ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VŨ VĂN ĐÔNG
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở HẢI DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VŨ VĂN ĐÔNG
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số:
60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN ĐÌNH KHÁNG
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƢỢNG CAO CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI ........................... 6 1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiêu chí đánh giá ......................................... 6
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao ............................................ 6
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ............................................. 9
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao ............................. 11
1.2. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh tế - xã
hội và các nhân tố ảnh hưởng ............................................................. 15
1.2.1. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh
tế - xã hội ............................................................................................ 15
1.2.2. Nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế -
xã hội ................................................................................................. 18
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực chất lượng cao................. 21
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ................................ 25
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất
lượng cao của Thành phố Hà Nội ....................................................... 25
1.3.2. Một số kinh nghiệm thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của tỉnh Bắc Ninh .............................................................. 27
1.3.3. Một số kinh nghiệm thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của Thành phố Đà Nẵng .................................................... 28
1.3.4. Một số kinh nghiệm thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của Thành phố Hồ Chí Minh .............................................. 29
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI HẢI DƢƠNG TRONG NHỮNG NĂM QUA .......................................................................................... 31
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến nguồn nhân lực và
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Hải Dương ...................... 31
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Hải Dương ...................................................................... 31
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Hải Dương đặt ra vấn đề phải phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ........................................................... 32
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở
Hải Dương giai đoạn 2005 -2010 ....................................................... 44
2.2.1. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển
kinh tế - xã hội ở Hải Dương ............................................................... 44
2.2.2. Thực trạng phân bổ và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương ............................................... 51
2.2.3. Những vấn đề đặt ra trong công tác phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương.......................... 56
2.3. Đánh giá chung về thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát
triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương ....................................................... 60
2.3.1. Về thành tựu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ...................... 60
2.3.2. Những tồn tại cần giải quyết để phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương ................................................................................................ 63
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở HẢI DƢƠNG ..................................................... 67
3.1. Những quan điểm, phương hướng chủ yếu phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương đến 2020 ......... 67
3.1.1. Những quan điểm chủ yếu về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao qua giáo dục và đào tạo để phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương đến 2020 ............................................................................. 67
3.1.2. Phương hướng tạo lập nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát
triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương đến 2020 ......................................... 72
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm tạo lập nguồn nhân lực chất lượng cao cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương đến 2020 ................................ 73
3.2.1. Nhóm giải pháp về giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ cao........................................................... 73
3.2.2. Nhóm giải pháp phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực chất lượng cao ..................................................................... 79
3.2.3. Nhóm giải pháp thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ngoài tỉnh
Hải Dương ......................................................................................... 82
3.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao tình trạng sức khỏe, nâng cao chất lượng
dân số ................................................................................................. 85
3.2.5. Nhóm giải pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ......... 88
3.2.6. Nhóm giải pháp về xây dựng môi trường sống thuận lợi, phục vụ
cho việc khai thác, sử dụng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ....... 91
3.2.7. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực và vai trò của bộ máy quản lý
nhà nước về nguồn nhân lực ........................................................................ 93
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 98 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 102
BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT
CĐ:
Cao đẳng
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNKT:
Công nhân kỹ thuật
CMKT:
Chuyên môn kỹ thật
ĐH,CĐ:
Đại học, cao đẳng
ĐH:
Đại học
GDP:
Tổng sản phẩm quốc nội
GDTX:
Giáo dục thường xuyên
HDI:
Chỉ số phát triển con người
KT - XH:
Kinh tế - xã hội
KH - CN:
Khoa học - công nghệ
KT:
Kinh tế
NNL:
Nguồn nhân lực
THCS:
Trung học cơ sở
THPT:
Trung học phổ thông
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đang bước sang trang mới với những
thành tựu có tính chất đột phá trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế -
xã hội, đặc biệt trên lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế. Trong đó nhân tố
đóng vai trò quyết định sự biến đổi về chất dẫn tới sự ra đời của kinh tế tri thức
thì nguồn nhân lực (NNL) chất lượng cao đóng vai trò quan trọng.
Trước đây, các nhân tố sản xuất truyền thống như số lượng đất đai, lao
động, vốn được coi là quan trọng nhất, song ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự ưu
tiên. Chính nguồn nhân lực có chất lượng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi
quá trình. Bởi lẽ, những yếu tố khác người ta vẫn có thể có được nếu có tri thức,
song tri thức chỉ xuất hiện thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực
tế trong đời sống kinh tế - xã hội, từ chính quá trình sản xuất ra sản phẩm để nuôi
sống con người và làm giàu cho xã hội. Vì vậy, để có được tốc độ phát triển cao,
các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp, công ty,
các sản phẩm chủ yếu là cạnh tranh về tỷ lệ hàm lượng chất xám kết tinh trong sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ, nhờ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) rút
ngắn, chúng ta còn thiếu nhiều điều kiện cho phát triển như: vốn, công nghệ, kiến
thức và kinh nghiệm quản lý, đòi hỏi phải biết phát huy được lợi thế của những
nguồn lực hiện có, cần có chiến lược và giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của mình. Báo cáo chính trị tại Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhấn mạnh: "Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao" [16, tr.95]. Điều đó cho thấy, đào tạo và sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một trong các yếu tố then chốt thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng. Cùng với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong khoảng mười năm gần đây, kinh tế
1
- xã hội tỉnh Hải Dương đang trên đà phát triển mạnh, Tỉnh đã xác định rõ lợi thế
so sánh, xu hướng phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế và khẳng định
cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại, bền vững
có sức cạnh tranh. Vì vậy, đòi hỏi Hải Dương cần phải có nguồn nhân lực chất
lượng cao bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh,
sáng tạo, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo thành thạo về kỹ
năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về quản lý kinh tế - xã hội,
có trình độ khoa học - kỹ thuật cao.
Nhìn chung nguồn nhân lực của Hải Dương hiện nay chưa thực sự đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, chưa thực sự là động lực để phát
triển kinh tế - xã hội và công nghiệp của tỉnh. Vì vậy, theo tinh thần Đại hội
Đảng của tỉnh lần thứ XV đã khẳng định: "Đẩy mạnh giáo dục - đào tạo và dạy
nghề; chú trọng đổi mới quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao toàn diện về giáo dục và đào tạo, chăm lo phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu cạnh tranh và cung cấp nhân lực cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp
trong tỉnh và xuất khẩu lao động". Cho nên việc nghiên cứu lý luận và phân tích
thực trạng nguồn nhân lực để có những giải pháp nhằm tạo ra một sự chuyển
biến về chất, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại.
Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài "Nguồn nhân lực chất lượng cao cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Hải Dương cũng như trong cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa
học, các hội thảo khoa học, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của các nhà khoa học về đề
tài này ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như:
- "Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH", "Về phát
triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH" của GS.TS Phạm Minh Hạc, 1996;
- "Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam" của Tiến
sỹ Đoàn Văn Khái, 2005;
- "Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH" của Tiến sỹ Vũ Bá Thể, 2005;
2
- "Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH dựa trên tri thức ở nước ta
hiện nay" của GS. Đặng Hữu, 2/2005.
Các công trình nghiên cứu nói trên về cơ bản đã trình bày được những vai
trò, tác động, ưu thế, cũng như những mặt tích cực và hạn chế của nguồn nhân
lực, sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Đồng thời cũng đưa ra những phương hướng và giải pháp cho sự
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong quá trình thực hiện
CNH, HĐH đất nước. Tuy vậy trong giai đoạn hiện nay nguồn nhân lực không
chỉ đòi hỏi đảm bảo cả về số lượng và chất lượng mà còn đặt ra vấn đề sử dụng
hiệu quả nguồn nhân lực trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Điều này chưa
được các công trình nghiên cứu ở trên đề cập một cách cụ thể và sâu sắc.
- Luận văn thạc sĩ "Xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Thành phố Đà Nẵng" của Vương Quốc Được, 1999;
- Luận văn thạc sĩ “Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế -
xã hội ở Thành phố Đà Nẵng” của Lê Mạnh Hùng, 2006;
- Luận văn thạc sĩ “Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Hải Dương” của Nguyễn Thị Kim Nguyên, 2007.
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu nguồn lực lao động,
một số tác giả bàn đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong một số ngành cụ
thể, cho phát triển kinh tế xã hội, nhưng chưa phân tích nhiều về nguồn nhân lực
chất lượng cao trong tình hình đất nước có những đổi mới và có sự chuyển dịch
cơ cấu ngành mạnh mẽ. Đặc biệt, việc đi sâu nghiên cứu nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Hải Dương hiện chưa có công trình nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên
cứu đề tài: "Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở
Hải Dương" là cách tiếp cận cụ thể nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều
kiện mới có tính đặc thù riêng của Hải Dương đề cập một cách hoàn chỉnh, toàn
diện như nội dung của luận văn đề cập.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao tạo cơ sở khoa học
để phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực này cho phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Hải Dương.
3
- Đề xuất các giải pháp để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao nhằm đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương từ nay đến 2020.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Luận giải một cách khoa học nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực
cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng, làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu,
nhu cầu nguồn lao động chất lượng cao, đưa ra những giải pháp khả thi nhằm
khắc phục những hạn chế, đề xuất một số phương hướng, giải pháp đào tạo thu
hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội
ở Hải Dương từ nay đến 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển
kinh tế - xã hội ở Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao
trong phạm vi phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương trong giai đoạn 2005 -
2010. Luận văn tập trung nghiên cứu mặt nguồn nhân lực chất lượng cao (đặc
biệt nhấn mạnh mặt trí lực của nguồn nhân lực) để có nhận thức, đánh giá và tìm
giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế -
xã hội ở Hải Dương trong giai đoan trước mắt từ 2011 - 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tiếp cận những lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế làm cơ sở, kết hợp
sử dụng các phương pháp cụ thể trong nghiên cứu như: tiếp cận hệ thống,
tiếp cận lịch sử và các phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, minh họa
để thực hiện đề tài.
4
6. Đóng góp của luận văn
- Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương trong
những năm qua.
- Đề xuất được những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương đến 2020.
- Bằng xây dựng một hệ thống lý luận và bằng minh chứng các số liệu cụ
thể, đầy đủ, luận văn đã khẳng định nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực
quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội hiện đại có sức cạnh tranh cao.
Do đó, Hải Dương muốn phát triển kinh tế - xã hội có sức cạnh tranh, đi tắt đón
đầu để trở thành tỉnh có nền kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế phù hợp, cần phải
đẩy mạnh phát triển, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn tiếp
theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực chất lượng cao
cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chƣơng 2: Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh
tế - xã hội Hải Dương trong những năm qua.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương.
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƢỢNG CAO CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI
1.1. Nguồn nhân lực chất lƣợng cao và các tiêu chí đánh giá
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong những năm gần đây, các nước trên thế giới hầu hết đều coi nguồn
nhân lực chất lượng cao là yếu tố cơ bản, có vai trò quyết định đối với sự phát
triển nhanh và bền vững. Trên thực tế, các quốc gia như Singapo, Nhật Bản,
Hồng Kông, Hàn Quốc là những nước đạt tốc độ phát triển kinh tế cao liên tục
trong nhiều thập kỷ, nên chỉ trong một thời gian ngắn đã biến đất nước họ trở
thành các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Yếu tố đóng vai trò quyết định cho
sự thành công trong phát triển kinh tế của các quốc gia đó chính là nguồn nhân
lực có chất lượng cao. Ở các nước phát triển cao người ta đã tính toán được rằng
trong giá trị của những sản phẩm cao cấp thì hàm luợng chất xám chiếm 70%,
năng lượng 10%, nguyên liệu 10%, thao tác vật chất chỉ chiếm 5,6%. Trong thời
đại ngày nay, những quan niệm về vai trò, vị trí của nguồn nhân lực trong phát
triển liên tục thay đổi. Nếu như trước đây, người ta nhìn nhận vai trò của nguồn
nhân lực chỉ đơn thuần là phương tiện, là một nguồn lực cho phát triển giống
như mọi nguồn lực vật chất khác, thì ngày nay, sự nhận thức trên hoàn toàn
khác. Con người, nguồn nhân lực không chỉ là động lực chủ yếu mà còn là mục
tiêu của sự phát triển, với phương châm phát triển vì con người. Trí tuệ con
người ngày càng được đề cao, vì nó là nguồn lực to lớn và mạnh mẽ nhất cho
tiến bộ và phát triển xã hội. Theo Alvin Toffler, mọi nguồn lực tự nhiên đều có
thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ riêng có trí tuệ là vô tận, bởi "tri thức có tính chất
lấy không bao giờ hết”. Ngược lại, NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao, nếu
biết khai thác và bồi dưỡng hợp lý thì càng phát triển và có khả năng tái sinh
nhanh. Chính vì lẽ đó, NNL đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học và nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, và từ đó người ta cũng tìm ra các
6
phương cách khác nhau để có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ
cho phát triển kinh tế - xã hội.
Ở nước ta từ khi công cuộc đổi mới bước vào giai đoạn đẩy mạnh công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng và Nhà nước ta cũng đã nhấn
mạnh yếu tố quyết định này. Trong những năm gần đây, Đảng ta đã ra hàng loạt
các nghị quyết về phương hướng, mục tiêu, điều kiện và giải pháp tác động vào
nhiều lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực và con người
Việt Nam toàn diện.
Nguồn nhân lực được tiếp cận từ nhiều gióc độ khác nhau từ đó có nhiều
khái niệm, cách quan niệm khác nhau, có thể tiếp cận ở một số quan niệm sau:
Nguồn nhân lực được hiểu theo nghĩa rộng như lý thuyết phát triển, đó là
nguồn lực con người của một quốc gia, là một bộ phận của các nguồn lực tham gia
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực khác với nguồn lực khác
(vốn, đất đai, công nghệ,...) ở chỗ nguồn lực con người với hoạt động lao động
sáng tạo, tác động vào thế giới tự nhiên, biến đổi giới tự nhiên, là yếu tố quan
trọng nhất của lực lượng sản xuất. Trong mọi hình thái KT - XH, nguồn nhân lực
là yếu tố trung tâm, vai trò quyết định đối với sự phát triển của sản xuất. Đồng
thời là mục đích của nền sản xuất xã hội.
Theo nghĩa hẹp (xét theo từng thời kỳ) đó là lượng lao động của một quốc
gia, là bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động (ở
nước ta được hiểu là bộ phận dân số từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và 55
tuổi đối với nữ trừ những người tàn tật, mất sức lao động loại nặng và cả lao động
trẻ em và lao động cao tuổi).
Theo giáo trình kinh tế lao động, thì: nguồn nhân lực được hiểu là nguồn
lực con người, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển
kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (nguồn lực tài
chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực công nghệ) là ở chỗ: trong quá trình vận
động, NNL chịu tác động của yếu tố tự nhiên (sinh, chết) và yếu tố xã hội (việc
làm, thất nghiệp...). Chính vì vậy, NNL là một khái niệm khá phức tạp, được
nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác nhau. Nguồn nhân lực còn được hiểu như là
7
nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển.
Cách hiểu này muốn chỉ rõ nguồn gốc tạo ra nguồn lực con người, nghiêng về sự
biến động tự nhiên của dân số và ảnh hưởng của nó tới sự biến động NNL.
Nguồn nhân lực còn được hiểu như một yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình
phát triển kinh tế xã hội, là tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá
trình lao động. Cách hiểu này cụ thể hơn và có thể lượng hóa được, đó là năng
lực lao động của xã hội, bao gồm những người có khả năng lao động, tức là bộ
phận chủ yếu và quan trọng nhất trong NNL.
Do khi nghiên cứu NNL xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau nên
có những khái niệm khác nhau về NNL, nhưng nhìn chung các khái niệm đó đều
thống nhất về nội dung cơ bản là: NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã
hội, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung.
Nguồn nhân lực được nghiên cứu trong luận văn là tổng hợp các chủ thể
với những năng lực, phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. “Nguồn nhân lực” hay còn gọi là “Nguồn lực con người” đó là những
chủ thể không tồn tại một cách biệt lập mà chúng được liên kết với nhau thành
một chỉnh thể thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động. Tổng hợp những
chủ thể này là tổng hợp sức mạnh của một tổng thể người chứ không phải một
tập hợp đơn giản về số lượng người. Sức mạnh ấy là cái vốn có bên trong của
mỗi người và được nhân lên trong chỉnh thể thống nhất. Nguồn nhân lực cho quá
trình phát triển kinh tế - xã hội không chỉ bao gồm những con người đã và đang
tham gia mà còn bao gồm cả những con người sẽ tham gia vào trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo.
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội
trong thời đại ngày nay. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau cả nghĩa rộng, nghĩa
hẹp, nhiều quan điểm của các tổ chức, cá nhân, nhưng nhìn chung nguồn nhân
lực được xem xét dưới hai góc độ là số lượng và chất lượng của bộ phận dân cư
tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
8
Số lượng nguồn nhân lực được xác định bởi các chỉ tiêu về quy mô và tốc
độ tăng của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực tại một thời điểm thường được xác
định về tỷ lệ phần trăm trong tổng dân số. Các chỉ số về số lượng nguồn nhân lực
của một quốc gia là dân số, tốc độ tăng dân số, tuổi thọ bình quân, cấu trúc dân
số: Số dân ở độ tuổi lao động, số người ăn theo… Số lượng nguồn nhân lực đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Nếu số lượng nguồn nhân
lực không tương xứng với sự phát triển (thiếu hoặc thừa) thì sẽ ảnh hưởng không
tốt tới sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng
sức khoẻ, trình độ kiến thức, tay nghề, tác phong nghề nghiệp, cơ cấu nguồn
nhân lực về tuổi tác, giới tính, thiên hướng ngành nghề, phân bổ theo khu vực và
theo lãnh thổ. Trong nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò
quyết định, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang thực hiện đẩy
mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước, KH - CN đang có bước phát triển mạnh
mẽ thì nguồn nhân lược chất lượng cao lại càng khẳng định vai trò quyết định
trong sự thành công của quá trình này.
Như vậy, khi nói tới nguồn nhân lực trước hết phải hiểu đó là toàn bộ
những người lao động đang có khả năng tham gia vào các quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và các thế hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào các quá
trình phát triển kinh tế xã hội, con người đóng vai trò là chủ thể sáng tạo và chi
phối toàn bộ quá trình đó, hướng nó tới mục tiêu đã được chọn. Cho nên NNL
còn bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, thái độ và
phong cách làm việc - đó chính là các yếu tố thuộc về chất lượng nguồn nhân lực
[28]. Ngoài ra khi nói tới nguồn nhân lực phải nói tới cơ cấu lao động, bao gồm
cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Khi nói nguồn nhân lực cần nhấn mạnh sự
phát triển trí tuệ, thể lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của con người, bởi vì trí
lực là yếu tố ngày càng đóng vai trò quyết định sự phát triển NNL.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Phát triển NNL của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ chính là sự biến
đổi về số lượng và chất lượng NNL cả mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và
9
tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu NNL. Nói một
cách khái quát nhất, phát triển NNL chính là qúa trình tạo lập và sử dụng năng lực
toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi
con người.
Theo cách hiểu truyền thống, đánh giá sự giàu có của một quốc gia, một
dân tộc thường được hiểu đồng nghĩa với sự phong phú giàu có của các nguồn
tài lực, hoặc đánh giá thông qua khối lượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Ngày nay, với những thành tựu vượt bậc của khoa học công nghệ, thì thước đo
cho sự giàu có của mỗi quốc gia không chỉ đơn giản đo bằng khối lượng tài
nguyên thiên nhiên; trong thực tế một nước có thể nghèo về của cải tự nhiên
song vẫn có thể trở thành một nước giàu mạnh, nếu ở đó có được chiến lược phát
triển đúng cùng với NNL có chất lượng cao và biết khai thác hợp lý nó (Nhật
Bản, Singgapo,...).
Vậy nguồn nhân lực có chất lượng cao được hiểu như thế nào? Có nhiều
cách hiểu về nguồn nhân lực chất lượng cao, trước hết đó là khái niệm để chỉ về
một người lao động cụ thể được đào tạo, có trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ
thuật ứng với một ngành nghề nhất định theo tiêu chí đành giá phân loại lao
động về chuyên môn nhất định. Nói đến NNL chất lượng hay NNL chất lượng
cao của một quốc gia có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tuy vậy NNL chất lượng
cao là nói đến một bộ phận lao động có chất lượng, tinh túy nhất, cũng không thể
đặt NNL chất lượng cao trong tổng thể chất lượng NNL nói chung. Nguồn nhân
lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động,
yêu cầu của doanh nghiệp trong và ngoài nước, đó là người lao động có sức
khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tính năng động xã hội,
phẩm chất đạo đức, tác phong, thái độ đối với công việc và môi trương làm việc
và hiệu quả lao động của NNL [29].
Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế chỉ ra một nền kinh tế muốn tăng
trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: áp dụng công
nghệ mới, phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng NNL. Trong
đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con
10
người, đặc biệt là NNL chất lượng cao, tức là con người được đầu tư phát triển,
tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành
“nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”.
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (World Bank) 2010 Việt Nam đang
rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân có trình độ bậc cao, chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam rất thấp so với các nước khác. Nếu lấy thang điểm là
10 thì chất lượng NNL của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm - xếp thứ 11/12 nước
Châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng thế giới, trong khi Hàn Quốc đạt 6,91
điểm, Ấn Độ đạt 5,76 điểm, Malaysia là 5,59 điểm, Thái Lan là 4,94 điểm...
Cũng theo các đánh giá của các chuyên gia nước ngoài chất lượng NNL
Việt Nam tuy đã có những bước tiến trong những năm gần đây tuy vậy vẫn còn
thấp trong so sánh với một số nước khu vực và quốc tê.
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều mục tiêu
cụ thể về phát triển NNL cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm
2015 và tầm nhìn 2020. Những mục tiêu này đã phản ánh toàn diện và khái quát
các nội dung của phát triển NNL nước ta đến 2015: về trạng thái thể lực nâng
cao tầm vóc trung bình, tuổi thọ của nhân dân, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ
em, giảm tỷ lệ mắc bệnh và nâng cao chăm sóc sức khỏe cộng đồng; về năng lực
trí tuệ nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn - kỹ thuật; về phẩm chất
đạo đức cần phát huy bản sắc dân tộc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại. Để thấy rõ những tiêu chí đánh giá NNL chất lượng cao cho phát triển kinh
tế - xã hội cần phân tích cụ thể các tiêu chí sau:
Một là: Tiêu chí về trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực
Trạng thái sức khỏe của NNL bao hàm cả về thể chất và tinh thần. Trong
hiến chương của tổ chức y tế thế giới đã nêu: "Sức khỏe là một trạng thái hoàn
toàn thỏa mái về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải là không có bệnh
hay thương tật”. Sức khỏe thể chất là sự cường tráng, năng lực lao động chân
tay, còn sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả năng vận
động của trí tuệ, khả năng biến tư duy thành hành động thực tiễn, khả năng đối
11
phó với những biến động của môi trường xã hội. Trong đó năng lực thể chất
chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Nếu con người có thể lực tốt thì mới phát huy
được lợi thế của sức mạnh trí tuệ trong phát triển kinh tế - xã hội và ngược lai.
Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để
truyền tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật
chất phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, sức khỏe là yếu tố quan trọng của NNL,
nó trở thành một chỉ tiêu quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Tình trạng sức khỏe được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ
bản về sức khỏe như: Chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình hình
bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các điều kiện về bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe.
Để nâng cao trạng thái sức khỏe của NNL phụ thuộc nhiều yếu tố từ thu
nhập, mức sống, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, từ đó nhằm nâng cao tuổi thọ
trên cơ sở tăng cường thể lực, cải thiện thể hình trước hết là chiều cao và cân
nặng của người lao động. Theo thống kê của Viện nghiêm cứu Thanh niên chiều
cao và cân nặng của thanh niên Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên
thế giới còn thấp.
Bảng 1.1: Thể lực của thanh niên 18 tuổi của một số quốc gia
Chỉ tiêu
Indonexia Nhật Bản Philippines Thái Lan Việt Nam
Chiều cao (cm)
Nam 162,9 170,4 162,3 165,9 161,5
Nữ 151,7 157,4 151,7 155,1 151,9
Cân nặng (kg)
Nam 48,7 62,2 54,0 52,7 48,2
Nữ 45,9 50,4 46,0 48,8 45,8
Nguồn: Viện Nghiên cứu conngười, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 2004
Đồng thời với việc nâng cao tầm vóc là không ngừng cải thiện thể trạng
và đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa chiều cao và trọng lượng cơ thể, tăng
cường trạng thái sức khỏe chung, đặc biệt là sự phát triển hài hòa về tố chất thể
12
lực cần thiết (sức bền, sức mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, khéo léo) cho người lao
động, học tập, sáng tạo và các hoạt động bình thường khác của mỗi người.
Bảng 1.2: Các mục tiêu cụ thể cần đạt đƣợc vào năm 2020
2000 2005 2010 2020
Tuổi thọ 67,8 70 71 75
Tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 5 tuổi (0/00) 42 37 32 20
Chiều cao của thanh niên (m) - - 1.6 1.65
Nguồn: Chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo; Nghị
quyết 37/CP của Chính phủ về định hướng chiến lược công tác chăm sóc và sức
khỏe nhân dân giai đoạn 1996-2000 và 2020.
Hai là: Tiêu chí biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động
Trình độ văn hóa của NNL là biểu hiện của người lao động đối với những
kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội thông qua các chỉ số: trình độ văn hóa,
dân trí, học vấn trung bình của một người dân được thể hiện qua trình độ học vấn
bao gồm các tiêu chí về: Tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên
hoạt động kinh tế; tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ
văn hóa tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; số năm đi học trung bình
của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế; tỷ lệ dân số đi học các cấp: Tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông.
Ba là: Tiêu chí về trình độ chuyên môn - kỹ thuật của người lao động.
Chất lượng của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở thể lực, trình độ học
vấn, mà quan trọng hơn là trình độ CMKT, đó là sự hiểu biết, kiến thức và năng
lực thực hành về một nghề nghiệp nhất định. NNL có trình độ CMKT bao gồm
những người lao động đã có bằng chứng chỉ hành nghề, những lao động đã qua
đào tạo từ hệ trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, trên đại học ở các hình
thức đào taọ khác nhau được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: Tỷ lệ lao động
đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang làm việc là % số lao động đã qua
đào tạo từ sơ cấp, công nhân kỹ thuật đến sau đại học so với lực lượng lao động
đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát trình độ CMKT của
nguồn nhân lực; trình độ CMKT được thể hiện thông qua tỷ lệ lao động được
13
đào tạo theo cấp bậc so với tổng số lao động đang làm việc của cả nước, từng
vùng, từng ngành. Chỉ tiêu này đánh giá một cách cụ thể nhất về trình độ CMKT
của nguồn nhân lực; cơ cấu các loại lao động đã qua đào tạo theo trình độ
CMKT và cấp bậc đào tạo thể hiện cơ cấu số lao động có trình độ ĐH, CĐ/số lao
động có trình độ trung học truyên nghiệp/số lao động là công nhân kỹ thuật. Chỉ
tiêu này cho thấy cơ cấu đào tạo có cân đối với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế
hay không, trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh nhu cầu đào tạo cho phù hợp.
Các nghiên cứu của các nhà khoa học gần đây cho thấy rằng, cơ cấu trên thể hiện
ở Việt Nam còn bất hợp lý “thừa thầy, thiếu thợ”.
Ngoài ra, trí lực của NNL còn biểu hiện ở kỹ năng, kỹ xảo của người lao
động, chúng phụ thuộc trước hết vào khả năng của mỗi người, sự yêu thích nghề
nghiệp, ý thức rèn luyện kỹ năng, tay nghề. Mặt này thể hiện qua thông số năng
lực hoạt động chuyên môn của người lao động.
Bốn là: Tiêu chí thông qua chỉ số phát triển con người HDI
Chỉ số phát triển con người được tổ chức Liên hợp quốc sử dụng thông
qua các chỉ số về sức khỏe (tuổi thọ bình quân), trình độ học vấn (tỷ lệ dân số
biết chữ) và thu nhập bình quân trên người (tổng sản phẩm quốc nội GDP bình
quân/người) làm thước đo chung để so sánh về chỉ số phát triển con người và
nhân lực của các quốc gia.
Chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng đáng kể trong những
năm gần đây, thứ tự xếp hạng theo HDI của Việt Nam cũng được cải thiện.
Bảng 1.3: Chỉ số HDI của Việt Nam
Chỉ số HDI Thứ bậc so với các nƣớc tham gia xếp hạng Năm
1990 0,608 74/130
1995 0,539 120/174
2000 0,671 108/174
2004 0,691 112/177 nước
2005 0,704 108/177 nước
2008 0,725 105/177 nước
2009 0,733 116/182 nước
14
Nguồn: Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng;
Nxb. CTQG, Hà Nội 2010.
Năm là: Tiêu chí thông qua trình độ ngoại ngữ, trình độ tin học.
