ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VẪN
NGUYÊN THỊ KIM ĐỊNH
PHONG CÁCH THƠ XUẲN QUỲNH
Chuyén ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VẢN THẠC Sĩ NGỮ VÃN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam
Hà Nội - 2009
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
MỤC LỤC
1 PHẨN MỎ ĐẦU
3 5 15 16 18 18 1. Lý do chọn đé tài............................................................................................... 2. Lịch sử vấn đ ề .......................................................................................................... 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu................................................................... 4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................. 5. Đóng góp của luận văn..................................................................................... 6. Cấu trúc luận văn............................................................................................... 19 DẪN LUẬN: PHONG CÁCH
21 CHƯƠNG 1 CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
1.1. Cái tôi nồng nàn, đắm say, yêu thương, khát khao hạnh phúc mà vị tha, sẵn sàng hi sinh dâng h iế n ............................................................................. 22 22 1.1.1. Cái tôi nồng nàn, đắm say, yêu thương, khát khao hạnh phúc............ 1.1.2. ... mà vị tha, sẵn sàng hi sinh dâng hiến................................................ 26 1.2. Cái tôi táo bạo, chủ động, quyết liệt, hiện đại mà vẫn nhuần nhị, nữ tính, truyền thống ................................................................................................... 31 31 1.2.1. Cái tôi táo bạo, chủ động, quyết liệt, hiện đ ại....................................... 1.2.2. ... mà vẫn nhuần nhị, nữ tính, truyền thống........................................... 34 Cái tôi tràn đầy tình yêu cuộc sống mà nặng trĩu mặc cảm, âu lo .. 40 1.3. 40 1.3.1. Cái tôi tràn ngập tình yêu cuộc sống, giàu khát vọng, ước m ơ.......... 43 1.3.2. ... mà vẫn nặng trĩu những mặc cảm âu lo.............................................
CHƯƠNG 2 49 NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
2.1. Cảm hứng về quê hương, đất nước trong những năm tháng chiến tranh.......................................................................................................................... 50 50 2.1.1. Viết về chiến tranh với cái nhìn mang thiên tính nữ ............................ 50 2.1.1.1. Viết về chiến tranh bằng sự trải nghiệm của bản thân..................... 54 2.1.1.2. Giá trị hạnh phúc đời thường trong chiến tranh................................. 59 2.1.2. Viết về quê hương, đất nước với tình yêu thiết th a .............................. 2.1.2.1. Cảm xúc về những miền đất nơi Xuân Quỳnh đã đi qu a.................. 59 2.1.2.2. Tình yêu quê hương, đất nước bắt nguồn từ những sự vật đơn sơ, bình d ị ....................................................................................................................... 61 2.1.2.3. Tinh yêu quê hương, đất nước xuất phát từ tình yêu thương con n g ư ờ i......................................................................................................................... 64
1
Nguyẻti Thị Kim Định
Phong cách thơ X u án Quỳnh________ __________________ _
69 70 71 74 78 80 83 2.2. Cảm hứng về hạnh phúc đời thường........................................................... 2.2.1. Tổ ấm gia đình............................................................................................ 2.2.1.1. Anh - trụ cột gia đình “người vĩ đại của em ” .................................... 2.2.1.2. Con cái - trái tim tổ ấm ......................................................................... 2.2.1.3. Mẹ - “mẹ của chúng mình” .................................................................. 2.2.1.4. Chị - “chăm cho em từng việc hàng ngày” ......................................... 2.2.2. Những chuyện đời thường........................................................................
87 CHƯƠNG 3 NÉT ĐỘC ĐÁO VẾ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN THO XUÂN QUỲNH
87
88 92
3.1. Hình ảnh, biểu tượng.................................................................................... 3.1.1. Hình ảnh sóng, thuyền, biển, con tàu - Hình ánh tượng trưng của tình yêu, khái vọng kiếm tim và sự khao khát vươn tới những chân trời mới... 3.1.2. Hình ảnh hoa và cỏ dại - Hình ảnh thân phận người phụ nữ............. 3.1.3. Hình ảnh trái tim và bàn tay - Hình ảnh tượng trưng cho sự hy sinh, dâng hiến; khao khát được nương tựa, gắn bó .................................................. 95 99 3.2. Ngôn ngữ........................................................................................................ 100 3.2.1. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên gắn với sinh hoạt hàng ngày 3.2.1.1. Ngôn ngữ giàu chất dân gian 100 3.2.1.2. Ngôn ngữ giản dị, dân giã của cuộc sống tình yêu, lao động và chiến đ ấ u ................................................................................................................. 101 103 3.2.2. Một số cách tổ chức ngôn ngữ.............................................................. 3.2.2.1. Câu kể, liệt k ê ................................................................................................ 103 3.2.2.2. Kết cấu đối thoại.................................................................................... 105 3.3. Giọng điệu...................................................................................................... 106 3.3.1. Giọng điệu lời ru vừa thủ thi' vừa mạnh m ẽ.......................................... 107 3.3.2. Giọng điệu khắc khoải lo âu nhưng cũng đầy tin tưởng....................... 112 3.4. Thời gian........................................................................................................ 118 3.4.1. Thời gian quá khứ...................................................................................... 119 3.4.2. Thời gian hiện tại....................................................................................... 120 3.4.3. Dự cảm tương lai....................................................................................... 124 3.5. Không gian..................................................................................................... 125 3.5.1. Không gian hiện thực............................................................................... 125 3.5.2. Không gian tình yêu.................................................................................. 127
PHẦN KẾT LUẬN 131
DANH MỰC TÀI LIỆU THAM KHẢO 133
2
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
PHẨN MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đé tài:
Chọn đề tài Phong cách thơ Xuân Quỳnh”, chúng tôi xuất phát từ những lý do sau: 1.1 “Qua tiếng hát anh nhận ra người hát. Qua nét khắc anh nhân ra người
thợ bạc” (“Đatxa của tôi” - Raxun Gamratôp). Qua tiếng hát, ta nhận ra tâm hổn người nghệ sĩ. Đó là tâm hồn lạc quan, khoẻ khoắn hay là tâm hồn của người dịu dàng, đằm thắm...Qua nét khấc, những đường nét hoa văn tinh tế, ta nhận ra những cảm nhận sâu sắc về cuộc sống của người nghệ sĩ. Có thể nói, qua mỗi tác phẩm nghệ thuật, người ta nhận ra tâm hồn, nét dáng riêng, dấu ấn riêng của người làm nghệ thuật. Dấu ấn riêng, nét dáng riêng mà tác giả tạo ra trong tác phẩm, đó chính là phong cách. Phong cách của tác giả tạo nên sự mới lạ trong tác phẩm và sự phong phú, đa dạng của một nền văn học.
Vì vậy, phong cách là một trong những vấn đề trọng tâm trong nghiên cứu văn học. Nó xác định được những mặt độc đáo về nội dung tư tưởng cũng như những đặc sắc về nghệ thuật biểu hiện trong sáng tác của nhà văn. Mang một ý nghĩa quan trọng như vậy, song cho đến nay, vấn đề phong cách đã được chú ý hơn trước rất nhiều nhưng vẫn còn rất nhiều tác giả đã được ghi nhận
có phong cách của riêng mình nhưng vẫn chưa được nghiôn cứu đầy đu. Trên con đường đi vào thế giới nghệ thuật thơ, vì lý do này khác hình như còn dè dặt, e ngại khi khai phá mảnh đất màu mỡ nhưng cũng đầy thử thách này. Bởi vậy, cũng dễ hiểu khi thấy có rất nhiều bài viết về Xuân Quỳnh, về thơ của chị, song còn thiếu
những cồng trình mang tính hệ thống. Các bài viết hầu hết mới chỉ dừng lại ở việc cảm nhận, khai thác một vài khía cạnh, một vài bài thơ tiêu biểu của chị mà chưa đi sâu vào nghiên cứu phong cách thơ chị.
Đây là lý do đầu tiên khuyến khích chúng tôi lựa chọn đề tài này.
1.2. Lý do thứ hai xuất phát từ chính thơ Xuân Quỳnh: Cùng trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi bật lên là một gương mặt tiêu biểu mang đậm bản sắc riêng, một nhà thơ nữ có vị trí quan trọng của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Tha chị dù viết trong khói lửa đạn bom hay trong hoà bình xây dựng, lúc nào cũng thống nhất ở một cách nhìn, cách cảm của riêng chị. Dù ở bước thăng trầm nào của cuộc đời, thơ vẫn là nơi để chị trang trải lòng mình, là chốn đi về sau những nhọc nhằn, vất vả của đời thường, để từ đó chị lại đến với đời thiết tha hơn.
3
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh bước vào làng thơ rất sớm và ra đi cũng vội vã bất ngờ, để lại những hẫng hụt, mất mát cho những người vêu thơ. Tuy thời gian ngắn ngúi nhưng chị đã kịp để lại một gia tài mang một giá trị, một ý nghĩa nhất định, là một đóng góp cho nền vãn học Việt Nam hiện đại: “Từ khi xuất hiện cho đến khi vĩnh biệt cuõc đời, quá trình sáng tác của thơ Xuân Quỳnh là một chặng đường đi lên không t)Ị đứt đoạn. Hổn thơ của chị ngày một đa dạng và không ngừng được thử thách qua thời gian, với nhiều loại chủ đề khác nhau. Trong đó có những bài thơ tình yêu đã đạt đến đỉnh cao” [25;9]
Đến với thơ một cách hồn nhiên như để ca hát về đời mình, thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện rõ nét phong cách, bản sác riêng của chị. Chị là người đã “đem chính mình, chính cuộc đời mình ra làm thơ” [ 108; 122], “ ...chị trở thành nhân vật văn học của chính thơ chị” [45; 143]. Chính vì vậy mà thơ chị hấp dẫn bao bạn đọc - bởi cái vẻ phong phú và chân thực của những trạng thái xúc cảm, những tình cảm được khơi nguổn từ những mối quan hệ trong cuộc sống. Cũng vì điều khác lạ này. mà khi nói về Xuân Quỳnh, Vương Trí Nhàn nhận xét: “Xuân Quỳnh đã có được điều cần thiết nhất đối với một tác giả thơ: một cách nghĩ và một cách nói của riêng mình”. (Vương Trí Nhàn - Bước đầu đến với văn học - NXB Tác phẩm mới H.1986). Nhiều ý kiến thống nhất cho rằng Xuân Quỳnh là “gương mặt nhà thơ tiêu biểu của nền th« Việt Nam hiện đại” [45; 138]. Lại Nguyên Ân có một nhận xét xác đáng: “Có lẽ là từ thời Hổ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, phải đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy mới thấy lại một nữ thi sĩ mà tài năng và sự đa dạng của tâm hổn được thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào phong phú như vậy” [45; 138]. Bằng sự nổ lực, nghiêm túc của bản thân trong lao động nghệ thuật, tài năng của chị đã được ghi nhận, đó là: - Giải thướng văn học nãm 1982 - 1983 của Hội nhà văn Việt Nam (Tập thơ thiếu nhi Bầu trời trong quá trứng). - Giải thướng văn học năm 1989 - 1990 của Hội nhà văn Việt Nam (Tập thơ Hoa cỏ may).
- Giải thưởng của T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh - Giai Ihưởng Nhà nước về văn học Nghệ thuật năm 2001. Với những đóng góp lớn lao cho nền văn học Việt Nam hiện đại cả về nội dung và nghệ thuật, thơ Xuân Quỳnh đã và đang là đối tượng nghiên cứu phê bình văn học nói chung và công chúng yêu thơ nói riêng.
1.3. Lý do thứ ba là từ thực tế giảng dạy: Xuân Quỳnh là một tác giả được lựa
chọn giảng dạy trong chương trình THCS và THPT. Chính vì vậy, việc nghiên cứu phong cách thơ Xuân Quỳnh có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Chọn đề tài này là đổ chúng tôi có thể hiểu biết sâu sác hơn về những thành tựu đặc sắc cùa thơ chị và một phong cách thơ nữ tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Hy vọng từ đây có thể đóng góp, giúp cho giáo viên trung học thêm tư liệu nghiên cứu, giảng dạy tốt hơn về chị và thơ của chị.
2. Lịch sử ván đè:
Xuân Quỳnh là một cây bút nữ giành được nhiều sự quan tãm ưu ái cúa người đọc nói chung và giới nghiên cứu nói riêng. Mỗi ý kiến hàn luận về thơ Xuân Quỳnh đều có những phát hiện riêng nhưng đều có sự thống nhất ở chỗ khẳng định cây bút này có sức hấp dẫn đặc biệt. Thơ Xuân Quỳnh được đánh giá là “tiếng nói rất riêng
của một tâm hổn phụ nữ thông minh, sắc sảo. giàu yêu thương” [26;9]. Sự nghiệp thơ của chị chí trên hai mươi nãm “nhưng trong tư cách người phụ nữ - người yêu và người vợ - Xuân Quỳnh đã để lại một di sản thơ tình yêu đằm thắm và da diết đến khắc khoải. “Trong tư cách người mẹ, Xuân Quỳnh cũng để lại một gia tài thơ viết cho con, cũng là viết cho các thế hệ trẻ thơ, thật dổi dào và trong trẻo, thật ngộ nghĩnh và dễ thương” [87;453]. Thời gian không làm cho những tác phẩm thơ Xuân
Quỳnh chìm vào lãng quên mà qua sự sàng lọc của nó, thơ Xuân Quỳnh ngày càng được khẳng định. Có được thành công đó không phải là chuyện đơn giản đối với bất cứ cây búl nào. Xuân Quỳnh đã “sống hết mình, làm việc hết mình, yêu hêi mình đê
hiến dâng cho nghệ thuật, cho cuộc đời, cho tình yêu chung và riêng bàng cái sức lực cuối cùng của sự sống phải tính đến từng nhịp đập của một trái tim đau” [43;236]. Hành trình sáng tác của Xuân Quỳnh song hành với nhiều bài nghiên cứu phê bình của nhiều tác giả khác nhau.
Trước 1988, sự nghiên cứu về thơ Xuăn Quỳnh đã được quan tâm, mặc dù chưa nhiều, còn tản mạn và chưa tập trung. Nhưng sau khi chị mất (1988), khi giọng thơ trữ tình, đằm thám, tha thiết và bao dung nhân hậu ấy bị ngắt quãng, người ta mới nhận ra khoảng trống của một cung đàn trong dàn hợp xướng thơ ca hiện đại Việt Nam. Từ đó đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã tìm đến với thơ chị - coi đây là một đối tượng quan trọng trong sự phát triển cùa nền thơ Việt Nam. Sự nhìn nhận này. theo chúng tôi là hoàn toàn thỏa đáng và hợp lý. Trong phần này, chúng tôi có thê tạm chia lịch sử nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh thành hai giai đoạn: Trước và sau năm 1988.
5
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xu án Quỳnh
1.1. Trước năm 1988:
Dù không phái là người được “cuộc đời chuẩn bị đ ể trở thành nhà thơ” nhưng như một nghiệp dĩ. Xuân Quỳnh lại đến với thơ khá bất ngờ. Từ bỏ ánh đèn hào quang của sân khấu, đến với thơ, cô diễn viên múa xinh đẹp hầu như không có
một quá trình tu dưỡng về nghề thơ, không có gì hết ngoài một trái tim biết yêu. biết khao khát sáng tạo.
Hơn hai mươi năm cầm bút, thời gian không dài nhưng Xuân Quỳnh đã để lại một số lượng không nhỏ (khoảng 10 tập thơ và một số truyện viết cho thiếu nhi). Từ
tập thơ đầu tay “Chổi biếc" đến uHoa cỏ may” - tập thơ cuối cùng là một chặng đường thơ không ngừng nghỉ, luôn biết vươn lên trong hành trình tới chính mình của người phụ nữ “trời bất làm thơ”.
Ngay từ khi mới xuất hiện, thơ Xuân Quỳnh đã được chú ý. Từ những tập thơ đầu. chị đã được đánh giá là một cây bút có nhiều triển vọng. Song như đã nói ớ trên, từ thời điểm 1988 trớ về trước, sự nghiên cứu, phê bình về thơ Xuân Quỳnh không nhiều mà mới chỉ dừng lại ở các tập thơ hoặc những bài phê bình, nhận xét ngắn gọn về phong cách nghệ thuật biểu hiện. - Tơ tằm và chồi biếc (Lê Đình Kỵ, Nghiên cứu văn học, số 1, trang 20). - Xuân Quỳnh - Một chồi thơ sắc biếc (Chu Nga, Tạp chí văn học 1973, sô' 1, trang 20). - Thơ Xuân Quỳnh (Thiếu Mai, Tạp chí Vãn học 1983, sô' 1, trang 39). - v ẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh (Nguyễn Xuân Nam, Trích trong Thơ, tìm hiểu vả thưởng thức - NXB Tác phẩm mới 1985). - Thơ kháng chiến chỏng Mỹ cứu nước 1965 - 1967 (Lời giới thiệu - NXB Văn học 1986).
- Ý thức về thời gian, cảm giác về hạnh phúc ('Vương Trí Nhàn, trích Bước đầu đến với Vãn học - NXB Tác phẩm mới, 1986). - Sóng (Nguyễn Đức Quyền, trích trong Những vẻ đẹp thơ Văn nghệ Thành phô' HỒ Chí Minh, 1987). Khi đé cập đến tập thơ đầu tay “Chồi biếc” của Xuân Quỳnh, hai tác giả Chu Nga và Lê Đình Kỵ đã phát hiện ra một hồn thơ tươi trẻ với những khao khát hạnh phúc và tình yêu đích thực. Các nhà nghiên cứu đã bằng các cách tiếp cận khác nhau, sự cảm nhận khác nhau đã góp phần làm nổi bật đời sống nội tâm phong phú, sâu sắc có sự hòa đổng, giao cảm với thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của hổn thơ Xuân Quỳnh.
6
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Hà Minh Đức trong một bài viết về lực lượng thơ trẻ đã nhận xét: “Xuân Quỳnh đã đến với thơ từ phần riêng tâm tình, kỷ niệm tuổi thơ, từ tình yêu tha thiết của tuổi trẻ và lòng gắn bó với nghề nghiệp (...) Xuân Quỳnh tiếp tục vượt qua ranh giới những khó khăn nhất đối với nhiều cây bút trẻ, từ cái riêng đi vào cái chung
(...) thơ Xuân Quỳnh dần dần trở nên phong phú và bản sắc hơn. Xuân Quỳnh luôn chân thật và mém mại trong cảm xúc, chị nhìn cuộc sống không đơn giản một chiều”. Chưa phải là một bài nghiên cứu chuyên sâu về tác giả song những nhận xét của Hà Minh Đức đã nói đúng và nói “trúng” về nhà thơ trong thời điếm ấy. Tác giả khẳng định vị trí của Xuân Quỳnh trong thế hệ nhà thơ trẻ và đặc biệt đã phát hiện ra bản sắc thơ chị là chân thực vẻ cảm xúc và cái nhìn sâu sắc về cuộc sống. Từ phần
riêng tâm tình với cái nhìn cuộc sống một cách khách quan, tỉnh táo, Xuân Quỳnh có một hướng đi riêng, một bản lĩnh riêng so với ít những nhà thơ cùng thời (viết theo khuynh hướng sử thi). Từ những ưu điểm trên Hà Minh Đức cũng nhận xét “thơ của chị đang phát triển nhưng chưa lộ rõ chiều cao ổn định và trọn vẹn”. Như vậy, qua đánh giá của Hà Minh Đức, ta có thể thấy thơ Xuân Quỳnh đang thực sự “vận dộng” về tư tưởng, về cách phản ánh cuộc sống tinh tế, sắc sảo nhưng chưa già dặn về thi pháp. Tập “Thơ Việt Nam chống M ỹ cứu nước 1965 - 1967" trong phần nhận định
“Thơ ba năm đánh Mỹ cứu nước” của thi sĩ Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh được nhân ra là một trong “những tâm hổn đáng yêu” bên cạnh Bằng Việt, Vãn Thảo Nguyên, Lưu Quang Vũ (tr. 14). Chế Lan Viên khẳng định Xuân Quỳnh là một tâm hồn thơ nữ trẻ trung, yêu đời, giàu khát vọng. Ông đã trích một bài thơ “Tiếng gà trưa” để
nhận xét rằng: “Một ổ trứng bình thường thôi, trong mắt Xuân Quỳnh, đã thành một giấc mơ rực rỡ.. (tr. 16).
Sự trẻ trung hồn nhiên ấy cũng được khẳng định trong bài viết về '‘'Thơ Xuân Q uỳnh” của Thiếu Mai, đặc biệt là tác giả đi sâu vào mảng thơ thiếu nhi của chị và
khẳng định bước đi ban đầu của thơ Xuân Quỳnh đó “không phải là những nét phác nhẹ nhõm, mà là bàng chứng của một tình yêu mạnh m ẽ...”. Thiếu Mai cho rằng mảng sáng tác cho thiếu nhi (chiếm tới 7/14 tác phẩm của chị) hầu như chưa được khai thác, nghiên cứu như đúng tầm tác phấm. Mai Hương trong bài viết ‘'’Xuân Quỳnh ” trong Xuân Quỳnh nhà thơ Việt
Nam hiện đại” (NXB Khoa học xã hội, 4.1984) cũng đã khẳng định ngay ở những dòng đẩu tiên: “Từ Chổi biếc (1963) đến Lời ru trên mặt đất (1978) là một quá trình phát triển liên tục và đều đặn của thơ Xuân Quỳnh. Có thể nói qua bốn tập thơ được xuất bản, Xuân Quỳnh đã hình thành một phong cách riêng có bản sắc. Đó là điều
7
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuàn Quỳnh
dáng quý đầu tièn ớ Xuân Quvnh. Xuân Quỳnh chủ yếu đi vào khai thác tâm trạng của chính nhà thơ. Nét riêng ấy của ngòi bút Xuân Quỳnh đậm hơn cả và phát huy được mổt mặt mạnh của nó, khi chị đi vào khai thác những vấn đề của chính mình...”. Có thể nói, trong chặng đường những năm 1970, thơ Xuân Quỳnh đã được chú ý nhưng nhìn chung các bài viết mới đánh giá về chị như một gương mặt mới, hứa hẹn, nhiéu triển vọng. Cho đến những nãm 1984 khi hai tập thơ “Tự hát” và “Sân ga chiều em đ i” của Xuân Quỳnh ra đời trong bối cảnh hòa bình, vấn đề đời tư được bộc lộ rõ hưn thì thơ chị trở thành đối tượng thu hút giới phê bình nghiên cứu văn học. Nhà nghicn cứu phê bình Nguyền Xuân Nam đã phát hiện ra “Vẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh" và dành cho chị những trang ưu ái trong cuốn “Tho - Tìm hiểu và thưởng thức". Tác giả khẳng định vẻ đẹp hồn nhiên, mang được nét nữ tính, dịu dàng đằm thám, nhân hậu nhưng lại không vướng mặc cảm cho mình là phái yếu của con người Xuân Quỳnh trong thơ. Với bản tính ấy, thơ tình của chị chú động, bao dung mà cũng tha thiết dữ dội “như nước lũ mùa xuân chảy xiết (tr. 21). Trơng những bài thơ chị viết ở vùng cửa ngõ chiến trường - vùng Vĩnh Linh, Quảng Trị, tác giả nhìn thấy tuy còn ít giá trị hiộn thực nhưng lại có sự “chân cảm”. Chính nó đã làm nên sức hấp dẫn độc giả. Cuối cùng, cũng như nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu khác, Nguyễn Xuân Nam cho rằng thơ Xuân Quỳnh có bản sắc riêng, đó là “sự trẻ trung, chân thành trong cảm xúc'\ chất tự nhiên của một bản năng nghệ thuật. Sau khi tuyển thơ “Sân ga chiêu em đì" của Xuân Quỳnh ra mắt bạn đọc, Vương Trí Nhàn đã bước đầu đề cập đến vấn đề thi pháp trong thơ Xuân Quỳnh. Đó
là: “ý thức vé thời gian, cảm giác vé hạnh phúc". Mượn hình thức đôi thoại với
một người bạn văn chương - nhà thơ Phạm Tiến Duật, tác giả đã phát hiện khá sâu sắc, tinh tế về con người Xuân Quỳnh, thơ Xuân Quỳnh. Người viết đã thấy, ngay từ “Chồi biếc”, mặc dù còn quá trẻ cả tuổi đời lẫn tuổi thơ, nhưng Xuân Quỳnh đã có ý thức về thời gian: đang cùng anh sóng bước “tay ấm trong tay" đã nghĩ đến lúc “hết
phiên” và sẽ bước qua đây là những cặp tình nhân khác (tr. 69 - 70). Theo năm tháng, ý thức đó ngày càng rõ rệt trở thành cảm giác về sự biến đổi. Thơ Xuân Quỳnh có sự nhạy cám về sự chảy trôi của thời gian, sự đổi thay của sự vật, con
8
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _ ___ _ _ _ ___ ____
người. Bởi thế mà thơ Xuãn Quỳnh thường có những tương quan đối lập tạo cho câu thơ những bất ngờ. đa dạng... Với một bài viết ngắn, đánh giá của Vương Trí Nhàn đã ghi nhận được những nét nổi bật đặc sắc trong hổn thơ, giọng thơ Xuân Quỳnh: “Chưa phải lúc tổng kết vé thơ Xuân Quỳnh, vì tác giả đang viết, nhưng có thể tin chỉ với những bài thơ hôm nay, Xuân Quỳnh mới có những điều cần thiết đối với một tác giả thơ, một cách nghĩ, một nhân cách nói của riêng mình” (tr. 79). Phát hiện của Vương Trí Nhàn ờ thời điểm ấy rất quan trọng, sẽ mờ ra một hướng tiếp cận mới trong việc chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật và tìm hiểu phong cách thơ Xuân Quỳnh.
2.2. Sau năm 1988:
Cuộc đời bất hạnh của Xuân Quỳnh được đánh dấu bằng cái ngày định mệnh 29/8/1988, kết thúc chặng đường thơ hơn hai mươi năm của Xuân Quỳnh. Sau sự ra
đi đột ngột ấy, ngưòi ta chợt nhận ra một sợi dây vô hình, bền vững gắn kết cuộc đời chị với những gì chị để lụi trong thơ. Và rồi, khi những bông cúc vàng - loài hoa mà chị yêu thích - phú đầy ngôi mộ, những người thân của chị, bạn bè chị, cá những người không biết chị nhưng yêu thơ chị chỉ biết làm vợi đi nỗi tiếc thương bằng những bài viết về chị, về thơ chị. Từ năm 1988 trở lại đây - nhất là khi tập thơ “Chót út”, “f/oa cỏ may" (Chữ
dùng của Ngô Vãn Phú) ra mắt bạn đọc trên các báo - tạp chí có nhiều bài viết về chị hơn. Một loạt các bài viết, công trình nghiên cứu về cuộc đời, sáng tác của Xuân Quỳnh đã ra mắt công chúng: - Thơ viết tặng anh (NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, Lời bạt của Mai Quốc Liên). - ThơXiiân Quỳnh (Nhiều tác giả - NXB Tác phẩm mới, 1989). - Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lợi (Nhiều tác giả - Hội Văn học - Nghệ thuật Đà Nẵng, 1989). - ThơXiiứn Quỳnh (NXB Hội nhà văn, 1990, Ngô Văn Phú sưu tầm biên soạn). - Xiián Quỳnh - Lim Quang Vũ - Tình yêu và sự nghiệp (NXB Hội nhà văn, 1994). - Xiiãn Quỳnh - một nửa cuộc đời tôi (Đông Mai, NXB Khoa học xã hội, 1995). - Thơ Xuân Quỳnh (Ngô Thị Thịnh tuyển chọn, NXB Hội nhà văn, 1996). - Xiiàn Quỳnh - Thơ và đời (Vân Long sưu tầm và tuyển chọn. NXB Văn hóa, 1998). - Đối thoại văn chương (Xuân Quỳnh một giọng thơ tình ám ảnh - TS. Nguvễn Thị Minh Thái, NXB Hội nhà văn, 1999 trang 82).
9
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách tho Xuân Quỳnh
- Xuân Quỳnh thơ và lời bình (Vũ Thị Kim Xuyến - luyển chọn và biên soạn. NXB Văn hóa thông tin. 2000). - NữsĩXiiân Quỳnh cuộc đời để lại (Ngân Hà tuyển chọn và biên soạn, NXB Văn hóa thòng tin Hà Nội, 2001). - Thơ Xuân Quỳnh và những lời bình (Ngân Hà tuyển chọn và hiên soạn, NXB Vãn hóa thông tin, 2006). - Đối thoại tình \êu Xuân Quỳnh - Lito Quang Vũ (Lưu Khánh Thơ biên soạn, NXB Hội nhà văn, 2007). - Quang Dũng, Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh (Phê bình, bình luận văn học, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, 1991).
Ngoài những công trình bài viết kể trên, còn rất nhiều bài viết được in rải rác trên các sách, báo, tạp chí Trung ương và địa phương, trên các tạp chí Văn học, tạp chí chuyên ngành khác nhau: - Người đàn bà yêu và làm thơ (Đọc thơ Xuân Quỳnh - Đoàn Thị Đặng Hương - Tạp chí Vãn học số 6, 1990). - Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, Tình yêu và sô phận (Phong Lê, Tạp chí Văn học số 8, 1998). - Xuân Quỳnh, cuộc đời để lại trong thơ (Vương Trí Nhàn, Tạp chí Vãn học số 10. 2005). - Thế giới thiên nhiên trong thơ Xuân Quỳnh (Th.s Lê Thị Ngọc Quỳnh, Tạp chí Ngôn ngữ số 12. 2001).
Bên cạnh các bài viết có tính chất cảm nhận chung về phong cách nghệ thuảt thơ Xuân Quỳnh còn có những bài viết đi vào một tác phẩm cụ thể và một số bài thơ của các tác giả viết về Xuân Quỳnh như một sự tưởng niệm đầy tri ân. Nghiên cứu thơ Xuân Quỳnh và cuộc đời của chị đã có rất nhiều luận văn tiến sĩ. thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp của các học viên, sinh viên, có thể kể đến : - Càm thức thời gian trong thơ nữ sĩ Xuân Quỳnh, Phạm Thị Kim Anh, K45. khoa
Văn - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vãn (Báo cáo khoa học, năm 2001). - Nhữtĩg chặng đường thơ Xuân Quỳnh, Chu Thị Thơm (Luận văn thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại, năm 2003). - T hể hệ các nhà thơ nữ trưởng thành trong kháng chiêh chống Mỹ (Xuân Quỳnh,
Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Ý Nhi). Nông Thị Hồng Diệu (Luận vãn thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Vãn học Việt Nam, năm 2006).
10
Nguyễn Thị Kim Định
Pho tig cách thơ Xuân Quỳnh
- Thể giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, Hà Thị Dung (Luận vãn thạc sĩ khoa học, chuyén ngành Lý luận văn học. năm 2007).
Qua nghiên cứu tài liệu, các công trình nghiên cứu về nữ thi sĩ Xuân Quỳnh,
hầu hết các tác giả viết về chị đều có cách cảm nhận riêng, cách nhìn riêng và ở nhiều góc độ khác nhau.
Ngay trong điếu văn đọc tại lễ tang Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, Vũ Tú Nam đã xúc động viết: con người Xuân Quỳnh cũng như ngòi bút của chị thật là đa dang, có vẻ cảm tính bồng bột mà lại trí tuệ, lắng sâu. Tác giả khẳng định “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một tấm lòng trung thực, luôn luôn gắn bó với đất nước và nhân dân (...) thơ chị trong sáng, cái trong sáng đã được gạn lọc qua nhiều nỗi đau” Năm 1989, NXB tác phẩm mới cho ra đời cuốn "'Thơ Xuân Quỳnh". Cuốn sách được làm trong sự tiếc thương, trân trọng đối với một tài năng đang à độ chín, đã tập hợp một số bài viết về Xuân Quỳnh và chọn in một số bài tiêu biểu trong gia tài thơ chị để lại.
Nãm 1994, NXB Hội nhà văn cho ra mắt cuốn “Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ - Tình yêu và sự n g h i ệ p đề cập đến bản sắc và sức sáng tạo của nhà thơ nữ này. Cuốn sách đã ghi lại những cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh, phần lớn là của bạn bè, đổng nghiệp cùng các nhà nghiên cứu: Nguyễn Quân, Chu Văn Sơn, Đoàn Thị Đặng Hương, Nguyễn Thị Minh Thái, Lê Minh Khuê, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, Lưu Khánh Thơ... Các tác giả đó là những người có đóng góp đáng kể trong quá trình tìm hiểu, đánh giá thơ Xuân Quỳnh.
Với con mắt họa sĩ, Nguyễn Quân phát hiên trong thơ Xuân Quỳnh đậm đặc các chi tiết, hình ảnh của thiên nhiên. Hình ảnh trong thơ thường giản dị, thậm chí không có gì mới, ít chọn lọc nhưng lại khổng gây nhàm chán vì cảm giác tươi mới và cảm động. Theo tác giả, ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh cũng là ngôn ngữ đời thường, không hoa mĩ. Thơ chị là loại thơ của hình ảnh thị giác. Câu thơ “rà/ có duyên mà không làm dáng". Điều đáng chú ý là bài viết đã chỉ ra một đặc trưng về giọng điệu Ihơ Xuân Quỳnh với tên gọi, hình ảnh - gợi cảm “Phong cảnh Ỉ T \ một giọng thơ phong phú luôn sôi động, trẻ trung, tươi mới. Giọng thơ ấy cũng mang đậm chất nữ tính từ cách chọn lọc gam màu đến cái nhìn sự vật, nhưng mặt khác ớ đó lại có những khao khát mãnh liệt, khao khát đi xa đến tận cùng mơ ước, tần cùng khát vọng. Với “Phong cảnh 1 T \ Nguyễn Quân đã bước đẩu thổ hiện cái nhìn khá sắc sảo, tinh tế và rất thi ca về thơ Xuân Quỳnh.
Nãm 1995, NXB Khoa học xã hội xuất bản cuốn hồi ký của Đông Mai - chị ruột Xuân Quỳnh với nhan đề: “Xuân Quỳnh - một nửa cuộc đòi tôi”. Bằng sự xúc động chãn thành, tác giả hồi tưởng lại những năm tháng thăng trầm, vất vả, nhiều
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách they Xuân Quỳnh
niềm vui nhưng cũng không ít nỗi buồn trong cuộc đời người phụ nữ, người vợ. người mẹ. nhà thơ Xuân Quỳnh. Qua đó, người viết giúp ta dựng lại chân dung chị, tính cách chị, là cơ sở để chúng ta soi chiếu giữa tác phẩm và cuộc đời nhà thơ, từ đó tìm ra tư tưởng nghệ thuật, phong cách thơ chị.
Cũng năm 1995, NXB Văn hóa cho ra mắt bạn đọc cuốn sách “Xuàn Quỳnh - thơ VÀ đời”, in lại một số bài viết về Xuân Quỳnh đã xuất bản năm 1990, tuyển thơ và trích 20 bài của tập thơ “Chót út” - “Hoa cỏ may".
Cho đến nay, qua việc tái bản nhiều lần thơ Xuân Quỳnh, bình thơ chị trên các tạp chí, báo Văn nghệ, Giáo dục thời đại, Tiền phong... và những phương tiện thông tin nghe nhìn khác, có thể thấy được sức sống, sức hấp dẫn của thơ Xuân Quỳnh. Điều đó chứng tỏ “chị là hiện tượng rất quan trọng của nền thơ chúng ta” [45; 138]. Dù chưa có bài viết nào nghiên cứu một cách toàn diện, nhưng từ việc tìm hiểu con người, cuộc đời Xuân Quỳnh, đặc biệt từ chính thơ chị, các tác giả cũng đã khắc họa được những nét cơ bản nhất trong phong cách thơ chị. Các cuốn sách của Vân Long, Ngân Hà, Vũ Thị Kim Xuyến đã tập hợp được nhiều bài viết về Xuân Quỳnh. Đó là những kí ức, cảm nhận của bạn bè, đồng nghiệp và người thân dành cho chị. Ngoài những tình cảm yêu thương, nhớ nhung, luyến tiếc, một số bài viết đã đề cập đến phong cách sáng tạo nghệ thuật của thơ chị. Trong bài “Thơ tình Xuân Quỳnh - sự thê hiện sức mạnh của một lảm hổn phụ nữ” [25;96], tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc đã khẳng định Xuân Quỳnh có “trái tim yêu rộng mở, ỏm trùm” và chính nhờ có trái tim yêu thương ấy, Xuân Quỳnh thực sự là “biểu hiện của một tâm hồn phụ nữ rất phong phú” với một “tâm hồn thơ trong sáng, yêu đời, trẻ trung, hồn nhiên” [25; 105]. Mảng thơ tình yêu của Xuân Quỳnh có lẽ là nơi gập gỡ của nhiều cây bút, là nơi các tác giả khẳng định tài năng của chị. Nguyễn Thị Minh Thái qua bài viết “Mộ/ giọng thơ tìm ám ảnh” đã gọi vẻ đẹp thơ Xuán Ọuỳnh là vẻ đẹp “đẫm tình” Thơ chị là những câu thơ không thuận bằng, trắc khôns dễ thuộc lòng nhưng sẽ mắc lại ở hổn người và trở thành những câu thơ “thuộc nỏm lòng". Nguyễn Thị Minh Thái đã nhận xét rất hình ảnh về thơ Xuân Quỳnh “Những câu thơ ấy giống hệt như những giọt nước sau cơn mưa qua, còn đọng lại trên lá cây. Chỉ cần một làn cảm xúc chợt đến, khẽ chạm vào lá, là những câu thơ ấy sẽ rơi rụng ngay xuống vùng tâm thức và mổn một hiện lên giữa lòng ta... Có lẽ cái “khát vọng tình yêu” từng thiêu đốt thơ Quỳnh cũng thiêu đốt luôn cả người đọc nó” [25; 121].
12
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ____ _______
Lưu Khánh Thơ qua sự “Cảm nhận vê thơ Xuân Quỳnh", cho rằng Xuân
Quỳnh viết về tình yêu bằng một chất thơ trong sáng, nồng nàn, da diết. Ở nhà thơ này luôn có nỗi khát khao về một tình yêu muôn thuở, một hạnh phúc đời thường bình dị. Tác giả lý giải nỗi khắc khoải không yên - cái mà người đọc cảm nhận được ở thơ Xuân Quỳnh cũng chính do sự khao khát này. Tuy nhiên “không phải vì thế mà tình yêu trở nên hư vô, huyền bí. Trái tim nồng nhiệt của một phụ nữ suốt đời khao khát tình yêu rấl biết nâng niu quý trọng niềm hạnh phúc đã có thật trong đời” [25; 14]. Đây là một phát hiện rất xác đáng về con người Xuân Quỳnh trong thơ: “Bao giờ chị cũng đẩy mạnh cảm xúc lên ở mức cao nhất. Chị luôn luôn nói đến tận ' cùng những tình cảm của mình. ( . . . ) Xuân Quỳnh đã đem chính cuộc đời mình ra để đổi lấy những câu thơ” [25; 15]. Cũng đi vào mảng thơ tình Xuân Quỳnh, Đoàn Thị Đặng Hương với bài viết tuy ngắn nhưng đã dựng được bức phác thảo chân dung “Người đàn bà yéu và làm thơ'\ Với những nhận xét tinh tế, sắc sảo, có sức khái quát, người viết cho rằng: “Thơ tình của chị bao dung và chở che, mãnh liệt và nhân hậu, đó là một giọng điệu
riêng độc đáo, đằm thắm và táo bạo” [25;92]. Đoàn Thị Đặng Hương cũng thống nhất với Lưu Khánh Thơ về con người Xuân Quỳnh qua nhận xét: Xuân Quỳnh “đã đưa vào thơ chính bản thân mình, đưa chính cuộc đời mình vào đó để đánh đổi, để trả giá cho nghệ thuật” [25;89].
Lại Nguyên Ân thấy hiển hiện lên trong thơ Xuân Quỳnh hình ảnh một thiếu nữ bước vào tuổi yêu đương, một người mẹ trẻ phập phồng ngày tháng theo dõi mồi hơi thở, mỗi bước đi của con mình. Đó chính là trái tim của một người yêu lý tưởng, một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh. Và tác giả cũng thống nhất: Cái mà Xuân Quỳnh viết nhiều nhất, thành công nhất là “về chính cuộc đời mình, những chuyện của mình, những gì liên quan đến mình” [95; 143] và nhờ nó, “chị trở thành nhà thơ được công chúng ái mộ” [45; 144]. Bài viết của Vương Trí Nhàn, Nguyễn Trọng Hoàn cũng có những nhận xét
tương tự. Các tác giả nhấn mạnh về diện mạo thơ tình yêu Xuân Quỳnh: Thơ tình yêu Xuân Quỳnh là sự khát khao yêu đương, khắc khoải kiếm tìm.
Thơ Xuân Quỳnh không chỉ được các tác giả khai thác ở mảng thơ Tinh yêu mà qua các bài viết chúng ta thấy các tác giả còn đi sâu vào nỗi ám ảnh trong thơ chị. Chu Văn Sơn, với cách nói hình tượng, đã mượn hình ảnh “Cánh chuồn trong giông bão ” để khái quát về một đời thơ, một giọng thơ. Một cánh chuồn mỏng Iĩìanh, dễ bị vùi dập trước giông bão, làm anh liên tưởng đến hình ảnh một Xuân
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _ _ ____ ___ _ ___
Quỳnh nhỏ nhoi, chao đảo giữa dòng đời. Từ đó, người viết nhấn mạnh giọng điệu lo âu và cho rằng lo âu là điệu tâm hồn chị.
So sánh Xuân Quỳnh và thơ chị với kiếp hoa dại, nhà phê bình Vương Trí Nhàn cảm nhận “mó tip thường trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh là cỏ dại, hoa
dại với tất cả những buồn vui của kiếp hoa dại” [25; 154]. Và “trong hình ảnh hoa dại, nhà thơ không chí tìm thấy niềm an ủi, ở đó còn bao hàm cả lời thú nhận về sự bất lực của bản thân, cả nỗi hờn tủi, oán trách”. Nhưng sự kì diệu ở Xuân Quỳnh là "đã vượt qua được những đau khổ tiếp tục sống” [25; 155].
Còn trong bài “Những tình cảm trắc ẩn trong thơ Xuân Quỳnh”, Nguyền Hòa Bình lại nhân mạnh đến cảm xúc thương thân của thơ Xuân Quỳnh khiến người đọc không dẻ gì dửng dưng. Tác giả nhận xét thơ Xuân Quỳnh “là thơ cùa một tấm lòng giàu yêu thương và xúc cảm, tấm lòng đầy trắc ẩn sâu xa thương người và thương thân, trước những vất vả bất trắc dữ dằn của cuộc đời” [125; 171]. Các bài phê bình nghiên cứu cũng rất chú trọng đến giọng điệu thơ Xuân Quỳnh. Đó là giọng ru “mang dự báo thẩm m ỹ' (Mã Giang Lân) “điểm sắc sảo hơn cả trong nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh có lẽ là giọng điệu thơ. Chị hay chọn lời ru hoặc lấy cảm hứng lời ru làm giọng điệu cho bài thơ của mình”. Với lời ru ấy “Xuân Quỳnh đã chọn được một giọng điệu thích hợp cho tiếng hát của tâm hổn chị” (Lưu Khánh Thơ) [125; 199]. Nguyên Hòa Bình cũng chung một nhận xét: “Thơ Xuân Quỳnh với những điệu hát ru là một sự kế tiếp tự nhiên nhưng lại mang một dự báo thẩm mỹ, tiếng hát ru ấy đã an ủi cuộc đời chị được bao nhiêu và phải chăng chị cũng đã nhận lại được bao nhiêu an ủi của cuộc đời” [ ỉ 25; 1611- Tóm lại: Điểm lại tình hình nghiên cứu thơ Xuủn Quỳnh trên đây, ta thấy cùng với thời gian, thơ chị ngày càng khẳng định và được yêu thích. Quá trình nghiên cứu về Xuân Quỳnh nhìn chung theo sát những bước phát triển, chuyển biến trong những chặng đường thơ chị. Tuy quá trình nghiên cứu chia làm hai thời kỳ: Sau tập “Chồi biếc”, “Tự hát", “Sân ga chiều em đi" cho đến những năm sau đó khi Xuân Quỳnh qua đời, song các nhà nghiên cứu đều có chung hướng khai thác: Đề tài tình yêu, hạnh phúc đời thường, khát vọng tình yêu, hạnh phúc, ngôn ngữ, giọng điệu giàu chất dân gian, trong sáng, giàu tính nữ... từ đó kết luận thơ Xuân Quvnh có bán sắc, có giọng điệu riêng bắt nguồn từ một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm. Các tác giả cũng nhận định: Thơ Xuân Quỳnh chính là cuộc đời chị, con người chị. Tài năng thơ và những tư tưởng, phong cách độc đáo, mới lạ của Xuân Quỳnh
14
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _______________________ ______________
đã trở thành một hiện tượng nghê thuật độc đáo cho nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học viết về chị. Ngoài ra, còn có rất nhiều bài viết dưới dạng bình giảng thơ Xuân Quvnh được tuyển chọn vào trường THPT như bài viết của Nguyễn Vãn Long. Trần Đăng Xuyền, Hà Minh Đức, Nguyễn Đãng Mạnh... Bên cạnh những bài viết đã đăng trên báo, trên sách là các công trình nghiên cứu về để tài Xuân Quỳnh của các nghiên cứu sinh, thạc sĩ, các sinh viên làm khóa luận tốt nghiệp... Trong luận văn thạc sĩ “Những chặng đường thơ Xuân Quỳnh". Chu Thị Thơm cũng đã đi sâu tìm hiểu các chặng đường thơ Xuân Quỳnh, quá trình vận động cùa cái tôi trữ tình trong thơ chị qua hai giai đoạn: trước và sau chiến tranh, đê từ đó khái quát quá trình sáng tạo của Xuân Quỳnh, khẳng định vị trí của Xuân Quỳnh trong nền thơ hiện đại. Nói về thơ tình yêu của Xuân Quỳnh, Chu Thị Thơm gọi đó là: “Một tri thức và văn hoá yêu của Xuân Quỳnh”. Đó là một nhận xét rất hay và tinh tế về thơ tình yêu Xuân Quỳnh. Trong báo cáo khoa học “Cảm thức thời gian trong thơ nữ sĩ Xuân Quỳnh". Phạm Thị Kim Anh đã đưa ra một cái nhìn sâu sắc hơn về một khía cạnh trong thư Xuân Quỳnh. Đó là Thời gian. Từ đó gợi cho ta nhiều suy nghĩ về quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ... Tuy vậy, những công trình nghiên cứu, những bài viết về Xuân Quỳnh trước và sau năm 1988 mới chỉ dừng lại ở việc tuyển chọn, biên soạn hoặc là cảm nhận, đánh giá, nghiên cứu về Xuân Quỳnh, về thơ Xuân Quỳnh trên một số bình diện. Qua quá trình tổng hợp, phân tích, thống kê và nghiên cứu chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào về phong cách thơ Xuân Quỳnh. Đó chính là lý do để chúng tôi đi sâu nghiên cứu phong cách thơ Xuân Quỳnh. Các bài viết trên là nguồn tư liệu quý giá đổ chúng tôi tiếp tục viết về chị.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Mục đích :
Luận văn hướng tới mục đích khám phá những đặc điểm, nét độc đáo tạo nên phong cách thơ Xuân Quỳnh. Từ đó, chúng ta có thể đánh giá những sáng tạo và đóng góp của Xuân Quỳnh cho nền nghệ thuật thơ đương đại; khẳng định vị trí cúa thơ Xuân Quỳnh trong nền Văn học Việt Nam hiện đại.
