BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Ngành: Tài chính – Ngân hàng
Họ và tên học viên: Chử Lê Thành
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Mạnh Hà
Hà Nội, tháng 01 năm 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư cổ phiếu của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong Luận văn là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác
nào khác.
Tài liệu tham khảo cũng như tham chiếu đều được trích dẫn đầy đủ và ghi
nguồn cụ thể trong danh mục các tài liệu tham khảo. Các dữ liệu được thu thập từ
các tài liệu đuợc ban hành trên các phương tiện thông tin đại chúng của các cơ quan
Nhà nuớc; đuợc đang tải trên các tạp chí, báo chí, các trang web hợp pháp.
Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, tháng năm 2023
Tác giả luận văn
Chử Lê Thành
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô tại
trường đại học Ngoại thương vì đã tận tình giảng dạy và truyền đạt cho tác giả
nhiều kiến thức, kĩ năng quý báu làm nền tảng cho quá trình thực hiện luận văn.
Để thực hiện được bài luận văn này, tác giả xin gửi lời tri ân sâu sắc đến
giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Mạnh Hà. Xin cảm ơn thầy vì sự nhẫn nại, nhiệt
tình giúp đỡ, sự chỉ bảo tận tâm và những ý kiến quý báu của thầy trong suốt quãng
thời gian vừa qua.
Đồng thời, tác giả xin cảm ơn bạn bè đồng nghiệp trong các công ty chứng
khoán đã nhiệt tình hỗ trợ, phối hợp để tác giả có đủ nguồn thông tin thực hiện đề
tài luận văn này. Đó là những tri thức, kinh nghiệm quý báu cho bản thân tác giả
trong không chỉ quá trình nghiên cứu khoa học mà còn trong công việc sau này.
Cuối cùng là lời cảm ơn chân thành nhất của tác giả gửi đến gia đình, bạn bè
đã luôn ở bên động viên và góp ý để tác giả có thể hoàn thành tốt bài luận văn tốt
nghiệp này.
Mặc dù có nhiều cố gắng và tâm huyết nhưng do kiến thức, thời gian nghiên
cứu còn hạn hẹp, lĩnh vực nghiên cứu còn tương đối mới mẻ nên không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của các
thầy cô giáo để bài luận văn tốt nghiệp được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 2023
Tác giả luận văn
Chử Lê Thành
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................... Error! Bookmark not defined.
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................... Error! Bookmark not defined.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................... Error! Bookmark not defined.
3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................... Error! Bookmark not defined.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................... Error! Bookmark not defined.
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 5 6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1 CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT
ĐỊNH ĐẦU TƯ ...................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Tổng quan thị trường chứng khoán ................ Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Khái niệm ................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Vai trò của thị trường chứng khoán ........... Error! Bookmark not defined.
1.1.3. Chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán ........ Error! Bookmark not
defined.
1.1.4. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán ...... Error! Bookmark not defined.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cổ phiếu của nhà đầu tư
trên thị trường chứng khoán Việt Nam ................. Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Quyết định đầu tư là gì? ............................. Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Các lý thuyết liên quan về quyết định đầu tư ........... Error! Bookmark not
defined.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư ........ Error! Bookmark not
defined.
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT
ĐỊNH ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM ............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam ................. Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển ............ Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Các thành tựu của thị trường chứng khoán Việt Nam ... Error! Bookmark
not defined.
2.2. Phân tích vai trò của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt
Nam ......................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Tổng quan về nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam .... Error!
Bookmark not defined.
2.2.2. Vai trò của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Error!
Bookmark not defined.
2.3. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cổ phiếu của
nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam ........... Error! Bookmark not
defined.
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
TẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ......... Error! Bookmark not defined.
3.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam ................ Error!
Bookmark not defined.
3.1.1. Định hướng chung cho thị trường chứng khoán Việt Nam ............... Error!
Bookmark not defined.
3.1.2. Định hướng phát triển các nhà đầu tư ....... Error! Bookmark not defined.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam ............................................ Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Nhóm giải pháp cho các nhà đầu tư........... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Nhóm giải pháp từ phía các công ty chứng khoán ... Error! Bookmark not
defined.
3.3. Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý cấp Nhà nước ............. Error!
Bookmark not defined.
3.3.1. Giải pháp tăng tính minh bạch của thị trường chứng khoán ............ Error!
Bookmark not defined.
3.3.2. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước nhằm tăng cường cơ chế
bảo vệ nhà đầu tư ............................................................................................... 89
3.3.3. Kiến nghị Ủy ban chứng khoán Nhà nước, đặc biệt là giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thị trường chứng khoán ................... 91
3.3.4. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý khác ............................................ 97
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 101
DANH MỤC VIẾT TẮT
TTCK : Thị trường chứng khoán
UBCKNN : Ủy ban chứng khoán nhà nước
: Sở giao dịch Tp. Hồ Chí Minh HSX
HNX : Sở giao dịch Hà Nội
NĐT : Nhà đầu tư
NĐT CN : Nhà đầu tư cá nhân
NĐT TC : Nhà đầu tư tổ chức
SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán
VSD : Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam
NHNN : Ngân hàng nhà nước
FED : Cục dữ trữ liên bang Mỹ
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà
đầu tư cá nhân ........................................................... Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.1. Giá trị vốn hóa qua các năm ................. Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.2. Mức vốn hóa của TTCK Việt Nam so với GDPError! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.12. Giá đóng cửa của chỉ số Vnindex theo tháng năm 2022Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.13. Thống kê lãi suất tiền gửi của số Ngân hàng tại ngày 1.12.2022Error! Bookmark not defined.
Biểu đổ 2.16. Thanh khoản thị trường và chỉ số Vnindex trong giai đoạnError! Bookmark not defined.
2020-2022.................................................................. Error! Bookmark not defined.
Biều đồ 2.9. Lãi suất huy động của VietcomBank năm 2020 (%/năm)Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.11. Lạm phát của Mỹ qua các năm ........... Error! Bookmark not defined.
Biều đồ 2.8. So sánh tỷ suất sinh lời với các kênh đầu tư khác nhau ở Việt Nam
trong giai đoạn 2020-2021 ........................................ Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.7. Số lượng tài khoản của nhà đầu tư cá nhân và tổ chức giai đoạn 2016-
2022 ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.6. Lượng tài khoản nhà đầu tư cá nhân mở mới theo thángError! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.5. Cơ cấu tài khoản giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam tính
đến ngày 31/12/2022 ................................................. Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.4. Tổng Số Lượng Tài Khoản Của Nhà Đầu TưError! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.3. Số lượng doanh nghiệp niêm yết tại SGDCK Tp. HCM giai đoạn năm
2007-2022.................................................................. Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.1. Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam tính đếnError! Bookmark not defined.
năm 2022 ................................................................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.3. Số lượng tài khoản giao dịch của các chủ thể tham gia thị trường chứng
khoán Việt Nam giai đoạn 2016 -2022 ..................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.4. Số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoàiError! Bookmark not defined.
giai đoạn 2016 – 2022 ............................................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.7. Lãi suất điều hành của NHNN trong năm 2020Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.8. Lãi suất huy động bằng VND trong năm 2020Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.9. Lãi suất điều hành của NHNN năm
2022……………………………….Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam sau hơn 22 năm hình thành và
phát triển đã cho thấy sự tăng trưởng vượt bậc về quy mô, với mức vốn hóa thị
trường đạt 7.8 triệu tỷ (tính đến 30/6 2022 theo thống kê của Sở giao dịch) so với
mức 270 tỷ đồng vào năm 2000. Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp niêm yết cũng đạt
hơn 1500 công ty so với lúc đầu chỉ có 2 doanh nghiệp là SAM và REE. Bên cạnh
đó, tổng số tài khoản chứng khoán của nhà đầu tư trong nước tới hết tháng 6/2022
đạt hơn 6,1 triệu, tương đương 6,2% dân số Việt Nam. Trong khi đó, theo chiến
lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045, số lượng nhà đầu tư đạt 5% dân số năm 2025 và 8% dân số vào năm 2030.
Điều đó cho thấy TTCK trở thành kênh đầu tư hấp dẫn theo đúng định hướng của
Chính Phủ. Nhưng để tồn tại và thành công được trên thị trường thường rất khó có
rất nhiều nhà đầu tư (NĐT) đã từng bỏ cuộc vì thua lỗ, theo thống kê của thì tỷ lệ
NĐT có lãi trên thị trường chiếm 20% còn lại phần lớn các NĐT thua lỗ hoặc hòa
vốn. Nhiều nghiên cứu chỉ ra sự thua lỗ của NĐT đến từ các nguyên nhân sau: do
NĐT không có phương pháp đầu tư hiệu quả, do tác động tâm lý thị trường, do kiến
thức đầu tư còn hạn chế, do cách tiếp cận và thẩm đinh thông tin, … Có nhiều yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định mua bán cổ phiếu của NĐT, để tránh được thua lỗ hay
giảm thiểu được rủi ro khi đầu khi tư và giúp NĐT hiểu được các nhân tố tác động
đề điều chỉnh lại hành vi ra quyết định trong đầu tư. Luận văn này tác giả đi sâu vào
phân tích đề tài sau: “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến Quyết định đầu tư
cổ phiếu của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam”. Thông qua luận
văn này, NĐT có cái nhìn toàn diện hơn về thị trường và nâng cao năng lực đầu tư
cho bản thân khi tham gia TTCK. Ngoài ra, trên cơ sở đúc rút thực tiễn, luận văn
đưa ra định hướng phát triển TTCK, cung cấp môi trường đầu tư chuyên nghiệp và
lành mạnh hóa cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho cho các NĐT.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1
Nói về chủ đề đầu tư tài chính thì đến thời điểm hiện tại có rất nhiều nghiên
cứu liên quan, xoay quanh vấn đề các yếu tố tác tới quyết định đầu tư của nhà đầu
tư trên thị trường chứng khoán. Sau đây là một vài nghiên cứu nổi bật của các học
giả trong nước và nước ngoài.
2.1. Các nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu mới nhất về đề tài này của tác giả Nguyễn Đình Toàn (2022), các
nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân trong
bối cảnh đại dịch COVID-19 dựa trên cơ sở dữ liệu khảo sát. Tác giả đã xây dựng
mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) đã được sử dụng để kiểm định các giả thuyết.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng các nhân tố (1) Ảnh hưởng của đại dịch COVID-
19, (2) Xu hướng chấp nhận rủi ro, (3) Thái độ đối với đầu tư chứng khoán, (4)
Hiệu quả tự tài chính và (5) Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến ý định đầu
tư của các cá nhân theo mức độ giảm dần. Trong khi đó, yếu tố kiến thức về tài
chính lại có tác động ngược chiều đến ý định đầu tư. Nghiên cứu cho thấy tác động
của đại dịch COVID-19 và xu hướng chấp nhận rủi ro là những yếu tố ảnh hưởng
lớn nhất đến ý định đầu tư. Tác giả đã làm nổi bật khía cạnh tâm lý và bối cảnh kinh
tế - xã hội cần được củng cố để tạo ra ý định đầu tư mà các nghiên cứu trước đó
chưa có.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2013), đã sử dụng mô hình hồi quy
Binary Logistic để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cả nhà đầu
tư cá nhân trên HOSE. Từ kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố tỷ lệ chia cổ tức,
thị giá của cổ phiếu, mức lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu quyết định đến việc mua
bán tham gia đâu tư trên thị trường chứng khoán. Trong đó, mức sinh lợi kỳ vọng
mang tính trọng yếu lớn trong quyết đinh tham gia đầu tư, nhưng nó lại luôn đi kèm
rủi ro cao. Tuy nghiên cứu đã chỉ ra các nhân tố tác động thông qua mô hình định
lượng nhưng nghiên cứu chưa chỉ ra yếu tố tâm lý cũng quyết định đến việc tham
gia đầu tư và phạm vi nghiên cứu mới hướng đến nhà đầu tư cá nhân, chưa đánh giá
hết các chủ thể tham gia đầu tư.
Ngoài ra, nghiên cứu của Lê Minh Lộc (2011) về các yếu tố cơ bản ảnh hưởng
2
đến quyết định giá cổ phiếu của nhà đầu tư cá nhân qua khảo sát thu thập dữ liệu
qua bảng hỏi. Tác giả đã đưa ra những kết luận rằng mặc dù hầu hết nhà đầu tư trên
thị trường chứng khoánViệt Nam đều có một mức độ am hiểu về phân tích định giá
cổ phiếu, việc họ có áp dụng kiến thức này trong các quyết định đầu tư mua bán,
hoặc có bị ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý hay không chính là nguyên nhân lý giải cho
các động cơ mua bán của nhà đầu tư. Qua nghiên cứu này cho biết yếu tố tâm lý
quyết khá lớn đến hành vi mua bán tham gia đầu tư cổ phiếu của các nhà đầu tư cá
nhân.
2.2. Các nghiên cứu nước ngoài
Công trình nghiên cứu của Chugh (1984) về các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến
hành vi nhà đầu tư đã từng được thực hiện bởi đối với nhà đầu tư cá nhân trên thị
trường chứng khoán Mỹ vào năm 1984. Nghiên cứu được thực hiện thông phân tích
các yếu tác động đến giá cổ phiếu để đưa ra quyết định đầu tư. Các biến số quan
trọng ảnh hưởng đến quyết định giá cổ phiếu của nhà đầu tư gồm: Triển vọng của
ngành công nghiệp có liên quan, dự kiến thay đổi trong EPS và lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu, tiến triển của nền kinh tế nói chung trong dài hạn. Trong ngắn hạn, các
yếu tố về tỷ lệ doanh thu trên tài sản (ROA), dự kiến thay đổi trong cổ tức và dự kiến
tăng trưởng doanh thu là những yếu tố tác động đến quyết định của nhà đầu tư. Dựa
vào sự định giá mà các nhà đầu tư đưa ra quyết định có đầu tư hay không và đây cũng
chỉ là một nhân tố được tác giả coi có tính trọng yếu.
Cũng liên quan đến thị trường chứng khoán Mỹ, nghiên cứu của Nagy và cộng
sự (1994) về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư các nhân
được thực hiện với chỉ số S&P 500. Tác giả tập trung nghiên cứu các yếu tố quyết
định đến đầu tư của nhà đâu là gì? Và trong các yếu tố đó có hình thành nhóm yếu tố
tác động đến quyết định đầu tư hay không? Qua cách nghiên cứu bảng hỏi tác giả đã
chỉ ra có 7 nhóm yếu tố tác động đến quyết định đầu tư của nhà đâu tư cá nhân:
+ Thông tin tập trung
+ Thông tin kế toán
+ Thông tin về hình ảnh danh tiếng công ty
3
+ Nhóm yếu tố về chỉ số cơ bản như: Cổ tức, rủi ro, mức kỳ vọng
+ Yếu tố xã hội
+ Những kiến nghị đâu tư của các tổ chức, cá nhân
+ Nhu cầu tài chính cá nhân.
Trong khi đó, nghiên cứu của Tamimi (2005) về các yếu tố ảnh hưởng đến
quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán UAE. Trên
cơ sở kế thừa từ nghiên cứu của Nagy và cộng sự (1994), Tamimi (2005) đã chi tiết
hóa, rút gọn còn 05 nhóm yếu tố ảnh hưởng gồm có:
+ Nhận thức từ bản thân là yếu tố muốn ám chỉ sự hiểu biết về doanh nghiệp
để đâu tư như: Danh tiếng công ty, Lãnh đao doanh nghiệp, Vị thế công ty, …
+ Thông tin kế toán nghiên cứu 7 yếu tố thành phần như: Khả năng bán được
cổ phiếu, tình hình tài chính, cổ tức kỳ vọng, lợi nhuận ỳ vọng,…
+ Thông tin tập trung như giá cổ phiếu gần đây, chỉ số chứng khoán, chri số
nền kinh tế hiện tại…
+ Sự tư vấn của người giới thiệu: Như các tổ chức, các cá nhân môi giới, ý
kiến chuyên gia..
+ Nhu cầu tài chính cá nhân: Sức hấp dẫn của thị trường, mức chịu đựng rủi
ro, sự đa dạng hóa, …
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chính của luận văn là chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư cổ phiếu của nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam.
- Để cụ thể hóa mục tiêu chính kể trên, đề tài sẽ nghiên cứu các mục tiêu cụ
thể sau:
Khái quát hóa cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu
tư cổ phiếu - nghiên cứu thực tiễn về TTCK Việt Nam cũng như các nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư cổ phiếu của nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam, tìm ra
nguyên nhân, tác động đến nhà đầu tư.
4
Từ kết quả phân tích thực tiễn, nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp để nâng
cao khả năng đầu tư của các nhà đầu tư cũng như các kiến nghị phù hợp đối với các
cơ quan quản lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cổ phiếu của nhà đầu tư trên
thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Không gian nghiên cứu: Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thời gian nghiên cứu: luận văn thực hiện nghiên cứu các nhân tố tác động
đến quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư ở Việt Nam từ năm 2020 đến
năm 2022.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau: phương pháp tổng hợp các cơ sở lý thuyết, kết hợp với việc thu
thập thông tin và sử dụng phương pháp so sánh, thống kê mô tả để phân tích các
yếu tố tác động đến quyết định đầu tư trên TTCK tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, phụ lục, mục lục, tài liệu tham khảo, danh mục bảng
biểu, kết luận. luận văn bao gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cổ phiếu của nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư tại thị trường
5
chứng khoán Việt Nam.
6
CHƯƠNG 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ
1.1. Tổng quan thị trường chứng khoán
1.1.1. Khái niệm
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua - bán cổ phiếu, trái
phiếu và các loại chứng khoán khác. Một thị trường chứng khoán thường được tổ
chức một cách chuyên nghiệp, cung cấp các tiện ích hiện đại để các công ty phát
hành chứng khoán và để các nhà đầu tư giao dịch các chứng khoán đó với nhau. Tất
cả các hoạt động được diễn ra trong một không gian được quản lý nhằm mục đích
làm cho mọi thứ trở nên hiệu quả và minh bạch nhất có thể. Để nhận diện các bộ
phận cấu thành thị trường cho nhiều mục đích khác nhau, người ta phân loại thị
trường chứng khoán gồm: Thị trường sơ cấp (nơi cổ phiếu lần đầu phát hành) và
Thị trường thứ cấp (cổ phiếu được mua bán lại sau khi phát hành). Thị trường
chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra
các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Người ta thực hiện
các hoạt động mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán vì đa dạng các mục
đích bao gồm: huy động vốn (đối với tổ chức phát hành); thay đổi tỷ lệ sở hữu vốn
chủ tại một tổ chức hoặc kiếm lời (đối với các nhà đầu tư).
Mô hình đơn giản của thị trường bao gồm chủ thể thiết lập thị trường là sở
giao dịch, nhà đầu tư và các công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ mở tài khoản,
chuyển lệnh mua-bán chứng khoán của nhà đầu tư tới sàn giao dịch để khớp lệnh
giao dịch theo các quy tắc đã được định sẵn. Một thị trường chứng khoán hiện đại
cho phép các giao dịch chứng khoán được thực hiện trực tuyến trên nền tảng giao
dịch điện tử được quản lý bởi sở giao dịch chứng khoán và sự tham gia của các
công ty chứng khoán thành viên. Theo quy định tại khoản 27 thị trường giao dịch
chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán
và giao dịch chứng khoán.
Hàng hóa được giao dịch trên thị trường là các loại chứng khoán. Luật Chứng
7
khoán Việt Nam 2019 quy định: “Chứng khoán là tài sản, bao gồm các loại sau
đây: a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; b) Chứng quyền, chứng quyền có bảo
đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu ký; c) Chứng khoán phái sinh; d) Các loại
chứng khoán khác do Chính phủ quy định”. Các hoạt động kinh tế hiện đại đang
chứng kiến sự ra đời của ngày một nhiều hơn các hình thức phức tạp của chứng
khoán. Ngoài các loại chứng khoán được niêm yết trên sàn chứng khoán, các loại cổ
phiếu giao dịch không công khai như chia cổ phần thông qua việc gọi vốn cộng
đồng cũng trở thành một hình thức ngày càng phổ biến. Tùy thuộc sự lựa chọn của
người tạo lập thị trường, các loại chứng khoán sẽ được giao dịch trên các sở giao
dịch chứng khoán là khác nhau.
Đã có nhiều khái niệm về thị trường chứng khoán khác nhau, tuy nhiên các
khái niệm hầu hết đều phản ánh những góc nhìn tương đồng. Một cách khái quát, có
thể định nghĩa về thị trường chứng khoán như sau: “Thị trường chứng khoán là một
thị trường vốn nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán của chính phủ, các tổ
chức và các doanh nghiệp.”
1.1.2. Vai trò của thị trường chứng khoán
Chứng khoán - hàng hóa được giao dịch trên thị trường là loại hàng hóa đặc
biệt, đáp ứng đa dạng các mục đích của nhiều chủ thể, thể hiện thông qua:
Vai trò đầu tiên của thị trường chứng khoán là huy động vốn cho các chủ
thể trong nền kinh tế
Mang bản chất của một thị trường vốn, đáp ứng các nhu cầu vốn dài hạn của
Chính phủ và các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong nền kinh tế hiện đại. So sánh với các kênh huy động vốn khác,
thị trường chứng khoán có các ưu điểm:
- Tính chuyên nghiệp của các tổ chức tham gia trên thị trường với sự hiện diện
của các công ty chứng khoán, ngân hàng giám sát và sự quản lý của các sở giao dịch
là người tổ chức ra thị trường;
- Tính minh bạch như là điều kiện ban đầu phải đáp ứng với các tổ chức niêm
yết, tổ chức phát hành tham gia thị trường để trên cơ sở đó, các báo cáo tài chính, kế
hoạch kinh doanh, hồ sơ doanh nghiệp được đánh giá khách quan bởi các chủ thể
8
quản lý thị trường;
- Tính công khai như một đòi hỏi khác đối với tổ chức tìm kiếm nguồn vốn
trên thị trường phải minh thị các thay đổi trong hoạt động của doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật;
- Tính trực tiếp trong quan hệ đầu tư – tiếp nhận vốn đầu tư giữa nhà đầu tư và
doanh nghiệp, cho phép nhà đầu tư quyết định lựa chọn sở hữu các chứng khoán
của tổ chức phát hành.
Chính những đặc tính trên đã làm cho thị trường chứng khoán trở thành kênh
dẫn vốn hiệu quả, góp phần vào việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả trong nền kinh
tế. Các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng có cơ hội được trao vào tay của Chính
phủ và các nhà kinh doanh, đem lại động lực phát triển cho toàn bộ nền kinh tế.
Ngoài ra, khi doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, có nghĩa là đã có
chữ tín đối với công chúng đầu tư thông qua các biện pháp tiền kiểm được thực hiện
bởi chủ thể quản lý và vận hành sàn giao dịch. Như vậy các công ty chứng khoán sẽ
là tác nhân kích thích giúp doanh nghiệp tạo vốn nhanh chóng hơn một khi chứng
khoán đã được niêm yết thành công.
Sự tồn tại và vận hành của thị trường chứng khoán làm đa dạng hóa kênh đầu
tư. Thị trường chứng khoán cung cấp nhiều sản phẩm phong phú, đa dạng để công
chúng có thể lựa chọn loại và đầu tư vào hàng hoá phù hợp với khả năng. Bên cạnh
việc thị trường chứng khoán thu hút nguồn vốn từ dân chúng, thị trường còn tạo
kênh dẫn nguồn vốn từ nước ngoài cho các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Nếu như
các hoạt động đầu tư trực tiếp dòng vốn đầu tư từ nước ngoài phải thực hiện thông
qua các trình tự thủ tục của Luật Đầu tư, dòng vốn được quản lý thông qua các tài
khoản ngân hàng.
Việc vận hành thị trường chứng khoán còn đem lại những tác dụng tích cực
khác cho nền kinh tế. Theo đó, Chính phủ tránh được những áp lực tìm kiếm
nguồn vốn cũng như hỗ trợ các ngành, các lĩnh vực tại từng thời điểm, tránh
được các áp lực về lạm phát. Ngoài ra, thị trường chứng khoán đóng vai trò hỗ trợ
tốt công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với hệ thống tín dụng của ngân
hàng tạo nên cơ cấu thị trường vốn cân đối, hiệu quả cho sự phát triển của nền kinh
9
tế.
Thứ hai, tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán được giao dịch trên thị
trường
Thị trường chứng khoán tạo ra tính thanh khoản cao cho chứng khoán được
giao dịch trên thị trường và những giá trị mà chúng đại diện bao gồm vốn cổ phần
và vốn nợ. Thị trường chứng khoán giúp cho việc tập trung, phân phối vối và
chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Sàn giao dịch
chứng khoán giúp các công ty mới huy động vốn đồng thời cung cấp khả năng tiếp
cận ngay lập tức cho các nhà đầu tư.
Tính thanh khoản có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các chủ thể tham gia
thị trường mà trực tiếp nhất là tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Tính thanh khoản
đại diện cho khả năng dễ dàng được giao dịch trên thị trường của các loại chứng
khoán. Xuất phát từ những đặc điểm của tính minh bạch và sự đảm bảo của các thiết
chế quản lý, hàng hóa trên thị trường là những hàng hóa có thể được xem là chất
lượng. Do đó, nhà đầu tư có thêm niềm tin để thực hiện giao dịch. Bên cạnh đó, quy
chế giao dịch cho phép người ta tin tưởng rằng tại mọi thời điểm, không có hạn chế
áp dụng cản trở việc chuyển giao/chuyển nhượng trong tương lai cho phép nhà đầu
tư sẵn sàng bỏ vốn để nắm giữ quyền sở hữu chứng khoán. Các tác động tổng hợp
của thị trường chứng khoán cho phép dòng vốn được lưu thông thông suốt trên thị
trường, giữa các nhà đầu tư, làm nên tính thanh khoản cho hàng hóa được giao dịch.
Thứ tư, thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá doanh nghiệp, minh
bạch giá trị chứng khoán được giao dịch
Các sàn giao dịch chứng khoán phải đảm bảo rằng người mua và người bán
có quyền truy cập vào thông tin đặt giá và giá cả chính xác, cập nhật để đưa ra
quyết định đầu tư sáng suốt. Việc tổ chức vận hành và quản lý thị trường chặt chẽ
đóng vai trò chính trong việc cung cấp giá chứng khoán công bằng và minh bạch,
đồng thời kết nối người mua và người bán một cách hiệu quả.
Tính minh bạch về giá rất quan trọng vì biết những gì người khác đang đặt giá,
yêu cầu và giao dịch có thể giúp xác định cung và cầu của chứng khoán, hàng hóa
hoặc dịch vụ, tức là giá trị thực của nó. Nếu thông tin được chứng minh là không đủ
10
hoặc không thể truy cập được, thì thị trường cụ thể đó có thể được coi là không hiệu
quả. Trong kinh tế học, tính minh bạch của thị trường được xác định bởi mức độ
được biết đến về sản phẩm và dịch vụ cũng như tài sản vốn sẵn có, cũng như cơ cấu
giá cả và nơi có thể tìm thấy chúng. Mức độ tự do của thị trường đó và mức độ hiệu
quả của nó có thể được xác định bởi tính minh bạch của nó. Minh bạch giá không
nhất thiết có nghĩa là giá sẽ giảm. Giá cao hơn có thể dẫn đến nếu người bán trở nên
miễn cưỡng cung cấp cho người mua nhất định. Tính minh bạch về giá cũng có thể
tạo điều kiện dễ dàng hơn cho sự thông đồng, hoặc thỏa thuận bí mật phi cạnh tranh
hoặc đôi khi là bất hợp pháp giữa các đối thủ nhằm phá vỡ trạng thái cân bằng của
thị trường. Sự biến động về giá hoặc tốc độ tăng hoặc giảm của chứng khoán, hàng
hóa hoặc dịch vụ cũng có thể là sản phẩm phụ của tính minh bạch.
Bằng việc áp dụng các điều kiện niêm yết dành cho các tổ chức phát hành, tính
minh bạch của thị trường được đảm bảo, qua đó, sức khỏe của mỗi doanh nghiệp
tham gia thị trường. Thị trường chứng khoán theo đó, đem lại các thông tin minh
bạch, cho phép nhà đầu tư tự do trong việc ra các quyết định đầu tư.
Thứ năm, đảm bảo an toàn cho các giao dịch và bảo vệ nhà đầu tư
Không chỉ tạo lập cơ sở cho phép người tham gia thị trường có thể tìm kiếm
các bên tham gia vào các giáo dịch, điều quan trọng là thị trường chứng khoán đảm
bảo người mua và người bán phải đáng tin cậy và được xác minh một cách thích
hợp. Các sàn giao dịch chứng khoán đảm bảo rằng những người tham gia đáp ứng
các yêu cầu cần thiết và tuân theo các quy định theo chỉ dẫn để giảm rủi ro vỡ nợ.
Bảo vệ nhà đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng của một thị trường
chứng khoán. Nó tập trung vào việc đảm bảo rằng các nhà đầu tư được thông báo
đầy đủ về các giao dịch mua, giao dịch của họ cũng như các vấn đề và cập nhật của
công ty. Nhiều thủ tục, hướng dẫn, quy tắc và quy định đã được ban hành trong luật
để bảo vệ quyền của nhà đầu tư và lấy lại niềm tin của họ. Khoản 3 Điều 5 Luật
Chứng khoán 2019 quy định một trong các nguyên tắc của hoạt động về chứng
khoán và thị trường chứng khoán là: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư”.
Vai trò bảo vệ nhà đầu tư và đảm bảo an toàn cho các giao dịch không hoàn
11
toàn chỉ xuất phát từ việc tuân thủ các quy định của pháp luật, mà còn là nhu cầu tự
thân của mỗi thị trường chứng khoán. Các yếu tố vận hành thị trường bản thân nó
đã đảm bảo cho tính xác thực của giao dịch, đảm bảo tính minh bạch của các đề
nghị, cam kết khi tham gia giao dịch trên thị trường. Chính những đảm bảo và xác
thực đó có thể được trích xuất và sử dụng để đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư trên thị
trường nếu như các biện pháp bảo vệ bằng phương thức tiền kiểm được thực hiện
bởi chủ thể tổ chức thị trường.
1.1.3. Chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán
Khi việc đầu tư tài chính trở nên phổ biến, các nhà đầu tư tìm đến thị trường
chứng khoán kiếm thêm thu nhập. Để thị trường hoạt động thì có thể phân chia 05
nhóm chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán, bao gồm: người tạo lập thị
trường, tổ chức phát hành, nhà đầu tư, thành viên của thị trường và các tổ chức hỗ
trợ thị trường.
