ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ HUYỀN KIỂU NHÂN VẬT CÔ ĐƠN LẠC LOÀI TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
VÀ TIỂU THUYẾT SA MẠC CỦA LE CLÉZIO LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁVIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ HUYỀN KIỂU NHÂN VẬT CÔ ĐƠN LẠC LOÀI TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ TIỂU THUYẾT SA MẠC CỦA LE CLÉZIO Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THẮM
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố.
Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn có xuất xứ rõ ràng.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2018
i
TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN THỊ HUYỀN
LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc
Tư và tiểu thuyết Sa mạc của Le Clezio” là nội dung tôi chọn để nghiên cứu và làm
luận văn tốt nghiệp sau hai năm theo học chương trình cao học chuyên ngành Văn
học Việt Nam tại khoa Ngữ văn - Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên, dưới sự
hướng dẫn của TS Nguyễn Thị Thắm.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Thắm, người đã
trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Nhờ sự chỉ bảo tận tình của
cô mà luận văn của tôi mới được hoàn thành và có kết quả như ngày hôm nay.
Tiếp đó, tôi xin tỏ lòng cảm ơn chân thành đến tập thể các thầy, cô khoa Ngữ
văn - Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên; đặc biệt là các thầy cô trong bộ môn
Văn học Việt Nam, ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng quản lí sau Đại học trường
Đại học sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên
cứu. Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, lãnh đạo cơ quan, đồng nghiệp đã giúp đỡ, động
viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập, hoàn thành luận văn.
Dù đã cố gắng, nỗ lực hết mình để hoàn thành nhưng tôi nhận thấy luận văn
của mình vẫn không tránh khỏi hạn chế, sai sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được
những lời góp ý chân thành từ thầy cô và các bạn.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2018
TÁC GIẢ
ii
NGUYỄN THỊ HUYỀN
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 7
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 8
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 9
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 10
1.1.Tác giả Nguyễn Ngọc Tư ...................................................................................... 10
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác ........................................................................ 10
1.1.2. Tiểu thuyết Sông ............................................................................................... 13
1.2. Tác giả Le Clézio ................................................................................................. 15
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác ........................................................................ 15
1.2.2. Tiểu thuyết Sa mạc ........................................................................................... 19
1.3. Nhân vật cô đơn lạc loài và kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong văn học. .......... 21
Chương 2. HÀNH TRÌNH KIẾM TÌM HẠNH PHÚC CỦA KIỂU NHÂN
VẬT CÔ ĐƠN LẠC LOÀI TRONG SÔNG VÀ SAMẠC ..................................... 29
2.1. Các kiểu loại nhân vật cô đơn, lạc loài trong Sông và Sa mạc ............................ 29
2.1.1. Nhân vật tự cô đơn ............................................................................................ 29
2.1.2. Nhân vật bị cô đơn ............................................................................................ 36
2.2. Không gian và thời gian của hành trình ............................................................... 42
2.2.1. Không gian nghệ thuật ...................................................................................... 42
2.2.2. Thời gian nghệ thuật ......................................................................................... 49
iii
2.3. Cách phản ứng của các nhân vật trước nỗi cô đơn .............................................. 58
Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KIỂU NHÂN VẬT CÔ ĐƠN LẠC
LOÀI TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG VÀ SA MẠC ........................................... 63
3.1. Nghệ thuật xây dựng ngoại hình .......................................................................... 63
3.2. Nghệ thuật xây dựng hành động .......................................................................... 79
3.3. Ngôn ngữ và tâm lí nhân vật ................................................................................ 85
3.3.1. Ngôn ngữ bên ngoài (đối thoại trực tiếp) ......................................................... 86
3.3.2. Ngôn ngữ bên trong (độc thoại và đối thoại nội tâm) ...................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 96
iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98
Bảng 3.1. Chi tiết miêu tả hình ảnh đôi mắt, ánh nhìn của một số nhân vật cô đơn, lạc
DANH MỤC CÁC BẢNG
loài trong Sông ......................................................................................... 65
Bảng 3.2. Chi tiết miêu tả hình ảnh đôi mắt, ánh nhìn của một số nhân vật cô
đơn, lạc loài trong Sa mạc ....................................................................... 70
iv
Bảng 3.3. Hành động của nhân vật Hartani qua tác phẩm Sa mạc ......................... 81
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Jean-Marie Gustave Le Clézio, người được Viện Hàn lâm Thụy Điển công
bố trao giải Nobel văn chương 2008 không phải là một cái tên xa lạ đối với những
người yêu văn chương. Ông là một trong những nhà văn hiện đại Pháp được dịch
nhiều nhất. Có thể coi ông là một trong những gương mặt nổi bật, tiêu biểu của tiểu
thuyết Pháp từ nửa sau thế kỉ XX cho đến nay. Ông thường được kể là một trong các
nhà văn tiên phong.
Trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới, người yêu văn chương cũng như
giới phê bình nghiên cứu khoảng mười năm đầu thế kỷ XXI không còn xa lạ với cái
tên Nguyễn Ngọc Tư. Tên tuổi của chị gắn liền với những tác phẩm có dấu ấn với bạn
đọc và giới phê bình.
Hai nhà văn thuộc hai quốc gia, hai châu lục khác nhau nhưng đều là những
cây bút tài hoa trên văn đàn dân tộc mình. Trong sáng tác của họ thế giới nhân vật vô
cùng phong phú và đa dạng, tuy nhiên trong một số tác phẩm, cả hai nhà văn đều đề
cập đến kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài. Kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài giữa hai nhà
văn này có những điểm tương đồng và khác biệt .
1.2. Tiểu thuyết Sa mạc là tác phẩm được giải thưởng lớn Paul Morand đồng
thời được đánh giá là tinh hoa trong chặng đường sáng tác thứ hai của nhà văn Le
Clézio. Sa mạc là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng nghệ thuật của Le Clézio. Qua tác
phẩm, nhà văn tiếp tục sứ mạng của mình là phản ánh thân phận con người trong thời
đại văn minh tiêu thụ. Cuộc tìm kiếm thiên đường của tự do và hạnh phúc, tình yêu
con người và cuộc sống là chủ đề chính trong tiểu thuyết Sa mạc và đó cũng là vấn đề
đặt ra cho toàn nhân loại. Tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư được đánh giá là
độc đáo, đầy tính thời sự mà cũng giàu chất thơ. Một dòng sông hư cấu nhưng lại
chảy qua những bãi bồi phù sa, ghềnh thác để chứng kiến bao thân phận con người,
những biến động của thời đại nổi nênh trong những giá trị khuất lấp, xói mòn bởi
những giả trá, phù phiếm và cả sự chênh vênh, bất cần trên điểm tựa chung nhất là
nỗi đau mà mỗi người phải gồng gánh.
1
1.3. Nhịp sống hối hả của cuộc sống hiện đại kéo theo nhiều hệ lụy. Sống gấp,
sống nhanh, sống vội vàng nhưng khi mọi thứ không theo ý muốn người ta lại dễ rơi
vào trạng thái cô đơn. Kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài không phải là một đề tài mới mẻ
trong văn học. Họ luôn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng. Họ là nạn nhân của những bi kịch, éo
le, ngang trái, bị số phận xô đẩy đến nỗi cô đơn. Quả thật, nỗi cô đơn của nhiều nhân
vật trong nhiều tác phẩm ở những quốc gia, châu lục khác nhau nhiều khi khó sẻ chia
và họ cứ sống chìm đắm rất lâu trong cái vỏ bọc của sự cô đơn ấy. Tác phẩm của hai
nhà văn đã góp thêm cách cảm nhận về sự cô đơn, lạc loài ấy một cách thấm thía.
Chúng tôi thấy sự so sánh giữa tiểu thuyết Sa mạc và Sông cũng có những khập khiễng
nhất định, mà khập khiễng lớn nhất là tầm vóc của hai nhà văn nhưng chúng tôi vẫn
nhìn thấy được sự thống nhất là cả hai đều có kiểu nhân vật cô đơn lạc loài và đó là lí
do để chúng tôi chọn hai tác phẩm này. Hiện tượng này xứng đáng là một đối tượng
cho một đề tài nghiên cứu kĩ càng hơn, hệ thống và đầy đủ hơn. Bởi vậy chúng tôi đã
lựa chọn nghiên cứu đề tài: Kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong tiểu thuyết Sông của
Nguyễn Ngọc Tư và tiểu thuyết Sa mạc của Le Clezio. Mặt khác, đề tài này còn góp
phần vào công việc nghiên cứu và học tập văn học Pháp ở Việt Nam. Từ đó, tăng
cường tình hữu nghị giữa hai nước Việt - Pháp trong bối cảnh giao lưu, hợp tác, cùng
phát triển hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. J.M.G. Le Clézio là tác giả thu hút được sự quan tâm, chú ý của đông đảo
giới nghiên cứu, phê bình và độc giả trên thế giới. Tác phẩm của ông là đối tượng
nghiên cứu của rất nhiều công trình tại Pháp và nhiều nước trên thế giới như Mỹ,
Canada, Hàn Quốc, Ý… Luận văn của chúng tôi sẽ giới thiệu khái quát một số tác
phẩm và các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước (chủ yếu là các tài liệu
bằng tiếng Việt) trong đó đề cập đến tiểu thuyết Sa mạc của Le Clézio.
Từ trước thời điểm Le Clézio được nhận giải Nobel năm 2008, tác phẩm của
ông đã rải rác được giới thiệu ở Việt Nam. Khảo sát theo thời gian, chúng tôi nhận
thấy tác phẩm cũng như các công trình nghiên cứu về ông ngày càng tăng lên về số
lượng, cụ thể hơn, chuyên sâu hơn về mặt lý luận, nghệ thuật. Trước những năm
2
2000, tác phẩm cũng như tài liệu về Le Clézio vô cùng ít ỏi. Độc giả Việt Nam biết
đến ông trước tiên qua bài viết giới thiệu về J.M.G. Le Clézio kèm theo một đoạn
trích từ tiểu thuyết Biên bản của tác giả Hoàng Ngọc Biên trong cuốn Tiểu thuyết của
các nhà văn Pháp hiện đại, in tại Sài Gòn năm 1969.
Từ năm 1992, cuốn Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XX (Đặng Thị Hạnh chủ biên)
đã nhận định như sau về Le Clézio: “lối viết “vỡ tung”, sự xâm nhập các thể loại
trong tác phẩm của Le Clézio là một biểu hiện chấp nhận tất cả mọi lối biểu hiện của
sáng tác văn học hôm nay” [17, tr.153]. Về cuốn Sa mạc các tác giả đã khẳng định sự
nổi tiếng của nó: “Lối viết trần trụi, chữ nghĩa tẻ nhạt, nhưng số phận của một phụ nữ
da đen sớm thành đàn bà, Lalla, đã gợi biết bao tầng ý nghĩa cho con người hiện đại,
người lao động cư trú ở nước ngoài và phụ nữ đối mặt với “văn minh” công nghiệp.
Cuốn sách được dư luận đánh giá là “cuốn tiểu thuyết tuyệt nhất lâu lắm mới được
viết ra bằng tiếng Pháp” [17, tr.153].
Năm 1997, trên báo Lao động số 135 ra ngày 24/8/1997 đăng bài viết của tác
giả Huỳnh Phan Anh giới thiệu khuynh hướng đổi mới kỹ thuật tiểu thuyết và chủ đề
cuộc hành trình trong một số tác phẩm của Le Clézio trong đó có tiểu thuyết Sa mạc.
Vào năm 1999 xuất hiện bài nghiên cứu đầu tiên giới thiệu Le Clézio trong
một số Chuyên san về tiểu thuyết Pháp của Tạp chí văn học, trong đó ông được khẳng
định “đã chứng minh tài năng của mình”, là người được “xếp hạng” trong làng văn
học Pháp đương đại từ khi còn khá trẻ (30 tuổi) với tác phẩm Biên bản (giải thưởng
Renaudot). Tác giả Lộc Phương Thuỷ trong bài viết này đã giới thiệu nhà văn có
công “làm cho bức tranh toàn cảnh của văn học Pháp thế kỉ XX đỡ màu ảm đạm”. Bà
giúp người đọc hiểu rõ Le Clézio hơn không chỉ với tư cách một nhà tiểu thuyết mà
còn là người viết truyện ngắn, tiểu luận, dịch thuật. Hơn thế ông còn là người nghiên
cứu và giảng dạy ở Pháp và các nước khác như Mỹ, Mexique, Thái Lan…Tiểu thuyết
Sa mạc cũng được tác giả bài báo giới thiệu như một bằng chứng về một lối viết riêng
của Le Clézio: “điều đó được thể hiện không chỉ ở việc làm “vỡ tung” văn bản, mà
chủ yếu là việc xâm nhập các thể loại trong tác phẩm của ông. Trong tiểu thuyết của
ông có cả thơ, có tiểu luận, có sử thi, huyền thoại và cổ tích…” [36, tr. 38].
3
Năm 2001 tác giả Phùng Văn Tửu xuất bản cuốn Tiểu thuyết Pháp bên thềm
thế kỷ XXI trong đó có dành một số trang để giới thiệu về sự chuyển biến tinh thần
của Le Clézio thể hiện trong các tác phẩm ra đời những năm 80 như Sa mạc (1980),
Người tìm vàng (1985) đồng thời tác giả cũng đề cập đến chủ đề đi tìm miền đất hứa
ở thế giới quê hương cội nguồn và thiên nhiên hoang sơ tinh khiết.
Bài viết của tác giả Lê Thị Phong Tuyết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học
số 4-2004 với nhan đề Ba nhà tiểu thuyết tiêu biểu cuối thể kỉ XX nhấn mạnh chủ đề
tư tưởng của tiểu thuyết Sa mạc. Theo tác giả bài viết Sa mạc “thực sự là bản anh
hùng ca về cuộc đấu tranh của những con người bị giết hại, những con người phải di
cư. Nó cũng đồng thời tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh, của chủ nghĩa thực dân. Đây
là sự chồng chéo hai thế giới: thế giới của sa mạc và thế giới của thành phố, của văn
minh. (...) Đây là bản anh hùng ca về “những người đàn ông, những người phụ nữ
của cát, của gió, của ánh sáng, của buổi đêm” [42].
Đề cập cụ thể về một số yếu tố nghệ thuật trong Sa mạc phải kể đến bài viết
Thời gian, không gian trong tiểu thuyết Sa mạc của Le Clézio đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 2/2006 của tác giả Nguyễn Thị Bình. Tác giả bài viết đã khảo
sát một cách hệ thống cấu trúc và không - thời gian trong tiểu thuyết Sa mạc và từ đó
đưa ra kết luận: “Với cách xử lí thời gian và không gian đặc sắc, Le Clézio đã làm nổi
bật những vấn đề bức thiết của con người, của xã hội và lịch sử. Và đặc biệt là mang
lại một sắc thái mới cho đề tài viễn du. Những cuộc hành trình của các nhân vật chính
là hành trình khám phá thế giới hiện thực của bản thân mình. Cái cá thể hoà nhập vào
cái chung, cái tôi tồn tại trong lòng cuộc đời sống động với vô vàn sắc thái đa dạng.
Mặt khác cuộc viễn du đó chính là quay trở về cội nguồn, để tìm thấy bản sắc của dân
tộc mình - một trong mối quan tâm của các nhà văn Pháp và chắc chắn cũng là của
các nhà văn Việt Nam” [5].
Tài liệu có liên quan nhiều nhất đến đề tài luận văn của chúng tôi là Luận án
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Bình với đề tài Những cuộc hành trình trong tiểu
thuyết của J.M.G Le Clézio (2006). Trong luận án của mình, tác giả đi sâu khảo sát
các cuộc hành trình trong bốn tiểu thuyết của J.M.G Le Clézio: Cuốn sách của những
cuộc chạy trốn, Sa mạc, Người đi tìm vàng và Con cá vàng. Tiểu thuyết Sa mạc được
tác giả luận án đề cập về mặt cấu trúc tác phẩm, nhân vật và không gian như những
4
chủ thể của các cuộc hành trình. Trong đó nhân vật trong Sa mạc được khai thác ở hai
cấp độ đó là nhân vật chính thực hiện cuộc hành trình gồm Lalla, Nour và cộng đồng
du mục và nhân vật phụ tác động, định hướng những cuộc hành trình đó là những
nhân vật huyền thoại như Ma el Ainine, Al Azraq còn nhân vật Namman, Hartani lại
được xếp vào loại nhân vật khai sáng. Từ khảo sát, phân tích nhân vật, tác giả đi đến
những đánh giá về kỹ thuật xây dựng nhân vật độc đáo của tác giả đó là sự kết hợp
bút pháp hiện thực và trữ tình gắn liền với cuộc hành trình về thế giới cội nguồn.
Đồng thời tác giả luận án cũng nhận định: kiểu nhân vật độc đáo trong những cuộc
hành trình đã góp phần biến đổi cốt truyện của tiểu thuyết viễn du theo cách thức của
tiểu thuyết phản ánh quan niệm về thế giới, về tư tưởng.
Từ luận án này, tác giả Nguyễn Thị Bình đã sửa chữa và bổ sung để cho ra mắt
cuốn Tư tưởng nhân văn trong các tác phẩm của J.M.G Le Clézio (2010).
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về Le Clézio.
Trong công trình này, tác giả đã dành một phần không nhỏ (gần 1/3 số trang) để giới
thiệu những cách tân, đổi mới kỹ thuật tiểu thuyết của Le Clézio cùng với tư tưởng
nhân văn mà ông gửi gắm trong các tiểu thuyết chủ đề “viễn du” của mình. Tác giả
khẳng định: tất cả những cách tân táo bạo về kĩ thuật tiểu thuyết của Le Clézio nhằm
để phản ánh những suy ngẫm về thân phận con người, những cuộc hành trình tìm
kiếm tự do và hạnh phúc. Những chuyến di mải miết trong không gian vô tận để truy
tìm tình yêu con người trong xã hội hiện đại được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau.
Sự chối bỏ xã hội hiện đại, đi tìm cội nguồn, hướng tới thế giới lí tưởng được tiến
hành bằng những chuyến viễn du trong thế giới hiện thực hoặc trong tưởng tượng.
Những chuyến khởi hành đó chứa đựng sự dịch chuyển trong không gian, thời
gian và những biến đổi sâu sắc thế giới tinh thần của nhân vật. Tiểu thuyết Sa
mạc được tác giả xếp vào thể loại tiểu thuyết “viễn du” và được khảo cứu như là một
trong số những tiểu thuyết tiêu biểu thể hiện đặc sắc tư tưởng nhân văn của tác giả.
Cụ thể là chủ đề tư tưởng, cấu trúc của tác phẩm cũng như trong những cuộc hành
trình tìm kiếm tự do và hạnh phúc mà cá nhân Lalla và cộng đồng du mục thực hiện.
Ngoài ra cũng phải kể đến một số khóa luận tốt nghiệp Đại học nghiên cứu về
tác phẩm của Le Clézio như Khoá luận tốt nghiệp của các sinh viên:
5
Khúc Thị Hoa Phượng (2003), Nguyễn Thị Mỹ Liên (2006), Nguyễn Thị Lan
Anh (2009) sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc
gia Hà Nội. Các khóa luận trên phần nào đã đề cập đến những khía cạnh thi pháp
trong tác phẩm của Le Clézio như: Nghệ thuật xây dựng nhân vật; Người kể chuyện;
Lối viết và bút pháp trong các tập truyện ngắn Người chưa thấy biển, Mondo và
những chuyện khác, Vòng xoáy… Năm 2009, cũng tại trường Đại học này có thêm
khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Huyền Trang với đề tài Yếu tố huyền
thoại trong tiểu thuyết Sa mạc của Jean Marie Gustave Le Clézio. Trong khoá luận
của mình, tác giả Nguyễn Thị Huyền Trang tập trung khai thác các yếu tố huyền thoại
thông qua cấu trúc tác phẩm, hệ thống nhân vật, không gian, thời gian cùng một số
mô típ biểu tượng có chứa yếu tố huyền ảo…
Nhìn chung các bài viết cũng như các công trình nghiên cứu trên phần nào đã
đề cập đến các vấn đề thi pháp và Nghệ thuật tự sự của Sa mạc song vẫn chưa được
khai thác cụ thể, chuyên sâu về kiểu nhân vật cô đơn lạc loài.
2.2. Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ được nhanh chóng nhìn nhận tài năng.
Chị trở thành cái tên quen thuộc, một gương mặt không xa lạ với độc giả cả nước.
Các bài báo viết về Nguyễn Ngọc Tư khá nhiều từ báo mạng đến báo viết,… Các bài
báo có nhiều ý kiến đa dạng, thậm chí là trái chiều và có khi đối lập nhau. Điều này
cho thấy Nguyễn Ngọc Tư và sáng tác của chị được dư luận chú ý quan tâm và ít
nhiều cũng là một hiện tượng nổi bật của văn học đương đại. Bên cạnh đó ta còn bắt
gặp một lượng không nhỏ các báo cáo khoa học, khoá luận tốt nghiệp, luận văn thạc
sĩ về tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư,
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, có thể thấy, các
bài viết, các công trình nghiên cứu về tác phẩm của tác giả Nguyễn Ngọc Tư khá
phong phú, tuy nhiên chủ yếu mới dừng lại ở từng tác phẩm, hoặc đi vào một số khía
cạnh trong sáng tác của chị (phần nhiều là truyện ngắn). Tiêu biểu có thể kể đến:
Đoàn Ánh Dương (2007), “Cánh đồng bất tận, nhìn từ mô hình tự sự và ngôn
ngữ trần thuật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2, trang 96 - 109.
Lê Thị Cúc (2008), Khảo sát ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
trong hai tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” và “Cánh đồng bất tận”.
Nguyễn Thành Ngọc Bảo (2012), Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư...
6
Với luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng khảo sát một cách hệ thống, thấu đáo
kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong tiểu thuyết đầu tay - Sông của Nguyễn Ngọc Tư,
từ đó đúc rút những nét riêng độc đáo cả về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện
trong sự đối sánh với tiểu thuyết Sa mạc của Le cle’zio, khẳng định những đóng góp
đáng quý của hai tác giả này với nền văn học dân tộc và văn học nhân loại.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn chỉ ra kiểu nhân vật cô đơn lạc loài
được đề cập đến trong hai tác phẩm, đặc điểm của hành trình kiếm tìm hạnh phúc và
nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài của Nguyễn Ngọc Tư và Le Clezio
trong Sông và Sa mạc. Qua đó giúp người đọc thấy được nét chung của con người cô
đơn, lạc loài trong văn học hậu hiện đại đồng thời giúp độc giả có được sự nhìn nhận
sâu sắc hơn về sự cô đơn lạc loài của con người trong xã hội hiện nay. Hơn thế nữa,
khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi cũng muốn mọi người nhìn nhận thấy văn học
Việt Nam đã có những bước tiến rất xa (về tư tưởng) so với giai đoạn trước, đang dần
từng bước vươn tầm khu vực và thế giới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu kiểu nhân vật cô
đơn lạc loài trong Sông và Sa mạc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi sẽ tìm hiểu và nghiên cứu kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài trong hai
tiểu thuyết:
+ Sông (2012) Nxb Trẻ- tiểu thuyết đầu tay đã được xuất bản và gây được ấn
tượng sâu sắc đối với độc giả của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
+ Sa mạc(2010) Nxb Văn học, dịch giả Huỳnh Phan Anh - cuốn tiểu thuyết đã
mang về cho Le Clezio giải thưởng lớn Paul-Morand của Viện Hàn lâm Pháp và góp
phần quan trọng giúp ông đến với giải Nobel Văn học 2008.
Chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu toàn bộ thế giới nhân vật trong tác
phẩm của Le Clézio và Nguyễn Ngọc Tư mà chỉ tập trung khai thác kiểu nhân vật cô
đơn, lạc loài thông qua một số phương diện cơ bản như: Hành trình tìm kiếm hạnh
7
phúc, nghệ thuật xây dựng nhân vật.Trong quá trình nghiên cứu, để phong phú hơn
cho các luận chứng của luận văn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu Sa mạc kết hợp so
sánh Sông và liên hệ thêm đến kiểu nhân vật này trong sáng tác của hai nhà văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản sau:
Phương pháp phân tích,tổng hợp: Trên cơ sở thống kê, phân loại, phương
pháp phân tích, tổng hợp giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về nhân
vật cô đơn, lạc loài được phản ánh qua hai tác phẩm.
Phương pháp khảo sát, thống kê: Để phân tích, lí giải kết quả cần tiến
hành việc thống kê, phân loại. Đây chính là phương pháp cần thiết cho việc tìm
hiểu và làm rõ nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong tiểu
thuyết Sông và Sa mạc.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: giúp chúng tôi nhìn nhận, đánh giá sự giống
và khác nhau của kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong tác phẩm Sông và Sa mạc .
Phương pháp tổng phân hợp: Giúp người đọc đánh giá toàn diện và khái quát
được vấn đề đặt ra trong luận văn.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: nhằm tìm ra nguồn gốc xuất hiện, quá
trình phát triển và qua đó thấy được những đóng góp mới mẻ của các nhà văn về
đề tài này.
6. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu, khám phá những nét đặc sắc trong kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài qua
Sa mạc của Le Clézio và Sông của Nguyễn Ngọc Tư cùng những đóng góp của hai nhà
văn trong quá trình đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết hậu hiện đại, chúng tôi hy vọng luận
văn có thể góp phần giới thiệu một cách đầy đủ hơn quan điểm cũng như sự nhìn nhận,
đánh giá của các nhà văn về số phận con người, về vấn đề con người cô đơn, lạc loài
đang diễn ra ở nhiều nơi trên nhiều nước và sự quan tâm đặc biệt của các nhà văn về họ
thể hiện trong sáng tác của mình với nhiều nỗi băn khoăn, trăn trở vẫn còn đau đáu.
Về mặt thực tiễn chúng tôi hy vọng luận văn sẽ là tư liệu tham khảo hữu ích,
thiết thực cho việc nghiên cứu, học tập văn học đương đại Việt Nam; văn học nước
ngoài, đặc biệt là văn học Pháp đương đại.
8
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Hành trình kiếm tìm hạnh phúc của kiểu nhân vật cô đơn lạc loài
trong Sông và Sa mạc.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong tiểu thuyết
Sông và Sa mạc.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.Tác giả Nguyễn Ngọc Tư
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
Nếu là một người yêu văn chương và chịu khó theo dõi văn chương Việt Nam
mấy năm gần đây hẳn bạn không khỏi ấn tượng với cái tên Nguyễn Ngọc Tư. Nguyễn
Ngọc Tư sinh năm 1976 tại Bạc Liêu, 4 tuổi theo gia đình về sinh sống tại xã Tân
Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Tuổi thơ của Nguyễn Ngọc Tư khá lam lũ và
vất vả, mới học hết lớp 9 thì gia đình chị đã xảy ra những biến cố, điều kiện kinh tế
gia đình lại khó khăn, chị đã buộc phải dừng lại việc học trên ghế nhà trường khi mới
mười lăm tuổi. Để giúp cha mẹ trang trải trong cuộc sống mưu sinh chị đã hái rau ra
chợ bán. Chính những ngày “vào đời sớm” cùng sự vất vảnhọc nhằn trên vùng đồng
bằng sông nước nhiều khó khăn cũng nhưnhững người dân chất phác, thật thà nơi đây
đã tạo nên một nguồn cảm hứng lớn trong sáng tác của chị.
Từ nhỏ Nguyễn Ngọc Tư đã có niềm đam mê viết lách, viết để thể hiện, viết
để trải nghiệm bản thân và cuộc sống, nhà văn đã tập tành viết nhật kí. Dưới sự động
viên của cha - ông Nguyễn Thái Thuận vốn là người có tấm lòng thương con, hiểu rõ
con gái có khiếu văn chương, người cha có vẻ thực tế, trải nghiệm như một người đã
từng cầm bút, thường không bỏ qua bất cứ cơ hội tốt nào để khuyến khích con mình
“Nghĩ gì, viết nấy. Viết điều gì con đã trải qua”. Cha của Nguyễn Ngọc Tư đã trở
thành người đầu tiên đọc và góp ý cho cô con gái út. Năm 1995, truyện ngắn Đổi
thay- một truyện ngắn được trích trong nhật ký của tác giả, đã được đăng trên Tạp chí
văn nghệ Cà Mau như một cơ duyên dẫn dắt Nguyễn Ngọc Tư đến với con đường văn
nghiệp. Sau ba tác phẩm được đăng trên tạp chí này, Nguyễn Ngọc Tư đã được nhận
làm văn thư và học làm phóng viên tại đây. Ngoài đời, Nguyễn Ngọc Tư được đánh
giá là một người phụ nữ chân chất, hồn nhiên và sống rất bản lĩnh. Chị lập gia đình
với Quang Hà - một chàng trai hiền lành, kiệm lời làm thợ kim hoàn khi mới 24 tuổi
và đến nay đã có hai cậu con trai. Chồng của Nguyễn Ngọc Tư biết vợ đang làm công
việc sáng tác nhưng anh không có thời gian đọc “những gì cô ấy viết”. Mãi đến khi
truyện Cánh đồng bất tận của vợ được báo đăng nhiều kỳ anh mới có dịp đọc hết.
10
Cảm thông với sự nhọc nhằn trong nghiệp cầm bút của vợ, sau giờ làm việc Quang
Hà sẵn sàng tình nguyện chia sẻ việc nhà với vợ. Hiện nay chị cùng gia đình đang
sống tại thành phố Cà Mau và chị đang làm việc cho tạp chí bán đảo Cà Mau.
Tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự thành công của Nguyễn Ngọc Tư, đưa Ngọc
Tư chính thức bước vào làng văn đó là tập kí sự “Nỗi niềm sau cơn bão”, tác phẩm
được viết trong chuyến đi thực tế ở cửa biển Khánh Hội, sông Đốc sau khi đất Mũi
phải trải qua cơn bão số 5 khủng khiếp. Tác phẩm này đã đạt giải ba báo chí toàn
quốc năm 1997. Bằng sự nhạy cảm cùng khả năng cảm thụ cuộc sống và con người
rất tinh tế, thêm vào đó là tài năng thiên bẩm, Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện năng lực
bứt phá, dồi dào và mạnh mẽ khi đạt giải nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 lần thứ II của
Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt (2000).
Năm 2001, tác phẩm này đoạt Giải B của Hội nhà văn Việt Nam rồi giải dành cho tác
giả trẻ nhất của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam
kèm theo nhiều bằng khen và tiền thưởng. Tập sách này đã được chọn in lại trong "Tủ
sách Vàng" của NXB Kim Đồng năm 2003, cũng trong năm này chị được tuyên
dương là một trong “Mười nhân vật trẻ xuất sắc tiêu biểu năm 2002”. Nguyễn Ngọc
Tư được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam khi mới 27 tuổi. Trong cuộc thi truyện
ngắn của báo văn nghệ năm 2004-2005 chị đạt giải ba với tác phẩm Đau gì như thể.
Những năm qua, bằng giọng văn tưng tửng mà tình cảm của mình chị tiếp tục gây
ngạc nhiên và đem lại nhiều thiện cảm cho bạn đọc. Nguyễn Ngọc Tư cũng là tác giả
trẻ nhất có tên trong tuyển tập truyện ngắn Việt Nam được dịch và in ở Mỹ, do đó chị
đã vinh dự được chọn lên hình chương trình Người đương thời năm 2005. Năm
2006,Nguyễn Ngọc Tư lại đạt luôn giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam với Cánh
đồng bất tận- tác phẩm ngay từ khi ra đời đã thực sự gây sóng gió trên văn đàn đương
thời và tạo ra không ít xôn xao trong dư luận. Nhưng cũng chính nhờ tác phẩm này
mà Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục được nhận thêm giải thưởng Văn học Asean năm 2008.
Cánh đồng bất tận không chỉ đạt doanh số bán ra cao nhất năm 2005 mà năm 2010
được dựng thành phim, đây cũng là tác phẩm điện ảnh ăn khách ở các rạp chiếu phim
trong cả nước lúc đó. Có thể nói, thành công ở Cánh đồng bất tận không chỉ khiến
tên tuổi Nguyễn Ngọc Tư trở nên thân thuộc với độc giả yêu văn chương nước nhà
mà nó còn giúp cho Nguyễn Ngọc Tư có được tấm vé thông hành đến với độc giả
nhiều nước trên thế giới. Hiện tại nhiều truyện ngắn của chị được dịch ra tiếng Nhật,
tiếng Anh để giới thiệu với độc giả ở nước ngoài.
11
Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút chắc tay và viết nhiều thể loại như: Truyện
ngắn, tạp văn, thơ, tiểu thuyết...Nhưng thành công đặc biệt của chị phải kể đến là:
Truyện ngắn và tạp văn. Với gần hai thập niên cầm bút chị đã cho ra đời và xuất bản
rất nhiều tác phẩm, tiêu biểu có thể kể đến:
1. Đau gì như thể (truyện ngắn-giải ba cuộc thi truyện ngắn của báo văn nghệ
năm 2004-2005)
2. Cánh đồng bất tận (tập truyện ngắn, 2005)
3. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (tập truyện ngắn, 2008)
4. Khói trời lộng lẫy (tập truyện ngắn, 2010)
5. Sông (tiểu thuyết, 2012)
6. Không ai qua sông (tập truyện ngắn, 2016)…
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn có chân tài trong nền văn chương hiện đại
Việt Nam. Ngòi bút của chị dung dị mà không kém phần sâu sắc bởi nó là những cảm
xúc được thôi thúc từ trong lòng. Cảm hứng sáng tác của chị thường được lấy từ cuộc
sống và số phận của những nhân vật nhỏ bé, những đứa trẻ tội nghiệp, những người
đàn bà đáng thương, những nông dân nghèo quanh năm lam lũ, những nghệ sĩ bất
hạnh...trong chính vùng quê Nam Bộ của mình. Những con người, những kỉ niệm và
cuộc sống vùng Nam Bộ với biết bao lam lũ, vất vả nhưng cũng vô cùng thú vị đã
nuôi dưỡng tâm hồn, vun đắp vốn sống, tài năng và khơi dậy nguồn cảm hứng sáng
tác dồi dào của Nguyễn Ngọc Tư. Bởi thế, văn phong của Nguyễn Ngọc Tư mang
đậm chất Nam Bộ, làm xúc động biết bao trái tim bạn đọc. Nguyễn Ngọc Tư từng ví
truyện của mình “như trái sầu riêng” - nhiều người thích nhưng cũng không ít người
dị ứng. Mỗi trang văn của Nguyễn Ngọc Tư không đơn giản như một bức tranh để
ngắm mà ở mỗi câu, mỗi chữ đều ẩn chứa tiếng lòng, sự thổn thức về cuộc sống của
những số phận, những mảnh đời. Lối viết của Nguyễn Ngọc Tư không màu mè,
chẳng bóng bảy nhưng luôn tạo được dấu ấn đậm sâu, có sức hấp dẫn rất riêng, thậm
chí có sức ám ảnh lớn trong lòng độc giả.
Cầm bút tính đến nay được gần hai thập niên, Nguyễn Ngọc Tư đã liên tiếp đạt
được những thành công và ngày càng khẳng định được tài năng và vị thế của mình
trên văn đàn. Số lượng và chất lượng tác phẩm ngày càng được khẳng định ở nhiều
thể loại, cho thấy một sự nghiêm túc và nỗ lực không ngừng trong nghiệp viết. Chúng
ta hoàn toàn có thể hi vọng và tin tưởng Nguyễn Ngọc Tư sẽ còn mang đến nhiều bất
ngờ hơn nữa với những đứa con tinh thần của mình trong thời gian tới.
12
1.1.2. Tiểu thuyết Sông
Từ khi xuất hiện trên văn đàn, độc giả vốn quen với một Nguyễn Ngọc Tư của
truyện ngắn hay của những tản văn ám ảnh lòng người, có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy thật
sự lạ lẫm và thích thú khi được tiếp xúc với một Nguyễn Ngọc Tư ở thể loại tiểu thuyết.
Sông chính là tiểu thuyết đầu tay của chị. Đọc Sông, ta sẽ được trải qua những câu
chuyện của các nhân vật trong một hành trình rầu rĩ dọc con sông Di - một con sông
huyền thoại qua sáng tạo của nhà văn. Ta đã từng bị hấp dẫn bởi cách cảm, cách nghĩ,
cách nhìn, cách viết và cả cách miêu tả tỉ mỉ, tinh tế của Nguyễn Ngọc Tư qua các tác
phẩm truyện ngắn hay tạp văn thì đến với Sông ta càng bị cuốn hút bởi ở bất cứ câu
chuyện nào của chị cũng đều có nét riêng, rất riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Thử nghiệm
tiểu thuyết Sông chị đã từng băn khoăn bởi có thể không đạt được kết quả như mong
muốn nhưng bứt phá ở thể loại mới này như chính tác giả ban đầu đã từng chia sẻ là
"Vừa mới bước ra khỏi ngôi nhà ấm cúng kia thôi, gặp vài trận mưa đầu tiên". Thành
công nối tiếp thành công đã đến với chị trong chặng đường sáng tạo không có đích của
một nhà văn. Nhận xét về Sông, biên tập viên của Nxb Trẻ, cũng là người biên tập bản
thảo - Trần Ngọc Sinh cho biết: "Sông là một sự đổi mới toàn diện của Nguyễn Ngọc Tư.
Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo. Truyện kết thúc bằng dấu chấm hỏi về số phận một con
người - Không hề do dự, cô đã đẩy cái mầm ý tưởng vừa nhú lên sang tay người đọc, để
họ nuôi dưỡng chúng bằng trải nghiệm, qua việc đọc cuốn sách này".[44]
Ân là nhân vật chính với danh xưng "cậu" bỏ lại sau lưng mối tình đồng tính vừa
kết thúc do người yêu cưới vợ, bỏ lại công việc ở một công ty truyền thông, đi tìm quên
với lý do viết một cuốn sách về sông Di do "sếp" đặt hàng kèm lời nhắn gửi tìm giúp dấu
vết cô người tình tên Ánh, một người đã đi sông Di trước đó rồi không trở về.Bề ngoài,
Ân có đầy đủ những yếu tố để sống một cuộc đời bình lặng, an nhàn: Có cha mẹ, có học
thức, một công việc được trọng vọng, và có tiền, ngoài ra, là một cậu con trai thư sinh, dễ
gây thiện cảm. Chừng đó, đã đủ để Ân có thể sống yên ổn về mặt xã hội. Thế nhưng, nỗi
thất vọng với người tình đồng tính, là thời điểm, là cái cớ để Ân làm một cuộc soi lại
toàn bộ diện mạo bản thể mình. Hành trình đi ngược sông Di cũng là hành trình đào xới
lại tâm thức, lật lại từng kỷ niệm, những “tình tiết” trong cuộc đời Ân. Chuyến đi ngược
sông Di ấy, song song với những thước phim trong tâm thức Ân ngược về quá khứ.
Những mảnh đời, những kiếp sống, đời người, đời sông, đời của những khúc sông, đời
của những điều huyền bí và li kì dọc con sông dài dặc... Dòng sông chảy về xuôi, còn
những con người thì ngược lại thượng nguồn. Mỗi người đều có những thôi thúc sâu xa
mà chính họ cũng không biết chính xác nó là gì.