15
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đối tương tìm hiểu chính của đề tài là phong cách thơ Xuân Quỳnh. Vì vậy, trong quá trình tìm hiểu, để có cơ sỏ lý luận vững chắc, chúng tôi sơ lược tìm hiếu thèm về khái niêm lý luận văn học có liên quan là “Phong cách". - Để đáp ứng những yêu cầu của đề tài, chúng tôi tập trung khảo sát các tập thơ: + Chổi biếc (trong tập ‘T ơ tằm - chổi biếc”, in chung với cẩm Lai) - NXB Văn học, 1963.
+ Hoa dọc chiến hào (NXB Văn học, 1968). + Gió Lào cát trắng (NXB Văn học, 1974). + Lời ru trên mặt đất (NXB Tác phẩm mới, 1978). + Sàn ga chiêu em đi (NXB Văn học, 1984). + Tự hát (NXB Tác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam, 1984).
+ Hoa cỏ may (NXB Tác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam, 1989). Ngoìú các tập thơ trên, tác giả Xuân Quỳnh còn có các tập thơ và truyện dành cho thiếu nhi: ""Bầu trời trong quả trứng” (Thơ); “Truyện Lưu, N g u y ễ n “Co/Ỉ yêu mẹ" (Thơ); “M/ì<7 xuân trên cánh đồng'’ (Truyện); “Vẩn có ông trăng khác” (Tập truyện ngắn); "'Bến tàu trong thành phổ,'‘ (Truyện); ‘‘Hoa mận trắng” (Tập truyện)... Song, mục đích chính của chúng tôi là nghiên cứu phong cách thơ Xuân Quỳnh nên
chúng tôi chỉ tham khảo các tập thơ, truyện này để hiểu thêm về phong cách thơ chị còn đối tượng chính vẫn là các tập thơ đã nêu ở trên; trong đó chúng tồi có sự liên hệ, so sánh với Ihơ của một số tác giả khác: Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn.
Ý Nhi, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư... để thấy được nét riêng biột, độc đáo trong phong cách thơ Xuân Quỳnh. Đồng thời, chúng tôi cũng ưu tiên phân tích kỹ những tác phẩm thể hiện rõ hơn phong cách thơ của nữ thi sĩ này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ trên, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
4.1. Phương pháp thống kê, phàn loại:
Bằng phương pháp thống kê, phân loại một vài biểu tượng nghệ thuật qua hình ảnh, ngôn ngữ thơ... những yếu tố nghệ thuật có tần số xuất hiện cao trong các tác phẩm để nắm được tín hiệu nghệ thuật, sau đó tiến hành phân loại các tài liệu theo yêu cầu có của đề tài, từ đó có thể đưa ra những kết luận mang tính khoa học.
16
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
4.2. Phương pháp so sánh, dói chiếu:
Luận văn sứ dụng phương pháp này để làm rõ giọng điệu, phong cách thơ Xuân Quỳnh, những nét độc đáo trong phương thức biểu hiện của ngôn ngữ thơ. hình ánh thơ, các quan niệm về thời gian, không gian... Phương pháp này, một mặt được áp dụng với các tác phẩm của chính tác giá; mặt khác, với các tác phẩm của các tác giả cùng thời. Điều này, giúp chúng ta thấy được sự độc đáo trong phong cách của tác giả, cũng như thấy được điểm gặp gỡ và sự khác biệt giữa Xuân Quỳnh với các tác giả khác. Mục đích của phương pháp này là khẳng định những đóng góp của Xuân Quỳnh, phát hiện những đặc sắc trong thơ Xuân Quỳnh, thấy được sự khác biệt trong phong cách thơ của tác giả so với một số gương mặt thơ khác.
4.3. Phương pháp phán tích, chứng minh:
Đây là một phương pháp không thể thiếu được của quá trình phân tích, cảm
thụ thơ. Với đề tài này, chúng tôi tiến hành phân tích kỹ một số tác phẩm, hình tượng thơ... có tác dụng soi sáng và khắc sâu phong cách thơ Xuân Quỳnh.
4.4. Phương pháp hệ thông:
Việc nghiên cứu một tác giả được xem như nghiên cứu một chính thể nghệ thuật và một chỉnh thể nghệ thuật bao giờ cũng có tính hệ thống. Mặt khác, phong cách không phải là một khái niệm “dĩ thành bất biển”, nó vừa có tính đa dạng nhưng đồng thời cũng có tính thống nhất. Do vây, chúng ta phải tìm được tính ổn định, thống nhất trong tính đa dạng của phong cách. Để luận văn giàu tính khoa học và có hệ thống, chúng tôi sẽ phối hợp chật chẽ giữa 4 phương pháp trên để có thể khẳng định một cách đầy đủ, chính xác, giàu sức thuyết phục về phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các thao tác nghiên cứu cùa thi pháp học, phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu nhằm đi đến xác định phong cách riêng độc đáo của Xuân Quỳnh.
17
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xu án Quỳnh
5. Đóng góp cùa luận vãn:
Trước hếl là sự hữu ích với bản thân. Người viết coi đây là một cơ hội để bày tò. chia sẻ những nghiên cứu của bản thân với bạn bè, đổng nghiệp, với các bạn đọc vêu mến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. Hi vọng luận văn giúp người đọc có cái nhìn hệ thống về những vấn đề, những kiến thức liên quan đến chân dung phong cách một tác giả nữ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Sau nữa, trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các nhà nghiên cứu trước viết về
Xuân Quỳnh. luẠn vãn muốn nghiên cứu một cách toàn diện về Xuân Quvnh và chỉ ra những phẩm chất thuộc về phong cách thơ của chị. Từ đó góp phần đánh giá một cách có căn cứ, khoa học những đóng góp và vị trí của Xuân Quỳnh trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
6. Câu trúc luận văn:
Ngoài phấn Mớ đầu, Dẫn luận và Kết luân, luận văn được chia làm 3 chương như sau: Chương 1: Cái lôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh. Chương 2: Những cảm hứng lớn trong thơ Xuân Quỳnh. Chương 3: Nét độc đáo vể phương thức biểu hiện thơ Xuân Quỳnh.
18
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
DẪN LUẬN: PHONG CÁCH
Phong cách là một trong những khái niệm được sử dụng rộng rãi và bàn luận nhiều nhất không những trong sáng tác, nghiên cứu vãn học mà còn trong nhiều
ngành khoa học khác, kê cả trong đời sống xã hội. Phong cách được hình dung như sau: Phong cách là những “nét", "kiểu ”, "thể", “điệu ” riêng biệt có tính ổn định và độc đáo của đôi tượng.
Trong sáng tác và nghiên cứu văn học, khái niệm phong cách đã được biết đến ngay từ thời cổ đại. Trước hết là ỏ phương Tây với các đại biểu như Platôn.
Aristôle... “Tính cách thế nào thì phong cách thế ấy” (Platôn), “Lời nói là diện mạo cùa tâm hồn” (Sinle). Vào thế kỷ sau, ở phương Đông, nhà lý luận văn học nổi tiếng Lưu Hiệp cũng thống nhất ý kiến với các đại biểu phương Tây khi ông cho rằng “văn như kỳ nhãn”. Nhưng ông đã tiến xa hơn các nhà triết học cổ đại phương Tây ở việc dành riêng hai chương ‘T hể tính” bàn về phong cách tác giả và “Định thể" bàn
về phong cách thể loại. “Theo Lưu Hiệp, nội dung quyết định thể tài và mỗi thể tài cũng có phong cách riêng... Bởi vậy, người lấy kinh điển làm mẫu mực thì tự nhiên
đi vào cái đẹp cổ điển, trang nhã, người theo kiêu cách thể “tao” thì tự nhiên hướng tới vé đẹp diễm lệ. siêu phàm...” [92; 90-91]. Sang thế kỷ XVIII, Butfon định nghĩa: “Phong cách chính là bản thân con người”. Đến thế kỷ XÍX, cuộc bàn luận về phong cách ngày càng trở nên sôi nổi với
sự góp mặt của các đại biểu như nhà văn Stendhal, Balzac, các nhà lý luận văn học như Saint - Beuve, các triết gia như Herbert. Spencer, các nhà ngôn ngữ học như Steithal... Xuất hiện muộn hơn, song các công trình nghiên cứu của các nhà văn, nhà ]ý
luận văn học Việt Nam đã bước đầu bắt nhịp với công cuộc tìm kiếm về mặt lý luận đối với vấn đề phong cách trong vãn học. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: Một số vấn dê thi pháp học hiện đại (Trần Đình Sử), Dẫn luận phong cách học (Nguyền Thái Hòa), Nhà văn tư tưởng và phong cách (Nguyễn Đăng Mạnh); Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiểu (Phan Ngọc); Những thế giới nghệ thuật thơ (Trần Đình sử); Thi pháp hiện đại (Đỗ Đức Hiểu)... Tác phẩm và chân dung (Phan Cự Đệ), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (Tôn Phương Lan)... Khi tổng kết lại các thành tựu cơ bản đã đạt được, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã thống nhất và đưa ra những kiến giải có ý nghĩa khoa học tích cực: “Phong cách là một phạm trù thẩm mỹ, chi' sự thống nhất tương đối ổn định của hệ
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
thõng hình tượng, của các phương tiện nghệ thuật, nói lẻn cái nhìn độc dáo trong sáng tác cùa một nhà vãn, trong tác phiỉni riéng lẻ, trong trào lưu vãn hoc hav vãn học dãn tộc...; các dáu hiẽu cùa phong cách dường như nổi lẽn trèn bề mặt lác pham, như là một thể thống nhát hữu hình và có thế tri giác được tất cả mọi yếu tỏ cơ bản của hình thức nghệ thuật” [79; 170].
Đề cặp cái nhìn độc đáo trong sáng tác chính là sự khẳng định mọi nhà văn. nhà thơ đều có những tác phẩm của riêng mình. Song, không phải bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào cũng tạo đươc cho mình một phong cách riêng.
Nhà vãn muốn có phong cách riêng trước hết phải có tư tưởng nghệ thuật riêng, có cách cảm nhận riêng độc đáo về thế giới, con người và thông nhất, phù hợp với tư tưởng và cách cảm nhận nghệ thuật độc đáo ấy là hệ thống bút pháp, giọng điệu, ngôn ngữ cũng hết sức độc đáo. Tất cả những biểu hiện tập trung, thông nhất
và có tính quy luật này (thể hiện qua sáng tác) bộc lộ tài nãng và bản lĩnh cúa người nghệ sỹ. Một phong cách như vậy, dĩ nhiên sẽ giàu sức khu biệt với những hiện tượng văn học nhưng cũng đổng thời mang dấu ấn của dân tộc, dấu ấn của thời đại.
Phong cách không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, tự phát mà là cả một quá trình vân động, biến chuyển, thậm chí có những thay đổi... nhưng thực sự bên trong của nó là những nét thống nhất, ổn định và xuyên suốt. “Sáng tạo thì luôn luôn phải dổi mới. Nhưng dù đổi inứi như thè nào, phong cách vẫn vận động trên một cơ sở thống nhất, khiến cho tác phẩm của nhà vãn dù có những nét khác nhau, vản là tác phẩm của ông ta chứ không phái của ai khác. Phong cách một khi đã dịnh hình, thì thường có tính bển vững” [49;9]. Tuy nhiên khi bắt tay vào nghiên cứu một phong cách cá nhân, chúng ta cần đưa ra những tiêu chí đê khảo sát, đánh giá. Và điều này càng đặc biệt cần thiết đối với đối tượng phong cách thơ trữ tình. Do phong cách là một khái niệm bao hàm cả nội dung và hình thức, nên trước những đối tượng nghiòn cứu khác nhau, chúng ta cần linh hoạt áp dụng các tiêu chí để khảo sát, đánh giá. Với đề tài nghiên cứu này, trong quá trình triển khai các nội dung chúng tôi đưa ra một số bình điện để tìm hiểu phong cách tác giả ớ thổ loại thơ trữ tình.
* Đề tài, chủ đề * Hình ảnh * Ngôn ngữ * Giọng điệu * Không gian và thời gian nghệ thuật * Cái tôi trữ tình
20
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
CHƯƠNG 1
CÁI TÔI TRỪ TÌNH TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
Sáng tác thơ ca là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc mãnh liệt bên irong. Bởi thế, irong thơ. vấn đề chủ đề, cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt quan irọng. Ngay từ thế ký XVIII-XIX, một số nhà mỹ học tiến bộ đã xem thơ trữ tình là sự biểu hiện và cảm thụ của chủ thể. Với định nghĩa của Hêghen: “Nguồn gốc và điểm tựa của trữ tình là của chủ thể và chủ thể là người duy nhất mang nội dung”. Có thể quan niệm rằng, cái tôi trữ tình là nội dung, đối tượng cũng như bản chất của tác phẩm trữ tình. Đối với thơ trữ tình, vai trò chủ thể có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cái tồi trữ tình là hình tượng trung tâm trong thơ trữ tình, là chủ thế sáng tạo của thơ ca. “Thơ ca muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể sáng tạo trước con người và tạo vật. Mây gió cỏ hoa xinh tươi kỳ diệu đến đâu hết thảy cũng đều tự lòng mình nảy ra” (Lý Hoài Thu - Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám - 1945, NXB Giáo dục - Tr. 9). Cái tôi trữ tình là sự tự ý thức của cái tỏi trong nghệ thuật, cái tôi của hành vi sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được thê hiện thông qua phương tiện trữ tình. Nếu như trong tác phẩm văn xuôi tự sự cái tôi nghệ thuật bộc lộ gián tiếp qua những hình tượng khách quan, trong kịch - tác giả hoàn toàn giáu mình thì trong tác phám trữ tình cái tôi bộc lộ trực tiếp. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ bộc lộ bán sắc tâm hồn, tài năng sáng tạo và khả năng đổng hóa hiện thực của mỗi nhà thơ. Việc nghiên cứu phong cách trong thơ trữ tình là nó có thể đề cập đến một thực thể gắn bó sâu sắc nhất, phản ánh trực tiếp nhất hay nói đúng hơn chính là trung tâm, là hạt nhân, là cốt lõi của khái niệm phong cách nhà thơ - đó là cái tôi trữ tình.
Xem xét cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, ta cũng sẽ tiếp cận ở thi sĩ tài hoa này ở cách cảm thụ đa chiều nhưng vẫn rất mực bình dị
Là thế hệ các nhà thơ nữ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Xuán Ọuỳnh cùng các nhà thơ khác đã đi qua cuộc chiến tranh đến cuộc sống hòa bình. Những vần thơ của các chị mang dấu ấn của thời đại chống Mỹ - thời kỳ đau thương nhưng cũng đầy vẻ vang của dân tộc và dấu ấn của thời kỳ hòa bình - khi chiến tranh khép lại, con người trở về với cuộc sống thời bình với cuộc sống thường nhật, chồng chất những lo toan, băn khoăn, suy ngẫm về tình yêu và thân phận. Các chị đã
21
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
thổi vào thơ ca một luồng sinh khí của thời đại. Đa dạng, đa sắc, các chị đã góp phần thổ hiện tâm hổn con người Việt Nam với cái tôi trữ tình nhiều dáng vẻ.
Nổi bật trong vườn hoa đầy sắc hương của thơ ca chống Mỹ là gương mạt nữ
si thĩ Xuân Quỳnh. Hổn thơ Xuân Quỳnh là một hồn thơ có nhiều dáng vẻ, sắc thái, luôn vận động biên đổi nhưng vẫn nhất quán trong suốt hành trình sáng tạo. Dù ớ
giai đoạn nào, thơ chị vẫn lấy cái tôi nữ tính làm trung tâm cho mọi sự cảm nhận về thế giới. Đến với thơ Xuân Quỳnh, từ buổi ban đầu với những bài thơ còn mộc mạc. non nớt đến những bài thơ già dặn, đã đi vào độ chín của một phong cách thơ đều thấy có sự liền mạch thống nhất của một trái tim luôn đập những nhịp đập “dữ dội và dịu êm ”, "ồn ào và lặng lẽ". Chị mang đầy đủ phẩm chất của con người thời hiện đại lại đổng thời có những phẩm chất tự ngàn xưa, riêng biệt rất nữ tính: Nồng nàn, say đám, khao khái yêu thương nhưng cũng rất vị tha, sản sàng hy sinh, dâng hiên; rất mãnh liệt, táo bạo nhưng vản vô cùng đằm thắm, dịu dàng, nữ tính; dầy dam mê, khao khát nhưng cũng rất biết chi chút cho cuộc sông đời thường; tràn đầv tình yêu cuộc sống mà vản còn những mặc cảm, lo âu. Tất cả là những đối cực trong hổn thơ chị - hồn thơ giàu tính nữ của một người đàn bà Uyêu và làm thơ". Sự kết hợp khá hài hòa những phẩm chất vốn tương khấc thành mộl chính thê thống nhất, một nhân cách độc đáo, một cá tính sáng tạo, một cái tôi giàu nữ tính là
điều tạo nên bản sắc riêng của Xuân Quỳnh. Trong phần trình bày này, người viết đây là vương quốc để Xuân Quỳnh chủ yếu đi vào địa hạt thơ tình Xuân Quỳnh bộc lộ mình, bộc lộ “cái tỏi” rất Xuân Quỳnh.
1.1. Cái tỏi nổng nàn, đám say, yêu thương, khát khao hạnh phúc mà vị tha, sẵn sàng hy sinh, dâng hiến.
1.1. 1. Cái tôi nổng nàn, đắm say, yêu thương, khát khao hạnh phúc...
Hành trình thơ Xuân Quỳnh bắc cầu giữa hai giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ và những nãm sau chiến tranh. Khi tập thơ đầu tay “Chồi biếc” ra đời, cũng là lúc cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh xuất hiện trong sự gắn bó với cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam giai đoạn chống Mỹ.Trong tập thơ đầu tay này, tâm hồn người thiếu nữ Xuân Quỳnh đã bộc lộ chân thực và cởi mở. Tinh cảm của chị thuớ ấy trong sáng, hồn nhiên kiểu như tình yêu đầu đời của một cô gái trẻ. Rất nhẹ nhàng, tinh tế, chị thấy mình như biển của “nliững đêm trăng hiền tiT đang “thầm thì" gửi tâm tư “quanh mạn thuyền sóng vỗ". Qua năm tháng, tình yêu của chị chín
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
dần, cái tòi trong thơ chị không chị có vẻ đẹp mơ mộng, sôi nổi mà ngày càng thêm nồng nàn , tha thiết.
Xuân Quỳnh không phải là con người sinh ra để hướng hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc, tình yêu lạ là cái đích cao cả để chị vươn tới. Có lẽ, chính vì vậy mà chị
đã tìm đến với thơ tình như một cứu cánh của đời mình. Ở đó, chị là người đàn bà khi tính thì tinh hết mình, tỉnh để nhận biết tình yêu không là vĩnh viễn “Hôm nay
yêu, mai có thế xa rồi” và khi say cũng say hết mình “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nếu như trong lao động nghệ thuật cần có sự hết mình thì chính ớ đây Xuân Quỳnh đã đặt trọn cuộc đời mình để có những vần thơ tình cháy bỏng.
Trong sô những nhà thơ nữ Việt Nam, có lẽ ngoài Hổ Xuân Hương thì chỉ có duy nhất một Xuân Quỳnh luôn tự hát về mình bằng trái tim đắm đuối trong sóng
nhạc tình yêu. Những bài thơ của chị là một bản giao hưởng về tình yêu nồng nàn. tha thiết, rạo rực, mãnh liệt không bao giờ ngưng và mỗi cung nhạc là một giai điệu của cơn sóng tình trong trái tim yêu. Mỗi lần nhịp đập trong trái tim rung lên, niềm
khát khao mãnh liệt không giấu giếm được lại bật lên thành lời và chị lại tự hát, những khúc hát tình ca say đắm để khẳng định mình, để giải toả những cảm xúc đang cháy bỏng trong lòng: “Em yêu anh, yêu anh như điên Em viết những bài thơ tình yêu tưởng anh là ý, tứ” (Thơ viết cho mình và những người con gái khác) Người con gái dang yêu trong thơ Xuân Quỳnh thật là mạnh mẽ. Để có thể thốt lên cho cả thế giới biết rằng “yêu anh như điên” thì chỉ có ở một trái tim đắm say, nồng nàn và một tình yêu vượt qua cả bản thân mình của Xuân Quỳnh. Chị yêu đến nỗi lầm tưởng tiếng đập trong tim mình là “Tiếng tim anh đang đập vì em Rồi trong cả những bài thơ chị viết, từng câu, từng chữ choáng ngợp hình ảnh anh. Anh trờ thành “ý”, thành '"'tứ' nung nấu, thức giục hồn thơ chị, giúp chị cất cánh, hát lên những lời yêu thương tha thiết từ trái tim mình. Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, nghĩa là khi chị mới 25 tuổi - cái tuổi căng đầy sức sống, dạt dào tình yêu. Bởi vậy, dù đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu nhưng người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời ấy vẫn còn ấp ù biết bao hy vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào tình yêu, hạnh phúc. Chị vẫn tin vào một tình yêu lớn như con sóng nhất định tới bờ “dù muôn vàn cách tr đ \ Trái tim dung dị, hồn nhiên của Xuân Quỳnh như một con sông vân hành ra biển khơi với những con sóng nồng nàn, đắm say, khao khát vị mặn mòi nơi biổn cả:
23
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
“Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể” (Sóng) Hình tượng “sóng" ấy chính là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. "Sóng” và ‘W chí là một, hoà nhập, quấn quýt trong sự khao khát vô bờ. “Sóng" đối sánh với khao khát tình yêu và hạnh phúc của chủ thể trữ tình: em. “Sóng" và "em” vừa hoà nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau. Xuân Quỳnh nói về nỗi niềm của “sóng”, để từ "sóng", chị hát về chính nỗi niềm mong ước thiết tha. cháy bỏng của mình:
“Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngú được” (Sóng)
Bản chất nồng nhiệt trong tình yêu của Xuân Quỳnh dường như ứng với sức sống ồ ạt, tràn đầy của sóng, của sông, của biển. Chỉ có cháy bỏng, nôn nao, mong ngóng của riêng chị mới có thể viết da diết như thế về sóng và biển - một vùng sóng vỗ da diết, dào dạt trong trái tim đắm say, ngây ngất men tình:
“Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ. Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau - rạn vỡ”. (Thuyền và biển)
Những câu thơ như những lời tự thú ấy đã nói lên rất rõ con người Xuân Quỳnh, nói rõ bản chất cái tồi trữ tình trong thơ chị - bao giờ cũng yêu người vượt qua cả bản thân mình:
Với Xuân Quỳnh, tình yếu nuôi dưỡng và chăm sóc tâm hổn chị, cơ thể chị. Không gặp nhau, không được ở gần nhau thì trái tim đớn đau, quay quắt. Bứi vậy, chị yêu hết mình, yêu như chưa từng bao giờ được yêu “như giông, như gió, như đắm, như chìm”, đến nỗi chị phải bật lên tiếng tự thú về nỗi khát khao chảy bỏng của mình: “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức”.
Đời người là hữu hạn, thời gian là vĩnh hàng, không gian vũ trụ thì bao la, vô cùng vô tận. Con người để đạt được sự vĩnh cửu, sự hoàn thiện thì chỉ có tình yêu là bất tử:
24
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
“Thời gian như là gió Mùa đi cùng tháng nãm Tuổi theo mùa đi mãi Chỉ còn anh và em
Chí còn anh và em Cùng tình yêu ở lại.. (Thơ tình cuối mùa thu) Tinh yôu mãi muôn đời trẻ trung, bất tử như sóng biển cồn cào không bao giờ
ngưng nghỉ, như nỗi khát vọng tình yêu mãi bổi hổi trong lổng ngực tuổi thanh xuân. Con sóng không đứng yên cũng như tình yêu khồng lặng gió. Lấy hình tượng sóng để biểu hiện khát vọng ước mơ của nhân vật trữ tình ‘Vm”, của chính mình bới chị nhìn thấy trong sóng chứa đựng cái không đơn giản, xuôi chiều, chứa đựng ước muốn vượt ra khỏi không gian mà tự nó cho là nhỏ hẹp tù túng. Khi nồi khát khao dâng lên đến tột cùng, Xuân Quỳnh ước được tan ra với
sóng, bởi chí như sóng, trái tim chị mới có thể cất lên tiếng hát yêu thương ngàn năm của mình: “Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu Đé ngàn năm còn vỗ”. (Sóng) “Sóng” khao khát tới biển như tuổi trẻ khao khát tình yêu, khao khát đi đến tận cùng của cảm xúc. Con sóng từ sông ra bể. Con thuyền kia dù đi muôn nơi vẫn trở về biển lớn - tình yêu . Và em dẫu "‘xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam” thì rồi cuối cùng cũng chỉ “hướng về anh”. Chỉ với nôn nao, mong ngóng
cháy bỏng của riêng chị mới có thể viết da diết như thế về sóng. Chỉ có tình cảm đắm say, sâu thắm nơi tâm hồn chị mới có thể viết ra những lời thơ gan ruột như thế.
Từ chính cuộc đời mình, bằng chính tình cảm của mình, Xuân Quỳnh đã tìm được tiếng nói đồng điệu cùa bạn đọc khi đến với thơ của mình.
Xuân Quỳnh đã trải qua mọi cung bậc của tình yêu, có đắm say, có yêu thương, khát khao song cũng có những đắng cay, mất mát. Trải qua đổ vỡ, thơ Xuân
Quỳnh đong đầy những dự cảm về cái mong manh của tình yêu, hạnh phúc. Nhưng ngay trong mất mát, đổ vỡ vẫn hiện lên mộl hình tượng tác giả bao dung độ lượng. Chính vì bao dung độ lượng mà Xuân Quỳnh nhận thấy được những tính cách “Yêu
25
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _________ _______________
thương là lòng anh/ Bao dung là mái phô”. Hành động bên trong thường thấy ở Xuân Quỳnh là con người một mình với riêng mình “ ...đã đi đến tận cùng xứ sở/ Đến tận cùng đau đớn. đến tình yêu”. Có những lúc cái tôi trong thơ Xuân Quvnh cô đơn đến cùng cực như trong bài “Gửi lại thành phố nắng”, "Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại” hay “C/í/ có sóng và em”. Nỗi cô đơn dội lại trong lòng Xuân Quỳnh vang lên rồi chìm trong tuyệt vọng:
“Lời Ihương nhớ ngàn lần em muốn nói Nhưng bây giờ chỉ có sóng và em” Nhưng ngay cả trong những giây phút không bình lặng ấy vẫn hiện lên một Xuân Quỳnh với tha thiết một lòng yêu. Đó vẫn là người đắm đuối vì tình yêu. Dẫu cho là “Yêu là chết trong lòng một ít/ Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu” như nhà thơ Xuân Diệu từng nói nhưng cái tôi Xuân Quỳnh vản không thôi khao khát, không thôi hy vọng. Có lẽ vì vậy mà lời cay đắng, bẽ bàng như thế này thì không hợp với cái tạng của Xuân Quỳnh: “Đừng nói rằng em không yêu anh Nên nói rằng em yêu anh xong rồi” (Tình ca cho người ly hôn) - Nguyễn Duy Nồng nàn, đảm say, tha thiết yêu thương là thế nhưng ở Xuân Quỳnh , tình yêu đồng nghĩa với tấm lòng chân thành, vị tha, sẩn sàng hy sinh, dâng hiến.
1.1.2. ...m à vị tha, sẵn sàng hy sinh, dâng hiến.
Trong thơ Xuân Quỳnh, tinh thần Irách nhiệm, sự đồng cảm sẻ chia và lương tâm của một người cầm bút, một người mẹ, người vợ trẻ luôn vang lên với âm hưởng cao độ. Điéu này được thể hiện ở “Hoa dọc chiến hào”, “Gió Lào cát trắng” đến những câu thơ cuối cùng, mà ta có thể coi như lời trăng trối trước khi vĩnh biệt cuộc đời của chị cũng mang đầy tinh thần trách nhiệm, sự hy sinh dâng hiến của Xuân Quỳnh: “Trái tim này chẳng còn có ích Cho anh yêu, cho công việc, bạn bò” (Thời gian trắng) Dường như ta “nghe thấy trong những câu thơ ấy nỗi đau của một người đã sống hết mình, làm việc hết mình, yêu hết mình để hiến dâng cho nghệ thuật, cho cuộc đời, cho tình yêu chung và riêng bằng sức lực cuối cùng của sự sống phải tính đến từng nhịp đập của một trái tim đau” [ 125; 118]. Chính cách ứng xử nhân bản này đã làm nên phần khác biệt, rất quyến rũ, rất đam mê trong thơ Xuân Quỳnh.
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ____ __
Là một nhà thơ, một người đàn bà giàu tình thương, giàu tinh thần trách nhiệm, trước hết Xuân Quỳnh luôn biết đổng cảm, sẻ chia những nỗi vui buồn của cuộc đời mình bằng trái tim thiết tha, nhân hậu và tràn đầy nữ tính.
Tình yêu của chị không hoàn toàn chỉ có đắm say, “chị muốn bao bọc người yêu trong cái tình thương lớn mà một người đàn bà mạnh mẽ nhất nhân hậu nhất mới có thể có được”(Nguyễn Hoà Bình). Khi đau đớn như Xuân Quỳnh “Mấy năm
rồi thơ em buồn hơn/ Áo em rộng và lòng em tan nát”, người ta có thể chỉ nghĩ đến nỗi đau của mình, song ở Xuân Quỳnh vẫn hiện lên một cái tôi đôn hậu thiết tha. Nỗi đau không chỉ là của riêng mình, mà đó lại còn là nỗi đau của người mình yêu quý nhất. Tinh yêu trong chị là sự xẻ chia, đồng cảm:
“Tóc anh thì ướt đảm Lòng anh thì cô đơn Anh cần chi nơi em Sao mà anh chẳng nói” (Anh)
Biết rằng trong cuộc đời mỗi con người, được tin, được yêu, được quan tâm sẻ chia là hạnh phúc lớn nhất không gì thay thế được. Và ờ đời, con người sợ nhất là sự cô đơn. Thấu hiểu được điều đó, Xuân Quỳnh thường nhắc nhở “anh”, tình yêu của mình với những lời thơ trìu mến như vậy.
Nhu cầu được đồng cảm và xẻ chia chính là nhu cầu tình cảm trong trái tim Xuân Quỳnh. Người con gái dịu dàng, hiền từ là chị luôn luôn nghĩ về người mình yêu, vun đắp nhiều mộng đẹp cho tình yêu của mình:
“Em sẽ kể anh nghe Chuyện con thuyền và biển
Những đêm trăng hiền từ Biển như cô gái nhỏ Thì thầm gửi tâm tư Quanh mạn thuyền sóng vỗ”. (Thuyền và biển) Trong tình yêu, cái tôi Xuân Quỳnh giản dị ngay trong những ước mơ bình
thường nhất, một ước mơ về một ngọn cỏ mọc vô tình trên lối tiễn đưa người yêu. Hay khúc hát ru người yêu ngủ nồng nàn, đầm ấm, có khi chi' là những cử chỉ chăm chút nhưng thấm đượm tấm lòng nhân hậu, bao dung:
“Ngủ đi anh! cứ ngủ Đã có em thức canh Cho đẹp giấc mơ anh Ngủ đi anh! Hãy ngủ” (Ru)
27
N guyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh__________________________________ _
Tấm lòng vị tha, bao dung nơi chị thật rộng lớn. Người đọc không khỏi chạnh lòng khi đọc những câu thơ chị viết cho người mình yêu. Sao nó chân thành và sâu nặng đến vậy!
“Lòng em thương làm sao mà nói được Như trời xanh vô tận mãi màu xanh Dẫu bây giờ em đã ở bên anh Chung lo lắng, chung vui buồn, mơ ước Em vẫn cứ thương về ngày trước Người yêu em thuở ấy có em đâu.. (Thương về ngày trước) Dịu dàng, đằm thắm, chị chăm chút cho anh, cho tình yêu của mình mà không đòi hỏi sự hưởng thụ:
“Uơc chi làm chiếc nón che anh Đêm gió lạnh em xin làm ngọn lửa
Áo ướt ai phơi, ba lô ai xếp hộ Mong sao trời ngừng mưa!”
(Không đề) Bàn tay nhân hậu, chăm lo chân thành cho người mình yêu. Dù đi hết cuộc đời này thì bàn tay ấy vẫn một lòng thuỷ chung, chi chút:
“Nàm tháng đi qua mái đầu cực nhọc Tay em dừng trên vừng trán lo âu Em nhẹ nhàng xoa dịu nỗi đau Và góp nhặt tình yêu từ mọi ngả” (Bàn tay em) Nhiều khi để đánh đổi lấy tình yêu hạnh phúc, Xuân Quỳnh phải dũng cảm. nhân chịu mọi đắng cay ở đời và coi đó là bổn phận:
“Không sĩ diện đâu, nếu tôi yêu được một người Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng...” (Thơ viết cho mình và những người con gái khác)
Với Xuân Quỳnh, chấp nhận hy sinh, sẵn sàng yêu hết mình, vượt qua cả bản thân mình, chị khẳng định “con gái chúng mình" hơn “bọn con trai” ở cái đức biết hy sinh: “ta yêu người con trai không phải vì mình". Từ đó lấy đức hy sinh làm phương tiện chăm lo hạnh phúc:
“Tay này đây, em may áo cho anh Bàn sẽ cắm hoa tường sẽ treo tranh
28
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Em sẽ làm theo những điều anh mơ ước Và khi nào anh buồn, em sẽ hát Bài hát tình yêu ca ngợi con trai”
(Thơ viết chữ mình và những người con gái khác) Được lo lắng, được chãm sóc người yêu là nhu cầu trong tâm hổn chị. Xuân Quỳnh muôn làm cho hai trái tim cùng hoà chung nhịp đập cùng thấu hiểu, cùng ước mơ, cùng khao khát “biết yêu anh và biết được anh yêu”.
Tự nguyện hy sinh, che chở cho người mình yêu là cái tôi rất Xuân Quỳnh. Khi yêu con người trở nên mềm mại, tinh tế, cao quý hơn, người ta muốn sống tốt hơn, nhân bản hơn: . .Đất ơ đây gắn người với con người
Biết yêu thương và hiểu về Tổ quốc Nhưng ở đây chưa bao giờ biết rét Chí mình em nghe rét nhớ về anh.. (Nghe rét đến, nhớ về Hà Nội)
Tình yôu đối với người khác là sự đam mê “những nụ hôn ngây ngất, những vồng ôm ghì xiết chặt, những cái nhìn đắm đuối” (Chu Văn Sơn), còn ở Xuân Quỳnh, tình yêu là “sự gắn bó giữa hai người xa lạ, những nỗi buồn san sẻ cùng nhau”:
“Tay ta nấm lấy tay người Dẫu qua trăm suối ngàn đồi cũng qua”
(Hát ru) Tin vào tình yêu, vào sự gắn bó yêu thương, sự gửi trao nương tựa, sự tin cậy hạnh phúc, Xuân Quỳnh nghiêm ra:
“Rằng tình yêu không thể tách rời Khi đó em là máu thịt anh rồi Nếu cắt đi anh sẽ ngàn lần đau đớn” Trong những vần thơ yêu của Xuân Quỳnh, những cảm xúc mạnh mẽ của yêu thương được bộc lộ chân thành và đằm thắm thiết tha:
“Bàn tay em, gia tài bé nhỏ Em trao anh cùng với cuộc đời em” (Bàn tay em)
Trao bàn tay, trao cả cuộc đời cho người mình yêu và chọn lựa. Đó là niềm tin tưởng vào tình yêu. Không gì hạnh phúc hơn khi có thể hiến dâng cuộc đời mình cho người khác một cách tự nguyện và đầy tin tướng rằng minh sẽ được yêu thương.
29
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _ _ _ _ _
che chở, chăm sóc. Bởi, dù có mạnh mẽ và can đảm đến đâu, người phụ nữ vẫn yếu đuối irong sự yêu thương từ người khác - một người mà mình cũng hết lòng yêu.
Khác với Xuân Diệu, nhà thơ nam hào hoa mang trong mình “cái tôi" tiểu tư sản hó hởi, đam mê, rạo rực vổ vập với những cảm xúc yêu đương tuôn trào, những khát vọng được hưởng thụ không dứt những hoa thơm trái ngọt của cuộc đời trần thế:
“Tôi là một kẻ điên cuồng Yêu những ái tình ngây dại”
(Thở than) Trong tình yêu Xuân Quỳnh gặp thi sĩ đa tình Xuân Diệu ở sắc thái nồng nhiệt nhưng rất riêng bởi người đàn bà làm thơ bằng thân phận. Cùng nói về một tình yêu của biển, ở Xuân Diệu đó là sự cuồng nhiệt, say sưa:
“Anh xin làm sóng biếc Hôn mãi cát vàng em Hôn thật khẽ thật êm Hồn êm đềm mãi mãi Đã hôn rồi hôn lại Cho đến tận muôn đời Cho tan cả đất trời Anh mới thôi dào dạt” (Biển) Còn ở Xuân Quỳnh thành thật mà che giấu. Nhà thơ nói unhẹ nhìtng về những điều bão xoáy ” (Đào Duy Hiệp)
“Nếu từ giã thuyền rồi Biển chi' còn sóng gió Nếu phải cách xa anh Em chỉ còn bão tố”. (Thuyền và biển) Với cái tôi nồng nàn, đắm say, Xuân Quỳnh đã nói thẳng khát vọng tình yêu trần thế của tâm hồn mình với một tâm hồn dịu dàng - đắm say, nồng nàn.
Yêu và được yêu, đó là khát vọng khôn cùng, là ước mơ cháy bỏng của mỗi con người mà Xuân Quỳnh là một điển hình độc đáo. Chị quan niệm tình vêu phải f có nhận và cho. Và ở chị dường như sự cho ấy là vô tận. Chị hiến dâng hết mình với một tấm chân tình nhân hậu, thiết tha:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em Biết khao khát những điều anh mơ ước Biết xúc động qua nhiều nhận thức Biết yêu anh và biết được anh yêu” (Tự hát)
30
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Đó mới là “/rá/ tim” đúng nghĩa, trái tim đích thực của Xuân Quỳnh. Có ai đó đã nói thật đúng rầng: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng hát đắm đuôi trong sóng nhạc tình yêu. trong thế giới tuyệt đẹp của giới trẻ, chỉ có sắc hồng tươi của một thế giới,
không có điều tầm thường và ô trọc, ở đó. dường như tất cả chìm đắm trong tâm hồn của những kẻ yêu nhau. Thế giới ấy có những lời thơ Xuân Quỳnh đang run rẩy trong hạnh phúc.
Ở Xuân Quỳnh, tình yêu là sự sẻ chia tuyệt đối, tin cậy. Vì lẽ đó mà chị yêu say đắm, hết mình. Chị đặt vào đó những khát vọng cháy bỏng và chị hát về nó bằng cả trái tim chân thành, đằm thắm, vị tha:
“Chỉ riêng điều được sống cùng nhau Niềm sung sướng với em là lớn nhất Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực Giây phút nào tim đập chẳng vì anh”. (Chỉ có sóng và em)
Có lẽ, chẳng có nhà thơ nữ hiện đại nào như Xuân Quỳnh có một trái tim yêu say mê, chân thành và mãnh liệt đến như vậy. Trái tim ấy luôn tự hát về mình với
một cái tôi trữ tình trong sáng, nồng nàn, đắm say, khát khao được sống, được hiến dâng hết mình:
“Dáu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương” (Sóng) Tinh yêu làm cho con người ta tự giác nâng cao bổn phận và tinh thần trách nhiệm. Xuất phát từ đó, Xuân Quỳnh luôn khao khái tổn tại vĩnh cửu đê hiến dâng, vun trồng xây đắp cho tình yêu. "Để ngàn năm còn V ớ ” cũng là để ngàn nãm được hiến dâng, sẻ chia đổng cảm, được làm tròn bổn phận với tình yêu của mình.
Cái tôi táo bạo, chủ động, quyết liệt, hiện đại mà vẫn nhuán nhị, nữ 1.2. tính, truyền thông.
1.2.1. Một cái tôi táo bạo, chủ dộng, quyết liệt, hiện đại...
Ngay từ khi xuất hiện trong làng thơ Việt Nam, Xuân Quỳnh đã thực sự gây sự chú ý với những bài thơ tình độc đáo. Là cô gái trẻ song Xuân Quỳnh sớm bộc lộ
về một tình yẽu đích thực, sôi nổi, mạnh mẽ. Trái tim yêu của chị khống chỉ có sự nồng nàn, đắm say mà còn có cả sự táo bạo, chủ động, quyết liệt nhưng điều đặc biệt ở chị đó là nét truyền thống, rất nhuần nhị, nữ tính.
31
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _____ __ _____
Thơ tình của các nhà thơ nữ Việt Nam hiện đại, từ Phan Thị Thanh Nhàn đến Phi Tuyết Ba, tình yêu được biểu hiện hết sức ý nhị. Dịu dàng, kín đáo, mối tình đầu trong sáng, e ấp của người thiếu nữ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn, không có lời. chỉ có mùi hương hoa bưởi ngan ngát:
“Cô gái như chùm hoa lặng lẽ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu...” (Hương thơm)
Còn cô gái trong thơ Phi Tuyết Ba lại không đủ dũng khí và tự tin trong tình yêu của mình. Chỉ vì một lần em lỡ hẹn với anh - thực ra không phải thế - em đã đến nhưng bậc cửa phòng anh có một đôi guốc đỏ. Em đã dừng lại không dám bước vào. Hết sức dè dặt, “chẳng biết vì sao chân em lui bước”, “khó bước qua” đôi guốc ấy, mặc dù biết rằng “c/i/ một bước thôi là hết cách xa”, để rồi một mình phải ngậm ngùi vì cái điều “anh không biết ấy”. Đoàn Thị Lam Luyến mạnh mẽ hơn nhưng vẫn bị động. Thơ tình của chị trĩu nặng một nỗi buồn câm nín, có gì đó rất tuyệt vọng:
“Giá được một chén say mà ngủ suốt triệu năm Khi tỉnh dậy anh đã chia tay với người con gái ấy Giá được anh hẹn hò dù phải chờ lâu đến mấy Em sẽ chờ như thể mộl tình yêu” {Huyền thoại) Rồi Thúy Bắc, luy đã táo bạo hơn trong ý thơ “Em nghiêng hết về phương anh” nhưng đó vẫn chỉ là một chút “sợi nhớ, sợi thương Với Xuân Quỳnh thì lại khác, chị rất mạnh dạn trong tình yêu, biết vượt qua những vấp váp, đau khổ, những lỗi lầm để tiếp tục sống, tiếp tục yêu. Người phụ nữ yêu đương trong thơ chị đã chủ động đến với tình yêu, không ngần ngại bày tỏ những khát vọng hạnh phúc. Yêu và được yêu, đó là khát vọng khôn cùng, là ước
mơ cháy bỏng của mỗi con người mà Xuân Quỳnh là một điển hình độc đáo. Chị không bao giờ giấu giếm hay chôn chặt nó ở trong lòng như bao người con gái khác:
“Như các cô, tôi có một tình yêu rất sâu Rất dữ dội nhưng không bao giờ yêu hết được
Ở các cô, các cô âm thầm chịu đựng Cho đến ngày tình yêu ấy tắt đi Còn ở tôi, tôi mang nó nặng nề Muốn nguôi quên, nó lại ngày càng lớn Luôn xáo động, tôi không sao ngủ được Không làm sao có thể ngồi nguyên.. (Thơ viết cho mình và những người con gái khác)
32
J
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Phải nói rằng, cái tôi yêu đương trong thơ tình Xuân Quỳnh mang sắc thái táo bạo và nhiều khi còn dữ dội nữa. “Chị là một trong những tiếng thơ rất sớm của một người con gái, một người đàn bà đã chủ động yêu và đòi quyền được yêu” (.....). Nếu như ở cái thời ấy, người ta quen nhìn phụ nữ trong tình yêu (dẫu là trong văn học) một vai trò bị động và yếu đuối thì cách nói của Xuân Quỳnh thật đáng nể. Rõ ràng, trong tình yêu, Xuân Quỳnh có quan niệm hết sức mới mẻ, hiện đại. Chị đã mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình không một chút ngại ngần, giấu giếm: “ ...Nếu đời anh đã xếp thành ngãn Em sẽ đảo tung lề thói cũ..
(Thơ viết cho mình và những người con gái khác) Xuân Quỳnh không bị tình yêu làm cho bất ngờ, thụ động bởi cả cuộc đời, trong nhọc nhằn và nước mắt, chị đã vượt chông gai sóng gió để tìm kiếm tình yêu. Hạnh phúc đến với chị cũng nhọc nhằn đằng sau cuộc hành trình vất vả ấy:
“Tôi đã đi đến tận cùng xứ sở Đến tận cùng đau đớn, đến tình yêu” (Thơ tỉnh viết cho bạn trẻ)
Có một nhà phê bình đã ví Xuân Quỳnh là một Hồ Xuân Hương của thời nay. Bởi ông đã nhận ra cái khát vọng hạnh phúc đích thực lớn lao của hai người phụ nữ cách xa nhau hàng thế kỷ ấy. Một Xuân Hương thách thức cả lề thói phong kiến và những hủ tục lạc hậu đã trói buộc hạnh phúc con người. Một Xuân Quỳnh chủ động cất lên tiếng ca đi tìm hạnh phúc và coi nhu cầu được bộc lộ là điều cần thiết ở mỗi con người. Cả hai người phụ nữ làm thơ ấy đã thả hồn tạo nên sức sống bất diệt cho thơ, bởi một nguyên lý giản đơn như lẽ đời muôn thuở: “Có phải duyên nhau thì thám lại Đừng xanh như lá, bạc như vôi” (Mời trầu) - Hổ Xuân Hương
“Núi cao biển rộng sông dài Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu” Ợ hơ viết tặng anh) - Xuân Quỳnh
Tuy vậy, nếu như sự táo bạo của Hồ Xuân Hương là sự táo bạo của người phụ nữ già dặn, phòng khoáng, đa tình và hào hoa, luôn đi sâu vào ngõ ngách tâm tư sâu lắng của con người để khẳng định một cái tôi mạnh mẽ, dứt khoát thì ở Xuân Quỳnh, chị lại thể hiện một cái tôi đằm thắm, tràn đẩy nữ tính nhưng không kém phần táo bạo: “Dữ dội và dịu êm Ôn ào và lặng lẽ” (Sóng)
33
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ___________ _ _ _ _ _ _
Trái tim tự hát của Xuân Quỳnh đã biến thành những con sóng, Ihấm ướt nhừng câu thơ, dập dềnh cảm xúc, tàm trạng: lúc ồn ào, dữ dội, khi lậng lẽ, dịu êm.
