ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MAI THỊ BÌNH

CÁC KIỂU DẠNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN TRONG

VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

(Qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh,

Chu Lai và Nguyễn Danh Lam)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số : 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Mai Hƣơng

Hà Nội - 2014

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng

được công bố. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn có xuất xứ rõ

ràng.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014

Tác giả Luận văn

Bình

Mai Thị Bình

2

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Mai Hương, người đã trực tiếp

tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu thực hiện và hoàn thành

luận văn này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong khoa Văn học, đặc

biệt là các thầy cô trong bộ môn Văn học Việt Nam, ban chủ nhiệm khoa Văn học,

phòng quản lí sau Đại học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học

Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014

Bình

Mai Thị Bình

3

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 6

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 6

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 8

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 15

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 15

5. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 16

6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 17

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 18

Chƣơng 1: ĐỔI MỚI TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ CẢM HỨNG CÔ ĐƠN

TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ............................................ 18

1.1. Bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam sau 1975 ......................................... 18

1.2. Những chuyển đổi tƣ duy nghệ thuật từ sau 1975 ................................ 22

1.3. Cảm hứng cô đơn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 .......................... 26

1.4. Khái quát về kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn học và văn học

Việt Nam ....................................................................................................... 28

1.4.1. Cô đơn – một trạng thái tâm lý bản thể ............................................. 28

2.1.2.Kiểu nhân vật cô đơn trong tác phẩm văn học ................................... 31

Chƣơng 2: CÁC KIỂU DẠNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN TRONG VĂN XUÔI

VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ................................................................................. 37

2.1. Nhân vật cô đơn từ bản thể ..................................................................... 37

2.2. Nhân vật cô đơn vì không thể hòa nhập với cuộc sống thực tại .......... 47

2.2.1.Nhân vật cô đơn vì lạc thời .................................................................. 47

2.2.2. Nhân vật cô đơn vì lạc lõng giữa cộng đồng, gia đình ..................... 61

Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN ................. 81

4

3.1. Thủ pháp nhòe mờ, tẩy trắng nhân vật ................................................. 81

3.2. Chú trọng tới cảm giác, nội tâm của nhân vật ...................................... 82

3.3. Nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian ............................................ 86

3.3.1 Nghệ thuật tổ chức không gian: ......................................................... 86

3.3.2 Nghệ thuật tổ chức thời gian ............................................................... 93

3.4. Ngôn ngữ - giọng điệu: ............................................................................ 95

3.4.1. Ngôn ngữ ............................................................................................. 95

3.4.2. Giọng điệu ......................................................................................... 104

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 112

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 115

5

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1.Năm 1975 đánh dấu mốc sự kiện lịch sử quan trọng mang tính bước

ngoặt đối với toàn dân tộc, đất nước thống nhất, đời sống dân tộc có những đổi thay

to lớn trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hóa văn nghệ. Mọi

hoạt động được chuyển từ thời chiến sang thời bình, ý thức dân tộc, ý thức cá nhân

và ý thức văn hóa mới hình thành. Con người phải đối diện với những vấn đề thế sự,

nhân sinh và cả những chuyện rất riêng tư, văn học tất yếu phải đổi mới theo tinh

thần thời đại. Mỗi chuyển biến của lịch sử đều tác động sâu sắc, tạo nên những

chuyển động và để lại những dấu ấn sâu đậm lớn trong đời sống văn học, bởi, một

trong những chức năng cơ bản của văn học là phản ánh hiện thực.

1.2.Văn học trước 1975 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tạc nên những

bức tượng đài bất hủ về con người Việt Nam anh hùng bất khuất, dân tộc Việt Nam từ

trong máu lửa “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Sau năm 1975, đặc biệt là sau đổi mới

(1986), trên tinh thần “đổi mới toàn diện” mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề

ra, văn học thực sự được “cởi trói”. Không khí dân chủ tạo đà cho những chuyển động

mạnh mẽ của văn học, biểu hiện rõ trong sự chuyển đổi về tư duy nghệ thuật. Nhờ nỗ

lực đổi mới và dân chủ hóa đời sống văn hóa văn nghệ, các nhà văn đã hăng hái lao

động nghệ thuật, có ý thức đổi mới ngòi bút của mình để bắt kịp với những biến chuyển

của đời sống. Đó là cơ sở để văn học Việt Nam đương đại nói chung, văn xuôi Việt Nam

đương đại nói riêng mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực, đi sâu khám phá những vấn

đề cốt lõi của đời sống xã hội, phản ánh một cách đa diện về con người. Từ đó, trong

văn xuôi xuất hiện nhiều nguồn cảm hứng mới như cảm hứng đời tư thế sự, cảm hứng bi

kịch, cảm hứng tha hóa, cảm hứng cô đơn… Kéo theo là các kiểu dạng nhân vật bi kịch,

nhân vật tha hóa, nhân vật sám hối, nhân vật cô đơn,…

1.3.Có thể thấy, khoảng mười năm đầu thời kì hậu chiến (1975 – 1985), cảm

hứng sử thi trong văn xuôi vẫn tồn tại theo quán tính. Nhưng được thổi lửa từ sau đổi

6

mới, đặc biệt là nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa, cảm hứng sử thi mờ nhạt

dần, cảm hứng đời tư thế sự nổi đậm và dần trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo.

Theo đó, những vấn đề của đời sống cá nhân, số phận riêng tư với những nỗi niềm,

tâm trạng, khát vọng sống, khát vọng hòa nhập cộng đồng, khát vọng hạnh phúc. Cái

thiện – cái ác, cái xấu – cái tốt, cái cao cả - cái thấp hèn, cái bi – cái hài,… vốn còn

khuất lấp ở thời kì văn học trước, thì nay, tất cả đều đi vào trang viết với tinh thần

dân chủ, cởi mở nhất. Con người cá nhân trở thành mối quan tâm hàng đầu của người

cầm bút với đầy đủ tính chất đa dạng, phức tạp trong tính cách, suy nghĩ, biểu hiện

và trong nhiều tầng quan hệ. Trên khuynh hướng chung đó, rất nhiều tác phẩm mang

“hơi gió lạ” của các cây bút tên tuổi trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu

nước như Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, ... đến những

tác giả gây “chấn động” từ thời kì đầu của văn học đổi mới như Nguyễn Huy Thiệp,

Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Chu Lai, Bảo Ninh, Nguyễn Trí Huân, Dạ Ngân,

Nguyễn Quang Lập,... và những cây bút trẻ thuộc thế hệ 7- 8x như Phan Thị Vàng

Anh, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Danh Lam,… đã phản ánh chân

thực, kịp thời tinh thần thời đại, thể hiện số phận con người với những cảm xúc riêng

tư nhất, góp phần mang lại diện mạo mới cho văn xuôi đương đại. Từ những chuyển

đổi cơ bản trong quan niệm nghệ thuật về con người, các kiểu dạng nhân vật trong

văn xuôi cũng phong phú đa dạng, trong đó, con người cô đơn là một kiểu dạng

nhân vật phổ biến: Cô đơn từ trong bản thể, cô đơn do không có khả năng hòa nhập

với cộng đồng với những “vết dập xóa”, “va đập” tâm hồn, trước những bi kịch của

đời sống, của mối quan hệ gia đình và xã hội. Trên cái nhìn đa diện, đa chiều của văn

xuôi đương đại, cái cô đơn ấy được bộc lộ rõ nét và sâu sắc, tạo nên một dấu ấn

riêng, đậm nét.

Vì lẽ đó, rất cần có những công trình nghiên cứu, đánh giá, tổng kết những

dấu ấn nổi bật đó của văn xuôi thời đổi mới. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi

cho đến nay, việc tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề “Các kiểu dạng nhân vật cô đơn

7

trong văn xuôi Việt Nam đương đại” mới chỉ dừng lại ở một số ít bài viết chung về

tác giả, tác phẩm hoặc một nhóm tác giả, tác phẩm. Đó là lý do chúng tôi chọn

nghiên cứu đề tài “Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương

đại (qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và

Nguyễn Danh Lam) nhằm khẳng định nỗ lực và đóng góp của các cây bút trong việc

đổi mới văn xuôi Việt Nam đương đại. Từ đó có cơ sở, góp phần khẳng định sự đổi

mới văn xuôi đương đại nói riêng và rộng hơn của văn học Việt Nam đương đại.

1.4. Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và Nguyễn Danh Lam là

những cây bút tiêu biểu, có phong cách sáng tạo đặc sắc và những đóng góp đáng kể

để tạo nên thành tựu chung của văn xuôi đương đại Việt Nam. Trong thế giới nhân

vật đa dạng của các nhà văn, con người cô đơn là kiểu dạng nhân vật nổi đậm, thực

sự tạo được ám ảnh đối với người đọc.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1.Việc đổi mới tư duy nghệ thuật đã đưa đến những cú “vượt rào” quan

trọng về cảm hứng, đề tài, về các kiểu dạng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu… Là

điều kiện để tạo nên những tác phẩm văn xuôi có giá trị, phản ánh đúng tinh thần thời

đại, đúng người, đúng việc. Sự chuyển hướng về quan niệm nghệ thuật trong văn

xuôi đương đại đã thu hút sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu, phê bình.

Qua khảo sát, tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đã có khá nhiều công trình, bài

viết nghiên cứu chung về văn xuôi đổi mới, trong đó cũng đã đề cập đến sự đổi mới

về tư duy nghệ thuật, sự đa dạng về nguồn cảm hứng, về các kiểu dạng nhân vật

trong văn xuôi Việt Nam đương đại.

Trong bài Mấy nhận xét về nhân vật của Văn xuôi Việt Nam sau 1975, tác

giả Nguyễn Thị Bình đã đưa ra nhận định về sự đa dạng của văn xuôi từ góc độ quan

niệm nghệ thuật: “Từ năm 1986 trở đi, sự đổi mới văn xuôi mới thật sự diễn ra ở bề

sâu với một quan niệm đa dạng, nhiều chiều về đời sống.”[56].

Trong bài viết Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt

Nam giai đoạn từ sau 1975, tác giả Nguyễn Văn Long đã xác định những đặc điểm

8

cơ bản của văn học Việt Nam sau 1975: “Văn học vận động theo hướng dân chủ

hóa”[39, tr. 14] “Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền

tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao trùm văn học từ sau 1975” [39, tr.15] “Văn

học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại.” [39, tr.16]. Người viết

đã đề cập đến sự đa dạng của văn học ở các bình diện “đa dạng về đề tài, phong phú

về thể loại, nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về phong cách và khuynh

hướng thẩm mĩ.” [39, tr.16]. Từ đó, chỉ rõ hơn về đặc điểm của văn xuôi sau 1975 có

“khuynh hướng nhận thức lại”, “Khám phá đời sống trong cái muôn vẻ hằng ngày,

trong các quan hệ thế sự, đời tư” và cuối cùng người viết đi đến nhận định về những

đổi mới của văn xuôi đã “mở rộng quan niệm hiện thực đi liền với đổi mới quan

niệm nghệ thuật về con người, đổi mới nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ, giọng

điệu”[39, tr.18-19].

PGS. La Khắc Hòa trong bài Nhìn lại những bước đi, lắng nghe những

tiếng nói tiếp tục khẳng định: “Đổi mới văn học suy cho cùng là đổi mới quan niệm:

quan niệm về con người, về đời sống và quan niệm về bản thân văn học nghệ

thuật”[39, tr.57]. Bên cạnh đó, bài viết đã đã so sánh, chỉ ra sự khác biệt giữa văn

học trước và sau 1975.

Tác giả Mai Hương trong Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số

cây bút văn xuôi đã chỉ ra những chuyển đổi cơ bản trong tư duy nghệ thuật của văn

xuôi đổi mới “Từ tư duy sử thi với một khoảng cách khó vượt giữa nhà văn và đối

tượng” chuyển sang kiểu tư duy mới: suy ngẫm về hiện thực, suy ngẫm về cái đương

đại đang diễn ra, “cái đương đại chưa hoàn thành”.[23, tr.3-4]. Trên cơ sở đó, tập

trung khảo sát những chuyển đổi tư duy nghệ thuật qua sáng tác của những cây bút

như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Huy Thiệp,

Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài.

Còn nhiều bài viết như: Văn xuôi nghiên cứu đời sống hôm nay, Thử nhìn

lại văn xuôi mười năm qua và Văn xuôi 1975 – 1985 – Diện mạo và vấn đề của Lại

9

Nguyên Ân; Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học Việt Nam của

Trần Đình Sử; Một cách nhận diện thời kì văn học vừa qua của Đỗ Lai Thúy; Văn

xuôi trước yêu cầu cuộc sống mới của Nguyễn Khải; Một số hiện tượng văn học

nổi bật thời kỳ đổi mới của Nguyễn Thanh Tâm; Một vài suy nghĩ về con người

trong văn xuôi thời kỳ đổi mới của Tôn Phương Lan; Bàn thêm về vấn đề con

người trong văn học của Trần Thanh Đạm; Văn xuôi gần đây và quan niệm con

người của Bùi Việt Thắng; Nhân vật tự ý thức trong văn xuôi sau 1975 của Dương

Thị Hương,… đã đề cập đến những đổi thay của tư duy văn học và quan niệm của

nhà văn về con người trước thời đại mới.

Như vậy, qua việc sơ lược một số ý kiến đánh giá, nhận định trên đây, chúng

tôi nhận thấy, mặc dù sự đổi mới của văn xuôi đương đại về tư duy nghệ thuật, kiểu

dạng nhân vật sau1975 đã được quan tâm đánh giá tổng quát theo nhiều hướng tiếp

cận khác nhau, sự đa dạng về cảm hứng sáng tạo cũng đã được đề cập đến, song, hầu

như các bài viết đều chưa trực tiếp bàn đến đặc trưng các kiểu dạng nhân vật cô đơn

cụ thể.

2.2.Cũng theo khảo sát của chúng tôi, các tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Chu

Lai, Tạ Duy Anh, Nguyễn Danh Lam và các sáng tác của họ đã được đông đảo giới

nghiên cứu, phê bình quan tâm. Trong đó cũng đã có những ý kiến đề cập đến thế

giới nhân vật của các cây bút này.

Về Nguyễn Huy Thiệp - sự xuất hiện của ông vào cuối năm 1987 đã thực sự

làm nên một “chấn động” lớn và nhanh chóng trở thành “hiện tượng lạ” trong văn

học cùng với việc khẳng định sức viết dồi dào.

Trong bài viết Truyện ngắn Nguyễn Huy thiệp vài cảm nghĩ Giáo sư

Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét, khái quát như sau: “Nguyễn Huy Thiệp có một thế

giới nhân vật cũng độc đáo. Toàn những con người góc cạnh, gân guốc. Người nào

dường như cũng sống đến tận cùng cá tính của mình. Có loại chui lên từ bùn lầy, rác

rưởi, tâm địa đen tối, có loại lại như những bậc chí thiện, có thể bao dung cả kẻ xấu,

người ác, thậm chí sẵn sàng chết vì đồng loại.”

10

Tác giả Mai Hương trong Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số

cây bút văn xuôi đã chỉ ra kiểu nhân vật cô đơn trong văn Nguyễn Huy Thiệp:

“Tướng về hưu” với lối viết mới lạ đã mang đến cho văn học một chất mới “chất

kiêu bạc, tàn nhẫn, cay đắng”, một “hơi gió lạ”- chủ đề cô đơn, tình trạng con

người cô đơn, lạc loài ngay giữa gia đình, người thân và đồng loại” ”.[23, tr.4]. .

Trong bài Chân dung nhà văn, từ một thế nhìn nhà văn Lê Minh Hà lại

nhận thấy: “Nhân vật của ông là con người trong cái phận vừa lớn lao vừa bé mọn

của mình, trong ý thức về sự biết và không biết của mình, trong nỗi buồn trước cái

đẹp, cái chua chát của đời sống.” [9]

Hồ Tấn Nguyên Minh trong bài Quan niệm về con người trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp đăng trên http://vanvn.net/ đã chỉ ra những kiểu con người trong

sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp trong đó đã phân tích kiểu “con người cô đơn, lạc

lõng giữa mênh mông cõi người” ở Tướng về hưu và Con gái thủy thần.

Trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp do Phạm Xuân Nguyên biên soạn, tập

hợp của 54 bài viết của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình, với nhiều cách đọc,

cách hiểu, góc nhìn khách quan, đa chiều về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Các

bài viết đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong phong cách của Nguyễn Huy Thiệp.

Trong đó, cũng đã có những ý kiến đề cập đến nhân vật cô đơn trong một số tác

phẩm của nhà văn.

Về Chu Lai – là cây bút trưởng thành sau năm 1975 và có sức viết bền bỉ. Từ

khi cầm bút, ông cũng đã thử nghiệm qua nhiều thể loại như truyện ngắn, ký sự,

kịch bản sân khấu, kịch bản phim. Tuy nhiên, ông được người đọc, giới nghiên cứu phê

bình biết đến là một tác giả - nhà văn quân đội thành công ở thể loại tuyết thuyết. Sáng

tác của Chu Lai đề cập đến nhiều vấn đề của hiện thực đời sống và con người, đặc biệt

là người lính trở về sau cuộc chiến. Ngay từ khi mới xuất hiện, sáng tác của ông đã tạo

sự đón nhận, quan tâm của các nhà nghiên cứu và phê bình văn học: Có thể điểm lược

trong những ý kiến sau:

11

Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Nội lực Chu Lai in trên Tạp chí Nhà

văn số 8 năm 2006 đã đưa ra nhận định khá bao quát về tiểu thuyết Chu Lai nói

chung, trong đó ông đặc biệt chú ý đến hai phương diện nghệ thuật là nhân vật và

giọng điệu.

Tác giả Tôn Phương Lan trong bài Người lính trong văn xuôi viết về

chiến tranh của nhà văn cầm súng đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 4 năm

1995 nhận xét: “Người lính trong văn học thời kì này được thể hiện hình ảnh người trở

về và bước vào một cuộc sống khác với hai bàn tay trắng, thậm chí là mang trên cơ thể

những thương tích của chiến tranh.”

Nhà phê bình Hồng Diệu đã chỉ ra những đổi mới trong quá trình tìm tòi, sáng

tạo nghệ thuật của Chu Lai qua việc thể hiện các nhân vật: “Tiểu thuyết Chu Lai đề

cập đến nhiều vấn đề. Nhưng bao trùm lên tất cả là truyện những người lính sau chiến

trường trở về, người thì tha hóa, người thì bước vào cuộc sống mới. Cuộc chiến đấu

của những người lương thiện chống kẻ bất lương, mà thật trớ trêu: Có những người

trước kia là đồng đội của nhau, bây giờ đứng trên hai mặt trận đối lập nhau.”

Chu Lai đã tiếp cận hiện thực ở cả những mặt khuất lấp, những cảnh ngộ

thương tâm trong những hoàn cảnh éo le. Nói như Ma Văn Kháng, tiểu thuyết của

Chu Lai là sự “đối mặt trực tiếp những vấn đề bức bối của đời sống xã hội hôm nay.”

Đề cập đến những vấn đề này,nhà phê bình Lê Thành Nghị qua Những cuốn sách

gần đây viết về chiến tranh cho rằng: “Chu Lai đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng

những điều lâu nay còn bị giấu kín.”

Về nghệ thuật, tác giả Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu

thời kì đổi mới chỉ ra rằng: Tiểu thuyết Chu Lai “không chỉ đa dạng trong các phương

thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng

ý thức”, nghệ thuật đồng hiện và có những thành công nhất định”

Còn có khá nhiều ý kiến tập trung phân tích riêng một tác phẩm, song phần lớn

các bài viết đều khẳng định vị trí và đóng góp của Chu Lai trên thể loại tiểu thuyết ở

việc đổi mới cách viết, đổi mới quan niệm về hiện thực và con người.

12

Với Tạ Duy Anh, ông là cây bút thành danh từ trong cao trào đổi mới, người

đã khơi mở một “dòng văn học bước qua lời nguyền” với những thông điệp sâu sắc

về số phận con người. Hơn thế, ông lại “Là tác giả của những tác phẩm luôn khiến

người đọc giật mình và suy ngẫm”. Ông đã tạo ra một “từ trường” riêng để hấp dẫn,

lôi cuốn độc giả cũng như người nghiên cứu, tìm hiểu. Vì vậy, đã có khá nhiều ý kiến

đánh giá, nhận định về những đóng góp của nhà văn trên cả hai phương diện nội dung

tư tưởng và nghệ thuật:

Trong bài viết đăng trên báo Văn nghệ số 50 tháng 12 năm 1989, Giáo sư

Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: “Tạ Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới,

dòng văn học bước qua lời nguyền”.

Nói về thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh, trong bài viết Văn xuôi

Việt Nam hiện nay, logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đặt ra và triển

vong, nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét: “Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh gói

gọn trong nửa trang cả một cuộc đời, một kiếp sống, một kiếp người vừa là tác giả,

vừa là nạn nhân của những bi kịch đằng đẵng một thời”.[…]

Trong bài viết Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác đăng trên báo

http://tuoitre.vn/ tháng 9 năm 2004, người viết gọi tác giả “là nhà văn của thời

điểm”, đồng thời, cũng đưa ra một số ý kiến về quan niệm của Tạ Duy Anh và con

người trong sáng tác của ông: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian,

nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình. Người thì xấu như lão Phụng… người đẹp thì như

hoa như ngọc như Quý Anh, Chị Túc, bà Ba, như sản phụ chờ sinh. Nhưng bản chất

của con người luôn ở ranh giới thiện – ác. Nhân vật luôn bị đặt trong trạng thái đấu

tranh với xã hội, với môi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản thân mình.

Đã thế nhà văn lại có cái giọng rất quyết liệt, nhiều dung từ và động từ mạnh”.

Nhiều khi còn “lạnh lùng cố ý trước sự trả thù” mặc dù không ít lần ông quằn quại,

rên rỉ vì không ngăn nổi một hành động ác.

Với khóa luận Tạ Duy Anh từ quan niệm nghệ thuật đến những đổi mới

trong sáng tác truyện ngắn, Nguyễn Thị Hương đã tìm hiểu, nghiên cứu quan niệm

13

sáng tác cũng như những nỗ lực đổi mới trong những sáng tác truyện ngắn của Tạ

Duy Anh ở nhiều góc độ: Hiện thực, con người, đổi mới về quan niệm nghệ thuật, gia

tăng yếu tố kỳ ảo và chất tiểu thuyết trong truyện ngắn của nhà văn.

Tác giả bài viết đăng trên báo Pháp luật số 140 năm 2004 đã nhận định:

“Hầu hết tác phẩm của ông (trừ truyện viết cho thiếu nhi và tản văn) đều rất gai góc

về nội dung thể hiện dưới cái nhìn hiện thực ở góc khuất”. Đi tìm nhân vật là “bức

tranh hiện thực ngọt ngào của các quyền lực, cái chết, sự đồi bại… còn Thiên thần

sám hối là một cuốn tiểu thuyết … viết về nỗi đau làm người và chưa được làm người

qua câu chuyện của một hài nhi đang lựa chọn có nên làm người hay không.”

Tác giả bài viết về nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh đăng trên báo

Giáo dục và thời đại số 80 năm 2004. Coi Tạ Duy Anh là “một hiện tượng văn học

nổi bật”, “một gương mặt nhà văn tiêu biểu năm 2004.” và đặt câu hỏi: “Số phận

nhân con người phải chăng luôn là sự trăn trở dằn vặt trong ông?”

Nguyễn Danh Lam là một cây bút trẻ của văn xuôi Việt Nam, có sức viết dồi

dào, nhiều tìm tòi và thể nghiệm độc đáo. Dù vậy, qua khảo sát của chúng tôi các bài

viết về Nguyễn Danh Lam và tác phẩm của anh còn ít. Phần lớn, mới chỉ khái lược

đôi nét về tiểu thuyết của anh, đặc biệt cuốn tiểu thuyết được giải thưởng của Hội

Nhà văn Việt Nam Giữa dòng chảy lạc hoặc mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh

nổi bật trong từng tác phẩm cụ thể, chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện

về sáng tác của cây bút này. Người đọc có thể gặp đây đó các bài giới thiệu, phê bình

rải rác trên các báo viết, báo điện tử Phongdiep.net, Văn nghệ, Thể thao và văn hóa,

Báo mới, … của các tác giả Bùi Công Thuấn, Đoàn Ánh Dương, Nguyễn Hoài

Nam,… Bên cạnh đó, còn có một số cuộc trao đổi, phỏng vấn, ở đó, Nguyễn Danh

Lam đã ít nhiều chia sẻ với người đọc những suy nghĩ, trăn trở của mình trong sáng

tác. Cho đến nay, hầu như chưa có bài viết nào nghiên cứu riêng về nhân vật, đặc biệt

nhân vật cô đơn trong sáng tác của Nguyễn Danh Lam.

Nhìn chung, các bài viết và các công trình nghiên cứu cùng đồng thống nhất

ở việc ghi nhận những nỗ lực của các tác giả trong việc đổi mới văn học. Tuy nhiên,

14

theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về Các kiểu dạng nhân vật cô đơn

trong văn xuôi Việt Nam đương đại còn mang tính đơn lẻ, rời rạc, mới chỉ dừng lại ở

việc phát hiện, phác thảo chứ chưa được tìm hiểu trực tiếp và nghiên cứu một cách có

hệ thống, toàn diện. Có thể nói, cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào lấy Các kiểu

dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại làm đối tượng nghiên cứu

trực tiếp. Vì lẽ đó, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam

đương đại (qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh,

Chu Lai và Nguyễn Danh Lam) là đối tượng nghiên cứu chính. Bên cạnh đó, luận

văn cũng mở rộng đối tượng khảo sát qua một số tác phẩm, tác giả khác nhằm làm

nổi bật vấn đề nghiên cứu.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ có hạn của một luận văn Thạc sĩ, chúng tôi không có điều

kiện, khảo sát, tìm hiểu toàn bộ văn xuôi đương đại mà chỉ tập trung nghiên cứu một số

tác phẩm tiêu biểu của các tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và

Nguyễn Danh Lam.

Để có điều kiện so sánh làm nổi bật các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn

xuôi Việt Nam đương đại của các tác giả đã nói trên, chúng tôi cũng đặt nó trong cái

nhìn so sánh với lịch sử, đồng thời tiến hành mở rộng khảo sát một số tác phẩm tiêu

biểu của các tác giả Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Phạm Thị

Hoài, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ,…

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, khi thực hiện đề

tài “Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua

15

một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và

Nguyễn Danh Lam)”, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:

4.1. Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội: Phương pháp này được sử

dụng để làm rõ nguyên nhân đưa đến sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật của các

nhà văn về hiện thực và con người, đặc biệt là các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong

tương quan với hoàn cảnh xã hội và văn học.

4.2.Phương pháp phân tích: Sử dụng phương pháp phân tích, chúng tôi có

điều kiện đi sâu vào từng tác phẩm cụ thể, phân tích từng chi tiết nghệ thuật để làm

nổi bật nỗi cô đơn tiềm tàng trong mỗi nhân vật, mỗi tình tiết, sự kiện. Phương pháp

này giúp chúng tôi tiếp cận được với nhiều phương diện biểu hiện khác nhau của các

nhân vật trong vật trong các tác phẩm. Đây là phương pháp được sử dụng nhiều trong

luận văn

4.3.Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi đặt mảng

văn xuôi đương đại viết về nhân vật cô đơn trong sự so sánh với văn xuôi viết về

nhân vật cô đơn giai đoạn trước. Từ đó nhận ra sự chuyển hướng trong cảm hứng

sáng tác của nhà văn được thể hiện trên nhiều bình diện (quan niệm về hiện thực, về

con người, ngôn ngữ, giọng điệu,...).

4.4. Phương pháp tổng hợp: Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu triển khai

đề tài, sử dụng phương pháp này giúp chúng tôi có được một cái nhìn toàn diện về

mảng văn học mà luận văn quan tâm nghiên cứu. Phương pháp này giúp người viết

rút ra được những đặc điểm cơ bản của các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi

đương đại cùng các phương diện biểu hiện của nó.

5. Đóng góp của luận văn

Từ khảo sát, phân tích, so sánh và tổng hợp, luận văn sẽ đúc kết những nét

đặc sắc của các cây bút từ phương diện thể hiện các kiểu dạng nhân vật cô đơn. Qua

đó góp phần nhận diện một trong những dấu hiệu đổi mới đặc sắc của văn xuôi Việt

16

Nam đương đại. Khẳng định đóng góp của các tác giả vào công cuộc đổi mới văn

học.

Ở một góc độ nhất định, luận văn góp phần đánh giá, tổng kết sự đổi mới của

văn xuôi Việt Nam đương đại nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Đổi mới tư duy nghệ thuật và cảm hứng cô đơn trong văn xuôi

Việt Nam sau 1975

Chương 2: Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật cô đơn

17

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: ĐỔI MỚI TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ CẢM HỨNG CÔ ĐƠN

TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

1.1. Bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam sau 1975

Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã trở thành dấu mốc quan trọng, mở ra một

thời kì mới của lịch sử dân tộc. Đất nước hoà bình thống nhất, cả nước có những đổi

thay quan trọng trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, tư tưởng. Đi

qua những năm tháng chiến tranh liên miên, đất nước bị tàn phá nặng nề, những di

hại mà chiến tranh để lại vô cùng to lớn. Vì lẽ đó, dân tộc ta phải đối phó với vô vàn

khó khăn sau ngày thống nhất. Nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng, cơ sở vật chất kĩ

thuật bị tàn phá nặng nề, những dòng người tị nạn dắt díu nhau trên khắp các ngả

đường, tiếng súng ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc vẫn chưa dừng. Thêm

vào đó, bên ngoài lại bị sự bao vây cấm vận từ Mỹ và các nước Phương Tây, nhiệm

vụ khôi phục kinh tế trở nên quá khó khăn. Những nguyên nhân khách quan ấy đặt

đất nước vào tình thế cam go, buộc phải tìm một hướng đi mới để thay đổi hoàn cảnh,

số phận toàn dân tộc.

Bên cạnh đó tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, chủ quan, duy ý chí, nóng vội vẫn còn

tồn tại ở nhiều cá nhân, tập thể; thể hiện qua việc yếu kém trong quản lý xã hội, trong

điều hành kinh tế, văn hóa… tất cả dồn ép, đẩy đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng

trầm trọng, khi mà sản xuất đình trệ, hàng hóa ít ỏi, lương thực thực phẩm không đủ

cung cấp, đời sống nhân dân nghèo nàn, thiếu thốn, đói khổ. Văn hóa văn nghệ cũng

nằm trong bối cảnh khó khăn chung của toàn dân tộc.

Đứng trước những yêu cầu lịch sử, sau khi miền Nam giải phóng, Đảng đã tổ

chức hai kì Đại hội IV (năm 1976), V (1982) và hai kế hoạch 5 năm (1976-1980),

(1981-1985) nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ sau chiến

tranh, đáp ứng thiết yếu nhu cầu của đời sống nhân dân. Tư tưởng xây dựng nền văn

hóa mới, con người mới được quán triệt, song về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình

18

trạng giáo điều lạc hậu. Chỉ đến năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần VI diễn ra tại

Hà Nội, với chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ, từ kinh tế, chính trị, xã hội, tư

tưởng đến văn hóa, từng bước hội nhập khu vực và thế giới thì văn hóa văn nghệ mới

có điều kiện để thực sự thay đổi. Trong đó, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước

được xem là một quyết sách đúng đắn và sáng suốt. Từ mô hình kinh tế tập trung

quan liêu bao cấp chuyển sang mô hình kinh tế thị trường sẽ tạo điều kiện tự do cạnh

tranh thương mại, phát huy tính dân chủ, tạo mối liên hệ trong cộng đồng. Từ đó, tạo

nhiều đổi thay quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong nhận thức, tư

tưởng, tình cảm, nhu cầu của con người. Bên cạnh đó, định hướng phát triển nền văn

hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn liền với sự phát triển chung của xã hội,

trong đó con người phải được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo

năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện

phát triển cá nhân. Đó là kết quả của việc kết hợp hài hòa các lợi ích toàn xã hội với

lợi ích của các tập thể, cá nhân; là kết quả của việc phát huy dân chủ trên các lĩnh vực

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Có thể nói, Đại hội Đảng lần VI là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu

bước ngoặt của lịch sử phát triển đất nước. Trên tinh thần chung, Đại hội đã nhìn

nhận, đánh giá, phân tích đúng thực trạng đất nước sau ngày giải phóng, từ đó đề ra

phương hướng giải pháp tích cực nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn,

lạc hậu về kinh tế, bảo thủ, trì trệ về tư tưởng. Đồng thời, Đại hội cũng tạo ra những

tiền đề chính trị quan trọng để đưa đất nước bước vào thời kì Công nghiệp hóa – Hiện

đại hóa, từng bước phát triển xứng tầm với các quốc gia trong khu vực và trên thế

giới. Tạo tiền đề đảm bảo ổn định, phát triển chung của xã hội, trong đó có văn học.

Trên tinh thần đổi mới toàn diện với không khí cởi mở, dân chủ của toàn dân

tộc, văn học có những điều kiện quan trọng để làm nên một bước nhảy, một cú “vượt

rào”, như Giáo sư Hà Minh Đức đã nhận định: "Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở ra

19

một thời kì mới cho đất nước, cho sự đổi mới trong tư duy, bao gồm cả tư duy nghệ

thuật. Thái độ thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của các hiện tượng

xã hội, tinh thần dân chủ được phát huy trong quá trình đổi mới đã tạo nên sự thúc

đẩy lớn lao cho sự phát triển văn xuôi." [58].

Đặc biệt phải kể đến những chủ trương chính sách đúng đắn, kịp thời, tiến bộ

của Đảng và Nhà nước về văn hóa văn học. Trên diễn đàn của Đại hội VI, Tổng Bí

thư Nguyễn Văn Linh cũng đã tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy”, nhấn mạnh với

“nhiều việc cần làm ngay”, chính vì thế, tạo điều kiện thuận lợi để các văn nghệ sĩ

thỏa sức sáng tạo. Những biến động phức tạp của đời sống thực sự là “vùng trời,

vùng đất” thích hợp nếu không muốn nói là lý tưởng cho sự sáng tạo của người cầm

bút. Đất nước chuyển mình, tâm lý và nhịp sống thời đại đổi thay, thị hiếu thẩm mĩ

và nhu cầu tiếp nhận văn chương thời kì này đã khác trước. Điều đó đòi hỏi nhà văn

phải nỗ lực hơn nữa trên hành trình lao động nghệ thuật của mình để rút ngắn lại

khoảng cách giữa văn học và đời sống, giữa nhà văn và bạn đọc, xây dựng quan hệ

bình đẳng.

Tiếp sau Đại hội VI là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và nâng

cao trình độ lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng

sáng tạo đưa văn học nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới” [53 ]. Đây

là Nghị quyết riêng đầu tiên của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ có giá trị và ý

nghĩa quan trọng cho việc giải phóng tiềm năng sáng tạo của văn nghệ sĩ. Đồng thời,

Nghị quyết khẳng định sự cần thiết đổi mới nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý văn

hóa văn nghệ. Văn nghệ thời kì này phải biết cổ vũ cái tốt, thẳng thắn phê phán cái

xấu, chống các khuynh hướng trái với đường lối, đặt văn học nghệ thuật trước một

nhiệm vụ mới quan trọng: “Bảo đảm tự do dân chủ cho mọi sáng tạo của văn học

nghệ thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy hiệu quả của lao động nghệ

thuật”. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng tác động trực tiếp đến quá trình

đổi mới văn học nghệ thuật nước nhà trong tình hình mới. Đặc biệt cuộc gặp gỡ của

20

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với văn nghệ sĩ vào tháng 10 năm 1987 tại Hà Nội.

Tổng Bí thư đã nêu lên những suy nghĩ của mình về việc “đổi mới văn hóa văn

nghệ”, đồng thời cũng nhắc nhở vị trí, trách nhiệm của người sáng tạo nghệ thuật

“Những người làm công tác văn hóa, văn nghệ cũng là những người sản xuất, lại là

những người sản xuất ra sản phẩm cao cấp cho xã hội”… Chính vì vậy, “Nếu trong

lĩnh vực kinh tế cần phải phát huy dân chủ cho người sản xuất thì ở lĩnh vực của các

đồng chí, các đồng chí cũng phải tự làm chủ”[53], người nghệ sĩ cần phải sáng tạo,

không thể khô cứng làm theo khuôn mẫu, theo con đường sẵn có vậy nên “không

được áp đặt mọi công việc như đặt con tàu chạy trên đường ray”. [61].

Nhiệm vụ cao cả của văn chương là phải sáng tạo, dấn thân tìm tòi và đổi

mới. Người nghệ sĩ phải tạo cho mình một lối đi riêng, mới mẻ, độc đáo; không sao

chụp lối mòn của người đi trước đã đi. Có thể nói, chưa bao giờ vai trò, trách nhiệm

của người cầm bút và tính chân thực của văn học lại được đặt ra một cách khẩn

trương và toàn diện đến thế.

Công cuộc đổi mới đã đáp ứng nguyện vọng của các nhà văn và độc giả cũng

như quy luật phát triển khách quan của lịch sử và nó đã khẳng định tính đúng đắn,

tiên phong của mình trở thành phong trào mạnh mẽ. Bằng chứng là đã có rất nhiều

tác phẩm thời kì này xuất hiện trên văn đàn: Từ những năm 1976 Thái Bá Lợi cho ra

mắt độc giả Hai người trở lại trung đoàn. Nguyễn Trọng Oánh với Đất trắng ,

Nguyễn Khải với Cha và con. Từ đầu những năm 1980 văn học bước vào giai đoạn

sôi nổi hơn, bằng chứng là sự ra đời của nhiều tác phẩm mới như Nguyễn Mạnh

Tuấn với Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao tràm; Ma Văn

Kháng với Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn; Nguyễn Minh Châu với Người

đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê; Lê Lựu với Thời xa vắng; Nguyễn Khải

với Thời gian của người,… Kể từ sau 1986 điểm đến những sáng tác như: Chu Lai

với Ăn mày dĩ vãng, Phố, Ba lần và một lần, Vòng tròn bội bạc,… Nguyễn Huy

Thiệp với Tướng về hưu, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi,… Tạ

21

Duy Anh với Bước qua lời nguyền, Lão Khổ, Đi tìm nhân vật,Thiên thần sám hối,

Giã biệt bóng tối …

Như vậy, hoàn cảnh lịch sử mới đã tạo nên một thời kì văn học mới với

những thay đổi rõ nét, phát triển theo hướng dân chủ. Trong đó, “Tinh thần nhân bản

và sự thức tỉnh ý thức cá nhân” là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm

văn học giai đoạn này. Chính sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã mở rộng cánh cửa cho

văn học khai thác được nhiều đề tài và chủ đề mới, làm thay đổi quan niệm về con

người. Con người giờ đây được nhìn ở nhiều vị thế đa chiều, đó không chỉ là con

người xã hội, con người lịch sử mà đó còn là con người trong quan hệ với gia đình

với thiên nhiên môi trường. Hơn hết, đó là con người với chính mình, với những

buồn vui, sướng khổ, được mất,… Con người đi vào văn học một cách trần trụi, nhân

bản và giàu tính hướng thiện.

