệ với Đại Việt sử kí toàn thư ............................ 51
2.2.1 Tương quan về các sự kiện lịch sử ............................................................ 52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2.2 Tương quan về hệ thống nhân vật lịch sử .................................................. 58
ii
2.2.3 Tương quan về thời gian lịch sử ................................................................ 61
2.3 Những truyện kí có mối liên hệ với một số tác phẩm khác .............................. 64
2.3.1 Truyện “Dũng lực thần dị” ........................................................................ 65
2.3.2 Truyện “Tăng đạo thần thông” và “Minh Không thần dị” ........................ 66
TIỂU KẾT .............................................................................................................. 71
CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM HỖN DUNG THỂ LOẠI TRONG TRUYỆN KÝ
NAM ÔNG MỘNG LỤC ........................................................................................... 73
3.1 Những thiên truyện in đậm tính chất truyện ký ................................................ 73
3.1.1 Người thực, việc thực ................................................................................ 74
3.1.2 Tính chất ghi chép ..................................................................................... 85
3.2 Những thiên truyện có ghi chép thi thoại ......................................................... 88
3.2.1 Thi thoại trong Nam Ông mộng lục ........................................................... 88
3.2.2. Lời bình thơ trong Nam Ông mộng lục ..................................................... 98
3.3 Những thiên truyện có tính chất truyện .......................................................... 102
3.3.1 Kết cấu cốt truyện .................................................................................... 102
3.3.2 Nhân vật ................................................................................................... 110
3.3.3 Ngôn ngữ ................................................................................................. 112
TIỂU KẾT ............................................................................................................ 116
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 119
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 125
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Lí do khoa học
Nghiên cứu văn học theo Thi pháp học là xu hướng chung của thế giới và ở
Việt Nam hiện nay. Thi pháp học đã giúp mở ra cánh cửa để nghiên cứu văn học
nghệ thuật nói chung và văn học trung đại nói riêng. Thi pháp học chú ý đến những
yếu tố hình thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật – không gian – thời gian, kết
cấu – cốt truyện – điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại…Tuy nhiên, hình thức không tồn
tại tự nó mà luôn nằm trong sự thống nhất chặt chẽ, biện chứng với nội dung cho
nên hình thức chỉ có ý nghĩa khi nó là “hình thức mang tính nội dung”.
Một trong những phạm trù quan trọng hàng đầu của Thi pháp học là thể loại.
Thể loại là “nhân vật trung tâm của văn học” như M. Bakhtin đã khẳng định, nó còn
được hiểu là “những quy tắc tổ chức hình thức văn bản thích hợp với nội dung văn
bản: hoặc có tính chất thơ, chất tiểu thuyết, chất kịch…” [48; 127- 129]. Thể loại
văn học thuộc về phương thức, về cách thể hiện cuộc sống trong văn học cũng như
cách cấu tạo và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ thể. Thể loại được
hình thành từ một giai đoạn lịch sử nhất định, vừa liên quan đến người sáng tác vừa
liên quan đến người cảm thụ, lại biến đổi theo các giai đoạn phát triển của xã hội và
văn học. Thể loại là “mã chung để giao tiếp” giữa người kể và người nghe, tuy có
những biến thể nhưng có những yếu tố hằng thể không thay đổi một khi đã định
hình ổn định. Không có một tác phẩm văn học nào tồn tại ngoài hình thức quen
thuộc của thể loại: một cuốn tiểu thuyết, một truyện ngắn, một thiên kí, một bài
thơ…Vì thế, khi nghiên cứu văn học người ta không thể bỏ qua việc nghiên cứu thể
loại của tác phẩm văn học.
Đây là hướng nghiên cứu quen thuộc, truyền thống, trên cơ sở những kết quả
đạt được của những nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi thấy cần thiết phải tìm hiểu
chuyên sâu và hệ thống về thể loại của Nam Ông mộng lục. Bởi đây là tác phẩm có
giá trị đặc biệt quan trọng trong nền văn xuôi tự sự chữ Hán thời kì văn học trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đại, được coi như bản lề khép lại văn xuôi thế kỉ X – XIV, mở ra cánh cửa cho văn
2
xuôi tự sự thế kỉ XV – XIX. Vì thế, chúng tôi quyết định chọn: Khảo sát đặc điểm
thể loại Nam Ông mộng lục làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Hướng
nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn sâu hơn về quan điểm thể loại, thể loại văn
học trung đại và thể loại trong tác phẩm Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng
để xác định rõ hơn vị trí và những đóng góp của nhà văn này trong nền văn học
trung đại.
1.2 Lí do thực tiễn
Nam Ông mộng lục được coi là một trong những tác phẩm văn học hải ngoại
đầu tiên có giá trị văn học và giá trị dân tộc sâu sắc. Tuy sáng tác ở Trung Quốc và viết
bằng chữ Hán nhưng tác phẩm lại được sinh thành từ trái tim của con người mà tâm
hồn luôn hướng về quê hương đất nước. Từ ấn tượng về hoàn cảnh ra đời đặc biệt và
nét độc đáo trong nghệ thuật của Nam Ông mộng lục, chúng tôi mong muốn trân trọng
đề cao những giá trị văn hóa của dân tộc và tri ân danh nhân Hồ Nguyên Trừng – người
đã có những đóng góp to lớn trên lĩnh vực khoa học kĩ thuật và văn học.
Một số thiên truyện trong Nam Ông mộng lục đã được đưa vào giảng dạy
trong nhà trường và có tính giáo dục cao. Trước hết phải kể tới truyện “Y thiện
dụng tâm” trong Sách giáo khoa Ngữ Văn 6, Tập 1. Là một trong những thiên
truyện tiêu biểu của tác phẩm này, “Y thiện dụng tâm” nhằm giáo dục cho các em
học sinh những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc như lòng nhân ái, tinh thần xả
thân vì người khác, sự cương trực thẳng thắn không sợ cường quyền…Bên cạnh đó,
thông qua thiên truyện này, các em học sinh cũng sẽ được tiếp cận với những đặc
trưng quen thuộc của truyện ký như tính chất “người thật việc thật”, viết về tấm
gương người tốt, lối ghi chép ngắn gọn, chân thực, tình huống truyện bất ngờ…
Một tác phẩm được ra đời từ rất lâu, viết theo quan niệm của con người thời trung
đại như Nam Ông mộng lục chắc chắn sẽ không dễ hiểu với các em học sinh. Thiết
nghĩ, cần có một công trình nghiên cứu về đặc điểm thể loại để giúp giáo viên và
các em học sinh tiếp cận tác phẩm dễ dàng hơn.
Hiện nay, hệ thống nhà trường cũng đang chú trọng dạy văn theo hướng đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trưng thể loại. Thể loại chi phối tất cả các yếu tố còn lại của hình thức tác phẩm.
3
Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng và yêu cầu phân tích theo một phương pháp
riêng. Không phải ngẫu nhiên mà sách giáo khoa thường sắp xếp tác phẩm theo thể
loại. Chẳng hạn, trong Sách giáo khoa Ngữ Văn 9, Tập 2, học sinh được học và đọc
thêm liền mạch các truyện và các đoạn trích như: “Chuyện người con gái Nam
Xương” (Truyền kì mạn lục), “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Vũ trung tùy bút),
Hồi 14 (Hoàng Lê nhất thống chí), Truyện Kiều và Nguyễn Du, “Chị em Thúy
Kiều”, “Cảnh ngày xuân”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
(Truyện Kiều), đi kèm với bài “Kiểm tra về truyện trung đại ” [60; 43-134]. Mỗi khi
dạy tới một thể loại, sách giáo khoa thường nêu chú thích về đặc trưng của thể loại
đó. Có một số thể loại được nói lướt qua nhưng cũng có thể loại cần phải học kỹ
lưỡng tại lớp. Ví dụ: Khi học bài “Chuyện người con gái Nam Xương” và bài
“Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”, Sách giáo khoa Ngữ Văn 9, Tập 2, đặt ra câu
hỏi: Theo em, thể văn tùy bút có gì khác so với thể truyện mà các em đã học ở bài
trước? [60; 63]…
Dạy học theo đặc trưng thể loại là hết sức cần thiết đối với tác phẩm văn
chương trong nhà trường, nhất là đối với các tác phẩm văn học trung đại. Những thể
loại của văn học trung đại như: chiếu, biểu, hịch, cáo, phú…còn xa lạ với học sinh
phổ thông. Nhiều em chưa nắm được đặc điểm của những thể loại đó nên khó có thể
tiếp cận được với tác phẩm. Chọn đề tài: Khảo sát đặc điểm thể loại Nam Ông
mộng lục một mặt do nhu cầu bản thân muốn được tìm về với những giá trị văn hóa
của dân tộc, mặt khác luận văn sẽ góp phần phục vụ giảng dạy tốt hơn môn Văn
trong nhà trường, đặc biệt là phần văn học trung đại theo đặc trưng thể loại, phù hợp
với sách giáo khoa Ngữ Văn hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Nam Ông mộng lục không phải là tác phẩm lớn nhưng lại rất có giá trị trong
nền văn học Việt Nam. Tuy tác phẩm được viết ở Trung Quốc nhưng tấm lòng
hướng về quê hương của tác giả lại được thể hiện khá sâu sắc. Trong tác phẩm, cảnh
vật, con người, cuộc sống, văn hóa tâm linh của người Việt được hiện lên bằng sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảm nhận của một người xa xứ đã gợi ra sự hứng thú, hấp dẫn và cách đánh giá mới
4
mẻ nơi độc giả. Vì thế, tác phẩm đã trở thành đối tượng tìm hiểu của không ít các
nhà nghiên cứu và công chúng văn học.
Người được coi là khởi xướng cho việc nghiên cứu về Nam Ông mộng lục là
Lê Quý Đôn ở thế kỉ XVIII, trong sách Kiến văn tiểu lục: “…Xem trong Nam Ông
mộng lục (Lê Trừng nhà Minh biên soạn) có thể biết được thời đại nhà Trần có
những việc đặc sắc và việc truyền ngôi cho con” [18; 166- 169]. Tuy nhiên, nhận
định này còn rất sơ lược và chưa đề cập tới thể loại của Nam Ông mộng lục. Vì thế,
trong số những công trình khoa học được công bố liên quan tới tác phẩm Nam Ông
mộng lục, chúng tôi sẽ nêu một số công trình có đề cập tới thể loại của tác phẩm để
làm căn cứ đánh giá và đối chiếu.
Tác giả Trần Văn Giáp được coi là người mở đầu cho các công trình nghiên
cứu về Nam Ông mộng lục của thời hiện đại. Những ý kiến của ông đã trở thành
khuôn mẫu cho nhiều nhà nghiên cứu, nhiều cuốn từ điển viết về Nam Ông mộng
lục. Nhà nghiên cứu đã thống kê được 28 mục và tóm tắt nội dung sơ lược các mục
đó. Ông cũng nhận xét về nội dung của tác phẩm này: “Trong sách Nam Ông mộng
lục, ông đã tỏ rõ lòng yêu nước và nhớ thương quê hương tha thiết” [22; 45- 49].
Quan trọng hơn, ông đã đề cập tới một số khía cạnh về nghệ thuật của tác
phẩm như: “Nam Ông mộng lục thuật lại một số sự việc có tính chất lịch sử thời Lí
Trần là thời gần gũi ông”, “một số thần thoại có vẻ hoang đường mê tín”, “một số
mục nói về thơ và thi nhân”… [22; 45- 49]. Qua những lời đánh giá ở trên, ta thấy
nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp đã chú ý tới giá trị của tác phẩm nhưng cũng chưa
dành nhiều quan tâm cho thể loại của nó.
Trong bài viết “Hồ Nguyên Trừng mà cũng “quyến luyến quê hương”,
“không quên Tổ quốc ư?”, tác giả Trần Nghĩa có những đánh giá về Hồ Nguyên
Trừng theo sự chi phối của các “yếu tố ngoài văn học” (coi Hồ Nguyên Trừng là kẻ
phản bội Tổ quốc, về mặt văn học thì văn của ông không có giá trị ) song trong bài
viết lại bàn đến nhiều vấn đề của tác phẩm như: văn bản, mối quan hệ của Nam Ông
mộng lục với tác phẩm khác, động cơ sáng tác của Hồ Nguyên Trừng…
Đáng chú ý nhất là nhà nghiên cứu miêu tả khá cụ thể mối quan hệ của tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phẩm này với các tác phẩm cùng thời như Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái
5
lục, Thiền uyển tập anh, Việt âm thi tập, Đại Việt sử kí toàn thư với những mức độ
khác nhau: Ví dụ chép với nội dung tương tự, chép “tường giản” hoặc Nam Ông
mộng lục chép nhưng sách vở đương thời chưa nói tới… Từ đó, tác giả cũng nhận
thấy một số chương trong Nam Ông mộng lục có thể “bổ sung cho văn học và sử
học thời Lí Trần” [52; 21- 31]. Tuy nhiên, tác giả cũng chưa quan tâm tới thể loại,
chưa định danh được thể loại của tác phẩm này. Dù sao, những nhận định của Trần
Nghĩa cũng là những ý kiến vô cùng quý báu đối với việc nghiên cứu về thể loại của
Nam Ông mộng lục.
Là một người chuyên nghiên cứu về văn học trung đại, Đinh Gia Khánh tìm
hiểu khá sâu về tác giả, hoàn cảnh ra đời và vị trí của Nam Ông mộng lục đối với
văn học giai đoạn này: “tác giả viết sách này với tâm trạng của một người đời Trần,
Hồ” [39; 135-138].
Nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh đã thống kê 28 thiên truyện và phân tích sự
phong phú về nội dung và hình thức của Nam Ông mộng lục: có những thiên “chép
sự kiện lịch sử”, „nét sinh hoạt về mọi mặt của xã hội”, về “việc liên quan đến tăng
lữ, đạo sĩ và tín ngưỡng”, về “sự việc kì lạ, lí thú”, lại có thiên “đề cập tới vấn đề
thơ văn”... và ông so sánh để thấy nội dung của tác phẩm này đa dạng hơn Việt điện
u linh. Ông cũng phân tích kĩ hai thiên truyện “Văn Trinh ngạnh trực” và “Y thiện
dụng tâm” nhằm làm sáng tỏ thêm về nghệ thuật của tác phẩm: “…nhân vật được
miêu tả một cách sinh động…lời văn súc tích ngắn gọn như chép sử, nhưng lại có
tính chất linh hoạt” [39; 135-138].
Về nghệ thuật, Đinh Gia Khánh đánh giá đây là một truyện kí “…được viết
trong cuộc sống lưu vong ở nước ngoài, Nam Ông mộng lục vẫn có một vị trí nhất
định trong thể loại tự sự của thời kì lịch sử này” [39; 135-138].
Quan điểm của Đinh Gia Khánh đã thể hiện cách nhìn khá chính xác về thể
loại của Nam Ông mộng lục. Điều đó đã góp thêm tiếng nói cho lịch sử nghiên cứu
vấn đề này. Song về cơ bản, tác giả mới chỉ định danh chứ chưa nghiên cứu kĩ đặc
điểm thể loại của tác phẩm.
Các tác giả Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường trong cuốn sách Từ điển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn học Việt Nam đã giới thiệu cụ thể về cuộc đời của Hồ Nguyên Trừng và nêu
6
hoàn cảnh ra đời, xuất xứ của Nam Ông mộng lục; thống kê 28 thiên truyện trong
tác phẩm. Các tác giả dành khá nhiều công sức để mô tả nội dung chính của từng
thiên truyện. Nhận xét chính xác về nội dung của tác phẩm, các nhà nghiên cứu cho
rằng: “…Nam Ông mộng lục có một số dấu hiệu của người đứng ngoài (…) nhưng
chủ yếu vẫn là những hồi ức của một người xa xứ, muốn qua những ghi chép về
việc cũ nước mình mà kí thác nỗi sầu xứ của mình, đồng thời cũng kín đáo bộc lộ
với các bậc thức giả ở Trung Hoa về một văn hóa không thua kém của nước mình”
[4; 227-230]. Các tác giả cho rằng đây là “một hồi kí về thời Lí Trần với một số nét
về xã hội, lịch sử, văn hóa” [4; 227-230]. Tuy nhiên, đặc điểm thể loại này như thế
nào thì tác giả chưa nêu cụ thể, còn rất sơ lược.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na dành nhiều tâm huyết cho Nam Ông mộng
lục. Ông là người giới thiệu tác phẩm tới người đọc với đầy đủ 31 thiên truyện.
Nguyễn Đăng Na còn đi sâu phân tích về văn bản, tác giả, thể loại, nội dung của tác
phẩm này: “…Hồ Nguyên Trừng vẫn có một nỗi khắc khoải hướng về nơi chôn rau
cắt rốn, nơi đã nuôi dưỡng ông suốt 33 năm trời từ thuở lọt lòng (1374) đến khi bị
bắt và đã gửi hồn mình vào giấc “mộng” Nam Ông” [15; 28-36].
Tác giả Nguyễn Đăng Na quan tâm tới những đặc sắc trong Nam Ông mộng
lục. Theo ông, đó là những truyện dị văn, truyện “người thật, việc thật”. Bằng lối so
sánh liên tưởng độc đáo, ông viết như sau: “Như vậy, cánh bên này Hồ Nguyên
Trừng khép lại khuynh hướng nghệ thuật viết về truyện kỳ, dị, quái của giai đoạn
thế kỉ X –XIV, còn bên kia 80% (25/31 truyện), ông lại mở ra cánh cửa mới, viết về
người thật việc thật với mục đích biểu dương việc thiện của tiền nhân”. Tác giả
cũng phát hiện ra và đi sâu vào một vấn đề đặc sắc đó là những thi thoại mà “Trước
Hồ Nguyên Trừng kiểu loại truyện này chưa hề xuất hiện và sau ông cũng rất ít
người quan tâm”.
Là người nghiên cứu sâu về thể loại của Nam Ông mộng lục, khảo sát thống kê
số lượng chữ trong từng thiên truyện cụ thể, ông nhận thấy những thiên truyện trong
Nam Ông mộng lục có dung lượng rất ngắn. Từ đó, ông rút ra kết luận: “Hồ Nguyên
Trừng là người đầu tiên viết truyện rất ngắn, kiểu mi-ni” [15; 28-36]. Có thể nói,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuốn sách Nam Ông mộng lục mà Nguyễn Đăng Na giới thiệu là công trình nghiên
7
cứu toàn diện và sâu sắc nhất về tác phẩm này. Tuy nhiên xác định thể loại Nam Ông
mộng lục là “truyện rất ngắn, kiểu mi- ni” cũng cần phải xem xét, bàn bạc thêm.
Tác giả Nguyễn Huệ Chi đã giới thiệu về tác giả Hồ Nguyên Trừng và phân
tích kĩ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Nam Ông mộng lục. Ông quan
tâm tới nhân vật của tác phẩm: “Đó là những con người thuộc đủ mọi tầng lớp khác
nhau” gồm những vị vua “hiếu thảo, cung kính cần kiệm và quả đoán”, những nhà
nho “cương trực”, những dũng sĩ “trung nghĩa hết lòng”, những thầy thuốc “coi
trọng lương tâm hơn tính mạng”, những nhân vật tôn giáo “đầy uy tín và tài năng”...
Ông cũng nhận thấy giá trị của thi thoại “…một phần khoảng hơn mười bài cuối
sách, có tính chất thi thoại và những đoạn bình luận thi ca ít ỏi của ông lại còn đặc
sắc hơn”.
Nguyễn Huệ Chi cũng cho chúng ta thấy giá trị đặc sắc của tác phẩm này về
mặt thể loại: “…Cuốn sách là một tập ghi chép về các mẩu chuyện “người
thiện”,“người tài” của nước Đại Việt, những mẩu chuyện được hồi ức lại như những
giấc mơ về dĩ vãng của Hồ Nguyên Trừng…” [31; 638 -639]. Như vậy, nhà nghiên
cứu Nguyễn Huệ Chi đã đề cập tới một số vấn đề có liên quan tới thể loại song chưa
nêu lên được đầy đủ đặc điểm thể loại của Nam Ông mộng lục.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn là người có những đóng góp không nhỏ
với việc nghiên cứu Nam Ông mộng lục. Đồng quan điểm với Đinh Gia Khánh khi
cho rằng Nam Ông mộng lục thuộc thể loại truyện ký, nhà nghiên cứu nhận xét:
“Trên thực tế, rõ ràng Nam Ông mộng lục là một tập truyện ký và ghi chép hồi ký.
Tính chất truyện ký thể hiện ở việc tái hiện những nhân vật, sự kiện, chi tiết hiện
thực trung thành với những điều mắt thấy tai nghe.” [66; 171]. Tác giả cho rằng loại
truyện ký có thể không là ghi chép trực diện mà chỉ nghe kể lại, hồi ức về quá khứ.
Ở các thi thoại, tác giả còn phân tích tính chất dung hợp truyện ký – thơ khi nói
rằng các bài thơ này có thể tồn tại trong các truyện nhưng vẫn có thể đứng độc lập,
tự thân.
Với bài viết “Mối quan hệ văn sử trong tác phẩm Nam Ông mộng lục”, ông
đã thống kê, so sánh phân tích tỉ mỉ 31 thiên truyện trong tương quan với Đại Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sử kí toàn thư, miêu tả đầy đủ cụ thể mối quan hệ giữa hai tác phẩm này. Tác giả đã
8
nhận định: “có 6 truyện hầu như tương đồng, được chép nguyên dạng (số 2, 6, 12,
23, 24, 25); có 4 truyện được viết lại với mức độ nhiều ít khác nhau, có gia giảm,
sắp xếp lại câu chữ (số 3, 9, 14, 17)…”
Qua bài viết, tác giả cho thấy những mối liên hệ mật thiết giữa văn học và
lịch sử trong hai tác phẩm này bằng việc đưa ra nhận xét: “sự giao thoa, xuất nhập,
chuyển hóa văn bản giữa tác phẩm văn học và sử học” [65; 3-10] để từ đó làm nổi
rõ thêm tính chất “văn - sử - triết bất phân” của văn học trung đại. Như vậy, những
ý kiến của PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn là cơ sở quan trọng định hướng cho chúng tôi
nghiên cứu thể loại của Nam Ông mộng lục.
Ngoài những nhà nghiên cứu kể trên, chúng tôi cũng không thể không nhắc tới
nhiều nhà nghiên cứu khác như Nguyễn Phạm Hùng, Chu Quang Trứ, Tạ Ngọc
Liễn… đã có để tâm nghiên cứu về Nam Ông mộng lục. Tuy nhiên, vẫn chưa có một
công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về thể loại của tác phẩm Nam Ông mộng lục.
Nhận xét chung của chúng tôi là các công trình nghiên cứu của Nguyễn Huệ
Chi, Trần Văn Giáp, Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Hữu Sơn…cũng mới chỉ định danh
thể loại hoặc tìm hiểu một số khía cạnh trong thể loại (kết cấu, ngôn ngữ, nhân vật
…) của Nam Ông mộng lục mà chưa phân tích, đánh giá trọn vẹn về đặc điểm thể
loại của tác phẩm. Cho nên ở đề tài này, trên cơ sở định hướng nghiên cứu của
những người đi trước, chúng tôi sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu và tiến hành hệ thống
hóa những đặc điểm về thể loại của Nam Ông mộng lục, đưa ra những minh chứng
cụ thể để xác định thể loại tác phẩm một cách phù hợp. Từ đó, chúng tôi hi vọng sẽ
góp thêm cách nhìn về thể loại của một tác phẩm văn xuôi trung đại, đánh giá rõ nét
hơn vị trí của Nam Ông mộng lục và tác giả Hồ Nguyên Trừng trong lịch sử văn học
dân tộc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề văn bản Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng hiện nay vẫn còn
tiếp tục được khảo sát, nghiên cứu. Do yêu cầu của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu
nghiên cứu đặc điểm thể loại của Nam Ông mộng lục. Để thực hiện nhiệm vụ này,
chúng tôi nghiên cứu trên văn bản Nam Ông mộng lục do Ưu Đàm – La Sơn (1999)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
soạn dịch, chú giải, Nguyễn Đăng Na giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội. Có thể nói,
9
đây là cuốn sách tập hợp có cơ sở khoa học và đầy đủ nhất các truyện trong Nam
Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng tính tới thời điểm này.
Bên cạnh đó, để có cái nhìn đầy đủ, khách quan hơn, chúng tôi chọn nghiên cứu
thêm trong một vài tác phẩm văn học Việt Nam trung đại và tư liệu lịch sử để so sánh như
Đại Việt sử kí toàn thư, Việt điện u linh tập, Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích
quái lục…
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài sẽ đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề sau:
- Giới thuyết về tác giả, văn bản và tác phẩm Nam Ông mộng lục làm cơ sở
nghiên cứu đặc điểm thể loại của tác phẩm này.
- Tìm hiểu về mối quan hệ văn sử trong Nam Ông mộng lục với Đại Việt sử kí
toàn thư, với một số tác phẩm khác dưới góc nhìn thể loại và đánh giá giá trị của
mối quan hệ đó.
- Tìm hiểu và đánh giá vai trò của đặc điểm hỗn dung thể loại trong Nam Ông
mộng lục.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong công trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một số các phương pháp
chủ yếu sau:
5.1 Phương pháp thống kê
Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để khảo sát, thống kê toàn
bộ 31 thiên truyện trong Nam Ông mộng lục, làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá
về thể loại của tác phẩm này. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê để
xử lý thông tin trong các tư liệu lịch sử, tư liệu văn học được sử dụng để chứng minh các
luận điểm đã đưa ra.
5.2 Phương pháp hệ thống
Thể loại của Nam Ông mộng lục được xem xét trong mối tương quan với toàn
bộ hệ thống nhân vật, với cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ… Chúng tôi sử dụng phương pháp
hệ thống nhằm mục đích giúp cho việc tìm hiểu thể loại của Nam Ông mộng lục có cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhìn sâu sắc, đầy đủ hơn.
10
5.3 Phương pháp so sánh
Để thấy được các mối liên hệ đa dạng, đa chiều cũng như nét chung, nét
riêng độc đáo của thể loại tác phẩm Nam Ông mộng lục, luận văn sử dụng phương
pháp so sánh: So sánh, đối chiếu các truyện trong Nam Ông mộng lục với Đại Việt
sử kí toàn thư để thấy mối quan hệ văn sử trong các tác phẩm này. Đồng thời, nếu
có điều kiện, chúng tôi cũng so sánh Nam Ông mộng lục với các một số tác phẩm
khác để tìm hiểu về nét tương đồng và dị biệt giữa chúng…
5.4 Phương pháp phân tích, tổng hợp
Trước hết là phân tích, tổng hợp các cứ liệu đã khảo sát thống kê, từ đó rút ra
nhận xét ở các luận điểm. Trên cơ sở đó, kết quả chung sẽ được tổng hợp ở phần
tiểu kết của các chương và phần kết luận của luận văn.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn hi vọng sẽ cung cấp một cái nhìn đầy đủ, hệ thống về thể loại trong
Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng. Trên cơ sở đó, góp phần đưa đến cái
nhìn toàn diện hơn về tác phẩm Nam Ông mộng lục và vị trí của Hồ Nguyên
Trừng trong văn học trung đại Việt Nam.
Tiếp tục phương hướng nghiên cứu những đóng góp về nội dung và hình thức
nghệ thuật của Hồ Nguyên Trừng với nền văn học Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phần Phụ lục, luận
văn chia làm ba chương:
CHƢƠNG 1: VẤN ĐỀ TÁC GIẢ, VĂN BẢN VÀ THỂ LOẠI
CỦA NAM ÔNG MỘNG LỤC
CHƢƠNG 2: MỐI QUAN HỆ VĂN SỬ TRONG NAM ÔNG MỘNG LỤC
DƢỚI GÓC ĐỘ THỂ LOẠI
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM HỖN DUNG THỂ LOẠI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TRONG TRUYỆN KÝ NAM ÔNG MỘNG LỤC
11
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
VẤN ĐỀ TÁC GIẢ, VĂN BẢN VÀ THỂ LOẠI
CỦA NAM ÔNG MỘNG LỤC
1.1 Tác giả Hồ Nguyên Trừng
1.1.1 Cuộc đời
Hồ Nguyên Trừng sinh năm 1374, còn gọi là Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên,
hiệu là Nam Ông. Tổ tiên họ Hồ gốc ở Chiết Giang (Trung Quốc) làm quan ở Diễn
Châu thời Ngũ Đại. Qua 12 đời đến đời Hồ Liêm chuyển đến Đại Lại (Thanh Hóa).
Hồ Liêm làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn nên đổi sang họ Lê. Đến Hồ Quý Ly là
đời thứ tư. Hồ Nguyên Trừng là con trưởng của Hồ Quý Ly, lớn lên ở Thăng Long.
Thanh Hóa, Thăng Long là những vùng đất địa linh nhân kiệt, Hồ Nguyên Trừng
được tiếp nhận truyền thống văn hóa từ những vùng đất ấy.
Hồ Nguyên Trừng sống trong gia đình quan lại phong kiến. Gia đình cũng là
nhân tố ảnh hưởng lớn tới cuộc đời ông. Cha làm quan dưới thời Trần Nghệ Tông,
hơn nữa cha ông là người rất có tài (khởi xướng cuộc cách tân xã hội). Bản thân ông
cũng làm quan dưới thời Trần, Hồ. Năm 1393, ông làm Phán quan ở Thượng Lân
tự. Năm 1399, giữ chức Tư đồ dưới triều vua Trần Thuận Tông. Năm 1400, Hồ Quý
Ly lật đổ nhà Trần lên làm vua, sau đó nhường ngôi cho Hồ Hán Thương, Hồ
Nguyên Trừng giữ chức Tả tướng quốc. Điều đó khiến ông am hiểu về cuộc sống
của tầng lớp vua chúa, quý tộc, quan lại, trí thức phong kiến thời Trần, Hồ. Sự xuất
hiện đậm nét của những nhân vật ấy trong Nam Ông mộng lục có thể là ám ảnh từ
những gì ông đã chứng kiến và hiểu biết.
Năm 1406, giặc Minh sang xâm lược nước ta. Trước nguy cơ ngoại xâm,
triều đình nhà Hồ bàn bạc nên hòa hay nên đánh, Hồ Nguyên Trừng cùng cha và em
tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống xâm lược. Ông cũng là người tỉnh
táo, sáng suốt khi nhận định vấn đề lòng dân: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân
không theo thôi”. Sau đó, Hồ Nguyên Trừng thống lĩnh binh mã chống giặc ở cửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biển Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nhưng thất bại. Năm 1407, toàn bộ gia tộc họ Hồ bị bắt về
12
Trung Quốc. Sự thất bại này đã được Hồ Nguyên Trừng nhận thấy từ trước. Đó là
một tất yếu lịch sử gắn liền với sự thất bại của công cuộc cải cách chính trị, kinh tế
do Hồ Quý Ly khởi xướng mà không được sự ủng hộ của nhân dân.
Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương bị đưa về Kim Lăng (Trung Quốc) và bị xử
cực hình. Chỉ có Hồ Nguyên Trừng và Hồ Nhuế (con trai Hồ Hán Thương) được
tha. Từ tháng 5 năm 1407 đến tháng 7 năm 1446 là thời gian Hồ Nguyên Trừng
sống ở Trung Quốc. Nhờ có tài chế tạo súng thần công, ông được nhà Minh trọng
dụng. Ban đầu giữ chức Chủ sự, sau thăng dần lên Tả thị lang rồi đến Thượng thư
bộ Công. Cũng trong thời gian này, ông viết cuốn Nam Ông mộng lục (hoàn thành
năm 1438) ghi lại hồi ức của ông về xã hội, con người Việt Nam dưới thời Lý –
Trần – Hồ. Năm 1446, ông qua đời, được an táng tại thôn Nam An Hà, vùng Sơn
Tây (nay thuộc Bắc Kinh – Trung Quốc) - một vùng đất nổi tiếng mà không nhiều
danh nhân Trung Quốc có vinh dự được an táng ở nơi này.
1.1.2 Con người
Về con người Hồ Nguyên Trừng, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na đã nhận
định: “Với tình hình tư liệu hiện nay, chưa nên vội kết luận, có lẽ phải tìm hiểu
thêm những người Việt Nam bị bắt khi đó, chẳng hạn như Tổng công trình sư
Nguyễn An…xem thái độ của họ đối với triều Minh ra sao, trên cơ sở đó ta sẽ nhìn
nhận Hồ Nguyên Trừng một cách đầy đủ và khách quan hơn” [15; 26]. Tuy nhiên,
với tài năng của Hồ Nguyên Trừng, chúng tôi thiết nghĩ nên trân trọng và đánh giá
đúng về những đóng góp lớn lao của Hồ Nguyên Trừng với đất nước, nhất là trên
lĩnh vực khoa học kĩ thuật và văn học.
Hồ Nguyên Trừng là người đa tài. Ông được coi là ông tổ của ngành chế tạo
vũ khí khi sáng tạo ra súng thần công (thần cơ hỏa sang), làm rạng rỡ cho lịch sử
khoa học kĩ thuật của nước nhà. Nhiều sách viết lại rằng khi người Minh làm lễ tế
vũ khí thì cũng làm lễ tế ông, như thế cũng có nghĩa người Minh tôn ông làm Tổ sư
của ngành chế tạo vũ khí. Ông cũng là một kiến trúc sư, tương truyền bản vẽ thành
Tây Đô (Thanh Hóa) là của ông. Đây là một công trình có quy mô đồ sộ vào thời
bấy giờ; dấu tích còn lại hiện nay là thành nhà Hồ - một trong những di sản văn hóa
thế giới. Với vai trò một nhà quân sự, ông là một vị tướng chỉ huy đội quân chống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giặc Minh xâm lược.
13
Với tác phẩm Nam Ông mộng lục, Hồ Nguyên Trừng là một nhà văn hải
ngoại có vị trí đặc biệt. Qua những trang văn của ông, ta thấy Hồ Nguyên Trừng là
người có tấm lòng yêu nước. Những năm tháng cuối đời ở Trung Quốc, ông viết
Nam Ông mộng lục thể hiện tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc với những trăn trở
khôn nguôi như tác giả Đinh Gia Khánh đã nhận xét: “thể hiện tâm sự nhớ nước của
tác giả và mối hoài niệm về văn vật của nước Đại Việt” [39; 135- 138]. Hơn nữa,
với quan niệm “dương tiền nhân chi phiến thiện”, Hồ Nguyên Trừng biết trân trọng
những việc thiện, người tốt, dù là nhỏ nhất; điều đó chứng tỏ ông không chỉ có tâm
thiện mà còn coi trọng đạo đức và ý thức rất cao giữ gìn vốn văn hóa tốt đẹp của
dân tộc.
1.1.3 Quan niệm về văn chương của tác giả
Khái niệm “quan niệm” đã được hiểu là: “ý niệm đối với một việc gì theo
quan sát của ta” [77; 877]. Một cuốn từ điển khác do Hoàng Phê chủ biên định
nghĩa “quan niệm” như sau:
1. Hiểu, nhận thức như thế nào về một vấn đề: Chúng ta quan niệm như thế
là đúng.
2. Sự nhận thức như thế nào đó về một vấn đề, một sự kiện: Một quan niệm
sai lầm. Những quan niệm đúng đắn về cuộc sống. [57; 348].
Quan niệm về văn chương của một nhà văn thể hiện ở cách nhìn về cuộc đời,
con người, về hiện thực, về nghệ thuật. Quan niệm này được xem như cội nguồn tư
tưởng của nhà văn, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như địa vị xã hội, giai cấp, vốn
sống, trình độ văn hóa, năng lực…Ngay trong lời tựa cuốn sách, Hồ Nguyên Trừng
quan niệm viết tác phẩm Nam Ông mộng lục vì mục đích “nhất dĩ dương tiền nhân
chi phiến thiện, nhất dĩ tư quân tử chi dị văn” (một mặt để nêu ra những việc thiện
nhỏ của tiền nhân, một mặt để cung cấp những chuyện dị văn cho người quân tử).
Sinh trưởng trong xã hội phong kiến, làm quan dưới triều Trần – Hồ, Hồ Nguyên
Trừng có cách nhìn của một người trí thức phong kiến tiến bộ khi ông nêu ra những
vấn đề cốt lõi của văn chương đương thời: Văn chương có tính chất giáo huấn.
Trước hết, ông viết văn nhằm mục đích: “dương tiền nhân chi phiến thiện”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quan niệm này ảnh hưởng từ quan niệm về tính “thiện” của đạo đức Nho giáo.
14
Khổng Tử đã từng nói: “Phàm nhân chi tri, năng kiến dĩ nhiên, bất kiến tương
nhiên. Lễ giả cấm ư tương nhiên chi tiền, nhi pháp giả cấm ư dĩ nhiên chi hậu…Lễ
vân, lễ vân, quý tuyệt ác ư vị manh, nhi khởi kính ư vi diểu, sử dân nhật tỉ thiện
viễn tội nhi bất tự tri dã”(Dịch là: Phàm cái biết của người ta chỉ biết cái đã có rồi,
không biết được cái sắp có. Lễ là để cấm trước cái sắp có, pháp luật là để cấm sai
cái đã có rồi…Lễ vậy, lễ vậy, lễ quý là dứt được điều ác từ lúc chưa nảy mầm ra,
dấy lòng kính ở chỗ dân không trông thấy, để cho dân ngày ngày đêm gần điều
thiện, xa điều tội, mà tự mình không biết) (Đại đái lễ ký: Lễ tế) [40; 119]. Quan
niệm này thể hiện rõ nhất trong quan điểm của Mạnh Tử về “tính thiện”. Mạnh Tử
coi tính thiện là bản chất bẩm sinh của con người. Ông nói: “Nhân tính chi thiện dã,
do thủy chi tự hạ dã: Nhân vô hữu bất thiện, thủy vô hữu bất há” (Dịch: Tính người
ta vốn lành như nước chảy xuống chỗ thấp vậy: Người ta không ai là không thiện,
nước không lúc nào là không chảy xuống thấp) và khẳng định “Nãi nhược kì tình,
tắc khả vi thiện hỹ, nãi sở vị thiện dã. Nhược phù vi bất thiện, phi tài chi tội dã”
(Dịch: Bản tính của con người ta là thiện. Còn như người ta có làm những điều bất
thiện chẳng qua là họ theo tư dục của mình chứ không phải bản tính của con người
ta là như vậy) (Cáo tử thượng) [40; 182- 183]. Tính thiện tự nhiên ấy thể hiện ở bốn
mặt: nhân, nghĩa, lễ, trí: “Người ta ai cũng có lòng trắc ẩn, ai cũng có lòng tu ố, ai
cũng có lòng cung kính, ai cũng có lòng thị phi. Lòng trắc ẩn là nhân, lòng tu ố là
nghĩa, cung kính là lễ, lòng thị phi là trí. Nhân nghĩa lễ trí, không phải ở ngoài mà
đúc lên đâu, ta vốn có sẵn cả, chỉ vì không nghĩ đến mà thôi” [40; 183]. Trên nền
đạo đức ấy, nếu được giáo dục tốt, con người sẽ trở nên cực thiện; nếu không được
giáo dục tốt, bản tính tốt sẽ bị mai một và tiêm nhiễm nhiều thói xấu. Vì thế mà
Mạnh Tử và nhiều nhà Nho khác luôn chủ trương giáo dục đạo đức là hàng đầu,
trong đó đề cao tính thiện và các biểu hiện của nó như nhân, nghĩa, lễ, trí. Như vậy,
những tư tưởng này đã ảnh hưởng không nhỏ tới quan niệm của các nhà Nho giai
đoạn sau trong đó có Hồ Nguyên Trừng. Nhớ lại những trang mở đầu của Bình Ngô
đại cáo – áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc - chúng ta không khỏi xúc động tự
hào khi những đạo lí thánh hiền của Nho giáo đã được chuyển hóa thành “tư tưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhân nghĩa” mang truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam với những việc thiện
15
có ý nghĩa. Có lẽ Nguyễn Trãi là người đầu tiên quan tâm tới số phận của những
con người nhỏ bé dưới tội ác tày trời của giặc Minh:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
….
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Trong tác phẩm Nam Ông mộng lục, Hồ Nguyên Trừng chứng minh cho
quan điểm đạo đức của mình. Ở nơi đất khách quê người, ông viết tác phẩm này để
bày tỏ sự ngưỡng vọng về một vùng đất đã gắn bó với ông từ thuở ấu thơ. Đối với
ông, nước Nam là vùng đất trù phú giàu có, nền văn hóa phồn thịnh với nhiều nhân
tài nhưng vì binh lửa mà sách vở bị mất mát gần hết. Ông đi sưu tầm lại chuyện cũ,
tập hợp lại thành sách lấy tên là Nam Ông mộng lục. Việc làm ấy trong hoàn cảnh
xa xứ cũng là một việc “thiện” của ông đối với những giá trị văn hóa của dân tộc,
đối với đất nước. Nhờ thế mà người nước ngoài biết đến con người Việt Nam,
phong tục, truyền thống của dân tộc Việt. Từ quan điểm biểu dương những việc
thiện của tiền nhân, Hồ Nguyên Trừng chỉ tập trung vào mục đích “khuyến thiện”.
Những việc thiện nhỏ trong đời sống cũng được ông ghi chép lại với sự trân trọng vì
ông cho rằng nó rất có ý nghĩa: Việc vua Nghệ Vương thờ vua cha “suốt ba năm để
tang, mắt ngài không lúc nào ráo lệ” (Truyện số 1) là tấm gương về đạo hiếu;
chuyện bà chính phi họ Lê thấy con bất tài nên khóc lóc cho con xin thoái vị
(Truyện số 5) là câu chuyện đáng ca ngợi về tấm gương từ mẫu. Chúng ta còn bắt
gặp trong Nam Ông mộng lục tấm lòng trung nghĩa của Trần Nguyên Đán khi dùng
lời ngay thẳng để can gián nhưng Dụ Vương không nghe nên ông cáo quan về
(Truyện số 21)…Các nhân vật của Nam Ông mộng lục đều là những tấm gương
sáng cho đời sau học tập. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na viết: “…con người
trong Nam Ông mộng lục hiện ra như những hạt ngọc dù chỉ là hạt ngọc nhỏ xíu
nhưng ngời lên một ánh sáng trong trẻo, trong trẻo đến lạ thường” [15; 31]. Vì thế,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hồ Nguyên Trừng luôn dành cho họ sự trân trọng, ngợi ca.
16
Ông chủ trương không nói tới cái ác, dù điều xấu ông cũng gặp, cũng nghe:
“Việc thiện tôi thích nghe nên nhớ được; việc bất thiện không phải không có, nhưng
tôi không nhớ” [15; 44]. So sánh với Lĩnh Nam chích quái lục, chúng ta thấy quan
niệm này có sự khác biệt vì tác phẩm này viết nhằm mục đích: “khuyên điều thiện,
răn điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến khích phong tục” [43]. Có lẽ khi nhớ về quê
hương, trong tâm hồn ông không có chỗ cho cái xấu, cái ác ngự trị mà những việc
tốt đẹp mới là những điều ông nhớ mãi. Phải chăng ông đang mơ ước về một vùng
đất với cuộc sống của những con người nhân ái, có truyền thống văn hóa tốt đẹp?