Dù có ở cung bậc nào cũng vẫn là trái tim thiết tha. rạo rực của người con gái đang yêu say đắm, nồng nàn. Người con gái mang trong mình những trạng thái trái ngược, ẩn chứa sức sống mạnh mẽ và một tình yêu mênh mông không bờ bến. Tính
khí của người con gái khi yêu cũng như sóng vậy thôi và cũng như sóng, trái tim người con gái khi yêu không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp mà luôn hướng tới những cái lớn lao hơn để có thể hoà nhập, đồng điệu với mình: “Sông không hiếu
nối mình - Sóng tìm ra tận bể”. Đó là sức sống và khát vọng không lúc nào nguôi ngoai, yên định. Sóng đã dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp để đến với cái cao rộng, bao dung. Thật là minh bạch và cũng thật là quyết liệt, bởi từ “sông” đến “bể" là cả một
hành trình nhận thức không ngừng, là sự đổi thay mạnh mẽ, vừa để kiếm tìm thê giới, vừa để phát hiện chính mình. Và Xuân Quỳnh đã phát hiện ra cái muôn thuỏ của tình yêu: “Bởi tình yêu muôn thuở Có bao giờ đứng yên” Ợ huyền và biển) Nếu như Nguyễn Thị Hổng Ngát từng ước mơ về một người tình “sưởi cho em ấm suốt cuộc đời” với những ngậm ngùi xót xa mà mãi vẫn chí là ảo ảnh:
“Xin anh hãy làm ngọn lửa Sưởi cho em ấm suốt cuộc đời Không chí ở những mùa đông lạnh giá Muốn ở bên em có một người”. (Lửơ) - Nguyễn Thị Hồng Ngát thì Xuân Quỳnh đã không ngần ngại nắm tay người tình vượt qua những con đường tít tắp đầy giông gió đổ chạm tới bờ kia hạnh phúc: “Đường tít tắp không gian như bể Anh chờ em cho em vịn bàn tay”. Chủ động, táo bạo, quyết liệt, hiện đại là vậy mà trong tình yêu cái tồi Xuân Quỳnh vẫn hết sức dịu dàng, đằm thắm, nữ tính truyền thông.
1.2.2.... mà vẩn đầm thám, nhuán nhị, nữ tính, truyền thống.
Đó cũng là một trong những nét đặc sắc nổi bật trong phong cách thơ Xuân Quỳnh. Đó là hai mặt luôn song hành trong khát vọng tình yêu của chị như lời tự nhận: “Dữ dội và dịu êm” của con sóng nhỏ. Lại Nguyên Ân trong “Con người và
34
Nguyẻti Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _____ ___
nhà thrf' đã nhận xét về thơ Xuân Quỳnh “trở thành tiếng nói tâm tình về những ngoi bùi, cay đăng ở đời, tiếng nói của tình yêu và tình mẫu tử, tiếng nói hồn hậu. dung dị, chứa đựng sự sống đương thời mà cũng in dấu nếp nghĩ, nếp cảm của tâm hổn người Việt tự xa xưa...”[26;207]. Đắm say, khao khát thể hiện tình cảm của mình, song ở Xuân Quỳnh còn có sự khiêm nhường rất nữ tính. Trong khát vọng tình yêu của chị, hình ảnh anh được
đặt cao trong cái nhìn trân trọng mà Xuân Quỳnh từng gọi: “Anh thân yêu, người vĩ đại của em”. Trong tiếng nói khát vọng tình yêu, người nữ sĩ ấy khẽ nép mình đổ tôn vinh ngợi ca anli. Có người con trai nào không mảy may xúc động khi nghe những vần thơ như thế:
“Anh thân yêu, người vĩ đại của em Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối Một chút mặn giữa đại dương vời vợi Loài dong rêu chưa ai biết bao giờ” (Thơ vui về phái yếu)
Một chuỗi những hình ảnh tương phản xuất hiện trong đoạn thơ, giữa một bên là những điều lớn lao, vĩ đại: anh - mặt trời, đại dương với một bên là những cái nhỏ nhoi, bé bỏng: em - hạt muối, một chút mặn, loài rong rêu, ngọn cỏ, hạt bụi. Anh càng cao lớn, thiêng liêng thì em lại thật khiêm nhường, tha thiết, đằm sâu dư vị mặn mà của tình yêu vị tha.
So sánh Xuân Quỳnh với các nhà thơ lớp sau như Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh thì chúng ta càng thấy rõ được bản sắc cái tôi trong thơ Xuân Quỳnh: chủ dộng, láo bạo, hiện đại. Nhưng điều tạo nên sự khác biệt ở chị là cái tôi rất nữ tính, truyền thống. Nhà thơ trẻ Phan Huyền Thư từng quan niệm: “con người thời nào chảng vui buồn, sung sướng, đau khổ hay tuyệt vọng...Những trạng thái cảm xúc ấy là cô' hữu, nó chỉ mới là do cách chúng ta biểu hiện ra mà thôi”, y
Trong tình yêu, cả Xuân Quỳnh và Vi Thuỳ linh đều toát lên tiếng nói của trái tim khao khát yêu, khao khát hạnh phúc, chủ động, táo bạo trong tình yêu, song
mỗi nhà thơ có cách bộc lộ tình yêu khác nhau. Tinh yêu của Xuân Quỳnh nghiêng về vẻ đẹp tinh thần, của sự chở che, của mái ấm, của tấm lòng vị tha, khiêm nhường,v
mang trong mình nét truyền thống và nét đẹp của người phụ nữ Á Đỏng. Còn ớ Vi
Thuỳ Linh, tình yêu là sự nồng nhiệt, những đam mê, dục vọng, ham muốn cả tình yêu tinh thđn lẫn thể xác. Vi Thuỳ linh đã động chạm đến vấn để tình yêu và giới
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh __ ______________________
tính, về sex trong quan niệm đó là những xúc cảm tự nhiên, bản năng của con người. Vi Thuỳ Linh coi nhục thể là nét đẹp không thể thiếu cùng với tình yêu tinh thần.
Cũng là sự thể hiện của cái tôi chủ động, táo bạo, quyết liệt để đến với tình yéu nhưng ở Xuân Quỳnh và Vi Thuỳ Linh lại có sự thể hiện khác nhau. Nếu như anh trong thơ Vi Thuỳ Linh ỉà đối tượng trong công cuộc kiếm tìm hạnh phúc bất tận của cô gái trẻ:
“Em xếp hàng chen lấn mua vé tàu tìm hạnh phúc’" {Tàu lửa)
“Đi tìm Anh, tìm đi tìm lại quen cả hơi tàu Ân phúc của chúa cho em hạnh ngộ”
(Teressa) Thật lạ, khi ta bất gặp một cách diễn đạt rất hiện đại: “mua vé tàu tìm hạnh phúc”. Người phụ nữ trên chuyến tàu đến với tình yêu hiện ra cùng bao khát khao và mong ngóng. Đã bao lần em phải chen lấn xếp hàng, phải đi tìm anh “tìm đi, tìm lại”. Ba cụm từ lặp lại trong một câu cùng với phép đảo linh hoạt đã tô đậm cái hành động kiếm tìm anh, dẫn đến hệ quả tất yếu là “quen cả hơi tàu”. Anh trong thơ Vi Thuỳ Linh luôn ở khoảng cách xa em: “Em tìm Anh biết bao năm - người du mục tự trấn giữ đức hạnh” (Nơi ánh sáng)
ở Vi Thuỳ Linh, cái tôi trữ tình không chỉ dừng lại ở những suy nghĩ khát khao về mặt tinh thần như ở Xuân Quỳnh mà người con gái này lại quyết tìm hạnh phúc, là con người hành động, con người yêu và đòi quyền được yêu:
“Thình lình em sẽ lên chuyến tàu không hẹn Để bất thần lọt vào anh"
(Tâu lửa) Còn ở Xuân Quỳnh, là người không đầu hàng số phận, khát khao hạnh phúc, Xuân Quỳnh đã chủ động đi tìm hạnh phúc, đi tìm tình yêu. Song có điều tình yêu ở Xuân Quỳnh vẫn ẩn chứa một nét đẹp truyền thống dịu dàng, duyên dáng của người
phụ nữ Á Đông. Niềm mong ước được yêu của chị cũng thật dịu dàng, tế nhị: “Biết • yêu anh và biết được anh yêu”. Tình yêu trong thơ chị là tình yêu của truyền thống, của mái ấm gia đình. Trong “Nguồn gốc từ ngữ” của tiếng yêu anh của Xuân Quỳnh vang lên những giai điệu truyền thống, gần gũi với quan niệm của mổi người:
“Tiếng yêu anh nói cùng em Tiếng ngàn nãm của những đêm hội chèo Tiếng người xưa nói với nhau Trong câu quan họ qua cầu gió bay”.
36
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
cái siết, những cơn khát bùng cháy như ngọn lửa tình thiêu đót Cùng bày tỏ sự dâng hiến, khát khao tình yêu nhưng ở Xuân Quỳnh và Vi Thuỳ Linh cũng có sự thể hiện rất khác nhau. Nếu như Vi Thuỳ Linh táo bạo nói đến những cái hòn, con tim. thiêu đốt những khát khao bản năng của con người:
“Anh ơi! Hãy ghì chặt em hãy hôn em, vượt qua khắc nghiệt Chỉ có đôi mắt Anh đôi môi Anh ủ lửa Chỉ có đôi mắt Anh đôi môi Anh cháy ở môi em Mặc thời gian”. (Ớ lại - Khát)
Nếu như anh là người tình đón nhận sự dâng hiến táo bạo về thể xác và tinh thần của em trong thơ Vi Thuỳ Linh thì ở Xuân Quỳnh, sự hiến dâng, sự khát khao hạnh phúc ấy nghiêng về vẻ đẹp tinh thần, là sự kết hợp khá hài hòa nét hiện đại và nét nữ tính, truyền thống. Tác giả không ngần ngại thổ lộ những tiếng “em yêu anh” nhưng không hề xuất hiện những hình ảnh của sự đam mê, tận hướng trong những cái ôm, ghì, siết...Có lẽ vì vậy mà thơ Xuân Quỳnh vẫn mang một giá trị truyền thống, táo bạo, mãnh liệt nhưng vẫn nhuần nhị, nữ tính. Tình yêu trong chị là tình ycu của một cánh chuồn đi tìm nơi neo đậu, của con sóng đến với bờ, của biển chớ che thuyền, của em hướng về anh, của trái tim luôn hướng về tình yêu. vươn tới cái đẹp để tự hoàn thiện mình: “...Em yêu anh hơn cả ngày xưa (Cái thời tưởng chết vì tình ái) Em chẳng chết vì anh, em chẳng đổi Em cộng anh vào với cuộc đời em .. (Có một thời như thê) Nếu như các tác giả thời kỳ đổi mới đã bộc lộ cái tôi khá mạnh mẽ với những “cuồng nhiệt ”, "kiệt sức ", "mệt nhoài" ...: “Thức dậy Bên nhau trong vườn địa đàng Hai bông hoa si tình giả vờ Trao nhau ham muốn. Đồ hàng. Gió. Thuốc những lời yêu thương Độc dược... (Địa đàng) - Phan Huyền Thư
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ________________________ ____
Đó là cái tôi “muốn được mọi người nhắc đến mình vì thơ ca” và trong thơ ca, cái tôi với cá tính dữ dội ấy “không muốn mình là cô gái bị đọc nhầm tên hay nhớ nhẩm sang khuôn mặt khác
Cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh trong tình yêu và hạnh phúc là sự dung hòa giữa hai thế hệ. Nó không quá e ấp như Phan Thị Thanh Nhàn, thiếu tự tin như Phi Tuyết Ba, bị động như Đoàn Thị Lam Luyến và cũng không quá táo bạo, cuồng
nhiệt như Vi Thuỳ Linh. Phan Huyền Thư. ở chị, là sự kết hợp hài hòa của cái tôi trữ tình vừa chủ động, táo bạo lại vừa nhuần nhị, truyền thống; vừa hiện đại mới mé lại vừa mực thước, cổ điển. Chị đã kế thừa những tấm gương đi trước như Bà Huyộn Thanh Quan, như Hồ Xuân Hương và tạo nét riêng cho thơ của mình.
Sự tiếp bước ấy biểu hiện ở tấm lòng vị tha, hết mực yêu thương chăm sóc người thân, hy sinh tất cả vì chồng con của người phụ nữ Việt Nam luôn có mặt trong những ý thơ của Xuân Quỳnh:
“Trời mưa lạnh tay em khép cửa Em phơi mền vá áo cho anh Tay cắm hoa, tay để treo tranh Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc” {Bàn tay em)
Ngay cả sự hy sinh cho người thân của Xuân Quỳnh cũng rất nữ tính. Những lời động viên người thân của chị thật dịu dàng xiết bao! Nó chính là tấm chân tình của người phụ nữ Việt Nam yêu chồng thương con hết mực, luôn nhận về mình những thiệt thòi, luôn làm ấm lòng người thân bằng sự động viên, khích lệ chân thành:
“Dẫu nhớ em xa quá không gian Chớ thương em một mình vất vả Em ở đây bạn bè đông đủ cả Anh đi con đường này không anh”. (Viết trên đường 20)
Dành về mình những thiệt thòi để chắt chiu cho người yêu, người thân những ngọt ngào của cuộc sống là một thái độ đầy bao dung của cái tổi trữ tình Xuân' Quỳnh:
“Em xin hát tiếp lời ca Ru anh sau nỗi âu lo nhọc nhằn Hát tình yêu của chúng mình Nhỏ nhoi giữa một trời xanh khôn cùng” {Mẹ của anh)
38
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Nồng nàn. đắm say, Xuân Quỳnh đã khơi dậy trong sâu thẳm của miền yên ũnh một tình yêu thiết tha, dịu dàng:
“Ngủ đi, người của em yêu, Này, con tàu lạ vừa neo bến chờ, Trời đêm nghiêng xuống mái nhà Biển xanh kia cũng đang mơ đất liền”.
(Hát ru) Qua lời hát ru chồng những đêm khó ngủ ấy, tình cảm của người phụ nữ, người vợ Xuân Quỳnh hiện lên thật dịu dàng, đằm thắm nhưng cũng thật táo bạo. mãnh liệt. Em - cái tôi trữ tình mong muốn được hiện diện với tình yêu của anh ở cả trong giấc mơ, bởi lòng em vẫn thường nhớ tới anh, đến nỗi “cả trong mơ còn thức”. Lời hát dịu dàng như những cơn gió mùa thu không che lấp nổi “trái tim mùa hè" đang ú ấm một tình yêu. Mang trong mình một khát vọng tình yêu lớn lao, Xuân Quỳnh coi bầu trời xanh là biểu lượng của tình yêu, hạnh phúc:
“Bầu trời đã trở về Cao và xanh biết mấy...
Bầu trời xanh hơn cả lúc nằm mơ Và hạnh phúc trong bàn tay có thật.. (Bầu trời đã trở về)
Thật kỳ diệu! Bầu trời - vũ trụ bao la với những cao vời, bí ẩn của con người ấy lại là hiện thân của một tình yêu trong thi cảm Xuân Quỳnh. Với người đàn bà đang yêu ấy, bầu trời là một cái tôi khác của riêng mình. Thật táo bạo, thật mãnh liệt! Có anh là có cả thế giới. Anh chính là thế giới của riêng em, chỉ một mình em :“Anh trở về, trời xanh của riêng em". Một sự so sánh tưởng chừng như phi lý của ké
đang yêu mà tình yêu thì làm sao có thể cắt nghĩa được. Trong liên tưởng của Xuân Quỳnh màu xanh của bầu trời là biểu hiện của những khát khao vươn tới, của tình yêu, sự bình yên và nỗi nhớ. Bởi vậy khi chia cách, ở một phương trời xa ngái nào đó. chị vẫn luôn nhớ về người yêu, về tổ ấm bé nhỏ của mình: . .Đêm phương Nam em thức nhớ về anh: Căn phòng con riêng của chúng mình...” (Nghe rét đến, nhớ về Hà Nội) Với Xuân Quỳnh, tình yêu hạnh phúc là cái đích cuối cùng của cuộc đời và tình yêu là ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo. Chẳng thế mà thơ tình của chị hấp dẫn đến như vậy! Nó giản dị và đẹp trong tính nhân bản bởi đó là những câu thơ được viết ra bằng chính tình yêu của chị, bằng chính cuộc đời chị.
39
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ______________________ __
Thơ Xuân Quỳnh là một chuỗi những câu hỏi về hạnh phúc. Cái tôi trữ tình trong thơ cua chị thật nồng nàn, đắm say và cũng không kém phần mãnh liệt thậm chí táo bạo nhưng vẫn nhuần nhị, nữ tính.
1.3. Cái tôi tràn đầy tình yèu cuộc sóng mà nặng trĩu mặc cảm, àu lo.
1.3.1. Cái tôi tràn ngập tình yêu cuộc sống, giàu khát vọng, ước mơ...
Qua những trang viết của Xuân Quỳnh, bức tranh cuộc sống với những hình ánh vô cùng giản dị hiện ra trước mắt người đọc. Nhưng những hình ảnh đó không gày cảm giác buồn chán, tẻ nhạt và vụn vặt của đời sống thường ngày mà ở đó ta thấy được những tình cảm thiêng liêng, thấy được một phần cuộc sống của mình, một phần suy nghĩ của mình. Xuân Quỳnh đã thổi vào đó một hồn thơ tràn đầy lòng nhiệt thành, tha thiết như Gacxia Looca đã nói: “Thơ ca không trừu tượng, với tôi sự hiện diện của thơ ca là có thật và luôn luôn gần gũi. Các nhân vật trong thơ tôi là những người đang sống, hiện sống. Điều quan trọng là tìm ra chìa khoá nó”. Vâng, bầng trái tim và tâm hồn mình, Xuân Quỳnh đã tìm tòi để lấy chìa khóa thư riêng cho mình. Bới vậy, khi đọc thơ chị, ta thấy tràn ngập một tình yêu cuộc sống. Ngay trong những bài thơ đầu tiên in chung với cẩm Lai ở tập "'Tơ tằm - Chồi biếc”, từ tâm tình của cô văn công trẻ, niềm khao khát những chân trời xa...bạn đọc đã nhận thấy một tiếng thơ đầy hứa hẹn. “Chồi biếc” chứa đựng trong nó nhiều tài liêu lấy từ cuộc sống của bản thân tác giả - một cô vãn công mới vào nghề. Tiếng đàn, lời ca, điệu hát, phục trang, ánh đèn sân khấu...tạo nên xúc cảm cho Xuân Quỳnh trong nhiều trang viết ở tập thơ này. Với những vần thơ này, ta nhận ra một hình tượng cái tôi Xuân Quỳnh đang nâng niu những gì vốn có trong cuộc đời, những gì rất bình dị của cuộc sớng đời thường. Tinh cảm chân thành của nhà thơ được ghi lại trong các bài thơ: “Cô diễn viền mới”, “Ghét”, "Băn khoăn’', â'Một ước m ơ”, “Về đại hội”, ‘Tiếng hát"...Đỏ là một điều đáng quý. Đáng quý hơn nữa là trong tiếng hát của cô văn công tré Xuân Quỳnh không chí có chuyện riêng tư mà còn có cả những vang động của cuộc sống rộng lớn: “Tiếng hát em có chàng trai đan nón lá” Có cô gái mắt huyền cởi nhẫn trao duyên Và nỗi đau những mối tình chia cách Sóng cửa Tùng thương nhớ vỗ ngày đêm”. {Về đại hội)
40
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Ánh mắt nhìn quan sát của Xuân Quỳnh đã chớp được nhiều hình ánh thật đẹp:
“Những cô gái đi xây nhà ngói Tóc tat về phía nhà tranh vẫy mãi
Những chàng trai đi khai phá núi rừng Trên môi lời ca gửi lại
Làn khói trắng bay dài Như chiếc khăn voan vẫy chào Tiếng còi réo gọi” {Dái băng xanh) Với Xuân Quỳnh, sự sống tiếp nối bất tận, ¡á vàng vản bay, chồi non lại nhú.
Nhìn qua thời gian, Xuân Quỳnh trong thơ không phải là sự ghi chép của Xuân Quỳnh ngoài cuộc đời. Trong đôi mắt thi sĩ “xanh thăm thẳm những chân trời”, ta thấy những hình ảnh vượt qua giới hạn của sự minh họa. Những đôi tri kỷ mai sau không hề gián cách với hiện tại, với hình tượng tác giả Xuân Quỳnh. “Sống” trong không gian, thời gian “muôn đời” là khát vọng sôi réo trong những bài thơ của Xuân Quỳnh, khát vọng làm bộc lộ tính cách quyết liệt, bộc lộ vẻ đẹp của con người tha thiết với cuộc đời.
Sau “Chổi biếc”, các tập thơ của Xuân Quỳnh cứ vài ba năm một lại lần lượt được phát hành. Sự hiộn diện của cái tôi Xuân Quỳnh ngày càng được khẳng định bàng chính những sáng tác của chị. Độc giả nhận ra chị bởi những đặc điểm riêng có ở thơ chị. Đó là những cảm xúc tươi mát, hồn nhiên khi nói về ước mơ, tuổi trẻ, nhiều khát vọng trong “Chồi b i ế c đó là lời thơ đằm thắm, ngọt ngào, thể hiện tâm hồn thơ sâu lắng, tinh tế ở “Hoa dọc chiến hào” cùng với hơi thớ dữ dội, khoẻ khoắn khi mô tả cuộc chiến đấu dữ dội ở “Gió Láo cát trắng” rồi đến những khúc
ca “Tự hát" trong “Sân ga chiếu em đi”, 'Hoa cỏ may", ở bất kỳ đề tài nào viết về chiến tranh hay viết về những vấn đề thế sự, riêng tư, cái tôi Xuân Quỳnh vẫn hiển hiện lên một tấm lòng Iha thiết với tình yêu cuộc sống. Đi vào mảng đề tài quan trọng nhất trong thơ Xuân Quỳnh: Đề tài tình yêu. ta sẽ thấy mồi bài thơ của Xuân Quỳnh là tiếng nói yêu đời, yêu người thiết tha, cháy bỏng. Xuân Ọuỳnh là một trong những tiếng thơ rất sớm của một người con gái, một người phụ nữ đã chủ động yêu và đòi quyền được yêu (ở cái thời mà người ta quen nhìn phụ nữ dầu là trong văn học một vai trò bị động và yếu đuối). Chị đã tạo ra mộl sắc thái táo bạo và nhiều khi còn dữ dội. Một tình yêu mãnh liệt nhưng vô cùng chân thành, thiết tha. Dù có gặp bao khổ đau, bao tan vỡ thì tình yêu ấy vẫn đập nhịp đập của yêu thương, khát vọng - Một tình yêu vĩnh hằng và bất biến. Điều
41
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _____________
này đã tạo nên cái tói trừ tình rất riêng trong thơ Xuân Quỳnh. Với chị, những cám xúc về tình yêu chắng bao giờ khô cạn, lời thì thầm tình yêu vẫn mãi rung động đến tận cùng của tâm hồn:
“Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bổi hồi trong ngực trẻ
(Sóng) Lời thơ giản dị nhưng vô cùng tinh tế! Quy luật của thiên nhiên cũng như quy luật của tình yêu. Tuổi trẻ - tuổi của ước mơ, của khát khao tình yêu, hạnh phúc. Tình yêu đến trong sáng, nguyên sơ như vị ngọt tất yếu của cuộc đời. Bắt đầu từ một xao động hoặc nhẹ nhàng, kín đáo, hoặc da diết, sỏi nổi, cảm xúc thơ trào lên. tứ thơ
hình thành, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những cảm nhận hết sức tinh tế về cuộc sống, về tình yêu. Không cao sang, không huyền bí cũng chẳng mư ước về những điều lớn lao, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh trở về với cái thật thà, dung dị của cuộc sống. Trái tim em không phải bằng vàng, nó là trái tim của một con người nồng nàn biết xúc động, yêu thương để tình yêu mãi trở thành vĩnh cửu:
“Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng Trái tim em anh đã từng biết đấy Anh là người coi thường của cải Nên nếu cần anh bán nó đi ngay” Ợ ự hút) Người đời thường nói ‘T rái tim vàng”, ấy vậy mà Xuân Quỳnh lại có cách hiểu khác. Cách hiểu của chị đã tạo nên một tứ thơ thật độc đáo: “Em trở về đúng nghĩa trái -tim -em Là máu thịt, đời thường ai chẳng có Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” Ợ ự hát)
Nhà thơ đặt niềm tin vào một trái tim thiết thực, biết khước từ mọi biến thái cao sang, hoa mỹ. Trái tim vẫn mãi là trái tim, bới chỉ có trái tim mới cảm nhận được tình yêu, nhận thức được những suy tư của cuộc sống để cùng anh chia sé những đam mê, những khát khao của cuộc đời. Đó là biểu tượng gán bó, nương tựa nhau của cái tôi Xuân Quỳnh với một cái tôi khác để mà vượt qua, để mà trụ vững trong cõi đời bất trắc, đầy những chảy trôi, phiêu dạt sắc sắc không không này...Với
42
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _ _ _ _
thời gian, tình yêu cuộc sống, yêu người trong con người và trong thơ Xuân Quỳnh chẳng bao giờ phai nhạt. Dường như thời gian càng làm cho thơ chị đằm thắm hơn. chín muồi hơn. Cuộc sống hối hả với bao lo âu, toan tính để mưu sinh và tồn tại nhưng tình yêu vẫn mãi cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ. Cuộc sống của chị là những chuỗi ngày “góp nhặt'''' những yêu thương để vun vén hạnh phúc cho tổ ấm ai a đình. Có thể nói, Xuân Quỳnh đã đưa vào thơ mình một thứ ngôn ngữ giàu chất văn xuôi để tạo nên vẻ đẹp tươi mới cho thế giới thơ mình. Thơ chị cụ thể, sinh động,
nhiều chất đời. Những sự vật, đôi khi trong cuộc sống chẳng ai chú ý thì dưới ngòi bút Xuân Quỳnh, ta lại thấy nó thân quen, gần gũi. Phải chăng có được điều ấy là do cái tình của người viết, bởi niềm tin yêu của chị với cuộc đời, với con người. Song có một điều và cũng là điều tạo nên nét riêng cho cái tôi Xuân Quỳnh, đó là những âu lo luôn ẩn hiện trong từng dòng thơ của chị.
1.3.2...mà vẫn nặng trĩu những mặc cảm âu lo.
Tâm hồn tràn ngập tình yêu cuộc sống, Xuân Quỳnh hăm hở bước vào đời. Từ một cô gái nhìn cuộc đời, nhìn tình yêu từ lăng kính màu hồng, theo năm tháng Xuân Quỳnh đã trở thành người đàn bà từng trải, một người đàn bà như bao người đàn bà khác “quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày”, “lo đan áo cho chổng con khỏi rét” ...và còn biết bao bận rộn, lo toan thường nhật khác. Chỉ có điều bên cạnh
sự thiết thực ấy của một người đàn bà, con người chị còn có sự nhạy cảm của một tâm hồn nghệ sĩ. Sự nhạy cảm ấy đã làm cho cái tôi của Xuân Quỳnh luôn ở trạng thái đối cực, phân vân, luôn bị giày vò, luôn trong tâm thế bất định, nặng trĩu những mặc cảm, lo âu.
Khi con người nghĩ đến thơ và sáng tác thơ, hẳn bao giờ cũng do sự bức xúc trước nhu cầu bộ lộ nội tâm để giải tỏa cảm xúc của tâm hổn. Có thể là một ước mơ, một nỗi niềm, một cảnh ngộ. Như Xuân Diệu đã từng chua chát: “Lòng ta là một cơn lũ Đã gặp iòng em là lá khoai” (Nước đổ lú khoai) Rồi đến Vũ Hoàng Chương than thở: “Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ”, “vớt lại trần ai một chút ta” Nhà thơ cùng thời với Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn lại băn khoăn, lo lắng cho trái tim đã chết của mình:
“Tôi ngồi nghe im lặng Thấy lòng mình thờ ơ
43
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Ôi những lời thương mến Sao tim tôi hững hờ Sao tôi không xúc động
Sao tôi không vấn vương Tôi cứ bơ vơ mãi Giữa cuộc đời mến thương” - Tạ lỗi (Nghiêng về anh) - Còn với Xuân Quỳnh lại là nỗi phấp phỏng, lo âu và “mang dự cảm" của một trái tim khao khát cháy bỏng trước bộn bề sự sống. Cái tôi Xuân Quỳnh càng khao
khát bao nhiôu thì cũng nhiều âu lo bấy nhiêu. Từ thuở ban đầu khi tiếng thơ vừa mới dậy thì đầy sôi nổi, ngỡ rằng chỉ có đắm say, tin tưởng, nào ngờ vẫn gợn lên cái bóng dáng phấp phỏng, lo âu. Trước những đổi thay của ngoại cảnh, Xuân Quỳnh cũng dề dàng bàng hoàng, thảng thốt đến chạnh lòng để rồi vận nó vào trái tim đầy âu lo của mình: “Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói Trái tim đập cồn cào cơn đói Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn” Ợ ự hát)
Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thường bắt gặp sự đối lập đến hụt hẫng xuyên thấm cảm hứng thơ, những “m/fứ bão nhiều” với “cửa sổ con tàu chẳng đóng”, “Những dải đổng hoang và đại ngàn tối sẫm”, rồi “Vừa thoáng tiếng còi tàu/ Lòng đã Nam đã Bắc” ...tạo cảm giác bấp bênh, bất ổn.
Ảm điệu trầm buồn của tình yêu là một nét biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ của các nhà thơ nữ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Nỗi xót xa về những mặc cảm. đổ vỡ, chia ly đã được các chị chia sẻ thành thật. Các chị không giấu lòng mình khi trải nghiệm nỗi đau khổ mà tình yêu mang lại. Tuy nhiên cách thể hiện của mỗi người lại rất khác nhau.
Lê Thị Mây luôn trĩu nặng một nỗi niềm khắc khoải, chênh vênh khi đứng trước tình yêu, hạnh phúc, luôn ám ảnh một nỗi buồn se sắt của cuộc đời thiếu phụ. Chị bộc lộ những cô đơn, bất hạnh trong cuộc sông đời thường của người phụ nữ: “Chị mùa đông em tươi tắn mùa xuân Đông rụng lá nhận rùng mình rét buốt Khi chị khóc không phải bằng nước mắt” (Hai mùa)
44
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _ _ _ _ _ _ _ _______________
Lâm Thị Mỹ Dạ trong nỗi cô đơn, hoang vắng, cạn kiệt “trống rông bao điểu quên nhớ' đã nhận ra ảo tưởng mà chính mình hy vọng:
“Ta một mình chạm ly với biển Biển cười vang Sao người quá ngông cuồng Thôi cần chi, ta ném vào đáy thẳm Chén đời ta Xoáy lòng biển một vết thương” (Với biển ) Phan Thị Thanh Nhàn là sự cô đơn đến tan nát cõi lòng, với những dự cảm đăng cay, đơn độc:
“Bởi lòng tôi đã chết Bởi tình tôi đã tàn Và bỗng nhiên nước mắt Cứ bơ vơ chảy tràn”
(Tạ lỗi) Còn Xuân Quỳnh, nỗi lo âu lại thường trực ngay cả trong những phút giây hạnh phúc:
“Hoa ơi sao chẳng nói Anh ơi sao lặng thinh Đốt lòng em câu hỏi Yêu em nhiều không anh? (Mùa hoa roi)
Khi yêu nhau, người ta thường mong ước được gần nhau. Với Xuân Quỳnh, dù được ở bên nhau rồi, nỗi lòng chị vẫn không nguôi thảng thốt. Cứ ngỡ chị miêu tả về một trạng thái tình cảm nhất thời, nhưng không đó là câu hỏi thường trực lúc nào cũng nhói buốt trong tim. Nỗi âu lo luôn thường trực trong thơ chị. Ngay trong bài thơ “Sóng”, tuy thể hiện một tình yêu chân thành, mãnh liệt nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn chị vẫn ám ảnh một dư âm bất thường nào đó đến từ hai phía đối lập và tương tranh dữ dội: bình yên và bão tố, hiện hữu và hư vô.. “Dữ dội và dịu êm
Ôn ào và lặng lẽ” (Sóng) Sự đối cực tạo nên tình huống bất ổn bằng hai cặp tiểu đối “dữ dội - dịu
êm "ồn ào ~ lặng lẽ ”. Từ lớp sóng, tình cảm cứ cuộn trào lên, mạnh mẽ và dữ dội
như muốn nhấn chìm tất cả rồi chợt iặng đi, lùi dần về biển xa tạo một khoảng trống
45
Nguyễn Thị Kìm Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ___ _______
nhẹ nhàng êm dịu mà nỗi khát khao cháy bỏng lại dâng lên quặn thắt trong lòng, thiêu đốt trái tim nữ sĩ để rồi lại đắm chìm trong bộn bề trắc ẩn: “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể. Những biên độ tình cảm luôn diễn ra bất ngờ trong hai thái cực hay là sự mất thăng bằng trong trái tim chủ thể trữ tình dẫn đến “không hiểu nổi mình”. Đến đây, chủ thể trữ tinh bàng hoàng đối diện với chính mình, đối diện với mâu thuẫn lôgic bên trong, thôi thúc trước nhu cầu khám phá, từ đó nảy sinh khao khát bứt khỏi giới hạn chật hẹp để vươn ra những chân trời rộng lớn, mới lạ: “sóng tìm ra tận bể" Chính sự bất ổn trong tình cảm không lúc nào nguôi ngoai ấy đã tạo nên sức sống mạnh mẽ ẩn chứa trong trái tim Xuân Quỳnh. Yêu nhiều, khát khao nhiều để rồi lại mang trong mình những âu lo, những dự cảm bấp bênh: .Ngọn sào thưa cánh chuồn ai ngái ngủ Những cánh chuồn mỏng manh như tình yêu!...” (Chuồn chuồn báo bão) Trong con người Xuân Quỳnh là cả một chuỗi những mâu thuẫn, chị vừa muốn tuyệt đối hóa tình yêu hạnh phúc, lại vừa không tin tuởng sự bền vững của tình yêu ấy. Chị đã từng nghi hoặc: “Lòng anh là đầm sen hay nhành cây cỏ úa?” và cũng đã từng băn khoãn khi lắng nghe những thay đổi trong chính tâm hồn mình: “Bao mùa thu hoa vản vàng như thế Chỉ em là đã khác với em xưa... Bao ngày tháng đi về trên mái tóc Chỉ em là đã khác với em thôi!...” (Hoa cúc) Người phụ nữ đang yêu ấy luôn trân trọng và khát khao tình yêu nhưng cuộc đời thì đầy biến động, tình yêu thì lại mong manh và dễ vỡ khiến chị luôn mang trong mình nhiều dự cảm: “ ...Đọc bài thơ yêu em thấy sự chia xa Và bỗng nhiên em lại bơ vơ Tay vẫn vụng, trán dô ra như trước.. {Thơ viết cho mình và nhữnạ người con gái khác)
Tự tin là thế, chủ động là thế nhưng có lúc Xuân Quỳnh đã bật lên tiếng nấc cô đơn, tiếng thở dài ai oán trong thơ:
46
Nguyễn Thị Kìm Định
Phong cách thư Xuân Quỳnh _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ __
“Một trời xanh, một biển tận cùng xanh Và gió thổi và mây bay về núi Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói Nhưng bây giờ chỉ có sóng và em .. (Chỉ có sóng và em)
Biết bao lán, chị phải thừa nhận nỗi đau buồn là bè bạn của mình. Biết bao lần nỗi lo âu khắc khoải cứ ẩn hiện trong mỗi dòng thơ chị viết nhưng không vì thế mà thơ chị lại nguôi khát vọng. Và rồi sau tất cả những đau buồn ấy. người phụ nữ nhiều đam mê và giàu lòng trắc ẩn này lại thấy “lỏng thanh thản trong tình yêu ngày mới", lại dạt dào tin yêu hy vọng. “Điều đáng quý ở con người ấy là càng cả lo, cả nghĩ bao nhiêu, chị càng gắn bó với cuộc đời, với con người bấy nhiêu” [25; 172].
Có mộl nhà thơ, cũng như Xuân Quỳnh, luôn coi trọng cuộc sống trần thế. phát hiện ra vẻ đẹp của nó và sống hết mình vì nó. Nhưng chính vào lúc ấy lại nhận ra sự phôi pha, trôi chảy của năm tháng để mà từ đó vội vàng sống, cuống quýt yêu. Đó chính là Xuân Diệu. Cuộc đời con người như bóng câu qua cửa sổ, như hạt sương đọng trên ngọn cỏ lúc sớm mai, sấc sắc không không. Một lần đứng trước biển, chính Xuân Diệu đã bàng hoàng nhận ra sự vô cùng vô tận của không gian, sự vô thuý vô chung của thời gian mà chờn chợn nghĩ đến kiếp mình. Là một nhà thơ nhạy cảm, hơn ai hết Xuân Quỳnh cũng cảm nhân điều đó:
“Cuộc đời tuy dài thế Nãm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa (Sóng)
Có chút suy tư, lo âu và đượm buồn trong lời thơ, Xuân Quỳnh nhân thức rằng “cuộc đời tuy dài thế” nhưng vẫn không ngừng chảy trôi theo thời gian và đến một lúc nào đó sẽ đi hết giới hạn của đời người. Như biển kia dẫu rộng lớn mênh mông nhưng liệu có giữ mãi được những đám mây trong lòng? Hay vẫn phải ngậm ngùi để mây “òđv vẽ xa” và trong em tình yêu đắm say vô hạn là vậy, liệu có giữ được cơn gió là anh? Hạnh phúc trong tay người phụ nữ như một bình hoa quý đẹp nhưng mong manh, dễ vỡ nên luôn lo sợ vỡ lúc nào không hay. Là một người chịu nhiều khổ đau mất mát, Xuân Quỳnh càng có nhiều lo âu hơn ai hết. Sự nhạy cảm về bước đi của thời gian và dự cảm về hạnh phúc mong manh luôn len lỏi trong thơ tình yêu của chị. Có lẽ chính vì vậy mà chị càng khao khát, mơ ước được hoá thân thành “trăm con sóng nhỏ” ở “giữa biển lớn tình yêu'’ để mãi mãi bất tử với Ihởi gian, không gian, vượt khỏi lẽ thường của cõi (ử sinh.
47
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơXuàn Quỳnh
Thời gian trôi đi, bao nhiêu nước chảy qua cầu nhưng Xuân Quỳnh vẫn là của ngày xưa và ngày sau vần thế. Vẫn một Xuản Quỳnh bồn chồn không yên. không sống cho mình mà luôn sống cho người mình yêu, giữ gìn, nhẫn nhịn, hy sinh cũng là đổ cho người mình yêu. Đó là đích sống của chị, là nơi chị đặt những khao khát của mình vào đó. Hãy lắng nghe trái tim chị tâm tình thủ thỉ về những nỗi đau mà chị đang chịu đựng: . .Trái tim buồn sau lần áo mỏng Từng đập vì anh vì những trang thơ Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ Chỉ có đập cho mình em đau đớn.. (Thời gian trắng) Tinh yêu với Xuân Quỳnh, dù ở góc độ nào cũng luôn mãnh liệt và trong sáng. Giữa những phân lập và tương tranh, giữa những khoảng cách và xô dạt của cuộc đời: thuyền và biển; sóng và bờ, dữ dội và dịu êm; ồn ào và lặng lẽ. cỏ dưới chân và gió biển trên đầu, đường tít tắp và không gian như bể....Tất cả vẩn là nhịp đập trái tim “sau lần áo mỏng" của chị. Trái tim yêu mãnh liệt và cũng lo âu trăn trò hết mình đem cuộc đời đổi lấy những câu thơ, Xuân Quỳnh đã từ đó mà đứng vững trong cuộc sống và hơn thế nữa đứng vững trên sự nghiệp thơ ca cùa mình: . .Ôi trời xanh - xin trả cho vô tận Trời không xanh trong đáy mắt em xanh Và trong em không thể còn anh Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”. {Nếu ngày mai em không làm thơ nữa) Có thổ nói, thế giới nội cảm - tâm điểm của hiện thực trong thơ trữ tình cũng là phạm vi biểu hiện rất quan trọng của hình tượng cái tôi trong thơ Xuân Quỳnh “Mỗi nhà vãn có một “chất dính” riêng. Dù ông ta có quan sát thực tế đời sống ở nhiều lĩnh vực khác nhau, “chất dính” ấy vẫn chỉ có thổ bắt lấy những gì thích hợp với nó mà thổi”. Hình tượng cái tôi Xuân Quỳnh quả có chất dính ấy hút về trong nó buồn vui, mong ước rất cá thể, cụ thể của nhà thơ. Con người với những trải nghiệm riêng tư, con người với những bản sắc riêng không lặp lại, con người đối diện với chính mình là vùng sáng thẩm mỹ trong thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh. Điều này góp phần tạo nên phong cách riêng của tác giả, làm nôn vị trí của Xuân Quỳnh trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
48
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuán Quỳnh __________ _____________ ____
CHƯƠNG 2
NHŨNG CẨM HÚNG LỚN TRONG THO XUÂN QUỲNH
Nhà văn trong hoàn cảnh sống của riêng mình, với một không gian và thời sian nhất định, với những yêu cầu cụ thể của thời đại, với vốn văn hóa, vốn chính trị và vốn tài năng nghệ thuật chỉ có một mức độ, một giới hạn nhất định, khi viết một tác phẩm nào đó. họ chi' có thể chú ý tới một lĩnh vực, một phạm vi cụ thể, xác định của hiện thực khách quan để sáng tác. Phạm vi hiện thực đó chính là đề tài. Như vậy, đề tài là một phương diện của nội dung tác phẩm. Nó chỉ phạm vi hiện thực cụ thể đã được nhà văn nhận thức, lựa chọn và phản ánh trong tác phẩm. Có hao nhiêu loại hiện tượng đời sống thì có bấy nhiêu đề tài. Đề tài mang dấu ấn rõ rệt của đời sống khách quan nhưng nó cũng là sự ghi nhận dấu ấn chủ quan của nhà vãn. Giữa nhà văn và cuộc sống có mối quan hệ khăng khít. Thực tế đời sống là nguyên nhân, là điểm xuất phát và cũng là nội dung chủ yếu của thơ ca. Nói về môi quan hệ khảng khít giữa nhà văn và cuộc sống, Giáo sư Hà Minh Đức đã dần cách nói đầy hình anh của H.Hainơ rằng nhà văn và cuộc sống như thần Ảng-tê với đất Mẹ: “Thần Ảng-lê trở nên vô địch khi đặl hai chân trên đất Mẹ và mất hoàn toàn sức lực khi bị Hec-quyn nhấc bổng lên” [56;420]. Và khi ta nhấn mạnh mối quan hệ này thì cũng cần hiểu rằng cuộc sống ở đây luôn mang một nội dung cụ thể, gắn với thời đại nhà văn đang sống. Nhà văn phải là người có trái tim mẫn cảm, trí tuệ sắc bén để luòn bắt kịp với nhịp sống của thời đại và phát hiện được bản chất của nó. Cuộc sống cho thơ văn nguồn cảm hứng vô tận. Song thực tế cho thấy, điéu kiện tạo nên phong cách nhà văn chính là ở chỗ, cùng một thực tế ấy, cùng một đối tượng cuộc sống ấy nhưng mỗi nhà vãn khác nhau có cách chọn mảng đề tài để phản ánh vào tác phẩm không giống nhau. Nói cách khác, đặc điểm tâm hồn nhà văn quy định “vừng thẩm m ỹ' trong sáng tác của họ. Nhà vãn chỉ có thể viết hay về những gì mình có, những gì đã trở thành máu thịt của mình. Mặt khác, đối với thể loại trữ tình là loại hình nghệ thuật mà ở đó chủ thế’ có thể bộc lộ một cách trực tiếp và đầy đủ nhất. Nhưng chủ thể trữ tình không giới hạn ở tự biểu hiện mà còn sáng tạo nên cả một thế giới nghệ thuật trong đó bồi hồi các cảm xúc của cuộc đời và xôn xao các gương mặt muôn màu của nhân thế. Cái thế giới phong phú ấy là hình ảnh cuộc sống nghìn vạn lần lớn rộng hơn số phận một cá thổ thi nhân nhưng lại là cuộc sống vang vọng vào một tâm hổn và được tiếp nhận bởi một tâm hồn. Nói cách khác, diễn đạt theo một công thức không còn mới nhưne
49
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
bao giờ cũng đúng thì nghệ thuật chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Cái thế giới nghệ thuật ấy bao giờ cũng được nhào nạn bới môt cá tính sáng tạo độc đáo và phản ánh sâu sắc các phẩm chất của chính chủ thế đã sáng lạo ra nó. Hiểu theo nghĩa đó, thế giới nghệ thuật của nhà thơ cũng là nơi in dấu đậm nét cá
tính sáng tạo của thi sĩ. Và đó cũng chính là cơ sở lý luận để chúng tôi, trong chương 2 này, đi tìm các đặc điểm của phong cách Xuân Quỳnh trong cái thế giới nghê thuật muôn màu mà chị đã sáng tạo nên.