13
Xu đi để chụp hình hoa dại, thứ hoa không lai lịch, xuất xứnhưng đấy chỉ là
cái cớ, gã mồ côi lang thang tưởng đã khinh bạc đến tắt rụi mọi khát khao ấy, thỉnh
thoảng vẫn lộ ra nỗi cồn cào đau đáu về gốc gác của mình, mà dần đến đầu nguồn thì
nỗi đau đáu ấy càng tràn ra không kiềm giữ nổi.
Bối - kẻ nổi loạn không chịu được bầu không khí “thiếu kịch tính” trong gia
đình thì đi để tìm khoái thú trong những cơn giông với những tia sét kinh hồn. Ông
già đồng hành đi để tẩy rửa ký ức chết chóc. Cô gái trẻ đi để giải phóng mình khỏi sự
phụ thuộc với một bản thể khác không phải là mình…
Có những người không đủ bứt phá để đi, nhưng gửi theo những tín hiệu đau
đáu: ông sếp giám đốc xuất bản khắc khoải về Ánh cũng là nỗi khắc khoải về cuộc
sống thực sự mà ông ta tự đánh mất; Tú (người tình đồng tính của Ân) hướng về Ân
như nỗi cồn cào về cái mà anh ta đã quyết định từ bỏ trong thẳm sâu con người mình.
Chị San không đi nữa vì con người nổi loạn “điển hình” ấy đã tuyệt vọng, đã đầu hàng.
Dòng sông Di trở thành nơi bấu víu cho những kẻ không còn hy vọng gì ở
chính mình. Nhưng chính sông Di cũng mang trong mình những vết thương. Vết
thương của sông Di cũng là vết thương của những kiếp người nhỏ bé sống bám dọc
con sông ấy. Soi vào dòng tự sự của Ân suốt cuộc hành trình là cuộc sống của những
con người ven sông, mang hình bóng của những con người Nam Bộ vốn bao đời sống
dựa vào sông. Nghèo khổ, tăm tối, hận thù, yêu đương, phản bội, đĩ điếm, chết
chóc…Đó là thân phận những con người nhỏ bé sống bám lay lắt vào sông, vô tình
làm tổn thương sông và phải hứng chịu những trả thù tàn khốc của sông.Nhưng có lẽ
số phận của nhân vật chính Ân sau cùng mới để lại nhiều day dứt nhất. Phía cuối
hành trình, cậu cũng biến mất giữa dòng sông như thể chưa từng hiện hữu. Một cuộc
tìm lại hình hài khắc nghiệt khi cậu không có quyền thay đổi giới tính, không có
quyền lựa chọn hạnh phúc và nhen nhóm trong trái tim yêu thương ấy là sự ghen tị,
ích kỷ cũng nằm ở đỉnh điểm không thể tách rời. Sông chứng kiến tất cả và cũng cuốn
đi tất cả. Mạch truyện cứ chậm rãi như những dòng chảy nhưng lại có một sức thu hút
kỳ lạ, hành trình khám phá Sông không còn là của riêng các nhân vật. Hành trình đi
tìm lại con người thật của Ân, khao khát hạnh phúc của Xu, sự nổi loạn của San, vẻ
buông xuôi của Tú và niềm riêng của biết bao nhiêu con người trong tác phẩm cũng
có thể là của chung cho những thân phận trong thế giới phẳng này.
14
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, một trong số ít người tiếp cận bản thảo
Sông sớm nhất, nhận xét: "Với việc cho nhân vật ra đi men theo dòng sông, Tư đã
làm được hai việc: vừa phản ánh hiện thực, kể, tả về những vùng đất dọc hành trình
vừa men theo dòng chảy tâm trạng để nhân vật bộc lộ mình”.[44]
Điểm hấp dẫn của Sông có lẽ là cái duyên riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Sự mộc
mạc, chân chất hiện rõ trong từng câu chữ. Dù có cố gắng nổ lực bứt phá để thoát
khỏi cái bóng quá lớn của Cánh đồng bất tận, song chất đặc sản của cô vẫn còn đó.
Dù rằng nó không còn là đặc sản của chỉ miền Nam, mà là đặc sản của một thế hệ nhà
văn mới, tìm tòi và thử nghiệm, nhưng không phiêu lưu vô lối, bởi cô luôn lấy cội
nguồn hồn quê của mình làm nơi bấu víu.
1.2. Tác giả Le Clézio
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
Jean-Marie Gustave Le Clézio sinh ngày 13/4/1940 ở thành phố biển Nice,
miền Nam nước Pháp.Bố của Le Clézio là một bác sĩ người Anh còn mẹ là người
Pháp, bà là một nghệ sĩ piano, bà thích chơi những bản nhạc của Ravel. Trong thế
chiến II, gia đình phải ly tán vì người cha ông phải chuyển đến Nigeria làm bác sĩ
phẫu thuật cho quân đội Anh quốc. Vào lúc 7 tuổi, Le Clézio đến châu Phi để gặp
người cha của mình. Trong thời gian hai tháng lênh đênh trên biển, chuyến đi mà ông
gọi là chuyến đi khai tâm, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên (Một chuyến đi dài, rất
tiếc là đã bị thất lạc) trong buồng tàu. Ông ở lại lục địa đen một năm. Cha của ông,
một con người tỉ mỉ cần mẫn, năng động và hay dậy sớm, thường chăm sóc bệnh
nhân hủi và dẫn đường cho ông trong chốn rừng sâu. Ông đã tưởng nhớ đến người
cha của mình trong cuốn Người Châu phi.
Le Clézio thường viết những tiểu thuyết phiêu lưu. Cảm hứng để viết những
tiểu thuyết này ông lấy từ những cuốn sách mình đọc của Verne, Loti, Kipling,
Conrad, London và Stevenson. Ông kể mình đã viết trước khi biết đọc và mỗi năm
ông viết hai cuốn: “Mẹ tôi đóng lại và tôi đóng bìa các tông, có đề tên nhà xuất bản:
Nhà xuất bản Sói đen.” Ông rất mê tủ sách nhà mình, thích nhất cuốn Từ điển hội
thoại hai mươi tập: “thời nhỏ tôi có những mối xúc cảm lớn lao là nhờ bà tôi, bà cho
tôi đọc cuốn sách kỳ diệu này”, ông nói với người viết tiểu sử cho mình, Gérard de
Cortanze. Ông ước mơ trở thành hoạ sĩ và viết... truyện tranh. Hình như ông cũng thử
15
sức với thể loại tiểu thuyết trinh thám. Sau này, ông tìm xem những bộ phim giúp
mình khám phá thế giới, những bộ phim của Ozu, Mizoguchi, Bergman, Pasolini. Bộ
phim thích nhất của ông: Cuộc phiêu lưu của Antonioni, một bộ phim về tình yêu, về
sự cô đơn và về... sự im lặng.
Mười bảy tuổi, Le Clézio đạt hai bằng tú tài. Cử nhân văn chương, ông bảo vệ
một khoá luận về chủ đề Sự cô đơn trong tác phẩm của Henri Michaux, tác giả mà
ông rất có cảm tình. Năm 1960, tại Luân đôn, ông lấy Marie-Rosalie, con gái sĩ quan
quân đội, sinh tại Varsovie, người đã sinh cho ông một đứa con gái một năm sau đó.
Năm 1963, Le Clézio viết Biên bản và gửi bản thảo cho Gallimard qua đường
bưu điện. Ông tuyên bố rằng cuốn sách này là “một kiểu trình bày cách nhìn nhận cuộc
sống của tôi”. Một số người tìm thấy trong đó hồi ức về Kẻ xa lạ của Camus. “Người
phát hiện” ra thần đồng văn chương này, đó là Georges Lambrichs, trước đây làm cho
NXB Minuit. Jean Giono và Raymond Queneau nhận lời ủng hộ tác giả 23 tuổi này
trước hội đồng chấm giải Goncourt. Năm đó, Le Clézio đã được trao giải thưởng văn học
danh giá Renaudot, được xếp hạng thứ hai sau giải thưởng Goncuort. Kể từ đó nhà văn
trẻ Le Clézio được lọt vào đội ngũ hàng đầu của làng văn học Pháp.
Ông tốt nghiệp Trường Văn học Nice (Collège littéraire universitaire de Nice)
sau đó còn tiếp tục học tại Luân Đôn và Bristol trước khi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy
tại Hoa Kỳ. Năm 1967 Le Clézio nhập ngũ và làm việc tại Thái Lan một thời gian
ngắn. Ông nghĩ đến việc ẩn dật trong một nhà tu Phật giáo và tạo ra một vụ xì căng
đan khi lên tiếng tố cáo nạn bóc lột tình dục trẻ em trong một cuộc phỏng vấn trên
báo Figaro. Bị đuổi khỏi đất nước, ông doạ sẽ đào ngũ khỏi quân đội rồi quay lại Mê-
hi-cô. Bổ dụng: xếp phiếu tại thư viện của Viện Pháp Châu Mĩ La Tinh. Trong Biên
bản, người kể chuyện hình dung trước tương lai của mình: “Tôi cũng có thể đi du
lịch; tôi sẽ đi thăm nhiều thành phố mà tôi chưa biết, tôi sẽ kết bạn với ai đó trong
mỗi thành phố.” Nói thêm: “Có rất nhiều không gian nguyên thuỷ rộng lớn cần khám
phá.”. Năm 1970 nhà văn sống cùng với những người thổ dân ở Panama. Những
người da đỏ Mỹ đã dạy cho ông đạo lý ở đời. Ông đã cố chuyển tải điều đó trong tác
phẩm của mình. Và trước tiên là cảnh báo về những mối nguy của chủ nghĩa vật chất.
Vào năm 1971, ông cho xuất bản một tiểu luận về nghệ thuật tuyệt vời, Haï, tại nhà
xuất bản Skira ở Genève. Từ năm 1973 lúc thì sống ở Pháp, lúc ở Mĩ hay quần đảo
Mauritius, nơi có gốc gác của gia đình mình. Năm 1977, Le Clézio bảo vệ luận án
tiến sĩ về đề tài văn học dân gian Michoacán (miền Trung Mehico) tại Viện nghiên
16
cứu Mehico ở Perpignan, Pháp. Sau đó ông tham gia giảng dạy văn học Pháp tại Đại
học Albuquerque Hoa Kỳ trước khi trở thành nghiên cứu viên của Trung tâm Nghiên
cứu Khoa học Pháp (CNRS). Ông chuyển đến ở bang Mehicoở Michoacán, đắm chìm
trong những cuốn sách thiêng của người Mayas, là người đầu tiên dịch cuốn Quan hệ
của Michoacán và Những lời tiên tri của Chilam Balam. Ông gặp gỡ các nhà thơ sử
dụng ngôn ngữ nahuatl (ngôn ngữ của những người Aztèques) và say sưa nhân học. Vào
năm 1980, ông là nhà văn đầu tiên đoạn giải Paul-Morand của Viện Hàn Lâm Pháp, sau
khi đã thành công với cuốn Mondo và những câu chuyện khác (700 000 bản). Tiểu
thuyết Sa mạc (Désert) đánh dấu một trục địa lý mới: Sa mạc Sahara - Phương Tây, quê
gốc của Jemia, vợ của ông từ năm 1975, ông đã lý tưởng hoá câu chuyện về vợ mình qua
một bức chân dung rất đẹp của một cô gái nhập cư trẻ tuổi. Người ta tìm thấy Le Clézio
trên những hòn đảo ở Ấn Độ Dương, đi tìm bóng ma của người ông mình (Người đi tìm
vàng, Chuyến du hành về Rodrigues, Cách ly) Từ Châu Phi này đến Châu Phi khác,
trong cuốn Onitsha (1991) gợi cảm. Vào năm 2005, ông lên chiếc tàu mang tên La
Boudeuse, một con tàu ba buồm của Patrice Franceschi để đi tìm gặp một bộ lạc bị lãng
quên trong lòng Thái Bình Dương. Trở về, ông cho xuất bản cuốn Tiếp cận lục địa vô
hình (NXB Seuil), miêu tả những suy nghĩ về những tác hại của sự di dân, từ Gauguin
đến động Ouvéa. Tuy nhiên, ông nói rõ, “mục đích của văn chương không phải là đấu
tranh”. Ông không thực sự tin vào khả năng của các nhà văn trong việc thay đổi thế giới.
Năm 1980, Le Clézio trở thành người đầu tiên được Viện Hàn lâm Pháp
(Académie française) trao Giải Paul Morand. Năm 1994 trong một cuộc thăm dò, Le
Clézio đã được bầu là nhà văn Pháp còn sống vĩ đại nhất.
Năm 2008 ông được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn học, ông là
người Pháp thứ hai được trao giải thưởng cao quý này trong thập niên 2000 (sau Cao
Hành Kiện vào năm 2000). Với giải Nobel này Le Clézio được đánh giá là: "Tác giả
của những xu hướng mới, những phiêu lưu đầy chất thơ và hứng khởi cảm tính, nhà
nghiên cứu bản thể con người ở bên ngoài nền văn minh đang hoành hành và ở bên
trong nó" [44]. Trong bất luận trường hợp nào, chủ đề căn bản trong sáng tác của Le
Clézio vẫn là tư tưởng, các bộ lạc da đỏ hoặc ở châu Phi có quyền ở mức độ cao hơn
hẳn được gọi là con người đích thực so với các cư dân ở các đô thị lớn: “Họ là những
người tự do cuối cùng vì chúng ta chỉ là nô lệ, điều này đã quá rõ ràng rồi. Chúng ta
đang sống một cuộc đời nô lệ trong thế giới của những nô lệ. Còn bộ lạc người da đỏ
ở Panama cho tới nay vẫn gìn giữ được sự tự do và họ biết được những gì có thể có
của những người tự do. Ai đó đang định cố gắng tước bỏ của họ sự hiểu biết đó” [44].
17
Và mặc dầu bị buộc tội là theo khuynh hướng thoát ly hay cổ suý cho huyền thoại về
“người hoang dã cao quý” nhưng Le Clézio vẫn luôn được người Pháp bình chọn làm
nhà văn vĩ đại nhất viết bằng tiếng Pháp còn sống.
Le Clézio không bao giờ giới hạn ở một thể loại: Ngoài tiểu thuyết và tiểu
luận, ông đã cho xuất bản chuyện kể, chuyện dài và tiểu sử (Diego và Frida, NXB
Stock), truyện ngắn, sách cho trẻ em (Du hành đến xứ sở các loài cây), sách in đẹp
(Người mây, NXB Stock), các bài báo và đề tựa, trong đó có lời đề tựa cuốn Hướng
dẫn xanh về Mehico. Đối với ông, “không có thể loại văn học”. Ông vẽ đầy ký hoạ
trong những cuốn sổ ghi chép của mình, ông còn vẽ tranh thuỷ mạc cho tác
phẩm Sirandanes. Nếu như một trong những vở kịch của ông đã được diễn ở Mehico,
ông đã khước từ tạm thời việc viết kịch: “Tôi không thể nào làm cho người ta nói”.
Mặc dù thường xuyên di chuyển và sống ở nhiều nơi trên thế giới, Jean-Marie
Gustave Le Clézio vẫn liên tục sáng tác. Tính đến nay Le Clézio đã cho xuất bản trên
30 tác phẩm thuộc nhiều thể loại, từ tiểu thuyết, truyện kể, bài luận, dịch thuật đến
các sách nghiên cứu khác, tiêu biểu có thể kể đến:
Vòng xoáy, Nguyễn Văn Qua - Lộc Phương Thủy dịch, NXB Văn học, 2008
Người chưa bao giờ thấy biển, NXB Hội nhà văn, 2000
Sa mạc, Huỳnh Phan Anh dịch, NXB Văn học, 2009.
Những nẻo đường đời và những bản tình ca(Tập truyện), Hồ Thanh Vân dịch,
NXB Hội nhà văn - Nhã Nam, 2010
Điệp khúc cơn đói, Bằng Quang dịch, NXB Phụ nữ liên kết công ty sách Nhã
Nam xuất bản 2012.
Qua những tác phẩm thuộc nhiều thể loại của mình, Le Clézio đã miêu tả sự tìm
tòi của ông về những thế giới rất nguyên sơ và rất dễ bị thương tổn của chúng đối với
hành vi tàn sát và điên rồ của những kẻ xâm nhập từ thế giới công nghiệp. Là một nhà
văn phiêu du, những thiên truyện của ông có thể lấy bối cảnh từ Mehico, sa mạc Sahara
hay Paris hoặc London, và đề cập đến những chủ để rất đa dạng. Ông hiện là một trong
những nhà văn Pháp rất nổi tiếng ngoài đất nước mình. Như một nhà biên niên sử thầm
lặng, Le Clézio đã vạch ra những thảm họa của đời sống hiện đại, đặc biệt là ở đô thị.
Đánh giá về ông, nhà phê bình Pháp Franz - Olivier Giesbert nói: “Jean - Marie
Le Clézio là một tượng đài lớn của Pháp ngự trị trên nền văn học chúng tôi. Bạn cần
phải đến gần bức tượng ấy để khám phá một nhà văn đa tài đầy nhiệt huyết, người khám
phá hầu như mọi thể loại, từ cái khiêm tốn nhất đến cái táo bạo nhất” [45].
18
1.2.2.Tiểu thuyết Sa mạc
Ra đời năm 1980 và đạt giải lớn Paul Morand của Viện hàn lâm Pháp năm
1981, Sa mạc được đánh giá là đỉnh cao trong sáng tác của Le Clézio. Tác phẩm là
bản nhạc thiên nhiên đầy quyến rũ. Rời xa thế giới vật chất phù hoa, hư ảo, ngôn ngữ
của Le Clézio giản dị và hồn nhiên như trong thế giới các câu chuyện cổ tích. Nó mời
gọi mọi người chìm đắm trong sự yên tĩnh, sự mơ mộng và thi vị, trong sự trầm ngâm
đắm say. Tác phẩm Sa mạc chính là sự đột phá văn học của Le Clézio. Trong lễ tuyên
bố trao giải nhận xét rằng Sa mạc “chứa đựng những hình ảnh kỳ diệu về một nền văn
hóa đã tiêu vong ở sa mạc Bắc Phi đối nghịch với hình ảnh châu Âu được miêu tả
qua cặp mắt của những kẻ nhập cư không mong muốn” [49].
Sa mạc Sahara, quê hương của những “người đàn ông xanh”,những năm đầu
thế kỷ 20: hoang sơ, kỳ bí, đầy hiểm nguy với những con người sinh ra trong cát, lớn
lên trong cát và chết đi vùi trong cát. Tiêu biểu cho những người Đàn Ông Xanh ấy
phải nhắc đến Al Azraq và Ma el Ainine. Al Azraq xuất hiện trong Sa mạc thông qua
những câu chuyện truyền miệng và trong ký ức của các nhân vật trong tác phẩm, tác
giả đã mượn lời nhân vật để khẳng định: Đó là vị thánh - người Đàn Ông Xanh xuất
thân từ một chiến binh của sa mạc, trải qua bao nhiêu khổ ải, đau thương, chịu cảnh
đói rét cơ hàn như bao chiến binh khác ông được thượng đế gọi và trở thành vị thánh
luôn cứu giúp mọi người.
Ma el Ainine là huyền thoại về một tù trưởng vĩ đại, nhà tiên tri, người dẫn
đường, người che chở…với trọng trách đưa dân tộc của mình đến miền đất hứa, tự
do, hạnh phúc.Là truyền nhân của người Đàn Ông Xanh - Al Azraq: Ma el Ainine
cũng rất tài trí, am hiểu giáo lí đạo Hồi. Ngay từ lúc bảy tuổi ông đã đọc thuộc kinh
Coran không sai một chữ. Ông cũng có những khả năng siêu nhiên, có phép lạchữa
lành vết thương người chiến binh, chữa sáng mắt cho người mù. Ma el Ainine không
chỉ giành tình yêu thương, sựnhân ái cho các cư dân của bộ tộc mình mà lòng nhân ái
của ông thể hiện ngay cả với kẻ thù, điều này làm cho kẻ thù của ông khiếp sợ, hoang
mang.Ma el Ainine không thích chiến tranh bởi ông biết nó chỉ đem lại đau thương,
mất mát cho con người. Song ông không thể khoanh tay nhìn kẻ thù xâm lược mà
đứng lên lãnh đạo nhân dân chiến đấu giành lại độc lập, tự do. Do không đủ điều kiện
để chống lại kẻ thù, Ma el Ainine phải dẫn các bộ tộc của mình hành hương trên
những chặng đường sa mạc đầy gian nan, nếm đủ khổ ải với hy vọng cầu cứu sự giúp
đỡ của chính quyền Ma Rốc. Chính quyền thù địch đã ngăn cản họ, từ chối không
19
giúp đỡ bất kỳ điều gì vì thực chất họđã cấu kết với kẻ thù bán rẻ đất nước. Vì không
nhận được sự chi viện, giúp đỡ và không muốn để bộ lạc chìm trong bạo lực, lầm
than Ma el Ainine quay về với niềm tin tâm linh nơi kinh thánh, cầu nguyện để tìm ra
giải pháp siêu thoát, giải pháp cứu độ chúng sinh lầm than. Đây là nguồn sức mạnh
duy nhất tiếp sức để cho bộ tộc của ông tiếp tục bước đi trên sa mạc.
Cậu bé Nour đã chứng kiến cơn khốn khó của bộ lạc mình trên mảnh đất khô
cằn và trưởng thành từ đó. Nour là nhân vật trung tâm, tiêu biểu cho đoàn người khốn
khổ, dật dờ đi trên sa mạc. Nour là con trai của một chiến binh - người có sứ mạng
dẫn dắt cuộc hành hương đếnthành phố Thánh Smara còn mẹ cậu là “Chérifa”, con
cháu của Al Azraq - Người Đàn Ông xanh hiển hách chính vì vậy Nour luôn cảm
thấy sứ mệnh đặc biệt của mình. Nour có nguồn sức mạnh tiềm ẩn để có thể vượt qua
mọi khốn khổ suốt cuộc hành hương trên sa mạc. Nour là nhân vật có trái tim nhân
hậu và dịu dàng, biết cảm thông chia sẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Trong
khoảnh khắc tận cùng của sự thất vọng, đoàn người đói khát, kiệt sức tới mức “không
còn hơi sức để thương yêu nhau nữa” thì Nour vẫn ân cần, động viên và sẵn lòng giúp
đỡ mọi người với hy vọng làm dịu đi nỗi đau đớn của họ. Mặc dù trong thâm tâm
Nour không biết đâu là đích, thậm chí cậu biết sẽ không có vùng đất “không thiếu thứ
gì” như mơ ước, nhưng cậu vẫn luôn động viên mọi người nuôi hy vọng để gắng sức
đứng lên đi tiếp “chúng ta sắp tới những vùng đất mà tù trưởng đã hứa, nơi chúng ta
sẽ không thiếu thứ gì cả, nơi giống như thiên đường vậy”. Nour và cộng đồng của
mình đã hoàn toàn thất bại trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc nhưng cậu và mọi
người đã thực sự hiểu được thế nào là thiên đường hạnh phúc, đâu là thiên đường
thực sự giành cho họ, cuộc sống với những mơ ước nhỏ nhoi là chỉ tìm một nơi trú
ngụ, tìm một mảnh đất để yên bình sinh sống nhưng đó lại là không tưởng.
Cùng với câu chuyện về Nour và cộng đồng du mục, câu chuyện về cô bé
Lalla cũng được nhà văn kể lại đầy dụng ý. Lalla là mộtcô gái hồn nhiên, quyết đoán.
Trải qua bao thăng trầm trong cuộc đời cũng không thể nguôi được niềm đam mê
hướng về sa mạc cội rễ và những truyền thuyết về các vị tổ tiên chiến binh sa
mạc.Lalla xuất hiện trong câu chuyện kể về cuộc hành trình tìm kiếm thiên đường tự
do, hạnh phúc của mình. Do xuất thân cao quý nên dù mồ côi cha mẹ phải sống cùng
cô ruột tại cư xá nghèo, Lalla vẫn tỏ ra khác hẳn so với những đứa trẻ khác. Lalla
hiện lên với hình ảnh một cô bé hồn nhiên, đắm mình với thiên nhiên, cỏ cây, các loài
côn trùng và sóng biển. Chính những trải nghiệm ở thành phố Marseille đã giúp cô
20
nhận ra bản chất của xã hội tiêu thụvà cô cũng ý thức một cách sâu sắc về thân phận
của những người nhập cư, những kẻ phải sống “ngoài lề” xã hội.Từ thân phận của kẻ
nhập cư khốn khổ Lalla trở thành một người mẫu ảnh nổi tiếng được nhiều người
mến mộ. Trên đỉnh cao của sự nổi tiếng, được nhiều người mến mộ, Lalla vẫn cảm
thấy cô đơn, lạc lõng, cô luôn cảm thấy buồn chán và thiếu vắng điều gì đó, đặc biệt
cô luôn nhớ về sa mạc mảnh đất cội nguồn, nhớ tới huyền thoại về những người Đàn
Ông Xanh và nhớ về cái nhìn của Es Ser - Người bí mật cũng như nhớ tới chàng chăn
cừu Hartani. Chính vì vậy mà tiền bạc, sự nổi tiếng cũng không thể níu chân Lalla lưu
lại thành phố. Lalla quyết định rời bỏ thành phố mãi mãi, từ bỏ danh tiếng, giàu sang
ở nơi đây để về với sa bởi cô thực sự nhận ra “thiên đường hạnh phúc nơi trần gian”
nó không phải ở đâu xa lạ mà ở chính nơi cô sinh ra và lớn lên; ở mảnh đất mà cái
nắng, gió, cát và đá sa mạc luôn ngự trị cùng với những huyền thoại về nguồn cội.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay của nhà văn đã “thức tỉnh” người đọc bởi ý nghĩa nhân
văn mà các nhân vật này đem lại đó là: Mỗi người chúng ta hãy là chính mình, hãy sống
với bản chất con người tự nhiên của mình đấy mới là thiên đường hạnh phúc thực sự. Sa
mạc được xem là hình tượng nhân vật tiêu biểu thể hiện rõ nhất quan điểm của Le Clézio
về con người và cuộc sống, đồng thời cũng bộc lộ tài năng, sự nhạy bén của nhà văn
trong việc nắm bắt và diễn tả tài tình số phận con người ở xã hội hiện đại.
1.3. Nhân vật cô đơn lạc loài và kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong văn học.
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh
động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ
vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ
Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan,
mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng
tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình- ta trong ca dao...). Khái
niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số
lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung
miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: Dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ,
đồ vật...nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người.
Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách của con người.
Và nó đóng một vị trí vô cùng quan trọng trong tác phẩm văn học. “Văn học không
21
thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực
một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về
một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực.
Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong
một thời kỳ lịch sử nhất định. Cho nên, mỗi nhà văn khi sáng tác ra tác phẩm đều có ý
thức xây dựng nhân vật của mình cho sinh động và đặc sắc. Pautopxki nhận xét:
“Nhân vật sinh động chính là tấm huân chương cao quý của nhà văn”[29].
Nhân vật trong tác phẩm văn học là người truyền tải tư tưởng của nhà văn. Trong
mỗi tác phẩm, tùy cách tiếp cận nghiên cứu của người viết mà người ta phân loại ra các
loại hình nhân vật khác nhau như: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm;
hoặc nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, nhân vật lí tưởng, nhân vật tư tưởng….
Từ khái niệm nhân vật, ta có khái niệm về tính cách và tính cách điển hình.
Trong nghiên cứu văn học, theo nghĩa rộng nhất của nó, khái niệm nhân vật mới là
hình ảnh về con người, khái niệm về tính cách đã là hình tượng về con người, còn
khái niệm về tính cách điển hình chính là điển hình về con người. Cả ba khái niệm
này tuy có sự khác nhau nhưng tựu chung lại đều nghiên cứu về đối tượng và đánh
giá về chất lượng của đối tượng được nói đến.
Trong tiểu thuyết, nhân vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Darwin từng khẳng
định: “Không có một cuốn tiểu thuyết nào được coi là kiệt tác nếu trong đó không có
nhân vật nào mà ta yêu thích” [29].
Như vậy, trong văn học, nhân vật đóng vai trò quan trọng. Nhân vật văn học là
hình thức thể hiện định hướng giá trị đời sống. Đọc tác phẩm, cần khám phá các nội
dung từ đời sống và giá trị tư tưởng thể hiện trong nhân vật.
Cô đơn - trạng thái tâm lý bản thể của con người
Từ điển tiếng Việt định nghĩa cô đơn là “chỉ có một mình, không có người
thân, không nơi nương tựa (cảnh cô đơn, con người cô đơn)”[31]. Thực ra, Cô đơn là
một trạng thái tâm lý của con người theo đó một người không chủ động hoặc từ chối
hoặc tự cô lập, cách ly trong mối quan hệ xã hội và thiếu tiếp xúc với người khác cho
dù đó là gia đình, bạn bè thân thiết, vợ chồng, con cái...
Trong cuốn Từ điển tâm lý học, cô đơn được định nghĩa là “một trong những
yếu tố căn nguyên tâm lý ảnh hưởng đến trạng thái cảm xúc của con người khi ở vào
tình huống không quen thuộc (bị thay đổi) hoặc hoàn cảnh bị cách ly với người khác.
22
Khi rơi vào trạng thái cô đơn do sự cách ly thực nghiệm, địa lý, xã hội hay do bị tù, các
mối quan hệ trực tiếp với những người khác bị cắt đứt gây ra những phản ứng cảm xúc
cấp tính trong một loạt các trường hợp xuất hiện sự sốc tâm lý với các biểu hiện chính:
lo âu, trầm cảm và rối loạn thần kinh thực vật…”[43]. Cô đơn có những cảm xúc tương
ứng của chủ thể: xa lánh. “Xa lánh biểu hiện trong những mối quan hệ sống của chủ thể
với thế giới xung quanh. Trong đó cá nhân tự tách mình ra khỏi những cá nhân khác,
coi họ đối lập với bản thân mình. Xa lánh thể hiện trong những cảm xúc tương ứng của
chủ thể: cảm giác bị tách biệt, cô đơn, bị ruồng rẫy, mất cái tôi”[43].
Còn nhà văn Octavio Paztrong chuyên luận Thơ văn và tiểu luận của mình cho
rằng: “Cái cô đơn là đặc trưng cuối cùng của thân phận con người.”. Nỗi cô đơn, vốn
là chính bản thể của cuộc sống chúng ta, xuất hiện trước chúng ta như một thử thách,
như một sự gột rửa với mục đích cuối cùng là mất đi mọi đau đớn và thất thường. Sự
hoàn thiện, sự tụ hội vốn là sự nghỉ ngơi và hạnh phúc, sự hòa hợp với thế giới chờ
đón chúng ta ở điểm nút ở mê lộ cô đơn.
Con người là sinh vật duy nhất cảm thấy mình đơn côi và cũng là sinh vật duy
nhất biết tìm đến người khác. Bản thể của nó - nếu có thể nói về bản thể khi đề cập
đến con người, sinh vật tự sáng tạo ra mình khi nói “không” với thế giới tự nhiên -
nằm ở một khát vọng mình sẽ được thực hiện trong kẻ khác. Con người là nỗi luyến
nhớ và sự tìm kiếm mối giao lưu. Bởi thế, cứ mỗi lần con người cảm thấy chính mình
thì khi ấy nó lại cảm thấy như thiếu vắng kẻ khác, như mình đơn côi.
Theo từ điển tiếng Việt, Lạc loài nghĩa là bị tách, bị lạc khỏi đồng loại, bơ
vơ. Cảm thức lạc loài cũng đã xuất hiện từ lâu trong văn học nhân loại. Những thập
niên 50, 60 của thế kỉ XX, kiểu người này trở nên phổ biến trong văn học phi lý Tây
Âu với những kiệt tác như:“Người xa lạ”, “Huyền thoại Sisyphe” của A. Camus;
“Hóa thân”, “Vụ án” của F.Kapka; “Buồn nôn” của J.P. Sartre… Đó là những con
người thuộc “thế hệ bỏ đi”, bị ném vào lò lửa của hai cuộc thế chiến trở ra là những
con người lầm lì, sống không hy vọng, không niềm tin và trở nên xa lạ với tất cả. Ở
Việt Nam, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khai thác nhiều về kiểu người này để
phản ánh một sự thật rằng khi kinh tế thị trường, văn minh công nghiệp mở ra, lối
sống thực dụng như một cơn gió lốc tràn vào từng ngóc ngách của cuộc sống. Con
người trở nên bơ vơ, lạc loài vì không thể thích ứng được với nó. Nhân vật lạc loài
trở thành phổ biến, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, màu da, giới tính, quốc
23
gia: một thế giới lạc loài không biên giới. Xã hội dư thừa thông tin bao nhiêu lại
tước đi khả năng thông hiểu giữa người và người bấy nhiêu, nền văn minh vật chất
càng vượt trội bao nhiêu thì con người càng lọt thỏm giữa thế giới đồ vật bấy nhiêu.
Đó là nỗi bất toàn đến tột độ của con người trước sự vây bọc của sự tiêu dùng và tự
tiêu dùng chính nó.
Kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài trong văn học
Kiểu là một danh từ, có nghĩa là “toàn bộ nói chung những đặc trưng riêng
của một loại, một lớp sự vật nào đó, phân biệt nó với các loại, các lớp khác”. [31]
Kiểu là cách gọi để đánh giá một sản phẩm hay một tính chất nào đó, tùy thuộc vào
chất lượng sản phẩm và vào cả thẩm mĩ, tiêu chí của người đánh giá. Kiểu thường
được tự quy ước nên chỉ mang tính chất tương đối, không có những căn cứ rõ ràng.
Theo cách hiểu trên thì kiểu nhân vật cũng vậy, đó là kiểu người có những nét
đặc trưng mang tính chuẩn mực được miêu tả, được thể hiện trong các tác phẩm nghệ
thuật và kiểu nhân vật thường chịu sự quy định bởi phong cách sáng tác của các nhà
văn.Ví dụ, khi nhắc đến Chu Lai ta có thể có kiểu nhân vật lạc thời, kiểu nhân vật nổi
loạn hay kiểu nhân vật bản năng. Nói đến Nam Cao ta thường bắt gặp kiểu nhân vật
trí thức tiểu tư sản và kiểu nhân vật nông dân bị bần cùng hóa. Haykiểu nhân
vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng. Na-uy của Haruki Murakami...Trong truyện cổ
tích cũng có các kiểu nhân vật như Kiểu nhân vật quan lại, người giàu; Kiểu nhân vật
người anh; Kiểu nhân vật người mẹ ghẻ; Kiểu nhân vật xấu xí…
Kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài trong văn học là chỉ một loại hình nhân vật mà
trong đó nhân vật thể hiện những đặc tính của con người cô đơn, lạc loài. Đó có thể là
sự buồn bã, sự cô độc ngay trong bản thân mình, hay là sự xa lánh, bị bỏ rơi với thực
tại bên ngoài, với con người và xã hội…Trong văn học phương Tây cái cô đơn, lạc
loài là một đề tài văn học có tính chất triết học truyền thống. Đề tài này xuất hiện ở
nhiều nhân vật, trong nhiều tác phẩm. Có thể kể đến chàng Ham Let (Hamlet -
William Shakespeare), nhân vật Jean Valjean (Những người khốn khổ - Victor Hugo)
haynàng Anna Karenina (Anna Karenina - Lev Nikolayevich Tolstoy), dòng họ nhà
Buendía (Trăm năm cô đơn -Gabriel José García Márquez)…Chính sự cô đơn, lạc
loài đã dẫn đến cái chết của nhân vật trong nhiều tác phẩm. Các nhà văn phương Tây
hiện đại cũng đã xây dựng được những nhân vật cô đơn, lạc loài điển hình trong sáng
tác của mình. Nếu thống kê ta có thể thấy hàng loạt tác phẩm đề cập đến đề tài, nhan
đề và nhân vật cô đơn như: Jane Eyre củaCharlotte Bronte: Ngay khi ra mắt vào năm
24
1847, quyển tiểu thuyết này ngay lập tức làm chấn động văn đàn nước Anh và nhanh
chóng được yêu thích trên toàn thế giới. Tâm điểm khiến tác phẩm nhận được sự
đồng cảm của nhiều độc giả chính là số phận cô đơn, nghiệt ngã của nữ nhân vật
chính Jane Eyre. Một trong những kiệt tác văn học về đề tài này phải kể đến The
Solitude of Prime Numbers(Nỗi cô đơn của các số nguyên tố)- Paolo Giordano: Đây là
quyển sách đầu tay của nam nhà văn người Ý - Paolo Giordano, phát hành năm 2008.
Việc khắc hoạ nỗi cô đơn của hai nhân vật chính Mattia và Alice một cách tinh tế, cô
đọng, súc tích của Paolo Giordano mang đến sự đồng cảm ở nhiều khán giả. Thế giới
nội tâm của những người lạc loài về tính cách trong xã hội được phản ánh rất chân
thực, độc đáo và cũng đầy khắc nghiệt trong tiểu thuyết. Ngay sau khi phát hành, The
Solitude of Prime Numbers thắng giải thưởng lớn Strega Prize. Cuốn sách được đạo
diễn Saverio Costanzo chuyển thể thành phim vào năm 2010. Tác phẩm A Single
Man (Người cô độc) củaChristopher Isherwood là câu chuyện khá ngắn gọn về
George, một giáo sư người Anh. George đồng tính. Khi người bạn tri kỷ từng 16 năm
chung sống với ông qua đời, George không còn tha thiết sống và có ý định tự sát. Nội
dung cuốn sách chỉ xoay quanh thời gian trong vòng 1 ngày, nhưng lại khắc họa
thành công và vô cùng chân xác nỗi cô đơn của người đàn ông vừa mất đi bạn đời.
Với văn phong giản dị, hàm súc, A Single Man khiến bất cứ trái tim sắt đá nào cũng
phải rơi nước mắt. Nếu thiếu đi One Hundred Years of Solitude, tức Trăm năm cô
đơn, danh sách những kiệt tác về chủ đề này chắc hẳn sẽ không thể nào trọn vẹn. Nhà
văn Gabriel Garcia Marquez thành công vượt bậc khi không chỉ miêu tả nỗi cô đơn cá
nhân qua các nhân vật phi thường, dị thường, quái dị mà còn khái quát được sự cô
đơn của cả gia tộc, cả ngôi làng trong suốt một thời gian dài… Hơn 60 nhân vật cả
chính lẫn phụ trong Trăm năm cô đơn đều có cá tính và những nỗi trăn trở riêng,
khiến bất cứ ai đọc được kiệt tác này đều có thể soi chiếu vào và thấy được hình ảnh
của riêng mình. Sự cô đơn trong tiểu thuyết này giống như một thứ tài sản thừa kế
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Từ việc thống kê các tác phẩm trên, ta thấy
được vấn đề về cái cô đơn, lạc loài đã được các nhà văn khai thác từ nhiều thế kỷ
trước. Có thể khi viết các tác phẩm này, các nhà văn không có ý thức thể hiện ở nhân
vật cái cô đơn, lạc loài nhưng nhìn chung khi đọc các tác phẩm trên đều thấy cái bóng
dáng của sự cô đơn, lạc loài trong mỗi nhân vật. Vì cô đơn là bản thể trong mỗi cá
nhân con người.
