ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PHẠM THỊ MAI HIỀN
NHÂN VẬT TỪ HẢI VÀ NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN
NHÌN THEO QUAN ĐIỂM GIỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn1
THÁI NGUYÊN - 2012
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PHẠM THỊ MAI HIỀN
NHÂN VẬT TỪ HẢI VÀ NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN
NHÌN THEO QUAN ĐIỂM GIỚI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS - TS. TRẦN NHO THÌN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn2
THÁI NGUYÊN - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn3
Phạm Thị Mai Hiền
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Trần Nho Thìn - người
đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn,
khoa sau đại học - Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên đã giảng dạy và
giúp đã chúng tôi hoàn thành khóa học.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn BGH, các phòng ban Trường phổ
thông Vùng cao Việt Bắc - TP Thái Nguyên đã tạo điểu kiện giúp tôi về mọi
mặt trong suốt thời gian học tập và hoàn thành bản luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, những người đã động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn4
Phạm Thị Mai Hiền
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................... 9
Chương 1: LÝ LUẬN GIỚI VÀ VIỆC PHÂN TÍCH CÁC NHÂN
VẬT NAM NHI – ANH HÙNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ......... 9
1.1 Những khái niệm về giới (gender) và giới tính (sex)............................. 9
1.2 Các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt Nam .................. 14
1.2.1 Các nhân vật văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XV ........................ 16
1.2.2 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII.................. 24
1.2.3 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX ... 27
1.2.4 Các nhân vật văn học cuối thế kỷ XIX: .......................................... 33
1.1 Tiểu kết .............................................................................................. 39
Chương 2: NHÂN VẬT TỪ HẢI TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA
NGUYỄN DU ............................................................................................. 41
2.1 Thân thế và thời đại Nguyễn Du ......................................................... 41
2.2 Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.......................... 44
2.2.1 Chân dung nhân vật Từ Hải......................................................... 44
2.2.2 Thái độ ứng xử với phụ nữ .......................................................... 49
2.2.3 Hành động của người anh hùng Từ Hải ....................................... 52
2.2.4 Những lời bình về nhân vật Từ Hải và các nhân vật nam............. 57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn5
2.3 Tiểu kết .............................................................................................. 64
ii
Chương 3: NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN TRONG TRUYỆN LỤC
VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU .............................................. 65
3.1 Thân thế và thời đại Nguyễn Đình Chiểu............................................ 65
3.2 Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn
Đình Chiểu ............................................................................................... 68
3.2.1 Lí tưởng nhân nghĩa của người anh hùng Lục Vân Tiên .............. 68
3.2.2 Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga ............................... 75
3.2.3 Quan niệm đối lập nhân vật chính diện - phản diện ..................... 82
3.3 Tiểu kết .............................................................................................. 89
KẾT LUẬN................................................................................................. 90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn6
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 92
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Từ Hải và Lục Vân Tiên-hai
nhân vật nam giới. Chúng tôi chọn hai nhân vật nam giới của văn học trung
đại để khảo sát có một số lý do sau. Văn hóa truyền thống phương Đông
trong đó có văn hóa Việt Nam nếu xét từ góc độ văn hóa giới, là văn học nam
quyền. Trong quan hệ xã hội giữa nam và nữ, nam giới thống trị .Từ xa xưa,
sự thống trị của nam giới néo chắc vào vô thức của chúng ta đến mức ta
không nhận thấy nó nữa và phù hợp với những trông đợi của chúng ta đến
mức khó mà xét lại nó. Sự thống trị của nam giới không chỉ tồn tại trong xã
hội mà nó còn ngự trị trong đời sống văn học nghệ thuật
Văn học trung đại Việt Nam trong cái nhìn lịch sử, nhất là từ khi
hệ thống văn tự được xác lập, phái nam gần như giữ vai trò thống trị tuyệt đối.
