ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

MÃ NGUYỆT THU

NGUYÊN TẮC “CHẾ ĐỘ XÉT XỬ SƠ THẨM,

PHÚC THẨM ĐƢỢC BẢO ĐẢM” THEO QUY ĐỊNH

CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

MÃ NGUYỆT THU

NGUYÊN TẮC “CHẾ ĐỘ XÉT XỬ SƠ THẨM,

PHÚC THẨM ĐƢỢC BẢO ĐẢM” THEO QUY ĐỊNH

CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH QUỐC TOẢN

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh

toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học

Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Mã Nguyệt Thu

i

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... v

DANH MỤC CÁC BẢNG............................................................................... vi

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC

CHẾ ĐỘ XÉT XỬ SƠ THẨM, PHÚC THẨM ĐƢỢC BẢO ĐẢM .......... 6

1.1. Khái niệm, nội dung của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm đƣợc bảo đảm......................................................................................... 6

1.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 6

1.1.2. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

đƣợc bảo đảm ................................................................................................... 11

1.1.3. Nội dung nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm . 13

1.2. Mối quan hệ của nguyên tắc Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo

đảm với một số nguyên tắc khác trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ....... 18

1.2.1. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm với

nguyên tắc suy đoán vô tội .............................................................................. 19

1.2.2. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm với

nguyên tắc xác định sự thật của vụ án ............................................................ 21

1.2.3. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm với

nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của bị hại, đƣơng sự ............................................................. 22

1.2.4. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm với

nguyên tắc tranh tụng ...................................................................................... 23

ii

1.3. Khái quát lịch sử phát triển của nguyên tắc Chế độ xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm đƣợc bảo đảm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ............. 23

1.4. Nguyên tắc Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong luật tố tụng

hình sự một số nƣớc ...................................................................................... 29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................ 34

CHƢƠNG 2: SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC CHẾ ĐỘ XÉT XỬ

SƠ THẨM, PHÚC THẨM ĐƢỢC BẢO ĐẢM TRONG BỘ LUẬT TỐ

TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015........................................................................ 35

2.1. Sự thể hiện của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc

bảo đảm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ..................................................... 35

2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án ............................................... 35

2.1.2. Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm .......................................................... 40

2.1.3. Quyền hạn của HĐXX sơ thẩm ............................................................ 43

2.2. Mỗi quan hệ giữa xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm ..................... 45

2.3. Sự thể hiện của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc

bảo đảm trong giai đoạn xét xử phúc thẩm ................................................ 46

2.3.1. Những quy định về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm......................... 46

2.3.2. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án ........................................... 49

2.3.3. Phạm vi xét xử phúc thẩm ..................................................................... 50

2.3.4. Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm ......................................... 51

2.4. Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật .... 66

2.4.1. Thủ tục giám đốc thẩm .......................................................................... 67

2.4.2. Thủ tục tái thẩm .................................................................................... 73

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................ 76

iii

CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI

PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM TUÂN THỦ CÁC

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ

NGUYÊN TẮC CHẾ ĐỘ XÉT XỬ SƠ THẨM, PHÚC THẨM ĐƢỢC

BẢO ĐẢM ...................................................................................................... 77

3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

đƣợc bảo đảm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ................................................. 77

3.1.1. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng .................................... 77

3.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm và xét

xử phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. ...................................................... 79

3.2. Kiến nghị hoàn thiện những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 ........................................................................................................ 87

3.2.1. Bổ sung quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự ................ 87

3.2.2. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm .................... 88

3.2.3. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám đốc thẩm ............................... 89

3.3. Một số giải pháp bảo đảm tuân thủ nguyên tắc chế độ xét xử sơ

thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm .................................................................. 91

3.3.1. Đổi mới tổ chức của hệ thống TA ......................................................... 91

3.3.2. Đẩy mạnh hoạt động trang tụng tại phiên tòa, nâng cao chất lƣợng xét

xử ..................................................................................................................... 92

3.3.3. Giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật .............................................. 95

3.3.4. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm tố tụng của ngƣời tiến hành tố

tụng .................................................................................................................. 96

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................ 97

KẾT LUẬN .................................................................................................... 98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 100

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT VIẾT ĐẦY ĐỦ VIẾT TẮT

1 Bộ luật hình sự BLHS

2 Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS

3 Hội đồng xét xử HĐXX

4 Tòa án TA

5 Tòa án nhân dân TAND

6 Tố tụng hình sự TTHS

7 Trách nhiệm hình sự TNHS

8 Viện kiểm sát VKS

v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Tỷ lệ giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Cao Bằng từ

năm 2014 đến năm 2018. ................................................................ 80

Bảng 3.2: Tỷ lệ giải quyết án hình sự phúc thẩm của TAND tỉnh Cao Bằng từ

năm 2014 đến năm 2018. ................................................................ 82

vi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xét xử là một giai đoạn tố tụng quan trọng trong quá trình giải quyết

một vụ án Hình sự, nhằm xác định TNHS đối với ngƣời đó đƣa ra một hình

phạt tƣơng xứng với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện để

trừng trị ngƣời phạm tội và giáo dục phòng ngừa chung. Hoạt động xét xử

vụ án hình sự có thể dẫn tới hậu quả pháp lý bất lợi cho ngƣời bị buộc tội,

cũng nhƣ những ngƣời khác có liên quan. Vì vậy, quá trình xét xử phải luôn

bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật, khách quan, toàn diện nhằm

xử lý đúng ngƣời, đúng tội. Để thực hiện đƣợc điều đó, đòi hỏi hoạt động

xét xử phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS.

Những nguyên tắc của luật TTHS là phƣơng châm, là kim chỉ nam cho

mọi hoạt động trong TTHS. Theo quy định tại chƣơng II, BLTTHS năm

2003 có 30 nguyên tắc cơ bản trong đó có nguyên tắc “Thực hiện chế độ hai

cấp xét xử”. Nguyên tắc này tiếp tục đƣợc khẳng định lại trong BLTTHS

năm 2015 với tên gọi “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo”.

Không chỉ thay đổi về tên gọi của nguyên tắc so với BLTTHS năm

2003 mà về mặt lý luận nuyên tắc này còn có cách tiếp cận mới theo quy

định của BLTTHS năm 2015. Mặt khác, thực tiễn áp dụng pháp luật cho

thấy do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc áp dụng nguyên tắc chế độ

xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm còn nhiều hạn chế. Do đó, việc

nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận chung cũng nhƣ những

quy định của pháp luật về nguyên tắc và thực tiễn áp dụng để chỉ ra những

hạn chế, tồn tại, thiếu sót từ đó đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả áp dụng của nguyên tắc trong thực tiễn, đảm bảo chất lƣợng giải quyết

các vụ án hình sự đúng ngƣời, đúng tội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

Nhà nƣớc và ngƣời tham gia tố tụng là một việc làm hết sức cần thiết.

1

Vì lý do trên, tác giả chọn đề tài “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

đƣợc bảo đảm theo quy định của BLTTHS năm 2015” để nghiên cứu trong

luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trƣớc đến nay, có rất nhiều tài liệu đề cập đến nguyên tắc của luật

TTHS nhƣ một số giáo trình chuyên ngành luật, luận án, luận văn và các bài

tham luận tại các diễn đàn khoa học... Có thể kể đến một số tài liệu điển hình

nhƣ giáo trình Luật TTHS - Đại học Luật Hà Nội; giáo trình Luật TTHS -

Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả Lê Cảm có hai bài viết đăng

trên tạp chí Kiểm sát: “Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định các nguyên

tắc của luật TTHS” và “Nhà nước pháp quyền trong việc bảo vệ an ninh

quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự”.

Tác giả Nguyễn Ngọc Chí với một loạt các bài viết về các nguyên tắc nhƣ

“Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người

giám định trong TTHS” đƣợc đăng tại Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật;

“Hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS”, Tạp chí Khoa học Đại

học quốc gia; “Một số yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc "Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp

luật; “Hoàn thiện nguyên tắc “Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật” trong TTHS”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật; “Lựa

chọn mô hình TTHS”, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật; “Nguyên tắc suy đoán

vô tội trong Luật TTHS Việt Nam”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật và Đề

cƣơng bài giảng môn xét xử vụ án hình sự, Khoa Luật - Đại học Quốc gia

Hà Nội. Các luận văn thạc sĩ của học viên cao học chuyên ngành luật Hình

sự. Ngoài ra còn có những bài viết liên quan đến các nguyên tắc của luật

TTHS đƣợc đăng trên nhiều tạp chí chuyên ngành.

Tuy nhiên, chƣa có nhiều nghiên cứu riêng về nguyên tắc chế độ xét sở

thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm. Hơn nữa, BLTTHS năm 2015 có nhiều nội

2

dung mới quy định về nguyên tắc này. Do đó, tác giả chọn đề tài trên để

nghiên cứu nhằm làm rõ các vấn đề về lý luận chung cũng nhƣ quy định của

pháp luật Việt Nam hiện hành về nguyên tắc, tìm ra nguyên nhân của những

hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc đƣa ra những đề xuất để nâng cao

hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp

luật về nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm dƣới

khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Cao

Bằng. Qua đó, tác giả chỉ ra những hạn chế trong việc áp dụng và đƣa ra

những kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và giải pháp nâng cao

hiệu quả áp dụng của nguyên tắc.

2.2. Nhiệm vụ

Luận văn đề ra những nhiệm vụ cụ thể dƣới đây để hoàn thành mục tiêu

nêu trên:

- Làm rõ những vấn đề lý luận về nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm đƣợc bảo đảm trong TTHS nhƣ: Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, ý

nghĩa của nguyên tắc.

- Khái quát sự phát triển của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm đƣợc bảo đảm trong lịch sử pháp luật TTHS của nƣớc ta từ năm 1945

đến nay;

- Nghiên cứu quy định trong luật TTHS một số nƣớc về nguyên tắc chế

độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm.

- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc chế độ

xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm trong TTHS Việt Nam.

- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm đƣợc bảo đảm trong TTHS trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

3

- Đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc chế

độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm trong TTHS.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Những vấn đề lý luận chung của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm đƣợc bảo đảm.

- Những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về nguyên tắc chế độ

xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm.

- Thực tiễn áp dụng nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc

bảo đảm.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc Chế độ xét xử sơ

thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm trong khoảng thời gian năm năm, từ năm

2014 đến năm 2018 trên phạm vi địa bàn tỉnh Cao Bằng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh để làm rõ những vấn đề lý luận chung của nguyên tắc

chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm.

Luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử, so sánh để thấy rõ quá trình

phát triển, những điểm mới của nguyên tắc trong lịch sử TTHS Việt Nam.

Kết quả của Luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu đƣờng lối, chính sách

của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền,

chủ trƣơng cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta, các văn bản pháp luật và văn bản

hƣớng dẫn áp dụng pháp luật có liên quan đến nguyên tắc xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm đồng thời tham khảo những bài viết đăng trên tạp chí, báo chuyên

ngành và các bản báo cáo tổng kết của TA, VKS cũng nhƣ thực tiễn công tác

của bản thân tác giả.

4

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả kết hợp sử dụng các phƣơng pháp

nghiên cứu khoa học nhƣ phƣơng pháp thống kê, so sánh để thấy đƣợc toàn

cảnh bức tranh xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong

năm năm trở lại đây.

Ngoài ra, luận văn sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp để chỉ ra

một số tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc.

6. Kết cấu của luận văn

Nội dung chính của luận văn gồm có 3 chƣơng. Ngoài ra còn có phần

mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo:

Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm đƣợc bảo đảm.

Chƣơng 2: Sự thể hiện của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm đƣợc đảm bảo trong BLTTHS năm 2015.

Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng, một số kiến nghị, giải pháp tiếp tục hoàn

thiện và bảo đảm tuân thủ các quy định của BLTTHS năm 2015 về nguyên

tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm.

5

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC

CHẾ ĐỘ XÉT XỬ SƠ THẨM, PHÚC THẨM ĐƢỢC BẢO ĐẢM

1.1. Khái niệm, nội dung của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm đƣợc bảo đảm

1.1.1. Khái niệm

Theo từ điển Tiếng Việt, “Nguyên tắc” là “Điều cơ bản định ra, nhất

thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”. [66, tr.672]. Theo khái niệm

trên, nguyên tắc đƣợc hiểu là tƣ tƣởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt

động nào đó. Mục đích cuối cùng của quá trình giải quyết vụ án hình sự là

kịp thời, nhanh chóng, xử lý đúng ngƣời, đúng tội, đúng quy định của pháp

luật nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để đạt đƣợc

mục đích đó, khi giải quyết vụ án hình sự cần phải tuân theo những nguyên

tắc cơ bản của luật TTHS.

Khi nghiên cứu về nguyên tắc cơ bản của TTHS, có nhiều quan điểm khác

nhau nhƣ: Khái niệm, bản chất, cách phân loại cũng nhƣ xác định phạm vi ảnh

hƣởng của các nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Theo PGS. TS Trần Đình Nhã “Khái niệm các nguyên tắc của luật

TTHS” là sự nhầm lẫn “bắt nguồn từ việc coi TTHS và pháp luật tố TTHS là

một”. Theo đó, không có nguyên tắc của luật TTHS mà chỉ có nguyên tắc

của TTHS và “Việc hình thành các nguyên tắc của TTHS không phải là

ngẫu nhiên, càng không phải là ý chí chủ quan của các nhà làm luật”, mà

“nguyên tắc của TTHS, xét cho cùng là sản phẩm phát triển của xã hội và

đồng thời là thành tựu của hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình

sự” [62, tr. 273-276].

PGS. TS. Phạm Hồng Hải đƣa ra định nghĩa “Nguyên tắc TTHS Việt

Nam là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam,

6

Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quá trình giải quyết vụ án

hình sự đó được thể chế hoá trong BLTTHS mà các cơ quan tiến hành tố

tụng, người tến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước,

tổ chức xã hội và mọi công dân phải tuân theo”. Tác giả không đồng ý với

quan niệm coi các nguyên tắc này là nguyên tắc của BLTTHS, nhƣng đồng

thời cũng không tán đồng quan niệm chỉ coi đó là nguyên tắc của TTHS

“theo chúng tôi cả hai cách lập luận đó đều chưa đủ tính thuyết phục”. Và

theo quan điểm của tác giả thì “Khi nguyên tắc quy định trong BLTTHS thì

phải coi chúng là những nguyên tắc của TTHS, ngoài ra nếu các tư tưởng,

quan điểm nào đó là các quan điểm, tư tưởng chủ đạo của luật TTHS thì chúng cũng đồng thời là các nguyên tắc của luật TTHS” [24, tr.115-122.]

Nhƣ vậy, theo PGS. TS. Phạm Hồng Hải có những nguyên tắc chỉ là của

TTHS và có nguyên tắc vừa là của TTHS lại vừa là của luật TTHS đƣợc quy

định trong BLTTHS.

Theo TS Nguyễn Văn Tuân tồn tại hai loại nguyên tắc: Nguyên tắc của

TTHS và nguyên tắc của luật TTHS đồng thời “khẳng định nguyên tắc của

luật TTHS và nguyên tắc của TTHS có điểm giống nhau và khác nhau, giữa

chúng có sự giao thoa nhất định. Một số nguyên tắc của luật TTHS cũng có

thể là nguyên tắc của TTHS và ngược lại. Điều đó phụ thuộc vào sự thể hiện

của nguyên tắc đó, cũng như cách tiếp cận chúng” [51, tr.15]. Từ đó, TS

Nguyễn Văn Tuân đƣa ra khái niệm nguyên tắc cơ bản của TTHS nhƣ sau:

“Có thể hiểu nguyên tắc của TTHS là những quy định pháp luật cơ bản,

chung nhất, mang tính chất chỉ đạo và được ghi nhận trong các văn bản quy

phạm pháp luật TTHS, thể hiện bản chất tố tụng, xác định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

những người tham gia tố tụng hình sự”[51, tr.18].

7

TS Lê Hữu Thể thừa nhận có những quan niệm khác nhau, là nguyên

tắc cơ bản của TTHS hay nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, nhƣng “Các ý

kiến đều thống nhất chung về bản chất, lĩnh vực thể hiện, đó là: Nguyên tắc

cơ bản được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động

TTHS hoặc đối với một số hoạt động tố tụng nhất định như hoạt động điều

tra, truy tố, xét xử …; được thể hiện trong cả việc xây dựng, giải thích, áp

dụng pháp luật tố tụng hình sự”[50, tr.42]. Tuy nhiên, tác giả lại khẳng định

“Nguyên tắc cơ bản của TTHS rộng hơn khái niệm nguyên tắc cơ bản của

luật TTHS”[50, tr.42].

GS.TSKH Lê Văn Cảm cho rằng những nguyên tắc đƣợc quy định

trong BLTTHS là nguyên tắc của Luật TTHS và đƣợc định nghĩa nhƣ sau:

“Nguyên tắc của luật TTHS là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản được

thể hiện trong pháp luật TTHS, cũng như trong việc giải thích và trong thực

tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua một hay nhiều quy phạm (chế định)

của nó - của nguyên tắc tương ứng mà ta nghiên cứu” [5].

Giáo trình luật TTHS Việt Nam của trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội

đƣa ra định nghĩa về nguyên tắc cơ bản của luật TTHS nhƣ sau: “Nguyên tắc

cơ bản của luật TTHS là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ

hay một số giai đoạn của hoạt động TTHS trong quá trình xây dựng và áp

dụng pháp luật TTHS” [6, tr. 45-46]. Nhƣ vậy, bản thân hoạt động TTHS đã

đòi hỏi luôn luôn tồn tại những nguyên tắc của nó, tuy nhiên chỉ khi những

nguyên tắc của TTHS đƣợc nhà làm luật quy định ở những văn bản pháp

luật nó mới trở thành nguyên tắc của luật TTHS.

Giáo trình luật TTHS Việt Nam của trƣờng Đại học luật Hà Nội đƣa ra

khái niệm “Các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là những định hướng chi

phối tất cả hoặc một số hoạt động TTHS, được các văn bản pháp luật ghi

nhận” [60, tr.43 ].

8

Nhƣ vậy, cho tới nay có nhiều quan niệm của những nhà nghiên cứu

khác nhau về nguyên tắc cơ bản của LTTHS. Tuy nhiên tác giả đồng ý với

quan điểm của PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng có sự khác nhau giữa hai

khái niệm “tố tụng hình sự” và “luật tố tụng hình sự”. Khái niệm “tố tụng

hình sự” rộng hơn nó bao gồm toàn bộ hoạt động của các chủ thể tiến hành

và tham gia tố tụng nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh

chóng, chính xác và đúng pháp luật. Đây là hoạt động mang tính khác quan,

tồn tại trong xã hội có giai cấp, là đòi hỏi tất yếu của Nhà nƣớc để trừng trị

ngƣời phạm tội. Còn “luật tố tụng hình sự” là khái niệm hẹp hơn, bao gồm

các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá

trình giải quyết vụ án hình sự. Luật tố tụng hình sự là một phạm trù chủ

quan, là nhận thức hiện tƣợng khách quan của nhà làm luật. Vì vậy, những

phƣơng châm, định hƣớng quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn

của quá trình TTHS, quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS đƣợc

gọi là các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS [12].

Những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là kim chỉ nam cho mọi hoạt

động trong TTHS, thể hiện chính sách hình sự, quan điểm giải quyết vụ án

hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta đảm bảo mọi tội phạm đều đƣợc phát hiện,

xử lý kịp thời, nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của pháp luật,

không bỏ lọt tội phạm và làm oan ngƣời vô tội.

Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc

nhằm đƣa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó

nhân danh Nhà nƣớc đƣa ra một phán quyết tƣơng ứng với bản chất, mức độ

trái hay không trái pháp luật của vụ việc. TA là cơ quan duy nhất của một

nƣớc thực hiện chức năng xét xử. Mọi bản án do TA tuyên đều phải thông

qua hoạt động xét xử. Không một ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử

và kết quả xét xử phải đƣợc thể hiện bằng bản án. Theo quy định của luật

9

TTHS Việt Nam hiện hành, có hai cấp độ xét xử là: xét xử sơ thẩm và xét xử

phúc thẩm.

Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đƣa vụ án ra xét xử tại một TA có thẩm

quyền. Cấp sơ thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ nhất.

Tất cả các vụ án hình sự đều phải tiến hành xét xử sơ thẩm. Đây là cấp xét

có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Bản án, quyết

định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng

nghị để xét xử lại một lần nữa, đó là xét xử phúc thẩm. Nếu xem xét, đánh

giá khách quan, toàn diện, xét xử chính xác, nghiêm túc ngay từ lúc sơ thẩm

thì bản án sẽ ít bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu bản án

bị kháng cáo, kháng nghị thì cũng không bị hủy, sửa. Nhƣ vậy, vụ án không

bị kéo dài, mất thời gian.

Xét xử phúc thẩm là việc TA cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hình sự

mà bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,

kháng nghị theo quy định của pháp luật. Bản án, quyết định của TA cấp

phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.

Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm về nguyên tắc chế độ

xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm nhƣ sau:

Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm là tư tưởng

chủ đạo, có tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định hướng của

Nhà nước trong việc tổ chức, hoạt động để xét xử các vụ án hình sự, được

quy định trong BLTTHS, trong đó xác định một vụ án hình sự được xét xử lần

đầu ở cấp sơ thẩm và có thể được xét xử lại ở cấp phúc thẩm nếu có kháng

cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định, theo quy định của BLTTHS nhằm

tìm ra sự thật khách quan của vụ án để TA xét xử đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật đồng thời tạo cơ hội cho bị cáo và những người tham gia tố tụng

khác bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

10

Từ khái niệm trên, có thể thấy nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm đƣợc bảo đảm có những đặc điểm sau:

Thứ nhất: Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm

là tƣ tƣởng chủ đạo, mang tính định hƣớng, là tiền đề quan trọng thể hiện

quan điểm của Nhà nƣớc về xét xử các vụ án hình sự nhằm đảm bảo tính

chính xác, khách quan trong phán quyết của TA, bảo vệ quyền tự do, dân

chủ của công dân.

Thứ hai: Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm phúc thẩm đƣợc bảo đảm là

nguyên tắc đặc trƣng chỉ đƣợc thực hiện trong giai đoạn xét xử vụ án hình

sự. TA là cơ quan duy nhất đƣợc Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam giao cho chức năng xét xử. Do đó, TA là chủ thể duy nhất thực hiện

việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

Thứ ba: Không phải tất cả mọi vụ án hình sự đều phải trải qua hai lần

xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm chỉ phát sinh khi có kháng

cáo hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực

pháp luật.

Thứ tư: Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm là

biểu hiện quan trọng của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, thể hiện ở quyền kháng cáo, có nghĩa là đƣợc phép yêu cầu TA cấp trên

trực tiếp xét xử lại bản án, quyết định sơ thẩm.

1.1.2. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm được bảo đảm

Việc quy định chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong TTHS xuất phát

từ những lý do sau:

Thứ nhất, bản chất của Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc theo chế độ xã hội chủ

nghĩa, Nhà nƣớc của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Trong bộ máy

nhà nƣớc, TA là cơ quan thực hiện chức năng xét xử chuyên biệt của Nhà

11

nƣớc, nhân danh Nhà nƣớc để trừng trị ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, xét xử

không phải là một hoạt động đơn giản. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là

ngƣời đƣợc đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, có kinh nghiệm xét xử và quá

trình xét xử có sự hỗ trợ của Hội thẩm nhân dân nhƣng thực tế vẫn mắc phải

những sai sót do trình độ nhận thức, do cảm tính cá nhân hoặc nhiều yếu tố

tác động khác. Khi có sai sót sảy ra, quyền và lợi ích của bị cáo cũng nhƣ

những ngƣời tham gia tố tụng khác sẽ bị ảnh hƣởng. Để họ bảo vệ đƣợc

quyền và lợi ích chính đáng của mình, pháp luật quy định và thực hiện

nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm trong TTHS.

Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để VKS, ngƣời đƣợc quyền kháng cáo có

quyền và lợi ích liên quan đến vụ án thể hiện quan điểm không đồng ý với

kết quả xét xử của TA bằng việc kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định

sơ thẩm theo quy định của pháp luật để vụ án đƣợc xét xử lại ở cấp phúc

thẩm. Qua đó, bị cáo và những ngƣời có quyền kháng cáo có thể bảo vệ

đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong nhiều trƣờng hợp lợi ích

của Nhà nƣớc và xã hội cũng đƣợc bảo đảm.

Hơn nữa, với quy định một vụ án hình sự có thể đƣợc xét xử lại ở cấp

phúc thẩm là một đảm bảo pháp lý cần thiết cho việc xét xử đƣợc đúng đắn,

chính xác. Khi xét xử lại ở cấp phúc thẩm, toàn bộ nội dung của vụ án sẽ

đƣợc xem xét, phân tích và đánh giá kỹ càng hơn, đầy đủ hơn một lần nữa.

