ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

PHẠM THỊ THU

CÁC NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN

ĐỌC THEO LÝ THUYẾT GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

Hà Nội – 2013

0

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

PHẠM THỊ THU

CÁC NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN

ĐỌC THEO LÝ THUYẾT GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số : 60.22.01.21

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN

Hà Nội – 2013

1

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành biết ơn và cảm ơn các thầy cô giáo của trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện cho em được hoàn thành tốt khóa

học, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Văn học.

Em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS. Trần Nho Thìn.

Thầy đã định hướng đề tài, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên em trong

quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Xin cảm ơn tập thể lớp Cao học Văn K56, bạn bè, gia đình đã giúp đỡ tôi

trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.

Hà Nội, ngày 8 tháng 1 năm 2014

Người viết

2

Phạm Thị Thu

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 3

1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài .............................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................. 2

2.1. Nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiều tác gia và tác phẩm ............................ 2

2.2. Nghiên cứu về giới .................................................................................... 12

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 14

4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 15

5. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 16

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VĂN HỌC

TRUNG ĐẠI VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA ỨNG XỬ GIỚI . 17

1.1. Lý luận về giới .......................................................................................... 17

1.2. Quan điểm nho giáo về giới ...................................................................... 25

1.3. Văn hóa giới trong văn học trung đại Việt Nam trước Nguyễn Đình Chiểu ... 35

CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN TỪ GÓC NHÌN

CỦA LÝ TƢỞNG VỀ NGƢỜI ANH HÙNG VÀ KẺ SĨ ................................ 51

2.1. Sức mạnh thể chất ..................................................................................... 51

2.2. Vẻ đẹp trí tuệ ............................................................................................. 57

2.3. Tinh thần trọng nghĩa khinh tài ................................................................ 64

2.4. Vẻ đẹp của lý tưởng .................................................................................. 75

CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN TỪ GÓC NHÌN

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI PHỤ NỮ ................................................................. 95

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 113

3

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 115

MỞ ĐẦU

1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài

Cùng với bề dày các công trình nghiên cứu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu

thì việc nghiên cứu về tác phẩm Lục Vân Tiên cũng được xem là một mắt xích

quan trọng trong quá trình đánh giá về sự nghiệp của ông. Như đã biết, nhân vật

nam giới của truyện Lục Vân Tiên vẫn được nghiên cứu từ góc độ đạo đức, góc

độ chính trị xã hội học, coi là người anh hùng. Nhưng các nhân vật anh hùng này

có văn hóa ứng xử giới như thế nào lại là điều ít được chú ý. Luận văn sẽ góp

phần bổ sung vào mảng trống đó.

Nhìn nhận lại chặng đường văn học trung đại Việt Nam, hình tượng nhân

vật nam giới chính thống của văn học chủ yếu là hình tượng người anh hùng

trung nghĩa. Đó là những nhà nho - kiểu người mang tâm thế cứu đời. Tác giả

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả tiêu biểu cho văn học trung đại

Việt Nam, các tác phẩm văn học của ông mang đậm phẩm chất, khí phách của

những hình tượng người anh hùng với lối sống trọng đạo lý và công bằng xã hội,

trọng con người và căm ghét áp bức bất công. “Hào khí Đồng Nai” ấy được thể

hiện qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong Văn tế

nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861) và Văn tế nghĩa sĩ lục tỉnh (1874)…đến nay vẫn còn

được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam.

Nhận xét về Nguyễn Đình Chiểu, ta có thể thấy từ cuộc đời đến thơ văn của ông

đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng nho học, bao trùm lên các mối quan hệ xã hội,

thấm đượm tinh thần yêu nước thương dân và quan điểm nhân nghĩa trong các

tác phẩm của ông. Tên tuổi của ông gắn liền với truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên –

một tác phẩm vốn được xem là “Truyện Kiều của Nam Bộ”.

Bên cạnh đó, nói về văn hóa ứng xử giới, ta biết xã hội Việt Nam xưa chịu

nhiều ảnh hưởng của quan niệm đạo đức nho giáo. Nho giáo ảnh hưởng khá lớn

đến cách chọn đề tài, quan điểm sáng tác cũng như cách nhìn nhận về con người.

Trong dòng chảy của văn học trung đại, vấn đề con người tồn tại trên nhiều

1

phương diện: con người với thân và tâm, tiêu biểu là tác gia Nguyễn Du với

Truyện Kiều đã hình dung con người không chỉ là đức hạnh, ý nghĩa mà còn là

dục vọng, ham muốn về tính dục hay Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu với

quan niệm con người của nhân nghĩa và đạo lý. Bàn về con người trên phương diện

bản thể luận, ta có thể kể tới cách nhìn nhận con người trên phương diện về giới.

Trên phương diện này, Khổng Tử cũng đã quan niệm về vai trò và vị trí của người

nam và người nữ trong xã hội nho giáo. Theo Khổng Tử nếu như tam tòng, tứ đức là

khuôn mẫu của nho giáo, để giáo dục riêng cho người đàn bà, con gái trong suốt

cuộc đời khi tại gia cũng như lúc xuất giá đi lấy chồng và cả khi chồng chết thì tam

cƣơng, ngũ thƣờng lại là khuôn mẫu dạy cho người đàn ông biết kỷ cương, cương

thường, đạo lý...Quan niệm giới này đã ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đến đời sống

mà còn quy định đến cách xây dựng nhân vật trong các tác phẩm văn học trung đại

trong tiến trình văn học Việt Nam.

Căn cứ vào tình hình nghiên cứu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu từ phương

pháp tiếp cận giới, tiêu biểu là lý luận về giới cùng với niềm yêu thích thơ văn

Nguyễn Đình Chiểu, cũng như thấy được tầm quan trọng của đề tài, chúng tôi đã

chọn “Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới” làm đề tài

cho luận văn tốt nghiệp.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiều tác gia và tác phẩm

Nguyễn Đình Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế

kỷ XIX và ông cũng là một trong những tác gia lớn của văn học Nam Bộ nói

riêng và văn học trung đại nói chung. Các công trình nghiên cứu về ông và

những sáng tác của ông trước và sau cách mạng khá nhiều. Tính cho đến nay đã

có khoảng gần 600 công trình lớn nhỏ khác nhau nghiên cứu về Nguyễn Đình

Chiểu và thơ văn của ông. Quá trình nghiên cứu là sự tiếp nối từ thế hệ này sang

thế hệ kia và nó không dừng lại trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn thu hút

sự chú ý của cả các chuyên gia nước ngoài như Michel Ponchon, G.

Cproier…Nếu xét riêng về tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu thì truyện Lục Vân

2

Tiên của ông được xem là đối tượng được nghiên cứu nhiều hơn cả. Bởi hầu như

không một ai nghiên cứu về văn thơ Đồ Chiểu lại không đụng đến truyện Lục

Vân Tiên. Việc nghiên cứu tác phẩm Lục Vân Tiên được “mổ xẻ” trên nhiều

phương diện và thời điểm nghiên cứu khác nhau.

Trước cách mạng năm 1945, tác phẩm Lục Vân Tiên chủ yếu được nghiên

cứu trên phương diện văn bản. Nếu như khi Nguyễn Đình Chiểu còn sống thì

truyện chỉ được lưu hành trong Nam Kỳ Lục tỉnh thì sau khi ông mất tác phẩm

được lưu hành rộng rãi trong phạm vi từ Nam chí Bắc. Theo Nguyễn Văn Hoàn

đã có tới khoảng 43 lần tái bản. Con số đó có thể chưa thật chính xác nhưng cũng

đã cho thấy sự ảnh hưởng và sức sống của Lục Vân Tiên như thế nào trong đời

sống văn học nghệ thuật Việt Nam kể từ khi nó có mặt. Về tình hình xuất bản ở

miền Nam, ta có thể kể các bản in được chú ý như bản của Trƣơng Vĩnh Ký

(1889) xuất bản ở Sài Gòn, là bản in sớm nhất do người Việt Nam sưu tập và

chỉnh lý. Bản của Trƣơng Vĩnh Ký giống với các bản dịch Lục Vân Tiên tiếng

Pháp hay các bản quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn khi tác giả còn sống như các bản

Ôbare, Aben đề Misen. Tuy nhiên, bản này vẫn có những hạn chế nhất định như

trong văn bản còn có nhiều câu tối nghĩa, nhiều chỗ trùng lặp và một số câu

không ăn vần với nhau. Hay bản của Phạm Văn Thình và một số bản khác xuất

bản năm 1932, là một trong những bản bán chạy nhất. Bản này có sửa đổi một số

chữ nhưng về cơ bản đều dựa theo bản Trƣơng Vĩnh Ký. Các bản Lục Vân Tiên

được xuất bản sau khi tác giả mất không có nhiều sự khác biệt quá lớn mà vẫn

ghi lại trung thành truyện Lục Vân Tiên như nhân dân truyền tụng. Ở miền Bắc,

truyện Lục Vân Tiên chủ yếu được lưu hành vào những năm cuối của thế kỷ XIX.

Bản sớm nhất hiện nay mà chúng ta có được là bản Vân Tiên cổ tích tân truyện

của hiệu khắc ván tụ văn đường phố Hàng Gai, in năm Thành Thái thứ chín

(1897). Bản Nôm này đã được sửa nhiều chỗ so với bản của Trƣơng Vĩnh Ký kể

cả mặt câu chữ Nam Bộ cho đến kết thúc cho hợp với văn hóa Bắc Bộ. Nhìn

chung, bản này không có gì đáng chú ý, ít được phổ biến trong dân gian. Về các

bản Lục Vân Tiên bằng chữ quốc ngữ thì bản Lục Vân Tiên truyện của nhà in

3

Văn Minh, Hải Phòng là sớm nhất. Ngoài ra còn bản Lục Vân Tiên của hiệu sách

Phúc văn đường…, trong các bản chữ quốc ngữ thì bản sau đều tham khảo bản

trước, đều na ná giống nhau.

Từ sau cách mạng Tháng Tám, các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu được

Giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc trong cả nước, đặc biệt là truyện Lục Vân Tiên.

Việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu đã chuyển sang một giai đoạn mới. Số

người nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu ngày một tăng. Đáng chú ý là bản Lục

Vân Tiên do Hoàng Ngọc Phách, Lê Trí Viễn, Vũ Đình Liên bình luận hiệu đính

chú thích được bộ Giáo dục xuất bản năm 1957. Tiếp theo là các bản Lục Vân

Tiên của nhà xuất bản Phổ thông (1957), Bình dân (1958), Văn hóa (1959) được

lần lượt in ra để xuất bản đáp ứng nhu cầu bạn đọc. Trong số các bản đó, thì bản

của Nhà xuất bản Văn hóa (1959) do Vũ Đình Liên và Nguyễn Sỹ Lâm khảo

thích là đặc sắc hơn cả. Có thể nói, bản này đã tổng kết và tiếp thu được một số

thành tựu của các bản Lục Vân Tiên đã xuất bản.

Tuy nhiên, việc nhìn nhận tác phẩm Lục Vân Tiên trên phương diện giá trị

nội dung và nghệ thuật thì phải đến 50 năm sau ngày mất của ông (1938) mới

thực sự diễn ra. Phan Văn Hùm là một trong những người đầu tiên đứng trên góc

độ khoa học văn học để lý giải mối quan hệ giữa sáng tác của Nguyễn Đình

Chiểu và cuộc đời ông. Với chuyên luận Nỗi lòng Đồ Chiểu đã đánh dấu mốc lớn

cho việc nghiên cứu về tư tưởng học thuật của Nguyễn Đình Chiểu. Đây là

những tư liệu quý về thân thế và tâm sự của nhà thơ được trình bày khá tỉ mỉ và

đáng tin cậy so với các dị bản khác. Công trình khảo cứu này được in đi, in lại

nhiều lần và gần 30 năm sau khi công trình ra mắt, trong vòng kìm kẹp của chế

độ Mỹ - Ngụy miền Nam trước 1975, nhà phê bình văn học – nhà báo Thiếu Sơn,

khi đọc lại đã khâm phục rằng: “…cuốn Nỗi lòng Đồ Chiểu nếu là một nhà nho

cũ kỹ viết ra họa may chỉ nói lên đƣợc cái khí tiết của ngƣời quân tử nhƣng làm

sao phân biệt đƣợc những gì đáng đề cao của xã hội phong kiến, những gì lỗi

thời và hủ bại. Phan Văn Hùm chính là ở số ngƣời đã hấp thụ những tƣ tƣởng

mới để nhìn vào văn hóa của tiền nhân để lại, gạt bỏ những gì lạc hậu, lỗi thời

4

thêm vào những gì văn minh, tiến bộ…đƣa dân tộc tới một trình độ cao hơn nữa

để đáp ứng với những yêu cầu của lịch sử và để hòa đồng với đại dƣơng của loài

ngƣời”[31, tr. 65].

Năm 1963, trong dịp kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu,

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã công bố bài báo nổi tiếng khẳng định vị trí của

Nguyễn Đình Chiểu và giá trị của những sáng tác của ông. Phạm Văn Đồng nhấn

mạnh đến hoàn cảnh sáng tác đặc biệt của nhà thơ và bối cảnh xã hội Việt Nam

phong kiến chống trả sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, ông nhận

xét về Nguyễn Đình Chiểu như “một tấm gƣơng sáng, nêu cao địa vị và tác dụng

của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của ngƣời chiến sĩ trên mặt trận văn

hóa, tƣ tƣởng”. Tác giả Phạm Văn Đồng cũng lưu ý rằng đặc sắc văn chương của

Nguyễn Đình Chiểu nằm ở chỗ “tác giả cố ý viết một lối văn chƣơng “nôm na”

dễ nhớ, dễ hiểu, có thể truyền bá rộng rãi trong dân gian, trong đó những vần

thơ hay, những tác phẩm văn hay vẫn không thôi xúc động, hấp dẫn lòng ngƣời”.

Ông kết luận:“Nguyễn Đình Chiểu vì vậy là một ngôi sao có ánh sáng khác

thƣờng, có những giá trị tiềm ẩn, đòi hỏi nhìn kỹ, nhìn lâu mới có thể khám phá

cho đƣợc giá trị của nó”[9, tr. 28].

Cũng vào năm 1963, sau dịp kỷ niệm trọng thể 75 năm ngày mất của nhà

thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu, Viện Văn học đã biên soạn kỷ yếu Mấy vấn đề về

cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (Nxb Khoa Học, 1964, Nxb Khoa học

và xã hội tái bản, 1969) và Một số tƣ liệu về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình

Chiểu (Nxb Khoa học, 1965). Hai cuốn sách này giới thiệu tới bạn đọc trong và

ngoài nước những tư liệu, kết quả nghiên cứu tiêu biểu về con người và tác phẩm

của Nguyễn Đình Chiểu dựa trên những góc độ tiếp cận mới, những phương

pháp mới.

Cùng với đó, theo chủ trương của Đảng và nhà nước ta tháng 7 năm 1972,

lần thứ hai, nhân lễ kỷ niệm Nguyễn Đình Chiểu 150 ngày sinh của nhà thơ,

trong bối cảnh cao trào chống Mỹ cứu nước toàn quốc. Đây cũng là một dịp giúp

cho việc tranh luận và nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu được đẩy lên một cao

5

trào mới. Đó là sự ra đời của cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu tấm gƣơng yêu nƣớc

và lao động nghệ thuật, do nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành và đáp ứng đòi

hỏi của công chúng rộng rãi trong và ngoài nước. Sách được mở đầu bằng bài

viết của Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhân kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn

Đình Chiểu (1963), tiếp đó giới thiệu gần 30 tiểu luận do các nhà hoạt động văn

hóa, nghiên cứu và giảng dạy viết về con người và tác phẩm của Nguyễn Đình

Chiểu trong khoảng 10 năm từ 1963 đến 1972. Ngoài ra, ta còn có thể điểm qua

một số công trình “Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng của ngƣời tri thức Việt

Nam (1980) của tác giả Vũ Khiêu – Nguyễn Đức Sự đã nghiên cứu về những

truyền thống của người tri thức Việt Nam, sự ảnh hưởng của nho giáo, việc vận

dụng nho giáo trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu và thái độ của Nguyễn Đình

Chiểu đứng trước nạn ngoại xâm, khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu

trong cuộc sống và trong thơ văn của ông.

Năm 1982, khi đất nước thống nhất, nhân kỷ niệm lần thứ 160 năm sinh của

nhà thơ, hội nghị khoa học quốc gia về Nguyễn Đình Chiểu được tổ chức với quy

mô lớn ở tỉnh Bến Tre, nơi nhà thơ đã sinh sống 25 năm cuối đời và an nghỉ tại

đó. Trên 200 nhà nghiên cứu, nhà giáo và nhà hoạt động văn hóa – xã hội đến từ

các viện nghiên cứu và các trường đại học, các cơ quan văn hóa – văn nghệ trong

nước về dự. Có rất nhiều những bài tham luận đã được tập hợp gửi đến, trong đó

chủ yếu chọn từ những bài đã tham gia các hội thảo khoa học cấp cơ sở nghiên

cứu và giảng dạy. Hội nghị khoa học kết thúc thành công với cuốn Kỷ yếu biên

soạn khá công phu, đã trích trọn hơn 90 bài trong tổng số 120 bài tiểu luận, bài

viết. Đó là những bài viết của nhóm những nhà nghiên cứu như Trần Thanh Mại,

Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Lộc… đề cập tới vị trí dẫn đầu của Nguyễn Đình

Chiểu trong dòng văn học yêu nước chống ngoại xâm thời kỳ cận đại. Các tác giả

này đã ít nhiều xem xét sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu trên phương diện văn

hóa để thấy được ở Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước, người thầy

thuốc với khí tiết cao cả, hết lòng vì dân, đã biểu lộ một thái độ sống có văn hóa,

biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân

6

trọng phẩm giá con người. Trước đó ít lâu, tập Thƣ mục về Nguyễn Đình Chiểu

cũng đã ấn hành, tóm lược nội dung của 551 đơn vị tài liệu. Qua các công trình

nghiên cứu tiêu biểu nói trên cũng như một số chuyên khảo sau đó, cho thấy rõ

việc nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu càng ngày càng được mở rộng và đào

sâu trên cơ sở tư liệu được thẩm định kỹ càng. Không chỉ thế, các phương pháp

nghiên cứu văn học theo loại hình, thi pháp học, văn học so sánh, tiếp nhận văn

học được mạnh dạn áp dụng, càng về sau càng thành thạo và nhuần nhuyễn hơn.

Năm 1992, tác giả Trần Ngọc Vương cũng đã xem xét vị trí của nhà thơ

Nguyễn Đình Chiểu trong tiến trình có tính quy luật của văn học Việt Nam nửa

cuối thế kỷ XIX, lưu tâm đến tính chất bản lề trong đóng góp quan trọng nhất của

Nguyễn Đình Chiểu: “ông vừa là đại diện chung cục một thời đại văn học trung

đại nhƣng với việc sáng tạo ngƣời anh hùng vô danh đại diện cho cuộc kháng

chiến của dân tộc, ông lại đồng thời là ngƣời mở đầu và đứng ở vị trí tiên phong

cho trào lƣu văn học chống ngoại xâm ở nƣớc ta. Và nhìn rộng ra trên bối cảnh

toàn cầu cũng nhƣ trong khu vực sẽ thấy mang theo nó một “ý nghĩa quốc tế đậm

nét”. Tác giả cũng đã nhận định rằng:“Trong tƣơng lai khi bộ phận văn học đấu

tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới đƣợc khảo

sát một cách khoa học, Nguyễn Đình Chiểu chắc chắn sẽ đƣợc ghi nhận nhƣ một

trong những tác giả có tên tuổi nổi bật”.[49, tr. 285].

Nếu như ở thập kỷ trước Vũ Đình Liên, Trần Văn Giàu, Cao Huy Đỉnh,

Phan Ngọc…ít nhiều xem xét sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu ở phương diện

văn hóa thì từ những năm 1998 trở đi, đã có thêm rất nhiều những tiểu luận và

công trình ghi nhận những nỗ lực mới trong nghiên cứu của Nguyễn Đình Chiểu.

Ở khu vực phía Nam, trong loạt bài đăng trên Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh

tháng 7 và tháng 8 băm 1998 có rất nhiều bài viết đáng chú ý. Bài viết Để có một

văn bản Lục Vân Tiên gần với nguyên tác hơn, tác giả đã đưa ra giả thuyết để

đính chính sự phiên âm sai về thơ Lục Vân Tiên, dựa vào phương pháp khảo sát

của ngữ âm học so sánh và logic ngữ nghĩa học. Ông đề nghị những câu thơ vẫn

quen đọc theo các văn bản phiên âm từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ như vậy mới

7

hợp với kiểu phát âm hồi đó và mới thuận tai, thuận nghĩa. Ngoài ra, chúng ta

cũng phải kể đến Nguyễn Phong Nam với “Nguyễn Đình Chiểu – từ quan điểm

thi pháp học” (1998). Tác giả Nguyễn Phong Nam đã vận dụng các khái niệm

công cụ của thi pháp học như: quan niệm nghệ thuật về con người, thời – không

gian nghệ thuật, cấu trúc, ngôn ngữ nghệ thuật…và bằng phương pháp luận văn

học so sánh tác giả lý giải những sáng tạo độc đáo thuộc phong cách nghệ thuật

của Nguyễn Đình Chiểu qua các sáng tác đặc biệt ở thể loại truyện Nôm. Cuốn

sách của đã nghiên cứu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu về góc độ thi pháp ở phương

diện đề tài, kết cấu, ngôn ngữ trong các truyện Nôm, một trong những cống hiến

quan trọng của Nguyễn Đình Chiểu cho nền văn học dân tộc. Tác giả bài viết có

đề cập đến nhân vật trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:“Nhân vật truyện Nôm đƣợc

trƣng bày nhƣ một số phận hoàn chỉnh. Ngƣời đọc tiếp xúc với nhân vật không

chỉ một khoảng thời gian hạn định mà chứng kiến cả một kiếp ngƣời, một đời

ngƣời. Ngƣời đọc, ngƣời nghe hình dung về một số phận với đầy đủ những buồn

vui, sƣớng khổ, mọi bƣớc thăng trầm, mọi biến cố quan trọng, các cảnh huống có

ý nghĩa nhất…với một ý thức bao quát về chúng”. [23, tr. 64]. Như vậy, công

trình đã có phần nào đề cập đến giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, nhưng

bài viết chỉ mới đề cập ở truyện Nôm, còn giọng điệu trong các tác phẩm khác

chưa được nhắc đến.

Việc nâng cao tầm vóc và vị trí quốc tế của sự nghiệp văn học chống chủ

nghĩa đế quốc mà Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người đi đầu ngay từ

cuối thế kỷ trước là có cơ sở. Trong một bài phát biểu của mình, Tổng Bí thư

Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Khả Phiêu khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ lãnh

đạo, quản lý văn học – nghệ thuật, báo chí, xuất bản, nghiên cứu Nghị quyết hội

nghị Trung ương V về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc, khẳng định Nguyễn Đình Chiểu cùng với Nguyễn Du trước đó, và một

số nhà văn, nhà báo lớp trước vào sinh ra tử trong các cuộc kháng chiến gần đây,

đã trở thành những tấm gương không màng danh lợi, viết vì trách nhiệm, vì sự

thôi thúc của lương tâm người chiến sĩ trên mặt trận chống văn hóa trước thời

8

cuộc.

Bên cạnh đó, còn phải kể đến những nghiên cứu, tiếp cận trên phương diện

nhấn mạnh vấn đề của không gian văn học trung đại Việt Nam. Thời gian gần

đây, tác giả Trần Nho Thìn trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam (2012), với

phương pháp này tác giả chú ý nhấn mạnh đến đặc điểm của văn học từng vùng

miền. Đó là những đặc trưng trên nhiều phương diện như tư tưởng chính trị, đạo

đức, thẩm mỹ, về ngôn ngữ, chữ viết…và nhiều đặc trưng do nhiều nhân tố văn

hóa xã hội chi phối và quy định. Tác giả đã chỉ ra rằng không gian văn hóa Gia

Định đã ảnh hưởng rất lớn trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu: “Lịch sử đã

đặt Nguyễn Đình Chiểu sống đúng tại tâm điểm của cuộc xâm lƣợc…Ông đã

chứng kiến tinh thần chiến đấu quật khởi, không sợ thất bại, hy sinh của nhân

dân, các tƣớng lĩnh chống lại kẻ thù không truyền thống, đồng thời cũng chứng

kiến sự bạc nhƣợc, hèn kém của triều đình nhà Nguyễn...tất cả những nhân tố

trên đem lại nét đặc trƣng có tính phong cách cá nhân ông, cũng là phong cách

của thời đại ông. Trong sáng tác của ông có phản ánh chủ trƣơng phục hƣng của

Nho giáo nhà Nguyễn, nhƣng cũng phản ánh vấn đề đặt ra cho chính con ngƣời

vùng đất Gia Định, thể hiện những suy tƣ và cảm xúc riêng của cá nhân ông

trong những bối cảnh lịch sử đặc biệt mà các tác giả vùng miền khác không có

đƣợc. Chất trữ tình mãnh liệt cộng với tính nhân dân trong các sáng tác của

Nguyễn Đình Chiểu chính là kết quả của các nhân tố của thời đại lịch sử đó”.

[41, tr.633].

Và một số bài viết như bài phê bình táo bạo của Nguyễn Hưng Quốc ở Hải

ngoại trên báo mạng về Lục Vân Tiên qua “Đọc …chơi vài bài ca dao”…Tác giả

cũng bày tỏ một cách nhìn nhận về Lục Vân Tiên cũng như Nguyễn Đình Chiểu

thông qua một số bài ca dao giễu nhại về nhân vật Lục Vân Tiên “Vân Tiên cõng

mẹ chạy ra/ Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô/ Vân Tiên cõng mẹ chạy vô/

Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra/ Vân Tiên cõng mẹ chạy ra…hay như Vân

Tiên ngồi dƣới gốc môn/ Chờ cho trăng lặn bóp l…Nguyệt Nga”. Qua đó, tác giả

đề cập quan niệm của mình, giải thích lý do tại sao nhân vật chính diện trong một

9

tác phẩm nặng dụng tâm giáo huấn của tác giả, được xem là tiêu biểu nhất trong

dòng văn học giáo huấn lại biến thành – không phải một lần mà là nhiều lần biến

thành nhân vật hài trong văn học dân gian. Tác giả cũng nhấn mạnh, phê phán

quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu, “đề cao những chuẩn mực đạo đức,

cổ điểm và cổ kính nhƣ trung, hiếu, tiết, nghĩa với hy vọng là chúng sẽ duy trì sự

ổn định trong xã hội, tuy nhiên một là, xã hội Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19,

trong sự cọ xát dữ dội với văn minh Tây phƣơng và thế lực thực dân, cứ ngày

một rạn nứt, vô phƣơng hàn gắn; hai là, bản thân những chuẩn mực đạo đức

tƣởng đâu là chân lý vĩnh cứu ấy thật ra rất đáng ngờ và với sự lung lay của Nho

học, càng ngày càng đáng ngờ thêm. Con thuyền chở đạo của Nguyễn Đình

Chiểu, do đó, không phải chỉ trôi trên dòng nƣớc ngƣợc mà còn, hơn nữa, trên

thực tế chỉ loay hoay mãi trong một vũng nƣớc tù, không có lối thoát, hết “đụng”

cái này thì “đụng” cái kia, cứ quanh quẩn mãi trong sự tuyệt vọng và bế tắc. Nói

cách khác, đó là những lý tƣởng ở đƣờng cùng. Biện pháp dựa trên nguyên tắc

đạo đức mà Nguyễn Đình Chiểu đề xuất, hay đúng hơn, cổ vũ, đã không giải

đƣợc bài toán của thời đại”.[26]

Qua đó ta có thể thấy sức ảnh hưởng lớn của tác giả Nguyễn Đình Chiểu

nói chung và truyện Lục Vân Tiên nói riêng trong nghiên cứu và phê bình văn

học. Mỗi công trình đều mang một dấu ấn nhất định khi xem xét các công trình

này trên phương diện nghiên cứu giới. Các nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu

cũng đã đề cập phần nào đến phương diện giới của nhân vật. Có thể kể đến bài

viết của Vũ Đức Phúc với nhan đề Đạo nho và các nhân vật trí thức trong sáng

tác của Nguyễn Đình Chiểu in trong tổng tập Nguyễn Đình Chiểu tác gia và tác

phẩm II có đánh giá về các nhân vật trí thức: “Trút cái vỏ đạo nho, tƣ tƣởng

Nguyễn Đình Chiểu về mọi phƣơng diện là tƣ tƣởng tiêu biểu nhất cho quảng đại

quần chúng lao động đƣơng thời, là kết tinh của phẩm chất dân tộc đƣơng thời

loại trừ đi phần hạn chế lịch sử của thời đại, tƣ tƣởng ấy, tình cảm ấy còn giáo

dục đƣợc chúng ta ngày nay một cách sâu sắc về nhiều mặt.

Với quan điểm tƣ tƣởng nhƣ vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng những nhân

10

vật trí thức trong ba tập truyện thơ của mình, nhân vật tốt cũng nhƣ nhân vật

xấu. Trong khi nƣớc cần chƣa bị giặc Pháp xâm lƣợc, lý tƣởng của ông là con

ngƣời toàn diện nhƣ Lục Vân Tiên, con ngƣời ấy là một nhà nho, nghĩa là tri

thức theo cách nối của chúng ta, trí thức hạng nhất, nhƣng cũng là ngƣời võ

nghệ cao cƣờng, cầm quân đánh giặc cứu nƣớc giỏi cũng vào bậc nhất đạo đức

tại tuyệt vời, đạo đức nhân dân dƣới cái vỏ đạo nho nhƣ trên chúng tôi đã phân

tích. Con ngƣời ấy chỉ "nổi trận lôi đình" trƣớc bọn giặc cƣớp, ngoài ra thì lúc

nào cũng ăn nói, cử chỉ đúng mực, phong lƣu, nho nhã mặc dầu ngƣời ta thô lỗ,

cục cằn, xúc phạm đến mình hay thậm chí đã làm hại mình. Khi đã "đánh tan lũ

kiến đàn ong" để cứu Kiều Nguyệt Nga, con ngƣời ấy tỏ ra là quá đạo đức,

nhƣng cũng hết sức đáng kính đáng yêu [42, tr. 241].

Hay như bài viết của Huỳnh Sở Kỳ in năm 1982 trong bài Ảnh hƣởng

Nguyễn Đình Chiểu qua truyện thơ Lục Vân Tiên trong đời sống tinh thần của

nhân dân Bến Tre cũng có những nhận định trên tinh thần giới đối với nhân vật

Lục Vân Tiên: “Để bảo vệ đạo nghĩa nhân trong thơ Lục Vân Tiên không chỉ có

trai mà còn có gái. Nếu so sánh cuộc đời mù lòa của Vân Tiên trong khoảng thời

gian khá dài với Nguyệt Nga mắt sáng tinh tƣờng, thì Nguyệt Nga gặp phải

những éo le không kém. Đẹp thay Đồ Chiểu khi miêu tả Nguyệt Nga với một nghị

lực chủ động đáng kính. Trƣớc hết là chủ động trong tình yêu. Ai cũng biết là

việc hôn nhân theo phong kiến là “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Huống hồ

Nguyệt Nga đƣợc cha gọi đến Hà Khê để “lo bề nghi gia”. Nguyệt Nga yêu anh

họ Lục chắc không phải vì anh chỉ văn hay, võ giỏi mà trƣớc hết vì khâm phục

một thanh niên có lẽ sống phù hợp với đạo nghĩa nhân” [42, tr.332].

Tác giả Trần Ngọc Vương trong bài viết Những đặc điểm mang tính quy

luật của sự phát triển văn học nhìn nhận qua sáng tác của một tác giả , in trong

cuốn Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1998) cũng đi đến tổng

kết về hệ thống nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu như sau:

“Nguyễn Đình Chiểu không tiếp tục sáng tạo hình tƣợng ngƣời tài tử giai nhân –

ông đƣa ra mẫu “trai anh hùng gái thuyền quyên” ra làm đối trọng. Trong Lục

11

Vân Tiên có sự tiếp nối của mẫu ngƣời trung nghĩa kết hợp với mẫu ngƣời anh

hùng, có vị nho tƣớng trạng nguyên văn võ gồm tài, có ngƣời tiết hạnh hƣởng

phúc lộc trở thành mệnh phụ. Nguyễn Đình Chiểu đã lựa chọn và khai thác mẫu

ngƣời chính thống trong truyền thống văn học nho gia”[49, tr. 284].

Như vậy, việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn của ông nói

chung, truyện Lục Vân Tiên nói riêng đều được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và

thu về được nhiều thành tựu. Ở mỗi công trình nghiên cứu, mỗi tác giả đều mang

đến cho độc giả một cái nhìn tổng quát và trọn vẹn hơn, phản ánh nhiều góc độ

khác nhau về cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng, nội dung, nghệ thuật của tác

phẩm. Những công trình trên là những tài liệu phong phú trong quá trình nghiên

cứu đề tài để chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về mối tương quan giữa tác giả Nguyễn

Đình Chiểu và truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên.

2.2. Nghiên cứu về giới

Giới là một trong những vấn đề mới mẻ khi nghiên cứu về văn học. Gần

đây, vấn đề giới trở lại với tư cách là đối tượng của văn học và mang lại nhiều

tranh cãi. Đặc biệt là trong dòng chảy văn học trung đại, vấn đề giới vẫn còn

chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Chúng ta vẫn biết, văn học trung đại chịu ảnh

hưởng rõ rệt của tư tưởng nho giáo đề cao chủ nghĩa khắc kỷ của con người và

phê phán con người bản năng. Thêm vào đó là sự thống trị của hình mẫu người

anh hùng hay còn gọi là mẫu nam nhi khắc kỷ trong văn học, đã trở thành một

nét đặc biệt kéo dài trong văn hóa trung đại, hình thành nên đặc trưng văn hóa

ứng xử giới của hệ thống các nhân vật trong văn học. Đó là những chủ trương

như coi thường sắc đẹp, đòi hỏi nam giới có một cái nhìn khắt khe trong mối

quan hệ nam nữ, đồng thời đề ra những nghĩa vụ, bổn phận với đại đa số nam

giới xung quanh những vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa. Nhìn lại quá trình nghiên

cứu văn học trung đại nói chung, tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu

nói riêng thì việc nghiên cứu tác phẩm dựa trên góc độ xã hội, nội dung, nghệ

thuật, văn bản đã được xem xét khá kỹ lưỡng. Tuy nhiên, vẫn cần thiết có một cái

nhìn rõ ràng hơn về các nhân vật thông qua văn hóa ứng xử giới của họ để thấy

được tầm ảnh hưởng của nho giáo đến cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Đình

12

Chiểu.

Những năm trở lại đây, hướng nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc độ

tiếp cận khác nhau ngày càng được đẩy mạnh. Đặc biệt là hướng tiếp cận văn học

dựa trên quan điểm về giới. Cùng với quá trình giao lưu và hội nhập, vào đầu

những năm 90 của thế kỷ XX, bằng nhiều con đường khác nhau, quan điểm giới

được nhanh chóng du nhập và truyền bá vào Việt Nam. Sự xuất hiện phương

pháp tiếp cận giới chính là bước đột phá quyết định sự phát triển mạnh mẽ và ấn

tượng của khoa học nghiên cứu về con người và văn học.