2.1. Cảm hứng về quc hương, đát nước trong những nãm tháng chiến tranh.
2.1.1. Viết về chiến tranh với cái nhìn mang thiên tính nữ
2.1.1.1. Viết về chiến tranh bằng sự trải nghiệm của bản thân.
Hòa chung vào không khí thơ ca phục vụ công cuộc chống Mỹ cứu nước, bên cạnh các nhà thơ chiến sĩ thì thế hệ các nhà thơ nữ đã góp một phần không nhỏ tiếng nói thơ ca động viên, cổ vũ, khích lệ nhân dân trong cuộc chiến gian khổ, lâu dài của dân tộc. Khảo sát thơ nữ giai đoạn này, chúng tôi thấy không phải tất cả các sáng tác của họ đều tập trung viết về chiến tranh nhưng những sáng tác về chiến tranh vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất. Đặc biệt, những tập thơ, những bài thơ có giá trị khẳng định và định hình phong cách của họ trên văn đàn đéu là những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh. Cùng viết về đề tài chiến tranh nhưng mỗi nhà thơ nữ lại có cách cảm nhận khác nhau tạo nên những nét thơ riêng của từng tác giả. Đó là Phan Thị Thanh Nhàn
với nét dịu dàng, duyên dáng mà kín đáo. Đó là Ý Nhi với cái nhìn hiện thực đầy chất suy tư, trầm lắng. Đó là Lâm Thị Mỹ Dạ giàu sáng tạo, trong sáng, táo bạo... và một Xuân Quỳnh đằm thắm, tinh tế với những tình cảm chân thành, sâu lắng. Tất cả họ đã làm nên không khí sôi nổi, phong phú, đa dạng của thơ ca thời chống Mỹ. Trong số các nhà thơ nữ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Xuân Quỳnh được đánh giá là “đại biểu sớm nhất, trẻ nhất của nữ trong nền thơ chống Mỹ” [125;28]. Cũng đi vào quỹ đạo chung của thơ nữ thời kỳ chống Mỹ cứu nước song trong giai đoạn này, Xuân Quỳnh có nhiều sáng tác định hình phong cách hơn cả. Cuộc sống chiến trường quả có sức nhào nặn tâm hổn con người. Viết trong chiến tranh, viết ở chiến trường, cũng như những nhà thơ khác, Xuân Quỳnh đã cố gắng đi thẳng vào những cảm xúc chân thực nhất, sâu sắc nhất. Trong quá trình đi lên của thơ
50
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
mình, Xuân Quỳnh đã nỏ iực vượt lên mình để đến với cuộc sống chung của đất nước, của dân tộc. “Chối biếc" ra đời đã mở ra trong thế giới thơ một hồn thơ trong sáng, tràn ngập lý tưởng và ước mơ. Cảm xúc hồn nhiên và tươi trẻ ấy của cô văn công đã thực sự trở thành niềm mơ ước, khát khao cháy bỏng: . Đâu chỉ lên trăng, thơ ta còn bay khắp Theo những con tàu cập bến các vì sao Nhưng lòng ta chẳng bao giờ nguôi khát vọng Biết bay rồi, ta lại muốn bay cao”. (Khát vọng - 1962) Sau những hồn nhiên, tươi trẻ của tập thơ đầu tay, gặp hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh, Xuân Quỳnh đã rất ý thức về trách nhiệm của thế hệ mình “Chúng tôi sinh ra trong nhiều năm khác nhau nhưng cùng một thời kháng chiến”. Chính ý thức này đã làm cho thơ chị vận động và lớn lên cùng thời đại. Bước chuyển này bắt đầu từ “Hoa dọc chiến hào". Tác giả vừa có sự tiếp nối cái dòng hổn nhiên, tin yêu cuộc sống của “Chói biếc”, lại vừa có sự vươn lên hiện thực phong phú của cuộc đời. Nhưng phái đến “Gíó Lào cát trắng■” khi chị trực tiếp đối mật với những thứ thách khấc nghiệt nơi vùng đất lửa anh hùng đánh Mỹ - Vĩnh Linh bước chuyên đó mới thực sự mạnh mẽ và nhuần nhuyễn. Từ vùng đất hẹp của những tâm tình riêng, Xuân Quỳnh đã đến và gắn bó với vùng đất “chưa có gì kỷ niệm” này. Nhưng chính vùng đất này đã thức dậy trong chị những cảm xúc thơ mới mẻ, nóng bỏng thiết tha. Đến với thơ chị lúc này, chúng ta được lắng nghe giọng điệu tâm tình, gần gũi, thân thiết mà biết bao sâu lắng của thế hệ thanh niên thời chống Mỹ; chúng ta lắng nghe một tiếng nói mới, rắn rỏi hơn, thực tế hơn nhưng vẫn rất nhạy cảm và tinh tế. Cùng viết về chiến tranh, nếu các nhà thơ nam nổi rõ lên với những bài thơ nóng hổi hơi thở cuộc sống chiến trường, với vốn sống phong phú thu nhận trực tiếp từ những con đường ra trận thì trong thơ các nhà thơ nữ, chiến tranh thường được biểu hiện một cách gián tiếp mà ít miêu tả trực diện. Họ mang đến xúc cảm thẩm mỹ mới mẻ, đó là sự xót thương, bên cạnh cảm xúc thẩm mỹ sử thi hùng tráng vốn phổ biến của thơ ca chống Mỹ. Cùng chung cái nhìn của các nhà thơ nữ về hiện thực chiến tranh nhưng ở Xuân Quỳnh chúng ta thấy rõ hơn những suy nghĩ, trải nghiệm của chính chị trong chiến tranh.
51
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
“Với chiến tranh Xuân Quỳnh là người nhập cuộc nên thơ chị rất sinh động, rất thât mà những cách tiếp cận từ xa không thể có được. Xuân Quỳnh đã khám phá dân tộc qua lăng kính chủ quan của mình thật đến từng chi tiết” [125:32]. Giáp mạt với bom đạn chiến tranh, trải nghiệm những gian khổ hi sinh, trong thơ Xuân Quỳnh ngày càng nặng chất suy ngẫm, tự bạch độc thoại, đối thoại với thế hệ mình hơn là ngợi ca cổ vũ. Kể từ "Hoa dọc chiến hào" đến "Gió Lào cát trắng”. điểm nhìn nghệ thuật của chị tập trung vào hiện thực cuộc sống, hiện thực chiến hào được cảm nhận bằng kinh nghiệm của người trong cuộc. Đặc biệt, bằng sự trải nghiệm của bản thân, hiện thực ấy được chị thể hiện ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác nhau. Chị viết về chiến tranh, về những gì đang diễn ra trong những ngày chiến đấu cam go, quyết liệt không phải bằng những ngôn từ nóng bỏng, dữ dội mà bằng đôi mất, tâm hổn dịu dàng lắng sâu của người phụ nữ. Chiến tranh đó là sự chia đàn xẻ nghé trong mỗi gia đình. Chiến tranh làm cho bao số phận phải chịu cảnh đau thương. Chiến tranh là một cuộc biệt ly nhưng chiến tranh cũng tôn vinh vẻ đẹp của sức mạnh và ý chí căm thù giặc. Xuân Quỳnh là người giáp mặt với máu lửa chiến tranh, chị cũng trải nghiệm những gian khổ, hi sinh trong cuộc chiến, song cách nhìn nhận về cuộc chiến và sự mô tả của chị trong tập thơ “Gió Lào cát trắng” rất khác với sự thể hiện của các nhà thơ nam cùng thế hệ. Lấy nguồn cảm hứng từ chuyến đi thực tế Quảng Bình - Vĩnh Linh, “Gíơ Lào cát trắng” của Xuân Quỳnh đã thể hiện được một cách chân thực hiện thực nóng bỏng và dữ dội của chiến tranh. Hầu hết các bài thơ trong “Giố Lào cát trắng” nói về những năm tháng đạn bom, những thử thách khắc nghiệt mà đất và
người đã trải qua. Ở đây, Xuân Quỳnh đã có ý thức nhập cuộc. Chị mô tả hiện thực đúng như bản chất của nó, chứ không phải bàng tâm trạng của một người đi qua, nhận biết sự vật rồi viết ra. Chiến tranh dưới ngòi bút của Xuân Quỳnh cũng hiện lên với sự thực gân guốc. Không khí chiến tranh căng thẳng, nặng nề. Sự tàn phá khốc liệt và quyết tâm dũng cảm của con người đều được đẩy lên ở mức độ quyết liệt nhất. Những tình cảm và suy nghĩ riêng tư đều hòa với hơi thở chung của dân tộc. Trong thơ chị, chiến tranh không phải là sự thi vị. Sự tàn khốc của chiến tranh được chị mô tả dưới con mắt của người trong cuộc. Đất nước mịt mù trong khói lửa đạn bom, sự sống bị hủy diệt. Con người không còn phân định được thời gian. Chiến tranh gắn liền với sự tàn phá, hủy diệt, sự hi sinh xương máu. Chiến tranh khiến cho đất nước và người phải
52
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
chịu những nhọc nhằn, vất vả, tang thương. Chứng kiến những lần bom Mỹ dội xuống vùng đấl Vĩnh Linh, sau làn khói đen chỉ còn phoi lên sắt và đất đỏ, lòng chị trào dâng nỗi uất nghẹn:
...“Đốt đèn lên ta làm ban ngày Ta định phút, định giờ lên đánh giặc”... (Thèn gian đi trong lòng đất)
Viết về chiến tranh, Xuân Quỳnh không miêu lả trực tiếp hiện thực cuộc sống chiến trường. Giống như các nhà thơ nữ khác khi viết về chiến tranh, chiến tranh không phải là tiếng bom gầm, đạn réo mà là nỗi xót xa ở một sự đổi thay bất thường của cuộc sống, ở sự khác thường của chính thế hệ chị - những sự khác thường đòi khi rất nhỏ nhưng cũng đầy ám ảnh. Là nhà thơ, lại là phụ nữ, trái tim Xuân Quỳnh rất đau đớn trước những mất mát của chiến tranh, những hi sinh của chính thế hệ mình:
“Anh nằm trên bãi cát cửa sông Dòng nước lợ mang máu anh về bể Sóng ve vuốt bàn chân, gió thì thầm rất khẽ Bên cửa sông, hàng xóm quây quần Không ai khóc, vì anh không muốn khóc Nén tiếng khóc trở thành cơn lốc Đoàn con trai đi tòng quân” (Bên cửa sông) Chiến tranh là sự tàn khốc, li tán. Xuân Quỳnh viết về chiến tranh với nỗi đau nhẹ nhàng mà xót xa, uất nghẹn như tiếng nấc đang kìm nén, chất chứa trong lòng. Không hề có chút lên gân, nỗi đau mất mát qua tình cảm, nghĩ suy của nhà thơ đã gieo vào người đọc một tình cảm đẹp trước sự hi sinh anh dũng của một thê' hệ.
Viết về chiến tranh, trong thơ Phạm Tiến Duật nhiều bom đạn vũ khí: máy bay, đại bác, cao xạ, pháo sáng, rốc két... Cũng viết về chiến tranh trong thơ các nhà thơ nữ lại được biểu hiện ở khía cạnh khác, trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, đó ỉà
hương cau thơm nhè nhẹ gợi nỗi nhớ thương của cô gái có người yêu đi đánh giặc phương xa: “Giờ anh đi trăm nơi
Cau vườn thơm đất nước Làng quê nào dừng bước Có nghĩ về nơi em”
53
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Viết về chiến tranh trong thơ Ý Nhi đó là sự khám phá sự sống của cỏ
cây hoa lá: “Đổi cây thơm, nấng dãi đất cằn khô
Trái sim chín trong gió Lào khắc nghiệt Độ chua quả chanh, vị nồng trái ớt Màu rau lên, xanh mượt nơi vườn” (Ngọn gió với hoa chạc chiu)
Giông như các nhà thơ nữ, khi viết về chiến tranh, Xuân Quỳnh đã chắt lọc. lắng nghe để nghĩ, để cảm nhận những thay đổi của cuộc sống mà chiến tranh đã gây ra. Song, sự tạo nên nét riêng của Xuân Quỳnh, đó là sự cảm nhận cuộc sống trong chiến tranh của chị. Chị không viết về những gì ổn ã, lớn lao như bao cây bút ở chiến trường, mà tìm thấy ý nghĩa cho riêng mình, bài học ân tình từ những điều nhỏ bé bình thường ấy. Bằng sự nhạy cảm, Xuân Quỳnh đã mượn những cái bình thường, dung dị đc khái quát về chiến tranh - chiến tranh không thế huý diệt hết sự sống, sự sống không khuất phục trước dữ dội. ác liệt của chiến tranh. Tóm lại, với chiến tranh, Xuân Quỳnh chưa đóng góp được nhiều nhưng sự có mặt của chị nơi chiến trường nóng bỏng cũng là một sự cố gắng lớn lao đáng ghi
nhận. Bằng sự trải nghiệm thự tế, bằng cái nhìn nhạy cảm về chiến tranh, chị đã tạo nên nét riêng cho thơ mình với phong cách tự biểu hiện mới mẻ nhưng không lạ lẫm.
2.1.1.2. Giá trị hạnh phúc đời thường trong chiến tranh
Điểm mạnh của thơ chống Mỹ là khả năng khái quát. Vì vậy, giai đoạn này thơ ca xây dựng nhiều hình tượng: Hình tượng về Tổ quốc, về nhân dân, về người chiến sĩ... Đó là những tấm gương sáng ngời trong chiến đấu. cảm hứng sử thi đã tạo nên những vẫn thơ thật hào hùng:
“Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” - Chế Lan Viên - Trong khi đó, thơ nữ giai đoạn này lại thiên về cái đời thường. Gắn bó với cuộc sống đời thường, trái tim phụ nữ của họ nhạy cảm sâu sắc nỗi mất mát lớn lao
mà chiến tranh mang lại. Đó chính là sự bất ổn của cuộc sống đời thường:
54
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
“Chiến tranh lại dồn thêm nhiều việc
Mẹ làm quen với dáng cha ngồi mải miết
thông lòng súng trường
Chúng tôi làm quen với vài nét vẽ ngụy trang Irên tường
với những chuyến tàu Được chuyển vào ban tối Với vẻ lo âu khi người cha níu kéo nhân viên nhà ga
dò hỏi Về những đoạn đường sẽ đi” (Thành phố thân yêu) - Ý Nhi
Viết về chiến tranh, Xuân Quỳnh cũng vậy. Chị luôn ý thức sâu sắc về những bất ổn của cuộc sống đời thường. Sự bình yên bị phá vỡ, khi mà giữa êm đém vòm cây, êm đém hoa cỏ, bất chợt là tiếng bom dội, là hiện thực khốc liệt của chiến tranh: “Chúng tôi học đào hầm trước khi học lớp Mái nhà tranh sơ tán ờ trên đồi
Đang giờ toán bỗng nghe bom dội Trong bài vãn có chữ máy bay rơi” {Chúng tôi) - Xuân Quỳnh
Là người mang nạng khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc đời thường, chính vì vậy, Xuân Quỳnh đã phát hiện ra giá trị của đời thường trong chiến tranh.
Đây là nét riêng trong cách nhìn chiến tranh của Xuân Quỳnh. Nó đã góp thêm một nét vẽ để hoàn thiện bức chân dung chị - luôn chắt chiu dành dụm và đeo đuổi suốt đời hạnh phúc đời thường. Ở tập thơ đầu tay “Chồi biếc”, có lẽ do tuổi đời còn quá trẻ, chưa từng trải mà
tương lai lại đang đầy hứa hẹn nên những khao khát về hạnh phúc đòi thường tạm thời bị che lấp đi, thay vào đó là chất mơ mộng, hồn nhiên, yêu đời của người thiếu nữ đầy hoài bão, ước mơ.
Theo năm tháng và thực tế cuộc sống nhiều biến động, thơ Xuân Quỳnh dần có những phẩm chất mới. Từ chuyến đi thực tế ở vùng đất lửa Quảng Bình - Vĩnh Linh, chị viết uGió Lào cát trắng", đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống, suy nghĩ và định giá lại những tiêu chuẩn của đời thường.
55
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Bằng cuộc trải nghiệm của mình trong chuyến đi thực tế vất vả, gian nan “nằm một mình ngủ trong lô cốt, trên đường giữa đêm khuya mênh mông vắng lặng” [ 107;31 ], Xuân Quỳnh đã nhận ra trong chiến tranh không có cuộc đời thường, không có con người thường:
‘Thành phô' này không có thường dân Mẹ là cứu thương, bố là tự vệ dân phòng Con đủ sức con xin ra mật trận” (Thành phố không có thường dân) Điệp khúc “Thành phố này không có thường dân” được nhắc đi nhắc lại trong
bài thơ dài như một sự ám ảnh. Nó găm sâu vào trong lòng người một vỡ lẽ, một nhận thức, rằng cuộc chiến tranh đã kéo theo nó bao nhiêu đổi thay: con người đổi
thay, thiên nhiên vạn vật cũng đổi thay. Những con người trong thời bình đã từng ấp ủ b i ế t bao ước IT1Ơ, d ự định t ố t đẹp, trở thành: bác s ĩ , k ỹ s u , nhà văn, nhà thơ... Chiến tranh kéo đến. bằng ý thức, trách nhiệm của mình, họ đã gác bút nghiên, gác lại mọi tình cảm riêng tư, gác cuộc đời thường để sống cuộc sống bất thường của chiến tranh:
“Chúng tôi quen những đèm truy kích giặc Hơn là quen giấc ngủ ở quê nhà” (Chúng tôi) Với hành trang là chiếc ba lô trên vai, Xuân Quỳnh đã từng bước đi trên phố
phường mà bom đạn kẻ thù đã tàn phá ghê gớm. Chiến tranh đã gõ cửa từng nhà, biến những người dân chất phác, hiền lành thành những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường trên khắp nẻo đường thành phố:
“Giặc đến nhà ta, ta phải đánh Thành phố này không có thường dân” (Thành phố này không có thường dân, 12 - 1972) Toàn dân của thành phố là anh hùng. Phát hiện ấy của Xuân Quỳnh vừa tự hào, vừa đau đớn - cái đau đớn vì không được làm người thường, không được sống cuộc đời thường. Từ sự nhận thức ấy, chỉ cảm nhận sâu sắc hơn, da diết hơn về những giây phút ớ đời thường không có được trong những ngày tháng ác liệt của chiến tranh. Trong cuộc sống yên bình, ta có thể không cảm nhận hết giá trị của đời thường, nhưng trong cuộc sống bất thường của chiến tranh, hạnh phúc đời thường ấy lại trở thành niềm khao khát. Đặc biệt, đối với Xuân Quỳnh - người luôn phấn đấu. gìn giữ hạnh phúc đời thường, người đã cố gắng đưa vào thơ mình cả những cái nhỏ
56
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
bé. bình thường cua cuộc sống thường nhật thì nỗi khát khao ấy lại càng cháy bỏng,
thiết tha. Có lẽ tất cả những chi tiết bình dị, nhỏ nhặt, những buồn vui, toan tính thường ngày ấy đã tao thành nhịp sống trong thơ Xuân Quỳnh, tạo ra nét riêng trong phong cách thơ Xuân Quỳnh - một hồn thơ đằm thắm, dung dị mà xiết bao ân tình. Trên những nẻo đường vùng tuyến lửa Vĩnh Linh đã in đậm dấu chân của người nghệ sĩ luôn muốn săn tìm và khám phá giá trị của đời thường. Bàng cả tấm lòng mình, chị đã thể hiện sự gắn bó thân thiết với đất và người nơi chị đã đi qua. Chiến tranh trong mắt Xuân Quỳnh là cuộc giành giật sự sống của cỏ cây. Trên vùng đất mà chiến tranh đã hủy diệt đến “không một tiếng gà, không ánh lửa, không gốc cây, ngọn cỏ bờ lau”, chị lại càng nhớ về sự bình yên của cuộc sống, lại nghĩ đến “thơ thiết một màu xanh": “Giữa gió cát, giữa những ngày ác liệt Tỏi nghĩ về tha thiết một màu xanh” (Gió Uio cát trắng) Đau đớn trước mất mát của những hạnh phúc nhỏ nhoi thường nhật trong chiến tranh bao nhiêu, Xuân Quỳnh lại càng khao khát những giây phút của hạnh phúc đời thường bấy nhiêu. Trên đường hành quân, chị xốn xang khi nghe tiếng gà nhà ai nhảy ổ “Cục tác ... cục ta”. Đây không chỉ là tín hiệu yên bình. Với chị, đó là âm thanh diệu kỳ của sự sống. Bài thơ “Tiêng gà trưa" đã thế hiện sự nhìn nhận chiến tranh rất khác lạ của Xuân Quỳnh:
“Trên đường hành quân xa Dừng chân bên xóm nhỏ Tiếng gà ai nhảy ổ Cục ... cục tác cục ta” Tiếng “cục tác cục ta” ấy xé tan bức tranh ảm đạm, kinh hoàng cúa chiến tranh, đưa con người về miền ký ức bình yên, nơi ấy sống dậy những ký niệm tuổi thơ: “Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng” Với Xuân Quỳnh, tiếng gà trưa chính là âm thanh của tiếng lòng, của tuổi thơ rất đỗi xúc động trên đường chiến tranh khiến chị không thể vô tình: Tất cả những điều đơn giản mà gần gũi ấy đã làm vơi đi những thiếu thốn, vất vả của cuộc sống
57
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
chiến tranh, làm tãng sức mạnh tinh thần cho con người trong cuộc sống chiến đáu bảo vệ Tổ quốc đê giữ lấy những cái của đời thường. “Tiếng gà trưà' của Xuân Quỳnh đã gợi thao thức về kỷ niệm, thao thức về khát vọng, về những hạnh phúc nhỏ bé đời thường. Và chi có ai sống trong chiến tranh mới biết quý nhường nào những khoảnh khắc bình yên hiếm hoi của cuộc sống để mà trân trọng, nâng niu nó.
Trái tim người phụ nữ trong chị hiểu rõ giá trị của cuộc sống đời thường, của che chở bao dung, vì thế, chị cảm nhận cái ác liệt nhất của chiến tranh chính là chiến tranh đã tước đi cuộc sống bình yên hàng ngày.
Những miền đất nóng bỏng mà Xuân Quỳnh đã đi qua còn nguyên dấu vết ác liệt của chiến tranh. Nơi đó, từng giờ, từng phút con người và thiên nhiên phải giáp mặt với bom đạn của kẻ thù. Nhưng sự sống là không thể hủy diệt. Chính trong hoàn cánh đó, Xuân Quỳnh đã có những khám phá bất ngờ khi phát hiện ra sức sống mãnh liệt, dai dẳng của thiên nhiên hoang dã. Mượn những hình ảnh bình dị: cỏ dại, cát trắng, đồi đá ong ... để nói sức sống bất diệt của đời thường trong chiến tranh quả là độc đáo. Với trái tim tinh tế, nhạy cảm, Xuân Quỳnh đã tìm thấy trong ngọn
cỏ, hạt cát tín hiệu yên bình, hạnh phúc của đời thường giữa cuộc chiến. Điều đặc biệt ở Xuân Quỳnh là không chỉ nhận ra đó là tín hiệu yên bình mà chị
còn nghĩ vé thân phận cỏ, sức sống mạnh mẽ trong màu xanh bất diệt của cỏ. Chính màu xanh này đcm đến cho người chút dịu mát, báo hiộu sự yên bình, sự sống đang được hổi sinh: “Cùng đổng đội anh trở về làng cũ
Anh nhận thấy trước tiên là cỏ Sự sống đầu anh gặp ở quê hương” (Cỡ dại) Hơn nữa, cuộc đời làm thơ của Xuân Quỳnh gắn với những năm tháng gian
nan vất vả của chiến tranh. Từ kinh nghiệm của chiến tranh, Xuân Quỳnh đã rút ra cho mình “thấy lại giá trị những gì bình thường trong cuộc sống" và càng thấm thìa hơn:
“Trong những ngày kháng chiến gian lao Điều đơn giản thành nỗi khát khao Mà suốt đời còn là mơ ước” (Những năm ẩy) Suốt cả cuộc đời, Xuân Quỳnh luôn khát khao hạnh phúc đời thường. Trong chiến tranh, nỗi khát khao ấy càng nhân lên gấp bội. Phát hiện giá trị của hạnh phúc
58
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ________
đời thường trong chiến tranh là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của riêng chị, là nét riêng độc đáo thế hiện phong cách thơ Xuân Quỳnh. Cảm nhận cuộc chiến tranh bằng cái nhìn mang tính nữ, thơ chị gửi gắin người đọc mội thống điệp giản dị mà cao cả: tội ác của chiến tranh đã làm đổ vỡ đi những gì đời thường nhất. Chị làm thơ để kiếm tìm những giây phút bình yên của đời thường trong những ngày ác liệt của chiến tranh.
2.1.2.Viết về quẽ hương, đất nước với tình yêu thiết tha
2.1.2.1. Cảm xúc về những miền đất nơi Xuân Quỳnh đã đi qua Nhà thơ Huy Cận trong hồi ký của mình từng bộc bạch rằng: “Với người làm văn học nghệ thuật, quê hương có một vị trí vô cùng quan trọng. Nó là yếu tố ban đầu rất cơ bản tạo nên tâm hổn nghệ thuật, tâm hồn thơ. Không gắn bó với quê hương không thể có nghệ thuật. Chính vì vậy, nói tới đời của người làm thơ, làm nghệ thuật không thể không nói tới quê hương họ”. Điều này có thể thấy rõ với trường hợp Xuân Quỳnh. Nhắc đến chị, nhiều người nghĩ chị chỉ là nhà thơ của tình yêu đôi lứa. Nhưng với tôi, những mảng thơ về quê hương đất nước của chị đã gây cho tôi nhiều xúc cảm và có sức hấp dẫn đặc biệt không kém những bài thơ chị viết về tình yêu. Ai sinh ra mà không có quê hương! Dù đó là miền đất tươi đẹp hay khô cằn sỏi đá thì đó cũng là nơi mà ta đã sinh ra, là nơi có mẹ, có cha, có những người thân thương ruột thịt. Với Xuân Quỳnh, tình yêu quê hương thật rộng lớn, sâu nặng. Tình yêu quê hương, đất nước trong thơ chị được gửi gắm trong một mái nhà, một mảnh vườn, một góc phố, một dòng sông hay rộng lớn hơn là một ngôi làng, một thành phố, một đất nước... Những bài thơ của chị không chỉ gợi nhớ thương mà còn chạm đến cả những miền sâu kín, những rung động gần gũi và tinh tế của tâm hồn. “Gỉớ Lào cát trắng” ỉà một bài thơ như thế! Xuân Quỳnh đã dành những vần thơ cảm động cho miền đất khắc nghiệt miền Trung: Quảng Bình - Vĩnh Linh, nơi chị không sinh ra nhưng có một phần đời ở đó. Đây là một vùng đất, một điểm nóng của chiến tranh, nơi mà kẻ thù tập trung tàn phá triệt để nhất và cũng ỉà nơi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thể hiện rực rỡ nhất. Cũng giống như các nhà thơ chiến sĩ cùng thế hệ, với chiếc ba lô trên vai, Xuân Quỳnh đã đến với vùng đất khói lửa ấy bằng tình cảm trân trọng, thiêng liêng. Chị yêu quý cả những nỗi bất hạnh, khổ đau của quê hương. Dải đất khô cằn cát sỏi và bỏng rát này đã để lại trong chị một cảm xúc nhớ thương, trìu mến:
59
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ______ ____ _______________ ____
“Ngọn gió bỏng khi đi thành nỗi nhớ Cát khô cằn ở mãi hóa yêu thương” (Gió Lào cát trắng) Què hương chính là nơi chôn rau cắt rốn mà con người ta không dẻ dàng vứt
bỏ được. Dẫu khắc nghiệt, dẫu càn khô thì đó cũng là nơi con người ta sinh ra. lớn lên, ra đi rồi có lúc trở về. Và nhiều khi, những khấc nghiệt, khó khăn ấy lại làm người ta xót xa, bùi ngùi khi nhớ về. Mảnh đất Quảng Bình - Vĩnh Linh ghi dấu ấn sâu đậm trong thơ Xuân Quỳnh. Vùng quê miền Trung đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, lại phải chịu sự tàn phá ác liệt của chiến tranh lúc nào cũng gợi nên niềm thương yêu và sự gắn bó tha thiết nơi sâu thẳm tâm hổn Xuân Quỳnh. Chị luôn sẵn sàng hiến dâng tất cả, cống hiến tất cả, để xây dựng quê hương đất nước mình:
“Tôi sẵn sàng đem hiến cả đời tôi Cho cát trắng và gió Lào quạt lửa” (Gió Lào cát trắng)
Có lẽ không ở đâu như dải đất miền Trung, nhất là vùng Quảng Bình - Vĩnh Linh, là “khúc ruột” của Tổ quốc nhưng lại phải chịu sự “đối xử ' hắt hủi, ghe lạnh
của thiên nhiẽn. Mùa nắng với cái nắng gay gắt và những đợt gió Lào bỏng rát đã thiêu trụi mọi màu xanh cây cỏ, chỉ còn một triền cát dài mênh mông trắng lóa. Nhưng đến mùa mưa, tất cả chỉ còn là một vùng đất ngập chìm trong biển nước vô
tận. Và có lẽ như một định mệnh khắc nghiệt, những năm tháng chiến tranh, cũng chính mảnh đất miền Trung này phải chịu những triệt phá khốc liệt nhất từ phía kẻ thù nhằm chia lìa đất nước Việt Nam thành hai mảnh:
“Giặc phá hết rồi không còn gì đâu Khỏng làng xóm, không người, không cỏ
Không ai nhận ra đường phố làng quê Một phần đất trộn bốn phần sắt thép” Mảnh đất miền Trung với bao khắc nghiệt khó khãn và thử thách lớn lao. Song, trong cảm nghĩ của Xuân Quỳnh, chị vẫn thể hiện tình yêu đất và người nơi đây bằng niềm tin, niềm hy vọng mơ ước về một tương lai tươi đẹp: “Nhà của tôi, tôi sẽ dựng lại Ánh ngói hổng những gương mặt mai sau” Tinh yêu quê hương đất nước trong thơ Xuân Quỳnh thật nồng nàn. tha thiết đầy yêu thương và khát vọng. Chị đã đi nhiều nơi và mỗi miền đất đặt chân đến chị luôn dành
60
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
cho chúng những tình cảm sâu nặng, dạt dào. Đó là mảnh đất miền Trung với “Gió Lào cát trắng” bỏng rát mặt người, là nơi đã sinh ra những người con ưu tú của thòi đại, là nơi thử thách lòng kiên trung của mỗi con người đối với đất nước quê hương. Đó là vùng đất Vĩnh Giảng, nơi chị mới đặt chân đến, “c/ỉwa có gì kỷ niệm” mà sao vẫn bát ngát,
chan chứa tình . Đó là mảnh đất Vĩnh Quang với những ngôi làng bị bom giặc tàn phá nhưng lòng người lại kiên định, quyết tâm. Đó là mảnh đất Vĩnh Linh hoang tàn đổ nát với trơ trụi mật đất cằn khô.
Bàng cái nhìn khách quan của người chứng kiến những dữ dội, khốc liệt của chiến tranh mà miền Trung phải gánh chịu, Xuân Quỳnh đã viết nên những câu thơ thấm đẫm xót xa về quê hương, đất nước mình. Điều này lại khác với Lâm Thị Mỹ Dạ - Dẫu là trong những năm tháng chiến tranh nhưng trong cảm nhận của một con người xa quê, vùng đất Bình Trị Thiên vẫn gợi lên cảm giác thanh bình, tươi đẹp với những con người chân chất, chịu thương chịu khó. Bởi vậy, Mỹ Dạ đã viết nên những câu thơ tươi mát làm dịu cả sự khốc liệt của chiến tranh: “Màu vàng bom bi lẫn màu vàng của lúa Bom nổ chậm không làm ta sợ nữa
Nào chị em mình gặt đi thôi
Mỗi người đội một vành trăng nhỏ Chấp chới nghiêng trên thảm lúa vàng” (Gặt đêm) Đây là một trong những đặc điểm tạo nên nét riêng của mỗi tác giả nữ khi viết vé quê hương, đất nước trong những nãm tháng chiến tranh.
2.1.2.2. Tinh yêu quê hương đất nước bắt nguồn từ những sự vật đơn sơ, bình dị.
Trở lại với Xuân Quỳnh, chúng ta dễ nhận thấy một điều tất cả những gì của quê hương, đất nước, của xóm làng thân thuộc đều gắn bó với Xuân Quỳnh. Dường như đối với chị những vật vô tri, vô giác, những gì là hiển nhiên của tạo vật cũng đều có tình yêu, đểu có hổn người - đó là một rung động tinh tế, sâu lắng, một nét riêng trong thơ Xuân Quỳnh. Và tình yêu ấy càng nồng cháy, sâu đậm hơn bởi những năm tháng ác liệt của chiến tranh. Với quê hương, mỗi người khi nhớ đến luôn tìm cho mình một hình ảnh, một kỷ niệm thân quen nào đó. Quê hương trong thơ Xuân Quỳnh đó là cát, cỏ dại, bờ lau, mái phố...
61
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơXuáìi Quỳnh
Với nhiều nhà thơ, cỏ dại, cát trắng... là bức tranh của thiên nhiên và các nhà thơ có thê thả hổn mình vào khung cảnh hoang sơ ấy để thấy lòng mình cô độc. dùng nó để gẩy vào thơ ca khúc nhạc buồn bã cho thấu đến tận cùng sự hoang vắng, cô liêu của tăm trạng. Ý Nhi - nhà thơ nữ cùng thời với Xuân Quỳnh dùng cát để gửi gắm và bao phú nỗi buồn, bởi cát rộng quá, đại dương nào lấp nổi. Có khi, cát lại nặng trìu trong tàm can thi sĩ, trong nỗi đau số mệnh muôn đời :
“Tôi tìm đến những đền đài tưởng niệm Nào hay đâu chỉ là cát đấy thỏi Hạt cát nào trong đáy mắt bỏng sôi Đang lặng lẽ lăn đi trên gò má.
{Cat 2) Với Xuân Quỳnh, cát là sự bao bọc, chở che, là tri ân, là hình ảnh quê hương trong đó. Cái thấm ướt máu đổng đội, cát là bức tranh đổi màu của quê hương trong những năm tháng đau thương mất mát:
“Cát vẫn nghìn nãm im lặng Cát thấm bao nhiêu là mưa Cát thấm bao nhiêu là máu” {Cát ở Cửa Việt) Cát muôn đời vẫn trắng, nhưng cũng có cát hổng - khi Iĩiáu đồng đội đã
nhuộm màu cho cát. Và chính màu hồng này - cũng như những bông lau trắng đã nhuốm máu người bạn gái của chị mới tạo cho đời sắc xanh bình yên, mới tạo cho quê hương thanh bình với một màu cát trắng bất diệt:
“Cát đã qua nghìn lửa cháy Cát đã qua nghìn đạn bom Đã tìm về với bà con Và cát bây giờ vẫn trắng” (Cát ở Cửa Việt)
Cũng như vậy, cỏ không phải là vật vô tri vô giác trong thơ Xuân Quỳnh. Khi giáp mặt với bom đạn kẻ thù, cỏ dại đã thổ hiện sức sống mãnh liệt, c ỏ tượng trưng cho sức sống của quê hương trong những ngày gian khổ: “Người dân quân tỳ súng lắng nghe Bài hát nói về khu vườn đầy trái
Anh bỗng nghĩ đến một vùng cỏ dại Nỗi nhớ đầu anh nhớ quê anh” {Cỏ dại)
62
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Bài hát người dân quân lắng nghe mang hình ảnh của miền đất ngọt lành với '"khu vườn đẩy trái" đẩy hoa thơm trái ngọt nhưng tự trong tiềm thức anh, một vùng cỏ dại hiện về, tựa như đó là hình ảnh mà anh đã cất giữ, đã mang theo suốt chặng đường hành quân xa quê. Dường như hình ảnh cỏ đã chứa đựng trong đó cả quê hương anh vậy! Với Xuân Quỳnh - quê hương có khi chỉ là một nhành cỏ dại, một cồn cát trắng nhưng có khi lại ấm áp, bình yên, bao dung trong hình ảnh một mái phố:
“Từ những ngày gian khổ Từ lửa táp bom rơi Tôi nghĩ về phố tôi Thấy sao mà vững dạ!”
Những hình ảnh của thành phố quê hương được cô đọng lại trong hình ảnh mái phố, nơi gán bó với tuổi thơ... Nó dịu dàng, ấm áp, nâng đỡ, sưởi ấm con người vững bước trên bước đường chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Với ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc thơ tuôn trào, Xuân Quỳnh đã bộc lộ được tâm tư, tình cảm của mình với quê hương đất nước.
Những năm tháng chiến tranh với bao khó khăn, gian khổ, sự bình yên là nơi con người luôn khái khao và tìm kiếm. Một góc phố yêu thương, một mái nhà chở che là nơi Xuân Quỳnh luôn hướng tới:
“Bình yên trên những mái nhà Vịnh xanh nước lặng, buồm xa cuối trời” (Tình ca trong lòng vịnh)
Những suy nghĩ về quê hương, về dự định tương lai, về ngôi nhà bé nhỏ đã tạo nên nguồn sức mạnh cho con người vượt qua thực tại khó khăn, khắc nghiệt. Nó tạo nên trong mỗi con người niềm tin yêu cuộc sống, hi vọng vào tương lai tươi đẹp: . Nhà của tôi, tôi sẽ về dựng lại Ánh ngói hổng những khuôn mặt mai sau” Tình yêu thiết tha, cháy bỏng với quê hương đã tạo nên sức mạnh to lớn để con người chiến đấu bảo vệ quê hương:
“Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu Tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác Ô trứng hồng tuổi thơ” (Tiếng gà trưa)
63
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ X uân Quỳnh _____________________________
Có thể nói, với những hình ảnh đơn sơ, những sự vật nhỏ bé, bình dị, nhưng Xuân Quỳnh vẫn tìm thấy chất thơ, vẫn tìm thấy vẻ đẹp của quê hương dất nước mình ẩn chứa trong đó. Với những hình ảnh này, cách cảm nhận này đã tạo nên những nét riêng, nét độc đáo trong thơ Xuân Quỳnh. Những vần thơ về quê hương đất nước của chị đã để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm. Trái tim chân thành, tha thiết - trái tim biết đập những nhịp đập cho quê hương đất nước, biết bảo vệ và khao khát cống hiến cho quê hương đất nước đã tạo nên một phong cách, một hồn thơ Xuân Quỳnh.
2.1.2.3. Tình yêu quê hương, đất nước xuất phát từ tình yêu thương con ngưòi.
Quê hương luôn là một phần máu thịt trong tâm hồn mỗi người còn bởi nơi đó có những người thân yêu nhất mà cho dù có đi tới bất cứ phương trời nào ta vẫn luôn hướng về họ với tấm lòng trĩu nặng nhớ thương. Với Xuân Quỳnh, trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, có lẽ nỗi nhớ sâu thẳm nhất về quê hương, đất nước của nhà thơ luôn dành cho những người thân, cho bạn bè anh em và cho đổng đội. Khi đất nước bị lâm nguy, những người con của quê hương đồng sức, đồng lòng đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Mỗi người một tên tuổi, một quê hương nhưng họ có chung một khát vọng, một tình yêu. Đó là tình yêu quê hương, đất nước và những người thân yêu ruột thịt. Mỗi người ở một vùng quê khác nhau nhưng họ đều ra đi vì lý tưởng chung bảo vệ quê hương đất nước, chiến đấu giành độc lập tự do cho dân tộc: “Người ở đây ai cũng trẻ măng Những bàn chân Nam - hà gót rỗ Màu mắt trong của Hà - tây quê lụa Giọng Thái - bình bát ngát gió hàng tre Một con đường có đủ mặt trăm quê” (Viết trên đường 20)
Với nhịp điệu của thơ tự do không hề bị gò bó, giọng thơ hổn nhiên, khỏe khoắn, Xuân Quỳnh cho ta thấy tình cảm thương yêu, trân trọng của chị đối với những người con của quê hương sẵn sàng ra đi bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn sự bình yên
cho từng mái phố, từng xóm làng thân thuộc :
64
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
“Bộ đội về rộn rã khắp nơi Các anh ấy thay anh gọi mẹ Anh có nghe tin chiếc máy bay vừa hạ Người đi về gặp ụ súng đầu thôn Biết đâu là tiền tuyến, hậu phương Noi nào chẳng có người ra trận” (Thơ dọc triển sông) Nếu như với “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế k ỹ ' (Lê Anh Xuân), “Nhấp nhô sông núi những sư đoàn" (Nguyễn Đức Mậu), “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu)... đã khắc họa thành công vẻ đẹp kỳ vĩ, chói lòa của người chiến
thắng thì thơ Xuân Quỳnh cũng là phát hiện vẻ đẹp anh hùng của con người Việt Nam, vẻ đẹp trong đời thường ta chưa nhìn thấy hết. Nhưng hình tượng anh hùng trong thơ Xuân Quỳnh ít thấy dáng dấp tượng đài, ít thấy những đặc điểm của
phương diện ngoại hiện như tầm vóc, tư thế, dáng đứng. Thế giới nội tám mới làm nên đặc điểm của hình tượng con người thời đại của thơ Xuân Quỳnh. Ta bắt gặp trong thơ Xuân Quỳnh, con người “trằn trọc”, “thương”, “nhớ", “nghĩ”... Không viện đến kỹ xảo, thủ pháp hình thức, Xuân Quỳnh nói điều đó một cách giản dị, phát hiện ra chất sử thi vốn có trong hiện thực cuộc sống: Không ai có quyền nghĩ lâu trong lúc đạn bom
Không cản bước bạn bè dẫu chỉ bằng cái chết Chính ở đây mới biết sâu lòng căm ghét Chính ở đây mới hiểu hết nghĩa yêu thương” (Viết trên đường 20)
Sự sống và cái chết, niềm yêu thương và lòng căm ghét, ranh giới giữa chúng chỉ trong giây phút, trong gang tấc nhưng cũng rất rõ ràng, không hề lẫn lộn. Sự đối lập tuyệt đối có thể cực đoan, sự cực đoan do thiếu độ vững vàng về tư tưởng nghệ thuật. Xuân Quỳnh đã chứng tỏ trình độ, bản lĩnh nghệ thuật trong việc vận dụng hình
thức trình bày, làm cho nó trở thành hình thức mang tính nội dung. Nó biểu hiện thái độ dứt khoát, rõ ràng, không hề băn khoăn, do dự trong lựa chọn hành động của người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trước hoàn cảnh. Trong những ngày chống Mỹ, tất cả tình cảm, tài năng, trí tuệ của dân tộc ta đều hướng ra chiến trường. Đội ngũ những người ra trận trong cái nhìn của Xuân Quỳnh là những người yêu, người bạn, là những người con, là những nhà thơ, những
bác sĩ, kỹ sư... Họ đã gác lại những hoài bão, ước mơ, nén những tâm tư tình cảm chất chứa trong lòng để lên đường theo tiếng gọi giục giã của quê hương.
65
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh luôn giành những vần thơ đầy tự hào với niềm cảm phục, yêu thương và hết sức trân trọng đối với những người chiến sĩ, người đồng đội đã chiến đấu, đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương. Theo tiếng gọi hành quân, đoàn con trai lên đường ra trận. Còn lại, nơi hậu phương những người bà, người mẹ, người chị... cũng sẵn sàng chiến đấu, thắp lửa cho quê hương.
Và đây, những người con gái Thủ đổ chấp nhận hi sinh những lợi ích riêng tư để cùng phục vụ cho lợi ích chung của quê hương, của dân tộc:
“Con gái Thủ đô toàn mặc quần đen Sơ - mi ngắn tóc thường cắt ngắn Vào nhà máy đi làm quen đeo súng Thấp thoáng trên đường tự vệ sao vuông” (Những năm ấy)
Xuân Quỳnh đồng cảm với những thiệt thòi của người con gái Thủ đô. Lẽ ra, họ phải được làm duyên với mái tóc dài, với bộ áo dài thướt tha nhưng vì hoàn cảnh của quê hương, vì nhiệm vụ kháng chiến, họ sấn sàng hi sinh tất cả, kể cá tính mạng mình.
Hòa trong mạch thơ chống Mỹ ấy, Xuân Quỳnh cũng viết về lãnh tụ, về nhân dân với niềm tôn kính, thiêng liêng. Viết về chiến tranh, Xuân Quỳnh không tô hồng hiện thực, chị viết những gì đang diễn ra trước mắt: Đó là sự khốc liệt và những thương đau. Cuộc sống của những người dân chẳng ỉúc nào bình yên, họ sống với bom đạn, với những lo toan căng thẳng giữa sự sống và cái chết được đo bằng tấc gang. Những vần thơ Xuân Quỳnh viết nên thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của chị trước sô' phân, trước cuộc sống của những người dân trong những ngày chiến tranh.
Dảu đất nước còn chiến tranh, cuộc sống của nhân dân còn khó khăn, vất vả. Song, những vần thơ ngợi ca vẻ đẹp con người vượt lên trên hoàn cảnh vẫn còn sáng mãi:
“Dẫu chúng tôi chẳng còn lại gì đâu Còn chúng tôi, chúng tôi còn tất cả”
Lý tưởng lớn của cả dân tộc, của cả thời đại là nguồn xúc cảm trong nhiều sáng tác những năm chống Mỹ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh hấp dẫn nhiều thế hệ cững bỏi tình cảm lớn lao này. Xuân Quỳnh viết rất hay, rất thuyết phục về tình yêu Tổ quốc của những con người thời chống Mỹ cứu nước. Đó là những con người mang lý tưởng thời đại:
“Ta không đội trời chung với bọn giặc xâm lăng Yêu cái sống chẳng bao giờ sợ chết... ” (Chúng tôi)
66
Nguyên Thi Kim Đinh
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Sự nghiệp cách mạng luôn có Bác chỉ lối, dẫn đường. Bác là nguồn cội của mọi yêu thương, là đức tin của niềm vui chiến thắng. Sống và chiến đấu dưới lý tưởng của Đảng, của Bác, Xuân Quỳnh cũng luôn giành tình cảm kính trọng, biết ơn của chị đối với vị cha già dân tộc :
“Ở nơi đâu cũng thấy Bác mỉm cười Giữa rét buốt những phương trời bãng giá Giữa ngục tối một khoảng trời trong trí nhớ Là điều tin dữ dội của niềm tin
Từ yêu thương Người thấm mãi trong ta Ta càng yêu chồng, vợ, mẹ cha Yêu bè bạn - một tình yêu mãnh liệt” (Ở nơi đâu cũng thấy Bác mỉm cười)
Những ngày xa quê hương, xa xóm làng thân thuộc, Xuân Quỳnh luôn canh cánh một nỗi nhớ về những người thân yêu ruột thịt. Viết về người thân, những câu thơ của Xuân Quỳnh đầy xúc động bởi những chi tiết hết sức bình dị nhưng gợi bao điều sâu sắc. Trong “Gió Lào cát trắng” - tập thơ hay nhất viết về chiến tranh. Xuân Quỳnh đã gửi gắm tình cảm mến yêu của mình đối với những người thân yêu ruột thịt.
Là một người con sống nặng nghĩa tình và có tấm lòng giàu xúc cảm, chúng ta nhận thấy Xuân Quỳnh luôn hướng về nguổn cội, hướng về những người thân với tất cả tình yêu thương vô bờ bến. Bài thơ ‘Tiếng gà trưa” là lời cảm ơn, là lòng biết ơn của nhà thơ - của đứa cháu đối với bà khi nghĩ về kỷ niệm tuổi thơ được bà chăm chút:
“Cứ hàng năm hàng năm Khi gió mùa đông tới Bà lo đàn gà toi Mong trời đừng sương muối Để cuối năm bán gà Cháu được quần áo mới”
Những dòng thơ đã khơi dậy trong ta một nỗi bồi hổi xúc động khi cùng người cháu ngược dòng thời gian trở về quá khứ sống lại những kỷ niệm tuổi thơ với hình ảnh người bà tần tảo, lo âu, vun vén chăm sóc cho đàn gà nhỏ và cũng là chăm sóc cho cuộc sống tuổi thơ của cháu. Kỷ niệm đẹp của tuổi thơ đã nâng bước người cháu trên đường ra trận chiến đấu bảo vệ non sông, đất nước.
