ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------
NGUYỄN THỊ THẤM
NHÂN VẬT THIẾU NHI QUA HAI TIỂU THUYẾT CÔI
CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI VÀ CHUYỆN CỦA LÝ CỦA
MA VĂN KHÁNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN NGỌC THIỆN
Thái Nguyên, 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng
Sau đại học, quý thầy cô khoa Ngữ văn - Trƣờng Đại học Sƣ phạm - Đại học Thái
Nguyên và quý thầy cô đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập. Đặc biệt là Sở Giáo dục và Đào tạo Tuyên Quang; Ban giám hiệu, giáo viên dạy
Ngữ văn cùng toàn thể các em học sinh của trƣờng THPT Xuân Huy - huyện Yên
Sơn - tỉnh Tuyên Quang đã tận tình hợp tác giúp đỡ tôi, tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn
Ngọc Thiện - ngƣời thầy hƣớng dẫn Luận văn đã tận tình giúp đỡ tôi về tri thức,
phƣơng pháp và kinh nghiệm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn nhà văn Ma Văn Kháng cùng bạn bè, đồng nghiệp và
ngƣời thân đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2014
Học viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nguyễn Thị Thấm
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Trong
suốt quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả nghiên cứu khoa học
của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn nhƣng những nội dung nghiên cứu
của tôi không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Những trích dẫn
tài liệu đã đƣợc sử dụng trong Luận văn là đúng sự thật và đƣợc trích dẫn nguồn gốc
từ các tài liệu, tạp chí, công trình nghiên cứu đã đƣợc xuất bản, công bố. Các giải pháp
nghiên cứu nêu trong Luận văn đƣợc rút ra từ những cơ sở lý luận và nghiên cứu thực
tiễn, trong quá trình học tập và giảng dạy.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2014
Học viên
Nguyễn Thị Thấm
Xác nhận Xác nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
của khoa chuyên môn của ngƣời hƣớng dẫn khoa học
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GS : Giáo sƣ
TS : Tiến sĩ
PGS : Phó giáo sƣ
Nxb : Nhà xuất bản
THPT : Trung học phổ thông
H : Hà Nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tr : trang
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................iii
MỤC LỤC .............................................................................................................. iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 8
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 8
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
7. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 9
8. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 9
NỘI DUNG ......................................................................................................... 10
CHƢƠNG 1. BỨC TRANH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TRONG HAI TIỂU
THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI VÀ CHUYỆN CỦA LÝ CỦA MA VĂN
KHÁNG .............................................................................................................. 10
1.1. Đề tài về đời sống thiếu nhi trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại ........ 10
1.1.1. Khái niệm về đề tài .................................................................................... 10
1.1.2. Đề tài về đời sống thiếu nhi trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng ...................................................................... 11
1.1.2.1. Đời sống thiếu nhi trong gia đình ........................................................... 12
1.1.2.2. Đời sống thiếu nhi trong học đường nhà trường ..................................... 20
1.1.2.3. Đời sống thiếu nhi trong các mối quan hệ xã hội khác ........................... 23
1.2. Hệ thống nhân vật trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa
cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng .............................................. 27
1.2.1. Khái niệm về hệ thống nhân vật ................................................................. 27
1.2.2. Hệ thống nhân vật trong hai tiểu thuyết ..................................................... 27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
1.2.2.1. Hệ thống nhân vật trẻ em ........................................................................ 28
1.2.2.2. Hệ thống nhân vật người lớn .................................................................. 31
1.3. Đặc sắc bức tranh đời sống xã hội trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi
Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng ........................ 41
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ NHÂN VẬT THIẾU NHI TRONG
HAI TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI VÀ CHUYỆN CỦA LÝ
CỦA MA VĂN KHÁNG .................................................................................... 44
2.1. Khái niệm về nhân vật thiếu nhi trong văn học ........................................ 44
2.2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật thiếu nhi trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa
cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng .............................................. 44
2.2.1. Khái niệm về miêu tả .................................................................................. 44
2.2.2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật thiếu nhi trong hai tiểu thuyết ...................... 45
2.2.2.1. Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật ................................................... 45
2.2.2.2. Nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm nhân vật ..................................... 55
CHƢƠNG 3. ĐẶC SẮC TRONG NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU QUA HAI
TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ THIẾU NHI CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI VÀ
CHUYỆN CỦA LÝ CỦA MA VĂN KHÁNG .................................................... 65
3.1. Ngôn ngữ của hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng ................................................................... 65
3.1.1. Khái niệm về ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................. 65
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng trong hai tiểu thuyết ................................... 66
3.1.2.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường đậm đặc chất liệu dân gian và mang đậm
phong vị miền núi ................................................................................................. 66
3.1.2.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ, chất biểu cảm ................................................... 71
3.2. Giọng điệu của hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng ................................................................... 74
3.2.1. Khái niệm về giọng điệu nghệ thuật ........................................................... 74
3.2.2. Các sắc thái giọng điệu trong hai tiểu thuyết ............................................ 76
3.2.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha .................................................... 76
3.2.2.2. Giọng điệu suy ngẫm, triết lí sâu xa, hướng về nhân bản, bênh vực quyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
con người ............................................................................................................. 81
3.2.2.3. Giọng điệu thương cảm, xót xa ............................................................... 84
3.2.2.4. Giọng điệu mỉa mai, phê phán ................................................................ 88
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 97
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ma Văn Kháng (sinh ngày 1/12/1936) là nhà văn xuôi Việt Nam hiện đại nổi
tiếng trên Văn đàn. Ông đƣợc đánh giá là “một cây bút văn xuôi sung sức, một đời
văn sáng tạo” [55]. Kể từ năm 1961, khi cho ra đời truyện ngắn đầu tay Phố cụt
đăng trên báo Văn nghệ, số 136 đến nay, Ma Văn Kháng đã có một sự nghiệp văn
chƣơng đồ sộ có giá trị với trên 200 truyện ngắn, 16 cuốn tiểu thuyết, 4 truyện thiếu
nhi, một cuốn hồi ký - tự truyện, một cuốn tiểu luận và bút kí văn học. Song ở thể
loại nào ông cũng thành công và đƣợc đông đảo bạn đọc đón nhận, nhất là truyện
ngắn và tiểu thuyết.
Ở mảng truyện ngắn, Ma Văn Kháng tỏ ra là một ngòi bút khá điêu luyện về
nghề nghiệp và đã đạt đƣợc những đỉnh cao của phong độ, đem đến vinh quang cho
nhà văn ngay từ buổi đầu khởi nghiệp: Truyện ngắn Xa Phủ đƣợc Giải nhì (không có
giải nhất) trong Cuộc thi viết Truyện ngắn 1967 - 1968 của Báo Văn nghệ; Tập
truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ đƣợc Giải thƣởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà
văn Việt Nam năm 1995 và Giải thƣởng Văn học Đông Nam Á (ASEAN) năm
1998; Truyện ngắn San Cha Chải đƣợc Giải thƣởng “Cây bút vàng” trong cuộc thi
viết Truyện ngắn và Ký năm 1996 - 1998 do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam
đồng tổ chức. Tập truyện ngắn Móng vuốt thời gian đƣợc Giải thƣởng của Hội Văn
học nghệ thuật các dân tộc thiểu số 2003…
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, Ma Văn Kháng còn rất thành công
ở thể loại tiểu thuyết và đã đoạt đƣợc nhiều giải thƣởng cao quý nhƣ: Giải thƣởng
Văn học Công nhân lần thứ 3 năm 1984 cho tiểu thuyết Mưa mùa hạ; Giải thƣởng
Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn; Giải
thƣởng Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số 2001 cho tiểu thuyết Gặp gỡ ở
La Pan Tẩn; Giải thƣởng Hội nhà văn Hà Nội năm 2009 cho tiểu thuyết Một mình
một ngựa; Giải thƣởng về đề tài Nông Nghiệp 2011 với tiểu thuyết Mưa mùa hạ;
Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học nghệ thuật đợt 1 năm 2001; Giải thƣởng Hồ Chí
Minh về Văn học Nghệ thuật đợt IV năm 2012 cho cụm tác phẩm: Mưa mùa hạ, Côi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn; Giải thƣởng đặc biệt của Hội Văn học
nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2013 cho tiểu thuyết Chuyện của Lý.
Cũng trong năm 2013, nhà văn còn đoạt Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam cho
cuốn Phút giây huyền diệu, tập tiểu luận và bút kí về nghề văn 320 trang.
Nhƣng dù thành công ở thể loại nào thì các tác phẩm của Ma Văn Kháng cũng
đều tập trung vào ba đề tài lớn: Miền núi; Thiếu nhi; Đô thị và tri thức. Nói về các
tác phẩm của Ma Văn Kháng, thầy giáo ngoại ngữ Thanh Thông trong bài viết: “Vài
cảm nghĩ khiêm tốn sau khi đọc tác phẩm Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng” đã
bộc lộ sự ngƣỡng mộ và khâm phục về tài năng văn chƣơng của nhà văn nhƣ sau:
“Tác phẩm nào anh viết cũng tường tận, chi li, đằm thắm và giầu tình tiết, anh hoàn
toàn được gọi là nhà tâm lí học, giáo dục học, dân tộc học, nhân chủng học, khoa
học hình sự, một lương y có tay nghề…”. Cùng với lời nhận xét đó và những thành
tựu kể trên, Ma Văn Kháng đã tự khẳng định đƣợc tài năng và vị thế của mình trong
nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
1.2. Lâu nay, đã có nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu về Ma Văn Kháng và
các tác phẩm của ông. Nhƣng hầu hết là các đánh giá, nhận định chung về từng tác
phẩm cụ thể, về hình tƣợng nghệ thuật. Các công trình nghiên cứu công phu nhƣ các
luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ tuy đã hƣớng vào những khía cạnh chuyên biệt. Ví
dụ nhƣ: Kiểu nhân vật, đặc trƣng thể loại, cảm hứng nghệ thuật, phân tích đặc sắc
nghệ thuật tự sự của truyện ngắn, tiểu thuyết trên các loại đề tài: đề tài ngƣời tri
thức, hình ảnh ngƣời phụ nữ, hình tƣợng ngƣời kể chuyện trong tiểu thuyết…
Tuy nhiên, đứng về góc độ nghiên cứu, Ma Văn Kháng là nhà văn có không ít
tác phẩm viết thành công về đề tài thiếu nhi nhƣng còn ít đƣợc đề cập đến. Côi cút
giữa cảnh đời là một trong ba cuốn tiểu thuyết nằm trong cụm tác phẩm đƣợc Giải
thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012 và Chuyện của Lý đoạt Giải
thƣởng đặc biệt của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số năm 2013 đều viết
về đề tài thiếu nhi rất sâu sắc nhƣng vẫn chƣa đƣợc tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá.
Với lí do đó, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học: Nhân vật
thiếu nhi qua hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma
Văn Kháng. Luận văn này là một công trình nghiên cứu quy mô nhỏ để lấp vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
khoảng trống đó.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu nhân vật thiếu nhi
qua hai tiểu thuyết xuất bản cách nhau 24 năm, cho thấy sự tiến triển trong cái nhìn
nghệ thuật, bút pháp cũng nhƣ phong cách tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trên cùng
một đề tài.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hơn 50 năm trong nghề cầm bút viết văn, Ma Văn Kháng là một trong những
nhà văn có nhiều đóng góp cho văn xuôi Việt Nam hiện đại thời kỳ đổi mới. Các tác
phẩm của nhà văn, đặc biệt là những tác phẩm viết về thiếu nhi đã thu hút đƣợc sự
quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học.
2.1. Những công trình nghiên cứu về tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời của Ma
Văn Kháng
Ngay từ khi ra đời, tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời (xuất bản lần đầu 1989) đã
đƣợc dƣ luận quan tâm và chú ý đến. Có rất nhiều bài viết, ý kiến về thiên truyện
đặc sắc này nhƣng đáng chú ý là: Bài viết của Văn Hồng dƣới dạng thƣ viết cho các
bạn đọc nhỏ tuổi, in ở đầu sách:“Gửi em, người bạn đọc sắp bước vào đời!”. Văn
Hồng đánh giá cao tƣ tƣởng nghệ thuật sâu sắc của tác phẩm có cái vị đắng cay và
ngọt bùi, nhận ra tấm lòng đau đớn và lời nhắn gửi của tác giả: “Đồng tiền, quyền
lực cũng nhƣ tất cả tài sản vật chất khác chung quy chỉ là phƣơng tiện. Ngƣời nào
coi đồng tiền, quyền lực là mục đích, ngƣời đó sẽ trở thành kẻ ác, giẫm đạp lên
ngƣời khác và tự phá hoại cuộc sống của chính mình! Mục đích của chúng ta cao
đẹp biết bao nhiêu, một cuộc sống có nghĩa, có tình, giàu về vật chất và tinh thần,
giàu cho tất cả mọi ngƣời, hòa bình và hữu nghị cho tất cả các dân tộc!” [24, tr. 9].
Giáo sƣ Phong Lê trong cuốn Vẫn chuyện Văn và Người đã nhận xét: “Côi cút
giữa cảnh đời - viết cho lứa tuổi thiếu nhi. Cuốn sách chất đầy những đau khổ, oan
khiên lên thân phận ba bà cháu còm cõi, bơ vơ. Nếu chỉ là đau khổ và oan khiên
thì chỉ làm nẩy ở ngƣời đọc sự uất ức, phẫn nộ. Ngƣời ta mím môi nghiến
răng. Nhƣng để làm rơi đƣợc giọt nƣớc mắt thì phải có một cái gì khác, hoặc
cao hơn sự căm giận, sự phẫn nộ. Cái đó chỉ có thể khơi gợi đƣợc ở cái thiện,
cái đẹp và tình ngƣời. Chƣa thể nói ở đây cái thiện, tình ngƣời đã thắng, đã
vƣợt lên đƣợc cái ác, đã đè bẹp đƣợc những tâm địa tối tăm. Nhƣng nó đã có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thể tồn tại mà không bị vùi dập. Và tôi nghĩ đó là chiến thắng của tác giả...
Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ đó nhƣ nhiều
cuốn sách khác. Nhƣng thật lạ, anh lại đƣa con ngƣời vào quỹ đạo những tình cảm
nhân hậu, tốt lành. Có thể nói đó là một hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả
thanh lọc này vốn giành cho nghệ thuật; và dƣờng nhƣ cũng chỉ có một nghệ thuật
đích thực, nghệ thuật cao hơn cuộc đời mới làm nổi... Cuốn sách mạnh mẽ đẩy ta
vào giữa giòng sống hôm nay với cảm hứng lớn là cảm hứng sự thật, và khát vọng
bao trùm là khát vọng dân chủ; cũng đồng thời cho ta một sự gắn nối với văn mạch
truyền thống là chủ nghĩa nhân văn và tình thƣơng yêu con ngƣời”. Còn về nhân vật
thiếu nhi trong truyện, Giáo sƣ Phong Lê cũng nhận định: “Nhân vật bé Duy cho ta
một hình ảnh một sự chống chọi để vƣợt lên bao đau khổ, đau khổ mà không quá
tầm thƣờng với của lứa tuổi lên mƣời, mà không cƣờng điệu, giả tạo” [31, tr. 193 -
198 ].
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết: “Tiểu thuyết về đề tài dân tộc và
miền núi của Ma Văn Kháng” cho rằng: “Trong thể tài truyện vừa của văn học thiếu
nhi, Ma Văn Kháng đã góp vào đó bốn truyện hay. Tác phẩm tâm huyết về chủ đề
này của ông là tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, đƣợc tái hiện trên cơ sở thu hút
nhiều yếu tố tự truyện, đã đƣợc tổ chức SIDA (Thụy Điển) trao giải thƣởng, bởi tác
phẩm là tiếng nói xác tín và truyền cảm bảo hộ quyền sống và nhân cách con ngƣời
ngay từ khi nó vẫn còn là một đứa trẻ non nớt và vụng dại” [25, tr. 231].
PGS.TS.Vân Thanh - Tác giả cuốn sách Phác thảo Văn học thiếu nhi Việt Nam
cũng đã trích dẫn một số ý kiến của một số nhà phê bình về cuốn tiểu thuyết Côi cút
giữa cảnh đời. Tác phẩm thu hút ngay ngƣời đọc ở sự thể hiện cuộc sống thực đầy
cay đắng và cũng không thiếu chất thơ diễn ra quanh ta. “Cuốn sách thể hiện cuộc
sống nhƣ một sự toàn vẹn” “không một cuộc phiêu lƣu, không một pha đuổi bắt, nhƣ
bất cứ văn học đích thực nào. Ở đây cái hấp dẫn là do tính cách và số phận những
con ngƣời” (Văn Hồng). “Đọc Côi cút giữa cảnh đời, có trang rơi nƣớc mắt, có đoạn
muốn gào lên” (Quần Phƣơng) [50, tr. 388].
Văn Trọng, trên báo Tiền Phong số 26, ngày 30/6/2002 cho rằng: “Tôi rất thích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
truyện Côi cút giữa cảnh đời của nhà văn Ma Văn Kháng bởi tác phẩm đó giúp thiếu
nhi giáp mặt với thực tế xã hội ngƣời lớn, trang bị cho các em một cái nhìn đúng về
cuộc đời, giúp các em biết phân biệt ngƣời và quỷ” [50, tr. 388].
Ma Văn Kháng - tác giả cuốn sách cũng đã tự bộc lộ cảm xúc của mình và đƣa
ra những lời nhận xét nhƣ sau: “Tác phẩm tôi yêu thích nhất là cuốn Côi cút giữa
cảnh đời, in năm 1989. Vì “cuốn sách đặt con ngƣời vào dòng đời đƣơng đại trong
một hiện thực gay gắt và không ít buồn phiền đau đớn ... Côi cút giữa cảnh đời triển
khai một cấu trúc gồm một loạt những gian truân cùng cực của ba bà cháu trong
cuộc vật lộn với thiếu thốn vật chất, mất mát tình cảm và những ức chế tinh thần.
Tôi nghĩ, văn học ta đã xây dựng khá sắc sảo hình tƣợng ngƣời vợ, ngƣời mẹ đại
diện cho ngƣời phụ nữ Việt Nam trong những cơn thăng trầm của lịch sử. Bây giờ
tôi muốn có hình ảnh của một ngƣời bà độ lƣợng, khoan dung thƣơng yêu hết mực,
hi sinh hết thảy vì con, cháu và bền bỉ, ngoan cƣờng, dũng cảm đối mặt với cái xấu,
cái ác; là hiện thân cho lẽ phải, lòng tin và sự can đảm. Trong Côi cút giữa cảnh đời
có hình bóng ngƣời mẹ kính yêu của tôi, ngƣời bà nội, bà ngoại của các con cháu
tôi”... [29, tr. 247 - 248].
Nhƣ vậy, qua ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà văn Ma Văn Kháng và ý kiến
của các độc giả về cuốn tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, chúng ta nhận thấy, điều
mẫu chốt làm nên thành công tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời - tác phẩm nghệ
thuật đích thực là ở sự xúc động và chinh phục đƣợc lòng ngƣời. Đó cũng chính là
sự trải nghiệm mọi cung bậc cuộc đời của Ma Văn Kháng.
2.2. Những công trình nghiên cứu về tác phẩm Chuyện của Lý của Ma Văn
Kháng
Tiểu thuyết Chuyện của Lý vừa mới đƣợc xuất bản năm 2013, nhƣng tại buổi
giới thiệu cuốn tiểu thuyết đã có rất nhiều ý kiến phát biểu và lí giải về sự thành
công của cuốn sách này. Tuy nhiên, Ma Văn Kháng là ngƣời đầu tiên đã tâm sự: “Số
phận con ngƣời trong chiến tranh cùng với những gian nan trong cuộc sống bất toàn
mà nó phải chịu. Đó là câu chuyện của hàng trăm cuốn tiểu thuyết ở xứ ta rồi. Thế
còn số phận của những đứa trẻ thì sao? Về đề tài này tôi đã viết cuốn tiểu thuyết Côi
cút giữa cảnh đời, trong đó trung tâm là hình ảnh một ngƣời bà của hai đứa trẻ côi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cút thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Còn về Chuyện của Lý thì rõ ràng đứa trẻ
mang tên Lý phải là nhân vật chủ yếu của cuốn sách. Lý là đứa trẻ đƣợc tác giả theo
dõi và miêu tả từ lúc là một ấu nhi, một sinh thể sống đơn thuần, tới khi hình thành
trọn vẹn nhân cách con ngƣời”... [30]. Với việc theo dõi và miêu tả bé Lý nhƣ vậy,
Ma Văn Kháng muốn ngầm nhắc nhở những ông bố bà mẹ là phải phát huy hết khả
năng của mình trong việc nuôi dạy con cái. Cho nên, việc theo dõi và miêu tả bé Lý
ở trong cuốn sách Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng hoàn toàn trùng hợp với cách
giáo dục con cái của ông bố CarlWeter. Lý tƣởng giáo dục của ông là bồi dƣỡng con
trai trở thành một ngƣời phát triển toàn diện. Thực ra, đây có lẽ cũng là lý tƣởng của
mọi ông bố bà mẹ yêu con trên thế giới này. Chính vì thế, cuốn sách mới xuất bản
mà đã thu hút đƣợc cảm tình của độc giả. Điều này đúng nhƣ nhà Lí luận phê bình
Bùi Việt Thắng trong bài viết “Sự sống chẳng bao giờ chán nản” đã nhận định:
Chuyện của Lý là “một cái kết có hậu nhƣng không ai không đồng thanh tương ứng
đồng khí tương cầu cả. Khi Lý tròn mƣời bảy tuổi (tại sao lại không là mƣời tám
nhỉ?), đẹp rạng rỡ nhƣ trăng rằm, ấy là khi câu chuyện kết lại “Biết bao thời gian đã
qua đi và đọng lại cho hôm nay. Em là đứa bé đƣợc mẹ ấp ủ, đƣợc cha đẻ và bố
dƣợng soi đƣờng, hoàn thiện nhân cách, đƣợc bà ngoại, bà Pham, ông Thòn thƣơng
yêu nuôi dƣỡng, dạy bảo. Bất chấp những đổi thay của thời cuộc, thể chế và thời
gian, với em đó sẽ mãi mãi là những con ngƣời đẹp nhất, hoàn thiện nhất của mọi
cuộc đời. Em là Lý đây. Em đã đƣợc sống trong lòng cuộc sống của Phong Sa với đủ
các cung bậc buồn vui, đau khổ và sung sƣớng. Em là con đẻ của cuộc đời. Là con
của ngƣời đời, em đang can đảm bƣớc vào đời đây” (Ý kiến phát biểu trong buổi
giới thiệu tiểu thuyết Chuyện của Lý do Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức - Hà Nội,
ngày 15 tháng 11 năm 2013).
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Văn học Việt Nam, một ngƣời em, ngƣời
bạn lâu năm của Ma Văn Kháng. Tại buổi lễ ra mắt cuốn sách Chuyện của Lý, nhà
thơ Hữu Thỉnh đã ghi nhận: “Nhà văn Ma Văn Kháng là một trong những ngƣời đạt
đƣợc nhiều thành tựu lớn trong văn xuôi. Mỗi tác phẩm là một câu chuyện rất thật về
đời thƣờng, đồng thời là những chiêm nghiệm về cuộc sống của nhà văn đầy tinh
thần trách nhiệm, giàu nhiệt huyết, hăng say lao động. Đọc tác phẩm của ông, ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thấy một vốn sống khổng lồ đƣợc chuyển hóa nhuần nhuyễn thành những câu từ hết
sức gần gũi”... (Ý kiến phát biểu trong buổi giới thiệu tiểu thuyết Chuyện của Lý do
Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức - Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2013).
Có thể nói, qua các ý kiến, các nhận định và lời tâm sự của nhà văn. Chúng ta
thấy, Chuyện của Lý cũng giống nhƣ tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn
Kháng. Đây là một tác phẩm nghệ thuật đích thực, giàu tính chiến đấu và tràn đầy
tính nhân văn, làm cho ngƣời đọc xao xuyến, suy tƣ nhƣ đang thƣởng thức một món
ăn đặc sản tinh thần cao quý và thật sự cảm thấy bổ ích cho tâm hồn.
Tóm lại, với các bài viết, ý kiến, nhận định, các công trình nghiên cứu và bản tâm
sự của nhà văn... về hai cuốn tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của
Ma Văn Kháng, chúng tôi đã có đƣợc những gợi ý tham khảo, những tƣ liệu quý báu
và cần thiết trong quá trình nghiên cứu đề tài: Nhân vật thiếu nhi qua hai tiểu thuyết
Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng. Đây là hai cuốn tiểu
thuyết tiêu biểu xuất bản cách nhau 24 năm nhƣng đều có chung một đề tài là viết về
thiếu nhi. Điều này đã đƣợc PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định: “Chuyện của
Lý (2013) - cuốn tiểu thuyết thứ 16 của đời văn Ma Văn Kháng, đã cùng với Côi cút
giữa cảnh đời (1989) hợp thành bộ đôi tiểu thuyết gia đình. Ở đây, nổi lên số phận
những đứa con côi cút từ trong bụng mẹ, gặp nhiều bất hạnh, nhƣng lại là những mầm
sống khỏe khoắn, cứng cỏi vƣơn lên, trụ vững trƣớc bao thử thách, bầm dập, bất công.
Với bút pháp hiện thực tỉnh táo mà bất ngờ đến tận chi tiết; giọng điệu trữ tình thƣơng
cảm đằm thắm, nhà văn đã gợi mở những thức nhận tƣờng minh, nhân bản, hƣớng
thiện vào miền hiện thực mới: đời sống tâm linh bí ẩn, nhục cảm…” (Ý kiến phát biểu
trong buổi giới thiệu tiểu thuyết Chuyện của Lý do Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ
chức - Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2013).
Cùng với lời nhận xét đó, hầu nhƣ những trang viết nào ở trong hai cuốn
tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng, ta cũng
bắt gặp cách dùng từ ngữ phong phú, mới mẻ, có lối hành văn thật tự nhiên,
biến hóa, phức tạp một cách thú vị. Phải là một nhà văn bậc thầy, với một kho
tàng kiến thức sâu rộng thì mới viết đƣợc những trang đẹp đẽ dƣờng ấy!
Nhìn chung với hơn 50 năm trong nghề cầm bút viết văn, Ma Văn Kháng vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
luôn là ngƣời cùng thời với bao thế hệ ngƣời viết, và cùng đồng hành với bạn đọc từ
những năm giữa thế kỷ trƣớc cho đến những ngày hôm nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là tìm hiểu nghệ thuật tự sự qua hai tiểu
thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý viết về thiếu nhi của Ma Văn Kháng.
Đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật thiếu nhi trong mối quan hệ với gia đình và
xã hội, qua đó khẳng định loại tiểu thuyết hƣớng về đời tƣ của con ngƣời gắn bó với
các thế hệ trong gia đình và đặt trong bối cảnh xã hội nƣớc ta mà nó tồn tại và có
khả năng đặt ra đƣợc nhiều vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh sâu sắc.
Việc tác giả chọn hai tác phẩm cách nhau 24 năm nhƣng lại cùng đề tài viết về
thiếu nhi là để ghi nhận sự tiến triển trong bút pháp tự sự cũng nhƣ phong cách nghệ
thuật của loại tiểu thuyết gia đình của Ma Văn Kháng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý trên cơ sở so
sánh với các tiểu thuyết khác cùng viết về đề tài thiếu nhi. Qua đó để thấy đƣợc
những nét chung, nét riêng của các nhà văn cũng nhƣ nét độc đáo của Ma Văn
Kháng khi viết về nhân vật thiếu nhi.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn tập trung vào hai cuốn tiểu thuyết Côi cút
giữa cảnh đời và Chuyện của Lý. Sau đó có thể mở rộng so sánh với các tiểu thuyết
khác cùng viết về đề tài thiếu nhi để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu một số vấn đề chính: Bức tranh đời sống xã hội; Nghệ
thuật miêu tả nhân vật thiếu nhi; Đặc sắc trong ngôn ngữ, giọng điệu qua hai tiểu
thuyết viết về thiếu nhi của Ma Văn Kháng. Hi vọng luận văn này sẽ đóng góp một
cái nhìn toàn diện về những cống hiến của Ma Văn Kháng đối với một khu vực đề
tài của dòng văn xuôi Việt Nam hiện đại.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp:
- Phƣơng pháp hệ thống
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
7. Đóng góp của luận văn
Thông qua đề tài, luận văn muốn góp thêm tiếng nói mới về phƣơng diện nghệ
thuật tự sự, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật thiếu nhi của Ma Văn Kháng,
cũng nhƣ có cái nhìn toàn diện về quá trình vận động tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà
văn.
Khẳng định những thành tựu và đóng góp của Ma Văn Kháng trong nền văn
xuôi Việt Nam hiện đại.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần thƣ mục tài liệu tham khảo, thì cấu trúc
của luận văn đƣợc triển khai thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Bức tranh đời sống xã hội trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh
đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
Chƣơng 2: Nghệ thuật miêu tả nhân vật thiếu nhi trong hai tiểu thuyết Côi cút
giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
Chƣơng 3: Đặc sắc trong ngôn ngữ, giọng điệu qua hai tiểu thuyết Côi cút giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
BỨC TRANH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TRONG HAI TIỂU THUYẾT CÔI
CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI VÀ CHUYỆN CỦA LÝ CỦA MA VĂN KHÁNG
1.1. Đề tài về đời sống thiếu nhi trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.1.1. Khái niệm về đề tài
Trong các bộ môn nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, đề tài là phạm vi
cuộc sống mà nhà văn chọn lựa để sáng tác. Chỉ cần xem tác phẩm viết về cái gì là
có thể xác định đƣợc đề tài của tác phẩm đó. Hay nói cách khác, đề tài là phương
diện khách quan của nội dung tác phẩm [13, tr.110]. Đọc bất cứ tác phẩm nào chúng
ta cũng bắt gặp những ngƣời, những cảnh và tâm tình cụ thể sinh động. Đó là phạm
vi miêu tả trực tiếp của tác phẩm. Tính chất của phạm vi miêu tả trực tiếp trong các
tác phẩm có thể hết sức đa dạng: có thể là chuyện con ngƣời, con thú, cây cỏ, chim
muông... nên đề tài của tác phẩm văn học bao giờ cũng xuyên qua một phạm vi miêu
tả cụ thể để khái quát lên một phạm vi hiện thực đời sống nhất định có ý nghĩa sâu
rộng hơn.
Đề tài là phạm vi đời sống đƣợc nhà văn nhận thức, lựa chọn, lí giải và tái hiện
trong tác phẩm. Con đƣờng nhận thức đề tài là đi từ nội dung trực tiếp của tác phẩm,
xác định những đƣờng nét xã hội lịch sử của nó. Mỗi nhân vật của tác phẩm đều có
thể tiêu biểu cho một tầng lớp xã hội, mang một tính cách xã hội, hoạt động trong
một lĩnh vực đời sống, đều có thể tiêu biểu cho một đề tài. Chẳng hạn, tác phẩm Tắt
đèn của Ngô Tất Tố, bên cạnh đề tài về cuộc sống bi thảm của ngƣời nông dân còn
có các đề tài về cuộc sống của bọn quan lại tham lam, ích kỉ, về cuộc đời của các em
bé nghèo khổ… Nhƣ vậy, khi nói đến đề tài của một tác phẩm văn học, chúng ta
không chỉ nói tới một đề tài mà là một hệ thống đề tài liên quan nhau, bổ sung cho
nhau tạo thành đề tài của tác phẩm.
Đề tài tác phẩm chẳng những gắn với hiện thực khách quan mà còn do lập
trƣờng tƣ tƣởng và vốn sống nhà văn quy định. Mỗi nhà văn, tùy theo sở trƣờng của
mình, có thể chọn lựa một địa hạt nào đó để phản ánh. Có những đề tài dƣờng nhƣ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thƣờng lặp đi lặp lại trong văn học ở mọi nơi và mọi thời đại nhƣ đề tài tình yêu và
hạnh phúc, chiến tranh và hòa bình, sự sống và cái chết…Có ngƣời cho rằng đấy là
những đề tài vĩnh cửu của văn học. Thật ra, đó chỉ là một cách nói. Bởi vì, ngay
chính một nhà văn khi viết về một phạm vi cuộc sống thì đề tài của tác phẩm cũng là
một cái gì mới mẻ, không trùng lặp.
1.1.2. Đề tài về đời sống thiếu nhi trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
Nếu nhƣ những trang viết của Ma Văn Kháng, kể cả viết cho thiếu nhi và viết
cho ngƣời lớn trƣớc thập kỷ 80 thể hiện cái nhìn mang tính sử thi, thì ở giai đoạn sau
nhà văn đã chuyển sang cái nhìn thế sự đời tƣ. Cuộc sống hiện lên trong tác phẩm
của ông giờ đây không còn đơn tuyến mà đa tuyến, nhiều chiều, cái xấu xen lẫn cái
tốt, ma quỷ chen lẫn với thần thánh. Ông quan tâm, phản ánh số phận con ngƣời
trong nhiều quan hệ, nhiều hoàn cảnh khác nhau và cố gắng nắm bắt mọi khía cạnh
của cuộc sống để lột tả nó một cách đầy đủ nhất trong tính đa dạng, toàn vẹn của nó.
Ông thực sự muốn dùng sức mạnh ngòi bút của mình để mang tới những giá trị nhân
văn cho con ngƣời và con ngƣời ở nghĩa rộng nhất.
Với quan niệm viết văn là việc “Đào bới vào bản thể ở chiều sâu tâm hồn”. Ma
Văn Kháng đã tạo cho mình một tiếng nói, một phong cách nghệ thuật riêng. Đúng
nhƣ ông đã từng nói: “Chỉ viết đƣợc những gì mình đã trải nghiệm và mỗi cuốn văn
xuôi tự sự dài đều có một phần đời của tôi” [29, tr. 299]. Điều này đƣợc thể hiện rất
rõ ở trong các sáng viết về thiếu nhi của nhà văn.
Ở trong các sáng viết về thiếu nhi của Ma Văn Kháng nói chung hai cuốn tiểu
thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý nói riêng, ta thấy, Ma Văn Kháng
luôn quan tâm và đề cập đến vấn đề cốt tử của đời sống con người, của vận mệnh
dân tộc, đặc biệt là đời sống con ngƣời thiếu nhi. Đó là đời sống thiếu nhi trong gia
đình, đời sống thiếu nhi trong học đƣờng nhà trƣờng và trong các mối quan hệ xã
hội khác.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã căn dặn, muốn giáo dục thiếu niên, nhi
đồng thì chúng ta “phải biết kết hợp giữa gia đình, nhà trƣờng, xã hội để nuôi dạy và
giáo dục các cháu. Tất cả mọi ngƣời, mọi đoàn thể, mọi ngành, mọi gia đình phải có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trách nhiệm chăm sóc các cháu…phải chú ý đến các cháu thiếu tình cảm gia đình,
những ngƣời phụ trách cần tìm cách bù đắp cho các cháu. Lỗi các cháu một phần thì
lỗi ngƣời lớn chúng ta là mƣời phần”… Chính vì thế, mà các đề tài viết về đời sống
thiếu nhi qua hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý cũng đã đƣợc
Ma Văn Kháng phản ánh tƣơng đối toàn diện, đề cập đến tất cả các khía cạnh trong
đời sống tâm hồn của các em.
1.1.2.1. Đời sống thiếu nhi trong gia đình
Trong nếp sống của ngƣời Á Đông, gia đình có vai trò rất lớn trong việc bồi
dƣỡng tâm hồn và giáo dục nhân cách con ngƣời. Vì “gia đình là một nhóm người
cùng sống chung thành đơn vị tổ chức nhỏ nhất trong xã hội. Họ gắn bó với nhau
bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu. Gia đình thường bao gồm vợ chồng là cha mẹ
và con cái” [40, tr. 43]. Cho nên, khi viết truyện cho thiếu nhi, Ma Văn Kháng đặc
biệt quan tâm đến tình cảm gia đình. Bởi trẻ em là một trong những thành phần quan
trọng cấu thành gia đình. Phải xác định gia đình hạnh phúc chính là nơi an toàn nhất
cho trẻ em.
Ở trong các sáng tác của Ma Văn Kháng viết cho thiếu nhi, ta thấy đời sống
thiếu nhi trong gia đình hiện lên khá rõ nét. Đó là đời sống thiếu nhi trong các gia
đình khá giả, giàu có và đời sống thiếu nhi trong các gia đình nghèo khổ.
Đại diện cho lớp thiếu nhi sống ở trong các gia đình nghèo khổ nhƣng họ lại
chăm ngoan, hiếu học, giàu tình cảm và có ý chí vƣợt lên trên hoàn cảnh để sống tốt
nhƣ Duy, Thảm (Côi cút giữa cảnh đời) và Lý (Chuyện của Lý).
Trƣớc hết là Duy - một cậu bé đã từng đƣợc sống trong một gia đình rất hạnh
phúc có ngƣời bà hiền hậu nhƣ bà Tiên trong truyện cổ tích; có bố mẹ đều là những
ngƣời thợ giỏi rất thƣơng yêu nhau và quan tâm đến con. Thế nhƣng quãng thời gian
đó chẳng kéo dài đƣợc bao lâu thì lần lƣợt bao biến động không tốt đã ập đến gia
đình và tuổi thơ của cậu bé. Tai họa bắt đầu từ lúc bố Duy làm bộ đội lái xe ở chiến
trƣờng Cam - pu - chia biệt vô âm tín với gia đình. Mẹ Duy ở nhà tin vào lời một
quẻ bói là chồng đã chết nên chị đã bỏ gia đình, bỏ nghề nghiệp đi theo ngƣời đàn
ông lái xe tải, để lại cho mẹ chồng đứa con trai năm tuổi. Vậy là từ một tuổi thơ ăm
ắp hạnh phúc, tràn đầy tiếng cƣời nói vui vẻ, thế mà bỗng chốc Duy đã trở thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
một đứa trẻ côi cút, thiếu vắng sự chăm sóc, quan tâm của cả cha lẫn mẹ, chỉ có bà
nội là chỗ dựa duy nhất của em.
Mẹ Duy vừa bỏ đi chƣa đƣợc bao lâu, thì cái căn nhà từng là tổ ấm êm đềm ngày
xƣa của gia đình Duy đã bị ông Đào Chí Hứng - Trƣởng phòng hành chính, nơi mẹ
Duy làm việc câu kết với ông Luông - Chủ tịch phƣờng Ngọc Sinh, nơi bà cháu Duy
cƣ trú đến thu hồi, thực chất là chiếm riêng cho bản thân. Từ căn hộ hai mƣơi tƣ mét
vuông, chỉ để lại cho bà cháu Duy một góc phòng sáu mét vuông vừa kê đƣợc một
chiếc giƣờng chen giữa lối đi chung cho cả hai nhà. Bây giờ hai bà cháu phải sống
trong cảnh chật chội, chèn ép và đặc biệt phải hàng ngày chứng kiến, chịu đựng
những hành động thô bỉ, xỉ vả, hành hạ, truy bức của bọn ma giáo kia vì lý do này
nọ, kể cả vu khống chính trị.