Họ áp đặt các chuẩn mực của họ về cái đẹp, về hành vi, về đức hạnh cho người
phụ nữ, bất công bất lợi cho người phụ nữ và có lợi cho nam giới. Đó là kiểu văn
hóa nam quyền. Nghiên cứu các nhân vật nữ trong không gian văn hóa nam quyền
đã được một số lv thạc sĩ gần đây tìm hiểu. Nhưng văn hóa truyền thống phương
Đông cũng còn là văn hóa thanh giáo (puritanism), tuyên truyền con người khắc
kỷ, và chủ nghĩa khắc kỷ này chi phối cả hai giới nam và nữ. Không gian văn hóa
Thanh giáo với nhiều cấm kỵ về thân xác của xã hội Nho giáo hóa có ảnh hưởng
lớn đến việc xây dựng hình tượng nhân vật nam giới của văn học trung đại. Vấn
đề này ít được quan tâm ở Việt Nam. Đó là lý do đầu tiên hướng chúng tôi chọn
đề tài.
Nhưng nhân vật đàn ông không phải luôn luôn hiện ra như những người
khô khan, khắc kỳ chỉ biết chiến công hay sự nghiệp. Tùy theo giai đoạn văn học
sử khác nhau, các tác giả có thể xử lý khác nhau đối với nhân vật nam của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn7
Nguyễn Du tiếp tục phát triển những thành quả tích cực của trào lưu nhân đạo chủ
2
nghĩa của văn học Thăng Long. Nguyễn Đình Chiểu lại là tác giả trưởng thành
trong không khí phục hồi Nho giáo của triều Nguyễn ở Đàng Trong. Hai nhà nho
sống ở hai thời điểm gần nhau( cuối thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX) nhưng lại có
nhưng quan điểm trái ngược nhau khi xậy dựng nhân vật nam nhi anh hùng. Nhân
vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một nam nhi anh hùng
nhưng lại không tuân theo những quy tắc ứng xử như các nhân vật anh hùng theo
quan điểm của Nho giáo. Từ Hải có những nét phi thường nhưng cũng có những
yếu tố của con người phàm bình với mọi cung bậc cảm xúc không bị kiểm soát
bởi chủ nghĩa dân bản. Đây là một điểm mới trong quan niệm về người anh hùng
của Nguyễn Du. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn
Đình Chiểu ra đời trong một thời điểm lịch sử đầy biến động ở vùng đất Nam Bộ.
Chính vì thế hình tượng người nam nhi anh hùng có phần chịu ảnh hưởng giáo lí
Nho giáo mang đậm tính khắc kỉ.
Nghiên cứu đề tài " Nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên nhìn theo
quan điểm giới", chúng tôi chọn cách tiếp cận nhân vật dưới góc nhìn văn hoá để
có thể khai thác nhân vật toàn diện hơn ở mọi khía cạnh. Chúng tôi hi vọng kết
quả nghiên cứu của mình sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập và
giảng dạy văn thơ trung đại trong nhà trường.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hai tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và truyện Lục Vân Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu từ lâu đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
văn học. Tuy nhiên, khi nói về nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân
vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên, các nhà nho, các nhà nghiên cứu
văn học mới chỉ dừng lại ở việc bình phẩm các nhân vật hoặc nhấn mạnh giá
trị phản ánh hiện thực xã hội phong kiến; về quan niệm con người, chú trọng
phân tích nhân vật theo nghĩa không phải là một cá nhân mà là một phần tử
của một giai cấp, một tầng lớp, lý luận điển hình hóa xem xét nhân vật theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn8
nghĩa điển hình giai cấp. Cho đến thời điểm hiện tại, hầu như chưa có hay ít
3
có công trình nghiên cứu nhân vật Từ Hải và Lục Vân Tiên theo lý thuyết về
giới. Học giả Vũ Đình Trác với luận án tiến sĩ Triết lý nhân bản trong Truyện
Kiều bảo vệ tại Nhật Bản năm 1984 có đề cập đến tư tưởng nhân bản của
Nguyễn Du qua vấn đề giới như: cuộc đối thoại đầu tiên ở vườn Thuý,
"nguyên tác đã để Thuý Kiều trở thành chủ động, nói năng huyên thuyên và
tống tình Kim Trọng một cách khiêu khích. Nguyễn Du trái lại, trả Thuý Kiều
về với bản tính thanh cao của giai nhân tài trí, để cho Kim Trọng trở thành
chủ động, theo quan niệm Dương chinh phục Âm". Hoặc "những cảnh báo
oán của Thúy Kiều trong truyện Hán văn có vẻ nhuốm màu bạo dâm (sadism)
biểu lộ hết ác tâm của kẻ báo thù và đường lối dã man của xã hội loài người.