1.2. Những chuyển đổi tƣ duy nghệ thuật từ sau 1975

Nhìn lại lịch sử văn học, theo lệ thường, một khi lịch sử đã chuyển đoạn thì

văn học nghệ thuật tất yếu cũng phải chuyển theo. Điều kiện lịch sử xã hội với những

chuyển đổi cơ bản sau giải phóng, đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI đã tác động

mạnh mẽ đến ý thức xã hội, kéo theo nó là những chuyển đổi mạnh mẽ trong ý thức

của nhà văn về sáng tạo nghệ thuật. Nền kinh tế thị trường với tất cả tính chất phức

tạp, gai góc của nó khiến con người không thể nhìn cuộc sống bằng nhãn quan sử thi

thuần khiết như những năm trước chiến tranh. Những thước đo giá trị cũ, những

chuẩn mực cũ giờ đây khi cọ xát với đời sống xô bồ, phức tạp của thời hiện đại dần

mất đi tính tuyệt đối của nó. Những vấn đề mới đặt ra trong cuộc sống thời hậu chiến

tất yếu đi vào sáng tác cùng nỗi ưu tư day dứt của người nghệ sĩ. Và đối tượng phản

ánh của văn xuôi sau 1975 thuộc về số phận cá nhân với những trăn trở của họ về

đời sống vật chất và tinh thần. Hiện thực đó đòi hỏi văn học phải gắn bó hơn với cuộc

sống, đi sâu khám phá con người một cách đa diện, sâu sắc hơn: Văn học phải tham

gia tích cực vào “Cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu trong mỗi con người – một

22

cuộc giao tranh không có gì ồn ào nhưng xảy ra từng giờ, từng ngày và khắp mọi

lĩnh vực đời sống.” (Nguyễn Minh Châu). Văn học phải khám phá được con người

trong chiều sâu bí ẩn trong tâm hồn, trong sự bề bộn của cuộc sống.

Như được khích lệ, các nhà văn đã không ngần ngại bày tỏ quan niệm của

mình về hiện thực cuộc sống, đặc biệt là về con người một cách sâu sắc và toàn diện

nhất. Văn học trước 1975, văn học thường nhìn con người chủ yếu ở tư cách con

người công dân, con người giai cấp, con người dân tộc. Vì thế mà những bình diện

khác của con người, những tư cách khác của con người thường ít được văn học chú ý,

nếu có được quan tâm thì cũng dùng hệ qui chiếu của các giá trị cộng đồng. Nhà văn

thường lấy lí tưởng, hành động cách mạng làm thước đo giá trị, phẩm chất của con

người, vì thế, con người trong giai đoạn ấy được tái hiện trong khuôn mẫu của lí

tưởng cộng sản, hành động anh hùng, khát vọng vì Tổ quốc. Sau 1975, khi cuộc

chiến tranh chống Mỹ của toàn dân tộc đã kết thúc, con người được trở về với đời

sống thường nhật cùng những bộn bề lo toan và hơn hết con người còn phải đấu tranh

với chính bản thân để hoàn thiện mình, để hòa hợp với cuộc sống, với gia đình, với

tập thể. Con người “hôm qua” thuộc về cộng đồng, số đông đã nhường chỗ cho con

người “hôm nay” thuộc về cá thể, hiện lên với tư cách cá nhân, trong nhiều tầng quan

hệ . Thực tế đó, đòi hỏi văn học phải thay đổi, thay đổi từ quan niệm, đến cách viết.

Bằng sự nhạy bén của mình, các nhà văn đương đại đã khắc phục những hạn

chế của “thời xa vắng” nhanh chóng bắt kịp thời cuộc. Nhìn thẳng vào sự thật, viết về

“cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, màu đỏ với màu đen đầy rẫy những biến động bất

ngờ.” (Nguyễn Khải). Bên cạnh việc phản ánh những đổi thay của hiện thực thì việc

khắc họa số phận cá nhân trong văn xuôi đương đại là vấn đề lớn được các cây bút

quan tâm. Bởi như Nguyễn Minh Châu đã nói “Văn học và cuộc sống là hai vòng

tròn đồng tâm nhưng tâm điểm là con người.”. Con người là điểm xuất phát, là đối

tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích đến cuối cùng của văn học, đồng thời cũng

là điểm qui chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề xã hội, mọi sự kiện và biến cố

23

lịch sử. Ở cuộc sống mới, con người trong tổng hòa của những mối quan hệ xã hội trở

nên phức tạp hơn. Thế nên, chẳng phải ngẫu nhiên cảm hứng thế sự đời tư nổi lên

như một vấn đề trung tâm của mọi “nỗ lực sáng tạo” trong văn xuôi đương đại. Ngay

cả những sáng tác viết về nhiều đề tài khác như nông thôn, thành thị, nông dân, công

nhân, trí thức, người vợ, người mẹ, … nhà văn vẫn xoáy thật sâu vào những vẫn đề

cốt yếu thông qua tâm điểm nhân vật. Những niềm vui, nỗi buồn, sự sướng khổ, được

mất,… đi vào văn chương một cách chân thực và rõ nét hơn bao giờ và được xem

như một kiểu “tư duy thời đại”. Cũng là lính, cũng là công nhân, nông dân, người phụ

nữ, trí thức,… nhưng giờ đây, họ được soi chiếu từ nhiều góc độ và đặc biệt họ được

đặt vào giữa vòng xoáy cuộc đời, kể cả những vòng xoáy nghiệt ngã nhất. Bằng cách

ấy, các nhà văn thời kì này đã để nhân vật của mình được đối diện với mọi vấn đề

phức tạp của cuộc sống. Từ đó, con người có thể bộc lộ mình thông qua những lời

thoại, tình huống, hoàn cảnh, qua các mối quan hệ và qua cả những suy tư thầm kín

của riêng mình bằng những lời tự vấn. Các nhà văn đã không đơn giản nhìn họ bằng

nhãn quan thuần khiết một chiều, dễ dãi; càng không có ý nhân nhượng hay thỏa hiệp

để chỉ thấy những điểm tốt, mặt lí tưởng của họ. Ngược lại các nhà văn đã miêu tả họ

với đầy đủ màu sắc khác nhau, ở nhiều vị trí, trên nhiều bình diện, xấu có tốt có, vui

có buồn có, hạnh phúc có khổ đau có, có mất mát, tổn thương, sám hối và có cả ước

mơ; thậm chí, nhân vật được đặt vào những “góc tăm tối nhất”. Ở họ không có những

“bất ngờ may rủi”, không mờ nhạt mà “đầy những vết dập xóa trên thân thể và tâm

hồn”. Vì thế, nhân vật trong văn xuôi đương đại không còn một chiều, đơn điệu mà

có sự kết hợp giữa ngoại hình và nội tâm, giữa ý thức và vô thức, giữa dục vọng và

bản năng ước mơ thánh thiện,…

Chính những thay đổi về tư duy nghệ thuật, đã dẫn đến những đổi thay quan

trọng trong quan niệm nghệ thuật về con người, sự đa dạng về bút pháp, giọng điệu,

ngôn ngữ, nghệ thuật trần thuật. Nhưng trước hết, việc thay đổi quan niệm nghệ thuật

về con người là điều kiện để văn xuôi đương đại tạo nên sự phong phú về các kiểu

24

dạng nhân vật mà văn xuôi giai đoạn trước chưa có hoặc có nhưng còn mờ nhạt. Nếu

văn xuôi giai đoạn trước với quan niệm về con người anh hùng gắn liền nới nó là

kiểu nhân vật sử thi thì văn xuôi đương đại với sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, đã

khuyến khích, cổ vũ người cầm bút được lựa chọn, mở rộng và sáng tạo tự do đối với

nhân vật của mình. Theo đó, họ có cơ hội nhìn lại, làm mới quan niệm nghệ thuật về

con người theo trường thẩm mĩ mới phù hợp với nhu cầu tiếp nhận của công chúng.

Các nhà văn tập trung vào đời sống riêng tư, đào xới tận cùng bản thể con người trên

mọi bình diện, tầng bậc, mạnh dạn bày tỏ thế giới tâm thức bí ẩn trong con người.

Bởi thế văn xuôi đương đại xuất hiện nhiều kiểu dạng nhân vật mới được phân chia

theo nhiều tiêu chí khác nhau: Đó có thể là kiểu nhân vật sám hối đầy những suy tư,

dằn vặt, thức tỉnh như trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu; cũng có thể là

kiểu nhân vật vừa đáng ghét, vừa đáng thương trong một số sáng tác của Ma Văn

Kháng; hay là kiểu nhân vật kiếm tìm trong một số sáng tác của Tạ Duy Anh, Chu

Lai,… cũng có thể là kiểu nhân vật cô đơn trong một số sáng tác của Dạ Ngân,

Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Danh Lam,… Sự đa

dạng về các kiểu nhân vật đã đem đến cho văn xuôi đương đại sức hấp dẫn riêng đặc

biệt, qua đó cũng khẳng định phạm vi phản ánh hiện thực cũng như quan niệm nghệ

thuật về con người đã có nhiều đổi mới, phong phú hơn.

Qua tìm hiểu, có thể nhận thấy mỗi nhân vật trong văn xuôi đương đại đều có

những đoạn đời sóng gió, gập ghềnh và cả những nỗi niềm trắc ẩn, những mất mát,

tổn thương, hơn hết là cảm giác cô đơn luôn thường trực. Con người đời tư pha lẫn sự

cô đơn, ưu tư, dằn vặt, đau đớn, day dứt, sám hối. Họ dằn vặt trước thời cuộc, sống

trong sự tự bộc bạch, tự mổ xẻ chính mình như Chị Nhân, Hạnh (Bến không chồng),

Giang Minh Sài (Thời xa vắng), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh), chị Cả Thuần (Dòng

sông Mía), Hai Thìn (Lời nguyền hai trăm năm), Thuần (Giời cao đất dày)… Con

người với những nỗi niềm đắng cay, xa xót bộc lộ ra sự sai trái của mình bởi nhiều

lúc con người đã để mình rơi vào những khoảng tối. Hạnh (Bến không chồng) luôn

25

mang nỗi day dứt, khổ đau và cô đơn để rồi cuối cùng Hạnh nhận ra “trên đời này

không có ai tốt như chú Vạn và không có ai khổ cô đơn như chú Vạn”. Lão Khổ trong

tiểu thuyết cùng tên mãi chìm đắm trong hận thù, cuối đời khi không còn đủ sức để

dằn vặt, để thù hận nữa mới thú nhận “Bố cảm thấy cô đơn quá”; Con người cô đơn,

lạc lõng giữa cuộc đời như là Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) phải lội ngược quá khứ

làm một kẻ “ăn mày”; Là cảm giác lạc lõng, cô đơn của Linh (Vòng tròn bội bạc)

sống giữa gia đình nhưng anh luôn thấy mình là “người thừa” để rồi phải day dứt tự

hỏi: “Hay lại khoác ba lô lên mà đi?”; Là ông Thuấn (Tướng về hưu) không thể

thích nghi, hòa nhập cùng gia đình, để phải đau đớn tự hỏi: “Sao tôi cứ mãi lạc

loài”,… Dù vậy, cùng với những mất mát trong cuộc sống, những cảm xúc bị đè nén,

nỗi cô đơn thường trực thì ở trong mỗi nhân vật luôn ẩn chứa sự thức tỉnh, muốn thay

đổi, muốn nhập cuộc và luôn hướng tới sự hoàn thiện, bảo vệ nhân cách của mình.

Như vậy, đổi mới tư duy nghệ thuật là sự vận động hợp quy luật phát triển của

lịch sử. Nó mở ra nhiều ngã đường cho văn học nói chung, văn xuôi nói riêng đi sâu

vào mọi ngõ ngách của đời sống thời bình để kiếm tìm, phát hiện tận cùng những nét

đẹp cũng như mọi khổ đau, ẩn ức… của số phận người. Sự đóng góp đó đã đem lại

sức sống mới, chiều sâu mới cho văn xuôi đương đại bằng những trang văn rất riêng,

khẳng định tiếng nói, tâm hồn, bản lĩnh mà các nhà văn đã miệt mài sáng tạo. Xây

dựng nhân vật cô đơn, các nhà văn như muốn gửi đi bức thông điệp của mình đến độc

giả. Trong cuộc sống, mỗi người cần biết lắng nghe, chia sẻ, đồng cảm, thấu hiểu,

quan tâm nhau nhiều hơn, để mỗi người đừng bị rơi vào tình trạng cô đơn.

1.3. Cảm hứng cô đơn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975

Cảm hứng được xem là một yếu tố của bản thân nội dung và nghệ thuật của

tác phẩm văn học, của thái độ, tư tưởng cảm xúc của người nghệ sĩ đối với thế giới

được mô tả.

Cùng với cảm hứng bi kịch, cảm hứng thế sự đời tư… có thể nói cô đơn là

nguồn cảm hứng khá đậm trong văn học Việt Nam. Nhìn lại các chặng đường vận

26

động và phát triển của văn học nước nhà có thể thấy văn học Việt Nam trong khoảng

ba mươi năm đầu thế kỉ XX, đặc biệt là khuynh hướng văn học lãng mạn, trong đó

Thơ mới là nơi thể hiện dạt dào cảm hứng cô đơn. Khi người nghệ sĩ không tìm thấy

chỗ đứng của mình trong xã hội, khi con người thoát ly khỏi cuộc đấu tranh giai cấp

nhưng lại không hòa hợp được với cuộc sống nhố nhăng “ối a ba phèng” (Vũ Trọng

Phụng) đương thời, họ tự tách mình ra khỏi cộng đồng, thoát khỏi thực tại để theo

đuổi thế giới riêng, cảm giác cô đơn đến với họ là điều tất yếu. Nỗi cô đơn ấy khiến

nhà thơ Vũ Hoàng Chương phải thốt lên:“Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỉ/ Một đời

người u uất nỗi chơ vơ”. Hay đó là nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé nhỏ giữa dòng

thời gian vô biên, giữa không gian vô tận trong thơ Xuân Diệu: “Ta là một là riêng là

thứ nhất/ Không có ai bạn bè nổi cùng ta”.

Thông qua nhân vật, các cây bút văn xuôi đương đại đã thể hiện đa dạng

những dạng thức cô đơn của con người. Trong cái thế giới phức tạp của đời sống

nhân sinh, xã hội, con người hôm nay phải đối diện với nhiều vấn đề thế sự. Họ

không chỉ buồn, cô đơn vì quá khứ đã qua, mà còn là nỗi cô đơn ngay giữa cuộc

sống, chính trong gia đình, giữa những người thân. Trong thẳm sâu tâm hồn mỗi

người luôn ẩn chứa những nỗi niềm, tâm sự cả ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Các

nhà văn đương đại trong đó có Nguyễn Huy Thiệp,Tạ Duy Anh, Chu Lai, Nguyễn

Danh Lam và nhiều nhà văn, nhà thơ đã khai thác thể hiện nỗi cô đơn của con người

lên trang viết thông qua các nhân vật của mình. Đó có thể là nỗi cô đơn khi không thể

hòa nhập với cuộc sống, luôn thấy mình như bị gạt ra bên lề xã hội, như một người

chậm bước khó thích nghi thậm chí không thể thích nghi với cuộc sống vẫn chảy trôi

bên mình. Nếu trong sáng tác của Chu Lai, nhân vật cô đơn, không thể hòa nhập

được với cộng đồng, với đời sống hiện tại là bởi họ đã dành hết niềm tin, lý tưởng ở

quá khứ thì ở Nguyễn Huy Thiệp, đó là nhân vật cô đơn trong hành trình đi tìm cái

thiện, cái đẹp hay nỗi cô đơn của những người bình dân giữa đời sống. Ở Tạ Duy

Anh, đó là nhân vật cô đơn, phân vân từ khi còn chưa chào đời hay là nỗi cô đơn của

27

con người lạc bước vào hành trình đi tìm nhân vật của mình, càng đi càng thấy mình

chơi vơi, lạc lõng, cô đơn. Đó còn là nỗi cô đơn của những con người phải sống trong

một làng quê chất đầy những hủ tục, những cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các

dòng họ, những mối thù truyền kiếp. Ở Nguyễn Danh Lam, đó là những “lạc thể” vô

danh lạc bước giữa dòng đời, đi bên ngoài cuộc đời. Đó còn là những con người cô

đơn vì họ không thể chen nổi vào đời sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung với

những người xung quanh, sống giữa nhiều người, sống giữa cộng đồng, giữa biển

người mênh mông nhưng luôn có cảm giác bị bỏ rơi trong sáng tác của Nguyễn Ngọc

Tư. Đó còn là con người cô đơn vì không biết chăm sóc đời sống tinh thần, chỉ mải

miết tìm kiếm giá trị vật chất trong sáng tác của Ma Văn Kháng và trong nhiều sáng

tác của các nhà văn đương đại,…

Có thể nói, bằng những tìm tòi và những nỗ lực sáng tạo không mệt mỏi, các

nhà văn đương đại đã thể hiện khá sâu sắc những vấn đề nhức nhối, nóng rát hàng

ngày. Trong đó, con người phải đối diện với bao vấn đề mà quan trọng hơn nhất là

cảm xúc cá nhân. Những suy tư, sự buồn đau, hay là nỗi cô đơn luôn thường trực như

một trạng thái tâm lý không thể tránh khỏi.

1.4. Khái quát về kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn học và văn học

Việt Nam

1.4.1. Cô đơn – một trạng thái tâm lý bản thể

Mỗi người là một thực thể sống khác nhau, tự trong bản thân mỗi người đều

có bảy cung bậc cảm xúc của: Hỉ, nộ, ái, ố, bi, ai, lạc. Tuy nhiên, trong bảy cung bậc

cảm xúc đó, bản thân mỗi người lại có cái buồn riêng, có cái vui riêng. Cũng như

vậy, bên trong mỗi bản thể nhỏ bé ấy, nỗi cô đơn lại tồn tại ở nhiều dạng thức, mức

độ khác nhau, có người chỉ thoáng thấy mình cô đơn, có người cứ thấy mình cô đơn

triền miên, có người thì dai dẳng mang trong mình nỗi cô đơn từ khi sinh ra đến khi

mất đi,… Con người cô đơn bởi nhiều lí do, có thể vì họ quá khác biệt với thế giới

xung quanh, có thể họ không thể tìm được tiếng nói chung, không được chia sẻ,

28

không thể hòa nhập với cộng đồng, họ tự tách mình ra khỏi cộng đồng ấy. Cũng có

thể, nỗi cô đơn của con người như một mặc định theo họ đi suốt cuộc đời. Như vậy,

cô đơn là một trạng thái tâm lý bản thể của con người.

Theo Từ điển tiếng Việt : Cô đơn là “chỉ có một mình, không có người thân,

không nơi nương tựa (cảnh cô đơn, con người cô đơn)” [41].

Trong Từ điển tâm lý học, cô đơn được định nghĩa là “một trong những yếu

tố căn nguyên tâm lý ảnh hưởng đến trạng thái cảm xúc của con người khi ở vào tình

huống không quen thuộc (bị thay đổi) hoặc hoàn cảnh bị cách ly với người khác. Khi

rơi vào trạng thái cô đơn do sự cách ly thực nghiệm, địa lý, xã hội hay do bị tù, các

mối quan hệ trực tiếp với những người khác bị cắt đứt gây ra những phản ứng cảm

xúc cấp tính trong một loạt các trường hợp xuất hiện sự sốc tâm lý với các biểu hiện

chính: lo âu, trầm cảm và rối loạn thần kinh thực vật…”[41]. Cô đơn có những cảm

xúc tương ứng của chủ thể là xa lánh. “Xa lánh biểu hiện trong những mối quan hệ

sống của chủ thể với thế giới xung quanh. Trong đó cá nhân tự tách mình ra khỏi

những cá nhân khác, coi họ đối lập với bản thân mình. Xa lánh thể hiện trong những

cảm xúc tương ứng của chủ thể: cảm giác bị tách biệt, cô đơn, bị ruồng rẫy, mất cái

tôi” [41].

Từ góc độ triết học, cô đơn thuộc về vô thức. Tức là “cô đơn tồn tại như một

bản năng của con người.”. Con người ngay từ khi sinh ra đã mang trong mình nỗi cô

đơn, tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh chứng tỏ điều đó. Nó là nỗi cô đơn bản thể, cô

đơn tiền định, không thể lý giải vì sao nó cô đơn, bởi nó là “sự sai khiến của dòng

chảy thần thánh trong từng huyết quản của con người”. Nó thuộc về cội nguồn bản

thể, tự cô đơn.

Theo Các Mác “Con người là tổng hòa các mối quan hệ”. Nhưng khi sự tổng

hòa đó bị phã vỡ, một mối quan hệ nào đó bị đứt gãy, thì sẽ xuất hiện trạng thái cô

đơn. Và nếu xét về mặt tâm lý, cô đơn là trạng thái con người cảm thấy lẻ loi, hụt

hẫng khi bị cắt đứt sợi dây liên hệ với cộng đồng, xã hội xung quanh. Con người cô

29

đơn là bị loại ra khỏi cộng đồng do có sự chênh lệch. Cá nhân tự ý thức về mình và tự

tách mình, loại trừ mình và tự đứng lệch ra khỏi chuẩn chung.

Từ góc độ khoa học nhân văn, cô đơn là trạng thái đáng thương của con

người, đồng thời cũng là ý thức đặc biệt về giá trị của mỗi cá nhân.

Có thể nói, với mỗi cá nhân, hầu hết chúng ta đều phải trải nghiệm nỗi cô đơn

trong cuộc sống của mình. Nỗi cô đơn ấy có thể “là trạng thái hoang mang, lạc lõng

và khó chịu khi không có ai ở bên mình” [41]. Vì vậy, có thể xem, cốt lõi của sự cô

đơn là nỗi sợ bị bỏ rơi, nỗi sợ rằng cuộc sống dường như cũng đã lãng quên mình,

cùng với đó là nỗi sợ hãi rằng sự cô đơn đó – cảm giác không ai muốn có mình,

không được công nhận, không được thấu hiểu và đồng cảm – sẽ kéo dài mãi mãi

chẳng có ai đến chia sẻ cùng mình.

Octavio Paz – nhà văn lớn của Mêxicô trong chuyên luận Thơ văn và tiểu

luận của mình cho rằng: “Cái cô đơn là đặc trưng cuối cùng của thân phận con

người.”[41]. Nỗi cô đơn, vốn là chính bản thể của cuộc sống chúng ta, xuất hiện

trước chúng ta như một thử thách, như một sự gột rửa với mục đích cuối cùng là mất

đi mọi đau đớn và thất thường. Sự hoàn thiện, sự tụ hội vốn là sự nghỉ ngơi và hạnh

phúc, sự hòa hợp với thế giới chờ đón chúng ta ở điểm nút ở mê lộ cô đơn.

Cá nhân là riêng tư, không trộn lẫn với ai và không có phiên bản khác. Mỗi cá

nhân là một tiểu vũ trụ bí ẩn. Không ai hoàn toàn hiểu nó, và bản thân nó cũng không

thể hiểu được người khác dù luôn có ý thức muốn được hiểu và hiểu được người

khác. Nhu cầu hiểu và được hiểu này thể hiện qua nhu cầu giao tiếp, tự thể hiện, nhu

cầu nhập cuộc với xã hội để trưởng thành, để tồn tại. Nhưng trong quá trình nhập

cuộc, dấn thân, con người luôn phải trượt từ môi trường này sang môi trường khác,

từ môi trường quen thuộc sang môi trường xa lạ để tìm thấy sự quen thuộc, hơi ấm

của bầy đàn, để hóa giải sự cô đơn, cô độc. Hành trình đó có sự chi phối của bản

năng vô thức vì theo E.Fromm “Con người luôn hoài nhớ một cách vô thức thời kì

bào thai của mình, thời kì nó nằm trong Thiên đường bụng mẹ, nay không còn nữa,

30

nó phải tìm đến tình bạn, tình yêu, tình dục nhằm thấy lại sự thanh bình, ấm áp và an

toàn đã mất.”[50].

Như vậy, có thể xem, cô đơn là bản chất, một trạng thái cảm xúc cố hữu của

con người. Đã là con người, chúng ta không thể tránh khỏi nỗi cô đơn.

2.1.2.Kiểu nhân vật cô đơn trong tác phẩm văn học

Kiểu (type) là “toàn bộ nói chung những đặc trưng của một kiểu loại, làm

phân biệt với các kiểu loại khác” [37, tr.11] “Kiểu là cách gọi để đánh giá một sản

phẩm hay một tính chất nào đó, tùy thuộc vào chất lượng sản phẩm và vào cả thẩm

mĩ, tiêu chí của người đánh giá. Kiểu thường được tự quy ước nên chỉ mang tính chất

tương đối, không có những căn cứ rõ ràng. Kiểu nhân vật cũng vậy, nó là kiểu người

có những nét đặc trưng mang tính chuẩn mực được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm

nghệ thuật” [37, tr.12]. Kiểu nhân vật, kiểu cốt truyện, chịu sự quy định của kiểu

sáng tác (phong cách - style) của tác giả. Có nghĩa là kiểu nhân vật phải phù hợp với

tính chất cốt truyện, bố cục, kết cấu của tác phẩm do nhà văn sáng tạo nên. Nhân vật

được tạo dựng thành công trở thành một kiểu hình, kiểu mẫu hay một dạng hình

tượng được nhắc đi nhắc lại, có nghĩa là nhân vật đã gắn bó với tác giả của nó và làm

nên tên tuổi của tác giả đó. Kiểu nhân vật là một phần nào đó của kiểu (phong cách)

tác giả, dù không hoàn toàn đồng nhất.

Trong tác phẩm văn học, các kiểu dạng nhân vật rất đa dạng. Người ta có thể

xét trên nhiều phương diện, ở nhiều khía cạnh, trong nhiều góc độ để phân loại các

kiểu dạng nhân vật, chẳng hạn: Kiểu nhân vật anh hùng, kiểu nhân vật tha hóa, kiểu

nhân vật sám hối, kiểu nhân vật tranh đấu và nổi loạn, kiểu nhân vật bi kịch, kiểu

nhân vật kiếm tìm, kiểu nhân vật cô đơn,… Khảo sát qua các sáng tác của thời kì

trước, từ văn học phương Đông sang văn học phương Tây, ta có thể thấy đã xuất hiện

nhiều kiểu nhân vật như: Kiểu “nhân vật dưới hầm” trong sáng tác của Dosstoievsi,

kiểu “nhân vật nhỏ bé” trong sáng tác của các nhà văn Nga như Gogol, Tsekhov,

Puskin,… kiểu nhân vật nông dân bị bần cùng hóa hay kiểu nhân vật trí thức tiểu tư

sản trong sáng tác của Nam Cao,…

31

Với tác phẩm văn học, nhân vật là “phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát

hiện thực một cách hình tượng”. “Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào

một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định” [14, tr.126].

Nhân vật là “công cụ” hữu hiệu và đắc lực nhất để nhà văn chuyển tải những suy

nghĩ của mình về con người, về nhân sinh. Nhân vật cô đơn trong văn học là chỉ một

loại hình nhân vật mà trong đó nhân vật thể hiện những đặc tính của con người cô

đơn. Đó có thể là sự buồn bã, nỗi cô đơn, lạc lõng ngay tự bản thân mình cảm thấy,

hay là sự xa lánh với gia đình, bị bỏ rơi giữa thực tại, giữa cộng đồng xã hội muốn

hòa nhập mà không thể.

Những nhân vật đã được các nhà văn khái quát hóa trong tác phẩm văn học

chính là những con người tiêu biểu của cuộc sống được nhìn nhận và tái hiện thông qua

lăng kính của nhà văn. Tính cách của nhân vật thường được khắc họa trong hoàn cảnh

tương ứng. Những “con người này” (Heghel) biểu hiện trên trang sách qua điểm nhìn

gần như “biết tuốt” của nhà văn. Dù khách quan hay chủ quan thì những kiểu nhân vật

được xây dựng phổ biến trong sáng tác của những tác giả ấy chủ yếu dựa trên góc nhìn

cá nhân, cảm quan riêng tư của tác giả. Đó là những cảm nhận của người nghệ sĩ về

cuộc đời, thường là những bài học chiêm nghiệm mà nhà văn hướng đến người đọc.

Nhưng đôi khi cũng có cả góc nhìn, cảm nhận phiến diện, một chiều, tác động đến độc

giả, việc quan trọng là độc giả biết nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách đa diện, sâu

sắc, thậm chí là phản ánh lại, cảm hóa nhà văn, không đi theo lối mòn lệch lạc, sai lầm.

“Vai trò của người nghệ sĩ là chiêm nghiệm để “tạo lập một thế giới” mới qua hình

tượng nhân vật, còn chức năng của người đọc lại là đưa nhân vật và thế giới trở về

cuộc sống, nhận biết ảnh hình của con người trong thế giới đời thường. Vì vậy có thể

thấy nhà văn và kiểu nhân vật có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau.

Nhân vật là đứa con tinh thần tâm huyết nhất, gần gũi nhất của nhà văn”.[37, tr.12-

13].

Cùng một đề tài, cùng cảm hứng, cùng một kiểu nhân vật nhưng mỗi nhà văn

lại có thế mạnh, tài năng thể hiện và hướng khai thác riêng: Có thể về tâm lý, tính cách,

32

hành động hay về nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ,… các phương tiện nghệ

thuật khác nhằm thể hiện sâu sắc chủ đề tư tưởng của nhà văn.

Qua kiểu nhân vật cô đơn, nhà văn đi sâu khai thác vào bên trong trạng thái tâm

lý bản thể của con người. Cô đơn được thể hiện là những nỗi buồn, sự xa lánh, cô độc,

muốn trốn tránh thực tại. Và qua khảo sát, tìm hiểu, có thể thấy kiểu nhân vật này đã

xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn học trên thế giới, trở thành đề tài của nhiều tác

phẩm qua dòng chảy thời gian. Trong văn học phương Tây, có thể thống kê hàng loạt

tác phẩm viết về cái cô đơn, thậm chí lấy nhan đề là cái cô đơn và có nhân vật cô đơn

như: Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết của G. Marquez), Những ngôi sao cô đơn (chồng

Hollywood, vợ Hollywood, tiểu thuyết hai tập của J.Collin), Bồ câu cô đơn (tiểu

thuyết hai tập của Larry McMurtry), Người đàn bà cô đơn (tiểu thuyết của

J.Blume), Cô đơn trên mạng (tiểu thuyết của Janusz Leon Wiśniewsk), Nỗi cô đơn

của các số nguyên tố (tiểu thuyết của Paolo Giordano),…

Ở Phương Đông, các nhà văn cũng xây dựng nên những tác phẩm viết về nỗi

cô đơn và nhờ nhân vật của mình truyền tải đến độc giả: Có thể kể đến các tác phẩm

của các tác giả như: Hồng lâu mộng (tiểu thuyết của Tào Tuyết Cần); Nỗi lòng (tiểu

thuyết của Natsume Sôseki); Báu vật của đời, Sống đọa thác đày… (tiểu thuyết của

Mạc Ngôn); Rừng Na-uy (tiểu thuyết của Haruki Murakami);…

Trong văn học Việt Nam, vấn đề này cũng được các nhà văn khai thác từ sớm.

Tuy nhiên, đến thời kì đất nước bước vào công cuộc đổi mới thì kiểu nhân vật cô đơn

mới có dịp được thể hiện rõ nét và chân thực, có thể kể đến các tác phẩm như: Thời xa

vắng (Lê Lựu); Nỗi buồn chiến tranh(Bảo Ninh); Bến không chồng (Dương Hướng);

Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường); Mùa lá rụng trong vườn (Ma

Văn Kháng); Tướng về hưu, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Cún,….(Nguyễn

Huy Thiệp); Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Cuộc đời dài lắm, Bãi bờ hoang

lạnh, Ba lần và một lần,… (Chu Lai); Bước qua lời nguyền, Lão Khổ, Thiên thần

sám hối, Đi tìm nhân vật,… ( Tạ Duy Anh); Gia đình bé mọn (Dạ Ngân); Cải ơi,

33

Cánh đồng bất tận,… (Nguyễn Ngọc Tư); Thiên sứ (Phạm Thị Hoài); Dĩ vãng, Nước

mắt đàn ông, Tân cảng, Cú mèo và rượu hoa, Hậu thiên đường,… (Nguyễn Thị Thu

Huệ), Cơ hội của chúa (Nguyễn Việt Hà);… Cuộc đời ngoài cửa, Giữa vòng vây trần

gian, Bến vô thường, Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam),….

Từ việc sơ lược thống kê các tác phẩm như trên, có thể thấy, con người cô đơn

trong văn học đã đi một quãng đường dài từ cổ chí kim, từ Tây sang Đông, với nhiều

cách nhận thức và phương thức phản ánh khác nhau, mang theo thông điệp của nhà

văn về thế giới và con người.

Như đã nói ở trên, kiểu con người cô đơn trong văn học Việt Nam cũng đã

được quan tâm khai thác từ sớm. Trong các tác phẩm thời trung đại kiểu nhân vật này

đã ít nhiều được đưa lên trang viết. Vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong

kiến, văn học trung đại đề cao tính trật tự, với chức năng “văn dĩ tải đạo”,

“thi dĩ ngôn chí” . Nhiều tác giả vì cái tôi quá lớn mà không muốn khuất phục triều

đình, kẻ thù đã thể hiện sự bất mãn với hiện thực và lý tưởng sống. Cái cá tính mạnh

mẽ của họ đã vượt qua “khung thời đại”. Nỗi lòng của cái tôi cô đơn khi nhận thấy thân

phận nhỏ bé, số kiếp hữu hạn của mình trước thiên nhiên. Đó là nỗi cô đơn của một

nhân cách vĩ đại nhưng không ai hiểu mình, chấp nhận nén chí lớn từ quan về ở ẩn

trong thi ca Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm . Đó là cái cô đơn trong thơ Hồ Xuân

Hương khi con người bị lạc lõng giữa những trói buộc lề thói của xã hội phong kiến,

rồi đơn độc phản kháng; hay nỗi cô đơn choáng ngợp đến mức đại thi hào Nguyễn Du

nghi ngờ không biết có tìm được người đồng cảm với mình ở ba trăm năm sau hay

không? Đó còn là nỗi cô đơn, phẫn chí và u uất của các tài tử, phong lưu, “ngông”,

ngất ngưởng như Nguyễn Công Trứ , Cao Bá Quát, Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Tú

Xương,….

Sang đầu thế kỉ XX, con người cô đơn có dịp phát triển mạnh, trở thành mối

quan tâm của nhiều nghệ sĩ. Thời kì này, cái cô đơn trong văn học gắn liền với cuộc

đấu tranh giữa những giá trị cũ của xã hội phong kiến và những giá trị mới ảnh hưởng

34

từ văn hóa phương Tây; đó là sự bừng tỉnh ý thức cá nhân, “cái tôi” riêng tư khi con

người muốn chống trả, thoát khỏi tư tưởng, lề thói lạc hậu của xã hội phong kiến,

hướng đến lối sống tự do nhưng không thể. Tiếp sau đó là nỗi cô đơn trong Thơ Mới

thể hiện ở nỗi buồn của cả một thế hệ: Ảo não thê thiết như Huy Cận, bi kịch như Hàn

Mạc Tử, u uất như Vũ Hoàng Chương, rợn ngợp như Xuân Diệu,… những nỗi buồn

xuất phát từ cảm nhận nhạy bén, tinh tế trước thiên nhiên và nhu cầu được khẳng định

cái tôi của người nghệ sĩ. Ở trào lưu chủ nghĩa hiện thực, con người cô đơn đi vào văn

học trong sự đối lập giữa thân phận người nông dân nhỏ bé không đủ sức chống lại

những thế lực tàn ác, xấu xa nên bị xã hội vùi dập, làm biến chất, tha hóa; hoặc những

người trí thức tiểu tư sản không thực hiện được ước mơ, lý tưởng, phải chấp nhận cuộc

sống “mòn” tầm thường và chỉ dám nuôi hoài bão trong trí tưởng tượng. Tiêu biểu

trong những sáng tác của Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân,…

Do yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử những năm 1945 -1975, con người trong văn

học giai đoạn này được miêu tả từ góc độ cộng đồng, do đó viết về cảm hứng cô đơn,

nhân vật cô đơn là một trong những đề tài bị né tránh, kiêng kị trong văn học nghệ

thuật. Sau khi hòa bình, đất nước đi vào quĩ đạo đổi mới, ý thức cá nhân xuất hiện trở

lại, văn học được giải phóng khỏi chức năng tuyên truyền, cổ vũ, khích lệ, động viên

để mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực trong tính đa chiều, phức tạp, trong đó mở

rộng hướng khai thác, khám phá cuộc sống của con người là vấn đề được quan tâm hơn

cả để văn học được trở về là chính nó “Văn học là nhân học”. Với những thay đổi cơ

bản trong cảm hứng sáng tác và quan niệm nghệ thuật về con người theo hướng khám

phá đời tư và chú trọng đời sống nội tâm, chuyển từ con người anh hùng sang con

người đời thường, từ cái chung sang cái riêng, các nhà văn đã xây dựng những hình

tượng con người cá nhân và để con người thường xuyên đối diện, trăn trở với chính

mình. Tiếp nối chủ đề cô đơn, văn học đương đại phản ánh nỗi cô đơn, lạc lõng của

con người trong xã hội, ngay giữa quê hương, làng xóm, cộng đồng, giữa những người

thân yêu. Và hơn thế, con người cô đơn trong văn học đương đại còn gắn liền với thái

35

độ trốn chạy thực tế và khước từ xã hội, phân vân không biết có nên đến với cuộc đời

hay không,… Những điều này đã được các nhà văn đưa vào trang viết một cách cụ thể,

chân thực và sinh động. Người đọc có thể bắt gặp trong sáng tác của

Nguyễn Khải với kiểu nhât vật "lạc thời"; Trong sáng tác của Chu Lai, Bảo Ninh, Tạ

Duy Anh, Lê Lựu, Bảo Ninh,… là kiểu nhân vật bị chấn thương tinh thần bởi di chứng

chiến tranh để lại khiến cho họ đánh mất mối liên hệ với thực tại, đi sau thực tại.