Nhƣ vậy, phán quyết của TA sẽ đảm bảo độ chính xác cao hơn.

Thứ hai, TA là cơ quan duy nhất của Nhà nƣớc thực hiện chức năng xét

xử, những phán quyết của TA phải đảm bảo đúng đắn, chính xác. Tuy vậy,

xét xử là một hoạt động phức tạp, không phải lúc nào việc xét xử của TA

một lần đã đúng vì vậy nó cần phải đƣợc xem xét, kiểm tra lại lần thứ hai

nếu có căn cứ theo quy định của pháp luật. Thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm cũng chính là hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của

12

TA cấp dƣới, nhằm đảm bảo tính khách quan nhất cho một phán quyết nhân

danh công lý của TA.

Thứ ba, việc quy định một vụ án có thể bị xét xử hai lần, lần thứ nhất ở

cấp sơ thẩm và lần thứ hai ở cấp phúc thẩm nếu có kháng cáo, kháng nghị

còn có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán. Với khả

năng các phán quyết của họ có thể bị xem xét lại, thậm chí bị hủy, bị sửa sẽ

giúp Thẩm phán thận trọng, cân nhắc kỹ lƣỡng, tập trung đầu tƣ thời gian

nghiên cứu vụ án một cách kỹ lƣỡng để đƣa ra phán quyết chính xác.

Thứ tư, qua chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân đƣợc bảo vệ triệt để hơn. BLTTHS trao cho bị cáo có

quyền bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình cũng nhƣ có quyền tranh luận tại phiên tòa. Tuy nhiên,

nếu tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo chƣa thực hiện đƣợc quyền này và vụ án có

kháng cáo, kháng nghị thì tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn có thể thực

hiện các quyền của mình, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo suy ngẫm, ăn

năn, hối cải, bồi thƣờng khắc phục hậu quả để đƣợc hƣởng sự khoan hồng

của Nhà nƣớc.

Thứ năm, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đảm

bảo sự phù hợp giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, phù hợp với

Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1996 mà Việt

Nam gia nhập ngày 24/9/1982 trong đó quy định “Bất cứ người nào bị kết

án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xét xử lại bản án

và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật” [26].

1.1.3. Nội dung nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc áp dụng phổ biến ở nhiều

quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nguyên tắc đó không chỉ đƣợc

quy định cụ thể trong pháp luật TTHS của các nƣớc mà còn đƣợc ghi nhận

13

trong các công ƣớc quốc tế, văn bản pháp lý quan trọng khác. Tại khoản 5

Điều 14 Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966

của Đại hội đồng Liên hợp quốc ghi nhận “Bất cứ người nào bị kết án là

phạm tội đều có quyền yêu cầu TA cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình

phạt đối với mình theo quy định của pháp luật” [26]. Tại Điều 81 phần thứ

tám Quy chế Rom về TA hình sự quốc tế cũng xác định “Bản án có thể bị

Công tố viên hoặc người bị kết tội kháng cáo phù hợp với quy tắc về tố tụng

và chứng cứ dựa trên cơ sở thiếu sự cân đối giữa tội phạm và bản án” [26]

Tại Việt Nam, nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo

đảm đƣợc quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa

tại các luật chuyên ngành là Luật Tổ chức TAND và BLTTHS. Điều 6 Luật

Tổ chức TAND quy định:

“1. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.

Bản án, quyết định sơ thẩm của TA có thể bị kháng cáo, kháng nghị

theo quy định của luật tố tụng. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng

cáo, kháng nghị trong thời hạn do luật định thì có hiệu lực pháp luật.

Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải

được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của TA có hiệu lực

pháp luật.

2. Bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có

vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì

được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm” [46, Điều 6].

Tại Điều 27 BLTTHS năm 2015 quy định:

“1. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.

Bản án, quyết định sơ thẩm của TA có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo

quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo,

kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật.

14

Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải

được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của TA có hiệu lực

pháp luật.

2. Bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có

vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ

luật này thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”

[47, Điều 27].

Theo những quy định trên, nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm đƣợc bảo đảm có nội dung nhƣ sau:

Thứ nhất: Đối với một vụ án hình sự, xét xử sơ thẩm là lần xét xử đầu

tiên, phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng của VKS. Việc xét xử sơ thẩm một

vụ án hình sự đƣợc thực hiện thông qua một phiên tòa hình sự sơ thẩm và

đƣợc diễn ra theo trình tự, thủ tục nhất định đƣợc quy định trong BLTTHS.

Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HĐXX giải quyết toàn bộ các vấn đề của

vụ án, phán quyết của TA đƣợc thể hiện qua bản án hình sự sơ thẩm, quyết

định bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội gì, điều luật áp dụng và quyết

định hình phạt đối với bị cáo. Ngoài ra, HĐXX còn phải xem xét, giải quyết

những vấn đề khác liên quan đến vụ án nhƣ bồi thƣờng thiệt hại, xử lý vật

chứng, quyết định về phần án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm

trong vụ án hình sự (nếu có). Đồng thời báo quyền kháng cáo cho những

ngƣời có quyền kháng cáo. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HĐXX phải đánh

giá, phân tịch toàn bộ vụ án một cách khách quan, toàn diện trên cơ sở

những vấn đề đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, làm rõ những chứng cứ xác

định có tội hoặc chứng cứ xác định vô tội, đồng thời đánh giá tính chất cũng

nhƣ mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ

TNHS đối với bị cáo; xác định thiệt hại và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại

để đƣa ra quyết định cuối cùng thể hiện qua bản án hình sự sơ thẩm. Bản án,

15

quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo,

kháng nghị trong một thời hạn nhất định.

Thứ hai: Trƣờng hợp bản án, quyết định sơ thẩm mà không bị kháng

cáo hoặc kháng nghị trong thời hạn luật định thì có hiệu lực pháp luật.

Thứ ba: Trong thời hạn luật định, bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị

kháng cáo, kháng nghị. Khi có kháng cáo hoặc kháng nghị thì vụ án đƣợc

xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Đây là lần xét xử thứ hai đƣợc tiến hành

sau lần xét xử sơ thẩm để xem xét lại bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng

nghị. Không phải tất cả các vụ án hình sự đều trải qua thủ tục xét xử sơ thẩm

và xét xử phúc thẩm mà chỉ những bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,

kháng nghị mới đƣợc xét xử phúc thẩm. Về nguyên tắc chung, bản án có

kháng cáo, kháng nghị thì chƣa đƣợc đƣa ra thi hành ngay trừ những trƣờng

hợp sau: Bị cáo đang bị tam giam mà TA cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ

án, tuyên bị cáo không có tội, miễn TNHS, miễn hình phạt cho bị cáo, hình

phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhƣng cho hƣởng án treo hoặc

khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án

hoặc quyết định của TA đƣợc thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng

cáo, kháng nghị [47, Điều 363]. Quy định này nhằm mục đích bảo đảm

quyền lợi cho bị cáo, trả lại tự do cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam giữ về

một hành vi phạm tội khác.

Khi có kháng cáo, kháng nghị thì TA đã xét xử sơ thẩm phải chuyển

toàn bộ hồ sơ vụ án cho TA cấp trên trực tiếp để xét xử phúc thẩm. Trƣớc

khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, ngƣời kháng cáo có

quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, VKS ra quyết định kháng nghị có quyền

thay đổi, bổ sung kháng nghị nhƣng không đƣợc làm xấu hơn tình trạng của

bị cáo. Nếu phần kháng cáo, kháng nghị bị rút không liên quan đến phần

kháng cáo, kháng nghị khác thì HĐXX phúc thẩm đình chỉ xét xử phần

16

kháng cáo, kháng nghị trong bản án phúc thẩm. Trƣờng hợp ngƣời kháng

cáo rút toàn bộ kháng cáo, VKS rút toàn bộ kháng nghị thì không còn căn cứ

để xét xử phúc thẩm nên TA cấp phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.

Bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày TA cấp phúc

thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

Thứ tư: Không phải tất cả những ngƣời tham gia tố tụng đều có quyền

kháng cáo. Quyền kháng cáo thuộc về những ngƣời mà bản án, quyết định

ảnh hƣởng hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ nhƣ bị cáo,

bị hại, ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan… với phạm vi và giới hạn

do luật quy định. Quyền kháng cáo luôn đƣợc TA tạo điều kiện thuận lợi để

chủ thể có quyền kháng cáo thực hiện đƣợc quyền này. Thời hạn kháng cáo

là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đƣơng sự vắng mặt tại phiên

tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận đƣợc bản án hoặc ngày bản

án đƣợc niêm yết theo quy định của pháp luật. Thời hạn kháng cáo đối với

quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày ngƣời có quyền kháng cáo nhận

đƣợc quyết định. Việc kháng cáo quá hạn đƣợc chấp nhận nếu có lý do bất

khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà ngƣời kháng cáo không thể thực

hiện việc kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Quyền kháng nghị thuộc về VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp.

Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với bản án của TA cấp sơ thẩm

là 15 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Thời

hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với quyết định của TA cấp sơ thẩm là

07 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày TA ra quyết định

[47, Điều 337].

Thứ năm: Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ

thẩm không bị kháng cáo hoặc kháng nghị sẽ có hiệu lực pháp luật kể từ

ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị [47, Điều 343]. Bản án phúc thẩm

17

có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. TA đã xét xử sơ thẩm ra quyết

định thi hành án đối với những bản án có hiệu lực pháp luật và phải đƣợc

đƣa ra thi hành ngay.

Thứ sáu: Bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật và đã đƣa ra

thi hành mà phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát sinh tình

tiết mới làm thay đổi căn bản nội dung vụ án thì đƣợc xem xét lại theo trình

tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giám đốc thẩm, tái thẩm là hai hình thức

của thủ tục xem xét lại bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật

chứ không phải thủ tục nối tiếp của xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm.

Ngƣời bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi

phạm pháp luật trong bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật

hoặc phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông báo cho ngƣời có thẩm

quyền kháng nghị. Việc kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thuộc về VKS và

TA khi có căn cứ quy định tại Điều 371 và Điều 398 BLTTHS năm 2015.

1.2. Mối quan hệ của nguyên tắc Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

đƣợc bảo đảm với một số nguyên tắc khác trong Luật tố tụng hình sự

Việt Nam

Các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là những phƣơng châm, định

hƣớng thể hiện chính sách hình sự, quan điểm giải quyết vụ án hình sự của

Đảng và Nhà nƣớc ta là đảm bảo mọi tội phạm đều đƣợc phát hiện kịp thời,

xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm,

không làm oan ngƣời vô tội.

Hệ thống các nguyên tắc đƣợc quy định trong BLTTHS năm 2015 về

cơ bản đã thể hiện đƣợc đầy đủ tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và

Nhà nƣớc ta đối với hoạt động tụng hình sự. Các nguyên tắc đó có mỗi quan

hệ mật thiết với nhau cùng hƣớng tới mục tiêu chung của TTHS.

18

1.2.1. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

với nguyên tắc suy đoán vô tội

Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc

tế, là một trong những nội dung quan trọng về quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận

trong Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 và Công ƣớc quốc tế về các quyền dân

sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc, đó là: “Bất kỳ người bị buộc tội nào

đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác

định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai

của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó” [26].

Năm 1982, Việt Nam gia nhập Công ƣớc quốc tế năm 1966 và cam kết

thực hiện các nguyên tắc của công ƣớc này trong đó có nguyên tắc suy đoán

vô tội. Do dó, nguyên tắc này đã đƣợc cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật

của nƣớc ta. Cụ thể, tại luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp

năm 2013 quy định tại khoản 1 Điều 31 nhƣ sau “Người bị buộc tội được coi

là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản

án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật” [45].

Việc ghi nhận và hoàn thiện nguyên tắc này trong BLTTHS là hết sức

cần thiết, đó chính là một bƣớc tiến về bảo đảm quyền con ngƣời trong TTHS.

Do đó, BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận Suy đoán vô tội là một trong những

nguyên tắc cơ bản của BLTTHS.

Điều 13. Suy đoán vô tội

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng

minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo

trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [47].

19

Nguyên tắc này thể hiện Nhà nƣớc luôn coi trọng và bảo vệ quyền con

ngƣời, quyền công dân, bảo đảm trong suốt quá trình TTHS, từ khi khởi tố vụ

án đến điều tra, truy tố, xét xử các chủ thể tiến hành tố tụng không đƣợc coi

ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo là ngƣời đã có tội mà

họ chỉ là ngƣời thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm. Ngay cả khi họ bị áp

dụng biện pháp cƣỡng chế thì họ chỉ bị hạn chế một số quyền, những quyền

con ngƣời và quyền công dân khác của họ vẫn phải đƣợc bảo đảm.

Nguyên tắc suy đoán vô tội có mối quan hệ với chức năng xét xử của

Tòa án thể hiện trên những khía cạnh sau:

Thứ nhất, không ai bị coi là có tội khi chƣa có bản án kết tội của Tòa án

có hiệu lực pháp luật. Nhƣ vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội

phạm nào cũng phải đƣợc chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật

TTHS quy định. Việc chứng minh tội phạm đƣợc thực hiện từ khi có tố giác

về tội phạm và qua các thủ tục khởi tố vụ án, tiến hành điều tra, kết thúc điều

tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử công khai

tại phiên tòa.

Tòa án ban hành bản án kết tội nếu có căn cứ để kết tội. Một ngƣời chỉ

có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật, tức là bản án của Tòa án đã tuyên đối với ngƣời này là có tội và bản án

đó đã có hiệu lực pháp luật. Điều này khẳng định chỉ có Tòa án là chủ thể duy

nhất có thẩm quyền ra bản án, tuyên bố một ngƣời có tội hay không có tội.

Ngoài Tòa án thì không có bất kỳ cơ quan nhà nƣớc nào đƣợc ra bản án kết

tội bị cáo.

Thứ hai, trong khi xét xử Tòa án không thể buộc bị cáo phải chứng minh

mình không phạm tội, nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố

tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, dựa trên kết quả tranh tụng nếu

xét thấy có đầy đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội Tòa án mới có thể ra

20

bản bán kết tội bị cáo. Nếu không có đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội

thì Tòa án phải tuyên bị cáo vô tội.

1.2.2. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án

Thực tiễn, quá trình điều tra không ít trƣờng hợp phạm sai lầm trong

công tác điều tra, phá án, xác định sai ngƣời phạm tội dẫn đến hậu quả làm

oan ngƣời vô tội. Do đó, mục tiêu đặt ra khi giải quyết vụ án đó là xác định sự

thật của vụ án và đây cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật

TTHS đƣợc quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015: “Trách nhiệm chứng

minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị

buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp để xác định sự thật của vụ án

một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội

và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự của người bị buộc tội”[47].

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình tố tụng, cơ quan tiến hành tố

tụng, ngƣời tiến hành tố tụng phải đánh giá thực sự khách quan và toàn diện,

toàn bộ chứng cứ của vụ án. Không thể vì một số nguyên nhân nào khác nhƣ

có quan hệ thân thuộc, tình cảm cá nhân.. mà trong quá trình tố tụng làm thay

đổi tình tiết vụ án và đƣa ra phán quyết không đúng ngƣời, đúng tội.

Về phía ngƣời tham gia tố tụng, không ít trƣờng hợp vì những nguyên

nhân khác nhau mà đã khai không đúng sự thật dẫn đến việc giải quyết vụ án

gặp nhiều khó khăn. Để tránh tình trạng trên, việc quy định nguyên tắc xác

định sự thật của vụ án là hết sức cần thiết, nhằm đảo bảo cho việc giải quyết,

xét xử đúng ngƣời, đúng tội, đảm bảo những ngƣời có tội sẽ phải bị xử lý

nghiêm minh và không làm oan ngƣời vô tội hoặc bỏ lọt tôi phạm.

21

Việc quy định chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mục đích cuối cùng

cũng là xác định sự thật của vụ án. Đây chính là nhiệm vụ bao trùm của hoạt

động tố tụng hình sự. Do đó, hai nguyên tắc này có mỗi quan hệ trực tiếp đến

nhau. Trải qua quá trình điều tra, truy tố, thông qua phiên tòa sơ thẩm, toàn bộ

chứng cứ đƣợc đánh giá một cách khách quan, toàn diện. Căn cứ kết quả tranh

tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm đƣa ra kết luận cuối cùng về việc

giải quyết vụ án. Nếu không đồng ý với quyết định của cấp sơ thẩm, cho rằng

vụ án chƣa đƣợc xác định đúng sự thật thì ngƣời có quyền kháng cáo, kháng

nghị có thể kháng cáo, khánh nghị để cấp phúc thẩm xét xử lại nhằm xác định

sự thật của vụ án nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều đƣợc phát hiện và

xử lý nghiêm minh trƣớc pháp luật.

1.2.3. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội nhằm bảo

đảm cho họ đƣợc trình bày ý kiến của mình đối với việc bị buộc tội, đƣa ra

các chứng cứ của vụ án, đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

chứng minh, xem xét để minh oan hoặc giảm nhẹ TNHS. Bảo đảm quyền

bào chữa của ngƣời bị buộc tội góp phần không nhỏ để cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng xử lý vụ án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật.

Mối quan hệ giữa nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc

bảo đảm với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đƣơng sự: Quyền bào chữa của

ngƣời bị buộc tội đƣợc bảo đảm sẽ góp phần giải quyết vụ án đƣợc khách

quan, toàn diện và đầy đủ, đồng thời bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp

của bị hại, đƣơng sự. Khi vụ án đã đƣợc giải quyết đúng đắn theo quy định

của pháp luật ở cấp sơ thẩm sẽ hạn chế đƣợc việc kháng cáo, kháng nghị để

xét xử lại vụ án ở cấp phúc thẩm.

22

1.2.4. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

với nguyên tắc tranh tụng

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đƣợc bảo đảm là cụ thể hóa nguyên

tắc bình đẳng trƣớc pháp luật trong TTHS. Nội dung cơ bản của nguyên tắc

này là bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Họ phải đƣợc bình đẳng

với nhau trong việc đƣa ra chứng cứ và đánh giá chứng cứ để chứng minh sự

thật khách quan của vụ án. Dựa vào chứng cứ của các bên đƣa ra TA mới có

thể giải quyết vụ án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội

phạm cũng nhƣ không làm oan ngƣời vô tội. Ngoài bình đẳng trong việc đƣa

ra chứng cứ và đánh giá chứng cứ, các bên buộc tội, gỡ tội còn bình đẳng

trong việc đƣa ra yêu cầu, bình đẳng trong việc đƣa ra tranh luận trƣớc TA.

Mối quan hệ giữa nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo

đảm với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đƣợc bảo đảm: Bản án và quyết

định của TA phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả

tranh tụng tại tòa. Tranh tụng càng đƣợc đảm bảo thì việc đánh giá chứng cứ

càng đƣợc khách quan, toàn diện, đầy đủ góp phần giải quyết đúng đắn vụ án,

nâng cao chất lƣợng xét xử từ đó hạn chế việc kháng cáo, kháng nghị.

1.3. Khái quát lịch sử phát triển của nguyên tắc Chế độ xét xử sơ

thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đã đƣợc quy định trong luật TTHS

của nƣớc ta từ những ngày đầu thành lập nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa

và đƣợc duy trì trong suốt quá trình phát triển của luật TTHS Việt Nam. Tùy

thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, xã hội và nhiệm vụ cách mạng trong từng thời

kỳ mà những quy định về chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm có những nội

dung cụ thể khác nhau nhƣng xu hƣớng chung là ngày càng phát triển và bảo

đảm triệt để hơn việc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

* Thời kỳ 1945 - 1960

Năm 1946, sau khi giành đƣợc độc lập, Hiến pháp đầu tiền của nƣớc

Việt Nam ra đời. Theo quy định tại Điều 63: Cơ quan tƣ pháp của nƣớc Việt

23

Nam dân chủ cộng hoà gồm có TA tối cao, các TA phúc thẩm, các TA đệ

nhị cấp và sơ cấp. Cũng trong năm 1946, vào ngày 24/01, Chủ tịch Chính

phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh số 13/SL về

cách tổ chức các TA và các ngạch Thẩm phán trong nƣớc Việt Nam dân chủ

cộng hoà. Theo đó, hệ thông TA gồm: TA sơ cấp ở mỗi quận (phủ, huyện,

châu), TA đệ nhị cấp ở các tỉnh và TA thƣợng thẩm ở các kỳ (Toà Thƣợng

thẩm Bắc Kỳ đặt ở Hà Nội, Toà Thƣợng thẩm Trung kỳ đặt ở Thuận Hoá

(Huế), Toà Thƣợng thẩm Nam kỳ đặt ở Sài Gòn). Năm 1950, TA sơ cấp đổi

tên gọi là TAND huyện, TA đệ nhị cấp đổi thành TAND tỉnh, Hội đồng

phúc án gọi là Toà phúc thẩm theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5. Nhƣ vậy,

về cơ cấu tổ chức, hệ thống TA đã thể hiện sự phân cấp xét xử. Thực hiện

nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm thể hiện rõ nét hơn tại Sắc lệnh số

51/SL ngày 17/4/1946 về việc ấn định thẩm quyền các TA và sự phân công

giữa các nhân viên trong TA. Cụ thể nhƣ sau:

“Điều thứ 5: Về hình sự, Toà án sơ cấp có quyền xử:

A- Chung thẩm:

1- Những án phạt bạc từ 0 đ 50 đến 9 đ 00,

2- Những án xử bồi thường từ 150 đ trở xuống do nguyên cáo bị thiệt

hại trong một vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu, hay chậm nhất lúc việc

vi cảnh đem ra phiên toà xử.

B- Sơ thẩm:

1- Những án phạt giam từ 1 đến 5 ngày,

2- Những án xử bồi thường quá 150 đ hoặc những việc xin bồi thường

quá số tiền ấy, mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn khiếu hay chậm nhất, lúc

việc vi cảnh đem ra phiên toà xử”[14].

“Điều thứ 10: Về hình sự, TA đệ nhị cấp có quyền xử:

A- Chung thẩm:

Những án vi cảnh của toà án sơ cấp bị kháng cáo.

24

B- Sơ thẩm:

Những việc tiểu hình và đại hình. Những việc tiểu hình là những việc có

thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9 đ 00” [14].

“Điều thứ 13: Toà Thượng thẩm có quyền xét xử: những việc kháng

cáo án sơ thẩm của các toà đệ nhị cấp” [14].

Nhƣ vậy, từ góc độ tổ chức và tố tụng, cơ chế xét xử sơ thẩm và chung

thẩm đã đƣợc quy định và thực hiện tƣơng đối linh hoạt trong thời kỳ này.

Sơ cấp là cấp xét xử thứ nhất. TA sơ cấp và TA đệ nhị cấp có thẩm quyền

xét xử sơ thẩm. Bản án sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị

kháng cáo để xem xét lại. Việc xem xét lại bản án bị kháng cáo do TA cấp

trên trực tiếp thực hiện nhằm bảo đảm tính đúng pháp luật và có căn cứ của

bản án sơ thẩm. Việc xem xét lại bản án đƣợc gọi là xét xử chung thẩm.

Tuy nhiên, trong thời kỳ này nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

chƣa đƣợc quy định triệt để. TA sơ cấp có thẩm quyền xét xử chung thẩm

một số vụ án hình sự về tội vi cảnh. Điều này có nghĩa là một số vụ án hình

sự về tội vi cảnh chỉ đƣợc xét xử một lần.

* Thời kỳ 1960 - 1981

Ngày 14/7/1960, Luật Tổ chức TAND đầu tiên của nƣớc ta đƣợc ban

hành. Cũng trong luật này, nguyên tắc TA xét xử hai cấp lần đầu tiên đƣợc

ghi nhận về mặt luật định. Điều 9 Luật Tổ chức TAND quy định:

“TAND thực hành chế độ hai cấp xét xử.

Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của TAND xử sơ

thẩm lên TAND trên một cấp.

VKS nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án

hoặc quyết định sơ thẩm của TAND.

Nếu đương sự không chống án hoặc VKS nhân dân không kháng nghị

trong thời hạn do pháp luật quy định thì bản án hoặc quyết định sơ thẩm của

TAND địa phương sẽ có hiệu lực pháp luật.

25

Bản án và quyết định phúc thẩm của các TAND, bản án và quyết

định sơ thẩm của TAND dân tối cao đều là chung thẩm và có hiệu lực

pháp luật” [37].