25
Cũng như các nhà văn phương Tây, các nhà văn phương Đông xây dựng nên
những tác phẩm viết về nỗi cô đơn và nhờ nhân vật của mình truyền tải. Có thể thống
kê những tác phẩm viết về cái cô đơn như: Hồng lâu mộng (tiểu thuyết của Tào Tuyết
Cần) tác phẩm đã khiến nhiều người phải ôm trong lòng những nỗi buồn không
dứt. Đó là sự bế tắc của những con người trẻ tuổi, khát khao lý tưởng sống mới nhưng
cuối cùng đành bị khuất phục bởi họ đang ở trong bóng đêm suy tàn của ngày cũ,
chưa thể đứng trong ánh sáng ban mai của ngày mới, đó là yếu tố bi kịch của lịch
sử trùm lên bi kịch cuộc đời của tất cả các nhân vật.Chủ đề về nỗi cô đơn của người
trẻ cũng luôn hiện diện trong văn chương của Haruki Murakami, và Norwegian Wood
(Rừng Na Uy) là một ví dụ điển hình. Trong tiểu thuyết này, ngoài việc chống chọi
với nỗi cô đơn, nhân vật chính Toru Watanabe còn phải đương đầu với nhiều vấn đề
khác của tuổi trẻ. Tất cả đều gợi lên sự hoang mang, u buồn, và đôi khi bế tắc đến
tuyệt vọng… Cái hay của Haruki Murakami là đã đẩy nỗi cô đơn lên đến tận cùng
khiến nhân vật của mình phải hành động để dập tắt nó, hoặc bị chìm xuống đáy của
những đau khổ. Và cho dù lựa chọn của nhân vật có là gì, nó vẫn để lại những nỗi ám
ảnh khôn xiết cho người xem. Tác phẩm Sống đọa thác đày của Mạc Ngôn lại dạy
cho người ta những bài học lịch sử qua những mảnh đời rất nhỏ. Tây Môn Lừa đã gõ
móng qua những năm cải cách ruộng đất rồi kháng Mỹ viện Triều và nhà nhà luyện
thép, Tây Môn Chó thì sủa vang trong khung cảnh phố huyện thời mở cửa đầu tư rồi
xử tử hình quan chức tham nhũng… Trong truyện Mạc Ngôn, chẳng có một cá nhân
nào thoát khỏi những rung động phát ra từ vòng quay của bánh xe lịch sử. Họ chỉ có
thể sống bám vào bánh xe ấy, rồi khi mỏi mệt thì sẽ tự động buông thân xác già nua
xuống chiếc huyệt đã đào sẵn, như Mặt Xanh và Tây Môn Chó đã làm. Nhà văn đã
lấy hiện thực cuộc sống phản ánh vào trang viết của mình, do vậy hình bóng của nhân
vật trong tác phẩm này mang nặng nỗi cô đơn.
Ở Việt Nam, nỗi cô đơn, lạc loài từ lâu đã được các nhà văn, các thi sĩ khai
thác và đưa vào trong sáng tác của mình. Nỗi cô đơn ấy được sinh ra từ sự bất mãn
với hiện thực của cuộc sống và lí tưởng sống của họ. Nỗi niềm ấy được gửi gắm vào
những trang sách. Hồ Xuân Hương thể hiện cái cô đơn trong thơ của mình khi con
người bị lạc lõng giữa những trói buộc lề thói của xã hội phong kiến, rồi đơn độc
phản kháng.Trong truyện thơ Nôm hay nhất thế kỉ XVIII, Nguyễn Du đã từng viết:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
26
Đến thời kì Thơ mới, cảm thức về nỗi cô đơn, sự lạc loài càng được thể hiện
mãnh liệt hơn qua cái Tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình trong Thơ mới là cái tôi cá thể cô
đơn. Cái buồn, cái cô đơn là một trạng thái cảm xúc không được ai chia sẻ và cũng
không thể chia sẻ cùng ai. Thơ mới ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước,
những biến động của lịch sử tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ. Cái buồn của
các nhà Thơ mới là cái buồn do thiếu hòa hợp giữa đời người và hồn tôi. Đó là sự bất
đồng gữa cái tôi lãng mạn của người nghệ sỹ và thực tại. Cái Tôi cá thể trong Thơ
mới luôn gắn với cộng đồng, gắn với ngoại giới, tha thiết với cuộc đời khi bị đời
ruồng bỏ, bị tách ra khỏi cộng động, không tìm được tiếng nói chung
Ấy là trong thơ, còn trong văn xuôi, sự cô đơn lạc loài cũng được thể hiện khá
đậm nét. Trong văn học Việt Nam từ sau 1975 và đặc biệt từ 1986 khi đất nước bước
vào công cuộc đổi mới, kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài mới có dịp được thể hiện rõ nét
và chân thực với nhiều dáng vẻ khác nhau. Tiêu biểu có thể kể đến: Bước qua lời
nguyền (Tạ Duy Anh), Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến
không chồng (Dương Hướng), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài),
Tân cảng, Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Tướng về hưu, Chảy đi sông ơi,
… (Nguyễn Huy Thiệp), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)… Các nhà văn đã lấy
ngay chính hiện thực của cuộc sống để phản ánh trong trang viết của mình, bởi thế
các nhân vật của họ thường mang nỗi cô đơn.
Điểm lại sơ lược các tác phẩm bàn đến đề tài cô đơn, lạc loài như trên ta thấy
rằng con người cô đơn, lạc loài trong văn học đã trải qua một quãng đường dài: Từ cổ
chí kim, từ Tây sang Đông với những cách nhận thức và phản ánh khác nhau, mỗi tác
phẩm ấy đều mang theo những thông điệp riêng của nhà văn muốn truyền đạt đến độc
giả về con người và thế giới.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta cứ mải miết và tất bật với sự lo toan mưu
sinh trong cuộc sống, có lẽ thứ chúng ta dễ dàng chạm nhất mỗi lần bước ra khỏi nhà
chính là nỗi cô đơn. Cô đơn tại nơi làm việc, cô đơn trong cuộc sống lứa đôi, cô đơn
trong chính tâm hồn mình…Nhiều nỗi cô đơn không tên, không lý do, khiến tâm hồn
ta trống rỗng tưởng chừng như mình bị đẩy ra ngoài cuộc sống, lạc lõng giữa dòng
đời. Sự cô đơn, cảm giác lạc loài mỗi ngày như đang thường trực quanh ta, chỉ cần ta
sơ sảy nó sẽ nhảy vào để xâu xé hoặc chí ít nó cũng gặm nhấm, bào mòn linh hồn ta.
Có lẽ nhiều người cũng cảm nhận rõ và thấm thía những điều này.
27
* Tiểu kết:
Mặc dù hai nhà văn sinh ra và trưởng thành ở những quốc gia và châu lục khác
nhau. Mỗi người có một số phận riêng nhưng trong Sông và Sa mạc ta thấy có những
điểm tương đồng thú vị. Hai tác phẩm trên đều có một hệ thống những nhân vật biểu
thị sự cô đơn. Trong số những nhân vật mang theo bên mình nỗi cô đơn ấy, khóa luận
này chúng tôi chỉ xin đề cập đến những nhân vật tiêu biểu nhất để làm nổi bật nỗi cô
đơn và sự lạc loài của các nhân vật qua hai tác phẩm như: Ân; Xu; Bối trong Sông hay
Lalla; Radicz; Hartani trong Sa mạc. Các nhân vật này được chúng tôi phân làm hai
kiểu nhân vật chính đó là: Nhân vật rơi vào sự tự cô đơn và nhân vật bị cô đơn trước
đời sống xã hội. Trong những chương tiếp theo, chúng tôi sẽ làm rõ sự giống và khác
nhau của hai nhà văn qua việc so sánh hai kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài điển hình này.
28
Chương 2
HÀNH TRÌNH KIẾM TÌM HẠNH PHÚC CỦA KIỂU NHÂN VẬT CÔ ĐƠN
LẠC LOÀI TRONG SÔNG VÀ SAMẠC
2.1. Các kiểu loại nhân vật cô đơn, lạc loài trong Sông và Sa mạc
Khảo sát qua tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư và Sa mạc của Le Clézio
chúng tôi nhận thấy cả hai tác phẩm đều có một hệ thống nhân vật biểu thị sự cô đơn
nhưng khóa luận chỉ xin được lựa chọn những nhân vật tiêu biểu nhất, những nhân
vật mang trong mình sự cô đơn sâu sắc nhất so với hệ thống các nhân vật khác trong
mỗi tác phẩm để làm nổi bật nỗi cô đơn, sự lạc loài của nhân vật. Chúng tôi nhận thấy
trong hai tác phẩm, có hai kiểu dạng nhân vật cô đơn tiêu biểu đó là: Kiểu nhân vật tự
cô đơn và kiểu nhân vật bị cô đơn.
2.1.1. Nhân vật tự cô đơn
Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ta bắt gặp nhiều nhân vật rơi vào sự cô
đơn, lạc loài nhưng trong Sông, cảm giác cô đơn, lạc loài đến với họ đầy ám ảnh.
Những nhân vật của chị Tư sống giữa nhiều người, giữa cộng đồng với biển người
mênh mông nhưng luôn có cảm giác cô đơn. Đó không hẳn là nỗi cô đơn bởi mình
thiếu vắng bạn bè, cũng không phải sự cô đơn vì đơn thân lẻ bóng không có người để
nhớ thương hay bị cô lập trong công việc... Đó là nỗi cô đơn trong chính tâm hồn mỗi
người, cô đơn vì tự cảm thấy mình cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời và cái cô đơn, sự
lạc loài ấy cũng là một căn bệnh của những người hiện đại.
Ba người bạn đồng hành nhờ sự gặp gỡ trên mạng là Ân, Xu và Bối. Thế
giới ảo ấy không khiến họ khó chịu hay bỡ ngỡ mà chính sự xa lạ khiến họ cảm
thấy dễ chịu. “Có chút nhẹ nhõm khi người ta không mang quá khứ để đến với nhau”
[38, tr.22]. Cả ba không quá bỡ ngỡ khi nhập vào nhóm lạ để cùng lang thang. Ân-
người đề xướng cuộc đi chính là nhóm trưởng. Trong nhóm bạn đồng hành ấy thì Ân
là người tưởng như có cuộc sống an nhàn, bình yên bởi vừa có cha, có mẹ, có một
công việc ổn định là phóng viên. Nhưng sự thật thì Ân lại phải sống cuộc sống cô
đơn, lạc loài khi mang thân phận là người đồng tính. Tim Ân tan nát khi Tú - người
tình đồng giới của mình bỏ lại tất cả yêu thương đi lấy vợ theo ý gia đình. Đau khổ,
tuyệt vọng Ân bỏ lại tất cả để đi, đi ngược sông Di hay Ân lội ngược trong kí ức của
mình.Bỏ lại mọi thứ cám dỗ nơi thị thành Ân đi. Đi để quên. Chuyến đi của Ân ngoài
29
lí do kể trên thì còn có thêm nhiệm vụ được ông giám đốc sản xuất yêu cầu là đi để
viết và đi để tìm Ánh.“Thất tình thì đi sông Di viết cho anh cuốn sách. Di chuyển vẫn
mau nguôi hơn là ngồi một chỗ”. Tại sao ông ta lại giao cho Ân thêm nhiệm vụ tìm
Ánh? “vì cả cơ quan chỉ cậu còn sót vài hồi ức về con người này” [38, tr.63].
Ân rời Sài Gòn khói bụi để đến với sông Di học cách quên, nhưng càng đi Ân
càng nhận thức rõ mình là ai, mình thuộc giới nào mặc dù vậy Ân lại không đủ dũng
cảm để đối mặt với những định kiến để sống thật với chính mình - Một người phụ nữ.
Ân là đứa con tinh thần nên mang suy tư và cảm xúc của chị Tư. Ân được nhắc đến
với những nét rất nữ tính: “Cậu thường tắm rất lâu, miết da đến đỏ ửng lên, đến tấm
kính trong phòng nhòe hơi nước. Tắm như là được thở. Đó là lúc ở nhà. Đó là lúc
biết có một người đang nằm khẩy trên giường, chờ bạn tình bước ra khỏi căn phòng
đầy hơi nước để hít hà da dẻ” [38, tr.18 - 19].Cậu khéo léo hơn mẹ: “Hồi còn ở nhà,
đường chỉ cậu may còn thẳng hơn của mẹ. Chưa có thời gian khoe tài may vá” [46,
tr.188]. Mối tình đồng tính của Ân và Tú hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư
với cái nhìn sâu sắc, mới mẻ nhưng cũng rất nhân văn. Trong chuyến đi sông Di ấy
không có Tú nhưng nhân vật Tú lại xuất hiện khá nhiều qua dòng hồi ức của Ân và
qua cả những dòng tin nhắn của Tú. “Năm phút trước khi xe lăn bánh, khi đứng tè
trong nhà vệ sinh, cậu nhắn Tú “đám cưới vui không?” mà không hi vọng nhận được
hồi đáp”. Khi nhận được tin nhắn của Tú cũng là lúc Ân đã ở hạ nguồn sông
Di:“Báo nói Ân đi sông Di. Không ngờ Ân quyết liệt vậy. Chúng mình đâu phải
chấm dứt ở đây” [38, tr.14]. “Ăn ngủ có vất vả lắm không?” [38, tr.21]. Với tâm
trạng đang hụt hẫng và như giận như hờn trách Ân nhắn: “Đám cưới vui không?”,
“Đám cưới vui hả?” [38, tr.21]. Khi có tình cảm thật sự với một người mà phải cách
xa nhau, tâm trạng chung của con người là luôn nhớ đến cử chỉ, điệu bộ và đặc biệt là
những lời nói giành cho nhau khi còn ở bên. Trong hồi ức của Ân vì thế cũng luôn
chập chờn hình bóng và kỉ niệm giữa hai người. “Tú mà không cưới thì cậu cũng sẽ
bận nấu nướng, bận lấy đùi làm gối, vít đầu Tú xuống để nhá tai Tú giữa hai hàm
răng sực mùi ổi chín của mình, vờn lưỡi mình trên khóe môi Tú, nơi mà cậu cho rằng
hàng vạn lời hay ho nương náu ở đó trước khi thành tiếng nói” [38, tr.77]. Giá như
Tú không cưới vợ …Cảm xúc trong Ân luôn trực trào, Ân nhớ da diết những kỉ niệm
khi bên bạn tình: “Bên kia là thị xã Xuân Lộc, ở đó có cái khách sạn coi mặt thì sang, mà
giường lại ọp ẹp chân ngắn chân dài, nhờ vậy Tú đã thử một tư thế mới. Cả hai đều thích
đến vài ba lần” [38, tr.85 - 86]. Nhưng rất tiếc vì đó là “năm ngoái” mất rồi. Giữa bộn
30
bề kỉ niệm ấy, có lúc Ân lại nhớ: “Giữa những câu chuyện rôm rả gần như suốt đêm,
là bàn tay day diết miết vào giữa hai đùi cậu, và ở quãng đường không có ánh đèn
hắt vào xe, Tú lén lút thả lưỡi vào miệng cậu. Đầu lưỡi Tú nhọn, mỗi lần vậy cậu lại
cảm giác có một giọt lưỡi rơi vào cổ họng mình. Ngọt Lử. Vội vã nhưng vẫn thích vì
cảm giác vụng trộm. Ăn vụng thường ngon.” [38, tr.123 - 124]. Tú đã trở thành một
phần cuộc sống và không thể thiếu trong cuộc đời của Ân. Ngoài Tú thì hình như
không có điều gì khiến Ân phải bận tâm hơn. “Tình yêu là thứ khiến người ta thấy cả
thiên hạ đã biến mất, chỉ còn mỗi một người, mỗi một thứ đáng để sống cho nó và vì
nó” [38, tr.77]. Cảm xúc của người này cũng chính là tâm trạng của người kia: “Cậu
đứng ngoài gió bão vì cậu toàn chăm chú vào mẹ, sau này là Tú. Họ vui, cậu vui, họ
buồn cậu buồn” [38, tr.77]. “Phải gắn bó đến độ nào thì mới có thể linh cảm về nhau.
Tại sao lúc mẹ vật vã đau mà cậu vẫn tóm lấy cúc cu Tú ngủ ngon lành?” [38, tr.105].
“Sinh nhật công ty năm ngoái cậu tới rồi ra về sớm, Tú kêu vừa cãi nhau với ban
biên tập, đang chán”; “Cậu thường hăm hở bỏ lại những cuộc vui chỉ vì Tú than
đau răng, mỏi vai. Việc này cho Tú thấy Tú quan trọng với mình còn quan trọng
hơn những thứ quan trọng khác. Hít hà người Tú thích thú hơn mọi cuộc vui nào”
[38, tr.107 - 108]. Ân vốn là một con người luôn nhạy cảm, dễ mềm lòng nhưng
không vì thế mà Ân cả tin. Khi niềm tin vụn vỡ, người yêu kết hôn Ân suy sụp và
trốn chạy để tìm quên. Giữa lúc ấy Ân nhận được những tin nhắn níu kéo từ Tú:
“Ngoái lại đi Ân”, “Chỉ một cơ hội nhỏ nhoi thôi cũng không thể cho Tú sao?” [38,
tr.167].“Mình tuyệt vọng và sắp mất hết kiên nhẫn. Về đi, Tú sẽ quăng bỏ hết mọi thứ
chạy tới với Ân”. Nhớ lại cơ hội cậu đã cho Tú khi hẹn ở biển nhưng tú không tới.
“Nếu hôm đó Tú đến có lẽ Ân đã chấp nhận tiếp tục náu mình trong bóng tối, bất
chấp một hay đến mười đám cưới” [38, tr167]. Bởi vậy lúc này nhận được những tin
nhắn rên rẩm của Tú: “Tú ớn ói việc phải sống như con người khác. Ân giúp Tú nhận
lại chính mình đi” [38, tr.191]. Ân cảm thấy tức giận, thậm chí anh ta làm mất độ
rung cảm trong cậu.Ân đã từng tin yêu và “thần tượng” Tú bao nhiêu thì giờ đây chán
nản, vỡ vụn và sụp đổ bấy nhiêu. Cậu có thể vì Tú làm tất cả còn Tú thì không, anh ta
đã đến với cậu nhưng rồi anh ta lại bỏ cuộc. Điều này khiến Ân nhớ đến lúc hai người
đến dự đám cưới của Chit - Pi (một tình yêu đồng giới), họ cũng từng ước được như
Chit - Pi khi chứng kiến đôi trẻ trao nhẫn cho nhau, để đạt được điều đó Chit - Pi đã
phải đánh đổi bằng máu, hai lần tự sát để gây áp lực với gia đình. “Chit đã ghi trên
blog của mình: “Tự sát mà không chết là cả một nghệ thuật. Cuối cùng người ta đã
31
nhận ra chúng tôi yêu nhau. Một tình yêu không khác thường”. Sau dòng trạng thái
ấy có “tám mươi sáu lời nhắn bảo hai đứa bệnh hoạn” và họ rủa “chúng mày sao
không chết đi để cho trái đất sạch sẽ”. nhưng có đến “Bảy trăm mười chin người để
lại lời chúc mừng. Nhiều người trong họ đã đến cái đám cưới đó dù chẳng nhận được
thiệp mời. Đến để thêm dũng khí và hi vọng”. Vậy mà Tú của cậu thì sao?Anh ta đã
bỏ rơi cậu, kết hôn với người con gái để vừa lòng bố mẹ. Tình yêu của họ không đủ
lớn đề cùng nhau vượt qua sóng gió nên Tú quyết tâm để mình đau một lần. Đau rồi
thôi còn hơn cứ cố chấp quay lại, biết đâu sau này nỗi đau ấy lớn gấp trăm ngàn lần
nỗi đau hiện tại. Ân đã không cho Tú có quyền hay có cơ hội làm mình tổn thương
thêm lần nữa. Nỗi đau này Ân gánh chịu đủ rồi.
Mục đích chuyến đi để tìm quên thì Ân đã dứt khoát rồi, cậu đã kìm nén mọi
cảm xúc nhớ nhung với Tú lại nhưng còn mục đích nữa của chuyến đi này cậu chưa
thực hiện được. Đó là viết một cuốn sách về sông Di và tìm tin tức về Ánh cho vị
giám đốc sản xuất. Trong lúc sách thì chưa viết xong, người thì chưa tìm được thì
Ân nhận được tin từ trưởng phòng hành chánh công ty sau khi ra khỏi vùng không
có sóng điện thoại: “Sếp chết hồi 9 giờ 30 sáng qua, thứ hai. Sao gọi không được?”
[38, tr.185]. Và cùng thời điểm đó là tin nhắn của sếp “Chắc không phải vì tôi mà
Ánh biến mất đâu, đúng không?” [38, tr.185]. Lời phó thác của sếp dường như không
muốn cậu quay trở về mặc dù cậu đã bước vào bến xe: “Người đàn ông vừa qua đời
kia, chắc là cũng đâu muốn cậu về. Ông phó thác cho cậu đi tìm câu trả lời, mà đến
chết ông vẫn chưa nhận được” [38, tr.188]. Chuyến du khảo sông Di của cậu chẳng
thể trọn vẹn được khiến cậu luôn cảm thấy ngột ngạt, cậu chưa tìm được lối thoát cho
mình. Trong tâm trí Ân chập chờn những hồi tưởng về chị San về cuộc đời và cái
chết của chị. San đã ra đi rất lâu nhưng lòng Ân vẫn khắc khoải khi nhớ về chị: “San
im lặng, Chín năm qua, chị vẫn không dậy. Lúc cậu làm tình với Tú lần đầu, cậu hơi
tức mình, sao không thể yêu chị bằng cách này, lên đỉnh cùng nhau, một lần thôi
cũng được” [38, tr.199]. Chị San là người khiến cậu bắt đầu nghĩ đến chuyện viết văn
“Cậu ngờ rằng sức mạnh trong người mình là sức mạnh của chị San cho. Sức mạnh
của một người đàn bà viết nổi tiếng thản nhiên lặn ngụp giữa những khen chê. Người
đàn bà lội ngược dòng” [38, tr.203]. Hồi ấy Ân mới 20 tuổi và vừa rời khỏi mẹ lên
thành phố học đại học “Nó coi rẻ bạn gái cùng trang lứa, thấy chúng sao mà kém cỏi,
trẻ nít. Cả cái vẻ nũng nịu, ngây ngô cũng gây khó chịu. Chị San thì trải đời, bạt
mạng. Như mẹ cậu” [38, tr.204]. Hôm nay là hai chín tháng chín, ngày chị San đi ngủ.
32
Ân nhớ lại cách ra đi của chị San “Phòng chị nồng nặc mùi hoa rữa. Chính cái mùi đó
đã dẫn dắt người ta phá cửa xông vào. Chị ngủ say, lay không dậy” [38, tr.200]. Đây là
cáchchị đã chuẩn bị tâm thế từ lâu. Ân đã từng đọc được trong bảng ghi nhớ dán trên
vách phòng chị “6 việc cần làm cho giấc ngủ”. Trong những việc đó, chị San đã đánh
dấu vào mục: “Làm kín phòng, mua thật nhiều hoa, uống thuốc an thần, ăn no, tắm
mát, đọc cuốn sách dễ chịu. Bên dưới chị thêm vào một dấu sao nguệch ngoạc: Gọi
điện”. Sau khi chị đi, công an đã gọi cho cậu để báo tin bởi chị đã gọi cho cậu và bốn
người khác. Màn hình máy tính để chế độ chờ trong phòng chị vẫn còn dang dở “một
tiểu thuyết viết đến trang 202 về một thằng nhỏ lạc thời tên Ngọc vật lộn đi tìm chính
con người mình. Tiểu thuyết đó chị San đề tặng cậu” [38, tr.200]. Đang lúc loay hoay
tìm cho mình một lối thoát khỏi sự ngột ngạt này Ân lại nhớ đến câu nói của chị San
“Không ngủ thì chị biết trốn vào gì để tạm quên một lúc” [38, tr.220]. “Giờ cậu nhận
ra nếu không ngủ thì chị biết trốn vào thứ gì đó để tạm quên?” [38, tr.222]. Đây chính
là gợi ý để Ân đã tìm ra được cách giải quyết tất cả mọi chuyện cho mình “Cậu gạch
chân mấy chữ “trốn vào thứ gì đó để quên” trên bản thảo của mình” [38, tr.222].
Xu định kết thúc chuyến du khảo này ở Túi. “Xu nói đi miết thì biết chừng nào
mới hết con sông này?” và hỏi“Ân sẽ đi tiếp chớ?” Ân quyết định ra giữa Túi sẽ tính
vì“chỗ đó xưa giờ người ta giải quyết những phân vân” [38 tr.205]. Ân thuê một
chiếc thuyền (quách) để ra khơi Túidù biết chiếc quách đã cũ nát “bên dưới cái sạp
thuyền mục rã kia là một lỗ hổng được bịt tạm bợ, có thể là cái áo mưa cuộn lại, một
cái xơ dừa tơ tướp. Nước đang rịn ri rỉ. Nếu không tát thì đến nửa ngày nước sẽ đầy
đến tận mạn” [38, tr.209] nhưng cậu vẫn quyết định thuê. Trước chuyến đi Ân gặng
hỏi Phụng thêm một lần có muốn đi không với “cảm giác giọng mình hơi đuối đi, có
lẽ vị thẩm phán tuyên án tử lần đầu tiên cũng run rẩy kiểu vậy. Cậu mong cô lắc đầu,
“ở ngoài đó không có gì đẹp đẽ hay ho hết”. “Càng không có đàn ông” [38, tr.217].
Trong từng ý nghĩ, từng lời nói và hành động của Ân đều đang ẩn chứa điều gì đó, kết
thúc cuộc hành trình này, giải thoát cho những tháng ngày ngột ngạt mà cậu đang
phải gánh chịu khi cậu bất lực, chẳng thể làm được điều gì. Những ngày cuối trong
chuyến du khảo dọc sông Di, Ân đã bắt đầu có tình cảm với Xu nhưng khi đó Phụng
cứ bám riết lấy Xu. Cảm giác thất vọng, hờn ghen lại thêm việc Xu muốn kết thúc
hành trình này tại túi Rốn. Hành động của Xu khiến Ân nhớ đến Tú, Tú cũng đã đối
xử với cậu như vậy, bỏ rơi Ân để lấy vợ, đã lừa dối cậu. Giờ đây lại là Xu, Xu lại lừa
dối anh vì có liên quan đến sự biến mất bất ngờ của Bối. Trước khi “dung ngón chân
33
rút cái cuộn cao su bịt lỗ dò” cậu đã hỏi Xu để xác minh “Có phải anh đã làm gì đó
với Bối không?” và Ân đã nhận được câu trả lời từ Xu “Ừ, đúng đó. Thì sao?”. Đến
đây Ân không còn niềm tin vào cuộc sống, thiếu động lực để cố gắng nên Ân đã có
hành động để quách chìm. Sau đó, cậu có gọi điện thoại cho mẹ nhưng mẹ cậu mải
mê với những thú tiêu khiển của bà đã vô tình không nhận được điện thoại của cậu.
Nhân vật Ân thể hiện rõ nét cái cảm thức lạc loài. Đó là sự thức nhận về nỗi bơ vơ,
lạc lõng tất yếu của cá thể trong môi sinh của nó. Nghĩa là cá thể xuất phát từ nhận
thức về sự khác biệt sâu sắc của bản thân với môi sinh (hoàn cảnh sống, chủng tộc,
văn hoá,...) mà chủ động tách mình bởi cảm nhận về sự xa lạ với xung quanh.
Nhân vật trong tiểu thuyết của Ngọc Tư cô đơn bởi mỗi người trong số họ lại
có một số phận, mỗi cá nhân lại chứa đựng những tâm tư riêng, một niềm trắc ẩn
riêng... Họ biết giúp đỡ và cảm thông cho nhau nhưng lại không thể sẻ chia và có sẻ
chia cũng không hết. Điều đáng sợ mà Nguyễn Ngọc Tư cảnh báo trong tác phẩm là
sự cô đơn, lạc loài của những con người không được sống trong bầu không khí ấm áp,
sẻ chia, cùng với bệnh vô cảm, thói giả dối, háo danh...của nhiều gia đình đã trở
thành loài nấm độc sinh sôi nảy nở trên mảnh đất tâm hồn cằn cỗi tình yêu. Chính
điều đó đã đẩy con người ta vào sự chán nản, đơn độc và bi kịch.
Tiểu thuyết Sa mạc của J.M.G Le Cléziocũng xuất hiện khá nhiều kiểu nhân
vật khác nhau, trong đó kiểu nhân vật rơi vào sự tự cô đơn cũng được đề cập đến.
Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này phải kể đến Lalla. Đây là nữ anh hùng của câu
chuyện thứ hai của cuốn tiểu thuyết Sa mạc. Một cô bé mồ côi, cô sống với Aamma,
dì của cô ta gần một thành phố lớn ở miền Nam Ma-rốc, nằm giữa biển Địa Trung
Hải và sa mạc. Mặc dù sống trong một khu ổ chuột, Lalla sống một tuổi thơ hạnh
phúc và tự nhiên. "Lalla" có nghĩa là "Madam " bằng tiếng Ả Rập. Tên tượng trưng
này đại diện cho tất cả các phụ nữ phương Đông cùng với sa mạc, phụ nữ đơn giản và
tự hào. "Đẹp và hùng vĩ ". Lalla có nghĩa là quý bà, như vậy tên gọi đã hé lộ nguồn
gốc xã hội cao quý của cô (Lalla thuộc tầng lớp trên trong xã hội của bộ lạc du mục).
Do xuất thân cao quý nên dù mồ côi cha mẹ phải sống cùng cô ruột tại cư xá nghèo,
Lalla vẫn tỏ ra khác hẳn so với những đứa trẻ khác “bởi cô không rành đi chân trần
lắm và bởi cô không biết đến những tiếng thô tục” [21, tr.98].
Lalla cao, có mái tóc đen, xoăn và đầy sức sống. Để diễn tả vẻ đẹp này, Le
Clézio đã dành cho cô những lời mô tả thơ mộng bằng cách so sánh cô với những gì
cô yêu thích: “Cô mang sức mạnh và sự sáng chói của sa mạc trong đôi mắt chim đại
34
bàng. Mắt cô ta giống như hai lớp đá cẩm thạch, màu sắc của kim loại và lửa, và
khuôn mặt tuyệt đẹp của cô như một mặt nạ bằng đồng mịn. Ánh sáng đang bùng
cháy trên da cô, trên xương má nổi bật của cô, trên môi, trên cơ thể dài, mịn màng
của cô và trên mái tóc đen của mái tóc cô. Một người cảm thấy lo lắng phía sau sức
mạnh của ánh sáng của mình” [21, tr. 178]. Tìm hiểu về tính cách Lalla ta thấy cô là
cô gái thông minh, quyết đoán và mạnh mẽ nhưng giàu tình cảm. Cô thường cảm thấy
mình cô đơn lẻ loi khi đứng trước biển. Giống như một cánh chim lạc đàn, cô ríu rít
tìm kiếm mẹ để có thể cảm nhận được sự che chở, yêu thương nơi tình mẹ. Le Clezio
đã để nhân vật của mình độc thoại giữa biển khơi khi nỗi buồn và sự cô đơn dâng lên
quá lớn: “Oummi, mẹ đi đâu? Con rất mong mẹ tới đây thăm con, con rất mong điều
đó” [21, tr. 179]; cô nguyện ước: “Oummi, mẹ không muốn trở về thăm con sao? Mẹ
thấy đó con thì con không quên mẹ” và “Mẹ không thể trở về một chốc thôi sao”, con
muốn gặp mẹ, bởi con rất cô đơn. Khi mẹ chết, khi cô Aamma tới tìm con, con không
muốn đi với cô, bởi con biết sẽ không bao giờ gặp lại mẹ. Mẹ hãy trở về, một chốc lát
thôi, mẹ hãy trở về” [21, tr. 181]. Lalla là một cô gái sa mạc. Nhưng khi cô Aamma
quyết định để Lalla kết hôn với một người đàn ông với đôi mắt đen và ác, Lalla nổi
dậy và chạy trốn. Lalla chạy trốn đến Marseille, nơi ấy đã giúp cô nhận ra bản chất
của xã hội tiêu thụ và cô cũng ý thức một cách sâu sắc về thân phận của những người
nhập cư, những kẻ phải sống “ngoài lề” xã hội. Những ngày đầu tiên đến thành phố
này, Lalla dành thời gian để khám phá các bến tàu với một tâm trạng đặc biệt bởi ở
đây là cánh cửa của thành phố, nơi đón đưa rất nhiều các hạng người từ khắp nơi trên
thế giới. cô cũng giành nhiều thời gian để khám phá các đường phố và cuộc sống của
những người nơi đây. Cô phát hiện ra thành phố không như cô tưởng tượng, nó không
phải là nơi phồn hoa đô hội, vui tươi hấp dẫn mà ở đó “cái đói, cái sợ, cái nghèo hiện
diện khắp nơi như những tấm áo sờn cũ và ẩm ướt, như những khuôn mặt gài cỗi, tàn
tạ và đọa đày” [21, tr.358].Ở đây là những “nhà tù” là những “ngôi mộ”, những “cạm
bẫy” vây hãm con người, còn những con người khốn khổ vẫn cứ “hồn nhiên” chấp
nhận nó. “Nơi đây không có lũ ong vò vẽ và cũng không có những con ruồi bay thỏa
thích trong bầu không khí lung linh bụi. Chỉ có người, chuột và gián, tất cả đang
sống trong những cái lỗ không có ánh sáng, không có không khí, không có bầu trời”
[21, tr.358]. Thành phố là nơi tập trung “Tất cả những kẻ mà sự nghèo khó đã dẫn dắt
họ tới đây”, “Lalla nhìn tất cả những con người có vẻ lạc loài kia đang bước đi như
đang trong tình trạng nửa thức, nửa ngủ. Đôi mắt buồn bã của cô rực lên lạ thường
35
khi cô nhìn họ” và “Lalla thấy tim cô thắt lại khi cô trông thấy họ”, rồi “Thỉnh thoảng
tim cô lại đập mạnh hơn và đôi mắt cô ném ra một tia ánh sáng như ánh phản chiếu
của mặt trời trên đá hoặc sa mạc. Thành phố ngoài những ăn mày, những người nhập
cư khốn khổ sống lầm lũi, sống vất vưởng qua ngày còn có những con người bán
thân, bán mạng kiếm sống, những kẻ bóc lột sức lao động của người khác mà không
mảy may mủi lòng. “Những lúc đầu, khi mới tới Lalla rất kinh ngạc. Bây giờ thì cô
đã quen” [21, tr.324]. Nhìn chung Lalla không có thiện cảm với nơi này bởi theo cô
nơi đây không có tình yêu thương và lòng thông cảm.
Lalla đã phải sống những tháng ngày khốn khổ với thân phận của người nhập
cư nhưng cuộc sống đó đã chấm dứt khi cô tình cờ trở thành một người mẫu ảnh nổi
tiếng và được nhiều người mến mộ. Khi người chụp hình hỏi cô với vẻ lo âu về
những tấm ảnh: “Em có thích không”? “Điều đó chỉ khiến cô cười, điệu cười không
thành tiếng, kho những chiếc răng trắng ngà lấp lánh ủa cô. Cô cười trên tất cả điều
đó, như thể đó là một trò đùa, như thể không phải là cô đang xuất hiện trên nhứng
trang giấy đó… Đó là Hawa, cái tên cô tự đặt cho mình, cái tên cô nói với người
chụp ảnh” [21, tr.410]. Những lá thư đề tên Hawa đến từ khắp nơi của những cô gái
ngưỡng mộ cô, hay của những cậu con trai si tình mong muốn được gặp cô. “Giờ đây,
khắp nơi ai cũng nói về Hawa. ở Paris, các nhà báo tới gặp cô” [21, tr.419]. Nhiều
người gặp cô ngoài đường xin chữ kí của cô “Nhưng vì không biết viết, cô chỉ vẽ dấu
hiệu của bộ lạc cô, dấu hiệu mà người ta đóng lên da lạc đà và da dê, hơi giống hình
trái tim” [21, tr.420-421]. Sự lạc loài thể hiện rõ qua chi tiết này bởi trong khi người
ta viết thì cô chỉ có thể vẽ các dấu hiệu của bộ lạc mình.
Các nhân vật rơi vào sự tự cô đơn trong cả Sông và Sa mạc đều có điểm chung
là luôn thấy tâm hồn trống vắng, thiếu người san sẻ, cảm giác như bị tách rời khỏi
cộng đồng và chỉ còn lại một mình. Trong cô đơn, con người hướng về tương lai vô
định và ám ảnh về cái chết với một nỗi bất an thường trực. Có những nhân vật tự tách
mình ra khỏi cộng đồng nên bị rơi vào sự cô đơn. Tiêu biểu như Lalla, trong khi cô
sống giữa không gian văn minh đô thị mà vẫn luôn khao khát hướng về sa mạc với
thiên nhiên hoang dã.
2.1.2. Nhân vật bị cô đơn
Cô đơn là một căn bệnh trầm kha của con người, ở bất cứ thời đại nào ta cũng
có thể bắt gặp những con người mang nặng nỗi cô đơn. Hình như xã hội càng phát
triển thì con người càng cảm thấy cô đơn hơn.Nhà văn Thu Huệ đã từng viết: “Con
36
người ngày càng đông như kiến nhưng chẳng ai giống ai. Mỗi người buồn một kiểu,
vui một lối. Tại cái gì, tại ai mà bao nhiêu thế hệ đều nhiễm một cái buồn thâm căn cố
đế” (Dĩ Vãng - Nguyễn Thị Thu Huệ), đúng là thật khó để đi tìm câu trả lời. Có
những người tự cảm thấy mình cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời nhưng cũng có những
số phận bị cô đơn trước đời sống xã hội. Cảm giác cô đơn đến với họ không phải vì
họ muốn cô đơn, muốn tách ra khỏi cuộc sống mà dù họ nỗ lực tìm cách hòa nhập
nhưng không thể chen nổi vào nhịp đập chung ấy. Sống giữa mọi người nhưng chỉ
thấy trơ chọi, cô đơn bởi bi kịch cuộc đời và còn cô đơn vì khao khát muốn hòa
nhập…Những nhân vật bị rơi vào cô đơn như thế cả trong Sông và Sa mạc đều có.