Ở Tạ Duy Anh còn có những trang viết ám ảnh về hành trình cô độc của con

người trong cuộc xô dạt dữ dằn đầy khắc nghiệt của thời cuộc; Ở Nguyễn Huy Thiệp,

là nhân vật cô đơn, lạc loài giữa cuộc sống gia đình, cộng đồng có nhiều biến động.

Nguyễn Danh Lam là những con người cô đơn điển hình của xã hội hiện đại,….

Như vậy, có thể nói con người cô đơn là một kiểu nhân vật phổ biến trong văn

học, nhưng ở mỗi thời kỳ, giai đoạn và trong mỗi tác phẩm con người cô đơn lại có

những sắc thái khác nhau, tùy vào chủ ý của người sáng tác.

36

Chƣơng 2: CÁC KIỂU DẠNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN TRONG VĂN XUÔI

VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

Con người luôn là đối tượng trung tâm của rất nhiều loại hình nghệ thuật,

trong đó có văn học. Marxim Gorki đã từng nói “văn học là nhân học”, tức là khoa

học về con người. Văn học đã đi một chặng đường dài từ văn học dân gian qua văn

học trung đại; từ Đông sang Tây, dù trực tiếp hay không thì văn học vẫn hướng đến

con người. Và ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học, mỗi nhà văn lại có những quan

niệm khác nhau, cách thức xây dựng thể hiện về con người khác nhau.

Văn học Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm và cũng đã có những quan

niệm khác nhau về con người. Mỗi nhà văn là một thế giới riêng, họ có sự tiếp nhận

những ảnh hưởng khác nhau dội đến từ cuộc sống bên ngoài, do vậy, quan niệm nghệ

thuật nói chung, quan niệm nghệ thuật về con người nói riêng của họ hết sức phong

phú, đa dạng. Quan niệm đó sẽ chi phối sâu sắc đến công việc sáng tạo của nhà văn.

Bởi thế, con người trong văn học không phải con người tự nhiên trần trụi, cũng

không phải con người xã hội chung chung mà là con người cụ thể đã được mã hóa

qua thiên kiến chủ quan của người nghệ sĩ, đó là biểu hiện cụ thể, sinh động quan

niệm nghệ thuật và thế giới quan của nhà văn về con người.

Khảo sát qua sáng tác của các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu

Lai và Nguyễn Danh Lam chúng tôi nhận thấy có hai kiểu dạng nhân vật cô đơn tiêu

biểu: Cô đơn từ bản thể và cô đơn vì không thể hòa nhập với cuộc sống thực tại.

2.1. Nhân vật cô đơn từ bản thể

Nỗi cô đơn của con người có nhiều dạng thức, nhưng có khi cô đơn cũng trở

thành thuộc tính người, như định mệnh đã an bài: Trót sinh ra làm người tất phải nếm

trải, gánh chịu trạng thái cô đơn. Ngay từ thuở lọt lòng, con người đã phải đối mặt

với sự cô đơn đã được ấn định từ trước, cho đến khi lớn lên phải đối mặt với cuộc

sống với biết bao vấn đề nhân sinh thế sự phức tạp, cùng bao nhiêu tai họa luôn rình

rập, bủa vây, sẵn sàng ập đến bất cứ lúc nào. Ngay cả khi chết đi, con người cũng

37

không tránh khỏi nỗi cô đơn đến rợn ngợp. Nỗi cô đơn là một trạng thái tâm lý, luôn

xuất hiện thường trực trong con người.

Đọc Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), nhân vật “thai nhi” – một đứa bé còn

nằm trong bụng mẹ đã phải tự đấu tranh để đưa ra quyết định có ra làm người, có ra

để sống hay không? Nó phân vân từ khi còn trong bụng mẹ. Một mình nó với những

dòng suy nghĩ, cảm xúc riêng mà thế giới ngoài kia chẳng thể nào biết đến, ngay cả

mẹ nó cũng không thể nào hiểu được.

Ở những dòng đầu tác phẩm, người đọc cũng có thể nhận thấy sự háo hức,

trông ngóng, mong chờ được ra đời để thành người, để được hòa nhập vào cộng đồng

người đó: “Tôi đếm từng giờ. Còn bảy mươi hai giờ nữa tôi mới hết giai đoạn bào

thai. Sau đó chỉ còn là một việc giãy đạp, gào thét mà chui ra. Thế là thành

người. Tôi khao khát chờ đến cái ngày vĩ đại ấy” [52]. Thế nhưng, niềm mong mỏi,

hào hứng, ấy của “tôi” bỗng gặp phải nhiều ngăn cản. Trước cái ý định muốn được

chui ra cho thỏa niềm ước ao, để mẹ đỡ lo lắng, mệt mỏi thì bao nhiêu sự kiện dồn

đến, khiến nhân vật phân vân, do dự. Cuối cùng, sau khi đã nán lại và nghe ngóng

qua nhiều sự kiện, nhiều câu chuyện thẩm thấu được qua người mẹ, nhân vật thấy

cuộc đời ngoài kia có quá nhiều điều nó không thể nào hiểu nổi, thậm chí, thấy có

nhiều bất trắc và nguy hiểm: “Cái cuộc đời ngoài kia cũng bất trắc và nguy hiểm lắm

nhỉ. Có biết bao tai vạ khó lường mình còn chưa cắt nghĩa được bằng từ ngữ. Vậy thì

dại gì mà chui vào rọ khi mình có toàn quyền quyết định.”[53].

Với cương vị là thiên sứ nhỏ đến từ thiên đường, bản thân nó tự phán xét cuộc

đời ngoài kia, nó làm phép thử cho những bậc sinh thành, xem họ có xứng đáng với

tên gọi là “cha” là “mẹ”. Hai lần định chui ra cất tiếng chào thế giới thì hai lần nó co

lại vì những biến cố bị cắt ngang, cuộc sống ngoài kia thật tăm tối độc ác với biết bao

vấn đề khiến “tôi” nghi ngờ, ngần ngại. Một mình “tôi” với những suy nghĩ, quyết

định mà không ai có thể nhìn thấy, không ai có thể hiểu, thậm chí cả người mẹ đang

“đèo bòng” “tôi”. Và nó muốn tiếp tục cuộc chơi của riêng mình để khám phá, trải

38

nghiệm. Vì một câu hỏi lớn: “Cuộc sống có đáng hay không?”. Bản thân những suy

nghĩ, sự phân vân do dự, quyết định ấy là của riêng mình nhân vật. Không ai hiểu,

không ai chia sẻ, khiến thai nhi cô đơn với chính suy tưởng của mình.

“Trẻ em vốn là sự cứu rỗi cái cô đơn của người lớn”, là đấng thiên thần đích

thực của kiếp người. Mỗi con người được sinh ra là từ sự ân sủng thăng hoa của tình

yêu. “Khi còn là thiên thần ở trên trời, tôi và những linh hồn khác đều thuộc những

bài hát ca ngợi tình yêu và sự mầu nhiệm. Tình yêu tạo ra sự mầu nhiệm và được tạo

bởi sự mầu nhiệm. Trong niềm ngây ngất, một mầu nhiệm lớn lao nhất được tạo ra,

ấy là sự có mặt của chúng tôi, như một sự gia ân của đấng tối linh không hiện hình

nhưng hiện hữu ở khắp nơi.”[52]. Thế mà sao, giữa những cuộc gặp, những câu

chuyện mà “tôi” nghe được ở thế giới bên ngoài thông qua mẹ thì trẻ con luôn bị

người ta chối bỏ bằng hình thức này hay hình thức khác. Khiến cho “tôi” hoài nghi,

thậm chí là thất vọng, Ở cõi nhân sinh, có những “Chiếc thai đã đủ tư cách làm

người nhưng không có tư cách công dân và từ kiếp trước đã bất hợp pháp. Người ta

không cảm thấy có nghĩa vụ phải chăm sóc nó. Nó là hiện thân của điều đáng tởm

nhất mà con người phạm phải. Việc cần phải làm là hãy để cho nó chết. Chỉ khi đó

lương tâm mới thanh thản và không còn ai vì nó mà bị ám ảnh về tội lỗi”. [53]. Và

có một điều buồn đau mà “tôi” cũng cảm thấy thấm thía khi biết chính “Mẹ đã từng

từ chối sự có mặt của con để giờ đây điều đó trở thành niềm mong ước thắt ruột. Giờ

đây thì mẹ thấm thía được một điều quan trọng: Để có tình yêu thực sự, không thể

sống theo ý muốn thuần túy của con người". [53]. Khiến cho tâm hồn, suy nghĩ “tôi”

lạc đi, và cái sự kiện trọng đại muốn chào đón cuộc đời, giờ đây chẳng còn là niềm

háo hức nữa. Sau những gì đã biết, đã phán xét về cõi đời, nó tin rằng có “một cô, cậu

bạn đồng niên nữa của tôi không muốn làm người. Có thể đó là quyết định sáng

suốt”.[53].

Rồi cũng đến thời điểm “Vào cái ngày cuối cùng đáng nhớ so với thời hạn tôi

cần phải đưa ra quyết định có nên ra đời hay không.” với biết bao câu chuyện thật

39

khó tin của cuộc đời thì xuất hiện những âm thanh vẫy gọi như những bài thánh ca

chào đón một hài đồng ra đời trên cỏ. Điều đó đã đưa đến cho tôi quyết định “tôi

chấp nhận sống, còn bởi một sự thật ngàn lần khó tin hơn: Con người chẳng làm

được gì hơn ngoài sự chuẩn bị đến nơi đến chốn. Còn biết bao người không có cơ hội

này và có thể coi đây là bí mật cuối cùng mà vì thế tôi cần phải đến, thay vì bỏ đi.”

[53].

Ở đây nhân vật cô đơn là bởi một mình đối diện với suy nghĩ, với những quyết

định cùng những bí mật cuộc đời mà “Vĩnh viễn chẳng ai trong số những người đến

cuộc đời trước tôi hiểu được bí mật này.” Quyết định cuối cùng của thai nhi chấp

nhận đến với cuộc sống đồng nghĩa với việc thai nhi đã chủ động đương đầu với cuộc

thách đấu dai dẳng và quyết liệt. Mà ở đó, cái thiện, cái ác, cái chết luôn ở trên bờ

vực. Nhân vật thai nhi như một biểu tượng về một sự nghiệm sinh trong cõi người từ

trong tiền kiếp, quá trình nhọc nhằn, gian khổ nhưng đầy hạnh phúc của sự sống.

Nhân vật được kể với giọng khách quan lạnh lùng cái hiện thực nghiệt ngã và phi lý

được tô đậm và rõ nét. Qua đó, gieo nỗi buồn hoang mang về kiếp người.

Đến với Luân hồi, người đọc sẽ thấy, không chỉ bản thân nhân vật mới mang

trong mình nỗi cô đơn như một tiền định mà đó còn là nỗi cô đơn của dòng máu

huyết thống, được di truyền từ đời này qua đời khác, “từ các cụ tổ tiên đến bố tôi đều

cô đơn”[1, tr.201], một lời dự báo rằng thế hệ con cháu sau này cũng sẽ cô đơn. Và

đến đời tôi cũng tự thấy “tôi rất cô đơn”, không thể tránh khỏi. Nỗi cô đơn ấy tự bản

thể đã có, như thứ gen di truyền mà thế hệ trước trao lại cho thế hệ sau, nỗi cô đơn

của con người đã mang tính dự báo, cô đơn là trạng thái tâm lý không thể tránh khỏi

đối với mỗi con người.

Không chỉ được dự báo về một nỗi cô đơn có sẵn được di truyền lại, qua lời

giới thiệu, có thể thấy, nỗi cô đơn của “tôi” càng không có điều kiện để thoát khỏi:

“Tôi sinh ra từ những cơn mưa. Vào một đêm sâu thẳm nào đó. Trong nỗi cô

đơn khủng khiếp, cha tôi lang thang đi tìm một miền khô ráo. Ông đã nằm mơ thấy

40

trước tất cả những gì sẽ diễn ra. Trong cơn dập vùi của trời đất ông thấy tôi mang

hình một quả cầu lửa. Mẹ tôi khi ấy giống như một cọng cỏ úa vàng vì ẩm ướt đã giơ

tay cầu nguyện. Chiếc giường tre nấc lên bởi cuộc báo thù số phận, bởi nỗi đau đớn

triền miên không thể giải thoát. Bà tiên cảm đến một cuộc sinh nở sẽ rất quằn quại

và điều đó bắt đầu làm nên số phận tôi”[1, tr.193]. Lời giới thiệu của “tôi” như một

dự cảm cho thấy sự mất mát về tình yêu thương, nỗi cô đơn đã gắn với nhân vật ngay

từ khi sinh ra. Chào đời giữa khung cảnh mùa mưa buồn bã, ủ dột, dầm giề, ẩm ướt.

“Tôi” lại không được sự chào đón từ cha, hơn thế, tôi còn là một sự ám ảnh ghê gớm

đối với cha. Vậy nên “Hễ thấy tôi, cha tôi thường nghiến răng trèo trẹo”. Và tuổi thơ

của “tôi” cũng chẳng êm đềm như những đứa trẻ khác, tôi không được cha yêu

thương, thậm chí còn bị cha căm thù “Chính ông đã cho tôi một kí ức ẩm ướt. Sau

này đã là người, bao giờ tôi cũng đau khổ đi tìm lời giải thích về mối quan hệ không

mấy suôn sẻ với những người thân nhất của mình.” [1, tr.193-194]. Tất cả những chi

tiết ấy đều nhằm nhấn mạnh hơn nỗi cô đơn mà nhân vật phải chịu đựng.

Tôi đã đến với cuộc đời mà không được chào đón như thế, tôi đã tồn tại trong

một gia đình thiếu tình yêu thương như vậy, tự mình tôi thầm lặng tồn tại, lặng lẽ

quan sát, tìm kiếm câu trả lời vì sao tôi lại bị cha ghét bỏ, thù hằn. Và “Cuối cùng

“tôi” cũng đã lý giải được cái nguyên nhân khiến cha tôi căm thù tôi. Khi nhặt tôi từ

giấc mơ của mẹ tôi, ông biết trước dòng máu hùng mạnh cô độc chảy đến ông là hết.

Ông là tiếng hú hạ màn của một tấn bi kịch không có chuyển cảnh.”.[1, tr.199].

Cái nỗi cô đơn của nhân vật còn được thể hiện qua những cơn mơ, những giấc

chiêm bao hay là sự huyễn hoặc, ảo tưởng. Một mình nhân vật bước vào giấc mơ ấy

để mong tìm được sự giải thoát hiện tại, trốn chạy vào một thế giới của hư ảo để đi

tìm ý nghĩa cuộc sống. Theo đuổi một hình ảnh không có thực trong những cơn mộng

mị ấy để tìm kiếm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ nhân vật quá cô đơn.

Không chỉ có tôi, trong Luân hồi, các nhân vật trong gia đình tôi đều là hiện

thân của nỗi cô đơn bản thể, cô đơn như một tiền định, bám đuổi mọi kiếp người từ

41

khi sinh ra đến khi chết. Qua lời kể và “phát hiện” của “tôi”, ở đó, mỗi thành viên

trong gia đình giống như là một ốc đảo riêng biệt, lạnh lùng, không chuyện trò,

không có sự chia sẻ, đồng cảm : “Ròng rã ba tháng trời, bà nội tôi, cha tôi, mẹ tôi và

tôi trở thành những vai diễn nhàm tẻ trong một màn kịch câm khủng khiếp.” [1,

tr194]. Còn “Cha tôi tự chôn sống mình trong một không gian sống như nấm mồ.”[1,

tr.194] với một thói quen rất lạ: “Bao giờ ông cũng ngồi đúng cái chỗ của ông, với tư

thế đơn điệu đến khó chịu.”[1, tr.194]. “Bà nội tôi suốt mùa mưa không mở miệng…

Bà chỉ có mỗi việc đu đưa cái chân phải khi chân trái co lên và ngược lại”[1, tr.195].

“ Mẹ tôi tìm cách giết những con bọ chó nhảy lách tách khắp nơi”[1, tr.195]. Mỗi

người một thói quen nhàm tẻ, lặp lại. Mỗi nhân vật là một cá thể riêng biệt, dường

như sống chỉ với thế giới của riêng mình, cùng một mái nhà nhưng không ai có sự

liên kết với những người xung quanh, dù đó có là những người gần gũi, thân thiết

nhất. Cuộc sống tẻ nhạt, mỗi người thu mình trong ốc đảo riêng, không ai xâm phạm,

không muốn bị xâm phạm. “Toàn bộ cuộc đối thoại của chúng tôi qua nhiều ngày

cộng lại chỉ gồm:

Bà tôi: đu đưa chân phải khi chân trái co lên.

Bố tôi, vặn vẹo phần từ vai trở xuống.

Mẹ tôi: đùa với bọ chó và nhìn mưa thở dài

Tôi: Mơ một thiếu nữ,…” [1, tr.195-196]

Việc giao tiếp giữa các thành viên trong gia đình được hạn chế một cách tối

đa. Họ không muốn giao tiếp hoặc không có nhu cầu được trao đổi. Với mỗi người,

dường như họ sống trọn đời với nỗi cô đơn ấy. Và như đã nói ở trên, bản án cô đơn

ấy như một thứ gen di truyền mà thế hệ trước đã truyền lại cho hậu thế, nên mỗi

người tự nhiên sẽ tiếp nhận sự di truyền như một điều tất yếu. Bản thân nhan đề -

Luân hồi như gắn chặt với những thân phận cô đơn có từ kiếp trước và còn kéo dài

triền miên ở kiếp sau. Đi hết cuộc đời mà nhân vật vẫn không đủ tuổi để sống với nỗi

cô đơn.

42

Mỗi cư dân trong Luân hồi đều mang trong mình nỗi cô đơn của kiếp người.

Đó là chị Giáo góa “chiều tối nào cũng đi đắp mộ chồng”, là lão Vọ cất vó ở đầu

làng. Trong đó, lão Mị là nhân vật chịu nỗi cô đơn khủng khiếp nhất. Cả cuộc đời

làm người của lão là một khối cô đơn khổng lồ, nửa đời lão cô độc, không có sự giao

tiếp với đồng loại, lão “ăn cá sống”,“sống trong một túp lều gần khu nghĩa địa.

Chẳng ai dám đến gần lão bởi cơ thể lão bốc mùi rất khẳn”[ 1, tr.197]. Vì quen sống

nguyên thủy, lạc bầy, không còn nhận ra mình còn là một con người, mình còn cả

một cộng đồng đang ở xung quanh. Nên một ngày kia, có người đến gần và cất tiếng

chào, lão không khỏi bàng hoàng ngơ ngác, như một bản năng, lão hú lên một tiếng

kinh rợn “lão quay bốn phương tám hướng và tru lên như một con sói già của thuở

khai thiên lập địa, trước khi từ giã đồng loại. Tiếng hú chín tầng trời, vừa hùng tráng

vừa thê thảm. Tôi cảm thấy như đang nghe tiếng vọng của một thời xa xưa của tiền

kiếp, của những số phận quằn quại ra đời trong vực thẳm âm u của thời gian”.[1,

tr.198].Tiếng hú của lão như là tiếng vọng của thời tiền sử và dường như trong

khoảnh khắc của tiếng hú. Sau khi “đã phóng tất cả sinh lực vào tiếng hú” “vĩnh

viễn lão không dậy nữa” . Lão đã được trở về là người, được sống cả đời người.

Hai Duy (Lão Khổ) sinh ra giữa trận mưa khủng khiếp, cha nó – Lão Khổ bận

tối ngày chuyện học hành, thảo luận,…mỗi lần đi về chỉ kịp ghé qua ngó mặt con rồi lại

đi liền. Nó thiếu hơi ấm của cha ngay từ khi sinh ra; nó lạnh lùng, xa lánh cha từ khi

còn là một đứa trẻ “ốm nhách, đen đủi và nhút nhát”. Từ nhỏ nó đã quen “tha thẩn

chơi một mình trong cái góc khuất nhất.” [3, tr.103]. “Trong tâm hồn trinh bạch của

cậu đã manh nha những tình cảm phức tạp thường ít thấy ở bọn trẻ cùng lứa” [3,

tr.113]. Trong khi những đứa trẻ khác cũng học thuộc lòng những bài học hận thù từ

cha mẹ, dòng họ truyền lại thì Hai Duy lại không muốn nhớ và nghĩ về điều ấy. Chính

sự khác biệt đó đã tạo nên nỗi cô đơn riêng có của nhân vật. Giữa hai cha con luôn có

một khoảng cách vô hình không thể nối kết được. Cậu bé không muốn ở cạnh bố, thậm

chí đã từng ước“Giả sử không có bố thì hay biết mấy!”. Lão Khổ là một ám ảnh, một sự

43

xa cách khủng khiếp mà nó chẳng muốn tới gần, muốn thân thiết. Cậu sợ cha cậu sẽ phá

tan giấc mơ của cậu.

Nỗi cô đơn của nhân vật còn được thể hiện qua những câu hỏi ám ảnh suốt thời

thơ ấu: “Vì sao có nó và khi chết người ta thành gì?”. Nó không biết, không ý thức

được vì sao nó lại được hiện diện trên cõi đời. Một người hay nghĩ vẩn vơ, thích trốn

mình trong bóng tối, đắm chìm trong những giấc mơ. Trong thế giới ấy chỉ có bầu trời

đầy huyền bí, “cậu dệt lại tấm thảm cổ tích bằng những sợi tơ đẹp tuyệt trần rút từ trí

tưởng tượng của cậu”. Nỗi cô đơn của nhân vật ngày càng được thể hiện rõ trong sự

khác biệt về suy nghĩ, về những tưởng tượng khiến cậu được đẩy xa hơn với gia đình,

đồng loại. Cậu muốn rời khỏi hiện tại để đi đến một xã hội khác, thoát khỏi không khí

ngột ngạt, tù túng mà đầy thù hận đó. Điều ấy chứng tỏ cậu quá cô đơn.

Đó là nỗi cô đơn của “tôi” trong Bến vô thường (Nguyễn Danh Lam), sinh ra

đã không được lành lặn như những đứa trẻ khác: “Tôi bẩm sinh không có cái người ta

gọi là chân[…], “tôi quái thai dị dạng” [32, tr.20]. Bởi thế, cả cuộc đời của “Tôi” tồn

tại khép kín, bị nhốt chặt trong “cái hộp vuông gần bốn mét bề ngang, gần bốn mét bề

dọc, gần bốn mét bề cao.” [15, tr.20] cộng với căn phòng phụ rộng hai mét vuông

“Tính ra hết thảy thế giới của tôi là gần mười tám mét vuông.” [32, tr.21]. Tôi không

có mối liên hệ với cộng đồng bên ngoài. Không thể làm những việc người bình thường

khác có thể làm ở thế giới ngoài kia. Thế giới bên ngoài chỉ được cảm nhận bằng âm

thanh. Trong “cái khung xám xịt” đó nhân vật tự ý thức được sự cô đơn của mình: “từ

khi sinh ra đã không có khái niệm về một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ

khác.” [32, tr.23], “tôi điềm nhiên chấp nhận như một sự tất nhiên phải thế.” [32,

tr.280]. Những lời tự thú đó như minh chứng hơn nữa cho nỗi cô đơn của nhân vật.

Nỗi cô đơn ấy càng đậm đặc hơn khi Mẹ - người thân duy nhất trong gia đình

còn lại cũng không chuyện trò, cũng dường như bỏ mặc tôi một mình. Như một lập

trình, cứ đến giờ bà mang đồ ăn lên, thỉnh thoảng đưa lên cuốn sách… Còn lại, một

mình tôi trong cái gian phòng cuộc đời đó. Cuộc sống của nhân vật được đóng khung

44

và lập trình một cách đơn điệu, tẻ nhạt. “Những cuốn sách trong phòng được đọc đi

đọc lại đến thuộc làu từng cuốn” để rồi, “Sau khi phát hiện ra cái điều kì bí mãnh liệt –

ánh trăng. “Tôi” bắt đầu khao khát trỗi dậy và cuối cùng tôi đã thoát ra khỏi cái hộp

đã giam mình suốt mười mấy năm ròng.” [32, tr.280]. Vì khao khát được thoát khỏi

nỗi cô đơn rợn ngợp từng ngày, từng giờ, nỗi cô đơn đã trở thành căn bệnh ảo tưởng.

Và tôi đã ra đi như để kết thúc kiếp người mòn mỏi, cô đơn tù túng của mình.

Cũng mang một hình hài không đầy đủ, chỉ là một thằng “hình nhân mặt đẹp”

giữa cuộc đời, Cún trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp cũng là nhân vật

mang trong mình nỗi cô đơn tự bản thể. “Cả cuộc đời ngắn ngủi của ông chỉ độc có

khát vọng thành người thế mà không được…”. Cún đến với cuộc đời sau khi đã bị cha

mẹ chối bỏ. Rồi một ngày “người ta thấy Cún ở một cái cống bên con sông đào ngoại

thành thành phố. Con sông đen ngòm nước thải, đầy rác, đầy giấy vụn và những đám

bèo Tây lá đầy bụi bặm[…]. Cún nằm tromg đống tã rách hôi hám, cả đầu cả chân tím

ngắt vì gió”.[59]. Một dự báo cho cuộc đời khổ ải, chìm nổi, ngập ngụa khổ đau mà

Cún phải đối diện. Cún không cha mẹ, không người thân, không có một cái tên cho

đúng nghĩa con người. Đủ thấy Cún thiệt thòi, mất mát và khác xa với cộng đồng đến

thế nào. Cún được Lão Hạ đem về nuôi, nhưng Lão Hạ biến Cún trở thành công cụ

kiếm tiền cho Lão. Cũng có lúc Cún ý thức được sự mỏi mệt rã rời của mình giữa cuộc

sống này và “Cún cũng chẳng lạ gì cuộc sống con người[...]Cuộc sống đầy bất trắc và

vô nghĩa. Họ sống cũng như Cún, như lão Hạ, như con giun, con dế, như con ong, cái

kiến” [59]. Ý thức về sự nhỏ bé, bất lực của mình giữa cuộc sống, và hơn hết là không

được cộng đồng chấp nhận như một con người thực thụ. Cún chỉ là “thằng hình nhân

mặt đẹp” có thể làm trò tiêu khiển mua vui cho họ, Cún như một thực thể cô đơn, lạc

loài giữa cộng đồng người mà Cún đang tồn tại bởi “đôi mắt của nó làm cho tất thảy

mọi người xung quanh đều sợ hãi không dám đến gần”.

Cún cũng đã vô cùng hạnh phúc và vui sướng khi biết tin mình được làm cha.

Dù không được gặp con, nhưng đêm ngày, Cún đã vẫn mong mỏi, khắc khoải, khao

45

khát ngóng trông từ ngoài vào. Và cuối cùng, Cún đã chết sau khi nghe được tiếng

khóc chào đời của con.

Cún cô đơn từ khi đến với cuộc đời: Không tên tuổi, không nguồn gốc, không

gia đình. Lớn lên trở thành một kẻ vô danh tiểu tốt, một công cụ kiếm tiền, là trò mua

vui và để người khác lợi dụng. Cún cũng khát khao được làm người, khát khao được

thoát khỏi kiếp người hèn mạn đau khổ ấy nhưng cuối cùng, cũng phải chết trong cô

đơn. Cuộc đời, số phận Cún gần gũi với Chí Phèo của Nam Cao ngày nào. Chí cũng

được người ta mang về nuôi từ cái lò gạch cũ. Rồi cuộc đời của Chí cũng chỉ là một anh

“tứ cố vô thân”, là công cụ cho người ta sai khiến. Sau khi có cuộc gặp định mệnh với

Thị Nở, Chí cũng đã từng ước mơ được làm người lương thiện, được trở về với đời

sống thường ngày, để được cộng đồng chấp nhận. Thế nhưng, khi lương tâm anh được

thức tỉnh cũng là khi anh chọn sự ra đi mãi mãi.

Khi tìm hiểu về nhân vật cô đơn từ bản thể, người đọc sẽ còn bắt gặp nhiều

trong sáng tác của văn xuôi đương đai. Đó là nỗi cô đơn của người khuyết tật - Tốn

trong Không có vua (Nguyễn Huy Thiệp) bị anh em trong gia đình hắt hủi. Còn có

kiểu cô đơn của một “thiên sứ” lạc loài như bé Hon trong Thiên sứ của Phạm Thị

Hoài. Từ khi chào đời, nhân vật đã có nhiều điểm khác biệt với đồng loại: “lọt lòng

không chịu khóc mà chỉ mỉm cười làm thân.”. “ Nó ít ăn ít ngủ, chỉ cười”, đến khi

“Tập nói, bé Hon chỉ biết một câu duy nhất: “Thơm nào!”. Và “Nó không mang nét

nào của người trong gia đình.” [52] Những điều khác lạ đó đã cho thấy Bé Hon là một

bản thể lạc loài, cô đơn nhất. Bé Hon luôn chìa đôi môi bé xíu, hồng hồng, thỏ thẻ

"thơm nào". Nhưng mọi người còn nhiều việc cần hơn những cái thơm. Mẹ gắt

lên: "Ra chỗ khác, thơm với tho gì, không kịp mở mắt ra đây này." [52] ; Bố

cáu: "Thôi, thôi, đủ rồi, ướt nhèm cả mặt người ta." [52] ; Anh cả quát: "Cút!"

Mọi người còn đang bận rộn với cơm áo gạo tiền, không còn thời gian quan tâm

đến cảm xúc riêng tư, đặc biệt cảm xúc của Bé Hon. Bé Hon đành lủi thủi bước đi, rồi

bé ngủ luôn một giấc thiên thu. Bé đã vĩnh viễn ra đi, vì ở đây, giữa gia đình mọi người

không muốn đón nhận nụ hôn thiên thần của bé.

46

Qua việc tìm hiểu nỗi cô đơn tồn tại bên trong nhân vật, chúng ta thấy được cô

đơn là một trạng thái tâm lý tồn tại trong mỗi con người. Và ở từng trường hợp, hoàn

cảnh và tính cách của con người thì nỗi cô đơn ấy thể hiện ở những dạng thức khác

nhau. Nhân vật không chỉ cô đơn tự bản thể. Mà nhân vật còn cô đơn trên nhiều bình

diện của cuộc sống xã hội.

2.2. Nhân vật cô đơn vì không thể hòa nhập với cuộc sống thực tại

Đây là kiểu nhân vật cô đơn phổ biến trong văn xuôi đương đại. Nhân vật

sống giữa gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, người thân; sống giữa xóm làng, cộng đồng,

giữa xã hội nhưng luôn cảm thấy mình bị bỏ rơi, như bị loại ra khỏi cộng đồng do có

sự chênh lệch nên không thể hòa nhập. Cá nhân tự ý thức về mình và tự tách mình, tự

đứng lệch ra khỏi chuẩn chung. Họ là nạn nhân của nỗi cô đơn, bị cô đơn.

2.2.1.Nhân vật cô đơn vì lạc thời

Kiểu nhân vật cô đơn giữa cộng đồng xuất hiện trong văn học nhân loại từ

sớm với những kiệt tác như: Người xa lạ, Huyền thoại Sisyphe của A. Camus; Hóa

thân, Vụ án của F.Kapka; Buồn nôn của J.P. Sartre… Đó là những con người

thuộc “thế hệ bỏ đi”, bị ném vào lò lửa của hai cuộc thế chiến trở ra là những con

người lầm lì, sống không hy vọng, không niềm tin và trở nên xa lạ với tất cả. Một số

tác giả văn xuôi đương đại cũng đã khai thác và thể hiện kiểu nhân vật này như: Bảo

Ninh, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Hồ Anh Thái, Chu Lai, Nguyễn

Huy Thiệp,… thông qua kiểu nhân vật này để các nhà văn muốn phản ánh một sự

thật: Khi kinh tế thị trường, văn minh công nghiệp mở ra, lối sống thực dụng như một

cơn gió lốc tràn vào từng ngóc ngách của cuộc sống, con người trở nên bơ vơ, lạc loài

vì không thể thích ứng được với nó. Đặc biệt những người lính trở về sau cuộc chiến,

thực tế cuộc sống hiện tại khiến họ cảm thấy bất an, lạc loài, cô độc như đi giữa sa

mạc mênh mông, cảm thấy cuộc sống đó như không dành cho mình. Xa lạ với đời,

với người, họ đi chậm hơn, thậm chí đi bên lề cuộc sống, nhận ra mình như “người

thừa”, kẻ “lạc thời”.

47

Những người lính bước ra từ cuộc chiến đã phải mang trong mình vết thương

cả thể xác và tâm hồn chẳng thể bù đắp nổi, trở về với cuộc sống thời bình họ lại vấp

phải nỗi cô đơn lạc lõng giữa gia đình, người thân, đồng nghiệp và sự vận động của

xã hội. Cuộc sống thời bình đã luôn là ước mơ, khát khao trong những năm tháng ở

chiến trường. Cả một thời trai trẻ dành cho trận mạc với lí tưởng cao đẹp, không ít

máu xương của bản thân và đồng đội đã đổ xuống, những tưởng trong cuộc sống thời

bình họ sẽ được bù đắp, được hạnh phúc và sẽ có được chỗ đứng cho bản thân. Vậy

nhưng, hạnh phúc, niềm vui ấy lại là một khái niệm xa vời. Họ loay hoay, chới với,

hụt hẫng trước những đổi thay ngổn ngang bề bộn của hiện thực, cuộc sống đã đổi

thay, và dường như cuộc sống ấy đã đi xa hơn họ cả một chặng đường dài, bỏ lại họ

rơi rớt lại phía sau mà khi càng cố đuổi cho kịp thì họ càng cảm thấy hụt hơi, đuối

sức, cuộc sống ấy như không phải dành cho họ nữa. Chậm chân trong cuộc bươn trải

kiếm kế sinh nhai, họ không tránh khỏi những bỡ ngỡ, hụt hẫng và ưu phiền. Nhưng

trạng thái cô đơn, lạc lõng của họ còn biểu hiện ngay trong quan hệ với đồng loại, với

người thân. Trong cuộc sống hiện tại họ đang từng ngày đối diện đó, họ giống như

người khách qua đường, đôi khi họ còn cảm thấy mình như một người thừa. Những

người lính chiến thắng trở về sau cuộc chiến chung của toàn dân tộc, nay lại “đơn

thương độc mã trong việc duy trì cuộc sống thời bình cho cá nhân, cho gia đình cho

xã hội.” (Tôn Phương Lan). Những điều đó khiến họ phải đối diện với nỗi dằn vặt

trong tâm tư, tình cảm, họ cảm thấy khó khăn và gần như bế tắc trong việc hòa nhập

được với cuộc sống đương diễn ra, bởi thế họ rơi vào cảm giác buồn bã, cô đơn, cảm

thấy “lạc lõng”, “ngơ ngác”, “lơ ngơ” giữa mọi người.

Ông tướng Thuấn trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp là một nhân

vật cô đơn như thế. Cả đời gắn với súng đạn, nhập ngũ từ năm hai mươi tuổi, bảy

mươi tuổi về hưu “với hàm thiếu tướng”, là một vị chỉ huy mẫu mực, một tấm gương

sáng trong mắt mọi người: “Ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của

niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của cha tôi cũng được mọi

48

người ngưỡng vọng.”[61]. Rèn luyện trong quân đội, ông có một lối sống trong sạch,

ngay thẳng, không vụ lợi, là vị tướng được cấp trên tin tưởng, cấp dưới kính nể. Sau

khi cống hiến gần hết cuộc đời cho đất nước, giã từ con đường binh nghiệp để trở về

cuộc sống đời thường, những tưởng ông sẽ tìm được sự bình yên trong những năm

tháng cuối đời trong một căn biệt thự sang trọng giữa lòng thủ đô cùng gia đình. Thế

nhưng, cuộc sống không xuôi chiều như vậy, ông phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề

ngang trái của hiện thực: Người vợ của ông một đời tận tụy hi sinh cho chồng con

nay đã lú lẫn, không còn tỉnh táo để bầu bạn cùng ông. Đứa con trai độc nhất lại bạc

nhược, an phận đến mức dường như không có khả năng chia sẻ. Cô con dâu thực

dụng toan tính đến lạnh lùng. Những đứa cháu nội bận rộn với bài vở và sống với ông

bằng khoảng cách của nhiều thế hệ. Người giúp việc thì quê mùa, cục mịch, cả tin

ngờ nghệch,… Ông muốn đọc mà không có cái gì dễ đọc, muốn làm cái gì đó cho

khuây khỏa và có ích mà chẳng được làm, muốn ở trong một căn phòng giản đơn,

bình thường mà cũng không được đáp ứng,... Tất cả tạo nên khoảng lặng trong tâm

hồn, nỗi cô đơn không thể chia sẻ của vị tướng già khi đã về hưu: Không một ai có

thể giúp ông thích nghi với cuộc sống nghiệt nghã, phức tạp, đầy sự toan tính diễn ra

hằng ngày. Ông cứ dần im lặng, rồi dần thấy mình cô đơn, ngay chính giữa gia đình

của mình, thấy mình lạc loài ngay giữa đời thường xô bồ huyên náo. Không thể chấp

nhận được cái lạnh lùng của lối sống thực dụng, khiến ông cay đắng tự hỏi: “Sao tôi

cứ mãi lạc loài”. Cuộc sống, dường như không còn chỗ cho ông, khiến ông cảm thấy

mình như trở thành người thừa, xa lạ với chính những người thân trong gia đình. Một

khối cô đơn khổng lồ đè nặng lên tâm hồn vị tướng một thời lửa đạn. Ông bàng

hoàng, khi chứng kiến các rau thai nhi trong nồi cám để rồi phải chua xót thốt lên

“Khốn nạn, tao không cần sự giàu có này”. Ông “luống cuống, khổ sở” sau đó là

kinh hãi và đau đớn trong một đám cưới ngoại ô thô thiển, ô hợp và dung tục . Ông

ngán ngẩm trước việc đứa con dâu ngoại tình. Ông nhận ra một sự thật cay đắng

rằng: “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục… tâm càng lớn càng nhục”. Nỗi cô đơn

49

của tướng Thuấn xuất phát từ sự mâu thuẫn của lý tưởng cao đẹp một thời binh

biến và sự thật trần trụi của thời hiện đại. Phải chăng, một người từng được đặt

trong “bầu không khí vô trùng” của thời trước như ông không còn đủ sức đề kháng

để đối chọi với hiện thực xô bồ của cuộc sống hôm nay. Để rồi, chính khối cô đơn

khổng lồ không một ai có thể cùng chia sẻ, cũng không thể hòa mình trong cuộc sống

thực tại, nó dự báo một sự xoay chuyển: Từ đơn vị trở về gia đình rồi từ gia đình ông

trở lại đơn vị. Xoay chuyển để mong xóa nỗi cô đơn, thế nhưng đáng buồn thay vị

tướng về hưu từ giã cõi đời lại trong cảnh thiếu vắng người thân.