Thời trung đại, văn học mang tính giáo huấn rất phổ biến, bởi văn học là một
hiện tượng xã hội. Quan niệm của xã hội về văn học có ảnh hưởng đến thực tiễn
sáng tác: từ mục đích viết văn đến phạm vi đề tài, hình thức thể loại, ngôn
ngữ…Trong xã hội phong kiến, văn học viết là văn học chính thống, là sản phẩm
của trí thức phong kiến, được viết bằng chữ Hán, chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Quan niệm văn học của Nho giáo, được du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam, biểu
hiện một cách tập trung trong hai mệnh đề “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” (Theo
ý kiến của Giáo sư Bùi Duy Tân thì quan niệm “thi dĩ ngôn chí” đã được gói gọn
trong quan niệm “văn dĩ tải đạo”). Quan niệm “văn dĩ tải đạo” của nhà nho là: đề
cao văn học, thấy ở văn học cái khả năng to lớn làm xúc động, cải hóa con người,
cho văn học một vị trí cao quý, xác định văn học là phương tiện giáo hóa lòng
người, hạn chế dục vọng, là công cụ chính động viên, tổ chức xã hội nhằm biến ước
mơ thành hiện thực…Những quan niệm này khi vào Việt Nam đã kết hợp với tinh
thần dân tộc nên nó mang tư tưởng tiến bộ, chủ yếu lí giải những vấn đề trọng đại
và thiết thực của đất nước: Văn học cổ vũ sự nghiệp chống ngoại xâm, xây dựng Tổ
quốc, đề cao ý thức tự lập, tự cường và bồi dưỡng phẩm giá con người. Văn học đã
góp phần hình thành nên những truyền thống quý báu của dân tộc đó là chủ nghĩa
anh hùng và chủ nghĩa nhân đạo [68], [70].
Quan niệm “văn dĩ tải đạo” khẳng định ý nghĩa giáo dục của văn nghệ nhưng
lại được nhìn nhận dưới góc độ luân lí đạo đức hơn góc độ mĩ học. Quan niệm này
cho rằng văn học phải trực tiếp biểu hiện đạo lí. Do đó, các tác giả trung đại thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nêu bật đạo lí thánh hiền, phẩm chất và chí hướng của người quân tử, những chân lí
17
vĩnh hằng trong các loại thơ như “ngôn chí” “tự giới”…mà ít cho phép cái tôi cá
nhân xuất hiện.
Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có hẳn một mảng thơ ca mang tính
quy phạm - mảng thơ răn dạy đạo đức:
Làm người phải giữ đạo Trung dung.
(Bài 1)
Ngỏ cửa nho chờ khách đến,
Trồng cây đức để con ăn.
(Bài 27)
Đến Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta vẫn thấy quan niệm ấy thể hiện trong các
sáng tác của ông như Lục Văn Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư tiều y thuật vấn
đáp…
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Bên cạnh đó, Hồ Nguyên Trừng viết Nam Ông mộng lục còn nhằm mục đích
“cung cấp những chuyện dị văn cho người quân tử”. Chuyện “dị văn” mà ông nói
tới ở đây là những chuyện có yếu tố kì ảo. Viết truyện quái, dị, kỳ là một khuynh
hướng thẩm mĩ phổ biến chi phối các tác giả văn học trung đại trong các tác phẩm
Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục, Thiền uyển tập anh và sau này là
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục… Trong bài tựa sách Lĩnh Nam chích quái
lục, Vũ Quỳnh, Kiều Phú cho rằng: “Việc tuy kì dị mà không quái đản, văn tuy thần
bí mà không nhảm nhí, tuy nói những chuyện hoang đường mà tung tích vẫn có
bằng cớ, há chẳng phải là khuyên điều thiện, trừng điều ác, bỏ giả theo thật để
khuyến khích phong tục đó ru!” [43].
Song thực tế cho thấy rằng những chuyện dị văn mà Hồ Nguyên Trừng nói
trên đều là “người thực việc thực” được ghi chép trong sử sách. Phần lớn những câu
chuyện xảy ra từ thời Lý cho tới thời Trần, Hồ đều được biên chép cụ thể, rõ ràng:
Nhân vật là những người có thật như vua Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông…, các
quan lại như Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trung Ngạn, bậc danh sĩ như Chu Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
An… Những truyện này tuy chiếm số lượng không nhiều (6/31 thiên truyện) song
18
lại có sức hấp dẫn riêng. Các yếu tố kì ảo xuất hiện chủ yếu để tô đậm thêm tài
năng, đức độ của những nhân tài đất Việt và thể hiện sự ngưỡng vọng của tác giả
cũng như của nhân dân ta dành cho những danh nhân ấy mà thôi.
Từ xưa tới nay, nhân dân ta luôn trân trọng nhân tài, coi trọng đạo đức. Với
mục đích ca ngợi “điều thiện” và cung cấp truyện “dị văn” của con người Việt Nam,
Hồ Nguyên Trừng đã góp thêm tiếng nói thể hiện tấm lòng yêu nước, niềm tự hào
dân tộc sâu sắc. Tuy ở nơi đất khách quê người, song tấm lòng hướng về đất nước
của Hồ Nguyên Trừng thật đáng quý. Ông cũng đã giới thiệu với bạn bè hình ảnh
một đất nước Việt Nam với những người tài năng và nhân cách cao đẹp.
1.2 Văn bản Nam Ông mộng lục
1.2.1. Quá trình truyền bản nguyên tác chữ Hán
Trần Văn Giáp là người đầu tiên miêu tả về văn bản Nam Ông mộng lục: “1
quyển…26 tờ…trong bộ tùng thư Hàm phân lâu bí kíp, tập thứ 9, in ảnh theo kiểu
viết tay cũ từ thời Minh, ký hiệu P521, 21; 493; 495” và nói rõ sách đề 31 thiên mục
nhưng chỉ có 28 thiên, thiếu mất ba thiên mục là “Mệnh thông thi triệu”, “Thi chí
công danh”, “Tiểu thi lệ cú”. Ông cũng nêu sơ lược quá trình truyền bản như sau:
Đào Dĩnh in trong bộ tùng thư Tục thuyết phu chỉ có mục số 1 tới số 8 và số 12;
Thẩm Tiết Phủ trong bộ tùng thư Kỷ lục vựng biên cũng gồm 9 mục như Đào Dĩnh;
Bản in Hàm phân lâu bí kíp thì đủ các bài tựa của các tác giả, chỉ thiếu ba mục kể
trên [ 22; 45-49].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na miêu tả tỉ mỉ, chi tiết quá trình truyền bản
nguyên tác chữ Hán Nam Ông mộng lục qua hai con đường: Vựng tập và biệt tập.
Ông còn miêu tả bằng hệ thống sơ đồ [15; 16].
- Vựng tập: Năm 1438, Lê Trừng viết xong Nam Ông mộng lục. Khoảng 150
năm sau, Thẩm Tiết Phủ đưa vào Kỷ lục vựng biên và được Dương Tiễn Trần Thị san
bản vào năm 1617 với đầy đủ 31 thiên truyện. Đến thời Thanh, Đào Dĩnh tăng bổ
Thuyết phu thành Thuyết phu tục, tuyển 9 thiên từ Nam Ông mộng lục. Cũng vào triều
Thanh, tùng thư Ngũ triều tiểu thuyết ra đời cũng có 9 thiên như Thuyết phu tục.
Theo các sách ghi chép lại có thể coi Kỷ lục vựng biên là tùng thư mang tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vựng tập đầu tiên in toàn văn Nam Ông mộng lục. Chỉ biết rằng sau đó, các bản in
19
Tập thành sơ biên (1935), một bản Kỷ lục vựng biên khác (1936), Bách bộ tùng thư
tập thành cũng in theo ảnh ấn Kỷ lục vựng biên. Năm 1985, in lại Tập thành sơ biên
cũng bằng cách ảnh ấn. Năm 1986, Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san cũng in
theo Kỷ lục vựng biên.
- Biệt tập: Theo lời của Tống Chương thì năm 1442 ông đã sai người khắc in
bản Nam Ông mộng lục. Như thế, Nam Ông mộng lục đã tồn tại như một biệt tập
gồm 31 thiên truyện cùng với hai bài “Tựa” (một của tác giả Hồ Nguyên Trừng,
một của Hồ Huỳnh) và một bài “Hậu tự” của Tống Chương. Đến đầu thế kỉ XX,
Tôn Dục Tu tìm được một bản sao và đưa nó vào trong tùng thư Hàm phân lâu bí
kíp của mình (1920). Khi tái bản, Hàm phân lâu giống như bản năm 1920.
Đến đây, Nam Ông mộng lục trong Hàm phân lâu bí kíp không tồn tại như
một biệt tập mà trở thành vựng tập. Nam Ông mộng lục trong sách này là bản đầy
đủ nhất gồm 31 thiên truyện của Hồ Nguyên Trừng, 2 bài “Tựa” của Hồ Nguyên
Trừng và Hồ Huỳnh, bài “Hậu tự” của Tống Chương, bài “Bạt” của Tôn Dục Tu.
Năm 1986, Trần Ích Nguyên đã lấy toàn bộ Nam Ông mộng lục trong Tập thành sơ
biên và ba bài (“Tựa” của Hồ Huỳnh, “Hậu tự” của Tống Chương, “Bạt” của Tôn
Dục Tu) trong Hàm phân lâu và thêm “Lời thuyết minh” để tạo thành bản hoàn
thiện trong sách Việt Nam Hán văn tiểu thuyết .
Như vậy, Nguyễn Đăng Na và một số nhà nghiên cứu văn học đã có những
đóng góp lớn khi nghiên cứu về quá trình truyền bản nguyên tác chữ Hán Nam Ông
mộng lục, nhất là đã đính chính được những sai sót, giúp cho người đọc và các nhà
nghiên cứu có được văn bản hoàn chỉnh về tác phẩm này.
1.2.2. Quá trình hoàn chỉnh các bản dịch Quốc ngữ
Theo như văn bản Nam Ông mộng lục do Ưu Đàm – La Sơn soạn dịch, chú
giải, Nguyễn Đăng Na giới thiệu cho biết thì hiện nay ở Việt Nam có ba bản dịch
mà tác giả gọi là bản D1, D2, D3.
D1: Bản dịch trong sách Tổng tập văn học Việt Nam (1994), tập 3 do Trần Lê Sáng
(chủ biên), Trần Nghĩa, Đào Thái Tôn, Phạm Đức Duật (sưu tầm, biên soạn), Nxb
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Khoa học, Hà Nội.
20
D2: Bản dịch trong sách Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (1992), tập 1 do
Trần Nghĩa chủ biên, Nxb Thế giới, Hà Nội.
D3: Bản dịch trong sách Nam Ông mộng lục do Ưu Đàm – La Sơn (1999) soạn
dịch, chú giải, Nguyễn Đăng Na giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.
Khi đối chiếu ba bản dịch, Nguyễn Đăng Na nhận xét “về cơ bản D2 = D3 =
D1, cũng có nghĩa ở Việt Nam hiện nay chỉ có một dịch bản” và bản dịch D3 là bản
Nam Ông mộng lục “gần với diện mạo vốn có của nó” [15].
Khi tìm hiểu về các bản dịch này, chúng tôi nhận thấy những đóng góp
không nhỏ của những nhà dịch thuật, các nhà nghiên cứu văn học trong việc hoàn
chỉnh các bản dịch Quốc ngữ của tác phẩm Nam Ông mộng lục.
1.3 Thể loại
1.3.1 Lí thuyết về thể loại và vấn đề thể loại trong văn học trung đại Việt Nam
1.3.1.1 Lí thuyết về thể loại
Thể loại là vấn đề quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn học từ xưa tới nay.
Khái niệm này người phương Tây gọi là “genre”, người Trung Quốc gọi là “thể tài”.
Nói đến thể loại, các nhà nghiên cứu văn học thường bàn tới khái niệm loại thể và
thể loại.
Loại là khái niệm rộng hơn bao hàm các thể, thể nhỏ nằm trong loại, có khi
trong một thể lại có nhiều thể nhỏ hơn nữa: “Loại thể văn học là yếu tố về mặt hình
thức, là phương tiện biểu hiện nội dung của tác phẩm. Nó chịu sự chi phối của nội
dung nhưng cũng ảnh hưởng tích cực đến nội dung và có những mặt phát triển độc
lập” [16; 3]. Người ta cũng thấy loại thể văn học là hình thức đòi hỏi người cầm bút
phải khuôn theo nó để sáng tác sao cho nội dung của tác phẩm bộc lộ rõ ràng và
thích hợp, sự lĩnh hội của người đọc đạt được mức độ rung cảm sâu sắc với đối
tượng được miêu tả.
Từ xưa tới nay, người ta vẫn thường chia văn học thành ba loại hình lớn
(theo quan điểm của Aritxtốt): Tự sự, trữ tình, kịch: “Khi muốn viết về những hiện
tượng xảy ra trong đời sống bằng cách kể lại diễn biến cụ thể của sự kiện, nhà văn
dùng lối tự sự, khi muốn bộc lộ những tình cảm tâm sự cá nhân do sự việc bên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngoài gây nên, nhà văn dùng lối trữ tình. Khi muốn miêu tả hiện thực với những
21
khía cạnh tập trung, bằng hành động để thể hiện tình trạng căng thẳng của mâu
thuẫn, tác giả dùng lối kịch” [67; 15].
Nhiều công trình lí luận văn học đã định nghĩa về khái niệm thể loại văn học.
Thể loại văn học là: “Dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại
tương đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, thể hiện ở sự giống
nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống
được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng
đời sống ấy” [20; 299]. Thể loại tác phẩm văn học còn được hiểu là khái niệm chỉ
quy luật loại hình của tác phẩm trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có
một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể. Như
vậy, thể loại văn học thuộc về phương thức, cách thể hiện cuộc sống trong văn học
cũng như cách cấu tạo và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ thể. Mỗi thể
loại là một khối thống nhất những đặc điểm hình thức trên những điểm căn bản: kết
cấu, hình tượng, ngôn từ…qua đó thể hiện cách cảm, cách nghĩ, thái độ và tâm
trạng của con người trước cuộc sống.
Tác phẩm văn học nào cũng có một hình thể, một “thể” cấu tạo, không có tác
phẩm văn học nào nằm ngoài thể loại. Nói tới thể loại là nói tới cách tổ chức tác
phẩm văn học, “một kiểu tái hiện đời sống” và một “kiểu giao tiếp nghệ thuật” (Trần
Đình Sử). Các tác phẩm thi ca từ Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi đến Phan Bội
Châu…tuy khác nhau về nội dung tư tưởng nhưng cũng có những mặt gần gũi về
điệu cảm xúc tâm hồn, về ý thức biểu hiện thế giới nội cảm của nhà thơ như nhà
nghiên cứu văn học người Nga Bakhtin đã từng nói: “Mỗi thể loại (nhất là những thể
loại lớn) thể hiện thái độ thẩm mĩ đối với hiện thực, một cách cảm thụ nhìn nhận, giải
minh về thế giới và con người. Thể loại là vị trí nhớ siêu cá nhân của nghệ thuật với
tích lũy, đúc kết những kinh nghiệm nhận thức thẩm mĩ thế giới” [5 ; 125].
Nghiên cứu thể loại tác phẩm văn học là một công việc hết sức phức tạp.
Việc định danh thể loại từ xưa đến nay không phải là một vấn đề đơn giản. Mối
quan hệ giữa thể loại và tên gọi thể loại trong nghiên cứu và trong thực tiễn có hiện
tượng “so le”, “vênh lệch”. Chẳng hạn, L.Tônxtôi không gọi Chiến tranh hòa bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là “tiểu thuyết” nhưng thực tế ai cũng gọi nó bằng tên này, Gôgôn gọi Những linh
22
hồn chết là “trường ca”, Gorki gọi Cuộc đời Klim Xamghin dài gần nghìn trang và
cả Người mẹ là “truyện vừa” trong khi người ta vẫn gọi là tiểu thuyết. “Mỗi thể loại
tiêu biểu cho một hình thức giao tiếp giữa tác giả với người đọc. Giao tiếp bằng thơ,
bằng truyện, bằng kịch… Không phải ngẫu nhiên mà sau khi sáng tác xong một tác
phẩm, tác giả trân trọng ghi tên thể loại vào tác phẩm. Ghi như vậy nhằm thông báo
cho người đọc nội dung và hình thức giao tiếp đặc trưng của tác phẩm… Hoặc xa
xưa hơn tên thể loại là một bộ phận không thể tách rời của nhan đề tác phẩm…”
[67; 144]. Do những quan điểm khác nhau mà dẫn tới việc không thống nhất trong
việc phân loại và định danh thể loại.
Hơn nữa, tính chất tương đối của ranh giới thể loại còn biểu hiện ở sự thâm
nhập lẫn nhau giữa các thể loại văn học. Trong tiểu thuyết thời hiện đại có sự thâm
nhập của yếu tố ký tạo điều kiện cho nhà văn nắm bắt hiện thực một cách chủ động.
Trong tác phẩm của Nguyễn Khải như Cha và con và…, Bạn bè trên Tây Nguyên,
Gặp gỡ cuối năm…mang tính chất phóng sự xen lẫn tiểu thuyết. Đối với thơ, bên
cạnh chất trữ tình là chủ yếu nay đã gia tăng thêm “chất văn xuôi của đời sống và
chất chính luận của sự nhận thức và bình luận các vấn đề xã hội” [20; 163]. Tập thơ
Những bài thơ đánh giặc (Chế Lan Viên), Vầng trăng và quầng lửa (Phạm Tiến
Duật) đều là trường hợp như trên. Hiện tượng thâm nhập giữa các thể loại văn học
đã không những thể hiện sự phức tạp của đời sống mà còn biểu hiện sức sáng tạo
tuyệt vời của người nghệ sĩ.
Trên cơ sở lí thuyết về thể loại, chúng tôi tìm hiểu một số các khái niệm
có liên quan đến luận văn như: Truyện, kí, truyện kí để góp phần định danh thể loại
của Nam Ông mộng lục.
Trước hết, “Truyện là một khái niệm rộng bao gồm các thể tài chủ yếu
thuộc loại hình tự sự, tự sự có nghĩa là kể chuyện. Và có kể chuyện ắt là có truyện.
Cho nên đặc trưng của loại hình tự sự cũng là đặc trưng của truyện nói chung” [16;
5]. “Truyện” thường chỉ tác phẩm văn học như một bản kể có miêu tả nhân vật, diễn
biến sự kiện thú vị như truyện cổ tích, truyện thần thoại….Quan trọng nhất trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
truyện là cốt truyện và nhân vật.
23
Khái niệm ký: “Thể ký, như cái tên đặt cho nó đã nói lên các đặc điểm cơ
bản của nó là thể văn dùng để ghi lại sự việc, ý nghĩ, cảm xúc…” [16; 59]. Nói đến
ký, chủ yếu là nói tới văn xuôi ghi chép, miêu tả và biểu hiện những sự việc con
người có thật trong cuộc sống
Một thể loại trung gian giữa thể loại truyện và kí là thể loại truyện kí:
“Truyện kí thường viết về nhân vật có một vị trí quan trọng đối với lịch sử. Truyện
kí gần với kí vì nó là thể văn tự sự về người thật, việc thật vì thế nó sát nguyên mẫu
trong thực tế nhưng đồng thời nó cũng là truyện cho nên nhà văn có quyền sắp xếp
thêm bớt và hư cấu một số tình tiết về nội tâm nhân vật” [16; 68-69]. Thông thường
truyện ký viết về những tấm gương đạo đức, những người tài, những anh hùng với
chiến công lừng lẫy… trong đời sống xã hội. Nhà văn dựng lên một số nhân vật
chính, nhân vật phụ hay một số nét về hoàn cảnh dựa vào quy luật phát triển lôgic
của nhân vật và của xã hội để nhân vật lịch sử tái hiện một cách đầy đủ, tập trung,
sinh động hơn. Thể loại này có mặt trong văn trung đại và cả trong văn học hiện đại.
Khái niệm truyện kí nêu trên tuy là khái niệm của văn học hiện đại song nó
đã thể hiện được tính chất trung gian giữa truyện và kí, rất phù hợp với việc định
danh thể loại của một số tác phẩm văn học trung đại, trong đó có Nam Ông mộng
lục của Hồ Nguyên Trừng.
Vận dụng những lí thuyết chung về thể loại nêu trên, chúng tôi mong muốn
có cái nhìn sâu hơn về về thể loại văn học trung đại nói chung và có cơ sở để tìm
hiểu thể loại của Nam Ông mộng lục.
1.3.1.2 Vấn đề thể loại trong văn học trung đại Việt Nam
Đã có một số công trình nghiên cứu về thể loại của văn học trung đại. Thực
tế cũng chỉ ra rằng, các thể loại của văn học trung đại có rất nhiều những điểm khác
biệt so với những thể loại của văn học hiện đại…
a) Đặc điểm của văn học trung đại
* Tính đa chức năng của thể loại văn học trung đại
Văn học trung đại là loại hình văn học nguyên hợp: “Văn - sử - triết bất
phân”. Có những thể loại thuần túy như thơ, phú; có những thể loại mang tính chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lịch sử như: chí, lục, truyện…; có thể loại mang tính chất chính trị, hành chính như
24
chiếu, biểu, hịch, cáo, luận thuyết…vì chúng gắn với hoạt động Nhà nước, tôn
giáo…Đúng như Đ. Likhatrốp có nói: “Thể loại văn học được xác định bởi công
dụng của nó trong hành lễ tôn giáo, trong thực tiễn xét xử luật pháp, và trong bang
giao, trong đời sống của các vương công…” [67; 106]. Trong mỗi tác phẩm văn học
có thể pha xen văn vần, văn xuôi, văn biền ngẫu, ví dụ Truyền kì mạn lục có pha
xen thơ, từ, văn tế, văn biền ngẫu [13]. Nguyên tắc “Văn- sử - triết bất phân” đã tạo
nên một “phẩm chất riêng biệt” của thể loại văn học Lý - Trần, trong một văn bản
văn học có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như văn học, triết học, tôn giáo,
lịch sử, chính trị [21]. Và như thế, chúng ta hiểu rằng tác phẩm văn học cũng là tác
phẩm lịch sử, triết học, dư địa chí…Tác phẩm Thiền uyển tập anh là cuốn sách ca
ngợi các vị thiền sư vì thế nó mang đậm màu sắc Phật giáo: những giáo lí nhà Phật,
những mô típ quy tịch của các thiền sư, những bài kệ…Hay một tác phẩm khác
mang tính chất chính trị, quân sự như Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi -
áng văn có “sức mạnh hơn mười vạn quân” - vừa là vũ khí sắc bén khi đấu tranh với
kẻ thù lại vừa có sức lay động lòng người bởi tấm lòng yêu nước thương dân và
quyết tâm giành độc lập.
Kể cả những thể loại thuần túy văn học, người ta cũng sử dụng để thực hiện
các chức năng ngoài văn học. Ví dụ: Thơ ngôn chí, thơ tự giới (răn mình) trong
Quốc âm thi tập; các tập truyện Lĩnh Nam chích quái lục, Việt điện u linh tập vừa là
văn vừa là sử, vừa là thần phả ghi sự tích các thần của nước Việt, các tác phẩm Nam
triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí tuy là những dã sử nhưng lại
bổ sung cho chính sử… [70; 272].
Giáo sư Trần Đình Sử khi nghiên cứu về thi pháp văn học trung đại đã nhận
xét: “chức năng ngoài văn học đã tạo nên nét đặc trưng cho văn học trung đại…Thơ
xưa làm không để lãnh nhuận bút mà chỉ là để dâng tặng mà bày tỏ chí (khen, chê,
hoài bão), chức năng bao biếm, phúng gián, ngôn hoài gắn với yêu cầu giáo huấn,
can dự vào đời sống. Người đọc thơ là “quan chí” (xem chí) mà trau đức. Do vậy,
thơ thống nhất với các thể loại tụng, tán, biểu, tấu, châm giới, dụ. Do vậy, thể loại
văn học trung đại có một sự thống nhất nội tại trong chức năng nghệ thuật và thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dụng, mỹ học và xã hội học” [68; 108].
25
Trước hết, điều này là do quan niệm văn chương trung đại xem văn chương
như một thứ nghệ thuật ngôn từ nghĩa rộng, khác với quan niệm hiện đại về nghệ
thuật ngôn từ theo nghĩa hẹp. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Văn chương là nghệ
thuật tổ chức từ ngữ thành thiên, chương, hay có thể nói, văn chương là văn của lời
(tức nghệ thuật của lời), sánh với văn của đất, văn của người là thể hiện văn của
đạo. Và đây là nghệ thuật chung, không chỉ là của thơ phú mà còn của mọi loại
khác” [68; 90]. Do đó, văn học trung đại khác văn học hiện đại ở chỗ: trung tâm của
văn học trung đại là nghệ thuật từ ngữ, ngôn từ (văn chương ngôn từ) còn trung tâm
của văn học hiện đại là hình tượng được sáng tạo bằng hư cấu. Vì vậy mà chúng có
hệ thống thể loại khác nhau.
Cách hiểu văn chương của người xưa còn được thể hiện trong việc xếp loại,
phân loại của họ. Để chứng minh cho điều này, chúng tôi dẫn lại những ý kiến về
cách phân loại của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp
văn học trung đại Việt Nam của giáo sư Trần Đình Sử:
+ Lê Quý Đôn trong sách “Nghệ Văn chí” chia văn chương làm bốn loại:
Loại hiến chương gồm điển, lễ, luật, lệ, bang giao…
Loại thơ văn bao gồm các tập thơ văn.
Loại truyện kí gồm các tập sử kí, truyện.
Loại phương kĩ gồm địa lí, kinh phật, toán pháp, bói toán.
+ Phan Huy Chú cũng hiểu văn chương là sách vở, chia làm năm loại:
Loại hiến chương (như Lê Quý Đôn).
Loại kinh sử gồm sách kinh điển và lịch sử.
Loại thi văn gồm thơ phú ngâm.
Loại truyện kí gồm thực lục, chích quái, thế phả, binh thư, phong thổ, kí,
đăng khoa lục, phủ biên tạp lục, địa phương chí.
Loại phương kĩ.
Qua cách phân loại và sắp xếp ở trên, ta thấy 2 tác giả này chưa thể tách bạch
các thể loại văn học, giáo sư Trần Đình Sử cho rằng “không phải là phân loại văn
học”. Sau này, Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức đã phân loại các thể và hình thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của thơ ca [21]. Hai ông có nói tới phú, văn tế, văn xuôi cổ song còn khá sơ lược.
26
Điều đó chứng tỏ việc xác định thể loại và phân loại không phải là việc dễ dàng,
nhất là trong điều kiện “Văn-sử-triết bất phân” của văn học trung đại.
* Tính chất bác học
Văn chương viết bằng chữ Hán đòi hỏi người viết và người đọc phải có một
trình độ rất cao. Loại văn chương này không chú ý đến tả thực, ít chú trọng tới con
người thực, cuộc sống thực. Nếu có những con người hoặc sự vật tầm thường xuất
hiện thì mục đích của tác giả cũng chỉ là để khẳng định những nhân vật “cao quý”
mà thôi. Vì quan niệm văn chương cao quý, biểu hiện đạo lí thánh hiền mà nó giới
hạn tác giả, độc giả là những người có học trong xã hội (chủ yếu là vua quan, nho
sĩ). Sáng tác văn chương để “chở đạo”, giáo hóa chứ không phải để theo đuổi mục
đích phản ánh, không có chức năng phát hiện, nhận thức…vì thế nó trở nên xa lạ
với cuộc sống đời thường
* Tính quy phạm của văn học trung đại
Tính quy phạm là đặc điểm nổi bật của văn học trung đại. Trong sáng tác, tính
quy phạm thể hiện trước hết ở tinh thần tôn sùng cổ nhân (sùng cổ phi ngã), suy tôn
kinh, thánh. Việc sử dụng điển cố, điển tích chẳng hạn là mượn chuyện xưa để nói
chuyện nay, mượn hình tượng cũ miêu tả sự việc mới.
Tính quy phạm còn thể hiện ở chỗ trong sáng tác phải tuân theo kiểu mẫu đã
thành công thức, khuôn khổ có sẵn. Kiểu mẫu khuôn khổ đó có thể là đề tài, loại
hình, thi văn liệu, mĩ từ pháp. Đề tài trở đi trở lại qua nhiều thế hệ: mai, lan, cúc,
trúc, ngư tiều canh mục, hoặc vọng trào, khuê oán, chinh phụ, lữ hoài hoặc tự thuật,
ngôn chí, ngôn hoài, tức sự, ngẫu hứng…Về loại hình, sử dụng những thể loại văn
học sẵn có, coi là khuôn mẫu đã định hình về cấu trúc, niêm luật chặt chẽ và thống
nhất, không được phép vượt qua, sáng tác tự do cũng giống như văn chương cử tử,
không được vi phạm luật lệ của loại hình. Về mĩ từ pháp, tính ước lệ tượng trưng
trở nên rất phổ biến trong văn học trung đại: nói về người đẹp thì “tóc mây” “da
tuyết”, “làn thu thủy”, “nét xuân sơn”, “sóng thu ba”, “ nghiêng nước nghiêng
thành”, “phận bồ liễu”, “hoa ghen liễu hờn”, “hoa nhường, nguyệt thẹn”, “Tây Thi
mất vía, Hằng Nga giật mình”…Nói về người anh hùng thì “Chí làm trai dặm ngàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
da ngựa”, “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”, “công danh nam tử”, “hồ thỉ tang
27
bồng”…Nói về thời gian thì “năm canh sáu khắc”, “xuân về đào nở, thu đến lá ngô
đồng rụng”…[70].
b) Hệ thống thể loại và những khó khăn trong việc xác định thể loại của văn
học trung đại
Để hệ thống hóa các thể loại của văn học trung đại, chúng tôi tìm hiểu về
cách phân loại của các học giả thời trung đại cũng như hiện đại. Hệ thống thể loại
của văn học trung đại Việt Nam gồm các thể loại văn học chữ Hán (chịu ảnh hưởng
sâu sắc từ hệ thống thể loại văn học Trung Quốc) và hệ thống thể loại văn học chữ
Nôm (do người Việt sáng tạo). Ở đây, do giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ quan
tâm tới cách phân loại hệ thống thể loại văn học chữ Hán.
G.S Trần Đình Sử chủ trương phân loại văn học trung đại thành ba
loại lớn: Thơ, văn, truyện. Riêng truyện là “hình thức tự sự có nhân vật và cốt
truyện. Có truyện chữ Hán bằng văn xuôi như các loại thực lục, mạn lục, ngẫu
lục, kì lục, dị lục, kỳ án, thư dị, chí dị, tùy bút, chí, tiểu thuyết, ký sự, tạp
ký…[68].
GS Bùi Duy Tân phân chia thể loại theo hai cách:
- Cách thứ nhất: chia theo phương thức phản ánh gồm: các thể loại trữ tình
(thơ trữ tình, phú, từ, khúc ngâm, vãn, ca…), các thể loại tự sự (thơ tự sự,
truyện thơ, thơ trường thiên lịch sử, truyện kí, giai thoại, truyện cười, văn chép
sử…), các thể loại chính luận (thơ triết học, văn triết học, văn chương chính
luận, sớ, tấu, chiếu, cáo, hịch…)
- Cách thứ hai: chia theo thể văn gồm: văn vần (thơ, truyện thơ, thơ trường
thiên, từ, khúc ngâm, vãn, ca, vè…); văn biền ngẫu (hịch, cáo, phú, văn tế,
biểu, câu đối…); văn xuôi (văn chép sử, thực lục, tùy bút. tạp lục, kiến văn,
truyện kí, giai thoại…) [70].
PGS TS Nguyễn Đăng Na thì phân loại như sau: văn học trung đại chia
thành hai loại lớn là văn xuôi và văn vần. Trong cuốn Đặc điểm văn học Việt
Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự, ông lại chia văn xuôi tự sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thành ba nhóm (truyện ngắn, tiểu thuyết chương hồi, ký) [49].
28
Trong văn học trung đại: thơ, phú, hịch, cáo, truyền kì, tiểu thuyết chương
hồi… là tên gọi các thể loại văn học có dạng thức tương đối ổn định. Mỗi thể loại
thường sử dụng một thể văn riêng như văn xuôi, văn vần, văn biền ngẫu; có phương
thức diễn đạt riêng như phô diễn tâm tình (thơ), thuật bày sự việc (tự sự), biện luận
lí giải (chính luận)…; có cách tổ chức cấu tạo riêng để thể hiện đời sống.
Từ xa xưa, tên thể loại đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của tác
phẩm: Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Bạch Đằng giang phú, Bình Ngô đại cáo,
Truyền kì mạn lục, Chinh phụ ngâm, Hoàng Lê nhất thống chí, Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc, Truyện Lục Vân Tiên… Một nhà nghiên cứu văn học người Nga đã
nhận xét về các thể loại của văn học trung đại phương Đông: “Thể loại trong văn
học trung đại là một phạm trù chủ đạo được thể hiện một cách thường xuyên nêu
bật nó lên ở ngay tên gọi tác phẩm” (B.L Riptin). Nhưng thực tế văn học trung đại
Việt Nam chưa hẳn như vậy. PGS TS Nguyễn Đăng Na đã xem xét kĩ lưỡng, tỉ mỉ
cách phân loại của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú và cách gọi tên thể loại của các tác
phẩm văn học trung đại Việt Nam để rút ra nhận xét: “Các thuật ngữ gắn vào tên tác
phẩm văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại ít chỉ ra thể loại của chúng…Nhận xét của
B.L Riptin có lẽ phù hợp hơn với loại hình truyện Nôm và văn học Việt Nam giai
đoạn thế kỉ XVIII - XIX” [49].
Vấn đề thứ hai là các thiên trong cùng một tác phẩm không thuần nhất về
mặt thể loại và được gọi bằng những thuật ngữ rất khác nhau, PGS TS Nguyễn
Đăng Na lấy ví dụ minh họa cho điều này. Trong Thánh Tông di thảo có 19 thiên
thì bao gồm các loại sau: từ (Lung cổ phán từ - Lời phán xử của anh điếc và anh
mù), kí (Mộng kí – Bài kí một giấc mộng), lục (Mấn thư lục – Bức thư của con
muỗi), phả (Sơn quân phả - Phả kí Sơn quân), truyện (Dương phu truyện – Truyện
chồng dê)… Việc này dẫn tới tình trạng khó có một tác phẩm nhiều thiên được xếp
trọn vẹn vào một tiểu loại.
Với những ý kiến trên, thể loại là vấn đề các nhà nghiên cứu quan tâm suốt
mấy thế kỉ qua. Đây là vấn đề khó. Chúng tôi mượn lời nhà nghiên cứu Bùi Duy
Tân thay cho lời kết về vấn đề thể loại văn học trung đại: “Vấn đề thể loại văn học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là một trong những vấn đề phức tạp của lịch sử văn học. Phức tạp vì sáng tác văn
29
học rất phong phú và đa dạng. Ranh giới của từng loại thể không phải lúc nào cũng
rạch ròi cố định. Đặc trưng của từng loại thể không phải lúc nào cũng nổi bật, bất
biến. Các loại thể lại luôn luôn diễn biến, phân hợp, phát triển…” [70].
1.3.2 Việc nghiên cứu thể loại của Nam Ông mộng lục
1.3.2.1 Quan niệm coi Nam Ông mộng lục là truyện ngắn trung đại
Nguyễn Đăng Na cho rằng: “…Để hình dung một cách đầy đủ diện mạo
cùng số phận của thể loại truyện ngắn, chúng tôi đã đưa vào phần tuyển chọn hầu
như tất cả những tác phẩm mang dáng dấp tự sự mà hiện nay còn lưu giữ được và
sắp xếp chúng theo thời gian. Thiết nghĩ, nếu chỉ tuyển những truyện có đầy đủ
“tiêu chuẩn” theo quan niệm của truyện ngắn hiện đại thì chúng ta sẽ tự làm nghèo
đi những gì ta đã có, sẽ không chú ý đến tính đặc thù của văn học trung đại mà chỉ
thấy trái chín mà không thấy quá trình gieo hạt nảy mầm, quá trình lớn lên của cây
qua bão dông năm tháng…”[50; 45]. Trên cơ sở ý kiến trên, Nguyễn Đăng Na tuyển
chọn cả các tác phẩm khác mang tính chất tôn giáo hoặc văn học dân gian như:
Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái lục vào tuyển tập truyện
ngắn trung đại. Ông cho rằng Nam Ông mộng lục thuộc loại truyện ngắn và: “Hồ
Nguyên Trừng là người đầu tiên viết truyện rất ngắn” [15; 28-36]. Để chứng minh
cho điều đó, ông tuyển một số thiên truyện “Chuyện về Nghệ Vương”, “Sự thần dị
của Minh Không” “Bài thơ dùng lời trung để can gián”, “Áp Lãng chân nhân” trong
tác phẩm này vào quyển Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 1 (truyện
ngắn) [50]. Ngô Văn Phú cũng cho rằng Nam Ông mộng lục là “loại truyện ngắn mi
ni” [61; 104].
Vấn đề phân loại truyện ngắn là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp.
Nguyễn Đăng Na nhận thấy việc xác định và xếp Nam Ông mộng lục vào loại
truyện ngắn cũng chỉ mang tính chất tương đối. Ông nêu vấn đề khó nhất là tách
“truyện” ra khỏi truyện kí “đối chiếu các thiên trong văn xuôi tự sự, nếu thấy thiên
nào phù hợp với truyện thì đưa sang tiểu loại truyện, thiên nào chưa đủ tiêu chuẩn
sẽ xếp sang tiểu loại kí” [50; 16]. Trong các công trình của mình, nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Na cũng cho rằng trong Nam Ông mộng lục có một số thiên truyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuộc loại ký, một số thiên là các thi thoại [15]. Tuy nhiên, có khi Nguyễn Đăng Na
30
cũng chưa tách bạch truyện, ký, thi thoại: Thiên truyện “Bài thơ dùng lời trung để
can gián” (Truyện số 21) được ông đưa vào tuyển tập Văn xuôi tự sự Việt Nam thời
trung đại (Truyện ngắn) song trong quyển Nam Ông mộng lục ông lại cho rằng
thiên truyện này là thi thoại...
Cùng chung với ý kiến về truyện ngắn trung đại, trong bài viết “Thi pháp
truyện ngắn trung đại Việt Nam”, tác giả Trần Nho Thìn đã nhận xét: “Thay vì dùng
khái niệm có tính chất khái quát, người xưa có tên gọi riêng cho mỗi cuốn sách (chí,
lục, phả, bút, tùy bút, kí, kí sự, thuyết…). Ngay trong một cuốn sách lại có những
tác phẩm không hoàn toàn giống nhau về đặc trưng thể loại, có những tác phẩm khá
giống với truyện ngắn hiện đại, nhưng cũng có những tác phẩm hoàn toàn không
đáp ứng được yêu cầu của truyện ngắn” [76; 143].
Những nhận định trên khẳng định không phải thiên truyện nào cũng có thể
xếp vào loại truyện ngắn mà có những thiên thuộc vào loại kí, thi thoại…Vì thế, nếu
Nam Ông mộng lục xếp vào loại truyện ngắn thì chưa mang được đầy đủ đặc điểm
thể loại của tác phẩm này.
1.3.2.2 Quan niệm coi Nam Ông mộng lục thuộc thể loại tiểu thuyết
Trần Nghĩa đã đưa ra danh mục và phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam,
trong đó nêu ra 7 loại tiểu thuyết (bút ký, chí quái, truyền kỳ, lịch sử, công án, diễm
tình, du ký).
Ông xếp Nam Ông mộng lục vào tiểu thuyết chữ Hán thời trung đại (tiểu
thuyết bút ký) và cho rằng: Nam Ông mộng lục là “một trong những tác phẩm mở
đầu cho dòng tiểu thuyết chữ Hán nước ta” [53; 3-16]. Quan điểm này được ông
đưa ra khi ông dẫn lại lời tựa cuốn Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng – nhà
văn đã nhắc tới khái niệm “tiểu thuyết”: “Mỗi khi nghĩ tới việc này, tôi lại đi sưu
tầm chuyện cũ nhưng đã bị mất mát gần hết, chỉ còn lại hai trong số trăm phần, tập
hợp lại thành sách đặt tên là Nam Ông mộng lục…Tuy chỉ đóng khung trong tiểu
thuyết nhưng cũng giúp chút ít cho những lúc nhàn đàm”. Để chứng minh cho quan
điểm của mình, nhà nghiên cứu Trần Nghĩa đã nhận xét: “Hồ Nguyên Trừng vẫn
chưa ý thức được sự khác nhau căn bản giữa tác phẩm của ông với một cuốn sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chẳng hạn: sử ghi chép người thưc, việc thực, còn Nam Ông mộng lục thì được viết
31
qua trí nhớ trong đó không ít tình tiết câu chuyện được trình bày theo ngòi bút hư
cấu nghệ thuật, cũng là một lợi thế mà nhiều tác giả về sau đã chăm chú khai thác.
Nghĩa là ông tuy viết tiểu thuyết mà vẫn chưa nhận ra đặc trưng thể loại của nó”
[53; 3-16].
Trong số 7 loại tiểu thuyết ở trên, Trần Nghĩa xếp Nam Ông mộng lục vào
loại tiểu thuyết bút ký. Khái niệm “tiểu thuyết bút ký” (còn gọi là tiểu thuyết “chí
nhân”) được ông định nghĩa như sau: “gồm những mẩu chuyện ngắn, những “dị
văn, dật sự” liên quan đến các anh hùng dân tộc, các danh nhân lịch sử, văn hóa
được ghi lại chủ yếu không phải bằng “hư bút” mà bằng “tín bút”. Ngay cả phần mà
chúng ta thấy là “hư bút” cũng được tác giả hồi đó quan niệm như “kỷ thực”, “thực
lục” nghĩa là thấy sao chép vậy, không thêm không bớt” [53].
Trong một bài viết khác, Tạ Ngọc Liễn đã cho rằng Nam Ông mộng lục
thuộc vào loại “những tập tản văn (mang tính chất tiểu thuyết), xưa nhất còn bảo
lưu được” [47; 66-69]. Khái niệm “tản văn” mà Trần Ngọc Liễn nói ở trên làm cho
chúng ta nghĩ rằng đây là tác phẩm thuộc loại “ký” chứ không hẳn là tiểu thuyết.
Qua ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy từ “tiểu thuyết” mà Hồ Nguyên Trừng
nói có nghĩa là “chuyện vặt”. Với người Trung Quốc, họ gọi các loại truyện là tiểu
thuyết: (Đoản thiên tiểu thuyết – truyện ngắn, trung thiên tiểu thuyết – truyện vừa,
trường thiên tiểu thuyết – truyện dài). Song người Việt Nam thường dùng khái niệm
“tiểu thuyết” để chỉ loại truyện có dung lượng lớn: “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả
năng phản ánh hiện thực ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể
phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội,
miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [32; 328]
chứ thường không gọi các loại truyện khác là tiểu thuyết. Khái niệm “tiểu thuyết”
mà nhà nghiên cứu Trần Nghĩa đưa ra cũng là một cách định danh thể loại. Tuy
nhiên, những căn cứ để xếp Nam Ông mộng lục vào loại “tiểu thuyết bút ký” khiến
cho chúng ta không khỏi băn khoăn vì những đặc điểm chính của “tiểu thuyết bút
ký” là các “mẩu chuyện ngắn”, những truyện “dị văn”, hư cấu có yếu tố kì ảo gợi
cho ta thấy tính chất truyện; còn “thấy sao chép vậy, không thêm không bớt” là đặc
điểm của ký. Vì vậy, chúng tôi thiết nghĩ nên chăng dùng một khái niệm khác để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gọi tên thể loại của Nam Ông mộng lục chính xác và dễ hiểu hơn?
