VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGỌC PHƯƠNG

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH

TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI TPH & PNTP

HÀ NỘI - 2019

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGỌC PHƯƠNG

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH

TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ TPH & PNTP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN THỊ THANH THÙY

HÀ NỘI - 2019

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU

KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC

HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................... 9

1.1. Khái niệm, phân loại và ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ......................................... 9

1.2. Cơ chế tác động và mối quan hệ của nguyên nhân và điều kiện của tình tội

phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

............................................................................................................................... 19

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ..................................................................................24

CHƯƠNG 225 THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH

HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN

QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................................. 25

2.1. Tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành

phố Hồ Chí Minh ................................................................................................... 25

2.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................... 40

CHƯƠNG 3: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG YẾU TỐ

LÀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN PHẠM CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................................................. 58

3.1. Dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận

7, Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................... 58

3.2. Các giải pháp khắc phục những yếu tố liên quan đến nguyên và điều kiện của

tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố

Hồ Chí Minh .......................................................................................................... 65

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ......................................................................................... 77

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong luận văn là kiến thức

của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, tham khảo, nghiên cứu tài liệu và

thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Thanh Thùy. Những nội

dung của các tác giả khác đã được trích dẫn và ghi chú theo quy định. Các số liệu

trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Ngọc Phương

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

HSST: Hình sự sơ thẩm

TAND: Tòa án nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng

Trang

Thống kê số vụ phạm tội và số người dưới 18 tuổi phạm

26

Bảng 2.1:

tội so với tình hình tội phạm chung trên địa bàn quận 7

giai đoạn 2015 – 2019.

Thống kê so sánh tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội

27

Bảng 2.2:

trên địa bàn Quận 7 so với địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí

Minh.

29

Bảng 2.3: Diễn biến tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện trên địa bàn quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 (so sánh

định gốc).

Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm do người dưới

30

Bảng 2.4:

18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 phân theo số dân

của 10 đơn vị hành chính cấp phường.

Cơ cấu về mức độ và hệ số tiêu cực, cấp độ nguy hiểm

31

Bảng 2.5:

của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 theo diện tích

10 đơn vị hành chính cấp phường.

Cơ cấu theo mục đích phạm tội

33

Bảng 2.6:

Thực trạng theo giới tính, độ tuổi của nhân thân người

33

Bảng 2.7:

dưới 18 tuổi phạm tội

Thực trạng trình độ học vấn của nhân thân người dưới 18

36

Bảng 2.8:

tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019.

Cơ cấu theo tiền án, tiền sự.

37

Bảng 2.9:

38

Bảng 2.10: Cơ cấu theo hình thức phạm tội

Biểu đồ 2.1: Số vụ phạm tội và số người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa

26

bàn Quận 7.

34 Biểu đồ 2.2: Biểu đồ cơ cấu theo giới tính của người dưới 18 tuổi phạm

tội.

34 Biểu đồ 2.3: Biểu đồ cơ cấu theo độ tuổi của người dưới 18 tuổi phạm

tội.

MỞĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quận 7 là một quận nội thành nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, là trung tâm

kết nối các khu vực giao thương phía Nam thành phố. Quận 7 có hệ thống giao thông

tương đối phát triển góp phần thúc đẩy kinh tế của khu vực phía Nam. Nơi đây quy

tụ nhiều công trình về khoa học, giáo dục, thương mại, y tế với hàng loạt các trung

tâm thương mại sầm uất. Quận 7 là nơi thu hút rất nhiều đầu tư trong và ngoài nước

điển hình như khu chế xuất Tân Thuận, đã và đang hình thành một số khu đô thị mới

như Him Lam - Kênh Tẻ, khu đô thị Phú Mỹ Hưng…

Tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng tăng trong những năm gần

đây là một trong những vấn đề nóng bỏng và đang được xã hội quan tâm. Trên địa

bàn Quận 7, vấn đề này có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ phạm tội.

Thủ đoạn của người dưới 18 tuổi phạm tội đã có sự tính toán, chuẩn bị kĩ càng, khá

tinh vi, thậm chí đã hình thành những băng nhóm tội phạm có tính nguy hiểm khá

cao. Số lượng các vụ án trong năm năm gần đây từ năm 2015 đến năm 2019 tăng

nhanh với tổng số 135 vụ, 226 bị cáo [25].

Chính quyền các cấp quan tâm đến vấn đề này thông qua việc triển khai chỉ

đạo các chương trình hoạt động cụ thể như: Chương trình hành động số 05 – CTr/QU

ngày 05/07/2016, Thông tư 02/TT/QU ngày 30/11/2015 của Ban thường vụ Quận ủy

về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 48 – CT/TW ngày 22/10/2010 nhằm tích cực triển khai

thực hiện Nghị quyết 09/CP và chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của

Chính phủ, Chỉ thị 48 - CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Chương

trình hành động số 04 – Ctr- TU ngày 31/12/2010… Các ngành các cấp trên địa bàn

Quận cũng quyết tâm thực hiện tốt công tác này. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn

nhiều tồn tại, hạn chế nhất định tác dụng phòng ngừa chưa cao, tỉ lệ tái phạm tội của

người dưới 18 tuổi còn nhiều. Chính vì thế vấn đề này cần phải được nghiên cứu

chuyên sâu hơn là làm rõ được nguyên nhân và điều kiện của hiện tượng này một

cách hệ thống làm cơ sở cho việc đề ra những giải pháp phòng ngừa tình hình tội

1

phạm do người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội

phạm do người 18 tuổi thực hiện.

Trước tính cấp thiết trên, tôi đã chọn đề tài:“Nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố

Hồ Chí Minh”làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội

phạm.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhằm đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài,

tác giả chia các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài thành nhóm như sau:

2.1. Nhóm công trình nghiên cứu làm rõ lí luận cơ bản về nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm

Thuộc về nhóm này, có thể kể đến các nghiên cứu tiêu biểu sau đây:

- Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2011), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

- Dương Tuyết Miên (chủ biên) (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb giáo

dục Việt Nam.

- Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân.

- Trường đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tội phạm học, Lý Văn Quyền

chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

- Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề về tội phạm học

Việt Nam, Học viện cảnh sát nhân dân.

- Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng Tội phạm học, Học viện khoa học xã hội

- Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

- Trần Thị Thu Trang (2018), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm về ma túy trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ

Luật học - Học viện khoa học xã hội.

2

- Lê Thu Huyền (2018), “Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài

sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ luật học – Học

viện khoa học xã hội.

- Nguyễn Thị Soa (2017), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội

xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng nai”, Luận văn thạc sĩ luật học –

Học viện khoa học xã hội.

- Nguyễn Ngọc Hải (2015), “Nguyên nhân của tình hình người chưa thành

niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam qua khảo sát tại 4 trường giáo dưỡng thuộc Bộ

Công an”, Tạp chí cảnh sát nhân dân, số 1.

- Nguyễn Văn Khoa Điềm và Nguyễn Đức Hưng (2017), “Một số nguyên nhân

và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”,

Tạp chí khoa học kiểm sát, số 3, tr 25 - 29.

Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ

bản về nguyên nhân và điều kiện phạm tội bao gồm: khái niệm nguyên nhân và điều

kiện phạm tội; phân loại nguyên nhân và điều kiện phạm tội; mối quan hệ giữa nguyên

nhân và điều kiện phạm tội với nhân thân người phạm tội và phòng ngừa tình hình

tội phạm… Đây là những cơ sở lý luận quan trọng mà luận văn sẽ kế thừa làm nền

tảng lý luận trong luận văn của mình

2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp

đến đề tài luận văn

Các công trình sau đây cũng đã được tham khảo:

- Phạm Minh Tuyên (2019), “Phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội thông

qua hoạt động xét xử của Tòa án - Hạn chế và kiến nghị”, Tạp chí tòa án điện tử.

- Trần Thành Hưng (2018), “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm

tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)”, Tạp chí khoa học

và giáo dục, số 99.

- Nguyễn Minh Đức (2011), Phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm

trong học đường, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

3

- Nguyễn Minh Đức (2014), Nguyên nhân, điều kiện người chưa thành niên vi

phạm pháp luật hình sự và giải pháp phòng ngừa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

- Trần Thị Thủy (2018), “Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện khoa học xã

hội.

- Đỗ Xuân Hồng (2014), “Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên

theo tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học - Đại học quốc gia Hà Nội.

- Đỗ Thị Bảo Ngọc (2019), “Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quảng Trị”, Luận văn thạc sĩ

luật học - Học viện khoa học xã hội.

- Ngô Thị Tuyết Thanh (2018), “Chính sách hình sự Việt Nam đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội: khía cạnh so sánh”, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện khoa

học xã hội.

- Phan Anh Dũng (2019), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm

cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh NinhThuận”, Luận văn

thạc sĩ luật học - Học viện khoa học xã hội.

Các công trình nghiên cứu trên nhìn chung đã phân tích những vấn đề lý luận

cơ bản liên quan đến tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Tuy nhiên,

giai đoạn vừa qua chưa có một công trình chuyên sâu nghiên cứu nào liên quan đến

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, tác giả sẽ kế thừa những tri thức

về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, những vấn đề liên quan đến

người dưới 18 tuổi phạm tội ở các địa phương nhất định trong các công trình nghiên

cứu của các tác giả đã nêu ở trên. Đồng thời dựa trên những cơ sở đó, tác giả sẽ vận

dụng đi sâu nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ những thực tiễn về tình hình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2019, tác giả sẽ đi sâu

phân tích làm rõ lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

4

dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh gắn với đặc

điểm của địa bàn này tác giả sẽ kiến nghị giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây

là hướng nghiên cứu tác giả sẽ tiếp cận trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành tội phạm

học và phòng ngừa tội phạm của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài đi sâu nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh để làm

rõ những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện cũng như những yếu tố tâm sinh lý tiêu cực thuộc con người

ở địa bàn này trong sự tác động lẫn nhau làm phát sinh tội phạm và đưa ra những giải

pháp hạn chế, loại trừ những yếu tố này góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình

hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trong thời gian tới trên địa bàn Quận

7, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên nhân

và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận

7, Thành phố Hồ Chí Minh;

Hai là, nghiên cứu thực tiễn, thu thập, phân tích, đánh giá số liệu tình hình tội

phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn

2015 đến năm 2019;

Ba là, nghiên cứu và làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh;

Bốn là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng như đánh giá thực trạng luận văn

sẽ đưa ra dự báo và đề xuất giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới

18 tuổi thực hiện trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh và đề ra các giải pháp hạn chế, loại trừ những yếu

tố này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện của tình

hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh.

- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu trên địa bàn Quận 7, Thành phố

Hồ Chí Minh.

- Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai

đoạn từ 2015 đến năm 2019, gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm và các bản án thu

thập trong giai đoạn này.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử

dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp

phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống

kê...cụ thể như sau:

- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử: đây là phương pháp cơ sở

nền tảng cho việc nghiên cứu.

- Trong chương 1 của luận văn tác giả sử dụng phương pháp:

6

+Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa nội dung nghiên

cứu một cách có hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tích,

dễ hiểu.

+Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan giữa các

qui định, các quan điểm để từ đó có những đánh giá, nhận định khách quan về nội

dung nghiên cứu.

+Phương pháp phân tích: được sử dụng để làm sáng tỏ những nội dung thuộc

phạm vi nghiên cứu sẽ đem đến một cách nhìn cụ thể hơn thông qua những con số và

vụ việc cụ thể

- Trong chương 2 của luận văn tác giả sử dụng phương pháp:

+ Phương pháp thống kê sử dụng để làm rõ thực trạng của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.

+ Phương pháp nghiên cứu các bản án do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2019 nhằm làm rõ thực

trạng tình hình và những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7.

- Trong chương 3 của luận văn tác giả sử dụng những phương pháp liệt kê để

đưa ra các dự báo về tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7 trong thời gian tới.

Ngoài ra trong quá trình thực hiện luận văn tác giả còn sử dụng những phương

pháp:

+ Phương pháp so sánh được sử dụng trong toàn bộ luận văn nhằm đối chiếu

những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện từ đó tìm ra các biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ những nguyên nhân và điều

kiện phù hợp, hiệu quả.

+ Phương pháp logic được sử dụng trong toàn bộ luận văn thể hiện sự liên kết

chặt chẽ giữa các nội dung, các phần của luận văn.

+ Sau mỗi tiểu mục, mỗi mục cuối của chương cũng như mục cuối của luận

văn tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để dưa ra kết luận trọng tâm về nội dung

7

đã phân tích. Những kết luận này là kết quả của quá trình tổng hợp những đặc điểm

và nội dung của vấn đề đã đề cập trước đó.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn đã thực hiện đạt được những kết quả như sau:

- Làm rõ thực trạng của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2015 - 2019.

- Góp phần vào việc lý giải, làm sáng tỏ những yếu tố thuộc về nguyên nhân

và điều kiện phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành

phố Hồ Chí Minh.

- Đề xuất các biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tình

hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ

Chí Minh.

Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần củng cố lý luận và thực tiễn đấu

tranh phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và các nhà nghiên cứu của các

trường.

7.Kết cấu của luận văn

Luận văn có kết cấu ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo

như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh

Chương 2: Thực trạngnguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 3: Dự báo và các biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ những yếu tố là

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

8

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN

ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1.1. Khái niệm, phân loại và ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện

1.1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi

Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày 02/09/1990 đã

định nghĩa: "Trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia có

quy định khác"[13]. Các quốc gia thành viên trong đó có Việt Nam đã phê chuẩn

tham gia Công ước này. Ngay sau khi tham gia công ước, Việt Nam đã ban hành Luật

bảo vệ chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 1991 sửa đổi, bổ sung năm 2004 và sau đó

được thay thế bằng luật trẻ em năm 2016. Tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định:

“Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [24, Điều 1]. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,

người chưa thành niên là dưới 18 tuổi, là những người chưa phát triển đầy đủ về thể

chất cũng như về tinh thần, bị hạn chế về nhận thức cũng như kinh nghiệm và kỹ

năng sống. Những người dưới 18 tuổi, đặc biệt từ giai đoạn 14 tuổi trở lên có tâm

sinh lý chưa ổn định, nhân cách chưa hoàn thiện, nhận thức về các vấn đề xã hội còn

hạn chế, thậm chí là còn sai lệch, thường có tính cách nông nổi, hiếu thắng, liều lĩnh,

khó tự kiềm chế bản thân khi có các yếu tố của ngoại cảnh tác động, dễ dẫn đến manh

động và có các hành vi bạo lực để đối phó, chống trả trước tác động của ngoại cảnh.

Ở lứa tuổi này, họ thường có những biểu hiện ra bên ngoài bằng các hành vi như

ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ. Ngoài ra, họ có nhu cầu tìm hiểu, khám phá

cái mới nhưng nếu sự khám phá ấy thiếu sự quan tâm, định hướng của gia đình, nhà

trường và xã hội dễ trở thành nguyên nhân và điều kiện phạm tội của các em. Về nhận

thức pháp luật của các em còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ những đối tượng

9

này thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu không đúng đắn của cá nhân,

không quan tâm đến những hậu quả xảy ra là nguy hiểm cho xã hội. Điều này xuất

phát từ nhiều nguyên nhân, có thể do các em chưa có nhận thức được đúng, sai, phải,

trái nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là những thiếu sót, hạn chế trong công tác giáo

dục hiểu biết pháp luật của gia đình, nhà trường và xã hội.

Như vậy, theo các quy định trên, “trẻ em” là người dưới 16 tuổi; “người chưa

thành niên” là người dưới 18 tuổi. Như vậy, mọi trẻ em đều là người chưa thành niên,

người từ 16 đến dưới 18 không phải là trẻ em. TS. Nguyễn Văn Luật – Nguyên Vụ

trưởng Vụ pháp luật, Văn phòng Chính Phủ cho rằng: “Việt Nam đã tham gia Công

ước quốc tế về quyền trẻ em, vì vậy nên tuân thủ theo qui định của Công ước về tuổi

của trẻ em. Đơn giản vì, nếu điều ước 18 quốc tế mà Việt Nam là thành viên có qui

định khác so với pháp luật của nước ta thì thực hiện theo điều ước quốc tế đó” [13].

Nên việc xem xét vấn đề điều chỉnh độ tuổi của trẻ em lên dưới 18 là một yêu cầu

cấp thiết ở nước ta hiện nay là để phù hợp với quy định của Công ước quốc tế về

quyền trẻ em như Công ước số 138 về độ tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182

về xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất nhằm mục đích tăng mức độ

bảo vệ trẻ em cho tất cả những người có độ tuổi dưới 18. Độ tuổi pháp lý của trẻ em

được coi là vấn đề mang tính khoa học, vừa mang tính xã hội sâu sắc. Việc Luật trẻ

em của Việt Nam xác định trẻ em là người dưới 16 tuổi chưa tương thích với Công

ước quốc tế về quyền trẻ em.

Trước đây, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã dành

hẳn một chương quy định đối với người chưa thành niên phạm tội. Kế thừa, tiếp nối

tư tưởng và chính sách hình sự Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm

2017 tại chương XI “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”. Như vậy,

thuật ngữ người chưa thành niên phạm tội đã được xác định rõ ràng hơn là người dưới

18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên không phải bất cứ người dưới 18 tuổi nào phạm tội thì

cũng đều là tội phạm. Bộ luật hình sự quy định tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự

xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng ngừa tội phạm cũng như căn cứ về mặt tâm

sinh lý phát triển của con người, đây là vấn đề quan trọng trong pháp luật hình sự của

10

mỗi quốc gia thể hiện quan điểm của Nhà nước về xử lý tội phạm và bảo đảm quyền

của người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại

Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tuổi bắt

đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi trở lên vì người dưới 14 tuổi là người

chưa phát triển đầy đủ, chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi

của mình,nên chưa có năng lực trách nhiệm hình sự và không phải chịu trách nhiệm

hình sự do hành vi của mình gây ra. Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung

năm 2017 đã có sự kế thừa và đồng thời khắc phục những hạn chế của các Bộ luật

hình sự trước đây đó là chỉ xem xét trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi

đến dưới 16 tuổi phạm tội do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại

các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248,

249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 [22, Khoản 2, Điều

12]; đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

Việc quy định độ tuổi như vậy là phù hợp với pháp luật quốc tế nâng cao hiệu

quả giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với các em được căn cứ dựa trên các tiêu chí

về đặc điểm tâm lý, thể chất và khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; căn cứ

vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam; dựa trên cơ sở tổng

kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội phạm

do người chưa thành niên thực hiện ở nước ta nói riêng; căn cứ vào việc tham khảo

các quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của các nước trên thế giới.

1.1.1.2. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện

Theo triết học Mác – Lênin mối quan hệ nhân quả là mối liên hệ được lặp đi

lặp lại nhiều nhất, phổ biến nhất. Do đó, mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ đầu tiên

được phản ánh vào trong đầu óc của con người. Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác

động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra

những biến đổi nhất định nào đó. Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện

do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật. [3]

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

11

được lý giải trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về mối quan hệ biện chứng giữa

nguyên nhân và kết quả của cặp phạm trù này. Vì mọi hiện tượng đều có nguyên nhân

xuất hiện

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Nguyên nhân của tình hình tội phạm là hiện

tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất

ra tình hình tội phạm như là hậu quả tất yếu của mình. Điều kiện của tình hình tội

phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực, tự mình không sinh ra tình hình tội phạm,

mà là hỗ trợ, làm dễ dàng và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các

nguyên nhân” [56,tr.87].

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được coi là đối tượng nghiên

cứu cơ bản của tội phạm học, vì chỉ có làm sáng tỏ được lý do vì đâu mà tội phạm

phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội thì mới phòng ngừa, ngăn chặn, loại

trừ được tội phạm xảy ra. Việc xác định nguyên nhân và điều kiện chỉ mang tính chất

tương đối vì có những trường hợp yếu tố đó là nguyên nhân nhưng trường hợp khác

nó là điều kiện hoặc ngược lại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đóng vai trò quan trọng

cho việc chứng minh các sự kiện, hiện tượng các yếu tố tham gia vào sự tác động qua

lại làm phát sinh tội phạm.

Tóm lại, chúng ta đưa ra khái niệm như sau: “Nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố

Hồ Chí Minh là sự tác động qua lại của các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống

và các yếu tố tâm sinh lý tiêu cực thuộc cá nhân, bản thân người dưới 18 tuổi thực

hiện phạm tội trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định dẫn đến việc thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam quy định đó là tội phạm”.

1.1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện

Theo GS. TS Võ Khánh Vinh: “Trong tội phạm học tùy thuộc vào nhiệm vụ

của việc nghiên cứu thì người ta sử dụng việc phân chia các nguyên nhân và điều

12

kiện của tình hình tội phạm theo các cách khác nhau” [56,tr.93]. Việc phân loại

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại

địa bàn Quận 7 có vai trò rất quan trọng trong tìm ra các yếu tố phát sinh tình hình

tội phạm. Tùy vào cách tiếp cận nghiên cứu ta có thể chia nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại địa bàn Quận 7 thành các

nhóm như sau:

Thứ nhất, dựa vào tiêu chí về nguồn gốc xuất hiện có thể chia nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện thành:

- Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống được coi là sự tổng

hợp những nhân tố tiêu cực được hình thành từ môi trường sống của cá nhân có thể

tác động, ảnh hưởng đến cá nhân đó ở mức độ nhất định, từ đó làm phát sinh tình

hình tội phạm do người 18 tuổi thực hiện. Trong phạm vi này tác giả đề cập đến

những nhân tố không thuận lợi từ môi trường sống trên địa bàn Quận 7 ảnh hưởng

đến việc hình thành và phát triển nhân cách người dưới 18 tuổi phạm tội.