Theo nhƣ quy định của thời kỳ trƣớc, bản án, quyết định sơ thẩm chƣa

có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị trong một

thời hạn luật định. TA cấp trên trực tiếp có thẩm quyền xét xử lại những bản

án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị và đƣợc gọi là cấp phúc thẩm. Ở

thời kỳ này, thẩm quyền xét xử xử sơ thẩm và phúc thẩm về cơ bản cũng

không khác nhau. Tuy nhiên, về cấp xét xử một lần, giai đoạn này có một

vài thay đổi. Ở thời kỳ trƣớc, xét xử một lần áp dụng cho cả TA sơ cấp đối

với một số vụ án hình sự về tội vi cảnh nhƣng thời kỳ chỉ có TAND tối cao

mới áp dụng xét xử một lần. Bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tối cao

đều là chung thẩm và có hiệu lực pháp luật ngay. Nhƣ vậy, thủ tục xét xử

một lần còn đƣợc gọi là thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm mà không

gọi là chung thẩm nhƣ thời kỳ trƣớc.

Trong giai đoạn này xuất hiện thủ tục giám đốc thẩm. Tại Điều 10 Luật

Tổ chức TAND quy định “Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp

luật, nếu pháp hiện có sai lầm thì được xét lại.

Đối với những bản án và quyết định của các TAND địa phương đã có

hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì TAND tối cao có quyền xét

lại hoặc giao cho TAND cấp dưới xét lại.

Đối với những bản án và quyết định của TAND tối cao đã có hiệu lực

pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án TAND tối cao đưa ra Uỷ

ban thẩm phán TAND tối cao xét định.

Đối với những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TA

mình hoặc của TA cấp dưới, nếu phát hiện có sai lầm thì TAND địa phương

có quyền nêu lên để TAND tối cao xét định” [37]. Về bản chất, từ góc độ

26

quyền hạn, giám đốc thẩm cũng đƣợc coi nhƣ một cấp xét xử vì cũng xem

xét chứng cứ và ra phán quyết về thực chất về vụ án.

Nhƣ vậy, theo Luật Tổ chức TA năm 1960, hệ thống TA nƣớc ta đƣợc

tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Các TA có thẩm quyền xét xử sơ

thẩm là TA cấp huyện và TA cấp tỉnh; các TA có thẩm quyền xét xử phúc

thẩm là TA cấp tỉnh và TAND tối cao.

* Thời kỳ 1981 - 1988

Năm 1981, Luật Tổ chức TAND đƣợc sửa đổi. Xét xử theo hai cấp vẫn

đƣợc duy trì, thực hiện. Tuy nhiên, khác với Luật Tổ chức TAND năm 1960,

việc thực hiện hai cấp xét xử đƣợc ghi nhận nhƣ một nguyên tắc thì tại Luật

Tổ chức TAND năm 1981 không quy định chính thức trong một điều luật

nào mà chỉ thể hiện thông qua một số điều luật quy định về thẩm quyền của

TAND huyện, TAND tỉnh, và TAND tối cao. Cụ thể:

“TAND tối cao có thẩm quyền:

1/ Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng,

phức tạp;

2/ Phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các TAND tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương”[39].

“Các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương

có thẩm quyền:

1/ Sơ thẩm những vụ án không thuộc thẩm quyền của các TAND huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và những vụ án thuộc thẩm quyền của các

TA đó, nhưng TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương

đương lấy lên để xét xử;

2/ Phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các TAND

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh”[39].

“Các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền

sơ thẩm những vụ án hình sự, trừ những loại việc sau đây:

27

- Những tội xâm phạm an ninh quốc gia;

- Những tội phạm hình sự khác có tính chất nghiêm trọng, phức tạp

hoặc gây hậu quả lớn”[39].

Luật Tổ chức TAND năm 1981 vẫn quy định về thủ tục giám đốc thẩm,

TAND tối cao và TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc thẩm. Thủ tục giám

đốc thẩm là một bảo đảm quan trọng để TA có thể khắc phục những sai lầm có

thể sảy ra trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Bên cạnh thủ tục giám đốc thẩm, Luật tổ chức TAND năm 1981 xuất

hiện thêm một thủ tục mới, đó là thủ tục tái thẩm. Theo quy định tại Điều

12: “Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xét lại theo

thủ tục giám đốc thẩm, nếu thấy có vi phạm pháp luật, hoặc được xét lại

theo thủ tục tái thẩm, nếu phát hiện những tình tiết mới”[39]. Giám đốc

thẩm và tái thẩm không phải là cấp xét xử. Đó là thủ tục xem xét lại bản án

đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện ra sai lầm hoặc phát sinh tình tiết mới.

* Thời kỳ 1988 - 2003

Năm 1988, BLTTHS đầu tiên của nƣớc ta ra đời. Mặc dù không đƣợc

ghi nhận trong một điêu luật cụ thể nào nhƣng nguyên tắc hai cấp xét xử vẫn

đƣợc thể hiện đầy đủ và mở rộng hơn. Tuy nhiên, quy định về nguyên tắc

hai cấp xét xử vẫn còn hạn chế đó là vẫn quy định và cho phép TAND tối

cao xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời là chung thẩm.

* Thời kỳ 2003 - 2015

Năm 2003, BLTTHS đƣợc sửa đổi bổ sung. Cùng với luật Tổ chức

TAND năm 2002, nguyên tắc hai cấp xét xử đƣợc quy định cụ thể hơn và

khắc phục đƣợc những hạn chế của các thời kỳ trƣớc. Thực hiện chế độ hai

cấp xét xử đƣợc ghi nhận là một trong những nguyên tắc của BLTTHS:

“ 1. TA thực hiện chế độ hai cấp xét xử.

Bản án, quyết định sơ thẩm của TA có thể bị kháng cáo, kháng nghị

theo quy định của Bộ luật này.

28

Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời

hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết

định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc

thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

2. Đối với bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật mà phát

hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ

tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm” [42].

Nhƣ vậy, BLTTHS năm 2003 đã khắc phục những hạn chế về quy định

hai cấp xét xử trong các thời kỳ trƣớc. Hai cấp xét xử đƣợc ghi nhận là một

nguyên tắc, hủy bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm của

TAND tối cao.

* Thời kỳ 2015 đến nay

Năm 2015, BLTTHS đƣợc sửa đổi bổ sung. Hai cấp xét xử tiếp tục

đƣợc ghi nhận là một nguyên tắc của luật TTHS. Về mặt kỹ thuật lập pháp,

nguyên tắc này đƣợc quy định cụ thể hơn về thẩm quyền của TA cấp phúc

thẩm và thẩm quyền của hội đồng tái thẩm, mở rộng thẩm quyền của hội

đồng giám đốc thẩm; tên gọi nguyên tắc đƣợc thay đổi so với BLTTHS năm

2003 cho phù hợp với nội dung của nguyên tắc.

1.4. Nguyên tắc Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong luật tố

tụng hình sự một số nƣớc

Nguyên tắc chế độ xét xử sở thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm là một nguyên

tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của hệ thống tƣ pháp nƣớc ta nói

chung cũng nhƣ tƣ pháp hình sự nói riêng. Tuy nhiên, nguyên tắc này không

phải đƣợc áp dụng ở tất cả các mô hình tố tụng của các nƣớc trên thế giới.

Các quốc gia theo mô hình tranh tụng nhƣ Hoa Kỳ, Anh áp dụng

nguyên tắc đặc trƣng là xét xử chung thẩm mà không áp dụng nguyên tắc xét

xử sơ thẩm, phúc thẩm. Theo nguyên tắc này, các bản án, quyết định sau khi

29

ban hành sẽ mặc nhiên đƣợc thừa nhận là giải pháp cuối cùng đồng thời có

hiệu lực pháp luật ngay, trừ những trƣờng hợp đặc biệt vi phạm về thủ tục tố

tụng hoặc những sai lầm về mặt pháp lý thì sẽ đƣợc tòa phúc thẩm xem xét

lại. Tuy nhiên, tòa phúc thẩm chỉ xem xét lại về mặt pháp lý và thủ tục mà

không xét lại những nội dung và các sự kiện đã đƣợc Bồi thẩm đoàn quyết

định tại tòa sơ thẩm. Các nƣớc theo mô hình tranh tụng không áp dụng

nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vì họ đề cao vai trò, ý nghĩa của Bồi

thẩm đoàn khi tham gia tố tụng để giải quyết vụ án hình sự ở các nƣớc này.

Theo pháp luật TTHS của Hoa Kỳ, bị cáo có quyền xét xử với sự tham gia

của Bồi thẩm đoàn. Quy định này nhằm mục đích bảo đảm và tạo điều kiện

thuận lợi cho việc tìm ra các tình tiết có lợi, xem xét đến lợi ích đối kháng

của các bên. Hơn nữa, TTHS của Hoa Kỳ cũng dựa trên những quan điểm

cho rằng Công tố viên có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc và cả hai

bên đều bình đẳng trƣớc pháp luật. Quyết định của các Công tố viên đối với

các tình tiết của vụ án cần phải có sức thuyết phục Bồi thẩm đoàn.

Trái lại, ở các nƣớc Liên bang Nga, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,

Nhật Bản thì áp dụng nguyên xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Cơ sở lý luận

của việc quy định và áp dụng nguyên tắc này là do: Thứ nhất, với quan niệm

rằng Thẩm phán dù đã đƣợc đào tạo cơ bản về chuyên môn, có kiến thức

pháp, có kinh nghiệm xét xử và đƣợc hỗ trợ kinh nghiệm thực tế của Hội

thẩm hay Phụ thẩm khi xét xử nhƣng không thể tránh khỏi mắc sai lầm do

trình độ, nhận thức, cảm tính cá nhân hoặc nhiều nguyên nhân khác. Để khắc

phục những sai sót có thể xảy ra do những nguyên nhân đó, pháp luật tạo

điều kiện cho ngƣời bị buộc tội cũng nhƣ những ngƣời tham gia tố tụng khác

có cơ hội yêu cầu TA cấp trên xem xét lại một lần nữa. TA cấp trên, khi xét

xử với Hội đồng số lƣợng Thẩm phán nhiều hơn, kinh nghiệm hơn sẽ là bảo

đảm giải quyết đúng đắn, chính xác vụ án. Thứ hai, với nội dung của nguyên

30

tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm bản án, quyết định có thể bị xem xét lại nên

có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán sơ thẩm, giúp họ

nâng cao trách nhiệm và thận trọng hơn.

Ở Liên bang Nga, khó có thể xác định đƣợc mô hình tố tụng của Liên

bang Nga là thuộc mô hình TTHS thẩm vấn hay mô hình TTHS tranh tụng

bởi mô hình TTHS của Liên bang Nga vừa có yếu tố cơ bản của tranh tụng,

vừa mang đặc điểm của TTHS thẩm vấn. BLTTHS của Liên bang Nga có

nhiều nguyên tắc cơ bản tiến bộ của hoạt động tố tụng nhƣ nguyên tắc tranh

tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tự do đánh giá chứng cứ...

Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm thể hiện tại Điều 354 BLTTHS Liên

bang Nga có nội dung nhƣ sau: Kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết

định của TA cấp sơ thẩm và TA cấp chống án chƣa có hiệu lực pháp luật

đƣợc xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Ngƣời bị kết án, ngƣời đƣợc TA tuyên

vô tội, những ngƣời bào chữa và ngƣời đại diện hợp pháp của họ, công tố

viên, ngƣời bị hại và ngƣời đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo,

kháng nghị bản án, quyết định của TA.

BLTTHS Liên bang Nga quy định có 3 loại chống án bao gồm phúc

thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Kháng nghị phúc thẩm và giám đốc thẩm

liên quan đến những quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật. Tái thẩm là thủ

tục xem xét lại các quyết định đã có hiệu lực pháp luật cũng nhƣ mở lại vụ

án hình sự khi phát hiện ra chứng cứ mới. Theo quy định của luật TTHS

Liên bang Nga, phán quyết của TA sẽ có hiệu lực pháp luật nếu trong thời

hạn 10 ngày kể từ ngày ra bản án mà các bên không có kháng cáo, kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm hay giám đốc thẩm. Tƣơng tự nhƣ vậy, phán

quyết của TA cấp phúc thẩm cũng sẽ có hiệu lực nếu trong thời hạn 10 ngày,

kể từ ngày ra bản án mà không có kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm.

Nếu có kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm thì phán quyết của TA cấp

31

dƣới nếu không bị TA cấp giám đốc thẩm hủy bỏ sẽ có hiệu lực kể từ ngày

phán quyết của Toà cấp giám đốc thẩm đƣợc ban hành. Phán quyết của TA

cấp giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay khi ban hành và do đó, chỉ có

thể bị xem xét lại theo thủ tục tái thẩm.

Bị cáo và luật sƣ của bị cáo, kiểm sát viên, ngƣời bị hại (hoặc đại diện

của họ) có quyền yêu cầu xem xét lại các quyết định của TA.

Ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, cũng nhƣ pháp luật Việt Nam,

nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc áp dụng phổ biến. Đứng đầu hệ

thống TA của nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là TAND Tối cao, sau đó

đến TAND cấp cao, TAND cấp trung và cuối cùng là TAND cơ sở.

TAND tối cao là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống xét xử, có

thẩm quyền hƣớng dẫn áp dụng pháp luật, xét xử sơ thẩm những vụ án đặc

biệt có tầm quan trọng quốc gia, xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định

chƣa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao khi có kháng cáo hoặc kháng

nghị từ VKS nhân dân Tối cao hoặc vụ việc mà Tòa thấy rằng cần phải trực

tiếp xét xử sơ thẩm.

TAND cấp cao là các TAND cấp tỉnh, cấp vùng tự trị và các thành phố

trực thuộc trung ƣơng, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với những vụ án

quan trọng xảy ra trong địa bàn mình quản hạt, những vụ việc đƣợc TA cấp

dƣới chuyển lên và những vụ án hình sự lớn có ảnh hƣởng tới tỉnh và có

thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những vụ án đã đƣợc TA cấp dƣới xét

xử khi có kháng cáo, kháng nghị.

TAND cấp trung tổ chức tại đơn vị hành chính là thành phố thuộc tỉnh, có

thẩm quyền giải quyết, xét xử sơ thẩm trong một số vụ việc nhƣ những vụ việc

đƣợc chuyển lên từ TA cơ sở, các vụ án hình sự có mức án tù chung thân hoặc

tử hình, các vụ án mà ngƣời phạm tội là ngƣời nƣớc ngoài, xét xử phúc thẩm

những vụ việc đã đƣợc xét xử bởi TAND cơ sở bị kháng cáo, kháng nghị.

32

TA cấp cơ sở là TA địa phƣơng tổ chức tại đơn vị hành chính cấp

huyện, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có mức án thấp hơn

án tử hình và án tù chung thân, có thẩm quyền chuyển vụ việc có tính chất

nghiêm trọng lên TA cấp trên giải quyết.

Nhƣ vậy, theo quy định của BLTTHS nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung

Hoa, một vụ án hình sự có thể đƣợc xét xử ở hai cấp là sơ thẩm và phúc

thẩm nếu có kháng cáo, kháng nghị. Cũng giống nhƣ pháp luật TTHS Việt

Nam, nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép ngƣời bị buộc tội,

ngƣời bị hại và ngƣời đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo, VKS có

quyền kháng nghị bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm. Bản án, quyết

định bị kháng cáo, kháng nghị sẽ đƣợc TA cấp trên trực tiếp xét xử lại. Tuy

nhiên, ở nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, những vụ án hình sự do

TANDTC xét xử sơ thẩm không áp dụng nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm

phúc thẩm đƣợc bảo đảm.

33

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Trong chƣơng 1, tác giả đã nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận nhƣ khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm đƣợc bảo đảm. Tác giả cũng chỉ ra đƣợc mỗi quan hệ giữa

nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm với các nguyên tắc cơ bản khác của

BLTTHS năm 2015 và khái quát đƣợc sự phát triển cũng nhƣ tìm hiểu quy

định của một số nƣớc về nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Từ những

phân tích ở chƣơng 1, có thể tổng kết lại một số vấn đề sau:

Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đã đƣợc quy định trong luật TTHS

của nƣớc ta từ những ngày đầu thành lập nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa

và đƣợc duy trì trong suốt quá trình phát triển của luật TTHS Việt Nam với

những quy định ngày càng hoàn thiện hơn giúp TA xét xử chính xác, công

minh, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nƣớc.

Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm khẳng định bất cứ một vụ án

hình sự nào cũng đƣợc xét xử lần đầu tiên ở cấp sơ thẩm, có thể đƣợc xét xử

lại ở cấp phúc thẩm nếu bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị theo

quy định của pháp luật nhằm sửa chữa những sai lầm của bản án, quyết định

sơ thẩm.

Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là nguyên tắc đặc trƣng ở giai

đoạn xét xử, có mỗi liên hệ với các nguyên tắc khác của luật TTHS và đều

hƣớng tới mục tiêu chung của TTHS là giải quyết vụ án đƣợc khách quan,

toàn diện, chính xác, đúng pháp luật, không làm oan ngƣời vô tội cũng nhƣ

không bỏ lọt tội phạm.

Trên cơ sở những kết quả của chƣơng 1, tác giả tiếp tục đi sâu nghiên

cứu và phân tích, làm rõ những quy định của BLTTHS nƣớc ta hiện hành về

nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ở chƣơng 2.

34

CHƢƠNG 2

SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC CHẾ ĐỘ XÉT XỬ SƠ THẨM,

PHÚC THẨM ĐƯỢC BẢO ĐẢM TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NĂM 2015

2.1. Sự thể hiện của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

đƣợc bảo đảm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Xét xử sơ thẩm là lần xét xử thứ nhất, có ý nghĩa quan trọng trong trình

tự giải quyết một vụ án hình sự và có những đặc điểm chính dƣới đây:

- Là việc xét xử lần đầu vụ án hình sự mà trƣớc đó chƣa đƣợc TA nào xét

xử và ban hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong trƣờng hợp vụ

án đã xét xử sơ thẩm mà bị TA cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm

hủy bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử lại thì vẫn đƣợc coi là xét xử lần đầu

vì kết quả giải quyết trƣớc đó đã bị hủy, chƣa có hiệu lực pháp luật.

- Xét xử sơ thẩm là một trong những giai đoạn của TTHS khi giải quyết

một vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, TA có thẩm quyền tiến hành xem xét,

giải quyết vụ án và ra bản án, quyết định theo quy định của pháp luật.

- TA chỉ tiến hành xét xử sơ thẩm khi có cáo trạng truy tố của VKS, đó là

giai đoạn tiếp theo của giai đoạn truy tố phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng.

- Việc xét xử sơ thẩm đƣợc thực hiện thông qua một phiên tòa hình sự.

Phiên tòa hình sự phải đƣợc diễn ra theo một thủ tục nhất định đƣợc quy

định trong BLTTHS đối với tất cả các vụ án.

- Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, TA giải quyết tất cả các vấn đề của vụ

án: Tội phạm và hình phạt, các biện pháp tƣ pháp, trách nhiệm dân sự, án

phí... Phạm vi xét xử sơ thẩm toàn diện và rộng hơn phạm vi xét xử phúc

thẩm cũng nhƣ phạm vi giám độc thẩm và tái thẩm.

2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án

Theo từ điển luật học thẩm quyền xét xử đƣợc hiểu là “Sự phân định

thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các TA với nhau” [58, tr.459]. Hay nói

35

cách khác, đó là quyền mà pháp luật quy định cho TA đƣợc xét xử những vụ

án cụ thể trong giới hạn hay phạm vi nhất định.

Pháp luật TTHS của nƣớc ta dựa vào một số dấu hiệu đặc trƣng, nhất định

của vụ án hình sự để phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho các TA. Đó là

những dấu hiện về tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; nơi sảy ra tội

phạm và ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, hành vi phạm tội gây thiệt hại cho

lĩnh vực quản lý Nhà nƣớc để xác định thẩm quyền xét xử. Dựa vào ba tiêu chí

trên, thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS

năm 2015 đƣợc phân theo cấp TA, theo lãnh thổ, theo đối tƣợng.

2.1.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo cấp

Về mặt tổ chức, TAND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và TA

quân sự khu vực (gọi chung là TA cấp huyện) là cấp xét xử thấp nhất, chỉ có

thẩm quyền xét xử sơ thẩm. TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, TA

quân sự cấp quân khu (gọi chung là TA cấp tỉnh) là TA cấp thứ hai và cũng là

TA cấp cuối cùng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền xét xử theo cấp

của TA đƣợc quy định tại điều 268 BLTTHS năm 2015 nhƣ sau:

“TAND cấp huyện và TA quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án

hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất

nghiêm trọng, trừ những tội phạm: (a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;

(b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; (c)

Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282,

283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật

hình sự; (d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. [47, Điều 268].

Theo quy định trên, TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm

những tội phạm mà BLHS năm 2015 quy định hình phạt từ 15 năm tù trở

xuống, trừ những tội quy định tại khoản 1 Điều 268 năm 2015 nhƣ đã nêu trên.

36

“TAND cấp tỉnh và TA quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ

án: (a) Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND

cấp huyện và TA quân sự khu vực; (b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại,

đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài;

(c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TA quân

sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về

tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo

là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực

thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong

dân tộc ít người”. [47, Điều 268].

Theo quy định trên, thẩm quyền của TAND cấp tỉnh là xét xử những vụ

án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm, đó là những vụ án về tội

phạm mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt trên 15 năm tù,

những vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ

án thuộc thẩm quyển của TAND cấp huyện nhƣng TAND cấp tỉnh xét thấy

cần thiết phải lấy lên để xét xử do tính chất đặc biệt của vụ án.

TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ án hình

sự thuộc thẩm quyền xét xử chung của TAND. TANDTC không có thẩm

quyền xét xử sơ thẩm nhƣ quy định trƣớc đây, sơ thẩm đồng thời là chung

thẩm. Việc quy định TA thực hiện nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

trong đó TANDTC không có quyền sơ thẩm (đồng thời là chung thẩm) là

phù hợp với xu hƣớng chung của pháp luật trong tình hình hiện nay, phù hợp

với quy định của tố tụng dân sự và tố tụng hành chính.

Trƣờng hợp bị cáo phạm nhiều tội mà có tội phạm thuộc thẩm quyền

xét xử của TA cấp trên thì TA cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.

BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể, rõ ràng hơn về thẩm quyền xét xử

các vụ án hình sự có yếu tố nƣớc ngoài so với những quy định của BLTTHS

37

năm 2003. Các vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đƣơng sự ở nƣớc ngoài hoặc

tài sản có liên quan đến vụ án ở nƣớc ngoài thuộc thẩm quyền xét xử của

TAND cấp tỉnh. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 cũng quy định một cách cụ

thể hơn về các vụ án thuộc thẩm quyền của TA cấp huyện nhƣng đƣợc TA

cấp tỉnh lấy lên để xét xử đó là các vụ án có nhiều tình tiết phức tạp khó

đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều

ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ

lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố

thuộc thành phố trực thuộc trung ƣơng, ngƣời có chức sắc trong tôn giáo

hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít ngƣời. Với quy định nhƣ vậy đã khắc

phục đƣợc tình trạng TAND cấp tỉnh tùy tiện lấy vụ án thuộc thẩm quyền

của TAND cấp huyện lên để xét xử, giải quyết.

2.1.1.2. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ

Thẩm quyền xét xử của TA theo lãnh thổ đƣợc quy định tại Điều 269

BLTTHS năm 2015, theo đó TA có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là TA

nơi tội phạm đƣợc thực hiện. Nếu tội phạm đƣợc thực hiện tại những nơi

khác nhau hoặc không xác định đƣợc nơi đã thực hiện tội phạm thì thẩm

quyền xét xử thuộc về TA nơi kết thúc việc điều tra.

Trƣờng hợp vụ án hình sự xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam nhƣng vẫn

thuộc thẩm quyền xét xử của TA Việt Nam thì sẽ do TAND cấp tỉnh nơi cƣ

trú cuối cùng của bị cáo ở trong nƣớc xét xử. Trƣờng hợp không xác định

đƣợc nơi cƣ trú cuối cùng ở trong nƣớc của bị cáo thì Chánh án TAND tối

cao ra quyết định giao cho TAND thành phố Hà Nội, TAND thành phố Hồ

Chí Minh hoặc TAND thành phố Đà Nẵng xét xử. Thêm vào đó, nếu vụ án

thuộc thẩm quyền xét xử của TA quân sự thì do TA quân sự cấp quân khu

xét xử theo quyết định của Chánh án TA quân sự trung ƣơng. Nhƣ vậy, đối

với những vụ án mà tội phạm đƣợc thực hiện ở nƣớc ngoài thì thẩm quyền

38

xét xử sơ thẩm chỉ thuộc về TAND cấp tỉnh hoặc Toàn án quân sự cấp quân

khu mà không căn vứ vào địa điểm tội phạm đƣợc thực hiện.