Thứ nhất, cơ quan quản lý thị trường: đóng vai trò chính trong việc thiết lập
các điều kiện của thị trường bao gồm điệu kiện của tổ chức phát hành và lựa chọn
loại chứng khoán được phép giao dịch trên thị trường. Ở Việt Nam, cơ quan quản lý
Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính, với chức năng chính là tổ chức, vận hành và
giám sát thị trường. Lịch sử hình thành và phát triển TTCK đã cho thấy, đầu tiên thị
trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu
và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lợi
ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động của thị trường được thông suốt, ổn
định và an toàn, bản thân các nhà kinh doanh chứng khoán và các quốc gia có thị
trường chứng khoán hoạt động cho rằng cần phải có cơ quan quản lý và giám sát về
hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính vì vậy, cơ quan quản lý và
giám sát thị trường chứng khoán đã ra đời. Cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK có
thể có những tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc từng quốc gia và nó được thành lập để
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
- Tại Trung Quốc, ban đầu Ngân hàng nhân dân Trung Quốc thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của TTCK. Cùng phối hợp
thực hiện chức năng quản lý với Ngân hàng nhân dân còn có cơ quan Hội đồng
12
Nhà nước trong lĩnh vực cổ phần hóa các doanh nghiệp. Do không nằm cùng
trong một tổ chức độc lập nên việc quản lý thị trường không được chặt chẽ, kém
hiệu quả. Ngày 29/12/1998, Luật chứng khoán Trung Quốc được thông qua đã
tập trung việc giám sát, quản lý TTCK vào một cơ quan duy nhất đó là Uỷ
ban giám quản chứng khoán của Quốc vụ viện Trung Quốc. Tại Anh cơ quan
quản lý Nhà nước về TTCK là Uỷ ban đầu tưchứng khoán (SIB –
Securities Investment Board). Uỷ ban này là một tổ chức được thừa nhận trong đạo
luật về các dịch vụ tài chính ban hành năm 1986.
- Tại Mỹ, Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán (SEC –
Securities anh Exchange Commision) là một cơ quan của liên bang có tưcách pháp
lý thực hiện việc quản lý thị trường chứng khoán. Tất cả các tổ chức hoạt
động trong ngành chứng khoán đều phải đăng ký, báo cáo và chịu sự kiểm tra,
giám sát của Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán.
- Tại Nhật Bản, năm 1992, Uỷ ban giám sát chứng khoán và giao dịch chứng
khoán (ESC – Exchange Surveillance Commission) được thành lập, năm 1998 đã
đổi tên thành Financial Supervision Agency (FSA) với chức năng cơ bản là tiến
hành điều tra và xử lý các giao dịch gian lận trên thị trường chứng khoán. Các chức
năng quản lý thị trường chứng khoán chung do Tổng cục chứng khoán thuộc Bộ
Tài chính Nhật Bản đảm nhiệm.
- Tại Hàn Quốc, quản lý Nhà nước về TTCK có Uỷ ban chứng khoán và giao
dịch chứng khoán (SEC – Securities Exchange Commission) và Uỷ ban giám sát
chứng khoán (SSB – Securities Supervise Board) (từ năm 1998 đổi tên thành
Financial Supervision Commision) được đặt dưới sự quản lý của Bộ Kinh tế – Tài
chính. Ban giám sát chứng khoán là cơ quan chấp hành của Uỷ ban Chứng khoán
và giao dịch chứng khoán thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với thị
trường chứng khoán. Từ những kinh nghiệm học tập được ở những nước có thị
trường chứng khoán phát triển, với sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh
thực tế, Việt Nam đã thành lập cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và
TTCK trước khi ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam, đó là Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước, thành lập theo Nghị định số 75 CP ngày 28/11/1996 của Chính
phủ. Theo đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là một cơ quan thuộc Chính phủ
13
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
So với các thị trường chứng khoán tại các quốc gia phát triển, các Sở giao dịch
chứng khoán ở Việt Nam không có chức năng cung cấp tính thanh khoản cho thị
trường bằng cách bán các đơn vị chứng khoán cho các nhà đầu tư muốn mua và
mua các đơn vị chứng khoán từ các nhà đầu tư muốn bán.
Thứ hai, tổ chức phát hành chứng khoán: Tổ chức phát hành là chủ thể thực
hiện đăng ký và bán chứng khoán để thu hút nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của
mình. Tổ chức phát hành có thể là các công ty, tổ chức nhận ủy thác đầu tư hoặc
chính phủ. Các tổ chức phát hành chịu trách nhiệm pháp lý đối với các nghĩa vụ của
vấn đề và báo cáo các điều kiện tài chính và bất kỳ hoạt động điều hành nào khác
theo yêu cầu của các quy định pháp luật. Các tổ chức phát hành thường cung cấp
các loại chứng khoán là cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ phái sinh, cụ thể:
- Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các
chứng khoán: Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu địa phương; Trái phiếu công trình;
Tín phiếu kho bạc.
- Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ hưởng thụ… phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với
đặc thù hoạt động của họ theo luật định.
Thông thường, tổ chức phát hành chỉ tham gia trên thị trường sơ cấp, nơi họ
tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi bằng cách phát hành mới chứng khoán ra thị trường.
Trong một số trường hợp khác, khi đáp ứng các điều kiện pháp luật cho phép, tổ
chức phát hành cũng tham gia trên thị trường thứ cấp cũng tham gia thị trường
phái sinh để mua lại chứng khoán của chính mình cho mục đích thực hiện mục
tiêu tài chính riêng. Các hoạt động của tổ chức phát hành cho thấy họ đóng vai trò
cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán và trong một số trường hợp đặc
biệt, góp phần thúc đẩy tính thanh khoản cho thị trường.
Thứ ba, nhà đầu tư: Các chủ thể đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán
với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc giao dịch chứng khoán. Những chủ thể này bao
gồm:
14
- Nhà đầu tư cá nhân: Bất cứ cá nhân nào đủ năng lực hành vi dân sự đều có
thể tham gia thị trường với tư cách là một nhà đầu tư cá nhân. Thông qua các hoạt
động mua – bán chứng khoán, nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường vì mục tiêu
lợi nhuận. Trong một số trường hợp, nhà đầu tư cá nhân bị hạn chế mua chứng
khoán từ các đợt phát hành chứng khoán vì mục đích bảo vệ nhà đầu tư theo quy
định riêng.
- Nhà đầu tư tổ chức: là những công ty hoặc quỹ đầu tư tham gia giao dịch
chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức đầu tư thường có lượng tiền vốn rất lớn và
nắm giữ nhiều chứng khoán trong tay. Để quản lý được lượng lớn tài sản này đồng
nghĩa với việc phải có đội ngũ chuyên viên giàu kinh nghiệm.
Thứ tư, thành viên của thị trường: Các công ty chứng khoán, công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán là các đơn vị cung cấp dịch vụ tiện ích kết nối nhà đầu tư
chứng khoán với thị trường. Mọi lệnh giao dịch chứng khoán phải được thực hiện
thông qua các giao thức có sử dụng tài khoản định danh gắn với từng nhà đầu tư do
thành viên thị trường cung cấp. Ngoài ra, tùy thuộc loại hình đăng ký và được cấp
phép, các thành viên thị trường thực hiện các giao dịch trên thị trường vì mục tiêu
lợi nhuận. Như vậy, các thành viên thị trường vừa đóng vai trò tạo ra các điều kiện
thực tế cho các giao dịch trên thị trường, vừa góp phần tạo tính thanh khoản cho
hàng hóa trên thị trường.
Thứ năm, chủ thể hỗ trợ thị trường: bao gồm ngân hàng giám sát, tổ chức bảo
lãnh phát hành, tổ chức lưu ký chứng khoán. Mỗi chủ thể tham gia thị trường với
vai trò và chức năng riêng, đảm bảo cho hoạt động của thị trường được hoạt động
thông suốt:
- Ngân hàng giám sát là Ngân hàng giám sát là ngân hàng thương mại có hoạt
động giám sát là việc lưu ký và thanh tra, kiểm tra quá trình hoạt động liên quan đến
quản lý quỹ của quỹ đại chúng hoặc công ty đầu tư chứng khoán, bảo đảm công ty
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán quản lý quỹ đại chúng, Tổng giám đốc (Giám đốc)
công ty đầu tư chứng khoán quản lý tài sản của công ty đầu tư chứng khoán tuân thủ
quy định của pháp luật.
- Tổ chức bảo lãnh phát hành: Tổ chức bảo lãnh phát hành (chứng khoán) là tổ
15
chức cung ứng dịch vụ thương mại do theo yêu cầu của khách hàng là các tổ chức
phát hành chứng khoán, với mục đích nhận tiền thù lao dịch vụ, theo đó tổ chức
bảo lãnh phát hành nhận mua một phần hoặc toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát
hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết hoặc cố
gắng tối đa để phân phối số chứng khoán cần phát hành của tổ chức phát hành.
- Tổ chức lưu ký chứng khoán: là tổ chức có hoạt động nhận ký gửi, bảo quản
an toàn, chuyển giao và ghi nhận sở hữu chứng khoán của khác hàng trên hệ thống
tài khoản lưu ký chứng khoán. Một cách đầy đủ, tổ chức này vừa thực hiện việc xác
nhận chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán (không bao gồm dịch vụ chuyển tiền
mua chứng khoán) cho các giao dịch chứng khoán, đồng thời thực hiện việc bù trừ
cho các giao dịch của cùng một tổ chức, cá nhân thực hiện. Bên cạnh đó, thông qua
việc điều chỉnh quy trình thực hiện, tổ chức lưu ký còn thể hiện vai trò điều tiết nhịp
độ giao dịch trên thị trường khi ấn định ngày chứng khoán về tài khoản của bên mua
trong giao dịch chứng khoán.
Ngoài ra, các tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp và tổ chức
cung ứng vốn vay cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán cũng đóng những vãi
trò nhất định trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, các hình thức kinh doanh này
còn tương đối hạn chế ở Việt Nam do các chính sách thận trọng đến từ Chính phủ.
1.1.4. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán
Chứng khoán là chứng từ có giá trị dài hạn và bút toán ghi sổ xác nhận các
quyền, lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với vốn hoặc tài sản của tổ chức phát
hành. Chứng khoán được trao đổi, buôn bán, lưu thông trên thị trường chứng khoán.
Thường được coi là loại hàng hóa đặc biệt, chứng khoán rất đa dạng về chủng loại,
bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; chứng quyền, quyền mua cổ phần,
chứng chỉ lưu ký; chứng khoán phái sinh và rất nhiều loại chứng khoán khác vẫn
đang tiếp tục được sáng tạo trong quá trình phát triển của thị trường chứng khoán.
Trong số đó, quan trọng và phổ biến nhất là các loại hình chứng khoán:
Thứ nhất, cổ phiếu. Căn cứ vào khoản 2 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019, cổ
phiếu được định nghĩa là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Ở một quy định
16
khác, tại khoản 1 Điều 121 Luật Doanh nghiệp năm 2020, cổ phiếu là chứng chỉ do
cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một
hoặc một số cổ phần của công ty đó. Tựu chung lại, cổ phiếu là công cụ ghi nhận
quyền sở hữu phần vốn góp của người nắm giữ cổ phiếu tại doanh nghiệp. Nó đại
diện cho các quyền biểu quyết, hưởng cổ tức của cổ đông trong công ty cổ phần.
Thứ hai, trái phiếu. Trái phiếu là loại chứng khoán có kỳ hạn từ 01 năm trở lên
do Chính phủ, chính quyền địa phương, hoặc doanh nghiệp phát hành, xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của tổ chức phát
hành. Trái phiếu đại diện cho quyền yêu cầu trả nợ của người nắm giữ trái phiếu đối
với tổ chức phát hành – một công cụ nợ tiêu chuẩn theo các điều kiện định sẵn bởi
pháp luật chuyên ngành. Có thể có nhiều loại trái phiếu theo quy định, bao gồm:
- Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu do công ty cổ phần phát hành, có thể
chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của chính tổ chức phát hành theo điều kiện,
điều khoản đã được xác định tại phương án phát hành trái phiếu.
- Trái phiếu có bảo đảm là loại trái phiếu được bảo đảm thanh toán toàn bộ
hoặc một phần lãi, gốc khi đến hạn bằng tài sản của tổ chức phát hành hoặc tài sản
của bên thứ ba theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; hoặc được bảo
lãnh thanh toán theo quy định của pháp luật.
- Trái phiếu chứng quyền là loại trái phiếu được công ty cổ phần phát hành
kèm theo chứng quyền, cho phép người sở hữu chứng quyền được quyền mua một
số cổ phiếu phổ thông của tổ chức phát hành theo điều kiện, điều khoản đã được xác
đinh tại phương án phát hành trái phiếu.
Thứ ba, Chứng chỉ quỹ: Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở
hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đầu tư chứng khoán. Chứng
chỉ quỹ này đại diện cho các khoản đầu tư vào một danh mục chứng khoán khác
được lựa chọn trước.
Thứ tư, chứng quyền: Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng
với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng
quyền được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được
xác định trước trong khoảng thời gian xác định. Chứng quyền có thể là chứng quyền
bảo đảm là loại chứng khoán có tài sản bảo đảm do công ty chứng khoán phát hành,
17
cho phép người sở hữu được quyền mua (chứng quyền mua) hoặc được quyền bán
(chứng quyền bán) chứng khoán cơ sở với tổ chức phát hành chứng quyền có bảo
đảm đó theo mức giá đã được xác định trước, tại một thời điểm hoặc trước một thời
điểm đã được ấn định hoặc nhận khoản tiền chênh lệch giữa giá thực hiện và giá
chứng khoán cơ sở tại thời điểm thực hiện.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cổ phiếu của nhà đầu tư
trên thị trường chứng khoán Việt Nam
1.2.1.1 Khái niệm quyết định đầu tư
1.2.1. Lý thuyết về quyết định đầu tư
Quyết định đầu tư đề cập đến việc phân bổ nguồn lực tài chính. Các nhà đầu tư
lựa chọn tài sản hoặc cơ hội đầu tư phù hợp nhất dựa trên hồ sơ rủi ro, mục tiêu đầu
tư và kỳ vọng hoàn vốn. Sự đánh đổi là một nguyên tắc tài chính thiết yếu tồn tại
giữa rủi ro và lợi nhuận, điều này rất quan trọng để đưa ra lựa chọn đầu tư. Quyết
định đầu tư thường là một quá trình hành động khó khăn liên quan đến việc xác
định những gì cần đầu tư, phân tích rủi ro, đánh giá biến động trong tương lai.
Theo khoản 15 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019 thì đầu tư chứng khoán là việc
mua, bán, nắm giữ chứng khoán của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Đầu tư
chứng khoán là hoạt động của nhà đầu tư đầu tư vào các doanh nghiệp đã niêm yết
trên thị trường bằng việc mua cổ phiếu, trái phiếu do các doanh nghiệp này phát
hành. Hoạt động đầu tư chứng khoán cho dù hướng tới bất cứ mục tiêu nào trong
việc đạt được một tỉ lệ biểu quyết cao hơn ở tổ chức phát hành; chờ đợi một thời
điểm thị giá chứng khoán tăng trong tương lai; hay hướng tới các khoản chia cổ tức,
đều vì một mục tiêu lợi nhuận.
Trên thị trường chứng khoán, quyết định đầu tư được đặc trưng bởi các yếu
tố minh bạch thông tin do thị trường đem lại; tính sẵn có của các tiện ích hỗ trợ
quyết định đầu tư được cung cấp bởi các chủ thể chuyên nghiệp trên thị trường;
và tính thanh khoản nói chung của hàng hóa được giao dịch trên thị trường.
1.2.1.2. Lý thuyết thị trường hiệu quả của Markowitz (1952)
Vào những năm 1950, cộng đồng đầu tư đã nói về rủi ro nhưng không có đặc
điểm kỹ thuật nào có thể đo lường được cho thuật ngữ này. Tuy nhiên, các nhà đầu
18
tư háo hức định lượng biến rủi ro của họ. Markowitz (1952) đã chỉ ra rằng phương
sai của tỷ suất sinh lợi là thước đo rủi ro quan trọng theo một tập hợp các giả định
hợp lý và đưa ra các công thức tính toán phương sai của danh mục đầu tư. Việc sử
dụng công thức này cho thấy tầm quan trọng của đa dạng hóa trong việc giảm rủi ro
và cũng cung cấp hướng dẫn về cách đa dạng hóa hiệu quả.
Markowitz bác bỏ quan điểm cho rằng các nhà đầu tư nên tối đa hóa lợi nhuận
chiết khấu và lựa chọn danh mục đầu tư của họ cho phù hợp. Quan điểm của ông là
quy tắc này không bao hàm sự đa dạng hóa, bất kể lợi nhuận dự đoán được hình
thành như thế nào. Ông cũng bác bỏ luật số lượng lớn trong danh mục chứng khoán,
phản đối tuyên bố rằng nó sẽ dẫn đến cả lợi nhuận kỳ vọng tối đa và phương sai tối
thiểu, và chỉ ra rằng lợi nhuận từ chứng khoán quá tương quan với nhau nên không
thể loại bỏ tất cả phương sai bằng đa dạng hóa. Markowitz cũng chỉ ra rằng một
danh mục đầu tư có lợi nhuận kỳ vọng tối đa không nhất thiết phải là danh mục đầu
tư có phương sai nhỏ nhất. Dựa trên những quan sát này, ông đã trình bày quy tắc
“lợi nhuận kỳ vọng-phương sai của lợi nhuận”. Ý tưởng của Markowitz là các nhà
đầu tư nên nắm giữ các danh mục đầu tư hiệu quả có phương sai trung bình.
Markowitz kết luận rằng quy luật lợi nhuận kỳ vọng-phương sai của lợi nhuận
không chỉ tiết lộ những lợi ích của việc đa dạng hóa mà còn chỉ ra loại đa dạng hóa
phù hợp với lý do đúng đắn. Không đủ để đa dạng hóa chỉ bằng cách tăng số lượng
chứng khoán nắm giữ. Nếu hầu hết các công ty trong danh mục đầu tư thuộc cùng
một ngành thì họ có nhiều khả năng hoạt động kém hơn trong cùng một thời điểm
so với các công ty trong các ngành riêng biệt. Theo cách tương tự, không đủ để làm
cho phương sai nhỏ để đầu tư vào số lượng lớn chứng khoán. Nên tránh đầu tư vào
chứng khoán có hiệp phương sai cao và rõ ràng là các công ty trong các ngành khác
nhau có hiệp phương sai thấp hơn so với các công ty trong cùng ngành. Markowitz
kết luận rằng bằng cách kết hợp các cổ phiếu lật ngược và những cổ phiếu lật
ngược, bạn có thể giảm rủi ro cho danh mục đầu tư tổng thể của mình. (R. Subathra,
A. Kachi Mohideen, 2017)
1.2.1.3. Lý thuyết định giá tài sản của Sharpe, Lintner và Black
Lý thuyết định giá tài sản xuất hiện trong phiên bản gốc do Sharpe (1964) và
Lintner (1965) phát triển, đươc phát triển bởi Black (1972). Sự khác biệt nằm ở
19
cách nhìn nhận của các tác giả đối với sự tồn tại của các phương tiện cho vay và đi
vay với lãi suất phi rủi ro. Trong khi Sharpe và Lintner thừa nhận rằng một nhà đầu
tư có thể vay hoặc cho vay với lãi suất phi rủi ro, phiên bản của Black hoạt động
trong môi trường không có và không có tài sản phi rủi ro. (R. Subathra, A. Kachi
Mohideen, 2017)
Lý thuyết định giá tài sản theo Sharpe–Lintner chuyển đổi mô hình phương sai
trung bình thành mô hình định giá tài sản thanh toán bù trừ thị trường. Tất cả các
nhà đầu tư đồng ý về việc phân phối lợi nhuận và có thể vay hoặc cho vay không
giới hạn với lãi suất phi rủi ro. Lãi suất phi rủi ro làm thông thoáng thị trường vay
và cho vay. Kết hợp tài sản phi rủi ro và tài sản rủi ro dẫn đến đường biên hiệu quả
phương sai trung bình tuyến tính tiếp tuyến với đường biên hiệu quả/đường biên tài
sản rủi ro. Tất cả những người nắm giữ tài sản rủi ro đều nắm giữ danh mục đầu tư
tiếp tuyến này, danh mục đầu tư theo trọng số giá trị của tất cả các tài sản rủi ro. Lý
thuyết trên ngụ ý rằng danh mục đầu tư thị trường là hiệu quả.
Phiên bản Sharpe–Lintner giả định tỷ lệ không có rủi ro, trong khi phiên bản
của Black cho phép bán khống không giới hạn. Cả hai hàm ý rằng hiệp phương sai
của lợi nhuận tài sản với thị trường so với phương sai của thị trường, đủ để giải
thích sự khác biệt về lợi nhuận kỳ vọng của tài sản hoặc danh mục đầu tư và mối
quan hệ giữa beta và lợi nhuận kỳ vọng là tích cực. Lãi suất phi rủi ro là hệ số chặn
trong phiên bản Sharpe–Lintner, nhưng phiên bản Black chỉ yêu cầu rằng suất sinh
lợi kỳ vọng của thị trường phải lớn hơn suất sinh lợi kỳ vọng của những tài sản
không tương quan với thị trường. (Eugene F. Fama, Kenneth R. French, 2004)
1.2.1.4. Lý thuyết quyền chọn giá của Black, Scholes và Merton
Mô hình Black-Scholes-Merton (BSM) là mô hình định giá cho các công cụ
tài chính. Nó được sử dụng để định giá các lựa chọn cổ phiếu. Mô hình BSM được
sử dụng để xác định giá hợp lý của các lựa chọn cổ phiếu dựa trên sáu biến: biến
động, loại, giá cổ phiếu cơ bản, giá thực hiện, thời gian và tỷ lệ phi rủi ro. Nó dựa
trên nguyên tắc phòng ngừa rủi ro và tập trung vào việc loại bỏ rủi ro liên quan
đến sự biến động của tài sản cơ bản và quyền chọn cổ phiếu.
Mô hình Black Scholes đánh giá sự thay đổi của các công cụ tài chính trong
một khoảng thời gian và ban đầu được sử dụng để ước tính giá của quyền chọn mua
20
kiểu Châu Âu chỉ có thể được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định ngay
trước khi hết hạn (Siti Zulaiha Ibrahim, Teh Raihana Nazirah Roslan, Ali F Jameel,
2021). Năm 1973, Black và Scholes (Black and Scholes, 1973) đã tạo ra một
phương trình vi phân phải thỏa mãn với giá của bất kỳ công cụ phái sinh phụ thuộc
chứng khoán nào trên một cổ phiếu không trả cổ tức.
Các giả định cơ bản của mô hình như sau: (1) Thị trường luôn rộng mở; (2)
Không có chi phí chênh lệch giá; (3) Lãi suất phi rủi ro không đổi theo thời gian; (4)
Mức độ biến động giá của tài sản cơ sở là không đổi; (5) Biến động giá của tài sản
cơ sở tuân theo phân phối logic chuẩn, trong đó ngụ ý một sự phân phối bình
thường của lợi nhuận vốn hóa; (6) Tài sản cơ sở không trả cổ tức.
Đối với các nhà đầu tư trung lập với rủi ro, công thức định giá Black-Scholes
cho quyền chọn mua là:
trong đó
với
C0 là giá quyền chọn.
S0 là giá cổ phiếu hiện tại.
N(d) là xác suất mà một phép rút ngẫu nhiên từ phân phối chuẩn chuẩn sẽ là
nhỏ hơn d.
X là giá thực hiện.
i1 là tỷ suất sinh lợi kép liên tục hàng năm của một tài sản an toàn có cùng kỳ
hạn với thời điểm hết hạn của quyền chọn.
T là thời gian đáo hạn của quyền chọn (tính bằng năm).
σ biểu thị độ lệch chuẩn của tỷ lệ hoàn vốn gộp liên tục hàng năm của chứng
khoán.
Merton (1973) đã mở rộng công thức định giá quyền chọn của Black-Scholes
21
cho các cổ phiếu trả cổ tức như sau:
trong đó δ là cổ tức được trả trong suốt thời gian tồn tại của quyền chọn. (Del
Giudice, Manlio; Evangelista, Federica; Palmaccio, Matteo, 2016)
1.2.1.5. Lý thuyết về tài chính hành vi
Tài chính hành vi là nghiên cứu về ảnh hưởng của tâm lý đối với hành vi của
các nhà đầu tư hoặc nhà phân tích tài chính. Nó cũng bao gồm các tác động tiếp
theo trên thị trường. Nó tập trung vào thực tế là các nhà đầu tư không phải lúc nào
cũng hợp lý, có giới hạn trong khả năng tự kiểm soát của họ và bị ảnh hưởng bởi
những thành kiến của chính họ.
Tài chính hành vi dựa trên quan niệm thay thế rằng các nhà đầu tư, hoặc ít
nhất là một thiểu số đáng kể trong số họ, phải tuân theo các thành kiến hành vi có
nghĩa là các quyết định tài chính của họ có thể không hoàn toàn hợp lý. Bằng chứng
về những thành kiến này thường đến từ tài liệu tâm lý học nhận thức và sau đó đã
được áp dụng trong bối cảnh tài chính.
Ví dụ về sự thành kiến bao gồm
- Quá tự tin và quá lạc quan: các nhà đầu tư đánh giá quá cao khả năng của họ
và độ chính xác của thông tin mà họ có.
- Tính đại diện: các nhà đầu tư đánh giá các tình huống dựa trên các đặc điểm
bề ngoài hơn là các xác suất cơ bản.
- Bảo thủ: các nhà dự báo bám vào niềm tin trước đó khi đối mặt với thông tin
mới.
- Xu hướng sẵn có: các nhà đầu tư phóng đại xác suất của các sự kiện được
quan sát hoặc trải qua gần đây vì trí nhớ còn mới.
- Khung phụ thuộc: hình thức trình bày thông tin có thể ảnh hưởng đến quyết
22
định được đưa ra.
- Tính toán nhận thức: các cá nhân phân bổ của cải vào các ngăn tinh thần
riêng biệt và bỏ qua tính có thể thay thế và các hiệu ứng tương quan.
- Hối tiếc hoặc ác cảm: các cá nhân đưa ra quyết định theo cách cho phép họ
tránh cảm thấy đau đớn về mặt tinh thần trong trường hợp xảy ra kết quả bất lợi.
(Alistair Byrne, Mike Brooks, 2008)
Kết luận điển hình của lý thuyết tài chính hành vi thể hiện rằng: Trong trường
hợp đầu tư chứng khoán: cách tốt nhất để nhà đầu tư kiểm soát “những sai lầm tinh
thần” của mình là tập trung vào một chiến lược đầu tư cụ thể trong dài hạn. Các nhà
đầu tư nên lưu giữ hồ sơ chi tiết phác thảo các vấn đề như tại sao một cổ phiếu cụ
thể được mua cho danh mục đầu tư của họ. Ngoài ra, các nhà đầu tư nên quyết định
các tiêu chí cụ thể để đưa ra quyết định đầu tư để mua, bán hoặc nắm giữ. (Victor
Ricciardi, Helen K. Simon, 2000)
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư
Thứ nhất, khả năng sinh lời. Mức sinh lời trong đầu tư chứng khoán phản ánh
khả năng đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư chứng khoán trong một khoảng thời gian
nhất định từ số vốn gốc mà họ bỏ ra ban đầu. Mức sinh lời trong đầu tư chứng
khoán có thể đo bằng số tuyệt đối hoặc tương đối. Mức sinh lời tuyệt đối là phân
chênh lệch giữa tổng thu nhập từ đầu tư chứng khoán (bao gồm số lợi tức chứng
khoán cộng mức lãi hoặc lỗ về vốn) với số tiền đầu tư ban đầu (vốn gốc). Nếu tính
theo số tương đối, mức sinh lời chứng khoán là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi
nhuận thu được từ đầu tư chứng khoán so với vốn gốc.
Khả năng sinh lợi của khoản đầu tư được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu
cho mỗi quyết định đầu tư trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, khả năng sinh
lời của chứng khoán lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như: lĩnh vực,
ngành nghề kinh doanh, chính sách kinh tế của Nhà nước, khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường, chính sách chi trả lợi tức cổ phần của doanh nghiệp…
Vì thế để tối đa hóa lợi nhuận, nhà đầu tư cần phải phân tích, đánh giá kỹ các nhân
tố có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh lời nêu trên để lựa chọn quyết định đầu tư
23
cho phù hợp.
Thực tế khi Lợi nhuận kỳ vọng vào cổ phiếu càng cao thì quyết định đầu tư
của nhà đầu tư cá nhân càng cao, điều này là phù hợp thực tế thị trường Việt Nam
và cũng phù hợp với nghiên cứu của Nagy và Obenberger (1994) là yếu tố lợi nhuận
kỳ vọng có ảnh hưởng cao nhất đến quyết định đầu tư (là 46,6%) trong 34 yếu tố
ảnh hưởng đến quyết định đầu tư ở thị trường Mỹ. Và yếu tố Lợi nhuận kỳ vọng
này trong nghiên cứu của Al-Tamimi (2005) cũng đạt tỷ lệ phần trăm đồng ý là
65%, đứng đầu trong 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng và cũng cao nhất trong 34 yếu tố
ảnh hưởng mà nhà nghiên cứu đưa ra. (Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Nguyễn Minh Kiều,
2013)
Thứ hai, mức độ rủi ro. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán được hiểu là khả
năng xảy ra những kết quả không mong đợi trong tương lai. Điều này được thể hiện
ở sự sụt giảm, thua lỗ hoặc những biến động bất thường về tỷ suất sinh lợi trong
hoạt động đầu tư chứng khoán. Việc đánh giá mức độ rủi ro trong đầu tư chứng
khoán không chỉ đối với từng loại chứng khoán riêng lẽ mà còn đối với toàn bộ
danh mục đầu tư chứng khoán nhằm hạn chế và phân tán rủi ro. Thông thường, mức
độ rủi ro có sự khác biệt nhất định giữa các chứng khoán vốn và chứng khoán nợ,
giữa chứng khoán có thời hạn thanh toán khác nhau, giữa chứng khoán có khả năng
chuyển đổi hoặc không chuyển đổi, giữa chứng khoán của các doanh nghiệp hoặc
ngành kinh doanh khác nhau… Việt đánh giá mức độ rủi ro đầu tư chứng khoán
cũng đòi hỏi năng lực, kỹ năng phân tích đánh giá rủi ro nhất định của các nhà đầu
tư chứng khoán trên thị trường.
Trong nền kinh tế hiện đại, các yếu tố rủi ro của hoạt động đầu tư chứng
khoán cũng trở nên khó đoán định hơn khi không chỉ dựa trên các chỉ báo truyền
thống, nó còn đến từ những biến động chính trị không ngừng, sự cạnh tranh của các
ngành sản xuất phi truyền thống, truyền thông hoặc một sản phẩm công nghệ mới
có sức cạnh tranh mạnh mẽ. Ngoài ra, trong việc đầu tư chứng khoán, các nhà đầu
tư có thể gặp những rủi ro sau: Rủi ro về vỡ nợ của nhà phát hành, rủi ro về lãi suất,
rủi ro về lạm phát, rủi ro thị trường, rủi ro về tỷ giá hối đoái, rủi ro về pháp luật, rủi
ro do thiếu thông tin hoặc thông tin không minh bạch, rủi ro thanh khoản của chứng
khoán…
24
Rủi ro trong đầu tư chứng khoán có thể nhận diện gồm hai nhóm chủ yếu bao
gồm: rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống.