+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường gia đình:

Gia đình là tế bào của xã hội, là tổng hợp các mối quan hệ, ứng xử, giá trị nhân

cách, tình cảm, đạo đức, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cộng đồng, dân tộc. Gia

đình là tế bào tự nhiên, đồng thời là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình

tái tạo ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển

được. Vì vậy, môi trường gia đình có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành nhân

cách của trẻ, là yếu tố có hảnh hưởng lớn nhất đến việc hình thành nhân cách của mỗi

cá nhân trong thời kì thơ ấu. Bởi, kể từ khi mới sinh ra, gia đình là môi trường đầu

tiên mà những đứa trẻ sinh sống, nhận thức của chúng mới bước đầu dần được hình

thành, do đó, những đứa trẻ sẽ học hỏi, bắt chước những hành vi của những người

xung quanh nó, bao gồm cả những hành vi tốt hay không tốt. Do đó, nếu như đứa trẻ

sống trong môi trường gia đình an toàn, lành mạnh, luôn chú trọng vào giáo dục nhân

cách cho trẻ, hướng trẻ sống thiện, trung thực, nhân hậu, vươn lên trong học tập, công

việc thì sẽ hạn chế hiệu quả việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược

lại, sống trong môi trường gia đình không an toàn, không lành mạnh thì có thể tác

13

động, ảnh hưởng, dẫn đén việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ví dụ như

gia đình buông lỏng việc giáo dục con cái, để mặc con cái phát triển tự nhiên hoặc

phó thác việc giáo dục trẻ con cho nhà trưởng và xã hội. Khi phát hiện trẻ có những

biểu hiện sai trái đã không uốn nắn kịp thời mà vẫn thờ ơ, không quan tâm, thậm chí

còn dung túng. Sự quá nuông chiều, thỏa mãn mọi nhu cầu con cái của bố mẹ sẽ tạo

nên thói quen đòi gì được nấy, hình thành tính ỷ lại, dựa dẫm, sống ích kỷ, lười nhác,

không ý thức về trách nhiệm, luôn đòi hỏi được phục vụ, được hưởng thụ, không tôn

trọng quyền sở hữu của người khác vì từ bé đã có thói quen đòi gì cũng được, thích

cái gì là cha mẹ lấy của người khác chiều ngay. Hoặc gia đình không gương mẫu

trong lối sống như có hành vi phạm tội, sa đà vào tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ

bạc, mại dâm hoặc có lối sống quá thực dụng chỉ biết coi trọng đồng tiền mà coi nhẹ

giá trị đạo đức; hoặc đứa trẻ lớn lên trong gia đình mà bạo lực gia đình luôn tồn tại…

Hoặc trong gia đình có nhiều thành viên phạm tội, cha và (hoặc) mẹ ngoại tình; đứa

trẻ lớn lên tỏng môi trường thiếu cả cha lẫn mẹ hoặc thiếu cha hoặc thiếu mẹ, trong

gia đình có nhiều thành viên ưa lối hành xử bạo lực, côn đồ, ngang ngược; Hoặc gia

đình có cha mẹ mắc điểm mù trong việc quản trị gia đình, không thấy được vấn đề

của gia đình mình, thường có thói quen chỉ trích người khác sẽ làm cho con cái có xu

hướng nói dối để không bị mắng. Hay là kiểu gia đình áp đặt khi cha mẹ hay có xu

hướng muốn con mình phải làm thế này thế kia vì suy nghĩ làm như vậy mới tốt cho

con nhưng lại không quan tâm, không hỏi xem chúng cảm thấy như thế nào, có thích

làm hay không dẫn đến con cái thường thiếu tự tin, sai không nhận lỗi, lý sự cùn,

sống bị động.

+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường nhà trường

Bên cạnh môi trường gia đình thì môi trường nhà trường cũng góp phần quan

trọng giúp con người phát triển toàn diện. Giáo dục của nhà trường cung cấp cho học

sinh những kiến thức quan trọng trong cuộc sống. Môi trường giáo dục chứa đựng tất

cả những điều kiện vật chất và tinh thần ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, học

tập, rèn luyện, vui chơi và phát triển nhân cách của các em học sinh. Môi trường giáo

dục lành mạnh là môi trường mà người học được bảo vệ, tôn trọng, đối xử công bằng,

14

dân chủ và nhân ái, được tạo điều kiện phát triển phẩm chất và năng lực, không bị

tổn hại về thể chất và tinh thần, không có tệ nạn xã hội, không bạo lực. Ngoài ra, yếu

tố tinh thần còn thể hiện qua phương pháp dạy học, giáo dục học sinh của giáo viên,

các chuẩn mực nền nếp truyền thống trong nhà trường, giữa giáo viên với học sinh,

học sinh với học sinh, giáo viên với giáo viên.

Nhưng môi trường giáo dục hiện nay quá tập trung vào kiến thức sách vở,

nặng nề về lí thuyết mà thiếu sự giáo dục về kĩ năng sống, đạo đức nhân cách dẫn

đến học sinh thiếu hiểu biết về đạo đức, pháp luật, vấn đề tình dục, bạo lực học

đường… Do sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, những mối quan

hệ thực dụng đang len lỏi vào môi trường giáo dục làm biến tướng quan hệ thầy

trò. Một bộ phận xã hội, gia đình, học sinh và giáo viên coi trọng giá trị vật chất

hơn giá trị tinh thần, lấy giá trị vật chất làm giá trị thước đo tinh thần. Sự thiếu

quan tâm của gia đình và xã hội, phó mặc cho nhà trường trong công tác giáo dục

học sinh cũng trở thành rào cản rất lớn dẫn đến việc giáo dục không đạt hiệu quả

như kì vọng. Không được giáo dục tốt những bài học về nhân cách dễ hình thành

nhân thân xấu như coi thường pháp luật, đạo đức, coi thường nhân phẩm, thân thể,

tài sản của người khác…

+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường bạn bè

Cùng với cha mẹ, thầy cô thì bạn bè chính là người trẻ thường xuyên gần gũi,

tiếp xúc, có cùng quan điểm suy nghĩ với lứa tuổi. Đây chính là môi trường có ảnh

hưởng tới quan điểm, suy nghĩ, nhận thức, lối sống, thói quen, cách cư xử. Nếu trẻ

tiếp xúc với nhóm bạn bè tốt thì trẻ hình thành các đặc điểm nhân thân tích cực như

biết quan tâm, lo lắng, có kĩ năng sống, lễ phép, chăm học… Ngược lại khi chơi với

bạn bè xấu thích chơi bời, lêu lổng thì dễ nhiễm những thói hư tật xấu như nghiện

games, cờ bạc, ma tuý, bạo lực học đường…

+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường kinh tế, xã hội vĩ mô

Kinh tế Quận 7 đang trên đà phát triển, đời sống người dân được nâng lên.

Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì cũng bộc lộ một số vấn đề như

tỉ lệ thất nghiệp còn cao nên dễ làm con người rơi vào trạng thái bất lực, chán nản,

15

bi quan… nên sa đà vào tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế không

đồng đều, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt hình thành một bộ phận con

người có lối sống hưởng thụ, thích chơi bời không lo làm ăn, có ý thức chiếm đoạt

tài sản của người khác, làm giàu bất chính…

+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức

Cơ chế kinh tế - thị trường dễ làm con người sa ngã bởi những mặt trái của nó.

Việc hình thành tâm lí coi trọng đồng tiền, suy thoái về đạo đức, vì đồng tiền mà sẵn

sàng buôn bán ma tuý, trộm cắp, cướp giật tài sản… Chính vì lối sống thực dụng,

chuộng vật chất, suy thoái về đạo đức … đã thúc đẩy con người sẵn sàng thực hiện

hành vi phạm tội.

Hiện nay, công tác quản lí Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá còn hạn chế. Các

văn hoá phẩm đồi truỵ, bạo lực, các ấn phẩm độc hại… Một bộ phận giới trẻ bị ảnh

hưởng bởi những tư tưởng lệch lạc nên dễ phát sinh hành vi phạm tội.

+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về cá nhân nơi làm việc hoặc cư trú

Mỗi cá nhân có một nơi làm việc hoặc nơi cư trú riêng, chính môi trường này

có ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân thân người phạm tội. Đối với

những người có nơi cư trú, nơi làm việc không ổn định, nơi có nhiều tệ nạn xã hội thì

thường dễ phát sinh hành vi phạm tội.

Ở Quận 7 tập trung khu chế xuất, khu nhà trọ, các địa bàn vùng ven có tỉ lệ

người tạm trú đông, thu nhập bấp bênh thì tỉ lệ người phạm tội vẫn chiếm đa số với

tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng tăng, cả về số lượng lẫn tính chất mức

độ của hành vi phạm tội, đồng phạm.

- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội được coi là tổng

hợp những nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội có thể tác động, ảnh

hưởng đến việc phát sinh tình hình tội phạm do người 18 tuổi thực hiện. Những nhân

tố này bao gồm:

+ Sai lệch về sở thích, nhu cầu và cách thức thoả mãn nhu cầu

Mỗi con người là những thực thể riêng biệt có những nhu cầu, sở thích khác

nhau để đem lại cho con người niềm vui trong cuộc sống. Đa số những người phạm

16

tội là những người có ý thức sai lệch, nhu cầu không đúng chuẩn mực, đi ngược lại

với những giá trị đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, họ có các sở thích không lành mạnh

như thích ăn diện, tham gia những cuộc chơi thác loạn…

+ Hạn chế về ý thức pháp luật và khả năng kiểm soát hành vi

Mỗi con người có một trình độ nhận thức về pháp luật khác nhau, không phải

ai cũng am hiểu về pháp luật và biết được hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Chính sự thiếu hiểu biết đã dẫn đến sự coi thường pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật

kém, chống đối pháp luật. Có những người mặc dù biết hành vi của mình là trái pháp

luật nhưng vẫn thực hiện, luôn đặt nhu cầu, sở thích và mục đích cá nhân cao hơn

pháp luật.

Thứ hai, căn cứ vào mức độ tác động của nguyên nhân và điều kiện trong việc

làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện phân chia thành:

- Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu làm phát sinh tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện là những nhân tố được coi là đóng vai trò quan trọng trong

việc làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện và chiếm tỉ lệ

đáng kể trong tổng số nhân tố làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi

thực hiện.

- Nguyên nhân và điều kiện thứ yếu thì ngược lại so với nguyên nhân và điều

kiện chủ yếu đây là những nhân tố hạn chế và chiếm tỉ lệ không đáng kể trong tổng

số nhân tố làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.

Thứ ba, căn cứ vào bản chất của nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình

hình tội phạm do người 18 tuổi thực hiện có thể chia thành:

- Nguyên nhân và điều kiện khách quan là những hoàn cảnh không phụ thuộc

vào ý chí và ý thức của con người phạm tội nhưng lại là cơ sở cho người dưới 18 tuổi

phạm tội thực hiện các hành vi của mình như: nguyên nhân và điều kiện thuộc về các

yếu tố tình huống; nguyên nhân và điều kiện thuộc về pháp luật và công tác phòng

ngừa, phát hiện tội phạm; sự thờ ơ của môi trường xã hội bên ngoài.

17

- Nguyên nhân và điều kiện chủ quan là những nguyên nhân và điều kiện phát

sinh, phát triển thuộc về bản thân người phạm tội xuất phát từ những sai lệch về nhu

cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu, những thói hư, tật xấu…

Thứ tư, căn cứ vào nội dung, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện được chia thành:

- Nguyên nhân và điều kiện kinh tế - xã hội.

- Nguyên nhân và điều kiện văn hóa, giáo dục.

- Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức quản lí.

- Nguyên nhân và điều kiện về chính sách pháp luật.

Có nhiều cách phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện khác nhau dưới góc độ luận văn và dựa trên nghiên cứu

về tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 tác giả chỉ

tiếp cận nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện từ khía cạnh nguồn gốc xuất hiện của hành vi phạm tội.

1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ nguyên nhân điều kiện của tình hình

tội phạm do người 18 tuổi thực hiện sẽ giúp cho các chủ thể thực hiện hoạt động

phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Quận 7 đề ra các giải pháp tác động, biện pháp

thiết thực nhằm hạn chế những hậu quả xảy ra của tình hình tội phạm và loại trừ

những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện.

Thứ hai, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người 18 tuổi thực hiện là cơ sở để hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội phù hợp

đối với địa bàn Quận 7, đặc biệt là chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình

sự nói riêng.

Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên,

cùng với cơ hội mà xu thế hội nhập đem lại là tình hình trật tự xã hội diễn biến ngày

càng phức tạp mà cụ thể là sự gia tăng về số lượng cũng như loại tình hình tội phạm.

18

Bên cạnh việc nhanh chóng và kịp thời phát hiện tội phạm, tránh oan người vô tội,

trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội thì việc nghiên cứu nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm là vô cùng cấp thiết và mang tính lâu dài. Thể hiện ở hiện

việc soạn thảo, ban hành các chính sách kinh tế - xã hội gắn liền với quá trình phát

triển của đất nước, kịp thời phát hiện những nhân tố xã hội có khả năng phát sinh tội

phạm thông qua đó góp phần làm giảm thiểu hạn chế nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội phạm.

Thứ ba, nghiên cứu vấn đề nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm do

người 18 tuổi thực hiện góp phần phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lĩnh vực quản

lý nhà nước. Trên cơ sở phát hiện những thiếu sót trong lĩnh vực này đề xuất, kiến

nghị các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 cách hiệu quả và toàn diện.

Thứ tư, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện giúp ngăn ngừa rủi ro và hạn chế các nguyên nhân thúc đẩy

nguy cơ trở thành tội phạm của người dưới 18 tuổi trên địa bàn Quận 7.

1.2. Cơ chế tác động và mối quan hệ của nguyên nhân và điều kiện của

tình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại địa bàn Quận 7, Thành phố

Hồ Chí Minh

1.2.1. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

Cơ chế hành tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 chính là sự tác động qua lại giữa

các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống bên ngoài và các yếu tố tâm - sinh lý tiêu

cực bên trong thuộc cá nhân những người dưới 18 tuổi diễn ra qua những sự kiện,

tình huống, hoàn cảnh nhất định. Các yếu tố tiêu cực này nảy sinh có trong môi trường

sống, nhân thân người phạm tội và các điều kiện có từ nạn nhân. Do đó, khi tìm hiểu

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7 cần phải tìm hiểu, nghiên cứu nguyên nhân bắt nguồn từ xã hội và từ

19

bản thân người dưới 18 tuổi phạm tội dẫn đến việc thực hiện các hành vi lệch chuẩn

so với quy định của pháp luật.

Các tội do người dưới 18 tuổi thực hiện bao giờ cũng là một quá trình diễn ra

trong một khoảng không gian nhất định nó bao gồm việc hình thành ý định phạm tội

lẫn việc thực hiện ý định phạm tội. Nó vừa chịu tác động của nhiều yếu tố bên ngoài

của hiện thực khách quan, của môi trường xã hội vừa chịu sự tác động, chi phối bởi

yếu tố tâm - sinh lý của chính chủ thể thực hiện hành vi đó. Do đó, hành vi tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện là kết quả tổng hòa tính xã hội và tính cá nhân. Chính

sự tác động giữa các yếu tố này chính là cơ sở cho việc xác định hệ thống các yếu tố

làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.

Con đường tác động có mục đích xã hội bằng giáo dục đến cá nhân những

người dưới 18 tuổi sẽ trở nên không hiệu quả nếu cá nhân không có những hoạt động

tương ứng để tiếp thu, hưởng ứng tác động đó. Những người dưới 18 tuổi bao giờ

cũng muốn sống trong một môi trường, hoàn cảnh nhất định và luôn chịu sự tác động

của môi trường đó, song cá nhân họ không chỉ chịu sự tác động của môi trường sống

một cách thụ động mà luôn có sự tác động trờ lại môi trường bằng các hoạt động cụ

thể của mình. Môi trường sống được chia thành nhiều loại: môi trường gia đình, môi

trường nhà trường, môi trường bạn bè, môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú…

Khi môi trường sống của một cá nhân không lành mạnh, cá nhân đó dễ bị tác động

và dẫn đến tới việc hình thành nhân cách lệch lạc của mỗi cá nhân. Tuy nhiên sự tác

động của môi trường sống tới cá nhân lại khác nhau bởi cùng một môi trường sống

có người lại thực hiện hành vi phạm tội nhưng có người lại không thực hiện hành vi

phạm tội. Hoặc ở những người dưới 18 tuổi phạm tội thì sự chịu tác động của môi

trường dẫn việc thực hiện hành vi phạm tội cũng khác nhau. Chính vì vậy, khi tìm

hiểu nguyên nhân của tội phạm thì phải tìm hiểu nguyên nhân từ phía người phạm tội

với những tố chất sinh học và những đặc điểm tâm lý riêng biệt [56, tr.71].

Theo GS. TS Võ Khánh Vinh: “Những yếu tố của môi trường bên ngoài hay

những quá trình tâm lý bên trong con người, dù ở mức độ bất lợi và xấu như thế nào

đi chăng nữa tự nó đều không phải là nguyên nhân của hành vi phạm tội cụ thể, mà

20

là phải sự tương tác, kết hợp cả hai yếu tố đó mới trở thành nguyên nhân của tội

phạm cụ thể” [56, tr.113].

Cơ chế hành vi phạm tội được mô hình hóa theo quan điểm của GS. TS Võ

Khánh Vinh như sau:

Các đặc điểm của cá nhân

Việc thực hiện Việc kế hoạch hóa Tính động cơ

Môi trường bên ngoài

Cơ chế tác động đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu

cực khách quan thuộc môi trường sống với các yếu tố chủ quan thuộc về cá nhân

người phạm tội.

1.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện với thân nhân người phạm tội và phòng ngừa tình

hình liên quan đến vấn đề này

1.2.2.1. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện với tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

Tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện và nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện là mối quan hệ biện

chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Tình hình tội phạm là một thuật ngữ khoa học

và được dùng trong ngôn ngữ thông dụng. Khái niệm về tình hình tội phạm được khái

quát như sau: “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý tiêu cực, được

thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp, bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống)

21

các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và khoảng thời gian

nhất định”. [56]

Nghiên cứu tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7là nghiên cứu trong một không gian, thời gian xác định, nghiên cứu về biểu

hiện qua thực trạng, cơ cấu diễn biến, tính chất. Còn nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 được xem là

cái sinh ra tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện (kết quả). Tình hình

tội phạm được coi là cơ sở để xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm nói chung và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7 nói riêng. Để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 phải dựa trên nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm và việc nghiên cứu này cũng là cơ sở để đề ra giải pháp

phòng ngừa tình hình tội phạm.

1.2.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện với nhân thân người phạm tội dưới 18 tuổi

Con người được xem là thành viên của xã hội, tham gia vào quan hệ xã hội là

thực thể của xã hội vì vậy khi nói đến nhân thân là nói đến con người ở khía cạnh này

bao gồm đặc điểm sinh học có ý nghĩa về mặt xã hội như tuổi, giới tính. Nhân thân

người phạm tội ở khía cạnh luật hình sự bao gồm giới tính, tuổi, nghề nghiệp, trình

độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, tiền án, tiền sự…Nhân thân người phạm tội có ý

nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội như

việc định tội, định khung hình phạt; làm sáng tỏ một số tình tiết và yếu tố cấu thành

tội phạm như lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội…

Nhân thân người phạm tội được xem là yếu tố quan trọng trong việc xác định

cơ chế hành vi phạm tội. Còn những yếu tố thuộc môi trường sống đó là hoàn cảnh

của sự hình thành các đặc điểm tâm lý – xã hội tiêu cực của cá nhân xuất hiện trước

22

các đặc điểm cá nhân nằm trong mối quan hệ nhân quả giữa tình hình người dưới 18

tuổi phạm tội.

Để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 thì không thể thiếu việc nghiên cứu nhân

thân người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn Quận 7 như: quá trình hình hình thành

các đặc điểm nhân thân, bản chất, đặc điểm của nhân thân.

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện trên địa bàn Quận 7bao gồm những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình;

môi trường nhà trường; môi trường bạn bè; môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư

trú; môi trường kinh tế xã hội vĩ mô; môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức dẫn đến

sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người dưới 18 tuổi phạm tội. Và

những yếu tố tiêu cực thuộc nhân thân người phạm tội dưới 18 tuổi góp phần làm

sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện trên địa bàn Quận 7.

1.2.2.3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện với phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18

tuổi thực hiện

Theo từ điển Luật học: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại

trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với

nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành” [2, tr.237]

GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa đưa ra khái niệm này dưới góc độ tội phạm học:

“Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân, thực hiện tổng

thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm nguyên nhân của tội phạm để kiểm

soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những nhóm nguyên nhân này…”[44, tr 71].

Như vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7 là việc sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính xã hội và tính Nhà

nước nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, hạn chế và

loại trừ tội phạm ảnh hưởng đến trạng thái bình yên của xã hội. Các biện pháp phòng

ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 là một

23

trong những vấn đề lý luận cơ bản trong phòng ngừa tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện. Các biện pháp, giải pháp được các chủ thể sử dụng để loại bỏ

các nguyên nhân và điều kiện phạm tội.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận

chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện thông qua những nội dung sau:

Thứ nhất, khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tác giả đã làm sáng tỏ thông

qua khái niệm người dưới 18 tuổi; khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện; bốn ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

Thứ hai, có nhiều cách phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện khác nhau dưới góc độ luận văn tác giả chỉ tiếp

cận nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

từ khía cạnh nguồn gốc xuất hiện.

Thứ ba, cơ chế tác động đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện.

Thứ tư, mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện với thân nhân người phạm tội và phòng ngừa tình hình

liên quan đến vấn đề này.

