VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ NGỌC PHƯƠNG
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI TPH & PNTP
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ NGỌC PHƯƠNG
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ TPH & PNTP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN THỊ THANH THÙY
HÀ NỘI - 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU
KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC
HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................... 9
1.1. Khái niệm, phân loại và ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ......................................... 9
1.2. Cơ chế tác động và mối quan hệ của nguyên nhân và điều kiện của tình tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
............................................................................................................................... 19
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ..................................................................................24
CHƯƠNG 225 THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................................. 25
2.1. Tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành
phố Hồ Chí Minh ................................................................................................... 25
2.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................... 40
CHƯƠNG 3: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG YẾU TỐ
LÀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN PHẠM CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................................................. 58
3.1. Dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................... 58
3.2. Các giải pháp khắc phục những yếu tố liên quan đến nguyên và điều kiện của
tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh .......................................................................................................... 65
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ......................................................................................... 77
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong luận văn là kiến thức
của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, tham khảo, nghiên cứu tài liệu và
thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Thanh Thùy. Những nội
dung của các tác giả khác đã được trích dẫn và ghi chú theo quy định. Các số liệu
trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Thị Ngọc Phương
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HSST: Hình sự sơ thẩm
TAND: Tòa án nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng
Trang
Thống kê số vụ phạm tội và số người dưới 18 tuổi phạm
26
Bảng 2.1:
tội so với tình hình tội phạm chung trên địa bàn quận 7
giai đoạn 2015 – 2019.
Thống kê so sánh tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội
27
Bảng 2.2:
trên địa bàn Quận 7 so với địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí
Minh.
29
Bảng 2.3: Diễn biến tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 (so sánh
định gốc).
Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm do người dưới
30
Bảng 2.4:
18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 phân theo số dân
của 10 đơn vị hành chính cấp phường.
Cơ cấu về mức độ và hệ số tiêu cực, cấp độ nguy hiểm
31
Bảng 2.5:
của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 theo diện tích
10 đơn vị hành chính cấp phường.
Cơ cấu theo mục đích phạm tội
33
Bảng 2.6:
Thực trạng theo giới tính, độ tuổi của nhân thân người
33
Bảng 2.7:
dưới 18 tuổi phạm tội
Thực trạng trình độ học vấn của nhân thân người dưới 18
36
Bảng 2.8:
tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019.
Cơ cấu theo tiền án, tiền sự.
37
Bảng 2.9:
38
Bảng 2.10: Cơ cấu theo hình thức phạm tội
Biểu đồ 2.1: Số vụ phạm tội và số người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
26
bàn Quận 7.
34 Biểu đồ 2.2: Biểu đồ cơ cấu theo giới tính của người dưới 18 tuổi phạm
tội.
34 Biểu đồ 2.3: Biểu đồ cơ cấu theo độ tuổi của người dưới 18 tuổi phạm
tội.
MỞĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quận 7 là một quận nội thành nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, là trung tâm
kết nối các khu vực giao thương phía Nam thành phố. Quận 7 có hệ thống giao thông
tương đối phát triển góp phần thúc đẩy kinh tế của khu vực phía Nam. Nơi đây quy
tụ nhiều công trình về khoa học, giáo dục, thương mại, y tế với hàng loạt các trung
tâm thương mại sầm uất. Quận 7 là nơi thu hút rất nhiều đầu tư trong và ngoài nước
điển hình như khu chế xuất Tân Thuận, đã và đang hình thành một số khu đô thị mới
như Him Lam - Kênh Tẻ, khu đô thị Phú Mỹ Hưng…
Tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng tăng trong những năm gần
đây là một trong những vấn đề nóng bỏng và đang được xã hội quan tâm. Trên địa
bàn Quận 7, vấn đề này có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ phạm tội.
Thủ đoạn của người dưới 18 tuổi phạm tội đã có sự tính toán, chuẩn bị kĩ càng, khá
tinh vi, thậm chí đã hình thành những băng nhóm tội phạm có tính nguy hiểm khá
cao. Số lượng các vụ án trong năm năm gần đây từ năm 2015 đến năm 2019 tăng
nhanh với tổng số 135 vụ, 226 bị cáo [25].
Chính quyền các cấp quan tâm đến vấn đề này thông qua việc triển khai chỉ
đạo các chương trình hoạt động cụ thể như: Chương trình hành động số 05 – CTr/QU
ngày 05/07/2016, Thông tư 02/TT/QU ngày 30/11/2015 của Ban thường vụ Quận ủy
về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 48 – CT/TW ngày 22/10/2010 nhằm tích cực triển khai
thực hiện Nghị quyết 09/CP và chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của
Chính phủ, Chỉ thị 48 - CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Chương
trình hành động số 04 – Ctr- TU ngày 31/12/2010… Các ngành các cấp trên địa bàn
Quận cũng quyết tâm thực hiện tốt công tác này. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn
nhiều tồn tại, hạn chế nhất định tác dụng phòng ngừa chưa cao, tỉ lệ tái phạm tội của
người dưới 18 tuổi còn nhiều. Chính vì thế vấn đề này cần phải được nghiên cứu
chuyên sâu hơn là làm rõ được nguyên nhân và điều kiện của hiện tượng này một
cách hệ thống làm cơ sở cho việc đề ra những giải pháp phòng ngừa tình hình tội
1
phạm do người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm do người 18 tuổi thực hiện.
Trước tính cấp thiết trên, tôi đã chọn đề tài:“Nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh”làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội
phạm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhằm đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài,
tác giả chia các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài thành nhóm như sau:
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu làm rõ lí luận cơ bản về nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm
Thuộc về nhóm này, có thể kể đến các nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2011), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
- Dương Tuyết Miên (chủ biên) (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb giáo
dục Việt Nam.
- Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân.
- Trường đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tội phạm học, Lý Văn Quyền
chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề về tội phạm học
Việt Nam, Học viện cảnh sát nhân dân.
- Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng Tội phạm học, Học viện khoa học xã hội
- Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
- Trần Thị Thu Trang (2018), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm về ma túy trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ
Luật học - Học viện khoa học xã hội.
2
- Lê Thu Huyền (2018), “Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ luật học – Học
viện khoa học xã hội.
- Nguyễn Thị Soa (2017), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng nai”, Luận văn thạc sĩ luật học –
Học viện khoa học xã hội.
- Nguyễn Ngọc Hải (2015), “Nguyên nhân của tình hình người chưa thành
niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam qua khảo sát tại 4 trường giáo dưỡng thuộc Bộ
Công an”, Tạp chí cảnh sát nhân dân, số 1.
- Nguyễn Văn Khoa Điềm và Nguyễn Đức Hưng (2017), “Một số nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”,
Tạp chí khoa học kiểm sát, số 3, tr 25 - 29.
Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về nguyên nhân và điều kiện phạm tội bao gồm: khái niệm nguyên nhân và điều
kiện phạm tội; phân loại nguyên nhân và điều kiện phạm tội; mối quan hệ giữa nguyên
nhân và điều kiện phạm tội với nhân thân người phạm tội và phòng ngừa tình hình
tội phạm… Đây là những cơ sở lý luận quan trọng mà luận văn sẽ kế thừa làm nền
tảng lý luận trong luận văn của mình
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp
đến đề tài luận văn
Các công trình sau đây cũng đã được tham khảo:
- Phạm Minh Tuyên (2019), “Phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án - Hạn chế và kiến nghị”, Tạp chí tòa án điện tử.
- Trần Thành Hưng (2018), “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm
tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)”, Tạp chí khoa học
và giáo dục, số 99.
- Nguyễn Minh Đức (2011), Phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm
trong học đường, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
3
- Nguyễn Minh Đức (2014), Nguyên nhân, điều kiện người chưa thành niên vi
phạm pháp luật hình sự và giải pháp phòng ngừa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Trần Thị Thủy (2018), “Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện khoa học xã
hội.
- Đỗ Xuân Hồng (2014), “Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên
theo tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học - Đại học quốc gia Hà Nội.
- Đỗ Thị Bảo Ngọc (2019), “Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quảng Trị”, Luận văn thạc sĩ
luật học - Học viện khoa học xã hội.
- Ngô Thị Tuyết Thanh (2018), “Chính sách hình sự Việt Nam đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội: khía cạnh so sánh”, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện khoa
học xã hội.
- Phan Anh Dũng (2019), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm
cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh NinhThuận”, Luận văn
thạc sĩ luật học - Học viện khoa học xã hội.
Các công trình nghiên cứu trên nhìn chung đã phân tích những vấn đề lý luận
cơ bản liên quan đến tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Tuy nhiên,
giai đoạn vừa qua chưa có một công trình chuyên sâu nghiên cứu nào liên quan đến
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, tác giả sẽ kế thừa những tri thức
về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, những vấn đề liên quan đến
người dưới 18 tuổi phạm tội ở các địa phương nhất định trong các công trình nghiên
cứu của các tác giả đã nêu ở trên. Đồng thời dựa trên những cơ sở đó, tác giả sẽ vận
dụng đi sâu nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ những thực tiễn về tình hình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2019, tác giả sẽ đi sâu
phân tích làm rõ lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
4
dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh gắn với đặc
điểm của địa bàn này tác giả sẽ kiến nghị giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây
là hướng nghiên cứu tác giả sẽ tiếp cận trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành tội phạm
học và phòng ngừa tội phạm của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh để làm
rõ những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện cũng như những yếu tố tâm sinh lý tiêu cực thuộc con người
ở địa bàn này trong sự tác động lẫn nhau làm phát sinh tội phạm và đưa ra những giải
pháp hạn chế, loại trừ những yếu tố này góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình
hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trong thời gian tới trên địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh;
Hai là, nghiên cứu thực tiễn, thu thập, phân tích, đánh giá số liệu tình hình tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2015 đến năm 2019;
Ba là, nghiên cứu và làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh;
Bốn là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng như đánh giá thực trạng luận văn
sẽ đưa ra dự báo và đề xuất giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh và đề ra các giải pháp hạn chế, loại trừ những yếu
tố này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện của tình
hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu trên địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai
đoạn từ 2015 đến năm 2019, gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm và các bản án thu
thập trong giai đoạn này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp
phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống
kê...cụ thể như sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử: đây là phương pháp cơ sở
nền tảng cho việc nghiên cứu.
- Trong chương 1 của luận văn tác giả sử dụng phương pháp:
6
+Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa nội dung nghiên
cứu một cách có hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tích,
dễ hiểu.
+Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan giữa các
qui định, các quan điểm để từ đó có những đánh giá, nhận định khách quan về nội
dung nghiên cứu.
+Phương pháp phân tích: được sử dụng để làm sáng tỏ những nội dung thuộc
phạm vi nghiên cứu sẽ đem đến một cách nhìn cụ thể hơn thông qua những con số và
vụ việc cụ thể
- Trong chương 2 của luận văn tác giả sử dụng phương pháp:
+ Phương pháp thống kê sử dụng để làm rõ thực trạng của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phương pháp nghiên cứu các bản án do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2019 nhằm làm rõ thực
trạng tình hình và những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7.
- Trong chương 3 của luận văn tác giả sử dụng những phương pháp liệt kê để
đưa ra các dự báo về tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7 trong thời gian tới.
Ngoài ra trong quá trình thực hiện luận văn tác giả còn sử dụng những phương
pháp:
+ Phương pháp so sánh được sử dụng trong toàn bộ luận văn nhằm đối chiếu
những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện từ đó tìm ra các biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ những nguyên nhân và điều
kiện phù hợp, hiệu quả.
+ Phương pháp logic được sử dụng trong toàn bộ luận văn thể hiện sự liên kết
chặt chẽ giữa các nội dung, các phần của luận văn.
+ Sau mỗi tiểu mục, mỗi mục cuối của chương cũng như mục cuối của luận
văn tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để dưa ra kết luận trọng tâm về nội dung
7
đã phân tích. Những kết luận này là kết quả của quá trình tổng hợp những đặc điểm
và nội dung của vấn đề đã đề cập trước đó.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã thực hiện đạt được những kết quả như sau:
- Làm rõ thực trạng của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2015 - 2019.
- Góp phần vào việc lý giải, làm sáng tỏ những yếu tố thuộc về nguyên nhân
và điều kiện phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tình
hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần củng cố lý luận và thực tiễn đấu
tranh phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và các nhà nghiên cứu của các
trường.
7.Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí
Minh
Chương 2: Thực trạngnguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Dự báo và các biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ những yếu tố là
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Khái niệm, phân loại và ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện
1.1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi
Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày 02/09/1990 đã
định nghĩa: "Trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia có
quy định khác"[13]. Các quốc gia thành viên trong đó có Việt Nam đã phê chuẩn
tham gia Công ước này. Ngay sau khi tham gia công ước, Việt Nam đã ban hành Luật
bảo vệ chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 1991 sửa đổi, bổ sung năm 2004 và sau đó
được thay thế bằng luật trẻ em năm 2016. Tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định:
“Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [24, Điều 1]. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
người chưa thành niên là dưới 18 tuổi, là những người chưa phát triển đầy đủ về thể
chất cũng như về tinh thần, bị hạn chế về nhận thức cũng như kinh nghiệm và kỹ
năng sống. Những người dưới 18 tuổi, đặc biệt từ giai đoạn 14 tuổi trở lên có tâm
sinh lý chưa ổn định, nhân cách chưa hoàn thiện, nhận thức về các vấn đề xã hội còn
hạn chế, thậm chí là còn sai lệch, thường có tính cách nông nổi, hiếu thắng, liều lĩnh,
khó tự kiềm chế bản thân khi có các yếu tố của ngoại cảnh tác động, dễ dẫn đến manh
động và có các hành vi bạo lực để đối phó, chống trả trước tác động của ngoại cảnh.
Ở lứa tuổi này, họ thường có những biểu hiện ra bên ngoài bằng các hành vi như
ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ. Ngoài ra, họ có nhu cầu tìm hiểu, khám phá
cái mới nhưng nếu sự khám phá ấy thiếu sự quan tâm, định hướng của gia đình, nhà
trường và xã hội dễ trở thành nguyên nhân và điều kiện phạm tội của các em. Về nhận
thức pháp luật của các em còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ những đối tượng
9
này thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu không đúng đắn của cá nhân,
không quan tâm đến những hậu quả xảy ra là nguy hiểm cho xã hội. Điều này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, có thể do các em chưa có nhận thức được đúng, sai, phải,
trái nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là những thiếu sót, hạn chế trong công tác giáo
dục hiểu biết pháp luật của gia đình, nhà trường và xã hội.
Như vậy, theo các quy định trên, “trẻ em” là người dưới 16 tuổi; “người chưa
thành niên” là người dưới 18 tuổi. Như vậy, mọi trẻ em đều là người chưa thành niên,
người từ 16 đến dưới 18 không phải là trẻ em. TS. Nguyễn Văn Luật – Nguyên Vụ
trưởng Vụ pháp luật, Văn phòng Chính Phủ cho rằng: “Việt Nam đã tham gia Công
ước quốc tế về quyền trẻ em, vì vậy nên tuân thủ theo qui định của Công ước về tuổi
của trẻ em. Đơn giản vì, nếu điều ước 18 quốc tế mà Việt Nam là thành viên có qui
định khác so với pháp luật của nước ta thì thực hiện theo điều ước quốc tế đó” [13].
Nên việc xem xét vấn đề điều chỉnh độ tuổi của trẻ em lên dưới 18 là một yêu cầu
cấp thiết ở nước ta hiện nay là để phù hợp với quy định của Công ước quốc tế về
quyền trẻ em như Công ước số 138 về độ tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182
về xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất nhằm mục đích tăng mức độ
bảo vệ trẻ em cho tất cả những người có độ tuổi dưới 18. Độ tuổi pháp lý của trẻ em
được coi là vấn đề mang tính khoa học, vừa mang tính xã hội sâu sắc. Việc Luật trẻ
em của Việt Nam xác định trẻ em là người dưới 16 tuổi chưa tương thích với Công
ước quốc tế về quyền trẻ em.
Trước đây, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã dành
hẳn một chương quy định đối với người chưa thành niên phạm tội. Kế thừa, tiếp nối
tư tưởng và chính sách hình sự Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm
2017 tại chương XI “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”. Như vậy,
thuật ngữ người chưa thành niên phạm tội đã được xác định rõ ràng hơn là người dưới
18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên không phải bất cứ người dưới 18 tuổi nào phạm tội thì
cũng đều là tội phạm. Bộ luật hình sự quy định tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự
xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng ngừa tội phạm cũng như căn cứ về mặt tâm
sinh lý phát triển của con người, đây là vấn đề quan trọng trong pháp luật hình sự của
10
mỗi quốc gia thể hiện quan điểm của Nhà nước về xử lý tội phạm và bảo đảm quyền
của người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tuổi bắt
đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi trở lên vì người dưới 14 tuổi là người
chưa phát triển đầy đủ, chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi
của mình,nên chưa có năng lực trách nhiệm hình sự và không phải chịu trách nhiệm
hình sự do hành vi của mình gây ra. Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung
năm 2017 đã có sự kế thừa và đồng thời khắc phục những hạn chế của các Bộ luật
hình sự trước đây đó là chỉ xem xét trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi phạm tội do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248,
249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 [22, Khoản 2, Điều
12]; đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Việc quy định độ tuổi như vậy là phù hợp với pháp luật quốc tế nâng cao hiệu
quả giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với các em được căn cứ dựa trên các tiêu chí
về đặc điểm tâm lý, thể chất và khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; căn cứ
vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam; dựa trên cơ sở tổng
kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội phạm
do người chưa thành niên thực hiện ở nước ta nói riêng; căn cứ vào việc tham khảo
các quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của các nước trên thế giới.
1.1.1.2. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện
Theo triết học Mác – Lênin mối quan hệ nhân quả là mối liên hệ được lặp đi
lặp lại nhiều nhất, phổ biến nhất. Do đó, mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ đầu tiên
được phản ánh vào trong đầu óc của con người. Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác
động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra
những biến đổi nhất định nào đó. Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện
do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật. [3]
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
11
được lý giải trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về mối quan hệ biện chứng giữa
nguyên nhân và kết quả của cặp phạm trù này. Vì mọi hiện tượng đều có nguyên nhân
xuất hiện
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Nguyên nhân của tình hình tội phạm là hiện
tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất
ra tình hình tội phạm như là hậu quả tất yếu của mình. Điều kiện của tình hình tội
phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực, tự mình không sinh ra tình hình tội phạm,
mà là hỗ trợ, làm dễ dàng và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các
nguyên nhân” [56,tr.87].
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được coi là đối tượng nghiên
cứu cơ bản của tội phạm học, vì chỉ có làm sáng tỏ được lý do vì đâu mà tội phạm
phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội thì mới phòng ngừa, ngăn chặn, loại
trừ được tội phạm xảy ra. Việc xác định nguyên nhân và điều kiện chỉ mang tính chất
tương đối vì có những trường hợp yếu tố đó là nguyên nhân nhưng trường hợp khác
nó là điều kiện hoặc ngược lại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đóng vai trò quan trọng
cho việc chứng minh các sự kiện, hiện tượng các yếu tố tham gia vào sự tác động qua
lại làm phát sinh tội phạm.
Tóm lại, chúng ta đưa ra khái niệm như sau: “Nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh là sự tác động qua lại của các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống
và các yếu tố tâm sinh lý tiêu cực thuộc cá nhân, bản thân người dưới 18 tuổi thực
hiện phạm tội trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định dẫn đến việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định đó là tội phạm”.
1.1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện
Theo GS. TS Võ Khánh Vinh: “Trong tội phạm học tùy thuộc vào nhiệm vụ
của việc nghiên cứu thì người ta sử dụng việc phân chia các nguyên nhân và điều
12
kiện của tình hình tội phạm theo các cách khác nhau” [56,tr.93]. Việc phân loại
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại
địa bàn Quận 7 có vai trò rất quan trọng trong tìm ra các yếu tố phát sinh tình hình
tội phạm. Tùy vào cách tiếp cận nghiên cứu ta có thể chia nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại địa bàn Quận 7 thành các
nhóm như sau:
Thứ nhất, dựa vào tiêu chí về nguồn gốc xuất hiện có thể chia nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện thành:
- Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống được coi là sự tổng
hợp những nhân tố tiêu cực được hình thành từ môi trường sống của cá nhân có thể
tác động, ảnh hưởng đến cá nhân đó ở mức độ nhất định, từ đó làm phát sinh tình
hình tội phạm do người 18 tuổi thực hiện. Trong phạm vi này tác giả đề cập đến
những nhân tố không thuận lợi từ môi trường sống trên địa bàn Quận 7 ảnh hưởng
đến việc hình thành và phát triển nhân cách người dưới 18 tuổi phạm tội.