Với bản chất tốt đẹp được tôi luyện từ những năm tháng sống ở chiến hào, có

những người lính trở về không chịu nhuộm đen mình, đành chấp nhận là một kẻ lạc

thời hoặc bị coi là “dở hơi”, “hâm hấp” như Linh trong Vòng tròn bội bạc (Chu Lai).

Trở về sau hơn mười năm chiến đấu Linh cũng là người cô đơn giữa gia đình, giữa

cuộc sống đời thường. Tuổi trẻ tươi đẹp đã dành cho cuộc chiến, anh trở về trong

niềm vui đoàn tụ của gia đình, sự mong mỏi của người thân. Có lẽ, đó là niềm hạnh

phúc to lớn không phải chỉ của riêng Linh mà của tất cả những ai đã từng là lính được

trở về giữa tình thân gia đình. Sau những năm tháng chiến trường gian khổ, khốc liệt,

Linh may mắn hơn những đồng đội đã ngã xuống, anh được trở về với Hà Nội, với

gia đình – hai hình ảnh thiêng liêng, hai nỗi nhớ luôn đau đáu, khắc khoải trong lòng.

Nhưng trớ trêu thay, niềm vui đoàn tụ và cảm giác của người chiến thắng trở về trong

Linh không kéo dài được lâu, phải chăng quãng đời trận mạc đã vô hình tạo nên một

khoảng cách giữa anh và những người thân. Anh thấy mình lạc bước, cô đơn giữa

cuộc sống đang chảy trôi hàng ngày. Trước kia anh đào hoa bao nhiêu, “anh tỏa ra

một cái mùi gây gây khen khét gì đó khiến các cô gái bâu lại” thì bây giờ, anh cảm

thấy rõ ràng mình không còn biết cách yêu mấy cô gái thành thị thế nào cho phải.

Đau đớn và phũ phàng hơn, anh cảm thấy lạc lõng ngay trong chính gia đình mà anh

yêu thương, gắn bó. Người em trai đã từng tha thiết ôm chầm lấy Linh khóc ngày

anh trở về “Em sẽ làm tất cả những gì có thể được để đền bù cho anh” thì giờ đây

50

thẳng thừng phê phán: “ Anh tụt lại phía sau cuộc đời một thế kỉ” [31, tr.12] kèm một

lời phán quyết thật cay đắng: “Sự trở về của anh làm không khí gia đình nặng nề

hơn” [31, tr.49]. Đứa cháu gái anh vô cùng thương yêu và “mỗi khi nhớ về Hà Nội là

cứ nhớ về nó”, thậm chí có lúc anh đã nghĩ, lỡ như sau này trở về không còn lành lặn

thì anh không xây dựng gia đình mà sẽ tìm một nghề gì đó làm rồi mỗi buổi chiều sẽ

cùng con bé ấy “đi chầm chậm qua công viên vào mùa lá rụng”. Thế mà, bây giờ cứ

mở miệng ra là nó lại gọi anh là “ông già đau khổ”, “ông chú hấp tỉ độ”. Anh phải

định thần, tự hỏi: “Chả lẽ mình đã cũ kỹ, già nua đến thế rồi ư?” [31, tr.232]. Người

cha anh kính trọng có những lúc chán ngán tất cả đã muốn từ giã cõi đời nhưng vẫn

cố chịu đựng để chờ tin anh thì giờ đây sự có mặt của anh có lúc lại khiến ông cụ

chán ngán và thất vọng, luôn tránh mặt anh. Còn mẹ anh, người phụ nữ cả đời nhẫn

nhịn chồng con và thương anh vô cùng, nhưng giờ đây, đối diện với anh cũng có khi

mẹ có những dấu hiệu của ngại ngần với anh, sợ anh và thậm chí xa anh. Tất cả

những điều đó dẫn Linh đến sự thất vọng khi nhận ra mình lạc lõng giữa các thành

viên trong ngôi nhà thân thuộc. Gia đình vốn là nơi Linh yêu thương gắn bó, là nơi

những năm tháng chiến tranh khi từng phút từng giờ đối mặt với cái chết Linh luôn

khao khát được quay về. Nhưng tại sao giờ đây cũng chính gia đình lại trở thành nơi

không còn phù hợp, không còn dành cho Linh nữa. Điều gì đã tạo nên khoảng cách

giữa anh và những người thân? “Nhiều khi anh muốn ôm lấy mẹ, muốn nói với mẹ

một câu gì đó thật dịu ngọt, thật trẻ thơ nhưng không nói được. Cứ sợ nó ngẩn ngơ,

nó mềm yếu thế nào ấy. Chả lẽ những trận đánh liên miên, những mệnh lệnh chết

chóc, những năm tháng khốc liệt quen lèn chặt tình cảm để gồng lên từng giờ, để

đừng cúi mặt gục ngã, để đương đầu với tất cả đã làm méo mó tâm hồn, tính tình lẫn

khẩu khí của mình đi đến thế? Hay là do chính những năm tháng nghiệt ngã đời

thường nhào nặn nên?” [31, tr.20]. Có lẽ đây là nỗi day dứt âm ỉ và dai dẳng nhất

trong lòng Linh. Cho dù có trở về với con người nguyên vẹn thì Linh cũng đã không

còn là Linh ngày trước. Những năm tháng trận mạc đã rèn cho Linh cái thói quen

51

phải biết nén cảm xúc vào lòng và những bộn bề thời hậu chiến cũng đã ít nhiều làm

cho tâm hồn anh xơ cứng đi phần nào. Vì thế, không ít lần Linh đã làm cho mẹ phải

buồn lòng. Anh cô đơn, muốn trốn tránh thực tại và tự hỏi: “Hay lại xách ba lô đi?...

Nhưng đi đâu? Làm gì còn đại đội nữa mà về! Đến tòa soạn nằm ư? Không ổn! Chật

chội thế, nằm ở đâu? Chưa nói đến sự khinh thị của mọi người. Hay đến tạm trú nhà

bạn bè? Cũng không ổn nốt. Biết mỗi nhà thằng Khâm nhưng bản thân nó đã không

xong còn nói chi đến chuyện chứa thêm mình. Thuê một chỗ cốt để có cái nơi chui ra

chui vào vậy? Ngớ ngẩn nốt. Hà Nội chật hẹp, những đôi vợ chồng mới cưới còn

chưa có chỗ để hưởng tuần trăng mật với nhau kia kìa, trong khi toàn bộ tài sản vốn

liếng của mình chỉ có chiếc xe đạp bó lốp đến kẻ trộm cũng chê. Vậy là tận đường rồi

chăng?” [31, tr.52]. Những câu hỏi như thế cứ nhảy múa trong đầu Linh. Anh phải đi

đâu? Làm gì bây giờ? Chả lẽ không còn một sự lựa chọn, không còn một con đường

nào để Linh hòa nhập vào gia đình, vào cái cuộc sống với quá nhiều đổi thay vẫn

đang diễn ra mỗi ngày? Mà theo như lời nói của em Linh thì: “Cuộc sống cứ trôi

chảy cuồn cuộn với tất cả những cái nhố nhăng, cao đẹp và xô bồ của nó. Riêng anh

anh cứ thích dừng lại trên bờ gặm nhấm những giá trị cũ và sau đó chua cay nói:

Hỏng! Tất cả đều hỏng, hỏng từ trong ra ngoài.” [31, tr.243].

Ở ngay chính nhà mình, nhưng Linh vẫn có cảm giác cô đơn, lạc lõng. Để rồi

không ít lần Linh đã băn khoăn tự đặt câu hỏi về sự trở về của mình, phải chăng điều

đó là một sai lầm?: “Liệu mình có nên trở về như thế này khong nhỉ? Và sự vội vàng

tháo bỏ áo lính như vậy có ngu xuẩn quá chăng?”. [31, tr.51]. Phải chăng, mười năm

khoác áo lính ở chiến trường đã vô tình tạo nên khoảng trống vô hình ngăn cách anh

và những người thân trong gia đình, để giờ đây, giữa hiện tại đang hiện hữu anh như

một khách thể bị bắn ra bên ngoài, không thể hòa hợp. Anh chua chát, cay đắng nhận

ra: “Mất hết tất cả những gì có thể mất trong đời thường: Mất tuổi trẻ, mất tình yêu,

mất trắng. Mất sự hòa hợp với gia đình, mất lòng tin cậy của bạn bè, xã hội,… Mất

nhiều quá, mất đến roãng cả người.” [31, tr.51]. Vì thế, anh bước đi giữa những bộn

52

bề tạp nham của cuộc sống , nhưng va vào đâu anh cũng thấy tuồng như mình bị chối

bỏ“ …va vào gia đình, gia đình bỗng thành xa lạ, va vào tình yêu, tình yêu luôn phản

trắc, va vào cơ chế, cơ chế lúc có lúc không; va vào cơ quan đoàn thể gặp phải

những người như lão Quách.” [31,tr.136] không còn nơi để Linh có thể vịn vào. Thế

nên, không khỏi khiến Linh rơi vào nỗi cô đơn. Mọi người đã không còn hiểu anh và

bản thân anh đã ghìm nén, hạn chế trong việc thể hiện tình cảm của mình. Anh quyết

định tách mình ra một thế giới riêng với“căn cứ ở ẩn” trên tầng thượng quạnh quẽ,

để có không gian riêng và có điều kiện suy nghĩ về cuộc đời: “Thời trận mạc, anh đã

cầm súng hết mình,…để rồi ngày giải phóng đầu tiên anh đi giữa Sài Gòn xa lạ như

đi trên đất khách quê người,… Trở về, gia đình bỗng thành xa lạ” [31, tr.126], Hiện

tại khiến anh hụt hẫng, ngơ ngác “Cho nên anh phải leo tít lên chuồng cu để gặm

nhấm sự u uất một mình”. Bởi “Từ nhỏ anh đã thích sống cô đơn” [31, tr.135] nên

cái không gian riêng trên tầng thượng tạo nên sự cô đơn tuyệt đối“ Chà! Đúng là

một con sói độc thân, một sự cô độc thiên thần.” [31, tr.260]. Anh cô đơn, trốn chạy

mọi thứ, chỉ còn biết lao vào công việc, nhưng cũng không thoát khỏi cái nhìn của

người em trai: “Muốn bám bổn phận, muốn lao vào công việc làm phương tiện để

khỏa lấp sự trống trải trong đầu” [31, tr.228]. Hay là “Dựa trên cách ăn mặc, lối

sống cô độc của anh và vẻ khinh bạc trong đôi mắt anh” đủ tạo nên một cá nhân

được bao bọc bởi nỗi cô đơn của kiếp người.

Ở gia đình đã vậy, ở cơ quan, Linh cũng là một thực thể cô đơn. Linh âm

thầm lặng lẽ làm việc một cách đầy trách nhiệm, anh là người đứng ngoài cuộc loại

trừ nhau của các phe phái trong cơ quan, anh không gia nhập vào vây cánh của ai cả.

Và sau chuyến đi công tác thực tế kiểm tra tình hình, điều tra sự thật – kẻ phạm tội –

vị bí thư Nguyễn Văn Hòe ấy lại chính là bạn chiến đấu vào sinh ra tử, từng là người

anh xem như ruột thịt thủa chiến hào. Cuộc xung đột nảy lửa giữa hai người khiến

Linh càng thấy chới với, hụt hẫng và chua xót. Anh quyết tâm muốn giành lại công

bằng và chân lý cho những người dân xã Thanh Lâm, nhưng thân cô thế cô vì sau

53

Lưng Hòe là cả hệ thống ô dù che chắn từ huyện đến tỉnh. Những bài báo của Linh

không được đăng, anh bị phê phán, kỉ luật, trong khi Hòe vẫn nhởn nhơ và còn được

coi là một bí thư xã điển hình. Anh hoàn toàn sụp đổ, không còn nhiệt huyết, niềm

tin, không còn bám víu vào đâu; không có điểm tựa, anh chán nản, thất vọng, lạc lõng

trước những tráo trở, gian trá của cuộc đời. Anh đã từng “khao khát cô đơn nhưng

chưa bao giờ anh cô đơn như lúc này [31, tr.122.]

Hai Hùng trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai) – cũng là nạn nhân của

nỗi cô đơn của người lính trở về phải gánh chịu. Anh cô đơn trong hành trình ngược

dòng tìm về quá vãng, tìm lại đồng đội, tìm lại người yêu để mong tìm lại niềm vui ý

nghĩa cuộc sống. Nhưng nhân vật đã phải thất vọng, phải buồn, phải căm giận, vấn

vương khi càng tìm về, nỗi buồn, sự thất vọng càng như chất đầy hơn.

Hai Hùng - một chàng trai đất Bắc có thân hình vạm vỡ, khỏe đẹp, mẫu người

tiêu biểu cho người lính với sự tinh nhạy, khôn khéo và can tràng, với hình ảnh đẹp

thời còn là lính tráng: “Cao một mét bảy ba, nặng suýt tám mươi kí, nếu nhịn đói vài

ngày hay bị thương cũng chỉ xê dịch một chút ít, vòng ngực kênh vong như rá úp, tóc

dầy cộm, mắt xếch, miệng rộng, cười tươi, răng to và chắc, bụng nổi đủ sáu múi,

chân tay xoắn chừng như chão bện, da bánh mật,…” [59]. Anh được mọi người quý

mến từ tính cách đến con người. Khi nói về anh thì các cô du kích, các cô ở đội nữ

pháo binh trong rừng ngưỡng mộ, thần tượng. Được bà con nơi ấp chiến lược quý

mến như người con của bản, của mình,… một người nức tiếng đánh giặc giỏi, là “ác

ôn Việt Cộng” bản lĩnh trong chiến đấu, có tình yêu sâu sắc và chân thành.

Thế nhưng, cuộc chiến qua đi, trở về thời bình Hai Hùng là kẻ trắng tay:

“Không vợ con, không tương lai, không hiện tại, không cắc bạc dính túi”. Anh hoàn

toàn thân cô, thế cô giữa xã hội. Hình ảnh người đại đội trưởng đặc nhiệm mạnh mẽ

hào hùng của thời trận mạc ngày nào mất đi, thay vào đó là một Hai Hùng già nua,

nhàu nát cả thể xác lẫn tinh thần. Anh phải đối diện và sống với cái hình hài của “một

lão già ốm o sầu muộn”, “một con nộm rơm khốn khổ giữa cánh đồng đời giông

54

bão” sống như một người thừa bị bắn ra bên lề của cuộc sống mòn mỏi, lụi tàn :

“Tôi, một kẻ dư thừa vừa bị bắn ra khỏi lề đường. Cao một thước bảy, nặng chỉ có

bốn mươi nhăm cân, hốc hác, bắt đầu có dấu hiệu thần kinh, răng rụng gần một phần

ba, ít cười nói, sợ tiếng động, sợ ánh sáng, sợ đô thị, sợ nơi đông người, dấu vết mặc

cảm tự ti hằn vào từng bước chân đi trong cái nhếch mép rụt rè, nửa cười nửa khổ”

[59]. Những đồng đội của anh trở về sau cuộc chiến cũng nhiều người sa cơ lỡ vận.

Anh chán ngán, mệt mỏi, cô đơn. Cuộc sống hiện tại không còn phù hợp và dường

như cũng chẳng phải dành cho anh nữa. Anh quyết định một mình xuôi ngược trong

cái hành trình đi tìm dĩ vãng, một kẻ phải đi “ăn mày” để mong “Cái mảnh quá khứ

phập phồng đập trong lồng ngực ọp ẹp” vẫn là điểm tựa dìu anh tiếp tục sống. Dù

đồng đội của anh, sau khi bước qua cuộc chiến, mọi người đang muốn lãng quên và

đã lãng quên những kí ức mất mát, tổn thương một thời lửa đạn, họ đều muốn quay

lưng với quá khứ. Duy chỉ có một mình Hai Hùng là vẫn nhớ, vẫn lặn lội lục tìm cái

quá khứ ấy. Hơn hết, anh muốn đi tìm sự thật về cái chết của đồng đội cũng là người

yêu trong chiến tranh tên là Ba Sương.

Nhưng, đáng buồn thay, trên hành trình cô độc đó, càng lội vào sâu thì vang

vọng bên tai Hai Hùng cũng chỉ là âm thanh lõm bõm của những tiếng bước chân lẻ

loi, đơn độc. Một Hai Hùng cô đơn và lạc lõng ở hiện tại đi tìm quá khứ để mong có

được chút an ủi, thanh thản cho tâm hồn thì lại càng trở nên hụt hẫng, lại càng đau

buồn hơn khi cái quá khứ ấy được tìm thấy. Ba Sương – người con gái anh yêu và tôn

thờ thời chiến trận vẫn còn sống – đúng như trong khắc khoải, dằn vặt và nghi ngờ

của anh. Nhưng hiện tại trớ trêu, cô du kích Ba Sương xinh đẹp dũng cảm, luôn sống

hết mình vì lí tưởng, yêu anh hết lòng ngày nào đã phủ nhận quá khứ và trốn chạy

anh. Ba Sương hiện tại là Tư Lan – một Giám đốc nông lâm tài giỏi nổi danh khắp

các tỉnh miền Tây. Một chị Tư sang trọng, xa lạ, dính dáng vào những vụ làm ăn phi

pháp và quan hệ tình cảm ngay với chính kẻ thù của cô năm xưa khiến Hai Hùng đau

khổ, tuyệt vọng. Anh sụp đổ hoàn toàn, tất cả niềm tin, niềm tự hào về một con người

55

đẹp đẽ trong quá khứ hào hùng bây giờ tan biến hết. Một hình ảnh Ba Sương đẹp đẽ,

lung linh in sâu trong lòng anh hai mươi năm qua bỗng chốc sụp đổ, thay vào đó là

một Tư Lan giả dối, tàn nhẫn. Chính cái sự “chết đi sống lại” này của Ba Sương đã

xóa đi được mặc cảm tội lỗi của Hai Hùng nhưng thay vào đó, nó đã đẩy anh rơi vào

tình cảnh thảm hại, anh gục ngã thật sự. Mất hết niềm tin, mất hết hy vọng, anh luôn

tự nhủ: “Cuộc đời một thằng lính già còn có gì khác là không nguôi hướng về dĩ

vãng và cầu mong cho cái dĩ vãng đó luôn trong lành chân thật” [59]. Nhưng chính

lúc này, cái dĩ vãng còn lại ấy cũng đã mang đến cho anh niềm cay đắng, buộc anh

thừa nhận: “Bây giờ mới là hết. Hết thật sự. Hết quá khứ, hết những năm tháng trận

mạc khổ mà vui, hết tình yêu, hết đồng đội và cả tình đồng chí. Hết nhẵn.” [59].

Có thể nói, cuộc đời của Hai Hùng sau chiến tranh là chuỗi dài của sự cô

đơn. Anh cô đơn vì anh chỉ còn một mình không còn người thân thích. Cô đơn vì anh

lạc lõng giữa thực tại. Hơn hết, anh cô đơn vì quá nặng lòng với quá khứ, phải trốn

chạy thực tại để tìm về miền kí ức ấy. Anh chỉ có thể đi bên lề của cuộc sống vẫn

đang diễn ra ồn ã hằng ngày, một mình làm khách giữa cuộc đời.

Quang trong Bãi bờ hoang lạnh (Chu Lai) là người cô đơn đến đáng thương,

anh phải chịu những tổn thương, mất mát không thể bù đắp trên cơ thể và chính tổn

thương ấy đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời anh. Quang đã từng là một đại đội

trưởng trinh sát, một “con cá kình của mặt trận Tây Nam”, là niềm tự hào của đồng

đội thời trận mạc,… Nhưng “đến khi có một thằng chĩa nòng súng vào sau ót” [59]

cuộc chiến đã cướp đi tất cả cơ hội có cuộc đời làm người bình thường của Quang,

biến anh trở thành một người không thể thích nghi với đồng loại, với gia đình, buộc

anh phải trốn chạy khỏi xã hội. Phát súng của kẻ thù không giết chết anh, nhưng nó

đã gây nên một tổn thương vô cùng nghiêm trọng về thần kinh. Quang trở thành một

con bệnh tâm thần, bị mọi người xa lánh với những tiếng hú “rợn người ai oán”,

nhiều khi “ hùng dũng và bi thương đến tội nghiệp”. Một mình Quang sống tách biệt

trên đồi cao hoang vắng, bởi lẽ cuộc sống dưới kia không dành chỗ cho một người

56

bệnh như anh nữa. Anh vẫn còn gia đình ở trong phố, còn “mẹ già và đứa em nhỏ

nhưng cậu ta không chịu được chỗ ngột ngạt đông người” đành tự tách mình ra khỏi

cuộc sống giữa mọi người để được “một mình làm cư dân trên đỉnh đồi”. Quang –

một người vốn được xem là người hùng trong chiến trận ngày nào “Một mình nó bắn

gục hơn hai chục thằng Pôn Pốt…Sức nó khỏe như bò tót chẳng thằng nào chịu nổi

một đòn” [59] giờ không còn nhớ gì và cũng không bao giờ chịu nói về mình. Anh

sống hoang sơ và cô lập với cuộc sống vẫn đang diễn ra thường nhật. Chỉ thỉnh

thoảng trong đêm người ta nghe thấy tiếng hú dài ghê rợn. Đấy là tiếng hú báo hiệu

bãi biển dưới kia có động, hoặc đó là lúc căn bệnh của anh hoành hành. Chính vết

thương trên cơ thể, vết thương chiến tranh đã gây nên sự mất mát, tổn thương, đẩy

Quang rơi vào nỗi cô đơn, lạc loài, không thể hòa nhập cùng cuộc sống đang chảy

trôi. Anh phải tách mình ra khỏi cộng đồng để sống cuộc đời khác.

Là người đại úy quân báo kì cựu và tài năng, chỉ huy giỏi trong chiến trận,

giàu lòng vị tha và đức hi sinh, biết quên mình vì người khác, được đồng đội hết lòng

yêu mến khen ngợi, Sáu Nguyện (Ba lần và một lần) dành tâm huyết cho cuộc

chiến“hết thảy những gì không liên quan đến cuộc chiến là gạt phắt hết, là một con

số KHÔNG to tướng hết”[28, tr.34]. Bởi “những giọt tinh chất cuối cùng đã được

chiết ra để nắm giữ cây súng” thì họ chẳng còn biết đến cá nhân nữa. Vậy mà sau

cuộc chiến trở về, Sáu Nguyện cũng không thoát khỏi “nỗi cô đơn, tuyệt vọng ghê

gớm của mình”.

Ông là một người cô đơn đến đáng thương theo như lời giới thiệu của người

quận trưởng ồn ào xởi lởi: “Thằng chả lúc này thiệt tội, hoàn toàn thân cô thế cô,

chẳng còn một ai là họ hàng thân thích chi hết! [28, tr.25]. Không có người thân

thích, ông hoàn toàn cô đơn giữa đời. Với cái vẻ ngoài khắc khổ, đôi mắt phảng phất

nét u buồn mà theo nhận xét của Út Thêm – người đồng đội, người bạn, người “con

gái” trong quân ngũ thì “Con người này không chỉ lạnh băng về mặt mũi mà còn lạnh

băng cả tâm hồn” [28, tr.14]. Nỗi cô đơn của ông đã được người khác nhìn thấy. Qua

57

miêu tả, qua những lời nhận xét của những người xung quanh, Sáu Nguyện quả thực

là người cô đơn, khác biệt với mọi người. Trong chiến tranh, ông bị người vợ sắp

cưới và người bạn thân, cũng là đồng chí phản bội, “Một nỗi chán ngán đến tận cùng

xen vào một sự giận dữ đến nhức nhối khiến anh oải người đi, đầu óc hoàn toàn

trống không” [28, tr.73]. Nỗi đau đớn ấy đưa đến cho ông một sự cô đơn âm thầm,

im lặng đến đáng sợ. Để rồi sau đó, ông luôn một mình“ngồi trước cái sự rộng dài tít

tắp để chiêm nghiệm mọi điều” [28, tr.80]. Và hơn hết, nỗi cô đơn đó cứ dai dẳng đeo

bám ông trong suốt cuộc hành trình thích nghi với cuộc sống mới, công việc mới.

Sài Gòn Giải phóng, ông như người bị bắn ra xa hơn cuộc sống. Trong quân

đội, người ta không còn cảm thấy ông thích hợp nữa, ông “chấp nhận loại ngũ” mà

“khó nhọc như nuốt đi một cái gì đó đang chặn ngang cổ”. Để rồi, ông âm thầm ra

đi, bước vào cuộc sống đời thường với muôn vàn những mánh khóe, lọc lừa. Trong

cuộc đấu tranh sinh tồn này, ông - một con người thất nghiệp khốn khổ đã phải lăn

lộn trên nẻo đường với nhiều công việc từ công việc của người công nhân cạo mủ cao

su cho nông trường , đến cán bộ phòng kế hoạch, sau là người làm thuê trông nom

cánh đồng tôm, trông nom cửa hàng sửa chữa phụ tùng xe máy, tới việc làm bảo vệ

cho một xí nghiệp xây dựng,… càng muốn tồn tại, càng muốn nhập cuộc, càng muốn

cống hiến sức mình vào công việc, nhân vật càng thấy mệt mỏi, cô đơn. Ông nhận

thấy quá nhiều sai trái, những cơ hội, toan tính lạnh lùng, ông đã “cố nhắm mắt làm

ngơ mọi sự để được sống yên tĩnh qua ngày” [28, tr.124], nhưng “vô nghĩa, vô ích, vô

cùng”,“chán nản, hư vô đến não lòng”. Chán đời, bất mãn với thực tại, không thể

hòa hợp với hoàn cảnh thực tế quá nhiều phức tạp; con người thì lạnh lùng, toan tính,

vụ lợi. Dù ông biết, ở một “Thời đại mới, công việc mới, đòi hỏi đầu óc cũng phải

mới” [28, tr.115] nhưng ông vẫn không thể bước qua giới hạn chật hẹp của mình, ông

như lọt thỏm giữa sự đổi thay của xã hội. Ông không muốn nhìn thấy những bất công

sai trái, bản chất người lính được tôi luyện trong chiến đấu không cho phép ông làm

ngơ, im lặng trước những sai trái, bất bình và vô lý đó, vậy nên, ông đã đơn độc trong

58

hành trình tố cáo cái xấu, cái ác ngay giữa một tập thể nhu nhược, không đủ dũng

cảm để cất lên tiếng nói bảo vệ sự thật. Tuy nhiên, động cơ tốt đẹp đó lại chẳng dễ gì

để tìm được tiếng nói đồng cảm. Sống trong môi trường mà mọi người đã quen với

sự cam lòng, nhẫn nhịn, dè chừng trước những cái bóng quyền thế thì hành động đầy

trách nhiệm và chính trực của ông lại mang tính bất tường, lạ lẫm trong mắt những

người xung quanh. Ông buồn bã tự nhận mình là “ông già đau đời” để “Đêm đêm, sự

cô đơn của anh đã được lấp đầy” – Đó là cái nỗi cô đơn thường trực xảy đến với Sáu

Nguyện trong những thăng trầm của cuộc đời.

Muốn cố gắng để có thể tìm được lý do mà ở lại cùng tập thể, được hòa đồng,

làm việc cùng mọi người nhưng không được chấp nhận, Sáu Nguyện thấy mình nhỏ

nhoi “giữa cuộc đời vẫn cuồn cuộn chảy ngoài kia”. Ông “rơi tõm vào trạng thái cô

đơn tuyệt vọng” [28, tr.126]. Bởi đằng sau những công việc ông cố gắng làm, đằng

sau những sự việc trái khoáy ông từng biết đều có bàn tay điều khiển của Long Thành

– người đồng chí, đồng đội, người anh em Năm Thành thủa xưa đã từng phản bội

ông. Tất cả cứ như sự thử thách ác nghiệt của số phận đã gắn với cuộc đời ông. Gần

hết cuộc đời, đã đi qua nhiều biến động, nhiều nhọc nhằn, thua thiệt, ông vẫn luôn cô

đơn. Cuối cùng, khi đối diện với người đồng đội đã phản bội mình, gặp lại “người

đàn bà phản trắc vẫn ám ảnh” đã khiến ông trở thành một phạm nhân bất đắc dĩ .

Cuộc đời ông đã quá mệt mỏi, quá cô đơn nên ông “muốn mượn tay pháp luật để trốn

chạy cuộc đời”.

Đăng Điền và Vũ Nguyên (Cuộc đời dài lắm), hai người lính trở về cuộc sống

lao động thời bình nhưng lại đối ngược nhau như như nước với lửa. Trong “cuộc

chơi” của thời kinh tế thị trường, nếu Vũ Nguyên là con người đại diện đầy đủ những

phẩm chất tốt đẹp thì Đăng Điền ngược lại. Thế nhưng, ở hai con người ấy đều có

những suy tư, trăn trở, những ưu phiền và trạng thái nỗi cô đơn của kiếp người. Vũ

Nguyên là người tài giỏi nhưng lại là người mang nhiều nỗi bất hạnh, rủi ro, nhọc

nhằn giữa cuộc sống. Vũ Nguyên luôn sống với những toan tính, tham vọng và nhẫn

59

tâm nhưng cũng là một con người cô đơn, bởi thế, hắn ước “có một người bạn tri kỉ

để uống để trò chuyện(…) nhưng từ bé hắn chưa có một người bạn gọi là tri kỉ.” [29,

tr.190].

Không chỉ có tướng Thuấn, Linh, Quang, Sáu Nguyện, Hai Hùng,…. Còn

nhiều nhân vật khác của văn học đương đại cũng là những nhân vật cô đơn, lạc lõng

giữa gia đình, cộng đồng hiện tại. Hàng ngày họ vẫn sống, vẫn có những mối quan hệ

nhất định nhưng dù có cố gắng đến mấy thì họ cũng không tránh khỏi cảm giác mình

là một người bị bắn ra khỏi cuộc sống với quá nhiều bộn bề phức tạp. Cuộc sống ấy

dường như không có chỗ để dành cho những con người mà cả thể xác lẫn tâm hồn đã

nhàu nát và mang nhiều thương tật chiến tranh. Cho nên dù có mãi loay hoay thì cuối

cùng họ cũng chỉ là những người thừa. Lực trong Cỏ lau, Quỳ trong Người đàn bà

trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu; Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh

của Bảo Ninh là tiêu biểu khác của con người cô đơn thời hậu chiến. Với Lực, chiến

tranh chẳng hề gây thương tích cho anh, nhưng lại để cho anh một vết thương đau

nhức trong tâm hồn. Anh không thể vui vẻ hạnh phúc với thế giới hiện tại vì anh

không thể quên đi quá khứ đẹp đẽ, quên đi người đàn bà đã từng là vợ mình. Với

Quỳ, cũng bước ra từ chiến tranh nhưng chị cũng không thể thoát khỏi những ám ảnh

đeo bám của quá khứ. Vì vậy, sống giữa đời thực nhưng cứ đêm đêm chị lại theo

“chuyến tàu tóc hành” của riêng mình về với chiến trường năm xưa. Với Kiên, đi qua

cuộc chiến và trở về với cuộc sống đời thường nhưng có lẽ anh sẽ chẳng thể nào sống

được cuộc sống bình thường như bao con người bình thường khác, bởi tâm hồn anh

đã mất mát quá nhiều do chiến tranh. Quá khứ chiến tranh với những cảnh tượng kinh

hoàng luôn hiện về ám ảnh tâm hồn Kiên khiến anh bị ảo giác lúc nào cũng có người

“từ phía bên kia” đang gọi tên mình. Vì thế càng ngày Kiên càng rơi vào cảm giác lạc

lõng, cô đơn, anh không thể nào hòa nhập được vào cuộc sống hiện tại. Sự tồn tại của

anh ở hiện tại dường như không phải là đang sống mà là “đang mắc kẹt lại trên cõi

đời này”. Trong cái nhìn của mọi người xung quanh, Kiên là một kẻ không bình

60

thường. Không ai hiểu được Kiên và cũng không ai muốn hiểu, đến cả Phượng,

người con gái anh yêu thương và yêu thương anh nhất cũng không hiểu được anh.

Việc sống và trở về của anh những tưởng là niềm vui nhưng đó lại là nỗi buồn.

Đó còn là những người một thời xông pha trận mạc, cái suy nghĩ giản đơn và

cái chất lính đã bám chặt, ăn sâu vào tư tưởng khiến họ “lạc thời” giữa sự đổi thay

chóng mặt của xã hội, khiến họ như quê mùa như Bình, Nam trong Phố của Chu lai;

Đông trong Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng; là Hoàng Lương trong

Trung tướng giữa đời thường của Cao Tiến Lê; là chú Vạn trong Bến không chồng

của Dương Dướng; là Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu; Ông Dần

trong Góc tăm tối cuối cùng của Khuất Quang Thụy.…Trong cuộc sống hiện tại họ

hay “bị mắc kẹt lại trên cõi đời này”, bị “bắn ra khỏi lề đường”; họ là những “người

khách đến không đúng lúc”. Rõ ràng, quá khứ hào hùng không mang lại sự bình yên

và hạnh phúc ở hiện tại, những con người anh hùng một thời ấy thật khó tìm được

cho mình một chỗ đứng trong cuộc sống thời bình. Họ là những anh hùng thời trận

mạc, nhưng đến cuối cùng họ lại chính là nạn nhân của nỗi buồn đau, mất mát và cô

đơn ở thời bình. Họ chỉ còn có thể bấu víu vào những hoài niệm chiến trường để lấy

đó làm niềm an ủi. Cuộc sống thời hậu chiến và cuộc sống trong chiến tranh có độ

chênh nhất định, giống như một bậc thềm ngăn cách mà người lính nào bước qua

cũng không khỏi cảm thấy hụt hẫng, chênh vênh. Thể hiện những điều này, cho thấy

các nhà văn đã có sự cảm thông sâu sắc và sự trăn trở, day dứt khôn nguôi về cuộc

đời, số phận của những con người một thời đi qua chiến tranh.

2.2.2. Nhân vật cô đơn vì lạc lõng giữa cộng đồng, gia đình

Không chỉ có những người trút bỏ áo lính trở về hiện tại thời bình mới phát

hiện ra sự xa lạ, lạc lõng, cô đơn, không thể hòa nhập với hoàn cảnh thực tại mà ngay

cả những con người sống ở thời bình, sinh ra từ thời bình cũng luôn thấy khối cô đơn

của kiếp người cứ đè nén cuộc sống, khiến họ nghẹt thở, chới với, lạc lõng giữa mênh

mông cõi người. Khảo sát qua văn xuôi đương đại, người đọc có thể tìm thấy kiểu nhân

61

vật này trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài, Hồ

Anh Thái, Dạ Ngân, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn

Thị Thu Huệ, Nguyễn Danh Lam,… Cũng vẫn là kiểu nhân vật cô đơn vì thấy mình

như người thừa giữa cuộc đời, không thể hòa nhập với cộng đồng và không được cộng

đồng chấp nhận, họ muốn lẩn tránh, trốn chạy khỏi thực tại đó để tìm đến một thế giới

khác.

Trong Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh), tồn tại trong một xã hội thiếu tính liên

kết, nhốn nháo, xô bồ và nhiều bất trắc khiến con người cảm thấy cô đơn. Nhân vật

“tôi” “sống một mình tẻ nhạt và cô độc”. Nơi “tôi” ở là “chiếc chuồng chim” , “tôi là

người thích sống lánh mình, có thể do mặc cảm thời niên thiếu”, những nỗi buồn còn

đọng lại thời niên thiếu từ những va chạm, xung đột của cha mẹ, đến sự ra đi của con

bé hủi khiến trái tim non nớt của tôi đã thổn thức đau đớn, rồi biến ”Tôi thành đứa trẻ

câm lặng, đầy mặc cảm, luôn trốn tránh đám đông, luôn bị ám ảnh về cái chết”[52].

Qua lời giới thiệu ấy, cho biết nhân vật là người cô đơn và luôn ám ảnh tuổi thơ, cùng

những nỗi sợ hãi. Điều đó khiến cho nhân vật tự tìm một thế giới khác- nhân vật ra

đi. Tuy nhiên, trên hành trình tìm thế giới khác ấy, nhân vật cũng không khỏi thoát

khỏi nỗi sợ hãi và cô đơn.

Trong suốt hành trình đi tìm nhân vật của mình, “tôi” đã gặp rất nhiều người

nhưng mỗi người là một thực thể riêng biệt, họ dù tồn tại cùng một khu phố nhưng

dường như đều không biết gì về nhau và về “tôi”. Họ có nói chuyện cùng nhau nhưng

trong mỗi câu chuyện không có nhu cầu được chia sẻ, được giao tiếp, điều này được

thể hiện thông qua những cuộc đối thoại rời rạc, hoặc thậm chí đối thoại bị từ chối.

Mỗi người như một thế giới cô lập trong cuộc đối thoại đó.