Đọc Sông ta bắt gặp nhân vật Xu là một nhân vật tiêu biểu cho kiểu nhân vật cô
đơn như thế.Khi đăng những dòng tin “rao trên mạng tìm bạn lặn lội sông Di” [38, tr.9],
Xu đã đăng kí đồng hành cùng Ân và Bối. Xu được miêu tả với vẻ bề ngoài “người
đen trũi lầm lì, mi mắt dài và rợp che lấp cả ánh mắt sâu hút hay nhìn bâng quơ
đâu đâu, tóc hớt đinh một phân đều nắng soi tận da đầu”. Vẻ kiệm lời chín chắn…”
[38, tr.10]. Bi kịch cuộc đời của Xu là bi kịch của nhiều người khác trong biển đời
mênh mông ở thế giới nhân vật trong truyện Nguyễn Ngọc Tư: Nhiều tổn thương,
thiếu vắng tình cảm, cô đơn… Xu là một cậu bé mồ côi theo đúng nghĩa, được phát
hiện “trong đống thùng xốp đựng trái cây trên chiếc xe tải lạc tay lái đâm vào dải
phân cách dưới dốc cầu Thị Kiệu” [38, tr.90]. Một anh cảnh sát giao thông trong lúc
làm nhiệm vụ đã phát hiện ra. Không chỉ có mình Xu, hôm đó có tất cả bảy đứa bé “bảy
sinh vật tái nhợt, rúm ró. Cả bọn chúng đều lạnh cóng, thân nhiệt thấp” [38, tr.90]. Trời
ơi! Sự ám ảnh lớn tới nỗi, khi ngồi viết ra những dòng này, ta không thoát khỏi cảm
giác buồn và trĩu nặng khó tả, bất giác khóe mắt ươn ướt. “Bảy đứa trẻ trên trời rớt
xuống đó… có hơn hai chục gia đình nhận nuôi chúng” [38, tr.91].Cậu bé Xu khi ấy
“Tính luôn cái khăn bông màu cháo lòng và nón len trùm đầu,…nặng bảy kí tám. Có
thể đã sáu tháng tuổi rồi” [38, tr.90]. Những đứa trẻ bị bỏ rơi vượt qua được cơn bĩ
cực ở giai đoạn mới lọt lòng thật khó khăn. Nếu số phận mỉm cười với chúng chắc sẽ
đỡ khổ nhưng Xu lại không phải là người may mắn đó. Một gia đình bán rau củ ở
Thới Lai đã mang cậu về nuôi. Sau hai mươi ngày, không biết là bởi vì thằng bé ấy
không khóc hay tại số tiền của các nhà hảo tâm xúm vào cho cũng vãn mà gia đình đó
đã trả Xu lại với câu nói chua chát: “Trẻ con mà không khóc thì chắc không phải là
người” [38, tr.91]. Số phận đưa đảy Xu đến với một bà góa, những tưởng cuộc sống
của cậu sẽ yên ấm hơn nhưng không. “Năm nó lên bốn, trong lúc len giữa những
37
chiếc xe tải chờ qua trạm thu phí để bán mía, nước uống ướp lạnh, bà góa bị xe cấp
cứu đâm gãy xương chậu” [38, tr.91].“Nằm liệt giường một năm rưỡi sau thì bà chết
vì dòi đã rúc đến xương. Quãng thời gian đó thằng nhỏ kiếm ăn dưới làn xe tải, tối về
lấy kim tây xỏ xâu những con dòi lúc nhúc dưới lưng bà rồi đem hơ qua ngọn đèn
dầu, nghe cháy khét thơm thơm. Sau một đợt thu gom, thằng bé được đưa vào trại”
[38, tr.91]. Cuộc đời của Xu đúng là trò đùa của số phận, cậu đã phải trải qua tận
cùng của nỗi đau, của sự bị bỏ rơi, của nỗi cô đơn trống trải. Nghĩ đến Xu khiến ta cứ
liên tưởng đến cuộc đời và số phận của Chí Phèo giai đoạn trước khi đi ở tù với một
số không tròn trĩnh: Không nhà cửa, không cha mẹ, không anh em họ mạc, không
nguồn gốc, không quê hương bản quán…Khi bé chưa nhận thức được nhiều đã đành,
khi lớn hơn, nhận thức rõ ràng hơn cậu có biết đến niềm vui, nỗi buồn khôngmà sao
lại không bao giờ khóc? Xu nói: “Từ điển đời tôi không hề có chữ khóc” [38, tr.91].
Bươn trải với cuộc đời từ sớm, có lẽ cuộc đời Xu đã quá nhiều khổ đau dập vùinên cơ
thể của cậu hằn sâu những vết sẹo lồi lõm. Xu đã trở nên chai lì, thản nhiên với mọi
việc xung quanh. Xu mang một dáng vóc của một người đàn ông dầm sương dãi nắng
“với cái vẻ ngoài bặm trợn. Toàn sẹo lồi, một vết trên bắp tay phải, một đường may
vụng về từ cằm lẹm xuống cổ. Vành tai trái của anh ta cũng bị xén mất một nửa” [38,
tr.11]. Xu còn “mang đến sức nặng cho nhóm, theo cả nghĩa đen và bóng, bởi những
cái sẹo anh ta mang trên người. Bọn cậu sẽ không gặp những rắc rối nhỏ những va
chạm không đáng có trên đường” [38, tr.11]. Mục đích khi Xu đăng kí chuyến đi là
gì? Cũng như Bối, với Xu đi đâu không quan trọng, cậu không giấu giếm một vài
mục đích riêng “Xu thực hiện đơn đặt hàng một bộ lịch cũng hơi lạ: Hoa dại”. Với
Xu “không có gì là không thể”. Xu có thể phân biệt được máu người hay máu động
vật khi bắt gặp vũng máu khô. Khi Bối thắc mắc “Xu cười, tôi chơi với máu lâu rồi,
thuộc lòng mùi vị và màu sắc của nó” và cậu còn chia sẻ với Bối kinh nghiệm nhận
biết “Cứ đổ máu riết rồi dần quen, sẽ biết” [38, tr.20]. Trong cuộc du khảo ấy “Sự
thông thạo của Xu với mọi loại máy móc, mọi con đường trên bản đồ, đã không còn
làm bọn cậu kính nể hoặc ngạc nhiên nữa” [38, tr.53]. Trường đời đã dạy cho Xu
nhiều thứ và chính trường đời đã tôi luyện nên con người Xu. Ở Xu người ta không
dễ dàng đoán ra tính cách và cảm xúc của cậu. Khi “Xu bẻ cổ vịt khoan thai như đang
bẻ ngón tay và nghe nó kêu lắc cắc…không phân biệt được vẻ mặt anh ta khi đó và
khi chụp ảnh” [38, tr.54].Chúng ta đều biết, cảm xúc phát xuất từ não, không phải trái
tim. Não bộ là nơi sản sinh các hormon quyết định cảm xúc chủ đạo trong ta như yêu
38
thương, vui sống, hay nóng giận, bi quan… Có thể khẳng định Xu có cái đầu sắc, lạnh.
Cậu từng nói với Ân: “Đừng nhìn tôi như một vị thần. Không có thần thánh trên đời
đâu, tin tôi đi”. Cậu là kẻ vô thần, căm ghét bọn nhà giàu. Xu không gần gũi và thân
thiết với Ân như Bối, cậu thường bị gạt ra khỏi cuộc nói chuyện giữa Ân và Bối. Cậu
thích nhìn ngắm cảnh ven đường, cậu không thích nhìn chăm chú vào hai người bạn
đồng hành của mình. Xu không biết mình đến từ đâu, đôi lúc cũng giống Ân. Theo lời
chị Ánh từng nói: “Thiên hạ ai cũng một lần va đầu vô câu hỏi “Ta là ai, sao ta là ta
mà không là họ, sao ta ở đây với những người này mà không cùng người khác…?” [38,
tr.53]. Xu không biết mình có nguồn gốc từ đâu, tại sao mình lại hiểu tiếng của người
dân tộc Đào, cậu cố tìm một giải thích hợp lí nhưng thật khó,cậu hoài nghi “biết đâu Xu
chính là một đứa bé dân tộc Đào đã bị bán đi?” [38, tr.183]. Ân thì động viên rằng
“…bảy tháng tuổi làm gì nhớ được ngôn ngữ để bây giờ trỗi dậy bất ngờ”. Xu thì “…
cứ mê mải đuổi theo câu hỏi mình đến từ đâu, nhưng lại nhận lấy đáp án này. Bị bỏ rơi
vẫn còn ngon lành hơn bị bán” [38, tr.184].
Xu đến với chuyến du khảo này để làm gì? Có phải đơn thuần chỉ là để chụp
ảnh của những bông hoa dại hay Xu đang tìm lại gốc gác của mình. Tâm trạng của
Xu dọc hành trình khá phức tạp. Không biết Xu đã làm gì với Bối nhưng việc Bối
biến mất có liên quan đến Xu, điều này đã được cậu xác nhận với Ân khi chiếc
thuyền ra khơi túi và trước khi nó biến mất. Xu không tự biến mất nhưng lại chọn
cách kết thúc chuyến du khảo ở Túi, cái rốn của giông gió, nơi sẽ chấm dứt mọi phấp
phỏng, phân vân mà cậu từng chia sẻ với Ân. Những kiếp đời xuất hiện trong sông
thật thảm, tác phẩm khép lại mà nỗi cô đơn cứ lan tỏa trong lòng người đọc. Trong
Sông ta thấy mỗi người một số phận, một hoàn cảnh nhưng đều có điểm chung là nỗi
cô đơn. Tuy nhiên biểu hiện của nỗi cô đơn ấy lại không giống nhau. Người thì cô
đơn trong thứ tình cảm lạc loài, không dám đối mặt với những thứ tình cảm khác biệt
trong lòng; kẻ thì cô đơn vì mất gốc rễ…Bọn họ để mình trôi theo dòng sông. Người
thì muốn nương theo sông để quên hết mọi thứ; Người lại muốn dựa vào sông để tìm
lại mọi thứ. Họ cứ đi, đi mãi và rồi trôi nổi giữa dòng nơi túi Rốn không biết sống
chết ra sao. Các nhân vật bị bỏ rơi, bị hoàn cảnh sống đẩy vào tình trạng cô đơn.
Sang đến tiểu thuyết Sa mạc của J.M.G Le Clézio, khám phá nhân vật trong
tác phẩm này chúng tôi thấy nhà văn đã đề cập đến một thế giới nhân vật vô cùng đa
dạng và phong phú. Tác phẩm có nhiều kiểu nhân vật khác nhau với đủ các tầng lớp
xã hội, có những nhân vật huyền thoại và cả những nhân vật hiện thực trong đời sống
39
của thế giới hiện đại…Trong thế giới nhân vật ấy, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến
kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài mà J.M.G Le Clézio đã xây dựng và thể hiện rất thành
công trong tiểu thuyết này. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng với dung lượng có hạn
của đề tài, tôi chỉ xin được chọn nhân vật tiêu biểu nhất đó là cậu bé câm Hartani -
cậu bé mồ côi sống giữa sa mạc bao la. Cậu bị bỏ rơi, được người ta nhận về nuôi và
trở thành cậu bé chăn cừu. “Chính Yasmina, vợ người chăn dê đã trông thấy hắn khi
chị đi tìm nước” [21, tr.128]. Khi chị cho người đàn ông lạ mặt uống nước thì hắn đã
bỏ lại bên bờ giếng “một đứa trẻ sơ sinh được quấn trong một mảnh vải màu
xanh…chị nuôi dưỡng nó và nó lớn lên trong gia đình chị như thể là con của chị”
[21, tr.128]. Ngay cả bản thân Hartani cũng không biết cha mẹ mình là ai, từ đâu tới.
Hartani lớn lên ngay tại nơi mà người chiến binh sa mạc đã bỏ lại cậu. Hartani- “đó
là biệt danh cho anh ta vì anh ta có làn da đen như những nô lệ của miền Nam”. Cậu
lang thang cùng với các loài vật trên sa mạc vì vậy cậu không chỉ thân thuộc thế giới
sa mạc mà còn am hiểu các loài vật sống trên sa mạc đến mức cậu có thể điều khiển
chim muông và các con vật như “một phù thuỷ”. “Chú biết chăm lo cho những con
vật, đưa chúng tới nơi nào chú muốn, không cần đánh đập chúng, chỉ cần huyý giữa
kẽ tay, bởi những con vật không sợ chú. Chú cũng biết nói chuyện với đàn ong…Họ
nói chú biết điều khiển rắn và bọ cạp” [21, tr.129]. Sự cô độc của Hartani được miêu
tả thông qua việc cậu bị mọi người xa lánh, cậu không tiếp xúc với ai ngoại trừ Lalla,
“cô không sợ cậu và là người duy nhất hiểu cậu, bởi cô không nói chuyện với cậu
bằng từ, mà bằng những cái khác” [21, tr.129]. Mù chữ lại câm điếc, Hartani giao
tiếp thậm chí là kể chuyện với Lalla bằng ánh mắt, đôi bàn tay và cả sự im lặng đó
chính là thứ ngôn ngữ đặc biệt của họ. Tai Hartani rất thính có thể nghe và hiểu được
tất cả thế giới động, thực vật nên cậu thực sự không phải bị câm điếc mà vì cậu không
hiểu ngôn ngữ của con người. Có lẽ do mọi người xa lánh cậu, coi cậu như nô lệ nên
khinh rẻ, không giao tiếp với Hartani nên cậu rơi vào tình trạng cô đơn, lạc loài.
Tiếng nói cũng như cuộc sống của con người trở nên xa lạ với cậu. “Hartani thật sự
không có gia đình, cũng như Lalla chú không biết cả đọc lẫn viết. Chú cũng không
biết cầu nguyện, không biết nói, thế mà chú lại biết tất cả điều đó” [21, tr.130].
Điểm tô thêm vào bi kịch những số phận bị rơi vào nỗi cô đơn thiết nghĩ cũng cần
nhắc đến Radicz đứa trẻ mồ côi, sống lang thang, vất vưởng - một tên ăn mày và trộm
cắp. Theo lời Radicz “cha mình chết, và vì gia đình đông anh em và không đủ tiền, mẹ
mình đã bán mình cho ông chủ và mình tới đây, Marseille” [21, tr.398]. Cũng giống như
40
bạn bè mình cậu sống bằng nghề ăn cắp chuyên nghiệp. Tuy nhiên Radicz không giống
họ bởi cậu không muốn tỏ ra “láu cá” với kiểu có “đàn bà” cho riêng mình hay phải hút
thuốc lá để tỏ ra là “người lớn”. Cậu tâm sự với Lalla “Em thì em cho rằng ngủ với một
người đàn bà thì cũng không hay hố gì, mấy trò đó chỉ để tỏ ra láu cá, đùa cợt mà thôi”
[21, tr.130]. 14 tuổi, cậu có vẻ chín chắn và với những suy nghĩ, những mơ ước giản đơn
về cuộc sống. Qua nỗi buồn và sở thích của cậu ta có thể thấy một tâm hồn nhạy cảm.
Cậu thích được ngắm biển lúc hoàng hôn, thích tận hưởng không gian thành phố lúc
sáng tinh mơ, khi không khí còn trong trẻo và đặc biệt cậu “thích quẹt những que diêm
và nhìn chúng cháy…”. Radicz luôn luôn thấy sợ hãi và hay cảm thấy cái chết đang rình
rập giăng bẫy ở khắp nơi khi sống lang thang bằng nghề xin ăn và trộm cắp, móc túi.
“Bấy giờ Radicz lại mơ hồ cảm thấy sự đe dọa đang đè nặng lên tất cả mọi thứ ở nơi
này, trong bãi đậu xe của những toà nhà, sự nguy hiểm đang lãng vãng đâu đây…”
[21, tr.463]. Thành phố không hề đáng yêu và bình yên chút nào, đó chỉ là sự yên lặng
đáng sợ để che đậy cái bẫy giết người đang giăng ra mà thôi “Mối đe dọa vây quanh nó
mà nó không tài nào biết được mối đe dọa ấy từ đâu tới. Ngày cứ gia tăng và cùng gia
tăng với nó là sức nặng của nỗi sợ” [21, tr.465]. Radicz không bao giờ mong muốn cuộc
sống như hiện tại, những đứa trẻ như cậu bị đẩy ra ngoài cuộc sống và rơi tóm vào hố
sâu cô đơn dẫn đến những bi kịch. Radicz đã phải trải qua cái chết thương tâm. Ảo giác
và lo sợ không giúp được cậu, Radicz chỉ có thể thoát khỏi tất cả khi đôi chân cậu không
thể nhảy nữa, tim cậu không còn đập nữa. Cái chết thương tâm của Radicz để lại rất
nhiều sự ám ảnh trong lòng độc giả.Giá như những đứa trẻ này nhận được sự quan tâm,
chia sẻ làm gì chúng phải chết trong cô đơn và đau đớn thế.
Qua kiểu nhân vật bị rơi vào nỗi cô đơn trước đời sống xã hội. Cả Nguyễn
Ngọc Tư và Le Clezio đã xây dựng lên những số phận trái ngang, không nguồn gốc,
tiểu sử, điều này dễ làm nảy sinh những bất bình thường trong cuộc sống, giữa những
mối quan hệ. Đây là dự báo về sự mất mát, khổ đau và cuối cùng là rơi vào trạng thái
cô đơn, lạc lõng. Hai nhà văn như muốn gửi đến chúng ta những thông điệp, những
lời cảnh báo đáng chú ý. Hãy quan tâm đến những đứa trẻ, những số phận bất hạnh,
hãy dành cho chúng sự quan tâm, sẻ chia và đùm bọc để chúng có thể hòa nhập và có
cơ hội vươn lên trong cuộc sống này. Sự xua đuổi và dồn ép con người vào đường
cùng quả là tội ác. Qua Nour và cộng đồng du mục, Le Clezio muốn lên án mạnh mẽ
chính quyền Ma Rốc đã cấu kết với bọn thực dân đẩy những người vô tội vào bi kịch.
Đồng thời hai nhà văn cũng bày tỏ sự trân trọng khát vọng sống mãnh liệt, đồng cảm
41
với nỗi cô đơn của Nour và cộng đồng du mục, số phận thiếu may mắn của Hartani,
Radicz (trong Sa mạc), nỗi cô đơn vì thấy mình bơ vơ, lạc loài, và muốn tìm lại cái
gốc gác của Xu (trong Sông).
2.2. Không gian và thời gian của hành trình
Trong văn học, không gian và thời gian có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Cả hai là những yếu tố góp phần giúp nhà văn xây dựng nên hình tượng nghệ
thuật của tác phẩm. Nếu không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất,
trong cuộc sống, thời gian và không gian chính là hình thức tồn tại của hình tượng
nghệ thuật trong văn học. Vì vậy, thời gian và không gian nghệ thuật chính là những
phạm trù thể hiện phương thức tồn tại và phát triển của thế giới nghệ thuật.
2.2.1. Không gian nghệ thuật
Không gian là môi trường tồn tại của con người. Đó là con đường, ngọn núi,
con sông, là biển cao, hào sâu... Không gian là nơi mà nhà văn triển khai các sự kiện,
dựng lên các tình huống, nơi xảy ra các biến cố và là chỗ cho nhân vật hoạt động.
Không gian trong văn học là không gian nghệ thuật. Hoàng Phê đã lí giải trong cuốn
Từ điển Tiếng Việt về không gian như sau: “Không gian là khoảng không bao la trùm
lên tất cả sự vật, hiện tượng xung quanh đời sống của con người” [31, tr.165]. Trong
cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán cho rằng: “Không gian nghệ thuật là hình
thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [16, tr.200].
Không gian nghệ thuật không phải ngẫu nhiên xảy ra như trong đời sống mà không
gian ấy do nghệ sĩ lựa chọn, dựng lên để thể hiện ý đồ nghệ thuật. Không gian ứng
với một cách sống riêng biệt của con người.Trong điêu khắc cũng như hội hoạ, không
gian được người nghệ sĩ sử dụng là không gian tĩnh. Người họa sĩ chỉ có thể chọn một
không gian nhất định để hoàn thành bức tranh của mình, không thể cùng lúc di
chuyển nhiều không gian. Còn không gian trong văn học là một không gian có sự vận
động, biến đổi. Con mắt của nhà văn có thể dễ dàng đưa người đọc di chuyển từ
không gian này sang không gian khác.Tóm lại, không gian nghệ thuật chính là hình
thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Đó là không gian tồn tại, sinh hoạt của nhân
vật, là bối cảnh để nhân vật thể hiện tính cách, suy nghĩ, hành động. Không gian nghệ
thuật còn là nền là cảnh cho những sự kiện.Việc sắp xếp không gian nghệ thuật hợp lí
sẽ giúp nhà văn chuyển tải sâu sắc hơn quan điểm, tư tưởng của mình đến độc giả.
Đọc Sông và Sa mạc ta thấy cả hai tác phẩm đều có yếu tố không gian rộng, đa
chiều và nhiều màu sắc. Trước hết trong tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư,
42
không gian được tái hiện trong tác phẩm chính là sông Di, dọc hành trình du khảo ấy,
nhà văn còn cho chúng ta tiếp cận với những con người và vùng đất khác nhau men
theo dòng sông. “Sông phát nguyên từ dãy Thượng Sơn, sườn đông bắc của Puvan,
xuôi về phía Nam. Đây là dòng sông duy nhất chảy dọc theo đất nước, qua nhiều địa
hình phức tạp, độ rộng hẹp cũng thay đổi bất ngờ. Trước khi ra biển Tây, nó giao cắt
với rất nhiều con sông nổi tiếng khác” [38, tr.8]. Dòng sông này không chỉ là nhân
chứng lịch sử chứng kiến biết bao sự thăng trầm của đất nước, sông Di còn là nơi bồi
đắp và nuôi dưỡng cho con người sinh sống và làm ăn. Từ sông Di, cuộc sống và số
phận của nhiều người đã được nhà văn mở ra theo suốt hành trình của chuyến du
khảo. Ba cây số trước khi sông Di ra biển, sông chỉ còn là con rạch quanh quanh giữa
những cồn cát. Khi chiếc ghe chở những thành viên trong chuyến đi tấp vào bờ, nhà
văn đã đặc tả cho chúng ta không gian của xóm Cồn “Xóm Cồn nhà nào cũng thấp,
phần lớn cất bằng vật liệu tạm bợ” [38, tr.16]. Một xóm nhỏ với cuộc sống tạm bợ
của người dân. Dân xóm này dường như không chăm chút cho mảnh đất họ sống bởi
hình ảnh những hàng rào hờ hững, những mái nhà tạm bợ phần nào đã phản ánh lên
điều đó: “Hàng rào ở xóm cồn được làm hờ hững. Chỉ là mấy bụi cây bông bụt lưa
thưa, hoặc một rào mỏng bằng cây xương cá, hay dừng chắn bằng mấy nhánh cây
khô queo quắt” [38, tr.16]. Thiên nhiên ở đây không còn ưu đãi con người, vì thế mà
người dân nơi đây chuẩn bị sẵn tinh thần cho sự di chuyển trong nay mai “Báo viết
cồn cát này sắp bị nước biển nuốt mất…ối người xứ này đất bồi thì ở, đất lở thì đi…”
[38, tr.16], chẳng còn lí do gì để người ta bám riết lấy một vùng đất chết. Trên vùng
đất xóm nhỏ này mọi vật dường như đang bị tàn lụi, thiếu sức sống. “Cây lá thưa,
cành rời nên có mọc dày cũng không thấy chen chúc, vẫn thấy những khoảng trống.
Dầm chân trong sình lầy, mỗi cây là một đìu hiu, họp lại làm rừng cũng là một rừng
đìu hiu” [38, tr.15]. Không chỉ có bức tranh thiên nhiên lụi tàn mà xem chừng tình
đất, tình người ở đây cũng nhạt nhòa, mong manh. Mọi người đều trong tâm thế
“xách đít là đi ” để bảo toàn tính mạng khi cồn sắp bị nước biển xâm lấn “Cả xóm
như đang dợm bỏ đi. Đồ đạc gói ghém trong mấy cái thùng mì tôm, thùng bột ngọt”
[38, tr.16]. Trong không gian ấy, ta còn chứng kiến sự dửng dưng đến gai lạnh của
người ông nội dành cho cháu qua lời kể của cô giáo Mận (cô giáo lỡ thời) với nhóm
phượt của Ân, Xu, Bối. “Cô kể cho cậu nghe về đứa học trò hay đến trường với vài
ba lằn roi trên đít. Những trận đòn đổ xuống vì ông nội nó muốn chứng minh không
thương nó như con đẻ” [38, tr.21] chỉ vì những lời xỉa xói của xóm giềng. Chính sự
43
nghi kị và lời đàm tiếu của những người đàn bà xóm Cồn đã khiến người con dâu ông
chủ ghe phải dứt áo ra đi. “Con nhỏ bỏ xứ mất biệt rồi. Chưa kịp nói thằng con là của
chồng hay ông già chồng ” [38, tr.21]. Thiếu sự cảm thông và chia sẻ làm cho niềm
tin bị rạn nứt, tình thân đổ vỡ, tình làng nghĩa xóm vơi cạn. Tất cả những giá trị tinh
thần thiêng liêng ấy mất đi kéo theo những hệ lụy đáng tiếc.
Nguyễn Ngọc Tư không chỉ khéo léo nhắc đến những mảnh đời, những số
phận qua những không gian khác nhau của hành trình. Nhà văn còn tinh tế gợi ra một
không gian biến đổi linh hoạt, đó là không gian tâm tưởng được đan xen lẫn không
gian hiện tại góp phần khắc họa sâu sắc được thế giới nội tâm của nhân vật. Giữa lúc
Bối biến mất không lí do, Ân và Xu có chuyến đến Đồng Nàng “Đồng Nàng nằm ở
chỗ sông Di bị sông Lạc cắt xéo qua như hai nét tạo thành chữ X. Bên nước bạc, bên
nước đỏ. Người ta vẫn thấy hai màu sông ấy chảy mon men từ ngàn năm nay, như hai
người cùng đi mãi mà không lấy được nhau” [38, tr.99]. Ở Đồng Nàng giữa lúc Ân
như lạc lõng trong câu chuyện của Xu và Lượm “Xu hỏi Lượm vài câu rời rạc, nhắc
vài cái tên xa lạ và anh ta bối rối vì không thể không gạt cậu ra rìa” [38, tr.101], điều
này khiến Ân liên tưởng đến câu chuyện của hai mẹ con cậu khi có mặt của Tú, cậu
không thể làm cách nào để Tú khỏi rơi vào tâm trạng lạc lõng “Tú về nhà cậu chơi ba
lần, cũng không cách nào làm Tú khỏi cái cảm giác bị rớt ngoài cuộc chuyện trò của
hai mẹ con” [38, tr.101]. Vậy là hai không gian có sự đan xen lẫn nhau. Không gian
Đồng Nàng và không gian nhà Ân. Nguyễn Ngọc Tư chỉ gợi vài dòng miêu tả không
gian nhà Ân nhưng nhanh chóng cho chúng ta thấy được sự ngang trái trong cuộc tình
Ân - Tú. Mẹ Ân thì luôn thúc giục cậu lấy vợ, bà có ngờ đâu những lời nói vô tình
của mình lại như mũi dao đâm vào tim hai đứa đầy đau đớn“Chơi thân với Ân thì xúi
nó lấy vợ dùm dì. Lêu bêu hoài, rầu quá” [38, tr.102] hay lời cằn nhằn của mẹ Ân:
“Cái tụi này già đầu không hay, cứ quấn nhau miết thì biết chừng nào tao có chắt
bồng đây” [38, tr.102]. Sau khi rời Đồng Nàng được 13 ngày, đến Trung Sơn thì lúc
này không gian ở Đồng Nàng lại quay trở lại với Ân khi cậu nhận được tin báo “Cô
bạn gái Lượm đã bỏ đi. Cô bơi ra sông và không quay về xóm nữa” [38, tr.105]. Cô
gái ấy bỏ đi khi chưa được ăn ốc bụt Đồng Nàng, loại ốc được ghi trong Di lưu kí
“Người ăn ốc bụt Đồng Nàng ninh với tuyết tùng trên núi Puvan sẽ thọ thêm vài niên
kỉ ” [38, tr.100]. Cô gái ấy bỏ đi để đuổi theo ốc bụt hay cô bỏ đi bởi muốn rời xa cái
chốn quê nghèo gắn với cuộc sống mưu sinh đầy nhọc nhằn, để kiếm tìm một niềm
vui mới, niềm lạc thú của men say tình ái bởi “ở lại thì mãi mãi cô sẽ chẳng bao giờ
44
được yêu đến tận cùng thân xác” [38, tr.105]? Ý nghĩ ấy gợi cho Ân về một linh cảm.
Có lẽ giữa Lượm và cô gái kia vẫn chưa đủ gắn bó “Phải gắn bó đến độ nào thì mới
có thể linh cảm về nhau” [38, tr.105]. Mà Lượm thì không linh cảm được về sự ra đi
của người mình yêu, có lẽ họ chưa từng một lần hòa vào nhau nên điều bất ngờ đã ập
đến với Lượm. Ân cứ miên man suy nghĩ và cậu liên tưởng đến linh cảm của mình.
Ân không mảy may cảm nhận được những điều bất trắc gì khi hai người đàn bà cậu
quý trọng nhất gặp chuyện. “Tại sao lúc mẹ vật vã đau mà cậu vẫn tóm lấy cúc cu Tú
ngủngon lành ? Tại sao lúc chị San chuẩn bị cho giấc ngủ để đời cậu lại điềm nhiên
vác ba lô lang thang miền cát” [38, tr.105]. Phải chăng cậu cứ mải miết với Tú hay là
chính Tú mới có thể kích thích giác quan thứ sáu của Ân bởi giữa họ có sự gắn bó đủ
để linh cảm, ngoài Tú ra những người khác không ai gợi nó dậy được.
Theo hành trình di chuyển của các nhân vật ta thấy song song với dòng sông
Di còn có sự xuất hiện của rất nhiều các không gian khác. Các không gian ấy được
gọi tên địa danh rất cụ thể: Nào là chợ Ngã Chín, Bình Khê, Di Ổ, chợ Mù Sa, chợ
Khâu Vai. Bên cạnh đó, trong kí ức Ân còn chập chờn những kỉ niệm về Sài Gòn hoa
lệ, nơi ấy có quán Gió cuối góc phố Lý Thường Kiệt mà cậu vẫn thường ngồi. Sài
Gòn còn là nơi những người bạn của cậu vẫn ngày đêm vật lộn mưu sinh trong công
cuộc làm báo, đó còn là nơi bạn bè đồng nghiệp của cậu tổ chức tiệc tùngở nhà hàng
quen thuộc- nhà hàng Ánh Sao. Sài Gòn cứ thoắt ẩn hiện trong suy tưởng của Ân suốt
chuyến đi, nó rộng lớn và ẩn chứa biết bao cuộc đời con người khác nhau. Còn sông
Di là một không gian nghệ thuật chứa đầy những điều kì bí. Nó cuốn trôi Ân, Xu, Bối
với một chuỗi các sự kiện liên tiếp ngã vào lòng mình, để rồi ta thấy các nhân vật như
bị xô ngã vào dòng sông nhưng vẫn cố ngoái lại để tìm lại, nhìn lại mình họ thấy
mình và rồi lại bị chìm vào lòng sông. Trong sự đa diện, nhiều chiều, không gian
trong tác phẩm cứ thế xoay vòng và xoáy vào nhau để từ đó những ngóc ngách nội
tâm thẳm sâu bên trong nhân vật cũng được bóc tách rõ ràng và ấn tượng. Qua ngòi
bút đặc sắc cùng sự sáng tạo diệu kì của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã dựng lên một
không gian sông Di rộng lớn được lắp ghép từ chính những mảnh đời cô đơn, đau
khổ với nhiều day dứt khôn nguôi. Nơi đây chứa đựng biết bao mảnh đời bất hạnh,
nơi để những con người cô đơn, đau khổ hướng tới và tìm về, bởi thế trên dòng sông
ta thấy tãi ra từng mảng của bức tranh cuộc sống muôn màu. Với những nhân vật
trong Sông, thiên nhiên là nơi con người hướng đến để chạy trốn cuộc đời nhưng
thiên nhiên không đem lại hạnh phúc cho họ.
45
Sa mạc được đánh giá là cuốn tiểu thuyết có "những hình ảnh tuyệt vời về một
văn hoá bị mất trong sa mạc Bắc Phi so với mô tả của châu Âu thông qua con mắt
của những người nhập cư không mong muốn" [38]. Phần đầu của Sa mạc phát triển
nhiều hơn về khía cạnh huyền thoại của sa mạc và giới thiệu nó như là một hình
tượng ẩn dụ được thống trị bởi một khía cạnh rất đa dạng. Phần thứ hai của cuốn tiểu
thuyết nhằm thiết lập một cầu nối giữa lịch sử và hư cấu. Đầu tiên câu chuyện kể về
cuộc du hành du mục, người kể chuyện cho chúng ta khám phá cuộc sống của những
người du mục.Ýthức của họ di chuyển trong sa mạc, các yếu tố của không giansa mạc
được miêu tả khá chi tiết như:Sa mạc, gió,cát, sương, trăng, sao đá hoặc bãi biển…
“Họ xuất hiện như trong giấc mơ nơi chóp cồn cát, lẩn khuất chập chờn trong làn
sương…Gió thổi liên hồi, gió sa mạc nóng ban ngày, lạnh ban đêm” [21, tr.5]. Đó là
không gian không giới hạn có thể hình thành quan niệm về tự do và vĩnh hằng. “Khi
đêm về tại đây, trên mặt nước những cái giếng, thì đó lại là sự thống trị của bầu trời
sa mạc lốm đốm sao. Trên thung lũng Saguiet el Hamra, đêm dịu dàng hơn, và vầng
trăng non thường lên cao trong bầu trời tối thẫm” [21, tr.19]. Ngoài ra là hình ảnh
của nhân vật lịch sử "Ma el Ainin - huyền thoại về một tù trưởng vĩ đại, người dẫn
đường và che trở cho dân tộc của mình trong suốt hành trình tìm về miền đất hứa.
Trong cuộc hành trình qua sa mạc rộng lớn ta thấy đoàn người đi bộ trong thung lũng
màu đỏ (Saguiet el Hamra), trên đường đến các thành phố của miền Bắc. Tiếp đến là
không gian của thành phốTaroudant. Tại đây “Cái chết tới. nó bắt đầu bằng lũ cừu và
lũ dê, cả những con ngựa…tiếp theo là trẻ con và người già, họ mê sảng rồi không thể
gượng dậy được nữa” [21, tr.426]. Cái chết chiếm một không gian lớn. Đồng thời với
cái chết, có sự xuất hiện của gió Chergui, gió tàn phá mọi thứ. Nó cũng mang lại đau
khổ và cái chết. Nơi những người đàn ông sa mạc hướng tới với tất cả niềm hi vọng
được tìm đến miền đất hứa. Họ đã thực hiện chuyến hành hương đến từ rất nhiều nơi
(Timbuktu, Mauritania, Senegal và các thành phố khác). Họ luôn luôn cầu xin Sheikh,
lời nói dối của Ma al-Ainina. Nour tin rằng thành phố thánh của Smara, được coi là
Promised Land là một phần của một thế giới tưởng tượng, và rằng trong thực tế ông ta
không phải là một người mang đến hạnh phúc. Những người này đang hướng tới phía
bên kia của ngọn núi, theo hướng của Thành Thánh, tin vào nguồn vĩnh cửu nơi mọi
thứ sẽ được giải quyết.Không gian này rất biểu tượng cho Ma el Aïnine. Đó là nơi ông
ta đã làm rất nhiều cầu nguyện và nhiều lễ nghi khác, cùng với tất cả những người hành
hương. Nó dường như thế giới tượng trưng (Thành Thánh của Smara) đưa ra các giải
46
pháp cho tất cả những điều bất hạnh của họ. Nhưng rốt cuộc Ma el Aïnine chết ở
Tiznit, trong một căn nhà xung quanh có một số đàn ông từ các chiến binh xanh cuối
cùng của ông. Chuyến đi này kết thúc bằng cuộc đối đầu đẫm máu của các chiến binh
dưới sự chỉ huy của Moulay Sebaa chống lại bốn tiểu đoàn củaĐại tá Mangin. Nour đã
chứng kiến một không gian đầy sự hoang vu và buồn bã. “Nour đang bước đi trên
những hòn đá cuội, giữa những thân xác nằm sóng sượt. Lũ ruồi hám ăn cùng đám ong
vò vẽ đã bay vo ve thành lũ đen ngòm trên các thây ma, và Nour cảm thấy buồn nôn
trong cổ họng nghẹn ngào của mình” [21, tr.521]. Những người ở lại,chôn xác trên bờ
sông. Họ đốt lửa trên hai bờ để xua đuổi lũ chó rừng và chó hoang. Mối quan hệ giữa
Nour và Lalla với không gian của họ trở nên không chỉ là biểu tượng mà còn rất quan
trọng. Hai nhân vật chính trải qua tất cả các loại cảm giác và phản ứng thể chất. Cái
chết làm họ sợ hãi. Tất cả những cuộc phiêu lưu này làm cho tâm lý tiến triểnhai nhân
vật chính vẫn đang cố gắng để tìmbản sắc riêng của họ, hạnh phúc của riêng mình.
Câu chuyện thứ hai là về Lalla, một tầm nhìn mới về không gian được cung
cấp cho chúng ta, bắt đầu từ cuộc sống những nơi khác nhau ở Marseille cho đến khi
cô trở lại Sa mạc Marốc. Câu chuyện thứ hai này cũng được chia thành nhiều giai
đoạn. Phần đầu tiên trình bày cho chúng ta về cuộc sống của Lalla trong một thành
phố "thị trấn Shanty", một nơixa thành phố, tuy nhiên mở rộng trên sa mạc và biển.So
sánh không gian này với câu chuyện đầu tiên, chúng ta có thểđầu tiên khẳng định
rằng đây là một không gian mà trí tưởng tượng đóng vai trò tương tựthời gian đáng
kinh ngạc này đóng băng trong thời thơ ấu. Dì Aamma chia sẻ với cô những câu
chuyện về sự ra đời của anh ấy và chiến binh vĩ đại "Al Azraq", người đàn ông màu
xanh da trờiđại diện cho phần lớn nội dung của tầm nhìn và ước mơ của cô. Namanmột
ngư dân cũ, đại diện cho phía bên kia cả hai bởi những câu chuyện ông nóigiống như
vòng nguyền rủa, chỉ bởi thực tế là thăm các thành phố Địa Trung Hải.Hartani, một
người chăn cừu trẻ tuổi là chủ đề chung của sự trốn thoát của Lalla tới miền Địa Trung
Hải rất thèm muốn và được kể như vậy bởi các nhân vật khác. Điều này góp phần
khẳng định về tình yêu giữa Lalla và Hartani và quyết định gắn bó với nhau của họ.