24

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN

CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận

7, Thành phố Hồ Chí Minh

Như đã phân tích ở chương 1 của luận văn trong mối quân hệ nhân quả hay

còn gọi là mối quan hệ giữa nguyên nhân - điều kiện - kết quả của tình hình tội phạm

thì tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 được coi

là kết quả. Còn nguyên nhân của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn Quận 7 (cái chung) hoặc hành vi phạm tội (cái riêng) là sự tác động qua

lại giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm sinh lí xã hội

tiêu cực thuộc về cá nhân người dưới 18 tuổi trong những hoàn cảnh, tình huống nhất

định. Khi nghiên cứu tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi phạm tội là nghiên

cứu kết quả của những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới

18 tuổi thực hiện.

Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được thay đổi

về mặt lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất các tội phạm thực

hiện trong xã hội nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định [56, tr.61].

Khi nghiên cứu đánh giá về thực trạng của tình hình tội phạm nói chung trong

Tội phạm học cũng như tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa

bàn Quận 7, tác giả dựa trên các thành tố liên quan bao gồm:

Một là, mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7, trong đó xem xét toàn bộ tội phạm đã xảy ra, gồm có phần tội phạm

rõ (các tội phạm đã được phát hiện, xử lý) và phần ẩn (tội phạm không được phát

hiện, xử lý);

Hai là, diễn biến (động thái) tăng lên hay giảm xuống của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7.

25

Ba là, cơ cấu có nghĩa là phải đánh giá được mối tương quan giữa các yếu tố

khác nhau trong bức tranh tổng thể của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện trên địa bàn Quận 7.

Bốn là, tính chất của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện gây

ra cho xã hội, để có sự đánh giá một cách khách quan và toàn diện nhất thì phải xem

xét dưới hai góc độ: Phần tội phạm rõ, tức là phần tội phạm do người dưới 18 tuổi

thực hiện trên địa bàn Quận 7 đã được các cơ quan chức năng điều tra, truy tố xét xử

và đưa vào thống kê hình sự. Trong phạm vi luận văn của mình tác giả sẽ đi sâu vào

nghiên cứu và phân tích thực trạng tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện trên địa bàn Quận 7 trong giai đoạn 2015 – 2019 thông qua số liệu thống kê của

TAND Quận 7 cùng với 100 bản án hình sự sơ thẩm về các tội do người dưới 18 tuổi

thực hiện từ đó tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới

18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7. Phần tội phạm ẩn, bao gồm các tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện trên thực tế đã xảy ra mà không bị phát hiện, không bị

xử lý hình sự, hoặc không có thống kê tư pháp hình sự.

2.1.1. Mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

Mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7 được hiểu là các số liệu phản ánh tổng số tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện trên địa bàn Quận 7 cùng với số lượng người dưới 18 tuổi đã thực hiện tội phạm

trên địa bàn Quận 7, trong giai đoạn nghiên cứu đó là từ năm 2015 đến 2019. Tác giả

tập trung phân tích, làm sáng tỏ nguyên nhân của tình hình tội phạm do người dưới

18 tuổi thực hiện qua các thông số về mức độ, cơ cấu, diễn biến, tính chất của tình

hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 trong giai đoạn 5

năm.

Bảng 2.1. Thống kê số vụ phạm tội và số người dưới 18 tuổi phạm tội so với

tình hình tội phạm chung trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019.

Tình hình người dưới 18

Tình hình tội phạm

Tỷ lệ %

tuổi phạm tội

Năm

Số vụ (1)

Số bị cáo (2)

Số vụ (3) Số bị cáo (4)

(3)/(1) (4)/(2)

26

251

378

43

61

17,13

16,14

2015

278

360

17

34

6,11

9,44

2016

313

393

19

37

6,07

9,41

2017

112

215

21

41

18,75

19,07

2018

219

345

35

53

15,98

15,36

2019

Tổng

1.173

1.691

135

226

11,51

13,36

(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 7 từ năm 2015 – 2019

Biểu đồ 2.1. Số vụ phạm tội và số người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn

70

60

50

40

Số vụ

30

Số người

20

10

0

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Quận 7

(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 7 giai đoạn 2015 - 2019)

Số liệu thống kê trong bảng 2.1 cho thấy, trong thời gian từ ngày 01/01/2015

đến 31/12/2019, trên địa bàn Quận 7 đã xét xử tổng cộng 1.173 vụ án hình sự với

1691 bị cáo. Riêng người dưới 18 tuổi phạm tội đã xảy ra 135 vụ với 226bị cáo chiếm

tỷ lệ 11.5 % tổng vụ án hình sự và13.36% bị cáo bị đưa ra xét xử. Trong đó, xảy ra

nhiều nhất là năm 2015 (43 vụ, 61 bị cáo) và năm 2016 thấp nhất (17 vụ, 34 bị cáo),

trung bình mỗi năm xét xử 27 vụ với 45,2 bị cáo.

27

Để thấy mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7, ta so sánh tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7

với địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Bảng 2.2.Thống kê so sánh tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn

Quận 7 so với địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2019

Toàn Tp.HCM Quận 7 Tỷ lệ (%) Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

2031 2776 43 61 2,11 2,2 2015

1452 1839 17 34 1,17 1,84 2016

1731 1954 19 37 1,1 1,89 2017

1493 1863 21 41 1,41 2,2 2018

1027 1531 35 53 3,41 3,46 2019

Tổng 7734 9.963 135 226 1,75 2,27

(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND TP HCM giai đoạn 2015 - 2019)

Nếu xét tỉ lệ người dưới 18 tuổi xảy ra trên địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí

Minh thì tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7 không lớn: chiếm 1,75

% số vụ và 2,27 % (tổng số 24 quận, huyện trên toàn Thành phố).

Bảng 2.2 cũng cho thấy số vụ án do người 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận

7 có những diễn biến phức tạp: cụ thể năm 2016 giảm so với năm 2015 là 26 vụ, năm

2017 tăng so với năm 2016 là 2 vụ, năm 2018 tăng so với năm 2017 là 2 vụ, năm

2019 tăng so với năm 2018 là 14 vụ. Tuy nhiên, những con số này chỉ mới phản ánh

được phần nào thực trạng của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7. Bởi thực trạng tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn Quận 7 bao gồm một chỉnh thể thống nhất được tạo bởi phần ẩn và phần

hiện.

Theo PGS.TS Phạm Văn Tỉnh: “Phần ẩn của tội phạm là tổng thể các hành vi

phạm tội (cùng các chủ thể của hành vi đó) đã xảy ra trên thực tế, song không được

phát hiện, không bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc không có trong

thống kê hình sự” [53].

28

Còn GS.TS Nguyễn Xuân Yêm cho rằng: “Tội phạm ẩn là khái niệm chỉ một

phần trong tổng thể các tội phạm đã xảy ra trong một khoảng thời gian và trên một

địa bàn nhất định mà chưa được các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, Toà án và các cơ quan khác của Công an có chức năng tiếp nhận tin

tố giác và phát hiện tội phạm) phát hiện về sự kiện nói chung hoặc chưa nhận biết

được sự kiện, hành vi đã phát hiện là tội phạm” [63]

Tội phạm ẩn do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 tồn tại dưới

dạng tội phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ quan.

Tội phạm ẩn khách quan là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế nhưng

do nguyên nhân khách quan, cơ quan chức năng không phát hiện ra được vụ phạm

tội – không có thông tin về vụ án [58].

Tội phạm ẩn chủ quan là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế, cán bộ

hoặc cơ quan chức năng nắm được vụ việc nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau

mà vụ án không được thụ lý, xử lý hình sự và do đó không có số liệu thống kê. [58]

Ngoài ra còn có tội phạm ẩn thống kê – trường hợp tội phạm đã bị phát hiện

và đưa ra xét xử hình sự nhưng không có số liệu thống kê chính thức do kĩ thuật thống

kê còn hạn chế, do bệnh thành tích, do sai sót của cán bộ thống kê.

Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7 do nhiều nguyên nhân khác nhau như:

Thứ nhất, từ phía nạn nhân của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7. Bị hại không tố cáo là do bị người phạm tội (hoặc người nhà của

người phạm tội) đe doạ, mua chuộc, không có sự tin tưởng vào cơ quan bảo vệ pháp

luật, tâm lý sợ phiền hà hoặc sợ bị công bố bí mật cá nhân.

Thứ hai, nguyên nhân từ phía người dưới 18 tuổi phạm tội thực hiện bằng thủ

đoạn quá tinh vi, xảo quyệt...

Thứ ba, nguyên nhân từ phía các cơ quan chức năng:thiếu tinh thần trách

nhiệm, cán bộ có hành vi nhận hối lộ để không xử lý vụ việc hoặc do nể nang, có mối

quan hệ thân quen nên không xử lý vụ việc, năng lực của cán bộ làm công tác này

còn nhiều hạn chế nên khó có thể phát hiện được hành vi phạm tội của các đối tượng.

29

Thứ tư, nguyên nhân xuất phát từ môi trường sống của cá nhân tại gia đình,

nơi làm việc, nơi cư trú có nhiều tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng đến tình hình tội phạm

ở mức độ nhất định.

2.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm do người dưới dưới 18 tuổi thực

hiện

Diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn Quận 7 được phản ánh ở sự tăng lên hay giảm đi hoặc ổn định tương đối

của nhóm tội phạm này trong giai đoạn 2015 – 2019. Sự tăng lên hay giảm đi của tình

hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện được phản ánh thông qua số liệu về

các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện và số liệu này giúp ta đánh giá được sự

tăng hay giảm của tính chất, mức độ nguy hiểm.

Theo báo cáo tổng kết của TANDQuận 7 thì tình hình tội phạm do người dưới

18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 diễn biến khá phức tạp thông qua bảng số liệu

sau theo phương pháp so sánh định gốc:

Bảng 2.3. Diễn biến tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 (so sánh định gốc).

Năm Số vụ Số bị cáo Phần trăm số vụ Phần trăm số bị

(%) cáo (%)

43 61 2015 100 100

17 34 39,53 55,74 2016

19 37 44,19 60,66 2017

21 41 48,83 67,21 2018

35 53 81,39 86,88 2019

Giai đoạn Số vụ Số bị cáo Phần trăm số vụ Phần trăm số bị

03 năm (%) cáo (%)

2015 – 2017 79 132 100 100

2017 - 2019 75 131 94,94 99,24

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn

2015 – 2019).

30

Tại bảng 2.4 cho thấy nếu lấy năm 2015 làm gốc, tức là tỉ lệ số vụ và số bị cáo

năm 2015 đều là 100% thì đến năm 2016 tỉ lệ số vụ giảm còn 39,53 % và 55,74 %.

Năm 2017, số vụ giảm còn 44,19% và số bị cáo giảm còn 55,74%, nhưng lại tăng số

vụ và số bị cáo so với năm 2016. Năm 2018, số vụ giảm còn 48,83 và số bị cáo giảm

còn 67,21 tăng so với 2018. Năm 2019, số vụ giảm còn 81,39 % và số bị cáo còn 88,

68% nhưng lại tăng đáng kể so với năm 2018. Như vậy, diễn biến tình hình tội phạm

do người dưới dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 là rất phức tạp.

Dùng phương pháp định gốc giai đoạn 03 năm ta thấy: giai đoạn 2015 - 2017

với tỉ lệ số vụ, số bị cáo là 100% thì đến giai đoạn 2017 – 2019 tỉ lệ này đã giảm

xuống còn 94,94% số vụ và 99,24% bị cáo. Có được điều này là nhờ Ủy ban nhân

dân Quận 7 cùng các cơ quan có liên quan đã quan tâm phòng,chống tình hình tội

phạm nói chung và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng.

2.1.3. Cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện

2.1.3.1. Cơ cấu của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

a. Cơ cấu theo đơn vị hành chính cấp phườngcủa Quận 7

Bảng 2.4. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi

thực hiện trên địa bàn Quận 7 phân theo số dân của 10 đơn vị hành chính cấp

phường.

STT Địa danh Số dân Tổng số Số dân/bị STT theo

(người) bị cáo mức độ cáo

1 Bình Thuận 16.083 268 60 1

2 Tân Thuận Đông 22.228 412 54 2

3 Tân Thuận Tây 14.365 368 39 3

4 Tân Hưng 22.020 881 25 4

5 Tân Quy 29.265 1463 20 5

6 Tân Kiểng 21.846 1285 17 6

7 Tân Phú 12.020 1335 9 7

31

Tổng 138.097 224

(Nguồn: TAND Quận 7 và Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 –

2019)

Bảng 2.5. Cơ cấu về mức độ và hệ số tiêu cực, cấp độ nguy hiểm của tình hình

tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019

theo diện tích 10 đơn vị hành chính cấp phường.

STT Địa danh Tổng Diện tích Số bị STT Hệ số Cấp

(km2) cáo/1km2 về tiêu cực độ số

(bị mức nguy

cáo) độ hiểm

39 Tân Thuận Tây 1,05 37,14 1 4 2 1

60 Bình Thuận 1,65 36,36 2 3 1 2

20 Tân Quy 0.86 23,26 3 8 3 3

17 Tân Kiểng 0,97 17,53 4 10 5 4

25 Tân Hưng 2,2 11,36 5 9 4 5

54 Tân Thuận 8,12 6,65 6 8 3 6

Đông

7 14 6 Tân Phú 9 4,59 1,96 7

Tổng 224 19,44 TB: 11,5

(Nguồn: TANDQuận 7 và tổng cục thống kê)

Để xác định xem tình hình ở địa bàn nào nghiêm trọng hơn trong 10 đơn vị

hành chính của Quận 7, tác giả dùng phương pháp đánh giá trên cơ sở tổng hợp 3 yếu

tố: diện tích tự nhiên; số bị cáo; số dân cư.

Đối với bảng 2.4 ta thấy nếu số dân trên bị cáo càng thấp thì mức độ phạm tội

ở đơn vị đó càng cao: phường Bình Thuận, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây có mức

độ cao hơn so với các phường khác với số dân/bị cáo lần lượt là: 268, 412,368.

Phường Bình Thuận có số dân/ bị cáo thấp nhất theo đó phường Bình thuận có mức

32

độ phạm tội cao nhất cứ 268 người dân thì có 01 người phạm tội là người dưới 18

tuổi.

Qua bảng 2.5 ta có thể thấy: phường Tân Thuận Tây có số bị cáo trên diện tích

cao nhất là 37,14, thứ hai là phường Bình Thuận 36,36; còn lại hai phường Tân Thuận

Đông và Tân Phú có số bị cáo trên diện tích thấp nhất lần lượt là 6,65 và 1,96. Hệ số

tiêu cực được tính dựa trên bảng 2.4 và 2.5. Hệ số tiêu cực càng nhỏ thì cấp độ nguy

hiểm càng cao. Như vậy, xét theo cấp độ nguy hiểm thì phường Bình Thuận có cấp

độ nguy hiểm cao nhất và cấp độ nguy hiểm thấp nhất là phường Tân Phú.

Quận 7 được phân chia thành 10 phường: Phú Mỹ, Phú Thuận, Tân Phú, Tân

Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân Kiểng, Tân Quy, Tân Phong, Tân Hưng; phường

có diện tích lớn nhất là phường Phú Thuận là 829 ha, phường có diện tích nhỏ nhất

là phường Tân Quy là 86 ha. Kể từ khi được thành lập (4/1997) với dân số là 90.920

nhân khẩu, nhưng chỉ sau gần 1 năm (12/1997) theo thông kế của quận đã lên đến

115.024 người, tốc độ tăng dân số đã lên đến 8,38% so với năm 1997. Xét cơ cấu dân

số theo độ tuổi, tỷ lệ dân số trong độ tuổi từ 15 đến 34 tuổi chiếm 42,3 % tổng số dân

của quận. Tình trạng dân cư của quận đang xáo trộn mạnh và phân bố không đều, mật

độ dân số bình quân là 3.220 người/km2 . Tỷ lệ số dân ở diện KT2, KT3, KT4 chiếm

34% số hộ và 33% số nhân khẩu [9]. Sự khác nhau về dân cư và mật độ dân số phân

bố ở các phường đã tác động đến cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn dẫn đến sự

phân bố khác nhau.

b. Cơ cấu theo phương thức thực hiện tội phạm

- Công cụ, phương tiện gây án

Qua nghiên cứu 100 bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi trên địa bàn

Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy: 82 vụ/100 vụ, chiếm tỉ lệ 82% số người dưới

18 tuổi sử dụng công cụ, phương tiện gây án. Công cụ, phương tiện gây án đó chính

là điều kiện cần thiết để người phạm tội thực hiện được hành vi phạm tội của mình

hoặc thúc đẩy hành vi phạm tội đó diễn ra nhanh chóng. Công cụ, phượng tiện chủ

yếu mà người dưới 18 tuổi sử dụng đó là xe máy, dao, kéo, búa, kìm… tùy từng vụ

án khác nhau mà các đối tượng sử dụng công cụ phương tiện khác nhau. Nhưng việc

33

sử dụng công cụ, phương tiện để gây án chiếm tỉ lệ khá cao cho thấy tính chất, mức

độ nguy hiểm hơn của hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng

tăng.

- Động cơ, mục đích phạm tội

Bảng 2.6. Cơ cấu theo mục đích phạm tội.

Thỏa mãn nhu Chơi game, Tổng số bị cáo Hám lợi Mục đích khác cầu cá nhân mua ma túy

176 29 97 33 17

100% 16,48 55,11 18,75 9,66

(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)

Thống kê bảng 2.6 cho thấy người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu

cầu cá nhân chiếm tỉ lệ cao nhất (97 bị cáo; 55,11%); sau đó là chơi game, mua ma

túy (33 bị cáo; chiểm tỉ lệ 18,75%); ngoài ra một số đối tượng vì thỏa mãn sở thích

chơi game, mua ma túy và mục đích khác mà thực hiện hành vi phạm tội. Điều này

cho thấy việc người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội bắt nguồn từ lối sống

lệch lạc, lười biếng, thích hưởng thụ.

2.1.3.2. Cơ cấu theo các đặc điểm nhân thân

Cơ cấu theo các đặc điểm nhân thân được nghiên cứu dựa trên 100 bản án

với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7.

a. Thực trạng các đặc điểm sinh học

- Giới tính

Bảng 2.7. Thực trạng theo giới tính, độ tuổi của nhân thân người dưới 18 tuổi

phạm tội trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015-2019.

Giới tính Độ tuổi Số bị Năm Từ đủ 14 đến Từ đủ 16 đến dưới cáo Nam Nữ dưới 16 18

2015 49 45 4 8 41

2016 25 25 0 5 20

2017 27 27 0 5 22

34

2018 30 27 3 5 25

2019 45 42 3 7 38

Tổng 176 166 10 30 146

100 Tỷ lệ(%) 94,32 5,68 17,05 82,95

(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)

Biểu đồ 2.2. Biểu đồ cơ cấu theo giới tính Biểu đồ 2.3. Biểu đồ cơ cấu theo độ

của người dưới 18 tuổi phạm tội. tuổi của người dưới 18 tuổi phạm

Nữ 6% 0%

Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi

Nam 94%

Từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi

tội.

Bảng 2.7 cho thấy đa số các đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội là nam

giới với 166 bị cáo chiếm tỉ lệ 94,32%; chỉ có 10bị cáo là nữ giới chiếm tỉ lệ 5,68%.

Qua thực tiễn cho thấy, việc chênh lệch tỷ lệ này chủ yếu là do sự khác biệt về đặc

điểm tâm– sinhlý - xã hội học giữa hai giới. Nam giới có sức mạnh, tính liều lĩnh, táo

bạo hơn, dễ bị ảnh hưởng của môi trường, điều kiện sống, dễ phát sinh tâm lý tiêu

cực, dễ bị kích động, bị nhiễm thói hư, tật xấu, ăn chơi, đua đòi, bị lôi kéo vào các tệ

nạn....nên họ dễ phạm tội hơn nữ giới. Đây là nhóm đối tượng mà công tác giáo dục,

tuyên truyền, phòng ngừa cần hướng tới. Điển hình như vụ án tại bản án số

163/2017/HSST ngày 28 tháng 09 năm 2017 của TAND Quận 7 [27]: Khoảng 16 giờ

ngày 25/03/2017, Nguyễn Trung Tín, Hồ Thanh Toàn (chưa rõ lai lịch) nhắn tin với

35

Nguyễn Ngọc Hiếu nói có mâu thuẫn với người khác, nhờ đi đánh nhau. Hiếu đồng

ý. Toàn mang theo chiếc côn bằng sắt, để trong người. Đến 18 giờ 30 phút cùng ngày,

Hiếu, Tín, Toàn đùa giỡn, Hiếu thấy em Trần Hoàng Tuần (sinh năm 2002) đang chơi

games thì nhìn Hiếu. Hiếu nói Tuấn có ý nhìn đểu nên bảo Tín đến gây sự với Tuấn.

Tín đến gần dùng cùi chỏ đánh vào đầu Tuấn. Hiếu thấy Tín sử dụng điện thoại nên

nảy sinh ý định chiếm đoạt. Hiếu bảo Tín gọi Tuấn ra khu vực cầu thang bộ nhằm

mục đích chiếm đoạt tài sản của Tuấn. Thiện gọi Tuấn. Khi Tuấn ra đến cầu thang,

Hiếu dùng tay kẹp cổ kéo Tuấn vào khu vực cầu thang bộ tại tầng 3 siêu thị, đóng

cửa lại. Lúc này chỉ có Hiếu, Tín, Tuấn. Hiếu nói với Tuấn “lấy tiền, điện thoại đưa

ra nếu không tao đánh”, vừa nói Hiếu dùng tay lấy trong túi Tuấn 01 điện thoại và số

tiền là 310.000 đồng và bảo Tuấn tháo chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng để Tuấn

chiếm đoạt. Tín lấy “côn sắt” nhằm mục đích đe dọa Tuấn. Lúc này, Tuấn hoảng sợ

để cho Hiếu chiếm đoạt tài sản. Chiếm đoạt được tài sản của em Tuấn, Hiếu giữ chia

cho Tín 110.000 đồng, còn lại Hiếu cất giữ. Sau đó, Tuấn đến báo cho bảo vệ siêu thị

và trình báo cơ quan công an.