“ Một đám đông cứ ngày căng phình rộng ra ùn lại trước mặt tôi. Mọi người

hỏi nhau rối rít mà không thấy ai trả lời.

Từ bao giờ? – Một gã đàn ông hỏi một chị phụ nữ.

Từ bao giờ? – Chị này hỏi lại một người khác.

62

Từ bao giờ? – Ông già cạnh tôi giật áo một bà nội trợ.

Cái gì từ bao giờ? – Bà này hất tay một cách khó chịu.

Có chuyện gì thế? – Tôi tò mò hỏi một cô bé.

Chính cháu hỏi đến ba câu “có chuyện gì thế” mà chưa biết có chuyện gì

đây,…[52]

Càng tìm thì “tôi” lại càng không có được tiếng nói chung, khiến tôi phải “co

mình lại, tự thu nhỏ, khép mình vào trong một ốc đảo của sự cô đơn để từ đó phóng

chiếu đôi mắt dò xét cuộc đời, hoài nghi cuộc đời và hoài nghi ngay cả sự tồn tại của

chính mình” Suốt chiều dài tác phẩm, nhân vật luôn phải tự tranh đấu một mình, và

rồi tôi nhận ra “một sự trống rỗng cứ loang dần ra. Dòng người vẫn chảy miết, như

một cảnh trong phim câm. Bởi vì giữa tôi và họ là một khoảng cách lạnh lùng. Họ là

hàng trăm thứ khuôn mặt, loa lóa vụt qua trước mắt tôi. Tôi tự hỏi: Không biết khi

nhìn tôi mỗi người trong số họ suy nghĩ gì nhỉ?”,…[52]. Hoặc cũng có thể, chính cái

đám đông trong đó thích lôi người ta vào mọi chuyện phiếm tập thể hơn là sự cô lập,

ruồng bỏ. Tôi thấy mình xa lạ,, cô đơn, nhiều khi không xác định được “mình còn là

mình nữa hay không, bắt đầu tin vào sự tan loãng về mặt bản thể”.

Không chỉ “tôi” nhận ra nỗi cô đơn của chính mình, đơn độc lạc bước trong

cái thế giới của mình mà qua ghi chép của ông Bân, Chu Quý, Tôi, hay là Hắn như

khẳng định thêm về nỗi cô đơn của “tôi”: “Phố G là toàn bộ thế giới, từ sự kiện

thằng bé đánh giày bị giết. “ Từ đây hắn bắt đầu cuộc phiêu lưu đơn độc”, “nhưng

ngay lập tức hắn rơi vào một tình cảnh thê thảm: Trở thành đứa bé mù lòa lạc giữa

rừng sâu. Trong khi cố gắng tìm kiếm lối ra hắn không những lạc sâu thêm mà còn bị

quỷ sứ tạo ra những ảo ảnh để đánh lừa”,…[52]. Họ không biết hắn là ai, bản thân

hắn cũng không còn đủ tự tin để khẳng định hắn vẫn là hắn. “Hắn buộc phải dừng lại

để cảm nhận về bi kịch tương lai: Đó là sự vong bản của con người. Mất quê hương

tất yếu thành lưu lạc.”. ,…[52].

Chương trong Con gái thủy thần (Nguyễn Huy Thiệp) cũng là nhân vật tự

tách mình ra khỏi cộng đồng, hiện thực để đi tìm con gái thủy thần. Là một thanh

63

niên nông thôn có gia đình, làng xóm với những công việc nghề nông đơn thuần

nhưng Chương bị ám ảnh bởi huyền thoại về Mẹ Cả. Anh dấn thân vào cuộc hành

trình tìm kiếm không biết mệt mỏi và hành trình ấy tưởng chừng như còn kéo dài mãi

mãi, kể cả khi thiên truyện đã khép lại. Trong ba câu chuyện, có những lúc Chương

tưởng mình đã tìm được con gái thủy thần qua sự hiện diện của những người phụ nữ

anh từng gặp: Cô giáo Phượng (Truyện thứ nhất), cô Phượng con ông trùm xứ đạo

(Truyện thứ hai) và cô chủ Phượng (Truyện thứ ba). Song rút cục, anh ngộ ra rằng tất

cả đều không phải và mãi mãi không phải là người anh kiếm tìm. Vượt qua biết bao

nhiêu khó khăn vất vả, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng để ra đi, Chương vẫn tin

rằng con gái thủy thần đang đợi anh, đang vẫy gọi anh ở một chốn xa xôi nào đó. Đốt

lòng Chương là câu hỏi: “Nàng là ai? Nàng ở đâu?”. Và quyết tâm ra đi để tiếp tục

được kiếm tìm: “Tôi cứ đi, đi mãi … Vì cái gì? Bởi lẽ gì? Để tôi mượn màu son phấn

ra đi?” [61].

Ngay lời giới thiệu, nhân vật hiện lên đã là một thực thể cô đơn tuyệt đối:

“Tôi không có tiền bạc, công danh, không có gia đình để yêu thương, lo nghĩ, không

có bạn bè… Ngay cả giấy tờ tùy thân cũng không có nốt. Tôi là con số không. Tôi vui

một mình, tôi buồn một mình, mơ mộng một mình…[61]. Tôi chỉ có “nỗi cô đơn và sự

bất lực của mi nào ai thấy được ngoài mi” và tôi chỉ có con gái thủy thần.” Chương

vin vào mẹ Cả, hi vọng vào con gái thủy thần, coi đó là “chỗ dựa cuối cùng cho sự

cô đơn hoang vắng ở trong lòng tôi”. Chương tự nhận thấy “Tuổi thơ của tôi u buồn

và bề bộn, mà việc nào cũng vất vả, tôi chẳng có thì giờ để ý đến chuyện người

dưng”.[61].

Cuộc sống của Chương trôi đi trong sự lặp lại đơn điệu, tẻ nhạt, quanh quẩn

hết làm ruộng lại đi đào đá ong, lột giang đan mũ…lầm lũi một mình với đầy ắp

những công việc trong một ngày. Song tâm trí thì lại luôn bị ám ảnh bởi huyền thoại

về Mẹ Cả. Khi giấc ngủ kéo đến thì hình ảnh của mẹ Cả lại kéo đến chen vào không

còn chỗ hở. Sống giữa làng quê, gia đình, nhưng Chương tự tách mình là một thực

64

thể riêng biệt: “Tôi không vướng những mối liên hệ nào đấy với con người”, nó chẳng

mảy may mang lại cho tôi một nụ cười nào, ở đấy tôi không có hy vọng. Vì “trái tim

tôi đã thuộc về mẹ Cả, thuộc về nàng, thuộc về con gái thủy thần”. Chương quyết

định ra đi, mải miết tìm kiếm, cồn cào, đau đáu, khắc khoải. Chương không còn nghĩ

đến sự tồn tại của mình, đến gia đình, đến xóm làng anh đã từng tồn tại. “Kể từ ngày

tôi bỏ nhà ra đi, tôi rất ít khi nghĩ ngợi về mình. Những khao khát của tôi nhấc lên

khỏi mặt đất. Những ý nghĩ của tôi không gắn gì với đời sống và sự tồn tại của bản

thân tôi. Hôm nay tôi sống như một con vật hay một ông hoàng có gì quan trọng?

Trái tim tôi đã khô héo và cằn cỗi…”[61]. Mải mê tìm kiếm và khát vọng “Tôi đi…

Tôi đã khao khát tình yêu đến thế nào, như thể người đi trong sa mạc khát nước?”

Chương tê tái, buồn khổ, day dứt khi tự nhận ra “Mà Chương ới, nỗi cô đơn và sự

bất lực của mi nào ai thấy được ngoài mi?”. Thời gian cứ trôi theo tự nhiên, chỉ có

nỗi buồn là vĩnh cửu. Và cuối cùng Chương đau đớn tự hỏi, cũng là câu hỏi không

khỏi khiến bản thân mỗi người chúng ta phải tìm câu trả lời: “ Tại sao cuộc sống lại

nhiều xiềng xích và gông cùm đến thế?” Con người cứ mãi đi tìm sự ảo tưởng để rồi mãi

mãi bơ vơ, lạc lõng: “ Trước mắt tôi dòng sông đang thao thiết chảy. Sông chảy ra biển.

Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển mà tôi đã sống nửa cuộc đời rồi đấy… Tôi đứng

lên đi về nhà. Ngày mai tôi đi ra biển. Ngoài biển không có thủy thần”. [61].

Cũng có một chuyến đi dài đầy nỗi sợ hãi và cô đơn, nhưng Thữc trong tiểu

thuyết Giữa vòng vây trần gian của Nguyễn Danh Lam không đi tìm giấc mơ huyền

thoại như Chương (Con gái thủy thần), cũng không đi tìm nhân vật nửa thực nửa hư

giữa cuộc đời như “tôi” (Đi tìm nhân vật), Thữc đã trải qua một chuyến đi dài trong

một thế giới vô thức mà ở đó, nhân vật đã phải thấp thỏm lo sợ, nhiều nỗi kinh

hoàng, hơn hết là một nỗi cô đơn rợn ngợp bao trùm. Chuyến hành trình đó, những

con người anh gặp tất thảy đều kì lạ và cũng đều cô đơn.

Cái tên của nhân vật - Thữc như một dự cảm của gánh nặng, của sự mất thăng

bằng, và hơn hết là sự khác lạ không giống ai. Thữc rời khỏi cuộc sống văn minh

65

hiện đại sau một trận mưa. Anh mất hút vào vòng xoáy của dòng nước sông đen

ngòm ngay dưới căn phòng anh sinh sống. Bắt đầu đi vào thế giới khác trong những

cảnh giới chính mình tạo ra với đầy rẫy nỗi sợ hãi vô lý.

Trong cuộc hành trình đó, anh là một thực thể hoàn toàn cô đơn. Anh luôn bị

chối bỏ quyền được gia nhập vào cộng đồng, ban đầu là người tài xế đã bỏ anh lại

giữa một miền đất xa lạ, sau đó là hai cụ già và sau cùng là những người ở ngôi làng

kì quái. Những con người anh gặp trong cuộc hành trình này tất cả đều mơ hồ, nửa hư

nửa thực, với những câu thoại nhát gừng hoặc im lặng. Anh càng cố gắng tìm sự

giúp đỡ, tìm tiếng nói của đồng loại, tìm một sự liên kết với con người thì những

người anh gặp lại càng tỏ ra thờ ơ, vô cảm “coi như không có sự hiện diện của anh”.

Không ai muốn biết lý do anh xuất hiện, lại càng không muốn lắng nghe anh trình

bày, không muốn hiểu anh và chính anh cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra với

mình. Anh như con thú lạc bầy, rơi vào vực sâu của nỗi hoang mang, sợ hãi, kinh

hoàng, “Vũ trụ đen đặc huyền bí. Mặt đất cũng hoang vu, đầy đe dọa. Đống lửa như

sự níu kéo cuối cùng. Quá đỗi nhỏ nhoi. Ngay cả hai lão già nằm bên Thữc cũng

không phải đồng minh” [35, tr.39]. Anh cô đơn thực sự, điều đó khiến “Thữc có cảm

giác anh đã vô hình”. Thậm chí “Tôi không còn thấy mình tồn tại”.

Thữc hoang hoải, rệu rã dấn bước trong cuộc hành trình với bao nguy hiểm

luôn rình rập. Anh không còn tìm được tiếng nói chung của đồng loại. Ngay cả đôi

giày, “chứng tích ít ỏi cuối cùng của một nền “văn minh” xa lắc mà anh từng tồn tại

trong đó. Chỉ mới mấy ngày thôi” cũng đã rách tướp, tuyệt nhiên rời bỏ anh sau những lần

chìm nổi, kể “từ cái đêm bên dòng nước đen? Từ phút lạc đường trong sương mù khi rời

khỏi chiếc xe? Tự cú đánh té nhủi xuống dòng sông? Và gần đây là cơn lũ kinh hoàng.”

[35, tr.72] . Anh bị chối bỏ hoàn toàn, không còn sợi dây liên hệ nào với cuộc sống anh đã

từng tồn tại. Anh lạc bước vào một thế giới khác không có tính cố kết cộng đồng.

Sau bao ngày thất lạc, Thữc nghe được tiếng chó sủa vọng lại từ ngôi làng vô

danh nào đó. Anh giống một kẻ chết đuối vớ được cọc, hạnh phúc tưởng như sắp

66

được trở về với cuộc sống, sắp được gặp đồng loại. “Lâng lâng trong cảm giác kẻ

trôi dạt nhiều ngày giữa đại dương, lần đầu tiên tìm thấy một hòn đảo”.[35, tr.75].

“Anh khao khát được trở lại với sự sống.” [35, tr.76]. Thế nhưng, cái ngôi làng ấy

cũng là một thế giới cô đơn, biệt lập hoàn toàn, không có sự cố kết cộng đồng, một

ngôi làng khép kín, đóng khung chắc chắn, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Họ sống như thủa còn hồng hoang, hàng hóa đổi hàng hóa và đặc biệt họ không thích

người lạ đến làng - đồng nghĩa với việc anh lại bị từ chối cơ hội trở về với cộng đồng.

Anh rơi vào trạng thái cô đơn hơn. Trong ngôi làng ấy anh chỉ biết đến cô gái, đến bà

mẹ của cô,…Anh khao khát được trở về làm người, được giao tiếp với con người,

nhưng vô vọng, “ba cái bóng lặng lẽ dưới một mái nhà nhưng mỗi kẻ một khoảng tối

dày đặc riêng tư”[35, tr.121]. Không chỉ có anh mà hai mẹ con cô gái cũng là những

thực thể cô đơn khủng khiếp. Cứ lầm lũi, âm thầm với cái thế giới riêng của chính

mình. Không cần giao tiếp, không muốn giao tiếp, thậm chí sợ giao tiếp. Tất cả đều

kì lạ, khiến anh không còn tin vào chính mình và phải tự hỏi” mình có còn ở trong

cõi người không?” [35, tr.118]. Cuộc hành trình của anh mỗi lúc một dấn sâu hơn

vào vòng xoáy của nỗi cô đơn, anh không còn biết mình là ai, không còn nhận ra sự

tồn tại của mình “Trong anh chẳng biết là thứ cảm xúc gì. Cứ bàng bạc, mù mờ như

khói. Có lẽ gần nhất là sự cô đơn.” [35, tr.134]. Cô gái trong làng, con người duy

nhất còn lắng nghe anh nói, cung ứng cho anh lương thực để tồn tại, người vạch cho

anh con đường để nối dài chuỗi ngày lẩn trốn, người anh chịu ơn cưu mang nhưng

cũng cứ nửa thực nửa mơ, như một vị thần cũng lại vừa như một bóng ma, một thứ ảo

ảnh anh chẳng thể nào nắm giữ được, lại càng không thể hiểu. Anh đã từng có những

cảm xúc cá nhân, muốn có một sự hòa hợp ít nhất là với cô để tìm thấy tiếng nói

chung giữa những sinh thể người. Nhưng anh và cô “như hai mẩu gỗ dạt vào nhau

trên một dòng sông ngầu bọt. Bị va đập, cuốn trôi. Vô tình trong cùng một quỹ đạo

như nhau. Nhưng hai mẩu gỗ vẫn hoàn toàn là là hai mẩu gỗ. Không một mảy may

có cơ duyên nhập làm một” [35, tr.242]. “cô như một vũ trụ mênh mông”, “một thế

67

giới kín bưng”. Anh hoàn toàn cô đơn giữa thế giới ấy, giữa nơi anh tồn tại. Chỉ còn

con chó – người bạn thân thiết, đáng tin cậy, cũng là người truyền cho anh động lực

để anh tiếp tục hi vọng sống . Sau nhiều sự kiện đã xảy ra, anh nhận ra “một sự cộng

hưởng nguyên sơ” giữa anh và con vật. “Trên hai mỏm vực cô đơn, những tiếng tru

của đôi sinh thể lạc loài đã lấp đầy khỏang vực sâu giữa người và chó” [35, tr.141] .

Anh không thể tìm được sự liên kết với những con người anh đã và đang gặp, thậm

chí họ còn luôn là những ám ảnh sợ hãi dành cho anh, chỉ còn sinh thể duy nhất là

con chó mới khiến anh an lòng, nó quan trọng với anh hơn bất cứ thứ gì, anh sợ hãi

khi nghĩ đến chuyện “nếu nó chết mình hoàn toàn cô độc”.

Cho đến cuối cuộc hành trình, anh, cô gái vẫn đi bên nhau. “Nhưng họ hoàn

toàn đơn độc. Vô vọng sẻ chia. Như ba tội đồ đứng nhìn nhau từ ba cột bắn”[35,

tr.268]. Mỗi cá thể cứ tồn tại độc lập, lạnh lùng mà tù đọng đến nghẹt thở.“Thữc cảm

thấy một nỗi cô đơn đang len lỏi, sống dậy trong anh. Cảm giác cô quạnh lạ kỳ. Ngay

cả giữa rừng sâu Thữc cũng không hề bắt gặp” [35, tr.195-196]. Anh bị từ chối

quyền làm công dân của làng, anh lại không có được sự chia sẻ từ cô, không hiểu cô,

anh không còn sự lựa chọn cho cuộc sống của mình,.. tất cả đẩy đến một bi kịch- Anh

cô đơn tuyệt đối. Rồi anh dự cảm khi nghĩ đến cái kết cục bi thảm của đời mình

“Nấm mộ anh biết đâu sẽ nằm đâu đó quanh đây. Đơn độc. Lạc loài”[35, tr.295].

Trong rất nhiều nhân vật của mình, chỉ với Thữc, Nguyễn Danh Lam ưu ái

đặt cho anh một cái tên, thế nhưng đó lại là cái tên mang dự cảm của nhiều biến

động, nỗi đau và sự cô đơn. Thữc - nhân vật tự lưu đày mình trong một thế giới của

những tri giác sai lầm, và dù có ý thức đi tìm sự thức tỉnh, nhưng trí lực nhỏ nhoi và

tâm hồn yếu đuối của con người cũng bị chữ ngã đè nặng như cái tên của anh: Thữc.

Làm sao sống được đúng nghĩa chính cuộc sống của mình?

Không chỉ có “tôi”, Chương, Thữc, trong văn xuôi đương đại, đặc biệt trong

sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, còn nhiều nhân vật vì quá cô đơn

giữa thực tại, hoặc không thể tìm được niềm vui ở hiện tại, họ đã tìm đến một thế giới

68

khác huyền ảo, xa lạ như để được cứu vớt nỗi cô đơn của kiếp người. Đó là “tôi”

trong Chảy đi sông ơi. Ám ảnh bởi con trâu đen. Sau bao nhiêu năm anh rời xa quê

hương, có lúc lãng quên những ước mơ tuổi thơ. Nhưng trước bến đò xưa, trước sự

trỗi dậy của hồi ức xưa, “tôi” không khỏi thảng thốt bàng hoàng: “Tôi muốn gào lên

chua xót. Tôi bỗng nhiên thấy cuộc sống của tôi hiện giờ vô nghĩa xiết bao. Con trâu

đen, con trâu đen trong thời thơ ấu của tôi đâu rồi?”[61]. Thế giới “không có

vua” và “biển không có thủy thần”. Con người cũng chìm vào bi kịch cô đơn.

Đó là nỗi cô đơn của anh giáo Triệu (Những bài học nông thôn), là người có

tư tưởng tiến bộ và hiểu biết sâu sắc về thời cuộc. Nhưng chính điều đó lại khiến anh

trở thành người cô đơn giữa cộng đồng. Anh không thể chia sẻ cùng ai, và cũng

không ai trong cộng đồng đó hiểu được những gì anh nói. Cho đến khi gặp Hiếu –

chàng thanh niên có học ở thành phố về nông thôn chơi. Như có cơ hội được tỏ bày,

sau khi đã nói hết những suy tư bấy lâu anh bị con trâu điên húc chết. Cái chết như

một sự giải thoát cho anh ra khỏi những hủ tục nông thôn.

Là nỗi cô đơn của Nhâm trong Thương nhớ đồng quê. Đầu truyện, nhân vật

đã tự bạch: “Tôi sinh ra ở làng quê, lớn lên ở làng quê” và “tôi hay mơ mộng lắm,

hay nghĩ.” Nhưng, chàng trai nông thôn ấy là người tiến bộ về tư tưởng, không cam

chịu chấp nhận như những người ở làng, Nhâm luôn suy nghĩ về kiếp người cay

đắng, luôn muốn thay đổi cuộc sống của quê hương và được làm giàu trên chính quê

hương mình.

Giữa thế giới của Bến vô thường – một cô học sinh mười bảy tuổi sống trong

một gia đình trung lưu, một gia đình theo cách phán đoán của người ngoài thì thật hạnh

phúc, đầy vẻ ngưỡng mộ. Ấy vậy nhưng, sống trong gia đình ấy, cô con gái lại rơi vào

bi kịch của nỗi cô đơn chẳng thể bù đắp nổi. “Tôi có tật hay buồn, mặc cảm Lang

thang vô định theo đuổi suy nghĩ riêng và rồi tự hỏi: “Tôi là ai?” Tôi còn chi”[32,

tr.45] . Đi tìm câu hỏi: Tại sao mình lại xuất hiện trên đời? Nhân vật cô đơn vì không

hiểu nổi vì sao mình được sinh ra? Mình là ai và mình có điều gì? Với cái bản tính hay

69

buồn và mặc cảm, một mình nhân vật theo đuổi những dòng suy nghĩ riêng như để

khẳng định thêm nỗi cô đơn của nhân vật.

Cha mẹ không quan tâm đến những cảm xúc riêng tư, không chia sẻ, thằng em

trai lại càng không, mỗi ngày nhân vật càng thấy ngột ngạt, lạc lõng giữa gia đình,

không thể chia sẻ cùng họ những suy nghĩ, cảm xúc; cô tìm đến nhật kí để trải lòng

nhưng quyền riêng tư của cô cũng không được mọi người tôn trọng, giữ gìn; những

trang viết ấy lại bị chính cha mẹ và đứa em trai chế nhạo,lên án, bình phẩm khiến cô bị

tổn thương, và rơi vào trạng thái cô đơn hơn bao giờ, bản thân cô tự nhận thấy điều đó,

cô nghẹn ngào thốt lên: “Không có nỗi cô đơn nào hơn là nỗi cô đơn ở ngay chính

ngôi nhà của mình bị xúc phạm tới mọi ngóc ngách riêng bởi chính người thân của

mình” [32, tr.44].

Ở gia đình, cô không nhận thấy được yêu thương, đến cả việc giao tiếp với bạn

bè cũng bị cha mẹ ngăn cản. Giữa cộng đồng trường lớp “tôi” cũng chỉ chơi với một

người bạn tạm gọi là thân, nhưng éo le thay “nhiều khi càng chơi với nó mình càng

cảm thấy cô đơn hơn…” [32, tr.49]. Sống giữa gia đình nhưng không cảm nhận được

niềm hạnh phúc, không có sự chia sẻ, thấu hiểu. Sống giữa bạn bè nhưng cô cũng như

một sinh thể lạc loài, không thể hòa hợp. Tất cả những điều đó như để khẳng định cô là

một thực thể cô đơn ngay giữa chính gia đình và xã hội. Để rồi, thực tại đau buồn đó

khiến cô phải căm thù, chán ghét và chọn cách ra đi như để thoát khỏi nỗi cô đơn của

kiếp người.

Trong văn xuôi đương đại, các nhà văn còn khai thác sâu hơn, rộng hơn với

nhiều phát hiện về cuộc sống con người. Trong đó, những con người dị dạng, những

người nghèo khổ tồn tại giữa cộng đồng làng xã là những kiếp người mang nỗi cô

đơn hơn bao giờ.

Hai mẹ con mụ góa “Sống ở rẻo đất tận cùng của xóm, trong một căn lều âm

u”, “giống một cái hang được phủ bằng lá tre.” [32, tr.29] . Cái nơi sinh tồn ấy của hai

mẹ con đã cho thấy hình ảnh của sự cô đơn, lạc loài, tách biệt hẳn với xóm làng, không

70

có sự liên hệ. Và thực tế cuộc sống những ngày tiếp diễn đã khẳng định điều đó.

“Thằng câm là đứa trẻ bị nhóm nhóc con trong xóm vừa chối bỏ, kinh sợ, vừa luôn tìm

cách hiếp đáp trả thù, cho dù nó chẳng bao giờ gây thù chuốc oán với ai” [32, tr.29],

bọn trẻ trong xóm xem nó như vận rủi còn cha mẹ chúng cấm tiệt chúng đến gần thằng

câm. Trong tâm hồn trẻ thơ non yếu ấy, “cánh cửa mở ra phía trước đồng loại bị khóa

chặt”[32, tr.60] nó cô đơn, lạc điệu giữa những đứa trẻ cùng trang lứa và hơn thế là bị

một cộng đồng người từ chối. Không được tham gia những trò chơi của lũ trẻ cùng

xóm, nó thèm thuồng, chỉ dám đứng từ xa nhìn. Nó là một sinh thể cô đơn, mọi người

ở xóm ga, những đứa trẻ đồng trang lứa đã từ chối sự góp mặt của nó, hắt hủi nó,

không cho nó được tham gia vào cái cộng đồng nhỏ bé ấy. Cuộc sống đã dồn đẩy khiến

nó chỉ còn có thể làm bạn với những con vật cho đến khi “con bé”– chiếc cầu nối vắt

giữa thằng câm với bầy trẻ xóm Ga xuất hiện.

Đó là nỗi cô đơn của Lão Cóc, một người “không vợ con, sống đơn độc, quanh

năm chỉ làm một việc duy nhất, câu cá” [32, tr.227]. Lão cô đơn, muốn cố gắng bày ra

những trò mới lạ thu hút đám trẻ con, để được phục vụ và vui chơi cùng chúng, được

hòa hợp, không còn khoảng cách với chúng và với cộng đồng xóm Ga. Thế nhưng,

những trò mua vui tiêu khiển ấy rồi cũng đến lúc cạn vốn, chẳng thể nghĩ ra được trò gì

mới hơn, đám trẻ không còn đến nhà lão nữa, “vắng chúng rồi, lão lại thụt sâu trong

bức màn u tịch” [32, tr.230]. “Cả con người lão, lối sống của lão chìm trong bí mật”

[32, tr.237] mọi người xóm ấy chẳng ai có thể biết được

Là nỗi cô đơn của chị mặt rỗ “làm việc trong cái trạm barie nằm nhỏ bé chơ vỡ

giữa khu đất trống, nhìn từ xa như một khu miếu nhỏ”[32, tr.115], cách biệt với khu

dân cư của xóm Ga. Chị cũng có người thương nhưng vì một sự kiện không may xảy

đến đã khiến anh rời xa chị, chỉ còn một mình, chị chỉ còn biết lấy công việc – dù vô

cùng nhàm chán, tẻ nhạt, nhưng chúng “giúp chị nguôi đi phần nào nỗi cô đơn, sợ hãi

đến mụ mị tâm trí suốt những phút giờ dài dằng dặc”[32, tr.116].

Đó là nỗi cô đơn của gia đình Mụ làm nghề dệt. Một cuộc sống đơn điệu mòn

mỏi như tiếng khung dệt lạch cạch vỗ đều. Trong gia đình mụ, mỗi người là một thực

71

thể cô đơn: “Thằng con trai ngày ngày đi làm, đôi khi đi vài ba bữa, lâu hơn có thể vài

tháng. Vợ anh ta cũng thế. Hai người hai ngả, hai công việc, hai đời sống. Lửng lửng

lơ lơ. Lũ cháu bỏ ở nhà, đứa đi học, đứa đi chơi. Cô con út nhốt một mình một phòng

trên lầu cao nhất, cửa khóa kín cửa. Nó có hú hét đến sập trời cũng chẳng ai nghe

thấy. Ăn tại chỗ, vệ sinh tại chỗ. Một con vật nuôi. Tệ hơn một con vật nuôi bởi đôi khi

còn bốc ăn cả phân của chính mình.” [32, tr.215-216]. Mỗi người có một thế giới

riêng không ai xâm phạm, mối quan hệ cố kết của gia đình đã mất đi, không còn sự

ràng buộc, không cần có nhu cầu được quan tâm, được yêu thương. Mụ muốn gần cô út

để dỗ dành, nhưng cũng bị cấm cản, “Hai sinh thể trong nhà khả dĩ còn ít nhiều hiểu

và giao lưu với nhau” [32, tr.217] bị chối bỏ quyền được yêu thương, chia sẻ. Từ đó

“Mụ dường vĩnh viễn câm lặng, gắn chặt mình vào cái xích đu. Những đứa cháu trong

nhà cũng gần như không còn ý thức về sự tồn tại của mụ nữa” [32, tr.217]

Là nỗi cô đơn của thằng sừng trâu khi vừa sinh ra đã bị chối bỏ quyền làm

người, quyền được làm cư dân của xã hội. Thằng mắt híp, lão Toét, lão thợ rèn, hắn, gã

đạp xích lô, cô tóc tém, cô bốn giờ,…. Tất cả các nhân vật trong Bến vô thường đều

mang trong mình thân phận cô đơn.

Đến với Lão Khổ trong tiểu thuyết cùng tên của Tạ Duy Anh, người đọc còn

cảm thấy nỗi cô đơn của nhân vật như một sự trừng phạt nặng nề nhất. Bởi thế, khi

tòa tuyên án hình phạt “bắt về trần sống tiếp”, Lão Khổ đã sợ toát hết mồ hôi, “hù

lên một tiếng kinh hãi”. Hóa ra, địa ngục không đáng sợ bằng kiếp sống bị đày đọa ở

trần gian. Lão đến với cuộc đời trong hoàn cảnh đầy bùn lầy rác rưởi “tòi ra trong

một cái ổ rơm chỉ nhỉnh hơn cái ổ chó tí chút.” [3, tr.15], “vừa thò mặt ra đời đã

chìm lút trong cỏ rác”[3, tr.16]. Sau khi mẹ lão mất, lão trở thành đứa trẻ mồ côi,

phải “ bới đất lật cỏ kiếm ăn”, đi làm thuê, chịu sự sai khiến của người khác. Đến khi

có vợ, lão tin chắc từ giờ lão sẽ “không còn cô đơn trên cõi đời”. Sẽ có người bầu

bạn để được trò chuyện, để được chia sẻ những buồn vui cuộc đời. Thế nhưng, thiên

hạ bát nháo, nỗi hận thù dai dẳng đeo bám và di truyền trong họ ngoài làng, khiến

72

con người trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn. Sau nhiều tai biến, lão mệt mỏi, “Lão như

người câm người điếc trước mọi sự”[3, tr.17], thường hay suy nghĩ, dằn vặt, đấu

tranh tư tưởng, mỗi ngày “sống ẩn dật trong khu vườn thâm u, tịch mịch như khu

chùa” [3, tr.17]. Ở cái mảnh đất dữ dằn “người sống tàn sát nhau liên miên”, trong

cái “vương quốc của lòng hận thù ấy, lão Khổ cũng đã từng là người cán bộ xã được

dân làng kính nể tin yêu. Tuy nhiên, sau những cống hiến “oanh liệt” mà lão đã cống

hiến, một ngày lão bị giấy gọi của toà án. Đối diện với thực tế “Có lẽ vì quá cô đơn,

lão Khổ bỏ ra vườn một mình. Lão không muốn bất kì ai, ngay cả vợ lão chứng kiến

nét mặt nhàu nát, thảm hại của lão”[3, tr.32]. Có nhiều chuyện diễn ra ở cái Làng

Đồng ấy diễn ra ngay trước mắt, nhưng chính lão cũng không hề nhận ra “Lão mù lòa

ngay trong cộng đồng của lão. Có một cuộc sống bất chấp quy tắc diễn ra, trong đó

lão bị căm ghét và thương hại” [3, tr.90]

Những ám ảnh về lòng hận thù, kẻ thù của lão thì tự sát hại nhau theo một

định mệnh nào đó khiến“Lão Khổ thấy cô đơn đến khủng khiếp”. “Lão cô đơn vì lão

thấy mệt mỏi đến tận cùng trong các cuộc loại trừ nhau”[ 3, tr.227]. Và hơn hết, lão

không biết ý nghĩa cuộc sống là gì? Khi mà người ta cứ hận thù nhau, tàn sát nhau dai

dẳng thế. Không tìm được câu trả lời khiến lão rơi vào nỗi co đơn, tuyệt vọng. Lần

lượt những người cùng thế hệ lão đã nằm xuống đất. Lão lo sợ mình sẽ là người cuối

cùng nằm xuống, lão sẽ chẳng thể nào chịu đựng nổi một sự trừng phạt khủng khiếp

đến thế và nhận ra những cuộc tranh giành đua chen đã chẳng còn có ý nghĩa gì. Lão

dần rơi vào trạng thái mê sảng, lo sợ, chới với trong giấc mơ “Đừng bỏ tao cô

đơn.”[3, tr.188]. Lão sợ chỉ còn mình lão lạc lõng, cô độc ngay giữa đồng loại. Lão

nhận thấy sự bé nhỏ của kiếp người so với vũ trụ, chẳng là gì cả. “Lão có cảm giác

của kẻ đang chạy trốn bị bủa vây bởi lạnh lùng và cô đơn.”[3, tr.228]. Lão đã mơ hồ

nhận thấy cái sự sai lầm của nhân loại, của thế hệ lão khi chìm ngập trong hận thù,

trong cuộc loại trừ nhau tàn khốc đó. Lão tuyệt vọng và thú nhận “Bố thấy cô đơn

quá.” [3, tr.228].

73

Không chỉ Lão Khổ, mà những công dân của Làng Đồng đều gánh chịu nỗi cô

đơn như sự trừng phạt của cuộc đời dành cho những người chỉ biết đến lòng thù hận.

“Tôi” trong Giã biệt bóng tối là đứa trẻ mồ côi lang thang khắp hang cùng ngõ

hẻm, làm đủ mọi nghề từ đứa bé đánh giày, bưng bê đến việc hót phân để kiếm tiền

sinh sống. Nhưng bản thân “tôi” đã phải hứng chịu biết bao sự đối xử bất công, tàn

nhẫn, thậm chí còn bị đánh cắp thành quả lao động. Nó như một thiên sứ lạc loài, cô

đơn giữa biển người độc ác. Không ai chở che và bệnh vực nó giữa cuộc đời

Các nhân vật trong một số sáng tác của Tạ Duy Anh cũng đều phải thốt lên

trong nỗi cô đơn vây bủa, nó biểu hiện sự trống trải trong tâm hồn của mỗi nhân vật.

Nhân vật “tôi” – người chứng kiến, kể lại mọi sự đơn độc, lẻ loi, buồn tủi và

cô đơn của những kiếp người trong làng Đồng, cũng là người dám chống lại cả làng

Đồng để bước qua lời nguyền, hơn ai hết “tôi” cũng là người cô đơn. Trốn chạy khỏi

sự thật, trốn tránh sự thật, trốn chạy khỏi sự trả thù đã được tiền định từ trước. Điều

này như một sự trốn chạy cái chết hay một tai họa nào đó luôn rình rập, trốn chạy

cuộc đời mình trong quá khứ cũng là biểu hiện của nỗi cô đơn: Quyết định rời khỏi

gia đình, rời khỏi làng Đồng vì không muốn chứng kiến mối hận thù của các dòng họ

thêm nữa, “ Bỗng dưng tôi cảm thấy cô đơn”, tôi chấp nhận “cuộc dấn thân cô độc”,

không muốn ngoan ngoãn tuân thủ, chịu chấp nhận nuôi dưỡng lòng hận thù như thế

hệ cha ông đã làm, tôi ngột ngạt trong cái không khí hận thù, quyết định rời khỏi làng

quê tăm tối ấy và “ Tôi lặng lẽ bước, nghe tiếng chân mình cô độc trên con đường

trải đầy lá rụng [1, tr.175], “ vào sáng ấy khi còn lại một mình với những bước chân

cô độc, tôi đã khóc thưởng thức [1, tr.189], “tôi bước vội đi, lòng tan nát và cay đắng

đến cùng cực… Trong phút chốc tôi cảm thấy mình bị bỏ côi cút giữa cuộc đời đen

bạc [1, tr.191]. “Tự dưng tôi cảm thấy mình bị rơi đến đáy của nỗi cô đơn [1, tr.63].

Đó là chú Hổ trong Vòng trầm luân trần gian. Chính cái cô đơn đã đẩy đến sự bế

tắc, mỏi mệt và muốn được thoát ra khỏi thực tại đó: “Tôi cô đơn. Tôi muốn thoát

khỏi cuộc đời này”. Đó là cuộc đối thoại im lặng trong nỗi cô đơn kéo dài dằng dặc

74

giữa ông Nhị và người vợ trẻ hay buồn trong Chuyện không có chủ đề. Đến phút

chót cuộc đời được sống bên nhau, họ vẫn là những khối cô đơn còn đầy sự bí ẩn. Đó

là Lão Nhị trong Chuyện không có chủ đề mang một tâm hồn trĩu nặng nỗi ưu tư của

sự cô độc. Hàng ngàn đêm trôi qua, lão bị bó lại trong căn nhà hoang vắng. Cái án mà

lão đang mang chính là sự cô đơn. Hình ảnh người vợ chết trẻ của lão đã để lại một

nỗi ám ảnh kinh sợ “nàng hoàn toàn mãn nguyện trong nỗi cô đơn khủng khiếp” [1

tr.372]…

Cô đơn là một căn bệnh trầm kha của con người, trong hoàn cảnh xã hội hiện

đại ngày càng đi vào trạng thái phân mảnh, nhiễu loạn thì con người càng cảm thấy

cô đơn hơn. Tại sao con người lại cô đơn giữa xã hội dân chủ, văn minh, hiện đại?

Phải chăng khi xã hội càng phát triển thì con người càng cô đơn hơn?. Khi mà “Con

người ngày càng đông như kiến nhưng chẳng ai giống ai. Mỗi người buồn một kiểu,

vui một lối. Tại cái gì, tại ai mà bao nhiêu thế hệ đều nhiễm một cái buồn thâm căn

cố đế” (Dĩ Vãng – Nguyễn Thị Thu Huệ), thật khó để đi tìm câu trả lời.