+ Rủi ro hệ thống: Là những rủi ro có ảnh hưởng đồng thời đến hầu hết nếu
không nói là tất cả các loại chứng khoán trên thị trường. Nguyên nhân của rủi ro hệ
thống nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty phát hành như: tình trạng lạm phát
hoặc thiểu phát của nền kinh tế, những biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái hoặc lãi
suất thị trường, sự suy thoái hay khủng hoảng của nền kinh tế… Các loại rủi ro hệ
thống tiêu biểu bao gồm: Rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi
ro sức mua…
Rủi ro thị trường: Là rủi ro bắt nguồn từ sự biến động của giá cả chứng khoán
trên thị trường. Nguyên nhân của những biến động giá cả chứng khoán thường rất
phức tạp, có thể là những yếu tố nội tại doanh nghiệp hoặc môi trường kinh doanh,
hoặc các yếu tố bên ngoài hoặc chỉ là yếu tố tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường.
Rủi ro lãi suất: Là loại rủi ro do sự biến động lãi suất trên thị trường làm cho
giá cả chứng khoán biến động. Giá cả chứng khoán luôn biến động tỷ lệ nghịch với
lãi suất thị trường, lãi suất thị trường tăng sẽ làm cho giá thị trường của chứng
khoán bị sụt giảm và ngược lại.
Rủi ro sức mua (còn gọi là rủi ro lạm phát): Là sự giảm sút về sức mua động
tiền do tác động của yếu tố lạm phát. Lợi tức thực tế theo đó bằng lợi tức danh
nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng
thu được lợi nhuận trong tương lai nhưng lại mất đi cơ hội mua sắm các hàng hóa,
dịch vụ khác trong thời gian giữ chứng khoán.
+ Rủi ro phi hệ thống: Là những rủi ro chỉ tác động đến một công ty, một loại
chứng khoán hay một ngành kinh doanh nhất định mà không tác động đến toàn bộ
thị trường.
Rủi ro phi hệ thống thường bao gồm các loại như: Rủi ro kinh doanh, rủi ro tài
chính, rủi ro quản lý… trong hoạt động của một công ty hoặc một ngành kinh doanh
nhất định. Trong đo, rủi ro kinh doanh là sự sụt giảm của thu nhập trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp do nhiều lý do nội tại hoặc ngoại cảnh đem lại cho
doanh nghiệp. Rủi ro tài chính phát sinh từ các vấn đề của sử dụng nợ trong cơ cấu
25
tài chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp kinh doanh kém hiệu quả doanh
nghiệp có hệ số nợ cao có thể mất khả năng thanh toán lợi tức chứng khoán hoặc
hoàn trả vốn gốc cho người chủ sở hữu, làm ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu của
doanh nghiệp trên thị trường. Rủi ro quản lý tiềm ẩn từ các quyết định quản lý của
các nhà quản trị doanh nghiệp.
Theo nghiên cứu ThS. Phạm Nhật Kiều và Nguyễn Anh Vũ trong nghiên cứu
“Chiến lược quản lý danh mục đầu tư trên thị trường tài chính” đăng tải trên website
của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, các tác giả nhận định: “Thu nhập của một loại
cổ phiếu phụ thuộc: (1) Tác động của toàn bộ thị trường; (2) Yếu tố nhóm cổ phiếu/
yếu tố ngành; (3) Yếu tố đặc thù của cổ phiếu đó. Tương tự như vậy, rủi ro của một
loại cổ phiếu phụ thuộc: (1) Rủi ro thị trường; (2) Rủi ro nhóm cổ phiếu/ rủi ro
ngành; (3) Rủi ro đặc thù của cổ phiếu. Nhà đầu tư có thể theo đuổi các chiến lược
khác nhau đối với ba nhân tố trên. Đối với hai chiến lược chủ động và thụ động, nhà
đầu tư có thể theo đuổi chiến lược thụ động hoặc chủ động đối với từng yếu tố một
hay kết hợp tất cả những yếu tố này. Những yếu tố của môi trường kinh tế như: tốc
độ tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, lãi suất... hay cả yếu tố tâm lý chung của nhà
đầu tư có thể cùng tác động đến thị trường chứng khoán làm cho thị trường có
những đợt tăng giảm trong ngắn hạn hoặc kéo dài theo chu kỳ. Trên thực tế, người
ta thấy có một xu hướng là khi thị trường tăng thì phần lớn các loại cổ phiếu cũng
có xu hướng cùng tăng và ngược lại. (Phạm Nhật Kiều, Nguyễn Anh Vũ, 2015)
Thứ ba, tính thanh khoản. Tính thanh khoản của chứng khoán là khả năng dễ
dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt. Thông thường khi có số tiền mặt nhàn
rỗi nhà đầu tư thường đầu tư chứng khoán để thu lợi nhuận, song khi cần tiền mặt
để đáp ứng các nhu cầu cá nhân hoặc chuyển hướng đầu tư họ lại nuốn chuyển
nhượng chứng khoán đang sở hữu để thu tiền về. Nếu các chứng khoán mà họ sở
hữu có khả năng thanh khoản cao, việc sở hữu chứng khoán cũng tiện ích không
khác gì việc nắm giữ tiền mặt thì sẽ khuyến khích họ đầu tư chứng khoán và ngược
lại. Do đó tính thanh khoản của chứng khoán cũng là một yếu tố quan trọng để các
nhà đầu tư cần xem xét để đi đến quyết định đầu tư.
Tác động tích cực của tính thanh khoản và cơ hội đầu tư đối với các quyết
định đầu tư phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyết định tài trợ và đầu tư.
26
Mặt khác, nếu có một cơ hội đầu tư sinh lợi, người quản lý sẽ cố gắng sử dụng nó
để tối đa hóa tài sản của các cổ đông, điều này dẫn đến sự gia tăng giá trị của công
ty. Do đó, một cơ hội đầu tư sinh lời nhiều hơn sẽ dẫn đến đầu tư nhiều hơn. Tác
động lớn hơn của tính thanh khoản đối với các quyết định đầu tư của các công ty có
hạn chế về tài chính so với các công ty không có hạn chế về tài chính liên quan tới
khả năng tiếp cận nguồn tài chính bên ngoài. Các khoản tài trợ bên ngoài trở nên đắt
đỏ hơn so với nợ nội bộ, cho phép các công ty ít gặp khó khăn về tài chính hơn tiếp
cận các nguồn tài chính bên ngoài. Các quyết định đầu tư đối với các công ty có hạn
chế về tài chính do đó nhạy cảm hơn với tính thanh khoản (Shahnaz Mashayekh,
Elaheh Ahmadi Amin, 2022).
Thứ tư, tài chính hành vi nhìn nhận con người dưới góc độ thực tế. NĐT
là những con người bình thường và cũng chịu sự chi phối của các yếu tố tâm lý,
cảm xúc. Các nhà đầu tư không phải lúc nào cũng đưa ra các quyết định và hành
động dựa vào lý trí, mà họcòn bị chi phối bởi các yếu tố tâm lý (cảm xúc cũng như
nhận thức). Khi trạng thái tâm lý tốt họ trở nên lạc quan hơn trong cách nhìn nhận
đánh giá, nhưng khi trạng thái tâm lý không tốt họ hay phê bình và trở nên bi quan
hơn.Nghiên cứu của Waweruvà cộng sự (2008) khảo sát các nhân tố hành vi tác
động đến NĐT trên TTCK Nairobi, Kenya. Nghiên cứu chỉ ra rằng nhân tố tự
nghiệm, triển vọng nhân tố thị trường và hiệu ứng đám đông ảnh hưởng đến việc ra
quyết định đầu tư ở nơi đây. DeBondt và Thaler (1995) đã nghiên cứu về hành vi
dựa trên phản ứng thái quá của NĐT đối với thông tin trên thị trường. Choi, Laibson
và Metrick (2002) cũng phát hiện ra rằng giao dịch chịu ảnh hưởng lớn bởi những
lệch lạc tâm lý và sai lầm nhận thức. Nghiên cứu của Kyle và Wang (1997) cho
rằng các NĐT tự tin thái quá có thể kiếm được lợi nhuận kỳ vọng cao hơn khi mà sự
tự tin quá mức đóng vai trò như một yếu tố định hướng cho việc giao dịch mạnh
mẽ. Theo Gervais, Heaton vàOdean (2002) sự lạc quan quá mức thường gây ra tác
động tích cực bởi vì nó khuyến khích các nhà quản trịtiến hành đầu tư. Tác động
này là tích cực bởi vì tâm lý e ngại rủi ro thường gây tác động tiêu cực đến giá trị
công ty. Tuy nhiên, lạc quan quá mức lại gây ra tác động tiêu cực bởi vì nó có thể
dẫn các công ty hay NĐT đến việc chấp nhận đầu tư vào các cơ hội có rủi ro quá
cao. Ngược lại với tâm lý lạc quan quá mức là tâm lý bi quan quá mức. NĐT trong
27
trạng thái này cho rằng các sự kiện xảy ra trong tương lai sẽ xấu hơn, tiêu cực hơn
tình trạng hiện tại. Hiệu ứng đám đông hay tâm lý bầy đàn là hành vi của một NĐT
bắt chước hành động của các NĐT khác hoặc tuân theo các chuyển động của thị
trường thay vì dựa trên nguồn thông tin chiến lược của chính NĐT
(Bikhchandani và Sharma, 2001). Tâm lý neo quyết định có một số kết nối với tính
đại diện ở điểm là phản ánh con người thường tập trung vào những kinh nghiệm gần
đây, có xu hướng lạc quan hơn khi thị trường gia tăng và bi quan hơn khi thị trường
giảm. Các NĐT luôn tham khảo giá mua ban đầu khi bán hoặc phân tích. Do đó, giá
cả ngày thường được xác định bằng những giá cả trong quá khứ. Neo quyết định
làm cho các NĐT xác định một phạm vi cho một giá cổ phiếu hoặc thu nhập của
công ty dựa vào xu hướng quá khứ, kết quả tạo ra các phản ứng chậm với những
thay đổi bất ngờ. Tính đại diện thể hiện ở các NĐT thường không quan tâm đến yếu
tố dài hạn, họ quan tâm nhiều đến các dữ liệu điển hình gần đây và áp đặt vào các
dự đoán trong tương lai. Tính đại diện xảy ra khi các NĐT quá quan tâm đến các cổ
phiếu “nóng” trên thị trường và lãng quên phần còn lại. Hoặc khi các NĐT dựa vào
mẫu nhỏ để đưa ra kết luận cho tất cả được gọi là “luận số nhỏ” và lấy đó làm cơ sở
để quyết định dẫn đến ảo tưởng của con bạc.
Thứ năm, phân tích tài chính. Việc xem xét từ nhiều nguồn thông tin để đi đến
quyết định đầu tư là điều cần thiết. Và báo cáo tài chính cần phải được xem xét tỉ mỉ
để rút ra thông tin cần thiết. Các báo cáo tài chính thường được xem là nơi để tìm
kiếm thông tin về công ty và còn đóng một vai trò quan trọng khác nữa trong phân
tích cơ bản để đi đến quyết định đầu tư. Báo cáo tài chính đề cập đến một bản tóm
tắt giải thích hoặc cung cấp bức tranh về tình hình tài chính/hiệu quả kinh doanh và
hoặc các hoạt động của một doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định. Các
nguyên tắc kế toán yêu cầu công ty chuẩn bị một bộ báo cáo tài chính đầy đủ tuân
thủ các nguyên tắc quy định và phải chính xác. Một bộ báo cáo tài chính đầy đủ bao
gồm báo cáo lợi nhuận giữ lại, lưu chuyển tiền tệ và báo cáo tình hình tài chính
(bảng cân đối kế toán). Các phân tích đầu tư có thể sử dụng các kỹ thuật định lượng
và định tính để xác định các chiến lược đầu tư sinh lời. Chúng bao gồm việc kiểm
tra các xu hướng thị trường, theo dõi các báo cáo do các doanh nghiệp công bố, xử
lý thống kê các chỉ số kinh tế để phát hiện mô hình có ý nghĩa hoặc các phương
28
pháp xác định cơ hội kiếm lời khác.
Trong bài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính, năng
lực quản lý và hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam” tác giả
Nguyễn Ngọc Thụy Vy (2021) đã chỉ ra rằng: Tình trạng thông tin bất cân xứng
giữa nhà quản lý và nhà đầu tư của doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tiêu cực đến
hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. BCTC là công cụ công bố thông tin chủ yếu của
doanh nghiệp ra bên ngoài (IASB, 2018). Các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
như Healy và Palepu (2001), Bushman và Smith (2001), Lambert và cộng sự (2000)
đã khẳng định chất lượng của báo cáo tài chính có thể cải thiện hiệu quả của các
khoản đầu tư vì thông tin tài chính được các cổ đông sử dụng để giám sát các nhà
quản lý và cũng là một nguồn thông tin quan trọng cho các nhà đầu tư (Nguyễn
Ngọc Thụy Vy, 2021). Giả thuyết được tác giả đề xuất tại nghiên cứu của mình là:
“Chất lượng báo cáo tài chính có mối quan hệ đồng biến với hiệu quả đầu tư của
doanh nghiệp.”
Như vậy, có 5 nhân tố được đề cập ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng
khoán của các nhà đầu tư cá nhân, đó là: Khả năng sinh lời, mức độ rủi ro, khả năng
thanh khoản và mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của các doanh
nghiệp niêm yết, phân tích tài chính.
Sơ đồ 1.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của các
nhà đầu tư cá nhân
Phân tích tài chính
Khả năng sinh lời
Tài chính hành vi
Mức độ rủi ro
Quyết định đầu tư của NĐT cá nhân
Khả năng thanh khoản
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Bên cạnh các yếu tố được phân tích trên, các khía cạnh của yếu tố tâm lý cũng
có tác động tới hành vi đầu tư. Theo tác giả S. J. Abul (2019) , kết quả nghiên cứu
của những ảnh hưởng của tâm lý đối với hành vi của nhà đầu tư liên quan đến Sở
giao dịch chứng khoán Kuwait (KSE). Khảo sát thu thập mẫu ngẫu nhiên gồm 398
29
nhà đầu tư cá nhân. Nghiên cứu chỉ ra rằng những nhân tố sau: lạc quan quá mức so
với bi quan, hành vi theo đám đông và ưa thích rủi ro tác động đến quyết định của
các nhà đầu tư cá nhân. Một nghiên cứu khác của W. Dima, và cộng sự (2018) đã
tiến hành điều tra sự tồn tại của các thành kiến hành vi trong Sở giao dịch chứng
khoán Amman và ảnh hưởng của chúng đối với hoạt động đầu tư theo quan điểm
của nhà đầu tư. Kết quả cho thấy có ảnh hưởng của thiên vị quá tự tin, thiên vị quen
thuộc, thiên vị sẵn có, thiên vị tính đại diện và thiên vị phân nhóm lên hiệu suất đầu
tư (p≤5%). Hơn nữa, thành kiến định đoạt, thành kiến xác nhận và thành kiến không
thích thua lỗ ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả đầu tư nhưng ở mức trọng yếu là
(p≤10%). Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa câu trả lời về hành
vi của nam và nữ.
Phan Nam Giang (2020) nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hành
vi của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu khám phá cho thấy, những nhân tố hành vi ảnh hưởng đến tiến trình ra quyết
định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam là hành vi tự tin và tiếc nuối,
hành vi ghét lỗ, hành vi đám đông và hành vi hồi tưởng kinh nghiệm quá khứ (N. G.
Phan, 2020, tr. 35-39). Ảnh hưởng của nhân tố hành vi tự tin và tiếc nuối đối với
tiến trình ra quyết định của NĐT cá nhân là dễ dàng nhận thấy nên có ảnh hưởng
mạnh nhất, sau đó là hành vi ghét lỗ, hành vi bầy đàn và sau cùng là hành vi hồi
30
tưởng kinh nghiệm quá khứ.
CHƯƠNG 2
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ CỔ
PHIẾU CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
2.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.1.1. Sự hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Đầu năm thập niêm 1990 cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng mong ước đến một
ngày trong tương lai không xa thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Đến năm
1996 Đại hội Đảng lần thứ VIII đã thông qua “Thực hiện chủ trương về xây dựng
Thị trường chứng khoán (TTCK) trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”, Việt
Nam đã nhanh chóng thành lập Ủy ban Chứng khoán nhà nước vào ngày ngày
28/11/1996, theo Nghị định số 75/1996/NÐ-CP của Chính phủ với nhiệm vụ ban
đầu chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất và pháp lý để hình thành TTCK. Vào
năm 1998, thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCK) được khai sinh theo Nghị
định 48/1998/NĐ-CP, sau đó hai năm thì Trung tâm Giao dich chứng khoán
(TTGDCK) Tp. HCM chính thức khai trương đi vào hoạt động tổ chức phiên giao
dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000, trở thành đơn vị tổ chức giao dịch chứng khoán
tập trung đầu tiên của Việt Nam. Không lâu sau đó TTGD CK Hà Nội đi vào hoạt
động ngày 08/03/2005 tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết, đấu giá
cổ phần và đầu thầu trái phiếu. Nếu như TTGDCK TP.HCM là nơi niêm yết giao
dịch chứng khoán của những công ty lớn, thì TTGDCK Hà Nội là nơi tập trung
niêm yết của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp niêm yết trên hai sở
theo tiêu chí khác nhau.
31
2.1.1.2. Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Trong hơn 22 năm qua thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua nhiều biến
động, nhưng sau mỗi giai đoạn biến động thị trường lại phát triển. Lịch sử hình
thành và phát triển của TTCK Việt Nam đến nay được chia làm 5 giai đoạn.
Giai đoạn từ năm 2000-2005: Khi TTGD CK TPHCM chính thức đi vào hoạt
động. Cổ phiếu niêm yết từ 2 loại cổ phiếu là REE (công ty cổ phần cơ điện lạnh
REE) và SAM (công ty CP Cáp vật liệu viễn thông) với tổng vốn hoá vào ngày đầu
là 444 tỷ đồng. Sau đó tăng lên 5 loại cổ phiếu niêm yết, VNIndex gia tăng liên tục
lên đến 550 điểm. Sau khi lên đỉnh thị trường đã sụt giảm 3 năm liên tiếp. Bước
sang năm 2005 khi HNX đi vào hoạt động tổng số công ty niêm yết trên cả 2 sàn
giao dịch là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết đạt 4940 tỷ đồng.
Giai đoạn từ năm 2006-2010: Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật
Chứng khoán số 70/2006/QH11. Theo đó, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi để tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân
tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK nhằm huy động các nguồn vốn trung hạn
và dài hạn cho đầu tư phát triển. Đánh dấu một giai đoạn bùng nổ của TTCK với
nhiều sự kinh tế lớn như Việt Nam chính thức ra nhập WTO. Ngày 24/6/2009, sàn
Upcom, nơi giao dịch những cổ phiếu chưa đạt đủ tiêu chuẩn đi niêm yết trên 2 sàn
giao dịch TP.HCM (HOSE) và Hà Nội (HNX) đi vào vận hành. Trong giai đoạn này
TTCK Việt Nam vận hành 3 sàn giao dịch để tạo điều kiện cho các công ty niêm
yết, thị trường cũng tăng trưởng manh mẽ năm 2007 chỉ số VNIndex đạt 927 điểm
nhưng bước sang năm 2008 thì cuộc khủng tài chính toàn cầu nổ ra làm TTCK Việt
Nam giảm sốc về 315 điểm và kết thúc năm 2010 thì chỉ số Vnindex dừng lại ở 484
điểm tổng mức vốn hóa thị trường đạt 726.000 tỷ đồng tương đương với khoảng
39% GDP năm 2010.
Giai đoạn từ năm 2011-2015: Ngày 6/2/2012, chỉ số VN30 lần đầu tiên ra mắt.
VN30 là nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn được giao dịch trên sàn giao dịch
HOSE. Kế tiếp, vào khoảng tháng 9/2012, một số sự thay đổi trong cách thức giao
dịch cũng tạo sự thu hút với nhà đầu tư. Dẫn chứng như thời gian thanh toán rút ngắn
từ T+4 xuống còn T+3. Trong đó, T+ chính là chu kỳ thanh toán trong chứng khoán.
32
Còn T+3 được hiểu là sau 3 ngày nhà đầu tư mới hoàn toàn sở hữu được chứng
khoán đã mua. Đồng thời, sau 3 ngày nhà đầu tư có thể nhận lại tiền bán chứng
khoán. Dấu mốc trong lịch sử hình thành thị trường này đó là vào ngày 22/7/2013 khi
thời gian giao dịch chứng khoán trên sàn HOSE được mở rộng. Cụ thể là kéo dài tới
15h00 hàng ngày. Chỉ số Vnindex trong giai đoạn này tăng từ 351 điểm năm 2011
đến 579 điểm vào năm 2015, mức vốn hóa thị trường đạt 1298.53 nghìn tỷ.
Giai đoạn từ năm 2016 - 2018: Thị trường chứng khoán chứng kiến nhiều sự
kiện lớn xảy ra trên thế giới cũng như trong nước tác động mạnh đến thị trường.
Năm 2016 khởi động cho bán vốn các công ty lớn của nhà nước cho nước ngoài
như: VNM, SAB, FPT, …dòng vốn ngoại đổ mạnh vào thị trường khiến chỉ số
Vnindex tăng mạnh từ 514 điểm năm 2016 đến 990 vào năm 2017 đà tăng được kéo
dài đến 4/2018 thị trường tạo đỉnh đạt đỉnh tại mốc 1211 điểm. Giai đoạn này cũng
đánh dấu mốc thị trường chứng khoán vượt đỉnh sau 10 năm thăng trầm đạt mức
vốn hóa so với GDP đạt cao nhất là 103.68% GDP vào tháng 3/2018, số lượng nhà
đầu tư tham gia thị trường cũng tăng mạnh đạt 1.98 triệu tài khoản. Tổng giá trị mua
bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài đạt 46.411 tỷ đồng vào năm 2017, gấp hơn 7
lần so với giá trị mua bán ròng năm 2016 là 6.492 tỷ đồng, số lưọng doanh nghiệp
niêm yết trên sàn HSX cũng tăng từ 320 (năm 2016) đến 373 doanh nghiệp niêm
yết vào năm 2018. Có thể nói giai đoạn 2016-2018 chứng kiến một sự bùng nổ
mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam với mức tăng trưởng ấn tượng, cao
nhất khu vực châu Á. Sự tăng trưởng của thị trường kéo dài đến tháng 4/2018 thì
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra làm dấy lên lo ngại ảnh hưởng đến chuỗi
cung ứng toàn cầu của nền kinh tế vì thương mại hàng hóa của hai nước chiếm tỷ
trọng lớn đến thương mại toàn cầu. TTCK đã phản ứng khá mạnh với bối cảnh kinh
tế toàn cầu gây ra cú sụt giảm rất mạnh từ 1211 điểm về 890 điểm cuối năm 2018
thị trường mất 29% kể từ khi tạo đỉnh kéo theo sự sụt giảm nhanh chóng dòng tiền
trên thị trường, giá trị giao dịch trung bình chỉ đạt 4000 - 6000 ngàn tỷ, số lượng
nhà đầu tư mở mới tài khoản tham gia thị trưởng giảm xuống mạnh.
Giai đoạn từ năm 2019-2022: Bước sang năm 2019 TTCK tiếp tục giảm
điểm sâu về 860 khi căng thẳng thương mại Mỹ Trung leo thang chưa có hồi kết.
33
Khi vấn đề thương mại Mỹ Trung đi đến đàm phán có được những kết quả tốt ban
đầu thị trường chứng khoán theo đó bât tăng trở lại 980 điểm vào tháng 3 năm 2019
thanh khoản thị trưởng cũng cải thiện hơn so với cuối năm 2018 đạt trung bình
6000-7000 tỷ/phiên. Nền kinh tế thế giới chưa có sự khởi sắc mạnh mẽ, thương mại
toàn cầu vẫn bị ảnh hưởng nặng nề từ quốc gia lớn nhất thế giới. Vì vậy thị trường
ngang dao động loanh quanh từ 940-998 điểm. Thị trường chứng khoán chưa hồi
phục lại được mấy thì gặp cú sốc về đại dịch Covid xảy ra đầu năm 2020 xuất phát
từ Vũ Hán Trung Quốc và có tính lây lan rất nhanh, mọi hoạt động đi lại bị hạn chế
kéo theo đó hoạt động kinh sản xuất đình trệ thậm chế hoạt động của chủ thể nền
kinh tế bị đóng băng trong một thời gian. Đẩy nền kinh tế thế giới ngày càng khó
khăn, tăng trưởng kinh tế giảm sốc, nhiều quốc gia phải lao đao với đại dịch, nền
kinh tế kiệt quệ kéo theo TTCK trên thế giới lao dốc rất mạnh và thị trường chứng
khoán Việt Nam không tránh khỏi điều đó. Cuộc bán tháo xảy ra trên thị trường làm
chỉ số rơi từ 960 vào cuối năm 2019 về 650 điểm vào tháng 3/2020, chỉ trong thời
gian có 3 tháng chỉ số Vnindex đã mất 310 điểm tương đương 32% đây là một cú
giảm sốc của thị trường gây ảnh hưởng lớn đến tâm lý nhà đầu tư. Nếu so thời kỳ
đạt đỉnh tháng 4/2018 thì chỉ số Vnindex đã mất gần 50%.
Dịch bệnh bắt đầu được được kiểm soát thị trường chứng khoán hồi phục dần
từ đáy 650 đi lên 864 điểm tăng 200 điểm mức tăng khá mạnh sau khi giá cổ phiếu
định quá rẻ đã hồi phục mạnh trở lại. Sau khi dịch bệnh được kiểm soát các bệnh
pháp nới lỏng bắt đầu, mọi hoạt động kinh tế dần trở lại các chính phủ đưa ra các
gói kích thích, hỗ trợ phục hồi kinh tế sau đại dịch, kéo theo đó một làn sóng tiền rẻ
được bơm vào nền kinh tế thông qua các kênh hỗ trợ giúp TTCK phục hồi mạnh mẽ
tăng trưởng mạnh bất chấp nền kinh tế vẫn đang khó khăn chưa phục hồi hoàn toàn
do dòng tiền rẻ liên tục được bơm vào thị trường đẩy chỉ số Vnindex tăng trưởng
mạnh, thanh khoản giao dịch trung bình lên 15.000-18.000 ngàn tỷ, gấp gần 3 lần so
với trước dịch có phiên giao dịch với thanh khoản gần 2 tỷ đô cao nhất từ trước đến
nay. Các nhà đầu tư đua nhau tham gia thị trường số lượng tài khoản mở mới tăng
kỷ lục chỉ trong vòng 3 năm qua hơn 3,64 triệu tài khoản được mở mới so với khi
kết thúc năm 2019, tổng số tài khoản mới là 2,37 triệu tài khoản. Nói cách khác, chỉ
34
trong 3 năm thị trường bùng nổ gần nhất, số tài khoản mới tham gia còn lớn hơn cả
20 năm trước cộng lại. Cùng với đó số lượng các doanh nghiệp vốn hoán trên 10 tỷ
đô tăng mạnh, giá cổ phiếu đẩy lên mức quá cao vượt xa giá trị của doanh nghiệp.
Chỉ số Vnindex tăng mạnh lên mức 1511 điểm mức cao nhất trong hơn 22 năm vận
hành và hoạt động của TTCK. Sau khi TTCK thiết lập nhiều kỷ lục từ ngày giao
dịch đầu tiên thì cũng lúc các NDT chứng kiến cú sụt giảm khá mạnh trong năm
2022 khi lạm phát ở Mỹ thiết lập mức đỉnh 9.1% mức cao kỷ lục trong 40 năm trở
lại đây, buộc FED phải can thiệp vào chính sách tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và
thu hẹp bảng cân đối quyết tâm đưa lạm phát về mức dưới 2%. Hàng loạt chính
sách tiền tệ được thực hiện đẩy lãi suất đồng USD trên thị tăng cao đạt 4.5% kết
thúc năm 2022 kéo theo đó dòng tiền rút về, làm cho chỉ Vnindex giảm rất mạnh về
1007 điểm. Năm 2022, chứng kiến nhiều vụ bắt bớ tổ chức kinh tế làm ảnh hưởng
đến nặng nền đến thị trường và tâm lý nhà đầu tư từ vụ án của tập đoàn FLC, Tân
Hoàng Minh, rồi gần nhất là Vạn Thịnh Phát ảnh hưởng nghiên trọng đến tâm lý
nhà đầu tư kéo chỉ số có thời điểm về 880 điểm gần như chia đôi tính từ mức thiết
lập đỉnh 1511 điểm. Thanh khoản giao dịch trên thị trường chì loanh quanh 8000-
12000 tỷ trên một phiên giảm đi hơn nửa so với năm 2021.
Đây là giai đoạn mà TTCK xảy ra nhiều biến động mạnh trước những cú sốc
bất ngờ trên thế giới từ dịch bệnh đến chiến tranh…làm ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế cũng như TTCK. Sau mỗi biến động mạnh, TTCK dần hoàn thiện cả về phát
luật và cơ chế vân hành để đến hướng đến sự phát triển bền vững.
2.1.2. Các thành tựu của thị trường chứng khoán Việt Nam
TTCK Việt Nam đi vào hoạt động từ năm 2000 với ban đầu chỉ có hai công ty
niêm yết là công ty Cổ phần Cơ điện lạnh với mã chứng khoán REE và SAM (thuộc
Công ty Cổ phần SAM Holdings) thì đến nay đã có đến gần 1500 công ty niêm yết
trên sàn chứng khoán và khoảng 1900 công ty đại chúng. Không chỉ phát triển về số
lượng công ty niêm yết mà còn vốn hóa tăng của thị trường cũng tăng trưởng mạnh,
số lượng nhà đầu tư tham gia nhiều, các sản phẩm của thị trường cũng đa dạng hơn,
hệ thống pháp luật và cơ sở vật chất cũng được thay đổi để phù hợp với sự phát
triển của thị trường cũng như phát triển chung của nền kinh tế. Sự phát triển của
35
TTCK thể hiện trên các yếu tố sau:
Quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam
Các năm đầu hình thành và phát triển, TTCK nước ta còn rất hạn chế, quy mô
thị trường nhỏ bé, giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán còn dưới 1% so với GDP.
Thì sau hơn 22 năm mức vốn hóa TTCK đã đạt 42% so với GDP và tương đương
với mức 4.758 nghìn tỷ. Đỉnh điểm mức vốn hóa của TTCK Việt Nam ở mức 5.838
nghìn tỷ vào năm 2021 bằng 93% so với GDP năm 2021. Tỷ lệ vốn hóa thị trường
tăng nhanh theo thời gian chứng tỏ kênh đầu tư vào TTCK ngày càng được chú
trọng và đã thể hiện rõ vai trò kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế thể hiện rõ
ràng qua mức vốn hóa của thị trường.