Viết về người thân, những câu thơ viết về mẹ là những câu thơ có sức rung động mãnh liệt của Xuân Quỳnh. Mồ côi mẹ từ tấm bé nhưng khảm sâu trong tâm
67
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơXuán Quỳnh
hồn chị hình ảnh người mẹ một đời âm thầm nuốt nỗi đau riêng vào lòng, chắt chiu, tảo tần nuôi con, nuôi cách mạng:
“Những bà má Hậu Giang Tiễn con đi đánh giặc Chở che hầm bí mật Bao năm dòng ven sông” (Hậu Giang) Đối với các nhà thơ nam, khi khai thác về đề tài người mẹ thường theo xu hướng từ một bà mẹ cụ thể khái quát lên hình tượng bà mẹ Tổ quốc:
“Mẹ lưng còng tóc bạc... tần tảo sớm hôm Nuôi các anh dưới hầm bí mật Cả đời mẹ hy sinh gan góc Hai mươi năm giữ đất, giữ làng Mẹ là mẹ Việt Nam” (Trở về quê nội - Lê Anh Xuân) Còn hình tượng bà mẹ trong thơ những nhà thơ nữ lại khuôn hẹp ở mỗi cuộc đời, mỗi số phận. Hình ảnh mẹ trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hiện ra với những biểu hiện của một cuộc đời gian truân, vất vả:
“Thác ghềnh nước cả sông sâu Chống chèo mình mẹ đương đầu bão giông
Buồn lo mẹ giấu trong lòng Nuôi em trong dạ mẹ mong tháng ngày Nỗi mình biết ngỏ ai hay Bao đêm nước mắt vơi đầy mẹ ơi!” (Trái tim sinh nở)
Thơ viết về mẹ của Xuân Quỳnh ngoài niềm kính yêu, lòng biết ơn và niềm thương yêu vô hạn dành cho mẹ như bao nhà thơ khác, chị đã đi sâu khai thác thế
giới nội tâm rất tinh vi của mẹ. Giữa cái không khí râm ran, hầm hập của buổi trưa hè oi bức, giữa bom đạn âm thầm dữ dội, mẹ vẫn âm thầm chịu đựng, vẫn hát ru con giấc ngủ bình yên: “Trong gió nóng những trưa hè ngột ngạt
Mẹ ru tôi hạt cát sạn hàm răng Vừa lớn khôn tôi đã biết đào hầm Dưới bom đạn gió Lào vẫn thổi” (Gió Lào cát trắng)
68
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ________
Mẹ chăm chút cho những đứa con vì lòng yêu Tổ quốc. Những việc làm của me thật đơn sơ, bình dị mà sao ấm áp lạ thường. Cách mạng thành công hôm nay có môt phần đóng góp không nhỏ của mẹ. c ả đời mẹ gian truân, vất vả, hy sinh lợi ích riêng mình. Song, có lúc lòng mẹ lại ngổn ngang trăm mối. Dường như Xuân Quỳnh
thấu hiểu tâm can của mẹ. Chị đã đi sâu phân tích ngõ ngách tâm hồn, miền tâm tư sâu kín của mẹ:
“Những đứa trẻ mẹ sinh ra từ ngày ấy Mười lăm năm, rồi hai mươi năm Đến bây giờ đứa là giải phóng quân Đứa theo giặc vế phá tan làng mẹ Đứa hóa ác ôn, đứa thành dũng sĩ Bao vui buồn lòng mẹ ngổn ngang Thương đứa hy sinh, giận đứa phá làng Mẹ thấy mình như có phần tội lỗi” (Những ngưcri mẹ không có lỗi)
Qua những trang thơ viết về chiến tranh trong “Hoa dọc chiến hào”, “Gió Lào cát trắng”, “Lời ru trên mặt đấí’\ Xuân Quỳnh đã khẳng định được bản lĩnh
nghệ thuật của mình. Những năm tháng hòa mình vào cuộc sống chiến đấu sống động của đất nước đã giúp cho Xuân Quỳnh có nhiều sáng tác có giá trị định hình
phong cách hơn so với lớp nhà thơ nữ cùng thời. Ở Xuân Quỳnh, ta thấy nổi bật lên một hồn thơ tự nhiên, tinh tế, giàu cảm xúc, trẻ trung, chân thành. Đúng như ý kiến của Nguyền Xuân Nam nhân xét về vẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh qua các tập thơ Chồi biếc, Hoa dọc chiến hào, Gió Lào cát trắng, Lời ru trên mặt đất: “Và điều quý hơn.
cùng với sự dổi dào đó, thơ chị có bản sắc riêng. Đó là sự trẻ trung, chân thành” [107;219].
2.2. Cảm hứng về hạnh phúc đời thường
“Vấn đề hạnh phúc đời thường là một phương diện trong nhiều phương diện nội dung của thơ Xuân Quỳnh, nhưng nó là ‘‘đặc sản " của tâm hổn nữ thi sĩ, là nỗi
niềm khao khát khôn nguôi của chị trên con đường đi tìm hạnh phúc thiết thực của đời thường” [125;90]. Trong đó, đề tài riêng tư được triển khai trong thơ Xuân Quỳnh khá tự nhiên của một thiên chức, của một bản nâng phụ nữ. Tinh yêu gia đình, những vấn đề riêng tư cá nhân trở thành nguồn cảm xúc cho Xuân Quỳnh sáng tác. Đã có lần chị tàm sự với người bạn thi sĩ cùng trang lứa - nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn: “Theo mình, việc chính của người đàn bà là lo cho gia đình yên ấm.
69
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _ _ _ _ _ _
con cái ngoan ngoãn, sau đó mới đến sáng tác (...) Mình thấy đời thường nặng hơn và mình sống cho đời thường nhiều hơn” [125;77]. Chị viết nhiều về gia đình, về những người thương yêu và những chuyện thường ngày. Song, trong những đề tài tưởng như không có gì đặc biệt ấy, chúng ta vẫn thấy hiện lên một Xuân Quỳnh với phong cách riêng hết sức độc đáo.
2.2.1. Tổ ấm gia đình
Yêu đời bao nhiêu, chị càng yêu người bấy nhiêu! Thơ chị chính là tiếng hát tâm hồn chị - một người mẹ suốt đời nâng niu, chi chút cho con; một người vợ. người yêu nhọc nhàn nhưng vẫn đầy khát khao, say mê trên con đường kiếm tìm hạnh phúc, cái hạnh phúc đời thường nhưng đối với chị lại rất đỗi thiêng liêng -
hạnh phúc làm nên “tổ ấm”. Chính khát vọng tổ ấm ấy đã cho Xuân Quỳnh một sự cảm nhận riêng, đúng hơn là sự mẫn cảm với một chất thơ mà nhiều người gọi là “chất thơ từ tổ ấm". Với Xuân Quỳnh, gia đình, mái ấm là nguồn thi hứng dồi dào, là nơi con người của chị hiển hiện - đằm thắm, dịu dàng mà tha thiết. Nhờ nó mà chị có những câu thơ “ngổ ngộ”, những câu thơ của riêng chị, tưởng như là không đâu, thừa thãi nhưng lại rất quý bởi đó là những yêu thương của một trái tim nhạy cảm, đang bao bọc, quấn quýt với những đồ vật thân thuộc, bình dị trong tổ ấm gia đình. Với Xuân Quỳnh, tổ ấm còn là nơi chị gửi gắm khát vọng bình yên, niềm tin vào hạnh phúc là có thật ở trên đời. Tổ ấm là bến neo giữ tâm hồn chị, nơi để chị “khát khao đi hồi hộp mồi khi về'. Có gì mâu thuẫn chăng khi chị vừa muốn làm con tàu mang khát vọng đi xa, nhưng lại vừa không muốn rời xa ngôi nhà của mình với những gắn bó, chở che. Nếu hiểu đó là cuộc đấu tranh giữa một bên là nhà Ihơ Xuãn Quỳnh với người phụ nữ, người mẹ, người vợ - Xuân Quỳnh thì mới thấu hiểu được sự vất vả cua một người phụ nữ làm thơ. Mảnh mai, yếu đuối, chị hiểu cất bước ra đi cũng là dấn thân vào bấp bênh, khắc nghiệt: “Đường tít tắp không gian như bể”. Song, con người nghệ sĩ, trách nhiệm công dân trong chị đã giúp chị vững bước. Dễ dung cảm với chất thơ từ tổ ấm và viết hay về nó, đó cũng chính là điều đặc sắc tạo nên nét riêng của Xuân Quỳnh. Chuyện về những người thân trong gia đình là đề tài không bao giờ cũ của Xuân Quỳnh. Có lẽ ít người như chị - sự ám ảnh về gia đình lại dai dẳng, lớn lao như thế! Đi qua ký ức buồn với những khao khát về tổ ấm gia đình, Xuân Quỳnh hiểu hết ý nghĩa những tháng ngày mình đang có. Hình
70
N gu\ễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quvnh
bóng người mẹ, người chị gái, người chồng và những đứa con luôn xuất hiện trong thơ chị với tất cả sự xúc động chân thành, thương yêu và quý trọng nhất.
2.2.1.1. Anh - trụ cột gia đình “người vĩ đại của em"
Vói Xuân Quỳnh, hạnh phúc yêu đương phải trỏ thành hạnh phúc của gia đình, phải kết thành tổ ấm. Tổ ấm sẽ là nơi bền chắc gắn kết từng cá nhân, để họ có thể dựa vào nhau, sẻ chia cùng nhau những buồn vui cuộc đời. Cùng chung lưng xây lổ ấm với Xuân Quỳnh là người chồng mà chị luôn trân trọng, ngưỡng mộ: “Anh thân yêu, người vĩ đại của em Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối
Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua Là hạt bụi vô tình trên áo” (Thơ vui vê' phái yếu)
Chị đã dành cho chổng những lời ngợi ca trang trọng nhất. Không những vậy, Xuân Quỳnh còn thể hiện tình yêu thương chồng tha thiết. Mỗi hành động cử chỉ, chị dành cho chồng thật trìu mến, yêu thương. Cuộc sống hối hả với bao lo toan bận rộn, con người có lẽ cũng ít quan tâm, chú ý đến nhau hơn. Những cử chỉ yêu
thuơng mặn nồng cũng sẽ nhạt dần theo tháng năm. Nhưng đối với Xuãn Quỳnh, tình yêu chị dành cho chồng vẫn ấm áp như xưa. Những lời nhắc nhở nhẹ nhàng, những quan tâm tưởng như vụn vặt “Sao không cài khuy áo lại anh/ Trời lạnh đấy hôm nay trời trở rét” nhưng nó lại chứa đựng một tình yêu lớn lao, vô bờ. Dường như Xuân Quỳnh biết tích luỹ tình yêu từ việc gom góp những yêu thương từ những việc làm tưởng như là vun vặt ấy! Tinh yêu thương đã khiến cho Xuân Quỳnh sẵn sàng hy sinh tất cả vì chồng con một cách tự nguyện:
“Gia tài em chỉ có bàn tay Em trao tặng cho anh từ ngày ấy (Bàn tay em)
Chính đối bàn tay đó đã lo lắng vun vén cho hạnh phúc của gia đình mình. Vừa làm thơ, chị vừa lo lắng chăm sóc gia đình, vừa là nhà thơ, vừa là một người vợ dịu hiền, đảm đang, vì vậy đôi bàn tay của chị đã chai sần vì những lo toan thường nhật cho tổ ấm của mình. Nhưng với chị, nỗi vất vả lại là niềm hạnh phúc bởi còn điều gì sung sướng hơn là nỗi vất vả cực nhọc được bù đắp bằng một tình yêu vô bờ
71
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
bến. Chị đã từng suy nghĩ: Tuy năm tháng cực nhọc vất vả em cũng chẳng phàn nàn kêu ca. bới khi em đã đến tận cùng của hạnh phúc rồi thì nỗi vất vả đó sẽ tan biến, chỉ còn lại niềm vui.. Cuộc sống vợ chồng mấy ai mà không tránh khỏi sự va chạm, khi đó bao giờ
Xuân Quỳnh cũng là người hoà giải, dịu êm và nhận lỗi để mọi cái dở đi qua cái hay lại đến:
“Anh yêu ơi hãy tha lỗi cho em Nếu đồi lúc giận hờn vô cớ Những bực dọc trong ngày vất vả Lòng anh buồn em có vui đâu” (Chỉ có sóng và em) Thiên chức người vợ luôn thường trực trong chị, nó là bản chất con người chị. Mỗi việc chị nghĩ, chị làm đều tha thiết một tình yêu không bờ bến:
“Ngủ đi, em khép của phòng Để em lên gác em trông xem nào
Hình như lửa đã tắt rồi Gió không thổi nữa anh ơi yên lòng” (Hát ru chồng những đêm khó ngủ)
Đọc câu thơ, ta có thể cảm nhận một cái gì đó như là sự quên mình. Nhà thơ dường như cũng bị mất ngủ, cũng trằn trọc, băn khoăn khi thấy chồng trở giấc. Và những lời ru êm ái từ đáy lòng yêu thương của người phụ nữ lại cất lên: “Ngủ đi người của em yêu Này con tàu lạ vừa neo bến chờ”
Lời ru chồng những đêm khó ngủ của chị như vồ về mơn man giấc ngủ của người mình yêu, đưa đến cho anh giấc mơ tươi đẹp, bình an và êm đềm. Lúc nào chị cũng muồn chia sẻ những khó khăn, vui buồn trong cuộc sống với chổng, gánh đỡ cùng chồng những trăn trở, ưu tư. Lời thơ như khúc hát ru cảm động vể tình vợ chồng keo sơn, gắn bó. Ngoài đời cũng như trong thơ, chị là người “gắng gỏi đến hao mòn kiệt sức” cho hạnh phúc bé nhỏ của mình. Sự gắng gỏi ấy hiện lên qua đôi mắt luôn mở to chất chứa những âu lo của chị, qua đôi bàn tay chị với những “ngón chẳng thon dài", “vệt chai cũ ”, "đường gân xanh vất vả” nhưng lại rất đẹp bởi nó biết “lặng lẽ vun trồng gìn giữ”:
72
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơXuán Quỳnh
“Trời mưa lạnh tay em khép cửa Em phơi mền vá áo cho anh Tay cắm hoa tay để treo tranh Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc” (Bàn tay em) Vậy là ở đây không phải cái đẹp thể xác của người phụ nữ là nền tảng của
tình yêu. Xuân Quỳnh nói đến bàn tay mình như là biéu tượng của sự gắn bó, yêu thương, săn sóc. Hạnh phúc, với chị chính là trách nhiệm và tình yêu lớn là tình yêu giúp nhau hoán cải thân phận và diện mạo. Chính mẹ của Lưu Quang Vũ đã khẳng định: “Tình yêu và sự chăm sóc chu đáo của Quỳnh đã giúp cho Vũ rất nhiều trong đời sống và trong công việc...Vũ viết được nhiều, được tốt như thế, tất nhiên, phái do tài năng, nhưng nói chung phải nhờ vào tình thương yêu và tài đảm đang của
Xuân Quỳnh. Quỳnh đã có mặt trong đời Vũ vào những năm gian nan. lận đận nhất. Những năm đó không phải chỉ đơn thuần là kiếm kế sinh nhai mà còn là vấn đề xác định lại hướng đi trong cuộc đời, lấy lại niềm tin vào bản thân mình” [72;21].
Bằng gia tài là đôi bàn tay bé nhỏ, Xuân Quỳnh đã ký thác cho tình yêu với tấm lòng yêu thương vô bờ bến của một người vợ dịu hiền đảm đang, suốt đời lo lắng, vun vén cho tổ ấm của gia đình mình. Ở đó - trong cái tổ ấm vẻn vẹn có mấy
thước vuông ấy - chị, người đàn bà của đời thường, của thi ca vân đêm đêm làm thơ. những trang thơ dang dở chữ, kê lên đầu gối mà viết để ngày mai còn lo cắt dép nhựa kiếm sống, mang đến cơ quan hàng chậu quần áo của chổng con tranh thủ giặt. Với Xuân Quỳnh, hôn nhân cuộc sống gia đình không làm vợi đi chất thơ. Bằng tấm tình nồng thắm của một người vợ cộng với sự mẫn cảm của một thi nhân, thơ chị dù có “lỉnh kỉnh những chậu, những nồi, những áo, những mành " nhưng vẫn ngọt ngào, thắm thiết. Rất nhạy cảm, nữ tính, Xuân Quỳnh dường như day dứt không yên trước lỗi lầm dù nhỏ của mình. Người vợ vị tha và giàu đức hy sinh này yêu từ sự “thông
minh hóm hỉnh đến thói thường hay cáu gắt” của chồng nhưng lại không tha thứ cho bất cứ một sơ xuất nào của bản thân. Chị luôn nhìn lại những ngày tháng đã qua. những gian truân cách trở để càng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mình đang có: “Em đâu nhắc chuyện qua Để cho lòng tủi cực Em nhớ lại ngày xa Thấy mình thêm hạnh phúc” (Đêm cuối năm)
73
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Nhìn quá khứ để hướng đến tương lai. Niềm tin yêu cuộc đời đã giúp cho tâm hổn chị được thăng hoa trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật.
Với Xuân Quỳnh, cái tình cái nghía luôn quấn quýt, hoà quyện với nhau trong mỗi trang thơ cũng như ngoài cuộc đời. Chị đã đi đến mọi niềm vui, nỗi buồn, mọi đau thương, mất mát và cái đích cuối cùng là để đến với tình yêu mà bến đỗ là tổ ấm gia đình, nơi đó có chổng, có con và những người thân yêu nhất.
2.2.1.2. Con cái - trái tim tổ âm
Cũng trong mảng thơ viết về những người thân yêu ruột thịt nhưng những bài
thơ viết cho con của Xuân Quỳnh đem đến cho người đọc những cảm xúc mới mẻ và ự xúc động. Lớn lên trong một mái nhà thiếu vắng tình mẫu tử, Xuân Quỳnh đã dành tất cả tình yêu thương và bù đắp cho con mình. Những bài thơ chị viết cho con trong những nãm tháng chiến tranh là những cung bậc tình cảm da diết và trĩu nặng yêu thương. Chiến tranh trong con mắt của những người trưởng thành đã đầy khắc nghiệt, huống hồ là đối với trẻ thơ. Trong tâm hồn non dại, trong ánh mắt trong trẻo ngây thơ ấy thì chiến tranh mang đến biết bao thay đổi. Những câu thơ chị viết ra thật đau đớn nghẹn ngào:
“Khi con sinh ra cái tã đã nhuộm xanh Cái nôi mắc trước cửa hầm trú ẩn
Lửa đạn giặc sém cành hoa đậu ván Bên bờ ao con chuồn chuồn mất chỗ chơi” (Khi con ra đời)
Những câu thơ như nghẹn lại, ấy là khi chị xót xa mình không thể chở che cho con ngay cả trong giấc mơ, ngay cả trong giấc ngủ của con. Qua thơ Xuân
Quỳnh, ta nhận ra cảm thức về một thế giới trẻ thơ. Xin cứ để bình yên vào giấc ngù con trẻ - một điều khồng có thật trong chiến tranh. Bất cứ một bài thơ nào Xuân Quỳnh viết cho trẻ thơ đều là một tiếng đổng
vọng trong thế giới trẻ thơ. Những vần thơ chị viết cho con, cho trẻ thơ trong những năm tháng chiến tranh là nguồn sức mạnh giúp con người hãy chiến đấu vì thế hệ tương lai, vì mầm xanh đất nước. Càng về sau những bài thơ viết cho con của Xuân Quỳnh càng biểu hiện rõ hơn những nét đẹp trong tâm hổn chị. Nó không chỉ nói lên tấm lòng yêu thương con của người mẹ mà còn là sự thấu hiểu, đổng cảm của chị với tâm hồn, với cách cảm cách nghĩ của trẻ thơ. Thơ chị bồi bổ cho tâm hổn con trẻ những nét đẹp, những phát hiện mới mẻ và có ý nghĩa giáo dục thiết thực.
74
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Tinh cảm mẹ con đã được Xuân Quỳnh lưu lại đậm nél trong thư minh. “Những đứa con luôn là nguồn thi hứng không bao giờ cạn của Quỳnh’' [50; 16]. Đọc thơ Xuân Quỳnh - mảng thơ viết về con, viết cho con - cứ thấy hiện lên hình ảnh người mẹ đang ân cần theo dõi tững bước đi của con, mong ngóng từng giờ, từng phút cho con khôn lớn:
“Bàn chân con bước mải Giữa mùa xuân thương yêu Mẹ lặng lẽ nhìn theo Chấm khăn quàng đỏ chói...”
Chị yêu con như bất kỳ một người phụ nữ nào khác. Có khác chăng là trong (ình yêu của chị có sự chắt chiu, dồn nén từ những năm tháng thơ bé thiếu Ihốn tình thương, khao khát tình thương vì nổi mồ cối mẹ, cha đi bước nữa. “Cuộc đời mồ côi khiến cho Quỳnh hiểu tình mẫu tử thiêng liêng, cần thiết và quý giá như thế nào đối với trẻ thơ, nên khi làm mẹ, Quỳnh đã dồn tất cả tâm hồn và sức lực cho con” [50; 16] tựa như bù đắp cho những thiếu hụt và trống trải của chính đời mình.
Trong tâm tưởng của Xuân Quỳnh, con cái luôn là trái tim của tổ ấm. Viết cho con, vết về con, chị viết bằng sự bao bọc, chở che. Chị lo lắng cho cả những giấc mơ của con, bởi vì với chị, đứa con là trung tâm, là thiên thần, là đối tượng che chở và cũng là điểm tựa tinh thần. Chị viết “Chuyện cổ tích về loài người” và giải thích nguồn gốc thế giới theo logic riêng của chị - logic của nhà thơ và logic của tình mầu tử.
“Trời sinh ra trước nhấl
Chỉ loàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ”
Tinh mẹ bao la đã làm hợp lý hoá những điều vô lý, đảo ngược của quy luật tự nhiên mà vẫn được chấp nhận. Người mẹ nói với con về một thế giới, một không gian xa xôi trong huyền thoại nhưng bao giờ cũng quay về nhà mình - một thế giới có thật mà trung tâm của thế giới ấy là con trẻ. Vì trẻ thơ mà tồn tại, sinh sôi. Từ trẻ con mà sinh ra ghế, bàn, lớp học, ông bà, cha mẹ, để thực hiện mọi nhu cầu, khao khát của trẻ thơ. Mỗi ý tưởng trong bài thơ là một khám phá mới mẻ, độc đáo.
75
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách tho Xuân Quỳnh
Các bạn thơ thường đùa rằng trong giới vãn nghệ sĩ thì Xuân Quỳnh là người có nhiéu con nhất: con anh, con em và con chúng ta. Cái gia đình tưởng như phức tạp ấy thực ra lại rất thanh bình, đầm ấm. Được như vậy, là nhờ vào trái tim và tấm lòng người mẹ, người vợ như Xuân Quỳnh. Chị dành tinh yêu thương, lo lắng, chăm sóc cho cả ba con. Năm 1975, Xuân Quỳnh làm thơ tặng cho ba con: “Chùm thơ xuân cho ba con nhỏ". Chùm thơ này đã “nâng bản nãng làm mẹ lên nghệ thuật làm me của người phụ nữ này” (lời của GS Nguyễn Xuân Nam). “Mùa xuân mừng con thêm một tuổi" là bài thơ Xuân Quỳnh dành tặng cho Tuấn Anhh - con riêng của chị. Những ai đã từng làm mẹ chắc khổng thể nào quên cái “bám cổ” bởi một vòng tay trẻ thơ:
“Báo động rung đường phố Tiếng bom rền bốn bên Bám cổ mẹ suốt đêm Cánh tay con thì bé”
Trong suy nghĩ của con, không đâu an toàn bằng lòng mẹ. Ở đó có trái tim
mẹ ủ ấm, có vòng tay mẹ che chớ, nâng niu. Những lúc sợ hãi, chông chênh nhất, bao giờ con cũng tìm về với mẹ. Câu thơ nghe như một niềm hạnh phúc của người mẹ được bao bọc, chở che cho con.
Và thật nhẹ nhàng, chị đã mang lại cho con những cảm nhận ban đầu về tình nghĩa gia đình:
“Con làm bằng yêu thương Của cha và của mẹ Của bà và của ông Của má nữa - biết không? Con làm bằng tất cả” Cắt nghĩa)
Bài thơ “Cắ/ nghĩa”, Xuân Quỳnh làm tặng Minh Vũ - con riêng của Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh đã gửi gắm tình yêu thương của mình trong cách lý giải
thật ngộ nghĩnh. Xuân Quỳnh cất nghĩa về một việc cụ thể, giải đáp một thác mắc của con trẻ và vấn đề của Minh Vũ đã được minh giải. Con có mặt trong cuộc đời này từ tình yêu thương, từ sự chăm sóc tận tình của tất cả những người ruột thịt, của cha, của mẹ, của bà, của ông và cả của chị nữa “Tuy con má chẳng sinh Con vẫn
76
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
quen gọi má”. Từ lời cát nghĩa cho con trẻ, Xuân Quỳnh còn giải đáp một vấn để lớn lao: đó là nguyên lý duy trì, tồn tại và phát triển của sự sống trong cuộc đời.
Với Quỳnh Thơ - kết quả tình yêu của Xuân Quỳnh với Lưu Quang Vũ - còn đang irong bụng mẹ, chị viết:
“Mẹ đi trên hè phô' Nghe tiếng con đạp thầm Mẹ nghĩ đến bàn chân Và con đường tít tấp”
(Con chá biết đâu)
Đúng là “Con chả biết đâu” vì con mới là hình hài trong mẹ nhưng mai này con lớn lên, con sẽ hạnh phúc biết bao khi biết nỗi mong chờ, niềm hy vọng của mẹ giành cho con. Nó sẽ tiếp thêm sức mạnh cho con vững bước trên những “con đường tít tâp của cuộc đời”.
Trong cả ba con thì Xuân Quỳnh có dịp viết nhiều về Quỳnh Thơ hơn cả. Quỳnh Thơ có cái tên gọi yêu rất ngộ là Mí. Mí là đề tài cho rất nhiều bài thơ của chị: Mi thích, Mí ngoan hơn cái nấm, Cái ngoan của Mí, Mí trông nhà.. .Bài thơ nào chị viết cho con cũng có những tứ thơ hết sức bất ngờ, ngộ nghĩnh, vừa sâu sắc lại vừa mang tính giáo dục cao: Bà thấy Mí thắc mắc Bà cười bảo “Mí à Cái ngoan mà đem cho Thì lại ngoan hơn nữa” (Cái ngoan của Mi) Đọc thơ Xuân Quỳnh, lòng ta bỗng được suởi ẩm bởi những tình cảm chân thành và giàu có của tình mẹ con. Chị đã làm thơ bằng những suy nghĩ, cảm xúc của mình, của một người mẹ dịu dàng, đầy yêu thương nhân hậu.
Viết cho con, Xuân Quỳnh đã cô' gắng đi đến tận cùng yêu thương trong lòng người mẹ. Ngoài sự giàu có là tình mẫu tử như bao người mẹ khác, ở chị còn có tấm lòng độ lượng, bao dung và một trí tuệ thông minh, sắc sảo của riêng mình. Điều đó đã giúp chị nhìn thấu và phát hiện được những điều bí ẩn trong tâm hồn của trẻ thơ. từ đó mà tạo nên vẻ đẹp, nét đặc sắc riêng trong từng bài thơ chị viết cho con. Tinh yêu con bao la, như suối nguồn vô tận, ngọt ngào như vị dân ca quê mình:
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuán Quỳnh
“Dẫu con đi đến suốt đời Cũng không đi hết những lời mẹ ru” {Lời ru)
Có thể nói, thơ viết về con là những bài âu yếm, dễ thương nhất trong gia tài thơ mà Xuân Quỳnh gửi lại. Những năm tháng vất vả, cay cực của tuổi thơ, những đổ vỡ của hạnh phúc đầu đời, tình yêu thuơng con vô hạn là ngọn nguồn cho sáng tác của Xuân Quỳnh viết cho con với một tình yêu bao la, bất tận. Con cái với chị chính là “trái tim tổấm ”\
2.2.1.3. Mẹ - “mẹ của chúng m ình”
Xuân Quỳnh có một tuổi thơ nhiều nỗi buồn lắm đắng cay. Sô' phận nghiệt ngã đã cướp đi người mẹ của chị ngay từ khi chị còn rất nhỏ. Nhớ về mẹ. Xuân Quỳnh chỉ còn biết “ỉí/7 mặt lên bàn tay khóc mẹ". Vì vậy, kí ức về mẹ chưa đủ sâu đậm để in dấu trong tâm trí Xuân Quỳnh. Người mẹ sớm khuất núi cho nên Xuân Quỳnh chỉ biết thật thà lấy những câu thơ dân gian đưa vào thơ mình để tả nỗi lòng nhớ thương mẹ. Tất cả là sự mường tượng từ trong tiềm thức mà nghe thật xúc động, thiết tha:
“Tiếng mẹ ru xưa chồng chất đắng cay Trong đôi mắt thức đêm dài thăm thẳm Bẽn ngọn đèn leo Iét không đủ ấm Bàn tay gầy mải miết những thoi tơ” (Tiếng mẹ) Mẹ mất, Xuân Quỳnh “như một cánh chim bơ vơ mất tđ \ Tuổi thơ của chị là một ký ức buồn. Cuộc đời nhiều cay đắng của người mẹ có lẽ cũng ảnh hưởng đến
suy nghĩ của Xuân Quỳnh về tình yêu và hạnh phúc. Hình ảnh người mẹ hiện về thấp thoáng qua những lời ru Irong thơ chị. Người mẹ “đối với Xuân Quỳnh thật xa xôi”, nhạt nhòa “nhưng nỗi đau mất mẹ đã ám ảnh suốt một đời Quỳnh”. Tuy khống có nhiều kỷ niệm về mẹ nhưng mẹ luôn là điểm tựa cho tâm hồn chị. “Sau này, trên bước đường đời, những lúc vui buồn, đau khổ, Quỳnh vẫn nhớ và khóc về một người mẹ mà Quỳnh tin rằng rất thiêng, lúc nào cũng ở bên Quỳnh” [50; 15] với một tình cảm trân trọng, kính yêu. Kính trọng mẹ, Xuân Quỳnh đã thấu hiểu cuộc đời vất vả đắng cay của mẹ Bàng tình cảm trân trọng, biết ơn, Xuân Quỳnh luôn nhớ về nguồn cội:
78
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơX uản Quỳnh
“Tuổi con là tuổi ngựa Nhưng mẹ ơi đừng buồn Dẫu cách núi cách rừng Dẫu cách sông cách bể Con tìm về với mẹ Ngựa con vẫn nhớ đường” (Tuổi ngựa) Mổ côi mẹ từ nhỏ nhưng trong tâm khảm Xuân Quỳnh, mẹ từ cõi linh thiêng vẫn hiện về. Bài thơ uGửi mẹ” là nén nhang tưởng nhớ với người đã khuất trong sự thành kính thiêng liêng. Trong chị người mẹ bất hạnh, mệnh yểu nhưng giàu tinh yêu thương ấy luôn là nỗi nhớ và sự thành kính không nguôi: “Tháng xuân này mẹ có về không Con thắp nén hương thơm ngát Bờ đê cỏ ướt Lá tre xào xạc đường làng Sông Nhuệ đò ngang Hoa xoan tím ngõ Cánh cò trắng xoá Như lời ru của mẹ bay về” (Gửi mẹ) Bức tranh phong cảnh trữ tình ở đây nhòe vào bức tranh tâm trạng, mênh mang xa vắng nhưng rất thành kính, yêu thương. Cánh cò trong lời ru của mẹ như một thông điệp đưa chị về với những năm tháng xa xôi của tuổi thơ khi còn mẹ, được mẹ ôm ấp, vỗ về. Trong bổn phận làm con dâu, Xuân Quỳnh cũng tỏ ra là một dâu thảo hiền. Chị nhận thức rất rõ rằng nếu không có mẹ, em sẽ không có anh trong cuộc đời. không có tình yêu, hạnh phúc. Xuất phát từ nhận thức nhân văn ấy, Xuân Quỳnh luôn thể hiện lòng biết ơn, kính trọng mẹ chổng: “Mẹ đâu mẹ cua riêng anh Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi Mẹ tuy không đẻ không nuôi Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong.. (Mẹ của anh)
79
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơX uản Quỳnh
Không phái ai cũng có thể viết về mẹ chồng bằng tình cảm chân thành như thê. Chúng ta chi thấy riêng nhất một Xuân Quỳnh dành cho mẹ chồng những lời thơ cảm đòng và dầy trách nhiệm như vậy: “Ngày xưa má mẹ cũng hồng
Bên anh mẹ thức lo từng cơn đau Bây giờ tóc mẹ trắng phau Để cho mái tóc trên đầu anh đen Đâu con dốc nắng đường quen Chợ xa gánh nặng mẹ lên mấy lần Thương anh thương cả bước chân Giống bàn chân mẹ tảo tần năm nao” (Mẹ của anh) Đọc những dòng thơ chân tình như vậy, người đọc như được đầy thêm tình cảm nhân vãn trong tâm hồn mỗi con người. Xưa nay cặp từ “mẹ chồng - nàng dâu” luôn có sự đối nghịch. Xuân Quỳnh đã mạnh dạn bộc lộ với bạn đọc một quan hệ
tình cảm mới: tình cảm của người con dâu với mẹ chồng. Phải là người vợ yêu chồng đến nhường nào thì chị mới có tình cảm kính yêu, biết ơn người đã sinh ra chồng mình đến như vậy: “Chắt chiu từ những ngày xưa Mẹ sinh anh để bầy giờ cho em”.
Với những ngôn từ giàu cảm động, tâm trạng như vậy càng khẳng định trái tim nhân hậu, tình nghĩa bao dung, biết đối nhân xử thế trong tâm hổn Xuân Quỳnh. Tâm hồn ấy mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: luôn đổng cảm. sẻ chia, đầy tình thương trách nhiệm. Dành tặng mẹ chổng bài thơ này là Xuân Quỳnh dâng tặng mẹ cả một tấm lòng của một người con dâu hiếu thảo. Chưa bao giờ Xuân Quỳnh thấy mình đầy đủ trọn vẹn như thế trong mái ấm gia đình: có mẹ, có chổng, có các con.. .Qua bao nhọc nhằn, chị đã có tình yêu, có mẹ, có mái ấm gia đình - nơi ấy tình yêu đã níu giữ chân người.
2.2.1.4. Chị - “Chăm cho em từng việc hàng ngày ”
Sống bằng cả trái tim nhiệt thành, Xuân Quỳnh vui buồn với những hạnh
phúc, khó khăn của mọi người xung quanh. Đọc thơ chị, ta thường bắt gặp tâm trạng của một con người nhiều yêu thương tinh tế nhưng luôn có những trăn trở, băn khoăn, lo lắng cho người thân. Những vần thơ, Xuân Quỳnh viết cho chị thật cảm động biết bao!
80
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Q uỳnh__________ _____________ ___ _____
“Em thương chị bao lâu rồi vất vả Đêm soạn bài, ngôi trường gió hoang sơ Giữa tiếng bom thù và dưới những bão mưa Cơn sốt cháu võ vàng đôi mắt chị” (Chị)
Sớm xa vòng tay mẹ, cha đi bước nữa, sống thiếu thốn tình cảm, may thay Xuân Quỳnh có một người chị gái Đông Mai luôn quan tâm, sãn sóc cô em gái bé bỏng. Đối với Quỳnh, chị là nguồn an ủi, là niềm tự hào, là thần tượng của Quỳnh. Người chị gái đã thay mẹ chăm lo cho Xuân Quỳnh từ tấm bé và luôn dõi theo từng bước đường đời của Xuân Quỳnh:
“Đi qua đường là phải trông xe Chị biết Quỳnh hay vô ý Bao giờ chị cũng dặn em thế Chăm cho em từng việc hàng ngày Chị trách em - khi nắm cổ tay; - Quỳnh gầy thế chẳng chịu ãn gì cả!” (Chị)
Trong hồi ký của mình, Đông Mai viết “Như hai con chim không tổ, từ nhỏ đến khi irưởng thành, chị em tôi gắn bó với nhau dựa vào nhau mà sống. Ngay cả sau này khi có gia đình riêng và chị em chúng tôi đã trở thành những người mẹ, thì sự găn bó đó cũng không hề thay đổi. Người nọ là nguồn an ủi, động viên người kia dù ở gần hay ở xa nhau. Chúng tôi đối với nhau ngoài tình chị em còn có tình tri kỷ...” [50; 153] Bằng trực cảm của mình, Xuân Quỳnh thấu hiểu nỗi lòng của người chị dành cho mình. Thương sao tấm lòng của chị em gái dành cho nhau:
“Thấy em buồn chị buồn hơn nỗi buồn của chị Thấy em vui chị vui hơn nỗi vui của em”
Cách Xuân Quỳnh đem mình mà hiểu người đã làm cho hình ảnh con người tinh thần của chị in đậm trong những vần thơ. Phải nói là Xuân Quỳnh buồn hơn nỗi buồn chị đi qua, vui hơn niềm vui chị đã có bởi sự nhạy cảm, mẫm cảm của mình với cuộc đời:
“Em lớn rồi mà chị chẳng tin Chị vẫn coi em như ngày còn bé Em đã lớn vượt xa điều chị nghĩ. Khổ hơn nhiều cái khổ chị lo Vui hơn nhiều cái vui của chị cho..
81
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Trong những năm tháng khó nhọc, hai chị em luôn nương tựa vào nhau đê sống. Những kỷ niêm ấy được Đông Mai kể lại xúc động trong Hồi ký “Xuân Quỳnh - một nửa cuộc đời tói". Xuân Quỳnh lặn lội đạp xe mấy chục cây sô' thăm chị đi dạy học xa:
“Đã bao mùa gió thổi Chị đi dạy học xa” Những vần thơ Xuân Quỳnh viết cho chị giản dị mà xúc động. Nó thấm đượm tình cảm đùm bọc sẻ chia, yêu thương gần bó: “Ngày sơ tán tháng ba Mưa rào hầm nước ngập Em thương vé lớp học Có đường hào ra sân Thương ngọn đèn đêm đêm Báo yên rồi lại sáng” (Tháng ba viết cho chị) Khi chị gái chuyổn vào Nam, Xuân Quỳnh vẫn luôn chia sẻ với chị mọi vui buồn trong cuộc sống qua những trang thư và những dòng thơ. Đọc những dòng thư Xuân Quỳnh viết cho chị trào dâng trong lòng người đọc tình cảm chị em gắn bó, yêu thương: “Hôm về thấy cái thư chị để lại. em buồn lắm - Thương chị bao nhiêu. Em thật là có lỗi chả giúp gì được chị. Em về ngơ ngẩn mất mấy ngày. Chị em biết đến bao giờ mới gập lại nhau. Những ngày còn bé tưởng như không bao giờ xa nhau thế mà bây giờ biền biệt. Em thương chị, thương cậu nhiều lắm mà chả giúp gì, chả gánh vác được gì đỡ chị, em rất khổ tâm” [50; 173]: “Tết năm nay rét muộn Cuối Xuân còn nhiều hoa
Ó Sài Gòn tháng ba
Chắc bây giờ đang ấm Em nghĩ về miền nắng Nơi em vừa đi qua Em đang ở tháng ba Nhớ chị nhiều đến thế” Xa nhau tình cảm chị em lại càng thắm thiết. Lời thơ chị dành cho em là những lời căn dặn ân cần, thể hiện sự châm lo chu đáo:
82
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơX uán Quỳnh
Thư chị hỏi cặn kẽ Tỉr cái mặc cái ăn Chị lại dặn đi đường Phải nhìn xe cẩn thận
Em trở thành bé bỏng
Trong cánh tay chị xưa (Dẫu rằng em bây giờ Đã có hai cháu nhỏ)” (Tháng bơ, viết cho chị).
Những kỷ niệm, những cử chỉ ân cần chăm sóc của chị dành cho Xuân Quỳnh luôn được nhà thơ khấc sâu trong tâm trí, nó trở đi trở lại, gần gũi thân thiết và cảm động vô cùng! Cuộc sống với bao khó khăn, vất vả, buồn vui, bất hạnh, con người chí có thể vượt qua được khi bên cạnh họ có sự dìu dắt, chở che, giúp đỡ. Sự ra đi của Xuân Quỳnh vẫn còn mãi nỗi niềm ngậm ngùi, tiếc thương của người ớ lại: “Quỳnh đã ra đi thật rồi! Người thương tôi nhất, người hiểu tôi nhất chẳng còn thì
cuộc sống của tôi từ nay có ý nghĩa gì? Người ta bảo thời gian sẽ chữa lành các vết thương lòng, nhưng với tôi, thời gian chỉ càng làm vết thương thêm rỉ máu. Bởi vì Xuân Quỳnh là một nửa cuộc đời tôi” [50; 191].
2.2.2. Những chuyện đời thường
Chúng ta đều đã biết chất trí tuệ, nãng iực phân tích, triết luận về đời sống là một phẩm chất của thơ hiện đại. Xuân Quỳnh không mạnh về điểm này. Chỗ yếu này đặt Xuân Quỳnh ở vị trí giao thoa giữa hai giai đoạn phát triển của thơ dù rằng
chị đã bước thật tự nhiên, thoải mái từ lối thơ sử thi sang thơ thế sự, nhờ ở cái cảm hứng thiên về cái đời thường. Ngay từ trưóc những năm 1975, trong những vần thơ viết về chiến tranh, chị đã làm rung động người đọc bằng những vang vọng của dư
âm đời thường: chiếc tã trắng của trẻ thơ, chiếc áo mới may, ước mơ trẻ nhỏ...Sau 1975, sự quan tâm trước thế sự càng giản dị cụ thể: nào chuyện xếp hàng mua bia, nào hết gạo, nào nóng nực, nào bình hoa, nào phích nước...Đặc biệt trong những giá trị của cuộc đời, chị thiên về các giá trị nhân bản: tình yêu, tình mẹ con, tình chồng vợ, tình bè bạn...Tất cả đều rất gần gũi, thân thiết. Chị đã đến với chúng ta bằng vẻ giản dị của tâm hồn, bằng điệu hổn “in dấu nếp nghĩ, nếp cảm của tâm hổn người Việt tự xa xưa” (Lại Nguyên Ân)
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh __
Trong thơ Xuân Quỳnh, chất liệu của đời sống thực tế đã trở thành chất liệu của tâm hổn. “Chị khéo nhặt những việc “đời thường” kết dính lại để đưa về những điều cao cả, to lớn, có quy luật cho tất cả mọi người”[125;70]. “Chính cuộc sống thường nhật với những niềm vui, lo toan, những hoạt động ngỡ nhỏ nhặt thường xuyên là đối tượng nhà văn cần thâm nhập, hiểu biết” (Chân dung vãn học - Xuân Quỳnh - Thiếu Mai - Báo Vãn nghệ tháng 3/1987).
Những mái phô' thân yêu, vỉa hè quen thuộc, những chuyện bếp núc thường nhật...đểu có vị trí đàng hoàng trong thơ Xuân Quỳnh. Chị yêu cái bực mình khi xe vướng vào nhau, nhớ cả những người không quen biết, chị viết cho mình và cho cả những người con gái khác...Tất cả những chi tiết dường như vụn vặt ấy đã tạo nên nhịp sống hiện đại trong thơ chị. Tất cả những hình ảnh vụn vật của đời thường, của gia đình được Xuân Quỳnh cảm nhận bằng một tình yêu đằm thắm, chở che:
“Cãn phòng con riêng của chúng mình Nước trong phích hoa trong bình gốm cũ” (Bầu trời đã trỏ về)
Nước lại chẳng ở trong phích, hoa lại chẳng ở trong bình! Nhưng đây chính là cách nói riêng của Xuân Quỳnh. Những câu thơ tưởng chừng như khổng đâu kia lại là cả dụng ý của Xuân Quỳnh. Không cầu kỳ, trau truốt, tất cả cứ hiến hiện giản (1Ị, đơn sơ nhưng đó lại là những thành viên xây dựng nên tổ ấm gia đình , nên “căn phồng con riêng của chúng mình". Bài thơ “Thơ vui về phái yếu” là một trong những bài thơ hay và nổi tiếng trong tập thơ “Hoa cỏ may” - tập thơ cuối cùng của Xuân Quỳnh (tập thơ mà chị
không có cái may mắn nhìn thấy hổm nay). Cá tính của chị hầu như kết tinh trong bài thơ này “hồn hậu, tự nhiên, hóm hỉnh, duyên đáng mà lại rất đằm thắm” [125;70]. Bài thơ đặt ra những vấn đề thường ngày. Đó là chuyện đàn ông, đàn bà trên cỗi đời và những vấn đề mạnh yếu thuộc về giới tính: “Những người đàn ông các anh có bao nhiêu điều to lớn Vượt khỏi ô cửa cỏn con, căn phòng hẹp hàng ngày
Các anh quan tâm đến chuyện mất còn của các quốc gia Biết bao điều quan trọng được đề ra: Những hiệp ước xoay vần thế giới”. Thậl sung sướng biết bao cho những người đàn ông! Họ sinh ra đã được nhận những điều vinh quang, to lớn mà xã hội đã sắp đạt.
84
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Còn:
“Chúng tôi chỉ là những người đàn bà Bình thường không tên tuổi trên trái đất” Quen với công việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày”
Những người đàn bà như chị em chúng tôi đây “quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày/lo đan áo cho chồng con khỏi rét”. Chúng tôi quanh năm tất bật với những công việc đời thường:
“Cuộc sống ngặt nghèo phải tính sao đây Gạo bánh củi dầu chia thế nào cho đủ Đầu óc linh tinh toàn nghĩ vẻ chợ búa Những quả cà mớ tép rau dưa” Gương mặt của "'cuộc sống ngặt nghèo” hiện lên rõ nét với những lo lắng
tướng là nhỏ nhặt, tủn mủn nhưng lại là bất tận và không thể lảng tránh. Những vần thơ rất đỗi giản dị nhưng cũng thật chân thành! Sự đồng cảm xê chia của nhà thơ với những người phụ nữ đang vật lộn cùng cuộc sống hàng ngày với những khó khăn thiếu thốn. Những việc làm của họ diễn ra thật âm thầm lăng lẽ để duy trì cuộc sống và hạnh phúc gia đình - đó là những người phụ nữ tảo tần sớm hôm, suốu đời hy
sinh vì chổng vì con, vì tổ ấm gia đình. Đồng thời cũng bộc lộ rõ bản năng thiên phú của người phụ nữ - sinh ra cho đời sống gia đình và trước hết vì gia đình. Các chị
cần những điều kiện vật chất tối thiểu để bảo vệ cho cái gia đình đó. Bao nhiêu tình cảm, lo toan đều dành cho những người thân, cho con giữa một hoàn cảnh Irăm bề thiếu thớn:
“Chúng tôi còn phải xếp hàng mua thịt Sấm cho con đôi dép tới trường Chúng tôi quan tâm đến xà phòng, đến thuốc đánh rãng Lo đan áo cho chồng con khỏi rét.. Vậy rõ ràng, người đàn bà là người của đời thường nhưng vô cùng quan trọng, bởi không có họ thì: “Liệu cuộc sống có còn là cuộc sống”. Bởi vậy: “Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng Dẫu là bác học...hay là ai đi nữa
Vẫn là con của một người phụ nữ Một người đàn bà bình thường, không ai biết tuổi tên”
Triết lý của Xuân Quỳnh thật giản dị mà cũng thật sáu sắc “...người đàn bà là người của “đời thường” nhưng cũng rất vĩ đại chính họ là người gieo trồng, vun đắp những mầm sống tương lai cho đất nước, cho dân tộc, cho lịch sử” Ị 125:73].