Nhân vật của Nguyễn Danh Lam, đặc biệt những con người sống giữa thời hiện

đại cô đơn vì nhiều nguyên cớ. Đó là nỗi cô đơn của ông – người thầy giáo đã nghỉ hưu

trong tiểu thuyết Cuộc đời ngoài cửa. Sau những mất mát về tinh thần, đổ vỡ hôn

nhân, ông sống đơn độc, lủi thủi một mình ở cái phòng trọ “tạm bợ, dạt phiêu, buồn

tủi” khiến cho bao kẻ phải tò mò. Là một người thầy tâm huyết và yêu nghề, cả mấy

chục năm trời dạy học chỉ biết “cắm mặt vào giáo án,bục giảng” ông tự nhận mình

“chẳng có bất kì kĩ năng sống nào khác” [33, tr.7], khiến ông như một học sinh còn vỡ

lòng, chưa biết gì về cuộc đời ngoài kia. Lạc lõng giữa cuộc sống cuộn chảy cùng

những mưu toan tiền bạc, quyền lợi, ông thú nhận: “Cũng buồn, bằng này tuổi rồi coi

như lạ lẫm tập đi.”. Cơn lốc đô thị hóa, xã hội kinh tế thời mở cửa khiến con người

chạy đua theo công nghệ, theo ngoại ngữ. Nghề văn thời nào đứng trên đỉnh cao trượt

dần vào một hố sâu không đáy. Giá trị truyền thống bị xem thường, ít được coi trọng.

Điều đó khiến ông buồn lòng và cũng chỉ ông là số ít người còn chưa thích nghi theo

75

cuộc sống mới. Ông rơi vào sự cô đơn, lạc lõng. Thế nên, ông quyết định một cuộc

hành trình đơn độc phiêu dạt như là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời để cắt đứt với

hiện tại:“Hai đứa con, sợi dây liên kết cuối cùng với đời sống hôm qua, bằng cuộc ra

đi này cũng coi như cắt đứt”[33,tr.15]. Thế nhưng, cô con gái suốt ngày chỉ dán mắt

chơi game trên điện thoại di động, nhoay nhoáy với cả đống tin nhắn cũng đòi đi theo

khi biết tin: “Ba muốn đi để có một đời sống khác, để gột rửa quá khứ, để học lại đời

mình… như ba đã nói. Vì vậy, con cũng muốn đi để làm mọi điều như ba”. Bởi, cô con

gái của ông cũng cô đơn, nạn nhân chịu sự cô đơn vì bi kịch gia đình, sống cùng mẹ và

anh trai nhưng chính cô cũng phải thừa nhận “Con không cảm thấy đó là nhà của

mình” [33, tr.22].

Hai cha con lên đường, những tưởng chuyến đi này “Có bóng dáng con gái gần

bên, trên những dặm đường thăm thẳm, ông sẽ bớt cô độc” [33, tr.29]. Qua đó, hai cha

con có thể sẽ có những cảm thông, hiểu nhau hơn sau quãng thời gian dài sống xa cách.

Nhưng không, khoảng cách giữa hai cha con, hai thế hệ mỗi ngày như nới rộng hơn.

Với ông, được sở hữu một tủ sách là cả gia tài: “Ba đã từng mơ ước để lại số sách đó

cho các con. Đó là tài sản lớn nhất của ba” [33, tr.120], nhưng cô con gái nói không

dấu giếm “ít khi đọc”, không cần quan tâm đến. Suy nghĩ này của con đã khiến ông

choáng. Đi ngang nghĩa trang, ông tâm sự: “Những con người trong ấy, họ nằm lại bởi

chiến tranh. Cuộc chiến mà con học trong sách đó. Hàng triệu người đã nằm xuống.

Và rất nhiều người chưa được về với quê hương bản quán. Những người ở đây cũng

vậy” [33, tr.123]. Điều đó khiến ông thương xót, day dứt, nhưng cô con gái lại dửng

dưng đến vô cảm: “Con tưởng có chuyện gì?”. “Họ chết rồi, còn con thì đang phải

sống”. Ông trân trọng, gìn giữ, coi những giá trị truyền thồng như một gia tài quý giá

thì cô con gái lại thờ ơ, vô cảm, không tiếc rẻ. Cách nhìn nhận, suy nghĩ của hai thế hệ

đã là một vấn đề lớn khiến ông buồn lòng. Hơn hết, đó phải chăng là việc thất bại trong

hôn nhân, không có một gia đình trọn vẹn để giáo dục, để chia sẻ, để truyền thụ cho

con cái?

76

Cuộc hành trình tưởng như sẽ cho ông tìm lại được niềm vui, sự hòa nhập với

cuộc sống sau những thua thiệt, đổ vỡ cuộc đời, nhưng càng đi ông càng trượt dài trong

nỗi buồn: “Ông như hòn sỏi trượt đi trong đáy nước, chiếm một khoảng thể tích vô

cùng khiêm tốn nào đó. Tới một ngày phát hiện, quanh mình vẫn là thứ nước ấy, nó đẩy

ông đi, bản thân ông không thể vận hành” [33, tr.133]. Càng muốn cố gắng, càng trượt ra

xa hơn vòng quay của cuộc sống, không còn thấy được sự tồn tại của mình trong cuộc

sống này nữa. Ông thú nhận “Ba không hiểu nổi bạn bè, cũng như không hiểu nổi mình.

Không hiểu nổi mọi thứ xung quanh”. [33, tr.40 ]. Ông là một thực thể cô đơn vì không

hiểu được cuộc sống, không hiểu được bạn bè, không hiểu chính mình.

Đi trên cùng một chuyến xe, cùng va chạm nhiều cảnh đời, nhưng hai cha con,

hai thế hệ không hiểu nhau, tuồng như đẩy nhau xa hơn. Sự bực bội diễn ra thường

xuyên. Những lúc nhắc lại chuyện ly hôn của ông cũng gây cho cô con gái cú sốc nặng

nề về tâm lý. Xung đột được đẩy đến đỉnh điểm khi cha con cãi nhau kịch liệt: “Trong

khoảnh khắc thấy bóng con vừa vùng lên, định gào tiếp một câu gì đó, ông dang thẳng

cánh tay, tát giữa mặt con một cú như trời giáng”[33, tr.239]. Chính vì cơn gi ận dữ không kiểm soát, ông đã đẩy cô con gái tự tìm cách kết thúc số phận của mình.Ông

tuyệt vọng và cô đơn hơn bao giờ. Hạnh phúc chẳng bao giờ đủ đầy viên mãn đối với

ông “Tuồng như ông đã bỏ cả thế giới sau lưng, hay chính cái thế giới này đã từ chối

ông bằng mọi cách” . [33, tr.231]. Ông chỉ còn một mình giữa cuộc đời “Phải chăng

cuộc đời ngoài cửa xe ông, ông ở ngoài cửa cuộc đời”[33, tr.261].

Đến Giữa dòng chảy lạc, người đọc có thể thấy đó là nỗi cô đơn của nhân vật

Anh – một chàng trai đã tốt nghiệp đại học, sống giữa một xã hội công nghiệp hiện đại.

Anh cũng đã từng lăn lộn với đời, lại là người tinh tế, khôn ngoan, biết nhẫn nhịn, biết

tự trọng, tôn trọng người khác, thế nhưng anh đứng trước một tương lai là gã tâm thần

đơn độc với tuổi già phía trước”. Sau mấy tháng trời thất nghiệp, sau mấy lần xin việc

rồi lại nghỉ bởi anh thấy khó có thể hòa nhập được với công việc, với con người mới

“Trong cao ốc cũ anh là kẻ lạc lối bị đẩy bật ra” và khi đến một công ty mới anh lại tự

77

hỏi “Còn nơi này, có chỗ của mình không?” [34, tr.146]. Không thể hòa nhập với công

việc, với đồng nghiệp, với xã hội văn minh hiện đại, anh luôn có “cảm giác cô đơn

thường trực” [34, tr.28], “cảm giác mình là một người thừa” [34, tr.73], “xưa giờ tôi

luôn là một người thừa đối với cả cuộc đời này.” [34, tr.50].

Anh sống một mình trong căn nhà trống không, gia đình anh ở nước ngoài, chỉ có

con mèo là bạn duy nhất trong căn nhà ấy cũng chết, “để lại cho anh một nỗi buồn mất

mát chưa từng nếm trải” [34, tr.133]. Dù ý thức rõ sự tạm bợ, chán ngán và vô nghĩa

của mình nhưng anh không đủ bản lĩnh để thoát ra khỏi cuộc sống đó. Anh cô đơn nên

chân thành tìm kiếm tình yêu, muốn kết hôn như để thoát khỏi cuộc sống một mình tẻ

nhạt vô nghĩa, để có người chia sẻ, để thay đổi số phận, để thay đổi cuộc đời. Nhưng,

tuần trăng mật của anh diễn ra tẻ nhạt hiu hắt. Những ngày sau đó cuộc sống thật căng

thẳng, nhạt nhẽo và buồn rầu. Anh muốn quan tâm, muốn hiểu vợ, nhưng càng theo

đuổi thì càng mất hút. Bí mật của vợ với anh ngày càng lớn. Dù có cố gắng đến kiệt

sức anh cũng chẳng thể giữ được. Tuyệt vọng, buồn bã và cô đơn vì anh đã từng hi

vọng và mong mỏi, thậm chí là ước mơ một gia đình êm ấm như bao người, mong mỏi

có con, nhưng vợ anh cứ xa lánh anh, bỏ nhà đi miết… Biết được sự thật, anh đã tha

thứ, đã thông cảm, đã muốn níu giữ cô ở, tha thiết được tiếp tục có cô ở bên cạnh mình,

nhưng cô đã từ chối. trả lại anh nỗi buồn đau, sự trống trải và cô đơn nặng nề hơn lúc

cô chưa đến.

Dường như tác giả đã nhấn nhân vật của mình vào tận cùng của sự vô nghĩa

trong cuộc sống. Vợ mới cưới được ba tháng đã bỏ đi. Người bạn hoạ sĩ tâm giao cũng

chết đột ngột không rõ nguồn cơn. Người bạn thời sinh viên, sau tai nạn phải sống thực

vật cũng đã ra đi. Mấy lần đi xin việc rồi phải bỏ việc. Anh như một “lạc thể” không

“tương thích” trôi chảy giữa dòng đời, phải đối diện với nỗi trống vắng của tâm hồn.

Chỉ còn lại một mình đơn độc, bất lực, vô vọng, không biết về đâu, không chốn nương

thân giữa dòng chảy cuộc đời đã nhiều lần anh lên cơn điên hiện sinh tưởng đã chia lià

cõi đời phù du này… Tất cả những con người cô đơn đó cũng chỉ là một phiên bản

78

những con người cô đơn, dở dang, vô vọng “Tất cả đều lạc nẻo, càng cố trở về càng

trôi xa hút, càng cố kiếm tìm càng hoài công mệt mỏi”[34, tr.304].

Anh luôn tra hỏi về sự hiện diện của mình. “Câu hỏi thường trực trong đầu, tại

sao mình lại ở đây, trong một thế giới mênh mông, đầy xa lạ…Chẳng nơi đâu là nhà,

chẳng nơi nào là quê hương?”[34, tr.320]. Đi hưởng trăng mật với vợ, anh ngồi một

mình ở bãi biển và tự hỏi “Sao mình lại ngồi đây “[34, tr.232]. Trên đường đưa gia

đình ra sân bay, anh lại tự hỏi “không biết mình đang đi đâu, tại sao lại đi.”[34,

tr.277].Ở chỗ làm, anh lại tự hỏi “còn ở nơi này, anh có chỗ của mình không?”[34,

tr.146]. Anh như bị lạc đi giữa xã hội, giữa vòng quay cuộc đời.

Trong nỗi ám ảnh về nỗi cô đơn của kiếp người, các nhà văn cũng dành sự chú ý

đặc biệt cho những người phụ nữ. Họ đẹp như những nhân vật nữ của truyền thuyết

giữa bao định kiến thù hận hẹp hòi, nhưng hơn hết họ lại nổi bật giữa đám đông bởi cái

đẹp lạc loài: Đó là chị Thư trong Truyền thuyết viết lại chị khiến người đọc nhớ đến

những nàng tiên trong truyện cổ tích, trong lịch sử “Chị đã gợi dậy trong ký ức làng

Đồng nỗi kinh hoàng về một hiểm họa do một người đàn bà đẹp gây ra” [34, tr.179].

Và người ta trút lên chị nỗi hằn học vô cớ. Người ta hắt hủi chị như là “sự chối bỏ một

điều vô phúc từng xảy xa ở làng Đồng”. Chị bơ vơ, cô đơn ngay giữa chính cộng đồng,

làng xóm của mình. Chị lạc lõng, chị bị ruồng bỏ với chính cái nhan sắc lộng lẫy của

mình giữa những người đen đủi tật nguyền. “Quanh năm chị chỉ biết vụng trộm với bọn

trẻ”, nỗi cô đơn thấm đẫm trong những bài hát khe khẽ, buồn thảm thiết của chị.

Chị Túc trong truyện ngắn Xưa kia chị đẹp nhất làng của Tạ Duy Anh đã chôn

vùi tuổi xuân của mình vì chiến tranh, chị đã để tuổi xuân trôi qua cùng với niềm hy

vọng, khát khao, ham muốn thầm kín. Những tiếng nấc nghẹ nén sâu trong lồng ngực

chị đọng lại nỗi buồn tủi, cô độc của người đàn bà tuổi ba lăm. Chiến tranh qua đi,

chẳng mấy ai còn nhớ “xưa kia chị Túc xinh đẹp và tài đảm nhất làng”. Không còn

những lời trầm trồ khen ngợi : “Em là cô tấm trong phép màu chứ không phải là người

trần mắt thịt!” [61]. Hình ảnh hiện tại của chị Túc chỉ còn là “một thân phận héo mòn

79

cô đơn”, “âm thầm như một con vạc lẻ đàn”. Mênh mang trong tác phẩm là âm hưởng

ngậm ngùi thương cảm: “ Chị chờ ai, chờ cái gì và điều đó đem lại cái gì”. Cái điệp

khúc bi tráng: “ Ngày nào đó,…” càng viền nổi gương mặt nàng vọng phu hiện đại hóa

đá cả sự chờ đợi và nỗi buồn cô đơn.

Đó là Quý Anh, Quý Hương trong Bước qua lời nguyền, Tâm trong Lão Khổ

những bé gái có vẻ đẹp trong suốt, tự nhiên lẻ loi lạc loài giữa một làng Đồng chìm

ngập hận thù, đầy những nanh nọc, giữa những bộ mặt “đờ đẫn như chuột say khói”,

cô độc giữa “những bầy người nhếch nhác ghẻ lở, đói khát và gian nanh”. Chúng phải

chịu hậu quả “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Tuổi thơ của các nhân vật đều sống

trong sự ghẻ lạnh, hắt hủi, ngược đãi của đồng loại, lủi thủi sống trong một thế giới chỉ

có hương hoa, cây cỏ. Cái đẹp bị chối bỏ, cái đẹp bị trơ trọi, cô đơn, lạc loài. Nhưng lại

chính vẻ đẹp ấy như thách thức những lời nguyền độc ác và sự cô đơn.

Thảo Miên trong Đi tìm nhân vật, “cô gái có cặp mắt rợp một nỗi u buồn và vì

thế nó cũng khá bí ẩn, le lói tận sâu thứ ánh sáng của miền cứu rỗi...cho dù có dìm cô

xuống đáy bùn thì tâm hồn cô vẫn tỏa hương trinh trắng” [52] - con người thánh thiện

ấy cứ như từ một cõi khác ngơ ngác và xa lạ.

Cô bán bảo hiểm, vợ của Anh trong Giữa dòng chảy lạc hay cô con gái của

ông thầy giáo trong Cuộc đời ngoài cửa, Dung trong Bãi bờ hoang lạnh, Thảo trong

Phố đều là những cô gái mang trong mình nỗi cô đơn.

Từ khảo sát về các kiểu dạng con người cô đơn trong sáng tác của bốn cây bút

Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Tạ Duy Anh và Nguyễn Danh Lam có thể thấy cô đơn là

trạng thái tâm lý phổ biến của con người. Xây dựng kiểu nhân vật này, các nhà văn

như muốn gửi đến người đọc những thông điệp nhân văn sâu sắc. Mỗi người tự bản

thân đã mang trong mình nỗi cô đơn, nhưng giữa cộng đồng, người thân, gia đình, xã

hội không đồng cảm, sẻ chia, không quan tâm đến nhau thì con người càng cô đơn

hơn. Vấn đề đặt ra là, hãy cải tạo hoàn cảnh, hãy biết sống yêu thương, sẻ chia để con

người đừng rơi vào bi kịch thê thảm của sự cô đơn.

80

Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN

Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung và hình thức.

Nhà văn không chỉ quan tâm đến nội dung mà còn phải thể hiện được tài năng nghệ

thuật của mình trong đó. Và nghệ thuật xây dựng nhân vật là yếu tố không thể thiếu

trong mỗi tác phẩm khi viết về con người, miêu tả con người. Khảo sát qua sáng tác

của các cây bút Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Tạ Duy Anh và Nguyễn Danh Lam

chúng tôi nhận thấy, để xây dựng thành công nhân vật cô đơn các nhà văn đã sử dụng

nhiều thủ pháp nghệ thuật, trong đó đặc biệt chú trọng đến các thủ pháp sau:

3.1. Thủ pháp nhòe mờ, tẩy trắng nhân vật

Có thể nói, thủ pháp nhòe mờ, tẩy trắng tên nhân vật đã xuất hiện từ sớm trong văn

học, tiêu biểu như A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Lâu đài của F.Kafka, Trăm năm cô

đơn của G.Marquez,… Sang đến thế kỉ XXI, tiếp nối và cách tân, các nhà văn đương

đại đã nhòe mờ và tẩy trắng nhân vật một cách đậm đặc trong sáng tác của mình. Việc

sử dụng thủ pháp nghệ thuật này thích hợp với hoàn cảnh sống và cả trong việc biểu

hiện số phận nhỏ bé, cô đơn của nhân vật. Trong tác phẩm cái tên của mỗi người đều

mang một dấu ấn và ý nghĩa riêng trong cuộc đời. Trong tác phẩm văn học, nhà văn đặt

tên cho nhân vật của mình cũng đều có những ước tính, những tiêu chí riêng để có thể

tạo nên những hiệu ứng nghệ thuật riêng cũng như tư tưởng mà nhà văn muốn phản

ánh. Khảo sát qua sáng tác của bốn tác giả, có thể thấy rất nhiều nhân vật không có tên

riêng. Các nhân vật được gọi tên bằng những điểm dị biệt như chị mặt rỗ, thằng câm,

thằng mắt híp, thằng sừng trâu, cô tóc tém, cô hai giờ, ba giờ, bốn giờ, thằng chữ kí,

lão Toét, lão Cóc,… (Bến vô thường); Lão Khổ, lão Tạ, lão Tự,…(Lão Khổ). Có khi

chỉ được kí hiệu mã số hoặc gọi bằng nghề nghiệp: ông họa sĩ, cô bán bảo

hiểm,…(Giữa dòng chảy lạc). Bà hộ lý, ông bác sĩ, cô sinh viên,… (Thiên thần sám

hối). Nhân vật không xuất xứ, nhân vật không rõ nhân dạng, hoang tưởng: Lão trắng,

lão đen, (Giữa vòng vây trần gian).

Ngay cả nhân vật chính của tác phẩm cũng không có tên, chỉ được định danh

bằng đại từ “Anh” (Giữa dòng chảy lạc), “Tôi” (Đi tìm nhân vật, Bước qua lời

81

nguyền; “Ông”Cuộc đời ngoài cửa); Gã, hắn, mụ, tôi… (Bến vô thường). Cô gái, mụ,

họ,…(Giữa vòng vây trần gian), hoặc được gắn với những ngôi xưng: “Mẹ tôi, cha tôi,

bà tôi” (Bước qua lời nguyền). Có nhân vật dù được tác giả ưu ái đặt tên nhưng cái tên

cũng rơi vào vòng xoáy của sự quẩn quanh, bế tắc và cô đơn, không đúng nghĩa một

tên gọi riêng như nhân vật Thữc (Giữa vòng vây trần gian)

Bên cạnh việc làm mờ hóa tiểu sử, nhiều tác giả làm mờ hóa nhân dạng của

nhân vật. Nếu như văn xuôi trước 1975 thường thiên về mô tả kĩ lưỡng các chi tiết mặt

mũi đầu tóc, với hình tượng điển hình lí tưởng thì sau 1975, các tác giả chỉ ưu đãi cho

những “gờ nổi”, “mặt tiền” hoặc những gợi ý mang tính định dạng về nhân vật như

“bào thai” (Thiên thần sám hối), “cô gái điên”, “hắn” (Đi tìm nhân vật). Nếu được

khắc họa, nhân vật thường được khắc họa trong những nét lạ lẫm, teo tóp, dị hình dị

dạng như Tốn trong Không có vua, Cún trong Cún của Nguyễn Huy Thiệp.

Nhân vật hiện diện trong hình hài của kí ức, không diện mạo, không lai lịch,

thậm chí có nhân vật giữ vị trí quan trọng trong tác phẩm nhưng thực tế chỉ là tiếng nói

vang vọng từ tâm tưởng của nhân vật khác. Nhân vật không được nổi lên bằng đường

nét cá tính, cũng không thể hiện một đường viền lịch sử nào, không có chiều dày thực

thể mà chỉ giống như những giọng nói, những hình dung, những biểu tượng.

Dường như các nhân vật bị đánh mất hay nói đúng hơn là bị tước mất lí lịch.

Điều này cho thấy, con người cá nhân không còn là một bản thể trọn vẹn, họ chỉ như

mảnh vỡ, một phiến đoạn cuộc đời. Xây dựng kiểu nhân vật này, nhà văn như muốn tái

hiện cuộc sống, số phận con người không tên họ, không tiểu sử tất yếu sẽ nảy sinh

những bất bình thường trong đời sống, giữa những mối quan hệ. Như một dự báo về sự

mất mát, khổ đau và cuối cùng là rơi vào trạng thái cô đơn lạc lõng.

3.2. Chú trọng tới cảm giác, nội tâm của nhân vật

L.Tônxtôi đã từng nói: "Mục đích chính của nghệ thuật là nói lên sự thật về tâm

hồn con người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông

thường được". Ðể làm được điều đó, nhà văn tất yếu phải hiểu sâu sắc cuộc sống và

82

con người, nắm bắt được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên

trong của nhân vật.

Để xây dựng nhân vật cô đơn, các nhà văn rất chú tâm sử dụng và sử dụng hiệu

quả biện pháp nghệ thuật này, nhờ vậy đã tái hiện được đời sống nội tâm, những cảm

xúc, sự liên tưởng của các nhân vật về các vấn đề của đời sống. Nhân vật luôn sống với

những dòng hồi tưởng, dòng ý thức, những suy nghĩ miên man, những dằn vặt và đau

khổ của chuyện quá khứ, hiện tại và tương lai. Từ đó, các nhân vật đều có một thế giới

nội tâm với nhiều diễn biến khác nhau, nhiều nỗi trăn trở, ưu tư, dằn vặt, cả sự chông

chênh, cô đơn giữa sự chảy trôi của cuộc đời.

Đọc Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam), có thể thấy thế giới nội tâm của

nhân vật “anh” hiện lên qua rất nhiều dòng ý thức khác nhau. Từ ý thức về cuộc sống

vô nghĩa của chính mình, đến những ý thức về công việc và sau nữa là ý thức về hôn

nhân. Là một thanh niên hiện đại, có kiến thức và giàu cảm xúc, cũng có những dự

định, mong muốn, dù luôn cảm thấy buồn, cô đơn trong chính cuộc sống của mình

nhưng anh cũng ý thức được rằng mình cần phải làm việc, cần phải thay đổi. Vậy

nhưng anh luôn rơi vào bi kịch của sự cô đơn, tự cảm thấy mình “là người thừa với thế

giới” khi mà phải sống dựa vào sự chu cấp của bà chị, khi đã muốn cố gắng làm một

công việc gì đó mà vẫn không thành. Anh cũng đã chân thành tìm kiếm tình yêu, một

mái ấm gia đình thực sự, đã cố gắng tự muốn thay đổi , nhưng anh vẫn luôn cô đơn và

cuối cùng “nỗi cô đơn đã chuyển hóa thành sự tuyệt vọng”. Càng cố gắng anh lại càng

thất bại, càng lạc lõng và cô đơn. Qua đó, tác giả như muốn nhấn mạnh, phản ánh một

kiểu người của thực tại không thể hòa nhập được với cuộc sống hiện tại đang cuồn

cuộn chảy.

Nhân vật “ông” trong Cuộc đời ngoài cửa (Nguyễn Danh Lam), cũng là người

mang nhiều suy tư, cảm xúc. Thất bại trong hôn nhân và công việc, ông đã phải chịu

đựng những cú va đập tâm lý, ông trở thành người cô đơn giữa thế giới. Ông muốn ra

đi để tìm một cuộc sống khác. Trong cuộc hành trình “Đi để bắt đầu lại. Để học cách

83

sống cuộc sống của mình” đã biết bao lần ông ngồi suy tư, với những dòng hoài niệm

xen lẫn thực tại, và chính điều đó lại khiến ông cứ như người “lẩn thẩn với những

mảnh kí ức được lắp ghép”, ông đau khổ, dằn vặt, tiếc nuối và cuối cùng ông vẫn là kẻ

cô đơn tuyệt đối.

Cũng như thế các nhân vật “tôi”, “hắn”, “gã” trong Bến vô thường” cũng là

những nhân vật luôn đối diện với những dòng suy nghĩ của chính mình. Và cùng với sự

đồng hiện của không - thời gian, họ luôn hiện lên là những thực thể cô đơn giữa một

động đồng thiếu sự sẻ chia, đồng cảm.

Trong các truyện Cún, Không có Vua, Tướng về hưu, Huyền thoại phố

phường,… Nguyễn Huy Thiệp luôn để các nhân vật sống giữa gia đình mà như “không

gia đình”, sống giữa cộng đồng mà như đứng bên ngoài cộng đồng. Họ luôn là những

thực thể bị cô đơn. Bởi lẽ đó, họ luôn có những thiên hướng “co” về thế giới riêng của

mình với nhiều cảm xúc suy tư khác nhau.

Xuyên suốt Con gái thủy thần là những dòng cảm xúc suy tư của nhân vật

Chương. Dõi theo câu chuyện, chúng ta có thể thấy ước mơ, khát khao của nhân vật

gắn liền với bao suy nghĩ, cảm xúc khác nhau. Từ những lời tự bạch hết sức chân tình”

tôi là một thanh niên nông dân ngu độn” đến những bí mật của tâm hồn “trái tim tôi

thuộc về nàng, thuộc về mẹ Cả, thuộc về Con gái thủy thần.”. Trong cuộc hành trình

khó khăn gian khổ khi đi tìm Mẹ Cả, nhân vật đã không ít lần bộc lộ đời sống nội tâm

với nhiều trạng thái khác nhau. Khi thì “chua xót”, “đờ đẫn”; lúc lại “sửng sốt”,

“thẫn thờ buồn bã” thậm chí “tê tái cảm giác chua xót”.

Ở Thương nhớ đồng quê, “tôi” là nhân vật có nhiều suy tư “mơ mộng”, lại

“hay nghĩ”, thích quan sát, đánh giá thói quen của từng người, tôi có thế giới tâm hồn

dễ “xao động”, với những suy tư cứ xối xả tuôn chảy:

“Tôi nghĩ

Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ

Sự bất lực của hình thức biểu đạt

84

Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất

Bao tháng ngày trôi đi

Bao kiếp người trôi đi

Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được…”[61]

Dù vậy, không ít lần người đọc vẫn bắt gặp tâm trạng xót xa, ngậm ngùi của

nhân vật trước những mặc cảm của thân phận: “Thân phận tôi, ở đâu người ta cũng

nhận là kẻ làm thuê làm mướn”. Và hơn hết, nhân vật nhận ra một khoảng trống mênh

mông kì lạ không dễ lấp đầy: “Chiều vẫn xuống chậm, Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi

trống rỗng lắm, một khoảng trống rỗng không.” Thậm chí, có những tâm tư và nỗi

lòng của tôi đầy bí hiểm, khó lí giải khi “Tôi cười. Mẹ tôi chẳng hiểu nụ cười của tôi

đâu.” Cái khoảnh khắc nhận tin dữ, “tôi” đã trải qua nỗi đau đớn tột cùng khi mất mát

người thân. Cảm giác ấy “tôi” đã phải “đưa tay lên miệng để bít những âm thanh thổn

thức trong cổ”.

Đọc Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Giã biệt bóng tối, Thiên thần sám hối, Bước

qua lời nguyền,… chúng ta có thể thấy, đan xen trong những câu chuyện giữa quá khứ

và hiện tại là những chiêm nghiệm, cảm xúc đánh giá của nhân vật về con người, cuộc

đời, xã hội và về chính bản thân mình. Tạ Duy Anh luôn để cho nhân vật của mình

sống trong thế giới của suy tưởng, cảm xúc với nhiều luồng tư tưởng tình cảm phức

tạp, trái chiều. Dù vậy, những cảm xúc ấy cũng không đưa nhân vật thoát khỏi vòng

vây của trạng thái cô đơn.

Những người lính trở về với cuộc sống có nhiều đổi thay như tướng Thuấn

(Tướng về hưu), Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng), Sáu Nguyện (Ba lần và một lần), Linh

(Vòng tròn bội bạc),… sống giữa thời bình nhưng dường như họ chưa có phút giây nào

được thanh thản, bình yên với cuộc sống hiện tại. Quá khứ cuộc chiến cùng những đổi

thay của xã hội mà những người lính trở về chưa kịp “chuẩn bị” khiến họ luôn đau khổ,

dằn vặt rồi tự đẩy mình vào trạng thái cô đơn, lạc lõng với hiện tại, không còn biết bấu

víu vào đâu. Họ chìm trong những suy nghĩ của riêng mình, tự tìm đến một không gian

của riêng mình. Lúc nào họ cũng thấy mình là người cô đơn, lạc thời.

85

Có thể nói, bằng việc chú tâm thể hiện những dòng ý thức, cảm xúc riêng của

nhân vật, các nhà văn đã để nhân vật được bộc lộ suy nghĩ, với những bí ẩn riêng của

tâm hồn. Nhờ vậy, người đọc có thể hiểu được một cách đầy đủ hơn về những hồi ức,

những ước muốn mà cả những mất mát trong cuộc sống của các nhân vật.

Qua những dòng ý thức, những cảm xúc ấy càng làm nổi bật rõ nỗi cô đơn của

con người trong cuộc sống, dường như nhân vật tự cảm thấy cái vô nghĩa mà cuộc sống

đem lại, sống chỉ là sự tồn tại một cách hờ hững. Nhân vật cảm nhận được tình cảm

của con người trong xã hội này là một xã hội thiếu tính liên kết, thiếu sự quan tâm đến

nhau. Cái tôi của nhân vật không sao cố gắng để hòa nhập vào cái ta chung của xã hội.

Bởi vậy, nhân vật luôn tự cảm thấy mình cô đơn.

3.3. Nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian

3.3.1 Nghệ thuật tổ chức không gian

Trong Dẫn luận thi pháp học Pênêlôp đã chỉ ra:“Không gian nghệ thuật là hình

thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, không có hình tượng nghệ thuật nào không có

không gian, không có nhân vật nào tồn tại ngoài một nền cảnh nào đó”. Vì thế, mỗi tác

phẩm văn học bao giờ cũng có một không gian riêng, mỗi nhà văn bao giờ cũng có

kiểu không gian tương thích của riêng mình, và một thời kì văn học bao giờ cũng tồn

tại những mẫu không gian đặc trưng, tạo thành nét riêng cho văn học thời đại đó.

Trước 1975, các nhà văn thường xây dựng không gian sử thi hoành tráng,

rộng lớn mở rộng hết chiều kích để tỏa sáng vẻ đẹp anh hùng lí tưởng của nhân vật.

Ngoại cảnh luôn được miêu tả trong sự bao bọc, che chắn cho con người nên không

có sự đơn độc giữa cá thể với môi trường. Sau 1975, cảm hứng sáng tác trong văn

xuôi đương đại đã thay đổi tất yếu dẫn đến sự thay đổi trong việc tạo dựng không

gian của tác phẩm. Để thể hiện nhân vật cô đơn, các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Chu

Lai, Tạ Duy Anh và Nguyễn Danh Lam đã chú tâm xây dựng những không gian nghệ

thuật phù hợp: Không gian riêng tư gia đình, không gian xã hội bên ngoài, không

gian thiên nhiên lý tưởng...

86

Không gian riêng tư: Đặt nhân vật vào không gian này, các nhà văn phát

hiện được chiều sâu cảm xúc, tâm hồn, sự phức tạp của con người giữa cuộc sống gia

đình. Nếu không gian chiến trận là nơi để con người vượt lên hoàn cảnh, thể hiện

chất sử thi thì trong không gian gia đình, con người được bộc lộ tất cả những mặt

mâu thuẫn, những cảm xúc, suy nghĩ và độ chênh về ý thức. Đó là không gian căn

phòng, căn gác xép, căn hộ độc thân, ngôi nhà khuất xa sự ồn ào của phố thị. Cuộc

sống của cá nhân như bị phong kín ở bên trong, tách biệt với môi trường bên ngoài, ở

đó con người phải sống lặng lẽ cô đơn. Trong không gian ấy, con người được sống

trọn vẹn là mình với những buồn vui được mất của một cá nhân thành thật nhất. Ở

trong không gian của chính mình, nhân vật có điều kiện đối diện với nỗi cô đơn, sự

trống vắng của tâm hồn.

Trong Tướng về hưu, ông Thuấn từ không gian chiến trận về với không gian

gia đình. Trong không gian này, ông phải chứng kiến những toan tính ích kỉ, vụ lợi,

lạnh lùng của cô con dâu và ông Bổng – em trai ông. Cũng trong không gian gia đình,

ông một mình phải đối diện với những việc ông chưa từng biết, chưa từng nghĩ đến.

Ông ghê sợ khi cô con dâu mỗi ngày đem rau thai về nấu cho chó, cho lợn. Những trò

bát nháo ầm ĩ trong đám tang vợ, trong đám cưới của đứa cháu làm ông chếnh

choáng. Không gian gia đình tưởng ấm cúng, thân mật, lại hóa thành sư xa cách,

khiến nhân vật rơi vào trạng thái cô đơn “Sao tôi cứ mãi lạc loài”. Bởi nó quá khác

so với không gian chiến trận ông đã từng sống trải:

Linh trong Vòng tròn bội bạc cũng từ không gian chiến trường về không gian

gia đình rồi lại di chuyển lên “căn cứ ở ẩn”, “cái lều vịt trên cao , rộng 2m, dài 2,5m,

đủ để kê một cái giường và cái bàn học trò…” [31, tr.87]. Ở không gian gia đình anh

không tìm thấy niềm vui, sự gần gũi với các thành viên. Mọi người như có một

khoảng cách lớn với anh, xa cách anh, ngại gần anh. Và cái không gian “lều vịt trên

cao” nhỏ bé, chật chội ấy càng tách xa anh hơn với mọi người, càng khắc đậm hơn

nỗi cô đơn của anh.

87

Không gian của “tôi” trong Bến vô thường là “cái hộp vuông gần bốn mét

bề ngang, bốn mét bề dọc, bốn mét bề cao”[32, tr.20] cộng với một căn phòng phụ

“rộng hai mét vuông. Tính ra hết thảy thế giới của tôi là mười tám mét vuông”]32,

tr.20-21]. Ở không gian đó, nhân vật không có điều kiện tiếp xúc với thế giới, cuộc

sống lặp lại một cách đơn điệu tẻ nhạt với những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi người mẹ

trong những lúc bà mang thức ăn lên.

Đó là không gian của nhân vật Anh (Giữa dòng chảy lạc) một “căn nhà chỉ

thực sự mình anh nếu không tính con mèo”. Một mình trong không gian đó, nhân vật

đã trải qua biết bao ưu tư dằn vặt đấu tranh tâm hồn, mỗi đêm phải mượn đến bia mới

tìm được giấc ngủ, rồi cô đơn, thất vọng. Cũng ở không gian đó, anh càng cô đơn hơn

khi bao đêm hai vợ chồng nằm xoay lưng lại với nhau, hai người như hai cái bóng

lặng lẽ, không thể cùng nhau xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc.

Ở Cuộc đời ngoài cửa, sau những mất mát buồn tủi trong cuộc đời, nhân vật

ông lủi thủi trong cái “khu nhà trọ có phần ô hợp”, mỗi đêm ông lặng lẽ đi về “căn

phòng tối đen, lạnh lẽo hơi người, mang mang mùi ẩm mốc”, “Những chiếc vali, ba

lô xếp đầy sàn nhà. Những bộ đồ nhăn nhúm, treo trên mấy hàng đinh đóng quanh

tường, bàn chải đánh răng, dao cạo râu, lược chải đầu… cắm trên chiếc ly để trên

thành cửa sổ. Tất cả đều mang dấu ấn tạm bợ, dạt phiêu, buồn tủi” [33, tr.30]. Trong

không gian đó, mỗi đêm ông phải mượn đến men bia và mùi thuốc lá để có thể chìm

vào giấc ngủ. Không gian đó như một minh chứng cho sự cô đơn của ông. Và ông đã

chọn giải thoát ra đi để tìm niềm vui, tìm lại mình.

Trong Đi tìm nhân vật “tôi” cũng “sống độc thân trong gian nhà nhỏ ở tít

tầng trên cùng của một khu tập thể.” “Ngày ngày, ngoài giờ đi làm, tôi chui vào

chiếc "chuồng chim" và thêu dệt những giấc mơ sực mùi nước cống rãnh. Tôi tự coi

tôi như một anh hùng bị sa vào chiếc lưới thời mạt vận.”[ 52]

Nhưng có lẽ cái không gian chật chội và bí bách nhất là không gian mà nhân

vật thai nhi trong tiểu thuyết Thiên thần sám hối cư trú. Một mình ở trong không

88

gian đó để lắng nghe, cảm nhận và suy xét cuộc sống bên ngoài mà chẳng ai có thể

thấu hiểu được.