Trong nền kinh tế tri thức, ngày nay người ta xem xét năng lực phẩm chất
của NNL còn được thể hiện thông qua trình độ ngoại ngữ và tin học. Trình độ
ngoại ngữ và tin học được thể hiện cơ cấu lao động biết ngoại ngữ, tin học qua
chứng chỉ trình độ A hoặc không có chứng chỉ nhưng trình độ kiến thức và thực
hành tương đương trình độ A. Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới
cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và xu hướng chuyển
sang nền kinh tế tri thức đang diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới, thì trình độ
ngoại ngữ và tin học là công cụ quan trọng để nâng cao năng xuất lao động của
nguồn nhân lực.
1.2. Vai trò của nguồn nhân lực chất lƣợng cao đối với phát triển kinh
tế - xã hội và các nhân tố ảnh hƣởng
1.2.1. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh
tế - xã hội
Một là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định sự thành
công của quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình tất yếu mà trong sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc đều phải trải qua. Quá trình CNH, HĐH sẽ thúc
đẩy sự phát triển, sự thay đổi về nhiều mặt. Chẳng hạn, nó làm thay đổi cơ cấu từ
một cơ cấu lạc hậu sang một cơ cấu tiến bộ hơn; cơ cấu các khu vực lớn trong
kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế kỹ thuật, cơ cấu trong nội bộ mỗi ngành, cơ cấu
ở từng vùng, từng địa phương cho đến cơ cấu trong nội bộ từng doanh nghiệp.
Trong quá trình này NNL cùng với khoa học công nghệ luôn được đánh giá cao,
song trong đó nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định.
Ở nước ta quá trình CNH đã được tiến hành từ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ III (1960) khi đó CNH chỉ đơn giản là “quá trình xây dựng nền sản xuất
cơ khí trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân”, từ Hội nghị lần 7 Ban chấp hành
TƯ khóa VII, Đảng ta đã xác định: “Công nghiệp hóa không chỉ là sự tăng thêm
15
một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà
là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững và có hiệu quả cao trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa; kết hợp những
bước tuần tự về công nghệ phát triển theo chiều rộng, tạo nên công ăn việc làm
cho đội ngũ lao động đông đảo hiện nay với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt,
đón đầu phát triển chiều sâu tạo nên những mũi nhọ theo trình độ tiến triển của
khoa học công nghệ thế giới”. CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay được Đảng
ta xác định là nhiệm vụ của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, quá trình này
chỉ có thể thành công khi phát huy mọi nguồn lực trong đó nguồn nhân lực có
chất lượng là yếu tố hàng đầu. Đại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã
khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy
mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho
phát triển nhanh hiệu quả và bền vững...”.
Do vậy, phát triển NNL ở Việt Nam đặc biệt quan trọng cho sự thành
công của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Cho nên, cần tạo ra và cải
thiện tất cả các điều kiện cần thiết để phát triển NNL nhanh, có chất lượng, đáp
ứng nhu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, của CNH, HĐH và hội nhập kinh
tế quốc tế.
Hai là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để tăng trưởng nhanh,
rút ngắn khoảng cách và tránh tụt hậu.
Trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát
triển mạnh mẽ, lao động trí óc thay thế cho lao động phổ thông đã trở thành yêu
cầu khách quan, là xu thế phổ biến của thế giới. Để tạo lợi thế so sánh trong hội
nhập kinh tế thế giới thì nguồn lực truyền thống không còn là yếu tố quyết định,
mà thay vào đó là khoa học công nghệ và nguồn nhân lực. Xem xét sự tương tác
giữa các nguồn lực thì NNL lại có vai trò quyết định vì các nguồn lực khác như
tài nguyên thiên nhiên, vốn, đất đai, vị trí địa lý chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng.
16
Chúng chỉ phát huy khi có sự kết hợp với nguồn lực con người, bởi con người là
chủ thể của quá trình hoạt động sản xuất và có tư duy, trí tuệ biết kết hợp các
nguồn lực có hiệu quả nhất.
Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam đang đứng trước thách thức rất lớn về NNL chất lượng cao. Tỷ lệ nguồn
nhân lực chất lượng cao còn thấp so với nhu cầu của thực tế. Đến năm 2010, lao
động qua đào tạo có tăng, song đến nay mới chỉ đạt 24,8% chỉ tăng 2,2% so với
năm trước.
Việt Nam là nước đang phát triển, trong khi dư thừa một lượng lớn lao
động phổ thông, thì lại thiếu hụt số lượng không nhỏ lao động có trình độ cao,
nhất là lao động cung cấp cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu
lao động. Đây là tình trạng đáng báo động, không phù hợp với quy luật tăng
trưởng là tỷ lệ tăng trưởng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bao giờ cũng
phải cao hơn tốc độ tăng GDP để đảm bảo tăng GDP một cách vững chắc.
Với mục tiêu phát triển NNL đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có cơ cấu công nghiệp, và dịch vụ trong
GDP chiếm khoảng 85-90%, nông nghiệp chỉ còn 10-15% thì nhu cầu đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao theo dự báo như sau:
Bảng 1.4: Dự báo nhu cầu đào tạo
Tỷ lệ lao động đƣợc đào tạo (%) Tỷ lệ lao động đƣợc đào tạo Năm nghề (%)
2000 20 13,4
2005 30 18-19
2010 40 26,6
2020 60 44
Nguồn: Nguyễn Đình Luận (7/2005), “Phát triển NNL chất lượng cao cho
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Như vậy, vấn đề cơ bản trong phát triển NNL chất lượng cao là phải tăng
nhanh về số lượng để nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo, đặc biệt chú trọng
17
đào tạo nghề, đảm bảo cơ cấu đào tạo hợp lý giữa đại học, cao đẳng trở lên so
với trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề, đồng thời nâng cao chất lượng
NNL với tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất và
năng lực phù hợp với yêu cầu kinh tế tri thức ở Việt Nam, có như thế mới rút
ngắn được khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, góp
phần tăng trưởng nhanh và bền vững.
Ba là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là cơ sở cho sự phát triển nền kinh
tế tri thức.
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa thế kỷ XX đến nay là kết quả
của sự phát triển trí tuệ con người. Những tiến bộ khoa học - kỹ thuật do trí tuệ
con người tạo ra đang làm thay đổi nền sản xuất xã hội. Trí tuệ trở thành yếu tố
khởi động cho guồng máy sản xuất hoạt động theo dạng thức mới. Đó là nền sản
xuất tự động với sự tăng lên nhanh chóng hàm lượng lao động trí tuệ, sử dụng
các thiết bị máy móc hiện đại, vận hành đơn giản , nhưng hiệu suất lại tăng lên
gấp bội, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm hao phí và hạn chế ô nhiễm môi trường.
Thực tế, quá trình CNH ở các quốc gia trên thế giới cho thấy trong tiến trình
CNH, nếu nước nào biết dựa vào việc khai thác và sử dụng năng lực của nguồn
nhân lực, thì luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định như Canađa,
Singgapo, Mexique... Ngược lại các nước như khối Ả Rập, một số nước Châu
Phi đều có nguồn tài nguyên dầu lớn, nhưng chưa có quốc gia nào ở đó vượt lên
để gia nhập nhóm “các nước phát triển” mà mãi vẫn dừng lại ở các nước đang
phát triển” hoặc “kém phát triển”.
Như vậy, có thể khẳng định nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự phát
triển bền vững của các quốc gia chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ
không chỉ là nguồn của cải vật chất, những nguồn lực truyền thống như trước
đây. Vì vậy, hình thành và phát triển NNL có chất lượng cao là yếu tố quan trọng
nhất không chỉ trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mà còn tạo
cơ sở phát triển nền kinh tế tri thức.
1.2.2. Nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế
- xã hội
18
Thứ nhất: Việt Nam bước vào thời kỳ chiến lược với mục tiêu như Đại
hội lần thứ XI đã xác định: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ
cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ
rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững;...” [17,
tr.103].
Trong bối cảnh như ngày nay khi thế gới có những thay đổi nhanh chóng
và biến động khó lường. Các xu hướng nổi trội là: Sự phát triển nhảy vọt của
khoa học và công nghệ; hình thành nền kinh tế tri thức; sử dụng các công nghệ
tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường; phát triển kinh tế xanh. Đây là
động lực chủ yếu, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu thị trường toàn cầu, thúc
đẩy quá trình cải cách và tái cấu trúc kinh tế trong từng nước cũng như sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các nước. Đón nhận quá trình này một cách tự
nhiên hoặc chủ động lựa chọn tùy thuộc vào năng lực nội sinh và chính sách của
toàn cầu hóa và liên kết kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thúc đẩy quá trình
quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động xã hội, trong bối cảnh ấy mỗi nước
đều tìm cách khai thác tốt nhất lợi thế so sánh sẵn có, chuyển lợi thế so sánh
thành lợi thế cạnh tranh, đồng thời tạo lập các lợi thế cạnh tranh mới. Tài nguyên
thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế là lợi thế so sánh sẵn có, tuy rất quan trọng
nhưng không phải là quyết định nhất. Thực tiễn đã khẳng định nguồn lực con
người là yếu tố nội sinh năng động, quyết định lợi thế cạnh tranh dài hạn của một
quốc gia. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện khoa học công nghệ - sản phẩm
trí tuệ của con người phát triển nhảy vọt trong thời đại ngày nay, hơn nữa mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng vì phát triển con người. Con người phát triển
toàn diện, có đời sống vật chất ấm no, hạnh phúc, có đời sống tinh thần phong
phú, có năng lực trí tuệ, phát huy mọi khả năng sáng tạo trong nhật thức được cái
tất yếu để có thể làm chủ bản thân, làm chủ xã hội vươn tới tự do.
Để đạt được mục tiêu chiến lược Đảng ta đã xác định phải tiến hành đồng
bộ nhiều giải pháp, trong đó phải lựa chọn đúng các khâu đột phá - những khâu
hiện đang là những cản trở sự phát triển mà nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ
19
tạo ra những tiền đề giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn
lực cho phát triển, đó là ba đột phá:
Một là: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
Hai là: Phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Con người là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất và tinh thần. Con người
làm ra thể chế, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, là lực lượng sản
xuất quan trọng nhất.
Ba là: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Thứ hai: Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện khoa học kỹ
thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Dự thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2020 đã khẳng định:
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày
càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này đã nhấn mạnh những yêu cầu mới,
quan trọng của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phảI
dựa vào trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, phản ánh xu thế khoa học
và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, điều này được thể hiện:
Một là: Chu kỳ từ lúc có phát minh khoa học đến lúc nó được ứng dụng
trong thực tiễn ngày càng rút ngắn.
Hai là: Lực lượng lao động và các nhà khoa học đang dần trực tiếp tham
gia nghiên cứu và sản xuất.
Ba là: Thông tin đã trở thành một nguồn lực thực sự, luôn luôn thay đổi
và phát triển.
Thứ ba: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự phát triển của khoa học -
công nghệ đặt ra yêu cầu mở rộng quy mô nguồn nhân lực có chất lượng cao
20
CNH, HĐH nền kinh tế trong điều kiện KH - CN phát triển mạnh đòi hỏi
phải tăng cường đào tạo lao động CMKT ở các trình độ (công nhân kỹ thuật, trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học trở lên). Để thực hiện được yêu cầu này,
giáo dục phổ thông có vai trò quan trọng tạo nguồn đầu vào cho quá trình đào tạo
nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật. Từ đó đặt ra nhiệm vụ phải mở rộng quy
mô giáo dục THCS, THPT, trong đó đặc biệt là mở rộng quy mô giáo dục THPT
để có cơ sở đào tạo, phát triển NNL trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Mặt khác CNH, HĐH với việc đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng thành tựu
KH - CN hiện đại trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, tính cạnh tranh của lao động
không dừng lại ở phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế đòi hỏi
NNL phải được nâng lên tiến tới đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới. Do đó, giáo
dục, đào tạo cũng cần được quan tâm hơn nữa để có thể cung ứng được cho thị
trường lao động một NNL có chất lượng cao, phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc
tế, đáp ứng được yêu cầu các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế và thị trường lao động.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực chất lượng cao
NNL chất lượng cao hay chất lượng NNL là một chỉ tiêu tổng hợp về con
người, chịu tác động tổng hòa của nhiều yếu tố. Trong quá trình CNH, HĐH
phát triển KT - XH đất nước, NNL chịu ảnh hưởng của một số yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất: Trình độ phát triển kinh tế - xã hội tác động tới chất lượng
nguồn nhân lực.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia đóng vai trò quyết
định đến trình độ phát triển NNL nhất là NNL chất lượng cao của nước đó. Bởi
vì, đó là cơ sở để xác định mức tiền lương, thu nhập, cải thiện mức sống và nâng
cao dân trí của các tầng lớp dân cư cũng như người lao động. Khi thu nhập được
nâng cao thì các hộ gia đình sẽ cải thiện được chế độ dinh dưỡng, có khả năng
đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe. Từ đó sức khỏe, trình độ văn hóa,
CMKT được nâng cao và tiếp tục thúc đẩy nâng cao chất lượng NNL.
Trình độ phát triển kinh tế- xã hội cao càng có điều kiện đầu tư cho giáo dục
và đào tạo, khi giáo duc đào tạo phát triển lại góp phần quyết định trực tiếp vào việc
tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
21
NNL chất lượng cao có mối quan hệ biện chứng với nhau và tác động qua lại lẫn
nhau. Hay nói cách khác, kinh tế là nền tảng của phát triển xã hội, của con người,
trong đó có NNL chất lượng cao và đến lượt nó là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế.
Đối với Việt Nam, do trình độ kinh tế- xã hội còn ở mức thấp nên chất lượng
nguồn nhân lực chưa cao, do đó việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế là khâu đột phá nhằm
thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ 2010-
2020 và tạo ra bước phát triển mới trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Thứ hai: Giáo dục và đào tạo tác động trực tiếp việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI có ghi:
“Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục và đào tạo...” [17, tr.41]. Luật Giáo dục năm 2005 có ghi:
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển [33].
Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo là một trong những yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng NNL, vì nó không chỉ quyết định trình độ
văn hóa, CMKT của NNL mà còn quyết định tới tuổi thọ của người lao động
thông qua thu nhập, nhận thức và xử lý thông tin khoa học kỹ thuật.
Trong báo cáo giám sát giáo dục toàn cầu năm 2005 do UNESCO công bố
ngày 8/11, Việt Nam xếp hạng 64/127 nước. Chỉ số giáo dục cho tất cả được
UNESCO hình thành từ những chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học
- Tỷ lệ biết chữ ở người lớn (từ 5 tuổi trở lên)
- Mức độ cân bằng về giới trong giáo dục
- Chất lượng giáo dục
Cụ thể bảng chỉ số giáo dục của một số nước như sau:
22
Bảng 1.5: Chỉ số giáo dục
Tỷ lệ biết
Tỷ lệ phổ cập giáo
Mức độ cân bằng về
Chất lƣợng
Xếp
Quốc gia
EDI
giáo dục
hạng
chữ ở ngƣời lớn
dục tiểu học 0,999
0,980
giới trong giáo dục 0,992
0,990 4 Hàn Quốc 0,990
54 Trung 0,930 0,946 0,909 0,885 0,980 Quốc
60 Thái Lan 0,921 0,863 0,926 0,955 0,941
64 Việt Nam 0,914 0,940 0,903 0,925 0,890
Nguồn: UNESCO (2004), Tuần tin kinh tế xã hội - Trung tâm Thông tin
và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia - Bộ Kế hoach và Đầu tư, (5), tr.20-21.
Như vậy, có thể thấy tác động của giáo dục, đào tạo đối với NNL ở một số
nội dung:
Một là: Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo càng cao thì quy mô NNL
có CMKT càng được mở rộng, vì giáo dục, đào tạo là nguồn gốc để nâng cao tỷ
lệ lao động qua đào tạo CMKT của nền kinh tế.
Hai là: Mức độ phát triển giáo dục, đào tạo càng cao thì càng có khả năng
phát triển NNL theo chiều sâu. Bởi vì, một trong những tiêu chí phát triển giáo
dục, đào tạo là nâng cao chất lượng đầu ra. Chất lượng đầu ra của giáo dục, đào
tạo phải đáp ứng được yêu cầu của các ngành kinh tế và của xã hội
Ba là: Đầu tư cho giáo dục, đào tạo sẽ đem lại những lợi ích to lớn, lâu
dài cho cả cá nhân và phát triển kinh tế - xã hội. Đối với cá nhân sẽ nhận được
sự đào tao và nâng cao kỹ năng, kiến thức chuyên môn, có hiểu biết sâu rộng và
có tháI độ đúng đắn với công việc từ đó có nhiều cơ hội thể hiện mình. Đối với
phát triển kinh tế - xã hội giáo dục, đào tạo sẽ tạo ra đội ngũ NNL chất lượng cả
về CMKT và những người quản lý tài giỏi.
Bốn là: Giáo dục, đào tạo có vai trò quan trong trong việc nâng cao năng
lực cho NNL tiếp thu và vận dụng tri thức khoa học khi nền kinh tế tri thức ngày
càng giữ vai trò quan trọng.
23
Năm là: Giáo dục, đào tạo sẽ làm ra nguồn “vốn nhân lực” để phát triển
kinh tế. Vì trong quá trình đào tạo NNL sẽ được đào tạo trong cả quá trình, hệ
thống từ nhỏ đến trưởng thành.
Thứ ba: Tăng dân số ảnh hưởng tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Tăng dân số có tác động trực tiếp tới số lượng và chất lượng NNL. Quy mô,
tốc độ tăng dân số nhanh là nguyên nhân cản trở tốc độ tăng trưởng và phát triển
kinh tế - xã hội. Gia tăng dân số nhanh sẽ làm tăng số lượng lao động, gây sứ ép
lên giải quyết việc làm, thu nhập, đào tạo, làm giảm khả năng chăm sóc sức khỏe
và giải quyết các vấn đề xã hội. Theo kết quả của các nhà nghiên cứu, cứ tăng dân
số 1% thì yêu cầu tăng GDP phải ít nhất là 3% thì mới đảm bảo được sự phát triển
kinh tế - xã hội bình thường, theo đó có đủ sản phẩm và dịch vụ ở mức cần thiết để
đảm bảo duy trì sản xuất, tạo công ăn việc làm và mức sống như hiện tại.
Đối với Việt Nam trong khoảng từ năm 1999 đến năm 2009 tốc độ tăng
trưởng kinh tế luôn nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của dân số (trên 5% so với từ 1
đến 1,4%), bởi vậy Việt Nam có điều kiện để cải thiện chất lượng cuộc sống của
nhân dân, phát triển giáo dục, đào tạo để nâng cao chất lượng NNL, vì vậy chính
sách dân số cũng là một trong những chính sách cần được quan tâm.
Thứ tư: Chế độ dinh dưỡng, phát triển y tế và chăm sóc sức khỏe cộng
đồng có ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực.
Chế độ dinh dưỡng là yếu tố cần thiết cho con người để duy trì sức khỏe
táI sản xuất sức lao động, dinh dưỡng được cung cấp từ các yếu tố lương thức,
thực phẩm. Dinh dưỡng đầy đủ đảm bảo duy trì sức khỏe đáp ứng nhu cầu cho
nâng cao chất lượng NNL ngược lại thiếu dinh dưỡng cũng sẽ dẫn đến thể lực
ốm yếu, khả năng miễn dịch kém, dễ mắc bệnh, suy giảm nghiêm trọng khả năng
làm việc và tác động đến chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao. Sức khỏe
tốt thì chất lượng NNL ở cả hiện tại và tương lai đều có thể phát triển tăng lên,
người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận bằng việc nâng
cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung khi làm việc. Việc nuôi dưỡng và
chăm sóc sức khỏe tốt cho trẻ em sẽ là yếu tố làm tăng năng suất lao động trong
tương lai, giúp trẻ em nhanh chóng đạt được những người khỏe về thể chất, lành
24
mạnh về tinh thần; giúp trẻ em nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần
thiết thì sẽ đảm bảo sức khỏe cho nguồn nhân lực.
Ngoài vấn đề dinh dưỡng, thì sự phát triển của hệ thống y tế và chăm sóc
sức khỏe sộng đồng có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng NNL. Hệ thống y tế và
chăm sóc sức khỏe cộng đồng được biểu hiện ở hệ thống bệnh viện, trung tâm y
tế sức khỏe cộng đồng, tỷ lệ đầu tư y tế bình quân, tỷ lệ giường bệnh, bác sĩ,
dược sĩ, y tá trên dân số. Việc không ngừng nâng cao đầu tư cho hệ thống y tế,
đặc biệt là hệ thống y tế dự phòng sẽ có tác động nâng cao tuổi thọ, sức khỏe dân
cư và nâng cao chất lượng NNL ở phạm vi rộng lớn.
Ngoài những yếu tố về giáo dục và y tế thì chất lượng nguồn nhân lực còn
bị tác động bởi nhiều yếu tố khác: Tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con
người liên quan đến môi trường pháp luật, thể chế và các chính sách, cơ chế giải
phóng sức lao động, tạo động lực để con người phát triển, phát huy tài năng và sức
sáng tạo của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa của một quốc gia, dân tộc cũng
hun đúc và kết tinh trong mỗi con người và cả cộng đồng dân tộc, bồi đắp nên
bản lĩnh, ý chí, tác phong của con người trong lao động tạo nên nét đặc trưng,
phong cách truyền thống, những đặc điểm chính như sự cần cù, khéo léo,… của
lực lượng lao động.
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phƣơng trong nƣớc về phát triển
nguồn nhân lực chất lƣợng cao cho phát triển kinh tế - xã hội
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất
lượng cao của Thành phố Hà Nội
Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước vì vậy Hà Nội cũng là
địa phương có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lớn của cả nước. Đặc biệt người có
trình độ đại học chiếm tới 40% của cả nước, và đội ngũ nhà khoa học sau đại học
cũng đứng đầu cả nước. Tuy vậy, trong những năm qua thành phố đã có nhiều cố
gắng trong việc thu hút, trọng dụng nhân tài với một số cơ chế: Quỹ ưu đãi,
khuyến khích các nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi; ưu đãi về nhà ở; các
ưu đãi về phụ cấp, thưởng bằng tiền, trợ cấp mua tài liệu nghiên cứu. Bên cạnh
25
đó, để thu hút tài năng trẻ, dần hình thành NNL “chất lượng cao”, thành phố chủ
trương khuyến khích các doanh nghiệp trên địa bàn thuộc mọi thành phần kinh tế
dưa ra những phương án thu hút, sử dụng tài năng trẻ;…
Để thực hiện những chủ trương như vậy Hà Nội đã tập trung thực hiện một
số nhóm giải pháp như:
Thứ nhất: Các giải pháp giải quyết việc làm và sử dụng nguồn nhân lực.
Hà Nội luôn coi trọng cả khía cạnh về kinh tế và xã hội của vấn đề việc làm.
Điều chỉnh cơ cấu việc làm và trạng thái việc làm thỏa mãn cả mục tiêu kinh tế và
xã hội; đa dạng hóa các loại hình và biện pháp tạo lập việc làm, cơ chế về tổ chức,
quản lý thị trường lao động; nâng cao trình độ chuyên môn - kỹ thuật và năng lực
cho người lao động nhằm nâng cao năng suất lao động và tạo ra khu vực việc làm
hiện đại có hiệu quả cao.
Sử dụng nguồn nhân lực nhất là đội ngũ khoa học kỹ thuật được quan tâm.
Vì Hà Nội là trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học hàng đầu của cả nước, tập
trung đội ngũ khoa học đông đảo vì vậy việc sử dụng hiệu quả đội ngũ nhà khoa
học có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp CNH, HĐH thủ đô, đội ngũ
nhà khoa học được tạo cơ hội tìm việc phù hợp và thu nhập đảm bảo chất lượng
cuộc sống. Hà Nội luôn tạo lập những chính sách đào tạo, thu hút và sử dụng nhân
tài cho quá trình phát triển của Thủ đô.
Thứ hai: Đào tạo và đào tạo lại nguồn lao động và đội ngũ cán bộ là các nhà
quản lý.
Đào tạo và đào tạo lại nhằm phục vụ quá trình CNH, HĐH Thủ đô Hà Nội
đã thực hiện các giải pháp: Khuyến khích phát triển hệ thống các cơ sở dạy nghề
của các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội; chuẩn hóa các cơ sở đào tạo do nhà
nước quản lý; khuyến khích và tranh thủ thu hút lực lượng chất xám từ các viên,
trung tâm nghiên cứu và trường đại học trên địa bàn; mở rộng hơp tác quốc tế đào
tạo NNL và cán bộ quản lý có chất lượng phục vụ sự phát triển của thủ đô.
Tóm lại, mặc dù Hà Nội có ưu thế NNL chất lượng cao nhưng thành phố
vẫn chưa có cơ chế chính sách đãi ngộ một cách hợp lý NNL chất lượng cao và
như vậy chưa sử dụng hết những tri thức và kinh nghiệm quý báu của họ, Do đó,
26
Hà Nội cần phải đề ra được chiến lược nhằm phát triển nguồn nhân lực một cách
toàn diện, có cơ chế chính sách thực sự hấp dẫn cả vật chất lẫn tinh thần bao
gồm từ tuyển dụng, bố trí, sử dụng dến chính sách tiền lương, chính sách đề bạt,
giao trọng trách, chính sách nhà ở nhằm thu hút những người hiền tài đem hết tri
thức và kinh nghiệm mà họ có vào phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
1.3.2. Một số kinh nghiệm thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh là một trong những tỉnh có diện tích nhỏ và mật độ dân số
cao, tỉnh cũng xác định nguồn lao động là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công hay không thành công trong phát triển của tỉnh. Do đó, nâng cao chất
lượng nguồn lao động là nhiệm vụ trọng tâm với các giải pháp đồng bộ, vừa đáp
ứng nhu cầu trước mắt, vừa đáp ứng nhu cầu lâu dài cho quá trình phát triển bền
vững của tỉnh.
Tỉnh đã xác định đến năm 2015 Bắc Ninh sẽ trở thành tỉnh công nghiệp
theo hướng hiện đại, vì vậy trong thời gian qua và thời gian tiếp theo đã tập
trung một số giải pháp đào tạo thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao
cho phát triển kinh tế xã hội như:
Thứ nhất: Tỉnh đã xác định rõ nguồn lao động là tài nguyên quý của tỉnh
trong công cuộc đổi mới và phát triển. Cần phải lấy nguồn lao động làm tài
nguyên lợi thế, gọi là tài nguyên nguồn lao động, hoặc tài nguyên con người.
Cần có chính sách đầu tư hợp lí nhằm thu hút nguồn lao động của các vùng lân
cận về với Bắc Ninh. Tạo ta môi trường sống hấp dẫn để giữ chân họ sống và
làm việc với Bắc Ninh.
Thứ hai: Thay đổi chiến lược đầu tư, không thu hút dự án sử dụng nhiều
lao động. Cần khuyến khích doanh nghiệp sử dụng đa dạng đối tượng lao động,
không phân biệt giới tính, độ tuổi…
Thứ ba: Nâng cao chất lượng bằng chính cải thiện và nâng cấp hạ tầng xã
hội, coi đó là biện pháp tăng thu nhập cho người lao động. Tập trung xây dựng
nhà ở cho người lao động theo nhiều hính thức.
27
Thứ tư: Cải thiện thông tin để người lao động có lựa chọn đúng đắn, phù
hợp với khả năng và nhu cầu của mình,…
Thứ năm: Đưa giáo dục hướng nghiệp sát thực tế hơn, rèn những kỹ năng
để người lao động có khả năng tham gia lực lượng lao động được ngay.
Thứ sáu: Hệ thống các tổ chức dịch vụ cung ứng nguồn lao động cần
được tổ chức lại và có những hình thức hoạt động phù hợp nhằm tạo nguồn cung
ứng kịp thời đồng thời có cảnh báo để điều chỉnh chính sách kịp thời cho người
lao động.
Như vậy, trong thời gian vừa qua với những chính sách cụ thể phù hợp
Bắc Ninh đã có những bước tăng trưởng cao về kinh tế - xã hội, một phần là nhờ
chính sách đào tạo, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao.
Bên cạnh đó Bắc Ninh vẫn còn có những hạn chế về thu hút và sử dụng hiệu quả
NNL, nhất là NNL chất lượng cao vì tỉnh vẫn chưa thực hiện tốt những chính
sách đáp ứng một cách cụ thể về môi trường làm việc, chế độ ưu đãi đối với
NNL chất lượng phục vụ quá trình CNH, HĐH của tỉnh.
1.3.3. Một số kinh nghiệm thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của Thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của Duyên hải miền Trung
có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng, vì vậy phát triển kinh tế - xã hội là
nhiệm vụ to lớn của địa phương và đất nước. Để phát triển kinh tế - xã hội Đà
Nẵng nhanh và bền vững không thể tách rời phát triển NNL có chất lượng cao.
Thực tiễn, trong thời gian qua Đà Nẵng đã có những chính sách hiệu quả cho
phát triển NNL phục vụ quá trình CNH, HĐH của mình, cụ thể họ đã thực hiện
đồng bộ các giải pháp như:
Thứ nhất: Đà Nẵng đã giải quyết tốt về chính sách dân số và phân bố lại
dân cư.