Giới là đặc trưng văn hóa, xã hội và sinh thể của đời sống nam và nữ.

Những đặc trưng sinh thể của con người thường ít biến đổi và tuân theo quy luật

tự nhiên còn những đặc trưng văn hóa, xã hội thường biến đổi theo sự biến đổi

của cấu trúc một xã hội nhất định và tuân theo quy luật xã hội. Điều này có

nghĩa, theo quan điểm giới, về mặt xã hội, nam và nữ là hoàn toàn bình đẳng với

nhau. Sự khác biệt của hai hiới chỉ là do nhân tạo, là do quan niệm, giáo dục,

truyền thống và quyền lực chính trị của các thời đại tạo nên.

Quan điểm giới có nguồn gốc từ các lý thuyết nữ quyền xuất hiện và phát triển

rất sôi động ở các xã hội phương Tây, bắt đầu từ giữa thế kỷ XX. Lý thuyết nữ quyền

tạo nên các phong trào xã hội mạnh mẽ, đấu tranh chống lại sự thống trị của nam

giới, phê phán quyết liệt chế độ áp bức phụ nữ, đòi quyền lợi cho phụ nữ, tạo lập

bình đẳng giới. Có thể nêu một số lý thuyết nữ quyền có ảnh hưởng mạnh đến xã hội

phương Tây thời gian qua là: nữ quyền tự do, nữ quyền mác-xit, nữ quyền xã hội

chủ nghĩa, nữ quyền phúc lợi, nữ quyền triệt để, nữ quyền hiện sinh, nữ quyền phân

tâm… và gần đây xuất hiện một số lý thuyết nữ quyền mới như: nữ quyền hậu hiện

đại, nữ quyền da đen, nữ quyền phụ nữ thế giới thứ ba…

Nghiên cứu về quan điểm giới, đặc biệt là vấn đề về quan niệm nam tính –

nữ tính đã được nhìn nhận trong rất nhiều công trình khảo luận ở châu Á như

Phụ nữ Trung Quốc qua cái nhìn của ngƣời Trung Quốc (Chinese women

through Chinese eyes) do Yu-ning Li chủ biên (1992); Nữ tính / Nam tính của

ngƣời Trung Quốc (Chinese femininities / Chinese Masculinities: A reader) của

13

Susan Brownell...

Hoặc một số các công trình khảo luận về cái nhìn đàn ông có ý nghĩa then

chốt: Khoái cảm thị giác và Điện ảnh tự sự (Visual Pleasure and Narrative

Cinema) của Laura Mulvey (1975) cung cấp tiền đề lý thuyết về “cái nhìn đàn

ông” và mở đầu cho sự ứng dụng lý thuyết này vào nghiên cứu điện ảnh cũng

như những nghệ thuật biểu hiện khác; Sự biểu hiện của cái tôi trong văn học

Trung Quốc (Expression of self in Chinese literature) của Richard C. Hessney,

Robert E. Hegel, (1985) đem đến cách nhìn nhận mới, nhiều chiều nói chung và

về văn học dưới góc nhìn về giới nói riêng.

Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, qua giao lưu và hội nhập, các lý thuyết

nữ quyền từng bước được truyền bá vào Việt Nam và sự truyền bá này ngày càng

mạnh mẽ và đa dạng. Xem xét quá trình và xu hướng nghiên cứu giới ở Việt

Nam thời gian qua, chúng tôi thấy nghiên cứu về giới trong văn học Việt Nam

cũng còn khá mới mẻ, đặc biệt là ở trong dòng văn học trung đại. Gần đây nhất

là hoạt động khoa học hướng tới tọa đàm "Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học

Việt Nam đương đại" do Viện Văn học và Ban Nhà văn Trẻ - Hội Nhà văn Việt

Nam phối hợp, tổ chức vào tháng 10/2012 với các nội dung được thảo luận bao

gồm Một số vấn đề lý thuyết về giới tính và Một số gợi mở trong việc vận dụng lý

thuyết về giới tính trong nghiên cứu văn học sử Việt Nam.

Về việc nghiên cứu giới trong văn học Việt Nam đã có một số nhà nghiên

cứu đã quan tâm đến sự tác động của các quan niệm về giới với văn học trung đại

như một phương pháp tiếp cận văn hóa học trong việc đánh giá và nhận định

người phụ nữ, nhân vật anh hùng trong văn chương nho giáo. Tuy nhiên, việc

ứng dụng cách tiếp cận về giới để để lí giải một tác phẩm văn học cụ thể, đặc biệt

trong truyện thơ Nôm, vẫn chưa được nghiên cứu một cách triệt để. Mặt khác,

truyện Lục Vân Tiên cũng được xem là đối tượng tạo nên dấu ấn mạnh mẽ đối

với các nhà nghiên cứu, cụ thể là lựa chọn hướng tiếp cận mới mẻ này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này là truyện thơ Lục Vân Tiên của

14

Nguyễn Đình Chiểu.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi là hệ thống các nhân vật nam trong

truyện Nôm Lục Vân Tiên bao gồm hệ thống các nhân vật chính diện và nhân vật

phản diện, quan điểm nho giáo về giới và lý thuyết giới…Trên cơ sở nghiên cứu,

phân tích và phân loại ngữ liệu chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu vể kiểu nhân vật nam

nhìn nhận theo lý thuyết giới trong toàn bộ hệ thống nhân vật truyện Lục Vân

Tiên. Vì vậy, với đề tài này chúng tôi hy vọng mang đến một cái nhìn mới

Nguyễn Đình Chiểu nói chung và về tác phẩm Lục Vân Tiên nói riêng. Ở đây

chúng tôi xem xét các nhân vật trong tác phẩm tiểu thuyết của ông ở góc độ tiếp

cận văn hóa cụ thể là lý luận giới.

Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi bước đầu khảo sát, tìm hiểu, đối

chiếu tác phẩm để từ đó đánh giá khái quát về những quan niệm của ông về hệ

thống nhân vật và kiểu nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng

kết hợp các lý thuyết, quan điểm nghiên cứu về văn hoá học, thi pháp học và các

kiến thức liên ngành có liên quan đến việc nghiên cứu nhân vật và giới trong

truyện Lục Vân Tiên.

Luận văn sử dụng lý thuyết về thi pháp học, vận dụng phương pháp nghiên

cứu tác giả văn học để nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng các nhân vật trong

truyện Lục Vân Tiên, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu như:

Phương pháp tiếp cận văn hóa học: chú trọng phân tích văn hóa từ phương

diện lịch sử để giải thích mối liên hệ giữa tác giả Nguyễn Đình Chiểu và văn hóa

Nam Bộ. Trên cơ sở đó lý giải hiện tượng Nguyễn Đình Chiểu lại chọn tác phẩm

Lục Vân Tiên là một tác phẩm diễn ngôn về anh hùng.

Phương pháp lịch sử: thông qua việc tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh xã hội,

không gian văn hóa Nam Bộ, tư tưởng nho giáo và các yếu tố có ảnh hưởng đến

quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu để nhằm định vị tọa độ của ông trên

tiến trình thơ văn trung đại.

Phương pháp khảo sát, phân loại, thống kê để tìm ra những chi tiết, ý

15

nghĩa quan trọng, được lặp đi lặp lại như là dấu hiệu thi pháp riêng biệt của tác

giả. Thông qua đó, chúng tôi rút ra những nhận xét đánh giá mang tính khái quát,

hệ thống về các kiểu nhân vật nam và quan niệm về con người trong truyện thơ

của Nguyễn Đình Chiểu.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác như: so sánh,

bình luận, phân tích, và chứng minh…trong khoa học nghiên cứu văn học để làm

rõ hơn về nội dung của đề tài.

5. Cấu trúc luận văn

Luận văn được chia làm 3 chương chính:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn văn học trung đại Việt Nam liên

quan đến văn hóa ứng xủa giới.

Chương 2: Nhân vật nam trong Lục Vân Tiên từ góc nhìn của lý tưởng về người

anh hùng và kẻ sĩ.

Chương 3: Nhân vật nam trong Lục Vân Tiên từ góc nhìn văn hóa ứng xử với phụ

nữ.

16

CHƢƠNG 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA ỨNG XỬ GIỚI

1.1. Lý luận về giới

Đã từ lâu, giới và vấn đề về giới đã không còn xa lạ trong dòng chảy của

các lĩnh vực nghiên cứu. Giới cũng là một chủ đề ngày càng quen thuộc trong

việc nhìn nhận, đánh giá quá trình phát triển của văn học nói chung và giải thích

các tác phẩm văn học nói riêng. Như đã biết, trong quan niệm Phương Tây vốn

tồn tại hai khái niệm giới tính (sex) và giới (gender). Về khái niệm giới (gender),

xét về nguồn gốc lý thuyết, giới được đề cập lần đầu tiên từ nghiên cứu của

Christin de Pisan (người Pháp, thế kỷ XV, 1364 – 1430). Lý thuyết này được tiếp

tục nghiên cứu, phát triển vào thế kỷ XVII – XVIII bởi nữ văn sĩ người Anh –

Aphra Behr (1640 – 1689) và Mary Astell (1666-1731), những lý luận gia nữ

quyền đầu tiên [10, tr.12].

Dù vậy, như đã trình bày, thuật ngữ gender được bắt đầu sử dụng từ năm

1972. Về phương diện pháp lý quốc tế, thuật ngữ gender đã được sử dụng trong

các văn kiện của Hội nghị Bộ trưởng phụ nữ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

(APEC) tổ chức tại Phi- lip- pin tháng 10/1998. Bản Khuôn khổ hội nhập phụ nữ

trong APEC lần đầu tiên xác định khái niệm giới (gender) với ý nghĩa là “phản

ánh những khác biệt trên bình diện xã hội giữa phụ nữ và nam giới, về vai trò,

thái độ, hành vi và các giá trị” [45, tr.35]. Khái niệm giới tính (sex) là khái niệm

chỉ sự khác biệt về sinh học giữa phụ nữ và nam giới, được xác định bởi gen; còn

khái niệm giới lại được hình thành thông qua quá trình giáo dục, có thể thay đổi

tùy theo điều kiện văn hóa thời đại. Như vậy, khái niệm giới với khái niệm giới

tính (sex) là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

Về lịch sử nghiên cứu về giới tính và giới ở Phương Tây cũng được ghi

nhận qua nhiều công trình khác nhau của các học giả cũng như nhiều góc nhìn

17

khác nhau xung quanh khái niệm giới và giới tính.

Trong cuốn Sự thống trị của nam giới, Bourdieu cũng đã phân tích các

mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới, xuất phát từ việc nghiên cứu dân tộc học

xã hội của người Berbères tại Kabylie và tìm hiểu những cấu trúc tượng trưng

của vô thức lấy nam giới làm trung tâm, hiện vẫn tồn tại ở nam giới và nữ giới

ngày nay. Sự thống trị của nam giới của Pierre Bourdieu cũng cho rằng giới tính

là sự khác biệt sinh học của cơ thể con người. Bourdieu cho rằng giới tính là sự

khác biệt sinh học của cơ thể và xã hội để biện minh cho sự khác biệt giữa hai

giới do xã hột kiến tạo và tự nhiên hóa (như phân công lao động). Người ta đã

tìm ra sự biện minh cho địa vị xã hội của phụ nữ trong sự khác biệt về cơ thể của

nam và nữ. Theo Bourdieu sự kiến tạo sinh học của thân thể nam và nữ cung cấp

cơ sở cho quá trình tự nhiên hóa quan điểm cho rằng nam giới là trung tâm. Từ

quan điểm đó mà sản sinh ra sự phân chia hoạt động tình dục, phân chia hoạt

động theo giới tính và phân chia toàn bộ vũ trụ. Nhưng bản thân của sự tự nhiên

ấy là một kiến tạo xã hội được tự nhiên hóa. Ông cho rằng: “Giới chỉ tồn tại

trong những mối quan hệ, những hoạt động mang tính tƣợng trƣng trong văn hóa

và xã hội nhấn mạnh sự khu biệt này, ấn định đàn ông và đàn bà những dấu hiệu

phù hợp với định nghĩa xã hội về đặc thù giới tính của họ, nhằm khuyến khích

những tập quán phù hợp với đặc tính của họ, hay hạn chế cách xử sự không thích

đáng, đặc biệt trong quan hệ với giới kia [28, tr.56].

Bên cạnh đó, lý thuyết giới “Gender Theory” (học thuyết giới) xuất hiện

tại Mỹ trong thập niên 70, ảnh hưởng của nhà tư tưởng Pháp Michel Foucault và

Jacques Derrida. Học thuyết về giới phủ nhận sự khác biệt giới tính tự nhiên giữa

nam và nữ: “Mỗi ngƣời là trai hay gái, nam hay nữ, căn cứ trên cơ sở sinh học,

cha mẹ dựa vào đó làm khai sinh cho con”. Thuyết phủ nhận sự khác biệt sinh

học đó và cho rằng sự khác biệt nam và nữ là kết quả của văn hóa, nó là một cấu

trúc xã hội. Nam hay nữ chẳng qua chỉ là những vai trò xã hội – văn hóa khác

nhau do xã hội đề ra và có thể phá đổ. Thuyết cũng cho rằng mặt di truyền học

không có vai trò trong hình thành căn cứ giới tính (identite sexulle) của mỗi

18

người. Làm người nam hay nữ tùy thuộc vào sự lựa chọn chủ quan của mỗi cá

nhân. Lý thuyết này nhằm chống lại sự bất bình đẳng nam nữ phục vụ cho phong

trào đấu tranh nhân sự việc chống phân biệt đối xử nam – nữ giới, người ta phủ

nhận nền tảng sinh học giới tính.

Một cách tổng quát hơn, theo lý thuyết thân thể của mình Faucault cho

rằng giới tính không chỉ là thuộc tính bên trong của tự nhiên mà còn là sản phẩm

của hệ quyền lực đặc thù, chính những quan niệm định kiến trong xã hội đã hình

thành nên ý thức về vấn đề giới tính, tức là hình thành nên sự khác biệt giữa đàn

ông, đàn bà. Vì thế thông qua vấn đề thân thể con người, có thể nhận ra dấu ấn

quyền lực xã hội, nhận ra sự phân chia đẳng cấp, sự áp bức, thống trị của nam

giới và nữ giới. Lý luận thân thể Foucalt cũng cho rằng sự vận hành quyền lực

trong xã hội thông qua thân thể con người. Vì thế, thông qua vấn đề thân thể con

người, có thể nhận ra dấu ấn quyền lực xã hội, nhận ra sự phân chia đẳng cấp,

nhận ra sự áp bức, sự thống trị của nam giới với nữ giới. Trong thời kỳ mẫu hệ,

thân thể người phụ nữ lại có uy quyền hơn thân thể đàn ông nhưng trong chế độ

phụ hệ thì thân thể đàn ông lại có uy quyền hơn thân thể phụ nữ. Điều này cho

thấy, vấn đề “giới tính” là sản phẩm của quan hệ quyền lực. Như vậy, bản thân

sinh lý, tự nhiên của đàn ông và đàn bà là không phân biệt đẳng cấp, nhưng chế

độ chính trị, xã hội, quan niệm văn hóa, quan hệ quyền lực đã tạo nên sự bất bình

đẳng về giới. Cũng trên cơ sở này, chủ nghĩa nữ quyền (thuyết bênh vực nữ giới)

giải thích vì sao phụ nữ lại bị ràng buộc bởi những áp chế văn hóa truyền thống và

cho rằng nam giới chiếm hữu ngôn ngữ nhân loại, dùng ngôn ngữ đem kẻ khác (bao

gồm phụ nữ) khách thể hóa, để tiến hành khống chế với người này.

Ở Việt Nam, quan niệm về giới trước đây chưa có sự thống nhất. Có quan

niệm cho rằng giới là khái niệm “chỉ cấu trúc về mặt văn hóa, về mặt xã hội của

sự khác biệt về giới tính của nam và nữ”. Khi xét đến cấu trúc và văn hóa xã hội,

thì khái niệm giới là sự khác biệt giữa nam và nữ trong cùng hộ gia đình, trong

và giữa các nền văn hóa, là cấu trúc xã hội – văn hóa có thể thay đổi theo thời

gian. Những khác biệt này được phản ánh trong các vai trò, trách nhiệm, khả

19

năng tiếp cận nguồn lực, những sức ép, những ưu tiên, các nhu cầu nhận thức và

quan điểm…được thấy trong cả hai giới. Trong khi đó, quan niệm khác khẳng

định giới là “khái niệm của xã hội học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt

xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan

niệm hay quy định cho nam giới và phụ nữ”. Quan niệm về giới còn được tiếp

cận thông qua mối quan hệ giữa “phụ nữ trong phát triển”/WID hoặc “giới và

phát triển”/GAD. Theo quan niệm GAD, thì “con ngƣời (cả nam và nữ) là trung

tâm, hƣớng vào việc xóa bỏ bất bình đẳng giữa nam và nữ, trên cơ sở đáp ứng

lợi ích của cả nam và nữ, trƣớc hết là phụ nữ” [45, tr.67].

Ngoài ra cũng có nhiều quan niệm khác về giới, như “Giới là một thuật

ngữ nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ,

bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích”.

Thậm chí, khi ở Việt Nam do sự phức tạp trong việc chuyển ngữ trong

Tiếng Việt“hai thuật ngữ này đƣợc dịch ra tiếng Việt trong các sách chuyên

ngành và trên các phƣơng tiện truyền thông đại chúng với các từ khác nhau nhƣ

giới tính, giống, phái, giới”[45, tr. 75]. Theo đó, cần phân biệt giữa hai khái

niệm giới tính tự nhiên (sex) hay khái niệm giới (gender) tức là đặc điểm, vị trí,

vai trò của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội.

Nằm trong sự phân biệt giữa sex và gender, trong Luật bình đẳng giới của

Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 1/1/2007) phân biệt như sau “giới chỉ đặc điểm, vị

trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội” và “giới tính chỉ

đặc điểm sinh học của nam và nữ” (điều 5, giải thích từ ngữ, Luật bình đẳng

Giới, 2006). Cùng theo quan điểm này, tác giả Hoàng Bá Thịnh cũng phân biệt rõ

“Giới tính (sex) đề cập đến những khác biệt sinh học căn bản nhất giữa đàn ông

và đàn bà, đặc biệt là cơ quan sinh dục và khả năng sinh sản. Là sản phẩm sinh

học đƣợc xác định về gien qua các cặp nhiễm sắc thể XY (trai) và XX( gái)” [44,

tr. 56]. Giới (gender) là khái niệm không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả mối

quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ ấy có sự phân biệt về vai trò và

trách nhiệm, hành vi và sự mong đợi mà xã hội quy định cho mỗi giới. Những

20

quy định xã hội này phù hợp với các đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội

và tôn giáo; vì thế nó luôn biến đổi theo các giai đoạn lịch sử và có sự khác biệt

giữa các xã hội. Giới là sản phẩm của cấu trúc xã hội – văn hóa. Ở luận văn này,

chúng tôi đề cập đến hướng nghiên cứu giới hay nghiên cứu gender.

Với cách diễn đạt khác, trong bài phát biểu của Hội phụ nữ Việt Nam

cũng định nghĩa rõ ràng về giới tính và giới, theo đó giới tính là “bẩm sinh và

đồng nhất (nam giới và nữ giới) khắp nơi trên thế giới đều có chức năng và cơ

quan sinh sản khác nhau không thể thay đổi đƣợc giữa nam và nữ do các yếu tố

sinh học quyết định”. Cùng với đó là khái niệm về giới: “Giới phản ánh sự khác

nhau giữa nam và nữ về khía cạnh xã hội”. Vai trò giới là “tập hợp những hành

vi ứng xử mà xã hội đang mong đợi ở nam và nữ liên quan đến những đặc điểm

giới tính và năng lực xã hội coi là thuộc về nam giới và nữ giới” [45, tr. 61]

trong xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể nào đó.

Khái niệm giới theo Hoàng Bá Thịnh đã chỉ ra giới (gender) trong xã hội

là “khái niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà còn cả mối quan hệ giữa

nam và nữ. Trong mối quan hệ ấy luôn có sự phân biệt giữa vai trò, trách nhiệm,

hành vi hoặc sự mong đợi mà xã hội quy định cho mỗi giới. Những quy định,

mong đợi xã hội ngày càng phù hợp với đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế , xã

hội, tôn giáo vì thế nó luôn biến đổi theo các giai đoạn lịch sử và có sự khác biệt

các cộng đồng và xã hội”[44, tr.33].

Khái niệm về giới là một trong những khái niệm dùng dựa trên những đặc

điểm sinh học nam và nữ, được sử dụng như một thuật ngữ chỉ sự khác biệt của

từng giới do những quy định của văn hóa từ đó tạo ra khái niệm nam tính và nữ

tính. Thuật ngữ được quy định “do yếu tố văn hóa xã hội vốn đƣợc hình thành

bởi bộ phận văn hóa chiếm ƣu thế vƣợt trội hơn và có thể chuyển đổi từ nền văn

hóa này sang nền văn hóa khác trong tiến trình của sự phát triển mà đặc trƣng

và nhiệm vụ của mỗi giới đƣợc định hình” [44, tr.113].

Đặc điểm giới

Giới hình thành nên những đặc điểm nam tính hay nữ tính theo sự kỳ

21

vọng, mong đợi của xã hội:

Nữ tính hay còn gọi là Femininity bao gồm những người có trực giác, tình

cảm, yếu đuối, dễ xúc động, tổn thương, ngoan ngoãn, mềm yếu, nhân hậu và dễ

bộc lộ tình cảm. Đó là những phẩm chất được xem là đặc trưng cho phụ nữ trong

một nền văn hóa của một giai đoạn lịch sử nào đó. Theo nghiên cứu của nhiều

học giả về giới trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội, nữ tính thường được gắn

với sự tái sản sinh ra sự sống (sinh nở) và những phẩm chất thuộc về sự chăm

sóc, nuôi dưỡng như sự nhã nhặn, dịu dàng, thiên chức làm mẹ, sinh đẻ, trực giác

nhạy bén, tính sáng tạo, chu kỳ sinh học của cuộc sống…

Nam tính hay còn gọi là Masculinity, yếu tố nam tính quy tụ những người

có đặc điểm hung hăng, hiếu chiến, duy lý, mạnh mẽ, thống trị, năng nổ, vô tình,

cạnh tranh, tự quyết định và ít bộc lộ tình cảm. Đó là những tiêu chuẩn hoặc mẫu

hình mà nam giới trong một nền văn hóa được kỳ vọng sẽ noi theo nếu họ muốn

tương tác một cách thích hợp và được chấp nhận với những người khác (nam và

nữ). Các nhà lý thuyết về giới đều cho rằng không thể có một mẫu hình đàn ông

chung cho mọi thời đại và mọi khu vực vì nam tính, với tư cách là một cấu trúc

văn hóa, khó tránh khỏi thay đổi. Nhận định của Micheal Kimmel về giới cũng

cho rằng nam tính có ý nghĩa khác nhau trong những thời điểm khác nhau đối với

những người khác nhau. Chúng ta hiểu thế nào là một người đàn ông trong nền

văn hóa của chúng ta bằng cách đặt những định nghĩa của chúng ta trong sự đối

lập với một tập hợp của “những người khác” - những thiểu số về chủng tộc, về

giới tính, và trên hết là phụ nữ.

Theo Keneth Clatterbaugh, có ba thành tố cấu thành nên khái niệm về nam

tính đó là “vai trò giới của người đàn ông, khuôn mẫu về nam tính, và lý tưởng

về giới”. Theo ông, thành tố đầu tiên lý giải đàn ông là gì vì nó là một tập hợp

hành vi, thái độ và hoàn cảnh thường thấy ở những người đàn ông thuộc một

nhóm xác định nào đó. Thành tố thứ hai liên quan đến cái mà người ta nghĩ về

đàn ông: một khuôn mẫu là ý tưởng chung về cái mà hầu hết mọi người đều xem

là vai trò giới của đàn ông… Khuôn mẫu dựa trên định nghĩa về đàn ông và vai

22

trò mà đàn ông thực sự đảm nhận không phải bàn cãi…Còn lý tưởng về giới là

“một quan niệm phổ biến cho rằng vai trò giới của ngƣời đàn ông nên nhƣ thế

nào”[10, tr. 14]. Ông cũng lưu ý rằng giữa ba thành tố này có những mối quan hệ

tương tác và vì thế những ranh giới rạch ròi là không thể vạch ra, mà là một sự

kết hợp biện chứng.

So sánh nam tính với nữ tính, William Jankowiak phát hiện ra rằng sở hữu

nữ tính đích thực thì hiếm khi đòi hỏi minh chứng bằng hành động hoặc sự

đương đầu với những tình huống nguy hiểm... trong khi đó nam tính lại vẫn phải

dựa trên thành tựu đạt được. Đó là một phát hiện liên văn hóa phổ biến về nam

tính và nữ tính: nam tính được cho rằng phải là cái đạt được thông qua hành động

cạnh tranh với những người đàn ông khác, dù là thuộc thể xác hay tinh thần,

trong khi nữ tính thì được liên hệ với những đánh giá về sự hấp dẫn về tình dục,

khả năng sinh nở và sự tháo vát trong việc gia đình, nhà cửa.

Như vậy, cả nam tính và nữ tính đều là những tập hợp các biểu hiện đặc

trưng về giới (của nam giới hay phụ nữ) được tạo dựng nên, phổ biến, thể chế

hóa trong một nền văn hóa, một thời kỳ lịch sử nhất định. Trong cơ sở hình thành

nên nam tính và nữ tính, những yếu tố sinh học tuy cũng đóng một vai trò không

nhỏ nhưng quan trọng hơn cả là vị trí có tính tương quan của hai giới trong hệ

thống chính trị - xã hội - kinh tế - văn hóa. Vì thế, nam tính và nữ tính không

phải là những giá trị “nhất thành bất biến” mà có tính lịch sử, tính khu vực.

Chúng vừa là những qui ước xã hội về giới áp đặt lên cá nhân từ bên ngoài vừa là

ý thức và cách ứng xử theo giới của chính họ.

Quan niệm về nguồn gốc nam – nữ

Trong Kinh thánh cựu ước từng giải thích về nguồn gốc của con người

“Thiên chúa sáng tạo ra con người theo hình ảnh của người, có khả năng nhận

biết, yêu mến đấng tạo dựng mình, được người đặt làm chủ của mọi vật trên trái

đất”. Kinh thánh viết: “Thiên chúa sáng tạo ra con người có nam có nữ. Con

người thì phải có nam có nữ. Người nam và người nữ là adam và eva có cùng

một bản tính, một phẩm giá như nhau và liên kết với nhau thành một thứ cộng

23

đồng đầu tiên giữa người với người. Sự khác biệt này phát sinh từ chính bản tính

thâm sâu của họ” bởi vì “con người là một sở hữu thể có xã hội tính và nếu

không liên lạc với con người khác thì sẽ không thể sống và phát triển tài năng

của mình” (Hiến chế vui mừng và hy vọng).

Cũng theo sách Sáng thế kể về chuyện của adam. Sách Sáng thế mở đầu

bằng việc nặn một người nam từ bụi và thổi sự sống vào trong lỗ mũi của anh ấy.

Chúa trời tạo ra một khu vườn và đặt người nam trong nom nó cho phép anh ta

ăn tất cả loại cây trong vườn trừ cây nhận thức tốt – xấu (Trái cấm). Chúa trời tạo

ra người nữ từ xương sườn của anh ta. Người nam đặt tên người nữ là phụ nữ vì

người nữ được lấy từ người nam. Chuyện adam và eva là nền tảng học thuyết

thiên chúa giáo về tội lỗi đầu tiên. Tội lỗi đến với thế giới qua một con người và

chết qua tội lỗi và vì thế cái chết xảy ra với tất cả con người do tội lỗi. Vì eva xúi

giục adam ăn trái cấm nên coi người phụ nữ là người mang tội lỗi đầu tiên và đặc

biệt chịu trách nhiệm về sự sa ngã. Vậy là ngay từ khởi đầu, có nam thì phải có

nữ. Nam nữ kết hợp với nhau thì mới tạo ra sự hài hòa, thống nhất.

Thần thoại Hy Lạp lại giải thích khác về nguồn gốc giới tính. Truyện cho

rằng, các vị thần trên đỉnh Ôlimpo đã “tạo ra giống đàn bà, một “loại độc hại”

cho giống đàn ông mà đàn ông không sao rứt ra đƣợc. Vì thần Dớt nghĩ rằng

ngƣời đàn bà sẽ luôn là bạn đƣờng của ngƣời đàn ông, nhƣng luôn gây ra bất

hạnh cho họ”. Cách giải thích này thiên về hướng tư duy thần thoại.

Người Trung Hoa thông qua thần thoại Nữ Oa vá trời thì lại cho rằng

“đàn ông và đàn bà lấy nhau, tự tạo ra và duy trì giống nòi”. Kinh Dịch : nam

nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh. Sự khác biệt giới tính này đã được triết học cổ đại

Trung Hoa nâng lên một bình diện khái quát, đó là sự thống nhất và đối lập giữa

âm và dương. Triết lý Trung Hoa dựa trên nguyên lý âm dương để phân cực giới

tính. Qua lăng kính nguyên lý này, tính dục càng trở nên huyền ảo hơn. Người

Trung Hoa cho rằng nam - dương, nữ - âm, mà vạn vật trong trời đất đều có sự

giao hòa khiến cho sinh hóa điều hoà làm nên cuộc sống nên con người cũng

phải tương thông với khí trời đất ất thì sức khỏe mới tốt, nếu không, mất sự cân

24

bằng âm dương thì cuộc sống không hài hòa. Lấy chồng, lấy vợ là công việc

đúng đắn nhất trong trời đất. Âm dương kết hợp là căn nguyên cho nhân loại sinh

sôi, nảy nở, tạo ra những giá trị mới. Như vậy, ở Trung Hoa công nhận sự tồn tại

một cách rõ rệt và còn hiểu được luật bù trừ tồn tại của giới tính.

1. 2. Quan điểm nho giáo về giới

Hơn một ngàn năm chịu đô hộ của người Trung Hoa từ năm 207 TCN đến

năm 939 SCN, dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng khá lớn của Trung Hoa về nho

giáo Khổng Mạnh. Nho giáo vốn ảnh hưởng lớn đến cách đối nhân xử thế của

con người đặc biệt là quan niệm của người nam và người nữ trong xã hội.

Một trong những quan niệm mà nho giáo đề cao phải kể đến là quan niệm

tam cƣơng – ngũ thƣờng. Tam có nghĩa là ba, số ba còn cƣơng- theo cách đọc

của người Nam Bộ có nghĩa là giềng mối, ngũ là năm, thƣờng là hằng có. Vậy

tam cƣơng là ba giềng hay ba mối, gồm: quân thần cang, phụ tử cang, phu thê

cang. Ngũ thường là năm hằng, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nho giáo từ đó quy

định, “tam cang và ngũ thƣờng là phần nhân đạo của nam phái. Hễ nhân đạo

thành thì phù hợp thiên đạo”. Về nam giới, nho giáo quy định người nam giới

khi đã trưởng thành thì phải giữ ba điều đạo trọng là quân thần cương, phụ tử

cương, phu thê cương. Từ những quan hệ ấy, Kinh lễ đã nêu lên mười đức lớn:

vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng

lời, trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn, với bạn hữu phải có đức tín. Khi nói đến

những đức phải thường xuyên trau dồi, căn cứ vào hai chữ ngũ thƣờng trong

Kinh lễ gồm sau chữ: hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa.

Cũng như vậy, nho giáo cũng đặt ra tam cƣơng, ngũ thƣờng dành cho

người nam và tam tòng, tứ đức dành cho người nữ:

Về nam giới

Tam cƣơng, ngũ thƣờng: Là khuôn mẫu dạy cho người đàn ông biết kỷ

cương, cương thường, đạo lý... Mà còn dạy cho mọi người cái nền tảng của minh

triết về nho giáo là: tam cương, ngũ thường. Tam cƣơng là ba điều cần thiết để

giáo dục riêng cho người đàn ông biết cách cư xử và hoàn thành tốt mọi nhiệm

25

vụ đối với tổ quốc, dân tộc, xã hội và gia đình.

Quân vi thần cƣơng: giềng mối vua tôi, là bổn phận người dân (Tôi, thần

dân) đối với vua. Trung với vua, hiếu với dân luôn biểu hiện lòng yêu nước

thương nòi. Nho giáo đề cao quân xử, thần tử, Thần bất tử, bất trung: lệnh vua

phải tuân, bất tuân thì (chết) bất trung. Vua ở đây tượng trưng cho quốc gia dân

tộc. Phải trung với quốc gia dân tộc, chứ không phải trung thành mù quáng theo

một ông vua hay dòng họ nhà vua. Trong một dòng họ nhà vua, thí dụ như: nhà

Lý, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn,.. chỉ có một số ít ông vua là minh quân, còn

phần lớn là hôn quân vô đạo. Nếu trung thành với hôn quân thì đó là ngu trung.

Mạnh Tử từ ngàn xưa đã dạy rằng: dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa

là: Dân là quí, nước nhà là kế đó, vua là nhẹ. Cho nên bề tôi cần phải trung thành

với quốc gia dân tộc hơn là trung thành với một ông vua. Lại cũng có câu: quân

minh thần trung. Nghĩa là: Vua sáng thì tôi trung; tức nhiên khi gặp vua hôn ám thì

bề tôi chỉ giữ lòng trung với quốc gia dân tộc mà thôi.

Phu vi tử cƣơng: Bổn phận người cha đối với con cái, là giềng mối cha

con tức là thương yêu, tình nghĩa khoan dung, nuôi dưỡng, giáo dục, nâng đỡ...

sao cho các con nên người hữu ích. Trong nho giáo phu vi tử cƣơng rất trọng,

bởi câu: cha sinh, mẹ dƣỡng. Phải hiếu với cha mẹ. Phải biết nhớ công ơn sanh

thành dưỡng dục của cha mẹ mà lo đền đáp. Thuở nhỏ phải nghe lời dạy bảo của

cha mẹ, khi lớn lên, cha mẹ đã già yếu thì phải lo bảo dưỡng cha mẹ. Ông Thánh

Tăng Tử có nói rằng: “hiếu giả bách hạnh chi tiên, hiếu chí ƣ thiên tắc phong vũ

thuận thời, hiếu chí ƣ địa tắc vạn vật hóa thành, hiếu chí ƣ nhân tắc chúng phúc

hàm trăn”. Nghĩa là: hiếu là nết đứng đầu trăm hạnh, hiếu cảm đến trời thì gió

mưa hòa thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật tốt tươi, hiếu cảm đến người thì

phúc lộc thịnh vượng. Phần cha mẹ thì phải hết lòng thương yêu, chăm sóc dạy

dỗ con cái cho nên người và làm gương tốt cho con.

Phu vi thê cƣơng: giềng mối chồng vợ, đạo vợ chồng trọng yếu nhất phải

là thuận hòa trong tình thương yêu chân thật, dù gặp hoàn cảnh khó khăn cũng

phải giữ gìn trọn vẹn như vậy. Vợ chồng sống với nhau, ngoài tình thương yêu,

26

còn phải giữ nghĩa với nhau. Bổn phận người chồng đối với vợ cũng gần như đối

với con cái nhưng tình yêu thương, đùm bọc phải, bao dung, che chở, hướng

dẫn... thay vì dạy bảo.