Lalla đến Marseille và câu chuyện của cô đưa chúng ta đến cảnh quan đô thị; cácnhà
ga, người nghèo, đường phố, đau khổ của người nhập cư ở Pháp,sau đó theo quan điểm
của Lalla, cô giới thiệu chúng ta với môi trường xã hội nghèo. “Người dân đến từ mọi
nước trên thế giới, họ nói đủ thứ ngôn ngữ, có những người da rất đen, mắt him híp,
mặc áo dài trắng thậm thượt…có những người đến từ miền Bắc, tóc và mắt nhợt nhạt,
47
những người lính, những thủy thủ…” [21, tr.317]. Nhiều người như Lalla bị cô đơn và
khốn khổ, điều đó khiến cô phải hình dung ra bản án về sự tàn bạo của xã hội. “Liệu họ
có thể chết ở những đất nước mà họ không quen thuộc, xa cách với làng xóm họ, xa
cách với gia đình họ không ? Họ tới những đất nước xa lạ kia, nơi sẽ cướp đi cuộc đời
họ, sẽ nghiền nát họ, hủy hoại họ” [21, tr. 322]. Không gian thành phố này chính là
cuộc sống ở xã hội tiêu thụ, thiếu vắng tình người và không có sự quan tâm chia sẻ đến
nhau. Không gian ấy góp phần làm tha hóa thêm những con người nghèo khổ. Các khu
vực duy nhất của Marseilles mà cô thích là những khu vực khiến cô nhớ lại những
vùng trên sa mạc và cô liên tục cố lấy lại cảm giác không gian của sa mạc bằng cách
giấu mình trong nếp gấp của một chiếc áo khoác màu nâu tuyệt vời để cư dân thành
phố không chú ý đến cô, và do đó sẽ không nguy hại với cô ấy. Trên đỉnh cao của danh
vọng và tiền bạc nhưng Lalla đã quyết định rời bỏ tất cả để trở về với sa mạc thân yêu
của mình.Lallacó cảm giác hoài nhớ, và muốn trở về quê hương. Cô đã trở về, từ sông
tới biển Lalla hiểu rằng thời điểm sinh con cô ấy đến gần. Biển và bầu trời là nhân
chứng duy nhất tại thời điểm này rất quan trọng đối với cô. “Trên bầu trời, khoảnh
khắc của sắc đỏ giờ đây đang bắt đầu. Những vệt tối cuối cùng tan biến, và màu trắng
như sữa nhường chỗ cho ánh bình minh vừa tới đang tỏa rực ở phương Đông. Biển trở
nên mờ tối hơn gần như tim tím, trong lúc tia sáng màu tía lấp lánh nơi ngọn sóng còn
bọt nước thì chói lọi” [21, tr.502]. Sau khi sinh con, Lalla di chuyển theo bản năng đến
biển, không gian xung quanh là gốc cây sung. “Cô dùng hai bàn tay mình xới trong
cát, gần đám rễ cây sung, và cô chôn nhau thai. Rồi sau cùng cô nằm dài bên gốc
cây, đầu sát vào thân cây chắc khỏe…đứa bé bắt đầu bú” [21, tr.504]. Theo hình
bóng, cái bóng của cây vả phản ánh sự bảo vệ của mẹ.Hai câu chuyện kết hợp trong sa
mạc đã kết thúc bằng hình ảnhmàu xanh. Một mặt, Lalla, cô đơn, đang đợi ai đó giúp
cô dưới gốc cây sung. Mặt khác,Nour đi, chân đất, với những người đàn ông màu xanh
cuối cùng trên đường trở về miền Nam,đó là quãng đường quá dài mà dường như
không có kết thúc. Đây là cách Le Cléziođưa chúng ta trở lại, vào cuối tác phẩm của
mình, vào không gian khởi đầu được gợi ra bởichínhsa mạc, nguồn gốc của cuốn tiểu
thuyết của ông. Sa mạc chính là một thế giới tượng trưng vì chúng được đưa vàocác
tình huống mang lại ý nghĩa cho các yếu tố khác nhau tạo nênvũ trụ: Sa mạc, thành
phố, nhà, bầu trời và biển. Các nhân vật có liên quan chặt chẽ đến không gian ưa
thích,các nhân vật chính không thể yên tĩnh bên ngoài, mặc dù những nhân vật
kháckhông gian có thể làm cho họ hạnh phúc được thuận lợi hơn.
48
Không gian trong Sông và Sa mạc đều đồng nhất với tâm trạng con người. Qua
không gian ấy, nhân vật nói lên được nỗi niềm và tâm tư của mình. Nỗi cô đơn là cái
chính được thể hiện qua cái không gian ấy. Nếu như không gian trong Sông tượng
trưng cho kiểu không gian trong văn hóa phương Đông thì không gian trong Sa mạc là
không gian tiêu biểu cho văn hóa phương Tây. Điểm chung về không gian nghệ thuật ở
cả hai tác phẩm mà các nhà văn thể hiện là cho dù vô cùng khắc nghiệt con người luôn
muốn tìm đến với thiên nhiên để gửi gắm nỗi cô đơn.
2.2.2. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, nó thể hiện
phương thức tồn tại và phát triển của thế giới nghệ thuật. Theo từ điển thuật ngữ
văn học “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó” [16, tr.135]. Khác với thời gian khách quan, thường
được đo bằng đồng hồ và lịch. Thời gian nghệ thuật có thể được đảo ngược, từ hiện
tại quay ngược về quá khứ, thậm chí có thể bay vượt tương lai xa xôi. Thời gian cả
đời người có thể được dồn nén trong chốc lát, thậm chí một khoảnh khắc ngắn ngủi
của đời người lại có thể kéo dài ra vô tận. Người ta có thể đo thời gian nghệ thuật
bằng nhiều dụng cụ khác nhau. Nhìn chung, thời gian nghệ thuật gắn liền với các tổ
chức bên trong của hình tượng nghệ thuật. Khi nào nhà văn dừng lại ở việc khắc
họa, miêu tả chi tiết thì thời gian trôi chận, ngược lại nếu nhà văn đuổi theo diễn
biến sự kiện thì thời gian trôi nhanh.
Đến với Sông, ta nhận thấy thời gian nghệ thuật ở đây được đan xen qua lại, đó
không phải là thời gian tuyến tính mà có sự đan cài giữa hiện tại và quá khứ. Thậm
chí ta thấy thời gian ở tác phẩm này không đi theo một trình tự nào mà nó trôi theo
diễn biến của các sự kiện. Ở chương 8, Giữa lúc Xu và Ân đang dừng lại ở chợ Lệ
Kiều với chiếc xe hỏng thì tác giả tái hiện lại nguồn gốc của Xu, cái khoảng thời gian
mà người ta nhặt được cậu. “Trong đống thùng xốp đựng trái cây trên chiếc xe tải lạc
tay lái đâm vào dải phân cách dưới dốc cầu Thị Kiệu” [38, tr.90]. Một anh cảnh sát
giao thông trong lúc làm nhiệm vụ đã phát hiện ra. Không chỉ có mình Xu, hôm đó có
tất cả bảy đứa bé “bảy sinh vật tái nhợt, rúm ró. Cả bọn chúng đều lạnh cóng, thân
nhiệt thấp” [38, tr.90]. Cậu bé Xu khi ấy “Tính luôn cái khăn bông màu cháo lòng và
nón len trùm đầu,…nặng bảy kí tám. Có thể đã sáu tháng tuổi rồi” [38, tr.90]. Đang
hồi ức về tuổi thơ Xu với quãng ngày khốn khó chăm mẹ nuôi và mẹ nuôi qua đời,
dòng thời gian lại quay trở lại hiện tại với vẻ hoang dã và những vết sẹo là chứng tích
49
của tuổi thơ dữ dội của Xu cùng những lí giải tại sao Xu không bao giờ khóc. Ta thấy
mốc thời gian hiện lên với sự sắp xếp lộn xộn đầy chủ đích của nhà văn. Hay như ở
chương 7, nhà văn tái hiện lại quãng thời gian khi Xu và Ân cùng nhóm quý bà đến
chỗ cây Bi-ia “Và xế trưa nay bọn cậu lại nhảy xuống giữa chừng, đi theo nhóm Quý
bà đến một nơi có cây Bi-ia chín ngọn” [38, tr.83]. Theo diễn biến của mạch truyện,
nhà văn đưa ta trở lại quãng thời gian 7 năm trước đó với câu chuyện của bà giàcháy
dở bán khói “Bảy năm trước, bà già (khi ấy chưa cháy) còn rong ruổi trong thành
phố bán khoai, bắp nướng” [38, tr.86]. Bà lão vất vả mưu sinh trong thành phố bằng
nghề bán bắp bán khoai mà chẳng kiếm được bao nhiêu tiền. Bà tinh nhạy khi nhận ra
một bộ phận những ông bà có địa vị, giàu có nơi thị thành “Họ sà xuống gánh của bà
chỉ để hít thở mùi vị đồng bãi cũ” [38, tr.86]. Họ thích tìm về cội nguồn với kỉ niệm
xưa cũ, với kí ức tuổi thơ là những hương vị dân dã đời thường nơi đồng quê. Sống
sót sau vụ bị nướng, bà về đây bán khói. “Khách của bà nườm nượp. Hàng hóa chất
ngút tận trần nhà. Chúng có thể là rơm rạ, là gỗ mục, là lá mục…hay bất cứ thứ gì có
thể đốt lấy khói ”. Khách hàng sau khi đã được thỏa mãn với khứu giác đầy vị khói
họ sẵn sàng “trả tiền mà không cần đếm” [38, tr.86]. Từ mốc thời gian 7 năm về
trước ấy, nhà văn đưa đẩy câu chuyện tới một sự kiện khác nhờ chi tiết liên quan đến
cái đòn gánh đã để lại dấu tích trên mảnh sương sọ hóp của bà già: “Ừ, ta bị đánh
bằng đòn gánh. Bà già trật cái nón vải ra khoe một mảnh sương sọ hóp sâu trước
trán, nếu nằm ngửa có thể đựng được một chung rượu” [38, tr.87]. Từ sự tàn ác mà
con người dành cho nhau đó, Ân lại liên tưởng đến cái đòn gánh mà bà ngoại dành
cho mẹ cậu khi hay tin con gái mang bầu “Bà ngoại cậu đã dùng đòn gánh mà bà vẫn
thường dùng để gánh nước thuê đánh mẹ cậu, khi biết mẹ mang thai với thằng nhỏ
sinh viên thực tập quê xứ xa mù. Bà nói phải đánh cho trụy thai mới thôi” [38, tr.87].
Cứ như vậy, thời gian trong tác phẩm được xô đẩy theo các sự kiện liên tiếp xảy ra.
Mẹ cậu đã vượt qua được cơn bĩ cực ấy là nhờ ông ngoại “Và ông ngoại nửa đêm dúi
tiền cho con gái bỏ trốn” [38, tr.87]. Để rồi thời gian sau này khi cậu ra đời và lớn
hơn mẹ cậu lại ngồi ôn lại với cha của cậu bằng những lời ơn nghĩa: “Thằng nhóc này
còn sống là ơn phước. Quà của trời đó” [38, tr.87]. Lần đầu tiên cha con gặp nhau thì
cậu đã biết chửi thề: “Ụ móa mày. Thằng nhỏ đổ quạu khi có người đàn ông lạ giẫm
lên váy búp bê cậu giặt phơi ngoài sân, và khó chịu hơn khi mẹ mếu máo nói trời đất
ơi Ân ơi cha con đó, kêu cha đi” [38, tr.87]. Đề cập đến thời gian nghệ thuật trong
văn học hiện đại, Trần Đình Sử đã có những nhận xét rất xác đáng: “Văn học thế kỷ
50
XX đã phong phú lên với nhiều hình thức thời gian nghệ thuật mới gắn liền với tư duy
liên tưởng chiều sâu văn hoá và ý thức về quá trình lịch sử sôi động của thế kỷ chúng
ta trên lĩnh vực cách mạng xã hội và khoa học kỹ thuật. Chẳng hạn sự xáo trộn các
bìnhdiện thời gian, tăng cường vai trò của thời gian hồi tưởng và thời gian tâm lý, sự
mở rộng khái niệm thời gian lịch sử” [38, tr.8] Quay trở lại Sông ta thấy các khoảng
thời gian đan cài vào nhau không theo trật tự nào, tất cả nhằm mục đích là làm nổi bật
các sự kiện và chi tiết. Thời gian như rượt đuổi theo các sự kiện, chi tiết ấy. Sự sắp xếp
hữu ý của tác giả khiến cho những câu chuyện tưởng không dính líu gì đến nhau lại gắn
bó bền chặt trong việc tập trung khắc họa tư tưởng, chủ đề mà người viết muốn gửi
gắm. Nghiên cứu nhiều tác phẩm văn học thuộc thời kì hậu hiện đại, chúng ta thấy rằng
giữa sự kiện và thời gian thì yếu tố thời gian hầu như không giữ vai trò chủ chốt. Thời
gian bị làm mờ đi để cho sự kiện nổi bật. Người ta chú ý nhiều hơn đến sự kiện và thời
gian chỉ là thứ phông nền làm sự kiện hiện hữu rõ hơn mà thôi.
Đến Trấn Biên khi đó là nửa đầu tháng Chín, trong đầu Ân loáng qua ý nghĩ
“Tú đã cưới được bốn mươi tám ngày” [38, tr.143]. Mẹ Ân gọi điện hỏi thăm và kể
những câu chuyện lan man về những người tình của mẹ, điều này khiến Ân nhớ đến
lần đến nhà cha cậu và gặp bà chằn (người vợ lớn của cha), người mà mẹ cậu cứ hăm
hở so đo nhan sắc. Cậu nhớ hôm ấy khi chưa ra khỏi nhà cha, mẹ cậu đã nóng lòng
nhắn tin hỏi “Bà vợ của cha con có đẹp hơn mẹ không ?” [38, tr.143]. Cậu đã phì cười
và nhận thấy “Thiên tính đàn bà đẫm rượi vậy hèn gì có đông ông mê” [38, tr.143].
Cậu nhớ về mẹ mình, người hay “chạy đi chạy lại giữa năm bảy người đàn ông. Bà
tỉnh, họ tỉnh, làm nên những mỗi tình tỉnh khô, dù bà luôn khoe“lại một thằng nữa té
vô lòng mẹ chết”. Nhờ mẹ có nhan sắc và duyên dáng, nhà may của mẹ không mấy
khi vắng khách đàn ông. Để khi ruột vỡ, mẹ đến viện một mình. Cậu từ Sài Gòn về đã
quá nửa đêm, phòng trực cấp cứu cho cậu xem bản cam kết mà mẹ cậu phải nhờ cậy
vào sự quen biết với bác sĩ trực để tự ký. Một chữ ký tái tê” [38, tr.144]. Không nhấn
mạnh đến yếu tố thời gian mẹ cậu nhập viện, nhà văn khắc họa rõ nét hình ảnh người
mẹ trong tâm tưởng của Ân.
Kể cả hình ảnh người bà trong Ân cũng hiện lên đầy xa lạ, ghẻ lạnh và nhẫn
tâm. Nhà văn không đơn thuần nhắc đến thời gian bà giã từ cuộc đời mà để cho bà
ngoại của Ân hiện lên theo guồng quay của thời gian hoài niệm với nhiều sự
kiện.“Bốn năm trước, khi bà ngoại cậu đi cấp cứu, mẹ cũng nói câu đó, nhưng hớt
hải, nghẹn ngào, chắc là không qua khỏi. Cậu dạ một cách chán ngán, mình có về thì
51
cũng không thay đổi được gì” [38, tr.150]. Cậu về đến nhà giữa lúc mọi người chuẩn
bị khâm liệm bà. Ân ngồi sờ nắn bàn tay bà giữa lúc mẹ cậu ngồi xếp hành lí mang
theo cho bà sang thế giới bên kia. Cậu nhớ “Bàn tay này từng cầm đòn gánh đánh
đứa con gái cốt để giết giọt máu trong bụng nó” [38, tr.150]. “Bàn tay này từng xô
cậu ra khi mẹ dẫn cậu về lần đầu bảo Ân cứ ào vô ôm bà ngoại, bà sẽ thương. Mẹ
lầm. Cú xô đó làm đầu cậu va vào góc ván, phù bánh cam. Mẹ đắp muối cho cậu, nói
bà ngoại lỡ tay. Nhưng cậu không bao giờ đến gần bà nữa” [38, tr.150]. Ấn tượng
trong Ân về một người bà không mấy tốt đẹp nếu không muốn nói là ác nghiệt vì
thế người đàn bà hôm ấy giờ nằm trước mặt cậu “Vẫn lạnh lèo như cậu từng biết”
[38, tr.151]. Ân đã cố moi móc cho ra những hình ảnh ấm áp về bà nhưng vô vọng.
Hình ảnh của bà cứ nhập nhòa, lẫn lộn trong kí ức cậu nhưng ấn tượng sâu đậm nhất
về bà là “Cái miệng móm mém của bà chưa từng nhếch lên biểu thị một nụ cười, mắt
chưa từng hiện lên gì khác ngoài nỗi thờ ơ” [38, tr.151]. Thật đáng buồn, nhận thức
của Ân không chỉ đến từ cái chết của bà, mà nó được gom góp từ nhiệu chi tiết khác.
Tiếp theo hành trình dọc sông Di, ta còn thấy các khoảng thời gian dài ngắn
đan cài nhau nhằm khắc họa các sự kiện mà nhân vật đã, đang hoặc sẽ trải qua. Ở
chương 14, sau cuộc chia tay với ông già, buổi sáng hôm sau, chỉ một thời gian ngắn
là buổi sáng ấy đã có biết bao sự kiện nối tiếp xảy ra, vượt qua cả giới hạn không
gian: “Sài Gòn. Sáng nay ở đó Tú dậy, đánh răng rồi chở vợ ra đường” [38, tr.172].
Ân mường tượng gia cảnh gia đình êm ấm của bạn tình mà không khỏi xót xa. “Sáng
nay ở đó Hậu, Bách, Cường tiểu thơ vẫn còn nằm ngầy ngật trong hơi men vì nhậu
nhẹt khuya. Sáng nay mẹ cậu mặc quần lửng, giày thể thao, đá cầu ở công viên…
Sáng nay cậu cùng một người không thể gọi là lạ, cũng không thể nói đã quá biết
nhau, đi xuyên qua những cánh rừng tinh linh đi tìm những khe suối nằm đâu đó giữa
những vách đá” [38, tr.173]. Ân cứ vật vã với những kỉ niệm mặc dù đã cố gắng lặn
lội để quên đi thực tại nhưng cuối cùng vẫn phải thú nhận “Từ mùng hai tháng bảy tới
giờ…mơ thấy Tú mười bảy lần, đi một ngàn hai trăm cây vừa đường bộ vừa đường
sông” [38, tr.173]. Nhiều sự kiện xảy ra cùng thời điểm trong ngày, chỉ có không gian
là khác biệt, điều này đã xoáy sâu vào sự xa cách giữa hai con người vốn vô cùng
thân thiết, giờ đây mỗi người một nơi nhưng trái tim của Ân không ngừng thổn thức.
Ân đã đọa đày bản thân để trốn chạy tình yêu, trốn chạy quá khứ vậy mà mọi thứ cứ
đeo bám cậu không buông tha. Ân tự cho phép mình hồi tưởng nhưng lại không cho
phép bản thân quay đầu, hoặc kết nối bằng cách gọi điện hay nhắn tin.
52
Ở chương 21, gần cuối tác phẩm, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo ra một thời gian
tâm lí, khoảng thời gian này xuất hiện có vẻ mơ hồ nhất trong tác phẩm. Thời điểm
đó là khi Ân, Xu và Phụng ra khơi Túi trên chiếc quách có lỗ dò. Trong khi “Phụng
nhắm nghiền mắt nằm dài trên thuyền, vạt áo gió thổi tung lộ ra khoảng bụng trắng”
[38, tr.224], Xu thì mải mê nhìn Phụng nên họ không thấy được những tín hiệu dự
báo không lành từ những người đi thuyền từ khơi Túi trở về “Vài người buông chài
khỏa tay quyết liệt, chắc muốn ngăn bọn cậu lại, chỉ trỏ một đám mây ở trên trời. Họ
ngửi thấy mùi giông gió lớn” [38, tr.224]. Ân là người cảm nhận và biết rõ nhất cái
chết đang cận kề vì thế đối với cậu lúc này, thời gian như tiếng sét định mệnh, có thể
nhấn chìm chiếc thuyền nhanh chóng nên Ân đã cố gắng dùng những giây phútcuối
ấy để hỏi Xu về sự mất tích của Bối, giải tỏa những nghi ngờ trong suy nghĩ của
mình. Cậu biết “không còn đủ thời gian để hỏi lí do nào” [38, tr.225]. Cậu còn một
việc quan trọng cần làm là gọi về cho mẹ để nghe tiếng mẹ lần cuối, “định bụng sẽ
nói con đang bình thường nhưng là bình thường theo cách của con” [38, tr.225].
Nhưng tiếc thay, trong giây phút ngắn ngủi cuối cùng ấy bà lại không nhận được điện
của cậu.“Điện thoại di động tắt. Máy bàn báo bận, chắc mẹ cố tình gác hỏng. Mỗi khi
tuyệt tình với một người yêu, mẹ sẽ làm cách này, để khỏi bị xiêu lòng với những lời
năn nỉ, ỉ ôi” [38, tr.226]. Ân tin là mình hành động đúng bởi vắng cậu, mẹ cậu vẫn sẽ
sống tốt với những người đàn ông của mình, hơn nữa sự ra đi của Ân chắc sẽ gây ra
cảm giác nhớ nhung khôn nguôi cho Tú. Thời gian lúc này như khiến ta nghẹt thở bởi
tất cả những gì diễn ra ta đều nhìn thấy mà không có cách nào làm cho chiếc thuyền
không chìm. Kết thúc tác phẩm chúng ta cảm nhận rất rõ chiếc thuyền như đang chìm
dần trong từng suy nghĩ miên man trong ảo ảnh, đang dập dờn trong tâm trí Ân “Cậu
lơ mơ dõi theo một bọng nước đang di chuyển lừ lừ theo phía tây, nghĩ nếu có thể bơi
vào, cậu sẽ viết cái kết khác cho “Cuộc đi yên tĩnh”[12, tr. 226]. Mỗi người một
gương mặt, một số phận nhưng họ cùng có khao khát được sống tự nhiên như một
con sông, được chảy tự nhiên như thế. Những tâm hồn thương tổn đã đi dọc sông Di
gặp và chứng kiến những mảnh đời khác, thăng trầm như sông, mong manh như
sông. Những con người lần lượt biến mất để lại nỗi ám ảnh theo dọc sông Di... Nhờ
khéo léo sắp xếp thời gian với nhiều dụng ý, Nguyễn Ngọc Tư đã truyền tải đến độc
giả những nội dung cốt lõi, đã hướng người đọc đến một hướng tiếp cận mới mang
âm hưởng của văn học hậu hiện đại. Điều đó đã tạo nên một bức tranh đa sắc về thế
giới nghệ thuật trong Sông.
53
Đọc Sa mạc, nghiên cứu khía cạnh thời gian của tiểu thuyết này ta thấy khá đặc
biệt, theo kiểu cấu trúc tiểu thuyết nhị phân. Đó là câu chuyện về những người đàn ông
xanh và câu chuyện về Lalla, một người nhập cư 17 tuổi, được chia thành hai phần
chính. Người thứ nhất được kể trong quá khứ, người thứ hai trong hiện tại. Tác phẩm có
sự đa dạng về thời gian, đó là thời điểm của câu chuyện và thời điểm kể chuyện. Mở đầu
tác phẩm là mùa đông 1909 - 1910 tại Saguiet el Hamra, Le Clezio miêu tả cuộc sống
của những người du mục trên sa mạc và quan tâm đến sự lôi cuốn của nhân vật Ma el
Ainine, lịch sử của Sahara vào đầu thế kỷ XX. Cuộc sống thần bí và tinh thần của ông
tiêu biểu cho nhà lãnh đạo của các chiến binh du mục chiến đấu chống lại quân đội Pháp.
Họ đã cùng nhau vượt qua sa mạc, băng qua phía Bắc “Khi ánh sáng ban ngày xuất hiện,
ở phương Đông, trên những ngọn đồi đá, đàn ông và đàn bà bắt đầu đi về phía những
căn lều…hướng về miền Bắc ”[21, tr.91]. Đoàn lữ hành đi dọc theo đáy thung lũng đỏ
(Saguiet el Hamra) tiến về phía các thành phố của miền Bắc. Theo sự vận động của thời
gian họ đi và dừng ở những nơi khác nhau trên sa mạc: Trên rìa Draa, ở Ain Rhatra, tại
khu rừng cây cọ của Taidalt, nơi bắt đầu danh từ sông theo đường đua Goulimine, đến
thung lũng từ sông Souss tuyệt vời cho đến khi họ đến Taroudant. “Nour không cònnhớ
chuyến đi bắt đầu cách đây bao nhiêu ngày. Có thể chỉ là một ngày duy nhất và bất tận
đã trôi qua như vậy, trong khi mặt trời mọc và lặn trên bầu trời nóng rực và đám bụi
cuộn xoáy và dồn dập như một đợt sóng” [21, tr.267].
Thời gian ở đây nhiều khi là yếu tố được tác giả nhắc tới để khắc họa tâm
trạng của đoàn người: Mệt mỏi, chán nản và đau đớn. “Nhưng điều đau đớn nhất
nơi họ, điểu làm nảy sinh sự lo âu và mối thương cảm, đó chính là sự im lặng của
họ. Không ai trong số họ nói năng hay hát hò”[21, tr.269]. Có lẽ đó là sự im lặng đã
đến từ sa mạc, từ biển cồn cát, từ những ngọn núi đầy đá trong ánh trăng, hoặc từ
vùng đồng bằng tuyệt vời của cát hồng, nơi ánh sáng mặt trời lóe lên và biến dạng
như một bức màn mưa; sự im lặng của những hố nước xanh, nhìn lên bầu trời như
đôi mắt, sự im lặng của bầu trời không có mây, không có chim, nơi gió chạy tự
do.“Ngày cứ nối tiếp nhau trôi qua như vậy, nóng cháy và khủng khiếp, trong khi
đoàn người và đoàn thú đi ngược trên thung lũng hướng về miền Bắc” [21, tr.276].
Kể từ khi đoàn người đến trước thành phố Taroudant cho đến khi Ma el Aïnine yêu
cầu cho chuyến khởi hành tiếp theo, luôn luôn hướng tới Bắc. Đến sông Tadla, ngày
18 tháng 6 năm 1910. Đọc phần này ta thấy thông tin lịch sử tình cờ tràn qua các
trangMa el Aïnine đãbị phản bội và bỏ rơi bởi những người mà ông ta muốn bảo vệ
54
khi quân đội Pháp vượt qua các thành phố thiết yếu của miền Nam.“Lão già đã bị
phản bội bởi chính những người mà lão muốn bảo vệ. Chính những người ở Souss, ở
Taroudant, ở Agadir đã đưa tin:“Tù trưởng vĩ đại, người được mệnh danh làMa el
Aïnine, Nước mắt đang trên đường tới miền Bắc với các chiến binh sa mạc của
lão…họ đông đến đỗi phủ kín cả một vùng đồng bằng. Họ đi về miền Bắc, về thánh
địa Fez để lật đổ nhà vua và đưa Moulay Hiba lên thay, tức là người được mệnh
danh là Sebaa, Sư tử, tức trưởng nam của Ma el Aïnine” [21, tr.454]. Trước tin đồn
đó bộ tham mưu và các sĩ quan không tin và bật cười nhưng họ vẫn cho quân đội
của mình ra tay.“Ngày 21/6/1910, đội quân bản xứ da đen lên đường cùng ba viên
sĩ quan Pháp và người quan sát thường dân đi đầu. Nó rẽ vào miền Nam để gặp đội
quân khác xuất phát từ Zettat. Hai gọng kềm siết lại để kẹp chặt lão tù trưởng và
đám tàn quân của lão.” [21, tr.455]. Hậu quả là thân thể những người đàn ông xanh
nằm rải rác khắp nơi trên mặt đất, đoàn người tháo chạy hỗn loạn. Họ không vũ khí,
ăn mặc rách rưới, bước đi cà nhắc, ốm yếu sau hành trình mỏi mệt đi tìm miền đất
hứa. Một nỗi tuyệt vọng xâm chiếm trong những người du mục. Cónhững người sau
khi mệt mỏi và đi bộ vô ích, đã phân tán đến các thị trấn gần nhất, cónhững người
như Nour ở lại với Sheikh, và cuối cùng là những người đã rút lui khỏi sa mạc. Tại
Tiznit, ngày 23 tháng 10 năm 1910, nơi thành phố hòa lẫn với đất đỏ và Sa mạc, nơi
gió mặc tình thổi tới, tung bụi mù mịt. Nơi cách xa những cái giếng và bóng cây của
Sa mạc, tù trưởng đã hấp hối. Cái chết của Ma el Aïnine trong một ngôi nhà đổ
nátbao quanh bởi một số người đàn ông từ các chiến binh màu xanh cuối cùng của
ông. “Những người khác đã quay về miền Nam, về với con đường mòn bởi họ biết
không có gì để hi vọng nữa, và những vùng đất hứa sẽ không đời nào được dành
cho họ. Nhưng với họ, điều họ mong muốn không phải là đất. họ kính yêu lão tù
trưởng vĩ đại, họ sùng bái lão ngang với một vị thánh” [21, tr.476].
Tác phẩm kết thúc ở cuộc chiến cuối cùng tại Agadir, ngày 30 tháng 3 năm
1912.Tất cả những con người tự do của sa mạc họ tập trung nơi lòng sông, đông đến
nỗi phủ kín cả thung lũng. “Phần đông họ không biết tại sao mình đến đây, trên
lòng sông Souss. Có lẽ chỉ là cái đói, nỗi mệt nhọc, sự tuyệt vọng đã dẫn dắt họ
tới đây…Từ nhiều tháng, nhiều năm nay họ lang thang tìm một miền đất hứa…Bọn
lính cơ đốc đã dần dần khép chặt vòng vây quanh những con người tự do của sa
mạc” [21, tr.507-508]. Các chiến binh (Họ gồm đàn bà và trẻ em, đàn ông bị
thương, người già…) dưới sự chỉ huy của Moulay Sebaa chống lại bốn tiểu đoàn
55
của đại tá Mangin. Nour và những người sống xót còn lại đã nhận ra việc mình cần
làm. Họ đã đào những nấm mồ chôn xác cho các chiến binh và cùng nhau trở về
trên con đường mòn về miền nam, con đường dài vô tận.Đây chính là hình ảnh xác
thực của Lịch sử kéo dài từ năm 1909cho đến năm 1912 dưới chế độ bảo hộ của
Pháp ở Ma-rốc. Những sự kiện lịch sử này được báo cáotham khảo cuốn tiểu
thuyết. Nhưng Le Clezio đã thể hiện nó dưới cái nhìn của Nourvà thể hiện suy
nghĩ của mình về thế giới sa mạc và cuộc sống du mục. Biệt tài của J.M.G Le
Clézio là xóa nhòa các ranh giới giữa hiện thực và huyền ảo; dẫn dắt người đọc
vào sa mạc hoang vu như đi vào trong một giấc mơ. Sau khi dẫn độc giả vào thế
giới tưởng tượng, ông liền tẩy đi các yếu tố hiện thực khiến độc giả không thể liên
tưởng đến một thế giới đời thường; để rồi, khi kết thúc dòng cuối về đoàn người
du mục: “Họ ra đi như trong một giấc mơ, họ biến mất” [21, tr. 523] thì cũng là
lúc người đọc chợt tỉnh dậy thoát ra những ám ảnh về số phận của con người gắn
với một nền văn minh bị lãng quên. Yếu tố thời gian nghệ thuật khiến nhiều người
ngợi ca Sa mạc. Có thể xem Sa mạc như là bước ngoặt trong bước đường tiểu
thuyết của J.M.G Le Clézio.
Câu chuyện thứ hai chủ yếu là về cô gái Lalla hậu duệ của Sheikh Ma el
Aïnine. Câu chuyện này lấy bối cảnh là chiến tranh thế giới thứ hai (1939 -1945).
Tuổi thơ Lalla sống cùng với dì và chú của cô trong một căn lều, có thể dập tắt sự đối
đầu với hiện đại. Cô dành phần lớn thời gian của mình lên những cồn cát, giao lưu
với những con chim biển trong một cảnh quan khắc nghiệt, ảm đạm. Ngoài ra còn có
bóng dángcủa Blue Man. El Ser (“bí mật”), như cô gọi anh ta, là viết tắt của những gì
đã mất - anh ta là một ký ức văn hóa đang nhấp nháy trong tâm trí của Lalla, như
trong câu chuyện khác, cái nhìn của Sheikh trong Nour. Lalla cảm thấy hạnh phúc khi
làm bạn với một cậu bé hoang dã được gọi là Hartani - người đã bị bỏ rơi ở một cái
giếng gần đó bởi một trong những người đàn ông da đen và bây giờ làm việc như một
người chăn cừu. Tình yêu giữa Lalla và Hartani là một sự lãng mạn nhất trong cuốn
tiểu thuyết đầy cảm hứng này. Sự đồng cảm của cô đối với Hartani một phần liên
quan đến cả hai đều không có cha mẹ. Bị đe dọa bởi một cuộc hôn nhân đã sắp xếp.
“Lalla quyết định lên đường, cô không hé môi với ai điều gì. Cô đã quyết định lên
đường bởi người đàn ông mặc com lê màu xám lục đã nhiều lần trở lại trong căn nhà
của Aamma, và lần nào hắn cũng nhìn Lalla với đôi mắt sáng rực và khắc nghiệt…
Lalla không sợ hắn, nhưng cô biết nếu mình không bỏ đi, một ngày nào đó hắn sẽ
56
dung bạo lực đưa cô về nhà hắn để cưới…” [21, tr.250]. Lalla bỏ trốn vào sa mạc với
Hartani “Cô nói với chú về người đàn ông mặc com lê xám lục”… và khẳng định với
Hartani: “ Giờ đây chính anh là người mà em chọn làm chồng, không ai có thể chiếm
đoạt được em hay dùng sức mạnh để lôi em tới tòa để cưới em” [21, tr.261]. Và rồi họ
đã có sự hòa quyện vào nhau.
Sau một thời gian nằm viện, Lalla đi đến Marseilles để tìm việc.Hầu như
không có tiền, chịu đựng những khó khăn của đời sống nhập cư, cô lưu vong đến
Pháp. Và ở Paris hoa lệ, cô trở thành người mẫu ảnh - một giấc mơ của những người
trẻ tuổi ở chốn văn minh. Vậy mà, cô từ bỏ tất cả để trở về với sa mạc đầy những câu
chuyện huyền thoại với chàng mục đồng Hartari. Le Clézio đã chỉ cho chúng ta thấy
Marseilles từ quan điểm của người nhập cư nghèo, ông khẳng địnhrằng sa mạc sẽ trở
nên gần gũi và hòa hợp hơn thành phố, mặc dù phải nói rằng Le Clézio cũng không
thu nhỏ lại để cho chúng ta nhìn thấy những thực tế khắc nghiệt của sa mạc. Trong
một đoạn ngắn sau khi Lalla thoát khỏi Marseilles và Ma el Aïnine nhìn thấy những
hy vọng của mình, Le Clézio cho chúng ta biết rằng mặc dù Ma-rốc không bao giờ có
cơ hội để thoát khỏi hiện thực của chủ nghĩa thực dân, có những phần của nó mà
không bao giờ có thể được thay đổi, nếu chỉ vì tính tất yếu của nền văn minh phương
Tây không có ý nghĩa gì với cuộc sống của họ. Điều này được cảm thấy trong sự cứu
trợ tuyệt vời của Lalla khi trở lại trên sa mạc, cũng như trong ý thức tập thể của
những người đàn ông rút lui của Ma el Aénine. Họ không có gì ngoài những gì mắt
họ nhìn thấy, bàn chân trần của họ chạm vào.Trước mặt họ, trái đất phẳng trải dài ra
như biển, lấp lánh với muối... Không có chấm dứt tự do, nó rộng lớn như thế giới
rộng, xinh đẹp và độc ác như ánh sáng, nhẹ nhàng như đôi mắt của nước. Mỗi ngày,
vào ánh sáng đầu tiên của buổi bình minh, những người tự do đã trở lại về nhà mình,
phía nam, về phía nơi mà không ai khác có thể sống được. Le Clézio luôn tìm kiếm
dấu vết cổ xưa đã bị thời gian và con người hiện đại chôn lấp. Sa mạc và những cuốn
tiểu thuyết du hành khác của J.M.G Le Clézio bày tỏ thông điệp rõ ràng và rất đơn
giản: một nền văn hóa dù có trình độ văn minh thấp kém nhưng xét về giá trị đều bình
đẳng với các nền văn hóa khác. Do vậy, nó có quyền tồn tại.
Yếu tố thời gian trong một tác phẩm văn học đóng vai trò quan trọng. Qua thời
gian, nhân vật có thể tự ý thức, cảm nhận được cuộc sống, con người xung quanh
mình. Thời gian trong Sông là thời gian có sự đan cài dài ngắn để khắc họa những chi
tiết, sự kiện. Những gì diễn ra trong hiện tại luôn đẩy lùi tâm thức của nhân vật về
57
quá khứ, quá khứ buộc nhân vật soi lại chính mình để nhận ra cái nhân vật đã từng
có, một lần qua đi là không thể trở lại. Đọc Sông, người đọc luôn phải phân tách các
sự kiện để thấy được mạch cảm xúc liên tục theo dòng chảy thời gian.
Sa mạc là tiểu thuyết đan xen nhiều câu chuyện kể và có rất nhiều người kể
chuyện vì vậy thời gian trong tác phẩm cũng rất đa dạng, phong phú và nó chịu ảnh
hưởng từ điểm nhìn của người trần thuật. Đôi khi ta thấy thời gian chỉ là những mốc
để đánh dấu sự kiện trong đời nhưng đôi khi thời gian được cảm nhận trong nhân vật
là sự dừng trôi. Sự khác nhau về mặt thời gian nghệ thuật trong hai tác phẩm trên
phần nhiều do sự quy định bởi người kể chuyện, bởi cách kể, điểm nhìn.
Nếu Sông được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng hai loại điểm nhìn. Điểm nhìn bên
ngoài và điểm nhìn bên trong nhân vật. Điểm nhìn bên ngoài giúp tác phẩm trở nên
khách quan hơn, còn điểm nhìn bên trong giúp người đọc hiểu được thấu đáo về nội
tâm, suy nghĩ nhân vật. Cả hai điểm nhìn này đều được biến đổi linh hoạt. CònSa
mạc, là tác phẩm đa dạng người kể và đa dạng điểm nhìn vì vậy đan xen, lồng ghép
và di chuyển điểm nhìn từ người kể này sang người kể khác là một lựa chọn hợp lí.
Điểm chung của cả hai tác phẩm đều có sự đan cài các loại thời gian khác nhau
nhưng ở Sông là sự đan cài quá khứ và hiện tại của một thế hệ, còn Sa mạc là sự đan
cài quá khứ và hiện tại của nhiều thế hệ. Cho nên, yếu tố thời gian đóng một vai trò
vô cùng quan trọng.
2.3. Cách phản ứng của các nhân vật trước nỗi cô đơn
Cô đơn là một cảm xúc chủ quan của con người. Xung quanh chúng ta có thể
có rất nhiều người, như bạn bè, gia đình, đồng nghiệp nhưng ta vẫn cảm thấy không
thể kết nối với họ. Nỗi đau cảm xúc mà sự cô đơn mang lại là không thể lường trước
nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của những tổn thương mà sự cô đơn có thể gây ra. Nỗi
cô đơn cũng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe về thể chất của chúng ta nữa. Nó kích
hoạt những phản ứng căng thẳng của nhân vật khi rơi vào sự cô đơn. Thật không
may, vượt thoát cô đơn là thách thức khó khăn hơn chúng ta nghĩ, bởi vì vết thương
tâm lý nó gây ra tạo nên một cái bẫy mà ta rất khó thoát khỏi. Nỗi cô đơn bóp méo
nhận thức nhiều người, khiến họ tin rằng mọi người xung quanh quan tâm mình ít
hơn rất nhiều so với thực tế, và do đó một số người có cái nhìn tiêu cực hơn đối với
những mối quan hệ hiện tại. Họ có nhiều cách để thoát khỏi sự cô đơn đó. Có người
cô đơn thu mình lại và tự tách biệt bản thân để tránh bị khước từ hay thất vọng thêm
lần nào nữa, có người thì tìm đến cái chết để tự giải thoát, nhiều người khác lại vượt
58
lên trên nỗi cô đơn bằng việc tìm ra những niềm vui khác trong cuộc đời. Vậy trong
hai tác phẩm của chúng ta, các nhân vật đã phản ứng như thế nào trước nỗi cô đơn ?