32
1.3.2.3 Quan niệm coi Nam Ông mộng lục thuộc loại ký
Có khá nhiều nhà nghiên cứu nhận ra Nam Ông mộng lục có tính chất ghi
chép (ký). Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường trong sách Từ điển văn học Việt
Nam đã cho rằng đây là “một hồi kí về thời Lí Trần” [4; 227-230]. Nguyễn Huệ Chi
cũng cho chúng ta thấy giá trị đặc sắc của tác phẩm này về mặt thể loại: “…Cuốn
sách là một tập ghi chép về các mẩu chuyện “người thiện”,“người tài” của nước Đại
Việt” [31]. Còn Nguyễn Đức Vân – Tuấn Nghi nhận xét về Nam Ông mộng lục:
“ghi chép được một vài sự thực có thể bổ sung cho văn học và sử học thời Lí Trần”
[15; 255]
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng nhận ra đây không phải là tác phẩm
thuộc loại ghi chép đơn thuần mà khi phân loại cụ thể hơn “một số thiên có yếu tố li
kì ở đây có thể xem như những truyền kì, giai thoại; một số thiên ở cuối sách có thể
xem như những thi thoại lí thú, cùng với ý nghĩa của chúng” [4; 227- 230]. Vậy,
nếu cho rằng Nam Ông mộng lục thuộc loại ký là chưa bao quát được tất cả các thể
loại mà nó dung chứa.
1.3.2.4 Quan niệm coi Nam Ông mộng lục là truyện ký
Đinh Gia Khánh nói rõ về đặc điểm thể loại của Nam Ông mộng lục: “có thể
coi cuốn sách này như một tập truyện kí đời Trần và trong đời Hồ” [39; 135- 138].
Theo ông, cũng như nhiều tác phẩm tự sự thời Trần, Nam Ông mộng lục có tính
chất truyện ký, thể hiện ở chỗ: “chủ yếu mới làm việc ghi chép những sự tích từ đời
trước truyền lại hoặc mắt thấy tai nghe, chứ chưa có tham vọng sáng tác, thậm chí
phóng tác”. Như vậy, Đinh Gia Khánh đã chỉ ra một trong những đặc điểm quan
trọng của truyện thời Lý – Trần là tính chất ghi chép chứ không phải là sáng tác hư
cấu của tác giả. Ở đây, tác giả chỉ là người sưu tầm, ghi chép lại những truyện kể
của người thời trước. Để khẳng định tính chất truyện ký của Nam Ông mộng lục,
giáo sư Đinh Gia Khánh chứng minh rằng các thiên truyện trong đó có tính chất ghi
chép: “Sách gồm 28 truyện ngắn, không những chép sự kiện lịch sử như thiên thứ
nhất (Nghệ vương thủy mạt) chép sự việc đời Trần Nghệ Tông, thiên thứ 9 (Dũng
lực thần dị) chép việc Lê Phụng Hiểu phá giặc, v.v… mà còn chép cả sự việc liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan đến những nét sinh hoạt về mọi mặt của xã hội nước ta đời Lý và đời Trần. Có
33
những thiên chép việc liên quan đến tăng lữ…Có những thiên chép sự tích các nhà
nho…Có những thiên chép sự việc kỳ lạ, lý thú…Lại có thiên đề cập tới vấn đề thơ
văn…” [39; 135- 138].
Với nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng, ông cho rằng Nam Ông mộng lục
thuộc loại truyện kí khi viết: “Tác phẩm của Hồ Nguyên Trừng là một trong những
tác phẩm tiêu biểu nhất cho khuynh hướng văn học mang cảm hứng đạo lý của thời
kỳ Trần - Hồ. Hơn nữa, nó là sự bù đắp cần thiết cho những thiếu hụt của văn xuôi
tự sự ở thời kỳ này ở thể tài truyện ký” [36].
Ngay từ nhan đề của Nam Ông mộng lục ta đã thấy phần nào về thể loại của
tác phẩm “lục” (có nghĩa là ghi chép). Tuy nhiên không hoàn toàn như vậy. Trong
văn học trung đại, ta thường nói tới một số các thể loại ghi chép như chí, lục, phả,
bút, tùy bút, kí, kí sự, thuyết …
Khái niệm “lục” được sách Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa:
Lục: Viết sao lại – Biên chép – Ghi vào sổ [1; 247].
Hầu hết các tên gọi thể loại như chí, kí, lục đều là vay mượn của sử để chỉ
những thể loại khác biệt với sử, do đó “không nên xem đó là căn cứ duy nhất để đặt
tên thể loại” (Trần Đình Sử). Hồ Nguyên Trừng đặt tên tác phẩm là Nam Ông mộng
lục. Song tác phẩm thực tế liệu có phải chỉ là những ghi chép như nhan đề của tác
phẩm đã nói? Hay là thuộc thể loại nào?
Ngoài khái niệm “truyện” đã trình bày định nghĩa chung ở trên, chúng tôi
muốn nói thêm về nguồn gốc và đặc trưng của khái niệm này để dễ dàng phân biệt
với khái niệm khác. Theo chuyên khảo “Văn học Lí Trần – nhìn từ thể loại” của
Nguyễn Phạm Hùng thì “truyện” xuất phát từ phạm trù “kinh truyện” trong học
thuật Trung Quốc cổ đại, lúc đầu nó là “ghi ví dụ minh họa” nhưng về sau khái
niệm này được mở rộng phạm vi là văn “ghi chép sự việc”. Nguyễn Phạm Hùng
cũng phân biệt rất rõ truyện với tiểu thuyết: “Mọi hình thức hư cấu bịa đặt dài
ngắn khác nhau đều là tiểu thuyết (…). Mọi hình thức ghi chép tiểu sử đều là
truyện” [34; 336].
Tuy nhiên khái niệm “truyện” không chỉ có nghĩa là “ghi chép sự việc” như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lúc ban đầu. Trong văn học Lý – Trần, truyện chú ý hơn tới nhân vật mà coi nhẹ
34
những cốt truyện, tình tiết…[34; 336]. Truyện có mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử
nhưng không phải là sử, người Việt Nam gọi “hình thức tự sự có thể kể lại được, có
nhân vật có cốt truyện, có hư cấu” là “truyện” [34; 336]. Như vậy, có nghĩa rằng chỉ
những văn bản nào có “nhân vật”, “cốt truyện” có thể kể lại được mới là “truyện”.
Từ thực tế trên, chúng tôi lấy “thiên” làm đơn vị để xác định thể loại. Việc
phân loại các “thiên” sẽ là cơ sở để chúng tôi khái quát thể loại của tác phẩm. Trong
Nam Ông mộng lục, chúng ta bắt gặp những thiên có thể xếp vào loại truyện vì nó
“là một đơn vị hoàn chỉnh” với “hai hạt nhân tạo nên truyện là nhân vật và cốt
truyện” [50; 16] như truyện số 1, truyện số 8, truyện số 14… Nhận xét này của
chúng tôi theo quan điểm với nhiều nhà nghiên cứu như Nguyễn Đăng Na, Nguyễn
Phạm Hùng…
Nhiều thiên truyện khác là những ghi chép của Hồ Nguyên Trừng về những
điều chính ông “kiến văn” (tai nghe, mắt thấy) và nhân vật của chúng được ông xem
như tấm gương sáng ở đời. Loại tác phẩm này không thể xếp vào “truyện” mà phải
xếp vào loại truyện ký bởi vì chúng chưa hoặc có ít cốt truyện; còn nặng về tính ghi
chép; nhân vật, sự việc được ghi lại như những “mảnh chân dung”, “mẩu việc
thiện”….
Hơn nữa, trong Nam Ông mộng lục có một số thiên truyện là các thi thoại. Vì
tính chất trung gian (đan xen thơ, văn xuôi) trong mỗi thiên truyện nên chúng tôi
nghĩ rằng cần có sự đánh giá riêng vai trò của những thi thoại này trong việc tìm
hiểu thể loại của tác phẩm.
Vì tính chất trung gian, tổng hợp tất cả các thiên, chúng tôi nhận thấy việc
xếp Nam Ông mộng lục vào thể loại truyện kí là hết sức hợp lí để khép lại những
truyện quái dị của văn học thế kỉ X –XIV, hướng tới xu hướng viết truyện “người
thật việc thật” và truyện ký này cũng là cây cầu nối bắc sang thể loại truyền kì của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn học ở giai đoạn sau.
35
TIỂU KẾT
Trong chương này, chúng tôi trình bày đôi nét về tác giả Hồ Nguyên Trừng,
văn bản Nam Ông mộng lục, tìm hiểu các khái niệm về loại thể, thể loại của văn học
trung đại, các tiểu loại có liên quan, định danh thể loại của Nam Ông mộng lục, từ
đó đánh giá chính xác thể loại của tác phẩm này.
Theo chúng tôi, Nam Ông mộng lục có thể xếp vào thể loại truyện kí vì nó
“nêu ra những việc thiện nhỏ của tiền nhân”, ghi chép “người thực, việc thực” đã
được tác giả chứng kiến hoặc nghe kể lại. Với quan niệm văn chương tiến bộ, Hồ
Nguyên Trừng đã có điều kiện kế thừa hình thức của thể loại truyện chữ Hán Trung
Quốc và có những sáng tạo riêng về thể loại, thể hiện sự cách tân trong tiến trình
Việt hóa các thể loại ngoại nhập. Vì thế, những vấn đề lí luận và thực tiễn này là cơ sở
giúp chúng tôi tìm hiểu về mối quan hệ “văn sử” và đặc điểm dung hợp thể loại của Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ông mộng lục.
36
CHƢƠNG 2
MỐI QUAN HỆ VĂN SỬ TRONG NAM ÔNG MỘNG LỤC
DƢỚI GÓC ĐỘ THỂ LOẠI
2.1 Những truyện kí có dấu ấn riêng
Bằng hồi ức của mình, tác giả Nam Ông mộng lục đã ghi chép lại những
chuyện mang tính chất riêng tư hoặc một số chuyện sách vở đương thời không nói
hoặc ít lâu sau mới nói tới như những chuyện viết về người thân của tác giả, viết về
tôn giáo và ghi chép riêng về thơ (Ví dụ: sinh hoạt xã hội, các trào lưu tôn giáo,
phong độ cốt cách của sĩ phu…). Những thiên truyện này không chỉ cho thấy ở Hồ
Nguyên Trừng có một “nỗi niềm tâm sự của một người phải sống xa quê hương, đất
nước” mà còn thấy những đóng góp không nhỏ của ông cho nền văn học nước nhà,
đặc biệt về thể loại truyện ký.
2.1.1 Những truyện ký viết về người thân của tác giả
2.1.1.1 Truyện “Y thiện dụng tâm”
a) Tình huống truyện
Về Thái y lệnh Phạm Bân, nhà văn đã viết một cách trung thực, không dùng
hư cấu tưởng tượng. Nhà văn rất linh hoạt khi đã chọn được những sự kiện có liên
quan đến nghề nghiệp của người thầy thuốc, song quan trọng nhất là tạo được tình
huống đầy kịch tính bất ngờ để làm nổi bật nhân cách của Phạm Bân.
Truyện được kết cấu gồm ba phần: phần đầu giới thiệu về nhân vật người
thầy thuốc, phần thứ hai kể về tình huống bất ngờ mà người thầy thuốc gặp phải,
phần kết biểu dương công đức của người thầy thuốc. Phần thứ hai là phần chính của
câu chuyện, nơi tác giả xây dựng nên tình huống truyện. Một lần, có một người
nghèo đến xin Phạm Bân cứu chữa cho một người bệnh đang nguy kịch. Phạm Bân
đi ngay, ra đến cửa thì gặp quan Trung sứ theo lệnh vua đến triệu Phạm Bân đến
vương phủ khám bệnh cho quý nhân đang bị sốt. Phạm Bân đi khám bệnh cho
người bệnh nghèo trước rồi mới đến vương phủ. Vua Trần Anh Tông quở trách,
thầy thuốc Phạm Bân tâu bày rõ sự thực. Vua không những hết giận mà còn khen
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngợi. Xoáy vào một tình huống bất ngờ nhưng cũng là một sự kiện có thật trong đời
37
sống, tác giả đã đặt nhân vật vào thử thách trước sự chọn lựa về tình/lí, nhân nghĩa/
trung quân, y đức/tính mạng, danh lợi….Đây quả là một thử thách cam go đòi hỏi
bản lĩnh vững vàng. Trước hết, để hiểu được sự lựa chọn của người thầy thuốc, nhà
văn đặt Phạm Bân trong mối liên hệ với những người bệnh mà ông sẽ chữa trị:
Phạm Bân đã gặp một cảnh ngộ bất ngờ, một bên là người bệnh nghèo (xích tử)
nguy kịch (mặt mày xanh lét, máu chảy như xối) cần cứu giúp kịp thời, một bên là
chữa bệnh cho quý nhân (cao sang, quyền quý) đang bị sốt theo lệnh đòi của nhà
vua. Lựa chọn bên nào trước bên nào sau, cân nhắc nặng nhẹ thế nào đồng thời phải
đưa ra quyết đoán nhanh chóng không phải là việc dễ dàng. Chúng tôi lập một sơ đồ
minh họa cho tình huống này. (Sơ đồ 2.1)
Phạm Bân
Chữa cho người bệnh nghèo trước
Chữa bệnh cho quý nhân trước
- Người bệnh nghèo được cứu sống - Thầy thuốc có thể mất mạng
- Người bệnh nghèo có thể chết - Tính mạng thầy thuốc được bảo toàn
2.1 Sơ đồ sự lựa chọn của Phạm Bân
Về lí, “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh giữ câu trau mình”
người đàn ông trong xã hội phong kiến luôn được giáo dục và đã thuộc nằm lòng
“tam cương, ngũ thường”. Trong “tam cương”, mối quan hệ vua- tôi luôn luôn là
mối quan hệ rường cột của một đất nước, mà đã trung quân tức là không thể trái
mệnh vua, thậm chí vua bảo chết thì cũng phải chết: “Quân xử thần tử, thần bất tử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bất trung”. Nếu như thế, Phạm Bân không thể trái lệnh và phải đi chữa bệnh cho
38
quý nhân trước. Nghe có vẻ rất hợp lí. Song thấy người bệnh nghèo nguy kịch,
không biết trông cậy vào đâu, trong phút cấp bách, người thầy thuốc đã chọn tình
thay cho lí. Ông đã đi chữa bệnh cho người dân nghèo trước dù có vi phạm trung
quân, phải chịu phạt, thậm chí mất mạng cũng cam lòng. Đó là điều đáng quý về sự
hi sinh quên mình vì người bệnh. Dường như bản tính thiện luôn thường trực trong
con người thầy thuốc này.
Đây là tình huống thử thách làm nổi bật sự lựa chọn sáng suốt của Phạm
Bân. Trước hết, đó là một sự lựa chọn hợp lí, hợp tình, ông nói rằng: “Tôi có mắc
tội, cũng không biết làm thế nào. Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong
khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu”. Điều đó chứng tỏ ông rất hiểu hoàn cảnh
của người dân nghèo (không có tiền, không có quyền) và rất thương xót họ; ông
cũng thông minh, tỉnh táo khi biết trông cậy vào vị vua tài đức: “Tính mệnh của tiểu
thần còn trông cậy vào chúa thượng, may ra thoát”. Tình huống này cũng là cơ hội
để ông tỏ lòng trung với vua, ca ngợi vị minh quân nhân đức. Lòng nhân đức cũng
phải biết phát huy đúng chỗ: Vừa trung vua giữ được phận làm tôi, lại vừa nhân
nghĩa. Vì thế, một nhà vua sáng suốt không thể trách tội ông. Trong truyện này, nhà
văn thật sự sáng tạo: Qua một tình huống nhỏ mà vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật được
khắc họa rõ nét, câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn. Tình huống này gắn liền với hoàn
cảnh có thật và tính chất đương thời của câu chuyện được ghi chép lại trong khoảng
thời gian tác giả sống nên tác phẩm mang tính chất truyện ký rất rõ nét.
b) Hình tượng nhân vật
Ngay trong phần đầu của câu chuyện, tác giả đã vẽ lên những nét phác họa
ban đầu về thầy thuốc Phạm Bân. Bằng điểm nhìn của người kể chuyện ở ngôi thứ
nhất, tác giả giới thiệu họ tên, gia thế, chức vị và thậm chí cả quan hệ với người kể
chuyện để làm cho câu chuyện chân thực hơn: “Ngoại tổ của Trừng là Phạm công,
húy là Bân, gia thế làm nghề y, giữ chức Thái y lệnh để phụng sự Trần Anh
Vương”. Đây là nét thường thấy trong văn học trung đại khi ghi chép về một cá
nhân nào đó. Nhưng khác biệt ở chỗ đây là nhân vật có thật, được chính tác giả kể
lại và đảm bảo tính chân thực bằng quan hệ của cá nhân mình. Với những chi tiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chọn lọc, nhà văn dựng lên bức chân dung về người thầy thuốc nhân nghĩa: “Ông
39
đem hết của cải trong nhà ra mua thuốc tốt và tích trữ thóc gạo. Gặp kẻ tật bệnh, cơ
khó, ngài cho ở nhà mình, cấp cơm cháo, chữa trị”. Một việc thiện thật đáng quý!
Chúng ta có thể gặp những tấm gương lương thiện như thế. Nhưng hơn cả việc
thiện là tấm lòng thầy thuốc hết mình vì người bệnh: cứu “những kẻ khốn cùng đói
khát và bệnh tật” thậm chí “bệnh có dầm dề máu mủ, ngài không hề né tránh”. Vì
thế, ông thật xứng đáng được người đời trọng vọng.
Tuy nhiên, giống như “lửa thử vàng”, khi Phạm Bân được đặt vào trong hoàn
cảnh thử thách thì những phẩm chất tốt đẹp của ông mới được tỏa sáng. Trước sự
nguy kịch của người bệnh, ông khẩn trương đi ngay. Đúng lúc đó, vua triệu ông tới
khám bệnh cho quý nhân trong cung. Ông quyết định đi cứu người bệnh nghèo bất
chấp lời dọa nạt của quan Trung sứ và thậm chí ông có thể bị vua trách tội. Ở đây,
tính cách nhân vật được bộc lộ qua hành động và lời nói. Hành động khẩn trương
mau lẹ đi cứu người bệnh, từ chối lời quan Trung sứ của Phạm Bân cho ta thấy sự
dứt khoát, khẳng khái trong tính cách: việc nhân nghĩa trong lúc cấp bách không thể
bỏ qua. Y đức sáng ngời của người thầy thuốc được bộc lộ. Lời nói của Phạm Bân
chứng tỏ sự ngay thẳng đến quyết liệt, không run sợ trước cường quyền song vẫn
chứa chan tinh thần nhân nghĩa: “Tôi có mắc tội, cũng không biết làm thế nào. Nếu
người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu.
Tính mệnh của tiểu thần còn trông cậy vào chúa thượng, may ra thoát. Tội tôi xin
chịu”. Đọc truyện này, chúng ta cảm phục tài năng, đức độ và sự hi sinh quên
mình vì người bệnh của người lương y Phạm Bân. Vì vậy, khi hiểu rõ sự tình, vua
Trần Anh Tông hết lời khen ngợi bậc lương y chân chính vừa giỏi nghề nghiệp lại
có tấm lòng nhân đức, vua cho rằng những việc làm như thế luôn luôn cần được
khuyến khích, nêu gương. Kết truyện, tác giả ngợi ca hậu duệ của Phạm Bân cũng
là để nói tiếng thơm của ông đã vang danh nơi hậu thế: “Về sau, con cháu của ngài
làm quan, làm lương y đến hàm ngũ phẩm, tứ phẩm có tới hai ba vị. Người đời
đều khen ngợi họ không để sa sút nghiệp nhà”. Sách giáo viên Ngữ Văn 6, Tập 1
có viết: “Đây là thắng lợi vẻ vang của y đức, của bản lĩnh trong đó có lòng nhân ái
và trí tuệ. Lời văn kết thúc truyện nói về con cháu của Thái y lệnh và sự ngợi khen
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của người đời đối với gia đình ông dựa trên thuyết nhân quả và theo quan niệm của
40
truyền thống dân tộc: Ở hiền gặp lành đã tạo nên sự thăng hoa cho y đức và bản
lĩnh đó” [59 ; 224].
Tác phẩm không kể lại toàn bộ cuộc đời nhân vật mà chỉ ghi chép lại một
tình huống, một khoảnh khắc của nhân vật ấy. Nhiều truyện trung đại thường kể về
nhân vật từ khi sinh ra tới khi mất đi nhưng truyện ký tập trung thể hiện tấm gương
“người tốt , việc tốt” trong hiện tại và chỉ tập trung vào biểu dương việc tốt - một
mảnh ghép cuộc đời chứ không phải kể lại toàn bộ cuộc đời nhân vật. Với đặc điểm
đó, “Y thiện dụng tâm” là một truyện ký khá hoàn chỉnh, tiêu biểu cho thể loại của
Nam Ông mộng lục.
b) Truyện “Thi triệu dư khánh”
Thơ xuất hiện khá nhiều trong các thiên truyện của Nam Ông mộng lục: Có
khi thơ nằm trong truyện để thể hiện nội dung câu chuyện (Truyện số 11, số 17…),
có khi Hồ Nguyên Trừng viết về thơ, tác giả và lời bình. Song, trường hợp sử dụng
thơ để nói về cuộc đời và phẩm chất nhân vật không nhiều, mà lại là truyện nói về
cuộc đời của một người có quan hệ gần gũi với tác giả thì càng ít.
Trước hết, tác giả kể lại tỉ mỉ chân thực họ tên, tính tình, tài năng của nhân
vật. Cách giới thiệu này khá quen thuộc: “Ngoại tổ của thái phụ Trừng tôi là
Nguyễn công, húy là Thánh Huấn, phụng sự Trần Nhân vương, làm quan đến chức
Trung thư thị lang. Tính cụ rất nhân hậu, đỗ cao từ thưở thiếu thời, giỏi nhất là làm
thơ, đương thời không ai địch nổi”. Và để cho khách quan, tác giả đã mượn lời của
người đời để khẳng định: “Người đời sau tôn cụ làm “Nam phương thi tổ”.
Câu chuyện sẽ có sức thuyết phục hơn khi tác giả chứng minh những đánh
giá ở trên bằng câu chuyện về thơ và cuộc đời của Nguyễn Thánh Huấn: “Cụ có bài
thơ Điền viên mạn hứng trong đó có câu:
Chim làm tổ trong rừng, hãy ngừng chặt cây,
Kiến tụ gò dưới đất, chưa cày cấy vội.
Có một bậc thức giả khen rằng: “Lòng nhân ái của cụ thương tới loài vật, ắt
sẽ có thừa phúc lành”. Về sau, con gái cụ lấy tằng tổ của tôi, sinh ra thái phụ tôi và
thứ phi của Trần Minh Vương. Thứ phi lại sinh ra Nghệ Vương.
Khi cụ mất được phong theo điển lễ tôn vinh, phúc nhà ngày càng dồi dào,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quả đúng như lời của bậc thức giả nọ.” (Truyện số 28)
41
Câu chuyện về thơ báo vận mệnh là chuyện thường gặp trong văn học trung
đại. Bài thơ cho ta thấy phúc lộc dồi dào đã được ban cho bản thân Nguyễn Thánh
Huấn và con cháu của cụ: Khi cụ mất được phong tặng theo điển lễ tôn vinh, con
gái cụ, cháu gái cụ (thứ phi của Trần Minh Vương) là người hiển quý, cháu ngoại
ba đời là vua Trần Nghệ Tông. Tác giả chỉ nói về một nhân vật mà gợi ra cả một
dòng họ với những tên tuổi lưu danh nơi sử sách. Thật là một danh gia vọng tộc,
đáng ca ngợi.
Câu chuyện về Nguyễn Thánh Huấn gợi cho tác giả tiếp tục hướng vào chính
bản thân mình, bởi ông là cháu ngoại bốn đời: “Đến ngay cả cháu ngoại bốn đời của
cụ như Trừng tôi hiện nay xuất thân từ nơi hang tối, chuyển tới cây cao, một đoạn
ngòi thừa lạm ngang với vật quý. Nếu không phải phúc trạch của tổ tiên chưa hết,
thì cũng là bởi sinh ra gặp thời thánh chúa, gội nhuần đức nhân của vua Nghiêu mà
có sự đãi ngộ lạ lùng như vậy chăng?”. Dùng câu văn cảm thán với những lời lẽ
khoa trương, bóng bẩy, tác giả ca ngợi gia tộc mình, ca ngợi vị vua mà mình phụng
sự. Đây là trường hợp duy nhất trong tác phẩm tác giả nói về cảnh ngộ của mình với
tư cách cá nhân: “xuất thân từ hang tối” “chuyển tới cây cao” là nhờ “phúc trạch tổ
tiên” và “gặp thời thánh chúa”. Những câu văn này có lẽ liên quan tới cuộc sống
hiện tại của ông chăng? Hồ Nguyên Trừng bị bắt về Trung Quốc, gia đình bị ghép
vào tội phản nghịch nhưng nhờ có tài mà ông được ân xá và trọng dụng làm quan
tới chức Thượng thư bộ Công. Hơn nữa, tác phẩm được viết ở Trung Hoa và điều
kiện in ấn chắc chắn sẽ chi phối tới ngòi bút của ông. Song về cơ bản, nhiều nhà
nghiên cứu vẫn bênh vực ông “không phải là kẻ chủ động phản bội Tổ quốc mà chỉ
là một kẻ chiến bại chịu khuất phục trước hoàn cảnh” (Đinh Gia Khánh) và “không
hề thấy một dụng ý đen tối nào” (Nguyễn Huệ Chi). Do vậy, theo chúng tôi việc tác
giả viết như vậy không có gì đáng chê về nhân cách.
“Thi triệu dư khánh” viết bằng bút pháp linh hoạt: vừa là ghi chép về chuyện
một người tài lại là một tự sự của chính bản thân tác giả, vừa là truyện vừa là thơ
mà vẫn rất nhuần nhị tự nhiên, vừa mang tính chất tự truyện lại vừa mang tính chất
hồi ký...
Qua hai truyện trên, chúng ta đều thấy sự xuất hiện của người kể chuyện là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác giả xưng “tôi” như một nhân chứng trực tiếp cho câu chuyện. Thông thường, do
42
tính chất “phi ngã”, người kể chuyện thường ở ngôi thứ ba, cái tôi rất ít khi có mặt,
nếu có thì cũng vẫn đại diện cho “cái ta” mang phẩm chất của cả cộng đồng chứ
không phải “cái tôi” riêng của cá nhân như: Trần Quốc Tuấn (Hịch tướng sĩ) Lê Lợi
(Bình Ngô đại cáo) xưng “ta” với địa vị những người chủ tướng đứng đầu cuộc
kháng chiến, đại diện cho toàn dân tộc. Còn người kể chuyện xưng “tôi” ở đây hoàn
toàn mang tư cách cá nhân. Người kể chuyện này được nói tới ngay ở đầu truyện,
thể hiện bản ngã của mình: “Ngoại tổ của Trừng là Phạm công, húy là Bân, gia thế
làm nghề y…” (Truyện số 8) và “Ngoại tổ của thái phụ Trừng tôi là Nguyễn công,
húy là Thánh Huấn…”. Đặc biệt, ở truyện về Nguyễn Thánh Huấn, đến cuối truyện,
người kể chuyện đã chuyển hóa thành nhân vật “tôi” thật độc đáo, làm cho câu
chuyện mang tính chất “tự truyện”. Điều này đã chứng tỏ sự trung thực, mang tính
chất ghi chép của truyện kí, người đọc bị thuyết phục vì đây là hoàn toàn là sự thật,
nhân vật là những người trong dòng họ của tác giả, thậm chí gắn liền với chính cuộc
đời của tác giả. Người kể chuyện là tác giả xưng “tôi” ở đây cũng tạo được hiệu quả
đặc biệt, nó tạo ấn tượng về hoàn cảnh đương thời, đang xảy ra. Hơn nữa, người đọc
và người kể như đang đối thoại với nhau rất gần gũi trong câu chuyện.
Từ người kể chuyện là tác giả mang tính chủ quan dẫn tới những thiên truyện
này có điểm nhìn nghệ thuật từ tác giả xưng “tôi”. Trước hết, nó bộc lộ ở việc tác
giả sử dụng cách xưng danh tên riêng (Trừng) chứ không phải xưng là “tôi”, “ta”
(ngã, dư) như thường thấy trong văn trung đại. Cách xưng hô này gợi lên sự khiêm
tốn của người kể chuyện nhưng quan trọng hơn chúng ta thấy được vai trò quan
trọng của một người chứng kiến câu chuyện và kể lại. Có lẽ không có nhiều tác giả
xưng tên mình trong tác phẩm. Vì thế, câu chuyện mang tính chủ quan, tác giả có
điều kiện bảo vệ quan điểm, tự do bộc lộ những suy nghĩ của mình…
Qua hai truyện viết về người thân của tác giả, ta thấy tác giả viết bằng lối ghi
chép chân thực, cảm hứng ngợi ca thông qua những lời nhận xét khách quan (của
“người đương thời” “hậu thế”…) làm cho câu chuyện in sâu trong tâm trí người đọc
và vang danh hậu thế. Điểm nhìn nghệ thuật từ tác giả xưng “tôi” đã tạo được ấn
tượng sâu đậm về câu chuyện đó. Đặc sắc của truyện thể hiện ở chỗ không viết về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quá khứ lịch sử xa xăm, không dựa trên tác phẩm lịch sử có sẵn, tác giả phải tự
43
mình tạo dựng ra tất cả, từ cốt truyện, tình tiết, sự kiện, nhân vật… Dù mang những
nét chung của văn xuôi trung đại, các truyện kí do tác giả sáng tạo ở trên đều mang
những nét riêng độc đáo và đậm đà bản sắc dân tộc
2.1.2 Những truyện kí mang màu sắc tôn giáo
2.1.2.1 Truyện “Áp Lãng chân nhân”
Mở đầu truyện, tác giả đã gợi lên một câu chuyện có thực trong lịch sử: vua
Lí Thái Tông chinh phạt Chiêm Thành qua cửa biển Thần Đầu. Câu chuyện này ta
không xa lạ trong sách sử: Nhân vật có thật (vua Lí Thái Tông); địa điểm có thật
(Thần Đầu, Chiêm Thành); sự kiện đánh Chiêm Thành cũng được sử ghi chép, có
thể đối chiếu…
Phần chính của câu chuyện kể lại hai lần kì ngộ của vua Lí và đạo sĩ họ La.
Đoàn thuyền nhà vua gặp sóng lớn, không thể đi được. Nhà vua nghe nói có một vị
đạo sĩ sống trong am, bèn vời đến nhờ cầu đảo giúp. Đạo sĩ giúp vua vượt biển. Khi
trở về, vua cảm tạ, ban thưởng song đạo sĩ không nhận. Sau đó, đạo sĩ vào núi rồi
không biết đi đâu. Cả hai lần, đạo sĩ biết nhà vua có sự giúp đỡ của thánh thần. Sau
quả nhiên như lời đạo sĩ nói (nửa đêm gió ngừng). Đạo sĩ còn giúp thuyền vua đi lại
dễ dàng vượt qua sóng to gió lớn. Đoạn này, nhà văn đã khắc họa chân dung của
đạo sĩ: “Mờ sáng, khi thuyền ra đến biển khơi, vọng nhìn sóng gió ra xa, ngọn cao
như núi. Nhưng khi thuyền quân đi đến đâu thì đều gió yên sóng lặng, lại thấy đạo
sĩ ấy đi bộ trên mặt biển, lúc ở phía trước, lúc ở phía sau, nhịp nhàng và rõ ràng,
nhưng người ta không thể tới gần được”. Vẻ đẹp, cốt cách phi phàm của đạo sĩ hiện
ra thật tự nhiên, sống động tựa như một thần tiên giáng trần. Khi hỏi người làng thì
họ cho biết đã lâu đạo sĩ không ở trong am. Cả hai lần gặp gỡ của vua và đạo sĩ đều
gợi cho người đọc sự bất ngờ: Đạo sĩ đi hái thuốc, không ở trong am đã lâu, người
làng không ai gặp được mà lại hai lần hội ngộ với nhà vua. Thật là đáng kinh ngạc!
Câu chuyện đan xen thực và ảo. Ở phần đầu, câu chuyện về vua Lý đi đánh
Chiêm Thành là có thật, khi nhân vật đạo sĩ xuất hiện đã làm nhòe mờ tất cả. Đạo sĩ
không có tên tuổi, quê quán (thậm chí đến cuối truyện cũng chỉ biết họ chứ không
rõ tên) sau khi gặp nhà vua xong thì vào núi rồi không biết đi đâu, người làng cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nói: “Từ thưở ấy, đạo sĩ đi hái thuốc, đã lâu không ở trong am”. Như thế, ấn tượng
44
về thời gian thực cũng biến mất. Còn không gian, vẫn là không gian trần thế (am,
núi, cửa biển, dân làng) nhưng đã có những chi tiết kì lạ: sóng gió nổi lên, đạo sĩ
trong am giúp vua và đón vua trở về mà người làng không biết, sóng gió xa xa,
“ngọn cao như núi”, thuyền quân đi đến đâu thì “gió yên sóng lặng”, đạo sĩ đi trên
mặt biển…Đây là một không gian không vướng đục bụi trần, có một lớp màn ngăn
cách, người thường không thể nào với tới được. Không gian này là một phông nền
kì vĩ cho nhân vật thỏa sức thể hiện tài năng chí khí của mình. Tác giả đặt nhân vật
vào bầu không khí kì ảo để tô đậm tài năng siêu phàm của đạo sĩ song cũng không
quên chỉ cho chúng ta thấy cốt cách thanh cao “thần tiên đạo cốt” không ham giàu
sang phú quý, chỉ thích an nhiên, tự do phóng khoáng của một bậc cao nhân.
Câu chuyện không sa đà vào các yếu tố kì ảo mà luôn luôn được nối kết với
hiện thực. Kết thúc truyện, tác giả giới thiệu thêm về đạo sĩ và cũng để chứng thực
sự tồn tại của câu chuyện. Với tác giả Hồ Nguyên Trừng, ông không chỉ cảm phục
tài năng của đạo sĩ họ La mà còn cho ta biết tài năng, danh tiếng của đạo sĩ này đã
truyền đến hậu thế của ngài là La Tu làm quan dưới thời Trần Nghệ Tông. Tác giả
là người biết rõ chuyện này, ở cuối truyện, ông chỉ ra sự liên hệ của ông với nhân
vật này thông qua hậu duệ của chân nhân họ La : “Hậu duệ của ngài có La Tu, đỗ
Tiến sĩ, làm quan thời Trần Nghệ vương, tới chức Thẩm hình viện ty, rồi mất.
Chính tôi biết người này”. Từ một câu chuyện kì ảo nay trở thành chuyện có thật
bởi sự tồn tại của nhân chứng: La Tu và tác giả. Tuy rằng khá xa so với thời điểm
mà tác giả đang sống nhưng ông là người được nghe kể trực tiếp thông qua hậu duệ
là La Tu – một người quen, sống cùng thời. Vì thế, tác giả đã kéo câu chuyện trở
nên gần hơn với người đọc. Còn trong tâm trí người đời, một đạo sĩ có gốc gác đã
trở thành một đạo sĩ không tên được nhớ tới bằng tài năng của mình: “Áp Lãng
chân nhân”.
2.1.2.2 Truyện “Nhập mộng liêu bệnh”
Truyện viết về Phật giáo, nhân vật chính là nhà sư Quán Viên được giới thiệu
ngay ở đầu câu chuyện: “Sư chùa Đông Sơn tên là Quán Viên, giới hạnh thanh
bạch, tuệ giải viên dung”. Để khắc họa tài năng của nhà sư, tác giả đã miêu tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chuyện chữa bệnh bằng hàng loạt chi tiết sinh động và hấp dẫn: Nhà sư đã vài chục
45
năm chưa hề xuống núi -> Trần Anh Tông bị đau mắt (hơn một tháng, thuốc men
không giảm, đau đớn) -> Vua mộng thấy có vị sư lấy tay xoa mắt -> Hỏi tên, đáp là
“Quán Viên” -> Tỉnh dậy hết đau, vài ngày sau bình phục -> Mời đến, đúng như
trong mộng… Hơn nữa, tác giả sử dụng những chi tiết kì ảo để làm nổi bật tài năng
của nhân vật “vương mộng thấy có vị sư lấy tay xoa vào mắt mình” “vương sai mời
đến, thì đúng là vị sư đã thấy trong mộng”. Sau khi chữa bệnh xong, cũng giống
như đạo sĩ họ La, nhà sư không nhận phong thưởng, ông đem mọi thứ ra bố thí và
vẫn mặc áo rách về núi. Chi tiết này khẳng định thêm về nhân cách của Quán Viên:
Chữa bệnh cứu người không ham danh lợi. Từ chân dung một thiền sư ngoài đời,
Quán Viên đã đi vào tâm thức dân gian trở thành một vị thần anh linh được người
đời tôn kính, ngưỡng vọng.: “Từ đó, ngài đi hành cước, trải khắp núi sông châu
huyện xóm thôn phàm gặp nơi nào có thần dâm tự làm hại dân gian, ngài đều trách
mắng, phá hết cả đàn miếu đó đi, đến nỗi các vị thần linh dữ tợn đều phải hiện hình
trong mộng nghênh đón ngài từ xa. Vị thần nào cầu xin thì ngài cho thụ giới, giảm
bớt đồ tế lễ và sai họ bảo hộ dân chúng, không vị thần nào dám sai phạm”. Truyện
ca ngợi tài năng kì lạ, phi thường của nhà sư và quan niệm Phật giáo về tu tập, cách
ứng xử với thiên nhiên, cuộc sống thế tục.
Truyện ảnh hưởng của kiểu truyện thiền sư trong Thiền uyển tập anh nhưng
vẫn gợi cảm giác thú vị nơi người đọc. Câu chuyện này dù có sử dụng những yếu tố
hoang đường kì ảo song nhân vật là người có thật, tên tuổi, quê quán địa chỉ; thời
gian cũng được xác định: thời vua Trần Anh Tông; không gian cụ thể (chùa Đông
Sơn, cung vua…) nên truyện dù có yếu tố hoang đường thì vẫn có tính ghi chép của
truyện ký trung đại.
2.1.3 Những ghi chép về thơ của riêng tác giả
2.1.3.1 Truyện “Tiểu thi lệ cú”
Hồ Nguyên Trừng giới thiệu cụ thể về tác giả của hai bài thơ này bằng những
dòng ghi chép ngắn gọn: “Tôn thất của nhà Trần có người hiệu là Ái Sơn, ham đọc
sách làm thơ, riêng thích thơ huê tình, hay làm các bài thơ ngắn và thường có những
câu diễm lệ”. Qua nhan đề của truyện, qua phần giới thiệu về tác giả bài thơ, người
đọc đã có những cảm nhận chung về những bài thơ này: Đó là những bài thơ huê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tình khá diễm lệ:
46
Bảo đỉnh hương tiêu trầm thủy yên,
Bích sa xuân trướng bạc như thiền.
Động chương ngâm bãi sầu thành hải,
Nhân tại lan can nguyệt tại thiên.
Dịch thơ:
Lò hương vừa dứt khói la đà,
Rung rinh màn trướng vẻ xuân sa.
Câu thơ lắng lại tình sông bể,
Trăng côi, bóng lẻ trước hiên nhà.
Lại có bài khác:
Song bạn hương vân ám bích sa,
Bình phân ngọ thụy bất cấm trà.
Tương tư tại vọng đăng lâu kiếp,
Nhất thụ mộc miên hông tận hoa.
Dịch thơ:
Trước cửa mây vờn ám sắc the,
Ban trưa, thôi cũng chẳng kiêng chè.
Tương tư ngại bước lên lầu vắng,
Hoa gạo bên đường thắp đỏ hoe.
Nhà văn Hồ Nguyên Trừng đã ghi lại cả hai bài thơ huê tình của Ái Sơn. Hai
bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, gồm 28 chữ, ngắn gọn súc tích. Cả
hai bài đều viết về mùa xuân khi cảnh sắc thiên nhiên đang tươi đẹp rực rỡ; mỗi bài
một vẻ thật là kì thú: hương trầm trong đỉnh đang tan đi mà lắng lại như khói, bức
trướng xuân màu xanh mỏng tựa như cánh ve, mây che mờ màn the, cây hoa gạo nở
đầy hoa đỏ… Cảnh thiên nhiên ấy đã làm nền cho tâm trạng của con người. Bài thứ
nhất diễn tả sự dồn tụ chất chứa trong tâm hồn: Tác giả cảm nhận được sự nhỏ nhoi,
cô đơn trong sự lắng đọng của cảnh vật, trong sự xa cách về không gian (trời – đất),
sự đối lập giữa cái hữu hạn với cái vô hạn (trăng – người). Văn học trung đại không
nói đến tình cảm riêng tư, tác giả Ái Sơn là một trong số ít người đã đưa tình cô đơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lẻ bóng của mình vào thơ. Cụm từ “sầu thành hải” gợi cho ta nhớ tới câu thơ “Sầu
47
tự hải / Khắc như niên” của Đặng Trần Côn. Phải chăng vì tình cảm của đôi trai gái
xa nhau mà sầu dâng tận bể chăng? Bài thơ thứ hai mượn môtip “đăng cao” quen
thuộc của thơ Đường, tác giả thể hiện nội dung mới, tình cảm mới: trai gái nhớ nhau
“tương tư ngại bước lên lầu vắng”. Việc coi trọng tình cảm cá nhân là một nét tiến
bộ của thi nhân. Có lẽ đây là lần đầu tiên giá trị nhân bản của con người được khẳng
định trong thơ ca nước ta. Cả hai bài thơ, hình ảnh không mới (lò hương, mây,
trăng, hoa) nhưng nội dung lại bàn đến những tình cảm rất mới: tình tương tư, tình
đơn côi lẻ bóng.
Người xưa coi trọng văn chương cử tử, sử, thơ, văn nghị luận, “thơ dĩ ngôn
chí”, “văn dĩ tải đạo” chứ không coi trọng tiểu thuyết, thơ huê tình… Việc ghi
chép lại những bài thơ huê tình không chỉ cho ta thấy sự trân trọng với những giá
trị văn hóa tinh thần của dân tộc mà còn trân trọng cả giá trị nhân bản con người.
Với ý nghĩa ấy, truyện “Tiểu thi lệ cú” thật có giá trị thật đặc sắc.
Về mặt thể loại, thiên truyện này thực chất không phải là “truyện” (không
có cốt truyện, không miêu tả nhân vật) mà nó là thi thoại, vừa mang tính chất ký
vừa đan xen thơ ca. Hồ Nguyên Trừng đã ghi lại những hiểu biết về tác giả để
giúp chúng ta hiểu được nội dung bài thơ, đồng thời ông còn trích dẫn bài thơ nữa.
Cho nên, truyện “Tiểu thi lệ cú” xứng đáng là một trong những thi thoại hay của
Nam Ông mộng lục.