Thế rồi, số phận nghiệt ngã vẫn chƣa chịu buông tha cho hai bà cháu nghèo khổ,
bơ vơ. Giữa lúc thiếu thốn, cùng cực thì cô Quỳnh - em ruột bố Duy lại mang đứa
cháu gái còn đỏ hỏn - kết quả của mối tình lầm lỡ về nhờ bà ngoại nuôi hộ, còn bản
thân mình lại phải ra đi nơi khác để lập nghiệp. Với đồng lƣơng hƣu công nhân ít ỏi,
may ra chỉ đủ mua gạo cho hai bà cháu. Bây giờ bà cháu Duy lại bắt đầu quãng thời
gian phải chi tiêu tằn tiện, chắt bóp hơn để nuôi thêm một sinh linh bé nhỏ phải đêm
ngày giành giật sự sống với bệnh tật.
Phải nói, tuổi thơ của Duy là một tuổi thơ đầy rẫy những bất hạnh, những ngang
trái. Mặc dù sống trong gia đình có mẹ, có cha mà lại hóa ra côi cút. Nhƣng bằng
sức mạnh tình thƣơng và sự che chở của bà, bằng sự giúp đỡ, động viên của rất
nhiều ngƣời tốt đặc biệt là bằng tinh thần tự chủ, sức mạnh của ý chí và sự cố gắng
cao của bản thân đã giúp Duy vƣợt qua đƣợc những ngày tháng nhọc nhằn, oan
nghiệt để có ngày đƣợc gặp lại bố và mẹ trong những giây phút hạnh phúc đoàn tụ
muộn mằn sau này.
Số phận éo le và có phần buồn tủi hơn cả Duy là tuổi thơ của bé Thảm. Thảm
chƣa từng biết đến thế nào là hạnh phúc gia đình, em là con cô Quỳnh - cô ruột của
Duy, làm công nhân nông trƣờng bị một tên Sở Khanh lừa gạt, khiến đời cô phải lỡ
làng. Thảm sinh ra chẳng đƣợc bao lâu thì mẹ Quỳnh mang Thảm về nhờ bà ngoại
nuôi hộ. Còn mình thì bỏ nông trƣờng, bỏ làng để đi nơi khác lập nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Thảm sinh ra chỉ đƣợc ít ngày bú sữa mẹ, còn những ngày về sau em đƣợc nuôi
nấng hoàn toàn nhờ vào sữa đi bú chực của các cô, các chị có con nhỏ trong phƣờng
và bằng những thìa nƣớc đƣờng, nƣớc cơm nặng tình bà.
Thảm vƣợt qua giai đoạn khó khăn nhất ở thuở ấu nhi. Vào tuổi thứ ba của cuộc
đời em mới tập đi và bập bẹ nói những tiếng nói đầu tiên. Em lớn nhanh, dễ nuôi,
khác với đứa trẻ cùng lứa, em chẳng đòi hỏi gì cả. Thảm nhanh nhẹn, thông minh,
hay nói, hay chuyện, rất đáo để. Nó là đứa trẻ không chịu khuất phục trƣớc một sức
mạnh nào từ trò ma cũ bắt nạt ma mới của mấy bạn trong lớp đến những lời nói
không mấy thiện cảm của cô giáo Thìn trong ngày đầu tiên vào lớp. Bé Thảm sống
dồi dào và phong phú hơn Duy. Nếu nhƣ nhiều lúc Duy cảm thấy chơ vơ, mặc cảm
giữa một tập thể gồm những cá nhân tí hon nhìn thì vui mắt nhƣng cũng đủ mọi
chuyện phức tạp, rắc rối thì bé Thảm hoàn toàn khác. Em “xông xáo, ngây thơ,
thẳng thắn, tin yêu. Nó không hề có mặc cảm kém cỏi để câm lặng, chịu nhận thua
thiệt. Nó lăn xả vào đòi công bằng. Và nó chinh phục đƣợc cả ngƣời có thành kiến
với nó” [24, tr. 270].
Cũng giống anh Duy, Thảm sống giàu tình cảm. Em gắn bó với bà bằng một
chiều sâu hiếm có không phải chỉ là tình bà cháu ruột thịt thông thƣờng mà còn là
mối quan hệ của hai phần một cơ thể. Với bà, nó không chỉ có lòng kính yêu mến
mộ. Bà còn là một từ mẫu tinh thần, là cái linh hồn sống động tỏa sáng trong tâm
hồn em. Với mẹ, tuy xa cách từ nhỏ nhƣng hình nhƣ vẫn có một sợi dây liên hệ vô
hình không thể hình dung nổi giữa Thảm và ngƣời mẹ yêu dấu bất chấp cả không
gian xa cách, thời gian đằng đẵng và sự hạn chế của các phƣơng tiện thông tin.
Trong thẳm sâu tâm hồn nó vẫn có những giây phút nhớ và mong ngóng mẹ đến
nhƣờng nào.
Đã thế, Thảm lại gặp vô vàn khó khăn. Em sinh ra trong hoàn cảnh không đƣợc
sự thừa nhận của xã hội, chịu nhiều thiệt thòi về vật chất và tinh thần. Nhƣng em lại
là đứa trẻ có tinh thần tự lập từ rất sớm. Khi bà ốm, Thảm cùng anh Duy tự bảo nhau
trông nom vƣờn rau, nuôi gà. Thảm giống nhƣ một ngƣời chủ quán xuyến gia đình
thật sự khi có thể thay bà lo cơm nƣớc, chợ búa rất chu toàn. Hơn nữa,Thảm còn biết
an ủi, chăm sóc bà rất chu đáo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Bé Thảm đã bù đắp cho những gì còn thiếu hụt trong tính cách của Duy. Em đã
cùng Duy - hai đứa trẻ tội nghiệp lớn lên trong vòng tay yêu thƣơng của bà, cùng bà
vƣợt qua những quãng ngày khó khăn, thiếu thốn và khắc nghiệt nhất. Cuộc đời của
hai em tƣởng chừng nhƣ sẽ chìm vào đáy của vực sâu thất vọng đến tuyệt vọng nếu
nhƣ không có bàn tay một tấm lòng che chở, đỡ nâng: Đó là bà. Bà vừa là bà nội vừa
là bà ngoại của hai đứa trẻ thơ. “Bà là Phật bà, là cô tiên giáng trần đã che chở cƣu
mang chúng cháu bằng tình thƣơng yêu và các phép màu huyền nhiệm, thần kỳ!”
[24, tr. 289]. Bà có một sức lực lớn lao - sức lực toát ra từ tình thƣơng, từ một trí tuệ
nhạy bén và từng trải…Nhƣng trội lên tất cả vẫn là nét cứng cỏi, quả cảm và giàu
sức chống trả mà chống trả trong sự vật vã nội tâm và không cam chịu thất bại về
tinh thần; chống trả với sự bền bỉ và sáng láng của thiên lƣơng, của một tấm lòng vì
con, cháu. Bà cũng là ngƣời đã đƣa “chiếc bè gia đình” về bến an toàn mặc dù riêng
bà đã rơi vào cảnh “sức cùng lực kiệt” và phải ra đi - sau khi đã làm một cuộc bàn
giao lại “sự nghiệp” cho ngƣời con trai cả mà bà thƣờng trông ngóng, đợi chờ, hi
vọng, thắc thỏm và cũng vì đó mà bà đã cố gắng vƣợt lên.
Bà là ngƣời vốn có phẩm chất tốt đẹp. Điều đó còn đƣợc hiện ra rõ ràng hơn
trong tâm thức của Duy khi bà không còn hiện diện bằng xƣơng bằng thịt giữa cuộc
đời. Mơ ƣớc của Duy là bà sẽ sống mãi với mình nhƣng cuối cùng chỉ là ao ƣớc. Có
thể nói, Duy và Thảm chính là hiện thân của “tuổi thơ dữ dội” nhƣng rất tự chủ,
năng động và tràn trề năng lƣợng sống. Hai em đã biến những buồn đau, mất mát
trong cuộc sống thành những niềm vui nho nhỏ, những kỷ niệm ấm áp bên ngƣời bà
có tấm lòng nhân hậu, bao dung, chở che. Với những gì đã thể hiện, Thảm và Duy
thực sự là những mầm cây khỏe mạnh vƣơn lên từ mảnh đất khô cằn, khốc liệt bất
chấp những rào cản, những bão giông, nắng lửa của cuộc đời.
Luôn gần gũi, thân thiết với Duy và Thảm là Việt. Không phải sống trong sự
khốn khó, bĩ cực nhƣ Thảm và Duy, Việt đƣợc sống trong một gia đình rất hạnh
phúc, yên ấm, có “bố mẹ là cán bộ lãnh đạo cấp Sở”. Thế nhƣng, Việt hoàn toàn
khác với những đứa con nhà giàu khác ở trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời.
Việt sống giàu tình nhân ái, lòng trắc ẩn với ngƣời khó khăn. Cậu sở hữu một
tinh thần nghĩa hiệp cao cả, yêu công lí, một tấm lòng sẵn sàng sẻ chia. Bởi vậy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
vƣợt lên trên bức tƣờng phân biệt giàu nghèo, Việt đã trở thành ngƣời bạn thân,
ngƣời đồng hành với mọi éo le của Duy trong cuộc sống. Việt dám bênh vực
Duy, dám tố cáo những lời vu cáo Duy của bọn con nhà giàu hƣ đốn trong lớp
với cô giáo đòi công bằng, lẽ phải cho Duy. Ở nhà, Việt cùng Duy đọc sách, học
bài, bàn chuyện, chơi bi, chơi cờ, cùng làm việc giúp bà nội. Từ ngày có em
Thảm, Việt lại cùng Duy trông em. Những lúc em hay hờn dỗi, Việt tìm đủ mọi
cách dỗ dành em. Việt nặn đồ chơi, làm mặt nạ Tôn Ngộ Không, làm trò cƣời cho
em Thảm vui. Việt chính là một nốt nhạc thanh thoát trong bản hòa ca của cuộc
sống, một hình ảnh trong lành và thánh thiện tạo nên những niềm vui nho nhỏ
cho thời thơ ấu nhiều nỗi buồn đau của Duy và Thảm.
Cũng có hoàn cảnh tƣơng tự nhƣ bé Thảm là bé Lý trong tác phẩm Chuyện của
Lý. Lý là đứa trẻ sinh ra phải chịu nhiều thiệt thòi về cả vật chất lẫn tinh thần. Vì
“Lý là con không giá thú. Là con không cha. Là con hoang. Là một thành viên của
nhân loại năm tỷ con ngƣời. Nhƣng không phải là công dân nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Đến cái giấy khai sinh cũng không có nữa là. Cái Lý không có tên trong
sổ hộ tịch. Nó không đƣợc hƣởng tiêu chuẩn gì hết từ khi hoài thai trong bụng mẹ.
Mẹ nó không đƣợc khám thai. Không có tiêu chuẩn nằm nhà hộ sinh. Không đƣợc
cấp tiền để sắm tã lót. Không có tiền bồi dƣỡng. Không đƣợc nghỉ một tháng trƣớc
và một tháng sau khi sinh” [28, tr. 83].
Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhƣng Lý lại là đứa trẻ rất ngoan, sớm có chí và can
đảm. Biểu lộ ý chí và can đảm của Lý là ở từ động tác tập lẫy, tập đi, tâp nói, rồi đối
mặt với ác thú. Lớn lên, Lý cũng không khác gì hồi còn là đứa trẻ sơ sinh, Lý vẫn là
một nết na đã ổn định ấy: “Chẳng hề khóc lóc vòi vĩnh bao giờ! Mẹ, bà Pham cho ăn
gì nó ăn nấy. Đến giờ, bà Pham ra bế lên giƣờng nằm một lúc nghe bà Pham hát ru
bài dân ca Dao, hay kể chuyện Sự tích mặt trăng mặt trời là y nhƣ rằng, nó nằm im
nhƣ lắng nghe, hết câu hát ru, hết câu chuyện kể mới gà gà mắt” [28, tr. 81]. Nhƣ
thế, Lý chẳng những ngoan ngoãn mà còn chóng khôn ngoan vì thông minh tiềm ẩn.
Lý là đứa trẻ khỏe khoắn, ngây thơ, xông xáo: “Cả năm liền không một lần hu hi
vang mình sốt mẩy, chẳng biết gì đến sài đẹn, cảm cúm”. Chƣa đến sáu tuổi nhƣng
Lý đã biết tự đánh răng, rửa mặt, tắm táp, giặt giũ hay đi lên rừng lấy củi cùng mẹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lý biết giúp đỡ bà Pham nhặt rau, nấu cơm, quét nhà, quét sân, cho gà vịt ăn. Lý là
đứa trẻ chịu thƣơng chịu khó, lao động giúp đỡ mẹ.
Nhƣng khác với Duy và Thảm, Lý đƣợc mẹ ấp ủ nên em là đứa trẻ giàu lòng tình
yêu thƣơng, Lý hết lòng giúp đỡ bạn bè, gần gũi với cha mẹ, ông bà. Lý là điểm
tựa tinh thần để mẹ vƣợt qua những cơn ốm đau hay sự mất mát đau thƣơng vì bố
Khánh. Lý đƣợc bố đẻ và bố dƣợng, hai mẫu hình hoàn thiện nhân cách, soi
đƣờng. Lý đƣợc mọi ngƣời đùm bọc yêu thƣơng và đƣợc cuộc sống, học vấn bồi
đắp, rèn đúc. Lý là cái mầm sống hồn nhiên và tràn đầy sinh lực, là hình ảnh một
con ngƣời sống trong dòng chảy lịch sử đa sắc tạp bằng tất cả sức mạnh tự nhiên
và ngạo nghễ, hoàn chỉnh tƣ cách con ngƣời của mình. Lý là hình ảnh một thiếu
nhi Việt Nam lớn lên trƣởng thành trong cuộc sống vừa phồn tạp vừa văn vẻ tƣơi
đẹp của đất nƣớc mình.
Nói chung, Lý là con bố Khánh, mẹ Nhu, bố dƣợng Dƣơng nhƣng cũng là máu
thịt của cuộc sống, là con đẻ của cuộc đời. Lý là đứa con sinh ra từ cuộc sống của
ngƣời đời, trong tình yêu thƣơng của con ngƣời.
Bên cạnh những đứa trẻ con nhà nghèo nhƣng lại năng động, tự chủ, giàu ý chí,
nghị lực, khát vọng, giàu tình yêu thƣơng, sự hi sinh, lòng bao dung còn có không ít
đứa trẻ con nhà giàu, có dƣ thừa điều kiện vật chất nhƣng sống ích kỷ, không biết
thƣơng yêu, đùm bọc những ngƣời khốn khó thậm chí còn bao bọc trong mình
những thói hƣ tật xấu ở dạng mới manh nha, dƣới hình thức ngây dại. Những đứa trẻ
không ngoan nhƣ Kim Phú, Văn Giang, Vàng Anh, Vành Khuyên (Côi cút giữa
cảnh đời) và Đào Lê Anh (Chuyện của Lý)... đã gây không ít những đau khổ, rắc rối
cho cuộc đời vốn đã không bình lặng của Duy, Thảm và Lý...
Văn Giang và Kim Phú là hai đứa bạn cùng học một lớp với Duy. Chúng đều là
những đứa con nhà giàu, nhiều tính xấu, học hành thì chểnh mảng nhƣng ỷ thế con
nhà giàu luôn lên mặt bắt nạt, gây sự với bạn, đặc biệt là Duy - đứa bạn con nhà
nghèo nhƣng lại học tốt luôn bị coi là cái gai trƣớc mặt chúng. Những ngày học đầu
tiên đƣợc sự bao che của cô Thìn, chúng đặt nhiều vu vạ gây nhiều oan ức, tủi hờn
cho Duy. Chúng chỉ đƣợc cái khoe mẽ bề ngoài, còn thực ra môn nào chúng học
cũng kém. Cô vừa đặt câu hỏi, chúng đã giơ tay nhanh chóng nhƣng đứng lên thì nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
huyên thuyên chẳng ra đâu vào đâu.
Thực ra bề ngoài đấy chỉ là những trò chơi trẻ con không đáng phải lƣu tâm
lắm. Nhƣng nhìn nhận một cách sâu xa, mỗi đứa trẻ sẽ là một ngƣời lớn trong
tƣơng lai, nếu thói quen tạo nên hành động, hành động hình thành tính cách thì
chính những thói quen, những hành động không tốt của trẻ ngày nhỏ sẽ tạo nên
những ngƣời lớn không tốt trong tƣơng lai. Những thói hƣ tật xấu của Kim Phú,
Văn Giang manh nha từ nhỏ có thể chính là khởi đầu cho những hành động tội
ác, làm hại ngƣời khác sau này.
Ngoài Kim Phú và Văn Giang, hai chị em Vàng Anh và Vành Khuyên cũng là
đứa trẻ bộc lộ tính cách ích kỷ, ghê gớm và độc ác không thể chấp nhận đƣợc ở lứa
tuổi lẽ ra chúng còn rất trong sáng, ngây thơ, hồn nhiên.
Sống trong cuộc sống sung sƣớng, đầy đủ thậm chí dƣ thừa cái ăn cái mặc nhƣng
hình nhƣ chúng không bằng lòng với những gì mình có. Hai chị em luôn luôn cãi
nhau, tranh giành từng thứ đồ bố gửi từ nƣớc ngoài về. Mẹ chúng là nơi chúng tha
hồ trút những cái giận dữ, tức tối và tha hồ hạch sách. Chúng quen lối sống hƣởng
thụ nên không ngày nào là không hạch sách tiền mẹ đòi mua sắm, ăn uống, tiêu xài.
Cậy việc đƣợc bố chiều chuộng, càng ngày chúng càng láo xƣợc và coi mẹ không ra
gì.
Mặc dù tranh giành, tức tối với nhau nhƣng khi làm trò quái ác để hại ngƣời
khác thì hai chị em Vàng Anh và Vành Khuyên tỏ ra đặc biệt thích thú và phối hợp
với nhau rất ăn ý. Chúng thƣờng xuyên móc máy, cạnh khóe nỗi đau của gia đình
Duy. Chúng không những vô cảm trƣớc nỗi đau của con ngƣời mà còn độc ác và vô
liêm sỉ đến mức biết em Thảm thèm sữa nên chúng cứ mỗi sáng mỗi đứa một cốc
sữa đầy quấy thìa leng keng, rồi leo lẻo ở ngoài sân trêu ngƣơi.
Có thể nói, hai chị em Vàng Anh đã đánh mất tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên của
mình cho đồng tiền, của cải, cho những mƣu mẹo quái ác của bọn ngƣời xấu. Và
hơn nữa, chúng đã sớm trở thành những kẻ vô học, những đứa con gái đầu đƣờng xó
chợ, chúng đã đánh mất sự trong trắng của tuổi mới lớn. Vàng Anh bỏ học để ăn
chơi đàn đúm khi chƣa quá tuổi mƣời năm. Đặc biệt, Vàng Anh còn sớm mắc vào
đƣờng tình ái vụng trộm hƣ hỏng bởi sự dâm đãng của tên Hứng và cũng chính bởi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thói ăn chơi của một đứa con gái hƣ thân. Nó chƣa kịp làm trẻ con một ngày nào đã
sớm phải trở thành ngƣời lớn khi tuổi đời còn quá non dại.
Thế giới của lứa tuổi thiếu nhi đúng nhƣ sự cảm nhận của Duy, đó là: “một tập
thể nhỏ gồm những cá thể tí hon ở cái tuổi thơ dại của loài ngƣời, cái tổ chức tạp sắc
trông vui mắt nhƣ nhìn vào kính vạn hoa, nhƣng cũng đủ mọi chuyện phồn tạp, rắc
rối. Cũng có những chuyện nao lòng ngƣời. Có bè cánh, chia rẽ, nói xấu nhau. Có
cậy quyền, ỷ thế. Có xum xoe, nịnh bợ. Có áp chế, bắt nạt kẻ yếu... Có oan ức và nỗi
niềm thầm lén. Tất nhiên là mới manh nha và dƣới hình thức ngây thơ” [24, 269].
Nhìn vào thế giới đa sắc này, chúng ta mới cảm nhận đƣợc hết sự phức tạp, bộn bề
của cuộc sống, đồng thời cũng hiểu hơn tâm lí, nỗi lòng của con trẻ - lứa tuổi dễ yêu
dễ ghét, dễ học hỏi đƣợc tính tốt nhƣng cũng rất dễ nhiễm phải những tính xấu của
ngƣời lớn xung quanh.
Nhƣ vậy, khi tìm hiểu về đời sống thiếu nhi trong gia đình qua hai tiểu thuyết
Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý, ta thấy loại đối tƣợng thiếu nhi sống ở
trong các gia đình nghèo khổ nhƣ Duy, Thảm, Lý... lại là những đứa trẻ có ý thức
trong học tập và lao động, biết giúp đỡ gia đình, biết chia sẻ, quan tâm, chăm sóc khi
những ngƣời thân trong gia đình gặp chuyện buồn hay ốm đau. Điều này là do các
em đƣợc sống trong một gia đình gắn với một truyền thống tốt đẹp, một nếp sống
lành mạnh đã tạo cơ sở để bồi dƣỡng và hình thành nhân cách cao đẹp ngay từ nhỏ
cho các em nhƣ chú Dũng, bà của Duy, Thảm (Côi cút giữa cảnh đời) và mẹ Nhu,
bố Khánh, bố dƣợng Dƣơng của Lý (Chuyện của Lý)... Cho nên, gia đình chính là
nơi mỗi ngƣời lớn lên, trƣởng thành và gia đình cũng chính là môi trƣờng gần nhất
có ảnh hƣởng đến nhân cách của các em. Sự tiếp nối văn hóa qua các thế hệ trong
gia đình tạo nên nếp sống lành mạnh. Đó vừa là nền tảng, vừa là hành trang để mỗi
con ngƣời bƣớc vào đời với tâm thế vững vàng. Ngƣợc lại, nếu gia đình không có nề
nếp, gia phong sẽ tạo ra những hậu quả xấu trong việc giáo dục con cái. Trong xã
hội vẫn có những gia đình đời sống vật chất quá khó khăn hoặc là giàu có, dƣ thừa
nhƣ gia đình Văn Giang, Kim Phú, Vàng Anh và Vành Khuyên... Các thành viên
trong gia đình chỉ lo toan kiếm sống, mà quên đi trách nhiệm, sự quan tâm, chăm
sóc, giáo dục con cái. Nếu một đứa trẻ thiếu thốn tình cảm, đạo đức và thiếu cả tinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thần trách nhiệm sẽ không biết quan tâm tới ngƣời khác, không thể hợp tác chân
thành với ngƣời khác, cũng không thể hòa nhập đƣợc với xã hội trong tƣơng lai.
Nhƣng lỗi của các em này, phần lớn là do bố mẹ yêu thƣơng, chiều chuộng, không
hiểu đƣợc khái niệm chân thực của cuộc sống. Một đứa trẻ nhƣ vậy thƣờng chỉ “coi
tiền” là trên hết và “coi mình” là trung tâm, thiếu tinh thần trách nhiệm với xã hội.
Nếu độc giả đã đƣợc đọc tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, thì sẽ cảm thấy xiết bao
đau lòng khi những kiện hàng từ nƣớc ngoài bố gửi về đã làm cho gia đình cô Đại
Bàng tan nát, hai đứa con gái cô (Vàng Anh và Vành Khuyên) tranh cƣớp tài sản
nhau, thậm chí xỉ vả cả mẹ đẻ ra mình. Và ở lớp mẫu giáo kia có em Kim Phú con
một vị tƣớng tá nào đó đã bắt nạt bạn bè phải nộp tiền để đƣợc phong cấp bậc.
Sau những tình tiết đó, ta nhận ra tấm lòng đau đớn và lời nhắn gửi của tác giả
đối với chúng ta, đặc biệt là các gia đình khá giả, giàu có: “Giáo dục quản lý tiền bạc
trong gia đình là con đƣờng quan trọng để trẻ trở thành một ngƣời tiêu dùng thông
minh”, trong đó vai trò của bố mẹ là vô cùng quan trọng. Bố mẹ phải biết bồi dƣỡng
khả năng tự lập cho trẻ mới là dành cho chúng tình yêu chân chính nhất, còn nuông
chiều trẻ chỉ khiến chúng phải chịu khổ về sau. Cho nên, gia đình thực sự là tế bào
xã hội. Muốn xã hội phát triển, văn minh thì mỗi gia đình phải luôn giữ gìn nề nếp.
Cha mẹ yêu thƣơng, dạy dỗ con cái và con cái hiếu thảo, vâng lời cha mẹ. Gìn giữ
phát huy truyền thống là trách nhiệm của mỗi ngƣời.
1.1.2.2. Đời sống thiếu nhi trong học đƣờng nhà trƣờng
Học đƣờng là trƣờng học lớn, học sinh nhƣ anh em phải thƣơng yêu nhau, và
muốn giáo dục đƣợc các em có tình thƣơng yêu chân thành, thì trong nhà trƣờng,
thầy và trò phải có quan hệ thiện cảm với nhau. Nhƣng ở đây chúng ta lại thấy có sự
đối lập với các em thiếu nhi ở trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện
của Lý của Ma Văn Kháng.
Duy là “đứa trẻ sớm rơi vào cảnh không may, hay đa cảm đa sầu, ngày đi học
đối với tôi vẫn là một ngày hội” [24, tr. 57]. Thế nhƣng, trƣớc thái độ cƣ xử của cô
giáo Thìn khiến cho cậu thật sự nhƣ đang ở trên trời cao của mộng tƣởng bỗng rơi
xuống địa ngục. Cô hỏi cậu bằng những câu hỏi cục cằn đến khó hiểu. Cô làm cho
Duy càng ngày càng cảm thấy tự ti về con ngƣời và khả năng của mình. Cô đã vô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tình tạo ra bức tƣờng vô hình ngăn cản các em học sinh trong lớp với Duy, làm cho
Duy luôn có cảm giác cô đơn và cả sự sợ hãi khi phải đến lớp, phải đối mặt với cô
giáo và các bạn - những ngƣời luôn có khoảng cách vời vợi với cậu.
Sau này khi gặp lại cô Thìn - cô giáo dạy bé Thảm, cô đã khác rất nhiều so với
ngày xƣa. Cô đã đi học thêm, trở thành cô giáo chính thức dạy thay cô Hoa. Cô đã
cởi mở, vui vẻ hơn xƣa rất nhiều. Cô đã có lời phân trần với Duy về những hành
động không đẹp ngày xƣa của mình. Thế nhƣng, chỉ qua thái độ và lời nói vô tình,
không có vẻ gì là ác ý của cô với bé Thảm, Duy lúc này đã có những suy nghĩ sâu
sắc hơn xƣa rất nhiều, tự nhiên cảm thấy “buồn rũ rƣợi”. Duy biết cô không thô lỗ,
bất công và xấu tính nhƣ ngày xƣa cậu nghĩ nhƣng cô lại là sản phẩm của thói áp đặt
và có lúc rất vô tâm của ngƣời lớn với trẻ con.
Trƣờng hợp của cô giáo Thìn có lẽ cũng không phải là trƣờng hợp hãn hữu trong
cuộc sống đã làm cho tâm hồn trẻ thơ tổn thƣơng nghiêm trọng. Xây dựng nhận vật
này, Ma Văn Kháng muốn gửi tới các thầy cô và những ngƣời làm công việc trong
môi trƣờng giáo dục bản thông điệp về trách nhiệm, tình thƣơng yêu chân thành và
sự khéo léo đối xử sƣ phạm của mỗi ngƣời đối với thế hệ thiếu nhi.
Không chỉ riêng cô Thìn, mà cô Tuyết và mẹ Kim Phú cũng là những ngƣời đã
tạo nên những vết hằn của nỗi buồn xót xa và sự uất ức tràn ngập trong trái tim Duy
trong những ngày ở trƣờng học. Mặc dù là cô giáo dạy Văn nhƣng cô Tuyết là tiêu
biểu của kiểu ngƣời vô tâm, phù thịnh, tƣ tƣởng áp đặt nặng nề. Có thể cô non yếu
về cách cảm thụ Văn, có thể cô thích áp đặt tƣ tƣởng của cô cho trí tƣởng tƣợng và
suy nghĩ của học sinh, có thể cô chƣa hiểu hết tình cảm và tâm tƣ của đứa học sinh
nhỏ trong bài văn nên cô đã cho vào bài văn của cậu bé một lời phê rất vô tâm đến
mức gần nhƣ có phần xúc phạm đến một khoảng trời tình cảm tinh tế của cậu bé. Cái
nhìn của Duy về cô Tuyết còn trở nên u ám và thất vọng hơn khi suốt trong thời gian
chứng kiến sự lăng nhục của mẹ Kim Phú với Duy mà cô không hề có một hành
động tối thiểu nào để bảo vệ cho đứa học sinh khốn khổ ra khỏi đòn trả thù hung
bạo.
Nhân vật chính của cuộc hành hạ tinh thần và nhân phẩm mà Duy phải chịu
đựng ngay ở trƣờng học trƣớc mặt cô giáo chủ nhiệm là mẹ Kim Phú. Bà là sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phẩm tiêu biểu của tính kênh kiệu, thói lên mặt không coi ai ra gì của những kẻ lắm
tiền nhiều của không biết đến tính ngƣời. Bà bênh con chằm chặp, coi con mình nhƣ
là cục vàng cục bạc còn con ngƣời khác chỉ là mớ rau nắm cỏ không cần phải tôn
trọng, phải để ý. Bà hành động nhƣ một kẻ vô học đích thực vì thế mà bà không
những không dọa nạt, không trấn áp đƣợc Duy mà trái lại bà chỉ làm cậu bé thấy
khinh rẻ và căm phẫn tƣ cách đạo đức tồi tàn của một ngƣời lúc nào cũng tự cho
mình là giới thƣợng lƣu.
Nếu cô Thìn, cô Tuyết, bà mẹ Kim Phú là những ngƣời đối xử bất công, độc ác
với các em, làm tổn thƣơng thậm chí gây nên sự phẫn uất trong tâm hồn các em thì
cô giáo Hoa và một số nhân vật khác nữa lại là ngƣời rất yêu thƣơng, hiểu đƣợc tâm
lí các em và đối xử công bằng với các em.
Cô Hoa đã đƣa Duy thoát ra khỏi quãng ngày buồn tủi, u ám trong những ngày
học với cô Thìn. Cô đã đƣa Duy đến với khoảng trời cao đẹp, xanh tƣơi. Với Duy,
cô Hoa chính là “một cô tiên đã đƣa tôi từ ngục tù giam hãm trở lại với tuổi ấu thơ
học trò” [24, tr. 70]. Cô đã giúp Duy lấy lại niềm tin ở trƣờng học, ở thầy cô, ở sự
công bằng cần thiết để em có động lực học tốt không chỉ trong năm học cô dạy mà ở
những năm học sau này nữa. Tâm hồn cao đẹp, giàu tình thƣơng yêu của cô Hoa nhƣ
những dòng suối trong lành làm dịu mát tâm hồn vốn đã bị nhiều tổn thƣơng của cậu
học trò bất hạnh này.
Bên cạnh Duy và Thảm, Lý trong tiểu thuyết Chuyện của Lý cũng bị đối xử bất
công, làm tổn thƣơng và gây nên phẫn uất trong tâm hồn em. Ngƣời đầu tiên không
phải là quá ác ý và thô lỗ từ bản chất mà một phần là do sự xui khiến của ngƣời khác
nhƣng cũng đã làm cho tâm hồn trẻ thơ của Lý tổn thƣơng nghiêm trọng là cô giáo
Viêng. Buổi đầu tiên đến trƣờng với cô bé phấn chấn, tự tin lại rơi vào hoàn cảnh
khổ ải. Lý sốt sắng, hồi hộp, chờ đợi cô Viêng đọc đến tên danh sách của mình vào
lớp nhƣng cuối cùng lại thất bại. Lý manh nha hiểu đƣợc hoàn cảnh của mình đang
rơi vào một tình thế rất bất lợi, một số phận không may. Lý mạnh dạn hỏi thẳng cô
nhƣng Lý cảm thấy bất ngờ với thái độ hống hách của cô. Cô hỏi Lý bằng những câu
cục cằn, thô lỗ: “Mày tên gì? ở đâu?....Biết rồi! Không đủ tiêu chuẩn vào học. Rõ
chƣa?”. Sau đó, Lý đƣợc bà Pham cƣu mang, vì “nể lời bà nên cô Viêng chiếu cố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cho Lý vào danh sách dự thính của lớp” [28, tr. 145].
Việc đối xử bất công và sự ác cảm của cô Viêng với Lý càng ngày càng lộ liễu
hơn. Cô thƣờng xuyên hoạnh họe, bắt bẻ, dằn hắt Lý. Nhƣng mọi nghĩ suy, buồn vui
của Lý đều đƣợc Lý tâm sự với mẹ. Bởi vì, mẹ Lý cũng từng là giáo viên, mẹ hiểu
rất rõ về nghiệp vụ sƣ phạm. Bốn năm liền, mẹ Lý đều đoạt giáo viên dạy giỏi và
luôn đƣợc học trò yêu quý. Cho nên, mọi suy nghĩ, thắc mắc của Lý đều đƣợc mẹ
Nhu uốn nắn, dạy bảo thấu tình đạt lý. Thấm nhuần những câu nói mẹ dặn, Lý biết
dàn hòa với bạn, nhất là bạn Yến luôn đƣợc cô Viêng bênh vực, gây mất đoàn kết
với Lý.
Sau một thời gian sống đoàn kết, giúp đỡ, động viên nhau cùng phấn đấu học
tập, cuối cùng, lớp học của cô Viêng chủ nhiệm có Bảo, Lý, Yến đều đang học lớp
Ba, nhƣng do học xuất sắc nên đƣợc Phòng Giáo dục cho đặc cách thi với các bạn
lớp Bốn toàn huyện. Giờ đây, Bảo, Lý, Yến ai cũng vui và họ đã trở thành bộ ba
thân thiết với nhau trong suốt quãng thời gian học tập và kể cả sau này.
Đến đây, Lý đã hoàn toàn nhập vai một thành viên của cái tập thể học trò cùng
lứa, Lý đã san bằng đƣợc sự khác biệt về số phận. Bằng năng lực của chính mình,
Lý đã tự khẳng định đƣợc mình. Đặc biệt là hành vi liều mình của Lý đã giết con rắn
độc vì sự an toàn cho cô. Hành động hi sinh vì ngƣời khác của Lý đã làm cho cô
Viêng không những nảy sinh thiện cảm, mà cô còn cảm thấy ân hận và nhận ra là
ngƣời có lỗi với Lý.
Nhƣ vậy, qua việc tìm hiểu về đề tài đời sống thiếu nhi trong học đƣờng nhà
trƣờng, chúng ta nhận thấy, phải chăng Ma Văn Kháng muốn cho rằng: Đối với các
lãnh đạo trong trƣờng học, cần phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trƣờng, xã hội
trong giáo dục học sinh; tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt
động giáo dục, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, sự phân biệt đối xử không công
bằng với học sinh, để hình thành và phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ cho các em ngay từ nhỏ. Đối với giáo viên, sống làm sao để đƣợc cả tập thể
học sinh yêu quý. Muốn vậy, cần hết lòng chăm lo xây dựng tập thể học sinh, quan
tâm, giúp đỡ các em vƣợt qua những khó khăn thử thách, khắc phục những khuyết
điểm trong học tập, trong cuộc sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
1.1.2.3. Đời sống thiếu nhi trong các mối quan hệ xã hội khác
Quan hệ xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất của cộng đồng ngƣời. Cho
nên nói đến quan hệ xã hội, trƣớc hết phải kể đến quan hệ giữa ngƣời với ngƣời
trong sản xuất. Càng về sau, lao động và giao tiếp càng mở rộng. Đây là cơ sở để
hình thành các mối quan hệ xã hội khác nhƣ quan hệ chính trị, quan hệ giai cấp,
quan hệ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, quan hệ giữa các cá nhân… Nhƣng ở
trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của
Ma Văn Kháng, đời sống thiếu nhi hiện lên rõ nhất là trong mối quan hệ với lãnh
đạo địa phƣơng, đây là mối quan hệ quyết định ý nghĩa sống còn đối với số phận trẻ
thơ. Bởi vì, những ngƣời lãnh đạo là những ngƣời phải luôn quan tâm sát sao đến
dân, ý thức vì dân và phục vụ dân, đặc biệt là những trẻ thơ nghèo khổ, bơ vơ, không
nơi nƣơng tựa… Qua hai tiểu thuyết nói trên, Ma Văn Kháng nhìn rõ chân dung của
những nhà cầm quyền một thời, họ không vì dân mà họ còn lợi dụng chức quyền để
bóc lột và chèn ép ngƣời dân vô tội. Mục đích duy nhất của những nhà cầm quyền
trong Côi cút giữa cảnh đời là làm sao vơ vét đƣợc càng nhiều tiền của cho bản thân
mình càng tốt cho dù phải dùng thủ đoạn gì chăng nữa. Không những thế, ở trong
các sáng tác của mình, đặc biệt là tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của
Lý, Ma Văn Kháng có lẽ là nhà văn đầu tiên viết về những cảm xúc hả hê, sung
sƣớng, khoái hoạt nhất về lòng ái dục của con ngƣời. Theo ông, con ngƣời là sản
phẩm của tự nhiên luôn biết hƣớng đến và theo đuổi những trạng thái sung sƣớng,
vui vẻ và cố gắng tránh xa, vƣợt lên mọi đau khổ, nhọc nhằn của cuộc sống. Tuy
nhiên, đây là lĩnh vực vẫn bị coi là “vùng cấm kỵ” nhƣng Ma Văn Kháng đã mạnh
dạn và thành công khi đƣa vấn đề này vào trong sáng tác của mình với một tần số
lớn ở trong tiểu thuyết Chuyện của Lý. Ông thể hiện chúng một cách tự nhiên không
lộ liễu, sống sƣợng mà phản ánh một cách chân thực những trạng thái, cảnh huống
khác nhau của tâm lý thực, xuất phát từ đáy sâu bản thể, từ nhu cầu tự nhiên của con
ngƣời. Ma Văn Kháng là nhà văn hiểu và ý thức sâu sắc, triệt để, toàn diện vấn đề
này. Ông đã phát hiện trong bản năng đời sống tình dục của con ngƣời thể hiện rõ
hai mặt của cuộc sống. Đối với những con ngƣời có văn hóa, tình dục nhƣ một vẻ
đẹp thể hiện mặt văn hoá, đạo đức xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nhƣng bên cạnh đó, Ma Văn Kháng còn khám phá, phát hiện mặt bi hài của
cuộc sống, sự thô tục tham lam, nhếch nhác, dâm ô của những kẻ vô đạo đức, thiếu
văn hoá xoay quanh vấn đề dục vọng cá nhân của con ngƣời. Tiêu biểu nhất là Bí
thƣ Văn Quyền trong tiểu thuyết Chuyện của Lý, một tên vô lại súc sinh gian xảo,
ham mê tửu sắc, trù dập ngƣời hiền, gây bao tội ác cho mẹ con Lý và những ngƣời
dân vô tội. Kẻ có “nửa tá nhân tình ở khắp nơi” mà lai lịch của gia đình ông cũng
không kém: “Văn Quyền là con cả trong một gia đình có hai anh em bố là tƣớng
cƣớp, mẹ là chủ nhà chứa. Khám nhà, lôi ra từ trong két sắt của y cùng một xập ảnh
đàn bà lõa thể…” [28, tr. 241]. Kẻ đội lốt mặt quỷ trong cơn phóng dục đã coi
thƣờng bé Lý khi đang có mặt trong căn buồng cùng mẹ Lý. Ông làm Bí thƣ nhƣng
thực chất chỉ là một tên côn đồ dâm đãng để cho bé Lý phải cầm gậy cầm dao xua
đuổi.