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường gia đình:
Gia đình là tế bào của xã hội, là tổng hợp các mối quan hệ, ứng xử, giá trị nhân
cách, tình cảm, đạo đức, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cộng đồng, dân tộc. Gia
đình là tế bào tự nhiên, đồng thời là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình
tái tạo ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển
được. Vì vậy, môi trường gia đình có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành nhân
cách của trẻ, là yếu tố có hảnh hưởng lớn nhất đến việc hình thành nhân cách của mỗi
cá nhân trong thời kì thơ ấu. Bởi, kể từ khi mới sinh ra, gia đình là môi trường đầu
tiên mà những đứa trẻ sinh sống, nhận thức của chúng mới bước đầu dần được hình
thành, do đó, những đứa trẻ sẽ học hỏi, bắt chước những hành vi của những người
xung quanh nó, bao gồm cả những hành vi tốt hay không tốt. Do đó, nếu như đứa trẻ
sống trong môi trường gia đình an toàn, lành mạnh, luôn chú trọng vào giáo dục nhân
cách cho trẻ, hướng trẻ sống thiện, trung thực, nhân hậu, vươn lên trong học tập, công
việc thì sẽ hạn chế hiệu quả việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược
lại, sống trong môi trường gia đình không an toàn, không lành mạnh thì có thể tác
13
động, ảnh hưởng, dẫn đén việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ví dụ như
gia đình buông lỏng việc giáo dục con cái, để mặc con cái phát triển tự nhiên hoặc
phó thác việc giáo dục trẻ con cho nhà trưởng và xã hội. Khi phát hiện trẻ có những
biểu hiện sai trái đã không uốn nắn kịp thời mà vẫn thờ ơ, không quan tâm, thậm chí
còn dung túng. Sự quá nuông chiều, thỏa mãn mọi nhu cầu con cái của bố mẹ sẽ tạo
nên thói quen đòi gì được nấy, hình thành tính ỷ lại, dựa dẫm, sống ích kỷ, lười nhác,
không ý thức về trách nhiệm, luôn đòi hỏi được phục vụ, được hưởng thụ, không tôn
trọng quyền sở hữu của người khác vì từ bé đã có thói quen đòi gì cũng được, thích
cái gì là cha mẹ lấy của người khác chiều ngay. Hoặc gia đình không gương mẫu
trong lối sống như có hành vi phạm tội, sa đà vào tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ
bạc, mại dâm hoặc có lối sống quá thực dụng chỉ biết coi trọng đồng tiền mà coi nhẹ
giá trị đạo đức; hoặc đứa trẻ lớn lên trong gia đình mà bạo lực gia đình luôn tồn tại…
Hoặc trong gia đình có nhiều thành viên phạm tội, cha và (hoặc) mẹ ngoại tình; đứa
trẻ lớn lên tỏng môi trường thiếu cả cha lẫn mẹ hoặc thiếu cha hoặc thiếu mẹ, trong
gia đình có nhiều thành viên ưa lối hành xử bạo lực, côn đồ, ngang ngược; Hoặc gia
đình có cha mẹ mắc điểm mù trong việc quản trị gia đình, không thấy được vấn đề
của gia đình mình, thường có thói quen chỉ trích người khác sẽ làm cho con cái có xu
hướng nói dối để không bị mắng. Hay là kiểu gia đình áp đặt khi cha mẹ hay có xu
hướng muốn con mình phải làm thế này thế kia vì suy nghĩ làm như vậy mới tốt cho
con nhưng lại không quan tâm, không hỏi xem chúng cảm thấy như thế nào, có thích
làm hay không dẫn đến con cái thường thiếu tự tin, sai không nhận lỗi, lý sự cùn,
sống bị động.
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường nhà trường
Bên cạnh môi trường gia đình thì môi trường nhà trường cũng góp phần quan
trọng giúp con người phát triển toàn diện. Giáo dục của nhà trường cung cấp cho học
sinh những kiến thức quan trọng trong cuộc sống. Môi trường giáo dục chứa đựng tất
cả những điều kiện vật chất và tinh thần ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, học
tập, rèn luyện, vui chơi và phát triển nhân cách của các em học sinh. Môi trường giáo
dục lành mạnh là môi trường mà người học được bảo vệ, tôn trọng, đối xử công bằng,
14
dân chủ và nhân ái, được tạo điều kiện phát triển phẩm chất và năng lực, không bị
tổn hại về thể chất và tinh thần, không có tệ nạn xã hội, không bạo lực. Ngoài ra, yếu
tố tinh thần còn thể hiện qua phương pháp dạy học, giáo dục học sinh của giáo viên,
các chuẩn mực nền nếp truyền thống trong nhà trường, giữa giáo viên với học sinh,
học sinh với học sinh, giáo viên với giáo viên.
Nhưng môi trường giáo dục hiện nay quá tập trung vào kiến thức sách vở,
nặng nề về lí thuyết mà thiếu sự giáo dục về kĩ năng sống, đạo đức nhân cách dẫn
đến học sinh thiếu hiểu biết về đạo đức, pháp luật, vấn đề tình dục, bạo lực học
đường… Do sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, những mối quan
hệ thực dụng đang len lỏi vào môi trường giáo dục làm biến tướng quan hệ thầy
trò. Một bộ phận xã hội, gia đình, học sinh và giáo viên coi trọng giá trị vật chất
hơn giá trị tinh thần, lấy giá trị vật chất làm giá trị thước đo tinh thần. Sự thiếu
quan tâm của gia đình và xã hội, phó mặc cho nhà trường trong công tác giáo dục
học sinh cũng trở thành rào cản rất lớn dẫn đến việc giáo dục không đạt hiệu quả
như kì vọng. Không được giáo dục tốt những bài học về nhân cách dễ hình thành
nhân thân xấu như coi thường pháp luật, đạo đức, coi thường nhân phẩm, thân thể,
tài sản của người khác…
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường bạn bè
Cùng với cha mẹ, thầy cô thì bạn bè chính là người trẻ thường xuyên gần gũi,
tiếp xúc, có cùng quan điểm suy nghĩ với lứa tuổi. Đây chính là môi trường có ảnh
hưởng tới quan điểm, suy nghĩ, nhận thức, lối sống, thói quen, cách cư xử. Nếu trẻ
tiếp xúc với nhóm bạn bè tốt thì trẻ hình thành các đặc điểm nhân thân tích cực như
biết quan tâm, lo lắng, có kĩ năng sống, lễ phép, chăm học… Ngược lại khi chơi với
bạn bè xấu thích chơi bời, lêu lổng thì dễ nhiễm những thói hư tật xấu như nghiện
games, cờ bạc, ma tuý, bạo lực học đường…
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường kinh tế, xã hội vĩ mô
Kinh tế Quận 7 đang trên đà phát triển, đời sống người dân được nâng lên.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì cũng bộc lộ một số vấn đề như
tỉ lệ thất nghiệp còn cao nên dễ làm con người rơi vào trạng thái bất lực, chán nản,
15
bi quan… nên sa đà vào tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế không
đồng đều, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt hình thành một bộ phận con
người có lối sống hưởng thụ, thích chơi bời không lo làm ăn, có ý thức chiếm đoạt
tài sản của người khác, làm giàu bất chính…
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức
Cơ chế kinh tế - thị trường dễ làm con người sa ngã bởi những mặt trái của nó.
Việc hình thành tâm lí coi trọng đồng tiền, suy thoái về đạo đức, vì đồng tiền mà sẵn
sàng buôn bán ma tuý, trộm cắp, cướp giật tài sản… Chính vì lối sống thực dụng,
chuộng vật chất, suy thoái về đạo đức … đã thúc đẩy con người sẵn sàng thực hiện
hành vi phạm tội.
Hiện nay, công tác quản lí Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá còn hạn chế. Các
văn hoá phẩm đồi truỵ, bạo lực, các ấn phẩm độc hại… Một bộ phận giới trẻ bị ảnh
hưởng bởi những tư tưởng lệch lạc nên dễ phát sinh hành vi phạm tội.
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc về cá nhân nơi làm việc hoặc cư trú
Mỗi cá nhân có một nơi làm việc hoặc nơi cư trú riêng, chính môi trường này
có ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân thân người phạm tội. Đối với
những người có nơi cư trú, nơi làm việc không ổn định, nơi có nhiều tệ nạn xã hội thì
thường dễ phát sinh hành vi phạm tội.
Ở Quận 7 tập trung khu chế xuất, khu nhà trọ, các địa bàn vùng ven có tỉ lệ
người tạm trú đông, thu nhập bấp bênh thì tỉ lệ người phạm tội vẫn chiếm đa số với
tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng tăng, cả về số lượng lẫn tính chất mức
độ của hành vi phạm tội, đồng phạm.
- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội được coi là tổng
hợp những nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội có thể tác động, ảnh
hưởng đến việc phát sinh tình hình tội phạm do người 18 tuổi thực hiện. Những nhân
tố này bao gồm:
+ Sai lệch về sở thích, nhu cầu và cách thức thoả mãn nhu cầu
Mỗi con người là những thực thể riêng biệt có những nhu cầu, sở thích khác
nhau để đem lại cho con người niềm vui trong cuộc sống. Đa số những người phạm
16
tội là những người có ý thức sai lệch, nhu cầu không đúng chuẩn mực, đi ngược lại
với những giá trị đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, họ có các sở thích không lành mạnh
như thích ăn diện, tham gia những cuộc chơi thác loạn…
+ Hạn chế về ý thức pháp luật và khả năng kiểm soát hành vi
Mỗi con người có một trình độ nhận thức về pháp luật khác nhau, không phải
ai cũng am hiểu về pháp luật và biết được hành vi của mình là vi phạm pháp luật.
Chính sự thiếu hiểu biết đã dẫn đến sự coi thường pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật
kém, chống đối pháp luật. Có những người mặc dù biết hành vi của mình là trái pháp
luật nhưng vẫn thực hiện, luôn đặt nhu cầu, sở thích và mục đích cá nhân cao hơn
pháp luật.
Thứ hai, căn cứ vào mức độ tác động của nguyên nhân và điều kiện trong việc
làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện phân chia thành:
- Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu làm phát sinh tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện là những nhân tố được coi là đóng vai trò quan trọng trong
việc làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện và chiếm tỉ lệ
đáng kể trong tổng số nhân tố làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện.
- Nguyên nhân và điều kiện thứ yếu thì ngược lại so với nguyên nhân và điều
kiện chủ yếu đây là những nhân tố hạn chế và chiếm tỉ lệ không đáng kể trong tổng
số nhân tố làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Thứ ba, căn cứ vào bản chất của nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình
hình tội phạm do người 18 tuổi thực hiện có thể chia thành:
- Nguyên nhân và điều kiện khách quan là những hoàn cảnh không phụ thuộc
vào ý chí và ý thức của con người phạm tội nhưng lại là cơ sở cho người dưới 18 tuổi
phạm tội thực hiện các hành vi của mình như: nguyên nhân và điều kiện thuộc về các
yếu tố tình huống; nguyên nhân và điều kiện thuộc về pháp luật và công tác phòng
ngừa, phát hiện tội phạm; sự thờ ơ của môi trường xã hội bên ngoài.
17
- Nguyên nhân và điều kiện chủ quan là những nguyên nhân và điều kiện phát
sinh, phát triển thuộc về bản thân người phạm tội xuất phát từ những sai lệch về nhu
cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu, những thói hư, tật xấu…
Thứ tư, căn cứ vào nội dung, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện được chia thành:
- Nguyên nhân và điều kiện kinh tế - xã hội.
- Nguyên nhân và điều kiện văn hóa, giáo dục.
- Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức quản lí.
- Nguyên nhân và điều kiện về chính sách pháp luật.
Có nhiều cách phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện khác nhau dưới góc độ luận văn và dựa trên nghiên cứu
về tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 tác giả chỉ
tiếp cận nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện từ khía cạnh nguồn gốc xuất hiện của hành vi phạm tội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ nguyên nhân điều kiện của tình hình
tội phạm do người 18 tuổi thực hiện sẽ giúp cho các chủ thể thực hiện hoạt động
phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Quận 7 đề ra các giải pháp tác động, biện pháp
thiết thực nhằm hạn chế những hậu quả xảy ra của tình hình tội phạm và loại trừ
những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện.
Thứ hai, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người 18 tuổi thực hiện là cơ sở để hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội phù hợp
đối với địa bàn Quận 7, đặc biệt là chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình
sự nói riêng.
Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên,
cùng với cơ hội mà xu thế hội nhập đem lại là tình hình trật tự xã hội diễn biến ngày
càng phức tạp mà cụ thể là sự gia tăng về số lượng cũng như loại tình hình tội phạm.
18
Bên cạnh việc nhanh chóng và kịp thời phát hiện tội phạm, tránh oan người vô tội,
trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội thì việc nghiên cứu nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm là vô cùng cấp thiết và mang tính lâu dài. Thể hiện ở hiện
việc soạn thảo, ban hành các chính sách kinh tế - xã hội gắn liền với quá trình phát
triển của đất nước, kịp thời phát hiện những nhân tố xã hội có khả năng phát sinh tội
phạm thông qua đó góp phần làm giảm thiểu hạn chế nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm.
Thứ ba, nghiên cứu vấn đề nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm do
người 18 tuổi thực hiện góp phần phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lĩnh vực quản
lý nhà nước. Trên cơ sở phát hiện những thiếu sót trong lĩnh vực này đề xuất, kiến
nghị các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 cách hiệu quả và toàn diện.
Thứ tư, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện giúp ngăn ngừa rủi ro và hạn chế các nguyên nhân thúc đẩy
nguy cơ trở thành tội phạm của người dưới 18 tuổi trên địa bàn Quận 7.
1.2. Cơ chế tác động và mối quan hệ của nguyên nhân và điều kiện của
tình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh
1.2.1. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Cơ chế hành tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 chính là sự tác động qua lại giữa
các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống bên ngoài và các yếu tố tâm - sinh lý tiêu
cực bên trong thuộc cá nhân những người dưới 18 tuổi diễn ra qua những sự kiện,
tình huống, hoàn cảnh nhất định. Các yếu tố tiêu cực này nảy sinh có trong môi trường
sống, nhân thân người phạm tội và các điều kiện có từ nạn nhân. Do đó, khi tìm hiểu
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7 cần phải tìm hiểu, nghiên cứu nguyên nhân bắt nguồn từ xã hội và từ
19
bản thân người dưới 18 tuổi phạm tội dẫn đến việc thực hiện các hành vi lệch chuẩn
so với quy định của pháp luật.
Các tội do người dưới 18 tuổi thực hiện bao giờ cũng là một quá trình diễn ra
trong một khoảng không gian nhất định nó bao gồm việc hình thành ý định phạm tội
lẫn việc thực hiện ý định phạm tội. Nó vừa chịu tác động của nhiều yếu tố bên ngoài
của hiện thực khách quan, của môi trường xã hội vừa chịu sự tác động, chi phối bởi
yếu tố tâm - sinh lý của chính chủ thể thực hiện hành vi đó. Do đó, hành vi tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện là kết quả tổng hòa tính xã hội và tính cá nhân. Chính
sự tác động giữa các yếu tố này chính là cơ sở cho việc xác định hệ thống các yếu tố
làm phát sinh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Con đường tác động có mục đích xã hội bằng giáo dục đến cá nhân những
người dưới 18 tuổi sẽ trở nên không hiệu quả nếu cá nhân không có những hoạt động
tương ứng để tiếp thu, hưởng ứng tác động đó. Những người dưới 18 tuổi bao giờ
cũng muốn sống trong một môi trường, hoàn cảnh nhất định và luôn chịu sự tác động
của môi trường đó, song cá nhân họ không chỉ chịu sự tác động của môi trường sống
một cách thụ động mà luôn có sự tác động trờ lại môi trường bằng các hoạt động cụ
thể của mình. Môi trường sống được chia thành nhiều loại: môi trường gia đình, môi
trường nhà trường, môi trường bạn bè, môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú…
Khi môi trường sống của một cá nhân không lành mạnh, cá nhân đó dễ bị tác động
và dẫn đến tới việc hình thành nhân cách lệch lạc của mỗi cá nhân. Tuy nhiên sự tác
động của môi trường sống tới cá nhân lại khác nhau bởi cùng một môi trường sống
có người lại thực hiện hành vi phạm tội nhưng có người lại không thực hiện hành vi
phạm tội. Hoặc ở những người dưới 18 tuổi phạm tội thì sự chịu tác động của môi
trường dẫn việc thực hiện hành vi phạm tội cũng khác nhau. Chính vì vậy, khi tìm
hiểu nguyên nhân của tội phạm thì phải tìm hiểu nguyên nhân từ phía người phạm tội
với những tố chất sinh học và những đặc điểm tâm lý riêng biệt [56, tr.71].
Theo GS. TS Võ Khánh Vinh: “Những yếu tố của môi trường bên ngoài hay
những quá trình tâm lý bên trong con người, dù ở mức độ bất lợi và xấu như thế nào
đi chăng nữa tự nó đều không phải là nguyên nhân của hành vi phạm tội cụ thể, mà
20
là phải sự tương tác, kết hợp cả hai yếu tố đó mới trở thành nguyên nhân của tội
phạm cụ thể” [56, tr.113].
Cơ chế hành vi phạm tội được mô hình hóa theo quan điểm của GS. TS Võ
Khánh Vinh như sau:
Các đặc điểm của cá nhân
Việc thực hiện Việc kế hoạch hóa Tính động cơ
Môi trường bên ngoài
Cơ chế tác động đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu
cực khách quan thuộc môi trường sống với các yếu tố chủ quan thuộc về cá nhân
người phạm tội.
1.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện với thân nhân người phạm tội và phòng ngừa tình
hình liên quan đến vấn đề này
1.2.2.1. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện với tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện và nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện là mối quan hệ biện
chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Tình hình tội phạm là một thuật ngữ khoa học
và được dùng trong ngôn ngữ thông dụng. Khái niệm về tình hình tội phạm được khái
quát như sau: “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý tiêu cực, được
thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp, bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống)
21
các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và khoảng thời gian
nhất định”. [56]
Nghiên cứu tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7là nghiên cứu trong một không gian, thời gian xác định, nghiên cứu về biểu
hiện qua thực trạng, cơ cấu diễn biến, tính chất. Còn nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 được xem là
cái sinh ra tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện (kết quả). Tình hình
tội phạm được coi là cơ sở để xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm nói chung và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7 nói riêng. Để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 phải dựa trên nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm và việc nghiên cứu này cũng là cơ sở để đề ra giải pháp
phòng ngừa tình hình tội phạm.
1.2.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện với nhân thân người phạm tội dưới 18 tuổi
Con người được xem là thành viên của xã hội, tham gia vào quan hệ xã hội là
thực thể của xã hội vì vậy khi nói đến nhân thân là nói đến con người ở khía cạnh này
bao gồm đặc điểm sinh học có ý nghĩa về mặt xã hội như tuổi, giới tính. Nhân thân
người phạm tội ở khía cạnh luật hình sự bao gồm giới tính, tuổi, nghề nghiệp, trình
độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, tiền án, tiền sự…Nhân thân người phạm tội có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội như
việc định tội, định khung hình phạt; làm sáng tỏ một số tình tiết và yếu tố cấu thành
tội phạm như lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội…
Nhân thân người phạm tội được xem là yếu tố quan trọng trong việc xác định
cơ chế hành vi phạm tội. Còn những yếu tố thuộc môi trường sống đó là hoàn cảnh
của sự hình thành các đặc điểm tâm lý – xã hội tiêu cực của cá nhân xuất hiện trước
22
các đặc điểm cá nhân nằm trong mối quan hệ nhân quả giữa tình hình người dưới 18
tuổi phạm tội.
Để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 thì không thể thiếu việc nghiên cứu nhân
thân người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn Quận 7 như: quá trình hình hình thành
các đặc điểm nhân thân, bản chất, đặc điểm của nhân thân.
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn Quận 7bao gồm những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình;
môi trường nhà trường; môi trường bạn bè; môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư
trú; môi trường kinh tế xã hội vĩ mô; môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức dẫn đến
sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người dưới 18 tuổi phạm tội. Và
những yếu tố tiêu cực thuộc nhân thân người phạm tội dưới 18 tuổi góp phần làm
sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn Quận 7.
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện với phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện
Theo từ điển Luật học: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại
trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với
nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành” [2, tr.237]
GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa đưa ra khái niệm này dưới góc độ tội phạm học:
“Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân, thực hiện tổng
thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm nguyên nhân của tội phạm để kiểm
soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những nhóm nguyên nhân này…”[44, tr 71].
Như vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7 là việc sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính xã hội và tính Nhà
nước nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, hạn chế và
loại trừ tội phạm ảnh hưởng đến trạng thái bình yên của xã hội. Các biện pháp phòng
ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 là một
23
trong những vấn đề lý luận cơ bản trong phòng ngừa tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện. Các biện pháp, giải pháp được các chủ thể sử dụng để loại bỏ
các nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận
chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện thông qua những nội dung sau:
Thứ nhất, khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tác giả đã làm sáng tỏ thông
qua khái niệm người dưới 18 tuổi; khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện; bốn ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Thứ hai, có nhiều cách phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện khác nhau dưới góc độ luận văn tác giả chỉ tiếp
cận nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
từ khía cạnh nguồn gốc xuất hiện.
Thứ ba, cơ chế tác động đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Thứ tư, mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện với thân nhân người phạm tội và phòng ngừa tình hình
liên quan đến vấn đề này.
24
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN
CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh
Như đã phân tích ở chương 1 của luận văn trong mối quân hệ nhân quả hay
còn gọi là mối quan hệ giữa nguyên nhân - điều kiện - kết quả của tình hình tội phạm
thì tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 được coi
là kết quả. Còn nguyên nhân của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn Quận 7 (cái chung) hoặc hành vi phạm tội (cái riêng) là sự tác động qua
lại giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm sinh lí xã hội
tiêu cực thuộc về cá nhân người dưới 18 tuổi trong những hoàn cảnh, tình huống nhất
định. Khi nghiên cứu tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi phạm tội là nghiên
cứu kết quả của những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện.
Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được thay đổi
về mặt lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất các tội phạm thực
hiện trong xã hội nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định [56, tr.61].
Khi nghiên cứu đánh giá về thực trạng của tình hình tội phạm nói chung trong
Tội phạm học cũng như tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn Quận 7, tác giả dựa trên các thành tố liên quan bao gồm:
Một là, mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7, trong đó xem xét toàn bộ tội phạm đã xảy ra, gồm có phần tội phạm
rõ (các tội phạm đã được phát hiện, xử lý) và phần ẩn (tội phạm không được phát
hiện, xử lý);
Hai là, diễn biến (động thái) tăng lên hay giảm xuống của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7.
25
Ba là, cơ cấu có nghĩa là phải đánh giá được mối tương quan giữa các yếu tố
khác nhau trong bức tranh tổng thể của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn Quận 7.
Bốn là, tính chất của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện gây
ra cho xã hội, để có sự đánh giá một cách khách quan và toàn diện nhất thì phải xem
xét dưới hai góc độ: Phần tội phạm rõ, tức là phần tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện trên địa bàn Quận 7 đã được các cơ quan chức năng điều tra, truy tố xét xử
và đưa vào thống kê hình sự. Trong phạm vi luận văn của mình tác giả sẽ đi sâu vào
nghiên cứu và phân tích thực trạng tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn Quận 7 trong giai đoạn 2015 – 2019 thông qua số liệu thống kê của
TAND Quận 7 cùng với 100 bản án hình sự sơ thẩm về các tội do người dưới 18 tuổi
thực hiện từ đó tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7. Phần tội phạm ẩn, bao gồm các tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên thực tế đã xảy ra mà không bị phát hiện, không bị
xử lý hình sự, hoặc không có thống kê tư pháp hình sự.
2.1.1. Mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7 được hiểu là các số liệu phản ánh tổng số tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn Quận 7 cùng với số lượng người dưới 18 tuổi đã thực hiện tội phạm
trên địa bàn Quận 7, trong giai đoạn nghiên cứu đó là từ năm 2015 đến 2019. Tác giả
tập trung phân tích, làm sáng tỏ nguyên nhân của tình hình tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện qua các thông số về mức độ, cơ cấu, diễn biến, tính chất của tình
hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 trong giai đoạn 5
năm.
Bảng 2.1. Thống kê số vụ phạm tội và số người dưới 18 tuổi phạm tội so với
tình hình tội phạm chung trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019.
Tình hình người dưới 18
Tình hình tội phạm
Tỷ lệ %
tuổi phạm tội
Năm
Số vụ (1)
Số bị cáo (2)
Số vụ (3) Số bị cáo (4)
(3)/(1) (4)/(2)
26
251
378
43
61
17,13
16,14
2015
278
360
17
34
6,11
9,44
2016
313
393
19
37
6,07
9,41
2017
112
215
21
41
18,75
19,07
2018
219
345
35
53
15,98
15,36
2019
Tổng
1.173
1.691
135
226
11,51
13,36
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 7 từ năm 2015 – 2019
Biểu đồ 2.1. Số vụ phạm tội và số người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn
70
60
50
40
Số vụ
30
Số người
20
10
0
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Quận 7
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 7 giai đoạn 2015 - 2019)
Số liệu thống kê trong bảng 2.1 cho thấy, trong thời gian từ ngày 01/01/2015
đến 31/12/2019, trên địa bàn Quận 7 đã xét xử tổng cộng 1.173 vụ án hình sự với
1691 bị cáo. Riêng người dưới 18 tuổi phạm tội đã xảy ra 135 vụ với 226bị cáo chiếm
tỷ lệ 11.5 % tổng vụ án hình sự và13.36% bị cáo bị đưa ra xét xử. Trong đó, xảy ra
nhiều nhất là năm 2015 (43 vụ, 61 bị cáo) và năm 2016 thấp nhất (17 vụ, 34 bị cáo),
trung bình mỗi năm xét xử 27 vụ với 45,2 bị cáo.
27
Để thấy mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7, ta so sánh tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7
với địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 2.2.Thống kê so sánh tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn
Quận 7 so với địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2019
Toàn Tp.HCM Quận 7 Tỷ lệ (%) Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
2031 2776 43 61 2,11 2,2 2015
1452 1839 17 34 1,17 1,84 2016
1731 1954 19 37 1,1 1,89 2017
1493 1863 21 41 1,41 2,2 2018
1027 1531 35 53 3,41 3,46 2019
Tổng 7734 9.963 135 226 1,75 2,27
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND TP HCM giai đoạn 2015 - 2019)
Nếu xét tỉ lệ người dưới 18 tuổi xảy ra trên địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí
Minh thì tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7 không lớn: chiếm 1,75
% số vụ và 2,27 % (tổng số 24 quận, huyện trên toàn Thành phố).
Bảng 2.2 cũng cho thấy số vụ án do người 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận
7 có những diễn biến phức tạp: cụ thể năm 2016 giảm so với năm 2015 là 26 vụ, năm
2017 tăng so với năm 2016 là 2 vụ, năm 2018 tăng so với năm 2017 là 2 vụ, năm
2019 tăng so với năm 2018 là 14 vụ. Tuy nhiên, những con số này chỉ mới phản ánh
được phần nào thực trạng của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7. Bởi thực trạng tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn Quận 7 bao gồm một chỉnh thể thống nhất được tạo bởi phần ẩn và phần
hiện.
Theo PGS.TS Phạm Văn Tỉnh: “Phần ẩn của tội phạm là tổng thể các hành vi
phạm tội (cùng các chủ thể của hành vi đó) đã xảy ra trên thực tế, song không được
phát hiện, không bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc không có trong
thống kê hình sự” [53].
28
Còn GS.TS Nguyễn Xuân Yêm cho rằng: “Tội phạm ẩn là khái niệm chỉ một
phần trong tổng thể các tội phạm đã xảy ra trong một khoảng thời gian và trên một
địa bàn nhất định mà chưa được các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án và các cơ quan khác của Công an có chức năng tiếp nhận tin
tố giác và phát hiện tội phạm) phát hiện về sự kiện nói chung hoặc chưa nhận biết
được sự kiện, hành vi đã phát hiện là tội phạm” [63]
Tội phạm ẩn do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 tồn tại dưới
dạng tội phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ quan.
Tội phạm ẩn khách quan là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế nhưng
do nguyên nhân khách quan, cơ quan chức năng không phát hiện ra được vụ phạm
tội – không có thông tin về vụ án [58].
Tội phạm ẩn chủ quan là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế, cán bộ
hoặc cơ quan chức năng nắm được vụ việc nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau
mà vụ án không được thụ lý, xử lý hình sự và do đó không có số liệu thống kê. [58]
Ngoài ra còn có tội phạm ẩn thống kê – trường hợp tội phạm đã bị phát hiện
và đưa ra xét xử hình sự nhưng không có số liệu thống kê chính thức do kĩ thuật thống
kê còn hạn chế, do bệnh thành tích, do sai sót của cán bộ thống kê.
Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7 do nhiều nguyên nhân khác nhau như:
Thứ nhất, từ phía nạn nhân của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7. Bị hại không tố cáo là do bị người phạm tội (hoặc người nhà của
người phạm tội) đe doạ, mua chuộc, không có sự tin tưởng vào cơ quan bảo vệ pháp
luật, tâm lý sợ phiền hà hoặc sợ bị công bố bí mật cá nhân.
Thứ hai, nguyên nhân từ phía người dưới 18 tuổi phạm tội thực hiện bằng thủ
đoạn quá tinh vi, xảo quyệt...
Thứ ba, nguyên nhân từ phía các cơ quan chức năng:thiếu tinh thần trách
nhiệm, cán bộ có hành vi nhận hối lộ để không xử lý vụ việc hoặc do nể nang, có mối
quan hệ thân quen nên không xử lý vụ việc, năng lực của cán bộ làm công tác này
còn nhiều hạn chế nên khó có thể phát hiện được hành vi phạm tội của các đối tượng.
29
Thứ tư, nguyên nhân xuất phát từ môi trường sống của cá nhân tại gia đình,
nơi làm việc, nơi cư trú có nhiều tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng đến tình hình tội phạm
ở mức độ nhất định.
2.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm do người dưới dưới 18 tuổi thực
hiện
Diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn Quận 7 được phản ánh ở sự tăng lên hay giảm đi hoặc ổn định tương đối
của nhóm tội phạm này trong giai đoạn 2015 – 2019. Sự tăng lên hay giảm đi của tình
hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện được phản ánh thông qua số liệu về
các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện và số liệu này giúp ta đánh giá được sự
tăng hay giảm của tính chất, mức độ nguy hiểm.
Theo báo cáo tổng kết của TANDQuận 7 thì tình hình tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 diễn biến khá phức tạp thông qua bảng số liệu
sau theo phương pháp so sánh định gốc:
Bảng 2.3. Diễn biến tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 (so sánh định gốc).
Năm Số vụ Số bị cáo Phần trăm số vụ Phần trăm số bị
(%) cáo (%)
43 61 2015 100 100
17 34 39,53 55,74 2016
19 37 44,19 60,66 2017
21 41 48,83 67,21 2018
35 53 81,39 86,88 2019
Giai đoạn Số vụ Số bị cáo Phần trăm số vụ Phần trăm số bị
03 năm (%) cáo (%)
2015 – 2017 79 132 100 100
2017 - 2019 75 131 94,94 99,24
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2015 – 2019).
30
Tại bảng 2.4 cho thấy nếu lấy năm 2015 làm gốc, tức là tỉ lệ số vụ và số bị cáo
năm 2015 đều là 100% thì đến năm 2016 tỉ lệ số vụ giảm còn 39,53 % và 55,74 %.
Năm 2017, số vụ giảm còn 44,19% và số bị cáo giảm còn 55,74%, nhưng lại tăng số
vụ và số bị cáo so với năm 2016. Năm 2018, số vụ giảm còn 48,83 và số bị cáo giảm
còn 67,21 tăng so với 2018. Năm 2019, số vụ giảm còn 81,39 % và số bị cáo còn 88,
68% nhưng lại tăng đáng kể so với năm 2018. Như vậy, diễn biến tình hình tội phạm
do người dưới dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 là rất phức tạp.
Dùng phương pháp định gốc giai đoạn 03 năm ta thấy: giai đoạn 2015 - 2017
với tỉ lệ số vụ, số bị cáo là 100% thì đến giai đoạn 2017 – 2019 tỉ lệ này đã giảm
xuống còn 94,94% số vụ và 99,24% bị cáo. Có được điều này là nhờ Ủy ban nhân
dân Quận 7 cùng các cơ quan có liên quan đã quan tâm phòng,chống tình hình tội
phạm nói chung và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng.
2.1.3. Cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện
2.1.3.1. Cơ cấu của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
a. Cơ cấu theo đơn vị hành chính cấp phườngcủa Quận 7
Bảng 2.4. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện trên địa bàn Quận 7 phân theo số dân của 10 đơn vị hành chính cấp
phường.
STT Địa danh Số dân Tổng số Số dân/bị STT theo
(người) bị cáo mức độ cáo
1 Bình Thuận 16.083 268 60 1
2 Tân Thuận Đông 22.228 412 54 2
3 Tân Thuận Tây 14.365 368 39 3
4 Tân Hưng 22.020 881 25 4
5 Tân Quy 29.265 1463 20 5
6 Tân Kiểng 21.846 1285 17 6
7 Tân Phú 12.020 1335 9 7
31
Tổng 138.097 224
(Nguồn: TAND Quận 7 và Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 –
2019)
Bảng 2.5. Cơ cấu về mức độ và hệ số tiêu cực, cấp độ nguy hiểm của tình hình
tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019
theo diện tích 10 đơn vị hành chính cấp phường.
STT Địa danh Tổng Diện tích Số bị STT Hệ số Cấp
(km2) cáo/1km2 về tiêu cực độ số
(bị mức nguy
cáo) độ hiểm
39 Tân Thuận Tây 1,05 37,14 1 4 2 1
60 Bình Thuận 1,65 36,36 2 3 1 2
20 Tân Quy 0.86 23,26 3 8 3 3
17 Tân Kiểng 0,97 17,53 4 10 5 4
25 Tân Hưng 2,2 11,36 5 9 4 5
54 Tân Thuận 8,12 6,65 6 8 3 6
Đông
7 14 6 Tân Phú 9 4,59 1,96 7
Tổng 224 19,44 TB: 11,5
(Nguồn: TANDQuận 7 và tổng cục thống kê)
Để xác định xem tình hình ở địa bàn nào nghiêm trọng hơn trong 10 đơn vị
hành chính của Quận 7, tác giả dùng phương pháp đánh giá trên cơ sở tổng hợp 3 yếu
tố: diện tích tự nhiên; số bị cáo; số dân cư.
Đối với bảng 2.4 ta thấy nếu số dân trên bị cáo càng thấp thì mức độ phạm tội
ở đơn vị đó càng cao: phường Bình Thuận, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây có mức
độ cao hơn so với các phường khác với số dân/bị cáo lần lượt là: 268, 412,368.
Phường Bình Thuận có số dân/ bị cáo thấp nhất theo đó phường Bình thuận có mức
32
độ phạm tội cao nhất cứ 268 người dân thì có 01 người phạm tội là người dưới 18
tuổi.
Qua bảng 2.5 ta có thể thấy: phường Tân Thuận Tây có số bị cáo trên diện tích
cao nhất là 37,14, thứ hai là phường Bình Thuận 36,36; còn lại hai phường Tân Thuận
Đông và Tân Phú có số bị cáo trên diện tích thấp nhất lần lượt là 6,65 và 1,96. Hệ số
tiêu cực được tính dựa trên bảng 2.4 và 2.5. Hệ số tiêu cực càng nhỏ thì cấp độ nguy
hiểm càng cao. Như vậy, xét theo cấp độ nguy hiểm thì phường Bình Thuận có cấp
độ nguy hiểm cao nhất và cấp độ nguy hiểm thấp nhất là phường Tân Phú.
Quận 7 được phân chia thành 10 phường: Phú Mỹ, Phú Thuận, Tân Phú, Tân
Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân Kiểng, Tân Quy, Tân Phong, Tân Hưng; phường
có diện tích lớn nhất là phường Phú Thuận là 829 ha, phường có diện tích nhỏ nhất
là phường Tân Quy là 86 ha. Kể từ khi được thành lập (4/1997) với dân số là 90.920
nhân khẩu, nhưng chỉ sau gần 1 năm (12/1997) theo thông kế của quận đã lên đến
115.024 người, tốc độ tăng dân số đã lên đến 8,38% so với năm 1997. Xét cơ cấu dân
số theo độ tuổi, tỷ lệ dân số trong độ tuổi từ 15 đến 34 tuổi chiếm 42,3 % tổng số dân
của quận. Tình trạng dân cư của quận đang xáo trộn mạnh và phân bố không đều, mật
độ dân số bình quân là 3.220 người/km2 . Tỷ lệ số dân ở diện KT2, KT3, KT4 chiếm
34% số hộ và 33% số nhân khẩu [9]. Sự khác nhau về dân cư và mật độ dân số phân
bố ở các phường đã tác động đến cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn dẫn đến sự
phân bố khác nhau.
b. Cơ cấu theo phương thức thực hiện tội phạm
- Công cụ, phương tiện gây án
Qua nghiên cứu 100 bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi trên địa bàn
Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy: 82 vụ/100 vụ, chiếm tỉ lệ 82% số người dưới
18 tuổi sử dụng công cụ, phương tiện gây án. Công cụ, phương tiện gây án đó chính
là điều kiện cần thiết để người phạm tội thực hiện được hành vi phạm tội của mình
hoặc thúc đẩy hành vi phạm tội đó diễn ra nhanh chóng. Công cụ, phượng tiện chủ
yếu mà người dưới 18 tuổi sử dụng đó là xe máy, dao, kéo, búa, kìm… tùy từng vụ
án khác nhau mà các đối tượng sử dụng công cụ phương tiện khác nhau. Nhưng việc
33
sử dụng công cụ, phương tiện để gây án chiếm tỉ lệ khá cao cho thấy tính chất, mức
độ nguy hiểm hơn của hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng
tăng.
- Động cơ, mục đích phạm tội
Bảng 2.6. Cơ cấu theo mục đích phạm tội.
Thỏa mãn nhu Chơi game, Tổng số bị cáo Hám lợi Mục đích khác cầu cá nhân mua ma túy
176 29 97 33 17
100% 16,48 55,11 18,75 9,66
(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)
Thống kê bảng 2.6 cho thấy người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu
cầu cá nhân chiếm tỉ lệ cao nhất (97 bị cáo; 55,11%); sau đó là chơi game, mua ma
túy (33 bị cáo; chiểm tỉ lệ 18,75%); ngoài ra một số đối tượng vì thỏa mãn sở thích
chơi game, mua ma túy và mục đích khác mà thực hiện hành vi phạm tội. Điều này
cho thấy việc người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội bắt nguồn từ lối sống
lệch lạc, lười biếng, thích hưởng thụ.
2.1.3.2. Cơ cấu theo các đặc điểm nhân thân
Cơ cấu theo các đặc điểm nhân thân được nghiên cứu dựa trên 100 bản án
với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7.
a. Thực trạng các đặc điểm sinh học
- Giới tính
Bảng 2.7. Thực trạng theo giới tính, độ tuổi của nhân thân người dưới 18 tuổi
phạm tội trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015-2019.
Giới tính Độ tuổi Số bị Năm Từ đủ 14 đến Từ đủ 16 đến dưới cáo Nam Nữ dưới 16 18
2015 49 45 4 8 41
2016 25 25 0 5 20
2017 27 27 0 5 22
34
2018 30 27 3 5 25
2019 45 42 3 7 38
Tổng 176 166 10 30 146
100 Tỷ lệ(%) 94,32 5,68 17,05 82,95
(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ cơ cấu theo giới tính Biểu đồ 2.3. Biểu đồ cơ cấu theo độ
của người dưới 18 tuổi phạm tội. tuổi của người dưới 18 tuổi phạm
Nữ 6% 0%
Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
Nam 94%
Từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
tội.
Bảng 2.7 cho thấy đa số các đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội là nam
giới với 166 bị cáo chiếm tỉ lệ 94,32%; chỉ có 10bị cáo là nữ giới chiếm tỉ lệ 5,68%.
Qua thực tiễn cho thấy, việc chênh lệch tỷ lệ này chủ yếu là do sự khác biệt về đặc
điểm tâm– sinhlý - xã hội học giữa hai giới. Nam giới có sức mạnh, tính liều lĩnh, táo
bạo hơn, dễ bị ảnh hưởng của môi trường, điều kiện sống, dễ phát sinh tâm lý tiêu
cực, dễ bị kích động, bị nhiễm thói hư, tật xấu, ăn chơi, đua đòi, bị lôi kéo vào các tệ
nạn....nên họ dễ phạm tội hơn nữ giới. Đây là nhóm đối tượng mà công tác giáo dục,
tuyên truyền, phòng ngừa cần hướng tới. Điển hình như vụ án tại bản án số
163/2017/HSST ngày 28 tháng 09 năm 2017 của TAND Quận 7 [27]: Khoảng 16 giờ
ngày 25/03/2017, Nguyễn Trung Tín, Hồ Thanh Toàn (chưa rõ lai lịch) nhắn tin với
35
Nguyễn Ngọc Hiếu nói có mâu thuẫn với người khác, nhờ đi đánh nhau. Hiếu đồng
ý. Toàn mang theo chiếc côn bằng sắt, để trong người. Đến 18 giờ 30 phút cùng ngày,
Hiếu, Tín, Toàn đùa giỡn, Hiếu thấy em Trần Hoàng Tuần (sinh năm 2002) đang chơi
games thì nhìn Hiếu. Hiếu nói Tuấn có ý nhìn đểu nên bảo Tín đến gây sự với Tuấn.
Tín đến gần dùng cùi chỏ đánh vào đầu Tuấn. Hiếu thấy Tín sử dụng điện thoại nên
nảy sinh ý định chiếm đoạt. Hiếu bảo Tín gọi Tuấn ra khu vực cầu thang bộ nhằm
mục đích chiếm đoạt tài sản của Tuấn. Thiện gọi Tuấn. Khi Tuấn ra đến cầu thang,
Hiếu dùng tay kẹp cổ kéo Tuấn vào khu vực cầu thang bộ tại tầng 3 siêu thị, đóng
cửa lại. Lúc này chỉ có Hiếu, Tín, Tuấn. Hiếu nói với Tuấn “lấy tiền, điện thoại đưa
ra nếu không tao đánh”, vừa nói Hiếu dùng tay lấy trong túi Tuấn 01 điện thoại và số
tiền là 310.000 đồng và bảo Tuấn tháo chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng để Tuấn
chiếm đoạt. Tín lấy “côn sắt” nhằm mục đích đe dọa Tuấn. Lúc này, Tuấn hoảng sợ
để cho Hiếu chiếm đoạt tài sản. Chiếm đoạt được tài sản của em Tuấn, Hiếu giữ chia
cho Tín 110.000 đồng, còn lại Hiếu cất giữ. Sau đó, Tuấn đến báo cho bảo vệ siêu thị
và trình báo cơ quan công an.