Đối với chính sách dân số được Đà Nẵng thực hiện thông qua công tác
tuyên truyền, giáo dục nhân dân thực hiện tốt chính sách dân số quốc gia luôn
giữ vững mục tiêu về tốc độ gia tăng dân số cơ học và dân số tự nhiên, chính
sách này đã có những tác động tích cực làm giảm tỷ lệ tăng dân số góp phần
28
giảm gánh nặng lên các chính sách y tế, giáo dục, việc làm và các vấn đề xã hội
khác.
Đồng thời với chính sách dân số, Đà Nẵng cũng thực hiện tốt chính sách
phân bố lại dân cư một cách hợp lý giữa thành thị và nông thôn. Khuyến khích
phân bổ lại dân cư thông qua các chính sách hỗ trợ vốn, đất đai,… tăng cường
đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm cải thiện và đời sống của nhân dân.
Thứ hai: Đà Nẵng đã tập trung đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo
nhằm nâng cao chất lượng NNL.
Đà Nẵng tập trung phát triển giáo dục và đào tạo với cơ cấu và quy mô
hợp lý, tỉnh đã tập trung phát triển các cấp học, ngành học, đa dạng hóa các loại
hình đào tạo phù hợp đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động đặc biệt là NNL
có chất lượng cao và cán bộ quản lý đáp ứng nhu cầu của tỉnh. Để thực hiện
được mục tiêu này hàng năm tỉnh đã đầu tư một phần ngân sách không nhỏ cho
giáo dục và đào tạo, và thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng NNL.
Thứ ba: Đồng thời với các chính sách trên Đà Nẵng luôn thực hiện tốt
những chính sách thu hút và sử dụng hiệu quả NNL như khuyến khích sử dụng
lao động đúng ngành nghề đào tạo, hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động đã
qua đào tạo, tổ chức hệ thống lao động theo cấp bậc và trình độ, có chính sách
tiền lương phù hợp và chế độ phụ cấp ưu đãi cho lực lượng lao động có chất
lượng cao.
Như vậy, để đào tạo, thu hút và sử dụng hiệu quả NNL chất lượng cho quá
trình phát triển của tỉnh, Đà Nẵng đã thực hiện hàng loạt các giải pháp. Do đó,
chất lượng NNL ở Đà Nẵng có những chuyển biến hết sức to lớn, đó cũng là
nguyên nhân Đà Nẵng có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm qua.
1.3.4. Một số kinh nghiệm thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, vì vậy
thành phố luôn có nhu cầu lớn về NNL có chất lượng cao. Để đáp ứng nhu cầu
29
của mình đối với NNL có chất lượng thành phố đã thực hiện đồng bộ các giải
pháp như:
Thứ nhất: Thành phố đã huy động và đầu tư nguồn lực không nhỏ cho
phát triển giáo dục và đào tạo. Thành phố luôn hoàn thiện các mô hình đào tạo,
các chính sách giáo dục, thực hiện đa dạng hóa các mô hình và loại hình đào tạo,
thực hiện xã hội hóa giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Thành phố
cũng luôn phối hợp chặt chẽ với các địa phương các bộ ngành nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục phục vụ cho quá trình đào tạo ra NNL có chất lượng cao.
Thứ hai: Thành phố thực hiện mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
giáo dục như mở rộng hình thức đào tạo du học sinh tại chỗ, tạo điều kiện cho
học sinh tu nghiệp ở nước ngoài, xây dựng hệ thống đào tạo chất lượng ngang
tầm khu vực và thế giới,…
Thứ ba: Đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
chất lượng và quy mô đào tạo từ cấp thành phố đến các quận, huyện. Thành lập
các trung tâm cung cấp thông tin tư vấn, các trung tâm nghiên cứu sản phẩm
công nghệ phục vụ nhu cầu học tập nâng cao của nhân dân.
Như vậy, Thành phố Hồ Chí Minh với vị trí là trung tâm kinh tế lớn nhất
cả nước vì vậy nhu cầu về NNL có chất lượng cao là vô cùng to lớn và cấp thiết
nhằm đưa thành phố ngày càng phát triển bền vững hơn. Để bù đắp cho sự thiếu
hụt về NNL trong thời gian hiện tại và trong tương lai, hiện nay thành phố đã
thực hiện hàng loạt các giải pháp phát triển giáo dục hiện đại và đồng bộ.
Tóm lại, từ các kinh nghiệm của một số địa phương về đào tạo, thu hút và
sử dụng NNL, nhìn chung các địa phương đều chú ý tới chính sách phát triển
giáo dục và đào tạo coi đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu nhằm phát triển nâng
cao chất lượng NNL. Bên cạnh đó các địa phương còn tập trung vào các chính
sách về dân số, y tế, quản lý nhà nước về lao động,… tuy vậy tùy thuộc điều kiện
của mỗi địa phương nên có giải pháp phù hợp.
30
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO
CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI HẢI DƢƠNG
TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội ảnh hƣởng đến nguồn nhân
lực và phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao ở Hải Dƣơng
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Hải Dương
Hải Dương là một tỉnh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, là một trong
những cái nôi của nền văn hoá lâu đời của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hàng ngàn
năm để lại cho Hải Dương cho vùng đất này một tài sản vô giá với hàng trăm di
tích lịch sử văn hoá. Hải Dương là một tỉnh nông nghiệp nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng Bắc Bộ, diện tích của tỉnh là 1648,2 km2, dân số năm
2010 là 1.715.989. Phía Đông giáp Thành phố Hải Phòng, phía Tây giáp tỉnh
Hưng Yên, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang.
Khí hậu, Hải Dương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,30C, nhiệt độ cao nhất mùa hè không quá 340C, giờ nắng
trung bình hàng năm 1542 giờ, lượng mưa trung bình hàng năm từ khoảng 1300
- 1700 mm, độ ẩm trung bình là 85 - 87%.
Địa hình, Hải Dương được chia thành hai vùng rõ rệt: vùng đồi núi và
vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên
gồm 13 xã thuộc thị xã Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn; là vùng núi
thấp, phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn
ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái
Bình bồi đắp, đất màu mỡ, thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được
nhiều vụ trong năm.
Đơn vị hành chính tỉnh gồm Thành phố Hải Dương, thị xã Chí Linh và 10
huyện: Nam Sách, Kinh Môn, Kim Thành, Thanh Hà, Ninh Giang, Gia Lộc, Tứ
Kỳ, Thanh Miện, Cẩm Giàng và Bình Giang.
31
Với vị trí địa lý và tự nhiên như vậy Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng
khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,
bao gồm cả đường bộ, đường thuỷ, đường sắt phân bố hợp lý rất thuận lợi cho
giao thương với các tỉnh lân cận và hoạt động xuất khẩu. Đường bộ có 4 tuyến
quốc lộ qua tỉnh dài 99km, đều là đường cấp I có 4 làn xe đi lại; đường sắt tuyến
Hà Nội - Hải Phòng song song với quốc lộ 5 đáp ứng nhu cầu vận chuyển và
đang thi công xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội - Quảng Ninh là cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển các huyện phía bắc tỉnh; đường thuỷ với hơn 400km đường
sông cho tàu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng, hệ thống bến bãi đủ đáp ứng cho
vận chuyển theo đường thuỷ.
Trong những năm qua quán triệt sâu sắc Nghị quyết IX, X của Đại hội
Đảng toàn quốc, Nghị quyết XIII, XIV, của Đảng bộ tỉnh, dựa trên những thuận
lợi từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên toàn tỉnh đã ra sức nắm bắt thời cơ, vượt qua
những khó khăn, phát huy các nguồn lực để phát triển KT - XH. Trong những năm
qua Hải Dương cũng đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, tạo ra sự đột phá làm
chuyển biến toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, có tác động lớn đến
việc nâng cao chất lượng NNL, thúc đẩy KT - XH phát triển hơn nữa.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Hải Dương đặt ra vấn đề phải phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Thứ nhất: Trong lĩnh vực kinh tế.
Giai đoạn 2006 - 2010 kinh tế có nhiều biến động, cuộc khủng hoảng kinh
tế bắt đầu từ cuối 2008 đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình phát triển kinh tế
của cả nước nói chung và của Hải Dương nói riêng. Chính vì vậy, tốc độ tăng
trưởng kinh tế chung của cả giai đoạn 2006 - 2010 có nhiều biến động so với giai
đoạn 2001 - 2005. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2006 tăng 10,9%, năm
2007 tăng 11,5%, năm 2008 tăng 10,3% và năm 2009 giảm xuống chỉ còn 6,0%,
năm 2010 với những dấu hiệu hồi phục của nền kinh tế nói chung nên đã tăng
10,2%.
32
Biểu đồ 2.1:
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), tr.16.
Trong giai đoạn 2006 - 2010 mặc dù tốc độ tăng trưởng của Hải Dương
chưa đạt được mục tiêu tăng trưởng (11,5/năm), nhưng vẫn giữ được tốc độ tăng
trưởng cao, phản ánh sự cố gắng rất lớn của Đảng bộ và nhân dân dân trong tỉnh.
Các hoạt động kinh tế được biểu hiện trên nhiều ngành, nghề, lĩnh vực khác
nhau. Tính chung trong giai đoạn 2001 - 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng
bình quân 10,3%, được thể hiện:
Một là: khu vực kinh tế, bao gồm khu vực nông, lâm, thuỷ sản - khu vực
công nghiệp, xây dựng - khu vực dịch vụ.
33
Bảng 2.1: Tăng trƣởng kinh tế và đóng góp của 3 khu vực kinh tế
và tốc độ tăng chung tỉnh Hải Dƣơng 5 năm (2006 - 2010)
ĐVT: %
Ƣớc
Bình quân
Bình quân
2006 2007 2008 2009
2010
2006-2010
2001-
- Tốc độ tăng GDP
2005 10,9
10,9 11,5 10,3
6,0
10,2
9,8
+ Nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản
4,0
2,0
3,2
5,3
-1,8
2,2
2,2
+ Công nghiệp, xây dựng
15,6
15,3 13,8 10,8
6,3
11,9
11,6
+ Dịch vụ
10,5
10,4 13,7 12,9 10,6 11,8
11,9
- Đóng góp vào tốc độ
tăng trưởng chung
(điểm % trong tốc độ
tăng GDP)
+ Nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản
0,9
0,7
1,0
- 0,3
0,4
+ Công nghiệp, xây
dựng
8,3
7,1
5,7
3,3
6,3
+ Dịch vụ
1,7
3,7
3,6
3,0
3,5
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội Hải Dương
2006 - 2010.
Bảng trên cho thấy, khu vực công nghiệp, xây dựng luôn có tốc độ tăng
trưởng cũng như đóng góp và tốc độ tăng trưởng chung cao nhất (đóng góp từ 55
- 76%); khu vực dịch vụ, tuy đóng góp không cao bằng khu vực công nghiệp,
xây dựng nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực này vẫn ổn định hơn; tăng
trưởng thấp nhất là khu vực nông - lâm - thuỷ sản (dưới 10%).
Khu vực nông, lâm, thuỷ sản: Tăng trưởng trong khu vực nông, lâm, thuỷ
sản không cao do nhiều nguyên nhân cụ thể như ảnh hưởng liên tiếp của thiên
tai, dịch bệnh diễn ra trên diện rộng và kéo dài, sự bất lợi của thị trường và giá
34
cả, mặt khác do lao động còn mang giản đơn, kỹ thuật thấp lại chưa được tăng
cường, diện tích đất nông, lâm, thuỷ sản ngày càng bị thu hẹp do chuyển đổi mục
đích sử dụng; việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng chưa đạt được kết quả theo ý
muốn, công tác dịch vụ cung ứng vật tư nông, lâm, thuỷ sản còn hạn chế, thị
trường tiêu thụ bấp bênh, công tác tiếp thị còn yếu,... từ 2006 - 2010 giá trị tăng
thêm của khu vực này bình quân tăng 2,2%/năm. Mức đóng góp vào tăng trưởng
GDP hàng năm còn hạn chế, bình quân hàng năm dưới 10% trong tốc độ tăng
trưởng chung của nền kinh tế.
Khu vực công nghiệp, xây dựng: Kinh tế Hải Dương trong những năm gần
đây chủ yếu do tăng trưởng trong khu vực công nghiệp, xây dựng là chủ yếu.
Những sản phẩm tiêu biểu có giá trị lớn của Hải Dương như điện, xi măng, ôtô,
chiếm tỷ trọng lớn hơn 60% trong giá trị sản xuất công nghiệp. Năm 2006 tốc độ
tăng trưởng của khu vực công nghiệp, xây dựng đạt khá (15,3%) nhưng có xu
hướng giảm trong một hai năm gần đây, cụ thể năm 2009 thì tốc độ tăng chỉ là
6,3 so với năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế. Tốc độ tăng bình quân chung của khu vực công nghiệp, xây dựng giai
đoạn 2006 - 2010 tăng 11,6%/năm. Tính chung 10 năm tăng bình quân
13,6%/năm.
Khu vực dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ của tỉnh trong
những năm qua có mức cao hơn trung bình của GDP, trong 5 năm 2006 - 2010
bình quân tăng hơn 11,9%/năm; 10 năm 2001 - 2010 tăng bình quân 11,1%/năm.
Mức đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm khoảng 30%.
Trong các ngành dịch vụ, các dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh như vận
tải, kho bãi, bưu chính viễn thông, tài chính và ngân hàng luôn đạt tốc độ tăng
trưởng cao trong giai đoạn 2006 - 2010, đã tác động tích cực vào mức tăng
trưởng của khu vực dịch vụ. Đồng thời xuất hiện nhiều hoạt động dịch vụ mới
mang đạm nét của nền kinh tế thị trường, có tỷ trọng giá trị tăng thêm cao như
ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, kinh doanh
bất động sản, tin học, pháp lý, tuyển chọn nhân sự, việc làm,... Tuy nhiên, hiện
nay ở tỉnh Hải Dương cơ cấu kinh tế của các ngành này chiếm tỷ trọng còn thấp,
35
đóng góp chưa nhiều vào mức tăng trưởng chung.
Nhìn chung, các ngành dịch vụ kinh doanh (bao gồm thương mại, khách
sạn, nhà hàng, vận tải, bưu chính, viễn thông; tài chính, ngân hàng; kinh doanh
tài sản, dịch vụ tư vấn liên quan) có mức tăng trưởng cao. Đây cũng là những
ngành có chi phí đầu tư không lớn, còn nhiều tiềm năng nên cần được phát triển
mạnh hơn trong những năm tới. Các ngành dịch vụ khác tăng trưởng không cao.
Do đó, cần đẩy mạnh việc xã hội hoá các hoạt động dịch vụ này, trước hết là xã
hội hoá hoạt động giáo dục, đào tạo; văn hoá, thể thao; hoạt động khoa học, công
nghệ để những ngành này đóng góp tích cực hơn vào tăng trương của khu vực
dịch vụ nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung.
Hai là: Theo thành phần kinh tế, Hải Dương đang trong quá trình chuyển
đổi, với sự đan xen nhiều hình thức sở hữu. Việc phát huy tính năng động và
tiềm năng của các thành phần kinh tế vừa là giải pháp để huy động tất cả các
nguồn lực trong xã hội vào phát triển kinh tế.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trƣởng theo thành phần kinh tế
ĐVT: %
2006
2007
2008
2009
Ƣớc 2010
10,9 5,2 4,1 11,5 16,0 3,6 10,3 5,4 12,0 6,0 1,8 8,2
Bình quân 2006- 2010 9,8 6,7 8,0
10,2 5,6 12,2
59,2 23,7 16,8 8,7 13,6 23,2
2,0 2,0 5,9 1,7 2,0 5,2 0,7 3,6 2,0 5,5
6,9 3,9 3,1 1,7 2,7 - Tốc độ tăng GDP + Kinh tế Nhà nước + Kinh tế ngoài Nhà nước + Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung + Kinh tế Nhà nước + Kinh tế ngoài Nhà nước + Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội Hải Dương
2006 - 2010.
36
Kinh tế nhà nước: Đây là thành phần kinh tế chiếm vai trò quan trọng
trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Trong giai đoạn 2006 - 2010 tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 6,7%/năm; 10 năm 2001 - 2010, tốc độ tăng bình quân đạt
8,3%. Tính đến cuối năm 2009 trên địa bàn tỉnh có 33 doanh nghiệp nhà nước,
trong đó có 19 doanh nghiệp nhà nước và 14 doanh nghiệp địa phương [6, tr.21].
Kinh tế nhà nước chiếm 25,8% GDP toàn tỉnh, là thành phần kinh tế có vai trò
quan trọng với 2 lĩnh vực chủ yếu là xi măng và điện. Tuy nhiên, thành phần
kinh tế này thường có tốc độ tăng trưởng thấp hơn thành phần kinh tế ngoài nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế ngoài nhà nước: Kinh tế ngoài nhà nước trong giai đoạn 2006 -
2010 có tốc độ trung bình 8,0%. Tính đến cuổi năm 2009, toàn tỉnh có 2.895
doanh nghiệp, trong đó có 585 doanh nghiệp tập thể, có 612 doanh nghiệp tư
nhân, có 1042 công ty TNHH, 16 công ty cổ phần có vốn nhà nước, 640 công ty
cổ phần không có vốn nhà nước [6, tr.22]. Những năm gần đây, số lượng doanh
nghiệp ngoài nhà nước phát triển nhanh, cùng với kinh tế cá thể đóng góp vào
tốc độ tăng chungGDP. Mặt khác, việc chuyển đổi hợp tác xã đã xuất hiện hợp
tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành có hiệu quả.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp
tục có bước phát triển mạnh, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới trở
thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Với việc duy trì tốc độ tăng
trưởng cao, đóng góp vào tỷ trọng GDP của tỉnh từ 13,8% năm 2005 đến năm
2010 tăng 17,8%; đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển cũng như
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, giải quyết việc làm. Trong giai đoạn 2006 -
2010 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 23,2%/năm; trong 10 năm 2001 - 2010,
tốc độ bình quân 28,8%/năm. Tính đến cuối năm 2009, toàn tỉnh hiện có 127
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động. Tuy nhiên, khu vực
kinh tế này, chủ yếu là công nghiệp chế biến tiếp tục khai thác được các lợi thế
về nguồn nguyên liệu sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu, nhưng chi
phí trung gian tương đối cao, hạn chế đến tăng trưởng chung.
Ba là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ.
37
Trong những năm vừa qua đã có sự biến đổi rõ nét, cơ bản phát triển theo
hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến 2020. Tiểu
vùng dọc quốc lộ 5 phát triển các ngành công nghiệp lắp ráp ôtô, cơ khí, chế tạo
điện tử. Các khu công nghiệp tập trung trong tiểu vùng và đang bắt đầu xây dựng
cơ sở hạ tầng đồng bộ, những năm qua đã thu hút nhiều dự án đầu tư có quy mô
lớn, điển hình là các khu công nghiệp Nam Sách, Đại An, Phú Thái, Phúc Điền,
Tân Trường,... Tiểu vùng Kinh Môn - Nhị Chiểu, phát triển ngành công nghiệp
khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng; đang tập trung một số cơ sở sản xuất xi
măng lớn như: xi măng Hoàng Thạch, Phúc Sơn, Thành Công, Phú Tân,... đang
thu hút dự án nhà máy Nhiệt điện Kinh Môn. Tiểu vùng dọc quốc lộ 18 chủ yếu
phát triển các ngành du lịch, thương mại; hạ tầng các khu, điểm du lịch.
Thứ hai: Trong lĩnh vực xã hội
Trong những năm 2006 - 2010, cùng với sự phát triển kinh tế, tình hình
văn hoá - xã hội cũng có những bước phát triển toàn diện từ dân số, lao động,
việc làm, đời sống dân cư, văn hoá, giáo dục, y tế,...
Một là: Về dân số, trong 5 năm qua dân số Hải Dương có sự chuyển dịch
cả về quy mô và cơ cấu; năm 2005 có 1.685.000 người, năm 2010 là 1.715.989
người, tốc độ tăng dân số trong giai đoạn 2006 - 2010 là 0,9‰. Tốc độ đô thị hoá
sau 5 năm tăng nhanh mỗi năm bình quân dân số thành thị tăng 7%; năm 1995
dân số thành thị là 15,8%, đến năm 2010 là 21,8%. Về cơ cấu giới tính, năm
2010 nam chiếm 48,9% (tăng so với 2005 là 0,2%), dân số nữ là 51,1%, tuy vậy
mấy năm gần đây tỷ lệ sinh giới tính thì bé trai chiếm 120/100. Về cơ cấu độ
tuổi, đã có những thay đổi cơ bản, từ 2004 đến 2009 tỷ lệ người dưới 16 tuổi
giảm từ 27,5% xuống 24,9% tỷ lệ người trong độ tuổi từ 16 đến 59 là 61,4% năm
2004 lên 63,4%, số người trên 60 tuổi tăng từ 11,1% lên 11,7%. Như vậy, Hải
Dương đang có sự chuyển dịch theo chiều hướng thuận lợi khi đang bắt đầu
trong trạng thái dân số “vàng”. Về mật độ dân số, toàn tỉnh năm 2010 là 1.035 người/km2, tăng 30 người/km2 so với năm 2000 (năm 2000 là 1.005/km2). Biến
động dân số trong năm năm qua tỷ suất sinh tăng giảm không đều 2006 là
16,09‰ năm 2008 là 16,20‰ và 2010 là 15,5‰. Tỷ lệ dân nhập cư trong 5 năm
38
qua khoảng 28 ngàn người. Dân số tăng chậm hơn so với tăng dân số tự nhiên;
nguyên nhân chính là do xuất cư của tỉnh vẫn cao hơn nhập cư.
Hai là: Về mức sống và chi tiêu thường xuyên, trong gần 10 năm trở lại
đây mức sống của nhân dân được nâng cao, về cơ bản những chỉ tiêu như thu
nhập, chi tiêu, nhà ở và các phương tiện phục vụ sinh hoạt đều được nâng cao.
Kết quả điều tra về nhà ở những năm gần đây cho thấy đời sống của nhân dân
trong tỉnh tăng nhanh, cơ cấu thu nhập thay đổi theo chiều hướng tích cực. Tuy
nhiên chênh lệch thu nhập cũng ngày càng có xu hướng doãng rộng hơn. Thu
nhập bình quân giai đoạn 2006 - 2010 tăng năm 2006 là 614.000 đồng/tháng đến
2010 là 1.274000 đồng/tháng tăng 20,3%/năm, trong đó thành thị tăng 23,7%,
nông thôn tăng 18,3%. Tính chung trong 10 năm từ 2001 - 2010 thu nhập bình
quân tăng 16,6%, trong đó thành thi là 16,8% và nông thôn là 15,9%. Tính theo
nguồn thu nhập cũng có sự thay đổi, 2010 thu nhập từ tiền lương là 36,2% năm
2006 là 32%, thu nhập từ nông, lâm, thuỷ sản là 24,8% năm 2006 là 39,8%, khu
vực phi nông nghiệp 2010 là 39% so với 2006 là 39,8% điều này thể hiện sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực của tỉnh. Chi tiêu bình quân theo
đầu người giai đoạn 2006 - 2010 tăng 18,4%, tính chung trong 10 năm từ 2001 -
2010 tăng 14,8%/năm, cụ thể năm 2010 chi tiêu đạt 886.000 đồng/tháng/người.
So với thu nhập thì chi tiêu ít hơn thể hịên mức thu nhập cho tích luỹ phục vụ
mở rộng sản xuất phát triển kinh tế. Theo kết quả điều tra cuối 2005 tỉnh có
76.382 hộ nghèo chiếm 17,9% thì 2010 chỉ còn 4,9% hộ nghèo.
Ba là: Về lao động và việc làm, do trong thời gian gần đây sự phát triển
về giáo dục và đào tạo Hải Dương có nhiều bước phát triển. Vì vậy năm 2009 số
người trên 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo là 41% [6, tr 26], (Chủ yếu là đào tạo
nghề 31,54%) trong đó có trình độ đại học trở lên là 2,9%, tăng 1,62% so với
2004, số người tốt nghiệp cao đẳng là 2,1% tăng 0,97% so với năm 2004
(1,13%), số người tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 5,8% tăng 2,58%
so với 2004 (3,22%), số người có bằng chứng chỉ, công nhân kỹ thuật, nghiệp vụ
chiếm 3,2%.
Tỉnh đã có những chính sách hỗ trợ tạo việc làm, tăng cường huy động các
39
nguồn lực mở rộng sản xuất và đẩy mạnh công tác tư vấn, giới thiệu việc làm và
mở rộng hoạt động xuất khẩu lao động. Từ 2006 - 2010 toàn tỉnh đã giải quyết
việc làm cho 157.263 lao động, tăng 31% so với giai đoạn 2001 - 2005. Số lao
động lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản là 38.075 người, ngành công nghiệp, xây dựng
là 68.757 lao động, ngành dịch vụ là 30.965 lao động và xuất khẩu 19.466 lao
động. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị 2010 là 4,8% giảm so với 2005 là 5,5%, tỷ lệ
thời gian lao động ở nông thôn năm 2010 là 82,5% tăng so với 2005 là 79,0%.
Về cơ cấu lao động chuyển biến tích cực theo hướng CNH, HĐH. Tổng số
lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2010 là 971.6000 người,
tăng 29,400 người so với 2005 tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp có chiều
hướng giảm năm 2005 là 70,5% thì đến 2010 chỉ còn là 54,5% và ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ thì ngược lại năm 2005 chiếm 29,5% thì đến 2010
đã tăng lên 45,5%.
Bốn là: Về thực hiện chính sách xã hội, tỉnh đã thực hiện tốt các chính
sách xã hội, chăm lo tốt cho những gia đình có công, gia đình chính sách, người
tàn tật, người nghèo, trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, trợ cấp cho
những đối tượng theo quy định. Đã thực hiện tốt phong trào đền ơn đáp nghĩa,
hoạt động nhân đạo, huy động mọi nguồn lực hỗ trợ người nghèo như cho vay
ưu đãi để phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ cho học sinh, sinh viên
nghèo vay tiền, miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo và hoàn
cảnh khó khăn. Thực hiện chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế, cơ sở hạ
tầng cho vùng gặp nhiều khó khăn.
Năm là: Về giáo dục, đào tạo và y tế, hiện nay mạng lưới trường lớp trên
điạ bàn tỉnh khá hoàn thiện. Các trường mầm non trên địa bàn tỉnh đều là trường
ngoài công lập, trường tiểu học toàn tỉnh có 279, trường trung học cơ sở có 273
trường , trường PTTH toàn tỉnh có 52 trường, có 12 trung tâm giáo dục thường
xuyên và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh, có 8 trung tâm kỹ thuật tổng
hợp, 11 trường chuyên nghiệp 263 trung tâm giáo dục cộng đồng.
Đối với quy mô và chất lượng đào tạo, tỷ lệ huy đông nhà trẻ năm 2009
đạt 41%, mẫu giáo đạt 95,8% trong đó mẫu giáo 5 tuổi đạt 100%. Quy mô học
40
sinh ở các cấp học phổ thông thay đổi theo hướng xã hội hoá giáo dục, năm 2005
tỷ lệ học sinh chia theo hình thức đào tạo công lập chiếm 91,2% - bán công
chiếm 7,3% - dân lập chiếm 1,5% - tư thục chiếm 0%, đến năm 2009 là công lập
chiếm 89,7% - bán công chiếm 6,8% - dân lập chiếm 2,2% - tư thục chiếm 1,3%.
Năm 2005 số học sinh các cấp phổ thông có 318.912 học sinh, trong đó tiểu học
122.809 học sinh, trung học cơ sở 127.540 học sinh, THPT là 68.563 học sinh
thì đến 2010 có tổng số 275.667 học sinh, trong đó tiểu học là 118.724 học sinh,
trung học cơ sở 96.205 học sinh, trung học phổ thông là 60.738 học sinh. Số học
sinh phổ thông tuy giảm nhưng tỷ lệ người đi học/ dân số và trong độ tuổi tăng.
Giáo dục mầm non 2009 có 288 trường với tổng số 78.140 cháu, 3.477
lớp, có 46 trường đạt chuẩn quốc gia, bình quân có 22 cháu/lớp, chất lượng chăm
sóc sức khoẻ, vệ sinh phòng bệnh, nuôi dưỡng, giáo dục ở mầm non tiếp tục
được nâng cao. Đối với tiểu học Hải Dương đã hoàn thành chương trình phổ cập
tiểu học đúng độ tuổi từ 2000 và đạt chuẩn phổ cập THCS từ năm 2001, trong
giai đoạn 2006 - 2010 chỉ tập trung nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập và
từng bước thực hiện phổ cập bậc trung học. Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1
năm 2009 đạt 99,99% (mục tiêu 100%). Học sinh tiểu học tốt nghiệp lên lớp 6
đạt 100%, đối với trung học cơ sở vào trung học phổ thông và GDTX năm 2009
đạt 85,56%. Tỷ lệ thanh thiếu niên từ 15 - 18 tuổi tốt nghiệp THCS 2009 đạt
95,15%.
