ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHẠM THỊ THU
CÁC NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN
ĐỌC THEO LÝ THUYẾT GIỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
Hà Nội – 2013
0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHẠM THỊ THU
CÁC NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN
ĐỌC THEO LÝ THUYẾT GIỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60.22.01.21
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN
Hà Nội – 2013
1
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành biết ơn và cảm ơn các thầy cô giáo của trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện cho em được hoàn thành tốt khóa
học, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Văn học.
Em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS. Trần Nho Thìn.
Thầy đã định hướng đề tài, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên em trong
quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn tập thể lớp Cao học Văn K56, bạn bè, gia đình đã giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 8 tháng 1 năm 2014
Người viết
2
Phạm Thị Thu
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 3
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài .............................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................. 2
2.1. Nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiều tác gia và tác phẩm ............................ 2
2.2. Nghiên cứu về giới .................................................................................... 12
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 14
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 15
5. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 16
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA ỨNG XỬ GIỚI . 17
1.1. Lý luận về giới .......................................................................................... 17
1.2. Quan điểm nho giáo về giới ...................................................................... 25
1.3. Văn hóa giới trong văn học trung đại Việt Nam trước Nguyễn Đình Chiểu ... 35
CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN TỪ GÓC NHÌN
CỦA LÝ TƢỞNG VỀ NGƢỜI ANH HÙNG VÀ KẺ SĨ ................................ 51
2.1. Sức mạnh thể chất ..................................................................................... 51
2.2. Vẻ đẹp trí tuệ ............................................................................................. 57
2.3. Tinh thần trọng nghĩa khinh tài ................................................................ 64
2.4. Vẻ đẹp của lý tưởng .................................................................................. 75
CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN TỪ GÓC NHÌN
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI PHỤ NỮ ................................................................. 95
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 113
3
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 115
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Cùng với bề dày các công trình nghiên cứu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu
thì việc nghiên cứu về tác phẩm Lục Vân Tiên cũng được xem là một mắt xích
quan trọng trong quá trình đánh giá về sự nghiệp của ông. Như đã biết, nhân vật
nam giới của truyện Lục Vân Tiên vẫn được nghiên cứu từ góc độ đạo đức, góc
độ chính trị xã hội học, coi là người anh hùng. Nhưng các nhân vật anh hùng này
có văn hóa ứng xử giới như thế nào lại là điều ít được chú ý. Luận văn sẽ góp
phần bổ sung vào mảng trống đó.
Nhìn nhận lại chặng đường văn học trung đại Việt Nam, hình tượng nhân
vật nam giới chính thống của văn học chủ yếu là hình tượng người anh hùng
trung nghĩa. Đó là những nhà nho - kiểu người mang tâm thế cứu đời. Tác giả
Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả tiêu biểu cho văn học trung đại
Việt Nam, các tác phẩm văn học của ông mang đậm phẩm chất, khí phách của
những hình tượng người anh hùng với lối sống trọng đạo lý và công bằng xã hội,
trọng con người và căm ghét áp bức bất công. “Hào khí Đồng Nai” ấy được thể
hiện qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861) và Văn tế nghĩa sĩ lục tỉnh (1874)…đến nay vẫn còn
được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam.
Nhận xét về Nguyễn Đình Chiểu, ta có thể thấy từ cuộc đời đến thơ văn của ông
đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng nho học, bao trùm lên các mối quan hệ xã hội,
thấm đượm tinh thần yêu nước thương dân và quan điểm nhân nghĩa trong các
tác phẩm của ông. Tên tuổi của ông gắn liền với truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên –
một tác phẩm vốn được xem là “Truyện Kiều của Nam Bộ”.
Bên cạnh đó, nói về văn hóa ứng xử giới, ta biết xã hội Việt Nam xưa chịu
nhiều ảnh hưởng của quan niệm đạo đức nho giáo. Nho giáo ảnh hưởng khá lớn
đến cách chọn đề tài, quan điểm sáng tác cũng như cách nhìn nhận về con người.
Trong dòng chảy của văn học trung đại, vấn đề con người tồn tại trên nhiều
1
phương diện: con người với thân và tâm, tiêu biểu là tác gia Nguyễn Du với
Truyện Kiều đã hình dung con người không chỉ là đức hạnh, ý nghĩa mà còn là
dục vọng, ham muốn về tính dục hay Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu với
quan niệm con người của nhân nghĩa và đạo lý. Bàn về con người trên phương diện
bản thể luận, ta có thể kể tới cách nhìn nhận con người trên phương diện về giới.
Trên phương diện này, Khổng Tử cũng đã quan niệm về vai trò và vị trí của người
nam và người nữ trong xã hội nho giáo. Theo Khổng Tử nếu như tam tòng, tứ đức là
khuôn mẫu của nho giáo, để giáo dục riêng cho người đàn bà, con gái trong suốt
cuộc đời khi tại gia cũng như lúc xuất giá đi lấy chồng và cả khi chồng chết thì tam
cƣơng, ngũ thƣờng lại là khuôn mẫu dạy cho người đàn ông biết kỷ cương, cương
thường, đạo lý...Quan niệm giới này đã ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đến đời sống
mà còn quy định đến cách xây dựng nhân vật trong các tác phẩm văn học trung đại
trong tiến trình văn học Việt Nam.
Căn cứ vào tình hình nghiên cứu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu từ phương
pháp tiếp cận giới, tiêu biểu là lý luận về giới cùng với niềm yêu thích thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu, cũng như thấy được tầm quan trọng của đề tài, chúng tôi đã
chọn “Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới” làm đề tài
cho luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiều tác gia và tác phẩm
Nguyễn Đình Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế
kỷ XIX và ông cũng là một trong những tác gia lớn của văn học Nam Bộ nói
riêng và văn học trung đại nói chung. Các công trình nghiên cứu về ông và
những sáng tác của ông trước và sau cách mạng khá nhiều. Tính cho đến nay đã
có khoảng gần 600 công trình lớn nhỏ khác nhau nghiên cứu về Nguyễn Đình
Chiểu và thơ văn của ông. Quá trình nghiên cứu là sự tiếp nối từ thế hệ này sang
thế hệ kia và nó không dừng lại trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn thu hút
sự chú ý của cả các chuyên gia nước ngoài như Michel Ponchon, G.
Cproier…Nếu xét riêng về tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu thì truyện Lục Vân
2
Tiên của ông được xem là đối tượng được nghiên cứu nhiều hơn cả. Bởi hầu như
không một ai nghiên cứu về văn thơ Đồ Chiểu lại không đụng đến truyện Lục
Vân Tiên. Việc nghiên cứu tác phẩm Lục Vân Tiên được “mổ xẻ” trên nhiều
phương diện và thời điểm nghiên cứu khác nhau.
Trước cách mạng năm 1945, tác phẩm Lục Vân Tiên chủ yếu được nghiên
cứu trên phương diện văn bản. Nếu như khi Nguyễn Đình Chiểu còn sống thì
truyện chỉ được lưu hành trong Nam Kỳ Lục tỉnh thì sau khi ông mất tác phẩm
được lưu hành rộng rãi trong phạm vi từ Nam chí Bắc. Theo Nguyễn Văn Hoàn
đã có tới khoảng 43 lần tái bản. Con số đó có thể chưa thật chính xác nhưng cũng
đã cho thấy sự ảnh hưởng và sức sống của Lục Vân Tiên như thế nào trong đời
sống văn học nghệ thuật Việt Nam kể từ khi nó có mặt. Về tình hình xuất bản ở
miền Nam, ta có thể kể các bản in được chú ý như bản của Trƣơng Vĩnh Ký
(1889) xuất bản ở Sài Gòn, là bản in sớm nhất do người Việt Nam sưu tập và
chỉnh lý. Bản của Trƣơng Vĩnh Ký giống với các bản dịch Lục Vân Tiên tiếng
Pháp hay các bản quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn khi tác giả còn sống như các bản
Ôbare, Aben đề Misen. Tuy nhiên, bản này vẫn có những hạn chế nhất định như
trong văn bản còn có nhiều câu tối nghĩa, nhiều chỗ trùng lặp và một số câu
không ăn vần với nhau. Hay bản của Phạm Văn Thình và một số bản khác xuất
bản năm 1932, là một trong những bản bán chạy nhất. Bản này có sửa đổi một số
chữ nhưng về cơ bản đều dựa theo bản Trƣơng Vĩnh Ký. Các bản Lục Vân Tiên
được xuất bản sau khi tác giả mất không có nhiều sự khác biệt quá lớn mà vẫn
ghi lại trung thành truyện Lục Vân Tiên như nhân dân truyền tụng. Ở miền Bắc,
truyện Lục Vân Tiên chủ yếu được lưu hành vào những năm cuối của thế kỷ XIX.
Bản sớm nhất hiện nay mà chúng ta có được là bản Vân Tiên cổ tích tân truyện
của hiệu khắc ván tụ văn đường phố Hàng Gai, in năm Thành Thái thứ chín
(1897). Bản Nôm này đã được sửa nhiều chỗ so với bản của Trƣơng Vĩnh Ký kể
cả mặt câu chữ Nam Bộ cho đến kết thúc cho hợp với văn hóa Bắc Bộ. Nhìn
chung, bản này không có gì đáng chú ý, ít được phổ biến trong dân gian. Về các
bản Lục Vân Tiên bằng chữ quốc ngữ thì bản Lục Vân Tiên truyện của nhà in
3
Văn Minh, Hải Phòng là sớm nhất. Ngoài ra còn bản Lục Vân Tiên của hiệu sách
Phúc văn đường…, trong các bản chữ quốc ngữ thì bản sau đều tham khảo bản
trước, đều na ná giống nhau.
Từ sau cách mạng Tháng Tám, các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu được
Giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc trong cả nước, đặc biệt là truyện Lục Vân Tiên.
Việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu đã chuyển sang một giai đoạn mới. Số
người nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu ngày một tăng. Đáng chú ý là bản Lục
Vân Tiên do Hoàng Ngọc Phách, Lê Trí Viễn, Vũ Đình Liên bình luận hiệu đính
chú thích được bộ Giáo dục xuất bản năm 1957. Tiếp theo là các bản Lục Vân
Tiên của nhà xuất bản Phổ thông (1957), Bình dân (1958), Văn hóa (1959) được
lần lượt in ra để xuất bản đáp ứng nhu cầu bạn đọc. Trong số các bản đó, thì bản
của Nhà xuất bản Văn hóa (1959) do Vũ Đình Liên và Nguyễn Sỹ Lâm khảo
thích là đặc sắc hơn cả. Có thể nói, bản này đã tổng kết và tiếp thu được một số
thành tựu của các bản Lục Vân Tiên đã xuất bản.
Tuy nhiên, việc nhìn nhận tác phẩm Lục Vân Tiên trên phương diện giá trị
nội dung và nghệ thuật thì phải đến 50 năm sau ngày mất của ông (1938) mới
thực sự diễn ra. Phan Văn Hùm là một trong những người đầu tiên đứng trên góc
độ khoa học văn học để lý giải mối quan hệ giữa sáng tác của Nguyễn Đình
Chiểu và cuộc đời ông. Với chuyên luận Nỗi lòng Đồ Chiểu đã đánh dấu mốc lớn
cho việc nghiên cứu về tư tưởng học thuật của Nguyễn Đình Chiểu. Đây là
những tư liệu quý về thân thế và tâm sự của nhà thơ được trình bày khá tỉ mỉ và
đáng tin cậy so với các dị bản khác. Công trình khảo cứu này được in đi, in lại
nhiều lần và gần 30 năm sau khi công trình ra mắt, trong vòng kìm kẹp của chế
độ Mỹ - Ngụy miền Nam trước 1975, nhà phê bình văn học – nhà báo Thiếu Sơn,
khi đọc lại đã khâm phục rằng: “…cuốn Nỗi lòng Đồ Chiểu nếu là một nhà nho
cũ kỹ viết ra họa may chỉ nói lên đƣợc cái khí tiết của ngƣời quân tử nhƣng làm
sao phân biệt đƣợc những gì đáng đề cao của xã hội phong kiến, những gì lỗi
thời và hủ bại. Phan Văn Hùm chính là ở số ngƣời đã hấp thụ những tƣ tƣởng
mới để nhìn vào văn hóa của tiền nhân để lại, gạt bỏ những gì lạc hậu, lỗi thời
4
thêm vào những gì văn minh, tiến bộ…đƣa dân tộc tới một trình độ cao hơn nữa
để đáp ứng với những yêu cầu của lịch sử và để hòa đồng với đại dƣơng của loài
ngƣời”[31, tr. 65].
Năm 1963, trong dịp kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu,
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã công bố bài báo nổi tiếng khẳng định vị trí của
Nguyễn Đình Chiểu và giá trị của những sáng tác của ông. Phạm Văn Đồng nhấn
mạnh đến hoàn cảnh sáng tác đặc biệt của nhà thơ và bối cảnh xã hội Việt Nam
phong kiến chống trả sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, ông nhận
xét về Nguyễn Đình Chiểu như “một tấm gƣơng sáng, nêu cao địa vị và tác dụng
của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của ngƣời chiến sĩ trên mặt trận văn
hóa, tƣ tƣởng”. Tác giả Phạm Văn Đồng cũng lưu ý rằng đặc sắc văn chương của
Nguyễn Đình Chiểu nằm ở chỗ “tác giả cố ý viết một lối văn chƣơng “nôm na”
dễ nhớ, dễ hiểu, có thể truyền bá rộng rãi trong dân gian, trong đó những vần
thơ hay, những tác phẩm văn hay vẫn không thôi xúc động, hấp dẫn lòng ngƣời”.
Ông kết luận:“Nguyễn Đình Chiểu vì vậy là một ngôi sao có ánh sáng khác
thƣờng, có những giá trị tiềm ẩn, đòi hỏi nhìn kỹ, nhìn lâu mới có thể khám phá
cho đƣợc giá trị của nó”[9, tr. 28].
Cũng vào năm 1963, sau dịp kỷ niệm trọng thể 75 năm ngày mất của nhà
thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu, Viện Văn học đã biên soạn kỷ yếu Mấy vấn đề về
cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (Nxb Khoa Học, 1964, Nxb Khoa học
và xã hội tái bản, 1969) và Một số tƣ liệu về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu (Nxb Khoa học, 1965). Hai cuốn sách này giới thiệu tới bạn đọc trong và
ngoài nước những tư liệu, kết quả nghiên cứu tiêu biểu về con người và tác phẩm
của Nguyễn Đình Chiểu dựa trên những góc độ tiếp cận mới, những phương
pháp mới.
Cùng với đó, theo chủ trương của Đảng và nhà nước ta tháng 7 năm 1972,
lần thứ hai, nhân lễ kỷ niệm Nguyễn Đình Chiểu 150 ngày sinh của nhà thơ,
trong bối cảnh cao trào chống Mỹ cứu nước toàn quốc. Đây cũng là một dịp giúp
cho việc tranh luận và nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu được đẩy lên một cao
5
trào mới. Đó là sự ra đời của cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu tấm gƣơng yêu nƣớc
và lao động nghệ thuật, do nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành và đáp ứng đòi
hỏi của công chúng rộng rãi trong và ngoài nước. Sách được mở đầu bằng bài
viết của Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhân kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn
Đình Chiểu (1963), tiếp đó giới thiệu gần 30 tiểu luận do các nhà hoạt động văn
hóa, nghiên cứu và giảng dạy viết về con người và tác phẩm của Nguyễn Đình
Chiểu trong khoảng 10 năm từ 1963 đến 1972. Ngoài ra, ta còn có thể điểm qua
một số công trình “Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng của ngƣời tri thức Việt
Nam (1980) của tác giả Vũ Khiêu – Nguyễn Đức Sự đã nghiên cứu về những
truyền thống của người tri thức Việt Nam, sự ảnh hưởng của nho giáo, việc vận
dụng nho giáo trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu và thái độ của Nguyễn Đình
Chiểu đứng trước nạn ngoại xâm, khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu
trong cuộc sống và trong thơ văn của ông.
Năm 1982, khi đất nước thống nhất, nhân kỷ niệm lần thứ 160 năm sinh của
nhà thơ, hội nghị khoa học quốc gia về Nguyễn Đình Chiểu được tổ chức với quy
mô lớn ở tỉnh Bến Tre, nơi nhà thơ đã sinh sống 25 năm cuối đời và an nghỉ tại
đó. Trên 200 nhà nghiên cứu, nhà giáo và nhà hoạt động văn hóa – xã hội đến từ
các viện nghiên cứu và các trường đại học, các cơ quan văn hóa – văn nghệ trong
nước về dự. Có rất nhiều những bài tham luận đã được tập hợp gửi đến, trong đó
chủ yếu chọn từ những bài đã tham gia các hội thảo khoa học cấp cơ sở nghiên
cứu và giảng dạy. Hội nghị khoa học kết thúc thành công với cuốn Kỷ yếu biên
soạn khá công phu, đã trích trọn hơn 90 bài trong tổng số 120 bài tiểu luận, bài
viết. Đó là những bài viết của nhóm những nhà nghiên cứu như Trần Thanh Mại,
Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Lộc… đề cập tới vị trí dẫn đầu của Nguyễn Đình
Chiểu trong dòng văn học yêu nước chống ngoại xâm thời kỳ cận đại. Các tác giả
này đã ít nhiều xem xét sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu trên phương diện văn
hóa để thấy được ở Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước, người thầy
thuốc với khí tiết cao cả, hết lòng vì dân, đã biểu lộ một thái độ sống có văn hóa,
biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân
6
trọng phẩm giá con người. Trước đó ít lâu, tập Thƣ mục về Nguyễn Đình Chiểu
cũng đã ấn hành, tóm lược nội dung của 551 đơn vị tài liệu. Qua các công trình
nghiên cứu tiêu biểu nói trên cũng như một số chuyên khảo sau đó, cho thấy rõ
việc nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu càng ngày càng được mở rộng và đào
sâu trên cơ sở tư liệu được thẩm định kỹ càng. Không chỉ thế, các phương pháp
nghiên cứu văn học theo loại hình, thi pháp học, văn học so sánh, tiếp nhận văn
học được mạnh dạn áp dụng, càng về sau càng thành thạo và nhuần nhuyễn hơn.
Năm 1992, tác giả Trần Ngọc Vương cũng đã xem xét vị trí của nhà thơ
Nguyễn Đình Chiểu trong tiến trình có tính quy luật của văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XIX, lưu tâm đến tính chất bản lề trong đóng góp quan trọng nhất của
Nguyễn Đình Chiểu: “ông vừa là đại diện chung cục một thời đại văn học trung
đại nhƣng với việc sáng tạo ngƣời anh hùng vô danh đại diện cho cuộc kháng
chiến của dân tộc, ông lại đồng thời là ngƣời mở đầu và đứng ở vị trí tiên phong
cho trào lƣu văn học chống ngoại xâm ở nƣớc ta. Và nhìn rộng ra trên bối cảnh
toàn cầu cũng nhƣ trong khu vực sẽ thấy mang theo nó một “ý nghĩa quốc tế đậm
nét”. Tác giả cũng đã nhận định rằng:“Trong tƣơng lai khi bộ phận văn học đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới đƣợc khảo
sát một cách khoa học, Nguyễn Đình Chiểu chắc chắn sẽ đƣợc ghi nhận nhƣ một
trong những tác giả có tên tuổi nổi bật”.[49, tr. 285].
Nếu như ở thập kỷ trước Vũ Đình Liên, Trần Văn Giàu, Cao Huy Đỉnh,
Phan Ngọc…ít nhiều xem xét sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu ở phương diện
văn hóa thì từ những năm 1998 trở đi, đã có thêm rất nhiều những tiểu luận và
công trình ghi nhận những nỗ lực mới trong nghiên cứu của Nguyễn Đình Chiểu.
Ở khu vực phía Nam, trong loạt bài đăng trên Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh
tháng 7 và tháng 8 băm 1998 có rất nhiều bài viết đáng chú ý. Bài viết Để có một
văn bản Lục Vân Tiên gần với nguyên tác hơn, tác giả đã đưa ra giả thuyết để
đính chính sự phiên âm sai về thơ Lục Vân Tiên, dựa vào phương pháp khảo sát
của ngữ âm học so sánh và logic ngữ nghĩa học. Ông đề nghị những câu thơ vẫn
quen đọc theo các văn bản phiên âm từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ như vậy mới
7
hợp với kiểu phát âm hồi đó và mới thuận tai, thuận nghĩa. Ngoài ra, chúng ta
cũng phải kể đến Nguyễn Phong Nam với “Nguyễn Đình Chiểu – từ quan điểm
thi pháp học” (1998). Tác giả Nguyễn Phong Nam đã vận dụng các khái niệm
công cụ của thi pháp học như: quan niệm nghệ thuật về con người, thời – không
gian nghệ thuật, cấu trúc, ngôn ngữ nghệ thuật…và bằng phương pháp luận văn
học so sánh tác giả lý giải những sáng tạo độc đáo thuộc phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Đình Chiểu qua các sáng tác đặc biệt ở thể loại truyện Nôm. Cuốn
sách của đã nghiên cứu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu về góc độ thi pháp ở phương
diện đề tài, kết cấu, ngôn ngữ trong các truyện Nôm, một trong những cống hiến
quan trọng của Nguyễn Đình Chiểu cho nền văn học dân tộc. Tác giả bài viết có
đề cập đến nhân vật trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:“Nhân vật truyện Nôm đƣợc
trƣng bày nhƣ một số phận hoàn chỉnh. Ngƣời đọc tiếp xúc với nhân vật không
chỉ một khoảng thời gian hạn định mà chứng kiến cả một kiếp ngƣời, một đời
ngƣời. Ngƣời đọc, ngƣời nghe hình dung về một số phận với đầy đủ những buồn
vui, sƣớng khổ, mọi bƣớc thăng trầm, mọi biến cố quan trọng, các cảnh huống có
ý nghĩa nhất…với một ý thức bao quát về chúng”. [23, tr. 64]. Như vậy, công
trình đã có phần nào đề cập đến giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, nhưng
bài viết chỉ mới đề cập ở truyện Nôm, còn giọng điệu trong các tác phẩm khác
chưa được nhắc đến.
Việc nâng cao tầm vóc và vị trí quốc tế của sự nghiệp văn học chống chủ
nghĩa đế quốc mà Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người đi đầu ngay từ
cuối thế kỷ trước là có cơ sở. Trong một bài phát biểu của mình, Tổng Bí thư
Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Khả Phiêu khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ lãnh
đạo, quản lý văn học – nghệ thuật, báo chí, xuất bản, nghiên cứu Nghị quyết hội
nghị Trung ương V về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, khẳng định Nguyễn Đình Chiểu cùng với Nguyễn Du trước đó, và một
số nhà văn, nhà báo lớp trước vào sinh ra tử trong các cuộc kháng chiến gần đây,
đã trở thành những tấm gương không màng danh lợi, viết vì trách nhiệm, vì sự
thôi thúc của lương tâm người chiến sĩ trên mặt trận chống văn hóa trước thời
8
cuộc.
Bên cạnh đó, còn phải kể đến những nghiên cứu, tiếp cận trên phương diện
nhấn mạnh vấn đề của không gian văn học trung đại Việt Nam. Thời gian gần
đây, tác giả Trần Nho Thìn trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam (2012), với
phương pháp này tác giả chú ý nhấn mạnh đến đặc điểm của văn học từng vùng
miền. Đó là những đặc trưng trên nhiều phương diện như tư tưởng chính trị, đạo
đức, thẩm mỹ, về ngôn ngữ, chữ viết…và nhiều đặc trưng do nhiều nhân tố văn
hóa xã hội chi phối và quy định. Tác giả đã chỉ ra rằng không gian văn hóa Gia
Định đã ảnh hưởng rất lớn trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu: “Lịch sử đã
đặt Nguyễn Đình Chiểu sống đúng tại tâm điểm của cuộc xâm lƣợc…Ông đã
chứng kiến tinh thần chiến đấu quật khởi, không sợ thất bại, hy sinh của nhân
dân, các tƣớng lĩnh chống lại kẻ thù không truyền thống, đồng thời cũng chứng
kiến sự bạc nhƣợc, hèn kém của triều đình nhà Nguyễn...tất cả những nhân tố
trên đem lại nét đặc trƣng có tính phong cách cá nhân ông, cũng là phong cách
của thời đại ông. Trong sáng tác của ông có phản ánh chủ trƣơng phục hƣng của
Nho giáo nhà Nguyễn, nhƣng cũng phản ánh vấn đề đặt ra cho chính con ngƣời
vùng đất Gia Định, thể hiện những suy tƣ và cảm xúc riêng của cá nhân ông
trong những bối cảnh lịch sử đặc biệt mà các tác giả vùng miền khác không có
đƣợc. Chất trữ tình mãnh liệt cộng với tính nhân dân trong các sáng tác của
Nguyễn Đình Chiểu chính là kết quả của các nhân tố của thời đại lịch sử đó”.
[41, tr.633].
Và một số bài viết như bài phê bình táo bạo của Nguyễn Hưng Quốc ở Hải
ngoại trên báo mạng về Lục Vân Tiên qua “Đọc …chơi vài bài ca dao”…Tác giả
cũng bày tỏ một cách nhìn nhận về Lục Vân Tiên cũng như Nguyễn Đình Chiểu
thông qua một số bài ca dao giễu nhại về nhân vật Lục Vân Tiên “Vân Tiên cõng
mẹ chạy ra/ Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô/ Vân Tiên cõng mẹ chạy vô/
Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra/ Vân Tiên cõng mẹ chạy ra…hay như Vân
Tiên ngồi dƣới gốc môn/ Chờ cho trăng lặn bóp l…Nguyệt Nga”. Qua đó, tác giả
đề cập quan niệm của mình, giải thích lý do tại sao nhân vật chính diện trong một
9
tác phẩm nặng dụng tâm giáo huấn của tác giả, được xem là tiêu biểu nhất trong
dòng văn học giáo huấn lại biến thành – không phải một lần mà là nhiều lần biến
thành nhân vật hài trong văn học dân gian. Tác giả cũng nhấn mạnh, phê phán
quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu, “đề cao những chuẩn mực đạo đức,
cổ điểm và cổ kính nhƣ trung, hiếu, tiết, nghĩa với hy vọng là chúng sẽ duy trì sự
ổn định trong xã hội, tuy nhiên một là, xã hội Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19,
trong sự cọ xát dữ dội với văn minh Tây phƣơng và thế lực thực dân, cứ ngày
một rạn nứt, vô phƣơng hàn gắn; hai là, bản thân những chuẩn mực đạo đức
tƣởng đâu là chân lý vĩnh cứu ấy thật ra rất đáng ngờ và với sự lung lay của Nho
học, càng ngày càng đáng ngờ thêm. Con thuyền chở đạo của Nguyễn Đình
Chiểu, do đó, không phải chỉ trôi trên dòng nƣớc ngƣợc mà còn, hơn nữa, trên
thực tế chỉ loay hoay mãi trong một vũng nƣớc tù, không có lối thoát, hết “đụng”
cái này thì “đụng” cái kia, cứ quanh quẩn mãi trong sự tuyệt vọng và bế tắc. Nói
cách khác, đó là những lý tƣởng ở đƣờng cùng. Biện pháp dựa trên nguyên tắc
đạo đức mà Nguyễn Đình Chiểu đề xuất, hay đúng hơn, cổ vũ, đã không giải
đƣợc bài toán của thời đại”.[26]
Qua đó ta có thể thấy sức ảnh hưởng lớn của tác giả Nguyễn Đình Chiểu
nói chung và truyện Lục Vân Tiên nói riêng trong nghiên cứu và phê bình văn
học. Mỗi công trình đều mang một dấu ấn nhất định khi xem xét các công trình
này trên phương diện nghiên cứu giới. Các nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu
cũng đã đề cập phần nào đến phương diện giới của nhân vật. Có thể kể đến bài
viết của Vũ Đức Phúc với nhan đề Đạo nho và các nhân vật trí thức trong sáng
tác của Nguyễn Đình Chiểu in trong tổng tập Nguyễn Đình Chiểu tác gia và tác
phẩm II có đánh giá về các nhân vật trí thức: “Trút cái vỏ đạo nho, tƣ tƣởng
Nguyễn Đình Chiểu về mọi phƣơng diện là tƣ tƣởng tiêu biểu nhất cho quảng đại
quần chúng lao động đƣơng thời, là kết tinh của phẩm chất dân tộc đƣơng thời
loại trừ đi phần hạn chế lịch sử của thời đại, tƣ tƣởng ấy, tình cảm ấy còn giáo
dục đƣợc chúng ta ngày nay một cách sâu sắc về nhiều mặt.
Với quan điểm tƣ tƣởng nhƣ vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng những nhân
10
vật trí thức trong ba tập truyện thơ của mình, nhân vật tốt cũng nhƣ nhân vật
xấu. Trong khi nƣớc cần chƣa bị giặc Pháp xâm lƣợc, lý tƣởng của ông là con
ngƣời toàn diện nhƣ Lục Vân Tiên, con ngƣời ấy là một nhà nho, nghĩa là tri
thức theo cách nối của chúng ta, trí thức hạng nhất, nhƣng cũng là ngƣời võ
nghệ cao cƣờng, cầm quân đánh giặc cứu nƣớc giỏi cũng vào bậc nhất đạo đức
tại tuyệt vời, đạo đức nhân dân dƣới cái vỏ đạo nho nhƣ trên chúng tôi đã phân
tích. Con ngƣời ấy chỉ "nổi trận lôi đình" trƣớc bọn giặc cƣớp, ngoài ra thì lúc
nào cũng ăn nói, cử chỉ đúng mực, phong lƣu, nho nhã mặc dầu ngƣời ta thô lỗ,
cục cằn, xúc phạm đến mình hay thậm chí đã làm hại mình. Khi đã "đánh tan lũ
kiến đàn ong" để cứu Kiều Nguyệt Nga, con ngƣời ấy tỏ ra là quá đạo đức,
nhƣng cũng hết sức đáng kính đáng yêu [42, tr. 241].
Hay như bài viết của Huỳnh Sở Kỳ in năm 1982 trong bài Ảnh hƣởng
Nguyễn Đình Chiểu qua truyện thơ Lục Vân Tiên trong đời sống tinh thần của
nhân dân Bến Tre cũng có những nhận định trên tinh thần giới đối với nhân vật
Lục Vân Tiên: “Để bảo vệ đạo nghĩa nhân trong thơ Lục Vân Tiên không chỉ có
trai mà còn có gái. Nếu so sánh cuộc đời mù lòa của Vân Tiên trong khoảng thời
gian khá dài với Nguyệt Nga mắt sáng tinh tƣờng, thì Nguyệt Nga gặp phải
những éo le không kém. Đẹp thay Đồ Chiểu khi miêu tả Nguyệt Nga với một nghị
lực chủ động đáng kính. Trƣớc hết là chủ động trong tình yêu. Ai cũng biết là
việc hôn nhân theo phong kiến là “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Huống hồ
Nguyệt Nga đƣợc cha gọi đến Hà Khê để “lo bề nghi gia”. Nguyệt Nga yêu anh
họ Lục chắc không phải vì anh chỉ văn hay, võ giỏi mà trƣớc hết vì khâm phục
một thanh niên có lẽ sống phù hợp với đạo nghĩa nhân” [42, tr.332].
Tác giả Trần Ngọc Vương trong bài viết Những đặc điểm mang tính quy
luật của sự phát triển văn học nhìn nhận qua sáng tác của một tác giả , in trong
cuốn Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1998) cũng đi đến tổng
kết về hệ thống nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu như sau:
“Nguyễn Đình Chiểu không tiếp tục sáng tạo hình tƣợng ngƣời tài tử giai nhân –
ông đƣa ra mẫu “trai anh hùng gái thuyền quyên” ra làm đối trọng. Trong Lục
11
Vân Tiên có sự tiếp nối của mẫu ngƣời trung nghĩa kết hợp với mẫu ngƣời anh
hùng, có vị nho tƣớng trạng nguyên văn võ gồm tài, có ngƣời tiết hạnh hƣởng
phúc lộc trở thành mệnh phụ. Nguyễn Đình Chiểu đã lựa chọn và khai thác mẫu
ngƣời chính thống trong truyền thống văn học nho gia”[49, tr. 284].
Như vậy, việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn của ông nói
chung, truyện Lục Vân Tiên nói riêng đều được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và
thu về được nhiều thành tựu. Ở mỗi công trình nghiên cứu, mỗi tác giả đều mang
đến cho độc giả một cái nhìn tổng quát và trọn vẹn hơn, phản ánh nhiều góc độ
khác nhau về cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng, nội dung, nghệ thuật của tác
phẩm. Những công trình trên là những tài liệu phong phú trong quá trình nghiên
cứu đề tài để chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về mối tương quan giữa tác giả Nguyễn
Đình Chiểu và truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên.
2.2. Nghiên cứu về giới
Giới là một trong những vấn đề mới mẻ khi nghiên cứu về văn học. Gần
đây, vấn đề giới trở lại với tư cách là đối tượng của văn học và mang lại nhiều
tranh cãi. Đặc biệt là trong dòng chảy văn học trung đại, vấn đề giới vẫn còn
chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Chúng ta vẫn biết, văn học trung đại chịu ảnh
hưởng rõ rệt của tư tưởng nho giáo đề cao chủ nghĩa khắc kỷ của con người và
phê phán con người bản năng. Thêm vào đó là sự thống trị của hình mẫu người
anh hùng hay còn gọi là mẫu nam nhi khắc kỷ trong văn học, đã trở thành một
nét đặc biệt kéo dài trong văn hóa trung đại, hình thành nên đặc trưng văn hóa
ứng xử giới của hệ thống các nhân vật trong văn học. Đó là những chủ trương
như coi thường sắc đẹp, đòi hỏi nam giới có một cái nhìn khắt khe trong mối
quan hệ nam nữ, đồng thời đề ra những nghĩa vụ, bổn phận với đại đa số nam
giới xung quanh những vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa. Nhìn lại quá trình nghiên
cứu văn học trung đại nói chung, tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
nói riêng thì việc nghiên cứu tác phẩm dựa trên góc độ xã hội, nội dung, nghệ
thuật, văn bản đã được xem xét khá kỹ lưỡng. Tuy nhiên, vẫn cần thiết có một cái
nhìn rõ ràng hơn về các nhân vật thông qua văn hóa ứng xử giới của họ để thấy
được tầm ảnh hưởng của nho giáo đến cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Đình
12
Chiểu.
Những năm trở lại đây, hướng nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc độ
tiếp cận khác nhau ngày càng được đẩy mạnh. Đặc biệt là hướng tiếp cận văn học
dựa trên quan điểm về giới. Cùng với quá trình giao lưu và hội nhập, vào đầu
những năm 90 của thế kỷ XX, bằng nhiều con đường khác nhau, quan điểm giới
được nhanh chóng du nhập và truyền bá vào Việt Nam. Sự xuất hiện phương
pháp tiếp cận giới chính là bước đột phá quyết định sự phát triển mạnh mẽ và ấn
tượng của khoa học nghiên cứu về con người và văn học.