Qua vụ án trên cho thấy các bị cáo phạm tội hết sức táo bạo và liều lĩnh có sự
chuẩn bị trước công cụ, phương tiện phạm tội. Hành vi này đã xâm phạm đến tài sản
sỡ hữu của công dân, nguy hại đến tính mạng, sức khỏe và tình thần của bị hại.
- Độ tuổi
Cũng theo kết quả của bảng 2.7 cho thấy nhóm bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất với 146/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 82,95% và độ tuổi từ 14
đến dưới 16 tuổi chiếm tỉ lệ thấp hơn với 30 bị cáo chiếm tỉ lệ 17,05%. Cho thấy độ
tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi là giai đoạn phát triển cả về sinh lý, tâm lý, ý thức. Giai
đoạn này có sự mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc nhiều hơn và khả năng nhận
thức pháp luật còn hạn chế nên dễ thực hiện hành vi phạm tội.
b. Thực trạng các đặc điểm xã hội
- Trình độ học vấn
Bảng 2.8. Thực trạng trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội dưới
18 tuổi trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019.
36
Trình độ học vấn Số bị Năm cáo Không biết chữ Tiểu học THCS THPT
2015 49 9 17 13 10
2016 25 5 10 6 4
2017 27 7 8 8 4
2018 30 9 10 6 5
2019 45 13 14 8 10
Tổng 176 43 59 41 33
100 23,3 Tỷ lệ (%) 24,43 33,52 18,95
(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)
Qua phân tích bảng 2.8 cho thấy số người dưới 18 tuổi phạm tội không biết
chữ chiếm tỉ lệ 24,43 %; số người ở trình độ tiểu học chiếm tỉ lệ 33,52%, số người ở
trình độ Trung học cơ sở chiểm tỉ lệ 23,3%, số người ở trình độ Trung học phổ thông
chiếm tỉ lệ 18,95%. Điều đó cho thấy trình độ học vấn có ảnh hưởng đến nhu cầu và
lợi ích, đến cách xử sự của con người nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Trình
độ học vấn của người phạm tội nhìn chung thấp hơn so với người không phạm tội
cùng độ tuổi. Điền hình như bản án số 143/2018/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2018
của TAND Quận 7: Chung Bá Nhẩn và Nguyễn Trung Đạt là những đối tượng không
có nghề nghiệp ổn định nên đã bàn bạc với nhau đi trôm cắp tài sản bằng thủ đoạn
dùng đoản sắt lục giác cạy phá khóa cửa ngoài của các nhà đi vắng, sau đó vào nhà
để trộm cắp tài sản có giá trị để bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Cả hai phân công thay
phiên nhau một người đứng ngoài cảnh giới, còn một người bẻ khóa đột nhập vào
nhà, tài sản bọn chúng trộm gồm: Tiền, vàng, xe máy, máy ảnh, đồng hồ… sau khi
trộm được vàng thì cả hai đem bán tại tiệm “Huy Tân” tại 265B Nguyễn Thị Tần,
phường 2, Quận 8; còn máy tính bảng, laptop, điện thoại di động bán tại tiệm “Sơn
Trang” số 180, Dương Bá Trạc, phường 2, Quận 8; riêng xe máy cả hai dùng làm
phương tiện tiếp tục đi trộm cắp. Nhẩn và Đạt khai đã thực hiện 26 vụ trộm cắp tài
sản trên địa bàn Quận 7 từ tháng 07/2015 đến thán 10/2015” [27]. Trong vụ án trên
bị cáo Nguyễn Trung Đạt có trình độ học vấn không biết chữ và Chung Bá Nhẫn có
37
trình độ học vấn 7/12. Do có trình độ học vấn thấp nên hiểu biết pháp luật còn hạn
chế, thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần để lấy tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá
nhân, sử dụng tài sản trộm cắp được làm công cụ phương tiện cho những lần phạm
tội tiếp theo.
- Cơ cấu theo địa vị xã hội và nghề nghiệp
Qua nghiên cứu đặc điểm nghề nghiệp của người dưới 18 tuổi phạm tội trên
địa bàn Quận 7, cho thấy đa số người phạm tội dưới 18 tuổi không có việc làm hoặc
có việc làm nhưng không ổn định. Từ việc thu thập thông tin về nghề nghiệp của 100
bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7 cho thấy:
Số bị cáo không nghề nghiệp là 134/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 76,14%, số bị cáo có
nghề nghiệp là 42/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 23,86%. Các bị cáo có nghề nghiệp chủ
yếu là những việc làm không ổn định, là lao động tự do. Từ chỗ nghề nghiệp không
ổn định dẫn đến cuộc sống bấp bênh, sống lang bạt, bê tha, dễ phát sinh các hành vi
tiêu cực như trộm cắp, cướp giật…
2.1.3.3. Tính chất của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Tính chất của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7 thể hiện rõ nhất ở hai tiêu chí đó là tiền án, tiền sự và đồng phạm
a. Tiền án, tiền sự
Bảng 2.9. Cơ cấu theo tiền án, tiền sự.
Tổng số bị cáo Có tiền án, tiền sự Không có tiền án, tiền sự
176 55 121
100% 31,25 68,75
(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)
Thống kê bảng 2.9 cho thấy đa số người dưới 18 tuổi phạm tội trong 100 bản
án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7 không có tiền án, tiền sự với 121/176 bị cáo
chiếm tỉ lệ 68,75%, số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội có tiền án, tiền sự là
55/176, chiếm tỉ lệ 31,25%.
38
b. Vấn đề đồng phạm
Bảng 2.10. Cơ cấu theo hình thức phạm tội.
Tổng số bản án Đồng phạm Đơn lẻ
100 37 63
100% 37 63
(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7)
Thống kê 100 bản án HSST của TAND Quận 7 cho thấy số vụ án các đối
tượng thực hiện đơn lẻ chiếm tỉ lệ khá cao với 63/100 vụ chiếm tỉ lệ 63% và đồng
phạm chiếm tỉ lệ cũng không nhỏ 36/100 vụ chiếm tỉ lệ 36%. Điển hình tại bản án số
34/2019/HSST ngày 01 tháng 04 năm 2019 của TAND Quận 7: Trần Xuân Phát và
Nguyễn Văn Nhật là bạn bè nên ngày 15/09/2018, Phát chủ động gọi điện thoại cho
Nhật rủ đi cướp giật tài sản để kiếm tiền tiêu xài. Khoảng 9 giờ 00 ngày 15/09/2018,
bị cáo Trần Xuân Phát điều khiển xe máy hiệu Utimo biển số 54X9 - 6865 chở bị cáo
Nguyễn Văn Nhật (sinh ngày 23/09/2001) ngồi sau, đi quanh các tuyến đường xem
ai có tài sản để sơ hở thì cướp giật tài sản. Khi cả hai tới trước quán cà phê “Milanno”
thuộc đường Tân Thuận, khu phố 2A, Tân Thuận Đông, Quận 7 phát hiện ông Lê
Trung Thạch ngồi xe gắn máy đậu sát lề đường, đang sử dụng điện thoại di động hiệu
Sony Z3. Lúc này Phát điều khiển quay đầu xe lại, áp sát ông Thạch để Nhật ngồi sau
giật điện thoại rồi cả hai tăng ga bỏ chạy vào khu chế xuất Tân Thuận. Ông Thạch
truy hô cùng bảo vệ Khu chế xuất Tân Thuận đuổi theo đến trước Công ty Juki, đường
Tân Thuận, khu chế xuất Tân Thuận thì bắt giữ Phát, Nhật giao cho công an phường
Tân Thuận Đông [27].
Qua vụ án trên cho thấy, các bị cáo Phát và Nhật đã thực hiện hành vi phạm
tội cướp giật tài sản có sự phân công hành vi để thực hiện tội phạm đến cùng, khi
Phát điều khiển xe gắn máy ép sát bị hại để Nhật ngồi phía sau nhanh chóng chiếm
đoạt tài sản của bị hại. Nếu chỉ có một mình Phát hoặc Nhật thì tội phạm đã không
thực hiện được hành vi phạm tội được. Như vậy, có thể thấy trong vụ án có đồng
phạm thì tính chất phạm tội nguy hiểm cao hơn so với tội phạm thực hiện đơn lẻ.
39
2.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người 18 tuổi
thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Như chương 1 của luận văn tác giả đã tiếp cận việc phân loại nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện dựa trên tiêu chí
nguồn gốc xuất hiện. Chính vì thế nguyên nhần và điều kiện của tình hình tội phạm
do người 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 bao gồm:
2.2.1. Những nguyên nhân và điều kiện thuộc môi trường sống
2.2.1.1. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình
Môi trường gia đình là một thành tố có tính quyết định đến sự hình thành và
phát triển nhân cách con người. Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những
phẩm chất tốt đẹp nếu có một môi trường sống tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi
gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Trong các mô hình gia đình, mô hình gia đình trí
thức, bố mẹ có trình độ học vấn, đầm ấm, thuận hòa và hạnh phúc sẽ có những định
hướng tính cực đến giá trị nhân cách của trẻ. Trẻ sẽ có những định hướng đúng đắn
theo sự hướng dẫn của cha mẹ đúng với đạo đức của xã hội.
Nghiên cứu đặc điểm hoàn cảnh gia đình trong nguyên nhân và điều kiện
người phạm tội là nghiên cứu ở khía cạnh về quan hệ gia đình và hoàn cảnh kinh tế
gia đình với những tác động của chúng tới người phạm tội.
- Gia đình khuyết thiếu:
Thống kê 100 bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy số bị cáo có hoàn cảnh gia đình thuận lợi
có 60/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 34,09%, số bị cáo có hoàn cảnh gia đình không thuận
lợi như mồ côi cả cha lẫn mẹ, mồ côi mẹ, mồ côi cha [27]… Với kết quả nghiên cứu
trên, cho thấy rằng những người có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi khi gặp môi
trường xấu và do tác động của những nhân thân xấu thì dễ phạm tội hơn so với những
người sống trong gia đình có hoàn cảnh thuận lợi. Bởi, họ không được sự giáo dục
của gia đình, thiếu sự răn dạy của cha mẹ, có lối sống buông thả, lang bạt từ nhỏ, dễ
bị kích động theo lối sống tình nghĩa giang hồ, lập những băng nhóm và đôi khi chỉ
40
vì những mâu thuẫn nhỏ đã bị kích động thực hiện những hành vi cực kỳ nguy hiểm
như gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích hoặc giết người.
- Gia đình kinh tế khó khăn:
Qua nghiên cứu 100 bản án hình sự sơ thẩm của TAND Quận 7 cho thấy số bị
cáo có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn là 90/176 chiếm tỉ lệ 51,13% [27]. Do
kinh tế khó khăn, nên trong cuộc sống hằng ngày bố mẹ phải bươn chải kiếm sống,
không có thời gian để quan tâm giáo dục, chăm sóc con cái cộng với sự tác động từ
môi trường xấu, nhân thân xấu từ bên ngoài mà không có sự điều chỉnh kịp thời của
gia đình nên dễ thực hiện hành vi phạm tội. Hoàn cảnh kinh tế là một trong những
yếu tố có ý nghĩa rất lớn đối với việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội và tác
động trực tiếp đến cách thức xử sự của con người. Cuộc sống gia đình thường xuyên
thiếu thốn không đủ đáp ứng các nhu cầu bên ngoài xã hội, dẫn đến việc muốn có
tiền tiêu xài, thõa mãn các nhu cầu nên đã thực hiện hành vi phạm tội như trộm cắp,
cướp giật...
- Gia đình quá nuông chiều con cái:
Hiện nay, cuộc sống xã hội hiện đại cuốn con người vào dòng chảy của công
việc của cơm áo, gạo tiền. Thời gian cha mẹ đi làm, con cái đi học khá bận rộn khiến
các thành viên trong gia đình khó có cơ hội, quây quần, trò chuyện, gần gũi. Trong
khi đó ở lứa tuổi dưới 18 tuổi rất cần có sự sẻ chia, chỉ bảo của gia đình. Nhiều cha
mẹ có tư tưởng phó thác trách nhiệm giáo dục cho nhà trường và xã hội. Họ nghĩ rằng
kiếm thật nhiều tiền cung cấp vật chất cho con là đủ. Có những gia đình con cái đòi
gì cũng đáp ứng, thiếu sự kiểm tra uốn nắn kịp thời. Dẫn đến không ít trẻ trở nên vô
tổ chức kỉ luật, bỏ học, bỏ nhà theo bạn bè tụ tập, lêu lổng. Bên cạnh đó, nhiều cha
mẹ không chú trọng dạy cho con cách đối nhân xử thế, biết tôn trọng mình và tôn
trọng người khác, không dạy con lòng khoan dung, sự độ lượng, vị tha và tinh thần
đoàn kết. Có không ít bố mẹ chưa thực sự là tấm gương tốt cho con cái.
Thống kê cho thấy, có 26/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 14,61% [27] được gia đình
quá nuông chiều, bao bọc, thỏa mãn mọi nhu cầu. Từ bé đã được cha mẹ hình thành
thói quen muốn gì được nấy nên khi lớn lên hình thành ý thức thiếu tôn trọng quyền
41
sở hữu tài sản của người khác, không có thì đi trộm, đi cướp giật về. Nếu cha mẹ thể
hiện tình yêu thương con cái không đúng cách thì rất có thể, con cái sẽ vượt quá các
giới hạn và về lâu dài sẽ ảnh hưởng tới hành vi, tính cách của con như cư xử tùy ý,
bốc đồng và hành xử vội vã, tùy tiện.
Ngoài ra còn có những gia đình mà bố mẹ có cách giáo dục sai lệch thiếu khoa
học như bạo lực, độc đoán, lạnh lùng, thiếu sâu sát, thiếu sự quan tâm… gia đình mà
cha mẹ có những hành vi lệch chuẩn thì định hướng giá trị nhân cách của các em
cũng thiên về sự phat triển lệch lạc. Thực tế cho thấy, hành vi phạm tội của mộ số bị
cáo cũng bắt nguồn từ gia đình do cha mẹ đánh đập, thiếu quan tâm, chửi mắng hoặc
cha mẹ thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, cha mẹ nghiện ma túy…
2.2.1.2. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường
Nếu gia đình là cái nôi thứ nhất, thì nhà trường là cái nôi thứ hai góp phần
quan trọng vào việc giáo dục và rèn luyện con người. Nhà trường ngoài việc truyền
thụ kiến thức, còn làm nhiệm vụ giáo dục những phẩm chất nhân cách của học sinh
và hoàn thiện những nhân cách ấy. Bên cạnh những thành tích tốt đẹp mà nhà trường
dành được, còn có những hạn chế trong công tác giáo dục. Những thiếu sót đó tạo ra
nhiều nguyên nhân và điều kiện tác động đến người dưới 18 tuổiphạm tội. Qua phân
tích bảng 2.8 cho thấy số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quận 7
có trình độ dưới tiểu học chiếm tỉ lệ khá cao là 59,75% (bao gồm không biết chữ
chiếm tỉ lệ 24,23 %; số người ở trình độ tiểu học chiếm tỉ lệ 33,52%). Điều này cho
thấy rằng, trình độ học vấn có ảnh hưởng đến cách xử sự, nhận thức của con người
nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Trong đó môi trường nhà trường có vai trò
quan trong trong việc hình thành nhân cách của người dưới 18 tuổi. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Sự học tập ở Nhà trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của
thanh niên, và tương lai của thanh niên là tương lai của nước nhà”. Tuy nhiên, hiện
nay vẫn còn những yếu tố tiêu cực trong môi trường nhà trường ảnh hưởng đến việc
hình thành nhân cách. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường có thể khái
quát thành những nội dung như sau:
42
Thứ nhất, hiện nay chương trình giáo dục còn nghiêng về trang bị kiến thức lý
thuyết, chưa thật sự thiết thực, chưa coi trọng kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng
kiến thức; chưa đáp ứng tốt yêu cầu về hình thành và phát triển phẩm chất và năng
lực của học sinh; nặng về chữ, nhẹ dạy về người, chưa coi trọng hướng nghiệp. Ở các
trường học trên địa bàn Quận 7, ngoài hoạt động dạy học trên lớp do nội dung chương
trình quá tải thời gian học dài và lịch kiểm tra, thi cử quá dày nên các trường ít tổ
chức cho học sinh các hoạt động ngoài giờ, có trường có nhưng vẫn con mang tính
hình thức. Chính việc học quá tải dẫn học sinh không tìm thấy niềm vui khi lên lớp
vì không theo kịp chương trình học, trong khi đó việc học ở trường phải chịu quá
nhiều áp lực về thi cử, kể cả môi trường học thiếu thân thiện. Học sinh chưa thể trút
bỏ hết gánh nặng của áp lực học hành bởi do sự tác động của nhiều phía: xã hội, gia
đình và nhà trường. Xã hội còn coi trọng bằng cấp, chú ý lý thuyết khoa bảng nhiều
hơn kĩ năng ứng dụng trong thực tế, sự lập nghiệp của mỗi người còn phụ thuộc nhiều
vào học hành, thi cử. Sự kì vọng của gia đình đặt quá lớn lên vai người học, làm cho
học sinh chưa có cảm giác là đi học vì mình, cho mình mà học vì gia đình, vì cha mẹ
họ. Việc này dẫn đến sự không hứng thú, bỏ bê, chán nản trong học tập không quan
trọng việc học vì không xác định được mục đích học tập sau đó sa đà vào những trò
tiêu khiển trên các trang mạng xã hội, thích rủ rê, đàn đúm với bạn bè xấu, dễ sa vào
tệ nạn xã hội rồi từ đó phát triển thành những hành vi phạm tội.
Thứ hai, thực tế hiện nay mối quan hệ phối hợp giữa nhà trường và gia đình
ngày càng lỏng lẻo, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, song do cả hai phía giáo viên
và phụ huynh học sinh. Giáo viên chủ nhiệm chỉ gặp gỡ phụ huynh học sinh trong
các buổi họp phụ huynh trong năm học nên không thể trao đổi với nhau về các vấn
đề liên quan đến trẻ, thiếu sự trao đổi thông tin về trẻ. Điều này ảnh hưởng không
nhỏ tới việc giáo dục cho các em. Cha mẹ dường như giao khoán cho nhà trường mà
không quan tâm đến học tập và rèn luyện đạo đức cho con. Hậu quả của việc gắn kết
lỏng lẻo giữa gia đình và nhà trường dẫn đến việc không kiểm soát và phòng ngừa
được những hành vi lệch chuẩn của con cái dẫn đến bạo lực học đường ngày càng gia
tăng, đi vào con đường vi phạm pháp luật.
43
Thứ ba, đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định thành công và đổi mới giáo
dục, hình thành nhân cách của học sinh. Tuy nhiên, nhìn vào tình hình thực tế hiện
nay, năng lực đội ngũ giáo viên đang là vấn đề lo ngại vì một số giáo viên còn chưa
đạt yêu cầu về năng lực dạy học, giáo dục theo chương trình hiện hành. Trong công
tác chuyên môn, còn không ít giáo viên có biểu hiện sa sút về ý chí, sức chiến đấu,
cống hiến, chưa thực sự công tâm, chưa đánh giá đúng thực tế kết quả học tập của
học sinh; có biểu hiện thành tích trong giáo dục, còn nhiều tiêu cực, làm giảm uy tín,
niềm tin của học sinh, phụ huynh và cộng đồng xã hội đối với độ ngũ nhà giáo.Bên
cạnh đó đạo đức nghề nghiệp là phẩm chất cốt lõi quan trọng hàng đầu đối với nhà
giáo dục, là nền tảng, động lực thôi thúc trách nhiệm, nhiệt huyết để mỗi giáo viên
phấn đấu hoàn thành sự nghiệp, xứng danh với nghề cao quý mà xã hội tôn vinh
nhưng lại tồn tại việc giáo viên thiếu tâm huyết với nghề, không tuân thủ những quy
chuẩn của đạo đức nghề nghiệp, làm suy thoái danh dự, lương tâm của nhà giáo như
nhận phong bì, chạy trường, chạy điểm, lạm thu tiền quỹ, thậm chí xúc phạm, bạo
hành đối với học sinh…
2.2.1.3. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường bạn bè
Con người sống trong xã hội, ngoài mối quan hệ với gia đình, nhà trường thì
mối quan hệ với bạn bè cũng diễn ra hàng ngày và thường xuyên trong suốt cuộc đời
mỗi con người, bởi một con người không thể sống một mình trong xã hội mà không
cần có sự giao lưu, tiếp xúc với bạn bè. Trong một số trường hợp việc giao lưu, tiếp
xúc với bạn bè hàng ngày còn nhiều hơn tiếp xúc với cha mẹ.Đây là vấn đề có ý nghĩa
trong việc hình thành đặc điểm nhân thân tích cực nhưng song song đó cũng ảnh
hưởng đến những đặc điểm nhân thân tiêu cực. Theo thống kê tại bảng 2.10 những
vụ án đồng phạm chiếm tỉ lệ 37% cho thấy những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường
bạn bè ảnh hưởng, tác động, hình thành phẩm chất tiêu cực ở cá nhân người dưới 18
tuổi phạm tội. Đối với những gia đình khiếm khuyết như cha mẹ ly thân, ly hôn,
không có cha hoặc mẹ hoặc mồ côi cả cha lẫn mẹ thì thời gian mà người phạm tội
tiếp xúc với bạn bè xấu do bất mãn gia đình, bất mãn xã hội càng dễ xảy ra và phổ
biến. Điển hình như vụ án tại bản án số 46/2019/HSST ngày 23 tháng 04 năm 2019
44
của TAND Quận 7: Nguyễn Thành An, Nguyễn Thái Thiện An (sinh ngày
31/03/2001) và Bành Tân Lợi (sinh ngày 03/04/2001) là bạn bè với nhau. Khoảng 17
giờ ngày 10/11/2018, Thiện An điều khiển xe máy biển số 63B5 – 103.39 chở Lợi từ
Tiền Giang đến khu lưu trú công nhân, Lô X01 đường Bùi Văn Ba, phường Tân
Thuận Đông gặp Thành An. Sau đó, cả ba chở nhau đến công viên Khu chế xuất Tân
Thuận chơi. Thành An biết tại khu lưu trú công nhân xe máy không có người trông
giữ nên rủ Thiện An và lợi trộm cắp. Thiện An và Lợi đồng ý. Do còn sớm nên cả
ba chạy xe đến đường Bùi Viện, Quận 1 chơi. Đến khoảng 02 giờ ngày 11 tháng 11
năm 2018, cả ba quay lại khu lưu trú công nhân để lấy trộm xe máy. Tại đây, Thành
An bảo Thiện An và Lợi vào bên trong lấy trộm, còn mình ngồi trên xe máy biển số
63B5 – 103.39 bên ngoài cảnh giới. Thiện An và Lợi vào bên trong khu lưu trú công
nhân nhìn thấy xe máy hiệu Yamaha Siriu, biển số 71C3 – 286.09 đang khóa cổ. Cả
hai dùng chân đạp vào tay lái làm hư khóa cổ rồi đẩy xe ra ngoài. Do không nổ máy
được, nên Thiện An ngồi trên xe máy vừa trộm, còn Thành An điều khiển xe máy
biển số 63B5 – 103.39 chở Lợi ngồi sau, dùng chân đẩy. Khi đến gần ngã tư đường
Nguyễn Lương Bàng – đường số 19 phường Tân Phú thì bị đội Cảnh sát hình sự Công
an quận 7 tuần tra phát hiện, bắt giữ Thiện An cùng xe máy biển số 71C3 – 286.09.