2.1.3.2 Truyện “Thi thán trí quân”
Nhiều thiên truyện giới thiệu nhân vật, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện, hoàn
cảnh sáng tác bài thơ ngay ở phần đầu truyện. Hồ Nguyên Trừng không làm như
vậy. Ông mở đầu truyện với những chi tiết ngắn gọn để giới thiệu trực tiếp Trần
Nguyên Đán và bài thơ “Đề huyền thiên quán”:
Bạch nhật thăng thiên dị,
Trí quân Nghiêu, Thuấn nan.
Trần ai lục thập tải,
Hồi thủ quý hoàng quan.
Dịch thơ:
Lên trời còn sự dễ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Giúp chúa thật điều gay.
48
Sáu chục năm lẩn thẩn,
Trông người hổ thẹn thay.
Lối ghi chép ngắn gọn, giản lược của thiên truyện ký trong câu mở đầu
truyện chưa cho ta biết gì nhiều về tác giả Trần Nguyên Đán, hoàn cảnh ra đời…của
bài thơ. Điều đó chúng ta có thể cảm nhận được khi đọc bài thơ và lời bình của tác
giả. Phần lời bình nói rõ thêm về hoàn cảnh ra đời của bài thơ, thậm chí còn bình
được cả tâm trạng của Trần Nguyên Đán trong bài thơ này. Trần Nguyên Đán là
một vị quan lớn có nhiều đóng góp cho nhà Trần. Ông phụng sự nhiều đời vua: Dụ
Tông, Phế Đế, Nghệ Tông và tỏ hết lòng trung, được người đời coi trọng. Ngay
trong hai câu mở đầu khi nói về việc trí quân (giúp vua), nhà thơ đã nêu lên tình
huống bi kịch: Xưa nay, người ta thường quan niệm rằng không có gì khó bằng việc
lên trời, thế nhưng việc giúp vua lại còn khó hơn. Bi kịch nảy sinh khi nhiệm vụ hết
sức lớn lao, điều kiện thực hiện gian nan, tưởng chừng không thể vượt qua trong
giới hạn một đời người. Điều đó cho ta thấy sự bất lực của Trần Nguyên Đán. Đúng
như nhà văn Hồ Nguyên Trừng đã nhận xét: “Có lẽ bởi khi đang nắm quyền tướng
quốc, Băng Hồ không làm được gì nên thốt ra những lời than thở như vậy chăng?
Âu cũng là điều khả thủ của bậc thi nhân mà lòng ưu quân ái quốc chứa chất bên
trong dồn nén thành tấm lòng trung hậu chăng?”. Người đọc phải băn khoăn tự hỏi
một vị quan lớn như Tư đồ Trần Nguyên Đán mà cũng phải bó tay trước vận mệnh
của đất nước hay sao? Hay chế độ phong kiến đã đi vào thời kì mạt vận không có
cách nào cứu vãn nổi? Tuy nhiệt huyết vẫn còn (thẹn) song những việc sáu mươi
năm nay chưa làm thì những năm cuối đời làm sao có thể làm được? Những giằng
xé dằn vặt trong tâm hồn một vị quan “trung quân ái quốc” làm cho ta nhói đau. Bài
thơ của Trần Nguyên Đán cho ta thấy dù tuổi đã cao song “hùng tâm tráng chí”
chẳng một phút giây phai nhạt. Đây là biểu tượng đẹp về người anh hùng thời vãn
Trần. Chế độ phong kiến suy tàn, thơ ca không còn là khúc ca hùng tráng thời thái
bình thịnh trị với hào khí Đông A rực rỡ nữa mà là khúc bi ca thể hiện sự bất lực
của con người trước thời thế.
Lời bình của nhà văn họ Hồ ghi lại cảm nhận chủ quan về Trần Nguyên Đán.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lời bình thơ là hình thức phê bình văn học trong văn học trung đại, nó đã khắc họa
49
chân dung thi nhân Trần Nguyên Đán với vẻ đẹp bi tráng. Song sự đan xen thơ với
lời bình trong thiên truyện này mới là điều chúng tôi quan tâm. Cũng giống như
truyện “Tiểu thi lệ cú”, thiên truyện này là minh chứng cho tính chất truyện ký và
sự đan xen truyện ký – thơ ca…
2.1.3.3 Truyện “Quý khách tương hoan”
Mở đầu thiên truyện, Hồ Nguyên Trừng ghi như sau: “Quân đầu Mạc Ký là
người Đông Triều. Ông xuất thân là lính tráng nhưng rất thích làm thơ”. Tác giả
cũng dành một dung lượng không nhỏ để ghi lại hoàn cảnh ra đời bài thơ: Vào năm
Nguyên Thống, ông được tiễn sứ giả nhà Nguyên là Hoàng Thường, cũng là người
thích làm thơ; hai người đã xướng họa với nhau một tuần trên sông, có nhiều câu
thơ hay; khi tới biên giới, Mạc Ký làm bài thơ “Lưu biệt” này:
Giang ngạn mai hoa chính bạch,
Thuyền đầu tế vũ tà phi,
Hành khách tam đông Bắc khứ,
Tướng quân nhất trạo Nam qui.
Dịch thơ:
Trên bến, hoa mai đua trắng,
Đầu thuyền, mưa bụi tạt ngang.
Hành khách ba người về Bắc,
Tướng quân một mái quay Nam.
Thông qua bài thơ trong truyện, nhà văn Hồ Nguyên Trừng ghi đươc cảnh
tiễn biệt của Quân đầu Mạc Ký và sứ nhà Nguyên Hoàng Thường nhưng không có
âm hưởng nặng nề của một cuộc chia li đau khổ. Cảnh hiện lên rất đẹp, có lẽ bấy
giờ vào dịp cuối đông, khi hoa mai đua nở trắng và mưa bụi lất phất bay, có thuyền
có nước, có cả kẻ ở và người đi. Một vẻ đẹp trong sáng tinh khôi. Và những con
người hiện lên trong không gian ấy cũng rất đẹp: Một người Nam tiễn ba người về
Bắc, bên ngoài tình cảm có vẻ đơn sơ, đạm bạc song thực chất thì lại rất gắn bó, bịn
rịn. Bài thơ có nét cách tân mà vẫn thể hiện được phong vị của đất nước Việt Nam:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thiên nhiên tươi đẹp, con người mến khách…
50
Về mặt nghệ thuật, thiên truyện là một thi thoại nhiều sáng tạo. Hồ Nguyên
Trừng đã ghi lại nguyên vẹn bài thơ để lưu lại cho đời những sáng tạo ấy: Bài thơ
gồm 24 chữ, 4 dòng, mỗi dòng 6 chữ. Đây có lẽ là lần đầu tiên thơ 6 chữ xuất hiện
trong văn học nước ta, chứng tỏ sáng tạo tuyệt vời của thi nhân:
Về luật bằng trắc:
B T B B T T
B B T T B B
B T B B T T
T B T T B B
So với một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt viết theo vần trắc (Ví dụ bài “Nam
quốc sơn hà”, ta thấy có nét khác:
B T B B B T B
T B T T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
Theo luật thơ Đường có quy tắc “nhất tam ngũ bất luận”, nghĩa là chữ thứ
nhất, thứ ba thứ năm trong câu có thể linh động bằng trắc, và quy tắc “nhị tứ lục
phân minh” nghĩa là chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu phải đúng luật. Về niêm, ta thấy bài
“Nam quốc sơn hà”, niêm câu 2 và câu 3. Nhưng bài thơ “Lưu biệt” của Mạc Ký
không tuân thủ quy luật này:
Lưu biệt Nam quốc sơn hà
BT – BB – TT BT – BB – BTB
BB – TT - BB TB – TT - TBB
BT – BB - TT BB – TT - BBT
TB – TT - BB TT - BB - TTB
Theo như trên thì trong bài “Lưu biệt”, câu 1 niêm với câu 3, câu 2 niêm với
câu 4, câu 2 và câu 3 đối nhau theo luật bằng trắc. Về đối, câu 1 đối câu 2, câu 3 đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
câu 4. Về vần, sử dụng vần chân, độc vận (i) ở câu 2 và câu 4; tương tự như thơ ngũ
51
ngôn. Về ngắt nhịp, thơ thất ngôn Đường luật chỉ có một lối tiết tấu là chẵn trước, lẻ
sau; bài thơ này ngắt nhịp chẵn 2/4 hoặc 4/2 thật độc đáo.
Mạc Ký có những thử nghiệm mới mẻ về hình thức thơ. Có thể đây là điểm
khởi đầu cho sự phát triển của thể thơ thất ngôn xen lục ngôn ở thế kỉ XV chăng?
Nếu Hồ Nguyên Trừng không ghi lại thì có lẽ chúng ta không biết tới những câu thơ
6 chữ đặc biệt như vậy.
Cả ba thiên ghi chép về thơ của tác giả đều có những nét đặc sắc riêng. Đây
là ghi chép về những bài thơ mà sách vở đương thời không thấy chép, nó mang ý
thức của một công trình sưu tầm, có giá trị bổ sung cho văn học. Ý nghĩa của những
ghi chép này ở chỗ tác giả đã ghi lại được những phát hiện khá mới về cả nội dung
và nghệ thuật của thơ ca giai đoạn này. Về nội dung, không chỉ có con người anh
hùng lí tưởng trong thơ nữa mà xuất hiện con người cá nhân với tình cảm riêng tư.
Về nghệ thuật, mầm mống của sự cách tân sáng tạo trong thơ ca xuất hiện báo hiệu
sự hình thành thể loại thơ mới trong văn học giai đoạn sau. Những ghi chép đó thể
hiện sự dụng công sưu tầm và những trân trọng quý báu của Hồ Nguyên Trừng với
văn học nước nhà.
2.2 Những truyện kí có mối liên hệ với Đại Việt sử kí toàn thư
Sử là thể loại văn học “ghi việc người có thực. Ban đầu chức tả sử ghi lời,
chức hữu sử ghi việc, và đó là ghi thực tế trước mắt trong hiện tại, về sau mới ghi
lại việc quá khứ. Chính cái ý thức ghi việc để phân biệt phẩm loại, nêu gương tốt
xấu cho đời sau đã thúc giục tác giả cầm bút. Cái đức chuộng sự thực, tồn cái cổ đã
khiến họ tìm tòi, ghi chép, phân biệt, sắp xếp sự việc cho đầy đủ, mạch lạc, có đầu
có cuối” [68; 124]. Nhà sử học coi trọng kể lại chuyện có ngọn ngành, thời gian, địa
điểm, hành động…Trong thực tế, các nhà viết sử hình dung cuộc sống cụ thể cặn kẽ
như một bức tranh sinh động nên ở họ có cả ý thức khoa học khách quan và ý thức
văn nghệ. Vì vậy, sử học và văn học có mối liên hệ bền chặt, lâu đời.
Các thể loại của văn học trung đại có chức năng ngoài văn học đặc biệt là các
thể loại có liên quan tới lịch sử như bi kí, lục, truyện, minh, chí, dật sự… Chúng ta
có thể tìm thấy trong tác phẩm văn học giai đoạn này những giá trị của văn học, lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sử, triết học, tôn giáo, chính trị… Giáo sư Trần Đình Sử đã nhận xét về mối quan
52
hệ giữa các thể loại văn học trung đại với các thể loại sử học như sau: “Không thể
nghiên cứu nghệ thuật văn xuôi mà không đối chiếu với các thể loại của sử” [68;
108]. Nguyễn Đăng Na chia văn xuôi tự sự trung đại thành ba xu hướng trong đó có
xu hướng lịch sử và cho rằng: “Về cơ bản, tác giả của chúng bám sát lịch sử, lấy
nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử làm đối tượng phản ánh” [50; 32]. Vì thế, việc
nghiên cứu mối quan hệ văn học - sử học trong các tác phẩm là rất cần thiết để giúp
chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về văn học thời trung đại..
2.2.1 Tương quan về các sự kiện lịch sử
Sự kiện: “là sự việc có ý nghĩa ít nhiều quan trọng đã xảy ra” [57; 846]. Nó
có vai trò rất quan trọng trong tác phẩm văn học và sử học.
So sánh Nam Ông mộng lục với bộ Đại Việt sử kí toàn thư, ta thấy có 21/ 31
thiên truyện (chiếm 67,7%) có mối quan hệ với Đại Việt sử kí toàn thư, chứng tỏ có
sự liên hệ khá chặt chẽ giữa văn học và sử học. Chúng tôi thống kê các thiên truyện
này trong bảng phụ lục 1. Như vậy, đây là “nguồn tư liệu quý” để tìm hiểu văn học
và sử học đời Lý Trần. Trong số đó, chúng tôi nhận thấy chỉ có 2/21 thiên truyện
viết về thời Lý, có tới 19/21 thiên viết về thời Trần cho tới những năm đầu thời
Minh Thành Tổ.
Dựa vào sự tương đồng hay khác biệt giữa các truyện của Nam Ông mộng
lục và Đại Việt sử kí toàn thư, chúng tôi phân loại thành các nhóm: nhóm truyện có
sự kiện trùng nhau hoặc có khác nhau thì cũng chỉ khác một vài chi tiết (gọi là
nhóm truyện tương đồng); nhóm thứ hai gồm những truyện giống nhau nhưng có
thêm lời bình (tương đồng thêm lời bình) nhóm thứ ba gồm các truyện có sự thay
đổi gia công sắp xếp lại cốt truyện, sự kiện (gia giảm, viết lại). Bàn về mối quan hệ
văn sử trong văn bản Nam Ông mộng lục và Đại Việt sử ký toàn thư, PGS TS
Nguyễn Hữu Sơn viết: “Trên cơ sở định lượng 16 truyện trong Nam Ông mộng lục
cùng xuất hiện trong Đại Việt sử kí toàn thư, chúng tôi thấy có 6 truyện hầu như
tương đồng, được chép nguyên dạng (số 2, 6, 12, 23, 24, 25); có 4 truyện được viết
lại với mức độ nhiều ít khác nhau, có gia giảm, sắp xếp lại câu chữ (số 3, 9, 14, 17);
có 3 truyện nối thêm lời bình (số 5, 10, 18); có một truyện trích đoạn giản lược và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
viết lại (số 9); có hai truyện hoàn chỉnh và đầy đủ hơn (số 22, 29)…” [65; 3-10].
53
Nguyễn Hữu Sơn đã thống kê miêu tả chi tiết, phân tích rất kĩ, chỉ ra sự tương đồng
và khác biệt về văn bản giữa hai tác phẩm này (Bảng phụ lục 2). Mục đích của luận
văn không đi sâu tìm ra sự tương đồng, khác biệt giữa hai văn bản mà chúng tôi
muốn thông qua mối quan hệ văn sử để tìm hiểu tính chất truyện ký trong cả hai tác
phẩm này.
Ở nhóm thứ nhất, các truyện trong hai tác phẩm này có sự tương đồng ở mức
độ cao, hầu như các truyện trong Nam Ông mộng lục được ghi chép nguyên dạng so
với Đại Việt sử ký toàn thư, chứng tỏ những văn bản này đều có tính chất truyện ký.
Bởi bộ sử Đại Việt sử kí toàn thư có tính chính xác rất cao, những truyện tương
đồng với tác phẩm này thường là truyện “người thật, việc thật”. Truyện số 25 trong
Nam Ông mộng lục: “Lê Quát, tự là Bá Quát, người Thanh Hóa. Thuở nhỏ du học ở
kinh đô. Trong số bạn bè có người làm quan, phụng mệnh đi sứ Yên Kinh. Bấy giờ
đang là cuối thời Nguyên. Bá Quát làm thơ tiễn như sau:
Người tựa trên yên trải dặm ngàn,
Kẻ về cửa bể cách quan san.
Sứ thần, dật khách nào hơn kém,
Ông được công danh, lão được nhàn.
Xem thơ, người am hiểu cho rằng Bá Quát sẽ hiển quý. Về sau Quát đỗ đạt,
quả được thăng chức rất nhanh, vào làm việc trong Chính phủ trước cả bạn mình”.
Văn bản truyện về Lê Quát trong Đại Việt sử kí toàn thư: “Quát là người
Thanh Hóa, lúc tuổi trẻ du học ở kinh sư, có người bạn sang sứ Yên Kinh, Quát tiễn
bài thơ rằng: Dịch lộ tam thiên quân cứ an; Hải môn thập nhị ngã hoàn san; Trung
triều sứ giả yên ba khách; Quân đắc công danh ngã đắc nhàn. Dịch: Đường trạm ba
nghìn bác cưỡi an; Mười hai cửa bể tớ về ngàn; Kẻ sang xứ Bắc người mây nước;
Bác được công danh tớ được nhàn). Người thức giả biết là Quát thế nào cũng sẽ được
quý hiển. Quả nhiên Quát thi đỗ làm quan nhanh hơn người bạn kia.”[13; 64].
Một số truyện khác như truyện số 2 trong Nam Ông mộng lục chỉ khác
truyện về Trần Nhân Tông trong Đại Việt sử kí toàn thư chi tiết “Chị của ngài hiệu
là Thiên Thụy làm nhiều việc trái đạo vợ chồng”, còn Đại Việt sử kí toàn thư có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thêm chi tiết “dặn người hầu là Pháp Loa các việc về sau”. Truyện số 12 có chi tiết
54
Thượng đế chấp nhận cho Trần Nhật Duật sống thêm một kỉ nữa, còn Đại Việt sử kí
toàn thư ghi “sống thêm hai kỉ” và còn nói rõ “mất tuổi 77, được đủ 6 kỉ lẻ 5 năm”,
các sự kiện khác đều giống nhau. Chúng ta thấy, những văn bản trên không chỉ ghi
chép nguyên vẹn các sự kiện (lịch sử) mà còn là các truyện ký khắc họa chân dung,
tính cách, số phận con người. Về cơ bản, chúng tôi nhận thấy các truyện thuộc
nhóm này có thể chung nguồn gốc xuất xứ “đã trích dẫn, ghi chép một số truyện
theo Đại Việt sử kí toàn thư (và ngược lại), hoặc cả hai cùng dựa theo một nguồn
thư tịch nào đó” [65; 3 - 10], tức là những câu chuyện đã có sẵn, các tác giả chỉ là
người ghi chép lại. Cần chú ý là Đại Việt sử ký toàn thư (Biểu dâng sách của Ngô Sĩ
Liên viết năm 1479) là tác phẩm được ra đời sau Nam Ông mộng lục (Bài tựa của
Hồ Huỳnh viết năm 1440), khó có thể nói rằng Nam Ông mộng lục ảnh hưởng từ
Đại Việt sử kí toàn thư. Nhưng Đại Việt sử kí toàn thư được tích hợp từ những
nguồn sử liệu khác nhau, trước đó là bộ Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu ở đời Trần
và Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên ở đầu thời Hậu Lê nên những truyện mà Nam
Ông mộng lục tương đồng có thể là những cái đã được ghi chép lại từ những tư liệu
có từ trước.
Nhóm thứ hai gồm các truyện số 4, 5, 10, 18 trong Nam Ông mộng lục. Cốt
truyện, sự kiện, tình tiết, nhân vật tương tự như Đại Việt sử kí toàn thư, khác là Nam
Ông mộng lục thêm lời bình. Mục đích của việc này là để Hồ Nguyên Trừng bộc lộ
thái độ đánh giá của mình với nhân vật (số 4, 5, 10) hoặc là bình thơ (số 18). Ví
dụ: Truyện về vợ chồng Ngô Miễn trong Đại Việt sử kí toàn thư kết thúc bằng chi
tiết Nguyễn Thị nhảy xuống nước chết theo chồng. Truyện số 10 trong Nam Ông
mộng lục cũng kết thúc bằng chi tiết đó và nhà văn viết thêm lời bình: “Than ôi,
chết vì tiết nghĩa là việc đương nhiên của của bậc sĩ đại phu.Vậy mà có kẻ cho
rằng khó xử. Người làm quan mà được như Ngô Miễn, là điều xưa nay hiếm thấy.
Ngô Miễn là bậc trượng phu chăng? Đến như Nguyễn Thị là kẻ đàn bà, khi lâm
nguy còn hiểu được tiết lớn, biết chồng chết đúng chỗ mà không oán thán, lại biết
trọng nghĩa xem thường cái chết, coi cái chết như được trở về, có thể nói là người
đàn bà hiền thục chăng? Những người đàn bà ngu muội ở đời, vì bực tức mà nhảy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xuống sông tự tử nhiều lắm. Còn như, vì nghĩa quên mình, thật không dễ dàng có
55
đâu! Người như Nguyễn Thị, thực đáng khen thay!”. Lời bình ở cuối truyện là
những ghi chép của riêng tác giả để bộc lộ những suy nghĩ, cảm nhận, thái độ, đánh
giá với sự việc, con người.
Nhóm thứ ba là những truyện đã được sắp xếp lại, gia giảm, bổ sung theo ý
chủ quan của tác giả. Đại Việt sử kí toàn thư rất coi trọng các sự kiện lịch sử nhưng
các truyện trong Nam Ông mộng lục không quá phụ thuộc vào lịch sử (có khi các
yếu tố lịch sử đưa vào truyện chỉ nhằm chứng minh đây là câu chuyện có thật) bởi
đối với văn, “chi tiết của sự kiện còn quan trọng hơn”. Vì thế, đây cũng là nhóm
truyện khác biệt nhau về chi tiết, sự kiện… dẫn tới nội dung, ý nghĩa cũng thay đổi
(Truyện số 1, 3, 17, 20, 21, 22). Song những yếu tố lịch sử vẫn tồn tại khá phổ biến
trong Nam Ông mộng lục. Ví dụ: Trong Đại Việt sử kí toàn thư, sau khi giới thiệu
về Trần Quang Khải, các sử gia viết về Trần Đạo Tái – con trai Trần Quang Khải –
trong cách đối đãi của vua Trần Nhân Tông: “Con là Văn Túc vương Đạo Tái cũng
nổi tiếng văn học về thời bấy giờ. Thượng hoàng rất yêu quý, khác với em thúc bá
khác. Bấy giờ Thượng hoàng đi Vũ Lâm vào chơi hang đá, cửa hang đá hẹp,
Thượng hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền, gọi
Văn Túc vương lên đằng mũi thuyền, chỉ để một người chèo thuyền mà thôi. Đến
khi Thượng hoàng xuất gia, trước khi sắp ra đi, mời Đạo Tái vào điện Dưỡng Đức ở
cung Thánh Từ, cho ngồi cùng ăn đồ hải vị, làm bài thơ rằng:
Quy cước mổ đỏ ướt,
Mã yên nướng vàng thơm.
Sơn tăng giữ trai giới,
Cùng ngồi không cùng ăn.
Thân tín yêu quý Đạo Tái đến như thế. Muốn dùng làm chức to, nhưng vì trời
không cho sống lâu” [13; 538].
Nếu như Đại Việt sử kí toàn thư ca ngợi mối quan hệ tương giao anh em thân
thiết giữa Trần Đạo Tái và vua Trần Nhân Tông thì trong truyện số 17, ý đồ của tác
giả Hồ Nguyên Trừng đã khác. Truyện không chỉ cho ta thấy tình vua tôi anh em
tương đắc trong nét sinh hoạt đời Trần mà trên hết là sự yêu quý, tôn kính, cảm kích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của Đạo Tái với vua Nhân Tông:
56
“Cháu của Trần Thái thượng tên gọi Đạo Tái, hiệu là Văn Túc, là em họ của
Trần Nhân vương.
Từ nhỏ, chàng đã nổi tiếng có tài, năm 14 tuổi xin vào trường thi, bèn đỗ
Giáp khoa. Nhân vương vô cùng quý trọng và muốn dùng vào ngôi cao nhưng
chẳng may chàng đoản mệnh qua đời nên chưa kịp ở ngôi Tướng quốc.
Nhân vương xuất gia, đi tu khổ hạnh. Từ đó, Văn Túc đi bộ và nói:
- Chúa thượng hành cước khắp núi sông, tôi dù không thẻ đi theo, sao nớ coi
ngựa xe là thứ vứt đi?
Rồi suốt đời cứ đi bộ mà không đổi.
Một lần, Nhân vương về kinh đô, Văn Túc đến yết kiến, sai nhà bếp làm các
món hải vị đem mời, nói cười cực vui:
Quy cước bóc đỏ thắm,
Mã an nước vàng thơm.
Sơn tăng gìn trai giới,
Cùng ngồi, chẳng cùng ăn.
Xem vua tôi, anh em nhà họ tương đắc như vậy, thật là cảm kích lắm vậy.”
Tính chất truyện ký còn được thể hiện khi các truyện của Nam Ông mộng lục
và Đại Việt sử kí toàn thư ghi chép lại những sự kiện lịch sử, tác giả thường xác
định thời gian, địa điểm xảy ra sự kiện. Các truyện trong Đại Việt sử kí toàn thư xác
định rõ năm nào xảy ra sự kiện, vào thời vua nào: Ví dụ: Truyện Lê Phụng Hiểu
được ghi như sau: “Mậu Thìn, năm thứ 19 (1028) (Từ tháng 3 về sau là Thái Tôn
Thiên Thành năm thứ 1. Tống Thiên Thánh thứ 6). Mùa xuân, tháng 2, vua không
khỏe…Ngày Mậu Tuất, vua băng ở điện Thiên An…”. Còn truyện “Dũng lực thần
dị” trong Nam Ông mộng lục tác giả không ghi mốc thời gian chính xác xảy ra sự
kiện, có thể sự việc xảy ra quá lâu so với thời gian Hồ Nguyên Trừng sống nhưng
vẫn có khoảng thời gian diễn ra câu chuyện: “Vào thời Lý, ở nước Nam có Lê
Phụng Hiểu…”
Thứ hai, các sự kiện trong truyện được ghi chép ở hai tác phẩm đều là những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sự kiện quan trọng của đất nước, còn những vấn đề của đời sống bình thường (cơm
57
ăn, áo mặc..) không được đề cập tới nhiều. Tìm hiểu hệ thống các sự kiện trong
truyện “Dũng lực thần dị” (Nam Ông mộng lục) và truyện Lê Phụng Hiểu (Đại Việt
sử kí toàn thư), ta thấy như sau:
Nam Ông mộng lục: - Sự kiện đánh giặc cướp
- Sự kiện chước đao
- Sự kiện làm tiên phong đánh giặc sau mất tại nhà
Đại Việt sử kí toàn thư: - Sự kiện giúp làng Cổ Bi đòi lại đất
- Sự kiện dẹp nạn
- Sự kiện đánh giặc
- Sự kiện chước đao
Thứ ba, các truyện ở Nam Ông mộng lục và Đại Việt sử kí toàn thư phần lớn
là truyện ký, tác giả thường dùng lời văn để ghi lại hành động lời nói, việc làm,
công trạng của nhân vật với ngôi kể thứ ba mang tính khách quan..
Thứ tư, Đại Việt sử kí toàn thư chủ yếu ghi lại sự kiện, gắn với sự kiện là
nhân vật lịch sử. Trong Đại Việt sử kí toàn thư chỉ chép một sự kiện duy nhất -
Minh Không chữa bệnh cho vua - bằng vài dòng ngắn ngủi, chân thực: “Vua bệnh
nặng, chữa thuốc không khỏi, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm quốc sư.
Tha phú dịch cho vài trăm hộ” và phần chép phụ thêm thì có yếu tố kì ảo nhưng
không nhiều (Tục truyền rằng khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm
đem thuốc và thần chú giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và
dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh nặng thì đến chữa ngay. Tức là
việc này) [13; 376]. Trong khi đó, đối tượng quan tâm trong truyện ký Nam Ông
mộng lục là con người, mọi diễn biến, sự việc xảy ra với nhân vật…Thiên truyện
“Minh Không thần dị” trong Nam Ông mộng lục xây dựng cốt truyện với khá nhiều
yếu tố kì ảo. Ví dụ như chuyện Thế tử bị bệnh (toàn thân mọc lông, nhảy nhót gầm
gào, đầu và mặt biến dần thành hình hổ) chuyện cái niêu thổi bốn năm chục người
ăn mà không hết cơm, chuyện nhà sư làm phép đưa thuyền tới kinh thành, chuyện
sư chạm tay tới đâu lông trên người Thế tử mất đi đến đấy, chuyện sư đi trên
không… Qua so sánh các truyện, ta thấy trong Đại Việt sử kí toàn thư ghi lại sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kiện rõ ràng, ít có yếu tố hoang đường, còn Nam Ông mộng lục cũng mang tính ghi
58
chép, sự kiện không chính xác như sử, tính chất truyện in đậm, nhiều yếu tố kì ảo
do chịu ảnh hưởng từ kiểu truyện kì quái thần linh của văn học trung đại như Thiền
uyển tập anh, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái lục.
Qua việc so sánh các truyện trong Nam Ông mộng lục và Đại Việt sử kí toàn
thư, chúng tôi nhận thấy cả hai tác phẩm đều viết về quá khứ lịch sử, khi sự kiện đã
ổn định “phải trái, trắng đen đã rõ ràng” nên người viết có thể đánh giá khách quan
về các sự kiện lịch sử. Vì vậy, ta thấy được sự ảnh hưởng của sử trong văn học và
cũng thấy các sử gia ghi lại câu chuyện lịch sử bằng truyện ký mang tính chất văn
học. Ở thời trung đại, người ta chưa phân biệt rạch ròi giữa văn chép sử với truyện
ký; người ta coi “lục”, “ký”, “truyện” là thể loại phụ của sử và bộ sử lại có phần viết
như truyện ký (có tính chất văn học) [70]. Vì thế, dù tương đồng hay khác biệt,
những truyện trong cả hai tác phẩm đều là truyện ký.
2.2.2 Tương quan về hệ thống nhân vật lịch sử
Nhân vật văn học luôn luôn được quan tâm trong mỗi tác phẩm. Nhân vật
văn học được hiểu là: “Miêu tả con người, đó chính là việc xây dựng nhân vật của
nhà văn…đó không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên, được
khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể là
những sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng tính cách con người, được
dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con người” [22; 126]. Nhân
vật là thành phần không thể thiếu trong các tác phẩm văn học và lịch sử.
Sử có ảnh hưởng to lớn tới văn xuôi, nó “cung cấp một mẫu mực tự sự, trong
đó có con người, có tên tuổi, sống vào một thời kì nhất định làm những việc hoặc
nói những câu có ý nghĩa” [68]. Nhân vật lịch sử chiếm đa số (24/31 truyện), nhân
vật dã sử chiếm số lượng ít (7/31 truyện). Phần lớn các nhân vật là nhân vật lịch sử,
có mối liên hệ mật thiết với triều đình phong kiến như vua chúa, quan lại, thiền
sư…như vua Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông, Trần Nghệ Tông, Chu Văn An,
Nguyễn Trung Ngạn…Nhân vật lịch sử là một yếu tố quan trọng chứng minh tính
xác thực của câu chuyện kể, bởi chúng ta có thể xác minh những nhân vật này từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiều nguồn tài liệu khác nhau.
59
Ngay ở phần đầu truyện, nhân vật đã được giới thiệu đầy đủ tên tuổi, quê
quán, chức vụ, tính tình, phẩm hạnh. Đây là cách viết quen thuộc của các tác gia
thời trung đại (Đại Việt sử kí toàn thư, Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh, Lĩnh
Nam chích quái). Nhưng cách giới thiệu chi tiết về nhân vật không chỉ giúp ta hiểu
thêm về nhân vật mà quan trọng là chứng minh sự tồn tại của nhân vật trong cuộc
đời, trong lịch sử bằng một lai lịch cụ thể. Đại Việt sử kí toàn thư chép về chuyện
Hồ Tông Xác như sau: “Tông Xác (người huyện Sĩ Thành, phủ Diễn Châu) tuổi trẻ,
thi đỗ, có tài danh…”[13; 689]. Trong Nam Ông mộng lục, phần lớn các truyện đều
giới thiệu nhân vật theo cách trên: “Đời vương thứ ba của họ Trần là Nhân vương,
khi đã truyền ngôi cho Thế tử bèn xuất gia tu hành, khắc khổ tinh tiến, tuệ giải siêu
thoát, là sư tổ của một phương. Ngài dựng am trên đỉnh Tử Tiêu, núi Yên Tử, tự gọi
mình là Trúc Lâm Đại sĩ” (Truyện số 3) hoặc “Chính phi của Trần Duệ Vương họ
Lê, là mẹ của Linh Đức” (Truyện số 5)…
Các nhân vật trong Nam Ông mộng lục thường được đặt vào thời gian cụ thể,
địa điểm có thực trong mỗi truyện, chứ không phải là không gian do tác giả hư cấu
xây dựng nên, ví dụ “Minh vương đã nối ngôi, mãi sau người mẹ đích của ngài mới
sinh con trai. Đến ngày người con ấy đầy tuổi tôi thì Anh vương đang tuần tra nơi
biên cảnh, mọi việc ở nhà đều do Tự vương quyết định” (Truyện số 6). Còn Đại
Việt sử kí toàn thư chép một sự kiện liên quan đến nhân vật rồi mới kể chuyện về
nhân vật đó: “Mùa xuân, tháng giêng, sai Tả bộc xạ là Tăng Khoan và Hữu bộc xạ
là Lê Quát xét định sổ đinh phủ Thanh Hóa (Quát là người Thanh Hóa…) [13; 649].
Thường gặp nhất trong Đại Việt sử kí toàn thư là ghi lại thời điểm nhân vật đó qua
đời, sau đó mới kể lại chuyện của người ấy. Người ta gọi đó là bút pháp “cái quan
định luận” trong sử, Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 (Nâng cao), Tập 2, chú thích:
“đóng nắp quan tài rồi mới có nhận định chắc chắn, nhằm khẳng định nhân cách của
nhân vật lịch sử” [69; 69]. Trong Đại Việt sử kí toàn thư, ta thường thấy bút pháp
này được vận dụng khá phổ biến: “Ngày mồng 3, Thượng hoàng băng ở am Ngọa
Vân, núi Yên Tử. Bấy giờ thượng hoàng xuất gia ở ngọn Tử Phong, núi Yên Tử, tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hiệu là Trúc Lâm Đại sĩ. Chị của thượng hoàng là Thiên Thụy ốm gần chết, thượng
60
hoàng xuống núi đi thăm…” [13; 570] và truyện về Chu Văn An “Tư nghiệp Quốc
tử giám là Chu An chết. Tặng Văn Trinh công, cho thờ theo ở Văn miếu. An (người
huyện Thanh Đàm) tính người cương trực, bền giữ tiết tháo, không cầu danh lợi
hiển đạt, ở nhà đọc sách, học vấn tinh nhuần, tiếng đồn gần xa…” [ 13; 660].
Trong cả hai tác phẩm, các tác giả thường gọi tên nhân vật theo thụy hiệu
(Nhân Tông, Nghệ Tông, Thiên Thụy, Sầm Lâu, Giới Hiên…) chức tước (Vương,
Tư đồ, Thượng tể…) nhưng phổ biến nhất là gọi tên theo danh xưng Việt mà không
gọi theo họ (Nguyên Đán, Mại, Tông Thốc, Chu An): “Minh Vương đã nối ngôi,
mãi sau người mẹ đích của ngài mới sinh con trai” (truyện số 4) “Giới Hiên Nguyễn
Trung Ngạn cũng nổi tiếng về thơ nhưng không kịp làm quen với Sầm Lâu” (truyện
số 22) “Xem thơ, người am hiểu cho rằng Bá Quát sẽ hiển quý” (truyện số
24)…Đặc điểm này trở nên phổ biến trong truyện ký thời trung đại.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật lịch sử, các sử gia văn học trung đại tuân
thủ lối ghi chép kiệm lời không hư cấu, không miêu tả phân tích tâm lí, nếu có đánh
giá nhân vật bằng lời bình thì đánh giá đúng mức “đáng khen thì khen, đáng chê thì
chê”. Đại Việt sử kí toàn thư có chép: “Trong sử kí có thể tỏ rõ phải trái, công bằng
yêu ghét, lời khen của sử vinh hơn hoa cổn, lời chê của sử nghiêm hơn búa rìu, sử
ký thực là cái cân, cái gương của muôn đời” [13; 9]. Trong khi đó, với quan điểm
“dương tiền nhân chi phiến thiện”, tất cả các nhân vật lịch sử trong Nam Ông mộng
lục đều là tấm gương được ngợi ca hết mực theo đúng tinh thần của tác phẩm truyện
ký. Ta hãy so sánh những lời bình về vua Trần Nghệ Tông để thấy rõ hơn điều này:
+ Đại Việt sử kí toàn thư chép: “Vua dẹp yên nạn trong nước, khôi phục lại
nghiệp lớn, công liệt lớn lao, rực rỡ vũ trụ; song cung kiệm có thừa mà cương đoán
không đủ, giặc ngoài xâm phạm kinh kỳ, gian thần ngấp nghé ngôi báu, xã tắc nhà
Trần ngày mòn mỏi, rồi đến mất” [13; 655].
+ Nam Ông mộng lục ghi như sau: “Khi Minh Vương qua đời, trong ba năm
để tang, mắt ngài không lúc nào ráo lệ…Sau ngày mãn tang không mặc lụa màu,
không chú trọng miếng ăn ngon…Ngài trừ bỏ chính sự rối loạn, dùng điển chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xưa, thưởng phạt rõ ràng, dùng người hiền lương….thu hết con cái, cháu chắt bị mồ
61
côi của các anh chị em đem vào cung nuôi dưỡng, coi như con cháu mình, khiến gia
tộc xa gần đều được ơn thương đến. Những người nghèo khó lam lũ sau cơn tao
loạn không thể lấy vợ lấy chồng được thì dựng vợ gả chồng cho; ai chết chưa kịp
chôn cất thì chôn cất cho. Những họ hàng mà chưa biết mình thuộc chi phái nào thì
đều lượm lặt ghi chép lại, khiến họ được ở trong họ hàng như mùa xuân đầm ấm.
Người trong nước thì được giáo hóa, phong tục dần dần trở nên thuần hậu. Vua của
nước này là bậc vua hiền chăng?” (Truyện số 1).
Theo Ngô Sĩ Liên thì viết sử là để “treo gương răn cho đời sau, há chỉ tỏ cơ
vi về dĩ vãng. Tất phải khen chê mọi điều hay dở, thì người sau mới biết khuyên
răn” [13; 9]. Nam Ông mộng lục cũng được viết ra theo quan điểm “dương tiền
nhân chi phiến thiện”. Về cơ bản, nhân vật trong truyện ở hai tác phẩm này phần
lớn đều là những người tài đức, những người anh hùng, minh quân, tôi hiền, liệt
phụ…tức là những người cần được nêu trong sử sách để người đời sau học tập. Vì
vậy, nhân vật lịch sử trong mối tương quan giữa hai tác phẩm đều là nhân vật tiêu
biểu của thể loại truyện ký.
2.2.3 Tương quan về thời gian lịch sử
Để hiểu rõ hơn về vai trò của thời gian nghệ thuât, chúng tôi dựa vào ý kiến:
“Thời gian nghệ thuật thể hiện sự tự cảm thấy của con người trong thế giới. Có thời
gian nghệ thuật không tách rời chuỗi biến cố như trong cổ tích, có thời gian nghệ
thuật xây dựng trên dòng tâm trạng và ý thức như tiểu thuyết, có tác phẩm dừng lại
chủ yếu trong quá khứ, khép kín trong tương lai, có thời gian nghệ thuật “trôi” trong
các diễn biến sinh hoạt, có thời gian nghệ thuật gắn với các vận động của thời đại,
lịch sử lại có thời gian nghệ thuật có tính “vĩnh viễn”, đứng ngoài thời gian như
thần thoại. Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong
từng thời kì lịch sử, từng giai đoạn phát triển…” [31; 322 -323]. Thời gian có một
vai trò quan trọng. Thời gian lịch sử như một yếu tố không thể thiếu trong các bộ
sử. Thời gian lịch sử cũng chi phối tới văn học giai đoạn này.
Đại Việt sử kí toàn thư là một tác phẩm lịch sử nên rất coi trọng vấn đề thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gian. Là một bộ sử ghi theo lối biên niên, thời gian lịch sử thường được Đại Việt sử
62
kí toàn thư chép ngay ở trước các sự kiện với tên năm âm lịch, niên hiệu Việt Nam,
và niên hiệu Trung Quốc và nếu năm nào có thay đổi niên hiệu thì chú thích luôn:
- “Đinh Dậu năm thứ 17 (1357) (Nguyên Chí Chính thứ 17) …
- “Canh Tuất, Thiệu Khánh thứ 1 (1370) (từ tháng 10 trở về trước là Dương
Nhật Lễ Đại Định thứ 2 – Minh Hồng Vũ thứ 3)…
Có khi Đại Việt sử kí toàn thư còn ghi chép chính xác tới cả mùa, tháng, ngày…
- “Mùa hạ, tháng 5, ngày 13, thượng hoàng cho là vua vì nạn nước mà chết,
lập con trai trưởng là Kiến Đức đại vương Nghiễn nối nghiệp…
- “Tháng 12, ngày 15, thượng hoàng băng…
Trong Nam Ông mộng lục, tác giả không tuân thủ cứng nhắc nguyên tắc biên
niên nên việc ghi chép các mốc thời gian lịch sử khá linh hoạt, đa dạng: thời gian có
thể không ghi ở đầu tác phẩm, không ghi niên hiệu ở đầu, có truyện ghi niên hiệu có
truyện không, có khi ghi niên hiệu Trung Quốc, có trường hợp ghi niên hiệu Việt
Nam, có truyện chỉ ghi thời (triều đại), đời vua Việt Nam trị vì…Song sự xuất hiện
của thời gian lịch sử trong các truyện cũng chứng tỏ những nỗ lực của tác giả đối
với việc tôn trọng sự thật của đời sống. Tác giả ghi chép thời gian diễn ra câu
chuyện một cách cụ thể:
- “Sau bảy năm thì phụ vương qua đời, bấy giờ là năm Giáp Tuất, niên hiệu
Hồng Vũ thứ 27, an táng tại núi An Sinh, thụy là Nghệ Vương” (Truyện số
1).
- “Khoảng niên hiệu Chí Chính, ở Giao Chỉ có Trần Nguyên Đán là tôn thất
nhà Trần….” (Truyện số 21).
- “Đời vương thứ hai nhà Trần sau khi đã truyền ngôi cho Thế tử, vào lúc cuối
đời…” ( Truyện số 18).
Do tính chất biên niên nên Đại Việt sử kí toàn thư chép niên đại rất chính
xác, hơn nữa các sự kiện được chép theo thứ tự: sự kiện xảy ra trước, chép trước;
xảy ra sau, chép sau. Ví dụ chuyện về Trần Đạo Tái được chép vào năm Giáp Ngọ,
Hưng Long năm thứ 2 (1294) (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 31) còn truyện vua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trần Nhân Tông băng được chép vào năm Mậu Thân, năm thứ 16 (1306) (Nguyên
63
Vũ Tôn Hải Sơn, Chí Đại năm thứ 1). Trong khi đó, do tác động xóa mờ của thời
gian, Hồ Nguyên Trừng ghi chép một số mốc thời gian không chính xác. Ví dụ
chuyện Trần Nhật Duật sinh được Đại Việt sử kí toàn thư chép vào năm Ất Mão
năm thứ 5 (1255) (Tống Bảo Hựu năm thứ 3) nhưng tác giả lại nói chuyện cầu tự
diễn ra vào năm Chí Nguyên (1264 -1294), hoặc chuyện Chu Văn An phụng sự
Trần Minh Tông được Hồ Nguyên Trừng ghi là niên hiệu Chí Nguyên (1264 -1294)
song vua Trần Minh Tông trị vì từ năm 1314 -1329 và Đại Việt sử kí toàn thư chép
sự kiện Chu Văn An chết vào năm 1370. Ta cũng nhận thấy những truyện xảy ra
quá xa với thời gian sống của tác giả thì tác giả chép không chính xác: Ví dụ chuyện
về Lê Phụng Hiểu, tác giả ghi “Vào thời Lý, An Nam có Lê Phụng Hiểu” mà không
nhớ chính xác năm nào, vị vua nào. Những chuyện chép về giai đoạn các vị vua đầu
thời Trần cũng không ghi niên hiệu (hoặc ghi không chính xác – truyện số 12), chỉ
ghi niên hiệu trong một số truyện diễn ra dưới thời vua Minh Tông, Nghệ Tông và
đầu thời Minh. Thêm nữa, Hồ Nguyên Trừng thường sử dụng các từ chỉ khoảng
thời gian không chính xác như: Bấy giờ, trước đây, sau, về sau, mãi sau … Hồ
Nguyên Trừng đã tái hiện lại những câu chuyện xảy ra trong quá khứ bằng trí nhớ
nên một điều dễ hiểu khi ông không ghi lại thời gian chính xác.