Ngũ thƣờng (năm hằng): là năm điều quan trọng mà đức Khổng Tử cho

rằng: làm người phải có nhân, nghĩa, lễ, nghĩa trí, tín mới đáng và mới thực sự là

người quân tử.

Nhân: lòng thương người mến vật. Con người thường có hai tình cảm đối

ngược nhau: hễ thương thì không ghét, mà ghét thì không thương. Như thế, muốn

có lòng nhân thì phải mở rộng lòng thương yêu để cái ghét không có chỗ chen

vào. Lòng nhân là căn bản của đạo làm người, là hầu hết các hành tàng. Giữ

được nhân thì lúc nào ta cũng được an vui, hạnh phúc. Là người gồm hai phần

thể xác và tâm, chữ nhân thật bao la: nhân là tha nhân, nhân tính, nhân nghĩa,

nhân đạo và nhân ái...Người có lòng nhân luôn sống hoàn thiện và thương yêu

mọi người...

Nghĩa: là cư xử theo lẽ phải (đạo lý), trong cách xử thế, cái nghĩa là quan

trọng nhất, nó dẫn dắt con người đến đạo đức. Nghĩa phải đi liền với nhân, có

nhân mà không có nghĩa thì đạo đức thiếu hình thức, còn có nghĩa mà thiếu nhân

thì đạo đức thiếu tinh thần.

Lễ: phép tắc tốt đẹp trong xử thế. Lễ là mực thước để đo lường tư tưởng,

hành động trong khi xử thế. Nó thể hiện sự tôn nghiêm trật tự và hòa hợp trong ý

nghĩ và việc làm. Lão Tử có nói: nếu thất đạo thì nên theo đức, nếu thất đức thì

nên theo nhân, nếu thất nhân thì nên theo nghĩa, nếu thất nghĩa thì nên theo lễ.

Vậy muốn trở về với nghĩa thì phải học lễ trước hết.

Trí: là năng lực hiểu biết. Nhờ có trí mới phân biệt được sáng tối, phải

trái, thiện ác. Mục đích của trí là tìm hiểu chân lý, tức là đạo, nên cần phải lo học

tập để mở mang trí. Khi trí hiểu biết rõ ràng thì hành động mới tránh được sai

lầm.

Tín: là tin tưởng, có lòng tin (vững lòng). Không bắt cá hai tay, không lắt

léo, nuốt lời hứa... Trung tín có lòng tin trời đất, có linh hồn, lòng trung tín với

27

tình yêu, vợ chồng con cái, cha mẹ có tin mới có lòng trung tín. Lời nói phải đi

đôi với việc làm. Phải giữ chữ tín và phải quí trọng lời mình nói ra. Nhất ngôn ký

xuất, tứ mã nan truy, nghĩa là: một lời nói ra, xe tứ mã khó đuổi theo kịp. Chữ tín

rất quan trọng, nó thể hiện phẩm chất đạo đức của con người mình. Nhân vô tín

bất lập, nghĩa là: người mà không có chữ tín thì không làm nên được việc gì.

Tóm lại, phần nhân đạo của nam phái gồm hai phần trọng yếu là: tam

cƣơng (trung, hiếu, nghĩa) và ngũ thƣờng (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tất cả gồm

tám chữ, nếu làm trọn vẹn được một chữ thì đủ đạt thần vị, như những bề tôi

trung với vua, liều thân với nước, được vua phong thần, đưa về các làng xã làm

Thần hoàng, ủng hộ dân chúng và được hưởng cúng tế; nếu làm trọn vẹn được

hai chữ thì được phong Thánh, như trường hợp Quan Vân Trường thời Tam

Quốc được trọn vẹn hai chữ trung và nghĩa, nên hiển Thánh.

Ngoài ra, trong vai trò của nam giới, Khổng giáo còn đề cao thuyết chính

danh mong cho mọi người có tài đức xứng với địa vị của mình. Khổng giáo

thường chê những kẻ tiểu nhân và khen ngợi những người (chính nhân) quân tử.

Kẻ tiểu nhân là những người chỉ biết lo những phần thấp kém trong con

người. Cầu danh, cầu lợi, mặc tình cho vật dục và ngoại cảnh, thường ham công

danh lợi lộc dẫn đến cái hại cho người khác“ích kỷ hại nhân”, bất chấp mọi

chuyện sa đọa. Họ là những người chỉ lo xu phụ, không có thực tài, thực đức,

không biết thanh lọc và tu luyện tâm hồn...Vì thế nên có một đời sống nội tâm rất

là nghèo nàn, lo lắng...

Ngƣời quân tử là những người sống cho những phần cao siêu nơi con

người, trọng nghĩa, khinh lợi, có hoài bão cao đẹp, luôn luôn hướng thiện, cố

gắng tiến đức tu nghiệp, theo đạo và tu đạo, lo sao cho hoàn thiện bản thân mình,

sáng suốt, ham học hỏi, biết thức thời, nói ít làm nhiều, thương yêu giúp đỡ mọi

người, lúc nào tâm hồn cũng thư thái, ung dung... Tóm lại, người quân tử luôn

trau dồi tâm thân, ở thì ở chỗ quảng đại của thiên hạ, đứng thì đứng vào địa vị

chính đáng của thiên hạ, đi thì đi trên con đường lớn của thiên hạ, đắc trí thì cùng

với nhân dân noi theo đạo nghĩa. Giầu sang không làm siêu lòng, nghèo hèn

28

không làm thay đổi lòng, vũ lực không khuất phục được chí lớn. Như thế mới là

người: quân tử (anh hùng trượng phu), mà trong Kinh Thi hết lòng khen ngợi.

Giàu sang tâm trí bảo tồn nghèo hèn khí tiết, thượng tôn anh hùng uy quyền, bạo

lực, khốn cùng không làm nhụt chí anh hùng trượng phu.

Tam tòng và tứ đức dành cho nữ:

Công: công việc, mọi công việc trong nhà phải biết làm, sao cho chu toàn.

Cũng phải phụ lo việc tài chính giúp chồng nuôi con...

Dung: là cái đẹp, phải biết giữ cái đẹp cho mình, giữ dung nhan cho chuẩn

mực, từng cử chỉ, điệu đi, dáng đứng.

Ngôn: lời nói, phải ôn tồn nhẹ nhàng, lễ phép với mọi người đối với kẻ

trên phải thưa gửi, gọi dạ, bảo vâng....

Hạnh: hạnh kiểm, hiếu hạnh, đức hạnh, các tính tốt của người con gái: đạo

đức, nết na, khiêm nhường, nhịn nhục, tha thứ...

Ngoài ra, người phụ nữ phải thực hiện tam tòng. Đó là tòng gia tòng phu

là vâng lời cha mẹ, cha mẹ dựng vợ gả chồng thì cứ thế mà lấy. Xuất giá tòng

phu là phải vâng lời chồng. Phụ tử tòng tử là chồng chết thì theo con, thủ tiết chờ

chồng nuôi con.

Nho giáo là một học thuyết ảnh hưởng đến các nền văn hóa Châu Á, giải

thích sự vận động của trời đất, nho giáo đã nêu lên học thuyết âm dương, trong

đó nêu lên rằng muôn vật đều được sinh ra từ khí. Có khí trong – khí đục, khí

nặng – khí nhẹ, khí sáng – khí tối, khí ấm – khí lạnh…Khí có tụ có tan, có xuống

có lên. Do sự vận động của khí mà có sinh có hóa, có tiến có thoái, có tiêu vong

và phát triển. Sở dĩ có triển vọng và phát triển là vì vừa có sự tương đồng (cùng

một bản chất là khí) vừa có sự tương phản (trong – đục, nặng – nhẹ, ấm – lạnh…)

giữa âm và dương. Trong đó, con người là hội tụ mọi tinh hoa tốt đẹp quý báu

của mọi vật trong thế gian. Kinh Dịch coi con người cùng trời và đất là tiêu biểu

cho vạn vật, gọi là tam tài. Còn nho giáo khẳng định “con ngƣời là đức của trời

đất và sự giao hợp của âm dƣơng, là hội tụ của quỷ thần, là khí ƣu tú của ngũ

hành vậy”. Nói đến “âm dƣơng chi giao”, có thể hiểu đơn giản là sự giao hợp

29

giữa nam và nữ, giữa giống đực và giống cái. Còn có cách nói khác là: “trời đất

muôn vật khớp vào khuôn mẫu, nam nữ cấu hợp tinh khí, muôn vật hóa sinh”.

Nho giáo xây dựng một hệ thống phạm trù “tam cƣơng”, “ngũ luân”, “ngũ

thƣờng” làm khuôn mẫu trong cách ứng xử giao tiếp, giáo dục và tự trau dồi của

mọi người trong xã hội. Thuyết tam cƣơng chỉ ra rằng trong mối quan hệ xã hội

có ba mối quan hệ cơ bản: vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, mở rộng ra hai mối

quan hệ anh – em, bạn hữu nữa trở thành ngũ thường. Đặc biệt là tam cƣơng với

quy tắc “vua xử tội chết thần phải chết, nếu không mắc tội bất trung, cha bảo

con chết con phải chết con phải chết, nếu không mắc tội bất hiếu” (phu xử tử

vong, tử bất vong bất hiếu), chồng bảo vợ phải tuyệt đối tuân theo (phu xƣớng

phụ tòng). Có thế thấy, nho giáo đã hết sức chặt chẽ trong việc quy định bổn

phận của mỗi cá nhân trong xã hội.

Thuyết âm dƣơng giải thích vai trò nam nữ trong xã hội

Nho giáo cũng tỏ rõ vị thế của mình trong việc dùng thuyết âm dương để

biện minh cho học thuyết đạo đức của mình. Âm và dương là khái niệm cốt lõi

của nền triết học cổ Đông phương, âm dương không phải là vật chất cụ thể,

không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn bộ

vũ trụ cũng như trong từng tế bào, phần tử chi tiết. Âm dương là hai mặt đối lập,

mâu thuẫn thống nhất. Trong dương có mầm mống của âm và ngược lại. Để biểu

thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, nho giáo đặt ra

thuyết âm dƣơng (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng

sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu

âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài). Nói

chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên,

vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương. Tất cả những

cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo,

đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.

Biểu tượng âm dương trong quan niệm nho giáo, nói lên bản chất mối

quan hệ giữa âm và dương. Âm dương trong chữ Hán làn yìn yáng là hai khái

30

niệm chỉ hai thực thể đối lập nhau tạo nên toàn bộ vũ trụ. Âm thể hiện cho những

gì nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính mềm mại. Đối lập với nó là dương thể hiện

cho sự mạnh mẽ, cho ánh sáng, chủ động, nam tính, cứng rắn. Nho giáo trừu

tượng hóa triết lý âm dương bằng việc thờ sinh thực khí nam – nữ, cột là biểu

tượng cho nam, hình tròn, bệ vuông là biểu tượng cho nữ (âm). Âm – dương là

một cặp chỉ hai khái niệm đối lập nhau mẹ cha, trời đất, nam nữ, cái đực. Theo

thuyết này, âm dương là hai mặt, hai thế đối lập nhau nhưng lại thống nhất trong

vạn vật, được khởi đầu của mọi sự sinh thành, biến hóa. Âm dương không loại

trừ nhau mà tạo điều kiện tồn tại cho nhau, trở thành động lực cho mọi sự vận

động và phát triển. Quy luật âm dương đều chỉ rõ mọi vật đều có âm dương,

trong dương có âm, và trong âm có dương, âm thăng dương giáng và âm dương

cân bằng thì mọi vật tồn tại và phát triển. Cũng tự thuyết âm dương có ảnh hưởng

khá sâu sắc đến tư tưởng người phương Đông đặc biệt là các tư tưởng bảo vệ trật

tự xã hội, duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền và của trật tự nam nữ trong

xã hội như “âm ty dƣơng tôn”, “trọng nam khinh nữ”, “bề tôi phải phục tùng

vua”. Lão Tử cũng từng cho rằng “âm cực thị dƣơng sinh, không có âm thì

không có dƣơng, bề tôi phải phục tùng vua”.

Như vậy, theo thuyết âm dương của nho giáo, muốn có sự vận động phải

có sự tự tán của âm dương. Cương nhu phải thúc đẩy lẫn nhau, muốn phát triển

được, dương phải cương và âm phải nhu, như thế mới thuận đạo trời. Đàn ông –

biểu tượng cho tính dương cần phải cường (mạnh) và đàn bà – biểu tượng cho

tính âm thì cần phải nhu (yếu).

Từ thuyết âm dương, ta có thể thấy nho giáo đề cao vai trò của người quân

tử trong xã hội, có lời răn “Trời làm mạnh bạo, ngƣời quân tử cứ tự cƣờng không

ngừng” nghĩa là đạo trời vốn mạnh mẽ, cứng rắn, người quân tử phải luôn luôn

tự cường để không ngừng vượt qua những thử thách đào thải. Nho giáo tổng kết

người quân tử phải có dũng khí, có chí nam nhi, phải tự cường, phải quyết đoán

để khẳng định vai trò của mình, vị trí của mình và đó phải là đạo xử thế của mỗi

người đàn ông. Vậy, trong xã hội, người đàn ông phải mạnh, là người phải lập

31

được công danh, nhằm báo đền ơn vua, làm rạng danh cho đất nước, cho gia

đình, tổ tiên. Trong gia đình, người đàn ông phải là chỗ dựa, là trụ cột để tạo

dựng một gia đình – cơ cấu xã hội thu nhỏ phát triển và toàn vẹn.

Người quân tử trong xã hội nho giáo mang khí phách, chí khí nam

nhi “Làm trai phải lạ ở trên đời” – Phan Bội Châu, một trong những nhà nho

cuối mùa vẫn còn giữ cái khí phách nam nhi đã được nuôi dưỡng trong chốn nho

gia ở câu thơ ấy. Bởi lẽ, nho giáo rất đề cao chí khí của người quân tử. Chí khí ở

đây có thể hiểu là trí và dũng. Trí là hiểu biết được tạo nên trên mối quan hệ lớn

nhỏ của con người với trời đất, với muôn vật, với mọi người trong thiên hạ. Nói

cách khác, trí là biết được điều đúng sai, phải trái trong mọi vấn đề thuộc về đạo

đức. Dũng bao gồm cả ý nghĩa về thể lực và tinh thần. Người dũng là người

không sợ sệt, dám đối đầu với mọi thử thách, khó khăn. Đàn ông chân chính

không thể thiếu trí và dũng, không thể thiếu chí khí nam nhi. Chí khí này là sự

phân biệt giữa tiểu nhân và quân tử. Có chí khí, người đàn ông mới đạt công

danh và đó phải là mục đích sống của họ. Có công danh là để rạng rỡ tổ tông, gia

đình, gia tộc và khi có thể sẽ tiến tới “trị quốc bình thiên hạ”.

Quan niệm chính thống của nho giáo về ngƣời đàn ông

Phu xƣớng phụ tùy

Đây chính là quan niệm của nho giáo về vai trò của người đàn ông trong gia

đình. Theo quan điểm của nho giáo, giáo dục gia đình có vai trò quyết định đối

với sự phát triển của một con người. Giáo dục luôn luôn gắn liền với gia đình.

Nhà là chỗ đứng vững chắc cần phải giữ vững trong mọi quan hệ giữa người với

người, giữa con người với xã hội. Xã hội của nho giáo luôn lấy nhà làm nền

móng, luôn thể hiện nguyên lý: “thiên hạ gốc ở nƣớc, nƣớc gốc ở nhà”. Do đó,

công cuộc giáo dục phải lấy quan hệ gia đình làm điểm xuất phát, làm gốc để rèn

giũa con người. Chính bởi vậy mà trong ngũ luân của nho gia (năm mối quan hệ:

vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bạn bè), quan hệ vợ chồng được đặc biệt chú

ý. Có thể coi đó là mối quan hệ nền tảng trong gia đình. Vai trò của người đàn

ông trong mối quan hệ này cực kỳ quan trọng, bởi lẽ, nếu người đàn ông xử lý

32

tốt, mối quan hệ này thì chắc chắn sẽ biết cách xử lý đúng đắn các mối quan hệ

khác như: phụ tử, huynh đệ…Phu xƣớng phụ tùy nghĩa là người chồng phải là

người quyết định, người vợ chỉ có việc nghe theo. Nho giáo cho người đàn ông

có quyền hạn rất lớn trong gia đình, có quyền được lấy nhiều vợ, khi cần, để duy

trì nòi giống có quyền được bỏ vợ nếu vợ phạm phải một trong bảy điều thất

xuất: không con, dâm nhác, không thờ phụng cha mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp,

ghen tuông, có ác tật. Từ đây, nó sẽ là khuôn khổ để bồi dưỡng, rèn đúc con

người theo kiểu mẫu nhà nho. Con người tề được gia mới trị được quốc và bình

được thiên hạ.

Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô

Theo quan niệm này, gia đình có mười con gái không bằng có một con trai.

Điều này xuất phát từ quan niệm đề cao vai trò của người đàn ông trong gia đình

và trong xã hội. Con trai không chỉ là chỗ dựa, là người kế nghiệp tổ tiên, duy trì

nòi giống mà có con trai tức là đã làm tròn nhiệm vụ trước tổ tiên bởi lẽ xuất phát

điểm của nho giáo là vấn đề gia tộc. Nho giáo cho rằng, lập gia, tề gia, hưng gia

chính là nhằm thống trị cả nước, thống trị cả thiên hạ. Người có thể tề gia, hưng

gia chính là đàn ông. Bởi vậy, nhu cầu có con trai và vai trò của người đàn ông

tương lai đó trong gia đình, gia tộc là rất quan trọng.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của nho giáo vẫn còn tồn tại

những quan niệm bó hẹp, khắt khe với con người trung đại nói chung và nho giáo

nói riêng. Như trên đã chỉ rõ, hình tượng nam giới theo quan niệm nho giáo là

những mẫu hình người quân tử có lý tưởng cao, họ là anh hùng hào kiệt, lập công

danh sự nghiệp, nhưng lại theo chủ nghĩa khắc kỷ, coi thường nữ sắc vì sợ nữ sắc

ảnh hưởng tiêu cực công danh sự nghiệp. Họ được nho giáo ca ngợi, răn dạy bao

nhiêu thì cũng lại bị chính những tư tưởng đó bó hẹp lại, dần biến thành những

nam giới ảnh hưởng sâu sắc của chỉ nghĩa khắc kỷ. Nếu như những yếu tố như

tam cương, ngũ thường biến họ trở thành những những con người với những giá

trị đạo đức tuyệt đối, những con người lý tưởng với nhân, lễ, nghĩa, trí, tín toàn

tài thì yếu tố đó lại làm lu mờ con người sinh học của họ. Giải thích điều đó,

33

cùng với việc đưa ra hệ thống luận điểm răn dạy trách nhiệm và bổn phận của

người đàn ông, nho giáo cũng không quên việc nghiêm cấm “tính dục”, coi

thường “sắc” trong quan niệm của mình. Nho giáo của Khổng Tử, giá trị ứng

dụng duy nhất của tính dục là thụ thai để nối dõi tông đường, vẻ vang dòng họ và

cũng giỗ ông bà tổ tiên “Hôn lễ là sự kết hợp tốt đẹp hai họ với nhau, để trên thì

thờ tông miếu, dưới thì nối truyền cho đời sau, cho nên người quân tử rất coi

trọng nó” (Kinh Lễ, chương Hôn nghĩa).

Đối với Khổng Tử, tuy cho rằng Đức là thuộc tính của con người, nhưng

Sắc mạnh hơn rất nhiều: “Khổng Tử than rằng: Ta chưa thấy ai háo đức bằng háo

sắc”. (Luận ngữ, IX:17). Nữ sắc là điều đầu tiên người quân tử phải cảnh giác:

“Khổng Tử nói: người quân tử có ba điều phải răn ngừa: lúc còn trẻ, huyết khí

chưa ổn định, cần răn ngừa về nữ sắc”. (Luận ngữ. XVI:7).

Nho giáo cho rằng năng lượng nam tính của nho gia bị hao tổn nếu phung

phí trong tính dục hôn nhân - điều này có điểm tương đồng với chủ trương của

Đạo giáo – và rằng đàn ông có thể bị kiệt quệ thể lý, suy đồi đạo đức nếu để cho

mình miệt mài trong sinh hoạt tính dục. Tứ Thư của nho giáo ghi lại rất nhiều ý

tưởng cảnh giác người trẻ tuổi, thậm chí bậc quân tử đối với vấn đề sắc dục. Hơn

nữa, sự mê đắm sắc dục của người cai trị, kể cả một quốc chủ, có thể được nêu

lên như một lý do chính đáng để truất quyền kẻ đó. Tính dục trong hôn nhân chỉ

để có người nối dõi. Tính dục ngoài hôn nhân là đại tội, phải chặn đứng mọi

“nguy cơ”. Thế nên quan hệ giữa nam và nữ, thậm chí giữa vợ chồng cũng phải

theo đúng khuôn phép cực kỳ nghiêm ngặt. Nói chung, từ cái nhìn thiên vị nam

giới trong kinh sách của nho giáo và qua các tác phẩm của nho gia, sinh hoạt tính

dục được xem là một vấn đề quá độ. Có lẽ để hiểu thấu đáo điều đó, ta nên xét

theo tình huống xã hội, bối cảnh của triết học nho giáo thời kỳ đầu. Tuy thế, sang

tới Tống nho với các ý tưởng về sự quân bình và hòa điệu có tính vũ trụ được

phản ánh trong sự quân bình tương tự về âm/dương, đực/cái trong tính dục tuy rất

chậm trong một xã hội mấy ngàn năm trọng nam khinh nữ và nghiêm khắc về lễ

34

giáo trong quan hệ nam nữ.

Từ những quan niệm giới của nho giáo đó, ta có thể thấy rằng xã hội nho

giáo với bản chất nam quyền của nó luôn đề cao và có thái độ tôn sùng nam giới

và coi thường phụ nữ. Đối với đàn ông, nho giáo thường ưu ái hơn cả. Chính từ

sự phân biệt này, văn học nhà nho chủ yếu đề cập đến vai trò của nam giới cùng

với những định kiến về bổn phận và trách nhiệm của họ trong xã hội. Về kiểu

nhân vật nam trong văn học trung đại, ta có thể thấy hầu hết đều hình thành hai

kiểu nhân vật: nhân vật chính diện, lý tưởng thường là những người đàn ông gọi

là nam nhi, quân tử, anh hùng…đó là những kiểu người có sức mạnh, tài năng, có

đạo đức nhân nghĩa, trọng nghĩa khinh tài. Một bên là kiểu nhân vật phản diện

bất tài, ngu dốt độc ác và ham sắc. Thái độ với nữ sắc vốn là một biểu hiện của

nam tính lại trở thành một trong những yếu tố nhận diện, đánh giá chính/tà, phân

loại nhân vật.

1.3. Văn hóa giới trong văn học trung đại Việt Nam trước Nguyễn Đình Chiểu

Kể từ khi truyền bá vào Việt Nam, nho giáo đã có sức ảnh hưởng rất lớn

và sâu rộng đến các lĩnh vực của đời sống. Khi nhắc đến nho giáo, ta không thể

phủ nhận được vị trí và vai trò của ý thức hệ nho giáo trong đời sống, trong văn

học cũng như trong cách nhìn nhận con người trong xã hội cũ. Nhưng nhìn nhận,

đánh giá ảnh hưởng đó tích cực hay tiêu cực đối với sự phát triển của xã hội thì

còn tùy thuộc vào thời cuộc và quan điểm của các giai đoạn lịch sử. Về mục đích,

nho giáo mong có một xã hội tốt đẹp nhưng không phải cách làm điều lợi, bỏ

điều hại, kinh doanh hay làm cho phú cường mà bằng cách làm cho mọi người

đều nỗ lực tu dưỡng đạo đức để tất cả đều thiện. Chính vì quan tâm, bồi dưỡng

đạo đức cho nên con người lý tưởng trong nho giáo hầu hết là những anh hùng

quân tử trai anh hùng, gái thuyền quyên, hay hình mẫu thánh nhân. Họ là những

lực lượng hạt nhân trong cuộc sống đời thường cùng các thế lực cầm quyền duy

trì trật tự xã hội phong kiến ôn hòa. Và đôi khi những hình mẫu này mang hơi

hướng của sự bảo thủ đạo đức. Trần Trọng Kim đã từng nhận định “Đạo của

Khổng Tử là đạo của ngƣời quân tử, cốt dạy cho ngƣời ta thành đức hạnh hoàn

35

toàn và có nhân phẩm tôn quý, cho nên bao nhiêu sự dạy dỗ, học tập của Khổng

Tử đều chú trọng vào việc gây dựng ngƣời quân tử. Mô hình nhân cách của

Khổng Tử cũng chính là niềm tự hào của nho giáo và xã hội phong kiến”. Vì

vậy, bàn về văn hóa ứng xử về giới, ta có thể thấy trong xã hội phong kiến nho

giáo, vốn mang tính nam quyền từ lâu luôn tồn tại những quan niệm bất công,

khe khắt đến mức cực đoan như “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử

tòng tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã

dành mọi ưu tiên cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém

nhất trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Những quan niệm đó không những đã

ăn sâu vào những nếp nghĩ, hành động của con người mà nó còn được phản ánh

ngay cả trong những tác phẩm văn học. Nỗi niềm ấy đã được gửi gắm qua những

câu ca dao từ xa xưa như:

- Khôn ngoan cũng thể đàn bà

Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông.

- Đàn ông nông nổi giếng khơi

Đàn bà sâu sắc nhƣ cơi đựng trầu.

-Đàn ông rộng miệng thì sang

Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà.

Ngay từ những câu ca dao xưa cũng đã phân định rõ quan niệm về vai trò

của người đàn ông và người phụ nữ. Như một lẽ tất nhiên người phụ nữ từ ngày

xưa vốn mong manh, phụ thuộc, ít có tiếng nói trong gia đình và ngoài xã hội.

Những quan niệm đó chuyển thành phong tục tập quán, hòa quyện nhuần nhuyễn

vào đời sống xã hội hiện đại như một dạng đạo đức như “thiên chức”, “hi sinh”

là “nữ tính”, “nhƣờng nhịn” đã mặc định và gán cho phụ nữ những trách nhiệm

“nhỏ thì lo trao dồi nữ công nữ hạnh, có chồng thì lo “thờ” chồng nuôi con, việc

đã thƣờng mà lại cũ, có ai nói tới làm chi, cho nên nó không thành vấn đề”. Bên

cạnh đó, định kiến về giới của nho giáo cũng quan niệm người đàn ông là trụ cột

của gia đình, người làm việc lớn:

-Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm

36

-Đàn ông lo cái nhà, đàn bà lo cái bếp

Điểm qua một vài bài ca dao về người phụ nữ, người đàn ông trong xã hội

cũ, chúng ta thấy được xã hội nho giáo vẫn mang nặng quan niệm định kiến với

cả hai giới. Trên phương diện quan niệm về công việc và sự nghiệp nam và nữ

cũng thể hiện rõ nét sự định kiến, phân biệt đối xử. Người đàn ông trong ca dao,

tục ngữ bao giờ cũng mang trọng trách sinh ra để làm những công việc lớn:

- Làm trai cho đáng nên trai

Phú Xuân đã trải, Đông Nai đã từng

- Đã sinh ra kiếp đàn ông

Đèo cao, núi thẳm, sông cùng sá chi

Nếu như bản thân người đàn ông nào đó mà không hoàn thành được sự

nghiệp của mình thì hầu như đều “vin” cho nỗi đau:

Bận chân con, vợ, gia đình

Tang bồng hồ thỉ chỉ nhìn mà đau

Với đàn ông, không ai là không thấy khó chịu khi bị mang tiếng là “bất

lực” hay “núp váy vợ”…Đó được xem là sự mỉa mai khá lớn với họ:

- Làm trai rửa bát quét nhà

Vợ gọi thì dạ, bẩm bà tôi đây!

- Làm trai cho đáng nên trai

Khom lƣng, gắng sức gánh hai hạt vừng

Về mặt giao tiếp xã hội, nội dung của ca dao, tục ngữ còn thể hiện nhiều

định kiến đối với người phụ nữ và đàn ông trên phương diện tình yêu lứa đôi.

Phụ nữ thường là những người thụ động, chỉ biết tập trung vào công việc gia

đình, làm “nội tướng” trong nhà. Trong tình yêu, họ cũng luôn thụ động:

Bồ câu mà đỗ nóc nhà

Mấy đời đàn bà đi hỏi đàn ông

Do vậy, họ luôn mặc cho số phận mình ở trong tay người khác:

Thân em nhƣ giếng giữa đàng

Ngƣời khôn rửa mặt, ngƣời phàm rửa chân

37

Trái lại, người đàn ông lại hoàn toàn chủ động trong chuyện yêu đương:

Ai xin anh lấy đƣợc mình,

Để anh vun xới ruộng tình cho xanh.

Ai xin mình lấy đƣợc anh,

Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.

Có thể nói, bên cạnh những giá trị tốt đẹp của không ít những định kiến giới

trong ca dao, tục ngữ Việt Nam thì những định kiến đó phần nào cũng là rào cản cho

sự phát triển của xã hội, ăn sâu vào tiểm thức và sự nhận thức của con người.

Nhưng phải đến văn học trung đại Việt Nam, khi nho giáo chiếm vị trí độc

tôn, ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức tư tưởng, quan niệm về con người thì vấn đề

bổn phận con người trong xã hội nam quyền càng được phân biệt rõ ràng, đặc

biệt là trên phương diện giới. Đã có rất nhiều nhà nho có quan điểm rõ ràng về

vai trò, chức năng của người đàn ông và đàn bà trong xã hội như Nguyễn Công

Trứ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương hay Nguyễn Đình Chiểu…Tuy nhiên, nói về

số lượng thì các sáng tác viết về đàn ông nhiều hơn, đó đa phần cái nhìn của nho

sĩ về người đàn ông. Thân phận của người đàn ông trong giai đoạn này được đề

cao như những chính nhân quân tử, nho giáo dạy nam giới yên phận, lạc mệnh,

từ đó mà trung quân, vì quân là thiên tử. Nho giáo cũng dạy họ trau đức, sửa

mình, giữ lễ, lời khéo không đáng tin, lời đẹp thì không thật.

Nhìn tổng thể tiến trình văn học trung đại Việt Nam, chúng ta có thể thấy

ở mỗi một giai đoạn văn học, quan niệm về giới lại có những sự thay đổi rõ rệt.

Quan niệm con người cá nhân chịu sự ảnh hưởng sâu đậm của ý thức hệ nho

giáo. Đặc điểm chung của các sáng tác giai đoạn này là với cái nhìn nam quyền,

nho giáo chủ trương coi thường phụ nữ, đề cao nam nhi, quân tử, coi nhẹ phụ nữ

hồng nhan, tài sắc. Cho nên, hầu hết các sáng tác văn học đề tập trung ca ngợi

người nam nhi “tu thân, lập thân” để xây dựng chí lớn. Đại diện cho giai đoạn

này, chúng ta phải kể đến Nguyễn Trãi và những sáng tác của ông. Như đã biết,

nhắc đến Nguyễn Trãi người ta thường nói tới một con người nhân nghĩa, yêu

nước, thương dân, ra đi tìm cội nguồn lịch sử và dân tộc. Cá nhân Nguyễn Trãi

38

nổi bật ở sự day dứt lựa chọn giữa các tư tưởng, các con đường lập thân, dưỡng

thân và nhất là bảo thân, nhưng rốt cuộc ông vẫn không thoát được lưỡi gươm

oan nghiệt của số phận. Nguyễn Trãi đã từng bỏ mặc cả “thi thƣ” để “tu thân”:

Chỉn xá lui mà thủ phận

Lại tu thân khác, mặc thi thƣ

(Mạn Thuật – XII)

Triết học nho giáo đã đặt ra những nguyên tắc cho cuộc đời, những thứ

bậc buộc con người phải luôn luôn tôn trọng. Những nguyên tắc ấy, nho giáo nói

đến mối tương quan giữa gia đình và xã hội. Đó là ba mối quan hệ quan trọng chi

phối trong mọi tình cảm và bổn phận con người: quân thần, phụ tử, phu thê. Mặt

khác, nho giáo cũng nêu lên những đức tính quan trọng mà con người cần phải có

để cho con người và cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn, đó là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.

Nguyễn Trãi là một nho sĩ, là một nhà đạo đức nên ông đã hướng đến luân lý của

nho giáo. Nguyễn Trãi đã đi theo đường lối “văn dĩ tải đạo” của nho giáo, nghĩa

là đem văn chương để truyền bá tư tưởng, đạo lý của thánh hiền. Trước tiên ta

thấy trong sáng tác của ông luôn nói đến trung và hiếu, bổn phận của người nam

nhi cần có trong xã hội. Con người của Nguyễn Trãi luôn hướng đến bổn phận

thiên liêng đối với gia đình và đất nước. Đặc biệt, lúc nào ông cũng tâm niệm về

hai chữ trung hiếu:

“Bui có một niềm chăng nỡ trễ

Đạo làm con mấy đạo làm tôi”.

(Ngôn chí – bài 1)

“Quân thân chƣa báo lòng canh cánh

Tình phụ cơm trời, áo cha”.

(Ngôn chí – bài 7)

Trong sáng tác của mình, Nguyễn Trãi cũng nói nhiều về nhân, nghĩa, lễ,

trí, tín:

“Thấy lợi thì làm cho phải nghĩa,

Mã tây mặc khiến mấy lòng đan”.

39

(Bảo kính cảnh giới – Bài 6)

“Bầu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong,

Ngƣời kia phú quý nỡ quên lòng.”

(Bảo kính cảnh giới – Bài 51)

“Khuyên kẻ trƣợng phu xin ở thế,

Hễ đừng bất nghĩa chớ loàn đơn”.

(Bảo kính cảnh giới – Bài 58)

Nguyễn Trãi đã sống trong một xã hội tan rã vì chiến tranh cho nên ông đã

ý thức được bổn phận của kẻ sĩ. Ông khuyên con người hãy lấy nghĩa mà đối xử

với nhau. Trong thơ Nguyễn Trãi, những quan niệm về tam cƣơng, ngũ thƣờng

luôn luôn kết hợp với nhau:

“Thủy chung mỗ vật đều nhờ chúa,

Động tĩnh nào ai chẳng bởi thầy.

Hỉ nộ cƣơng nhu tuy đã có,

Nghĩa nhân lễ trí mã cho khuây”.

(Mạn thuật – Bài 3)

Theo quan niệm của ông, hình tượng người quân tử phải là người tài đức

vẹn toàn:

“Đạo đức hiền lành đƣợc mọi phƣơng,

Tự nhiên cả chúng muốn suy nhƣờng”.

(Bảo kính cảnh giới – Bài 1)

“Ngõ cửa nhân chờ khách đến,

Trồng cây đức để con ăn”.

(Mạn thuật – Bài 5)

“Tài đức thì cho lại có nhân,

Tài thì kém đức một hai phân.

Thờ cha lấy thảo làm phép,

Gặp chúa hằng ngày mấy cần”.