Qua vụ án trên cho thấy các bị cáo phạm tội hết sức táo bạo và liều lĩnh có sự

chuẩn bị trước công cụ, phương tiện phạm tội. Hành vi này đã xâm phạm đến tài sản

sỡ hữu của công dân, nguy hại đến tính mạng, sức khỏe và tình thần của bị hại.

- Độ tuổi

Cũng theo kết quả của bảng 2.7 cho thấy nhóm bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới

18 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất với 146/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 82,95% và độ tuổi từ 14

đến dưới 16 tuổi chiếm tỉ lệ thấp hơn với 30 bị cáo chiếm tỉ lệ 17,05%. Cho thấy độ

tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi là giai đoạn phát triển cả về sinh lý, tâm lý, ý thức. Giai

đoạn này có sự mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc nhiều hơn và khả năng nhận

thức pháp luật còn hạn chế nên dễ thực hiện hành vi phạm tội.

b. Thực trạng các đặc điểm xã hội

- Trình độ học vấn

Bảng 2.8. Thực trạng trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội dưới

18 tuổi trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019.

36

Trình độ học vấn Số bị Năm cáo Không biết chữ Tiểu học THCS THPT

2015 49 9 17 13 10

2016 25 5 10 6 4

2017 27 7 8 8 4

2018 30 9 10 6 5

2019 45 13 14 8 10

Tổng 176 43 59 41 33

100 23,3 Tỷ lệ (%) 24,43 33,52 18,95

(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)

Qua phân tích bảng 2.8 cho thấy số người dưới 18 tuổi phạm tội không biết

chữ chiếm tỉ lệ 24,43 %; số người ở trình độ tiểu học chiếm tỉ lệ 33,52%, số người ở

trình độ Trung học cơ sở chiểm tỉ lệ 23,3%, số người ở trình độ Trung học phổ thông

chiếm tỉ lệ 18,95%. Điều đó cho thấy trình độ học vấn có ảnh hưởng đến nhu cầu và

lợi ích, đến cách xử sự của con người nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Trình

độ học vấn của người phạm tội nhìn chung thấp hơn so với người không phạm tội

cùng độ tuổi. Điền hình như bản án số 143/2018/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2018

của TAND Quận 7: Chung Bá Nhẩn và Nguyễn Trung Đạt là những đối tượng không

có nghề nghiệp ổn định nên đã bàn bạc với nhau đi trôm cắp tài sản bằng thủ đoạn

dùng đoản sắt lục giác cạy phá khóa cửa ngoài của các nhà đi vắng, sau đó vào nhà

để trộm cắp tài sản có giá trị để bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Cả hai phân công thay

phiên nhau một người đứng ngoài cảnh giới, còn một người bẻ khóa đột nhập vào

nhà, tài sản bọn chúng trộm gồm: Tiền, vàng, xe máy, máy ảnh, đồng hồ… sau khi

trộm được vàng thì cả hai đem bán tại tiệm “Huy Tân” tại 265B Nguyễn Thị Tần,

phường 2, Quận 8; còn máy tính bảng, laptop, điện thoại di động bán tại tiệm “Sơn

Trang” số 180, Dương Bá Trạc, phường 2, Quận 8; riêng xe máy cả hai dùng làm

phương tiện tiếp tục đi trộm cắp. Nhẩn và Đạt khai đã thực hiện 26 vụ trộm cắp tài

sản trên địa bàn Quận 7 từ tháng 07/2015 đến thán 10/2015” [27]. Trong vụ án trên

bị cáo Nguyễn Trung Đạt có trình độ học vấn không biết chữ và Chung Bá Nhẫn có

37

trình độ học vấn 7/12. Do có trình độ học vấn thấp nên hiểu biết pháp luật còn hạn

chế, thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần để lấy tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá

nhân, sử dụng tài sản trộm cắp được làm công cụ phương tiện cho những lần phạm

tội tiếp theo.

- Cơ cấu theo địa vị xã hội và nghề nghiệp

Qua nghiên cứu đặc điểm nghề nghiệp của người dưới 18 tuổi phạm tội trên

địa bàn Quận 7, cho thấy đa số người phạm tội dưới 18 tuổi không có việc làm hoặc

có việc làm nhưng không ổn định. Từ việc thu thập thông tin về nghề nghiệp của 100

bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7 cho thấy:

Số bị cáo không nghề nghiệp là 134/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 76,14%, số bị cáo có

nghề nghiệp là 42/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 23,86%. Các bị cáo có nghề nghiệp chủ

yếu là những việc làm không ổn định, là lao động tự do. Từ chỗ nghề nghiệp không

ổn định dẫn đến cuộc sống bấp bênh, sống lang bạt, bê tha, dễ phát sinh các hành vi

tiêu cực như trộm cắp, cướp giật…

2.1.3.3. Tính chất của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

Tính chất của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7 thể hiện rõ nhất ở hai tiêu chí đó là tiền án, tiền sự và đồng phạm

a. Tiền án, tiền sự

Bảng 2.9. Cơ cấu theo tiền án, tiền sự.

Tổng số bị cáo Có tiền án, tiền sự Không có tiền án, tiền sự

176 55 121

100% 31,25 68,75

(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)

Thống kê bảng 2.9 cho thấy đa số người dưới 18 tuổi phạm tội trong 100 bản

án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7 không có tiền án, tiền sự với 121/176 bị cáo

chiếm tỉ lệ 68,75%, số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội có tiền án, tiền sự là

55/176, chiếm tỉ lệ 31,25%.

38

b. Vấn đề đồng phạm

Bảng 2.10. Cơ cấu theo hình thức phạm tội.

Tổng số bản án Đồng phạm Đơn lẻ

100 37 63

100% 37 63

(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)

Thống kê 100 bản án HSST của TAND Quận 7 cho thấy số vụ án các đối

tượng thực hiện đơn lẻ chiếm tỉ lệ khá cao với 63/100 vụ chiếm tỉ lệ 63% và đồng

phạm chiếm tỉ lệ cũng không nhỏ 36/100 vụ chiếm tỉ lệ 36%. Điển hình tại bản án số

34/2019/HSST ngày 01 tháng 04 năm 2019 của TAND Quận 7: Trần Xuân Phát và

Nguyễn Văn Nhật là bạn bè nên ngày 15/09/2018, Phát chủ động gọi điện thoại cho

Nhật rủ đi cướp giật tài sản để kiếm tiền tiêu xài. Khoảng 9 giờ 00 ngày 15/09/2018,

bị cáo Trần Xuân Phát điều khiển xe máy hiệu Utimo biển số 54X9 - 6865 chở bị cáo

Nguyễn Văn Nhật (sinh ngày 23/09/2001) ngồi sau, đi quanh các tuyến đường xem

ai có tài sản để sơ hở thì cướp giật tài sản. Khi cả hai tới trước quán cà phê “Milanno”

thuộc đường Tân Thuận, khu phố 2A, Tân Thuận Đông, Quận 7 phát hiện ông Lê

Trung Thạch ngồi xe gắn máy đậu sát lề đường, đang sử dụng điện thoại di động hiệu

Sony Z3. Lúc này Phát điều khiển quay đầu xe lại, áp sát ông Thạch để Nhật ngồi sau

giật điện thoại rồi cả hai tăng ga bỏ chạy vào khu chế xuất Tân Thuận. Ông Thạch

truy hô cùng bảo vệ Khu chế xuất Tân Thuận đuổi theo đến trước Công ty Juki, đường

Tân Thuận, khu chế xuất Tân Thuận thì bắt giữ Phát, Nhật giao cho công an phường

Tân Thuận Đông [27].

Qua vụ án trên cho thấy, các bị cáo Phát và Nhật đã thực hiện hành vi phạm

tội cướp giật tài sản có sự phân công hành vi để thực hiện tội phạm đến cùng, khi

Phát điều khiển xe gắn máy ép sát bị hại để Nhật ngồi phía sau nhanh chóng chiếm

đoạt tài sản của bị hại. Nếu chỉ có một mình Phát hoặc Nhật thì tội phạm đã không

thực hiện được hành vi phạm tội được. Như vậy, có thể thấy trong vụ án có đồng

phạm thì tính chất phạm tội nguy hiểm cao hơn so với tội phạm thực hiện đơn lẻ.

39

2.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người 18 tuổi

thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

Như chương 1 của luận văn tác giả đã tiếp cận việc phân loại nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện dựa trên tiêu chí

nguồn gốc xuất hiện. Chính vì thế nguyên nhần và điều kiện của tình hình tội phạm

do người 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 bao gồm:

2.2.1. Những nguyên nhân và điều kiện thuộc môi trường sống

2.2.1.1. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình

Môi trường gia đình là một thành tố có tính quyết định đến sự hình thành và

phát triển nhân cách con người. Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những

phẩm chất tốt đẹp nếu có một môi trường sống tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi

gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Trong các mô hình gia đình, mô hình gia đình trí

thức, bố mẹ có trình độ học vấn, đầm ấm, thuận hòa và hạnh phúc sẽ có những định

hướng tính cực đến giá trị nhân cách của trẻ. Trẻ sẽ có những định hướng đúng đắn

theo sự hướng dẫn của cha mẹ đúng với đạo đức của xã hội.

Nghiên cứu đặc điểm hoàn cảnh gia đình trong nguyên nhân và điều kiện

người phạm tội là nghiên cứu ở khía cạnh về quan hệ gia đình và hoàn cảnh kinh tế

gia đình với những tác động của chúng tới người phạm tội.

- Gia đình khuyết thiếu:

Thống kê 100 bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa

bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy số bị cáo có hoàn cảnh gia đình thuận lợi

có 60/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 34,09%, số bị cáo có hoàn cảnh gia đình không thuận

lợi như mồ côi cả cha lẫn mẹ, mồ côi mẹ, mồ côi cha [27]… Với kết quả nghiên cứu

trên, cho thấy rằng những người có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi khi gặp môi

trường xấu và do tác động của những nhân thân xấu thì dễ phạm tội hơn so với những

người sống trong gia đình có hoàn cảnh thuận lợi. Bởi, họ không được sự giáo dục

của gia đình, thiếu sự răn dạy của cha mẹ, có lối sống buông thả, lang bạt từ nhỏ, dễ

bị kích động theo lối sống tình nghĩa giang hồ, lập những băng nhóm và đôi khi chỉ

40

vì những mâu thuẫn nhỏ đã bị kích động thực hiện những hành vi cực kỳ nguy hiểm

như gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích hoặc giết người.

- Gia đình kinh tế khó khăn:

Qua nghiên cứu 100 bản án hình sự sơ thẩm của TAND Quận 7 cho thấy số bị

cáo có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn là 90/176 chiếm tỉ lệ 51,13% [27]. Do

kinh tế khó khăn, nên trong cuộc sống hằng ngày bố mẹ phải bươn chải kiếm sống,

không có thời gian để quan tâm giáo dục, chăm sóc con cái cộng với sự tác động từ

môi trường xấu, nhân thân xấu từ bên ngoài mà không có sự điều chỉnh kịp thời của

gia đình nên dễ thực hiện hành vi phạm tội. Hoàn cảnh kinh tế là một trong những

yếu tố có ý nghĩa rất lớn đối với việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội và tác

động trực tiếp đến cách thức xử sự của con người. Cuộc sống gia đình thường xuyên

thiếu thốn không đủ đáp ứng các nhu cầu bên ngoài xã hội, dẫn đến việc muốn có

tiền tiêu xài, thõa mãn các nhu cầu nên đã thực hiện hành vi phạm tội như trộm cắp,

cướp giật...

- Gia đình quá nuông chiều con cái:

Hiện nay, cuộc sống xã hội hiện đại cuốn con người vào dòng chảy của công

việc của cơm áo, gạo tiền. Thời gian cha mẹ đi làm, con cái đi học khá bận rộn khiến

các thành viên trong gia đình khó có cơ hội, quây quần, trò chuyện, gần gũi. Trong

khi đó ở lứa tuổi dưới 18 tuổi rất cần có sự sẻ chia, chỉ bảo của gia đình. Nhiều cha

mẹ có tư tưởng phó thác trách nhiệm giáo dục cho nhà trường và xã hội. Họ nghĩ rằng

kiếm thật nhiều tiền cung cấp vật chất cho con là đủ. Có những gia đình con cái đòi

gì cũng đáp ứng, thiếu sự kiểm tra uốn nắn kịp thời. Dẫn đến không ít trẻ trở nên vô

tổ chức kỉ luật, bỏ học, bỏ nhà theo bạn bè tụ tập, lêu lổng. Bên cạnh đó, nhiều cha

mẹ không chú trọng dạy cho con cách đối nhân xử thế, biết tôn trọng mình và tôn

trọng người khác, không dạy con lòng khoan dung, sự độ lượng, vị tha và tinh thần

đoàn kết. Có không ít bố mẹ chưa thực sự là tấm gương tốt cho con cái.

Thống kê cho thấy, có 26/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 14,61% [27] được gia đình

quá nuông chiều, bao bọc, thỏa mãn mọi nhu cầu. Từ bé đã được cha mẹ hình thành

thói quen muốn gì được nấy nên khi lớn lên hình thành ý thức thiếu tôn trọng quyền

41

sở hữu tài sản của người khác, không có thì đi trộm, đi cướp giật về. Nếu cha mẹ thể

hiện tình yêu thương con cái không đúng cách thì rất có thể, con cái sẽ vượt quá các

giới hạn và về lâu dài sẽ ảnh hưởng tới hành vi, tính cách của con như cư xử tùy ý,

bốc đồng và hành xử vội vã, tùy tiện.

Ngoài ra còn có những gia đình mà bố mẹ có cách giáo dục sai lệch thiếu khoa

học như bạo lực, độc đoán, lạnh lùng, thiếu sâu sát, thiếu sự quan tâm… gia đình mà

cha mẹ có những hành vi lệch chuẩn thì định hướng giá trị nhân cách của các em

cũng thiên về sự phat triển lệch lạc. Thực tế cho thấy, hành vi phạm tội của mộ số bị

cáo cũng bắt nguồn từ gia đình do cha mẹ đánh đập, thiếu quan tâm, chửi mắng hoặc

cha mẹ thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, cha mẹ nghiện ma túy…

2.2.1.2. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường

Nếu gia đình là cái nôi thứ nhất, thì nhà trường là cái nôi thứ hai góp phần

quan trọng vào việc giáo dục và rèn luyện con người. Nhà trường ngoài việc truyền

thụ kiến thức, còn làm nhiệm vụ giáo dục những phẩm chất nhân cách của học sinh

và hoàn thiện những nhân cách ấy. Bên cạnh những thành tích tốt đẹp mà nhà trường

dành được, còn có những hạn chế trong công tác giáo dục. Những thiếu sót đó tạo ra

nhiều nguyên nhân và điều kiện tác động đến người dưới 18 tuổiphạm tội. Qua phân

tích bảng 2.8 cho thấy số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7

có trình độ dưới tiểu học chiếm tỉ lệ khá cao là 59,75% (bao gồm không biết chữ

chiếm tỉ lệ 24,23 %; số người ở trình độ tiểu học chiếm tỉ lệ 33,52%). Điều này cho

thấy rằng, trình độ học vấn có ảnh hưởng đến cách xử sự, nhận thức của con người

nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Trong đó môi trường nhà trường có vai trò

quan trong trong việc hình thành nhân cách của người dưới 18 tuổi. Theo Chủ tịch

Hồ Chí Minh: “Sự học tập ở Nhà trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của

thanh niên, và tương lai của thanh niên là tương lai của nước nhà”. Tuy nhiên, hiện

nay vẫn còn những yếu tố tiêu cực trong môi trường nhà trường ảnh hưởng đến việc

hình thành nhân cách. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường có thể khái

quát thành những nội dung như sau:

42

Thứ nhất, hiện nay chương trình giáo dục còn nghiêng về trang bị kiến thức lý

thuyết, chưa thật sự thiết thực, chưa coi trọng kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng

kiến thức; chưa đáp ứng tốt yêu cầu về hình thành và phát triển phẩm chất và năng

lực của học sinh; nặng về chữ, nhẹ dạy về người, chưa coi trọng hướng nghiệp. Ở các

trường học trên địa bàn Quận 7, ngoài hoạt động dạy học trên lớp do nội dung chương

trình quá tải thời gian học dài và lịch kiểm tra, thi cử quá dày nên các trường ít tổ

chức cho học sinh các hoạt động ngoài giờ, có trường có nhưng vẫn con mang tính

hình thức. Chính việc học quá tải dẫn học sinh không tìm thấy niềm vui khi lên lớp

vì không theo kịp chương trình học, trong khi đó việc học ở trường phải chịu quá

nhiều áp lực về thi cử, kể cả môi trường học thiếu thân thiện. Học sinh chưa thể trút

bỏ hết gánh nặng của áp lực học hành bởi do sự tác động của nhiều phía: xã hội, gia

đình và nhà trường. Xã hội còn coi trọng bằng cấp, chú ý lý thuyết khoa bảng nhiều

hơn kĩ năng ứng dụng trong thực tế, sự lập nghiệp của mỗi người còn phụ thuộc nhiều

vào học hành, thi cử. Sự kì vọng của gia đình đặt quá lớn lên vai người học, làm cho

học sinh chưa có cảm giác là đi học vì mình, cho mình mà học vì gia đình, vì cha mẹ

họ. Việc này dẫn đến sự không hứng thú, bỏ bê, chán nản trong học tập không quan

trọng việc học vì không xác định được mục đích học tập sau đó sa đà vào những trò

tiêu khiển trên các trang mạng xã hội, thích rủ rê, đàn đúm với bạn bè xấu, dễ sa vào

tệ nạn xã hội rồi từ đó phát triển thành những hành vi phạm tội.

Thứ hai, thực tế hiện nay mối quan hệ phối hợp giữa nhà trường và gia đình

ngày càng lỏng lẻo, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, song do cả hai phía giáo viên

và phụ huynh học sinh. Giáo viên chủ nhiệm chỉ gặp gỡ phụ huynh học sinh trong

các buổi họp phụ huynh trong năm học nên không thể trao đổi với nhau về các vấn

đề liên quan đến trẻ, thiếu sự trao đổi thông tin về trẻ. Điều này ảnh hưởng không

nhỏ tới việc giáo dục cho các em. Cha mẹ dường như giao khoán cho nhà trường mà

không quan tâm đến học tập và rèn luyện đạo đức cho con. Hậu quả của việc gắn kết

lỏng lẻo giữa gia đình và nhà trường dẫn đến việc không kiểm soát và phòng ngừa

được những hành vi lệch chuẩn của con cái dẫn đến bạo lực học đường ngày càng gia

tăng, đi vào con đường vi phạm pháp luật.

43

Thứ ba, đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định thành công và đổi mới giáo

dục, hình thành nhân cách của học sinh. Tuy nhiên, nhìn vào tình hình thực tế hiện

nay, năng lực đội ngũ giáo viên đang là vấn đề lo ngại vì một số giáo viên còn chưa

đạt yêu cầu về năng lực dạy học, giáo dục theo chương trình hiện hành. Trong công

tác chuyên môn, còn không ít giáo viên có biểu hiện sa sút về ý chí, sức chiến đấu,

cống hiến, chưa thực sự công tâm, chưa đánh giá đúng thực tế kết quả học tập của

học sinh; có biểu hiện thành tích trong giáo dục, còn nhiều tiêu cực, làm giảm uy tín,

niềm tin của học sinh, phụ huynh và cộng đồng xã hội đối với độ ngũ nhà giáo.Bên

cạnh đó đạo đức nghề nghiệp là phẩm chất cốt lõi quan trọng hàng đầu đối với nhà

giáo dục, là nền tảng, động lực thôi thúc trách nhiệm, nhiệt huyết để mỗi giáo viên

phấn đấu hoàn thành sự nghiệp, xứng danh với nghề cao quý mà xã hội tôn vinh

nhưng lại tồn tại việc giáo viên thiếu tâm huyết với nghề, không tuân thủ những quy

chuẩn của đạo đức nghề nghiệp, làm suy thoái danh dự, lương tâm của nhà giáo như

nhận phong bì, chạy trường, chạy điểm, lạm thu tiền quỹ, thậm chí xúc phạm, bạo

hành đối với học sinh…

2.2.1.3. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường bạn bè

Con người sống trong xã hội, ngoài mối quan hệ với gia đình, nhà trường thì

mối quan hệ với bạn bè cũng diễn ra hàng ngày và thường xuyên trong suốt cuộc đời

mỗi con người, bởi một con người không thể sống một mình trong xã hội mà không

cần có sự giao lưu, tiếp xúc với bạn bè. Trong một số trường hợp việc giao lưu, tiếp

xúc với bạn bè hàng ngày còn nhiều hơn tiếp xúc với cha mẹ.Đây là vấn đề có ý nghĩa

trong việc hình thành đặc điểm nhân thân tích cực nhưng song song đó cũng ảnh

hưởng đến những đặc điểm nhân thân tiêu cực. Theo thống kê tại bảng 2.10 những

vụ án đồng phạm chiếm tỉ lệ 37% cho thấy những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường

bạn bè ảnh hưởng, tác động, hình thành phẩm chất tiêu cực ở cá nhân người dưới 18

tuổi phạm tội. Đối với những gia đình khiếm khuyết như cha mẹ ly thân, ly hôn,

không có cha hoặc mẹ hoặc mồ côi cả cha lẫn mẹ thì thời gian mà người phạm tội

tiếp xúc với bạn bè xấu do bất mãn gia đình, bất mãn xã hội càng dễ xảy ra và phổ

biến. Điển hình như vụ án tại bản án số 46/2019/HSST ngày 23 tháng 04 năm 2019

44

của TAND Quận 7: Nguyễn Thành An, Nguyễn Thái Thiện An (sinh ngày

31/03/2001) và Bành Tân Lợi (sinh ngày 03/04/2001) là bạn bè với nhau. Khoảng 17

giờ ngày 10/11/2018, Thiện An điều khiển xe máy biển số 63B5 – 103.39 chở Lợi từ

Tiền Giang đến khu lưu trú công nhân, Lô X01 đường Bùi Văn Ba, phường Tân

Thuận Đông gặp Thành An. Sau đó, cả ba chở nhau đến công viên Khu chế xuất Tân

Thuận chơi. Thành An biết tại khu lưu trú công nhân xe máy không có người trông

giữ nên rủ Thiện An và lợi trộm cắp. Thiện An và Lợi đồng ý. Do còn sớm nên cả

ba chạy xe đến đường Bùi Viện, Quận 1 chơi. Đến khoảng 02 giờ ngày 11 tháng 11

năm 2018, cả ba quay lại khu lưu trú công nhân để lấy trộm xe máy. Tại đây, Thành

An bảo Thiện An và Lợi vào bên trong lấy trộm, còn mình ngồi trên xe máy biển số

63B5 – 103.39 bên ngoài cảnh giới. Thiện An và Lợi vào bên trong khu lưu trú công

nhân nhìn thấy xe máy hiệu Yamaha Siriu, biển số 71C3 – 286.09 đang khóa cổ. Cả

hai dùng chân đạp vào tay lái làm hư khóa cổ rồi đẩy xe ra ngoài. Do không nổ máy

được, nên Thiện An ngồi trên xe máy vừa trộm, còn Thành An điều khiển xe máy

biển số 63B5 – 103.39 chở Lợi ngồi sau, dùng chân đẩy. Khi đến gần ngã tư đường

Nguyễn Lương Bàng – đường số 19 phường Tân Phú thì bị đội Cảnh sát hình sự Công

an quận 7 tuần tra phát hiện, bắt giữ Thiện An cùng xe máy biển số 71C3 – 286.09.