Điểm mới đáng chú ý của BLTTHS năm 2015 là ngoài TAND thành

phố Hà Nội và TAND thành phố Hồ Chí Minh (khoản 2 Điều 171 BLTTHS

năm 2003) thì TAND thành phố Đà Nẵng cũng có thẩm quyền giải quyết các

vụ án hình sự mà bị cáo phạm tội ở nƣớc ngoài nhƣng xét xử tại Việt Nam.

Ngoài ra, những vụ án xảy ra trên tàu bay, tàu biển của Việt Nam đang

hoạt động ngoài không phận hoặc ngoài lãnh hải Việt Nam đƣợc xác định

thẩm quyền xét xử nhƣ sau: Máy bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam

đang hoạt động ở không phận hoặc ngoài lãnh hải Việt Nam vẫn đƣợc xem

là một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, do vậy những tội phạm xảy ra trên

tàu biển, máy bay của Việt Nam sẽ do TA Việt Nam xét xử. Trong trƣờng

hợp này, thẩm quyền xét xử thuộc về TA nơi có sân bay, bến cảng trở về đầu

tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó đƣợc đăng ký.

2.1.1.3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng

Thẩm quyền xét xử theo đối tƣợng chính là sự phân định thẩm quyền

xét xử giữa TA quân sự và TAND căn cứ vào đối tƣợng thực hiện hành vi

phạm tội. BLTTHS năm 2003 trƣớc đây không có điều luật cụ thể nào phân

định đối tƣợng nào thuộc thẩm quyền xét xử của TA quân sự mà thực hiện

theo quy định tại Pháp lệnh Tổ chức TA quân sự năm 2002. Tuy nhiên,

BLTTHS năm 2015 đã có quy định cụ thể về thẩm quyền xét xử của TA

quân sự. Cụ thể, Điều 272 quy định nhƣ sau:

“1. TA quân sự có thẩm quyền xét xử:

a) Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công

nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn

luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong

thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong

39

chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp

đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân;

b) Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a

khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công

nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn

luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài

sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại

quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.

2. TA quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa

bàn thiết quân luật”. [47, Điều 272].

Bên cạnh đó, tại Điều 273 BLTTHS 2015 còn quy định về việc xét xử

bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của TAND và TA quân sự. Trƣờng

hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TA

quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND

thì thẩm quyền xét xử đƣợc thực hiện dựa trên tính chất của vụ án. Khi vụ án

có thể tách ra để giải quyết thì TA quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm

thuộc thẩm quyền xét xử của TA quân sự; TAND xét xử những bị cáo và tội

phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND. Trƣờng hợp không thể tách vụ

án ra để giải quyết riêng thì TA quân sự xét xử toàn bộ vụ án.

Nhƣ vậy, BLTTHS 2015 đã có những quy định cụ thể hơn về thẩm

quyền xét xử của TA các cấp so với BLTTHS 2003. Đặc biệt, BLTTHS năm

2015 đã quy định cụ thể thẩm quyền xét xử của TA quân sự cũng nhƣ phân

định rõ thẩm quyền giữa TAND và TA quân sự.

2.1.2. Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm

Từ trƣớc tới nay, trong các văn bản pháp luật TTHS ở nƣớc ta chƣa có

khái niệm nào nói về “giới hạn xét xử” mà chỉ liệt kê những việc TA đƣợc làm

40

trong từng giai đoạn tố tụng và đƣợc thể hiện dƣới các thuật ngữ nhƣ “giới hạn

xét xử sơ thẩm”, “phạm vi xét xử phúc thẩm”, “phạm vi giám đốc thẩm”.

Dƣới góc độ luật thực định, trƣớc khi BLTTHS năm 1988 ra đời, vấn

đề giới hạn xét xử đƣợc quy định tại Thông tƣ số 16-TATC ngày 27/9/1974

của TAND tối cao hƣớng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Theo

quy định tại thông tƣ này, khi giải quyết các vấn đề về tội danh và điều luật

áp dụng mà TA có ý kiến khác với ý kiến của VKS thì bắt buộc TA phải họp

trù bị với VKS cùng cấp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày TA thụ lý vụ án.

Tại phiên họp, trƣờng hợp VKS nhất trí với ý kiến của TA thì trả hồ sơ điều

tra bổ sung để thay đổi quyết định đã truy tố bằng một bản cáo trạng khác.

Nếu TA không nhất trí với VKS về thay đổi cáo trạng thì TA vẫn phải đƣa

vụ án ra xét xử nhƣng trong quyết định đƣa vụ án ra xét xử TA phải ghi tội

danh mà VKS truy tố và tội danh mà bị cáo có thể bị xét xử. Việc đƣa vụ án

ra xét xử khi giữa VKS và TA không thống nhất về tội danh thì tại phiên tòa,

HĐXX căn cứ vào tình hình thực tế để quyết định. Nhƣ vậy, Thông tƣ số 16

đã xác định vai trò độc lập xét xử của TA và cho phép HĐXX căn cứ vào kết

quả thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa để quyết định tội danh phù hợp với

hành vi mà bị cáo, không phụ thuộc vào cáo trạng truy tố của VKS.

Sau một thời gian thực hiện Thông tƣ trên, vấn đề giới hạn xét xử lần

đầu tiên đƣợc quy định tại Điều 170 BLTTHS năm 1988 nhƣ sau: TA chỉ xét

xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS đã truy tố và TA

đã quyết định đƣa ra xét xử. Nhƣ vậy, TA không đƣợc xét xử những bị cáo

hay hành vi chƣa đƣợc VKS truy tố cũng nhƣ không đƣợc xử tội danh khác

nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố. Mặc dù tại Điều 170 không hạn chế

việc TA áp dụng khung hình phạt nặng hơn khung hình phạt VKS đã truy tố,

nhƣng nếu TA muốn xét xử khung hình phạt nặng hơn thì trƣớc khi mở

phiên toà phải trao đổi với VKS theo hƣớng dẫn tại mục II Thông tƣ liên

41

ngành số 01/TTLN ngày 08/12/1988 của TAND tối cao - VKS nhân dân tối

cao và đồng thời tuân thủ thực hiện các quy định về thẩm quyền mà Thông

tƣ này đã hƣớng dẫn. Với quy định nhƣ vậy đã làm hạn chế nguyên tắc xét

xử độc lập của TA và phần nào ảnh hƣởng đến việc xét xử đúng ngƣời, đúng

tội. Chính vì vậy đã có nhiều ý kiến từ phía TA các cấp đề nghị sửa đổi.

Trên cơ sở tiếp thu ý kiến và tổng kết thực tiễn, Điều 196 BLTTHS

năm 2003 sửa đổi, bổ sung nhƣ sau: TA chỉ xét xử những bị cáo và những

hành vi theo tội danh mà VKS đã truy tố và TA đã quyết định đƣa ra xét xử.

TA có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố

trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà

VKS đã truy tố.

Với quy định nhƣ vậy, giới hạn xét xử đã đƣợc mở rộng hơn. Tuy

nhiên, TA cũng chỉ xét xử theo tội danh mà VKS truy tố và chỉ đƣợc phép

xử tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS truy tố. Đây là hạn chế của điều

luật khiến cho việc định tội có lúc không đúng với hành vi mà bị cáo đã thực

hiện, làm giảm hiệu quả của việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Vấn đề này, BLTTHS năm 2015 đã khắc phục đƣợc hạn chế nêu trên

với những thay đổi nhất định gần giống nhƣ quy định trƣớc đây khi chƣa có

BLTTHS năm 1988, cụ thể Điều 298 BLTTHS năm 2015 quy định nhƣ sau:

“1. TA xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS

truy tố và TA đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

2. TA có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố

trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà

VKS đã truy tố.

3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh

VKS truy tố thì TA trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị

cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ

42

tội danh đã truy tố thì TA có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn

đó”[47, Điều 298].

So với Điều 196 BLTTHS năm 2003 thì Điều 298 BLTTHS năm 2015

bổ sung thêm khoản 3. Quy định mới đã mở rộng phạm vi xét xử cho phép

TA đƣợc xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn so với tội danh mà VKS truy tố.

Tuy nhiên, để TA xét xử về tội danh nặng hơn so với tội danh mà VKS đã

truy tố thì TA phải trả hồ sơ để VKS truy tố lại, nếu VKS vẫn giữ tội danh

đã truy tố thì TA có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn.

2.1.3. Quyền hạn của HĐXX sơ thẩm

Trong lịch sử phát triển của khoa học TTHS Việt Nam từ trƣớc tới nay

không có văn bản nào quy định về thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm. BLTTHS

năm 2015 là văn bản pháp luật có tính hệ thống hóa cao nhất về TTHS cũng chỉ

quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm (Điều 355), thẩm quyền của

Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 388) và thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm

(Điều 402) mà không quy định thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm.

Pháp luật không quy định thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là có nguyên

nhân của nó. Trong khi HĐXX phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, Hội

đồng tái thẩm chỉ xem xét bản án của cấp xét xử trƣớc, do đó quyền hạn của

cấp xét xử này thƣờng dễ ấn định xung quanh các vấn đề giữ nguyên, sửa

hoặc hủy bỏ bản án thì đối với cấp xét xử sơ thẩm.

Xét xử sơ thẩm là xét xử lần thứ nhất, tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, TA

giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án. Phạm vi xét xử sơ thẩm rất rộng,

toàn diện hơn rất nhiều so với phạm vi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và

tái thẩm.

Theo quy định tại Điều 326 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số

04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối

cao, khi xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự, các vấn đề phải đƣợc giải quyết

43

bao gồm: Vụ án có thuộc trƣờng hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trƣờng hợp trả

hồ sơ để điều tra bổ sung hay không; Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài

liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, VKS, Kiểm sát viên thu thập; do luật

sƣ, bị can, bị cáo, ngƣời tham gia tố tụng khác cung cấp; Có hay không có

căn cứ kết tội bị cáo. Khi đủ căn cứ kết tội thì phải xác định rõ điều, khoản,

điểm của BLHS để áp dụng; quyết định hình phạt, biện pháp tƣ pháp; giải

quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, xác định trách nhiệm bồi thƣờng

thiệt hại; Bị cáo có thuộc trƣờng hợp miễn TNHS, miễn hình phạt hay

không; Án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài

khoản bị phong tỏa; Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của

ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét

xử; đồng thời đƣa ra kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm và

tuyên bố quyền kháng cáo cho bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác.

Nhƣ vậy, HĐXX phải phân tích, đánh giá toàn bộ vụ án trong bản án

hình sự sơ thẩm căn cứ vào những vấn đề đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa,

làm rõ những chứng cứ xác định có tội hoặc chứng cứ chứng minh vô tội,

đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo, xác định thiệt hại và trách nhiệm bồi

thƣờng thiệt hại của bị cáo và những ngƣời liên quan, hƣớng xử lý vật chứng

để đƣa ra quyết định cuối cùng của bản án. Có thể thấy, những vấn đề mà

HĐXX sơ thẩm quyết định trong bản án là không giống nhau đối với từng

loại vụ án cụ thể mà tùy thuộc vào nội dung, tính chất, mức độ nghiêm trọng

của từng loại vụ án. Do đó, không thể ấn định trƣớc về quyền hạn của

HĐXX sơ thẩm đối với việc giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, việc không quy

định quyền hạn của HĐXX sơ thẩm cũng là tạo điều kiện để HĐXX sơ thẩm

có thể linh hoạt trong từng vụ án cụ thể trên cơ sở đó đƣa ra phán quyết cho

phù hợp và chính xác.

44

Trƣớc đây, cùng với việc không quy định quyền hạn của HĐXX sơ

thẩm cũng không hề có văn bản hƣớng dẫn về các vấn đề cần phải quy định

trong một bản án, do đó có nhiều cách tuyên án khác nhau. Để khắc phục

tình trạng các bản án tuyên không đồng nhất, năm 2004 Hội đồng Thẩm

phán TAND tối cao ban hành Nghị quyết số 04, năm 2017 đƣợc thay thế

bằng Nghị quyết số 05 theo đó, Thẩm phán khi viết bản án phải tuân theo

mẫu chung trong đó quy định rất chi tiết và cụ thể những vấn đề mà HĐXX

cần quyết định khi xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự.

2.2. Mỗi quan hệ giữa xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm

Cùng là hoạt động xét xử của TA đối với một vụ án hình sự, tuy nhiên

xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm có những điểm khác nhau nhƣng có

quan hệ chặt chẽ với nhau:

Thứ nhất: Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu vụ án hình sự. Khi xét xử sơ

thẩm TA xem xét tất cả nội dung của vụ án trên cơ sở truy tố của VKS bằng

một bản cáo trạng. Còn xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án đã đƣợc xét xử

lần đầu ở cấp sơ thẩm mà bản án, quyết định chƣa có hiệu lực bị kháng cáo

hoặc kháng nghị. Việc xét xử phúc thẩm dựa trên bản án, quyết định sơ thẩm.

Thứ hai: Việc xét xử sơ thẩm là giải quyết các vấn đề của vụ án, để đƣa

ra phán quyết có tội hoặc không có tội đối với ngƣời bị buộc tội. Trong khi

đó, mục đích của việc xét xử phúc thẩm là nhằm khắc phục, sửa chữa những

sai lầm có thể có trong bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp

luật của TA cấp nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án để xét xử đúng

ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Thứ ba: Hoạt động xét xử sơ thẩm dựa trên cơ sở truy tố của VKS.

Hoạt động xét xử phúc thẩm dựa trên cơ sở kháng cáo của bị cáo và những

ngƣời tham gia tố tụng khác hoặc kháng nghị của VKS. Tuy nhiên, xét xử

45

phúc thẩm là việc xét xử lại vụ án hình sự mà TA cấp sơ thẩm đã xét xử. Vì

vậy, khi xét xử phúc thẩm, TA cấp phúc thẩm không thể xét xử vƣợt ra

ngoài phạm vi những vấn đề mà cấp sơ thẩm đã xem xét và quyết định.

2.3. Sự thể hiện của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

đƣợc bảo đảm trong giai đoạn xét xử phúc thẩm

2.3.1. Những quy định về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm

BLTTHS năm 2015 không quy định cụ thể khái niệm kháng cáo, kháng

nghị phúc thẩm nhƣng dựa vào tính chất của xét xử phúc thẩm quy định tại

Điều 330, ngƣời có quyền kháng cáo quy định tại Điều 331 và kháng nghị

của VKS quy định tại Điều 336 BLTTHS 2015 có thể khái quát kháng cáo,

kháng nghị phúc thẩm nhƣ sau:

Kháng cáo phúc thẩm là việc ngƣời tham gia tố tụng theo quy định của

pháp luật đƣợc quyền kháng cáo thực hiện quyền đề nghị TA cấp trên xét xử

lại vụ án, xét lại quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật trong thời

hạn luật định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ hoặc của ngƣời

tham gia tố tụng khác.

Quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật

theo thủ tục phúc thẩm không áp dụng cho tất cả các chủ thể tham giam tố

tụng mà chỉ quy định cho những ngƣời tham gia tố tụng khi quyền lợi của họ

hoặc quyền lợi của ngƣời mà họ có trách nhiệm bảo vệ có thể bị ảnh hƣởng

do quyết định của TA sơ thẩm.

Kháng nghị là việc ngƣời có thẩm quyền yêu cầu TA bằng văn bản xét

xử lại vụ án, xét lại quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật theo thủ

tục phúc thẩm.

Kháng cáo, kháng nghị là điều kiện, là cơ sở để xét xử lại vụ án ở cấp

phúc thẩm

BLTTHS năm 2015 quy định: Bị cáo, bị hại, ngƣời đại diện của họ có

quyền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm cả về phần hình sự lẫn phần bồi

46

thƣờng thiệt hại và những quyết định khác của vụ án; Ngƣời bào chữa có

quyền kháng cáo trong trƣờng hợp họ bào chữa để bảo vệ lợi ích của ngƣời

dƣới 18 tuổi, ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất. Quyền kháng

cáo này có phạm vi rộng nhƣ quyền kháng cáo của bị cáo đồng thời hoàn

toàn không lệ thuộc vào ý chí của bị cáo mà vẫn có giá trị pháp lý tƣơng tự;

những ngƣời tham gia tố tụng khác nhƣ nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và ngƣời đại diện của họ có quyền

kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thƣờng

thiệt hại hoặc liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; ngƣời bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của bị hại, đƣơng sự là ngƣời dƣới 18 tuổi hoặc ngƣời có

nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc

quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của ngƣời mà mình bảo vệ;

ngƣời đƣợc TA tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà

bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.

Để tạo thuận lợi cho việc thực hiện quyền kháng cáo, luật TTHS quy

định ngƣời kháng cáo có thể gửi đơn kháng cáo đến TA đã xét xử sơ thẩm

hoặc TA cấp phúc thẩm. Ngƣời kháng cáo cũng có thể trình bày trực tiếp với

TA đã xét xử sơ thẩm hoặc TA phúc thẩm về việc kháng cáo. Trong trƣờng

hợp này, TA phải lập biên bản về việc kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Thời hạn kháng cáo đối với bản án và quyết định sơ thẩm đƣợc quy

định khác nhau. Đối với bản án, trƣờng hợp ngƣời có quyền kháng cáo có

mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc

15 ngày kể từ ngày nhận đƣợc bản án hoặc ngày bản án đƣợc niêm yết theo

quy định nếu họ vắng mặt tại phiên tòa. Đối với quyết định sơ thẩm, thời

hạn kháng cáo là 07 ngày kể từ ngày ngƣời có quyền kháng cáo nhận đƣợc

quyết định. Để đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định sơ thẩm, về

nguyên tắc, kháng cáo quá thời hạn nêu trên không đƣợc chấp nhận. Tuy

47

nhiên, việc kháng cáo quá hạn đƣợc chấp nhận nếu có lý do bất khả kháng

hoặc do trở ngại khách quan nhƣ thiên tai, lũ lụt, ốm đâu, tai nạn ... phải nằm

viện mà ngƣời kháng cáo không thể thực hiện đƣợc quyền kháng cáo trong

thời hạn do BLTTHS quy định.

Về kháng nghị, BLTTHS quy định, VKS cùng cấp và VKS cấp trên

trực tiếp đều có quyền kháng nghị bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm.

đối với kháng cáo, pháp luật cho phép hình thức kháng cáo bằng văn bản

hoặc trình bày trực tiếp tại TA nhƣng đối với kháng nghị hình thức buộc

phải thể hiện bằng văn bản và gửi đến TA đã xét xử sơ thẩm. Thời hạn

kháng nghị đối với bản án sơ thẩm của VKS cùng cấp là 15 ngày, của VKS

cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với quyết định sơ

thẩm, thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là 07 ngày, của VKS cấp trên

tực tiếp là 15 ngày kể từng ngày TA ra quyết định. Khác với việc kháng cáo,

trong mọi trƣờng hợp kháng nghị quá hạn đều không đƣợc TA chấp nhận.

Việc kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm hoàn

toàn lệ thuộc vào ý chí của ngƣời có quyền kháng cáo, kháng nghị. Do đó,

ngƣời đã kháng cáo, VKS đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung, rút

kháng cáo, kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị có

thể đƣợc thực hiện ở thời điểm trƣớc khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa

phúc thẩm. Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo không đƣợc làm xấu đi trình

trạng của bị cáo. Ngƣời kháng cáo, VKS cũng có quyền rút một phần hoặc

toàn bộ kháng cáo, kháng nghị. Tại phiên tòa phúc thẩm, phần kháng cáo,

kháng nghị đã rút không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì

HĐXX phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo, kháng nghị

bị rút. BLTTHS năm 2003 quy định TA cấp phúc thẩm có quyền xem xét

các phần có kháng cáo, kháng nghị đã bị rút mà không liên quan đến kháng

cáo, kháng nghị khác. Đây là quy định logic và phù hợp với quy định về

48

phạm vi xét xử, sửa bản án sơ thẩm. Vì phần kháng cáo, kháng nghị đã bị rút

coi nhƣ không có kháng cáo, kháng nghị, TA cấp phúc thẩm khi xét xử phúc

thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị và nếu

có căn cứ, có thể áp dụng quy định có lợi cho bị cáo không có kháng cáo

hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị, không bị giới hạn bởi phần kháng

cáo, kháng nghị đã rút. Với tinh thần và nội dung không thay đổi, tuy nhiên,

khoản 3 Điều 342 và khoản 2 Điều 348 BLTTHS 2015 quy định đình chỉ xét

xử phúc thẩm đối với trƣờng hợp rút một phần kháng cáo, kháng nghị mà

xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị còn lại là không phù

hợp với quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm cũng nhƣ vô hiệu hóa một

phần sửa bản án sơ thẩm đối với những bị cáo không kháng cáo hoặc không

bị kháng cáo kháng nghị. Ngay cả khi HĐXX phúc thẩm có căn cứ có thể

sửa bản án theo hƣớng: Giảm hình phạt cho bị cáo, chuyển sang hình phạt

khác thuộc loại nhẹ hơn theo nguyên tắc có lợi cho họ cũng không thể thực

hiện đƣợc.

Nhƣ vậy, chỉ khi có kháng cáo, kháng nghị thì bản án sơ thẩm mới

đƣợc đƣa ra xét xử lại ở cấp phúc thẩm. TA cấp phúc thẩm xét xử trong

phạm vi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Trƣờng hợp xét thấy cần thiết TA

cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng

nghị của bản án sơ thẩm.

2.3.2. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án

Thẩm quyền xét xử phúc thẩm là sự phân định TA xét xử vụ án theo

thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực bị

kháng cáo, kháng nghị của những ngƣời có quyền kháng cáo, kháng nghị

trong thời hạn luật định.

BLTTHS quy định trực tiếp thẩm quyền xét xử của TA sơ thẩm tuy

nhiên không có quy định trực tiếp về thẩm quyền xét xử phúc thẩm. Thẩm

49

quyền xét xử phúc thẩm của TA đƣợc xác định gián tiếp trên cơ sở thẩm

quyền xét xử sơ thẩm. Hay nói cách khác, thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ

sở để xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm của TA. Nhìn chung, pháp luật

của các nƣớc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đều quy định TA

có thẩm quyền xét xử phúc thẩm là TA cấp trên trực tiếp của TA đã xét xử

sơ thẩm vụ án đó mà bản án, quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật có kháng

cáo, kháng nghị.

Điều 344 BLTTHS năm 2015 quy định thẩm quyền xét xử phúc thẩm

vụ án hình sự của TA nhƣ sau:

- TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định

của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.

- TAND cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định

của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo,

kháng nghị.

- TA quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án,

quyết định của TA quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị.

- TA quân sự trung ƣơng có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án,

quyết định của TA quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị.

Nhƣ vậy, căn cứ vào phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ, TA cấp trên

trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực có

kháng cáo, kháng nghị.

2.3.3. Phạm vi xét xử phúc thẩm

Phạm vi xét xử phúc thẩm có thể hiểu là giới hạn nội dung những vấn

đề mà TA cấp phúc thẩm có thể xem xét, quyết định. Việc quy định phạm vi

xét xử phúc thẩm có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đảm bảo tính ổn định của

bản án sơ thẩm. Theo quy định tại Điều 345 BLTTHS thì phạm vi xét xử

phúc thẩm đƣợc xác định là việc “TA cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung

50

của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết, có

thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo,

kháng nghị” [47, Điều 345].

Về nguyên tắc, TA cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án,

quyết định có kháng cáo, kháng nghị nhƣng trong một số trƣờng hợp TA cấp

phúc thẩm cũng có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định sơ

thẩm không có kháng cáo, kháng nghị. Những phần của bản án khi hết thời

hạn kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên TA cấp phúc thẩm

chỉ xem xét nếu thấy cần thiết. Điều 345 BLTTHS năm 2015 không quy

định cụ thể các trƣờng hợp đƣợc coi là “xét thấy cần thiết”. Tuy nhiên, đối

chiếu với khoản 2 Điều 357 BLTTHS thì “xét thấy cần thiết” đƣợc hiểu là

một trong các trƣờng hợp sau đây khi có căn cứ: Có thể giảm hình phạt, áp

dụng điều, khoản của Bộ luật Hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt

khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hƣởng án treo,

giảm mức bồi thƣờng thiệt hại.

2.3.4. Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm

Khi có kháng cáo, kháng nghị, TA cấp phúc thẩm xem xét lại vụ án đã

xét xử sơ thẩm, kiểm tra tính đúng đắn, nghiêm minh của các quyết định của

TA cấp sơ thẩm. Khi xét xử vụ án, HĐXX có thẩm quyền: Không chấp nhận

kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm;

hủy bản án sơ thẩm và chuyển vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản

án sơ thẩm và đình chỉ vụ án; đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.