Thành An và Lợi tẩu thoát. Đến 20 giờ ngày 11/11/2018, Nguyễn Thành An bị Cơ
quan công an mời lên làm việc. Ngày 12/11/2018, Lợi đến Công an Quận 7 đầu thú
[27]. Trong vụ án trên, Nguyễn Thành An là kẻ chủ mưu, rủ rê, cảnh giới, Nguyễn
Thái Thiện An và Bành Tân Lợi là hai bị cáo chưa thành niên thực hiện hành vi phạm
tội chủ mưu, rủ rê, cảnh giới cho đồng bọn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do bị
cáo này là người thuê phòng trọ ở khu lưu trú công nhân nên biết được sự thiếu cảnh
giác của những người thuê trọ khi đến để xe nên đã chủ mưu chiếm đoạt tài sản.
Chúng ta thấy Thành An, Thiện An và Lợi có mối quan hệ bạn bè điều đó cho thấy
rằng môi trường bạn bè cũng ảnh hưởng đến những đặc điểm nhân thân tiêu cực.
Cùng với sự phát triển của internet và các mạng xã hội tràn lan, việc người
phạm tội giao lưu, kết bạn không chỉ dừng lại ở chỗ tiếp xúc với bạn bè trong cuộc
45
sống mà còn bạn bè ở tronh thế giới ảo. Qua việc trò chuyện, tiếp xúc với bạn xấu
trên internet sẽ dẫn đến sự rủ rê, lôi kéo thực hiện hành vi phạm tội.
2.2.1.4. Môi trường kinh tế xã hội vĩ mô
Quận 7 là một trong những quận có kinh tế phát triển ở Thành phố Hồ Chí
Minh, đời sống của người dân đang từng bước được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bên
cạnh những mặt tích cực mà nền kinh tế thị trường đem lại thì còn bộc lộ một số vấn
đề như:
- Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt tác động tiêu cực trong xã hội. Theo
nghiên cứu 100 bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn
Quận 7 thì có 56/176 bi cáo có hộ khẩu ở Quận 7 chiếm tỉ lệ 31,82% còn lại là 120
người chiếm tỉ lệ 68,18% có hộ khẩu tại những quận, huyện khác và các tỉnh khác
đến địa bàn Quận 7 [27] làm ăn, sinh sống đa phần là những người lao động tự do,
thu nhập bấp bênh, không kiếm được việc làm dễ phát sinh hành vi phạm tội.
- Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, qua nghiên cứu 100 bản án HSST về
các tội do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 cho thấy: Số bị cáo không
nghề nghiệp là 134/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 76,14%, số bị cáo có nghề nghiệp là
42/176 bị cáo chiếm tỉ lệ là 23,86%. Có trường hợp những bị cáo có các nghề nghiệp
không ổn định như lái xe, phụ hồ, buôn bán… Do các bị cáo có thu nhập bấp bênh
không đủ đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Có bị cáo do thất học, thất nghiệp bị bạn bè
xấu lôi kéo nên có sở thích lệch lạc như chơi games, ma túy… nên thực hiện những
hành vi như trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản… để thỏa mãn nhu cầu của mình.
2.2.1.5. Môi trường nơi cá nhân làm việc, cư trú
Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú có ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách con người, nó thể hiện vị trí,vai trò của mỗi cá nhân xác định
trong quá trình xã hội hóa. Yếu tố môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú có thể
ảnh hưởng đến một số đặc điểm thuộc tâm lý cá nhân như yếu tố văn hoá, tập quán,
thói quen, nét tính cách của địa bàn cư trú. Nó có ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng
phạm tội nói chung và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi nói riêng, có vai trò
rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhận thức. Nếu sống trong môi trường tập
46
thể hoặc nơi cư trú lành mạnh, an toàn, mọi người biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau,
không có tệ nạn xã hội và tội phạm hoành hành, mọi người biết chí thú làm ăn, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật thì có thể nói đây là môi trường thuận lợi có tác động tích
cực đến việc hình thành nhân cách đúng đắn của cá nhân và hạn chế sự lệch lạc của
cá nhân. Ngược lại, nếu sống trong môi trường có chứa đựng nhân tố tiêu cực như có
nhiều người sống bê tha, suốt ngày chỉ cờ bạc, rượu chè, đánh nhau thậm chí sa đà
vào ma tuý, mại dâm thì đây là môi trường xấu tiềm ẩn nguy cơ lôi kéo, tác động đến
người thiếu bản lĩnh, không vững dễ sa ngã trước cái xấu, cái tiêu cực của đời sống
xã hội từ đó có thể ảnh hưởng, dẫn đến việc hình thành và phát triển nhân cách lệch
lạc. Quận 7 là nơi có nền kinh tế phát triển với nhiều khu đô thị như Phú Mỹ Hưng,
Cityland Riverside, Nam phú Villas, khu đô thị Him Lam – kênh Tẻ… đây là những
nơi lí tưởng để sinh sống và làm việc. Tuy nhiên, bên cạnh kinh tế phát triển thì hình
thành nhiều khu nhà trọ dành cho những người có thu nhập thấp, tiềm ẩn những vấn
đề phức tạp về an ninh trật tự. Có nhiều khu trọ công nhân giá rẻ thường không được
quản lý chặt chẽ nên vấn đề an ninh thường bị xem nhẹ. Những khu nhà trọ, các khu
công nghiệp khá phức tạp bởi sự khác biệt về lối sống, vùng miền của nhiều người
đến sinh hoạt và làm việc tại địa bàn Quận 7. Như đã phân tích ở mục 2.2.2.1 cho
thấy cấp độ nguy hiểm của tình hình tội phạm trên các phường như Bình Thuận, Tân
Thuận Tây, Tân Quy cao nhất so với các phường khác trên địa bàn Quận. Địa bàn 3
phường này gần Khu chế xuất Tân Thuận có số lượng công nhân, người lao động đến
làm việc, sinh sống rất lớn. Do đó, hoạt động tội phạm từ các khu công nhân làm việc,
khu trọ cũng hết sức phức tạp. Các băng nhóm tội phạm lợi dụng địa bàn dân cư, giáp
ranh để lẩn trốn và hoạt động. Những vấn đề “nóng” trong giai đoạn hiện nay đó là
tệ nạn tín dụng đen, cờ bạc, ma tuý, mại dâm bủa vây, ảnh hưởng đến người lao động
trong đó có người dưới 18 tuổi.
2.2.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội dưới 18 tuổi
2.2.2.1. Sai lệch về sở thích
Qua nghiên cứu 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi trong 100 bản án hình sự sơ
thẩm do TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử trong giai đoạn 2015 - 2019
47
cho thấy người phạm tội có những sở thích lệch lạc như: nghiện games, ma tuý, ăn
chơi, cờ bạc... là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi phạm tội được
nêu trong bản án. Điển hình như vụ án sau:
Khoảng 20 giờ ngày 19/02/2017, Phúc rủ Thành (đều dưới 18 tuổi) đi cướp
giật tài sản của người đi đường bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, Thành đồng ý.
Thành điều khiển xe máy biển số 62F5 – 6187 chở Phúc lòng vòng địa bàn Quận 7,
Quận 8 để thực hiện hành vi “Cướp giật tài sản”. Khi đến ngã tư đường Nguyễn Thị
Thập và đường số 5 khu dân cư Him Lam, phường Tân Hưng, Quận 7, Phúc phát
hiện chị Huỳnh Thị Kiều Lan đang ngồi trên xe máy, tay bấm điện thoại thì Phúc nói
với Thành chạy xe áp sát xe chị Lan. Phúc ngồi sau rồi giật điện thoại của chị Lan,
rồi tăng ga tẩu thoát. Phúc, Thành mang điện thoại cướp giật được đến cầm cho Nam
(chưa rõ lai lịch) với giá 300.000 đồng, đổi lấy ma túy sử dụng.
Đến sáng ngày 20/02/2017, Thành mượn tiền của bạn tên Tuyền (chưa rõ lai
lịch) chuộc lại điện thoại cùng Phúc qua Quận 4 bán thì bị Công an Quận 4 phát hiện,
bắt giữ cùng tang vật chuyển giao cho Công an Quận 7 xử lý [27]. (Trích bản án số
116/2017/HSST ngày 26 tháng 07 năm 2017 của TAND Quận 7).
Qua vụ án trên bị cáo Lê Hoàng Phúc và bị cáo Võ Hoàng Thành đều là những
đối tượng nghiện ma túy vì không có tiền để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút nên thực
hiện hành vi cướp giật tài sản để lấy tiền mua ma túy thỏa mãn cơn nghiện. Các bị
cáo đều nhận thức được ma túy là độc hại, sử dụng ma túy sẽ gây ra trạng thái nhiễm
độc, lú lẫn tâm trí, gây nên những trạng thái tâm lý không bình thường, làm mất đi
một số chức năng cơ bản vốn có của cơ thể, tạo thành những ảo giác, kích động và
sử dụng lâu dài sẽ gây ra sự lệ thuộc hay còn gọi là nghiện nhưng do sự sai lệch sở
thích về ảo giác mà ma túy mang lại nên đã trở thành đối tượng nghiện hút.
2.2.2.2. Sai lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu
Qua nghiên cứu 100 bản án với 176 bị cáo là người dưới 18 tuổi trong các bản
án hình sự sơ thẩm do TAND Quận 7 xét xử trong giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy:
97/176 bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân, chiếm tỉ
lệ 51, 11% [27] - đây là một con số không nhỏ. Nhu cầu đươc coi là một mong muốn,
48
nguyện vọng của con người là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu có khả
năng chi phối con người nếu trong trường hợp cấp bách. Nhu cầu của một cá nhân rất
đa dạng và vô tận nếu trong trường hợp con người có nhu cầu sai lệch và tìm mọi
cách thoả mãn nhu cầu đó thì sẽ dễ dẫn đến việc thực hiện một cách bất chấp, kể cả
là hành vi phạm tội. Hiện nay, dưới sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường,
một số người có tư tưởng thực dụng, lười lao động, có lối sống buông thả… Họ không
có công ăn việc làm, thu nhập không đủ thoả mãn nhu cầu cá nhân nên đã lấy việc
thực hiện hành vi phạm tội là nguồn sinh sống chủ yếu.
2.2.2.3 Hạn chế về trình độ học vấn
Trình độ học vấn là vốn tri thức mỗi người, được tiếp thu được qua sách vở,
mà thước đo là những tấm bằng tốt nghiệp, những chứng chỉ xác nhận học hàm, học
vị. Người có trình độ học vấn cao đa phần họ có sự hiểu biết và có cách ứng xử phù
hợp với đạo đức xã hội và các quy định của pháp luật. Như ở chương 2 phần 2.3.1.2
đã nêu lên thực trạng về trình độ học vấn, qua nghiên cứu 100 bản án hình sự sơ thẩm
của TAND Quận 7 xét xử trong giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy đa phần các bị cáo
có trình độ học vấn thấp, dẫn đến trong suy nghĩ và hành động có xu hướng đi ngược
lại đạo đức xã hội. Điển hình như vụ án sau:
Bị cáo Trần Tấn Lộc, Lê Tấn Phúc và Phạm Minh Nhật quen biết chơi chung
với nhau. Khoảng 14 giờ ngày 18/06/2019, Lê Tấn Phúc tới nhà Phạm Minh Nhật
chơi và Hiếu rủ Phúc đi trộm gà ở trong kho 18, trên đường đi thì cả hai ghé vào nhà
và rủ Trần Tấn Lộc đi cùng. Tuy nhiên, không tìm thấy con gà nào để trộm, Nhật rủ
Phúc, Lộc đi cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu xài thì cả bọn đồng ý. Nhật điều khiển
xe gắn máy hiệu Wave màu xanh đen, biển số 60L2 – 9510 chở Lộc ngồi giữa, Phúc
ngồi phía sau cùng. Khi đến góc đường số 8 và đường Tân Thuận, khu chế xuất Tân
Thuận, phường Tân Thuận Đông, Quận 7, cả ba phát hiện một người phụ nữ đi xe
đạp đang đi ngược chiều để 1 túi nilon trên xe nên Nhật quay xe lại áp sát để Lộc
dùng tay giật túi rồi Nhật điều khiển xe máy tẩu thoát vào khu chế xuất Tận Thuận,
khi mở túi vừa giật được ra xem thì bên trong có 03 cái bánh ngọt, 01 chứng minh
nhân dân phô tô, 01 nón vải màu trắng và không có tài sản gì. Cả bọn lấy bánh ăn,
49
còn giấy tờ, túi nilon, đồ vật thì vứt đi. Sau đó, Nhật tiếp tục điều khiển xe chở Lộc,
Phúc phía sau tiếp tục đi lòng vòng tìm kiếm tài sản sơ hở để cướp giật. Đến 17 giờ
30 phút cùng ngày, khi đến trước cổng Công ty BC và Producting, đường 15 Khu chế
xuất Tân Thuận phát hiện chị Phạm Thị Mai Luyến đang điều khiển xe đạp ngược
chiều có để 01 giỏ xách trên xe, Nhật liền điều khiển xe áp sát để Lộc ngồi sau giật
giỏ xách rồi tăng ga bỏ chạy thì bị bắt giữ, lập biên bản phạm tội quả tang. Chị Luyến
đã đến công an phường trình báo. Trong túi xách của bị hại có một dây đeo tai nghe
màu trắng, một thỏi son màu đen, một thẻ công nhân mang tên Phạm Thị Luyến [27].
(Trích bản án số 182/2019/HSST ngày 28 tháng 11 năm 2019 của TAND Quận 7).
Trong vụ án trên bị cáo Trần Tấn Lộc (sinh ngày 17/04/2004) có trình độ học
vấn 7/12; bị cáo Lê Tấn Phúc (sinh ngày 05/6/2004) có trình độ học vấn 7/12, bị cáo
Phạm Minh Nhật (sinh ngày 16/3/2004) có trình độ học vấn 05/12 [27] đều là những
bị cáo có trình độ học vấn thấp, lười lao động, nhận thức hạn chế, rủ nhau đi trộm gà,
đi cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu xài.
2.2.2.4. Sai lệch, hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân
Trong xã hội, ý thức pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành
nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử, là một bộ phận tạo nên đời sống pháp luật.Ý
thức pháp luật là tổng thể những quan điểm, quan niệm về pháp luật, là tình cảm và
tâm trạng của con người đối với pháp luật. Mọi hoạt động của con người đều được
điều chỉnh bởi pháp luật, để có thể nhận biết được đâu là xử sự được phép, đâu là
hành vi đi ngược lại với những quy định của pháp luật cũng như chuẩn mực đạo đức,
quy tắc cuộc sống, đòi hỏi mỗi chủ thể phải có sự hiểu biết về pháp luật cũng như khả
năng lĩnh hội trước những tác động của môi trường sống xung quanh.Qua nghiên cứu
bảng 2.8 thể hiện phần lớn người phạm tội dưới 18 tuổi có trình độ học vấn thấp,
thiếu kiến thức về pháp luật cũng như khả năng kiềm chế và kiểm soát hành vi. Điển
hình là vụ án: Khoảng 18 giờ ngày 25/4/2019, Nguyễn Văn Quý, sinh ngày:
14/3/2004 điều khiển xe mô tô, biển số: 77H2-8169 chở Nguyễn Văn Mạnh, sinh
ngày: 06/10/2002 và Trần Phước Thọ, sinh ngày: 17/9/2004, còn Phạm Minh Hiếu,
sinh ngày: 30/4/2004 điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu bạc (không rõ biển số) chở
50
Lê Tấn Thọ đi trên nhiều tuyến đường trên địa bàn Quận 7 tìm ai có tài sản sơ hở để
trộm cắp. Khi cả nhóm đi đến trước nhà số: 156/21 Tân Mỹ, phường Tân Thuận Tây
phát hiện xe mô tô hiệu Mangostin, biển số: 51Z7-3006 của anh Huỳnh Phúc Hậu
dựng trước cửa nhà nhưng không có người trông coi nên Nguyễn Văn Quý, Nguyễn
Văn Mạnh, Trần Phước Thọ, Lê Tấn Thọ và Phạm Minh Hiếu cùng nhau lấy trộm
đem về sơn lại màu xe thay đổi biển số rồi sử dụng.
Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 28/4/2019, cũng với thủ đoạn tương tự
Nguyễn Văn Quý tiếp tục rủ Nguyễn Văn Mạnh, Lê Tấn Thọ đi trộm cắp tài sản.
Mạnh, Tấn Thọ đồng ý. Quý điều khiển xe mô tô hiệu Mangostin, gắn biển số: 77H2-
8169 (biển số thật 51Z7-3006) chở Mạnh và Lê Tấn Thọ đi nhiều tuyến đường trên
địa bàn Quận 7 tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến trước nhà số 126-128 Hoàng
Quốc Việt, phường Phú Mỹ, Quận 7, phát hiện xe mô tô hiệu Suzuki Viva, biển số:
85R3-0700 của anh Hoàng Văn Thép dựng trước cổng nhưng không có người trông
coi nên Quý dừng xe cho Tấn Thọ và Mạnh xuống xe, đi bộ vào lấy trộm xe dắt bộ
ra đường Huỳnh Tấn Phát. Do không có chìa khóa để mở công tắc điện của xe Quý
điều khiển xe mô tô hiệu Mangostin, gắn biển số: 77H2-8169 chở Tấn Thọ dùng chân
đẩy xe mô tô hiệu Suzuki Viva, vừa trộm được do Mạnh điều khiển tẩu thoát. Khi đi
đến trước địa chỉ 88 Nguyễn Văn Qùy, phường Phú Thuận, Quận 7, thì bị Đội Cảnh
sát hình sự-Công an Quận 7 trên đường tuần tra phát hiện bắt giữ Mạnh cùng vật
chứng; Quý chạy bộ vào Cửa hàng tiện lợi Click K đường Trần Trọng Cung, phường
Tân Thuận Đông thị bị bắt giữ, còn Tấn Thọ bỏ chạy thoát. [27] (Trích bản án số
131/HSST ngày 18/9/2019 của TAND Quận 7).
Trong vụ án này, bị cáo Mạnh xác định việc bị cáo cùng với Quý, Hiếu, Tấn
Thọ, Phước Thọ đi trộm cắp tài sản không có bàn bạc trước về phân công nhiệm vụ
lấy tài sản, cách thức bán tài sản và phân chia với nhau như thế nào, chỉ là hết tiền
xài và sử dụng ma túy thì Quý và Phước Thọ rủ đi trộm cắp tài sản và cả bọn đồng ý
thực hiện, cùng nhau đi kiếm tài sản sơ hở để chiếm đoạt nên không có căn cứ xác
định bị cáo phạm tội là do bị rủ rê, lôi kéo. Mặt khác, chỉ trong vòng 03 ngày, bị cáo
cùng với Quý, Hiếu, Phước Thọ, Tấn Thọ đã thực hiện 02 lần hành vi lén lút chiếm
51
đoạt tài sản của người khác nhưng do xe mô tô hiệu Mangostin, biển số: 51Z7-3006
của ông Huỳnh Phước Hậu có trị giá 1.500.000 đồng nên lần phạm tội này chưa đủ
định lượng để cấu thành tội phạm. Sau khi trộm được chiếc xe này, cả bọn đã thống
nhất sơn lại màu xe, tháo biển số thật của xe ra và gắn biển số xe khác để dùng xe mô
tô này đi tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe mô tô hiệu Suzuki Viva màu xanh,
biển số: 85R3-0700 trị giá 3.500.000 đồng của ông Hoàng Văn Thép vào ngày
28/4/2019. Bị cáo tuy còn nhỏ tuổi nhưng không đi học, tụ tập với bạn bè xấu chơi
khuya. Khi hết tiền tiêu xài và sử dụng ma túy đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Bị cáo
nhận thức được hành vi này là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn nhu cầu nên đã
xâm phạm trực tiếp đến tài sản sở hữu hợp pháp của công dân.