Tuy nhiên, đề cập đến vấn đề này nhà văn không ngợi ca hay khích lệ mà muốn
nhìn nhận nó nhƣ bản chất thực đang tồn tại trong cõi đời này, qua đó ngƣời đọc
nhìn nhận thấy mặt tự nhiên của con ngƣời và nhu cầu cần đƣợc thoả mãn của cuộc
sống đời thƣờng. Đó là những quan niệm đúng, biểu hiện tốt đẹp, lành mạnh mà Ma
Văn Kháng đã đi sâu khám phá, thể hiện đời sống bản năng này của con ngƣời.
Chính cái nhìn đa chiều, sâu sắc, về mọi phƣơng diện của con ngƣời khiến vấn đề
tình dục đƣợc quan tâm đúng đắn, tự nhiên. Nó không hề gây cảm giác phản thẩm
mỹ, phản giáo dục mà còn thấm đẫm tính nhân văn trong cái nhìn mang chiều sâu
nhân bản về con ngƣời của nhà văn. Phát hiện đời sống tình dục ở nhiều cung bậc,
Ma Văn Kháng tỏ thái độ phê phán kịch liệt với những hiện tƣợng dâm ô, đồi bại đối
với trẻ em và trƣớc mặt trẻ em, lứa tuổi thƣờng bắt chƣớc nhiều cái dở, cái xấu của
ngƣời lớn. Nhiều lần bắt chƣớc cái dở, sẽ hình thành nếp xấu, khó sửa chữa. Sự bắt
chƣớc thiếu chọn lọc của trẻ em càng dễ xảy ra trong bối cảnh xã hội hiện nay có
nhiều thứ mới lạ do du nhập. Vì thế, rất cần có sự chung tay góp sức của toàn xã hội
để giáo dục các em.
Ma Văn Kháng là nhà văn dám phơi bày mặt trái của tình dục, ông nghiêm khắc
lên án những kẻ chà đạp lên đạo lý truyền thống. Đối với những con ngƣời nhƣ lão
Hứng, Bí thƣ Văn Quyền, dục vọng là khoái thú bất tận, dục vọng đã biến chúng trở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thành những con quỷ dâm đãng đội lốt ngƣời. Tình dục vốn thiên về yếu tố bản
năng, là một nhu cầu sinh lý nhƣng cũng là một mặt của tình yêu đôi lứa, đời sống
vợ chồng. Nó phải đƣợc xuất phát trên cơ sở của tình yêu chân chính, bình đẳng tôn
trọng giữa con ngƣời với con ngƣời. Khi đó, nó mới thực sự mang lại niềm hạnh
phúc cho con ngƣời và mới thực sự thấm nhuần chất văn hoá.
Cái nhìn sắc sảo đã hƣớng Ma Văn Kháng vào từng ngõ ngách của đời sống hiện
thực để soi rọi, phân tích lẽ đời, thói đời với tất cả các cung bậc của tình cảm và các
mối quan hệ ở mọi góc cạnh, mọi phƣơng diện, nhất là thế giới nội tâm trong mỗi
con ngƣời. Tiếp cận hiện thực, nghiên cứu khám phá hiện thực và con ngƣời nhiều
tầng, ngòi bút của Ma Văn Kháng đã phát hiện ra vẻ đẹp của những giá trị đạo đức
truyền thống. Ở trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma
Văn Kháng còn có những tấm lòng nhân ái, những ngƣời tốt, những công dân lƣơng
thiện luôn quan tâm đến mọi ngƣời, sẵn sàng sẻ chia và cứu giúp nhau trong những
lúc khó khăn nhƣ bà nội Duy, cô Quyên, cô Đại Bàng, cụ Hồn Nhiên và các cụ tổ
hƣu trí …(Côi cút giữa cảnh đời). Cuộc đời của hai đứa trẻ côi cút tƣởng chừng sẽ
chìm vào vực sâu của sự thất vọng nếu không có bàn tay, không có tấm lòng che chở
của ngƣời bà cũng nhƣ sự cƣu mang giúp đỡ của cô giáo Quyên, của cô Đại Bàng và
những ngƣời dân chân chính của phƣờng Ngọc Sinh. Họ đã dang tay ra cứu giúp số
phận côi cút của Duy và Thảm, trong khi chính cuộc sống của họ cũng có lúc khốn
khó tƣởng chừng không qua nổi. Ma Văn Kháng đã xây dựng thành công một câu
chuyện cổ tích giữa đời thƣờng, mà phép mầu nhiệm lại đƣợc xuất phát từ tấm lòng
nhân ái của những con ngƣời chân chính ấy. Họ nhƣ là những vị tiên giáng trần dang
cánh tay của mình cứu giúp linh hồn ngây thơ của những đứa trẻ nhƣ bé Duy, bé
Thảm. Còn ở trong tiểu thuyết Chuyện của Lý, Lý cũng là đứa trẻ không đƣợc gặp
may, nhƣng Lý cũng giống nhƣ Duy và Thảm lại đƣợc cƣu mang, chỉa sẻ của những
tấm lòng nhân ái. Đó là ông Thòn, bà Pham - ngƣời Dao hiền lành, chất phác, tiêu
biểu cho một nền văn hóa nhân văn cao quý. Đó là Chu Văn Dƣơng, một ngƣời bạn
của bố Khánh, một con ngƣời có cá tính mạnh mẽ và giàu lòng tình yêu thƣơng,
luôn động viên, an ủi Lý để Lý vƣợt qua hoàn cảnh sống tốt, học tốt.
Có thể nói rằng, những nỗ lực vì ngƣời khác xuất phát từ lòng tốt luôn đáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đƣợc ngƣời đời tôn vinh, kính trọng. Đồng thời đây cũng chính là nơi mà Ma Văn
Kháng muốn ấp ủ tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong hành trình trở về
cội nguồn, Ma Văn Kháng đã thấu tỏ nhiều tấm lòng cao đẹp tiêu biểu cho truyền
thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc.
1.2. Hệ thống nhân vật trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh
đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
1.2.1. Khái niệm về hệ thống nhân vật
Hệ thống nhân vật “là toàn bộ mối quan hệ qua lại của các nhân vật. Chúng ta
đã phân biệt nhân vật chính, phụ, nhân vật chính diện, phản diện chủ yếu trên bình
diện thể hiện đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng” [46, tr. 161].
Khi nói đến hệ thống nhân vật là nói đến sự tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể
của tác phẩm. Các mối quan hệ thƣờng thấy của các nhân vật là đối lập, đối chiếu,
tƣơng phản, bổ sung. Sự phản ánh hiện thực trong các mâu thuẫn xung đột và sự vận
động dẫn đến việc tổ chức các nhân vật đối lập.
Nhƣ vậy, hệ thống nhân vật là sự tổ hợp nhân vật làm cho chúng phản ánh nhau,
tác động nhau, soi sáng nhau, để cùng phản ánh đời sống. Điều này đƣợc thể hiện rõ
nhất qua hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý
của Ma Văn Kháng.
1.2.2. Hệ thống nhân vật trong hai tiểu thuyết
Nhƣ chúng ta biết, hệ thống nhân vật ở trong các sáng của Ma Văn Kháng rất
phong phú và đa dạng. Điều này đã đƣợc PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định:
“Các nhận vật thuộc đủ các hạng ngƣời trong xã hội: Lãnh đạo cao cấp, Thủ trƣởng
và nhân viên cơ quan nghiệp vụ văn hóa, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, thầy thuốc,
quản giáo, cảnh sát...” [55, tr. 352]. Vậy, đi sâu vào tìm hiểu hai tiểu thuyết viết về
thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng, chúng ta sẽ
thấy rõ điều đó.
Hệ thống nhân vật trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời
và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng không chỉ có trẻ em mà còn có cả ngƣời lớn.
Nhƣng rõ ràng tần số xuất hiện của nhân vật ngƣời lớn ở đây không nhiều nhƣ nhân
vật trẻ em. Nhân vật ngƣời lớn không phải là đối tƣợng trực tiếp để nhà văn khám
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phá và thể hiện trong tác phẩm. Nhân vật ngƣời lớn chỉ xuất hiện khi nhà văn phản
ánh những mối quan hệ của trẻ em và ngƣời lớn hoặc khi cần thể hiện tính cách của
trẻ em trong môi trƣờng rộng lớn.
1.2.2.1. Hệ thống nhân vật trẻ em
Trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn
Kháng nổi lên hai loại trẻ em, hoàn toàn đối lập nhau. Duy, Thảm (Côi cút giữa
cảnh đời) và Lý (Chuyện của Lý)…Mỗi em một cá tính, một hoàn cảnh, một ao
ƣớc, một nghĩ suy riêng nhƣng nhìn chung đều gặp nhau ở một tuổi thơ nhiều khó
khăn, vất vả thậm chí thiếu thốn cả về tình cảm nhƣng tất cả các em đều nỗ lực vƣơn
lên hoàn cảnh để sống tốt, học tốt với khát vọng sẽ có một tƣơng lai tốt đẹp hơn.
Duy là một cậu bé mới năm tuổi đã bị mẹ bỏ rơi, ra đi theo ngƣời đàn ông lái xe
tải, nhiều tiền. Bố Duy làm bộ đội lái xe lại không có một dòng tin tức về với gia
đình. Duy chỉ sống trong tình thƣơng và sự bao bọc của bà nội. Đời sống của hai bà
cháu trông cậy hết vào đồng lƣơng hƣu công nhân ít ỏi của bà.
Duy còn là đứa trẻ chịu khó, chịu khổ, có ý thức và có tinh thần trách nhiệm rất
sớm, ngoài thời gian đi học, Duy biết giúp bà làm những công việc gia đình và đỡ
đần bà trông em Thảm. Duy đã thật sự trƣởng thành hơn lứa tuổi khi phải cùng bà
chắt chiu, tằn tiện nuôi nấng em Thảm qua những quãng ngày khó khăn, gian khổ.
Vì em Thảm không đƣợc cấp giấy khai sinh, không đƣợc hƣởng một chế độ nào nhƣ
những công dân bình thƣờng. Tất cả bà cháu Duy phải chăm lo từng ngày, lo từng
bữa gạo, lo từng giọt sữa cho em. Phải nói, Duy là cậu bé có đời sống nội tâm phong
phú, giàu tình cảm và rất dễ bị tổn thƣơng. Cậu bé sớm biết yêu thƣơng, sớm biết hi
sinh vì ngƣời khác, sớm hiểu đƣợc vị trí và lòng tự trọng của một ngƣời con trai
trƣớc những biến động bất thƣờng của cuộc sống. Duy sống lặng lẽ, trầm tƣ, thiên về
suy nghĩ nội tâm hơn những biểu hiện trực tiếp bên ngoài. Cậu lặng lẽ yêu thƣơng
bà; lặng lẽ chăm sóc em; lặng lẽ nhớ mẹ qua những dòng hồi tƣởng; lặng lẽ chờ đợi
ngày trở về của ngƣời cha với niềm tin bất diệt là cha còn sống. Cùng với những lo
toan cho em Thảm và va vấp trong đời sống hàng ngày nên càng ngày Duy càng tỏ
ra là một chàng trai có bản lĩnh, cứng cỏi. Duy thật sự xứng đáng với những gì
ngƣời bà đáng kính yêu của cậu mong chờ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Số phận bất hạnh và éo le hơn Duy là bé Thảm. Thảm sinh ra trong hoàn cảnh
khó khăn, thiếu thốn, hơn nữa lại sống xa mẹ, không đƣợc xã hội công nhận làm
ngƣời. Nhƣng trong những giờ phút khó khăn, căng thẳng và nguy kịch đó, Thảm
luôn có bà và anh Duy bên cạnh chở che, giúp đỡ, giành giật lại sự sống cho em.
Bƣớc sang tuổi thứ ba của cuộc đời, Thảm lớn nhanh, dễ nuôi và không chịu
khuất phục trƣớc một sức mạnh nào. Thảm sống giàu lòng yêu thƣơng và gắn bó với
bà sâu nặng. Thảm là đứa trẻ sáng dạ, biết tự lập và tự tin. Em sớm biết ý thức cái
trách nhiệm của kẻ thấy mình phải cƣu mang ngƣời khác nên khi bà ốm, Thảm và
anh Duy chăm sóc bà cẩn thận và chu tất mọi việc trong gia đình.
Thảm cũng giống nhƣ anh Duy là đứa trẻ tội nghiệp, côi cút. Cuộc đời của Thảm
đã đƣợc bà ngoại che chở, cƣu mang. Bà chính là nữ thần hộ mệnh, là phật bà lòng
đầy ân ƣu, bênh vực, phù trợ tới cùng sự sống cho đứa cháu không may rơi vào cảnh
hẩm hiu, khốn cùng.
Cũng có một tuổi thơ cay cực, dữ dội tƣơng tự nhƣ Duy và Thảm là Lý trong tác
phẩm Chuyện của Lý. Lý sinh ra trong hoàn cảnh không đƣợc xã hội công nhận làm
ngƣời, vì bố mẹ Lý không có giấy giá thú nên Lý không đƣợc hƣởng một chế độ gì
cả, Lý chỉ có một cái tên là Lý, cái tên do mẹ Nhu đặt sau khi mới sinh Lý. Mặc dù
hoàn cảnh khó khăn nhƣng Lý lại là đứa trẻ rất ngoan ngoãn. Lý không giống những
đứa trẻ cùng lứa tẹo nào. Lý xông xáo, gan dạ và có ý thức tự lập sớm. Lý biết giúp
đỡ mẹ, bà Pham làm những công việc nhỏ ở gia đình. Trong trận ốm kéo dài của mẹ,
Lý còn lên Rừng già lấy củi về bán để thêm tiền thuốc thang cho mẹ. Lý không bao
giờ nản chí trƣớc mọi tình huống nào. Nếu nhƣ Lý đƣợc vào học lớp Một là dựa vào
sự trợ giúp của bà Pham, thì sau đó, suốt những năm học về sau, bằng năng lực của
chính mình, Lý đã tự khẳng định đƣợc mình. Lý đã vƣợt qua định kiến về thân phận
trong học hành và quan hệ cô trò.
Nhƣng khác với Duy, Thảm ở trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời đƣợc bà cƣu
mang, chăm sóc, thì Lý lại đƣợc săn sóc và tiếp nhận từ tình yêu thƣơng của mẹ. Mẹ
Lý là một ngƣời phụ nữ lý tƣởng, giàu lòng tình yêu thƣơng, có ý chí và nghị lực,
trong đó có cả sức sống của sắc dục. Ái tình nhục thể với chị giống nhƣ một sinh thú
vô biên, là ân thƣởng vĩ đại của tự nhiên. Với chị, cuộc yêu đƣơng mang màu sắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thật sự chân tình và suồng sã thì mới đem lại hạnh phúc cho con ngƣời, và đấy mới
chính là tình yêu đích thực, dâng hiến trọn vẹn cho ngƣời mình yêu. Đối với mẹ Lý
tiền tài, địa vị mà Bí thƣ Văn Quyền đƣa ra để dọa dẫm, mua chuộc cũng không bao
giờ có kết quả. Điều này cũng là một bài học để mẹ Nhu dạy Lý cách giữ gìn bản
thân và có tình yêu chân thành với thầy Long. Không những thế, Lý còn đƣợc hƣởng
thụ nhân cách cao đẹp từ hai ngƣời bố (bố Khánh, bố dƣợng Dƣơng). Họ là những
ngƣời sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì đất nƣớc, vì mọi ngƣời, vì mẹ con Lý. Cho
nên, khác với tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời, hình ảnh trung tâm là bà nội với hai
đứa trẻ côi cút, còn ở trong Chuyện của Lý, trọng tâm là hình tƣợng Lý, cả hai mƣơi
sáu chƣơng, chƣơng nào cũng có hình bóng của Lý trong đó. Có nghĩa là, Lý là đứa
trẻ chủ động, tích cực tiếp nhận kiến thức bằng sức lực, khả năng riêng của mình. Lý
đƣợc tiếp nhận cả từ ngữ toàn dân, từ ngữ địa phƣơng (ngôn ngữ Dao với ông Thòn,
bà Pham) và từ ngữ của các nƣớc Ấn - Âu từ các câu chuyện nhƣ Cô bé bán diêm,
Cậu bé Lu La hay các câu châm ngôn, các tác phẩm cổ điển văn học thế giới của hai
ngƣời bố lƣu trữ và để lại cho Lý.
Có thể nói, Lý là đứa trẻ đƣợc ảnh hƣởng và trang bị chất lí tƣởng, nhân cách kĩ
càng từ mẹ Nhu, bố Khánh, bố dƣợng Dƣơng; khác với Duy, Thảm đƣợc nhận bài
học đạo đức quả cảm từ bà. Giờ đây, Lý đã thành một nhân cách, nhân cách này là
sản phẩm của cuộc sống bản địa và hội nhập. Lý trở thành một thiếu nữ phát triển
toàn diện cả về sức khỏe, trí tuệ và sở thích. Lý có đủ bản lĩnh để bƣớc vào cuộc đời
đầy thử thách gian nan. Lý trở thành một nhân tài, trở thành những “Công nhân ƣu
tú, có ích cho gia đình và xã hội”.
Đối lập với Duy, Thảm, Lý là những đứa trẻ con nhà giàu, sống thờ ơ, lạnh nhạt
với con ngƣời nhƣ Vàng Anh, Vành Khuyên, Kim Phú, Văn Giang (Côi cút giữa
cảnh đời) và Đào Lê Anh (Chuyện của Lý)...
Văn Giang là đứa trẻ con nhà giàu, nhiều tiền nhƣng lại lƣời học, có tính
tham vặt. Nó toàn lấy trộm kim băng của Duy. Nó có tính vừa ăn cắp vừa la làng,
thích vu cáo, đổ tội, làm nhục ngƣời khác. Còn Kim Phú cũng là con nhà giàu,
lắm tiền nhiều của, học hành thì dốt nát nhƣng lại luôn đƣợc mẹ và cô giáo bênh
vực, bao che. Kim Phú là đứa trẻ có tính gian dối và hai mặt, ẩn chứa tính thô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
bạo, cậy quyền cậy thế, bóc lột ngƣời khác ngay từ khi còn nhỏ. Cũng là con nhà
giàu nhƣ Kim Phú, Văn Giang nhƣng hai chị em Vàng Anh và Vành Khuyên còn
có cuộc sống sung sƣớng, đầy đủ hơn, thậm chí dƣ thừa cái ăn cái mặc nhƣng họ
lại có thái độ dửng dƣng, thờ ơ, lạnh nhạt, vô cảm trƣớc nỗi đau của con ngƣời,
đặc biệt là bé Thảm.
Nhƣ vậy, với hai loại nhân vật trẻ em và hai lối sống khác nhau, Ma Văn Kháng
phải chăng muốn lƣu ý: Trong giai đoạn đầu tiên cuộc đời của đứa trẻ, khi tuổi còn
nhỏ, sự từng trải chƣa nhiều, hiểu biết còn non kém, chƣa có đủ trình độ, năng lực,
bản lĩnh để xác định đối tƣợng, mục đích, cách sống cũng nhƣ cách thức học tập thì
sự hƣớng dẫn của cha mẹ, của thầy cô, của ngƣời lớn nói chung là vô cùng quan
trọng và cần thiết đối với các em. Những lỗi của các em nhƣ Văn Giang, Kim Phú,
Vàng Anh, Vành Khuyên... đã mắc phải ở trên đây cũng chỉ mới là manh nha, cần
kịp thời uốn nắn các em. Phê bình kịp thời các em với những thái độ thờ ơ, lạnh
nhạt, giả dối, tham lam, tàn bạo, không biết chia sẻ, quan tâm đến ngƣời khác. Đó là
một lối sống không đẹp nhằm cảnh tỉnh các em đang có lối sống sai lạc đó; giúp các
em thay đổi, điều chỉnh dần để hƣớng các em đến một cách sống đúng đắn, đẹp đẽ
hơn nhƣ biết sống nhân ái, đoàn kết với mọi ngƣời.... Đồng thời, chúng ta cũng biểu
dƣơng phẩm chất tốt của các nhân vật nhƣ Duy, Thảm, Lý... là những em có tấm
lòng vị tha, biết đoàn kết, biết vƣơn lên hoàn cảnh để sống và học tập tốt. Đây là lối
sống đẹp, lối sống đúng đắn cần đƣợc tiếp tục thể hiện và phát huy trong mọi mối
quan hệ giao tiếp. Mặt khác cũng góp phần làm cho các bạn trẻ khác có thể học tập,
phấn đấu noi theo. Nhƣ thế sẽ làm cho mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời
trở nên tốt đẹp hơn, góp phần tạo dựng một môi trƣờng xã hội lành mạnh, nhân ái,
hòa hợp.
1.2.2.2. Hệ thống nhân vật ngƣời lớn
Trong mối quan hệ đa chiều với thế giới xung quanh thì quan hệ giữa trẻ em và
ngƣời lớn là mối quan hệ phức tạp và tinh vi nhất. Mối quan hệ này đóng vai trò cực
kì quan trọng trong việc hình thành cá tính và nhân cách trẻ. Tuy cuộc sống có liên
quan chặt chẽ với ngƣời lớn, nhƣng trẻ em vẫn là một thế giới muôn màu sắc chứ
không phải là những phiên bản của ngƣời thu hẹp. Với trẻ em, ngƣời lớn có những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
bí ẩn riêng mà trẻ thơ không thể hiểu nổi. Còn với ngƣời lớn, cuộc sống trẻ thơ vẫn
là một vùng bí ẩn chƣa đƣợc soi tỏ mọi ngõ hẻm kiệt cùng. Ma Văn Kháng trong hai
cuốn tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý đã nhìn
nhận đúng bản chất của sự tác động hai chiều trong mối quan hệ trẻ em với ngƣời
lớn. Trong hai cuốn tiểu thuyết này, Ma Văn Kháng đã xây dựng một số nhân vật
ngƣời lớn để một phần phản ánh mối quan hệ hai chiều, một phần thể hiện tính cách
của trẻ em trong môi trƣờng rộng lớn.
Hệ thống nhân vật ngƣời lớn cũng có hai đối tƣợng, hoàn toàn đối lập nhau. Đối
tƣợng thƣơng yêu, hiểu tâm lí trẻ thơ và một đối tƣợng có bản chất không tốt, không
hiểu gì về tâm lí trẻ thơ, luôn nghĩ chúng là những đứa trẻ chƣa biết gì, không cần để
ý, không đáng bận tâm nên có thể vô tình xúc phạm tới chúng.
* Loại đối tƣợng thƣơng yêu, hiểu tâm lí trẻ thơ
Tiêu biểu nhất cho đối tƣợng ngƣời lớn là bà nội Duy trong tác phẩm Côi cút
giữa cảnh đời. Đúng nhƣ lời ông thầy bói xem quẻ nói rằng bà chính là cô tiên đã
dìu dắt Thảm và Duy đi qua những năm tháng hỗn độn, lọc lừa, phản trắc, bất công
để đến bên bờ của sự an bình. Có mẹ, có cha mà hóa ra côi cút, bao oan khổ, đắng
cay, thiệt thòi của các cháu đều đƣợc bà san lấp, đền bù, an ủi.
Đối với Duy, bà đã theo sát, đã nâng đỡ, đã đền bù cho những thiếu thốn tinh
thần của đứa cháu nội. Bà có mặt kịp thời trong mọi tình huống khó khăn, đau khổ
của Duy trƣớc dòng đời. Những ngày đi học đầu tiên đầy nƣớc mắt của Duy nếu
không có bà chắc cậu không thể vƣợt qua mặc cảm, tự ti về thân phận. Rồi sau này
bị mẹ Kim Phú thốc tháo, tuôn xả những lời nguyền rủa, mạt sát nặng nề, bị thái độ
ơ hờ ghẻ lạnh của cô giáo phù thịnh đồng lõa với kẻ có quyền hành, giàu có quen tác
oai tác quái trong mọi việc, lúc Duy đang ở trong trạng thái cô đơn, tủi hờn nhất bà
cũng đã hiện ra kịp thời với sự dẫn đƣờng của Việt nhƣ bụt hiện lên cứu nạn cứu
khổ kẻ yếu hèn. Bà chính là tấm gƣơng về nghị lực sống, về lòng bao dung, nhân
hậu để Duy nhìn vào đó mà học tập để vững vàng và sống tốt hơn. Bà cũng chính là
điểm tựa tinh thần, là nơi nuôi dƣỡng niềm tin để Duy luôn có một hi vọng và luôn
mong chờ sự trở về của bố, sự thức tỉnh của mẹ và ngày tái ngộ của gia đình trong
tƣơng lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Khổ đau chồng chất, tai họa liên miên, nạn này chƣa qua nạn khác lại rình rập.
Bà đã chia sẻ với ngƣời chồng bao nỗi oan ức đắng cay, đã chống chọi với bao gian
hiểm, bây giờ trên lƣng lại chất thêm bao lỗi lầm của con cái. Một mình nuôi cháu
nội thay con dâu con trai, đến khi cô Quỳnh lầm lỡ bế con về tìm nguồn an ủi nâng
đỡ, bà lại thay con gái nuôi cháu ngoại. Bà chịu mọi gánh nặng, cơ cực cho con. Bà
xóa sạch một đoạn đời u ám để hé mở một đoạn đời mới tƣơi sáng hơn cho đứa trẻ
ngƣời non dạ. Bà đã chìa đôi bàn tay đón đứa nhỏ với sự tự nguyện lĩnh nhận cái
gánh nặng trách nhiệm là cứu vớt đứa nhỏ và mẹ nó đang trong tình trạng vô cùng bi
thảm.
Bà đã thức bao đêm trắng trong tiếng khóc thảm thiết nhƣ không muốn có hồi
kết của Thảm. Bà đã thu nhặt mọi thứ có thể bán đƣợc trong gia đình để có thể nuôi
em trong những ngày khó khăn, đói kém, bệnh tật liên miên. Bà đã sống những giây
phút vô cùng căng thẳng, với cảm giác quyết liệt sinh tử, đã tận dụng kiệt cùng sức
lực để giành giật lại sự sống cho cái sinh linh bé nhỏ lúc nào cũng nhƣ đang chênh
vênh bên bờ vực thẳm. Thảm đã chiến thắng bệnh tật và lớn lên từng ngày nhờ tình
yêu thƣơng và sự chăm sóc chu đáo của bà. Bà nhẹ nhàng nâng đỡ những bƣớc đi
đầu tiên còn nhiều bỡ ngỡ của Thảm, bà hồi hộp chờ mong những tiếng gọi đầu tiên
của cháu, bà lo lắng chờ đợi những buổi học đầu tiên nhiều niềm vui nhƣng cũng
lắm nỗi buồn của đứa cháu sinh ra trong từng chặng đƣờng nhỏ của đoạn đời thơ dại
thiếu sự bảo ban của cha mẹ. Nếu nhƣ mẹ sinh ra Thảm thì bà ngoại là ngƣời tái sinh
lại cuộc đời của cô bé. Cô bé mang trong mình đậm nét dấu ấn tính tình, phần nội
tâm của bà và dành cho bà niềm kính yêu đặc biệt.
Có thể nói rằng, với hai đứa cháu cả nội cả ngoại, bà vừa là bố, vừa là mẹ, vừa là
bạn, vừa là bà tiên giáng trần để cứu vớt và che chở cho cuộc đời nhiều bất hạnh, éo
le của các cháu. Nhờ có bà, Thảm và Duy đã bƣớc qua mặc cảm, tủi hổ, đến với hi
vọng và tin yêu. Bà đã truyền cho Duy và Thảm niềm tin, sức mạnh, ý chí, nghị lực,
tấm lòng bao dung nhân hậu để các em có thể vững vàng bƣớc đi trên cuộc đời lắm
ngặt nghèo khi không có bố mẹ và cả những đoạn đƣờng sau này khi các em đã
trƣởng thành. Không chỉ có thế, bà còn gắn bó các cháu với huyết mạch cội nguồn
để các cháu biết thấu hiểu, biết yêu thƣơng, biết tự hào về những ngƣời thân, về gốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
rễ của mình. Bà giúp Thảm và Duy ý thức đƣợc rằng ngƣời thân của các em là trùng
trùng lớp lớp những con ngƣời mạnh mẽ, có thể có tật này tật nọ nhƣng luôn luôn
bất khuất, kiên trung. Từ đó, các em sẽ có ý thức phải sống làm sao để không hổ
danh với thế hệ đi trƣớc.
Ngoài bà nội của Duy ra, còn có cô giáo Hoa, cô Quyên…và một số nhân vật
ngƣời lớn khác cũng là những ngƣời rất yêu thƣơng và hiểu tâm lí trẻ thơ.
Cô Quyên chính là ngƣời đầu tiên hiểu đƣợc tâm trạng lì xì, rầu rĩ và có phần
chán nản, mặc cảm của Duy sau ngày đầu đi học về. Cô cùng bà nội động viên Duy,
biết Duy không thích cô giáo Thìn, cô đã giải tỏa tâm lí kịp thời cho em, cô sang nhà
thêu con gấu vào chiếc khăn mặt và khăn tay cho Duy theo đúng yêu cầu của cô giáo
Thìn. Cô Quyên là con ngƣời có tấm lòng nhân hậu, cô luôn thấu hiểu đƣợc nỗi
buồn của Duy, cô thƣờng xuyên cùng bà nội Duy động viên, an ủi Duy vƣợt qua
những cách xử sự ngang trái bất công của các cô giáo ở trƣờng học. Cô luôn giải tỏa
kịp thời tâm lí cho em.
Rồi đến khi cô Quỳnh mang Thảm về để bà nuôi giúp, cô Quyên cũng chính là
ngƣời chia sẻ, giúp đỡ, trông nom Thảm giúp bà nhiều nhất. Cô hiểu đƣợc sự trớ
trêu trong số phận của đứa trẻ khi mới lọt lòng đã phải xa mẹ, không cha. Cô lặn lội
nhờ vả để xin giấy khai sinh cho Thảm vì cô biết nếu không có giấy khai sinh thì
Thảm không đƣợc xã hội công nhận làm ngƣời và Thảm sẽ không đƣợc hƣởng bất kì
một quyền lợi nào của một đứa hài nhi, của một con ngƣời xứng đáng đƣợc nhận.
Việc không thực hiện đƣợc nhƣng do quá thƣơng Thảm và bà cháu Duy đang trong
tình cảnh khốn khó nên cô đã viết thƣ hoãn lại chuyến vào Nam thăm chồng ít ngày
để đỡ đần ba bà cháu. Cô thƣơng Thảm nhƣ con đẻ của mình. Cô bế ẵm nâng niu
Thảm trong suốt những ngày Thảm đau ốm. Cô may vá, lọc ra những quần áo sơ
sinh của con cô cho Thảm. Trƣớc khi vào Nam, dù rất khó khăn, phải chạy vạy để
có tiền đi thăm chồng nhƣng cô vẫn dành dụm chút ít để lại cho bà Duy để có tiền lo
thuốc thang cho Thảm.
Sự giúp đỡ của cô Quyên không chỉ đơn thuần về giá trị vật chất mà lớn hơn rất
nhiều là ở giá trị tinh thần. Ngoài sự cảm thông ra, cô còn ghé vai cùng giúp đỡ ba
bà cháu Duy. Lòng nhân hậu của cô đã giúp bà bà cháu Duy và nhất là cậu bé Duy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
rất đa cảm hiểu và tin rằng trên đời này còn có rất nhiều ngƣời tốt, rất nhiều những
tấm lòng nhân ái.
Có một nhân vật ngƣời lớn nữa dù xuất hiện không nhiều nhƣng cũng có ảnh
hƣởng rất nhiều đến tâm hồn của Duy và Thảm đó là chú Dũng. Là một chàng trai
đầu đội trời chân đạp đất rất dũng mãnh, ngang tàng, từng trải, nhƣng đồng thời
cũng rất hiền lành, thấu hiểu và yêu thƣơng khi tiếp xúc với con trẻ. Tuy chú đã xa
nhà từ lâu, Duy chƣa đƣợc tiếp xúc nhiều, Thảm lại chƣa từng đƣợc gặp chú, không
biết chú là ai, từ câu hỏi đầu tiên của chú thì cả Duy và Thảm đã đều bị chú chinh
phục. Hai em đều rất mến và quấn quýt bên chú suốt thời gian ngắn ngủi chú ở nhà.
Chú quan tâm, trò chuyện thân mật với hai cháu. Chú dạy Duy mấy miếng võ cần
thiết mà mỗi cậu con trai đều cần phải có để tự vệ trong cuộc sống. Với những việc
làm, những hành động nhanh nhạy, quả cảm trƣớc những mƣu đồ gian ác và đen tối
của tên Hứng trong suốt thời gian ở nhà, chú đã thực sự là thần tƣợng của Duy về
bản lĩnh, sự mềm dẻo, tài ứng biến linh hoạt với những trƣờng hợp bất thƣờng của
ngoại cảnh. Chú đã dạy cho Duy hiểu rằng với những bọn ngƣời gian ác, bất lƣơng
nếu không cứng tay với chúng thì chúng sẽ ăn thịt mình. Đó là một chân lí trong
cuộc sống, chân lí đó dạy con ngƣời ta phải cứng cỏi, phải biết tiến lui hợp lí trƣớc
mọi tình huống. Rồi qua câu chuyện giàu trí tƣởng tƣợng và đầy chất ngẫu hứng về
cuộc gặp gỡ của chú với tổ tiên trong lòng đất, chú đã bồi đắp thêm cho hai cháu
tinh thần tự tôn nguồn gốc, chú đã kết nối tình yêu thƣơng giữa các cháu và tổ tiên
cội nguồn của mình. Chú đã hun đúc cho Duy một niềm tin vững bền rằng bố của
cậu bé vẫn còn sống và sẽ trở về với Duy và gia đình.
Chú Dũng xuất hiện trong căn phòng đơn sơ, chật chội của ba bà cháu Duy
trong một khoảng thời gian không dài, cảm giác nhƣ chặng nghỉ chân của một chàng
dũng sĩ yêu cuộc sống tự do sau một chặng đƣờng xa, nhƣng đã tạo nên những ấn
tƣợng khó phai trong lòng ba bà cháu Duy. Hơn nữa, chú trở về đã làm thay đổi
không khí gia đình. Chú làm cho ba bà cháu Duy không những cảm thấy vui mà còn
thấy mạnh hơn nhiều. Sự có mặt của chú làm cho Duy có cảm giác cả bà và cậu bé
sớm phải va vấp cùng giải thoát, trút hết bao nén chịu căng nhức trong ngƣời do phải
đối mặt với những áp bức, bất công trong cuộc sống. Chú Dũng chính là động lực, là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đòn bẩy giúp đời sống của hai đứa trẻ thêm sinh động, sôi nổi, đa sắc màu hơn.
Nếu nhƣ bà nội Duy, Cô Quyên, chú Dũng, cô Hoa… trong tác phẩm Côi cút
giữa cảnh đời có lòng yêu thƣơng và hiểu tâm lí trẻ thơ thì ở trong tác phẩm
Chuyện của Lý, ngƣời đầu tiên chúng ta kể đến chính là mẹ Nhu, ngƣời phụ nữ xinh
đẹp với bản chất thông minh, giàu nghị lực và có tình thƣơng yêu vô bờ.
Nhu là một ngƣời mẹ luôn quan tâm sát sao đến con, dõi theo từng giai đoạn
phát triển của cuộc đời con. Khi con chƣa biết nói, mẹ Nhu thƣờng dạy dỗ con bằng
những lời hát ru nhƣ: “Cái ngủ mày ngủ cho lâu. Để mẹ đi cấy đồng sâu chƣa về”…
hoặc những câu chuyện kể nhƣ Tấm Cám, Thạch Sanh...”. Lời hát ru, lời kể chuyện
của mẹ chính là tiếng lòng của mẹ Nhu muốn tâm sự với đứa con gái yêu quý của
mình. Mẹ nuôi dƣỡng con không chỉ vì thể xác, không chỉ nặn cho con một hình hài
con ngƣời mà thổi vào con một tấm lòng biết rung động, biết yêu thƣơng, biết tốt -
xấu. Lời hát ru, lời kể chuyện đó của mẹ Nhu còn chứa đựng lời răn dạy con về cách
sống, cách yêu thƣơng và tạo sự chia sẻ, cảm thông ở Lý. Cho nên, mồ hôi nƣớc mắt
mẹ đổ xuống công việc cũng chỉ để cho con lớn khôn thành ngƣời. Công lao ngƣời
mẹ to lớn không chỉ nuôi dƣỡng mà còn giáo dục ngƣời con.
Còn khi con biết nói, mẹ Nhu đã dạy con nhận biết mặt bảng chữ cái và ghép
vần, dạy cho con cách sống để con có thêm nghị lực trong cuộc sống. Đặc biệt là
những ngày đầu tiên đi học, Lý bị đối xử phân biệt và sự ác cảm lộ liễu của cô giáo
Viêng. Lý bị ông Quyền thông đồng với cô giáo Viêng để hãm hại bằng cách: Lấy
bài văn tả về mẹ của Lý để ra đọc và giễu cợt trƣớc mặt mẹ Nhu và mọi ngƣời. Lý
đã đƣợc mẹ Nhu bênh vực và bảo vệ danh dự đến cùng. Nhƣng không phải là kiểu
bênh vực mù quáng cho con nhƣ mẹ bạn Kim Phú trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh
đời. Hằng ngày, mẹ Nhu thƣờng tâm sự với con để thăm dò xem con mình có hỗn
láo với cô giáo, với bạn bè không. Nếu con mình hỗn láo thì phải chỉ ra cho con biết
lỗi và sửa chữa lỗi, đấy mới chính là ngƣời mẹ yêu thƣơng con thực sự.
Mẹ Nhu đã bảo ban tận tình Lý, còn Lý lại là điểm tựa tinh thần của mẹ, để mẹ
vƣợt qua mọi khó khăn gian khổ trong cuộc sống. Lý là ngƣời bạn, là chỗ dựa cậy để
chống trả lại nỗi cô đơn của mẹ. Có lẽ, mẹ Nhu và Lý là một tình yêu song hành,
hoán đổi, không thể tách rời đƣợc. Phải chăng, Ma Văn Kháng muốn lƣu ý cần luôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhớ ơn dƣỡng dục, sinh thành của cha mẹ, biết ơn sự giúp đỡ của các tấm lòng nhân
ái. Ghi nhớ công lao của xã hội với bản thân ta, thế hệ đi sau phải sống và làm việc
xứng đáng với đạo lí và truyền thống dân tộc, sống chân thành, trọn nghĩa, trọn tình,
có trƣớc có sau.
Bên cạnh mẹ Nhu, ngƣời sinh thành Lý, còn có những tấm lòng nhân ái đã cƣu
mang, chăm nom, săn sóc tận tụy Lý nhƣ ông Thòn, bà Pham. Nhất là bà Pham, bà
là một lƣơng y tài giỏi. Bà không có chồng, không có con. Bao nhiêu khao khát yêu
thƣơng vì hoàn cảnh không đƣợc sẻ chia của bà, bà đều trút hết cho Lý. Bà yêu Lý
bằng một tình yêu mẫu tử thiết tha, một tình yêu máu mủ, ruột rà. Bà bế bồng, chăm
bẵm, nuôi nấng Lý từ lúc Lý còn trứng nƣớc. Bà thƣờng kể chuyện và hát ru cho Lý
nghe. Để chuẩn bị vào học lớp Một, bà đã may cho Lý những bộ quần áo con gái
Dao, có cả chiếc Ấn nhà trời thêu gắn ở sau lƣng áo. Rồi buổi bà dẫn Lý đến trƣờng
học, nằn nỉ xin cô Viêng cho Lý vào học dự thính lớp Một. Khi mẹ Nhu ốm đau kéo
dài, bà đã cùng Lý chăm sóc mẹ Nhu. Tấm lòng từ mẫu bao la và tài năng thuốc
thang của bà đã giúp mẹ Nhu hồi sinh, khỏe lại bình thƣờng. Hơn nữa, toàn bộ tiền
bạc từ bấy lâu nay bà dành dụm đƣợc, bà đều góp vào giúp Lý xây nhà. Bà Pham là
ngƣời có một tấm lòng tƣơng thân tƣơng ái sâu xa và Lý lớn lên, Lý càng hiểu đƣợc
bà yêu Lý biết chừng nào. Giờ đây, Lý càng cố gắng học tập và sống tốt để cho bà
vui, quan tâm trông nom săn sóc bà trong lúc bà ốm đau khi về già.