85
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
sát hết sức tinh tế của một cây bút nữ, Xuân Quỳnh đã thể hiện Bằng sự quan nỗi lo lắng và trách nhiệm của người đàn bà trước bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống. Nhưng không phải ai cũng nhận ra điều đó: “Chuyện đàn bà Họ có biết đâu Biết bao điều mãi tận thẳm sâu” (Thơ viết cho mình và những người con gái khác) Người phụ nữ đảm nhận những công việc không tên, không tuổi và coi đó là thiên chức của mình để rồi ẩm thầm gánh chịu:
“Chúng ta cam lòng với việc tần tảo nuôi con Việc đổng ruộng hậu phương là việc phụ” Nhìn lại những vấn đề được coi là thiên chức của người phụ nữ mà vì thế
“ ...hơi thơ của Xuân Quỳnh không còn vô tư thanh thản nữa mà mang nhiều tính chất lo toan, trách nhiệm của một cuộc đời, một thân phận. Đó cũng là điểm cơ bản khiến cho thơ chị có tiếng nói ưu tư và tràn trở đầy nữ tính đổng thời nó cũng làm cho thơ chị có nhiều chất đời hơn” [125;75].
86
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _
CHƯƠNG 3:
NÉT ĐỘC ĐÁO VỂ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN THƠ XUÂN QUỲNH
3.1. Hình ảnh, biểu tượng,
Một trong những yếu tố tạo nên phong cách riêng của nhà thơ, đó là hệ thổng hình ảnh và mô típ trong thơ. Trong quá trình phát triển của một nền ván nghệ lớn để xứng đáng với dân tộc trong một thời đại mới, Tố Hữu đã khẳng định: ‘Thơ ca phải đưa được những hình ảnh mới vào thơ”, “phải là hình ảnh và nhịp điệu của bản thân, của cuộc đời kia, ở lúc nào, ở nơi nào nó bộc lộ ra được cái bản sắc, cái tươi mới của nó. Đâu phải là mấy bức ảnh chụp sẩn, mấy điệu cũ nhàm” [22;441- Hiện thực cuộc sống vô cùng đa dạng và phong phú. Mỗi cá nhân nhà thơ khai thác, phát hiện ra những nét đẹp khác nhau. Điều đó bộc lộ khả năng “trường quan sát tâm lý của chủ thế*\ tạo nên mảng màu sắc sinh động cho thơ ca. Mỗi nhà thơ đều có thiên hướng lựa chọn một hệ thống hình ảnh, biểu tượng môtip riêng. Hệ thống hình ảnh, môtíp ấy nói lên tiếng nói của chủ thể, thể hiện cái nhìn, thái độ, sự nhìn nhận các lương quan đời sống của nhà thơ. Bởi thế, chúng góp phần biểu hiện phong cách của nhà thơ. Mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ mà trong đó có những hình ảnh biểu tượng là những tín hiệu nhỏ trong chỉnh thể lớn ấy. Hệ thống biểu tượng không chỉ ẩn chứa cái hiện hình nhận thấy mà biểu đạt cái vô hình khó nắm bắt của tư tưởng cảm xúc trong sâu thẳm con người. Trong quá trình sử dụng biểu tượng của mỗi tác giả, ý nghĩa của biểu tượng được cụ thể hoá thông qua các tín hiệu thẩm mỹ, đổng thời các nét nghĩa mới có thể phát sinh làm giàu thêm cho ý nghĩa của biểu tượng văn hóa truyền thống. Việc tìm hiểu ý nghĩa biểu tượng trong tác phẩm văn học không chỉ là giải mã một biểu tượng nghệ thuật mà còn cho ta thấy được quan điểm thẩm mỹ, đặc trưng phong cách tác giả, nét độc đáo trong việc sử dụng ngôn ngữ... Trong thơ Xuân Quỳnh, những hình ảnh sóng, thuyền, biển, con tàu; hoa và
cỏ dại; trái ùm và bàn tay...xuất hiện với tần số cao. Nó không chỉ là những sự vật
trong đời sống tự nhiên mà trở thành đặc trưng thẩm mỹ, giàu giá trị biểu đạt trong thơ Xuân Quỳnh.
87
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ______ _________ ___
3.1.1. Hình ành sóng, thuyền, biển, con tàu - Hình ấnh tượng trưng của tình yêu, khát vong kiêm tìm và sự khao khát vưon tới những chân trời mới.
Hình ánh sóng, thuyên, biển và con tàu đã đi vào thơ chị như một hình ảnh tượng trưng của tình yêu, của khát vọng, ước mơ. Sóng, thuyền, biển, con tàu vẽ ra
cho chúng ta một khoảng không gian rộng lớn vô cùng, vô tận. Những hình ảnh này trớ đi, trở lại trong rát nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh. Theo chúng tôi thống kê trong tâp "Xuân Quỳnh - thơ tình" (NXB Văn học- 2002) thì có đến gần 100 lần nhà thơ nhắc đến biển, 40 lẩn nhắc đến sóng,... Đó là những hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng trong thơ Xuân Quỳnh.
"Sóng tim ra tận bể”
Sóng là hình ảnh đắc địa mà Xuân Quỳnh lựa chọn để diễn tả tình yêu của người con gái. Sôi nổi mãnh liệt và dịu dàng đằm thắm, đó là bản chất của sóng hay cũng
chính là bàn chất của tình yêu. Trong tinh yêu, người con gái Xuân Quỳnh đã dành chọn trái tim mình cho người yêu. Tình yêu được thể hiện qua nỗi nhớ thường trực:
"Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức" "Em" giống sóng ở tình yêu em dành cho anh dịu dàng, đằm thắm nhưng lại vô cùng mãnh liệt, ở khao khát tìm về cội nguồn của tình yêu, ở khao khát được làm cuộc hành trình khám phá "muôn trùng sóng bổ"... Nhưng có một điều em không giống sóng. Sóng nhớ bờ "ngày đêm không ngủ được" còn em nhớ anh "cả trong mơ còn thức". Anh đã chiếm giữ tâm hổn, giấc ngủ em và cả cuộc sống của em. Điều này khiên ta nhớ đến một tứ thơ của Henrich Hainơ - nhà thơ nổi tiếng người Đức:
"Trong mơ anh đã khóc Thấy em không chung tình Tính dậy anh đôi mắt Lệ đắng còn chảy quanh". Một người thì nhớ ngày cả trong giấc mơ, còn một người thì trong giấc mơ vẫn lo sợ mấl tình yêu. Cá hai đều là những tín đồ trung thành của tình yêu. Nhưng nhàn vật trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh không bi quan như trong thơ cúa Hainơ.
88
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Người con gái đó yêu và luôn tin tưởng vào tình yêu của mình trước những biến động, bất trắc của cuộc đời:
"Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa" Và còn có một mơ ước mãnh liệt đem tình yêu của mình hoà vào tình yêu lớn cuộc đời để bất tử hóa tình yêu "Để ngàn nãm còn vỗ" Không chỉ là biểu tượng của tâm hồn táo bạo, sôi nổi yêu đương, sóng còn là
khát vọng được vươn tới những chân trời mới. Trên bước đường kiếm tìm hạnh phúc, người thiếu nữ Xuân Quỳnh không lúc nào nguôi khát vọng kiếm tìm, mơ ước:
"Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể" Ở đây, ta thấy được nỗi kỳ vọng tột độ của Xuân Quỳnh. Đó là khát vọng tìm tòi, mong đến được với một tâm hồn đổng điệu, được sẻ chia và cũng là đến được với chính mình. Sóng trong bài thơ là khát vọng được hoà mình vào bể lớn của cuộc
đời, bế lớn của tình yêu. Là người hành động nên chị không chấp nhận kiểu sống thụ động, trông chờ. Trái lại, chị đã "đi khắp chôn tìm người tỏi yêu". Và khi đã tìm thấy tình yêu rồi thì Xuân Quỳnh hiến dâng tất cả cho tình yêu trái tim của mình:
"Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực Giây phút nào tim chẳng đập vì anh" (Chỉ có sóng và em) Có thể nói, những đặc tính của sóng đã nói lên một cách đầy đủ đặc điểm tâm hồn người con gái trong tình yêu. Đây là phát hiện làm nên nét đặc sắc cho hình ảnh sóng trong thơ Xuân Quỳnh và cũng làm nên thành công của bài thơ. Bài thơ được yêu thích bởi mỗi người khi soi vào sóng lại thấy chính mình. Chính là mình trong khi yêu, cũng dữ dội - dịu êm, cũng lặng lẽ nhớ thương, cũng tin tưởng, hy vọng...
Thuyên và biển - anh và em; "Suốt cuộc đòi biển gọi ước mơ"
Trong bài thơ 'Thuyền và biển", nhân vật em là biển, còn nhân vật anh là thuyền: "Biển như cô gái nhỏ Thầm thì gửi tâm tư Quanh mạn thuyền sóng vỗ"
89
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Tuy có sự thay đổi trong cách ví von nhưng về cơ bản thì vẫn có sự thống nhất bởi sóng chính là đặc trưng của biển. Xuân Quỳnh mượn hình ảnh thuyền và biến để diễn tá tình yêu đôi lứa. Trong tâm hổn người con gái đang yêu say đăm. biển tượng trưng cho nỗi niềm khát khao vô bờ, cho tình yêu không thỏa. Trong màu
xanh trầm mặc, trong những bất thường của thuỷ triều, biển giấu kín những đáng cay, hạnh phúc như trái tim yêu mang trong mình mọi nỗi buồn vui. Yêu biển, tìm thấy những phẩm chất khó nhận ra của đại dương sao mà đồng điệu với mình, Xuân Quỳnh đã gửi vào đó nhiều tâm sự, nhiều khát khao. Đó là ước mơ về một tình ycu vô cùng, vò tận. Biển bao la đối lập với những gì bé nhỏ, chật chội. Biển tượng trưng cho sự sống nhiệt tình, trẻ trung, bất diệt, là tình yêu với nhiều cung bậc: những nhung nhớ. âu lo thường trực, những tin tướng, khát khao, mong chờ, những thấu hiếu và sé chia. Trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh một hệ thống hình ảnh được sử dụng một cách thống nhất, đó là: sóng - bờ; thuyền - biển . Xuân Quỳnh đã mượn những thuộc tính tự nhiên của những hình ảnh đó để nói về tình yêu. Những đặc tính của mỗi hình ảnh là tượng trưng phẩm chất tâm hổn của người con trai và người con gái. Qua những cặp hình ảnh này, nhà thơ gửi đến cho chúng ta một thông điệp: tình yêu là sự gắn bó tự nhiên không thổ tách rời giữa người con trai và người con gái. Bên cạnh hình ảnh sóng, hình ảnh biển cũng hàm chứa khát vọng kiếm tìm - khát vọng đến những chân trời mới: "Trong lòng người và trong mọi câu thơ Biển khơi dậy những khát khao mới mẻ" Khát vọng được ra đi đến những phương trời lạ còn được Xuân Quỳnh thế hiện ở nhiều bài thơ viết trong tất cả các chậng đường nghệ thuật của mình. Nó cho thấy ước vọng được khám phá, chiếm lĩnh, hoà mình với cuộc sống của nhà thơ. Đại dương mênh mông kia có ấn tượng đặc biệt với nữ sĩ. Nó gợi nên trong lòng nhà thơ những cảm xúc sâu xa, những chiêm nghiêm về cuộc đời và cả những ước vọng khôn cùng:
"Suốt cuộc đời biển gọi ước mơ Nỗi khát vọng phương trời chưa đến Đứng trước biển quên những điều nhỏ hẹp Lại thấy ỉòng trong sạch thêm ra”. (Biển)
90
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
"Em khác chi con tàu, nay đáy rồi mai đó" Bên cạnh hình ảnh sóng, thuyền và biển, thơ Xuân Quỳnh còn xuất hiện hình anh con tàu mang nhiéu tâm trạng: "Vừa thoáng tiếng còi tàu Lòng đã Nam đã Bắc" (Sán ga chiều em đi)
Con tàu mang nỗi nhớ, nỗi ám ảnh không gian khiến cho tâm hồn nữ sĩ thấy như mất đi một phần gắn bó. Có lúc, chính Xuân Quỳnh đã hoá thân vào hình tượng cơn tàu:
"Em khác chi con tàu Nay đây rồi mai đó Nên cả lúc gần anh Mà lòng em vẫn nhớ"
(Con tàu) Xuân Quỳnh nói về con tàu để ký thác một tâm trạng bấp bênh, bất ổn. Con tàu tượng trưng cho tình yêu, nỗi nhớ, đổng thời là dự báo sự chia ly, sự đến - đi của tình yêu như con tàu trên đường hành trình qua nhiều sân ga:
"Những cửa sổ con tàu chẳng đóng Dái đồng hoang và đại ngàn tối sẫm Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh"
{Tự hát) Xuân Quỳnh nhắc đến con tàu trong nhiều bài thơ. Con tàu còn trở thành hình ảnh tượng trưng cho khát vọng đi xa đến mọi miền của tổ quốc:
"Bốn phương đâu cũng quê nhà Như con tàu với những ga dọc đường"
(Con tàu) Nhưng những khát vọng của Xuân Quỳnh luôn bị dày vò, giằng xé giữa hai thái cực: mơ ước và hiện tại, ra đi và ở lại:
"Con tàu nhằm phía trước lao đi Còn nỗi nhớ cứ ngược chiều quay lại"
(Con tàu) Con tàu - phương tiện di chuyển của con người rất có ý nghĩa với Xuân Quỳnh. Chỉ mộl tiếng còi tàu thôi cũng như mời gọi bước chân nhà thơ:
"Nghe con tàu ngoài ga Biết bao điều trông đợi" (Mười bảy tuổi)
91
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Đã có một bài thơ, tác giả đã hóa thân thành con tàu để đi đến phương trời xa - nơi ấy có tình yêu, có những điều mơ ước:
"Ôi con tàu, con tàu... Đi về đâu về đâu?...
Đến một nơi rất xa Người yêu ta ở đó”.
(Con tàu) Cuộc sống là một dòng chảy luôn băng về phía trước, Xuân Quỳnh đã hòa mình vào dòng chảy ấy bằng tấm lòng đầy khao khát: "Lòng thấy khát những phương trời mới lạ"
3.1.2. Hình ảnh hoa và cỏ dại - Hình ảnh thân phận người phụ n ữ .
Đối với Xuân Quỳnh, hoa không chỉ là một nhu cầu sống, cũng không chỉ như một tín hiệu của thế giới xung quanh mà còn là biểu tượng của những yếu tố làm nên cuộc đời người phụ nữ: nhan sắc, tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc... Đến với hoa, Xuân Quỳnh như thấy mình, thấy “phiên bản” của tâm hồn mình. Hoa như hình ảnh “nhỡn tiền” của thân phận mình. Chị đã “hoà hợp” với hoa để có cách thể hiện mình độc đáo. Như người diễn viên trên sân khấu, Xuân Quỳnh đã mượn hoa làm đạo cụ để giãi bày lòng mình. Vì vây, đối với Xuân Quỳnh, hoa vừa là ẩn dụ, vừa là biểu tượng về thân phận chính bản thân mình. Thơ Xuân Quỳnh có nhiều loại hoa: cúc, sen, sim, mua, hoa xoan, hoa súng, hoa cỏ may, hoa tigồn, hoa phong lan, hoa phượng, hoa roi...trong đó được nhắc nhiều lần là hoa cúc, hoa xoan, hoa lau...những loài hoa nhỏ bé, không đài các mà khá khiêm nhường. Nếu như xem hoa là thứ ngôn ngữ tinh tế và gần gũi nhất với tâm hồn phụ nữ thì ngôn ngữ của Xuân Quỳnh là lối nói lạ: ít kiêu hãnh, ít phô trương, ít nói bằng màu sắc, hương thơm mà thường gợi về “những đắng cay thua thiệt mà loài hoa nàv phải chịu” (...)• Những loài hoa rất nhỏ bé, ít được để ý, để tâm, có loài chẳng bao giờ được gọi tên hay “dẫm lên mà chẳng nhớ”: Từ những loài hoa ấy cất lên một thứ ngốn ngữ đơn côi, dại khờ tựa như một kẻ yêu đến si mê, đến quên hết mình nhưng lại vừa bị đánh mất tình yêu. Theo Vương Trí Nhàn đây là mô tip “ứng với thân phận mình” trong tiềm thức của Xuân
Quỳnh. Chị không chỉ hấp dẫn chúng ta trong lối nói rất lạ về hoa mà là lối nói tâm tình qua ngôn ngữ các loài hoa - thứ ngôn ngữ rất tự nhiên, nữ tính trong cuộc đời. Hoa của chị luôn có cách nói dịu dàng, thầm kín: “Hoa trìu mến mảnh mai như
92
Nguyễn Thị Kim Định
Ph0ng cách thơ Xuân Quỳnh
chấm nắng” . Thơ chị có những loài hoa đi ra từ những câu hát dân gian, giàu chất liệu cổ truyền của dân tộc: hoa ngâu, hoa sen... Lại có những loài hoa rất hiện đại. hoa sấu, hoa phượng, hoa tigôn... Hoa của chị chỉ là những loài hoa bé bòng, loài hoa chưa bao giờ được xem là hoa mà chỉ là cỏ dại nhưng chính nó lại gây ám ảnh người đọc, tạo nên nét riêng cho thơ chị. Hoa và cỏ dại là hình ảnh lặp đi lặp lại rất nhiều trong thơ Xuân Quỳnh. Hoa là cái đẹp. Nhưng cũng là kỷ niệm, là suy tư của Xuân Quỳnh về sự sống, lình yêu. hạnh phúc. Đặc biệt hoa là hình ảnh biểu tượng về thân phận của người phụ nữ: nhỏ bé, khiêm nhường; vị tha. đằm thắm: “Trong mơ anh có thấy em Thấy bông cúc nhỏ nơi triền đất quê” {Hát ru) Bản thân hoa và cỏ dại là nhỏ bé, mảnh mai, mấy ai lưu tâm. Vậy mà với Xuân Quỳnh, nó lại có sức ám ảnh lạ lùng. Nhìn hoa mua tím, chị thấy trước mắt mình một khoảng trời thương nhớ. Trong cơn gió chiều xưa có hoa sở nở trắng bên đồi. Là người phụ nữ giàu lòng trắc ẩn, Xuân Quỳnh thấy hoa dại, cỏ dại ứng với thân phận mình. Hình ảnh cây hoa dại đã diễn tả được rất tài tình nỗi day dứt khắc khoải về tình yêu của chị: “Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em sơ ý cỏ găm đầy Lời yêu mỏng mảnh như màu khói Ai biết lòng anh có đổi thay?” (Hoa cỏ may) Thương thân phận hoa, Xuân Quỳnh liên tưởng đến thân phận tình yêu, thân phận con người: “Những bông hoa nho nhỏ Chỉ có chút hương đầm
Ân vào trong kẽ lá Như mối tình lặng câm” Những lúc ấy, Xuân Quỳnh sực tỉnh: “Tình tôi như màu hoa Trong mảnh vườn đã tôV’
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Nhưng đó chỉ là những giây phút thoảng qua, chị vẫn khao khát được chiêm ngưỡng và có sự nhiệm màu của những cánh hoa trên cánh đổng tình yêu: “Thời gian như gió thoảng qua Tinh yêu là cánh đổng hoa giữa trời”
(Tự hát) Tự mình, chị cũng xem như mình được bầu bạn, sẻ chia cùng với hoa, được thấu hiểu và iuôn thân thiết:
“Tôi có hoa bè bạn ở bên mình Hoa hiểu cả những điều tôi chẳng nói”
Viết về chị một cách thấu hiểu và chân thành, tác giả Vương Trí Nhàn đã nhận xét chị là “người phụ nữ say đắm, tự tin, hồn nhiên nhận lấy sự ràng buộc cùa số phận”. Có lẽ tính cách ấy của chị đã gắn đời chị, thơ chị với những biểu tượng hoa dại, cỏ dại...
Trong thơ Xuân Quỳnh, những hình ảnh nhỏ nhoi, quên lãng, phiêu dạt xuất hiện rất nhiều. Đồng đẳng với hoa bình dị là những sự vật “tó'w thường” khác thường xuất hiện trong thơ: cát, cánh chuồn, rau... làm thành một hệ thống tín hiệu về hình tượng nghệ Ihuật giàu giá trị như Vương Trí Nhàn đã nhận xét: “Trong thơ chị nhìn đâu cũng thấy mình”. Dường như viết về những điều to tát, lộng lẫy, sang trọng không phải là việc của chị, không hợp với “tạng” của chị. Phải chăng chỉ với hoa và cỏ d ạ i, chị mới tìm thấy một sự tương đồng tuyệt đối để tâm giao? Chị đã từng tâm sự vể cách viết của mình: “Trong tôi, lúc viết, như bị ám ảnh, không chỉ là những tâm trạng, những cảm xúc mà là những ẩn ức”. Hẳn là khi viết, chị không nghĩ rằng tại sao mình lại viết về hoa nghệ dại, hoa mẫu đơn mà không phải là hoa hổng hay hoa cẩm chướng. Có vẻ như là vô thức nhưng dường như nằm sâu trong ý thức chỉ cần gợi nhẹ là bật lên. Những vật nhỏ nhoi, mỏng manh, phiêu dạt ấy như là cái “tôi” thư hai của bản thân nhà thơ: cũng bé bỏng, yếu ớt, cô đơn như thế. Bản thân những vật bé bỏng ấy dễ nói lên cái ước nguyên được che chở, được yên lành. Sự nhận về mình trong mối tương giao ấy như là một sự “tự kỷ ám thị”. Sự “tự kỷ ám thị” này dễ lý giải và sao Xuân Quỳnh không đi vào vịnh hoa. Chưa bao giờ Xuân Quỳnh coi hoa như một đối tượng để chiêm ngưỡng, rồi vận dụng cãu chữ để vẽ nên cái hay, cái đẹp của hoa một cách trực quan. Xuân Quỳnh ít nhìn hoa bằng cái nhìn say mê mà chủ yếu bằng cái nhìn thương xót. Sự thương
xót ấy bao hàm cả sự thương thân. Điều này tạo nên phong cách độc đáo trong thơ Xuân Quỳnh.
94
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
3.1.3.
Hình ảnh trái tim và bàn tay - Hỉnh ảnh tượng trưng cho sự hy
sinh, dáng hiến; khao khát được nương tựa, gắn bó.
Trong thơ các nhà thơ nữ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, bàn tay và trái tim trở thành biểu tượng của tâm hổn, tình yêu. Hai hình ảnh này trở đi trở lại trong các sáng tác của các chị, song ở mỗi nhà thơ lại có sự cảm thụ và có những nét riêng. Ở Xuân Quỳnh hình ảnh trái tim và bàn tay là hình ảnh tượng trưng cho sự hy sinh, dâng hiến, khao khát được nương tựa, gắn bó.
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực/Giây phút nào chẳng đập vì anh - hay là sự chi chút, yêu thương, hy sinh, dâng hiến.
Trái tim - hình ảnh biểu tượng đặc trưng trong thơ tình yêu của phái nữ. Với
họ, trái tim không bao giờ ngừng yêu. Trái tim yêu đã mang đến cả hạnh phúc lẫn khổ đau; cả yêu thương lẫn tủi hờn, cả nỗi buồn lẫn niềm hy vọng, khát khao...đó là trái tim mang dáng lưỡi cày đớn đau và hạnh phúc trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ; “Trái tim lơ lửng màu trắng bạc - Mang trên mình chi chít vết thương” trong thơ Lê Thị Mây; trái tim buốt nhức trước câu thề gió trăng trong thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát; “trái tim giờ như phiến đá lặng câm” trong thơ Lệ Thu; trái tim nỗi nhớ trong thơ Ý Nhi và trái tim dào đạt trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến... Đúng là hình ảnh trái tim đã quá quen thuộc trong thơ ca. Nó được coi như
biểu tượng của tình cảm, tình yêu của con người. Lecmontop quan niệm tình yêu khi trao cho người yêu dấu cũng có nghĩa là hiến trọn trái tim cho người mình yêu: “Cho em trái tim tôi chẳng còn gì cả Trở thành kẻ ăn mày đói tình tôi mệt lả Ngày mai dù gục ngã kẻ hành khất không tim Chẳng cầu xin gì cả, chỉ cầu xin trái tim”. Rồi nguyỗn Duy - một nhà thơ nam thế hệ Xuân Quỳnh cũng đã thổ lộ với người mình yêu:
“Em biết không cái ngày ấy thế này Có một màu hoa trong nắng chiều tha thiết
Có một nguôi nghĩ về em cháy ruột Một trái tim đập được vì em” Nhưng có thể nào trái tim Xuân Quỳnh lại lẫn với muôn vàn trái tim khác? Một trái tim mang tình yêu sâu xa, bất tận, một tình yêu vĩnh cửu vượt ra ngoài giới hạn bình thường của lẽ tử sinh. Biểu tượng trái tim trong thơ Xuân Quỳnh vì thế mà
95
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh ____ ^ ___ ___ _______ _____
có chiều sâu, gây xúc động sâu sắc ở người đọc. Ở các bài: Thơ viết cho mình vả những người con gái khác, Thời gian trắng, Chỉ có sóng và em... và đặc biệt là bài Tự hát, qua biểu tượng trái tim, Xuân Quỳnh đã bộc lộ quan niệm rất rõ về tình yêu: coi tình yêu là lẽ sống ở đời.
“Ngay từ giây phút đầu tiên, trái tim ấy đã đập rộn ràng: Khi anh nói yêu em, trái tim em đập chừng mạnh quá
Mạnh đến nỗi em tưởng là nghe rõ Tiếng tim anh đập cùng tim em” Ợ hơ viết cho mình và những người con gái khác) Trái tim ấy suốt đời hy sinh, cống hiến, yêu thương, chở che, vun vén cho tổ
ấm của mình. Trái tim nồng nhiệt của người phụ nữ suốt đời khao khát tình yêu, rất biết nâng niu, quý trọng niềm hạnh phúc có thật trong cuộc đời. Đến những giây phút đau đớn, trái tim ấy vẫn còn khắc khoải yêu thương, còn nhức nhối khi nghĩ rằng nó chẳng còn có ích “cho anh yêu, cho công việc, cho bạn bè". Trái tim cũng là hình ảnh tượng trưng góp phần thể hiện giọng điệu âu lo của Xuân Quỳnh với những dự cảm xa xôi: “Trái tim đập những điều không thể nói". Nhưng hơn hết, nó tập Irung diễn tả tình yêu nồng nàn, tha thiết. Nó trở thành biểu tượng trong thơ tình Xuân Quỳnh với những tứ thơ đã “bất tửhoá trái tim” của Xuân Quỳnh “biết yêu anh củ khi chết đi rồi”.
Bàn tay em gia tài bé nhỏlEm trao anh cùng với cuộc đời em - hay lừ những dự cảm thân phận; sự tảo tần, chăm sóc; khao khát được nương tựa, gắn bó.
Bên cạnh biểu tượng trái tim thì biểu tượng bàn tay cũng xuất hiện rất nhiều trong thơ ca. Con người sử dụng bàn tay như một phương tiện giao tiếp trong đời sống sau ngôn ngữ và đôi khi thay thê' cho ngôn ngữ. Tiếp thu từ biểu tượng văn hóa nhân loại và tiếp nối truyền thống thơ ca ấy, Xuân Quỳnh coi bàn tay như một phương tiện biểu lộ tình cảm, một biểu tượng của tình yêu. Nhưng biểu tượng bàn tay trong thơ Xuân Quỳnh có rất nhiều nét riêng, mang dấu ấn của tâm hồn, số phân, lối tư duy và xúc cảm của chị. Bàn tay trở thành một biểu tượng đa nghĩa trong thơ Xuân Quỳnh. Nó vừa là biểu tượng cho khát vọng gắn bó, nương tựa lẫn nhau giữa hai tâm hổn, vừa là sự tiên cảm về số phận của nhà thơ. Xuân Quỳnh có rất nhiều bài thơ viết về bàn tay: Bàn tay em, Thơ viết tặng anh, Lợi bắt đầu...
96
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Không ít lần thi sĩ viết về đôi bàn tay của mình và tự cảm nhận: “Gia tài em
chi có đỏi bàn tay”. Là cá một gia tài nhưng bàn tay của Quỳnh lại khống đẹp. trong thực tế và khi vào thơ cũng vậy: “Bàn tay em ngón chẳng thon dài Vết chai cũ đường gân xanh vất vả” (Bàn tay em)
Lại nguyên Ân đã nói: “Ai quen biết Xuân Quỳnh, hẳn sẽ để ý thấy nét lạ nơi tay chị: Một đôi bàn tay già hơn khá nhiều so với gương mặt phụ nữ đẹp và làm
thơ ấy lại có đôi bàn tay giống như gương mặt Trương Tri”. Phải chăng đôi bàn tay đã tiết lộ cho chúng ta thấy phần nào số phận không may mắn của Xuân Quỳnh. Thân phận người phụ nữ nhỏ bé nhiều mất mát, đấng cay được đúc kết lại trong biểu tượng bàn tay. Bàn tay ấy cẩn được sự ủ ấm, cần được sự nâng đỡ, chớ che. Xuân Quỳnh đã chọn cho mình cử chí “tay trong tay” làm biểu tượng cho khát vọng được gắn bó, chở che. Cuộc đời đầy những bất trắc, chảy trôi mà một con người chi là một sản phẩm dở dang của tạo hóa làm sao có thể trụ vững được? Vì vật, nó phải tìm đến một nửa kia đé gán kết, để dắt dìu nhau vượt qua khó khản trụ vững giữa cõi đời. Tất cả sẽ trở lại bắt đầu, lại được tái sinh khi hai người được bên nhau, chia sẻ mọi nỗi vui buồn:
“Tay ấm trong tay Chồi non lại biếc” (Chổi biếc) Rất nhiều lần cử chỉ bàn tay - biểu tượng sự gắn bó, nương tựa xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh:
“Bàn tay em trong tay anh xiết chặt Khi nhìn nhau tay vẫn nắm trong tay” (Thành phố lạ)
“Với bàn tay ấy ở trong tay Tôi đã nguôi quên hận tháng ngày” Chúng ta cũng bắt gặp cử chỉ "tay trong tay" trong thơ Ý Nhi: “Những vinh
quang đoạ đáy bất hạnh/Những cám đỗ phù hoa bao dày vò ám ảnh/Chẳng còn nữa trong phút giây thẩn thánh/Khi dịu dàng tay nắm bàn tay” {Vườn trong phô); trong thơ Nguễn Thị Hồng Ngát: “Tay trong tay đầu lại sát bèn đầu/Con đường ấy sẽ không dài nữa” (Tình yêu không có tận cùng). Nhưng cử chỉ “lay trong ía\" của
97
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh __ _____________________________
Xuân Quỳnh lại có điém khác. “Tay trong tay” mà Xuân Quỳnh vẫn thấy lòng thoáng hụt hẫng, lo âu:
“Chợt ta gặp sự lạnh lùng trong ánh mắt Khi nhìn nhau tay vẫn nắm lấy bàn tay” (Thành phô'lạ)
Bàn tay ấy quá nhạy cảm để cảm nhận được những đổi thay, những hữu hạn của cuộc sống. Chính vì vậy, khi hạnh phúc bình dị hiện hữu, bàn tay ấy đã run lên vì hanh phúc:
“Tay trong tay tôi đến bên người Tôi chẳng nói điều chi về vĩnh viễn Vì mỗi sáng khi mặt trời hiển hiện Là một ngày tôi lại bắt đầu yêu” (Lại bắt đầu)
Bàn tay không những tiết lộ cho số phận Xuân Quỳnh, biểu tượng khát vọng được chở che, nâng đỡ. Bàn tay còn có ý nghĩa biểu tượng khác. Đó là bàn tay của sự chi chút yêu thương, sự tảo tần, chăm sóc. Trong gần 60 lần nhắc đến hình ảnh bàn tay thì đến 2/3 số lần bàn tay mang thông điệp yêu thương:
“Trong tay anh tay của em đây Biết lặng lẽ vun trổng và gìn giữ Trời mưa lạnh tay em khép cửa Em phơi mền vá áo cho anh” (Bàn tay em) Bàn tay lao động vun vén chăm sóc cho người yêu. Cũng chính bàn tay tảo tần chu đáo ấy luôn bên cạnh người yêu để cùng anh san sẻ những lo âu. Mọi việc làm thân thuộc từ “òàrt tay em” đều quy tụ ở một đích là anh, vì tình yêu với anh mà em làm tất cả mọi việc một cách tận tuỵ quên mình. Bàn tay trờ thành phương tiện thực hiện những điều trái tim mách bảo. Chính Lưu Quang Vũ khi viết về “mdr nửa cuộc đời mình” cũng nhớ đến đôi bàn tay “đỏ ỉên vì giặt giũ mồi ngày". Chính vì thế lúc xa Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ nhìn đâu cũng thấy dấu
ấn bàn tay của người vợ hiền. Bàn tay em đối với anh thật đáng tin cậy biết bao! “Em của anh ơi, đôi vai ấm dịu dàng
Người nhóm bếp chiều, người thức dậy lúc tinh sương Em ở đây, đời chẳng còn đáng ngại Em ở đây, bàn tay tin cậy” (Và anh tồn tại) - Lưu Quang Vũ
98
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, bàn tay trong thơ Xuân Quỳnh là bàn tay kỳ diêu đắp xây hạnh phúc. Bàn tay có khả năng phi thường:
“Khi anh vắng bàn tay biết nhớ Lấy thời gian đan thành áo mong chờ Lấy thời gian em viết những câu thơ Để thấy được chúng mình không cách trở” (Bàn tay em) Bàn tay ở đầy đà thừa hành trái tim, giúp trái tim thể hiện tình cảm yêu thương của mình.
Tóm lại, trong quá trình sáng tác thơ không phải là dài nhưng Xuân Quỳnh đã xây dựng được cho mình một thế giới hình ảnh độc đáo, mang bản sắc riêng. Điều đó là nhờ vào tâm hồn nghệ sĩ hết sức nhạy cảm của nhà thơ và những ẩn ức tâm lý trong cuộc sống. Đó thực sự là những hình ảnh mang ý nghĩa, là chiếc chìa khóa để chúng ta giải mã các tác phẩm thơ của Xuân Quỳnh.
3.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên xây dựng nên một tác phẩm thơ ca. Phong cách nghệ thuật của nhà thơ thể hiện rõ nhất ở ngôn ngữ vãn chương nghệ thuật mà họ sáng tạo nên trong tác phẩm. Nói cách khác, ngôn ngữ thơ ca thể hiện đầy đủ những mặt mạnh và mặt hạn chế trong phong cách sáng tạo của từng nhà thơ. Giáo sư Hà Minh Đức có nhận xét hết sức thỏa đáng “phong cách sáng tạo của từng nhà thơ như thế nào thì ngôn ngữ thơ ca cũng thể hiện đầy đủ những mặt mạnh và hạn chế một cách tương ứng” [121;593]
Con đường hình thành phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua các khía cạnh khác nhau trong tác phẩm. Có thể thể hiện qua hệ thống từ vựng có tân số xuất hiện cao trong tác phẩm hay là cách sử dụng ngôn từ, cú pháp, các biện pháp tu từ... cũng là những yếu tố góp phần tạo nên phong cách ngôn ngữ cho nhà văn. Có được một ngôn ngữ thơ ca độc đáo là một vấn đề không chỉ thuộc về sự rèn luyện hình thức mà trước hết là một vấn đề thuộc về nội dung cảm nghi. Không thể nói đến một hệ thống từ ngữ trong thơ với ý nghĩa tách biệt khỏi yêu cầu của nội dung. Ngôn ngữ thơ ca không phải chủ yếu là công cụ mà bản thân nó là mục đích. Vì vây, ngôn ngữ là yếu tố động, biến hóa và nhiều màu sắc nhất. Có thể nói, các cấp độ khác nhau trong bình diện ngôn ngữ đều góp phẩn tạo nên nét độc đáo, hấp dẫn riêng dễ nhận thấy nhất cho tác phẩm của mỗi nhà văn.
Việc lựa chọn từ ngữ, tổ chức hệ thống ngôn từ nói lên rất nhiều về phong cách cá nhân. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi xin giới hạn ở một số phương diện nổi bật trong ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh giúp thể hiện rõ phong cách thơ chị.
99
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
3.2.1. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên gán với sinh hoạt hàng ngày
Ngôn ngũ là yếu tố đầu tiên để xây dựng nên một tác phẩm thơ ca. Cùng có nguồn gốc từ đời sống nhưng vận dụng nó, sáng tạo nó như thế nào là tài năng của người nghệ sĩ. Thế giới ngôn ngữ trong thơ Xuân Quỳnh là thứ ngôn ngữ của cuộc sống đời thường nhưng rất giàu chất thơ. Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh rất mới và đa dạng. Trên con đường “truy tìm”
hạnh phúc, trái tim chị luôn sâu nặng, đau đáu, thuỷ chung. Lý lẽ của con tim không có gì thuyết phục hơn là sự giản dị. Cội nguồn và sự tìm tòi của thơ ca là sự biểu đạt cái lớn lao nhất bằng những từ ngữ giản dị nhất, hồn nhiên nhất. Khác với nhiều nhà thơ đương thời cùng thế hệ, Xuân Quỳnh không nhìn cuộc đời dưới lăng kính màu hồng, chị không tố điểm cho những gì hào nhoáng, giả dôi. Từ một góc nhìn của cảm xúc, chị nhìn thế giới vạn vận theo cách riêng, phản ánh nó bằng ngôn ngữ của riêng Xuân Quỳnh.
3.2.1.1. Ngôn ngữ giàu chất dân gian: Những câu chuyên cổ tích, những bài ca của quê hương, đất nước đã đến với
Xuân Quỳnh qua lời ru, lời kể của bà và in dấu trên những trang thơ của chị. Dấu ấn của ca dao, dân ca trong thơ chị được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Khi là những câu ca dao được sử dụng nguyên vẹn như: “Chàng ơi đưa gói thiếp mang Đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không...” (Gửi mẹ) Và có khi là sự trích dẫn đẩy sáng tạo:
“Tháp mười ta có hoa sen đẹp nhất Đất nước mình tên Bác cũng như hoa...”
Chất liệu dân gian khiến cho người đọc dễ nhớ, dễ thuộc, nó mang lại cái dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển cho câu thơ. Nói thơ Xuân Quỳnh có yếu tố truyền
thống cũng một phần chị đã tiếp thu vãn học dân gian để đưa vào ngôn ngữ thơ mình. Ngôn ngữ dân gian đã được chị vận dung hết sức sáng tạo:
“ Biết ơn hạt muối mặn mòi Với gừng cay để cho người nhớ nhau” (Tình ca trong lòng Vịnh) Tính chấl ngôn ngữ dân gian đã khiến cho nỗi nhớ vì thế mà cũng được thể hiện hấp dần và siết chặt.
100
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Đặc biệt là những trang thơ viết về trẻ em và viết cho trẻ em thì yếu tô' dân
gian thấm đẫm trong thơ chị. Chị đã đưa đến cho các em thế giới cổ tích diệu kỳ. Chị đã lý giải thế giới qua con mắt trẻ thơ, hợp với tư duy con trẻ bằng ngôn ngữ giàu chất dân gian mang âm hưởng đồng dao, bằng lối nói ngược...:
Màu xanh bắt đầu cỏ Màu xanh bắt đầu cây (|Chuyện cổ tích về loài người)
Miêu tả những sự vật trong thế giới hiện đại nhưng lý giải nó bằng hình thức dân gian: thế thơ lục bát, những câu vè, những bài đồng dao là điểm đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh.
“Quả tim như cái đổng hồ Nằm trong lồng ngực giục giờ hành quân
Dế con cũng biết đào hầm Con cua chẳng ngủ canh phòng đạn bom Trong trăng chú cuội tắt đèn Để che mắt giặc mây đen kéo về...” (Tuổi thơ của con) Qua ngôn ngữ thơ của mình, Xuân Quỳnh đã giải thích cho con trẻ cả những điều vô cùng lớn lao. Đó là chiến tranh: đạn bom, quân giặc - những ngôn từ hiện
đại nhưng lại được giải thích bằng lối ví von nhân hóa, bằng thể thơ lục bát - đặc trưng của chất dân gian thật ngộ nghĩnh, thật dẻ hiểu, gần gũi với thế giới trẻ thơ, với tư duy của con trẻ. Dân gian mà hiện đại. Ở chị hai yếu tố này song song, bổ trợ cho nhau - tạo nên hiệu quả thẩm mỹ lớn, mang dấu ấn của phong cách thơ Xuân Quỳnh
Tính hiện đại trong ngôn ngữ Xuân Quỳnh còn được thể hiện ở sự giản dị, tự nhiên, dân giã. Những từ ngữ vốn chỉ được dùng trong cuộc sống hàng ngày đã được chị đưa vào thơ hết sức linh hoạt. Và cũng tạo hiệu quả thẩm mỹ, tạo nên dấu ấn riêng của Xuân Quỳnh
3.2.1.2. Ngôn ngữ giản dị, dán giã của cuộc sống tình yêu, lao động và chiên đấu
Gắn bó sâu sắc với đời thường và lấy đời thường làm đề tài chính, vì thế lớp ngôn ngữ đời thường xuất hiện khá phổ biến trong thơ các nhà thơ nữ. Không cần đến ẩn dụ, tượng trưng, lớp ngôn ngữ này mang đến một vẻ đẹp tự nhiên và giản dị cho thơ của các chị. Mẹ tôi đi chợ xa- Bóng dài rồi lại ngắn - Trong bóng mát thời
101
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách tho'Xuân Quỳnh
gian đi qua Trong bóng mát thời gian trở lại (Lâm Thị Mỹ Dạ); Tôi lớn dán trong vạt áo tứ thân ~ Câu hát cũ mẹ ru ấm áp -C ủ đu gai đen thui lấm láp - Lại ngọt bùi trong trắng khó nhìn rư (Phan Thị Thanh Nhàn); Xóm đê ngày trước ngại nhau - Mu còng bới rác - Mẹ con nhà lông gà giẻ rách - Gã tư say - Thằng bé đánh giày...(Phan Thị Thanh Nhàn)... Cuộc sống hiện lên với tất cả vẻ tự nhiên, chân thật và sinh động. Dường như các nhà thơ quan sát như thế nào thì phản ánh nó như vậy không cần cân nhắc đến câu chừ.
Song điều đặc biệt ở Xuân Quỳnh là ngôn ngữ đời thường giản dị, mộc mạc được sử dụng với lần sô' cao. Tâm hồn rất dễ rung cảm trước những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt, vặt vãnh, những chuyên như là không đâu cũng được chị góp nhặt đưa vào thơ. Cái mà ở người khác chỉ là chuyện thoáng qua, thì ở chị nó lắng sâu và dường như dừng lại, trở thành một ám ảnh không nguôi. Tất cả những điểu này đã ảnh hướng ràt lớn đến cách lựa chọn, sử dụng từ ngữ trong thơ chị.
Thơ kháng chiến chống Mỹ đánh dấu sự phát triển dày đặc của những từ ngữ sinh hoạt, chiên đâu. Các tác giả đều giữ lại cho thơ chất thú vị riêng của ngôn ngữ đời sông. Xuân Quỳnh cũng vậy, song có những hình ảnh mà Xuân Quỳnh đưa vào thơ thời chiến thật hiếm gặp : “Khi con sinh cái tã đã nhuộm xanh Cái nôi mắc trước cửa hầm trú ẩn” (Khi con ra đời)
Đây là hình ảnh mà người ta tránh nói trong thơ trong những năm tháng chiến tranh, vậy mà Xuân Quỳnh lại nhắc đến nó thật đẹp đẽ, thật tự nhiốn. Nó gợi nên sự sinh sôi, gợi nên sức sống dai dẳng mãnh liệt. Nó cho ta thấy giá trị hạnh phúc đời thường trong chiến tranh. Khi viết về tổ ấm gia đình, Xuân Quỳnh lại trở đi, trở lại với những từ ngữ bình thường, quen thuộc, thậm chí rất mộc mạc, khó có chất thơ: châu, nồi, lửa, bức
tranh, bếp dầu, ngọn đèn, cãn gác cũ... - những cái gắn với thiên chức làm vợ, làm mẹ của người phụ I1Ữ trong gia đình. Song điều đáng nói, chị không dùng những từ đó như là sự liệt kê các hình ảnh, điểm tên sự có mặt của chúng mà là sự cân nhắc, lựa chọn để nói lên những điều sâu xa hơn: sự hiện thân của những gì gắn bó. thân
thiết - đó là chất liệu tạo nên tổ ấm gia đình - nơi mà người phụ nữ nào cũng khát khao.
Ngôn ngữ thơ Xuăn Quỳnh tự nhiên, gắn với sinh hoạt hàng ngày vì ớ đó ta thấy có rất nhiều từ ngữ, hình ảnh của thiên nhiên, của cuộc sống đời thường. Xem
102
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh __
xét hai tập thơ “Gió Lào cát trắng” và “Hoa cỏ may” thấy thật nhiều những từ ngữ
mưa nắng, mây, nước, đê, cát, bàn tay, bàn chân, khoai lang, bạch đàn... rồi những chậu, nồi, tách nước, bức tranh, cây bút... Chị đã lựa chọn những từ ngữ mang hình ảnh dễ gặp, dễ thấy của thiên nhiên, đời sống hàng ngày để làm chất liệu cho mình. Tuy nhiên, đó chỉ là cái cớ để chị diễn tả tâm trạng mình:
“Mỗi sáng tôi chào mặt đất Những đàn ong kiếm mật buổi mai Cỏ ven sông và bãi sa bổi Phù sa ướt còn nồng mùi cá Cành đước mận, cây ngô trong kẽ đá Những con đường khuất sau lá rừng xanh”
thì điều chị muốn đem lại qua những từ ngữ đời thường ấy là cái nhìn trẻ trung, tươi mới, lòng tha thiết với đời của một tâm hổn bao giờ cũng nhìn cuộc sông trong “cá/ thuở bơn đầu” đầy nhiệt thành. Ngay cả ở một địa hạt khá trang trọng: thơ tình yêu, Xuân Quỳnh vẫn viết thật tự nhiên, mộc mạc bằng những từ ngữ tự nhiên như những lời nói thường:
“Tóc anh thì ướt đẫm Lòng anh thì cô đơn Anh cần chi nơi em Sao mà anh chẳng nói” (Anh) Đưa vào thơ chất liệu ngôn từ giản dị, mộc mạc tự nhiên nhưng vẫn giàu chất thơ, vẫn không làm giảm sức hấp dẫn của thơ là điều mà Xuân Quỳnh đã thành công khi lựa chọn ngôn ngữ thơ cho riêng mình.
3.2.2. Một số cách tổ chức ngôn ngữ.
Ngôn ngữ nhà thơ không chỉ được đánh giá trên phương diện các từ ngữ cụ thể mà còn được nghiên cứu ở khả năng tạo câu thơ, tạo thơ.