Giáo dục trung học, trung học cơ sở triển khai thực hiện đầy đủ kế hoạch
giáo dục và giảng dạy theo chuẩn kiến thức và kỹ năng phù hợp với từng học
sinh. THCS năm 2010 có 273 trường, với 3.069 lớp và 99.745 học sinh giảm so
với 2005 21,8%, có 265/265 xã phương, thị trấn có trường THCS, duy trì tỷ lệ
tốt nghiệp THCS trên 97%, bình quân hàng năm tỷ lệ học sinh khá, giỏi THCS là
55,5%, chất lượng phổ cập THCS tiếp tục được củng cố. Đối với trung học phổ
thông 2010 có 53 trường với 1.375 lớp và có 62.861 học sinh. Tỷ lệ tốt nghiệp
THPT trên 90%, bổ túc THPT trên 77%, bình quân hàng năm tỷ lệ học sinh
THPT khá giỏi đạt 45%, năm 2010 Hải Dương xếp hạng 3 toàn quốc về điểm thi
trung bình đại học.
Đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất, toàn tỉnh đảm bảo 100% giáo viên đạt
41
chuẩn và trên chuẩn, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên có sự phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Giáo dục mầm non 2009 có 4.565 người tăng 12% so
với 2005 đạt chuẩn là 97,3%, trên chuẩn là 25,3%. Giáo viên tiểu học từ 5.367
người đến 2009 tăng lên 6.172 người, giáo viên THCS giảm từ 6366 người 2005
xuống còn 6.180 năm 2009, giáo viên THPT từ 2.166 người năm 2005 lên 6184
người năm 2009. Đối với cơ sở vật chất kỹ thuật, tiếp tục được củng cố, tăng
cường theo hướng đồng bộ, chuẩn hoá, hiện đại. Năm 2009 tỷ lệ phòng học kiên
cố bình quân các cấp học đạt 81,3%, đảm bảo chỉ tiêu THCS và THPT đạt 100%
có thư viện. Đảm bảo mỗi huyện đạt 50% số trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia,
5 trường THPT được công nhận đạt chuẩn, 2 trường được công nhận chuẩn về
cơ sở vật chất, và 12 trường sắp hoàn thiện đầu tư xây dựng.
Đào tạo chuyên nghiệp, giáo dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề tiếp tục được đổi mới cả chương trình, nội dung, phương
pháp dạy học theo hướng tích cực, bám sát nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực của
địa phương và nhu cầu của xã hội. Đổi mới phương thức đào tạo liên thông dưới
nhiều hình thức. Thực hiện đa phương hoá cơ cấu ngành nghề, loại hình đào tạo,
mở rộng giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề tại 8 huyện, thành phố.
Toàn tỉnh có 10 cơ sở giáo dục đào tạo chuyên nghiệp, có 4 trường đại
học (3 trường công lập và 1 trường tư thục), 6 trường trực thuộc địa phương.
Trong 5 năm 2006 - 2010 các trường đã duy trì đào tạo hệ trung cấp chuyên
nghiệp bình quân 5.200học sinh/năm, hệ cao đẳng, đại học bình quân 31.100
sinh viên/năm. Các trường dạy nghề đã được chỉ đạo và thực hiện đổi mới nội
dung và phương thức đào tạo phù hợp nhu cầu xã hội.
Đối với y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, tỉnh đã và đang thực hiện
củng cố mạng lưới cơ sở y tế từ tuyến tỉnh đến các cơ sở. Mạng lưới y tế công
lập có 2 chi cục là Chi cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Chi cục An toàn
vệ sinh thực phẩm; 51 đơn vị sự nghiệp, bao gồm 1 bệnh viện đa khoa tỉnh, 6
bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh, 6 trung tâm chuyên khoa tuyến tỉnh; 13 bệnh
viện đa khoa tuyến huyện; 12 trung tâm y tế cấp huyện, 12 trung tâm dân số - kế
hoạch hoá gia đình cấp huyện, toàn tỉnh có 263 trạm y tế cấp xã. Mạng lưới y tế
ngoài công lập toàn tỉnh có 1.333 cơ sở y tế và dược tư nhân, tăng 767 cơ sở so
42
với 2005, trong đó có 1 bệnh viện đa khoa, 24 phòng khám đa khoa, 234 phong
khám chuyên khoa, 209 cơ sở dịch vụ y tế, 245 phòng chuẩn trị y học cổ truyền
19 cơ sở kinh doanh thuốc, 1 trung tâm kế thừa ứng dụng y học cổ truyền và 580
cơ sở sản xuất và kinh doanh dược. Hiện duy trì 1.564 nhân viên y tế thôn.
Đối với đội ngũ cán bộ y tế, toàn hệ thống hiện có 4.687 người, đạt tỷ lệ
27,3 người/ 1 vạn dân (năm 2005 chỉ có 22,6 người/1 vạn dân). Tỷ lệ bác sỹ là 6
bác sỹ/1 vạn dân, năm 2009 số bác sỹ trong cơ sở công lập là 818, trong đó có
344 bác sỹ có trình độ sau đại học, chiếm 41%. Hiện nay, 100% số trạm y tế đủ
năng lực theo yêu cầu tối thiểu 5 người, 100% trạm y tế có y sỹ sản, nhi hoặc nữ
hộ sinh, 100% số thôn có nhân viên y tế. Ngành dược năm 2010 có 110 dược sỹ
cao cấp, kỹ thuật viên trung cấp 12 người, năm 2010 và dược tá 278 người và
dược sỹ trung cấp 415 người. Như vậy, qua 5 năm số lượng dược sỹ cao cấp tăng
chậm 5,8%, trong khi đó cán bộ ngành được tăng 24%, dược sỹ trung cấp tăng
33%, dược tá tăng 28,1%, so với năm 2005 cán bộ ngành dược năm 2010 tăng
35,8%.
Về cơ sở vật chất, các đơn vị y tế công lập đã có bước thay đổi đáng kể về
cơ sở vật chất và trang thiết bị. Các bệnh viện không còn cấp 4 dột nát, tất cả các
bệnh viện, thị xã, thành phố và bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh có hệ thống xử
lý rác thải y tế và hệ thống xử lý nước thải y tế đạt tiêu chuẩn. Năm 2005 có 216
xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 81%, số trang thiết bị của tất
cả các trạm y tế đều và vượt mức tối thiểu 70% theo quy định của Bộ y tế, đáng
chú ý là cơ sở y tế xã, phường có bác sỹ năm 2000 là 99, đến năm 2005 tăng lên
là 197, thì đến năm 2009 lại giảm còn 177.
Các hoạt động y tế khác, trên 99% số trẻ em trong độ tuổi được tiêm
phòng đầy đủ các loại vắc xin trong chương trình tiêm chủng quốc gia. Loại trừ
bệnh uốn ván sơ sinh, hạn chế tới mức tối đa bệnh sởi. Loại trừ bệnh bại liệt, ho
gà, hạn chế nhiễm viêm gan B, viêm não Nhật Bản B, duy trì thanh toán bệnh
phong, bệnh sốt rét, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 23,5% năm 2996 còn
18,5% năm 2009, tỷ lệ trẻ em từ 8 - 10 tuổi bướu cổ 2005 là 5% xuống còn 4,1%
năm 2009. Tỷ lệ bệnh nhân lao phổi xét nghiệm đờm dương tính còn 35
người/100.000 dân, số xã tham gia vào chương trình kiểm soát, điều trị bệnh
43
nhân lao đạt tỷ lệ 100%. Tỷ lệ nhiễm HIV dưới 0,03%. Có 132 xã tham gia vào
chương trình quản lý, theo dõi điều trị bệnh nhân tâm thần ở cộng đồng, tăng
97% xã so với 2005 đạt 95%.
Như vậy, trong 5 năm qua, công tác y tế của Hải Dương luôn duy trì ổn
định và phát triển vững chắc trên các mặt hoạt động bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ của nhân dân. Chương trình mục tiêu y tế quốc gia góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho ngành y tế có thêm nguồn lực để chủ động trong công tác phòng
chống bệnh dịch thiên tai thảm hoạ và không để dịch lớn xảy ra.
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội của Hải Dương tiếp tục có bước phát
triển, kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển
dịch theo hướng tích cực. Sản xuất nông, lâm, thuỷ sản phát triển theo hướng
nâng cao năng suất, chất lượng. Ngành công nghiêp, xây dựng có nhiều thành
tựu và tốc độ phát triển cao. Ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng
GDP của tỉnh. Thu nhập và đời sống nhân dân không ngừng được củng cố và
tăng cường, các chính sách dân số, lao động, việc làm, y tế,... đều đạt được
những thành tựu quan trọng. Những thành tựu về kinh tế - xã hội đó đã tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình phát triển NNL chất lượng. Tuy vậy bên cạnh những
thành công đó thì kinh tế - xã hội Hải Dương còn một số hạn chế, yếu kém như
tăng trưởng kinh tế - xã hội còn chưa vững chắc, kết cấu hạ tầng còn chưa đáp
ứng được nhu cầu, việc quy hoạch và giải quyết các vấn đề ở các khu công
nghiệp còn hạn chế,... Do đó cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển NNL
chất lượng của tỉnh.
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực chất lƣợng cao cho phát triển kinh tế
- xã hội ở Hải Dƣơng giai đoạn 2005 -2010
2.2.1. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển
kinh tế - xã hội ở Hải Dương
Thứ nhất: Số lượng nguồn nhân lực
Số lượng và chất lượng NNL lớn là điều kiện thuận lợi cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, là động lực thúc đẩy KT - XH phát triển.
- Dân số và lao động Hải Dương
44
Tính đến thời điểm 1/4/2009 dân số Hải Dương là 1.705.059 người đứng
thứ 11 trong 63 tỉnh thành trong cả nước, dân số trung bình năm 2005 là
1.685.512 người và năm 2010 là 1.715989 người. Như vậy chỉ trong 5 năm Hải
Dương đã tăng 30.477 người, trong đó dân số thành thị 2010 là 21,8% và nông
thôn là 78,2%.
Biểu đồ 2.2: Dân số tỉnh Hải Dƣơng
1.685,5
1.694,7
1.708,4
1.716,0
Về cơ cấu giữa các nhóm tuổi, đã có những thay đổi cơ bản từ 2004 đến
2009 tỷ lệ người từ 0 - 15 tuổi giảm từ 27,5% xuống 24,9% tỷ lệ người trong độ
tuổi từ 16 - 60 là 61,4% năm 2004 lên 63,4%, số người trên 60 tuổi tăng từ
11,1% lên 11,7%. Như vậy, tỷ lệ nhóm tuổi ngoài lao động ngày càng có xu
hướng giảm, điều đó có ảnh hưởng rất lớn tới việc phát triển NNL nói chung và
NNL chất lượng cao cho phát triển KT - XH của tỉnh nói riêng.
45
Bảng 2.3: Lao động đang việc làm trong các ngành kinh tế
Đơn vị: Người
Chia ra
Dịch vụ
Tổng số Công nghiệp, xây dựng
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
942.186 664.618 2005 149.265 128.303
944.088 637.213 2006 168.384 138.491
947.842 601.310 2007 193.112 153.420
950.070 577.123 2008 212.062 160.885
961.315 555.810 2009 236.688 168.817
971.600 529.755 2010 264.985 176.860
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội Hải Dương
2006 - 2010, tr.174.
Đến 2010 Hải Dương có 1.326.068 người từ 15 tuổi trở lên trong đó có
971.600 người đang làm việc trong các ngành kinh tế tăng so với 2006 (lực
lượng trong độ tuổi lao động là 944.088 người) và lao động đang làm việc trong
các ngành nông, lâm, thuỷ sản chiếm 577.123 người giảm so với 2006 (637.213
người), ngành công nghiệp, xây dựng có 264.985 người tăng so với 2006
(168.384 người) và trong ngành dịch vụ có 276.860 người tăng so với 2006
(138.491 người). Lao động đã qua đào tạo năm 2009 là 42.898 người. Hàng năm
có hơn 20.000 người bước vào tuổi lao động đây là nguồn bổ sung to lớn cho lực
lượng lao động của tỉnh. Như vậy lực lượng lao động của Hải Dương tương đối
dồi dào là điều kiện to lớn cho phát triển KT - XH của tỉnh. Tuy vậy, nếu không
biết khai thác một cách hợp lý và hiệu quả lực lượng này, thì nó lại là nhân tố
kìm hãm sự phát triển của tỉnh.
- Quy mô NNL
Tính đến 31/12/2009 tổng số lao động đang làm việc trong 3.055 doanh
nghiệp là 179.076 người, trong đó nữ chiếm 55,0% (98.556 người), nam chiếm
45,0% (80.584 người) so với 2005 số lao động tăng thêm là 96.417 người
(116,6%), tăng bình quân 21,3%/ năm, số lao động bình quân một doanh nghiệp
46
là 59 người. Trong đó lao động trong các ngành nghề cũng có thay đổi qua các
năm, cụ thể năm 2010 lao động trong ngành nông, lâm, thuỷ sản chiếm 54,5%,
ngành công nghiệp, xây dựng chiếm 27,3% và ngành dịch vụ chiếm 18,2% so
với 2005 thì lao động trong ngành nông, lâm, thuỷ sản giảm (70,5%), ngành
công nghiệp, xây dựng tăng so với 2005 (15,9%) và ngành dịch vụ tăng so với
2005 (13,6%). Sự chuyển dịch lao động từ ngành nông, lâm, thuỷ sản sang
ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ là do chiến lược và chính sách phát
triển CNH, HĐH của tỉnh phấn đấu 2015 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng
hiện đại và đưa vào hoạt động các khu công nghiệp, cum công nghiệp đã thu hút
được một lượng lao động không nhỏ và các ngành mới này. Đặc biệt là các
ngành công nghiệp chế biến, xây dựng cơ bản, dịch vụ và các ngành công nghiệp
mới như ôtô, điện tử,... Như vây, quy mô lao động của tỉnh ngày càng tăng qua
các năm và có sự chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.
Thứ hai: Chất lượng nguồn nhân lực
Có thể thấy rằng chất lương NNL của Hải Dương trong những năm gần
đây đã được nâng lên rõ rệt, điều này thông qua số liệu về thể lực người lao
động, chất lượng giáo dục các cấp, tổng dân số từ 15 tuổi đến 50 tuổi chưa qua
đào tạo CMKT, đào tạo sơ cấp nghề, đào tạo trung cấp nghề, trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng nghề, cao đẳng, đại học trở lên.
Thể lực (sức khoẻ) NNL
Thể lực NNL được thể hiện qua các chỉ số đánh giá về chiều cao, cân
nặng, loại sức khoẻ, tuổi thọ bình quân của NNL. Hiện nay tình trạng sức khoẻ,
thể lực của NNL Hải Dương cũng đang nằm trong tình trạng chung của NNL của
Việt Nam. Về cân nặng và chiều cao đang được cải thiện tuy vậy vẫn còn thấp.
Cụ thể các chỉ số lao động ở độ tuổi 18 có chỉ số trung bình nam có chiều cao
161,5 cm, nặng 48,2kg và nữ là 151,9 cm và nặng 45,8kg. Tỷ lệ trẻ em bị suy
dinh dưỡng đã giảm đáng kể năm 2006 là 23,5% đến 2010 chỉ còn 18,0%, tuổi
thọ bình quân đạt 72 tuổi. Như vậy, thể lực NNL Hải Dương tuy có được nâng
lên nhưng còn kém so với yêu cầu để có thể đẩy mạnh phát triển KT - XH của
tỉnh. Nguyên nhân của tình trạng này là do mức thu nhập còn thấp, mức sống
47
chưa được cải thiện nhiều, tuy trong thời gian qua mức thu nhập có sự thay đổi
đáng kể nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển NNL.
Cùng với thể lực, sức khoẻ người lao động thì điều kiện trong nhiều ngành
sản xuất trong các nhà máy xí nghiệp của tỉnh còn kém, môi trường lao động bị ô
nhiễm, các yếu tố độc hại vượt quá chỉ số cho phép nhiều lần, vẫn còn tình trạng
tai nạn lao động, qua kiểm tra sức khoẻ định kỳ của người lao động trong các nhà
máy, xí nghiệp cho thấy tình trạng sức khoẻ của người lao động ở múc trung bình.
Chất lượng NNL qua chất lượng đào tạo các cấp:
Trình độ đào tạo của NNL được thể hiện trước hết qua tỷ lệ lao động biết
chữ, đa số lao động Hải Dương biết đọc, biết viết, các trung tâm giáo dục thường
xuyên có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng bổ túc văn hoá. Tỷ lệ người biết
đọc, biết viết của lao động từ 15 đến 35 tuổi đạt trên 99,95%, nếu năm 2006 tỷ lệ
lao động biết chữ trong lực lượng lao động là 97% thì 2010 tăng hơn 99%. Tỷ lệ
lao động biết chữ tăng là do các chính sách phát triển hệ thống giáo dục phổ
thông và phổ cập giáo dục, tuy nhiên thực tế cho thấy vẫn còn một số lượng nhỏ
lao động chưa biết chữ cần được quan tâm.
Đối với giáo dục mầm non, có những bước chuyển biến rõ về chất lượng
chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng bệnh, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm, tỷ lệ trẻ em
được tổ chức ăn bán trú lứa tuổi nhà trẻ 2009 đạt 65% (tăng 16,3% so với 2006),
100% các trường tổ chức ăn bán trú đảm bảo hợp vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nhà trường phối hợp với y tế triển khai tiêm chủng, phòng chống dịch bệnh,
tuyên truyền kiến thức nuôi dạy trẻ cho các bà mẹ.
Ở bậc giáo dục tiểu học, tỉnh đã hoàn thành chương trình phổ cập tiểu học
đúng độ tuổi từ 2000 chỉ tập trung phổ cập trung học cơ sở từ 2001, trong giai
đoạn 2006 - 2010 tập trung nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập và từng bước
thực hiện phổ cập bậc trung học. Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 năm 2010
đạt 99,99%, học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6 đạt tỷ lệ 100%.
Chất lương giáo dục phổ thông cơ sở, năm 2010 có 265/265 xã, phường,
thị trấn đều đạt chuẩn phổ cập THCS, duy trì tỷ lệ tốt nghiệp THCS trên 97%
bình quân hàng năm, tỷ lệ học sinh khá, giỏi bậc THCS là 55,5%, chất lượng phổ
48
cập THCS tiếp tục được củng cố.
Đối với THPT, năm 2010 có 53 trường, tỷ lệ học sinh ngoài công lập tăng
từ 8,8% năm 2005 lên 10,3% năm 2010, tốt nghiệp THPT đạt trên 90% và bổ túc
THPT trên 77%, bình quân hàng năm, tỷ lệ học sinh khá, giỏi bậc THPT là 45%,
chất lượng giáo dục phổ thông đảm bảo, tỷ lệ học lực khá, giỏi đạt 41,2%.
Chất lượng NNL đã qua đào tạo chuyên môn - kỹ thuật
Chất lượng NNL không chỉ thể hiện ở trình độ giáo dục và đào tạo các cấp
mà quan trọng hơn là thông qua tỷ lệ người trong độ tuổi lao động đã được đào
tạo qua trình độ CMKT. Trình độ CMKT của NNL phản ánh tiềm năng lao động
chất xám, lao động kỹ thuật của tỉnh. Xu hướng vận động chung của NNL trong
quá trình phát triển KT - XH là giảm dần lao động phổ thông, lao động chưa qua
đào tạo, tăng dần xu hướng lao động có trình độ CMKT trong các ngành và các
khu vực kinh tế. Trong quá trình phát triển KT - XH không chỉ đòi hỏi NNL mà
còn cần NNL có chất lượng cao vì vậy cần nâng cao trình độ CMKT của người
lao động. Điều này được thể hiện rõ qua bảng số liệu về số lượng lao động từ 15
tuổi trở lên chia theo trình độ đào tạo CMKT ở từng nhóm tuổi:
49
Bảng 2.4: Lao động từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ CMKT cao nhất
đã đƣợc đào tạo theo nhóm tuổi
Trình độ CMKT cao nhất được đào tạo
Nhóm tuổi
THCN
CĐ Đại học
KXĐ
Sơ cấp nghề
CĐ nghề
Thạc sỹ
Tiến sỹ
Tổng dân số 15 tuổi trở lên
Chưa đào tạo CMKT
Trung cấp nghề
Tổng số
1,326,068 1,140,308 42,983 46,237 30,300 8,058 19,730 37,233 1,063
81
76
15-17 tuổi
98,473
97,890
534
-
-
-
50
-
-
-
-
18-19 tuổi
65,144
61,753 1,793
265 191
212
891
39
-
-
-
20-24 tuổi
144,127 111,971 8,290 10,343 3,934 2,839 3,754 2,968
9
-
19
25-29 tuổi
138,067 102,245 8,372 9,185 3,636 1,820 3,894 8,762 141
-
13
30-34 tuổi
117,648
97,433 5,411 3,648 1,634 654 2,280 6,275 272 22
18
35-39 tuổi
122,629 108,359 4,019 2,729 1,673 464 1,285 3,945 154
-
-
40-44 tuổi
118,226 107,232 2,853 2,489 1,502 307 1,187 2,528 119
-
10
45-49 tuổi
130,703 116,317 2,721 3,581 2,945 405 1,559 3,030 129 16
-
50 tuổi +
391,051 337,107 8,992 13,321 14,710 1,379 5,560 9,685 238 43
17
Đơn vị tính: Người
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương, năm 2011.
Trong thời gian qua nhờ sự chỉ đạo, quan tâm của các cấp, các ngành, nên
quy mô và chất lượng NNL có nhiều chuyển biến. Quy mô đào tạo nghề, đào tạo
chuyên nghiệp được mở rộng, đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo đã được
các nhà trường, các cơ sở đào tạo chú ý thực hiện. Vì vậy, với 1.326.068 người
trong độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên có 185.760 người đã qua đào tạo
CMKT. Trong đó đào tạo sơ cấp nghề là 42.983 người, trung cấp nghề 46.237
người, trung cấp chuyên nghiệp là 30.300 người (chiếm 5,8%), cao đẳng nghề là
8.058 người, cao đẳng là 19.730 người (cao đẳng là 2,1%), đại học là 37.233
người, thạc sỹ là 1,063 người, tiến sỹ là 81 người và không xác định là 76 người
(đại học trở lên chiếm 2,9%).
Nhìn chung, số người có trình độ CMKT năm 2010 đều tăng hơn so với
2004. Điều này thể hiện trình độ NNL trong tỉnh đã được tăng cường. Cùng với
sự chuyển dịch cơ cấu NNL thì trình độ CMKT của NNL cũng được nâng cao,
tuy nhiên sự chuyển dịch đó còn chậm, tỷ lệ lao động phổ thông, lao động nông
nghiệp, lao động chưa qua đào tạo vẫn còn cao.
50
Chất lượng NNL còn được biểu hiện qua một số lính vực như: phẩm chất
đạo đức, trình độ ngoại ngữ, tin học.
Người lao động Hải Dương cũng như người lao động Việt Nam đều có sự
kế thừa những giá trị tốt đẹp của người Việt Nam như tinh thần yêu nước, lòng
tự tôn dân tộc, ý thức tự lực tự cường, ham mê lao động, trình độ tay nghề khéo
léo,... Khi nền kinh tế có sự chuyển biến sang nền kinh tế thị trường, theo chủ
trương và đường lối của Đảng, người lao động Hải Dương đã có những thay đổi
về thái độ, thói quen để thích ứng với điều kiện của nền kinh tế thị trường. Cùng
với sự cần cù, chịu khó, khéo léo thông minh, sáng tạo,... Điều này được thể hiện
thông qua năng lực sản xuất các mặt hàng chế biến, những sản phẩm đòi hỏi sự
khéo léo và tỷ mỷ. Người lao động Hải Dương ngày càng được nâng cao nhận
thức, thái độ và tác phong công nghiệp, và trình độ ngoại ngữ, tin học và dần
khẳng định sự phát triển của mình trên thị trường lao động, các lĩnh vực và
ngành sản xuất công nghệ kỹ thuật, công nghệ cao và ngành du lịch và dịch vụ.
Như vậy người lao động Hải Dương có những phẩm chất để vượt qua
những khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên một số
lĩnh vực như trình độ tin học, ngoại ngữ của NNL còn nhiều hạn chế, đây cũng là
khó khăn của NNL Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.2. Thực trạng phân bổ và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương
Thứ nhất: Theo khu vực kinh tế
Khu vực kinh tế nhà nước có 14.760 lao động, chiếm tỷ trọng 8,2%, khu
vực ngoài doanh nghiệp nhà nước có 87.930 người chiếm 49,1%, doanh nghiệp
tập thể có 10.381 người, doanh nghiệp tư nhân có 10.630 người, công ty TNHH
có 33.698 người, công ty cổ phần có 33.221 người, khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có 76.386 người chiếm 42,7%, trong đó doanh nghiệp có
100% vốn nước ngoài có 72.151 người, liên doanh với nước ngoài có 4.235
người. Tuy vậy, chất lượng NNL trong các loại hình doanh nghiệp còn thấp có
74,6% số lao động thuộc các loại hình doanh nghiệp chưa qua đào tạo nghề, chỉ
có 25,4% lao động được đào tạo nghề, trong đó 9,0% là sơ cấp nghề, 3,1% là
51
trung cấp nghề, 4,3% là trung cấp chuyên nghịêp, và 9,1% là lao động có trình
độ cao đẳng trở lên. Trình độ lao động quản lý của các doanh nghiệp 2009 với tỷ
lệ giám đốc đã qua đào tạo là 79,4% trong đó đại học trở lên là 47,9%, số người
chưa qua đào tạo vẫn còn cao chiếm 20,6%.
Bảng 2.5: Số lao động trong các khu vực kinh tế
Đơn vị tính: Người
2006 2005 2008
Tổng số (Ngƣời)
4.586 4.694
2009 2007 82.659 100.023 122.641 146.551 179.076 19.561 17.300 18.548 17.386 14.760 13.034 12.606 13.316 12.800 10.109 4.651 5.232 6.527 40.977 52.439 60.414 75.242 87.930 5.004 11.265 10.381 4.577 9.320 11.449 10.630 7.644 63 - 5.214 8.606 - 8 -
15.866 20.213 22.711 28.158 33.635
3.052 4.735 4.619 3.306 4.079
9.838 13.671 18.752 21.064 29.142
22.121 30.284 43.679 53.923 76.386 20.082 28.385 39.025 50.187 72.151
Doanh nghiệp Nhà nƣớc Trung ương Địa phương Doanh nghiệp ngoài NN Tập thể Tư nhân Công ty hợp doanh Công ty Trách nhiệm hữu hạn tư nhân Công ty cổ phần có vốn Nhà nước dưới 50% vốn Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 100% vốn nước ngoài Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài 2.039 1.899 4.654 3.736 4.235
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương, năm 2011, tr.201
Như vậy, phân theo khu vực kinh tế, do việc sắp xếp lại lao động của
doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hoá, số lao động trong khu vực
này giảm đi, ngoài những người được nghỉ theo chế độ và quy định của Nhà
nước, số còn lại phần lớn chuyển sang khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước mỗi năm tăng 19.263 người. Trong khi
52
đó việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, nên lao động của các
doanh nghiệp thuộc khu vực này cũng có sự tăng lên, bình quân hàng năm tăng
13.566 người.