40

(Bảo kính cảnh giới – Bài 57)

Rõ ràng trong thơ ông, chữ đức luôn đứng đầu. Ông đã lấy lòng nhân của

nho giáo mà khuyên răn con cháu, dạy bảo hậu sinh bằng những lời thơ thật tha

thiết. Đi xa hơn nữa, ông còn vạch ra một chương trình hành động cho kẻ sĩ. Khi

đã ra làm quan thì kẻ sĩ phải hết lòng trung thành với vua với tổ quốc, phải đem

những lời đạo đức để can gián vua chớ nên xu nịnh, làm điều gian tà hại nước hại

dân. Ông cho rằng kẻ sĩ phải có tấm lòng như Ngụy Trưng đời Đường, Bao

Chửng đời Tống của Trung Quốc:

“Khoe tuyết làu làu nơi học đạo

Ở triều khăn khắn chữ trung cần”.

(Bảo kính cảnh giới – Bài 60)

“Ở đài các giữ lòng Bao Chửng,

Nhậm tƣớng khanh thì thói Ngụy Trƣng”.

(Bảo kính cảnh giới – Bài 61)

Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến và các nhà nho khác, Nguyễn

Bỉnh Khiêm luôn mang nặng trong lòng hai chữ trung quân, lúc nào ông cũng

canh cánh một điều “Lộc nặng ơn nhờ đức thánh minh” (Thơ Nôm, bài 125).

Bản thân ông, xét về loại hình nhân cách, ông là một nhà nho quân tử. Nguyễn

Bỉnh Khiêm sống vào giai đoạn nho giáo trở thành độc tôn và trong giai đoạn đất

nước đang bị chia cắt, nhân dân cực khổ và nổi loạn. Do vậy, nhà nho quân tử

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đặt ra vấn đề mới đối với những kẻ sỹ thời bấy giờ. Theo

ông, đã là một trang nam nhi, kẻ sĩ thì vấn đề cốt yếu, mang tính lý tưởng vẫn là

lòng trung thành với nhà vua chính thống. Nhưng ở thời Nguyễn Bỉnh Khiêm,

các khái niệm vua và nƣớc không còn trùng khít nữa, quyền lợi của vua mâu

thuẫn với quyền lợi của dân, nên việc trung thành với một ông vua ngu tối (hôn

quân) sẽ trở thành ngu trung: vấn đề chọn chủ được đặt ra. Thay vì ra giúp nước

thì ông lại chọn con đường sống nhàn- ẩn dật để giữ cho mình cái cốt cách thanh

cao của người quân tử “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Ngƣời khôn ngƣời đến chốn

41

lao xao”.

Nếu như trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh lý tưởng

cao thượng là lý tưởng thoát tục, diệt dục, thuần khiết trong sáng, thì vớiTruyền

kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì “dục”, nhất là tình dục, vật dục được xuất hiện

như một phạm trù của cá nhân, nhưng được hiểu như những biểu hiện phản diện.

Con người cá nhân xuất hiện dưới những phẩm chất phản diện, dưới hình thái

của cái ác, cái xấu. Trọng Quỳ đánh bạc gán vợ (Nhị Khanh); Trung Ngộ tham

dục với hồn ma cây gạo (Nhị Khanh); Dương Thiên Tích dựa thế trả thù báo oán

lặt vặt; chàng Hà Nhân mê đắm hai hồn hoa Liễu, Đào; thần Thuồng luồng bắt

nàng Dương thị danh kỹ Hàn Than với sư Vô Kỷ tham dục, thác sinh thành

Thuồng luồng; mối tình bất chính của hồn oan Thị Nghi với viên quan họ Hoàng

; các hạng vua quan tham ác trong truyện Ngƣời tiều phu núi Na ; các tượng thần

ăn trộm ở chùa hoang Đông Trào ; Lý tướng quân làm ác bị Diêm Vương trị tội ;

cô Tuý Tiêu bị bắt, Dư Nhuận Chi tìm cứu ; người con gái Nam Xương chết oan

vì chồng ghen bóng ghen gió... Trong hệ thống những nhân vật của Truyền Kỳ

Mạn Lục, có xuất hiện những nhân vật nữ bên cạnh nam giới, nhưng phần lớn họ

được xem như yếu tố gây hại cho những nam nhi, sĩ tử. Họ đa phần được nhìn

nhận dưới những thân phận ma quỷ, bị chết oan và lên án…Và những người nam

giới mê đắm sắc đẹp thì đều bị coi là những nhân vật xấu, phản diện, đi ngược lại

so với quan niệm về người quân tử. Nói chung, khuynh hướng tác giả là khuyến

thiện, trừng ác, đề cao công đức, lên án vật dục, tình dục, theo tư tưởng Nho giáo

đời Tống “Diệt nhân dục, tồn thiên lý”. Những ai lánh xa bụi trần, vật dục thì

được lên tiên, thành tiên, lên trời như Từ Thức, Dương Trạm, Vũ Nương. Những

ai tham lam, hám lợi, đều bị trị tội ở Địa phủ của Diêm Vương. Các nhu cầu

hưởng thụ cá nhân, ích kỷ được xem là có cội nguồn yêu quỷ, giao long, thuồng

luồng, hắc ám. Tuy nhiên, “dục” của cá nhân tự do trong tình yêu nam nữ, tuy

không được thừa nhận trong lời bình, nhưng lại được miêu tả như những cuộc

tình kỳ ngộ lãng mạn đáng nhớ. Cuộc gặp của Trung Ngộ với hồn ma Nhị Khanh

cô quạnh đầy ân ái, xướng hoạ, với lý tưởng hành lạc. Cuộc kỳ ngộ ái ân xướng

42

hoạ của Hà Nhân ở trại Tây, rồi kỳ ngộ Hàn Than và Vô Kỷ, Nhuận Chi và Tuý

Tiêu, Phật Sinh với Lệ Nương, Thị Nghi với quan họ Hoàng, đều là những cuộc

gặp gỡ ngoài lễ giáo, hôn thú, thuần tuý cá nhân, những mối tư tình lấy hưởng

thụ làm mục đích, dĩ nhiên không được nhà nho chấp nhận về mặt đạo lý, song

về mặt tình cảm, lại được ngòi bút tác giả ưu ái miêu tả khá đẹp với những vần

thơ tình tứ đặc sắc. Những bài thơ của Nhị Khanh, của hai nàng Liễu, Đào tả

những cảm xúc ân ái thật táo bạo, hiếm có trong văn học thời ấy, và cũng khó

xuất hiện dưới dạng phi truyền kỳ. Tóm lại, trong văn học giai đoạn thế kỷ XV

đến XVII, quan niệm về giới được xuất hiện dưới hai hình thái chính : hoặc là lìa

bỏ công danh, lìa bỏ thị phi, khen chê, “độc thiện kỳ nhân”, đối lập với kẻ khác

phàm tục; hoặc là đam mê vật dục, sắc dục như một tội lỗi, trái với đạo lý nhưng

đã không còn mặc cảm tội lỗi, trái lại đã biểu hiện được cảm giác đam mê, đẹp,

lãng mạn.

Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đến hết XIX chịu ảnh hưởng khá sâu

đậm của tư tưởng nho giáo, văn học giai đoạn này vẫn chủ yếu viết về người đàn

ông và ca ngợi chí nam nhi. Các nhà nho tập trung khai thác người đàn ông từ

những trách nhiệm, lý tưởng giúp dân, giúp nước và thông qua đó bày tỏ hình

mẫu người anh hùng của thời đại. Đó là cái nhìn có phần khắc kỷ của người đàn

ông dành cho người đàn ông. Cùng với hệ thống quan điểm, nho giáo còn xây

dựng cho mình một hình mẫu con người lý tưởng, đó là hình mẫu người quân tử

đối với nam giới. Trong lịch sử nho giáo, đây là hình mẫu được nhắc đến thường

xuyên, là niềm tự hào của nho giáo để bảo vệ trật tự phong kiến. Nói cách khác,

kẻ sĩ và người quân tử là những người được giáo dục và trưởng thành lên từ tầng

lớp thứ dân, nhờ học đạo mà làm quan “trí quan, trạch dân”. Chính vì lý tưởng

của nho giáo là giáo dục con người có nhân cách để phụng sự chính trị, phong

kiến nên việc giáo dục con người trở thành mẫu người quân tử đã trở thành vấn

đề quan trọng nhất mà nho giáo hướng tới.

Đại diện cho quan niệm về chí nam nhi trong giai đoạn này là tác giả

Nguyễn Công Trứ - một cây bút khẳng định bổn phận của người đàn ông trong

43

xã hội phong kiến. Nếu xét về sự gặp nhau trong tư tưởng của Nguyễn Đình

Chiểu và Nguyễn Công Trứ, ta có thế thấy được đó là chí nam nhi với mộng

công danh. Nguyễn Công Trứ khi nói về lý tưởng sống của nhà thơ khi còn trẻ,

ông đã từng nói:

Thiên phú ngô, địa tái ngô

Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý

Nguyễn Công Trứ cho rằng con người sống ở đời nhất thiết phải làm việc

có ích cho đời:

Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông

Hay:

Vũ trụ giai ngô phận sự

Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn

Ở đây có thể thấy, đối với Nguyễn Công Trứ, “công danh” là bổn phận và

đích đến của người đàn ông, nó luôn luôn gắn với quan niệm trung hiếu và đạo

quân thần.

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất

Không công danh thời thác với cỏ cây

Tuy nhiên, quan niệm của ông về người quân tử có chút khác với giai đoạn

trước. Nếu như giai đoạn trước, người quân tử thường gò bó mình bằng chủ

nghĩa khắc kỷ thì đến giai đoạn này, hình ảnh người nam nhi mà Nguyễn Công

Trứ muốn gửi gắm, ngoài mộng công danh thì đó còn là một đấng nam nhi phong

lưu tài tử đa tình. Ông công khai nói đến thú hành lạc của mình, một thú hành lạc

có nội dung phi truyền thống khiến không ít các nhà nho bấy giờ và hầu như tất

cả các nhà đạo đức hôm nay đều không thể không phản ứng:

“Thú tiêu sầu rƣợu rót thơ đề

Có yến yến hƣờng hƣờng mới thú!

Khi đắc ý mắt đi, mày lại

Đủ thiên thiên thiên, thập thập thập thêm nồng...”

44

(Tài tình)

Nguyễn Công Trứ đặt hành lạc ngang với hành đạo. Ông say sưa nói đến chí

làm trai (có lúc ông cũng gọi là chí nam nhi, chí khí anh hùng, nợ tang bồng, tang

hồ bồng thỉ…) và đặt công lao sự nghiệp ngang với đạo quân thần, đặt công danh

ngang với trung hiếu. Lời lẽ của ông thật tự tin, ngạo nghễ:

“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc

Nợ tang bồng vay trả, trả vay.

Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể…”

(Chí khí anh hùng)

Có thể xem Luận kẻ sĩ như một tuyên ngôn về lẽ sống đồng thời cũng như là

tuyên ngôn về nghệ thuật đầy chân thành, xúc động và cũng rất mực rõ ràng của

Nguyễn Công Trứ. Tuy có hơi ồn ào nhưng nhìn chung ông là người xác định rất

đúng về bản thân mình, không hề và không cần che giấu một điều gì:

Đƣợc mất dƣơng dƣơng ngƣời thái thƣợng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không Tiên, không vƣớng tục...

(Bài ca ngất ngƣởng)

Chúng ta cũng gặp quan niệm này trong bài Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão:

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của

tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ

mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về

những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của

Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Ông còn sử dụng một điển tích (Vũ Hầu)

để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“Công danh nam tử còn vƣơng nợ

45

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Công danh mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh

được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công.

Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân.

Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng

xương máu và lòng dũng cảm. Hiện tượng “ngƣời đàn ông” trở thành hình mẫu

xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm văn học trung đại. Cùng với đó, “làm

trai” – bổn phận đầy tự hào được là đấng nam nhi đứng giữa trời đất, được

khẳng định mình và cống hiến cho đời cũng được nhấn mạnh trong sáng tác của

các nhà nho yêu nước.

Không thể không kể đến tác gia Nguyễn Du, các sáng tác của ông cũng

góp phần xây dựng một cái nhìn mới, tiến bộ về nam giới qua các nhân vật như

Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Từ Hải, Kim Trọng bằng cái nhìn về con người. Theo

nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho thấy là : “Nguyễn Du đã nhận thức về con

ngƣời một cách toàn diện. Con ngƣời không chỉ là thần dân, con ngƣời cần đƣợc

quan tâm về phƣơng diện vật chất. Con ngƣời có thân xác, do đó có quyền sống

về mặt thân xác; có trái tim, do đó có quyền đƣợc mong muốn, ƣớc ao, buồn vui,

hi vọng hay đau khổ, có quyền sống riêng về tƣ tƣởng. Ngợi ca con ngƣời theo

lập trƣờng nhân bản, không thể không ngợi ca vẻ đẹp chân dung và hình thể con

ngƣời” [39, tr. 270]. Dù không nhắc đến hai chữ “quân tử” nhưng ta có thể thấy

nhân vật Từ Hải là đại diện cho lý tưởng của Nguyễn Du:

Áo xiêm ràng buộc lấy nhau

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi

Sao bằng riêng một biên thùy

Sức này đã dễ làm gì đƣợc nhau

Chọc trời khuấy nƣớc mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai

Thế nhưng, anh hùng cũng không qua nổi ải mỹ nhân, Từ Hải biết Kiều

tuy là gái lầu xanh nhưng vẫn:

46

Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đƣa tới lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ƣa

Hay như nhân vật Thúc Sinh có mê Kiều cũng như bao nhiêu người mê

gái khác, chỉ nhằm vào thú vui vật chất, dần dà có quấn quýt:

Sớm đào, tối mận, lân la,

Trƣớc còn trăng gió, sau ra đá vàng.

Hay là:

Miệt mài trong cuộc truy hoan

Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình

Nguyễn Du cố ý nhấn mạnh tư cách tầm thường trong gã đàn ông Thúc

Sinh, có tiền, nhưng chỉ có thể có sự say mê tầm thường. Ta có thể thấy Nguyễn

Du đã có cái nhìn hết sức chân thực về con người, họ không còn là những con

người theo chủ nghĩa khắc kỷ nữa mà họ sống theo nhu cầu của con người. Đó là

những con người trần tục, nhục cảm xuất hiện trong thơ để khẳng định nhu cầu

sống tự nhiên của con người.

Khi nói về người phụ nữ, chỉ có một số ít là viết về thân phận người nữ

giới thông qua tác phẩm của một số tác giả như Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương

hay Nguyễn Du. Ở mỗi nhà thơ thì tiếng nói bênh vực người phụ nữ lại khác

nhau nhưng đều là những tiếng nói bênh vực, cảm thông đối với sự thiệt thòi của

người phụ nữ. Khi nói về số phận nàng Kiều, Nguyễn Du đau xót viết rằng:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Người phụ nữ trong văn học trung đại hầu hết là những thân phận phải

chịu nhiều thiệt thòi, họ là nạn nhân của một số quan niệm nho giáo. Tư

tưởng“trọng nam khinh nữ” là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những bi kịch số

phận của phụ nữ. Người phụ nữ không được quyền quyết định số phận mình,

không được học hành, họ phải chấp nhận sống phụ thuộc. Chỉ riêng điều ấy thôi

47

cũng đủ để họ phải chịu nhiều bất hạnh hơn đàn ông. Mềm yếu, đa sầu, đa cảm và

cả đa đoan đã khiến người phụ nữ luôn rất nhạy cảm với những bất hạnh của mình

dù họ sống trong xã hội nào. Trong xã hội cũ, người đàn ông có quyền được lấy

“năm thê bảy thiếp”, thì những bất hạnh mà người phụ nữ phải ghánh chịu lại càng

lớn hơn. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương – người phụ nữ đầy bản lĩnh – đã phải thốt lên đầy

uất ức khi phải sống trong nỗi tủi hờn ấy:

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cho cái kiếp lấy chồng chung

Nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu thanh kí của Nguyễn Du và người cung

nữ trong Cung oán ngâm cũng chịu chung nỗi đau như thế. Nàng Tiểu Thanh tài

sắc vẹn toàn lại đa sầu đa cảm phải lấy lẽ người đàn ông họ Phùng, nàng bị người

vợ cả của chồng hành hạ đến phải chết trong cảnh cô đơn. Còn những người cung

nữ vốn là những trang quốc sắc thiên hương thì phải sống mỏi mòn trong cảnh cô

đơn buồn tủi vì bị vua chúa bỏ quên giữa chốn thâm cung nơi chế độ phong kiến

mang tính chất phụ quyền, nơi quyền lợi của người đàn ông được bảo vệ.

Sang đầu thế kỉ XX, các nhà nho duy tân vẫn giữ những quan niệm văn

học truyền thống Quốc gia hƣng vong, thất phu hữu trách. Tinh thần tự nhiệm đã

làm nên vẻ đẹp đặc biệt của hình tượng nam nhi, anh hùng. Lí tưởng nam nhi,

trượng phu vẫn giữ nguyên vẻ đẹp hấp dẫn. Hình tượng người nam nhi xuất hiện

trong thơ văn của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu vẫn thể hiện là những con người

hành động, con người bản lĩnh, đầy lạc quan, tin tưởng vào tài năng của mình:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

Lừng lẫy làm cho lở núi non

Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn

( Đập đá ở Côn Lôn - Phan Châu Trinh)

hay người nam nhi phải làm được những sự nghiệp lớn lao, được lưu danh vào sử sách:

Sinh vi nam tử yếu hi kì,

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di!

48

Ƣ bách niên trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hậu cách vô thuỳ.

( Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời!

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

Sau này muôn thuở há không ai.)

(Xuất dƣơng lƣu biệt - Phan Bội Châu)

Con người thánh nhân, quân tử truyền thống với ý chí làm chủ, kiểm soát phần

thân xác bản năng để vươn tới lí tưởng đạo đức cao cả, biến sức mạnh tinh thần thành

sức mạnh vật chất to lớn vẫn là mẫu hình đẹp được các nhà chí sĩ yêu nước phát huy:

Ai cố gắng từ nay xin gắng gỏi

Xếp bút nghiên mà tu dƣỡng lấy tinh thần

Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn.

Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa,

Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...

(Bài ca chúc tết thanh niên - Phan Bội Châu)

Tiểu kết

Bằng việc khảo sát hệ thống những quan niệm về giới qua một số tác gia

tiêu biểu thuộc diễn trình văn học trung đại từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, chúng tôi

đã phân tích một số biểu hiện cơ bản về giới cũng như quan niệm về người đàn

ông và người phụ nữ trong văn học trung đại. Có thể thấy rằng, ở đây có sự

chuyển hướng trong việc đánh giá vai trò của mỗi giới. Nếu như giai đoạn đầu có

sự trở đi trở lại của mẫu hình “thánh nhân quân tử” đối với nam giới, tôn trọng

chủ nghĩa khắc kỷ, coi thường nữ sắc thì đến giai đoạn sau, văn học đã có sự xuất

hiện khá nhiều những tác phẩm là tiếng nói bênh vực phụ nữ và nhìn nhận người

nam giới trên phương diện bản năng, cũng từ đó quyết định thái độ khen chê

đúng đắn với họ. Thông qua việc thống kê này, chúng tôi muốn xem xét, đánh

giá quan niệm về giới của Nguyễn Đình Chiểu dựa trên cái nhìn so sánh với các

49

tác gia khác, để thấy được cách thể hiện quan điểm về các nhân vật nam trong tác

phẩm Lục Vân Tiên. Từ đó, đánh giá sự tiến bộ cũng như bảo thủ trong quan

50

niệm của ông về giới.

CHƢƠNG 2:

NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN TỪ GÓC NHÌN

CỦA LÝ TƢỞNG VỀ NGƢỜI ANH HÙNG VÀ KẺ SĨ

2.1. Sức mạnh thể chất

Văn học trung đại đánh giá con người trên bình diện đạo đức và dựa vào

đó để xây dựng thái độ khen chê với nhân vật. Truyện Lục Vân Tiên là kết quả

của sự ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo và quan niệm nhân dân. Do vậy hệ

thống nhân vật trong truyện, đặc biệt là nhân vật nam giới chính diện mang

những nét tiêu biểu, đặc trưng cho khuôn mẫu người anh hùng quân tử. Ngay từ

đầu Nguyễn Đình Chiểu đã mở đầu tác phẩm bằng những lời răn dạy:

Trƣớc đèn xem truyện Tây Minh

Gẫm cƣời hai chữ nhân tình éo le

Ai ơi lẳng lặng mà nghe

Dữ răn việc trƣớc, lành dè thân sau

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình

Từ quan niệm này, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên cả một hệ thống

nhân vật nam giới đối lập về phẩm chất, tính cách, ngoại hình lẫn hành động.

Nhìn chung Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng nhân vật của mình theo

phương pháp truyền thống: ông chia nhân vật thành hai tuyến chính diện và phản

diên. Nhân vật chính diện được miêu tả theo lối lý tưởng hóa bằng phương pháp

ước lệ, tượng trưng. Còn nhân vật phản diện lại được khắc họa theo lối tả thực.

Thuộc về phía chính diện, đứng đầu là Lục Vân Tiên văn võ toàn tài, mang

những phẩm chất lý tưởng của người anh hùng phong kiến. Bên cạnh đó là

Vương Tử Trực ngay thẳng, Hớn Minh bộc trực. Đây là những nhân vật thuộc

tầng lớp trên trong xã hội. Cũng thuộc phe chính diện là những người thuộc tầng

lớp dưới nhưng đại diện cho cái thiện còn kể đến tiểu đồng, ông Quán, ông Ngư,

51

ông Tiều - những ẩn sĩ trong lớp vỏ bình dân.

Nhân vật Lục Vân Tiên- mẫu hình thánh nhân quân tử là nhân vật được

gửi gắm nhiều ước mơ của nhân dân cũng như của tác giả. Quan niệm về mô

hình thánh nhân quân tử, nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn có viết “Thánh nhân

quân tử là mô hình lý tƣởng của nho gia. Có rất nhiều kiểu loại nhân vật lý

tƣởng hoặc nhân vật chính diện: những đấng bậc anh hùng, thánh nhân, vua

chúa, nho gia, Thiền sƣ, những nhân vật tài đức lỗi lạc. Nhìn chung xét về giới

tính, đây chủ yếu nói về những nhân vật đàn ông. Các nhân vật này đƣợc đánh

giá theo chuẩn mực Nho giáo hay Phật giáo nhƣng đều là nhân vật phi phàm,

xuất chúng nên đều chịu sự chi phối của một quan niệm chung mang tính chất

văn hóa về nhân cách”[39, tr. 407]. Được xây dựng là nhân vật lý tưởng, Vân

Tiên được ưu ái về ngoại hình, hình thể hơn người của mình, đó là vẻ đẹp nam

tính. Vẻ đẹp này được nhìn dưới con mắt Võ Thể Loan - điểm nhìn của người

muốn gả con gái cho Lục Vân Tiên, nên thấy tướng mạo tốt đẹp.

Liếc coi tƣớng mạo Vân Tiên

Khá khen họ Lục phƣớc hiền sanh con

Mày tằm mắt phụng môi son,

Mƣời phân cốt cách vuông tròn mƣời phân

Những e kẻ Tấn ngƣời Tần

Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ gai

Xem đà đẹp đẽ hòa hai

Nầy dâu nam giản nọ trai đông sàng

Bằng những câu thơ mang tính ước lệ, lối nói khoa trương, Nguyễn Đình

Chiểu đã xây dựng nên hình ảnh Lục Vân Tiên “mƣời phân, cốt cách vuông tròn

mƣời phân”. Mặc dù đây là những lời khen của Võ Thể Loan dành cho nhân vật,

nhưng ta có thể thấy được màu sắc lý tưởng hóa nhân vật của tác giả. Tác giả

cũng không ngớt lời khen những về tướng mạo. Ở Vân Tiên dường như không có

nét nào kệch cỡm. Đó là một cái đẹp mà không phải bất cứ nam nhân nào cũng

có. Ông miêu tả khuôn mặt Vân Tiên “mày tằm mắt phụng môi son”. Mắt

52

phượng là loại mắt không quá nhỏ, lòng đen mắt thật đen và sáng, đây là những

nét thường thấy trên khuôn diện của các nhân vật tiểu thuyết Trung Hoa cổ điển.

Cách miêu tả này gần giống với cách miêu tả của La Quán Trung về Quan Vân

Trường. Trong Tam Quốc diễn nghĩa có đoạn Huyền Đức nhìn xem thấy người

ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt đỏ như gấc, môi như tô son, mắt

phượng, mày tằm, oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ

tên. Người ấy nói: Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân

Trường, người làng Giải Lương, tỉnh Hà Đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế

hiếp người, tôi bèn giết chết rồi đi làm kẻ giang hồ đã năm, sáu năm rồi. Nay

nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc nên tôi đến ứng mộ. Vẻ đẹp của Lục Vân

Tiên còn được Nguyễn Đình Chiểu tả:

Vân Tiên đầu đội kim khôi

Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô

Lục Vân Tiên lúc này được miêu tả như vị anh hùng, một võ tướng oai

phong. Với cái nhìn của Nguyễn Đình Chiểu thì trong con mắt của ông Lục Vân

Tiên có dáng dấp của anh hùng lý tưởng với đầu đội “kim khôi bằng vàng”, tay

cầm “siêu bạc”, ngồi “ngựa ô” chứ không phải nhân vật kẻ sĩ. Vẻ đẹp lý tưởng

của Lục Vân Tiên được lý tưởng hóa có chút tương đồng với nhân vật Từ Hải

trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Từ Hải cũng được giới thiệu như một nhân

vật có bề ngoài phi thường:

Râu hùm hàm én mày ngài,

Vai năm tấc rộng, thân mƣời tấc cao

Và một bản lĩnh hơn người:

Côn quyền hơn sức, lƣợc thao gồm tài”

Với Lục Vân Tiên không chỉ đẹp về ngoại hình mà chàng còn là con

người có tài năng vừa giỏi văn vừa giỏi võ:

Văn đà khởi phụng đằng giao

Võ thêm ba lƣợc, sáu thao ai bì

Chàng là người văn võ kiêm toàn lại luôn sẵn sàng ra tay cứu giúp người

53

khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ Tôn sư xuống núi, định về kinh ứng thi, trên đường

đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ chạy, chàng liến hỏi chuyện mới hay

có một bọn cướp dữ vừa phá làng xóm và bắt đi hai cô gái. Lục Vân Tiên không

chịu nổi cản bất bình, nổi giận:

Vân Tiên nổi giận lôi đình,

Hỏi thăm lũ nó còn dình nơi nao.

Tôi xin ra sức anh hào,

Cứu ngƣời cho khỏi lao đao buổi này.

Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:

Vân tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô

Lục Vân Tiên đánh cướp, trước hết bộc lộ sức mạnh nam tính, hành

động dứt khoát của đấng nam nhi văn võ toàn tài. Hành động “bẻ cây làm gậy

nhằm làng xông vô” của chàng trai Vân Tiên thật đẹp, mãnh liệt và dứt khoát. Đó

là hình ảnh một chàng trai nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân. Tác giả miêu tả

hình ảnh con nhà võ mạnh mẽ của chàng “Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào

Triệu Tử phá vòng Đƣơng Đang. Đây là sự đối đầu giữa chàng thư sinh anh hùng

với tên Phong Lai “mặt đỏ phừng phừng” và đám quân “bốn phía phủ vây bịt

bùng”. Nhà thơ miêu tả hình ảnh Lục Vân Tiên “tả đột hữu xung” và sử dụng

điển tích: “Khác nào Triệu Tử phá vòng Đƣơng Dang”…để khắc họa hình ảnh

mạnh mẽ, đầy nghĩa khí của Vân Tiên. Theo tiểu thuyết chương hồi Tam quốc

diễn nghĩa của La Quán Trung (Trung Quốc), nhân vật viên tướng trẻ Triệu Vân,

còn gọi Triệu Tử Long, đã một mình phá vòng vây của Tào Tháo, bảo vệ được A

Đẩu, con của chủ tướng Lưu Bị. Việc sử dụng điển tích, so sánh Lục Vân Tiên

với Triệu Tử Long khiến cho câu thơ trở nên hàm súc, phát huy được lối nói

khoa trương, tôn vinh phẩm chất nhân vật cũng ngang bằng với người anh hùng

nổi tiếng thời Tam quốc. Có thể nói, về ngoại hình Vân Tiên cũng chẳng kém Từ

Hải của Nguyễn Du là bao nhiêu.

Nằm trong hệ thống những nhân vật chính diện, Hớn Minh cũng được

54

Nguyễn Đình Chiểu tô đậm những nét về ngoại hình và hành động bằng thủ pháp

ước lệ. Nếu như Lục Vân Tiên được nhắc đến như hình ảnh một thư sinh trắng

trẻo, giỏi võ nghệ thì Hớn Minh hiện qua con mắt của Lục Vân Tiên mang chút

dị biệt:

Xa xem mặt mũi đen sì,

Mình cao sồ sộ dị kỳ rất hung

….Vân Tiên biết lẽ chánh tà

Hễ ngƣời dị tƣớng ắt là tài cao

Ngay từ những câu thơ giới thiệu về nhân vật Hớn Minh, chúng ta có thể

liên tưởng đến hình ảnh tráng sĩ với tính cách ngang tàn, mạnh mẽ. Vẻ bề ngoài

có phần dị biệt, được tiên đoán “hễ ngƣời dị tƣớng ắt là tài cao”, Hớn Minh

được giới thiệu có phần gần gũi với hình ảnh nhân vật Trương Phi trong Tam

quốc diễn nghĩa. Trương Phi – một mãnh tướng của nhà Thục Hán đời Tam

Quốc, được miêu tả là một người “thân cao 8 thƣớc, đầu báo mắt tròn, hàm én,

râu hổ, tiếng nói nhƣ sấm, dáng nhƣ ngựa phi…” và hình ảnh Trương Phi được

định hình như một kẻ vũ phu lỗ mãng, bộc trực, nóng nảy và ít chữ nghĩa. Trong

Tam Quốc diễn nghĩa đã có nhiều đoạn miêu tả về sự lỗ mãng của Trương Phi,

thậm chí người Trung Quốc có thành ngữ “Mãng Trương Phi” (lỗ mãng như

Trương Phi) hay người Việt Nam có câu “Nóng tính như Trương Phi” ... Với vẻ

ngoài có chút dị biệt, nhân vật Hớn Minh còn được đặc tả là một nhân vật mạnh

mẽ, thích dùng hành động để giải quyết mọi tình huống, thậm chí là có phần

nóng tính. Chàng vốn là con nhà nho, cũng có những hành động “quyết liệt” khi

nhìn thấy những việc “ngang tai, trái mắt”, chàng đến huyện Loan Minh,

thấy đứa cậy quyền giở trò đốn mạt, chàng liền ra tay trừng trị:

Tôi bèn nổi giận một khi

Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò

Bên cạnh những nhân vật chính diện được xây dựng mang màu sắc lý

tưởng như những trang nam nhi, hiệp khách, Nguyễn Đình Chiểu còn xây dựng

hệ thống những nhân vật phản diện với màu sắc đối lập. Đó là những nhân vật

55

xấu từ đầu đến cuối, bì ổi, nhỏ nhen được đặc tả thông qua bút pháp tả thực. Nếu

như những nhân vật chính dùng sức mạnh, võ công của mình để làm việc nghĩa

thì Trịnh Hâm lại dùng sức của mình để đi hại người, làm những việc mờ ám:

Trịnh Hâm khi ấy ra tay

Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời

Cho ngƣời thức dậy lấy lời phôi pha

Đó là một Trịnh Hâm phản bạn, nham hiểm và đố kị tài năng. Bản chất

của hắn cũng được lột trần qua hành động đẩy Vân Tiên xuống sông. Và một Bùi

Kiệm được ngoại hiện hoá tâm trạng bằng hình ảnh miêu tả:

Con ngƣời Bùi Kiệm máu dê

Ngồi chề bê mặt nhƣ sề thịt trâu”

Khác với các nhân vật chính diện mang màu sắc lý tưởng, nhân vật phản

diện được tả hết sức chân thực, thậm chí tác giả dụng công dùng những từ ngữ

đặc tả trong việc miêu tả ngoại hình. Nguyễn Đình Chiểu rất khéo léo trong vệc

gọi tên bản chất của nhân vật phản diện. Chỉ bằng bút pháp tả thực cùng với

những chi tiết rất “đắt”, nhà thơ đã khắc họa lên bản chất của nhân vật qua cái

nhìn bề ngoài. Bùi Kiệm “ngồi chề bê” như “sề thịt trâu” cho thấy vẻ ngoài có

phần xấu xí và thô lỗ của hắn. Đây là cái nhìn mỉa mai xen lẫn sự khinh thường

của tác giả dành cho nhân vật Bùi Kiệm. Nhắc đến con người Bùi Kiệm, tác giả

Nguyễn Đình Chiểu dành cho chữ “Dê”. Đây là một trong những điều cấm kỵ

dành cho nam giới thời bấy giờ, bản chất “máu dê” được gắn với Bùi Kiệm cho

thấy sự phê phán và tính chất phản đề của nhân vật này. Tác giả ca ngợi nhân vật

chính diện bao nhiêu thì dùng từ ngữ tầm thường, kém cỏi bấy nhiêu khi miêu tả

nhân vật phản diện. Có thể thấy, ngay từ đầu, Nguyễn Đình Chiểu đã xác định

một cái nhìn khen và chê rõ rệt khi miêu tả vẻ ngoài của hai loại nhân vật chính

diện và phản diện. Tác giả sử dụng những từ ngữ tuy ngắn gọn nhưng sắc cạnh,

độc đáo, nhà thơ đã lột tả được chân dung, diện mạo và tính cách của người Nam

Bộ một cách rõ nét. Dù cùng là nho sĩ nhưng diện mạo và tính cách của Vân Tiên

56

và Hớn Minh hoàn toàn khác nhau. Hớn Minh không khác gì người nông dân

chân chất, đơn thuần, dám làm dám chịu, xa trông “mặt mũi đen sì”, mình cao đồ

sộ dị kỳ rất hung, nhưng lại dám chống lại cường “bẻ đi một giò”. Và Vân Tiên

tuy không có vẻ ngoài “râu hùm, hàm én, mày ngài” nhưng lại có một phong độ

giống trang hảo hán “giữa đƣờng gặp chuyện bất bình chẳng tha”. Tác giả đã cố

ý xây dựng nhân vật chính diện đẹp đẽ, có dáng dấp của những anh hùng kiếm

hiệp, có sức mạnh, võ công giỏi giang, quyết liệt và một vẻ ngoài khác thường

bên cạnh những nhân vật hèn kém và kém đẹp về cả ngoại hình và thể chất.

Thông qua cách miêu tả của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật chính diện và

phản diện có sự đối lập tạo tiền đề cho việc xây dựng theo lối nhất quán trong

hành động về sau.

2.2. Vẻ đẹp trí tuệ

Con người trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là con người

đạo lý. Do vậy trong sáng tác Lục Vân Tiên của mình, bằng cách này hay cách

khác Nguyễn Đình Chiểu cố gắng tô đậm tính lý tưởng ở nhân vật của mình, đặc

biệt là nhân vật chính diện. Nhân vật của ông không chỉ đẹp về vẻ ngoài, hành

động và còn mang đẹp ở trí tuệ. Cũng phải nói thêm rằng, trong quan điểm nho

giáo, học vấn của nam giới vô cùng quan trọng. Nam giới muốn giúp đời, thay

đổi vận mệnh thì đều phải thông qua con đường thi cử để tiến thân. Cho nên, mục

đích cao nhất của cuộc đời họ là thi được bảng vàng, giúp nước và chính mình.