3.2.2.1. Kiểu câu kể, liệt kê
Vốn ưa thích những đề tài về cuộc sống đời thường và khám phá hiện thực ở
tầm vi mô, các nhà thơ nữ cùng thời với Xuân Quỳnh thường thiên về lối viết tình cảm, giàu cảm xúc, ít lý trí. Vì vậy, trong thơ họ có cái tự nhiên, chân thành, không làm chữ mà chúng ta gặp khá nhiều trong thơ đương đại. Cảm xúc đã tự tìm lấy
103
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
giong điệu phù hợp. Và giọng điệu lại tư tìm đến những con chữ. Thơ các chị ưa giãi bày tâm trạng, thể hiện nhu cầu tự biểu hiện.
Khổng nằm ngoài xu hướng chung ấy, Xuân Quỳnh thường sử dụng kiểu câu kể, liệt kê nhưng câu thơ lại không tầm thường, trái lại nó còn làm nên nét duvên dáng rất Xuân Quỳnh.
Tâm hổn giàu tính nữ dần Xuân Quỳnh đến sự lựa chọn kiểu câu thơ kể lể đê giãi bày tâm trạng. Là cái tôi giàu cảm xúc luôn muốn hướng mình đến đối tượng
khác bộc lộ mình với đối tượng khác, chị trở thành nhân vật kể chuyện trong nhiều sẽ kể anh nghe vê chuyện cỏ ”, "Em sẽ kể anh bài thơ: “Em sẽ kể anh nghe”,
nghe về ngọn g ió”...Vói kiểu câu thơ này, thơ Xuân Quỳnh mang sắc thái tâm sự thủ thỉ, nhẹ nhàng.
“Như lúc này anh ở bên em Niềm vui sướng trong ta là có thật Như chiếc áo trên tường, như trang sách Như chùm hoa mở cánh trước hiên nhà”
Có thô’ nói, kể, liệt kê đã trở thành một cách nói quen thuộc trong thơ Xuân Quỳnh. Có điểu trong cái mạch kể ấy, câu, ý lại không phải chỉ đơn thuần là sự kể lổ nên rấl hấp dần người đọc và tạo ra nét riêng của Xuân Quỳnh. “Em từ nhà đi tới ngã tư Gặp đèn đỏ trước hàng đinh thứ nhất Chờ qua đường đèn xanh vừa tắt
Em lại quay về thành phố mùa đông”
Tứ thơ bật lên ở câu thơ cuối. Hoá ra sự kể lể ở những câu thơ trên chỉ là cái cớ đế Xuân Quỳnh bộc lộ tâm trạng của mình.
Rơi có những bài thơ, đoạn thơ là sự liệt kê các sự vật song không hé gây cảm giác nhàm chán cho người đọc, chị đã kết hợp nhuần nhị vần với nhịp để tạo nên sức hấp dẫn cho thơ mình: “Những mùa sen mùa phượng đã xa Trên khắp nẻo lại bắt đầu hoa cúc Rồi hoa đào lại tươi hồng nô nức” (Lợi bất đầu) Trong các cách kể và tả, chị cũng hay sử dụng thủ pháp liệt kê của vãn học dân gian. Viết về tuổi thơ của con, chị kể: “Có làn gió sớm vào thãm Có ông trăng tròn sơ tán cùng con
104
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuán Quỳnh
Sông dài, biển rộng, ao tròn Khói bom đạn giặc, sao hôm cuối trời” Phép liệt kê đã cho phép tái hiện lại thế giới xung quanh của trẻ từ cao xa lại gần, từ gần lại ra cao xa. Vừa hát ru cho trẻ nghe, chị vừa thiết lập mối quan hệ tự nhiên mật thiết trong tâm hổn trẻ với thế giới xung quanh - một “tiểu vũ trụ ” với vũ trụ thiên nhiên vĩnh hầng.
Bản chất giàu cảm xúc và khả năng giao cảm rộng rãi với thế giới xung quanh tạo nên trong thơ Xuân Quỳnh nhiều liên tưởng. Trong thơ chị, có những câu nhiều khi không liên quan nhưng lại rất liền mạch. Chúng ta có cảm giác như nhiều đoạn thơ, bài thơ của Xuân Quỳnh là phép cộng của các sự vật tách rời nhau. Mỗi câu thơ là sự vật riêng biệt, những không gian, thời gian riêng biệt nhưng lại liên kết với nhau thành một khối qua cách kể, liệt kê thông dụng nhưng Xuân Quỳnh đã vận dụng hết sức độc đáo:
“Cỏ bên sông và bãi xa bồi Phù sa ướt còn nồng mùi cá Cành đước mặn, cây ngô trong kẽ đá Những con đường khuất sau lá rừng xưa”
3.2.2.2. Kết cấu dối thoại
Bên cạnh việc sử dụng câu kể, liệt kê, Xuân Quỳnh còn rất khéo léo trong
việc sử dụng kết cấu đối thoại. Trong đối thoại, thơ Xuân Quỳnh thường xuất hiện hai nhân vật. Đó có khi là anh - em, chị - em, mẹ - con, tôi và các cô... với những hình thức đa dạng hỏi - đáp, kể - nghe. Trong tình yêu, Xuân Quỳnh khao khát được thấu hiểu đến tận cùng, Chị hỏi để được đáp, hỏi để được bộc lộ những băn khoãn, day dứt còn ám ảnh mình:
“Đốt lòng em câu hỏi Yêu em nhiều không anh?”
Những câu hỏi của chị chính là cách thức tìm kiếm niềm tin, mong muốn được đáp lại, được lắng nghe sự khẳng định từ người khác. Câu hỏi chính là cách nói ý nhị của Xuân Quỳnh. Câu hỏi thường hàm ẩn trong nó nhiều ý nghĩa phù hợp với cái tôi trữ tình nhiều sắc thái của chị: bất ổn, lo âu, khao khát thấu hiểu, diu dàng đằm thắm và có cả mềm tin tưởng, ước mơ... “Lòng anh là đầm sen Hay là nhành cỏ úa” “Anh có đi cùng em Đến những miền đất lạ”
105
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Qua cách đôi thoại, Xuân Quỳnh muốn giãi bày tâm trạng của một cái tối mang trong mình bao trăn trở, suy nghĩ về cuộc sống, về tình yêu, hạnh phúc. Xuân Quỳnh thường hướng tới đối tượng bên ngoài để bộc lộ những thầm kín suy tư trong tâm hổn mình. Nhưng đôi khi ta cũng bắt gạp chị đối thoại với đối tượng vô hình,
trừu tượng. Khi đó đối thoại không phải để mong muốn sẻ chia mà đơn thuần chỉ là để bộc bạch, để làm vợi đi những trăn trở trong lòng - đối thoại dưới hình thức độc thoại:
“Em biết đấy là điều đã cũ Chuyện tình yêu quan trọng gì đâu” Vẫn là nói với người đấy nhưng thực ra là nói cho mình, tự bộc bạch nỗi lòng
mình. Đó là lúc trong chị đầy áp những tâm sự, những phân vân, những lo âu thổn thức...Hình thức độc thoại cũng gắn với nét tâm lý đầy nữ tính. Xuân Quỳnh là người sợ cô đơn, lúc nào cũng mong muốn ‘'tay ấm trong tay”. Bởi vậy, chị đã tìm
đến hình thức độc thoại, tạo tình thế đối thoại cho thơ mình để thoả mãn nhu cầu được gắn bó, thổ lộ, được giãi bày, san sẻ...
Tóm lại, những chất liệu ngôn ngữ trong thơ Xuân Quỳnh được lấy từ đời sống sinh hoạt chân thực. Nó mang lại giá trị biểu đạt tự nhiên, gần gũi cho những vần thơ của chị, làm cho những câu thơ dễ dàng đi vào lòng người đọc. Xuân Quỳnh đã sử dụng những chất liệu đó một cách hợp lý và sáng tạo. Cùng với một sô
phương diện nghệ thuật khác, ngôn ngữ thơ chị đã góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh - một phong cách thơ giàu tính nữ vừa truyền thống, mực thước cổ điển vừa hiện đại mới mẻ.
3.3. Giọng điệu.
Hiện ra như một yếu tố cơ bản thuộc phong cách nghệ thuật, giọng điệu văn chương cho phép người đọc nhận ra vẻ riêng của người nghệ sĩ. Trong "Từ điên
thuật ngữ ván học” đồng chủ biên với Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử quan niệm: "Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà vãn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm... Giọng điệu trong tác phẩm gắn với cái giọng "trời phú" của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật phù hợp với đối tượng thế hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng có nhiều sắc thái trên cơ sở
một giọng điệu cơ bản chủ đạo chứ không đơn điệu". Trong lịch sử vãn học nước ta, các nhà thơ lớn bao giờ cũng biết vươn lên để xác lập giọng điệu cá nhân. Giọng Ihơ
106
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách tho Xuân Quỳnh
Hồ Xuân Hương mỉa mai, khinh bạc mà đầy cảm thông; Nguyễn Du với giọng điệu xót thương trước những đổi thay của nhân tình, thế thái; Tú Xương - giọng bỡn cợt. cười mà ra nước mắt... rồi Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... đã xây dựng những giọng điêu riêng không nhoè lẫn. Giọng điệu vãn chương nói chung gắn liền với bản
lĩnh nghệ thuật và cảm quan hiện thực độc đáo của mỗi nhà văn. Nói khắc đi. giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể tác giả, là thước đo tài năng sáng tạo, phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ. Là nhà thơ trẻ cùng trưởng thành trong phong trào thơ chống Mỹ cứu nước
nhưng Xuân Quỳnh đã nhanh chóng tạo cho mình một giọng điệu riêng, không trộn lẫn. Đó là một giọng thơ mang tính đa thanh của một tâm hồn phong phú. Nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là giọng điệu "tự hát". Chị hát lên bằng thơ vể cuộc đời
mình, hạnh phúc của mình, hát lên tình yêu của mình. Chị hát bằng tấm lòng của một trái tim tha thiếu yêu đời, yêu người. Lấy ngay chính cuộc đời mình ra làm thơ với yêu ghét, vui buồn, lo lắng, trăn trở, suy tư. Hồn nhiên và chân thật, chị viết như một sự giải toả, với khát vọng được một cuộc đời nữa ở trong thơ. Chị đã lạo cho mình một tiếng nói nhiều âm điệu vừa thủ (hỉ tâm tình, vừa mạnh mẽ cương quyết: luôn khắc khoải lo âu nhưng lại cũng tràn đấy tin tưởng.
3.3.1. Giọng điệu lời ru vừa thủ thỉ vừa mạnh mẽ.
Mỗi nhà thơ khi đặt bút đều muốn ký thác tâm tư tình cảm của mình mong tìm ra một tri kỷ, tri âm. Nói như nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh:"Thơ đến từ một tấm lòng thành(...) Tấm lòng thành ấy là một món quà tri ân gửi đi cho bè bạn". Đọc thơ Xuân Quỳnh thấy chị có nhiều gửi gắm. Bởi vậy mà thơ chị cứ thủ thí, tâm tình như những lời bộc bạch, thổ lộ. Một giọng điệu không kiểu cách, khiên cưỡng mà luôn tự nhiên, phóng khoáng, vừa dịu dàng vừa táo bạo. Mỗi nhà thơ có một giọng điệu riêng: Phan Thị Thanh Nhàn với giọng thơ dịu dàng, giản dị; Lâm Thị Mỹ Dạ với
giọng thơ cứng cỏi, mạnh mẽ, nhiệt thành. Ý Nhi chín chắn, nhiều suy nghiệm thì ớ Xuân Quỳnh lại có một điều đặc sắc trong thơ chị. Đó là giọng điệu thơ chị cũng như cách cảm nhận thế giới của chị luôn song hành hai mặt đối lập nhưng cũng lại hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên nét riêng rất Xuân Quỳnh. Chị thường hay chọn lời ru hoặc lấy cảm hứng từ lời ru làm giọng điệu thơ
cho mình. Xuân Quỳnh đã từng viết cả tập thơ về những lời ru: Lời ru trên mặt đất. Chị ru chồng, ru con ngủ. Chị ru cả cuộc đời này trong âm điệu trữ tình thiết tha. Với lời ru, Xuân Quỳnh đã chọn được một giọng điệu thích hợp cho tiếng lòng mình - tiếng thủ thỉ, tâm tình của một người mẹ dịu dàng, nhân hậu, một người yêu đằm
107
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
thắm, bao dung nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ. Lời ru chính là hình thức đác địa đế chở những nhán gửi, những mong ước khát khao của người phụ nữ nhiều khao khát này. Mã Giang Lân nhận xét về thơ Xuân Quỳnh: "Thơ Xuân Quỳnh hát ru là sự kế tiếp tự nhiên, là nhi nữ thường tình nhưng lại mang một dự báo thẩm mỹ".
Bằng hình thức lời ru, Xuân Quỳnh đã tạo cho thơ mình một giọng ân tình, dung dị, đậm chất dân gian, đượm cái duyên dáng, ngọt ngào của lòng người, tình người. Tiếng ru ấy vừa là hiện thân của sự nâng niu, trân trọng, vỗ về, vừa là cách nói gián tiếp, xa xôi với người khác, lại như vừa nói với chính mình; là hình thức và phương tiện thơ ca thích hợp để biểu thị phần sâu lắng và đầm thắm của hồn thơ Xuân Quỳnh. Lưu Khánh Thơ nhận xét: "Điểm đặc sắc trong nghệ thuật Ihơ Xuân Quỳnh có lẽ là giọng điệu thơ. Thơ chị có một giọng điệu riêng rất dỗ nhận ra. Giọng điệu ở đây không phải là cách nói mà là cách cảm xúc, là giọng điệu của tâm
hổn. Một giọng điệu không kiểu cách, khiên cưỡng, mà luôn tự nhiên, phóng khoáng. Chị thường hay chọn lời ru hoặc lấy cảm hứng từ lời ru làm giọng điệu cho
bài thơ của mình” [91; 198]. Nếu nói giọng điệu không phải ỉà cách nói mà là cách cảm xúc giọng điệu của tâm hồn thì đây chính là điệu tâm hổn chị - rất thủ thỉ, tâm tình nhưng cũng đầy sôi nổi, mạnh mẽ. Trong tâm thế của người mẹ, Xuân Quỳnh đã hát lên những lời ca dành cho con. Chị ru con bằng tiếng thơ hay cũng chính là tiếng lòng của mình:
"Ngủ nào ngủ ngoan Mí yêu của mẹ" (Ngủ nào ngủ ngoan) Bằng tiếng ru hiền hoà như ngàn năm vẫn thế, những tiếng ru như giọng hát thủ thỉ tâm tình, người mẹ như muốn giãi bày cùng con, muốn truyền cho con tình yêu thương, sự trân trọng. Người mẹ ấy hiểu sức mạnh của lời ru - giản dị mà kỳ diệu như phép lạ của cô tiên trong chuyện cổ tích: "Lời ru của mẹ
Bỗng hóa thành thuyền Chở con đi xem Bao bờ bến lạ" Lời ru ấy không chỉ cất lên trong những lúc yên bình mà trong những lúc bom đạn hiểm nguy, lời ru của mẹ thành chiến hào che chở:
..."Ngủ yên con, ngủ đẫy giấc con nghe Lời ru mẹ làm chiến hào che chở" (Lời ru)
108
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơX uán Quỳnh
LỜI ru của mẹ đã biến thành sức mạnh vật chất đẩy lùi hiện thực khốc liệt cùa chiến tranh để giữ trọn cho con giấc ngủ yên lành. Sự tàn bạo của kẻ thù càng trở nên ghê tởm khi chúng phá hoại cả cuộc sống bình yên của trẻ thơ. Nhưng trong vòng tay yêu thương, lời ru ngọt ngào và sự chở che của mẹ, bé vẫn cảm nhạn được một không gian an toàn đê’ lớn khôn.
Trong lời ru, người mẹ gửi gấm nguyện vọng ước mơ của mình: "Ngủ đi con hãy ngủ đi". Sức mạnh của lời ru không chỉ có vậy, mà lời ru luôn thường trực bên bé, chăm sóc, nuôi dưỡng bé. Lời ru mẹ dành cho con như suối nguồn vô tận mà người phụ nữ Việt Nam luôn dành tặng cho đứa con yêu dấu của mình:
"Dẫu con đi đến suốt đời Cũng không đi hết những lời mẹ ru".
Điệu hát ru là sản phẩm của tâm hổn người mẹ nhân hậu, bao dung. Bắt nguổn từ lời ru truyền thống của dân tộc, lời ru của người mẹ trong thơ Xuân Quỳnh giống mà cũng khác xưa. Giống vì nó mang hơi thở của ca dao, của điệu hồn dân gian ngọt ngào đầm thắm:
"Gió mùa thu mẹ ru con ngủ Năm canh chày thức đủ năm canh" {Ca dao)
Khác là bới lời ru ấy mạnh mẽ, gần gũi với cuộc đời thực hơn. Trong tâm thê người yêu, người vợ, Xuân Quỳnh đã mang đến cho thơ ca Việt Nam một giọng điệu mới. Ru người yêu, ru chồng - giọng thơ chị đắm say, táo bạo nhưng cũng thật sâu lắng, đằm thám. Ru người yêu, việc đó không phải không có trong thơ. Trước Xuân Quỳnh, một thi sĩ của phong trào thơ mới - Huy Cận đã từng ru:
"Ngủ đi em mộng bình thường Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ Cây dài bóng xế ngẩn ngơ Hồn em đã chín mấy mùa thương đau Tay anh em hãy tựa đầu Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi” Cái lạ và cái độc đáo ở Xuân Quỳnh là sự chủ động dành quyền chăm sóc, che chở người yêu:
"Ngủ đi anh cứ ngủ Đã có em thức canh Cho đẹp giấc mơ anh Ngú đi anh! Hãy ngủ". (Ru)
109
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Giọng điệu của lời ru dịu dàng mà cũng thât khoẻ khoán, trẻ trung biết mấy! Người con gái ở tuổi yêu đương, ai chảng muốn được chăm sóc, chiều chuộng. Xuân Quỳnh cũng không ra khỏi cái lẽ thường tình ấy. Nhưng vốn chủ động, mạnh mẽ trong tình yêu, chị sẩn sàng làm tất cả vì người mình yêu dấu, không chút ngại ngần. Táo bạo. mãnh liệt nhưng vẫn rất nữ tính. Bằng hình thức lời ru, chị như đang thú thỉ, muốn được bộc bạch, chia sẻ cùng chổng những âu lo, suy nghĩ. Lắng nghe trong lời ru của chị vỗ vê giấc ngủ người yêu thấy cả tạo vật cũng đang đi dần vào giấc ngủ êm đềm. Bức tranh trên tường, con tàu dưới bến, bình hoa trên bàn, ngọn đèn bên trang sách dần đi vào cõi yên bình. Người đọc cũng như bâng khuâng theo giọng thơ ngọt ngào, theo điệu hồn êm ả, yên tĩnh ấy của nhà thơ để rồi cùng thức dậy một tình yêu. Tinh yêu trong thơ Xuân Quỳnh nồng nàn say đấm nhưng không nông nổi bồng bột, bao giờ cũng hướng tới hạnh phúc của tình yêu. Hạnh phúc đích thực là tình yêu dẫn đến hôn nhân với một mái ấm gia đình hạnh phúc. Bởi vậy, khi có một gia đình, chị luôn vun vén cho cái hạnh phúc ấy. Tiếng ru khi yêu táo bạo, mãnh liệt bao nhiêu, khi làm vợ, tiếng ru như đằm lại thắm thiết và bao dung bấy nhiêu. Trong giọng điệu ru có nét tảo tần của người phụ nữ Việt Nam chiều chồng và luôn lo lắng quan tâm đến chổng từ bữa ãn đến giấc ngủ: "...khuya rồi anh hãy ngủ đi Để em trở dậy em che bớt đèn" {Hát ru chổng những đém khó ngủ) Yêu thương chổng bao nhiêu, Xuân Quỳnh càng khao khát chia sẻ những nồi nhọc nhằn, ưu tư của người chồng. Hãy nghe chị an ủi chổng: "Anh không ngủ được anh yêu Nghe chi con lũ đang triều nước dâng Ngày mai cây lúa lên đòng Lại xanh như đã từng không mất mùa Con sông bạn với con đò Con người bạn với câu hò trên sông". {Hát ru chồng những đêm khó ngủ)
110
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Lời ru của người vợ như một bức tường thành ngăn cách giữa một bên là những bồn bề lo âu, một bên là giấc ngủ bình yên của chồng. Nó mang lại cho người ta niềm an ủi, thương yêu, khác với giọng điệu ru trong bài thơ "Rũ' của Song Hảo:
"Âu ơ em ngủ cho say Vòng tay anh khúc đoạ đầy với em Vầng trăng ngáy ngủ bên thềm Đánh rơi số phân vàng đêm tự tình" Lời ru của Xuân Quỳnh không ngậm ngùi, đau đớn mà chan chứa yêu thương và có cả trách nhiệm đối với tình yêu của mình chứ không buông xuôi chán nản. Lời ru trong thơ Xuân Quỳnh được viết ra từ tấm lòng của người vợ đồn hậu, giàu đức hy sinh, dâng hiến. Xuân Quỳnh không chỉ dành những lời thơ để ru chổng, ru con mà chị còn viết những lời thơ để ru mình, ru đời. Chị đã biết tiếp thu một cách sáng tạo vốn dán ca, ca dao của dân tộc để làm nên vẻ đẹp cho những lời hát ru của mình. Từ những bài hát ru của Xuân Quỳnh, người đọc nhận ra giọng điệu riêng trong thơ chị - hiện đại, trẻ trung nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc; mạnh mẽ, táo bạo mà vẫn dịu dàng, đằm thắm. Những vần thơ dùng giọng điệu lời ru để tự an ủi mình trong thơ Xuân Quỳnh thảm đẫm những suy tư. Với chị ru con hay ru chồng thực ra cũng là ru chính mình: "Ngủ đi hòn đá thì mềm
Bàn chân thì cứng ngọn đèn thì xa Thời gian như gió thoảng qua Tình yêu là cánh đồng hoa giữa trời" {Hát rù) Ru người yêu, nhắn nhủ với người yêu nhưng cũng là tự nhủ với chính mình. Cuộc đời của Xuân Quỳnh không mấy bình yên nhưng có lẽ chị chưa bao giờ tuyệt vọng. Lời ru Irong thơ chị đã thể hiện cái nghị lực bền bỉ ấy: "Đâu phải tiếng ru buồn bên khung cửi lạnh
Của mẹ xưa. Tôi cất lời ca. Rằng: đời tôi không giống hạt mưa sa Mà ánh nấng của ngày xuân mơ ước". (Tiếng mẹ)
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Ru mình, Xuân Quỳnh có cái ngậm ngùi nhưng không chua xót như Lê Thị Kim:
"Mẹ như một cánh lá non Khi cha bặt vắng mẹ còn hư vô Vì con mẹ phải tự ru Thôi thì ráng nốt kiếp hư vô này"
(Tự ru) Xuân Quỳnh luôn hướng về những điều tốt đẹp. Vậy nên, không chi ru mình, chị còn ru đời. Chiến tranh chấm dứt, lời ru tươi thấm và thấm đượm tinh thần hoà bình dựng xây. "À ơi ngọn lửa ngày xưa
Mẹ nuôi dưới đất bây giờ về đâu Nhìn lên rực rỡ trên đầu Lửa hôm qua đã trong màu cờ bay" (Lời ru trên mặt đất)
Vẫn biết không phải bao giờ tiếng ru, tiếng thương, tiếng ngọt ngào cũng nói được điều nung nấu nhất, nhưng tiếng ru, đó lại ià tiếng hát tâm hồn của Xuân
Quỳnh - ưa bộc bạch, muốn được cảm thông chia sẻ, khát khao đi đến tận cùng của bến bờ hạnh phúc. Sử dụng biện pháp nghệ thuật này, có lẽ chị muôn mượn những lời ru ngọt ngào, chân thành và sâu lắng để nói những điều chị muốn nói với cuộc
đời, những suy nghĩ của chị về đất nước, con người, hạnh phúc, tình yêu. Sức mạnh của những lời ru đã từng được các nhà thơ lớn khẳng định. Raxungamzatop Irong "Đaghextan của tôi" từng thú nhận: "Không một ngày nào, một giờ phút nào trong tôi không vang lcn bài ca mẹ tôi đã hát ru tôi bên nôi. Bài ca ấy là cái nôi của tất cả
các bài ca của tôi. Nó là tấm gối mà tôi ngả cái đầu mệt mỏi của mình xuống. Nó là ngọn nguồn mà tỏi ghé môi xuống uống những lúc khô khát. Nó là bếp lửa sưởi ấm người tôi, hơi ấm của nó tôi đã mang theo suốt cuộc đời". Tiếng ru, với Xuân Quỳnh vừa là hình thức vừa là phương tiện thư ca thích hợp để biểu thị phần sâu lấng và đằm thắm của hồn thơ chị. Với lời ru, Xuân Quỳnh đã nói được thật nhiều điều. Và chính giọng điệu lời ru vừa thủ thỉ tâm tình vừa mạnh mẽ táo bạo đã tạo nên nét riêng của thơ Xuân Quỳnh.
3.3.2. Giọng điệu khác khoải lo âu nhưng cũng dầy tin tưởng.
Bên cạnh giọng điệu lời ru ngọt ngào, da diết thắm đượm tình yêu bao la của người phụ nữ, thơ Xuân Quỳnh con có một giọng điệu khác bao trùm xuyên suốt mỗi sáng tác của chị. Đó là giọng thơ trầm lắng, nhiều day dứt, khắc khoải nhưng
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _____
cũng đầy tin tưởng. Một âm điệu buồn da diết gợi đến từ sâu xa ý thức về thân phận của người phụ nữ. Xuân Quỳnh đã có lần tâm sự: "Đối với người sáng tác không gì sợ bằng sự nghèo nàn. Nghèo trong cảm xúc, nhận xét thì không thể tha thứ được". Chính vì vậy mà thơ Xuân Quỳnh là thơ của tấm lòng giàu yêu thương và xúc cảm, tấm lòng đầy trắc ẩn sâu xa, thương người, thương thân trước những vất vả đắng cay của cuộc đời.
Là người luôn sống ở đỉnh cao của cảm xúc, "vui cũng vui hơn mọi người mà buồn cũng buồn hơn mọi người", thơ Xuân Quỳnh nhiều xao động trăn trở. Nó cho ta cảm giác thật mong manh hư ảo nhưng cũng thật hiện hữu, khắc khoải. Đó chính là hồn thơ chị, giọng thơ chị - một tâm hồn luôn mẫn cảm trước những đổi thay của cuộc đời. Ở Xuân Quỳnh lo âu, khắc khoải là một phần của con người tự nhiên, nhưng
một phần khác là do sự tác động của hoàn cảnh. Tự nhỏ chị đã sống tự lập, lớn lên lại gặp trắc trở trong tình duyên cho nên chị luôn đề phòng những bất trắc đến từ mọi phía. Và chính vì thiếu tình cảm nên khi có là chị ra sức giữ gìn nó, khao khát kiếm tìm và càng như vậy lại càng trăn trở, lo âu. Thơ chị có rất nhiều từ chỉ tâm trạng, có những mô tip lặp đi, lặp lại gây ám ảnh cho người đọc. Những từ ngữ như: cô đơn, cay đắng, đau đớn, hạnh phúc.... và những mô tip hình ảnh chất chứa tâm trạng: cánh chuồn, hoa dại, cỏ dại, con thuyền, sóng biển...đặc biệt từ "nhờ' xuất hiện với tần sô' cao trong thơ chị cùng với những tính từ như: vời vợi, dạt dào... Tất cả gợi nên một thế giới nội cảm của thơ Xuân Quỳnh.
Chính vì sự nhạy cảm mà Xuân Quỳnh luôn ý thức sâu sắc về cái hữu hạn của thời gian và đời người. "Cuộc đời tuy dài thế" nhưng "Năm tháng vẫn đi qua". Rồi sẽ đến một ngày "mái tóc xanh bắt đầu pha sợi bạc" để "nỗi vui buồn cũng khác ngày xưa". Sống sâu sắc với đời nên giọng thơ Xuân Quỳnh có nhiều sự trăn trở, suy tư.
Có những lời thơ tưởng như là đầy sự lạc quan, tin tưởng đấy những ẩn đằng sau đó là một giọng thơ có chút gì đó ngậm ngùi, nuối tiếc: "Sẽ có mãi cô bé mười sáu tuổi Dẫu tóc em năm tháng đổi thay màu" Nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian, sự đổi thay của lòng người, của tình yêu hạnh phúc nên tâm hồn Quỳnh không lúc nào bình yên. Suốt một đời nặng những lo toan: lo bom đạn, lo thiếu thốn, lo bão giông, mưa nắng, lo tổ ấm chẳng được bình yên, lo cách trở, lo không được gắn bó, không được chở che...
113
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh viết tập thơ đầu tay "Chồi biếc'' khi tuổi xuân đang phới phới. Tưởng chừng như trước mắt cô diễn viên xinh đẹp ấy là một cuộc đời "đẹp biết bao”, tất cả tuổi trẻ, tình yêu đều là vĩnh cửu - cái thời đầy mơ mộng mà đúng như sau này Xuân Quỳnh nghĩ lại:
"Có một thời vừa mơi bước ra Mùa xuân đã gọi mời trước cửa Chẳng ngoái lại vết chân trên cỏ Vườn hoa nào cùng ở phía mình đi" (Có một thời như thê). Vậy mà thật bất ngờ, giọng thơ đầy xót xa của một người phụ nữ sớm ý thức
về mình, về sự "hết phiên" của mình. Và rồi như một nỗi ám ảnh, như một định mệnh, cảm giác ấy cứ bám riết lấy đời chị, hiển hiện trong mỗi dòng thơ chị viết, tạo nên cái giọng điệu âu lo - đặc trưng của thơ chị. Kể từ tập "Gió Lào cát trắng" trở đi, giọng thơ Xuân Quỳnh càng nhiều băn khoăn, xao động và bất ổn. Đã qua rồi cái thời "trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viển". Bây giờ 1Ì1 những "khát vọng khuấy đảo tâm hồn", "mơ ước trở nên khủng hoảng trước thực tại" là một cảm giác đầy nữ tính. Nó quyết định giọng thơ chị - khắc khoải lo âu. Nó tạo nên một Xuân Quỳnh đa đoan, mỏng manh trước giông bão cuộc đời. Người đàn bà khao khát yêu, khao khát sống ấy giờ ngậm ngùi khi biết "mùa xuân rồi cũng hết/ Hôm nay non mai cỏ sẽ già". Và rồi như một bản năng, chị
ra sức níu giữ, chống chọi lại quy luật của tự nhiên bằng chính nỗ lực của bản thân mình; bằng trái tim yêu và bàn tay chăm chút của một người phụ nữ; bằng sự trân trọng, nâng niu và thái độ sống hết mình với hiện tại. Nhạy cảm trước cuộc sống nên tâm hồn chị không mấy bình yên. Cuộc đời nhiều ngọt ngào mà cũng lắm nỗi đắng cay đã làm chị phải trăn trở: "Luôn hi vọng để rồi thất vọng Tôi đã cười đã khóc những không đâu"
Người phụ nữ đang yêu trong thơ Xuân Quỳnh rất trân trọng và khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc đời thường - một cách đam mê, mãnh liệt. Tinh yêu với chị là sức mạnh chở che, gắn bó nhưng cũng mong manh, dễ vỡ. Chị đã tìm kiếm, đã yêu thương rồi bất hạnh để lại hy vọng và lại tìm thấy tình yêu mới. Trải qua những cung bậc ấy, tình yêu trong thơ chị vẫn say đắm nhưng bớt dần vẻ rạo rực
ban đầu mà trầm tĩnh, lắng sâu hơn. Ở hai tập thơ cuối, nó kèm theo nỗi khắc khoái không yên.
114
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách tho X u an Quỳnh
Luôn mang dự cảm không lành nên nhìn đâu cũng thấy bấp bênh bất ổn, song giọng thơ chị không hề có sự oán hờn trách móc như Đoàn Thị Lam Luyến:
"Cứ giận người làm thơ Viết về tình yêu quá đẹp Cho em tìm mãi đến giờ Thấy đâu trong gian đời hẹp" (Chuyện về anh) Ở Xuân Quỳnh, có buồn đấy, cô đơn đấy nhưng giọng thơ chị chí gợi nên
những băn khoăn, muốn giãi bày, mong được sẻ chia: "Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn Hôm nay yêu mai có thể xa rồi" (Nói cùng anh) Tinh yêu trong thơ Xuân Quỳnh không phải là tình yêu trong tuyệt vọng kiểu như:
"Anh nhớ không Vòng nguyệt quế chi chít những dấu môi tẻ ngất Lặng lẽ mỗi chiều Em quay mặt Và hình dung mắt anh, da thịt anh ấm áp Em tự xích xiềng nỗi tuyệt vọng tình yêu" (Tặng riêng một người) - Lê Thị Mây
Chị đi "khắp chốn" tìm người yêu và chị đã có hạnh phúc trong tình yêu, song lúc nào cũng thường trực trong chị một nỗi băn khoăn là tình cảm mà người
yêu dành cho chị được bao nhiêu. Ở người phụ nữ này "cho rất nhiều" đến nỗi "biết yêu anh cả khi chết đi rồi" nên chị luôn băn khoăn về cái phần được nhận "yêu em nhiều không anh".
Mạnh mẽ và mãnh liệt như vậy, song bao giờ Xuân Quỳnh cũng hướng tình yêu tới một cái đích hạnh phúc thực sự. Hạnh phúc trong tình yêu, theo quan niệm của Xuân Quỳnh thật bình dị. Bởi vậy, chị rất sợ sự chia xa:
"Nếu phải cách xa anh Em chỉ còn bão tố" cThuyền và biển) Sợ sự đơn độc nên băn khoăn hỏi người yêu:
n "Anh có đi cùng em Đến những miền đất lạ Đến những mùa hoa quả Đến những ngày thương yêu" {Mùa hoa roi)
115
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Những điều Xuân Quỳnh muốn ở người yêu đó là sự cảm thông, yêu thương, chia sẻ... Chị chủ động bày tỏ tình cảm cùa mình với người yêu. Nhưng trong lời thơ
vẫn gợi nên sự yếu mềm của người phụ nữ. Bởi yếu đuối nên mới cần nương tựa, sẻ chia. Và như thế cần đến người yêu và tình yêu. Vậy nên, mới sợ tình yêu tan vỡ: "Em biết tình yêu không phải vô biên Như tia nắng, chúng mình không sống mãi"
Kiếm tìm, tận hưởng rồi lại trăn trở trong hạnh phúc của chính mình, Xuân Quỳnh thực sự là một người giàu tâm trạng. Mọi biến động dù nhỏ, đù vô hình thôi, một thoáng qua thôi cũng khiến chị động lòng: "Bàn tay da diết nắm
Vừa thoáng tiếng còi tàu Lòng đã Nam đã Bắc" (Sân ga chiều em đi) Đứng trước một cảnh rất đời thường mà lại thấy hạnh phúc sao mong manh thế:
"Cuối trời mây trắng bay Lá vàng thưa thớt quá" (Thơ tình cuối mùa thu) Câu thơ như một tiếng kêu, bất giác rên lên như một nỗi niềm thảng thốt, là một chiếc bóng không thể nắm giữ, cũng không thể lìa bỏ, lo âu cứ chập chờn, bao vây lấy trái tim đa cảm. Lo lắng trăn trở về tinh yêu cứ trở đi, trở lại trong thơ chị không lúc nào nguôi. Giọng điệu ấy cho đến tập thơ cuối vẫn còn khắc khoải: "Lời yêu mỏng mảnh như màu khói Ai biết lòng anh có đổi thay" (Hoa cỏ may) Trong cuộc sống gia đình thì lo âu đã trở thành bản năng của người mẹ, người vợ. Ngay trong lời ru con của Xuân Quỳnh vẫn hằn lên một nỗi âu lo: "Cái bống ngủ ngon, cánh cò bay mãi Bởi khi cánh cò đã gãy Trong lúc ngủ say cái bống vẫn giật mình" (Khi con ra đời) Và trong lời chị "hát ru chồng những đêm khó ngủ” vừa có cái thắm thiết của tình nghĩa vợ chồng với cử chị dịu dàng âu yếm, vừa có cả nỗi phấp phỏng bồn chồn của người vợ thấu hiểu chổng mình:
116
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
"Anh không ngủ được ư anh? Để em mở quạt quấn mành lên cho". Nếu như mỗi trạng thái cảm xúc đều có những biểu hiện của nó Ihì lo âu luôn gắn với nỗi khắc khoải ưu tư và ở Xuân Quỳnh trong nỗi lo ấy lại có cả niềm tin. Lo âu không làm cho giọng thơ Xuân Quỳnh bi quan chán nản kiểu như: "Tuổi hai muơi Tôi thành bà góa sống Không còn biết khóc Quen rồi chỉ mím chặt mồi". (Gửi một nhà thơ mặc áo lính - Dư Thị Hoàn) mà vẫn luôn tin tưởng, hy vọng: "Cửa kính mờ trong mưa ướt đẫm Em chờ anh anh có về không?". (Ngày mai trời còn mưa) Chí một câu hỏi tưởng chững như bâng quơ, như nói với chính mình, chị đã mở ra trước mắt người đọc một thế giới tình yêu đầy biến động, có mong ngóng, có đợi chờ, có hy vọng, có niềm tin và cả sự hoài nghi. Một đôi mắt buồn đăm đắm nhìn ra khoảng trời loáng nước, một trạng thái chờ đợi, ngóng trông thật dịu dàng đằm thẳm. "Ngày mai trời còn mưa"... có nghĩa là em vẫn chờ. Em chờ là bởi em tin. Em tin anh, tin tình yêu của chúng mình. Lo âu và tin tưởng, tin tưởng rồi lại lo âu. Đó không phải là một nghịch lý mà là lẽ thường của một tấm lòng giàu trắc ẩn như Xuân Quỳnh. Khi tiếng lòng của Xuân Quỳnh cất lên thì giọng thơ như cánh én mùa xuân chao liệng giữa bầu trời cao xanh vời vợi, như đàn chim hải âu mang đến niềm tin và hy vọng. Lo âu đã tạo cho Xuân Quỳnh nhiều giọng thơ phong phú - khi khắc khoải, lo âu; khi thảng thốt, ngơ ngác, khi bình tĩnh tự tin; lúc xót xa, bối rối. Lo âu mà vẫn tin tưởng, hy vọng. Đó là những sắc điệu chính trong giọng thơ, hồn thơ Xuân Quỳnh - một giọng thơ giàu tính nữ.
Thời gian - Không gian nghệ thuật
Không gian và thời gian, trong hiện thực khách quan hay trong nghệ thuật, bao giờ cũng là các thuộc tính tất yếu, là hình thức tồn tại của một thế giới. Vì thế, bất kể thế giới nghệ thuật được sáng tạo ra độc đáo hay vô hồn; phong phú hay nghèo nàn thì nó vẩn có những đặc tính không gian - thời gian của chính nó. Hiểu
117
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _____________
theo nghĩa đó thì không gian là trung tính, là đương nhiên tồn tại, là chẳng liên quan gì đến cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Nhưng ở một tài nãng nghệ thuật đích thực thì cũng như tất cả các đặc điểm khác của thế giới nghệ thuật, không gian và thời gian được huy động một cách hữu hiệu để thể hiện khả năng cảm thụ độc đáo và sâu sắc của nhà thơ về cuộc sống. Không gian và thời gian bắt đầu mang dấu ấn đậm nét của một phong cách nghệ thuật; đồng thời với tính chất tất yếu và đương nhiên như đã nói, chúng trở nên đặc sắc và đầy cá tính của nhà thơ. Khi đó, như ở trường hợp thơ Xuân Quỳnh, ta có thể nhìn nhận không gian và thời gian nghệ thuật như là các yếu tố mang phong cách.
3.4. Thòi gian.
Thời gian thể hiện cảm giác sống của con người trên thế giới. Vì vậy, trong sáng tác nghệ thuật bao giờ thời gian cũng in dấu ấn chủ quan của người viết bới thời gian là phương tiện vận động, là nhịp điệu tồn tại của thế giới tâm hồn tác giả. Cảm giác về thời gian là cảm giác mang tính cá nhân rõ rệt nhất. Thời gian là một đối tượng của đời sống được nhà nghệ sĩ phản ánh thông qua lãng kính chủ quan, bộc lộ những quan điểm, thái độ...của cá nhân đối với cuộc sống. Nó trở thành một hình thức nghệ thuật để phản ánh hiện thực, tổ chức tác phẩm. Thời gian cũng như con người là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh Irong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Bởi vậy, cách cảm nhận về thời gian mang dấu ấn cá nhân trong mối tương quan với hoàn cảnh lịch sử, tâm lý thời đại. Trần Đình Sử nhận xét: “Sự cảm thụ thời gian gắn liền với ý nghĩa của cuộc đời, với quan niệm về thế giới và lịch sử, với mơ ước lý tưởng và năng lực hoạt động của con người, phát hiện về thời gian giúp chúng ta nhận thức sâu hơn về cuộc sống” (Thi pháp thơ Tố Hữu). Thời gian trong thơ Xuân Quỳnh là cái nhìn riêng của chị đối với cuộc đời. Xuân Quỳnh là một người phụ nữ mà khi vừa mới sinh ra đã mang trong mình một trái tim đa cảm, ngút ngàn yêu thương, nồng nàn, đấm say, mãnh liệt. Trái tim ấy luôn tha thiết với cuộc đời, với tình yêu con người và cuộc sống. Trái tim ấy luôn hướng thiện và đi trên một trục thời gian vĩnh cửu, mãi mãi trẻ trung, dạt dào sức sống. Trong thơ mình, Xuân Quỳnh viết cả về thời gian quá khứ, thời gian hiện tại và tương lai. Tất cả luôn đồng hiện, đan xen trong mỗi bài thơ của chị. Chính vì vậy, sự phân định thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai sau đây chỉ là tương đối.
118
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
3.4.1. Thời gian quá khứ.
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn từng khẳng định, qua thơ Xuân Quỳnh có thế thấy được cuộc đời chị, có thể làm nên sự chiếu ứng với đời thực Xuân Quỳnh. Dĩ nhiên, không thể đổng nhất giữa nhà thơ với cái tôi trữ tình trong thơ.
Theo suốt chặng đường thơ Xuân Quỳnh, ta như bắt gặp một con người miên man trong những suy nghĩ về thời gian - đó cũng chính là ý thức sâu sắc về ý nghĩa của sự sống, của tổn tại.
Trong thơ Xuân Quỳnh, thời gian quá khứ được ý thức một cách sâu sắc trở đi trở lại trong một nhịp điệu vừa khắc khoải, ưu tư, vừa náo nức, đa diết. Thông kê chín bài thơ của tập thơ “Chồi biếc”, “Hoa cỏ may'\ chúng tôi thấy hơn 50 lần, tác
giả nhắc đến quá khứ. Chị suy ngẫm sâu sắc về cái đã qua trong nhịp vận động của thời gian thực tại. Không phải không có ỉúc, Xuân Quỳnh cũng giao động trước thực tại nhưng chị ứng xử một cách bình tĩnh hơn. Người đọc không khỏi chạnh lòng khi ngược dòng thời gian trở về quá khứ tuổi thơ của một cô bé mồ côi chịu nhiều mất mát:
“Tuổi thơ tôi lạc lõng giữa đời Như cánh chim bơ vơ mất tổ” Tuổi thơ ấy đơn côi, lạc lõng. Tuổi thơ ấy nhọc nhằn, đắng cay. Và minh chứng cho điều đó là dấu vết nơi bàn tay “ngón chẳng thon dài”. Thiếu thốn tình yêu thương nên Xuân Quỳnh luôn khao khát được chở che
được gắn bó. Người ta thường trở nên khô khan, vô cảm khi trải qua những năm tháng nhọc nhằn và thiếu thốn tình thương ấp ủ. Nhưng với Xuân Quỳnh lại khác, bao giờ chị cũng tìm về gốc rễ, cội nguồn.
Xuân Ọuỳnh ý thức sâu sắc về thời gian, sự sống. Chị thường triết lý về sự sống trong sự tiếp nối hết sức tự nhiên: nghĩ về cái đã qua trong thời gian hiện tại.
Trải qua những vất vả đắng cay nên chị càng trân trọng nâng niu những gì mình đang có. Và càng hạnh phúc trong hiện tại bao nhiêu chị lại càng trân trọng cội nguồn bấy nhiêu: “Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở Tuổi niên thiếu để yêu Và lớn lên để nhớ” cThành phố quê anh)
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Rất trân trọng quá khứ nhưng Xuân Quỳnh đủ tinh táo đổ hiểu rằng những ngày đã qua thật đẹp, thất đáng nhớ những không bao giờ trờ lại. Vì thê "Không phái là điều em luyến tiếc”. Nhớ về ngày xưa (Tuổi thơ, tuổi trẻ, tình đầu...) đế sống sâu sắc hơn cuộc đời thực của hôm nay dù có nhọc nhằn cay đắng - đó là một lối tư duy biện chứng. Nhắc lại ngày qua, trân trọng quá khứ để nâng niu giữ gìn hiện tại. Đó âu cũng là lẽ thường, song ở Xuân Quỳnh nhắc lại chuyện ngày xưa đâu phái để buồn đau mà là “Thấy mình thêm hạnh phúc". Chẳng bao giờ trong thơ Xuân Quỳnh có sự oán trách cuộc đời tàn nhẫn ngay cả những lúc chị chịu nhiều nồi bất hạnh nhất. Có thể nói. thơ Xuân Quỳnh nhắc nhiều về thuở ngây thơ, ngày xưa, tuổi tré. tuổi mười bảy, mười sáu - những tháng ngày đó không đối lập với hiện tại. Có những lúc Xuân Quỳnh muốn sống mãi tuổi mười bảy nhưng không phải mong muốn trở lại làm một cô bé “một chú dế vô tư”... mà trở lại thuở hổn nhiên khi mà trái tim còn rất đầy, tâm hồn còn rất trong, niềm tin còn rất lớn. Và cũng còn bởi lý do khác nữa đó là: “Mỏi khi cảm thấy chênh chao trên nẻo đường đời, mỗi khi thoáng bắt gập một biổu hiện nào đó của ký ức, chị lại vội vã níu lấy sợi dây quá khứ” (Cảm thức thời gian trong thơ Xuân Quỳnh - Báo cáo khoa học của Phạm Thị Kim Anh). Quá khứ ngọt ngào, quá khứ đắng cay, quá khứ đã nuôi dưỡng tâm hồn chị, giúp cho hổn thơ chị dịu dàng toả hương thấm chất thơ từ nguồn cội.