Biểu đồ 2.1. Giá trị vốn hóa qua các năm
7000
5838.11
6000
4758.22
5000
4084.75
4000
3297.6
2875.5
2614.2
3000
2000
1491.8
678.4842.1985.31146.9
1000
495.1591.3453.8
364.4
169.7
1.6 2.4 2.4 4.2 7.4 148
1
0
Đơn vị: Nghìn tỷ
Nguồn:UBCKNN
Theo thống kê quy mô vốn hóa thị trường gần tương đồng với quy mô tín
dụng ngân hàng, giúp thị trường tài chính vận hành hiệu quả và bền vững hơn. Hơn
nữa, việc tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng hơn với nguồn vốn trung dài hạn qua thị
trường chứng khoán cũng giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí vốn, góp phần
tăng hiệu quả kinh doanh. Theo đề án mới được phát triển, thị trường chứng khoán
là thành phần chủ đạo để đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của
thị trường tài chính Việt Nam giúp khơi thông nguồn vốn trung và dài hạn cho
36
Chính phủ và các doanh nghiệp. Chính phủ đã ban hành Quyết định 368/QĐ-TTg
phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030 ngày 21/3/2022 đặt mục tiêu đến năm
2025, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 100% GDP; dư nợ thị trường trái
phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, trong đó dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt
tối thiểu 20% GDP. Đến năm 2030, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 120%
GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 58% GDP, trong đó, dư nợ thị trường
trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP.
Biểu đồ 2.2. Mức vốn hóa của TTCK Việt Nam so với GDP
100
93
88
90
79
75
80
72
70
60
50
44
42
41
35
40
33
32
31
31
30
24
20
20
13
10
0
Việt Nam 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022
Đơn vị tính: %
Nguồn:UBCKNN
Số lượng các doanh nghiệp niêm yết
Trong ngày giao dịch đầu tiên, với chỉ vỏn vẹn 2 doanh nghiệp niêm yết là
Công ty cổ phần Cơ điện lạnh và Công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông với sự
tham gia của 6 Công ty chứng khoán thành viên (SSI, FSC, BVSC, ACBS, TLS,
BSC) nhưng chỉ sau 5 năm, vào năm 2006 đã có 183 công ty niêm và đến năm 2010
số công ty niêm yết đã lên đến 627 công ty.
Hiện tại, theo thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tính đến cuối năm
2022, cả 3 sàn (niêm yết HOSE, HNX và UPCoM) mới thu hút được 1.598 doanh
nghiệp đưa cổ phiếu vào giao dịch. Ngoài con số này, UBCK cho biết, có 241
37
doanh nghiệp đã đăng ký công ty đại chúng, nhưng chưa đưa cổ phiếu vào giao dịch
trên TTCK.
Bảng 2.1. Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam
tính đến năm 2022
Sàn HSX HNX UPCOM Tổng
400 341 857 1598 Số DN niêm yết
(Nguồn: UBCKNN)
Như vậy, cộng dồn số doanh nghiệp trên 3 sàn HOSE, HNX, UPCoM với
doanh nghiệp đại chúng chưa lên sàn nhưng đã đăng ký đại chúng (tính đến cuối
năm 2022), cả nước mới có chưa đầy 1.840 doanh nghiệp phải minh bạch thông tin
theo quy định của Luật Chứng khoán. Không chỉ gia tăng về số lượng các ty niêm
yết mà còn gia tăng cả về chất lượng khi mà có tới 46 doanh nghiệp niêm yết có vốn
hóa trên 1 tỷ USD, trong đó có 3 doanh nghiệp vốn hóa trên 10 tỷ USD gồm: Ngân
hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCB), Công ty cổ phần
Vinhomes (VHM) và Tập đoàn Vingroup (VIC) theo thống kê của SGDCK
Tp.HCM. Như vậy, sau 22 năm hoạt động thì số lượng công ty tham gia niêm yết có
xu hướng tăng mạnh cho thấy nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán đang
ngày càng được chú trọng để giảm sự phụ thuộc vào kênh huy động vốn qua ngân
hàng. Thông qua TTCK giúp công ty minh bạch hơn trong công tác quản lý, kinh
doanh, nâng cao năng lực tài chính, tăng sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động...
Biểu đồ 2.3. Số lượng doanh nghiệp niêm yết tại SGDCK Tp. HCM giai đoạn
450
402
400
392
378
373
400
344
320
350
308
307
305
301
301
275
300
250
196
200
170
138
150
100
50
0
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022
38
năm 2007-2022
Nguồn: UBCKNN
Đặt con số 1.852 bên cạnh con số 800.000 doanh nghiệp đang hoạt động cho
thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp niêm yết, đại chúng trong danh sách của UBCK còn
quá nhỏ, chỉ chiếm 0,23% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. Con
số này có thể chưa bao quát, chưa cập nhất hết số doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn đại
chúng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong khi số nhà đầu tư tăng rất nhanh trên
TTCK Việt Nam thì số hàng hóa mới trên sàntăng chưa tương xứng, là một điểm
lệch lớn. Huy vộng BTC có các chỉ đạo tạo hàng mới cho TTCK và tạo thuận lợi
cho các doanh nghiệp gọi vốn qua TTCK, để cán cân cung - cầu trên thị trường cân
bằng hơn, thu hút dòng vốn đầu tư thực chất và bền vững hơn. Việc tăng số lượng
doanh nghiệp niêm yết cũng là giải pháp để TTCK hiện thực hóa mục tiêu thúc đẩy
sự minh bạch, vốn được coi là một giá trị, một văn hóa riêng có mà TTCK tạo dựng
trong nền kinh tế Việt Nam.
Số lượng các nhà đầu tư
Số lượng tài khoản trong năm đầu tiên giao dịch chưa đến 3000 tài khoản và
cũng không có NĐT nước ngoài giao dịch. Đến ngày 2/4/2001 (phiên giao dịch thứ
102), TTCK Việt Nam ghi nhận sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên
khi một nhà đầu tư cá nhân mang quốc tịch Anh đã khớp lệnh mua 100 cổ phiếu
TMS. Đến tháng 7/2003, Công ty quản lý quỹ đầu tiên tại Việt Nam VFM ra đời,
đánh dấu sự tham gia của nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp trong nước đầu tiên,
cũng mở đầu cho một dạng đầu tư tập thể mới trên thị trường. Ở giai đoạn này, tổng
số tài khoản giao dịch của nhà đầu tư đã tăng lên gấp 10 lần so với thời điểm thị
trường mới bắt đầu, nhưng con số đó vẫn còn khiêm tốn và chỉ chiếm khoảng 0,3%
so với dân số Việt Nam. Trong 2 năm (2006-2007), số lượng tài khoản giao dịch
chứng khoán của nhà đầu tư đã tăng vọt từ 31.316 tài khoản lên 349.402 tài khoản,
lập kỷ lục về tốc độ tăng trưởng (bình quân mỗi năm tăng 230%). Đồng thời, các tổ
chức trung gian tài chính là công ty chứng khoán cũng tăng vọt từ 13 công ty vào
năm 2005 lên 62 công ty vào năm 2007 và tiếp tục tăng lên 91 công ty vào năm
2008. Bên cạnh đó, số lượng tài giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài
39
từ 436 tài khoản vào năm 2005 đã tăng lên 2.100 tài khoản vào năm 2006, tương
đương tăng 382% và năm 2007 tiếp tục tăng lên 8.441 tài khoản, tương đương tăng
302%. Tính đến cuối năm 2019, số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài đạt
33.850 tài khoản, nhà đầu tư tổ chức 15.400 tài khoản, trong đó tài khoản nhà đầu
tư tổ chức nước ngoài là 5.590 tài khoản, chiếm hơn 16,5% trên tổng số tài khoản
nhà đầu tư nước ngoài (con số này vào năm 2012 là 8,9%). Tổng tài khoản nhà đầu
tư tăng trưởng trong giai đoạn 2015-2019 đạt mức trung bình 10%/năm, trong đó,
số lượng tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư tổ chức luôn tăng trưởng
ổn định và đạt mức 15%, lớn hơn so với mức tăng trưởng chung của tổng tài khoản
Biểu đồ 2.4. Tổng Số Lượng Tài Khoản Của Nhà Đầu Tư
7000
6556.224
6000
5000
4257.724
4000
2981.403
3000
2324.44
2118.53
1871.639
2000
1056.0271188.8241263.0561312.8451429.411517.8271661.995
822.869
1000
531.53
349.402
2.9978.77413.65116.50221.61631.316109.393
0
20002001200220032004200520062007200820092010201120122013201420152016201720182019202020212022
Đơn vị: nghìn
Nguồn:UBCKNN
Trong 2 năm 2021-2022 sự bùng nổ của thị trường kéo theo sự gia tăng đột
biến số lượng tài khoản nhà đầu tư, mức tăng gần gấp đôi so với giai đoạn 2019-
2020. Tổng số tài khoản chứng khoán của nhà đầu tư trong nước tới hết tháng
9/2022 đạt hơn 6,5 triệu, nếu tính mỗi cá nhân sở hữu một tài khoản thì tỷ lệ số tài
khoản cá nhân hiện tương đương 6,2% dân số. Sau 22 năm số lượng tài khoản của
NDT đã tăng mạnh cho thấy TTCK là kênh đâu tư tài chính thu hút mạnh các NDT
tham gia. Theo chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam của Chính
40
phủ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, số lượng nhà đầu tư đạt 5% dân số năm
2025 và 8% dân số vào năm 2030.
Đa dạng hóa sản phẩm đầu tư trên thị trường
Mới đầu sản phẩm trên thị trường tài chính mới chỉ có cổ phiếu và trái phiếu
Chỉnh phủ nhưng sau 5 năm xây dựng nền móng, đến cuối năm 2004, các hàng hóa
cơ bản của thị trường đã có mặt đầy đủ trên Trung tâm GDCK TP.HCM (từ cổ
phiếu, trái phiếu đến chứng chỉ quỹ đầu tư). Đến năm 2012, thị trường đã nghiên
cứu và phát triển các sản phẩm mới như đưa ra chỉ số mới VN Index30, HNX
index, UPCOM Index cho những cổ phiếu vốn hoá lớn và tính thanh khoản cao,
thời gian giao dịch kéo dài sang buổi chiều, triển khai lệnh thị trường (tạo tính linh
hoạt, thêm công cụ đặt lệnh), sản phẩm mới ETF (hoàn thiện qui chế niêm yết, công
bố thông tin, giao dịch, niêm yết, xây dựng phần mềm phụ trợ, website…). Chỉ số
VN Index 30 bao gồm 30 công ty hàng đầu trên thị trường về giá trị vốn hoá, chiếm
80% giá trị vốn hoá toàn thị trường, về thanh khoản chiếm 60% giá trị giao dịch
toàn thị trường. Để thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm đầu tư thị trường đã vận
hành thêm sản phẩm hàng hóa phái sinh vào ngày 10/8/2017, thị trường chứng
khoán phái sinh (TTCKPS) chính thức được khai trương giao dịch tại SGDCK Hà
Nội với sản phẩm phái sinh đầu tiên được giao dịch trên thị trường là hợp đồng
tương lai trên chỉ số VN30. Năm 2019, thị trường chứng khoán phái sinh có thêm
sản phẩm hợp đồng tương lai trái phiếu Chính phủ (TPCP) kỳ hạn 5 năm, và năm
2021, Sở GDCK Hà Nội tiếp tục đưa vào giao dịch sản phẩm hợp đồng tương lai
TPCP kỳ hạn 10 năm. Đến năm 2019 TTCK đón thêm sản phẩm chứng quyền có
đảm bảo trên thị trường chỉ sau thời gian hơn 2 năm triển khai thực tế, quy mô phát
hành và niêm yết CW không ngừng tăng trưởng. Tính đến 2022, có tổng cộng 414
mã CW đã niêm yết tại HOSE dựa trên 26 mã cổ phiếu cơ sở do 8 tổ chức phát
hành, với tổng khối lượng CW chào bán và niêm yết đạt hơn 1,1 tỷ CW. Sự đa dạng
các sản phẩm trên thị trường cho thấy TTCK Việt Nam đang dần hoàn thiện và phát
triển tiệm cận gần hơn với các thị trường phát triển trên thế giới để đáp ứng nhu cầu
đầu tư khác nhau của các NDT tham gia. Sự đa dạng hóa sản phẩm sẽ giúp TTCK
phát triển bền vững và ổn định hơn trong tương lai.
41
Hệ thống pháp luật và Cơ chế quản lý vận hành
Cùng với sự phát triển vượt bậc của TTCK Việt Nam trong những năm qua thì
hệ thống cơ sở vật chất và hành lang pháp lý cũng được hoàn thiện để theo kịp với
sự phát triển của thị trường. Khi mới hình thành TTCK vận hành theo khuôn khổ
của Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK được ban hành trên cơ
sở tham khảo luật chứng khoán các nước và ngày 11/7/1998 sau đó, trên cơ sở các
kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quản lý thị trường, những vấn đề mới phát sinh
và những bất cập của các văn bản pháp lý, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 của Chính phủ đã được ban hành thay thế cho Nghị định số
48/1998/NĐ-CP và cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo thành khung
pháp lý bao quát tương đối đồng bộ và đầy đủ về các hoạt động trên thị trường như:
phát hành, niêm yết, kinh doanh, giao dịch, công bố thông tin... Vào ngày
29/6/2006, Dự án Luật Chứng khoán đầu tiên đã được Quốc hội xem xét và thông
qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007. Nhưng năm 2010, Quốc hội đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán và có hiệu lực từ ngày
1/7/2011 cho đến nay Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2019 cũng đã được ban hành
và có hiệu lực từ 1/1/2021. Có thể thấy rằng, Luật Chứng khoán và các văn bản
hướng dẫn đến nay đã tương đối hoàn thiện, đặc biệt là đã cho thấy sự phù hợp của
các quy định pháp luật về chứng khoán và TTCK với từng giai đoạn của TTCK Việt
Nam, dần tiệm cận với những quy định mang tính chuẩn mực của các TTCK phát
triển trên thế giới. Bên canh đó, cơ chế quản lý và vận hành đang được triển khai
mạnh mẽ, quyết liệt từ điều chỉnh mô hình hệ thống giám sát thị trường tài chính
nói chung và điều chỉnh tổ chức, hoạt động của bộ máy quản lý, giám sát thị trường
chứng khoán nói riêng để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý, giám sát
nhằm đảm bảo tính toàn vẹn, lành mạnh, minh bạch của thị trường chứng khoán.
Ngay tại thị trường chứng khoán Việt Nam, mô hình tổ chức bộ máy quản lý, giám
sát cũng đã có điều chỉnh ban đầu từ 08 đơn vị thuộc, trực thuộc lên thành 15 đơn vị
thuộc, trực thuộc tại thời điểm hiện tại và trong tiến trình phát triển, hoàn thiện tổ
chức bộ máy cũng đã thực hiện việc chuyển 02 Sở Giao dịch chứng khoán và Trung
42
tâm Lưu ký chứng khoán từ các đơn vị sự nghiệp trực thuộc thành các đơn vị độc
lập với Ủy ban.
Tóm lại, qua các tiêu chí xem xét sự phát triển của TTCK đều cho thấy TTCK
phát triển nhanh cả về số lượng đến chất lượng phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế
toàn cầu và chiến lược phát triển bền vững kinh tế xã hội của đất nước.
2.2. Phân tích vai trò của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1. Tổng quan về nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Sau hơn hai thập kỷ đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có
những bước chuyển mình đê phát triển nhanh chóng cả về mặt quy mô và chiều sau.
Đảm bảo tốt vai trò là nơi huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế đồng thời
giúp doanh nghiệp tiếp cận được nguồn trực tiếp từ các nhà đầu tư để phát triển và
mửo rộng hoạt động kinh doanh sản xuất. Bên cạnh đó, thị trường cũng cung cấp
cho nhà đầu tư một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong
phú. Chủ thể tham gia thị trường là những người thực sự mua và bán chứng khoán
và được chia thành hai loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức (Đào Lê
Minh, 2009, tr.24).
Theo Luật chứng khoán mới nhất tại khoản 16 điều 4 Luật đầu tư chứng khoán
năm 2019 định nghĩa rất rõ ràng: "Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư
chứng khoán". Theo như định nghĩa NĐT gồm có cá nhân và tổ chức, không có sự
phân biệt NDT trong nước hay NĐT nước ngoài.
- Đối với NĐT tổ chức: Là những định chế đầu tư do các NĐT riêng lẻ hợp lại
với nhau tạo thành (thường là các quỹ đầu tư chứng khoán). Đầu tư thông qua các tổ
chức này có ưu điểm là đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được
thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Một bộ phận quan trọng của các tổ
chức đầu tư là các công ty tài chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các
ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành những NĐT chuyên nghiệp khi họ mua
chứng khoán cho mình
- Đối NĐT cá nhân: Là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua
bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên,
lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy,
43
các NĐT phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình.
Ở mỗi chủ thể tham gia thị trường đều gồm có nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài. Theo thống kê từ Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam
(VSD) cập nhật đến ngày ngày 31/12/2022 số lượng tài khoản giao dịch là
6.897.071 tài khoản trong đó có 6.854.360 tài khoản giao dịch trong nước và 42.711
tài khoản giao dịch nước ngoài.
Bảng 2.2. Số lượng tài khoản giao dịch của các chủ thể tham gia thị trường tại ngày 31/12/2022
Nhà đầu tư trong nước Nhà đầu tư nước ngoài Chủ thể tham gia Nhà đầu tư Nhà đầu tư Nhà đầu tư Nhà đầu tư tổ thị trường cá nhân tổ chức cá nhân chức
Số lượng tài khoản 6.839.633 14.727 38.383 4.328 chứng khoán
Tổng 6.897.071
(Nguồn: VSD)
Bảng 2.2 cho thấy cơ cấu tài khoản giao dịch ở thị trường chứng khoán Việt
Nam chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân trong nước với tỷ trọng 99%. Nhà đầu tư nước
ngoài và các tổ chức chiếm tỷ trọng rất nhỏ khoảng 1%. Cơ cấu tài khoản giao dịch
nhà đầu tư nước ngoài chiếm 0.62% số với tổng số tài khoản giao dịch. Con số này
tương đối thấp điều đó đòi hỏi chúng ta có cơ chế mở hơn nữa để thu hút dòng vốn
44
ngoại vào thị trường.
Biểu đồ 2.5. Cơ cấu tài khoản giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam
tính đến ngày 31/12/2022
0%
0% 1%
99%
1%
NDTCN TN
NDTTC TN
NDTCN NN
NDTTC NN
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Không thể phủ nhận cùng với sự phát triển của thị trường là sự gia tăng về quy
mô nhà đầu tư. Nếu tính theo dân số thì số lượng tài khoản chứng khoán giao dịch
chiếm 6,2% dân số (với giả định mỗi tài khoản giao dịch đại diện cho một cá nhân
hoặc tổ chức). Số lượng tài khoản mở mới gia tăng mạnh nhất diễn ra trong giai
đoạn 2016-2022 đặc biệt là trong giai đoạn 2020 -2022 khi thị trưởng chứng khoán
con sóng mạnh nhất kể từ khi thị trường ra đời.
Bảng 2.3. Số lượng tài khoản giao dịch của các chủ thể tham gia thị trường
chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2016 -2022
Năm Chủ thể
tham gia 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 thị trường
NDT CN 1,687,282 1,910,217 2,169,710 2,361,071 2,756,221 4,293,098 6,878,016
NDT TC 9,942 11,337 12,617 13,823 15,188 17,113 19,055
(Nguồn: VSD)
Từ bảng 2.3 cho thấy số lượng tài khoản giao dịch cá nhân chiếm tỷ trọng rất
45
cao hơn 99% so với tổng số tài khoản giao dịch, trong các năm đều có sự tăng
trưởng về số lượng tài khoản mở mới nhưng số lượng tài khoản giao dịch tăng đột
biến nhất diễn ra vào giai đoạn 2020-2022 tăng gấp 2.5 lần từ 2.7 năm 2020 triệu tài
khoản lên 6.8 triệu tài khoản vào năm 2022. Điều này cũng đúng với thực tế diễn ra
trên thị trường chứng khoán, khi năm 2020 giai đoạn Covid 19 xảy ra thị trường
chứng khoán có sự sụt giảm điểm rất mạnh về 650 điểm vào tháng 3/2020, các cổ
phiếu đua nhau giảm sàn khi các cổ phiếu định giá quá thấp kích thích một lượng
nhà đầu tư vào bắt đáy và tham gia mua tích sản làm gia tăng số lượng tài khoản
trong giai đoạn này. Sau khi kiểm soát được dịch bệnh, Chính phủ các nước tung
các gói kích thích hỗ trợ nền kinh tế, một lượng tiền lớn đã được bơm vào nền kinh
tế, kèm theo đó là lãi suất điều hành của Ngân hàng Trung ương cũng giảm mạnh để
kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh trở lại của các doanh nghiệp. Chính vì vậy
làm cho lãi suất tiền gửi của người dân giảm, người dân ít có xu hướng gửi tiết kiêm
và tìm kênh đầu tư sinh lời làm cho lượng tiền bơm vào thị trường mạnh mẽ đẩy giá
cổ phiếu tăng mạnh, càng kích thích các nhà đầu tư số lượng người tham gia thị
trường ngày càng lớn, có những thời điểm số lượng tài khoản mở mới tính theo
tháng đạt những con số kỷ lục 476.332 tài khoản (tháng 5/2022). Điều này cho thấy
sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán cũng như sự phổ cập chứng khoán đến
người dẫn phát huy được vai trò của thị trường là cũng cấp môi trường đầu tư cho
46
công chúng.
600000
500000
400000
300000
200000
100000
0
Biểu đồ 2.6. Lượng tài khoản nhà đầu tư cá nhân mở mới theo tháng
Nguồn: VSD
Bên cạnh sự gia tăng của tài khoản cá nhân thì tài khoản giao dịch chứng
khoán của tổ chức cũng tăng nhưng tốc độ tăng không bằng với tài khoản cá nhân.
Nếu tính từ năm 2016 thì số lượng tài khoản tổ chức tăng gần gấp đôi từ 9,942 lên
19,055 tài khoản. Tuy số lượng tài khoản của nhà đầu tư tổ chức chỉ chiếm chưa
đến 1% số với tổng số lượng tài khoản giao dịch nhưng nó tác động khá lớn đến thị
trường chứng khoán vì những lợi thế mà nhà đầu tư tổ chức có được mà nhà đầu tư
cá nhân không có như về quy mô vốn, trình độ, kinh nghiệm hiểu biết về thị trường,
47
khả năng tiếp cận thông tin, thậm chí còn đóng vai trò là tạo lập thị trường…
Biểu đồ 2.7. Số lượng tài khoản của nhà đầu tư cá nhân và tổ chức giai đoạn
NDT CN
NDT TC
2016-2022
19055
17113
6878016
15188
13823
12617
4293098
11337
9942
2756221
2361071
2169710
1910217
1687282
2 0 1 6
2 0 1 7
2 0 1 8
2 0 1 9
2 0 2 0
2 0 2 1
2 0 2 2
Nguồn:VSD
Ngoài ra, tham gia thị trường có sự đóng góp không nhỏ đến từ khối ngoại đó
là những nhà đầu tư nước ngoài tham gia kiếm lợi từ thị trường chứng khoán Việt
Nam. Cùng với sự gia tăng dòng vốn ngoại vào thị trường là sự gia tăng của nhà
đầu tư nước ngoài theo số liệu từ VSD trong giai đoạn 2016-2022 có sự gia tăng
vượt bậc tài khoản giao dịch nước ngoài nhất là tài khoản cá nhân nước ngoài.
Bảng 2.4. Số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài
giai đoạn 2016 – 2022
Năm Chủ thể tham
gia thị trường 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022
NDT CN NN 1,685 19,696 24,975 28,511 31,134 35,374 38,383
NDT TCNN 2,503 2,865 3,319 3,704 3,937 4,136 4,328
4,188 22,561 28,294 32,215 35,071 39,510 42,711 Tổng
(Nguồn:VSD)
Bảng 2.4 cho thấy số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng
48
trưởng mạnh nếu so sánh năm 2022 với năm 2016 thì số lượng nhà đầu tư nước
ngoài mở gấp hơn 9.2 lần. Đặc biệt số lượng nhà đầu tư cá nhân nước ngoài có sự
trưởng mạnh năm 2022 gấp 22 gần so với năm 2016 nhưng sự gia tăng đột biến
nhất là từ năm vào năm 2017 gấp 11.6 lần năm 2016 điều đó được lý giải khi nhà
nước cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham
gia mua cổ phần, những thương vụ thoái vốn nôi bật như thoái vốn tại công ty
Sabeco, tương đương với hơn 53% cổ phần thu về gần 110.000 tỷ đồng cho Nhà
nước. Trước đó, 3,33% vốn điều lệ tại Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk)
được Tổng công ty kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) bán thành công. Một tập đoàn
của Singapore chi ra 8.990 tỷ đồng để mua trọn lô cổ phiếu qua đấu giá này. Nói
chung trong giai đoạn này nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán
Việt Nam có sự tăng trưởng khá mạnh, đều có sự tăng trưởng qua năm cho thấy thị
trường chứng khoán Việt Nam đang ngày cảng trở lên có sức hút với các nhà đầu tư
nước ngoài.
Tóm lại, về quy mô tài khoản giao dịch chứng khoán ở thị trường Việt Nam
ngày càng tăng trưởng, số lượng nhà đầu tư cá nhân chiếm ưu thế chủ yếu đến từ
nhà đầu tư cá nhân trong nước nó thể hiện đặc điểm thị trường non trẻ đang dần
phát triển. Nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức cũng có sự tăng trưởng mạnh trong các
năm qua tuy nó chiếm tỷ trọng không lớn nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng cho
thị trường và có lẽ sẽ còn tăng trưởng mạnh khi thị trường chứng khoán Việt Nam
đang trong bước phát triển từ thị trường cận biên nên thị trường mới nổi. Thông qua
sự tăng trưởn về quy mô nhà đầu tư cho thấy TTCK Việt Nam tạo ra nhiều cơ hội
cho nhà tư tham gia, đồng thời sẽ cung cấp được lượng vốn dồi dào hơn cho nền
kinh tế nói chung, doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh đó, giúp tạo tính thanh khoản
tốt cho thị trường thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh, an toàn, hiệu quả và đa
dạng hóa được nhiều sản phẩm tài chính hơn.
2.2.2. Vai trò của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Vai trò chung của NĐT trên TTCK Việt Nam.
Thứ nhất, nhà đầu tư là một thành phần chính trên thị trường chứng khoán, là
người tham gia chủ yếu trên thị trường chứng khoán là một trong yếu tố giúp thúc
49
đẩy thị trường chứng khoán phát triển nhanh hơn trên mọi phương diện như: sự ổn
định thị trường, tạo được thanh khoản tốt hơn, thị trường đa dạng được nhiều sản
phẩm tài chính phù hợp với nhiều đối tượng nhà đầu tư.
Thứ hai, nhà đầu tư chứng khoán cung cấp nguồn vốn cho các doanh nghiệp
và cả nền kinh tế. Các tổ chức, doanh nghiệp huy động vốn bằng việc chào bán
chứng khoán của mình trên thị trường để các nhà đầu tư có thể xem xét mà lựa chọn
đầu tư vào. Các nhà đầu tư chuyển vốn của mình cho các tổ chức chào bán chứng
khoán thông qua hoạt động mua bán chứng khoán. Khi đó, nhờ có sự đầu tư của các
nhà đầu tư mà hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và của cả nền kinh
tế ngày càng được phát triển.
Thứ ba, tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được phát hành. Nhà
đầu tư tham gia vào hoạt động trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích đạt được
lợi nhuận. Vì vậy, nhà đầu tư cần chuyển đổi chứng khoán thành tiền và từ tiền
chuyển đổi thành các loại chứng khoán.
Vai trò của NĐT tổ chức trên TTCK Việt Nam
Các NĐT tổ chức có lợi thế về vốn, kinh ngiệm, trình độ nên nắm vị thế tương
đối quan trọng trên thị trường như: bảo đảm sự cân đối, cạnh tranh và hoạt động
hiệu quả của hệ thống tài chính. Đồng thời NĐT tổ chức cũng là động lực thúc đẩy
các ý tưởng và sản phẩm tài chính mới, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa khu vực tài
chính, minh bạch hóa và hoàn thiện các chuẩn mực quản trị công ty, mang lại nhiều
lợi ích cho sự phát triển của TTCK.
Các NĐT tổ chức có kinh nghiệm ứng phó trước những cú sốc tài chính tạo ra
bởi hiện tượng rút vốn ồ ạt làm TTCK giảm mạnh, mà NĐT cá nhân không làm
được như: NĐT tổ chức sẽ mua cổ phiếu quỹ để giúp giá cổ phiếu không rơi sâu
làm ảnh hưởng đến TTCK, đưa ra các thông tin nhận định để trấn an được TTCK
khi bị bán quá đà... Đây là vấn đề then chốt có thể giúp hệ thống tài chính phòng vệ
chống lại ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài.
Các NĐT tổ chức còn đóng vai trò là nhà tạo lập trên thị trường góp phần duy
trì sự linh hoạt và tính thanh khoản của một loại chứng khoán, tăng khả năng thực
hiện giao dịch của chứng khoán và nhờ đó thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư
50
đối với loại chứng khoán đó. Thông quá đó giúp TTCK phát triển ổn đinh.
Các NĐT tổ chức có vai trò định hướng đầu tư trên thị trường chứng khoán vì
các NĐT tổ chức thường là các NĐT chuyên nghiệp có khả năng tìm kiếm các cơ
hội đầu tư một cách sáng suốt qua đó dẫn dắt thị trường đi lên bền vững. Bên cạnh
đó, củng cố được vai trò của mình trên thị trường làm cho năng lực quản trị doanh
nghiệp tốt hơn.
Vai trò của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam
TTCK Việt Nam khi só sánh với các thị trường chứng khoán khác trên thế
giới vẫn còn non trẻ vì vậy đối tượng tham gia trên thị trường chủ yếu là NĐT cá
nhân trong hơn 6.89 triệu tài khoản thì có đến gần 6.83 triệu tài khoản là của các
NĐT cá nhân. Chính vì vậy TTCK Việt Nam rất dễ bị chi phối bởi hiệu ứng tâm
lý đám đông.
Các NĐT cá nhân tham gia đông đảo làm cải thiện mức độ thanh khoản của
thị trường. Bên cạnh đó, thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng và sự tiện lợi trong hoạt
động giao dịch cho nhà đầu tư, hiện đại hóa hệ thống giao dịch hỗ trợ nhiều phương
thức và hình thức giao dịch, hiện đại hóa cơ chế giao dịch và từng bước triển khai
áp dụng các kỹ thuật hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế.
Các NĐT cá nhân tham gia thị trường chiếm phần lớn sẽ thúc đẩy các cơ quan
quản lý hoàn thiện thể chế, pháp luật để hướng đến lành mạnh hóa thị trường và bảo
vệ các NĐT yếu thế. Ngoài ra thúc đẩy công tác đào tạo công chúng, nâng cao nhận
thức xã hội về chứng khoán nhằm hướng đến TTCK phát triển ổn định và bền vững.