Giới là đặc trưng văn hóa, xã hội và sinh thể của đời sống nam và nữ.
Những đặc trưng sinh thể của con người thường ít biến đổi và tuân theo quy luật
tự nhiên còn những đặc trưng văn hóa, xã hội thường biến đổi theo sự biến đổi
của cấu trúc một xã hội nhất định và tuân theo quy luật xã hội. Điều này có
nghĩa, theo quan điểm giới, về mặt xã hội, nam và nữ là hoàn toàn bình đẳng với
nhau. Sự khác biệt của hai hiới chỉ là do nhân tạo, là do quan niệm, giáo dục,
truyền thống và quyền lực chính trị của các thời đại tạo nên.
Quan điểm giới có nguồn gốc từ các lý thuyết nữ quyền xuất hiện và phát triển
rất sôi động ở các xã hội phương Tây, bắt đầu từ giữa thế kỷ XX. Lý thuyết nữ quyền
tạo nên các phong trào xã hội mạnh mẽ, đấu tranh chống lại sự thống trị của nam
giới, phê phán quyết liệt chế độ áp bức phụ nữ, đòi quyền lợi cho phụ nữ, tạo lập
bình đẳng giới. Có thể nêu một số lý thuyết nữ quyền có ảnh hưởng mạnh đến xã hội
phương Tây thời gian qua là: nữ quyền tự do, nữ quyền mác-xit, nữ quyền xã hội
chủ nghĩa, nữ quyền phúc lợi, nữ quyền triệt để, nữ quyền hiện sinh, nữ quyền phân
tâm… và gần đây xuất hiện một số lý thuyết nữ quyền mới như: nữ quyền hậu hiện
đại, nữ quyền da đen, nữ quyền phụ nữ thế giới thứ ba…
Nghiên cứu về quan điểm giới, đặc biệt là vấn đề về quan niệm nam tính –
nữ tính đã được nhìn nhận trong rất nhiều công trình khảo luận ở châu Á như
Phụ nữ Trung Quốc qua cái nhìn của ngƣời Trung Quốc (Chinese women
through Chinese eyes) do Yu-ning Li chủ biên (1992); Nữ tính / Nam tính của
ngƣời Trung Quốc (Chinese femininities / Chinese Masculinities: A reader) của
13
Susan Brownell...
Hoặc một số các công trình khảo luận về cái nhìn đàn ông có ý nghĩa then
chốt: Khoái cảm thị giác và Điện ảnh tự sự (Visual Pleasure and Narrative
Cinema) của Laura Mulvey (1975) cung cấp tiền đề lý thuyết về “cái nhìn đàn
ông” và mở đầu cho sự ứng dụng lý thuyết này vào nghiên cứu điện ảnh cũng
như những nghệ thuật biểu hiện khác; Sự biểu hiện của cái tôi trong văn học
Trung Quốc (Expression of self in Chinese literature) của Richard C. Hessney,
Robert E. Hegel, (1985) đem đến cách nhìn nhận mới, nhiều chiều nói chung và
về văn học dưới góc nhìn về giới nói riêng.
Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, qua giao lưu và hội nhập, các lý thuyết
nữ quyền từng bước được truyền bá vào Việt Nam và sự truyền bá này ngày càng
mạnh mẽ và đa dạng. Xem xét quá trình và xu hướng nghiên cứu giới ở Việt
Nam thời gian qua, chúng tôi thấy nghiên cứu về giới trong văn học Việt Nam
cũng còn khá mới mẻ, đặc biệt là ở trong dòng văn học trung đại. Gần đây nhất
là hoạt động khoa học hướng tới tọa đàm "Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học
Việt Nam đương đại" do Viện Văn học và Ban Nhà văn Trẻ - Hội Nhà văn Việt
Nam phối hợp, tổ chức vào tháng 10/2012 với các nội dung được thảo luận bao
gồm Một số vấn đề lý thuyết về giới tính và Một số gợi mở trong việc vận dụng lý
thuyết về giới tính trong nghiên cứu văn học sử Việt Nam.
Về việc nghiên cứu giới trong văn học Việt Nam đã có một số nhà nghiên
cứu đã quan tâm đến sự tác động của các quan niệm về giới với văn học trung đại
như một phương pháp tiếp cận văn hóa học trong việc đánh giá và nhận định
người phụ nữ, nhân vật anh hùng trong văn chương nho giáo. Tuy nhiên, việc
ứng dụng cách tiếp cận về giới để để lí giải một tác phẩm văn học cụ thể, đặc biệt
trong truyện thơ Nôm, vẫn chưa được nghiên cứu một cách triệt để. Mặt khác,
truyện Lục Vân Tiên cũng được xem là đối tượng tạo nên dấu ấn mạnh mẽ đối
với các nhà nghiên cứu, cụ thể là lựa chọn hướng tiếp cận mới mẻ này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này là truyện thơ Lục Vân Tiên của
14
Nguyễn Đình Chiểu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi là hệ thống các nhân vật nam trong
truyện Nôm Lục Vân Tiên bao gồm hệ thống các nhân vật chính diện và nhân vật
phản diện, quan điểm nho giáo về giới và lý thuyết giới…Trên cơ sở nghiên cứu,
phân tích và phân loại ngữ liệu chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu vể kiểu nhân vật nam
nhìn nhận theo lý thuyết giới trong toàn bộ hệ thống nhân vật truyện Lục Vân
Tiên. Vì vậy, với đề tài này chúng tôi hy vọng mang đến một cái nhìn mới
Nguyễn Đình Chiểu nói chung và về tác phẩm Lục Vân Tiên nói riêng. Ở đây
chúng tôi xem xét các nhân vật trong tác phẩm tiểu thuyết của ông ở góc độ tiếp
cận văn hóa cụ thể là lý luận giới.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi bước đầu khảo sát, tìm hiểu, đối
chiếu tác phẩm để từ đó đánh giá khái quát về những quan niệm của ông về hệ
thống nhân vật và kiểu nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng
kết hợp các lý thuyết, quan điểm nghiên cứu về văn hoá học, thi pháp học và các
kiến thức liên ngành có liên quan đến việc nghiên cứu nhân vật và giới trong
truyện Lục Vân Tiên.
Luận văn sử dụng lý thuyết về thi pháp học, vận dụng phương pháp nghiên
cứu tác giả văn học để nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng các nhân vật trong
truyện Lục Vân Tiên, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp tiếp cận văn hóa học: chú trọng phân tích văn hóa từ phương
diện lịch sử để giải thích mối liên hệ giữa tác giả Nguyễn Đình Chiểu và văn hóa
Nam Bộ. Trên cơ sở đó lý giải hiện tượng Nguyễn Đình Chiểu lại chọn tác phẩm
Lục Vân Tiên là một tác phẩm diễn ngôn về anh hùng.
Phương pháp lịch sử: thông qua việc tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh xã hội,
không gian văn hóa Nam Bộ, tư tưởng nho giáo và các yếu tố có ảnh hưởng đến
quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu để nhằm định vị tọa độ của ông trên
tiến trình thơ văn trung đại.
Phương pháp khảo sát, phân loại, thống kê để tìm ra những chi tiết, ý
15
nghĩa quan trọng, được lặp đi lặp lại như là dấu hiệu thi pháp riêng biệt của tác
giả. Thông qua đó, chúng tôi rút ra những nhận xét đánh giá mang tính khái quát,
hệ thống về các kiểu nhân vật nam và quan niệm về con người trong truyện thơ
của Nguyễn Đình Chiểu.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác như: so sánh,
bình luận, phân tích, và chứng minh…trong khoa học nghiên cứu văn học để làm
rõ hơn về nội dung của đề tài.
5. Cấu trúc luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn văn học trung đại Việt Nam liên
quan đến văn hóa ứng xủa giới.
Chương 2: Nhân vật nam trong Lục Vân Tiên từ góc nhìn của lý tưởng về người
anh hùng và kẻ sĩ.
Chương 3: Nhân vật nam trong Lục Vân Tiên từ góc nhìn văn hóa ứng xử với phụ
nữ.
16
CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA ỨNG XỬ GIỚI
1.1. Lý luận về giới
Đã từ lâu, giới và vấn đề về giới đã không còn xa lạ trong dòng chảy của
các lĩnh vực nghiên cứu. Giới cũng là một chủ đề ngày càng quen thuộc trong
việc nhìn nhận, đánh giá quá trình phát triển của văn học nói chung và giải thích
các tác phẩm văn học nói riêng. Như đã biết, trong quan niệm Phương Tây vốn
tồn tại hai khái niệm giới tính (sex) và giới (gender). Về khái niệm giới (gender),
xét về nguồn gốc lý thuyết, giới được đề cập lần đầu tiên từ nghiên cứu của
Christin de Pisan (người Pháp, thế kỷ XV, 1364 – 1430). Lý thuyết này được tiếp
tục nghiên cứu, phát triển vào thế kỷ XVII – XVIII bởi nữ văn sĩ người Anh –
Aphra Behr (1640 – 1689) và Mary Astell (1666-1731), những lý luận gia nữ
quyền đầu tiên [10, tr.12].
Dù vậy, như đã trình bày, thuật ngữ gender được bắt đầu sử dụng từ năm
1972. Về phương diện pháp lý quốc tế, thuật ngữ gender đã được sử dụng trong
các văn kiện của Hội nghị Bộ trưởng phụ nữ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
(APEC) tổ chức tại Phi- lip- pin tháng 10/1998. Bản Khuôn khổ hội nhập phụ nữ
trong APEC lần đầu tiên xác định khái niệm giới (gender) với ý nghĩa là “phản
ánh những khác biệt trên bình diện xã hội giữa phụ nữ và nam giới, về vai trò,
thái độ, hành vi và các giá trị” [45, tr.35]. Khái niệm giới tính (sex) là khái niệm
chỉ sự khác biệt về sinh học giữa phụ nữ và nam giới, được xác định bởi gen; còn
khái niệm giới lại được hình thành thông qua quá trình giáo dục, có thể thay đổi
tùy theo điều kiện văn hóa thời đại. Như vậy, khái niệm giới với khái niệm giới
tính (sex) là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Về lịch sử nghiên cứu về giới tính và giới ở Phương Tây cũng được ghi
nhận qua nhiều công trình khác nhau của các học giả cũng như nhiều góc nhìn
17
khác nhau xung quanh khái niệm giới và giới tính.
Trong cuốn Sự thống trị của nam giới, Bourdieu cũng đã phân tích các
mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới, xuất phát từ việc nghiên cứu dân tộc học
xã hội của người Berbères tại Kabylie và tìm hiểu những cấu trúc tượng trưng
của vô thức lấy nam giới làm trung tâm, hiện vẫn tồn tại ở nam giới và nữ giới
ngày nay. Sự thống trị của nam giới của Pierre Bourdieu cũng cho rằng giới tính
là sự khác biệt sinh học của cơ thể con người. Bourdieu cho rằng giới tính là sự
khác biệt sinh học của cơ thể và xã hội để biện minh cho sự khác biệt giữa hai
giới do xã hột kiến tạo và tự nhiên hóa (như phân công lao động). Người ta đã
tìm ra sự biện minh cho địa vị xã hội của phụ nữ trong sự khác biệt về cơ thể của
nam và nữ. Theo Bourdieu sự kiến tạo sinh học của thân thể nam và nữ cung cấp
cơ sở cho quá trình tự nhiên hóa quan điểm cho rằng nam giới là trung tâm. Từ
quan điểm đó mà sản sinh ra sự phân chia hoạt động tình dục, phân chia hoạt
động theo giới tính và phân chia toàn bộ vũ trụ. Nhưng bản thân của sự tự nhiên
ấy là một kiến tạo xã hội được tự nhiên hóa. Ông cho rằng: “Giới chỉ tồn tại
trong những mối quan hệ, những hoạt động mang tính tƣợng trƣng trong văn hóa
và xã hội nhấn mạnh sự khu biệt này, ấn định đàn ông và đàn bà những dấu hiệu
phù hợp với định nghĩa xã hội về đặc thù giới tính của họ, nhằm khuyến khích
những tập quán phù hợp với đặc tính của họ, hay hạn chế cách xử sự không thích
đáng, đặc biệt trong quan hệ với giới kia [28, tr.56].
Bên cạnh đó, lý thuyết giới “Gender Theory” (học thuyết giới) xuất hiện
tại Mỹ trong thập niên 70, ảnh hưởng của nhà tư tưởng Pháp Michel Foucault và
Jacques Derrida. Học thuyết về giới phủ nhận sự khác biệt giới tính tự nhiên giữa
nam và nữ: “Mỗi ngƣời là trai hay gái, nam hay nữ, căn cứ trên cơ sở sinh học,
cha mẹ dựa vào đó làm khai sinh cho con”. Thuyết phủ nhận sự khác biệt sinh
học đó và cho rằng sự khác biệt nam và nữ là kết quả của văn hóa, nó là một cấu
trúc xã hội. Nam hay nữ chẳng qua chỉ là những vai trò xã hội – văn hóa khác
nhau do xã hội đề ra và có thể phá đổ. Thuyết cũng cho rằng mặt di truyền học
không có vai trò trong hình thành căn cứ giới tính (identite sexulle) của mỗi
18
người. Làm người nam hay nữ tùy thuộc vào sự lựa chọn chủ quan của mỗi cá
nhân. Lý thuyết này nhằm chống lại sự bất bình đẳng nam nữ phục vụ cho phong
trào đấu tranh nhân sự việc chống phân biệt đối xử nam – nữ giới, người ta phủ
nhận nền tảng sinh học giới tính.
Một cách tổng quát hơn, theo lý thuyết thân thể của mình Faucault cho
rằng giới tính không chỉ là thuộc tính bên trong của tự nhiên mà còn là sản phẩm
của hệ quyền lực đặc thù, chính những quan niệm định kiến trong xã hội đã hình
thành nên ý thức về vấn đề giới tính, tức là hình thành nên sự khác biệt giữa đàn
ông, đàn bà. Vì thế thông qua vấn đề thân thể con người, có thể nhận ra dấu ấn
quyền lực xã hội, nhận ra sự phân chia đẳng cấp, sự áp bức, thống trị của nam
giới và nữ giới. Lý luận thân thể Foucalt cũng cho rằng sự vận hành quyền lực
trong xã hội thông qua thân thể con người. Vì thế, thông qua vấn đề thân thể con
người, có thể nhận ra dấu ấn quyền lực xã hội, nhận ra sự phân chia đẳng cấp,
nhận ra sự áp bức, sự thống trị của nam giới với nữ giới. Trong thời kỳ mẫu hệ,
thân thể người phụ nữ lại có uy quyền hơn thân thể đàn ông nhưng trong chế độ
phụ hệ thì thân thể đàn ông lại có uy quyền hơn thân thể phụ nữ. Điều này cho
thấy, vấn đề “giới tính” là sản phẩm của quan hệ quyền lực. Như vậy, bản thân
sinh lý, tự nhiên của đàn ông và đàn bà là không phân biệt đẳng cấp, nhưng chế
độ chính trị, xã hội, quan niệm văn hóa, quan hệ quyền lực đã tạo nên sự bất bình
đẳng về giới. Cũng trên cơ sở này, chủ nghĩa nữ quyền (thuyết bênh vực nữ giới)
giải thích vì sao phụ nữ lại bị ràng buộc bởi những áp chế văn hóa truyền thống và
cho rằng nam giới chiếm hữu ngôn ngữ nhân loại, dùng ngôn ngữ đem kẻ khác (bao
gồm phụ nữ) khách thể hóa, để tiến hành khống chế với người này.
Ở Việt Nam, quan niệm về giới trước đây chưa có sự thống nhất. Có quan
niệm cho rằng giới là khái niệm “chỉ cấu trúc về mặt văn hóa, về mặt xã hội của
sự khác biệt về giới tính của nam và nữ”. Khi xét đến cấu trúc và văn hóa xã hội,
thì khái niệm giới là sự khác biệt giữa nam và nữ trong cùng hộ gia đình, trong
và giữa các nền văn hóa, là cấu trúc xã hội – văn hóa có thể thay đổi theo thời
gian. Những khác biệt này được phản ánh trong các vai trò, trách nhiệm, khả
19
năng tiếp cận nguồn lực, những sức ép, những ưu tiên, các nhu cầu nhận thức và
quan điểm…được thấy trong cả hai giới. Trong khi đó, quan niệm khác khẳng
định giới là “khái niệm của xã hội học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt
xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan
niệm hay quy định cho nam giới và phụ nữ”. Quan niệm về giới còn được tiếp
cận thông qua mối quan hệ giữa “phụ nữ trong phát triển”/WID hoặc “giới và
phát triển”/GAD. Theo quan niệm GAD, thì “con ngƣời (cả nam và nữ) là trung
tâm, hƣớng vào việc xóa bỏ bất bình đẳng giữa nam và nữ, trên cơ sở đáp ứng
lợi ích của cả nam và nữ, trƣớc hết là phụ nữ” [45, tr.67].
Ngoài ra cũng có nhiều quan niệm khác về giới, như “Giới là một thuật
ngữ nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ,
bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích”.
Thậm chí, khi ở Việt Nam do sự phức tạp trong việc chuyển ngữ trong
Tiếng Việt“hai thuật ngữ này đƣợc dịch ra tiếng Việt trong các sách chuyên
ngành và trên các phƣơng tiện truyền thông đại chúng với các từ khác nhau nhƣ
giới tính, giống, phái, giới”[45, tr. 75]. Theo đó, cần phân biệt giữa hai khái
niệm giới tính tự nhiên (sex) hay khái niệm giới (gender) tức là đặc điểm, vị trí,
vai trò của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội.
Nằm trong sự phân biệt giữa sex và gender, trong Luật bình đẳng giới của
Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 1/1/2007) phân biệt như sau “giới chỉ đặc điểm, vị
trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội” và “giới tính chỉ
đặc điểm sinh học của nam và nữ” (điều 5, giải thích từ ngữ, Luật bình đẳng
Giới, 2006). Cùng theo quan điểm này, tác giả Hoàng Bá Thịnh cũng phân biệt rõ
“Giới tính (sex) đề cập đến những khác biệt sinh học căn bản nhất giữa đàn ông
và đàn bà, đặc biệt là cơ quan sinh dục và khả năng sinh sản. Là sản phẩm sinh
học đƣợc xác định về gien qua các cặp nhiễm sắc thể XY (trai) và XX( gái)” [44,
tr. 56]. Giới (gender) là khái niệm không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả mối
quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ ấy có sự phân biệt về vai trò và
trách nhiệm, hành vi và sự mong đợi mà xã hội quy định cho mỗi giới. Những
20
quy định xã hội này phù hợp với các đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội
và tôn giáo; vì thế nó luôn biến đổi theo các giai đoạn lịch sử và có sự khác biệt
giữa các xã hội. Giới là sản phẩm của cấu trúc xã hội – văn hóa. Ở luận văn này,
chúng tôi đề cập đến hướng nghiên cứu giới hay nghiên cứu gender.
Với cách diễn đạt khác, trong bài phát biểu của Hội phụ nữ Việt Nam
cũng định nghĩa rõ ràng về giới tính và giới, theo đó giới tính là “bẩm sinh và
đồng nhất (nam giới và nữ giới) khắp nơi trên thế giới đều có chức năng và cơ
quan sinh sản khác nhau không thể thay đổi đƣợc giữa nam và nữ do các yếu tố
sinh học quyết định”. Cùng với đó là khái niệm về giới: “Giới phản ánh sự khác
nhau giữa nam và nữ về khía cạnh xã hội”. Vai trò giới là “tập hợp những hành
vi ứng xử mà xã hội đang mong đợi ở nam và nữ liên quan đến những đặc điểm
giới tính và năng lực xã hội coi là thuộc về nam giới và nữ giới” [45, tr. 61]
trong xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể nào đó.
Khái niệm giới theo Hoàng Bá Thịnh đã chỉ ra giới (gender) trong xã hội
là “khái niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà còn cả mối quan hệ giữa
nam và nữ. Trong mối quan hệ ấy luôn có sự phân biệt giữa vai trò, trách nhiệm,
hành vi hoặc sự mong đợi mà xã hội quy định cho mỗi giới. Những quy định,
mong đợi xã hội ngày càng phù hợp với đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế , xã
hội, tôn giáo vì thế nó luôn biến đổi theo các giai đoạn lịch sử và có sự khác biệt
các cộng đồng và xã hội”[44, tr.33].
Khái niệm về giới là một trong những khái niệm dùng dựa trên những đặc
điểm sinh học nam và nữ, được sử dụng như một thuật ngữ chỉ sự khác biệt của
từng giới do những quy định của văn hóa từ đó tạo ra khái niệm nam tính và nữ
tính. Thuật ngữ được quy định “do yếu tố văn hóa xã hội vốn đƣợc hình thành
bởi bộ phận văn hóa chiếm ƣu thế vƣợt trội hơn và có thể chuyển đổi từ nền văn
hóa này sang nền văn hóa khác trong tiến trình của sự phát triển mà đặc trƣng
và nhiệm vụ của mỗi giới đƣợc định hình” [44, tr.113].
Đặc điểm giới
Giới hình thành nên những đặc điểm nam tính hay nữ tính theo sự kỳ
21
vọng, mong đợi của xã hội:
Nữ tính hay còn gọi là Femininity bao gồm những người có trực giác, tình
cảm, yếu đuối, dễ xúc động, tổn thương, ngoan ngoãn, mềm yếu, nhân hậu và dễ
bộc lộ tình cảm. Đó là những phẩm chất được xem là đặc trưng cho phụ nữ trong
một nền văn hóa của một giai đoạn lịch sử nào đó. Theo nghiên cứu của nhiều
học giả về giới trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội, nữ tính thường được gắn
với sự tái sản sinh ra sự sống (sinh nở) và những phẩm chất thuộc về sự chăm
sóc, nuôi dưỡng như sự nhã nhặn, dịu dàng, thiên chức làm mẹ, sinh đẻ, trực giác
nhạy bén, tính sáng tạo, chu kỳ sinh học của cuộc sống…
Nam tính hay còn gọi là Masculinity, yếu tố nam tính quy tụ những người
có đặc điểm hung hăng, hiếu chiến, duy lý, mạnh mẽ, thống trị, năng nổ, vô tình,
cạnh tranh, tự quyết định và ít bộc lộ tình cảm. Đó là những tiêu chuẩn hoặc mẫu
hình mà nam giới trong một nền văn hóa được kỳ vọng sẽ noi theo nếu họ muốn
tương tác một cách thích hợp và được chấp nhận với những người khác (nam và
nữ). Các nhà lý thuyết về giới đều cho rằng không thể có một mẫu hình đàn ông
chung cho mọi thời đại và mọi khu vực vì nam tính, với tư cách là một cấu trúc
văn hóa, khó tránh khỏi thay đổi. Nhận định của Micheal Kimmel về giới cũng
cho rằng nam tính có ý nghĩa khác nhau trong những thời điểm khác nhau đối với
những người khác nhau. Chúng ta hiểu thế nào là một người đàn ông trong nền
văn hóa của chúng ta bằng cách đặt những định nghĩa của chúng ta trong sự đối
lập với một tập hợp của “những người khác” - những thiểu số về chủng tộc, về
giới tính, và trên hết là phụ nữ.
Theo Keneth Clatterbaugh, có ba thành tố cấu thành nên khái niệm về nam
tính đó là “vai trò giới của người đàn ông, khuôn mẫu về nam tính, và lý tưởng
về giới”. Theo ông, thành tố đầu tiên lý giải đàn ông là gì vì nó là một tập hợp
hành vi, thái độ và hoàn cảnh thường thấy ở những người đàn ông thuộc một
nhóm xác định nào đó. Thành tố thứ hai liên quan đến cái mà người ta nghĩ về
đàn ông: một khuôn mẫu là ý tưởng chung về cái mà hầu hết mọi người đều xem
là vai trò giới của đàn ông… Khuôn mẫu dựa trên định nghĩa về đàn ông và vai
22
trò mà đàn ông thực sự đảm nhận không phải bàn cãi…Còn lý tưởng về giới là
“một quan niệm phổ biến cho rằng vai trò giới của ngƣời đàn ông nên nhƣ thế
nào”[10, tr. 14]. Ông cũng lưu ý rằng giữa ba thành tố này có những mối quan hệ
tương tác và vì thế những ranh giới rạch ròi là không thể vạch ra, mà là một sự
kết hợp biện chứng.
So sánh nam tính với nữ tính, William Jankowiak phát hiện ra rằng sở hữu
nữ tính đích thực thì hiếm khi đòi hỏi minh chứng bằng hành động hoặc sự
đương đầu với những tình huống nguy hiểm... trong khi đó nam tính lại vẫn phải
dựa trên thành tựu đạt được. Đó là một phát hiện liên văn hóa phổ biến về nam
tính và nữ tính: nam tính được cho rằng phải là cái đạt được thông qua hành động
cạnh tranh với những người đàn ông khác, dù là thuộc thể xác hay tinh thần,
trong khi nữ tính thì được liên hệ với những đánh giá về sự hấp dẫn về tình dục,
khả năng sinh nở và sự tháo vát trong việc gia đình, nhà cửa.
Như vậy, cả nam tính và nữ tính đều là những tập hợp các biểu hiện đặc
trưng về giới (của nam giới hay phụ nữ) được tạo dựng nên, phổ biến, thể chế
hóa trong một nền văn hóa, một thời kỳ lịch sử nhất định. Trong cơ sở hình thành
nên nam tính và nữ tính, những yếu tố sinh học tuy cũng đóng một vai trò không
nhỏ nhưng quan trọng hơn cả là vị trí có tính tương quan của hai giới trong hệ
thống chính trị - xã hội - kinh tế - văn hóa. Vì thế, nam tính và nữ tính không
phải là những giá trị “nhất thành bất biến” mà có tính lịch sử, tính khu vực.
Chúng vừa là những qui ước xã hội về giới áp đặt lên cá nhân từ bên ngoài vừa là
ý thức và cách ứng xử theo giới của chính họ.
Quan niệm về nguồn gốc nam – nữ
Trong Kinh thánh cựu ước từng giải thích về nguồn gốc của con người
“Thiên chúa sáng tạo ra con người theo hình ảnh của người, có khả năng nhận
biết, yêu mến đấng tạo dựng mình, được người đặt làm chủ của mọi vật trên trái
đất”. Kinh thánh viết: “Thiên chúa sáng tạo ra con người có nam có nữ. Con
người thì phải có nam có nữ. Người nam và người nữ là adam và eva có cùng
một bản tính, một phẩm giá như nhau và liên kết với nhau thành một thứ cộng
23
đồng đầu tiên giữa người với người. Sự khác biệt này phát sinh từ chính bản tính
thâm sâu của họ” bởi vì “con người là một sở hữu thể có xã hội tính và nếu
không liên lạc với con người khác thì sẽ không thể sống và phát triển tài năng
của mình” (Hiến chế vui mừng và hy vọng).
Cũng theo sách Sáng thế kể về chuyện của adam. Sách Sáng thế mở đầu
bằng việc nặn một người nam từ bụi và thổi sự sống vào trong lỗ mũi của anh ấy.
Chúa trời tạo ra một khu vườn và đặt người nam trong nom nó cho phép anh ta
ăn tất cả loại cây trong vườn trừ cây nhận thức tốt – xấu (Trái cấm). Chúa trời tạo
ra người nữ từ xương sườn của anh ta. Người nam đặt tên người nữ là phụ nữ vì
người nữ được lấy từ người nam. Chuyện adam và eva là nền tảng học thuyết
thiên chúa giáo về tội lỗi đầu tiên. Tội lỗi đến với thế giới qua một con người và
chết qua tội lỗi và vì thế cái chết xảy ra với tất cả con người do tội lỗi. Vì eva xúi
giục adam ăn trái cấm nên coi người phụ nữ là người mang tội lỗi đầu tiên và đặc
biệt chịu trách nhiệm về sự sa ngã. Vậy là ngay từ khởi đầu, có nam thì phải có
nữ. Nam nữ kết hợp với nhau thì mới tạo ra sự hài hòa, thống nhất.
Thần thoại Hy Lạp lại giải thích khác về nguồn gốc giới tính. Truyện cho
rằng, các vị thần trên đỉnh Ôlimpo đã “tạo ra giống đàn bà, một “loại độc hại”
cho giống đàn ông mà đàn ông không sao rứt ra đƣợc. Vì thần Dớt nghĩ rằng
ngƣời đàn bà sẽ luôn là bạn đƣờng của ngƣời đàn ông, nhƣng luôn gây ra bất
hạnh cho họ”. Cách giải thích này thiên về hướng tư duy thần thoại.
Người Trung Hoa thông qua thần thoại Nữ Oa vá trời thì lại cho rằng
“đàn ông và đàn bà lấy nhau, tự tạo ra và duy trì giống nòi”. Kinh Dịch : nam
nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh. Sự khác biệt giới tính này đã được triết học cổ đại
Trung Hoa nâng lên một bình diện khái quát, đó là sự thống nhất và đối lập giữa
âm và dương. Triết lý Trung Hoa dựa trên nguyên lý âm dương để phân cực giới
tính. Qua lăng kính nguyên lý này, tính dục càng trở nên huyền ảo hơn. Người
Trung Hoa cho rằng nam - dương, nữ - âm, mà vạn vật trong trời đất đều có sự
giao hòa khiến cho sinh hóa điều hoà làm nên cuộc sống nên con người cũng
phải tương thông với khí trời đất ất thì sức khỏe mới tốt, nếu không, mất sự cân
24
bằng âm dương thì cuộc sống không hài hòa. Lấy chồng, lấy vợ là công việc
đúng đắn nhất trong trời đất. Âm dương kết hợp là căn nguyên cho nhân loại sinh
sôi, nảy nở, tạo ra những giá trị mới. Như vậy, ở Trung Hoa công nhận sự tồn tại
một cách rõ rệt và còn hiểu được luật bù trừ tồn tại của giới tính.
1. 2. Quan điểm nho giáo về giới
Hơn một ngàn năm chịu đô hộ của người Trung Hoa từ năm 207 TCN đến
năm 939 SCN, dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng khá lớn của Trung Hoa về nho
giáo Khổng Mạnh. Nho giáo vốn ảnh hưởng lớn đến cách đối nhân xử thế của
con người đặc biệt là quan niệm của người nam và người nữ trong xã hội.
Một trong những quan niệm mà nho giáo đề cao phải kể đến là quan niệm
tam cƣơng – ngũ thƣờng. Tam có nghĩa là ba, số ba còn cƣơng- theo cách đọc
của người Nam Bộ có nghĩa là giềng mối, ngũ là năm, thƣờng là hằng có. Vậy
tam cƣơng là ba giềng hay ba mối, gồm: quân thần cang, phụ tử cang, phu thê
cang. Ngũ thường là năm hằng, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nho giáo từ đó quy
định, “tam cang và ngũ thƣờng là phần nhân đạo của nam phái. Hễ nhân đạo
thành thì phù hợp thiên đạo”. Về nam giới, nho giáo quy định người nam giới
khi đã trưởng thành thì phải giữ ba điều đạo trọng là quân thần cương, phụ tử
cương, phu thê cương. Từ những quan hệ ấy, Kinh lễ đã nêu lên mười đức lớn:
vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng
lời, trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn, với bạn hữu phải có đức tín. Khi nói đến
những đức phải thường xuyên trau dồi, căn cứ vào hai chữ ngũ thƣờng trong
Kinh lễ gồm sau chữ: hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa.
Cũng như vậy, nho giáo cũng đặt ra tam cƣơng, ngũ thƣờng dành cho
người nam và tam tòng, tứ đức dành cho người nữ:
Về nam giới
Tam cƣơng, ngũ thƣờng: Là khuôn mẫu dạy cho người đàn ông biết kỷ
cương, cương thường, đạo lý... Mà còn dạy cho mọi người cái nền tảng của minh
triết về nho giáo là: tam cương, ngũ thường. Tam cƣơng là ba điều cần thiết để
giáo dục riêng cho người đàn ông biết cách cư xử và hoàn thành tốt mọi nhiệm
25
vụ đối với tổ quốc, dân tộc, xã hội và gia đình.
Quân vi thần cƣơng: giềng mối vua tôi, là bổn phận người dân (Tôi, thần
dân) đối với vua. Trung với vua, hiếu với dân luôn biểu hiện lòng yêu nước
thương nòi. Nho giáo đề cao quân xử, thần tử, Thần bất tử, bất trung: lệnh vua
phải tuân, bất tuân thì (chết) bất trung. Vua ở đây tượng trưng cho quốc gia dân
tộc. Phải trung với quốc gia dân tộc, chứ không phải trung thành mù quáng theo
một ông vua hay dòng họ nhà vua. Trong một dòng họ nhà vua, thí dụ như: nhà
Lý, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn,.. chỉ có một số ít ông vua là minh quân, còn
phần lớn là hôn quân vô đạo. Nếu trung thành với hôn quân thì đó là ngu trung.
Mạnh Tử từ ngàn xưa đã dạy rằng: dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa
là: Dân là quí, nước nhà là kế đó, vua là nhẹ. Cho nên bề tôi cần phải trung thành
với quốc gia dân tộc hơn là trung thành với một ông vua. Lại cũng có câu: quân
minh thần trung. Nghĩa là: Vua sáng thì tôi trung; tức nhiên khi gặp vua hôn ám thì
bề tôi chỉ giữ lòng trung với quốc gia dân tộc mà thôi.
Phu vi tử cƣơng: Bổn phận người cha đối với con cái, là giềng mối cha
con tức là thương yêu, tình nghĩa khoan dung, nuôi dưỡng, giáo dục, nâng đỡ...
sao cho các con nên người hữu ích. Trong nho giáo phu vi tử cƣơng rất trọng,
bởi câu: cha sinh, mẹ dƣỡng. Phải hiếu với cha mẹ. Phải biết nhớ công ơn sanh
thành dưỡng dục của cha mẹ mà lo đền đáp. Thuở nhỏ phải nghe lời dạy bảo của
cha mẹ, khi lớn lên, cha mẹ đã già yếu thì phải lo bảo dưỡng cha mẹ. Ông Thánh
Tăng Tử có nói rằng: “hiếu giả bách hạnh chi tiên, hiếu chí ƣ thiên tắc phong vũ
thuận thời, hiếu chí ƣ địa tắc vạn vật hóa thành, hiếu chí ƣ nhân tắc chúng phúc
hàm trăn”. Nghĩa là: hiếu là nết đứng đầu trăm hạnh, hiếu cảm đến trời thì gió
mưa hòa thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật tốt tươi, hiếu cảm đến người thì
phúc lộc thịnh vượng. Phần cha mẹ thì phải hết lòng thương yêu, chăm sóc dạy
dỗ con cái cho nên người và làm gương tốt cho con.