Nam giới cần phải giỏi văn chương, biết làm thơ ứng đối. Thậm chí, học vấn

luôn quan trọng hơn việc giỏi võ nghệ.

Bởi vậy, theo quan niệm nho giáo thì ngay cả những người có giáo dục,

cũng vẫn chia làm hai loại là nhà nho quân tử và nho tiểu nhân. Nho quân tử là

những người học và làm theo đạo thánh hiền, lo tu thân sửa mình để hoàn thiện

nhân cách. Người quân tử làm việc dựa vào sức mình là chính, làm sai điều gì

trước hết phải tự trách mình rồi sửa mình, khi thấy việc thiện thì phải cố làm cho

bằng được, thấy điều ác thì sợ hãi tránh xa. Nho giáo dạy nam giới muốn làm

người quân tử thì phải thành thực, không bao giờ tự lừa dối mình mà làm hại sự

57

hiểu biết của chính bản thân mình và biết giữ chất phác trong nội dung và văn

hóa ngoài hình thức. Và đối với một nam tử hán thì học vấn là điều tối quan

trọng. Nho giáo quan niệm người quân tử muốn có đức thì phải có học thì cái đức

mới có giá trị. Bởi nhân, trí, tín, trực, dũng, cƣơng đều là những đức tính cơ bản

để tu nhân nhưng chỉ muốn có đức mà không muốn học để hiểu lý lẽ hay dở,

đúng sai thì rất sai lầm. Muốn nhân lại bị tình cảm chi phối, che mờ đi thành ra

ngu tối. Muốn trí lại bị ham muốn phân tâm thành mông lung. Muốn tín lại cố

chấp hẹp hòi đâm ra ích kỷ. Muốn trực lại bị nóng nảy khống chế đâm ra ngang

ngạnh. Muốn dũng lại không kiềm chế được rồi thành ra bạo loạn. Muốn cƣơng

nhưng cố bảo thủ kiểu gàn dở đâm ra ngông cuồng…hậu quả của việc có đức

nhưng không có học vấn là như vậy.

Người quân tử phải chuyên tâm nghiên cứu mọi điều hay, điều tốt trên lý

thuyết và trong thực tế cuộc sống chứ không phải học vẹt, khoe mồm chỉ biết

nghe qua tai rồi nói ra miệng lấy mẽ thì học kiểu gì cũng vô bổ. Khổng tử còn

cho rằng: “Ngƣời quân tử có ba điều lo nghĩ không thể không xét đến. Trẻ mà

không học thì khi lớn lên không có tài năng gì. Già mà không chỉ dạy ngƣời, khi

chết rồi không ai tƣởng nghĩ đến mình. Khi giàu có mà không đem của giúp

ngƣời thì lúc cùng quẫn không ai giúp mình. Cho nên ngƣời quân tử lúc trẻ nghĩ

đến tuổi già mà lo học, lúc già nghĩ đến cái chết mà lo dạy ngƣời, lúc thịnh nghĩ

đến lúc suy mà lo giúp ngƣời”[33, tr. 120]. Sách Đại học xưa cũng dạy rằng: từ

vua đến dân ai cũng phải lấy tự sửa mình làm gốc vì kết quả học vấn là biểu hiện

rõ nhất của phép tu thân. Chính vì vậy, hình tượng nhân vật lý tưởng mà Nguyễn

Đình Chiểu muốn hướng đến không chỉ là người có sức mạnh thể chất hơn người

mà còn phải có trí tuệ hơn người. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên cả một hệ

thông nhân vật nam trong đó những nhân vật chính diện tiêu biểu là Lục Vân

Tiên đã tượng trưng cho tài năng, trí tuệ, nhân phẩm cao nhất.

Ngay ở đầu truyện, khi nói đến tài học của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình

Chiểu cũng viết: “Văn đà khởi phụng đằng giao...” Nghĩa là văn đẹp như con

58

phượng trỗi dậy, con rồng bay cao. Ở đoạn Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga

trao thơ cho nhau, sau khi Vân Tiên đánh tan bọn cướp, cứu được Nguyệt Nga,

Nguyễn Đình Chiểu lại viết:

Nguyệt Nga úng tiếng xin hầu,

Xuống tay liền đã tám câu năm vần.

Thơ rồi này thiếp xin dâng,

Ngửi trông lƣợng rộng văn nhân thế nào.

Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,

Ai ngờ sức gái tài cao bức này !

Đã mau mà lại thêm hay,

Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi.

Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,

Cho hy tài gái kém gì tài trai !

Có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu rất chú trọng nhấn mạnh đến tài thơ văn

của Lục Vân Tiên. Tác giả đã ví tài năng thơ văn của Vân Tiên bằng những lời

văn đẹp nhất, lý tưởng nhất.

Bên cạnh đó, Vương Tử Trực là một trong những nhân vật chính diện,

không chỉ là con người nghĩa khí, vẻ đẹp của Tử Trực còn toát lên ở tài văn

chương. Cũng thông qua cách khắc họa nhân vật bằng lối lý tưởng hóa, Tử Trực

hiện lên là một nho sĩ tài hoa:

Gần đây có một họ Vƣơng

Tên là Tử Trực văn chƣơng tót đời

Không những vậy, Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật có cơ hội được trổ

tài văn thơ của mình:

Cha đà sai trẻ qua mời,

Đặng con cùng gã thử chơi một bài

Thấp cao cao thấp biết tài

Vầy sau trƣớc bạn cùng mai mối mầu.

Muốn cho Trực sánh cùng Tiên

59

Lấy câu bình thủy hữu duyên làm đề

Song song hai gã giao kề,

Lục Vƣơng hai họ đua nghề một khi

Tác giả đã dùng khá nhiều câu văn hay để ca ngợi tài năng văn chương

của Vân Tiên và Vương Tử Trực. Đây cũng là một trong những dụng ý của tác

giả khi xây dựng những nhân vật nam hoàn hảo về tài năng. Nhân vật nam của

ông là những thư sinh xuất chúng kể về ngoại hình và khả năng văn chương.

Nguyễn Đình Chiểu rất đề cao học vấn của các nhân vật của ông. Trong quan

niệm của mình, Nguyễn Đình Chiểu hết sức coi trọng việc học. Trong khi nước

chưa bị giặc Pháp xâm lược, ông nghĩ rằng học có thể để thi đỗ làm quan, mang

tài ra phò vua giúp nước, như Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, nhưng cũng có thể

chỉ để làm người có đạo đức cao cả như ông chủ hàng cơm trong truyện Lục Vân

Tiên. Nhưng đến khi nước bị giặc xâm lược thì ông không còn nghĩ đến việc học

đề thi đỗ làm quan nữa, bởi lẽ “Dầu vinh cũng tiếng nhân thần, Trâu cày ngựa

cƣỡi cái thân ra gì”. Tuy vậy, bao giờ ông cũng coi trọng việc học hơn cả.

Nhưng trong bài Sĩ ông không nói gì tới việc đi thi, làm quan mà chi nhấn mạnh

vào chỗ:

Câu văn thêu dệt đời đời chuộng

Mùi đạo trau giồi bữa bữa no.

Vì coi trọng việc học như vậy nhưng lại coi mọi nghề ngang nhau, trước

hết dùng đạo đức để bình giá con người, cho nên nhân vật tốt trong các truyện

thơ của Nguyễn Đình Chiểu, già trẻ gái trai, từ ông quan, học trò, thầy thuốc cho

đến ngư tiều, ông chủ quán cơm, chú tiều đồng, những người lao động, đều là

những nhân vật có học, là trí thức.

Với những nhân vật tưởng như vô danh, không tên tuổi nhưng cũng đều

có khả năng và trí tuệ hơn người. Mặc dù không thành danh trên con đường khoa

cử nhưng ngược lại ông Quán là một nam nhi đầy khí phách, tư thế hiên ngang

và thái độ ung dung, tâm hồn phóng khoáng. Đó là phong cách của một người đã

60

vượt qua sự bon chen vì không muốn làm con thiêu thân trước ánh đèn như

những kẻ đầy tham vọng. Hơn thế nữa nhân vật ông Ngư được giới thiệu như

một người học cao hiểu rộng:

“Kinh luân đã sẵn trong tay

Thung dung dƣới thế vui say trong trời

Thuyền nan một chiếc ở đời

Tắm mƣa chải gió trong vời Hàn Giang”

Ngoài ra, nhân vật ông Quán còn có tài năng am hiểu văn chương, hiểu biết

lý lẽ, lịch sử để nhận thức đúng sai. Trong mỗi câu nói của mình, ông Quán đều

tỏ ra là người hiểu sâu rộng, có sức thuyết phục. Mỗi lời thơ của ông đều vận

dụng những điển tích, điển cố để minh chứng cho quan điểm của mình. Ông viện

vào việc Khổng Tử lận đận, gian lao trong việc truyền đạo Nho, việc Nhan Tử

chết sớm dở dang, việc Gia Cát Lượng có tài mưu lược lớn giúp Lưu Bị mà sự

nghiệp không thành, việc Đổng Trọng Thư có tài đức hơn người mà bị dồn vào

thế bí…để minh chứng cho sự cảm thông, thương yêu của ông đối với người có

tài cao chí cả, muốn giúp đời cứu dân mà gặp phải những rủi ro bất hạnh nên

nguyện vọng của họ không thực hiện được. Ông nhắc lại việc Kiệt, Trụ mê dâm

“để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang”; U, Lệ đa đoan “khiến dân luống chịu lầm

than muôn phần”, Ngũ bá phân vân làm “chuộng bề dối trá làm dân nhọc

nhằn”; Thúc quý phân băng khiến “sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân” để

lên án thói hư của những vua chúa, mê đắm tửu sắc, không lo cho dân. Quả là

mỗi lời nói của ông Quán đều có những ý nghĩa sâu xa mà không phải ai cũng

có được. Sự xuất chúng của ông Quán được đánh giá qua nhận định của Vương

Tử Trực:

Trực rằng: “Chùa rách phật vàng

Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân

Không những vậy, tác giả Nguyễn Đình Chiểu còn cho thấy các nhân vật

chính diện của ông cho dù xuất thân cao sang hay hèn kém, cho dù có tên tuổi

hay vô danh thì không những có nền học vấn uyên thâm mà còn biết sử dụng học

61

vấn vào đúng chỗ, đúng lúc để làm việc tốt, việc nghĩa. Vương Tử Trực học

thông, biết rộng để sau này thấy rằng việc Võ Thể Loan xe duyên mình với con

gái hắn là trái với đạo thánh hiền. Hớn Minh, Vân Tiên vận dụng trí tuệ và sức

mạnh của mình để đánh thắng Cốt Đột. Cốt Đột là một tướng giặc hung hãn, có

khả năng “biến hô yêu tà”, chúng không dễ để đối phó. Thế nhưng nhờ tài năng

và mưu lược của mình, Vân Tiên đã:

Vội vàng trở ngựa lui ra

Truyền thoa máu chó đều thoa ngọn cờ

Ba quân gƣơm giáo đều dơ

Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan

Bằng trí tuệ của mình, những anh hùng như Hớn Minh, Vân Tiên đã chiến

thắng Cốt Đột, giải nguy cho đất nước. Ông Quán, ông Ngư thì lại dùng “tài kinh

luân” của mình để răn dạy người đời. Có thể thấy, các nhân vật nam chính diện

trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu nhờ học cao hiểu rộng mà hành động và

ứng xử cũng hơn người. Khả năng vượt trội về trí tuệ của nhân vật chính diện

càng được nhấn mạnh hơn khi tác giả dụng công xây dựng những nhân vật phản

diện âm mưu ghen ghét họ vì chính trí tuệ và tài năng đó. Những nhân vật trí

thức phản diện cũng có nhiều trong sáng tác của Đồ Chiều. Bọn Trịnh Hâm, Bùi

Kiệm là những kẻ đã đỗ cử nhân nhưng một kẻ thì thù oán vì văn chương kém

người nên Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn ra tay hại người, một kẻ thì “máu dê”

không tôn trọng cả vợ bạn. Trong truyện, Trịnh Hâm là một kẻ xảo trá, bất nghĩa

với chính bạn đồng môn của mình. Về trí tuệ thì bản chất bất tài, vô dụng đã

được Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh ngay từ đầu khi nói về nhân vật này:

Một ngƣời ở quận Phan Dƣơng,

Tên Hâm họ Trịnh tầm thƣờng nghề văn

Lời lẽ của Nguyễn Đình Chiểu khi viết về Trịnh Hâm cho ta thấy là ngay

từ đầu tác giả đã không đánh giá cao về tài năng và trí tuệ của nhân vật. Ông gây

dựng cho nhân vật những phẩm chất thấp kém, tài năng cũng chỉ là bậc tầm

thường. Chính vì sự hạn hẹp, yếu kém trong tài năng như vậy nên cũng yếu kém

62

về nhân đức. Đây là cách giải thích của Nguyễn Đình Chiểu về nguyên do Trịnh

Hâm làm điều “bất nghĩa” với Vân Tiên. Chung quy cũng là sự đố kỵ, ghen ghét

tài năng của Vân Tiên. Trong khoa thi, tài năng của hắn cũng chỉ đậu được hàng

cử nhân:

Hâm rằng: Tử Trực đậu cao

Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân

Dù cũng là hàng ngũ nho sinh thế nhưng trái ngược với những nhân vật

chính diện, Trịnh Hâm dùng tài văn chương “tầm thƣờng” của mình để làm điều

bất nghĩa, hèn hạ. Động cơ thủ ác của hắn vô cùng hèn hạ, dù không quen biết, thì

hằn nhưng vì thấy Vân Tiên tài cao nên hắn nảy sinh sự ganh ghét. Cũng thuộc

trong những nhân vật phản diện còn có nhân vật Bùi Kiệm. Y cũng là nho sinh,

học sách vào kinh thi cử. Bùi Kiệm tuy cùng được miêu tả là nhân vật phản diện

nhưng hắn không mượn sách Thánh hiền đề làm điều dã tâm như Trịnh Hâm. Bùi

Kiệm cũng đọc sách nhưng cái chân nho trong y biến thành quan điểm thực dụng.

Bùi Kiệm đọc sách nhưng lại lợi dụng và phê phán sách Thánh hiền để bảo vệ

quan điểm sống hưởng thụ của mình:

Kiệm rằng: đã biết sử kinh

Sao không soi xét để mình ngồi không

Hắn cũng thuộc làu làu kinh sử nhưng lại dùng những lời lẽ ấy để đi

ngược lại với đạo lý nho giáo. Trong quan niệm nho giáo thì việc tôn trọng đạo lý

để tu thân là việc vô cùng quan trọng. Điều đó cũng yêu cầu nam nhi, bậc kẻ sỹ

phải sống hà khắc theo tư tưởng tam cƣơng, ngũ thƣờng và lấy con đường chính

danh để tu thân. Chịu ảnh hưởng bởi quan niệm hà khắc đó, nam giới phần lớn là

phải sống theo chủ nghĩa khắc kỷ mới được cả xã hội công nhận và xem trọng.

Ngược lại, nếu đi ngược lại lễ giáo phong kiến, lợi dụng nho giáo cho cá nhân thì

đều là những kẻ đáng lên án. Ở đây, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã định hướng

rất rõ ràng về hai kiểu nhân vật đạo đức: chính diện và phản diện. Nhóm những

nhân vật chính diện có trí tuệ hơn người và luôn hành động dưới sự dẫn dắt của

63

tôn chỉ nho giáo để trở thành những nhân vật lý tưởng. Còn nhóm những nhân

vật phản diện có trí tuệ kém cỏi, thậm chí là tầm thường, lẽ sống của họ đi ngược

lại so với những gì họ được học trong trường lớp.

2.3. Tinh thần trọng nghĩa khinh tài

Một trong những cách cư xử mà nho giáo luôn đề cao trong ứng xử xã hội

của hai giới nam và nữ, đó là tinh thần trọng nghĩa khinh tài. Ngay từ chủ đề, đề

tài của tác phẩm Lục Vân Tiên, ta có thể thấy được là đây không phải là tác phẩm

viết về tình yêu, mà màu sắc chủ đạo của nó là tinh thần đạo lý, nhân nghĩa trên

quan điểm nhân dân. Trong giới hạn nghiên cứu về nam giới của đề tài này, bên

cạnh việc khảo sát về vẻ đẹp lý sức mạnh thể chất, vẻ đẹp trí tuệ, chúng tôi tiếp

tục tiến hành khảo sát về biểu hiện về tinh thần trọng nghĩa, khinh tài của nhân

vật nam giới để làm nổi bật vẻ đẹp lý tưởng của nhân vật nam trong văn học giai

đoạn này. Về nhân nghĩa trong quan điểm nho giáo, nghĩa là điều nên nói, điều

nên làm “nói điều gì đó, làm việc gì đó thấy thảnh thơi, thoải mái trong lƣơng

tâm thì điều nói đó, việc làm đó là điều nghĩa, việc nghĩa. Ngƣợc lại, nếu có điều

gì đó không nói, việc gì đó không làm thì vốn bản thân nó là điều bất nghĩa, phi

nghĩa” [34, tr. 22]. Khổng Tử khi nói về đạo làm người đã đúc kết ba đạo lý

quan trọng nhất tạo thành nền tảng cho hệ thống luân lý, đó là nhân, lễ, nghĩa.

nghĩa của Khổng Tử đó là cái thích đáng hay cái đạo lý. Khổng Tử còn cho rằng

nghĩa là những phẩm chất thuộc về người quân tử còn lợi là thuộc về kẻ tiểu

nhân: “Bậc quân tử tin tƣởng về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rè về việc lợi”

(Luận ngữ, Lý nhân). Do vậy, người quân tử phải hành động vì nghĩa “ngƣời

quân tử dùng nghĩa lý làm căn bản, dùng lễ tiết để thực hành, dùng khiêm tốn để

tỏ lộ ra ngoài, dùng thành tín để làm nên công việc. Ngƣời nào đƣợc nhƣ thế thật

là ngƣời quân tử”. (Luận ngữ, Linh công). Mặt khác, Khổng Tử còn trọng dũng,

gắn liền dũng với nghĩa: “Tử Lộ hỏi rằng: Ngƣời quân tử có chuộng dũng

không?. Khổng Tử đáp: “Ngƣời quân tử lấy nghĩa là trên hết. Ngƣời quân tử có

dũng mà không có nghĩa thì làm loạn, kẻ tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa

64

thì là trộm cƣớp” (Luận ngữ, Dương hóa). Đổng Trọng Thư cũng cho rằng nghĩa

là phạm trù riêng biệt, nó khác với các phạm trù khác như lợi, nhân, trí,

tín...Theo ông thì nghĩa là để “nuôi cái tâm” – tinh thần, cao cả, lẽ phải.

Trong mối quan hệ giữa người với người, nho giáo còn chú trọng chữ

nhân và chữ nghĩa. Nhân nghĩa là người, con người và là nhân ái, nhân đức là

bản tính của con người. Theo nghĩa hẹp là một phẩm chất đạo đức cụ thể, cơ bản

và nền tảng của con người. Theo nghĩa rộng, nhân bao gồm mọi đức của con

người như lễ, nghĩa, trí, tín, trung…Khổng Tử luôn coi chữ nhân là đạo đức căn

bản của con người cả về xử thế lẫn tu thân, là trung tâm để chi phối các chuẩn

mực đạo đức khác của con người. Khổng Tử nói: “Nhân vừa là tu thân vừa là

nhân ái. Nhân là trung tâm của đạo đức từ đó mà phát ra các đức khác và các

đức khác quy tụ về nó”. Và Khổng Tử cũng cho rằng “Nhân là lòng yêu thƣơng

ngƣời. Nhân là tinh thần của lễ nhạc và chính trị. Khi đánh giá vai trò của nhân

trong nho giáo cho rằng đó là phẩm chất cao nhất của con ngƣời”[33, tr. 114].

Theo Khổng Tử “Nhân là cái gốc đạo đức của con ngƣời, là đạo làm

ngƣời”. Tuy nhiên, đạo làm người của Nguyễn Đình Chiểu lại thật gần gũi, phù

hợp với nhân dân. Cũng là chữ nhân nhưng chữ nhân của Nguyễn Đình Chiểu

gần gũi mà thiêng liêng hơn: biết sống cao đẹp, biết xả thân hy sinh vì ngƣời

khác. Chữ nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu ở đây không đối lập với tinh thần nho

giáo. Chữ nghĩa được ông hiểu theo tinh thần rộng mở, nghĩa là điều hợp với

lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của mọi người trong xã hội. Nó đặc biệt

gắn với quan hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan niệm đạo đức của

nhân dân.

Nhân vật Lục Vân Tiên là minh chứng đầu tiên cho tấm lòng trọng nghĩa

khinh tài, là nhân vật lý tưởng của tác giả Nguyễn Đình Chiểu với mẫu hình

người quân tử. Vân Tiên là nam tử hán nhưng không chỉ tài theo quan niệm xã

hội như tài văn võ, tài kinh luân như ta có thể thấy trong các nhân vật Kim Trọng

hay Từ Hải của Nguyễn Du. Vân Tiên còn được khắc họa rõ nét qua hành động,

như nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã nhận xét “các nhân vật chính diện tích

65

cực đƣợc miêu tả thiên về hành động và các hành động này đƣợc diễn ra nhƣ là

kết quả của sự giáo dục sâu sắc. Dƣờng nhƣ các nhân vật tích cực đã đƣợc

“chƣơng trình hóa” cho mỗi tình huống ứng xử, khi tình huống xảy ra lập tức có

hành động tƣơng ứng” [41, tr. 638].

Lục Vân Tiên có ước mơ và tham vọng về công danh, coi thi cử là con

đường để tiến thân. Vậy mà, trên bước đường vào kinh ứng thí, chàng đã nán lại,

làm một việc nghĩa đó là dẹp bọn cướp Phong Lai. Lục Vân Tiên vụt thành anh

hùng chỉ vì thấy việc phải mà làm:

“Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm ngƣời thế ấy cũng phi anh hùng”

Chàng không kịp nghĩ đến thiệt hơn, tai họa cho bản thân, cho dù bọn

Phong Lai nanh vuốt có cả bầy đàn, cho dù chàng chỉ một thân cây làm gậy. Tài

năng và sức mạnh chính nghĩa đã giúp chàng chiến thắng. Giúp người xong rồi,

chàng chẳng màng được đền ơn, chẳng nhận lấy một chút quà mọn làm kỷ

vật. Đó cũng là suy nghĩ theo lẽ phải. Phẩm chất ấy của Vân Tiên vừa biểu trưng

cho chữ nghĩa trong nho giáo vừa chính là đại diện cho tấm lòng hào hiệp, tốt

bụng của người dân Nam Bộ. Trong truyện, mọi hành động và cách nghĩ của Lục

Vân Tiên đều cho thấy ở Vân Tiên là một nhân vật lý tưởng, hội tụ đầy đủ những

chuẩn mực của một người anh hùng nghĩa hiệp, tuổi trẻ, tài cao, lòng đầy khao

khát muốn được đem công danh của mình để cứu người và giúp đời. Trên đường

đi thi, gặp bọn cướp Phong Lai hoành hành, Lục Vân Tiên đã xông vào để cứu

dân. Đây là một việc nghĩa mà chàng không thể không làm với mục đích cao đẹp,

xuất phát từ tầm lòng tự nguyện của mình:

Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân

Chỉ một mình, lại không có vũ khí, Vân Tiên đã dám bẻ gậy xông vào bọn

cướp đông người giáo gươm đầy đủ. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành

được so sánh với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc:

Vân Tiên tả đột hữu xung,

66

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đƣơng Dang

Lâu la bốn phía vỡ tan…

Với võ nghệ cao cường, Lục Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp và diệt tên

đầu đảng Phong Lai. Hành động của Vân Tiên còn tỏ rõ đức độ nghĩa hiệp “Giữa

đƣờng thấy sự bất bình chẳng tha”. Không sợ nguy hiểm, Vân Tiên sẵn sàng trừ

hại cho dân. Đánh xong hai tên cướp, thấy hai cô gái chưa hết hãi hùng, Vân

Tiên đã tỏ ra ân cần, hỏi han. Hành động của Lục Vân Tiên thật đàng hoàng

chững chạc. Tuy có phần câu nệ những vẫn là phong độ giữ lễ của một nguời có

văn hóa trong ứng xử với người bị hại. Thậm chí, Vân Tiên còn từ chối cái lạy

trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm vàng trao tặng mà chỉ nhận lời

cùng Nguyệt Nga xướng họa. Câu trả lời “Làm ơn há dễ trông ngƣời trả ơn” và

đặc biệt là câu nói “Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm ngƣời thế ấy cũng phi anh

hùng”, cho thấy mẫu người anh hùng lý tưởng của Nguyễn Đình Chiểu là việc

thấy nghĩa thì tự nguyện làm và đã làm việc nghĩa thì không cần trả ơn. Đó cũng

là quan niệm của nhân dân ta “Làm phúc không cần đƣợc phúc”. Qua hành động

này, cho thấy một minh chứng rằng Vân Tiên không chỉ là con người tài ba, dũng

cảm mà còn là con người trọng nghĩa khinh tài.

Ngay đến nhân vật tiểu đồng, kẻ tôi tớ, hay cũng là bạn đường của Lục

Vân Tiên suốt chặng đường chàng lên kinh ứng thí, cũng nghĩ suy và

hành động đâu kém người quân tử. Chú tận tụy chăm sóc cho thầy, bôn ba tìm

người chữa chạy để cứu thầy thoát khỏi nan y. Rồi khi ngỡ thầy qua đời,

chú ở lại bìa rừng, che mồ tưởng nhớ, không ngớt khói nhang. Lo thầy ấm áp lúc

sống, chú còn sợ thầy lạnh lẽo ở cõi bên kia. Tiểu đồng quả đã làm theo

chữ nghĩa của người xưa:

“Dốc lòng trả nợ áo cơm

Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền”

Nguyễn Đình Chiểu đã dùng chữ nghĩa để nói về mối quan hệ bạn bè của

Vương Tử trực. Lời của Vương Tử Trực khi nghe tai ương đến với bạn hiền Lục

Vân Tiên, Tử Trực nhớ nghĩa thâm giao, tiếc tình cảm giao bôi chưa thỏa:

67

Than rằng: chạnh nhớ linh xƣa

Nghĩa đà kết nghĩa, tình chƣa phỉ tình

Trong con người Tử Trực, nghĩa và tình không thể tách phân. Tình ngày

trước thế nào, tình hôm nay vẫn tràn đầy bát nước. Trong nghĩa tình bằng hữu,

dường như có cả đức thủy chung. Cho dù, nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Vương

Tử Trực cũng không vì thế mà kết duyên cùng với con gái Võ Thể Loan, mà luôn

coi người con gái đã đinh ước với bạn mình là chị dâu:

Vợ Tiên là Trực chị dâu

Chị dâu em bạn có đâu lỗi nghì

Các nhân vật nam chọn cho mình cách ứng xử nghĩa khí trong mọi mối

quan hệ, đặc biệt là với bạn. Đó là sự lựa chọn không chút suy tư, trăn trở.

Vương Tử Trực thể hiện sự dứt khoát trong suy nghĩ, lời nói. Chữ nghĩa, trong

truyện thơ, được đặt vào cửa miệng biết bao nhân vật. Vì nghĩa bạn bè, các nhân

vật nam giới cũng có thể rơi lệ, trái với hình ảnh ta thường thấy ở các đấng nam

nhi, mạnh mẽ. Hớn Minh vì nghĩa mà có lúc quyết liệt “bẻ đi một giò”, thể hiện

khí phách nam nhi, có lúc lại rơi lệ vì chính người bạn dù quen biết chưa lâu:

Mấy năm hẩm hút từng rau

Khó nghèo nỡ phụ, sang giàu đâu quên

Nguyễn Đình Chiểu chú ý đến góc nhân nghĩa, nhân nghĩa là đạo đức của

nhân dân từ đó ông xây dựng ứng xử với người, yêu quý người nhân nghĩa và

một thái độ dứt khoát yêu và ghét. Hớn Minh vì nhân nghĩa mà không nghĩ ngợi

xa xôi, bẻ chân con trai tri huyện Loan Minh. Vương Tử Trực không do dự mắng

nhiếc Võ thể Loan khi hắn bội nghĩa với Vân Tiên mà gán ghép Tử Trực với con

gái hắn:

Chẳng hay ngƣời học sách chi

Nói sao những tiếng kỳ dị khó nghe?

Hay là học thói nƣớc Tề

Vợ ngƣời tử Củ đƣa về Hoàn Công

Hay là học thói Đƣờng cung

68

Vợ ngƣời Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân

Ngƣời nay nào phải nhà Tần

Bất vi gả vợ Dị Nhân lấy nhầm

Nói sao chẳng biết hổ thầm

Ngƣời ta há phải là cầm thú sao

Hay những câu mắng nhiếc và cũng là thể hiện tấm lòng chung thủy với bạn:

Xin đừng tham đó, bỏ đăng

Chơi Lê quên lựu, chơi trăng quên đèn

Tinh thần trọng nghĩa khinh tài còn thể hiện ở việc Hớn Minh quỳ gối tạ

ơn khi biết ông Tiều đã cứu bạn mình:

Hớn Minh quỳ gối lạy liền,

Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành.

Này hai lƣợng bạc trong mình

Tôi xin báo đáp ân tình cho ông

Rồi cả khi nghe Vân Tiên kể lại những vụ tai nạn đã mắc phải, Hớn Minh

thương bạn:

Minh nghe Tiên nói động tình,

Hai hàng châu lụy nhƣ bình nƣớc nghiêng

Là con người dũng cảm, nóng tính như Trương Phi nhưng khi nghe

chuyện của bạn cũng trở thành con người mau nước mắt. Dù Hớn Minh hay

Vương Tử Trực xuất phát từ tầng lớp cao hay thấp trong xã hội, cách ứng xử của

họ đều mang đậm tinh thần nhân nghĩa, đạo lý làm người, không suy nghĩ thiệt

hơn, so đo nặng nhẹ và với tinh thần thẳng thắn, phân minh, rạch ròi.

Ta có thể thấy được vẻ đẹp trong tình bạn của Hớn Minh, Vương Tử Trực

và Lục Vân Tiên trong tác phẩm, đó là vẻ đẹp biểu trưng cho lòng nhân nghĩa.

Hớn Minh, Vương Tử Trực và Vân Tiên là bộ ba những anh hùng quân tử. Đó là

những trang nam nhi mang đậm tính cách của nhân dân Nam Bộ, trọng tình nghĩa

bạn bè, anh em. Trọng nghĩa là tinh thần của những con người nghĩa khí, những

con người sẵn sàng xả thân mình để cứu người, để làm những việc mà họ cho là

69

hợp với đạo lý và lòng trung thành. Lục Vân Tiên và Hớn Minh của Nguyễn Đình

Chiểu đều là những nhân vật được xây dựng trên tinh thần “Nhớ câu kiến ngãi bất

vi/ Làm ngƣời thế ấy cũng phi anh hùng”. Ta có thể thấy thái độ trọng nghĩa là thái

độ ứng xử của người dân Nam Bộ nói riêng, đây là một nét tính cách trội của

những người dân lưu dân vùng đất mới. Họ vốn là những lưu dân đi tìm sự sống

trong muôn ngàn cái chết. Qua nhiều lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần

hoạn nạn tương cứu, sinh tử bất ly, họ càng thấm thía thế nào là tình huynh đệ hào

hiệp, nghĩa khí, không lợi dụng quyền thế lấn áp kẻ yếu, không hại kẻ thất thế, ăn

ở thủy chung, kết giao không tính toán thiệt hơn, dám liều thân giúp người... Quan

niệm đó tạo nên một kiểu anh hùng, một kiểu quân tử bình dân.

Hình ảnh nam tính những anh hùng quân tử trong truyện Lục Vân Tiên

còn được thể hiện qua lối sống ngang tàng, đây chính là hệ quả của tinh thần

nghĩa hiệp của con người Nam Bộ. Họ đến từ những vùng đất khác nhau, Vương

Tử Trực, Lục Vân Tiên, thậm chí là Hớn Minh đều không quen biết nhau theo

kiểu “bạn nối khố” mà gặp nhau trên đường hoạn lộ, từ xuất thân khác nhau

nhưng ta thấy ẩn sâu trong họ là tinh thần phản kháng, ít chịu sự ràng buộc của lễ

giáo, không bao giờ chị khuất phục trước cái xấu. Họ chấp nhận những hiểm

nguy, thử thách thậm chí rơi phải hoàn cảnh tù đầy, chấm dứt đường công danh,

họ đã phải liều, chấp nhận tất cả rủi ro trên con đường phiêu bạt, coi nhẹ tính

mạng nên sống ngang tàng. Mặt khác, việc khai thác vùng đất mới đầy gian khổ

hiểm nguy cũng góp phần tôi luyện tính cách trên. Nhưng cần phải thấy rằng,

ngang tàng ở đây không phải là phá phách, là làm loạn. Ngang tàng là một nét

nhân cách Nam Bộ, đó là những con người không chấp nhận sống mà phải cầu

xin, phải khuất phục trước bạo lực. Lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt

khoát kiểu đã tròn cho ra tròn, vuông cho ra vuông. Một số không ít ca dao Nam

Bộ biểu lộ thái độ quyết liệt bằng các phân biệt rạch ròi giữa đỏ và đen, giữa tốt

với xấu giữa Nguyệt Nga - Vân Tiên với cha con Bùi Kiệm:

Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,

Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.

70

Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,

Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một mình.

Nếu như Hớn Minh, Vương Tử Trực đại diện cho những anh hùng hết

lòng vì bạn, vì nghĩa mà quên đi bản thân thì Trịnh Hâm, Bùi Kiệm lại chính là

những kẻ bất nhân, bất nghĩa thật sự. Dựa vào hệ thống những nhân vật phản

diện và chính diện, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra những tuyên ngôn trái ngược

nhau và hoàn toàn điển hình. Bùi Kiệm tiêu biểu cho lối ăn xổi ở thì và trong tình

bạn hắn cũng như vậy.

Trịnh Hâm đã có những hành động bất nghĩa với Lục Vân Tiên. Hắn đẩy

Lục Vân Tiên xuống sông hai lần. Gặp Lục Vân Tiên khi làm thơ trong quán và

tiễn Vân Tiên về quê chịu tang. Có thể thấy là Trịnh Hâm “so đo” đố kỵ với Vân

Tiên về tài năng. Nhưng khi Vân Tiên bỏ thi, lúc tiễn chàng về quê chính y đã có

những lời nói an ủi tiễn biệt rất lọt tai.