Thứ hai: Theo ngành kinh tế
Được phân ra ngành nông, lâm, thuỷ sản; công nghiệp, xây dựng và du
lịch, dịch vụ. Lao động được phân bổ cụ thể: Trong nhóm ngành nông, lâm, thuỷ
sản có 341 doanh nghiệp và có 8.308 lao động, trong đó nông nghiệp có 8.102
lao động, thuỷ sản có 206 lao động, số lao động bình quân/1 doanh nghiệp là
24,4 người (nông nghiệp là 24,5 người, thuỷ sản là 18,7 người). Trong tổng số
doanh nghiệp có 4,1% số doanh nghiệp có dưới 5 lao động có 16,7% có từ 5 đến
9 lao động, có 75,4% doanh nghiệp cótừ 10 đến 49 lao động và có 3,8% doanh
nghiệp có từ 50 lao động trở lên. Như vậy đa số các doanh nghiệp trong ngành
nông, lâm, thuỷ sản thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên chưa khai thác
được các tiềm năng của một tỉnh trung tâm khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Nhóm ngành công nghiệp, xây dựng có 1.163 doanh nghiệp với 144.738 lao
động chiếm 80,8% tổng số lao động trong doanh nghiệp, tính theo từng ngành cụ
thể thì ngành công nghiệp chiếm 31.318 lao động, ngành xây dựng 13.420 lao
động, số lao động bình quân 1 doanh nghiệp là 124,5 lao động trong đó công
nghiệp là 153,4 lao động và xây dựng 43,71 lao động. So với 2005 số lao động
tăng 113,8% tăng 77.053 lao đông. Số doanh nghiệp có dưới 5 lao động chiếm
4,5%, số doanh nghiệp có 5 đến 9 lao động chiếm 15,1%, số doanh nghiệp từ 10
đến 49 lao động chiếm 48,7%. Doanh nghiệp có 50 đến 199 lao động chiếm
20,5%, doanh nghiệp có từ 200 đến 299 lao động chiếm 3,6%, doanh nghiệp có
từ 300 đến 499 lao động chiếm 3,1% và doanh nghiệp có 500 lao động trở lên
chiếm 4,5%. Như vậy, khu vực công nghiệp, xây dựng tuy chiếm số lao động lớn
nhưng chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi số doanh nghiệp có dưới
50 lao động chiếm tới 68,3%. Nhóm ngành thương mại, dịch vụ có 1.551 doanh
nghiệp với số lao động là 26.030 lao động, trong đó ngành thương mại là 13.973
lao động, ngành dịch vụ vận tải, kho bãi có 6.052 lao động, các ngành dịch vụ
còn lại là 6.005 lao động. Tính bình quân lao động trên doanh nghiệp thì mỗi
53
doanh nghiệp có 16,8 lao động, trong đó ngành thương mại là 13,3 lao động, vận
tải và kho bãi có 30,7 người, dịch vụ khác có 19 lao động/1 doanh nghiệp. So với
năm 2005 số lao động tăng 106,2%, trong đó ngành thương mại là 80,7%, ngành
vận tải và kho bãi tăng 148,2% và ngành dịch vụ khác tăng 147,6%. Tính số lao
động trên doanh nghiệp cụ thể như doanh ngiệp có dưới 5 lao động chiếm
19,9%, doanh nghiệp có từ 5 đến 9 lao động chiếm 27,7%, doanh nghiệp có từ
10 đến 49 lao động chiếm 46,0%, doanh nghiệp có từ 50 đến 199 lao động chiếm
6,0%, doanh nghiệp có từ 200 lao động trở lên chiếm 0,4%. Với quy mô lao
động như vậy đã khẳng định loại hình doanh nghiệp khu vực dịch vụ hầu như là
vừa và nhỏ khi số doanh nghiệp có dưới 200 lao động chiếm 99,6%.
Như vậy, nhóm ngành nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm 5,0% số lao động
trong các doanh nghiệp, nhưng cũng đã đóng góp một phần không nhỏ trong
việc giải quyết việc làm cho xã hội, đặc biệt khu vực này có sự tăng cao do các
hợp tác xã chuyển đổi sang loại hình doanh nghiệp. Các ngành công nghiệp, xây
dựng giải quyết được khối lượng việc làm lớn nhất cho người lao động, năm
2009 lao động khu vực này chiếm 80,8% tổng số lao động, tính bình quân mỗi
năm tăng hơn 19.263 lao động, chiếm gần 80% số lao động tăng thêm ở các
doanh nghiệp. Trong các ngành dịch vụ, thương mại chỉ chiếm 14,5% tổng số
lao động trong các doanh nghiệp, nhưng hàng năm cũng giải quyết được việc
làm cho một số lượng không nhỏ lao động, bình quân mỗi năm tăng thêm 13.405
lao động, chiếm 55,6% số lao động tăng thêm trong các doanh nghiệp trên địa
bàn của tỉnh.
Thứ ba: Theo đơn vị hành chính
Mặc dù tỉnh Hải Dương đã rất quan tâm đến việc đẩy mạnh sự nghiệp
giáo dục, đào tạo song vẫn chưa tạo được sự đột biến lớn. Số liệu thống kê cho
thấy lao động chưa qua đào tạo về CMKT chiếm 58,9% còn số lượng lao động
đã qua đào tạo chỉ chiếm 41,1%.
Có thể nói rằng, cơ cấu lao động theo trình độ học vấn thời gian qua có sự
thay đổi song không lớn, không tạo được các tác động đáng kể đến sự thay đổi
cơ cấu nguồn lao động của tỉnh cho phát triển nền kinh tế - xã hội.
54
Bảng 2.6: Dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ CMKT cao nhất
đã đƣợc đào tạo, nhóm tuổi, đơn vị hành chính
Trình độ CMKT cao nhất được đào tạo
Đơn vị hành
Tổng
Chưa
Sơ
Trung
Cao
Tiế
dân số 15 tuổi
chính, nhóm tuổi và giới
KXĐ
THC N
Cao đẳng
Đại học
Thạ c sỹ
trở lên
tính
đào tạo CMKT
cấp nghề
cấp nghề
đẳng nghề
n sỹ
1,326,068 1,140,308 42,983
46,237 30,300
8,058
19,730
37,233
1,063
81
76
Tổng số
TP. Hải
Dương
167,711
119,237
9,693
9,624 7,674
2,093
4,014 14,633
69
19
655
TX.Chí Linh
123,846
104,778
5,420
5,414 2,693
675
1,671
3,044
144
6
-
Nam Sách
87,497
77,423
2,093
2,778 1,348
490
1,448
1,895
23
-
-
Kinh Môn
122,466
106,511
3,154
5,443 2,055
563
1,781
2,909
50
-
-
Kim Thành
96,623
86,435
2,553
3,155 1,234
536
1,081
1,606
24
-
-
Thanh Hà
120,072
104,782
3,358
4,185 3,045
669
1,863
2,063
60
6
41
Cẩm Giàng
99,658
88,236
2,310
2,671 1,445
731
1,817
2,396
44
-
9
Bình Giang
80,502
72,670
1,473
2,144 1,366
414
1,040
1,384
10
-
-
Gia Lộc
102,410
89,401
3,240
2,783 2,925
514
1,281
2,239
19
-
7
Tứ Kỳ
122,135
106,525
6,034
3,576 2,466
580
1,237
1,702
15
-
-
Ninh Giang
109,545
100,416
1,526
2,350 1,715
475
1,227
1,830
6
-
-
Thanh Miện
93,604
83,892
2,127
2,115 2,334
320
1,271
1,532
13
-
-
Đơn vị tính: Người
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương, năm 2011.
Việc phân bổ NNL có trình độ CMKT còn nhiều bất hợp lý, phần lớn
tập trung ở các cơ quan hành chính và ở thành phố và thị xã, tạo nên tình
trạng thừa thiếu cán bộ CMKT giả tạo ở các ngành. Nguồn nhân lực có trình
độ cao đẳng, đại học hiện nay phân bổ rất không đồng đều, chủ yếu tập trung
ở Thành phố Hải Dương và thị xã Chí Linh 8.453 và 17.677 người. Trong khi
đó ở huyện Thanh Miện và Bình Giang có 3.045 và 2.916 người. Đặc biệt
nguồn nhân lực có trình độ thạc sỹ trở lên chiếm 0,615% nguồn lao động phân
theo trình độ CMKT của tỉnh, ở huyện Ninh Giang chỉ có 0,03% số thạc sỹ
của tỉnh. Sự phân bố đội ngũ cán bộ có trình độ đại học và trên đại học đang
mất cân đối so với cơ cấu kinh tế của tỉnh. Phần lớn cán bộ có trình độ đại học
trở lên làm việc trong ngành giáo duc - đào tạo và y tế, dịch vụ ngân hàng.
Khối công nghiệp, thủy sản, thương mại, du lịch, dịch vụ được coi là những
ngành kinh tế chủ yếu lại có tỷ lệ thấp.
55
2.2.3. Những vấn đề đặt ra trong công tác phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương
Theo mục tiêu chiến lược tổng quan phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Đối với Hải Dương, mục tiêu của Nghị quyết Đảng bộ tỉnh khoá XV là tiếp
tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH,
HĐH và đạt tốc độ tăng trưởng cao phấn đấu 2015 tỉnh trở thành tỉnh công
nghiệp theo hướng hiện đại và 2020 trở thành tỉnh có sức cạnh tranh trong những
tỉnh đứng đầu cả nước. Để phát triển rút ngắn quá trình CNH, HĐH, thúc đẩy
phát triển KH - CN đi tắt đón đầu để có tốc độ phát triển cao và bền vững. Để
đạt được mục tiêu đó thì NNL chất lượng cao được các cấp Uỷ Đảng xác định là
một trong ba khâu đột phá trong thời gian tới.
Đối với Hải Dương trong quá trình phát triển các doanh nghiệp của tỉnh
những năm gần đây có thể thấy tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng các loại
hình doanh nghiêp, số lao động sử dụng, số vốn đầu tư doanh thu và nộp ngân
sách nhà nước. Điều này đã khẳng định vai trò của doanh nghiệp trong tăng
trưởng và phát triển KT, chuyển dịch cơ cấu KT góp phần vào phát triển KT -
XH, giải quyết các vấn đề xã hội khác.
56
Bảng 2.7: Số doanh nghiệp hoạt động trong các khu vực kinh tế
2005 2006 2007 2008 2009
Doanh nghiệp Nhà nước
Tổng số (Doanh nghiệp)
Trung ương
16
17
17
20
19
Địa phương
21
16
16
13
14
Doanh nghiệp ngoài Nhà nước
1.294 1.675 2.008 2.615 2.895
Tập thể
327
348
351
656
585
Tư nhân
386
495
556
624
612
Công ty hợp doanh
-
-
1
-
4
Công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân
403
522
662
805 1.038
Công ty cổ phần có vốn Nhà nước
dưới 50% vốn
10
12
14
15
16
Công ty cổ phần không có vốn NN
168
298
424
515
640
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
54
59
80
96
127
100% vốn nước ngoài
41
46
66
81
111
Doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài
13
13
14
15
16
1.767 33 2.121 33 2.744 33 3.055 33 1.385 37
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương, năm 2011, tr.197.
Tuy vậy, trong khảo sát thực tế cho thấy tuy số doanh nghiệp có mức tăng
mở rộng song quá trình phát triển các loại hình doanh nghiệp nói riêng và KT -
XH của tỉnh nói chung còn bộc lộ nhiều hạn chế nhất là việc đào tạo, thu hút và
sử dụng nguồn nhân lực. Để tiếp tục có những hướng đi mới và hiệu quả, các
doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý cần giải quyết tốt các vấn đề về
NNL như:
Về tình trạng sức khoẻ, thể lực NNL: Thể lực của người lao động còn ở
mức trung bình, tình trạng suy dinh dưỡng vẫn ở mức cao, nhất là khu vực nông
nghiệp, nông thôn. Chất lượng chăm sóc và bảo vệ sứ khoẻ NNL giữa các đơn vị
hành chính còn nhiều chênh lệch, tỷ lệ dân số mua thẻ bảo hiểm y tế 2009 còn ở
mức thấp, tỷ lệ sinh con thứ 3 theo điều tra 1/4/2009 chiếm tới 12,8% vì vậy
cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chăm sóc sức khoẻ, nâng cao thể lực cho
57
người lao động. Điều này có một số nguyên nhân cơ bản như lao động thiếu việc
làm ổn định, tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao, thu nhập của lao động còn
thấp, đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn.
Để giải quyết được vấn đề trên Hải Dương cần giải quyết tốt chiến lược
phát triển KH - XH, giải quyết việc làm cho người lao động nhằm tạo thu nhập
ổn định, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tốt các
chính sách ấy sẽ giải quyết việc nâng cao chất lượng NNL cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Về đào tạo nguồn nhân lực: Cùng với sự chuyển đổi cơ cấu lao động xã
hội theo hướng tích cực, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động từng
bước được cải thiện. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này còn chậm, tỷ trọng lao động
trong nông nghiệp còn cao, tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp, trình độ năng
lực của lực lượng lao động qua đào tạo vẫn còn bất cập. Cơ cấu lao động qua đào
tạo hiện nay chưa phù hợp cho một tỉnh phát triển theo hướng công nghiệp giữa
tỷ lệ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật. Công tác
đào tạo nghề trong những năm gần đây phát triển tương đối nhanh, song chưa
đáp ứng về số lượng và chất lượng. Công tác dạy nghề phát triển thiếu quy
hoạch, quy mô cơ sở dạy nghề còn nhỏ lẻ, không đồng bộ; phần lớn trang thiết bị
dạy nghề ngoài công lập vừa thiếu vừa lạc hậu; đội ngũ giáo viên sư phạm kỹ
thuật chưa đồng bộ, tỷ lệ giáo viên dạy nghề đạt chuẩn còn thấp. Chưa có hình
thức và cơ chế thích hợp cho việc hình thành đội ngũ chuyên gia giỏi, có trình độ
chuyên môn cao. Tiềm lực khoa học và công nghệ còn hạn chế và thiếu tính
đồng bộ. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn thiếu chuyên gia giỏi. Việc
thu hút cán bộ khoa học giỏi từ các địa phương khác còn bất cập, không có cơ
quan chuyên nghiên cứu triển khai.
Số lượng cán bộ khoa học và công nghệ của tỉnh hiện có chưa đáp ứng
yêu cầu cho phát triển KT - XH. Tỷ lệ cán bộ khoa học và công nghệ trong NNL
đã qua đào tạo còn tương đối ít so với nhu cầu phát triển. Với mục tiêu đến năm
2015 tỉnh phát triển trở thành một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại thì
nhiệm vụ rất quan trọng, một trong những khâu đột phá là NNL chất lượng cao
cần được phát triển hơn nưa, cần nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao hơn nữa.
58
Chất lượng đào tạo cán bộ KH - CN còn hạn chế, cơ cấu ngành nghề chưa cân
đối; thiếu nhiều cán bộ khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là chuyên
gia về công nghệ; sự phân bố đội ngũ này giữa các cơ quan, doanh nghiêp, thành
thị nông thôn vẫn còn bất hợp lý.
Về sử dụng nguồn nhân lực, đào tạo được NNL có chất lượng đã là vấn
đề khó khăn và phức tạp, song sử dụng một cách có hiệu quả NNL chất lượng
cao lại không dễ, vấn đề sử dụng NNL chất lượng cao ở Hải Dương còn chưa
khai thác một cách có hiệu quả. Theo số liệu điều tra của cục thống kê Hải
Dương 2010 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 4,8% và ở nông thôn là 6,0%.
Đáng chú ý, việc sử dụng NNL có trình độ CMKT cũng đang còn nhiều
vấn đề bên cạnh tình trạng thiếu nhân lực được đào tạo, nhất là nhân lực có trình
độ cao tập trung nhiều nhất trong các lĩnh vực xây dựng, quản lý, kinh doanh, kỹ
thuật công nghệ điện tử, hoá chất, thực phẩm,.... Thì trong những năm qua Hải
Dương chưa chú ý đến chính sách ưu tiên tiếp nhận NNL có chất lượng vào các
ngành: công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, y tế (bác sỹ, dược sỹ, cử nhân kỹ
thuật, cử nhân điều dưỡng), các ngành quản lý xây dựng, hành chính công, luật,
tài chính kế toán, du lịch, ngữ văn báo chí, ngoại ngữ. Trong khi NNL có chất
lượng còn thiếu thì cơ cấu nhân lực được đào tạo còn bất hợp lý dẫn đến tình
trạng vừa thiếu NNL đã qua đào tạo, lại vừa thừa lao động chưa qua đào tạo.
Trong thực tế, nhiều người qua đào tạo phải chấp nhận làm không đúng ngành
nghề, gây lãng phí cho gia đình và xã hội.
Việc phân bố và sử dụng NNL có trình độ CMKT chưa hợp lý, nguồn
nhân lực có chất lượng cao chủ yếu tập trung thành phố, thị xã còn các huyện
khác rất thiếu. NNL chất lượng cao chủ yếu tập trung ở ngành giáo dục và đào
tạo (chủ yếu là các trường Trung ương quản lý), trong khi đó lĩnh vực sản xuất
lại rất ít. Việc phân bổ nguồn nhân lực có trình độ CMKT cũng còn nhiều bất
hợp lý theo đơn vị hành chính, chẳng hạn ở Thành phố Hải Dương chiếm
26,09%; thị xã Chí Linh là 10,26% thì huyện Bình Giang chỉ chiếm 4,21%.
Mặt khác, cơ chế chính sách đãi ngộ, kích thích quá trình tự đào tạo nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, thì đòn bẩy tiền lương là công cụ quan trọng và
hiệu quả, song vấn đề tiền lương vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Mặt bằng thu
59
nhập đối với lao động có trình độ đại học mới ra trường ở Hải Dương hiện nay
khoảng 1.274.000 đồng đến dưới 2.000.000 đồng, đó cũng là một trong những
nguyên nhân có nhiều sinh viên của tỉnh và các tỉnh lân cận tốt nghiệp khá, giỏi
đã làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc chuyển đến các
Thành phố Hà Nội, Hải Phòng với mức lương cao hơn. Vì vậy, những bất hợp lý
về tiền lương vẫn đang tồn tại và ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất
lượng hoạt động của NNL chất lượng cao.
Về thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao bên ngoài để sử dụng, Trong
những năm qua đánh giá đúng vai trò của NNL chất lượng cao nên tỉnh Hải
Dương đã có nhiều chính sách đặc biệt để khuyến khích thu hút nhân tài, tao
điều kiện và môi trường thuận lợi cho người tài phát huy năng lực của mình. Đó
là các chính sách, chế độ đãi ngộ ban đầu đối với những người có trình độ cao tự
nguyện đến làm việc lâu dài tại tỉnh, đã góp phân không nhỏ trong việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh. Tuy nhiên, chủ trương này cũng chưa thật
sự hấp dẫn bởi vì tỉnh chưa có những điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị
hiện đại phục vụ cho công tác và nghiên cứu, môi trường để tiếp tục phát triển
khoa học - công nghệ còn nhiều hạn chế. Mặt khác, chế độ lương bổng cũng
chưa tương xứng với sự cống hiến của đội ngũ này, vì hầu hết vẫn thực hiện theo
ngạch bậc lương của Nhà nước. Do vậy, trong những năm 2006 - 2010 hầu như
không thu hút được lao động có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và tốt nghiệp loại giỏi về
tỉnh, đa số đều tốt nghiệp đại học loại khá trở xuống. Qua đó cho thấy những
người có học vị cao như tiến sỹ, chuyên gia đầu ngành vẫn chưa thu hút về công
tác ở tỉnh.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng nguồn nhân lực chất lƣợng cao cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dƣơng
2.3.1. Về thành tựu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Cùng với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển KT - XH của tỉnh
trong những năm qua với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành, NNL nói
chung và NNL chất lượng cao của tỉnh trong những năm qua có nhiều bước phát
triển khả quan. Có thể thấy được những thành tựu này qua một số khía cạnh như:
60
Thứ nhất: Về trình độ văn hoá và CMKT của người lao động. Trong
những năm qua giáo dục và đào tạo của tỉnh có những thành tựu to lớn, chất lượng
giáo dục phổ cập toàn diện được củng cố và nâng cao. Cơ cấu ngành nghề đào tạo
được mở rộng, cùng với sự phát triển của giáo dục phổ thông, tiểu học và giáo dục
mầm non thì giáo dục chuyên nghiệp đã có bước đột phá. Hiện nay toàn tỉnh có 3
trường đại học công lập (ĐH Sao đỏ, ĐH Kỹ thuật y tế, cơ sở 3 ĐHSP Kỹ thuật
Hưng Yên) và 1 trường ngoài công lập (ĐH Thành Đông), bên cạnh đó có 7 cơ sở
đào tạo chuyên nghiệp khác. Về quy mô đào tạo cũng có sự thay đổi giai đoạn từ
năm 2006 - 2010 đào tạo trung cấp chuyên nghiệp đạt bình quân 5.200 học
sinh/năm tăng 400 học sinh/năm so với giai đoạn 2001 - 2005, trong khi hệ cao
đẳng và đại học đạt bình quân 31.100 sinh viên/năm. Cùng với đó là tỷ lệ lao động
đã qua đào tạo cũng không ngừng tăng lên, năm 2010 số lao động đã qua đào tạo
đạt 41%, tăng 15% so với 2005. Số lao động tốt nghiệp cao đẳng trở lên là 9,1%
(năm 2005 chỉ đạt 2%), với đội ngũ lao động qua đào tạo như vậy đã đáp ứng một
phần không nhỏ NNL có trình độ CMKT cho các khu công nghiệp, giải quyết việc
làm cho hàng vạn lao động, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống và
chăm sóc sức khoẻ, phát triển trở lại cho giáo dục của tỉnh những năm tiếp theo.
Thứ hai: Về thể lực, sức khoẻ của NNL. Thực hiện chỉ đạo phát triển nâng
cao tầm vóc con người Việt Nam, trong giai đoạn 2006 - 2010 thể lực, sức khoẻ của
nhân dân nói chung và NNL nói riêng của Hải Dương có bước phát triển mạnh mẽ.
Hiện nay tính trung bình thanh niên trưởng thành cao 163,6 cm và nặng 48kg. Tình
trạng sức khoẻ đã phát triển quy mô, xã hội hoá cơ sở y tế đã thực hiện tốt. Bên
cạnh hệ thống các cơ sở y tế công lập với 2 chi cục là Chi cục Dân số - Kế hoạch
hoá gia đình và Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm; 51 đơn vị sự nghiệp, bao gồm:
1 bệnh viện đa khoa, 6 bệnh viện chuyên khoa, 6 trung tâm chuyên khoa tuyến tỉnh,
13 bệnh viện đa khoa tuyến huyện, 12 trung tâm y tế và 12 dân số - kế hoạch hoá
cấp huyện và toàn tỉnh 263 trạm y tế cấp xã, phường, thị trấn. Bên cạnh đó hệ thống
y tế ngoài công lập cũng có những phát triển mạnh mẽ, góp phần giảm bớt khó khăn
về kinh phí đầu tư, giảm tải gánh nặng khám chữa bệnh cho nhân dân, hiện nay toàn
tỉnh có 1.333 cơ sở y tế ngoài công lập trong đó có 1 bệnh viện đa khoa, 24 phòng
61
khám đa khoa, 234 phòng khám chuyên khoa, 209 cơ sở dịch vụ y tế, 245 phòng
chuẩn trị y học cổ truyền, 19 cơ sở kinh doanh thuốc, 1 trung tâm kế thừa ứng dụng
y học cổ truyền và 580 cơ sở sản xuất, kinh doanh dược. Chất lượng chăm sóc, bảo
vệ sức khoẻ nhân dân đều có những chuyển biến, các chương trình y tế quốc gia
đều thực hiện có hiệu quả. Năm 2010 số cán bộ ngành y tế đạt 27,3 người/1 vạn dân
tăng 5,3 người/1 vạn dân, số bác sỹ là 6 bác sỹ/1 vạn dân, số giường bệnh năm 2010
đạt 27,0 giường bệnh/1 vạn dân so với 2005 tăng 4,4 giường/1 vạn dân. Chất lượng
dân số luôn được nâng cao, tuổi thọ bình quân được tăng đáng kể gần 72 tuổi, tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên năm 2010 là 9,58‰ giảm 0,28‰ so với 2005, việc khám chữa
bệnh định kỳ cho người lao động trong các nhà máy, xí nghiệp được duy trì góp
phần nâng cao chất lượng thể lực cho NNL.
Thứ ba: Về đội ngũ và cơ cấu nhân lực. Đối với đội ngũ các nhà khoa học,
cán bộ quản lý của tỉnh có sự tăng cường cả về số lượng và chất lượng, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ đã đáp ứng được nhu cầu công việc. Trong các ngành như
giáo dục và đào tạo, y tế, tài chính - ngân hàng, văn hoá - truyền thông,... đều đạt
chuẩn và trên chuẩn, như tỷ lệ giáo viên/học sinh, tỷ lệ đội ngũ cán bộ y tế, giường
bệnh/1 vạn dân đều tăng. Số lượng đội ngũ thạc sỹ, tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp I,
II đều tăng đáng kể. Đối với cơ cấu nguồn nhân lực có sự chuyển dịch đáp ứng yêu
cầu NNL trong quá trình phát triển KT - XH của tỉnh, điều này được thể hiện tỷ lệ
lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng, du lịch, dịch vụ đều tăng cả về số
lượng cũng như chất lượng NNL. Đặc biệt là khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài tăng mạnh về NNL có chất lượng và đã qua đào tạo về trình độ
CMKT.
Để đạt được những thành tựu của NNL như trên ở Hải Dương có một số
nguyên nhân như:
Một là: Các cấp Ủy, Đảng chính quyền đã có sự quan tâm chỉ đạo trong quá
trình phát triển KT - XH, đã quan tâm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Có sự quan tâm và đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, từ đó
đã có tác động không nhỏ tới sự phát triển NNL chất lượng cao của tỉnh. Đảng uỷ
các cấp đã kịp thời ban hành các quyết định, nghị quyết, các chương trình, kế hoạch
62
và đưa ra những giải pháp cho sự phát triển NNL.
Hai là: Các sở, ban, ngành giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá thể thao và du
lịch, lao động thương binh và xã hội với các chức năng là cơ quan thường trực thực
hiện kế hoạch phát triển NNL, các cơ quan này đã có những chủ trương, chính sách
phát triển chuyên ngành của mình và kịp thời khắc phục những hạn chế trong từng
thời kỳ cho sự phát triển của NNL.
Ba là: Địa phương đã có chủ trương thực hiện và đạt được hiệu quả cao
trong các công tác xã hội hoá như xã hội hoá giáo dục, xã hội hoá y tế,... Các chủ
trương ưu đãi, sử dụng và thu hút NNL.
Bốn là: Các doanh nghiệp, cơ quan và xí nghiệp đã có sự quan tâm, chú ý tới
vấn đề phát triển NNL, quan tâm tới lợi ích và tinh thần của người lao động, từ đó
cũng đã có tác động ngược lại sự phát triển NNL.
2.3.2. Những tồn tại cần giải quyết để phát triển và sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong phát triển NNL, thì trong quá
trình phát triển NNL ở Hải Dương cũng còn một số tồn tại cần giải quyết như:
Thứ nhất: Công tác giáo dục phổ thông được đầu tư đúng mức nên đã góp
phần đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, tuy nhiên hiệu quả
chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của phát triển KT - XH. Chất lượng giáo dục
các cấp còn chưa tương xứng, tỷ lệ thanh thiếu niên tử 15 - 18 tuổi tốt nghiệp
THCS năm 2009 mới đạt 95,15% và 2010 là 95,3%, trong khi đó vẫn tập trung
trong khu vực công lập, khu vực ngoài công lập tỷ lệ còn thấp 2010 chỉ chiếm
10,3% nên cũng gây không ít khó khăn cho ngân sách đầu tư cho giáo dục của
tỉnh. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT mới chỉ đạt 90% và bổ túc THPT trên 77%, bình
quân hàng năm tỷ lệ học sinh khá giỏi THPT mới chỉ đạt 45%. Đội ngũ giáo viên
đạt trên chuẩn ở các cấp học còn thấp ở cấp tiểu học chỉ đạt 81,2%, ở cấp THCS
là 41,5% và THPT chỉ còn 11%. Đội ngũ giáo viên hệ trung cấp chuyên nghiệp
2009 có trình độ đại học trở lên chỉ đạt 56%, các trường cao đẳng và đại học có
trình độ trên đại học chỉ đạt 43,3%. Do đó, cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng đào tạo NNL chất lượng của tỉnh. Trình độ lao động ở khu vực nông
63
nghiệp - nông thông còn thấp do đó việc giải quyết việc làm cho họ bị hạn chế.
Bên canh đó công tác hướng nghiệp chưa làm tốt, số lượng người tốt nghiệp về
tỉnh còn ít. Tỉnh đang thiếu một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có trình
độ cao trong các ngành kinh tế chủ yếu.
Thứ hai: Trình độ nguồn nhân lực có trình độ đại học, THCN và CNKT
còn thấp và đang mất cân đối, đội ngũ lao động đã qua đào tạo chỉ có 185.760
người trong tổng số 1.326.068 người, trong đó trình độ sơ cấp nghề, trung cấp
nghề và trung cấp chuyên nghiệp chiếm 117.520 người số lao động tốt nghiệp
cao đẳng trở lên còn thấp chỉ có 68.240 người. Đặc biệt là giữa khu vực thành thị
(Thành phố Hải Dương và Thị xã Chí Linh) là 67.541 người và nông thôn chiếm
118.222 người, giữa các ngành sản xuất, lao động có trình độ CMKT trong nông
nghiệp còn rất thấp khi ngành nông nghiệp quản. Vì vậy, nên có ảnh hưởng không
nhỏ tới phát triển KT - XH của tỉnh.
Thứ ba: Sử dụng cán bộ có trình độ CMKT chưa hợp lý, không đúng chuyên
ngành, hầu hết làm việc ở các cơ quan quản lý nhà nước, khu vực sản xuất kinh
doanh còn quá ít. Có những lao động có trình độ CMKT nhưng không được sử dụng
đúng khả năng, lao động ở một số chuyên ngành còn thiếu nên không phát huy được
tiềm năng của tỉnh.
Thứ tư: Tuy tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có tăng lên, nhưng tỷ lệ lao
động chưa qua đào tạo vẫn còn ở mức cao. Chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc
đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển KT - XH của tỉnh.
Thứ năm: Tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, cả theo cơ cấu, theo độ tuổi và
khu vực. Đây là vấn đề bức bách rất quan trọng liên quan đến phát triển kinh tế -
xã hội nếu tỉnh không quan tâm giải quyết đúng mức và phù hợp.