Phu vi thê cƣơng: giềng mối chồng vợ, đạo vợ chồng trọng yếu nhất phải
là thuận hòa trong tình thương yêu chân thật, dù gặp hoàn cảnh khó khăn cũng
phải giữ gìn trọn vẹn như vậy. Vợ chồng sống với nhau, ngoài tình thương yêu,
26
còn phải giữ nghĩa với nhau. Bổn phận người chồng đối với vợ cũng gần như đối
với con cái nhưng tình yêu thương, đùm bọc phải, bao dung, che chở, hướng
dẫn... thay vì dạy bảo.
Ngũ thƣờng (năm hằng): là năm điều quan trọng mà đức Khổng Tử cho
rằng: làm người phải có nhân, nghĩa, lễ, nghĩa trí, tín mới đáng và mới thực sự là
người quân tử.
Nhân: lòng thương người mến vật. Con người thường có hai tình cảm đối
ngược nhau: hễ thương thì không ghét, mà ghét thì không thương. Như thế, muốn
có lòng nhân thì phải mở rộng lòng thương yêu để cái ghét không có chỗ chen
vào. Lòng nhân là căn bản của đạo làm người, là hầu hết các hành tàng. Giữ
được nhân thì lúc nào ta cũng được an vui, hạnh phúc. Là người gồm hai phần
thể xác và tâm, chữ nhân thật bao la: nhân là tha nhân, nhân tính, nhân nghĩa,
nhân đạo và nhân ái...Người có lòng nhân luôn sống hoàn thiện và thương yêu
mọi người...
Nghĩa: là cư xử theo lẽ phải (đạo lý), trong cách xử thế, cái nghĩa là quan
trọng nhất, nó dẫn dắt con người đến đạo đức. Nghĩa phải đi liền với nhân, có
nhân mà không có nghĩa thì đạo đức thiếu hình thức, còn có nghĩa mà thiếu nhân
thì đạo đức thiếu tinh thần.
Lễ: phép tắc tốt đẹp trong xử thế. Lễ là mực thước để đo lường tư tưởng,
hành động trong khi xử thế. Nó thể hiện sự tôn nghiêm trật tự và hòa hợp trong ý
nghĩ và việc làm. Lão Tử có nói: nếu thất đạo thì nên theo đức, nếu thất đức thì
nên theo nhân, nếu thất nhân thì nên theo nghĩa, nếu thất nghĩa thì nên theo lễ.
Vậy muốn trở về với nghĩa thì phải học lễ trước hết.
Trí: là năng lực hiểu biết. Nhờ có trí mới phân biệt được sáng tối, phải
trái, thiện ác. Mục đích của trí là tìm hiểu chân lý, tức là đạo, nên cần phải lo học
tập để mở mang trí. Khi trí hiểu biết rõ ràng thì hành động mới tránh được sai
lầm.
Tín: là tin tưởng, có lòng tin (vững lòng). Không bắt cá hai tay, không lắt
léo, nuốt lời hứa... Trung tín có lòng tin trời đất, có linh hồn, lòng trung tín với
27
tình yêu, vợ chồng con cái, cha mẹ có tin mới có lòng trung tín. Lời nói phải đi
đôi với việc làm. Phải giữ chữ tín và phải quí trọng lời mình nói ra. Nhất ngôn ký
xuất, tứ mã nan truy, nghĩa là: một lời nói ra, xe tứ mã khó đuổi theo kịp. Chữ tín
rất quan trọng, nó thể hiện phẩm chất đạo đức của con người mình. Nhân vô tín
bất lập, nghĩa là: người mà không có chữ tín thì không làm nên được việc gì.
Tóm lại, phần nhân đạo của nam phái gồm hai phần trọng yếu là: tam
cƣơng (trung, hiếu, nghĩa) và ngũ thƣờng (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tất cả gồm
tám chữ, nếu làm trọn vẹn được một chữ thì đủ đạt thần vị, như những bề tôi
trung với vua, liều thân với nước, được vua phong thần, đưa về các làng xã làm
Thần hoàng, ủng hộ dân chúng và được hưởng cúng tế; nếu làm trọn vẹn được
hai chữ thì được phong Thánh, như trường hợp Quan Vân Trường thời Tam
Quốc được trọn vẹn hai chữ trung và nghĩa, nên hiển Thánh.
Ngoài ra, trong vai trò của nam giới, Khổng giáo còn đề cao thuyết chính
danh mong cho mọi người có tài đức xứng với địa vị của mình. Khổng giáo
thường chê những kẻ tiểu nhân và khen ngợi những người (chính nhân) quân tử.
Kẻ tiểu nhân là những người chỉ biết lo những phần thấp kém trong con
người. Cầu danh, cầu lợi, mặc tình cho vật dục và ngoại cảnh, thường ham công
danh lợi lộc dẫn đến cái hại cho người khác“ích kỷ hại nhân”, bất chấp mọi
chuyện sa đọa. Họ là những người chỉ lo xu phụ, không có thực tài, thực đức,
không biết thanh lọc và tu luyện tâm hồn...Vì thế nên có một đời sống nội tâm rất
là nghèo nàn, lo lắng...
Ngƣời quân tử là những người sống cho những phần cao siêu nơi con
người, trọng nghĩa, khinh lợi, có hoài bão cao đẹp, luôn luôn hướng thiện, cố
gắng tiến đức tu nghiệp, theo đạo và tu đạo, lo sao cho hoàn thiện bản thân mình,
sáng suốt, ham học hỏi, biết thức thời, nói ít làm nhiều, thương yêu giúp đỡ mọi
người, lúc nào tâm hồn cũng thư thái, ung dung... Tóm lại, người quân tử luôn
trau dồi tâm thân, ở thì ở chỗ quảng đại của thiên hạ, đứng thì đứng vào địa vị
chính đáng của thiên hạ, đi thì đi trên con đường lớn của thiên hạ, đắc trí thì cùng
với nhân dân noi theo đạo nghĩa. Giầu sang không làm siêu lòng, nghèo hèn
28
không làm thay đổi lòng, vũ lực không khuất phục được chí lớn. Như thế mới là
người: quân tử (anh hùng trượng phu), mà trong Kinh Thi hết lòng khen ngợi.
Giàu sang tâm trí bảo tồn nghèo hèn khí tiết, thượng tôn anh hùng uy quyền, bạo
lực, khốn cùng không làm nhụt chí anh hùng trượng phu.
Tam tòng và tứ đức dành cho nữ:
Công: công việc, mọi công việc trong nhà phải biết làm, sao cho chu toàn.
Cũng phải phụ lo việc tài chính giúp chồng nuôi con...
Dung: là cái đẹp, phải biết giữ cái đẹp cho mình, giữ dung nhan cho chuẩn
mực, từng cử chỉ, điệu đi, dáng đứng.
Ngôn: lời nói, phải ôn tồn nhẹ nhàng, lễ phép với mọi người đối với kẻ
trên phải thưa gửi, gọi dạ, bảo vâng....
Hạnh: hạnh kiểm, hiếu hạnh, đức hạnh, các tính tốt của người con gái: đạo
đức, nết na, khiêm nhường, nhịn nhục, tha thứ...
Ngoài ra, người phụ nữ phải thực hiện tam tòng. Đó là tòng gia tòng phu
là vâng lời cha mẹ, cha mẹ dựng vợ gả chồng thì cứ thế mà lấy. Xuất giá tòng
phu là phải vâng lời chồng. Phụ tử tòng tử là chồng chết thì theo con, thủ tiết chờ
chồng nuôi con.
Nho giáo là một học thuyết ảnh hưởng đến các nền văn hóa Châu Á, giải
thích sự vận động của trời đất, nho giáo đã nêu lên học thuyết âm dương, trong
đó nêu lên rằng muôn vật đều được sinh ra từ khí. Có khí trong – khí đục, khí
nặng – khí nhẹ, khí sáng – khí tối, khí ấm – khí lạnh…Khí có tụ có tan, có xuống
có lên. Do sự vận động của khí mà có sinh có hóa, có tiến có thoái, có tiêu vong
và phát triển. Sở dĩ có triển vọng và phát triển là vì vừa có sự tương đồng (cùng
một bản chất là khí) vừa có sự tương phản (trong – đục, nặng – nhẹ, ấm – lạnh…)
giữa âm và dương. Trong đó, con người là hội tụ mọi tinh hoa tốt đẹp quý báu
của mọi vật trong thế gian. Kinh Dịch coi con người cùng trời và đất là tiêu biểu
cho vạn vật, gọi là tam tài. Còn nho giáo khẳng định “con ngƣời là đức của trời
đất và sự giao hợp của âm dƣơng, là hội tụ của quỷ thần, là khí ƣu tú của ngũ
hành vậy”. Nói đến “âm dƣơng chi giao”, có thể hiểu đơn giản là sự giao hợp
29
giữa nam và nữ, giữa giống đực và giống cái. Còn có cách nói khác là: “trời đất
muôn vật khớp vào khuôn mẫu, nam nữ cấu hợp tinh khí, muôn vật hóa sinh”.
Nho giáo xây dựng một hệ thống phạm trù “tam cƣơng”, “ngũ luân”, “ngũ
thƣờng” làm khuôn mẫu trong cách ứng xử giao tiếp, giáo dục và tự trau dồi của
mọi người trong xã hội. Thuyết tam cƣơng chỉ ra rằng trong mối quan hệ xã hội
có ba mối quan hệ cơ bản: vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, mở rộng ra hai mối
quan hệ anh – em, bạn hữu nữa trở thành ngũ thường. Đặc biệt là tam cƣơng với
quy tắc “vua xử tội chết thần phải chết, nếu không mắc tội bất trung, cha bảo
con chết con phải chết con phải chết, nếu không mắc tội bất hiếu” (phu xử tử
vong, tử bất vong bất hiếu), chồng bảo vợ phải tuyệt đối tuân theo (phu xƣớng
phụ tòng). Có thế thấy, nho giáo đã hết sức chặt chẽ trong việc quy định bổn
phận của mỗi cá nhân trong xã hội.
Thuyết âm dƣơng giải thích vai trò nam nữ trong xã hội
Nho giáo cũng tỏ rõ vị thế của mình trong việc dùng thuyết âm dương để
biện minh cho học thuyết đạo đức của mình. Âm và dương là khái niệm cốt lõi
của nền triết học cổ Đông phương, âm dương không phải là vật chất cụ thể,
không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn bộ
vũ trụ cũng như trong từng tế bào, phần tử chi tiết. Âm dương là hai mặt đối lập,
mâu thuẫn thống nhất. Trong dương có mầm mống của âm và ngược lại. Để biểu
thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, nho giáo đặt ra
thuyết âm dƣơng (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu
âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài). Nói
chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên,
vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương. Tất cả những
cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo,
đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.
Biểu tượng âm dương trong quan niệm nho giáo, nói lên bản chất mối
quan hệ giữa âm và dương. Âm dương trong chữ Hán làn yìn yáng là hai khái
30
niệm chỉ hai thực thể đối lập nhau tạo nên toàn bộ vũ trụ. Âm thể hiện cho những
gì nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính mềm mại. Đối lập với nó là dương thể hiện
cho sự mạnh mẽ, cho ánh sáng, chủ động, nam tính, cứng rắn. Nho giáo trừu
tượng hóa triết lý âm dương bằng việc thờ sinh thực khí nam – nữ, cột là biểu
tượng cho nam, hình tròn, bệ vuông là biểu tượng cho nữ (âm). Âm – dương là
một cặp chỉ hai khái niệm đối lập nhau mẹ cha, trời đất, nam nữ, cái đực. Theo
thuyết này, âm dương là hai mặt, hai thế đối lập nhau nhưng lại thống nhất trong
vạn vật, được khởi đầu của mọi sự sinh thành, biến hóa. Âm dương không loại
trừ nhau mà tạo điều kiện tồn tại cho nhau, trở thành động lực cho mọi sự vận
động và phát triển. Quy luật âm dương đều chỉ rõ mọi vật đều có âm dương,
trong dương có âm, và trong âm có dương, âm thăng dương giáng và âm dương
cân bằng thì mọi vật tồn tại và phát triển. Cũng tự thuyết âm dương có ảnh hưởng
khá sâu sắc đến tư tưởng người phương Đông đặc biệt là các tư tưởng bảo vệ trật
tự xã hội, duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền và của trật tự nam nữ trong
xã hội như “âm ty dƣơng tôn”, “trọng nam khinh nữ”, “bề tôi phải phục tùng
vua”. Lão Tử cũng từng cho rằng “âm cực thị dƣơng sinh, không có âm thì
không có dƣơng, bề tôi phải phục tùng vua”.
Như vậy, theo thuyết âm dương của nho giáo, muốn có sự vận động phải
có sự tự tán của âm dương. Cương nhu phải thúc đẩy lẫn nhau, muốn phát triển
được, dương phải cương và âm phải nhu, như thế mới thuận đạo trời. Đàn ông –
biểu tượng cho tính dương cần phải cường (mạnh) và đàn bà – biểu tượng cho
tính âm thì cần phải nhu (yếu).
Từ thuyết âm dương, ta có thể thấy nho giáo đề cao vai trò của người quân
tử trong xã hội, có lời răn “Trời làm mạnh bạo, ngƣời quân tử cứ tự cƣờng không
ngừng” nghĩa là đạo trời vốn mạnh mẽ, cứng rắn, người quân tử phải luôn luôn
tự cường để không ngừng vượt qua những thử thách đào thải. Nho giáo tổng kết
người quân tử phải có dũng khí, có chí nam nhi, phải tự cường, phải quyết đoán
để khẳng định vai trò của mình, vị trí của mình và đó phải là đạo xử thế của mỗi
người đàn ông. Vậy, trong xã hội, người đàn ông phải mạnh, là người phải lập
31
được công danh, nhằm báo đền ơn vua, làm rạng danh cho đất nước, cho gia
đình, tổ tiên. Trong gia đình, người đàn ông phải là chỗ dựa, là trụ cột để tạo
dựng một gia đình – cơ cấu xã hội thu nhỏ phát triển và toàn vẹn.
Người quân tử trong xã hội nho giáo mang khí phách, chí khí nam
nhi “Làm trai phải lạ ở trên đời” – Phan Bội Châu, một trong những nhà nho
cuối mùa vẫn còn giữ cái khí phách nam nhi đã được nuôi dưỡng trong chốn nho
gia ở câu thơ ấy. Bởi lẽ, nho giáo rất đề cao chí khí của người quân tử. Chí khí ở
đây có thể hiểu là trí và dũng. Trí là hiểu biết được tạo nên trên mối quan hệ lớn
nhỏ của con người với trời đất, với muôn vật, với mọi người trong thiên hạ. Nói
cách khác, trí là biết được điều đúng sai, phải trái trong mọi vấn đề thuộc về đạo
đức. Dũng bao gồm cả ý nghĩa về thể lực và tinh thần. Người dũng là người
không sợ sệt, dám đối đầu với mọi thử thách, khó khăn. Đàn ông chân chính
không thể thiếu trí và dũng, không thể thiếu chí khí nam nhi. Chí khí này là sự
phân biệt giữa tiểu nhân và quân tử. Có chí khí, người đàn ông mới đạt công
danh và đó phải là mục đích sống của họ. Có công danh là để rạng rỡ tổ tông, gia
đình, gia tộc và khi có thể sẽ tiến tới “trị quốc bình thiên hạ”.
Quan niệm chính thống của nho giáo về ngƣời đàn ông
Phu xƣớng phụ tùy
Đây chính là quan niệm của nho giáo về vai trò của người đàn ông trong gia
đình. Theo quan điểm của nho giáo, giáo dục gia đình có vai trò quyết định đối
với sự phát triển của một con người. Giáo dục luôn luôn gắn liền với gia đình.
Nhà là chỗ đứng vững chắc cần phải giữ vững trong mọi quan hệ giữa người với
người, giữa con người với xã hội. Xã hội của nho giáo luôn lấy nhà làm nền
móng, luôn thể hiện nguyên lý: “thiên hạ gốc ở nƣớc, nƣớc gốc ở nhà”. Do đó,
công cuộc giáo dục phải lấy quan hệ gia đình làm điểm xuất phát, làm gốc để rèn
giũa con người. Chính bởi vậy mà trong ngũ luân của nho gia (năm mối quan hệ:
vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bạn bè), quan hệ vợ chồng được đặc biệt chú
ý. Có thể coi đó là mối quan hệ nền tảng trong gia đình. Vai trò của người đàn
ông trong mối quan hệ này cực kỳ quan trọng, bởi lẽ, nếu người đàn ông xử lý
32
tốt, mối quan hệ này thì chắc chắn sẽ biết cách xử lý đúng đắn các mối quan hệ
khác như: phụ tử, huynh đệ…Phu xƣớng phụ tùy nghĩa là người chồng phải là
người quyết định, người vợ chỉ có việc nghe theo. Nho giáo cho người đàn ông
có quyền hạn rất lớn trong gia đình, có quyền được lấy nhiều vợ, khi cần, để duy
trì nòi giống có quyền được bỏ vợ nếu vợ phạm phải một trong bảy điều thất
xuất: không con, dâm nhác, không thờ phụng cha mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp,
ghen tuông, có ác tật. Từ đây, nó sẽ là khuôn khổ để bồi dưỡng, rèn đúc con
người theo kiểu mẫu nhà nho. Con người tề được gia mới trị được quốc và bình
được thiên hạ.
Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô
Theo quan niệm này, gia đình có mười con gái không bằng có một con trai.
Điều này xuất phát từ quan niệm đề cao vai trò của người đàn ông trong gia đình
và trong xã hội. Con trai không chỉ là chỗ dựa, là người kế nghiệp tổ tiên, duy trì
nòi giống mà có con trai tức là đã làm tròn nhiệm vụ trước tổ tiên bởi lẽ xuất phát
điểm của nho giáo là vấn đề gia tộc. Nho giáo cho rằng, lập gia, tề gia, hưng gia
chính là nhằm thống trị cả nước, thống trị cả thiên hạ. Người có thể tề gia, hưng
gia chính là đàn ông. Bởi vậy, nhu cầu có con trai và vai trò của người đàn ông
tương lai đó trong gia đình, gia tộc là rất quan trọng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của nho giáo vẫn còn tồn tại
những quan niệm bó hẹp, khắt khe với con người trung đại nói chung và nho giáo
nói riêng. Như trên đã chỉ rõ, hình tượng nam giới theo quan niệm nho giáo là
những mẫu hình người quân tử có lý tưởng cao, họ là anh hùng hào kiệt, lập công
danh sự nghiệp, nhưng lại theo chủ nghĩa khắc kỷ, coi thường nữ sắc vì sợ nữ sắc
ảnh hưởng tiêu cực công danh sự nghiệp. Họ được nho giáo ca ngợi, răn dạy bao
nhiêu thì cũng lại bị chính những tư tưởng đó bó hẹp lại, dần biến thành những
nam giới ảnh hưởng sâu sắc của chỉ nghĩa khắc kỷ. Nếu như những yếu tố như
tam cương, ngũ thường biến họ trở thành những những con người với những giá
trị đạo đức tuyệt đối, những con người lý tưởng với nhân, lễ, nghĩa, trí, tín toàn
tài thì yếu tố đó lại làm lu mờ con người sinh học của họ. Giải thích điều đó,
33
cùng với việc đưa ra hệ thống luận điểm răn dạy trách nhiệm và bổn phận của
người đàn ông, nho giáo cũng không quên việc nghiêm cấm “tính dục”, coi
thường “sắc” trong quan niệm của mình. Nho giáo của Khổng Tử, giá trị ứng
dụng duy nhất của tính dục là thụ thai để nối dõi tông đường, vẻ vang dòng họ và
cũng giỗ ông bà tổ tiên “Hôn lễ là sự kết hợp tốt đẹp hai họ với nhau, để trên thì
thờ tông miếu, dưới thì nối truyền cho đời sau, cho nên người quân tử rất coi
trọng nó” (Kinh Lễ, chương Hôn nghĩa).
Đối với Khổng Tử, tuy cho rằng Đức là thuộc tính của con người, nhưng
Sắc mạnh hơn rất nhiều: “Khổng Tử than rằng: Ta chưa thấy ai háo đức bằng háo
sắc”. (Luận ngữ, IX:17). Nữ sắc là điều đầu tiên người quân tử phải cảnh giác:
“Khổng Tử nói: người quân tử có ba điều phải răn ngừa: lúc còn trẻ, huyết khí
chưa ổn định, cần răn ngừa về nữ sắc”. (Luận ngữ. XVI:7).
Nho giáo cho rằng năng lượng nam tính của nho gia bị hao tổn nếu phung
phí trong tính dục hôn nhân - điều này có điểm tương đồng với chủ trương của
Đạo giáo – và rằng đàn ông có thể bị kiệt quệ thể lý, suy đồi đạo đức nếu để cho
mình miệt mài trong sinh hoạt tính dục. Tứ Thư của nho giáo ghi lại rất nhiều ý
tưởng cảnh giác người trẻ tuổi, thậm chí bậc quân tử đối với vấn đề sắc dục. Hơn
nữa, sự mê đắm sắc dục của người cai trị, kể cả một quốc chủ, có thể được nêu
lên như một lý do chính đáng để truất quyền kẻ đó. Tính dục trong hôn nhân chỉ
để có người nối dõi. Tính dục ngoài hôn nhân là đại tội, phải chặn đứng mọi
“nguy cơ”. Thế nên quan hệ giữa nam và nữ, thậm chí giữa vợ chồng cũng phải
theo đúng khuôn phép cực kỳ nghiêm ngặt. Nói chung, từ cái nhìn thiên vị nam
giới trong kinh sách của nho giáo và qua các tác phẩm của nho gia, sinh hoạt tính
dục được xem là một vấn đề quá độ. Có lẽ để hiểu thấu đáo điều đó, ta nên xét
theo tình huống xã hội, bối cảnh của triết học nho giáo thời kỳ đầu. Tuy thế, sang
tới Tống nho với các ý tưởng về sự quân bình và hòa điệu có tính vũ trụ được
phản ánh trong sự quân bình tương tự về âm/dương, đực/cái trong tính dục tuy rất
chậm trong một xã hội mấy ngàn năm trọng nam khinh nữ và nghiêm khắc về lễ
34
giáo trong quan hệ nam nữ.
Từ những quan niệm giới của nho giáo đó, ta có thể thấy rằng xã hội nho
giáo với bản chất nam quyền của nó luôn đề cao và có thái độ tôn sùng nam giới
và coi thường phụ nữ. Đối với đàn ông, nho giáo thường ưu ái hơn cả. Chính từ
sự phân biệt này, văn học nhà nho chủ yếu đề cập đến vai trò của nam giới cùng
với những định kiến về bổn phận và trách nhiệm của họ trong xã hội. Về kiểu
nhân vật nam trong văn học trung đại, ta có thể thấy hầu hết đều hình thành hai
kiểu nhân vật: nhân vật chính diện, lý tưởng thường là những người đàn ông gọi
là nam nhi, quân tử, anh hùng…đó là những kiểu người có sức mạnh, tài năng, có
đạo đức nhân nghĩa, trọng nghĩa khinh tài. Một bên là kiểu nhân vật phản diện
bất tài, ngu dốt độc ác và ham sắc. Thái độ với nữ sắc vốn là một biểu hiện của
nam tính lại trở thành một trong những yếu tố nhận diện, đánh giá chính/tà, phân
loại nhân vật.
1.3. Văn hóa giới trong văn học trung đại Việt Nam trước Nguyễn Đình Chiểu
Kể từ khi truyền bá vào Việt Nam, nho giáo đã có sức ảnh hưởng rất lớn
và sâu rộng đến các lĩnh vực của đời sống. Khi nhắc đến nho giáo, ta không thể
phủ nhận được vị trí và vai trò của ý thức hệ nho giáo trong đời sống, trong văn
học cũng như trong cách nhìn nhận con người trong xã hội cũ. Nhưng nhìn nhận,
đánh giá ảnh hưởng đó tích cực hay tiêu cực đối với sự phát triển của xã hội thì
còn tùy thuộc vào thời cuộc và quan điểm của các giai đoạn lịch sử. Về mục đích,
nho giáo mong có một xã hội tốt đẹp nhưng không phải cách làm điều lợi, bỏ
điều hại, kinh doanh hay làm cho phú cường mà bằng cách làm cho mọi người
đều nỗ lực tu dưỡng đạo đức để tất cả đều thiện. Chính vì quan tâm, bồi dưỡng
đạo đức cho nên con người lý tưởng trong nho giáo hầu hết là những anh hùng
quân tử trai anh hùng, gái thuyền quyên, hay hình mẫu thánh nhân. Họ là những
lực lượng hạt nhân trong cuộc sống đời thường cùng các thế lực cầm quyền duy
trì trật tự xã hội phong kiến ôn hòa. Và đôi khi những hình mẫu này mang hơi
hướng của sự bảo thủ đạo đức. Trần Trọng Kim đã từng nhận định “Đạo của
Khổng Tử là đạo của ngƣời quân tử, cốt dạy cho ngƣời ta thành đức hạnh hoàn
35
toàn và có nhân phẩm tôn quý, cho nên bao nhiêu sự dạy dỗ, học tập của Khổng
Tử đều chú trọng vào việc gây dựng ngƣời quân tử. Mô hình nhân cách của
Khổng Tử cũng chính là niềm tự hào của nho giáo và xã hội phong kiến”. Vì
vậy, bàn về văn hóa ứng xử về giới, ta có thể thấy trong xã hội phong kiến nho
giáo, vốn mang tính nam quyền từ lâu luôn tồn tại những quan niệm bất công,
khe khắt đến mức cực đoan như “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã
dành mọi ưu tiên cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém
nhất trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Những quan niệm đó không những đã
ăn sâu vào những nếp nghĩ, hành động của con người mà nó còn được phản ánh
ngay cả trong những tác phẩm văn học. Nỗi niềm ấy đã được gửi gắm qua những
câu ca dao từ xa xưa như:
- Khôn ngoan cũng thể đàn bà
Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông.
- Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc nhƣ cơi đựng trầu.
-Đàn ông rộng miệng thì sang
Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà.
Ngay từ những câu ca dao xưa cũng đã phân định rõ quan niệm về vai trò
của người đàn ông và người phụ nữ. Như một lẽ tất nhiên người phụ nữ từ ngày
xưa vốn mong manh, phụ thuộc, ít có tiếng nói trong gia đình và ngoài xã hội.
Những quan niệm đó chuyển thành phong tục tập quán, hòa quyện nhuần nhuyễn
vào đời sống xã hội hiện đại như một dạng đạo đức như “thiên chức”, “hi sinh”
là “nữ tính”, “nhƣờng nhịn” đã mặc định và gán cho phụ nữ những trách nhiệm
“nhỏ thì lo trao dồi nữ công nữ hạnh, có chồng thì lo “thờ” chồng nuôi con, việc
đã thƣờng mà lại cũ, có ai nói tới làm chi, cho nên nó không thành vấn đề”. Bên
cạnh đó, định kiến về giới của nho giáo cũng quan niệm người đàn ông là trụ cột
của gia đình, người làm việc lớn:
-Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm
36
-Đàn ông lo cái nhà, đàn bà lo cái bếp
Điểm qua một vài bài ca dao về người phụ nữ, người đàn ông trong xã hội
cũ, chúng ta thấy được xã hội nho giáo vẫn mang nặng quan niệm định kiến với
cả hai giới. Trên phương diện quan niệm về công việc và sự nghiệp nam và nữ
cũng thể hiện rõ nét sự định kiến, phân biệt đối xử. Người đàn ông trong ca dao,
tục ngữ bao giờ cũng mang trọng trách sinh ra để làm những công việc lớn:
- Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đông Nai đã từng
- Đã sinh ra kiếp đàn ông
Đèo cao, núi thẳm, sông cùng sá chi
Nếu như bản thân người đàn ông nào đó mà không hoàn thành được sự
nghiệp của mình thì hầu như đều “vin” cho nỗi đau:
Bận chân con, vợ, gia đình
Tang bồng hồ thỉ chỉ nhìn mà đau
Với đàn ông, không ai là không thấy khó chịu khi bị mang tiếng là “bất
lực” hay “núp váy vợ”…Đó được xem là sự mỉa mai khá lớn với họ:
- Làm trai rửa bát quét nhà
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà tôi đây!
- Làm trai cho đáng nên trai
Khom lƣng, gắng sức gánh hai hạt vừng
Về mặt giao tiếp xã hội, nội dung của ca dao, tục ngữ còn thể hiện nhiều
định kiến đối với người phụ nữ và đàn ông trên phương diện tình yêu lứa đôi.
Phụ nữ thường là những người thụ động, chỉ biết tập trung vào công việc gia
đình, làm “nội tướng” trong nhà. Trong tình yêu, họ cũng luôn thụ động:
Bồ câu mà đỗ nóc nhà
Mấy đời đàn bà đi hỏi đàn ông
Do vậy, họ luôn mặc cho số phận mình ở trong tay người khác:
Thân em nhƣ giếng giữa đàng
Ngƣời khôn rửa mặt, ngƣời phàm rửa chân
37
Trái lại, người đàn ông lại hoàn toàn chủ động trong chuyện yêu đương:
Ai xin anh lấy đƣợc mình,
Để anh vun xới ruộng tình cho xanh.
Ai xin mình lấy đƣợc anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Có thể nói, bên cạnh những giá trị tốt đẹp của không ít những định kiến giới
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam thì những định kiến đó phần nào cũng là rào cản cho
sự phát triển của xã hội, ăn sâu vào tiểm thức và sự nhận thức của con người.
Nhưng phải đến văn học trung đại Việt Nam, khi nho giáo chiếm vị trí độc
tôn, ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức tư tưởng, quan niệm về con người thì vấn đề
bổn phận con người trong xã hội nam quyền càng được phân biệt rõ ràng, đặc
biệt là trên phương diện giới. Đã có rất nhiều nhà nho có quan điểm rõ ràng về
vai trò, chức năng của người đàn ông và đàn bà trong xã hội như Nguyễn Công
Trứ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương hay Nguyễn Đình Chiểu…Tuy nhiên, nói về
số lượng thì các sáng tác viết về đàn ông nhiều hơn, đó đa phần cái nhìn của nho
sĩ về người đàn ông. Thân phận của người đàn ông trong giai đoạn này được đề
cao như những chính nhân quân tử, nho giáo dạy nam giới yên phận, lạc mệnh,
từ đó mà trung quân, vì quân là thiên tử. Nho giáo cũng dạy họ trau đức, sửa
mình, giữ lễ, lời khéo không đáng tin, lời đẹp thì không thật.
Nhìn tổng thể tiến trình văn học trung đại Việt Nam, chúng ta có thể thấy
ở mỗi một giai đoạn văn học, quan niệm về giới lại có những sự thay đổi rõ rệt.
Quan niệm con người cá nhân chịu sự ảnh hưởng sâu đậm của ý thức hệ nho
giáo. Đặc điểm chung của các sáng tác giai đoạn này là với cái nhìn nam quyền,
nho giáo chủ trương coi thường phụ nữ, đề cao nam nhi, quân tử, coi nhẹ phụ nữ
hồng nhan, tài sắc. Cho nên, hầu hết các sáng tác văn học đề tập trung ca ngợi
người nam nhi “tu thân, lập thân” để xây dựng chí lớn. Đại diện cho giai đoạn
này, chúng ta phải kể đến Nguyễn Trãi và những sáng tác của ông. Như đã biết,
nhắc đến Nguyễn Trãi người ta thường nói tới một con người nhân nghĩa, yêu
nước, thương dân, ra đi tìm cội nguồn lịch sử và dân tộc. Cá nhân Nguyễn Trãi
38
nổi bật ở sự day dứt lựa chọn giữa các tư tưởng, các con đường lập thân, dưỡng
thân và nhất là bảo thân, nhưng rốt cuộc ông vẫn không thoát được lưỡi gươm
oan nghiệt của số phận. Nguyễn Trãi đã từng bỏ mặc cả “thi thƣ” để “tu thân”:
Chỉn xá lui mà thủ phận
Lại tu thân khác, mặc thi thƣ
(Mạn Thuật – XII)
Triết học nho giáo đã đặt ra những nguyên tắc cho cuộc đời, những thứ
bậc buộc con người phải luôn luôn tôn trọng. Những nguyên tắc ấy, nho giáo nói
đến mối tương quan giữa gia đình và xã hội. Đó là ba mối quan hệ quan trọng chi
phối trong mọi tình cảm và bổn phận con người: quân thần, phụ tử, phu thê. Mặt
khác, nho giáo cũng nêu lên những đức tính quan trọng mà con người cần phải có
để cho con người và cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn, đó là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Nguyễn Trãi là một nho sĩ, là một nhà đạo đức nên ông đã hướng đến luân lý của
nho giáo. Nguyễn Trãi đã đi theo đường lối “văn dĩ tải đạo” của nho giáo, nghĩa
là đem văn chương để truyền bá tư tưởng, đạo lý của thánh hiền. Trước tiên ta
thấy trong sáng tác của ông luôn nói đến trung và hiếu, bổn phận của người nam
nhi cần có trong xã hội. Con người của Nguyễn Trãi luôn hướng đến bổn phận
thiên liêng đối với gia đình và đất nước. Đặc biệt, lúc nào ông cũng tâm niệm về
hai chữ trung hiếu:
“Bui có một niềm chăng nỡ trễ
Đạo làm con mấy đạo làm tôi”.
(Ngôn chí – bài 1)
“Quân thân chƣa báo lòng canh cánh
Tình phụ cơm trời, áo cha”.
(Ngôn chí – bài 7)
Trong sáng tác của mình, Nguyễn Trãi cũng nói nhiều về nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín:
“Thấy lợi thì làm cho phải nghĩa,
Mã tây mặc khiến mấy lòng đan”.
39
(Bảo kính cảnh giới – Bài 6)
“Bầu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong,
Ngƣời kia phú quý nỡ quên lòng.”
(Bảo kính cảnh giới – Bài 51)
“Khuyên kẻ trƣợng phu xin ở thế,
Hễ đừng bất nghĩa chớ loàn đơn”.
(Bảo kính cảnh giới – Bài 58)
Nguyễn Trãi đã sống trong một xã hội tan rã vì chiến tranh cho nên ông đã
ý thức được bổn phận của kẻ sĩ. Ông khuyên con người hãy lấy nghĩa mà đối xử
với nhau. Trong thơ Nguyễn Trãi, những quan niệm về tam cƣơng, ngũ thƣờng
luôn luôn kết hợp với nhau:
“Thủy chung mỗ vật đều nhờ chúa,
Động tĩnh nào ai chẳng bởi thầy.
Hỉ nộ cƣơng nhu tuy đã có,
Nghĩa nhân lễ trí mã cho khuây”.
(Mạn thuật – Bài 3)
Theo quan niệm của ông, hình tượng người quân tử phải là người tài đức
vẹn toàn:
“Đạo đức hiền lành đƣợc mọi phƣơng,
Tự nhiên cả chúng muốn suy nhƣờng”.
(Bảo kính cảnh giới – Bài 1)
“Ngõ cửa nhân chờ khách đến,
Trồng cây đức để con ăn”.
(Mạn thuật – Bài 5)
“Tài đức thì cho lại có nhân,
Tài thì kém đức một hai phân.
Thờ cha lấy thảo làm phép,
Gặp chúa hằng ngày mấy cần”.