Thời gian lịch sử trong các truyện là thời gian trong quá khứ nhưng nó vẫn
có tính chất đương thời, như vừa mới xảy ra. Trong số 21 truyện có mối liên hệ với
nhau ở hai tác phẩm, chỉ có hai truyện viết về thời Lý, 19/ 21 truyện viết về thời
Trần. Truyện viết về đầu thời Trần, thời vua Trần Thái Tông (làm vua 1226 -1258)
thì cũng cách khoảng thời gian tác giả sống (1374 – 1446) không xa. Một số truyện
ghi chép lại những nhân vật sống cùng thời với tác giả, tác giả là người chứng kiến,
ví dụ chuyện về vua Nghệ Tông làm vua 1370 – 1372, làm Thượng hoàng từ năm
1373 -1394; chuyện vợ chồng viên đầu mục Ngô Miễn chết vì tiết nghĩa diễn ra vào
năm Đinh Hợi niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh (1403 – 1424) …
Thời gian lịch sử có ảnh hưởng tới thời gian nghệ thuật trong truyện. Khác
với thời gian lịch sử ở phương Tây (tính theo năm dương lịch từ thời điểm chúa trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sáng thế), thời gian ở đây thường tính từ ngày đăng quang của vị vua (được ghi lại
64
bằng các niên hiệu), do vậy thời gian tiểu sử (thời gian trị vì của một vị vua: niên
hiệu) trở thành thời gian lịch sử, đánh dấu sự tồn tại của đơn vị thời gian bên cạnh
thời gian ghi bằng năm âm lịch. Bên cạnh việc tái hiện thời gian lịch sử với sự hưng
vong của các triều đại, trong cả hai tác phẩm còn tái hiện thời gian tiểu sử của các
nhân vật, những người xuất chúng. Thời gian tiểu sử này cũng có tính chính xác khá
cao vì nó có thể kiểm chứng trong thực tế. Trong nhiều thiên truyện, tác giả đã ghi lại
toàn bộ cuộc đời con người từ lúc sinh ra đến khi qua đời hoặc là từ khi thành danh
tới khi mất như Lê Phụng Hiểu, Trần Nghệ Tông… Trong một số truyện, tác giả
thường chép nhân vật mất như thế nào, thọ bao nhiêu tuổi… Tuy nhiên, các tác giả
đều ý thức thực tế tuổi tác, thọ yểu, sự hữu hạn của đời người (truyện số 12, số 22…):
- Viết về Trần Nhật Duật: “Đạo sĩ đọc sớ xong, đứng dậy nói: “Thượng đế xem
xong sớ, cười và nói rằng: “Sao lại quyến luyến ở trần tục lâu thế? Song các con
thực là có hiếu, có thể cho được lại sống thêm hai kỉ nữa”. Rồi khỏi bệnh. Đến Khi
Nhật Duật mất, tuổi 77, được đủ 6 kỉ lẻ 5 năm” [13 ; 465].
- Viết về Sầm Lâu: “Tôn thất nhà Trần có người tên hiệu là Sầm Lâu, từ thưở
niên thiếu có tài làm thơ, nhưng mới 27 tuổi đã qua đời” (Truyện số 22.)
“Vua khen là người kiến thức rộng. Không may chết non (chết năm 24 tuổi),
người nước ai cũng tiếc” [13; 491].
Qua thiên truyện ở trên, chúng ta thấy Nam Ông mộng lục ghi chép nhiều
mẩu chuyện về sử: Các sự kiện, nhân vật, thời gian lịch sử trong Nam Ông mộng lục
phản ánh khá chi tiết lịch sử xã hội đời Lý, đời Hồ nhưng nhiều nhất vẫn là chuyện
đời Trần. Do đều là truyện ký, những thiên truyện trong Nam Ông mộng lục có mối
quan hệ khăng khít với Đại Việt sử kí toàn thư về thể loại. Chúng đều mang những
đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ký như: sự kiện có thật trong lịch sử, đều ghi
chép những tấm gương, hoàn cảnh là thời gian đương thời…Sự tồn tại yếu tố sử
trong truyện và ghi chép sử với cách viết của truyện ở hai tác phẩm này không chỉ
tạo nên những truyện ký có giá trị mà còn thể hiện tính chất “văn sử bất phân” của
văn học giai đoạn này.
2.3 Những truyện kí có mối liên hệ với một số tác phẩm khác
Một số truyện trong Nam Ông mộng lục trên các sách vở đương thời hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sau đó cũng thấy chép ví dụ như “Dũng lực thần dị” chép ở Việt điện u linh tập,
65
truyện “Ni sư đức hạnh” trong Lĩnh Nam chích quái lục, truyện “Tăng đạo thần
thông”, “Minh Không thần dị” chép ở Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái lục.
Điều này là do có thể các tác giả đã sử dụng cùng một nguồn tài liệu nào đó để ghi
chép lại. Trong số đó, truyện “Ni sư đức hạnh” trong Lĩnh Nam chích quái lục gần
như nguyên dạng với truyện trong Nam Ông mộng lục nên chúng tôi chỉ so sánh ba
truyện còn lại nhằm tìm hiểu dấu ấn của thể loại truyện ký trong tác tác phẩm này.
2.3.1 Truyện “Dũng lực thần dị”
Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên là một tác phẩm văn xuôi tự sự thời trung
đại, ra đời trước Nam Ông mộng lục, nó được coi là một trong những tác phẩm mở
đầu cho văn học viết giai đoạn này. Tác phẩm viết về các vị thần linh có công phù
trợ đất nước. Lê Quý Đôn đã khen Việt điện u linh “tỏ ra tài sử học lành nghề”.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na thì “Đây là tác phẩm có chức năng lễ nghi
tôn giáo, mỗi thiên đều được viết theo công thức sau:
+ Tên của mỗi thiên là mĩ hiệu hai triều Trùng Hưng, Hưng Long gia phong cho
thần
+ Mở đầu mỗi thiên là câu “Theo…(Theo tư liệu nào đó của ai) ngài (vương, ông
…) là (họ tên)…
+ Kết thúc mỗi thiên là ba đợt gia phong của vua Trùng Hưng năm thứ 1 (1285)
năm thứ 4 (1288) và vua Hưng Long năm thứ 21 (1313) và câu “vì có công âm phù
vậy” [50; 49-50]
Những ảnh hưởng của sử, những công thức trong việc ghi chép sự tích các
thần đã chứng tỏ phần nào tính chất truyện ký ở tác phẩm này.
Cả hai tác phẩm đều ghi lại chi tiết cuộc đời từ nhỏ cho tới khi mất và những
chiến công hiển hách của Lê Phụng Hiểu. Riêng Việt điện u linh gợi ra bầu không
khí thiêng liêng với nghi thức cúng thần linh bởi gần cuối nói về sự linh ứng sau khi
chết của Lê Phụng Hiểu: “Vương tận trung thờ chúa, biết được điều gì là nói hết; đi
chinh phạt chỗ nào cũng thắng địch. Vương được bảy mươi bảy tuổi mới chết; thổ
nhân truy niệm công đức, lập miếu thờ làm phúc thần; thôn dân cầu đảo lập tức thấy
linh ứng”. Đây là đặc điểm của Việt điện u linh và cũng là nét văn hóa độc đáo của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân tộc ta. Nhân dân ta luôn ghi nhớ, biết ơn những vị anh hùng dân tộc có công với
66
dân với nước và những nhân vật này đã đi vào tâm thức của người Việt trở thành
những vị thần phù trợ nhân dân. So sánh về việc sử dụng các chi tiết kì ảo, ta thấy
Nam Ông mộng lục có những chi tiết kì lạ song không nhiều, truyện ít hoang đường
hơn: “sinh ra đã to lớn lạ thường, ăn nhiều bằng mười người. Năm mười hai, mười
ba tuổi, thân mình đã dài tới bảy thước” còn truyện ở Việt điện u linh yếu tố kì ảo
đậm đặc hơn “thân hình cao đại, kì vĩ, mày râu dài và rậm, sức mạnh hơn người”
“nhổ cả khóm trúc” “cơm dùng đến ba mươi nồi đồng mới no, rượu uống nhiều
không kể được” “cầu đảo lập tức thấy linh ứng”. Với công thức “dương trợ âm
phù”, nhân vật Lê Phụng Hiểu trở thành một “nhân thần” được nhân dân thờ phụng,
còn nhân vật trong Nam Ông mộng lục thì chỉ là một người anh hùng, khi mất vẫn
là một người bình thường (không phải là thần) bởi mục đích của hai tác giả khác
nhau (một vị thần/ một vị anh hùng). Như vậy, cùng là truyện ký nhưng truyện Nam
Ông mộng lục chịu ảnh hưởng của lối viết về “người thật việc thật” còn truyện trong
Việt điện u linh thuộc loại thần tích.
2.3.2 Truyện “Tăng đạo thần thông” và “Minh Không thần dị”
Truyện “Minh Không thần dị” và “Tăng đạo thần thông” được Thiền uyển
tập anh và Lĩnh Nam chích quái lục cùng chép:
- Trong Thiền uyển tập anh là truyện “Quốc sư Minh Không” “Thiền sư Giác
Hải”.
- Lĩnh Nam chích quái còn chép gộp truyện về Giác Hải với Dương Không Lộ
và gộp truyện Minh Không với Từ Đạo Hạnh.
2.3.2.1 Truyện “Tăng đạo thần thông”
Khi thống kê khảo sát truyện “Tăng đạo thần thông” (Nam Ông mộng lục)
“Thiền sư Giác Hải” (Thiền uyển tập anh) và truyện “Dương Không Lộ, Nguyễn
Giác Hải” (Lĩnh Nam chích quái lục), chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau:
Trước hết, cách mở đầu truyện và giới thiệu nhân vật của ba truyện không
giống nhau: Truyện “Tăng đạo thần thông” mở đầu bằng cách nêu hoàn cảnh xảy ra
câu chuyện: “có con yêu quái náu mình trên thượng lương cung điện nhà vua, đêm
ngày kêu gào, ngày nọ qua ngày kia không thôi” mà không giới thiệu về sư Giác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hải và đạo sĩ Thông Huyền; Truyện “Thiền sư Giác Hải“ trong Thiền uyển tập anh
67
và truyện “Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải” (Lĩnh Nam chích quái lục) mở đầu
bằng cách giới thiệu quê quán, họ tên, hành trạng:
“Chùa Diên Phúc, hương Hải Thanh.
Thiền sư họ Nguyễn, người hương Hải Thanh, từ nhỏ làm nghề đánh cá,
thường lấy thuyền làm nhà lênh đênh trên sông biển. Năm 25 tuổi bỏ nghề cũ, cắt
tóc đi tu. Lúc đầu sư cùng Không Lộ theo học đạo...”
Về chuyện hàng yêu, Nam Ông mộng lục viết: “Giác Hải lấy chuỗi tràng hạt
đập vào cột, tiếng kêu gào ngừng ngay. Thông Huyền cầm chiếc lệnh bài đánh vào
cột, bỗng thấy một cánh tay ở thượng lương hiện ra, đem con thạch sùng ném xuống
đất. Yêu quái bèn hết”. Phần này Thiền uyển tập anh và Lĩnh Nam chích quái đều
chép là sư Giác Hải và đạo sĩ Thông Huyền vào hầu vua, có đôi tắc kè kêu vang,
vua bảo Thông huyền xua đi, Thông Huyền niệm thần chú, một con rơi xuống, một
con nữa Giác Hải chú mục nhìn con kia cũng rơi nốt (Lĩnh Nam chích quái chép là
Giác Hải niệm chú).
Đến đây, Nam Ông mộng lục kết thúc bằng bài thơ của vua Lý Thánh Tông ứng
khẩu, Thiền uyển tập anh và Lĩnh Nam chích quái cũng chép bài thơ này:
Tâm Giác Hải như biển
Đạo Thông Huyền càng huyền
Thần thông tài biến hóa
Một Phật, một thần tiên.
Còn hai truyện trong Lĩnh Nam chích quái và Thiền uyển tập anh thì chép thêm
chuyện vua đến thăm Giác Hải, sư làm phép thần túc cho vua xem, sau lâm bệnh
gọi đệ tử đến đọc bài kệ. Đêm ấy có ngôi sao lớn rơi xuống, đến sáng sư qua đời,
vua miễn thuế hơn trăm hộ để hương đèn thờ phụng và cho con làm quan.
Nam Ông mộng lục chỉ chép một khoảng thời gian trong cuộc đời nhân vật
(chính xác là từ thời điểm vua Lý Thái Tông mời sư và đạo sĩ đến diệt yêu quái và
kết thúc bằng việc vua ứng khẩu đọc bài thơ), không chép việc sư viên tịch, cũng
không có bài kệ. Hai truyện trong Thiền uyển tập anh và Lĩnh Nam chích quái chép
truyện Giác Hải theo kiểu “truyện thiền sư”, tức là tái hiện toàn bộ cuộc đời nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vật theo cấu trúc: Sinh hạ thần kì => Tu tập thần kì => Tịch diệt thần kì. Trong
68
truyện xuất hiện lời đối đáp, những bài kệ, đặc biệt là bài kệ trước khi qua đời để
truyền thụ tâm ấn của thiền sư. “Kệ” là thể loại văn vần do các nhà sư làm ra để tóm
tắt giáo lí nhà Phật hoặc để truyền cho người khác sau một quá trình thử nghiệm.
Trong Lĩnh Nam chích quái và Thiền uyển tập anh có chép lời đối đáp của thiền sư
Giác Hải và bài kệ của sư trước khi mất như sau: “Có vị tăng hỏi:
- Phật và chúng sinh thì ai là khách, ai là chủ?
Sư đọc bài kệ mà đáp:
Đầu nhà ngươi đốm bạc,
Ta bảo ngươi già rạc.
Nếu hỏi ta Phật cảnh,
Cửa rồng cá nhảy rớt.
Khi sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ rằng:
Xuân sang hoa bướm khéo quen th,ì
Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ.
Nên biết bướm hoa đều huyền ảo,
Thây hoa, mặc bướm, để lòng chi.
Mô típ “cảm ứng với thiên nhiên” cũng được sử dụng khi kể lại chuyện ngôi
sao lớn rơi xuống gần nhà sau đó sư viên tịch. Kết cấu kiểu truyện thiền sư, các mô
típ Phật giáo, các yếu tố kì ảo…Điều này chứng tỏ dấu ấn Phật giáo đậm nét trong
hai truyện ở Lĩnh Nam chích quái và Thiền uyển tập anh. Cố gắng trung thành với
tính chất “người thật, việc thật”, Nam Ông mộng lục ít hoang đường hơn hai tác
phẩm kia. Song truyện về thiền sư Giác Hải và đạo sĩ Thông Huyền ở cả ba tác
phẩm đều có những nét tương đồng về cấu trúc, các sự kiện, tình tiết, cách thức ghi
chép của truyện ký trung đại.
2.3.2.2 Truyện “Minh Không thần dị”
Khác với truyện “Tăng đạo thần thông”, “Minh Không thần dị” giới thiệu về
sư Minh Không ở đầu truyện, chỉ khác một số chi tiết so với Lĩnh Nam chích quái
lục và Thiền uyển tập anh, ví dụ “Hương Giao Thủy, chùa Không Lộ” họ Nguyễn
tên Minh Không (Chùa Quốc Thanh, Trường An, người làng Đàm Xá, Đại Hoàng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
họ Nguyễn tên Chí Thành). Truyện “Minh Không thần dị” chép sư đến dựng nghiệp
69
ở Khai Bình, một hôm có sư cùng phòng dọa hổ… Hai truyện kia đều chép việc
Minh Không theo học Từ Đạo Hạnh hơn mười năm, được truyền tâm ấn và đặt tên
cho, sau đó về quê cày ruộng. Sau đó, vua bị bệnh các lương y bó tay, có tiếng trẻ
con ca “Muốn trị bệnh Thiên tử/ Phải có Nguyễn Minh Không”.
Đến đây, cả Nam Ông mộng lục và Lĩnh Nam chích quái đều chép việc Minh
Không đem niêu mời tay chèo ăn, ba bốn chục người ăn không hết, rồi Minh Không
làm phép đưa thuyền đến kinh thành không cần chèo. Nam Ông mộng lục chép việc
sư đi trên không vào cung, đun nước tắm cho vua, chạm tay tới đâu, lông mất đi,
Thế tử trở lại bình thường, vua hỏi nguyên cớ và hỏi về phép đi trên không, vua ban
thưởng không nhận, phong làm thần tăng, gọi chùa là Không Lộ. Lĩnh Nam chích
quái và Thiền uyển tập anh chép chuyện Minh Không bị coi thường, sư đóng đinh
vào cột, không ai dám rút ra, chỉ Minh Không làm được, mọi người khiếp phục. Khi
gặp vua lớn tiếng nói, sau đó đun sôi vạc nước, vẩy lên khắp mình vua, bệnh khỏi.
Vua phong Quốc sư, tha thuế vài trăm hộ. Năm Tân Sửu (Thiền uyển tập anh ghi là
Tân Dậu), sư mất, thọ 76 tuổi.
Truyện Minh Không ở Nam Ông mộng lục chỉ kể lại một phần cuộc đời của
nhân vật, truyện kết thúc ở việc sư Minh Không trở về, vua ban thưởng không nhận.
Hai truyện kia đều lập hồ sơ về nhân vật từ khi nhân vật còn nhỏ cho tới trước khi
mất, thậm chí Lĩnh Nam chích quái và Thiền uyển tập anh chép lại khá rõ thời điểm
nhà sư qua đời “Năm Tân Sửu, niên hiệu Thái Bình thứ 22, Minh Không tạ thế, thọ
76 tuổi”. Bên cạnh đó, trong các truyện Lĩnh Nam chích quái và Thiền uyển tập anh,
bao nhiêu nhân vật tôn giáo thì đó là bấy nhiêu tấm gương thiền sư, những con
người có thật với công đức, hành trạng nhưng được soi rọi dưới “ánh sáng nhà
Phật” nên truyện về sư Minh Không mang đặc điểm của kiểu truyện thiền sư. Còn
truyện Minh Không trong Nam Ông mộng lục là kiểu truyện “người thật, việc thật”.
Truyện Minh Không trong Lĩnh Nam chích quái bao gồm toàn bộ truyện trong
Thiền uyển tập anh và một phần truyện Nam Ông mộng lục. Truyện “Ni sư đức
hạnh” trong Nam Ông mộng lục tương tự như trong Lĩnh Nam chích quái lục.
Truyện về thiền sư Giác Hải trong Thiền uyển tập anh và Lĩnh Nam chích quái lục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tương tự nhau. Ở trên, chúng tôi đã trình bày kỹ về sự xuất hiện các chuyện tương
70
tự nhau hoặc có phần giống nhau để chứng minh sự liên quan chặt chẽ và sự ảnh
hưởng của nguồn tài liệu với những tác phẩm này. Đây là những tác phẩm thuộc
văn học chức năng, ghi chép lại nhằm mục đích ca ngợi, minh họa chứ không phải
do các nhà văn sáng tạo ra.
Các truyện “Minh Không thần dị”, “Tăng đạo thần thông”, “Ni sư đức hạnh”
đều thuộc nhóm những truyện thần linh, quái dị, anh tú. Đặc điểm chung của loại
truyện này là “ghi chép các truyện thần kỳ, hoang đường mà chính sử thường không
chép nhưng lại chép với tinh thần thực lục của nhà làm sử” [70; 340]. Loại truyện
này thường sử dụng các yếu tố hoang đường kì ảo để thể hiện những vấn đề tôn
giáo hoặc mang màu sắc tâm linh. Tuy nhiên, Nam Ông mộng lục viết về nhân vật
anh hùng, nhân vật tôn giáo với nguyên tắc “người thật việc thật” nên những nhân
vật này vẫn là con người, còn các nhân vật trong Việt điện u linh, Thiền uyển tập
anh, Lĩnh Nam chích quái đều được “thần thánh hóa” bằng con đường dân gian hay
tôn giáo hóa theo quan điểm Phật giáo, Đạo giáo…Vì vậy, tuy là truyện ký nhưng
Nam Ông mộng lục là truyện “người thật, việc thật” còn tác phẩm khác ảnh hưởng
nhiều của truyện thần linh, kì quái, anh tú trong văn trung đại.
Các truyện ký trong tác phẩm Nam Ông mộng lục, Lĩnh Nam chích quái, Việt
điện u linh, Thiền uyển tập anh có chức năng xã hội rất cao, in đậm những nghi thức
quan phương, thần linh, tôn giáo hay thế tục…Vì thế, đây là các truyện chép về các
chân dung, tấm gương, các bản tiểu sử. Các nhân vật đều có thật, hoặc được xem là
có thật ngay cả những thiên thần, nhân thần trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích
quái, thiền sư trong Thiền uyển tập anh cũng coi là đang tồn tại thật, phù trợ cho
con người và được thờ phụng ở đất nước Việt. Hơn nữa, các tác giả này không phải
là người đầu tiên ghi lại mà chỉ tập hợp các truyện trong các sách như Giao Chỉ ký,
Báo cực truyện…Ngay cả với con người thời nay, các nhân vật này cũng không xa
lạ vì đều được ghi lại trong lịch sử như Lê Phụng Hiểu, thiền sư Minh Không…
Việt điện u linh ghi lại lai lịch các thần ở chốn u linh trong sự tích, thần phả
nhưng với tinh thần “chép lại sự thực”, Lĩnh Nam chích quái xem truyện dân gian
được ghi lại là “sử trong truyện chăng”, Thiền uyển tập anh ghi chép chân dung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chân thực của những “anh tú trong vườn thiền”, Nam Ông mộng lục ghi chép
71
chuyện “người thực việc thực” phổ biến trong lịch sử… Các tác phẩm này đều có
mối liên hệ mật thiết với lịch sử, đều thuộc những thể loại có thể coi là phụ của sử,
thực chất chúng đều là những truyện ký trung đại mang đặc điểm của thể loại này.
Sự tương đồng về thể loại truyện ký trong nhiều tác phẩm phản ánh một thực tế
trong văn học trung đại: ý thức “văn sử bất phân”.
TIỂU KẾT
Nguyên tắc “Văn sử triết bất phân” có vai trò lớn trong hệ thống thể loại văn
học Lý –Trần, chi phối hầu hết các thể loại: chiếu, biểu, hịch, văn bia, truyện, sử
ký…Ở chương này, chúng tôi tập trung chủ yếu vào mối quan hệ văn sử trong Nam
Ông mộng lục dưới góc độ thể loại. Để thực hiện mục đích này, chúng tôi đã tìm
hiểu, thống kê so sánh Nam Ông mộng lục với Đại Việt sử kí toàn thư trên các
phương diện sự kiện, nhân vật và thời gian lịch sử để làm nổi bật tính chất truyện ký
của các truyện trong Nam Ông mộng lục và các truyện trong Đại Việt sử kí toàn thư.
Đồng thời, chúng tôi nhận thấy có mối liên hệ giao lưu giữa truyện ký văn học -
truyện trong bộ sử làm cơ sở cho nhận diện quan niệm “văn sử bất phân” rất phổ
biến trong văn học trung đại. Sự kết hợp văn sử là điều mà nhiều tác giả đã làm,
nhưng tồn tại cho đến ngày nay không nhiều tác phẩm truyện ký vừa có giá trị văn
học vừa có giá trị sử học như Nam Ông mộng lục.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng phân tích tính chất truyện ký trong những
truyện mang dấu ấn cá nhân của Hồ Nguyên Trừng: Dù đó là những truyện viết về
người thân của tác giả, truyện mang màu sắc tôn giáo hay những ghi chép về thơ.
Những sáng tác này nằm trong sự chi phối của thơ văn trung đại song bước đầu đã
ghi nhận sự đóng góp của Hồ Nguyên Trừng với thể loại truyện ký…
Một số truyện có mối liên hệ với những tác phẩm khác như Việt điện u linh,
Lĩnh Nam chích quái lục, Thiền uyển tập anh… Giữa các tác phẩm này có nhiều
điểm chung chứng tỏ ảnh hưởng từ một nguồn tài liệu nào đó hoặc ảnh hưởng lẫn
nhau và thậm chí những truyện này có mối liên hệ với lịch sử nữa. Như vậy, chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ta có thể chứng minh tính chất ghi chép, sự ảnh hưởng của những nguồn tài liệu đối
72
với các thiên truyện ký trong Nam Ông mộng lục và một số tác phẩm đương thời
như Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh…
Từ những phân tích ở trên, chúng tôi nhận thấy có sự liên hệ mật thiết giữa
yếu tố văn – sử trong Nam Ông mộng lục, chứng tỏ hiện tượng “văn sử triết bất
phân” còn rất phổ biến trong văn học đa chức năng. Đó cũng là một nét độc đáo của
văn học trong giai đoạn này, càng làm rõ hơn tính chất thể loại truyện ký của Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ông mộng lục.
73
CHƢƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM HỖN DUNG THỂ LOẠI
Trong cuốn Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại, Những vấn đề văn xuôi tự
TRONG TRUYỆN KÝ NAM ÔNG MỘNG LỤC
sự, Nguyễn Đăng Na đã phản ánh một thực tế mà nhiều nhà nghiên cứu về văn xuôi
tự sự trung đại quan tâm, đó là sự không “thuần nhất” về mặt thể loại của các tác
phẩm văn học trung đại nhiều thiên. Ông nêu vấn đề khó nhất là tách “truyện” ra
khỏi truyện kí: “đối chiếu các thiên trong văn xuôi tự sự, nếu thấy thiên nào phù
hợp với truyện thì đưa sang tiểu loại truyện, thiên nào chưa đủ tiêu chuẩn sẽ xếp
sang tiểu loại kí” [50; 16]. Nhận thấy được điều đó, trong Chương 1, luận văn đã
xác định Nam Ông mộng lục thuộc loại truyện ký và nhận thấy tên thể loại này phù
hợp với tác phẩm có nhiều thiên thuộc thể loại khác nhau. Ở đây, chúng tôi tìm hiểu
về đặc điểm dung hợp thể loại của Nam Ông mộng lục nhằm chứng minh cho tính
chất truyện kí đã được định danh trong chương I và làm rõ thêm về đặc điểm thể
loại của tác phẩm này.
Theo như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na chỉ ra và qua thực tế khảo sát,
chúng tôi nhận thấy các thiên trong cùng một tác phẩm không thuần nhất về mặt thể
loại và được gọi bằng những thuật ngữ rất khác nhau. Chúng tôi nghĩ rằng đã gọi là
“dung hợp thể loại” tức là có đan xen, thâm nhập vào nhau giữa các thể loại. Cũng
phải nói rõ các thiên truyện trong Nam Ông mộng lục đều là truyện ký. Nhưng ở
một số thiên, tính chất truyện hoặc tính chất thi thoại nổi trội hơn. Vì vậy, để thuận
lợi cho việc nghiên cứu, chúng tôi đã xác định thể loại của các thiên trong bảng Phụ
lục 3. Chúng tôi thiết nghĩ cần đánh giá đúng giá trị của từng thiên độc lập và tìm
hiểu cả sự dung hợp tính chất truyện và ghi chép thi thoại trong truyện ký.
3.1 Những thiên truyện in đậm tính chất truyện ký
Rất nhiều thiên truyện trong Nam Ông mộng lục mang tính chất ghi chép. Từ
những câu chuyện có thực xảy ra trong đời sống, Hồ Nguyên Trừng đã phản ánh
chân thực bức tranh đời sống sinh hoạt, phong tục, tâm lí tính cách…của con người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và xã hội Việt Nam thời Lý Trần.
74
3.1.1 Người thực, việc thực
3.1.1.1 Người thực
Nhân vật là một phần quan trọng không thể thiếu trong tác phẩm. Phần lớn
các nhân vật trong các truyện ký đều là nhân vật có thật, những tấm gương đạo đức.
Chúng tôi thống kê hệ thống nhân vật trong tác phẩm trong bảng phụ lục 4.
a) Nhân vật thánh nhân quân tử
Nhân vật thánh nhân quân tử là những nhân vật có tài đức, có phẩm chất phi
thường trong xã hội, thường là những người đàn ông: có thể là vua chúa, trí thức,
người anh hùng…
Người trí thức:
Trong Nam Ông mộng lục, chúng ta thấy có một số lượng rất lớn các nhân
vật người trí thức. Nho giáo đã đem lại cho con người biết ứng xử trước thời thế.
Các thiên truyện ghi chép về nhiều mặt của đời sống: vấn đề chính trị, xã hội, con
người thậm chí cả bản thân tác giả nhưng người trí thức vẫn thường được nhìn
nhận, đánh giá trong mối quan hệ với luân thường đạo lí vì thế mà người ta quan
tâm đến tính cách, lời nói, hành động và cả mối quan hệ của nhân vật nữa. Ví dụ:
Để khắc họa tính cách ngay thẳng của Chu Văn An, nhà văn kể lại chuyện Chu Văn
An dâng “Thất trảm sớ”: “Minh Vương mất, con ngài là Dụ vương ham chơi, lười
việc chính sự. Bọn quyền thần lắm kẻ không theo phép nước, Chu An nhiều lần can
gián nhưng Dụ vương không nghe. Ngài lại dâng sớ xin chém 7 kẻ gian thần, chúng
đều là bọn quyền thế, bấy giờ người đời gọi là Thất trảm sớ. Sớ đã dâng lên mà
không thấy trả lời, Chu An bèn treo mũ về nhà”. Đối với học trò của mình, ông luôn
chính trực mà nghiêm khắc: “Trước đây, đệ tử của Chu An làm quan nắm quyền
chính, khi đến thăm hỏi, thường lạy ở dưới giường. Ai được trò chuyện với ngài vài
lời thì về lấy làm sung sướng lắm. Có kẻ nào không tốt, ngài trách mắng thậm tệ,
thậm chí còn không cho vào nhà”.
Những vấn đề người trí thức quan tâm là công danh, đạo đức trong đó
thường nhấn mạnh tới trung hiếu, lễ nghĩa… Họ luôn thấm nhuần đạo lí thánh hiền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của Nho gia: anh em Phạm Mại, Phạm Ngộ trung trực cho tới lúc chết để bảo vệ đạo
75
lí, chuyện Văn Túc cảm kích vua Trần Nhân Tông mà suốt đời đi bộ….Đại Việt sử kí
toàn thư cũng bàn về vấn đề này như sau: “Bọn Nho giả nước Việt ta đắc dụng ở đời,
không phải là không nhiều, song kẻ thì chỉ về công danh, kẻ thì chỉ vì phú quý, kẻ thì
hào quang đồng trần, kẻ thì chỉ cốt ăn lộc giữ mình, chưa thấy có người nào chí về
đạo đức, để tâm đến việc giúp vua nên đức tốt, cho dân được nhờ ơn” [13; 661]
Người trí thức luôn là tấm gương sáng về đạo đức: có hoài bão giúp ích cho
đời (truyện số 7, số 23, 24, 30..), là những trung thần dám thách thức cường quyền
để bảo vệ lẽ phải (truyện số 7, số 20). Họ cũng là người biết trân trọng, gìn giữ và
phát huy những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ( truyện số 22, số 28). Trong
truyện “Thi dụng tiền nhân cảnh cú”, Nguyễn Trung Ngạn điếu Sầm Lâu bằng
chính những câu thơ mà Sầm Lâu viết ra:
Bình sinh hận bất thức Sầm Lâu,
Nhất độc di biên nhất điểm đầu.
“Soa lạp Ngũ Hồ vinh bội ấn,
Tang ma sổ mẫu thắng phong hầu.
Dịch là:
Đời ta chẳng biết bác Sầm Lâu,
Mở đọc thơ xưa lại gật đầu.
“Tơi nón ngũ Hồ hơn ấn tín,
Dâu gai dăm mẫu át công hầu.
(Truyện số 22)
Một vấn đề được đặt ra khiến người trí thức luôn trăn trở là vấn đề xuất xử.
Có khá nhiều truyện bàn về vấn đề này (truyện số 7, số 21, số 24…). Ta đã biết
chuyện Chu Văn An can gián nhưng vua Dụ Tông không nghe, ông liền treo mũ từ
quan về. Chuyện Trần Nguyên Đán dâng thư can gián mà không được trả lời, bèn
đem tấm thân ra đi, trước khi đi còn gửi thư cho bạn ở Ngự sử đài bày tỏ những trăn
trở của mình:
Đài đoan nhất khứ tiện thiên nhai,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hồi thủ thương tâm sự sự vi.
76
Dịch thơ:
Rời đài Ngự sử đến chân trời,
Ngoảnh lại lòng đau việc trái sai.
(Truyện số 21)
Nhiều nhà Nho đã chủ trương sống ẩn dật giữa thiên nhiên để di dưỡng tính
tình, bảo toàn phẩm giá trong sạch, khinh rẻ tiền tài địa vị:
Trung triều sứ giả yên ba khách,
Quân đắc công danh, ngã đắc nhàn.
Dịch thơ:
Sứ thần, dật khách nào hơn kém,
Ông được công danh, tớ được nhàn.
(Truyện số 24)
So với nhiều tác phẩm khác, Truyền kỳ mạn lục không chỉ xây dựng hình
tượng những ẩn sĩ trí thức chán ghét xã hội, đối lập và phê phán thể chế đương thời
và sự bế tắc của họ trước thực tại cuộc sống (như các nhân vật: Từ Thức trong
“Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên”, người tiều phu trong “Chuyện đối đáp của người
tiều phu núi Na”...) mà ông còn ca ngợi hình ảnh cao đẹp của người trí thức dân tộc.
Trong “Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào” với niềm tự hào về nền văn hiến
dân tộc, Nguyễn Dữ đã đặt Tô Hiến Thành, Chu Văn An nổi trội giữa hàng ngàn
danh thần Hán, Đường trong “động Nho thần”…
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc bàn về vấn đề này như sau: “Các nhà Nho theo
quan niệm xuất xử của Nho giáo – gặp thời thịnh thì ra làm việc, phò vua giúp
nước, gặp thời loạn thì lui về ở ẩn, lấy thiên nhiên để di dưỡng tính tình. Họ tìm
thấy trong thiên nhiên những phẩm chất cao quý của con người theo quan niệm Nho
giáo: cây tùng là hình ảnh của người trượng phu, cây trúc là hình ảnh của người sĩ
quân tử…” [46; 81].
Vua chúa
Dòng họ Hồ Nguyên Trừng có mối liên hệ khá mật thiết với triều đình nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trần, chúng ta không thấy làm lạ khi nhân vật vua chúa xuất hiện trong khá nhiều
77
thiên truyện. Trong số 31 thiên truyện chỉ có ba thiên viết chuyện có liên quan tới
vua triều Lý (vua Lý Thái Tông – truyện số 13, Lý Thánh Tông – truyện số 11 và
Lý Thần Tông – truyện số 14), và vua Lý không phải là nhân vật chính. Có 8 thiên
truyện viết về vua nhà Trần, ngoài ra có một số thiên truyện liên quan tới các vị vua
triều Trần như vua Trần Anh Tông (truyện số 8), vua Trần Minh Tông (truyện số
20)... Không phải ngẫu nhiên mà ngay khi mở đầu tác phẩm, Hồ Nguyên Trừng viết
về vua Trần Nghệ Tông như một tấm gương sáng của muôn đời (truyện số 1) và
phần cuối tác phẩm, tài năng thiên phú của vị vua này đã được khẳng định từ khi
chưa lên làm vua (truyện số 29). Điều đó chứng tỏ các vị vua chúa, nhất là vua triều
Trần đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn ông.
Các vị vua thường được miêu tả như những “tinh hoa” của dân tộc, là tấm
gương sáng về tài năng, đạo đức. Ví dụ: Trong truyện số 1, tác giả hết lời ngợi ca
vua Trần Nghệ Tông: “Tính ngài thuần hậu, hiếu thảo với mẹ cha, hòa hữu với bè
bạn; cung kính, cần kiệm, quyết đoán sáng suốt, học rộng kinh sử, không thích phù
hoa…Khi Minh vương qua đời, trong ba năm để tang, mắt ngài không lúc nào ráo
lệ. Sau ngày mãn tang, không mặc lụa màu, không chú trọng miếng ăn ngon; các
loại quả la muối, cá heo là thức ăn quý ở phương Nam từ đó tuyệt nhiên không
đụng đến và ngài thờ Dụ vương hơn mười năm…” (Truyện số 1).
Bên cạnh đó, tác giả còn khắc họa khía cạnh “thi nhân” của các vị vua nữa:
vua Lý Thánh Tông, vua Trần Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông. Bài thơ của
Trần Thánh Tông trong truyện số 18 là một trong số những bài thơ hay của thời Lý
–Trần:
Cảnh thanh u vật diệc thanh u,
Nhất thập tiên châu thử nhất châu.
Dịch là:
Cảnh thanh u vật cũng thanh u,
Mười đảo Tiên châu đây một châu.
Tuy không phải là nhân vật chính, nhân vật vua trong một số truyện được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
miêu tả như là những minh quân đức độ, công tâm, biết nghe lời can gián (truyện số
78
8, truyện số 20). Ở một số truyện khác, tác giả lại gián tiếp phê phán những vị vua
ham chơi, bất tài…(truyện số 8, số 21) nhưng không nhiều.
Bên cạnh nhân vật trí thức và vua chúa, chúng ta còn thấy có nhiều nhân vật
khác nữa: nhân vật người anh hùng (truyện số 9), dũng sĩ trung nghĩa (truyện số
10), vị tướng “trung quân ái quốc” (truyện số 25), lương y từ tâm (truyện số
8)…Đây quả là những “viên ngọc sáng” mà tác giả muốn giới thiệu với độc giả.
b) Nhân vật người phụ nữ
Nhân vật người phụ nữ chiếm một số lượng khá khiêm tốn trong văn học.
Cho đến thế kỷ XVI, văn học viết ở Việt Nam đã phát triển qua gần sáu thế kỷ. Tuy nhiên,
trong suốt sáu thế kỷ này, những quan niệm về người phụ nữ hầu như không có nhiều thay
đổi. Hình ảnh người phụ nữ cũng mới chỉ thấp thoáng xuất hiện trong một số tác phẩm.
Thậm chí, trong Thiền uyển tập anh, nhân vật nữ hoàn toàn không được nhắc tới dù chỉ
một lần. Ở những tuyển tập khác như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Quốc âm thi
tập hay Hồng Đức quốc âm thi tập, Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục… hình tượng
người phụ nữ xuất hiện nhiều hơn song cũng chỉ chiếm một số lượng không đáng kể.
3.1 Bảng thống kê nhân vật nữ trong một số tập tác phẩm tiêu biểu
từ thế kỉ X đến thế Thế kỷ XVI
Tổng số Số truyện có Phần trăm truyện có Tác phẩm khảo sát truyện nhân vật nữ nhân vật nữ
87 0 0% Thiền uyển tập anh
27 4 14.8% Việt điện u linh
34 10 29.4% Lĩnh Nam chích quái
31 4 12.9% Nam Ông mộng lục
19 11 57.9% Thánh Tông di thảo
Xuất hiện bên cạnh những thánh nhân, thiền sư, những nhân vật tài đức lỗi
lạc, người phụ nữ trong văn học giai đoạn này hầu như mới chỉ được miêu tả hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong tư cách của những tấm gương trung trinh tiết liệt (Phu thê tử tiết, Ni sư đức
79
hạnh - Nam ông mộng lục, Truyện Mỵ Ê - Việt điện u linh), hoặc những nhân thần
chính diện (Truyện Nhị Trưng phu nhân, Truyện Hậu thổ phu nhân - Việt điện u
linh) hay trong hình ảnh những u hồn trệ phách, yêu ma quỷ quái (Chuyện yêu nữ
Châu Mai - Thánh Tông di thảo) để chứng minh thuyết giáo cho tư tưởng xã hội.
Nàng Mỵ Ê, Vũ Nương, Chiêu Quân… được các thi sĩ Hồng Đức khen ngợi cũng
đều xuất phát từ tấm lòng: “Thờ chúa, thờ chồng hết tấc thương/ Một mình lọn đạo
việc cương thường” hay tấm lòng thuỷ chung, trinh liệt của họ. Trong Nam Ông
mộng lục, ta thấy xuất hiện tấm gương người phụ nữ nhân hiếu lễ nghĩa, hiền đức,
tiết liệt đó là Công chúa Thiều Dương, vợ viên đầu mục Ngô Miễn, Gia Huệ hoàng
hậu và Ni sư họ Phạm.