Trước hết những nhân vật rơi vào sự tự cô đơn họ đã vùng vẫy ra sao ? Trong
Sông, Nguyễn Ngọc Tư đã để cho Ân, cho Bối thoát khỏi nỗi cô đơn bằng hành động
khá tiêu cực, bằng cách chủ động tách mình ra khỏi thế giới xung quanh. Sự chủ động
này khiến Ân bơ vơ, lạc lõng. Nó làm nảy sinh mối hoài nghi khắc khoải về ý nghĩa
của sự sống và con người. Chính cảm thức này đã đẩy nhân vật đến đỉnh điểm của sự
cô đơn và dẫn đến hành động tiêu cực.Ân đã kết thúc cuộc đời đầy đau khổ, dằn vặt
với nỗi cô đơn cực độ. Cậu thấy mình bơ vơ, lạc loài giữa những ngang trái mà cậu
đã không đủ dũng cảm để đối mặt. Cậu quyết định ra đi khi không thể có một tình
yêu trọn vẹn, khi không hòa nhập được với cuộc sống. Đi để tìm lại chính mình, để
được sống với con người thật sự của mình. Cậu đã tính toán và chủ động cho chuyến
vượt thoát khỏi nỗi cô đơn của mình bằng chuyến ra khơi Túi cuối cùng trên chiếc
quách có chở cả Xu và Phụng. Khi không còn niềm tin vào cuộc sống lại thiếu động
lực cố gắng Ân đã hành động theo bản năng khi thấy sự dị biệt, lạc loài của mình so
với những người khác.
Bối thì lại khác, Nguyễn Ngọc Tư đã để Bối biến mất cũng bí ẩn như khi xuất
hiện. Không ai biết rõ về cậu, tên họ đầy đủ là gì, ở đâu, quê quán, chỉ biết gọi cậu
với biệt danh là Bối, cậu tham gia chuyến đi dọc sông Di cho đỡ buồn chán, sở thích
của cậu là những cơn giông hơn những cô gái đẹp. Chỉ có thế. Cả Ân - người bạn
đồng hành, cả tác giả và độc giả đều không biết cậu còn sống hay đã chết, cậu bỏ đi
hay là bị một thế lực nào đó đẩy cậu chìm nghỉm giữa lòng sông Di giống như cậu đã
từng chìm nghỉm giữa cuộc đời tẻ nhạt, buồn chán và chất ngất đau thương này. Bối
biến mất với những dòng chữ chưng hửng viết trên bao chì của một gói thuốc lá: “Ở
chốn hoang vu, tiền cũng như lá mục, tôi đem xài giùm cho. Giỏi thì tìm tôi mà lấy
lại” [38, tr.12]. Phải chăng con sông Di ma mị nhưng dữ dội đã vùi dập những mảnh
đời cỏn con sống ven nó hay là do dòng đời nghiệt ngã đã quật ngã bản tính lương
thiện của con người, đẩy con người ta vào con đường cùng quẫn ấy.
Trong tiểu thuyết Sa mạc của J.M.G Le Clézio thì kiểu nhân vật rơi vào sự tự
cô đơn đã làm gì để thoát khỏi nỗi cô đơn ấy? Lalla không chọn danh tiếng và tiền
bạc. Đó không phải thứ mà cô đang tìm kiếm mà đó là những thứ cô coi khinh. Tất
cả với cô chỉ là thứ hư ảo, phù phiếm nên cuối cùng cô đã quyết định vứt bỏ tất cả
không chút luyến lưu. Lalla vẫn cảm thấy cô đơn, lạc lõng, cô luôn cảm thấy buồn
59
chán và thiếu vắng điều gì đó mặc dù cô đã đứng trên đỉnh cao của sự nổi tiếng,
được nhiều người mến mộ. Trong cô luôn cháy bỏng nỗi nhớ về sa mạc mảnh đất
cội nguồn, nhớ tới huyền thoại về những người Đàn Ông Xanh và nhớ về cái nhìn
của Es Ser - Người bí mật cũng như nhớ tới chàng chăn cừu Hartani. Chính vì vậy
mà tiền bạc, sự nổi tiếng cũng không thể níu giữ chân Lalla nơi thành phố.Lalla
quyết định từ bỏ danh tiếng, rời bỏ thành phố và giàu sang ở nơi đây để về với sa
mạc - “nơi tự do cuối cùng của thế giới”. Kết thúc tác phẩm Lalla nhận ra rằng thiên
đường không ở đâu xa lạ, thiên đường chính là nơi cô sinh ra và lớn lên - mảnh đất
đầy nắng, gió, cát và đá sa mạc luôn ngự trị cùng với những huyền thoại về nguồn
cội. Cô quyết định chọn chính nơi đây sẽ là nơi bắt đầu cuộc sống mới - Nơi mà con
cô cùng chàng trai sa mạc Hartani chào đời.
Xem xét các nhân vật rơi vào sự tự cô đơn trong cả Sông và Sa mạc ta thấy
điểm tương đồng giữa họ là luôn thấy tâm hồn trống vắng, thiếu người san sẻ, cảm
giác như bị tách rời khỏi cộng đồng và chỉ còn lại một mình. Tương lai của họ vô
định trong suy nghĩ...Tuy nhiên, sự lựa chọn để thoát khỏi nỗi cô đơn của mỗi người
không giống nhau. Để vượt qua được những bi kịch tinh thần này, ở Sông, Ân đã
chọn cách ra đi. Cậu đi để tìm lại chính mình, đi bởi không dám đối mặt và hòa nhập
với cuộc sống thực tại hay là bởi không có được tình yêu trọn vẹn. Tác giả lại để cho
Bối biến mất; biến mất giống như cách cậu vẫn làm vì không muốn chìm nghỉm giữa
dòng đời tẻ nhạt và buồn chán này. Không ai biết cậu còn sống hay đã chết, cậu bỏ đi
hay là bị một thế lực nào đó đẩy cậu chìm xuống lòng sông Di. Phải chăng Nguyễn
Ngọc Tư cảnh báo chúng ta về việc tạo lập một mối quan hệ gia đình cần mật thiết và
các thành viên cần phải có sự quan tâm, san sẻ với nhau bởi nếu không được sống
trong bầu không khí ấm áp và yêu thương con người ta dễ rơi vào căn bệnh vô cảm,
khiến con người trở nên chán nản và đơn độc. Khi ấy bi kịch rất dễ xảy ra. Còn ở Sa
mạc, qua nhân vật Lalla, nhà văn Le Clezio đã bộc lộ mộ quan điểm sống rất tích cực
và đúng đắn. Vật chất chỉ là thứ phù du, tiền bạc và danh vọng không thể khỏa lấp
được nỗi cô đơn, sự trống trải trong tâm hồn con người. Giá trị đích thực của cuộc
sống là ở tình yêu và sự tự do. Để xoa dịu nỗi cô đơn, nhân vật đã luôn tìm cách hòa
mình vào thiên nhiên. Thiên nhiên chính là người bạn và là liều thuốc quý giá xoa dịu
nỗi cô đơn của con người. Có thể nhận thấy nỗi cô đơn có mặt ở khắp mọi nơi và nó
cũng không trừ một ai nếu như người đó không biết nuôi dưỡng và làm cho đời sống
tâm hồn trở nên phong phú. Hai nhà văn của hai lãnh thổ, với những thời điểm khác
60
nhau cùng có cái nhìn và phát hiện ra những điều mới mẻ và tinh tế tồn tại trong con
người. Sự phát hiện này một mặt dựa vào tài năng của tác giả, mặt khác chịu ảnh
hưởng của nền văn hóa và vốn sống của mỗi nhà văn. Vì vậy, hai tác phẩm này đều
có những giá trị và sức sống riêng. Điều đó được thể hiện qua sự quan tâm và chào
đón của độc giả về sự ra đời và tái bản những cuốn sánh tuyệt vời này.
Nhìn chung có nhiều cách thoát khỏi nỗi ám ảnh của sự cô đơn nhưng
không phải ai cũng mạnh mẽ và đủ dũng khí để vượt qua nó. Những người cô đơn
khi họ bước ra thế giới, thái độ do dự và hoài nghi của họ gần như sẽ gây ra những
phản ứng mà họ sợ đối mặt. Vượt thoát nỗi cô đơn và chữa lành vết thương tâm lý
vốn khả thi, nhưng nó liên quan đến một quyết định - quyết định chiến thắng bản
năng đang mách bảo họ né tránh rủi ro và hành động an toàn bằng cách tự tách
biệt bản thân. Trong tiểu thuyết Sông, Nguyễn Ngọc Tư đã để lại sự ám ảnh bạn
đọc bởi số phận của những con người bất hạnh, có những nỗi khổ riêng, đó là nỗi
khổ về tình yêu, là khát vọng về một cuộc sống bình thường hay chỉ đơn giản là
được hòa nhập với cuộc sống đời thường (Như Ân, Tú); có khi đó là những con
người trên hành trình kiếm tìm nguồn gốc (Xu); hoặc là con người muốn thoát
khỏi cuộc sống nhàm chán, nhạt nhẽo bởi danh vị gia đình (Bối). Nguyễn Ngọc Tư
quan niệm về nghệ thuật là một cái gì đó rất giản dị, không hề cao siêu. Nghệ
thuật trong văn chương là hướng ngòi bút của mình đến con người, những con
người của đời thực. Với Nguyễn Ngọc Tư con người mà chị thể hiện trong văn
chương rất gần gũi, đó là những người mà chị gặp và tiếp xúc hàng ngày, nhưng
mỗi nhân vật dường như lại mang những nỗi ám ảnh, những nỗi buồn, những bi
kịch. Nhân vật của chị Tư trong tiểu thuyết Sông hầu như tất cả sống trong bi kịch.
Nhà văn đã đi sâu vào những bikịch của họ, khai thác, mổ xẻ nó qua tâm trạng
nhân vật, chị thể hiện quan niệm của mình về con người đồng thời cũng thể hiện
quan niệm của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật với chị chỉ đơn giản là làm sao thể
hiện được cho chuẩn xác nhân vật trong tác phẩm của mình.Khám phá thế giới
nhân vật thuộc kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài trong Sa mạc thông điệp mà nhà văn
muốn gửi gắm đến chúng ta đó là giữa sa mạc khô cằn, nơi tưởng như sự sống bị
huỷ diệt lại là nơi ẩn chứa điều huyền diệu, lung linh.Sa mạc chính là biểu tượng
hướng tới cuộc sống tự do.
61
* Tiểu kết:
Nhân vật cô đơn trong Sông và Sa mạc khá nhiều nhưng chung quy lại ta có
thể chia thành hai loại là: Nhân vật tự cô đơn và nhân vật bị cô đơn trong xã hội. Các
nhà văn đã tạo ra được một không gian và thời gian rộng lớn để làm tấm phông nền
cho nhân vật mình xuất hiện. Không chỉ là không gian sông nước mênh mông mà còn
là không gian của biển cả hùng vĩ, của sa mạc bao la và đầy khắc nghiệt. Đó là không
gian của cuộc sống muôn màu. Thời gian được nhắc đến trong hai tác phẩm không
phải là thời gian tuyến tính mà có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, thời gian có sự
sắp xếp “lộn xộn” có chủ đích của các nhà văn. Khi bị rơi vào sự cô đơn, lạc loài các
nhân vật đều cố gắng vùng vẫy để thoát khỏi nó bằng cả hành động tiêu cực cũng như
động thái tích cực, có nhân vât sẵn sàng buông bỏ những cám dỗ vật chất để tìm sự
thanh tịnh, bình yên trong tâm hồn. Dù thế nào đi chăng nữa ta cũng thấy cảm giác
của những người bị rơi vào sự cô đơn không hề dễ chịu chút nào. Chúng ta hãy luôn
nỗ lực và cố gắng trong cuộc sống để vượt thoát khỏi sự cô đơn bởi nó càng ngày
càng xâm chiếm mạnh mẽ trong cuộc sống của con người giữa xã hội hiện đại này.
62
Chương 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KIỂU NHÂN VẬT CÔ ĐƠN LẠC LOÀI
TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG VÀ SA MẠC
Để đánh giá sự thành công của một tác phẩm, người ta không chỉ căn cứ vào
nội dung của tác phẩm đó mà còn phải xem xét tài năng nghệ thuật của tác giả đã gửi
gắm trong đó. Nói về nghệ thuật của tác phẩm tự sự, nghệ thuật xây dựng nhân vật là
một yếu tố vô cùng quan trọng. Bởi thế khi nghiên cứu hai tiểu thuyết Sông và Sa
mạc, cũng giống như bao nhà văn khác, hai tác giảkhi đi xây dựng nhân vật của mình
họ đã quan tâm khá nhiều nếu không muốn nói là quan tâm đặc biệt tới ngoại hình,
hành động và ngôn ngữ, tâm lí nhân vật…Qua mỗi sáng tác ta thấy các tác giả lại có
cách thể hiện sáng tạo và độc đáo.
3.1. Nghệ thuật xây dựng ngoại hình
Một số tác giả có khuynh hướng lựa chọn những nhân vật mang khiếm khuyết
ngoại hình để thể hiện nỗi cô đơn của con người giữa đồng loại. Đến với tác phẩm
Sông của Nguyễn Ngọc Tư ta thấy khi miêu tả ngoại hình chị không sao chụp máy
móc chân dung các nhân vật mà chỉ phác họa tái hiện lại bằng một vài nét thoáng qua
có tính chất chấm phá.Nhưng chính những nét chấm phá ấy lại có giá trị vô cùng to
lớn đối vớiviệc tạo hình đồng thời tái hiện sinh động tính cách của nhân vật, qua đó
góp phần không nhỏ vào việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm, thể hiện quan
niệm của nhà văn về con người và thế giới. Những chi tiết miêu tả ngoại hình nhân
vật của chị thường để lại những dư vị khó phai và sự ám ảnh trong lòng độc giả. Đó
là một Bối “Cao lêu đêu, áo thun rộng kẻ chữ “Biển của tao, trời đất của tao”…quần
kaki lửng ống rộng nhiều dây nhợ khiến cậu nhớ tới cái rổ đan dở, đi cùng đôi kính
và tai nghe trắng. Vết hằn ở chỗ nút tai Bối làm cậu ngờ lúc tắm và khi làm tình anh
ta cũng không rời chúng” [38, tr.9]. Ngoại hình ấy của Bối rất phù hợp với tính cách
của một người trẻ năng động, sáng tạo và thích phá cách. Bởi trong tác phẩm ta thấy
Bối chán cái cuộc sống êm đềm và đầy đủ trong một gia đình có hai giáo sư và một
tiến sĩ, không tranh luận và cãi cọ với nhau bao giờ. Không chịu được cuộc sống quá
êm đềm vì Bối từng than thở “tuồng như cuộc sống êm đềm, đầy đủ cũng là một thứ
bất hạnh không thể cứu vãn” [38, tr.80]. Cậu thích kịch tính và luôn muốn trải
63
nghiệm kịch tính, ngoại hình ấy phải chăng đã phần nào lột tả bản chất và tính cách
con người cậu. Trái ngược với Bối, phải bươn trải từ sớm không tránh khỏi khổ đau
dập vùi nên cơ thể của Xu hằn sâu những vết sẹo lồi lõm. Xu đã trở nên chai lì, thản
nhiên với mọi việc xung quanh. Xu mang một dáng vóc của một người đàn ông dầm
sương dãi nắng, điều ấy cũng được Nguyễn Ngọc Tư tinh tế tả lại bằng vẻ bề ngoài
của Xu: “Cái vẻ ngoài bặm trợn. Toàn sẹo lồi, một vết trên bắp tay phải, một đường
may vụng về từ cằm lẹm xuống cổ. Vành tai trái của anh ta cũng bị xén mất một nửa”
[38, tr.11]. Nguyễn Ngọc Tư cũng rất cao tay khi tả nhân vật mà không cần tả chi tiết,
mặc cho người đọc liên tưởng. Chị miêu tả “Phụng hổn hển cởi cúc áo đầu tiên. Cái
áo sơ mi không chít eo đó cô không bao giờ mặc nữa vì đứt mất hai cúc áo cuối cùng,
bởi một sự sốt sắng quá đà của tay họa sĩ” [38, tr.195]. Ngoại hình của Xu được
Nguyễn Ngọc Tư viết: “người đen trũi, lầm lì, mi mắt dài và rợp che lấp cả ánh mắt
sâu hun hút hay nhìn bâng quơ đâu đâu, tóc hớt đinh một phân đều nắng soi tận da
đầu” [38, tr.9-10]. Hình ảnh đôi mắt là hình ảnh được Nguyễn Ngọc Tư miêu tả và
khắc họa qua khá nhiều nhân vật trong sáng tác của mình, có lẽ vì đôi mắt chính là
cửa sổ tâm hồn, qua hình ảnh ấy nhà văn giúp ta khám phá ra tâm trạng và bản chất
con người của nhân vật. Cuộc đời bi thương và trải qua quá nhiều đau khổ suốt tuổi
thơ mà không có người nâng đỡ, chăm sóc đã rèn cho Xu một bản lĩnh và sự khó
đoán của lòng người. Bởi vậy cái “ánh mắt sâu hun hút hay nhìn bâng quơ đâu đâu”
kia đã lột tả được thế giới tâm hồn cậu. Con người ấy từng khẳng định: “Từ điển đời
tôi không hề có chữ khóc” [38, tr.91]. Khóc cho ai nghe và khóc để làm gì khi bên
cạnh chẳng có ai? Bản lĩnh ấy chỉ những con người rơi vào hoàn cảnh đặc biệt như
Xu mới có được. Hình ảnh đôi mắt được chị Tư khắc họa qua hầu hết các nhân vật
của mình. Có khi là một ánh nhìn, có khi lại là khóe mắt, hàng mi hay đám lông mày.
Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để ta thấy được sự khắc khoải, nỗi trống vắng hoang hoải
hay nỗi cô đơn trong thế giới tâm hồn của họ.
Dưới đây là bảng khảo sát, thống kê các chi tiết tiêu biểu mà Nguyễn Ngọc Tư
sử dụng để khắc họa ngoại hình cũng như lột tả thế giới nội tâm của các nhân vật
thông qua hình ảnh đôi mắt, ánh nhìn của một số nhân vật thuộc kiểu cô đơn, lạc loài
trong tác phẩm Sông.
64
Bảng 3.1. Chi tiết miêu tả hình ảnh đôi mắt, ánh nhìn
của một số nhân vật cô đơn, lạc loài trong Sông
TT Trang dẫn chứng Sự kiện/tình huống truyện Dẫn chứng
9 Giới thiệu về Xu 1 Nhân vật Xu
11
2 Miêu tả ngoại hình Xu Xu
3
25 Nhắc đến vụ sạt lở
Cả nhóm
4 26
Người kia là Xu, không biết đó là tên hay biệt danh, người đen trũi lầm lì, mi mắt dài và rợp che lấp cả ánh mắt sâu hút hay nhìn bâng quơ đâu đâu, tóc hớt đinh một phân đều nắng soi tận da đầu Vành tai trái của anh ta cũng bị xén mất một nửa. Bắt gặp ánh nhìn lảng vảng của cậu, Xu bảo chỗ đó từng có một nốt ruồi son lớn, như đeo một chiếc bong tai bằng đá mã lão. Không có cảnh tượng gì hay ho để ngó, nhưng bọn cậu, cùng với gã chủ nhà cứ ngồi đăm đămnhìn ra quang sông lênh láng nước Ánh nhìn nặng quá nên Cao quăng mãi mà không qua khỏi rào Cao
5 27
Cảm nhận của Ân về Cao, chủ nhà sàn. Nhân vật Hường Buồn Hường Buồn
6
31 Bối nhớ về một người hang xóm
7 34
Tú nhắn tin cho Ân Chị hàng xóm Ân
8 41
9 43
Người đàn bà miền Hạ Bối
Anh Bằng kể cho Ân nghe chuyện về cô gái miền Hạ Cảm nhận của Bối khi săn cơn giông
Toát ra một nét đẹp não nùng dù mặt hơi rúm ró một chút, mắt mở đầy chới với. Da xanh phẳng mịn như đắp bằng sáp. Cậu nhớ mỗi lần chị hang xóm cho chuột cống ăn thuốc, cũng thầm thì coi chừng ông Tí hay. Mắt lấm lét vừa ghét vừa kính sợ. Tú vẫn thích vẽ vời lên da cậu, thích lần theo những đường gân xanh để di ngón trỏ từ đuôi mắt chạy miết đến gót chân. Ở đằng xa ngó vào nhà thấy nao ruột. Chị vợ xách cái lọp cá từ ngoài vườn bước vô. Người đẹp, da trắng, mắt và tóc thì đen nhức Bầu trời sà xuống thấp như có thể với tay là tới. Hơi nước ngan ngát chung quanh, đậu trên những sợi lông mi nghe nặng.
65
10
47 Cậu bé lái xe
11 50
Mẹ gọi điện cho Ân Hào - Cậu bé lái xe Mẹ Ân
12 52
Bối cắn móng tay cho Ân Ân
13 55 Ân
Nhóm đến Bình Khê
14 58
Chị San
Ân nhớ đến chị San PP
15 69 Ân hỏi thăm về Ánh
Một người lạ
16 75
Nhóm lên đò rời Bình Khê
Ông lái đò
17 109
Ân nhớ về kỉ niệm với Tú Mọi người
Hào để tóc hơi dài, rẽ giữa, thỉnh thoảng bị tóc xập xại che mất mắt mà vẫn tránh chó rất tài. Mẹ gọi cho cậu khi đang nằm ngửa trên mũi ghe, mắt với hái một chum mây bay thấp. Mẹ hỏi sao lại gửi tiền về, mẹ có xài gì đâu. Những lúc đó cậu hay đưa mắt tìm Xu vì cảm giác đã gạt anh tar a rìa. Không có vẻ gì là Xu đang nhìn, hoặc anh ta đã nhác thấy nhưng day đi chỗ khác. Mở mắt ra thấy ngay một cảnh hoang tàn, một cánh đồng ngút trong những lùm cỏ dại. Chị nói được, cũng đang them người. Lừng lững tới với tóc ngắn, Mặt mộc, thứ duy nhất cho thấy chị có quan tâm tới nhan sắc mình là đôi mày tỉa khéo mỏng, hơi xếch lên thách thức. Lại hỏi một thím ngồi đan áo len ngoài thềm cửa, thím nói người tên Ánh thiếu gì, ai biết Ánh nào là Ánh nào. Rồi mắt bà trở nên đầy những khói. Ông ta cười hơ hơ đuôi mắt giật xon xót, bảo sẵn sàng đổi bốn con đàn bà đó để lấy một tiếng rên sướng ngất của vợ mình. Chỉ vì Tú bảo muốn đi nơi nào đó mà có thể lấp môi Ân đã đời dưới trời, không phsir trốn vào những căn phòng kín bưng, không phải sợ những ánh mắt nhìn bén nhọn.
18 116
Cô bé bán kẹo
Ân ghé mua kẹo Đời nào mà em bán kẹo của giặc. Anh mua kẹo gừng đi, ngon hơn nhiều. Em bé gằn giọng chữ giặc, mắt vằn những tia máu.
19 122
Trên xe về Di Ổ Một ông già chột mắt trái được con cái rước đi Vũng Thuyền sống vào cuối năm chin tám Một ông già
66
20 134
Mẹ Ân nói về cô gái bà lựa chọn cho con
21 141
Xu uống rượu sông Di Đứa cháu mẹ Ân tưởng tượng ra. Xu
22 143
Ân nhớ đến vợ lớn của cha cậu
23 148
Nói về pho tượng ngọc Vợ cả của cha Ân Đám đàn ông
24 150 Mẹ Ân
Nhớ về lúc bà ngoại Ân mất
25 150 Bà Ân
26 154 Ân
Bí đỏ nói chuyện với Ân
27 155
Nhớ ra ông già xuất hiện trong tin tức cuối ngày Ông già trong nhóm.
28 165 Bí đỏ
29 171
Xu
Sự quan tâm người khác của Bí đỏ Sau khi hũ tro của anh Bí đỏ chìm Thôi gì, kệ.Mặt mũi con nhỏ đó cũng không tệ đâu, trang nhã, mảnh dẻ lắm.Đang nghĩ nếu cháu nội của mẹ giống cái mũi thẳng của Ân và đôi mắt to của con nhỏ Trâm, cùng với nước da trắng của mẹ nữa thì hết sảy. Dấu hiệu duy nhất cho thấy Xu có uống rượu là đôi mắt mướt kia hơi đỏ, quầng mắt cũng đỏ, những chỗ còn lại trên mặt đều bị râu che phủ Cậu đã gặp một lần, bà vẫn xởi lởi nói cười nhưng cậu vẫn sợ vì mắt rợn, mặt mũi nhiều âm khí Ánh mắt ấm áp nhất, yêu thương nhất đám đàn ông dành cho pho tượng ngọc rồi Mẹ cậu ngồi xếp hành lý cho cuộc ra đi vào cõi khác, mặt ngoảnh ra chỗ khác, cố không để nước mắt dính vào. Người đàn bà hôm ấy giờ nằm trước mặt cậu, mắt khép. Vẫn lạnh lẽo như cậu từng biết Nước mắt chảy ra từ con mắt là thứ thường thôi, có thứ nước mắt không chảy ra kiểu vậy Cậu nhớ một lần ông nói mê mải tới mức người dẫn chương trình phải cắt ngang, nhưng ông vẫn nói nói nói đến sôi bọt mép, đến giàn dụa nước mắt. Kéo ông già ra khỏi cuộc bù khú với mấy bà bạn hàng bằng cái liếc mắt bém lem Sau một giấc ngủ ngắn như chưa được ngủ, mắt cay xè vì không đẫy giấc, mãi Xu mới lay cô gái dậy được
30 172
Ông già trở về Ông già tìm được một cái ghế xúp đặt giữa lối đi trên một chuyến xe khách ken cứng những người mắt đỏ ngầu mệt mỏi Nhân vật đám đông
67
31 178
Câu chuyện của chị San San
32 192
Bí đỏ (Phụng) bị xâm hại
33 205 Nghe chị San Chị quét mắt qua vách nhà bẩn thỉu trong lúc bà già thều thào hồi cô còn con gái ấy, cả Nguyễn Trãi và Lý thường Kiệt đều đeo cô sát rạt, sau vì thất tình nên ông Kiệt mới bỏ vào cung làm thái giám. Gã đưa cô về phòng trọ,thứ mà Phụng bắt đầu quen thuộc, bắt đầu trơ mặt khi gặp ánh mắt thò lõ của những nhân viên lễ tân tò mò Nước mắt khó giải thích. Nhưng Nhân viên lễ tân Ân
kể anh trai chị lấy vợ cái cảm giác ghen tuông của mình cũng chẳng phải vượt biên sao.
34 209 Từ khi biết mình thuộc dạng người Ân
Suy tư của Ân nào, cậu rất nhạy cảm với dấu hiệu.
Cậu biết đám đông nào dè bỉu mình, đám đông nào thông cảm để
điều chỉnh đúng hành vi, ánh mắt,
nhất là khi đi cùng với Tú.
35 215 Hỏi thăm về Tôi nhớ có một thằng nhỏ mê cổ, cứ Thằng
tung tích Ánh lẽo đẽo đi theo., nghe nói đeo đuổi nhỏ
mấy năm rồi. Thằng nhỏ đó người
đầy vảy, miệng rộng, mắt ti hí.
36 216 Thuê ghe ra Túi Thằng nhỏ trả treo, mặt hơi quạu. Hùm-
Quang hai con mắt trợn trắng qua Cậu bé
phía cậu lần nữa hỏi có chắc là mấy cho thuê
người muốn tự chạy ghe không? ghe
37 223 Khi đi thuyền ra Thuyền đi qua làng nổi, trẻ con Nhân
khơi Túi ngồi đằng trước nhà thò lõ mắt vật đám
đông
nhìn, ruồi bâu lên khóe miệng cũng không thèm đuổi, im lìm như trong một màn trình diễn nghệ thuật sắp đặt đông người. Những đôi mắt
nhiều lòng trắng, ít chớp, ánh nhìn mê sâu hệt nhau.
68
Chỉ với hơn hai trăm trang cùng với lượng nhân vật không nhiều nhưng Nguyễn
Ngọc Tư đã sử dụng đến gần bốn mươi lần chi tiết có liên quan đến đôi mắt, ánh mắt.
Mỗi ánh mắt ấy lại mang những tâm trạng và tính cánh riêng không có sự trùng lặp
trong việc diễn đạt thế giới nội tâm toát ra từ đó. Ánh mắt của các nhân vật được miêu
tả khác nhau, thậm chí ngay trong cùng một nhân vật thì ánh mắt cũng thay đổi theo
tâm trạng, cảm xúc và thế giới nội tâm của nhân vật. Khi thì là “ánh mắt sâu hút hay
nhìn bâng quơ đâu đâu” của Xu -một nhân vật kì bí, ít người có thể phán đoán được
hành động cũng như thế giới nội tâm của cậu. Lúc lại là lời bộc bạch nỗi đau vô hạn
khi không thể khóc trước số phân trớ trêu: “Nước mắt chảy ra từ con mắt là thứ thường
thôi, có thứ nước mắt không chảy ra kiểu vậy” của Ân. Thậm chí nhà văn còn tài tình
miêu tả được cả ánh mắt của đám đông “Những đôi mắt nhiều lòng trắng, ít chớp, ánh
nhìn mê sâu hệt nhau”. Thế giới tâm hồn của các nhân vật tưởng được che đậy kĩ càng
lại dễ dàng phơi bày trước độc giả chỉ cần qua một chi tiết nhỏ nhoi: Đôi mắt, hàng mi,
ánh nhìn…mà Nguyễn Ngọc Tư sử dụng. Cái tài của nhà văn nằm ở đó.
Để xây dựng hình tượng nhân vật của mình, trong Sa mạc Le Clezio không
chú trọng nhiều đến việc sử dụng nghệ thuật miêu tả ngoại hình. Tuy nhiên những
chi tiết khắc họa vẻ bề ngoài nói lên rất nhiều điều về cuộc sống thực tại và tính
cách của nhân vật. Nour hiện lên với “khuôn mặt âm u, đen sạm vì nắng, nhưng đôi
mắt cậu sáng rực, và cái nhìn của cậu toát ra một thứ ánh sáng gần như phi
thường” [21, tr.7]. Cũng đồng quan điểm với sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, Le
Clezio cũng coi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn vì thế ông đặc biệt quan tâm đến việc
miêu tả “ánh mắt”, “cái nhìn” của các nhân vật, qua đó thể hiện thế giới nội tâm sâu
thẳm của họ. Khi nhắc đến Hartani, Le Clezio quả quyết rằng Lalla thích cậu bởi:
“Khuôn mặt láng đầy, đôi bàn tay thuôn dài, đôi mắt kim loại u uẩn nụ cười của
chú, cô thích dáng chú đi nhanh và nhẹ như một con thỏ rừng đang nhảy từ tảng đá
này sang tảng đá khác, và trong nháy mắt đã biến mất” [21, tr.130]. Đôi mắt biết
nói của Hartani có ma lực vô cùng mãnh liệt, chính đôi mắt ấy đã bù lấp khuyết
điểm của chú bé câm chăn cừu này. Thậm chí khi miêu tả cái kẻ giàu có muốn cưới
Lalla thì Le Clezio cũng dùng ánh mắt của hắn để lột tả bản chất bên trong con
người hắn: “Người đàn ông mặc com lê màu xám lục đã trở lại nhiều lần trong căn
nhà của Aamma, và lần nào hắn cũng nhìn Lalla với đôi mắt sáng rực và khắc
nghiệt như hai hòn sỏi đen” [21, tr.250]. Chính đôi mắt của con thú săn mồi ấy đã
thúc đẩy Lalla đến với Hartani và tìm đường bỏ trốn.
69
Dưới đây là bản thống kê một số dẫn chứng tiêu biểu cho việc miêu tả ngoại
hình của nhân vật thông qua việc khắc họa hình ảnh đôi mắt và ánh nhìn của các nhân
vật cô đơn, lạc loài ở tuyến chuyện thứ hai.
Bảng 3.2. Chi tiết miêu tả hình ảnh đôi mắt, ánh nhìn của một số nhân vật
cô đơn, lạc loài trong Sa mạc
Dẫn chứng Nhân vật TT
1 Trang dẫnchứng 87 Sự kiện/tình huống truyện Khi Lalla dạo chơi trên cồn cát Lalla
2 Lalla
90
Lalla leo lên đỉnh cồn cát ngắm biển 3 Lalla
4 91 Lalla
5 Lalla
92 6
Lalla nằm trên đồng cỏ ngắm con chim cắt khi nó bay đi Lalla
7 93
Lalla đứng trên bờ biển Lalla
Lalla vừa bước thật chậm, vừa chăm chú nhìn cát xám khiến hai mắt cô hơi khó chịu…Cô dừng bước dưới một cây thông tán lọng, tránh khỏi ánh nắng và mắt cô nhắm lại Trên cao, gió thổi lồng lộng vào mặt cô, và Lalla suýt ngã ngửa ra sau. Gió biển lạnh, làm hai cánh mũi cô sít lại và làm rát mắt cô Thỉnh thoảng gió ném một nắm cát vào mặt Lalla. Cô phải nhắm mắt lại để khỏi dặm. Nhưng gió vẫn làm cô chảy nước mắt, và trong miệng cô những hạt cát lạo xạo giữa hai hàm răng Gió không chờ không đợi. Nó làm điều nó thích và Lalla sung sướng khi gió ở đó, ngay cả khi nó làm cho mắt và tai cô cay xè Nhưng nó vẫn còn rất lâu trong đôi mắt cô, cái bóng hình mũi tên lướt sát đám cỏ vàng như một cái vạch… Lalla vẫn nằm bất động, đầu ngửa ra sau, hai mắt mở to hướng về bầu trời trắng, nhìn những vòng tròn di động tại chỗ, cắt nhau, như khi người ta ném hòn sỏi vào bề nước Nơi đây đầy ắp ánh sáng và tiếng động đến độ cô buộc lòng phải nhắm mắt và ngậm miệng lại. Chất muối của biển nóng bỏng trên mí mắt và môi cô.
70
8 Lalla
95 Lalla đợi Naman - Ông lão đánh cá
9 Lalla
97
Lalla nghe Naman kể chuyện về cá heo
10 Lalla
99 Khi ngắm nhìn bầu trời buổi sáng
11 Lalla
104 Đứng trên cồn cát ngắm bầu trời
12 Lalla
108 Lalla đến cao nguyên đá trăng
13
109
Sự xuất hiện của Es Ser - Người sa mạc
Es Ser - Người sa mạc qua cảm nhận của Lalla
14
Cảm nhận về Es Ser - Người sa mạc Cô vừa đợi vừa nhìn biển đang xấu đi với màu lam xám như ánh thép, và một thứ mây nhợt nhạt che phủ đường chân trời. Đôi khi cô tưởng mình trông thấy một cái chấm đen đang nhảy múa trong những ánh phản chiếu giữa những ngọn sóng. Lalla rất thích câu chuyện ấy. Cô thường đưa mắt tìm kiếm trên mặt biển, hi vọng trông thấy con cá heo đen vĩ đại… Cô nhìn ra biển màu xanh xám, nơi những ngọn sóng đang lao tới Lalla ngắm nhìn hồi lâu hình chữ thập đang lướt tới trong bầu trời, đầu ngửa ra. Cô thích nhìn cái cách nó lướt tới trong bầu trời xanh bao la. Lalla mở mắt thật to, cô để cho bầu trời nhập vào người cô. Tạo thành một cảm giác chao đưa như thể cô đang trên một con tàu. Thế rồi, cô đến trước vùng cao nguyên đá trắng bao la trải ra tận cùng chân trời, tới tận bầu trời. Ánh sáng chói chang, gió lạnh cắt môi khiến nước mắt chảy ra. Lalla cố hết sức nhìn cho tới khi tim cô đập thình thịch. Chính tại nơi đây thỉnh thoảng người con trai tới gặp cô… Cô chỉ nhìn được đôi mắt chú, bởi mặt chú được che bằng một tấm mạng vải màu lam…Đôi mắt chú rực lên một thứ lửa âm u và lạ kỳ trong bong của vành khăn lam, và Lalla cảm thấy sức nóng cái nhìn của chú trên mặt và trên thân thể cô như khi người ta đến gần nột lò lửa cháy. Cái nhìn nóng bỏng của chú đang soi sáng cảnh vật, đang lướt qua khắp chân trời… Cô biết rằng người đàn ông xanh của sa mạc vẫn chở che cô bằng cái nhìn của mình Es Ser - Người sa mạc qua cảm nhận của Lalla
71
15 110
Đây là nơi không có bóng người. Chỉ có người đàn ông xanh của sa mạc đang nhìn cô không rời mắt mà không nói gì với cô.
16 136
Khi Lalla quay trở lại cao nguyên đá trắng
Es Ser - Người sa mạc qua cảm nhận của Lalla Es Ser - Người sa mạc qua cảm nhận của Lalla
17 137
Lalla nghe thấy giọng của người chiến binh sa mạc Cô nhận ra cái nhìn của người đàn ông xanh của sa mạc đang hướng về cô. Nó vẫn là cái nhìn ở trên cao kia, trên cao nguyên đá trắng, nơi đường biên của sa mạc. Đó là một cái nhìn trống rỗng và ngạo nghễ…Lalla thấy sợ. Cô muốn kéo cái nhìn đó dừng lại trên người cô… Cô chưa bao giờ nghe nó rõ đến vậy, ngay khi chú xuất hiện dưới mắt cô, trên cao nguyên đá
137 18 19
Lalla nghe thấy giọng nói bên trong đầu cô vọng ra
Es Ser - Người sa mạc qua cảm nhận của Lalla Cảm nhận của Lalla về sự xuất hiện của Es Ser - Người sa mạc
20 Lalla
Khi một mình trên sa mạc 112 21 Lalla
“Hãy làm cho gió ngừng thổi đi” Lalla nói to, mắt vẫn nhắm nghiền…Đó chỉ là giọng nói của gió, giọng nói của biển, của cát, giọng nói của ánh sáng làm lóa mắt và làm chao đảo ý chí con người. Nó đến cùng lúc với cái nhìn kì lạ, nó phá vỡ và tước đoạt tất cả những gì chống lại nó trên mặt đất này. Dưới cái nhìn của cô, những cồn cát từ từ động đậy, xòe ra những ngón tay cát của chúng Lalla trông thấy trước mặt cô, như bằng đôi mắt của một ai khác, vùng sa mạc bao la ngời ánh sáng.