Thành An và Lợi tẩu thoát. Đến 20 giờ ngày 11/11/2018, Nguyễn Thành An bị Cơ

quan công an mời lên làm việc. Ngày 12/11/2018, Lợi đến Công an Quận 7 đầu thú

[27]. Trong vụ án trên, Nguyễn Thành An là kẻ chủ mưu, rủ rê, cảnh giới, Nguyễn

Thái Thiện An và Bành Tân Lợi là hai bị cáo chưa thành niên thực hiện hành vi phạm

tội chủ mưu, rủ rê, cảnh giới cho đồng bọn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do bị

cáo này là người thuê phòng trọ ở khu lưu trú công nhân nên biết được sự thiếu cảnh

giác của những người thuê trọ khi đến để xe nên đã chủ mưu chiếm đoạt tài sản.

Chúng ta thấy Thành An, Thiện An và Lợi có mối quan hệ bạn bè điều đó cho thấy

rằng môi trường bạn bè cũng ảnh hưởng đến những đặc điểm nhân thân tiêu cực.

Cùng với sự phát triển của internet và các mạng xã hội tràn lan, việc người

phạm tội giao lưu, kết bạn không chỉ dừng lại ở chỗ tiếp xúc với bạn bè trong cuộc

45

sống mà còn bạn bè ở tronh thế giới ảo. Qua việc trò chuyện, tiếp xúc với bạn xấu

trên internet sẽ dẫn đến sự rủ rê, lôi kéo thực hiện hành vi phạm tội.

2.2.1.4. Môi trường kinh tế xã hội vĩ mô

Quận 7 là một trong những quận có kinh tế phát triển ở Thành phố Hồ Chí

Minh, đời sống của người dân đang từng bước được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bên

cạnh những mặt tích cực mà nền kinh tế thị trường đem lại thì còn bộc lộ một số vấn

đề như:

- Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt tác động tiêu cực trong xã hội. Theo

nghiên cứu 100 bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn

Quận 7 thì có 56/176 bi cáo có hộ khẩu ở Quận 7 chiếm tỉ lệ 31,82% còn lại là 120

người chiếm tỉ lệ 68,18% có hộ khẩu tại những quận, huyện khác và các tỉnh khác

đến địa bàn Quận 7 [27] làm ăn, sinh sống đa phần là những người lao động tự do,

thu nhập bấp bênh, không kiếm được việc làm dễ phát sinh hành vi phạm tội.

- Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, qua nghiên cứu 100 bản án HSST về

các tội do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 cho thấy: Số bị cáo không

nghề nghiệp là 134/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 76,14%, số bị cáo có nghề nghiệp là

42/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 23,86%. Có trường hợp những bị cáo có các nghề nghiệp

không ổn định như lái xe, phụ hồ, buôn bán… Do các bị cáo có thu nhập bấp bênh

không đủ đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Có bị cáo do thất học, thất nghiệp bị bạn bè

xấu lôi kéo nên có sở thích lệch lạc như chơi games, ma túy… nên thực hiện những

hành vi như trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản… để thỏa mãn nhu cầu của mình.

2.2.1.5. Môi trường nơi cá nhân làm việc, cư trú

Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú có ảnh hưởng đến sự hình thành

và phát triển nhân cách con người, nó thể hiện vị trí,vai trò của mỗi cá nhân xác định

trong quá trình xã hội hóa. Yếu tố môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú có thể

ảnh hưởng đến một số đặc điểm thuộc tâm lý cá nhân như yếu tố văn hoá, tập quán,

thói quen, nét tính cách của địa bàn cư trú. Nó có ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng

phạm tội nói chung và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi nói riêng, có vai trò

rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhận thức. Nếu sống trong môi trường tập

46

thể hoặc nơi cư trú lành mạnh, an toàn, mọi người biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau,

không có tệ nạn xã hội và tội phạm hoành hành, mọi người biết chí thú làm ăn, nghiêm

chỉnh chấp hành pháp luật thì có thể nói đây là môi trường thuận lợi có tác động tích

cực đến việc hình thành nhân cách đúng đắn của cá nhân và hạn chế sự lệch lạc của

cá nhân. Ngược lại, nếu sống trong môi trường có chứa đựng nhân tố tiêu cực như có

nhiều người sống bê tha, suốt ngày chỉ cờ bạc, rượu chè, đánh nhau thậm chí sa đà

vào ma tuý, mại dâm thì đây là môi trường xấu tiềm ẩn nguy cơ lôi kéo, tác động đến

người thiếu bản lĩnh, không vững dễ sa ngã trước cái xấu, cái tiêu cực của đời sống

xã hội từ đó có thể ảnh hưởng, dẫn đến việc hình thành và phát triển nhân cách lệch

lạc. Quận 7 là nơi có nền kinh tế phát triển với nhiều khu đô thị như Phú Mỹ Hưng,

Cityland Riverside, Nam phú Villas, khu đô thị Him Lam – kênh Tẻ… đây là những

nơi lí tưởng để sinh sống và làm việc. Tuy nhiên, bên cạnh kinh tế phát triển thì hình

thành nhiều khu nhà trọ dành cho những người có thu nhập thấp, tiềm ẩn những vấn

đề phức tạp về an ninh trật tự. Có nhiều khu trọ công nhân giá rẻ thường không được

quản lý chặt chẽ nên vấn đề an ninh thường bị xem nhẹ. Những khu nhà trọ, các khu

công nghiệp khá phức tạp bởi sự khác biệt về lối sống, vùng miền của nhiều người

đến sinh hoạt và làm việc tại địa bàn Quận 7. Như đã phân tích ở mục 2.2.2.1 cho

thấy cấp độ nguy hiểm của tình hình tội phạm trên các phường như Bình Thuận, Tân

Thuận Tây, Tân Quy cao nhất so với các phường khác trên địa bàn Quận. Địa bàn 3

phường này gần Khu chế xuất Tân Thuận có số lượng công nhân, người lao động đến

làm việc, sinh sống rất lớn. Do đó, hoạt động tội phạm từ các khu công nhân làm việc,

khu trọ cũng hết sức phức tạp. Các băng nhóm tội phạm lợi dụng địa bàn dân cư, giáp

ranh để lẩn trốn và hoạt động. Những vấn đề “nóng” trong giai đoạn hiện nay đó là

tệ nạn tín dụng đen, cờ bạc, ma tuý, mại dâm bủa vây, ảnh hưởng đến người lao động

trong đó có người dưới 18 tuổi.

2.2.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội dưới 18 tuổi

2.2.2.1. Sai lệch về sở thích

Qua nghiên cứu 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi trong 100 bản án hình sự sơ

thẩm do TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử trong giai đoạn 2015 - 2019

47

cho thấy người phạm tội có những sở thích lệch lạc như: nghiện games, ma tuý, ăn

chơi, cờ bạc... là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi phạm tội được

nêu trong bản án. Điển hình như vụ án sau:

Khoảng 20 giờ ngày 19/02/2017, Phúc rủ Thành (đều dưới 18 tuổi) đi cướp

giật tài sản của người đi đường bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, Thành đồng ý.

Thành điều khiển xe máy biển số 62F5 – 6187 chở Phúc lòng vòng địa bàn Quận 7,

Quận 8 để thực hiện hành vi “Cướp giật tài sản”. Khi đến ngã tư đường Nguyễn Thị

Thập và đường số 5 khu dân cư Him Lam, phường Tân Hưng, Quận 7, Phúc phát

hiện chị Huỳnh Thị Kiều Lan đang ngồi trên xe máy, tay bấm điện thoại thì Phúc nói

với Thành chạy xe áp sát xe chị Lan. Phúc ngồi sau rồi giật điện thoại của chị Lan,

rồi tăng ga tẩu thoát. Phúc, Thành mang điện thoại cướp giật được đến cầm cho Nam

(chưa rõ lai lịch) với giá 300.000 đồng, đổi lấy ma túy sử dụng.

Đến sáng ngày 20/02/2017, Thành mượn tiền của bạn tên Tuyền (chưa rõ lai

lịch) chuộc lại điện thoại cùng Phúc qua Quận 4 bán thì bị Công an Quận 4 phát hiện,

bắt giữ cùng tang vật chuyển giao cho Công an Quận 7 xử lý [27]. (Trích bản án số

116/2017/HSST ngày 26 tháng 07 năm 2017 của TAND Quận 7).

Qua vụ án trên bị cáo Lê Hoàng Phúc và bị cáo Võ Hoàng Thành đều là những

đối tượng nghiện ma túy vì không có tiền để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút nên thực

hiện hành vi cướp giật tài sản để lấy tiền mua ma túy thỏa mãn cơn nghiện. Các bị

cáo đều nhận thức được ma túy là độc hại, sử dụng ma túy sẽ gây ra trạng thái nhiễm

độc, lú lẫn tâm trí, gây nên những trạng thái tâm lý không bình thường, làm mất đi

một số chức năng cơ bản vốn có của cơ thể, tạo thành những ảo giác, kích động và

sử dụng lâu dài sẽ gây ra sự lệ thuộc hay còn gọi là nghiện nhưng do sự sai lệch sở

thích về ảo giác mà ma túy mang lại nên đã trở thành đối tượng nghiện hút.

2.2.2.2. Sai lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu

Qua nghiên cứu 100 bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi trong các bản

án hình sự sơ thẩm do TAND Quận 7 xét xử trong giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy:

97/176 bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân, chiếm tỉ

lệ 51, 11% [27] - đây là một con số không nhỏ. Nhu cầu đươc coi là một mong muốn,

48

nguyện vọng của con người là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu có khả

năng chi phối con người nếu trong trường hợp cấp bách. Nhu cầu của một cá nhân rất

đa dạng và vô tận nếu trong trường hợp con người có nhu cầu sai lệch và tìm mọi

cách thoả mãn nhu cầu đó thì sẽ dễ dẫn đến việc thực hiện một cách bất chấp, kể cả

là hành vi phạm tội. Hiện nay, dưới sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường,

một số người có tư tưởng thực dụng, lười lao động, có lối sống buông thả… Họ không

có công ăn việc làm, thu nhập không đủ thoả mãn nhu cầu cá nhân nên đã lấy việc

thực hiện hành vi phạm tội là nguồn sinh sống chủ yếu.

2.2.2.3 Hạn chế về trình độ học vấn

Trình độ học vấn là vốn tri thức mỗi người, được tiếp thu được qua sách vở,

mà thước đo là những tấm bằng tốt nghiệp, những chứng chỉ xác nhận học hàm, học

vị. Người có trình độ học vấn cao đa phần họ có sự hiểu biết và có cách ứng xử phù

hợp với đạo đức xã hội và các quy định của pháp luật. Như ở chương 2 phần 2.3.1.2

đã nêu lên thực trạng về trình độ học vấn, qua nghiên cứu 100 bản án hình sự sơ thẩm

của TAND Quận 7 xét xử trong giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy đa phần các bị cáo

có trình độ học vấn thấp, dẫn đến trong suy nghĩ và hành động có xu hướng đi ngược

lại đạo đức xã hội. Điển hình như vụ án sau:

Bị cáo Trần Tấn Lộc, Lê Tấn Phúc và Phạm Minh Nhật quen biết chơi chung

với nhau. Khoảng 14 giờ ngày 18/06/2019, Lê Tấn Phúc tới nhà Phạm Minh Nhật

chơi và Hiếu rủ Phúc đi trộm gà ở trong kho 18, trên đường đi thì cả hai ghé vào nhà

và rủ Trần Tấn Lộc đi cùng. Tuy nhiên, không tìm thấy con gà nào để trộm, Nhật rủ

Phúc, Lộc đi cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu xài thì cả bọn đồng ý. Nhật điều khiển

xe gắn máy hiệu Wave màu xanh đen, biển số 60L2 – 9510 chở Lộc ngồi giữa, Phúc

ngồi phía sau cùng. Khi đến góc đường số 8 và đường Tân Thuận, khu chế xuất Tân

Thuận, phường Tân Thuận Đông, Quận 7, cả ba phát hiện một người phụ nữ đi xe

đạp đang đi ngược chiều để 1 túi nilon trên xe nên Nhật quay xe lại áp sát để Lộc

dùng tay giật túi rồi Nhật điều khiển xe máy tẩu thoát vào khu chế xuất Tận Thuận,

khi mở túi vừa giật được ra xem thì bên trong có 03 cái bánh ngọt, 01 chứng minh

nhân dân phô tô, 01 nón vải màu trắng và không có tài sản gì. Cả bọn lấy bánh ăn,

49

còn giấy tờ, túi nilon, đồ vật thì vứt đi. Sau đó, Nhật tiếp tục điều khiển xe chở Lộc,

Phúc phía sau tiếp tục đi lòng vòng tìm kiếm tài sản sơ hở để cướp giật. Đến 17 giờ

30 phút cùng ngày, khi đến trước cổng Công ty BC và Producting, đường 15 Khu chế

xuất Tân Thuận phát hiện chị Phạm Thị Mai Luyến đang điều khiển xe đạp ngược

chiều có để 01 giỏ xách trên xe, Nhật liền điều khiển xe áp sát để Lộc ngồi sau giật

giỏ xách rồi tăng ga bỏ chạy thì bị bắt giữ, lập biên bản phạm tội quả tang. Chị Luyến

đã đến công an phường trình báo. Trong túi xách của bị hại có một dây đeo tai nghe

màu trắng, một thỏi son màu đen, một thẻ công nhân mang tên Phạm Thị Luyến [27].

(Trích bản án số 182/2019/HSST ngày 28 tháng 11 năm 2019 của TAND Quận 7).

Trong vụ án trên bị cáo Trần Tấn Lộc (sinh ngày 17/04/2004) có trình độ học

vấn 7/12; bị cáo Lê Tấn Phúc (sinh ngày 05/6/2004) có trình độ học vấn 7/12, bị cáo

Phạm Minh Nhật (sinh ngày 16/3/2004) có trình độ học vấn 05/12 [27] đều là những

bị cáo có trình độ học vấn thấp, lười lao động, nhận thức hạn chế, rủ nhau đi trộm gà,

đi cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu xài.

2.2.2.4. Sai lệch, hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân

Trong xã hội, ý thức pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành

nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử, là một bộ phận tạo nên đời sống pháp luật.Ý

thức pháp luật là tổng thể những quan điểm, quan niệm về pháp luật, là tình cảm và

tâm trạng của con người đối với pháp luật. Mọi hoạt động của con người đều được

điều chỉnh bởi pháp luật, để có thể nhận biết được đâu là xử sự được phép, đâu là

hành vi đi ngược lại với những quy định của pháp luật cũng như chuẩn mực đạo đức,

quy tắc cuộc sống, đòi hỏi mỗi chủ thể phải có sự hiểu biết về pháp luật cũng như khả

năng lĩnh hội trước những tác động của môi trường sống xung quanh.Qua nghiên cứu

bảng 2.8 thể hiện phần lớn người phạm tội dưới 18 tuổi có trình độ học vấn thấp,

thiếu kiến thức về pháp luật cũng như khả năng kiềm chế và kiểm soát hành vi. Điển

hình là vụ án: Khoảng 18 giờ ngày 25/4/2019, Nguyễn Văn Quý, sinh ngày:

14/3/2004 điều khiển xe mô tô, biển số: 77H2-8169 chở Nguyễn Văn Mạnh, sinh

ngày: 06/10/2002 và Trần Phước Thọ, sinh ngày: 17/9/2004, còn Phạm Minh Hiếu,

sinh ngày: 30/4/2004 điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu bạc (không rõ biển số) chở

50

Lê Tấn Thọ đi trên nhiều tuyến đường trên địa bàn Quận 7 tìm ai có tài sản sơ hở để

trộm cắp. Khi cả nhóm đi đến trước nhà số: 156/21 Tân Mỹ, phường Tân Thuận Tây

phát hiện xe mô tô hiệu Mangostin, biển số: 51Z7-3006 của anh Huỳnh Phúc Hậu

dựng trước cửa nhà nhưng không có người trông coi nên Nguyễn Văn Quý, Nguyễn

Văn Mạnh, Trần Phước Thọ, Lê Tấn Thọ và Phạm Minh Hiếu cùng nhau lấy trộm

đem về sơn lại màu xe thay đổi biển số rồi sử dụng.

Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 28/4/2019, cũng với thủ đoạn tương tự

Nguyễn Văn Quý tiếp tục rủ Nguyễn Văn Mạnh, Lê Tấn Thọ đi trộm cắp tài sản.

Mạnh, Tấn Thọ đồng ý. Quý điều khiển xe mô tô hiệu Mangostin, gắn biển số: 77H2-

8169 (biển số thật 51Z7-3006) chở Mạnh và Lê Tấn Thọ đi nhiều tuyến đường trên

địa bàn Quận 7 tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến trước nhà số 126-128 Hoàng

Quốc Việt, phường Phú Mỹ, Quận 7, phát hiện xe mô tô hiệu Suzuki Viva, biển số:

85R3-0700 của anh Hoàng Văn Thép dựng trước cổng nhưng không có người trông

coi nên Quý dừng xe cho Tấn Thọ và Mạnh xuống xe, đi bộ vào lấy trộm xe dắt bộ

ra đường Huỳnh Tấn Phát. Do không có chìa khóa để mở công tắc điện của xe Quý

điều khiển xe mô tô hiệu Mangostin, gắn biển số: 77H2-8169 chở Tấn Thọ dùng chân

đẩy xe mô tô hiệu Suzuki Viva, vừa trộm được do Mạnh điều khiển tẩu thoát. Khi đi

đến trước địa chỉ 88 Nguyễn Văn Qùy, phường Phú Thuận, Quận 7, thì bị Đội Cảnh

sát hình sự-Công an Quận 7 trên đường tuần tra phát hiện bắt giữ Mạnh cùng vật

chứng; Quý chạy bộ vào Cửa hàng tiện lợi Click K đường Trần Trọng Cung, phường

Tân Thuận Đông thị bị bắt giữ, còn Tấn Thọ bỏ chạy thoát. [27] (Trích bản án số

131/HSST ngày 18/9/2019 của TAND Quận 7).

Trong vụ án này, bị cáo Mạnh xác định việc bị cáo cùng với Quý, Hiếu, Tấn

Thọ, Phước Thọ đi trộm cắp tài sản không có bàn bạc trước về phân công nhiệm vụ

lấy tài sản, cách thức bán tài sản và phân chia với nhau như thế nào, chỉ là hết tiền

xài và sử dụng ma túy thì Quý và Phước Thọ rủ đi trộm cắp tài sản và cả bọn đồng ý

thực hiện, cùng nhau đi kiếm tài sản sơ hở để chiếm đoạt nên không có căn cứ xác

định bị cáo phạm tội là do bị rủ rê, lôi kéo. Mặt khác, chỉ trong vòng 03 ngày, bị cáo

cùng với Quý, Hiếu, Phước Thọ, Tấn Thọ đã thực hiện 02 lần hành vi lén lút chiếm

51

đoạt tài sản của người khác nhưng do xe mô tô hiệu Mangostin, biển số: 51Z7-3006

của ông Huỳnh Phước Hậu có trị giá 1.500.000 đồng nên lần phạm tội này chưa đủ

định lượng để cấu thành tội phạm. Sau khi trộm được chiếc xe này, cả bọn đã thống

nhất sơn lại màu xe, tháo biển số thật của xe ra và gắn biển số xe khác để dùng xe mô

tô này đi tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe mô tô hiệu Suzuki Viva màu xanh,

biển số: 85R3-0700 trị giá 3.500.000 đồng của ông Hoàng Văn Thép vào ngày

28/4/2019. Bị cáo tuy còn nhỏ tuổi nhưng không đi học, tụ tập với bạn bè xấu chơi

khuya. Khi hết tiền tiêu xài và sử dụng ma túy đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Bị cáo

nhận thức được hành vi này là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn nhu cầu nên đã

xâm phạm trực tiếp đến tài sản sở hữu hợp pháp của công dân.