40
(Bảo kính cảnh giới – Bài 57)
Rõ ràng trong thơ ông, chữ đức luôn đứng đầu. Ông đã lấy lòng nhân của
nho giáo mà khuyên răn con cháu, dạy bảo hậu sinh bằng những lời thơ thật tha
thiết. Đi xa hơn nữa, ông còn vạch ra một chương trình hành động cho kẻ sĩ. Khi
đã ra làm quan thì kẻ sĩ phải hết lòng trung thành với vua với tổ quốc, phải đem
những lời đạo đức để can gián vua chớ nên xu nịnh, làm điều gian tà hại nước hại
dân. Ông cho rằng kẻ sĩ phải có tấm lòng như Ngụy Trưng đời Đường, Bao
Chửng đời Tống của Trung Quốc:
“Khoe tuyết làu làu nơi học đạo
Ở triều khăn khắn chữ trung cần”.
(Bảo kính cảnh giới – Bài 60)
“Ở đài các giữ lòng Bao Chửng,
Nhậm tƣớng khanh thì thói Ngụy Trƣng”.
(Bảo kính cảnh giới – Bài 61)
Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến và các nhà nho khác, Nguyễn
Bỉnh Khiêm luôn mang nặng trong lòng hai chữ trung quân, lúc nào ông cũng
canh cánh một điều “Lộc nặng ơn nhờ đức thánh minh” (Thơ Nôm, bài 125).
Bản thân ông, xét về loại hình nhân cách, ông là một nhà nho quân tử. Nguyễn
Bỉnh Khiêm sống vào giai đoạn nho giáo trở thành độc tôn và trong giai đoạn đất
nước đang bị chia cắt, nhân dân cực khổ và nổi loạn. Do vậy, nhà nho quân tử
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đặt ra vấn đề mới đối với những kẻ sỹ thời bấy giờ. Theo
ông, đã là một trang nam nhi, kẻ sĩ thì vấn đề cốt yếu, mang tính lý tưởng vẫn là
lòng trung thành với nhà vua chính thống. Nhưng ở thời Nguyễn Bỉnh Khiêm,
các khái niệm vua và nƣớc không còn trùng khít nữa, quyền lợi của vua mâu
thuẫn với quyền lợi của dân, nên việc trung thành với một ông vua ngu tối (hôn
quân) sẽ trở thành ngu trung: vấn đề chọn chủ được đặt ra. Thay vì ra giúp nước
thì ông lại chọn con đường sống nhàn- ẩn dật để giữ cho mình cái cốt cách thanh
cao của người quân tử “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Ngƣời khôn ngƣời đến chốn
41
lao xao”.
Nếu như trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh lý tưởng
cao thượng là lý tưởng thoát tục, diệt dục, thuần khiết trong sáng, thì vớiTruyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì “dục”, nhất là tình dục, vật dục được xuất hiện
như một phạm trù của cá nhân, nhưng được hiểu như những biểu hiện phản diện.
Con người cá nhân xuất hiện dưới những phẩm chất phản diện, dưới hình thái
của cái ác, cái xấu. Trọng Quỳ đánh bạc gán vợ (Nhị Khanh); Trung Ngộ tham
dục với hồn ma cây gạo (Nhị Khanh); Dương Thiên Tích dựa thế trả thù báo oán
lặt vặt; chàng Hà Nhân mê đắm hai hồn hoa Liễu, Đào; thần Thuồng luồng bắt
nàng Dương thị danh kỹ Hàn Than với sư Vô Kỷ tham dục, thác sinh thành
Thuồng luồng; mối tình bất chính của hồn oan Thị Nghi với viên quan họ Hoàng
; các hạng vua quan tham ác trong truyện Ngƣời tiều phu núi Na ; các tượng thần
ăn trộm ở chùa hoang Đông Trào ; Lý tướng quân làm ác bị Diêm Vương trị tội ;
cô Tuý Tiêu bị bắt, Dư Nhuận Chi tìm cứu ; người con gái Nam Xương chết oan
vì chồng ghen bóng ghen gió... Trong hệ thống những nhân vật của Truyền Kỳ
Mạn Lục, có xuất hiện những nhân vật nữ bên cạnh nam giới, nhưng phần lớn họ
được xem như yếu tố gây hại cho những nam nhi, sĩ tử. Họ đa phần được nhìn
nhận dưới những thân phận ma quỷ, bị chết oan và lên án…Và những người nam
giới mê đắm sắc đẹp thì đều bị coi là những nhân vật xấu, phản diện, đi ngược lại
so với quan niệm về người quân tử. Nói chung, khuynh hướng tác giả là khuyến
thiện, trừng ác, đề cao công đức, lên án vật dục, tình dục, theo tư tưởng Nho giáo
đời Tống “Diệt nhân dục, tồn thiên lý”. Những ai lánh xa bụi trần, vật dục thì
được lên tiên, thành tiên, lên trời như Từ Thức, Dương Trạm, Vũ Nương. Những
ai tham lam, hám lợi, đều bị trị tội ở Địa phủ của Diêm Vương. Các nhu cầu
hưởng thụ cá nhân, ích kỷ được xem là có cội nguồn yêu quỷ, giao long, thuồng
luồng, hắc ám. Tuy nhiên, “dục” của cá nhân tự do trong tình yêu nam nữ, tuy
không được thừa nhận trong lời bình, nhưng lại được miêu tả như những cuộc
tình kỳ ngộ lãng mạn đáng nhớ. Cuộc gặp của Trung Ngộ với hồn ma Nhị Khanh
cô quạnh đầy ân ái, xướng hoạ, với lý tưởng hành lạc. Cuộc kỳ ngộ ái ân xướng
42
hoạ của Hà Nhân ở trại Tây, rồi kỳ ngộ Hàn Than và Vô Kỷ, Nhuận Chi và Tuý
Tiêu, Phật Sinh với Lệ Nương, Thị Nghi với quan họ Hoàng, đều là những cuộc
gặp gỡ ngoài lễ giáo, hôn thú, thuần tuý cá nhân, những mối tư tình lấy hưởng
thụ làm mục đích, dĩ nhiên không được nhà nho chấp nhận về mặt đạo lý, song
về mặt tình cảm, lại được ngòi bút tác giả ưu ái miêu tả khá đẹp với những vần
thơ tình tứ đặc sắc. Những bài thơ của Nhị Khanh, của hai nàng Liễu, Đào tả
những cảm xúc ân ái thật táo bạo, hiếm có trong văn học thời ấy, và cũng khó
xuất hiện dưới dạng phi truyền kỳ. Tóm lại, trong văn học giai đoạn thế kỷ XV
đến XVII, quan niệm về giới được xuất hiện dưới hai hình thái chính : hoặc là lìa
bỏ công danh, lìa bỏ thị phi, khen chê, “độc thiện kỳ nhân”, đối lập với kẻ khác
phàm tục; hoặc là đam mê vật dục, sắc dục như một tội lỗi, trái với đạo lý nhưng
đã không còn mặc cảm tội lỗi, trái lại đã biểu hiện được cảm giác đam mê, đẹp,
lãng mạn.
Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đến hết XIX chịu ảnh hưởng khá sâu
đậm của tư tưởng nho giáo, văn học giai đoạn này vẫn chủ yếu viết về người đàn
ông và ca ngợi chí nam nhi. Các nhà nho tập trung khai thác người đàn ông từ
những trách nhiệm, lý tưởng giúp dân, giúp nước và thông qua đó bày tỏ hình
mẫu người anh hùng của thời đại. Đó là cái nhìn có phần khắc kỷ của người đàn
ông dành cho người đàn ông. Cùng với hệ thống quan điểm, nho giáo còn xây
dựng cho mình một hình mẫu con người lý tưởng, đó là hình mẫu người quân tử
đối với nam giới. Trong lịch sử nho giáo, đây là hình mẫu được nhắc đến thường
xuyên, là niềm tự hào của nho giáo để bảo vệ trật tự phong kiến. Nói cách khác,
kẻ sĩ và người quân tử là những người được giáo dục và trưởng thành lên từ tầng
lớp thứ dân, nhờ học đạo mà làm quan “trí quan, trạch dân”. Chính vì lý tưởng
của nho giáo là giáo dục con người có nhân cách để phụng sự chính trị, phong
kiến nên việc giáo dục con người trở thành mẫu người quân tử đã trở thành vấn
đề quan trọng nhất mà nho giáo hướng tới.
Đại diện cho quan niệm về chí nam nhi trong giai đoạn này là tác giả
Nguyễn Công Trứ - một cây bút khẳng định bổn phận của người đàn ông trong
43
xã hội phong kiến. Nếu xét về sự gặp nhau trong tư tưởng của Nguyễn Đình
Chiểu và Nguyễn Công Trứ, ta có thế thấy được đó là chí nam nhi với mộng
công danh. Nguyễn Công Trứ khi nói về lý tưởng sống của nhà thơ khi còn trẻ,
ông đã từng nói:
Thiên phú ngô, địa tái ngô
Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý
Nguyễn Công Trứ cho rằng con người sống ở đời nhất thiết phải làm việc
có ích cho đời:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông
Hay:
Vũ trụ giai ngô phận sự
Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn
Ở đây có thể thấy, đối với Nguyễn Công Trứ, “công danh” là bổn phận và
đích đến của người đàn ông, nó luôn luôn gắn với quan niệm trung hiếu và đạo
quân thần.
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thời thác với cỏ cây
Tuy nhiên, quan niệm của ông về người quân tử có chút khác với giai đoạn
trước. Nếu như giai đoạn trước, người quân tử thường gò bó mình bằng chủ
nghĩa khắc kỷ thì đến giai đoạn này, hình ảnh người nam nhi mà Nguyễn Công
Trứ muốn gửi gắm, ngoài mộng công danh thì đó còn là một đấng nam nhi phong
lưu tài tử đa tình. Ông công khai nói đến thú hành lạc của mình, một thú hành lạc
có nội dung phi truyền thống khiến không ít các nhà nho bấy giờ và hầu như tất
cả các nhà đạo đức hôm nay đều không thể không phản ứng:
“Thú tiêu sầu rƣợu rót thơ đề
Có yến yến hƣờng hƣờng mới thú!
Khi đắc ý mắt đi, mày lại
Đủ thiên thiên thiên, thập thập thập thêm nồng...”
44
(Tài tình)
Nguyễn Công Trứ đặt hành lạc ngang với hành đạo. Ông say sưa nói đến chí
làm trai (có lúc ông cũng gọi là chí nam nhi, chí khí anh hùng, nợ tang bồng, tang
hồ bồng thỉ…) và đặt công lao sự nghiệp ngang với đạo quân thần, đặt công danh
ngang với trung hiếu. Lời lẽ của ông thật tự tin, ngạo nghễ:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể…”
(Chí khí anh hùng)
Có thể xem Luận kẻ sĩ như một tuyên ngôn về lẽ sống đồng thời cũng như là
tuyên ngôn về nghệ thuật đầy chân thành, xúc động và cũng rất mực rõ ràng của
Nguyễn Công Trứ. Tuy có hơi ồn ào nhưng nhìn chung ông là người xác định rất
đúng về bản thân mình, không hề và không cần che giấu một điều gì:
Đƣợc mất dƣơng dƣơng ngƣời thái thƣợng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vƣớng tục...
(Bài ca ngất ngƣởng)
Chúng ta cũng gặp quan niệm này trong bài Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của
tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ
mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về
những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của
Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Ông còn sử dụng một điển tích (Vũ Hầu)
để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử còn vƣơng nợ
45
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
Công danh mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh
được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công.
Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân.
Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng
xương máu và lòng dũng cảm. Hiện tượng “ngƣời đàn ông” trở thành hình mẫu
xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm văn học trung đại. Cùng với đó, “làm
trai” – bổn phận đầy tự hào được là đấng nam nhi đứng giữa trời đất, được
khẳng định mình và cống hiến cho đời cũng được nhấn mạnh trong sáng tác của
các nhà nho yêu nước.
Không thể không kể đến tác gia Nguyễn Du, các sáng tác của ông cũng
góp phần xây dựng một cái nhìn mới, tiến bộ về nam giới qua các nhân vật như
Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Từ Hải, Kim Trọng bằng cái nhìn về con người. Theo
nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho thấy là : “Nguyễn Du đã nhận thức về con
ngƣời một cách toàn diện. Con ngƣời không chỉ là thần dân, con ngƣời cần đƣợc
quan tâm về phƣơng diện vật chất. Con ngƣời có thân xác, do đó có quyền sống
về mặt thân xác; có trái tim, do đó có quyền đƣợc mong muốn, ƣớc ao, buồn vui,
hi vọng hay đau khổ, có quyền sống riêng về tƣ tƣởng. Ngợi ca con ngƣời theo
lập trƣờng nhân bản, không thể không ngợi ca vẻ đẹp chân dung và hình thể con
ngƣời” [39, tr. 270]. Dù không nhắc đến hai chữ “quân tử” nhưng ta có thể thấy
nhân vật Từ Hải là đại diện cho lý tưởng của Nguyễn Du:
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi
Sao bằng riêng một biên thùy
Sức này đã dễ làm gì đƣợc nhau
Chọc trời khuấy nƣớc mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
Thế nhưng, anh hùng cũng không qua nổi ải mỹ nhân, Từ Hải biết Kiều
tuy là gái lầu xanh nhưng vẫn:
46
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đƣa tới lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ƣa
Hay như nhân vật Thúc Sinh có mê Kiều cũng như bao nhiêu người mê
gái khác, chỉ nhằm vào thú vui vật chất, dần dà có quấn quýt:
Sớm đào, tối mận, lân la,
Trƣớc còn trăng gió, sau ra đá vàng.
Hay là:
Miệt mài trong cuộc truy hoan
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình
Nguyễn Du cố ý nhấn mạnh tư cách tầm thường trong gã đàn ông Thúc
Sinh, có tiền, nhưng chỉ có thể có sự say mê tầm thường. Ta có thể thấy Nguyễn
Du đã có cái nhìn hết sức chân thực về con người, họ không còn là những con
người theo chủ nghĩa khắc kỷ nữa mà họ sống theo nhu cầu của con người. Đó là
những con người trần tục, nhục cảm xuất hiện trong thơ để khẳng định nhu cầu
sống tự nhiên của con người.
Khi nói về người phụ nữ, chỉ có một số ít là viết về thân phận người nữ
giới thông qua tác phẩm của một số tác giả như Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương
hay Nguyễn Du. Ở mỗi nhà thơ thì tiếng nói bênh vực người phụ nữ lại khác
nhau nhưng đều là những tiếng nói bênh vực, cảm thông đối với sự thiệt thòi của
người phụ nữ. Khi nói về số phận nàng Kiều, Nguyễn Du đau xót viết rằng:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Người phụ nữ trong văn học trung đại hầu hết là những thân phận phải
chịu nhiều thiệt thòi, họ là nạn nhân của một số quan niệm nho giáo. Tư
tưởng“trọng nam khinh nữ” là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những bi kịch số
phận của phụ nữ. Người phụ nữ không được quyền quyết định số phận mình,
không được học hành, họ phải chấp nhận sống phụ thuộc. Chỉ riêng điều ấy thôi
47
cũng đủ để họ phải chịu nhiều bất hạnh hơn đàn ông. Mềm yếu, đa sầu, đa cảm và
cả đa đoan đã khiến người phụ nữ luôn rất nhạy cảm với những bất hạnh của mình
dù họ sống trong xã hội nào. Trong xã hội cũ, người đàn ông có quyền được lấy
“năm thê bảy thiếp”, thì những bất hạnh mà người phụ nữ phải ghánh chịu lại càng
lớn hơn. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương – người phụ nữ đầy bản lĩnh – đã phải thốt lên đầy
uất ức khi phải sống trong nỗi tủi hờn ấy:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cho cái kiếp lấy chồng chung
Nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu thanh kí của Nguyễn Du và người cung
nữ trong Cung oán ngâm cũng chịu chung nỗi đau như thế. Nàng Tiểu Thanh tài
sắc vẹn toàn lại đa sầu đa cảm phải lấy lẽ người đàn ông họ Phùng, nàng bị người
vợ cả của chồng hành hạ đến phải chết trong cảnh cô đơn. Còn những người cung
nữ vốn là những trang quốc sắc thiên hương thì phải sống mỏi mòn trong cảnh cô
đơn buồn tủi vì bị vua chúa bỏ quên giữa chốn thâm cung nơi chế độ phong kiến
mang tính chất phụ quyền, nơi quyền lợi của người đàn ông được bảo vệ.
Sang đầu thế kỉ XX, các nhà nho duy tân vẫn giữ những quan niệm văn
học truyền thống Quốc gia hƣng vong, thất phu hữu trách. Tinh thần tự nhiệm đã
làm nên vẻ đẹp đặc biệt của hình tượng nam nhi, anh hùng. Lí tưởng nam nhi,
trượng phu vẫn giữ nguyên vẻ đẹp hấp dẫn. Hình tượng người nam nhi xuất hiện
trong thơ văn của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu vẫn thể hiện là những con người
hành động, con người bản lĩnh, đầy lạc quan, tin tưởng vào tài năng của mình:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
( Đập đá ở Côn Lôn - Phan Châu Trinh)
hay người nam nhi phải làm được những sự nghiệp lớn lao, được lưu danh vào sử sách:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di!
48
Ƣ bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cách vô thuỳ.
( Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời!
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai.)
(Xuất dƣơng lƣu biệt - Phan Bội Châu)
Con người thánh nhân, quân tử truyền thống với ý chí làm chủ, kiểm soát phần
thân xác bản năng để vươn tới lí tưởng đạo đức cao cả, biến sức mạnh tinh thần thành
sức mạnh vật chất to lớn vẫn là mẫu hình đẹp được các nhà chí sĩ yêu nước phát huy:
Ai cố gắng từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dƣỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn.
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa,
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...
(Bài ca chúc tết thanh niên - Phan Bội Châu)
Tiểu kết
Bằng việc khảo sát hệ thống những quan niệm về giới qua một số tác gia
tiêu biểu thuộc diễn trình văn học trung đại từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, chúng tôi
đã phân tích một số biểu hiện cơ bản về giới cũng như quan niệm về người đàn
ông và người phụ nữ trong văn học trung đại. Có thể thấy rằng, ở đây có sự
chuyển hướng trong việc đánh giá vai trò của mỗi giới. Nếu như giai đoạn đầu có
sự trở đi trở lại của mẫu hình “thánh nhân quân tử” đối với nam giới, tôn trọng
chủ nghĩa khắc kỷ, coi thường nữ sắc thì đến giai đoạn sau, văn học đã có sự xuất
hiện khá nhiều những tác phẩm là tiếng nói bênh vực phụ nữ và nhìn nhận người
nam giới trên phương diện bản năng, cũng từ đó quyết định thái độ khen chê
đúng đắn với họ. Thông qua việc thống kê này, chúng tôi muốn xem xét, đánh
giá quan niệm về giới của Nguyễn Đình Chiểu dựa trên cái nhìn so sánh với các
49
tác gia khác, để thấy được cách thể hiện quan điểm về các nhân vật nam trong tác
phẩm Lục Vân Tiên. Từ đó, đánh giá sự tiến bộ cũng như bảo thủ trong quan
50
niệm của ông về giới.
CHƢƠNG 2:
NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN TỪ GÓC NHÌN
CỦA LÝ TƢỞNG VỀ NGƢỜI ANH HÙNG VÀ KẺ SĨ
2.1. Sức mạnh thể chất
Văn học trung đại đánh giá con người trên bình diện đạo đức và dựa vào
đó để xây dựng thái độ khen chê với nhân vật. Truyện Lục Vân Tiên là kết quả
của sự ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo và quan niệm nhân dân. Do vậy hệ
thống nhân vật trong truyện, đặc biệt là nhân vật nam giới chính diện mang
những nét tiêu biểu, đặc trưng cho khuôn mẫu người anh hùng quân tử. Ngay từ
đầu Nguyễn Đình Chiểu đã mở đầu tác phẩm bằng những lời răn dạy:
Trƣớc đèn xem truyện Tây Minh
Gẫm cƣời hai chữ nhân tình éo le
Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trƣớc, lành dè thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình
Từ quan niệm này, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên cả một hệ thống
nhân vật nam giới đối lập về phẩm chất, tính cách, ngoại hình lẫn hành động.
Nhìn chung Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng nhân vật của mình theo
phương pháp truyền thống: ông chia nhân vật thành hai tuyến chính diện và phản
diên. Nhân vật chính diện được miêu tả theo lối lý tưởng hóa bằng phương pháp
ước lệ, tượng trưng. Còn nhân vật phản diện lại được khắc họa theo lối tả thực.
Thuộc về phía chính diện, đứng đầu là Lục Vân Tiên văn võ toàn tài, mang
những phẩm chất lý tưởng của người anh hùng phong kiến. Bên cạnh đó là
Vương Tử Trực ngay thẳng, Hớn Minh bộc trực. Đây là những nhân vật thuộc
tầng lớp trên trong xã hội. Cũng thuộc phe chính diện là những người thuộc tầng
lớp dưới nhưng đại diện cho cái thiện còn kể đến tiểu đồng, ông Quán, ông Ngư,
51
ông Tiều - những ẩn sĩ trong lớp vỏ bình dân.
Nhân vật Lục Vân Tiên- mẫu hình thánh nhân quân tử là nhân vật được
gửi gắm nhiều ước mơ của nhân dân cũng như của tác giả. Quan niệm về mô
hình thánh nhân quân tử, nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn có viết “Thánh nhân
quân tử là mô hình lý tƣởng của nho gia. Có rất nhiều kiểu loại nhân vật lý
tƣởng hoặc nhân vật chính diện: những đấng bậc anh hùng, thánh nhân, vua
chúa, nho gia, Thiền sƣ, những nhân vật tài đức lỗi lạc. Nhìn chung xét về giới
tính, đây chủ yếu nói về những nhân vật đàn ông. Các nhân vật này đƣợc đánh
giá theo chuẩn mực Nho giáo hay Phật giáo nhƣng đều là nhân vật phi phàm,
xuất chúng nên đều chịu sự chi phối của một quan niệm chung mang tính chất
văn hóa về nhân cách”[39, tr. 407]. Được xây dựng là nhân vật lý tưởng, Vân
Tiên được ưu ái về ngoại hình, hình thể hơn người của mình, đó là vẻ đẹp nam
tính. Vẻ đẹp này được nhìn dưới con mắt Võ Thể Loan - điểm nhìn của người
muốn gả con gái cho Lục Vân Tiên, nên thấy tướng mạo tốt đẹp.
Liếc coi tƣớng mạo Vân Tiên
Khá khen họ Lục phƣớc hiền sanh con
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mƣời phân cốt cách vuông tròn mƣời phân
Những e kẻ Tấn ngƣời Tần
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ gai
Xem đà đẹp đẽ hòa hai
Nầy dâu nam giản nọ trai đông sàng
Bằng những câu thơ mang tính ước lệ, lối nói khoa trương, Nguyễn Đình
Chiểu đã xây dựng nên hình ảnh Lục Vân Tiên “mƣời phân, cốt cách vuông tròn
mƣời phân”. Mặc dù đây là những lời khen của Võ Thể Loan dành cho nhân vật,
nhưng ta có thể thấy được màu sắc lý tưởng hóa nhân vật của tác giả. Tác giả
cũng không ngớt lời khen những về tướng mạo. Ở Vân Tiên dường như không có
nét nào kệch cỡm. Đó là một cái đẹp mà không phải bất cứ nam nhân nào cũng
có. Ông miêu tả khuôn mặt Vân Tiên “mày tằm mắt phụng môi son”. Mắt
52
phượng là loại mắt không quá nhỏ, lòng đen mắt thật đen và sáng, đây là những
nét thường thấy trên khuôn diện của các nhân vật tiểu thuyết Trung Hoa cổ điển.
Cách miêu tả này gần giống với cách miêu tả của La Quán Trung về Quan Vân
Trường. Trong Tam Quốc diễn nghĩa có đoạn Huyền Đức nhìn xem thấy người
ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt đỏ như gấc, môi như tô son, mắt
phượng, mày tằm, oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ
tên. Người ấy nói: Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân
Trường, người làng Giải Lương, tỉnh Hà Đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế
hiếp người, tôi bèn giết chết rồi đi làm kẻ giang hồ đã năm, sáu năm rồi. Nay
nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc nên tôi đến ứng mộ. Vẻ đẹp của Lục Vân
Tiên còn được Nguyễn Đình Chiểu tả:
Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô
Lục Vân Tiên lúc này được miêu tả như vị anh hùng, một võ tướng oai
phong. Với cái nhìn của Nguyễn Đình Chiểu thì trong con mắt của ông Lục Vân
Tiên có dáng dấp của anh hùng lý tưởng với đầu đội “kim khôi bằng vàng”, tay
cầm “siêu bạc”, ngồi “ngựa ô” chứ không phải nhân vật kẻ sĩ. Vẻ đẹp lý tưởng
của Lục Vân Tiên được lý tưởng hóa có chút tương đồng với nhân vật Từ Hải
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Từ Hải cũng được giới thiệu như một nhân
vật có bề ngoài phi thường:
Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mƣời tấc cao
Và một bản lĩnh hơn người:
Côn quyền hơn sức, lƣợc thao gồm tài”
Với Lục Vân Tiên không chỉ đẹp về ngoại hình mà chàng còn là con
người có tài năng vừa giỏi văn vừa giỏi võ:
Văn đà khởi phụng đằng giao
Võ thêm ba lƣợc, sáu thao ai bì
Chàng là người văn võ kiêm toàn lại luôn sẵn sàng ra tay cứu giúp người
53
khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ Tôn sư xuống núi, định về kinh ứng thi, trên đường
đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ chạy, chàng liến hỏi chuyện mới hay
có một bọn cướp dữ vừa phá làng xóm và bắt đi hai cô gái. Lục Vân Tiên không
chịu nổi cản bất bình, nổi giận:
Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm lũ nó còn dình nơi nao.
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu ngƣời cho khỏi lao đao buổi này.
Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:
Vân tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Lục Vân Tiên đánh cướp, trước hết bộc lộ sức mạnh nam tính, hành
động dứt khoát của đấng nam nhi văn võ toàn tài. Hành động “bẻ cây làm gậy
nhằm làng xông vô” của chàng trai Vân Tiên thật đẹp, mãnh liệt và dứt khoát. Đó
là hình ảnh một chàng trai nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân. Tác giả miêu tả
hình ảnh con nhà võ mạnh mẽ của chàng “Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào
Triệu Tử phá vòng Đƣơng Đang. Đây là sự đối đầu giữa chàng thư sinh anh hùng
với tên Phong Lai “mặt đỏ phừng phừng” và đám quân “bốn phía phủ vây bịt
bùng”. Nhà thơ miêu tả hình ảnh Lục Vân Tiên “tả đột hữu xung” và sử dụng
điển tích: “Khác nào Triệu Tử phá vòng Đƣơng Dang”…để khắc họa hình ảnh
mạnh mẽ, đầy nghĩa khí của Vân Tiên. Theo tiểu thuyết chương hồi Tam quốc
diễn nghĩa của La Quán Trung (Trung Quốc), nhân vật viên tướng trẻ Triệu Vân,
còn gọi Triệu Tử Long, đã một mình phá vòng vây của Tào Tháo, bảo vệ được A
Đẩu, con của chủ tướng Lưu Bị. Việc sử dụng điển tích, so sánh Lục Vân Tiên
với Triệu Tử Long khiến cho câu thơ trở nên hàm súc, phát huy được lối nói
khoa trương, tôn vinh phẩm chất nhân vật cũng ngang bằng với người anh hùng
nổi tiếng thời Tam quốc. Có thể nói, về ngoại hình Vân Tiên cũng chẳng kém Từ
Hải của Nguyễn Du là bao nhiêu.
Nằm trong hệ thống những nhân vật chính diện, Hớn Minh cũng được
54
Nguyễn Đình Chiểu tô đậm những nét về ngoại hình và hành động bằng thủ pháp
ước lệ. Nếu như Lục Vân Tiên được nhắc đến như hình ảnh một thư sinh trắng
trẻo, giỏi võ nghệ thì Hớn Minh hiện qua con mắt của Lục Vân Tiên mang chút
dị biệt:
Xa xem mặt mũi đen sì,
Mình cao sồ sộ dị kỳ rất hung
….Vân Tiên biết lẽ chánh tà
Hễ ngƣời dị tƣớng ắt là tài cao
Ngay từ những câu thơ giới thiệu về nhân vật Hớn Minh, chúng ta có thể
liên tưởng đến hình ảnh tráng sĩ với tính cách ngang tàn, mạnh mẽ. Vẻ bề ngoài
có phần dị biệt, được tiên đoán “hễ ngƣời dị tƣớng ắt là tài cao”, Hớn Minh
được giới thiệu có phần gần gũi với hình ảnh nhân vật Trương Phi trong Tam
quốc diễn nghĩa. Trương Phi – một mãnh tướng của nhà Thục Hán đời Tam
Quốc, được miêu tả là một người “thân cao 8 thƣớc, đầu báo mắt tròn, hàm én,
râu hổ, tiếng nói nhƣ sấm, dáng nhƣ ngựa phi…” và hình ảnh Trương Phi được
định hình như một kẻ vũ phu lỗ mãng, bộc trực, nóng nảy và ít chữ nghĩa. Trong
Tam Quốc diễn nghĩa đã có nhiều đoạn miêu tả về sự lỗ mãng của Trương Phi,
thậm chí người Trung Quốc có thành ngữ “Mãng Trương Phi” (lỗ mãng như
Trương Phi) hay người Việt Nam có câu “Nóng tính như Trương Phi” ... Với vẻ
ngoài có chút dị biệt, nhân vật Hớn Minh còn được đặc tả là một nhân vật mạnh
mẽ, thích dùng hành động để giải quyết mọi tình huống, thậm chí là có phần
nóng tính. Chàng vốn là con nhà nho, cũng có những hành động “quyết liệt” khi
nhìn thấy những việc “ngang tai, trái mắt”, chàng đến huyện Loan Minh,
thấy đứa cậy quyền giở trò đốn mạt, chàng liền ra tay trừng trị:
Tôi bèn nổi giận một khi
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò
Bên cạnh những nhân vật chính diện được xây dựng mang màu sắc lý
tưởng như những trang nam nhi, hiệp khách, Nguyễn Đình Chiểu còn xây dựng
hệ thống những nhân vật phản diện với màu sắc đối lập. Đó là những nhân vật
55
xấu từ đầu đến cuối, bì ổi, nhỏ nhen được đặc tả thông qua bút pháp tả thực. Nếu
như những nhân vật chính dùng sức mạnh, võ công của mình để làm việc nghĩa
thì Trịnh Hâm lại dùng sức của mình để đi hại người, làm những việc mờ ám:
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho ngƣời thức dậy lấy lời phôi pha
Đó là một Trịnh Hâm phản bạn, nham hiểm và đố kị tài năng. Bản chất
của hắn cũng được lột trần qua hành động đẩy Vân Tiên xuống sông. Và một Bùi
Kiệm được ngoại hiện hoá tâm trạng bằng hình ảnh miêu tả:
Con ngƣời Bùi Kiệm máu dê
Ngồi chề bê mặt nhƣ sề thịt trâu”
Khác với các nhân vật chính diện mang màu sắc lý tưởng, nhân vật phản
diện được tả hết sức chân thực, thậm chí tác giả dụng công dùng những từ ngữ
đặc tả trong việc miêu tả ngoại hình. Nguyễn Đình Chiểu rất khéo léo trong vệc
gọi tên bản chất của nhân vật phản diện. Chỉ bằng bút pháp tả thực cùng với
những chi tiết rất “đắt”, nhà thơ đã khắc họa lên bản chất của nhân vật qua cái
nhìn bề ngoài. Bùi Kiệm “ngồi chề bê” như “sề thịt trâu” cho thấy vẻ ngoài có
phần xấu xí và thô lỗ của hắn. Đây là cái nhìn mỉa mai xen lẫn sự khinh thường
của tác giả dành cho nhân vật Bùi Kiệm. Nhắc đến con người Bùi Kiệm, tác giả
Nguyễn Đình Chiểu dành cho chữ “Dê”. Đây là một trong những điều cấm kỵ
dành cho nam giới thời bấy giờ, bản chất “máu dê” được gắn với Bùi Kiệm cho
thấy sự phê phán và tính chất phản đề của nhân vật này. Tác giả ca ngợi nhân vật
chính diện bao nhiêu thì dùng từ ngữ tầm thường, kém cỏi bấy nhiêu khi miêu tả
nhân vật phản diện. Có thể thấy, ngay từ đầu, Nguyễn Đình Chiểu đã xác định
một cái nhìn khen và chê rõ rệt khi miêu tả vẻ ngoài của hai loại nhân vật chính
diện và phản diện. Tác giả sử dụng những từ ngữ tuy ngắn gọn nhưng sắc cạnh,
độc đáo, nhà thơ đã lột tả được chân dung, diện mạo và tính cách của người Nam
Bộ một cách rõ nét. Dù cùng là nho sĩ nhưng diện mạo và tính cách của Vân Tiên
56
và Hớn Minh hoàn toàn khác nhau. Hớn Minh không khác gì người nông dân
chân chất, đơn thuần, dám làm dám chịu, xa trông “mặt mũi đen sì”, mình cao đồ
sộ dị kỳ rất hung, nhưng lại dám chống lại cường “bẻ đi một giò”. Và Vân Tiên
tuy không có vẻ ngoài “râu hùm, hàm én, mày ngài” nhưng lại có một phong độ
giống trang hảo hán “giữa đƣờng gặp chuyện bất bình chẳng tha”. Tác giả đã cố
ý xây dựng nhân vật chính diện đẹp đẽ, có dáng dấp của những anh hùng kiếm
hiệp, có sức mạnh, võ công giỏi giang, quyết liệt và một vẻ ngoài khác thường
bên cạnh những nhân vật hèn kém và kém đẹp về cả ngoại hình và thể chất.
Thông qua cách miêu tả của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật chính diện và
phản diện có sự đối lập tạo tiền đề cho việc xây dựng theo lối nhất quán trong
hành động về sau.
2.2. Vẻ đẹp trí tuệ
Con người trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là con người
đạo lý. Do vậy trong sáng tác Lục Vân Tiên của mình, bằng cách này hay cách
khác Nguyễn Đình Chiểu cố gắng tô đậm tính lý tưởng ở nhân vật của mình, đặc
biệt là nhân vật chính diện. Nhân vật của ông không chỉ đẹp về vẻ ngoài, hành
động và còn mang đẹp ở trí tuệ. Cũng phải nói thêm rằng, trong quan điểm nho
giáo, học vấn của nam giới vô cùng quan trọng. Nam giới muốn giúp đời, thay
đổi vận mệnh thì đều phải thông qua con đường thi cử để tiến thân. Cho nên, mục
đích cao nhất của cuộc đời họ là thi được bảng vàng, giúp nước và chính mình.
Nam giới cần phải giỏi văn chương, biết làm thơ ứng đối. Thậm chí, học vấn
luôn quan trọng hơn việc giỏi võ nghệ.