22 Lalla 113
23 Lalla
24
Naman xuất hiện ở nhà Aamma 116
Lalla tưởng tượng Cô trông thấy những hình thù khác, những bóng dáng khác của trẻ con, của đàn ông, của đàn bà, của ngựa, của lạc đà… Lalla gặp lại cái nhìn của chính mình, cô lại nhận ra trái tim cô, hai lá phổi của cô, làn da của cô. Khi nhìn vào đôi mắt ông, Lalla có cảm giác như nhìn thấy màu của biển cả, như đang vượt đại dương, như đang ở phía bên kia chân trời. Naman - Ông lão đánh cá qua cảm nhận của Lalla
72
25 125 Hartani
26 126 Hartani
Khi Hartani nghe Lalla nói chuyện
27 129
Hartani và Lalla ngồi bên nhau Hartani và Lalla
28 130
Hartani và Lalla
29
130 Cảm nhận của Lalla về Hartani Hartani
30 253
Hartani
Khi Lalla bỏ đi khỏi cư xá đến gặp Hartani
31
Hartani và Lalla
32 262
Lalla và Hartani bỏ trốn
Hartani và Lalla
Ngoại hình Hartani Chú có khuôn mặt xương xẩu và láng lẩy, với cái trán gồ, cặp long mày thật thẳng, đôi mắt to u ẩn màu kim loại Mỗi khi cô nói, Hartani vẫn bất động và nhìn cô với một vẻ chăm chú nghiêm chỉnh, bởi chú đang tìm cách để hiểu. Thật khó mà hiểu được họ làm gì vào lúc đó. Có thể họ nhìn về phía trước, như thể đang nhìn xuyên qua những ngọn đồi, đến tận phía sau chân trời. Cô nhìn chú, và cô đọc trong ánh sáng từ đôi mắt đen nhánh của chú, còn chú thì nhìn vào tận cùng của đôi măt màu hổ phách của cô. Khuôn mặt láng đầy, đôi bàn tay thuôn dài, đôi mắt kim loại u uẩn nụ cười của chú, cô thích dáng chú đi nhanh và nhẹ như một con thỏ rừng đang nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác, và trong nháy mắt đã biến mất Đôi mắt chú dò xét từng chi tiết của cảnh vật, và chú giống như con chim tham mồi không hề nháy mắt. Khuôn mặt chú âm u, nhưng đôi mắt chú sáng rực, đầy vẻ mãnh liệt. Chú sờ lên mặt Lalla, lên trán cô, mắt cô. Chú lướt các ngón tay lên đôi môi nứt nẻ của cô. Hai kẻ bỏ trốn ngắm nhìn chúng, gần như nín thở, đôi mắt mở to. Họ cảm thấy hình vẽ những chòm sao in lên mặt họ, như thể họ hiện hữu dưới cái nhìn của chúng, như thể họ đang uống thứ ánh sáng dịu dàng của đêm
73
33 225 Lalla
34 Lalla 237 Khi Aamma và Lalla nghe Naman nói về Tây Ban Nha Khi Lalla quay trở lại cao nguyên đá trắng
35 238 Lalla
36 239 Lalla
Lalla tưởng tượng người đàn ông xanh xuất hiện
37 240 Lalla
38 Lalla
39 253 Lalla
Cô nhìn vào mắt Naman như thể phần nào cô cũng đã biết những biển cả kia, những xứ sở kia, những mái nhà kia Lalla bước tới, đôi mắt gần như nhắm nghiền trước sự phản chiếu của ánh sáng, mồ hôi dán chặt lớp váy dài vào bụng, vào ngực, vào lưng cô Lalla bước đi thật chậm, hai mắt gần như nhắm nghiền, vừa nhón hai bàn chân trần trên những tảng đá bỏng rẫy…Cô bước tới nhưng trái tim cô đã rời xa cô, hay đúng hơn cả con người cô đang ở phía trước, trong ánh mắt của cô, trong những giác quan đang rình rập của cô… Những cơn lốc ánh sáng trắng vây bọc lấy cô, cuốn những ngọn lửa của chúng quanh đôi chân cô, trà trộng vào tóc cô và cô nghe như có cái lưỡi nóng ráp làm cháy bỏng cả môi và mí mắt của cô. Khi ánh mắt chạm tới cô… Lalla ngừng thở trong giây phút. Đôi mắt cô giãn ra. Cô ngồi xổm trong bụi, hai mắt nhắm nghiền, đầu ngửa ra phía sau bởi có một sức nặng đang nhập vào cô và làm cho cô trở nên nặng trĩu như đá. Cô cảm thấy ánh mắt người đàn ông xanh trên người cô…Cô trông thấy những gì chứa đựng trong ánh mắt người đàn ông xanh Mắt cô đã khô lệ, lớp muối tạo thành những tinh thể nhám như cát nơi góc mí mắt cô.
40 306 Lalla
Khi Lalla quyết định bỏ đi khỏi cư xá, cô đến tìm Hartina Lalla ở trên boong tàu tới Marseille Khi cô thức giấc thì mọi người đã ở trên boong, mắt nhìn đăm đăm vào dải đất.
41 311 Lalla
Khi đứng chờ vé Mọi người đều chờ đợi, hoặc ngồi dưới đất, hoặc đứng tựa vào bức tường, cái nhìn đăm đăm, nét mặt căng thẳng, như thể trong mỗi tiếng tíc, cánh cửa cuối phòng sẽ mở và để họ đi.
74
42 317
Marseille dưới cái nhìn của Lalla
Nhân vật đám đông
43 322
Lalla
Khi Lalla ở nhà ga
44 329
Lalla
Lalla xỉu giữa đường và biết mình mang bầu
45
331 Lalla
46 324
Lần đầu gặp Radicz Radicz
47 Radicz
325
48
352 Radicz
Khi Lalla nói với Radicz việc mình có bầu
49
394 Radicz
Cảm nhận của Radicz về Lalla
Người dân đến từ mọi nước trên thế giới, họ nói đủ thứ ngôn ngữ; có những người da rất đen, mắt him híp…Có những người đến từ miền Bắc, tóc và mắt nhợt nhạt Cô lùi sâu trong bong tối, khuôn mặt màu đồng của cô được che bằng cổ áo khoác. Nhưng thỉnh thoảng tim cô lại đập mạnh hơn, và đôi mắt cô ném ra một tia sáng như phản chiếu của ánh mặt trời trên đá sa mạc Lalla nghe đầu óc mình quay mòng mòng đến nỗi cô phải ngồi xuống ngay tức khắc, và mắt cô dáo dác tìm kiếm một điểm tựa. Khuôn mặt màu kim loại của cô trở lên xám ngắt, mắt cô mờ đi, cô từ từ ngã xuống… Sau đó, cô uống một chút bạc hà nóng và cơn mệt tan biến. Khuôn mặt cô lại trở lại màu đồng, mắt cô lại lấp lánh sáng Nó nhìn cô bằng ánh mắt kì lạ, chẳng giống bọn con trai khác chút nào. Nó nhìn cô trân trân, và người ta không đọc được điềugì đáng kể trong cái nhìn đó, giống như cái nhìn của loài vật Ngoại hình Radicz Đôi mắt nó màu lục và chút ria mép của nó nom giống như một cái bong đen phía trên đôi môi Cô không biết tại sao mình lại nói điều đó với Radicz. Nó nhìn cô một hồi khồn đáp. Có cái gì đó u ám trong đôi mắt nó, nhưng đôi mắt ấy lại sáng bừng lên ngay. Radicz nhìn cô và thấy cô đẹp, nhưng nó khồn dám nói điều đó với cô. Đôi mắt nó ánh lên niềm vui. Trong màu đen của tócLalla và trong màu đồng đỏ của khuôn mặt cô chừng như có ánh lửa bập bùng… Chính cái nhìn của Lalla mang sức mạnh nóng bỏng của sa mạc.
75
50
395 Lalla
Khi Lalla và Radicz đi trên phố
51 395
Radicz
52 396 Radicz
Ánh sáng mãnh liệt trên đôi mắt hổ phách của cô…Ánh sáng phát ra từ đôi mắt cô, từ làn da, từ mái tóc, thứ ánh sáng gần như siêu nhiên. Mái tóc đen và dài che phủ khuôn mặt hình tam giác của nó với đôi má hóp, đôi mắt sâu “Mày có đói không?”. Radicz nhìn cô với đôi mắt sáng rực, đầy háo hức Khi Lalla hỏi Radicz
53 401 Lalla
54 402
Người thợ chụp hình đến gặp Lalla
Lalla và người thợ ảnh
55 413
Lalla Hawa
56 414 Lalla Hawa
Lalla trở thành Lalla Hawa nổi tiếng Khi người chụp ảnh chụp hình Lalla Hawa
57 Lalla Hawa
416
Khi người chụp hình rửa ảnh Lalla Hawa
Khi Radicz bị nấc Lalla cho nó uống một ly nước và bảo nó nhìn thẳng vào mắt cô cho tới khi cơn nấc cụt qua đi. Anh ta có đôi mắt màu xám - lục, thật buồn bã và ướt át như mắt loài cho. Lalla nhìn anh ta với đôi mắt sáng rực của mình. Hawa với đôi mắt hình quả hạnh, ánh lên như ngọc, cùng làn da màu hổ phách lấp lánh ánh sáng… Trước tiên là đôi mắt, hai cái đốm to mỗi lúc một sâu them, rồi tới mái tóc đen…Đôi mắt đang nhìn vào cõi khác, như mọi khi Lalla vẫn thế, nhìn vào cõi khác, phía bên kia thế giới, và tim người chụp hình bắt đầu đập nhanh hơn, bao giờ cũng vậy, như lần đầu tiên hắn đón bắt được ánh sáng từ cái nhìn của cô tại quán Galeres. Hắn vừa đếm nhịp tim mình, vừa chờ khuôn mặt mỹ miều hiện lên trong bồn axit, nhất là cái nhìn, thứ ánh sáng có màu của bóng tối. Nhìn tữ xa hơn, cái nhìn ấy giống như một kẻ nào khác đang bí mật nhìn bằng hai con người kia, đang lặng lẽ phán xét.
76
58 418 Người chụp Người chụp hình nhìn vào đôi Lalla Hawa
hình nhìn ngắm mắt cô, khuôn mặt cô và hắn cảm
Lalla Hawa thấy mối lo thăm thẳm sau thứ
ánh sáng mãnh liệt của cô. Còn
có sự dè chừng, bản năng trốn
chạy, cái thứ tia sáng kỳ lạ đôi
khi vẫn thoảng qua trong đôi mắt
loài thú hoang dã.
59 497 Khi Lalla trở lại Trên đôi má Lalla, mấy giọt sương Lalla
với sa mạc để từ từ lăn như mấy giọt lệ. Người
sinh con thiếu phụ thức giấc và rên thật khẽ.
Cô vẫn chưa mở mắt
60 499 Cô vẫn chờ đợi, mắt đăm đăm Lalla
nhìn ra biển
502 61 Lalla chưa bao giờ đón chào ngày Lalla
đang tới với một sức mạnh như
thế, với đôi mắt căng ra, đau đớn
và khuôn mặt nóng ran trong ánh
sáng rực rỡ.
62 504 Lalla nhìn ngắm Khuôn mặt nhỏ nhoi của nó cùng Lalla
đứa con đôi mắt nhắm nghiền tựa vào vú
cô, Lalla không còn lo chốngtrả
với cơn mệt nữa. Cô nhìn một hồi
ánh sáng tuyệt đẹp…Mắt cô
nhắm lại.
Nhìn vào bảng thống kê chúng ta thấy, dù không quá chú trọng đến việc miêu
tả ngoại hình nhưng Le Clezio lại sử dụng những chi tiết đặc tả đôi mắt. Thông qua
cái cửa sổ tâm hồn này nhà văn đã lột tả cho độc giả thấy sự cô đơn đến tột cùng
trong thế giới nội tâm của nhân vật. Bảng khảo sát mới chỉ dừng lại ở tuyến truyện
thức hai và một số nhân vật tiêu biểu cho kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài nhưng chúng
ta thấy Le Clezio đã có tới hơn sáu mươi lần nhắc đến đôi mắt và ánh nhìn của họ. Sự
lặp lại này cũng chính là một dụng ý của nhà văn. Nó gần như là một phần của cơ thể
77
được tập trung trong trường hợp này. Qua đôi mắt ta có thể cảm thấy cả một thế giới
tâm hồn ẩn sâu bên trong nhân vật. Vì vậy nên những khi hạnh phúc dâng trào hoặc
lúc phiền muộn khổ đau, sẽ khiến cho người đối diện dễ dàng phát hiện ra những
thầm kín trong đôi mắt ấy. Nếu chúng ta nhìn đời bằng đôi mắt với toàn màu hồng thì
tràn đầy hạnh phúc bằng ngược lại thì trước mắt ta là cả một bầu trời đen tối. Khi mắt
mở ra ta trông thấy được thế giới bên ngoài, thì lẽ đương nhiên đối tượng cũng có thể
thấy được phần nào bên trong của ta thông qua đôi mắt đó. Đôi mắt ấy thể hiện buồn
vui, thương ghét khi ta cảm nhận hạnh phúc hay khổ đau. Khi ta nổi giận vì bất bình
một chuyện nào đó, đôi mắt sẽ đỏ lên như muốn ăn tươi nuốt sống người đối diện.
Khi ta cảm nhận hạnh phúc thì đôi mắt sẽ chứa đầy yêu thương trìu mến. Nói chung
sự thay đổi nơi tâm thức thông qua đôi mắt, luôn bộc lộ ra hết những cảm xúc trong
lòng. Ngoài hình ảnh đôi mắt được Le Clezio đặc tả ra thì trong Sa mạc nhà văn cũng
sử dụng rất nhiều chi tiết miêu tả khác có sự lặp lại tương đối nhiều như: Đôi bàn tay,
mái tóc hay làn da…Sự lặp lại ấy hoàn toàn là một dụng ý nhằm nhấn mạnh, khắc sâu
những nét khác biệt nơi ngoại hình của những con người sa mạc. Điều đặc biệt nữa là
khi miêu tả ngoại hình qua các chi tiết ấy nhà văn sử dụng khá nhiều nghệ thuật so
sánh và liên tưởng để gợi lên cả một thế giới mênh mông nơi sa mạc cũng như sự
mênh mông trong tâm hồn của những kiếp người cô đơn ấy.
Cả Le Clezio và Nguyễn Ngọc Tư đã vô cùng tinh tế khi sử dụng hình ảnh
đôi mắt và ánh nhìn để miêu tả về nhân vật của mình. So với Nguyễn Ngọc Tư thì
số lượng và tần xuất xuất hiện của hình ảnh đôi mắt và các chi tiết liên quan đến đôi
mắt nhiều hơn. Ở Sông ta cũng thấy ít có sự lặp lại các chi tiết khác trong miêu tả
ngoại hình, còn ở Sa mạc có thêm sự xuất hiện của các chi tiết khác như: Mái tóc,
làn da hay đôi bàn tay…Tất cả nhằm góp phần lột tả phần nào thế giới nội tâm
phong phú của các nhân vật cô đơn, lạc loài. Đôi khi chúng ta bắt gặp những bình
luận, đánh giá về các nhân vật nhưng cũng chỉ là những nhìn nhận bề ngoài, khách
quan chứ chưa thực sự đi sâu vào bên trong nhân vật. Nhìn chung cả hai nhà văn
đềukhông chú trọng nhiều đến miêu tả ngoại hình mà tập trung khắc họa thế giới
nội tâm và những tâm tư, tình cảm của nhân vật nhưng ngoại hình có thể hiện tính
cách nhân vật. Các nhân vật của họ đều đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải
đến độc giả những thông điệp cuộc sống.
78
3.2. Nghệ thuật xây dựng hành động
Hành động là toàn thể những hoạt động (phản ứng, cách ứng xử) của cơ thể, có
mục đích cụ thể là nhằm đáp ứng lại kích thích ngoại giới là hành động hoặc phản
ứng của đối tượng (khách thể) hoặc sinh vật, thường sử dụng trong sự tác động đến
môi trường, xã hội. Để người đọc có thể thấy được rõ nét tính cách của nhân vật thì
các tác giả thường rất chú ý trong việc mô tả hành động của nhân vật. Nguyễn Ngọc
Tư và Le Clezio cũng vậy, cả hai nhà văn cũng quan tâm và chú ý khắc họa hành
động của các nhân vật. Trong đó, mỗi hành động của nhân vật được mô tả theo đúng
tuyến tính không gian và thời gian, đó cũng chính là mấu chốt thành công của cốt
truyện. Hành động thường được xem như kết quả cuối cùng của quá trình nhận thức,
quá trình tâm lý, quá trình tình cảm.
Qua hành động của các nhân vật trong Sông, Nguyễn Ngọc Tư muốn để cho
nhân vật của mình nói lên những suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái diễn biến bên trong
nhân vật. Đọc Sông ta biết trong mối tình ngang trái giữa Ân và Tú thì Ân trội hẳn về
nữ tính, dù vậy cậu cũng không ngượng ngùng chứng minh mình không phải là con gái
khi có hành động tụt quần trước mặt đông ngườiđể gã chủ quán kiểm chứng sau khi gã
cá với Xu: “Cậu tụt quần lót ra. Gã chủ quán gãi háng, sửng sốt khen: “Chú mày đẹp
đâu có thua Hường Tre Miễu”[38, tr.31]. Hành động mà chị San chọn cách ra đi cũng
đặc biệt không kém. Chị rải đầy hoa trong phòng và tự tử bằng hoa. Trước khi ngừng
thở chị có gọi điện cho bốn người, trong đó có Ân “Phòng chị nồng nặc mùi hoa rữa.
Chính cái mùi đó đã dẫn dắt người ta phá cửa xông vào. Chị ngủ say, lay không dậy”
[21, tr.200]. Đây là cáchchị đã chuẩn bị tâm thế từ lâu. Chị chủ động cho sự ra đi của
mình khi cảm thấy buồn chán và bế tắc, bởi theo chị: “Không ngủ thì chị biết trốn vào
gì để tạm quên” [21, tr.220]. Đến Bối, cậu ta cũng chọn cho mình hành động kì lạ để
thu hút sự quan tâm của mọi người.“Hồi nhỏ nổi hứng cắt tay cho máu chảy chơi, coi
cả nhà rộn lên cũng sướng. Hay là cứ biến mất coi ai là người tìm mình đầu tiên”
[21, tr.80]. Đó là hành động của con người muốn nổi loạn, muốn bứt phá khỏi cái
không gian sống ngột ngạt và nỗi cô đơn xâm chiếm. Đáng quan tâm nhất là hành động
giải thoát và trốn chạy của Ân khi cậu thuê một chiếc quách, dù biết rõ là nó bị thủng
và thậm chí còn chủ động trong chuyến đi ấy. Khi cậu không còn niềm tin và động lực
vào cuộc sống, khi không chỉ bị bạn tình bỏ rơi đi lấy vợ mà còn bị bạn đồng hành dối
79
lừa. Cậu muốn thanh toán sòng phẳng nơi túi rốn. Còn tuyệt vọng nào hơn thế và Xu đã
hành động: “Xu dung ngón chân rút cái cuộn cao su bịt lỗ dò”.
Từng hành động, dù nhỏ hay có tính chất quan trọng đều được Nguyễn Ngọc
Tư tinh nhạy phanh phui dưới ngòi bút của mình. Dùng hành động để diễn tả tính
cách, tâm lí của nhân vật và thông qua đó thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của mình
về đối tượng được miêu tả. Miêu tả hành động là một thủ pháp cơ bản trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư. Mỗi nhân vật khi làm bất cứ một điều
gì, hành động như thế nào đều đã thể hiện một phần tính cách của mình. Hầu hết sự
xuất hiện của các nhân vật dù chính hay phụ, dù xuất hiện nhiều hay ít đều ít nhiều
được nhắc đến thông qua hành động của họ. Đối với các nhân vật thuộc kiểu nhân vật
cô đơn, lạc loài thì hầu như hành động diễn ra đều có ý thức, được tính toán cẩn trọng
chứ không phải những hành động vô thức. Mô tả hành động của nhân vật, ngoài để
góp phần thúc đẩy cốt truyện, Nguyễn Ngọc Tư còn khéo léo thể hiện tính cách nhân
vật, góp phần xây dựng nhân vật trong tính hoàn chỉnh của nó.
Sang đến Sa mạc, mặc dù không nuôi dưỡng Lalla bằng hành động mạnh
mẽ, Le Clézio đã quan sát cẩn thận nhân vật chính của ông. Vì vậy, chúng ta biết
đến người mẹ đã chết của Lalla, chúng ta biết về nhiều cách mà Lalla hoàn thiện
tình yêu của cô với các cồn cát và bãi biển, chúng ta được chia sẻ những kinh
nghiệm thần bí ở sâu trong sa mạc, thậm chí chúng ta còn có một bức chân dung
tinh tế về mối quan hệ giữa Lalla với cậu bé chăn cừu Hartani. Để làm nổi bật điều
đó, tác giả đã ưu ái giành những trang văn viết về những cuộc gặp gỡ, đùa vui của
hai đứa trẻ mồ côi, hai tâm hồn cô đơn bằng giọng điệu trữ tình, lãng mạn: “Bởi
Lalla là người độc nhất mà chú (Hartani) hiểu được và cô cũng là người độc nhất
hiểu được chú” [21] nên khi họ ở bên nhau không cần có ngôn ngữ, chỉ cần những
hành động, cử chỉ là họ đã hiểu rõ về nhau. Họ cùng nhau khám phá thiên nhiên.
Họ vui đùa cùng nhau bằng cách luân phiên nhau thổi vào các ống sậy dài, ngắn
khác nhau. Điệu nhạc buồn buồn như thoát ra từ cảnh vật chan hoà ánh sáng, từ
những cái lỗ của những cái hang dưới đất, từ cả bầu trời hiu hiu gió. Rồi họ nắm
tay nhau khám phá thiên nhiên trên sa mạc. Hartani đã nắm bàn tay của Lalla, dìu
cô đi dọc theo lối hẹp, bước xuống về phía bên trong trái đất…người con trai chăn
cừu siết chặt bàn tay cô, giúp cô thêm can đảm.
80
Chúng tôi xin trích dẫn bản thống kê một số dẫn chứng tiêu biểu cho việc xây
dựng hành động của nhân vật Hartani - một nhân vật tiêu biểu cho kiểu nhân vật cô
đơn, lạc loài ở tuyến chuyện thứ hai.
Bảng 3.3. Hành động của nhân vật Hartani qua tác phẩm Sa mạc
TT Sự kiện/tình huống truyện Dẫn chứng về hành động Nhân vật
1 Trang dẫn chứng 125 Khi Lalla đến Chú chỉ ngồi trên tảng đá to, và chú Hartani
tìm Hartani đang nhìn thẳng về phía trước, hướng
trên sa mạc về đàn dê. Chú không cử động
2 125 Lúc Lalla đến Hartani đứng dậy và quay lại…Chú Hartani
sát bên chú cầm một con dao nhỏ không có cán
trong lòng bàn tay.
3 126 Chú bất chợt nhảy ra sau và bắt đầu Hartani
Lúc Lalla mệt chạy băng qua ngọn đồi đày sỏi.
mỏi ngồi bên Một chập sau chú đem về nắm sậy
tảng đá vừa cắt trong các đầm lầy
4 126 Rồi chú lấy vài cây sậy đã cắt, gom Hartani
chúng lại trong hai bàn tay. Chú
thổi vào đó, tạo ra một điệu nhạc lạ
tai hơi khan khàn
5 Hartani
127 Hai người chơi đùa trên sa mạc
6 130 Hartani
Lalla nấn ná ở lại
Hartani bật cười vang, Lalla cũng phá lên cười mà không hiểu tại sao. Tiếp theo, họ đi qua những cánh đồng đá, và Hartani nắm lấy tay Lalla… Hartani chỉ cho Lalla thấy tất cả những gì hiện diện trên những cánh đồng đá, trên đồi Thỉnh thoảng cô vẫn nấn ná với chú trên cao kia cho đến khi màn đêm buông xuống. Bấy giờ, chú gom đàn cừu lại để lùa về bãi quây phía dưới, gần nhà Yasmina.. Thường thì họ không nói gì, họ vẫn ngồi im bất động trên tảng đá trước ngòn đồi.
81
Hartani
Khi hai người ngồi bên nhau
7
131
8 146 Hartani
Hartani dẫn Lalla xuống lòng đất ngắm ánh sáng
9 147 Hartani
10 149 Hartani
Khi hai người trở lên trên
11 153 Hartani
12 154 Hartani
Sauk hi Lalla nói chuyện, Hartani không biết nói Giới thiệu đôi tay của Hartani
Hartani nắm lấy bàn tay Lalla trong bàn tay sạm nâu với những ngón thon dài, chú siết mạnh đến nỗi làm cô gần như thấy đau…Rồi bất chợt, như sợ một điều gì, chú chăn cừu nhổm dạy, chú buông tay Lalla. Không nhìn cô, chú bắt đầu chạy nhanh như một con chó, chú nhảy thoăn thoắt qua những tảng đá và những rãnh nước khô. Chú vượt qua những bức tường đá xếp, và Lalla trông thấy cái bóng sáng của chú lẩn khuất giữa các bụi gai. Một buổi sáng, Hartani đã dẫn Lalla tới tận nơi đó. Một vực thẳm mở rãnh ra nơi đáy một đá…Hartani đã nắm tay Lalla, dìu cô đi dọc theo lối hẹp, xuôi xuống vào trong lòng đất. Hartani ra dấu cho Lalla đến gần lối ra. Sau đó chú ngồi xuống chỗ mấy hòn đá, thận trọng để tránh gây sụt lở. Lalla ngồi sau chú một chút, cô run run vì choáng váng. Chú tìm kiếm một cái gì đó, chú đi mãi không dừng, vừa hơi nghiêng người xuống mặt đất, vừa nhày từ tảng đá này sang tảng đá khác. Rồi bất thần chú dừng lại, bắt đầu áp mặt sát vào đất và nằm sấp bụng như đang uống nước Một lúc sau đó, chú chán, chú quay mặt đi, chú đến ngồi ở một nơi xa hơn, trên một tảng đá khác Hartani biết làm mọi thứ với đôi bàn tay của mình, không chỉ nhặt sỏi hay bẻ củi, mà còn thắt nút thong lọng với những sợi cọ, làm bẫy chim, hoặc huýt to, tạo ra những điệu nhạc, bắt chước tiếng kêu của lũ đa đa, bồ cắt, cáo, bắt chiếc tiếng gió, tiếng giông, tiếng biển.
82
13 156 Hartani nói Chú rất rành việc giả làm rùa bằng Hartani
chuyện bằng cách mím môi, đầu rụt vào vai,
hành động lưng cong vòng. Hoặc chú giả làm
lạc đà, đôi môi chìa ra phía trước,
để hở mấy cái răng cửa
14 157 Lalla mang Chú cầm quyển sách lên, chú có cái Hartani
cho chú cách ngắm nhìn chúng thật lạ lung
những tờ họa bằng cách để chúng nằm nghiêng
báo rồi hơi nghiêng đầu sang một bên.
Tiếp đến, sau khi đã nhìn kĩ các
bức vẽ, chú nhảy nhảy, chú bắt
chước Rock Rafal hoặc Akim đang
ngồi trên lưng voi.
15 161 Lalla mang Hartani lấy con daonhor không có Hartani
táo đến cho cán ra rồi cắt trái táo thành những
Hartani lát mỏng để mỗi người được ăn
một chút
16 Hartani Hartani ngồi trên một tảng đá to Hartani 162
dẫn Lalla đến bằng phẳng ở giữa hang và Lalla
cái hang nơi ngồi bên chú. Họ cùng ngắm ánh
chú ngủ sáng chói chang chiếu qua cửa
hang ở trước mặt
17 163 Lalla tìm cách Cô sợ, cô lắc đầu và tìm cách thoát Hartani
thoát khỏi khoircais ghì siết của chú chăn cừu
vòng tay chú đang giữ chặt hai cánh tay cô sát
chăn cừu vào thành đá và khóa chặt đôi chân
dài cứng cáp vào đôi chân cô.
18 165 Khi họ đi về Hartani tiếp tục nhảy từ tảng đá này Hartani
phía cao sang tảng đá khác như một con vật,
nguyên sau đó nhận ra Lalla không còn ở
phía sau mình nữa, chú đánh một
vòng lớn ngược trở lại. Họ cùng
ngồi trên một tảng đá dưới ánh
nắng, nắm chặt tay nhau.
83
19 253 Khi Lalla bỏ Lalla mở gói của mình ra, chia một Hartani
đi khỏi cư xá, đến tìm ít bánh mì cho Hartani. Họ đứng ăn thật nhanh, bởi họ đói từ lâu. Chú
Hartani chăn cừu nhìn quanh. Đôi mắt chú
dò xét từng chi tiết của cảnh
vật…Chú chỉ một điểm xa, nơi chân trời, về phía những ngọn núi
đỏ. Chú đặt gan bàn tay dưới đôi
môi: Ở đó có nước.
Hartani 20 253
Họ lại cất bước. Hartani đi trước, chú nhảy nhẹ nhàng trên những
tảng đá.
256 21 Hai người Hartani tiếp tục nhảy từ tảng đá Hartani
đi dưới ánh này sang tảng đá khác, không
mặt trời chói quay đầu lại. Bóng dáng trắng toát
chang
và nhẹ nhàng của chú mỗi lúc một xa, chú giống như một con vật
đang lẩn trốn, không dừng chân,
không quay đầu lại.
22 258 Khi Lalla kiệt Bất thần Hartani lại xuất hiện. Chú Hartani
sức đứng trên một chân trước mặt cô, giữ
thăng bằng như một con chim. Chú
đi về phía cô, chú cúi xuống…Chú
ngồi xổm xuống bên cô.
23 259 Hartani đã ôm choàng lấy cô và từ Hartani
từ kéo cô lên. Lalla cảm thấy cơ
bắp ở chân cậu con trai run run vì cố gắng và cô vòng tay ôm chặt cổ chú, cô muốn hòa lẫn sức nặng của cô vào sức nặng của chú.
Hartani
Hartani đi trên sỏi, chú chạy khá nhanh, như lúc chỉ có một mình. 24 259
Chú chạy trên đôi chân dài chệnh
choạng, chú băng qua cái rãnh, chú
bước qua kẽ nứt.
84
Không nuôi dưỡng nhân vật của mình bằng hành động mạnh mẽ nhưng Le
Clézio đã quan sát cẩn thận từng hành động nhỏ của nhân vật để từ đó bộc lộ tâm lí
bên trong của nhân vật này. Có thể thấy Hartani là một kẻ “câm, điếc” trong con mắt
của tất cả mọi người nhưng với Lalla thì cậu ta thật thính nhạy hơn ai hết. Qua việc
miêu tả một loạt hành động của Hartani với Lalla trên cao nguyên Le Clezio đã rất
tinh tế để người đọc có thể thấy được rõ nét tính cách của nhân vật này: Nhạy cảm,
yêu thiên nhiên tha thiết. Thể hiện tính cách nhân vật qua miêu tả hành động là một
thủ pháp cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Qua hành động, Le Clezio muốn
để cho nhân vật của mình nói lên những suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái diễn biến bên
trong nhân vật. Quả thật suốt dọc Sa mạc, không chỉ có mình Hartani được nhà văn
chú ý miêu tả hành động mà hầu hết diễn biến tâm lí, thế giới nội tâm của các nhân
vật khác đều được gợi ra từ những hành động của họ.
Cả hai nhà văn qua hai tác phẩm đều gặp nhau ở điểm tối giản các chi tiết
miêu tả ngoại hình và tập trung miêu tả hành động của nhân vật. Hành động của các
nhân vật cứ lần lượt xuất hiện. Điểm chung của hai nhà văn khi xây dựng hành động
của các nhân vật đều là những hành động có ý thức, có chủ định. Hành động của nhân
vật trong Sông có nhiều chi tiết được sử dụng mang tính chất bước ngoặt của cuộc đời
nhân vật (dẫn đến một kết quả hoặc hậu quả nào đấy). Còn hành động trong Sa mạc ở
nhiều nhân vật là những cử chỉ, hành động diễn ra thường nhật, thậm chí như ở nhân
vật Hartani chúng tôi đã khảo sát ở trên thì hành động của anh thay thế luôn cho ngôn
ngữ trong giao tiếp. Có thể khẳng định thế giới nhân vật cô đơn, lạc loài của cả hai
nhà văn cùng kiệm lời nhưng nội tâm lại vô cùng phong phú.
3.3. Ngôn ngữ và tâm lí nhân vật
Trong một tác phẩm thì ngôn ngữ của nhân vật thường thể hiện được sự tinh
tế, nhạy bén của nhà văn trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực đời sống của họ.
Các nhà văn hiện đại đã lấy nội tâm, tâm lí con người làm đối tượng chính cho sự
miêu tả. Cả Nguyễn Ngọc Tư và Le Clezio đều là những nhà văn quan tâm sâu sắc
đến thế giới nội tâm và tâm lí phức tạp của con người và đưa điều đó vào trong sáng
tác của mình, làm cho nó mang màu sắc mới mẻ. Các nhà văn không xây dựng nhân
vật của mình theo một tính cách cố định mà luôn để cho nhân vật tự va chạm với thế
giới xung quanh trong suốt hành trình dịch chuyển (Men theo sông Di trong Sông và
ngang qua sa mạc trong tác phẩm cùng tên) để bộc lộ tính cách. Hai nhà văn đều đã
vận dụng rất thành công những thành tựu của “Chủ nghĩa tâm lí” trong văn học thế
85
giới. Bởi thế khi nghiên cứu kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài trong sáng tác của hai nhà
văn này ta không thể bỏ qua kiểu miêu tả tâm lí và ngôn ngữ đặc trưng trong sáng tác
của họ. Đó là: Kiểu miêu tả tâm lí thông qua thế giới bên ngoài như: Không gian, thời
gian, thiên nhiên, ngoại hình, hành động và ngôn ngữ của nhân vật… Cùng kiểu miêu
tả tâm lí trực tiếp, nhà văn thâm nhập thẳng vào thế giới nội tâm của nhân vật. Tuy
nhiên, do giới hạn của luận văn, chúng tôi xin được dừng lại ở việc xem xét nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật trên phương diện ngôn ngữ của nhân vật. Cụ thể hơn đó
là: Ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ đối thoại trực tiếp) và ngôn ngữ bên trong (ngôn
ngữ đối thoại gián tiếp qua độc thoại và đối thoại nội tâm).
3.3.1. Ngôn ngữ bên ngoài (đối thoại trực tiếp)
Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút cẩn trọng, còn tương đối trẻ nhưng chị rất dày
tuổi nghề, đồng thời luôn muốn kiếm tìm, thử nghiệm nhưng không phiêu lưu vô lối.
Sông tuy là tiểu thuyết đầu tay nhưng ai cũng thấy rằng đây không phải là tác phẩm
của một ngòi bút mới vào nghề. Ngôn ngữ của chị tỏ ra sắc sảo và phong phú hơn cả
khi diễn tả tâm lí nhân vật. Những nhân vật trong Sông đều có một một đời sống tâm
lý rất riêng và điều đó được thể hiện rõ ràng và chân thực qua một số đối thoại trực
tiếp (dù cho tần xuất đối thoại không nhiều). Tiêu biểu là cuộc đối thoại vẻn vẹn chỉ
có bốn câu của hai mẹ con Ân:
“- Mẹ tính đợi Ân về để tính coi sơn lại hàng rào.
- Cha làm cũng được mà.
- Thằng đó là khách. Mấy chuyện đó phải có đàn ông trong nhà.
- Đang lo thúi ruột. Cha Ân mà ở đây lâu, mấy thằng bồ kia sẽ lủi mất”
[38, tr.144].
Mẹ Ân là một người đàn bà lẳng lơ, vô tâm. Bà thường “chạy đi chạy lại giữa
năm bảy người đàn ông” bởi thế ngay trong lời hỏi thăm con cũng không thoát khỏi
tâm lí của một kẻ “ăn vụng”, một người thiếu tôn trọng cha của con mình qua cách
gọi:“thằng đó” và vị trí“khách”trong nhà của người làm cha. Cuộc đối thoại ngắn gọn
nhưng cũng đủ để độc giả nhận thấy mối quan hệ trong một gia đình không hạnh
phúc. Hơn thế nữa chúng ta đều biết Ân là một kẻ đồng tính mang giới tính nữ vì thế
trong lời người mẹ:“Mấy chuyện đó phải có đàn ông trong nhà”. Từ “đàn ông” ấy ta
thấy nó như một gọng kìm siết lấy họng của đứa con không dám công khai và sống
thật với giới tính của mình. Kể cả với mẹ - Người sinh thành ra mình. Còn gì đau khổ
86
hơn khi không có người chia sẻ, động viên. Sự buồn tủi, cô đơn của Ân trước kia có
Tú san sẻ, giờ Tú bỏ Ân đi lấy vợ, nỗi cô đơn, sự lạc loài ấy chỉ mình Ân mới thấu.
Tiếp đến ta có thểchú ý đến lời đối thoại củaÂn và Bí đỏ (Phụng) - Cô gái đã
đi theo nhóm sau khi Bối biến mất. Khi Xu bắt gặp cô bé bỏ con chuồn chuồn đã bị
vặt cánh vào chai nước cậu uống:
“-Hai bảo em làm vậy, vì thấy Ân buồn nên chọc cho vui.
- Ai nói tôi buồn?
- Hai nói anh bị bồ đá.
- Đâu, tôi đang cười mà.
- Nước mắt chảy từ con mắt là thứ thường thôi, có thứ nước mắt không chảy
ra kiểu vậy.” [38, tr.154].
Một cô gái kì lạ, luôn thích trêu trọc để gây sự chú ý cho người khác lại đổ vấy
hành động của mình cho người đã khuất. Cô gái ấy tỏ ra thông cảm với nỗi cô đơn của
Ân. Cô lẳng lơ gạ gẫm cả Ân, Xu, và thậm chí là ông già đi cùng cô cho đến cả những
người lạ cô gặp giữa đường. Nhưng cô ấy cũng thật tinh tế khi nhận ra nỗi buồn phải
che giấu của Ân “Nước mắt chảy từ con mắt là thứ thường thôi, có thứ nước mắt không
chảy ra kiểu vậy”. Quả thật nỗi đau buồn không nói được thành lời, không rơi được
thành lệ mới là nỗi đau buồn lớn nhất mà con người phải trải qua. Vết thương lòng cứ
âm ỉ cháy để rồi nó khoét sâu mãi, nó loét ra và đẩy người ta tìm đến cõi chết, đến sự
giải thoát. Trước khi đến với sự giải thoát (Rút cuộn cao su bịt lỗ thủng của chiếc
thuyền ra khơi Túi cho nó chìm). Ân đã có cuộc đối thoại trực tiếp với Xu:
“-Ê Xu.
- Hả?
- Có phải anh đã làm gì đó với Bối không?
- Ừ, đúng đó. Thì sao?” [38, tr.224-225].
Sự hoài nghi trong lòng đến phút cuối mới được giải đáp. Hơn thế nữa, sự thật
ấy lại phũ phàng quá, đau đớn quá càng thôi thúc con người ta hành động mãnh liệt
hơn. Không suy nghĩ nhiều, cũng chẳng thấy tội lỗi, Ân lẳng lặng dùng chân rút lỗ dò
nơi chiếc thuyền để kết thúc cuộc chơi của số phận. Ở lời đối thoại ấy ta thấy có đối
thoại bên ngoài và đối thoại ngầm: chỉ người trong cuộc mới hiểu làm gì đó là làm gì.
Nghệ thuật tạo nhiều cuộc thoại trong một cuộc thoại để nhấn mạnh hơn vào đặc
điểm của nhân vật cô đơn không thể trực tiếp nói thành lời mọi ý nghĩ.