2.3. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cổ phiếu của
nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Có nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đâu tư cổ phiếu của NDT trên
TTCK Việt Nam ở góc độ nghiên cứu tác giả đưa ra những nhân tố chính tác động
như sau:
2.3.1. Lợi suất đầu tư
Như cơ sở lý thuyết tác giả cũng đã phân tích rất chi tiết về kỳ vọng sinh lời
của nhà đầu tư có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư. Điều này còn
được kiểm chứng bởi lý thuyết và các mô hình trong quản lý danh mục đầu tư như
51
mô hình CAPM, mô hình APT…Nhân tố khả năng sinh lời ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư của nhà đầu tư cũng được kiểm định thực tiễn bởi nhiều học giả như
Nagy và Obenberger (1994), Al-Tamimi (2005), Nguyễn Ngọc Diệp (2011)…ở các
thị trường khác nhau nhưng cho cùng một kết quả nhân tố tỷ suất sinh lời kỳ vọng
có mối quan hệ cùng chiều với quyết định đầu tư. Ở TTCK Việt Nam nhân tố khả
năng sinh lời cũng là yếu tố quan trọng dẫn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư.
So sánh tỷ suất sinh lời giữa các kênh đầu tư khác trên thị trường
Theo nghiên cứu của quỹ Dragon Capital Việt Nam thì trong hơn 20 năm qua
kênh đầu tư sinh lời vượt trội ở Việt Nam là cổ phiếu, mang lại tỷ suất sinh lời trung
bình từ 16%/năm. Đứng thứ 2 là kênh đầu tư bất động sản tỷ suất sinh lời trong
khoảng trung bình 11-12.5%/năm, tiếp theo là đầu tư vào vàng mang lại tỷ suất
trung bình 9%/năm sau đó mới đến tiền gửi tiết kiệm mang lại tỷ suất sinh lời
8%/năm. Cuối là đầu tư vào tiền năm giữ đô la mang lại tỷ suất trung bình 2.2%.
Tuy nhiên tỷ suất sinh lời phụ thuộc vào từng giai đoạn, nhưng đầu tư vào thị
trường cổ phiếu vẫn cho tỷ suất sinh lời cao hơn cả.
Biều đồ 2.8. So sánh tỷ suất sinh lời với các kênh đầu tư khác nhau ở Việt Nam
52
trong giai đoạn 2020-2021
Nguồn: Dragon Capital, Bloomberg
Nhìn vào biểu đồ cho thấy nếu xét 5 năm gần đây thì hiệu suất sinh lời của thị
trường cổ phiếu 2016 đến 2021 đạt tới 19,2%, so với mức hơn 12.1% của bất động
sản, 9.8% của trái phiếu và khoảng 6.1% của tiền gửi hoặc vàng. Khoảng cách giữa
giữa các kênh đầu tư có sự khác biệt nhau khá lớn. Nhưng nếu xét trong 15 năm bất
động sản lại là kênh đầu tư hiệu quả nhất với tỷ suất sinh lời bình quân lên đến
11,5%/năm. Điều này đồng nghĩa, nếu rót 1 tỷ vào bất động sản từ năm 2007 nhà
đầu tư có thể thu được khoản tiền hơn 5,1 tỷ đồng, tính theo tốc độ sinh lời chung
của thị trường. Sau đó mới đến thị trường cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi, vàng tiền tệ.
Bảng 2.5. Bảng mô phỏng lợi suất đầu tư qua các kênh đầu tư trong các giai
đoạn 2000 -2021 trên thị trường Việt Nam
Đơn vị: Triệu đồng
Cổ Bất động Trái Tiền Đô la Vàng Khoảng thời gian phiếu gửi phiếu sản Mỹ
5 năm (2016 - 2021) 19.2 12.1 9.8 6.2 6.1 0.2
10 năm (2011 - 2021) 15.8 8.9 9.9 7.3 1.66 0.9
15 năm (2006 - 2021) 10.8 11.5 9.1 8.3 7.2 2.4
21 năm (2000 - 2021) 15.9 11.9 9.4 8 9 2.2
Vốn đầu tư ban đầu 100 triệu
5 năm (2016 - 2021) 241 177 160 135 134 101
10 năm (2011 - 2021) 434 235 257 202 118 109
15 năm (2006 - 2021) 466 512 369 331 284 143
21 năm (2000 - 2021) 2217 1060 660 503 611 158
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Nhìn vào bảng mô phỏng nếu như nhà đầu tư bỏ ra 100 triệu vào các kênh đầu
tư thì sau 21 năm đầu tư thì kênh đầu tư cổ phiếu mang lại giá trị cao nhất 2.2 tỷ gấp
22 lần vốn ban đầu, sau đó là bất động 1.06 tỷ tương đương với 10 lần vốn ban đầu,
khi đầu tư vào thu được 660 triệu, vàng 611 triệu, tiền gửi tiết kiệm 503 triệu tương
đương gấp 5-6 lần vốn ban đầu. Cuối cùng thấp nhất là đầu tư vào đô la Mỹ chỉ thu
53
được 158 triệu. Điều này đúng không chỉ riêng thị trường Việt Nam, thị trường Mỹ
cũng cho hiệu suất sinh lời của cổ phiếu chiếm áp đảo nếu xét trong khung thời gian
trung và dài hạn. Cùng khoảng thời gian 100 năm nếu nhà đầu tư bỏ 1000 USD vào
cổ phiếu thì tiền thu được là hơn 21 triệu USD. Với cùng khoản tiền này đầu tư vào
trái phiếu doanh nghiệp sẽ thu về hơn 540.000 USD, còn đầu tư vào vàng sẽ thu về
gần 100.000 USD. Mỗi kênh đầu tư có mức rủi ro khác nhau, nhà đầu tư có xu
hướng lựa kênh đầu tư phù hợp khẩu vị rủi ro và tỷ sinh lợi mong muốn của các nhà
đầu tư. Trong đó gửi tiết kiệm được xếp vào kênh đầu tư an toàn nhất và lợi suất
sinh thấp, cổ phiếu xếp vào kênh rủi ro cao với mức sinh lời cao. Dưới đây là bảng
tổng hợp các đặc điểm khi đầu tư vào các kênh đầu tư như vàng, tiết kiệm, bất động
sản, trái phiếu, cổ phiếu giúp cho nhà đầu tư đưa ra quyết định lựa chọn kênh đầu tư
phù hợp với mình
Bảng 2.6. Bảng so sánh các kênh đầu tư
Đặc điểm Kênh đầu
Lợi suất tư Ưu điểm Nhược điểm đầu tư
- Khả năng tăng - Thông tin thị trường
trưởng dài hạn rất tốt, đặc thiếu minh bạch
biệt tại nền kinh tế đang - Cần có kiến thức,
phát triển tốt như Việt khả năng phân tích về thị
Nam trường Cao Cổ phiếu - Khả năng thanh
khoản cao, thị trường lớn
Đa dạng mã cổ phiếu
thuộc nhiều ngành khác
nhau
- Phù hợp với xu - Yêu cầu nguồn vốn
hướng đầu tư của người rất lớn Bất động Việt - Thanh khoản thấp Cao sản - Tài sản có giá trị - Cần hiểu biết về thị
54
nội tại lớn trường và thông tin hữu
ích
- Rủi ro pháp lý lớn
- Lãi suất được cam - Khả năng thanh
kết đảm bảo trong dài khoản bị phụ thuộc vào
hạn, cao hơn gửi tiết kiệm công ty tài chính phát
(6 – 11% so với chỉ 6 – hành trái phiếu và cung
8%) cấp giao dịch thứ cấp
- Có thể tái đầu tư để - Độ thanh khoản bị
đạt lãi suất kép (giao dịch phụ thuộc nhiều vào thị
thứ cấp) trường Thấp Trái phiếu
- Trái phiếu có thể - Rủi ro gia tăng nếu
cầm cố như tài sản đảm doanh nghiệp phát hành
bảo mà không cần bán ra bị ảnh hưởng xấu
- Tính thanh khoản ổn
định do khả năng giao
dịch thứ cấp (mua, bán
trước kỳ hạn)
- Không yêu cầu - Phụ thuộc vào chính
nhiều kiến thức về tài sách lãi suất của NHNN
chính - Phụ thuộc nhiều vào
- Kênh đầu tư an toàn nhiều kinh tế vĩ mô như Thấp Tiết kiệm nhất, rủi ro rất thấp, tính tỷ giá, lạm phát
thanh khoản cao
- Lãi suất ổn định
theo kỳ
- Có giá trị nội tại - Phụ thuộc nhiều vào
- Thanh khoản cao, các yếu tố (chu kỳ kinh Trung bình Vàng lượng giao dịch lớn tế, giá vàng thế giới,…)
- Lưu trữ khó khăn
55
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Lợi suất đầu tư và ảnh hưởng của lãi suất
Thực tế cho thấy khi mặt bằng lãi suất thấp thì lợi suất sinh lởi của cổ phiếu
tăng, điều này đã mình chứng rõ nhất trong khoảng thời gian xảy ra đại dịch covid -
19 toàn cầu. Lúc đó, đại dịch Covid -19 xảy ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
nền kinh tế qua thế thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng rất nặng nề, thị
trường giảm điểm thê thảm chỉ số Vnindex rơi từ gần 960 điểm về 650 điểm vào
tháng 3/2020. Trong bối cảnh đó, không chỉ riêng chứng Việt Nam rơi điểm mạnh
các thị trường chứng khoán khác cũng giảm điểm rất mạnh như chỉ số Hangsang rơi
từ 29100 điểm về 21100 điểm mất hơn 8000 điểm chỉ trong khoảng thời từ tháng 1
đến tháng 3 năm 2020, chỉ số DowJones còn rơi từ 28200 điểm về 18217 điểm mất
hơn 10000 điểm chỉ trong 3 tháng. Khi tình hình dịch bệnh có phần nào được kiểm
soát, các bệnh pháp phòng chống dịch được phổ biến, vacxin được nghiên cứu cấp
tốc để phòng dịch thì cũng đúng lúc thị trường chứng khoán thế giới tạo đáy đi lên
và thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không ngoại lệ xu hướng chung đó. Để
đối phó với đại dịch và chiến lược khôi phục kinh tế sau đại dịch các quốc gia tung
ra nhiều gói hỗ trợ, cũng như thực hiện chính sách mở tiền tệ. Trước tình hình như
vậy, Chính phủ đã kêu gọi tập trung mọi nguồn lực xã hội để thực hiện chiến lược
kép “vừa chống dịch và phục hồi sản xuất kinh doanh”. Song song với thực hiện
nhiều chính sách của Chính phủ thì NHTW đã thực thực hiện giảm lãi suất điều
hành 3 lần trong năm 2020 đồng thời giảm trần lãi suất huy và cho vay của các
TCTD để kích cầu tín dụng cho nền kinh tế đồng thời chỉ đạo các NHTM thực hiện
giãn nợ, không chuyển nhóm nợ, hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp để sớm phục hồi
sản xuất.
Bảng 2.7. Lãi suất điều hành của NHNN trong năm 2020
Lãi suất điều hành Lần 1 (tháng 3/2020) Lần 2 (tháng 5/2020) Lần 3 (tháng 10/2020)
Lãi suất tái Từ 6% xuống 5% Từ 5% xuống 4.5% Từ 4.5% xuống 4% cấp vốn
56
Lãi suất tái Từ 4% xuống 3.5% Từ 3.5% xuống 3% Từ 3% xuống 2.5% chiết khấu
Lãi suất cho Từ 7% xuống 6% Từ 6% xuống 5.5% Từ 5.5% xuống 5% vay qua đêm
(Nguồn:NHNN)
Tính chung từ đầu năm 2020, NHNN đã 3 lần điều chỉnh giảm đồng bộ các
mức lãi suất với tổng mức giảm tới 1,5 đến 2,0%/năm lãi suất điều hành đây là một
trong các ngân hàng trung ương có mức cắt giảm lãi suất điều hành lớn nhất trong
khu vực, giảm 0,6 đến 1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi; giảm 1,5%/năm trần lãi suất
cho vay. Vì vây, lãi suất huy động của dân chúng cũng giảm mạnh làm nhu cầu gửi
tiết kiệm của người dân cũng giảm qua đó kích thích người dân tiêu dùng, đầu tư.
Bảng 2.8. Lãi suất huy động bằng VND trong năm 2020
Thời hạn Lãi suất
< 1 tháng 1 6 tháng 612 tháng >12 tháng huy động
0,1- 0,2%/năm 3,2 - 3,9%/năm 4 - 6%/năm 5,6 - 6,8%/năm VND
(Nguồn: NHNN)
Biều đồ 2.9. Lãi suất huy động của VietcomBank năm 2020 (%/năm)
6.5
6.5
6.5
6.5
6.5
6.5
6
6
6
6
5.8
5.6
5.3
5.3
5.3
4.9
4.8
4.8
4.8
5.1 4.7
4.9 4.5
4.4
4.25
4.2
4.4 4
4.4 4
4
3.9
3.8
3.6
3.4
3.3
3 tháng
6 tháng
12 tháng
Nguồn: Ngân hàng VCB
Đây là mức lãi suất thấp nhất trong nhiều năm qua nên lượng tiền gửi giảm
57
mạnh do tỷ suất sinh lời từ kênh đầu từ gửi tiền qua hệ thống ngân hàng không còn
được hấp dẫn với dân chúng. Dân chúng có xu hướng đi tìm kênh đầu tư mang lại
hiệu suất sinh lời cao hơn như chứng khoán, bất động sản, thị trường tiền số… Mặc
dù bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh nhưng với mặt bằng lãi suất thấp đã kích thích làn
sóng đầu tư, dân chúng đua nhau đổ tiền vào thị trường chứng khoán trong giai
đoạn 2020-2021. Số lượng tài khoán chứng khoán tăng trưởng ấn tượng đạt hơn 3.1
triệu tài khoản vào cuối năm 2020 và chỉ số Vnindex đã có chuỗi tăng điểm rất
mạnh mẽ từ 650 điểm lên 1103 điểm vào cuối năm 2020, chỉ số tăng gần gấp đôi so
với đáy. Tỷ suất sinh lời nếu tính theo Vnindex đạt 69.7% cao hơn gấp rất nhiều lần
so với kênh lãi suất tiền gửi của ngân hàng điều này tạo ra sức hút lớn người tham
gia đầu tư trên thị trường.
1200
1103.87
1003.08
936.62
1000
882.19
881.65 905.21 925.47
864.47
825.11 798.39
769.11
800
662.53
Biểu đồ 2.10. Giá đóng cửa của chỉ số Vnindex theo tháng năm 2020
ị r t
600
á i G
400
200
0
Nguồn:Tác giả tự tổng hợp
Bước sang năm 2021 dịch bệnh dần được kiểm soát tốt và NHTW tiếp tục duy
trì mức lãi suất thấp để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất và nền
kinh tế tăng trưởng trở lại. Với chính sách tiền tệ mở rộng duy trì trong thời gian
gần 2 năm đã tác động tích đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tiếp
cận được nguồn vốn với chí phí giá rẻ hơn, được hưởng nhiều cơ chế ưu đãi với gói
hỗ trợ tín dụng của nhà nước giúp lợi nhuận các doanh nghiệp tăng trưởng trở lại,
có nhiều doanh nghiệp đạt mứ lợi nhuận kỷ lục từ ngày lên sàn như nhóm cổ phiếu
ngành thép, ngành phân bón, ngành bất động sản,…Điều này đẩy chỉ số chứng
58
khoán tăng trưởng mạnh mẽ lên mức cao mới kết thúc năm 2021 chỉ số Vnindex đạt
hơn 1500 điểm đây cũng là đánh dốc cao nhất từ trước đến nay, lượng nhà đầu tư
mở mới tham gia chứng khoán năm 2021 tăng lên gần 1.5 lần so với năm 2020 đạt
4.31 triệu tài khoản. Tỷ suất sinh lời theo chỉ số Vnindex trong năm 2021 đạt gần
40% so với đầu năm. Khi chỉ số tăng từ 1103 điểm lên 1536 điểm, có rất nhiều mã
cổ phiếu mang lại tỷ suất sinh lời cho nhà đầu tư 200-300%, thậm chí có mã chứng
khoán đem lại mức sinh lời 500%. Đây là mức tỷ suất sinh lời quá hấp dẫn đáng
kinh ngạc đã xảy ra trong năm 2020-2021 mà chỉ có được ở giai đoạn tiền rẻ, lượng
tiền bơm ra thị trường lớn.
Cuộc chiến tranh Nga và Ukraina xảy ra vào đầu năm 2022 gây ảnh hưởng
đến chính trị - kinh tế thế giới, sự thiếu hụt hàng hóa cơ bản như dầu mở, khí đốt,
lương thực, than đá, phân đạm…do sự cấm vận của các nước phương tây đối với
Nga làm cho thị trường hàng hóa tăng giá phi mã, kéo theo hệ lụy lớn đến lạm phát
toàn cầu tăng theo do tác động bởi chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo. Mức lạm phát ở
Mỹ tăng kỷ lục lên 9.1% lớn nhất trong 40 năm trở lại đây, lạm phát phương tây
cũng tăng lên 2 con số. Việc lạm phát tăng còn xuất phát từ chính sách nới lỏng tiền
tệ trong 2 năm qua được thực hiện để khôi phục kinh tế.
Biểu đồ 2.11. Lạm phát của Mỹ qua các năm
59
Nguồn: Bloomberg
Trước tình hình đó, Cục dự trữ Liên bang (Fed) và NHTW các nước bắt đầu
kìm chế lạm phát bằng chính sách thắt chặt tiền tệ và thu hẹp bảng cân đối. Fed liên
tục thực hiện tăng lãi suất điều hành và duy trì đến khi thấy được tình trạng lạm
phát có dấu hiệu giảm trở về mức 2% trở xuống. Tính đến cuối năm 2022 lãi suất
điều hành Fed tăng lên mức 4.5% và dự kiến vẫn tiếp tục tăng mức trên 5% trong
năm 2023 đây là mức tăng mạnh nhất sau 40 năm khiến cho tỷ giá tăng toàn cầu
tăng mạnh. Đứng trước tình hình biến động bất thường của yếu tố bên ngoài,
NHNN Việt Nam cũng đưa ra nhiều chính sách ứng phó để giảm thiểu thấp nhất
đến nền kinh tế trong nước. Khi tỷ tăng mạnh NHNN đã bán hơn 20 tỷ USD dự trữ
ngoại từ đầu năm 2022 giảm mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam xuống mức 89 -
90 tỷ USD, tương đương với giá trị nhập khẩu khoảng 3 tháng để kiềm chế đà tăng
của tỷ giá, giúp cho đồng VND mất giá chỉ khoảng 5% thấp nhất khu vực Đông
Nam Á. Song hành với đó là bắt đầu điều chỉnh chính sách tiền tệ thông qua lãi suất
điều hành. Đây cũng là lần đầu tiên lãi suất điều hành tăng liên tục trong 2 tháng
liên tiếp mỗi lần tăng 1%.
Bảng 2.9. Lãi suất điều hành của NHNN năm 2022
Lãi suất điều hành Lần 1 (tháng 9/2022) Lần 2 (tháng 10/2022)
Lãi suất tái cấp vốn Từ 4% lên 5% Từ 5% lên 6%
Lãi suất tái chiết khấu Từ 2.5% lên 3.5% Từ 3.5% lên 4.5%
Lãi suất cho vay qua đêm Từ 5% lên 6% Từ 6% lên 7%
(Nguồn: NHNN)
Trước sự biến động quá lớn từ yếu tố bên ngoài và mặt bằng lãi suất tăng
mạnh, chỉ số Vnindex có cú sụt giảm rất mạnh từ đỉnh 1536 điểm đã có lúc rơi về
gần 880 điểm thấp cả lúc trước dịch bệnh xảy ra. Do giai đoạn tiền rẻ không còn
nữa, lãi suất tăng cao và thị trường tiềm ẩn nhiều rủi ro cao nên nhà đầu tư bán tháo
cổ phiếu và rút ra khỏi thị trường. Khi lãi suất điều hành tăng kéo theo lãi suất huy
động tăng cao, tỷ suất sinh lời thông qua kênh tiền gửi được đảm bảo làm cho dòng
60
tiền rút khỏi thị trường ngày càng mạnh khiến cho thị trường có cú sập lớn như vậy.
1600
1478.441498.281478.961490.131492.15
1366.8
1292.68
1280.51
1400
1197.6 1206.3
1132.11
1200
1027.971048.42
1000
Biểu đồ 2.12. Giá đóng cửa của chỉ số Vnindex theo tháng năm 2022
ị r t
800
á i G
600
400
200
0
Nguồn:Tác giả tự tổng hợp
Lãi suất tiền gửi vào hệ thống tăng rất mạnh trước sức của lãi suất điều hành
và sự thiếu hụt thanh khoản của hệ thống, nhu cầu đáo hạn trái phiếu của các doanh
nghiệp tăng cao vào cuối năm mà chủ yếu trái phái bất động sản lĩnh vực ngành
nghề không ưu tiên và có nhiều rủi ro càng đẩy lãi suất huy động và cho vay tăng
cao trong giai đoạn cuối năm 2022. Có những ngân hàng huy động với lãi suất 6
tháng hoặc 12 lên đến 10%/năm để đảm thanh khoản cho ngân hàng, các ngân hàng
chạy đua tăng lãi suất huy động tạo ra sức hút lớn cho các nhà đầu tư.
3 tháng
6 tháng
12 tháng
24 tháng
.
5 9 9
.
6 9
.
.
.
.
5 2 9
.
.
2 9
2 9
.
1 9
.
.
9
.
.
9 8
9 8
5 8 8
.
7 8
7 8
.
.
6 8
6 8
5 8
3 8
3 8
.
.
.
8 7
5 7 7
.
.
.
.
.
.
5 7
2 4 7
4 7
4 7
4 7
4 7
3 7
.
7
8 6
.
.
6
6
6
6
6
6
6
6
9 5
.
.
7 5
4 5
4 5
V C B
B I D
S C B
B A B
T C B
V P B
S T B
N C B
K L B
S S B
Biểu đồ 2.13. Thống kê lãi suất tiền gửi của số Ngân hàng tại ngày 1.12.2022
61
Nguồn:Tác giả tự tổng hợp
Trước sự hấp dẫn từ lãi suất tiền gửi mang lại tỷ suất sinh lời cao hơn so với
trước đại dịch với mức độ an toàn hơn kênh các kênh đầu tư khác, kèm theo những
lo ngại bất ổn của nền kinh tế toàn cầu phần lớn nhà đầu tư đã rút khỏi các kênh đầu
tư như chứng khoán, bất động,..Đây cũng là sự lựa chọn hợp lý trước bối cảnh toàn
cầu và trong nước.
Tóm lại, quyết định đầu tư vào thị trường chứng khoán phụ thuộc lớn vào tỷ
suất sinh lời và mặt bằng lãi suất thấp là yếu tố xúc tác đến chuyển hướng đầu tư
của nhà đầu tư phù hợp với từng giai đoạn của nền kinh tế. Khi lãi suất điều hành
của NHNN có xu hướng giảm sẽ tác động ngược chiều với chỉ số Vnindex và ngược
lại được tác giả thể hiện qua biểu đồ so sánh sự biến động của lãi suất điều với chỉ
số Vnindex.
Biểu đồ 2.14. So sánh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khâu với chỉ số
Vnindex trong giai đoạn 2020-2022
1600
7
1400
6
1200
5
1000
4
800
3
600
2
400
1
200
0
0
0 2 0 2 / 1 1 T
2 2 0 2 / 6 0 T
0 2 0 2 / 1 0 T
0 2 0 2 / 2 0 T
0 2 0 2 / 3 0 T
0 2 0 2 / 4 0 T
0 2 0 2 / 5 0 T
0 2 0 2 / 6 0 T
0 2 0 2 / 7 0 T
0 2 0 2 / 8 0 T
0 2 0 2 / 9 0 T
0 2 0 2 / 0 1 T
0 2 0 2 / 2 1 T
1 2 0 2 / 1 0 T
1 2 0 2 / 2 0 T
1 2 0 2 / 3 0 T
1 2 0 2 / 4 0 T
1 2 0 2 / 5 0 T
1 2 0 2 / 6 0 T
1 2 0 2 / 7 0 T
1 2 0 2 / 8 0 T
1 2 0 2 / 9 0 T
1 2 0 2 / 0 1 T
1 2 0 2 / 1 1 T
1 2 0 2 / 2 1 T
2 2 0 2 / 1 0 T
2 2 0 2 / 2 0 T
2 2 0 2 / 3 0 T
2 2 0 2 / 4 0 T
2 2 0 2 / 5 0 T
2 2 0 2 / 7 0 T
2 2 0 2 / 8 0 T
2 2 0 2 / 9 0 T
2 2 0 2 / 0 1 T
2 2 0 2 / 1 1 T
Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất tái cấp vốn
Giá đóng cửa của Vnindex theo tháng
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
2.3.2. Thanh khoản thị trường
Tính thanh khoản của thị trường chứng khoán là nhân tố quyết định đến
việc tham gia đầu tư của nhà đầu tư vì sự thuận tiện chuyển đồi từ tài sản là cổ
62
phiếu ra tiền mặt nhanh chóng. Thông thường nhà đầu tư dành số tiền nhà rỗi để
tham gia đầu tư chứng khoán nhằm kiếm lợi nhuận, song khi cần tiền mặt để đáp
ứng các nhu cầu cá nhân hoặc chuyển hướng đầu tư họ lại nuốn chuyển nhượng
chứng khoán đang sở hữu để thu tiền về. Khi nhà đầu tư muốn thực hiện hóa lợi
nhuận hoặc muốn cắt lỗ thì cũng rất dễ hàng bởi có rất nhiều người tham gia vào
mua bán và việc thực hiện bằng các thao tác rất đơn giản, thời gian chuyển đổi từ
cổ phiếu sang tiền mặt cũng rất nhanh. Đây cũng là đặc tính của thị trường tạo
nên hấp dẫn cho nhà đầu tư nó cho thấy thị trường có tính linh hoạt, thuận tiện
và an toàn vốn đầu tư. Thanh khoản thị trường càng cao thì trị trường hoạt động
càng năng động và hiệu quả.
Biểu đồ 2.15. Thanh khoản và khối lượng giao dịch trung bình theo
35000
25.0
30000
20.0
25000
15.0
20000
15000
tháng trong giai đoạn 2020 -2022
D G L K
D G T G
10.0
10000
5.0
5000
0
0.0
Khối lượng giao dịch (tỷ cổ phiếu)
Thanh khoản (tỷ đồng)
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Biểu đồ 2.15 cho thấy thanh khoản giao dịch và khối lượng giao dịch trung
bình trên tháng có mối quan hệ thuận chiều nhau. Thanh khoản và khối lượng giao
dich có xu hướng tăng trong khoảng thời gian từ tháng 01/2020 đến tháng 12/2021
và có xu hướng giảm trong giai đoạn từ tháng 01/2022 đến tháng 11/2022. Thanh
khoản giao dịch cao nhất đạt 32.602 tỷ đồng tương đương với khối lượng giao dịch
là 23 tỷ cổ phiếu tại thời điểm tháng 12/2021 và thấp nhất là 3.670 tỷ đồng tương
63
đương khối lượng giao dịch đạt 2.4 tỷ cổ phiếu vào thời điểm 01/2020. Khi thị
trường tăng điểm sẽ kéo theo sự gia tăng về thanh khoản và khối lượng giao dịch,
ngược lại khi thị trường giảm điểm thì kéo theo thanh khoản và khối lượng giao
dịch cũng giảm.
Mặt khác thanh khoản của thị trường cũng tác động đến tỷ suất sinh lời của
nhà đầu tư điều này đã thực nghiệm cả về mặt lý thuyết và thực tế như nghiên cứu
của Jun, Marathe, and Shawky (2003) thực nghiệm trên các thị trường mới nổi
trong khu vựccác quốc gia châu Á, Âu, Phi, Trung Đông và Mỹ La tinh cho thấy tỷ
suất sinh lời chứng khoán tại thị trường các nước mới nổi có mối tương quan dương
với thanh khoản của toàn bộ thị trường. Tại Việt Nam nghiên cứu của Võ Xuân
Vinh (2017) cũng chỉ ra mối quan hệ đồng biến giữa thanh khoản và tỷ suất sinh lợi
cổ phiếu. Thực tế cũng cho thấy trong giai đoạn tăng trưởng của thị trường thanh
khoản thị trường rất sôi động, ngược lại giai đoạn giảm điểm thị thanh khoản thông
thường sẽ giảm dần đi điều này lý giải cũng rất hợp bởi dòng tiền tham gia thị
trường, giai đoạn chứng khoán tăng điểm thì dòng tiền tham gia thị trường tăng
trưởng mạnh do vậy kéo theo thanh khoản tăng, khi thị trưởng bước vào giai đoạn
giảm điểm dòng tiền rút khỏi thị trường tìm kiếm kênh đầu tư khác thanh khoản
cũng sụt giảm. Mối quan hệ này được thể hiện rất rõ trên đồ thị trong giai đoạn
2020-2022 của thị trường. Khi chỉ số Vnindex bước vào giai đoạn tăng điểm từ
tháng 3/2020 đến 12/2021 thì thanh khoản thị trường cũng có xu hướng tăng, khi
chỉ số Vnindex giảm điểm trong giai đoạn 2021-2022 kéo theo thanh khoản thị
trường cũng giảm theo. Thị trường trong năm 2021 thanh khoản trung bình 18.000-
20.000 ngàn tỷ có phiên đột biến có phiên giao dịch lên hơn 52.000 nghìn tỷ đạt kỷ
lục từ trước đến nay, sang năm 2021-2022 thanh khoản giảm dần có lúc chỉ hơn
64
5000 tỷ, giảm gần gấp 10 lần so mức cao nhất năm 2021.
Biểu đổ 2.16. Thanh khoản thị trường và chỉ số Vnindex trong giai đoạn
35000
1600
1400
30000
1200
25000
1000
20000
800
15000
600
10000
400
5000
200
0
0
Giá trị thanh khoản trung bình theo tháng
Giá đóng cửa của Vnindex theo tháng
2020-2022
Nguồn:Tác giả tự tổng hợp
Như vậy, thanh khoản thị trường tác động đến quyết định đầu tư chứng khoán
của nhà đầu từ hai khía cạnh đó là tính linh hoạt trong việc dễ dàng chuyển đổi
thành tiền mặt và tác động đến tỷ suất sinh lời.