Họ được ngợi ca là “nghĩa phụ”, “trinh liệt”, “trinh thuần” là bởi vì họ đã có
những hành động, những cách ứng xử mà Nho gia và những người theo quan điểm
nam quyền khuyến khích, ngưỡng mộ. Mặc dù người phụ nữ đã dần xuất hiện nhiều
hơn trong văn học giai đoạn này, song toàn bộ phẩm chất, giá trị của họ luôn được
nhìn bằng đôi mắt của nam giới. Miêu tả người phụ nữ, các nhà văn thiên về tô đậm
đức hạnh siêu phàm, chí khí hơn người của người phụ nữ mà thiếu đi đời sống nội
tâm đa dạng của họ. Hình ảnh những người phụ nữ trong gia đình cũng được khắc
họa khá rõ nét: Đó là người con gái có hiếu thương xót cha mà chết: Truyện “Văn
tang khí tuyệt” kể chuyện công chúa Thiều Dương khi đang ở cữ thì vua Thái Tông
ốm đã hơn mười tháng rồi, bà nhiều lần sai người đến vấn an nhưng họ đều nói dối
là vua đã bình phục. Đến hôm vua mất, công chúa hỏi có phải vua qua đời không,
người hầu lại nói dối, bà không nghe, khóc thương, kêu gào đến đứt hơi mà chết
(Truyện số 6). Truyện “Phu thê tử tiết” kể lại một câu chuyện về người đàn bà sẵn
sàng xem thường cái chết, dám hi sinh thân xác để thực hiện thuyết “tòng phu”:
Năm Đinh Hợi, niên hiệu Vĩnh Lạc, vào ngày đại quân bình định đất Giao Chỉ, có một
người đầu mục tên là Ngô Miễn nhảy xuống nước tự tử, vợ là Nguyễn Thị ngửa mặt lên
trời than rằng: “Chồng thiếp thờ chủ, một đời hưởng lộc, từ bậc Trung quan lên đến chức
quan trong Chính phủ. Nay chết vì tiết nghĩa là đúng chỗ vậy, có gì phải oán thán? Thiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nếu ham sống, há phải không có nơi? Nhưng đạo chồng, ơn vua, nếu vì nhất thời mà
80
mang tội phụ bạc, ta không nỡ, thà rằng theo nhau vậy!”. Nói đoạn, cũng nhảy xuống
nước mà chết. Người phụ nữ này được khen ngợi là tấm gương liệt nữ vì bà đã dám “coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng”, dám hy sinh thân xác để bảo vệ danh tiết, chứng minh lòng trinh liệt:
“Than ôi… đến như Nguyễn Thị, là kẻ đàn bà, khi lâm nguy còn hiểu được tiết lớn, biết chồng
chết đáng chỗ mà không oán thán, lại biết trọng nghĩa xem thường cái chết, coi nhẹ cái chết
như được trở về, có thể nói là người đàn bà hiền thục vậy” (Truyện số 10). Hay tấm lòng
một người mẹ hiền thấy con đi vào chỗ chết mà không đang tâm: Gia Huệ hoàng
hậu là vợ vua Duệ Tông, khi vua đi đánh giặc không trở về, bà xuống tóc làm ni
sư. Vua Nghệ Tông đưa con bà lên ngôi, bà vì con mà xin thoái vị không được,
bèn khóc nói với người thân: “Con ta phúc mỏng, khó kham nổi ngôi cao, chỉ để
chuốc họa mà thôi. Cố chúa lìa trần, kẻ vị vong này chỉ muốn chết, không muốn
nhìn thấy thế sự, huống chi con ta lại sắp gặp nguy khốn?”. Đến khi Linh Đức bị
phế ai cũng phục bà vì “biết nhìn người, giỏi tiên tri và cảm kích vì lòng thành thờ
vua, về đức kiên định của người vợ” (Truyện số 5). Viết về những người phụ nữ
trung trinh tiết liệt, tác giả Ngô Sĩ Liên ca ngợi như tấm gương sáng ngời, ghi vào
sử sách lưu danh hậu thế: “Công chúa Thiều Dương nghe tin Thái Tôn băng, kêu
gào mãi rồi chết; Lê thị nghe tin chồng chết không ăn mà chết; Mỵ Ê phu nhân tiết
nghĩa không lấy hai chồng, trầm mình mà chết theo chồng; mấy người ấy nét
thuần hiếu trinh khiết trên đời thực không có mấy, vua bấy giờ nêu khen là phải
lắm, để khuyến khích đời sau” [13; 540].
Qua việc tìm hiểu hệ thống nhân vật ở trên, chúng tôi thấy rằng hầu hết nhân
vật có tên tuổi, quê quán, địa danh…có thực: “Lê Quát, tự là Bá Quát, người Thanh
Hóa. Thưở nhỏ ông đi du học ở kinh đô. Trong số bạn bè có người làm quan, phụng
mệnh đi sứ Yên Kinh…” (Truyện số 24). “Phạm Ngộ, Phạm Mại là người Trang
Nhân, đất Giao Chỉ, vốn học Chúc, anh tên là Kiên, em tên là Cố, đều đỗ đại khoa
khi còn niên thiếu…” (Truyện số 20).
Nhân vật “người thực” là những tấm gương điển hình (Xây dựng nhân vật
điển hình là tính chất của kí hiện đại). “Kí dựng lại những sự thật đời sống cá biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một cách sinh động, chứ không xây dựng những hình tượng mang tính khái quát”
81
[32; 163]. Đối tượng miêu tả của truyện ký là những nhân vật xuất sắc trong lịch sử
như các vị vua, người anh hùng… Song thực tế cho thấy rằng truyện ký trung đại
chưa tạo nên được những điển hình rõ rệt vì ngoại hình nhân vật không được miêu
tả, tâm lí nhân vật chưa được khắc họa. Nhân vật chỉ được miêu tả qua lời nói, hành
động, hơn nữa nhiều nhân vật còn được miêu tả khá chung chung nên tính điển hình
chưa cao. Dù vậy, đã là những “người thực” nên chúng ta thấy có rất nhiều chân
dung “trung thần” “nghĩa sĩ” “liệt nữ” có nét chung mà lại có rất nhiều nét khác
nhau: Ví dụ cùng nói về lòng “trung”, cùng là chuyện can gián nhưng Phạm Mại,
Chu Văn An, Trần Nguyên Đán lại không giống nhau. Ví dụ:
+ Chu Văn An: “Minh vương mất, con ngài là Dụ vương ham chơi, lười việc
chính sự. bọn quyền thần lắm kẻ không theo phép nước, Chu An nhiều lần can gián
nhưng Dụ vương không nghe. Ngài lại dâng sớ xin chém 7 kẻ gian thần, chúng đều
là bọn quyền thế, bấy giờ người đời gọi là Thất trảm sớ. Sớ đã dâng lên mà không
thấy trả lời, Chu An bèn treo mũ về nhà” (Truyện số 7).
+ Trần Nguyên Đán: “…Dụ vương không siêng năng chính sự, bọn quyền thần
phần nhiều không tuân theo phép nước. Nguyên Đán đã mấy lần can gián nhưng Dụ
vương không nghe. Khi Dụ vương mất, cháu của ngài là Hôn Đức nối ngôi, chính
sự bấy giờ càng quá thể. Nguyên Đán dâng thư can gián nhưng không được trả lời,
bèn xin được đem tấm thân ra đi, lại có bài thơ gửi các bạn đồng liêu ở Ngự sử đài
như sau:” (Truyện số 21).
+ Phạm Mại: “Khi người chú của vương giữ chức Thượng tể, nắm quyền bính
trong nước không né tránh sự hiềm nghi, lại đang hiềm khích với quan Tể chấp thì
có kẻ thù hằn dựng chuyện biến loạn, vu cáo cho quan Thượng tể. Quan Quốc
tướng đem bá quan đến đàn hặc, nghị án khép vào đại hình. Riêng một mình Phạm
Mại lúc đó đang làm quan Ngự sử trung thừa cố xin hoãn lại việc ngục, thận trọng
việc gia hình. Bấy giờ, quan Thượng tể bị bắt, còn các gia thần, liêu thuộc, thân
thích, gia nô đều bị hạ ngục giết hại rất nhiều. Mại liên tiếp dâng sớ can gián, đối
diện bác bỏ quan pháp ty, biện luận, phân tích sự oan khuất. Trước sự tức giận ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
oai của chúa, Mại vẫn ra sức tranh cãi không thôi.” (Truyện số 20).
82
Từ đặc trưng miêu tả “người thật, việc thật” trong cuộc sống, truyện kí trong
Nam Ông mộng lục có xu hướng gắn với đương thời. Nội dung tác phẩm kí sẽ tạo
được sự quan tâm rộng rãi hơn, tác động sâu sắc hơn nếu nó gắn với cuộc sống và
con người đương thời. Một số thiên ký ghi lại cuộc đời của Lê Quát, Nguyễn Thánh
Huấn, vợ chồng Ngô Miễn… có những dấu hiệu của “đương thời” như: mọi người,
nay, người đời, về sau…dù hiện tại và tương lai trong hồi ký đều là những cái đã
xảy ra. Tác giả ghi lại chuyện về Hồ Tông Thốc: “Tại buổi tiệc, trong một đêm, ông
làm được trăm bài thơ, uống trăm chén rượu. Mọi người đều vây quanh xem, thán
phục và không có ai địch nổi. Từ đó, tên ông chấn động đô thành. Về sau, nhờ tài
văn học Tông Thốc trở thành bậc thầy thiên hạ…”(Truyện số 27). Lời của người vợ
viên đầu mục Ngô Miễn cho ta thấy hoàn cảnh trước khi chết của vợ chồng này:
“Chồng thiếp thờ chủ, một đời hưởng lộc, từ bậc Trung quan lên đến chức quan trong
Chính phủ. Nay chết vì tiết nghĩa là đúng chỗ vậy, có gì phải oán thán.? Thiếp nếu ham
sống, há phải không có nơi? Nhưng đạo chồng, ơn vua, nếu vì nhất thời mà mang tội phụ
bạc, ta không nỡ, thà rằng theo nhau vậy!” (Truyện số 10). Ngoài ra, tác giả còn sử dụng
công thức Lại nói, vào lúc đó, hôm đó…có tác dụng gây chờ đợi, song cái chính là không
gây cảm giác về thời gian quá khứ. Tác giả thường sử dụng các đại từ phiếm chỉ như:
Người đời, đời sau, người đương thời, hậu thế…khi ca ngợi nhân vật. Cách nói này
vừa mang tính khách quan song cũng tạo ra hiệu ứng khá lớn khi để cho nhân vật
luôn sống trong tâm thức của mọi người.
3.1.1.2 Việc thực
Ký được bắt nguồn từ cuộc sống, nó có mối liên hệ sâu xa với hiện thực xã
hội. Những chuyện được tác giả Nam Ông mộng lục chép lại chủ yếu là những “việc
thực” đã xảy ra trong đời sống vì thế nhiều thiên truyện mang tính chất truyện ký
khá rõ.
Tác giả ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe, cũng có thể được nghe kể
lại hoặc sưu tầm trong sách vở. Người viết hồi ký kể lại những điều mà mình quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sát hoặc nghe trực tiếp, những sự việc và con người để lại những ấn tượng sâu sắc
83
gắn bó với những kỉ niệm riêng nhưng đồng thời lại có nội dung xã hội phong phú.
Một số truyện diễn ra vào khoảng thời gian tác giả sống nên tác giả có thể chứng
kiến (Nghệ Vương thủy mạt, Phụ đức trinh minh, Phu thê tử tiết…). Những truyện
này thường không sử dụng yếu tố kì ảo và thường có thêm lời bình để bày tỏ thái độ
của tác giả. Truyện “Phu thê tử tiết” nói về vợ chồng Ngô Miễn ở những năm đầu
thời Vĩnh Lạc (Minh Thành Tổ), khi quân Minh xâm lược nước ta, lúc đó Hồ
Nguyên Trừng đang thống lĩnh đại quân chống giặc….
Các truyện trong Nam Ông mộng lục này đều có cốt lõi lịch sử (Ngay cả
những truyện dân gian mang màu sắc hoang đường kì ảo như truyền thuyết mà cũng
dựa cốt lõi lịch sử). Ví dụ truyện về Nghệ Vương ghi lại chính xác cuộc đời vị vua
này trong lịch sử. Truyện “Dũng lực thần dị” có màu sắc dân gian song cũng dựa
trên câu chuyện lịch sử có thật về Lê Phụng Hiểu diễn ra dưới thời vua Lý Thánh
Tông. Bên cạnh đó, các thiên ký cũng dựa trên những câu chuyện lịch sử. Ví dụ:
“Thi chí công danh” trong Nam Ông mộng lục viết về Phạm Ngũ Lão với những chi
tiết chân thực, không khác gì nhiều so với bộ sử chính thống của ta là Đại Việt sử kí
toàn thư: “Phạm Ngũ Lão phụng sự Trần Nhân vương, giữ chức Điện súy Thượng
tướng quân. Ông vốn xuất thân từ quân ngũ, nhưng ham đọc sách, tính tình phóng
khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ. Đối với việc võ bị, ông dường như có vẻ không
quan tâm, song cai quản quân bằng tình cha con, vì thế mỗi khi ra trận đều thắng.
Ông làm quan thị vệ cần mẫn, cẩn thận, là bề tôi nanh vuốt đứng đầu và có bài thơ
như sau:
Hoành sáo giang sơn cáp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch là:
Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ba quân hùng khí nuốt trôi trâu.
84
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
(Truyện số 25)
Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép như sau: “Tháng 11, Điện súy thượng
tướng quân là Phạm Ngũ Lão chết ở phủ đệ vua cho tại vườn cau trong thành, thọ
66 tuổi. Vua nghỉ chầu 5 ngày, đó là ân điển đặc biệt. Ngũ Lão (người làng Phù
Ủng, huyện Đường Hào, châu Thượng Hồng), tuổi ngoại hai mươi, Hưng Đạo Đại
vương trông thấy cho là người tài giỏi, đem con gái nuôi gả cho và dùng làm gia
thần. Vì được vương dạy bảo thêm cho nên tài khí hơn người. Vương tiến cử lên.
Ngũ Lão tuy xuất thân trong hàng quân ngũ, nhưng thích đọc sách, là người phóng
khoáng, có chí làm việc lớn, thích ngâm thơ, về việc võ hình như không để ý đến.
Nhưng quân của ông coi đều một lòng thân yêu như cha với con, đánh đâu tất được
đấy. Từng làm bài thơ rằng:
Hoành sáo giang sơn cáp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch thơ:
Vung giáo non sông đã mấy thu,
Ba quân tựa cọp nuốt phăng trâu.
Công danh trai chửa đền xong nợ,
Những thẹn nghe bàn chuyện Vũ hầu.
Ông coi quân có kỉ luật, đối đãi với tướng hiệu như người nhà, cùng quân
lính chia ngọt sẻ đắng, cho nên đánh đâu không ai địch nổi. Phàm đánh dẹp lấy
được gì đều bỏ vào việc chi dùng cho quân lính, coi của cải như không, là danh
tướng giỏi một thời” [13; 592].
Các sự việc được diễn ra trong một khoảng thời gian cụ thể nào đó ( thời
gian một vị vua chúa trị vì: phụng sự vua nào, làm chức quan gì…) và xảy ra trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một không gian xác thực nên nó có ý nghĩa của một hiện tượng “không lặp lại trong
85
lịch sử”. Ví dụ: “Điệp tự thi cách” chép về chuyện vua Trần Thánh Tông làm thơ
trong một không gian và thời gian khá cụ thể: “Đời vương thứ hai nhà Trần là
Thánh vương, sau khi truyền ngôi cho Thế tử, vào lúc cuối đời được chút nhàn nhã
ung dung. Một lần về chơi nơi cố đô Thiên Trường, ngài có làm bài thơ như sau:”
(Truyện số 18). Hoặc chuyện Hồ Tông Thốc uống rượu làm thơ “không ai địch
nổi” cũng có một thời gian xác thực, có thể kiểm chứng: “Về sau, nhờ tài văn học,
Tông Thốc trở thành bậc thầy thiên hạ, phụng sự Trần Nghệ vương, làm quan tới
chức Hàn lâm học sĩ thừa chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ và không ngày nào là không
làm thơ, uống rượu” (Truyện số 27).
3.1.2 Tính chất ghi chép
Cách ghi chép cũng chú trọng trước hết là ghi việc, có nhiều ghi nhiều, biết
thêm thì ghi thêm, ý thức gia công kể chuyện cho thành một chỉnh thể nghệ thuật
chưa rõ rệt và đồng đều. [70; 348].
Tác phẩm văn xuôi tự sự trung đại thường ghi chép lại sự việc có thực (hoặc
được xem là có thực). Một số tác phẩm như Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái,
Việt điện u linh thì tác giả là người ghi chép, tập hợp lại. Với Nam Ông mộng lục, ý
thức được tính chất ghi chép, Hồ Nguyên Trừng viết trong lời tựa: “…tôi lại đi sưu tầm
chuyện cũ, nhưng đã mất mát gần hết, chỉ còn lại được hai trong số trăm phần, tập hợp
lại thành sách, đặt tên là Nam Ông mộng lục để phòng khi xem đến” [15; 43]. Vì vậy,
Nam Ông mộng lục cũng có tính chất ghi chép như nhiều truyện khác.
Sự hình thành của truyện có thể từ trước khi có người ghi chép. Một số tài
liệu cùng ảnh hưởng một nguồn thư tịch nào đó hoặc cùng ảnh hưởng văn học dân
gian…Trong văn học trung đại giai đoạn thế kỉ X– XV, chúng ta phải kể tới một số
các công trình sưu tầm tiêu biểu như Lĩnh Nam chích quái lục, Việt âm thi tập…Ví
dụ như truyện Lê Phụng Hiểu được Nam Ông mộng lục, Đại Việt sử kí toàn thư và
Việt điện u linh chép; truyện thiền sư Minh Không có mặt trong rất nhiều văn bản:
Lĩnh Nam chích quái lục, Thiền uyển tập anh, Nam Ông mộng lục và Đại Việt sử kí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
toàn thư.
86
Tính chất của ký là tính xác thực, người viết không sử dụng yếu tố kì ảo, chỉ
sắp xếp, lựa chọn các chi tiết… “Ký có quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật khách
quan của đời sống, không hư cấu. Nhà văn viết ký luôn chú ý đảm bảo cho tính xác
thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm” [31; 163]. Các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Dù cho tác phẩm ký có tường thuật trực tiếp lại sự kiện
(kí sự) hoặc phát biểu cảm nghĩ về sự kiện (tùy bút)…vẫn phải lấy điểm tựa ở sự
thật khách quan của đời sống và tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả. Câu
chuyện kể về Chu Văn An nhiều lần can gián, dâng sớ chém bảy gian thần nhưng
vua không nghe nên cáo quan về được mọi người ngưỡng mộ; đối với học trò cũng
nghiêm khắc, thẳng thắn: “Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, người Thượng Phúc đất Giao
Chỉ, tính liêm khiết, cương trực, học nghiệp tinh thuần, danh vang khắp chốn; đệ tử
đầy nhà, nối nhau đỗ đạt và thường có người làm quan trong Chính phủ…”. Nhà
văn Hồ Nguyên Trừng ghi chép trung thực cuộc đời của Nguyễn Trung Ngạn với
những nét chính về thân thế, sự nghiệp, tính cách: “Nguyễn Trung Ngạn rất tự phụ
vì sớm nổi tiếng là người có tài. Ông từng làm đoạn thơ trường thiên để nói về điều
đó, đại khái có đoạn như thế này:
Giới Hiên ta đây vốn tài chí,
Sao Ngưu mơ nuốt thời cu tí.
Mười hai đã dự Thái học sinh,
Mười sáu đã đến sân Đình thí.
Hai bốn tiến bước chức Gián quan,
Hai sáu Yên Kinh, nào đi sứ…
Sự kiêu căng tự phụ của ông là như vậy. Song, ông phụng sự Trần Minh
vương, giữ các chức trọng yếu của triều đình, làm việc trong chính phủ, khi mất lưu
lại tiếng tốt, không phụ là bậc Nho gia. Làm quan tới chức Thượng thư tả phụ, thọ
hơn tám mươi tuổi. Ông có Giới Hiên tập lưu hành ở đời” (Truyện số 23).
Không chỉ tôn trọng tính xác thực của sự kiện, trong tác phẩm truyện ký,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chúng ta còn thấy tác giả kết hợp cả hư cấu để hỗ trợ sự sáng tạo. Tuy nhiên, hư cấu
87
không phải là tưởng tượng chủ quan, thoát li đời sống. Hư cấu ở đây là là sáng tạo
chủ quan thông qua liên tưởng, ước đoán trong việc tổ chức, lựa chọn, sắp xếp, bình
giá những hiện tượng được miêu tả. Ta thấy trong truyện ký tính cách và hoàn cảnh
được tạo ra từ hai thành phần. Một là thành phần xác thực (tên tuổi, quê quán, ngoại
hình, quan hệ xã hộc, công trạng, thành tích…) có thể kiểm tra trực tiếp. Song thành
phần ít xác định hơn là suy nghĩ, cảm xúc, đánh giá…thì người viết có điều kiện để
hư cấu. Ví dụ: khi trích dẫn xong hai bài thơ của Trần Nhân Tông, nhà văn Hồ
Nguyên Trừng đưa lời bình, qua đó ta thấy được phần nào tâm trạng và con người
của vị vua này: “Cái thanh tân hùng tráng vượt quá đời thường. Thi hứng thi vị của
bậc vua một nước có nghìn cỗ xe như vậy, ai dám bảo người ta khi khốn cùng thì
thơ mới hay?”
Thể ký được cho là thể văn có khả năng phản ánh nhanh nhạy cuộc sống nên
lời văn giản dị ngắn gọn, không có những tình tiết lắt léo quanh co. Do tính chất ghi
chép, trong truyện viết về Quân đầu Mạc Ký, nhà văn ghi như sau: “Quân đầu Mạc
Ký là người Đông Triều. Ông xuất thân là lính tráng nhưng rất thích làm thơ. Vào
năm Nguyên Thống ông được tiễn sứ giả Hoàng Thường. Thường cũng là một
người thích thơ. Suốt một tuần nhật trên sông, Mạc Ký đã xướng họa với Hoàng
thường và có nhiều câu thơ hay. Hoàng Thường thích lắm. Khi tới biên giới, Mạc
Ký đã làm bài thơ Lưu biệt như sau:” (Truyện số 31).
Do Nam Ông mộng lục có tính chất hồi kí nên câu chuyện chủ yếu được kể
lại với ngôi kể thứ ba, người kể đã “biết hết” câu chuyện, kể lại với thái độ khách
quan, ngoài cuộc. Một số truyện được kể với ngôi thứ ba có đánh giá bình luận làm
cho câu chuyện có màu sắc riêng, điều đó cũng góp phần tạo ra tính chất chủ quan,
mang ấn tượng về cá nhân người bình luận. Tuy nhiên, một số truyện ký có sự xuất
hiện, tham dự, chứng kiến của “cái tôi”: Có thể là cái tôi tác giả, nhân vật chứng
kiến hoặc được nghe kể trực tiếp để góp phần xác minh sự thực của sự việc đang kể.
Trong “Thi triệu dư khánh”, tác giả xuất hiện với vai trò là người kể lại và tham gia
trực tiếp vào câu chuyện: “Ngoại tổ của Thái phụ Trừng tôi là Nguyễn công, húy là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thánh Huấn…Đến ngay cả cháu ngoại bốn đời của cụ như Trừng tôi hiện nay xuất
88
thân từ nơi hang tối, chuyển tới cây cao…”. Thậm chí trong một số thiên có tính
chất truyện, cái tôi tác giả cũng xuất hiện như một bằng chứng xác nhận tính chất
“người thật, việc thật” của câu chuyện, ví dụ “Chính tôi biết người này” (Truyện số
11). Như thế, những truyện ký này phần lớn là những ghi chép của tác giả về những
điều mình được chứng kiến hoặc nghe kể lại chứ không phải là tác giả tự mình sáng
tác, hư cấu, tưởng tượng ra. Mục đích chính của tác giả là dựng lên các chân dung
có tính giáo huấn thông qua việc ghi chép “trung thành” và “nguyên vẹn” sự thật.
3.2 Những thiên truyện có ghi chép thi thoại
Nhiều thiên truyện trong Nam Ông mộng lục có tính chất thi thoại. Các nhà
nghiên cứu đều đánh giá cao tài năng sáng tạo của Hồ Nguyên Trừng thông qua những
thi thoại này. Nguyễn Huệ Chi đã viết về những thi thoại rất có giá trị trong Nam Ông
mộng lục như sau: “…Đó là một phần khoảng hơn mười bài cuối sách, có tính chất thi
thoại và những đoạn bình luận thi ca ít ỏi của ông lại còn đặc sắc hơn: Ở đây có cái
nhìn tinh tế của một người biết thưởng thức thơ, cũng bước đầu biết chú ý đến những
tác động của điều kiện xã hội – thẩm mĩ đối với tác phẩm…” [31; 638 -639].
3.2.1 Thi thoại trong Nam Ông mộng lục
Thi thoại là : “Thể loại phê bình thơ mang tính tùy bút, “nhàn đàm” về thơ,
Chu Ngạn thi ngoại (Nam Tống) viết: “Thi thoại là thể loại chuyên phân định cách
viết câu thơ, tập hợp tài liệu cổ kim, ghi nhận đức độ, chép chuyện lạ, đính chính
những chỗ sai lầm”. Thể loại này cho phép nhà phê bình thơ có thể bình luận tự do,
không gò bó vào một khuôn khổ nào, từ thẩm bình một câu, một chữ, đến bàn luận
các vấn đề hệ trọng của văn học, dài ngắn tùy ý” [28; 306 -307]. Theo Phan Khôi:
“thi thoại là một lối trứ thuật chuyên nói về chuyện làm thi. Trong một quyển thi
thoại thường góp nhặt những câu thi hay và thường kèm theo ít nhiều lời bình, cốt
để lưu truyền những câu đắc ý của tao khách phong nhân mà mong thi giới nhờ đó
có phần phát đạt” [80]. Như vậy, thi thoại là một thể tài lí luận phê bình thơ ca đặc
sắc của văn học trung đại.
Về mặt nội dung, thi thoại thường thiên về trình bày tri thức, quan niệm sáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác của tác giả. Vì thế, nếu căn cứ vào tên gọi thì thi thoại Việt Nam ra đời muộn và
89
chỉ có Thương Sơn thi thoại là cuốn thi thoại duy nhất. Song theo Nguyễn Đăng Na
thì thi thoại Việt Nam xuất hiện từ thời Hồ Nguyên Trừng: “…trước Hồ Nguyên
Trừng tự sự loại này chưa hề xuất hiện…Có thể nói, người đầu tiên viết thể tài thi
thoại ở Việt Nam là Hồ Nguyên Trừng. Ông đã dành cho thể này 13/31 thiên, với tỉ
lệ gần 42%”[15; 33].
Ở các thế kỉ sau đã xuất hiện một số nguồn tư liệu đánh dấu sự hình thành
của hoạt động sưu tầm, phê bình thi ca, đây là tiền đề cho sự ra đời của thi thoại và
phê bình thi ca trong văn học Việt Nam: Thế kỉ XVI, có “Kim Hoa thi thoại kí”
(Truyền kì mạn lục – Nguyễn Dữ ) và Huấn đồng thi tập (Phùng Khắc Khoan); thế
kỉ XVIII có thiên “Văn nghệ” (Vân đài loại ngữ) và thiên “Thiên chương” (Kiến
văn tiểu lục) của Lê Quý Đôn; đầu thế kỉ XIX có Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)
và Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú)…Đánh dấu cho sự ra đời của thi
thoại là Thương Sơn thi thoại của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Đến đây, nhiều
vấn đề về thơ ca đã được đề cập như quan hệ giữa thơ và nhạc, vấn đề âm luật của
thơ, ý tưởng thơ, điển cố, dùng chữ đặt câu…Những ý kiến trong tác phẩm này
không phải mới mẻ song lại có tính tập trung, tổng kết và cập nhật vì thế đã bù đắp
những khuyết thiếu về lí luận của thơ ca thời trung đại.
3.2.1.1 Hoàn cảnh ra đời của bài thơ
Hoàn cảnh ra đời là một nhân tố hết sức quan trọng giúp chúng ta hiểu nội
dung một tác phẩm văn học. Nếu không đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời của nó thì
khó có thể hiểu được tác phẩm. Người xưa thường nói: “cảm vật tức cảnh” tức là
phải có những sự kiện, sự việc làm chấn động tâm hồn nhà thơ thì thơ mới nảy sinh.
Muốn hiểu thơ thì phải suy đoán cả tình huống nảy sinh tình cảm thơ. Sự kiện nền
tảng của bài thơ nhiều khi ghi ngay trong nhan đề bài thơ: Ví dụ: Nhan đề bài “Thi
phúng trung gián” cho ta biết bài thơ viết ra nhằm mục đích can gián, “Thi chí công
danh” là bài thơ viết về chí làm trai của Phạm Ngũ Lão…
Hoàn cảnh sáng tác thường được đặt ở phần đầu của thi thoại, nhằm mục
đích giới thiệu thuyết minh để người đọc hiểu rõ hơn về bài thơ. Phần này mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tính ghi chép khá cao, tác giả thường sử dụng những câu văn ngắn gọn. Ví dụ: Hồ
90
Nguyên Trừng mở đầu thi thoại “Điệp tự thi cách” như sau: “Đời vương thứ hai nhà
Trần là Thánh vương, sau khi truyền ngôi cho Thế tử, về cuối đời được chút nhàn
nhã ung dung. Một lần về chơi cố đô Thiên Trường, ngài có làm bài thơ như sau:
Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Mười đảo Tiên châu đây một châu.
(Truyện số 18)
Tất cả các bài thơ trong thi thoại thường được gắn với một hoàn cảnh sáng
tác cụ thể. Chúng ta có thể dễ dàng xác định được hoàn cảnh bởi tác giả đã ghi lại
một cách chính xác thời điểm đó: Khi dâng thơ can gián không được trả lời, Trần
Nguyên Đán đem tấm thân ra đi, trước khi đi còn làm bài thơ gửi bạn ở Ngự sử đài
(Truyện số 21); Khi còn nhỏ du học Kinh đô, có người bạn phụng mệnh đi sứ Yên
Kinh, Lê Quát làm thơ tiễn bạn (Truyện số 24)…Hoàn cảnh này chính xác tới mức
có thời điểm ra đời bài thơ còn được ghi nhận trong các bộ sử quan trọng của nước
nhà. Truyện số 29 trong Nam Ông mộng lục kể lại việc Trần Nghệ Tông viết bài
thơ tiễn sứ giả thật xứng với chức Tướng quốc. Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại
bài thơ của Trần Nghệ Tông – lúc đó mới giữ chức Tướng quốc – làm thơ tiễn sứ
giả Ngưu Lượng như sau: “…Rồi Dĩ Ninh ốm chết, chỉ có Lượng trở về nước thôi.
Hữu tướng quốc Cung Định vương Phủ làm thơ tiễn rằng:
An Nam tể tướng bất năng thi,
Không bả trà âu tống khách quy.
Viên Tản sơn thanh, Lô thủy biếc,
Tùy phong trực nhập ngũ vân phi.
Dịch thơ:
An Nam tể tướng kém thơ hay,
Tiễn khách bình chè lễ mọn này.
Non Tản xanh, sông Lô nước biếc,
Mong bay theo gió tới năm mây. [13; 653]
Để giới thiệu về các thi thoại, những ghi chép về hoàn cảnh ra đời bài thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của Hồ Nguyên Trừng còn có những hiểu biết thêm về tác giả, tác phẩm và cả thời
91
đại mà tác giả đang sống (hoàn cảnh lớn chi phối tác phẩm). Ví dụ: Thi thoại “Mệnh
thông thi triệu” nếu chỉ giới thiệu sơ lược về tác giả và hoàn cảnh ra đời bài thơ thì
chưa giúp ta hiểu được ý nghĩa nhan đề bài thơ: “Lê Quát, tự Bá Quát, người Thanh
Hóa. Thưở nhỏ, ông du học ở Kinh đô. Trong số bạn bè bấy giờ có người làm quan,
phụng mệnh đi sứ Yên Kinh. Bấy giờ đang là cuối thời Nguyên. Bá Quát làm bài
thơ tiễn như sau:”. Lời ghi chép của tác giả ở phần sau đã giúp nhan đề bài thơ sáng
tỏ, làm tô đậm thêm tài năng thiên phú của Bá Quát “Xem thơ, người am hiểu cho
rằng Bá Quát sẽ hiển quý. Về sau, Quát đỗ đạt, quả được thăng chức rất nhanh, vào
làm việc trong chính phủ trước cả bạn mình.” (Truyện số 24). Tương tự như thế,
người đọc chúng ta sẽ cảm thấy khó hiểu nếu chỉ căn cứ vào nhan đề thiên truyện
“Thi phúng trung gián” hoặc lời bài thơ: “Rời đài Ngự sử đến chân trời/ Ngoảnh lại
lòng đau việc trái sai…”. Không có phần giới thiệu khá chi tiết của nhà văn Hồ
Nguyên Trừng về khoảng thời gian Trần Nguyên Đán phụng sự vua Trần thì chúng
ta khó lòng lí giải những băn khoăn day dứt của Trần Nguyên Đán khi từ quan:
“Khoảng niên hiệu Chí Chính, ở Giao Chỉ có Trần Nguyên Đán là tôn thất nhà Trần
làm quan giữ chức Ngự sử đại phu dưới thời Dụ vương. Dụ vương không siêng
năng việc chính sự, bọn quyền thần phần nhiều không tuân theo phép nước. Nguyên
Đán đã mấy lần can gián nhưng Dụ Vương không nghe. Khi Dụ vương mất, cháu
của vương là Hôn Đức nối ngôi, chính sự bấy giờ càng quá thể” (Truyện số 21).
Tóm lại, những ghi chép về hoàn cảnh ra đời là một phần không thể thiếu
giúp chúng ta hiểu đúng ý nghĩa bài thơ. Sự kết hợp tự nhiên của phần ghi chép với
những bài thơ đã tạo nên những thi thoại vừa mang tính chất truyện ký vừa mang
tính chất thơ thật độc đáo.
3.2.1.2 Tác giả bài thơ
Thông thường, tác giả bài thơ đóng một vai trò rất quan trọng. Khi viết thi
thoại, các nhà văn rất quan tâm tới tác giả. Thông qua hiểu biết về tác giả, người
đọc có thể hiểu thêm về nội dung ý nghĩa của bài thơ này. Chúng tôi tiến hành khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sát để biết rõ thêm về tác giả của bài thơ qua bảng thống kê sau:
92
3.2 Bảng thống kê tác giả các bài thơ trong Nam Ông mộng lục
Tầng lớp Số lƣợng STT Tác giả Trong truyện (Giai cấp) bài thơ
Lý Thánh Tông Vua chúa 1 Truyện số 11 1
Trần Thánh Tông Vua chúa 2 Truyện số 18 1
Trần Nhân Tông Vua chúa Truyện số 17, số 19 3 3
Trần Minh Tông Vua chúa Truyện số 20 4 1
5 Trần Nghệ Tông Vua chúa Truyện số 1, số 29 2
6 Trần Nguyên Đán Quan lại Truyện số 21, số 30 2
7 Nguyễn Trung Ngạn Quan lại Truyện số 22, số 23 2
8 Lê Quát Quan lại Truyện số 24 1
9 Phạm Mại Quan lại Truyện số 20 1
10 Nguyễn Thánh Huấn Quan lại Truyện số 28 1
11 Cung Tín Quan lại Truyện số 29 1
11 Phạm Ngũ Lão Võ tướng Truyện số 25 1
11 Mạc Ký Võ tướng Truyện số 31 1
Quý tộc 12 Sầm Lâu Truyện số 22 1 (Tôn thất)
Quý tộc 13 Ái Sơn Truyện số 26 2 (Tôn thất)
Chúng tôi nhận thấy đội ngũ sáng tác khá đông đảo, hùng hậu, đều là những
người thật: gồm vua chúa, quan lại, tướng lĩnh, tôn thất... Trong số các tác giả chỉ
có một nhà thơ thời Lý (vua Lý Thánh Tông), các tác giả còn lại chủ yếu sống gần
với thời của Hồ Nguyên Trừng ( Thời Trần) ví dụ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trung
Ngạn, Trần Nghệ Tông… Chiếm số lượng lớn nhất là đội ngũ quan lại (6/13 nhà
thơ), rồi tới vua chúa…Đây là những người có quan hệ với Hồ Nguyên Trừng nên
ông biết khá rõ.
Trong số các tác giả trên, chúng ta không thấy một tác giả nào thuộc tầng lớp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bình dân. Điều đó chứng tỏ văn chương chữ Hán có tính chất bác học, chỉ dành cho
93
đội ngũ những người có học trong xã hội như vua chúa, quan lại, nho sĩ… còn
những người thuộc tầng lớp dưới, không biết chữ thì không thể trở thành tác giả
hoặc độc giả.
Phần lớn các tác giả chỉ có một bài thơ, song một số tác giả có từ hai sáng tác
trở lên như vua Trần Nhân Tông (3 bài) Trần Nghệ Tông (2 bài) Trần Nguyên Đán
(2 bài) Nguyễn Trung Ngạn (2 bài) Ái Sơn (2 bài). Số lượng lớn các bài thơ chứng
tỏ sáng tác thơ, thưởng thức thơ đã trở nên phổ biến dưới thời nhà Trần.
Đối với một thi thoại, tác giả thường được giới thiệu ở đầu bài thơ. Ví dụ:
Trong truyện số 22, “Thi dụng tiền nhân cảnh cú” giới thiệu khá kĩ về nhà thơ Sầm
Lâu – tác giả của hai câu thơ được Nguyễn Trung Ngạn “tập cú”: “Tôn thất nhà
Trần có người tên hiệu là Sầm Lâu, từ thưở niên thiếu có tài làm thơ, nhưng mới 27
tuổi đã qua đời. Ông có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời. Phần mộ của ông bên bờ sông
Ô Diên”. Ở phần cuối thi thoại có khi nói thêm về tác giả hoặc kết lại ý đã nêu ra ở
phần đầu bài thơ. Ví dụ ở thi thoại giới thiệu về tác giả của những vần thơ “tự phụ”
ngay ở đầu truyện, nhà văn viết: “Nguyễn Trung Ngạn rất tự phụ vì sớm nổi tiếng là
người có tài. Ông từng làm thơ trường thiên nói về điều đó, đại khái có đoạn như
thế này:…Sự kiêu căng tự phụ của ông là như vậy. Song ông phụng sự Trần Minh
vương, giữ các chức trọng yếu của triều đình, làm việc trong chính phủ, khi mất lưu
lại tiếng tốt, không phụ là bậc nho gia. Làm quan tới chức thượng thư Tả phụ, thọ
hơn tám mươi tuổi. Ông có Giới Hiên tập lưu hành ở đời” (Truyện số 23).
Các tác giả bài thơ đều là những nhân vật có vị trí quan trọng trong triều
đình, được ghi chép trong sách sử. Nhiều người là thi sĩ nổi tiếng của triều Trần như
vua Trần Nhân Tông, Nguyễn Trung Ngạn, Trần Nguyên Đán…Tác giả có thực,
những bài thơ có thực được Hồ Nguyên Trừng ghi chép lại. Điều này chứng tỏ tính
chất trung thực của thi thoại này. Những bài thơ trong Truyền kì mạn lục là thơ do
tác giả hư cấu để thể hiện nội dung của câu chuyện và quan điểm của mình nên nó
không có tác giả và nó chỉ có vai trò trong cốt truyện mà không thể tồn tại tự thân.
Còn những bài thơ trong Nam Ông mộng lục là một đơn vị sáng tác có tác giả và có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể tồn tại độc lập. Nhiều bài thơ đã có mặt trong các tuyển tập như Việt âm thi tập,
94
Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển, Thơ văn Lý – Trần như là những sáng tác
hoàn chỉnh ví dụ bài thơ của Phạm Ngũ Lão trong truyện “Thi chí công danh” có
mặt trong các thi tuyển với nhan đề “Tỏ lòng”…Các bài thơ này được chép rất
chính xác, có thể chỉ sai lệch một vài chữ giữa các văn bản (Các bài thơ có liên hệ
với Việt âm thi tập cũng chỉ khác nhau một số chữ giữa hai văn bản ). Sự tương
đồng giữa các bài thơ trong các tuyển tập khác nhau chứng tỏ có thể các tác giả ghi
chép từ một nguồn tư liệu nào đó.
Từ những nhận xét trên, chúng tôi thấy rằng tác giả bài thơ đóng một vai trò
rất quan trọng trong các thi thoại. Đây cũng là một nhân tố quan trọng để chứng
minh tính chất chân thực của thi thoại – góp phần làm sáng tỏ thêm về mối quan hệ
truyện ký – thi thoại trong Nam Ông mộng lục.
3.2.1.3 Thể thơ
Để tìm hiểu về nghệ thuật của một bài thơ, chúng ta không thể bỏ qua thể
thơ. Thể thơ giúp cho người đọc có cái nhìn rõ nét hơn về cấu trúc bài thơ. Trong
Nam Ông mộng lục, chúng ta bắt gặp khá nhiều các thể thơ khác nhau: tứ tuyệt (15
bài), bát cú (4 bài), trường thiên (1 bài)…Chúng tôi đã thống kê các thể thơ trong
Nam Ông mộng lục trong bảng phụ lục 5. Qua việc khảo sát, chúng tôi nhận thấy
thể thơ tứ tuyệt chiếm đa số, còn thể thơ trường thiên ít được sử dụng hơn. Có lẽ vì
thể thơ tứ tuyệt dễ làm, dễ thuộc và được nhiều người ưa thích, phù hợp với tâm lí
người Việt Nam, nên được ưa chuộng chăng? Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy
trong những bài thơ này xuất hiện loại thơ huê tình, thơ sáu chữ và lối thơ “tập cú”,
thơ “điệp tự”. Đây là nét độc đáo của tác phẩm này. Chúng tôi sẽ tìm hiểu kĩ hơn về
lối thơ “tập cú” và “điệp tự” trong sự dung hợp thể loại truyện ký - thơ ở những
thiên truyện này.
Trước hết, ta phải tìm hiểu về khái niệm này: “tập cú” là “góp những câu văn
hay của cổ nhân để làm thành một bài thơ mới” [1; 384]. Như thế có nghĩa là sử
dung thi liệu, văn liệu câu thơ đẹp, tứ thơ độc đáo của tiền nhân và điển cố để làm
thơ. Lối thơ này rất quen thuộc với các nhà thơ vì nó phù hợp với tư duy thẩm mĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của con người thời trung đại.
95
Truyện số 22, vốn là một mẩu chuyện về Sầm Lâu được chép trong Đại Việt
sử kí toàn thư khá trung thực: “Bấy giờ Uy Văn Vương Toại lấy con gái của thượng
hoàng là công chúa Thụy Bảo. Uy Văn ham học hay thơ (có câu thơ rằng: Pha lạp
Ngũ Hồ vinh bội ấn, Tang ma tế dã thắng phong hầu. ( Tơi nón năm hồ hơn giữ ấn;
Dâu gai đầy nội vượt phong hầu), tự hiệu là Sầm Lâu, có Sầm Lâu tập lưu hành ở
đời. Vua từng hỏi chữ “quan gia” nghĩa là gì, Uy Văn trả lời: “Năm đời đế lấy thiên
hạ làm của công (quan), ba đời vương lấy thiên hạ làm của nhà (gia) cho nên gọi là
quan gia”. Vua khen là người kiến thức rộng. Không may chết non (chết năm 24
tuổi), người nước ai cũng tiếc” [13; 491].
Bằng lối ghi chép chân thực, trong thiên truyện “Thi dụng tiền nhân cảnh
cú”, nhà văn Hồ Nguyên Trừng đã ghi lại chân dung nhà thơ Sầm Lâu như sau:
“Tôn thất nhà Trần có người tên hiệu Sầm Lâu, từ thưở thiếu niên có tài thơ, nhưng
mới 27 tuổi đã qua đời. Ông có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời. Phần mộ của ông trên
bờ sông Ô Diên.”. Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở đây thì mới chỉ là một đoạn ghi
chép của truyện ký. Điều thú vị là nhà văn đã để cho Nguyễn Trung Ngạn tái hiện
cuộc đời của nhà thơ Sầm Lâu bằng chính thế giới nghệ thuật – những vần thơ của
Sầm Lâu:
“Giới Hiên Nguyễn Trung Ngạn cũng nổi tiếng về thơ nhưng không kịp làm
quen với Sầm Lâu. Khi đi qua sông Ô Diên ông có làm bài thơ điếu Sầm Lâu như
sau:
Đời ta chẳng biết bác Sầm Lâu,
Mở đọc thơ xưa lại gật đầu.
“Tơi nón Ngũ Hồ hơn ấn tín,
Dâu gai dăm mẫu át công hầu”.
Thế gian lời ấy nào ai nói,
Muôn thưở văn này được mấy câu.