Dưới ngòi bút Nguyễn Du, những cảnh đó cần phải có tối thiểu, để trọn ý
nghĩa nhân quả và tâm lý thường tình của con người, nhưng ông muốn tránh
mọi cử chỉ và hành động vô nhân đạo". Trần Đình Hượu và Trần Ngọc
Vương có nêu vấn đề về loại hình " nhà nho tài tử" với hai nét thị tài, đa tình:
"Tài tử cũng là nho sĩ (...) (...) nhưng lí tưởng làm người của họ (...) không ở
chỗ tu thân, hành đạo, trí quân trạch dân mà là thoả mãn tính cách thị
tài và đa tình (…). Họ không quan tâm nhiều đến nghĩa quân thần, (...)đến
trách nhiệm với xã hội và còn đi xa hơn nữa đối lập tình với tính, tài với
đức, tự coi là những cá nhân chứ không còn là thần tử (...). Ước mong tự do
và hạnh phúc chỉ mới đặt ra trong một phạm vi hẹp là tình yêu (...). Tài tử là
những nhà nho chưa thể gọi là “bội đạo”, “li kinh” nhưng rõ ràng đã xa rời
quĩ đạo chính thống, tức là những nhà nho tu thân hành đạo hay ẩn dật theo lẽ
xuất xử”[64]. Thực chất đây cũng là cách nhìn ít nhiều mang tính chất của
giới tính ( nhà nho là đàn ông thì đa tình, đa dục và đề cao tài), song tiếc là
không đề cập đến nhân vật Từ Hải.
Tại hải ngoại, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc cũng có tiếp cận thú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn9
vị từ góc nhìn giới đối với nhân vật Lục Vân Tiên khi viết bài " Đọc... chơi
4
vài bài ca dao" đã giải thích vì sao cái tục lại được dân Nam Bộ áp dụng để
"xuyên tạc" nhân vật Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Theo ông, câu
ca dao tục tĩu, nhảm nhí:
Vân Tiên ngồi dưới gốc môn,
Chờ cho trăng lặn bóp ... Nguyệt Nga.
không dành cho nhân vật "máu dê" như Bùi Kiệm hay một nhân vật nào đó
trong Truyện Kiều như Thúc Sinh, Từ Hải, Mã Giám Sinh...lại chọn ngay
chính Lục Vân Tiên, một nhân vật được xem là nghiêm trang, nghiêm túc,
thậm chí nghiêm khắc, có thể xem như một khuôn mẫu về đạo đức, để bắt làm
cái chuyện phàm phu tục tử ấy là bởi vì có lí do của nó. Câu ca dao trên là
"một cách phản ứng chống lại thái độ đạo đức khắt khe, có phần giả tạo của
Lục Vân Tiên, và phần nào cũng là của Nguyễn Đình Chiểu". Vì mục tiêu "tải
đạo", các nhân vật Lục Vân Tiên đã trở thành biểu tượng luân lý do đó mất cả
tự nhiên! Truyện Lục Vân Tiên được truyền bá sâu rộng trong giới bình dân,
cứ "nói thơ" đạo nghĩa hoài cũng sẽ có lúc có người làm "thơ" hay đặt vè phê
phán lại Lục Vân Tiên và tác giả của nó, một phản ứng tâm lý bình thường
chê giới có học, nhà nho vốn đại diện cho uy quyền. Nguyễn Hưng Quốc đã
có lý khi cho rằng qua hai câu ca dao đó, người bình dân muốn Vân Tiên gần
gũi họ, một "người" như họ. Tuy nhiên, đây mới là một gợi mở cho hướng
phê bình văn học nhìn theo quan điểm giới của Nguyễn Hưng Quốc.
Tóm lại, còn rất ít người nghiên cứu nhân vật nam giới ở hai tác phẩm
này theo lý thuyết giới. Điều này khiến các nhân vật nam đôi khi bị nhìn nhận
thiên lệch về vấn đề giai cấp hoặc đạo đức mà mờ nhạt về đặc điểm giới.