2.3.4.1. Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án

sơ thẩm (Điều 356 BLTTHS)

HĐXX phúc thẩm xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án

sơ thẩm chƣa có hiệu lực có kháng cáo, kháng nghị. Trƣớc hết, HĐXX xem

xét về mặt hình thức. TA cấp sơ thẩm xét xử vụ án đã thực hiện đúng trình

51

tự thủ tục theo quy định của BLTTHS hay không? Tiếp theo đó, HĐXX xem

xét về mặt nội dung. Xem xét lại các phán quyết của HĐXX sơ thẩm có căn

căn hay không? Đã xử đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật hay chƣa? Nếu

xét thấy TA cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định

của BLTTHS và bản án sơ thẩm có căn cứ, đúng pháp luật thì không chấp

nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án sơ thẩm

có hiệu lực pháp luật và đƣợc đƣa ra thi hành ngay.

2.3.4.2. Sửa bản án sơ thẩm (Điều 357 BLTTHS)

HĐXX phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo hƣớng có lợi hoặc

không có lợi cho bị cáo. Khi sửa theo hƣớng có lợi chi bị cáo không bị phụ

thuộc vào việc kháng cáo, kháng nghị. Nếu sửa theo hƣớng không có lợi cho

bị cáo thì phải phụ thuộc vào việc có kháng cáo, kháng nghị theo hƣớng tăng

nặng hay không.

a) Sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo

i) Khoản 1 Điều 357 BLTTHS quy định các trƣờng hợp sửa bản án sơ

thẩm theo hƣớng có lợi cho bị cáo nhƣ sau:

Trường hợp 1: Miễn TNHS hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp

dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp

Miễn TNHS có nghĩa là không buộc ngƣời đã thực hiện hành vi phạm

tội phải chịu TNHS về tội mà ngƣời đó đã phạm. Miễn hình phạt là không

buộc ngƣời phạm tội phải chịu biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của

Nhà nƣớc là hình phạt về hành vi phạm tội mà ngƣời đó đã thực hiện.

Miễn TNHS không đồng nghĩa với không có TNHS. Do đó, cần phân

biệt trƣờng hợp miễn TNHS với trƣờng hợp ngƣời thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội nhƣng không cấu thành tội phạm. Miễn TNHS là ngƣời đã

phạm tội quy định trong BLHS nhƣng không buộc ngƣời đó phải chịu

TNHS. Còn không có TNHS là trƣờng hợp hành vi của họ tuy có đầy đủ các

52

dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhƣng mức độ nguy hiểm không lớn chƣa

đến mức phải xử lý hình sƣ và không coi là tội phạm mà chỉ xử lý về hành

chính. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu không có đủ căn cứ để

buộc tội thì phải tuyên bố không có tội chứ không đƣợc tuyên bố miễn

TNHS. Miễn TNHS và miễn hình phạt đƣợc áp dụng trong những trƣờng

hợp nếu việc truy cứu TNHS hay áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội

là không cần thiết, không đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Miễn TNHS và

miễn hình phạt là sự thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và

Nhà nƣớc ta đối với ngƣời phạm tội.

Theo quy định tại Điều 29 BLHS, miễn TNHS đƣợc phân ra hai trƣờng

hợp: Đƣơng nhiên đƣợc miễn TNHS quy định tại khoản 1 và có thể đƣợc

miễn TNHS quy định tại khoản 2, và khoản 3.

Ngƣời phạm tội đƣơng nhiên đƣợc miễn TNHS khi tiến hành điều tra,

truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi

phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Nhƣ vậy, tại thời điểm ngƣời

thực hiện hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhƣng khi điều tra, truy tố

hoặc xét xử do thay đổi chính sách, pháp luật thì hành vi đó không còn là tội

phạm, không còn nguy hiểm cho xã hội nữa do đó ngƣời thực hiện hành vi

cũng không còn nguy hiểm cho xã hội nên đƣợc miễn TNHS.

Ngƣời phạm tội có thể đƣợc xem xét để miễn TNHS: Khi tiến hành

điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà ngƣời phạm tội

không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử,

ngƣời phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy

hiểm cho xã hội nữa; Trƣớc khi hành vi phạm tội bị phát giác, ngƣời phạm

tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều

tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và

lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, đƣợc Nhà nƣớc và xã hội thừa

53

nhận; Ngƣời thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít

nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm

hoặc tài sản của ngƣời khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thƣờng thiệt hại

hoặc khắc phục hậu quả và đƣợc ngƣời bị hại hoặc ngƣời đại diện hợp pháp

của ngƣời bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS, thì có thể đƣợc

miễn TNHS.

Ngoài quy định tại Điều 29 ở phần chung, miễn TNHS còn đƣợc quy định

ở phần riêng nhƣ tại các Điều 91, Điều 110, Điều 364, Điều 365, Điều 390...

Có thể nhận thấy, so với BLHS năm 1999, BLHS 2015 đã cụ thể hóa

các trƣờng hợp đƣợc miễn TNHS theo hƣớng: Phân biệt các trƣờng hợp

đƣơng nhiên đƣợc miễn TNHS và trƣờng hợp cụ thể đƣợc miễn TNHS;

trong phần có thể đƣợc miễn TNHS, BLHS 2015 còn bổ sung một số trƣờng

hợp có thể đƣợc miễn TNHS để đảm bảo với tình hình thực tiễn hiện nay đó

là trƣờng hợp đƣợc ghi nhận tại điểm c khoản 2 và khoản 3 Điều 29 BLHS.

Theo quy định tại Điều 59, ngƣời bị kết án có thể đƣợc miễn hình phạt

nếu thỏa mãn các điều kiện sau: Phải thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 1

và khoản 2 Điều 54 của BLHS năm 2015, có nghĩa là ngƣời phạm tội phải

có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS

năm 2015 hoặc phải là ngƣời giúp sức, phạm tội lần đầu trong vụ án đồng

phạm mà có vai trò không đáng kể mà ngƣời phạm tội đáng đƣợc khoan

hồng đặc biệt nhƣng chƣa đến mức đƣợc miễn TNHS.

So với quy định tại Điều 54 BLHS năm 1999, thì quy định tại Điều 59

của BLHS năm 2015 về miễn hình phạt đƣợc mở rộng hơn. Nếu ngƣời phạm

tội không có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ nhƣng là ngƣời giúp sức, phạm tội

lần đầu trong vụ án đồng phạm mà có vai trò không đáng kể thì cũng có thể

đƣợc xem xét miễn hình phạt.

54

Trường hợp 2: p dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn

Đây là trƣờng hợp HĐXX phúc thẩm căn cứ vào bản án đã tuyên thấy

rằng TA cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo có tội nhƣng mức hình phạt hoặc tội

danh đã áp dụng là quá nặng, vì vậy khi có căn cứ cấp phúc thẩm chuyển

sang tội danh nhẹ hơn hoặc chuyển xuống khung hình phạt nhẹ hơn. Việc

sửa bản án theo hƣớng giảm nhẹ hình phạt còn phải căn cứ vào việc có thêm

tình tiết giảm nhẹ quy định tại điều 51 BLHS hoặc bỏ đi tình tiết tăng nặng

quy định tại Điều 52 BLHS .

Trường hợp 3: Giảm hình phạt cho bị cáo; Chuyển sang hình phạt khác

thuộc loại nhẹ hơn; Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng

án treo.

Trong những trƣờng hợp này, TA cấp phúc thẩm vẫn giữ nguyên tội

danh, điều khoản của BLHS mà TA cấp sơ thẩm đã áp dụng nhƣng giảm

một phần hình phạt cho bị cáo khi thấy rằng TA cấp sơ thẩm áp dụng hình

phạt đối với bị cáo là quá nặng so với tính chất mức độ và hậu quả của hành

vi phạm tôi. Việc giảm nhẹ hình phạt có thể là giảm hình phạt chính, hình

phạt bổ sung hoặc cả hai, gồm giảm trong khung, giảm dƣới khung hoặc

chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn.

Khi giảm hình phạt cho bị cáo, HĐXX phúc thẩm cần phải nêu đƣợc rõ

lý do và căn cứ áp dụng của việc giảm hình phạt, tránh trƣờng hợp tùy tiện

giảm mà không nêu đƣợc lý do và không đúng pháp luật.

Đối với trƣờng hợp giữ nguyên mức hình phạt tù và chuyển sang hƣởng

án treo không coi là giảm hình phạt vì án treo không phải là hình phạt mà

chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

Trường hợp 4: Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý

vật chứng

Giảm mức bồi thƣờng thiệt hại là việc TA cấp phúc thẩm quyết định

mức bồi thƣờng thấp hơn mức bồi thƣờng TA cấp sơ thẩm đã tuyên. TA cấp

55

phúc thẩm giảm mức bồi thƣờng thiệt hại cho bị cáo khi có căn cứ cho thấy

TA cấp sơ thẩm đã quyết định khoản bồi thƣờng thiệt hại cao hơn mức thiệt

hại thực tế do tôi phạm gây ra. Khi quyết định giảm mức bồi thƣờng thiệt

hại cho bị cáo HĐXX phúc thẩm phải căn cứ vào Điều 584, Điều 585 Bộ

luật dân sự năm 2015 về việc bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.

Đối với việc sửa quyết định xử lý vật chứng: Theo quy định tại Điều 89

BLTTHS thì vật chứng là vật đƣợc dùng làm công cụ, phƣơng tiện phạm tội,

vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tƣợng của tội phạm, tiền hoặc vật khác

có giá trị chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc

giải quyết vụ án.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 106 BLTTHS thì vật chứng đƣợc xử lý

nhƣ sau:

“a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu

hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;

b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu,

nộp ngân sách nhà nước;

c) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu

và tiêu hủy” [47, Điều 106]

Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 BLTTHS, nếu HĐXX phúc thấy xét thấy

TA sơ thẩm quyết định xử lý vật chứng không đúng với các quy định về xử

lý vật chứng thì có quyền sửa lại cho đúng pháp luật. Việc sửa quyết định xử

lý vật chứng của HĐXX phúc thẩm không phụ thuộc vào việc kháng cáo,

kháng nghịều. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm sửa quyết định xử lý vật chứng

của Toà án cấp sơ thẩm theo hƣớng bất lợi hay không bất lợi cho bị cáo và

những ngƣời tham gia tố tụng không phụ thuộc vào việc có hay không có

kháng cáo, kháng nghị.

ii) Điều kiện sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo:

Khi sửa bản án theo hƣớng có lợi cho bị cáo, TA cấp phúc thẩm không

bị rằng buộc bởi phạm vi và hƣớng kháng cáo, kháng nghị. Việc sửa bản án

56

theo hƣớng có lợi cho bị cáo đƣợc tiến hành khi có kháng cáo, kháng nghị

theo hƣớng giảm nhẹ hoặc tăng nặng, kể cả khi tất cả các kháng cáo, kháng

nghị đều theo hƣớng tăng nặng. Nếu có căn cứ, TA cấp phúc thẩm vẫn có

thể miễn TNHS, miễn hình phạt, không áp dụng hình phạt bổ sung, không áp

dụng biện pháp tƣ pháp, áp dụng điều khoản của BLHS về tội nhẹ hơn, giảm

hình phạt, giảm mức bồi thƣờng thiệt hại, sửa quyết định xử lý vật chứng,

chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên hoặc giảm mức

hình phạt tù và cho hƣởng án treo cho những bị cáo không kháng cáo hoặc

không bị kháng cáo, kháng nghị.

b) Sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo:

i) Các trƣờng hợp sửa bản án sơ thẩm theo hƣớng không có lợi cho bị

cáo bao gồm:

Trường hợp 1: Tăng hình phạt đối với bị cáo

Tăng hình phạt đối với bị cáo là việc mà TA cấp phúc thẩm quyết định

một hình phạt nặng hơn so với hình phạt TA cấp sơ thẩm đã quyết định đối

với bị cáo.

Trƣờng hợp VKS kháng nghị yêu cầu TA cấp phúc thẩm tăng hình phạt

đối với bị cáo thì TA cấp phúc thẩm có thể tăng cả hình phạt chính và hình

phạt bổ sung đối với bị cáo bị kháng nghị mà TA cấp sơ thẩm đã quyết định,

nhƣng chỉ giới hạn trong việc tăng mức hình phạt mà không đƣợc chuyển

sang hình phạt khác thuộc loại năng hơn. Ví dụ: Toà án cấp sơ thẩm phạt bị

cáo một năm cải tạo không giam giữ, nếu kháng nghị của VKS chỉ yêu cầu

tăng hình phạt thì Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt cải tạo không

giam giữ lên trên một năm, chứ không đƣợc chuyển sang loại hình phạt tù.

Tuy nhiên, đối với trƣờng hợp Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt

tù trong cùng một khung hình phạt với tù chung thân hoặc tử hình mà VKS

kháng nghị yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm tăng hình phạt thì Toà án cấp

57

phúc thẩm có thể áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. Ví dụ: Toà

án cấp sơ thẩm phạt bị cáo 20 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy

theo khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự, VKS kháng nghị yêu cầu Toà án cấp

phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo thì Toà án cấp phúc thẩm có thể áp

dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, vì hình phạt tù 20 năm đối với

tội mua bán trái phép chất ma túy cùng một khung hình phạt với tù chung

thân hoặc tử hình. Nhƣng nếu hình phạt từ đó lại không cùng khung hình

phạt với hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì Toà án cấp phúc thẩm

không có quyền áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình nếu kháng

nghị của VKS không đồng thời yêu cầu áp dụng điều khoản của Bộ luật hình

sự về tội nặng hơn. Ví dụ: Toà án cấp sơ thẩm phạt bị cáo 10 năm tù về tội

cƣớp tài sản theo khoản 3 Điều 168 của Bộ luật hình sự, VKS kháng nghị

chỉ yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm tăng hình phạt mà không đồng thời yêu

cầu Toà án cấp phúc thẩm áp dụng khoản 4 Điều 168 Bộ luật hình sự thì Toà

án cấp phúc thẩm chỉ có thể tăng mức hình phạt đối với bị cáonên tối đa

không quá 20 năm tù.

Vì vậy, khi kháng nghị phúc thẩm ngƣời kháng nghị cần nêu yêu cầu cụ

thể, tăng mức hình phạt hay chuyển sang loại hình phạt khác thuộc loại nặng

hơn, hay áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn.

Trƣớc năm 2015, trong trƣờng hợp, Toà án cấp sơ thẩm áp dụng hình

phạt tù nhƣng cho bị cáo đƣợc hƣởng án treo, VKS kháng nghị yêu cầu Toà

án cấp phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt tù nhƣng không cho bị cáo

đƣợc hƣởng án treo thì Toà án cấp phúc thẩm giải quyết nhƣ thế nào? Qua

thực tiễn xét xử, nếu có căn cứ Toà án cấp phúc thẩm đều chấp nhận kháng

nghị chuyển từ án treo sang án tù tuy nhiên không có căn cứ pháp luật vì

khoản 3 Điều 249 chỉ quy định “Trong trƣờng hợp VKS kháng nghị hoặc

ngƣời bị hại kháng cáo yêu cầu thì TA cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt,

58

áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thƣờng

thiệt hại”, không có quy định chuyển từ án treo sang tù giam. Khắc phục

đƣợc hạn chế này, khoản 3 Điều 357 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm

trƣờng hợp “Không cho bị cáo hƣởng án treo”.

Trường hợp 2: p dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn.

Áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn là trƣờng hợp TA cấp phúc

thẩm áp dụng điều khoản của BLHS mà điều khoản đó so với điều khoản TA

cấp sơ thẩm áp dụng nặng hơn. Ví dụ: TA cấp sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội

gây thƣơng tích trong khi thi hành công vụ theo Điều 137 BLHS nhƣng TA

cấp phúc thẩm kết án bị cáo phạm tội cố ý gây thƣơng tích theo Điều 134

BLHS. Trong trƣờng hợp TA cấp phúc thẩm vẫn kết án bị cáo về tội danh

nhƣ TA cấp sơ thẩm nhƣng áp dụng khung hình phạt nặng hơn cũng đƣợc

coi là áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn .Ví dụ: TA cấp sơ thẩm áp

dụng khoản 1 Điều 141 BLHS về tội Hiếp dâm nhƣng TA cấp phúc thẩm áp

dụng khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 141 BLHS. Nhƣ vậy, khi TA cấp

phúc thẩm đã áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn thì đồng thời cũng

tăng hình phạt đối với bị cáo, tuy nhiên có những trƣờng hợp ngoại lệ. TA

cấp phúc thẩm có thể áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn nhƣng mức

hình phạt mà TA sơ thẩm đã áp dụng phù hợp với tính chất, mức độ hành vi,

cũng nhƣ nhân thân của bị cáo thì TA cấp phúc thẩm vẫn giữ nguyên mức

hình phạt mà TA cấp sơ thẩm đã áp dụng. Vì vậy, nếu VKS muốn yêu cầu

TA cấp phúc thẩm vừa áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn vừa yêu

cầu tăng hình phạt đối với bị cáo thì khi kháng nghị phải nêu rõ yêu cầu TA

cấp phúc thẩm áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn và tăng hình phạt

đối với bị cáo. Nếu bản kháng nghị chỉ yêu cầu TA cấp phúc thẩm áp dụng

điều khoản BLHS về tội nặng hơn mà không yêu cầu tăng hình phạt thì TA

cấp phúc thẩm không đƣợc tăng hình phạt đối với bị cáo.

59

Trường hợp 3: Tăng mức bồi thường thiệt hại

Khi có kháng cáo hoặc kháng nghị theo hƣớng tăng mức bồi thƣờng

thiệt hại trong vụ án hình sự thì TA cấp phúc thẩm quyết định tăng hay

không là một việc khá phức tạp. Vì khi đó, không chỉ xem xét, áp dụng các

quy định của BLHS, BLTTHS mà còn liên quan đến các quy định của Bộ

luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tăng mức bồi thƣờng thiệt hại không chỉ liên quan đến bị cáo mà

còn có thể liên quan đến ngƣời giám hộ của bị cáo hoặc bị đơn dân sự, ngƣời

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Vì vậy, khi xét xử phúc thẩm, những ngƣời

này phải đƣợc TA cấp phúc thẩm triệu tập đến phiên toà, nếu họ vắng mặt

có lý do chính đáng thì HĐXX phúc thẩm không đƣợc tăng mức bồi thƣờng

đối với họ. Trƣờng hợp có đủ căn cứ để tăng mức bồi thƣờng thì phải hoãn

phiên toà.

Nhƣ vậy, khi kháng nghị theo hƣớng tăng mức bồi thƣờng thiệt hại thì

VKS cần nêu rõ lý do của việc tăng mức bồi thƣờng, tăng bao nhiêu và theo

quy định nào của BLHS hay Bộ luật dân sự. Đồng thời, phải xác định khả

năng tham gia phiên toà của những ngƣời có trách nhiệm bồi thƣờng thiệt

hại để kháng nghị của mình đạt hiệu quả.

ii) Điều kiện sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo:

Điều kiện sửa bản án sơ thẩm theo hƣớng không có lợi cho bị cáo là:

Việc sửa bản án theo hƣớng không có lợi cho bị cáo dẫn đến việc làm xấu đi

tình trạng của bị cáo nên cần phải có những điều kiện để bảo đảm quyền bào

chữa của họ. Vì vậy, việc sửa bản án theo hƣớng không có lợi cho bị cáo chỉ

đƣợc thực hiện khi có những điều kiện theo quy định của pháp luật. Đó là

những quy định chặt chẽ không chỉ về hƣớng kháng cáo, kháng nghị mà còn

cả về chủ thể kháng cáo, kháng nghị. Chỉ khi VKS kháng nghị hoặc bị hại

kháng cáo và có căn cứ thì TA cấp phúc thẩm mới có thể tăng hình phạt, áp

dụng điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn, áp dụng hình phạt bổ sung, áp

60

dụng biện pháp tƣ pháp, tăng mức bồi thƣờng thiệt hại, chuyển sang hình

phạt khác thuộc loại nặng hơn, không cho bị cáo hƣởng án treo.

Khi sửa bản án theo hƣớng không có lợi cho bị cáo phải đảm bảo không

đƣợc vƣợt quá nội dung yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị. Nếu kháng cáo,

kháng nghị chỉ yêu cầu tăng mức hình phạt thì chỉ đƣợc tăng hình phạt trong

giới hạn của khung hình phạt TA cấp sơ thẩm đã tuyên, không đƣợc áp dụng

điều khoản của BLHS về tội nặng hơn.

TA cấp phúc thẩm không buộc phải xét xử theo hƣớng không có lợi cho

bị cáo theo kháng cáo, kháng nghị. Trƣờng hợp VKS kháng nghị, bị hại

kháng cáo theo hƣớng tăng nặng tuy nhiên nếu có đủ căn cứ thì HĐXX vẫn

có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn,

chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức phạt tù và

cho hƣởng án treo, giảm mức bồi thƣờng thiệt hại.

2.3.4.3. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển vụ án để điều tra lại hoặc xét xử

lại (Điều 358 BLTTHS)

a) Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại:

Khoản 1 Điều 358 BLTTHS quy định, HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ

thẩm để điều tra lại trong các trƣờng hợp:

Trường hợp 1: Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm

tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm

Trong trƣờng hợp có căn cứ khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã

tuyên trong bản án sơ thẩm, HĐXX phúc thẩm chỉ đƣợc hủy bản án sơ thẩm

để điều tra lại nếu không thể sửa bản án sơ thẩm, áp dụng điều của BLHS về

tội nặng hơn theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 357 BLTTHS.

Trường hợp 2: Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc

thẩm không thể bổ sung được

Việc điều tra đƣợc coi là không đầy đủ nếu dựa vào kết quả điều tra đó

thì không có đủ cơ sở để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan,

toàn diện và đầy đủ nhƣ: Không lấy lời khai của những ngƣời mà lời khai

61

của họ có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án; không tiến hành giám định trong

trƣờng hợp luật định bắt buộc phải trƣng cầu giám định; không thu thập đủ

vật chứng có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, các tình tiết quan trọng về

nhân thân của bị cáo ... Việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại phải đảm bảo

hai điều kiện là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ và cấp phúc thẩm

không thể bổ sung đƣợc

Trường hợp 3: Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai

đoạn điều tra, truy tố

Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố là

việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra,

truy tố thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do

BLTTHS quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hơp pháp

của ngƣời tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hƣởng đến việc xác định sự thật

khách quan của vụ án.

b) Hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại:

HĐXX phúc thẩm quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ

thẩm với thành phần HĐXX mới trong những trƣờng hợp sau đây:

Trường hợp 1: HĐXX sơ thẩm không đúng thành phần mà BLTTHS quy định

Thông thƣờng, HĐXX sơ thẩm gồm có một Thẩm phán và hai Hội

thẩm. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp

thì HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.

Đối với vụ án xét xử bị cáo mà BLHS quy định mức cao nhất của

khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì HĐXX sơ thẩm gồm hai Thẩm

phán và ba Hội thẩm. Vụ án có bị cáo là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi thì thành

phần HĐXX bắt buộc phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn

thanh niên hoặc ngƣời có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý ngƣời dƣới 18 tuổi.

Trƣờng hợp HĐXX sơ thẩm không đúng số lƣợng và thành phần cơ cấu nhƣ

62

theo quy định của BLTTHS thì bản án sơ thẩm sẽ bị HĐXX phúc thẩm hủy

để xét xử sơ thẩm lại.

Trường hợp 2: Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai

đoạn xét xử sơ thẩm

Trong quá trình giải quyết vụ án, khi cơ quan, ngƣời có thẩm quyền

tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định

và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia

tố tụng hoặc làm ảnh hƣởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện

của vụ án thì đƣợc coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Điều kiện hủy bản án để xét xử thẩm lại trong trƣờng hợp này phải đủ

hai điểu kiện: Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và sự nghiêm

trọng thủ tục tố tụng đó phải xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp

pháp của ngƣời tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hƣởng xấu đến việc xác định

sự thật khách quan của vụ án. Nếu chỉ có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố

mà sự vi phạm đó không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi xâm hại

nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng hoặc

làm ảnh hƣởng xấu đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án thì bản

án sơ thẩm cũng không bị hủy để xét xử lại.