Hâm rằng: Anh chớ ƣu phiền

Khoa này chẳng gặp ta nghiên khoa sau

Thấy nhau khó nỗi giúp nhau

Một vầng mây bạc dàu dàu khóc thƣơng

Vân Tiên cất gánh lên đàng

Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng châu sa

Cũng là những giọt nước mắt, nhưng rõ ràng Trịnh Hâm không khóc vì

bạn, mà hắn luôn đố kỵ, tính toán với Lục Vân Tiên. Mặc dù an ủi nhưng hắn vẫn

hành động bì ổi với Vân Tiên. Trịnh Hâm trói tiểu đồng cho cọp ăn thịt, hành

động này giải thích bản tính Trịnh Hâm “trong dạ gƣơm đao”:

Trịnh Hâm trong dạ gƣơm đao

Bắt ngƣời đồng tử trói vào gốc cây

Trƣớc cho hùm cọp ăn mày

Hại Tiên phải đụng mƣu này mới xong

Trịnh Hâm khi ấy ra tay

71

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời

Trái với Trịnh Hâm, Bùi Kiệm lại là một tên ham sắc đến mất hết cả tình

nghĩa. Ứng xử của hắn với vợ của bạn là buông lời cám dỗ. Nguyễn Đình Chiểu

đã dùng những câu văn để thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét của mình đối với hắn:

Hay chi nhƣ vãi ở chùa

Một căn của khép bốn mùa lạnh tanh

Linh đinh một chiếc thuyền tình

Mƣời hai bến nƣớc biết mình vào đâu

Ai từng mặc áo không bâu

Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau

Nàng sao chẳng nghĩ trƣớc sau

Giữ ôm bức tƣợng bấy lâu thiệt mình

Nếu như các nhân vật chính diện được miêu tả bằng ngòi bút lý tưởng thì

nhân vật phản diện lại mang những nét xấu, bất nhân, bất nghĩa, sự đố kỵ, dục

vọng, thâm độc…Nhân vật phản diện dường như giống người hơn, mang nhiều

nét hiện thực hơn, tượng trưng cho sự xấu xa của xã hội cũ. Họ bị chi phối bởi

những tình cảm xấu: tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài. Trịnh Hâm và Bùi

Kiệm là đại diện hoàn chỉnh nhất cho những kẻ bất nhân, bất nghĩa trong mối

quan hệ bạn bè.

Tư tưởng “trọng nghĩa khinh tài” còn được thể hiện rõ qua lời chê trách

tham quan, phê phán những ông vua bạo ngược của ông quán. Đây được xem

như những lời tuyên ngôn, tôn chỉ của người quân tử: người quân tử có thể không

ra làm quan nhưng dứt khoát không bao giờ làm chuyện bất nhân, bất nghĩa và

hại nước hại dân:

Quán rằng: Ghét việc tầm phào

Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm

Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm

Để dâm đến nỗi sa hầm sẩy hang

Ghét đời U lệ đa đoan

72

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần

Ghét đời ngũ bá phân vân

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn

Ghét đời Thúc quý phân băng

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng với dân

Lẽ ghét thương là một trong những điểm sáng của truyện Lục Vân Tiên,

thể hiện quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa của ông Quán nói riêng và Nguyễn

Đình Chiểu nói chung. Sở dĩ ông Quán ghét cay ghét đắng những chuyện tầm

phào, những cái đa đoan, những cái dối trá, những trò mê dâm là vì chúng

làm rối dân, làm dân luống chịu lầm than muôn phần. Mỗi lần nhắc đến một đối

tượng đáng ghét, đáng lên án ấy sẽ là một lần thêm một câu bình luận về tội ác

của những tên bạo chúa gây ra gây cho dân lành. Và trong 10 câu thơ nói về lẽ

ghét thì có tới bốn câu thơ nói về cung bậc, mức độ khác nhau trong nỗi khổ mà

dân lành phải gánh chịu:

- Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang.

- Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

- Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

- Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân.

Qua lời nói của ông Quán ta có thể thấy “nhân nghĩa” rất được coi trọng

trong ứng xử của người xưa. Nhân vật không chỉ nói về “nhân nghĩa” mà còn

phải hành động được. Dù họ là những con người vô danh nhưng họ vẫn hiện lên

vô cùng đẹp đẽ, đẹp từ quan điểm sống đến việc làm nhân đức. Nhân vật ông

Ngư là một người như vậy. Mặc dù không có tên tuổi cụ thể nhưng thấy người bị

nạn, ông đã lập tức cứu giúp và cả nhà ông cùng tận tình cứu sống người bị nạn

dù không hề biết họ là ai:

Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ

Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng da, mụ hơ mặt mày

Câu thơ tuy bình dị, tự nhiên những đã kể lại hành động nhân nghĩa một

73

các chân tình của gia đình ông Ngư đối với người bị nạn. Không những cứu sống

Vân Tiên, ông còn lưu giữ chàng ở lại gia đình mình. Dù gia cảnh rất nghèo

nhưng ông sẵn lòng đùm bọ kẻ tật nguyền không chốn nương thân. Ông Ngư đã

không màng tính mạng của bản thân để cứu mạng Lục Vân Tiên. Quan điểm của

ông là:

Ngƣ rằng” Lòng lão chả mơ,

Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn

Lời nói của ông làm ta nhớ lại lời của Vân Tiên khi cứu Kiều Nguyệt Nga

“Làm ơn há dễ trông ngƣời trả ơn”. Không chỉ việc làm, quan niệm sống mà cả

phong cách sống của ông cũng rất đẹp. Đó là quan niệm “nghèo mà trong sạch,

không màng danh lợi”. Ông sống ung dung tự tại, kiếm sống bằng chính sức lao

động của mình: “Khỏe cua chài kéo, mệt quăng câu dầm”. Đó quả là một cuộc

sống rất mực thanh cao. Từ hành động đến quan niệm sống, ông Ngư là hình ảnh

tiêu biểu cho người dân lao động, cho đạo đức cao đẹp và trong sáng của nhân dân.

Tóm lại, qua sự đối sánh giữa các nhân vật nam chính diện và phản diện,

thái độ của tác giả ở đây cũng khá rõ ràng. Ông ca ngợi và hết lòng yêu thương

những con người có nhân cách cao thượng, tuy nghèo khổ nhưng đầy vị tha,

trọng nghĩa khinh tài như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, ông Ngư và ghét cay,

ghét đắng những kẻ xấu, kẻ ác như bọn cướp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm…Từ quan

điểm “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”,

Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên một hệ thống những nhân vật đối lập về

phẩm chất, tính cách được thể hiện khá rõ nét trong đặc điểm của các nhân vật

văn học trung đại trên tinh thần chính nghĩa thắng gian tà. Nguyễn Đình Chiểu

lấy đạo đức là kim chỉ nam chia hệ thống các nhân vật thành hai tuyến, đó là

nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Thuộc về nhân vật chính diện, đứng

đầu là Lục Vân Tiên với “văn võ toàn tài”, sống theo trung, hiếu, trí,

dũng…mang phẩm chất của người anh hùng lý tưởng. Hay Vương Tử Trực đại

diện cho sự ngay thẳng, Hớn Minh đại diện cho sự bộc trực, quả quyết. Bên cạnh

đó, các phe đối lập cũng được xây dựng khá đa dạng, đó là những kẻ mang danh

74

kẻ sĩ nhưng lại vô sỉ, thâm hiểm như Trịnh Hâm và Bùi Kiệm; những kẻ tột đỉnh

cao sang nhưng lại mang danh phản trắc như thái sư, lật lọng, bạc tình bạc nghĩa

như Võ Công. Thông qua đó, có thể thấy được quan điểm của Nguyễn Đình

Chiểu khi xây dựng hệ thống những nhân vật nam của mình. Những nhân vật

như Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Vương Tử Trực được xây dựng thiên về mẫu hình

người quân tử trên phương diện lý tưởng hóa phẩm chất, đạo đức. Đó cũng là

thành công của việc lý tưởng mẫu hình người anh hùng chính thống trong truyền

thống văn học nho gia, mẫu hình người trung nghĩa, người anh hùng pha chút

nghĩa hiệp. Trong đó nhân vật Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực đại diện cho hình

tượng người anh hùng vô danh, tiêu biểu cho sức mạnh, lòng dũng cảm, không

chỉ đại diện cho giá trị nho gia mà còn đại diện cho người dân Nam Bộ nói

chung. Toàn bộ tác phẩm cũng như hình tượng nhân vật nam giới là lời ca ngợi

cho những con người vô danh sống theo chuẩn mực luân thường. Lối sống theo

chuẩn mực, bổn phận, nghĩa vụ chứ không phải theo khát vọng và tự do về nhu

cầu cá nhân.

2.4. Vẻ đẹp của lý tƣởng

Như đã khảo sát ở chương 1 về quan niệm về nam giới trong văn học Việt

Nam qua một số tác giả tiêu biểu thì ta có thể thấy một đặc điểm chung, đó là hễ

cứ là nam nhân chân chính thì phải có tài năng, phải lập công danh sự nghiệp.

Điểm này là thống nhất từ Phạm Ngũ Lão qua Nguyễn Công Trứ đến Nguyễn

Đình Chiểu và đến tận Phan Bội Châu. Quan điểm về lý tưởng của người nam

nhi đúng như Nguyễn Công Trứ và các nhà thơ khác đã từng khẳng định:

Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông

Đó là đích đến chung của kẻ làm trai trong chế độ phong kiến. Câu thơ

nêu bật nên vị thế của kẻ làm trai và của đấng nam nhi trong cuộc đời, trong vũ

trụ. Lý tưởng của người nam nhi chính là “phải có danh”, đó là trách nhiệm và

nghĩa vụ, là một quan niệm đẹp và tích cực của kẻ sĩ. Là chí nam nhi, là kẻ sỹ

trong cõi đời phải làm nên sự nghiệp to lớn, để lại công trạng, công đức cho đất

75

nước, quê hương. Theo quan niệm của nhà nho xưa, kẻ sĩ là phải lập thân bằng

con đường khoa cử. Triều đình phong kiến chọn nhân tài bằng con đường khoa

cử. Sĩ tử cũng phải dấn thân bằng con đường khoa cử, thi thố tài năng với thiên

hạ, mong ghi tên vào bảng bia đã để làm quan. Làm quan là để thực hiện lí tưởng

trung quân ái quốc. Gặp thời loạn thì giúp vua dẹp giặc đem lại thái bình cho quê

hương. Gặp thời bình thì đem tài kinh bang tế thế, trị nước cứu đời, làm cho đất

nước cường thịnh. Là đấng trượng phu, là kẻ nam nhi thì không thể sống tầm

thường, không thể ru rú nơi xó nhà, mang thân phận phường giá áo túi cơm. Kẻ

sĩ chân chính phải sống bằng tài đức, qua rèn luyện “thập niên đăng hỏa” ở cửa

Khổng sân Trình, dùi mài kinh sử và bằng con đường thi cử, đỗ đạt, làm nên

những công việc phi thường như rời non, lấp bể, đội đá và trời, ghi danh vào sử

sách, làm rạng rỡ gia dình, quê hương, vẻ vang đất nước. Quan niệm về lý tưởng

của nam nhi về “công danh” là rất đúng đắn và tích cực đối với một nhà nho, một

kẻ sí hăm hở lập thân trong xã hội cũ. Công danh này không phải là cái danh hão,

là hư danh, là thứ danh lợi vị kỷ tầm thường. Công danh đây còn là tiếng thơm, là

công cuộc ích lợi quốc dân, là công danh được đo bằng tầm vóc phi thường, là tài

năng và đạo đức xuất chúng. Những kẻ dốt nát, tham lam, tầm thường…sẽ không

có được cái danh ấy. Câu thơ trên đây thể hiện một tâm thế của kẻ tài trai, của

đấng nam nhi mang khát vọng công danh, hoài bão tung hoành. Tuy nhiên, muốn

làm nên công danh thì phải có trung hiếu, kẽ sĩ không có công danh thì cuộc đời

mất hết ý nghĩa, trở nên vô nghĩa “nát với cỏ cây”. Như vậy, danh mới được ghi

vào sử sách, để lại tiếng thơm cho đời.

Khi bàn về chữ trung, những lý luận chính trị của Khổng Tử luôn mang

nặng chủ nghĩa tôn quân. Khổng Tử luôn giáo dục ứng xử của dân, bề tôi với

vua. Trong đó dân đối với vua coi như cha mẹ, luôn trung thành với vua. Giữa

dân và vua phải có mối quan hệ khăng khít, vua thì tinh anh mà dân thì trung

quân, ái quốc. Vua luôn lấy nhân, lễ để bình thiên hạ và quản lý nhà nước. Trong

mối quan hệ vua – tôi, vua thì giữ lễ, bề tôi giữ trung, đó là mối quan hệ đối đãi

tương hỗ trong cư xử trong vòng nhân lễ. Khổng Tử chủ trương người ở trên

76

khoan dung, nhân hậu còn người ở dưới, nhấn mạnh đến đức tính, phải có lòng

trung, làm hết chức phận của mình. Tận trung mà nho giáo đề cập đó là sự tình

nguyện hiến dâng cả cuộc sống của mình. Đặt ra bổn phận của bề tôi phải thờ

vua, cung kính vua. Với Khổng Tử và Tăng Tử thì khái niệm trung là đức tính

một lòng một dạ đối với một người nào đó, nổi bật là sự hết lòng thờ vua của bề

tôi. Tăng Tử viết “Vì nhân mƣu nhi bất trung hồ”. Khổng Tử viết “Thần sự dĩ

quân dĩ trung”. Đó là tiêu chuẩn giữa người với người. Mạnh Tử ít chú trọng đến

nguyên tắc của bề tôi, ông cho rằng quan hệ vua tôi chỉ có tính chất tương đối.

Tống Nho và Hán Nho, đạo trung quân đòi hỏi ở mọi người, ở bất cứ thần dân và

kẻ bề tôi một sự phục tùng tuyệt đối và vô điều kiện với vua. Do đó, dẫn đến thái

độ ngu trung, quan điểm trung thần bất nhị phân và sự phục tùng mù quáng của

vua kể cả đó là vua tốt hay vua xấu.

Khái niệm trung trong tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu và trong sự vận dụng

của ông để giải đáp những vấn đề của đời sống lẽ dĩ nhiên có liên quan đến luận

điểm về sự phục tùng trong quan hệ vua tôi của nho giáo. Nhưng vì ông sống

dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn mục nát, trong đó từ vua đến quan đều hủ

bại, nên ông đã đi xa dần khỏi cái quan điểm “ngu trung” mù quáng của Hán

Nho và Tống Nho. Và ít nhiều ông trở lại với ý nghĩa nguyên sơ của khái niệm

trung thời Khổng Mạnh. Nhưng sự trở lại đó của ông không phải từ lập trường

của giai cấp thống trị, mà từ lập trường của nhân dân. Ngay ở điểm ấy, ông đã có

chỗ khác với các nhà sáng lập ra đạo Nho.

Điều quan trọng ở đây là Nguyễn Đình Chiểu đã cải biến khái niệm trung

của nho giáo và làm cho nó có những nét mới mẻ sinh động nhằm đáp ứng một

phần nào những yêu cầu dân chủ và dân tộc của nhân dân Việt Nam. Ông quan

niệm rằng đạo trung quân là cần thiết cho mọi người. Nhưng ông đòi hỏi một ông

vua được mọi người tôn thờ phải là ông vua hiền tài, thương dân yêu nước. Ông

vua ấy phải tượng trưng cho hạnh phúc của nhân dân và nền tự chủ của đất nước.

Ông ta phải biết nghiêng mình xuống cứu vớt những con người sống trong đau

khổ và hoạn nạn, và nhất là phải biết cùng toàn. Ông xuất phát từ lợi ích của dân

77

để đánh giá về vua.

Xã hội phong kiến luôn đề cao nho giáo, tác phẩm Lục Vân Tiên không

nằm ngoài điều đó, sáng tác thấm nhuần tư tưởng nho giáo, răn dạy bổn phận tôi

phải “trung” với vua nhưng đó không phải là mối quan hệ mù quáng mà là mối

quan hệ có điều kiện, đó là trung với minh quân, không ưa vua bạo ngược, ghét

gian thần. Nguyễn Đình Chiểu có cái nhìn nhất quán về thời cuộc. Nhân vật ông

Quán là nhân vật đặc biệt, mặc dù không có lai lịch rõ ràng nhưng lại phát ngôn

về đạo lý thời cuộc. Yêu nước nhưng lại xa lánh cuộc đời, ở ẩn, đây là cách lựa

trọn cho vẹn toàn của ông. Ông Quán mượn lịch sử để lên án vua chúa, nói có

ngụ ý. Nhân vật ông Quán xuất hiện để nói hộ Nguyễn Đình Chiểu những quan

niệm về tư tưởng yêu dân, coi trọng lẽ phải. Ông Quán tuy là nhân vật vô danh

trong tác phẩm thế nhưng với tuyên ngôn của mình lại thể hiện con người đạo

đức của người quân tử. Đó là minh chứng cho mẫu hình người quân tử đại diện

cho nhân dân, xuất thân từ những người dân thường áo vải.

Nguyễn Đình Chiểu ít nói đến hôn quân, cũng không gay gắt với những

mẫu quan lại một cách cụ thể nhưng trong thâm tâm ông dần hình thành sự đau

xót, với tình cảnh đất nước. Với ông, nước gắn với vua nhưng nhân vật ông vua

trong truyện Lục Vân Tiên xuất hiện hết sức mờ nhạt, không bị đả kích trực tiếp

mà thông qua nhân vật Sở vương- hình tượng nhà vua sợ giặc, ưa xu nịnh. Đó là

Sở Vương - một tên vua nhu nhược, bị nịnh thần hôn mê và làm cho xã hội rối

ren, dân chúng đau khổ, giặc ngoài xâm lược. Nguyễn Đình Chiểu đã vạch ra sự

u mê của Sở Vương:

Phán rằng: Trẫm sợ nƣớc phiên

Có ngƣời Cốt Đột phép tiên lạ lùng

Nay đã trừ cốt đội xong

Thật trời sinh trạng giúp trong nƣớc nhà

Phải chi sớm có trạng ra

Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ

Vua làm cho nhân dân lầm than, tuy không đả kích lộ liễu nhưng đối

78

tượng mà Nguyễn Đình Chiểu nhắm đến trực tiếp đó là vị vua ngồi chễm chệ

trên ngai vàng. Nguyễn Đình Chiểu mượn điển tích, điển cố qua “Lẽ ghét

thương” của ông Quán phân tích khá rạch ròi, yêu Khổng Tử, Nhan Uyên, Đổng

Trọng Thư, Đào Tiềm, Khổng Minh…nhưng lại ghét Kiệt Trụ, U Lệ, Thúc

Quý…Nguyễn Đình Chiểu đã không ít lần lớn tiếng lên án những tên vua nhu

nhược, không dám đối diện trực tiếp với kẻ thù, sẵn sàng cắt đất cho giặc, đẩy

nhân dân vào chốn lầm than:

Kể từ Thạch Tấn ở ngôi

U Yên mất quận cắt bồi Khiết Đan

Sinh dân nào xiết bùn than

U Yên trọn cũng giao bàn về Liêu

Trước tình thế mất nước, là một người quân tử thì nên chính trực thẳng

thắn, không nên có thái độ ngu trung, nghe theo mệnh lệnh đầu hàng của vua, mà

phải chống lại hành động đó. Nguyễn Đình Chiểu không trực tiếp phê phán vua

nhưng đối tượng phê phán của ông là tất cả những gì đi ngược lại với lý tưởng an

dân, với vận nước và với sự vẹn toàn của ngôi vua.

Hình tượng người quân tử vốn là mẫu hình lý tưởng của học thuyết nho

gia, cùng với sự ảnh hưởng của nó, hình tượng này thể hiện sự chuẩn mực về

nhân cách của nam giới. Quan niệm của người quân tử đã xuất hiện từ lâu,

Khổng Tử không phải là người đầu tiên tạo ra thuật ngữ về người quân tử. Mà ở

đời Chu, quan niệm về người quân tử đã được lưu hành rộng rãi. Tuy nhiên, đời

Chu chỉ nói đến người quân tử trên phương diện địa vị xã hội. Quân tử là kẻ cai

trị, người có chức phận cao, cai trị dân, có đức hay không có đức đều gọi là

người quân tử, còn dân thường hay bị trị đều gọi là tiểu nhân. Đến Khổng Tử khi

nói về học thuyết của mình, Khổng Tử cũng sử dụng phạm trù này nhưng lại bổ

sung cho nó những dụng ý mới. Ông nhấn mạnh yếu tố tư cách, ông cho rằng

người quân tử là người có đức hạnh, có nhân cách, xứng đáng với địa vị trị dân,

giáo dân. Do vậy, ứng xử của người quân tử cũng được đề cao hơn hết, đó là

trong mối quan hệ “vua – tôi” vốn là quan hệ được đặt nên hàng đầu trong ứng

79

xử Nho giáo. Quan niệm nho giáo Khổng Tử đã dành hẳn chữ trung khi nói về

đạo đức của người quân tử với bề trên. Quan niệm này xuyên suốt trong tư tưởng

của các nhà nho yêu nước mà Nguyễn Đình Chiểu không phải là một ngoại lệ.

Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là “một sáng kiến của nhà nho

muốn giải quyết tình trạng bế tắc”. Đó là tiếng nói tích cực của các nhà nho mà

Lục Vân Tiên, Hớn Minh và Vương Tử Trực là đại diện. Tác phẩm Lục Vân Tiên

được xem là cuốn tự truyện chứa nhiều ước mơ thầm kín của Nguyễn Đình

Chiểu - một nhà nho chân chính nhưng sinh không hợp thời. Trong thời buổi

nhiễu nhương ấy không may vướng vào tật nguyền, không thể phò vua, giúp

nước, làm tròn trách nhiệm nam nhi, vì vậy tác giả gửi gắm tâm sự, nhắc nhở đạo

lý vào truyện. Điều này được bộc lộ rõ rệt qua lời nhắn nhủ của truyện Lục Vân

Tiên ở đầu:

Ai ơi lẳng lặng mà nghe

Dữ răn việc trƣớc lành dè thân sau

Nguyễn Đình Chiểu muốn lẳng lặng lắng nghe để làm theo đạo lý thánh

hiền, xuất phát từ nho giáo, đó là phương châm xuất thế của bậc trượng phu.

Nguyễn Đình Chiểu không bình luận triết lý đạo nho mà chỉ muốn dạy cách cư

xử, hành động sao cho hợp lẽ phải, tình người. Một trong những điều đó là quan

niệm về phạm trù “trung quân”:

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình

Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm ngƣời thế ấy cũng phi anh hùng

Nƣớc trong rửa ruột sạch trơn

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây

Ngƣ rằng: “tôi chẳng lòng sờn

Xin tròn nhân nghĩa còn hơn bạc vàng

Chữ “trung” trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu không hoàn toàn

giống với đạo lý của nho giáo áp đặt, gò bó, cực đoan mà thông qua lời nói, hành

80

động nhân vật của ông đề cao đạo lý nhân bản.

Ứng xử trung được thể hiện khác nhau ở mỗi tuyến nhân vật, nếu như việc

Thái sư mượn chữ trung để hiến kế để gia đình Kiều Công cống nộp Kiều Nguyệt

Nga, là giải pháp cầu hòa thì Kiều Công - người cha thương Kiều Nguyệt Nga

cũng viện vào “việc quân vƣơng” để giải thích hành động tiễn con gái lên đường:

Kiều Công lụy ngọc nhỏ sa

Các quan ai nấy cũng là đều thƣơng.

Chẳng qua là việc quân vƣơng,

Cho nên phụ tử hai đƣờng xa xôi

Ở đây, chữ trung được đặt trên mối quan hệ phụ tử, phụ tử hi sinh vì quân

vương. Tuy nhiên, trung quân ở đây không có sự tự nguyện mà suy cho cùng là

sự oán trách:

Việc này là việc triều đình

Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan

Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng

Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga

Ta có thể thấy, Kiều Nguyệt Nga không toàn tâm toàn ý cho thể hiện chữ

trung với vua mà chỉ vì lo cho sự sống của cha nơi quê nhà. Nguyễn Đình Chiểu

đã nhiều lần đề cập đến cách hiểu về chữ trung trong tác phẩm, đã nhiều lần chữ

trung ở đây được hiểu bằng chữ “ngay, ngay thẳng” với vua:

Nghĩa tình nặng cả hai bên

Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chàng

Các nhân vật nam luôn được đề cao chữ trung, mục đích tối thượng cho

cuộc đời của họ là ra làm quan để cho trong trung với vua, với nước:

Làm trai ơn nƣớc nợ nhà

Thảo cha ngay chúa mới là tài danh

Nhân vật Lục Vân Tiên được xây dựng theo mẫu hình lý tưởng với bổn

phận làm trai dẹp giặc Ô qua cứu nước. Chàng cũng là hiện thân của tinh thần

trung hiếu:

81

Phò đời giúp nƣớc phơi gan anh hùng

Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, chữ trung, hiếu được sử dụng với nội dung

lớn hơn. Đó là phê phán xã hội phong kiến bế tắc, kỷ cương, trật tự xã hội lỏng

lẻo sau khởi nghĩa nông dân và binh biến, hệ tư tưởng nho giáo phải lùi bước

trong việc kiểm soát tinh thần xã hội. Trật tự vua tôi, anh em bị vi phạm ngay

trong nội bộ triều đình, giai cấp có hệ tư tưởng tiến bộ không đủ đức hình thành,

triều đình lưỡng lự trước việc chiến hay hòa. Chính vì vậy, chữ trung được đặt

lên hàng đầu trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

Qua tác phẩm Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện quan điểm của mình:

Trọn đời thể hiện tấm lòng son

Những mong trả nợ nƣớc nhà cho rồi

Thể hiện bổn phận, chí làm trai để trả nợ nước non, không phải cứ thành

danh mới là trả nợ nước non, mà bất cứ việc gì dù sang hay hèn đều có thể trả nợ

xứng đáng. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu dẫn dắt không còn cứng nhắc như

lúc ban đầu mà với ông lúc này, trung hiếu tiết hạnh mang nội dung nhân dân.

Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu dẫn dụ ra hệ thống các nhân vật

nam giới trung và nịnh hiện ra rõ nét.

Như đã nói ở trên, quan niệm nho giáo, Khổng Tử luôn đề cao trí, dũng,

nhân, trong nó đặc biệt là dũng. Dũng là sự can đảm, dũng cảm, nghĩa hiệp để

chiến thắng bản thân và sẵn sàng giúp đỡ người khác. Cốt lõi của việc trở thành

người quân tử là con đường tu thân. Trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu, ngay

từ đầu nhân vật Lục Vân Tiên đã đề cao mục đích tu thân của mình. Tu thân là

nghiêm khắc với bản thân, sửa chữa những thiếu sót để hành đạo giúp đời, vừa

vinh hiển gia, vừa an bình thiên hạ (Tự thiên tứ dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ

tu thân vị bản). Về đức, nhân vật Lục Vân Tiên và ông Quán luôn là những con

người vẹn toàn. Mục đích sáng tạo những nhân vật ông Quán, Lục Vân Tiên,

Hớn Minh, Vương Tử Trực – con người của nho giáo nói chung và trong sáng

tác của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng đều thể hiện ước mơ, mục đích giáo dục

đức tính hướng nam giới trong xã hội đến cái thiện, cái hoàn mỹ của phẩm giá và

82

nhân cách. Do vậy, phẩm chất của họ bộc lộ từ tướng mạo, hành vi, ngôn ngữ, từ

tư cách, thái độ luôn phải toàn diện, toàn mỹ, xứng đáng với lối đức trị của

Khổng Tử. Từ đó, hướng đạo đức của người quân tử vào việc bảo vệ chế độ

phong kiến, củng cố trật tự, đẳng cấp và trung thành tuyệt đối với vua. Tuy

nhiên, rất ít người đạt đến mức độ này. Như vậy, quan niệm của nho giáo về con

người lý tưởng hầu như là mang tính chất không tưởng.

Xét về nhân vật, Lục Vân Tiên là đại diện cho tinh thần trung nghĩa. Luôn

muốn thành danh bằng con đường khoa cử, đi thi ra làm quan để giúp nước, giúp

dân. Hành động đầu tiên của sau khi làm quan của chàng đó là nghe theo lệnh

giúp vua giệt giặc Ô Qua:

Làm trai ơn nợ nƣớc nhà

Thảo cha ngay chúa mới là tài danh

Hớn Minh cũng là một nhân vật hảo hán trong tác phẩm, cũng nghĩa khí

cứu giúp người bị nạn, dù là tội phạm triều đình, nhưng khi có cơ hội được lập

công thể hiện chữ trung của mình thì chàng cũng không hề nề hà nghe theo lệnh

vua để cùng Vân Tiên đánh Cốt Đột:

Sở Vƣơng phán trƣớc triều đình

Chỉ sai tha tội Hớn Minh trở về

Sắc phong phó tƣớng bình di

Tiên Minh tƣơng hội xiết gì mừng vui

Yêu nước của Lục Vân Tiên và Hớn Minh được thể hiện bằng hành động. Họ

không chỉ giúp dân bằng những việc lặt vặt mà còn dốc lòng giúp nước:

Làm trai trong cõi thế gian

Phù đời giúp nƣớc phơi gan anh hào

Giúp nước ở đây chủ yếu là đánh đuổi giặc ngoại xâm. Như vậy, mục đích

của trí và dũng trước hết là vì dân, vì nước và đồng thời vì vua. Người quân tử

không thể nhắm mắt ngồi nhìn gian thần làm cho đất nước nghiêng đổ và nhiệm

vụ của người anh hùng là phải xoay chuyển cột cờ.

Trái ngược với hành động trung quân, ái quốc còn là hệ thống nhân vật

83

nịnh, bán nước hại dân, mưu cầu lợi lộc cá nhân mà Nguyễn Đình Chiểu cũng lên

án. Đó là tên thái sư với bản chất bán nước, hại dân của Thái sư đã được thể hiện

ngay ở việc vì nghĩ đến mối thì cá nhân, hắn chủ trương công Nguyệt Nga cầu

hòa với nước Ô qua:

Thái sƣ nhớ việc cừu nhà

Vội vàng quỳ xuống tâu qua ngai vàng

Thuở xƣa giặc mọi dấy loàn

Vì ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa

Muốn cho khỏi giặc Ô Qua

Đƣa con gái tốt giao hòa thời xong

Nguyệt Nga là gái Kiều Công

Tuổi vừa hai tám mà hồng tƣơng xinh

Hành động trung quân của thái sư tiếp tay cho tội ác khiến nhân dân lầm

than, dùng sự trung quân của mình để trả thù riêng:

Sở Vƣơng phán trƣớc bệ tiền:

Những ngờ tƣớng giỏi tôi hiền mà thôi

Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi

Thái sƣ ý muốn cƣớp ngôi chính trùng

Hớn xƣa có gã Đổng công

Nuôi thằng Lữ Bố, cƣớp dòng nhà Lƣu

Thái sư dù chỉ xuất hiện với vai trò nhân vật nịnh, nhưng hành động của

hắn chủ trương cầu hòa được gán vào hành động bất trung với vua với nước,

được phân tích:

Thái sƣ trƣớc chẳng lo lừa

Thiếu chi dân thứ phải đƣa tới nàng

Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng

Không soi chậu úp cũng mang tiếng đời

Rõ ràng, cùng việc đánh giặc Ô Qua, mỗi tuyến nhân vật có cách giải

quyết khác nhau cho chữ trung. Nếu như Hớn Minh và Vân Tiên xả thân không

84

ngại hiểm nguy đến tính mạng khi có cơ hội lập công thì Thái sư lại chủ trương

đưa Nguyệt Nga cầu hòa. Ứng xử của hệ thống nhân vật chính tà hoàn toàn khác

nhau. Với Lục Vân Tiên, trung là trung với nước, với vua khi nước nhà lâm

nguy. Còn Thái sư thì mượn việc nước để trả thù nhà. Nguyễn Đình Chiểu mượn

điển tích, điển cố về Lữ Bố, có một cái nhìn nhất quán trong việc thể hiện cái

trung của mình. Đó là hành động biểu chưng cho những kẻ tiểu nhân, cần được

lên án.

Tóm lại, ở Nguyễn Đình Chiểu, nội dung ái quốc mang tính tuyệt đối,

trung quân chỉ mang tính chất tương đối, ông đòi hỏi những nhân vật nam giới

của mình làm đúng theo bổn phận và nghĩa vụ với đạo đức, duy lý hơn duy tình.

Những nhân vật nam trong truyện Lục Vân Tiên đều xuất phát từ những người

nông dân, họ là những anh hùng vô danh nhưng lại tiêu biểu cho sức mạnh, lòng

dũng cảm và sự hy sinh cao cả, đại diện cho toàn bộ sức mạnh tinh thần dân tộc.

Nguyễn Đình Chiểu nhìn nhận các nhân vật nam giới của mình dưới góc nhìn

của một nhà nho, họ là những người nông dân sống theo mẫu tính cách, nghĩa vụ

mà không phải là sống theo khát vọng, sở thích, tài năng. Mặc dù còn nhiều hạn

chế, nhưng xét cho cùng đây là đặc điểm về cách nhìn nhận con người thời bấy

giờ.

Bên cạnh mối quan hệ vua – tôi, nho giáo đặc biệt chú trọng đến ứng xử

trong mối quan hệ cha con. Nho giáo quan niệm con người nói chung, sinh ra,

lớn lên, chết đi đều biết thực hành chữ hiếu. Chữ hiếu thường được ghép với chữ

đễ. Hiếu là đối với cha mẹ, đễ là đối với anh, chị em trong nhà. Rộng ra, đễ còn

để khu xử những mối quan hệ xã hội, với người lớn tuổi hơn, với người mình tôn

trọng. Đó là đễ. Còn hiếu thì thực hành đối với cha, mẹ, ông bà, tổ tiên, dòng tộc.

Đó là hiếu. Hiếu đễ là giá trị để đánh giá nhân cách con người.

Song, nói hiếu đễ thì dễ, thực hành mới khó. Khổng Tử, ông tổ của nho

giáo, có rất nhiều bài kệ dạy con người thực hành hiếu một cách cụ thể. Phận làm

con phải biết tuổi cha mẹ để mừng, để kính; không nên đi chơi xa để cha mẹ nhớ

85

mong; nếu bắt buộc đi thì phải báo cho cha mẹ biết…Từ đó, quan niệm cách thực

hành hiếu khắt khe được đẩy lên cao hơn: “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất

hiếu”.

Chữ hiếu về cơ bản cũng xuất phát từ tinh thần của nho giáo. Câu Trai

thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình cho thấy quan

niệm trung hiếu được sử dụng nhiều hơn hiếu đễ. Trung ở đây là trung với nước.

Trung với nước được coi là đại hiếu.

Nguyên tắc mà Khổng Tử nói ở đây, ông cho rằng làm cha thì phải xứng

đáng làm cha, làm con phải có bổn phận làm con. Nguyên tắc xử lý mối quan hệ

với họ là làm cho cha mẹ yêu thương con cái và làm cho con cái phải hiếu thuận

với cha mẹ. Con cái đối đãi với bố mẹ phải chân tình, xuất phát từ sự chân thành,

nếu không thì chỉ là sự tôn kính phụng dưỡng cha mẹ trên hình thức thì chẳng

phải hiếu thảo thực sự. Nho giáo cổ đại đề xướng bề tôi phải trung với vua, con

phải hiếu thảo với cha mẹ, xã hội cổ đại đặc biệt tôn trọng người có hiếu, điều đó

được thể hiện ngay khi cha mẹ còn sống, người con không có quyền quyết định

nhưng có thể bộc lộ chí hướng của mình khi cha mẹ mất. Nếu người con không

giữ vững được mà dám thay đổi những quy tắc, quy phạm của xã hội đương thời

thì đó là người không có hiếu …Khi cha mẹ mất, phải để tang ba năm mới gọi là

có hiếu.