2.2.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa khắc phục nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

- Đối với Cơ quan điều tra

Ở nước ta, Cơ quan điều tra là một bộ phận không thể thiếu được của Tố tụng

hình sự, đây là cơ quan tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập, củng cố, chứng

minh các chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở cho việc

truy tố bị can.

Để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình

hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đòi hỏi những người tiến hành tố tụng

phải là người có trình độ hiểu biết về tâm lý của người chưa thành niên, có kinh

nghiệm công tác... Như vậy mới đảm bảo được sự khách quan, toàn diện và đầy đủ,

đúng pháp luật, đảm bảo được quyền của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.

Trong hoạt động điều tra, cơ quan điều tra tiến hành các biện pháp và các hoạt

động điều tra do luật định như: lấy lời khai, xem xét các dấu vết trên thân thể, tạm

giữ đồ vật... Tuy nhiên đối với người phạm tội dưới 18 tuổi thì các hoạt động này có

những quy định riêng biệt nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và

chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh,

trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, trong một số vụ án, Cơ quan điều

tra chưa làm hết trách nhiệm, hoạt động lấy lời khai còn sơ sài, đấu tranh, khai thác

52

chưa triệt để; hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ vật chứng... còn

thiếu thận trọng, tỉ mỉ; việc xác định tuổi của người dưới 18 tuổi do còn nhiều nhận

thức khác nhau nên gặp không ít những khó khăn trong việc xác định tuổi; việc sử

dụng các biện pháp nghiệp vụ chưa đồng bộ, thống nhất; chưa có sự phối kết hợp chặt

chẽ giữa các lực lượng trong ngành, chưa có xây dựng phòng dành riêng cho người

tiến hành các hoạt động tố tụng đối với người dưới 18 tuổi..

- Đối với Viện kiểm sát nhân dân

Theo Điều 207, Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ

bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,

góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.[16]

Chúng ta có thể thấy rằng, hoạt động của Viện kiểm sát có một vị trí đặc biệt

quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói

riêng. Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được khách

quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, đồng thời thực hiện quyền công tố. Hoạt

động của Viện kiểm sát có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động tư pháp nói

chung và trong hoạt động Tố tụng hình sự nói riêng. Viện kiểm sát nhân dân đã làm

tốt vai trò của mình trong hoạt đông kiểm sát việc lấy lời khai bị can, bị cáo, bị hại,

người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án đảm bảo khách quan có căn cứ

và tính hợp pháp. Viện kiểm sát nhân dân đã chủ động phối hợp với các cơ quan tư

pháp trong việc giải quyết nhiều vụ án trọng điểm, phức tạp được dư luận xã hội đồng

tình, ủng hộ... Tuy nhiên, so với chức năng, nhiệm vụ được giao, công tác liên quan

đến phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện vẫn còn những

tồn tại, hạn chế như:

- Hoạt động cuả Viện kiểm sát chưa gắn chặt chẽ với Cơ quan điều tra, Tòa án

cho nên không kịp thời phát hiện những thiếu sót để khắc phục và đề ra yêu cầu điều

tra kịp thời theo đúng quy định về tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội

- Điều kiện cơ sở vật chất của các cơ quan Viện kiểm sát còn thiếu và yếu,

53

chưa đáp ứng được yêu cầu nhanh, nhạy, chính xác, kịp thời của cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới

18 tuổi thực hiện nói riêng.

- Một số Kiểm sát viên có tinh thần và trách nhiệm chưa cao, thiếu chủ động

trong những hoạt động liên quan đến quyền phòng ngừa tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện, chưa bám sát chặt chẽ quá trình điều tra vụ án, trình độ năng

lực chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát viên còn hạn chế, nhiều Kiểm sát viên chưa

nắm vững các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đối với vụ án có

người 18 tuổi phạm tội dẫn đến lúng túng trong việc áp dụng pháp luật...

- Đối với Tòa án nhân dân

Mặc dù yêu cầu nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề và trong bối cảnh gặp không ít

khó khăn, trở ngại khách quan của đất nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói

riêng có nhiều đổi mới về chủ trương, chính sách quản lý kinh tế - xã hội; một số Bộ

luật, Luật mới quan trọng có hiệu lực nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành chưa được

ban hành; công tác bổ trợ tư pháp, phối hợp của địa phương, sở, ngành, phòng ban chưa

chặt chẽ, thiếu thống nhất, đồng bộ... Tuy nhiên, được sự quan tâm chỉ đạo thường

xuyên của TAND tối cao và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh; sự hỗ trợ của Ủy ban

nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và cấp ủy, Ủy ban nhân dân 24 quận, huyện; sự phối

hợp của các cơ quan, sở ngành; với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ chính trị, tập thể

cán bộ, công chức, người lao động TAND hai cấp thành phố đã khắc phục mọi khó

khăn, cùng phát huy sức mạnh đoàn kết, tập trung bản lĩnh, trí tuệ thực hiện nhiệm vụ

chính trị được giao, bảo đảm kỷ cương pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân và tổ chức; góp phần tích cực vào việc giữ vững an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội cũng như trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm

của các cấp chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh là địa

phương đầu tiên trong cả nước thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên đây là

bước tiến mới trong việc bảo đảm quyền của người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự.

Tòa án nhân dân tối cao đã từng nhấn mạnh việc xử lý hình sự của người dưới

18 tuổi không đơn thuần chỉ nhìn nhận dưới góc độ “năng lực trách nhiệm hình sự”

54

mà chủ yếu phải nhìn cả dưới góc độ “ yêu cầu của xã hội đối với giáo dục thanh

thiếu niên” nữa nên trong quá trình xét xử, giải quyết các vụ án để bảo đảm quyền

của người dưới 18 tuổi, các đơn vị Tòa án đã luôn quan tâm và thực hiện nghiêm túc

những nguyên tắc về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, phòng

ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện được quy định trong các văn

bản pháp luật hình sự, pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật về phòng chống bạo

lực gia đình, cụ thể như sau: Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng,

chống bạo lực tình dục, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền,

giáo dục về bình đẳng giới, về quyền của trẻ em; hành vi bạo lực nói chung và hành

vi bạo lực về tình dục nói riêng phải được ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời theo

đúng quy định của pháp luật; người dưới 18 tuổi được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời với

điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước.

Tòa án nhân dân đã chủ động làm việc với Cơ quan điều tra và Viện kiểm

sát cùng cấp nắm tình hình và có kế hoạch phối hợp ngay từ giai đoạn điều tra để

nhanh chóng đưa ra tuy tố, xét xử các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện, đã

chủ động liên lạc với các cơ quan trợ giúp pháp lý để cử người bào chữa cho bị can,

bị cáo. Trong công tác tổ chức các phiên tòa xét xử về các tội do người dưới 18 tuổi

thực hiện đều được Tòa án cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm làm rõ các tình tiết của vụ

án, đồng thời bảo đảm thuần phong, mỹ tục, các yếu tố văn hóa; bảo vệ danh dự,

phẩm giá của con người và không gây tác động tiêu cực đến tâm lý của người dưới

18 tuổi. Thành phần của Hội đồng xét xử luôn đảm bảo phải có Hội thẩm nhân dân

công tác trong ngành giáo dục, trong công tác Đoàn thanh niên hoặc những người có

sự hiểu biết về tâm lý người dưới 18 tuổi. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình

sự liên quan đến người dưới 18 tuổi, Tòa án cũng chú trọng phối hợp với các cơ quan

thông tin đại chúng để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật và

tinh thần đấu tranh chống tội phạm góp phần nâng cao nhận thức của người dân về

vấn đề này. Tại phiên tòa, bên cạnh việc hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo,

Hội đồng xét xử luôn chú trọng công tác giáo dục pháp luật thông qua việc phân tích

pháp luật, phân tích cho các bị cáo và người tham dự phiên tòa hiểu rõ hậu quả và

55

những hệ lụy phát sinh từ hành vi phạm tội của mình để những người tham gia phiên

tòa nâng cao nhận thức về tác hại của việc vi phạm pháp luật.

Tuy nhiên công tác phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện còn có những hạn chế nhất định. Mặc dù đã thành lập Tòa gia đình và người

chưa thành niên nhưng đội ngũ Thẩm phán vẫn chưa được trang bị những kiến thức

cần thiết về tâm lý học cũng như khoa học giáo dục khi xét xử các vụ án do người

dưới 18 tuổi thực hiện, cơ sở vật chất hiện nay còn hạn chế.

Mặc khác, số vụ án ngày càng đa dạng và gia tăng về số lượng, hàng năm mỗi

Thẩm phán trung bình phải giải quyết hàng chục vụ án mỗi lĩnh vực, đồng thời phải

bảo đảm không có án tổn, án hủy, sửa, oan sai, Thẩm phán không còn chuyên tâm

vào từng vụ án mà chỉ quan tâm đến số lượng giải quyết, nhiều trường hợp đến hạn

báo cáo cuối năm, các Thẩm phán phải cố dồn án giải quyết cho kịp chỉ tiêu và tiến

độ. Điều này không thể không tránh được chất lượng xét xửkhông được bảo đảm.

Trong tình trạng các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện diễn biến phức tạp và đa

dạng, việc có một đội ngũ bảo đảm về số lượng, chất lượng chuyên sâu, am hiểu và

có kinh nghiệm xét xử về lĩnh vực này, đặc biệt là thật sự có trách nhiệm với công

tác của mình sẽ thuận lợi hơn rất nhiều trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

Hội thẩm nhân dân một thành phần quan trọng cũng chưa đáp ứng được yêu

cầu, hiện nay chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm hoặc công chức Nhà nước đã nghỉ hưu

nên rất ít người được đào tạo chính quy có trình độ đại học hoặc trên đại học về luật

mà chủ yếu chỉ có trình độ trung cấp luật. Điều này gây trở ngại không nhỏ cho công

tác xét xử những vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội. Trên thực tế rất ít

Hội thẩm thực hiện đúng trách nhiệm và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho mình,

chế định Hội thẩm tham gia xét xử còn mang nặng tính hình thức.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

56

Trong chương 2 của luận văn, tác giả nêu được những nội dung liên quan đến

thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi

trên địa bàn Quận 7, trong giai đoạn 2015 – 2019 như sau:

Thứ nhất, tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7 bao gồm: mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện;

diễn biến của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện; cơ cấu, tính chất

của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.

Thứ hai, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18

tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7: bao gồm những nguyên nhân và điều kiện thuộc

về môi trường sống, những yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội và thực áp dụng

các biện pháp phòng ngừa, khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7.

Những luận điểm đã làm rõ ở chương 2 là cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục

nghiên cứu đưa ra dự báo và các biện pháp loại trừ những yếu tố liên quan đến nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

57

Chương 3

DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG YẾU TỐ LÀ

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN PHẠM CỦA TÌNH HÌNH

TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN

ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Dự báo tình hình tội phạmdo người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa

bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

3.1.1. Cơ sở dự báo

Dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện là hoạt động dựa

trên cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa ra những nhận định mang tính phán đoán về

tình hình tội phạm trong tương lai, những thay đổi về nhân thân người phạm tội,

nguyên nhân và điều kiện phạm tội, những yếu tố tác động đến tình hình tội phạm và

khả năng phòng, chống tội phạm của chủ thể, từ đó đưa ra những cơ chế, biện pháp

phòng ngừa tội phạm trong tương lại. Để dự báo tình hình tội phạm tác giả đã dựa

trên những cơ sở sau đây:

- Những số liệu phản ánh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trong thời gian qua trên địa bàn Quận 7 do các cơ quan như tổng cục thống kê, cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thay đổi về các thông số, đặc điểm, tính chất,

những tội phạm mới, tội phạm mất đi, công cụ, phương tiện… của tình hình tội phạm;

những thông tin về tội phạm, tình hình tội phạm.

- Kinh tế Quận 7 trong thời gian tới sẽ ngày càng phát triển, hướng tới việc

xây dựng Quận 7 thành đô thị phía Nam thành phố với những thuận lợi về vị trí địa

lý sẵn có. Nhưng trong thời gian tới, những người dân nhập cư vào địa bàn quận sẽ

ngày càng gia tăng, người có thu nhập thấp đang sinh sống trong môi trường không

bảo đảm…

- Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

tuy đã đạt được những kết quả nhất định song vẫn còn nhiều hạn chế, sự phối hợp

58

giữa những cơ quan vẫn còn chưa chặt chẽ, nhiều ngành, nhiều cấp chưa coi trọng

đúng mức công tác phòng, chống tội phạm.

- Hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là một trong những nội

dung quan trọng và thường xuyên góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành

nhân cách cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp

luật chưa được chú trọng phát triển chưa thu hút được sự quan tâm, tiếp cận pháp luật

toàn diện

3.1.2. Nội dung dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

3.1.2.1. Dự báo những nguyên nhân và điều kiện thuộc về môi trường sống

- Môi trường kinh tế, xã hội

Trong giai đoạn 2016 - 2020, Uỷ ban nhân dân Quận 7 đã đề ra mục tiêu tổng

quát đó là trở thành quận văn minh, hiện đại đóng góp vào sự phát triển chung của

thành phố. Đối với mục tiêu chung được đề ra đó là phấn đấu bình quân từ 12% trở

lên đối với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các thành phần kinh tế ở. Đề ra 36 chỉ

tiêu cụ thể trên các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, đô thị - môi trường; an ninh quốc phòng;

cải cách hành chính.

Đối với lĩnh vực kinh tế 05 chỉ tiêu phù hợp với tình hình phát triểm của quận

đó là thực hiện đảm bảo chỉ tiêu phát triển 1000 doanh nghiệp theo nghị quyết của

Hội đồng nhân dân Quận, vận động 90% hộ kinh doanh đủ điều kiện chuyển đổi sang

doanh nghiêp; phấn đấu tổng thu ngân sách Nhà nước, tổng thu và tổng chi ngân sách

địa phương đạt chỉ tiêu thành phố giao…

Lĩnh vực xã hội gồm có 13 chỉ tiêu: tỷ lệ trẻ em 5 tuổi đi học mẫu giáo đạt

99%, tỷ lệ học sinh đi học đạt đúng độ tuổi tiểu học đạt 100%, THCS đạt 99% trở

lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và lớp 10 trung học nghề đạt 100%, tỷ lệ xét tốt

nghiệp THCS đạt trên 99%; đạt tỷ lệ 18 bác sĩ/ 10.000 dân, 30 giường bệnh /10.000

dân; phấn đấu giới thiệu và giải quyết việc làm cho ít nhất 16.000 lượt lao động, tỷ lệ

thất nghiệp của lao động dưới 5%... [25]

59

Nhìn chung Uỷ ban nhân dân Quận 7 đã đề ra những chính sách phù hợp với

tình hình của quận dựa trên nghiên cứu về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế, xã hội như:

có vị trí chiến lược trong khai thác giao thông đường thuỷ và đường bộ, là cửa ngõ

phía Nam của Thành phố Hồ Chí Minh nên có điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài

nước. Địa bàn Quận 7 có Khu chế xuất Tân Thuận trên địa bàn là một trong những

khu chế xuất lớn và hiệu quả của Thành phố.

Bên cạnh những mặt tích cực với chính sách phát triền kinh tế - xã hội là nơi

thu hút người lao động từ khắp các tỉnh thành làm việc ở những vị trí khác nhau tạo

công ăn việc làm thì một bộ phận dân cư có đời sống khó khăn, thất nghiệp, việc làm

không ổn định dễ tham gia vào các tệ nạn xã hội.

Dựa vào chính sách phát triển kinh tế xã hội của Quận thì có thể dự báo tình

hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trong thời gian tới như sau: Số vụ và

số lượng người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật và phạm tôi có chiều hướng ngày càng

gia tăng. Tính chất, mức độ vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm hình sự do người

dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng nghiêm trọng hơn.

- Môi trường gia đình

Môi trường gia đình là một thành tố có tính quyết định đến sự hình thành và

phát triển nhân cách của con người. Môi trường gia đình có thể bao gồm các yếu tố

chính: những nghề nghiệp/ công việc chủ yếu; tính cách/ lối sống của các thành viên;

sự ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ lẫn nhau giữa các thành viên; cách thức mà thành

viên ứng xử với những người khác trong xã hội. Đối với một môi trường gia đình văn

hóa, thấu hiểu và ấm áp, hạnh phúc sẽ thúc đẩy sự phát triển tính cách tốt đẹp của trẻ,

khiến trẻ thêm thông minh, độc lập, nhanh nhạy, đạt được thành công trong sự nghiệp

và hạnh phúc trong cuộc đời. Văn hóa trong gia đình có ảnh hưởng tới sự hình thành

và phát triển nhân cách của các thành viên trong gia đình. Đây được coi là trường học

đầu tiên hình thành, phát triển nhân cách con người. Tuy vậy, quá trình trưởng thành

và phát triển nhân cách của mỗi người là khác nhau, ngay cả với anh em trong một

nhà.

60

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề gia đình và coi gia đình là “tế

bào của xã hội. Cụ thể tại Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng đều nhấn mạnh sự

quan tâm đến gia đình, từ Nghị quyết Đại hôi Đảng lần thứ VII xác định gia đình với

tư cách là “tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi

trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, đến Đại hội Đảng

lần thứ XII nêu rõ: “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam… Phát huy

giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”,

“tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực

làm việc”. Thể chế các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, nhiều Bộ luật đề cập đến

chế định gia đình với vị trí, vai trò rất quan trọng như Bộ luật dân sự, Bộ luật Hôn

nhân và gia đình; Luật Bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình; Luật trẻ

em; Luật người cao tuổi. Đặc biệt, Chính phủ ban hành Chiến lược Phát triển gia đình

Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và quyết định kể từ năm 2001, ngày 28/06

hàng năm đã trở thành ngày gia đình Việt Nam.

Trở thành một người có nhân cách tốt khi trưởng thành hoàn toàn không dễ.

Không thể chủ quan cho rằng “cha mẹ sinh con trời sinh tính” mà câu nói “ở bầu thì

tròn ở ống thì dài” rất đúng với trẻ. Ngày nay, cùng với sự biến đổi của nền kinh tế

và cơ chế thị trường văn hóa gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì những tác động

xấu của xã hội. Với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc

tế đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đến đời sống tinh thần, tình

trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ và ly hôn ngày càng gia tăng, làm cho mỗi gia

đình không được bền vững, ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành phẩm chất,

nhân cách gốc của trẻ bởi những đứa trẻ đó sẽ chịu thiệt thòi về tâm lý mỗi ngày thiếu

đi tình thương yêu, chăm sóc, dạy bảo của người mẹ, người cha, mỗi ngày đến trường

bị bạn bè chế diễu, bắt nạt cảm thấy tủi thân khi nhìn thấy bạn mình được sống trong

vòng tay yêu thương của cha mẹ còn mình thì không.

Trước tình trạng đó nhiều đứa trẻ đã sa vào tệ nạn xã hội như: ma túy, nghiện

games… thậm chí thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật. Tất cả đều ảnh hưởng

tới tương lai của chúng, để lại những vết đen khó phai trong cuộc đời.

61

- Môi trường nhà trường

Môi trường giáo dục chứa đựng tất cả những điều kiện vật chất và tinh thần

ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, học tập, rèn luyện, vui chơi và phát triển

nhân cách của các em học sinh. Môi trường giáo dục lành mạnh sẽ góp phần tạo nên

nhân cách tốt cho trẻ.

Tuy nhiên, hiện nay trong nhà trường vấn nạn bạo lực và tệ nạn ở học đường

đã và đang gia tăng. Những bất cập, hạn chế cả về môi trường vật chất và môi trường

tinh thần trong Nhà trường vẫn đang tồn tại như sự thiếu về cơ sở vật chất, đội ngũ

cán bộ giáo viên có trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay, giáo dục chỉ chạy

đua với nội dung kiến thức mà xao nhãng với việc dạy người do đó học sinh bị hẫng

hụt về kinh nghiệm, kỹ năng mềm, kỹ năng sống cần thiết. Bên cạnh đó, những tồn

tại về yếu tố tinh thần cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc giáo dục học sinh như

những mối quan hệ thực dụng đang len lỏi vào môi trường giáo dục làm biến tướng

quan hệ giữa thầy – trò. Có hiện tượng một bộ phận xã hội, gia đình, học sinh và giáo

viên coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị tinh thần, lấy giá trị vật chất làm thước đo

tinh thần. Sự thiếu quan tâm của gia đình và xã hội, phó mặc cho Nhà trường công

tác giáo dục học sinh cũng sẽ dẫn đến hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực

từ chính môi trường này.

- Môi trường bạn bè

Bạn bè là nhân tố không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của

mỗi con người nói chung và đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên. Khả năng tác động

của bạn bè vào con người rất lớn bởi có những đặc điểm tương đồng, phù hợp với

nhau về độ tuổi, về tâm sinh lý, sở thích… “Học thầy không tày học bạn” “đi với bụt

mặc áo cà sa, đi với ma mặt áo giấy” là những câu tục ngữ cho thấy sự ảnh hưởng

của bạn bè với sự phát triển, hình thành nhân cách trẻ. Việc giao lưu kết bạn của giới

trẻ hiện nay rất dễ dàng, đơn giản bởi có sự tác động của hệ thống internet, các mạng

xã hội…Do đó, nếu không có sự định hướng và quan tâm của gia đình, nhà trường

và xã hội cho trẻ trong việc “chọn bạn mà chơi” dễ dẫn đến việc trẻ kết bạn, giao du

62

với những người có đặc điểm nhân thân không tốt, từ đó hình thành thói quen, hành

vi, tính cách không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và pháp luật.