Các trƣờng hợp sau đƣợc coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố

tụng hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm:

- Không chỉ định ngƣời bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định tại

Điều 76 BLTTHS;

- Xác định không đúng tƣ cách tham gia tố tụng của ngƣời tham gia tố

tụng trong quá trình xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích

hợp pháp của họ;

- Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng

quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo;

63

- Không có ngƣời phiên dịch, dịch thuật cho ngƣời tham gia tố tụng

trong trƣờng hợp họ không sử dụng đƣợc tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng

không thể hiện bằng tiếng Việt theo quy định tại Điều 70 của BLTTHS;

- Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng

trong các trƣờng hợp quy định tại Điều 49, Điều 68, Điều 69 và Điều 70 của

BLTTHS

HĐXX phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại khi phát

hiện những vi phạm trên.

Trường hợp 3: Người được TA sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có

căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội

Trong trƣờng hợp TA cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội nhƣng

HĐXX phúc thẩm có căn cứ cho rằng ngƣời đó phạm tội thì không đƣợc sửa

bản án sơ thẩm mà phải hủy để xét xử lại để đảm bảo quyền bào chữa cũng

nhƣ quyền kháng cáo của bị cáo đối với việc bị tuyên là có tội.

Trường hợp 4: Miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư

pháp đối với bị cáo không có căn cứ

Trong trƣờng hợp TA cấp sơ thẩm miễn TNHS, miễn hình phạt không

có căn cứ thì HĐXX phúc thẩm không đƣợc sửa bản án sơ thẩm mà phải hủy

để xét xử lại để đảm bảo quyền kháng cáo của bị cáo đối với việc bị áp dụng

TNHS và áp dụng hình phạt. Trong trƣờng hợp TA áp dụng biện pháp tƣ

pháp không có căn cứ, nếu HĐXX phúc thẩm xét thấy không cần thiết phải

áp dụng biện pháp tƣ pháp thì sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại điểm a

khoản 1 Điều 357 BLTTHS chứ không hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

Trường hợp 5: Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp

dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp HĐXX phúc thẩm sửa bản án

theo quy định tại Điều 357 BLTTHS

Khi TA cấp sơ thẩm có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng

pháp luật mà HĐXX phúc thẩm không thể khắc phục đƣợc bằng việc sửa án

sơ thẩm thì phải hủy bản án để xét xử lại.

64

2.3.4.4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án (Điều 359 BLTTHS)

HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án khi thuộc các

trƣờng hợp sau đây:

Trường hợp 1: Hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình

chỉ vụ án

Khi không đủ căn cứ chứng minh có sự việc phạm tội hoặc hành vi của

bị cáo không cấu thành tội phạm thì HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm,

tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án. Phúc thẩm là một cấp xét xử, có

quyền ra bản án hình sự xác định bị cáo có phạm tội hay không. Vì vậy,

trong trƣờng hợp TA cấp sơ thẩm tuyên có tội nhƣng HĐXX phúc thẩm xét

thấy có căn cứ không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của bị cáo không cấu

thành tội phạm thì ngoại việc hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, HĐXX

phúc thẩm còn phải tuyên bị cáo không có tội để đảm bảo khôi phục danh dự

và quyền lợi cho bị cáo.

Trường hợp 2: Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án

Khi có một trong các căn cứ sau đây thì HĐXX phúc thẩm hủy bản án

sơ thẩm và đình chỉ vụ án: Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

chƣa đến tuổi chịu TNHS; ngƣời mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án

hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy

cứu TNHS; tội phạm đã đƣợc đại xá; ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho

xã hội đã chết.

Tùy từng trƣờng hợp, HĐXX phúc thẩm có thể hủy toàn bộ bản án sơ

thẩm, đình chỉ toàn bộ vụ án hoặc chỉ hủy một phần bản án sơ thẩm và đình

chỉ đối với phần đã bị hủy.

2.3.4.5. Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm

Đối với vụ án mà ngƣời kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, VKS đã

kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị thì TA cấp phúc thẩm đình chỉ việc xét

65

xử phúc thẩm. Trƣớc khi mở phiên tòa, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm do

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do HĐXX quyết định.

Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày TA cấp phúc thẩm ra quyết

định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

2.3.4.6. Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm.

Theo quy định tại Điều 361, khi phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm

bị kháng cáo, kháng nghị, HĐXX phúc thẩm có các quyền sau:

- Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên quyết định

của TA cấp sơ thẩm khi xét thấy các quyết định của TA cấp sơ thẩm có căn

cứ và đúng pháp luật.

- Sửa quyết định của TA cấp sơ thẩm. HĐXX phúc thẩm sửa quyết định

của TA cấp sơ thẩm khi xét thấy quyết định này không có căn cứ, không

đúng pháp luật nhƣng chƣa tới mức cần thiết phải hủy quyết định đó để

chuyển hồ sơ vụ án cho TA cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết vụ án.

- Hủy quyết định của TA cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho TA

cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án khi xét thấy quyết định này không

có căn cứ, không đúng pháp luật nhƣng không thể sửa quyết định đó ngay tại

phiên họp phúc thẩm.

Khi xét kháng cáo, kháng nghị đối với các quyết định bị kháng cáo,

kháng nghị thì TA cấp phúc thẩm không phải mở phiên tòa công khai mà mở

phiên họp để xem xét, quyết định. Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp

luật kể từ ngày ra quyết định.

2.4. Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

Về nguyên tắc, bản án và quyết định của TA khi đã có hiệu lực pháp

luật phải đảm bảo tính ổn định và đƣợc đƣa ra thi hành. Tuy nhiên, nếu bản

án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có sai lầm nghiêm

trọng trong việc giải quyết vụ án hoặc phát sinh tình tiết mới làm thay đổi

66

căn bản nội dung vụ án mà ảnh hƣởng đến lợi ích Nhà nƣớc, cơ quan, tổ

chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặc biệt nếu làm oan ngƣời vô

tội thì vẫn có cơ chế để khắc phục. Do đó, BLTTHS đã quy định thủ tục

giám đốc thẩm và tái thẩm để xét lại bản án, quyết định của TA đã có hiệu

lực pháp luật mắc sai lầm.

2.4.1. Thủ tục giám đốc thẩm

Giám đốc thẩm là thủ tục TTHS đặc biệt, trong đó TA có thẩm quyền

xét lại bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng

nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ

án. Về bản chất, giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử. Giám đốc

thẩm là hoạt động tố tụng đặc biệt, xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của TA khi phát hiện có sai lầm nghiêm trọng. Những sai lầm

nghiêm trọng đƣợc dùng làm căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm quy định tại

Điều 371 BLTTHS bao gồm:

- Kết luận trong bản án, quyết định của TA không phù hợp với những

tình tiết khách quan của vụ án: Đây là trƣờng hợp kết luận trong bản án,

quyết định của TA không dựa trên những sự kiện có thật của vụ án và đã

đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng kiểm tra, làm sáng tỏ.

- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử

dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án: Những vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng có thể là quá trình điều tra bị cáo bị ép cung,

nhục hình nên khai báo không đúng sự thật, không trƣng cầu giám định hoặc

kết quả trƣng cầu giám định không đúng, HĐXX không đúng thành phần...

Những vi phạm thủ tục tố tụng đó dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc

giải quyết vụ án.

- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhƣ áp dụng sai

tội danh, sai điều luật, không tổng hợp hình phạt trong trƣờng hợp bị cáo

phạm nhiều tội...

67

Bất cứ ai đều có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết

định của TA án nhƣng không phải ai cũng có quyền kháng nghị giám đốc

thẩm. Những ngƣời có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đƣợc

quy định tại Điều 373 BLTTHS nhƣ sau:

- Chánh án TAND tối cao, Viện trƣởng VKS nhân dân tối cao có quyền

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của TAND cấp cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của TA khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán

TAND tối cao;

- Chánh án TA quân sự trung ƣơng, Viện trƣởng VKS quân sự trung

ƣơng có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật của TA quân sự cấp quân khu, TA quân sự khu vực.

- Chánh án TAND cấp cao, Viện trƣởng VKS nhân dân cấp cao có

quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ.

Để đảm bảo tính ổn định của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật, Điều 379 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc kháng nghị theo hướng

không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn 01 năm

kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật” [47, Điều 379]. Quy

định này thƣờng đƣợc áp dụng đối với các kháng nghị nhƣ yêu cầu áp dụng

điều khoản BLHS về tội nặng hơn, tăng hình phạt đối với ngƣời bị kết án,

kháng nghị để kết tội ngƣời đã đƣợc TA tuyên bố là không có tội. Cũng tại

Điều luật trên “Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể

được tiến hành bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp người bị kết án đã chết

mà cần minh oan cho họ”. [47, Điều 379] Quy định này thƣờng đƣợc áp

dụng đối với các kháng nghị hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

68

và đình chỉ vụ án vì ngƣời kết án không phạm tội, yêu cầu hủy bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra hoặc xét xử lại theo hƣớng giảm hình

phạt, minh oan cho bị cáo. Đối với vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, nếu có vi

phạm mà phải kháng nghị giám đốc thẩm nhƣng chỉ liên quan đến nguyên đơn

dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì

sẽ kháng nghị theo những quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Khi tiến hành giám đốc thẩm đối với vụ án hình sự, Hội đồng giám đốc

thẩm có những quyền sau:

- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật bị kháng nghị (Điều 389 BLTTHS năm 2015): Hội đồng

giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị khi xét thấy bản án, quyết định

đó có căn cứ và đúng pháp luật.

- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án,

quyết định đúng pháp luật của TA cấp sơ thẩm hoặc TA cấp phúc thẩm bị hủy,

sửa không đúng pháp luật (Điêu 390): Việc quy định Hội đồng giám đốc thẩm

có quyền hủy, sửa bản án, quyết định không đúng pháp luật và giữ nguyên bản

án, quyết định đúng pháp luật nhằm hạn chế đƣợc việc phải xét xử đi, xét xử lại

một vụ án nhiều lần trong khi đó nội dung vụ án không có gì thay đổi mà trƣớc

đây đã có bản án, quyết định có căn cứ và đúng pháp luật.

- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét

xử lại (Điêu 391): Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại nếu có một

trong các căn cứ sau: Kết luận trong bản án, quyết định của TA không phù hợp

với những tình tiết khách quan của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố

tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải

quyết vụ án; Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Nếu hủy

69

bản án để xét xử lại thì tùy trƣờng hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết

định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm.

- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án

(Điều 392 BLTTHS năm 2015): Khi có một trong các căn cứ sau, Hội đồng

giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ

vụ án: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm;

Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chƣa đến tuổi chịu TNHS;

Ngƣời mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ

án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu TNHS; Tội phạm đã đƣợc

đại xá; Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trƣờng

hợp cần tái thẩm đối với ngƣời khác; Tội phạm khởi tố theo yêu cầu của

ngƣời bị hại mà bị hại hoặc ngƣời đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

- Sửa án bán, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Điều 393 BLTTHS

năm 2015): Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật khi có đủ điều kiện sau: Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đã đầy

đủ, rõ ràng; việc sửa bản án, quyết định không làm thay đổi bản chất của vụ

án, không làm xấu đi tình trạng của ngƣời bị kết án, không gây bất lợi cho bị

hại, đƣơng sự. Nhƣ vậy, phải đảm bảo đủ hai điều kiện trên thì Hội đồng

giám đốc thẩm mới có quyền sửa bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực

pháp luật. Trƣờng hợp các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đã đầy đủ, rõ ràng

nhƣng việc sửa bản án, quyết định làm thay đổi bản chất của vụ án hoặc làm

xấu đi tình trạng của ngƣời bị kết án, gây bất lợi cho bị hại, đƣơng sự thì

Hội đồng giám đốc thẩm không đƣợc sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật mà tùy từng trƣờng hợp phải hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.

- Đình chỉ xét xử giám đốc thẩm: Hội đồng giám đốc thẩm đình chỉ xét xử

giám đốc thẩm khi ngƣời có thẩm quyền kháng nghị đã rút toàn bộ kháng nghị.

70

So với quy định tại Điều 285 BLTTHS năm 2003 thì điều 388 của

BLTTHS 2015 có hai bổ sung quan trọng:

Thứ nhất, bổ sung thẩm quyền “Đình chỉ xét xử giám đốc thẩm” quy

định tại khoản 6 Điều Điều 388 BLTTHS năm 2015. BLTTHS năm 2003

không quy định về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị cho nên trên thực

tế khi rút quyết định kháng nghị thì TA cũng không ra quyết định mà mạc

nhiện đƣợc coi là không còn thủ tục giám đốc thẩm. BLTTHS năm 2015 đã

khắc phục đƣợc vấn đế này, quy định chi tiết, cụ thể và giải quyết đối với

những trƣờng hợp thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Quy định thêm thẩm

quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều

381 BLTTHS năm 2015 khi ngƣời có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm rút toàn bộ quyết định kháng nghị.

Thứ hai, BLTTHS 2015 bổ sung thẩm quyền “Sửa bản án, quyết định

đã có hiệu lực pháp luật” (tại khoản 5, Điều 388). Theo quy định của

BLTTHS năm 2003, chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm có tên nguyên tắc là

“Thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 và

BLTTHS năm 2015 thay đổi tên gọi “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

đƣợc bảo đảm”. Việc thay đổi tên nguyên tắc là phù hợp với việc bổ sung

thẩm quyền sửa bản án của Hội đồng giám đốc thẩm. Việc này đã khắc phục

đƣợc tình trạng vụ án bị kéo dài do phải xét xử sơ thẩm, phúc thẩm lại nhiều

lần. Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực

pháp luật khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 393 BLTTHS năm 2015.

Với quy định nhƣ vậy, khi xem xét vụ án theo trình tự giám đốc thẩm

mà đã rõ ràng về chứng cứ, không cần phải xét xử lại thì Hội đồng giám đốc

thẩm có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà không cần

hủy án để xét xử lại. Nhƣ vậy tránh đƣợc tình trạng giải quyết vụ án bị kéo

dài, ảnh hƣởng đến quyền, lợi ích của ngƣời dân, gây tốn kém, lãng phí ngân

71

sách Nhà nƣớc cũng nhƣ ảnh hƣởng không tốt đối với tâm lý của những

ngƣời tham gia tố tụng.

Việc cho phép Hội đồng giám đốc thẩm sửa án không vi phạm nguyên

tắc Hiến định “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm” mà lại đáp

ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn. Để đảm bảo tranh tụng, BLTTHS năm 2015 đã

bổ sung quy định trƣờng hợp có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật, TA phải triệu tập ngƣời bị kết án, ngƣời bào chữa và

những ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia

phiên tòa giám đốc thẩm. Tuy nhiên, nếu họ vắng mặt thì phiên tòa giám đốc

thẩm vẫn đƣợc tiến hành.

Tại khoản 2 Điều 393 quy định: “Việc sửa bản án, quyết định không

làm thay đổi bản chất của vụ án, không làm xấu đi tình trạng của người bị

kết án, không gây bất lợi cho bị hại, đương sự.” [47, Điều 393]. Quy định

này có nghĩa là Hội đồng Giám đốc thẩm chỉ sửa bản án quyết định khi có

lợi cho ngƣời bị kết án nhƣ: sửa tội danh nhẹ hơn, giảm hình phạt chính,

giảm hình phạt bổ sung; sửa về việc áp dụng các biện pháp tƣ pháp nhƣ tịch

thu vật, tiền mà TA cấp Giám đốc thẩm có căn cứ cho rằng vật, tiền đó

không trực tiếp liên quan đến vụ án…Hội đồng giám đốc thẩm không đƣợc

tăng hình phạt, kể cả hình phạt chính, hình phạt bổ sung, áp dụng thêm biện

pháp tƣ pháp hoặc áp dụng thêm hình phạt bổ sung, không đƣợc sửa về biện

pháp chấp hành hình phạt (không cho hƣởng án treo), không đƣợc sửa về

tăng án phí hình sự, dân sự sơ thẩm…Hơn nữa, về mặt lý luận bổ sung quy

định này sẽ giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, không quay vòng

nhiều lần, gây tốn kém về chi phí và thời gian của đƣơng sự cũng nhƣ của

nhà nƣớc; đồng thời bảo đảm cho việc giải quyết vụ án có điểm dừng, giải

quyết đƣợc những vƣớng mắc, bất cập gặp phải trong thời gian qua vừa

tránh đƣợc tình trạng việc vụ án xét xử qua nhiều lần, nhiều cấp và có những

vụ việc kéo dài nhiều năm và không có điểm dừng.

72

2.4.2. Thủ tục tái thẩm

Tái thẩm không đƣợc coi là một cấp xét xử mà là một thủ tục đặc biệt

theo đó bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật đƣợc xem xét lại

trên cơ sở có kháng nghị của ngƣời có thẩm quyền khi phát hiện có những

tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định

của TA trƣớc đó. Những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung

của bản án hoặc quyết định của TA đƣợc quy định tại Điều 398 BLTTHS

2015 bao gồm:

- Có căn cứ chứng minh lời khai của ngƣời làm chứng, kết luận giám

định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của ngƣời phiên dịch, bản dịch thuật

có những điểm quan trọng không đúng sự thật;

- Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do

không biết đƣợc mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của TA

đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án;

- Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản

hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ

án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;

- Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của TA đã có hiệu

lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.

Nhƣ vậy, khi phát hiện một hay nhiều tình tiết nêu trên, ngƣời có thẩm

quyền kháng nghị sẽ ra quyết định kháng nghị và bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật đƣợc xem xét lại theo thủ tục tái thẩm. Để đảm bảo tính

đúng đắn khi xem xét bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình

tự tái thẩm cần phải xác minh tình tiết mới đƣợc phát hiện. Do đó, BLTTHS

quy định chỉ có Viện trƣởng VKS nhân dân mới có thẩm quyền kháng nghị

theo trình tự tái thẩm, cụ thể:

- Viện trƣởng VKS nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục

tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TA các cấp,

trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.

73

- Viện trƣởng VKS quân sự trung ƣơng có quyền kháng nghị theo thủ

tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TA quân

sự cấp quân khu, TA quân sự khu vực.

- Viện trƣởng VKS nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục

tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp

tỉnh, TAND cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Trƣờng hợp tái thẩm theo

hƣớng không có lợi cho ngƣời bị kết án thì phải tiến hành trong thời hiệu truy

cứu TNHS quy định tại Điều 27 của BLHS và thời hạn kháng nghị không

đƣợc quá một năm kể từ ngày VKS nhận đƣợc tin báo về tình tiết mới đƣợc

phát hiện. Trƣờng hợp tái thẩm theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị kết án thì

không hạn chế về thời gian và đƣợc tiến hành ngay cả khi ngƣời bị kết án đã

chết nhƣng cần minh oan cho họ. Đối với kháng nghị về vấn đề dân sự trong

vụ án hình sự đƣợc tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giám đốc thẩm, BLTTHS năm 2015 đã có những thay

đổi căn bản so với quy định của BLTTHS năm 2003. Theo quy định tại Điều

279 BLTTHS năm 2003, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh, Tòa hình sự

TAND Tối cao, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có thẩm quyền giám

đốc thẩm. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 đã bỏ thẩm quyền giám đốc thẩm

của Ủy ban thẩm phán TAND tỉnh, TAND tỉnh chỉ xét xử sơ thẩm và phúc

thẩm. Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao và Hội đồng thẩm phán TAND tối

cao mới có thẩm quyền giám đốc thẩm. Quy định nhƣ vậy là phù hợp vì đã

giảm tải đƣợc khối lƣợng công việc của TAND cấp tỉnh, TAND cấp tỉnh chỉ

tập trung xét xử nên tỷ lệ giải quyết án cao hơn, khắc phục đƣợc tình trạng

án tồn đọng quá nhiều.

Khi tiến hành tái thẩm đối với vụ án hình sự, Hội đồng tái thẩm có

những quyền sau:

74

- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định

đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị: Hội đồng tái thẩm quyết định không

chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực

pháp luật nếu tình tiết mới đƣợc dùng làm căn cứ để kháng nghị không làm

thay đổi nội dung vụ án.

- Hủy bản án hoặc quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật để điều

tra lại hoặc xét xử lại: Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết

định của TA để điều tra lại hoặc xét xử lại tùy thuộc vào tình tiết mới đƣợc

phát hiện trong giai đoạn điều tra hay xét xử.

- Hủy bản án hoặc quyết định của TA bị kháng nghị và đình chỉ vụ án:

Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định của TA đã có hiệu

lực pháp luật và đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ sau: Không có

sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Ngƣời thực hiện hành

vi nguy hiểm cho xã hội chƣa đến tuổi chịu TNHS; Ngƣời mà hành vi phạm

tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

Đã hết thời hiệu truy cứu TNHS; Tội phạm đã đƣợc đại xá; Ngƣời thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trƣờng hợp cần tái thẩm đối với

ngƣời khác; các loại tội chỉ khởi tố khi có yêu cầu của bị hại hoặc ngƣời đại

diện hợp pháp của bị hại nhƣng họ không có yêu cầu khởi tố.

Nhìn chung, so với BLTTHS năm 2003, những quy định về thủ tục tái

thẩm trong BLTTHS năm 2015 không có gì thay đổi. Chỉ thay đổi về thẩm

quyền tái thẩm tƣơng tự nhƣ quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm.

75

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Trên cơ sở kết quả những nghiên cứu về lý luận chung ở chƣơng 1,

trong chƣơng 2 tác giả tiếp tục đi sâu nghiên cứu, phân tích những quy định

hiện hành của BLTTHS về nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

đƣợc bảo đảm. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc thể hiện

cụ thể thông qua những quy định về xét xử sơ thẩm tại chƣơng XXI nhƣ

thẩm quyền xét xử sơ thẩm, giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, quyền hạn của

Hội đồng xét xử sơ thẩm; những quy định về xét xử phúc thẩm tại chƣơng

XXII nhƣ những quy định về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, phạm vi xét

xử phúc thẩm, quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm; những quy định

về thủ tục giám đốc thẩm tại chƣơng XXV và những quy định về thủ tục tái

thẩm tại chƣơng XXVI. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã

có nhiều sửa đổi, bổ sung trong đó có sửa đổi, bổ sung về xét xử sơ thẩm,

xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm nhƣ quy định cụ thể hơn về thẩm

quyền xét xử của TA các cấp, phân định rõ thẩm quyền giữa TAND và TA

quân sự; mở rộng phạm vi xét xử sơ thẩm; bổ sung thẩm quyền của Hội

đồng giám đốc thẩm... Những sửa đổi, bổ sung đó phù hợp với xu thế chung

của thế giới, phù hợp với tinh thần cải cách tƣ pháp và phù hợp với quy định

của Bộ luật tố tung dân sự, Luật tố tụng hành chính.

76

CHƢƠNG 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP TIẾP

TỤC HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM TUÂN THỦ CÁC QUY ĐỊNH

CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ NGUYÊN TẮC

CHẾ ĐỘ XÉT XỬ SƠ THẨM, PHÚC THẨM ĐƢỢC BẢO ĐẢM

3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm đƣợc bảo đảm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

3.1.1. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

Cao Bằng là tỉnh miền núi biên giới, có 12 đơn vị hành chính cấp

huyện, 01 thành phố với 199 xã, phƣờng, thị trấn. Trong những năm qua,

tình hình an ninh, trật tự cơ bản đƣợc ổn định, tuy nhiên vẫn còn nhiều loại

tội phạm, tệ nạn xã hội, các hành vi vi phạm pháp luật. Hoạt động của các

loại tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh thời gian qua diễn biến phức tạp; đặc

biệt, các vụ án về ma túy, giết ngƣời, trộm cắp tài sản, hiếp dâm trẻ em… có

chiều hƣớng gia tăng, thủ đoạn hoạt động của các đối tƣợng hình sự ngày

càng tinh vi, manh động.

Trong thời gian qua, các loại tội phạm về ma túy luôn chiếm tỷ lệ cao

so với số lƣợng án đã thu lý giải quyết. Cụ thể, năm 2014 chiếm 41,6 %,

năm 2015 chiếm 35 %, năm 2016 chiếm 40 %, năm 2017 chiếm 37 %, năm

2018 chiếm 37 %. Tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn biên

giới tỉnh Cao Bằng rất phức tạp với thủ đoạn hoạt động mới. Nhiều đối

tƣợng vận chuyển ma túy tổng hợp và ma túy dạng đá xuất hiện thời gian

gần đây với số lƣợng lớn vƣợt biên từ Trung Quốc sang Việt Nam qua địa

bàn các huyện giáp biên nhƣ huyện Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Phục Hòa…

Điều đáng nói là hầu hết những tội phạm ma túy vào địa bàn biên giới hoạt

động đều trang bị các loại vũ khí nhƣ súng, lựu đạn, dao bấm... để chống trả

77

lực lƣợng chức năng. Phƣơng thức, thủ đoạn hoạt động của chúng đều mang

đậm tính chất xã hội đen với hoạt động khép kín, thủ đoạn tinh vi, ma mãnh.