Thứ sáu: Hạn chế về thể lực, tình trạng sức khoẻ. Thể lực của người lao
động còn ở mức trung bình, nhiều đối tượng ở tình trạng suy dinh dưỡng, nhất là
khu vực nông nghiệp, nông thôn. Chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ NNL
giữa các đơn vị hành chính còn nhiều chênh lệch, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
còn ở mức cao (2010 là 18%), tỷ lệ dân số mua thẻ bảo hiểm y tế 2009 mới chỉ
đạt 41%, tỷ lệ sinh con thứ 3 theo điều tra 1/4/2009 chiếm tới 12,8% vì vậy cũng
64
có ảnh hưởng không nhỏ tới chăm sóc sức khoẻ, nâng cao thể lực cho người lao
động.
Những tồn tại trên đây là do một số nguyên nhân như:
Một là: Một số cơ quan, cấp uỷ chưa quan tâm đúng mức cho phát triển
NNL, nhận thức nâng cao chất lượng NNL còn chưa đúng mức, giản đơn, thiếu
các biện pháp và điều kiện thực hiện phát triển NNL. Trong quá trình triển khai
các chủ trương phát triển còn chưa chủ động, có những nơi còn gây khó khăn
trong quá trình đào tạo, thu hút và sử dụng người tài. Bên cạnh đó việc bố trí và
sử dụng những người có năng lực đúng chuyên môn còn hạn chế nên không phát
huy hết khả năng của người lao động.
Hai là: Cơ cấu kinh tế của tỉnh còn chuyển dịch chậm chưa tương xứng
với tiềm năng của tỉnh nằm trong vùng trung tâm của khu công nghiệp trọng
điểm phía Bắc. Tuy vậy, nền kinh tế của tỉnh hiện nay vẫn có cơ cấu kinh tế
chưa phù hợp, quá trình chuyển dịch còn chậm, chưa có nhiều ngành nghề phù
hợp với tiềm năng của tỉnh.
Ba là: Đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực còn hạn chế, hiện
nay tuy được sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, các ngành, công tác đầu tư cho
giáo dục còn hạn chế cả về nguồn ngân sách, về cơ sở vật chất, về nhân tố con
người. Để nâng cao nguồn đầu tư cho phát triển NNL qua phát triển giáo dục và
đào tạo, y tế tỉnh đã thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục và y tế nhưng tỷ lệ
ngoài công lập tham gia còn hạn chế cần có những chính sách hỗ trợ phù hợp.
Bốn là: Chưa có những chính sách phù hợp và kịp thời cho phát triển và
thu hút NNL phù hợp với chủ trương chung của Chính phủ, trong giai đoạn 2001
- 2010 Chính phủ cũng như các cấp, ban, ngành đã ban hành hàng loạt các văn
bản về xã hội hoá y tế, giáo dục và đào tạo, quản lý nhà nước về y tế, Nghị định
về điều chỉnh mức tiền lương, về viện phí,... Trong khi đó các văn bản của tỉnh
về các vấn đề trên còn chậm hoặc không đồng bộ do quán triệt không rõ ràng
hoặc nhận thức chưa đầy đủ về các nội dung trên. Điều này có ảnh hưởng không
nhỏ tới quá trình nâng cao và phát triển NNL chất lượng cho quá trình phát triển
của tỉnh.
65
Năm là: Hiệu quả phân bổ và sử dụng NNL chất lượng cao chưa phù hợp,
lao động đã qua đào tạo giữa các khu vực, thành phần kinh tế cũng như khu vực
hành chính còn chưa hợp lý. Hiện nay lao động có đào tạo tốt nghiệp đại học trở
lên chủ yếu tập trung ở ngành giáo dục, y tế là chủ yếu còn ngành nông nghiệp
và ngành công nghiệp còn hạn chế. Trong quá trình sử dụng NNL còn bộc lộ
nhiều hạn chế từ việc bố trí công tác cho đến chế độ đãi ngộ. Việc sử dụng lao
động vào các công việc vẫn thể hiện không đúng năng lực chuyên môn được đào
tạo vì vậy không phát huy được khả năng. Việc nâng cao chất lượng NNL cho
khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ còn thấp, các cơ sở và doanh nghiệp
chưa quan tâm đúng mức tới quá trình đầo tạo, chế độ đãi ngộ NNL có chất
lượng phục vụ nhu cầu của mình.
Từ những vấn đề nêu trên, đòi hỏi Hải Dương phải có những giải pháp
tích cực, hữu hiệu trong việc đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn NL chất lượng
cao mới có thể thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
66
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI Ở HẢI DƢƠNG
3.1. Những quan điểm, phƣơng hƣớng chủ yếu phát triển nguồn nhân
lực chất lƣợng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dƣơng đến 2020
3.1.1. Những quan điểm chủ yếu về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao qua giáo dục và đào tạo để phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương
đến 2020
Nguồn nhân lực đặc biệt là NNL chất lượng cao đóng vai trò cơ bản trong
ba khâu đột phá cho sự phát triển nhanh và bền vững. Bên cạnh những nguồn
nhân lực truyền thống như vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên,... thì KHCN và
NNL chất lượng đóng vai trò quyết định sự thất bại hay thành công của quá trình
đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội của tỉnh. Để phát triển NNL chất lượng cao, đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng tăng của nền kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015 và
tầm nhìn 2020 cần quán triệt một số quan điểm:
Thứ nhất: Xây dựng chiến lược phát triển NNL chất lượng cao phải gắn liền
với chiến lược và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hải Dương giai đoạn 2011 -
2015 và tầm nhìn 2020
Căn cứ Nghị quyết 33/2005/NQ-HĐND ngày 14/7/2005 của Hội đồng
nhân dân tỉnh, căn cứ Văn bản số 6888/BKH-CLPT ngày 06/10/2005 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư về thoả thuận phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006 - 2020”. Theo Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XV về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015 với một số chỉ tiêu cụ thể:
- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân 11%/năm.
- Cơ cấu kinh tế năm 2015: Nông, lâm, thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng -
dịch vụ là 19% - 48% - 33%.
67
- Cơ cấu lao động năm 2015: Nông, lâm, thuỷ sản - công nghiệp, xây
dựng - dịch vụ là 43% - 30% - 27%.
- Năm 2015, GDP bình quân đầu người đạt 36 - 37 triệu đồng (khoảng
1.800 USD).
- Kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng 17%/năm.
- Thu ngân sách nội địa tăng bình quân 15%/măm.
- Tổng vốn đầu tư xã hội trong 5 năm đạt 145 - 159 ngàn tỷ đồng.
- Giữ vững mục tiêu 100% số trẻ vào lớp 1, 100% học sinh hoàn thành
chương trình tiểu học vào THCS, 98% số học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học lên.
- Năm 2015, đạt tỷ lệ 30 giường bệnh/1 vạn dân, 7,5 bác sĩ/1 vạn dân, tỷ
lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới 16%.
- Giảm tỷ suất sinh hàng năm 0,18‰, năm 2015 tỷ suất tăng tự nhiên dân
số dưới 9‰.
- Năm 2015 có 65% số làng, khu dân cư được công nhận làng, khu dân cư
văn hoá, 85% số cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn cơ quan văn hoá.
- Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2,5%/năm.
- Hàng năm giải quyết việc làm cho hơn 3,2 vạn lao động, năm 2015 tỷ lệ
lao động qua đào tạo đạt 55% trở lên.
- Năm 2015 có 95% só họ dân được sử dụng nước sạch, hoàn thành xây
dựng 25% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới.
- Năm 2015 có 100% số cụm công nghiệp và các cơ sở sản xuất phải sử
dụng hệ thống xử lý chất thải đúng quy định.
Để thực hiện được những mục tiêu trên tỉnh cần quán triệt quan điểm đẩy
mạnh hơn nữa công tác đào tạo phát triển NNL chất lượng cao phù hợp với mục
tiêu, nhiệm vụ và điều kiện của tỉnh ở cả 3 yếu tố: Về mở rộng quy mô, nâng cao
chất lượng đào tạo và tăng cường hiệu quả, gắn đào tạo với phát triển khoa công
nghệ và sản xuất, trên cơ sở đó sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng
cao của tỉnh.
68
Thứ hai: Bên cạnh vấn đề mở rộng thì việc nâng cao chất lượng NNL là
nhân tố có vai trò quyết định đối với mục tiêu phát triển của Tỉnh trong những
năm tới
Chất lượng NNL là một trong ba khâu đột phá, giữ vai trò quyết định sự
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam nói chung và của tỉnh Hải Dương nói riêng. Mục tiêu 2015 và tầm nhìn
2020 của tỉnh là tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, có sức cạnh tranh trên thị
trường, trong khi năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, của
sản phẩm hàng hóa ở trong nước cũng như trên thị trường khu vực và quốc tế là
thước đo của NNL. Bên cạnh đó trong những năm tới tỉnh đưa vào khai thác và
sử dụng thêm một số khu, cụm công nghiệp mới nên vấn đề thu hút vốn đầu tư
bên ngoài tỉnh là vô cùng quan trọng đòi hỏi phải có NNL chất lượng cao để thỏa
mãn nhu cầu của nhà đầu tư, bởi vì trong thực tiễn NNL có chất lượng còn thiếu
hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư vì vậy các dự án đầu tư không
thực hiện được. Trong thời gian tới, muốn thực hiện được mục tiêu phát triển của
mình, tiếp cận được kinh tế trí thức cần đặc biệt chú ý nâng cao chất lượng NNL.
Thứ ba: Đẩy mạnh công tác đào tạo, sử dụng và tạo môi trường thuận lợi
nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong quá trình phát triển NNL chất lượng cao, thì giữa ba vấn đề đào tạo,
sử dụng và tạo môi trường phát triển có mối quan hệ và tác động qua lại với
nhau.
Quá trình đào tạo NNL luôn bao gồm cả giáo dục, đào tạo, đào tạo lại, bồi
dưỡng, đào tạo thường xuyên xuất phát trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Sử dụng NNL bao gồm tuyển dụng, bố trí, sắp xếp,
đánh giá NNL dựa trên kết quả của đào tạo kết hợp với yêu cầu của công việc
trong quá trình phát triển KT - XH. Vấn đề tạo môi trường phát triển nguồn nhân
lực là các cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài, môi trường làm việc và cơ
sở vật chất nghiên cứu, thực nghiệm... nhằm phát huy tối đa sự năng động và
tính sáng tạo của yếu tố con người, nhằm đảm bảo cho mọi người phát triển một
cách toàn diện.
69
Trong chính sách phát triển giáo dục, đào tạo nếu không phù hợp thì dẫn
đến đào tạo không đúng nhu cầu, hoặc thiếu hoặc thừa, không cân đối giữa các
cấp bậc đào tạo, giữa các ngành nghề đào tạo, chất lượng NNL không đáp ứng
yêu cầu của sự phát triển, tạo ra sự mất cân đối cơ cấu NNL so với cơ cấu kinh
tế. Trong quá trình sử dụng NNL nếu không được thực hiện tốt sẽ dẫn đến tình
trạng lãng phí, có sử dụng tốt thì mới có giáo dục tốt, tạo ra NNL tốt. Nếu không
tạo ra được môi trường đào tạo nguồn nhân lực thì không thể phát huy được hiệu
quả của công tác đào tạo, sử dụng NNL. Như vậy, mở rộng quy mô, nâng cao
chất lượng và sử dụng có hiệu quả NNL đã đào tạo ra luôn có mối quan hệ biện
chững với nhau, muốn nâng cao chất lượng NNL phải gắn liền cả ba mặt trên,
coi trọng cả ba mặt.
Thứ tư: Chất lượng giáo dục và đào tạo là điều kiện quyết định việc nâng
cao chất lượng NNL
Để phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương
nói riêng không những cần đảm bảo về số lượng NNL, mà còn phải đảm bảo đặc
biệt về mặt chất lượng của NNL. Vấn đề chất lượng NNL không phải tự nhiên
mà có được, phải thông qua quá trình giáo dục, đào tạo về kỹ năng CMKT và
năng lực sáng tạo, rèn luyện sức khỏe, phẩm chất đạo đức, thẩm mỹ, vì vậy nâng
cao chất lượng đào tạo là phương tiện chủ yếu để nâng cao chất lượng NNL.
Để giáo dục phát huy vai trò là quốc sách hàng đầu nhằm góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo, thì trước hết các cơ quan quản lý của tỉnh
phải có chính sách phát triển, trọng dụng người có năng lực, khả năng thực sự,
bên cạnh đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho họ phát huy năng lực của mình, đặc
biệt là những nhà giáo dục, những nhà khoa học đầu ngành trong các lĩnh vực
khoa học - công nghệ. Thực hiện đánh giá đúng và thù lao xứng đáng công sức
lao động sáng tạo của họ.
Cần xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục đảm bảo cho nhân dân có
điều kiện học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu để bồi dưỡng nhân lực cho sự phát triển KT - XH có hiệu quả dựa trên
tri thức. Cần thay đổi quan điểm giáo dục truyền thống từ trang bị kiến thức sang
đẩy mạnh bồi dưỡng rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực giải quyết vấn đề
70
sáng tạo, khả năng tự đào tạo, hình thành kỹ năng thực hành và những năng lực
thích nghi sự phát triển của sản phẩm đào tạo. Thực hiện được quan điểm như
vậy về nâng cao chất lượng đào tạo sẽ bảo đảm được mục tiêu đào tạo nguồn
nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
trong tương lai.
Thứ năm: Phát triển y tế và cải thiện môi trường nâng cao chất lượng
NNL trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực.
Thực trạng thể lực người lao động Hải Dương còn ở mức trung bình đòi
hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về sức khoẻ và CMKT, bởi đây
chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Môi trường cạnh
tranh của nền kinh tế hội nhập sẽ kích thích sự phát triển của khoa học công
nghệ, do vậy sẽ có đòi hỏi cao hơn đối với đội ngũ lao động, cũng chính là động
lực cho sự phát triển NNL của Việt Nam, vì nguồn lao động sẽ có cơ hội tiếp xúc
với các phương pháp quản lý tiên tiến của thế giới để nâng cao khả năng về tay
nghề, năng lực quản lý và tác phong làm việc hiện đại.
Trong thời gian sắp tới để tạo ra NNL có chất lượng đảm bảo nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, tạo đà cho việc nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế
Hải Dương ở thị trường trong nước cũng như vươn ra thị trường khu vực và thế
giới. Bên cạnh việc phát triển hệ thống giáo dục chất lượng, đẩy mạnh đào tạo,
sử dụng NNL thì Hải Dương cần thể hiện rõ và cụ thể hoá các chủ trương, chính
sách về nâng cao thể trạng người dân thông qua công tác phát triển y tế, chăm
sóc sức khoẻ cộng đồng, nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh, đầu tư cơ sở vật
chất cho ngành y tế bên cạnh công tác tuyên truyền người dân nâng cao nhận
thức chăm sóc sức khoẻ, xây dựng chế độ dinh dưỡng và tham gia hoạt động rèn
luyện sức khoẻ bản thân.
Cùng với nâng cao thể trạng sức khoẻ thông qua phát triển y tế thì công
tác bảo vệ môi trường sống cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới thể trạng người lao
động. Vì vậy, cần chú trọng tới công tác vệ sinh môi trường, bảo vệ nguồn nước,
không khí, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, đồng thời cần xây dựng lối sống
lành mạnh trong cộng đồng, có đạo đức và ý thức tập thể cao trong nhân dân.
71
3.1.2. Phương hướng tạo lập nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát
triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương đến 2020
Bên cạnh các vấn đề về phát triển kinh tế, thì quá trình phát triển đồng bộ
các vấn đề xã hội như dân số lao động, việc làm, giáo dục đào tạo, khoa học
công nghệ, y tế, văn hóa,... là yêu cầu để củng cố, nâng cao chất lượng NNL,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, nâng cao sức khỏe nhân dân cả về thể chất lẫn
tinh thần. Đầu tư cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh thì phát triển
NNL chất lượng cao được coi là nhân tố quyết định, vì vậy tỉnh cần tập trung xác
định một số phương hướng:
Một là: Đẩy mạnh công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, giảm tỷ lệ tăng
tự nhiên dân số từ 9,7‰ thời kỳ 2006 - 2010 xuống dưới 8,9‰ vào giai đoạn
2011 - 2015. Nâng cao chất lượng dân số, thực hiện chính sách chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 16% năm 2015, có 95%
hộ dân được dùng nước sạch, giảm tỷ lệ sinh con thứ ba, tỷ lệ người mắc bệnh
nghề nghiệp, bệnh truyền nhiễm.
Hai là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục phổ thông, các cơ sở dạy
nghề với giáo dục đại học trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho thời gian tới
của tỉnh, trong đó hệ thống giáo dục phổ thông cần được duy trì ổn định và nâng
cao chất lượng cơ sở đào tạo bên cạnh các trung tâm hướng nghiệp. Đối với đào
tạo chuyên nghiệp cần chú trọng mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào
tạo nghề, đảm bảo tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trên 55% trên tổng số lao
động có việc làm năm 2015. Xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Xây dựng
và phát triển có trọng điểm các ngành công nghệ cao, ưu tiên công nghệ thông
tin, công nghệ tự động hóa, xây dựng và phát triển nguồn lực con người đảm bảo
khả năng tiếp thu, ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại.
Ba là: Củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, tập trung ưu tiên và nâng
cao khả năng khám chữa bệnh cho các bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên
khoa. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm y tế
dự phòng, nâng cao khả năng giám sát ngăn chặn và xử lý các bệnh dịch. Đồng
72
thời thực hiện tốt chương trình mục tiêu y tế quốc gia, nâng cao tuổi thọ trung
bình lên trên 72 tuổi.
Bốn là: Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng NNL có chất lượng, muốn sử
dụng có hiệu quả NNL việc quan trong là cần phát triển cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại với nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm 19%, ngành công nghiệp, xây dựng
chiếm 48% và ngành dịch vụ chiếm 33%. Đồng thời cơ cấu lao động cũng phải
chuyển dịch cùng cơ cấu kinh tế với nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm 43%, ngành
công nghiệp, xây dựng chiếm 30% và ngành dịch vụ chiếm 27%. Cùng với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động thì việc sắp xếp, sử dụng lao động
đúng chuyên môn, nghiệp vụ sẽ thúc đẩy và phát huy hết khả năng của lao động.
Năm là: Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước liên quan trực tiếp tới
chính sách phát triển nguồn nhân lực như ngành giáo dục, y tế, văn hoá, thể
thao,... đảm bảo chất lượng quản lý nhằm thực hiện đồng bộ, hiệu quả và đúng
đắn các chủ trương, chính sách phát triển của tỉnh và chủ trương chung của quốc
gia. Bên cạnh việc phát triển cần thường xuyên nâng cao năng lực, trình độ
chuyên môn trong quản lý nhà nước về lĩnh vực của mình có liên quan tới phát
triển nâng cao và sử dụng hiệu quả chất lượng NNL.
Như vậy, với quan điểm, mục tiêu và phương hướng cho phát triển NNL
trong giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn 2020 đã đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi cần
phải có những giải pháp cụ thể. Những giải pháp đưa ra cần phải căn cứ tính
thực tiễn và mang tính khả thi dựa vào những vấn đề trọng tâm, cấp bách và cơ
bản nhất nhằm thực hiện có hiệu quả cao nhất cho mục tiêu nâng cao chất lượng
đào tạo, thu hút và sử dụng NNL cho phát triển KT - XH của tỉnh giai đoạn 2011
- 2020.
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm tạo lập nguồn nhân lực chất lƣợng
cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dƣơng đến 2020
3.2.1. Nhóm giải pháp về giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ cao
Lý luận và thực tiễn cho thấy phát triển KT - XH và phát triển NNL luôn
có mối qua hệ biện chứng với nhau, trong Nghi quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần XI cũng đã khẳng định NNL chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá cho
73
quá trình phát triển KT - XH của đất nước, trong tiến trình phát triển Hải Dương
cũng không ngoài chiến lược đó.
Thực tế phân tích cho thấy Hải Dương trong những năm qua tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo trong lực lượng lao động còn thấp, cơ cấu, phân bổ không
hợp lý giữa các ngành, các khu vực kinh tế. Trong khi Hải Dương có nhiều tiềm
năng cho phát triển NNL chất lượng cao như dân số, tỷ lệ dân cư trong độ tuổi
lao động cao, hệ thống giáo dục ngày càng được hoàn thiện, được sự quan tâm
ngày càng lớn của các cấp uỷ Đảng, chính quyền. Bên cạnh đó nhu cầu đối với
NNL có chất lượng cho phát triển KT - XH không ngừng được mở rộng.
Để nâng cao chất lượng NNL của Hải Dương trong giai đoạn 2011 - 2020
phụ thuộc nhiều nhóm giải pháp trong đó nhóm giải pháp về giáo dục đào tạo
chiếm vị trí hàng đầu. Bởi vì khi nói đến NNL là chúng ta nói đến trình độ học
vấn, trình độ CMKT, kỹ năng, kỹ xảo, sức khỏe... của người lao động. Mà tất cả
những cái đó chỉ có thể có được thông qua quá trình giáo dục, đào tạo, rèn luyện.
Chính vì vậy, giáo dục và đào tạo là nhân tố đóng vai trò cơ bản trực tiếp quyết
định việc nâng cao chất lượng NNL, với các nội dung chủ yếu:
Giáo dục mầm non và tiểu học: Trong giai đoạn tới cần tiếp tục thực hiện
đầu tư xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, giảm tỷ lệ bình quân các cháu trên
lớp theo chuẩn. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh phòng bệnh,
nuôi dưỡng, giáo dục mầm non tiếp tục được nâng cao, nâng cao chất lượng giáo
dục các trường đạt 100% trẻ ăn bán trú đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ mắc bệnh truyền nhiễm, thực hiện có hiệu
quả các chương trình tiêm chủng phòng dịch. Từ đó nâng cao tỷ lệ trẻ em được
huy động vào nhà trẻ và 100% trẻ em 6 tuổi vào lớp 1.
Đối với giáo dục tiểu học, cần tiếp tục đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất, đổi
mới chương trình và phương pháp giảng dạy. Đảm bảo chất lượng đội ngũ giáo
viên đạt chuẩn quốc gia, giữ vững và nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục phổ
cập ở tiểu học, duy trì mục tiêu 100% trẻ em 6 tuổi vào lớp 1, hiệu quả đào tạo
đạt 100%, học sinh hoàn thành chương trình tiểu học và vào lớp 6 duy trì đạt
100%. Tổ chức cho học sinh học 2 buổi/ngày và tổ chưc cho trẻ ăn bán trú đạt
74
trên 50%. Chất lượng giáo dục tiểu học xếp loại khá giỏi tăng trên 80%, tỷ lệ học
sinh xếp loại hạnh kiểm đạt yêu cầu tăng.
Đối với giáo dục phổ thông: Tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch giáo
dục và đào tạo theo chuẩn kiến thức, kỹ năng, phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh, duy trì tốt nghiệp trung học cơ sở đạt trên 97%, tỷ lệ học sinh khá giỏi
đạt trên 55,5%, chất lượng phổ cập THCS tiếp tục được củng cố. Đối với THPT
chủ động triển khai và hoàn tất chương trình phân ban, thay sách các lớp, đổi
mới phương pháp dạy học, tăng cường khoa học công nghệ đặc biệt là hệ thống
tin học trong giảng dạy. Huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục đặc
biệt là khu vực ngoài công lập. Nâng cao tỷ lệ khá giỏi trên 45% và tỷ lệ tốt
nghiệp THPT trên 90%. Tỷ lệ học sinh đỗ đầu vào cao đẳng, đại học hàng năm
tăng. Tiếp tục phát triển giáo dục thường xuyên trình độ THPT, giáo dục bổ túc
THPT đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội, tiếp tục đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá tạo bước chuyển trong nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Đối với đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất: Tiếp tục nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo, cụ thể đối
với tiểu học đạt trên 81,2%, THCS đạt trên 45%, và THPT đạt trên 11%. Tăng
cường đội ngũ cán bộ giáo viên cả về số lượng và chất lượng, giảm dần tỷ lệ
bình quân số học sinh/ 1 giáo viên theo chuẩn thuận lợi cho nâng cao chất lượng
giáo dục, bổ sung những môn học mới như ngoại ngữ, tin học, nhạc hoạ,... vào
các cấp học.
Về cơ sở vật chất, tiếp tục cần được đầu tư hơn nữa theo hướng đồng bộ,
chuẩn hoá và hiện đại. Phấn đấu 2015 các phòng học đều được kiên cố hoá ở các
cấp đạt 100%, các trường ở các cấp đều có thư viện. Mở rộng đầu tư cơ sở phòng
học tiến tới giảm số học sinh trên từng lớp học góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo ở từng cấp. Có chính sách hỗ trợ cho các trung tâm giáo dục thường
xuyên, bổ túc văn hoá ở các huyện và trường dạy nghề công lập đủ tiêu chuẩn về mặt bằng (35 học sinh lớp học lý thuyết, 18 học sinh/lớp thực hành và 4 m2/hs đối với
75
phòng thực hành); đảm bảo phòng học thoáng mát, đủ ánh sáng và phương tiện giảng
dạy. Ngoài nguồn kinh phí hàng năm của Trung uơng và địa phương dành cho
công tác đào tạo nghề, cần có cơ chế chính sách để thu hút từ các nguồn đóng
góp của người học, từ các đơn vị và khu vực tư thục cho đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất cho các cấp giáo dục.
Đối với đào tạo chuyên nghiệp: Đào tạo chuyên nghiệp với đội ngũ lao
động có CMKT luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng
NNL trong chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo và quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH phát triển KT - XH. Để đạt được mục tiêu 2015 tỉnh Hải Dương trở thành
một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, với 100% lao động trong công nghiệp
qua đào tạo trong đó lao động trình độ cao chiếm 50%, mỗi năm đào tạo bình
quân 5.500 lao động cho các khu công nghiệp cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp như:
Một là: Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp
dạy học ở các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học trên
địa bàn tỉnh theo hướng tích cực, bám sát nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực của
tỉnh và nhu cầu của xã hội. Đổi mới phương thức đào tạo liên thông dưới nhiều
hình thức, đa dạng hoá nhiều ngành nghề, loại hình đào tạo, mở rộng giáo dục
hướng nghiệp và đào tạo nghề trong toàn tỉnh.
Hai là: Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề, các trường chuyên
nghiệp trên địa bàn tỉnh về cả phòng học, trang thiết bị và cơ sở thực hành,...
Đối với hệ thống các cơ sở đào tạo nghề, đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở
dạy nghề cả hệ thống phòng lý thuyết và hệ thống các phòng thực hành hiện đại
nhằm nâng cao tay nghề người lao động có kỹ năng thực hành, có trình độ tay
nghề đáp ứng nhu cầu xã hội, nhất là khu, cụm công nghiệp. Các cơ sở đào tạo
nghề cần được đầu tư vào các ngành công nghệ mới, các ngành nghề mà xã hội
cần trong hiện tại và thời gian sắp tới về cả quy mô và chất lượng.
Thành lập mới, nâng cấp hoặc liên kết các cơ sở đào tạo nghề với các
doanh nghiệp thuộc cả trong và ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn tỉnh để đào
tạo nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tập trung ưu tiên giải quyết
76
đào tạo các ngành mà doanh nghiệp đang có nhu cầu tuyển dụng, đặc biệt là các
ngành chế biến thực phẩm thức ăn gia súc, gia cầm, may công nghiệp, cơ khí,
công nghệ phần mềm, ôtô, công nghệ thông tin,...
Đối với các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, trong thời gian tới cần tiếp tục
đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo và quy mô các trường trên địa bàn tỉnh như
ĐH Sao đỏ, ĐH Kỹ thuật Y tế, trường ĐH Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương, ĐH tư
thục Thành Đông, các trường cao đẳng Kinh tế du lịch, CĐ Dược, CĐ Tàu
thuỷ,... Bên cạnh đó cần tiếp tục đầu tư và các ngành nghề mới có nhu cầu lao
động kỹ thuật cao như cơ khí, điện tử - tin học, kinh tế, chế biến nông sản thực
phẩm,... để tạo NNL có chất lượng đáp ứng nhu cầu cho quá trình phát triển KT -
XH của tỉnh trong giai đoạn tới cần tiếp tục mở rộng cơ sở đào tạo các trường,
thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào đầu tư cho sự phát triển các cơ sở đào tạo
nhằm thu hút trên 20% học sinh tốt nghiệp THPT và trên 15% học sinh tốt
nghiệp THCS và học chuyên nghiệp nhằm mở rộng quy mô NNL qua đào tạo
của tỉnh phù hợp quy mô phát triển KT - XH trong thời gian tới.
Tăng cường liên thông liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp đến cao đẳng, đại học và sau đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo nghề
với sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo nghề, trên cơ sở đó kiểm định, đánh giá
chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật trường chất lượng cao ở từng ngành, từng cấp học. Tổ chức, sắp xếp lại
thành các cơ sở dạy nghề có chất lượng cao; khuyến khích tư nhân mở cơ sở dạy
nghề trên cơ sở đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật trang thiết bị và
đội ngũ giáo viên cơ hữu. Chú trọng đào tạo giáo viên dạy nghề có trình độ kỹ
thuật cao chuyên gia đầu đàn trong từng lĩnh vực, ngành nghề đào tạo.
Tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý đào tạo, cơ sở đào tạo
với các đơn vị sử dụng lao động để có thông tin kịp thời về yêu cầu, chất lượng
tay nghề; tăng cường liên kết đào tạo giữa các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước;
giữa các doanh nghiệp. Chú trọng thực hành trên các công nghệ tiên tiến và hiện
đại nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Duy trì và tổ chức các hội thi
tay nghề, thi nâng bậc thợ, đào tạo lại, nâng cao trình độ cho công nhân.
77
Ba là: Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục đào tạo, thu hút mọi nguồn
lực cho phát triển giáo dục nhằm nâng cao chất lượng NNL.
Trong điều kiện hiện nay khi nguồn ngân sách của tỉnh đầu tư cho giáo
dục còn eo hẹp, ngân sách nhà nước dầu tư còn hạn chế thì việc đẩy mạnh xã hội
hóa giáo dục đào tạo là vấn đề rất cấp thiết nhằm thu hút mọi nguồn lực để đầu tư
phát triển giáo dục đào tạo nhằm tạo sức mạnh tổng hợp phát triển nguồn nhân lực
nói chung và đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Cùng với việc mở mang ngành nghề và phát triển sản xuất thì nhu cầu
việc làm ngày càng lớn. Theo dự kiến Hải Dương 2015 có mức dân số là
1.830.000 người trong đó dân số trong độ tuổi lao động là 1.210.000 người thì
khu vực công nghiệp là 342.864 người và đến 2020 số người lao động sẽ là
1.260.000 người trong đó ngành công nghiệp là 503.779 người. Với mục tiêu
ngày càng cần nhiều lao động đã qua đào tạo, lao động có trình độ CMKT. Cho
nên nếu không đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo thì Hải Dương khó có thể
có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH của tỉnh.
Đối với bậc đại học và cao đẳng là sự phát triển hệ thống trường đại học,
cao đẳng dân lập, góp phần tạo thêm chỗ học tập, nâng quy mô đào tạo, giảm
được chi phí trung bình của ngân sách trên một sinh viên, tạo điều kiện để Nhà
nước có thêm nguồn ngân sách cho tăng lương, tăng đầu tư cho nghiên cứu phát
triển, duy tu bảo dưỡng cơ sở vật chất của các trường, từ đó nâng cao chất lượng
đào tạo. Bên cạnh các trường dân lập cần phát triển hệ thống các trường đại
học, cao đẳng dân lập đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Bốn là: Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước, ban hành và thực
hiện đồng bộ về giáo dục và đào tạo.
Thực hiện mạnh mẽ phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo; thực
hiện đổi mới cơ chế quản lý giáo dục theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong hệ thống giáo dục, tăng cường công tác thanh tra và kiểm tra
hoạt động giáo dục đào tạo.
Hoàn chỉnh chính sách thu hút nhân tài, trong đó đặc biệt lưu ý tạo môi
trường, điều kiện làm việc và chính sách đãi ngộ, gắn kết lực lượng tại chỗ và
78
bên ngoài chống chảy máu chất xám; hoàn thiện chính sách bồi dưỡng nâng cao
trình độ đối với đội ngũ giáo viên các cấp, đặc biệt là giáo viên dạy nghề, các lao
động có trình độ tay nghề cao.
3.2.2. Nhóm giải pháp phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực chất lượng cao
Đào tạo NNL chất lượng cao có vai trò vô cùng quan trọng, thì việc sử
phân bổ và sử dụng có mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau. Vì vậy, tạo ra
nguồn nhân lực có trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp và sức khỏe tốt là vấn
đề quan trọng trong chiến lược phát triển NNL nhưng việc phân bổ và sử dụng
nguồn nhân lực đó một cách hợp lý lại là một trong những giải pháp quan trọng.
Một là: Bồi dưỡng và sử dụng NNL chất lượng cao trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong giáo dục đào tạo cần tiếp tục phát hiện và bồi dưỡng những người
có khả năng để hình thành đội ngũ chuyên gia giỏi, các nhân tài trong các lĩnh
vực. Trong thời gian tới vấn đề đặt ra của Hải Dương là sử dụng NNL chất
lượng cao có hiệu quả hơn. Theo số liệu điều tra của Cục Thống kê Hải Dương
2010 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 4,8% và ở nông thôn là 6,0% vì vậy cần có
những chính sách sử dụng có hiệu quả, phù hợp hơn NNL đã qua đào tạo.
Bố trí và sử dụng NNL có năng lực cần tập trung chú ý tới đội ngũ có
trình độ tay nghề, có kỹ năng để sử dụng đúng với chuyên môn, nghiệp vụ được
đào tạo. Có chính sách đãi ngộ phù hợp với những lao động có năng lực chuyên
môn kỹ thuật.
Cần chú ý tình trạng thiếu nhân lực được đào tạo, nhất là nhân lực có trình
độ cao tập trung nhiều nhất trong các lĩnh vực xây dựng, quản lý, kinh doanh, kỹ
thuật công nghệ điện tử, hoá chất, thực phẩm,... Vì vậy trong những năm tiếp
theo Hải Dương cần tiếp tục có chính sách ưu tiên tiếp nhận NNL có chất lượng
vào các ngành: công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, y tế,... các ngành quản lý
xây dựng, hành chính công, luật, tài chính kế toán, du lịch, ngữ văn báo chí,
ngoại ngữ.
79
Hai là: Việc phân bố nguồn nhân lực có trình độ CMKT cần hợp lý hơn
giữa các ngành, các khu vực kinh tế và đơn vị hành chính. Hiện nay nguồn nhân
lực có chất lượng cao chủ yếu tập trung thành phố, thị xã và ngành giáo dục, y tế
trong khi đó các huyện khác và lĩnh vực sản xuất lại rất ít. Vì vậy, trong quá
trình thu hút và sử dụng cần có chính sách khuyến khích người lao động có
chuyên môn kỹ thuật về các khu vực ngoài trung tâm làm việc, cần có chính sách
hỗ trợ về vật chất hoặc điều kiện làm việc tốt hơn để thu hút lao động về các khu
vực này ngày càng nhiều hơn.
Mặt khác, hiện nay tiền lương là đòn bẩy, là công cụ quan trọng và hiệu
quả, thì vấn đề tiền lương, cơ chế chính sách đãi ngộ, vẫn còn nhiều vấn đề bất
hợp lý không kích thích được quá trình tự đào tạo nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Vì vậy, cần tiếp tục giải quyết những bất hợp lý về tiền lương vẫn đang
tồn tại và ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng hoạt động của NNL
chất lượng cao.
Ba là: Cần tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, theo
hướng hiện đại từ cơ cấu công nghiệp, xây dựng; dịch vụ; nông, lâm, thuỷ sản và
tiến tới cơ cấu hiện đại dịch vụ; công nghiệp, xây dựng; nông, lâm, thuỷ sản
nhưng đảm bảo được an ninh lương thực và khu vực nông nghiệp (cả về môi
trường, đất nông nghiệp và các làng nghề truyền thống).
Bảng 3.1: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP)
Đơn vị tính:tỷ đồng
2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng số 13.334 15.521 18.347 23.533 26.367 30.676
+ Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 3.614 4.159 4.680 6.033 6.410 7.068
+ Công nghiệp, xây dựng 5.819 6.787 8.072 10.328 11.776 13.914
+ Dịch vụ 3.901 4.575 5.595 7.172 8.181 9.694
Nguồn: Cục thống kê Hải Dương, năm 2011, tr.175.
80
Hiện nay Hải Dương đang chuyển dịch theo hướng công nghiêp, xây
dựng; dịch vụ; nông, lâm, thuỷ sản với giá trị ngành công nghiệp, xây dựng
chiếm 13.914 tỷ đồng, ngành dịch vụ chiếm tới 9.694 tỷ đồng trong khi ngành
nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm 7.068 tỷ đồng. Để thực hiện được việc phát triển
kinh tế theo định hướng trên, Hải Dương cần phải thực hiện việc chuyển dịch cơ
cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế của tỉnh. Theo dự báo năm 2015 dự kiến
dân số Hải Dương là 1.830.000 người trong đó độ tuổi lao động là 1.210.000
người và đến 2020 dân số khoảng hơn 2 triệu người trong đó độ tuổi lao động
khoảng trên 1,3 triệu người. Vì vậy Hải Dương cần phải điều chỉnh cơ cấu nguồn
nhân lực thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tỉnh cần
tập trung vào các chương trình phát triển các ngành và các lĩnh vực sau:
Công nghiệp - xây dựng: Phát triển công nghiệp có chọn lọc, tập trung vào
những ngành hàng và sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến,
có hàm lượng chất xám cao, coi trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ và công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin trở
thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, quy hoạch các khu, cum công nghiệp ở
các vùng ít ảnh hưởng đến đất nông nghiệp.
Dịch vụ: Phát huy những lợi thế so sánh của mình, khi Hải Dương nằm
trên trục đường nối các trung tâm du lịch phía Bắc và tỉnh có một số điểm du
lịch và sản phẩm có tiềm năng phát triển du lịch để trở thành một trung tâm
thương mại dịch vụ của khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc. Phấn đấu đến năm
2015 tỷ trọng các ngành dịch vụ chiếm trên 40% GDP kinh tế của tỉnh. điều đó
đồng nghĩa với việc ngành du lịch sẽ thu hút một số lượng không nhỏ lực lượng
lao động và ngành.
Nông, lâm, thuỷ sản: Nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản)
có vị trí quan trọng đối với ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo
hướng CNH, HĐH vì Hải Dương nằm trong khu vực trung tâm của đồng bằng
sông Hồng có ý nghĩa chiến lược đối với an ninh lương thực của vùng. Thực tiễn
những năm qua số lao động mới chỉ chiếm 3% NNL có chất lượng, điều này
chứng minh Hải Dương càng cần tăng cường lực lượng lao động có chất lượng
81
cao với trình độ chuyên môn kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ phát triển
ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại.
Như vậy, việc sử dụng và phân bổ NNL Hải Dương cần chuyển đổi kinh
tế theo hướng tăng nhanh giá trị ngành dịch vụ, công nghiệp, xây dựng giảm
ngành nông nghiệp. Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành
dịch vụ và công nghiệp bằng cách phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ
khác nhằm tạo ra cơ cấu lao động theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp,
dịch vụ, rút ngắn sự cách biệt giữa khu vực thành thị và nông thôn. Phục hồi,
phát triển các làng nghề truyền thống, ưu tiên phát triển đội ngũ nghệ nhân và
lao động lành nghề trong lĩnh vực này. Đồng thời cần sử dụng có hiệu quả hơn
NNL theo đúng chuyên môn tạo cho họ phát huy mọi khả năng cao nhất cho phát
triển KT - XH của tỉnh trong thời gian tới.
3.2.3. Nhóm giải pháp thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ngoài
tỉnh Hải Dương
Hải Dương xác định việc đào tạo và sử dụng NNL là khâu đột phá trong
giai đoạn 2011 - 2015. Để có được NNL có chất lượng cao bên cạnh việc đào
tạo, cần phải thu hút NNL về tỉnh công tác. Trong khi các chính sách thu hút và
sử dụng NNL của tỉnh còn chưa đủ mạnh, thì trong thời gian tới tỉnh cần tập
trung vào một số vấn đề như:
Một là: Huy động NNL là người Hải Dương đang học tập và làm việc
trong và ngoài nước về tỉnh công tác.
Trong quá trình phát triển KT - XH những năm qua đời sống nhân dân
ngày càng được tăng lên, điều này đồng nghĩa với điều kiện nâng cao sức khoẻ
và đầu tư cho giáo dục của người dân ngày càng được nâng cao. Năm 2009 có
14.359 học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học và có 13.510 người tốt
nghiệp các trường chuyên nghiệp, có 1200 người có trình độ trên đại học. Cùng
với một số lượng học sinh học tập tại tỉnh còn có một số lượng lớn học sinh theo
học ở các tỉnh thành trong cả nước, có nhiều người sau khi tốt nghiệp đã tìm cơ
hội làm việc ngoài tỉnh. Đây là một lực lượng có trình độ chuyên môn, có tay
nghề, vì vậy việc kêu gọi họ về đóng góp xây dựng cho quê hương sẽ bổ sung
82
thêm NNL có chất lượng trong quá trình phát triển của tỉnh. Đặc biệt còn có một
số lượng Việt kiều là người Hải Dương đang lao động và học tập ở nước ngoài,
họ có trình độ chuyên môn, tri thức, nắm bắt được khoa học công nghệ mới và
có trình độ tay nghề. Đây sẽ là nguồn bổ sung lao động có chất lượng và giới
thiệu hình ảnh Hải Dương với thế giới từ đó kêu gọi họ đầu tư vào tỉnh, bên cạnh
đó lực lượng này cũng là nguồn bổ sung một số lượng vốn ngoại tệ về cho sự
phát triển của tỉnh.
Như vậy, tiềm năng to lớn của người Hải Dương ở các tỉnh và nước ngoài
là tri thức, khoa học, tay nghề. Để huy động, thu hút lực lượng này sẽ là nguồn
bổ sung rất lớn trên mọi lĩnh vực như: Giáo dục, y tế, khoa học công nghệ,…
nhằm góp phần đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao để phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh, do vậy cần tập trung vào:
- Điều tra khảo sát số lượng lao động đang công tác, học tập ở ngoài tỉnh,
từ đó xây dựng kế hoạch với từng nhóm đối tượng phù hợp theo từng lĩnh vực
ưu tiên kêu gọi họ đầu tư hoặc về tỉnh công tác.
- Ban hành, xây dựng các chủ trương, chính sách đãi ngộ thu hút sự đóng
góp của người Hải Dương cả trong và ngoài nước trên từng lĩnh vực, cần tập
trung:
+ Các cơ sở giáo dục và dạy nghề của tỉnh cần đề xuất những yêu cầu, giải
pháp thu hút đầu tư của người Hải Dương ở ngoài tỉnh cả về cơ sở vật chất,
phương tiện kỹ thuật và kiến thức chuyên môn và có chính sách đãi ngộ hợp lý.
+ Khuyến khích trí thức người Hải Dương ở các tỉnh khác và ở nước
ngoài tham gia giảng dạy ở các trường đại học, dạy nghề để đào tạo nguồn nhân
lực có trình độ cao theo chuẩn khu vực và quốc tế, thực hiện các chương trình
chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin về tỉnh.
+ Ban hành và thực hiện một số chính sách ưu đãi đối với người Hải
Dương ở nước ngoài, tạo điều kiện cho Việt kiều về tỉnh đầu tư, kinh doanh: Qua
đó tăng cường hiệu quả huy động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài để
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
83
+ Nâng cao việc quản lý thực hiện các chính sách ưu đãi đối với việc thu
hút nhân tài một cách chặt chẽ, đồng thời phải có chính sách bồi dưỡng nhân tài.
Tỉnh cần lựa chọn những sinh viên là người Hải Dương theo học những ngành
nghề phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh để cấp
học bổng cho các em trong thời gian học và động viên các em trở về quê hương
công tác theo chế độ ưu đãi của tỉnh. Tỉnh nên tiếp tục thực hiện hỗ trợ ưu đãi
cho sinh viên tốt nghiệp loại giỏi như tuyển thẳng công chức, cộng điểm với sinh
viên tốt nghiệp loại khá, hỗ trợ đất, nhà một cách thoả đáng cho những ai có học
vị tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư từ các nơi khác về tỉnh công tác tạo động lực cho
sự phát triển của tỉnh.
Hai là: Tiếp tục thực hiện Quyết định số 358 của UBND tỉnh ngày
02/4/2002: V/v ban hành quyết định chế độ ưu đãi và sử dụng nhân tài.
Tỉnh tiếp tục công khai danh mục các ngành ưu tiên tiếp nhận người tài,
xuất phát từ thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh, nên tập trung ưu
tiên những ngành nghề như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, y tế, các
ngành quản lý đô thị, hành chính công, luật, tài chính kế toán, du lịch, ngữ văn
báo chí, ngoại ngữ,… Đối với những người có bằng tiến sỹ, tỉnh không nên phân
biệt ngành đào tạo và hộ khẩu thường trú; đối với những người có bằng thạc sỹ
cần hỗ trợ kinh phí không nên ràng buộc điều kiện hộ khẩu thường trú tại tỉnh.
Ba là: Thực hiện Chỉ thị 42 - CT/TW của Bộ Chính trị ban hành 16 - 4 -
2010 về xây dựng tổ chức Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật.
Một trong những giải pháp là xây dựng tổ chức Liên hiệp các hội khoa
học và kỹ thuật tỉnh tổ chức đại diện cho giới tri thức, quan tâm kiện toàn lại cơ
cấu tổ chức và tiềm lực để Liên hiệp hội đủ sức là cầu nối giữa các cơ quan
Đảng, chính quyền với các đoàn thể chính trị - xã hội, bảo vệ lợi ích chính đáng,
hợp pháp của trí thức khoa học và công nghệ. Cần giáo dục chính trị, tư tưởng
cho hội viên khoa học, tạo sự gắn bó vững chắc giữa Đảng, Nhà nước với trí
thức trước tình hình mới của tỉnh. Liên hiệp thực hiện phát hiện, giúp đỡ bồi
dưỡng nhân tài, tôn vinh trí thức và những công trình sáng tạo đóng góp có hiệu
quả vào sự nghiệp phát triển KT - XH của tỉnh.
84
3.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao tình trạng sức khỏe, nâng cao chất
lượng dân số
Cùng với việc nâng cao phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, thì nâng
cao tình trạng sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống
cho người dân là tiền đề quan trọng, là bước có tính chất đột phá cho vấn đề
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh.
Một là: Tiếp tục thực hiện chiến lược nâng cao sức khoẻ, thể lực của nhân
dân và người lao động.
Sức khoẻ, thể lực là nhu cầu của mỗi con người, đồng thời là điều kiện cơ
bản để lao động sáng tạo ra đời sống vật chất và tinh thần cho xã hội. Vì vậy,
trong những năm qua, Hải Dương đã thực hiện chính sách phát triển hệ thống y
tế chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong tỉnh.
Nhưng nhìn chung tình trạng sức khỏe của người dân Hải Dương chỉ ở
mức trung bình, đặc biệt tỷ lệ người mắc bệnh, các bệnh truyền nhiễm, tỷ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng cũng khá cao. Nguồn nhân lực Hải Dương còn hạn chế cả về
tầm vóc và thể lực thuộc loại trung bình. Nguyên nhân của thực trạng trên là do
một mặt thể trạng chung của con người Việt Nam, mặt khác do tình hình chăm
sóc sức khỏe trẻ em những năm trước đây chưa thực hiện tốt. Đồng thời do kinh
tế phát triển chưa mạnh, thu nhập thấp, đời sống khó khăn, môi trường sống
và làm việc bị ô nhiễm, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khỏe của
người dân chưa cao, trình độ phát triển y tế và các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe còn thấp.
Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao Hải Dương cần thực hiện tốt
các văn bản luật về chăm sóc sức khoẻ nhân dân, điều lệ khám chữa bệnh, phục
hồi chức năng, phát triển chăm sóc sức khoẻ cộng đồng bằng các biện pháp sau:
- Tiếp tục huy động mọi tiềm lực của xã hội vào đầu tư phát triển các cơ
sở y tế trong và ngoài công lập như Bệnh viện đa khoa, viện nhi, viện lao phổi,
viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, viện phong,… bên cạnh bệnh viện đa
khoa tư nhân còn có các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân theo quy định của pháp
85
luật. Đầu tư nâng cao chất lượng cơ sở như số giường bệnh, y bác sĩ và các dịch
vụ y tế khác nhằm nâng cao chất lượng phục vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ trong nhân dân, kiến thức về chế độ dinh dưỡng cho trẻ, vệ sinh an toàn
thực phẩm,… Từ đó nâng cao nhận thức bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, thể lực
người dân và lực lượng lao động.
- Đẩy mạnh hiệu quả mạng lưới y tế dự phòng, nâng cao hiệu quả chăm
sóc sức khoẻ cộng đồng, giảm tỷ lệ bệnh truyền nhiễm, tình trạng suy dinh
dưỡng ở trẻ em. Tiếp tục duy trì nâng cao hiệu quả chăm sóc miễm phí cho trẻ
em dưới 6 tuổi, khám sức khoẻ định kỳ cho học sinh các cấp. Thực hiện chế độ
kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho người lao động theo quy định ở các doanh nghiệp.
Mở rộng hiệu quả dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thông qua chế độ bảo hiểm cho
người dân và người lao động nhằm nâng cao tỷ lệ sử dụng dịch vụ bảo hiểm toàn
xã hội, hỗ trợ bảo hiểm cho người nghèo, người có thu nhập thấp hoặc hỗ trợ bảo
hiểm miễn phí cho trường hợp đặc biệt khó khăn.
- Ban hành chủ trương và chính sách phát triển nâng cao thể lực cho nhân
dân (tỷ lệ chiều cao, cân nặng), thúc đẩy phát triển hiệu quả hoạt động kinh tế
nhằm cải thiện nâng cao đời sống nhân dân nhằm nâng cao đầu tư cho phát triển
con người trong nhân dân. Đồng thời kết hợp với các phong trào hoạt động xã hội
như phong trào thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, phong trào
toàn dân tập thể thao, xây dựng lối sống văn minh lành mạnh trong cộng đồng.
- Quy định bắt buộc và nghiêm túc xử lý đối với doanh nghiệp về thực
hiện chế độ bảo hộ lao động, an toàn sản xuất đặc biệt là lao động trong các
ngành có tính chất độc hại, nguy hiểm và lao động là nữ giới.
Hai là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số trong thời gian tới.
Quá trình phát triển dân số có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển NNL.
Dân số tăng hoặc giảm quá mức trong một thời kỳ sẽ có sự ảnh hưởng tới tăng
hoặc giảm số lượng lao động, giảm chi phí bình quân cho phát triển giáo dục,
chăm sóc sức khoẻ, đời sống nhân dân gặp khó khăn, từ đó ảnh hưởng không tốt
cho nâng cao chất lượng NNL. Thực tiễn đã cho thấy việc tăng dân số cao trong
86
một giai đoạn gây áp lực lớn tới phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội.
Ngược lại quá trình giảm dân số sẽ làm thiếu hụt lao động từ đó cũng có ảnh
hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội, tới chất lượng NNL. Trong thực tế những
người có thu nhập cao, có trình độ học vấn thường sinh ít con nên rất chú trọng
nâng cao chất lượng cuộc sống, và ngược lại những người có thu nhập thấp, trình
độ hiểu biết còn hạn chế thường sinh nhiều nên thu nhập càng giảm, không có
điều kiện nâng cao cuộc sống và chất lượng NNL.
Trong thời gian qua Hải Dương đã nhận thức được vấn đề dân số có ảnh
hưởng rất lớn tới phát triển KT - XH, vì vậy tỉnh đã có những chính sách phát
triển dân số phù hợp với thực tiễn. Thời gian vừa qua công tác dân số của tỉnh đã
có những thành quả tích cực như tỷ lệ sinh giảm thấp hơn mức bình quân chung
của Việt Nam (năm 2006 là 16,09‰, năm 2010 là 15,95‰), cơ cấu độ tuổi cũng
có sự thay đổi từ 0 - 15 tuổi năm 2004 là 25,2% năm 2009 giảm còn 21,6%,
trong độ tuổi từ 16 đến dưới 60 năm 2004 là 62,3% tăng lên 64,8% năm 2009
trong khi trên độ tuổi lao động năm 2004 là 12,5% tăng lên 13,6% năm 2009.
Như vậy dân số Hải Dương trong những năm gần đây có xu hướng giảm và đang
đạt trạng thái dân số vàng.
Để tiếp tục thực hiện chính sách dân số phù hợp tỉnh cần tiếp tục thực
hiện những giải pháp như:
- Tiếp tục thực hiện chính sách dân số giai đoạn 2010 - 2015, nhằm ổn
định phát triển dân số đáp ứng yêu cầu NNL của tỉnh.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và thực hiện có hiệu quả chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình
và trẻ em, pháp lệnh về dân số.
- Huy động các tổ chức chính trị xã hội tham gia vào công tác dân số kế
hoạch hoá gia đình.
- Tăng cường hơn nữa quản lý nhà nước về vấn đề dân số, có hình thức
kiên quyết với các trường hợp vi phạm pháp lệnh dân số.
87
3.2.5. Nhóm giải pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
Lao động, việc làm và vấn đề thu nhập có ảnh hưởng không nhỏ tới phát
triển NNL chất lượng cao của mọi nền kinh tế. Trong giai đoạn 2006 -2010 Hải
Dương có sự chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu lao động giữa các khu vực và vùng
kinh tế, lao động ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng lên
và ngành nông nghiệp có xu hướng giảm rõ rệt theo đó lao động khu vực thành
thị tăng lên và khu vực nông thôn giảm. Tuy vậy, có sự bất cập khi lao động phổ
thông thì dư thừa và lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đặc biệt là kỹ
thuật cao đang rất thiếu. Bên cạnh đó lao động Hải Dương còn một số hạn chế về
trình độ ngoại ngữ, kỷ luật và tác phong công nghiệp, trong khi hàng năm số lao
động tăng thêm cần giải quyết việc làm là không nhỏ (hàng năm ước tính khoảng
10% lao động). Điều này dẫn đến việc nền kinh tế chưa sử dụng hết tiềm năng về
lao động, một số bộ phận lao động trong tình trạng thất nghiệp ở thành thị và
thiếu việc làm ở khu vực nông thôn. Để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển KT - XH,
nâng cao mức thu nhập của người lao động nhằm nâng cao chất lượng NNL tỉnh
cần tập trung một số giải pháp như:
Thứ nhất: Giảm tỷ lệ thất nghiệp và giải quyết việc làm
Năm 2010 trong độ tuổi 15 đến dưới 60 tuổi là 1.326.068 người và ước
tính năm 2015 là 1.830.000 người, trong những năm qua tỷ lệ thất nghiệp của
tỉnh thường được đánh giá là ổn định và hợp lý. Tỷ lệ lao động thiếu việc làm
hàng năm giai đoạn 2006 - 2010 là 4.6% ở thành thị và 6,0% ở nông thôn, hệ số
sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là hơn 80%. Vì vậy cần tập trung giải
quyết:
- Nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, theo phân
tích 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo của Hải Dương còn thấp cụ thể:
88
Bảng 3.2: Số ngƣời từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm
chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật 2010
Trình độ CMKT cao nhất được đào tạo
Chưa đào
Trung
Cao
Thạc sỹ,
Tổng dân số 15 tuổi
Sơ cấp
Cao
Đại
tạo
cấp
THCN
đẳng
tiến
KXĐ
trở lên
nghề
đẳng
học
CMKT
nghề
nghề
sĩ
1,326,068 1,140,308 42,983 46,237 30,300 8,058 19,730 37,233
1,144
76
Đơn vị tính: người
Nguồn: Số liệu thống kê Cục Thống kê Hải Dương.
Vì vậy cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển, huy động mọi nguồn lực cho phát
triển công tác đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho người lao động. Hỗ trợ đào tạo và
cung cấp lao động có trình độ là người Hải Dương đối với các doanh nghiệp đầu
tư trên địa bàn của tỉnh.
- Cho người lao động vay vốn ưu đãi để tự phát triển tạo việc làm tại chỗ,
và phát triển các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm thu hút và
giải quyết một phần lao động. Bên cạnh đó cần huy động mọi nguồn vốn nhàn
rỗi trong dân cho các quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm.
- Tiếp tục chính sách quy hoạch và cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu
hút vốn đầu tư bên ngoài vào tỉnh, mở rộng quy mô và xây dựng hoàn thiện các
khu công nghiệp nhằm thu hút và giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động từ đó tạo tiền đề đẩy mạnh phát triển NNL chất lượng cao của tỉnh.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng hiện đại. Hiện năm 2010 cơ cấu lao động ngành nông,
lâm, thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ là 54,5% - 27,3% - 18,2% và dự
báo 2015 cơ cấu lao động giữa các ngành là 43% - 30% - 27%. Tập trung đẩy
mạnh giải quyết việc làm cho người lao động khu vực nông nghiệp, phát triển
các khu vực chuyên canh các sản phẩm nông nghiệp theo hướng phát triển kinh
tế hàng hoá nhằm nâng cao thu nhập và thu hút giải quyết việc làm cho người lao
động tại vùng nông thôn.
89
Thứ hai: Xây dựng và phát triển thị trường sức lao động một cách đồng
bộ và hiệu quả.