Dám nâng chén rượu, người đâu nhỉ,
Mênh mang khói sóng lại dâng sầu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đôi câu thơ “Tơi nón Ngũ Hồ…” vốn là thơ của Sầm Lâu vậy.” [13; 491]
96
Truyện không chỉ tái hiện chân dung thi nhân đời Trần mà còn kết hợp ghi
chép cả thơ ca của con người giai đoạn này nữa: Nguyễn Trung Ngạn mượn hai câu
thơ của Sầm Lâu để nói về thơ mình, cuộc đời mình: ưa thích cuộc sống tự do
phóng khoáng, không coi trọng công danh. Nguyễn Trung Ngạn tâm đắc với cuộc
sống mà Sầm Lâu đã chọn, cũng tâm đắc với cả những vần thơ Sầm Lâu sáng tác dù
ông chưa một lần gặp mặt. Một sự tri âm tri kỉ thật quý! Nhờ lối thơ “tập cú”, chúng
ta thấy thi nhân xưa trong quá khứ đã sống lại trong thơ của thi nhân ngày nay.
Bằng chén rượu, bằng thơ, hai thi nhân đã tìm được sự đồng điệu trong tâm hồn.
Qua đó, tác giả thể hiện sự trân trọng các giá trị văn hóa của bậc tiền nhân và là nét
đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam. Không chỉ có sự dung hòa của ký – thơ trong thi
thoại, thơ lồng trong thơ trong bài thơ “tập cú” này tạo nên sự khác lạ về mặt hình
thức của thiên truyện.
Thi thoại “Điệp tự thi cách” là một sự kết hợp khá hoàn chỉnh của văn xuôi
và thơ trong một thi thoại. Mở đầu là ghi chép về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, phần
cuối là lời bình của tác giả, bài thơ được chép ở giữa tạo ra sự cân đối trong bố cục.
Điểm nhấn của thi thoại này là bài thơ với lối thơ “điệp tự”. “Điệp tự” chỉ lối thơ
mà mỗi câu đều có hai chữ trùng lặp [15; 113]. Lối thơ này thể hiện sự sáng tạo độc
đáo của các nhà thơ thời trung đại.
Trước hết, chúng ta sẽ tìm hiểu cách lặp từ của bài thơ:
- thanh u - - thanh u
Nhất - - châu - nhất châu
Bách - - - - bách -
Thiên - - - - thiên -
- vô sự - - vô sự
- hữu - - - hữu thu
- - dĩ - - dĩ -
- niên du - - niên du
Bài thơ tuân thủ đúng luật thơ Đường: Đối bằng trắc, niêm ở các câu 1-8, 2-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3, 4-5, 6-7; các câu đối nhau 3-4, 5-6.
97
Do đây là bài thơ điệp tự nên có một số nét độc đáo: Có ba cặp lặp chữ giống nhau:
+ Câu 3 - 4: lặp một chữ trong một câu (vị trí tiếng thứ 1 – 6): “bách” (câu 3),
“thiên” (câu 4).
+ Câu 5 - 6: lặp 2 chữ trong một câu (vị trí tiếng 2 - 3): “vô sự” (câu 5) “hữu thu”
(câu 6).
+ Câu 1- 8: lặp 2 chữ trong một câu (vị trí tiếng 2 - 3): “thanh u” (câu 1) “niên du”
(câu 8).
Câu 1 lặp từ “thanh u” (hai thanh bằng) gợi ra sự yên ả, tĩnh lặng, thanh nhẹ
của cảnh vật. Câu 2, từ “nhất” (tiếng thứ 1) “châu” (tiếng thứ 4) được lặp lại liên
tiếp ở cuối dòng thơ “nhất châu” (tiếng thứ 6 - 7); có một sự giãn cách ở đầu dòng
và sự dồn tụ ở cuối dòng thơ khẳng định ý thơ: Trong số mười châu thì đây là châu
đẹp nhất, vượt trội nhất. Tác giả còn lặp lại liên tiếp các số từ trong câu theo thứ tự
tăng dần ở các câu 2, 3, 4: Từ “nhất”, “bách”, “thiên” ở tiếng thứ nhất được lặp lại
ở tiếng thứ 6 gợi ra sự trùng trùng lớp lớp, sự đa dạng phong phú tươi đẹp của cảnh
vật. Câu 7 có vị trí lặp khá lạ “dĩ” (vị trí tiếng thứ 3 -6), từ “dĩ” (trắc) kết hợp với
“thanh” (bằng), “dĩ” (trắc) kết hợp với “tịnh” (trắc) tạo ra sức nặng cho câu thơ, gợi
ra mọi thứ đang chìm dần xuống, lắng lại vào yên tĩnh, rất phù hợp với việc diễn tả
không khí yên ả, thanh bình sau khi thắng giặc ngoại xâm.
Về nhịp thơ, nếu nhịp thơ Đường thường là chẵn trước, lẻ sau (4/3) thì nhịp
của bài thơ này biến hóa khá linh hoạt: 3/4, 4/3, 4/3, 3/4, 3/4, 4/3, 3/4. Nhịp thơ liên
tục thay đổi gợi nên sự luyến láy. Đọc những câu thơ lên, chúng ta cảm thấy nhịp
nhàng, ngân vang, rộn ràng. Từ đó, chúng ta cảm nhận được niềm vui sướng, tự hào
của nhà vua được chiêm ngưỡng đất nước xinh đẹp thanh bình. Ngôn ngữ thơ giàu
nhạc tính, âm thanh luyến láy, sự trùng điệp, sự phối hợp bằng trắc tài hoa…làm cho
xúc cảm của nhà thơ cứ bật lên thành những nốt nhạc ca hát về non sông đất nước.
Ngoài thi thoại, một số truyện của Nam Ông mộng lục có đan xen thơ.
Những bài thơ trong truyện này chỉ nhằm mục đích phục vụ cho cốt truyện, khắc
họa tính cách nhân vật chứ không bàn về thơ nên không thể coi là thi thoại. Hình
thức truyện đan xen thơ rất phổ biến trong văn học trung đại. Các truyện kiểu “thiền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sư” thường có bài kệ mà nhà sư đọc trước khi qua đời. Truyền kì mạn lục cũng là
98
một tác phẩm tổng hợp thơ, văn xuôi, ca từ, biền văn… Hình thức truyện đan xen
thơ là một minh chứng cụ thể về sự dung hợp thể loại trong văn học. Như vậy, sự
dung hợp thể loại không chỉ diễn ra ở cấp độ tác phẩm (Nam Ông mộng lục gồm
truyện, ký và thi thoại) mà còn cả ở cấp độ dưới tác phẩm (thiên). Một số “thiên” có
đan xen tự sự - trữ tình (Truyện số 1, số 11, số 20…). Trong “Tăng đạo thần thông”,
tác giả sử dụng cả văn xuôi và thơ để miêu tả, ca ngợi tài năng của Giác Hải, Thông
Huyền: “…Giác Hải lấy chuỗi tràng hạt đập vào cột, tiếng kêu gào ngừng ngay.
Thông Huyền cầm chiếc lệnh bài đánh vào cột, bỗng thấy một cánh tay ở thượng
lương hiện ra, đem con thạch sùng ném xuống đất. Yêu quái bèn hết.
Vương bèn ứng khẩu đọc:
Tâm Giác Hải như biển,
Đạo thông huyền càng huyền.
Thần thông tài biến hóa,
Một Phật, một thần tiên.” (Truyện số 11)
Trong Nam Ông mộng lục, tác giả ghi lại nội dung, hoàn cảnh ra đời, tác giả,
thể loại… của thi thoại với độ chính xác rất cao. Tác giả còn ghi rõ cả những điều
mình nhớ và tỏ ra tiếc nuối những gì mình quên: “Ngài có tập thơ Đại Hương hải
ấn, nhiều bài tuyệt xướng. Tiếc rằng đất nước gặp cơn binh hỏa, không được lưu
truyền. Ta chỉ thuộc được một vài bài mà thôi. Ôi, đáng tiếc thay!” (Truyện số 19).
Thi thoại được nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tùng xác định là thuộc loại ký.
Nguyễn Thanh Tùng đã viết: “Kí là thể loại hết sức mở, đa dạng về hình thức và
phong cách nên thi thoại cũng vậy. Nó có thể bao gồm nhiều tiểu loại khác nhau:
hồi kí, tùy bút, tùy bút, du kí, kí sự, kí khảo cứu, kí nghị luận…Về mặt ngôn ngữ,
lời văn: thi thoại dung hợp trong đó cả vận văn, tản văn, biền văn…nên cũng rất
linh hoạt về bút pháp”[80]. Qua nhận xét trên, ta thấy thi thoại phản ánh tính dung
hợp thể loại của văn học giữa truyện kí và thơ, tự sự - trữ tình.
3.2.2 Lời bình thơ trong Nam Ông mộng lục
3.2.2.1 Hệ thống lời bình
Lời bình - thành phần trữ tình ngoại đề vốn có một giá trị rất đặc biệt để cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác giả tạt ngang cảm xúc - trực tiếp thể hiện tình cảm, thái độ của mình về các vấn
99
đề nội dung - tư tưởng đã được xây dựng trong tác phẩm. Bên cạnh tự, bạt, lời bình
trong thi thoại chính là một hình thức phê bình văn học ở giai đoạn sơ khai, nó
mang tính chất ghi chép rất rõ nét. Trong các thi thoại của Nam Ông mộng lục, ta rất
quen thuộc với hệ thống những lời bình thơ.
Thông thường, lời bình thơ thường được đặt ở cuối thi thoại, sau phần trích
dẫn bài thơ: “Sự kiêu căng tự phụ của ông là như vậy. Song ông phụng sự Trần
Minh vương, giữ các chức trọng yếu của triều đình….” (Truyện số 23). Có nhiều
lời bình là lời khẳng định song tác giả cũng sử dụng các câu hỏi tu từ trong các lời
bình: “Điềm phúc lành của cụ trước hết hiện ra trong thơ kể trên chăng?”. Có trường
hợp lời bình là những câu kết luận cho phần nội dung đã được nêu ra ở trước (truyện
số 23, số 24…). Những lời bình này thường bàn về nội dung bài thơ, mối liên hệ tác
giả - tác phẩm nhưng không bàn nhiều về nghệ thuật. Có lẽ thơ thường được làm theo
khuôn mẫu, quy phạm (số câu, số tiếng, niêm, luật, đối…) và chịu ảnh hưởng của
quan niệm “sùng cổ phi ngã” nên ít có sự cách tân về nghệ thuật chăng?
Hệ thống lời bình thuộc loại phê bình văn học, nó ghi chép lại những suy nghĩ,
đánh giá mang màu sắc chủ quan của tác giả về những bài thơ trong các thi thoại.
3.2.2.2 Giá trị của những lời bình
Ngay từ khi văn học viết ra đời, con người đã có ý thức cảm thụ, thẩm bình
văn học. Tuy hoạt động này còn diễn ra khá lẻ tẻ và chưa có hệ thống. Nhưng sự ra
đời của thẩm bình văn chương cũng đã tạo ra bước tiến quan trọng, góp phần vào
diện mạo của văn học trung đại và tạo bước nhảy vọt cho văn học phát triển. Thời
xưa, khi phê bình văn học chưa phát triển mạnh, các bài tựa, bạt (tác giả viết ở đầu
hoặc cuối sách) thường thực hiện chức năng phê bình. Cũng giống như tự, bạt, lời
phê bình thường thiên về tính chất ghi chép. Sách Từ trong di sản - Những ý kiến về
văn học từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XX ở nước ta đã ghi lại được nhiều ý kiến về văn
học của các nhà văn, nhà thơ, người thẩm bình văn học trung đại. Trước hết là ý
kiến về thơ của Phùng Khắc Khoan: “Ta đối với thơ, vốn thường có chí, tự xét tài
không cao bằng người xưa, lời không tinh bằng người xưa, ở cõi đời chưa đủ để
bình luận nhân vật xưa nay, ở cõi âm chưa đủ để kinh động quỷ thần, chỉ đem cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học kém cỏi bo bo, lời nói vụng về xốc nổi thì sao đủ đi tới chỗ thơ hay mà dự vào
100
hạng nguyên súy ở Tao đàn kia chứ? Tuy cái học hàng ngày chưa từng lập được chí
lớn, nhưng cái điều mà chí phát ra có khi hiện ra ở thơ…” [72; 41]. Ý kiến về thơ
xưa của Nguyễn Dữ: “Thơ của người xưa, lấy hùng hồn làm gốc, bình đạm làm
khéo, câu tuy ngắn nhưng ý lại dài, lời tuy gần nhưng nghĩa lại xa…” [ 72; 42]
Sự thẩm bình thời trung đại chưa phải là một hoạt động phê bình văn học
thực thụ, mà mới chỉ thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương, dựa vào các “thần
cú”, “nhãn tự” (thi nhãn) để thẩm bình. “Thần cú”, “nhãn tự” là câu hay nhất, chữ
khéo nhất, quan trọng nhất trong câu thơ, trong bài thơ thể hiện tập trung quan
niệm, tình cảm, vẻ đẹp của thơ. Thẩm thơ qua “thi nhãn” là một truyền thống văn
hóa tinh tế lâu dài của người Á Đông. Đây mới là những đánh giá bình phẩm hơn là
phân tích nghiên cứu toàn bộ những mối liên hệ bên trong và bên ngoài hết sức
phức tạp của sáng tác nghệ thuật. Phê bình mới xuất hiện ở dạng giới thiệu một tác
phẩm, sau này gọi là lạm bình hoặc là các cuộc đối ẩm, bình thơ, bình văn của thi
nhân xưa… Trong rất nhiều lời bình ở Nam Ông mộng lục, người bình thơ đã phân
tích được mối liên hệ của hoàn cảnh với thơ ca. Ví dụ trong truyện số 18, hoàn cảnh
chi phối tới bài thơ rất rõ, người bình viết: “Bài thơ này được sáng tác có lẽ vào lúc
sau khi đã trải qua hai lần quân Nguyên chinh phạt, đất nước yên vui, cho nên kết
thành ý thơ vậy. Bài thơ có cấu tứ thanh cao, điệp tự âm vang, nếu chẳng phải bậc
lão luyện trong làng thơ thì làm sao có thể viết được như vậy? Huống chi, ngài bản
tính thanh cao, bẩm sinh phú quý, có phong cách làm vua một nước, khác với người
thường”. Thậm chí qua những lời bình, ta thấy mối liên hệ của thơ ca với cuộc đời
tác giả của những bài thơ đó như truyện số 25 nói về những vần thơ điềm báo vận
mệnh của Lê Quát, nhà văn bình như sau: “Xem thơ, người hiểu biết cho rằng Bá
Quát sẽ hiển quý. Về sau, Quát đỗ đạt, quả được thăng chức rất nhanh, vào làm việc
trong chính phủ trước cả bạn mình”.
Với tư cách một người sưu tầm, thưởng thức thơ, Hồ Nguyên Trừng viết lời
bình nhằm ngợi ca, tôn vinh những tài năng thi ca, những tác phẩm để đời. Trong
lời bình của mình, bằng những câu văn ngắn gọn, hàm súc, Hồ Nguyên Trừng khắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
họa chân dung các thi nhân khá độc đáo. Trong truyện số 19 sau khi ghi lại bài thơ
101
“Vịnh mai”, nhà văn bình như sau: “Cái thanh tân hùng tráng vượt quá người
thường. Thi hứng thi vị của một bậc vua một nước có nghìn cỗ xe như vậy, ai dám
bảo người ta khi khốn cùng thì thơ mới hay?”. Bình luận về thơ mà lại nói về người
thì thật độc đáo vì hay ở chỗ nói về người cũng là để khen thơ mang ý “thanh tân”,
vượt lên trên hiện thực…Người bình còn nhắc đến “Đại Hương Hải ấn tập” với một
sự tiếc nuối vì nó không còn được lưu truyền lại “Ngài có tập thơ Đại Hương Hải
ấn, nhiều bài tuyệt xướng. Tiếc rằng đất nước gặp cơn binh hỏa, không được lưu
truyền. Ta chỉ thuộc được một vài bài mà thôi. Ôi, đáng tiếc thay!” (Truyện số 19)
Phê bình chủ yếu là giao lưu giữa người thẩm bình với tác giả, tác phẩm văn
chương, thường dừng ở góc độ bình. Ví dụ Trong truyện số 30, tác giả bình thơ chủ
yếu dựa trên những hiểu biết cá nhân của mình cuộc đời, sự nghiệp của Trần
Nguyên Đán và cả những cảm nhận tinh tế qua những vần thơ của Tư đồ họ Trần:
“Có lẽ bởi khi đang nắm quyền Tướng quốc, Băng Hồ không làm được gì nên thốt
ra những lời như vậy chăng? Âu cũng là điều khả thủ của bậc thi nhân mà lòng ưu
quân ái quốc chứa chất bên trong thành tấm lòng trung hậu chăng?”. Lời bình thơ
ngắn gọn, nhẹ nhàng, chất chứa cảm xúc chủ quan của tác giả. Ông thấu hiểu được
những ưu tư, băn khoăn của Trần Nguyên Đán: Cả cuộc đời Trần Nguyên Đán với tư
tưởng “trí quân trạch dân” đem hết sức mình giúp đỡ, phò tá nhà vua. Nhưng khi
ngoảnh lại, sáu mươi năm trôi qua mà Nguyên Đán vẫn thấy hổ thẹn vì chưa giúp
được gì cho đời. Thực tế, Trần Nguyên Đán làm quan trải nhiều triều vua, thường ở
vị trí trụ cột gánh vác, có nhiều đóng góp cho giang sơn xã tắc. Có lẽ phải xuất phát
từ tấm lòng tri âm, tri kỉ với Trần Nguyên Đán nên được giá trị bài thơ mới được bộc
lộ rõ ràng trong lời bình như vậy. Đây là lối bình thơ theo cảm xúc chủ quan, bình
luận theo kiểu kinh nghiệm, khá đặc trưng của phê bình trong văn học trung đại.
Qua những thi thoại này, chúng ta không chỉ thấy nội dung phong phú mà
còn có giá trị nghệ thuật độc đáo, lời văn ngắn gọn, súc tích, bình đạm, nhẹ nhàng
gợi sự thích thú cho người đọc mở rộng kiến văn, cảm thụ. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Na nhận định: “Có thể nói người đầu tiên viết thể tài thi thoại ở Việt Nam là
Hồ Nguyên Trừng”. Vì thế, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhỏ của Hồ Nguyên Trừng cho thể tài thi thoại và cho văn học trung đại nói chung.
102
Điều đáng quan tâm hơn là sự hỗn dung giữa truyện với thơ ca: Những
truyện kí có ghi chép thi thoại này có xu hướng tiến dần tới thơ ca, tính chất truyện
giảm, chỉ còn lại những ghi chép đan xen với thơ ca. Nhận xét về sự dung hợp
truyện ký – thơ ca trong Nam Ông mộng lục, PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn viết: “Các
tác phẩm thi ca này vừa tồn tại trong chỉnh thể văn bản truyện ký, nằm trong mạch
kể chuyện của tác giả, nối tiếp bên cạnh những đoạn hồi tưởng, những sự kiện,
những lời đối thoại, đánh giá, bình luận song cũng có ý nghĩa tồn tại độc lập, tạo
nên giá trị tự thân” [66; 159- 171].
3.3 Những thiên truyện có tính chất truyện
Ngay trong lời tựa Nam Ông mộng lục, Hồ Nguyên Trừng đã nêu mục đích
sáng tác là “một mặt để nêu ra những việc thiện nhỏ của tiền nhân, một mặt cung
cấp những chuyện dị văn cho người quân tử. Tuy chỉ đóng khung trong tiểu thuyết
nhưng cũng giúp chút ít cho những lúc nhàn đàm” [15; 43] và thực tế trong tác
phẩm có nhiều truyện có giá trị văn học cao. Chúng tôi nhận thấy tuy các thiên
trong Nam Ông mộng lục đều là truyện ký song một số thiên có tính chất truyện.Vì
thế, chúng tôi sẽ phân tích kĩ hơn những thiên truyện này để làm rõ thêm sự dung
hợp giữa truyện – truyện ký.
3.3.1 Kết cấu cốt truyện
3.3.1.1 Kết cấu
Trong tác phẩm văn học, kết cấu đóng một vai trò quan trọng trong việc tổ
chức tác phẩm. Trước hết, chúng ta cần hiểu kết cấu là gì? Kết cấu là: “Tổ chức tác
phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa
các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến
trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố cục là một phương diện của kết cấu (Bố cục:
“chỉ sự sắp xếp, phân bố các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một
trình tự nhất định”). Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm: tổ chức hệ thống tính cách,
tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những
liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngoài cốt truyện…sao cho toàn bộ tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật”
103
[28; 157]. Như vậy, kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của
tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác
phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định.
Kết cấu khép kín
Truyện trung đại thường có phần mở đầu, diễn biến, kết thúc bởi trong quá
trình ghi chép, các tác giả không cần tới cách diễn đạt riêng. Điều họ chú ý là những
điều viết ra phải trung thành với nguyên mẫu và cố gắng ít hư cấu, bịa đặt. Câu
chuyện thường kết cấu theo công thức có sẵn. Các truyện thần phả trong Việt điện u
linh mở đầu bằng việc tác giả dẫn sách, giới thiệu họ tên, quê quán => Phần chính
nói về sự hiển linh của các thần phù trợ nhân dân => Phần kết ghi các đợt gia phong
danh hiệu của các triều vua Trùng Hưng, Hưng Long. Thiền uyển tập anh có kết cấu
theo sự phát triển của cuộc đời các thiền sư: sinh hạ thần kì => tu tập thần kì => quy
tịch thần kì. Truyện Lĩnh Nam chích quái được tác giả mở đầu bằng cách giới thiệu,
lập hồ sơ về nhân vật, dẫn sách, kết thúc có hậu...
Khá nhiều truyện trong Nam Ông mộng lục cũng có cách kết cấu ba phần
như vậy. Mở đầu giới thiệu về nhân vật, tình huống xảy ra câu chuyện, phần chính
nêu diễn biến câu chuyện và phần kết thúc là câu chuyện dừng lại (việc đã xong,
nhân vật chết …). Kết cấu khép kín trong tác phẩm này gợi ra sự hoàn chỉnh của
một sự việc, một tình huống, có khi là cả cuộc đời. Nó phản ánh tính chất truyện ký
khá hoàn chỉnh, không chỉ ghi chép đơn thuần mà còn có tính chất truyện khá rõ. Ví
dụ: Chuyện về Nghệ vương không chỉ chép lại những sự việc có liên quan tới cuộc
đời vị vua này mà còn thông qua sự kiện đó để khắc họa hoàn chỉnh tính cách nhân
vật. Với việc vua Trần Minh Tông qua đời, tác giả đã miêu tả lòng hiếu nghĩa của
vua Nghệ Tông như sau: “…trong ba năm để tang, mắt ngài không lúc nào ráo lệ.
Sau ngày mãn tang, không mặc lụa màu, không chú trọng miếng ăn ngon…”
(Truyện số 1). Thời gian trong truyện vận động một chiều từ mở đầu tới kết thúc.
Câu chuyện diễn ra theo dòng chảy thời gian. Khi sự kiện kết thúc cũng là lúc tác
phẩm kết thúc, vì mọi việc đã được giải quyết xong. Trong truyện số 16, chúng ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thấy truyện kết thúc bằng việc sau khi ni sư qua đời, chiếc xương của bà để lại dùng
104
để chữa bệnh cho mọi người. Truyện số 12 mở đầu bằng chi tiết đạo sĩ Đạo Thậm
cầu tự cho vua sinh ra Trần Nhật Duật và kết thúc bằng việc Trần Nhật Duật mất:
“Bệnh của ngài khỏi. Sau quả nhiên ngài được thọ thêm 12 năm”. Một số truyện
cũng kết thúc bằng việc nhân vật qua đời (truyện số 2, số 6, số 23…). Do quy luật
cảm thụ toàn vẹn, các nhà văn trung đại khi kể một câu chuyện, thường kể lại từ đầu
tới cuối và theo trình tự thời gian, hoặc là trình tự theo nguyên nhân - kết quả. Kiểu
kết cấu này ta cũng bắt gặp khá nhiều trong văn học dân gian. Cách kết cấu theo
kiểu khép kín này giúp cho người đọc dễ dàng nắm bắt được nội dung câu chuyện,
tạo cho câu chuyện có sức hấp dẫn.
Một số truyện trung đại thường ghi thời gian, địa điểm… xảy ra câu chuyện
lên đầu. Việt điện u linh mở đầu bao giờ cũng dẫn sách: theo Giao Châu ký, Đỗ
Thiện sử ký, Báo cực truyện…Cách mở đầu truyện trong Nam Ông mộng lục cũng
rất linh hoạt thường là những ghi chép: có thể từ một tới hai câu, giới thiệu về nhân
vật, tình huống xảy ra câu chuyện, ví dụ truyện số 3, “Khi Nhân vương thị tịch, con
trai ngài là Anh vương chưa có con đích nối ngôi, mà mới chỉ có con trai thứ. Anh
vương có ý chờ đích tử rồi sau mới định việc nối ngôi”. Người đọc hiểu được
chuyện này xảy ra sau khi vua Nhân Tông qua đời, lúc này vua Anh Tông chưa có
con đích nối ngôi mà mới có con trai thứ. Diễn biến truyện là ngày trà tỉ vua Nhân
tông, xá lị bay vào tay áo người cháu thứ, cứ lấy ra lại bay vào, khi vua Anh tông
nhận mệnh thì xá lị mới không bay vào nữa. Kết thúc truyện là người con thứ của
Anh Tông nối ngôi. Hoặc phần mở đầu tác giả ghi chép về họ tên, quê quán, hành
trạng của nhân vật: “Ngoại tổ của Trừng là Phạm công, húy là Bân, gia thế làm
nghề y, giữ chức Thái y lệnh để phụng sự Trần Anh vương…”. Câu chuyện xoay
quanh tình huống Phạm Bân chữa bệnh cho người bệnh nguy kịch trước rồi mới tới
cung vua. Kết thúc truyện là lời khen ngợi sự thẳng thắn trung thực của vua Anh
Tông dành cho Phạm Bân. (Truyện số 8). Sự kết hợp giữa những phần ghi chép với
phần truyện kể làm cho câu chuyện vừa xác thực lại vừa hấp dẫn song ở những
thiên truyện này thì tính chất truyện được khắc sâu hơn tính chất ký.
Sự dung hợp truyện ký – truyện còn được thể hiện ở chỗ một số thiên truyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong Nam Ông mộng lục có kết cấu khép kín song lại gợi ra những ý nghĩ, những
105
dư vị cho người đọc mà không cần lời đánh giá, bình luận (Giới thiệu câu chuyện,
nhân vật => Diễn biến câu chuyện => Đánh giá). Người đọc thấy tác giả chỉ trình
bày lại toàn vẹn câu chuyện một cách trung thực (truyện ký) còn suy nghĩ như thế
nào, đánh giá ra sao thì dành trọn vẹn cho người đọc (truyện). Người đọc tự mình
tìm ra những triết lí, quan niệm nhân sinh, quan niệm đạo đức, cách đối nhân xử
thế…Câu chuyện tuy kết nhưng ý chưa hết, nó gợi ra những dư vị sâu xa, đòi hỏi sự
suy ngẫm của độc giả. Ví dụ truyện “Trúc Lâm thị tịch” kể về chuyện Trần Nhân
Tông sau khi truyền ngôi cho con bèn xuất gia đi tu trên núi Yên Tử. Một lần chị
của ngài là Thiên Thụy bị ốm nặng. Ngài xuống thăm và nói với chị khi nào Minh
tào (người dưới âm phủ) hỏi thì bảo là đợi một chút em tôi sẽ đến. Sau đó Nhân
Tông viên tịch còn chị gái ngài cũng qua đời ngày hôm đó. Truyện “Áp Lãng chân
nhân” kể về vị đạo sĩ có thể đi trên sóng, giúp vua Lý qua cửa biển Thần Đầu. Kết
thúc là việc đạo sĩ đi vào núi rồi sau không biết đi đâu, tác giả kể thêm chuyện về
đạo sĩ và hậu duệ của ngài là La Tu mà tác giả quen biết…Như vậy, cách kết cấu
khép kín mà vẫn “mở” này lại tạo được ấn tượng mạnh cho người đọc. Người đọc
tưởng chừng như biết hết nhưng thực tế vẫn chưa thể hiểu hết những ý niệm sâu xa
mà câu chuyện gợi ra. Có lẽ đây là tiền đề để hình thành những câu chuyện có kết
thúc “mở” như những truyện trong Truyền kì mạn lục sau này. Liên hệ với Truyền
kì mạn lục, chúng ta thấy có những truyện kể về chuyện kì ngộ nhưng khép lại thật
bất ngờ. Ví dụ “Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên” kết thúc bằng chi tiết “Chàng bèn mặc
áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất”.
Tác giả chỉ kể đến đó, những chuyện gì xảy ra sau đó với nhân vật Từ Thức, Dương
Thiên Tích, người tiều phu núi Na…chúng ta không thể biết được. Một cái kết lửng
lơ chờ đón sự tưởng tượng suy ngẫm của người đọc.
Như vậy, kết cấu khép kín được sử dụng khá phổ biến trong các truyện ký
Nam Ông mộng lục, nó chính là “khuôn” của kết cấu truyện trung đại, cho chúng ta
thấy mối liên hệ về hình thức truyện ký – truyện trong tác phẩm này.
Kết cấu thống nhất bởi yếu tố kì và thực
Tác giả của truyện vừa phải trung thành với sự thực lịch sử vừa phải có trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
độ khái quát hóa nghệ thuật sao cho đảm bảo tính cụ thể, sinh động của nhân vật mà
106
vẫn đóng góp được ý đồ vào lịch sử. Thực tế cho thấy rằng nhiều truyện trung đại
đều có sự kết hợp của các yếu tố thực và kì ảo trong kết cấu.
Ngay từ thời xa xưa, yếu tố kì ảo đã được ra đời do trí tưởng tượng phong
phú và đời sống tâm linh của con người. Thần thoại là nơi khởi nguồn cho yếu tố kì
ảo phát triển với câu chuyện về các vị thần núi, thần sông, thần Trụ trời… Đến văn
học trung đại, các yếu tố kì ảo xuất hiện khá đậm trong văn học thế kỉ X – XIV. Việt
điện u linh ghi lại lai lịch các thần ở cõi u linh, Lĩnh Nam chích quái ghi lại nhiều
câu chuyện kì quái. Sử gia Ngô sĩ Liên đã đưa yếu tố huyền thoại vào trong phần
ngoại kỉ của Đại Việt sử ký toàn thư. Đến Truyền kì mạn lục, chất sử học đã phải lùi
bước trước chất văn học. Như thế, yếu tố kì ảo có vai trò rất lớn trong cốt truyện.
Trong Nam Ông mộng lục, yếu tố kì ảo có vai trò quan trọng và được kết hợp
nhuần nhị yếu tố “kì” với “thực”. Các yếu tố kì ảo được khoác lên câu chuyện
thường nhằm tô đậm vẻ đẹp, tài năng của con người có thực như các nhân vật tôn
giáo uy tín (thiền sư, đạo sĩ). Những câu chuyện mang màu sắc tôn giáo này thường
gắn với tâm linh con người. Ví dụ truyện “Ni sư đức hạnh” nói về quá trình tu tập
của ni sư họ Phạm, bà đã từng “đem tấm thân hư ảo này bố thí cho lũ hổ lang một
bữa”, bà đi vào rừng sâu, tuyệt thực hai mươi mốt ngày “hổ, sói hàng ngày ngồi
quanh không con nào dám đến gần” nhưng kì lạ nhất là chuyện chiếc xương của bà
dùng chữa bệnh rất linh nghiệm “…đến khi thu hài cốt của bà, mọi người bàn nhau
không nỡ, bèn đưa hết vào hộp gói lại. Qua một đêm bỗng thấy có một chiếc xương
khủy tay ở ngoài hộp, nằm trên bàn. Mọi người đều lấy làm lạ về sự linh nghiệm ấy.
Về sau, phàm nếu ai bị ốm đến cúng, đệ tử mài xương đó vào nước đem ra rửa cho
họ thì không một ai là không lập tức khỏi bệnh ngay”. Còn rất nhiều truyện chứa
đựng yếu tố hoang đường kì ảo: chuyện xá lị của người ông bay vào tay áo người
cháu để định ngôi cho cháu (Truyện số 3) chuyện nhà sư và đạo sĩ cùng trổ tài diệt
yêu quái (Truyện số 11) chuyện đạo sĩ cầu tự cho vua Thái Tông, Thượng đế sai
Chiêu Văn đồng tử xuống trần (Truyện số 12) chuyện nhà sư Minh Không chữa
bệnh cho Thái tử, bay trên không, làm phép đưa thuyền tới kinh thành, có niêu cơm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ăn mãi không hết (Truyện số 14)…
107
So với nhiều tác phẩm khác, nghệ thuật dựng truyện của Truyền kỳ mạn lục
trước hết thể hiện ở việc xây dựng một cốt truyện hoàn chỉnh, có sự tham gia tích
cực của yếu tố “kì” nhằm tạo nên tính ly kỳ, biến ảo hấp dẫn người đọc. Xin dẫn ra
một ví dụ quen thuộc: “Chuyện người con gái Nam Xương” kể về cuộc đời thực của
Vũ Thị Thiết: Nàng xinh đẹp nết na nhưng lấy Trương Sinh ít học lại có tính hay
ghen. Trương Sinh nghi kị khiến Vũ Nương tự vẫn. Sau đó, nàng được Linh Phi cứu
giúp. Hiểu ra sự thật, chàng Trương vô cùng ân hận song Vũ Nương chỉ trở về trong
chốc lát. Cái kì ảo đan xen với cái thực đã tô đậm định mệnh nghiệt ngã và hạnh
phúc mong manh của người phụ nữ…Bên cạnh đó, tác giả Truyền kì mạn lục đã tạo
ra không gian riêng (Âm tào, địa phủ, tiên cảnh, thượng giới, thủy cung..) để cho
nhân vật tự do bộc lộ tính cách. Không gian này thực chất vẫn là xã hội nơi con
người đang sống nhưng đã được gửi gắm những mơ ước về một xã hội công bằng,
cái ác bị tiêu diệt, công lí được thực thi….
Với Nam Ông mộng lục, tác giả chưa tạo ra được những không gian kì ảo
nhưng sự kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố kì và thực trong tác phẩm đã giúp đưa yếu tố
kì ảo tồn tại trên không gian hiện thực (cảnh diệt trừ yêu quái, chữa bệnh ở cung
điện, tu tập trong rừng sâu, đi bộ trên mặt biển…). Nhân vật dù có tài năng siêu
phàm (bay trên không, đi trên mặt nước…) nhưng vẫn là con người chứ không phải
là thần thánh. Trong các truyện, chúng ta thấy có bóng dáng của một số nhân vật
thần kì: ví dụ “thần” (Truyện số 13) “Thượng đế” (Truyện số 12)…nhưng rất ít.
Viết về những truyện kì ảo, song cái đích mà tác giả hướng tới là hiện thực. Hồ
Nguyên Trừng viết loại truyện này không nhằm mục đích ngợi ca những yếu tố kì
ảo mà chủ yếu để tô đậm tài năng của nhân vật, đề cao những vấn đề nhân sinh của
con người. Dù có viết về truyện hoang đường kì ảo, những truyện ký trong Nam
Ông mộng lục vẫn có sự liên hệ với hiện thực giống như con diều bay bổng mà vẫn
nối liền với mặt đất bằng sợi dây. Sự thống nhất giữa yếu tố thực và ảo trong Nam
Ông mộng lục là sự dung hợp đặc sắc của truyện ký – truyện trong văn xuôi. Trong
văn học trung đại, hiện tượng này rất phổ biến do tư duy nguyên hợp. Thậm chí,
trong văn học hiện đại, hiện tượng thâm nhập, đan xen các thể loại khác nhau (ký –
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiểu thuyết…) vẫn còn tồn tại.
108
3.3.1.2 Cốt truyện
Khái niệm cốt truyện: “hệ thống các sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu
cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng
nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và kịch” [28; 99].
Cốt truyện có thể được hiểu là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến
của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính
cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm
sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Cốt truyện có vai trò quan trọng trong tác
phẩm. Về phương diện kết cấu và quy mô nội dung, nhìn chung có thể chia cốt
truyện thành hai loại: Cốt truyện đơn tuyến và đa tuyến. Trong cốt truyện đơn
tuyến, hệ thống sự kiện được tác giả kể lại gọn gàng và thường là đơn giản về số
lượng, tập trung thể hiện quá trình phát triển tính cách của một vài nhân vật chính.
Vì vậy, cốt truyện đơn tuyến thường có dung lượng nhỏ hoặc vừa.
Nam Ông mộng lục gồm 31 thiên truyện có dung lượng rất ngắn, sử dụng cốt
truyện đơn tuyến: Truyện dài nhất là 1075 chữ (Truyện số 1) và truyện ngắn nhất
chỉ có 59 chữ không kể nhan đề (Truyện số 30). Dung lượng nhỏ như vậy đòi hỏi
người viết phải chọn lọc tình tiết, sự kiện và có khả năng “cô đặc” hiện thực. Vì
điểm này mà trong Nam Ông mộng lục chúng ta nhận thấy cốt truyện rất ngắn gọn
và giản dị. Các thiên truyện này không phản ánh những xung đột xã hội (xung đột
giai cấp, xung đột thiện –ác), cũng không phân chia tuyến nhân vật, chỉ có một loại
nhân vật duy nhất là “người tốt”, ghi lại một “mảnh đời”, “mảnh chân dung”…Cho
nên, cốt truyện không có cấu trúc phức tạp, đan cài các sự kiện. So sánh với Thiền
Uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái lục kể về cuộc đời nhân vật thì Nam Ông mộng
lục thường tập trung vào một tình huống cụ thể để nêu lên tấm gương đạo đức. Có
thể một số truyện Nam Ông mộng lục cũng nói về một khoảng thời gian khá dài của
nhân vật (Truyện số 1, số 9, ..) nhưng chủ yếu là kể về một tình huống, một sự kiện:
định ngôi cho cháu, viên tịch, làm lễ đầy tuổi tôi, chữa bệnh, làm thơ... Những
truyện này rất dễ nhớ, dễ thuộc và có khi nội dung truyện thể hiện ngay trong nhan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đề câu chuyện…Toàn bộ câu chuyện hiện ra trước mắt người đọc một cách gọn
109
gàng, xinh xắn. Như vậy, tuy là các truyện nhưng lại ảnh hưởng của ghi chép khá
rõ. Ví dụ: Truyện số 6 nói về việc công chúa Thiều Dương đang ở cữ thì lúc này
vua Thái Tông ốm hơn mười tháng rồi, mỗi lần sai người tới hỏi thăm thì lại nói dối
là vua đã bình phục. Đến hôm vua mất, công chúa khóc thương đến đứt hơi mà chết.
Truyện số 4 kể về việc Minh Vương đã nối ngôi, mẹ đích mới sinh con trai, ngài
quyết định làm lễ đầy tuổi tôi theo lệ Thái tử dù có thể nảy sinh những nguy biến.
Trong số 31 thiên truyện, chỉ có truyện “Y thiện dụng tâm” là xây dựng được tình
huống truyện cụ thể và rõ nét nhất. Câu chuyện chủ yếu bằng đối thoại mà vẫn
không kém phần gay gắt: Nhân vật Phạm Bân bắt buộc phải lựa chọn và đấu tranh
để bảo vệ chính kiến của mình, bảo vệ lẽ phải. Vì tính chất cấp bách của việc người
bệnh đang nguy kịch, câu chuyện diễn ra khá nhanh do sự quyết định dứt khoát,
khẳng khái, không do dự của Phạm Bân. Nam Ông mộng lục gồm những truyện ngắn
gọn, theo hướng ghi chép. Truyện có dung lượng lớn như “Nghệ vương thủy mạt”
cũng có cốt truyện đơn giản, ghi chép nhiều sự kiện liên quan đến nhân vật. Truyện
có dung lượng nhỏ thì cốt truyện còn đơn giản hơn với cách ghi chép trung thực,
nguyên vẹn một sự việc trong đời sống…Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy trong
những thiên mang đậm tính chất truyện thì vẫn có sự đan xen tính chất ghi chép.
Trong Nam Ông mộng lục, còn thấy xuất hiện những mô típ tôn giáo khá
quen thuộc trong văn xuôi trung đại. Ví dụ mô típ “Tướng mạo dị thường” (Truyện
số 9), mô típ “Tế thế hàng yêu” (Truyện số 11) mô típ “Chữa bệnh lạ” (Truyện số
14, 15), mô típ “Thiền sư hàng long phục hổ” (Truyện số 16), mô típ “Điềm báo”
(Truyện số 1, số 24…)… Những mô típ này do sự ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo
giáo, Nho giáo… Hồ Nguyên Trừng mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, Nho…để lý
giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm
nhân quả, báo ứng, sinh tử, xuất xử… Điều này cho ta thấy vai trò của tam giáo góp
phần tạo dựng “một đời sống tinh thần phong phú, nhiều vẻ, một sức mạnh dân tộc
đa dạng và thống nhất” [34; 30]; nó tạo nên sự hòa hợp dân tộc và sự “chung sống
hòa bình” của tư tưởng nghệ thuật và hình thức nghệ thuật khác nhau: kiểu truyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thiền sư, thơ thiền, truyện tấm gương đạo đức, “thi dĩ ngôn chí” của Nho giáo,
110
truyện Đạo giáo…Như vậy, Nam Ông mộng lục là một truyện ký nhưng bản thân nó
lại dung hợp những thể loại khác nhau.
3.3.2 Nhân vật
Được viết ra với mục đích “dương tiền nhân chi phiến thiện”, các nhân vật
mà nhà văn Hồ Nguyên Trừng xây dựng đều là người thiện, tấm gương tiêu biểu
cho truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. Những nhân vật chính sử, nhân vật
dã sử, nhân vật tôn giáo trong các thiên truyện mang tính chất truyện đều là nhân
vật có thật, là người tốt: Truyện số 8, truyện số 28 nói về người cùng dòng tộc với
Hồ Nguyên Trừng… “Ngoại tổ của Trừng là Phạm công, húy là Bân, giữ chức Thái
y lệnh để phụng sự Trần Anh vương…”(Truyện số 8) hoặc có những chuyện tác giả
được nghe người quen kể lại: “Chân nhân họ La, không rõ tên, người ta đều gọi
ngài là Áp Lãng. Từ khi còn trẻ, ngài đã từ bỏ vợ con theo học Đạo. Hậu duệ của
ngài có La Tu, đỗ Tiến sĩ, làm quan dưới thời Trần Nghệ vương, tới chức Thẩm
hình viện ty rồi mất. Chính tôi biết người này” (Truyện số 13); hoặc có nguồn gốc
lai lịch rõ ràng (Truyện số 14, 15..). Trong các truyện ký mang tính chất truyện,
chúng ta thường gặp hai loại nhân vật: Nhân vật là “người thực” (trong các truyện
không có yếu tố kì ảo) và nhân vật tôn giáo (trong các truyện có yếu tố kì ảo). Loại
nhân vật “người thực” được xây dựng với bút pháp tương tự như các truyện mang
đậm tính chất ký. Ở đây chúng tôi muốn nói rõ hơn về những nhân vật tôn giáo bởi
vì loại nhân vật này được xây dựng bằng ngòi bút hư cấu tưởng tượng nhưng vẫn
mang những nét của nhân vật truyện ký.