Bên cạnh đó, số ngƣời nghiện ma túy trên địa bàn biên giới cũng đang có xu

hƣớng gia tăng và diễn biến phức tạp. Các địa phƣơng bắt đƣợc nhiều vụ ma

tuý nhất là khu vực biên giới thuộc xã Minh Long, Lý Quốc, huyện Hạ

Lang, khu vực biên giới cửa khẩu Tà Lùng, huyện Phục Hòa và xã Đàm

Thủy, huyện Trùng Khánh. Tình hình hoạt động của tội phạm ma túy có

chiều hƣớng ngày càng khó kiểm soát, bởi sự móc nối giữa các đối tƣợng bên

kia biên giới với các đối tƣợng ngƣời Việt Nam hình thành các đƣờng dây khép

kín vận chuyển ma túy xuyên quốc gia. Bên cạnh đó, hoạt động vận chuyển,

mua bán lẻ chất ma túy cho các đối tƣợng nghiện vẫn diễn ra tại các địa bàn

trọng điểm, khu vực hai bên cánh gà cửa khẩu, lối mở. Đáng chú ý, những đối

tƣợng ngƣời Trung Quốc không chỉ tổ chức những điểm bán lẻ ma túy sát biên

giới, mà còn trực tiếp vận chuyển ma túy, mang cả cân điện tử sang địa bàn

khu vực biên giới Việt Nam để bán cho các đối tƣợng nghiện.

Tiếp theo phải kể đến là các loại tội về xâm phạm quyền sở hữu. Đây

cũng là hệ lụy của tội phạm ma túy. Tình trạng buôn bán ma túy ngày càng

gia tăng đã trực tiếp làm gia tăng con nghiện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Phần lớn tội phạm xâm phạm sở hữu đều do các con nghiên thực hiện do

không có việc làm ổn định, không có tiền sử dụng ma túy nên chiếm đoạt tài

sản của ngƣời khác bằng các hình thức lừa đảo, cƣớp giật, trộm cắp để có

tiền sử dụng ma túy. Các vụ án về xâm phạm sở hữu có tính chất nhỏ lẻ, đơn

giản nhƣng chiếm tỷ lệ lớn. Cụ thể, năm 2014 chiếm 28%, năm 2015 chiếm

37 %, năm 2016 chiếm 30 %, năm 2017 chiếm 31 %, năm 2018 chiếm.

Ngoài nhóm tội phạm về ma túy và nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu

cũng phải nói đến nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Tuy chiếm tỷ lệ

ít hơn (năm 2014 chiếm 16,7%, năm 2015 chiếm 11%, năm 2016 chiếm

78

13%, năm 2017 chiếm 13 %, năm 2018 chiếm 9%) nhƣng tính chất nguy

hiểm lớn với nhiều vụ án rúng động gây xôn xao dƣ luận nhƣ vụ Bế Ích Thi

chặt xác để phi tang sảy ra năm 2016 tại huyện Phục Hòa, vụ Lý Đình

Khánh giết 04 ngƣời trong cùng một gia đình và đốt nhà để phi tang tại

huyện Thạch An, vụ bác sỹ Hải giết vợ vứt xác xuống sông để phi tang sảy

ra vào năm 2018 tại thành phố Cao Bằng...

Bên cạnh đó còn có các nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế;

xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; tội phạm về chức vụ, tuy

nhiên chỉ có 1-10 vụ, chiếm tỷ lệ không đáng kể. Trên địa bàn tỉnh Cao

Bằng trong thời gian quan không có nhóm tội về xâm phạm an ninh quốc

gia, tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của nhân dân, tội xâm phạm chế độ

hôn nhân và gia đình, tội phạm về môi trƣờng.

3.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về xét xử sơ

thẩm và xét xử phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Hệ thống TA trên địa bàn tỉnh Cao Bằng gồm có TAND tỉnh Cao Bằng

và 13 TAND cấp huyện, không có TA quân sự. Nhƣ phân tích ở chƣơng 1,

nội dung của nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm thể hiện qua các

quy định về xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm và thủ

tục tái thẩm. BLTTHS năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018

đã bỏ thẩm quyền giám đốc thẩm và tái thẩm của TAND cấp tỉnh. Thẩm

quyền giám đốc thẩm và tái thẩm chỉ do TA cấp cao và TANDTC thực hiện.

Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến 2018,

nhƣ vậy trong khoảng thời gian nghiên cứu vẫn thi hành BLTTHS năm 2003

và TAND tỉnh Cao Bằng vẫn có thẩm quyền giám đốc thẩm và tái thẩm. Tuy

nhiên, qua nghiên cứu số liệu thống kê, từ năm 2014 đến năm 2018, TAND

tỉnh Cao Bằng không có vụ án hình sự nào vi phạm pháp luật bị tái thẩm và

79

giám đốc thẩm. Do đó, tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực tiễn áp

dụng các quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm trên

địa bàn tỉnh Cao Bằng.

3.1.2.1. Xét xử sơ thẩm

Theo báo cáo tổng kết và phƣơng hƣớng nhiệm vụ công tác của TAND

tỉnh Cao Bằng từ năm 2014 đến năm 2018, TAND tỉnh Cao Bằng xét xử

theo thủ tục sơ thẩm 2.456 vụ án với 3.795 bị cáo. Cụ thể năm 2014 là 461

vụ/739 bị cáo, năm 2015 là 449 vụ/694 bị cáo, năm 2016 là 472 vụ/710 bị

cáo, năm 2016 là 479 vụ/718 bị cáo, năm 2018 là 595 vụ/934 bị cáo.

Các vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý đúng thẩm quyền, 100 % vụ án

đảm bảo giải quyết đúng thời hạn luận định. Tỷ lệ giải quyết án trong 05

năm trở lại đây luôn đạt trên 98%, cụ thể năm 2014 là 100%, năm 2015 là

99,33%, năm 2016 là 98,74%, năm 2017 là 99,37%, năm 2018 là 98,50%.

Kết quả giải nhƣ sau:

Bảng 3.1: Tỷ lệ giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Cao Bằng

từ năm 2014 đến năm 2018.

Xét xử Đình chỉ Năm Tổng yết số Vụ %

461 449 472 479 595 Trả hồ sơ điều tra bổ sung % Vụ 1,56 07 1,06 05 1,04 05 1,34 08 04 04 % 100 98,44 98,94 98,13 97,98

0,83 0,68 (Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng) Vụ 461 442 467 470 583 2014 2015 2016 2017 2018

Quá trình xét xử các vụ án hình sự, TAND tỉnh Cao Bằng luôn tuân thủ

đúng các quy định của BLTTH về thẩm quyền, giới hạn xét xử, thời hạn xét

xử... và quy định của BLHS. Xử phạt nghiêm khắc loại tội phạm rất nghiêm

trọng và đặc biệt nghiêm trọng nhƣ Giết ngƣời, hiếp dâm, tội phạm về ma

80

túy, tội phạm về chức vụ.... Mức hình phạt đã tuyên phù hợp với tính chất,

vai trò và mức độ phạm tội của từng bị cáo trong từng vụ án cụ thể đảm bảo

đúng quy định của pháp luật và văn bản hƣớng dẫn của cấp trên.

Việc tranh tụng tại phiên tòa đƣợc thực hiện theo đúng tinh thần cải

cách tƣ pháp và quy định của pháp luật TTHS, theo đó, TA không hạn chế

thời gian tranh tụng, tôn trọng và đảm bảo cho các bên tham gia tranh tụng

đƣa ra chứng cứ và trình bày hết ý kiến của mình. Đặc biệt, trong năm 2017

có hai vụ án hình sự lớn với sự tham gia của nhiều luật sƣ nhƣ vụ Hồ Bá Lập

và đồng bọn phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy với 12 bị cáo và 11

luật sƣ, vụ Hoàng Thị Vấn phạm tội giết ngƣời với 12 luật sƣ bào chữa.

Thực hiện đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015,

HĐXX đã đảm bảo điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa theo đúng tinh

thần của cải cách tƣ pháp, đảm bảo các quyền của Kiểm sát viên, Luật sƣ, bị

cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác tạo ra những bƣớc chuyển biến cơ

bản trong hoạt động tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Trên cơ sở

tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX đã đƣa ra các phán quyết đúng ngƣời, đúng

tội, đúng pháp luật đƣợc dƣ luận xã hội ủng hộ.

Về cơ bản, trong công tác xét xử các vụ án hình sự luôn đảm bảo xử lý

đúng ngƣời, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, không có trƣờng hợp nào kết

án oan ngƣời không có tội cũng nhƣ bỏ lọt tội phạm. Việc tranh tụng tại

phiên tòa không ngừng đƣợc chú trọng theo hƣớng hiệu quả, thực chất; việc

phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng đƣợc thực hiện đúng theo quy

định của pháp luật tố tụng. Những vụ án điển hình, đặc biệt là các vụ án kinh

tế, tham nhũng và các vụ án đƣợc dƣ luận xã hội quan tâm TA đều đƣa ra

xét xử kịp thời, nghiêm minh.

3.1.2.2. Xét xử phúc thẩm

Qua số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2014 đến năm 2018, các vụ án

có kháng cáo, kháng nghị đã giảm xuống. Cụ thể, tỷ lệ phần trăm vụ án có

81

kháng cáo, kháng nghị so với tổng án hình sự thụ lý giải quyết là: Năm 2014

chiếm 13%, năm 2015 chiếm 12%, năm 2016 chiếm 8,4%, năm 2017 chiếm

10%, năm 2018 chiếm 9%. Nội dung kháng cáo phần lớn là xin giảm nhẹ

hình phạt hoặc xin đƣợc hƣởng án treo; xin giảm trách nhiệm bồi thƣờng

thiệt hại, bên cạnh đó, vẫn có kháng cáo kêu oan, điển hình là vụ Đàm Thị

Liên xử năm 2018 về tội tham ô tài sản, bị cáo kháng cáo kêu oan, cấp phúc

thẩm hủy án để điều tra bổ sung.

Theo thống kê của TA và VKS lƣợng án có kháng nghị chiếm tỷ lệ rất ít

so với lƣợng án có kháng cáo. Lý do của việc số lƣợng án sơ thẩm bị kháng cáo

chiếm tỷ lệ cao so với số lƣợng án đã xét xử sơ thẩm một mặt do pháp luật

TTHS không hạn chế ngƣời tham gia tố tụng có quyền kháng cáo, thủ tục

kháng cáo đơn giản, dễ thực hiện. Mặt khác, bất cứ kháng cáo nào hợp lệ về

mặt hình thức cũng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, kháng cáo không có căn

cứ không làm phát sinh trách nhiệm của ngƣời kháng cáo. Việc có nhiều kháng

cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm chƣa trực tiếp phản ánh chất lƣợng xét

xử sơ thẩm, bởi lẽ trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm không ít

kháng cáo, kháng nghị bị rút và nhiều trƣờng hợp TA cấp phúc thẩm không

chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bảng 3.2: Tỷ lệ giải quyết án hình sự phúc thẩm của TAND tỉnh Cao

Bằng từ năm 2014 đến năm 2018.

Kết quả

Thụ lý Giải quyết Năm Y án Hủy Sửa

2014 59 20 03 08 Đình chỉ 28 59

2015 55 17 03 10 25 55

2016 40 13 04 08 15 40

2017 49 16 3 09 20 48

2018 54 07 01 14 32 54

(Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng)

82

Qua số liệu thống kê cho thấy, phần lớn kết quả giải quyết của cấp phúc

thẩm là y án hoặc đình chỉ do ngƣời kháng cáo rút đơn kháng cáo. Số án,

quyết định sơ thẩm bị hủy chiếm tỷ lệ ít. Bản án, quyết định bị sửa phần lớn

là giảm nhẹ hình phạt, chuyển từ tù giam sang án treo, sửa phần trách nhiệm

dân sự và một số ít là án phí.

Nhìn chung, việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm trên địa bàn tỉnh

Cao Bằng luôn đảm bảo đúng pháp luật. TA cấp phúc thẩm kiểm tra tính

hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm trong qua trình xét

xử lại vụ án qua đó kịp thời phát hiện những sai lầm, thiếu sót trong việc

giải quyết vụ án của cấp sơ thẩm và khắc phục những sai lầm, thiếu sót đó,

bảo vệ đƣợc triệt để quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ

chức và cá nhân.

3.1.2.3. Một số tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng

nguyên tắc Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm trên địa bàn

tỉnh Cao Bằng và những nguyên nhân

Nhìn chung, trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, quá trình giải quyết các vụ án

hình sự luôn đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Các

nguyên tắc của TTHS nói chung cũng nhƣ nguyên tắc bảo đảm chế độ xét

xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc thực hiện triệt để nhằm xác định sự thật khác

quan của vụ án. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng pháp luật vẫn còn tồn tại

một số hạn chế, thiếu sót trong việc áp dụng nguyên tắc chế độ xét xử sơ

thẩm, phúc thẩm, cụ thể:

Theo số liệu thống kê cho thấy, tỉnh Cao Bằng luôn đạt tỷ lệ giải quyết

án hình sự cao tuy nhiên vẫn có án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm

phán. Nguyên nhân là do nhận thức pháp luật của một số ngƣời tiến hàng tố

tụng chƣa thống nhất dẫn đến việc áp dụng sai pháp luật. Bên cạnh đó, một

số ít Thẩm phán trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế, còn mang

83

nặng tính chủ quan, duy ý chí, chƣa đề cao tinh thần trách nhiệm, chƣa chịu

khó rèn luyện nghiên cứu văn bản pháp luật mới ban hành và những tài liệu

tổng kết công tác xét xử do TAND Tối cao ban hành. Ngoài ra, công tác

lãnh đạo, chỉ đạo của ngƣời đứng đầu một số đơn vị chƣa cụ thể, sâu sát

cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến án bị hủy, sửa do lỗi chủ

quan của Thẩm phán. Một số đơn vị TA cấp huyện chƣa khắc phục triệt để

việc xác định đầy đủ thông tin tiền án, tiền sự, nhân thân của bị cáo, việc

thông báo kháng cáo chƣa đầy đủ, việc thu thập chứng cứ, đánh giá chứng

cứ chƣa toàn diện, còn thiếu khách quan dẫn đến giải quyết vụ án không

đúng với quy định của pháp luật.

Đối với Hội thẩm, theo quy định của Hiến pháp và BLTTHS Thẩm

phám, Hội thẩm ngang quyền nhau, xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật, mọi quyết định của HĐXX đƣợc biểu quyết theo đa số. Thế nhƣng, trên

thực tế phần lớn Hội thẩm không thực hiện đúng trách nhiệm và nhiệm vụ

pháp luật trao cho, việc Hội thẩm tham gia xét xử còn mang nặng tính hình

thức, Hội thẩm ỷ lại quá nhiều vào Thẩm phán, không có tƣ duy độc lập; các

quyết định của HĐXX chủ yếu do Thẩm phán chủ toạ phiên toà đƣa ra và

Hội thẩm đồng ý. Công tác lựa chọn, bầu cử Hội thẩm cũng chƣa đƣợc quan

tâm đúng mức, đặc biệt việc bồi dƣỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm hiệu quả

chƣa cao, chƣa đáp ứng yêu cầu xét xử. Mặt khác, phần lớn Hội thẩm tập

trung làm công tác chuyên môn, chƣa thực sự coi trọng công tác xét xử và

xác định đƣợc rõ vai trò của mình nên chƣa giành nhiều thời gian để nghiên

cứu hồ sơ cũng nhƣ nghiên cứu các quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Thẩm phán chủ toạ phiên toà là ngƣời điều khiển phiên

toà, nhƣng do tƣ duy cũ và thói quen của Thẩm phán từ thế hệ này qua thế

hệ khác quá tập trung vào việc xét hỏi bị cáo mà không quan tâm đến việc

điều khiển phiên toà nhất là điều khiển việc tranh luận giữa ngƣời bào chữa

84

với Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Đây là khâu yếu nhất của Thẩm phán chủ

toạ phiên toà trong hệ thống TA nói chung và TA tỉnh Cao Bằng nói riêng.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 309, BLTTHS năm 2015, khi xét hỏi bị

cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và

những tình tiết của vụ án. HĐXX hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình

bày chƣa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có phiên tòa

chủ tọa không để cho bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình

tiết của vụ án, mà chủ toạ phiên toà đặt ngay các câu hỏi theo diễn biến sự

việc mà nội dung bản cáo trạng nêu. Vẫn còn tình trạng, tại phiên tòa chủ toạ

phiên toà hỏi là chính, hỏi hết cả phần của Kiểm sát viên và ngƣời bào chữa;

hỏi nhƣ một Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên hỏi bị can trong giai đoạn điều

tra; Thẩm phán không chỉ hỏi mà còn giáo dục bị cáo, bình luận, nhận xét, tỏ

thái độ đối với lời khai của bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác

trong khi đó thì lại không giải thích cho bị cáo và những ngƣời tham gia tố

tụng về quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà theo quy định của BLTTHS.

Kiểm sát viên tham gia phiên toà hình sự sơ thẩm để thực hiện quyền

công tố. BLTTHS đã quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Theo đó, tại phiên toà sơ thẩm,

Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, bổ sung cáo trạng hoặc rút cáo trạng

tại phiên toà; tham gia xét hỏi tại phiên toà, trình bày lời luận tội, tranh luận

với ngƣời bào chữa hoặc bị cáo; đƣa ra chứng cứ hoặc yêu cầu. Tuy nhiên,

trên thực tế có nhiều trƣờng hợp Kiểm sát viên ít tham gia xét hỏi bị cáo và

những ngƣời tham gia tố tụng khác để chứng minh tội phạm, mà ỷ lại

HĐXX xét hỏi; khi trình bày lời luận tội tại phiên toà không căn cứ vào kết

quả xét hỏi mà lại căn cứ vào Bản cáo trạng và bản luận tội đã chuẩn bị

trƣớc đó mặc dù kết quả xét hỏi tại phiên toà đã có nhiều nội dung không

phù hợp với cáo trạng đã công bố; hơn nữa, sau khi ngƣời bào chữa trình

85

bày lời bào chữa cho bị cáo và đề nghị Kiểm sát viên tranh luận về từng vấn

đề mà ngƣời bào chữa nêu ra thì vẫn còn tình trạng Kiểm sát viên không

tranh luận lại, thậm chí chỉ nói một câu “vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố”.

Nhƣ vậy, chất lƣợng tranh tụng của Kiểm sát viên tại một số phiên tòa chƣa

đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp.

Trƣớc ngày 01/01/2018 áp dụng BLTTHS năm 2003. Theo Điều 234

BLTTHS năm 2003, thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là 15 ngày, của

VKS cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án. Theo Điều 229

BLTTHS 2003 thì thời hạn giao bản án cho VKS cùng cấp là trong thời hạn

10 ngày nhƣng không quy định việc giao bản án cho VKS cấp trên trực tiếp

mà do VKS cấp dƣới chuyển lên. Tuy nhiên, trên thực tế, VKS cấp dƣới gửi

lên thƣờng rất muộn và quá hạn kháng nghị theo quy định của pháp luật. Do

vậy, việc phát hiện vi phạm của các bản án sơ thẩm để kháng nghị gặp nhiều

trở ngại vì đã hết thời hạn kháng nghị nên phần nào đã ảnh hƣởng đến quyền

kháng nghị của VKS. Đó không chỉ là hạn chế của tỉnh Cao Bằng nói riêng

mà là tình trạng chung của cả nƣớc. BLTTHS năm 2015 đã khắc phục đƣợc

hạn chế này. Khoản 1 Điều 262 quy định “Trong thời hạn 10 ngày kể từ

ngày tuyên án, TA cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, bị hại, VKS

cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho bị cáo bị xét xử vắng mặt quy

định tại điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật này, VKS cấp trên trực tiếp,

Cơ quan điều tra cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Trại

tạm giam, Trại giam nơi đang giam giữ bị cáo; thông báo bằng văn bản cho

chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi

bị cáo làm việc, học tập; cấp bản sao bản án hoặc trích lục bản án về những

phần có liên quan cho đương sự hoặc người đại diện của họ”. Với quy định

nhƣ vậy, quyền kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp đã đƣợc đảm bảo.

86

3.2. Kiến nghị hoàn thiện những quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015

BLTTHS năm 2015 cơ bản đã khắc phục đƣợc những hạn chế của

BLTTHS năm 2003 nói chung cũng nhƣ những quy định về chế độ xét xử sơ

thẩm, phúc thẩm nói riêng. Sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định nhƣ: Thay

đổi tên gọi nguyên tắc từ “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử” sang “Chế độ xét

xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm” cho phù hợp với nội dung của nguyên

tắc; quy định cụ thể hơn thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, thẩm quyền theo

lãnh thổ; mở rộng giới hạn của việc xét xử sơ thẩm; tăng thẩm quyền của Hội

đồng giám đốc thẩm... Những sửa đổi, bổ sung đó góp phần thực hiện ngày

càng tốt hơn chế độ xét sơ thẩm, phúc thẩm. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015

vẫn còn những hạn chế cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung đó là:

3.2.1. Bổ sung quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự

Trong BLTTHS năm 2015, Điều 371 quy định về căn cứ để kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm, Điều 398 quy định về căn cứ để kháng nghị theo

thủ tục tái thẩm. Tuy nhiên, trong chƣơng XXII - xét xử phúc thẩm chỉ quy

định về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục nhƣng không quy định căn cứ kháng

nghị phúc thẩm. Theo Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm

sát xét xử các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-

VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trƣởng VKS nhân dân tối cao tại Điều 33

xác định 4 căn cứ để kháng nghị là:

- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ;

- Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp

với các tình tiết khách quan của vụ án;

- Có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự;

- Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm

nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.

87

Tuy nhiên, đó chỉ là hƣớng dẫn mang tính nội bộ của ngành Kiểm sát.

Vì vậy, BLTTHS cần bổ sung, quy định rõ bản án, quyết định cấp sơ thẩm vi

phạm những nội dung gì và mức độ đến đâu để bị coi là nghiêm trọng, bị

kháng nghị phúc thẩm. Do đó, kiến nghị bổ sung thêm Điều luật căn cứ

kháng nghị tại chƣơng XXII:

Điều ..... Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm

Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khi có

một trong các căn cứ:

1. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm phiến diện hoặc không

đầy đủ;

2. Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp

với các tình tiết khách quan của vụ án;

3. Có vi phạm trong việc áp dụng BLHS;

4. Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm

nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.

3.2.2. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm

Tại khoản 1 Điều 342 BLTTHS quy định: “Trƣớc khi bắt đầu phiên tòa

hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, ngƣời kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung

kháng cáo, VKS ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng

nghị nhƣng không đƣợc làm xấu hơn tình trạng của bị cáo...”. Với quy định

trên, dẫn tới cách hiểu không thống nhất, có một số ngƣời trong cơ quan tiến

hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng cho rằng trƣớc khi xét xử phúc thẩm

thì mọi bổ sung, thay đổi kháng nghị đều không đƣợc làm xấu tình trạng của

bị cáo. Thực tế, đã có Thẩm phán bác kháng nghị bổ sung của VKS còn

trong hạn luật định nhƣng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo do hiểu chƣa

đầy đủ điều luật. Do đó, kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 342 rõ ràng hơn

nhƣ sau:

88

Điều 342. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị

1. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng

cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, VKS ra quyết định kháng nghị có

quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng

của bị cáo nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết; người kháng cáo rút

một phần hoặc toàn bộ kháng cáo; VKS ra quyết định kháng nghị hoặc VKS cấp

trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị.

3.2.3. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám đốc thẩm

Khoản 2 Điều 342 có quy định về thông báo thay đổi, bổ sung, rút

kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trƣớc khi mở phiên tòa cho VKS, bị cáo

và những ngƣời liên quan đến kháng cáo, kháng nghị biết. Khoản 1 Điều

381 cũng có quy định về việc gửi quyết định thay đổi, bổ sung kháng nghị

Giám đốc thẩm cho những đối tƣợng quy định tại khoản 1 Điều 380 nhƣng

khoản 2 Điều 381 lại không có quy định về việc nếu rút kháng nghị trƣớc

khi mở phiên tòa giám đốc thẩm thì phải đƣợc gửi theo quy định tại Khoản 1

Điều 380 của Bộ luật. Đây là một thiếu sót của BLTTHS 2015 vì ngƣời bị

kết án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự, những

ngƣời khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị đƣợc

biết về quyết định thay đổi, bổ sung kháng nghị của ngƣời kháng nghị thì họ

đƣơng nhiên phải đƣợc nhận quyết định rút một phần hoặc toàn bộ kháng

nghị. Do đó, kiến nghị sửa đổi Điều 381 nhƣ sau:

Điều 381. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị

1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm, người

kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị nếu chưa hết thời hạn

kháng nghị. Việc bổ sung, thay đổi kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải

bằng quyết định và được gửi theo quy định tại khoản 1 Điều 380 của Bộ luật

này. Việc bổ sung, thay đổi kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản

phiên tòa.