Có hai nhân vật ngƣời lớn nữa cũng có ảnh hƣởng sâu sắc đến tâm hồn của Lý -
đó là bố đẻ và bố dƣợng Dƣơng. Bố đẻ của Lý là bố Khánh, vì đất nƣớc có chiến
tranh, bố Khánh là một thanh niên yêu nƣớc đã đứng lên cầm súng chiến đấu chống
kẻ thù của dân tộc. Cuối cùng, bố Khánh đã hi sinh anh dũng trên chiến trƣờng. Tuy
không trực tiếp chăm sóc và nuôi dƣỡng Lý, nhƣng bố Khánh lại là ngƣời bố rất có
trách nhiệm đã động viên, an ủi tinh thần Lý. Trƣớc khi nhập ngũ, bố Khánh đã gửi
lại bố dƣợng Dƣơng một cái hòm sách mà theo bà Pham bảo là “quý hơn một tràn
ruộng, một đám nƣơng đó”. Đặc biệt, ở trong cuốn Nhật kí của bố Khánh có những
câu châm ngôn rất hay, có những lời di huấn rất đẹp. Lý là đứa trẻ vốn sẵn thông
minh tiềm ẩn, Lý luôn lấy những câu châm ngôn, lời bố dạy ở trong cuốn Nhật kí để
sống và lấy bố Khánh làm gƣơng sáng để noi theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Chu Văn Dƣơng là ngƣời bạn thân của bố Khánh. Anh là một Đảng viên gƣơng
mẫu, một nhân cách văn hóa, một tính cách say mê hết mình, một ngoại hình nam
nhi đẹp phong trần, một sức khỏe vƣợt trội, một tâm hồn lãng mạn và một cá tính
mạnh mẽ, ƣa thích những hành động đƣợc gia thêm hƣơng vị phiêu lƣu, quyết đoán.
Anh còn là ngƣời cán bộ năng nổ và rất có trách nhiệm, đã bênh vực đến cùng cho
những ngƣời dân vô tội nhƣ mẹ Nhu. Đồng thời, anh cũng là ngƣời rất giàu tình
cảm, luôn an ủi, động viên mẹ con Lý để vƣợt qua những khó khăn gian khổ.
Cũng giống nhƣ bố Khánh, anh phải nhập ngũ ra chiến trƣờng để bảo vệ đất
nƣớc. Chiến tranh chấm dứt. Hòa bình lập lại. Chu Văn Dƣơng từ chiến trƣờng trở
về nhận nhiệm vụ Bí thƣ huyện ủy Phong Sa. Anh bắt tay vào xây dựng cuộc sống
mới tại nơi đây với những công việc cụ thể là: Thành lập lại Hội sƣ tử; Tham gia đấu
tranh vạch mặt bản chất lƣu manh côn đồ Văn Quyền, Văn Lợi, chuyên ức hiếp quần
chúng, gây bao nhiêu khổ đau cho những ngƣời dân lành; Giải phóng nỗi oan ức cho
những ngƣời dân vô tội nhƣ mẹ Nhu, anh Đam; Quy hoạch lại đất đai, chỗ nào làm
công sở, nhà trƣờng, bệnh viện, chỗ nào là nhà dân, từng lô một, đƣợc công khai…
Không những thế, Chu Văn Dƣơng còn là hình ảnh một con ngƣời chân chính bổ
sung cho bố Khánh, một vẻ đẹp tâm hồn của một con tim tràn đầy cảm xúc. Đồng
thời, Chu Văn Dƣơng cũng là tình yêu đƣợc tiếp nối với mẹ Nhu từ sự trao gửi của
bố Khánh. Với lòng tin yêu, nhờ cậy của ngƣời bạn thân, Chu Văn Dƣơng không hề
có mặc cảm gì, anh đã yêu Nhu thực sự và coi Lý giống nhƣ là giọt máu, là con đẻ
của mình. Anh vừa là ngƣời bố, vừa là ngƣời thầy của Lý, ngƣời đã ngày đêm giúp
Lý giảng giải các đề văn ôn thi thuộc thể loại văn nghị luận xã hội. Cuối cùng, công
lao của bố dƣợng Dƣơng đã đƣợc Lý đền đáp xứng đáng. Lý đã dành đƣợc số điểm
cao tuyệt đối trong kỳ thi tốt nghiệp và do vậy em đƣợc nhận vào đội tuyển quốc
gia, em sẽ đƣợc một trƣờng đại học ở Thủ đô tiếp nhận không cần qua sát hạch.
Nhƣ vậy, con ngƣời không phải ai sinh ra cũng đã có một trí tuệ, một thể chất
khỏe mạnh. Bởi vì, trên thực tế mỗi cá nhân con ngƣời cũng giống nhƣ Lý cần phải
tu dƣỡng, rèn luyện về cả tâm hồn, bản lĩnh, năng lực mới có thể sống tốt cuộc sống
của chính bản thân mình. Đồng thời, cùng với sự quan tâm, chia sẻ của ngƣời khác
để giúp mình hoàn thiện phần nhân cách cao đẹp hơn. Cho nên, Lý đúng là con đẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
của cuộc đời. Là con của ngƣời đời. Lý tiêu biểu cho cái hình ảnh thiếu nhi Việt
Nam những tháng năm gian khó, đƣợc nuôi dƣỡng trong yêu thƣơng, đƣợc hình
thành nhân cách dƣới ánh sáng soi đƣờng của cha mẹ, gắn bó với cội nguồn dân tộc
và cuộc đời.
Có thể nói, hệ thống nhân vật ngƣời lớn có lòng yêu thƣơng, hiểu tâm lí trẻ thơ ở
trong hai cuốn tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý - đây là kiểu
quan hệ bổ sung - quan hệ của các nhân vật cùng loại, nhằm mở rộng phạm vi một
loại hiện tƣợng: Đó là luôn sống vì ngƣời khác để tạo nên một cuộc sống “tƣơng
thân tƣơng ái”, “lá lành đùm lá rách” để cho cuộc sống của mỗi con ngƣời ngày càng
tốt đẹp hơn.
* Loại đối tƣợng có bản chất không tốt, không hiểu gì về tâm lí trẻ thơ
Ở trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, tiêu biểu cho loại ngƣời này là lão
Luông, lão Hứng, bà mẹ Kim Phú….Nhƣng tiêu biểu nhất vẫn là lão Hứng. Sự độc
ác, bất nhân của lão khi đối xử với ngƣời lớn đã đáng lên án rồi nhƣng sự cay cú, ác
độc trong cách đối xử với trẻ con của lão - đặc biệt là đối tƣợng đang sở hữu tâm
hồn rất trong sáng thì còn đáng ghê tởm và khinh bỉ hơn rất nhiều. Những cƣ xử của
tên Hứng với Duy và Thảm trong suốt thời gian hắn tồn tại trái phép trong phần lớn
căn nhà của gia đình Duy thực sự đã mất hết tính ngƣời, bộc lộ sự dã man của hắn
đã ăn sâu bắt rễ từ trong bản chất.
Lão Hứng thông đồng với tay Luông chiếm phần lớn diện tích căn hộ của gia
đình Duy. Tham lam đến cực độ và lão cũng nhanh chóng thể hiện bản chất độc ác
đến cực cùng của những con thú đội lốt ngƣời. Ngay từ những hôm đầu dọn đến ở
căn nhà mà hắn cƣớp đƣợc, tên Hứng đã có những thái độ xúc xiểm, chà đạp một
cách rất trắng trợn vào tinh thần của Duy. Trƣớc thái độ lì lợm, bất khuất phục của
Duy, hắn càng tỏ ra bực tức, cố tình hăm dọa, khủng bố tinh thần bằng cách xuyên
tạc, bới móc lí lịch của từng ngƣời trong gia đình Duy. Lão hành động không hoàn
toàn do bột phát, vô tình mà thực ra là có chủ ý hết. Bởi hắn biết rằng bà Duy là một
ngƣời rất bản lĩnh, vững vàng cứng cỏi, đối đáp thần tình nên rất khó có thể là đe
dọa, áp đảo đƣợc bà. Vậy thì chỉ bằng cách, cứ đổ mọi tức tối, mọi mƣu hèn kế bẩn
không thể thực hiện đƣợc với bà để trút hết lên tâm hồn còn non nớt của Duy. Làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đƣợc nhƣ thế thì hắn đã thỏa mãn đƣợc phần nào lòng lang dạ thú của mình.
Lòng dạ tăm tối, ác độc của hắn còn hiện hình một cách đậm đặc hơn khi có sự
xuất hiện của bé Thảm trong căn phòng nhỏ hẹp của bà cháu Duy. Thảm bất hạnh
rơi vào cảnh côi cút tội nghiệp, em khát sữa khát hơi mẹ nên em khóc ròng. Trông
thấy cảnh đó bất cứ ai còn chút tình ngƣời cũng không tránh khỏi cảm giác chạnh
lòng, thƣơng cảm vậy mà lão Hứng hoàn toàn vô cảm. Lão hình nhƣ không có một tí
biểu hiện nào là trái tim của một con ngƣời, không có một tí cảm xúc nào trƣớc nỗi
đau của con trẻ, hắn liên tục quát nạt, xỉa xói vào nỗi đau của ba bà cháu, vào cái số
phận bất hạnh mà bé Thảm đang phải gánh chịu.
Nếu nhƣ ở trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời, lão Hứng tiêu biểu nhất cho
loại ngƣời có bản chất không tốt, không hiểu gì về tâm lí trẻ thơ, thì ở Chuyện của
Lý, tiêu biểu cho loại ngƣời này là Bí thƣ Văn Quyền, cô giáo Viêng. Nhất là lão
Quyền - ngƣời mang danh là kẻ có quyền chức nhƣng lại ăn nói lỗ mãng, bạc bẽo
với trẻ thơ.
Từ khi còn là đứa trẻ nằm nôi, chƣa biết nói, Lý đã bị ông ta chửi rủa, mạt sát,
giọng nói của ông không giấu nổi cay độc và căm phẫn. Lý là đứa trẻ phải chịu đựng
nhiều thiệt thòi, Lý không đƣợc hƣởng một tiêu chuẩn gì ở trong xã hội. Lý bị ông
Quyền cho là đứa con không giá thú. Là con không cha. Là con hoang…Mặc dù, cha
Lý là một chiến sĩ đang ngày đêm hi sinh xƣơng máu ở mặt trận để chống kẻ thù của
dân tộc. Trong khi đó, ở hậu phƣơng, Bí thƣ Văn Quyền - kẻ có quyền có chức lại
không biết quan tâm, động viên, sẻ chia với những đứa trẻ thiếu thốn tình cảm của
cha nhƣ Lý, mà lại luôn gây tác oai tác quái cho Lý và cho những đứa trẻ vô tội
khác. Loại ngƣời đội lốt mặt quỷ này còn thông đồng với cô giáo Viêng, để phân
biệt đối xử bất công và gây ác cảm lộ liễu với Lý ở ngay trƣờng học. Cuộc đời của
mẹ Lý, họ đã đầy đọa đến cùng, nay lại đến đứa trẻ họ cũng không chịu buông tha.
Cho nên, khi lớn lên, dƣới con mắt của Lý, ông Quyền giống nhƣ tên vua độc ác
trong truyện Ấn nhà trời mà bà Pham thƣờng hay kể cho Lý nghe và ông ta cũng
giống nhƣ con hổ què bị bất ngờ vì cú đòn đánh quá đột ngột và đích đáng của đứa
trẻ. Nên tục ngữ có câu: “Hổ không ăn thịt con”. Hổ là loài cầm thú lạnh lùng, là nỗi
khiếp sợ của bao loài vật khác nhƣng trong cái ác của nó, vẫn còn một nơi ấm áp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhất để dành cho con của mình. Cũng giống nhƣ Lý, con hổ què động rừng về Thèn
Phàng, nó leo lên tận giƣờng Lý nằm nhƣng nó không ăn thịt Lý. Nhƣ vậy, con hổ
què là con vật vô tri vô giác nhƣng nó lại có tình cảm hơn ông Quyền. Kể cả con
mèo Nhung, nó sống rất tình cảm và thân thiện với Lý. Hàng ngày, Lý ở nhà, nó
luôn quẩn quanh bên Lý. Hay con Mực, khi ông Thòn mất, nó nằm ở dƣới gầm
giƣờng ngƣớc lên nhìn thấy Lý khóc ai oán, hai mắt của nó cũng đỏ ngầu lên, tỏ
lòng tiếc thƣơng ông Thòn. Còn ông Quyền, mang tiếng là một Bí thƣ huyện ủy
nhƣng chẳng hơn đƣợc con vật chút nào. Ông mạt sát Lý với những lời lẽ không
thƣơng tiếc. Đây là lối sống vô tâm, tàn nhẫn, tầm thƣờng - một trong những lối
sống xấu xa khiến con ngƣời dễ trở thành kẻ tha hóa, tàn bạo, mang thú tính, do đó
cần phải phê phán, thậm chí lên án kịch liệt đối với loại ngƣời này.
Tóm lại, Đó là hai loại đối tƣợng, hoàn toàn đối lập nhau của hệ thống nhân vật
ngƣời lớn. Đây là loại quan hệ đối chiếu, tƣơng phản để làm nổi bật sự đối lập và
khác biệt của các nhân vật. Đồng thời, làm cho chúng phản ánh nhau, tác động nhau,
soi sáng nhau, để cùng phản ánh đời sống. Và qua đó, Ma Văn Kháng muốn nhắc
nhở, khuyên nhủ khi thấy ai đó chƣa biết quan tâm, chia sẻ, cảm thông với những
khó khăn, vất vả của con ngƣời hay còn xúc phạm nặng nề đến danh dự, nhân phẩm,
nhân cách của con ngƣời vì những mục đích đen tối, xấu xa, thì chúng ta phải kiên
quyết đấu tranh để gạt bỏ ngay. Đặc biệt là trẻ em - đối tƣợng còn non nớt, đang cần
sự quan tâm, chăm sóc, nâng niu của toàn thể xã hội.
1.3. Đặc sắc bức tranh đời sống xã hội trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi
Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
Phạm trù mĩ học phản ánh một hiện tƣợng có tính quy luật của thực tế đời sống
xã hội thƣờng diễn ra trong cuộc đấu tranh không ngang sức giữa cái thiện với cái
ác, cái mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái phản động, cái hài với cái bi... trong điều
kiện những cái sau còn mạnh hơn cái trƣớc. Vậy, ở trong hai tiểu thuyết viết về thiếu
nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng, bức tranh đời sống
xã hội hiện lên rất đa dạng với các màu sắc thẩm mĩ: Có đắng cay - ngọt bùi, cái xấu
- cái đẹp, cái bi - cái hài - cái hùng…
Có lẽ là do Ma Văn Kháng đã chuyển từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn thế sự, đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tƣ, miêu tả con ngƣời ở chiều sâu tâm hồn với những ƣớc vọng tốt lành và cả những
toan tính tầm thƣờng, nhỏ nhen ích kỷ. Với Ma Văn Kháng cuộc sống hôm nay
không hề đơn giản, nó chứa đựng bao nhiêu bất cập, phức tạp và bất trắc ngay từ
những việc nhỏ nhặt xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Cái nhìn sắc sảo đã hƣớng
Ma Văn Kháng vào từng ngõ ngách của đời sống hiện thực để soi rọi, phân tích lẽ
đời, thói đời với tất cả các cung bậc của tình cảm và các mối quan hệ ở mọi góc
cạnh, mọi phƣơng diện, nhất là thế giới nội tâm trong mỗi con ngƣời. Khác với cái
nhìn sử thi về con ngƣời, con ngƣời lúc này không chỉ đơn thuần có nghĩa vụ công
dân đối với đất nƣớc mà còn có nghĩa vụ đối với gia đình, với mọi ngƣời và với
chính bản thân mình. Ma Văn Kháng nhìn thấu con ngƣời trong cuộc sống hôm nay
nhiều khi cái xấu, cái tốt, cái thiện, cái ác đan xen vào nhau khó tách bạch, thậm chí
cái xấu, cái ác còn ẩn náu sau cái thiện, cái tốt để phá hoại cái tốt, cái thiện. Trong
thực tế có cái ác thuộc về bản chất, có cái ác, cái xấu lại đƣợc sinh ra từ sự tác động
của môi trƣờng, hoàn cảnh… hoàn cảnh nhiều khi chi phối và tạo ra bi kịch cho con
ngƣời. Thế giới con ngƣời trong cái nhìn ở trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi
cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng, nó có đông đủ các giai
tầng trong xã hội và vì thế kiểu nhân vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng và phức
tạp. Với cái nhìn đầy trách nhiệm của mình, trƣớc hết Ma Văn Kháng đã thấy rõ con
ngƣời trƣớc mọi bão táp vẫn giữ đƣợc giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống, đó là
những con ngƣời trí thức chân chính, những con ngƣời lao động chân chính. Cái
nhìn tinh vi sắc sảo, nhà văn cũng đã phát hiện không ít những con ngƣời bị tác động
của cơ chế thị trƣờng đánh mất đi nhân cách làm ngƣời của mình.
Xuất phát từ cái nhìn nhân đạo, mong tìm kiếm những điều tốt đẹp cho sự phát
triển nhân cách con ngƣời, Ma Văn Kháng đã đặt con ngƣời trong mối quan hệ
nhiều chiều, nhiều bình diện đó là con ngƣời của đời sống riêng tƣ, của xã hội, của
tự nhiên. Cái nhìn đó thể hiện một tƣ duy rất mềm dẻo, linh hoạt của Ma Văn
Kháng. Ông đã thể hiện một tƣ duy nghệ thuật về con ngƣời của riêng mình. Đọc hai
tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn
Kháng, có một điều dễ nhận thấy là, ông nghiêng hẳn về những giá trị tinh thần cội
nguồn của truyền thống dân tộc mà phân loại đánh giá con ngƣời. Có thể nói, ngay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
từ đầu sự nghiệp văn chƣơng, Ma Văn Kháng đã ý thức đƣợc sứ mệnh ngòi bút của
mình viết là để khẳng định, bảo vệ giá trị chân chính của con ngƣời. Không ngừng
tìm tòi, đổi mới ngòi bút của mình nhƣng tất cả sự đổi mới ấy đều đƣợc dựa trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
những giá trị nhân văn chân chính.
CHƢƠNG 2
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ NHÂN VẬT THIẾU NHI TRONG HAI TIỂU
THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI VÀ CHUYỆN CỦA LÝ CỦA
MA VĂN KHÁNG
2.1. Khái niệm về nhân vật thiếu nhi trong văn học
Nếu dựa vào thành phần xã hội thì ta có các nhân vật nhƣ nông dân, công nhân,
trí thức, phụ nữ, thanh niên, trẻ em…trong các nhân vật đó, ta thấy trẻ em cũng là
một thành viên của xã hội. Cho nên, nhân vật thiếu nhi là khái niệm chỉ “trẻ em
thuộc các lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng” [48, tr.1133]. Đây là lứa tuổi đang sống
trong sự quan tâm dìu dắt, nâng niu của gia đình và xã hội. Lứa tuổi này có nhiều tên
gọi, nhiều quan niệm và đặc điểm tâm - sinh lí khác nhau. Do đó, dù ở thời đại nào,
gia đình và xã hội cũng đều quan tâm đến phƣơng pháp dạy dỗ trẻ, đều thiết lập môi
trƣờng sống lành mạnh để cho các em có điều kiện phát triển toàn diện về thể chất
cũng nhƣ về tâm hồn.
Nhân vật thiếu nhi là lứa tuổi kéo dài từ thuở nằm nôi đến khi gần bƣớc sang
tuổi trƣởng thành. Đây là lứa tuổi có những biểu hiện tâm lý rất nhạy cảm, là thời kỳ
hình thành các em nhiều sở thích, tình cảm và suy nghĩ. Tác phẩm văn học vì thế mà
có sự tác động mạnh mẽ vào lứa tuổi này.
2.2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật thiếu nhi trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa
cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
2.2.1. Khái niệm về miêu tả
Theo các nhà nghiên cứu: “Miêu tả là biện pháp cơ bản nhằm tái hiện con ngƣời,
sự vật, sự kiện, đồ vật…một cách cụ thể cảm tính nhằm mục đích khêu gợi trí tƣởng
tƣợng, tình cảm và làm cho ngƣời đọc rung động” [46, tr. 75].
Mục đích của miêu tả là khơi gợi trí tƣởng tƣợng và tình cảm, làm cho ngƣời ta
cảm động. Bởi vì, không có một văn bản nào chỉ nhằm mục đích đơn thuần “tả để
mà tả” mà thƣờng là “tả để ngụ tình” để gửi gắm những suy nghĩ, cảm xúc và đánh
giá của con ngƣời. Cho nên, nếu nhắc đến con ngƣời đƣợc miêu tả là chúng ta nhắc
đến nhân vật văn học đƣợc miêu tả bằng phƣơng tiện nghệ thuật. Trong tác phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
văn học, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, các phƣơng thức thể hiện nhân vật hết sức
đa dạng, từ việc dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, hành động, tâm
trạng, thể hiện những quá trình nội tâm. Nhân vật còn đƣợc thể hiện qua mâu thuẫn,
xung đột, sự kiện. Các mâu thuẫn, xung đột bao giờ cũng có tác dụng làm nhân vật
bộc lộ cái phần bản chất sâu kín nhất của nó. Nhƣng nhân vật thƣờng bộc lộ mình
nhiều nhất qua việc làm, hành động, ý nghĩ.
2.2.2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật thiếu nhi trong hai tiểu thuyết
Nói đến nhân vật văn học là nói đến con ngƣời đƣợc miêu tả, thể hiện trong tác
phẩm bằng phƣơng tiện nghệ thuật. Các phƣơng thức thể hiện nhân vật hết sức đa
dạng. Văn học đa dạng đến đâu, các phƣơng thức, phƣơng tiện thể hiện nhân vật đa
dạng đến đó. Ở trong hai cuốn tiểu thuyết viết về nhân vật thiếu nhi của Ma Văn
Kháng là Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý, tác giả đã sử dụng rất linh hoạt
các phƣơng thức, phƣơng tiện nghệ thuật để miêu tả nhân vật. Đó là: Nghệ thuật
miêu tả chân dung nhân vật; Nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm của nhân vật và
nghệ thuật kể chuyện. Việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật sẽ giúp nhà văn dễ thành
công trong việc miêu tả nhân vật. Nhân vật, vì thế trở nên sống động và gần gũi hơn
với đời sống, tạo nên sự hấp dẫn cho ngƣời đọc.
2.2.2.1. Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật
Sức sống của một nhân vật văn học không chỉ ở cá tính độc đáo mà còn ở chân
dung đầy ấn tƣợng, khiến cho ngƣời đọc mỗi khi nhớ đến là có thể hình dung ra diện
mạo, hình hài của nó.
Ma Văn Kháng là nhà văn có cách miêu tả chân dung nhân vật rất độc đáo. Ông
thƣờng dùng lối đặc tả thật ngắn gọn (thƣờng chỉ vài dòng hoặc vài từ) mà nhƣ thâu
tóm hết hồn cốt, thần thái nhân vật, nhƣ lộn trái con ngƣời họ ra, vạch mặt chỉ tên họ
là loại ngƣời nào. Cổ nhân có câu: Họa hổ họa bì nan họa cốt / Tri nhân, tri diện,
bất tri tâm (Vẽ hổ chỉ vẽ đƣợc da, khó vẽ đƣợc xƣơng / Biết ngƣời, chỉ biết mặt,
không thể biết lòng). Chính vì cái khó đó mà nhà văn Ma Văn Kháng luôn phải tìm
cách lột tả bên trong thông qua hình thức bên ngoài, phải làm sao trông mặt mà bắt
hình dong và giúp cho bạn đọc cùng quan sát và cảm nhận đƣợc nhân vật.
Trong hai cuốn tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lý, Ma Văn Kháng đã rất lƣu ý đến việc miêu tả chân dung nhân vật để lột tả đƣợc
hoàn cảnh, sự chênh lệch giàu nghèo, những tình cảm đáng yêu, đáng ghét, sự khinh
thị, sự ẩn giấu của những yếu tố tính cách trong những đƣờng nét bề ngoài của các
nhân vật, đặc biệt là nhân vật trẻ em.
Duy là một cậu bé lớn lên trong hoàn cảnh rất tội nghiệp. Bố đi bộ đội bao năm
không có tin tức gì. Mẹ ở nhà chờ đợi mỏi mòn trong sự bán tín bán nghi về sự còn
mất của bố và một phần là do sự tấn công táo bạo của ngƣời đàn ông lắm tiền nên đã
bỏ bà và Duy đi theo ngƣời đàn ông đó. Duy sống trong tình thƣơng và sự bao bọc
của bà. Đời sống của hai bà cháu trông cậy hết vào đồng lƣơng hƣu ít ỏi của bà, với
ít tiền giử tiết kiệm và tiền bán mấy luống rau. Sự khó khăn trong đời sống, tâm
trạng mặc cảm, cô đơn của Duy thể hiện rất rõ qua khuôn mặt và cách ăn mặc của
cậu bé trong những ngày đầu tiên đến trƣờng: “Một cái áo len cổ lọ nâu bạc. Ngực
áo, một chiếc khăn tay trắng xỉn gài kim băng để lau mũi. Một cái quần xanh loang
lổ. Một đôi dép cao su đen sì. Một khuôn mặt buồn buồn, lầm lì” [24, tr. 63].
Hoàn cảnh nghèo khổ và sự lạc lõng, tủi thân của Duy càng đƣợc thể hiện một
cách sâu sắc hơn khi tác giả đặt cậu trong mối quan hệ, so sánh với các bạn bè ở lớp
cũng nhƣ ở khu tập thể.
Đối lập với bộ quần áo quê mùa, lỗi mốt của Duy là cách ăn mặc rất đẹp đẽ, rất
mốt của các bạn con nhà giàu có trong lớp. Văn Giang đƣợc mẹ chở tới lớp học
bằng chiếc xe Mi - ni Nhật mới tinh với cách ăn mặc đi đứng, chào hỏi tỏ vẻ rất kiểu
cách, ra dáng là con nhà giàu có điều kiện, hiểu biết và sành điệu hơn các bạn:
“Quần bò. Dép da màu da cam. Bít tất trắng. Áo cổ bẻ lính thủy. Mũ cũng mũ lính
thủy. Nó dậm chân đánh bép và phắp một cái đƣa tay lên vành mũ: Dờ - đrát - xtơ -
vui - i - chê cô giáo!” [24, tr. 59]. Còn Kim Phú thì đƣợc bố đèo đến trƣờng học
bằng xe máy Pơ - giô với dáng hình loắt choắt nhƣng điệu bộ có vẻ ra oai, tỏ ra mình
là đàn anh: “Choắt ngƣời, đen sạm, mắt trắng dã, nhƣng nó vẻ đàn anh lắm. Tay cầm
khẩu côn, lƣng đeo kiếm, tất nhiên là bằng nhựa cả …nó cắm cúi bƣớc, mũi đánh
hơi khìn khịt, rồi ngẩng lên vẫy thằng Văn Giang lại, lên giọng chỉ huy: Hứ, quân ta
không có ai canh gác ở đây, hả đồng chí đại úy Văn Giang!” [24, tr. 61]. Không chỉ
có Văn Giang và Kim Phú, dƣới góc nhìn của Duy, ở trong lớp mình có “nhiều đứa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mặt mũi xinh xắn, hồng hào, ăn mặc rất đẹp. Áo quần thì toàn len, dạ, mút, lông thú.
Chẳng đứa nào đi dép cao su đen” và nhà các bạn đều có điều kiện, khi đi học còn
mang theo cả đồ chơi nữa. “Trừ tôi, còn đứa nào cũng có đồ chơi mang theo. Ô - tô -
gỗ. Ô - tô - nhựa. Búp bê. Súng tự động. Cần cẩu. Gấu Mi - sa. Xoàng cũng là bộ đồ
xếp hình nhiều màu [24, tr. 61]. Mặc dù còn nhỏ tuổi nhƣng ngay từ buổi đầu tiên
đến lớp, Duy đã nhận ra đƣợc sự thiệt thòi về điều kiện vật chất của mình so với các
bạn cùng trang lứa.
Sự cách biệt về điều kiện sống không chỉ đƣợc thể hiện qua cách ăn mặc của
Duy với các bạn trong lớp mà còn đƣợc khẳng định rõ hơn qua vẻ bề ngoài của Duy
và các em nhỏ ở khu tập thể, đặc biệt là hai đứa con nhà cô Đại Bàng. Vàng Anh và
Vành Khuyên tuy còn nhỏ nhƣng tỏ ra rất chau chuốt, điệu đà và giàu có: “Con
Vàng Anh mặc váy vàng, còn Vành Khuyên mặc váy xanh. Tóc hai đứa đều cắt
ngắn. Mũi cao giống mẹ. Mắt to, sáng” [24, tr. 49]. “Hai chị em nó, mỗi đứa có dấn
vốn riêng. Tay mỗi đứa đeo hai ba cái nhẫn mặt ngọc” [24, tr. 145]. Rõ ràng, những
đƣờng nét biểu hiện bên ngoài đã chứng tỏ hai chị em Vàng Anh là những đứa con
trong gia đình khá giả, có điều kiện, có sự chăm sóc chu đáo.
Nhƣ vậy, qua những nét đặc tả về ngoại hình, cách ăn mặc, đi đứng của Duy với
các bạn trong lớp và trong khu tập thể, ngƣời đọc đã nhận ra đƣợc sự khác biệt quá
lớn về điều kiện sống giữa Duy và bạn bè. Đồng thời, độc giả cũng phần nào hiểu
đƣợc thái độ tự ti, mặc cảm, chơ vơ của Duy giữa một tập thể đông vui nhƣng có
một khoảng cách xa vời vợi với cậu bé. Từ đây, mỗi bạn đọc sẽ hồi hộp chờ đợi sự
trƣởng thành và phát triển nhân cách của Duy vốn là một cậu bé rất đa sầu đa cảm
này giữa một môi trƣờng sống mà cậu ý thức đƣợc rõ về mình, về hoàn cảnh gia
đình mình và về mọi ngƣời.
Đúng nhƣ nhà tâm lý học Nguyễn Thị Ánh Tuyết nhận định khi tìm hiểu tâm lý
trẻ em là: “Có lẽ trên thế gian này có bao nhiêu ngƣời thì có bấy nhiêu cá tính. Trẻ
em cũng vậy, mỗi em bé là một con ngƣời riêng biệt. Mỗi em bé sẽ lớn lên thành
ngƣời theo một con ngƣời riêng và sống một cuộc đời riêng của mình với những đặc
điểm mà chỉ riêng mình mới có” [49, tr. 69]. Cái riêng biệt đầu tiên thể hiện nguyên
sơ ở những biểu hiện bên ngoài qua nét mặt, dáng hình, lời nói, cử chỉ, cách ăn mặc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trang sức... Những yếu tố bên ngoài là xuất phát điểm để đánh giá cái bên trong của
mỗi con ngƣời. Chẳng hạn, qua lời chào cô Thìn có vẻ rất sang trọng bằng tiếng Nga
của Văn Giang thì ta có thể đánh giá đƣợc đây là một đứa trẻ có tính cách khoe mẽ,
mồm miệng đỡ chân tay. Hoặc qua dáng hình, cách đi đứng và những cử chỉ bên
ngoài của Kim Phú đã lột tả tính cách hùng hổ, ƣa bạo lực, thích đƣợc xƣng hùng
xƣng bá ngay từ nhỏ của cậu bé này. Tính cách này đƣợc hình thành do môi trƣờng
sống, do cách giáo dục và sẽ ngày càng đƣợc khẳng định đậm nét qua các mối quan
hệ trong suốt quá trình sống, học tập và làm việc sau này.
Trong tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời, tác giả đặc tả
những nét dáng bề ngoài không chỉ có mục đích là lột tả một phần tính cách,
hoàn cảnh gia đình mà Ma Văn Kháng còn muốn khắc họa thế giới nội tâm, sức
sống tiềm tàng bên trong của mỗi đứa trẻ. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ đối với
trƣờng hợp bé Thảm.
Thảm là con mẹ Quỳnh, sinh ra trong hoàn cảnh xã hội còn mang nặng thành
kiến với ngƣời mẹ có con ngoài giá thú. Thảm là em bé đã phải gánh chịu nỗi bất
hạnh ngay từ thuở lọt lòng. Xa mẹ, bố lại là ngƣời đàn ông phản bội không có trách
nhiệm với giọt máu của mình, sự sống của em hoàn toàn phụ thuộc vào bàn tay màu
nhiệm và tình yêu thƣơng cao cả của bà. Ba năm đầu của cuộc sống là những ngày
hờn khóc thảm thiết và đau ốm liên miên của Thảm. Mọi chứng bệnh đều lợi dụng
vào cái thân hình bé bỏng, yếu ớt do thiếu nguồn sữa mẹ để hành hạ nhƣ muốn quyết
tâm hạ gục em. Em trở nên nhỏ nhoi và vô cùng yếu ớt trƣớc sự tấn công liên tiếp
của bệnh tật. “Trông em nằm thiêm thiếp, mắt lờ ngờ, môi he hé khô nẻ, tái nhợt”
[24, tr.156]. Sau trận sốt xuất huyết, em chỉ còn là những lóng xƣơng bọc lớp da
sạm. “Em nằm xẹp nhƣ một giải khoai héo. Đôi môi ho hó, bợt bạt, không buồn
động đậy. Em thở khò khè. Trên vầng trán nhỏ của em, gân xanh nổi chằng chẵng.
Tim em đập rất khẽ. Có lúc tôi đặt tay lên tƣởng tim nó đã ngừng” [24, tr.159]. Sự
sống trong em rất mỏng manh, có thể nói là ngàn cân treo sợi tóc với những dấu hiệu
bất thƣờng của em: “Hai mắt em đang mơ mơ bỗng mở to. Một ánh nhìn già dặn, ái
ngại và tiếc nuối thế nào vừa đọng trên mặt tôi. Rồi sau khi lắng cái nhìn đó trong
một giây đồng hồ, em khép từ từ mi mắt lại” [24, tr.161]. Nhận thấy ánh nhìn ám
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ảnh đó, Duy hoảng hốt cảm giác nhƣ đó là “một bông hoa đang cụp cánh lụi tàn”.
Nhất là sờ vào tay em, Duy càng kinh hãi hơn khi thấy “tay em lạnh toát”.
Đã có những tháng ngày bà và anh Duy phải dùng hết mọi sức lực, mọi trí tuệ,
mọi phƣơng thức để giành giật sự sống cho em. Đã có những tháng ngày bản thân
em Thảm phải đấu tranh không mệt mỏi với sự hành hạ quái ác của bệnh tật. Và đã
có những tháng ngày Duy phải sống trong cảm giác hoảng sợ, u ám khi nhìn thấy
hình hài nhỏ nhoi của em có lúc nhƣ đang lịm dần đi trong cơn sốt mê man. Thế
nhƣng, cuối cùng sự sống của Thảm cũng đã chiến thắng. Em đã sống nhờ cái nội
lực tiềm tàng, nhờ cái nghị lực chống trả phi thƣờng của bản thân.
Chúng ta thấy, Thảm không những không bị gục ngã trƣớc bệnh tật mà còn có
một sức mạnh hồi sinh quật khởi. Sự sống đƣợc hồi sinh bắt đầu từ một buổi sớm
trong mát, tiết thu mới lập, cuộc sống của em nhƣ sang trang mới, với tiếng reo lanh
lảnh nhƣ tiếng nhạc của bà khi nhìn thấy hình ảnh rực rỡ nhƣ thiên thần: “Em vừa
dậy. Em ngáp một hơi, đƣa nắm tay xinh xinh dụi mắt, rồi ngơ ngác nhìn ra khung
cửa tràn một màu xanh dịu dàng” [24, tr.169]. Cái động tác “đƣa nắm tay xinh xinh
dụi mắt” đã đánh dấu thời kì lớn nhanh nhìn thấy từng ngày của Thảm. Nhìn dáng
hình em bây giờ không ai có thể ngờ rằng em đã từng có những tháng ngày còm
nhom nhƣ con mèo ốm, thở chẳng ra hơi, suốt ngày nằm ập trên vai bà, ruồi đậu
mép không buồn đuổi. Nhƣng giờ Thảm đã khác, Thảm đã bƣớc vào tuổi thứ ba của
cuộc đời. Càng lớn Thảm càng trắng hồng, mũm mĩm: “Nó mập mạp, nhƣng chắc
lẳn và không lùn. Chân Tay nó cân đối, những ngón tay búp măng rất xinh. Tóc nó
cắt ngắn, đen tuyền, dày, nhƣ cái mũ len khuôn lấy gƣơng mặt tròn căng có đôi mắt
đen lay láy và cái mũi dọc dừa rất cao sang. Răng nó đều, trắng tinh nhƣ đƣờng,
trong khi bọn trẻ con cùng tuổi đều sún cả" [24, tr. 180 - 181].
Khắc họa sự biến chuyển trong dáng vẻ bề ngoài của bé Thảm, Ma Văn Kháng
đã khẳng định đƣợc sức sống mạnh mẽ, một cá tính quật cƣờng trong con ngƣời cô
bé vốn chịu rất nhiều những điều éo le trong cuộc sống này. Sự hồi sinh phấp phới
trong mỗi đƣờng nét dáng hình Thảm sau những trận ốm đau liên miên, phải chăng
là một thông điệp hùng hồn để chứng minh cho đời hiểu rằng: "sự sống của kẻ bị vùi
dập là bất diệt chăng?" [24, tr.169].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nếu nhƣ hai đứa cháu cả nội và ngoại ngày càng khôn lớn, phồng phao, nhanh
nhẹn thì ngƣợc lại bà của hai em ngày càng già đi, gầy hơn, chậm chạp hơn. Đó là
một điều đƣơng nhiên, bởi bà đã phải trải qua bao tháng ngày của cuộc sống gian
khổ. Bà đã hi sinh vì chồng, vì con, đã phải chống chọi với biết bao điều ngang trái,
bất công trong cuộc sống để che chở và nuôi dạy hai cháu nhỏ côi cút tội nghiệp.