Cùng với sự phát triển internet và các mạng xã hội tràn lan, việc con người

giao lưu tiếp xúc với bạn bè không chỉ dừng ở chỗ tiếp xúc với bạn bè xấu hàng ngày

trong cuộc sống mà còn cả những bạn bè trong thế giới ảo. Qua việc trao đổi, trò

chuyện với bạn bè trên các mạng xã hội… tạo điều kiện cho trẻ có những mối quan

hệ với bạn bè trên mạng. Tuy nhiên, nếu không có sự quan tâm và định hướng của

gia đình thì sẽ dẫn đến hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực từ môi trường

bạn bè.

- Môi trường văn hoá, tư tưởng, đạo đức

Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới

18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 là nghiên cứu về nguyên nhân phát sinh, đặc

điểm tình hình, tình hình tội phạm để dự báo về sự tác động của môi trường văn hoá

tư tưởng, đạo đức với người người phạm tội dưới 18 tuổi. Trong cơn lốc của nền kinh

tế thị trường đang được toàn cầu hóa đã tạo ra sản xuất của cải vật chất không ngừng

được tăng lên. Tuy nhiên, những giá trị mang tính cộng đồng như lòng nhân ái, vị

tha, lòng trắc ẩn ngày càng suy yếu và sự xâm nhập những luồng tư tưởng văn hóa

không phù hợp với xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận người dưới 18

tuổi. Chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thói vô cảm, tâm lý tiêu dùng vật chất thâm nhập vào

từng ngõ ngách của đời sống, thậm chí trong từng gia đình. Bên cạnh đó, công nghệ

thông tin và những luồng văn hóa tư tưởng độc hại đang cuốn hút một bộ phận không

nhỏ, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Đạo đức xã hội và kinh tế chưa song hành, đạo

đức xã hội chưa bắt kịp sự phát triển của kinh tế có một phần nguyên nhân là do tinh

thần “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu

chiến lược phát triển” của Đại hội XII của Đảng chưa thực sự đi sâu vào đời sống.

3.1.2.2. Dự báo những nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm tội

Cùng với sự tăng trưởng của kinh tế dẫn tới sự phát triển của nhu cầu văn hoá,

tinh thần đem lại sở thích lệch lạc cho một bộ phận không nhỏ trong nhân dân dự báo

63

về nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm tội dưới 18 tuổi trong thời gian

tới như sau:

Người phạm tội dưới 18 tuổi thường có sở thích không lành mạnh, tiêu cực sẽ

hình thành ở cá nhân đó các nhân cách lệch lạc như lối sống ích kỉ, hưởng thụ, buông

thả, coi thường chuẩn mực đạo đức… Người phạm tội sẵn sàng bất chấp những giá

trị, quy tắc đạo đức để thoả mãn nhu cầu, sở thích hàng ngày của mình, dẫn đến hành

động theo thói quen, cảm tính.

Người phạm tội dưới 18 tuổi thường có quan niệm sai lầm về các giá trị của

cuộc sống, không hiểu biết hoặc ít hiểu biết pháp luật nên thường có thái độ thờ ơ,

coi thường pháp luật. Những sai lệch trong ý thức pháp luật cũng là một trong những

yếu tố tác động trong cơ chế làm phát sinh tội phạm khi gặp những hoàn cảnh, tình

huống cụ thể họ sẽ không kiềm chế, kiểm soát được hành vi của mình, xử sự không

đúng đắn và có hành vi vi phạm pháp luật

3.1.2.3. Dự báo về việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa khắc phục nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa

bàn Quận 7

Trong thời gian tới tình hình tội phạm có những diễn biến phức tạp tuy nhiên

các biện pháp phòng ngừa khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện trong thời gian tới sẽ đạt nhiều kết quả nhất định do

sự phối hợp chặt chẽ của các Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc thực

hiện các biện pháp phòng ngừa khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7. Những biện pháp này

trong thời gian tới sẽ đạt được những hiệu quả cao do có sự giảm bớt tính chất nguy

hiểm của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7;

giảm dần tỉ trọng các loại tội phạm nguy hiểm và phổ biến; hạn chế sự phát triển của

tội phạm mới, hạn chế tỉ lệ tái phạm; giảm dần chỉ số về thiệt hại của tình hình tội

phạm.

Các Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án sẽ có nhận thức đúng đắn về nhận

thức và thực tiễn phòng ngừa tội phạm; nhận biết những lĩnh vực có khả năng xảy ra

64

tội phạm; hoàn thiện những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện các biện pháp phòng

ngừa khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18

tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7.

3.2. Các giải pháp khắc phục những yếu tố liên quan đến nguyên và điều

kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận

7, Thành phố Hồ Chí Minh

3.2.1. Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân và điều kiện thuộc về

môi trường sống

3.2.1.1. Môi trường gia đình

Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải củng cố và

xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để mỗi gia đình Việt Nam

thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào xã hội. Trong gia đình, bố mẹ cần là tấm

gương mẫu mực để con cái noi theo. Một gia đình hòa thuận, hạnh phúc thì một đứa

trẻ sẽ được phát triển cân bằng về mọi phương diện thể chất, trí tuệ và tinh thần. Cha

mẹ và các thành viên trong gia đình cần nhận thức được vai trò của gia đình là nguồn

gốc giáo dục chủ yếu trong vấn đề này. Gia đình không nên phó thác cho nhà trường,

xã hội mà phải thường xuyên kết hợp chặt chẽ với nhà trường thông qua cuộc tiếp

xúc thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm lớp, hội cha mẹ phụ huynh học sinh để

nắm bắt được tình hình học tập của con em mình ở nhà trường nếu thấy có vấn đề gì

xảy ra thì kịp thời có biện pháp uốn nắn, giáo dục, điều chỉnh người dưới 18 tuổi.

Cha mẹ là người luôn phải gần gũi con cái, dù công việc có bận rộn cũng nên

dành một khoảng thời gian nhất định cho con cái để trò chuyện, tâm sự, chơi cùng

con. Cha mẹ phải luôn bình tĩnh lắng nghe, tạo cho con cái cảm thấy thực sự tin cậy

chia sẻ mọi vấn đề trong học tập, bạn bè, cuộc sống và kể cả với gia đình. Nên tìm

hiểu kĩ lưỡng để cùng con giải quyết vấn đề giúp đỡ chúng vượt qua những khủng

hoảng về tâm sinh lí thường gặp ở lứa tuổi chưa thành niên để tránh xa những nguy

hiểm tiềm ẩn trong cuộc sống như sự rủ rê, lôi kéo của bạn bè xấu, ma túy, cờ bạc,

trộm cắp, cướp giật…Cha mẹ phải xây dựng lối sống nêu gương, để con tự thấy tốt

65

và tự nguyện làm theo gương của cha mẹ. Luật trong gia đình là phải ngang nhau,

không phân biệt tầng lớp cha mẹ - con cái.

Cha mẹ phải luôn tìm hiểu qua sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng,

các nhà giáo dục, những nhà tư vấn tâm lý để năm bắt được những đặc điểm tâm,

sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên. Có những phẩm chất tâm lý được hình thành

như mong muốn, khát khao được thể hiện bản thân, tò mò, ham hiểu biết và thích thử

nghiệm bản thân… Các đặc điểm tâm lý này ngoài tác động tích cực đến sự phát triển

nhân cách thì cũng là nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn. Cha mẹ phải chú ý

nhiều hơn đến hoạt động hàng ngày của các em để nhận ra những thay đổi trong cách

cư xử của con cái và có những cách giáo dục uốn nắn, sửa chữa những hành vi lệch

lạc, không để các em trượt vào con đường tội lỗi.

Ngoài việc tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý cha mẹ phải thường xuyên quản lý

con mình trong mối quan hệ bạn bè, trong việc giao lưu, kết bạn trên các trang mạng

xã hội… tôn trọng sự độc lập, ý thức vươn lên của con. Phải đặt mình ở vị trí của con

tạo ra được mối quan hệ tự nhiên hợp lứa tuổi. Nhờ đó những mâu thuẫn, những khó

khăn về lứa tuổi được giải quyêt, những mất cân bằng về sinh lý ở lứa tuổi chưa thành

niên dần qua đi. Cha mẹ không nên chiều chuộng con cái một cách thái quá, tránh

việc gì cũng làm thay cho con “sống thay” mà phải nghiêm khắc nhưng cũng không

nên hà khắc với con trong việc thực hiện những quy định một cách triệt để. Giáo dục

cho con cách sử dụng đồng tiền, hiểu được giá trị của chúng. Nâng cao trách nhiệm

từ mỗi thành viên, làm cho con cái nhận thức được trách nhiệm của mình đối với gia

đình, được mọi người tôn trọng.

Các cấp chính quyền địa phương cần quan tâm phát động phong trào “Xây

dựng gia đình văn hóa, con cháu hiếu thảo, ông bà, cha mẹ mẫu mực”, tích cực biểu

dương những gia đình này là tấm gương lớn cho toàn xã hội noi theo. Việc phát huy

sức mạnh gia đình văn hóa chính là nển tảng tạo sức mạnh cho phong trào “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở mỗi phường trên địa bàn quận. Gia đình là tế

bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân

cách con người. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục từ các cấp cơ sở nhằm nâng cao

66

nhận thức của các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể, các gia đình, cá nhân cộng đồng

về vai trò của gia đình.

3.2.1.2. Môi trường nhà trường

Hiện nay, đầu tư cho giáo dục là vấn đề luôn được ưu tiên hàng đầu. Chúng ta

cần xây dựng mô hình giáo dục phù hợp với từng trẻ vì hiện nay chúng ta đang theo

mô hình giáo dục công nghiệp, nghĩa là tất cả học sinh đều học một chương trình,

tiến độ cũng như nhịp độ, không có nhiều sự khác biệt giữa từng học sinh. Tất cả đều

được đánh giá trên một tiêu chuẩn, một khía cạnh và một điểm sàn; mọi học sinh đều

được giảng dạy trên một phương pháp chung giống như kiểu người ta gia công các

phôi nguyên liệu trong các nhà máy sản xuất, tất cả phôi nguyên liệu đưa vào nhà

máy đều bị gò ép thành một hình dáng giống nhau ở đầu ra. Với quy trình đào tạo

theo kiểu sản xuất công nghiệp như trên sẽ tạo ra sản phẩm đúng khuôn mẫu mà

chúng ta đánh giá là có chất lượng tức là những học sinh ngoan, học giỏi nhưng cũng

sẽ có những sản phẩm lỗi mà chúng ta gọi là học sinh cá biệt. Điều này là sai lầm

trong giáo dục vì mô hình này không chấp nhận sự khác biệt giữa các học sinh cũng

như không chấp nhận cá tính riêng của mỗi em học sinh, tất cả học sinh đều phải

giống nhau. Con người là một thực thể sinh học riêng biệt, mỗi một cá thể đó đều có

cái riêng, không ai giống ai, thế nên sẽ có những học sinh theo kịp tiến độ, chương

trình đào tạo của nhà trường nhưng cũng có những học sinh không theo kịp, bị gò ép

học theo những chương trình không phù hợp với khả năng của bản thân, dẫn đến thái

độ phản khán, không thích học là điều tất yếu. Tuy nhiên, mỗi em sẽ có cách phản

kháng riêng như chán học, bỏ học, im lặng, bất cần...Do đó, cần phải xây dựng

chương trình học tập phong phú phù hợp với năng khiếu và thể lực của từng trẻ với

mục đích là làm sao để tất cả học sinh đều có thể phát huy tối đa khả năng của mình,

chấp nhận sự khác biệt của từng cá nhân, chăm sóc và phát triển để cho ra những sản

phẩm phong phú, đa dạng. Tiếp tục đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả, chú

trọng cách đánh giá và khả năng vận dụng kết thức đã học vào thực tiễn, khuyến khích

sự cố gắng trong học tập và rèn luyện; tạo cơ hội để học sinh phát huy khả năng của

67

bản thân; kết hợp đánh giá bằng nhận xét và điểm số; sử dụng kết quả đánh giá vào

dạy học để động viên, tạo hứng thú học tập cho học sinh.

Cần nâng cao chất lượng và đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các

cấp. Thực hiện nghiêm túc chỉ thị số 1737/CT/BGDĐT ngày 07 tháng 05 năm 2018

của Bộ trưởng bộ giáo dục về công tác quản lý và nâng cao đạo đức nhà giáo; Chỉ thị

số 138/CT – BGDĐT ngày 18 tháng 01 năm 2019 của Bộ trưởng bộ giáo dục về việc

chấn chỉnh tình trạng lạm dụng hồ sơ, sổ sách trong Nhà trường nhằm giảm áp lực

cho giáo viên; khắc phục tình trạng dạy thêm trái quy định. Các địa phương cần chủ

động đào tạo đội ngũ giáo viên gắn với yêu cầu hiện nay. Nâng cao đạo đức nhà giáo,

tăng cường chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các quy định về đạo đức nhà giáo. Kiên

quyết xử lý nghiêm giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục vi phạm đạo đức

nhà giáo. Thực hiện tốt các chế độ, chính sách cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản

lý giáo dục; thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng nhằm nâng cao đời sống, tạo

động lực cho đội ngũ nhà giáo chuyên tâm với nghề.

Đối với học sinh, giáo viên phải thay đổi quan hệ với người học, coi trọng việc

gần gũi, tạo sự gắn kết cảm xúc tích cực với các em, được các em tin cậy, chia sẻ.

Ngoài ra nhà trường cần phải phòng ngừa những hành vi bạo lực học đường. Nhà

trường cần tổ chức các buổi ngoại khóa với học sinh làm trung tâm, nói không với

vấn đề bạo lực học đường. Cùng với đó, kết hợp với lồng ghép nội dung về giáo dục

giá trị cuộc sống; kỹ năng sống vào chương trình, nội dung và các hoạt động giáo dục

khác. Các trường nên có hòm thư hoặc kênh thông tin tin cậy để các em chia sẻ, thông

báo về hành vi bạo lực học đường, bố trí hỗ trợ tư vấn để giải quyết những vấn đề

khó khăn cho học sinh. Đối với giáo viên chủ nhiệm, cần lựa chọn nhà giáo có uy tín,

có kinh nghiệm để bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng giáo dục; cần

phải có sự gần gũi, giám sát, hỗ trợ học sinh.

Giáo dục, quán triệt đến từng học sinh về cách chính sách pháp luật, tính chịu

trách nhiệm pháp lý trong đó có trách nhiệm hình sự nếu xảy ra vi phạm pháp luật.

Tuyên truyền pháp luật đến với học sinh, đặc biệt là những lĩnh vực liên quan đến

68

cuộc sống như Luật giao thông đường bộ, Luật hình sự, Luật dân sự, Luật Kinh tế…

nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức pháp luật cơ bản.

Cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường đối với phụ

huynh học sinh cần quan tâm giúp đỡ nhà trường xây dựng cơ sở vật chất, các phương

tiện dạy học của nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục. Những cuộc họp do

nhà trường tổ chức, các bậc phụ huynh cần đi họp đầy đủ để nắm được yêu cầu giáo

dục của nhà trường. Gia đình cần xây dựng truyền thống “tôn sư trọng đạo” bảo vệ

uy tín của thầy cô giáo, tuyệt đối tránh các hành vi thiếu tôn trọng thầy cô giáo trước

mặt con cái. Nhà trường cần phối hợp với gia đình trong việc thông báo về tình hình

của học sinh trong lớp học, quan tâm đến những thay đổi trong quá trình học tập của

các em để kịp thời có những biện pháp điều chỉnh. Nâng cao giá trị đạo đức trong

giảng dạy, kết hợp hài hòa quan hệ giữa nhà trường – gia đình, giáo viên – học sinh

để học sinh hiểu biết hơn nữa về truyền thống “tiên học lễ, hậu học văn.

3.2.1.3. Môi trường bạn bè

Bạn bè chính là những đối tượng có sự ảnh hưởng nhiều nhất tới sự phát triển

về tâm lý, trí tuệ và sức khỏe của trẻ. Sự ảnh hưởng của bạn bè có cả tốt lẫn xấu. Bạn

bè giúp người dưới 18 tuổi thể hiện cá tính, thấu hiểu và chấp nhận mình. Ông bà ta

nói “Lựa bạn mà chơi”. Dù ở lứa tuổi nào trẻ cũng luôn chịu áp lực khi hòa nhập vào

nhóm bạn bè của mình, việc chịu áp lực quá lớn và không biết cách xử lý cũng ảnh

hưởng rất nhiều đến tâm lý hành vi của trẻ. Nếu cha mẹ thấy con thay đổi hành vi,

tâm lý, chế độ ăn uống, ngủ, nghỉ… thì phải nói chuyện với con, tìm rõ nguyên nhân.

Nếu biết rõ đó là sự ảnh hưởng từ bạn bè, cha mẹ cần phải khéo léo giúp con xử lý,

đối phó với những ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè. Cha mẹ nên là bạn, là người lắng

nghe và đồng hành hơn là vai trò chỉ đạo, giảng đạo và đòi hỏi quá nhiều từ con.

Hiện nay, người dưới 18 tuổi sử dụng mạng xã hội với nhiều mục đích khác

nhau như: tìm kiếm tài liệu học tập, trao đổi thông tin hữu ích, chia sẻ, kết nối bạn

bè… Tuy nhiên, thực tế cho thấy bên cạnh những mặt tích cực mà các trang mạng xã

hội đem lại thì không tránh khỏi những tác động tiêu cực, đặc biệt là những tác động

trực tiếp ảnh hưởng đến lối sống thậm chí có thể thực hiện những hành vi vi phạm

69

pháp luật. Cần ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội,

phòng, chống có hiệu quả tác động tiêu cực từ các trang mạng xã hội. Vì hiện nay

trên hệ thống trang mạng có những cái xấu không bị lên án mà còn có môi trường để

phát triển, tác động trực tiếp đến nhận thức, tư duy, thậm chí là hành động của giới

trẻ, đã gióng lên hồi chuông báo động về xu hướng thần tượng lệch lạc vô cùng nguy

hiểm đang lây lan trong giới trẻ. Nó chẳng khác nào vi rút độc hại tiêm nhiễm những

hành vi xấu vào lớp thanh thiếu niên đang hình thành nhân cách. Nhiều giá trị cuộc

sống bị đảo lộn, những điều tốt đẹp trở nên lu mờ, hành vi xấu, thói giang hồ, côn đồ

được tung hô, đón nhận và có chỗ để tung tác. Do đó, gia đình cần có sự quan tâm và

quản lý trong việc sử dụng các trang mạng xã hội để hạn chế những tác động tiêu cực

ảnh hưởng đến người dưới 18 tuổi, nên cho con em tham gia những hoạt động ngoại

khóa, trải nghiệm kĩ năng sống với các bạn bè đồng trang lứa…dưới sự quản lý của

gia đình và nhà trường.

3.2.1.4. Môi trường kinh tế xã hội vĩ mô

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

khơi thông nguồn lực, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, thông thoáng,

thuận lợi; nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu

quả chỉ đạp điều hành và thực thi pháp luật. Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; kiểm

soát lạm phát; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, năng lực nội

tại và tính tự chủ của nền kinh tế. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đẩy mạnh

mô hình tăng trưởng thực chất, hiệu quả hơn; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án

quan trọng của địa phương.

Giảm sự chênh lệch giàu nghèo cần có chính sách tạo sư bình đẳng về thu

nhập, tức là các chính sách kéo giảm sự chênh lệch thu nhập trong xã hội. Các chính

xác xã hội và an sinh không những đảm bảo cho cuộc sống của người dân đạt mức

cơ bản, tối thiểu mà còn phải mang lại cuộc sống văn minh, hiện đại, chất lượng tốt

cho rộng rãi các nhóm dân cư. Tạo điều kiện cho mọi người có công ăn việc làm, thu

nhập khá; hỗ trợ người nghèo bằng các chính sách cụ thể; phát triển các loại hình dịch

70

vụ cơ bản để mọi người tiếp cận dễ dàng, thuận lợi. Nâng cao chế độ an sinh xã hội

và mạng lưới bảo hiểm xã hội.

Đẩy mạnh ổn định tái cơ cấu kinh tế, tăng năng suất, chất lượng để hiệu quả

của nền kinh tế tốt hơn và mang lại lợi ích cho toàn xã hội nhiều hơn. Đào tạo việc

làm cho người dân, điều tiết thu nhập qua thuế, hỗ trợ tín dụng cho người nghèo; hỗ

trợ cho những người thu nhập thấp tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, ưu tiên cho các

dịch vụ gắn với tiêu chí nghèo đa chiều như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và nhà

vệ sinh, thông tin.

3.2.1.5. Môi trường nơi cá nhân làm việc, cư trú

Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú có vai trò rất lớn trong việc hình

thành và phát triển nhận thức, năng lực chuyên môn lối sống cũng như những phẩm

chất đạo đức cá nhân. Nếu sống trong môi trường tập thể hoặc nơi cư trú lành mạnh

an toàn, mọi người biết quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, không có tệ nạn xã hội và tội

phạm hoành hành, mọi người chí thú làm ăn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật thì

có thể nói đây là môi trường thuận lợi có tác động đến việc hình thành nhân cách

đúng đắn của cá nhân và hạn chế sự phát triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược

lại nếu sống trong môi trường có chứa đựng nhân tố tiêu cực như có nhiều người sống

bê tha, suốt ngày cờ bạc, rượu chè, đánh lộn nhau, thậm chí sa đà vào ma túy, mại

dâm, phạm tội thì đây thực sự là môi trường xấu tiềm ẩn nhiều nguy cơ lôi kéo, tác

động đến những người thiếu bản lĩnh, không vững vàng dễ sa ngã trước cái xấu, cái

tiêu cực của đời sống xã hội, từ đó có thể ảnh hưởng, dẫn đến việc hình thành và phát

triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Để hạn chế, loại trừ những yếu tố tiêu cực môi

trường nơi cá nhân làm việc, cư trú.