Bởi vậy, theo quan niệm nho giáo thì ngay cả những người có giáo dục,
cũng vẫn chia làm hai loại là nhà nho quân tử và nho tiểu nhân. Nho quân tử là
những người học và làm theo đạo thánh hiền, lo tu thân sửa mình để hoàn thiện
nhân cách. Người quân tử làm việc dựa vào sức mình là chính, làm sai điều gì
trước hết phải tự trách mình rồi sửa mình, khi thấy việc thiện thì phải cố làm cho
bằng được, thấy điều ác thì sợ hãi tránh xa. Nho giáo dạy nam giới muốn làm
người quân tử thì phải thành thực, không bao giờ tự lừa dối mình mà làm hại sự
57
hiểu biết của chính bản thân mình và biết giữ chất phác trong nội dung và văn
hóa ngoài hình thức. Và đối với một nam tử hán thì học vấn là điều tối quan
trọng. Nho giáo quan niệm người quân tử muốn có đức thì phải có học thì cái đức
mới có giá trị. Bởi nhân, trí, tín, trực, dũng, cƣơng đều là những đức tính cơ bản
để tu nhân nhưng chỉ muốn có đức mà không muốn học để hiểu lý lẽ hay dở,
đúng sai thì rất sai lầm. Muốn nhân lại bị tình cảm chi phối, che mờ đi thành ra
ngu tối. Muốn trí lại bị ham muốn phân tâm thành mông lung. Muốn tín lại cố
chấp hẹp hòi đâm ra ích kỷ. Muốn trực lại bị nóng nảy khống chế đâm ra ngang
ngạnh. Muốn dũng lại không kiềm chế được rồi thành ra bạo loạn. Muốn cƣơng
nhưng cố bảo thủ kiểu gàn dở đâm ra ngông cuồng…hậu quả của việc có đức
nhưng không có học vấn là như vậy.
Người quân tử phải chuyên tâm nghiên cứu mọi điều hay, điều tốt trên lý
thuyết và trong thực tế cuộc sống chứ không phải học vẹt, khoe mồm chỉ biết
nghe qua tai rồi nói ra miệng lấy mẽ thì học kiểu gì cũng vô bổ. Khổng tử còn
cho rằng: “Ngƣời quân tử có ba điều lo nghĩ không thể không xét đến. Trẻ mà
không học thì khi lớn lên không có tài năng gì. Già mà không chỉ dạy ngƣời, khi
chết rồi không ai tƣởng nghĩ đến mình. Khi giàu có mà không đem của giúp
ngƣời thì lúc cùng quẫn không ai giúp mình. Cho nên ngƣời quân tử lúc trẻ nghĩ
đến tuổi già mà lo học, lúc già nghĩ đến cái chết mà lo dạy ngƣời, lúc thịnh nghĩ
đến lúc suy mà lo giúp ngƣời”[33, tr. 120]. Sách Đại học xưa cũng dạy rằng: từ
vua đến dân ai cũng phải lấy tự sửa mình làm gốc vì kết quả học vấn là biểu hiện
rõ nhất của phép tu thân. Chính vì vậy, hình tượng nhân vật lý tưởng mà Nguyễn
Đình Chiểu muốn hướng đến không chỉ là người có sức mạnh thể chất hơn người
mà còn phải có trí tuệ hơn người. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên cả một hệ
thông nhân vật nam trong đó những nhân vật chính diện tiêu biểu là Lục Vân
Tiên đã tượng trưng cho tài năng, trí tuệ, nhân phẩm cao nhất.
Ngay ở đầu truyện, khi nói đến tài học của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình
Chiểu cũng viết: “Văn đà khởi phụng đằng giao...” Nghĩa là văn đẹp như con
58
phượng trỗi dậy, con rồng bay cao. Ở đoạn Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga
trao thơ cho nhau, sau khi Vân Tiên đánh tan bọn cướp, cứu được Nguyệt Nga,
Nguyễn Đình Chiểu lại viết:
Nguyệt Nga úng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền đã tám câu năm vần.
Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửi trông lƣợng rộng văn nhân thế nào.
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai ngờ sức gái tài cao bức này !
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi.
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,
Cho hy tài gái kém gì tài trai !
Có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu rất chú trọng nhấn mạnh đến tài thơ văn
của Lục Vân Tiên. Tác giả đã ví tài năng thơ văn của Vân Tiên bằng những lời
văn đẹp nhất, lý tưởng nhất.
Bên cạnh đó, Vương Tử Trực là một trong những nhân vật chính diện,
không chỉ là con người nghĩa khí, vẻ đẹp của Tử Trực còn toát lên ở tài văn
chương. Cũng thông qua cách khắc họa nhân vật bằng lối lý tưởng hóa, Tử Trực
hiện lên là một nho sĩ tài hoa:
Gần đây có một họ Vƣơng
Tên là Tử Trực văn chƣơng tót đời
Không những vậy, Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật có cơ hội được trổ
tài văn thơ của mình:
Cha đà sai trẻ qua mời,
Đặng con cùng gã thử chơi một bài
Thấp cao cao thấp biết tài
Vầy sau trƣớc bạn cùng mai mối mầu.
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên
59
Lấy câu bình thủy hữu duyên làm đề
Song song hai gã giao kề,
Lục Vƣơng hai họ đua nghề một khi
Tác giả đã dùng khá nhiều câu văn hay để ca ngợi tài năng văn chương
của Vân Tiên và Vương Tử Trực. Đây cũng là một trong những dụng ý của tác
giả khi xây dựng những nhân vật nam hoàn hảo về tài năng. Nhân vật nam của
ông là những thư sinh xuất chúng kể về ngoại hình và khả năng văn chương.
Nguyễn Đình Chiểu rất đề cao học vấn của các nhân vật của ông. Trong quan
niệm của mình, Nguyễn Đình Chiểu hết sức coi trọng việc học. Trong khi nước
chưa bị giặc Pháp xâm lược, ông nghĩ rằng học có thể để thi đỗ làm quan, mang
tài ra phò vua giúp nước, như Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, nhưng cũng có thể
chỉ để làm người có đạo đức cao cả như ông chủ hàng cơm trong truyện Lục Vân
Tiên. Nhưng đến khi nước bị giặc xâm lược thì ông không còn nghĩ đến việc học
đề thi đỗ làm quan nữa, bởi lẽ “Dầu vinh cũng tiếng nhân thần, Trâu cày ngựa
cƣỡi cái thân ra gì”. Tuy vậy, bao giờ ông cũng coi trọng việc học hơn cả.
Nhưng trong bài Sĩ ông không nói gì tới việc đi thi, làm quan mà chi nhấn mạnh
vào chỗ:
Câu văn thêu dệt đời đời chuộng
Mùi đạo trau giồi bữa bữa no.
Vì coi trọng việc học như vậy nhưng lại coi mọi nghề ngang nhau, trước
hết dùng đạo đức để bình giá con người, cho nên nhân vật tốt trong các truyện
thơ của Nguyễn Đình Chiểu, già trẻ gái trai, từ ông quan, học trò, thầy thuốc cho
đến ngư tiều, ông chủ quán cơm, chú tiều đồng, những người lao động, đều là
những nhân vật có học, là trí thức.
Với những nhân vật tưởng như vô danh, không tên tuổi nhưng cũng đều
có khả năng và trí tuệ hơn người. Mặc dù không thành danh trên con đường khoa
cử nhưng ngược lại ông Quán là một nam nhi đầy khí phách, tư thế hiên ngang
và thái độ ung dung, tâm hồn phóng khoáng. Đó là phong cách của một người đã
60
vượt qua sự bon chen vì không muốn làm con thiêu thân trước ánh đèn như
những kẻ đầy tham vọng. Hơn thế nữa nhân vật ông Ngư được giới thiệu như
một người học cao hiểu rộng:
“Kinh luân đã sẵn trong tay
Thung dung dƣới thế vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời
Tắm mƣa chải gió trong vời Hàn Giang”
Ngoài ra, nhân vật ông Quán còn có tài năng am hiểu văn chương, hiểu biết
lý lẽ, lịch sử để nhận thức đúng sai. Trong mỗi câu nói của mình, ông Quán đều
tỏ ra là người hiểu sâu rộng, có sức thuyết phục. Mỗi lời thơ của ông đều vận
dụng những điển tích, điển cố để minh chứng cho quan điểm của mình. Ông viện
vào việc Khổng Tử lận đận, gian lao trong việc truyền đạo Nho, việc Nhan Tử
chết sớm dở dang, việc Gia Cát Lượng có tài mưu lược lớn giúp Lưu Bị mà sự
nghiệp không thành, việc Đổng Trọng Thư có tài đức hơn người mà bị dồn vào
thế bí…để minh chứng cho sự cảm thông, thương yêu của ông đối với người có
tài cao chí cả, muốn giúp đời cứu dân mà gặp phải những rủi ro bất hạnh nên
nguyện vọng của họ không thực hiện được. Ông nhắc lại việc Kiệt, Trụ mê dâm
“để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang”; U, Lệ đa đoan “khiến dân luống chịu lầm
than muôn phần”, Ngũ bá phân vân làm “chuộng bề dối trá làm dân nhọc
nhằn”; Thúc quý phân băng khiến “sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân” để
lên án thói hư của những vua chúa, mê đắm tửu sắc, không lo cho dân. Quả là
mỗi lời nói của ông Quán đều có những ý nghĩa sâu xa mà không phải ai cũng
có được. Sự xuất chúng của ông Quán được đánh giá qua nhận định của Vương
Tử Trực:
Trực rằng: “Chùa rách phật vàng
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân
Không những vậy, tác giả Nguyễn Đình Chiểu còn cho thấy các nhân vật
chính diện của ông cho dù xuất thân cao sang hay hèn kém, cho dù có tên tuổi
hay vô danh thì không những có nền học vấn uyên thâm mà còn biết sử dụng học
61
vấn vào đúng chỗ, đúng lúc để làm việc tốt, việc nghĩa. Vương Tử Trực học
thông, biết rộng để sau này thấy rằng việc Võ Thể Loan xe duyên mình với con
gái hắn là trái với đạo thánh hiền. Hớn Minh, Vân Tiên vận dụng trí tuệ và sức
mạnh của mình để đánh thắng Cốt Đột. Cốt Đột là một tướng giặc hung hãn, có
khả năng “biến hô yêu tà”, chúng không dễ để đối phó. Thế nhưng nhờ tài năng
và mưu lược của mình, Vân Tiên đã:
Vội vàng trở ngựa lui ra
Truyền thoa máu chó đều thoa ngọn cờ
Ba quân gƣơm giáo đều dơ
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan
Bằng trí tuệ của mình, những anh hùng như Hớn Minh, Vân Tiên đã chiến
thắng Cốt Đột, giải nguy cho đất nước. Ông Quán, ông Ngư thì lại dùng “tài kinh
luân” của mình để răn dạy người đời. Có thể thấy, các nhân vật nam chính diện
trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu nhờ học cao hiểu rộng mà hành động và
ứng xử cũng hơn người. Khả năng vượt trội về trí tuệ của nhân vật chính diện
càng được nhấn mạnh hơn khi tác giả dụng công xây dựng những nhân vật phản
diện âm mưu ghen ghét họ vì chính trí tuệ và tài năng đó. Những nhân vật trí
thức phản diện cũng có nhiều trong sáng tác của Đồ Chiều. Bọn Trịnh Hâm, Bùi
Kiệm là những kẻ đã đỗ cử nhân nhưng một kẻ thì thù oán vì văn chương kém
người nên Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn ra tay hại người, một kẻ thì “máu dê”
không tôn trọng cả vợ bạn. Trong truyện, Trịnh Hâm là một kẻ xảo trá, bất nghĩa
với chính bạn đồng môn của mình. Về trí tuệ thì bản chất bất tài, vô dụng đã
được Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh ngay từ đầu khi nói về nhân vật này:
Một ngƣời ở quận Phan Dƣơng,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thƣờng nghề văn
Lời lẽ của Nguyễn Đình Chiểu khi viết về Trịnh Hâm cho ta thấy là ngay
từ đầu tác giả đã không đánh giá cao về tài năng và trí tuệ của nhân vật. Ông gây
dựng cho nhân vật những phẩm chất thấp kém, tài năng cũng chỉ là bậc tầm
thường. Chính vì sự hạn hẹp, yếu kém trong tài năng như vậy nên cũng yếu kém
62
về nhân đức. Đây là cách giải thích của Nguyễn Đình Chiểu về nguyên do Trịnh
Hâm làm điều “bất nghĩa” với Vân Tiên. Chung quy cũng là sự đố kỵ, ghen ghét
tài năng của Vân Tiên. Trong khoa thi, tài năng của hắn cũng chỉ đậu được hàng
cử nhân:
Hâm rằng: Tử Trực đậu cao
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân
Dù cũng là hàng ngũ nho sinh thế nhưng trái ngược với những nhân vật
chính diện, Trịnh Hâm dùng tài văn chương “tầm thƣờng” của mình để làm điều
bất nghĩa, hèn hạ. Động cơ thủ ác của hắn vô cùng hèn hạ, dù không quen biết, thì
hằn nhưng vì thấy Vân Tiên tài cao nên hắn nảy sinh sự ganh ghét. Cũng thuộc
trong những nhân vật phản diện còn có nhân vật Bùi Kiệm. Y cũng là nho sinh,
học sách vào kinh thi cử. Bùi Kiệm tuy cùng được miêu tả là nhân vật phản diện
nhưng hắn không mượn sách Thánh hiền đề làm điều dã tâm như Trịnh Hâm. Bùi
Kiệm cũng đọc sách nhưng cái chân nho trong y biến thành quan điểm thực dụng.
Bùi Kiệm đọc sách nhưng lại lợi dụng và phê phán sách Thánh hiền để bảo vệ
quan điểm sống hưởng thụ của mình:
Kiệm rằng: đã biết sử kinh
Sao không soi xét để mình ngồi không
Hắn cũng thuộc làu làu kinh sử nhưng lại dùng những lời lẽ ấy để đi
ngược lại với đạo lý nho giáo. Trong quan niệm nho giáo thì việc tôn trọng đạo lý
để tu thân là việc vô cùng quan trọng. Điều đó cũng yêu cầu nam nhi, bậc kẻ sỹ
phải sống hà khắc theo tư tưởng tam cƣơng, ngũ thƣờng và lấy con đường chính
danh để tu thân. Chịu ảnh hưởng bởi quan niệm hà khắc đó, nam giới phần lớn là
phải sống theo chủ nghĩa khắc kỷ mới được cả xã hội công nhận và xem trọng.
Ngược lại, nếu đi ngược lại lễ giáo phong kiến, lợi dụng nho giáo cho cá nhân thì
đều là những kẻ đáng lên án. Ở đây, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã định hướng
rất rõ ràng về hai kiểu nhân vật đạo đức: chính diện và phản diện. Nhóm những
nhân vật chính diện có trí tuệ hơn người và luôn hành động dưới sự dẫn dắt của
63
tôn chỉ nho giáo để trở thành những nhân vật lý tưởng. Còn nhóm những nhân
vật phản diện có trí tuệ kém cỏi, thậm chí là tầm thường, lẽ sống của họ đi ngược
lại so với những gì họ được học trong trường lớp.
2.3. Tinh thần trọng nghĩa khinh tài
Một trong những cách cư xử mà nho giáo luôn đề cao trong ứng xử xã hội
của hai giới nam và nữ, đó là tinh thần trọng nghĩa khinh tài. Ngay từ chủ đề, đề
tài của tác phẩm Lục Vân Tiên, ta có thể thấy được là đây không phải là tác phẩm
viết về tình yêu, mà màu sắc chủ đạo của nó là tinh thần đạo lý, nhân nghĩa trên
quan điểm nhân dân. Trong giới hạn nghiên cứu về nam giới của đề tài này, bên
cạnh việc khảo sát về vẻ đẹp lý sức mạnh thể chất, vẻ đẹp trí tuệ, chúng tôi tiếp
tục tiến hành khảo sát về biểu hiện về tinh thần trọng nghĩa, khinh tài của nhân
vật nam giới để làm nổi bật vẻ đẹp lý tưởng của nhân vật nam trong văn học giai
đoạn này. Về nhân nghĩa trong quan điểm nho giáo, nghĩa là điều nên nói, điều
nên làm “nói điều gì đó, làm việc gì đó thấy thảnh thơi, thoải mái trong lƣơng
tâm thì điều nói đó, việc làm đó là điều nghĩa, việc nghĩa. Ngƣợc lại, nếu có điều
gì đó không nói, việc gì đó không làm thì vốn bản thân nó là điều bất nghĩa, phi
nghĩa” [34, tr. 22]. Khổng Tử khi nói về đạo làm người đã đúc kết ba đạo lý
quan trọng nhất tạo thành nền tảng cho hệ thống luân lý, đó là nhân, lễ, nghĩa.
nghĩa của Khổng Tử đó là cái thích đáng hay cái đạo lý. Khổng Tử còn cho rằng
nghĩa là những phẩm chất thuộc về người quân tử còn lợi là thuộc về kẻ tiểu
nhân: “Bậc quân tử tin tƣởng về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rè về việc lợi”
(Luận ngữ, Lý nhân). Do vậy, người quân tử phải hành động vì nghĩa “ngƣời
quân tử dùng nghĩa lý làm căn bản, dùng lễ tiết để thực hành, dùng khiêm tốn để
tỏ lộ ra ngoài, dùng thành tín để làm nên công việc. Ngƣời nào đƣợc nhƣ thế thật
là ngƣời quân tử”. (Luận ngữ, Linh công). Mặt khác, Khổng Tử còn trọng dũng,
gắn liền dũng với nghĩa: “Tử Lộ hỏi rằng: Ngƣời quân tử có chuộng dũng
không?. Khổng Tử đáp: “Ngƣời quân tử lấy nghĩa là trên hết. Ngƣời quân tử có
dũng mà không có nghĩa thì làm loạn, kẻ tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa
64
thì là trộm cƣớp” (Luận ngữ, Dương hóa). Đổng Trọng Thư cũng cho rằng nghĩa
là phạm trù riêng biệt, nó khác với các phạm trù khác như lợi, nhân, trí,
tín...Theo ông thì nghĩa là để “nuôi cái tâm” – tinh thần, cao cả, lẽ phải.
Trong mối quan hệ giữa người với người, nho giáo còn chú trọng chữ
nhân và chữ nghĩa. Nhân nghĩa là người, con người và là nhân ái, nhân đức là
bản tính của con người. Theo nghĩa hẹp là một phẩm chất đạo đức cụ thể, cơ bản
và nền tảng của con người. Theo nghĩa rộng, nhân bao gồm mọi đức của con
người như lễ, nghĩa, trí, tín, trung…Khổng Tử luôn coi chữ nhân là đạo đức căn
bản của con người cả về xử thế lẫn tu thân, là trung tâm để chi phối các chuẩn
mực đạo đức khác của con người. Khổng Tử nói: “Nhân vừa là tu thân vừa là
nhân ái. Nhân là trung tâm của đạo đức từ đó mà phát ra các đức khác và các
đức khác quy tụ về nó”. Và Khổng Tử cũng cho rằng “Nhân là lòng yêu thƣơng
ngƣời. Nhân là tinh thần của lễ nhạc và chính trị. Khi đánh giá vai trò của nhân
trong nho giáo cho rằng đó là phẩm chất cao nhất của con ngƣời”[33, tr. 114].
Theo Khổng Tử “Nhân là cái gốc đạo đức của con ngƣời, là đạo làm
ngƣời”. Tuy nhiên, đạo làm người của Nguyễn Đình Chiểu lại thật gần gũi, phù
hợp với nhân dân. Cũng là chữ nhân nhưng chữ nhân của Nguyễn Đình Chiểu
gần gũi mà thiêng liêng hơn: biết sống cao đẹp, biết xả thân hy sinh vì ngƣời
khác. Chữ nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu ở đây không đối lập với tinh thần nho
giáo. Chữ nghĩa được ông hiểu theo tinh thần rộng mở, nghĩa là điều hợp với
lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của mọi người trong xã hội. Nó đặc biệt
gắn với quan hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan niệm đạo đức của
nhân dân.
Nhân vật Lục Vân Tiên là minh chứng đầu tiên cho tấm lòng trọng nghĩa
khinh tài, là nhân vật lý tưởng của tác giả Nguyễn Đình Chiểu với mẫu hình
người quân tử. Vân Tiên là nam tử hán nhưng không chỉ tài theo quan niệm xã
hội như tài văn võ, tài kinh luân như ta có thể thấy trong các nhân vật Kim Trọng
hay Từ Hải của Nguyễn Du. Vân Tiên còn được khắc họa rõ nét qua hành động,
như nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã nhận xét “các nhân vật chính diện tích
65
cực đƣợc miêu tả thiên về hành động và các hành động này đƣợc diễn ra nhƣ là
kết quả của sự giáo dục sâu sắc. Dƣờng nhƣ các nhân vật tích cực đã đƣợc
“chƣơng trình hóa” cho mỗi tình huống ứng xử, khi tình huống xảy ra lập tức có
hành động tƣơng ứng” [41, tr. 638].
Lục Vân Tiên có ước mơ và tham vọng về công danh, coi thi cử là con
đường để tiến thân. Vậy mà, trên bước đường vào kinh ứng thí, chàng đã nán lại,
làm một việc nghĩa đó là dẹp bọn cướp Phong Lai. Lục Vân Tiên vụt thành anh
hùng chỉ vì thấy việc phải mà làm:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm ngƣời thế ấy cũng phi anh hùng”
Chàng không kịp nghĩ đến thiệt hơn, tai họa cho bản thân, cho dù bọn
Phong Lai nanh vuốt có cả bầy đàn, cho dù chàng chỉ một thân cây làm gậy. Tài
năng và sức mạnh chính nghĩa đã giúp chàng chiến thắng. Giúp người xong rồi,
chàng chẳng màng được đền ơn, chẳng nhận lấy một chút quà mọn làm kỷ
vật. Đó cũng là suy nghĩ theo lẽ phải. Phẩm chất ấy của Vân Tiên vừa biểu trưng
cho chữ nghĩa trong nho giáo vừa chính là đại diện cho tấm lòng hào hiệp, tốt
bụng của người dân Nam Bộ. Trong truyện, mọi hành động và cách nghĩ của Lục
Vân Tiên đều cho thấy ở Vân Tiên là một nhân vật lý tưởng, hội tụ đầy đủ những
chuẩn mực của một người anh hùng nghĩa hiệp, tuổi trẻ, tài cao, lòng đầy khao
khát muốn được đem công danh của mình để cứu người và giúp đời. Trên đường
đi thi, gặp bọn cướp Phong Lai hoành hành, Lục Vân Tiên đã xông vào để cứu
dân. Đây là một việc nghĩa mà chàng không thể không làm với mục đích cao đẹp,
xuất phát từ tầm lòng tự nguyện của mình:
Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân
Chỉ một mình, lại không có vũ khí, Vân Tiên đã dám bẻ gậy xông vào bọn
cướp đông người giáo gươm đầy đủ. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành
được so sánh với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc:
Vân Tiên tả đột hữu xung,
66
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đƣơng Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan…
Với võ nghệ cao cường, Lục Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp và diệt tên
đầu đảng Phong Lai. Hành động của Vân Tiên còn tỏ rõ đức độ nghĩa hiệp “Giữa
đƣờng thấy sự bất bình chẳng tha”. Không sợ nguy hiểm, Vân Tiên sẵn sàng trừ
hại cho dân. Đánh xong hai tên cướp, thấy hai cô gái chưa hết hãi hùng, Vân
Tiên đã tỏ ra ân cần, hỏi han. Hành động của Lục Vân Tiên thật đàng hoàng
chững chạc. Tuy có phần câu nệ những vẫn là phong độ giữ lễ của một nguời có
văn hóa trong ứng xử với người bị hại. Thậm chí, Vân Tiên còn từ chối cái lạy
trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm vàng trao tặng mà chỉ nhận lời
cùng Nguyệt Nga xướng họa. Câu trả lời “Làm ơn há dễ trông ngƣời trả ơn” và
đặc biệt là câu nói “Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm ngƣời thế ấy cũng phi anh
hùng”, cho thấy mẫu người anh hùng lý tưởng của Nguyễn Đình Chiểu là việc
thấy nghĩa thì tự nguyện làm và đã làm việc nghĩa thì không cần trả ơn. Đó cũng
là quan niệm của nhân dân ta “Làm phúc không cần đƣợc phúc”. Qua hành động
này, cho thấy một minh chứng rằng Vân Tiên không chỉ là con người tài ba, dũng
cảm mà còn là con người trọng nghĩa khinh tài.
Ngay đến nhân vật tiểu đồng, kẻ tôi tớ, hay cũng là bạn đường của Lục
Vân Tiên suốt chặng đường chàng lên kinh ứng thí, cũng nghĩ suy và
hành động đâu kém người quân tử. Chú tận tụy chăm sóc cho thầy, bôn ba tìm
người chữa chạy để cứu thầy thoát khỏi nan y. Rồi khi ngỡ thầy qua đời,
chú ở lại bìa rừng, che mồ tưởng nhớ, không ngớt khói nhang. Lo thầy ấm áp lúc
sống, chú còn sợ thầy lạnh lẽo ở cõi bên kia. Tiểu đồng quả đã làm theo
chữ nghĩa của người xưa:
“Dốc lòng trả nợ áo cơm
Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền”
Nguyễn Đình Chiểu đã dùng chữ nghĩa để nói về mối quan hệ bạn bè của
Vương Tử trực. Lời của Vương Tử Trực khi nghe tai ương đến với bạn hiền Lục
Vân Tiên, Tử Trực nhớ nghĩa thâm giao, tiếc tình cảm giao bôi chưa thỏa:
67
Than rằng: chạnh nhớ linh xƣa
Nghĩa đà kết nghĩa, tình chƣa phỉ tình
Trong con người Tử Trực, nghĩa và tình không thể tách phân. Tình ngày
trước thế nào, tình hôm nay vẫn tràn đầy bát nước. Trong nghĩa tình bằng hữu,
dường như có cả đức thủy chung. Cho dù, nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Vương
Tử Trực cũng không vì thế mà kết duyên cùng với con gái Võ Thể Loan, mà luôn
coi người con gái đã đinh ước với bạn mình là chị dâu:
Vợ Tiên là Trực chị dâu
Chị dâu em bạn có đâu lỗi nghì
Các nhân vật nam chọn cho mình cách ứng xử nghĩa khí trong mọi mối
quan hệ, đặc biệt là với bạn. Đó là sự lựa chọn không chút suy tư, trăn trở.
Vương Tử Trực thể hiện sự dứt khoát trong suy nghĩ, lời nói. Chữ nghĩa, trong
truyện thơ, được đặt vào cửa miệng biết bao nhân vật. Vì nghĩa bạn bè, các nhân
vật nam giới cũng có thể rơi lệ, trái với hình ảnh ta thường thấy ở các đấng nam
nhi, mạnh mẽ. Hớn Minh vì nghĩa mà có lúc quyết liệt “bẻ đi một giò”, thể hiện
khí phách nam nhi, có lúc lại rơi lệ vì chính người bạn dù quen biết chưa lâu:
Mấy năm hẩm hút từng rau
Khó nghèo nỡ phụ, sang giàu đâu quên
Nguyễn Đình Chiểu chú ý đến góc nhân nghĩa, nhân nghĩa là đạo đức của
nhân dân từ đó ông xây dựng ứng xử với người, yêu quý người nhân nghĩa và
một thái độ dứt khoát yêu và ghét. Hớn Minh vì nhân nghĩa mà không nghĩ ngợi
xa xôi, bẻ chân con trai tri huyện Loan Minh. Vương Tử Trực không do dự mắng
nhiếc Võ thể Loan khi hắn bội nghĩa với Vân Tiên mà gán ghép Tử Trực với con
gái hắn:
Chẳng hay ngƣời học sách chi
Nói sao những tiếng kỳ dị khó nghe?
Hay là học thói nƣớc Tề
Vợ ngƣời tử Củ đƣa về Hoàn Công
Hay là học thói Đƣờng cung
68
Vợ ngƣời Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân
Ngƣời nay nào phải nhà Tần
Bất vi gả vợ Dị Nhân lấy nhầm
Nói sao chẳng biết hổ thầm
Ngƣời ta há phải là cầm thú sao
Hay những câu mắng nhiếc và cũng là thể hiện tấm lòng chung thủy với bạn:
Xin đừng tham đó, bỏ đăng
Chơi Lê quên lựu, chơi trăng quên đèn
Tinh thần trọng nghĩa khinh tài còn thể hiện ở việc Hớn Minh quỳ gối tạ
ơn khi biết ông Tiều đã cứu bạn mình:
Hớn Minh quỳ gối lạy liền,
Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành.
Này hai lƣợng bạc trong mình
Tôi xin báo đáp ân tình cho ông
Rồi cả khi nghe Vân Tiên kể lại những vụ tai nạn đã mắc phải, Hớn Minh
thương bạn:
Minh nghe Tiên nói động tình,
Hai hàng châu lụy nhƣ bình nƣớc nghiêng
Là con người dũng cảm, nóng tính như Trương Phi nhưng khi nghe
chuyện của bạn cũng trở thành con người mau nước mắt. Dù Hớn Minh hay
Vương Tử Trực xuất phát từ tầng lớp cao hay thấp trong xã hội, cách ứng xử của
họ đều mang đậm tinh thần nhân nghĩa, đạo lý làm người, không suy nghĩ thiệt
hơn, so đo nặng nhẹ và với tinh thần thẳng thắn, phân minh, rạch ròi.
Ta có thể thấy được vẻ đẹp trong tình bạn của Hớn Minh, Vương Tử Trực
và Lục Vân Tiên trong tác phẩm, đó là vẻ đẹp biểu trưng cho lòng nhân nghĩa.
Hớn Minh, Vương Tử Trực và Vân Tiên là bộ ba những anh hùng quân tử. Đó là
những trang nam nhi mang đậm tính cách của nhân dân Nam Bộ, trọng tình nghĩa
bạn bè, anh em. Trọng nghĩa là tinh thần của những con người nghĩa khí, những
con người sẵn sàng xả thân mình để cứu người, để làm những việc mà họ cho là
69
hợp với đạo lý và lòng trung thành. Lục Vân Tiên và Hớn Minh của Nguyễn Đình
Chiểu đều là những nhân vật được xây dựng trên tinh thần “Nhớ câu kiến ngãi bất
vi/ Làm ngƣời thế ấy cũng phi anh hùng”. Ta có thể thấy thái độ trọng nghĩa là thái
độ ứng xử của người dân Nam Bộ nói riêng, đây là một nét tính cách trội của
những người dân lưu dân vùng đất mới. Họ vốn là những lưu dân đi tìm sự sống
trong muôn ngàn cái chết. Qua nhiều lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần
hoạn nạn tương cứu, sinh tử bất ly, họ càng thấm thía thế nào là tình huynh đệ hào
hiệp, nghĩa khí, không lợi dụng quyền thế lấn áp kẻ yếu, không hại kẻ thất thế, ăn
ở thủy chung, kết giao không tính toán thiệt hơn, dám liều thân giúp người... Quan
niệm đó tạo nên một kiểu anh hùng, một kiểu quân tử bình dân.
Hình ảnh nam tính những anh hùng quân tử trong truyện Lục Vân Tiên
còn được thể hiện qua lối sống ngang tàng, đây chính là hệ quả của tinh thần
nghĩa hiệp của con người Nam Bộ. Họ đến từ những vùng đất khác nhau, Vương
Tử Trực, Lục Vân Tiên, thậm chí là Hớn Minh đều không quen biết nhau theo
kiểu “bạn nối khố” mà gặp nhau trên đường hoạn lộ, từ xuất thân khác nhau
nhưng ta thấy ẩn sâu trong họ là tinh thần phản kháng, ít chịu sự ràng buộc của lễ
giáo, không bao giờ chị khuất phục trước cái xấu. Họ chấp nhận những hiểm
nguy, thử thách thậm chí rơi phải hoàn cảnh tù đầy, chấm dứt đường công danh,
họ đã phải liều, chấp nhận tất cả rủi ro trên con đường phiêu bạt, coi nhẹ tính
mạng nên sống ngang tàng. Mặt khác, việc khai thác vùng đất mới đầy gian khổ
hiểm nguy cũng góp phần tôi luyện tính cách trên. Nhưng cần phải thấy rằng,
ngang tàng ở đây không phải là phá phách, là làm loạn. Ngang tàng là một nét
nhân cách Nam Bộ, đó là những con người không chấp nhận sống mà phải cầu
xin, phải khuất phục trước bạo lực. Lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt
khoát kiểu đã tròn cho ra tròn, vuông cho ra vuông. Một số không ít ca dao Nam
Bộ biểu lộ thái độ quyết liệt bằng các phân biệt rạch ròi giữa đỏ và đen, giữa tốt
với xấu giữa Nguyệt Nga - Vân Tiên với cha con Bùi Kiệm:
Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,
Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.
70
Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,
Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một mình.
Nếu như Hớn Minh, Vương Tử Trực đại diện cho những anh hùng hết
lòng vì bạn, vì nghĩa mà quên đi bản thân thì Trịnh Hâm, Bùi Kiệm lại chính là
những kẻ bất nhân, bất nghĩa thật sự. Dựa vào hệ thống những nhân vật phản
diện và chính diện, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra những tuyên ngôn trái ngược
nhau và hoàn toàn điển hình. Bùi Kiệm tiêu biểu cho lối ăn xổi ở thì và trong tình
bạn hắn cũng như vậy.
Trịnh Hâm đã có những hành động bất nghĩa với Lục Vân Tiên. Hắn đẩy
Lục Vân Tiên xuống sông hai lần. Gặp Lục Vân Tiên khi làm thơ trong quán và
tiễn Vân Tiên về quê chịu tang. Có thể thấy là Trịnh Hâm “so đo” đố kỵ với Vân
Tiên về tài năng. Nhưng khi Vân Tiên bỏ thi, lúc tiễn chàng về quê chính y đã có
những lời nói an ủi tiễn biệt rất lọt tai.