2.3.3. Tâm lý hành vi của nhà đầu tư
Đặc điểm của TTCK Việt Nam là nhà đầu tư cá nhân chiếm 99% đối tượng
tham gia thị trường do vậy yếu tố tâm lý hành vi có ảnh hưởng rất lớn đến quyết
định đầu tư. Theo Seth Klarman đã từng viết “tâm lý là yếu tố chi phối hành vi đầu
tư, chúng có ý nghĩa quan trọng trong xác định giá chứng khoản”. Theo Philip
Fisher “yếu tố tâm lý học quan trọng hơn yếu tố kinh tế học để có thể giúp bạn
quyết định khi nào mua”. Yếu tố tâm lý đầu tư của nhà đầu tư không chỉ được
nghiên cứu về mặt lý thuyết còn có nhiều công trình nghiên cứu thực tế trên các thị
trường tài chính khác nhau như S. J. Abul (2019) đã nghiên cứu ảnh hưởng của các
nhân tố tâm lý đối với hành vi của nhà đầu tư liên quan đến Sở giao dịch chứng
khoán Kuwait (KSE), Nghiên cứu của Nagy và Obenberger (1994) về các yếu tố
ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân, trên thị trường chứng
65
khoán Mỹ đều cho thấy nhà đầu tư bị chi phối bởi yếu tố tâm lý. Tại thị trường Việt
Nam, các nghiên cứu chung về TTCK và các NĐT, trong đó có NĐT cá nhân là khá
nhiều. Các nghiên cứu của Trần Nam Trung (2009); Trần Thị Hải Lý Hoàng
ThịPhương Thảo (2010), Nguyễn Đức Hiển (2012); Võ Tuấn Vũ (2015)đã giải
thích được các hành vi của TTCK về sự tồn tại của các yếu tố tâm lý đó. Tuy nhiên
những nghiên cứu trên cho thấy TTCK Việt Nam trong các thời điểm khác nhau có
sự thay đổi vềcác yếu tố tâm lý của NĐT, có những giai đoạn phục hồi tăng điểm
khá cao nhưng dường như niềm tin của NĐT ít nhiều đã có sự suy giảm, các NĐT
hầu như thận trọng hơn trong các quyết định giao dịch của mình, do vậy, những
nghiên cứu trước đây không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay, cần thiết có những
nghiên cứu mới hơn và những giải pháp tốt hơn để giúp cho các NĐT đầu tư có
hiệu quả hơn. Qua các nghiên cứu cho thấy, có rất nhiều yếu tố tâm lý có tác động
đáng kể đến hành vi NĐT. Trong số đó có 6 yếu tố tâm lý phổ biến tồn tại ở hầu hết
mỗi con người đó là: quá tự tin, lạc quan quá mức, tính đại diện, neo quyết định, bi
quan và hiệu ứng đám đông. Trong bài nghiên cứu này tác giả đi tập trung phân tích
chủ yếu yếu tố tâm lý bầy đàn, quá tự tin, quá lạc quan hoặc bi quan và sợ thua lỗ
trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhất là giai đoạn 2019-2022 khi xảy ra dịch
Covid 19.
Trong giai đoạn bùng nổ của thị trường chứng khoán 2020-2021 nhà đầu tư
còn bị chi phối bởi hiện tượng không còn cơ hội nào khác hay gọi là hiệu ứng tâm
lý TINA (There is No Alternative). TINA bắt nguồn từ Victoria Herbert Spencer và
trở thành khẩu hiệu của Thủ tướng Anh Margaret Thatcher vào những năm 1980.
Hiệu ứng TINA đã được kiểm nghiệm bởi các nhà đầu tư trong những năm gần đây
nói đến việc các lựa chọn thay thế thích hợp cho một khoản đầu tư. Bên cạnh đó,
tâm lý NĐT còn bị chi phối rất mạnh bởi hiệu ứng FOMO. FOMO là từ viết tắt của
Fear Of Missing Out, nói về một trạng thái tâm lý nảy sinh khi trong tiềm thức bị
dẫn lối bởi suy nghĩ “phải thực hiện ngay nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội”. Nó bắt nguồn
từ cảm giác sợ hãi khi không nắm bắt được cơ hội hay bỏ lỡ một điều gì đó rất giá
trị. Cảm giác này xuất hiện khi cổ phiếu tăng mạnh trong thời gian ngắn thúc NĐT
mua cổ phiếu không sẽ lỡ cơ hội kiếm lời.
TINA là lời giải thích đầu tiên cho cơn sốt chứng khoán 2020. Dịch COVID-
66
19 bùng phát trên thế giới khiến hoạt động kinh doanh và cuộc sống xã hội ở nhiều
nơi ngưng trệ, nhiều doanh nghiệp cắt giảm nhân công, co lại hoạt động kinh doanh
và đầu tư. Dịch bệnh và các lệnh phong tỏa, giãn cách làm người dân các nước phải
ở nhà nhiều hơn, thời gian nhàn rỗi muốn tìm kiếm thêm thu nhập thì khó tìm được
kênh đầu tư nào tiện lợi hơn chứng khoán. Chỉ ngồi nhà vẫn có thể mua bán chứng
khoán thoải mái, không cần phải đi lại gặp gỡ nhiều như đối với các kênh đầu tư
khác. Hiệu ứng TINA xuất hiện ở Việt Nam năm 2020 khiến cho VN-Index liên
tiếp lập đỉnh mới, đạt hơn 1.200 điểm trong tháng 01/2021 nếu so với thời điểm
năm 2007 có tình trạng nhà nhà, người người nói về chứng khoán hiệu tượng xảy ra
trong giai đoạn này là hiệu ứng FOMO. Nhưng trong giai đoạn 2020 -2021 hiệu
tượng xảy ra phổ biến là TINA và FOMO trên từng nhóm ngành và từng cổ phiếu
riêng lẻ. Kết quả thị trường chứng tăng điểm rất mạnh và số lượng tài khoản tăng
đột biến lên hơn 6,8 triệu tài khoản, thanh khoản thị trường dồi dào đạt trên 20.000
nghìn tỷ.
Bước sang năm 2021 TTCK vẫn tăng trưởng mạnh, lúc này hiệu TINA cũng
không còn mạnh như năm 2020 do hoạt động kinh doanh đang dần trở lại thì hiệu
ứng FOMO chiếm chủ trọng trong tâm lý hành vi nhà đầu tư, sự tự tin thái quá của
các nhà đầu tư đặc những người trẻ kiếm được tiền trong năm 2020 một cách dễ
dàng. Cứ mua là thắng, không mua được là lỡ cơ hội, khắp nơi nói về chứng khoản,
khắp các báo diễn đàn hội nhóm nhận định thị trường và kỳ vọng tăng điểm lên
1800-2000 điểm. Đẩy thị trường lên đến tăng nóng lên mức 1536 điểm vào cuối
năm 2021. Nhưng bước sang năm 2022 các nhà đầu tư chứng kiến những cú sập
mạnh của thị trường làm tâm lý thay đổi hẳn, lo sợ và chán nản, tuyệt vọng đã xuất
hiện khá phổ biến trong giai đoạn này. Các nhà đầu tư bắt đầu rời bỏ thị thị trường,
cắt lỗ trở lại với hiện thực khốc liệt của thị trường. Cơn lốc xoáy này đã cuốn băng
nhiều thành quả có được của nhà đầu tư sau 2 năm tham gia thị trường chỉ trong
khoảng thời gian 6 tháng khi thị trường rơi mạnh về gần 880 điểm.
Qua phân tích cho thấy tâm lý hành vi chi phối rất lớn đến hoạt động đầu tư
của nhà đầu tư vì vậy, nhà đầu tư cần có sự hiểu biết chuyên sâu về thị trường, có
khả năng phân tích nhận đinh, kế hoạch quan trị doanh mục đầu tư rõ ràng để kiểm
soát được tâm lý của mình khi tham gia nhằm mang lại hiệu quả đầu tư cao tránh
67
được rủi ro xảy ra trên thị trường.
Như vậy, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia đầu tư của
nhà đầu tư nhưng trong nghiên cứu này tác giả chỉ tập trung phân tích ba nhân tố
chính là lợi suất đầu tư, thanh khoản thị trường, tâm lý hành vi của nhà đầu tư. Bằng
những nghiên cứu lý thuyết và thực tế tác giả đã chỉ ra thực trạng ba nhân tố trên thị
68
trường chứng khoán Việt Nam qua các giai đoạn phát triển của thị trường.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TẠI
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian vừa qua trong năm 2022 trải qua
đợt biến động rất lớn về mặt giá trị thị trường khi mà chỉ trong thời gian ngắn từ
tháng 4/2022 thị trường đang có xu hướng sụt giảm rất mạnh, mặc dù bối cảnh kinh
tế vĩ mô tại Việt Nam là khá triển vọng và ổn định so với thế giới, kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp cũng tương đối khả quan. Điều này khiến các nhà đầu
tư hoang mang, lo lắng, càng tạo hiệu ứng đám đông khiến thị trường chứng khoán
Việt Nam trong năm 2022 sụt giảm thuộc tốp những thị trường đi xuống nhanh và
mạnh nhất thế giới, thậm chí còn hơn cả thị trường chứng khoán của các nước đang
có chiến tranh như Nga, Ucraina... Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam trong thời gian
vừa qua đã có những động thái kịp thời và tích cực nhằm định hướng phát triển,
lành mạnh hóa cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn tới, tác giả xin
nêu các nội dung này tại các tiểu mục dưới đây.
3.1.1. Định hướng chung cho thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030 đang được định
hướng nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt động của thị trường, được cụ thể hóa tại
nội dung của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030. Các mục tiêu lớn định hướng trong thời
gian 10 năm tới của thị trường chứng khoán được tác giả nghiên cứu và tổng hợp,
theo đó khái quát thành 2 mục tiêu lớn: (i) mục tiêu phát triển thị trường chứng
khoán ổn định, vững chắc, hoạt động hiệu quả và trở thành kênh huy động vốn
trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế; và (ii) hội nhập thị trường tài chính
quốc tế, tiếp cận với các chuẩn mực chung của thị trường chứng khoán toàn cầu.
Trên cơ sở mục tiêu định hướng của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, tác giả nhận
thấy các cơ quan quản lý đã xây dựng quan điểm, định hướng phát triển thị trường
69
chứng khoán trong giai đoạn tới nằm ở 04 định hướng lớn, thông qua các hành động
cụ thể để triển khai định hướng như sau:
(i) Mở rộng quy mô, tập trung nâng cao chất lượng thị trường chứng khoán,
phát triển thị trường chứng khoán theo hướng bền vững, minh bạch, an toàn, lành
mạnh:
Để thực hiện định hướng này, các công việc cụ thể cần triển khai gồm nâng
cao chất lượng quản trị công ty niêm yết; phát triển thị trường trái phiếu về quy mô,
nâng cao thanh khoản, phát triển đa dạng các sản phẩm trái phiếu; nâng cao quy mô
giao dịch trên thị trường chứng khoán phái sinh; gia tăng số lượng và chất lượng
các nhà đầu tư trên thị trường (đạt 8% dân số vào năm 2030); thu hút sự tham gia
của nhà đầu tư nước ngoài, hướng tới cơ cấu hợp lý giữa nhà đầu tư cá nhân và nhà
đầu tư có tổ chức, giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy
thị trường chứng khoán phát triển theo mở rộng độ bao phủ với nhiều đối tượng
tham gia hơn.
Ngoài ra, cần tập trung phát triển thị trường chứng khoán đồng bộ và thống
nhất trong tổng thể thị trường tài chính của đất nước, qua đó đẩy mạnh các chương
trình tái cơ cấu nhằm hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường tài chính, tăng tính liên kết
giữa thị trường vốn dài hạn với thị trường tiền tệ tín dụng. Đảm bảo thị trường hoạt
động minh bạch, an toàn, lành mạnh, bền vững.
(ii) Tăng tính hiệu quả của việc tổ chức thị trường chứng khoán thông qua:
Triển khai hiệu quả hoạt động Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam và các
công ty con, đồng thời sớm thực hiện thay đổi mô hình tổ chức của Trung tâm lưu
ký chứng khoán sang mô hình Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt
Nam để thực hiệu quả các đầu mối quản lý thị trường. Luật Chứng khoán 2019 đã
hình thành khung pháp lý đầy đủ để triển khai hoạt động theo mô hình một cơ quan
quản lý tập trung các Sở giao dịch chứng khoán theo hướng hợp nhất Sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
(HOSE). Việc hợp nhất các Sở Giao dịch theo quy định của pháp luật giúp cho việc
quản lý được thống nhất, xuyên suốt và hứa hẹn mang lại sự hiệu quả cho thị trường
chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên, bài toán về tiến độ cần được đặt lên hàng đầu do
70
Luật Chứng khoán 2019 đã có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2021, nhưng cho đến nay
việc triển khai vẫn chưa được thực hiện đồng bộ theo đúng khuôn khổ pháp luật.
(iii) Tích cực hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới, nâng cao
hiệu quả và đảm bảo ổn định và an toàn của thị trường:
Định hướng của thị trường chứng khoán Việt Nam cần phấn đấu phát triển
trở thành 1 trong 4 thị trường quy mô lớn nhất của khu vực ASEAN, xa hơn có
thể trở thành thị trường có quy mô nằm trong top các thị trường chứng khoán
phát triển của châu Á. Để đạt được mục tiêu này, tác giả cho rằng chung ta cần
học hỏi các thông lệ quốc tế tốt nhất, từng bước thu hẹp về khoảng cách phát
triển giữa thị trường chứng khoán Việt Nam so với các thị trường khác trong khu
vực và trên thế giới. Để có vị thế này, cơ quan quản lý nhà nước cần tích cực
triển khai các cam kết, thỏa thuận hợp tác song phương, đa phương và các hiệp
định đã ký kết, đồng thời mở rộng hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh
vực chứng khoán. Thêm vào đó, cần phát triển quy mô thị trường đồng thời tập
trung nâng cao chất lượng thị trường, nâng cao năng lực tài chính và khả năng
cạnh tranh của các tổ chức tham gia thị trường.
(iv) Tích cực đổi mới, ứng dụng, phát triển công nghệ
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang được diễn ra mạnh mẽ trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống. Do vậy, để phát triển thị trường chứng khoán thì việc tiếp cận
với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về mặt công nghệ là định hướng then chốt,
không thể không được coi trọng. Minh chứng rõ nét nhất của việc hệ thống công
nghệ lỗi thời, lạc hậu là vào thời điểm thị trường chứng khoán Việt Nam rất sôi
động năm 2020 - 2021, nhiều phiên giao dịch bị dừng lại từ lúc 14h00 do nghẽn
lệnh. Tại các phiên giao dịch đó, điểm chung là khối lượng giao dịch trên thị trường
đạt khoảng hơn 20 ngàn tỷ thì bị dừng lệnh, lệnh mua/bán gửi lên sàn giao dịch
nhưng không thể khớp lệnh. Tình trạng này theo các nhà đầu tư gọi là “rút phích”
của sàn HOSE, HNX khiến cho nhiều nhà đâu tư thiệt hại số tiền không nhỏ do
không mua, không bán được chứng khoán của mình.
Để giải quyết vấn đề này, định hướng đặt ra cần hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, áp
dụng công nghệ 4.0 đổi mới toàn diện và đồng bộ công nghệ giao dịch, bù trừ và
71
thanh toán trên thị trường chứng khoán. Hiện nay, Ủy ban chứng khoán Nhà nước
đang triển khai các gói thầu mua sắm hệ thống phần mềm KRX (là hệ thống phần
mềm nằm trong Hợp đồng dịch vụ công nghệ thông tin trị giá hơn 600 tỷ đồng giữa
HOSE và Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc KRX) để đáp ứng các yêu cầu về số
lượng lệnh, thời gian giao dịch trong ngày. Bằng việc triển khai công nghệ hiện đại,
thị trường chứng khoán Việt Nam đang được định hướng tới việc áp dụng hệ thống
quản lý, giám sát thông minh dựa trên ứng dụng công nghệ số như công nghệ chuỗi
khối (Blockchain), trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), máy học (Machine
Learning)… vào các hoạt động lưu trữ, thống kê, phân tích dữ liệu, giám sát, thanh
tra và xử lý vi phạm, các nội dung này đang được Ủy ban chứng khoán Nhà nước
gấp rút triển khai để đáp ứng yêu cầu của thị trường đang gia tăng ngày một nhanh
chóng về khối lượng, thời gian giao dịch.
3.1.2. Định hướng phát triển các nhà đầu tư
Ngoài việc phát triển thị trường, định hướng phát triển các nhà đầu tư nắm giữ
vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam giai
đoạn tới, bởi lẽ chính các nhà đầu tư là những người góp phần lớn tạo ra xu thế của
thị trường ngoài các yếu tố vĩ mô về kinh tế, chính trị, xã hội. Chính bởi lẽ đó, nhằm
đáp ứng các định hướng phát triển thị trường như đã phân tích nêu trên, cần có
những định hướng cụ thể để phát triển các nhà đầu tư trong thời gian tới như sau:
a. Tăng cường bảo vệ nhà đầu tư:
Với mong muốn thị trường chứng khoán luôn hấp dẫn với các nhà đầu tư, thì
chính các nhà đầu tư cần được coi trọng và bảo vệ. Có thể thấy trong thời gian vừa
qua, nhiều nhà đầu tư bị xâm phạm về quyền lợi như cổ đông của nhóm các công ty
thuộc Tập đoàn FLC (bao gồm các mã chứng khoán như FLC, ROS, ART, KLF…)
hay cổ đông sở hữu chứng khoán của nhóm Louis (gồm các mã chứng khoán BII,
TGG…). Các cổ đông bị nhóm công ty kể trên thao túng giá chứng khoán, gây thiệt
hại rất nhiều tài sản. Do vậy, việc bảo vệ nhà đầu tư để thị trường chứng khoán phát
triển là mục tiêu định hướng cần thiết.
Thông thường, việc bảo vệ nhà đầu tư được thực hiện thông qua hai cơ chế: (i)
cơ chế tự bảo vệ của nhà đầu tư, thông qua thực hiện các quyền tham gia giao dịch
72
thị trường, quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia quản trị điều hành doanh
nghiệp phát hành chứng khoán, quyền hưởng lợi tức từ chứng khoán…. Ngoài ra,
còn được thể hiện thông qua các công cụ, biện pháp hiệu quả để bảo vệ quyền lợi
khi xuất hiện các vi phạm pháp luật trên thị trường như: quyền yêu cầu các chủ thể
vi phạm chấm dứt hành vi của mình, khôi phục tình trạng thực tế trước khi có vi
phạm; yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền lợi…; và (ii) cơ chế bảo vệ nhà đầu
tư thông qua hoạt động của các chủ thể tham gia như cơ quan quản lý với vai trò
chủ đạo là chủ thể trực tiếp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật,
thanh tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm làm cơ sở cho
hoạt động bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Các tổ chức vận hành thị trường có vai trò tổ
chức, giám sát và điều hành các hoạt động giao dịch trên thị trường, khi phát hiện ra
bất thường hoặc vi phạm pháp luật thì tiến hành cảnh báo, xử lý hoặc báo cáo cơ
quan chức năng thực hiện các biện pháp cần thiết.
Thông qua hai cơ chế nêu trên, pháp luật đã thể hiện rõ định hướng bảo vệ nhà
đầu tư cá nhân thông qua quy định về Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Trong những năm gần đây, thị trường chứng khoán Việt Nam xuất hiện thuật ngữ
về các "Nhà đầu tư F0" được hiểu là các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, không có
kinh nghiệm và hiểu biết trên thị trường chứng khoán. Việc tồn tại các nhà đầu tư
theo hình thức này rất nguy hiểm cho thị trường, đặc biệt là việc ảnh hưởng bởi tâm
lý đám đông, bầy đàn khi quyết định đầu tư như thời gian vừa qua. Do vậy, định
hướng của thị trường cần có cơ chế để bảo vệ nhà đầu tư cá nhân thông qua quy
định rõ cách thức xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Nghị định
65/2022/NĐ-CP bổ sung cách thức xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
là đối tượng được phép đầu tư và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng
lẻ. Cụ thể, nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là nhà đầu tư có năng lực tài
chính hoặc có trình độ chuyên môn về chứng khoán theo quy định tại Điều 11 Luật
Chứng khoán. Tổ chức có trách nhiệm xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp và tài liệu xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thực hiện theo
quy định tại Điều 4 và Điều 5 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm
2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán
73
và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, ngoại trừ việc xác định nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp quy định tại điểm d khoản này. Như vậy, cách xác định tư
cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp mới chặt chẽ hơn ở chỗ nhà đầu tư
phải phải đảm bảo danh mục chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch do nhà đầu
tư nắm giữ có giá trị tối thiểu 2 tỷ đồng được xác định bằng giá trị thị trường bình
quân theo ngày của danh mục chứng khoán trong thời gian tối thiểu 180 ngày liền
kề trước ngày xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, không bao
gồm giá trị vay giao dịch ký quỹ và giá trị chứng khoán thực hiện giao dịch mua
bán lại. Thời hạn hiệu lực của xác nhận tư cách nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp
rút từ 1 năm xuống còn 3 tháng. Từ đó, các nhà đầu tư không chuyên nghiệp sẽ
được vạch sẵn vùng ranh giới mình được tham gia đầu tư để hạn chế được những
rủi ro cho chính mình.
Với sự tăng trưởng về số lượng các nhà đầu tư cá nhân ở Việt Nam, đồng
thời nhiều nhà đầu tư còn thiếu kiến thức, chưa nhận thức được đầy đủ các biện
pháp phòng ngừa, không thực sự chú trọng đến cơ chế hoạt động, các quy tắc
chung của thị trường chứng khoán cũng như các quyền và nghĩa vụ của mình khi
tham gia vào thị trường. Chính vì vậy, để tạo niềm tin và bảo vệ lợi ích cho nhà
đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán, cơ quan quản lý cần thể hiện được
chức năng, nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư chứng khoán, qua đó thúc
đẩy thị trường chứng khoán phát triển bền vững, hiệu quả, góp phần vào tăng
trưởng nền kinh tế Việt Nam.
b. Khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư tổ chức
Theo thống kê hiện nay, hơn 80% giao dịch trên thị trường cổ phiếu thuộc về
nhà đầu tư cá nhân. Theo thống kê của công ty quản lý quỹ SSIAM, ở các thị
trường phát triển như Mỹ, tỷ lệ giao dịch của nhà đầu tư cá nhân chỉ khoảng 11%
tính trên tổng số lượng giao dịch. Trong khi đó, tại Việt Nam, trên 80% nhà đầu tư
cá nhân vẫn tự quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán. Với độ vững vàng về tâm
lý chưa cao, nhà đầu tư cá nhân sẽ có khuynh hướng đầu tư thiên về cảm xúc và hệ
quả tất yếu là biến động trên thị trường theo đó cũng lớn hơn, minh chứng rõ nét là
hiện tượng “FOMO” (là hiện tượng các nhà đầu tư đua nhau mua hàng theo hô hào,
74
phong trào từ các nhà đầu tư khác).
Điểm khác biệt lớn giữa tâm lý nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân là về
chiến lược đầu tư. Nhà đầu tư cá nhân thường muốn đầu tư ngắn hạn, còn nhà đầu
tư tổ chức thì hướng đến mục tiêu trung và dài hạn. Nhà đầu tư tổ chức có thể chịu
đựng được rủi ro ngay sau khi đầu tư thì NAV suy giảm 10-20%, nhưng để hướng
tới lợi nhuận tăng gấp nhiều lần trong tương lai trung, dài hạn. Còn nhà đầu tư tổ
chức thì luôn muốn lãi 10-20% NAV chỉ sau 3 - 5 phiên giao dịch. Để thay đổi tâm
lý nhà đầu tư cá nhân từ ngắn sang dài hạn là không đơn giản, do vậy, tác giả cho
rằng cần khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư tổ chức vào thị trường để phát
triển một thị trường chứng khoán bền vững, có đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư tổ chức trong và ngoài nước.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp cho các nhà đầu tư
a. Nâng cao nhận thức về thị trường chứng khoán của nhà đầu tư
Theo quan sát của tác giả đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá
nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam thì phần lớn các nhà đầu tư đều chưa
được trang bị các nhận thức từ cơ bản đến chuyên sâu về thị trường. Chủ yếu việc
mua/bán chứng khoán của các nhà đầu tư diễn ra rất đơn giản theo quy luật “xanh
mua, đỏ bán”, tức là khi thấy thị trường tăng điểm thì hô hào nhau mua vào chứng
khoán. Ngược lại, khi thấy thị trường giảm điểm thì lập tức lo sợ các yếu tố tiêu cực
và quyết bán chứng khoán bằng được để thu hồi vốn. Những quyết định đầu tư đưa
ra hầu như chỉ dựa trên hoạt động lan truyền thông tin của các hội nhóm trên mạng
xã hội mà không dựa vào cơ sở phân tích cơ bản, kỹ thuật của thị trường. Hoặc một
vài dẫn chứng khác cho thấy nhà đầu tư không có cả những kiến thức cơ bản về thị
trường chứng khoán như nhà đầu tư không nắm rõ việc mua/bán chứng khoán thì
sau bao lâu chứng khoán có thể giao dịch, khi nào tiền về tài khoản của nhà đầu tư,
ngày chốt quyền là gì, ngày giao dịch không hưởng quyền được tính từ thời điểm
nào… Điều đó minh chứng cho các giải pháp để nâng cao nhận thức cho chính các
nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán cần thiết là một trong những giải
75
pháp căn cơ, trọng tâm cần được đưa ra.
Do vậy, tác giả đề xuất giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của nhà đầu tư là
cần đưa ra tiêu chuẩn chính thức áp dụng để đánh giá năng lực của nhà đầu tư cá
nhân. Việc đề xuất giải pháp dựa trên thực tế thị trường để xem xét đưa ra một vài
khung năng lực chính để đánh giá năng lực của nhà đầu tư bao gồm nhưng không
giới hạn các tiêu chí về: kiến thức, tâm lý đầu tư, kỹ năng giao dịch và quản lý vốn,
cụ thể:
- Tiêu chí kiến thức: cần nâng cao năng lực phân tích, đánh giá và hiểu biết về
tài chính và tư duy đầu tư, nhận thức về rủi ro, bao gồm các nền tảng kiến thức căn
bản và nâng cao của nhà đầu tư về lĩnh vực tài chính nói chung, hiểu biết và nhận
thức của các nhà đầu tư về đặc tính và bản chất rủi ro của các công cụ đầu tư nói
riêng.
Điểm hạn chế của các nhà đầu tư là về kiến thức tài chính và trong lĩnh vực
chứng khoán. Đầu tư tài chính là những hoạt động thực hiện trong lĩnh vực tài chính
vốn đòi hỏi hàm lượng kiến thức rất rộng và chuyên sâu. Các hiểu biết về tài chính
cần thiết đối với nhà đầu tư cần phải có bao gồm hai khía cạnh chính:
(i) Nhà đầu tư tối thiểu phải có hiểu biết về thị trường tài chính, về bản chất
công cụ vốn của cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh... trước khi tham gia
vào đầu tư. Quan trọng nhất đó chính là nhà đầu tư phải nhận thức được rủi ro của
công cụ vốn để từ đó có cách thức tiếp cận phù hợp khi tham gia đầu tư. Qua quan
sát hiện rất phổ biến tình trạng nhiều nhà đầu tư cá nhân chưa thực sự có nhận thức
phù hợp về rủi ro của thị trường cổ phiếu, dẫn tới lựa chọn phương pháp giao dịch
cổ phiếu mang nặng tính đầu cơ, qua đó gây ra hệ lụy xấu cho thị trường chứng
khoán;
+ Nhà đầu tư cần được trang bị các hiểu biết vĩ mô và vi mô về thị trường tài
chính chung, tài chính doanh nghiệp nói riêng để đánh giá hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp mà mình đầu tư. Đây là một kỹ năng đặc thù thông thường, là
kiến thức nền tảng của các nhà đầu tư được đào tạo về lĩnh vực kinh tế, tài chính và
kinh doanh. Tuy nhiên, các nhà đầu tư tại Việt Nam không được đào tạo cơ bản về
tài chính sẽ không nhận thức được các kiến thức cơ bản này so với các nhà đầu tư
76
được đào tạo chuyên sâu. Minh chứng cho luận điểm này của tác giả là việc nhà đầu
tư ồ ạt bán chứng khoán khiến thị trường giảm điểm mạnh khi thị trường tài chính
có các thông tin tiêu cực liên quan đến kỷ luật, khởi tố, bắt tạm giam… một số cá
nhân, mặc dù nền kinh tế Việt Nam vẫn đang phát triển, doanh nghiệp vẫn đang
hoạt động bình thường.
Theo quan điểm của tác giả, giải pháp để cung cấp thêm thông tin và hiểu biết
tài chính cho nhà đầu tư có thể xem xét áp dụng là tại các mẫu biểu hồ sơ mở tài
khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư đều có mục khảo sát về mức độ hiểu
biết và kiến thức về thị trường của các nhà đầu tư, tuy nhiên thực tế cho thấy các
công ty chứng khoán để tiết kiệm về thời gian mở tài khoản cho khách hàng thì việc
khảo sát, cung cấp thông tin này không có ý nghĩa trên thực tế. Thiết nghĩ các nhà
đầu tư cần được trang bị kiến thức một cách thiết thực hơn để có thể tham gia thị
trường một cách an toàn, hiệu quả.
Ngoài việc trang bị các kiến thức cơ bản, giải pháp để tăng thêm hiệu quả đầu
tư cho các nhà đầu tư là cung cấp thêm các kiến thức chuyên sâu khi phân tích cổ
phiếu để đầu tư. Thông thường có hai phương thức phổ biến nhất là phân tích cơ
bản và phân tích kỹ thuật về cổ phiếu. Phân tích cơ bản tập trung vào các yếu tố cơ
bản của doanh nghiệp bao gồm nhưng không loại trừ các yếu tố như: hoạt động kinh
doanh, triển vọng ngành nghề, ban lãnh đạo... để tìm kiếm các công ty tốt có tiềm
năng tăng trưởng và do đó dẫn tới xu hướng tăng về giá trị thị trường của cổ phiếu.
Trong khi đó, phân tích kỹ thuật là phương pháp chủ yếu tập trung vào phân tích đồ
thị giá và khối lượng. Tác giả cho rằng để việc đầu tư được hiệu quả hơn, các nhà
đầu tư cần có hiểu biết, kiến thức về các phương pháp phân tích này, qua đó bước
đầu tự nhìn nhận được về một doanh nghiệp có chất lượng trên thị trường để tham
gia đầu tư.
- Tiêu chí tâm lý đầu tư:
Xây dựng phương pháp định giá chứng khoán hợp lý: Thực tế, các NĐT cá
nhân thường có sự tự tin thái quá vềhiểu biết của mình đối với các phương pháp
định giá và dự báo xu hướng của thị trường. Trong khi, kết quả định giá chỉ là giá
trị ước tính hợp lý của riêng người định giá. Khái niệm về “giá trị thực” trong định
77
giá của các công ty chứng khoán hay của công ty tư vấn đầu tư tài chính đã làm cho
các NĐT cá nhân phụ thuộc vào mỏ neo này. Vì vậy, các NĐT cần xây dựng cho
mình một phương pháp định giá chứng khoán hợp lý, không để bị chi phối bởi tâm
lý đám đông hay các yếu tố khác.