Chính vì thế mà luận văn hy vọng góp phần nhỏ xới lên hướng nghiên cứu
giới của nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong
truyện Lục Vân Tiên, góp phần giúp người đọc thấy thêm những phương diện
khác của nhân vật trong hai tác phẩm này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này là nhân vật Từ
Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhân vật nam trong Truyện Kiều và truyện Lục
Vân Tiên trên cơ sở xem xét việc tác giả miêu tả, đánh giá, lý giải các phương
diện giới tính nam của nhân vật. Qua đó làm nổi bật sự chi phối của quan
điểm giới trong thời trung đại như một vấn đề văn hóa ảnh hưởng đến nghệ
thuật xây dựng hình tượng người anh hùng lí tưởng và người anh hùng đã bị
thế tục hoá.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như:
khái niệm giới; điểm qua các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt
nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX.
- Phân tích, cắt nghĩa hai kiểu nhân vật nam trong Truyện Kiều và
truyện Lục Vân Tiên từ góc nhìn giới. Từ đó có sự so sánh hai nhân vật để
thấy sự giống và khác nhau trong biểu hiện nam tính cũng như quan niệm của
hai tác giả về việc xây dựng những hình mẫu nam nhi lí tưởng trong xã hội
phong kiến.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp văn hóa học:
Chúng tôi vận dụng phương pháp tiếp cận văn hoá học để giải mã hình tượng
người nam nhi anh hùng, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng. Trong xã hội
phong kiến, giá trị đạo đức được coi là thước đo chuẩn mực người đàn ông chính là
những giáo lí Nho gia. Nho giáo chủ trương xây dựng con người xã hội theo lí tưởng
thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, con người nội thánh ngoại
vương, tu kỉ trị nhân. Quan điểm văn hoá này đã chi phối đến cách xây dựng hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn11
tượng người nam nhi anh hùng trong các tác phẩm văn học trong đó có nhân vật Từ
6
Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu .
- Phương pháp thống kê:
Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để khảo sát các nhân
vật nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, từ đó đi tìm hiểu nghệ thuật xây dựng hình
tượng nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên trong tác phẩm Truyện Kiều của
Nguyễn Du và truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài ra, chúng tôi
còn sử dụng phương pháp thống kê để xử lý thông tin trong các tư liệu lịch sử, tư
liệu văn học được sử dụng để chứng minh các luận điểm đã đưa ra.
- Phương pháp so sánh:
Chúng tôi lựa chọn phương pháp so sánh để thấy được các mối liên hệ
đa dạng, đa chiều cũng như nét chung, nét riêng độc đáo của nhân vật Từ Hải
và nhân vật Lục Vân Tiên.
- Phương pháp hệ thống:
Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống nhằm mục đích giúp cho việc tìm
hiểu nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục
Vân Tiên có được cái nhìn sâu sắc, đầy đủ hơn.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển
khai trong ba chương:
Chương I: Lý thuyết giới và các kiểu nhân vật nam trong tiến trình văn
học trung đại Việt Nam
Chúng tôi dành chương I làm cơ sở đi vào lý luận về Giới.
Xã hội phương Đông truyền thống là xã hội nam quyền. Trong quan hệ
giới giữa hai phái nam-nữ, người đàn ông thống trị, các chuẩn mực đạo đức,
thẩm mỹ của phụ nữ do nam giới đặt ra, thường có biểu hiện bất công đối với
người phụ nữ (trinh tiết, tam tòng tứ đức…).
Nhưng mẫu hình lý tưởng về nam giới cũng lại mang tính khắc kỷ đậm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn12
nét. Những nhân vật nam giới được văn học nhà nho ca ngợi thường là các
7
anh hùng, nam nhi quân tử, kẻ sĩ khắc kỷ, coi thường sắc đẹp, khô khan.
Những nhân vật nam bị phê phán thường là những kẻ phóng đãng, dâm loạn.
Sự phân tuyến chính diện-phản diện nhiều khi rạch ròi, không có trung gian.
Khái niệm Thân và Tâm của văn hóa truyền thống phương Đông đã chi phối
sâu sắc cách xử lý này. Người xưa dường như có quan niệm rằng sắc đẹp phụ
nữ và những dục tính thân thể có ảnh hưởng xấu, tiêu cực đến việc tu dưỡng
đạo đức, thực hiện lý tưởng của người thánh nhân, quân tử, trượng phu
(những người đàn ông). Vì thế nên họ có tư tưởng cảnh giác hay kỳ thị cao độ
đối với nữ sắc. Tuy nhiên, trong văn học, cũng có những trường hợp đột phá
các chuẩn mực đạo đức thẩm mỹ nho giáo chính thống như Truyện Kiều của
Nguyễn Du mà ta sẽ nghiên cứu.