Hiện nay cần nâng cao chất lượng công tác quản lý hộ khẩu, quản lý tạm trú

tạm vắng. Kiểm soát chặt chẽ số người đến tạm trú và lưu trú trên địa bàn quận; rà

soát lập hồ sơ quản lý các đối tượng có tiền án, tiền sự tập trung ở địa bàn tỉnh có

nhiều khu công nghiệp, nhà trọ, nhà nghỉ, khu đông dân cư sinh sống. Xây dựng và

nhân rộng và phát triển phong trào toàn dân bảo vệ an trật tự. Triển khai thực hiện tốt

71

những giải pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùa sự gia tăng các loại tội

phạm, tệ nạn xã hội, tránh tái phạm tội.

Tuyên truyền đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động của đời sống

của xã hội, với những chức năng tuyên truyền những chủ trương, đường lối, chính

sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, Ủy ban nhân dân quận cần phối kết hợp với

cơ quan chuyên ngành tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng pháp

luật của Đảng và Nhà nước tại các khu dân cư, khu nhà trọ, cho các công ty, xí nghiệp

nhằm giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân. Quận đoàn thường xuyên tổ

chức, phối hợp với cán bộ đoàn tại khu dân cư, chủ động tiếp xúc, lắng nghe, tổng

hợp các ý kiến của các bạn dưới 18 tuổi đang sinh sống tại khu vực để xây dựng

chương trình, kế hoạch hoạt động cho phong trào đoàn tại địa phương. Xây dựng các

câu lạc bộ nhóm, phát triển và đào tạo các thủ lĩnh thanh niên để nắm bắt diễn biến

tâm sinh lý của các đoàn viên, đưa thêm các kỹ năng sống và dựng lại những tình

huống vi phạm pháp luật nhằm giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho

thanh niên. Ngoài ra cũng có thể lồng ghép, tăng cường sự tham gia của cha mẹ trong

các buổi sinh hoạt để tăng cường sự quản lý và giáo dục hai chiều giữa gia đình và tổ

chức đoàn thanh niên.

Nhà nước cần tăng cương quản lý chặt chẽ các lĩnh vực nhạy cảm như văn

hóa, công nghệ thông tin… Đối với những người dưới 18 tuổi lang thang, cơ nhỡ thì

phải có chính sách tạo công ăn, việc làm, dạy nghề và các hình thức giáo dục phù hợp

để giúp họ nâng cao được trình độ học vấn, có được công ăn việc làm ổn định, tránh

xa các tệ nạn xã hội.

3.2.2. Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân và điều kiện thuộc về

người phạm tội

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, ngoài việc

thực hiện các biện pháp đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục

pháp luật, củng cố tăng cường đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hoàn

thiện hệ thống pháp luật theo hướng hoàn chỉnh, minh bạch, ít lỗ hổng, không chồng

chéo, mâu thuẫn. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải có sự tìm hiểu

72

thái độ của người dân đối với pháp luật, thay đổi cách nghĩ, cách nhìn của người dân

đối với pháp luật. Cung cấp có đầy đủ, hệ thống thông tin pháp luật trong từng lĩnh

vực để phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Kết hợp phổ biến, giáo dục

pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với

trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hòa giải ở cơ sở để giúp người đân nâng cao

hiểu biết pháp luật, tự điều chỉnh hành vi sử sự phù hợp với quy định của pháp luật,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với nhóm đối tượng là người dưới

18 tuổi cần tập trung vào nhóm đối tượng có nguy cơ vi phạm pháp luật cao, họ

thường là người dưới 18 tuổi sống trong gia đình, khu vực đặc biệt như thanh niên

không có trình độ văn hóa, gia đình có bố mẹ ly hôn, bố mẹ phạm tội, bố mẹ vi phạm

pháp luật, người dưới 18 tuổi không có việc làm… đây là những đối tượng dễ vi phạm

pháp luật do bị tác động bởi hoàn cảnh.

- Phải lại thiết kế lại chương trình môn giáo dục công dân phù hợp với các cấp

độ phổ thông, tăng phụ cấp đối với giáo viên dạy giáo dục công dân. Đối với các

trường đại học, cao đẳng không chuyên luật trong cả nước nên đưa môn pháp luật đại

cương là môn học bắt buộc trong chương trình các môn chung. Đồng thời phải nâng

cao chất lượng giảng dạy và phương pháp giảng dạy môn học này để tạo hứng thú

cho học sinh, sinh viên trong việc tiếp thu kiến thức của môn học, từ đó nâng cao ý

thức pháp luật cho học sinh, sinh viên.

- Cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp chính quyền về công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm. Hàng năm, các cấp chính quyền phải có nghị quyết, chương

trình hành động, đề ra chỉ tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực công tác để có thể triển khai

thực hiện. Củng cố, duy trì phong trào toàn dân bảo vệ tổ quốc, làm tốt công tác quản

lý nhà nước về an ninh tổ quốc, đặc biệt là quản lý, giáo dục đối tượng mới nổi, các

đối tượng có nguy cơ cao phạm tội, các đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng nghiện

ma túy, không rủ rê, lôi kéo người dưới 18 tuổi phạm tội. Nâng cao vai trò, trách

nhiệm của các đoàn thể trong công tác phát hiện, xử lý, trình báo người phạm tội, bảo

vệ và phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội.

73

- Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự có vị trí quan trọng trong sự

nghiệp bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đồng thời cũng là biện pháp

ngăn ngừa người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi tiếp tục phạm tội nói

riêng. Trong công tác giam giữ nên có khu vực, buồng giam dành riêng cho người

dưới 18 tuổi để tránh việc lây nhiễm, tiếp xúc, học hỏi những tư tưởng, hành vi của

những phạm nhân khác. Do việc xử lý người dưới 18 tuổi chủ yếu nhằm mục đích

giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có

ích cho xã hội nên cần có chương trình đào tạo nghề, dạy học cho những người chấp

hành án, có định hướng cho phạm nhân nâng cao trình độ học vấn và đào tạo những

ngành nghề phù hợp với nhu cầu xã hội và khả năng của họ, bảo đảm sau khi chấp

hành hình phạt tù họ có thể kiếm sống lương thiện bằng nghề đã được học. Điều này

giúp họ có thể dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng khi hiểu rõ được những giá trị của lao

động. Và cần làm tốt công tác chế theo dõi, giám sát, uốn nắn người phạm tội dưới

18 tuổi sau khi chấp hành xong hình phạt, xóa bỏ định kiến, kỳ thị phân biệt đối xử

giúp họ tái hòa nhập cộng đồng tốt.

3.2.3. Hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa khắc phục những nguyên nhân

và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

- Đối với Cơ quan điều tra

Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, xung kích đóng vai trò quan trọng

trong việc phòng ngừa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người

dưới 18 tuổi thực hiện. Lực lượng cảnh sát quản lí hành chính cần phối hợp chặt chẽ

với các cơ quan khác tăng cường hơn nữa các biện pháp quản lý các hoạt động, ngành

nghề kinh doanh có điều kiện như nhà nghỉ, khách sạn, tiệm cầm đồ, tiệm games…

Lực lượng làm công tác chuyên trách như Cảnh sát hình sự, Cảnh sát khu vực…cần

tăng cường các biện pháp nghiệp vụ như trinh sát, quản lý địa bàn, xây dựng cơ sở,

cộng tác viên bí mật, điều tra cơ bản để phát hiện những nơi có biểu hiện vi phạm,

tiếp tay cho hành vi phạm tội. Đối với dịch vụ internet, cần tuyên truyền những chủ

trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, Luật an ninh mạng. Tăng

74

cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh internet, phát hiện và xử lý kịp thời các trường

hợp lập trang web, phát tán, chia sẻ những nội dung vi phạm pháp luật.

Cần có những biện pháp quản lí tốt đối với những người chấp hành xong hình

phạt trở về địa phương, những người có tiền án, tiền sự. Nắm tình hình diễn biến, tâm

tư, nguyện vọng, những thuận lợi, khó khăn của những người chấp hành xong hình

phạt tù để có biện pháp quản lý, giáo dục, để họ xóa bỏ mặc cảm, tích cực lao động,

tham gia các hoạt động xã hội chung tại cộng đồng dân cư và tự giác chấp hành đúng

chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Ngành công an phối hợp với các ban ngành, đoản thể trong công tác phòng,

chống tội phạm; thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm;

thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm trên các tuyến, địa bàn,

đối tượng trọng điểm; tăng cường tuần tra, kiểm soát các tuyến giao thông, các địa

bàn khu công nghiệp, kịp thời đấu tranh phát hiện những loại tội phạm nguy hiểm và

các hành vi vi phạm pháp luật; kết hợp chặt chẽ công tác phòng ngừa xã hội và phòng

ngừa nghiệp vụ; xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc rộng rãi trên

khắp các tuyến, địa bàn; tiếp tục nâng cao hoạt động của các tổ chức quần chúng, các

mô hình, điển hình tiên tiến trong phòng, chống tội phạm tại địa bàn cơ sở, hòa giải

những mâu thuẫn trong quần chúng nhân dân không làm phát sinh tội phạm, làm tốt

công tác phòng ngừa tội phạm.

- Đối với Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát nhân dân là một trong các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhà

nướ, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp góp

phần bảo đảm cho pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân

dân có vị trí và vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Viện

kiểm sát nhân dân các cấp đã chủ động bàn bạc với cơ quan tiến hành tố tụng chọn

nhiều vụ án trọng điểm để phục vụ yêu cầu cải cách tư pháp và tuyên truyền, giáo

dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật người dân.

75

Nâng cao quan hệ phối hợp của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án để

kịp thời thông tin những hành vi vi phạm liên quan đến người dưới 18 tuổi nhằm chấn

chỉnh, giáo dục kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật để bảo đảm phòng ngừa.

Hàng năm, Viện kiểm sát nên tổng hợp báo cáo về tình hình người dưới 18

tuổi phạm tội, tìm ra những nguyên nhân, thiếu sót, yếu kém, hạn chế. Từ đó, đưa ra

giải pháp, kiến nghị các cơ quan chức năng khắc phục và có chương trình phù hợp.

- Đối với Tòa án nhân dân

Việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên là bước tiến lớn trong

giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, cần có một đội ngũ cán bộ riêng biệt cho công tác điều

tra, truy tố, xét xử đối với người dưới 18 tuổi trong việc đào tạo Điều tra viên, Kiểm

sát viên, Thẩm phán có kiến thức về tâm lý học cũng như về khoa học giáo dục khi

xét xử đối với các bị cáo là người dưới 18 tuổi.

Tòa án nhân dân cấp quận, huyện cần chú ý bảo đảm giữ bí mật cá nhân cho

người dưới 18 tuổi, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục vừa trừng trị những kẻ

chủ mưu, cầm đầu, áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS

năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với những kẻ đã lôi kéo, rủ rê, kích

động người chưa thành niên phạm tội. Bảo đảm việc xử lý người chưa thành niên

phạm tội theo hướng giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, ưu tiên cải

tạo tại cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội. Phiên tòa thân thiện, gần gũi

để bị cáo có tâm lý ổn định, nhận thức được lỗi lầm tại phiên tòa.

Tòa án nhân dân quận, huyện phối hợp nhà trường, Ủy ban nhân dân phường,

xã, Đoàn thanh niên thường xuyên tổ chức những phiên tòa giả định để qua đó giúp

cho những người dưới 18 tuổi nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp

luật, hiểu rõ tác hại của những tệ nạn xung quanh nhằm tránh mắc sai lầm.

Đối với Hội thẩm nhân dân cần lựa chọn những người có kinh nghiệm xét xử

các vụ án người dưới 18 tuổi, những hội thẩm có kiến thức pháp luật, hội thẩm là cán

bộ đoàn viên, giáo viên đảm bảo đủ thành phần theo quy định. Yêu cầu những người

làm công tác này phải có uy tín, có tinh thần trách nhiệm cao và có phẩm chất chính

trị, đạo đức nghề nghiệp và khả năng nghiên cứu, áp dụng trong hoạt động xét xử.

76

Để Hội thẩm nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, nâng cao vai trò trong

công tác xét xử, thì mỗi người cần hiểu được đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng

được Đảng và Nhà nước giao và chỉ có Tòa án là chủ thể có quyền nhân danh Nhà

nước đưa ra phán quyết, trong phán quyết đó có đại diện cho ý chí của nhân dân. Hội

thẩm nhân dân cùng với Tòa án bảo vệ quyền công lý, bảo vệ quyền con người, bảo

vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức. Các cấp chính quyền cần

quan tâm hộ trợ hơn nữa để khẳng định vai trò, tầm quan trọng của Hội thẩm nhân

dân trong hoạt động xét xử; từng bước nâng cao chất lượng của hội thẩm từ lúc tuyển

chọn đến khi xét xử.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trong chương 3 của luận văn dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả

đã:

Thứ nhất, tác giả đã đưa ra những dự báo về tình hình tội phạm do người dưới

18 tuổi trên địa bàn Quận 7 dựa trên những cơ sở đặc trưng của địa bàn.

Thứ hai, đưa ra những giải pháp hạn chế, loại trừ những yếu tố liên quan đến

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.:

giải pháp hạn chế, loại trừ những nguyên nhân và điều kiện thuộc về môi trường sống;

giải pháp hạn chế, loại trừ những nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm tội;

hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố

Hồ Chí Minh.

77

KẾT LUẬN

Tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội đang gia tăng ở Việt Nam trong những

năm gần đây với những thủ đoạn tinh vi, tính nguy hiểm ngày càng cáo. Việc gia tăng

các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên không chỉ tăng về số lượng, mà tuổi đời

phạm tội của bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng được trẻ hóa. Thực tiễn công tác ở

TAND Quận 7, trước vấn đề đặt ra hiện nay việc nghiên cứu nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh cần nghiên cứu từ góc độ lý luận, thực trạng từ đó đưa ra

giải pháp phòng ngừa là rất cần thiết.

Thứ nhất, dưới góc độ lý luận, luận văn đã khái quát được khái niệm, ý nghĩa

phân loại, cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, làm rõ

được mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện với tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội và

phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Đây là cơ sở lý luận

để đối chiếu, so sánh với thực tiến và nền tảng để đề ra những giải pháp phòng ngừa.

Thứ hai, luận văn đã cho thấy tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019 diễn

biến phức tạp và có xu hướng gia tăng và những yếu tố đó là:

Về hoàn cảnh gia đình: các đối tượng có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi

như: gia đình khuyết thiếu, gia đình kinh tế khó khăn, gia đình quá nuông chiều con

cái chiếm tỉ lệ khá cao. Điều đó cho thấy môi trường gia đình có tác động không nhỏ

trong việc hình thành nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội.

- Tình hình học tập: đa phần người dưới phạm tội trên địa bàn Quận 7 có trình

độ học vấn thấp, trình độ học vấn cũng tác động đến cách ứng xử của con người nên

có nhận thức về pháp luật và các chuẩn mực xã hội kém.

- Động cơ mục đích phạm tội: chủ yếu là thỏa mãn nhu cầu vật chất, thỏa mãn

các sở thích cá nhân như nghiện ma túy, game, cờ bạc…

- Giới tính, độ tuổi: đa số các đối tượng người dưới 18 tuổi phạm tội là nam

giới việc chênh lệch tỉ lệ này chủ yếu là do khác biệt các đặc điểm tâm – sinh lí – xã

hội học giữa hai giới. Độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất do có tính

bốc đồng, thích tự khẳng định mình, thiếu kinh nghiệm, kiến thức nên dễ thực hiện

hành vi phạm tội…

Thứ ba, luận văn đã dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh qua đó đề xuất những giải pháp phòng

ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành

phố Hồ Chí Minh. Các giải pháp chủ yếu hướng vào đẩy lùi và ngăn chặn tình hình

tội phạm bằng việc tác động để lành mạnh hóa các môi trường gia đình, nhà trường

và xã hội để hạn chế những tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; đồng

thời một vấn đề hết sức quan trọng đó là triển khai có hiệu quả các biện pháp nhằm

tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung

và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiệ.

Do thời gian, nhận thức có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế

nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy, cô giáo, các đồng

nghiệp, các chuyên gia... để tác giả tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của

mình.

Tác giả xin chân thành cảm ơn người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thanh

Thùy cùng các thầy, cô giáo đã tham gia giảng dạy lớp Cao học luật đã nhiệt tình

hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tài liệu

để tác giả thực hiện hoàn thành Luận văn này./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;

2. Bộ tư pháp viện khoa học pháp lý (2006), Từ Điển luật học, Nxb Từ điển

Bách Khoa, Nxb Tư pháp.

3. Nguyễn Văn Cảnh cùng tập thể tác giả (2010), Tội phạm học, Nxb Tổng

cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Hà Nội;

4. Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học

Việt Nam, Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội;

5. Nguyễn Hữu Chính (2012),“Đổi mới mô hình tổ chức Tòa án nhân dân đáp

ứng yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước ở Việt nam hiện nay“, Tạp chí Tòa án nhân

dân, số 22, tr 1 -3.

6. Chính phủ (2011), Nghị định số 80/2011/NĐ-CP Quy định các biện pháp

bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù;

7. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng cường công

tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; ;

8. Công an Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, 2016,

2017, 2018, 2019;

9. Công an Quận 7 (Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội) (2015

- 2019), Thống kê nhân hộ khẩu năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;

10. Cục Thống kê Quận 7 (2015 - 2019), Niêm giám thống kê năm 2015, 2016,

2017, 2018, 2019.

11. Cồ Lê Huy (2017), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội mua bán trái

phép chất ma túy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học,

Học viện khoa học xã hội.

12. Nguyễn Mạnh Kháng (2000), Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận

và thực tiễn, Phần IV, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Liên hợp quốc (1989),''Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em", tại trang

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-cua-Lien-hop-quoc-

ve-quyen-tre-em-233659.aspx, [truy cập ngày 05/03/2019].

14. Nguyễn Văn Phên (2016), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội

xâm phạm sỡ hữu trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện

khoa học xã hội.

15. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội xâm

phạm, Tập 1, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM;

16. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Quốc hội (2014), Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hà Nội.

18. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13, Hà Nội.

19. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Hà Nội.

20. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, Hà Nội.

21. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam ngày 27 tháng 1 năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

22. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam ngày 20 tháng 06 năm 2017, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

23. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam ngày 27 tháng 11 năm 2015.

24. Quốc hội (2016), Luật trẻ em 102/2016/QH13, Hà Nội.

25. Thành Uỷ Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Chương trình hành động số

49/Ctr/TU ngày 08/04/2019 về thực hiện Chỉ thị số 21 – CT/TW của Bộ chính trị về

tiếp tục tăng cường, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình

hình mới.

26. TAND Quận 7 (2015 – 2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, 2016,

2017, 2018, 2019.

27. TAND Quận 7 (2015– 2019), 100 bản án của các vụ án trẻ vị thành niên

phạm tội tại Quận 7 năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.

28. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày

31/7/1998 về phê duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm;

29. Phạm Uyên Thy (2015), Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội;

30. Phạm Văn Tỉnh (2000), Các phương pháp nghiên cứu tình hình tội phạm,

một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;

31. Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở

nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội;

32. Phạm Văn Tỉnh (2005), Đặc điểm định lượng của tình hình tội phạm ở nước

ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 4), tr. 73-83;

33. Phạm Văn Tỉnh (2005), Đặc điểm định tính của tình hình tội phạm ở nước

ta hiện nay,Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 10), tr. 65-76;

34. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc

độ của Tội phạm học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 6), tr. 73-79;

35. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

36. Trần Hữu Tráng (2010), Bàn về nguyên nhân tội phạm học, Tạp chí Luật

học, (số 11), tr. 43-51;

37. Trần Hữu Tráng (2014), Dự báo nguy cơ tội phạm,Tạp chí Luật học, (số 4),

tr. 46-53;

38. Trần Hữu Tráng (2000), Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt

Nam, Tạp chí Luật học, (số 3), tr. 51-55;

39. Trần Hữu Tráng (2000), Nạn nhân học trong tội phạm học Việt Nam - Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học luật Hà Nội;

40. Trần Hữu Tráng (2010), Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội

phạm và phòng ngừa tội phạm ở nước ta, Tạp chí Luật học, (số 1), tr. 42-50;

41. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình tổ chức hoạt động

phòng ngừa, phát hiện và điều tra tội phạm cụ thể;

42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

43. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

44. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Tội phạm học, Nguyễn

Ngọc Hòa (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

45. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tội phạm

học, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam;

46. Lê Đức Tùng (2005), Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết

đã bị xử phạt hành chính trong Bộ luật hình sự, Tạp chí Kiểm sát,(số 5), tr.34-36;

47. Đào Trí Úc (1993), Hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tội

phạm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Bộ Nội vụ, tr. 18-22;

48. Đào Trí Úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng

Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

49. Ủy ban nhân dân Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội

Quận 7 năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;

50. Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 (2015- 2019), Thống kê tội phạm hình sự

năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;

51. Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác

năm, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;

52. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam -

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

53. Trịnh Tiến Việt (2003), Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc

khi quyết định hình phạt,Tạp chí Kiểm sát, (số 1), tr.21-23;

54. Võ Khánh Vinh (2002), Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lý luận -

thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;

55. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân.

56. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2011), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân.

57. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, phần chung,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

58. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự, phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Tội Phạm Học, Trường Đại học Huế,

Trung tâm đào tạo từ xa, Nxb giáo dục Hà Nội.

60. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội;

61. Võ Khánh Vinh (2010), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành

khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

62. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội;

63. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.