2.2.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa khắc phục nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
- Đối với Cơ quan điều tra
Ở nước ta, Cơ quan điều tra là một bộ phận không thể thiếu được của Tố tụng
hình sự, đây là cơ quan tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập, củng cố, chứng
minh các chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở cho việc
truy tố bị can.
Để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đòi hỏi những người tiến hành tố tụng
phải là người có trình độ hiểu biết về tâm lý của người chưa thành niên, có kinh
nghiệm công tác... Như vậy mới đảm bảo được sự khách quan, toàn diện và đầy đủ,
đúng pháp luật, đảm bảo được quyền của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Trong hoạt động điều tra, cơ quan điều tra tiến hành các biện pháp và các hoạt
động điều tra do luật định như: lấy lời khai, xem xét các dấu vết trên thân thể, tạm
giữ đồ vật... Tuy nhiên đối với người phạm tội dưới 18 tuổi thì các hoạt động này có
những quy định riêng biệt nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và
chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh,
trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, trong một số vụ án, Cơ quan điều
tra chưa làm hết trách nhiệm, hoạt động lấy lời khai còn sơ sài, đấu tranh, khai thác
52
chưa triệt để; hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ vật chứng... còn
thiếu thận trọng, tỉ mỉ; việc xác định tuổi của người dưới 18 tuổi do còn nhiều nhận
thức khác nhau nên gặp không ít những khó khăn trong việc xác định tuổi; việc sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ chưa đồng bộ, thống nhất; chưa có sự phối kết hợp chặt
chẽ giữa các lực lượng trong ngành, chưa có xây dựng phòng dành riêng cho người
tiến hành các hoạt động tố tụng đối với người dưới 18 tuổi..
- Đối với Viện kiểm sát nhân dân
Theo Điều 207, Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ
bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.[16]
Chúng ta có thể thấy rằng, hoạt động của Viện kiểm sát có một vị trí đặc biệt
quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói
riêng. Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được khách
quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, đồng thời thực hiện quyền công tố. Hoạt
động của Viện kiểm sát có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động tư pháp nói
chung và trong hoạt động Tố tụng hình sự nói riêng. Viện kiểm sát nhân dân đã làm
tốt vai trò của mình trong hoạt đông kiểm sát việc lấy lời khai bị can, bị cáo, bị hại,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án đảm bảo khách quan có căn cứ
và tính hợp pháp. Viện kiểm sát nhân dân đã chủ động phối hợp với các cơ quan tư
pháp trong việc giải quyết nhiều vụ án trọng điểm, phức tạp được dư luận xã hội đồng
tình, ủng hộ... Tuy nhiên, so với chức năng, nhiệm vụ được giao, công tác liên quan
đến phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện vẫn còn những
tồn tại, hạn chế như:
- Hoạt động cuả Viện kiểm sát chưa gắn chặt chẽ với Cơ quan điều tra, Tòa án
cho nên không kịp thời phát hiện những thiếu sót để khắc phục và đề ra yêu cầu điều
tra kịp thời theo đúng quy định về tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
- Điều kiện cơ sở vật chất của các cơ quan Viện kiểm sát còn thiếu và yếu,
53
chưa đáp ứng được yêu cầu nhanh, nhạy, chính xác, kịp thời của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện nói riêng.
- Một số Kiểm sát viên có tinh thần và trách nhiệm chưa cao, thiếu chủ động
trong những hoạt động liên quan đến quyền phòng ngừa tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện, chưa bám sát chặt chẽ quá trình điều tra vụ án, trình độ năng
lực chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát viên còn hạn chế, nhiều Kiểm sát viên chưa
nắm vững các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đối với vụ án có
người 18 tuổi phạm tội dẫn đến lúng túng trong việc áp dụng pháp luật...
- Đối với Tòa án nhân dân
Mặc dù yêu cầu nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề và trong bối cảnh gặp không ít
khó khăn, trở ngại khách quan của đất nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng có nhiều đổi mới về chủ trương, chính sách quản lý kinh tế - xã hội; một số Bộ
luật, Luật mới quan trọng có hiệu lực nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành chưa được
ban hành; công tác bổ trợ tư pháp, phối hợp của địa phương, sở, ngành, phòng ban chưa
chặt chẽ, thiếu thống nhất, đồng bộ... Tuy nhiên, được sự quan tâm chỉ đạo thường
xuyên của TAND tối cao và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh; sự hỗ trợ của Ủy ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và cấp ủy, Ủy ban nhân dân 24 quận, huyện; sự phối
hợp của các cơ quan, sở ngành; với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ chính trị, tập thể
cán bộ, công chức, người lao động TAND hai cấp thành phố đã khắc phục mọi khó
khăn, cùng phát huy sức mạnh đoàn kết, tập trung bản lĩnh, trí tuệ thực hiện nhiệm vụ
chính trị được giao, bảo đảm kỷ cương pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân và tổ chức; góp phần tích cực vào việc giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội cũng như trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
của các cấp chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh là địa
phương đầu tiên trong cả nước thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên đây là
bước tiến mới trong việc bảo đảm quyền của người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự.
Tòa án nhân dân tối cao đã từng nhấn mạnh việc xử lý hình sự của người dưới
18 tuổi không đơn thuần chỉ nhìn nhận dưới góc độ “năng lực trách nhiệm hình sự”
54
mà chủ yếu phải nhìn cả dưới góc độ “ yêu cầu của xã hội đối với giáo dục thanh
thiếu niên” nữa nên trong quá trình xét xử, giải quyết các vụ án để bảo đảm quyền
của người dưới 18 tuổi, các đơn vị Tòa án đã luôn quan tâm và thực hiện nghiêm túc
những nguyên tắc về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, phòng
ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện được quy định trong các văn
bản pháp luật hình sự, pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật về phòng chống bạo
lực gia đình, cụ thể như sau: Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng,
chống bạo lực tình dục, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục về bình đẳng giới, về quyền của trẻ em; hành vi bạo lực nói chung và hành
vi bạo lực về tình dục nói riêng phải được ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời theo
đúng quy định của pháp luật; người dưới 18 tuổi được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời với
điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước.
Tòa án nhân dân đã chủ động làm việc với Cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát cùng cấp nắm tình hình và có kế hoạch phối hợp ngay từ giai đoạn điều tra để
nhanh chóng đưa ra tuy tố, xét xử các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện, đã
chủ động liên lạc với các cơ quan trợ giúp pháp lý để cử người bào chữa cho bị can,
bị cáo. Trong công tác tổ chức các phiên tòa xét xử về các tội do người dưới 18 tuổi
thực hiện đều được Tòa án cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm làm rõ các tình tiết của vụ
án, đồng thời bảo đảm thuần phong, mỹ tục, các yếu tố văn hóa; bảo vệ danh dự,
phẩm giá của con người và không gây tác động tiêu cực đến tâm lý của người dưới
18 tuổi. Thành phần của Hội đồng xét xử luôn đảm bảo phải có Hội thẩm nhân dân
công tác trong ngành giáo dục, trong công tác Đoàn thanh niên hoặc những người có
sự hiểu biết về tâm lý người dưới 18 tuổi. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình
sự liên quan đến người dưới 18 tuổi, Tòa án cũng chú trọng phối hợp với các cơ quan
thông tin đại chúng để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật và
tinh thần đấu tranh chống tội phạm góp phần nâng cao nhận thức của người dân về
vấn đề này. Tại phiên tòa, bên cạnh việc hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo,
Hội đồng xét xử luôn chú trọng công tác giáo dục pháp luật thông qua việc phân tích
pháp luật, phân tích cho các bị cáo và người tham dự phiên tòa hiểu rõ hậu quả và
55
những hệ lụy phát sinh từ hành vi phạm tội của mình để những người tham gia phiên
tòa nâng cao nhận thức về tác hại của việc vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên công tác phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện còn có những hạn chế nhất định. Mặc dù đã thành lập Tòa gia đình và người
chưa thành niên nhưng đội ngũ Thẩm phán vẫn chưa được trang bị những kiến thức
cần thiết về tâm lý học cũng như khoa học giáo dục khi xét xử các vụ án do người
dưới 18 tuổi thực hiện, cơ sở vật chất hiện nay còn hạn chế.
Mặc khác, số vụ án ngày càng đa dạng và gia tăng về số lượng, hàng năm mỗi
Thẩm phán trung bình phải giải quyết hàng chục vụ án mỗi lĩnh vực, đồng thời phải
bảo đảm không có án tổn, án hủy, sửa, oan sai, Thẩm phán không còn chuyên tâm
vào từng vụ án mà chỉ quan tâm đến số lượng giải quyết, nhiều trường hợp đến hạn
báo cáo cuối năm, các Thẩm phán phải cố dồn án giải quyết cho kịp chỉ tiêu và tiến
độ. Điều này không thể không tránh được chất lượng xét xửkhông được bảo đảm.
Trong tình trạng các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện diễn biến phức tạp và đa
dạng, việc có một đội ngũ bảo đảm về số lượng, chất lượng chuyên sâu, am hiểu và
có kinh nghiệm xét xử về lĩnh vực này, đặc biệt là thật sự có trách nhiệm với công
tác của mình sẽ thuận lợi hơn rất nhiều trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
Hội thẩm nhân dân một thành phần quan trọng cũng chưa đáp ứng được yêu
cầu, hiện nay chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm hoặc công chức Nhà nước đã nghỉ hưu
nên rất ít người được đào tạo chính quy có trình độ đại học hoặc trên đại học về luật
mà chủ yếu chỉ có trình độ trung cấp luật. Điều này gây trở ngại không nhỏ cho công
tác xét xử những vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội. Trên thực tế rất ít
Hội thẩm thực hiện đúng trách nhiệm và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho mình,
chế định Hội thẩm tham gia xét xử còn mang nặng tính hình thức.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
56
Trong chương 2 của luận văn, tác giả nêu được những nội dung liên quan đến
thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi
trên địa bàn Quận 7, trong giai đoạn 2015 – 2019 như sau:
Thứ nhất, tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7 bao gồm: mức độ của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện;
diễn biến của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện; cơ cấu, tính chất
của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Thứ hai, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7: bao gồm những nguyên nhân và điều kiện thuộc
về môi trường sống, những yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội và thực áp dụng
các biện pháp phòng ngừa, khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7.
Những luận điểm đã làm rõ ở chương 2 là cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục
nghiên cứu đưa ra dự báo và các biện pháp loại trừ những yếu tố liên quan đến nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
57
Chương 3
DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG YẾU TỐ LÀ
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN PHẠM CỦA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Dự báo tình hình tội phạmdo người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
3.1.1. Cơ sở dự báo
Dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện là hoạt động dựa
trên cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa ra những nhận định mang tính phán đoán về
tình hình tội phạm trong tương lai, những thay đổi về nhân thân người phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, những yếu tố tác động đến tình hình tội phạm và
khả năng phòng, chống tội phạm của chủ thể, từ đó đưa ra những cơ chế, biện pháp
phòng ngừa tội phạm trong tương lại. Để dự báo tình hình tội phạm tác giả đã dựa
trên những cơ sở sau đây:
- Những số liệu phản ánh tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trong thời gian qua trên địa bàn Quận 7 do các cơ quan như tổng cục thống kê, cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thay đổi về các thông số, đặc điểm, tính chất,
những tội phạm mới, tội phạm mất đi, công cụ, phương tiện… của tình hình tội phạm;
những thông tin về tội phạm, tình hình tội phạm.
- Kinh tế Quận 7 trong thời gian tới sẽ ngày càng phát triển, hướng tới việc
xây dựng Quận 7 thành đô thị phía Nam thành phố với những thuận lợi về vị trí địa
lý sẵn có. Nhưng trong thời gian tới, những người dân nhập cư vào địa bàn quận sẽ
ngày càng gia tăng, người có thu nhập thấp đang sinh sống trong môi trường không
bảo đảm…
- Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
tuy đã đạt được những kết quả nhất định song vẫn còn nhiều hạn chế, sự phối hợp
58
giữa những cơ quan vẫn còn chưa chặt chẽ, nhiều ngành, nhiều cấp chưa coi trọng
đúng mức công tác phòng, chống tội phạm.
- Hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là một trong những nội
dung quan trọng và thường xuyên góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật chưa được chú trọng phát triển chưa thu hút được sự quan tâm, tiếp cận pháp luật
toàn diện
3.1.2. Nội dung dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
3.1.2.1. Dự báo những nguyên nhân và điều kiện thuộc về môi trường sống
- Môi trường kinh tế, xã hội
Trong giai đoạn 2016 - 2020, Uỷ ban nhân dân Quận 7 đã đề ra mục tiêu tổng
quát đó là trở thành quận văn minh, hiện đại đóng góp vào sự phát triển chung của
thành phố. Đối với mục tiêu chung được đề ra đó là phấn đấu bình quân từ 12% trở
lên đối với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các thành phần kinh tế ở. Đề ra 36 chỉ
tiêu cụ thể trên các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, đô thị - môi trường; an ninh quốc phòng;
cải cách hành chính.
Đối với lĩnh vực kinh tế 05 chỉ tiêu phù hợp với tình hình phát triểm của quận
đó là thực hiện đảm bảo chỉ tiêu phát triển 1000 doanh nghiệp theo nghị quyết của
Hội đồng nhân dân Quận, vận động 90% hộ kinh doanh đủ điều kiện chuyển đổi sang
doanh nghiêp; phấn đấu tổng thu ngân sách Nhà nước, tổng thu và tổng chi ngân sách
địa phương đạt chỉ tiêu thành phố giao…
Lĩnh vực xã hội gồm có 13 chỉ tiêu: tỷ lệ trẻ em 5 tuổi đi học mẫu giáo đạt
99%, tỷ lệ học sinh đi học đạt đúng độ tuổi tiểu học đạt 100%, THCS đạt 99% trở
lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và lớp 10 trung học nghề đạt 100%, tỷ lệ xét tốt
nghiệp THCS đạt trên 99%; đạt tỷ lệ 18 bác sĩ/ 10.000 dân, 30 giường bệnh /10.000
dân; phấn đấu giới thiệu và giải quyết việc làm cho ít nhất 16.000 lượt lao động, tỷ lệ
thất nghiệp của lao động dưới 5%... [25]
59
Nhìn chung Uỷ ban nhân dân Quận 7 đã đề ra những chính sách phù hợp với
tình hình của quận dựa trên nghiên cứu về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế, xã hội như:
có vị trí chiến lược trong khai thác giao thông đường thuỷ và đường bộ, là cửa ngõ
phía Nam của Thành phố Hồ Chí Minh nên có điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài
nước. Địa bàn Quận 7 có Khu chế xuất Tân Thuận trên địa bàn là một trong những
khu chế xuất lớn và hiệu quả của Thành phố.
Bên cạnh những mặt tích cực với chính sách phát triền kinh tế - xã hội là nơi
thu hút người lao động từ khắp các tỉnh thành làm việc ở những vị trí khác nhau tạo
công ăn việc làm thì một bộ phận dân cư có đời sống khó khăn, thất nghiệp, việc làm
không ổn định dễ tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Dựa vào chính sách phát triển kinh tế xã hội của Quận thì có thể dự báo tình
hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trong thời gian tới như sau: Số vụ và
số lượng người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật và phạm tôi có chiều hướng ngày càng
gia tăng. Tính chất, mức độ vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm hình sự do người
dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng nghiêm trọng hơn.
- Môi trường gia đình
Môi trường gia đình là một thành tố có tính quyết định đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của con người. Môi trường gia đình có thể bao gồm các yếu tố
chính: những nghề nghiệp/ công việc chủ yếu; tính cách/ lối sống của các thành viên;
sự ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ lẫn nhau giữa các thành viên; cách thức mà thành
viên ứng xử với những người khác trong xã hội. Đối với một môi trường gia đình văn
hóa, thấu hiểu và ấm áp, hạnh phúc sẽ thúc đẩy sự phát triển tính cách tốt đẹp của trẻ,
khiến trẻ thêm thông minh, độc lập, nhanh nhạy, đạt được thành công trong sự nghiệp
và hạnh phúc trong cuộc đời. Văn hóa trong gia đình có ảnh hưởng tới sự hình thành
và phát triển nhân cách của các thành viên trong gia đình. Đây được coi là trường học
đầu tiên hình thành, phát triển nhân cách con người. Tuy vậy, quá trình trưởng thành
và phát triển nhân cách của mỗi người là khác nhau, ngay cả với anh em trong một
nhà.
60
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề gia đình và coi gia đình là “tế
bào của xã hội. Cụ thể tại Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng đều nhấn mạnh sự
quan tâm đến gia đình, từ Nghị quyết Đại hôi Đảng lần thứ VII xác định gia đình với
tư cách là “tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi
trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, đến Đại hội Đảng
lần thứ XII nêu rõ: “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam… Phát huy
giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”,
“tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực
làm việc”. Thể chế các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, nhiều Bộ luật đề cập đến
chế định gia đình với vị trí, vai trò rất quan trọng như Bộ luật dân sự, Bộ luật Hôn
nhân và gia đình; Luật Bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình; Luật trẻ
em; Luật người cao tuổi. Đặc biệt, Chính phủ ban hành Chiến lược Phát triển gia đình
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và quyết định kể từ năm 2001, ngày 28/06
hàng năm đã trở thành ngày gia đình Việt Nam.
Trở thành một người có nhân cách tốt khi trưởng thành hoàn toàn không dễ.
Không thể chủ quan cho rằng “cha mẹ sinh con trời sinh tính” mà câu nói “ở bầu thì
tròn ở ống thì dài” rất đúng với trẻ. Ngày nay, cùng với sự biến đổi của nền kinh tế
và cơ chế thị trường văn hóa gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì những tác động
xấu của xã hội. Với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đến đời sống tinh thần, tình
trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ và ly hôn ngày càng gia tăng, làm cho mỗi gia
đình không được bền vững, ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành phẩm chất,
nhân cách gốc của trẻ bởi những đứa trẻ đó sẽ chịu thiệt thòi về tâm lý mỗi ngày thiếu
đi tình thương yêu, chăm sóc, dạy bảo của người mẹ, người cha, mỗi ngày đến trường
bị bạn bè chế diễu, bắt nạt cảm thấy tủi thân khi nhìn thấy bạn mình được sống trong
vòng tay yêu thương của cha mẹ còn mình thì không.
Trước tình trạng đó nhiều đứa trẻ đã sa vào tệ nạn xã hội như: ma túy, nghiện
games… thậm chí thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật. Tất cả đều ảnh hưởng
tới tương lai của chúng, để lại những vết đen khó phai trong cuộc đời.
61
- Môi trường nhà trường
Môi trường giáo dục chứa đựng tất cả những điều kiện vật chất và tinh thần
ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, học tập, rèn luyện, vui chơi và phát triển
nhân cách của các em học sinh. Môi trường giáo dục lành mạnh sẽ góp phần tạo nên
nhân cách tốt cho trẻ.
Tuy nhiên, hiện nay trong nhà trường vấn nạn bạo lực và tệ nạn ở học đường
đã và đang gia tăng. Những bất cập, hạn chế cả về môi trường vật chất và môi trường
tinh thần trong Nhà trường vẫn đang tồn tại như sự thiếu về cơ sở vật chất, đội ngũ
cán bộ giáo viên có trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay, giáo dục chỉ chạy
đua với nội dung kiến thức mà xao nhãng với việc dạy người do đó học sinh bị hẫng
hụt về kinh nghiệm, kỹ năng mềm, kỹ năng sống cần thiết. Bên cạnh đó, những tồn
tại về yếu tố tinh thần cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc giáo dục học sinh như
những mối quan hệ thực dụng đang len lỏi vào môi trường giáo dục làm biến tướng
quan hệ giữa thầy – trò. Có hiện tượng một bộ phận xã hội, gia đình, học sinh và giáo
viên coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị tinh thần, lấy giá trị vật chất làm thước đo
tinh thần. Sự thiếu quan tâm của gia đình và xã hội, phó mặc cho Nhà trường công
tác giáo dục học sinh cũng sẽ dẫn đến hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực
từ chính môi trường này.
- Môi trường bạn bè
Bạn bè là nhân tố không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của
mỗi con người nói chung và đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên. Khả năng tác động
của bạn bè vào con người rất lớn bởi có những đặc điểm tương đồng, phù hợp với
nhau về độ tuổi, về tâm sinh lý, sở thích… “Học thầy không tày học bạn” “đi với bụt
mặc áo cà sa, đi với ma mặt áo giấy” là những câu tục ngữ cho thấy sự ảnh hưởng
của bạn bè với sự phát triển, hình thành nhân cách trẻ. Việc giao lưu kết bạn của giới
trẻ hiện nay rất dễ dàng, đơn giản bởi có sự tác động của hệ thống internet, các mạng
xã hội…Do đó, nếu không có sự định hướng và quan tâm của gia đình, nhà trường
và xã hội cho trẻ trong việc “chọn bạn mà chơi” dễ dẫn đến việc trẻ kết bạn, giao du
62
với những người có đặc điểm nhân thân không tốt, từ đó hình thành thói quen, hành
vi, tính cách không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và pháp luật.