3.4.2. Thời gian hiện tại.
Đến với thơ Xuân Quỳnh từ tập thơ đầu tay Tơ tằm - Chối biếc (in chung)
cho đến tập thơ cuối cùng Hoa cỏ may, có thể thấy ràng nhà thơ đã sống và viết bàng tất cả nhiệt huyết của mình. Cảm thức thời gian trong hiện tại là cách nhìn cuộc đời của mỗi con người. Để biểu hiện thời gian hiện tại, Xuân Quỳnh đã sir dụng nhiều cách thức khác nhau : lúc được đo đếm một cách cụ thể, lúc được cảm nhận qua sự vận động của cảnh vật, lúc lại được so sánh với vật vô hình... Nhưng dù theo cách thức nào thì thời gian hiện tại cũng được Xuân Quỳnh thế hiện hết sức độc đáo. Thời gian trôi đi : ngày qua, giờ qua, phút qua đã trớ thành quá khứ. Đó là một quy luật tất yếu, là giới hạn nghiệt ngã của một kiếp người. Mỗi lần đếm thời
120
Nguyễn Thị Kìm Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
gian, qua đó như vượt qua một chặng đường phấn đấu để đến với tình yêu hạnh phúc : "Thế là ba cái tết Hai chúng mình có nhau Dù không phải là lâu Nhưng cũng không ngắn ngủi Hạnh phúc tính bằng năm Cây tính bằng mùa trái" (Đêm cuối năm) Đoạn thơ như một lời trò chuyện tâm tình khẽ khàng, nhỏ nhẹ khiến người nghe phải gần lại mới thấy hết được những gì nhà thơ muốn nói với mỗi chúng ta ẩn sau môi dòng thơ. Con người nâng niu vun xới hạnh phúc của mình như người trồng vườn mong đến ngày quả chín. Đếm thời gian trong tình yêu là nét đặc biệt trong thơ Xuân Quỳnh. Hạnh phúc là thứ vô cùng quý giá, không thể cân đo đong đếm nhưng lại có một cách xác định. Đó là tính bàng thời gian. Tiết tấu âm hưởng của câu thơ nhẹ nhàng như tàm hổn người phụ nữ trân trọng tha thiết với tình yêu nhưng không khỏi thoáng chút e ngại, lo âu. Phải là con người có sự từng trải trong tình yêu, có những lo âu, mong chờ, khắc khoải, có sự kiếm tìm hạnh phúc nhọc nhằn mới có cách cảm nhận như vậy. Trong thơ Xuân Quỳnh, dòng thời gian như một nỗi ám ảnh khôn nguôi về sự chảy trôi không ngừng của cuộc sống và sự hữu hạn, ngắn ngủi của đời người. "Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết Hôm nay non, mai cỏ sẽ già" Câu thơ này nhắc chúng ta nhớ tới tứ thơ của Xuân Diệu : "Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già" Có lẽ Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều gặp nhau ở sự nhạy cảm, ớ ý thức sâu xa về cuộc sống - đời người. Hai tâm hồn ham sống, khao khát xẻ chia ấy luôn day dứt về sự đổi thay đến phũ phàng của tạo hóa, thời gian không trở lại, đời người bãi bể nương dâu. Vì vậy, họ hiểu thời gian hiện tại là gần nhất, có ý nghĩa nhất. Tuy nhiên cách ứng xử về thời gian của mỗi thi nhân lại khác nhau.
Xuân Diệu lý tưởng hoá thời gian của tuổi trẻ - tình yêu, thường gắn tuổi trẻ với mùa xuân, ý thức sâu xa về còn mất. Thời gian không đứng đợi, tuổi trẻ khống
121
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
tuấn hoàn. Phái làm sao đãy khi mà con người muốn trẻ mãi ? Nghịch lý của cuộc đời ây đươc Xuân Diệu giải toả bằng hiện tại, bằng tâm lý hưởng thụ: cuống quýt, gấp gáp, vội vàng :
"Mau đi thôi màu chưa ngả chiều hôm Mau với chứ - vội vàng lên với chứ Em em ơi tình non đã già rồi Mau với chứ - thời gian không đứng đợi" (Vội vàng) - Xuân Diệu Và nhà thơ tìm đến tình yêu như một điều tất yếu. Bằng ngọn lửa tình yêu đế thãp sáng những ngày tối tăm, sưởi ấm nỗi cô đơn của chính mình.
Cũng như Xuân Diệu, Xuân Quỳnh ý thức sâu sắc về hiện tại, rất nhạy cảm với mọi biến đổi chảy trôi nhưng ý thức về thời gian trong thơ Xuân Quỳnh mang đậm chất nữ tính - đặc điểm này chi phối quan niệm về thời gian - cuộc sống trong thơ chị. Thời gian trôi chảy gắn với tâm lý, thân phận, cuộc đời của người phụ nữ. Thời gian trôi chảy gắn với nhan sắc phôi pha, chia ly và gắn bó - còn và mất, hữu hạn và vô cùng. Cũng như Xuân Diệu, Xuân Quỳnh níu giữ thời gian, chống chọi lại biến đổi như một quy luật không thể phủ nhận đươc bằng chính nỗ lực của bản thân mình .
"Chi chút thời gian, chi chút từng giờ Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt" (Có một thời như thê)
Nhà thơ bằng trái tim và bàn tay của một người phụ nữ đã chống lại sự cô đơn, làm giàu có hơn ý nghĩa của cuộc sống. Coi hạnh phúc là ý nghĩa của cuộc sống, nhà thơ nâng niu và sống hết mình với hiện tại :
"Như lúc này anh ở bên em Niềm vui sướng trong ta là có thật Như chiếc áo trên tường, như trang sách Như chùm hoa mở cánh trước hiên nhà" (Nói cùng anh) Khi trái tim yêu tràn ngập niềm hạnh phúc, thì thời gian không phải là mối đe doạ mà là người bạn đồng hành :
" A mùa xuân cầm được ở trên tay Và tuổi trẻ vẫn muôn đời tiếp nối Sẽ có mãi cô bé mười sáu tuổi Dẫu tóc em nãm tháng đổi thay màu" (Sẽ có mãi cô bé mười sáu tuổi)
122
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Như vậy, cũng như Xuân Diệu, Xuân Quỳnh chống lại sự trôi chảy, đổi thay của thời gian bằng tình yêu. Nhưng nếu Xuân Diệu đến với tình yêu bằng sự hướng thu thì Xuân Quỳnh đến với tình yêu bằng sự gắn bó, chở che, bằng một trái tim nhân hậu, chống lại sự thay đổi mất mát bằng một tấm lòng nguyên vẹn mãi với thời gian và đó là điều không thể mất được.
Trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh bên cạnh niềm hạnh phúc là nỗi đau. (Bới tình yêu muôn thuở/CÓ bao giờ đứng yên). Nếu trong tình yèu, thời gian thuộc về mình thì trong đau đớn, thời gian lại đồng nghĩa với phôi pha.Trong những vần thơ này, thời gian thực sự trở thành một nỗi ám ảnh trong thơ Xuân Quỳnh : "Lời yêu mỏng mảnh như màu khói Ai biết tình anh có đổi thay" (Hoa cỏ may)
Như bao người phụ nữ khác, ý thức về thời gian trong thơ Xuân Quỳnh gắn với ám ảnh của sự tàn phai. Tuổi trẻ đi qua, nhan sắc phôi pha là mất mát không nhỏ
với đời người phụ nữ. Ý thức về điều này, Xuân Quỳnh đã có sự ứng xử rất riêng. Không giống như những người khác thường chống chọi thời gian bằng những cách tân mong níu kéo tuổi trẻ, Xuân Quỳnh níu kéo thời gian bàng nỗi lo sự đổi khác trong tâm hồn :
"Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế Chỉ em là đã khác với em xưa" {Hoa cúc)
Và chị luôn trân trọng, nâng niu, giữ gìn nhưng gì mình đang có. "Bị tình yêu hành hạ nhưng không thể để thời gian "đồng loã” vói sự phôi pha, không thể đắm chìm trong cô đơn và đau khổ, thơ Xuân Quỳnh bừng lên :
(Dẫn Cám thức thời gian trong thơ nữ sĩ Xuân Quỳnh - Báo cáo khoa học của Phạm Thị Kim Anh)
"Như chưa hề có nỗi đau xưa Lòng thanh thản như trong tình yêu ngày mới Một quá khứ ra đi cùng gió thổi Thời gian trôi ký ức sẽ phai nhòa"
Từ buổi ban đầu "trời xanh trong đáy mắt em xanh"; với tuổi trẻ tình yêu là vĩnh viễn thì hôm nay đây chẳng nói điều chi về vĩnh viễn nhưng trái tim yêu ấy lúc nào cũng vẫn ngân vang tha thiết một tình yêu. Đau khổ không làm con người ấy gục ngã.
Mỏi ngày đối với chị lại trở thành một mốc đánh dấu sự khởi đầu của tình yêu : "Vì mỗi sớm khi mặt trời hiển hiện Là một ngày tôi lại bắt đầu yêu" (Lại bắt đầu)
123
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
3.4.3. Dự cảm í ương lai.
Thơ Xuân Quỳnh thường trở đi trở lại những biểu hiện khác nhau của thời gian quá khứ, hiện tại, dự cảm tương lai và chiều hướng vận động của cuộc sông. Chị ý thức sâu sắc về bước đi của thời gian trong mỗi sự vật hiện tượng đế vận vào đời mình, tự suy ngẫm trăn trở. Tập thơ “Chồi biếc" ra đời khi Xuân Quỳnh đang là
một diễn viên múa trẻ trung xinh đẹp, chưa vấp váp, chưa nếm trải những khổ đau mất mát. Vậy mà thật bất ngờ, tiếng thơ của tuổi đôi mươi đã mang cái vẻ trầm ngâm, suy nghĩ đầy triết lý. Dự cảm về bước đi của thời gian khi đang trong thời khắc của hiện tại “Tay ấm trong tay, cùng anh sóng bước” rồi chợt nghĩ đến lúc "'hết phiên ” và một ngày nào đó bước qua con đường này, hàng cây đây là những cặp tình nhân khác, có lẽ cũng là nét riêng rất Xuãn Quỳnh.
Ngay từ ngày đầu, Xuân Quỳnh đã ý thức rõ rệt về quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời. Tuy nhiên, từ khi hiểu điều đó cho đến lúc nhà thơ viết “Lại bắt đầu" là
cả một chặng đường trải nghiệm nhiều ngọt ngào song không phải không ít những đắng cay.
Trong thư Xuân Quỳnh, thời gian bình yên ngắn ngủi còn đẳng đẵng là cảm thức về sự đổi thay, chia ly, giông tố và đau khổ. “Thời gian trắng" - Bài thơ được ra đời vào những năm tháng cuối cùng của cuộc đời Xuân Quỳnh Ihể hiện rõ những dự cảm về lương lai:
“Quá khứ em không chỉ ngày xưa Mà ngay cả hôm nay thành quá khứ
Quá khứ của em ngoài cánh cửa Gương mặt anh, gương mặt các con yêu” Trên giường bệnh, chị chìm đắm trong khoảng “thời gian trắng". Dường như
thời gian đang bị tắc nghẽn, ngừng trệ đang nặng nề trôi qua. Tất cả quá khứ - hiện tại lương lai đều vô nghĩa, chỉ còn nỗi tuyệt vọng, cô đơn. Một con người khao khát yêu và được yêu, luôn mong muốn được hoà nhập vào cuộc sống, luôn trân trọng, gìn giữ quá khứ, hết lòng với hiện tại và hướng về tương lai... thế mà nay
chìm đắm trong thời gian trắng lạnh lùng, vô cảm. Ngay trong nỗi cô đơn, tuyệt vọng ấy, trái tim ấy vẫn tha thiết yêu người, vẫn khiêm nhường, vị tha:
“Trái tim này chẳng còn có ích Cho anh yêu công việc bạn bè” Lời thơ thật xót xa! Trong cô đơn tuyệt vọng, con người ấy vẫn nghĩ đến người khác. Lời thơ như nói hộ Xuân Quỳnh tiếng lòng của một trái tim tha thiết với
124
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
cuộc đời, với người. “Thời gian ơi sao không đổi sắc màu'’ để cho người con gái nhân hậu ấy được hát tiếp khúc ca yêu đời.
Có thể nói, qua một số bài thơ của Xuân Quỳnh, chúng ta thây được cảm thức về thời gian trong thơ của chị. Nó luôn hiện hữu nơi thời gian quá khứ - thời gian hiện tại và những dự cảm về tương lai xuyên suốt từ những tác phẩm đầu tiên đến những vần thơ cuối cuộc đời.
Sống trong những năm tháng chiến tranh, thơ Xuân Quỳnh có dấu ấn thừi gian lịch sử nhưng nhiều nhất vẫn là cảm nhận về thời gian gắn với quan niệm về
hanh phúc, với thân phận của một người đàn bà, gắn với một tâm hổn đa cảm giàu vêu thương, khát vọng. Tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong thơ xuân Quỳnh, chúng ta phát hiện ra nhiều cách ứng xử với thời gian của chị và điều quan trọng là những vần thơ của chị, cảm xúc của chị, lối tư duy trong thơ chị trường tổn bất tử cùng với thời gian.
3.5. Không gian.
Cũng giống như thời gian, không gian là yếu tố góp phần thể hiện quan niệm, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan của người nghệ sĩ. Dù là không gian hay thời gian, tất cả đều được thể hiện thông qua sự cảm nhân của chủ thể sáng tạo nên trong nó đã mang tâm trạng của con người, dấu ấn ricng của tác giả.
Là một nhà thơ nữ, Xuân Quỳnh cảm nhận thế giới khách quan bằng một tâm hồn và trái tim của người phụ nữ. Ngoài không gian của thế giới khách quan (không gian thực), thơ chị còn lặp lại nhiều lần kiểu không gian tâm tưởng (không gian đời tư) - trong không gian ấy, thế giới ấy có khi chỉ đo được bằng “chu vi của một trái tim” (Đoàn Thị Đặng Hương).
3.5.1.
Không gian hiện thực:
Không gian hiện thực là không gian khách quan được cảm nhận qua cái nhìn chủ quan của người viết. Hai yếu tố khách quan và chủ quan tuy cùng tồn tại trong không gian nhưng nhân tố khách quan so với nhân tô' chủ quan vẫn chiếm phần hơn. Bởi vậy, khi thưởng thức không gian hiện thực, người đọc sẽ thấy một không gian gần gũi, sinh động, chân thực bày ra trước mắt. Trong thơ Xuân Quỳnh, không gian của hiện thực thường là rất gần gũi, bình dị và quen thuộc. Có khi là một không gian đầy hoa, đầy cỏ dại với sức sống mãnh
liệt. Có khi là một thế giới tự nhiên rông lớn với trời mây, sông biển, con đường... Có khi chỉ là không gian xác định có tính chất địa giới như Vùng gió Lào cát trắng,
125
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Vinh Linh, Quảng Trị hay Nha Trang, Huế, Hà Nội.... Tất cả được Xuân Quỳnh tái hiện lại rất chân thực, không phô trương và bao giờ cũng gắn với cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ.
Trước hết, đó là một không gian đầy hoa. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong thơ chị rất nhiều hoa. Là người phụ nữ có thẩm mỹ, Xuân Quỳnh yêu quý và trân trọng cái đẹp. vẻ đẹp của hoa vốn là vẻ đẹp của tự nhiên do thiên nhiên ban tặng, nhờ bàn tay chăm sóc của con người mà trở nên rực rỡ, thơm mát. Vé đẹp của hoa nghiêng về phía tinh tuý tinh thần. Hoa cũng thường gợi sự bình yên, hạnh phúc. Hoa làm cho người ta yêu đời, yêu cuộc sống hơn.
Cùng thời với Xuân Quỳnh, các nhà thơ nữ cũng viết nhiều về hoa - đặc biệt là những loài hoa dại - có khi không tên tuổi, không sắc hương: Một chùm rau me đất/Giữa độ đường không cây/Giữ lòng yên tĩnh lại/Đã bao nhiêu tháng ngày {Rau
me đất - Ý Nhi); Như ngọn cỏ nghe mùa về thức dậy/nói về mình bằng sắc lá xanh
non/hạt giống nâu trong đất vẫn âm thầm/chẳng giữ được mình trước ngày xuân mới... Song có lẽ không ai viết nhiều về hoa dại như Xuân Quỳnh. Hoa cúc xanh,
hoa nghệ dại, hoa lau trắng, hoa gạo, hoa mua, hoa sim, hoa nếp, hoa cỏ may, hoa ban, hoa diếp... Không gian sống của hoa là “rừng chung”, "đầm lầy”, “bên dường”...Thật giản dị, những loài hoa chỉ nở cho riêng mình, lặng lẽ dâng chút hương cho đời, không đòi nhận lại, không phô trương, không bon chen hương thơm nhan sắc:
“Khắp Hoàng Liên trên một ngàn thước núi Hoa nếp mỏng manh trước tầm gió thổi Hoa diếp vàng cô độc giữa thâm u
Và bên đường hoa huê dại ngẩn ngơ Hoa sim tím một nỗi buồn hoang dã Hoa iay ơn góc vườn xưa còn nhớ
Mà thấy người cánh lá khẽ lung lay Hoa mọc dưới chân người, hoa mọc đến chân mây”. (Hoa dại núi Hoàng Liên) Một không gian bao trùm toàn sắc hoa cứ hiện dần trước mắt người đọc nhu'
những thước phim quay chậm. Ở mỗi loài hoa, Xuân Quỳnh lại bắt được cái thần
của tạo vật. Hoa không phải vật vô tri mà hoa có tâm hồn. Phải hoà hợp với thiên nhiên đến mức độ nào, nhà thơ mới có thể rất vắn tắt mà gọi được chính xác hồn hoa đến thế?
126
Nguyễn Thị Kìm Định
Phong cách tho Xuân Quỳnh
Bên cạnh không gian của những loài hoa hoang dã là không gian rộng lớn cua thiên nhiên hoang vu, cô lẻ: đấm lầy, thung lũng, đại ngàn, đổng hoang...
Là ngẫu nhiên hay hữu ý mà thơ Xuân Quỳnh xuất hiện nhiều yếu tố tự nhiên, hoang dã đến như vậy? Có lẽ bắt nguồn từ tâm hồn của người phụ nữ đa cảm, đa đoan. Xuân Quỳnh cảm thông với những kiếp hoa dại, những sự vật dễ bị người đời lãng quên. Chị đã thổi vào chúng linh hồn của sự sống, tìm thấy ý nghĩa từ những sự vật bé nhỏ, tầm thường. Những hình ảnh tự nhiên đó phải chăng bắt nguồn từ nỗi ám ảnh về thân phận? Khi nhà thơ ý thức về ý nghĩa của những điều giản dị. bình thường, khi nhìn thấy vẻ đẹp của những loài hoa mà đôi khi người đời “Dẫm
chán lên mà chẳng nhớ” cũng chính là lúc nhà thơ ý thức sâu sắc về sự tổn tại của
cá thể trong cộng đồng. Từ hình ảnh tội nghiệp của những sự vật nhỏ bé trong không gian hoang dã tương xứng nhà thơ muôn khẳng định cái không thể lần lộn, khống thè tan biến, luôn hiện hữu, trường sinh: “Những hoa này lại nở cho triển núi Lại nở cho vẻ đẹp của rừng chung” {Hoa dại núi Hoàng Liên)
Không gian tự nhiên, hoang dã cũng gắn với quan niệm của Xuân Quỳnh- quan niệm về tính bản thể. Thường thì phụ nữ ưa trang điểm nhưng Xuân Quỳnh thật mộc mạc, giản dị. Chị không ưa chải chuốt, phấn son cho câu thơ của mình.
Con người chị, thơ chị cũng mộc mạc như những loài hoa dại vậy: “Nhà thơ đánh
giá cao những gì chân xác - Là chính nó - dù nó có thô vụng chưa được gọt rũa.
chau chuốt, đó là quan niệm về sự chân thực”. Như vậy trong không gian hiện thực rộng lớn đa chiều của thiên nhiên, không
gian của thiên nhiên hoang dã là những hình ảnh thể hiên tư tưởng, quan niệm của Xuân Quỳnh. Tư tưởng đó vừa mang tính chất nữ tính, vừa thể hiện một cá tính ngay thẳng bản lĩnh của con người trước sự sống. Không gian ấy in đậm trong cảm nhận
của Xuân Quỳnh về thế giới.
3.5.2. Không gian tình yêu.
Đối với Xuân Quỳnh, tình yêu cuộc sống của chị trải mênh mông bất tận, vượt qua cả thời gian, không gian để đến cõi vĩnh hằng. Vì vậy, không gian của chị chứa đầy cảm xúc và luôn biến động theo nó, không gian ấy là khoảng tâm hồn của
127
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
riêng mình chị, là không gian của đời tư, không gian trong tâm tướng. Không gian trong tâm tưởng được biểu hiện cụ thể thành khổng gian tình yêu.
* Khóng gian cùa tình yêu đôi lứa :
Trong tình yêu, để chứng minh cho tình cảm vô bờ của mình, Xuân Quỳnh đã tìm đến một khoảng không gian bao la vĩnh hằng, với những con sóng liên tiếp vồ bờ, với đại dương mênh mông sâu thẳm mà trong lòng nó chất chứa bao điều hạnh phúc - đắng cay, ngọt ngào - trăn trở ...của tình yêu, hạnh phúc :
"Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được...
Dầu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương" (Sóng) Đây chính là không gian tàm tưởng, không gian biến đổi theo dòng cảm xúc của Xuân Quỳnh, soi lòng vào sóng để diễn tả cái sâu sắc, vô tận của nỗi nhớ trong lòng, nỗi nhớ ấy choán đầy cả bề rộng, bề sâu, lúc nào cũng đau đáu mênh mang. Xưa nay, tình yôu có bao giờ có quy luật. Mỗi câu chuyện tình là một vườn hoa riêng, hương sắc riêng. Với Xuân Quỳnh, vườn hoa tình yêu ấy là vườn hoa bất tử, bất tử trong không gian rộng lớn, rất dài và rất xa, không gian luôn biến động theo dòng tình cảm, luôn đảo chiều phá vỡ quy luật và lôgic cuộc sống cho thoả mãn nỗi niềm khát khao mong ước: dưới lòng sâu - trên mặt nước; xuôi phương Bắc - ngược phương Nam, và cuối cùng vẫn chỉ duy nhất hướng về : Anh. Anh là tất cả cuộc đời em, là dòng suối tình trong mát cho em ngụp lặn, là biển cả dịu êm cho thuyền em đi hoài không mỏi. Xa anh lòng em thành ”bão tô" .
Yêu thương sâu sắc, khát khao mãnh liệt là vậy, song nhiều khi Xuân Quỳnh vẫn mang nhiều dự cảm lo âu, trăn trở. Những tâm trạng ấy cũng truyền sang cả không gian, biến không gian thiên nhiên thành không gian tâm trạng, không gian mang sắc thái buồn:
"Cát vắng, sông đầy cây ngân ngơ Không gian xao xuyến chuyển sang mùa Tên mình ai gọi sau vòm lá Lối cũ em về nay đã thu..."
128
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh là người "đã đi đến tận cùng xứ sỏ” cùa tình yêu như lời chị tự
nhân. Chị là người hơn ai hết tường tận đến từng ngõ ngách, từng nẻo không gian trong tình yêu của mình. Trong không gian tình yêu ấy, nơi nào cũng in dấu bước chân không mói của Xuân Quỳnh. Mang bao hoài bão, khát vọng, chị đi khắp chốn
đế tìm người yêu. Không gian trong thơ Xuân Quỳnh thường lặp đi lặp lại những hình ảnh chỉ sự vận động mang tính chất biểu trưng: thuyền, biển, cánh buồm, con tàu. con đường...và dù được bộc lộ trực tiếp hay gián tiếp cũng đều thê hiện sự vận động hết sức mạnh mẽ và luôn tìm cách vươn tới những không gian bao la, vô tận. mênh móng:
"Lòng thuyền nhiều khát vọng Và tình biển bao la Thuyền đi hoài không mỏi Biển vẫn xa...còn xa". Ợ huyền và biển)
Sự vận động của không gian trong thơ Xuân Quỳnh là sự vận động đê hướng tới khoảnh khắc bình an, để đi tìm những giây phút bình dị của đời thường, từ đó vun đắp, dựng xây cuộc đời thêm tươi đẹp.
Đến được với tình yêu đích thực sau bao nỗi nhọc nhằn, vất vả gian lao và bến dỗ bình yèn trong cuộc đời mỗi con người, đó là tổ ấm. Xuân Quỳnh cũng vậy, chị đã tìm Ihấy nơi chốn đi về, đó là không gian tổ ấm.
* Không gian tổ ấm:
Đã có rất nhiều nhà thơ cùng thời với chị viết về tổ ấm gia đình như chị, song không ai viết nhiều, viết khoẻ về nó bằng chị. Tổ ấm - cái đích vươn tới của Xuân
Quỳnh cũng bộc lộ nhiều khao khát và quan niệm của chị. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta bắt gặp nhiều hình ảnh biểu trưng cho mái ấm. Viết về điều này, Chu Văn Sơn nhận
xét: “Ai đọc thơ Xuân Quỳnh không thể không thấp thoáng ẩn hiện suốt đời thơ của người đàn bà này là hình ảnh một mái che với nhiều biến thế khác nhau của nó. Khi là vòm cây, mái phố, mái nhà, căn phòng”. Khi viết về tổ ấm, thơ chị thường trở đi trở lại những hình ảnh thân quen, bình dị nhất: bút, mực, trang thơ, tách nước... Tất cả được chị sở hữu trong “Căn phòng con riêng của chúng mình”: “Cân phòng con riêng của chúng mình Nước trong phích, hoa trong bình gốm cũ Sách trên giá và thơ trong trí nhớ”
129
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
Đồ vật trong căn phòng riêng tư ấy được chị khắc hoạ hết sức riêng biệt như đê định vị cái tổ ấm của mình tưởng như nếu chị không xác định cụ thể vị trí của từng đồ vật như vậy thì sẽ không còn là cân phòng của riêng chị nữa. Những đồ vật ấy đã cất lên ngôn ngữ thân thương gần gũi như nhắc gọi về một khoảng không gian bé nhỏ trong chị - không gian của hạnh phúc gia đình.
Như con chim không tổ, “lang thang khắp những năm ròng tuổi thơ”, Xuân Quỳnh càng thấm thìa mái ấm gia đình và chính bởi vậy, chị càng trân trọng, vun đấp cho nó bằng tất cả tâm sức của mình. Khi xa chị nhớ quay quất, lúc ở nhà chị ra sức vun vén, chăm lo. Điều khác biệt của chị so với những người phụ nữ khác là chị luôn khẳng định sự sở hữu của mình với một thái độ mạnh mẽ khác thường: “nhà tôi”, â'căn phòng tôi”, “căn phòng con riêng của chúng mình”... Cái ý thức sở hữu mãnh liệt này phải chăng xuất phát từ ý thức về tình yêu và hạnh phúc của chính bản thần chị? - Hạnh phúc có được sau bao nỗi nhọc nhằn, mất mát, đắng cay. Xuân Quỳnh rất có duyên khi viết về những thứ tưởng chừng không đáng nói.
Ây vậy mà khi những sự vật đó vào thơ chị, được chị sắp xếp theo trật tự của chị, trong không gian của chị, chúng lại nói được bao điểu muốn nói. Chỉ một sự xáo trộn bất thường của đổ vật là dường như ta thấy hạnh phúc bị lung lay:
“Cây bút gãy trong tay Cặn mực khô đáy lọ Ánh điện tắt trong phòng” (Anh) Đọc những dòng này ta hiểu tại sao căn phòng bình yên và sự tổn tại đúng vị trí của chúng lại có khả năng nói nhiều đến thế về hạnh phúc của chị. Khõng những mô tả, chị còn mượn đồ vật để gửi nỗi nhớ thương:
“Tấm rèm cửa màu xanh Trang thơ còn viết dở Tách nước nóng trên bàn Và lòng em mong nhớ...”
Từng sự vật, chi tiết đều nói hộ lòng em tiếng nhớ nhung đợi chờ. Chị đã tâm trạng hóa không gian của mình, cộng tất cả những đồ vật ấy vào nỗi nhớ của mình khiến cho nỗi nhớ ấy càng da diết, thiết tha. Đồng nhất mình vào sự vật, để sự vật nói thay tiếng lòng mình một cách tự nhiên, chân thực, đầy nữ tính mà cũng rất hiện đại. Đây cũng là nét riêng của Xuân Quỳnh.
Có thể nói, đi vào thế giới không gian nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh là bước vào một vũ trụ riêng, bao la rộng lớn, vừa hiện thực, cụ thể, sinh động, vừa trấn ngập tâm tư tình cảm của con người luôn mang trong mình trái tim yêu tha thiết. Không gian ấy tập trung chứa đựng tình yêu cuộc sống, khao khát được gắn bó với đời của nữ thi sĩ tài hoa bạc mệnh Xuân Quỳnh.
[30
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơX uàn Quỳnh
PHẨN KẾT LUẬN
“Nhà thơ chính là con ong hút nhụy từ những bông hoa của đời sống, không
có sự tái tạo tài tình của con ong thì phấn hoa không thể thành mật ngọt. Nhưng nếu
không có những chuyến bay xa để đem về hương phấn của cuộc đời thì ong không
thể mãi tự mình tạo nên mật ngọt”. Xuân Quỳnh đã lao động nghệ thuật thực sự.
Qua mỗi chạng đường thơ, chị đều để lại những nét riêng trong thơ mình.
Đọc thơ Xuân Quỳnh, người đọc không hề có cảm giác tác giả cố ý làm thơ.
Chị là người đã “đem chính mình, chính cuộc đời mình ra làm thơ” [108; 122],
“ ...chị trở thành nhân vật vãn học của chính thơ chị”[45;143]. Chị sống hổn nhiên,
sống hết mình với những bài thơ của mình. Thơ là đời sống, là tâm trạng thật của
Xuân Quỳnh trong mỗi bước buồn vui của cuộc sống:
“Và trong em không thể còn anh
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”.
(Nếu ngày mai em không làm thơ nữa)
1. Thơ Xuân Quỳnh trước hết là sự tự thể hiện, ngòi bút chị chủ yếu đi vào
khai thác tâm trạng của chính bản thân nhà thơ. Xuất hiện giữa làng thơ khi trong
thơ cái tôi đã được ý thức trở lại trong cái ta chung, có thể nói cái tôi trữ tình Xuân
Quỳnh ià cái tôi riêng không bị nhoè lẫn, riêng trong cách cảm, lối nghĩ, trong giọng
điệu và trong cả nghệ thuật sử dụng ngôn từ... “Chị là nhà thơ đã sống, đã hoà nhập
với thời đại của mình, nhưng vẫn là mình, không giống một ai khác, không thể lẫn là
ai khác” [108;121].
Từ một thiếu nữ e ấp, hồn nhiên trong những sáng tác đầu tiên, qua thời gian
Xuân Qu5'nh đã nhìn đời đằm thắm, sâu lắng, thiết tha và cũng chất chứa nhiều trăn
trở suy tư về tình yêu, tình đời. Hồn thơ Xuân Quỳnh là một hồn thơ có nhiều dáng
vẻ, sắc thái, luôn vận động biến đổi nhưng vẫn nhất quán trong suốt hành trình sáng
tạo. Dù ở giai đoạn nào, thơ chị vẫn lấy cái tôi nữ tính làm trung tâm cho mọi sự
cảm nhận về thế giới. Mảng đề tài tình yêu là nơi thể hiện rõ nhất cái tối Xuân
Quỳnh. Đó là cái tôi nồng nàn, say đắm, khao khát yêu thương nhưng cũng rất vị
tha, sẵn sàng hy sinh, dâng hiến; rất mãnh liệt, táo bạo nhưng vẫn vô cùng đằm
131
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xưán Quỳnh
thám, dịu dàng, nữ tính; đầy đam mê, khao khát nhưng cũng rất biết chi chút cho
cuộc sống đời thường; tràn đầy tình yêu cuộc sống mà vẫn còn những mặc cám, lo
âu. Tất cả là những đối cực trong hồn thơ chị — hồn thơ giàu tính nữ của một người
đàn bà “yêu và làm thơ”. Sự kết hợp khá hài hòa những phârn chát vốn tương
khắc thành một chỉnh th ể thống nhất, một nhân cách độc đáo, một cá tính sáng
tạo, một cái tôi giàu nữ tính là điều tạo nên bản sắc riêng của Xuân Quỳnh.
2. Xuân Quỳnh làm thơ kể chuyện đời mình, số phận mình nhưng chị cũng
làm thơ trong mối giao hoà chung của cảm xúc thời đại. Trong thơ Xuân Quỳnh,
tinh thần thách nhiệm và lương tâm của người cầm bút trước dân tộc và trước lịch sử
không chỉ vang lèn cao độ trong những nảm tháng chiến tranh (Hoa dọc chiến hào;
Gió Láo cát trắng...) mà là trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử dân tộc trong cuộc
đời chị và thơ của chị. Chị viết vể đất nước, viết về con người trong những năm
tháng chiến tranh; viết về bức tranh dung dị của hạnh phúc đời thường. Dù ở mảng
để tài nào, thơ chị cũng tha thiết một niềm yêu đời, yêu cuộc sống, yêu con người.
3. Nghiên cứu phong cách thơ Xuân Quỳnh không thế không nghiên cứu
những nét độc đáo trong phương diện nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh. Nét độc đáo đó
thể hiện ở giọng điệu thơ, ở ngôn ngữ, hình ảnh thơ, ở thời gian, không gian nghệ
thuât trong thơ.. .Dử xét ở phương diện nào thì ở thơ Xuân Quỳnh cùng đều có
những nét độc đáo của riêng chị.
Dù Xuân Quỳnh đã vĩnh viễn ra đi. Ra đi mà “không muốn ai khóc” như câu
thơ chị viết: “Người chết chẳng bằng lòng nếu chúng tôi quớ thương đau” nhưng
chúng ta lại không quên được hình ảnh chị bởi những câu thơ như còn gửi gắm, còn
chờ mong, còn ước vọng, bởi trái tim còn tha thiết một niềm yêu: “Biết yêu anh cả
khi chết đi rồi”. Tâm tình với đời, với người, nồng nàn và đắm say vẫn là sự hiện
hữu của chị trên cõi đời này. Viết đề tài này, chúng tôi hy vọng dựng lại được phần
nào chân dung con người chị để từ đó thấy được những phẩm chất cơ bán thuộc về
phong cách thơ chị: tự nhiên, giản dị, chán thật, đằm thắm, dịu dàng nhưng dữ
dội và mãnh liệt. Chị mang đầy đủ phẩm chất của con người thời hiện đại lại đổng
thời có những phẩm chất tự ngàn xưa, riêng biệt rất nữ tính./.
132
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh _____________ _______ _______ _
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristote (1964), Nghệ thuật thơ ca, NXB Văn học nghệ thuật.
2. VQ Tuấn Anh (1997), Nửa thếkỷ thơViệt Nam, 1945-1995, NXB Khoa học xã hội.
3. Vũ Tuấn Anh, Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam sau 1975-1990,
Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
4. Phan Thị Vàng Anh - Trần Thị Thắng (2006), Văn chương một thời để nhớ (Thơ),
NXB Văn học.
5. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000 (chuyên luận),
NXB Hội nhà văn.
7. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa - Thông tin.
8. Mai Ngọc Chừ (1991), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học, NXB Đại
học và Giáo dục chuyên nghiệp .
9. Lâm Thị Mỹ Dạ (1998), Đề tặng một giấc mơ, NXB Thanh niên.
10. Lâm Thị Mỹ Dạ (1983), Bài thơ không năm tháng, NXB Tác phẩm mới.
11. Lâm Thị Mỹ Dạ (1990), Hái tuổi em đầy tay, NXB Đà Nẩng.
12. Lâm Thị Mỹ Dạ (1996), Mẹ và con, NXB Phụ nữ.
13. Lâm Thị Mỹ Dạ - Ỷ Nhi (1974), Trái tim nổi nhớ (thơ - in chung), NXB Văn học.
14. Trần Quang Đạo (2004), Cái tôi mang tính tự sự, một đặc điểm của thơ trẻ sau
1975, Tạp chí nghiên cứu văn học s ố 5.
15. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục.
16. Biện Văn Điền (2001), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Sự hình thành và
những đặc triừig), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học.
18. Phan Cự Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Những vấn đề lịch sử và lý
luận), NXB Giáo dục.
19. Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lý nghệ thuật, NXB Văn học.
20. Hà Minh Đức (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục.
133
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách tho Xuân Quỳnh
21. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề tl'ong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục.
22. Tố Hữu (1973), Xáy dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời
đại ta, NXB Văn học, Hà Nội.
23. Đoàn Thị Đặng Hương (1990), Người đàn bà yêu và làm thơ (Đọc thơ Xuân
Quỳnh). Tạp chí Văn học s ố 6.
24. Lan Hương (bicn tập), Xuân Quỳnh - Thơ tình, NXB Văn học.
25. Ngân Hà (2001), Nữ sĩ Xuân Quỳnh, cuộc đời để lại, NXB Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
26. Ngân Hà (2006), Thơ Xuân Quỳnh, những lời bình, NXB Văn hóa - Thông tin.
27. Hổ Thế Hà (2003), Khuynh hướng hiện đại trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, Tạp chí
văn học số 3.
28. Bùi Cồng Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, NXB Khoa học xã hội.
29. Bùi Công Hùng (1988), Quá trình sáng tạo thơ, NXB Khoa học xã hội nhân văn.
30. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà vãn.
31. Đoàn Tử Huyến (2007), Đoàn Thị Lam Luyến, 36 bài thơ (tuyển chọn), NXB
Lao động.
32. Đoàn Tử Huyên (2007), Hàn Mặc Tử, 36 bài thơ {tuyển chọn), NXB Lao động.
33. Đoàn Tử Huyến (2007), Nguyễn Bính, 36 bài thơ (tuyển chọn), NXB Lao động.
34. Đoàn Tử Huyến (2007), Puskin, 36 bài thơ (tuyển chọn), NXB Lao động.
35. Đoàn Tử Huyến (2007), Xuân Quỳnh 36 bài thơ, NXB Lao động.
36. Khoa Ngữ vãn trường ĐHSP - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (5/1999), Kỷ
yếu khoa học (Hội nghị các nghiên cứu sinh ngữ văn).
37. M.B.Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học, NXB Tác phẩm mới.
38. MB.Khrapchekhô (1982), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, NXB Khoa
học và xã hội.
39. Cẩm Lai - Xuân Quỳnh (1963), Tơ tằm, chồi biếc, NXB văn học.
40. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ, NXB Văn hóa - Thông tin.
41. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
134
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
42. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục.
43. Mã Giang Lân, Hổ Thế Hà (1993), Sức bền của thơ, NXB Hội nhà vãn.
44. Phong Lê (1998), Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, Tình yêu và số phận, Tạp chí
Văn học số 8.
45. Vân Long (2004), 'Xuân Quỳnh Thơ và đời, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
46. Phương Lựu (2004), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.
47. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thể giới nghệ thuật của các nhà
văn, NXB Giáo dục.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Lịch sử văn học Việt Nam - Tập 1, NXB Đại học sư phạm.
49. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong
cách, NXB Vãn học.
50. Đông Mai (1995), Xuân Quỳnh một nửa cuộc đời tôi (Hồi ký), NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
51. Tôn Thảo Miên (1997), Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà vãn. Tạp chí
văn học, s ố 1.
52. M.A.R. Nauđôp (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB Vãn học.
53. Chu Nga (1973), Xuân Quỳnh một chồi thơ sắc biếc, Tạp chí Ván học số I .
54. Hoàng Kim Ngọc (1998), Những đóng góp của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
55. Lã Nguyên (1988), Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình, Vân nghệ số 45.
56. Phan Thị Thanh Nhàn (1987), Bỏng hoa không tặng, NXB Tác phẩm mới.
57. Phan Thị Thanh Nhàn (1977), Chân dung người chiến thắng, NXBTác phẩm mới.
58. Phan Thị Thanh Nhàn (1973), Hương thầm, NXB Văn học.
59. Phan Thị Thanh Nhàn (1992), Nghiêng về anh, NXB Hội nhà văn.
60. Phan Thị Thanh Nhàn (1969), Tháng giêng hai, NXB Văn học.
61. Vương Trí Nhàn (2002), ThơXiiân Quỳnh - Liũi Quang Vũ, NXB Giáo dục.
62. Vương Trí Nhàn (2005), Xuân Quỳnh, cuộc đòi để lại trong thơ, Tạp chí Văn học số 10.
63. Vương Trí Nhàn - Xuân Quỳnh (1979), Diễn viên sân khấu, NXB Vãn hóa.
64. Ý Nhi (1978), Đến với dòng sông, NXB Tác phẩm mới.
135
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
65. Ý Nhi (1987), Ngày thường, NXB Đà Nẵng,.
66. Ý Nhi (1985), Người đàn bà ngồi đan, NXB Tác phẩm mới.
67. Ý Nhi (1999), Vườn, NXB Văn học, H..
68. Nhiều tác giả (1998), Anh Thơ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Vân Đài, Xuân Quỳnh, Phan Thị
Thanh Nhàn (Phê bình, bình luận văn học), NXB Văn nghệ TP.HỒ Chí Minh.
69. Nhiều tác giả (2006), Bỉnh luận văn chương (văn học trong nhà trường), NXB
Đại học sư phạm.
70. Nhiều tác giả (2003), Các nhà thơnữViệt Nam sáng tác và phê bình, NXB Giáo dục.
71. Nhiều tác giả (1962), Chim én bay xa, NXB Phụ nữ.
72. Nhiều tác giả (1989), Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gia lại, Hội Văn học -
Nghệ thuật Đà Nẵng.
73. Nhiều tác giả (1996), Một thời đại mới trong văn học, NXB Văn học.
74. Nhiều tác giả (1996), Năm mươi năm Văn học Việt Nam sau cách mạng Tháng
Tám, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
75. Nhiều tác giả (2007), Những nhà thơViệt Nam thời kỳ chống Mỹ, NXB Kim Đồng.
76. Nhiều tác giả (1991), Quang Dũng - Nguyễn Mỹ - Xuân Quỳnh (Phê bình, bình
luận văn học), NXB Tổng hợp Khánh Hòa.
77. Nhiều tác giả (2(X)4), Tuyển tập mười năm tạp chí vân học và tuổi trẻ, NXB Giáo dục.
78. Nhiều tác giá (2002), Tuyển thơ các tác giả nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ, H..
79. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ vân học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
80. Nhiều tác giả (2004), Thơ tình con gái, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
81. Nhiều tác giả (2006), Thơ tình tuyển chọn Việt Nam và thế giới, NXB Vãn hóa
thông tin.
82. Nhiều tác giả (1989), Thơ Xuân Quỳnh. NXB Tác phẩm mới.
83. Nhiều tác giả (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, NXB Lao động.
84. Nhiều tác giả. (1997), Văn học ỉ 975-1985, Tác phẩm và dư luận, NXB Hội nhà văn.
85. Nhiều tác giả (1979), Văn học Việt Nam chôhg Mỹ cứu nước, NXB Khoa học Xã hội, H..
86. Nhiều tác giả (1979), Văn học Việt Nam chôhg Mỹ cứu nước, NXB Khoa học xã hội.
136
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
87. Nhiều tác giả, Xuân Quỳnh, cuộc đời và tác phẩm, NXB Phụ nữ.
88. Lê Lưu Oanh, Cái tôi trữ tình trong thơ (Qua một sô'hiện tượng thơ trữ tình Việt
Nam 1975-1990), Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ vãn, Hà Nội.
89. Phan Thị Diễm Phương (1988), Thơ lục bát ở một thế hệ thơ hiện đại, Tạp chí văn học số2.
90. Vũ Quần Phương (1990), Thơ với lời bình, NXB Giáo dục.
91. Nguyễn Thị Thu Phương (2004), Phong cách thơtừ T ô Đông Pha, Luận án Tiến
sĩ ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
92. Nguyễn Khắc Phi (1998), Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lợ, NXB
Giáo dục Hà Nội.
93. Ngô Văn Phú (1989). ThơXitân Quỳnh. NXBTác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam.
94. Ngô Vãn Phú (1990), ThơXiiân Quỳnh, NXB Hội nhà văn, 1990.
95. Hà Quảng (1994), Về sự mới lạ trong thơ Việt Nam hiện đại, Vân nghệ s ố 46.
96. Vũ Dương Quỹ (1998), Trên đường bình văn, NXB Giáo dục.
97. Lê Thị Ngọc Quỳnh (2001), Thế giới thiên nhiên trong thơ Xuân Quỳnh, Tạp
chí Ngôn ngữ số ¡2.
98. Xuân Quỳnh (2006), Báu trời trong quả trứng (Thơ), NXB Kim Đổng.
99. Xuân Quỳnh (1992), Bến tàu trong (hành phố (Truyện), NXB Kim Đổng.
100. Xuân Quỳnh (2005), Con yêu mẹ (Thơ), NXB Kim Đổng.
101. Xuân Quỳnh (1974), Gió Lào cát trắng, NXB Văn học.
102. Xuân Quỳnh (1989), Hoa cỏ may, NXB Tác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam.
103. Xuân Quỳnh (1968), Hoa dọc chiến hào, NXB Văn học.
104. Xuân Quỳnh (1999), Hoa mận trắng (Tập truyện thiếu nhi), NXB Thanh niên.
105. Xuân Quỳnh (1978), Lời ru trên mặt đất, NXB Tác phẩm mới.
106. Xuân Quỳnh (1981), Mùa xuân trên cánh đồng (Truyện), NXB Kim Đồng.
107. Xuân Quỳnh (1984), Sân ga chiều em đi, NXB Vãn học.
108. Xuân Quỳnh (1988), Thơ viết tặng anh, NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
109. Xuân Quỳnh (1983), Truyện Lưu - Nguyễn, NXB Kim Đổng.
110. Xuân Quỳnh (1984), Tự hát, NXB Tác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam.
111. Xuân Quỳnh (1988), vẫn có ông tràng khác (Tập truyện ngắn), NXB Kim Đổng.
137
Nguyễn Thị Kim Định
Phong cách thơ Xuân Quỳnh
112. Trần Đình Sử (1994), Hành trình thơ Việt Nam hiện đại, Văn nghệ s ố 41.
113. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học (Những vấn đề và quan
niệm hiện đại, NXB Giáo dục.
114. Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
115. R.Targore (2004), Thơ (tuyển), NXB Vãn học.
116. Vũ Duy Thông (2001), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945-1975.
NXB Giáo dục.
117. Vũ Duy Thông (2003), Cái cỉẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam J945-1975'
NXB Giáo dục.
118. Vũ Duy Thông (2003), Từ thơ mới nghĩ về đổi mới thơ, Tạp chí văn học s ố 3.
119. Lưu Khánh Thơ (2007), Đối thoại tình yêu Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, NXB
Hội nhà vãn.
120. Nguyễn Bá Thành (2005), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB Vãn học.
121. Trần Khánh Thành (2004), Hà Minh Đức tuyển rập - Tập I: Lý luận văn học và
báo chí, NXB Giáo dục.
122. Trần Khánh Thành (2004), Hà Minh Đức tuyển tập - Tập 3: Phê hình và Tiểu
luận văn học, NXB Giáo dục.
123. Lý Hoài Thu (2006). Phan Cự Đệ tuyển tập - Tập 3: Văn học lãng mạn Việt
Nam (1932-1945) - Phê bình và Tiểu luận, NXB Giáo dục.
124. Từ điển Văn học (2004), NXB Thế giới.
125. Vũ Thị Kim Xuyến (2006), Xuản Quỳnh, Thơ và lời bình, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
138
Nguyễn Thị Kim Định