Chúng tôi chọn nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục
Vân Tiên trong Truyện Lục Vân Tiên: đây là nhân vật của hai tác phẩm thuộc
hai giai đoạn văn học khác nhau, một tác phẩm (Truyện Kiều ) vay mượn cốt
truyện tiểu thuyết tài tử giai nhân (Kim Vân Kiều truyện), một tác phẩm (Lục
Vân Tiên) có tính chất tự truyện. Nguyễn Du tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo,
chủ tình, mang tư tưởng nữ quyền; còn Nguyễn Đình Chiểu sống ở Nam Bộ,
một vùng đất mới khẩn hoang, cư dân từ mọi miền hội tụ rất cần có đạo nghĩa
trong ứng xử, ông lại tiêu biểu cho giai đoạn nhà Nguyễn phục hồi Nho giáo,
giai đoạn văn học mà nhà Nguyễn ưu tiên cho tuồng, đề cao con người phận
sự, chức năng trong luân thường mà coi nhẹ con người trần thế, cá nhân. So
sánh để xem hai tác giả khác nhau xử lý như thế nào với nhân vật nam giới,
sự khác nhau, giống nhau, góp phần hình dung bức tranh văn học sử.
Chương II: Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Chọn nhân vật Từ Hải làm đối tượng khảo sát, chúng tôi có ý tìm hiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn13
những đột phá của Nguyễn Du trong quan niệm đạo đức thẩm mỹ.
8
Những biểu hiện nam giới của Từ Hải: thân thể kỳ vĩ, cường tráng, sức
dư muôn người, có lòng trọng nghĩa khinh tài... Đây là nét truyền thống của
nhân vật anh hùng hảo hán, giang hồ nghĩa hiệp, nhưng có nét mới, cách tân,
biết trân trọng sắc đẹp phụ nữ, có tình yêu lãng mạn Thiếp danh đưa đến lầu
hồng, Đôi bên cùng liếc đôi lòng cùng ưa. Từ Hải là nam nhi, anh hùng
(Nguyễn Du nhiều lần gọi Từ Hải là anh hùng). Nhưng Từ Hải không khắc
kỷ, cũng lãng mạn, đi tìm hình bóng giai nhân, đến với Kiều như việc đi tìm
người tri kỷ, có tình yêu, có hạnh phúc ân ái "trai anh hùng, gái thuyền quyên
/ đẹp nguyền sánh phượng phỉ duyên cưỡi rồng"... Điều này có từ Kim Vân
Kiều Truyện nhưng đã được Nguyễn Du sáng tạo, tô đậm.
Đây là đặc điểm chung cho các nhân vật nam chính diện ở Truyện Kiều.
Truyện Kiều còn có nhân vật Thúc Sinh với biểu hiện nam tính thiên về sắc tình
nhưng tấm lòng độ lượng bao dung của Nguyễn Du không phê phán, lên án.
Chương III: Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu
Ở chương III này, chúng tôi tìm hiểu nhân vật nam Lục Vân Tiên để
thấy xu hướng tôn nho trở lại của vùng đất phương Nam dưới thời Nguyễn đã
ảnh hưởng đến sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Lục Vân Tiên có những vẻ
đẹp truyền thống của nam nhi, anh hùng, nhưng thiếu chất lãng mạn, thiếu sự
đa tình.
So sánh nhân vật Lục Vân Tiên với nhân vật Từ Hải để thấy sự giống
nhau và khác nhau trong biểu hiện nam tính. Một điểm khác biệt quan trọng là
tính chất khắc kỷ, là vẻ nghiêm nghị đạo mạo quá mức trước phụ nữ. Tác giả
Nguyễn Đình Chiểu cũng đối lập gay gắt hai kiểu chính diện -phản diện bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn14
đối lập những biểu hiện yếu tố nam tính.