Khi Duy lên năm tuổi, lúc đấy bà nội đã ngoài sáu mƣơi, tuy gầy gò nhƣng cốt cách
của bà còn dẻo dai, tinh anh và nhanh nhẹn lắm: "Mặt bà tròn trịa, mảnh dẻ nhƣ
phiến lá sen. Tóc bà cuộn trong một mảnh khăn nhung thành một vành khăn nhỏ, đặt
nghiêng nghiêng trên mái đầu năng chải hiện rõ một đƣờng ngôi thẳng tắp chia đều
mái tóc sang hai bên. Mặc dù chân tay bà bé nhỏ, gần nhƣ chỉ là một làn da ánh mật
bọc các lóng xƣơng, bà vẫn thoăn thoắt trong các công việc và dáng đi đứng vẫn rất
hoạt bát, tự nhiên, mạnh mẽ. Bà đi đi lại lại nhanh nhẹn, hai ống quần có lúc bên
thấp bên cao chạm nhau loạt xoạt, nói lên thói quen tất tả, muốn dứt dóng chóng
vánh mọi việc của bà, hàm răng nhuộm đen đều tăm tắp luôn luôn sáng lên một ánh
cƣời ấm áp, hóm hỉnh, tỏa ra một niềm tin" [24, tr.11 - 12]. Vậy mà sau đó vài năm,
khi bao tai biến ập đến với gia đình, khi bà phải gánh trên vai bao gánh nặng của
mọi thành viên trong gia đình thì sự già nua, khắc khổ đã in hằn đậm nét trên mái
đầu, dáng đi của bà. Lúc này "bà đã sáu mƣơi tám tuổi rồi. Đã gầy bà càng gầy. Tóc
bà đã bạc hết và ngày nào còn một dải rậm dày, mỗi khi gội bồ kết xong bà quay vun
vút nhƣ một đuôi ngựa múa, nay đã rụng, chỉ còn một lọn tóc nhỏ, ngắn ngủn. Chân
tay bà chỉ còn là những lóng xƣơng khô khỏng. Cắp rổ rau ngải từ khu đồi hoang về,
bà phải nghỉ chân dọc đƣờng, chứ không đi đƣợc một mạch nhƣ trƣớc nữa" [24, tr.
179].
Khắc họa sâu sắc những thay đổi trên dáng hình của bà, Ma Văn Kháng muốn
làm nổi bật đức tính tần tảo, chịu thƣơng chịu khó, suốt đời hi sinh vì sự an lành,
bình yên cho những ngƣời thân trong gia đình, dòng dõi. Cuộc sống luôn là hành
trình bất tận của nghĩa cử cao cả "Cho" và "Nhận". Bà đã "Cho" các cháu sức khỏe,
kinh nghiệm sống, niềm tin và tình yêu thƣơng bao bọc để các cháu "Nhận" đƣợc
sức mạnh nội lực thiêng liêng, sự lớn khôn và trƣởng thành. Ngày hôm nay yên ấm
và hạnh phúc của các cháu đƣợc đắp đổi bằng tuổi già, sức yếu và những tháng ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
vật lộn với gian khổ, bất công không mệt mỏi của bà.
Nếu nhƣ nhân vật chính trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời là Duy và Thảm
thì ở trong tác phẩm Chuyện của Lý, nhân vật chính lại là bé Lý. Lý là đứa trẻ đƣợc
tác giả theo dõi, miêu tả từ lúc là một ấu nhi, một sinh thể sống đơn thuần, tới khi
hình thành trọn vẹn nhân cách một con ngƣời. Lý ra đời trong hoàn cảnh không
đƣợc sự thừa nhận của xã hội. Nhƣng may mắn cho đời em, Lý lại đƣợc sống trong
sự săn sóc, cƣu mang của ông Thòn, bà Pham. Nhất là bà Pham, bà đã yêu Lý bằng
tình yêu của một ngƣời mẹ thật sự. Nên mở đầu tác phẩm, tác giả miêu tả Lý trong
sự yêu thƣơng, quan tâm, chăm sóc của bà: “Lý đã dậy rồi đấy, hả cháu? Ôi chao, bà
thƣơng. Bà thƣơng em, em ngoan, em không khóc nhè” [28, tr. 5].
Lý xuất hiện nhƣ một biểu tƣợng của sự sống nhỏ nhoi. Lý nằm “trong cái nôi
mây đan vành quết dầu nâu óng, giữa những chăn tã, cái trắng tinh, cái xanh chàm là
khuôn mặt tròn trịa trắng hồng của cái Lý mới hai tháng tuổi. Cái Lý vừa tỉnh giấc.
Nó đƣa hai tay lên dụi mắt, rồi ngáp một cái rõ to, đoạn ngọ ngậy hai bàn chân mũm
mĩm, miệng kêu hẹ hẹ” [28, tr. 6]. Cái động tác “đƣa hai tay lên dụi mắt, rồi ngáp
một cái rõ to”, cùng với “cái cƣời hít vào khiến ngực nó căng phồng lên” [28, tr. 8]
đã đủ nhận thấy Lý sẽ là một đứa trẻ sáng dạ, lớn phổng. Và khi cƣời, Lý “còn lo le
cái đầu lƣỡi hồng hồng”, trông em thật đáng yêu.
Lý là đứa trẻ sớm am hiểu, khi bà Pham kể chuyện, Lý đã hiểu đƣợc mỗi lời nói
của bà, chia sẻ với nỗi buồn, niềm vui hiện lên trên khóe mắt của bà. “Cặp lông mày
lơ thơ của nó cũng nhíu lại khi giọng bà chợt buồn, chợt lo. Đôi mắt nó cũng bừng
lên tia sáng khi nó nhận ra tiếng bà long lanh nhƣ tiếng chim hót”. Sau khi bà kể
xong câu chuyện, bà nhìn thấy môi Lý “thấp thoáng một ánh cƣời, nhƣ chia vui với
cái kết thúc mỹ mãn của câu chuyện”. Điều đó, khiến cho bà Pham phải nghẹn ngào
và thốt lên: “Ôi cái Lý, cô cháu yêu của bà. Đời cháu sẽ không buồn không khổ nhƣ
mẹ cháu đâu, Lý à!” [28, tr. 15]. Đúng nhƣ lời bà Pham nhận định, cuộc đời của Lý
sẽ đƣợc sung sƣớng hơn mẹ. Lý đƣợc mẹ ấp ủ. Lý biết mình đang sống “trong vòng
tay ôm ấp của mẹ. Lý nhƣ “là đứa trẻ duy nhất trên đời này biết tận hƣởng niềm
phúc lộc thần tiên của đời ngƣời là đƣợc bú mẹ: Chà! Lý nún. Lý mút. Lý ngoạm.
Lý nhay. Lý nghiến. Nhoai cổ ra Lý nuốt”…Lý tu ừng ực. Môi Lý, Lƣỡi Lý nhóp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nha nhóp nhép. Lý bú chòm chọp nhƣ lợn con bú lợn mẹ ” [28, tr. 56 - 57]. Với
những động tác bú sữa mẹ của Lý, ta sẽ đoán đƣợc Lý là đứa trẻ dễ nuôi và lớn
bồng. Lý không có dấu hiệu bệnh tật gì. Lý “chắc nịch nhƣ cái cối đá. Chân tay vừa
dài rộng vừa chũn chĩn. Cổ tay, cổ chân, nơi nào cũng có ngấn sâu nhƣ thắt chỉ. Cả
năm liền không một lần hu hi vang mình sốt mẩy, chẳng biết gì đến sài đẹn, cảm
cúm…” [28, tr. 87]. Lý là đứa trẻ sẽ biến đổi, khôn lớn theo từng ngày. “Gƣơng mặt
giờ nó đã định hình. Nó có hai con mắt vừa to vừa dài giống mẹ. Đôi môi nó có nụ
cƣời hoa rất sang cũng là của mẹ. Đôi tai cũng vậy, luân quách dầy đều, thùy châu
đầy đặn. Riêng cái gò mũi dọc dừa cao sang thì chỉ mẹ nó biết là của bố Khánh nó”.
Và chắc chắn, Lý lớn lên sẽ có một “khuôn mặt trắng hồng nhƣ cánh hoa sen nở [28,
tr. 81].
Mặc dù khó khăn trong đời sống nhƣng Lý đã đƣợc mọi ngƣời chăm sóc chu
đáo nên tâm trạng của Lý luôn phấn chấn, vui vẻ. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ
qua khuôn mặt và cách ăn mặc của Lý trong những ngày đầu tiên đến trƣờng. Lý
“lau mặt, chải đầu, rồi gắn một cái nơ hồng bên mái tóc trái cắt ngắn”. Sau đó, Lý
“mặc bộ áo quần mới bà Pham may thêu cho” [28, tr. 139 -140]. Trong khi đó,
“con gái Dao có đứa còn đội khăn đỏ, có mấy bông len màu hoa dâm bụt thả hai
bên tai” [28, tr.139 - 141]. Rõ ràng, so với con gái Dao, cách ăn mặc của Lý đẹp đẽ
và sành điệu hơn.
Nhƣng đối lập với cách ăn mặc đẹp đẽ của Lý là cách ăn mặc quê mùa của Bảo.
Bảo “mặc áo kiểu ngƣời Giáy, ngắn cũn cỡn, màu xám cài khuy vải” với “con mắt
lờ ngờ” và “cái mặt vẫn buồn rƣời rƣợi” [28, tr. 142, 175]. Còn Yến lại có “khuôn
mặt nhỏ nhắn trắng xanh có hai con mắt vành mi rõ nhƣ nét vẽ” và “cái đầu có hai
bím tóc ngắn ngủn” nhƣng cái mặt thì “nhợt nhạt”, “sợ sệt” [28, tr. 170, 175]. Chỉ có
Đào Lê Anh là ra dáng con nhà giàu nên mặt nó hay vênh vang: “dáng to phộp mặc
quần trắng, xách cái cặp da, cậu chàng có lẽ là con cán bộ huyện nên vênh vang đi
vào lớp” [28, tr. 144].
Với việc đặc tả những yếu tố bề ngoài nhƣ cách ăn mặc, ánh mắt, dáng hình, cử
chỉ… của Lý cũng nhƣ của bạn bè Lý. Ngƣời đọc sẽ nhận thấy ở các em “mỗi ngƣời
mỗi tính nết một hoàn cảnh” [28, tr. 178] nhƣ: Bảo thì hiền lành, chăm chỉ nhƣng lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
có hoàn cảnh khó khăn, thiếu sự chăm sóc, vì bố mẹ Bảo mất đã lâu. Nhà Bảo chỉ có
hai anh em sống nƣơng tựa vào nhau. Nên tâm trạng buồn tủi, cô đơn đƣợc hiện lên
rất rõ qua khuôn mặt và ánh mắt của Bảo; Yến hiện lên lại là đứa trẻ hay ốm đau
quặt quẹo, thể trạng xanh xao yếu ớt, cơ thể phát triển chậm, sống nhút nhát, dễ bị
tổn thƣơng nhƣng lại có lòng tự trọng cao. Yến cũng có hoàn cảnh khó khăn, vì mẹ
Yến mất sớm, bố là bộ đội biên phòng phục viên, lƣơng thì ba cọc ba đồng; Còn Lý
cũng có hoàn cảnh tƣơng tự nhƣ Bảo,Yến nhƣng “Lý lại đƣợc cái lý cái tình ngƣời
nâng niu thừa nhận”. Hơn nữa, Lý còn là đứa trẻ có ý chí, can đảm, dám vƣợt lên
chính mình. Riêng chỉ có Đào Lê Anh vì hoàn cảnh gia đình khá giả nên đã nảy sinh
ra tính kiêu ngạo, khoe khoang tự đắc…Nhƣ vậy, chúng ta thấy, đa số các em có
hoàn cảnh tƣơng tự nhau nhƣng mỗi ngƣời lại mỗi dáng vẻ, mỗi tính nết khác nhau.
Đúng nhƣ các cụ ngày xƣa đã đúc kết: “Cha mẹ sinh con, giời sinh tính”. Nên muốn
giáo dục tốt đƣợc các em, chúng ta không chỉ nhìn vào hình thức bề ngoài để mà
đánh giá các em. Chúng ta phải tiếp xúc với các em, đi sâu vào nội tâm của các em
để hiểu đƣợc tính cách của từng em để mà giáo dục có hiệu quả.
Bên cạnh nhân vật trẻ em, hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời
và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng còn có một loạt các nhân vật ngƣời lớn với
hai loại ngƣời, hoàn toàn đối lập nhau. Loại tốt là loại có tài, có đức nhƣ ông bà nội
Duy, bố Duy, chú Dũng, cô Đại Bàng, cô giáo Hoa …(Côi cút giữa cảnh đời) và mẹ
Nhu, bố Khánh, bố dƣợng Dƣơng, ông Thòn, bà Pham… (Chuyện của Lý). Còn loại
xấu là loại bất tài, vô đạo nhƣ lão Luông, lão Hứng, cô giáo Thìn, bà mẹ Kim
Phú…(Côi cút giữa cảnh đời) và Văn Quyền, Văn Lợi, cô giáo Viêng… (Chuyện
của Lý). Hai loại ngƣời này hiện lên với những đƣờng nét ngoại hình riêng biệt thể
hiện những cá tính tiêu biểu của từng ngƣời. Và những tính cách đặc trƣng của mỗi
nhân vật ngƣời lớn này nó chi phối không nhỏ tới mối quan hệ của họ với các nhân
vật thiếu nhi. Đặc biệt loại ngƣời xấu, Ma Văn Kháng miêu tả thành công hơn.
Miêu tả chân dung loại ngƣời xấu, Ma Văn Kháng làm theo nguyên lí: xấu tâm
thì xấu tƣớng, ác tâm thì ác tƣớng. Mỗi dáng nét cụ thể nhƣ là biểu tƣợng cho một
cái xấu nào đó ở bên trong. Chẳng hạn đây là chân dung ông Luông - chủ tịch
phƣờng Ngọc Sinh, nơi bà cháu Duy cƣ trú: “ông Luông rất oách và ác. Ông đội mũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lông thỏ, mặc cái áo măng - tô san mùa thu. Mặt ông choăn choắt, da ông sắt seo và
mũi ông tóp nhọn, cứng nhƣ sắt. Hai con mắt ti hí nhƣ mắt láo liên liên hồi” [24, tr.
51]. Còn cái mặt của lão Hứng - trƣởng phòng hành chính, nơi mẹ Duy làm việc,
nhác trông đã thấy hiện lên gần nhƣ tất cả các tính xấu của Hứng: “Cái mặt là mặt
ngựa. Hai lỗ mũi ngửa huếch. Mắt to mắt nhỏ. Tai bẹp. Miệng rộng bàm bạp nhƣ
miệng cá trê. Răng trên xỉa ra bốn chiếc. Răng nanh lại bịt vàng. Thái dƣơng có cái
sẹo to bằng đồng bạc. Đỉnh đầu hói nhẵn nhƣ quả nhót. Cái mặt ấy lúc trợn trừng
trợn trạc… [24, tr. 120 - 121]. Nói chung, tất cả những nét biểu hiện bề ngoài của
các dạng ngƣời trên đều tƣợng trƣng cho loại ngƣời to, đầu nhỏ là tƣớng ngƣời võ
biền, “đầu óc ngu si, tứ chi phát triển”; hai con mắt ti hí nhƣ mắt lƣơn hoặc mắt to
mắt nhỏ là mắt của ngƣời gian giảo và độc ác; sẹo ở thái dƣơng là những di tích của
một quá khứ bất hảo, bất nhân… Việc miêu tả ngoại hình nhân vật của Ma Văn
Kháng nó nhƣ là một biểu hiện gắn liền với tính cách, bản chất của nhân vật. Ngay ở
vẻ bề ngoài cũng đã đủ tố cáo bản chất độc ác, lừa đảo đầy dã tâm của những loại
ngƣời này. Trên thực tế, chắc chắn không thiếu gì kẻ dạ thú nhƣng mặt ngƣời và
những kẻ “giẻ cùi tốt mã”. Nhƣng điều mà Ma Văn Kháng muốn miêu tả ở đây là để
tìm ra nét xấu ở bọn ngƣời xấu, ngƣời ác qua tƣớng mạo và từ đó phóng đại, cƣờng
điệu lên cho mọi ngƣời cùng quan sát. Ông tìm cách thể hiện sao cho đập mạnh vào
giác quan và cảm giác ngƣời đọc, gây cảm giác ngay lập tức với loại ngƣời này nhƣ:
Bí thƣ Văn Quyền với “cái gƣơng mặt bừ bự, hàm râu đen sì, hai con mắt ốc nhồi,
tiếng cƣời khề khề, thô lỗ” hay “Mặt hổ. Mũi khoằm. Quai hàm bành bạnh” [28, tr.
28, 100]. Nhìn vào dáng vẻ bề ngoài của Văn Quyền, chúng ta sẽ biết đƣợc ông là kẻ
đội lốt ngƣời mang tâm địa quỷ, chuyên đi lừa đảo dối trá, lợi dụng cơ chế tổ chức,
lạm dụng quyền hành tác oai tác quái, gây nhiều điều oan khổ đau đớn cho ngƣời
dân vô tội.
Thủ pháp so sánh kết hợp với ngoa dụ và những từ láy giàu sức gợi tả đã tạo nên
những chân dung đầy dị dạng. Sự méo mó hình hài phản ánh sự méo mó nhân cách.
Không thể tìm thiện căn ở loại ngƣời này. Ma Văn Kháng muốn khơi dậy lòng căm
ghét cái ác một cách toàn diện, cả bề sâu lẫn bề mặt để cho mỗi nhân vật trẻ em, đặc
biệt là nhân vật chính ở trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lý càng có điều kiện bộc lộ đƣợc những suy nghĩ, những tâm tƣ, những tình cảm
riêng của mình về cuộc sống và con ngƣời. Đồng thời để cho các em biết làm theo
cái thiện, tránh xa cái xấu, cái ác.
Cách miêu tả chân dung nhân vật của Ma Văn Kháng giống văn học cổ điển và
văn học dân gian về mặt nguyên tắc nhƣng ông đã đƣa vào đó cái xƣơng xẩu, gồ ghề
của tiểu thuyết hiện đại, cho nên đã tạo ra những chân dung sống động, khiến ta đọc
một lần là khó quên đối với loại nhân vật này.
Nhƣng đối với Ma Văn Kháng, ngoại hình không phải là cứu cánh của việc miêu
tả nhân vật. Qua ngoại hình nhân vật, nhà văn thƣờng gửi gắm những suy nghĩ,
những chiêm nghiệm, những ý tƣởng của mình về con ngƣời và cuộc đời. Nên việc
miêu tả ngoại hình thƣờng hƣớng tới việc thể hiện nội tâm, tính cách của nhân vật.
2.2.2.2. Nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm nhân vật
Nội tâm của nhân vật là thế giới bên trong bao gồm cảm giác, cảm xúc, tâm
trạng, tình cảm, tâm lí, ý nghĩ…của con người. Khắc họa đời sống nội tâm nhân vật
trong hai cuốn tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý,
Ma Văn Kháng đã viết rất thành công về vấn đề này. Ông mạnh dạn cho nhân vật
tiếp xúc với tất cả các phƣơng diện của cuộc sống, những cảnh ngộ, những nỗi niềm,
những số phận của con ngƣời. Sau đó, ông đứng vào vị trí của đứa trẻ, tự làm cho
mình trẻ lại, tìm lại những cảm giác, những tâm trạng của trí não trẻ thơ trong những
cảnh huống cụ thể. Bởi vậy, khi đọc đến những đoạn phân tích diễn biến tâm lí nhân
vật, ngƣời đọc không có cảm giác bị áp đặt, bị khiên cƣỡng mà chỉ thấy một cảm
xúc duy nhất đó là sự tự nhiên và chân thật trong diễn biến tâm lí nhân vật. Mỗi bạn
đọc cảm thấy rất tâm đắc và có sự đồng cảm kì diệu khi tìm thấy đƣợc ít nhiều
những cảm giác của chính bản thân ở những tình huống tƣơng tự trong cuộc sống.
Ở trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời, Ma Văn Kháng đã dành rất nhiều công
sức và tâm huyết miêu tả diễn biến tâm lí của cậu bé Duy - cậu bé đa sầu đa cảm,
sớm gặp những bất hạnh, sớm đƣợc chứng kiến, sớm biết suy nghĩ trƣớc những trắc
trở éo le, trƣớc những bất công trong cuộc sống thƣờng nhật. Diễn biến tâm lí,
những uẩn khúc trong đời sống nội tâm của cậu đƣợc miêu tả ở những hoàn cảnh,
những tình huống khác nhau. Với sự cảm thông, thấu hiểu tâm lí trẻ thơ, Ma Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Kháng đã viết nên những trang văn hết sức cảm động, chất chứa biết bao thông điệp
đầy ý nghĩa trong cuộc sống mà cậu bé Duy nói riêng và trẻ thơ nói chung gửi đến
cho ngƣời lớn qua những suy nghĩ, những trải nghiệm, những đớn đau mà mỗi em
nhỏ đều có thể vấp phải.
Mới năm tuổi đầu, cái tuổi rất cần sự hiện diện cùng với những âu yếm, chăm
bẵm của mẹ thì mẹ đã rời Duy theo một ngƣời đàn ông lái xe. Cậu bé vốn giàu tình
cảm, rất quấn quýt mẹ nên bây giờ cảm thấy hụt hẫng, chênh vênh trong những giây
phút đầu tiên xa mẹ. Trƣớc hết là cảm giác “trống lạnh bên mình đêm đêm”. Bởi
mọi khi cậu đƣợc hƣởng sự ấm áp trong hơi ấm tình thƣơng của một bên là bà, một
bên là mẹ còn bây giờ chỉ còn có bà. Quay về phía mẹ thấy chống chếnh vì thiếu
hụt. Hƣớng về “phía bà, có hơi bà, nhƣng bà gầy teo, bà không tỏa đủ hơi ấm ủ cho
cậu bé” [24, tr. 24]. Nhớ mẹ đến nỗi Duy nhìn về phía nào cũng thấy bóng hình của
mẹ bởi vì nhìn thấy bất cứ cái gì cậu cũng thấy kỷ niệm về mẹ ngập tràn: “Cái nón lá
mới, chiếc chìa khóa xe đạp, cái túi lƣới đem đi làm để mẹ mua thức ăn mỗi buổi
chiều tan tầm, cái rá mới hôm nào mẹ mua về lấy dây đồng cạp thêm, cái gƣơng
hình quả tim, đôi guốc cao gót, con mèo nhị thể đen trắng tên là Mí hôm nào mẹ mới
mua về nhà” [24, tr. 28]. Nỗi nhớ chất ngất, vời vợi, hình bóng mẹ thân thƣơng đến
mức Duy cảm tƣởng rằng: “Hơi hƣớng của mẹ tôi thấm nhiễm trong mỗi linh hồn sự
vật, mẹ tôi vẫn còn ở đây với tôi” [24, tr. 28]. Nhìn thấy con mèo Mí đang ngồi lặng
nhìn ra sân, Duy cũng có cảm giác là nó cũng đang buồn diệu vợi vì thiếu vắng bóng
hình của mẹ.
Nhớ mẹ và mong sự trở về của mẹ nên Duy có cảm giác chẳng bao lâu nữa nỗi
nhớ của cậu sẽ đƣợc đền bù bởi vì nhƣ lời bà nói mẹ sẽ quay trở lại với cậu. Nghĩ
đến đây, Duy cảm động khôn cùng khi trong tâm hồn non nớt của cậu nghĩ đến cảnh
tƣợng ấm áp: “Quay về là thế nào cũng ôm chầm lấy tôi, hôn lấy hôn để vào hai má
tôi, vừa hôn vừa chằm bặp, rối rít: Ôi con giai của mẹ, có nhớ mẹ không? Mẹ nhớ
con quá!”. Cái cảnh đó vừa hiện ra trong niềm bâng khuâng khó tả thì cậu đã lại băn
khoăn tự hỏi: “Cái cảnh ấy rồi sẽ trở lại chứ?” [24, tr. 28]. Nỗi băn khoăn thơ dại của
đứa con lần đầu xa mẹ này là xuất phát điểm cho hành động rất tội nghiệp tiếp theo
của cậu bé: “phong phanh áo mỏng chân đất, tiến lại dƣới cái khung ảnh gia đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
treo ở bức tƣờng đối diện với giƣờng ngủ. Tôi bắc ghế, leo lên để nhìn cho rõ. Dƣới
khung ảnh là những tờ giấy báo công, giấy khen của bố tôi. Trong khung kính, số
ảnh đã chẳng còn nguyên vẹn. Có ba khoảng trống. Tôi nhớ lắm: tấm ảnh to nhất là
hình nửa ngƣời mẹ tôi lúc trẻ. Tấm đặt ngang chụp bốn ngƣời dàn hàng: bố tôi, tôi,
mẹ tôi và bà. Tấm nhỏ nhất là hình tôi khi mới biết lẫy... ” [24, tr. 29].
Những hành động, những nỗi niềm, ƣớc mong của Duy đƣợc Ma Văn Kháng lột
tả rất chân thật và tinh tế. Ngƣời đọc hoàn toàn bị thuyết phục và cảm động trƣớc
những trang văn giàu cảm xúc về tâm trạng chông chênh, mong nhớ da diết của một
cậu bé bất hạnh phải rời xa hơi ấm của mẹ vào độ tuổi đang cần mẹ nhất.
Muốn nhân vật tự bộc lộ những phần sâu kín nhất trong tâm hồn thì tác giả đặt
nhân vật vào những tình huống có vấn đề, những mâu thuẫn, xung đột quyết liệt
nhất. Ở trong hai cuốn tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện
của Lý, Ma Văn Kháng luôn đặt các nhân vật trẻ em vào những tình huống rất nhảy
cảm và từ đó để tính cách, diễn biến nội tâm của mỗi em đƣợc bộc lộ một cách sâu
sắc nhất.
Mặc dầu, bé Duy sớm rơi vào hoàn cảnh không may, hay đa cảm đa sầu nên
ngày đầu tiên đến trƣờng học, Duy vẫn coi là một ngày hội. Nhƣng niềm vui háo
hức đó lại trở thành một kỷ niệm đáng buồn, thành một vết xƣớc khó phai mờ trong
trái tim bé bỏng của Duy. Cậu bé bị cô Thìn đối xử bất công, bị khinh rẻ, bị chế
nhạo, bị sỉ nhục trƣớc mặt mọi ngƣời. Những cảm xúc mong manh, những nỗi niềm
buồn tủi cô đơn u uẩn trong lòng không dám thổ lộ cùng ai của Duy lần đầu đến
trƣờng cũng đƣợc Ma Văn Kháng lột tả đậm nét. Đầu tiên là cảm giác “đỏ lừ mặt,
xấu hổ một cách vô duyên cớ” vì cảm thấy mình bị sỉ nhục [24, tr. 59]. Khi cô Thìn
cố ý giễu cợt với vẻ đầy cay độc về hai cái tên họ nghe lạ tai của bố mẹ Duy. Tiếp
đó là tâm trạng “lạc lõng vì nghèo, vì là lính mới. Vì cái gì cũng chƣa biết, vì lớ
ngớ” [24, tr. 61]. Khi Duy nhìn thấy các bạn ở trong lớp hầu hết ai cũng ăn mặc rất
đẹp, nhiều đồ chơi và đều có đôi, có nhóm nói chuyện líu lô với nhau. Còn mình thì
lủi thủi không biết chơi với ai. Tiếp đến là cảm giác tủi thân, tức giận và uất ức vô
cùng trƣớc những lời lẽ xúc phạm không thƣơng tiếc của cô Thìn: “Ông thuộc loại
ngớ ngẩn hở? Thế ngộ nhỡ ông tè dầm ra thì ông cởi truồng à? Đã không biết xấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hổ, lại còn định ăn vả ai!” [24, tr. 62].
Sự cứng cỏi, bản lĩnh của Duy còn đƣợc thể hiện rất nhiều lần trong nhiều tình
huống bị áp bức, với nhiều đối tƣợng khác nhau trong cuốn tiểu thuyết Côi Cút giữa
cảnh đời. Đó là lần giáp mặt đầu tiên với tên Hứng - kẻ đã rắp tâm chiếm đoạt trắng
trợn phần lớn diện tích căn nhà mà hai bà cháu Duy đang ở. Trƣớc những lời lẽ dơ
bẩn của kẻ đang say dở, trƣớc hành động có tính chất dọa nạt: “Lão giơ hai ngón tay
làm súng lục, miệng khạc đạn. Tôi thấy nhƣ có ngọn súng chỉ vào mặt tôi” [24, tr.
129] và Duy có phản ứng rất tự nhiên: “định giơ tay lên che”. Đó là phản ứng rất
bình thƣờng của một cậu nhỏ khi gặp phải sự tấn công của kẻ khác dẫu chỉ là dạng
hăm dọa. Nếu động tác che mặt đó không phải là giả mà là thật thì ngƣời đọc cũng
rất cảm thông cho cậu bé. Nhƣng Ma Văn Kháng đã miêu tả cậu bé một phút chần
chừ, do dự: “nghĩ thế nào lại thôi” [24, tr. 129]. Ma Văn Kháng rất am hiểu tâm lí
nhân vật. Nhân vật của ông tuy còn nhỏ nhƣng là nhân vật từng trải sớm, giàu lòng
tự trọng nên không thể có hành động đầu hàng trƣớc cái ác một cách dễ dàng nhƣ
thế. Cái giây phút nghĩ lại của cậu là một thoáng trấn tĩnh lại để lấy lại bản lĩnh, để
chứng minh cho đối phƣơng biết là mình không phải kẻ hèn, kẻ yếu đuối, kẻ dễ bắt
nạt và xúc phạm.
Sự bất khuất phục ngay từ ban đầu đó đã tạo cho cậu bé có đủ sức mạnh để
chống chọi với những lời dọa nạt bỉ ổi của tên Hứng: “mày vẫn ngồi lì ở trong
buồng này hở?”. Thái độ gan góc của một cậu bé quá nhỏ so với tuổi đời và sự cáo
già của Hứng làm cho hắn càng tức tối thêm: “A, thằng này gan cóc tía thật” [34, tr.
129]. Duy cảm thấy mình vừa bị xúc phạm đến thể chất, vừa bị xúc phạm đến tinh
thần, đặc biệt là một vùng tình cảm thiêng liêng về bố mẹ, ông bà, tổ tiên nên Duy
đã phản ứng dữ dội. Duy bật thét lên để phủ nhận lời bịa đặt trắng trợn của lão
Hứng. Cậu khẳng định nhân cách và vị trí cao đẹp của bố và ông nội. Và cuối cùng,
trƣớc quyết tâm gieo rắc sự đau đớn vào tâm trí non nớt của cậu bé sớm gặp nhiều
bất hạnh của tên Hứng, Duy đã bật khóc. Cậu khóc không phải vì yếu đuối mà khóc
vì tất cả những lời đe dọa của lão Hứng đã quá sức chịu đựng của cậu. Cậu bé khóc
vì thấy mình đang phải đối mặt với một tên yêu quái tàn nhẫn, độc ác chứ không
phải là con ngƣời. Và hơn hết, cậu khóc vì cậu còn quá nhỏ, không đủ sức mạnh để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chống lại tên yêu quái, trác táng chỉ có cái vẻ đạo đức giả bề ngoài và lòng dạ nung
nấu luôn rặt những mƣu mô gian hiểm của con ngƣời gian ác này.
Sự trƣởng thành về tƣ tƣởng và bản lĩnh ngày càng đƣợc thể hiện đậm nét hơn
trong những suy ngẫm và hành động của Duy. Không còn là sự tủi thân, lủi thủi khi
bị mấy đứa bạn con nhà giàu kéo bè kéo cánh áp bức nhƣ những ngày đầu đi học
nữa. Khi vào độ tuổi lên mƣời, cậu bé đã có ý thức đầy đủ về lòng tự trọng, có đủ
sức mạnh và lòng quả cảm để đấu tranh thẳng thừng với kẻ bắt nạt mình cho dù cậu
đang ở tình thế đơn thƣơng độc mã. Điều đó đƣợc khẳng định rõ nét trong lần quyết
đấu với Kim Phú và bè cánh của đứa học sinh hung hãn con nhà giàu.
Sau trận quyết đấu với Kim Phú, với ý nghĩ rất đơn giản, trẻ con là “chuyện bình
thƣờng vẫn hay xảy ra và chìm vào trong nhịp sống sôi động học trò mà thôi” [24, tr.
244]. Thế nhƣng, Duy không ngờ mọi chuyện không kết thúc dễ dàng nhƣ vậy. Cậu
bé phải đối mặt liên tiếp với cô giáo Tuyết dạy văn và nhất là với bà mẹ ghê gớm
của Kim Phú.
Khi bị cô giáo Tuyết, thiếu tinh thần trách nhiệm quy cho cái tội “ghen ghét với
tài năng” mà thực ra là thói ăn cắp kiến thức của Kim Phú, Duy đau đớn vô cùng:
“Tôi cúi gằm, mặt ê dại đi. Trời ơi, sao tôi bị nhục mạ đến thế này. Cô ơi, sao cô lại
có thể gán cho em cái ý nghĩ đê hèn, đốn mạt nhƣ thế?” [24, tr. 245]. Duy xót xa,
cay đắng khi nghĩ rằng mình đã bị cô giáo sỉ nhục, bị kết tội thiếu căn cứ. Những
suy nghĩ cay cực cứ chất chồng lên khiến đầu óc của cậu mung lung, hỗn loạn.
Bằng bút pháp miêu tả đời sống nội tâm nhân vật tinh tế, Ma Văn Kháng đã đi
sâu vào từng ngó ngách sâu kín nhất trong tâm hồn Duy để có thể diễn tả những diễn
biến tâm lí mơ hồ và khó nói nhất của cậu bé có tính cách rất kín đáo này. Qua
những va vấp, những tình huống xung đột trong cuộc sống, ta có thể thấy rằng so với
những ngày đầu tiên đi học trong buồn tủi, trong oan ức và sự cô độc của Duy thì
càng ngày Duy càng tỏ ra là một chàng trai có bản lĩnh và cứng rắn hơn. Vẫn đa
cảm, giàu suy tƣ, giàu lòng tự trọng nhƣng cậu đã mạnh mẽ và trƣởng thành hơn rất
nhiều. Cậu bé xứng đáng là ngƣời con ƣu tú, sống có ích cho gia đình và xã hội.
Bên cạnh Duy, Thảm cũng là nhân vật thiếu nhi đƣợc Ma Văn Kháng dành cho
những tình cảm ƣu ái nhất. Thảm là cô bé chịu nhiều éo le ngay từ thuở lọt lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhƣng không vì thế mà em tỏ ra sầu bi, mặc cảm, tự ti. Em sống cứng cáp, nhanh
nhẹn, mạnh mẽ, thanh thoát. Em không cam chịu trong bất cứ tình huống nào, em
lăn xả vào cuộc đời để đòi sự công bằng. Xa mẹ từ nhỏ, sống trong tình yêu thƣơng,
chăm bẵm của bà, lại cƣời nói nhí nhảnh cả ngày, tƣởng rằng cô bé không có khái
niệm về hình ảnh của mẹ, về nỗi khát khao đƣợc gặp mẹ. Thế nhƣng sự thực bên
trong tâm hồn bé bỏng, thơ ngây ấy lại hoàn toàn khác. Giữa cô bé và mẹ vẫn có
một sợi dây liên hệ vô hình nhƣng rất thiêng liêng bất chấp mọi rào cản về thời gian,
không gian.
Nỗi nhớ mẹ, khát khao cháy bỏng đƣợc gặp mẹ của Thảm đƣợc Ma Văn Kháng
diễn tả rất cảm động, sâu sắc phù hợp với tâm lí của tuổi thơ. Khi nghe bà bảo:
“Hôm nào bà khỏe, bà sẽ làm món chân giò giả cầy cho hai cháu ăn. Thảm có sự
liên hệ tự nhiên làm cho bà và Duy đều bất ngờ và xúc động sững ngƣời: “Thế mẹ
cháu có biết làm những món ấy không, bà?” [24, tr. 271]. Rồi có những hôm Duy
còn nhìn thấy em Thảm lặng ngƣời đi trong đau đáu tơ tƣởng về một bóng hình nào
đó rất thiêng liêng mà em chƣa muốn tỏ bày. Mong muốn đƣợc gặp mẹ, đƣợc cảm
nhận tình yêu thƣơng của mẹ nên có lần Thảm đã kể với anh là em mơ thấy mẹ về.
Những tƣởng tƣợng của bé Thảm “là hình ảnh của cơn mộng mị ám ảnh, là sản
phẩm của tâm linh hay chính đó là sự thật, một sự thật ở ngoài sự tƣởng tƣợng của
con ngƣời” [24, tr. 272]. Câu trả lời tùy thuộc vào góc nhìn, sự lí giải của mỗi ngƣời.
Nhƣng chỉ biết rằng, qua những trang văn diệu kì của nghệ thuật khắc họa đời sống
nội tâm nhân vật, ngƣời đọc đã thực sự bị chìm đắm trong hành trình huyền ảo đến
với ngƣời mẹ vì hoàn cảnh mà phải cách biệt con. Độc giả nhƣ bị cuốn theo những
cảnh tƣợng mà Thảm tƣởng tƣợng, cùng cảm thông và khao khát cùng em, mong
cho em sớm gặp đƣợc ngƣời mẹ yêu thƣơng của mình.
Lý trong tiểu thuyết Chuyện của Lý cũng có một tuổi thơ cay cực, dữ dội tƣơng
tự nhƣ Duy và Thảm. Lý ra đời từ tình yêu đau khổ của mẹ Nhu, bố Khánh. Là đứa
trẻ chịu nhiều thiệt thòi, vì bố Lý chƣa có đăng ký kết hôn với mẹ đã phải ra chiến
trƣờng. Lý rơi vào hoàn cảnh con không cha, không đƣợc cấp giấy khai sinh, không
đƣợc xã hội công nhận làm ngƣời. Bố mẹ Lý cũng vậy, họ đều là nạn nhân của
những đê hèn và thành kiến của cái xã hội. Nhƣng rất may, Lý lại đƣợc ông Thòn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
bà Pham mến ngƣời và thƣơng cảm giang tay cứu mạng. Tuy nhiên, không vì thế mà
Lý lại tỏ ra sầu muộn, mặc cảm, cô đơn. Lý sống cứng cáp, gan góc và có bản lĩnh
ngay từ những động tác tập lẫy, tập đi, tập nói, đối mặt với ác thú. Lý không chịu
ngã gục trƣớc mọi tình huống nào, Lý lăn xả vào cuộc sống để giành giật lấy lẽ phải
và chiến thắng.
Lý là đứa trẻ ngoan ngoãn và thông minh tiềm ẩn. Lý biết thƣơng mẹ, động viên
mẹ vì thấy mẹ vất vả nhiều. Mặc dù, mới chỉ là đứa hài nhi nhƣng trong sâu thẳm
tâm hồn của Lý cũng đã hiểu đƣợc nỗi buồn, nỗi khổ của mẹ. Lý ở nhà với bà Pham,
ông Thòn, Lý “không bao giờ ọ ẹ một tiếng khóc”. Lý chỉ cƣời để cho mẹ vui, để mẹ
quên đi cái buồn cái khổ cái tủi trong cuộc đời của mình. Không ai có thể ngờ, “một
đứa trẻ mới lọt lòng, một sinh linh bé nhỏ, chƣa hoàn thiện thể chất một con ngƣời
lại là điểm tựa, điểm đỡ nâng dựa cậy của một ngƣời mẹ đã hăm nhăm tuổi đời” [28,
tr. 16].
Càng lớn, Lý càng thấu hiểu đƣợc hoàn cảnh ngặt nghèo thiếu thốn của mẹ. Lý
lao động giúp đỡ mẹ và em sớm có ý thức tự lập, sớm biết hi sinh vì ngƣời khác.