Kiểm soát các yếu tố cảm xúc trong đầu tư: Trên TTCK, hành vi ra quyết định
của NĐT cá nhân chịu sự tác động của các yếu tố cảm xúc. Vì vậy, để đầu tư thành
công, bên cạnh kiến thức chuyên môn, NĐT cần kiểm soát được cảm xúc trong quá
trình ra quyết định đầu tư tài chính. Cần tránh tâm trạng quá lo lắng căng thẳng
trong quá trình đầu tư, tuy nhiên cũng không nên tự tin thái quá rằng mình có đủ
kiến thức, kinh nghiệm để đối mặt với tất cả các vấn đề phát sinh.
Nâng cao năng lực của NĐT cá nhân: Các NĐT cá nhân cần xây dựng nền
tảng kiến thức cho bản thân để có thể tự điều chỉnh hành vi của bản thân, tránh chạy
theo đám đông trên thị trường. Điều quan trọng là mỗi NĐT cá nhân khi có nền tảng
kiến thức, họ sẽ tự điều chỉnh được hành vi của mình. Để đưa ra quyết định đầu tư
đúng đắn, nhà đầu tư tự tin dựa vào những năng lực phân tích của bản thân chứ
không phải dựa vào thông tin mà đám đông mang lại.
- Tiêu chí kỹ năng giao dịch và quản lý tài chính: cần nâng cao kỹ năng quản
lý vốn, phương pháp quản trị rủi ro cho nhà đầu tư. Các nhà đầu tư cần được trang
bị kiến thức, kỹ năng liên quan đến phân bổ tài sản, đa dạng hóa danh mục đầu tư,
sử dụng đòn bẩy tài chính (vay margin), các kỹ thuật quản trị danh mục. Việc sử
dụng đòn bẩy tài chính là con dao hai lưỡi đối với các nhà đầu tư do nếu không sử
dụng đúng cách, nhà đầu tư ngoài việc bị lỗ trên danh mục chứng khoán còn bị lỗ cả
phần tiền vay phải trả cho công ty chứng khoán. Do vậy, cần trang bị đầy đủ kỹ
năng, kiến thức giao dịch và quản lý tài chính cho chính nhà đầu tư.
Mặt khác, dù đã có quy định của cơ quan quản lý về tỷ lệ cho vay ký quỹ tối
đa là 50%, tức nhà đầu tư phải có số vốn ban đầu tối thiểu 50% so với giá trị chứng
khoán có thể mua. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, các Công ty chứng khoán đã có các
sản phẩm tài chính để thực hiện lách luật nhằm cung cấp cho nhà đầu tư vay tiền
mua chứng khoán với tỷ lệ lớn hơn mức quy định và đặc biệt là cho vay kể cả các
cổ phiếu có rủi ro cao. Giải pháp đưa ra là ngoài việc nhà đầu tư cần tự nhận thức
78
được về công cụ đòn bẩy tài chính thì các cơ quan quản lý cũng cần đẩy mạnh hoạt
động thanh tra, kiểm tra và siết chặt hoạt động cho vay margin của các công ty
chứng khoán, qua đó bảo vệ chính nhà đầu tư trên thị trường.
Do vậy, tác giả cho rằng cần xây dựng khung năng lực khung chuẩn, mang
tính chính thống để xác định về năng lực của các nhà đầu tư làm điều kiện tham gia
cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán (tương tự các điều kiện đối với nhà đầu
tư chứng khoán chuyên nghiệp). Qua các khung năng lực này, nhà đầu tư phải tự
mình trang bị các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, tâm lý đầy đủ trước khi tham gia
thị trường để tự bảo vệ cho chính bản thân mình.
b. Vận dụng thêm các sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro
Giải pháp để phòng ngừa rủi ro khác cho các nhà đầu tư có thể tham khảo khi
đầu tư trên thị trường chứng khoán đó là tham gia thêm các sản phẩm phái sinh để
phòng ngừa rủi ro thị trường. Tuy nhiên, tác giả đưa ra giải pháp này chỉ để áp dụng
cho các nhà đầu tư đã có những hiểu biết và kinh nghiệm nhất định trên thị trường
chứng khoán do tính biến động nhanh của các giao dịch chứng khoán phái sinh.
Theo quy định tại Khoản 9, Điều 4 Luật Chứng khoán 2019: Chứng khoán
phái sinh là công cụ tài chính dưới dạng hợp đồng, bao gồm hợp đồng quyền chọn,
hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, trong đó xác nhận quyền, nghĩa vụ của các
bên đối với việc thanh toán tiền, chuyển giao số lượng tài sản cơ sở nhất định theo
mức giá đã được xác định trong khoảng thời gian hoặc vào ngày đã xác định trong
tương lai. Theo đó, tại Việt Nam chứng khoán phái sinh là được hiểu một hợp đồng
tài chính, được hình thành trên một tài sản cơ sở nào đó. Các tài sản cơ sở phổ biến
nhất là trái phiếu, cổ phiếu, hàng hóa, tiền tệ, chỉ số thị trường và lại suất. Hiện nay,
thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam cung cấp hai dòng sản phẩm cơ bản hợp
đồng tương lai chỉ số VN30 và hợp đồng tương lai Trái phiếu chính phủ.
Để hạn chế rủi ro khi giao dịch, nhà đầu tư có thể tham gia giao dịch chứng
khoán phái sinh nhằm tận dụng ưu điểm của sản phẩm này, cụ thể hợp đồng tương
lai cho phép giao dịch trong ngày, tức là nhà đầu tư có thể đặt vị thế mua và bán để
đóng vị thế luôn trong ngày để chốt lời. Nếu thị trường chứng khoán cơ sở giảm,
nhà đầu tư có thể bán khống chứng khoán phái sinh (thực hiện bán trước rồi mua lại
79
sau) để cân đối rủi ro và ngược lại. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán phái sinh có
tính biến động lớn và nhanh, do tỷ lệ đòn bẩy cao, đòi hỏi nhà đầu tư phải có kiến
thức đầu tư tránh mua bán quá nhiều trong ngày theo biến động giá dẫn đến thua lỗ.
Tác giả đã từng được chứng kiến thực tế một số nhà đầu tư bị “cháy tài khoản
chứng khoán” khi tham gia công cụ chứng khoán phái sinh, tức là tài khoản bị mất
trắng khoản vốn đầu tư do sử dụng đòn bẩy tài chính không hợp lý. Do vậy, mặc dù
được đưa ra là một giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư nhưng chính nhà
đầu tư phải tự trang bị kiến thức, hiểu biết như đã phân tích tại điểm a mục 3.1.2
nêu trên mới có thể áp dụng biện pháp này như một phương thức để hạn chế rủi ro
cho hoạt động đầu tư của mình.
Ngoài ra, Thanh khoản thị trường tác động đến quyết định đầu tư vì vậy các
nhà đầu tư nên quan tâm đến thanh khoản là yếu tố rủi ro để lựa chọn cổ phiếu khi
tham gia đầu tư trên TTCK Việt Nam. Bởi đây là các rủi ro đặc trưng về khối lượng
và giá, ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ suất sinh lợi cổ phiếu. Vì khi giá cổ phiếu và
thanh khoản tăng, đây là dấu hiệu tích cực, cho biết sức mua lớn. Ngược lại, giá cổ
phiếu tăng nhưng thanh khoản kém, nhà đầu tư cần cẩn trọng vì có thể rơi vào bẫy
tăng giá. Giá cổ phiếu giảm kèm theo thanh khoản tăng lại là tín hiệu xấu vì lực bán
cao, nhiều nhà đầu tư xả hàng. Giá cổ phiếu giảm và thanh khoản cũng giảm là tín
hiệu tốt, do lúc này nhà đầu tư hạn chế bán ra ở mức giá thấp. Thanh khoản cao
giúp NĐT tham gia thị trường dễ hơn mang lại hiệu quả đầu tư cao.
3.2.2. Nhóm giải pháp từ phía các công ty chứng khoán
Các Công ty chứng khoán là kênh chủ yếu dẫn nhà đầu tư đến với thị trường
chứng khoán. Do vậy, để giải quyết khả năng đầu tư của nhà đầu tư, giải pháp đầu
tiên tác giả nghĩ tới đó là xuất phát từ chính các Công ty chứng khoán. Tác giả xin
đưa ra một số giải pháp như để nâng cao khả năng đầu tư của nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán Việt Nam như sau:
a. Các Công ty chứng khoán cần tăng cường sự tương tác với khách hàng
Các Công ty chứng khoán là cánh tay nối các nhà đầu tư với thị trường, với lợi
thế từ sự gần gũi với khách hàng, các Công ty chứng khoán có thể tăng cường tương
tác với khách hàng nằm nâng cao kiến thức về đầu tư, quản trị rủi ro cho khách
80
hàng thông qua các chương trình đào tạo theo phương thức trực tiếp và trực tuyến
cho khách hàng. Thông qua các chương trình đào tạo, các Công ty chứng khoán có
thể chia sẻ phương pháp để giúp cho việc đầu tư của khách hàng hiệu quả hơn. Các
Công ty chứng khoán cần chủ động chia sẻ nội dung về cách thức quản trị danh mục
đầu tư năng động hoặc thụ động trước khi nhà đầu tư tham gia thị trường. Theo đó,
quản trị thụ động là chủ yếu đầu tư vào các chỉ số, các danh mục có sẵn trên thị
trường như các quỹ ETF, rổ chỉ số… Còn quản trị danh mục năng động là phương
thức nhà đầu tư phải tự phân tích và thay đổi danh mục mua bán của mình tùy theo
xu hướng của thị trường từng thời điểm để tối ưu hóa hiệu quả đầu tư. Công ty
chứng khoán thông qua các chương trình chia sẻ đào tạo cần phân tích cho nhà đầu
tư thấy được ưu điểm, nhược điểm của từng cách thức đầu tư ra sao, cần lưu ý
những gì khi lựa chọn cách thức đầu tư đó. Chẳng hạn, nhà đầu tư cần chú ý chi phí
của việc quản trị danh mục năng động là khá lớn, nhà đầu tư cần cân nhắc giữa tỷ
suất lợi nhuận mong muốn so với chi phí quản trị này để có chiến lược phù hợp.
Đồng thời, việc quyết định quản trị danh mục đầu tư theo cách thức nào cần xem
xét đến quy mô vốn đầu tư của mỗi nhà đầu tư. Theo đó, nhà đầu tư có nguồn vốn
lớn nên đầu tư đa dạng danh mục, cách thức quản lý năng động nhằm tăng tỷ suất
lợi nhuận, còn nhà đầu tư có nguồn vốn nhỏ nên tập trung vào danh mục có sẵn trên
thị trường để tối thiểu hóa chi phí quản trị nhằm đạt hiệu quả đầu tư mong muốn.
Cùng với đó, các Công ty chứng khoán cần thường xuyên thực hiện các khảo
sát với khách hàng thông qua các phương thức như gửi email, qua kênh giao dịch
điện tử… Ngoài việc lấy ý kiến về chất lượng dịch vụ thì định kỳ nên có những câu
hỏi cập nhật để đánh giá khẩu vị rủi ro của khách hàng, cung cấp thêm các thông tin
về đầu tư cho khách hàng như: tỷ lệ ký quỹ giao dịch, quy định mới khi rút ngắn
thời gian giao dịch theo cơ chế T+2,5... Bên cạnh đó, các Công ty chứng khoán
cũng cần thiết lập các mức cảnh bảo rủi ro nhiều hơn với đối tượng nhà đầu tư cá
nhân, nhà đầu tư không chuyên nghiệp về thị trường khi có dấu hiệu thị trường xấu
đi chung để kịp thời cảnh báo tới khách hàng.
b. Các Công ty chứng khoán cần xây dựng và phát triển năng lực của bộ
phận tư vấn, phân tích đầu tư:
81
Để hướng tới sự phát triển dài hạn của thị trường chứng khoán, các Công ty
chứng khoán cần phát triển về phương pháp, cách thức đầu tư cho nhà đầu tư thông
qua sự khuyến nghị của bộ phận tư vấn, phân tích đầu tư của Công ty chứng khoán.
Mặc dù nhu cầu của khách hàng là rất đa dạng về khẩu vị rủi ro, kỳ vọng thị trường
… nhưng tựu chung lại, hiệu quả đầu tư của khách hàng sẽ dẫn tới việc nhà đầu tư
có ở lại thị trường lâu dài hay không. Thiết nghĩ bộ phận tư vấn, phân tích đầu tư
của mỗi Công ty chứng khoán cần có trách nhiệm đưa ra khuyến nghị, phương pháp
đầu tư cho khách hàng thông qua hệ thống báo cáo phân tích sát với diễn biến thị
trường thực tế sẽ góp phần nâng cao năng lực phân tích của khách hàng, từ đó giúp
khách hàng định hình phương pháp đầu tư đúng đắn, nâng cao khả năng đầu tư cho
khách hàng.
c. Thiết lập các tiêu chuẩn về tư vấn khách hàng và khung năng lực môi
giới chứng khoán cho khách hàng:
Các Công ty chứng khoán cần có quy chuẩn khắt khe, chặt chẽ hơn đối với
quy trình tư vấn của nhân viên môi giới nhằm đảm bảo chuẩn hóa việc tư vấn đúng
đối tượng khách hàng và truyền đạt đầy đủ cơ sở khuyến nghị và phương pháp tư
duy đầu tư cho khách hàng. Việc thay đổi cách thức, quy chuẩn này sẽ giúp các
công ty chứng khoán tránh được các rủi ro tranh chấp với khách hàng trong tương
lai. Chẳng hạn, đối với các đối tượng khách hàng có ít hiểu biết, mới tham gia thị
trường chứng khoán, giá trị tài khoản nhỏ dựa theo NAV (Net Asset Value) thì các
Công ty chứng khoán có thể hướng khách hàng tới mô hình ủy thác quản lý tài
khoản, hoặc các gói tư vấn đầu tư dưới dạng các tài sản mang tính rủi ro thấp (như
mua trái phiếu hoặc các mã chứng khoán của các công ty có năng lực tài chính tốt,
lành mạnh). Đối với các khách hàng có năng lực tốt hơn, kiến thức đầu tư đã có sự
nghiên cứu chuyên sâu, từng trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của thị trường,
Công ty chứng khoán có thể hướng nhà đầu tư tới các gói tư vấn có hiệu quả kinh tế
cao hơn đi kèm với rủi ro lớn hơn. Như vậy, với giải pháp này, việc phân định tiêu
chuẩn nhà đầu tư và phân chia năng lực môi giới cho khách hàng sẽ giúp nhà đầu tư
cải thiện được khả năng đầu tư trên thị trường chứng khoán, từ đó mang lại hiệu quả
đầu tư lớn hơn cho chính nhà đầu tư và nguồn lợi thu được từ phí giao dịch lớn hơn
82
cho chính Công ty chứng khoán.
3.3. Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý cấp Nhà nước
3.3.1. Giải pháp tăng tính minh bạch của thị trường chứng khoán
Để nâng cao khả năng đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán thì
giải pháp về một thị trường chứng khoán minh bạch cần được đặt lên hàng đầu.
Trong thời gian vừa qua, thị trường chứng khoán Việt Nam luôn được các nhà đầu
tư đặt dấu hỏi về tính minh bạch, nổi cộm ở một số thắc mắc của các nhà đầu tư
như: Tại sao có một giai đoạn thị trường liên tục nghẽn lệnh sau 14h00 của phiên
giao dịch? Lý do gì khi thị trường giảm mạnh (2% - 3% trong 1 phiên giao dịch) thì
không thể giao dịch được (hay còn lại là hành động can thiệp “rút phích bảng điện
thị trường”)? Tại sao một loạt các mã cổ phiếu bị bán sàn không thanh khoản (kể cả
cổ phiếu có chất lượng tốt trong rổ VN30) trong khi nền kinh tế Việt Nam đang có
dữ liệu tăng trưởng tốt (thông qua số liệu về GDP tăng so với cùng kỳ, tỷ lệ thất
nghiệp thấp…), liệu có chăng đây là ý đồ của những nhóm tạo lập thao túng thị
trường bằng cách sử dụng thị trường chứng khoán cơ sở để giao dịch kiếm lời trên
thị trường chứng khoán phái sinh? … Một loạt các câu hỏi chưa có lời giải đáp của
nhà đầu tư khiến cho tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cần thiết để góp
phần minh bạch thị trường chứng khoán Việt Nam.
Về mặt nguyên tắc, thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn trung và dài
hạn quan trọng bậc nhất cho nền kinh tế. Để đảm bảo thị trường này vận hành theo
đúng nguyên tắc công khai, công bằng và minh bạch, điều kiện tiên quyết là cần
thực hiện tốt việc công bố đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin của tổ chức,
doanh nghiệp, cụ thể như sau:
(i) Nguyên tắc công khai thông tin trên thị trường chứng khoán
Về bản chất, thị trường chứng khoán là thị trường của thông tin. Nhà đầu tư
dựa vào các thông tin liên quan đến tổ chức phát hành, diễn biến thị trường và chính
sách tác động... để đưa ra quyết định đầu tư và tự chịu trách nhiệm về việc đầu tư
đó. Nói cách khác, thông tin đóng vai trò dẫn dắt dòng tiền trong xã hội, từ đó thực
hiện chức năng phân bổ nguồn vốn của thị trường này. Vì vậy, yêu cầu quan trọng
để thị trường chứng khoán vận hành một cách hiệu quả, công bằng và lành mạnh là
83
cần minh bạch hóa thông tin.
Công khai thông tin là một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường
chứng khoán. Nguyên tắc công khai thông tin được hiểu là các tổ chức, doanh
nghiệp tham gia thị trường căn cứ vào quy định của pháp luật, thực hiện nghĩa vụ
công bố các thông tin liên quan đến tình hình tài chính, tình trạng kinh doanh và các
thông tin, tài liệu khác có liên quan đến doanh nghiệp cho nhà đầu tư, công ty
chứng khoán và cơ quan quản lý nhà nước, bao gồm nhưng không giới hạn các
thông tin trước khi phát hành và thông tin về tình hình hoạt động, những thay đổi,
phát sinh của doanh nghiệp sau khi chào bán chứng khoán, trong quá trình giao dịch
chứng khoán. Những thông tin được thể hiện dưới các hình thức chủ yếu như bản
cáo bạch, báo cáo tài chính định kỳ, các báo cáo đột xuất, báo cáo theo yêu cầu...
Theo Thông tư số 96/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định việc công bố
thông tin phải đầy đủ, chính xác, kịp thời, đồng thời đối tượng công bố thông tin
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin công bố. Công khai
thông tin nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền lợi và củng cố niềm tin của nhà đầu tư,
đảm bảo việc giám sát của công chúng đối với hoạt động của các công ty đại chúng,
góp phần quan trọng giúp thị trường chứng khoán vận hành liên tục và thông suốt.
Đặc biệt, tại thị trường chứng khoán Việt Nam, số lượng nhà đầu tư cá nhân là rất
đông đảo thì việc thực hiện công bố đầy đủ thông tin có ảnh hưởng rất lớn tới tính
hiệu quả và mức độ hạn chế rủi ro của các quyết định đầu tư.
Thị trường chứng khoán thời gian qua đã chứng kiến những vi phạm của rất
nhiều doanh nghiệp liên quan đến việc công bố thông tin, tuy nhiên chế tài xử phạt
vi phạm thì không thấm tháp vào đâu so với những gì tổ chức vi phạm thu lợi được.
Chẳng hạn, ông Trịnh Văn Quyết - cựu Chủ tịch Tập đoàn FLC đã bán 57 triệu cổ
phiếu FLC mà không công bố thông tin vào năm 2017 nhưng chỉ bị xử phạt 65 triệu
đồng; năm 2022, ông Quyết lại tiếp tục bán 175 triệu cổ phiếu FLC (chiếm gần 10%
thanh khoản của sàn HOSE), tuy nhiên chỉ bị xử phạt 1,5 tỷ đòng và đình chỉ hoạt
động giao dịch trên tài khoản của ông Quyết trong 5 tháng. Từ cuối tháng 3/2022
tới nay, TTCK chứng kiến nhiều phiên giảm điểm liên tục, điển hình tại phiên giao
dịch ngày 25/4, VN-Index giảm 68,31 điểm (-4,95%) còn 1.310,92 điểm trước áp
lực bán mạnh của khối nội. Tình trạng này là kết quả của sự tác động đồng thời
84
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, ở cả trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên,
trong số đó, không thể không nhắc tới sự ảnh hưởng không nhỏ của các vụ việc thao
túng cổ phiếu, hành vi gian dối trong phát hành trái phiếu, đưa thông tin sai lệch,
mua bán chênh lệch bất thường trong phiên... Những vụ việc trên xuất phát từ sự
kém minh bạch của các doanh nghiệp. Vì lẽ đó, yêu cầu về việc thực hiện công khai
thông tin trên thị trường chứng khoán lại càng trở nên cấp thiết.
Các hành vi thiếu minh bạch trên thị trường chứng khoán diễn ra dưới nhiều
thủ đoạn tinh vi, phức tạp, chủ yếu bao gồm: vi phạm nguyên tắc công bố thông tin
liên quan đến doanh nghiệp và giao dịch như công bố không kịp thời, công bố thông
tin sai lệch hoặc không đầy đủ nội dung theo quy định của pháp luật, không báo cáo
các giao dịch mua bán cổ phiếu, không công bố thông tin trước khi giao dịch hoặc
không ghi nhận trong báo cáo tình hình quản trị công ty về giao dịch của các cổ
đông lớn, cổ đông nội bộ và người có liên quan; lợi dụng tình trạng bất cân xứng
thông tin trên thị trường chứng khoán, một số tổ chức, cá nhân đã đăng tải các thông
tin thất thiệt trên mạng xã hội để “thổi giá” cổ phiếu, tạo lập và lôi kéo các nhóm
đầu tư, nhóm tư vấn mua bán cổ phiếu để trục lợi, gây thiệt hại cho nhà đầu tư...
So với các cổ đông nội bộ, người có liên quan, các nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp, nhóm nhà đầu tư cá nhân thường không nắm bắt kịp thời hoặc hoàn
toàn không biết tới các thông tin trọng yếu, có ảnh hưởng trực tiếp tới giá cổ phiếu
của công ty như các vụ mua bán, sáp nhập, thay đổi lãnh đạo doanh nghiệp hoặc dự
báo sớm kết quả kinh doanh, các dự án lớn sắp triển khai... Do thiếu hụt thông tin,
cộng thêm năng lực đầu tư hạn chế nên vấn nạn đầu tư theo kiểu “mua theo tin
nhắn, bán theo tin đồn” vẫn diễn ra phổ biến, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán.
Do vậy, tác giả thiết nghĩ, việc xử phạt như dẫn chiếu ở trên không thể bảo vệ
được các nhà đầu tư trên thị trường. Pháp luật cần có những quy định chặt chẽ,
mang tính răn đe nhiều hơn đối với việc vi phạm quy định này của các đối tượng vi
phạm quy định về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
Giải pháp tác giả đưa ra để kiến nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cần tác động vào thị trường thông qua con đường thiết lập cơ chế thực hiện việc
công bố thông tin một khách khoa học, hiệu quả, coi đây là trọng tâm trong công tác
85
quản lý thị trường vốn. Cơ chế này cần đảm bảo việc công bố thông tin của doanh
nghiệp đáp ứng được yêu cầu: đầy đủ, chính xác, kịp thời, liên tục, phù hợp với
chuẩn mực kế toán và công bằng giữa các đối tượng tiếp nhận thông tin, cụ thể:
Một là, tăng cường cơ chế kiểm soát, giám sát của cổ đông thiểu số đối với
hoạt động của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần trong trường hợp có xung đột lợi ích với cổ đông lớn thì hầu hết sẽ không
được bảo vệ quyền lợi. Trong khi đó, cổ đông lớn thường có khuynh hướng lạm
dụng quyền cổ đông, thao túng toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, thậm chí ngăn
cản cổ đông thiểu số thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và quyền khởi kiện người
quản lý... Do đó, cần xây dựng cơ chế cụ thể nhằm hỗ trợ nhóm cổ đông nhỏ dễ
dàng tập hợp, liên kết đủ 5% cổ phần để thực hiện các quyền liên quan đến quản lý
hoạt động doanh nghiệp, mở rộng phạm vi thông tin bắt buộc phải cung cấp khi có
yêu cầu, tạo điều kiện thuận lợi để cổ đông thiểu số được dễ dàng thực hiện khởi
kiện người quản lý khi phát hiện có vi phạm.
Hai là, phát huy vai trò của kiểm toán độc lập, xây dựng đội ngũ kiểm toán
viên lành nghề và nâng cao chất lượng thông tin kiểm toán. Khuôn khổ pháp lý về
tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm toán còn chưa đầy đủ và đồng bộ, một số
kiểm toán viên đã được cấp chứng chỉ hành nghề (chứng chỉ CPA), song kinh
nghiệm và năng lực chuyên môn còn hạn chế, ý thức tuân thủ pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp chưa cao. Do đó, cần sớm hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt
động kiểm toán, bổ sung quy định về chế độ chịu trách nhiệm đối với chất lượng
thông tin kiểm toán, chuẩn hóa trình độ chuyên môn, giáo dục ý thức pháp luật, đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ kiểm toán viên.
Ba là, tăng cường vai trò của Ban kiểm soát trong doanh nghiệp. Ban kiểm
soát là cơ quan độc lập trong Công ty cổ phần, bản chất hoạt động của Ban kiểm
soát là kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính minh bạch, ngăn
chặn các hành vi như che giấu thông tin, giao dịch nội gián. Chính bởi chức năng,
nhiệm vụ đó, Ban kiểm soát được ví như cán cân với Hội đồng quản trị và Ban điều
hành, vì vậy xét về mặt quy định pháp luật thì quyền lực của Ban kiểm soát trong
công ty là rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế vai trò của Ban kiểm soát trong các doanh
86
nghiệp cổ phần ở Việt Nam đều rất mờ nhạt, chủ yếu mang tính hình thức, được lập
ra chỉ để phù hợp với quy định của pháp luật doanh nghiệp và chứng khoán. Thực tế
hiện nay chưa có cơ chế cụ thể để đảm bảo tính khách quan, độc lập, chuyên trách
trong hoạt động kiểm soát, giám sát, phân tích, đánh giá doanh nghiệp của bộ phận
này. Theo quy định hiện hành, thành viên Ban kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông
bầu ra, tuy nhiên trên thực tế thông thường do các cổ đông lớn chỉ định sẵn trước
khi họp Đại hội đồng cổ đông. Mặt khác, việc trả thù lao thu nhập cho Ban kiểm
soát thông thường cho Hội đồng quản trị, Ban Điều hành quyết định. Do vậy, việc
khách quan, vô tư hoàn toàn để thực hiện hoạt động kiểm soát của doanh nghiệp là
khó xảy ra trong thực tế. Do đó, tác giả cho rằng Quy chế hoạt động của Ban kiểm
soát cần khắc phục tối đa các vấn đề về chế độ tiền lương, phụ cấp và cơ chế bảo vệ
thành viên của Ban kiểm soát doanh nghiệp, tương tự vai trò của hệ thống kiểm soát
nội bộ tại ngân hàng thương mại hiện nay để việc kiểm soát thực sự có ý nghĩa.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp nhằm nâng
cao chất lượng báo cáo tài chính, thiết lập và hoàn thiện hệ thống kế toán doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa vai trò của kiểm toán nội bộ và trao
cho kiểm toán nội bộ một vị thế tương đối độc lập trong doanh nghiệp. Tăng cường
kiểm toán nội bộ sẽ giúp hạn chế hành vi can thiệp vào quy trình kế toán nhằm mục
đích tư lợi của các nhà quản lý doanh nghiệp, cũng như giúp chuẩn hóa việc công
bố thông tin. Tăng cường công tác quản lý tài chính nội bộ, chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn, nâng cao phẩm chất, tác phong nghề nghiệp của cán bộ kiểm
toán, nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông, chủ sở hữu doanh nghiệp.
Năm là, tăng cường mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm trên thị trường
chứng khoán. Vi phạm phổ biến nhất trên TTCK hiện nay chính là vi phạm về công bố thông tin theo Thông tư 96/2020/TT-BTC. Theo Nghị định số 156/2020/NĐ-CP
đưa ra mức phạt tiền tối đa đối với các vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán là 03 tỷ đồng đối với tổ chức và 1,5 tỷ đồng đối với cá nhân. Ngoài ra, hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ giao dịch chứng khoán trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng hoặc từ 03 tháng đến 05 tháng tùy giá trị giao dịch. So với các quy
định trước kia, mức phạt vi phạm hành chính trên thị trường chứng khoán hiện nay đã nghiêm khắc hơn rất nhiều, nhưng vẫn là chưa cân bằng với những khoản lợi bất
chính mà bên vi phạm thu được nhờ vào các hành vi che giấu thông tin, thao túng
thị trường. Tác giả cho rằng ngoài việc xử phạt vi phạm, pháp luật cũng cần bổ sung
87
những quy định nhằm tăng cường công tác thanh tra, giám sát quá trình công bố
thông tin của doanh nghiệp. Đồng thời yêu cầu bên vi phạm phải khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư, qua đó từng bước ngăn chặn các hành vi vi
phạm, gây tổn hại cho thị trường chứng khoán, có như vậy, thị trường chứng khoán
mới trở nên an toàn hơn với các nhà đầu tư và phát triển bền vững hơn theo thời
gian.
3.3.2. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước nhằm tăng cường cơ chế bảo
vệ nhà đầu tư
Để tăng cường việc bảo vệ nhà đầu tư, tác giả kiến nghị cơ quan quản lý Nhà
nước thực hiện các biện pháp cụ thể để bảo vệ nhà đầu tư thông qua hệ thống pháp
luật - là công cụ thiết thực và mang tính bắt buộc tuân thủ cao nhất đối với các chủ
thể khi tham gia thị trường.
Khi tác giả nghiên cứu xem xét hệ thống các quy định của pháp luật về chứng
khoán, đặc biệt là các quy định về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
Việt Nam, tác giả nhận thấy còn tồn tại một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật đang nằm rải rác tại nhiều văn bản pháp luật
khác nhau như Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, các văn bản dưới luật như
Nghị định, Thông tư, hệ thống các văn bản hướng dẫn như Quyết định của các Sở
Giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội… các quy định này đôi lúc còn chồng
chéo, chưa đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất.