Hâm rằng: Anh chớ ƣu phiền
Khoa này chẳng gặp ta nghiên khoa sau
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau
Một vầng mây bạc dàu dàu khóc thƣơng
Vân Tiên cất gánh lên đàng
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng châu sa
Cũng là những giọt nước mắt, nhưng rõ ràng Trịnh Hâm không khóc vì
bạn, mà hắn luôn đố kỵ, tính toán với Lục Vân Tiên. Mặc dù an ủi nhưng hắn vẫn
hành động bì ổi với Vân Tiên. Trịnh Hâm trói tiểu đồng cho cọp ăn thịt, hành
động này giải thích bản tính Trịnh Hâm “trong dạ gƣơm đao”:
Trịnh Hâm trong dạ gƣơm đao
Bắt ngƣời đồng tử trói vào gốc cây
Trƣớc cho hùm cọp ăn mày
Hại Tiên phải đụng mƣu này mới xong
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
71
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời
Trái với Trịnh Hâm, Bùi Kiệm lại là một tên ham sắc đến mất hết cả tình
nghĩa. Ứng xử của hắn với vợ của bạn là buông lời cám dỗ. Nguyễn Đình Chiểu
đã dùng những câu văn để thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét của mình đối với hắn:
Hay chi nhƣ vãi ở chùa
Một căn của khép bốn mùa lạnh tanh
Linh đinh một chiếc thuyền tình
Mƣời hai bến nƣớc biết mình vào đâu
Ai từng mặc áo không bâu
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau
Nàng sao chẳng nghĩ trƣớc sau
Giữ ôm bức tƣợng bấy lâu thiệt mình
Nếu như các nhân vật chính diện được miêu tả bằng ngòi bút lý tưởng thì
nhân vật phản diện lại mang những nét xấu, bất nhân, bất nghĩa, sự đố kỵ, dục
vọng, thâm độc…Nhân vật phản diện dường như giống người hơn, mang nhiều
nét hiện thực hơn, tượng trưng cho sự xấu xa của xã hội cũ. Họ bị chi phối bởi
những tình cảm xấu: tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài. Trịnh Hâm và Bùi
Kiệm là đại diện hoàn chỉnh nhất cho những kẻ bất nhân, bất nghĩa trong mối
quan hệ bạn bè.
Tư tưởng “trọng nghĩa khinh tài” còn được thể hiện rõ qua lời chê trách
tham quan, phê phán những ông vua bạo ngược của ông quán. Đây được xem
như những lời tuyên ngôn, tôn chỉ của người quân tử: người quân tử có thể không
ra làm quan nhưng dứt khoát không bao giờ làm chuyện bất nhân, bất nghĩa và
hại nước hại dân:
Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm
Để dâm đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U lệ đa đoan
72
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời ngũ bá phân vân
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Ghét đời Thúc quý phân băng
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng với dân
Lẽ ghét thương là một trong những điểm sáng của truyện Lục Vân Tiên,
thể hiện quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa của ông Quán nói riêng và Nguyễn
Đình Chiểu nói chung. Sở dĩ ông Quán ghét cay ghét đắng những chuyện tầm
phào, những cái đa đoan, những cái dối trá, những trò mê dâm là vì chúng
làm rối dân, làm dân luống chịu lầm than muôn phần. Mỗi lần nhắc đến một đối
tượng đáng ghét, đáng lên án ấy sẽ là một lần thêm một câu bình luận về tội ác
của những tên bạo chúa gây ra gây cho dân lành. Và trong 10 câu thơ nói về lẽ
ghét thì có tới bốn câu thơ nói về cung bậc, mức độ khác nhau trong nỗi khổ mà
dân lành phải gánh chịu:
- Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang.
- Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
- Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
- Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân.
Qua lời nói của ông Quán ta có thể thấy “nhân nghĩa” rất được coi trọng
trong ứng xử của người xưa. Nhân vật không chỉ nói về “nhân nghĩa” mà còn
phải hành động được. Dù họ là những con người vô danh nhưng họ vẫn hiện lên
vô cùng đẹp đẽ, đẹp từ quan điểm sống đến việc làm nhân đức. Nhân vật ông
Ngư là một người như vậy. Mặc dù không có tên tuổi cụ thể nhưng thấy người bị
nạn, ông đã lập tức cứu giúp và cả nhà ông cùng tận tình cứu sống người bị nạn
dù không hề biết họ là ai:
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng da, mụ hơ mặt mày
Câu thơ tuy bình dị, tự nhiên những đã kể lại hành động nhân nghĩa một
73
các chân tình của gia đình ông Ngư đối với người bị nạn. Không những cứu sống
Vân Tiên, ông còn lưu giữ chàng ở lại gia đình mình. Dù gia cảnh rất nghèo
nhưng ông sẵn lòng đùm bọ kẻ tật nguyền không chốn nương thân. Ông Ngư đã
không màng tính mạng của bản thân để cứu mạng Lục Vân Tiên. Quan điểm của
ông là:
Ngƣ rằng” Lòng lão chả mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn
Lời nói của ông làm ta nhớ lại lời của Vân Tiên khi cứu Kiều Nguyệt Nga
“Làm ơn há dễ trông ngƣời trả ơn”. Không chỉ việc làm, quan niệm sống mà cả
phong cách sống của ông cũng rất đẹp. Đó là quan niệm “nghèo mà trong sạch,
không màng danh lợi”. Ông sống ung dung tự tại, kiếm sống bằng chính sức lao
động của mình: “Khỏe cua chài kéo, mệt quăng câu dầm”. Đó quả là một cuộc
sống rất mực thanh cao. Từ hành động đến quan niệm sống, ông Ngư là hình ảnh
tiêu biểu cho người dân lao động, cho đạo đức cao đẹp và trong sáng của nhân dân.
Tóm lại, qua sự đối sánh giữa các nhân vật nam chính diện và phản diện,
thái độ của tác giả ở đây cũng khá rõ ràng. Ông ca ngợi và hết lòng yêu thương
những con người có nhân cách cao thượng, tuy nghèo khổ nhưng đầy vị tha,
trọng nghĩa khinh tài như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, ông Ngư và ghét cay,
ghét đắng những kẻ xấu, kẻ ác như bọn cướp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm…Từ quan
điểm “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”,
Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên một hệ thống những nhân vật đối lập về
phẩm chất, tính cách được thể hiện khá rõ nét trong đặc điểm của các nhân vật
văn học trung đại trên tinh thần chính nghĩa thắng gian tà. Nguyễn Đình Chiểu
lấy đạo đức là kim chỉ nam chia hệ thống các nhân vật thành hai tuyến, đó là
nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Thuộc về nhân vật chính diện, đứng
đầu là Lục Vân Tiên với “văn võ toàn tài”, sống theo trung, hiếu, trí,
dũng…mang phẩm chất của người anh hùng lý tưởng. Hay Vương Tử Trực đại
diện cho sự ngay thẳng, Hớn Minh đại diện cho sự bộc trực, quả quyết. Bên cạnh
đó, các phe đối lập cũng được xây dựng khá đa dạng, đó là những kẻ mang danh
74
kẻ sĩ nhưng lại vô sỉ, thâm hiểm như Trịnh Hâm và Bùi Kiệm; những kẻ tột đỉnh
cao sang nhưng lại mang danh phản trắc như thái sư, lật lọng, bạc tình bạc nghĩa
như Võ Công. Thông qua đó, có thể thấy được quan điểm của Nguyễn Đình
Chiểu khi xây dựng hệ thống những nhân vật nam của mình. Những nhân vật
như Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Vương Tử Trực được xây dựng thiên về mẫu hình
người quân tử trên phương diện lý tưởng hóa phẩm chất, đạo đức. Đó cũng là
thành công của việc lý tưởng mẫu hình người anh hùng chính thống trong truyền
thống văn học nho gia, mẫu hình người trung nghĩa, người anh hùng pha chút
nghĩa hiệp. Trong đó nhân vật Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực đại diện cho hình
tượng người anh hùng vô danh, tiêu biểu cho sức mạnh, lòng dũng cảm, không
chỉ đại diện cho giá trị nho gia mà còn đại diện cho người dân Nam Bộ nói
chung. Toàn bộ tác phẩm cũng như hình tượng nhân vật nam giới là lời ca ngợi
cho những con người vô danh sống theo chuẩn mực luân thường. Lối sống theo
chuẩn mực, bổn phận, nghĩa vụ chứ không phải theo khát vọng và tự do về nhu
cầu cá nhân.
2.4. Vẻ đẹp của lý tƣởng
Như đã khảo sát ở chương 1 về quan niệm về nam giới trong văn học Việt
Nam qua một số tác giả tiêu biểu thì ta có thể thấy một đặc điểm chung, đó là hễ
cứ là nam nhân chân chính thì phải có tài năng, phải lập công danh sự nghiệp.
Điểm này là thống nhất từ Phạm Ngũ Lão qua Nguyễn Công Trứ đến Nguyễn
Đình Chiểu và đến tận Phan Bội Châu. Quan điểm về lý tưởng của người nam
nhi đúng như Nguyễn Công Trứ và các nhà thơ khác đã từng khẳng định:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông
Đó là đích đến chung của kẻ làm trai trong chế độ phong kiến. Câu thơ
nêu bật nên vị thế của kẻ làm trai và của đấng nam nhi trong cuộc đời, trong vũ
trụ. Lý tưởng của người nam nhi chính là “phải có danh”, đó là trách nhiệm và
nghĩa vụ, là một quan niệm đẹp và tích cực của kẻ sĩ. Là chí nam nhi, là kẻ sỹ
trong cõi đời phải làm nên sự nghiệp to lớn, để lại công trạng, công đức cho đất
75
nước, quê hương. Theo quan niệm của nhà nho xưa, kẻ sĩ là phải lập thân bằng
con đường khoa cử. Triều đình phong kiến chọn nhân tài bằng con đường khoa
cử. Sĩ tử cũng phải dấn thân bằng con đường khoa cử, thi thố tài năng với thiên
hạ, mong ghi tên vào bảng bia đã để làm quan. Làm quan là để thực hiện lí tưởng
trung quân ái quốc. Gặp thời loạn thì giúp vua dẹp giặc đem lại thái bình cho quê
hương. Gặp thời bình thì đem tài kinh bang tế thế, trị nước cứu đời, làm cho đất
nước cường thịnh. Là đấng trượng phu, là kẻ nam nhi thì không thể sống tầm
thường, không thể ru rú nơi xó nhà, mang thân phận phường giá áo túi cơm. Kẻ
sĩ chân chính phải sống bằng tài đức, qua rèn luyện “thập niên đăng hỏa” ở cửa
Khổng sân Trình, dùi mài kinh sử và bằng con đường thi cử, đỗ đạt, làm nên
những công việc phi thường như rời non, lấp bể, đội đá và trời, ghi danh vào sử
sách, làm rạng rỡ gia dình, quê hương, vẻ vang đất nước. Quan niệm về lý tưởng
của nam nhi về “công danh” là rất đúng đắn và tích cực đối với một nhà nho, một
kẻ sí hăm hở lập thân trong xã hội cũ. Công danh này không phải là cái danh hão,
là hư danh, là thứ danh lợi vị kỷ tầm thường. Công danh đây còn là tiếng thơm, là
công cuộc ích lợi quốc dân, là công danh được đo bằng tầm vóc phi thường, là tài
năng và đạo đức xuất chúng. Những kẻ dốt nát, tham lam, tầm thường…sẽ không
có được cái danh ấy. Câu thơ trên đây thể hiện một tâm thế của kẻ tài trai, của
đấng nam nhi mang khát vọng công danh, hoài bão tung hoành. Tuy nhiên, muốn
làm nên công danh thì phải có trung hiếu, kẽ sĩ không có công danh thì cuộc đời
mất hết ý nghĩa, trở nên vô nghĩa “nát với cỏ cây”. Như vậy, danh mới được ghi
vào sử sách, để lại tiếng thơm cho đời.
Khi bàn về chữ trung, những lý luận chính trị của Khổng Tử luôn mang
nặng chủ nghĩa tôn quân. Khổng Tử luôn giáo dục ứng xử của dân, bề tôi với
vua. Trong đó dân đối với vua coi như cha mẹ, luôn trung thành với vua. Giữa
dân và vua phải có mối quan hệ khăng khít, vua thì tinh anh mà dân thì trung
quân, ái quốc. Vua luôn lấy nhân, lễ để bình thiên hạ và quản lý nhà nước. Trong
mối quan hệ vua – tôi, vua thì giữ lễ, bề tôi giữ trung, đó là mối quan hệ đối đãi
tương hỗ trong cư xử trong vòng nhân lễ. Khổng Tử chủ trương người ở trên
76
khoan dung, nhân hậu còn người ở dưới, nhấn mạnh đến đức tính, phải có lòng
trung, làm hết chức phận của mình. Tận trung mà nho giáo đề cập đó là sự tình
nguyện hiến dâng cả cuộc sống của mình. Đặt ra bổn phận của bề tôi phải thờ
vua, cung kính vua. Với Khổng Tử và Tăng Tử thì khái niệm trung là đức tính
một lòng một dạ đối với một người nào đó, nổi bật là sự hết lòng thờ vua của bề
tôi. Tăng Tử viết “Vì nhân mƣu nhi bất trung hồ”. Khổng Tử viết “Thần sự dĩ
quân dĩ trung”. Đó là tiêu chuẩn giữa người với người. Mạnh Tử ít chú trọng đến
nguyên tắc của bề tôi, ông cho rằng quan hệ vua tôi chỉ có tính chất tương đối.
Tống Nho và Hán Nho, đạo trung quân đòi hỏi ở mọi người, ở bất cứ thần dân và
kẻ bề tôi một sự phục tùng tuyệt đối và vô điều kiện với vua. Do đó, dẫn đến thái
độ ngu trung, quan điểm trung thần bất nhị phân và sự phục tùng mù quáng của
vua kể cả đó là vua tốt hay vua xấu.
Khái niệm trung trong tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu và trong sự vận dụng
của ông để giải đáp những vấn đề của đời sống lẽ dĩ nhiên có liên quan đến luận
điểm về sự phục tùng trong quan hệ vua tôi của nho giáo. Nhưng vì ông sống
dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn mục nát, trong đó từ vua đến quan đều hủ
bại, nên ông đã đi xa dần khỏi cái quan điểm “ngu trung” mù quáng của Hán
Nho và Tống Nho. Và ít nhiều ông trở lại với ý nghĩa nguyên sơ của khái niệm
trung thời Khổng Mạnh. Nhưng sự trở lại đó của ông không phải từ lập trường
của giai cấp thống trị, mà từ lập trường của nhân dân. Ngay ở điểm ấy, ông đã có
chỗ khác với các nhà sáng lập ra đạo Nho.
Điều quan trọng ở đây là Nguyễn Đình Chiểu đã cải biến khái niệm trung
của nho giáo và làm cho nó có những nét mới mẻ sinh động nhằm đáp ứng một
phần nào những yêu cầu dân chủ và dân tộc của nhân dân Việt Nam. Ông quan
niệm rằng đạo trung quân là cần thiết cho mọi người. Nhưng ông đòi hỏi một ông
vua được mọi người tôn thờ phải là ông vua hiền tài, thương dân yêu nước. Ông
vua ấy phải tượng trưng cho hạnh phúc của nhân dân và nền tự chủ của đất nước.
Ông ta phải biết nghiêng mình xuống cứu vớt những con người sống trong đau
khổ và hoạn nạn, và nhất là phải biết cùng toàn. Ông xuất phát từ lợi ích của dân
77
để đánh giá về vua.
Xã hội phong kiến luôn đề cao nho giáo, tác phẩm Lục Vân Tiên không
nằm ngoài điều đó, sáng tác thấm nhuần tư tưởng nho giáo, răn dạy bổn phận tôi
phải “trung” với vua nhưng đó không phải là mối quan hệ mù quáng mà là mối
quan hệ có điều kiện, đó là trung với minh quân, không ưa vua bạo ngược, ghét
gian thần. Nguyễn Đình Chiểu có cái nhìn nhất quán về thời cuộc. Nhân vật ông
Quán là nhân vật đặc biệt, mặc dù không có lai lịch rõ ràng nhưng lại phát ngôn
về đạo lý thời cuộc. Yêu nước nhưng lại xa lánh cuộc đời, ở ẩn, đây là cách lựa
trọn cho vẹn toàn của ông. Ông Quán mượn lịch sử để lên án vua chúa, nói có
ngụ ý. Nhân vật ông Quán xuất hiện để nói hộ Nguyễn Đình Chiểu những quan
niệm về tư tưởng yêu dân, coi trọng lẽ phải. Ông Quán tuy là nhân vật vô danh
trong tác phẩm thế nhưng với tuyên ngôn của mình lại thể hiện con người đạo
đức của người quân tử. Đó là minh chứng cho mẫu hình người quân tử đại diện
cho nhân dân, xuất thân từ những người dân thường áo vải.
Nguyễn Đình Chiểu ít nói đến hôn quân, cũng không gay gắt với những
mẫu quan lại một cách cụ thể nhưng trong thâm tâm ông dần hình thành sự đau
xót, với tình cảnh đất nước. Với ông, nước gắn với vua nhưng nhân vật ông vua
trong truyện Lục Vân Tiên xuất hiện hết sức mờ nhạt, không bị đả kích trực tiếp
mà thông qua nhân vật Sở vương- hình tượng nhà vua sợ giặc, ưa xu nịnh. Đó là
Sở Vương - một tên vua nhu nhược, bị nịnh thần hôn mê và làm cho xã hội rối
ren, dân chúng đau khổ, giặc ngoài xâm lược. Nguyễn Đình Chiểu đã vạch ra sự
u mê của Sở Vương:
Phán rằng: Trẫm sợ nƣớc phiên
Có ngƣời Cốt Đột phép tiên lạ lùng
Nay đã trừ cốt đội xong
Thật trời sinh trạng giúp trong nƣớc nhà
Phải chi sớm có trạng ra
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ
Vua làm cho nhân dân lầm than, tuy không đả kích lộ liễu nhưng đối
78
tượng mà Nguyễn Đình Chiểu nhắm đến trực tiếp đó là vị vua ngồi chễm chệ
trên ngai vàng. Nguyễn Đình Chiểu mượn điển tích, điển cố qua “Lẽ ghét
thương” của ông Quán phân tích khá rạch ròi, yêu Khổng Tử, Nhan Uyên, Đổng
Trọng Thư, Đào Tiềm, Khổng Minh…nhưng lại ghét Kiệt Trụ, U Lệ, Thúc
Quý…Nguyễn Đình Chiểu đã không ít lần lớn tiếng lên án những tên vua nhu
nhược, không dám đối diện trực tiếp với kẻ thù, sẵn sàng cắt đất cho giặc, đẩy
nhân dân vào chốn lầm than:
Kể từ Thạch Tấn ở ngôi
U Yên mất quận cắt bồi Khiết Đan
Sinh dân nào xiết bùn than
U Yên trọn cũng giao bàn về Liêu
Trước tình thế mất nước, là một người quân tử thì nên chính trực thẳng
thắn, không nên có thái độ ngu trung, nghe theo mệnh lệnh đầu hàng của vua, mà
phải chống lại hành động đó. Nguyễn Đình Chiểu không trực tiếp phê phán vua
nhưng đối tượng phê phán của ông là tất cả những gì đi ngược lại với lý tưởng an
dân, với vận nước và với sự vẹn toàn của ngôi vua.
Hình tượng người quân tử vốn là mẫu hình lý tưởng của học thuyết nho
gia, cùng với sự ảnh hưởng của nó, hình tượng này thể hiện sự chuẩn mực về
nhân cách của nam giới. Quan niệm của người quân tử đã xuất hiện từ lâu,
Khổng Tử không phải là người đầu tiên tạo ra thuật ngữ về người quân tử. Mà ở
đời Chu, quan niệm về người quân tử đã được lưu hành rộng rãi. Tuy nhiên, đời
Chu chỉ nói đến người quân tử trên phương diện địa vị xã hội. Quân tử là kẻ cai
trị, người có chức phận cao, cai trị dân, có đức hay không có đức đều gọi là
người quân tử, còn dân thường hay bị trị đều gọi là tiểu nhân. Đến Khổng Tử khi
nói về học thuyết của mình, Khổng Tử cũng sử dụng phạm trù này nhưng lại bổ
sung cho nó những dụng ý mới. Ông nhấn mạnh yếu tố tư cách, ông cho rằng
người quân tử là người có đức hạnh, có nhân cách, xứng đáng với địa vị trị dân,
giáo dân. Do vậy, ứng xử của người quân tử cũng được đề cao hơn hết, đó là
trong mối quan hệ “vua – tôi” vốn là quan hệ được đặt nên hàng đầu trong ứng
79
xử Nho giáo. Quan niệm nho giáo Khổng Tử đã dành hẳn chữ trung khi nói về
đạo đức của người quân tử với bề trên. Quan niệm này xuyên suốt trong tư tưởng
của các nhà nho yêu nước mà Nguyễn Đình Chiểu không phải là một ngoại lệ.
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là “một sáng kiến của nhà nho
muốn giải quyết tình trạng bế tắc”. Đó là tiếng nói tích cực của các nhà nho mà
Lục Vân Tiên, Hớn Minh và Vương Tử Trực là đại diện. Tác phẩm Lục Vân Tiên
được xem là cuốn tự truyện chứa nhiều ước mơ thầm kín của Nguyễn Đình
Chiểu - một nhà nho chân chính nhưng sinh không hợp thời. Trong thời buổi
nhiễu nhương ấy không may vướng vào tật nguyền, không thể phò vua, giúp
nước, làm tròn trách nhiệm nam nhi, vì vậy tác giả gửi gắm tâm sự, nhắc nhở đạo
lý vào truyện. Điều này được bộc lộ rõ rệt qua lời nhắn nhủ của truyện Lục Vân
Tiên ở đầu:
Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trƣớc lành dè thân sau
Nguyễn Đình Chiểu muốn lẳng lặng lắng nghe để làm theo đạo lý thánh
hiền, xuất phát từ nho giáo, đó là phương châm xuất thế của bậc trượng phu.
Nguyễn Đình Chiểu không bình luận triết lý đạo nho mà chỉ muốn dạy cách cư
xử, hành động sao cho hợp lẽ phải, tình người. Một trong những điều đó là quan
niệm về phạm trù “trung quân”:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm ngƣời thế ấy cũng phi anh hùng
Nƣớc trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây
Ngƣ rằng: “tôi chẳng lòng sờn
Xin tròn nhân nghĩa còn hơn bạc vàng
Chữ “trung” trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu không hoàn toàn
giống với đạo lý của nho giáo áp đặt, gò bó, cực đoan mà thông qua lời nói, hành
80
động nhân vật của ông đề cao đạo lý nhân bản.
Ứng xử trung được thể hiện khác nhau ở mỗi tuyến nhân vật, nếu như việc
Thái sư mượn chữ trung để hiến kế để gia đình Kiều Công cống nộp Kiều Nguyệt
Nga, là giải pháp cầu hòa thì Kiều Công - người cha thương Kiều Nguyệt Nga
cũng viện vào “việc quân vƣơng” để giải thích hành động tiễn con gái lên đường:
Kiều Công lụy ngọc nhỏ sa
Các quan ai nấy cũng là đều thƣơng.
Chẳng qua là việc quân vƣơng,
Cho nên phụ tử hai đƣờng xa xôi
Ở đây, chữ trung được đặt trên mối quan hệ phụ tử, phụ tử hi sinh vì quân
vương. Tuy nhiên, trung quân ở đây không có sự tự nguyện mà suy cho cùng là
sự oán trách:
Việc này là việc triều đình
Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan
Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng
Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga
Ta có thể thấy, Kiều Nguyệt Nga không toàn tâm toàn ý cho thể hiện chữ
trung với vua mà chỉ vì lo cho sự sống của cha nơi quê nhà. Nguyễn Đình Chiểu
đã nhiều lần đề cập đến cách hiểu về chữ trung trong tác phẩm, đã nhiều lần chữ
trung ở đây được hiểu bằng chữ “ngay, ngay thẳng” với vua:
Nghĩa tình nặng cả hai bên
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chàng
Các nhân vật nam luôn được đề cao chữ trung, mục đích tối thượng cho
cuộc đời của họ là ra làm quan để cho trong trung với vua, với nước:
Làm trai ơn nƣớc nợ nhà
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh
Nhân vật Lục Vân Tiên được xây dựng theo mẫu hình lý tưởng với bổn
phận làm trai dẹp giặc Ô qua cứu nước. Chàng cũng là hiện thân của tinh thần
trung hiếu:
81
Phò đời giúp nƣớc phơi gan anh hùng
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, chữ trung, hiếu được sử dụng với nội dung
lớn hơn. Đó là phê phán xã hội phong kiến bế tắc, kỷ cương, trật tự xã hội lỏng
lẻo sau khởi nghĩa nông dân và binh biến, hệ tư tưởng nho giáo phải lùi bước
trong việc kiểm soát tinh thần xã hội. Trật tự vua tôi, anh em bị vi phạm ngay
trong nội bộ triều đình, giai cấp có hệ tư tưởng tiến bộ không đủ đức hình thành,
triều đình lưỡng lự trước việc chiến hay hòa. Chính vì vậy, chữ trung được đặt
lên hàng đầu trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
Qua tác phẩm Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện quan điểm của mình:
Trọn đời thể hiện tấm lòng son
Những mong trả nợ nƣớc nhà cho rồi
Thể hiện bổn phận, chí làm trai để trả nợ nước non, không phải cứ thành
danh mới là trả nợ nước non, mà bất cứ việc gì dù sang hay hèn đều có thể trả nợ
xứng đáng. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu dẫn dắt không còn cứng nhắc như
lúc ban đầu mà với ông lúc này, trung hiếu tiết hạnh mang nội dung nhân dân.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu dẫn dụ ra hệ thống các nhân vật
nam giới trung và nịnh hiện ra rõ nét.
Như đã nói ở trên, quan niệm nho giáo, Khổng Tử luôn đề cao trí, dũng,
nhân, trong nó đặc biệt là dũng. Dũng là sự can đảm, dũng cảm, nghĩa hiệp để
chiến thắng bản thân và sẵn sàng giúp đỡ người khác. Cốt lõi của việc trở thành
người quân tử là con đường tu thân. Trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu, ngay
từ đầu nhân vật Lục Vân Tiên đã đề cao mục đích tu thân của mình. Tu thân là
nghiêm khắc với bản thân, sửa chữa những thiếu sót để hành đạo giúp đời, vừa
vinh hiển gia, vừa an bình thiên hạ (Tự thiên tứ dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ
tu thân vị bản). Về đức, nhân vật Lục Vân Tiên và ông Quán luôn là những con
người vẹn toàn. Mục đích sáng tạo những nhân vật ông Quán, Lục Vân Tiên,
Hớn Minh, Vương Tử Trực – con người của nho giáo nói chung và trong sáng
tác của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng đều thể hiện ước mơ, mục đích giáo dục
đức tính hướng nam giới trong xã hội đến cái thiện, cái hoàn mỹ của phẩm giá và
82
nhân cách. Do vậy, phẩm chất của họ bộc lộ từ tướng mạo, hành vi, ngôn ngữ, từ
tư cách, thái độ luôn phải toàn diện, toàn mỹ, xứng đáng với lối đức trị của
Khổng Tử. Từ đó, hướng đạo đức của người quân tử vào việc bảo vệ chế độ
phong kiến, củng cố trật tự, đẳng cấp và trung thành tuyệt đối với vua. Tuy
nhiên, rất ít người đạt đến mức độ này. Như vậy, quan niệm của nho giáo về con
người lý tưởng hầu như là mang tính chất không tưởng.
Xét về nhân vật, Lục Vân Tiên là đại diện cho tinh thần trung nghĩa. Luôn
muốn thành danh bằng con đường khoa cử, đi thi ra làm quan để giúp nước, giúp
dân. Hành động đầu tiên của sau khi làm quan của chàng đó là nghe theo lệnh
giúp vua giệt giặc Ô Qua:
Làm trai ơn nợ nƣớc nhà
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh
Hớn Minh cũng là một nhân vật hảo hán trong tác phẩm, cũng nghĩa khí
cứu giúp người bị nạn, dù là tội phạm triều đình, nhưng khi có cơ hội được lập
công thể hiện chữ trung của mình thì chàng cũng không hề nề hà nghe theo lệnh
vua để cùng Vân Tiên đánh Cốt Đột:
Sở Vƣơng phán trƣớc triều đình
Chỉ sai tha tội Hớn Minh trở về
Sắc phong phó tƣớng bình di
Tiên Minh tƣơng hội xiết gì mừng vui
Yêu nước của Lục Vân Tiên và Hớn Minh được thể hiện bằng hành động. Họ
không chỉ giúp dân bằng những việc lặt vặt mà còn dốc lòng giúp nước:
Làm trai trong cõi thế gian
Phù đời giúp nƣớc phơi gan anh hào
Giúp nước ở đây chủ yếu là đánh đuổi giặc ngoại xâm. Như vậy, mục đích
của trí và dũng trước hết là vì dân, vì nước và đồng thời vì vua. Người quân tử
không thể nhắm mắt ngồi nhìn gian thần làm cho đất nước nghiêng đổ và nhiệm
vụ của người anh hùng là phải xoay chuyển cột cờ.
Trái ngược với hành động trung quân, ái quốc còn là hệ thống nhân vật
83
nịnh, bán nước hại dân, mưu cầu lợi lộc cá nhân mà Nguyễn Đình Chiểu cũng lên
án. Đó là tên thái sư với bản chất bán nước, hại dân của Thái sư đã được thể hiện
ngay ở việc vì nghĩ đến mối thì cá nhân, hắn chủ trương công Nguyệt Nga cầu
hòa với nước Ô qua:
Thái sƣ nhớ việc cừu nhà
Vội vàng quỳ xuống tâu qua ngai vàng
Thuở xƣa giặc mọi dấy loàn
Vì ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa
Muốn cho khỏi giặc Ô Qua
Đƣa con gái tốt giao hòa thời xong
Nguyệt Nga là gái Kiều Công
Tuổi vừa hai tám mà hồng tƣơng xinh
Hành động trung quân của thái sư tiếp tay cho tội ác khiến nhân dân lầm
than, dùng sự trung quân của mình để trả thù riêng:
Sở Vƣơng phán trƣớc bệ tiền:
Những ngờ tƣớng giỏi tôi hiền mà thôi
Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi
Thái sƣ ý muốn cƣớp ngôi chính trùng
Hớn xƣa có gã Đổng công
Nuôi thằng Lữ Bố, cƣớp dòng nhà Lƣu
Thái sư dù chỉ xuất hiện với vai trò nhân vật nịnh, nhưng hành động của
hắn chủ trương cầu hòa được gán vào hành động bất trung với vua với nước,
được phân tích:
Thái sƣ trƣớc chẳng lo lừa
Thiếu chi dân thứ phải đƣa tới nàng
Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng
Không soi chậu úp cũng mang tiếng đời
Rõ ràng, cùng việc đánh giặc Ô Qua, mỗi tuyến nhân vật có cách giải
quyết khác nhau cho chữ trung. Nếu như Hớn Minh và Vân Tiên xả thân không
84
ngại hiểm nguy đến tính mạng khi có cơ hội lập công thì Thái sư lại chủ trương
đưa Nguyệt Nga cầu hòa. Ứng xử của hệ thống nhân vật chính tà hoàn toàn khác
nhau. Với Lục Vân Tiên, trung là trung với nước, với vua khi nước nhà lâm
nguy. Còn Thái sư thì mượn việc nước để trả thù nhà. Nguyễn Đình Chiểu mượn
điển tích, điển cố về Lữ Bố, có một cái nhìn nhất quán trong việc thể hiện cái
trung của mình. Đó là hành động biểu chưng cho những kẻ tiểu nhân, cần được
lên án.
Tóm lại, ở Nguyễn Đình Chiểu, nội dung ái quốc mang tính tuyệt đối,
trung quân chỉ mang tính chất tương đối, ông đòi hỏi những nhân vật nam giới
của mình làm đúng theo bổn phận và nghĩa vụ với đạo đức, duy lý hơn duy tình.
Những nhân vật nam trong truyện Lục Vân Tiên đều xuất phát từ những người
nông dân, họ là những anh hùng vô danh nhưng lại tiêu biểu cho sức mạnh, lòng
dũng cảm và sự hy sinh cao cả, đại diện cho toàn bộ sức mạnh tinh thần dân tộc.
Nguyễn Đình Chiểu nhìn nhận các nhân vật nam giới của mình dưới góc nhìn
của một nhà nho, họ là những người nông dân sống theo mẫu tính cách, nghĩa vụ
mà không phải là sống theo khát vọng, sở thích, tài năng. Mặc dù còn nhiều hạn
chế, nhưng xét cho cùng đây là đặc điểm về cách nhìn nhận con người thời bấy
giờ.
Bên cạnh mối quan hệ vua – tôi, nho giáo đặc biệt chú trọng đến ứng xử
trong mối quan hệ cha con. Nho giáo quan niệm con người nói chung, sinh ra,
lớn lên, chết đi đều biết thực hành chữ hiếu. Chữ hiếu thường được ghép với chữ
đễ. Hiếu là đối với cha mẹ, đễ là đối với anh, chị em trong nhà. Rộng ra, đễ còn
để khu xử những mối quan hệ xã hội, với người lớn tuổi hơn, với người mình tôn
trọng. Đó là đễ. Còn hiếu thì thực hành đối với cha, mẹ, ông bà, tổ tiên, dòng tộc.
Đó là hiếu. Hiếu đễ là giá trị để đánh giá nhân cách con người.
Song, nói hiếu đễ thì dễ, thực hành mới khó. Khổng Tử, ông tổ của nho
giáo, có rất nhiều bài kệ dạy con người thực hành hiếu một cách cụ thể. Phận làm
con phải biết tuổi cha mẹ để mừng, để kính; không nên đi chơi xa để cha mẹ nhớ
85
mong; nếu bắt buộc đi thì phải báo cho cha mẹ biết…Từ đó, quan niệm cách thực
hành hiếu khắt khe được đẩy lên cao hơn: “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất
hiếu”.
Chữ hiếu về cơ bản cũng xuất phát từ tinh thần của nho giáo. Câu Trai
thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình cho thấy quan
niệm trung hiếu được sử dụng nhiều hơn hiếu đễ. Trung ở đây là trung với nước.
Trung với nước được coi là đại hiếu.
Nguyên tắc mà Khổng Tử nói ở đây, ông cho rằng làm cha thì phải xứng
đáng làm cha, làm con phải có bổn phận làm con. Nguyên tắc xử lý mối quan hệ
với họ là làm cho cha mẹ yêu thương con cái và làm cho con cái phải hiếu thuận
với cha mẹ. Con cái đối đãi với bố mẹ phải chân tình, xuất phát từ sự chân thành,
nếu không thì chỉ là sự tôn kính phụng dưỡng cha mẹ trên hình thức thì chẳng
phải hiếu thảo thực sự. Nho giáo cổ đại đề xướng bề tôi phải trung với vua, con
phải hiếu thảo với cha mẹ, xã hội cổ đại đặc biệt tôn trọng người có hiếu, điều đó
được thể hiện ngay khi cha mẹ còn sống, người con không có quyền quyết định
nhưng có thể bộc lộ chí hướng của mình khi cha mẹ mất. Nếu người con không
giữ vững được mà dám thay đổi những quy tắc, quy phạm của xã hội đương thời
thì đó là người không có hiếu …Khi cha mẹ mất, phải để tang ba năm mới gọi là
có hiếu.