9
NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN GIỚI VÀ VIỆC PHÂN TÍCH CÁC NHÂN VẬT
NAM NHI –ANH HÙNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
1.1 Những khái niệm về giới (gender) và giới tính (sex)
Trong những năm gần trở lại đây, thuật ngữ “Giới” (gender) – khác biệt
với thuật ngữ “Giới tính” (sex), thường xuất hiện trong các bài viết, các công
trình nghiên cứu ở Việt Nam. Giới thường được nói đến ở hai khía cạnh sinh
học và xã hội. Ở vấn đề này, chúng tôi không có tham vọng đi sâu nghiên cứu
những vấn đề chuyên môn thuộc lĩnh vực này mà chỉ đi tìm hiểu khái niệm "
giới" và "giới tính" để phục vụ cho những vấn đề có liên quan đến bài viết của
mình. Khái niêm "giới" mà chúng tôi đề cập ở đây được hiểu theo góc độ xã hội.
Theo Hoàng Bá Thịnh trong bài Tiểu luận xã hội học về giới thì "giới"
được hiểu như sau: Khái niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả
mối quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ này có sự phân biệt vai trò,
trách nhiệm, hành vi xã hội mong đợi và quy định cho mỗi giới, phù hợp với
những đặc điểm văn hoá, chính trị, kinh tế và tôn giáo. Do vậy, nó luôn biến đổi
theo thời gian và có sự khác biệt theo không gian; vì thế nó luôn biến đổi theo
các giai đoạn lịch sử và có khác biệt giữa các cộng đồng, xã hội” [52.54].
Reiter 1975: 159: Giới là một thành phần của hệ thống giới tính. Hệ
thống giới tính (gender/sex sytem) chỉ "sự sắp xếp mà trong đó xã hội qui
định sự tương ứng giữa giới tính sinh học và hành vi con người, trong đó
(Nguồn: Dịch từ http://en.wikipedia.org/wiki/Gender- role )
những nhu cầu được thỏa mãn".
Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam định nghĩa: “Giới là phạm trù chỉ
quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn15
ra gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm
10
giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi
được” [13.33].
Trong cuốn tài liêu giáo dục Giới và các vấn đề đô thị của TS.Trần Thi
Kim Xuyến thì giới được định nghĩa: "Giới ( gender) là một thuật ngữ chỉ vai
trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ từ góc độ xã
hội; giới đề cập đến sự phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn lựcvà
lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể" [67.3].
Theo Bem và Coltrane, các nhà nghiên cứu xã hội học của đại học
Oregon đã xác định 3 “thấu kính giới” chủ chốt (các giả thuyết ẩn): sự phân
cực giới (đàn ông và đàn bà là khác nhau và sự khác biệt này một nguyên tắc
tổ chức trung tâm của cuộc sống xã hội), androcentrism (nam giới ưu trội
hơn nữ giới; kinh nghiệm nam giới là tiêu chuẩn, nam quyền); và chủ
nghĩa thiên về những kiến giải sinh học (hai thấu kính đầu tiên là do sự
khác biệt về sinh học giữa các giới tính). Đây là một cách tiếp cận cấu trúc xã
hội đã nhìn nhận sự tiếp nhận đặc điểm về giới như sự đoán trước hoàn
thiện nhân cách cá nhân. Như vậy, "giới là sự khác biệt mang tính xã hội
(không phải sự khác biệt về sinh học), chỉ sự tương quan về vai trò xã hội, vị
trí và giá trị xã hội giữa phụ nữ và nam giới". Sự khác biệt về giới không phải
vốn có cùng với sự tồn tại của nam và nữ mà là sự tập hợp các hành vi học
được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm, phẩm chất, năng lực được
cân nhắc nhằm xác định thế nào là một người nam giới hay một người phụ nữ
(hoặc cậu bé – cô bé), trong một xã hội hay nền văn hóa nhất định.
Như vậy, "giới" là những đặc điểm mà xã hội đã tạo nên ở người nam
và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những đặc
trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm
nhiều vấn đề như: vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn16
giới trong xã hội… Những vấn đế này thường do xã hội quy định và biến đổi
11
theo từng giai đoạn lịch sử, từng quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục
tập quán của mỗi dân tộc…
Giới tính(Sex): các đặc điểm về cấu tạo cơ thể, liên quan đến chức
năng sinh sản của phụ nữ và nam giới được gọi là giới tính. Đây là những
đặc điểm mà phụ nữ và nam giới không thể đổi chỗ cho nhau. Cụ thể là phụ nữ
mang thai, sinh con, cho con bú, nam giới tạo ra tinh trùng để thụ thai.