Cùng với sự phát triển internet và các mạng xã hội tràn lan, việc con người
giao lưu tiếp xúc với bạn bè không chỉ dừng ở chỗ tiếp xúc với bạn bè xấu hàng ngày
trong cuộc sống mà còn cả những bạn bè trong thế giới ảo. Qua việc trao đổi, trò
chuyện với bạn bè trên các mạng xã hội… tạo điều kiện cho trẻ có những mối quan
hệ với bạn bè trên mạng. Tuy nhiên, nếu không có sự quan tâm và định hướng của
gia đình thì sẽ dẫn đến hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực từ môi trường
bạn bè.
- Môi trường văn hoá, tư tưởng, đạo đức
Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7 là nghiên cứu về nguyên nhân phát sinh, đặc
điểm tình hình, tình hình tội phạm để dự báo về sự tác động của môi trường văn hoá
tư tưởng, đạo đức với người người phạm tội dưới 18 tuổi. Trong cơn lốc của nền kinh
tế thị trường đang được toàn cầu hóa đã tạo ra sản xuất của cải vật chất không ngừng
được tăng lên. Tuy nhiên, những giá trị mang tính cộng đồng như lòng nhân ái, vị
tha, lòng trắc ẩn ngày càng suy yếu và sự xâm nhập những luồng tư tưởng văn hóa
không phù hợp với xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận người dưới 18
tuổi. Chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thói vô cảm, tâm lý tiêu dùng vật chất thâm nhập vào
từng ngõ ngách của đời sống, thậm chí trong từng gia đình. Bên cạnh đó, công nghệ
thông tin và những luồng văn hóa tư tưởng độc hại đang cuốn hút một bộ phận không
nhỏ, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Đạo đức xã hội và kinh tế chưa song hành, đạo
đức xã hội chưa bắt kịp sự phát triển của kinh tế có một phần nguyên nhân là do tinh
thần “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu
chiến lược phát triển” của Đại hội XII của Đảng chưa thực sự đi sâu vào đời sống.
3.1.2.2. Dự báo những nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm tội
Cùng với sự tăng trưởng của kinh tế dẫn tới sự phát triển của nhu cầu văn hoá,
tinh thần đem lại sở thích lệch lạc cho một bộ phận không nhỏ trong nhân dân dự báo
63
về nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm tội dưới 18 tuổi trong thời gian
tới như sau:
Người phạm tội dưới 18 tuổi thường có sở thích không lành mạnh, tiêu cực sẽ
hình thành ở cá nhân đó các nhân cách lệch lạc như lối sống ích kỉ, hưởng thụ, buông
thả, coi thường chuẩn mực đạo đức… Người phạm tội sẵn sàng bất chấp những giá
trị, quy tắc đạo đức để thoả mãn nhu cầu, sở thích hàng ngày của mình, dẫn đến hành
động theo thói quen, cảm tính.
Người phạm tội dưới 18 tuổi thường có quan niệm sai lầm về các giá trị của
cuộc sống, không hiểu biết hoặc ít hiểu biết pháp luật nên thường có thái độ thờ ơ,
coi thường pháp luật. Những sai lệch trong ý thức pháp luật cũng là một trong những
yếu tố tác động trong cơ chế làm phát sinh tội phạm khi gặp những hoàn cảnh, tình
huống cụ thể họ sẽ không kiềm chế, kiểm soát được hành vi của mình, xử sự không
đúng đắn và có hành vi vi phạm pháp luật
3.1.2.3. Dự báo về việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa khắc phục nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn Quận 7
Trong thời gian tới tình hình tội phạm có những diễn biến phức tạp tuy nhiên
các biện pháp phòng ngừa khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trong thời gian tới sẽ đạt nhiều kết quả nhất định do
sự phối hợp chặt chẽ của các Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc thực
hiện các biện pháp phòng ngừa khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7. Những biện pháp này
trong thời gian tới sẽ đạt được những hiệu quả cao do có sự giảm bớt tính chất nguy
hiểm của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7;
giảm dần tỉ trọng các loại tội phạm nguy hiểm và phổ biến; hạn chế sự phát triển của
tội phạm mới, hạn chế tỉ lệ tái phạm; giảm dần chỉ số về thiệt hại của tình hình tội
phạm.
Các Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án sẽ có nhận thức đúng đắn về nhận
thức và thực tiễn phòng ngừa tội phạm; nhận biết những lĩnh vực có khả năng xảy ra
64
tội phạm; hoàn thiện những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện các biện pháp phòng
ngừa khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7.
3.2. Các giải pháp khắc phục những yếu tố liên quan đến nguyên và điều
kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân và điều kiện thuộc về
môi trường sống
3.2.1.1. Môi trường gia đình
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải củng cố và
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để mỗi gia đình Việt Nam
thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào xã hội. Trong gia đình, bố mẹ cần là tấm
gương mẫu mực để con cái noi theo. Một gia đình hòa thuận, hạnh phúc thì một đứa
trẻ sẽ được phát triển cân bằng về mọi phương diện thể chất, trí tuệ và tinh thần. Cha
mẹ và các thành viên trong gia đình cần nhận thức được vai trò của gia đình là nguồn
gốc giáo dục chủ yếu trong vấn đề này. Gia đình không nên phó thác cho nhà trường,
xã hội mà phải thường xuyên kết hợp chặt chẽ với nhà trường thông qua cuộc tiếp
xúc thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm lớp, hội cha mẹ phụ huynh học sinh để
nắm bắt được tình hình học tập của con em mình ở nhà trường nếu thấy có vấn đề gì
xảy ra thì kịp thời có biện pháp uốn nắn, giáo dục, điều chỉnh người dưới 18 tuổi.
Cha mẹ là người luôn phải gần gũi con cái, dù công việc có bận rộn cũng nên
dành một khoảng thời gian nhất định cho con cái để trò chuyện, tâm sự, chơi cùng
con. Cha mẹ phải luôn bình tĩnh lắng nghe, tạo cho con cái cảm thấy thực sự tin cậy
chia sẻ mọi vấn đề trong học tập, bạn bè, cuộc sống và kể cả với gia đình. Nên tìm
hiểu kĩ lưỡng để cùng con giải quyết vấn đề giúp đỡ chúng vượt qua những khủng
hoảng về tâm sinh lí thường gặp ở lứa tuổi chưa thành niên để tránh xa những nguy
hiểm tiềm ẩn trong cuộc sống như sự rủ rê, lôi kéo của bạn bè xấu, ma túy, cờ bạc,
trộm cắp, cướp giật…Cha mẹ phải xây dựng lối sống nêu gương, để con tự thấy tốt
65
và tự nguyện làm theo gương của cha mẹ. Luật trong gia đình là phải ngang nhau,
không phân biệt tầng lớp cha mẹ - con cái.
Cha mẹ phải luôn tìm hiểu qua sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng,
các nhà giáo dục, những nhà tư vấn tâm lý để năm bắt được những đặc điểm tâm,
sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên. Có những phẩm chất tâm lý được hình thành
như mong muốn, khát khao được thể hiện bản thân, tò mò, ham hiểu biết và thích thử
nghiệm bản thân… Các đặc điểm tâm lý này ngoài tác động tích cực đến sự phát triển
nhân cách thì cũng là nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn. Cha mẹ phải chú ý
nhiều hơn đến hoạt động hàng ngày của các em để nhận ra những thay đổi trong cách
cư xử của con cái và có những cách giáo dục uốn nắn, sửa chữa những hành vi lệch
lạc, không để các em trượt vào con đường tội lỗi.
Ngoài việc tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý cha mẹ phải thường xuyên quản lý
con mình trong mối quan hệ bạn bè, trong việc giao lưu, kết bạn trên các trang mạng
xã hội… tôn trọng sự độc lập, ý thức vươn lên của con. Phải đặt mình ở vị trí của con
tạo ra được mối quan hệ tự nhiên hợp lứa tuổi. Nhờ đó những mâu thuẫn, những khó
khăn về lứa tuổi được giải quyêt, những mất cân bằng về sinh lý ở lứa tuổi chưa thành
niên dần qua đi. Cha mẹ không nên chiều chuộng con cái một cách thái quá, tránh
việc gì cũng làm thay cho con “sống thay” mà phải nghiêm khắc nhưng cũng không
nên hà khắc với con trong việc thực hiện những quy định một cách triệt để. Giáo dục
cho con cách sử dụng đồng tiền, hiểu được giá trị của chúng. Nâng cao trách nhiệm
từ mỗi thành viên, làm cho con cái nhận thức được trách nhiệm của mình đối với gia
đình, được mọi người tôn trọng.
Các cấp chính quyền địa phương cần quan tâm phát động phong trào “Xây
dựng gia đình văn hóa, con cháu hiếu thảo, ông bà, cha mẹ mẫu mực”, tích cực biểu
dương những gia đình này là tấm gương lớn cho toàn xã hội noi theo. Việc phát huy
sức mạnh gia đình văn hóa chính là nển tảng tạo sức mạnh cho phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở mỗi phường trên địa bàn quận. Gia đình là tế
bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân
cách con người. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục từ các cấp cơ sở nhằm nâng cao
66
nhận thức của các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể, các gia đình, cá nhân cộng đồng
về vai trò của gia đình.
3.2.1.2. Môi trường nhà trường
Hiện nay, đầu tư cho giáo dục là vấn đề luôn được ưu tiên hàng đầu. Chúng ta
cần xây dựng mô hình giáo dục phù hợp với từng trẻ vì hiện nay chúng ta đang theo
mô hình giáo dục công nghiệp, nghĩa là tất cả học sinh đều học một chương trình,
tiến độ cũng như nhịp độ, không có nhiều sự khác biệt giữa từng học sinh. Tất cả đều
được đánh giá trên một tiêu chuẩn, một khía cạnh và một điểm sàn; mọi học sinh đều
được giảng dạy trên một phương pháp chung giống như kiểu người ta gia công các
phôi nguyên liệu trong các nhà máy sản xuất, tất cả phôi nguyên liệu đưa vào nhà
máy đều bị gò ép thành một hình dáng giống nhau ở đầu ra. Với quy trình đào tạo
theo kiểu sản xuất công nghiệp như trên sẽ tạo ra sản phẩm đúng khuôn mẫu mà
chúng ta đánh giá là có chất lượng tức là những học sinh ngoan, học giỏi nhưng cũng
sẽ có những sản phẩm lỗi mà chúng ta gọi là học sinh cá biệt. Điều này là sai lầm
trong giáo dục vì mô hình này không chấp nhận sự khác biệt giữa các học sinh cũng
như không chấp nhận cá tính riêng của mỗi em học sinh, tất cả học sinh đều phải
giống nhau. Con người là một thực thể sinh học riêng biệt, mỗi một cá thể đó đều có
cái riêng, không ai giống ai, thế nên sẽ có những học sinh theo kịp tiến độ, chương
trình đào tạo của nhà trường nhưng cũng có những học sinh không theo kịp, bị gò ép
học theo những chương trình không phù hợp với khả năng của bản thân, dẫn đến thái
độ phản khán, không thích học là điều tất yếu. Tuy nhiên, mỗi em sẽ có cách phản
kháng riêng như chán học, bỏ học, im lặng, bất cần...Do đó, cần phải xây dựng
chương trình học tập phong phú phù hợp với năng khiếu và thể lực của từng trẻ với
mục đích là làm sao để tất cả học sinh đều có thể phát huy tối đa khả năng của mình,
chấp nhận sự khác biệt của từng cá nhân, chăm sóc và phát triển để cho ra những sản
phẩm phong phú, đa dạng. Tiếp tục đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả, chú
trọng cách đánh giá và khả năng vận dụng kết thức đã học vào thực tiễn, khuyến khích
sự cố gắng trong học tập và rèn luyện; tạo cơ hội để học sinh phát huy khả năng của
67
bản thân; kết hợp đánh giá bằng nhận xét và điểm số; sử dụng kết quả đánh giá vào
dạy học để động viên, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Cần nâng cao chất lượng và đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các
cấp. Thực hiện nghiêm túc chỉ thị số 1737/CT/BGDĐT ngày 07 tháng 05 năm 2018
của Bộ trưởng bộ giáo dục về công tác quản lý và nâng cao đạo đức nhà giáo; Chỉ thị
số 138/CT – BGDĐT ngày 18 tháng 01 năm 2019 của Bộ trưởng bộ giáo dục về việc
chấn chỉnh tình trạng lạm dụng hồ sơ, sổ sách trong Nhà trường nhằm giảm áp lực
cho giáo viên; khắc phục tình trạng dạy thêm trái quy định. Các địa phương cần chủ
động đào tạo đội ngũ giáo viên gắn với yêu cầu hiện nay. Nâng cao đạo đức nhà giáo,
tăng cường chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các quy định về đạo đức nhà giáo. Kiên
quyết xử lý nghiêm giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục vi phạm đạo đức
nhà giáo. Thực hiện tốt các chế độ, chính sách cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục; thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng nhằm nâng cao đời sống, tạo
động lực cho đội ngũ nhà giáo chuyên tâm với nghề.
Đối với học sinh, giáo viên phải thay đổi quan hệ với người học, coi trọng việc
gần gũi, tạo sự gắn kết cảm xúc tích cực với các em, được các em tin cậy, chia sẻ.
Ngoài ra nhà trường cần phải phòng ngừa những hành vi bạo lực học đường. Nhà
trường cần tổ chức các buổi ngoại khóa với học sinh làm trung tâm, nói không với
vấn đề bạo lực học đường. Cùng với đó, kết hợp với lồng ghép nội dung về giáo dục
giá trị cuộc sống; kỹ năng sống vào chương trình, nội dung và các hoạt động giáo dục
khác. Các trường nên có hòm thư hoặc kênh thông tin tin cậy để các em chia sẻ, thông
báo về hành vi bạo lực học đường, bố trí hỗ trợ tư vấn để giải quyết những vấn đề
khó khăn cho học sinh. Đối với giáo viên chủ nhiệm, cần lựa chọn nhà giáo có uy tín,
có kinh nghiệm để bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng giáo dục; cần
phải có sự gần gũi, giám sát, hỗ trợ học sinh.
Giáo dục, quán triệt đến từng học sinh về cách chính sách pháp luật, tính chịu
trách nhiệm pháp lý trong đó có trách nhiệm hình sự nếu xảy ra vi phạm pháp luật.
Tuyên truyền pháp luật đến với học sinh, đặc biệt là những lĩnh vực liên quan đến
68
cuộc sống như Luật giao thông đường bộ, Luật hình sự, Luật dân sự, Luật Kinh tế…
nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức pháp luật cơ bản.
Cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường đối với phụ
huynh học sinh cần quan tâm giúp đỡ nhà trường xây dựng cơ sở vật chất, các phương
tiện dạy học của nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục. Những cuộc họp do
nhà trường tổ chức, các bậc phụ huynh cần đi họp đầy đủ để nắm được yêu cầu giáo
dục của nhà trường. Gia đình cần xây dựng truyền thống “tôn sư trọng đạo” bảo vệ
uy tín của thầy cô giáo, tuyệt đối tránh các hành vi thiếu tôn trọng thầy cô giáo trước
mặt con cái. Nhà trường cần phối hợp với gia đình trong việc thông báo về tình hình
của học sinh trong lớp học, quan tâm đến những thay đổi trong quá trình học tập của
các em để kịp thời có những biện pháp điều chỉnh. Nâng cao giá trị đạo đức trong
giảng dạy, kết hợp hài hòa quan hệ giữa nhà trường – gia đình, giáo viên – học sinh
để học sinh hiểu biết hơn nữa về truyền thống “tiên học lễ, hậu học văn.
3.2.1.3. Môi trường bạn bè
Bạn bè chính là những đối tượng có sự ảnh hưởng nhiều nhất tới sự phát triển
về tâm lý, trí tuệ và sức khỏe của trẻ. Sự ảnh hưởng của bạn bè có cả tốt lẫn xấu. Bạn
bè giúp người dưới 18 tuổi thể hiện cá tính, thấu hiểu và chấp nhận mình. Ông bà ta
nói “Lựa bạn mà chơi”. Dù ở lứa tuổi nào trẻ cũng luôn chịu áp lực khi hòa nhập vào
nhóm bạn bè của mình, việc chịu áp lực quá lớn và không biết cách xử lý cũng ảnh
hưởng rất nhiều đến tâm lý hành vi của trẻ. Nếu cha mẹ thấy con thay đổi hành vi,
tâm lý, chế độ ăn uống, ngủ, nghỉ… thì phải nói chuyện với con, tìm rõ nguyên nhân.
Nếu biết rõ đó là sự ảnh hưởng từ bạn bè, cha mẹ cần phải khéo léo giúp con xử lý,
đối phó với những ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè. Cha mẹ nên là bạn, là người lắng
nghe và đồng hành hơn là vai trò chỉ đạo, giảng đạo và đòi hỏi quá nhiều từ con.
Hiện nay, người dưới 18 tuổi sử dụng mạng xã hội với nhiều mục đích khác
nhau như: tìm kiếm tài liệu học tập, trao đổi thông tin hữu ích, chia sẻ, kết nối bạn
bè… Tuy nhiên, thực tế cho thấy bên cạnh những mặt tích cực mà các trang mạng xã
hội đem lại thì không tránh khỏi những tác động tiêu cực, đặc biệt là những tác động
trực tiếp ảnh hưởng đến lối sống thậm chí có thể thực hiện những hành vi vi phạm
69
pháp luật. Cần ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội,
phòng, chống có hiệu quả tác động tiêu cực từ các trang mạng xã hội. Vì hiện nay
trên hệ thống trang mạng có những cái xấu không bị lên án mà còn có môi trường để
phát triển, tác động trực tiếp đến nhận thức, tư duy, thậm chí là hành động của giới
trẻ, đã gióng lên hồi chuông báo động về xu hướng thần tượng lệch lạc vô cùng nguy
hiểm đang lây lan trong giới trẻ. Nó chẳng khác nào vi rút độc hại tiêm nhiễm những
hành vi xấu vào lớp thanh thiếu niên đang hình thành nhân cách. Nhiều giá trị cuộc
sống bị đảo lộn, những điều tốt đẹp trở nên lu mờ, hành vi xấu, thói giang hồ, côn đồ
được tung hô, đón nhận và có chỗ để tung tác. Do đó, gia đình cần có sự quan tâm và
quản lý trong việc sử dụng các trang mạng xã hội để hạn chế những tác động tiêu cực
ảnh hưởng đến người dưới 18 tuổi, nên cho con em tham gia những hoạt động ngoại
khóa, trải nghiệm kĩ năng sống với các bạn bè đồng trang lứa…dưới sự quản lý của
gia đình và nhà trường.
3.2.1.4. Môi trường kinh tế xã hội vĩ mô
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
khơi thông nguồn lực, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, thông thoáng,
thuận lợi; nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu
quả chỉ đạp điều hành và thực thi pháp luật. Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; kiểm
soát lạm phát; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, năng lực nội
tại và tính tự chủ của nền kinh tế. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đẩy mạnh
mô hình tăng trưởng thực chất, hiệu quả hơn; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án
quan trọng của địa phương.
Giảm sự chênh lệch giàu nghèo cần có chính sách tạo sư bình đẳng về thu
nhập, tức là các chính sách kéo giảm sự chênh lệch thu nhập trong xã hội. Các chính
xác xã hội và an sinh không những đảm bảo cho cuộc sống của người dân đạt mức
cơ bản, tối thiểu mà còn phải mang lại cuộc sống văn minh, hiện đại, chất lượng tốt
cho rộng rãi các nhóm dân cư. Tạo điều kiện cho mọi người có công ăn việc làm, thu
nhập khá; hỗ trợ người nghèo bằng các chính sách cụ thể; phát triển các loại hình dịch
70
vụ cơ bản để mọi người tiếp cận dễ dàng, thuận lợi. Nâng cao chế độ an sinh xã hội
và mạng lưới bảo hiểm xã hội.
Đẩy mạnh ổn định tái cơ cấu kinh tế, tăng năng suất, chất lượng để hiệu quả
của nền kinh tế tốt hơn và mang lại lợi ích cho toàn xã hội nhiều hơn. Đào tạo việc
làm cho người dân, điều tiết thu nhập qua thuế, hỗ trợ tín dụng cho người nghèo; hỗ
trợ cho những người thu nhập thấp tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, ưu tiên cho các
dịch vụ gắn với tiêu chí nghèo đa chiều như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và nhà
vệ sinh, thông tin.
3.2.1.5. Môi trường nơi cá nhân làm việc, cư trú
Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú có vai trò rất lớn trong việc hình
thành và phát triển nhận thức, năng lực chuyên môn lối sống cũng như những phẩm
chất đạo đức cá nhân. Nếu sống trong môi trường tập thể hoặc nơi cư trú lành mạnh
an toàn, mọi người biết quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, không có tệ nạn xã hội và tội
phạm hoành hành, mọi người chí thú làm ăn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật thì
có thể nói đây là môi trường thuận lợi có tác động đến việc hình thành nhân cách
đúng đắn của cá nhân và hạn chế sự phát triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược
lại nếu sống trong môi trường có chứa đựng nhân tố tiêu cực như có nhiều người sống
bê tha, suốt ngày cờ bạc, rượu chè, đánh lộn nhau, thậm chí sa đà vào ma túy, mại
dâm, phạm tội thì đây thực sự là môi trường xấu tiềm ẩn nhiều nguy cơ lôi kéo, tác
động đến những người thiếu bản lĩnh, không vững vàng dễ sa ngã trước cái xấu, cái
tiêu cực của đời sống xã hội, từ đó có thể ảnh hưởng, dẫn đến việc hình thành và phát
triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Để hạn chế, loại trừ những yếu tố tiêu cực môi
trường nơi cá nhân làm việc, cư trú.