Thị trường lao động là nơi gắn người lao động và cơ sở lao động với cơ sở
sử dụng và doanh nghiệp sử dụng lao động. Việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cũng phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường lao động, hai vấn đề
này liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, việc đưa ra những
giải pháp để thúc đẩy sự hoạt động của thị trường lao động là một vấn đề bức
xúc hiện nay. Để thúc đẩy thị trường lao động hình thành và hoạt động hiệu quả,
cần thực hiện một số biện pháp:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của liên đoàn lao động tỉnh, các trung tâm
xúc tiến và giới thiệu việc làm. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức tốt các
hội chợ lao động và việc làm nhằm tạo điều kiện cho người lao động có nhiều cơ
hội tìm kiếm việc làm và các doanh nghiệp có nhiều cơ hội tuyển dụng được lao
động phù hợp với yêu cầu của mình.
- Xây dựng, hoàn thiện mạng lưới thông tin thị trường sức lao động từ cấp
phường, xã, thị trấn. Củng cố mạng lưới trung tâm giới thiệu việc làm, xây dựng
các trung tâm giới thiệu việc làm tập trung có quy mô lớn, chất lượng và uy tín
thực sự là cầu nối giữa cơ sở đào tạo và người lao động với các doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động ra thị trường sức lao động ở nước
ngoài. Xuất khẩu lao động là biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bởi vì
người lao động tham gia xuất khẩu lao động có điều kiện tiếp cận những phương
tiện kỹ thuật hiện đại góp phần nâng cao trình độ CMKT cho người lao động.
- Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chính sách cải thiện cơ chế tiền
lương, môi trường lao động, từ đó thu hút được NNL chất lượng cao và hình
thành thị trường lao động. Vì thực tiễn hiện nay mặt bằng tiền lương và điều kiện
làm việc còn chưa cao, chỉ đạt mức trung bình của cả nước.
Nhìn chung, giải quyết việc làm cho người lao động cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội, các
doanh nghiệp và chính người lao động.
90
3.2.6. Nhóm giải pháp về xây dựng môi trường sống thuận lợi, phục vụ
cho việc khai thác, sử dụng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Cải thiện môi trường sống cho người lao động nói riêng và con người nói
chung có tác động rất lớn đối với nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm chi phí cho
bảo vệ môi trường, giảm tỷ lệ mắc bệnh nên giảm chi phí cho chăm sóc sức khoẻ,
nâng cao chi phí cho phát triển giáo dục,… Tất cả các thông số trên đều có ảnh
hưởng rất lớn tới phát triển NNL chất lượng cao. Môi trường sống là môi trường
tự nhiên, môi trường xã hội. Bảo vệ môi trường sống có vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm sự phát triển bền vững. Hiện nay
môi trường tự nhiên (bao gồm không khí, nguồn nước, đất đai, nguồn khoáng sản
không có khả năng tái sinh) đặc biệt là các khu công nghiệp chịu tác động mạnh
mẽ của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Môi trường xã hội (bao gồm lối sống,
đạo đức, văn hoá,…) cũng có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành tư tưởng,
nhân cách, thái độ, khả năng phát triển trí tuệ. Để cải hiện môi trường sống từ đó
nâng cao chất lượng NNL, tỉnh cần tập trung vào một số giải pháp như:
Một là: Phát triển và bảo vệ môi trường tự nhiên nhằm nâng cao chất
lượng NNL.
- Nâng cao vai trò và chế tài quản lý của các cơ quan nhà nước đối với
công tác khai thác và bảo vệ môi trường. Kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư đối
với các dự án gây ô nhiễm môi trường.
- Ban hành chính sách, quyết định mạnh hơn nữa để bảo vệ môi trường,
đồng thời tăng cường việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện bảo vệ môi trường tự
nhiên và môi trường đất, nước, không khí, tài nguyên khoáng sản.
- Tích cực tuyên truyền, huy động các tổ chức xã hội và công tác tuyên
truyền bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức của người dân bảo vệ môi trường
xung quanh.
- Xây dựng đội ngũ các nhà khoa học có đủ trình độ, các chuyên gia khoa
học công nghệ về bảo vệ môi trường đồng thời đưa giáo dục bảo vệ môi trường
vào các trường học.
91
- Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn nguyên liệu không có khả năng tái
sinh bằng các biện pháp áp dụng các thành tựu khoa học hiện đại, sử dụng hiệu
quả NNL có chất lượng trong quá trình sản xuất và xây dựng hệ thống xử lý
nguồn nước, không khí ở các khu công nghiệp và theo dõi tính hiệu quả của các
hệ thống đó.
Hai là: Phát triển và bảo vệ môi trường xã hội nhằm nâng cao chất lượng
NNL.
Môi trường xã hội thuận lợi là tổng thể các yếu tố kinh tế, chính trị, văn
hóa, pháp luật, đạo đức, tâm lý, dư luận xã hội, phong tục tập quán, truyền thống,
gia đình... cho phép con người có thể cống hiến và hưởng thụ những gì họ cho là họ
xứng đáng được hưởng thụ. Do vậy, để có môi trường xã hội thuận lợi, kích thích
sự cống hiến và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ cho con người cần phải tác động tích
cực có định hướng lên cả hai mặt vật chất và tinh thần. Vì vậy cần tập trung một số
giải pháp như:
- Nâng cao các vấn đề về công bằng và dân chủ trong khuôn khổ của pháp
luật, phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Xây dựng
những chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn, vừa phù hợp với điều kiện và khả
năng hiện thực của xã hội, vừa đáp ứng nhu cầu tâm tư, nguyện vọng của người
lao động.
- Xây dựng cơ chế và môi trường làm việc với trạng thái tâm lý an tâm, an
toàn, tin tưởng, phấn khích... Tất cả những vấn đề trên được hiện thực hóa nó sẽ
thực sự là động lực mạnh mẽ kích thích tính sáng tạo của mọi người đặc biêt là
các hoạt động sáng tạo và đòi hỏi trình độ trí tuệ cao vào mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh.
- Tuyên truyền đạo đức, lối sống và mối quan hệ xã hội lành mạnh, tập
trung vào rèn luyện ý thức cộng đồng, xây dựng lối sống có tinh thần trách
nhiệm của cá nhân với cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó cần nâng cao vai trò
hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội trong nâng cao ý thức, đạo đức và tâm
lý lành mạnh.
Ba là: Giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích trong xã hội.
92
Vấn đề lợi ích luôn là cơ sở và động lực nâng cao hiệu quả và năng suất
lao động. Muốn khai thác triệt để, phát huy tối đa vai trò, sức mạnh của nguồn
lực con người nhất thiết phải tìm ra được động lực thúc đẩy tính tích cực của con
người.
Lợi ích có nhiều loại, trong đó lợi ích cá nhân bao giờ cũng là động lực
trực tiếp và kích thích mạnh mẽ nhất tính tích cực của con người, còn lợi ích xã
hội thì nói chung chỉ có thể thực hiện được vai trò động lực của mình thông qua
lợi ích cá nhân. Từ vai trò đó, việc giải quyết vấn đề lợi ích trong xã hội cần giải
quyết một số vấn đề như:
- Thực hiện các chính sách tiền lương phải đảm bảo công bằng trong cống
hiến nhất là chính sách tiền lương và trả công xứng đáng cho các sáng kiến khoa
học có hiệu quả kinh tế. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với lao động trí tuệ,
nhất là đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ đỉnh cao, chế độ lương, thưởng vật
chất, tinh thần phải chứng tỏ được sự ưu đãi của tỉnh đối với nhân tài.
- Thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao
động là chủ yếu. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh hiệu quả các hình thức phân phối
như phân phối theo vốn góp và theo phúc lợi xã hội. Có chính sách đãi ngộ đối
với những người có cống hiến cho xã hội chứ không chỉ cho sản xuất, nhất là
những người đã cống hiến xương máu cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc.
3.2.7. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực và vai trò của bộ máy quản lý
nhà nước về nguồn nhân lực
Để thực hiện được mục tiêu phát triển KT - XH, cần nâng cao chất lượng
NNL đòi hỏi có vai trò và hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước có đủ năng
lực, trình độ thích ứng, có năng lực, nhiệm vụ rõ ràng. Bên cạnh đó là các chính
sách, công cụ, chính sách vĩ mô phát triển phù hợp với điều kiện tự nhiên - xã
hội của tỉnh. Đối với cán bộ quản lý nhà nước, trong những ngành cá tác động
trực tiếp tới phát triển NNL, thì cần đội ngũ cán bộ cần có năng lực chuyên môn,
năng lực quản lý và có phẩm chất đạo đức để giải quyết vấn đề cung - cầu lao
động trên thị trường, phân bổ và sử dụng nguồn lao động. Đồng thời phải xây
93
dựng và ban hành các văn bản về quản lý và sử dụng lao động, các chủ trương
phát triển giáo dục đào tạo NNL, giải quyết chính sách tiền lương, bảo hiểm, an
toàn vệ sinh lao động, các chính sách về thị trường lao động,… Để thực hiện
được những mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với NNL chất
lượng cao cần thực hiện các giải pháp sau:
- Tập trung nâng cao vai trò chỉ đạo của các cấp uỷ đảng đối với chiến lược
phát triển NNL thúc đẩy phát triển KT - XH, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ
quan Đảng và chính quyền trong việc quy hoạch mục tiêu phát triển, cơ cấu tổ chức
KT - XH nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả NNL chất lượng cao. Các cơ quan
nhà nước quan tâm, kiểm tra giám sát và tạo điều kiện thúc đẩy phát triển NNL sẽ
tạo nên động lực vô cùng to lớn cho phát triển NNL ở các cơ sở, tạo phong trào và
định hướng cho các cấp thực hiện.
- Đổi mới cơ chế quản lý gọn nhẹ, hiệu quả đối với quá trình thu hút và sử
dụng NNL có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu phát triển
của tỉnh. Tạo cơ chế chính sách nhanh và hiệu quả cho các doanh nghiệp chủ động
sử dụng lao động một cách hợp lý, từ đó bồi dưỡng họ trở thành NNL chất lượng
cao bên cạnh các chính sách quản lý các hoạt động phát triển khác có ảnh hưởng
trực tiếp tới phát triển NNL chât lượng cao của tỉnh.
- Có chính sách đãi ngộ tạo động lực cho NNL phát huy hiệu quả, từ đó thu
hút NNL là đội ngũ các nhà quản lý, các nhà khoa học về công tác tại tỉnh như cấp
học bổng cho học sinh, sinh viên theo học các trường chuyên nghiệp, tạo môi
trường làm việc thuận lợi, tạo điều kiện như cấp nhà ở, phương tiện, trả lương phụ
cấp tương xứng, sớm tạo thuận lợi cho cán bộ trẻ ổn định cuộc sống để thu hút cán
bộ trẻ nhằm trẻ hoá đội ngũ cán bộ.
- Tiếp tục tạo điều kiện nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý bằng việc tạo
điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ học tập rèn luyên nâng cao trình độ chuyên
môn để đáp ứng yêu cầu quản lý phát triển NNL của tỉnh. Đặc biệt là cán bộ quản lý
các ngành y tế, giáo dục đào tạo, các ngành công nghiệp dịch vụ cần tập trung các
lớp tập huấn nâng cao trình độ năng lực, kiến thức quản lý nhà nước ở lĩnh vực
mình quản lý.
94
Như vậy, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về NNL là rất quan trọng.
Trong thời gian tới để nâng cao đào tạo, thu hút và sử dụng có hiệu quả NNL chất
lượng cao cần tiếp túc nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước về NNL cần thực
hiện đồng bộ các biện pháp trên.
Tóm lại: Để nâng cao chất lượng NNL chất lượng cao, Hải Dương không chỉ
thực hiện một giải pháp mà cần phải thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp trên.
Vì mỗi giải pháp đều có tác động đến từng mặt của chất lượng NNL mặt khác các
giải pháp trên chỉ mang tính tương đối và đều nhằm mục tiêu của quá trình phát
triển KT - XH, hướng tới 2015 và tầm nhìn 2020 tỉnh trở thành tỉnh công nghiệp
theo hướng hiện đại.
95
KẾT LUẬN
Ngày nay NNL chất lượng cao được coi là một trong ba khâu đột phá
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển KT - XH, là nguồn lực nội sinh
quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển. NNL có chất lượng cao là nguồn
gốc, tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết định đến tăng trưởng, phát triển kinh
tế. NNL tốt, có chất lượng sẽ giúp cho nền kinh tế đưa ra những chính sách đúng
đắn, thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài và thực thi được các mục tiêu
một cách có hiệu quả.
Trong chiến lược phát triển KT - XH Hải Dương trong giai đoạn 2011 -
2015 và tầm nhìn 2020 được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
XV. Trong đó cũng đã xác định quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm phát triển
KT - XH phải gắn liền với phát triển NNL chất lượng. Nghiên cứu thực trạng
NNL hiện nay ở Hải Dương có thể thấy bên cạnh ưu thế về lực lượng lao động
dồi dào, tính cần cù ham học hỏi, thông minh, sáng tạo NNL Hải Dương còn có
những hạn chế không nhỏ, đó là chất lượng NNL chưa cao thể hiện ở lực lượng
lao động qua đào tạo còn thấp, kỹ năng lao động, thể lực còn nhiều hạn chế,
chưa quen tác phong công nghiệp, cơ cấu chưa phù hợp,...
Trước thực trạng về NNL chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu phát triển
KT - XH như đã phân tích, để có NNL chất lượng cao, đồng thời khắc phục
những hạn chế trên trong thời gian tới Hải Dương cần xác định rõ các chính
sách, có định hướng cụ thể. Theo dự báo phát triển KT - XH của tỉnh và vùng
kinh tế trọng điểm của khu vực đồng bằng Bắc Bộ luận văn đã nêu một số quan
điểm, phương hướng cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng NNL phục vụ
nhu cầu lao động của Hải Dương trong giai đoạn tới.
Bên cạnh những quan điểm, phương hướng cụ thể luận văn đề xuất một số
nhóm giải pháp như: Phát triển giáo dục đào tạo; nâng cao hiệu quả sử dụng và
phân bổ NNL; thu hút NNL chất lượng từ bên ngoài; nâng cao thể lực sức khoẻ
và môi trường làm việc của NNL; giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người
lao động; cải thiện môi trường sống và tăng cường công tác quản lý nhà nước đối
96
với phát triển, sử dụng và phân bổ NNL. Các nhóm giải pháp đã được nêu ra
nhằm mục đích nâng cao chất lượng NNL một cách toàn diện phục vụ cho sự
phát triển của tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
Với những giải pháp trên, cùng với sự đánh giá cao vai trò của nhân tố
NNL chất lượng cao là khâu đột phá mà các cấp ủy Đảng của tỉnh, tác giả tin
rằng nếu các giải pháp trên được thực hiện một cách đồng bộ, linh hoạt sẽ
thúc đẩy việc nâng cao chất lượng NNL ở Hải Dương đáp ứng tốt và tạo bước
phát triển KT - XH của tỉnh trong giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn 2020.
Nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị có sự kế thừa về mặt lý luận của
những người đi trước cùng với sự tham khảo số liệu của địa phương để đề ra các
giải pháp cho phù hợp. Tuy vậy, vấn đề mới chỉ đạt được những kết quả bước
đầu, cần được bổ sung trong thời gian tiếp theo. Với những vấn đề được đề cập
có thể chưa được đầy đủ từ nhiều góc độ, do sự hạn chế của bản thân. Vì vậy rất
mong sự đóng góp của thầy, cô và bạn đọc để luận văn tiếp tục được bổ sung
hoàn thiện phục vụ sự phát triển của Hải Dương trong thời gian tới.
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, TS. Đặng Thị Thanh Huyền (2005), Chỉ số phát
triển giáo dục trong HDI, cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (5/2005), Tuần tin Kinh tế - Xã hội - Trung tâm
thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Văn bản 6888/BKH - CLPT về thoả thuận
phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương
giai đoạn 2006 - 2020”, Hà Nội.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2006), Số liệu thống kê Lao động -
Việc làm ở Việt Nam, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
5. Cục Thống kê Hải Dương (2006), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương sau 10
năm tái lập (1997 - 2006), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
6. Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5 năm
(2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
7. Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực
giáo dục đại học ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. TS. Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản
xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
9. Dự án Hỗ trợ kỹ thuật kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục trung học
(2001), Tính toán của công ty nghiên cứu rủi ro chính trị và kinh tế trong
tài liệu.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Bộ tỉnh Hải Dương (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hải Dương lần thứ XIII, Hà Dương.
19. Đảng Bộ tỉnh Hải Dương (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hải Dương lần thứ XIV, Hải Dương.
20. Đảng Bộ tỉnh Hải Dương (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hải Dương lần thứ XV, Hải Dương.
21. GS.TS Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
CNH, HĐH, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. PGS. TS Phạm Hảo, PGS. TS Võ Xuân Tiến (2004), Toàn cầu hóa kinh
tế, những cơ hội và thách thức đối với miền Trung, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
23. TS. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển chất
lượng nguồn nhân lực, những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
24. TS. Đoàn Khải (2005), Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Kết quả điều tra lao động, việc làm “Tỷ lệ thất nghiệp giảm, lao động qua
đào tạo tăng” (21/11/2005), Thời báo kinh tế Việt Nam, (231).
26. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua Giáo dục và
Đào tạo, kinh nghiệm Đông Á, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
27. Huy Lê (09/7/2006), “Để không lãng phí nguồn lực chất lượng cao", Báo
Nhân dân, (28).
99
28. Hoàng Văn Liên - Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
(14/4/2006), “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - bài toán hóc búa
của doanh nghiệp trẻ”, Báo điện tử - thời báo Kinh tế Việt Nam.
29. Nguyễn Đình Luận (2005), “Nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, (14).
30. Lê Thị Ngân (2005), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế
tri thức, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
31. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt
Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
32. Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam (2004), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2005), Luật Giáo dục, Điều 13.
34. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hải Dương (2005), Thực trạng và
giải pháp giải quyết việc làm cho lao động sau khi bàn giao đất cho các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các khu đô thị mới, Hải Dương.
35. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hải Dương (6/2006), Chương trình
xoá đói giảm nghèo tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006 - 2010, Hải Dương.
36. Sở Y tế Hải Dương, (2005), Báo cáo tổng kết thực hiện đề án nâng cao
chất lượng chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Hải Dương.
37. TS. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nhân tố nguồn lực con người để CNH,
HĐH, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
38. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 331/QĐ-TTgvề chương trình phát
triển nguồn nhân lực về công nghệ thông tin đến 2010, Hà Nội.
39. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 221/2005/QĐ-TTg về việc xây
dựng chương trình quốc gia phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, Hà Nội.
40. PGS.TS Nguyễn Tiệp - Trường Đại học Lao động Xã hội (7/2005), “Phát
triển thị trường lao động nước ta các năm 2005-2010”, Tạp chí Nghiên cứu
Kinh tế, (326).
41. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài
năng, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
100
42. GS. TS Nguyễn Kế Tuấn (2004), Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Trung tâm Thông tin Kinh tế - Xã hội quốc gia (9/2005), Phân tích khả
năng đạt tăng trưởng cao của nên kinh tế Việt Nam, (12).
44. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một vấn đề trong
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn
2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội..
45. Viện Nghiên cứu con người (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (2006), Thông tin chuyên đề
giải quyết việc làm ở Việt Nam trong 5 năm 2006-2010, Hà Nội.
47. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (1999), Hướng tới một chiến
lược phát triển con người, Hà Nội.
48. PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh (2005), Bàn về phát triển kinh tế, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
101
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Dân số trung bình phân theo giới tính và phân theo khu vực
Phân theo giới tính Phân theo khu vực
Tổng số Nam Nữ
Thành thị Nông thôn
Người
2005 2006 2007 2008 2009 2010 1.685.512 1.689.696 1.694.699 1.700.796 1.708.376 1.715.989 821.687 824.622 827.696 831.355 835.908 840.320 863.825 865.074 867.003 869.441 872.468 875.669 266.444 1.419.068 268.141 1.421.555 278.936 1.415.763 315.409 1.385.387 326.300 1.382.076 374.429 1.341.560
2005 2006 2007 2008 2009 2010 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Cơ cấu (%) 51,3 51,2 51,2 51,1 51,1 51,0 48,7 48,8 48,8 48,9 48,9 49,0 15,8 15,9 16,5 18,5 19,1 21,8 84,2 84,1 83,5 81,5 80,9 78,2
Chỉ số phát triển (Năm trước = 100) - %
2005 2006 2007 2008 2009 2010 100,3 100,2 100,3 100,4 100,4 100,4 101,1 100,4 100,4 100,4 100,5 100,4 99,6 100,1 100,2 100,3 100,3 100,3 102,6 100,6 104,0 113,1 103,4 114,6 99,9 100,2 99,6 97,9 99,7 97,0
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5
năm (2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
102
Phụ lục 2: Tỷ suất sinh, tỷ suất chết và tỷ suất tăng tự nhiên dân số
Tỷ suất sinh Tỷ suất chết
Tỷ suất tăng tự nhiên 9,96 2005 16,23 6,27
2006 16,09 6,46 9,63
2007 16,14 6,35 9,79
2008 16,20 6,37 9,83
2009 16,10 6,40 9,70
2010 15,85 6,24 9,58
Thành thị
2005 16,02 5,30 10,72
2006 15,88 5,45 10,43
2007 15,83 5,35 10,48
2008 16,42 5,80 10,62
2009 15,90 5,56 10,34
2010 15,66 5,57 10,09
Nông thôn
2005 16,33 6,45 9,88
2006 16,19 6,66 9,53
2007 16,16 6,51 9,65
2008 16,23 6,49 9,74
2009 16,25 6,52 9,73
2010 16,14 6,50 9,64
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5
năm (2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
103
Phụ lục 3: Kết quả phát triển giáo dục và đào tạo
STT Tên chỉ tiêu 2005 2010
Số trường học phổ thông Đơn vị tính Trường 595 605 1
Số trường cao đẳng, đại học 5 6 " 2
3 6 4 Số trường trung học chuyên nghiệp "
Số trường dạy nghề 4 5 " 4
Số trường đạt chuẩn quốc gia 145 262 " 5
Số học sinh phổ thông Người 318.912 275.667 6
7 6.194 3.894 Số học sinh trung học chuyên nghiệp "
Số học sinh cao đẳng, đại học 15.949 39.033 " 8
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5
năm (2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
Phụ lục 4: Kết quả thực hiện chăm sóc sức khoẻ nhân dân
STT Tên chỉ tiêu 2005 2010
Số cơ sở khám, chữa bệnh Đơn vị tính Cơ sở 288 293 1
Số giường bệnh Giường 3.805 4.644 2
" 22,6 27,1 Số giường bệnh trên 1 vạn dân 3
Người 3.171 4.077 Số cán bộ ngành y 4
" 855 1.036 Trong đó: Bác sĩ 5
Người 657 815 Số cán bộ ngành dược 6
" 104 110 Trong đó: Dược sỹ cao cấp 7
5,07 6,04 8 Số bác sỹ trên 1 vạn dân Người
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5
năm (2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
104
Phụ lục 5: Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế
Chia ra
Tổng số Dịch vụ
Công nghiệp, xây dựng
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Người
942.186 664.618 149.265 128.303 2005
944.088 637.213 168.384 138.491 2006
947.842 601.310 193.112 153.420 2007
950.070 577.123 212.062 160.885 2008
961.315 555.810 236.688 168.817 2009
971.600 529.755 264.985 176.860 2010
Cơ cấu (%)
100,0 70,5 15,9 13,6 2005
100,0 67,5 17,8 14,7 2006
100,0 63,4 20,4 16,2 2007
100,0 60,8 22,3 16,9 2008
100,0 57,8 24,6 17,6 2009
100,0 54,5 27,3 18,2 2010
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5
năm (2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
105
Phụ lục 6: Các điều kiện ở của hộ dân cƣ năm 2009 chia theo thành thị/nông thôn
Nông thôn Tổng số Thành thị
Hộ sử dụng điện thắp sáng 100,0 100,0 100,0
Nước máy 20,2 71,1 7,7
Nước giếng khoan và nước giếng đào được bảo vệ 20,7 15,3 22,1
Nước mưa 58,2 13,4 69,2
Nước khe, nước giếng đào không được bảo vệ và các nguồn nước khác 0,8 0,2 1,0
Tỷ trọng hộ dùng các loại nhiên liệu để nấu ăn
Điện 1,8 1,4 1,9
Ga 30,4 56,6 24,0
Than 24,8 32,6 22,9
Củi 19,9 7,8 22,9
Khác 23,1 1,6 28,3
Tỷ trọng hộ sử dụng hố xí
Hố xí hợp vệ sinh 42,2 84,0 31,9
Hố xí khác 57,4 15,6 67,7
Không có hố xí 0,4 0,4 0,4
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5
năm (2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
106
Phụ lục 7: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu
(4)
(5)
(2)
(1)
1.651,1
1.651,1
1
Diện tích đất tự nhiên
2005 2010 Tên chỉ tiêu STT
1.685,5
1.716,0
2
Dân số trung bình
266,4
374,4
2.1 Thành thị
"
1.419,1
1.341,6
2.2 Nông thôn
"
LĐ đang làm việc trong các ngành kinh tế
Nghìn người
3
942,2
971,6
Cơ cấu lao động
%
100,0
100,0
3.1 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
"
70,5
54,5
3.2 Công nghiệp và xây dựng
"
15,9
27,3
3.3 Dịch vụ
"
13,6
18,2
Tổng sản phẩm trong tỉnh (giá thực tế)
Tỷ đồng
13.334
30.676
4
100,0
100,0
Cơ cấu kinh tế
5
%
Theo khu vực kinh tế
5.1 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
"
27,1
23,0
5.2 Công nghiệp và xây dựng
"
43,6
45,4
5.3 Dịch vụ
"
29,3
31,6
Theo loại hình kinh tế
5.4 Kinh tế Nhà nước
"
31,4
25,8
5.5 Kinh tế ngoài Nhà nước
"
54,8
56,4
5.6 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
"
13,8
17,8
6
7,9
17,9
Tổng sản phẩm trong tỉnh bình quân đầu người (giá thực tế)
Triệu đồng
Tổng sản phẩm trong tỉnh
7
8.440
13.450
(giá so sánh 1994)
Tỷ đồng
7.1 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
"
1.965
2.187
7.2 Công nghiệp và xây dựng
"
4.172
7.223
7.3 Dịch vụ
"
2.303
4.040
8
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn
Tỷ đồng
2.407,1
4.005,0
9
Tổng chi ngân sách địa phương
2.237,0
4.403,0
"
Đơn vị tính (3) Km2 Nghìn người
107
(2)
(3)
(4)
(5)
(1)
3.753,2
4.133,8
10
GTSX nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (giá so sánh 1994)
Tỷ đồng
Trong đó:
10.1 Nông, lâm nghiệp
"
3.482,5
3.711,5
10.2 Thuỷ sản
"
270,7
422,3
11
Sản lượng lương thực
Tấn
774.108
770.729
12
Sản lượng lương thực bình quân đầu người
Kg
459
449
GTSX nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
13
5.988,1
11.289,6
(giá thực tế)
Tỷ đồng
Trong đó:
13.1 GTSX nông, lâm nghiệp
"
5.515,5
10.191,4
13.2 GTSX thuỷ sản
"
472,6
1.098,2
Giá trị sản phẩm/1 ha đất trồng trọt
14
38,3
73,5
và nuôi trồng thuỷ sản
Triệu đồng/ha
15 Giá trị sản xuất công nghiệp (giá thực tế)
Tỷ đồng
14.888,3
46.952,0
%
16 Cơ cấu công nghiệp (theo loại hình kinh tế)
100,0
100,0
"
41,2
25,1
16.1 Kinh tế Nhà nước
"
20,9
26,3
16.2 Kinh tế ngoài Nhà nước
"
37,9
48,6
16.3 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5
năm (2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
108
Phụ lục 8: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP)
2007 2009
Tổng số
2005 8.440 2010 2008 2006 9.359 10.437 11.515 12.205 13.450
nghiệp lâm
1.965 4.172 2.303 3.268 4.196 2.004 4.812 2.543 3.436 4.369 2.068 5.477 2.892 3.987 4.528 2.178 6.071 3.266 4.201 5.070 2.139 6.459 3.607 4.445 5.422 2.187 7.224 4.040 4.519 6.160
- Phân theo nhóm ngành + Nông, và thuỷ sản + Công nghiệp, xây dựng + Dịch vụ - Phân theo loại hình kinh tế + Kinh tế Nhà nước + Kinh tế ngoài Nhà nước + Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.554 1.922 976 2.338 2.771
2.244 Phụ lục 9: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP)
Chỉ số chung - Phân theo nhóm ngành + Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản + Công nghiệp, xây dựng + Dịch vụ - Phân theo loại hình kinh tế + Kinh tế Nhà nước + Kinh tế ngoài Nhà nước + Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2001 - 2005 2006 - 2010 2001 - 2010 109,8 102,2 111,6 111,9 106,7 108,0 123,2 110,9 104,0 115,6 110,5 109,9 108,6 134,6 110,3 103,1 113,6 111,2 108,3 108,3 128,8
Phụ lục 10: Tỷ lệ hộ nghèo lƣơng thực, thực phẩm 2006 - 2008
Năm 2008 Năm 2006 (TT: 260.000đ, NT: 200.000đ)
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng Hải Dương 15,5 10,1 12,7 13,4 8,70 10,1
Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5
năm (2006 - 2010), Nxb. Thống kê, Hà Nội.