Nội dung trong hiếu là thuận, Khổng Tử cho rằng “không làm trái”. Chớ

nên trái ngược, tức là không làm trái ý của cha mẹ, tuy nhiên không làm trái

không phải là thuận lòng vô nguyên tắc mà là thờ cha bằng lễ. Hiếu là gốc của

nhân. Tử Hữu học trò của Khổng Tử đã từng nói: “Một ngƣời có hiếu thảo với

cha mẹ và tôn kính anh em, mà ƣa trái nghịch bề trên, ƣa gây ra những cuộc

phản loạn, ngƣời nhƣ vậy là chƣa từng có cho nên ngƣời quân tử cần nắm cái

gốc. Cái gốc đƣợc vững chắc, tự nhiên đạo lý đó bắt đầu mà sinh ra. Vậy làm

ngƣời biết giữa gìn hiếu thảo với cha mẹ và tôn kính anh em tức là biết nắm lấy

cái gốc của điều nhân”. Có lòng yêu thương cha mẹ và người thân trong nhà thì

86

mới biết yêu những người ngoài.

Hiếu là linh hồn, là trọng tâm của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam

từ xa xưa, và được nho giáo khẳng định thêm sâu sắc và dần được cơ chế hóa,

làm nền tảng luân thường đạo lý cá nhân cũng như xã hội và toàn thể quốc gia.

Tại Trung Quốc, vào thế kỷ II – I trước Công Nguyên, sách Hiếu Kinh được trích

từ Tứ thƣ ngũ kinh nâng đạo hiếu lên mức thiên đạo: “Đạo hiếu là kinh sách của

Trời, nghĩa lý của đất, là hành động của muôn dân”. Hay “Làm cho cha mẹ

đƣợc tôn trọng là bậc hiếu cao nhất, không làm nhục cha mẹ là bậc hiếu thứ hai,

nuôi đƣợc cha mẹ là bậc hiếu thứ ba. Nhƣng nuôi mà không kính trọng thƣơng

yêu chƣa đủ, vì chó ngựa cũng đƣợc nuôi. Nuôi mà không kính ái thì chẳng khác

gì nuôi súc vật” (Luận Ngữ).Nhưng sống hiếu thảo không có nghĩa là cha mẹ

làm gì con cũng phải làm theo. Khi cha mẹ sai lầm, con phải hết lòng can ngăn

để cha mẹ tránh lỗi lầm. Điều cần là lấy lời ôn tồn trình bày phải trái với cha mẹ

(Luận Ngữ).

Sách Nhị Thập Tứ Hiếu cũng gốc nho giáo được dịch ra quốc âm để nêu

gương hiếu, phổ biến toàn quốc. Đồng quê cũng như đô thị, nhiều người đã biết

hoặc thuộc lòng:

Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết

Thì suy ra trăm nết đều nên

Chẳng xem thuở trƣớc thánh hiền,

Hiếu hăm bốn mẫu, thơm nghìn muôn thu.

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho chính thống, do vậy ông ra sức ca

ngợi và bảo vệ nho giáo và tử tưởng Khổng Tử. Điều đặc biệt là ông luôn đề cao

tam cƣơng ngũ thƣờng của nho giáo theo quan niệm của nhân dân trong mỗi

nhân vật của ông. Đối với chữ hiếu, tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu cũng mang

đậm tính chất nhân dân. Mọi nhân vật đều có những cách ứng xử khác nhau, tùy

thuộc vào vị trí người quân tử hay kẻ tiểu nhân. Điển hình cho chữ hiếu trong tác

phẩm Lục Vân Tiên ta phải kể đến đó là người con hiếu thảo Lục Vân Tiên. Chữ

hiếu trong thơ của ông không quá cực đoan như trong nho giáo Khổng Tử mà hết

87

sức thoải mái. Hành động biểu trưng cho chữ hiếu là nghe theo sự sắp đặt của

cha mẹ. Điều đó cho thấy, trong quan niệm về gia đình của nho giáo, cha mẹ là

người nắm quyền hành tuyệt đối. Cho nên trong phép tắc ứng xử giữa cha con

luôn đề cao chữ hiếu, con cái nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của cha mẹ, kể cả

việc định đoạt hôn nhân, con cái cũng phải nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ “cha

mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Dưới chế độ phong kiến, con cái không dám chiống

lại quyết định của cha mẹ vì xã hội xem các chuẩn mực đạo đức trên tương

đương với giá trị pháp lý khiến con trẻ răm rắp nghe theo các quy định của cha

mẹ đưa ra. Đó là các chuẩn mực về nhân, lễ, trí, dũng. Trong gia đình, chữ Lễ

được đặt lên hàng đầu. Vì thế, con cái phải biết nghe lời, hi sinh mình để báo

Hiếu cha mẹ, thậm chí bán mình để báo đáp cha mẹ như Thúy Kiều.

Nhắc đến hành động vì chữ hiếu đầu tiên của Vân Tiên ta phải kể đến đó

là thuận theo ý cha mẹ trong chuyện hôn nhân. Lục Vân Tiên mặc dù có gặp

Kiều Nguyệt Nga, trong lòng Nguyệt Nga đã nảy sinh tình cảm nhưng việc đính

ước, sắp xếp hôn nhân, chàng vẫn cự tuyệt tình cảm mà tuân theo ý cha mẹ, mãi

đến sau này chàng mới kết duyên cùng Kiều Nguyệt Nga.

Xƣa đà định chữ lƣơng duyên,

Cùng quan hƣu trí ở miền Hàn giang

Con ngƣời là Võ Thể Loan,

Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà

Chàng thuận theo ý cha mẹ, kết lương duyên cùng với con gái Võ Thể

Loan. Xét thấy, nếu như không có chuyện gia đình Võ Thể Loan bội ước, có lẽ sau

khi đánh thắng Cốt Đột, chàng sẽ vẫn quay trở về kết duyên cùng mối lương duyên

đã hẹn ước. Lục Vân Tiên đã làm theo đúng, cho trọn chữ hiếu của nho giáo.

Chúng ta liên tục thấy ở Lục Vân Tiên là con người hết lòng vì cha mẹ, vô

cùng hiếu thảo. Mặc dù chọn cho mình lý tưởng tối thượng là con đường khoa

cử, ước mơ nghiệp bút nghiên cứu đời, ngày thi đến gần nhưng nghe tin nhà có

chuyện, chàng sẵn sàng “gác lại” mộng công danh để về quê chịu tang mẹ:

Tiên rằng: Con bắc mẹ nam

88

Nƣớc non vòi vọi đã cam nỗi nghì…

Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,

Tƣởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.

Cánh buồm bao quản gió xiêu

Ngàn trùng bể rộng chín chiều ruột đau.

Thƣơng thay chín chữ cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao thâm tình.

Đây là lần đầu tiên, Lục Vân Tiên – dáng dấp của người quân tử khóc, cái

khóc này là vì đạo hiếu, con khóc tang mẹ. Trong văn học, nói về đàn ông khóc

thì có rất nhiều, khóc vì vợ, khóc vì thân, khóc cho số phận bi thảm:

Với người thị nữ Lý Hà, người theo hầu những năm tháng gió bụi, mắc

bệnh mà chết, Ngô Thì Sĩ thương xót cho phận nàng, cũng tự trách mình trong

cảnh nghèo khó làm lụy tới tấm thân tôi đòi. Thật hiếm khi ta thấy được những

giọt nước mắt của nho gia khóc thương cho những thân phận vốn bị coi là hèn

mọn như thế này:

Tam niên bồi thị bão phong trần,

Cân quắc quỳnh nhiên bộc ngự thân.

Mệnh khởi hồng nhan thƣơng nhĩ bạc,

Cảnh ƣ xích thổ xỉ ngô ban.

Dƣợc thang lỗ mãng tình đa khiểm,

Liệm táng thông mang lễ thiểu tuần.

Cơ kiển cánh di cơ trửu lụy,

Bồi hồi tƣởng vãng lệ triêm cân.

(Khốc thị nữ Lý Hà)

(Há phải hồng nhan để ta phải thƣơng cho nàng bạc mệnh,

Ở nơi đất đỏ vùng biên cảnh này ta lấy làm xấu hổ vì cái nghèo của mình

Khi ốm đau thuốc thang đã sơ sài mà tình cảm cũng thiếu thốn,

Lúc mất rồi, việc chôn cất lại vội vã, không theo đủ đƣợc tuần cúng.

Cảnh nghèo của ta càng làm lụy đến tấm thân tôi đòi của nàng

89

Ta bồi hồi tƣởng nhớ lại mà nƣớc mắt thấm đầy khăn.)

Nguyễn Du khóc thương cho thân phận người phụ nữ:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh mới là lời chung

Về các nhân vật trong văn học trung đại, ta cũng có thể bắt gặp nỗi niềm

của người nam nhi, họ rơi lệ nhưng chủ yếu là vì tình. Rõ ràng nhất phải kể đến

chàng Thúc Sinh, khi bị Hoạn Thư đánh ghen, Thúc Sinh thương cảm cho Thúy

Kiều nhận tất cả tội trạng về mình. Mà thật vậy, Thúy Kiều là một kẻ vô tội,

trước khi Thúc Sinh gắn bó với Kiều, Kiều cũng đã bày tỏ hơn thiệt và không

quên nhận mình là một cô gái lầu xanh. Thế mà khi bị đánh ghen, lương tâm cắn

rứt, Thúc Sinh đã khóc thành tiếng, khóc cho giãi hết đoạn trường:

Khóc rằng: oan khốc vì ta

Có nghe lời trƣớc, chớ đà lụy sau

Cạn lòng, chẳng biết suy nghĩ sâu,

Để ai trăng tủi, hoa sầu vì ai?

Ngay đến Kim Trọng, cũng từng có lần khóc than thảm thiết vì nhớ

thương Thúy Kiều:

Gieo mình vật vã, khóc than:

Con ngƣời thế đấy, thác oan thế này!

Chắc rằng mai trúc lại vầy,

Ai hay vĩnh quyết là ngày đƣa nhau

Thƣơng càng nghĩ, nghĩ càng đau

Dễ ai rấp quạt sầu cho khuây

Ta hiếm thấy trong lịch sử văn học, người quân tử khóc, mà khóc vì chữ hiếu

thì lại càng ít. Khóc vốn là đặc tính của phụ nữ. Cũng về chữ hiếu, ta chỉ mới thấy

Thúy Kiều khóc cho mình. Chữ hiếu của Thúy Kiều cũng hoàn toàn khác so với Lục

Vân Tiên. Khi bán mình chuộc cha, nàng có nói:

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn

Để lời thệ hải minh sơn

90

Làm con trƣớc phải đền ơn sinh thành

Thúy Kiều báo hiếu như đó là bổn phận đạo đức mà người con với gia

đình cho nên Kiều không hề khóc vì cha mẹ. Ngay cả trong các tác phẩm tuồng

miền Nam ảnh hưởng đến sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu dù cũng có đề cập

đến đạo lý người quân tử:

Lo chữ trung, trung lấy làm đầu

Còn chữ hiếu, hiếu kia để dạ

Tuồng Sơn Hậu đề cao chữ trung, tuy có nhắc đến đạo hiếu nhưng là hiếu

ở trong lòng, lo cho nước xong mới đến lo cho nhà. Đối với Nguyễn Đình Chiểu

lại khác, ông cho rằng:

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh, làm câu trau mình

Chữ hiếu luôn sánh cạnh chữ trung, có hiếu thì mới có trung được, vậy

nên trước khi là một quân tử yêu nước, Lục Vân Tiên phải là một người con có

hiếu trước đã. Mặc dù là nam nhi mạnh mẽ, nhưng khi đứng trước mất mát người

thân thì nam nhi như Lục Vân Tiên cũng khóc. Đây không phải là hành động yếu

mềm của đàn ông mà là “khóc” cao đẹp, đáng khen ngợi khi thể hiện chữ hiếu

trong nho giáo. Lục Vân Tiên nhập trường thi, vừa lên đường vội vã thì được tin

mẹ mất, chàng tức tốc quay về chịu tang mẹ, khóc đến mù mắt:

Thƣơng thay chín chữ cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình!

Đó là một nghĩa cử cao đẹp của Vân Tiên, trong văn học trung đại đã từng

có rất nhiều tấm gương về tấm lòng hiếu thảo. Vì chữ hiếu mà Thúy Kiều sẵn

sàng bán mình chuộc cha, chữ hiếu được hiểu thành tiết, sự hi sinh vì chữ hiếu

nhưng cái đau khổ mà Thúy Kiều phải ngất đi có lẽ lại vì tình yêu với Kim Trọng.

Nhưng chính chữ hiếu lại khiến Lục Vân Tiên ngất đi, và khóc đến mù hai mắt. Đây

là một điều ít gặp ở trang nam nhi, phải chăng Lục Vân Tiên chỉ có thể rơi nước mắt

vì hiếu chứ không phải vì tình. Lục Vân Tiên coi trọng chữ hiếu hơn tình, đây là

biểu hiện cho tinh thần khắc kỷ phục lễ của nho giáo. Đó là tinh thần đề cao lễ,

91

nghĩa, trí để hoàn thiện đức nhân. Nhân và lễ là hạt nhân cơ bản của đức nhân. Bàn

về đức nhân, Khổng Tử từng nói “Ngày nào khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi ngƣời

trong thiên hạ còn cảm hóa mà theo về đức nhân” (Luận Ngữ - Nhan Uyên 1).

Chính vì vậy, hành động Lục Vân Tiên hi sinh và khóc vì chữ hiếu bao giờ cũng

đáng ca ngợi. Và ở đây, chữ hiếu bao giờ cũng nặng hơn chữ tình:

Khai phong mới tỏ sự cơ

Mình gieo xuống đất, dật dờ hồn hoa…

Hai hàng lụy ngọc dòng dòng

Tƣởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu

Ngay cả khi, vinh quang đỗ trạng nguyên trở về, thì người chàng nghĩ đến

đầu tiên lại là cha mẹ, hành động đầu tiên là đi thăm mộ mẹ. Hành động này một

lần nữa lại nhấn mạnh đến vị trí chữ hiếu trong đức của người quân tử, vốn chỉ

đứng sau chữ trung:

Thƣa rằng: hoạn nạn xiết bao

Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an…

…Suối vàng hồn mẹ có linh

Chừng cho con trẻ lòng thành ngày nay

Tƣởng bề nguồn gốc cội cây

Công sâu ngàn trƣợng, ngồi dầy chín trăng

Có thể nói, chàng luôn đặt chữ hiếu lên vị trí đầu tiên, thậm chí có lúc

trước cả chữ trung. Chữ hiếu ở đây không chỉ được biểu đạt một bề mà còn là

tình yêu thương của cha mẹ với con. Đó là tấm lòng của Lục ông:

Thƣơng con phận bạc lắm thay

Nguyền xƣa còn đó, con rày đi đâu?

Đó là tấm lòng của Kiều Công đối với con gái Kiều Nguyệt Nga, mặc dù

Kiều Công phải tiễn con gái ra đi để cầu hòa giúp nước nhưng cũng không khỏi

nhỏ lệ:

Kiều Công lụy ngọc châu sa

Các quan ai nấy cũng là đều thƣơng

92

Chẳng qua là việc quân vƣơng

Cho nên phụ tử hai đƣờng xa xôi

Trái ngược với tình cha con của Lục Vân Tiên, cha con Kiều Công

Nguyễn Đình Chiểu còn lên án cha con Võ Thể Loan và cha con Bùi Kiệm. Võ

Thể Loan là nhạc phụ tương lai của Lục Vân Tiên nhưng lại bạc tình bạc nghĩa,

khi chàng gặp nạn buông lời khinh bỉ, muốn tác hợp cho con gái với Vương Tử

Trực là trái với đạo nhân:

Công rằng: Ta cũng thƣơng thầm

Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang

Thôi thôi khuyên chớ thở than

Đây đà tính đặng một đàng rất hay

Tới đây thời lại ở đây

Cùng con gái lão xum vầy thất gia

Phòng khi hôm sớm vào ra

Thấy Vƣơng Tử Trực cũng là thấy tiên

Chính vì bất nghĩa nên bản thân Thể Loan con gái Kiều Công cũng bất

nghĩa, Thể Loan thuận theo ý cha, nhưng đó là sự vong ơn bội nghĩa đáng lên án.

Khổng Tử từng cho rằng hiếu không có nghĩa là phục tùng cha mẹ hoàn toàn mà

thấy cha mẹ làm sai thì nên khuyên răn, đó mới là đạo hiếu.

Nhắc tới cha con Bùi Kiệm, mặc dù Bùi ông là người tốt, cứu Kiều

Nguyệt Nga lúc gian khó, cưu mang nàng nhưng vì thương con, muốn tác hợp

cho con mà đồng tình với Bùi Kiệm:

Bùi ông ngon ngọt trau dồi

Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình

…Nhớ rằng xuân bất thái lai

Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn

Làm chi thiệt phận hồng nhan

Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng

Tóm lại, bên cạnh chữ trung thì chữ hiếu cũng được Nguyễn Đình Chiểu

93

đề cao trong cái nhìn khe khắt đối với nghĩa vụ của nam giới. Gần như hiếu là

thước đo đạo đức của các nhân vật nam chính diện và phản diện. Hành động của

các nhân vật nam chính diện hết mình vì đức hiếu ở đây đều được đề cao, biểu

trưng cho đạo đức của người quân tử. So với Bùi Kiệm, Trịnh Hâm và các nhân

vật phản diện khác thì nhân vật chính diện như Lục Vân Tiên được đề cao hơn

cả. Đôi khi các nhân vật của ông đề cao chữ hiếu như một trong những thử thách

buộc phải vượt qua, làm kim chỉ nam cho mọi chương trình hành động của mình.

Tiểu kết

Truyện Lục Vân Tiên được ra đời trong thời kì xu hướng tôn nho đang trở

lại vùng đất phương Nam nên các nhân vật nam chính diện được khắc hoạ có đầy

đủ yếu tố của trang nam nhi anh hùng: có sức mạnh thể chất, có vẻ đẹp trí tuệ, có

lòng trọng nghĩa khinh tài và có vẻ đẹp lý tưởng. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn

Đình Chiểu còn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau, được phân tuyến rạch

ròi theo các chuẩn mực đạo đức nho giáo và đạo lý dân gian thông qua những

biểu hiện nam tính. Nhân vật chính diện trong truyện Lục Vân Tiên là những

người sống có tình, có nghĩa, có trước, có sau, hết mình vì người khác, biết quý

trọng người có tài, thì nhân vật phản diện lại được nói đến ở lòng phản trắc, tâm

94

địa hẹp hòi, đen tối, sẵn sàng làm hại người khác để đạt được mục đích của mình.

CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT NAM TRONG LỤC VÂN TIÊN TỪ

GÓC NHÌN VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI PHỤ NỮ

Nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, hầu hết các nhân vật văn

học đều được nhìn nhận từ góc độ đạo đức. Trong giai đoạn này, tiêu chí đạo đức

là tiêu chí đánh giá chung nhất, quy định nhân vật đó thuộc nhân vật chính diện

hay nhân vật phản diện. Từ đó, trong văn học trung đại hình thành khái niệm

“con người đạo đức” hay “con người chức năng”. Đó là mẫu hình con người lý

tưởng trong văn hóa trung đại nói chung, đạt được yêu cầu đó, con người hay đặc

biệt là nam giới phải tuân thủ những nguyên tắc xử sự khá khắc nghiệt về thân

xác. Trong các cuốn kinh điển nho giáo đều nêu cao một đời sống tu trì khắc kỉ,

chống lại bản năng thân xác, hi sinh thân mình cho lý tưởng hay là tìm cách hạn

chế, kiểm soát con người bản năng, những nhu cầu ăn - mặc - ở - tình dục - sống

- chết để giương cao lá cờ đạo đức. Một trong những bản năng cần được tiết chế

trong nhu cầu của con người, đó là bản năng tính dục.

Bản năng tính dục được thể hiện qua sự đam mê sắc đẹp của phụ nữ. Đã là

nam giới thì không tránh khỏi được những nhu cầu dục vọng, đặc biệt là lòng

ham muốn trước cái đẹp, do vậy việc ứng xử thế nào cũng là điều cần bàn đối với

nam giới trong xã hội nho giáo. Biết được điều này, Khổng Tử đá từng đưa mục

khắc kỉ vào phạm trù chữ nhân. Đó là nghiêm khắc với cái đẹp của phụ nữ được

xem là một tính cách không thể thiếu được ở những bậc thánh nhân quân tử, anh

hùng trong văn hóa phương Đông, đó là không có sự dung hòa giữa đạo nhân và

sắc đẹp phụ nữ. Như đã nghiên cứu ở chương 2 trong luận văn này, ta có thể thấy

trong các mối quan hệ như vua – tôi, cha – con, bằng – hữu thì ở các nhân vật

nam tính, yếu tố giới tính như đam mê sắc đẹp, ước mơ hạnh phúc, hay tình yêu

đôi lứa đều bị gạt bỏ. Dễ thấy, các nhân vật nam nhi, bậc quân tử hiện ra đều dồn

sức mạnh tinh thần và sức lực vào việc xây dựng con người lý tưởng, với mục

đích xây dựng trật tự xã hội. Tình yêu đôi lứa thì bị hạn chế nói đến mức tối đa.

95

Những rung động, ứng xử tình yêu bị phê phán và coi là trái với đạo đức. Tình

yêu nam nữ ở đây cũng được coi là thử thách giúp cho nam nhi khẳng định được

sự kiên trì trong đạo đức của chính mình.

Do vậy, trong xã hội nho giáo cũ luôn có một cái nhìn khắt khe trong mối

quan hệ giữa nam và nữ. Vấn đề tình yêu được xem là vấn đề kín đáo và ít được

nói đến trong văn học trung đại. Đối với người quân tử cũng vậy, họ càng là

những con người trọng nghĩa khí bao nhiêu, thì họ lại càng dè dặt hơn trong

“đụng chạm” với nữ giới. Đó là quan niệm khắc kỷ điều tiết những ham muốn

dục vọng chính đáng của con người, nó được biểu hiện qua thái độ lạnh lùng của

những anh hùng quân tử trong nho giáo đối vơi tình yêu và phụ nữ. Xuất phát từ

quan niệm khắc kỉ của nho giáo, Khổng Tử đã từ lâu rất khắt khe trong quan hệ

thể xác giữa nam và nữ. Cụ thể là quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”, giữa

nam và nữ không nên có sự qua lại nếu không được phép của cha mẹ và xã hội.

Tiếp thu quan điểm của nho giáo, trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình

Chiểu luôn đề cao con người lý tưởng, những người quân tử, tiêu biểu cho trung,

hiếu, tiết, hạnh.

Trong quan hệ ứng xử với phụ nữ, truyện Lục Vân Tiên đề cao sự có “giáo

dục” trong ứng của của nam đối với nữ. Xét về chủ đề, truyện Lục Vân Tiên vốn

đã không phải truyện tài tử giai nhân. Theo học giả Nguyễn Văn Hoài thì tiểu

thuyết tài tử - giai nhân là loại tiểu thuyết chương hồi miêu tả những câu chuyện

luyến ái hôn nhân của nam nữ thanh niên, được viết theo kết cấu 1. Nam nữ

chung tình. 2. Tiểu nhân gây rối loạn rồi li tán. 3. Tài tử thi đậu đoàn viên. Và

nhân vật chính thì tài tử phải là những thư sinh phẩm hạnh, hào hoa hơn người,

nhất là tài năng thi phú, còn giai nhân thì phải là những tiểu thư hoàn hảo, “mạo,

tài, tình” đều đẹp cả. Đây là mô thức chủ yếu của truyện tài tử giai nhân. Xét về

thể loại này, ta có thể thấy truyện Hoa Tiên là một tác phẩm tiêu biểu. Theo đó,

truyện Lục Vân Tiên chưa thể xét vào loại truyện tài tử giai nhân bởi nhân vật

chính là Lục Vân Tiên tuy giỏi văn chương, võ nghệ nhưng lại không được nhấn

mạnh về tài năng nghệ thuật, không khát khao yêu đương, không được nhấn

96

mạnh về việc tìm kiếm tình yêu. Vì thế, hầu hết các ứng xử của Lục Vân Tiên

trước phụ nữ, đều là những ứng xử khiên cưỡng và phần nào mang đậm màu sắc

nho giáo.

Không chỉ đẹp về tài mạo, Vân Tiên còn được tác giả đã khắc họa lên hình

tượng một đấng nam nhi luôn mang trong mình một đạo đức cao đẹp, thấm

nhuần chữ nhân. Nhân vật Lục Vân Tiên được sinh ra trong một gia đình thường

dân ở quận Đông Thành. Sự ra đời của Lục vân Tiên là kết quả của quá trình tu

nhân, tích đức:

Có ngƣời ở quận Đông Thành,

Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.

Đặt tên là Lục Vân Tiên,

Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành.

Nhân vật Lục Vân Tiên được xây dựng theo mẫu quan niệm Tống Nho

“Tồn thiên lý diệt nhân dục”. Hơn nữa, tác phẩm Lục Vân Tiên vốn không phải là

tiểu thuyết tài tử giai nhân, do vậy nên thiếu đi rất nhiều những biểu hiện nam nữ

yêu đương mà thiên về chữ nghĩa. Nguyễn Đình Chiểu lại xây dựng Vân Tiên là

một anh hùng lạnh lùng với sắc đẹp của nữ giới. Lục Vân Tiên lý tưởng bởi tinh

thần nghĩa hiệp, sống vì sứ mệnh xã hội lớn lao, thế nhưng với nữ giới họ thường

có thái độ lạnh lùng, thậm chí là nghiêm khắc, gạt bỏ đời sống tính dục nam nữ.

Ngay từ khi mới gặp Kiều Nguyệt Nga, người phụ nữ đẹp trong xã hội phong

kiến, Lục Vân Tiên đã vạch rõ khoảng cách giữa nam nữ:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái, ta là phận trai

Hai chữ “phận gái, phận trai” vạch rõ mối quan hệ nam nữ. Lục Vân

Tiên đã được “giáo dục” rất kỹ trong mối quan hệ nam nữ, trong các mối tình

kim cổ trong văn học trung đại thì việc “trai tài gái sắc” phải lòng nhau là

chuyện đương nhiên, huống hồ hành động cứu giúp Nguyệt Nga đã được ghi

điểm trong mắt nàng. Thế nhưng Lục Vân Tiên phân định nam nữ rạch ròi,

chuyện nữ nhi chỉ là chuyện giúp người qua đường, không nảy sinh tình cảm.

97

Việc giúp Kiều Nguyệt Nga đối với chàng cũng giống như là việc nghĩa phải

làm, dù là đàn ông hay đàn bà chàng cũng đều làm như vậy. Đó là hành động

nghĩa hiệp, anh hùng cứu mỹ nhân, rất nam tính nhưng lại không hề đòi hỏi trả

ơn. Phải chăng, khi thấy dung mạo hơn người của Kiều Nguyệt Nga, chàng là

đàn ông mà không hề rung động, kể cả tò mò xem gương mặt của Nguyệt Nga.

Hành động của Lục Vân Tiên khiến cho người đọc mường tượng được sự lạnh

lùng của chàng. Nho giáo hết sức đề cao hành động này nhưng trên phương diện

là bản năng của con người thì hành động này thật lạ lùng.

Trái ngược với trong Truyện Kiều, Thúy Kiều và Kim Trọng là một đôi trời

sinh, ngay buổi đầu gặp gỡ Thúy Kiều, nhận thức được vẻ đẹp của Kiều, Kim

Trọng đã: “Tình trong nhƣ đã, mặt ngoài còn e”. Và những hành động nào của

chàng thì dường như rất “vội”, khi đến với người yêu cũng như khi trở lại vườn

Thúy, khi gặp mặt cũng như chia ly. Kết quả đầu tiên của mối tình ta đã thấy:

Khách đà lên ngựa, ngƣời còn ghé theo

Thầm trông, trộm nhớ, bấy lâu đã chồn

Xƣơng mai, tính đã rũ mòn,

Lần lừa, ai biết hãy còn hôm nay

Tháng tròn nhƣ gởi cung mây

Trần trần một phận ấp cây đã liều!

Tiện đây xin một hai điều

Đài gƣơng soi đến dấu bèo cho chăng?

Kim Trọng đã “vội” nhưng Thúc Sinh lại càng “vội” hơn. Thúc sinh được

nhìn rõ mồn một cái tòa nhà thiên nhiên cực kỳ xinh đẹp và hấp dẫn trong hai

yếu tố của một hoàn cảnh rất đặc biệt. Đó là sự đắm đuối của Thúc sinh đến mức

không còn giữ được bản thân mình: Lạ cho cái sóng khuynh thành/ Làm cho đổ

quán xiêu đình nhƣ chơi! Còn Thúc sinh? Rõ ràng Thúc đến với Kiều chỉ vì sự

hấp dẫn của thân thể Thúy Kiều, là cái đẹp của hoa hải đƣờng đang mơn mởn

cành tơ. Nói thẳng, Thúc đến với Kiều bằng đường trần tục, xác thịt.

Điều gì đã làm khiến Lục Vân Tiên thờ ơ với Nguyệt Nga? Đây không

98

phải vì “hiếu”, vì lúc này Vân Tiên chưa biết mình được hứa hẹn với Thể Loan

con gái Võ Công. Có thể nói, Lục Vân Tiên quá lý tưởng, hoàn hảo và tôn trọng

kỷ cương của Nho giáo. Ở đây, chủ nghĩa nho giáo đề cao tinh thần khắc kỷ, tiết

chế dục vọng nam nữ, tính dục của mỗi cá nhân, khiến cho nhân vật được phú

cho ngoại hình, tài mạo nhưng lại không thể chủ động tìm kiếm hạnh phúc. Con

người là con người thân dân chứ không phải là con người nhân bản. Hạnh phúc

cá nhân có lẽ Lục Vân Tiên chờ ở sự mai mối của cha mẹ, đó là đạo “hiếu” của

chàng. Kết cục là chàng đã tuân theo cha mẹ, cầm phong thư đính ước đến gia

đình Võ Công, dù hai người chưa từng được gặp. Xã hội phong kiến, hầu hết hôn

nhân vẫn do cha mẹ định đoạt, con cái không có quyền trong việc quyết định hôn

nhân của mình. Như chúng ta đã biết, xã hội phong kiến vào hậu bán thế kỷ XIX,

là xã hội mà triều Nguyễn khôi phục nho giáo theo Minh nho, nên tư tưởng nho

giáo rất bảo thủ.

Việc hôn nhân là do cha mẹ quyết định, nói cách khác là cha mẹ đặt đâu

con cái phải ngồi đó, thế nhưng Nguyệt Nga có tư tưởng thoát ra khỏi sự ràng buộc

của lễ giáo phong kiến. Mặc dầu đã được cha mẹ định hôn nhân, nhưng trên đường

về nhà, gặp nạn, được Lục Vân Tiên cứu giúp, Nguyệt Nga cảm ơn cứu mạng và

trao tặng trâm, Lục Vân Tiên không nhận, nàng trao thơ để bày tỏ tình cảm và từ

đó coi Lục vân Tiên là người chồng mà nàng nguyện chung thủy suốt đời:

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chƣa trả nỗi tình lại vƣơng.

Nặng nề hai chữ uyên ƣơng,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vƣơng vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hởi ông,

Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an.

Hành động “trao trâm” của Nguyệt Nga như là một hành động đính ước giữa

nam với nữa. Lúc này, Vân Tiên khước từ thiện ý của Nguyệt Nga, ứng xử tình

yêu của Lục Vân Tiên hoàn toàn phù hợp với đạo lý nho giáo. Nho giáo quan

niệm rằng: nam nữ đưa và nhận của nhau thứ gì đều không được đưa trực tiếp, ví

99

như muốn đưa thì người này phải để vật xuống bàn, người kia lấy vật từ bàn mà

lên chứ không được tay trao tay. Nghĩa lớn hơn là giữa nam và nữ phải có

khoảng cách, không được tùy ý có những cử chỉ thân thiết, gần gũi với nhau.

Trong sách Lễ Kí cũng có nói rằng: Nam nữ không được phép ngồi lẫn với nhau,

không được dùng chung lược, không được đón tay nhau. Chị dâu em trai của

chồng không được nhìn thẳng vào mắt nhau. Phụ nữ phải nghe lời chồng, anh,

không có việc lớn thì không được phép nói chen, hay vào nhà lớn. Nữ ăn nhà

dưới, nam ăn chiếu trên. Nếu không phải ngày tế lễ hoặc ngày tang chế, trai gái

không được đưa cho nhau những vật dụng (vì tránh chạm vào tay nhau). Nếu có

trao, người nữ phải cầm một cái thúng (để nhận vật ấy); không có thúng thì hai

bên (trai gái) phải quỳ xuống đặt vật (định trao) xuống đất rồi người nữ nhận lấy.

Ngoài và trong không được chung đụng, (trai gái) không được tắm chung, không

được ngồi chung chiếu ngủ chung giường, không được ăn chung. Trai gái không

được mặc chung áo quần. Những việc trong phòng khuê không được nói ra ngoài,

những việc bên ngoài không được cho lọt vào (phòng khuê). Trai vào phòng khuê

không được nói cười chỉ chỏ, đang đêm đi đâu phải cầm đuốc, nếu không có đuốc

thì không đi. Ði trên đường cái, trai đi bên phải, gái đi bên trái.

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho vì thế nhân vật Lục Vân Tiên là

người có “giáo dục” sẽ phải biết phép tắc ứng xử, hơn nữa lại là cách ứng xử

giữa nam và nữ. Chàng trai đọc sách thánh hiền sẽ hiểu rằng lễ giáo phong kiến

không cho phép người con trai và người con gái có thể đứng nói chuyện trực

tiếp với nhau chính vì thế mà chàng từ chối để Kiều Nguyệt Nga ra chào.

Thậm chí, sau này khi thoát chết trở về, Vân Tiên được Lục ông kể

chuyện về Nguyệt Nga đã không kể sang hèn, giúp đỡ gia đình Lục ông:

Ông rằng: có nàng Nguyệt Nga,

Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê

Nhờ nàng nên mới ra bề

100

Chẳng thì bỏ đói quê cha đi rồi

Lúc này, Vân Tiên mới nhớ ra Kiều Nguyệt Nga, có thể nói ngay sau lần

đầu gặp gỡ, chỉ có Nguyệt Nga coi chàng là ý trung nhân còn Vân Tiên thì đã

quên nàng từ lâu:

Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!

Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu

Hỏi rằng: Nàng ấy ở đâu?

Đặng con đến đó đáp câu ân tình

Chàng không hề động lòng với Nguyệt Nga như giữa đàn ông với đàn bà

mà “Tiên rằng: Cảm nghĩa Nguyệt Nga/Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng”.

Thậm chí chưa gặp mặt nàng, sau này khi đánh giặc xong Cốt Đột, chẳng qua lạc

đường, tìm được Nguyệt Nga một cách ngẫu nhiên, khi biết rằng mình chính là

người được Nguyệt Nga tạc tượng, khi Nguyệt Nga thổ lộ:

Nguyệt Nga khép nép thƣa qua:

Ngƣời trong bức tƣợng tên là Vân Tiên

Chàng đã về chốn Cửu Tuyền

Thiếp lăm trọn đạo, tránh miền gió trăng

Lúc này, khi biết được tâm tình của Nguyệt Nga thủy chung với mình, lúc

này Lục Vân Tiên mới quyết:

Vân Tiên nghe nói hỏi phăng

Chồng là tên ấy, vợ là tên chi?

…Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay

Thƣa rằng: may gặp nàng ở đây,

Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn

Để lời thệ hải minh sơn,

Mang ơn trƣớc phải đền ơn cho rồi

Hành động của Lục Vân Tiên khi gặp lại Kiều Nguyệt Nga không phải là

sự nhớ nhung giữa nam và nữ mà là “lạy” vì ân tình, vì nghĩa của Kiều Nguyệt

Nga. Trước hết là sự mang ơn đối với việc Nguyệt Nga sang giúp. Việc đầu tiên

101

chàng làm khi gặp lại Nguyệt Nga là “lạy”, có thể thấy Vân Tiên vì nghĩa mà

cảm kích chứ không hề yêu. Qua đó, càng tô đâm tính khắc kỷ trong mối quan hệ

của chàng với phụ nữ. Nếu là một anh hùng vì nghĩa thì Lục Vân Tiên quả là

hoàn hảo trọn vẹn nhưng nếu xét về phương diện tình lang thì chàng không phù

hợp, thiếu đi sự hào hoa, lãng mạn cần có của một quân tử. Con người Lục Vân

Tiên là con người của đạo lý chứ không phải với tư cách của con người cá nhân.

Lục Vân Tiên luôn giữ khoảng cách, không có sự nhớ nhung với người con gái

thủy chung. Ngay cả đến hôn nhân, Lục Vân Tiên cũng hết sức bị động:

Tiên rằng: nàng tính thế nào?

Nàng rằng: Anh hãy về trào tâu lên

Ngỏ nhờ lƣợng cả bề trên,

Lịnh tha tội trƣớc mới nên về nhà

Nếu như hành động dẹp bọn Phong Lai, Lục Vân Tiên không “tính thiệt

so hơn” và nhắc lại câu nói “kiến nghĩa bất vi” mà hành động xả thân vì việc

nghĩa, không đắn đo suy nghĩ, thì trong hôn nhân chàng bị động bấy nhiêu, và

dường như đó là việc nên làm. Hành động của Lục Vân Tiên tuân theo mẫu hình

thánh nhân quân tử mà Khổng Tử, Nguyễn Đình Chiểu đề cao. Vấn đề bản năng

tình dục của nam giới được thể hiện thông qua sự ham mê sắc đẹp của phụ nữ

được kiềm chế. Bàn về bản năng tình dục của con người, nho giáo quan niệm đưa

“khắc kỷ” vào nội hàm phạm trù nhân của con người “Khắc kỷ phụ lễ vi nhân”,

đó là tiết dục, nghiêm khắc trong việc coi trọng sắc đẹp của người phụ nữ là một

phẩm chất không thể thiếu được trong đối với bậc thánh nhân quân tử. Trong đạo

nhân không hề có sự dung hòa với sắc đẹp. Sắc đẹp là điều tối kỵ trong chương

trình hành động của anh hùng quân tử. Điều này giải thích tại sao, Lục Vân Tiên

“cố tình” không quay mặt nhìn Nguyệt Nga:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,

Nàng là phận gái ta là phận trai.

Và thậm chí chàng còn thấy khó chịu trước tấm lòng cảm kích của Nguyệt Nga:

- Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn

102

Nguyệt Nga liếc thấy càng nhìn nết na

- Vân Tiên khó ngồi làm thinh

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây

Than rằng đó khéo trêu đây

Ơn kia đã mấy của này rất sang

Mục đích của chàng là đi thi, chuyện giúp nàng Nguyệt Nga chỉ là chuyện

qua đường, Vân Tiên không nghĩ đến chuyện gái trai để ảnh hưởng đến lý tưởng

phò vua, giúp nước của mình. Dẹp giặc xong, Vân Tiên “trả nghĩa” cho Nguyệt

Nga bằng hai cách, một là “quỳ lạy” nàng, hai là lấy nàng làm vợ. Đây có lẽ là

một cách trả ơn đặc biệt nhất mà Lục Vân Tiên dành cho Kiều Nguyệt Nga. Qua

đó, nhân vật Lục Vân Tiên trở thành nhân vật mang màu sắc nho giáo rõ rệt, các

phát ngôn và hành động của chàng đều lấy đạo đức nho giáo làm gốc. Bản năng

tình dục được nho giáo quy định khá rõ ràng, để chống lại hành động mang tính

bản năng của con người trong văn hóa cổ đại đã hình thành thuyết cấm dục với

ba mệnh đề đó là (1) tồn thiên lí, diệt nhân dục; (2) nam nữ thụ thụ bất thân (3)

vạn ác dâm vi thủ (vạn điều ác, dâm đứng đầu). Sách Lễ Kí quy định “nam nữ

thụ thụ bất thân”, “nam nữ đại phòng”. Nho giáo phản đối ý dâm đề xướng chính

dâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, chống lại bản năng tình dục

vì cho rằng nó hại cho thánh nhân. Có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu vẫn chịu ảnh

hưởng trong cách xây dựng nhân vật mẫu hình người anh hùng của văn hoá

phương Đông nói chung và Trung Quốc nói riêng. Nhân vật Lục Vân Tiên có cái

dáng dấp của nhân vật Quan Vân Trường ( Quan Vũ) trong truyện Tam quốc diễn

nghĩa của La Quán Trung. Quan Vân Trường cũng luôn thể hiện thái độ của

người anh hùng khắc kỉ, đạo mạo trước phụ nữ. Khi Tào Tháo truyền lệnh thu

binh về Hứa Xương, Quan Vân Trường thỉnh nhị tẩu lên xe, tự mình đi theo hộ

vệ. Khi quân đến trạm dịch, Tào Tháo truyền quân đóng lại nghỉ ngơi, lại truyền

Quan Vân Trường ở chung một nhà với nhị tẩu là Cam Phu nhân và My Phu

nhân, hai bà vợ của Lưu Bị, tức là hai chị dâu của Quan Võ. Đêm ấy, Quan Võ

cầm đuốc đứng trước cửa nhà suốt đêm để canh cho hai chị dâu an giấc, đồng

103

thời lấy Thanh Long đao chém sạt một góc tường để người ngoài nhìn vào thấy

rõ lòng quang minh chính đại của mình. Nhân vật Võ Tòng trong tác phẩm Thuỷ

hử của Thi Nại Am, cũng được ngợi ca bởi tấm lòng trong sạch không bị rung

động trước sắc đẹp Phan Kim Liên. Anh trai Võ Tòng tên Võ Đại Lang làm nghề

bán bánh hấp, là người lùn, dung mạo xấu xí nhưng có vợ là Phan Kim Liên rất

đẹp nhưng cũng rất đa tình. Nhân dịp Võ Tòng về thăm anh, Phan Kim Liên thấy

hình dung tuấn kiệt, mấy lần đòi tư thông với Võ Tòng nhưng đều bị cự tuyệt.

Sau đó Võ Tòng có việc phải đi xa, Phan Kim Liên ở nhà lựa lúc Võ Đại Lang đi

bán bánh, tư thông với tên nhà giàu Tây Môn Khánh. Việc bị Võ Đại Lang phát

hiện, hai người bày mưu rồi giết hại Võ Đại Lang. Vài ngày sau khi Võ Đại chết,

Võ Tòng quay về, nghe tin dữ liền đi báo quan. Nhưng quan sợ uy thế của Tây

Môn Khánh, không dám xử. Thế là Võ Tòng, trước tiên tìm tới nhà giết chết Tây

Môn Khánh cho hả giận, rồi mới tự mình đi tìm chứng cứ điều tra. Tính chất

khắc kỷ ấy còn thể hiện ở thái độ lạnh lùng khi trừng trị Phan Kim Liên trước sự

chứng kiến của 3 người hàng xóm, chàng ép Phan Kim Liên khai nhận tội rồi mổ

bụng, cắt đầu ả, đem ruột và đầu lên tế vong linh anh trai mình. Lục Vân Tiên

không có cái lạnh lùng như Võ Tòng nhưng chàng luôn giữ một khoáng cách

nhất định. Nhìn chung, các nhân vật như Lục Vân Tiên hay Võ Tòng, Quan Vân

Trường đều chịu sự chi phối của một quan niệm chung mang tính chất văn hoá

hoá về nhân cách đó là luôn biết chế ngự, khắc phục bản năng. Chính yếu tố này

mà tình yêu trong truyện Lục Vân Tiên kém phần lãng mạn.

Trái ngược với Lục Vân Tiên, trước cái đẹp, nhân vật phản diện như Bùi

Kiệm lại có cách nhìn khác. Sở dĩ có sự phân biệt này bởi nho giáo chia người

đàn ông thành hai loại người, đó là người quân tử và kẻ tiểu nhân. Khổng Tử nói:

“Người quân tử rành về điều nghĩa, kẻ tiểu nhân rành về điều lợi”(Luận Ngữ,

IV). Hành động chi phối kẻ tiểu nhân đó là lợi, đó là lợi ích về quyền, chức, sắc

dục, sống…Trong đó, tính dục (sắc giới) là phương diện kiêng kị của những

người quân tử. Đối với tư tưởng nho giáo, tính dục chỉ được nhắc đến trên

phương diện thụ thai con cái, đặc biệt là con trai vì có con trai để nối dõi tông

104

đường, làm vẻ vang dòng họ và cúng giỗ ông bà, tổ tiên cha mẹ. Trong Kinh Lễ,

chương hôn nghĩa, việc hôn lễ là việc vô cùng quan trọng, là sự kết hợp của hai

gia đình với nhau, trên để thờ tông miếu, dưới để truyền nối cho đời sau, nên

người quân tử rất coi trọng nó. Khổng Tử đã từng cho rằng đức là thuộc tính của

con người, nhưng sắc mạnh hơn rất nhiều: “Khổng Tử than rằng: ta chưa thấy ai

háo đức bằng háo sắc”. (Luận ngữ, IX:17). Nữ sắc là điều đầu tiên người quân tử

phải cảnh giác: “Khổng Tử nói: người quân tử có ba điều phải răn ngừa: lúc còn

trẻ, huyết khí chưa ổn định, cần răn ngừa về nữ sắc”. (Luận ngữ. XVI:7). Trên

quan điểm đó, nho giáo cho rằng năng lượng nam tính của nho gia bị hao tổn nếu

phung phí trong tính dục hôn nhân - điều này có điểm tương đồng với chủ trương

của Ðạo giáo - và rằng đàn ông có thể bị kiệt quệ thể lý, suy thoái đạo đức nếu để

cho mình miệt mài trong sinh hoạt tính dục. Tứ Thư của nho giáo ghi lại rất nhiều

ý tưởng cảnh giác người trẻ tuổi, thậm chí bậc quân tử đối với vấn đề sắc dục. Hơn

nữa, sự mê đắm sắc dục của người cai trị, kể cả một quốc chủ, có thể được nêu lên

như một lý do chính đáng để truất quyền kẻ đó.

Tính dục trong hôn nhân chỉ để có người nối dõi. Tính dục ngoài hôn nhân

là đại tội, phải chặn đứng mọi “nguy cơ”. Thế nên quan hệ giữa nam và nữ, thậm

chí giữa vợ chồng cũng phải theo đúng khuôn phép cực kỳ nghiêm ngặt. Kinh Lễ,

chương Nội tắc viết: “Là đàn ông không nên bàn việc trong phòng khuê (tức việc

của đàn bà), là phụ nữ không được bàn việc bên ngoài (tức việc của đàn ông). Nói

chung, từ cái nhìn thiên vị nam giới trong kinh sách của nho giáo và qua các tác

phẩm của Nho gia, sinh hoạt tính dục được xem là một vấn đề quá độ.

Trong truyện Lục Vân Tiên, Bùi Kiệm trước hết là một kẻ tham sắc. Bởi

đó là bản tính “dâm” đàn ông. Từ chỗ dâm đến chỗ Bùi Kiệm bất chấp cả tình

nghĩa. Dù hắn biết Kiều Nguyệt Nga là vợ chưa cưới của Vân Tiên nhưng vẫn

buông lời cám dỗ:

Hay chi nhƣ vãi ở chùa

Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh,

Linh đinh một chiếc thuyền tình,

105

Mƣời hai bến nƣớc biết mình vào đâu

Ai từng mặc áo không bâu

Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau

Nàng sao chẳng nghĩ trƣớc sau

Giữ ôm bức tƣợng bấy lâu thiệt mình

Bùi Kiệm khi mới gặp Nguyệt Nga, bản tính đàn ông của Bùi Kiệm đã

khiến y không thể làm ngơ trước nhan sắc của nàng:

Từ khi thấy mặt Nguyệt Nga,

Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần

Đến khi buông lời ngon ngọt với Nguyệt Nga:

Kiệm rằng: Nàng nói sai rồi,

Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trƣa?

Làm ngƣời trong cõi gió mƣa,

Bảy mƣơi mấy mặt ngƣời xƣa thế nào

Chúa xuân còn ở vƣờn đào,

Ong qua bƣớm lại biết bao nhiêu lần

Chúa đông ra khỏi vƣờn xuân

Hoa tàn nhụy rữa nhƣ rừng bỏ hoang

Bùi Kiệm trong tác phẩm này có lẽ là có hành động mang tính của con

người trong đời thường và chân thực nhất, chứ không cách điệu nhiều như những

nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Bùi Kiệm là thế giới của đam mê,

phong lưu của tình dục. Thông qua nhân vật Bùi Kiệm, Nguyễn Đình Chiểu

muốn lên án thói dâm ô, hưởng lạc của tên này. Bùi Kiệm khuyên Nguyệt Nga

tội gì mà thủ tiết với Vân Tiên vì đời người ngắn ngủi:

Ba xuân dẫu hết, ngàn vàng khôn mua

Cha Bùi Kiệm cũng một giọng để dỗ dành Nguyệt Nga lấy con mình:

Tới đây duyên đã bén duyên

Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai,

Nhớ câu: xuân bất tái lai

106

Ngày nay hoa nở, e mai hoa toàn

Đây là triết lý của cha con Bùi Kiệm trong xã hội nho giáo, đó là triết lý

sống gấp, Bùi Kiệm cũng có cái lý của mình, thế nhưng những ham muốn đời

thường đặt trong bối cảnh nho giáo bấy giờ thì đó lại là hành động đáng lên án.

Có thể thấy, trong truyện Lục Vân Tiên, tất cả những gì thuộc về bản thể con

người như ham muốn, dục vọng đố kị, ghen ghét đều trở thành đối tượng đáng

lên án, là cái xấu trong mắt các nhà nho. Trong các nhân vật nam giới thì Bùi

Kiệm là kẻ duy nhất động lòng trước sắc đẹp của Nguyệt Nga:

Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga

Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần

Ứng xử của Bùi Kiệm trước một người con gái có sắc đẹp:

Nguyệt Nga là gái Kiều công

Tuổi vừa mƣời tám má hồng đƣơng xinh

Nàng đã có sắc khuynh thành,

Lại thêm rất bực tài tình hào hoa

Hắn còn lấy sách Thánh hiền ra để bào chữa cho lập luận của mình để đạt

mục đich:

Kiệm rằng: đã biết sử kinh,

Sao không soi xét để mình ngồi không

Hồ -dƣơng xƣa mới góa chồng

Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa

Hạ Cơ lớn nhỏ đều ƣa

Sớm đƣa Doãn Phủ, tối ngừa Trần quân..

Bùi Kiệm là một trí thức thuộc làu kinh sử nhưng nhưng lại có chút phong

lưu, những gì hắn biết lại là những chuyện trái với đạo nghĩa, đó là chuyện Hạ

Cơ, chuyện Lữ Hậu, Võ hậu…dâm đãng thời cổ kim. Điều quan trọng là thái độ

của Nguyễn Đình Chiểu đối với Bùi Kiệm có lẽ là xem thường, liệt hắn vào hàng

tiểu nhân dâm ô. Trái ngược với Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực mang dáng dấp

của một thánh nhân quân tử thì ở Bùi Kiệm lại mang dáng dấp của một con

người trần thế, có những khát khao, ham muốn trần thế bản năng của nam giới và

107

phá vỡ vòng cương tỏa của Nho giáo. Trong quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu,

bản năng thân xác là xấu, là ác cho nên đáng bị chê trách và nên Bùi Kiệm bị xếp

vào danh sách những nhân vật phản diện làm nguy hại đến đạo đức, nhân cách

của con người. Lời nói của Bùi Kiệm lại động chạm đến ý thức của nho giáo:

Cứ trong sách vở nói ra

Một đời sung sƣớng cũng qua một đời

Ai ai cũng ở trong trời,

Chính chuyên chắc nết chết thời cũng ma

Ngƣời ta chẳng lấy ngƣời ta

Ngƣời ta đâu lấy những là tƣợng nhân?

Nếu ở thời Nguyễn Du, thì Bùi Kiệm có lẽ được xem là nhân vật biết

thưởng thức cái đẹp, chưa chắc bị xếp vào hệ thống những nhân vật phản diện

hoàn toàn một chiều. Chữ “dâm ô” có lẽ đúng khi được dùng để chỉ những người

như Bùi Kiệm trong giai đoạn văn học này. Thế nhưng, cũng một mẫu hình như

Bùi Kiệm, chính nhân vật Thúc Sinh của Truyện Kiều, mối tình Thúc Sinh –

Thúy Kiều được giới thiệu trân trọng không kém mối tình Kim Trọng - Thúy

Kiều. Đó được xem là bản năng tính dục của đàn ông.

Một trường hợp khác, biểu trưng cho ứng xử của nam giới mà ta phải kể

đến là hành động nghĩa hiệp cứu người không cần trả ơn một cách khí khái được

lặp lại một lần nữa ở nhân vật Hớn Minh. Hớn Minh cũng được biết tới là một

anh hùng khảng khái nhưng cũng bỏ thi để cứu một người con gái qua đường:

Đi vừa tới huyện Loan minh,

Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng

Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,

Gặp con gái tốt cƣỡng gian không nghĩ

Hớn Minh có dáng dấp của một nhân vật lạ thường:

Xa xem mặt mũi đen x́ ì, Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.

... Vân Tiên biết lẽ chính tà,

108

Hễ ngƣời dị tƣớng ắt là tài cao.

Chàng là người có vẻ thô lỗ từ diện mạo đến lời ăn tiếng nói. Có ý kiến

cho rằng con người Hớn Minh mang dáng dấp của anh hùng Lỗ Trí Thâm trong

truyện Thuỷ hử (Trung Quốc). Nhân vật Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm, một

nhân vật điển hình cho sự cương trực và lòng nghĩa hiệp. Trong Thủy Hử, ta bắt

gặp cảnh Lỗ Trí Thâm vô tình gặp gỡ cha con Kim Thúy Liên, nghe nói họ cũng

bị Trần Quán Tây dọa nạt áp bức thì vị anh hùng nóng nảy này hứa hẹn sẽ đòi lại

công bằng cho cha con Kim Thúy Liên. Hớn Minh cũng có tấm lòng chính trực,

yêu, ghét rõ ràng, thấy chuyện bất bình chẳng tha. Nhìn thấy tên con quan huyện

Đặng Sinh ỷ thế cưỡng hiếp con gái nhà dân lương thiện, chàng bèn nổi giận:

"Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò". Không quen không biết nhưng chàng vẫn

hết mình giúp đỡ, dù là phận nữ nhi, hành động này tô đậm tinh thần nghĩa hiệp

“gặp chuyện bất bình chẳng tha”.

Truyện không nhắc đến người con gái mà Hớn Minh cứu nhưng ta thấy ở

hành động của Hớn Minh và Lục Vân Tiên là hành động của những anh hùng

vượt qua chuyện nữ nhi thường tình để làm việc trượng nghĩa, bó hẹp trong

khuôn khổ đạo đức mà quên đi con người cá nhân, những rung động trước người

con gái đẹp mà thu mình, khuôn phép, xây dựng tâm gương những anh hùng,

thánh nhân quân tử.

Họ luôn tôn trọng, nể trọng nghĩa tình nhau, không chỉ giữ gìn nghĩa tình

anh em mà còn tôn trọng lễ với vợ chưa cưới của bạn. Vương Tử Trực cũng là

một người đáng mến. Qua lời giới thiệu của Võ Công thì chàng cũng là người có

tài “văn chƣơng tót vời". Gặp Lục Vân Tiên, mến nhau vì tài, Tử Trực luôn giữ

thái độ kính trọng Vân Tiên:

Trực rằng: Tiên vốn cao tài,

Có đâu én hộc sánh vai một bầy.

Tình cờ mà gặp nhau đây,

Trực rằng xin nhƣợng Tiên rày làm anh

Sau này, khi đã đỗ đầu khoa thi, chàng trở về hỏi thăm tin tức Vân Tiên,

gia đình Võ Thể Loan gạ gẫm gả Võ Thể Loan cho chàng, chàng đã lớn tiếng

109

mắng nhiếc:

Trực rằng: " Ngòi viết dĩa nghiên,

Anh em xƣa có thề nguyền cùng nhaụ

Vợ Tiên là Trực chị dâu,

Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.

Chẳng hay ngƣời học sách chi,

Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe

Vương Tử Trực không tơ tưởng, sỗ sàng với người phụ nữ của bạn, mà

lựa chọn giữ trọn chữ nghĩa, cho dù hay tin Lục Vân Tiên đã chết. Chàng đề cao

khí tiết cả trong mối quan hệ nam nữ, dù Thể Loan chưa kêt hôn với Lục Vân

Tiên nhưng vì kết nghĩa anh em nên với Tử Trực, Thể Loan đã là chị dâu. Chị

dâu – bạn kết duyên theo chàng là điều trái với luân thường đạo lý, đáng hổ thẹn

trong đạo đức nho gia. Tử Trực giữ ý với chị dâu, cũng là giữ khí tiết của người

bạn, không muốn để chuyện nữ nhi thường tình ảnh hưởng đến đạo đức nho giáo.

Nguyễn Đình Chiểu đề cao khí tiết của nam nhi, nghĩa hiệp, khắc kỷ, tu thân, lấy

trung hiếu làm đầu, chuyện nam nữ chỉ là bổn phận. Các nhân vật chính diện là

phát ngôn của đạo đức, bảo vệ nho giáo, đáng ca ngợi, ông dành nhiều sự ưu ái

cho họ.

Qua cách nhìn có phần khắc kỷ đối với nam giới của Nguyễn Đình Chiểu,

các nhân vật bước ra từ những trang văn là những anh hùng chính nghĩa, thiếu đi

biểu hiện cá nhân trong mối quan hệ khác giới, họ đại diện cho ước mơ của nhân

dân, nhưng cũng chính vì vậy, nhân vật trở nên một màu, thiếu đi những nét

phong lưu đa tình, những bản năng tính dục ở nam giới. Khác với các tiểu thuyết

nghĩa hiệp ngày nay như của Kim Dung, những trang hảo hán có nhiều tính chất

phức tạp hơn về diễn biến tâm lý cũng như có đời sống yêu đương, tính dục đầy

màu sắc hơn, ngoài là một anh hùng hảo hán, mỗi nhân vật nam đều được xây

dựng trong với tình cảm nam nữ, có người phụ nữ của riêng mình nhưng vẫn giữ

được vẻ đẹp và giá trị của tiểu thuyết viết về các nhân vật anh hùng.

Những cách ứng xử của hai chiến tuyến nhân vật chính diện và phản diện

ta có thể thấy lý tưởng về con người thánh nhân, những bậc nam nhi phi phàm đã

110

chi phối toàn truyện Lục Vân Tiên và cách ứng xử đối với nữ giới nói chung.

Nguyễn Đình Chiểu đã mượn lá cờ của đạo nho, nhưng thực ra là để bảo vệ tình

cha con, đạo vợ chồng, tình bạn bè, lòng trọng nghĩa khinh tài cứu nạn phò nguy.

Chính vì vậy, những nhân vật tốt thì tốt, đẹp tuyệt đối còn những nhân vật xấu thì

xấu từ đầu đến cuối, hoặc là thánh nhân quân tử hoặc là người phàm tục. Các

nhân vật lý tưởng như Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực giống nhau ở chỗ “bỏ

qua phần thân xác bản năng, tu dƣỡng một nhân cách đạo đức theo chuẩn hành

vi “tôn thiên lý, khử nhân dục”. Tình yêu nam nữ, những ứng xử về tình yêu ít

được nói đến, hoặc có nói cũng chỉ nhằm khẳng định lý tưởng vượt qua “ải mỹ

nhân” và phê phán nhục dục tầm thường, thậm chí ca ngợi tấm gương kiên trì lý

tưởng diệt dục hay quả dục. Mặc dù có nhiều chi tiết chưa được hợp lý, nhân vật

chưa có đời sống riêng, còn mang màu sắc ảo tưởng và thiếu thực tế. Chính bởi

mẫu hình nhân vật nam giới- chính diện quá khô khan, thiếu chân thực nên nhân

dân đã phản ứng lại. Cũng vậy, chúng ta có thể đọc những câu:

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,

Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô.

Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,

Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra.

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra...

như một sự phê phán quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu, ông một mực

đề cao những chuẩn mực đạo đức cổ điển và cổ kính như trung, hiếu, tiết, nghĩa

với hy vọng là chúng sẽ giúp duy trì sự ổn định trong xã hội. Nghiên cứu về tác

phẩm Lục Vân Tiên trên quan điểm phê phán tính khắc kỷ của nhân vật nam

chính diện, tác giả Nguyễn Hưng Quốc nhận định: “Tuy nhiên, một là, xã hội

Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19, trong sự cọ xát dữ dội với văn minh Tây

phương và thế lực thực dân, cứ ngày một rạn nứt, vô phương hàn gắn; hai là, bản

thân những chuẩn mực đạo đức tưởng đâu là chân lý vĩnh cửu ấy thật ra rất đáng

ngờ, và với sự lung lay của Nho học, càng ngày càng đáng ngờ thêm. Con thuyền

“chở đạo” của Nguyễn Đình Chiểu, do đó, không phải chỉ trôi trên một dòng

nước ngược mà còn, hơn nữa, trên thực tế, chỉ loay hoay mãi trong một vũng

111

nước tù, không có lối thoát, hết “đụng” cái này thì “đụng” cái kia, cứ quanh

quanh quẩn quẩn mãi trong sự tuyệt vọng và bế tắc. Nói cách khác, đó là những

lý tưởng ở đường cùng. Biện pháp dựa trên nguyên tắc đạo đức mà Nguyễn Đình

Chiểu đề xuất, hay đúng hơn, cổ vũ, đã không giải được bài toán của thời

đại”[26].

Tiểu kết:

Thông qua việc xem xét các nhân vật nam giới trong Lục Vân Tiên, chúng

tôi thấy được có sự đối lập giữa nhân vật chính diện và phản diện trong mô hình

ứng xử với phụ nữ. Nếu như các nhân vật chính diện với phẩm chất đạo đức tốt

đẹp với tàu năng, trí tuệ bao nhiêu thì ứng xử của họ lại có phần lạnh lùng và

khắc kỷ bấy nhiêu. Sự lý tưởng hóa ở các nhân vật chính diện cho thấy rõ cái

đẹp, cái tích cực nhưng đồng thời cũng chỉ ra sự giả tạo, công thức khô khan

trong quan niệm về nam nhân lý tưởng của Nguyễn Đình Chiểu. Điều này hoàn

toàn trái ngược so với các nhân vật phản diện. Nhân vật phản diện trong truyện là

những kẻ bất tàu, vô hạnh mà luôn ham muốn nữ sắc nên tác phẩm đã góp phần

định hình lý tưởng thẩm mỹ của văn học Việt Nam nói chung, cho đến tận thời

hiện đại, hễ muốn ca ngợi nhân vật nào thì gạt bỏ tình dục còn muốn hạ bệ nhân

112

vật nào thì lại gắn tình dục cho nó.

KẾT LUẬN

Qua quá trình nghiên cứu ba chương giới thuyết và ứng dụng các cách tiếp

cận của lý thuyết Giới để phân tích sự miêu tả người nam giới trong tác phẩm

Lục Vân Tiên, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

Xã hội Việt Nam thời trung đại là xã hội nam quyền với nho giáo là quốc

giáo. Tư tưởng tam cƣơng, ngũ thƣờng với tu, tề, trị, bình luôn được các các nhà

nho giáo huấn trong các tác phẩm văn thơ. Nguyễn Đình Chiểu cũng là một nhà

nho sinh ra và lớn lên trên vùng đất phương Nam, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng

của văn hoá phương Đông. Chính vì vậy, nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục

Vân Tiên ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo với những quan niệm về

nhân nghĩa, về tam cƣơng, ngũ thƣờng. Trong số đó, các nhân vật nam chính diện

trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là đại diện cho những nhân vật

lý tưởng trong xã hội nho giáo. Thông qua đó, tác giả đề cao con người đạo đức

trong các mối quan hệ ứng xử cha con, vua tôi, bằng hữu. Tuy nhiên về ứng xử

trong vấn đề giới của các nhân vật nam có đôi chỗ còn rụt rè, cứng nhắc và thậm

chí là lạnh lùng. Quan điểm chung của tác giả đối với quan hệ nam nữ thường

được trình bày bằng cảm hứng phê phán và được xem là nhân vật phản diện đối

với sự nguy hại của bản năng với lí tưởng đạo đức và nhân cách của con người.

Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng sâu sắc của tiểu thuyết anh hùng

Trung Quốc vốn rất phổ biến ở Nam Bộ thế kỷ XIX. Do vậy, các nhân vật nam

chính diện trong Lục Vân Tiên mang đậm màu sắc của anh hùng nghĩa hiệp với

vẻ đẹp lý tưởng. Tuy nhiên, về phương diện tình yêu nam nữ, ứng xử của họ lại

dựa trên cơ sở của những đạo lí nhân nghĩa, thuỷ chung chứ không có những biểu

hiện của bản năng thân xác. Quan niệm này không chỉ tồn tại trong thời đại của

Nguyễn Đình Chiểu mà trong văn học hiện đại mẫu hình con người truyền thống

vẫn tiếp tục được hiện hữu. Và yếu tố đạo đức đóng một vai trò quan trọng trong

việc hình thành hai tuyến nhân vật và hình thành quan niệm khen và chê đối với

113

mội loại hình nhân vật đó. Có thể thấy mẫu hình người nam nhi trong văn học

trung đại thế kỷ này nói chung và trong tác phẩm Lục Vân Tiên nói riêng là

những mẫu hình người anh hùng lạnh lùng trước cái đẹp của người phụ nữ. Họ

sống vì sứ mệnh xã hội lớn lao, vung thanh gươm giáo để dẹp ác trừ gian, đổi trị

thành loạn, thiết lập công lý ở đời. Họ thường có thái độ nghiêm khắc và lạnh

lùng với phụ nữ. Đối với mẫu hình con người thánh nhân trong nho giáo thì việc

tô đậm tài năng, nhân đức để phụ vụ tinh thần nho giáo là tốt nhưng chủ nghĩa

khắc kỷ được nhấn mạnh ở họ lại không phải là điều bình thường. Cũng vậy, để

khắc họa cái xấu của nhân vật phản diện, Nguyễn Đình Chiểu lại cố tình tô đậm

sự bất tài, tham sắc của chúng. Các nhân vật phản diện của ông thường được xây

dựng có tính cách ngược chiều, đối lập với nhân vật phản diện về cách ứng xử

114

cũng như về quan niệm sống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thủy Ba (dịch giả) (2002), Nhập môn xã hội học - Tony Bilton và những

ngƣời khác, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Thái Bạch (2004), Nguyễn Đình Chiểu thân thế và sự nghiệp, tác phẩm, Nxb

Thanh Hóa, Thanh Hóa.

3. Nguyễn Đình Chiểu (2002), Lục Vân Tiên, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

4. Thiều Chửu (2009), Tự điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

5. Đoàn Trung Còn (Dịch giả) (2010), Tứ thư, Nxb Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế.

6. Nguyễn Văn Dân (2005), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

7. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX- những vấn đề lịch sử

và lý luận, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

9. Phạm Văn Đồng (1963), Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong bầu trời văn n

ghệ của dân tộc, Tạp chí Văn học, số 7, tr.26 - 30.

10. Trần Hàn Giang, (2003), Lịch sử phát triển của lý thuyết nữ quyền và lý thuyết

giới, Khoa học về phụ nữ, (số 6), tr.10 - 16.

11. Nguyễn Thạch Giang (2000), Từ ngữ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Nxb TP. Hồ

Chí Minh, Hồ Chí Minh.

12. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Nguyễn Đình Chiểu – Tử sách văn học trong nhà trƣờng,

Nxb Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

13. Ngọc Hồ, Nhất Tâm (1974), Lục Vân Tiên và truyện tường giải, Nxb Sống Mới, Hà Nội.

14. Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1972-1973), Lịch sử Văn học Việt Nam - Văn

học Dân gian, Tập I, II, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

115

17. Nguyễn Văn Khỏa (2007), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Văn học, Hà Nội.

18. Thanh Lãng, (1967), Bảng lƣợc đồ văn học Việt Nam, Nxb Phong trào văn hoá

Sài Gòn, Sài Gòn.

19. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, Tập I , Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

21. Phạm Hoàng Minh, Việt Dũng, Thu Nga (2003), Thần Thoại Trung Quốc, Nxb

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

22. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đƣờng giải mã Văn học trung đại Việt Nam, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Phong Nam (1997), Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học, Nxb

giáo dục, Hà Nội.

24. Sơn Nam (1994), Lịch sử khai khẩn miền Nam, Nxb Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí

Minh.

25. Vũ Tiến Phúc (1972), Việt Nam văn học giảng minh (từ khởi thuỷ đến Nguyễn

sơ), Nxb Alpha, Sài Gòn.

26. Nguyễn Hưng Quốc (2002), Đọc…chơi vài bài ca dao, www.tienve.org.vn.

27. Tạ Văn Ru (1953), Luận đề về Nguyễn Đình Chiểu và Lục Vân Tiên, Nxb

Thăng Long.

28. Lê Hồng Sâm (dịch giả) (2011), Sự thống trị nam giới, Nxb Tri thức, Hà Nội.

29. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho

Thìn, Đoàn Thị Thu Vân, (1997), Về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Nguyễn Kim Sơn (1996), Những xu hƣớng của Nho học Việt Nam nửa cuối thế kỉ

XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX và sự tác động của nó tới văn học, Luận án phó tiến sĩ

khoa học ngữ văn, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

31. Thiếu Sơn (1993), Những văn nhân, chính khách một thời, Nxb Lao Động, Hà Nội.

32. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb

116

Giáo dục, Hà Nội.

33. Tạ Quang Phát (dịch giả) (2007), Kinh thi Khổng Tử, quyển I, dịch giả, Nxb Văn

học, Hà Nội.

34. Tạ Quang Phát (dịch giả) (2007), Kinh thi Khổng Tử, quyển II, dịch giả, Nxb Văn

học, Hà Nội.

35. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia - tác phẩm văn học Trung đại

Việt Nam, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

36. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm văn học

trung đại Việt Nam, Tập II, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

37. Cao Tự Thanh (2009), Nho giáo ở Gia Định, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TP. Hồ Chí

Minh.

38. Tuấn Thành, Anh Vũ (2005), Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình, Nxb Văn

học, Hà Nội.

39. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hoá, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

40. Trần Nho Thìn, (2003), Tài tình - một vấn đề văn hoá của thời đại Nguyễn Du,

Tạp chí Văn học, số 7, Hà Nội.

41. Trần Nho Thìn (2012), Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

43. Nguyễn Ngọc Thiện (2002), Tuyển tập Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Giáo Dục, Hà

Nội.

44. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình Xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

45. Nguyễn Ánh Tuyết (2008), Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam,

Luận án Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

46. Lê Trí Viễn (1968), Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

47. Lê Trí Viễn (2002), Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao càng nhìn càng sáng, Nxb

117

Giáo dục, Hà Nội.

48. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (2007), Lịch sử Triết học, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

49. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn

chung, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

50. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX những vấn

đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

51. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

52. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn

118

học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.