Còn không gian riêng tư của của mẹ con chị góa, Lão Cóc, Mụ, cô con gái

mụ, chị mặt rỗ… trong Bến vô thường; của lão Mị trong Luân hồi; Không gian của

hai mẹ con cô gái (Giữa vòng vây trần gian), cũng là nơi Thữc tồn tại trong một thời

gian là một căn nhà “tối đen”, “xung quanh hầu như không có cửa sổ”, “nằm giữa

một khoảng sân đầy cát” đều như cô đơn, bị tách biệt, bị đóng kín, nằm biệt lập cách

xa cộng đồng. Ở trong không gian ấy, nhân vật đối diện với những bi kịch riêng tư

của cá nhân, nó là nỗi buồn, là sự lạc lõng. Miêu tả những khoảng không gian nhỏ bé

này, các nhà văn đã tạo được sự ám ảnh cho người đọc về sự chật chội, bức bối, tù

túng, thiếu tự do cũng như âm hưởng lạnh lẽo, buồn tẻ, vắng lặng tựa như thân phận

của những kiếp người cô đơn tồn tại trong nó. Cảm thấu nỗi cô đơn, sự đau đớn âm

thầm từ bên trong căn gác, gian phòng, ngôi nhà nhỏ, các nhà văn đã chạm tới được

nỗi buồn lặng lẽ đè nặng lên tâm hồn, số phận của những con người.

Không gian xã hội: Từ không gian riêng tư chật chội, bức bối, đến với không

gian xã hội bên ngoài, con người cũng phải đương đầu với những bi kịch không kém

phần đau đớn, trước hết là sự lạc lõng, không thể hòa nhập. Đặt trong không gian này

con người được soi chiếu từ nhiều góc độ, được khai thác trong nhiều chiều khía và

những nỗi buồn, sự trầm tư, lặng lẽ cô đơn cũng như bám riết lấy họ.

Không gian làng Đồng trong Bước qua lời nguyền, Lão Khổ, Vòng trầm

luân trần gian, Luân hồi,… thưa vắng, nghèo đói và lạc hậu, trì trệ, trói buộc con

người trong những xiềng xích của tội ác, quẩn quanh trong vòng hận thù… Cái Làng

Đồng bé nhỏ, tồn tại cô lập hiện lên trong cái xa vắng, cũ kĩ của thời gian, khiến

người đọc có liên tưởng đến ngôi làng ven biển huyền ảo trong thành phố của

G.marquez. Ở trong không gian đó, từ nhà ra ngõ, không khí ảm đạm, thù hằn luôn

bao bọc con người. Mỗi cá nhân, gia đình, dòng họ đều bị bao bọc bởi nỗi sợ, lòng

thù hận, những tai họa luôn rình rập, sự ám ảnh và cuối cùng là nỗi cô đơn. Họ thu

89

mình lại, không giám chuyện trò bàn tán, không giám giao tiếp vì lo sợ .Tạo nên

không khí căng thẳng bao trùm lên không gian làng Đồng nhỏ bé.

Đó còn là không gian “xóm ga xưa nay sống hỗn hào dữ dội” (Bến vô

thường) chất chứa bao nhiêu mảnh đời, bao kiếp người không tên; biết bao phận

người nghèo khổ, nhếch nhác .Và hơn hết“Xóm ga tự cô lập mình như một rẻo đất bị

nguyền rủa với tất cả cái thế giới xung quanh. Mỗi mái nhà trong xóm ấy lại tự cô

lập mình.”[132, tr.260]. Mỗi mảnh đời, mỗi nhân vật tồn tại trong không gian đó

chịu sự chi phối của cái không khí tù túng, ngột ngạt của nỗi buồn, sự nghèo khổ và

hơn hết là nỗi cô đơn.

Không gian khu phố G dường như bị ảo hóa “G là một trong những khu

trung tâm của thành phố”, với nhiều từ phiếm chỉ “tại đó”, “đúng chỗ đó”,… cùng

những ngóc ngách, siêu thị, các ki -ốt, nhà hàng, nhà thổ,… như để thấy cái mênh

mông vô định của không gian. Và trên hành trình Đi tìm nhân vật đó, người tìm kiếm

giống như một người thủy thủ lênh đênh giữa biển khơi mà trong tay chẳng có la bàn.

Căn phòng trọ của Thữc trong Giữa vòng vây trần gian chỉ được gợi lên

một cách mờ nhạt, tạm bợ. Thế nhưng, từ không gian ngoằn nghoèo của đường phố

đến không gian của dòng sông, của một bãi vắng, một làng nhỏ khép kín, một cái rẫy

cũng vắng bóng người. Tất cả không gian đều vắng lặng, u mịch, đơn điệu buồn bã

như làm nền cho nhân vật, để anh chìm ngập trong nỗi sợ bủa vây, chới với trong

những hi vọng được hòa nhập cùng cộng đồng người, nhưng tất cả mong ước ấy của

anh đều bị chối bỏ, anh cô đơn trong đó không thể nào thoát ra được.

Cuộc hành trình của nhân vật “ông” trong Cuộc đời ngoài cửa cũng đã đi qua

nhiều không gian: Từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, qua nhiều

con đường, nhiều trạm dừng chân. Nhưng tất cả đều buồn, đều cô đơn, con người

sống ở mỗi vùng miền ông qua đều lặng lẽ và cũng mang nỗi cô đơn không thể chối

bỏ mà cuộc đời đã trao cho. Ông không thể tìm thấy niềm vui mà làm lại cuộc đời

như dự định. Mỗi ngày ông thêm suy nghĩ nhiều hơn về cuộc đời, về thế thái nhân

90

tình. “Đứa con gái, niềm tin yêu, chỗ dựa tinh thần cuối cùng cũng đang tuột khỏi

tầm tay. Ông cô đơn trọn vẹn giữa mảnh đất quen mà lạ này” [32, tr.222]

Giữa môi trường xã hội có nhiều biến động, đổi thay thời thị trưởng mở cửa,

các nhà văn đã dựng lên từ cái nền không gian đó nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp,

đan xen chồng lớp tạo nên cảm giác ngột ngạt, chật chội, khó chịu bởi những toan

tính, sự lên ngôi của đồng tiền và bởi nỗi bon chen nhọc nhằn của con người trong

cuộc mưu sinh. Đặc biệt những người bước ra từ khói lửa đạn bom như Hai Hùng,

Tám Tính trong Ăn mày dĩ vãng, Sáu Nguyện, Bảy Thu, Ba Đẩu trong Ba lần và một

lần, Linh trong Vòng tròn bội bạc, Tướng Thuấn trong Tướng về hưu, Quang trong

Bãi bờ hoang lạnh, Nam, Bình Lãm trong Phố,… được dựng trên cái nền không gian

này. Đi từ không gian trận mạc đến không gian thời bình trong sự bung ra của các

thành phần kinh tế cạnh tranh, xã hội biến động của cơ chế thị trường thời mở cửa,

chưa được chuẩn bị hành trang cho cuộc sống khiến họ như “một con nộm rơm khốn

khổ giữa cánh đồng đầy giông bão”, cô đơn, lạc lõng, chơi vơi giữa sự chảy trôi của

xã hội, trở thành cái bóng nhợt nhạt giữa vô số thân phận cô đơn khác của cuộc đời.

Trong sự vận hành của cơ chế mới, nảy sinh những hạn chế, sự phức tạp trong nhiều

mối quan hệ xã hội, những toan tính ích kỷ, sự lên ngôi của đồng tiền và nỗi bon chen

nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh luôn tạo cảm giác ngột ngạt, chật chội. Những

người lính bước ra từ chiến trận không dễ dàng gì tìm được sự hòa nhập, tìm được

tiếng nói chung đồng cảm. Họ rơi vào bi kịch cô đơn giữa đồng loại, họ “lạc thời”,

thất thế trong xã hội hiện tại đó. Đặt nhân vật của mình vào kiểu không gian này, nhà

văn đã cho người đọc thấm thía nỗi cô đơn của con người giữa cuộc sống mưu sinh

hiện tại nhiều vất vả, nguy hiểm.

Không gian thiên nhiên lý tưởng: Những con người cô đơn luôn hướng đến

một không gian đẹp đẽ của riêng mình. Thiên nhiên như một vị thần chở che, an ủi

cho họ. Tìm đến với không gian này, phần nhiều là những người lính trở về từ sau

trận chiến. Sáu Nguyện, Ba Đẩu và nhiều đồng đội (Ba lần và một lần) hướng về

91

rừng xanh núi đỏ, cùng giấc mơ lập một đại gia đình sống bình thản yên bình. Linh

(Vòng tròn bội bạc) mệt mỏi với những bon chen, cơ hội, với những cơm áo, gạo tiền

nhọc nhằn cũng tìm lên biên giới với những đồng đội của mình. Ở đó rừng núi, cỏ

cây, con người đều thấm đẫm khí chất trong lành nguyên thủy có thể tiếp thêm sức

mạnh cho họ bước tiếp. Quang (Bãi bờ hoang lạnh) đã phải từ bỏ hẳn cái ồn ào của

phố thị để là một cư dân trên đỉnh núi. Một con người nham hiểm như Ba Thành (Ba

lần và một lần), cũng phải tìm đến với ngôi nhà khu vườn rợp bóng cây trái hoàn

toàn tách biệt với mọi ồn ào của phố thị,… “Tôi” (Bến vô thường) vì cô đơn giữa

thực tại, bị đóng trong “khung khép kín”, nên tôi đã ước mong được hòa nhập cùng

với thiên nhiên, cùng với ánh trăng. Đó là mảnh vườn mà mỗi đêm lão Khổ (Lão

Khổ) vẫn thường ra đó để tư lự, để trải lòng, để uống rượu và suy nghĩ về cuộc sống,

về kiếp người. Đó là không gian của một dòng sông, một bến đò mơ màng và cô liêu

trong Chảy đi sông ơi; là một cánh rừng “xanh ngắt và ẩm ướt” đang độ xuân về

trong Muối của rừng; là bạt ngàn rừng núi một sắc trắng hoa ban (Những người thợ

xẻ);… Các nhân vật đã tìm đến, hướng đến những nơi đó để tự vấn, độc thoại với

chính mình và được thả hồn vào đó.

Tìm đến với những không gian thiên nhiên trong lành này, con người hy vọng

sẽ tìm được mối tương giao, có thể tìm thấy cho mình hạnh phúc, sự cân bằng, thiên

nhiên sẽ làm dịu đi cái ngổn ngang, những nỗi khổ đau, bức bối trong long họ. Vậy

nhưng chính giữa không gian thiên nhiên lý tưởng đó con người càng cảm thấy cô

đơn, càng thấy bất lực hơn trong việc thực hiện khát vọng tìm được sự hòa nhập với

cộng đồng, với cuộc đời. Chính cái không khí trong lành mát dịu đó càng làm nhân

vật nhớ lại kỉ niệm tuổi trẻ, với những kí ức, khiến họ càng như những cái bóng nhỏ

nhoi đi bên lề cuộc đời, không bao giờ hết cô đơn. Có thể nói, đặt nhân vật vào thế

đối diện với thiên nhiên bao la, vĩnh hằng, các tác giả càng như để con người nhận ra

thân phận bé nhỏ, cô đơn, mong manh và phù du của nhân sinh trước dòng chảy tự

nhiên vĩnh cửu.

92

3.3.2 Nghệ thuật tổ chức thời gian

Thời gian nghệ thuật được xem là một hình tượng nghệ thuật, một sáng tạo

mang tính khách quan, chịu sự chi phối chủ quan của người nghệ sĩ. Theo Pênêlốp:

“Thời gian nghệ thuật là hình tượng nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của các tác giả

bằng các phương tiện nghệ thuật”. Thời gian nghệ thuật là yếu tố quan trọng góp phần

tổ chức thế giới nghệ thuật cho tác phẩm, chứa đựng ý đồ của người cầm bút, mang nét

riêng của giai đoạn, trào lưu, hoặc thời kì văn học.

Nếu văn học sử thi thường xây dựng kiểu thời gian tuyến tính, gắn liền với

những sự kiện lịch sử, vì vậy sự phát triển của số phận, tính cách nhân vật gắn liền với

sự kiện lịch sử, chú trọng bám sát thời gian hiện tại, hướng tới tương lai chứ không chú

trọng đến thời gian quá khứ, thời gian tâm trạng, thì văn xuôi đương đại chú trọng tới

thời gian cá nhân, thời gian tâm trạng chảy theo dòng tâm trạng của nhân vật. Các mốc

sự kiện lịch sử gần như không xuất hiện, những năm tháng cụ thể ít được chú trọng.

Xây dựng kiểu thời gian sự kiện rút ngắn, kéo dài thời gian tâm trạng như vậy các nhà

văn nhằm khá phá, miêu tả đời sống tâm hồn phong phú, bí ẩn của con người. Nhân vật

có những dòng suy nghĩ tầng lớp, đứt đoạn, để nhận thức về cuộc đời, con người.

Thậm chí, các nhà văn gia tăng thời gian tâm lí, nhằm xoáy sâu vào nỗi buồn, cô đơn

của cá nhân.

Trong Đi tìm nhân vật qua lời kể của nhân vật “tôi”, ở chương I từ Thời điểm

quá khứ “Tôi” đi tìm tin tức vụ thằng bé đánh giày bị giết trên phố G, “tại chỗ đó”,

vào một cửa hiệu rồi nhớ lại quá khứ hồi mấy năm sống nhầy nhụa nghèo khó. Đến

chương II lại tiếp tục cuộc truy tìm nhân vật, kể về vụ anh thợ săn giết ông già gác

rừng, sau đó nhớ lại buổi tối kẻ thù giết cha xuất hiện,…

Bên cạnh đó các cây bút cũng chú trọng xây dựng thời gian đồng hiện. Không

còn thời gian sự kiện tuyến tính mà nhân vật sống trong nhiều khoảng thời gian đan

xen giữa quá khứ và hiện tại. Chẳng hạn trong Chương II của Lão Khổ đang ở thời

gian hiện tại “Đêm nay, vì quá cô đơn, lão bỏ ra vườn một mình”, chuyển đến thời

93

gian quá khứ “Năm ấy, lão còn là anh chân sào nổi tiếng”; rồi lại rời khỏi kí ức trở về

hiện tại: “Lão Khổ lặng lẽ đến bên vợ cũng vừa lúc bà Khổ quay vào.” Xuyên suốt tác

phẩm luôn có sự đan xen đồng hiện của các khoảng thời gian.

Cuộc hành trình ngược về quá khứ thường gắn với hoài vọng, tiếc nuối, những

tín hiệu thiêng liêng, sự gắn kết mà hiện tại họ thật khó tìm thấy. Mở đầu tác phẩm

Vòng tròn bội bạc, Ăn mày dĩ vãng là thời gian hiện tại rồi từ đó trở về thời gian quá

khứ. Trong quá khứ họ là những chàng trai rắn rỏi thì nay lại ốm yếu, nhếch nhác… họ

bị đẩy ra giữa cuộc sống đầy tất bật. Không tìm được niềm vui, sự hòa nhập và tiếng

nói chung của cuộc sống hôm nay, cảm nhận rõ vị thế cô đơn của mình ở hiện tại, con

người lại hướng về quá khứ như muốn tìm kiếm sức mạnh nâng đỡ mình trong cuộc

sống hiện tại. Thậm chí ở những tác phẩm này có sự gia tăng thời gian quá khứ để nhấn

mạnh ám ảnh của chiến tranh vẫn đồng hành cùng con người trong cuộc sống. Vậy nên,

con người thật không thể yên ổn, không thể hòa nhập với thực tại. Chính vì thế nhân

vật phải lội ngược thời gian tìm về quá khứ.

Trong Lão khổ thời gian đi về giữa hai thời đại, từ chế độ cũ đến những năm

cải cách ruộng đất. Và chìm ngập trong thời gian ấy chính là Lão Khổ với một thân

phận chìm nổi, nhiều nỗi đau đời. Đến cuối cuộc đời lão “mới biết kiếp người còn có

thêm nhiều nỗi khổ nữa. Nỗi khổ của sự nhận ra mình là người”. Bao năm lão đã sống

hóa ra chỉ là kiếp con vật!

Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Danh Lam cũng không chú trọng đến năm tháng

cụ thể trong tác phẩm, chỉ nêu tên sự kiện là mốc thay đổi cuộc đời của nhân vật. Trong

Cuộc đời ngoài cửa (Nguyễn Danh Lam) nhân vật trải qua các mốc sự kiện là việc đổ

vỡ hôn nhân, nghỉ việc. Từ hai mốc sự kiện ấy khiến “Ông” trở thành người cô đơn

giữa cõi đời: Không gia đình, không công việc. Mốc sự kiện cuối cùng là việc ông lựa

chọn đi tìm cuộc sống bên ngoài. Bên cạnh đó, người đọc có thể thấy thời gian trong

Cuộc đời ngoài cửa cũng có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Dừng lại ở đúng nơi

mà trước kia gia đình ông đã vô cùng hạnh phúc khi đi nghỉ cùng nhau khiến ông

94

không thôi hoài niệm, quá khứ ngọt ngào ùa về “Ông một bên, cô một bên, con trai ở

giữa, con gái địu sau lưng. Đúng hình ảnh một gia đình hạnh phúc”[32, tr.63]. Thế

nhưng, hiện tại thật phũ phàng, “Tất cả đã đổi thay, đã cuốn tới, chỉ mình ông ngồi lại,

hay lạc sang một nẻo khác của cuộc đời.”[32, tr 64]. Nhân vật Anh (Giữa dòng chảy

lạc) cũng đã trải qua rất nhiều sự kiện: thất nghiệp, đi phỏng vấn, đi học thêm tiếng

anh, kết hôn,… Thế nhưng, cuối cùng nhân vật cũng chỉ là một lạc thể cô đơn giữa

cuộc đời. Trong truyện ngắn Cún (Nguyễn Huy Thiệp) nhân vật đến với cuộc đời

cũng không có ngày tháng cụ thể, rồi đến sự kiện Cún về ở với Lão Hạ, đi ăn xin, có

con với cô Diệu, Cún chết,…

Dựng lên nhiều kiểu không gian khác nhau, tái hiện nhiều khoảng thời gian đan

cài. các nhà văn đã mở rộng phảm vi hiện thực phản ánh, khai thác sâu hơn thế giới nội

tâm nhân vật cô đơn, đồng thời có thể theo sát tái hiện được chân dung con người với

tư cách cá nhân, công dân, có những số phận riêng tư một cách sâu sắc.

3.4. Ngôn ngữ - giọng điệu

3.4.1. Ngôn ngữ

* Ngôn ngữ đối thoại – độc thoại

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Lời đối thoại là lời trong cuộc giao tiếp

song phương mà lời này xuất hiện như là phản ứng đáp lại lời nói của người khác”.

Điều kiện để thực hiện đối thoại là phải có sự hiện diện của người nói và người

nghe. Đối thoại là hình thức giao tiếp sử dụng ngôn ngữ trực tiếp giữa người nói và

người nghe. Trong văn xuôi thì lời đối thoại chính là lời nói trực tiếp giữa nhân vật này

với nhân vật khác. Văn xuôi đương đại có nhiều kiểu nhân vật, các nhân vật thường có

sự giao tiếp với nhau nên ngôn ngữ đối thoại thường chiếm một số lượng nhất định.

Đối thoại làm cho diễn biến của câu chuyện thêm sinh động, mặt khác qua đối thoại

các nhân vật không chỉ đạt được mục đích giao tiếp mà còn phần nào đó nói lên tính

cách, con người nhân vật. Có thể xem, đối thoại là phương tiện để nhân vật tự thể hiện

mình. Lời đối thoại có thể ngắn, dài, có những đối thoại chậm theo dòng suy nghĩ của

95

nhân vật, cũng có những lời đối thoại diễn ra chớp nhoáng khác nhau tùy vào cách thức

xây dựng của nhà văn. Thông qua đối thoại, tính cách các nhân vật và bản chất các mối

quan hệ được thể hiện, đồng thời qua những lời thoại có sự hô ứng khác thường , nội

dung lời thoại và giọng điệu đối thoại độc đáo có sức hấp dẫn riêng nhằm hướng tới

con người đời thường, con người cô đơn giữa đời sống.

Trong Vòng tròn bội bạc hai người đồng đội cũ gặp lại nhau sau khoảng thời

gian chia tay khá dài. Cuộc sống thời bình đẩy những người lính cùng thời chiến đấu đi

về nhiều ngả đường khác nhau. Gặp lại, bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu tâm sự muốn

trút bỏ cho vơi đi. Nỗi nhớ đồng đội day dứt, kỉ niệm chiến đấu ngày xưa trào về:“Đã

có lúc tôi nghĩ giá cứ chết với nhau lại hơn! Trở về sống mệt quá! Mệt gấp ngàn lần

đánh giặc. Lúc khác lại nghĩ: còn thằng nào là được thằng đó, sống ngày nào là lãi

ngày đó. Sống năm năm nay rồi mà có thấy lãi gì đâu. Toàn lỗ! Lại muốn trở về rừng!

Trớ trêu quá! Thì ra hạnh phúc nhất là sự thanh thản và bị kịch nhất lại không phải là

cái chết”[31]. Cuộc đối thoại giữa Linh và đồng đội cũ gặp lại, cho thấy nỗi cô đơn

khủng khiếp của Linh giữa cuộc sống hiện tại. Anh suy nghĩ về sự được mất, sống còn.

Và từ những nỗi buồn phải gánh chịu sau ngày trở về, anh cay đắng nhận ra không phải

cái chết lại mà phải sống cô đơn mới thực sự là bị kịch của con người.

Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng sử dụng ngôn ngữ “đối thọai ngầm” để hướng

đến người đọc. Là một kẻ “lạc loài” ở hiện tại và phải lội ngược dòng thời gian tìm về

quá khứ, không ít lần Hai Hùng tự bộc bạch nỗi lòng của mình trước người đọc:

“- Vâng, thưa bạn đọc! thì tôi vẫn đang nói về người đàn bà ấy chứ. Ấy là vào

một đêm hè oi ả… Chao! Lại lẩm cẩm rồi. Tội vạgì mà thiên hạ động nhắc tới kỉ niệm

lại nhất thiết cứ phải là đêm nhỉ?” [59].

Thưa bạn đọc! Chắc bạn đọc sẽ bực mình mà hỏi: Ơ hay cái thằng cha vớ vẩn

này! Mi còn định tìm đến đây làm gì nữa khi mà đêm qua chính mi đã bị một cú bẽ mặt

đáng lẽ phải tớm đến già rồi!... Vâng, điều đó sẽ hoàn toàn chính xác nếu như tôi còn

biết bẽ mặt hay còn mặt để mà bẽ. Tuy nhiên cũng xin thưa rằng tôi chưa đến nỗi vô sĩ

96

như thế, vả lại ở trong những trạng thái huống cá biệt như thế này, càng bị xua đuổi,

người ta càng có cảm hứng nhào vào, nhào vào giống như một con thiêu thân không hề

biết mình là tội.” [59].

Những lời đối thoại trên tạo cảm giác gần gũi, bình đẳng với người đọc.

Người đọc như tham gia vào câu chuyện để trở thành đối tượng được nhân vật hướng

đến giãi bày đối thoại. Nhân vật có thể trải hết nỗi lòng của mình mà không gặp phải

bất cứ rào cản giao tiếp nào.

Đối thoại là hình thức không thể thiếu trong văn xuôi và ngôn ngữ đối thoại là

yếu tố quan trọng trong tổ chức lời văn và thể hiện nhân vật. Một trong những chức

năng quan trọng của đối thoại là thiết lập quan hệ. Nhưng không phải cuộc đối thoại

nào cũng đạt được điều đó. Muốn thiết lập được quan hệ, các nhân vật tham gia đối

thoại phải cùng kênh thông tin. Tức là hiểu nhau. Hướng vào nhau và thống nhất trong

cùng một mối quan tâm. Trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện kiểu đối thoại

có lời thoại qua lại mà không có quan hệ với người khác hoặc có nhưng rất nhạt. Các

nhân vật không hiểu nhau nên quan hệ giữa các nhân vật khi tham gia giao tiếp hết sức

rời rạc, không có sự cố kết, thúc đẩy. Kết cục, cuộc đối thoại càng khoét sâu thêm nỗi

cô đơn của con người. Các nhân vật tham gia đối thoại không hướng vào nhau, không

quan tâm đến lời nói của nhau, thậm chỉ hỏi chỉ để hỏi, không mong nhận được câu trả

lời: “Ông Chưởng bảo: Cha anh là người đáng trọng”. Tôi bảo: “Theo nghi lễ quân

đội hả chú?”. Ở đoạn khác “Ông Cơ giãy nảy, “Chết, cháu đã điện rồi. Mang tiếng

chết”. Cha tôi thở dài: “Tôi có tiếng gì mà mang.”. Trong một đoạn khác: Cha tôi

bảo: “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục, tâm càng lớn càng nhục.”. “Vợ tôi bảo:

“Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi ăn đi. Hôm nay có Kim Chi, tôi đãi mỗi

người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết.”[59]. Vũ trong Bài học Tiếng

Việt cũng cô đơn giữa bữa tiệc ở nhà Hoàng, lạc lõng giữa những người thuộc giới

thượng lưu mà lời nói luôn gắn với “giá vàng lên xuống”, “ông kia mất chức”, “Bác

Tham vừa mới xây nhà,”,… Kiểu đối thoại lệch kênh này “đắt giá” tạo được hiệu quả

97

nghệ thuật trong việc thể hiện sự cô đơn lạc loài của những tâm hồn nghệ sĩ giữa cuộc

đời vô cảm.

Trong Những người thợ xẻ: “Ông Thuyết đi, còn trơ trơ năm người chúng tôi

giữa cánh rừng hoang. Anh Bường chửi: “Tiên sư đời, khốn nạn chưa! Các con ơi các

con, các con đã biết đời là gì chưa?”. “Tôi bảo: “Cái ông Thuyết trông kinh nhỉ!”.

Anh Bường bảo: “Làm việc đi chúng mày! Thằng Biên thằng Biền chuẩn bị cưa! Tao

với thằng Ngọc làm lán. Dĩnh ơi, mày đi xung quanh đây xem có chỗ nào có nước

không?”. [61]. Trong cuộc đối thoại này các nhân vật cứ mải mê theo đuổi suy nghĩ

của mình, đi về tận cùng của cái hướng đó mà không nhằm mục đích trả lời, không có

sự đồng cảm chia sẻ: “Quy ngạc nhiên: Anh học đại học sao còn đi làm thợ xẻ? Tôi

cười, học lối nói của anh Bường, tôi bảo: Đấy là vì tình đây, em ạ. Tình bao giờ cũng

lung tung. Người ta chỉ sót nó khi nó tuột khỏi tay thôi. Quy bảo: Anh nói hay nhỉ. Em

chẳng hiểu gì. Tôi bảo: Em chẳng hiểu gì đâu… Trong lòng tôi một nỗi căm giận vô cớ

bỗng dưng vụt đến, khiến tôi đắng khô miệng lại. Tôi rít lên khe khẽ: Chỉ có một anh

thôi còn lại là chúng nó. Quy ngạc nhiên hốt hoảng. Chúng tôi chia tay nhau như

người dưng.” [61] Trong cuộc đối thoại đó, không có mối quan hệ nào được thiết lập

và củng cố.

Nhiều đoạn đối thoại không được tách xuống hàng, gạch đầu dòng, khiến quan

hệ đối thoại như bị chìm đi trong lời trần thuật. Có nhiều đoạn câu thoại bị chặt khúc,

liền kề nhau những lời hô ứng, nói, bảo, làm cho câu thoại cụt, đứt đoạn, rời rạc. Vì

thế, lời thoại của nhân vật như âm thanh lạc loài phát ra loạn xạ, không được chú ý.

* Ngôn ngữ độc thoại

Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại thì lời độc thoại cũng là một phần quan trọng của

tác phẩm văn chương. Cùng với ngôn ngữ đối thoại nó hoàn chỉnh tác phẩm ở góc độ

ngôn ngữ. Có thể nói, độc thoại luôn là khu vực ngôn ngữ nhạy cảm và thoải mái nhất

để nhân vật được nói lên những suy nghĩ thầm kín và chìm trong thế giới riêng của

mình. Đó là tiếng nói bên trong “không đòi hỏi sự đáp lại, độc lập với phản ứng của

98

người tiếp nhận và được thể hiện thoải mái trong cả hình thức nói lẫn viết” [44]. Sử

dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm trở thành thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá

trình tự ý thức của nhân vật, đi sâu vào thế giới bên trong đầy bí ẩn của nhân vật.

Thông qua độc thoại nội tâm, các nhà văn mới nhận ra con người là những “vòng sóng

đến vô cùng”, bề mặt tưởng như phẳng lặng nhưng lại ẩn chìm biết bao những đợt sóng

ở trong lòng. Và thông qua độc thoại nội tâm những suy tư, trăn trở, những cảm xúc,

uẩn khúc của nhân vật - điều mà không ai có thể biết, có thể hiểu và chia sẻ dần được

phơi lộ. Theo Bakhtin “Ở con người bao giờ cũng có một cái gì mà chỉ bản thân nó

mới có thể khám phá bằng hành động tự do của sự tự ý thức và của lời nói, điều này

không thể xác định được từ bên ngoài, từ sau lưng con người”. Độc thoại nội tâm là

tiếng nói cất lên, vọng lên từ chính nội tâm nhân vật, là những âm hưởng của cảm xúc

được dội lên từ bên trong.

Đối diện với những vấn đề của cuộc sống phức tạp. Cảm giác không thể hòa

nhập được với cuộc sống bộn bề hiện tại luôn là điều dằn vặt trong tâm hồn. Các nhà

văn để cho nhân vật trải lòng mình qua những lời độc thoại. Trong tổ chức lời văn, lời

độc thoại có một vị trí nhất định và đã trở thành một phương thức hữu hiệu trong việc

thể hiện tâm lí nhân vật.

Hai Hùng trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng là nhân vật được xây dựng với khá

nhiều ngôn ngữ độc thoại. Một nhân vật mang nhiều tâm trạng như Hai Hùng thì độc

thoại là hiệu quả nhất để anh có thể tự giãi bày. Một mình bôn ba trong cái hành trình

đi tìm dĩ vãng gần như vô vọn, không ít lần Chu Lai đã để nhân vật bộc lộ những suy

nghĩ, nỗi niềm tận đáy lòng: “Chiến tranh mới đó với đó, hơn chục năm chứ nhiều

nhặn gì đâu mà sao cả người ngoài lẫn người trong cuộc đều chóng vánh quên đi quá

thể vậy? Sao cái miệng lưỡi của thằng cha nức tiếng tốt bụng kia nhắc đến mọi kỉ

niệm đau thương lại ráo hoảnh như nhắc đến cuộc chiến tranh của người khác, của

quốc gia khác. Hay là chính tôi lẩm cẩm, cứ vô duyên lội ngược dòng đời tìm về quá

khứ mà thiên hạ đang quên đi, cố quên đi, để mình tôi lội đến đâu thì chỉ nghe tiếng

99

chân mình kêu lõm bõm đến đó?” [59]. Câu hỏi đó luôn vang lên trong suốt hành trình

tìm về quá khứ của ông. Dường như chỉ mình ông vẫn nhớ, vẫn lặn lội lục tìm cái quá

khứ mà mọi người đã lãng quên và muốn lãng quên. Không chỉ trong hành trình tìm

kiếm ở quá khứ mà ngay ở hiện tại, Hai Hùng đã không ít lần bày tỏ suy nghĩ qua lời

độc thoại, hiệu quả cao nhất để anh có thể tự giãi bày. Không ít lần Hai Hùng đã bày tỏ

suy nghĩ qua những lời độc thoại: “- Dĩ vãng… Kỉ niệm… Nhớ thương… Hết thảy đều

chìm trong bụi thời gian mốc thếch. Càng buồn! Biết vậy chả nên gặp lại, chả nên tìm

đến làm gì, chỉ tổ bẽ bàng, tan nát lòng dạ hơn.” [59]. Cuộc sống hiện tại không dành

chỗ cho những người lính đã từng đánh đổi máu xương, tuổi trẻ. Có người hòa nhập,

có người thành công, nhưng cũng không có ít người mãi hụt hẫng, càng đi sâu vào

cuộc đời càng đơn độc, buồn tẻ, lẻ loi trước cuộc sống quá nhiều thay đổi, bộn bề.

Linh (Vòng tròn bội bạc) đã không ít lần băn khoăn tự đặt câu hỏi về sự trở về

của mình. Và phải chăng sự trở về của anh là một sai lầm? Anh vô cùng thất vọng khi

nhận ra sự lạc lõng của mình ngay giữa ngôi nhà thân thuộc: Hay lại xách ba lô đi?...

Vậy là tận đường rồi chăng?”[31, tr.57]. Đi đâu? Làm gì? Những câu hỏi ấy không

ngừng nhảy múa trong đầu Linh. Chẳng nhẽ, giữa cuộc sống này không còn một lựa

chọn, một con đường để Linh hòa nhập được với gia đình,với cái cuộc sống quá nhiều

đổi thay vẫn đang diễn ra hằng ngày sao? Anh “Nhiều khi muốn ôm lấy mẹ, muốn nói

với mẹ một câu gì đó thật dịu ngọt,…[31, tr.20]. Những lời độc thoại giúp Linh nói

được hết những suy nghĩ sâu kín luôn dằn vặt, để anh được nói những vấn đề mình băn

khoăn, trăn trở.

“Tôi” trong Đi tìm nhân vật cũng triền miên trong những dòng độc thoại nội tâm

phong phú. Trên hành trình đi tìm nhân vật đó, mỗi sự kiện, không gian, hay những cuộc

gặp gỡ,…đều khiến tôi suy tư. Đặc biệt, những sự kiện quá khứ cũng luôn phập phồng trôi

về hiện tại khiến “tôi” ngập chìm trong những dòng cảm xúc của riêng mình.

“Tôi” trong nhiều sáng tác của Tạ Duy Anh, đặc biệt trong Vòng trầm luân

trần gian, Bước qua lời nguyền, Luân hồi,… bị vây bủa bởi rất nhiều suy nghĩ không

100

thể giải tỏa, đan xen những câu chuyện được kể trong đó là những dòng hồi ức của

nhân vật về người cha của mình, về cộng đồng, về mảnh đất mà “tôi” đang sống. Đó là

“Mảnh đất chết tiệt! Tôi muốn gào thật to vào bầu trời thẳm sâu, tôi muốn gào đến tận

âm ti địa ngục cho quỷ thần nghe thấy” [1, tr.58], “gào to lên lời nguyền rủa độc địa

cho cái mảnh đất đầy thù hận này chìm lặng đi” [1, tr.56]. “Lại một đêm tôi thức

trắng. Tôi nghĩ đến ông tôi. Tôi nghĩ đến bố tôi. Tôi nghĩ đến kiếp người nổi trôi bèo

bọt, vật vờ. Tôi nghĩ đến làng Đồng bé nhỏ của tôi một thời huy hoàng giờ đây lầy lội,

tăm tối, thù hận”[1, tr.86]. Độc thoại nội tâm đã bộc lộ sâu sắc những tình cảm phức

tạp đã gây nên những chấn thương tinh thần cho nhân vật, cùng những lý giải về bi

kịch của người cha, của chính bản thân, của cộng đồng và của thời đại.

Lão Khổ trong tiểu thuyết cùng tên bị chi phối bởi đời sống nội tâm hết sức

phức tạp. Lão luôn bị ám ảnh bởi quá khứ và những hoài nghi về tương lai. Lão Khổ đã

không ít lần phải “chạy trốn hiện thực” ngược về quá khứ bởi thực tại có quá nhiều đau

đớn, bất công và phi lý. Dù vậy, quá khứ cũng chỉ chập chờn ẩn hiện gắn liền với

những mảnh ký ức rời rạc, mảnh tâm trạng hồi cố của nhân vật. Từ “chuyện tình của

Lão Khổ” đến mảng kí ức khi lão còn đang là “ông Thánh xã Hoàng”, rồi cả những

tâm trạng khi Lão bị đem ra đấu tố một cách oan uổng,… lão vẫn chới với hi vọng có

sự nhầm lẫn nào đó. Nhưng sau đó, Lão đã nhận ra : “Lũ dã man! Giờ đây thì ông rõ

mặt chúng mày rồi”…. Có thể nói, chính những mảng kí ức chập chờn cứ đi về, xen

ngang với hiện tại đã khiến nhân vật bị chìm đi trong những dòng độc thoại của chính

mình khiến tâm trạng nhân vật luôn liên tục vận động và thay đổi, thể hiện một sự trúc

trắc, nhiều gập ghềnh của tính cách và đời người lão Khổ. Qua độc thoại nội tâm, ngòi

bút tác giả đã chỉ ra được tận cùng nỗi cô đơn, đáy sâu tâm lý nhân vật với những suy

nghĩ riêng.

Trên hành trình của mình, Chương (Con gái thủy thần), Thữc (Giữa vòng vây

trần gian), Ông (Cuộc đời ngoài cửa) cũng được các nhà văn sử dụng triệt để biện

pháp nghệ thuật này. Đặt nhân vật vào nhiều trạng thái tâm lý khác nhau với những lời

101

độc thoại miên man bên trong của con người, các nhà văn muốn đi sâu, lý giải những

nguyên do cũng như bản chất nỗi cô đơn của nhân vật.

* Cấu trúc cú pháp đặc biệt

Trong quan niê ̣m chung củ a ngôn ngữ ho ̣c, cấu trúc cú pháp nòng cốt của câu “có

thể được mô tả bằng ba chức năng ngữ pháp cơ bản là chủ ngữ (CN), vị ngữ (VN) và bổ

ngữ (BN), trong đó vị ngữ là trung tâm, chủ ngữ là thành tố bắt buộc thứ nhất (có ở mọi

kiểu cú) và bổ ngữ là thành tố bắt buộc thứ hai (chỉ có ở một số kiểu cú)” [62]

Ở văn học đương đại, chúng ta lại thấy xuất hiện rất nhiều câu dài , câu đa mê ̣nh

đề, đă ̣c biê ̣t ở những đoa ̣n văn mô tả khung cảnh hoă ̣c tâm lý . Những đoa ̣n văn nhiều câu dài đa mê ̣nh đề đó chính là nỗ lực ma ̣ nh mẽ củ a các nhà văn nhằm dẫn dắt ngườ i đo ̣c triền miên vào dòng chảy cảm xú c , vào thế giới tâm lí nhân vật , vào cái gọi là “cõi riêng sâu kín” của nhân vật.