Chƣa đƣợc sáu tuổi, Lý đã tự chăm sóc cá nhân mình. Lý biết giúp mẹ, bà Pham làm
những công việc nhỏ nhặt trong gia đình. Không những thế, Lý còn là đứa trẻ ham
hiểu biết, nhiều khi em hỏi mẹ những câu rất có tình, có lý: “Mẹ ơi, có phải là trƣớc
khi đi ra mặt trận, bố dặn con là con ở nhà phải chịu khó giúp đỡ mẹ, phải không,
mẹ?” [28, tr.128]. Thực tình, Lý hỏi là để an ủi tinh thần mẹ, để cho mẹ vui.
Những hành động, những nỗi niềm yêu thƣơng của Lý đối với mẹ đã đƣợc Ma
Văn Kháng miêu tả rất chân thật và tinh tế. Ngƣời đọc hoàn toàn cảm phục trƣớc
tấm lòng hiếu thảo của Lý đối với mẹ. Lý chính là điểm tựa tinh thần, là điểm đỡ
nâng dựa cậy của cuộc đời mẹ và làm cho mẹ thấy cuộc đời của mình thật tƣơi đẹp.
Cuộc sống thật đáng yêu và tƣơng lai thật sán lạn.
Sự trƣởng thành về suy nghĩ và bản lĩnh của Lý ngày càng đƣợc thể hiện đậm
nét hơn trong những suy ngẫm và hành động của Lý. Đó là buổi đầu tiên đến trƣờng,
Lý bị cô Viêng đối xử bất công và có ác cảm lộ liễu với mình. Nào là hồ sơ đi học
“không đủ nhƣ quy định”, “Không có giấy khai sinh”. “Trƣờng học chả lẽ lại là nơi
đào tạo kẻ xã hội vô thừa nhận” [28, tr.146]. Lý không có tên trong danh sách ở lớp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lý rất can đảm, dám hỏi thẳng cô Viêng. Mặc dù, cô Viêng có vẻ khó chịu với Lý,
cô “cau mặt” và mắt nhìn “xoi xói” vào mặt Lý nhƣng Lý không hề có mặc cảm
kém cỏi để câm lặng, chịu nhận thua thiệt. Lý nhờ đến bà Pham cƣu mang, cuối
cùng Lý đƣợc vào học nằm trong danh sách học sinh dự thính. Vì là học sinh dự
thính nên Lý luôn bị cô giáo hoạnh họe, đối xử phân biệt bất công, từ việc bầu làm
lớp trƣởng, lớp phó đến bài tập viết của Lý. Lý cảm nhận rất rõ về sự ác cảm lộ liễu
của cô. Nhƣng mọi sự suy nghĩ, dằn vặt của Lý về cô giáo, về sự bất công đối với Lý
đã đƣợc mẹ Nhu kịp thời giải tỏa. Đặc biệt, Lý còn là một cô bé quá can đảm, “đã hạ
gục con rắn độc, giải thoát một tình thế nguy biến cho cô” [28, tr. 188]. Đây là một
hành vi liều mình vì sự an toàn của cô giáo Viêng, khiến cho cô giáo không những
không tâm phục mà còn xóa nhòa mọi ác cảm của cô giáo đối với Lý.
Lý là đứa trẻ không những can đảm, gan góc mà Lý còn là đứa trẻ có ý chí, nghị
lực vƣơn lên. Lý tự học, tự đọc sách để nâng dần tầm hiểu biết của mình, mở rộng
dần trƣờng giao tiếp, tham gia trực tiếp vào công việc gia đình và ngoài xã hội. Lý
có ý thức gắn bó với cội nguồn dân tộc đất nƣớc. Lý xuất sắc trong học hành đồng
thời với sự trƣởng thành về nhận thức và sâu sắc hơn về tình cảm trong môi trƣờng
đấu tranh xã hội.
Bằng bút pháp miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật, Ma Văn Kháng đã đi sâu
vào miêu tả tâm trạng, tình cảm, ý nghĩ, hành động …của Lý để qua đó cho độc giả
thấy đƣợc, Lý là một đứa trẻ thông minh, dũng cảm, đầy ý chí, nghị lực và nhất là
rất tình nghĩa thủy chung. Lý còn là cái mầm sống hồn nhiên mạnh mẽ lạc quan, bất
khả chiến bại trong cuộc đầy gian nan bất trắc này. Lý xứng đáng với danh hiệu
“CON NGƢỜI” viết hoa.
Qua việc tìm hiểu nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm nhân vật, ta thấy Ma
Văn Kháng là nhà văn giống nhƣ nhà văn Thạch Lam đã từng nói: Ông biết “đi sâu
khai thác cái của quý vô hạn là tâm hồn con ngƣời”. Nghĩa là, Ma Văn Kháng biết
khám phá những bí ẩn của thế giới bên trong con ngƣời, bởi chỉ ở đây mới cho ta
thấy nhà văn - qua công cụ ngôn ngữ đặc thù - đã nhìn sâu sắc vào cái phần không
dễ thấy của con ngƣời, đồng thời cũng cho ta thấy bản lĩnh độc lập và tâm hồn thanh
cao của ngƣời viết. Đặc biệt là cái thực tài của nhà văn, nguồn gốc ở chính tâm hồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhà văn, một nghệ sĩ có một tâm hồn phong phú, những tình cảm dồi dào.
Nhƣng bên cạnh hai biện pháp nghệ thuật chủ yếu là nghệ thuật miêu tả chân
dung nhân vật, nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm nhân vật. Khi miêu tả nhân vật,
Ma Văn Kháng còn sử dụng kết hợp một số các yếu tố nghệ thuật khác nhƣ ngôn
ngữ đặc trƣng của nhân vật qua những đoạn đối thoại trực tiếp hoặc những đoạn đối
thoại nội tâm. Nhƣng một biện pháp nghệ thuật nữa cũng góp phần quan trọng vào
việc miêu tả nhân vật - đó là nghệ thuật kể chuyện.
Ở trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời đƣợc dắt dẫn theo lời tự sự của “tôi”.
Việc Ma Văn Kháng trần thuật bằng ngôi kể thứ nhất với mục đích là ngƣời kể sẽ
trực tiếp kể ra những điều mình nghe, mình thấy, mình trải qua, trực tiếp nói ra đƣợc
ý nghĩ, tình cảm của mình. Đây là ngôi kể hay đƣợc sử dụng trong tác phẩm tự sự.
Còn ở trong tiểu thuyết Chuyện của Lý, Ma Văn Kháng lại sử dụng ngôi kể thứ ba.
Ngƣời kể gọi tên nhân vật bằng chính tên của chúng (Lý), rồi tự giấu mình đi nhƣ là
không có mặt (nhƣng thực ra vẫn có mặt khắp nơi trong toàn truyện). Cách kể này
mang tính chất khách quan, ngƣời kể có thể kể tất cả những gì có ở trên đời, kể cả
những bí mật trong tâm hồn kẻ khác, những thế giới xa lạ, chƣa có dấu chân con
ngƣời. Đây là ngôi kể tự do nhất hay đƣợc sử dụng.
Nhân vật kể chuyện trong hai cuốn tiểu thuyết là nhân vật thiếu nhi với cái nhìn
về cuộc đời vừa trong trẻo, vừa nhạy cảm và nhiều lúc lại rất sâu lắng phù hợp với
lứa tuổi. Để tạo nên những điểm nhấn sâu lắng trong tiểu thuyết, tác giả còn chú ý
miêu tả những đoạn độc thoại nội tâm, những đoạn trữ tình ngoại đề giàu cảm xúc.
Đặc biệt là trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời, nhân vật kể chuyện là Lã Văn Duy
- một thiếu niên ở tuổi mƣời lăm nhƣng lắm lúc nhân vật này tự giấu mình đi để câu
chuyện phát triển theo chiều hƣớng khách quan. Cách kể rất sáng tạo này giúp cho
tác giả có thể dễ dàng trong việc thay đổi không gian, sự kiện của câu chuyện. Hơn
nữa nó cũng giúp cho tác giả thuận lợi trong việc chuyển tải nội dung tƣ tƣởng và
những suy tƣ, thông điệp về cuộc sống.
Với việc sử dụng tổng hòa các biện pháp nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã thật sự
thành công khi miêu tả nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật thiếu nhi.
Có thể khẳng định: “Ma Văn Kháng là nhà văn đã thực hiện một bƣớc tiến trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nghệ thuật tự sự văn xuôi tiếng việt. Ông đã tạo dựng phong cách riêng của một cây
bút hiện thực - cảm thƣơng, từng trải, tinh tế mà gan ruột, đằm thắm. Văn chƣơng
ông sống động, truyền đạt xác thực nhân cách và bản sắc dân tộc đa dạng trong cái
nhìn, nếp cảm, lối nghĩ, vừa cá biệt, vừa tiêu biểu cho chân dung của nhiều hạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ngƣời Việt Nam từ miền ngƣợc đến miền xuôi [56, tr. 461].
CHƢƠNG 3
ĐẶC SẮC TRONG NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU QUA HAI TIỂU
THUYẾT VIẾT VỀ THIẾU NHI CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI VÀ
CHUYỆN CỦA LÝ CỦA MA VĂN KHÁNG
3.1. Ngôn ngữ của hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
3.1.1. Khái niệm về ngôn ngữ nghệ thuật
“Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học đƣợc gọi
là loại hình tƣợng nghệ thuật ngôn từ” [13, tr. 215]. “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất
của văn học” (Gorki). Bằng ngôn ngữ, nhà văn dẫn dắt ngƣời đọc vào thế giới nghệ
thuật của tác phẩm. Qua ngôn ngữ, ngƣời đọc nhận ra và phân biệt đƣợc nhà văn này
với nhà văn khác, phong cách này với phong cách khác. Thực tế cho thấy, nhà văn
có thể đặt ra trong tác phẩm của mình những vấn đề quan trọng, cốt lõi của đời sống,
nhƣng nếu ngôn ngữ trong toàn bộ tác phẩm không tạo đƣợc cho độc giả sự xúc
động, sự cuốn hút thì tác phẩm cũng dễ đi vào quên lãng. Trái lại, có những tác
phẩm nội dung có thể không có gì quá đặc sắc mà cứ làm cho độc giả say mê thì đó
chính là do yếu tố ngôn ngữ tạo thành. Nói theo cách nói của Ma Văn Kháng: “Văn
chƣơng, chỉ với những con chữ đơn giản mà đạt tới hiệu quả chân lý không một
phƣơng tiện nào so sánh đƣợc, thế đó, chính là cái thiêng liêng, bí ẩn nọ mà ngƣời
đọc hút hồn. Và đó là căn nguyên của sự tồn tại thứ nghệ thuật ngôn ngữ siêu đẳng
này. Là niềm phúc lộc, là ân thƣởng cho những nhọc nhằn khốn khổ của cái nghề lạ
lùng này” [29, tr.201].
Để có một thứ ngôn ngữ riêng làm nên phong cách của tác giả, với Ma Văn
Kháng đó là một công việc rất kì thú và cũng rất quan trọng trong việc để lại dấu ấn
của mình trong trái tim độc giả. Chính nhà văn đã từng bộc bạch: Đọc một trang
sách, nghe một ngƣời nói chuyện, sức hấp dẫn với mình ngay lúc đó chƣa hẳn đã là
nội dung đâu, mà trƣớc hết, có khi lại là ngôn ngữ. Thấy có cách diễn đạt, kiểu câu,
từ ngữ lạ, hay, chính xác, nghĩa là đi tới tận cùng của ý tứ, là mình ghi chép, găm
vào trí nhớ liền… Ý thức đƣợc tầm quan trọng của việc xây dựng một hệ thống ngôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ngữ mang đậm dấu ấn phong cách cá nhân, Ma Văn Kháng đã cố gắng tạo lập cho
mình cách sử dụng ngôn ngữ rất riêng trong tất cả các tác phẩm văn học nói chung
và truyện viết về thiếu nhi qua hai tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý
nói riêng. Trong lời giới thiệu cho cuốn sách “50 truyện ngắn chọn lọc của Ma Văn
Kháng”, GS. Phong Lê cho rằng: “dẫu là quen hoặc lạ, chữ nghĩa khi đã qua tay Ma
Văn Kháng cứ ánh chói lên cái nội lực bên trong của nó”.
Cái “nội lực bên trong” trong ngôn ngữ của Ma Văn Kháng đƣợc tạo nên đặc sắc
nhất là từ hệ thống ngôn ngữ dung dị, đời thƣờng đậm đặc chất liệu dân gian và
mang đậm phong vị miền núi; ngôn ngữ giàu chất thơ, chất biểu cảm.
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng trong hai tiểu thuyết
3.1.2.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thƣờng đậm đặc chất liệu dân gian và mang đậm
phong vị miền núi
Đọc các tác phẩm của Ma Văn Kháng nói chung và truyện viết thiếu nhi nói
riêng, ngƣời đọc đều có một cảm nhận chung là ông sở hữu một kho ngôn ngữ thật
phong phú - kho ngôn ngữ của muôn mặt đời thƣờng đậm đặc chất liệu dân gian và
mang đậm phong vị miền núi. Đó là công phu, đồng thời cũng là tài năng gom góp
một đời sống và viết hết mình mà trƣớc tiên là sống sao cho thật ý nghĩa của tác giả.
Ma Văn Kháng đã lăn lội vào cuộc sống đa dạng, phức tạp, đã trải mình vào cuộc
sống của ngƣời dân miên núi để học lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Sau đó, vận
dụng linh hoạt những thứ ngôn ngữ đó vào tác phẩm của mình sao cho thật ấn tƣợng
để có thể chuyển tải nội dung một cách sâu sắc, hấp dẫn nhất và hàm súc nhất.
Trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý, Ma Văn Kháng
đã sử dụng rất nhiều chất liệu dân gian và chất liệu mang đậm phong vị miền núi.
Trƣớc hết là chất liệu dân gian với hệ thống ca dao, tục ngữ, thành ngữ…nhƣ một sự
lắp ghép nhuần nhuyễn vào cấu trúc tác phẩm. Đặc biệt, sự gia tăng chất liệu dân
gian đó lại đƣợc ông sử dụng đúng chỗ, đúng cách, đúng ngƣời nên nó phát huy hiệu
quả ở mức cao nhất. Trong mỗi hoàn cảnh, với mỗi con ngƣời cụ thể thì những chất
liệu ngôn ngữ mang đậm sắc thái dân gian đó lại đƣợc vận dụng với những mục đích
giao tiếp khác nhau.
Ở tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời, để khắc họa nỗi buồn đau, xót xa trƣớc sự ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đi dằn vặt của mẹ Duy, Ma Văn Kháng sử dụng lời hát ru mang âm hƣởng từ hai câu
thơ lục bát bất hủ trong Truyện Kiều: “Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang… Thôi thôi
thiếp đã phụ chàng từ đây” [24, tr. 29]. Để nói về khổ đau, bất hạnh của kiếp ngƣời
thợ thuyền trong chế độ cũ, tác giả sử dụng những câu ca dao có tính biểu cảm cao:
“Bốn giờ cắp nón đi ra - Mặt chó không biết, mặt gà cũng không” hoặc “Trăng kia
còn có đêm rằm - Thấu chăng kiếp thợ tối tăm một đời” [24, tr. 54]. Để khẳng định
sự trỗi dậy mạnh mẽ của những con ngƣời bị coi là yếu đuối, là thế yếu trong xã hội,
Ma Văn Kháng vận dụng những câu ca dao với ý tứ độc đáo: “Chim chích mà ghẹo
bồ nông - Đến khi nó mổ lại lạy ông tôi chừa” [24, tr. 51]. Để lật tẩy những con
ngƣời đạo đức giả, đối lập với những biểu hiện bên ngoài và tâm địa bên trong, tác
giả dẫn giải câu ca dao: “Vào thì bẩm bẩm thưa thưa - Ra thì văng tục có chừa ai
đâu”. Để nói về tầm vóc của một con ngƣời có tài trí, nhà văn vận dụng một câu
trong Truyện Kiều: “Một tay gây dựng cơ đồ - Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung
hoành”. Để chê bai những ngƣời đàn bà to béo, mặt nhỏ nhƣng lại xấu xa, lăng
nhăng, nhà văn nói: “Những người mặt nhỏ như niêu - Cái răng trắng ớn, chồng yêu
cỡn cờ” hoặc “Thôi tôi chẳng lấy ông đâu - Ông đừng cạo mặt, cạo râu tốn
tiền”…[24, tr.146]. Ma Văn Kháng sử dụng thứ ngôn ngữ ấy rất tài tình, luôn chiếm
đƣợc cảm tình và sự mến mộ của độc giả.
Ngoài các câu ca dao, lời hát ru, Ma Văn Kháng còn sử dụng với mật độ dày đặc
các câu thành ngữ, tục ngữ để diễn tả nội dung câu nói một cách cô đọng, hàm súc
và giàu sắc thái biểu cảm nhƣ: “Tham con đỏ, bỏ con đen”, “Ác giả thì ác báo”,
“Thất điên bát đảo”, “Bắc thang mà hỏi ông giời”, “Hồn xiêu phách lạc”, “Mèo vẫn
hoàn mèo”, “Bát cơm rang sàng cơm thổi”, “Mắt la mày lét”, “Ma cũ bắt nạt ma
mới”, “Giàu nứt đố đổ vách”…
Bên cạnh tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, thì ở tiểu thuyết Chuyện của Lý, Ma
Văn Kháng cũng đã sử dụng một số lƣợng lớn chất liệu dân gian nhƣ các câu ca dao,
câu đố, câu thành ngữ, tục ngữ …ở trong tác phẩm để khẳng định tình yêu thƣơng,
sự cƣu mang, săn sóc của những tấm lòng nhân hậu đối với Lý. Chẳng hạn, để tạo sự
âu yếm, ru cho trẻ ngủ ngon giấc trong lúc mẹ đi vắng hoặc bận công việc, tạo sự
cảm thông từ đứa trẻ, Ma Văn Kháng đã vận dụng bài ca dao: “Cái ngủ mày ngủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cho lâu - Để mẹ đi cấy đồng sâu chưa về…” [28, tr. 82]. Để cho trẻ biết ơn những
ngƣời đã cƣu mang mình, đã tạo ra sản phẩm để cho mình đƣợc hƣởng thụ, Ma Văn
Kháng lại vận dụng câu đố: “Ăn sống được - Ăn chín càng ngon - Gieo trồng không
lên - Đố là cái gì? (hạt muối)” [28, tr. 269]. Để trẻ nhớ về cội nguồn, về các lễ hội,
Ma Văn Kháng lại vận dụng các trò chơi truyền thống nhƣ: “Nu na nu nống; Thả
đỉa ba ba; Rồng rắn lên mây …” [28, tr. 270]. Để giáo dục đạo đức trẻ sống theo lẽ
phải và làm theo việc thiện, Ma Văn Kháng lại vận dụng vào kể các câu chuyện cổ
xen lẫn với lời hát ru nhƣ truyện Tấm Cám, Thạch Sanh, Sự tích mặt trăng mặt
trời…Vì ý nghĩa răn dạy đạo đức ở trong các câu chuyện thƣờng bộc lộ ở việc ca
tụng đức tính dũng cảm, sức mạnh thể chất, trí thông minh, tinh thần hữu nghị, đức
hi sinh vì đồng loại, tinh thần trọng danh dự…Với tấm lòng trong sáng trẻ thơ, các
em sẽ nhận đƣợc ở đây những bài học bổ ích về lối sống có mục đích cao đẹp. Ngoài
ra, Ma Văn Kháng cũng còn sử dụng các câu thành ngữ, tục ngữ để diễn tả nội dung
câu nói một cách cô đọng, hàm súc và giàu sắc thái biểu cảm nhƣ “Nghiêng nƣớc
nghiêng thành”, “tác oai tác quái”, “đục nƣớc béo cò”, “thắt đáy lƣng ong”…
Đặc biệt, ở trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, chất liệu dân gian đƣợc Ma
Văn Kháng tin cậy đặt vào ngôn ngữ của bà nội cậu bé Duy - một ngƣời phụ nữ rất
bản lĩnh, cứng cỏi và linh hoạt trong giao tiếp. Những câu ca dao, tục ngữ, thành
ngữ, những lối nói quen thuộc của dân gian đƣợc sử dụng rất nhiều, rất sắc sảo trong
các tình huống giao tiếp có chất kịch tính cao, có liên quan đến sự sống còn trong
cuộc sống của bà cháu Duy. Qua những tình huống đó mới thấy đƣợc tài ứng biến
thần tình cứng cỏi và linh hoạt trong giao tiếp của ngƣời phụ nữ rất bản lĩnh này.
Những lời nói vận dụng từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ …của bà với hai tên lật
lọng, gian ác, cấu kết với nhau là tên Hứng và lão Luông rất sâu sắc, chắc chắn nhƣ
đinh đóng cột. Nghe thì nó nhẹ nhàng nhƣng thật ra nó đanh thép nhƣ phán xét của
chủ tọa phiên tòa với bọn tội phạm lừa lọc. Đi vào những tình huống, những văn
cảnh cụ thể mới có thể thấy hết đƣợc sự vận dụng sáng tạo và sức công phá thật
mạnh mẽ của thứ ngôn ngữ lấy chất liệu từ dân gian rất độc đáo mà Ma Văn Kháng
đã sử dụng rất nhiều trong truyện viết về thiếu nhi.
Ngoài những câu Kiều, câu chuyện cổ tích, câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ… Ma
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Văn Kháng còn sử dụng biện pháp nói ngƣợc hay dùng từ ngữ xa xƣa, cách nói
ngọng để tạo nên những đặc sắc và hài hƣớc trong ngôn ngữ: “Dấm đài”, “hang có
khồng!” [24]. “Một, không quần. Một, hai quần”; “lở lụ cƣời”…[28]. Cũng có lúc
tác giả dùng những lời “thần chú” mang dấu ấn tâm linh hay dùng trong dân gian:
“Chém đầu thằng Chích! Ních đầu thằng Chiếc! Bêu đầu ngọn tre!” [24, tr. 148].
Nếu nhƣ ở trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, chất liệu dân gian đƣợc Ma
Văn Kháng tin cậy đặt vào ngôn ngữ của bà nội bé Duy, thì ở trong tiểu thuyết
Chuyện của Lý, chất liệu mang đậm phong vị miền núi lại đƣợc Ma Văn Kháng gửi
gắm, đặt trọn niềm tin vào ông Thòn, bà Pham - ngƣời Dao hiền lành, chất phác. Vì
theo nhà văn, cuộc sống miền núi và con ngƣời miền núi cho ông rất nhiều lợi thế.
Nếu “không có chất liệu thì tài năng mấy cũng chịu. Cũng nhƣ thế, cách biểu hiện
đậm đà màu sắc dân tộc cũng có sẵn ở trong lời kể chuyện, giao tiếp của bà con. Có
thể học ở đó, bổ sung làm giàu cho văn phong của mình”. Quả nhƣ thế, nhờ sự am
hiểu sâu sắc về đời sống miền núi nên khi khám phá tiểu thuyết Chuyện của Lý của
Ma Văn Kháng, ngƣời đọc sẽ đƣợc “sống” trong môi trƣờng đậm chất miền núi bởi
bao quanh ta là cả một thế giới sinh động những tên đất, tên ngƣời, những sự vật, sự
việc, những sinh hoạt, những cách cảm cách nghĩ mang đặc trƣng miền núi. Phả vào
ta hơi thở miền núi nồng nàn, thuần hậu mà hoang dã, đơn sơ. Này là tên những
miền đất lạ xa xôi mà ai đã đặt chân đến một lần thì không thể nào quyên nhƣ: Lao
Táo Chải, Cồ Dề Chải, Thèn Phàng, Bản Ngồ… Những địa danh Tây Bắc ghi mỗi
tên dƣới tiểu thuyết Chuyện của Lý nói riêng và tất cả các truyện ngắn của Ma Văn
Kháng nói chung trong thời kỳ đầu đã ghi dấu ấn nhà văn trẻ trong sự gắn bó hết
mình với mảnh đất vùng cao này. Sau này, khi đã trở về miền xuôi, Ma Văn Kháng
vẫn “không hề cắt đứt với những ngày sống đó”.
Có thể nói, sự sống động của ngôn ngữ trong văn chƣơng Ma Văn Kháng viết về
miền núi nói chung, trong đó có tiểu thuyết Chuyện của Lý đã khiến cho nhiều ngƣời
đọc sách cứ đinh ninh tác giả là ngƣời dân miền núi. Bởi vì, Ma Văn Kháng đã gửi
vào tác phẩm đó điệu hồn ngƣời vùng cao qua cách sử dụng lối phô diễn của người
miền núi. Điều này không chỉ thể hiện qua ngôn ngữ nhân vật và ngay ngôn ngữ
ngƣời trần thuật cũng đầy biến hóa: lạ mà quen, quen mà lạ với lối tƣ duy giàu tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hình tƣợng, ngôn ngữ giàu chất thơ, những so sánh ví von giàu hình ảnh… Nhƣng
nó đƣợc thể hiện đậm nét nhất là qua nhân vật bà Pham. Đầu tiên phải kể đến là lời
ru, lời hát hoặc câu chuyện kể của bà đối với bé Lý: “Ôi i a mây dỏm hộ lìn dòng
(Cái ngủ mày ngủ cho ngoan) hay truyện cổ tích Ấn nhà trời [28, tr. 6, 12]. Lời ru ở
đây mang đậm nét tƣ duy ngƣời miền núi trong lỗi diễn đạt mang tính khẩu ngữ: “Ôi
i a”. Đó là lời nguyền rủa của bà Pham về con hổ què khi nó nhảy lên giƣờng Lý
nằm: “Hìa chú pết mày, hổ à!” [28, tr. 47]. Đó là lời của bà dạy bé Lý nói: “Cu đi
(bà), tào nom che (con gà), tào chu (con chó), đàm mào (con hổ), dia, kiềm (ngƣời
Dao), Phun tráng ôông! (Cháu yêu ông)… [28, tr. 85]. Sau khi Lý biết nói, Lý
không chỉ nói tiếng kinh mà còn nói cả tiếng Dao rất giỏi. Lý cất tiếng nói rất to hỏi
một bà đang địu thóc: “Cu nhía nải hái khấu diềm nhé? (Bà địu thế có khó nhọc
không ạ?) [28, tr. 98]. Đúng là ngôn ngữ nào, sắc thái ấy. Ngoài lời ru, lời hát, câu
chuyện cổ tích, từ ngữ Dao thông tục....thì cái cảnh mẹ Nhu đi đón con đi thi học
sinh giỏi về ốm, thời gian cũng đƣợc đo bằng cảnh sắc Dao, chuyện bà Pham bắt
mạch cho Dƣơng…cũng đều gắn với yếu tố văn hóa Dao. Tuy nhiên, ở miền núi
vùng cao này còn hiện lên rõ nét qua: Cảnh mùa xuân, cảnh múa sƣ tử, khu vƣờn
thuốc của bà Pham, cảnh đi kiếm củi của mẹ con Lý, cảnh Lý đi thi về hay cái chết
của ông Thòn trong mối quan hệ với con mèo Nhung, con Mực, cảnh rừng già có
con hổ, chó sói, cọp què…Mặc dù sử dụng hệ thống từ ngữ và lối phô diễn mang
đặc trƣng cách cảm, cách nghĩ của ngƣời dân tộc miền núi, nhƣng Ma Văn Kháng
không hề lạm dụng. Nhà văn biết cách lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ miền núi phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng truyện, từng nhân vật. Có thể khẳng định:
“Sử dụng ngôn ngữ và cách viết sao cho có đƣợc màu sắc bản địa mà vẫn không xa
cách với lối diễn đạt hiện tại” là một ƣu điểm lớn của Ma Văn Kháng.
Nhƣ vậy, với cách sử dụng ngôn ngữ bình dị, đời thƣờng đậm chất liệu dân gian
và mang đậm phong vị miền núi trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý. Ta thấy, Ma Văn Kháng đã tạo nên sức hút đặc biệt với một nét
riêng độc đáo trong những trang văn viết về thiếu nhi của mình. Đồng thời, cùng với
việc sử dụng ngôn ngữ lạ, độc đáo làm cho các em khi đọc những câu chuyện của
mình, các em vừa thấy cảm động về nội dung và tình tiết của câu chuyện, vừa cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thấy rất thú vị khi học đƣợc rất nhiều lời hay ý đẹp từ những câu chuyện cổ tích, câu
ca dao, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ dân tộc Dao…mà tác giả đã đƣa vào tác phẩm,
làm cho tác phẩm của mình luôn ngân vang và luôn sống mãi trong lòng độc giả.
3.1.2.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ, chất biểu cảm
Bên cạnh ngôn ngữ dung dị, đời thƣờng đậm đặc chất liệu dân gian và mang
đậm phong vị miền núi. Sức hấp dẫn của hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút
giữa cảnh đời và Chuyện của Lý còn là ở chất mƣợt mà, tha thiết đƣợc tạo từ hệ
thống ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm. Không chỉ đƣa độc giả đến với những cảnh
đời và tình ngƣời xúc động mà với cảm quan tinh tế của ngƣời nghệ sĩ, với bút pháp
miêu tả theo kiểu chấm phá tài hoa, Ma Văn kháng còn đƣa ngƣời đọc xích lại gần
hơn với thiên nhiên cây cỏ, với những biến chuyển kì diệu của đất trời qua những
trang văn dạt dào xúc cảm.
Nghĩa trang Yên Kỳ vào một buổi sớm đầu xuân heo heo lạnh đƣợc nhà văn
miêu tả bằng những chi tiết rất ấn tƣợng qua những lớp ngôn từ giàu sức gợi tả. Từ
mặt đất đến chân mây đâu đâu cũng mang một màu sắc hƣ ảo, xa xăm nhƣ một cõi
hƣ vô, thoát tục: “Mặt đất lấm chấm những búp tơ cỏ nõn ánh vàng. Trần mây lồng
lộng, thanh khiết nhƣ có ai vừa quét dọn, lƣu lại vài nét mây phất nhẹ nhƣ dấu chổi
lúa mềm mại ngoài sân sớm” [24, tr. 85]. Đoạn văn chỉ gồm có hai câu nhƣng cả
một không gian mênh mông, linh thiêng của khu nghĩa trang đƣợc hiện lên qua các
đƣờng nét cỏ cây, mây trời và một loạt các từ láy giàu sức gợi hình, gợi cảm: “lấm
chấm”, “nõn nà”, “mềm mại”, “lồng lộng”.
Theo Ma Văn Kháng, khi nhà văn sử dụng ngôn ngữ một cách đắc hiệu thì lúc
đó ngôn ngữ lên men, nó tỏa hƣơng, nó rủ rê, dẫn dắt, nó quyến rũ ta là cái hồn của
câu chuyện. Thật vậy, đọc những đoạn văn tả về thiên nhiên giàu chất thơ, chất biểu
cảm trong tác phẩm của Ma Văn Kháng nói chung và trong hai tiểu thuyết viết về
thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý nói riêng, ngƣời đọc hoàn toàn bị
ngôn ngữ mê hoặc dẫn dắt nhƣ đang rơi vào trạng thái thôi miên, nhƣ đang thăng
hoa cùng trí tƣởng tƣợng bởi cách dùng ngôn ngữ mềm mại, duyên dáng, uyển
chuyển của nhà văn.
Nhƣng cũng có lúc nhà văn lại đƣa ngƣời đọc đến với những hƣơng vị, âm thanh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hình ảnh thân quen và ấm áp trên mặt đất vào một buổi chiều tối mùa hè trong
khung cảnh nên thơ: “Hƣơng ngải về chiều càng nồng. Muỗi bay tụ từng đám trên
mảnh trời chiều đang ngả màu hoa cà. Mấy con dơi vẽ những đƣờng nét rối rít”,
bỗng nhiên tác giả lại chuyển đổi hƣớng nhìn không gian lên tận trời cao: “Tít trên
cao, trời xanh mỗi lúc một đậm đặc. Rồi những chấm sao nhƣ những mũi kim li ti
hiện lên, đƣa ta vào cõi mung lung huyền bí xa thẳm…Trên kia còn là cõi tiên, nếu
quẻ thẻ nhà chùa nói đúng, thì chính là nơi bà tôi sinh ra. Bà tôi là cô tiên, vì trót lỡ
đánh chén ngọc mà bị vua cha bắt xuống ở dƣới trần này, bà xuống trần để đỡ nâng
dắt dìu hai đứa trẻ côi cút chúng tôi; cuộc sống của chúng tôi lắm lúc cũng kỳ lạ có
phép màu là vì vậy” [24, tr. 210]. Chất thơ, chất biểu cảm ở đây không chỉ đƣợc tạo
nên nhờ sự kiến tạo của thứ ngôn ngữ đẹp mê hồn với những hình ảnh rất lạ:“mảnh
trời chiều đang ngả màu hoa cà”,“đường nét rối rít”,“những chấm sao như những
mũi kim li ti hiện lên” mà chất thơ, chất biểu cảm đó còn đƣợc tạo nên nhờ thế giới
tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, giàu tình yêu thƣơng, kính trọng bà của cậu bé Duy.
Cũng nhƣ Côi cút giữa cảnh đời, ngôn ngữ trong Chuyện của Lý cũng là một thứ
ngôn ngữ ngập tràn chất thơ và đậm đặc chất biểu cảm. Chất thơ đƣợc tạo nên từ vẻ
đẹp diễm lệ của nhiều miền không gian: không gian mảnh vƣờn thuốc ngát hƣơng
của bà Pham, không gian miền núi bao la với cây cỏ, chim muông rất sống động.
Miêu tả thiên nhiên bằng giọng văn êm nhẹ nhƣ ru và sức tỏa sáng của lớp ngôn
từ giàu sức gợi cảm: “Ấy là một buổi trƣa mùa thu, thời điểm đẹp nhất ở làng Dao
Thèn Phàng. Khi ấy, nắng thì vàng ánh nhƣ tơ lụa trải trên cây lá trong khu vƣờn
thuốc nam. Còn không gian thì bằng lặng êm đềm đến mức có thể nghe đƣợc con
ong soi vo ve khi tỏ khi mờ và tiếng ngáy của con mèo Nhung ngủ cạnh Lý trong
nhà” [28, tr. 88]. Đoạn văn có ba câu, nhƣng cả một không gian bằng lặng êm đềm ở
khu vƣờn thuốc nam của bà Pham đƣợc hiện lên qua màu sắc (vàng ánh), âm thanh
(vo ve) và từ láy giàu sức gợi cảm (êm đềm). Mặt khác nghệ thuật so sánh cũng
đƣợc tác giả sử dụng hiệu quả tối đa, nhằm góp phần làm cho ngôn ngữ trở nên mềm
mại hơn để từ đó khu vƣờn thuốc nam của bà Pham trở nên có linh hồn hơn. Nhƣng
khi nhìn vào khu vƣờn thuốc này, bà Pham lại “ngây ngây trong hoài niệm về những
ngày đã rất xa”. Đó là những ngày tháng, những giây phút đƣợc sống hạnh phúc bên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ngƣời yêu với anh Quyết Tâm.
Rồi vƣờn thuốc nam của bà Pham còn đẹp hơn, mê hồn hơn khi hằng ngày bà
chăm bẵm bé Lý, nhìn vào “khuôn mặt trắng hồng nhƣ cánh hoa sen nở” của bé Lý
đã làm cho bà Pham liên tƣởng đến vƣờn thuốc của mình cái gì cũng đẹp và hấp
dẫn: “Ô, khu vƣờn thuốc sao nhiều loại cây vừa đẹp hình dáng vừa tỏa hƣơng thơm.
Lá cây tế tử tròn xoe nhƣ hình đồng xu. Cây huyền sâm lá to bằng bàn tay cạnh cây
gấu tầu lá chĩa nhƣ hình chiếc đinh ba nho nhỏ. Dây leo hà thủ ô phơ phất phiến lá
hình trái tim quấn quanh cây cù làng, chen lấn những chùm quả màu hồng của cây
ích mẫu … Xanh tốt um tùm chạy từng luống dài là sài đất, kinh giới, tía tô, đỏ
ngọn, cỏ xƣớc, cà gai, thiên môn, bách hợp, nhọ nồi…” [28, tr. 93]. Bức tranh thiên
nhiên ấy là chất thơ tô điểm để làm giảm dịu bớt đi nỗi đau đớn của bà Pham khi
ngƣời yêu đã hi sinh trên chiến trƣờng và làm bừng sáng lên niềm vui trong cuộc đời
của bà với những ngày sống bên bé Lý. Cho nên, ngôn ngữ ở đây không chỉ đơn
thuần là một thứ ngôn ngữ thuần túy mà nó đã trở thành cuộc chơi về màu sắc và âm
thanh, trở thành một thứ ngôn ngữ biết nói, có sức lay động lạ lùng.
Thiên nhiên tƣơi đẹp và trong lành càng trở thành nên thơ hơn, tuyệt diệu hơn
khi nó thật sự tìm đƣợc mối giao hòa từ lòng ngƣời: “Mùa xuân đã thực sự trở về với
những cành bàng trên sân trƣờng nhấp nhánh những chiếc búp non trông từa tựa
hình chiếc ngòi bút chĩa ngọn lên trời. Một đàn chim chích chòe từ lúc nào đã bay
đến vƣờn thuốc nam của bà Pham rúc ra rúc rích, thay nhau bắt sâu, trong các lùm
cây bạch đồng nam ngù hoa màu trắng ngà… Mùa xuân với tia nắng …đang rụt rè
trở về nhảy nhót trong chậu nƣớc ngâm bồ kết vàng óng của bà ngoại phơi trên sân.
Mùa xuân đang về với làn nắng âm phủ trùm trên khăn áo mẹ Nhu…[28, tr. 386].
Ngôn ngữ giàu chất thơ sẽ làm cho thiên nhiên trở nên sống động, diệu kỳ hơn.
Từ đó, tác phẩm không chỉ giúp các em thấu hiểu và đồng cảm với những cảnh
huống, những số phận không may trong cuộc sống mà còn giúp các em bồi đắp thêm
trí tƣởng tƣợng và tình yêu với thiên nhiên đất trời.
Bên cạnh ngôn ngữ bình dị, đời thƣờng đậm chất liệu dân gian và mang đậm
phong vị miền núi; ngôn ngữ giàu chất thơ, chất biểu cảm, truyện viết về thiếu nhi
của Ma Văn Kháng qua hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sử dụng cả những từ ngữ Hán Việt nhƣ: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, “tứ
cửu”, “thiện ác”… hay sử dụng rất nhiều những câu nói nổi tiếng, những câu thơ,
bài thơ hay để khắc họa tâm trạng, tính cách, tình cảnh của nhân vật. Đặc biệt là Chu
Văn Dƣơng - một Bí thƣ huyện ủy Phong Sa, một con ngƣời có một ý chí sục sôi với
con tim đầy nhiệt huyết, gần gũi với cái cao thƣợng lớn lao. Anh thƣờng mƣợn
những câu châm ngôn ở trong cuốn Nhật ký của ngƣời bạn thân thiết mình để làm
phƣơng châm sống và cần ghi nhớ suốt đời nhƣ: “…Chỉ có thể kết bạn với ngƣời có
đạo nghĩa. Vì nghĩa bạn là mãi mãi”…Và “Có gắn mình vào đạo lễ mới nên ngƣời.
Có lấy văn chƣơng làm cứu cánh, có lên cao, nhìn thấy, ngƣỡng mộ cái đẹp và noi
theo cái đẹp mới nên ngƣời! Có sống vì ngƣời khác mới xứng với danh hiệu con
ngƣời” [28, tr. 161]. Hơn nữa, Ma Văn Kháng còn sáng tạo ra những ngôn ngữ lạ,
độc đáo, nhiều từ vựng chƣa có bao giờ trong kho tàng tiếng Việt nhƣ: phàm phạp,
ke kè ke, bình bịch, thu lu, nhuồi nhuội…[28].