Nhiều truyện ký mang tính chất truyện là những truyện có yếu tố kì ảo nên
nhân vật thường là nhân vật tôn giáo uy tín và tài năng (truyện số 3, số 11, số 12, số
13, số 14, 15, 16). Trước hết, phải khẳng định nhân vật tôn giáo cũng là những nhân
vật có thật trong đời sống chứ không phải là những nhân vật siêu nhiên được tạo ra
bằng trí tưởng tượng của con người (thần thánh, ma quỷ..). Trong số các nhân vật
tôn giáo, Trần Nhân Tông được nói tới trong nhiều truyện nhất: Khi tu hành, làm
thơ; khi viên tịch và cả sau khi chết (các truyện số 2, số 3, số 19). Đây cũng là vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vua tài năng đức độ và một nhà văn hóa của triều Trần. Về vị vua này, tác giả không
111
miêu tả thời gian vua trị vì, không kể chiến công đánh giặc ngoại xâm rực rỡ thời
Trùng Hưng mà lại viết về quãng thời gian vua tu hành cho tới khi mất và sau khi
mất. Nhân vật được miêu tả trong vai trò một thi nhân, một Đại sĩ của thiền phái
Trúc Lâm. Những truyện này tập trung khắc họa khía cạnh con người đời thường
(không ở tài năng chính trị ) mà ở khía cạnh đạo đức, tài năng thơ văn, cách đối
nhân xử thế…Ví dụ chuyện vua thăm chị gái sau đó mất cùng chị gái trong một
ngày, chuyện vua cùng Trần Đạo Tái ăn hải vị, ứng khẩu thành thơ thật tương đắc,
chuyện làm thơ khi tu hành, chuyện sau khi mất linh hồn còn định ngôi cho
cháu…Tất cả cho thấy tầm ảnh hưởng to lớn của vị vua này trong hoàng tộc, trong
Phật giáo và đời sống. Bên cạnh đó, tác giả cũng khắc họa được chân dung của
nhiều thiền sư, đạo sĩ khác. Vị ni sư họ Phạm được người trần thuật ngợi ca và trân trọng là
bởi vì bà đã tu giới theo đúng yêu cầu đạo Phật: “tu hành khổ hạnh, giới luật tinh thần, tuệ giải
thông suốt, thường xuyên thiền định, diện mạo cực giống La Hán” và dám tự nguyện “đem
tấm thân hư ảo này bố thí cho lũ hổ lang một bữa ”. Hơn nữa, bà lại có tấm lòng bồ tát: “Sau
khi ta qua đời phải lấy một phần xương cốt của ta lưu lại nơi đây để tẩy rửa bệnh tật cho mọi
người” và quả nhiên nếu ai bị ốm đến cúng, đệ tử mài xương vào nước đem ra rửa cho họ thì
lập tức khỏi bệnh ngay (Truyện số 16). Trong truyện số 11, tác giả miêu tả nhà sư và
đạo sĩ đều có tài năng phi thường và họ cùng nhau trừ yêu diệt quái. Ghi chép bằng
lối viết chân thực, tỉ mỉ về tên tuổi hành trạng, công đức kết hợp với việc sử dụng
yếu tố kì ảo để khắc họa tài năng, nhà văn đã tạo nên bức chân dung khá hoàn chỉnh
về những nhân vật tôn giáo này.
Trong các truyện ký, nhà văn thường xây dựng nhân vật thông qua lời nói,
hành động, việc làm mà ít chú trọng tả ngoại hình nhân vật. Tác giả không miêu tả
thiền sư Minh Không hình dáng ra sao, mặt mũi như thế nào mà ông chỉ tập trung
khắc họa tài năng phi thường của nhân vật này qua hành động: “ Sứ giả bèn cầu xin
đi ngay nhưng không được. Mọi người đều nằm ngửa ra, vờ ngủ, chỉ cảm thấy bên
dưới thuyền có tiếng gió thổi mà thôi. Một lát trăng lên, Minh Không gọi dậy thì
thấy thuyền đang đỗ trong vịnh dưới kinh thành và đã đi được ba trăm dặm rồi.
Minh Không bèn vọt lên không, đi vào cung, đun nước tắm cho Thế tử. Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Không chạm tay tới đâu. Lông trên người Thế tử mất đi đến đấy. Thế tử bèn trở lại
112
bình thường”. (Truyện số 14). Để khắc họa rõ nét tính cách nhân vật, trong các
truyện kể về “người thật, việc thật”, tác giả thường chọn những thời điểm mà vào
khoảnh khắc đó, hoàn cảnh xã hội, mối quan hệ đa phương phức tạp buộc nhân vật
phải bộc lộ tính cách (Truyện số 1, số 8); còn để tô đậm tài năng phi thường của
nhân vật, trong các truyện mang màu sắc tôn giáo, tác giả sử dụng yếu tố kì ảo
(Truyện số 12, 13, 14…). Trong các thiên truyện, nhân vật trung tâm là thiền sư,
đạo sĩ…đã được lí tưởng hóa để minh họa cho quan điểm tôn giáo nên hệ quả là
trong tác phẩm, nhà văn xây dựng những nhân vật phi ngã, thiếu cá tính. Tuy nhiên,
các nhân vật tôn giáo - tấm gương “người thật” trong đời sống, được tác giả ghi
chép lại một cách cụ thể, tỉ mỉ và bằng hư cấu tưởng tượng- đã là một yếu tố quan
trọng góp phần tạo nên tính chất truyện – truyện ký.
3.3.3 Ngôn ngữ
Nhận xét về văn học thời Lý Trần, Lê Quý Đôn viết: “Nước Nam ta, hai nhà
Lý nhà Trần ngang vào khoảng triều nhà Tống, nhà Nguyên. Lúc ấy tinh hoa nhân
tài, không khác gì Trung Hoa; nhưng sách vở ghi chép sơ lược, thiếu sót, không
tường tận. Tôi thu nhặt những bài văn còn giữ được ở đồ đồng và bia đá, được mấy
chục bài. Thấy văn đời Lý lối biền ngẫu bóng bẩy, đẹp đẽ giống thể văn đời Đường;
văn thời Trần lưu loát giống kiểu văn đời Tống” [72; 34]. Điều đó chứng tỏ ở thời
Trần, ngôn ngữ văn chương đã phát triển tới mức độ cao. Có lẽ Nam Ông mộng lục
cũng nằm trong xu thế đó chăng?
Trong ngôn ngữ văn học giai đoạn này, các nghi thức văn học đã tạo thành
công thức khuôn sáo trong diễn đạt. Mỗi khi nói đến một đối tượng nào, người ta sử
dụng những câu mẫu sẵn về đối tượng nào đó. Ví dụ: Khi kể lại hành trạng của các
thiền sư, thường có công thức “khắc khổ tinh tiến”, “tuệ giải thông suốt”..; nói về
vua thì “trừ bỏ chính sự rối loạn, dùng điển chương xưa, thưởng phạt rõ ràng, dùng
người hiền lương…”; nói về quan lại thì “nổi tiếng có tài” “đỗ cao”, “làm quan to”;
nói về tao nhân mặc khách thì “ham đọc sách, thích làm thơ”…Văn học trung đại có
tính chất “sùng cổ” “phi ngã” nên thường sử dụng nhiều điển cố, điển tích. Trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
truyện có sử dụng một số điển cố, tuy nhiên vì coi trọng tính chân thực của sự việc
113
nên số lượng điển cố không nhiều: Ví dụ truyện số 4, dẫn sách Kinh thi và Tả
truyện như sau: “Người quân tử nói: “Minh vương thành tâm, không kể đến sự an
nguy, nhường ngôi cho người có đức. Gương ấy sáng soi kim cổ”. Truyện có câu:
Người có đức, ắt có địa vị”. Lời ấy nói về việc Minh Vương chăng?”. Nhà văn lấy
những kinh điển luân lí của Nho gia nhằm làm sáng tỏ nhân cách của vua Minh
Tông. Trong bài thơ ở các truyện, tác giả thường sử dụng điển cố như “cầm bách
thiệt”, “quất thiên đầu”, “cam lộ ca”, “nước mùa thu”, “hoa mai”, “Ô Đài”, “lầu
Bạch Ngọc”… Trong bài thơ của Phạm Ngũ Lão, điển cố “tam quân”, “khí thôn
ngưu”, “Vũ hầu” không chỉ khắc họa vẻ đẹp hùng dũng với khí thế chiến đấu của
quân đội thời Trần mà còn làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách của một vị tướng “trung
quân ái quốc”, hết lòng phụng sự vì đất nước:
Hoành sóc giang san cáp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Dịch thơ:
Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí nuốt sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)
Ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng cũng được sử dụng trong các truyện của Nam
Ông mộng lục. Chúng ta có thể bắt gặp lối nói ước lệ hoa mĩ, bóng bẩy trong truyện
số 28: “Đến ngay cả cháu ngoại bốn đời của cụ như Trừng tôi hiện nay xuất thân từ
nơi hang tối, chuyển tới cây cao, một đoạn ngòi thừa lạm ngang với vật quý. Nếu
không phải là phúc trạch của tổ tiên chưa hết thì cũng là bởi sinh ra gặp thời thánh
chúa, gội nhuần đức nhân của vua Nghiêu mà có sự đãi ngộ lạ lùng như vậy
chăng?”. Lời văn nhịp nhàng, cân xứng, ảnh hưởng của lối văn biền ngẫu trong thời
trung đại. Trong một thiên truyện khác, chúng ta thấy có những câu văn mang tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chất đăng đối: “…tính thuần hậu hiếu hữu, cung kiệm minh đoán, bác học kinh sử,
114
bất hỉ phù hoa” (Tính ngài thuần hậu, hiếu thảo với mẹ cha, hòa hữu với bè bạn;
cung kính, cần kiệm, quyết đoán sáng suốt, học rông kinh sử, không thích phù hoa).
“…Cung Định trung tín thành xác, sự quân dữ thân, cẩn thận hào phát, nhân vô gián
ngôn. Tiếp vật bất thân bất sơ, lâm chính vô cữu vô dự” (Cung Định là người trung
tín thành thực. Thờ vua phụng sự cha mẹ, cẩn thận từng chân tơ kẽ tóc, không ai
chê trách. Giao thiệp với mọi người thì ngài không thân mà cũng không sơ; giải
quyết chính sự không có gì đáng khen mà cũng không có gì đáng chê) (Truyện số
1). Việc sử dụng điển cố, ngôn ngữ ước lệ tượng trưng là phổ biến trong văn học
trung đại nhưng không phải là ngôn ngữ mà Hồ Nguyên Trừng thường sử dụng.
Trong ngôn ngữ, người ta thường chia lời văn làm hai loại là lời trực tiếp và
lời gián tiếp. Lời trực tiếp là lời của nhân vật. Lời gián tiếp là lời trần thuật của tác
giả. Tác phẩm Nam Ông mộng lục được coi là một “hồi ký” viết về một thời đã qua
trong lịch sử dân tộc nên người ta thường quan tâm tới lời trần thuật của tác giả.
Tác phẩm Nam Ông mộng lục không ghi lại tiến trình của một triều đại, một
cuộc đời mà chỉ ghi lại những tình huống, những khoảnh khắc mà nhân vật đáng
biểu dương nên lời kể của tác giả rất giản dị, không lắt léo đan cài những tình tiết
phức tạp. Trong truyện số 3, chúng ta thấy tác giả mở đầu bằng cách giới thiệu luôn
hoàn cảnh xảy ra câu chuyện, cách mở đầu trực tiếp, ngắn gọn: “Khi Nhân vương
thị tịch, con trai ngài là Anh vương chưa có con đích nối ngôi, mà mới chỉ có con
trai thứ. Anh vương có ý chờ đích tử rồi sau mới định việc nối ngôi”. Nhận xét về
văn của Hồ Nguyên Trừng, Hồ Huỳnh viết trong bài tựa: “Văn của ông giản dị,
kiệm lời mà cẩn thận khắt khe, phong phú nội dung mà bao la trí tuệ, theo tình
người để kể chuyện, dựa vào nghĩa để đặt lời, rất thú vị và thiết thực…” [15 ; 203].
Lời khen của Hồ Huỳnh dành cho Hồ Nguyên Trừng quả thật là chính xác. Đặc biệt
với những truyện ký có dung lượng nhỏ như truyện số 2, truyện số 3, truyện số
6…thì nhà văn sử dụng ngôn ngữ giản dị mà có độ chọn lọc cao, đó là ngôn ngữ
được kết tinh từ đời sống chứ không phải điển cố điển tích của tiền nhân.
Hướng tới ngôn ngữ sinh hoạt, nhà văn kể lại những chuyện bằng lời văn gần
gũi với lời ăn tiếng nói của con người đời thường. Vì viết về một tình huống, một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoàn cảnh cụ thể xảy ra trong đời sống của một “người thật” nên tác giả sử dụng
115
nhiều từ ngữ mang màu sắc sinh hoạt. Ví dụ nhà văn kể lại chuyện vua Nhân Tông
với Trần Đạo Tái cùng ăn, cùng làm thơ mà không cần dùng thủ pháp ước lệ:
“Mệnh quan trù dĩ hải vị tự chi, tiếu ngữ tận hoan. Vương chiếm khẩu viết:
Hồng nhuận bác quy cước,
Hoàng hương chá mã an.
Sơn tăng trì tịnh giới,
Đồng tọa bất đồng xan.
(Vua sai nhà bếp làm món hải vị đem mời, nói cười cực vui. Vua ứng khẩu
đọc bài thơ:
Quy cước bóc đỏ thắm,
Mã an nước vàng thơm.
Sơn tăng gìn trai giới,
Cùng ngồi, chẳng cùng ăn.)
Trong nhiều thiên truyện, chuyện ăn cơm, uống trà, uống rượu, làm thơ…
hiện lên thật cụ thể, rõ ràng đã phản ánh được cuộc sống, con người, phong tục tập
quán Việt Nam.
Tuy nhiên, tác giả rất có ý thức sáng tạo khi sử dụng những thi liệu Việt Nam
(tập cú thơ Sầm Lâu), viết về cuộc sống con người, ca ngợi thiên nhiên đất nước
bằng những hình ảnh mang phong vị Việt Nam:
Viên Tản sơn cao, Lô thủy biếc,
Dao chiêm ngọc tiết ngũ vân phi.
Dịch thơ:
Núi Tản Viên cao, Lô nước biếc,
Vời trông cờ tiết dẫn mây về. (Truyện số 29)
Vì vậy, ngôn ngữ của Nam Ông mộng lục tuy ảnh hưởng của ngôn ngữ trung
đại nói chung mà đã có ngôn ngữ đời thường mang nét riêng của thể loại truyện ký,
không còn quá phụ thuộc vào ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng như các truyện trung
đại khác. Có thể truyện ký Nam Ông mộng lục ghi chép “người thật, việc thật” nên
ít sử dụng ngôn ngữ ước lệ tượng trưng mà tìm tới với thứ ngôn ngữ được chắt lọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
từ hiện thực đời sống.
116
TIỂU KẾT
Tuy tách ra để nghiên cứu từng thể loại của từng thiên truyện trong Nam Ông
mộng lục nhưng chúng tôi nhận thấy ở hai cấp độ: tác phẩm và dưới tác phẩm (thiên
truyện) đều có sự dung hợp thể loại.
Trước hết, Nam Ông mộng lục đã dung chứa những thể loại: Truyện, ký, thi
thoại. Nhiều thiên truyện trong tác phẩm là những ghi chép về một “mảnh chân dung”
“người thật việc thật” – đó là những tấm gương sáng trong lịch sử, được lịch sử thừa
nhận và hậu thế vẫn khắc ghi công danh tên tuổi. Ở nhiều thiên, tính chất ký được thể
hiện rất rõ qua sự chứng kiến, sự hồi tưởng của nhà văn cùng với bút pháp ghi chép
trung thực, chính xác tỉ mỉ đã tạo nên những trang ký có giá trị thẩm mĩ cao.
Chỉ có 6 thiên truyện viết về những truyện dị văn, còn lại tác giả hướng ngòi
bút về những câu chuyện có thật. Song dù có yếu tố kì ảo hay không thì những thiên
có tính chất truyện trong Nam Ông mộng lục đều rất đặc sắc với dung lượng ngắn;
cốt truyện đơn giản thường xoay quanh một tình huống; nhân vật phong phú gồm
“minh quân”, “trung thần”, “liệt nữ”, “thiền sư anh tú”…và ngôn ngữ chọn lọc tinh
tế. Tuy còn ảnh hưởng của thi pháp trung đại, những truyện này đã có dáng dấp của
những “truyện ngắn” mang giá trị nhân sinh sâu sắc.
Một trong những đặc sắc về thể loại là những thi thoại. Tác giả Hồ Nguyên
Trừng sưu tầm được một kho tư liệu quý gồm những bài thơ, tác giả, hoàn cảnh ra
đời, xuất xứ của chúng…Đáng quý hơn, tác giả đã có những lời bình sắc sảo về giá
trị nội dung nghệ thuật của những bài thơ này. Những thi thoại đó đã góp phần làm
cho thơ văn thời Lý Trần thêm phong phú và giàu đẹp.
Bên cạnh đó, có sự đan xen thơ ca – văn xuôi trong một số thiên truyện,
phản ánh tính chất dung hợp đã ăn sâu bám rễ vào trong tư duy của con người thời
trung đại: Viết văn làm thơ là để “tải đạo”, “ngôn chí” nên có thể vận dụng rất nhiều
các thể loại mà chưa chú ý đến việc phân định các thể loại. Vì thế, một tác phẩm lớn
hay một thiên truyện nhỏ, các nhà văn nhà thơ đều có thể thỏa sức vận dụng sự sáng
tạo của mình bằng cách kết hợp những thể loại khác nhau để thể hiện nội dung.
Nam Ông mộng lục là một tác phẩm văn học đặc sắc cho thấy tính chất hỗn dung
thể loại và nó đánh dấu bước chuyển biến từ kiểu nhân vật thiền sư, thần thánh sang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhân vật đời thường; từ văn học chức năng tới văn chương nghệ thuật.
117
PHẦN KẾT LUẬN
1. Nam Ông mộng lục là tác phẩm có vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học
Việt Nam. Từ lí thuyết về thể loại, luận văn vận dụng vào tìm hiểu, phân tích, lí
giải tác phẩm Nam Ông mộng lục trên phương diện mối quan hệ văn sử và đặc
điểm dung hợp thể loại. Tuy nhiên, có thể thấy đây là một tác phẩm đặc biệt: một
cuốn “hồi ký” có độ chân xác lịch sử cao, một áng văn chương xúc động được hun
đúc từ tấm lòng canh cánh với quê hương đất nước dù trong hoàn cảnh xa xứ ngặt
nghèo. Chắc chắn phải có một tâm hồn tinh tế, tấm lòng trung hậu và lòng yêu
nước tha thiết thì Hồ Nguyên Trừng mới có thể viết được những trang văn đẹp về
quê hương đất nước con người Việt Nam. Đằng sau những trang văn của ông, hiện
lên một đất nước Việt Nam xinh đẹp yên bình với truyền thống văn hóa, thuần
phong mĩ tục, con người lương thiện, tài năng.
2. Về mối quan hệ văn sử trong Nam Ông mộng lục, chúng tôi đi sâu phân
tích mối quan hệ giữa Nam Ông mộng lục với Đại Việt sử kí toàn thư và một số tác
phẩm khác dưới góc độ thể loại, phần lớn các tác phẩm đều thuộc thể loại truyện ký
với quy tắc “văn sử bất phân” là hiện tượng phổ biến của nhiều tác phẩm văn học
thời trung đại.
Thông qua việc so sánh tìm hiểu mối quan hệ về các mặt sự kiện, nhân vật và
thời gian lịch sử trong Đại Việt sử kí toàn thư và Nam Ông mộng lục, ta thấy mối quan
hệ chặt chẽ và chưa phân định rạch ròi giữa sử - truyện ký. Điều đó thể hiện ở việc có
tới 2/3 các truyện có mối liên hệ với Đại Việt sử kí toàn thư, thậm chí có truyện tương
đồng và được chép nguyên dạng trong tài liệu này. Ngược lại, các ghi chép trong Đại
Việt sử kí toàn thư lại có tính chất truyện. Như vậy có thể các tác phẩm này ảnh hưởng
lẫn nhau hoặc cùng ảnh hưởng một nguồn tư liệu nào đó.
Từ mối liên hệ giữa Nam Ông mộng lục với các tác phẩm văn học khác,
chúng ta còn thấy có sự giao thoa, chuyển hóa giữa các văn bản lịch sử - văn học,
văn học – văn học, phản ánh thực trạng phức tạp bề bộn của các thể loại văn học
khi tư duy “nguyên hợp” còn phổ biến.
Văn học hiện đại coi trọng cá nhân cá thể còn văn trung đại tuân thủ quy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phạm, tính chất “sùng cổ phi ngã” nên Hồ Nguyên Trừng ghi chép lại những
118
chuyện kể về các bậc tiền nhân như những tấm gương sáng. Học hỏi những cái hay
cái đẹp của người đi trước là nét độc đáo của văn học trung đại nói chung và Nam
Ông mộng lục nói riêng.
3. Hỗn dung thể loại (dung chứa cả thơ, văn xuôi tự sự: truyện, kí…) là đặc
điểm nghệ thuật tiêu biểu của Nam Ông mộng lục và đó là đặc điểm chung của nhiều
tác phẩm văn xuôi tự sự trung đại. Tác phẩm truyện ký dung chứa thể loại truyện, thi
thoại làm cho những thiên truyện này vừa có giá trị tự thân lại vừa tồn tại gắn kết tạo
ra một chỉnh thể hoàn chỉnh cho tác phẩm tự sự nhiều thiên. Ngay trong bản thân mỗi
thiên cũng có sự đan xen thơ ca và văn xuôi, đan xen truyện - ký… Vì thế, tính chất
thể loại nhiều khi nhòe mờ, khó xác định. Trong nghiên cứu văn học trung đại, cần
phải đánh giá giá trị của phần văn xuôi, phần thơ ca để từ đó đánh giá tổng thể tác
phẩm. Do đó, việc xác định thể loại và nêu đặc điểm thể loại luôn là vấn đề cần quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà giáo dục và độc giả.
4. Bên cạnh đó, chúng ta cũng nhận thấy đây là tác phẩm có tính chất bản lề:
“cánh bên này khép lại khuynh hướng nghệ thuật viết về truyện kì, dị, quái của giai
đoạn X-XIV” còn cánh bên kia viết về “người thật việc thật” với mục đích biểu
dương những việc thiện của tiền nhân. Đây là một tác phẩm có ý nghĩa lớn đánh
dấu sự chuyển mình từ văn học chức năng sang văn học nghệ thuật.
Hiện nay, chúng ta không lưu giữ lại được nhiều tác phẩm thời Lý – Trần.
Những tác phẩm còn lại ở giai đoạn này là nguồn tư liệu hết sức quý báu, giúp ta
hiểu được về một thời đại mà dân tộc ta đã trải qua. Nhiều tác phẩm đã được đưa
vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Với ý nghĩa về khoa học và thực tiễn
như trên, chúng tôi mong muốn thực hiện luận văn “Khảo sát đặc điểm thể loại
Nam Ông mộng lục” nhằm có cái nhìn cụ thể và toàn diện hơn về thể loại của một
tác phẩm văn học trung đại, về vấn đề thể loại trong văn học giai đoạn này. Qua đó,
chúng tôi khẳng định những đóng góp có ý nghĩa của nhà văn Hồ Nguyên Trừng
trong nền văn học viết Việt Nam thời kỳ trung đại, thêm một lần bộc lộ lòng trân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trọng, tôn vinh những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Dư Quan Anh (1998), Phạm Ninh, Tiền Chung Thư, Lịch sử văn học Trung
Quốc, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1996), Từ điển văn học Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
5. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiépxki, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Anh Chi (2007), “Nhà kỹ nghệ, nhà văn Hồ Nguyên Trừng”, Nguồn Báo điện tử
Người đại biểu nhân dân http:// www.daibieunhandan.vn ngày 15/07/2007
7. Nguyễn Đình Chú (2002), “Hiện tượng văn sử triết bất phân trong văn học Việt
Nam thời trung đại”, Khoa Văn học và Ngôn ngữ - Trường Khoa học xã hội và
nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ chí Minh, Nguồn
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index
8. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, Hà Nội.
9. Nguyễn Viết Chữ (2006), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại
thể), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
10. Ralph Cohen (2007), “Hướng mở cho việc nghiên cứu thể loại”, Tạp chí Nghiên
cứu văn học, (8), tr 73-100.
11. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
12. Trương Thái Du (2010), “Lưu vong, nỗi niềm từ quá khứ tới tương lai”, Nguồn
http://www.vanchuongviet.org ngày 15/11/2010.
13. Đại Việt sử ký toàn thư (2004), Cao Huy Giu, Đào Duy Anh dịch, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
14. Hàm Đan (2010), “Nghệ thuật trong Nam Ông mộng lục”, Báo Quân đội nhân
dân điện tử, Nguồn http://www.quandoinhandan.org.vn ngày 10/12/2010.
15. Ưu Đàm – La Sơn dịch, Nguyễn Đăng Na giới thiệu (1999), Nam Ông mộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lục, Nxb Văn học, Hà Nội.
16. Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý (1970), Vấn đề giảng dạy văn
học theo loại thể, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (2010) tuyển chọn và biên soạn, Thi
pháp học ở Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
18. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Hà Đông (2008), “Nam Ông mộng lục - Văn chương trong trí nhớ”, Báo điện tử
Quân đội nhân dân, Nguồn http://www.quandoinhandan.org.vn ngày 10/1/2008.
20. Hà Minh Đức (2007), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Hà Minh Đức (2007), Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể loại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
22. Trần Văn Giáp (1962) Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Trần Văn Giáp (2003) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, tập 2 (Tác phẩm
được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Cao Huy Giu, Đào Duy Anh (2004) dịch và chú giải, Đại Việt sử kí toàn thư,
tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
25. Gulaiep (1982), Lí luận văn học, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
26. Gurevich (1998), Hoàng Ngọc Hiến dịch, Những phạm trù văn hóa trung cổ,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Vũ Thanh Hà (2010), “Tính nguyên hợp của thể loại tiểu thuyết chương hồi chữ
Hán Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, 462 (8)
28. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Phạm Thị Hiền (2010), Nghệ thuật tự sự trong Nam Ông mộng lục, Luận văn
Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Quy Nhơn.
30. Phạm Ngọc Hiển (2009), “Mấy vấn đề dạy học văn theo hướng thi pháp học”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học (4), Hà Nội.
31. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004) chủ biên,
Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
32. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý - Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
35. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XX, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
36. Nguyễn Phạm Hùng (2009), “Vấn đề văn học hải ngoại và xác định vị trí trong
lịch sử văn học Việt Nam của Nam Ông mộng lục”, Kỉ yếu hội thảo khoa học
Quốc tế “Việt Nam học” lần thứ ba do Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Khoa
học xã hội tổ chức ngày 5, 6, 7/12/2009, Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Dư Khánh (2009), Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong
nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân (1964), Văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Đinh Gia Khánh (2002), Văn học Việt Nam thế kỉ X- nửa đầu thế kỉ XVIII, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
40. Trần Trọng Kim (2003) Nho giáo, Nxb Văn học, Hà Nội.
41. Tạ Ngọc Liễn (1998), “Hồ Nguyên Trừng – Nhà văn hải ngoại đầu thế kỉ XV”,
Nhũng gương mặt trí thức, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, Tr 66-69.
42. Tạ Ngọc Liễn (1999), “So sánh giữa thể tài trong chính sử Việt Nam với chính
sử Trung Quốc”, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (40), Tr 46-49.
43. Lĩnh Nam chích quái lục, Diễn đàn lịch sử Việt Nam,
Nguồn http://lichsuvietnam.info/index. ngày 15/4/2011
44. Nguyễn Công Lý (2001), “Mấy đặc điểm văn học Lí Trần”, Tạp chí Hán Nôm,
số 2 (47), Tr 8-15.
45. Nguyễn Công Lý (2002), “Tinh thần dung hợp tư tưởng Phật Lão Nho trong
văn học Phật giáo thời Lí- Trần”, Tạp chí Hán Nôm, số 2 (51), Tr 3-11.
46. Nguyễn Lộc (2002), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Phan Trọng Luận (2006) chủ biên, Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập 2, Nxb
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Giáo dục, Hà Nội.
48. Phương Lựu (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn
đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Na (1999), Văn xuôi tự sự văn học Việt Nam thời trung đại, tập
1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Nguyễn Đăng Na (2010) chủ biên, Văn học trung đại, tập 2 (Dự án đào tạo giáo
viên Trung học cơ sở), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
52. Trần Nghĩa (1997), “Hồ Nguyên Trừng mà cũng “quyến luyến quê hương”,
“không quên tổ quốc ư?”, Tạp chí Văn học, (4), Tr 21-31.
53. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam - Danh mục và phân loại”,
Tạp chí Hán Nôm, số 3 (32), Tr 3-16.
54. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ thuật”,
Tạp chí Hán Nôm, số 4 (33), Tr 3-21.
55. Trần Nghĩa (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
56. Bùi Văn Nguyên (1978), Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam (Từ thế kỉ XI đến
giữ thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Hoàng Phê (1998) chủ biên, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
58. Nguyễn Khắc Phi (2007) chủ biên, Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6, tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
59. Nguyễn Khắc Phi (2007) chủ biên, Sách giáo viên Ngữ Văn lớp 6, tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
60. Nguyễn Khắc Phi (2007) chủ biên, Sách giáo viên Ngữ Văn lớp 9, tập 2, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
61. Ngô Văn Phú (2008), Tinh hoa và nhân tài đất Việt, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
62. B.L.Riftin (2007), “Thể loại trong văn học Trung Quốc thời trung đại”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học (11), Hà Nội, Tr 24-54.
63. Trần Lê Sáng (1994), Trần Nghĩa, Đào Thái Tôn, Phạm Đức Duật, Tổng tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn học Việt Nam, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Loại hình Thiền uyển tập anh, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
65. Nguyễn Hữu Sơn (2009), “Mối quan hệ văn sử trong tác phẩm Nam Ông mộng
lục”, Tạp chí Hán Nôm, (6), Tr 3- 10.
66. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Nam Ông mộng lục”, Truyện ngắn Việt Nam (Lịch
sử - thi pháp – chân dung), Nxb Giáo dục, Hà Nội, Tr 159 -171.
67. Trần Đình Sử (2008), La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam,
Giáo trình Lí luận văn học, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
68. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69. Trần Đình Sử (2006) chủ biên, Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 nâng cao, tập 2,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
71. Bùi Duy Tân (2006), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X - XIX),
tập 1, Nxb Đại học Giáo dục, Hà Nội.
72. Nguyễn Minh Tấn (1981), Từ trong di sản: Những ý kiến về văn học từ thế kỉ X
đến đầu thế kỉ XX ở nước ta, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
73. Đỗ Ngọc Thạch (2009), “Truyện ngắn – Đặc trưng thể loại”, Nguồn
http://www.hoinhavan.vn ngày 03/04/2009.
74. Hồ Bạch Thảo (2006), “Tìm hiểu thêm một vài chi tiết về tiểu sử Hồ Nguyên
Trừng, tác giả Nam Ông mộng lục”, Diễn đàn nghiên cứu – Viện nghiên cứu
kinh tế phát triển- Trường ĐH kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Nguồn
http://www.idr.edu.vn/diendannghiencuu. ngày 29/03/2011.
75. Thiền uyển tập anh ngữ lục, Nguồn Tu viện Phật giáo Việt Nam
http://tuvien.com/lich_su/show.php?get=1&id=79thienuyentapanh ngày 10/4/
2011.
76. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
77. Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Khanh (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
78. Truyền kì mạn lục (1971), Bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Bùi Kỷ giới
thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.
79. Chu Quang Trứ (1993), “Hồ Nguyên Trừng (thế kỉ XV)”, Từ điển văn hóa Việt
Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
80. Nguyễn Thanh Tùng (2010), “Lược khảo về thi thoại Việt Nam”, Hội thảo khoa
học trẻ I- Khoa Ngữ Văn- Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguồn
http://nguvan@hnue.edu.vn Ngày 25/9/2010.
81. Việt điện u linh, Diễn đàn lịch sử Việt Nam, Nguồn
http://lichsuvietnam.info/index. ngày 15/4/2011
82. Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Mạnh Hùng (1980), Văn tuyển văn học Việt Nam thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kỉ X-XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
NHỮNG TRUYỆN KÍ CÓ MỐI LIÊN HỆ VỚI ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ
Số trang So sánh Số thứ tự trong trong Nam Tƣơng Gia Đại Việt Tên truyện Tƣơng Ông mộng đồng thêm giảm, sử kí đồng lục lời bình viết lại toàn thư
659 1 √ Nghệ Vƣơng thủy mạt
2 570 √ Trúc Lâm thị tịch
3 571 √ Tổ linh định mệnh
4 638 √ Đức tất hữu vị
5 694 √ Phụ đức trinh minh
6 490 √ Văn tang khí tuyệt
7 660 √ Văn trinh ngạnh trực
9 275 √ Dũng lực thần dị
10 760 √ Phu thê tử tiết
Tấu chƣơng minh 12 √ 465 nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14 376 √
Minh Không thần dị
17 538 √ Cảm kích đồ hành
18 528 √ Điệp tự thi cách
20 597 √ Trung trực thiện
chung
21 687 √ Thi phúng trung gián
Thi dụng tiền nhân 22 491 √ cảnh cú
23 601 √ Thi ngôn tự phụ
24 649 √ Mệnh thông thi triệu
25 592 √ Thi chí công danh
27 690 √ Thi tửu kinh nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29 653 √ Thi xứng tƣớng chức
(So sánh với bài của tác giả Nguyễn Hữu Sơn trong “Mối quan hệ văn - sử
trong tác phẩm Nam Ông mộng lục” [65] ).
PHỤ LỤC 2
STT Tên truyện Đại Việt sử kí toàn thư Đặc điểm Nam Ông mộng lục
Nghệ vương thủy mạt 1
Trúc Lâm thị tịch 2 II, 92 Nguyên dạng
Tổ linh định mệnh 3 II, 92 Viết lại
Đức tất hữu vị 4
5 II, 176 Phụ đức trinh minh Nguyên dạng và thêm lời bình
Văn tang khí tuyệt 6 II, 42 Nguyên dạng
Văn Trinh ngạnh trực 7
Y thiện dụng tâm 8
Dũng lực thần dị 9 I, 248-249 Trích đoạn, viết lại
10 II, 218 Phu thê tử tiết Nguyên dạng và thêm lời bình
Tăng đạo thần thông 11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12 II, 26 Tấu chương minh nghiệm Nguyên dạng, khác chi tiết sống thêm 1 (và 2) kỷ
Áp Lãng chân nhân 13
Minh Không thần dị 14 I, 308-309 Viết lại, bổ sung
Nhập mộng liêu bệnh 15
Ni sư đức hạnh 16
17 II, 72-73 Cảm kích đồ hành Viết lại, giản lược, đảo trật tự chi tiết
18 II, 66 Điệp tự thi cách Nguyên dạng, bài thơ khác 2 chữ, nối dài lời bình
Thi ý thanh tân 19
Trung trực thiện chung 20
Thi phúng trung gián 21
22 II, 42 Thi dụng tiền nhân cảnh cú
Bài thất ngôn hoàn chỉnh của Nguyễn Trung Ngạn có dẫn 2 câu thơ Sầm Lâu
Thi ngôn tự phụ 23 II, 111 Nguyên dạng (Thơ có 6 câu)
Mệnh thông thi triệu 24 II, 144 Nguyên dạng
Thi chí công danh 25 II, 105 Nguyên dạng
Tiểu thi lệ cú 26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thi tửu kinh nhân 27 II, 172 Nguyên dạng và lược bỏ
chuyện lấy của dân
Thi triệu dư khánh 28
29 II, 147 Thi xứng tướng chức
Bài thơ Trần Nghệ Tông khác 8 chữ. Có thêm thơ tứ tuyệt của Cung Tín
Thi thán trí quân 30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quý khách tương hoan 31
PHỤ LỤC 3
BẢNG PHÂN LOẠI CÁC THIÊN TRUYỆN TRONG NAM ÔNG MỘNG LỤC
STT Tên thiên truyện Thuộc thể loại Nội dung chính của các thiên trong Nam Ông mộng lục
Nghệ vương thủy mạt 1 Truyện Đầu đuôi câu chuyện kể về Nghệ vương
Trúc Lâm thị tịch 2 Chuyện kể về sự qua đời của Trúc Lâm Truyện ký
Tổ linh định mệnh 3 Truyện Chuyện kể về việc linh hồn của người ông định ngôi cho cháu
Đức tất hữu vị 4 Truyện ký Chuyện kể về Minh vương có đức thì ắt có địa vị
Phụ đức trinh minh
5 Truyện ký Chuyện kể về đức sáng của Gia Huệ hoàng hậu
Văn tang khí tuyệt 6 Truyện ký Chuyện kể về công chúa Thiều Dương nghe tin cha mất mà tắt thở
Văn Trinh ngạnh trực 7 Truyện ký Chuyện kể về sự cương trực của Văn Trinh
Y thiện dụng tâm 8 Truyện Chuyện kể về người thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng
Dũng lực thần dị 9 Truyện Chuyện kể về sức mạnh thần kì của Lê Phụng Hiểu
Phu thê tử tiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10 Truyện ký Chuyện vợ chồng Ngô Miễn chết vì tiết nghĩa
Tăng đạo thần thông 11 Truyện Chuyện kể về phép thần thông của nhà sư Giác Hải và đạo sĩ Thông Huyền
Tấu chương minh
12 Truyện nghiệm Chuyện sự ứng nghiệm của bản tấu của Đạo Thậm
Áp Lãng chân nhân 13 Truyện Chuyện kể về Áp Lãng chân nhân
14 Minh Không thần dị Truyện Chuyện kể về sự thần dị của Minh Không
15 Nhập mộng liêu bệnh Truyện Chuyện kể về sư Quán Viên chữa bệnh cho vua trong giấc mộng
Ni sư đức hạnh 16 Truyện Chuyện kể về đức hạnh của ni sư họ Phạm
Cảm kích đồ hành 17 Thi thoại Chuyện kể về việc Đạo Tái cảm kích mà đi bộ
Điệp tự thi cách 18 Thi thoại Chuyện vua Trần Thánh vương làm thơ “điệp tự”
Thi ý thanh tân 19 Thi thoại Chuyện những ý thơ thanh tân của vua Trần Nhân vương
20 Trung trực thiện chung Truyện ký Chuyện về sự trung thực cho tới khi chết của anh em Phạm Mại, Phạm Ngộ
21 Thi phúng trung gián Thi thoại Chuyện về bài thơ dùng lời trung để can gián của Trần Nguyên Đán
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thi dụng tiền nhân 22 Thi thoại cảnh cú Chuyện về Nguyễn Trung Ngạn dùng câu thơ hay của tiền nhân để làm thơ
Thi ngôn tự phụ 23 Thi thoại Chuyện bài thơ nói về lòng tự phụ của Nguyễn Trung Ngạn
Mệnh thông thi triệu
24 Thi thoại Chuyện điềm thơ báo về vận mệnh hiển quý của Lê Quát
Thi chí công danh 25 Thi thoại Chuyện bài thơ nói về công danh của Phạm Ngũ Lão
Tiểu thi lệ cú 26 Thi thoại Chuyện về những câu thơ hay trong bài thơ ngắn của Ái Sơn
Thi tửu kinh nhân
27 Truyện ký Chuyện Hồ Tông Thốc uống rượu, làm thơ giỏi khiến mọi người kinh ngạc
Thi triệu dư khánh 28 Thi thoại Chuyện về điềm thơ để phúc lành của Nguyễn Thánh Huấn
29 Thi xứng tướng chức Thi thoại Chuyện về bài thơ xứng chức Tướng quốc của Trần Nguyên Đán
Thi thán trí quân 30 Thi thoại Chuyện Trần Nguyên Đán làm bài thơ than về việc “trí quân”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31 Thi thoại Chuyện Mạc Ký vui với khách quý Quý khách tương hoan
PHỤ LỤC 4
BẢNG PHÂN LOẠI NHÂN VẬT TRONG NAM ÔNG MỘNG LỤC
Nhân vật
Thánh nhân quân tử
STT Tên truyện Phụ
nữ Vua chúa Tôn giáo Ngƣời trí thức Ngƣời anh hùng Ngƣời tài đức khác
1 √ Nghệ Vƣơng thủy mạt
2 √ Trúc Lâm thị tịch
3 √ Tổ linh định mệnh
4 √ Đức tất hữu vị
5 √ Phụ đức trinh minh
6 √ Văn tang khí tuyệt
7 √ Văn Trinh ngạnh trực
8 √ Y thiện dụng tâm
9 √ Dũng lực thần dị
10 √ √ Phu thê tử tiết
11 √ Tăng đạo thần thông
Tấu chƣơng minh 12 √ nghiệm
13 √ Áp Lãng chân nhân
14 √ Minh Không thần dị
15 √ Nhập mộng liêu bệnh
16 √ Ni sƣ đức hạnh
17 √ Cảm kích đồ hành
18 √ Điệp tự thi cách
19 √ Thi ý thanh tân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
20 √ Trung trực thiện
chung
21 √ Thi phúng trung gián
Thi dụng tiền nhân 22 √ cảnh cú
23 √ Thi ngôn tự phụ
24 √ Mệnh thông thi triệu
25 √ Thi chí công danh
26 √ Tiểu thi lệ cú
27 √ Thi tửu kinh nhân
28 √ Thi triệu dƣ khánh
29 √ Thi xứng tƣớng chức
30 √ Thi thán trí quân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quý khách tƣơng 31 √ hoan
PHỤ LỤC 5
CÁC BÀI THƠ TRONG NAM ÔNG MỘNG LỤC
Lời Số lƣợng STT Tên truyện Tác giả bài thơ Thể loại bình bài thơ thơ
Thơ thất ngôn 1 Nghệ Vương thủy mạt Trần Nghệ Tông 1 bát cú
Lý Thánh Tông Ngũ ngôn tứ 2 Tăng đạo thần thông 1 (?) tuyệt
Ngũ ngôn tứ 3 Cảm kích đồ hành Trần Nhân Tông 1 tuyệt
Trần Thánh Thơ thất ngôn 4 Điệp tự thi cách 1 1 Tông bát cú
Thơ thất ngôn 5 Thi ý thanh tân Trần Nhân Tông 3 1 bát cú
Trần Minh Thất ngôn tứ 6 Trung trực thiện chung 2 Tông, Phạm Mại tuyệt
Trần Nguyên Thơ thất ngôn 7 Thi phúng trung gián 1 Đán bát cú
Nguyễn Trung Thơ thất ngôn 8 Thi dụng tiền nhân cảnh cú 1 1 Ngạn bát cú
Nguyễn Trung Thơ trường 9 Thi ngôn tự phụ 1 1 Ngạn thiên
Thất ngôn tứ 10 Mệnh thông thi triệu Lê Quát 1 tuyệt
Thất ngôn tứ 11 Thi chí công danh Phạm Ngũ Lão 1 tuyệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thất ngôn tứ 12 Tiểu thi lệ cú Ái Sơn 2 tuyệt
Nguyễn Thánh Thất ngôn tứ 13 Thi triệu dư khánh 1 1 Huấn tuyệt
Trần Nghệ Thất ngôn tứ 14 Thi xứng tướng chức 2 Tông, Cung Tín tuyệt
Trần Nguyên Ngũ ngôn tứ 15 Thi thán trí quân 1 Đán tuyệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1 16 Quý khách tương hoan Mạc Ký Lục ngôn