Trong hầu hết sáng tác của mình, Chu Lai luôn có ý thức tuân thủ nghiêm ngặt

cấu tạo câu văn Tiếng Việt. Câu văn của Chu Lai thường dài có đủ thành phần chủ yếu

của câu là chủ ngữ và vị ngữ. Cách tổ chức lời văn như thế phù hợp với việc khái quát,

giới thiệu nhân vật. Hơn thế, những câu văn dài đó còn là những lời độc thoại nhiều

cảm xúc, suy tư của nhân vật. Qua đó người đọc có thể hiểu một cách đủ đầy hơn cả về

những yếu tố bên ngoài cũng như nội tâm của nhân vật ấy. Có thể điểm qua một vài ví

dụ trong Ăn mày dĩ vãng để thấy rõ điều này. Trên hành trình đi tìm dĩ vãng, không ít

lần Chu Lai để Hai Hùng tự bạch bằng những câu văn dài, và đoạn giới thiệu sau của

nhân vật chỉ gói gọn trong một câu, nhưng đủ sức khái quát những sự mất mát và nỗi

cô đơn của nhân vật giữa cuộc đời:

“Và buổi sáng đó, khi cả thành phố đã nhưng nhức cái nắng sánh vàng, tôi, một

gã đàn ông 49 tuổi, nặng chưa đầy 45 kg, không vợ, không con, không tương lai, không

hiện tại, không cắc bạc dính túi, chỉ có mảnh quá khứ phập phồng đập trong lồng ngực

ọp ẹp, đầu trần chân đất, một mình mở cuộc hành quân đơn côi tới trụ sở nông nghiệp

trong trạng thái thanh thản đến mênh mang.” [59].

102

Trong một đoạn khác, câu văn dài lại là những suy tư: “Nếu đúng người đàn bà

ấy là Ba Sương, một Ba Sương ngoảnh mặt đi với người tình cũ, vâng, cứ tạm gọi là

người tình đi chứ lúc này kêu to lên hai tiếng đó nghe ngớ ngẩn lắm, thì hà tất tôi phải

lụi hụi lội ngược dòng làm chi nữa?” [59].

Không trau chuốt ngôn từ, không sử dụng câu văn dài với đủ thành phần câu

như Chu Lai, dễ thấy ở đó lời thoại của nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy

Thiệp thường rất ngắn gọn, gần như tỉnh lược hoàn toàn các thành phần khác của câu.

Số lượng từ ngữ trong lời thoại cũng được rút ngắn một cách tối đa nhất. Thậm chí, đó

còn là những câu cộc lốc, trống không. Trong Không có vua, Tướng về hưu, ngôn ngữ

được giản lược, để chỉ còn lại một cấu trúc chủ-vị gọn lỏn: “Cha tôi bảo”, “Tôi bảo”.

Đây là đoạn đối thoại giữa hai cha con tướng Thuấn trong Tướng về hưu: “Cha tôi

bảo: “Anh nhu nhược . Duyên do là anh đếch sống được một mình. Tôi bảo: "Không

phải, cuộc đời nhiều trò dùa lắm". Cha tôi bảo: "Anh cho là trò đùa à?" Tôi bảo:

"Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng". Cha tôi bảo: "Sao tôi cứ

như lạc loài?”. [61]. Ngôi nhà được xem là mái ấm lại như biến thành nấm mồ vô chủ,

lạnh lẽo, không có sự quan tâm, tình thương yêu một phần bởi những cấu trúc câu thoại

cộc lốc và lạnh lùng đó.

Hơn thế, khi xem xét ví dụ trên, người đọc có thể nhận thấy cách trình bày lời

thoại trong văn bản của Nguyễn Huy thiệp cũng có một sự phá cách, ông không trình

bày theo kiểu lời thoại truyền thống là mỗi lời thoại được đặt sau dấu gạch đầu dòng.

Lời thoại của mỗi nhân vật được đặt riêng ra thành từng dòng. Nguyễn Huy Thiệp

thường trình bày lời thoại sau dấu hai chấm, trong dấu ngoặc kép nhưng gạch đầu

dòng, không xuống dòng và đặt liền nhau khiến quan hệ đối thoại như bị chìm đi trong

lời trần thuật. Có nhiều đoạn câu thoại bị chặt khúc, liền kề nhau những lời hô ứng,

“nói”, “bảo”, làm cho câu thoại cụt ngủn, đứt đoạn, rời rạc. Điều đó cho thấy sự phá

cách của nhà văn trong việc tổ chức nghệ thuật: Bất chấp quy ước văn phạm, bất chấp

cú pháp; ngắt câu, câu ngắn, dài, miễn là đạt được hiệu quả nghệ thuật.

103

Nguyễn Danh Lam cũng sử dụng rất nhiều câu văn lạ, không tuân theo một

chuẩn mực nào: Nhiều khi anh sử dụng câu văn rất ngắn như để diễn tả được đồng thời

nhiều tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trong cùng thời điểm: “Thữc quờ tay. Gai, gai

và gai. Chỗ nào cũng gai. Những bụi gai ẩm ướt”.Đêm nhờ nhờ trong ánh sáng của

sao. Gần, rất gần tiếng dòng sông róc rách. Vô tội đến điên người. Thữc nằm giữa bụi

gai. Không hẳn chờ sáng. Không hẳn chờ cơn đau nguôi dịu. Anh nằm vì không sao cử

động được” [35, tr.53].

“Thữc giật bắn người. Nhìn quanh. Làng xóm tối đen. Gió thì thào mái lá. Lúc

ấy Thữc mới bàng hoàng nhớ ra. Không biết con chó đã bỏ đi đâu. Kể từ phút anh hỗn

chiến với mụ già, Thữc đã quên bẵng nó. Anh lặng đi. Nếu con chó bỏ Thữc lúc này,

anh kể như mất đi một người bạn.” [35, tr.116]

Đôi khi anh sử dụng những câu văn dài như để thể hiện những suy tư của nhân

vật trước cuộc đời: “Cảm giác cô đơn thường trực thường làm anh vật vã một thời

gian, giờ lâu quá thành quen, nó chỉ trở lại trong anh vào những đêm có việc phải về

muộn trên phố, nhìn những mái tóc lướt qua trước mặt” [34, tr.28 ]. Dùng câu văn dài,

còn là cách nhà văn để nhân vật tự trải lòng, tự thấy mình bất lực, cô đơn giữa cuộc đời:

“Ông, kẻ đang bị trói chặt, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, vùng vẫy nhìn những người

thân yêu nhất, đang trượt đi khỏi tầm tay, mà không thể nào can thiệp.” [33, tr 148]

Có thể nói, việc sử dụng cấu trúc lạ với những câu văn dài ngắn, có câu được

trau chuốt kĩ càng, có câu văn lại giữ vẻ tự nhiên thô nhám “lổn nhổn” gần gũi với cuộc

sống thường ngày, phù hợp với việc diễn tả mạch cảm xúc của nhân vật cô đơn với

những suy tư, cảm xúc, nỗi sợ hãi,… giữa cuộc sống nhiều biến động.

3.4.2. Giọng điệu

Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể tác giả và được

xem như là linh hồn của tác phẩm, là cái thần của nhà văn. Các nhà nghiên cứu cho

rằng: “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của

tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền

104

cảm cho người đọc” [18, tr.112]. Có thể xem, giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ giúp

ta nhận ra tác giả, là nét khu biệt nhà văn này với nhà văn khác, là “tiếng nói riêng”

không lẫn với ai, là yếu tố để xác định tài năng văn học. Đúng như nhà văn Nga. I. X.

Turgenev đã ví “Mỗi nghệ sĩ giống như một con chim. Mỗi loại chim có một cấu trúc

thanh quản khác nhau, bởi thế tiếng hót của chúng khác nhau. Cũng tương tự như thế,

mỗi nhà văn phải biết tạo ra một giọng điệu nghệ thuật riêng. Giọng điệu ấy đích thị

phải là tiếng hót cất lên từ thanh quản nghệ sĩ, mang chứa một quan niệm, một thái độ,

một hình thức ứng xử đối với hiện thực của nhà văn.” [13, tr.131]. PGS. TS Nguyễn

Bích Thu cũng đã từng khẳng định “Giọng điệu trần thuật là một trong những yêú tố

quan trọng làm nên sức hấp dẫn trong các sáng tác tự sự của nhà văn”. Bởi thế, để tìm

đúng giọng điệu là một vấn đề khó đối với mỗi người cầm bút.

* Giọng điệu triết lý:

Trong một tác phẩm văn học, nhà văn có thể sắp đặt nhiều giọng điệu khác

nhau: Đó có thể là giọng hài hước dí dỏm, có khi lại là giọng khinh bạc, mỉa mai châm

biếm, giọng giễu nhại, trào lộng; giọng bỗ bã dung tục , giọng hoài nghi chất vấn,

giọng xót xa thương cảm, giọng lạnh lùng tàn nhẫn, giọng triết lý,… Giữa cuộc sống

phải đối mặt với nhiều vấn đề có ý nghĩa nhân sinh thế sự, con người có những suy

nghĩ sâu sắc về con người, cuộc sống, thời thế. Các nhà văn đã luôn trăn trở về lẽ đời,

tình người, hơn hết là luôn kiếm tìm và hướng đến chân lý của cuộc sống. Bởi thế, lựa

chọn giọng triết lý, suy ngẫm là một trong những thủ pháp được các nhà văn đương đại

quan tâm.

Trong giàn hợp xướng đa thanh của giọng điệu thì giọng điệu triết lý suy ngẫm

được thể hiện sâu sắc với những suy tư về con người, cuộc đời, thời thế,… Giọng điệu

triết lý có thể được đặt vào bất cứ nhân vật nào, không loại trừ tuổi tác, địa vị,… Đó có

thể là giọng triết lý của một bào thai còn chưa chào đời (Thiên thần sám hối – Tạ

Duy Anh). Cũng có khi là triết lý đầy chất chiêm nghiệm, suy ngẫm của một người đã

105

đi gần hết cuộc đời, sau khi đã chứng kiến, nếm đủ những cay đắng, cơ cực của một

kiếp người như Lão Khổ (Lão Khổ - Tạ Duy Anh).

Có khi chỉ cần một chi tiết, một sự kiện nhỏ cũng được nâng lên thành triết lý,

thành quy luật của con người, của cuộc đời. Sự chiêm nghiệm, triết lý xuất hiện nhiều

trong suy nghĩ, cách nhìn nhận của nhân vật tôi – người đại diện cho thế hệ tương lai

trong sáng tác của Tạ Duy Anh, khi nhìn lại quá khứ và nỗi đau khổ của ông cha mình,

trước sự tăm tối, thù hận dai dẳng truyền kiếp. Sau mười năm tha phương trở về, “tôi”

đã có cái nhìn chín chắn, già dặn và sâu sắc hơn về cuộc sống đời người: “Bỗng dưng

tôi cảm thấy cô đơn. Đời người thật ngắn ngủi. Đôi khi có cảm giác người ta chưa kịp

để lại gì cho trần thế đã mất hút trong sự lãng quên khắc nghiệt”[1, tr.79]. Cũng như

vậy, đi gần hết cuộc đời, mỏi mệt và sợ hãi trong sự hận thù và các cuộc loại trừ nhau,

Lão Khổ mới nhận ra “Một kiếp người chẳng được bao lăm”, “Cuộc đời ngắn lắm!” .

“Tôi” (Vòng trầm luân trần gian) đã sớm nhận thấy sự lạc hậu, quẩn quanh của con

người làng quê mình cứ tối tăm lầy lội trong vòng thù hận: “Con người thật khốn khổ.

Đời nọ làm tội đời kia; người này làm tội người khác…. Tạo thành vòng trầm luân

ngay trên trần gian.”[1, tr.97]

Đó còn là giọng điệu mang tầm khái quát thành triết lý về sự sống, cái chết ở

đời “Con người không làm gì được hơn ngoài sự chuẩn bị cho cái chết của chính mình.

Vì thế, họ phải chuẩn bị đến nơi đến chốn” (Thiên thần sám hối – Tạ Duy Anh);

“Dường như mỗi số phận giống như một con rối nối một sợi dây được điều khiển bởi

những cỗ máy giấu trong bóng tối”. (Đi tìm nhân vật – Tạ Duy Anh). Lão Khổ cũng

đã đúc rút: “Ở một khía cạnh nào đó, sống là một cuộc đi đày và cái chết là dấu hiệu

đầu tiên của tự do” (Lão Khổ - Tạ Duy Anh). “Đời người dài lắm. Nhưng đêm đó với

anh còn dài hơn cả đời người” [29, tr.8], “Cuộc đời dài lắm nhưng cuộc đời cũng kì lạ

thật! Nó có thể khiến người ta quên đi ngay cả những cái tưởng chừng không thể nào

quên nổi” [29, tr.40], “Chao ôi! Cuộc đời vui ít buồn nhiều” [29, tr.73], “Cuộc đời dài

lắm. Để đi hết được cuộc đời, con người phải dính vào biết bao những khoảnh khắc tính

106

táo và cả si mê” [29, tr.105](Cuộc đời dài lắm – Chu Lai),…Đi qua cuộc đời, nhân vật

trong Bến vô thường thấm thía cảm nhận, triết lý: “Cuộc đời là bề khổ”.

Cảm quan triết lý còn được bộc lộ qua những chiêm nghiệm của nhân vật mang

nỗi buồn được chắt ra từ cuộc đời. Đọc Giữa dòng chảy lạc, nhà văn để nhân vật “ông

họa sĩ” nói lên rất nhiều những suy tư, trải nghiệm đậm chất triết lý của mình về cuộc

đời:”Mày sống thế là sống nhạt. Chẳng còn gì tệ hơn một thằng sống nhạt” [34, tr.72].

Ông cũng nói với anh về trách nhiệm hôn nhân: “Về cuộc hôn nhân của mày, tao không

bàn thêm, chỉ dặn, nếu đã quyết thì phải ráng giữ gìn hạnh phúc. Quen nhau nhiều

năm, lấy nhau rồi vẫn không tránh khỏi những cú sốc, có thể sẽ phải đối diện với thời

gian đầu. Mày mới gặp nó chỉ vài tháng, đã tổ chức đám cưới ngay, vì thế càng cần

phải sáng suốt, bình tĩnh. Cái sự xốc nổi của mày, tao lo lắm. Chuyện công việc làm ăn

có thể đổi thay, còn hôn nhân nếu đã xác định bước vào nghiã là đã ký thác cả cuộc

đời mày vào đó. Lỡ một lần là trượt dài, không đứng dậy nổi đâu. Mà có đứng dậy nổi,

nhìn lên mọi thứ cũng đã cạn kiệt, ngày tháng, tâm trí, sức khoẻ. Trẻ còn chẳng làm gì

nên chuyện, huống hồ già cả”[ 34, tr.198].

Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, dường như ở tác phẩm nào ông cũng

gửi dăm ba câu triết lý về tình đời, kiếp người. “Cuộc sống con người đầy bất trắc vô

nghĩa” (Cún). Thông qua giọng của một người thợ xẻ, người đọc biết được đó là triết

lý về đàn bà: "Con ranh con, lại nói dối rồi. Đàn bà ấy, chúng mày ạ, không nên bao giờ

đặt lòng tin vào chúng. Chúng tàn bạo trong sự ngây thơ trong trắng của chúng. Chúng

gây cho người ta hy vọng, ham muốn, chờ đợi (...) Bởi vậy, sống ở đời, khốn nạn nhất là

thằng đàn ông nào trở thành vật sở hữu của đàn bà" (Những người thợ xẻ ). Thế

nhưng, Nguyễn Huy Thiệp lại là nhà văn thường xuyên đảo hoặc “bỏ rơi” mạch truyện

một cách rất nghệ thuật. Do vậy, giọng triết lý trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp

giống như một tín hiệu thẩm mĩ để độc giả tiếp tục suy ngẫm. Nhiều khi triết lý trong

tác phẩm của ông được bộc lộ một cách tự nhiên: Tôi bảo: "Chỉ có nỗi buồn là vĩnh

cửu". Cô Phượng bảo: "Có thể... nhưng anh đừng khẳng định..."(Con gái thuỷ thần).

107

Nhà văn như không khẳng định, cũng không coi đó là kết luận cuối cùng về thế sự,

nhân sinh… Điều đó lôi cuốn người đọc như cùng nhập cuộc để cùng tiếp tục chiêm

nghiệm, suy nghĩ.

Mỗi tác phẩm viết về con người cô đơn dường như là một cuộc tìm kiếm bản

thể đầy phức tạp, cam go, vì vậy, giọng chủ đạo trong các tác phẩm thường là giọng

triết lý. Chính giọng điệu triết lý đã mang lại một âm sắc mới, thể hiện những khái

quát mang tầm triết luận về cuộc đời, con người và nhiều vấn đề trong đời sống có

nhiều đổi thay.

* Giọng điệu tự vấn

Với tinh thần “nhận thức lại”, các nhà văn hầu hết đều quan tâm tìm về vấn đề

bản thể. Bằng cách đó, cùng với việc sử dụng giọng điệu triết lý làm nổi bật những trăn

trở, suy tư, nhìn nhận, đánh giá về con người, cuộc sống, thời đại. Các nhà văn còn

xây dựng kiểu nhân vật tự bộc lộ về mình bằng giọng điệu tự vấn. Đặt nhân vật vào

những suy tư trăn trở, khắc khoải, không ngừng đưa ra những câu hỏi và truy tìm lời

giải đáp: “Tôi là ai?”. Câu hỏi đó lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhiều nhân

vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh “Vì sao ta lại sinh ra làm người để rồi có lúc lại

mất hút?”. (Đi tìm nhân vật). Dõi theo cuộc hành trình của Thữc (Giữa vòng vây

trần gian), vì luôn phải sống trong trạng thái lo sợ, bất an, đã không ít lần nhân vật tự

tự hỏi:“Mình có thật còn ở cõi người không?, “Tôi không còn thấy mình đang tồn tại”

. Sống giữa gia đình nhưng luôn cảm thấy ngột ngạt, thiếu hơi ấm tình thương và hơn

hết là nỗi cô đơn, “tôi” – cô học sinh mười bảy tuổi luôn tự đặt cho mình câu hỏi “Tôi

là ai? Tôi còn chi? (Bến vô thường).

Đó là lời tự vấn về những mặc cảm của quá khứ bám riết dai dẳng, giày vò. Cả

cuộc đời con người chỉ biết chìm trong bóng tối của thù hận, quy kết, đấu tố triền miên.

Nhân vật “tôi” cảm thấy: “Đời người thật ngắn ngủi. Đôi khi có cảm giác người ta

chưa kịp để lại gì cho trần thế đã mất hút trong sự lãng quên khắc nghiệt. Cả cuộc đời

quá ngắn ngủi, con người “đã thấy mệt mỏi đến tận cùng trong cuộc loại trừ nhau”

108

[28 tr.79], rốt cuộc “điều khủng khiếp của đời người là sự vô nghĩa” việc không tìm ra

lý do tồn tại của mình là sai lầm lớn nhất của con người, bởi thế, con người luôn sống

trong trạng thái bất an, lo sợ, buồn và cô đơn.

* Giọng điệu lạnh lùng

Để phù hợp với việc thể hiện các nhân vật cô đơn, các nhà văn còn sử dụng

giọng điệu lạnh lùng. Giọng điệu này đã thực sự phát huy được hiệu quả nghệ thuật

giúp nhà văn xây dựng được những nhân vật cô đơn có sức ám ảnh sâu sắc với người

đọc.

Có thể nói, trong phần lớn truyện ngắn của mình, Nguyễn Huy Thiệp sử dụng

giọng điệu lạnh lùng, không sắc thái biểu cảm. Đây được xem như là nét nổi bật nhất

trong phong cách truyện ngắn của ông. Vì là cây bút ưa “cắt gọt” các thành phần câu

bởi thế, giọng văn “lạnh” trước hết được Nguyễn Huy Thiệp tạo ra từ những câu văn

ngắn gọn, súc tích, chỉ mang tính liệt kê. “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn.

Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi

trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít

ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” (Tướng

về hưu). Trong các truyện khác, Nguyễn Huy Thiệp vẫn tiếp tục sử dụng những câu

văn mang tính liệt kê: “Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một,

hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty

thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học. Tốn, con út, bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị

dạng. Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông.” (Không có vua). Và dường như, những

câu văn với sắc thái lạnh lùng dửng dưng như thế xuất hiện ở khắp các trang văn của

Nguyễn Huy Thiệp.

Với giọng điệu sắc lạnh, gai góc, có phần tàn nhẫn, Nguyễn Huy Thiệp đã đào

bới, xới tung lên những mảng tối, những góc khuất của mỗi thời và mỗi cuộc đời.

Chính những trăn trở về đời tư thế sự, sự sống và cái chết trong Nguyễn Huy Thiệp,

khiến ông luôn để ngõ kết thức. Vì lẽ đó, nhân vật của ông luôn sống trong ốc đảo cô

109

đơn, đau khổ đến tận cùng. Đó là cách thể hiện độc đáo về con nười trong sáng tác của

nhà văn họ Nguyễn này. Và hầu hết trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đều có

những câu văn sắc lạnh đến vô cảm.

Không chỉ Nguyễn Huy Thiệp mà Nguyễn Danh Lam cũng thường sử dụng

giọng điệu lạnh lùng. Bằng việc, anh không để nhân vật được bàn luận nhiều trước các

sự kiện của đời sống. Nói về những vấn đề lớn lao như sự sống còn, được mất trong

cuộc đời, Nguyễn Danh Lam cũng bằng giọng lạnh lùng, dửng dưng như tự nó phải

thế. Đây là cuộc đối thoại giữa hai cha con “ông” và cô con gái (Cuộc đời ngoài cửa)

khi biết tin cậu con trai bị bắt:

-“Tại sao những việc khủng khiếp nhất bỗng ập tới cùng lúc như vậy chứ?

- Họa vô đơn chí mà ba.

- Con nói để mẹ biết tình hình của hai cha con chưa?

- Con đã kịp nói gì đâu? Mà có nói mẹ cũng chẳng nghe. Chỉ thấy mẹ gào, chửi.

Chửi anh, chửi cả hai cha con mình. Mẹ lại điên lên rồi.

- Ba thương nó quá, nếu có chuyện gì…

- Mặc kệ ảnh đi.” [34, tr. 147].

Gia đình có biến, các thành viên lo lắng, mất bình tĩnh là điều thường thấy. Thế

nhưng, qua cuộc đối thoại trên của hai cha con, người đọc có thể thấy, tác giả đã để

nhân vật “cô con gái” thể hiện một thái độ dửng dưng, đứng ngoài cuộc, không có

những biểu hiện của cảm xúc, sự quan tâm lo lắng dành cho người anh trai của mình.

Và hầu hết lời đối thoại của nhân vật này trong tác phẩm đều được thể hiện bằng chất

giọng lạnh lùng, dửng dưng, ngắn gọn.

Sau mười năm, “tôi” (Bước qua lời nguyền) trở về cái nơi “ghi dấu tuổi thơ cay

đắng”. Ngồi đối diện với bố, nhưng cuộc trò chuyện giữa hai bố con như là màn hỏi

cung thầm lặng, tẻ nhạt, khô cứng, không cảm xúc, thậm chí ngột ngạt.

“ - Mười năm anh đi những đâu?

- Thưa thầy, con đi gần hết cái đất nước này.

110

- Anh thấy nó rộng hay hẹp?

-…

- Chưa vượt biên chứ?” [1, tr.54]

Không có sự tranh luận, chia sẻ, mỗi người là một thực thể độc lập trong màn

hỏi đáp một cách công thức bằng một giọng lạnh lùng và bởi thế mỗi nhân vật như là

một cá thể cô đơn trọn vẹn.

Không tham gia vào câu chuyện, để cuộc đối thoại giữa các nhân vật diễn ra

một cách khách quan, câu văn ngắn gọn, không có sắc thái biểu cảm, đơn thuần đó chỉ

là lời trần thuật, trong nhiều sáng tác các nhà văn đã sử dụng tối đa giọng điệu lạnh

lùng. Bằng giọng điệu sắc lạnh, gai góc và có phần thô tục, nhà văn dường như hoàn

toàn trao quyền bình luận, đánh giá, phán quyết về nhân vật về thế giới hiện thực cho

độc giả.

Như vậy, bằng việc sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, các nhà văn

đã làm nổi bật lên trạng thái cô đơn của nhân vật giữa cuộc sống nhiều trúc trắc, quanh

co. Giữa không gian mênh mông của đất trời, giữa cái vô tận của thời gian, giữa những

đổi thay chóng mặt của đời sống, giữa một cộng đồng làng xã, ngay trong gia đình,

thậm chí ngay trong tâm tưởng,… bất chấp thời thế, hơn lúc nào hết con người cũng

luôn phải đối diện với trạng thái cô đơn của chính mình.

111

PHẦN KẾT LUẬN

1. Những chuyển đổi cơ bản của lịch sử dân tộc từ sau 1975 khi đất nước thống

nhất đã đưa đến sự chuyển biến lớn lao trong đời sống xã hội trong đó có Văn học.

Đặc biệt, công cuộc đổi mới của Đảng năm 1986 và Nghị quyết 05 của Bộ Chính Trị

đã có những tác động tích cực đến hệ ý thức xã hội. Hơn ai hết, các nhà văn đã nhanh

chóng nhập cuộc, tạo cho mình những con đường sáng tạo riêng với những quan điểm

nghệ thuật mới mẻ, tiến bộ. Trong đó, tinh thần dân chủ và sự thức tỉnh ý thức cá nhân

là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm văn học thời kì này.

Có thể nói, con người luôn là đối tượng trung tâm của văn học. Khi lịch sử sang

trang, để phản ánh kịp thời hiện thực và con người trong điều kiện cuộc sống mới thì

quan niệm về con người trong văn chương cũng thay đổi. Con người trong văn học nói

chung, văn xuôi nói riêng đã được soi chiếu trên nhiều tọa độ với những góc khuất của

chiều sâu tâm lý, bản thể, không còn đơn tuyến, không lí tưởng như giai đoạn văn học

trước. Chính những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người đã

dẫn đến những chuyển đổi cơ bản trong văn xuôi đặc biệt trên phương diện cảm hứng

và nhân vật. Đó là cơ sở hình thành nên sự đa dạng của các kiểu dạng nhân vật trong

văn xuôi Việt Nam đương đại trong đó có kiểu dạng nhân vật cô đơn.

2. Lịch sử văn học đã từng ghi nhận rất nhiều sáng tác của các nhà văn trên

thế giới viết về kiểu dạng nhân vật cô đơn, nói về nỗi cô đơn của con người. Ở Phương

Đông trong đó có Việt Nam, kiểu nhân vật này cũng đã được khai thác từ rất sớm và

được biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Nhưng, chỉ đến khi cuộc cách mạng

lớn toàn dân tộc giành thắng lợi, khi con người bước vào cuộc sống dân chủ, tự do thì

kiểu nhân vật cô đơn mới được các nhà văn khai thác thể hiện một cách sâu sắc và

toàn diện. Không chỉ các nhà văn thuộc thế hệ trước mới chuyển hướng ngòi bút để

bắt kịp, hòa nhập với thời đại, phản ánh mọi ngóc ngách của đời sống, đặc biệt là đời

sống nội tâm của con người trong xã hội mới mà thế hệ những nhà văn mới cũng đã

nhanh chóng thể hiện đúng tinh thần thời đại. Một trong những thành công và cũng là

112

đóng góp rất đáng ghi nhận của văn học giai đoạn này nói chung và các nhà văn

Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Tạ Duy Anh và Nguyễn Danh Lam là đã xây dựng được

một thế giới nhân vật đa dạng, có hình tượng nhân vật cô đơn.

3. Con người từ trong bản thể đã mang trong mình mặc cảm cô đơn kiếp

người, không thể chối bỏ. Dù vậy, chính những tác động của ngoại cảnh mới là

nguyên nhân đưa đến sự đa dạng hơn về nỗi cô đơn của kiếp người với nhiều tầng bậc,

hoàn cảnh khác nhau. Khi cuộc sống chuyển từ thời chiến sang thời bình, con người,

đặc biệt là những người lính trở về từ chiến trường đã không kịp chuẩn bị hành trang

để đối diện với thời thế mới. Bởi thế, họ luôn cảm thấy mình là những người “thất

thế”, “bị bắn ra lề đường”, họ cảm thấy dường như mình bị “lạc loài” không chỉ ở xã

hội, ở cộng đồng mà ngay trong chính gia đình của mình. Họ chính là nạn nhân của

nỗi cô đơn vì lạc thời. Cũng như vậy, trước môi trường sống nhiều cạnh tranh, hiểm

họa, đối diện với những con người đầy mưu mô, toan tính lừa lọc, đề cao giá trị đồng

tiền, làm khủng hoảng những giá trị truyền thống, con người như thấy bất an hơn, họ

dần nhận thấy sự cô đơn của mình bởi những hoang mang, áp lực đổi thay của xã hội.

Đáng lưu tâm, khi xã hội ngày càng hiện đại thì dường như con người lại càng ít quan

tâm đến nhau, họ lưu tâm đến vật chất, đến thị trường vì vậy vô tình để cuộc sống đời

tư luôn thiếu vắng sự đồng cảm, sẻ chia của đồng loại, của người thân. Từ đó, con

người như thấy lẻ loi ngay chính giữa gia đình, thiếu vắng đơn độc trong tình bạn, tình

yêu, cộng đồng. Để rồi họ cảm thấy mình cô đơn, lạc lõng ngay giữa cộng đồng họ

đang tồn tại. Quan tâm đến nhân vật cô đơn, xây dựng thành công các dạng nhân vật

cô đơn, Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Tạ Duy Anh và Nguyễn Danh Lam đã góp phần

khẳng định tinh thần nhân văn sâu sắc và khả năng tiếp cận hiện thực đời sống của văn

xuôi nói riêng, văn học đổi mới nói chung.

3. Trong tác phẩm văn học nội dung và hình thức luôn là chỉnh thể thống nhất.

Vì vậy, để xây dựng các kiểu dạng nhân vật cô đơn, các nhà văn đã sử dụng linh hoạt,

hiệu quả nhiều thủ pháp nghệ thuật: Không chú trọng nhiều đến việc miêu tả ngoại

113

hình với những đường nét lí tưởng như văn học sử thi đã xây dựng, các nhà văn chú

tâm làm nhòe mờ, thậm chí tẩy trắng nhân vật từ tên gọi, xuất xứ, lai lịch đến nhân

thân; quan tâm đến việc xây dựng ngôn ngữ đối thoại – độc thoại, giọng điệu, nghệ

thuật xây dựng không – thời gian phù hợp; đặc biệt chú trọng đến cảm xúc tâm lý của

nhân vật, nhằm làm nổi bật trạng thái cô đơn của con người. Chính nhờ vậy đã xây

dựng được những nhân vật cô đơn giàu sức ám ảnh và hàm chứa những nội dung nhân

văn sâu sắc.

4. Qua việc tìm hiểu nhân vật cô đơn trong sáng tác của bốn cây bút có thể

thấy những nỗ lực đổi mới nguồn cảm hứng sáng tạo của các nhà văn trong cuộc hành

trình chinh phục, khám phá và thể hiện cuộc sống, con người mới phù hợp với thời đại

mới. Từ đó, chúng tôi muốn góp phần khẳng định những nỗ lực cách tân, thành công

và đóng góp của bốn cây bút vào thành tựu của văn xuôi đương đại Việt Nam.

114

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Duy Anh (2003), Truyện ngắn chọn lọc, NXb Hội nhà văn, Hà Nội

2.Tạ Duy Anh (2006), Thiên thần sám hối, NXb Hội nhà văn, Hà Nội

3. Tạ Duy Anh (2002), Nhân vật, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội

4. Vũ Tuấn Anh (1995), “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học (4),

tr.14-19.

5. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học,Nxb ĐHQG Hà Nội

6.Lại Nguyên Ân, “ Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua”, Tạp chí văn học (1),

tr.14 -15

7. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau

1975, Luận án T.S khoa học Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

8. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam – 1975- 1995 những đổi mới cơ bản,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Phan Thanh Bình (2007), Luận văn thạc sĩ, Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Trường Đại học Thái Nguyên.

10. Nguyễn Minh Châu (2012), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nxb Trẻ

Tp. HCM

11.Nguyễn Minh Châu(2005), Cỏ lau, Nxb Kim Đồng, Hà Nội

12.Lê Tiến Dũng (1991), Bước phát triển của văn xuôi Việt Nam sau năm 1975,

Tạp chí Cửa Việt, (số 6)

13.Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ - tiểu luận phê bình, Nxb Văn học,

Hà Nội.

14.Hà Minh Đức (Chủ biên), (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Hà Minh Đức (chủ biên) (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp

đổi mới, Nxb Sự thật

115

16. Hà Minh Đức, (2003), “Những chặng đường phát triển của văn xuôi Cách

mạng”, Báo Văn nghệ, (số 34).

17. Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương, Võ Thị Thanh Trà (2007), Thế

giới nghệ thuật Tạ Duy Anh, NXb Hội nhà văn, Hà Nội.

18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (1992), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết đến hiện đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

20. Nguyễn Trí Huân (2003), Chim én bay, nxb Công an nhân dân.

21. Nguyễn Thị Huệ (2000), Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt Nam từ

1980 – 1986, Thư viện Quốc gia Hà Nội.

22.Dương Hướng (2004), Bến không chồng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội

23. Mai Hương (2006), “Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút

văn xuôi”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (số11), tr. 3-4.

24. Mai Hương (1999), Văn học – một cách nhìn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội

25. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt

Nam 1975 – 2000, Nxb ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Nguyễn Khải,(1984), “Văn xuôi trước yêu cầu của cuộc sống”, Tạp chí Văn

nghệ quân đội (1), tr.99-105

27. Ma Văn Kháng (2007), Mùa lá rụng trong vườn,Nxb lao động, Hà Nội

28. Chu Lai (2003), Ba lần và một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội

29. Chu Lai (2007), Cuộc đời dài lắm, Nxb Văn học, Hà Nội

30. Chu Lai (2013), Phố, Nxb Văn học, Hà Nội

31. Chu Lai (2014), Vòng tròn bội bạc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

32. Nguyễn Danh Lam (2005), Bến vô thường, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

33. Nguyễn Danh Lam (2014), Cuộc đời ngoài cửa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

116

34. Nguyễn Danh Lam (2010), Giữa dòng chảy lạc, Nxb Văn nghệ, Tp.Hồ Chí

Minh.

35. Nguyễn Danh Lam (2005), Giữa vòng vây trần gian, Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội.

36. Tôn Phương Lan (2001), “Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi thời kì

đổi mới”, Tạp chí Văn học, (9), tr43-48

37. Nguyễn Hiến Lê dịch (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Nxb văn

hóa.

38. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới,Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

39. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 những

vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Lê Lựu (2003), Thời xa vắng, Nxb Văn học, Hà Nội

41. Bùi Thị Mai (2012) Khóa luận tốt nghiệp, Nhân vật cô đơn trong Hồng Lâu

Mộng qua so sánh với Rừng Nauy. Trường Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân

văn Hà Nội.

42. Dạ Ngân (2005), Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội

43. Bảo Ninh (2011), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, Tp. HCM

44. Nhiều tác giả, (1997), Từ điển thuật ngữ văn học. (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Phi). Nxb ĐHQG. Hà Nội.

45. Huỳnh Như Phương (1991) Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ nền văn

học”, Tạp chí văn học (4), tr.14-17

46. Đỗ Ngọc Thạch (2010), “Đổi mới quyết liệt Nguyễn Minh Châu”,

http://www.vanchuongviet.org/

47. Đào Thắng (2004), Dòng sông mía , Nxb Trẻ Tp.Hồ Chí Minh

48. Nguyễn Huy Thiệp (1988), Tướng về hưu, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

49. Nguyễn Huy Thiệp (1995), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn.

117

50. Nguyễn Văn Thuấn (2009), Về con người cô đơn trong tiểu thuyết “Rừng

Nauy” của Haruki Murakami Tạp chí sông Hương, (số 242).

51. Nguyễn Văn Thuấn (2008), Nguyễn Huy Thiệp đưa nhân vật vào lập trường

đối thoại Tạp chí sông Hương, (số 232)

Tài liệu mạng

52. Tạ Duy Anh, Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật

vnthuquan.net/truyen/truyen

52. Phạm Thị Hoài, Thiên sứ http://4phuong.net/

53 . Đỗ Mười, Chỉ thị của Ban Bí thư số 31-CT/TW: "Về việc thực hiện Nghị quyết

của Bộ Chính trị về văn hóa, văn nghệ", ngày 22 tháng 03 năm 1988,

http://dangcongsan.vn

54.. http://duonghuongqn.vnweblogs.com/

55.http://hcmup.edu.vn/

56.http://khotailieu.com/

6.57.http://luanvan.net.vn/luan-van/luan-an-su-da-dang-tham-mi-cua-van-xuoi-

viet-nam-sau-1975-19359/

7.58.http://luanvan.net.vn/luan-van/luan-van-cam-hung-bi-kich-trong-mot-so-tieu-

thuyet-tieu-bieu-viet-ve-chien-tranh-sau-1975-19548.

59. Chu Lai, Ăn mày dĩ vãng , Bãi bờ hoang lạnh, vnthuquan.net/truyen/truyen

61..Nguyễn Huy Thiệp, tập truyện ngắn, http://vnthuquan.net/truyen/tacpham

62.Nguyễn Hồng Cổn, Cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt: Chủ - Vị hay Đề -

Thuyết,http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=co

m_content&view=article&id=2317:cu-truc-cu-phap-ca-cau-ting-vit-ch-v-hay-

thuyt&catid=71:ngon-ng-hc&Itemid=107

63.http://phebinhvanhoc.com.vn/dong-chi-tong-bi-thu-nguyen-van-linh-noi-

chuyen-voi-van-nghe-si/

118

64. Đỗ Đức Hiểu, Từ chuyện đến truyện ngắn,

http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=10082

65.Dương Thị Hương, Nhân vật tự ý thức trong văn xuôi sau 1975,

http://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/706051/phe-binh-van-

nghe/nhan-vat-tu-y-thuc-trong-van-xuoi-sau-1975.html

66. Phùng Gia Thế, Tổ chức trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,

http://www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147=224&id=778

119