Giới và giới tính có mối quan hệ rất chặt chẽ và phức tạp. Giới là cơ sở
để tạo nên giới tính. Những đặc điểm sinh học của giớí xác định giới tính về
mặt sinh học đồng thời cũng là những biểu hiện của giới tính về mặt sinh học.
Ở góc độ này, giới là một bộ phận của giới tính, đồng thời giới chi phối và
quyết định giới tính. Những đặc điểm xã hội của giới cũng góp phần hình
thành những đặc điểm xã hội của giới tính. Chúng cũng chi phối và quyết
định sự hình thành giới tính.
Sự phân cực vai trò giới trong xã hội ngày càng trở nên rõ nét. Nữ giới thì
được gắn với những đặc điểm như là giàu tình cảm, thận trọng, tính hợp tác,
tinh thần cộng đồng và sự phục tùng. Còn nam giới có xu hướng được
gắn với các đặc điểm như duy lý, có năng lực, thích ganh đua, chủ nghĩa cá
nhân và sự tàn nhẫn. Nam giới theo bản năng tự nhiên của mình luôn thể hiện
sự phân tích và tính cạnh tranh nhiều hơn, trong khi đó phụ nữ giàu lòng trắc
ẩn và thiên về sự chăm chút tỉ mỉ cho những người xung quanh. Có nhiều giả
thuyết và lý giải khác nhau cho sự khác biệt độc đáo này. Theo tiến sĩ người
Mỹ Cordelia Fine, đồng thời là tác giả cuốn Ảo giác về giới tính (Delusions of
gender), sự khác biệt giữa hai giới không chỉ xuất phát từ cấu tạo tự nhiên
khác nhau của não hay sứ mệnh sinh học của mỗi giới mà còn là do yếu tố tác
động của xã hội và môi trường sống.
Trong văn hoá người Việt, giới có tác động không nhỏ đến sự phân
công lao động giữa người phụ nữ và nam giới trong gia đình. Người đàn ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn17
luôn là người giữ vai trò trụ cột trong gia đình. Mọi lĩnh vực có liên quan đến
12
đời sống gia đình như: làm nhà, dạm vợ, gả chồng cho con cái, chăn nuôi,
trồng trọt… nhất nhất đều do người đàn ông chủ gia đình quyết định. Tư
tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo góp phần làm cho chế độ phụ hệ gia
trưởng trong người Việt thêm củng cố. Trong một gia đình nếu không có con
trai nối dõi tông đường thì dù có bao nhiêu con gái thì dư luận xã hội cũng
chồng, người con gái không có quyền được lựa chọn người chồng. Với tục “Cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và với lệ thách cưới người con gái trở thành một vật
trao đổi mua bán. Người phụ nữ sau khi đi lấy chồng trở thành thành viên của
đều cho là không có con (Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đến tuổi lấy
gia đình chồng "Con gái là con người ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về" và
cũng từ đây họ và tên của người đàn bà sẽ biến mất. Ngay cả cách dạy con
của bà mẹ trong bài ca dao ở Quốc văn giáo khoa thư cũng thể hiện rất rõ vị
trí của người nữ giới và nam giới trong xã hội:
Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha:
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa,
Trai thì đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa,
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân.
Trong văn hoá làng xã, chỉ có đàn ông mới được lên đình làng bàn
việc, phụ nữ ở nhà, việc tổ chức các lễ nghi tôn giáo cũng do người đàn ông
thực hiện. Cái nhìn của nam giới về phụ nữ cũng có phần khinh miệt. Trong
quan hệ nam nữ, phạm trù trinh tiết như là biểu hiện của đạo đức chỉ áp dụng
cho người phụ nữ; còn người đàn ông không bị ràng buộc bởi phạm trù này.