Thứ hai, các quy định về bảo vệ nhà đầu tư mới chỉ dừng lại ở việc phù hợp
với việc điều chỉnh các hành vi xảy ra trên thị trường trong nước mà chưa có sự
tương thích với các thông lệ quốc tế, đặc biệt là theo nguyên tắc do Tổ chức Quốc tế
các Ủy ban Chứng khoán (IOSCO) khuyến nghị. Để thực hiện theo các chuẩn mực
quốc tế, pháp luật cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chứng khoán chặt
chẽ và nghiêm minh, trao thẩm quyền rộng hơn để điều tra và xử lý các vi phạm
pháp luật liên quan đến lĩnh vực chứng khoán cho cơ quan quản lý thị trường, đưa
ra được chế tài đủ mạnh đối với hành vi gian lận, không công bố thông tin đầy đủ,
minh bạch. Chẳng hạn, hiện nay Ủy ban chứng khoán Nhà nước chỉ được áp dụng
các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, trong khi đó các vụ việc vi phạm pháp luật
nghiêm trọng bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Ủy ban chứng khoán lại không có
88
thẩm quyền tham gia. Hoặc các quy định của Luật Chứng khoán cũng chưa có các
quy định liên quan đến thẩm quyền của Ủy ban chứng khoán Nhà nước trong việc
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến các đối
tượng có dấu hiệu vi phạm; quyền triệu tập tổ chức, cá nhân đến làm việc để làm rõ
hành vi vi phạm… Tham khảo thông lệ quốc tế theo nguyên tắc IOSCO, các cơ
quan quản lý nhà nước đều được pháp luật trao quyền này. Chẳng hạn, tại nguyên
tắc số 8 của Bộ quy tắc quản lý thị trường chứng khoán 2003 của IOSCO quy định:
“Cơ quan quản lý nên có quyền yêu cầu cung cấp các thông tin hoặc thực hiện
thanh tra hoạt động kinh doanh bất cứ khi nào tin rằng điều đó là cần thiết để đảm
bảo tuân thủ tiêu chuẩn có liên quan. Những nghi ngờ về một hành vi vi phạm pháp
luật không phải là một điều kiện tiên quyết cần thiệt để sử dụng quyền hạn thanh tra
của người có thẩm quyền hoặc cấp phép”. Ngoài ra, có thể nhận thấy pháp luật còn
bỏ ngỏ các quy định về quản lý thị trường UPCOM và thị trường OTC.
Với những phân tích nêu trên về hệ thống pháp luật liên quan đến thị trường
chứng khoán, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị đến cơ quan quản lý nhà nước để
phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam một cách bền vững, giảm thiểu rủi ro
cho nhà đầu tư tham gia thị trường như sau:
a. Chuẩn hóa các quy định quản lý và phát triển thị trường chứng khoán theo
thông lệ quốc tế, đặc biệt là theo các mục tiêu và nguyên tắc do IOSCO khuyến
nghị. Cùng với đó, các cơ quan quản lý có kế hoạch hệ thống hóa các quy định về
bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, đảm bảo đồng bộ, hiệu quả hướng
tới mục tiêu xây dựng một văn bản pháp luật thống nhất để bảo vệ các nhà đầu tư
tham gia thị trường.
b. Tăng cường siết chặt biện pháp quản lý hoạt động trên thị trường chứng
khoán chưa niêm yết, thị trường phi tập trung do các thị trường này không được sự
kiểm soát và các tiểu chuẩn chặt chẽ như trên sàn chứng khoán niêm yết nên việc
đăng ký giao dịch tại các thị trường này là khá đơn giản, tạo những kẽ hở để đầu cơ,
trục lợi, từ đó gây tổn thất kinh tế cho nhà đầu tư. Chính bởi lẽ đó, cơ quan quản lý
nhà nước cần ban hành các văn bản pháp lý để tạo khung pháp lý chặt chẽ trong
việc quản lý giao dịch, thanh toán trên thị trường chứng khoán chưa niêm yết. Thêm
vào đó, nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý như Ủy ban chứng khoán Nhà
89
nước, các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán trong việc
quản lý, điều hành thị trường tại Việt Nam.
c. Bổ sung và hoàn thiện quy định pháp luật nhằm bảo vệ nhà đầu tư khi tham
gia các sản phẩm chứng khoán mới, đặc biệt là thị trường chứng khoán phái sinh.
Ngoài ra, cơ quan quản lý cũng cần lưu tâm đến thời gian ban hành các văn bản
hướng dẫn kịp thời khi triển khai sản phẩm ra thị trường, không để sản phẩm triển
khai rồi nhưng các công ty chứng khoán và nhà đầu tư đều không nắm rõ về cách
thức triển khai, thực hiện sản phẩm đó như thế nào.
d. Bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến Quỹ bảo vệ
Nhà đầu tư. Tác giả cho rằng Quỹ bảo vệ là biện pháp rất quan trọng để bảo vệ
quyền và lợi ích của nhà đầu tư trong giai đoạn hiện tại bởi lẽ thực tế hiện nay phát
sinh nhiều vụ việc liên quan đến trái phiếu của các Tổ chức phát hành như Tập đoàn
Tân Hoàng Minh, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát… Quỹ bảo vệ này là biện pháp để hỗ
trợ nhà đầu tư trong các trường hợp các bên không có khả năng thanh toán cho nhà
đầu tư do vỡ nợ, phá sản hoặc lý do khác dẫn mới mất khả năng thanh toán.
Do vậy, tác giả thấy rằng việc xây dựng cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích của
nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán là rất quan trọng và cần thiết để tạo lập một
thị trường chứng khoán lành mạnh, bền vững. Để xây dựng các cơ chế này, tác giả
cho rằng cần có sự đồng lòng của tất cả các thành viên trên thị trường, đặc biệt là
các cơ quan quản lý nhà nước thông qua hoạt động xây dựng và ban hành chính
sách pháp luật đầy đủ khung pháp lý cho các nhà đầu tư.
3.3.3. Kiến nghị Ủy ban chứng khoán Nhà nước, đặc biệt là giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thị trường chứng khoán
Con người là yếu tố vô cùng quan trọng, không chỉ trong khía cạnh về quản trị
nhân sự mà còn bao gồm cả khía cạnh về chất lượng nhân sự để thực hiện các hoạt
động trên thị trường chứng khoán vốn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, đặc biệt là trong
giai đoạn thị trường đang có những biến động mạnh như hiện nay. Do vậy, giải
pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hoạt động trên thị trường chứng khoán để
phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam là điều đặc biệt quan trọng.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan trực tiếp quản lý thị trường và nguồn
nhận lực của thị trường, do vậy tác giả xin đưa ra một số kiến nghị với UBCKNN
90
để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thị trường chứng khoán.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao đóng vai trò quan trọng, mang tính quyết
định đến phát triển thị trường chứng khoán theo hướng bền vững. Theo cơ cấu nhân
lực của thị trường chứng khoán Việt Nam, có 3 nhóm nhân lực chính tham gia thị
trường như sau: (i) nhóm cán bộ của cơ quan quản lý, giám sát và tổ chức hoạt động
của thị trường (Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, các Sở giao dịch
chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán) - là đối tượng trực tiếp thực hiện
công tác xây dựng chính sách và khung pháp lý, quản lý, giám sát, kiểm tra, thanh
tra đối với các đối tượng tham gia đầu tư kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên thị
trường chứng khoán, vận hành hệ thống giao dịch và bù trừ thanh toán trên thị
trường chứng khoán; (ii) nhóm người hành nghề kinh doanh chứng khoán, bao gồm
nhân lực làm việc tại các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ về chứng khoán,
người đã được cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán; nhân sự tại các tổ chức xã
hội nghề nghiệp như Hiệp hội kinh doanh chứng khoán (VASB), Hiệp hội trái phiếu
(VBMA)…; (iii) nhóm nhà đầu tư trên thị trường bao gồm cả nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài; nhà đầu tư cá nhân và tổ chức đang thực hiện hoạt động
đầu tư trên thị trường.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ thị trường chứng khoán
đối với 03 nhóm nhân sự được liệt kê nêu trên, tác giả xin đưa ra một số kiến
nghị giải pháp tới UBCKNN như sau:
(i) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhân lực phù hợp với từng nhóm đối
tượng
Đối với nhóm đối tượng thứ nhất: nội dung định hướng đào tạo, bồi dưỡng cho
đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, giám sát, thanh tra, tổ chức thị trường cần dựa
trên nền tảng kiến thức, chuyên môn theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đẩy mạnh
đào tạo, bồi dưỡng công chức trên cơ sở chuyển đổi vị trí công tác thường xuyên để
đội ngũ công chức có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ tổng hợp và toàn diện.
Đồng thời, việc đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ liên quan đến công tác giải
quyết tranh chấp đầu tư, các thủ tục tranh tụng, tố tụng quốc tế trong lĩnh vực tài
chính, chứng khoán. Tăng cường chuyên môn, kiến thức cho cán bộ trong các lĩnh
91
vực khác nhau của thị trường, đảm bảo được các yêu cầu trong nước và quốc tế và
xu hướng toàn cầu trên các thị trường vốn quốc tế. Đa dạng hóa các hình thức đào
tạo, bồi dưỡng, trong đó có ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế, xã hội trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.
Đối với nhóm đối tượng thứ hai: để thị trường chứng khoán phát triển bền
vững cần đào tạo và nâng cao chất lượng người hành nghề chứng khoán bởi lẽ đây
chính là đối tượng mang tính chất xúc tác mạnh nhất đưa nhà đầu tư đến với thị
trường, cũng là đối tượng có vai trò không nhỏ trong hoạt động tạo lập thị trường
(market marker). Theo đó, giải pháp cần đặt ra trước tiên cần rà soát, cập nhật
chương trình đào tạo người hành nghề chứng khoán theo hướng tiếp cận các thị
trường chứng khoán hàng đầu trên thế giới và khu vực chẳng hạn như thị trường của
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Các chương trình đào tạo phải đáp ứng yêu
cầu đa dạng nội dung nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tượng và tăng cường
chuyển đổi số trong hoạt động đào tạo. Ngoài ra, các tổ chức hành nghề chứng
khoán cần xây dựng và triển khai các chương trình cập nhật kiến thức thường xuyên
cho người hành nghề chứng khoán nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc
biệt là phổ biến các quy định pháp luật mới, các thay đổi công nghệ tiên tiến trên thị
trường chứng khoán.
Thêm vào đó, khi xây dựng nội dung đào tạo người hành nghề chứng khoán
cần tập trung thời lượng lớn để đào tạo thực hành thông qua các công cụ hỗ trợ hiện
đại về các loại sản phẩm và dịch vụ mà các tổ chức kinh doanh chứng khoán cung
cấp cho nhà đầu tư bởi lẽ hiện nay trên thị trường liên tục triển khai các sản phẩm
chứng khoán mới như chứng khoán phái sinh, chứng quyền có bảo đảm, các loại
hình quỹ đầu tư, các sản phẩm ủy thác quản lý tài sản… Do vậy, các tổ chức hành
nghề chứng khoán cần liên tục cập nhật kiến thức về các sản phẩm mới, hệ thống
giao dịch trên thị trường cũng như cập nhật các quy định pháp lý về chứng khoán
theo quy định của pháp luật thông qua các khóa tập huấn hàng năm.
Đối với nhóm đối tượng nhà đầu tư: cần tiếp tục phát triển các nhà đầu tư cá
nhân gắn với đào tạo, phổ cập kiến thức và thông tin tuyên truyền. Xây dựng chiến
lược đào tạo nhà đầu tư phù hợp với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Cần
92
xác định đào tạo nhà đầu tư là giải pháp đặc biệt quan trọng để nâng cao sự bảo vệ
nhà đầu tư, thúc đẩy sự tự tin của nhà đầu tư khi tham gia thị trường, hình thành cơ
sở nhà đầu tư có chất lượng.
(ii) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế song phương, đa phương:
Tham khảo một số công ty chứng khoán trên thị trường hiện nay, đối với các
công ty có yếu tố nước ngoài như Công ty chứng khoán Maybank Kim Eng, Công
ty chứng khoán KIS, Công ty chứng khoán Mirae Asset … thì hoạt động hợp tác
đào tạo với đối tác nước ngoài được triển khai hiệu quả hơn nhiều so với các Công
ty chứng khoán khác thông qua hoạt động trao đổi nhân sự giữa các chi nhánh, cử
tham gia các khóa học trao đổi kinh nghiệm tổng quát thị trường và sản phẩm mới
của thị trường quốc tế… Do vậy, nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, cần nâng cao về đào tạo, tích cực và chủ động tham gia hội nhập, liên kết với
các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học; đồng thời kết
nối, tạo mạng lưới thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia trong và ngoài nước
trong nhiều lĩnh vực liên quan đến phát triển thị trường vốn để tham gia hoạt động
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành chứng khoán.
(iii) Xây dựng khung năng lực chuẩn cho đội ngũ tham gia thị trường
chứng khoán:
Khung năng lực cần xác định yêu cầu năng lực tối thiểu - bao gồm cả kiến thức
chuyên môn lẫn kỹ năng làm việc cho các vị trí hành nghề và nghiệp vụ cụ thể tại tổ
chức kinh doanh chứng khoán. Khung năng lực có thể được sử dụng làm căn cứ để
cập nhật, hoàn thiện các chương trình đào tạo hiện có cũng như xây dựng, bổ sung
các chương trình đào tạo mới nhằm củng cố, nâng cao chất lượng nhân lực hành nghề
trên thị trường chứng khoán. Về dài hạn, khung năng lực là công cụ để chuẩn hóa và
nâng cao chuẩn mực người hành nghề chứng khoán trong nước theo hướng phù hợp
với các nước trong khu vực, tiến tới công nhận lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề và
người hành nghề trên thị trường chứng khoán. Trên cơ sở đúc rúc các quy định mới,
các công ty chứng khoán cùng phối hợp với các Hiệp hội như Hiệp hội kinh doanh
chứng khoán (VASB), Hiệp hội trái phiếu Việt Nam (VBMA)… xây dựng bộ khung
chương trình đào tạo chuẩn của Việt Nam về chứng khoán, hướng đến chuẩn hóa hệ
93
thống đào tạo trên quy mô toàn thị trường nhằm đưa ra chuẩn mực chung về năng lực
hành nghề chứng khoán của nhân lực hành nghề trên thị trường chứng khoán Việt
Nam so các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng dựng khung năng lực cho cán bộ quản lý,
giám sát, thanh tra, tổ chức chức thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, trong thời
gian vừa qua, thị trường chứng khoán đã chứng kiến nhiều vụ việc sai phạm của cán
bộ cao cấp thuộc các cơ quan quản lý thị trường như vụ việc khởi tố Phó vụ trưởng
Vụ Giám sát thị trường chứng khoán thuộc Ủy ban chứng khoán nhà nước về tội
“cố ý làm lộ bị mật công tác” hay vụ việc buộc thôi việc với Tổng Giám đốc của Sở
Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE). Do vậy, tác giả cho rằng khung năng lực
cho cán bộ thuộc cơ quan quản lý, tổ chức thị trường cũng cần được đặc biệt chú
trọng, cần phải cụ thể, phù hợp với bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam ở
thời điểm hiện tại và định hướng lộ trình hoàn thiện trong trung, dài hạn.
Trên cơ sở khung năng lực được xây dựng cụ thể, từ đó hoàn thiện công tác
quản lý, đánh giá cán bộ, công chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thị
trường chứng khoán. Tăng cường công tác quản lý, giám sát cán bộ, công chức để
tránh những hành vi vi phạm pháp luật, bóp méo hoạt động của thị trường chứng
khoán. Hoàn thiện quy chế, hệ thống đánh giá, xếp loại công chức một cách hiệu
quả, phù hợp nhằm động viên, thúc đẩy phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thực
hiện công tác quản lý, giám sát, tổ chức hoạt động thị trường chứng khoán.
(iv) Phát huy vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp trong nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực ngành Chứng khoán. Các cơ quan chức năng, nhất là Ủy ban chứng
khoán Nhà nươc cần phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp trong quản lý, giám sát
đối với người hành nghề chứng khoán, đặc biệt là gắn kết với các hiệp hội nghề
nghiệp trong công tác đào tạo, bồi dưỡng người hành nghề chứng khoán.
Ngoài các kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước nêu trên, tác giả xin đưa ra
thêm một số kiến nghị với Ủy ban chứng khoán Nhà nước - là cơ quan trực tiếp
quản lý, điều hành thị trường chứng khoán tại Việt Nam ở một số nội dung như sau:
a. Kiến nghị Ủy ban chứng khoán có các biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao
nguồn cung hàng hóa cho thị trường, cải thiện chất lượng nguồn cung cho thị
trường chứng khoán
94
Thị trường chứng khoán Việt Nam tồn tại thực trạng nhiều mã cổ phiếu của
các doanh nghiệp mà giá trị cổ phiếu không được phản ánh chính xác thị giá trên thị
trường. Chẳng hạn giá trị sổ sách định giá của doanh nghiệp được định giá thấp,
nhưng giá trị giao dịch thực tế trên sàn lại gấp nhiều lần. Điều này phản ánh giá trị
“ảo” của các doanh nghiệp này. Do vậy, tác giả kiến nghị Ủy ban chứng khoán cần
có phương pháp giúp Nhà đầu tư xác định được giá trị thực tế của doanh nghiệp, từ
đó giúp Nhà đầu tư có thể đầu tư hiệu quả hơn trên thị trường. Thêm vào đó, Ủy
ban chứng khoán định hướng tăng cường cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước gắn
với niêm yết để tạo hàng hóa có chất lượng cho thị trường chứng khoán, qua đó
khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện IPO gắn với niêm yết, đăng ký giao dịch
trên thị trường chứng khoán.
b. Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc bao
gồm cổ phiếu tập trung, thị trường quản lý OTC, thị trường trái phiếu vận hành theo
thông lệ quốc tế tốt nhất có khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế.
c. Chỉ đạo các cơ quan và các Công ty chứng khoán trên thị trường hiện đại
hóa hạ tầng, công nghệ thông tin và cải cách thủ tục hành chính cho thị trường
chứng khoán. Kiến nghị tăng cường đầu tư và áp dụng công nghệ thông tin để tổ
chức giao dịch và quản lý giám sát thị trường chứng khoán; xây dựng hệ thống phần
mềm ứng dụng lõi xử lý tập trung, đồng bộ hóa ứng dụng và có khả năng quản lý;
xây dựng hệ thống đảm bảo an ninh, an toàn mạng. Bên cạnh đó, cần xem xét loại
bỏ các thủ tục hành chính, các loại giấy phép không cần thiết, nhưng cũng đảm bảo
yêu cầu của quản lý nhà nước để thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh.
d. Kiến nghị Ủy ban chứng khoán Nhà nước nâng cao vai trò và trách nhiệm
của các tuyến giám sát, trong đó coi trọng tuyến giám sát thứ nhất là các công ty
chứng khoán là cần thiết nhằm bảo đảm một thị trường vận hành minh bạch, hiệu
quả. Theo đó, Ủy ban chứng khoán Nhà nước sẽ tăng cường giám sát các công ty
chứng khoán thực hiện đúng và đầy đủ vai trò là chủ thể giám sát tuyến đầu theo
quy định tại Luật Chứng Khoán 2019 và các băn bản hướng dẫn để kịp thời ngăn
ngừa và phát thiện sớm các vị phạm trên thị trường. Ngoài ra, Ủy ban chứng khoán
Nhà nước sẽ đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác thanh
tra, giám sát; hoàn thiện và đưa vào sử dụng hệ thống giám sát giao dịch nâng cấp
95
với các tính năng phân tích cảnh báo, thống kê; kết nối các cơ sở dữ liệu dùng
chung với Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán khi hệ thống
công nghệ thông tin mới được đưa vào sử dụng.
e. Về hoạt động tổ chức thị trường, việc đẩy nhanh tiến độ vân hành hệ thống
công nghệ thông tin KRX nhằm tạo điều kiện triển khai các sản phẩm dịch vụ mới
trên thị trường chứng khoán và bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, liên tục, an
toàn, hiệu quả; đồng thời, kiến nghị Ủy ban chứng khoán Nhà nước đang chỉ đạo
các bên liên quan chuẩn bị nền tảng giao dịch Trái phiếu doanh nghiệp chào bán
riêng lẻ nhằm phát triển một thị trường giao dịch Trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp
minh bạch, an toàn, tăng cường khả năng quản lý, giám sát, giảm thiểu rủi ro; đẩy
mạnh công tác tái cấu trúc thị trường chứng khoán, nâng cao sức cạnh tranh và chất
lượng của các định chế trung gian thị trường thông qua việc tiếp tục thực hiện tái
cáu trúc công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ theo đề án được thủ tướng phê
duyệt.
f. Nâng cao vị trí vai trò của Ủy ban chứng khoán trong công tác truyền thông
nhằm ổn định tâm lý, tăng cường niềm tin của nhà đầu tư trong thời gian tới, qua đó
giúp các doanh nghiệp, nhà đầu tư an tâm tham gia huy động và đầu tư trên thị
trường vốn, đồng thời tăng cường sự tham gia của các định chế, nhà đầu tư chuyên
nghiệp, ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn như các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí tự
nguyện, doanh nghiệp bảo hiểm. Từ những kết quả tích cực đó, tác giả kiến nghị Ủy
ban chứng khoán Nhà nước sẽ tích cực phối hợp các tổ chức quốc tế triển khai các
giải pháp để sớm nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam theo lộ trình đã đặt
ra nhằm thu hút sự tham gia của nguồn vốn nước ngoài đổ vào thị trường chứng
khoán Việt Nam.
3.3.4. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý khác
Ngoài các kiến nghị về chính sách pháp luật với cơ quan quản lý Nhà nước nói
chung và cơ quan quản lý trực tiếp nói riêng là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tác
giả đưa ra thêm một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý khác có liên quan trên
thị trường chứng khoán Việt Nam gồm:
a. Khuyến khích sự phát triển của các quỹ đầu tư tại Việt Nam:
96
Tại thị trường Việt Nam hiện nay, gần 99% số tài khoản chứng khoán và 85%
giá trị giao dịch chứng khoán đến từ nhà đầu tư cá nhân là một tỷ lệ lớn và luôn đi
kèm với những rủi ro, hạn chế cố hữu của nhà đầu tư cá nhân. Vì vậy, một trong các
chiến lược phù hợp để giảm thiểu những biến động bất lợi và hậu quả gây ra bởi
năng lực hạn chế cho nhà đầu tư cá nhân là khuyến khích cơ chế đầu tư gián tiếp
thông qua các tổ chức quản lý đầu tư chuyên nghiệp, từ đó từng bước nâng cao các
thiết chế mềm bảo vệ các nhà đầu tư cá nhân thông qua hoạt động của các tổ chức
chuyên nghiệp và từng bước minh bạch hoạt động của thị trường, đảm bảo sự phát
triển bền vững.
b. Thực hiện thiết lập các quy định để chuẩn hóa việc công bố thông tin ở mức
độ cao hơn. Đây là một trong những việc cần làm nhất để thúc đẩy năng lực đầu tư
của nhà đầu tư cá nhân. Một phần rất lớn đang cản trở năng lực của nhà đầu tư cá
nhân chính là chất lượng công bố thông tin rất kém cũng như thiếu minh bạch của
nhiều các công ty niêm yết và tình trạng bất cân xứng thông tin trầm trọng. Cơ quan
quản lý trong lĩnh vực doanh nghiệp, chứng khoán cần có quy định cho việc đảm
bảo các thông tin trọng yếu được công bố, tiếp cận tới các thành phần nhà đầu tư
được công bằng, kịp thời, đặc biệt trong thời gian gần đây, vấn đề nổi cộm về thông
tin của các Đợt chào bán phát hành trái phiếu doanh nghiệp (gồm tài liệu về Điều
khoản điều kiện phát hành Trái phiếu (OC), Phương án phát hành…) chưa được
cung cấp đầy đủ cho các nhà đầu tư khi xem xét, thẩm định trước khi đầu tư.
Tác giả thấy rằng có thể tham khảo ở các quốc gia có thị trường chứng khoán
phát triển đó là khi công ty niêm yết tổ chức các hoạt động gặp mặt nhà đầu tư tổ
chức thì thường phát trực tiếp cho cả các cổ đông cá nhân tham gia và đăng đầy đủ
các tài liệu thuyết trình và đoạn ghi âm lên website. Những quy định để cụ thể hóa,
nâng cao chất lượng thông tin của báo cáo tài chính, báo cáo thường niên cũng cần
được nâng cấp để tăng chất lượng thông tin cung cấp tới nhà đầu tư. Những điều
này không thể kỳ vọng các công ty niêm yết tự triển khai mà cần sự thúc đẩy và quy
định bắt buộc và sự phối hợp từ các cấp quản lý.
c. Các cơ quan chuyên môn cần phối hợp để cung cấp các khóa học, chương
trình đào tạo cho nhà đầu tư cá nhân. Thực tế, nhu cầu tìm hiểu về đầu tư của các
97
nhà đầu tư cá nhân là rất lớn trong khi hiện chưa có một quy chuẩn kiến thức nào để
cung cấp tới các nhà đầu tư không chuyên, không được đào tạo về lĩnh vực tài chính
và đầu tư, kể cả khi nhà đầu tư có nhu cầu. Trung tâm Đào tạo chứng khoán thuộc
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hiện nay đang làm tốt việc tập trung công tác đào
tạo chứng chỉ hành nghề mà chưa thực sự cung cấp dịch vụ cho một nhóm khách
hàng rất lớn có nhu cầu học về lĩnh vực đầu tư một cách bài bản, đây hoàn toàn có
thể là điều có thể cải thiện trong tương lai thông qua việc phối hợp với Công ty
chứng khoán để cung cấp các khóa học mang lại kiến thức cơ bản cho khách hàng.
Theo quan sát của tác giả, các nhà đầu tư cá nhân thường không có hiểu biết về thị
trường tài chính, do vậy sử dụng dịch vụ ký quỹ của các Công ty chứng khoán một
cách ồ ạt, bừa bãi. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính ở mức cao như vậy đối với khách
hàng cá nhân sẽ gây mất ổn định cho thị trường chứng khoán cũng như tạo ra sự
cạnh tranh không lành mạnh khi các Công ty chứng khoán giành giật khách hàng
thông qua các chính sách vay nợ ưu việt hơn, nhưng qua đó lại nâng mức độ rủi ro
98
tài chính cao hơn cho khách hàng.
KẾT LUẬN
TTCK đóng vai trò to lớn trong việc thu hút vốn cho các chủ thể của nền kinh
tế và cũng là nơi để các nhà đầu tư tham gia đầu tư sinh lời. Ngoài ra, TTCK cung
cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán, đánh giá giá trị doanh nghiệp và
tình hình của nền kinh tế, tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh
tế vĩ mô.
Với những chức năng quan trọng như vậy, việc phát triển thị trường chứng
khoán là điều rất cần thiết, để phát triển thị trường chứng khoán thì đồng nghĩa với
việc chúng ta cần phải thu hút và tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn nữa cho các nhà
đầu tư tham gia đầu tư trên thị trường này. Bởi vì thị trường chứng khoán là một
trong những thị trường rất năng động về mặt thu hút các nhà đầu tư, khi càng đông
các nhà đầu tư tham gia đầu tư trên thị trường này thì thị trường này càng sôi động
và thu hút được nhiều nguồn vốn tham gia đầu tư vào thị trường này, góp phần cung
cấp nguồn vốn lớn cho nền kinh tế, phục vụ cho việc phát triển đất nước.
Để làm được điều đó, bài luận đã chỉ ra các giải pháp để thúc đẩy tham gia
mạnh mẽ hơn nữa của các NDT tạo đà cho sự phát triển bền vững, ổn định của
TTCK. Vì vậy, Chính phủ phải thiết lập các biện pháp để giảm thiểu rủi ro, tăng
tính hấp dẫn của việc đầu tư vào thị trường chứng khoán thông qua việc cho các nhà
đầu tư thấy khả năng tạo ra lợi nhuận khi tham gia đầu tư trên thị trường này.
Cùng với đó, khung pháp lý cần được hoàn thiện hơn nữa để sát với thực tế
hướng tới bảo vệ các NDT yếu thế khi tham gia thị trường. Các cơ quan quản lý,
các thành viên thị trường thuyền xuyên tổ chức các chuyên đề về thị trường nhằm
99
nâng cao kiến thức cho NDT khi tham gia thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Nguyễn Đình Toàn (2022), “Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư
chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại thị trường Việt Nam trong bối cảnh địa dịch
covid -19”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 131, 130-150.
2. Nguyễn Thành Long (2010), Giáo trình Quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán, Nhà xuất bản văn hóa thông tin
3. Nguyễn Thị Mùi (2010), Giáo trình kinh doanh chứng khoán, Nhà xuất bản
tài chính
4. Nguyễn Thị Mai Hương (2022), “Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân mới trên thị trường Việt Nam”, Tạp chí
TNU Journal of Science and Technology, số 227, 259-267.
5. Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2013), “Các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân tại sàn giao dịch Tp. HCM”, Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Mở Tp. HCM, số 8, 3-17.
6. Nguyễn Thị Thùy Dung (2008), “Khảo sát và đo lường các yếu tố tâm lý
ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của đầu tư cá nhân”, Tạp chí Công
nghệ Ngân hàng, Số 30, 35 – 37.
7. Trịnh Thị Phan Lan (2012), “Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
Góc nhìn từ phía nhà đầu tư cá nhân”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội,
số 28, 209 – 215.
8. Vũ Văn Ninh (2013), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài
chính
Tài liệu Tiếng Anh
1. Alistair Byrne, Mike Brooks (2008), “Behavioral Finance: Theories and
Evidence”, Research Foundation Literature Reviews, Volume 3, Issue 1.
2. Alifani, G. A., & Nugroho, A. B. (2013), “Proving Modigliani and Miller
theories of capital structure: the research on Indonesian cigarette companies”,
100
International journal of economic sciences.
3. Boďa, M. and Kanderová, M (2014), “Linearity of the Sharpe-Lintner
version of the Capital Asset Pricing Model”, Procedia - Social and Behavioral
Sciences, 110, pp.1136 – 1147
4. Eugene F. Fama, Kenneth R. French (2004), The Capital Asset Pricing
Model: Theory and Evidence, Journal of Economic Perspectives vol. 18, no. 3, pp.
25–46
5. Faruk Ahmeti (2015), Critical review of Modigliani and Miller’s theorem of
capital structure, International Journal of Economics, Commerce and Management,
Vol. III, Issue 6
6. N. G. Phan (2020), “Factors affecting the behavior of individual investor in
Vietnamese stock market”, Review of Finance (ROF), vol. 1, pp. 35-39.
7. Ibrahim, S.Z., Roslan, T.R. and Jameel, A.F. (2021) “A comprehensive
literature review on pricing equity warrants using stochastic approaches,” Universal
Journal of Accounting and Finance, 9(3), pp. 396–404
8. R. Subathra, A. Kachi Mohideen (2017), “Modern Portfolio Theory: A
Review of the Work Done on Performance Measures and their Role in Portfolio
Construction”, International Journal of Scientific Research in Science and
Technology, Volume 3, Issue 3.
9. Shahnaz Mashayekh, Elaheh Ahmadi Amin (2022), “The Impact of
Liquidity and Investment Opportunity on Investment Decisions Moderated by
Financial Constraints”, Journal of Accounting Knowledge, Volume 13, Issue 1 -
Serial Number 48, Pages 83-96
10. S. Patil and V. Bagodi (2021), “A study of factors affecting investment
decisions in India: The KANO way,” Asia Pacific Management Review, vol. 26, no.
4, pp. 197-214.
Các trang web
1. https://www.sbv.gov.vn/
2. https://www.hsx.vn/
3. https://www.ssc.gov.vn/
101
4. https://vsd.vn/vi/
5. http://fiinpro.com/
102
6. https://chinhphu.vn/