Nhƣ vậy, tiểu thuyết thực sự là một tác phẩm xuất sắc, hội tụ đƣợc những mặt
mạnh, sở trƣờng của ngòi bút tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, đồng thời nó mở ra
những tiềm năng tự sự mới của thể loại tiểu thuyết Việt Nam ở đầu thế kỉ XXI với
Chuyện của Lý.
Tóm lại, Ma Văn Kháng đã sử dụng rất linh hoạt, biến hóa hệ thống ngôn ngữ
bao gồm nhiều sắc màu, nhiều kiểu loại: ngôn ngữ dung dị, đời thƣờng mang đậm
đặc chất liệu dân gian và mang đậm phong vị miền núi; ngôn ngữ giàu chất thơ và
chất biểu cảm; ngôn ngữ hiện đại; ngôn ngữ sáng tạo mới lạ, độc đáo…Tất cả các
loại ngôn ngữ đó đƣợc sử dụng với mức độ đậm nhạt khác nhau nhƣng nhìn chung
chúng hài hòa, hỗ trợ cho nhau, cùng phát huy hiệu quả để có thể diễn tả đƣợc nội
dung một cách tinh tế và ấn tƣợng nhất. Có thể nói, cách sử dụng ngôn ngữ của Ma
Văn Kháng có thể tóm gọn lại trong những đặc điểm sau: “Tích lũy, bồi bổ phong
phú cho kho ngữ bản thân; Biến hóa, sáng tạo ngôn từ nghệ thuật; Vận dụng hiệu
quả ngôn ngữ vào văn chƣơng”.
3.2. Giọng điệu của hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng
3.2.1. Khái niệm về giọng điệu nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư
tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,…” [13, tr. 134].
Giọng điệu nghệ thuật có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình sáng tạo của
ngƣời nghệ sĩ. Bởi giọng điệu nghệ thuật là yếu tố quyết định của ngƣời nghệ sĩ tạo
nên đứa con tinh thần của mình, để phán ánh lập trƣờng xã hội, thể hiện cái nhìn,
bày tỏ thái độ, tình cảm và đánh giá của tác giả trƣớc hiện thực cuộc sống, đồng thời
nó cũng là phƣơng tiện đặc sắc giúp ngƣời đọc thâm nhập vào thế giới tinh thần của
tác giả. Theo M.BaKhtin: giọng điệu nghệ thuật là một hiện tƣợng “siêu ngôn ngữ”.
Giọng điệu nghệ thuật thƣờng gắn với cái giọng “trời phú” của mỗi tác giả,
nhƣng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tƣợng thể hiện. Tuy
nhiên, việc tìm hiểu về giọng điệu trong tác phẩm văn chƣơng lại cung cấp những tri
thức về một phƣơng diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật, một thƣớc đo
không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của ngƣời nghệ sĩ.
Giọng điệu nghệ thuật có vai trò quan trọng với mỗi sinh thể nghệ thuật, bởi nó
vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho chúng cùng mang một âm
hƣởng nào đó, cùng có chung một khuynh hƣớng nhất định, vừa là chỗ dựa chính để
các yếu tố của tác phẩm quy tụ lại và định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu
nào đó, trong chỉnh thể giọng điệu ấy mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy đủ hơn, thậm
chí mới mẻ hơn. Giọng điệu nghệ thuật trong tác phẩm văn học thƣờng có giá trị đa
dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở giọng điệu cơ bản, chủ đạo chứ không hề đơn
điệu. Nói M. B. Khrápchenko: “Giọng điệu không những không loại trừ mà còn cho
phép tồn tại trong tác phẩm văn học những sắc điệu khác nhau”. Tức là, trong một
tác phẩm văn học có sự xuất hiện của giọng điệu chủ đạo và các “sắc điệu bao
quanh” với tƣ cách là bè đệm.
Đi sâu vào khảo sát hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng, chúng tôi thấy tác giả đã sử dụng đan xen bốn
kiểu giọng điệu tiêu biểu đó là: Giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha; Giọng điệu
thương cảm, xót xa; Giọng điệu mỉa mai, phê phán; Giọng điệu suy ngẫm, triết lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sâu xa, hướng về nhân bản, bênh vực quyền con người. Sự kết hợp rất linh hoạt bốn
kiểu giọng điệu này và một số những “sắc điệu bao quanh” đã giúp Ma Văn Kháng
có thể lột tả đƣợc một cách sống động nhất từng chân dung nhân vật, từng vấn đề
của cuộc sống đặt ra trong tác phẩm.
3.2.2. Các sắc thái giọng điệu trong hai tiểu thuyết
3.2.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha
Bƣớc vào thời kì đổi mới, khi cuộc sống thật bộn bề, Ma Văn Kháng đã có nhiều
trăn trở, suy tƣ. Điều trăn trở nhất của ông là làm sao mà miêu tả cho đƣợc dòng
chảy trong trẻo giữa cuộc sống trong - đục hôm nay. Chính Ma Văn Kháng đã từng
tâm sự: “Thôi thúc tôi viết bao giờ cũng là cái đẹp thật xúc động, thật cao cả, thật
khiêm nhƣờng và lớn lao trong những hoàn cảnh đau buồn nhất. Tôi gửi gắm niềm
tin yêu của tôi vào tất cả những cay đắng xót xa của các thân phận. Bằng cách đó tôi
biểu lộ tình yêu với cái đẹp của cuộc sống”. Ta thấy, Ma Văn Kháng là nhà văn luôn
trân trọng và hƣớng con ngƣời tới cái chân - thiện - mỹ, tới cội nguồn văn hóa đạo
đức truyền thống của dân tộc. Có lẽ vì bắt nguồn từ cái đẹp nên nhà văn đã đem đến
cho độc giả những tác phẩm mang tính hƣớng thiện, những giá trị đích thực của văn
chƣơng bằng giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha.
Ở tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời, tác giả trần thuật theo ngôi thứ nhất để nhân
vật tự mình cảm nhận, tự mình bày tỏ một cách chân thành và cảm động những nỗi
lòng sâu kín của mình qua sự trải nghiệm từ chính cuộc đời. Nhân vật trực tiếp bày
tỏ những cảm xúc tƣơi xanh đƣợc tuôn trào từ chính trái tim đó lại là Duy. Cậu bé
rất đa cảm, đang ở độ tuổi mới lớn, có những cảm nhận, những rung cảm rất tinh tế,
giản dị và thánh thiện về cái đẹp trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ.
Nhƣng nét nổi bật nhất vẫn là lời cảm tạ tha thiết của cậu bé Duy với bà nội. Lời
biết ơn đó cứ ngân lên tha thiết nhƣ điệp khúc bất tận của tình yêu thƣơng, sự kính
trọng. Những lời ghi ơn tạc dạ đó xuất phát từ trái tim, từ những tình cảm sâu sắc
nhất của cậu bé gửi đến bà nên nó có một sức lay động đặc biệt. Ngƣời đọc cảm
nhận thấy từng sợi dây tâm hồn của cậu bé đang run lên thổn thức những cung bậc
trữ tình sâu lắng, thiết tha đƣợc chƣng cất từ đáy lòng của một ngƣời cháu đƣợc bà
chăm chút cƣu mang từ tấm bé.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha từ con tim của nhà văn đã cho ngƣời đọc
cảm nhận sâu sắc lòng hiếu thảo của bé Duy đối với ngƣời bà trong những ngày
tháng sống côi cút. Và cũng bằng giọng điệu này, chúng ta thấy toát lên trƣớc hết từ
chính tấm lòng biết ơn sâu nặng của ngƣời cháu đối với bà. Tấm lòng ấy đƣợc giãi
bày qua hệ thống từ ngữ, hình ảnh và những câu văn hài hòa cân bằng dòng cảm xúc
tƣơi nguyên. Nhà văn đã huy động lƣợng ngôn từ giàu tính biểu cảm và những minh
chứng cụ thể, sống động, thuyết phục về sự hi sinh vô bờ bến của bà để tạo ra những
dòng văn thấm đẫm tình ngƣời. Đặc biệt là đoạn văn: “Ơn bà mãi mãi cháu để hai
vai…bà đã che chở cƣu mang chúng cháu bằng tình thƣơng yêu…[24, tr. 288 - 289].
Ma Văn Kháng đã liên tiếp đƣa ra những định nghĩa về bà với những mĩ từ tuyệt
diệu nhất. Cái đẹp trong cách định nghĩa đƣợc thăng hoa dần dần. Ban đầu, định
nghĩa về bà đƣợc gắn với những đặc điểm chỉ tính cách nổi trội: “là sự nhẫn nhịn”,
“là lòng hỉ xả”, “là tuyết sạch giá trong”, “là tình thƣơng”, “là lẽ phải”, “là sự cứng
cỏi, kiên trinh”...Tiếp đến, định nghĩa về bà càng trở nên khái quát, huyền ảo, diệu
kỳ hơn. Bà bây giờ đƣợc gắn với một thế giới ao ƣớc của muôn đứa trẻ trên đời: “là
cổ tích” với bao nhân vật đi vào huyền thoại của tấm lòng cứu nhân độ thế: “là mụ
đỡ nâng”, “là Phật bà”, “là cô tiên giáng trần”... Giọng văn càng lúc càng đắm say
trong những suy tƣ dạt dào của Duy về ngƣời bà. Điệp từ “bà là” nhƣ lời khẳng định
về nỗi nhớ khôn nguôi của ngƣời cháu hƣớng về ngƣời bà đã đi xa nhƣng mãi mãi
gắn bó với cậu bé từ huyết mạch, từ cội nguồn thiêng liêng của những giá trị đạo
đức truyền thống và những giá trị văn hoá của muôn đời nay.
Bên cạnh tình yêu thƣơng, kính trọng bà, trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời
còn có khá nhiều đoạn văn thể hiện niềm hạnh phúc ngập tràn của Duy trƣớc sự
lớn khôn và mạnh mẽ của em Thảm đã phải trải qua những tình cảm éo le trong
cuộc đời. Tiêu biểu là đoạn văn thể hiện niềm vui sƣớng, sự xúc động rƣng rƣng
của Duy khi đƣợc đón nhận nụ cƣời tƣơi rói và những câu chuyện hồn nhiên của
Thảm sau một ngày phấp phỏng đón chờ em gái đi học về: “Ôi, cái Thảm, em gái
tôi! Nó đã đi học!… nó là mầm non tƣơi xanh, hồn nhiên mạnh mẽ nhƣ chính sức
sống của tự nhiên. Trƣờng học đã mở mang trí khôn cho nó. Các cô giáo vun xới
những tình cảm đạo đức, nếp sống tốt đẹp mà bà tôi từ lúc bế ẵm đã gieo hạt vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tâm hồn nó. Chẳng ngày nào là nó không có chuyện kể về lớp học, cô giáo, bạn bè
nó. Rõ ràng là nó sống dồi dào, phong phú hơn tôi hồi đó” [24, tr. 269]. Cảm xúc
của nhân vật thực sự bung nở trào ra hòa nhập vào từng câu chữ tạo ấn tƣợng đẹp
trong lòng ngƣời đọc.
Còn trong Chuyện của Lý, bên cạnh những câu chuyện rất buồn với bao nỗi ngặt
nghéo về nhân tình thế thái mà những nhân vật nhƣ mẹ Lý, bố Khánh, bố dƣợng
Dƣơng và Lý đã phải trải qua, còn có không ít những trang văn khắc họa cảm động
về tình cảm gắn bó khăng khít giữa Lý với những ngƣời đã bao bọc và cƣu mang Lý
nhƣ bà Pham, ông Thòn, bố dƣợng Dƣơng… Nhƣng rạng rỡ nhất vẫn là mẹ Nhu.
Chính những tình cảm tƣơi mát và cảm động của Lý đối với mẹ Nhu đã làm dịu mát,
đã làm tan biến đi, đã làm lành những vết thƣơng nhức nhối trong cuộc sống đa tạp
đa sắc mà con ngƣời đã phải gồng mình lên để chống chọi, vƣợt qua. Bởi vậy, khi
đọc tác phẩm ngƣời đọc không bị rơi vào cảm giác quá đột ngột về hiện thực, quá bi
quan về cuộc sống bởi Ma Văn Kháng biết cách điều hòa tâm hồn họ, biết cách làm
cho họ nhận ra những mặt hạn chế của hiện thực nhƣng cũng luôn thấy những ánh
sáng lấp lánh của cuộc sống để tin tƣởng, để hi vọng. Với việc tìm ra và làm nổi bật
những hạt ngọc tâm hồn, những vẻ đẹp vĩnh cửu luôn ẩn giấu trong cuộc sống phồn
tạp đã tạo nên chất trữ tình đặc sắc trong tác phẩm Chuyện của Lý.
Ngƣời mà gắn bó hết lòng, luôn quan tâm và theo dõi từng bƣớc đi của Lý chính
là me Nhu. Trong suy nghĩ của Lý hiện lên rất rõ: “Mẹ ơi, con nghĩ trên đời này
chẳng ai bằng mẹ đâu. Mẹ vừa xinh vừa tốt vừa giỏi vừa khéo” [28, tr. 157]. Lý là
đứa trẻ phải chịu nhiều thiệt thòi so với những đứa trẻ khác. Nhƣng Lý lại đƣợc mẹ
ấp ủ, yêu thƣơng nên tình cảm của Lý dành cho mẹ, trƣớc hết là qua bài văn em tả
về mẹ có những đoạn văn chứa đựng biết bao nhiêu cảm xúc tốt đẹp về ngƣời mẹ
kính yêu của mình: “Mẹ em không những là một cô giáo giỏi giang… mẹ em còn là
ngƣời tốt nhất trên thế gian này. Nấu cơm dẻo canh ngọt cho mọi ngƣời là niềm vui
trong lao động của mẹ em” [28, tr. 164]. Lý là đứa trẻ rất ngoan, biết thƣơng mẹ vất
vả vì “sự đọa đầy khốn khổ”, “sự đối xử bất công bằng đối với mẹ”. Lý biết động
viên, an ủi mẹ trong những ngày bố Khánh ở ngoài chiến trƣờng: “Mẹ ơi, có phải
trƣớc khi ra trận, bố dặn là mẹ phải đẻ ra con để con giúp mẹ, để mẹ vui phải không?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
[28, tr. 128]. Câu hỏi của Lý làm cho mẹ Nhu quá xúc động, “suýt nữa khóc òa lên”
vì lòng hiếu thảo của con, vì nỗi niềm nhớ mong da diết của mẹ Nhu đối với bố
Khánh: “Thƣơng nhớ anh cũng không biết bao giờ nguôi’’ [28, tr. 126]. Đặc biệt
cụm từ: “anh thƣơng yêu”, “anh yêu quý”, “anh vô vàn yêu thƣơng của em”…đã
đƣợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm, nó nhƣ chất chứa một tình yêu
thƣơng vô bờ của mẹ Nhu với bố Khánh: “Em yêu con, yêu anh… dù khó khăn trắc
trở thế nào, em cũng chịu đựng và vƣợt qua đƣợc. Em không gục ngã đâu! Em và
con mong đợi anh trở về sum họp từng phút từng giây” [28, tr. 138]. Cuối cùng sự
chờ đợi của mẹ Nhu và Lý về bố Khánh cũng chỉ là vô vọng. Bố Khánh đã hi sinh
trên chiến trƣờng vì dân tộc, vì đất nƣớc, vì mọi ngƣời và vì mẹ Nhu và Lý. Lý biết
mặt bố Khánh là do bác Trần Hậu đã tặng Lý tấm ảnh của bố Khánh, chụp từ hồi
làm chứng minh thƣ với bác. Nhìn vào tấm ảnh của bố Khánh, Lý luôn day dứt và
ám ảnh. Trong giấc ngủ chiêm bao, Lý đã đƣợc gặp bố Khánh và nói chuyện rất ân
cần: “Bố à, bây giờ con mới nhìn thấy bố trong ảnh. Nhƣng thật là từ khi đọc Nhật
ký của bố, con đã hình dung bố đúng nhƣ hình ảnh bố trong tấm ảnh rồi, bố ạ.
Nhƣng mà bố ơi, Nhật ký của bố con đọc đi đọc lại nhiều lần mà cũng chƣa hiểu hết,
bố ạ. Bố Khánh bảo: Không sao. Con còn trẻ. Chỗ nào không hiểu, con hỏi mẹ Nhu
và bác Dƣơng” [28, tr. 258].
Đoạn văn chứa đựng biết bao suy tƣ đớn đau của Lý về bố Khánh. Mặc dù âm
dƣơng cách biệt nhƣng bố Khánh vẫn hiện về trong kí ức của Lý. Bố Khánh là ngƣời
đã dành cho Lý những tình thƣơng yêu vô hạn: “ Ôi Lý của bố! Niềm phúc lạc vô
biên của bố…Bố chỉ có thể yêu con mãi mãi thôi” [28, tr. 220]. Đồng thời, bố
Khánh cũng là ngƣời ban phát ánh sáng nguồn nhiệt năng cho Lý. Cuốn Nhật ký của
bố Khánh để lại với mục đích là răn dạy Lý, phải sống làm sao xứng đáng với niềm
kiêu hãnh của con ngƣời. Cho nên, bố Khánh chính là thần tƣợng của Lý. Với thời
gian, hình ảnh về bố Khánh càng đẹp thêm và đẹp mãi trong tâm hồn Lý.
Giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha ở đây còn đƣợc toát lên từ tấm lòng biết ơn
sâu nặng của Lý đối với bố dƣợng Dƣơng, một con ngƣời có một đời sống tinh thần
và hoạt động thực tiễn phong phú cùng một cá tính mạnh mẽ. Theo sự cảm nhận của
Lý, tình thƣơng yêu mà bố dƣợng Dƣơng dành cho Lý cũng là vô hạn, bố không hề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
có mặc cảm và khoảng cách gì với Lý. Nếu nhƣ tất cả những ngƣời đàn ông trên đời
này đều sống nhƣ bố dƣợng Dƣơng thì mọi đứa bé đều hạnh phúc và có lẽ chẳng
đứa bé nào lại không yêu cha: “Bố! Một tiếng gọi thiết tha vừa bật ra từ cặp môi
Lý… Lý nhìn bố dƣợng, nhƣ uống từng lời của ông. Lý không biết rằng, trong cái
nhìn ngƣợc chiều của bố Dƣơng với Lý, lòng ngƣời bố dƣợng đang trào dâng lên
bao xúc động thiêng liêng và nếu không kìm đƣợc mình thì hai dòng lệ sẽ trào ra
khỏi hai con mắt ông. Khánh yêu quý ơi! Sao cậu không còn nữa để đƣợc hƣởng cái
hạnh phúc lớn lao không gì kể xiết là ngắm nhìn cái Lý, đứa con gái vô vàn quý giá
của cậu và Nhu lúc này. Mới hai tháng tuổi con bé đã biết lẫy. Vừa biết đọc nó đã
tìm đến Nhật ký của cậu. Chỉ cần nhắc lại hai chi tiết đó trong đoạn đời vô cùng
phong phú mƣời bảy năm qua của nó, cậu đã có thể hiểu nó là một con ngƣời nhƣ
thế nào. Lý, cô thiếu nữ đang ngồi trƣớc mặt mình đây, cái tác phẩm hoàn chỉnh
nhất, đẹp đẽ nhất của Nhu và cậu, một tổ hợp tình yêu trọn vẹn của hai cậu…” [28,
tr. 418]. Những câu văn ngắn, nhịp điệu chậm chạp phù hợp với những suy tƣ sâu
lắng, dạt dào trong tình cảm kính yêu, cảm phục của Lý về bố dƣợng. Đồng thời, với
giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha cũng đã làm toát lên lời ngợi ca hết sức chân
thành của bố dƣợng về Lý - đứa con gái của bố Khánh, mẹ Nhu cũng là con gái của
mình đẹp một cách hồn hậu, trong sáng và thánh thiện.
Không chỉ viết về con ngƣời với sự cảm nhận sâu sắc ở mọi phƣơng diện, Ma
Văn Kháng còn rất nhạy cảm với thiên nhiên. Thiên nhiên với những hình ảnh đẹp
đi vào những trang văn của ông mang một màu sắc thật đặc biệt. Khi miêu tả vẻ đẹp
huyền diệu của thiên nhiên, giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng một lần nữa lại
đƣợc vang lên trong những trang văn của ông. Nó đã tạo nên những dƣ vị nhẹ
nhàng, tinh tế mà lắng đọng trong tâm hồn ngƣời đọc. Đặc biệt là đoạn văn tả cây cỏ
trong khu vƣờn thuốc bà Pham: “Mỗi ngày lá cây ở đây một xanh bóng thêm lên…”
[28, tr. 108]. Trong con mắt của Lý, đây là khu vƣờn nhỏ, xinh xắn hiện lên với một
nét đẹp quyến rũ riêng. Xuân về, cây cối đâm chồi nảy lộc. Khu vƣờn thuốc này đã
cƣu mang không biết bao nhiêu ngƣời dân lƣơng thiện. Nhƣng giờ đây, khu vƣờn
thuốc của bà lại tƣợng trƣng cho con ngƣời, cho tính cách của Lý. Sự trƣởng thành,
lớn mạnh của cây cối đã làm cho Lý liên tƣởng đến sự trƣởng thành của con ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lý, để Lý soi vào đó lấy lại niềm tin, sức mạnh để vƣợt qua mọi khó khăn và bƣớc
tiếp trên con đƣờng mà mình đã chọn.
Có thể nói rằng, giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi
cuốn riêng cho tác phẩm của Ma Văn Kháng. Nó làm cho những tình tiết trong tác
phẩm mềm mại đi rất nhiều, ngƣời đọc cảm thấy bớt nặng nề, căng thẳng trƣớc cuộc
sống hiện thực bộn bề, đa sắc đa tạp này. Đồng thời, nó cũng góp phần không nhỏ
trong việc thể hiện một cái nhìn mới của nhà văn.
Ma Văn Kháng đã thật sự tìm đƣợc “điệu hồn” chung với ngƣời đọc trong chất
giọng trữ tình sâu lắng, thiết tha. Bởi lẽ, sử dụng sắc thái giọng điệu này, Ma Văn
Kháng đã tạo nên những trang văn dạt dào cảm xúc. Và những trang văn đó đã đem
đến sự xúc động chân thành cho ngƣời đọc từ chính lòng nhân ái, tình yêu thƣơng
con ngƣời và niềm tin tƣởng vào cuộc đời của tác giả. Những trang văn trong trẻo đó
sẽ sống mãi cùng với dòng đời và lòng ngƣời hôm nay để ngƣời đọc cảm nhận rõ vẻ
đẹp của tình đời tình ngƣời mặc dù sống còn chứa đựng biết bao điều bất ổn và bất
cập.
3.2.2.2. Giọng điệu suy ngẫm, triết lí sâu xa, hƣớng về nhân bản, bênh vực
quyền con ngƣời
Để có đƣợc giọng điệu suy ngẫm, triết lí đặc biệt là những vấn đề suy ngẫm, triết
lí mang tính chất phổ quát, điển hình cao về cuộc sống và con ngƣời thì một yêu cầu
đặt ra cho mỗi nhà văn là phải có sự từng trải, cảm quan tinh tế, sự chiêm nghiệm
sâu sắc và đặc biệt họ phải có tâm hồn rộng mở, nhạy cảm để đủ sức dung hợp, chọn
lọc và nâng lên thành triết lí các vấn đề trong cuộc sống thƣờng nhật.
Khảo sát các tác phẩm văn xuôi của Ma Văn Kháng nói chung và truyện viết về
thiếu nhi qua hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý nói riêng,
giọng điệu suy ngẫm, triết lí thƣờng rất giản dị nhƣng sâu sắc và nhân hậu. Sở dĩ ông
chọn sắc thái suy ngẫm, triết lí nhƣ vậy là do những triết lí trong tác phẩm của ông
không phải chỉ cho ngƣời lớn suy ngẫm mà cho cả trẻ con tiếp nhận và tự trải
nghiệm, tự suy nghĩ. Những suy ngẫm, triết lí này có thể nó còn ảnh hƣởng không ít
đến cách nhìn, cách đánh giá về mọi vấn đề trong cuộc sống của các em sau này.
Thế nhƣng, những triết lí đƣa vào trong tác phẩm phải làm sao dễ hiểu, dễ cảm. Triết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lí đó một mặt phải giúp các em nhìn trƣớc đƣợc những phức tạp, bề bộn mà các em
sẽ phải gặp sau này trong cuộc đời, nhƣng mặt khác phải giúp các em có niềm tin
vào cuộc sống - một cuộc sống mới đang bắt đầu mở ra với các em.
Trong Côi cút giữa cảnh đời, những suy ngẫm, triết lí đƣợc tác giả gửi gắm vào
nhân vật bà nội của Duy - một ngƣời phụ nữ sâu sắc và từng trải. Bà nội Duy có cái
nhìn thấu đáo và đƣa ra những nhận định rất sâu sắc, thấu tình đạt lí về mọi việc.
Khi nhìn thấy hai chị em Vàng Anh và Vành Khuyên cãi chửi nhau inh ỏm vì tranh
giành những thứ hàng hóa bố chúng gửi từ nƣớc ngoài về, bà đƣa ra những nhận xét
và lí giải rất sâu sắc: “Tiền, hàng vào nhà nào là gây hỗn loạn nhà đó. Vì trong
chúng có chứa hồn ma bóng quỷ. Phải là ngƣời vững vàng mới trị đƣợc chúng. Nếu
vậy, thì hai đứa nặc nô này đích thị là bị quỷ ám ma nhập rồi” [24, tr. 98]. Đó không
chỉ đơn thuần là một nhận định mà nó đã trở thành chân lí, chân lí lại đƣợc nâng lên
từ chính những gì xảy ra trong cuộc sống mà bà ta đã chứng kiến và trải nghiệm.
Đồng tiền rõ ràng có một sức mạnh và đồng thời cũng có một sức tàn phá ghê gớm.
Với những đứa trẻ đƣợc tiếp xúc quá sớm với tiền mà lại không có sự định hƣớng
nghiêm khắc của ngƣời lớn nhƣ Vàng Anh và Vành Khuyên thì kết cục bi đát đang
diễn ra trong gia đình cô Đại Bàng là một tất yếu. Nhƣ vậy, quản lý tiền bạc đối với
trẻ cũng là một bài học mà gia đình, bố mẹ hiện đại không đƣợc coi thƣờng, bởi vì
hiện nay con đƣờng quản lý tiền bạc đang đƣợc đa nguyên hóa, có ngƣời rất giỏi
trong việc vận dụng và tích lũy tài sản, nhƣng có ngƣời lại không giỏi trong việc
này. Bởi vậy, dạy trẻ có quan niệm quản lý tiền bạc đúng cách từ sớm có thể giúp trẻ
có một cuộc đời thành công.
Bên cạnh Côi cút giữa cảnh đời thì Chuyện của Lý cũng chứa đựng rất nhiều
những suy ngẫm, triết lí sâu xa, hƣớng về nhân bản, bênh vực quyền con ngƣời của
Ma Văn Kháng. Để đƣa ra những triết lí thuyết phục, ông thƣờng đặt nó vào những
tình huống cụ thể rồi từ đó phân tích, lí giải, lập luận và đúc rút thành một nhận xét
tinh tế. Từ sự việc Bí thƣ Văn Quyền, tên lƣu manh gian ác, kẻ lừa đảo, trác trụy đã
gây nên những vụ náo loạn ở trong chi bộ cơ quan huyện ủy Phong Sa, vụ mẹ Nhu
có con bị ông Quyền sỉ nhục, rủa sả nặng nề: “Con đàn bà chửa hoang… Xƣa đàn bà
mắc tội này còn bị làng bắt vạ, còn bị gọt đầu, bỏ rọ trôi sông. Còn bây giờ, có nơi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ngƣời ta con bắt đeo biển đi dong phố kia kìa” [28, tr.130]. Mục đích mạt sát của
ông Quyền về chuyện có con của Mẹ Nhu là muốn cho dƣ luận đồng tình với ông để
đẩy hai mẹ con Lý vào tình thế bị cô lập, tách biệt. Điều này đã đƣợc ông Thòn -
ngƣời là bậc đại hiền, là ông thánh tông đồ giàu lòng bác ái đƣa ra một triết lý sâu
xa: “Con ngƣời là cái lý sâu xa của cuộc đời”. Câu nói của ông Thòn ngẫm ra rất
đúng. Vì “không có con thì làm sao có cuộc đời này. Không có đứa trẻ thì làm sao
có cuộc sống và tình yêu thƣơng!” [28, tr. 133]. Sau đó, ông Thòn lại nói với bà em
gái của mình với những suy nghĩ rất đời thƣờng: “Này, bà Pham…trong làng bản có
ba thứ âm thanh vô cùng quý giá…Thứ nhất là tiếng trẻ con nô đùa. Thứ hai là tiếng
đọc sách. Thứ ba là tiếng xa quay, dệt vải. Đó, cái Lý của ngƣời Dao, của mọi ngƣời
là thế đấy! Mà mẹ Lý đâu có phải là ngƣời làm nên tội! Khổ, cô giáo đã cất công từ
miền xuôi lên đây để dạy chữ cho ngƣời miền rừng xanh núi đỏ mình” [28, tr. 58].
Vậy, Lý chắc chắn là con của bố Khánh, mẹ Nhu mà cũng là con của ngƣời đời, là
phúc lộc của ngƣời đời nhƣ ông Thòn nói đó. Nên việc mẹ Nhu sinh con là hoàn
toàn hợp theo lẽ tự nhiên, cần phải đƣợc bảo vệ chính đáng.
Ma Văn Kháng đã khai thác thành công giọng điệu này để cho nhân vật bộc lộ
những tình cảm, nghĩ suy, quan niệm về cuộc sống của mình. Điều này, thể hiện rõ
nhất qua nhân vật Chu Văn Dƣơng, ngƣời đã suy ngẫm và đƣa ra quan niệm của
mình rất thấu tình đạt lý: “Ông Bí thƣ!... con ngƣời ta mang tiếng là con ngƣời, có
thể trở thành những bãi đờm của một con bệnh ho lao nhƣ thế nào! Đạo diễn cái trò
bỉ ổi này nếu không phải là ông thì ắt hẳn là cái thằng vô lại hạ tiện đã bỏ lại cây đèn
bão Trung Quốc chạy lấy ngƣời trong nhà khách đêm vừa rồi khi hai mẹ con cô Nhu
nghỉ lại đây chứ! Còn các đồng chí trong chi bộ, xin đừng vào hùa với đồ dê chó
dâm loàn đƣa cuộc sống trở lại thời mông muội dã man bán khai. Cô Nhu không có
tội!” [28, tr. 131]. Có thể nói, Chu Văn Dƣơng là một Đảng viên mẫu mực với một
khí phách hiên ngang, ngạo nghễ đã dám đứng lên vạch mặt chỉ tên Văn Quyền để
đòi lẽ phải, đòi quyền sống và sự công bằng cho những ngƣời dân lƣơng thiện nhƣ
mẹ Nhu. Ta thấy, con ngƣời luôn luôn chịu sức ép của dƣ luận nhƣng ở truyện này,
dƣ luận không đồng tình, không hùa theo ngƣời có chức vị công quyền nhƣ Bí thƣ
Văn Quyền: “Này, cái trò lợi dụng danh nghĩa Tổ quốc để hại đồng loại nhƣ đối với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
anh Khánh xem chừng lộ liễu rồi, nên giờ đành công khai giơ cái mặt chó đê hèn ra
để dọa nạt ta, hả? Ta hứa sẽ phải lột trần cái mặt nạ lừa đảo của mi!” [28, tr. 132].
Nhƣ vậy, cái ác đã sinh ra cùng bƣớc đi đầu tiên của con ngƣời. Thiện ác nằm
trong thể nhất nguyên luận, chúng luôn luôn tƣơng nhập trong một vận động đầy
mâu thuẫn. Sự phát triển xã hội bao gồm cả vận động thụt lùi mang tính chất phá
hoại. Hiện tƣợng tha hóa của Bí thƣ Văn Quyền là một ví dụ tiêu biểu. Cho nên,
“cuộc sống của những con ngƣời nhƣ Khánh, mình, nhƣ Nhu và bao ngƣời tốt đẹp
khác mà lại để nó tồn tại, hoành hành và lâu đến nhƣ thế!” [28, tr. 213]. Câu hỏi vừa
chứa đựng chân lí vừa ẩn giấu một nỗi buồn man mác của Ma Văn Kháng trƣớc
nhân tình thế thái. Nỗi buồn đó không có sắc thái của sự bi quan, chán nản mà nó
xuất phát từ tình yêu thƣơng con ngƣời, muốn bảo vệ lẽ phải và sự công bằng trong
cuộc sống của nhà văn.
Việc khái quát cuộc sống bằng giọng điệu suy ngẫm, triết lý, hƣớng về nhân bản,
bênh vực quyền con ngƣời với những lý giải sâu sắc, chứng tỏ trách nhiệm của các
nhà văn trƣớc cuộc đời. Nỗi trăn trở lớn nhất của nhà văn là hƣớng về nhân bản,
bênh vực quyền sống cho con ngƣời: “Có văn hóa, con ngƣời là một thực thể biết
sống cho đồng loại. Biết cải đổi hoàn cảnh, biết tạo nên một môi trƣờng nhân văn để
con ngƣời đƣợc sống nhƣ một con ngƣời. Hết lòng chia sẻ, cƣu mang, đỡ nâng
những kiếp ngƣời bất hạnh… Có văn hóa và tình yêu nên con ngƣời biết tạo ra cái
đẹp, biết ngƣỡng mộ cái đẹp và noi theo cái đẹp! [28, tr. 428 - 429].
Những suy ngẫm, triết lí và lí giải về con ngƣời của Ma Văn Kháng không phải
là những vấn đề đao to búa lớn mà nó rất thƣờng nhật, gần gũi. Nó thể hiện những
khắc khoải, những trăn trở của ông về nhân tình thế thái, về quyền sống của con
ngƣời. Chính sắc thái giọng điệu này đã góp phần làm cho những trang viết của nhà
văn có bề sâu trí tuệ, đƣa ngƣời đọc tới sự cảm nhận sâu sắc thấm thía nhiều điều về
con ngƣời và cuộc sống hôm nay.
3.2.2.3. Giọng điệu thƣơng cảm, xót xa
Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý là hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi bên
cạnh những vấn đề tình bạn, tình anh em, tình cha mẹ, tình bà cháu, ông cháu....Ma
Văn Kháng đã đƣa vào đó những chất liệu hiện thực ngồn ngộn để chuẩn bị cho các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
em một hành trang sống đầy đủ khi bƣớc vào tƣơng lai. Những hiện thực sống động
nhƣng không kém phần phức tạp đó chắc chắn không chỉ có niềm vui mà còn có nỗi
buồn, không chỉ có tình yêu thƣơng mà còn có sự ghen ghét đố kị, không chỉ có sự
công bằng, bình yên mà còn có sự bất công ngang trái. Vậy nên, để khắc họa đậm
nét hiện thực đó thì Ma Văn Kháng đã sử dụng giọng điệu thƣơng cảm, xót xa. Chất
giọng thể hiện tình yêu thƣơng, sự cảm thông, xót xa của nhà văn trƣớc những nỗi
đau của con ngƣời, trƣớc những cảnh buồn thăm thẳm đã và đang tồn tại không ít
trong cuộc sống hôm nay.
Trong cuốn tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, đã không ít lần nhân vật trần thuật
ở ngôi thứ nhất - cậu bé Duy thốt lên những lời thƣơng cảm, xót xa cho chính thân
phận bất hạnh của mình, cho đứa em tội nghiệp và cho cái gánh nặng trĩu vai của bà
nội phải oằn mình chống đỡ trong những ngày gia đình li tán. Trƣớc sự đối xử bất
công của cô Thìn, cậu bé xót xa nghĩ rằng: “Tôi không có quần áo đẹp, không có đồ
chơi, không đƣợc cô giáo Thìn yêu chiều săn sóc nhƣ nhiều đứa… Một khuôn mặt
buồn buồn, lầm lì. Đó là tôi. Buổi trƣa ngủ dậy, do tôi chƣa kịp đóng tiền, nên không
có suất quà…” [24, tr. 62]. Những từ “không” đƣợc lặp lại cùng với “khuôn mặt
buồn buồn, lầm lì” đã chứng tỏ sự tủi thân và có phần ấm ức của cậu bé ý thức đƣợc
đầy đủ hoàn cảnh nghèo khó và sự chênh lệch trong cách đối xử của cô giáo. Và
điệp từ “một” nhƣ những tiếng nấc thổn thức của thân phận tội nghiệp cô đơn trƣớc
một tập thể đông vui và cách biệt về mọi thứ. Giọng điệu đoạn văn nhƣ những câu
nói ngắc ngứ do đau buồn, do ấm ức, do tự ái của một cậu bé đa cảm lần đầu tiên va
chạm phải bất công của cuộc đời.
Càng xót xa cho mình bao nhiêu, Duy càng thƣơng em Thảm bấy nhiêu. Ở trong
cuốn Côi cút giữa cảnh đời, không biết bao nhiều lần Duy đã phải kêu lên những
tiếng kêu thảng thốt, xót xa trƣớc tính mạng đang ngàn cân treo sợi tóc của bé Thảm
trong cuộc chiến sinh tử với bệnh tật: “Em nằm xẹp nhƣ một dải khoai héo. Đôi môi
ho hó, bợt bạt, không buồn động đậy. Em thở khò khè. Trên vầng trán nhỏ của em,
gân xanh nổi chằng chẵng. Tim em đập rất khẽ. Có lúc tôi đặt tay lên tƣởng tim nó
đã ngừng” [24, tr.159]. Những từ “em” đƣợc láy lại nhƣ điểm nhấn của nỗi đau và
tình thƣơng cảm trƣớc những nỗi bất hạnh mà em Thảm phải trải qua.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Không chỉ có Duy, giọng điệu thƣơng cảm, xót xa còn đƣợc thể hiện ở bà nội cậu
bé. Thời buổi còn nhiều nhiễu nhƣơng, bất công ngang trái liên tục đổ xuống những
thành viên trong gia đình. Nạn nọ chƣa qua, nạn kia đã ló đầu xuất hiện nên dù là
một ngƣời phụ nữ rất quả cảm và vững vàng, bà Nội Duy nhiều khi cảm thấy bất lực
và bà đã tìm đến nức nở bên ngôi mộ ngƣời chồng xa cách nghìn trùng để tìm sự
giãi bày nƣơng tựa. Nhƣng cũng có lúc bà phải thốt lên đau đớn trong lời tâm sự với
cô Quyên: “Thảm thiết quá, cô ơi! Rồi đây, biết sống thế nào! Bè thì là bè lim, mà
sào thì lại sào sậy, cô à…” [24, tr. 141]. Hình nhƣ tất cả đã quá mức chịu đựng, sự
bất công, nỗi oan ức đã lên đến đỉnh điểm nên đến bây giờ nó mới nổ tung. Tiếng
kêu thực ra đã có từ lâu nhƣng đã cố gắng đƣợc nén chịu, đƣợc dằn lòng, đƣợc vùi
lấp nên bây giờ khi bật ra nó mới trở nên thảm thiết nhƣ vậy.