89

2. Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm, người kháng

nghị có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị. Việc rút kháng nghị

trước khi mở phiên tòa phải bằng quyết định và được gửi theo quy định tại

khoản 1 Điều 380; việc rút kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản

phiên tòa.

3. Trường hợp rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa thì Chánh

án TA có thẩm quyền giám đốc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử giám đốc

thẩm. Trường hợp rút toàn bộ kháng nghị tại phiên tòa thì HĐXX ra quyết

định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm.

3.2.4. Thẩm quyền của Hội giám đốc thẩm và Hội đồng tái thẩm

Khoản 6 Điều 388 quy định: “Đình chỉ xét xử giám đốc thẩm” và

khoản 4 Điều 402 quy định: “Đình chỉ việc xét xử tái thẩm”. Nhƣ đã phân

tích ở chƣơng 2, bản chất của giám đốc thẩm và tái thẩm là thủ tục xét lại

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, không phải là một cấp xét xử

cũng nhƣ không xét xử lại vụ án. Theo pháp luật về TTHS chỉ có hai cấp

xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Do dó, sử dụng thuật ngữ “Đình

chỉ xét xử giám đốc thẩm” và “ Đình chỉ xét xử tái thẩm” là chƣa chính xác

về mặt kỹ thuật lập pháp. Kiến nghị sửa đổi Điều 388 và Điều 402

BLTTHS năm 2015 nhƣ sau:

Điều 388. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.

2. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản

án, quyết định đúng pháp luật của TA cấp sơ thẩm hoặc TA cấp phúc thẩm

bị hủy, sửa không đúng pháp luật.

3. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc

xét xử lại.

90

4. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.

5. Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

6. Đình chỉ việc giám đốc thẩm.

Điều 402. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm

1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.

2. Hủy bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật để điều tra

lại hoặc xét xử lại.

3. Hủy bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ

vụ án.

4. Đình chỉ việc tái thẩm.

3.3. Một số giải pháp bảo đảm tuân thủ nguyên tắc chế độ xét xử sơ

thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm

3.3.1. Đổi mới tổ chức của hệ thống TA

Hệ thống TA nƣớc ta hiện nay đƣợc tổ chức theo nguyên tắc hành

chính - lãnh thổ nên vẫn còn nhiều bất cập, điều này phần nào đã làm hạn

chế việc thực hiện có hiệu quả nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, gây

lãng phí về nhân lực và kinh phí, hạn chế các điều kiện thuận lợi để tổ chức

xét xử thật sự đúng đắn, khách quan. Tổ chức TA theo cấp xét xử phải thể

hiện đƣợc rõ quan hệ giữa cấp TA xét xử theo các thủ tục tố tụng khác nhau

là quan hệ tố tụng chứ không đơn thuần là quan hệ hành chính. Dƣới góc độ

quan hệ giữa các TA hiện tại, cách thức tổ chức hệ thống TA ở nƣớc ta chƣa

đáp ứng đƣợc điều kiện quan trọng này, thực tế TAND cấp tỉnh là TAND

cấp trên trực tiếp của TAND cấp huyện; TA nhấn dân tối cao là TA cấp trên

trực tiếp của TAND cấp tỉnh. Tổ chức TA theo cấp xét xử phải đảm bảo

đƣợc sự độc lập xét xử, hạn chế đến mức thấp nhất sự lệ thuộc và can thiệp

vào hoạt động xét xử, phù hợp với yêu cầu của nhà nƣớc pháp quyền, tất cả

91

các quan hệ xã hội đều nằm trong sự điều chỉnh của pháp luật, với tinh thần

thƣợng tôn pháp luật. Hiện nay, hệ thống TA nƣớc ta tổ chức theo nguyên

tắc hành chính - lãnh thổ nên chƣa thực sự xác lập đƣợc điều kiện này, do

còn nhiều sự lệ thuộc giữa TA với các cơ quan, tổ chức.

Theo Nghị quyết 49/NQ-TW, hệ thống tổ chức TA đƣợc xây dựng theo

thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, cụ thể là: “TA

sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp

huyện, TA phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét sử sơ

thẩm một số vụ án, Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ

xét xử phúc thẩm , TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng

dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm,

tái thẩm”. Với mô hình tổ chức nhƣ vậy sẽ tạo đƣợc sự độc lập trong hoạt

động xét xử, tránh đƣợc sự lệ thuộc giữa TA với cơ quan hành chính. Việc

tổ chức TA theo nguyên tắc hai cấp xét xử giảm đƣợc sự lệ thuộc vào cơ

quan hành chính vì TA đƣợc tổ chức theo khu vực có thể gồm một đơn vị

hành chính hoặc nhiều đơn vị hành chính khác nhau có thể vƣợt ra khỏi

phạm vi một tỉnh tạo thành một hệ thống độc lập, hạn chế đƣợc sự để nang,

nƣơng nhẹ của TA trong quá trình xét xử, đảm bảo tính đúng đắn của hoạt

động xét xử.

3.3.2. Đẩy mạnh hoạt động trang tụng tại phiên tòa, nâng cao chất

lượng xét xử

Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đề cao vấn đề tranh tụng tại

phiên tòa nhằm đảm bảo dân chủ hơn nữa đối với hoạt động tố tụng, nâng

cao trách nhiệm của công tố viên trong việc chứng minh tội phạm, nâng cao

vai trò của ngƣời bào chữa trong quá trình tố tụng, đề cao các quyền của bị

can, bị cáo trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Về thực

hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

92

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc tranh tụng tại phiên tòa đƣợc chú

trọng, không hạn chế thời gian dành cho tranh tụng, tôn trọng, đảm bảo cho

các bên tham gia tố tụng đƣa ra chứng cứ, trình bày hết các ý kiến của mình;

trên cơ sở kết quả tranh tụng, HĐXX mới đƣa ra đƣợc các phán quyết đúng

pháp luật.

Để việc tranh tụng đạt hiệu quả cao, các bên tranh tụng phải phát huy

đƣợc hết vai trò của mình. Đối với kiểm sát viên, là ngƣời có vị trí quan

trọng trong việc giám sát các hoạt động xét xử, đồng thời là bên buộc tội khi

tham gia tranh tụng do đó, để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa,

Kiểm sát viên khi đƣợc giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại phiên tòa

cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm chắc diễn biến của vụ án, kiểm tra chắc

chắn những chứng cứ buộc tội, gỡ tội và các tài liệu cần thiết liên quan đến

việc giải quyết đúng đắn vụ án. Kiểm sát viên cần xây dựng kế hoạch tranh

luận tại phiên tòa và chuẩn bị các văn bản pháp luật có liên quan đến vụ án,

chú ý những lập luận của mình để việc truy tố là có căn cứ, đúng ngƣời,

đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời có phƣơng pháp đối đáp khi tham gia

tranh tụng tại phiên tòa. Việc đối đáp phải dựa vào các tại liệu, chứng cứ của

vụ án đã đƣợc xét hỏi và dựa vào các quy định của pháp luật. Kiểm sát viên

cần có thái độ bình tĩnh và phản ứng linh hoạt khi đối đáp với ngƣời bào

chữa và những ngƣời tham gia tố tụng khác.

Đối với ngƣời bào chữa: Cần tăng cƣờng số lƣợng cho đội ngũ luật sƣ

và nâng cao vai trò, vị trí của luật sƣ trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa.

Không ngừng nâng cao trình độ pháp luật, kỹ năng tranh tụng cho luật sƣ.

Ngoài việc có kiến thức vững chắc về mặt pháp luật khi tham gia tranh tụng,

ngƣời bào chữa nói chung và luật sƣ nói riêng cần phải có đạo đức nghề

nghiệp, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của ngƣời bào chữa. Thực hiện

đúng nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ nhƣng không đƣợc

bào chữa theo hƣớng sai lệch sự thật khách quan của vụ án.

93

Với HĐXX, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ

năng xét xử cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là điều hết sức cần thiết để.

Khi xét xử, TAND Nhà nƣớc đƣa ra những phán quyết cuối cùng đối với

việc giải quyết vụ án. Những phán quyết đó phải dựa trên cơ sở tranh tụng

tại phiên tòa, trực tiếp nghe ý kiến của bên buộc tội và bên gỡ tội. HĐXX

đóng vai trò là ngƣời trọng tài, không thiên vị, không dựa vào cảm tính cá

nhân mà phải đƣa ra một phán quyết đúng đắn, đầy đủ và toàn diện. Muốn

thực hiện đƣợc điều này, ngay từ khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa nên chủ động

tạo điều kiện để các bên tham gia trang tụng hỏi những ngƣời tham gia tố

tụng khác, khắc phục đƣợc tình trạng nhƣ hiện nay là HĐXX hỏi trƣớc nên

đã tập trung quá nhiều vào việc xét hỏi. Chủ tọa điều khiển để các bên tranh

tụng tập trung làm rõ những vấn đề của vụ án, đồng thời khi thấy những câu

hỏi của Kiểm sát viên và ngƣời bào chữa, luật sƣ có những biểu hiện không

tôn trọng ngƣời đƣợc hỏi hoặc vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp

luật phải kịp thời nhắc nhở. Trong khi các bên đối đáp, chủ tọa phiên tòa cần

chú ý đến những lập luận các bên đƣa ra dựa trên cơ sở nào, có căn cứ hay

không để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận.

Cùng với việc đẩy mạnh hoạt động tranh tụng tại phiên tòa cần xây

dựng một nền tƣ pháp văn minh, tiến bộ, trong đó TA đóng vai trò trung

tâm. Uy tín của TA chính là tín nhiệm của thể chế chính trị, của Nhà nƣớc,

bởi đây là niềm tin của ngƣời dân vào công lý, công bằng xã hội. Vì vậy,

mỗi quyết định, mỗi bản án phải làm sao để thực sự để ngƣời dân "tâm phục,

khẩu phục", khuất phục đƣợc tội phạm, thuyết phục đƣợc các bên, đƣợc

công chúng đồng thuận; phải tạo ra đƣợc các chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực

đạo đức, có tác dụng giáo dục pháp luật và định hƣớng hoạt động của xã hội.

Do đó, TA là không ngừng phải nâng cao chất lƣợng xét xử; tuyệt đối không

làm oan ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội phạm và ngƣời phạm tội; cố gắng hạn

94

chế đến mức thấp nhất bản án bị sửa hoặc bị hủy do lỗi chủ quan. TA cần tập

trung nâng cao chất lƣợng, tính khả thi, chính xác của các bản án. Khi phát hiện

ra sai sót phải kiên quyết khắc phục, thẳng thắn nhận khuyết điểm, sửa chữa để

bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Không để sảy ra tình trạng vi phạm thời

hạn tố tụng. Hạn chế kéo dài thời gian xét xử, đặt ngƣời dân vào tình trạng

căng thẳng quá lâu gây hoang mang và ảnh hƣởng đến tâm lý. Đây không phải

là biểu hiện của một nền tƣ pháp văn minh.

Cán bộ tƣ pháp chính là ngƣời quyết định chất lƣợng của nền tƣ pháp

một nƣớc vì họ là những ngƣời trực tiếp "cầm cân nảy mực" và đƣa ra

những phán quyết nhân danh Nhà nƣớc. Mỗi quyết định họ đƣa ra trực tiếp

ảnh hƣởng đến sinh mạng chính trị, lợi ích, thậm chí cả tính mạng của một

con ngƣời. Do đó, cần thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ tƣ pháp đặc biệt là

Thẩm phán thanh liêm, chính trực, công tâm, trong sáng, vững vàng về bản

lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông pháp luật để đảm bảo đƣa ra

những phán quyết đúng đắn. Chính vì vậy, cần đặc biệt quan tâm hơn nữa

công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, Thẩm

phán để mỗi cán bộ, Thẩm phán ý thức rõ trách nhiệm của mình trƣớc Đảng,

trƣớc Nhân dân. Thẩm phán phải nghiêm chỉnh thực hiện "Bộ Quy tắc đạo

đức và ứng xử của Thẩm phán" lấy các chuẩn mực của Bộ Quy tắc để làm

mục tiêu phấn đấu, giữ gìn và rèn luyện.

3.3.3. Giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật

Hƣỡng dẫn, giải thích áp dụng pháp luật kịp thời, nhanh chóng là một

trong những điều kiện cần thiết và rất quan trọng giúp nhận thức pháp luật

đƣợc đúng đắn và thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Bởi lẽ, muốn

thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật, trƣớc tiên các quy phạm

pháp luật phải dễ hiểu, dễ áp dụng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở

Việt Nam có một đặc điểm đó là: các quy định của pháp luật rất cô đọng,

95

nhiều quy định mang tính chất định hƣớng hay lựa chọn do đó dẫn tới nhiều

cách hiểu khác nhau. Thực tế ở nƣớc ta hiện nay, việc ban hành các văn bản

giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật thƣờng rất chậm và có tính chất sự

vụ, thiếu đồng bộ làm chậm phát huy hiệu lực của các văn bản quy phạm

pháp luật do Quốc hội ban hành.

BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 tuy nhiên

đến nay có rất ít văn bản hƣớng dẫn thi hành. Do đó, để việc áp dụng đƣợc

chính xác, thống nhất, dễ dàng, đƣa pháp luật vào cuộc sống cần phải kịp

thời ban hành các văn bản giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật.

3.3.4. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm tố tụng của người tiến

hành tố tụng

Hoạt động xét xử là một hoạt động phức tạp vì vậy khi giải quyết một

vụ án khó tránh khỏi mắc phải sai lầm. Những sai lầm đó do nhiều nguyên

nhân khác nhau, có nguyên nhân khách quan và cũng có những nguyên nhân

chủ quan. Những sai lầm đó gây hậu quả ở những mức độ khác nhau và ít

nhiều ảnh hƣởng đến kết quả giải quyết của vụ án. Dù hậu quả ở mức độ nào

thì những ngƣời tiến hành tố tụng cũng phải chịu trách nhiệm về những vi

phạm của mình. Bởi vì những vi phạm của ngƣời tiến hành tố tụng có thể

dẫn đến oan sai, ảnh hƣởng đến danh dự, nhân phẩm, ảnh hƣởng đến quyền

và lợi ích của những ngƣời tham gia tố tụng về mặt kinh tế, chính trị xã hội.

Mặt khác, khiến cho vụ án bị kéo dài do có sai phạm nên quyết định, bản án

bị kháng cáo, kháng nghị khiến vụ án bị xử đi xử lại nhiều lần.

Mặc dù Bộ luật hình sự đã quy định những tội danh của cán bộ làm ảnh

hƣởng đến các hoạt động tƣ pháp, tuy nhiên trong thời gian qua số lƣợng vi

phạm bị truy tố, xét xử rất ít. Mặc dù, trong số vi phạm cũng cóm trƣờng

hợp do nhận thức và trình độ chuyên môn còn hạn chế nhƣng vẫn phải xử lý

nghiêm để bảo vệ sự công bằng của pháp luật đồng thời góp phần nâng cao

trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng khi giải quyết một vụ án hình sự.

96

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Sau khi nghiên cứu các quy định của BLTTHS hiện hành về nguyên tắc

chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm tại chƣơng 2, trong chƣơng 3 tác giả tìm

hiểu thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong thời gian

5 năm trở lại đây (từ năm 2014 đến năm 2018). Trƣớc khi tìm hiểu thực tiễn

áp dụng, tác giả điểm qua tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng sau

đó phân tích, đánh giá việc áp dụng những quy định về chế độ xét xử sơ

thẩm, xét xử phúc thẩm. Qua tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng,

tác giả chỉ ra đƣợc những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong việc áp dụng

nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Từ đó, tác

giả đƣa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015 về

chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và đƣa ra một số giải pháp bảo đảm tuân

thủ nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đƣợc bảo đảm nhằm góp

phần giải quyết vụ án hình sự đƣợc nhanh chóng, kịp thời, hƣớng tới sự thật

khách quan của vụ án, bảo đảm công bằng, dân chủ trong quá trình giải

quyết vụ án, góp phần bảo đảm quyền con ngƣời, lợi ích xã hội.

97

KẾT LUẬN

Thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là một trong những

nguyên tắc cơ bản quan trọng của tố tụng của nƣớc ta trong đó có tố tụng

hình sự, là biểu hiện của sự dân chủ và tiến bộ. Theo nguyên tắc đó, một vụ

án hình sự đƣợc xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm - lần xét xử thứ nhất, có thể

đƣợc xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm - lần xét xử thứ hai nếu có kháng

cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTHS nhằm giải quyết đúng đắn, kịp

thời vụ án, bảo đảm lợi ích Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, cơ quan, tổ chức. Việc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm nhằm

bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án và quyết định của

TA, bảo vệ đƣợc các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, ngƣời bị hại,

nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự bảo đảm để không cho phép đƣa ra thi hành

các bản án và quyết định không đúng pháp luật và không có căn cứ đồng thời

là việc thực hiện giám sát của TA cấp trên đối với hoạt động xét xử của TA

cấp dƣới. Mục đích cao nhất của nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm cùng

hƣớng tới mục tiêu chung của TTHS là xét xử đúng ngƣời, đúng tội, áp dụng

đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan ngƣời vô tội.

Với cƣơng vị là một cán bộ TA, tác giả mong muốn tìm hiểu rõ những

quy định của pháp luật về chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm để có thể

thực hiện tốt công việc của mình, góp phần xét xử đúng ngƣời, đúng tội,

đúng pháp luật, không làm oan ngƣời vô tội cũng nhƣ không bỏ lọt tội

phạm, đảm bảo mọi quyết định, bản án ban hành có căn cứ và đúng pháp

luật nên tác giả đã chọn đề tài “Nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm đƣợc bảo đảm” theo quy định của BLTTHS năm 2015”, một nguyên

tắc đặc trƣng của giai đoạn xét xử.

98

Đây là một đề tài mang tính lý luận và thực tiễn cao, nội dung liên quan

đến nhiều vấn đề chung của TTHS cũng nhƣ những điều luật cụ thể trong

khi kiến thức cũng nhƣ kinh nghiệm công tác của tác giả còn hạn chế nên

luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả mong

muốn, nhận đƣợc những ý kiến đóng góp để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn

cũng nhƣ tác trang bị thêm đƣợc kiến thức để phục vụ cho công việc của

mình, góp phần hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dƣơng Thanh Biểu (2008), “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp

ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (18-20), tr.10.

2. Nguyễn Hòa Bình (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ tƣ pháp (1956), Thông tư số 2225 HCTP ngày 24/10/1956 của Bộ Tư

pháp về chấn chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, Hà Nội.

4. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Lê Cảm (2004), “Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định các nguyên

tắc của luật tố tụng hình sự”, Tạp chí kiểm sát, (5,6,7).

6. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự

Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.45-46.

7. Nguyễn Ngọc Chí (2008) “Đảm bảo sự vô tƣ của ngƣời tiến hành tố

tụng, ngƣời phiên dịch, ngƣời giám định trong tố tụng hình sự”, Tạp chí

Nhà nước và Pháp luật, (8), tr.10 - 13.

8. Nguyễn Ngọc Chí (2009), “Hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của Luật

TTHS”, Tạp chí Khoa học ĐHQG, (6), tr.9 - 14.

9. Nguyễn Ngọc Chí (2010), “Lựa chọn mô hình tố tụng hình sự”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 12 - 14.

10. Nguyễn Ngọc Chí (2012), Đề cương bài giảng môn xét xử vụ án hình

sự, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự

Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Nguyễn Ngọc Chí, Các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự

13. Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh 13/SL

về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán.

100

14. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh 51/Sl về việc

ấn định thẩm quyền các tòa án và sự phân công giữa các nhân viên

trong Tòa án.

15. Chủ tịch phủ nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh số

85/SL về cải cách bộ máy Tư pháp và Luật tố tụng hình sự.

16. Lƣu Tiến Dũng (2005), “Độc lập xét xử ở các nƣớc quá độ: Một góc

nhìn so sánh”, Tạp chí Toà án nhân dân, (9), tr. 16 - 17.

17. Nguyễn Đăng Dung (2002), “Một số vấn đề về tƣ pháp và các mô hình

tƣ pháp phƣơng tây”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (10), tr.23.

18. Nguyễn Đăng Dung (2001), Luật hiến pháp đối chiếu, Nxb. Thành phố

Hồ Chí Minh, tr. 264.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5

của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6

về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

22. Trần Văn Độ (2004), “Từ nguyên tắc hai cấp xét xử đến việc tổ chức

Tòa án các cấp”, Nghiên cứu lập pháp, (10).

23. Trần Văn Độ (2007), “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên

tắc đó vào việc tổ chức Tòa án các cấp”, Nhà nước và pháp luật (5).

24. Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

25. Nguyễn Mạnh Hiến (2006), “Một số giải pháp để nâng cao chất lƣợng

hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa”, Kiểm sát, (23).

101

26. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền

con ngƣời (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (2004), Nghị quyết số

04/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ

ba “xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003, Hà Nội.

28. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (2017), Nghị quyết số 05/2017/NQ-

HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại

bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của BLTTHS, Hà Nội.

29. Nguyễn Cảnh Hợp, “Các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong điều kiện

xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền”, Khoa học pháp lý, (1).

30. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

31. Lê Kim Quế (2002), “Hai loại hình tố tụng và nguyên tắc tranh tụng”,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (10), tr.15 - 16.

32. Đinh Văn Quế (1997), Giám đốc thẩm và tái thẩm về hình sự - những

vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đinh Văn Quế, (2004), “Vai trò của HĐXX trong việc tranh tụng tại

phiên tòa hình sự sơ thẩm”, TAND (1).

34. Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự,

phần xét xử sơ thẩm, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

35. Quốc hội (1946), Hiến pháp 1946, Hà Nội.

36. Quốc hội (1959), Hiến pháp 1959, Hà Nội.

37. Quốc hội (1960), Luật tổ chức TAND, Hà Nội.

38. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

39. Quốc hội (1981), Luật tổ chức TAND, Hà Nội.

102

40. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

41. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

42. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

43. Quốc hội (2003), Luật tổ chức TAND, Hà Nội.

44. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự sửa đổi, Hà Nội.

45. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Hà Nội

46. Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND, Hà Nội

47. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội

48. Bùi Ngọc Sơn (2003), “Sự độc lập của tòa án trong nhà nƣớc pháp

quyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (4), tr.43.

49. Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (2000), Những nguyên tắc cơ bản của

luật TTHS Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

50. Lê Hữu Thể (2013), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của

việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Nguyễn Văn Tuân (2015), “Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt

Nam”, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, tr.15.

52. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. TAND tối cao (1974), Thông tư số 16/TATC hướng dẫn hoạt động xét

xử của Tòa án, Hà Nội.

54. TAND tối cao - VKSND tối cao (1988), Thông tư liên ngành số

01/TTLN, Hà Nội.

55. TAND Tối cao (2003 đến 2007), Các văn bản pháp luật hướng dẫn áp

dung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.

103

56. TAND tỉnh Cao Bằng (2014-2018), Báo cáo tổng kết công tác và

phương hướng nhiệm vụ công tác từ các năm 2014 đến năm 2018 của

TAND tỉnh Cao Bằng, Cao Bằng.

57. TAND tỉnh Cao Bằng (2014-2018), Phụ lục báo cáo tổng kết công tác

từ các năm 2014 đến năm 2018 của TAND tỉnh Cao Bằng, Cao Bằng

58. Trƣờng ĐH Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

59. Trƣờng ĐH Luật Hà Nội (2000), Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố

tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

60. Trƣờng ĐH Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

61. Trần Văn Tú (2014), “Những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt

động của hệ thống TAND trong Nhà nƣớc pháp quyền XHCN và cơ

chế đảm bảo thực hiện”, Tạp chí TAND (52), tr.7.

62. Đào Trú Úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố

tụng hình sự Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

63. Đào Trí Úc (2011), “Các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam”,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (2), tr.54.

64. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân

sự, Hà Nội.

65. Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (2002), “Vấn đề tranh tụng trong hoạt

động tố tụng hình sự và việc thể chế hóa trong quá trình hoàn thiện Bộ

luật tố tụng hình sự”, Thông tin KHPL, (5 + 6), tr.4-5.

66. Viện ngôn ngữ (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

67. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2003, tr.12 - 36, Nxb tƣ pháp, Hà Nội.

68. Nguyễn Nhƣ Ý (Chủ biên), (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

104