Nội dung trong hiếu là thuận, Khổng Tử cho rằng “không làm trái”. Chớ
nên trái ngược, tức là không làm trái ý của cha mẹ, tuy nhiên không làm trái
không phải là thuận lòng vô nguyên tắc mà là thờ cha bằng lễ. Hiếu là gốc của
nhân. Tử Hữu học trò của Khổng Tử đã từng nói: “Một ngƣời có hiếu thảo với
cha mẹ và tôn kính anh em, mà ƣa trái nghịch bề trên, ƣa gây ra những cuộc
phản loạn, ngƣời nhƣ vậy là chƣa từng có cho nên ngƣời quân tử cần nắm cái
gốc. Cái gốc đƣợc vững chắc, tự nhiên đạo lý đó bắt đầu mà sinh ra. Vậy làm
ngƣời biết giữa gìn hiếu thảo với cha mẹ và tôn kính anh em tức là biết nắm lấy
cái gốc của điều nhân”. Có lòng yêu thương cha mẹ và người thân trong nhà thì
86
mới biết yêu những người ngoài.
Hiếu là linh hồn, là trọng tâm của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam
từ xa xưa, và được nho giáo khẳng định thêm sâu sắc và dần được cơ chế hóa,
làm nền tảng luân thường đạo lý cá nhân cũng như xã hội và toàn thể quốc gia.
Tại Trung Quốc, vào thế kỷ II – I trước Công Nguyên, sách Hiếu Kinh được trích
từ Tứ thƣ ngũ kinh nâng đạo hiếu lên mức thiên đạo: “Đạo hiếu là kinh sách của
Trời, nghĩa lý của đất, là hành động của muôn dân”. Hay “Làm cho cha mẹ
đƣợc tôn trọng là bậc hiếu cao nhất, không làm nhục cha mẹ là bậc hiếu thứ hai,
nuôi đƣợc cha mẹ là bậc hiếu thứ ba. Nhƣng nuôi mà không kính trọng thƣơng
yêu chƣa đủ, vì chó ngựa cũng đƣợc nuôi. Nuôi mà không kính ái thì chẳng khác
gì nuôi súc vật” (Luận Ngữ).Nhưng sống hiếu thảo không có nghĩa là cha mẹ
làm gì con cũng phải làm theo. Khi cha mẹ sai lầm, con phải hết lòng can ngăn
để cha mẹ tránh lỗi lầm. Điều cần là lấy lời ôn tồn trình bày phải trái với cha mẹ
(Luận Ngữ).
Sách Nhị Thập Tứ Hiếu cũng gốc nho giáo được dịch ra quốc âm để nêu
gương hiếu, phổ biến toàn quốc. Đồng quê cũng như đô thị, nhiều người đã biết
hoặc thuộc lòng:
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết
Thì suy ra trăm nết đều nên
Chẳng xem thuở trƣớc thánh hiền,
Hiếu hăm bốn mẫu, thơm nghìn muôn thu.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho chính thống, do vậy ông ra sức ca
ngợi và bảo vệ nho giáo và tử tưởng Khổng Tử. Điều đặc biệt là ông luôn đề cao
tam cƣơng ngũ thƣờng của nho giáo theo quan niệm của nhân dân trong mỗi
nhân vật của ông. Đối với chữ hiếu, tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu cũng mang
đậm tính chất nhân dân. Mọi nhân vật đều có những cách ứng xử khác nhau, tùy
thuộc vào vị trí người quân tử hay kẻ tiểu nhân. Điển hình cho chữ hiếu trong tác
phẩm Lục Vân Tiên ta phải kể đến đó là người con hiếu thảo Lục Vân Tiên. Chữ
hiếu trong thơ của ông không quá cực đoan như trong nho giáo Khổng Tử mà hết
87
sức thoải mái. Hành động biểu trưng cho chữ hiếu là nghe theo sự sắp đặt của
cha mẹ. Điều đó cho thấy, trong quan niệm về gia đình của nho giáo, cha mẹ là
người nắm quyền hành tuyệt đối. Cho nên trong phép tắc ứng xử giữa cha con
luôn đề cao chữ hiếu, con cái nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của cha mẹ, kể cả
việc định đoạt hôn nhân, con cái cũng phải nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ “cha
mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Dưới chế độ phong kiến, con cái không dám chiống
lại quyết định của cha mẹ vì xã hội xem các chuẩn mực đạo đức trên tương
đương với giá trị pháp lý khiến con trẻ răm rắp nghe theo các quy định của cha
mẹ đưa ra. Đó là các chuẩn mực về nhân, lễ, trí, dũng. Trong gia đình, chữ Lễ
được đặt lên hàng đầu. Vì thế, con cái phải biết nghe lời, hi sinh mình để báo
Hiếu cha mẹ, thậm chí bán mình để báo đáp cha mẹ như Thúy Kiều.
Nhắc đến hành động vì chữ hiếu đầu tiên của Vân Tiên ta phải kể đến đó
là thuận theo ý cha mẹ trong chuyện hôn nhân. Lục Vân Tiên mặc dù có gặp
Kiều Nguyệt Nga, trong lòng Nguyệt Nga đã nảy sinh tình cảm nhưng việc đính
ước, sắp xếp hôn nhân, chàng vẫn cự tuyệt tình cảm mà tuân theo ý cha mẹ, mãi
đến sau này chàng mới kết duyên cùng Kiều Nguyệt Nga.
Xƣa đà định chữ lƣơng duyên,
Cùng quan hƣu trí ở miền Hàn giang
Con ngƣời là Võ Thể Loan,
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà
Chàng thuận theo ý cha mẹ, kết lương duyên cùng với con gái Võ Thể
Loan. Xét thấy, nếu như không có chuyện gia đình Võ Thể Loan bội ước, có lẽ sau
khi đánh thắng Cốt Đột, chàng sẽ vẫn quay trở về kết duyên cùng mối lương duyên
đã hẹn ước. Lục Vân Tiên đã làm theo đúng, cho trọn chữ hiếu của nho giáo.
Chúng ta liên tục thấy ở Lục Vân Tiên là con người hết lòng vì cha mẹ, vô
cùng hiếu thảo. Mặc dù chọn cho mình lý tưởng tối thượng là con đường khoa
cử, ước mơ nghiệp bút nghiên cứu đời, ngày thi đến gần nhưng nghe tin nhà có
chuyện, chàng sẵn sàng “gác lại” mộng công danh để về quê chịu tang mẹ:
Tiên rằng: Con bắc mẹ nam
88
Nƣớc non vòi vọi đã cam nỗi nghì…
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tƣởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu
Ngàn trùng bể rộng chín chiều ruột đau.
Thƣơng thay chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao thâm tình.
Đây là lần đầu tiên, Lục Vân Tiên – dáng dấp của người quân tử khóc, cái
khóc này là vì đạo hiếu, con khóc tang mẹ. Trong văn học, nói về đàn ông khóc
thì có rất nhiều, khóc vì vợ, khóc vì thân, khóc cho số phận bi thảm:
Với người thị nữ Lý Hà, người theo hầu những năm tháng gió bụi, mắc
bệnh mà chết, Ngô Thì Sĩ thương xót cho phận nàng, cũng tự trách mình trong
cảnh nghèo khó làm lụy tới tấm thân tôi đòi. Thật hiếm khi ta thấy được những
giọt nước mắt của nho gia khóc thương cho những thân phận vốn bị coi là hèn
mọn như thế này:
Tam niên bồi thị bão phong trần,
Cân quắc quỳnh nhiên bộc ngự thân.
Mệnh khởi hồng nhan thƣơng nhĩ bạc,
Cảnh ƣ xích thổ xỉ ngô ban.
Dƣợc thang lỗ mãng tình đa khiểm,
Liệm táng thông mang lễ thiểu tuần.
Cơ kiển cánh di cơ trửu lụy,
Bồi hồi tƣởng vãng lệ triêm cân.
(Khốc thị nữ Lý Hà)
(Há phải hồng nhan để ta phải thƣơng cho nàng bạc mệnh,
Ở nơi đất đỏ vùng biên cảnh này ta lấy làm xấu hổ vì cái nghèo của mình
Khi ốm đau thuốc thang đã sơ sài mà tình cảm cũng thiếu thốn,
Lúc mất rồi, việc chôn cất lại vội vã, không theo đủ đƣợc tuần cúng.
Cảnh nghèo của ta càng làm lụy đến tấm thân tôi đòi của nàng
89
Ta bồi hồi tƣởng nhớ lại mà nƣớc mắt thấm đầy khăn.)
Nguyễn Du khóc thương cho thân phận người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh mới là lời chung
Về các nhân vật trong văn học trung đại, ta cũng có thể bắt gặp nỗi niềm
của người nam nhi, họ rơi lệ nhưng chủ yếu là vì tình. Rõ ràng nhất phải kể đến
chàng Thúc Sinh, khi bị Hoạn Thư đánh ghen, Thúc Sinh thương cảm cho Thúy
Kiều nhận tất cả tội trạng về mình. Mà thật vậy, Thúy Kiều là một kẻ vô tội,
trước khi Thúc Sinh gắn bó với Kiều, Kiều cũng đã bày tỏ hơn thiệt và không
quên nhận mình là một cô gái lầu xanh. Thế mà khi bị đánh ghen, lương tâm cắn
rứt, Thúc Sinh đã khóc thành tiếng, khóc cho giãi hết đoạn trường:
Khóc rằng: oan khốc vì ta
Có nghe lời trƣớc, chớ đà lụy sau
Cạn lòng, chẳng biết suy nghĩ sâu,
Để ai trăng tủi, hoa sầu vì ai?
Ngay đến Kim Trọng, cũng từng có lần khóc than thảm thiết vì nhớ
thương Thúy Kiều:
Gieo mình vật vã, khóc than:
Con ngƣời thế đấy, thác oan thế này!
Chắc rằng mai trúc lại vầy,
Ai hay vĩnh quyết là ngày đƣa nhau
Thƣơng càng nghĩ, nghĩ càng đau
Dễ ai rấp quạt sầu cho khuây
Ta hiếm thấy trong lịch sử văn học, người quân tử khóc, mà khóc vì chữ hiếu
thì lại càng ít. Khóc vốn là đặc tính của phụ nữ. Cũng về chữ hiếu, ta chỉ mới thấy
Thúy Kiều khóc cho mình. Chữ hiếu của Thúy Kiều cũng hoàn toàn khác so với Lục
Vân Tiên. Khi bán mình chuộc cha, nàng có nói:
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn
Để lời thệ hải minh sơn
90
Làm con trƣớc phải đền ơn sinh thành
Thúy Kiều báo hiếu như đó là bổn phận đạo đức mà người con với gia
đình cho nên Kiều không hề khóc vì cha mẹ. Ngay cả trong các tác phẩm tuồng
miền Nam ảnh hưởng đến sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu dù cũng có đề cập
đến đạo lý người quân tử:
Lo chữ trung, trung lấy làm đầu
Còn chữ hiếu, hiếu kia để dạ
Tuồng Sơn Hậu đề cao chữ trung, tuy có nhắc đến đạo hiếu nhưng là hiếu
ở trong lòng, lo cho nước xong mới đến lo cho nhà. Đối với Nguyễn Đình Chiểu
lại khác, ông cho rằng:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh, làm câu trau mình
Chữ hiếu luôn sánh cạnh chữ trung, có hiếu thì mới có trung được, vậy
nên trước khi là một quân tử yêu nước, Lục Vân Tiên phải là một người con có
hiếu trước đã. Mặc dù là nam nhi mạnh mẽ, nhưng khi đứng trước mất mát người
thân thì nam nhi như Lục Vân Tiên cũng khóc. Đây không phải là hành động yếu
mềm của đàn ông mà là “khóc” cao đẹp, đáng khen ngợi khi thể hiện chữ hiếu
trong nho giáo. Lục Vân Tiên nhập trường thi, vừa lên đường vội vã thì được tin
mẹ mất, chàng tức tốc quay về chịu tang mẹ, khóc đến mù mắt:
Thƣơng thay chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình!
Đó là một nghĩa cử cao đẹp của Vân Tiên, trong văn học trung đại đã từng
có rất nhiều tấm gương về tấm lòng hiếu thảo. Vì chữ hiếu mà Thúy Kiều sẵn
sàng bán mình chuộc cha, chữ hiếu được hiểu thành tiết, sự hi sinh vì chữ hiếu
nhưng cái đau khổ mà Thúy Kiều phải ngất đi có lẽ lại vì tình yêu với Kim Trọng.
Nhưng chính chữ hiếu lại khiến Lục Vân Tiên ngất đi, và khóc đến mù hai mắt. Đây
là một điều ít gặp ở trang nam nhi, phải chăng Lục Vân Tiên chỉ có thể rơi nước mắt
vì hiếu chứ không phải vì tình. Lục Vân Tiên coi trọng chữ hiếu hơn tình, đây là
biểu hiện cho tinh thần khắc kỷ phục lễ của nho giáo. Đó là tinh thần đề cao lễ,
91
nghĩa, trí để hoàn thiện đức nhân. Nhân và lễ là hạt nhân cơ bản của đức nhân. Bàn
về đức nhân, Khổng Tử từng nói “Ngày nào khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi ngƣời
trong thiên hạ còn cảm hóa mà theo về đức nhân” (Luận Ngữ - Nhan Uyên 1).
Chính vì vậy, hành động Lục Vân Tiên hi sinh và khóc vì chữ hiếu bao giờ cũng
đáng ca ngợi. Và ở đây, chữ hiếu bao giờ cũng nặng hơn chữ tình:
Khai phong mới tỏ sự cơ
Mình gieo xuống đất, dật dờ hồn hoa…
Hai hàng lụy ngọc dòng dòng
Tƣởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu
Ngay cả khi, vinh quang đỗ trạng nguyên trở về, thì người chàng nghĩ đến
đầu tiên lại là cha mẹ, hành động đầu tiên là đi thăm mộ mẹ. Hành động này một
lần nữa lại nhấn mạnh đến vị trí chữ hiếu trong đức của người quân tử, vốn chỉ
đứng sau chữ trung:
Thƣa rằng: hoạn nạn xiết bao
Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an…
…Suối vàng hồn mẹ có linh
Chừng cho con trẻ lòng thành ngày nay
Tƣởng bề nguồn gốc cội cây
Công sâu ngàn trƣợng, ngồi dầy chín trăng
Có thể nói, chàng luôn đặt chữ hiếu lên vị trí đầu tiên, thậm chí có lúc
trước cả chữ trung. Chữ hiếu ở đây không chỉ được biểu đạt một bề mà còn là
tình yêu thương của cha mẹ với con. Đó là tấm lòng của Lục ông:
Thƣơng con phận bạc lắm thay
Nguyền xƣa còn đó, con rày đi đâu?
Đó là tấm lòng của Kiều Công đối với con gái Kiều Nguyệt Nga, mặc dù
Kiều Công phải tiễn con gái ra đi để cầu hòa giúp nước nhưng cũng không khỏi
nhỏ lệ:
Kiều Công lụy ngọc châu sa
Các quan ai nấy cũng là đều thƣơng
92
Chẳng qua là việc quân vƣơng
Cho nên phụ tử hai đƣờng xa xôi
Trái ngược với tình cha con của Lục Vân Tiên, cha con Kiều Công
Nguyễn Đình Chiểu còn lên án cha con Võ Thể Loan và cha con Bùi Kiệm. Võ
Thể Loan là nhạc phụ tương lai của Lục Vân Tiên nhưng lại bạc tình bạc nghĩa,
khi chàng gặp nạn buông lời khinh bỉ, muốn tác hợp cho con gái với Vương Tử
Trực là trái với đạo nhân:
Công rằng: Ta cũng thƣơng thầm
Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang
Thôi thôi khuyên chớ thở than
Đây đà tính đặng một đàng rất hay
Tới đây thời lại ở đây
Cùng con gái lão xum vầy thất gia
Phòng khi hôm sớm vào ra
Thấy Vƣơng Tử Trực cũng là thấy tiên
Chính vì bất nghĩa nên bản thân Thể Loan con gái Kiều Công cũng bất
nghĩa, Thể Loan thuận theo ý cha, nhưng đó là sự vong ơn bội nghĩa đáng lên án.
Khổng Tử từng cho rằng hiếu không có nghĩa là phục tùng cha mẹ hoàn toàn mà
thấy cha mẹ làm sai thì nên khuyên răn, đó mới là đạo hiếu.
Nhắc tới cha con Bùi Kiệm, mặc dù Bùi ông là người tốt, cứu Kiều
Nguyệt Nga lúc gian khó, cưu mang nàng nhưng vì thương con, muốn tác hợp
cho con mà đồng tình với Bùi Kiệm:
Bùi ông ngon ngọt trau dồi
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình
…Nhớ rằng xuân bất thái lai
Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn
Làm chi thiệt phận hồng nhan
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng
Tóm lại, bên cạnh chữ trung thì chữ hiếu cũng được Nguyễn Đình Chiểu
93
đề cao trong cái nhìn khe khắt đối với nghĩa vụ của nam giới. Gần như hiếu là
thước đo đạo đức của các nhân vật nam chính diện và phản diện. Hành động của
các nhân vật nam chính diện hết mình vì đức hiếu ở đây đều được đề cao, biểu
trưng cho đạo đức của người quân tử. So với Bùi Kiệm, Trịnh Hâm và các nhân
vật phản diện khác thì nhân vật chính diện như Lục Vân Tiên được đề cao hơn
cả. Đôi khi các nhân vật của ông đề cao chữ hiếu như một trong những thử thách
buộc phải vượt qua, làm kim chỉ nam cho mọi chương trình hành động của mình.
Tiểu kết
Truyện Lục Vân Tiên được ra đời trong thời kì xu hướng tôn nho đang trở
lại vùng đất phương Nam nên các nhân vật nam chính diện được khắc hoạ có đầy
đủ yếu tố của trang nam nhi anh hùng: có sức mạnh thể chất, có vẻ đẹp trí tuệ, có
lòng trọng nghĩa khinh tài và có vẻ đẹp lý tưởng. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn
Đình Chiểu còn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau, được phân tuyến rạch
ròi theo các chuẩn mực đạo đức nho giáo và đạo lý dân gian thông qua những
biểu hiện nam tính. Nhân vật chính diện trong truyện Lục Vân Tiên là những
người sống có tình, có nghĩa, có trước, có sau, hết mình vì người khác, biết quý
trọng người có tài, thì nhân vật phản diện lại được nói đến ở lòng phản trắc, tâm
94
địa hẹp hòi, đen tối, sẵn sàng làm hại người khác để đạt được mục đích của mình.
CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN TỪ
GÓC NHÌN VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI PHỤ NỮ
Nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, hầu hết các nhân vật văn
học đều được nhìn nhận từ góc độ đạo đức. Trong giai đoạn này, tiêu chí đạo đức
là tiêu chí đánh giá chung nhất, quy định nhân vật đó thuộc nhân vật chính diện
hay nhân vật phản diện. Từ đó, trong văn học trung đại hình thành khái niệm
“con người đạo đức” hay “con người chức năng”. Đó là mẫu hình con người lý
tưởng trong văn hóa trung đại nói chung, đạt được yêu cầu đó, con người hay đặc
biệt là nam giới phải tuân thủ những nguyên tắc xử sự khá khắc nghiệt về thân
xác. Trong các cuốn kinh điển nho giáo đều nêu cao một đời sống tu trì khắc kỉ,
chống lại bản năng thân xác, hi sinh thân mình cho lý tưởng hay là tìm cách hạn
chế, kiểm soát con người bản năng, những nhu cầu ăn - mặc - ở - tình dục - sống
- chết để giương cao lá cờ đạo đức. Một trong những bản năng cần được tiết chế
trong nhu cầu của con người, đó là bản năng tính dục.
Bản năng tính dục được thể hiện qua sự đam mê sắc đẹp của phụ nữ. Đã là
nam giới thì không tránh khỏi được những nhu cầu dục vọng, đặc biệt là lòng
ham muốn trước cái đẹp, do vậy việc ứng xử thế nào cũng là điều cần bàn đối với
nam giới trong xã hội nho giáo. Biết được điều này, Khổng Tử đá từng đưa mục
khắc kỉ vào phạm trù chữ nhân. Đó là nghiêm khắc với cái đẹp của phụ nữ được
xem là một tính cách không thể thiếu được ở những bậc thánh nhân quân tử, anh
hùng trong văn hóa phương Đông, đó là không có sự dung hòa giữa đạo nhân và
sắc đẹp phụ nữ. Như đã nghiên cứu ở chương 2 trong luận văn này, ta có thể thấy
trong các mối quan hệ như vua – tôi, cha – con, bằng – hữu thì ở các nhân vật
nam tính, yếu tố giới tính như đam mê sắc đẹp, ước mơ hạnh phúc, hay tình yêu
đôi lứa đều bị gạt bỏ. Dễ thấy, các nhân vật nam nhi, bậc quân tử hiện ra đều dồn
sức mạnh tinh thần và sức lực vào việc xây dựng con người lý tưởng, với mục
đích xây dựng trật tự xã hội. Tình yêu đôi lứa thì bị hạn chế nói đến mức tối đa.
95
Những rung động, ứng xử tình yêu bị phê phán và coi là trái với đạo đức. Tình
yêu nam nữ ở đây cũng được coi là thử thách giúp cho nam nhi khẳng định được
sự kiên trì trong đạo đức của chính mình.
Do vậy, trong xã hội nho giáo cũ luôn có một cái nhìn khắt khe trong mối
quan hệ giữa nam và nữ. Vấn đề tình yêu được xem là vấn đề kín đáo và ít được
nói đến trong văn học trung đại. Đối với người quân tử cũng vậy, họ càng là
những con người trọng nghĩa khí bao nhiêu, thì họ lại càng dè dặt hơn trong
“đụng chạm” với nữ giới. Đó là quan niệm khắc kỷ điều tiết những ham muốn
dục vọng chính đáng của con người, nó được biểu hiện qua thái độ lạnh lùng của
những anh hùng quân tử trong nho giáo đối vơi tình yêu và phụ nữ. Xuất phát từ
quan niệm khắc kỉ của nho giáo, Khổng Tử đã từ lâu rất khắt khe trong quan hệ
thể xác giữa nam và nữ. Cụ thể là quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”, giữa
nam và nữ không nên có sự qua lại nếu không được phép của cha mẹ và xã hội.
Tiếp thu quan điểm của nho giáo, trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu luôn đề cao con người lý tưởng, những người quân tử, tiêu biểu cho trung,
hiếu, tiết, hạnh.
Trong quan hệ ứng xử với phụ nữ, truyện Lục Vân Tiên đề cao sự có “giáo
dục” trong ứng của của nam đối với nữ. Xét về chủ đề, truyện Lục Vân Tiên vốn
đã không phải truyện tài tử giai nhân. Theo học giả Nguyễn Văn Hoài thì tiểu
thuyết tài tử - giai nhân là loại tiểu thuyết chương hồi miêu tả những câu chuyện
luyến ái hôn nhân của nam nữ thanh niên, được viết theo kết cấu 1. Nam nữ
chung tình. 2. Tiểu nhân gây rối loạn rồi li tán. 3. Tài tử thi đậu đoàn viên. Và
nhân vật chính thì tài tử phải là những thư sinh phẩm hạnh, hào hoa hơn người,
nhất là tài năng thi phú, còn giai nhân thì phải là những tiểu thư hoàn hảo, “mạo,
tài, tình” đều đẹp cả. Đây là mô thức chủ yếu của truyện tài tử giai nhân. Xét về
thể loại này, ta có thể thấy truyện Hoa Tiên là một tác phẩm tiêu biểu. Theo đó,
truyện Lục Vân Tiên chưa thể xét vào loại truyện tài tử giai nhân bởi nhân vật
chính là Lục Vân Tiên tuy giỏi văn chương, võ nghệ nhưng lại không được nhấn
mạnh về tài năng nghệ thuật, không khát khao yêu đương, không được nhấn
96
mạnh về việc tìm kiếm tình yêu. Vì thế, hầu hết các ứng xử của Lục Vân Tiên
trước phụ nữ, đều là những ứng xử khiên cưỡng và phần nào mang đậm màu sắc
nho giáo.
Không chỉ đẹp về tài mạo, Vân Tiên còn được tác giả đã khắc họa lên hình
tượng một đấng nam nhi luôn mang trong mình một đạo đức cao đẹp, thấm
nhuần chữ nhân. Nhân vật Lục Vân Tiên được sinh ra trong một gia đình thường
dân ở quận Đông Thành. Sự ra đời của Lục vân Tiên là kết quả của quá trình tu
nhân, tích đức:
Có ngƣời ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành.
Nhân vật Lục Vân Tiên được xây dựng theo mẫu quan niệm Tống Nho
“Tồn thiên lý diệt nhân dục”. Hơn nữa, tác phẩm Lục Vân Tiên vốn không phải là
tiểu thuyết tài tử giai nhân, do vậy nên thiếu đi rất nhiều những biểu hiện nam nữ
yêu đương mà thiên về chữ nghĩa. Nguyễn Đình Chiểu lại xây dựng Vân Tiên là
một anh hùng lạnh lùng với sắc đẹp của nữ giới. Lục Vân Tiên lý tưởng bởi tinh
thần nghĩa hiệp, sống vì sứ mệnh xã hội lớn lao, thế nhưng với nữ giới họ thường
có thái độ lạnh lùng, thậm chí là nghiêm khắc, gạt bỏ đời sống tính dục nam nữ.
Ngay từ khi mới gặp Kiều Nguyệt Nga, người phụ nữ đẹp trong xã hội phong
kiến, Lục Vân Tiên đã vạch rõ khoảng cách giữa nam nữ:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai
Hai chữ “phận gái, phận trai” vạch rõ mối quan hệ nam nữ. Lục Vân
Tiên đã được “giáo dục” rất kỹ trong mối quan hệ nam nữ, trong các mối tình
kim cổ trong văn học trung đại thì việc “trai tài gái sắc” phải lòng nhau là
chuyện đương nhiên, huống hồ hành động cứu giúp Nguyệt Nga đã được ghi
điểm trong mắt nàng. Thế nhưng Lục Vân Tiên phân định nam nữ rạch ròi,
chuyện nữ nhi chỉ là chuyện giúp người qua đường, không nảy sinh tình cảm.
97
Việc giúp Kiều Nguyệt Nga đối với chàng cũng giống như là việc nghĩa phải
làm, dù là đàn ông hay đàn bà chàng cũng đều làm như vậy. Đó là hành động
nghĩa hiệp, anh hùng cứu mỹ nhân, rất nam tính nhưng lại không hề đòi hỏi trả
ơn. Phải chăng, khi thấy dung mạo hơn người của Kiều Nguyệt Nga, chàng là
đàn ông mà không hề rung động, kể cả tò mò xem gương mặt của Nguyệt Nga.
Hành động của Lục Vân Tiên khiến cho người đọc mường tượng được sự lạnh
lùng của chàng. Nho giáo hết sức đề cao hành động này nhưng trên phương diện
là bản năng của con người thì hành động này thật lạ lùng.
Trái ngược với trong Truyện Kiều, Thúy Kiều và Kim Trọng là một đôi trời
sinh, ngay buổi đầu gặp gỡ Thúy Kiều, nhận thức được vẻ đẹp của Kiều, Kim
Trọng đã: “Tình trong nhƣ đã, mặt ngoài còn e”. Và những hành động nào của
chàng thì dường như rất “vội”, khi đến với người yêu cũng như khi trở lại vườn
Thúy, khi gặp mặt cũng như chia ly. Kết quả đầu tiên của mối tình ta đã thấy:
Khách đà lên ngựa, ngƣời còn ghé theo
Thầm trông, trộm nhớ, bấy lâu đã chồn
Xƣơng mai, tính đã rũ mòn,
Lần lừa, ai biết hãy còn hôm nay
Tháng tròn nhƣ gởi cung mây
Trần trần một phận ấp cây đã liều!
Tiện đây xin một hai điều
Đài gƣơng soi đến dấu bèo cho chăng?
Kim Trọng đã “vội” nhưng Thúc Sinh lại càng “vội” hơn. Thúc sinh được
nhìn rõ mồn một cái tòa nhà thiên nhiên cực kỳ xinh đẹp và hấp dẫn trong hai
yếu tố của một hoàn cảnh rất đặc biệt. Đó là sự đắm đuối của Thúc sinh đến mức
không còn giữ được bản thân mình: Lạ cho cái sóng khuynh thành/ Làm cho đổ
quán xiêu đình nhƣ chơi! Còn Thúc sinh? Rõ ràng Thúc đến với Kiều chỉ vì sự
hấp dẫn của thân thể Thúy Kiều, là cái đẹp của hoa hải đƣờng đang mơn mởn
cành tơ. Nói thẳng, Thúc đến với Kiều bằng đường trần tục, xác thịt.
Điều gì đã làm khiến Lục Vân Tiên thờ ơ với Nguyệt Nga? Đây không
98
phải vì “hiếu”, vì lúc này Vân Tiên chưa biết mình được hứa hẹn với Thể Loan
con gái Võ Công. Có thể nói, Lục Vân Tiên quá lý tưởng, hoàn hảo và tôn trọng
kỷ cương của Nho giáo. Ở đây, chủ nghĩa nho giáo đề cao tinh thần khắc kỷ, tiết
chế dục vọng nam nữ, tính dục của mỗi cá nhân, khiến cho nhân vật được phú
cho ngoại hình, tài mạo nhưng lại không thể chủ động tìm kiếm hạnh phúc. Con
người là con người thân dân chứ không phải là con người nhân bản. Hạnh phúc
cá nhân có lẽ Lục Vân Tiên chờ ở sự mai mối của cha mẹ, đó là đạo “hiếu” của
chàng. Kết cục là chàng đã tuân theo cha mẹ, cầm phong thư đính ước đến gia
đình Võ Công, dù hai người chưa từng được gặp. Xã hội phong kiến, hầu hết hôn
nhân vẫn do cha mẹ định đoạt, con cái không có quyền trong việc quyết định hôn
nhân của mình. Như chúng ta đã biết, xã hội phong kiến vào hậu bán thế kỷ XIX,
là xã hội mà triều Nguyễn khôi phục nho giáo theo Minh nho, nên tư tưởng nho
giáo rất bảo thủ.
Việc hôn nhân là do cha mẹ quyết định, nói cách khác là cha mẹ đặt đâu
con cái phải ngồi đó, thế nhưng Nguyệt Nga có tư tưởng thoát ra khỏi sự ràng buộc
của lễ giáo phong kiến. Mặc dầu đã được cha mẹ định hôn nhân, nhưng trên đường
về nhà, gặp nạn, được Lục Vân Tiên cứu giúp, Nguyệt Nga cảm ơn cứu mạng và
trao tặng trâm, Lục Vân Tiên không nhận, nàng trao thơ để bày tỏ tình cảm và từ
đó coi Lục vân Tiên là người chồng mà nàng nguyện chung thủy suốt đời:
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chƣa trả nỗi tình lại vƣơng.
Nặng nề hai chữ uyên ƣơng,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vƣơng vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hởi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an.
Hành động “trao trâm” của Nguyệt Nga như là một hành động đính ước giữa
nam với nữa. Lúc này, Vân Tiên khước từ thiện ý của Nguyệt Nga, ứng xử tình
yêu của Lục Vân Tiên hoàn toàn phù hợp với đạo lý nho giáo. Nho giáo quan
niệm rằng: nam nữ đưa và nhận của nhau thứ gì đều không được đưa trực tiếp, ví
99
như muốn đưa thì người này phải để vật xuống bàn, người kia lấy vật từ bàn mà
lên chứ không được tay trao tay. Nghĩa lớn hơn là giữa nam và nữ phải có
khoảng cách, không được tùy ý có những cử chỉ thân thiết, gần gũi với nhau.
Trong sách Lễ Kí cũng có nói rằng: Nam nữ không được phép ngồi lẫn với nhau,
không được dùng chung lược, không được đón tay nhau. Chị dâu em trai của
chồng không được nhìn thẳng vào mắt nhau. Phụ nữ phải nghe lời chồng, anh,
không có việc lớn thì không được phép nói chen, hay vào nhà lớn. Nữ ăn nhà
dưới, nam ăn chiếu trên. Nếu không phải ngày tế lễ hoặc ngày tang chế, trai gái
không được đưa cho nhau những vật dụng (vì tránh chạm vào tay nhau). Nếu có
trao, người nữ phải cầm một cái thúng (để nhận vật ấy); không có thúng thì hai
bên (trai gái) phải quỳ xuống đặt vật (định trao) xuống đất rồi người nữ nhận lấy.
Ngoài và trong không được chung đụng, (trai gái) không được tắm chung, không
được ngồi chung chiếu ngủ chung giường, không được ăn chung. Trai gái không
được mặc chung áo quần. Những việc trong phòng khuê không được nói ra ngoài,
những việc bên ngoài không được cho lọt vào (phòng khuê). Trai vào phòng khuê
không được nói cười chỉ chỏ, đang đêm đi đâu phải cầm đuốc, nếu không có đuốc
thì không đi. Ði trên đường cái, trai đi bên phải, gái đi bên trái.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho vì thế nhân vật Lục Vân Tiên là
người có “giáo dục” sẽ phải biết phép tắc ứng xử, hơn nữa lại là cách ứng xử
giữa nam và nữ. Chàng trai đọc sách thánh hiền sẽ hiểu rằng lễ giáo phong kiến
không cho phép người con trai và người con gái có thể đứng nói chuyện trực
tiếp với nhau chính vì thế mà chàng từ chối để Kiều Nguyệt Nga ra chào.
Thậm chí, sau này khi thoát chết trở về, Vân Tiên được Lục ông kể
chuyện về Nguyệt Nga đã không kể sang hèn, giúp đỡ gia đình Lục ông:
Ông rằng: có nàng Nguyệt Nga,
Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê
Nhờ nàng nên mới ra bề
100
Chẳng thì bỏ đói quê cha đi rồi
Lúc này, Vân Tiên mới nhớ ra Kiều Nguyệt Nga, có thể nói ngay sau lần
đầu gặp gỡ, chỉ có Nguyệt Nga coi chàng là ý trung nhân còn Vân Tiên thì đã
quên nàng từ lâu:
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu
Hỏi rằng: Nàng ấy ở đâu?
Đặng con đến đó đáp câu ân tình
Chàng không hề động lòng với Nguyệt Nga như giữa đàn ông với đàn bà
mà “Tiên rằng: Cảm nghĩa Nguyệt Nga/Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng”.
Thậm chí chưa gặp mặt nàng, sau này khi đánh giặc xong Cốt Đột, chẳng qua lạc
đường, tìm được Nguyệt Nga một cách ngẫu nhiên, khi biết rằng mình chính là
người được Nguyệt Nga tạc tượng, khi Nguyệt Nga thổ lộ:
Nguyệt Nga khép nép thƣa qua:
Ngƣời trong bức tƣợng tên là Vân Tiên
Chàng đã về chốn Cửu Tuyền
Thiếp lăm trọn đạo, tránh miền gió trăng
Lúc này, khi biết được tâm tình của Nguyệt Nga thủy chung với mình, lúc
này Lục Vân Tiên mới quyết:
Vân Tiên nghe nói hỏi phăng
Chồng là tên ấy, vợ là tên chi?
…Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay
Thƣa rằng: may gặp nàng ở đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn
Để lời thệ hải minh sơn,
Mang ơn trƣớc phải đền ơn cho rồi
Hành động của Lục Vân Tiên khi gặp lại Kiều Nguyệt Nga không phải là
sự nhớ nhung giữa nam và nữ mà là “lạy” vì ân tình, vì nghĩa của Kiều Nguyệt
Nga. Trước hết là sự mang ơn đối với việc Nguyệt Nga sang giúp. Việc đầu tiên
101
chàng làm khi gặp lại Nguyệt Nga là “lạy”, có thể thấy Vân Tiên vì nghĩa mà
cảm kích chứ không hề yêu. Qua đó, càng tô đâm tính khắc kỷ trong mối quan hệ
của chàng với phụ nữ. Nếu là một anh hùng vì nghĩa thì Lục Vân Tiên quả là
hoàn hảo trọn vẹn nhưng nếu xét về phương diện tình lang thì chàng không phù
hợp, thiếu đi sự hào hoa, lãng mạn cần có của một quân tử. Con người Lục Vân
Tiên là con người của đạo lý chứ không phải với tư cách của con người cá nhân.
Lục Vân Tiên luôn giữ khoảng cách, không có sự nhớ nhung với người con gái
thủy chung. Ngay cả đến hôn nhân, Lục Vân Tiên cũng hết sức bị động:
Tiên rằng: nàng tính thế nào?
Nàng rằng: Anh hãy về trào tâu lên
Ngỏ nhờ lƣợng cả bề trên,
Lịnh tha tội trƣớc mới nên về nhà
Nếu như hành động dẹp bọn Phong Lai, Lục Vân Tiên không “tính thiệt
so hơn” và nhắc lại câu nói “kiến nghĩa bất vi” mà hành động xả thân vì việc
nghĩa, không đắn đo suy nghĩ, thì trong hôn nhân chàng bị động bấy nhiêu, và
dường như đó là việc nên làm. Hành động của Lục Vân Tiên tuân theo mẫu hình
thánh nhân quân tử mà Khổng Tử, Nguyễn Đình Chiểu đề cao. Vấn đề bản năng
tình dục của nam giới được thể hiện thông qua sự ham mê sắc đẹp của phụ nữ
được kiềm chế. Bàn về bản năng tình dục của con người, nho giáo quan niệm đưa
“khắc kỷ” vào nội hàm phạm trù nhân của con người “Khắc kỷ phụ lễ vi nhân”,
đó là tiết dục, nghiêm khắc trong việc coi trọng sắc đẹp của người phụ nữ là một
phẩm chất không thể thiếu được trong đối với bậc thánh nhân quân tử. Trong đạo
nhân không hề có sự dung hòa với sắc đẹp. Sắc đẹp là điều tối kỵ trong chương
trình hành động của anh hùng quân tử. Điều này giải thích tại sao, Lục Vân Tiên
“cố tình” không quay mặt nhìn Nguyệt Nga:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Và thậm chí chàng còn thấy khó chịu trước tấm lòng cảm kích của Nguyệt Nga:
- Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn
102
Nguyệt Nga liếc thấy càng nhìn nết na
- Vân Tiên khó ngồi làm thinh
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây
Than rằng đó khéo trêu đây
Ơn kia đã mấy của này rất sang
Mục đích của chàng là đi thi, chuyện giúp nàng Nguyệt Nga chỉ là chuyện
qua đường, Vân Tiên không nghĩ đến chuyện gái trai để ảnh hưởng đến lý tưởng
phò vua, giúp nước của mình. Dẹp giặc xong, Vân Tiên “trả nghĩa” cho Nguyệt
Nga bằng hai cách, một là “quỳ lạy” nàng, hai là lấy nàng làm vợ. Đây có lẽ là
một cách trả ơn đặc biệt nhất mà Lục Vân Tiên dành cho Kiều Nguyệt Nga. Qua
đó, nhân vật Lục Vân Tiên trở thành nhân vật mang màu sắc nho giáo rõ rệt, các
phát ngôn và hành động của chàng đều lấy đạo đức nho giáo làm gốc. Bản năng
tình dục được nho giáo quy định khá rõ ràng, để chống lại hành động mang tính
bản năng của con người trong văn hóa cổ đại đã hình thành thuyết cấm dục với
ba mệnh đề đó là (1) tồn thiên lí, diệt nhân dục; (2) nam nữ thụ thụ bất thân (3)
vạn ác dâm vi thủ (vạn điều ác, dâm đứng đầu). Sách Lễ Kí quy định “nam nữ
thụ thụ bất thân”, “nam nữ đại phòng”. Nho giáo phản đối ý dâm đề xướng chính
dâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, chống lại bản năng tình dục
vì cho rằng nó hại cho thánh nhân. Có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu vẫn chịu ảnh
hưởng trong cách xây dựng nhân vật mẫu hình người anh hùng của văn hoá
phương Đông nói chung và Trung Quốc nói riêng. Nhân vật Lục Vân Tiên có cái
dáng dấp của nhân vật Quan Vân Trường ( Quan Vũ) trong truyện Tam quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung. Quan Vân Trường cũng luôn thể hiện thái độ của
người anh hùng khắc kỉ, đạo mạo trước phụ nữ. Khi Tào Tháo truyền lệnh thu
binh về Hứa Xương, Quan Vân Trường thỉnh nhị tẩu lên xe, tự mình đi theo hộ
vệ. Khi quân đến trạm dịch, Tào Tháo truyền quân đóng lại nghỉ ngơi, lại truyền
Quan Vân Trường ở chung một nhà với nhị tẩu là Cam Phu nhân và My Phu
nhân, hai bà vợ của Lưu Bị, tức là hai chị dâu của Quan Võ. Đêm ấy, Quan Võ
cầm đuốc đứng trước cửa nhà suốt đêm để canh cho hai chị dâu an giấc, đồng
103
thời lấy Thanh Long đao chém sạt một góc tường để người ngoài nhìn vào thấy
rõ lòng quang minh chính đại của mình. Nhân vật Võ Tòng trong tác phẩm Thuỷ
hử của Thi Nại Am, cũng được ngợi ca bởi tấm lòng trong sạch không bị rung
động trước sắc đẹp Phan Kim Liên. Anh trai Võ Tòng tên Võ Đại Lang làm nghề
bán bánh hấp, là người lùn, dung mạo xấu xí nhưng có vợ là Phan Kim Liên rất
đẹp nhưng cũng rất đa tình. Nhân dịp Võ Tòng về thăm anh, Phan Kim Liên thấy
hình dung tuấn kiệt, mấy lần đòi tư thông với Võ Tòng nhưng đều bị cự tuyệt.
Sau đó Võ Tòng có việc phải đi xa, Phan Kim Liên ở nhà lựa lúc Võ Đại Lang đi
bán bánh, tư thông với tên nhà giàu Tây Môn Khánh. Việc bị Võ Đại Lang phát
hiện, hai người bày mưu rồi giết hại Võ Đại Lang. Vài ngày sau khi Võ Đại chết,
Võ Tòng quay về, nghe tin dữ liền đi báo quan. Nhưng quan sợ uy thế của Tây
Môn Khánh, không dám xử. Thế là Võ Tòng, trước tiên tìm tới nhà giết chết Tây
Môn Khánh cho hả giận, rồi mới tự mình đi tìm chứng cứ điều tra. Tính chất
khắc kỷ ấy còn thể hiện ở thái độ lạnh lùng khi trừng trị Phan Kim Liên trước sự
chứng kiến của 3 người hàng xóm, chàng ép Phan Kim Liên khai nhận tội rồi mổ
bụng, cắt đầu ả, đem ruột và đầu lên tế vong linh anh trai mình. Lục Vân Tiên
không có cái lạnh lùng như Võ Tòng nhưng chàng luôn giữ một khoáng cách
nhất định. Nhìn chung, các nhân vật như Lục Vân Tiên hay Võ Tòng, Quan Vân
Trường đều chịu sự chi phối của một quan niệm chung mang tính chất văn hoá
hoá về nhân cách đó là luôn biết chế ngự, khắc phục bản năng. Chính yếu tố này
mà tình yêu trong truyện Lục Vân Tiên kém phần lãng mạn.
Trái ngược với Lục Vân Tiên, trước cái đẹp, nhân vật phản diện như Bùi
Kiệm lại có cách nhìn khác. Sở dĩ có sự phân biệt này bởi nho giáo chia người
đàn ông thành hai loại người, đó là người quân tử và kẻ tiểu nhân. Khổng Tử nói:
“Người quân tử rành về điều nghĩa, kẻ tiểu nhân rành về điều lợi”(Luận Ngữ,
IV). Hành động chi phối kẻ tiểu nhân đó là lợi, đó là lợi ích về quyền, chức, sắc
dục, sống…Trong đó, tính dục (sắc giới) là phương diện kiêng kị của những
người quân tử. Đối với tư tưởng nho giáo, tính dục chỉ được nhắc đến trên
phương diện thụ thai con cái, đặc biệt là con trai vì có con trai để nối dõi tông
104
đường, làm vẻ vang dòng họ và cúng giỗ ông bà, tổ tiên cha mẹ. Trong Kinh Lễ,
chương hôn nghĩa, việc hôn lễ là việc vô cùng quan trọng, là sự kết hợp của hai
gia đình với nhau, trên để thờ tông miếu, dưới để truyền nối cho đời sau, nên
người quân tử rất coi trọng nó. Khổng Tử đã từng cho rằng đức là thuộc tính của
con người, nhưng sắc mạnh hơn rất nhiều: “Khổng Tử than rằng: ta chưa thấy ai
háo đức bằng háo sắc”. (Luận ngữ, IX:17). Nữ sắc là điều đầu tiên người quân tử
phải cảnh giác: “Khổng Tử nói: người quân tử có ba điều phải răn ngừa: lúc còn
trẻ, huyết khí chưa ổn định, cần răn ngừa về nữ sắc”. (Luận ngữ. XVI:7). Trên
quan điểm đó, nho giáo cho rằng năng lượng nam tính của nho gia bị hao tổn nếu
phung phí trong tính dục hôn nhân - điều này có điểm tương đồng với chủ trương
của Ðạo giáo - và rằng đàn ông có thể bị kiệt quệ thể lý, suy thoái đạo đức nếu để
cho mình miệt mài trong sinh hoạt tính dục. Tứ Thư của nho giáo ghi lại rất nhiều
ý tưởng cảnh giác người trẻ tuổi, thậm chí bậc quân tử đối với vấn đề sắc dục. Hơn
nữa, sự mê đắm sắc dục của người cai trị, kể cả một quốc chủ, có thể được nêu lên
như một lý do chính đáng để truất quyền kẻ đó.
Tính dục trong hôn nhân chỉ để có người nối dõi. Tính dục ngoài hôn nhân
là đại tội, phải chặn đứng mọi “nguy cơ”. Thế nên quan hệ giữa nam và nữ, thậm
chí giữa vợ chồng cũng phải theo đúng khuôn phép cực kỳ nghiêm ngặt. Kinh Lễ,
chương Nội tắc viết: “Là đàn ông không nên bàn việc trong phòng khuê (tức việc
của đàn bà), là phụ nữ không được bàn việc bên ngoài (tức việc của đàn ông). Nói
chung, từ cái nhìn thiên vị nam giới trong kinh sách của nho giáo và qua các tác
phẩm của Nho gia, sinh hoạt tính dục được xem là một vấn đề quá độ.
Trong truyện Lục Vân Tiên, Bùi Kiệm trước hết là một kẻ tham sắc. Bởi
đó là bản tính “dâm” đàn ông. Từ chỗ dâm đến chỗ Bùi Kiệm bất chấp cả tình
nghĩa. Dù hắn biết Kiều Nguyệt Nga là vợ chưa cưới của Vân Tiên nhưng vẫn
buông lời cám dỗ:
Hay chi nhƣ vãi ở chùa
Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh,
Linh đinh một chiếc thuyền tình,
105
Mƣời hai bến nƣớc biết mình vào đâu
Ai từng mặc áo không bâu
Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau
Nàng sao chẳng nghĩ trƣớc sau
Giữ ôm bức tƣợng bấy lâu thiệt mình
Bùi Kiệm khi mới gặp Nguyệt Nga, bản tính đàn ông của Bùi Kiệm đã
khiến y không thể làm ngơ trước nhan sắc của nàng:
Từ khi thấy mặt Nguyệt Nga,
Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần
Đến khi buông lời ngon ngọt với Nguyệt Nga:
Kiệm rằng: Nàng nói sai rồi,
Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trƣa?
Làm ngƣời trong cõi gió mƣa,
Bảy mƣơi mấy mặt ngƣời xƣa thế nào
Chúa xuân còn ở vƣờn đào,
Ong qua bƣớm lại biết bao nhiêu lần
Chúa đông ra khỏi vƣờn xuân
Hoa tàn nhụy rữa nhƣ rừng bỏ hoang
Bùi Kiệm trong tác phẩm này có lẽ là có hành động mang tính của con
người trong đời thường và chân thực nhất, chứ không cách điệu nhiều như những
nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Bùi Kiệm là thế giới của đam mê,
phong lưu của tình dục. Thông qua nhân vật Bùi Kiệm, Nguyễn Đình Chiểu
muốn lên án thói dâm ô, hưởng lạc của tên này. Bùi Kiệm khuyên Nguyệt Nga
tội gì mà thủ tiết với Vân Tiên vì đời người ngắn ngủi:
Ba xuân dẫu hết, ngàn vàng khôn mua
Cha Bùi Kiệm cũng một giọng để dỗ dành Nguyệt Nga lấy con mình:
Tới đây duyên đã bén duyên
Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai,
Nhớ câu: xuân bất tái lai
106
Ngày nay hoa nở, e mai hoa toàn
Đây là triết lý của cha con Bùi Kiệm trong xã hội nho giáo, đó là triết lý
sống gấp, Bùi Kiệm cũng có cái lý của mình, thế nhưng những ham muốn đời
thường đặt trong bối cảnh nho giáo bấy giờ thì đó lại là hành động đáng lên án.
Có thể thấy, trong truyện Lục Vân Tiên, tất cả những gì thuộc về bản thể con
người như ham muốn, dục vọng đố kị, ghen ghét đều trở thành đối tượng đáng
lên án, là cái xấu trong mắt các nhà nho. Trong các nhân vật nam giới thì Bùi
Kiệm là kẻ duy nhất động lòng trước sắc đẹp của Nguyệt Nga:
Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga
Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần
Ứng xử của Bùi Kiệm trước một người con gái có sắc đẹp:
Nguyệt Nga là gái Kiều công
Tuổi vừa mƣời tám má hồng đƣơng xinh
Nàng đã có sắc khuynh thành,
Lại thêm rất bực tài tình hào hoa
Hắn còn lấy sách Thánh hiền ra để bào chữa cho lập luận của mình để đạt
mục đich:
Kiệm rằng: đã biết sử kinh,
Sao không soi xét để mình ngồi không
Hồ -dƣơng xƣa mới góa chồng
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa
Hạ Cơ lớn nhỏ đều ƣa
Sớm đƣa Doãn Phủ, tối ngừa Trần quân..
Bùi Kiệm là một trí thức thuộc làu kinh sử nhưng nhưng lại có chút phong
lưu, những gì hắn biết lại là những chuyện trái với đạo nghĩa, đó là chuyện Hạ
Cơ, chuyện Lữ Hậu, Võ hậu…dâm đãng thời cổ kim. Điều quan trọng là thái độ
của Nguyễn Đình Chiểu đối với Bùi Kiệm có lẽ là xem thường, liệt hắn vào hàng
tiểu nhân dâm ô. Trái ngược với Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực mang dáng dấp
của một thánh nhân quân tử thì ở Bùi Kiệm lại mang dáng dấp của một con
người trần thế, có những khát khao, ham muốn trần thế bản năng của nam giới và
107
phá vỡ vòng cương tỏa của Nho giáo. Trong quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu,
bản năng thân xác là xấu, là ác cho nên đáng bị chê trách và nên Bùi Kiệm bị xếp
vào danh sách những nhân vật phản diện làm nguy hại đến đạo đức, nhân cách
của con người. Lời nói của Bùi Kiệm lại động chạm đến ý thức của nho giáo:
Cứ trong sách vở nói ra
Một đời sung sƣớng cũng qua một đời
Ai ai cũng ở trong trời,
Chính chuyên chắc nết chết thời cũng ma
Ngƣời ta chẳng lấy ngƣời ta
Ngƣời ta đâu lấy những là tƣợng nhân?
Nếu ở thời Nguyễn Du, thì Bùi Kiệm có lẽ được xem là nhân vật biết
thưởng thức cái đẹp, chưa chắc bị xếp vào hệ thống những nhân vật phản diện
hoàn toàn một chiều. Chữ “dâm ô” có lẽ đúng khi được dùng để chỉ những người
như Bùi Kiệm trong giai đoạn văn học này. Thế nhưng, cũng một mẫu hình như
Bùi Kiệm, chính nhân vật Thúc Sinh của Truyện Kiều, mối tình Thúc Sinh –
Thúy Kiều được giới thiệu trân trọng không kém mối tình Kim Trọng - Thúy
Kiều. Đó được xem là bản năng tính dục của đàn ông.
Một trường hợp khác, biểu trưng cho ứng xử của nam giới mà ta phải kể
đến là hành động nghĩa hiệp cứu người không cần trả ơn một cách khí khái được
lặp lại một lần nữa ở nhân vật Hớn Minh. Hớn Minh cũng được biết tới là một
anh hùng khảng khái nhưng cũng bỏ thi để cứu một người con gái qua đường:
Đi vừa tới huyện Loan minh,
Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng
Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,
Gặp con gái tốt cƣỡng gian không nghĩ
Hớn Minh có dáng dấp của một nhân vật lạ thường:
Xa xem mặt mũi đen x́ ì, Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
... Vân Tiên biết lẽ chính tà,
108
Hễ ngƣời dị tƣớng ắt là tài cao.
Chàng là người có vẻ thô lỗ từ diện mạo đến lời ăn tiếng nói. Có ý kiến
cho rằng con người Hớn Minh mang dáng dấp của anh hùng Lỗ Trí Thâm trong
truyện Thuỷ hử (Trung Quốc). Nhân vật Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm, một
nhân vật điển hình cho sự cương trực và lòng nghĩa hiệp. Trong Thủy Hử, ta bắt
gặp cảnh Lỗ Trí Thâm vô tình gặp gỡ cha con Kim Thúy Liên, nghe nói họ cũng
bị Trần Quán Tây dọa nạt áp bức thì vị anh hùng nóng nảy này hứa hẹn sẽ đòi lại
công bằng cho cha con Kim Thúy Liên. Hớn Minh cũng có tấm lòng chính trực,
yêu, ghét rõ ràng, thấy chuyện bất bình chẳng tha. Nhìn thấy tên con quan huyện
Đặng Sinh ỷ thế cưỡng hiếp con gái nhà dân lương thiện, chàng bèn nổi giận:
"Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò". Không quen không biết nhưng chàng vẫn
hết mình giúp đỡ, dù là phận nữ nhi, hành động này tô đậm tinh thần nghĩa hiệp
“gặp chuyện bất bình chẳng tha”.
Truyện không nhắc đến người con gái mà Hớn Minh cứu nhưng ta thấy ở
hành động của Hớn Minh và Lục Vân Tiên là hành động của những anh hùng
vượt qua chuyện nữ nhi thường tình để làm việc trượng nghĩa, bó hẹp trong
khuôn khổ đạo đức mà quên đi con người cá nhân, những rung động trước người
con gái đẹp mà thu mình, khuôn phép, xây dựng tâm gương những anh hùng,
thánh nhân quân tử.
Họ luôn tôn trọng, nể trọng nghĩa tình nhau, không chỉ giữ gìn nghĩa tình
anh em mà còn tôn trọng lễ với vợ chưa cưới của bạn. Vương Tử Trực cũng là
một người đáng mến. Qua lời giới thiệu của Võ Công thì chàng cũng là người có
tài “văn chƣơng tót vời". Gặp Lục Vân Tiên, mến nhau vì tài, Tử Trực luôn giữ
thái độ kính trọng Vân Tiên:
Trực rằng: Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc sánh vai một bầy.
Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực rằng xin nhƣợng Tiên rày làm anh
Sau này, khi đã đỗ đầu khoa thi, chàng trở về hỏi thăm tin tức Vân Tiên,
gia đình Võ Thể Loan gạ gẫm gả Võ Thể Loan cho chàng, chàng đã lớn tiếng
109
mắng nhiếc:
Trực rằng: " Ngòi viết dĩa nghiên,
Anh em xƣa có thề nguyền cùng nhaụ
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
Chẳng hay ngƣời học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe
Vương Tử Trực không tơ tưởng, sỗ sàng với người phụ nữ của bạn, mà
lựa chọn giữ trọn chữ nghĩa, cho dù hay tin Lục Vân Tiên đã chết. Chàng đề cao
khí tiết cả trong mối quan hệ nam nữ, dù Thể Loan chưa kêt hôn với Lục Vân
Tiên nhưng vì kết nghĩa anh em nên với Tử Trực, Thể Loan đã là chị dâu. Chị
dâu – bạn kết duyên theo chàng là điều trái với luân thường đạo lý, đáng hổ thẹn
trong đạo đức nho gia. Tử Trực giữ ý với chị dâu, cũng là giữ khí tiết của người
bạn, không muốn để chuyện nữ nhi thường tình ảnh hưởng đến đạo đức nho giáo.
Nguyễn Đình Chiểu đề cao khí tiết của nam nhi, nghĩa hiệp, khắc kỷ, tu thân, lấy
trung hiếu làm đầu, chuyện nam nữ chỉ là bổn phận. Các nhân vật chính diện là
phát ngôn của đạo đức, bảo vệ nho giáo, đáng ca ngợi, ông dành nhiều sự ưu ái
cho họ.
Qua cách nhìn có phần khắc kỷ đối với nam giới của Nguyễn Đình Chiểu,
các nhân vật bước ra từ những trang văn là những anh hùng chính nghĩa, thiếu đi
biểu hiện cá nhân trong mối quan hệ khác giới, họ đại diện cho ước mơ của nhân
dân, nhưng cũng chính vì vậy, nhân vật trở nên một màu, thiếu đi những nét
phong lưu đa tình, những bản năng tính dục ở nam giới. Khác với các tiểu thuyết
nghĩa hiệp ngày nay như của Kim Dung, những trang hảo hán có nhiều tính chất
phức tạp hơn về diễn biến tâm lý cũng như có đời sống yêu đương, tính dục đầy
màu sắc hơn, ngoài là một anh hùng hảo hán, mỗi nhân vật nam đều được xây
dựng trong với tình cảm nam nữ, có người phụ nữ của riêng mình nhưng vẫn giữ
được vẻ đẹp và giá trị của tiểu thuyết viết về các nhân vật anh hùng.
Những cách ứng xử của hai chiến tuyến nhân vật chính diện và phản diện
ta có thể thấy lý tưởng về con người thánh nhân, những bậc nam nhi phi phàm đã
110
chi phối toàn truyện Lục Vân Tiên và cách ứng xử đối với nữ giới nói chung.
Nguyễn Đình Chiểu đã mượn lá cờ của đạo nho, nhưng thực ra là để bảo vệ tình
cha con, đạo vợ chồng, tình bạn bè, lòng trọng nghĩa khinh tài cứu nạn phò nguy.
Chính vì vậy, những nhân vật tốt thì tốt, đẹp tuyệt đối còn những nhân vật xấu thì
xấu từ đầu đến cuối, hoặc là thánh nhân quân tử hoặc là người phàm tục. Các
nhân vật lý tưởng như Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực giống nhau ở chỗ “bỏ
qua phần thân xác bản năng, tu dƣỡng một nhân cách đạo đức theo chuẩn hành
vi “tôn thiên lý, khử nhân dục”. Tình yêu nam nữ, những ứng xử về tình yêu ít
được nói đến, hoặc có nói cũng chỉ nhằm khẳng định lý tưởng vượt qua “ải mỹ
nhân” và phê phán nhục dục tầm thường, thậm chí ca ngợi tấm gương kiên trì lý
tưởng diệt dục hay quả dục. Mặc dù có nhiều chi tiết chưa được hợp lý, nhân vật
chưa có đời sống riêng, còn mang màu sắc ảo tưởng và thiếu thực tế. Chính bởi
mẫu hình nhân vật nam giới- chính diện quá khô khan, thiếu chân thực nên nhân
dân đã phản ứng lại. Cũng vậy, chúng ta có thể đọc những câu:
Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,
Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô.
Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,
Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra.
Vân Tiên cõng mẹ chạy ra...
như một sự phê phán quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu, ông một mực
đề cao những chuẩn mực đạo đức cổ điển và cổ kính như trung, hiếu, tiết, nghĩa
với hy vọng là chúng sẽ giúp duy trì sự ổn định trong xã hội. Nghiên cứu về tác
phẩm Lục Vân Tiên trên quan điểm phê phán tính khắc kỷ của nhân vật nam
chính diện, tác giả Nguyễn Hưng Quốc nhận định: “Tuy nhiên, một là, xã hội
Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19, trong sự cọ xát dữ dội với văn minh Tây
phương và thế lực thực dân, cứ ngày một rạn nứt, vô phương hàn gắn; hai là, bản
thân những chuẩn mực đạo đức tưởng đâu là chân lý vĩnh cửu ấy thật ra rất đáng
ngờ, và với sự lung lay của Nho học, càng ngày càng đáng ngờ thêm. Con thuyền
“chở đạo” của Nguyễn Đình Chiểu, do đó, không phải chỉ trôi trên một dòng
nước ngược mà còn, hơn nữa, trên thực tế, chỉ loay hoay mãi trong một vũng
111
nước tù, không có lối thoát, hết “đụng” cái này thì “đụng” cái kia, cứ quanh
quanh quẩn quẩn mãi trong sự tuyệt vọng và bế tắc. Nói cách khác, đó là những
lý tưởng ở đường cùng. Biện pháp dựa trên nguyên tắc đạo đức mà Nguyễn Đình
Chiểu đề xuất, hay đúng hơn, cổ vũ, đã không giải được bài toán của thời
đại”[26].
Tiểu kết:
Thông qua việc xem xét các nhân vật nam giới trong Lục Vân Tiên, chúng
tôi thấy được có sự đối lập giữa nhân vật chính diện và phản diện trong mô hình
ứng xử với phụ nữ. Nếu như các nhân vật chính diện với phẩm chất đạo đức tốt
đẹp với tàu năng, trí tuệ bao nhiêu thì ứng xử của họ lại có phần lạnh lùng và
khắc kỷ bấy nhiêu. Sự lý tưởng hóa ở các nhân vật chính diện cho thấy rõ cái
đẹp, cái tích cực nhưng đồng thời cũng chỉ ra sự giả tạo, công thức khô khan
trong quan niệm về nam nhân lý tưởng của Nguyễn Đình Chiểu. Điều này hoàn
toàn trái ngược so với các nhân vật phản diện. Nhân vật phản diện trong truyện là
những kẻ bất tàu, vô hạnh mà luôn ham muốn nữ sắc nên tác phẩm đã góp phần
định hình lý tưởng thẩm mỹ của văn học Việt Nam nói chung, cho đến tận thời
hiện đại, hễ muốn ca ngợi nhân vật nào thì gạt bỏ tình dục còn muốn hạ bệ nhân
112
vật nào thì lại gắn tình dục cho nó.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu ba chương giới thuyết và ứng dụng các cách tiếp
cận của lý thuyết Giới để phân tích sự miêu tả người nam giới trong tác phẩm
Lục Vân Tiên, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
Xã hội Việt Nam thời trung đại là xã hội nam quyền với nho giáo là quốc
giáo. Tư tưởng tam cƣơng, ngũ thƣờng với tu, tề, trị, bình luôn được các các nhà
nho giáo huấn trong các tác phẩm văn thơ. Nguyễn Đình Chiểu cũng là một nhà
nho sinh ra và lớn lên trên vùng đất phương Nam, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
của văn hoá phương Đông. Chính vì vậy, nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục
Vân Tiên ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo với những quan niệm về
nhân nghĩa, về tam cƣơng, ngũ thƣờng. Trong số đó, các nhân vật nam chính diện
trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là đại diện cho những nhân vật
lý tưởng trong xã hội nho giáo. Thông qua đó, tác giả đề cao con người đạo đức
trong các mối quan hệ ứng xử cha con, vua tôi, bằng hữu. Tuy nhiên về ứng xử
trong vấn đề giới của các nhân vật nam có đôi chỗ còn rụt rè, cứng nhắc và thậm
chí là lạnh lùng. Quan điểm chung của tác giả đối với quan hệ nam nữ thường
được trình bày bằng cảm hứng phê phán và được xem là nhân vật phản diện đối
với sự nguy hại của bản năng với lí tưởng đạo đức và nhân cách của con người.
Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng sâu sắc của tiểu thuyết anh hùng
Trung Quốc vốn rất phổ biến ở Nam Bộ thế kỷ XIX. Do vậy, các nhân vật nam
chính diện trong Lục Vân Tiên mang đậm màu sắc của anh hùng nghĩa hiệp với
vẻ đẹp lý tưởng. Tuy nhiên, về phương diện tình yêu nam nữ, ứng xử của họ lại
dựa trên cơ sở của những đạo lí nhân nghĩa, thuỷ chung chứ không có những biểu
hiện của bản năng thân xác. Quan niệm này không chỉ tồn tại trong thời đại của
Nguyễn Đình Chiểu mà trong văn học hiện đại mẫu hình con người truyền thống
vẫn tiếp tục được hiện hữu. Và yếu tố đạo đức đóng một vai trò quan trọng trong
việc hình thành hai tuyến nhân vật và hình thành quan niệm khen và chê đối với
113
mội loại hình nhân vật đó. Có thể thấy mẫu hình người nam nhi trong văn học
trung đại thế kỷ này nói chung và trong tác phẩm Lục Vân Tiên nói riêng là
những mẫu hình người anh hùng lạnh lùng trước cái đẹp của người phụ nữ. Họ
sống vì sứ mệnh xã hội lớn lao, vung thanh gươm giáo để dẹp ác trừ gian, đổi trị
thành loạn, thiết lập công lý ở đời. Họ thường có thái độ nghiêm khắc và lạnh
lùng với phụ nữ. Đối với mẫu hình con người thánh nhân trong nho giáo thì việc
tô đậm tài năng, nhân đức để phụ vụ tinh thần nho giáo là tốt nhưng chủ nghĩa
khắc kỷ được nhấn mạnh ở họ lại không phải là điều bình thường. Cũng vậy, để
khắc họa cái xấu của nhân vật phản diện, Nguyễn Đình Chiểu lại cố tình tô đậm
sự bất tài, tham sắc của chúng. Các nhân vật phản diện của ông thường được xây
dựng có tính cách ngược chiều, đối lập với nhân vật phản diện về cách ứng xử
114
cũng như về quan niệm sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thủy Ba (dịch giả) (2002), Nhập môn xã hội học - Tony Bilton và những
ngƣời khác, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Thái Bạch (2004), Nguyễn Đình Chiểu thân thế và sự nghiệp, tác phẩm, Nxb
Thanh Hóa, Thanh Hóa.
3. Nguyễn Đình Chiểu (2002), Lục Vân Tiên, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
4. Thiều Chửu (2009), Tự điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Đoàn Trung Còn (Dịch giả) (2010), Tứ thư, Nxb Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế.
6. Nguyễn Văn Dân (2005), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
7. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX- những vấn đề lịch sử
và lý luận, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
9. Phạm Văn Đồng (1963), Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong bầu trời văn n
ghệ của dân tộc, Tạp chí Văn học, số 7, tr.26 - 30.
10. Trần Hàn Giang, (2003), Lịch sử phát triển của lý thuyết nữ quyền và lý thuyết
giới, Khoa học về phụ nữ, (số 6), tr.10 - 16.
11. Nguyễn Thạch Giang (2000), Từ ngữ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Nxb TP. Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh.
12. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Nguyễn Đình Chiểu – Tử sách văn học trong nhà trƣờng,
Nxb Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
13. Ngọc Hồ, Nhất Tâm (1974), Lục Vân Tiên và truyện tường giải, Nxb Sống Mới, Hà Nội.
14. Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1972-1973), Lịch sử Văn học Việt Nam - Văn
học Dân gian, Tập I, II, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
115
17. Nguyễn Văn Khỏa (2007), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Văn học, Hà Nội.
18. Thanh Lãng, (1967), Bảng lƣợc đồ văn học Việt Nam, Nxb Phong trào văn hoá
Sài Gòn, Sài Gòn.
19. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, Tập I , Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
21. Phạm Hoàng Minh, Việt Dũng, Thu Nga (2003), Thần Thoại Trung Quốc, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đƣờng giải mã Văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Phong Nam (1997), Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học, Nxb
giáo dục, Hà Nội.
24. Sơn Nam (1994), Lịch sử khai khẩn miền Nam, Nxb Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí
Minh.
25. Vũ Tiến Phúc (1972), Việt Nam văn học giảng minh (từ khởi thuỷ đến Nguyễn
sơ), Nxb Alpha, Sài Gòn.
26. Nguyễn Hưng Quốc (2002), Đọc…chơi vài bài ca dao, www.tienve.org.vn.
27. Tạ Văn Ru (1953), Luận đề về Nguyễn Đình Chiểu và Lục Vân Tiên, Nxb
Thăng Long.
28. Lê Hồng Sâm (dịch giả) (2011), Sự thống trị nam giới, Nxb Tri thức, Hà Nội.
29. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho
Thìn, Đoàn Thị Thu Vân, (1997), Về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Nguyễn Kim Sơn (1996), Những xu hƣớng của Nho học Việt Nam nửa cuối thế kỉ
XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX và sự tác động của nó tới văn học, Luận án phó tiến sĩ
khoa học ngữ văn, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
31. Thiếu Sơn (1993), Những văn nhân, chính khách một thời, Nxb Lao Động, Hà Nội.
32. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
116
Giáo dục, Hà Nội.
33. Tạ Quang Phát (dịch giả) (2007), Kinh thi Khổng Tử, quyển I, dịch giả, Nxb Văn
học, Hà Nội.
34. Tạ Quang Phát (dịch giả) (2007), Kinh thi Khổng Tử, quyển II, dịch giả, Nxb Văn
học, Hà Nội.
35. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia - tác phẩm văn học Trung đại
Việt Nam, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam, Tập II, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
37. Cao Tự Thanh (2009), Nho giáo ở Gia Định, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TP. Hồ Chí
Minh.
38. Tuấn Thành, Anh Vũ (2005), Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình, Nxb Văn
học, Hà Nội.
39. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hoá, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
40. Trần Nho Thìn, (2003), Tài tình - một vấn đề văn hoá của thời đại Nguyễn Du,
Tạp chí Văn học, số 7, Hà Nội.
41. Trần Nho Thìn (2012), Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
43. Nguyễn Ngọc Thiện (2002), Tuyển tập Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội.
44. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình Xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
45. Nguyễn Ánh Tuyết (2008), Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam,
Luận án Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
46. Lê Trí Viễn (1968), Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Lê Trí Viễn (2002), Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao càng nhìn càng sáng, Nxb
117
Giáo dục, Hà Nội.
48. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (2007), Lịch sử Triết học, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
49. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
50. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX những vấn
đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
51. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
52. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn
118
học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.