Giống nhƣ tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, trong Chuyện của Lý, Ma Văn
Kháng cũng sử dụng thành công giọng điệu thƣơng cảm, xót xa để hiểu rõ hơn về
nỗi khổ cực, cay đắng của họ, để cảm thông phần nào cho những nỗi đau và sự
ngang trái mà nhân vật phải gánh chịu.
Chất giọng thƣơng cảm, xót xa đƣợc thể hiện ở một số tình huống nhạy cảm
trong tác phẩm dƣới con mắt của Lý. Chẳng hạn, anh Đam là một ngƣời tài hoa và
có nhân cách cao thƣợng nhƣng lại phải rời khỏi nhà mình trong chiếc còng sắt ghẻ
lạnh, thậm chí giễu cợt khinh bỉ của mọi ngƣời: “Lý vừa cất tiếng hỏi thì từ trong
nhà anh Đam mặc cái áo Giáy đen cũn cỡn cài khuy vải, hai tay tra trong cái còng số
tám, vùng vằng ra đi. Đằng sau hai ngƣời công an. Một anh béo ú, một anh gầy
ngẳng” [28, tr. 171]. Nhìn thấy cảnh tƣợng của anh Đam, Lý không thể không tránh
khỏi cảm giác nhức nhối, xót xa vì sự bất bình của bọn thái độ cƣờng quyền: “Khổ,
anh bị kết tội là trai gái bất chính. Anh kêu oan. Mà oan thật. Anh hát hay, anh múa
sử tử tài, anh giỏi võ thuật, các cô gái mến anh, thích trò chuyện với anh, có ai thấy
anh sàm sỡ với các cô đâu mà dám dựng đứng lên chuyện bậy bạ thế cho anh” [28,
tr. 175]. Nhƣng anh Đam cũng là con ngƣời chứ đâu có phải bóng chim, tăm cá.
“Chẳng lẽ, thời gian và cuộc chiến đã biến tất cả thành hƣ vô? … Chả lẽ tất cả đã
một đi không trở lại, giống nhƣ thời thơ ấu của nhân loại, vàng son chỉ còn lại thấp
thoáng ánh hào quang trong tâm khảm mấy ngƣời già?” [28, tr. 284]. Nghĩa là, anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Đam đã có một thời rạng rỡ ở huyện Phong Sa và để lại những ấn tƣợng, những tình
cảm cao quý đối với ngƣời dân lƣơng thiện. Anh Đam là một con ngƣời đã phát triển
nhân cách tới mức biết đƣợc giá trị của mình, dám tự khẳng định mình qua những
lời ca, tiếng hát, qua việc đánh trống, múa sƣ tử… lại có thể dễ dàng phủ nhận anh
sau khi bị giam oan. Sự day dứt, ám ảnh của Lý về anh Đam cũng giống nhƣ số
phận của Lý và bố mẹ Lý. Lý cảm thấy cuộc đời thật lắm trái ngang và rối ren,
nhƣng cái quan trọng con ngƣời phải biết tạo ra niềm vui cho mình, phải biết vƣợt
qua những đau khổ buồn phiền của chính mình. Tƣ thế này sẽ cao hơn sự nhẫn nhịn
thông thƣờng.
Ngoài anh Đam ra, giọng điệu thƣơng cảm, xót xa còn đƣợc thể hiện đậm nét
nhất về ông Thòn kính yêu của Lý đã qua đời: “Lý khóc ai oán”, “Lý gào thống
thiết: Ông ơi, thế là ông không đƣa cháu về Hà Nội học đƣợc rồi. Ông ơi sao bỏ
cháu ông đi mà không chờ cháu về nghe ông dặn bảo, ông ơi”... Chính lúc ấy, ông
Thòn của Lý lại từ cõi chết đột ngột trở về. Và ngƣời đầu tiên ông nhìn thấy là Lý,
Lý bàng hoàng kêu to: Ông! Còn ông thì mủm mỉm cƣời để ông căn dặn những điều
gan ruột cuối cùng: “Lý à. Đừng trách ông nhé! Ông không đi cùng cháu về Thủ đô
đƣợc rồi. Cháu đi một mình vậy nhé. Phân biệt vuông với tròn, ngắn với dài, thô với
tinh. Ăn hạt nghĩa, trả quả nhân. Đó là cái đạo của vạn vật, là cái phúc lộc của ngƣời
đời, cháu nhớ nhé! Nói rồi, ông lại nhắm mắt và lần này Lý đổ sập xuống mình ông,
khóc thét lên vì tuyệt: Ông ơi, thế là cháu mất hẳn ông rồi! Phun tráng ôông! Cháu
yêu ông, cháu sẽ nhớ ông mãi mãi, ông ơi!” [28, tr. 298]. Đoạn văn bộc lộ niềm xúc
động, niềm oán thoán xót đau của Lý trƣớc những ngƣời ông, ngƣời thầy đáng kính
đã về an nghỉ nơi suối vàng. Ông Thòn là một con ngƣời đã trọn đời mẫu mực trong
sự dung dị của đời thƣờng. Cả cuộc đời quẩn quanh nơi thôn xóm miền rừng hẩm
hút. Mà tấm lòng thì quảng đại bao la. Mà nhận ra, “con ngƣời mới là cái lý sâu xa
của cuộc đời”. Câu nói đầy tình nhân ái của ông chính lại là điểm tựa tinh thần của
Lý: “Ông ơi, ơn này con để hai vai, thƣơng nhớ này biết đến bao giờ mới nguôi”.
Đặc biệt, điệp từ “ông ơi” đƣợc lặp lại nhiều lần nhƣ để khẳng định về ngƣời ông,
sống vẹn tròn đạo đức, làm nhiều điều có ích cho mọi ngƣời, hƣởng hết tuổi trời,
thanh thản đi về cõi vô cùng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nhƣ vậy, số phận của những con ngƣời bất hạnh đƣợc thể hiện rõ nhất bằng
giọng điệu thƣơng cảm, xót xa. Giọng điệu này đã góp phần làm thành một bản hợp
tấu đa giọng điệu của nhà văn, đồng thời cũng lý giải vì sao, những tiểu thuyết viết
về thiếu nhi của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới luôn cuốn hút độc giả. Đây là một
trong những sắc thái giọng điệu giúp ngƣời đọc cảm nhận rõ tâm hồn và trái tim
nhân hậu, trong sáng của nhà văn.
3.2.2.4. Giọng điệu mỉa mai, phê phán
Đối tƣợng mỉa mai, phê phán của Ma Văn Kháng là nhằm vào tất cả những thói
hƣ tật xấu, những suy thoái biến chất của con ngƣời trong cuộc sống đời thƣờng.
Cho nên, khi chuyển hƣớng ngòi bút sáng tác của mình, Ma Văn Kháng đã nhanh
chóng tiếp cận một hiện thực phong phú, ngổn ngang, bộn bề, phải trái trắng đen lẫn
lộn, xen cài trong đó biết bao biến động. Quả thực, nhiều chục năm nay, khi nói đến
hiện thực trong văn học chúng ta, bên cạnh những mặt tích cực, phấn chấn, hào hùng
đƣợc các nhà văn miêu tả một cách hào phóng, thì những mảng tối, những bóng đen
nhiều khi còn quá gƣợng nhẹ, hoặc né tránh. Trong khi cái xấu, cái ác không biết có
từ bao giờ mà đang từ bóng tối đã lấn dần ra ánh sáng và biết bao con ngƣời lao
động lƣơng thiện đã lâm vào đau khổ, thậm chí tuyệt vọng. Cũng nhƣ Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trƣờng…Ma Văn Kháng “đã vục vào cái
sự thật tối tăm oan khổ” (GS. Phong Lê) trong hầu hết các sáng của mình. Đất
nƣớc ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, nay trở về cuộc sống đúng với
quy luật bình thƣờng của nó, nhƣng thực tế đó không hề diễn ra bình yên. Vốn đã
quen với đời sống trong chiến tranh, nơi chỉ có mục tiêu duy nhất là đấu tranh
giành độc lập tự do cho dân tộc, nhƣng giờ đây trƣớc cuộc sống mới con ngƣời trở
nên bỡ ngỡ, khó bề hoà nhập ngay đƣợc với cơ chế mới, hoàn cảnh sống mới. Đời
sống của nền kinh tế thị trƣờng lúc này là một thứ thuốc thử về năng lực và phẩm
hạnh con ngƣời. Con ngƣời phải đứng trƣớc những thử thách nghiệt ngã của cuộc
sống mà cuộc đấu tranh với chính bản thân là cuộc đấu tranh nhiều cam go nhất.
Thử thách này không chỉ diễn ra với đại bộ phận ngƣời dân mà còn diễn ra ngay
trong bộ máy chính quyền, quản lý nhà nƣớc. Trƣớc thực tế không ít những kẻ
đƣợc Đảng và Nhà nƣớc giao trách nhiệm quản lý, giúp đỡ nhân dân đã thừa cơ hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
"đục nước béo cò", đục khoét của Nhà nƣớc, chèn ép, hành hạ những ngƣời dân
lƣơng thiện. Ma Văn Kháng đã đƣa ra ánh sáng sự ấu trĩ của xã hội ta một thời, đó
là lý lịch hoá trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo. Và ông luôn cảm thấy lo âu, trăn
trở và muốn cất lên lời kêu cứu khẩn thiết cần phải chấn chỉnh lại cơ chế cũ của
một nhà văn có tài, có tâm trong sáng, có trách nhiệm với cuộc đời trên những
trang viết của mình.
Ma Văn Kháng là nhà văn không hề tránh cái xấu, bằng giọng điệu “trời phú”
cho mình - giọng điệu mỉa mai, phê phán, ông đã lật tẩy đối tƣợng một cách không
thƣơng tiếc trên từng trang sách của mình để tỏ rõ một thái độ, bộc lộ một nỗi lòng
đau đớn về sự bất cập trong việc lựa chọn cán bộ chủ chốt ở từng cơ quan, trƣờng
học hoặc những con em nhà giàu chiều chuộng không đúng cách.
Bằng giọng điệu mỉa mai, phê phán, Ma Văn Kháng đã làm nổi bật lên chân
dung của những ngƣời lãnh đạo cầm quyền. Trong tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời,
tiêu biểu là lão Luông - Chủ tịch phƣờng Ngọc Sinh, nơi bà cháu Duy cƣ trú. Ông
hiện lên chân dung một lãnh đạo cầm quyền rất oách và ác: “Mặt ông choăn choắt,
da ông sắt seo và mũi ông tóp nhọn, cứng nhƣ sắt. Hai con mắt ti hí nhƣ mắt láo liên
liên hồi…” [24, tr. 51]. Bằng cách sử dụng đậm đặc và chuẩn xác những từ láy và
nhiều kiểu câu đa dạng, Ma Văn Kháng không chỉ cho ngƣời đọc chiêm ngƣỡng
gƣơng mặt và dáng hình xấu xí của ông Chủ tịch phƣờng, mà ông còn lột tả hành vi
đểu cáng, độc ác và lối suy diễn dốt nát của ông ta. Sự dốt nát của ông đƣợc thể hiện
rõ hơn khi ông Chủ tịch phƣờng đã công tác ở ngành ngoại giao hàng ba chục năm
mà lại cho rằng: “Tây du ký là cái chuyện Đặng Tiểu Bình du hí ở bên Tây, tức bên
Mỹ”. Bởi vậy, ông ta cấm mọi ngƣời không đƣợc đọc cuốn sách đó: “Tuyệt đối
không cho phép ăn nói bừa bãi. Cũng nhƣ đọc sách gì phải duyệt. Chết thôi! Đang
chống Tàu mà lại đi đọc sách Tàu” [24, tr. 56]. Khi ông nghe thấy lão Hứng nói:
“Tây du ký là cuốn truyện Tàu nói về cái chuyện thầy Đƣờng Tăng đi sang Tây Trúc
tức nƣớc Ấn Độ” thì lúc này lão Luông mới nhận ra đƣợc cái sai, cái dốt nát của
mình khi đi cấm mọi ngƣời không đƣợc đọc. Bằng giọng điệu mỉa mai, châm biếm
qua cách kể và tả, nhà văn đã phê phán, bóc trần bản chất dốt nát của lão Luông -
ngƣời lãnh đạo "rởm".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nếu nhƣ Tô Hoài lấy giọng điệu nhẹ nhàng dí dỏm khi thì mát mẻ, khi lại mỉa
mai làm phƣơng tiện cho sự phê phán, thì Ma Văn Kháng lại dùng giọng điệu này để
lật tẩy những kẻ trí thức"rởm", lãnh đạo "rởm" với trình độ học vấn kém, dốt nát
nhƣng lại luôn lợi dụng chức quyền để bóc lột và chèn ép ngƣời dân.
Nhƣng điều đáng mỉa mai, phê phán hơn ở lão Luông là: một ông Chủ tịch, giàu
có, nhà "kín cổng cao tƣờng. Qua ba lớp cửa sắt mới vào đƣợc tới sân…Vào đến
buồng ngủ ông phải qua bẩy lần cửa khoá nổi khoá chìm" [24, tr. 41] mà lại có thói
quen "ăn bẩn" khi ăn chặn, ăn quỵt của trẻ con từng đồng từng hào mà mẹ chúng gửi
về. Ông ta đã trắng trợn cƣớp đi từng miếng cơm manh áo của con trẻ, thậm chí cả
sinh mệnh chúng. Không những tham lam, độc ác, ăn bẩn một cách vô độ, lão
Luông còn là một kẻ cửa quyền độc ác và ngu dốt. Ông ta cho rằng mình “là ngƣời
nắm công tắc điện, cho ai sáng ngƣời ấy đƣợc sáng” [24, tr. 264]. Ma Văn Kháng đã
để cho bé Duy, mƣời lăm tuổi nhớ lại cái thời thơ ấu của mình mà phải “rùng mình”,
ghê sợ nhận ra rằng: "Thì ra con ngƣời là thủ phạm gây ra nỗi khổ cho đồng loại.
Con ngƣời, mang tiếng là con ngƣời mà sao nó lại có thể nhẫn tâm, đểu cáng thế "
[24, tr. 141].
Giọng điệu mỉa mai, phê phán của Ma Văn Kháng nó giống nhƣ là một phƣơng
tiện vạch trần tâm địa độc ác, ngu dốt của lão Luông. Ma Văn Kháng khinh bỉ hắn
lôi hắn ra ánh sáng rồi lần lƣợt vạch trần bộ mặt bẩn thỉu, tâm địa xấu xa của hắn.
Đồng thời, Ma Văn Kháng cũng muốn cảnh báo cho hắn: “Đối với bọn lƣu manh
côn đồ rắp tâm phá hoại cuộc sống xã hội chủ nghĩa tƣơi đẹp của chúng ta, chỉ có
cách là thẳng tay. Thẳng tay!” [24, 256]. Nghĩa là, phải ra tay diệt trừ tận gốc để cho
lớp thế sau nhìn đó mà tránh xa.
Giọng điệu mỉa mai, phê phán còn đƣợc sử dụng một cách hữu hiệu và bộc lộ trực
tiếp qua từ ngữ sắc sảo về chân dung của lão Hứng: “Cái mặt là mặt ngựa. Hai lỗ mũi
ngửa huếch. Mắt to mắt nhỏ. Tai bẹp. Miệng rộng bàm bạp nhƣ miệng cá trê. Răng
trên xỉa ra bốn chiếc. Răng nanh lại bịt vàng. Thái dƣơng có cái sẹo to bằng đồng bạc.
Đỉnh đầu hói nhẵn nhƣ quả nhót. Cái mặt ấy lúc trợn trừng trợn trạc…” [24, tr. 120 -
121]. Tác giả dùng giọng điệu này lật tẩy một lãnh đạo “tồi”, kẻ đội lốt ngƣời mang
tâm quỷ, gian ngoan và vô cùng hiểm độc, kẻ đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hạ những ngƣời dân lƣơng thiện.
Giọng điệu mỉa mai, phê phán tiếp tục đƣợc sử dụng khi tác giả miêu tả về tài
năng văn chƣơng và năng lực nghiệp vụ sƣ phạm của những nhân vật tri thức “rởm”.
Theo lời kể của cụ Hồn Nhiên về một thầy giáo dạy văn: “Ấy thế, có ông giáo dạy
văn cấp II, đọc câu đó, giảng cho học sinh rằng: đó là vì Từ Hải là thương binh cụt
tay!” [24, tr. 43]. Giọng điệu mỉa mai, phê phán của nhà văn hàm ý chê bai thầy giáo
dạy văn dốt nát, lƣời đọc sách thì dân trí mở mang sao đƣợc. Trong khi đó, Từ Hải
là “bậc trƣợng phu” với nghĩa là ngƣời đàn ông có chí khí lớn, là “mặt phi thƣờng”
với nghĩa là xuất chúng, hơn ngƣời mà thầy lại giảng nhƣ vậy.
Giọng điệu mỉa mai, phê phán của Ma Văn Kháng còn đƣợc hiện diện qua từng
câu, từng chữ đối với hai chị em Vàng Anh và Vành Khuyên: “Hai chị em nó, mỗi
đứa có dấn vốn riêng. Tay mỗi đứa đeo hai ba cái nhẫn mặt ngọc. Nhẫn ấy chúng
nhờ Hứng và bồ của lão mua. Mối liên minh giữa Hứng với hai chị em con Vàng
Anh mỗi ngày một khăng khít, nhờ các chuyến hàng ông tài xế Đại từ Thái Lan gửi
về” [24, tr.145]. Mục đích mỉa mai, phê phán của nhà văn là hƣớng đến những gia
đình nhà giàu, chiều chuộng con cái, không biết dạy bảo, uốn nắn các em. Cho nên,
“tiền” là câu nói cửa miệng của hai chị em này. Vì tiền chị em sẵn sàng đánh chửi
nhau, vì tiền con sẵn sàng chửi rủa mẹ. Họ không có ý thức bảo vệ, giữ gìn đạo đức
gia đình. Trong quan niệm của họ đạo đức chính là “cái gì hợp với mình” và cuộc
đời chỉ là chữ “tiền” thôi. Đồng tiền quả thật làm cho cuộc sống con ngƣời đầy đủ
hơn, sung túc hơn. Nhƣng nó còn có sức mạnh làm tha hoá con ngƣời một cách ghê
gớm, xa rời những tiêu chuẩn đạo đức, đã biến họ thành những con thú dữ nếu
không biết sử dụng đồng tiền đúng cách.
Bên cạnh tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời, giọng điệu mỉa mai, phê phán của Ma
Văn Kháng còn đƣợc thể hiện rõ trong Chuyện của Lý. Khi đọc đến chân dung Bí
thƣ Văn Quyền, thì ngƣời đọc chắc chắn gây cảm giác ngay lập tức với loại ngƣời
này: “Ngoại bốn mƣơi. Râu quai nón. Mặt hổ. Mũi khoằm. Quai hàm bành bạnh.
Tƣớng dữ còn hiển hiện ở bộ trang phục rằn ri vải bạt lồng phồng túi to túi nhỏ”…
Cái “gƣơng mặt bừ bự, hàm râu đen sì, hai con mắt ốc nhồi, tiếng cƣời khề khề, thô
lỗ và sặc sủa mùi hôi nách” [28, tr. 28, 100]. Ngay việc giới thiệu chân dung Bí thƣ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Văn Quyền, giọng điệu mỉa mai, phê phán của nhà văn cũng đã hiện lên rõ là một kẻ
thô lỗ, đầy vẻ quyền uy và dọa nạt. Bộ mặt của ông giống nhƣ mặt quỷ.
Giọng mỉa mai, phê phán còn thâm cay hơn khi một lãnh đạo, một Bí thƣ huyện
ủy lại chửi rủa, mạt sát cả một đứa trẻ nhƣ bé Lý: “Này, oe con. Nhớ về nói lại với
mẹ mày: Bây giờ nghe theo tao thì vẫn còn kịp đấy, hiểu chƣa!... Cái gì? Oe con
định nói cái gì? Đồ ngu! Đồ vô ơn!... Đói hả? Khát hả? Nhƣng mà đồ con hoang nhớ
cho là còn chƣa hết khốn nạn đâu!” [28, tr. 32]. Thật đúng là đau đớn, xót xa cho bộ
phận lãnh đạo lại có một ngƣời nhƣ ông. Giọng điệu mỉa mai, phê phán nhƣng
không giấu nổi sự căm phẫn của nhà văn về một Bí thƣ huyện ủy lại buông ra những
lời thô lỗ, thiếu văn hoá và ấu trĩ đến mức nhƣ vậy. Một đứa hài nhi nhƣ bé Lý đáng
lẽ ông phải cƣu mang, săn sóc nhƣng ở đây ông đã không quan tâm lại còn quát nạt,
mắng mỏ, dọa dẫm nó với những lời lẽ không thƣơng tiếc. Vậy, đây đúng là “một
tên vô lại súc sinh gian xảo, là kẻ đội lốt ngƣời mang tâm địa quỷ” nhƣ Ma Văn
Kháng đã khẳng định.
Giọng điệu mỉa mai, phê phán còn đƣợc thể hiện ở những dạng tri thức kém hiểu
biết, dùng từ thiếu văn hóa nhƣ cô Viêng khi đặt câu hỏi cho học sinh: “Một cô giáo
cộng với một cô giáo là mấy hả đồ con khỉ?” [28, tr.150]. Sắc thái giọng điệu này
vừa mỉa mai, phê phán những nhân vật trí thức "rởm", vừa tỏ ra lo ngại cho nền giáo
dục nƣớc nhà. Sự lo ngại đó nhƣ thấm vào từng câu chữ khi nhà văn phơi bày sự dốt
nát của nhân vật trí thức "rởm" trong sáng tác của mình.
Với việc sử dụng giọng điệu mỉa mai, phê phán trong sáng tác của mình, Ma
Văn Kháng muốn khơi dậy lòng căm ghét cái ác một cách toàn diện đối với loại
nhân vật này. Và họ đều giống nhau ở chỗ là lừa đạo, đục khoét, ngu dốt và vô văn
hoá… Ma Văn Kháng căm ghét tột độ cái xấu xa, nguyền rủa sâu cay kẻ ác. Ông
dám vạch mặt, chỉ tên loại lãnh đạo “rởm”, tri thức “rởm”. Hơn nữa, ông còn thẳng
thừng phê phán thực trạng xã hội “nham hiểm” hiện nay với biết bao tệ nạn và
những kẻ cầm quyền tha hóa đủ các cấp độ, những kẻ đã ngăn cạn sự phát triển của
xã hội, làm cho xã hội luôn tụt lùi lại phía sau. Đồng thời, ông cũng “phác ra phác
đồ một xã hội tốt đẹp với những con người tốt đẹp, sống có nhân cách đáng quý”
(thầy giáo ngoại ngữ - Thanh Thông).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Tóm lai, Trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi là Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý, Ma Văn Kháng đã sử dụng bốn sắc thái giọng điệu khác nhau. Và
bốn sắc thái giọng điệu ấy, cùng với một số những “sắc điệu bao quanh”, hòa quyện
trong hai tác phẩm tạo nên sức hấp dẫn riêng của tác giả, đồng thời còn góp phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
khẳng định phong cách nghệ thuật của Ma Văn Kháng.
KẾT LUẬN
1. Văn học thiếu nhi Việt Nam đã trải qua ngót một thế kỷ với khối lƣợng tác phẩm
đồ sộ, nội dung khá phong phú đa dạng và thực sự trở thành một bộ phận quan trọng
của nền văn học dân tộc. Văn học thiếu nhi là ngƣời bạn thân thiết, góp phần tích
cực vào việc hình thành nhân cách, bồi dƣỡng những tình cảm cao đẹp cho các em
ngay từ thuở ấu thơ, là hành trang cho các em trên suốt đƣờng đời. Là một tác giả
tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, Ma Văn Kháng - nhà văn từng đƣợc mệnh
danh là “ngƣời khuấy động văn đàn Việt Nam hiện đại” (Lƣu Khánh Thơ) và luôn
đƣợc coi là “ngọn cờ tiên phong đổi mới” có sức vẫy gọi.
Ma Văn Kháng là nhà văn đã dành cho các em sự quan tâm đặc biệt, bên cạnh
những sáng tác cho ngƣời lớn, ông còn sáng tác truyện dành cho thiếu nhi, tiêu biểu
là hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý. Viết cho các em ở lứa
tuổi không còn trẻ, có những khoảng cách rất xa về suy nghĩ, về cách nhìn nhận con
ngƣời và cuộc sống nhƣng Ma Văn Kháng đã thực sự xóa bỏ đƣợc mọi trở ngại do
tuổi tác tạo nên. Ông tự làm cho mình trẻ lại, đứng vào vị trí của con trẻ, tìm lại cách
nghĩ suy, tỏ bày và xét đoán con trẻ, rồi mạnh dạn đƣa đến cho trẻ thơ những tình
huống phức tạp của cuộc sống mà trẻ em đã có thể gặp hoặc sẽ phải gặp trong tƣơng
lai để tập dần cho các em cách xử lí tình huống, không bị choáng ngợp trƣớc hiện
thực bộn bề. Nhờ vậy, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã dành đƣợc những thành công
nhất định, chinh phục đƣợc nhiều tầng lớp độc giả kể cả những độc giả khó tính
nhất. Góp phần vào thành công của các tác phẩm truyện viết cho thiếu nhi nói chung
và hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý nói riêng không thể
không kể đến về nội dung tiểu thuyết và đặc sắc trong nghệ thuật tự sự.
2. Thành công và độc đáo nhất trong hai cuốn tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút
giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng là: Bức tranh đời sống xã hội;
Nghệ thuật miêu tả nhân vật thiếu nhi; Đặc sắc trong ngôn ngữ, giọng điệu và sự hòa
phối các sắc thái giọng điệu ở trong hai tác phẩm.
Truyện viết về thiếu nhi qua hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của
Lý của Ma Văn Kháng có kiểu nhân vật chính là con ngƣời. Nhân vật con ngƣời có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhân vật trẻ em và nhân vật ngƣời lớn. Nhân vật trẻ em tuy còn đang ở độ tuổi thơ
dại cũng đã bộc lộ tính cách rất đa dạng, trong đó chia thành hai kiểu cơ bản. Kiểu
nhân vật trẻ em có những hoàn cảnh khó khăn, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống
nhƣng biết vƣợt lên hoàn cảnh để trở thành những đứa trẻ chăm ngoan, bản lĩnh, tự
tin và học tốt. Còn kiểu nhân vật thứ hai là kiểu nhân vật trẻ em con nhà giàu, có
quyền thế nhƣng sống ích kỉ, ỷ lại, cậy quyền cậy thế để bắt nạt bạn, vu cáo cho bạn.
Theo mối quan hệ trẻ em thì nhân vật ngƣời lớn cũng có hai kiểu ngƣời lớn. Kiểu
nhân vật ngƣời lớn sống nhân hậu, thật thà, chất phác, am hiểu tâm lí con trẻ, là chỗ
dựa về tinh thần vững chắc cho trẻ. Còn kiểu nhân vật ngƣời lớn thứ hai là kiểu sống
vụ lợi, cơ hội, nham hiểm, xảo quyệt dùng các thủ đoạn để dọa dẫm, để áp bức và
đối xử bất công, làm ảnh hƣởng đến tâm hồn trong sáng của trẻ thơ.
Để sử dụng thành công nhân vật trên mọi phƣơng diện, tác giả đã sử dụng hai
biện pháp nghệ thuật đặc trƣng đó là biện pháp nghệ thuật miêu tả chân dung nhân
vật và nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm nhân vật. Khi miêu tả chân dung nhân
vật, tác giả chú ý đến những nét tƣớng mạo, dáng vẻ, cách ăn mặc và một số biểu
hiện bên ngoài để làm nổi bật cá tính, hoàn cảnh của nhân vật. Còn khi khắc họa đời
sống nội tâm nhân vật, đặc biệt là nhân vật trẻ em, qua những suy nghĩ, những trăn
trở, những ƣớc mơ, những khát vọng rất tinh tế, tác giả đã lột tả muôn mặt trong đời
sống tinh thần của các em một cách cảm động nhất. Nhƣng để thấy rõ đời sống nội
tâm cũng nhƣ sự phát triển tính cách của các em nhỏ, Ma Văn Kháng đã đặt các em
vào những tình huống rất nhảy cảm, kịch tính. Trong những tình huống ấy, từng
nghĩ suy, diễn biến tình cảm của các em đƣợc hiện lên rõ nét.
Ngoài hai biện pháp trên, khi xây dựng chân dung nhân vật, tác giả cũng quan
tâm đến nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu riêng. Sự tổng hòa của các yếu
tố đó góp phần làm nên thành công của mỗi kiểu nhân vật đặc trƣng này.
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả nhân vật, trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và
Chuyện của Lý, tác giả còn chú ý, quan tâm đến hai yếu tố nữa là ngôn ngữ và giọng
điệu. Về phƣơng diện ngôn ngữ, tác giả sử dụng hai kiểu ngôn ngữ chính, đó là:
Ngôn ngữ dung dị, đời thƣờng đậm đặc chất dân gian và mang đậm phong vị miền
núi; Ngôn ngữ giàu chất thơ, có tính biểu cảm cao. Với kiểu ngôn ngữ dung dị, đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thƣờng đậm đặc chất dân gian và mang đậm phong vị miền núi, tác giả đã tạo nên
dấu ấn đậm nét bằng một kho ngôn ngữ phong phú với các câu thành ngữ, tục ngữ,
ca dao, các bài hát ru, bài hát dân tộc Dao, các câu chuyện cổ tích… Với kiểu ngôn
ngữ giàu chất thơ, giàu tính biểu cảm, tác giả đã hoàn toàn chinh phục ngƣời đọc
bằng một hệ thống ngôn ngữ đẹp lấp lánh, từng chữ từng chữ nhƣ đƣợc dệt lên men,
làm cho tâm hồn ngƣời đọc thăng hoa. Bên cạnh hai kiểu ngôn ngữ chính đó, tác giả
còn sử dụng đan xen một số kiểu ngôn ngữ khác nhƣ sử dụng ngôn ngữ Hán Việt, sử
dụng ngôn ngữ mang đậm dấu ấn của đời sống hiện đại hay ngôn ngữ mới lạ do tác
giả sáng tao ra… Còn về giọng điệu, Ma Văn Kháng sử dụng bốn chất giọng đặc
trƣng đó là: Giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha; Giọng điệu suy ngẫm, triết lý sâu
xa, hƣớng về nhân bản, bênh vực quyền con ngƣời; Giọng điệu thƣơng cảm, xót xa;
Giọng điệu mỉa mai, phê phán. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng linh hoạt một số sắc
giọng khác nhƣ phân tích, lí giải và giọng tự vấn để thể hiện một cách đậm nét tƣ
tƣởng nghệ thuật của nhà văn.
3. Với sự tâm huyết về nghề văn của mình, là cây bút cần mẫn và say mê sáng tạo,
Ma Văn Kháng là nhà văn sống trung thực, có bản lĩnh, có thái độ bao dung và tấm
lòng nhân ái. Đặc biệt đối với các em thiếu nhi, tác giả luôn dành tình yêu thƣơng,
quan tâm giáo dục các em, vì các em còn “non nớt”, là những “búp trên cành” cần
phải đƣợc chăm sóc, vun trồng. Cho nên, qua hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút
giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng đã thật sự tạo nên một dấu ấn
đậm nét đối với độc giả nói chung và các em thiếu nhi nói riêng. Ông viết giản dị,
vừa tầm nhƣng lại biết cách để làm giàu có, nâng cao cách nói, cách nghĩ của các
em, coi trọng đến chức năng nhận thức và chức năng giáo dục đối với các em. Tác
phẩm của ông vừa tái hiện tài tình cuộc sống của trẻ thơ, vừa sâu sắc với mỗi cuộc
đời. Ông đã góp một tiếng nói riêng vào bộ phận văn học thiếu nhi, đặc biệt là mảng
đề tài về miền núi với mục đích để giúp cho văn học thiếu nhi là một bộ phận không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tách rời của đời sống văn học nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Duy Anh (Sƣu tầm, tuyển chọn), (2003), Ký ức tuổi thơ, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (2006), Đổi mới văn học và tinh thần nhân văn mới trong sự hội
nhập ý thức toàn cầu, Nghiên cứu Văn học (số 12), tr.106 - 113.
3. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội,
488 tr.
4. Lê Văn Chính (2004), Đặc điểm tiểu thuyết viết về đề tài thành thị của Ma Văn
Kháng, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội.
5. Nguyễn Minh Chung (2007), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới, Luận
văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
6. Phan Cự Đệ (1976), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, (2 tập), Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
7. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Hội nhà văn, H, 392 tr.
8. Trịnh Bá Đĩnh (2010), “Nghệ thuật và hiện thực trong văn học”, Báo Văn nghệ
(số 30).
9. Hà Minh Đức (1998), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, H, 359 tr.
10. Hà Minh Đức (Chủ biên), (2001), Những vấn đề lí luận lịch sử văn học, Nxb
KHXH, Hà Nội.
11. Thu Hà (Biên soạn), (2009), Thầy và trò, Nxb Lao động, H, 160 tr.
12. Thái Hà (Biên soạn), (2009), Thiên tài những tấm gương hiếu học, Nxb Văn
hóa - Thông tin, H, 180 tr.
13. Lê Bá Hán -Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên), (2011), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, 452 tr.
14. La Khắc Hòa (1999), “Khi nhà văn đào bới vào bản thể ở chiều sâu tâm hồn”,
Tạp chí Văn học, số 9.
15. Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan - Nguyễn Văn Thàng (2008), Tâm lí học lứa
tuổi và tâm lí học sư phạm, Nxb Thế giới, 224 tr.
16. Nguyễn Văn Hồng (2004), Chuyện văn, chuyện người, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
628 tr.
17. Cao Thị Hồng (2010), Suy ngẫm về triết lý nhân sinh, Văn hóa Nghệ thuật (số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
313), tr 108 - 110.
18. Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu đổi mới (giai
đoạn 1980 - 1989), Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
19. Bùi Lan Hƣơng (2004), Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội.
20. Dƣơng Thanh Hƣơng (2008), Cảm hứng nghệ thuật gắn với nhân vật trong
tiểu thuyết về đề tài dân tộc miền núi của Ma Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ,
ĐHSP, Hà Nội.
21. Mai Hƣơng, Vĩnh Thắng (Biên soạn), (2009), Câu chuyện gia đình, Nxb Thanh
niên, Hà Nội, 118 tr.
22. Mai Hƣơng (Chủ biên), (2010), Từ điển tác phẩm Văn xuôi Việt Nam, Tập 3,
Nxb Giáo dục Việt Nam, H, 1232 tr.
23. Đỗ Thanh Hƣơng (2011), Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn
Kháng đầu thế kỷ XXI, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội 2.
24. Ma Văn Kháng (2001), Côi cút giữa cảnh đời, Nxb Văn hoc, H, 292 tr.
25. Ma Văn Kháng (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, H.
26. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết, tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
27. Ma Văn Kháng (2011), Năm tháng nhọc nhằn, Năm tháng nhớ thương, Nxb
Hội nhà văn, H, 568 tr.
28. Ma Văn Kháng (2013), Chuyện của Lý, Nxb Hội nhà văn, H, 448 tr.
29. Ma Văn Kháng (2013), Phút giây huyền diệu - Tiểu luận và bút kí về nghề văn,
Nxb Hội nhà văn, H, 320 tr.
30. Ma Văn Kháng (2013), Chuyện của Lý - Cuốn sách của tình yêu (Tâm sự nghề
nghiệp), (tài liệu do nhà văn Ma Văn Kháng cung cấp).
31. Phong Lê (1999), Ma Văn Kháng với “Côi cút giữa cảnh đời”, in trong cuốn:
Vẫn chuyện Văn và Người, Nxb Văn hóa - Thông tin, H, tr 193 - 198.
32. Phong Lê (2005), Trữ lượng Ma Văn Kháng, Văn nghệ số 20, 21.
33. Tƣờng Linh (2010), Thông điệp từ cuộc sống, Nxb Thời đại, H,160 tr.
34. Phƣơng Lựu (Chủ biên), Nguyễn Nghĩa Trọng - Lê Khắc Hòa - Lê Lƣu Oanh
(2011), Lí luận văn học, Tập 1, (Văn học, nhà văn, bạn đọc), Nxb ĐHSP, Hà Nội,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
400 tr.
35. Phƣơng Lựu (2006), Lý luận văn học, Tập 3, (Tiến trình văn học), Nxb ĐHSP, H,
336 tr.
36. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, H, 272 tr.
37.Tôn Thảo Miên (2006), Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách, Nghiên
cứu Văn học (số 5).
38. Nam Minh (2008), Khoảnh khắc đời người (tiểu thuyết), Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội, 402 tr.
39. Hoàng Nam - Hoàng Tuân Cơ - Ma Văn Kháng (Tuyển chọn), (2000), Tuyển
tập văn xuôi dân tộc và miền núi (thế kỷ XX), Nxb Văn hóa dân tộc, 962 tr.
40. Phạm Trinh Nhữ - Trịnh Thị Thuận (9/1997), Tâm lý học xã hội (Tài liệu
học tập dùng cho sinh viên hệ đại học - trƣờng ĐHSP Thái Nguyên, khoa Tâm
lý - Giáo dục).
41. Mai Thị Nhung (2008), Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới
của Ma Văn Kháng, Nghiên cứu văn học (số 10).
42. Trần Giang Sơn (Biên soạn), (2010), Tu dưỡng đạo đức (500 câu chuyện học
làm ngƣời), Nxb Lao động xã hội, 290 tr.
43. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,
Nxb Văn học, Hà Nội, 280 tr.
44. Trần Đình Sử (Biên soạn), (1987), Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học,
trong sách Lí luận văn học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Trần Đình Sử (Chủ biên) - Phan Huy Dũng - La Khắc Hòa - Lê Lƣu Oanh
(2008), Giáo trình Lí luận văn học, Tập 1, Nxb ĐHSP, Hà Nội, 228 tr.
46. Trần Đình Sử (Chủ biên), La Khắc Hòa - Phùng Ngọc Kiếm - Nguyễn Xuân
Nam (2011), Lí luận văn học, Tập 2, Nxb ĐHSP, Hà Nội, 440 tr.
47. Hoàng Tiến (1980), “Đọc đồng bạc trắng hoa xòe”, Tạp chí Văn học (số 1).
48. Minh Tân - Thanh Nghi - Xuân Lãm (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh Hóa,
1048 tr.
49. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2001), Tâm lí học trẻ em, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
50. Vân Thanh (1999), Phác thảo Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
51. Vân Thanh (2006), Tác giả Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển Bách
Khoa, H, 904 tr.
52. Vân Thanh (1980), Truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng Tám,
Chuyên luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
53. Đỗ Phƣơng Thảo (2008), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng,
Chuyên luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
54. Bùi Việt Thắng (1991), “Văn xuôi gần đây và quan niệm về con ngƣời”, Tạp chí
Văn học (số 6).
55. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, (Nghiên cứu phê
bình), Nxb Hội nhà văn, H.
56. Nguyễn Ngọc Thiện (2005), Phong cách và đời văn, (Tiểu luận - phê luận),
Nxb Khoa học Xã hội, H.
57. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lý luận, phê bình và đời sống văn chương, (Tiểu
luận - phê luận), Nxb Hội nhà văn, H, 580 tr.
58. Nguyễn Ngọc Thiện (2011), “Bóng đêm và nghệ thuật tự sự tổng hợp mới của
Ma Văn Kháng”, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, H, tr. 8.
59. Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo (Đồng chủ biên), (2011), Văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại - Một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
450 tr.