87
Trong tiểu thuyết Sông, để miêu tả tâm lí của nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại
của họ, Nguyễn Ngọc Tư dù không sử dụng nhiều nhưng nhà văn đã dùng hai cách kể
điển hình: Một là để nhân vật đối thoại trực tiếp với các nhân vật khác và hai là cuộc
đối thoại của nhân vật được kể lại bởi nhân vật thứ hai hoặc chính tác giả (người kể
chuyện). Cách thứ hai ta bắt gặp nhiều hơn. Vậy trong tiểu thuyết Sa mạc, Le Clezio
có sử dụng cùng cách kể với chị Tư không, chúng ta hãy cùng quay trở lại Sa mạc. Le
Clezio ít khi cho chúng ta những câu thể hiện tiếng nói của nhân vật nhưng đôi lúc
những lời đối thoại trực tiếp lại có tác dụng vô cùng to lớn trong việc miêu tả diễn
biến tâm lí và trạng thái của nhân vật.Khảo sát tác phẩm ta thấy tiêu biểu là cuộc đối
thoại giữa Lalla và con trai của Aamma:
“-Mẹ tụi này đã quyết định gả chị cho ông ấy, bởi ông ấy giàu lắm.
- Nhưng tôi không muốn lấy chồng!
- Chị không được nói gì cả, chị phải vâng lời cô của chị?
- Không bao giờ ! Không bao giờ !” [21, tr.228].
Một con người luôn sống tự do và yêu quý, gắn bó hòa hợp với thiên nhiên
như Lalla khi bị ép gả đã có thái độ phản ứng gay gắt và dữ dội. Le Clezio đã để cho
nhân vật bộc lộ những bức xúc và ấm ức trong lòng bằng lời lẽ rắn rỏi và quyết
liệt“Không bao giờ ! Không bao giờ !”. Ngay sau cuộc đối thoại này Lalla đã có
những lời lẽ gay gắt không kém trước quyết định của bà cô:
“-Cô không thể bắt cháu lấy người đó được.
- Đó sẽ là người chồng tốt cho cháu. Anh ta không còn trẻ lắm, nhưng giàu,
anh ta có một ngôi nhà lớn tại thành phố, và anh ta quen biết nhiều người có thế lực.
Cháu phải ưng anh ta ngay thôi.
- Cháu không muốn lấy chồng, không bao giờ!?
- Cô đã nuôi dưỡng cháu như con ruột, cô thương cháu vậy mà hôm nay cháu
lại trái ý cô.
- Cháu không quan tâm. Cháu không muốn lấy người đó. Cháu không ưa
những món quà nực cười này” [21, tr.229].
Trước sự phản đối của Lalla, cô Aamma đã phải dùng những lời lẽ phân tích
những ưu điểm mà cô nhận thấy ở đối tượng cô lựa chọn cho cháu mình, đúng theo
diễn biến tâm lý thông thường của những con người ham vật chất, bị hoa mắt trước
những giá trị vật chất để rồi đánh mất đi lương tâm của chính mình. Cô khẳng định
chắc nịch và tin vào sức mạnh của đồng tiền cũng như quyền định đoạt của bề
88
trên “Cháu phải ưng anh ta ngay thôi”. Sau đó Lalla vẫn phản đối thì bà cô chuyển
sang giọng điệu kể lể, lấy tình thân ra để thuyết phục, thậm chí ép cháu theo ý mình
“Cô đã nuôi dưỡng cháu như con ruột, cô thương cháu vậy mà hôm nay cháu lại trái
ý cô ”. Nếu cô bé không làm theo ý bà cô tức là cô bé là người bất hiếu. Nhà văn đã
để chúng ta cảm nhận thấy có một Lalla mạnh mẽ, quyết đoán ẩn đằng sau dáng vẻ
nhỏ nhắn của cô bé mảnh mai này chỉ qua mấy từ thể hiện thái độ “Cháu không quan
tâm”, ý muốn “Cháu không muốn lấy người đó. ”và sở thích “Cháu không ưa những
món quà nực cười này”. Chính từ những nguyên nhân và cuộc đối thoại này mà Lalla
đã quyết định rời xa cư xá và những con người nơi đây. Để rồi ta thấy một Lalla
trưởng thành và cứng cáp khi cô tới Marseille. Cuộc đối thoại với cậu bé Radicz cũng
đã lột tả được tâm lí khá phức tạp của hai nhân vật này:
“- Chị đã… ngủ với một người đàn ông bao giờ chưa?
- Chưa, nhưng mà rồi, tại sao vậy?
- Em thì em chưa làm chuyện đó.
- Chưa làm chuyện gì ?
- Em chưa ngủ với một người đàn bà.
- Em còn nhỏ quá.
- Không đúng ! Em, các bạn em, tụi nó thằng nào cũng đã làm chuyện đó, có
cả những đứa có hẳn một người đàn bà riêng cho mình nữa, và tụi nó giễu em, tụi nó
bảo em là dân pê đê vì không có đàn bà.” [21, tr.351].
Trong lời đối thoại này, Le Clezio cũng có đối thoại ngầm: Mục đích của
Radicz không chỉ là hỏi để Lalla trả lời, để tìm kiếm thông tin mà chủ yếu là hỏi để
chia sẻ nỗi cô đơn.Cuộc đối thoại không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận về một
xã hội vô cùng phức tạp ở Marseille này. Những đứa trẻ mới chưa đầy mười bốn tuổi
như Radicz đã sớm bị đẩy vào cuộc đời nhơ bẩn với biết bao cám dỗ, nếu chúng
không nhem nhuốc về nhân cách thì chúng cũng sớm trở nên lạc lõng giữa đồng loại.
Chúng cô đơn, bơ vơ đến tội nghiệp. Radicz dù mang tâm lí của một đứa trẻ chưa
trưởng thành nhưng những nhìn nhận của cậu về thế giới và con người cậu tiếp xúc
khá chín chắn. Còn Lalla, thái độ kinh ngạc trước câu hỏi của Radicz khiến cô bối
rối“Chưa, nhưng mà rồi, tại sao vậy ?”, một đứa trẻ còn quá nhỏ sao đã quan tâm đến
chuyện người lớn, hơn nữa nó mới quen Lalla thôi sao lại đặt những câu hỏi như vậy.
Không kinh ngạc sao được, không tò mò sao được, bởi thế Lalla lại đặt câu hỏi ngược
lại với nó “…tại sao vậy ?”. Sau khi nghe những lời trần tình của nó thì cuối cùng
89
Lalla cũng tiết lộ bí mật của cô cho Radicz “Em có biết là chị sắp có em bé không ?”.
Le Clezio đã thật tinh tế và tài tình khi sử dụng ngôn ngữ đối thoại này. Phong cách
viết của ông khá độc đáo, bởi thế ngôn ngữ nhân vật của ông cũng độc đáo. Đó không
chỉ là phát ngôn của riêng nhân vật mà còn là phát ngôn của nhà văn. Thông qua lời
phát vấn trực tiếp của nhân vật, Le Clezio đã bày tỏ một thái độ bất hợp tác với hệ
thống xã hội đang ngự trị Marseille này. Về điểm này, Nguyễn Ngọc Tư và Le Clezio
đã có sự gặp gỡ, tuy nhiên mức độ khái quát và trừu tượng của ngôn ngữ nhân vật ở
tác phẩm của Le Clezio cao hơn ở tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư. Điều này là do sự chi
phối của văn hóa và châu lục mà hai nhà văn sinh sống. Cả hai nhà văn đều không sử
dụng nhiều kiểu ngôn ngữ đối thoại trực tiếp nhưng vẫn có chung cách kể tiêu biểu:
Một là để nhân vật đối thoại trực tiếp với các nhân vật khác và hai là cuộc đối thoại
của nhân vật được kể lại bởi nhân vật thứ hai hoặc chính tác giả (người kể chuyện).
Như vậy cả hai nhà văn đều sử dụng cả đối thoại thực tiếp và đối thoại ngầm.
3.3.2. Ngôn ngữ bên trong (độc thoại và đối thoại nội tâm)
Có thể thấy tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không miêu tả tâm lý nhân vật một
cách dài dòng cũng không tốn nhiều trang văn bản để đi vào phân tích tâm lý nhân vật.
Chị sử dụng từ ngữ rất cô đọng nhưng lại súc tích, thể hiện sâu sắc nội tâm nhân vật.
Nguyễn Ngọc Tư không nói nhiều một cách trực tiếp đến tâm trạng nhân vật nhưng
đọc văn chị ta có thể thấy rất rõ những suy tư, tình cảm, những nỗi trăn trở của nhân
vật, ở đó là cả một trời tâm trạng. Nguyễn Ngọc Tư thể hiện tài năng ở việc phân tích
tâm lý nhân vật một cách rất tinh tế và vô cùng phong phú. Mỗi một nhân vật trong tiểu
thuyết Sông lại mang một tâm trạng riêng, một nỗi niềm riêng và cách thể hiện cũng rất
riêng. Yếu tố tâm lý thường được các nhà văn xem là một đối tượng nghiên cứu trực
tiếp của mình. Muốn nhân vật sống động trong tác phẩm, nhà văn phải nắm bắt được
tâm lý của nhân vật. Đây cũng chính là một thử thách đối với nhà văn bời tâm lý của
con người không đơn giản, khó nắm bắt. Mỗi người có một tính cách riêng, cách suy
nghĩ riêng với những cảm nhận khác nhau về thế giới và con người.
Nhưng trong Sông, chị Tư đã lội sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật và từ đó
phơi bày được tâm lí của họ. Những chuyện riêng tư tủn mủn chỉ có giữa hai người
giờ đã lạc mất nhau có sức công phá mãnh liệt đến nỗi chàng phóng viên con duy
nhất bỏ lại bà mẹ mỏi mòn mong con. Ân bỏ hết cuộc đời mà còn nắm tay kéo theo
hai mạng sống vô can khác. Trong suốt hành trình trên sông Di ấy, đã biết bao lần
tâm tư của Ân được bộc lộ. Mọi ký ức và sự biến đổi của cuộc sống đều được nhìn
90
qua lăng kính tâm hồn của nhân vật Ân. Nguyễn Ngọc Tư đã phân tích rất sát tâm lý
của một con người lạc loài và bị bỏ rơi trong tình yêu. Dù nhớ Tú khắc khoải nhưng
mỗi lần nhận được tin nhắn của Tú Ân đều dằn lòng, để rồi lại mong nhớ trong xót xa
bởi trò đùa của số phận.Ân vốn là một con người nhạy cảm, dễ mềm lòng nhưng
không bởi vậy mà Ân cả tin. Khi niềm tin rạn nứt, Tú kết hôn với người con gái khác
khiến Ân suy sụp và trốn chạy để tìm quên. Giữa lúc ấy Ân nhận được những tin
nhắn níu kéo từ Tú: “Ngoái lại đi Ân”, “Chỉ một cơ hội nhỏ nhoi thôi cũng không thể
cho Tú sao?” [38, tr.167]. “Mình tuyệt vọng và sắp mất hết kiên nhẫn. Về đi, Tú sẽ
quăng bỏ hết mọi thứ chạy tới với Ân”. Nhớ lại cơ hội cậu đã cho Tú khi hẹn ở biển
nhưng Tú không tới. “Nếu hôm đó Tú đến có lẽ Ân đã chấp nhận tiếp tục náu mình
trong bóng tối, bất chấp một hay đến mười đám cưới” [38, tr.167]. Đây là kiểu lời đối
thoại tha hóa thành độc thoại vì Ân không nhắn lại. Kiểu lời thoại này nhấn mạnh vào
nỗi cô đơn không thể tỏ bày của nhân vật. Những cảm xúc yêu đương, hờn ghen riêng
tư ấy đã được Nguyễn Ngọc Tư lột tả một cách tinh tế và bén nhạy. Hay trong mối
quan hệ của nhóm ba người bạn đồng hành, Xu không gần gũi và thân thiết với Ân
như Bối, cậu thường bị gạt ra khỏi cuộc nói chuyện giữa Ân. Cậu cảm thấy sượng
sùng khi anh bảo lúc say rượu, cậu thấy Ân cắn cậu. Hay khi thấy Bối ghé răng cắn
móng tay cho Ân thì tâm trạng Xu ra sao? Cậu không nhìn thấy hay nhác thấy nhưng
day đi chỗ khác? Có thể nào vì ghen mà cậu đã làm cho Bối biến mất một cách kì lạ.
Tâm lí của con người quả là một thế giới hết sức phức tạp và khó có thể dự đoán
được nhưng chị Tư đã thể hiện nó một cách tự nhiên và tài năng nhất. Nguyễn Ngọc
Tư đã để cho Ân cùng chiếc quách và hai người khác mất hút giữa lòng khơi. Những
con người ấy có hoặc không có điểm bắt đầu và rồi kết thúc cũng mập mờ, để người
đọc muốn hiểu sao thì hiểu.
Qua Sông, Nguyễn Ngọc Tư đã để người đọc thấy được những gai góc của
cuộc đời, những nặng nề và những số phận bất hạnh. Họ đến và đi bởi họ mang trong
mình nỗi cô đơn quá lớn, họ không thể vượt qua nên họ tìm cách giải thoát. Cuộc đời
thật nhiều cay đắng và chua xót… nhưng cuộc đời không chỉ có thế đâu. Nó cũng
đáng để sống lắm bởi cuộc đời còn rất nhiều điều mến thương, rất nhiều con người
bao dung, độ lượng và biết chia sẻ vì thế hãy cố sống tốt hơn chứ đừng bao giờ sống
như Sông. Với một ngòi bút tinh tế, nhạy cảm Nguyễn Ngọc Tư đã miêu tả, phân tích
tâm lý của các nhân vật cô đơn và rút ra cho chúng ta thông điệp về cuộc sống đó.
91
Ngôn ngữ của Le Clezio ở Sa mạc khá cô đọng, ngôn ngữ của ông gần như
ngây thơ trong sự đơn giản của nó, và các câu của ông có xu hướng ngắn gọn và
mang tính khẳng định. Tránh lặp lại nhưng ít khi cho chúng ta những câu thể hiện
tiếng nói của nhân vật. Đọc Sa mạc của Le Clezio, ta thấy nhà văn thành công không
phải ở ngôn ngữkể chuyện. Có thể nói việc kể chuyện bằng ngôn ngữ giản dị, chân
thành của nhân vật đã “che giấu” bớt cái nhìn chủ quan của nhà văn. Bởi với giọng
điệu chân thành, bình dị, nhân vật đã tự nói về những trải nghiệm thực tế của bản thân
một cách chân thực, sống động. Ở đây, hầu như không có sự hư cấu, nhân vật tồn tại
như một thực thể có thật, tạo cảm giác tin tưởng vì khi đó “câu chuyện được kể trở
thành câu chuyện về một cái tôi cụ thể nào đó, lời lẽ cái tôi rất riêng ấy là nhân
chứng duy nhất của mọi sự kiện được kể”
Để thể hiện chân thực thế giới nội tâm của nhân vật, các nhà văn hiện đại
thường để nhân vật của mình tự bộc lộ thông qua “độc thoại nội tâm” (vì độc thoại
nội tâm lâu nay được xem là phương tiện thích hợp nhất thể hiện những tình cảm sâu
kín của nhân vật). Trong Sa mạc Le Clézio sử dụng những đoạn độc thoại nội tâm
cùng với đó là việc để cho nhân vật thoải mái hình dung, tưởng tượng về thiên nhiên
và con người. Từ đó nhà văn giúp ta nhận ra tâm lí của các nhân vật. Le Clézio truyền
đạt sự mâu thuẫn giữa sự im lặng và sức mạnh của từ để thể hiện cảm xúc và ý
tưởng. Ví dụ như khi tìm hiểu nhân vật Hartani ta thấy dường như Hartani đại diện
cho một lối sống cũ, một cuộc sống đơn giản phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên, xa
những ưu tiên và nhu cầu của thành phố. Cách duy nhất để nói chuyện với anh ta là
nhìn vào mắt anh ta. Nhà văn không khắc sâu vào ngôn ngữ âm thanh bởi Hartani là
một người câm vả lại không biết chữ. Lalla nhìn anh và đọc ánh sáng trong đôi mắt
đen của anh, và anh nhìn sâu vào đôi mắt hổ phách của cô; anh không chỉ nhìn vào
khuôn mặt của cô, nhưng thực sự sâu vào mắt cô, và nó như thể anh hiểu những gì cô
muốn nói với anh. Cuốn tiểu thuyết lý tưởng hoá việc truyền thông vượt ra ngoài
ngôn từ, trong một khung cảnh tự nhiên, trái ngược với những âm thanh hiện đại
trong thành phố. Lalla có thể bắt nguồn từ cái nhìn của Hartani để hiểu về sự vật, sự
việc đang diễn ra, thậm chí cả những thứ vượt quá khả năng của từ để diễn tả. Điều
bạn muốn nói, sâu thẳm bên trong, giống như một bí mật, giống như một lời cầu
92
nguyện. Và Hartani không nói theo bất kỳ cách nào khác; anh ta biết cách đưa ra và
nhận được loại thông điệp đó.Rất nhiều thứ được chuyển tải thông qua sự im
lặng. Lalla không biết điều đó trước khi gặp Hartani. Những người khác mong đợi chỉ
có lời nói, hoặc hành động, bằng chứng, nhưng Hartani“anh nhìn Lalla với đôi mắt
kim loại đẹp của anh, mà không nói gì cả, và trong ánh mắt anh nghe thấy anh đang
nói gì, anh đang hỏi gì” [21, tr.68]. Chức năng mô tả của các từ không bị cản trở
nhiều bởi ngôn ngữ. Đoạn văn này, rõ ràng là những từ được lựa chọn tốt, nhưng lại
cung cấp nhiều hơn sự gợi lên của từ. Nó nằm trong ý thức về đời sống sa mạc.
Cuốn tiểu thuyết như một tổng thể cung cấp một cách nhìn vượt ra ngoài bề
mặt của sự vật, vượt ra ngoài bề ngoài của từ. Là một người bị khủng bố chạy trốn
khỏi những khoảng cách khắc nghiệt của sa mạc "những bó cuộn trên lưng, giống
như những con côn trùng kỳ lạ sau cơn bão"[21, tr.27]. Sự im lặng đáng thương của
họ dường như cả lời cầu nguyện lẫn phản đối. Phẩm giá và sự tử đạo yên tĩnh của họ
tạo nên sự tương phản với người dân của một thành phố châu Âu (thành phố Lalla đã
trốn thoát). Trong thành phố ẩm ướt này, những cuộc phiêu lưu của Lalla được kể
bằng những từ ngữ mang tính mô tả, chứ không phải ngôn ngữ nói. Sa mạc là một
cuốn tiểu thuyết hình ảnh. Từ một cuộc lưu vong, nó kể lại cuộc tìm kiếm không bao
giờ kết thúc chosự bình đẳng về chủng tộc và an toàn cho cuộc sống con người. Ngoài
lời nói, vượt ra ngoài các giá trị thẩm mỹ, nhân đạo nằm trong nội dung các trang sách.
Khám phá nhân vật trong tác phẩm của Le Clezio ta thấy nhà văn cũng đã tạo ra
một thế giới tâm lí nhân vật khá phong phú và đa dạng. Không phải là nhân vật chính và
tiêu biểu nhất nhưng khi nhắc đến Radicz, chúng ta những tưởng đó là cậu bé bướng
bỉnh, bất cần đời nhưng thực sự cậu ta là con người giàu cảm xúc và có nội tâm sâu
thẳm. Chỉ khi ở bên cạnh Lalla, người bạn thân tình mà cậu ta quí mến cậu mới thể hiện
những suy nghĩ, những cảm xúc của mình. Tâm hồn nhạy cảm của cậu được thể hiện
trong suy nghĩ của cậu, trong nỗi buồn và cả sở thích của cậu. Radicz thích ngắm biển
lúc hoàng hôn và không gian thành phố lúc sáng tinh sương khi không khí còn trong trẻo.
Và đặc biệt Radicz rất thích quẹt diêm…Đôi khi nhà văn cũng để cho nhân vật độc thoại
nội tâm. Chẳng hạn sau cuộc đối thoại với Lalla, nhà văn miêu tả: “Nó vừa tiếp tục suy
nghĩ vừa hút thuốc: Nhưng em cóc quan tâm đến những gì tụi nó nói. Em thì em cho
93
rằng ngủ với một người đàn bà thì cũng hay hố gì, mấy trò đó chỉ để tỏ ra láu cá đùa cợt
mà thôi” [21, tr.352]. Qua độc thoại nội tâm đó ta thấy rõ tính cách nhân vật, tuy trẻ
trung nhưng khá già dặn trong suy nghĩ với lối sống kín đáo.Trong diễn biến tâm lí cùng
thế giới nội tâm của Radicz khi phải sống bằng nghề ăn mày và trộm cắp, cậu luôn thấy
sợ hãi và cái chết rình rập mình. Và cậu đã chết một cách rất thương tâm. Thông qua việc
miêu tả tâm lí nhân vật này, tác giả muốn lột tả số phận những con người như Radicz bị
hoàn cảnh xã hội xô đẩy và chúng phải sống cuộc sống không mong muốn. Nhà văn
cũng muốn gửi tới độc giả thông điệp giàu lòng nhân ái và tính nhân văn đó là: Hãy quan
tâm và giành tình yêu thương cho những đứa trẻ thiếu may mắn để chúng không phải
sống cuộc sống đau khổ và chịu kết cục đau thương.
Tâm lí, tính cách con người bao giờ cũng là đối tượng phản ánh của văn học.
Lịch sử văn học dân tộc xét cho cùng là lịch sử tâm hồn của nhân dân. Tài năng của
nhà văn không phụ thuộc vào điều họ nói mà thể hiện ở việc họ miêu tả tâm lí nhân
vật ra sao. Nhà văn lớn bao giờ cũng là một bậc thầy trong việc miêu tả tâm lí. Le
Clezio chính là một nhà văn như thế, qua việc khắc họa tâm lí của các nhân vật trong
Sa mạc, ông đã thức tỉnh được độc giả bằng chính ý nghĩa nhân văn mà các nhân vật
đem lại: Con người hãy sống với bản chất tự nhiên của chính mình, đó chính là thiên
đường hạnh phúc. Như vậy, cả hai nhà văn đều sử dụng ngôn ngữ nhân vật như là
một phương tiện để phản ánh tính cách của nhân vật.
* Tiểu kết:
Kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài mặc dù đã được nhắc đến và khai thác từ lâu
nhưng con người cô đơn, lạc loài trong sáng tác của Le Clezio và Nguyễn Ngọc Tư
lại vô cùng đặc biệt. Ở hai nhà văn này có những điểm tương đồng nhưng cũng rất
khác biệt trong nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật cô đơn, lạc loài.
Trước hết là điểm tương đồng: Trong hai tác phẩm của mình các nhà văn này đều
tối giản các chi tiết miêu tả ngoại hình, sử dụng các chi tiết miêu tả ngoại hình như là
một phương tiện hỗ trợ để bộc lộ tâm lí và tính cách nhân vật. Cả Le Clezio và Nguyễn
Ngọc Tư khi miêu tả ngoại hình đều chú ý đếnkhắc họa hình ảnh đôi mắt và ánh nhìn
của các nhân vật cô đơn. Về hành động cả hai nhà văn của chúng ta đều ưa dùng hành
động để diễn tả tính cách, tâm lí của nhân vật qua đó thể hiện rõ sự nhìn nhận và đánh
94
giá của mình về đối tượng được miêu tả. Hành động của kiểu nhân vật này đều là những
hành động có ý thức, có sự tính toán không phải là những hành động vô thức. Còn về
ngôn ngữ và tâm lí nhân vật ta thấy cả Le Clezio và Nguyễn Ngọc Tư đều ít sử dụng
ngôn ngữ đối thoại trực tiếp, phần đa là sử dụng ngôn ngữ độc thoại. Để thoát khỏi nỗi
cô đơn thì các nhân vật đều hướng đến thiên nhiên để buông bỏ.
Mặc dù có sự gặp gỡ tương đối nhiều trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, hai
nhà văn cũng có những điểm riêng, khác biệt trong phong cách sáng tác. Trước tiên,
nghệ thuật xây dựng ngoại hình ở Nguyễn Ngọc Tư cũng chú trọng chi tiết đôi mắt
nhưng chi tiết này không có sự lặp lại ở một nhân vật nhất định, mà nhà văn chú ý
đến chi tiết này khi quan sát và nhận định nhiều nhân vật. Le Clezio trong tiểu thuyết
Sa mạc, chi tiết đôi mắt được lặp đi, lặp lại ở một nhân vật nhiều lần. Không chỉ lặp
lại ở một chi tiết đôi mắt,Le Clezio còn lặp lại ở nhiều chi tiết khác như: Làn da, mái
tóc hay đôi bàn tay…Kết hợp với việc lặp lại các chi tiết, nhà văn sử dụng dày đặc
biện pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng. Tất cả các chi tiết và các biện pháp nghệ
thuât đó đã gợi ra một thế giới cô đơn nơi sa mạc cũng là sự mênh mông trong tâm
hồn những con người cô đơn. Khác biệt lớn nhất trong hành động qua tác phẩm Sông
của Nguyễn Ngọc Tư so với Sa mạc của Le Clezio là trong Sông, hành động của các
nhân vật rất mạnh mẽ, quyết liệt, các hành động ấy có thể dẫn đến những sự thay đổi
lớn về cuộc đời và số phận của nhân vật. Còn ở Sa mạc, hành động của các nhân vật
đơn giản hơn và mang tính chất bản năng nhằm diễn tả diễn biến tâm lí của nhân vật.
Thậm chí dùng hành động để thế chỗ cho ngôn ngữ trong giao tiếp, để thể hiện suy
nghĩ, tư tưởng, trạng thái… (Hartani). Về ngôn ngữ và tâm lí, Trong Sông, ngôn ngữ
mang hơi thở và được quy định bởi môi trường sống cùng văn hóa việt: Nhẹ nhàng,
tinh tế, thẳng thắn, sâu sắc mà không kém phần hóm hỉnh.Ngôn ngữ trong Sa mạc lại
cô đọng, giản dị, chân thành mà không kém hấp dẫn. Tâm lí của kiểu người cô đơn
trong hai tác phẩm đều muốn tìm đến thiên nhiên nhưng trong Sông, các nhân vật cô
đơn tìm đến thiên nhiên mà nỗi cô đơn không bớt, họ càng cảm thấy lẻ loi và không
tìm được lối thoát, có nhân vật đã tìm đến cái chết để giải thoát khỏi nỗi cô đơn ấy.
Trong Sa mạc, nhân vật cô đơn đã hướng đến thiên nhiên, một số trong bọn họ đã tìm
được niềm vui, hạnh phúc từ sự hòa hợp và trở về với người mẹ thiên nhiên.
95
KẾT LUẬN
Tiểu thuyết Sông và Sa mạc đều là những tác phẩm rất tiêu biểu cho phong
cách sáng tác của hai nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và Le Clezio. Tìm hiểu về kiểu nhân
vật cô đơn lạc loài trong hai tác phẩm ta thấy các nhà văn đã thể hiện được sự tinh
nhạy của mình khi phát hiện ra hành trình kiếm tìm hạnh phúc của họ - những kiếp
người cô đơn, đồng thời ta cũng thấy các nhà văn còn rất thành công trong việc sử
dụng nghệ thuật xây dựng nhân vật. Sự nhạy bén của hai nhà văn cùng tài năng của
họ đã tạo nên sự hấp dẫn và sức lôi cuốn mạnh mẽ đến độc giả trong và ngoài nước,
đưa các nhà văn đến gần hơn các giải thưởng lớn về văn học.
1. Trước hết phải nói đến sự nỗ lực vượt lên trên hoàn cảnh và sáng tạo không
ngừng của các nhà văn. Nguyễn Ngọc Tư với niềm đam mê viết lách cùng tình yêu sâu
nặng dành cho mảnh đất con người quê hương đã giúp chị vượt qua nỗi nhọc nhằn vất vả
của tuổi thơ để đến với văn chương bằng sức viết dồi dào. Không chỉ thỏa mãn với những
thể loại đã thành công như: truyện ngắn và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã mạnh dạn thử sức
với thể loại tiểu thuyết. Đến với tiểu thuyết của chị, cuốntiểu thuyết đầu tay Sông thực sự
một lần nữa chị lại đốn tim độc giả bằng lối viết chân thành, mộc mạc mà không kém phần
sắc sảo ẩn chứa sau tiếng lòng đầy sự thổn thức về số phận và những mảnh đời cô đơn lạc
loài đang vùng vẫy tìm lối thoát giữa dòng đời kia. Là một nhà văn phiêu du - Le Clezio đã
trải qua cuộc sống ở nhiều vùng đất khác nhau, chính hiện thực cuộc sống cùng bối cảnh
của nhiều vùng đất đã đi qua cùng tài năng thiên bẩm đã giúp ông thành công với chủ đề
rất đa dạng trong sáng tác của mình. Le Clezio giống như một nhà biên niên sử thầm lặng
nhưng lại tinh tế khi đã vạch ra những thảm họa của đời sống hiện đại. Sa mạc chính là
đỉnh cao trong sáng tác của Le Clézio.
2. Trong Sông và Sa mạc đều có khá nhiều nhân vật cô đơn lạc loài. Tất cả bọn họ
đều đã phải vất vả và miệt mài trên con đường kiếm tìm hạnh phúc. Giữa không gian và
thời gian rộng lớn ấy kẻ tìm được niềm vui và ý nghĩa cuộc sống, người thì rơi vào bế tắc
tuyệt vọng. Mỗi nhân vật có cách phản ứng với nỗi cô đơn rất khác nhau. Có nhân vật tìm
thấy niềm vui và ý nghĩa cuộc sống sau nỗi cô đơn kéo dài (Lalla trong Sa mạc) nhưng có
những nhân vật không tìm được lối thoát ra khỏi sự cô đơn đeo bám bên mình. Họ đã phải
tìm đến cái chết để giải thoát (Ân trong Sông). Không những vậy họ còn kéo theo sự ra đi
của nhiều người khác. Dù thế nào ta cũng thấy sự cô đơn thật đáng sợ, không phải ai cũng
vượt qua được và thật sự vượt qua được cũng không hề dễ dàng.
96
3. Góp phần tạo nên sự thành công của một tác phẩm không thể không kể đến
nghệ thuật mà các nhà văn đã sử dụng. Thế giới nhân vật cô đơn trong Sông và Sa
mạc không chỉ đơn thuần được khắc họa qua ngoại hình với những chi tiết đặc tả mà
chủ yếu qua hành động của họ. Có những nhân vật chỉ thông qua hành động ta có thể
thấy hết được cả thế giới nội tâm đầy phong phú (Hartani trong Sa mạc), lại có nhân
vật chỉ thông qua một vài hành động ta thấy được tính cách khác thường của họ (Bối
trong Sông)…Cả hai nhà văn còn đặc biệt thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ và
thể hiện tâm lí nhân vật. Lúc thì dùng kiểu đối thoại trực tiếp bằng ngôn ngữ bên
ngoài, khi lại sử dụng ngôn ngữ bên trong qua độc thoại và độc thoại nội tâm.
Sử dụng hai tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu để nói lên nỗi cô đơn của kiểu
nhân vật cô đơn lạc loài, người viết muốn chỉ ra sự giống và khác nhau trong hai tác
phẩm dưới hai ngòi bút thuộc châu lục khác nhau. Ở Sông là nỗi cô đơn do con người bị
lạc loài về giới tính (Ân), bị bỏ rơi (Xu) hay đơn giản con người cô đơn chỉ là bởi chán
ghét sự bình yên đến nhàm chán, muốn được thay đổi để tìm được niềm vui trong cuộc
sống (Bối). Còn ở Sa mạc, con người cô đơn bởi chưa tìm được lối giải thoát cho sự khốn
khó của cộng đồng (Nour), có cả nỗi cô đơn bởi bất hạnh do bị bỏ rơi và bị mọi người xa
lánh (Hartani), thậm chí, con người cô đơn bởi tình yêu quá lớn với thiên nhiên, phải rời xa
quê hương dù quê hương nghèo khó (Lalla). Nỗi cô đơn bủa vây lấy họ bởi những lí do
không giống nhau, người thì tự cảm thấy cô đơn, người khác lại bị đẩy vào sự cô đơn. Qua
việc tìm hiểu về kiểu nhân vật cô đơn lạc loài trong hai tác phẩm trên, người viết muốn
mọi người thấy rằng: Nỗi cô đơn là trạng thái tâm lí của con người, nó không loại trừ ai.
Hình như xã hội càng phát triển thì con người càng cảm thấy cô đơn hơn, ở bất cứ lãnh địa
nào ta cũng có thể bắt gặp những con người mang nặng nỗi cô đơn. Cả Nguyễn Ngọc Tư
và Le Clezio đều là những nhà văn sống trong xã hội hiện đại nên các nhà văn của chúng
ta có những điểm gặp gỡ về cách nhìn nhận và phát hiện ra nỗi cô đơn của con người.
Những nhân vật cô đơn luôn thấy tâm hồn trống vắng, thiếu người san sẻ, cảm giác như bị
tách rời khỏi cộng đồng và chỉ còn lại một mình. Trong cô đơn, con người hướng về tương
lai một cách vô định và ám ảnh về cái chết với một nỗi bất an thường trực. Nghệ thuật xây
dựng kiểu nhân vật này giữa các nhà văn cũng có điểm chung, tuy nhiên phong cách của
các nhà văn có sự khác biệt hoàn toàn, điều này được tạo nên bởi vốn sống, vốn hiểu biết,
sự rèn giũa và tài năng thiên phú của mỗi nhà văn không giống nhau.
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Huỳnh Phan Anh (1997), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Sa mạc J.M.G. Le
Clezio , báo Lao động số 135 ra ngày 24/8/1997.
2. Lê Huy Bắc (2009), Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo & Gabriel Garcia Marquez,
Nxb GD.
3. Phan Quý Bích (2006), Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, Văn nghệ
trẻ, số 64 ra ngày 12/11/2006.
4. Mai Thị Bình (2014), Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt nam
đương đại (Qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh,
Chu Lai và Nguyễn Danh Lam), Khóa luận tốt nghiệp Khoa Văn học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Bình (2006), Thời gian và không gian trong Sa mạc của J.M.G Le
Clézio, Nghiên cứu Văn học.
6. Nguyễn Thị Bình (2010), Tư tưởng nhân văn trong các tác phẩm của J.M.G. Le
Clézio, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Bình (dịch) (2010), J.M.G. Le Clézio; nhân vật của tôi là những
người qua đường, Nghiên cứu Văn học, tháng 10.
8. Nguyên Cẩn, Jean - Marie Gustave Le Clézio: Không có những biên giới, Tạp
chí Văn hóa Phật giáo. số ra ngày 7/11/2008.
9. Hà Kim Chi, Nguyễn Huỳnh Tố Quyên (2016), “Trôi đi” để tìm lại chính mình
trong tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư, Hội thảo khoa học sinh viên lần IX.
10. Nguyễn Văn Dân (2001), Giáo trình văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội,.
11. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương tây hiện đại,
Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.
12. Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây tiếp nhận và giao thoa trong
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo dục Hà Nội.
14. Lương Thúy Hà (2009), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư, Khóa luận tốt nghiệp,
98
15. Vũ Thị Thu Hà (2006), Khám phá nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư, Khóa luận tốt nghiệp.
16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
17. Đặng Thị Hạnh (chủ biên) (1993), Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XX. Nxb Ngoại văn.
18. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Huệ (2009), Biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Qua
Cánh đồng bất tận và Gió lẻ và 9 câu chuyện khác), Khóa luận tốt nghiệp,
20. Phú Thùy Hương (2010), Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, Khóa luận tốt nghiệp,
21. J.M.G Le Clézio (1997), Sa mạc, NXB. Hội Nhà văn, Hà Nội
22. Cẩm Lệ (2006), Nguyễn Ngọc Tư - Hạnh Phúc phía sau trang viết, Phụ nữ TP. HCM.
23. Le Clézio, Ra mắt Sa mạc - tuyệt tác, https://baomoi.com
24. Hoàng Thị Hiền Lê (2008), Kiểu nhân vật cô đơn trong một số tiểu thuyết của
Banana Yoshimoto và Haruki Murakami, Khóa luận tốt nghiệp Khoa Văn học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
25. Lê Thị Kim Liên (2016), Thân phận cô đơn của nhân vật nữ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư, Tạp chí Non Nước Đà Nẵng.
26. Phương Lựu ( 2001), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Văn học.
27. Phương Lựu (chủ biên) ( 2010), Lí luận văn học (ba tập), Nxb Giáo dục Hà Nội
28. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, NXb Hội nhà văn, Hà Nội.
29. M.Bakhtin - Phạm Vĩnh Cư (dịch và tuyển chọn) (2003), Lí luận và thi pháp
tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn.
30. Ming - Dongu (2010), "Hồng học tâm bệnh: Tiếp cận Hồng lâu mộng từ phân tâm
học", Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 11.
31. Hoàng Phê (chủ biên) (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ
điển học, Đà Nẵng - Hà Nội.
32. Stephanie Dowrick(2007), Cô đơn và gắn bó, Nxb Văn hóa - Thông tin.
33. Bùi Việt Thắng (biên soạn) (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa - Thông tin.
34. Nguyễn Hương Thảo (2010), Cái cô đơn trong thế giới nhân vật và không gian
Kim Ki Duk, khóa luận tốt nghiệp khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn.
99
35. Trần Thị Thoan (2010), Nhân vật cô đơn trong tiểu thuyết của Haruki
Murakami, Khóa luận tốt nghiệp Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn Hà Nội.
36. Lộc Phương Thuỷ (2005), Le Clézio - nhà tiểu thuyết “hiện thực mới”,
trong sách: Tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX, truyền thống và cách tân, Nxb Văn
học, Hà Nội.
37. Lộc Phương Thuỷ (2010), "Người kể chuyện trong tiểu thuyết Bọn làm bạc giả
của A.Gide", Nghiên cứu văn học.
38. Nguyễn Ngọc Tư (2014), Sông, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
39. Phùng Văn Tửu (2001), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
40. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên con đường đổi mới nghệ thuật, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
41. Lê Thị Phong Tuyết (2004), Ba nhà tiểu thuyết tiêu biểu cuối thể kỉ XX, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học số 4.
42. Lê Thị Phong Tuyết (2004), Ba nhà tiểu thuyết tiêu biểu cuối thể kỉ XX, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 4-2004.
43. Viện tâm lí học VN (2000), Từ điển tâm lí học, Nxb KHXH.
B. Tài liệu mạng internet
44. http://www.giaoduc.edu.vn/song-cua-nguyen-ngoc-tu.htm,Theo NNVN.
45. https://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/giai-nobel-van-hoc-2008, Giải Nobel
văn học 2008: Le Clezio & cuộc hành trình qua những thế giới xa xôi.
46. https://www.rung.vn/dict/vn_vn
47. http://cand.com.vn, Minh Huyền, Nhà văn Pháp J.Clézio: Sống hòa hợp với tự
nhiên.
48. http://thuykhue.free.fr/stt/n/NguyenNgocTu.html, Thụy Khuê, Không gian sông
nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
49. http://giaitri.vnexpress.net, Thành Sa, Nguyễn Ngọc Tư ra tiểu thuyết đầu tay
50. https://baomoi.com, Sa mạc - Chuyến du hành huyền thoại
51. http://dantri.com.vn, Đinh Nha Trang, Cánh đồng bất tận chuyển đề tài sang
người đồng tính.
100