Hiện nay cần nâng cao chất lượng công tác quản lý hộ khẩu, quản lý tạm trú
tạm vắng. Kiểm soát chặt chẽ số người đến tạm trú và lưu trú trên địa bàn quận; rà
soát lập hồ sơ quản lý các đối tượng có tiền án, tiền sự tập trung ở địa bàn tỉnh có
nhiều khu công nghiệp, nhà trọ, nhà nghỉ, khu đông dân cư sinh sống. Xây dựng và
nhân rộng và phát triển phong trào toàn dân bảo vệ an trật tự. Triển khai thực hiện tốt
71
những giải pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùa sự gia tăng các loại tội
phạm, tệ nạn xã hội, tránh tái phạm tội.
Tuyên truyền đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động của đời sống
của xã hội, với những chức năng tuyên truyền những chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, Ủy ban nhân dân quận cần phối kết hợp với
cơ quan chuyên ngành tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng pháp
luật của Đảng và Nhà nước tại các khu dân cư, khu nhà trọ, cho các công ty, xí nghiệp
nhằm giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân. Quận đoàn thường xuyên tổ
chức, phối hợp với cán bộ đoàn tại khu dân cư, chủ động tiếp xúc, lắng nghe, tổng
hợp các ý kiến của các bạn dưới 18 tuổi đang sinh sống tại khu vực để xây dựng
chương trình, kế hoạch hoạt động cho phong trào đoàn tại địa phương. Xây dựng các
câu lạc bộ nhóm, phát triển và đào tạo các thủ lĩnh thanh niên để nắm bắt diễn biến
tâm sinh lý của các đoàn viên, đưa thêm các kỹ năng sống và dựng lại những tình
huống vi phạm pháp luật nhằm giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho
thanh niên. Ngoài ra cũng có thể lồng ghép, tăng cường sự tham gia của cha mẹ trong
các buổi sinh hoạt để tăng cường sự quản lý và giáo dục hai chiều giữa gia đình và tổ
chức đoàn thanh niên.
Nhà nước cần tăng cương quản lý chặt chẽ các lĩnh vực nhạy cảm như văn
hóa, công nghệ thông tin… Đối với những người dưới 18 tuổi lang thang, cơ nhỡ thì
phải có chính sách tạo công ăn, việc làm, dạy nghề và các hình thức giáo dục phù hợp
để giúp họ nâng cao được trình độ học vấn, có được công ăn việc làm ổn định, tránh
xa các tệ nạn xã hội.
3.2.2. Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân và điều kiện thuộc về
người phạm tội
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, ngoài việc
thực hiện các biện pháp đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục
pháp luật, củng cố tăng cường đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo hướng hoàn chỉnh, minh bạch, ít lỗ hổng, không chồng
chéo, mâu thuẫn. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải có sự tìm hiểu
72
thái độ của người dân đối với pháp luật, thay đổi cách nghĩ, cách nhìn của người dân
đối với pháp luật. Cung cấp có đầy đủ, hệ thống thông tin pháp luật trong từng lĩnh
vực để phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Kết hợp phổ biến, giáo dục
pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với
trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hòa giải ở cơ sở để giúp người đân nâng cao
hiểu biết pháp luật, tự điều chỉnh hành vi sử sự phù hợp với quy định của pháp luật,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với nhóm đối tượng là người dưới
18 tuổi cần tập trung vào nhóm đối tượng có nguy cơ vi phạm pháp luật cao, họ
thường là người dưới 18 tuổi sống trong gia đình, khu vực đặc biệt như thanh niên
không có trình độ văn hóa, gia đình có bố mẹ ly hôn, bố mẹ phạm tội, bố mẹ vi phạm
pháp luật, người dưới 18 tuổi không có việc làm… đây là những đối tượng dễ vi phạm
pháp luật do bị tác động bởi hoàn cảnh.
- Phải lại thiết kế lại chương trình môn giáo dục công dân phù hợp với các cấp
độ phổ thông, tăng phụ cấp đối với giáo viên dạy giáo dục công dân. Đối với các
trường đại học, cao đẳng không chuyên luật trong cả nước nên đưa môn pháp luật đại
cương là môn học bắt buộc trong chương trình các môn chung. Đồng thời phải nâng
cao chất lượng giảng dạy và phương pháp giảng dạy môn học này để tạo hứng thú
cho học sinh, sinh viên trong việc tiếp thu kiến thức của môn học, từ đó nâng cao ý
thức pháp luật cho học sinh, sinh viên.
- Cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp chính quyền về công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Hàng năm, các cấp chính quyền phải có nghị quyết, chương
trình hành động, đề ra chỉ tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực công tác để có thể triển khai
thực hiện. Củng cố, duy trì phong trào toàn dân bảo vệ tổ quốc, làm tốt công tác quản
lý nhà nước về an ninh tổ quốc, đặc biệt là quản lý, giáo dục đối tượng mới nổi, các
đối tượng có nguy cơ cao phạm tội, các đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng nghiện
ma túy, không rủ rê, lôi kéo người dưới 18 tuổi phạm tội. Nâng cao vai trò, trách
nhiệm của các đoàn thể trong công tác phát hiện, xử lý, trình báo người phạm tội, bảo
vệ và phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội.
73
- Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự có vị trí quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đồng thời cũng là biện pháp
ngăn ngừa người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi tiếp tục phạm tội nói
riêng. Trong công tác giam giữ nên có khu vực, buồng giam dành riêng cho người
dưới 18 tuổi để tránh việc lây nhiễm, tiếp xúc, học hỏi những tư tưởng, hành vi của
những phạm nhân khác. Do việc xử lý người dưới 18 tuổi chủ yếu nhằm mục đích
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có
ích cho xã hội nên cần có chương trình đào tạo nghề, dạy học cho những người chấp
hành án, có định hướng cho phạm nhân nâng cao trình độ học vấn và đào tạo những
ngành nghề phù hợp với nhu cầu xã hội và khả năng của họ, bảo đảm sau khi chấp
hành hình phạt tù họ có thể kiếm sống lương thiện bằng nghề đã được học. Điều này
giúp họ có thể dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng khi hiểu rõ được những giá trị của lao
động. Và cần làm tốt công tác chế theo dõi, giám sát, uốn nắn người phạm tội dưới
18 tuổi sau khi chấp hành xong hình phạt, xóa bỏ định kiến, kỳ thị phân biệt đối xử
giúp họ tái hòa nhập cộng đồng tốt.
3.2.3. Hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa khắc phục những nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
- Đối với Cơ quan điều tra
Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, xung kích đóng vai trò quan trọng
trong việc phòng ngừa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện. Lực lượng cảnh sát quản lí hành chính cần phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan khác tăng cường hơn nữa các biện pháp quản lý các hoạt động, ngành
nghề kinh doanh có điều kiện như nhà nghỉ, khách sạn, tiệm cầm đồ, tiệm games…
Lực lượng làm công tác chuyên trách như Cảnh sát hình sự, Cảnh sát khu vực…cần
tăng cường các biện pháp nghiệp vụ như trinh sát, quản lý địa bàn, xây dựng cơ sở,
cộng tác viên bí mật, điều tra cơ bản để phát hiện những nơi có biểu hiện vi phạm,
tiếp tay cho hành vi phạm tội. Đối với dịch vụ internet, cần tuyên truyền những chủ
trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, Luật an ninh mạng. Tăng
74
cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh internet, phát hiện và xử lý kịp thời các trường
hợp lập trang web, phát tán, chia sẻ những nội dung vi phạm pháp luật.
Cần có những biện pháp quản lí tốt đối với những người chấp hành xong hình
phạt trở về địa phương, những người có tiền án, tiền sự. Nắm tình hình diễn biến, tâm
tư, nguyện vọng, những thuận lợi, khó khăn của những người chấp hành xong hình
phạt tù để có biện pháp quản lý, giáo dục, để họ xóa bỏ mặc cảm, tích cực lao động,
tham gia các hoạt động xã hội chung tại cộng đồng dân cư và tự giác chấp hành đúng
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Ngành công an phối hợp với các ban ngành, đoản thể trong công tác phòng,
chống tội phạm; thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm;
thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm trên các tuyến, địa bàn,
đối tượng trọng điểm; tăng cường tuần tra, kiểm soát các tuyến giao thông, các địa
bàn khu công nghiệp, kịp thời đấu tranh phát hiện những loại tội phạm nguy hiểm và
các hành vi vi phạm pháp luật; kết hợp chặt chẽ công tác phòng ngừa xã hội và phòng
ngừa nghiệp vụ; xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc rộng rãi trên
khắp các tuyến, địa bàn; tiếp tục nâng cao hoạt động của các tổ chức quần chúng, các
mô hình, điển hình tiên tiến trong phòng, chống tội phạm tại địa bàn cơ sở, hòa giải
những mâu thuẫn trong quần chúng nhân dân không làm phát sinh tội phạm, làm tốt
công tác phòng ngừa tội phạm.
- Đối với Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân là một trong các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhà
nướ, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp góp
phần bảo đảm cho pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân
dân có vị trí và vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Viện
kiểm sát nhân dân các cấp đã chủ động bàn bạc với cơ quan tiến hành tố tụng chọn
nhiều vụ án trọng điểm để phục vụ yêu cầu cải cách tư pháp và tuyên truyền, giáo
dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật người dân.
75
Nâng cao quan hệ phối hợp của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án để
kịp thời thông tin những hành vi vi phạm liên quan đến người dưới 18 tuổi nhằm chấn
chỉnh, giáo dục kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật để bảo đảm phòng ngừa.
Hàng năm, Viện kiểm sát nên tổng hợp báo cáo về tình hình người dưới 18
tuổi phạm tội, tìm ra những nguyên nhân, thiếu sót, yếu kém, hạn chế. Từ đó, đưa ra
giải pháp, kiến nghị các cơ quan chức năng khắc phục và có chương trình phù hợp.
- Đối với Tòa án nhân dân
Việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên là bước tiến lớn trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, cần có một đội ngũ cán bộ riêng biệt cho công tác điều
tra, truy tố, xét xử đối với người dưới 18 tuổi trong việc đào tạo Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán có kiến thức về tâm lý học cũng như về khoa học giáo dục khi
xét xử đối với các bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Tòa án nhân dân cấp quận, huyện cần chú ý bảo đảm giữ bí mật cá nhân cho
người dưới 18 tuổi, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục vừa trừng trị những kẻ
chủ mưu, cầm đầu, áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS
năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với những kẻ đã lôi kéo, rủ rê, kích
động người chưa thành niên phạm tội. Bảo đảm việc xử lý người chưa thành niên
phạm tội theo hướng giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, ưu tiên cải
tạo tại cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội. Phiên tòa thân thiện, gần gũi
để bị cáo có tâm lý ổn định, nhận thức được lỗi lầm tại phiên tòa.
Tòa án nhân dân quận, huyện phối hợp nhà trường, Ủy ban nhân dân phường,
xã, Đoàn thanh niên thường xuyên tổ chức những phiên tòa giả định để qua đó giúp
cho những người dưới 18 tuổi nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp
luật, hiểu rõ tác hại của những tệ nạn xung quanh nhằm tránh mắc sai lầm.
Đối với Hội thẩm nhân dân cần lựa chọn những người có kinh nghiệm xét xử
các vụ án người dưới 18 tuổi, những hội thẩm có kiến thức pháp luật, hội thẩm là cán
bộ đoàn viên, giáo viên đảm bảo đủ thành phần theo quy định. Yêu cầu những người
làm công tác này phải có uy tín, có tinh thần trách nhiệm cao và có phẩm chất chính
trị, đạo đức nghề nghiệp và khả năng nghiên cứu, áp dụng trong hoạt động xét xử.
76
Để Hội thẩm nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, nâng cao vai trò trong
công tác xét xử, thì mỗi người cần hiểu được đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng
được Đảng và Nhà nước giao và chỉ có Tòa án là chủ thể có quyền nhân danh Nhà
nước đưa ra phán quyết, trong phán quyết đó có đại diện cho ý chí của nhân dân. Hội
thẩm nhân dân cùng với Tòa án bảo vệ quyền công lý, bảo vệ quyền con người, bảo
vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức. Các cấp chính quyền cần
quan tâm hộ trợ hơn nữa để khẳng định vai trò, tầm quan trọng của Hội thẩm nhân
dân trong hoạt động xét xử; từng bước nâng cao chất lượng của hội thẩm từ lúc tuyển
chọn đến khi xét xử.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong chương 3 của luận văn dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả
đã:
Thứ nhất, tác giả đã đưa ra những dự báo về tình hình tội phạm do người dưới
18 tuổi trên địa bàn Quận 7 dựa trên những cơ sở đặc trưng của địa bàn.
Thứ hai, đưa ra những giải pháp hạn chế, loại trừ những yếu tố liên quan đến
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.:
giải pháp hạn chế, loại trừ những nguyên nhân và điều kiện thuộc về môi trường sống;
giải pháp hạn chế, loại trừ những nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm tội;
hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh.
77
KẾT LUẬN
Tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội đang gia tăng ở Việt Nam trong những
năm gần đây với những thủ đoạn tinh vi, tính nguy hiểm ngày càng cáo. Việc gia tăng
các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên không chỉ tăng về số lượng, mà tuổi đời
phạm tội của bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng được trẻ hóa. Thực tiễn công tác ở
TAND Quận 7, trước vấn đề đặt ra hiện nay việc nghiên cứu nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh cần nghiên cứu từ góc độ lý luận, thực trạng từ đó đưa ra
giải pháp phòng ngừa là rất cần thiết.
Thứ nhất, dưới góc độ lý luận, luận văn đã khái quát được khái niệm, ý nghĩa
phân loại, cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, làm rõ
được mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện với tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội và
phòng ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Đây là cơ sở lý luận
để đối chiếu, so sánh với thực tiến và nền tảng để đề ra những giải pháp phòng ngừa.
Thứ hai, luận văn đã cho thấy tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019 diễn
biến phức tạp và có xu hướng gia tăng và những yếu tố đó là:
Về hoàn cảnh gia đình: các đối tượng có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi
như: gia đình khuyết thiếu, gia đình kinh tế khó khăn, gia đình quá nuông chiều con
cái chiếm tỉ lệ khá cao. Điều đó cho thấy môi trường gia đình có tác động không nhỏ
trong việc hình thành nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tình hình học tập: đa phần người dưới phạm tội trên địa bàn Quận 7 có trình
độ học vấn thấp, trình độ học vấn cũng tác động đến cách ứng xử của con người nên
có nhận thức về pháp luật và các chuẩn mực xã hội kém.
- Động cơ mục đích phạm tội: chủ yếu là thỏa mãn nhu cầu vật chất, thỏa mãn
các sở thích cá nhân như nghiện ma túy, game, cờ bạc…
- Giới tính, độ tuổi: đa số các đối tượng người dưới 18 tuổi phạm tội là nam
giới việc chênh lệch tỉ lệ này chủ yếu là do khác biệt các đặc điểm tâm – sinh lí – xã
hội học giữa hai giới. Độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất do có tính
bốc đồng, thích tự khẳng định mình, thiếu kinh nghiệm, kiến thức nên dễ thực hiện
hành vi phạm tội…
Thứ ba, luận văn đã dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh qua đó đề xuất những giải pháp phòng
ngừa tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành
phố Hồ Chí Minh. Các giải pháp chủ yếu hướng vào đẩy lùi và ngăn chặn tình hình
tội phạm bằng việc tác động để lành mạnh hóa các môi trường gia đình, nhà trường
và xã hội để hạn chế những tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; đồng
thời một vấn đề hết sức quan trọng đó là triển khai có hiệu quả các biện pháp nhằm
tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung
và tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiệ.
Do thời gian, nhận thức có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế
nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy, cô giáo, các đồng
nghiệp, các chuyên gia... để tác giả tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của
mình.
Tác giả xin chân thành cảm ơn người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thanh
Thùy cùng các thầy, cô giáo đã tham gia giảng dạy lớp Cao học luật đã nhiệt tình
hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tài liệu
để tác giả thực hiện hoàn thành Luận văn này./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;
2. Bộ tư pháp viện khoa học pháp lý (2006), Từ Điển luật học, Nxb Từ điển
Bách Khoa, Nxb Tư pháp.
3. Nguyễn Văn Cảnh cùng tập thể tác giả (2010), Tội phạm học, Nxb Tổng
cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Hà Nội;
4. Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học
Việt Nam, Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội;
5. Nguyễn Hữu Chính (2012),“Đổi mới mô hình tổ chức Tòa án nhân dân đáp
ứng yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước ở Việt nam hiện nay“, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 22, tr 1 -3.
6. Chính phủ (2011), Nghị định số 80/2011/NĐ-CP Quy định các biện pháp
bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù;
7. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng cường công
tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; ;
8. Công an Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, 2016,
2017, 2018, 2019;
9. Công an Quận 7 (Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội) (2015
- 2019), Thống kê nhân hộ khẩu năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
10. Cục Thống kê Quận 7 (2015 - 2019), Niêm giám thống kê năm 2015, 2016,
2017, 2018, 2019.
11. Cồ Lê Huy (2017), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học,
Học viện khoa học xã hội.
12. Nguyễn Mạnh Kháng (2000), Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Phần IV, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
13. Liên hợp quốc (1989),''Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em", tại trang
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-cua-Lien-hop-quoc-
ve-quyen-tre-em-233659.aspx, [truy cập ngày 05/03/2019].
14. Nguyễn Văn Phên (2016), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
xâm phạm sỡ hữu trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện
khoa học xã hội.
15. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội xâm
phạm, Tập 1, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM;
16. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc hội (2014), Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hà Nội.
18. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13, Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Hà Nội.
20. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, Hà Nội.
21. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày 27 tháng 1 năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
22. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày 20 tháng 06 năm 2017, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
23. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ngày 27 tháng 11 năm 2015.
24. Quốc hội (2016), Luật trẻ em 102/2016/QH13, Hà Nội.
25. Thành Uỷ Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Chương trình hành động số
49/Ctr/TU ngày 08/04/2019 về thực hiện Chỉ thị số 21 – CT/TW của Bộ chính trị về
tiếp tục tăng cường, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình
hình mới.
26. TAND Quận 7 (2015 – 2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, 2016,
2017, 2018, 2019.
27. TAND Quận 7 (2015– 2019), 100 bản án của các vụ án trẻ vị thành niên
phạm tội tại Quận 7 năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
28. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày
31/7/1998 về phê duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm;
29. Phạm Uyên Thy (2015), Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội;
30. Phạm Văn Tỉnh (2000), Các phương pháp nghiên cứu tình hình tội phạm,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;
31. Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở
nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội;
32. Phạm Văn Tỉnh (2005), Đặc điểm định lượng của tình hình tội phạm ở nước
ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 4), tr. 73-83;
33. Phạm Văn Tỉnh (2005), Đặc điểm định tính của tình hình tội phạm ở nước
ta hiện nay,Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 10), tr. 65-76;
34. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc
độ của Tội phạm học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 6), tr. 73-79;
35. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
36. Trần Hữu Tráng (2010), Bàn về nguyên nhân tội phạm học, Tạp chí Luật
học, (số 11), tr. 43-51;
37. Trần Hữu Tráng (2014), Dự báo nguy cơ tội phạm,Tạp chí Luật học, (số 4),
tr. 46-53;
38. Trần Hữu Tráng (2000), Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt
Nam, Tạp chí Luật học, (số 3), tr. 51-55;
39. Trần Hữu Tráng (2000), Nạn nhân học trong tội phạm học Việt Nam - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học luật Hà Nội;
40. Trần Hữu Tráng (2010), Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội
phạm và phòng ngừa tội phạm ở nước ta, Tạp chí Luật học, (số 1), tr. 42-50;
41. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình tổ chức hoạt động
phòng ngừa, phát hiện và điều tra tội phạm cụ thể;
42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
43. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
44. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Tội phạm học, Nguyễn
Ngọc Hòa (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
45. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tội phạm
học, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam;
46. Lê Đức Tùng (2005), Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết
đã bị xử phạt hành chính trong Bộ luật hình sự, Tạp chí Kiểm sát,(số 5), tr.34-36;
47. Đào Trí Úc (1993), Hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tội
phạm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Bộ Nội vụ, tr. 18-22;
48. Đào Trí Úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng
Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Ủy ban nhân dân Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội
Quận 7 năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
50. Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 (2015- 2019), Thống kê tội phạm hình sự
năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
51. Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác
năm, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
52. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
53. Trịnh Tiến Việt (2003), Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc
khi quyết định hình phạt,Tạp chí Kiểm sát, (số 1), tr.21-23;
54. Võ Khánh Vinh (2002), Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lý luận -
thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;
55. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân.
56. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2011), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân.
57. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, phần chung,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự, phần các tội phạm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Tội Phạm Học, Trường Đại học Huế,
Trung tâm đào tạo từ xa, Nxb giáo dục Hà Nội.
60. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội;
61. Võ Khánh Vinh (2010), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành
khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
62. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội;
63. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.