Không ai lại đi khen hay chê người đàn ông vì giữ (hay không giữ) trinh tiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn18
với vợ, song trinh tiết là một trong những chuẩn mực để khen chê đức hạnh
13
người phụ nữ. Một nhà nho có thể có hàng chục vợ hay một ông vua có hàng
trăm cung nữ, nhưng vẫn “vô tư” bàn về trinh tiết phụ nữ, vẫn sẵn sàng làm
thơ, viết văn ngợi ca những người phụ nữ “tiết hạnh khả phong”. Và, với quan
niệm “tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, những
người phụ nữ nạn nhân của chế độ đa thê (bất kể là vợ cả hay vợ lẽ), suốt đời
chìm đắm trong những mối mâu thuẫn, bất hòa, khổ đau nhiều khi chỉ vì
những chuyện rất vụn vặt. Từ luật Hồng Đức đến luật Gia Long là quá trình
phát triển ngày càng phản động của chế độ phong kiến đối với phụ nữ. Những
cực hình, chỉ áp dụng riêng đối với phu nữ khi bị coi là làm những việc trái
với luân thường đạo lí: thả bè trôi sông, gọt gáy bôi vôi, ngựa xé, voi giày...
Thực tế về cái nhìn nam quyền rất phổ biến trong văn học trung đại.
Các nhà nho xưa thường coi phụ nữ là lực cản trên con đường tu dưỡng đạo
đức nên phải xa lánh nữ sắc, coi nữ sắc nguy hiểm như ma quái, quỉ, hồ ly
tinh, rắn báo oán. Truyền thuyết về Thị Lộ là rắn báo oán, các nhân vật phụ
nữ ma quái trong Truyền kỳ mạn lục... ra đời cũng bởi xuất phát từ chính
những quan niệm này. Trong Gia huấn ca của Nguyễn Trãi, phần lớn những
bài giáo huấn là để răn dạy người phụ nữ trong gia đình phải biết đối nhân xử
thế trong mọi trường hợp với cha mẹ, với chồng, với bạn chồng, với trong họ,
ngoài làng...Trái lại, cái nhìn của xã hội (cũng là nam giới thống trị) về người
nam giới thường là ca ngợi mẫu hình nam nhi, quân tử, anh hùng, trượng phu,
con người trên phương diện xã hội mà tỏ ra khinh miệt những kẻ mê đắm nữ
sắc, coi như những nhân vật phản diện. Những hiện tượng này vẫn còn tồn tại
dai dẳng cho đến tận ngày nay. Người đàn ông theo quan niệm Nho giáo phải
lập công danh sự nghiệp, có chí khí nam nhi, chí khí anh hùng. Để thực hiện
lý tưởng cao cả đó, họ phải gạt bỏ tình cảm nhi nữ, không đam mê sắc đẹp
như thiền sư (nam nhân) hy sinh đời sống tình dục để tu luyện những phép
thuật để đạt được những khả năng phi thường hay nhà nho tiết dục, quay lưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn19
lại tiếng gọi của thân xác, của sắc đẹp bởi nó chính là nguyên nhân gây nên
14
suy vong, sụp đổ cho của các triều đình, bất hạnh tai hoạ cho gia đình và nỗi
đâu khổ cho cá nhân Đó là lý do sâu xa của việc họ coi thường sắc đẹp.
Quan niệm văn hóa về đặc điểm và vai trò của giới có vai trò chi phối,
tác động đến cách xây dựng hình tượng nhân vật (cả nam và nữ). Trong
nghiên cứu văn học, người ta có thể vận dụng phương pháp nghiên cứu giới
của nhân vật văn học để tìm hiểu các kiểu hình tượng nam, nữ. Trước đây,
nhân vật nam, nữ thường chỉ được nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay
bị áp bức, theo quan điểm đạo đức, đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn
giới, chúng ta thấy thêm những phương diện khác của nhân vật. Từ đó, chúng
ta có thể phân tích một cách toàn diện sự ảnh hưởng của các quan niệm giới
thời trung đại tới cách nhìn nhận và sự xây dựng hình tượng nhân vật.
1.2 Các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt Nam
Mỗi nền văn học ở một quốc gia nào đó đều có sự vận động theo tiến
trình vận động của lịch sử. Văn học Việt Nam trung đại cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Đặt văn học vào tiến trình vận động của nó sẽ giúp người
đọc có cái nhìn toàn diện hơn về đề tài, thể loại, ngôn ngữ, nhân vật ... Tuy
nhiên, các vấn đề về phân kì lịch sử dân tộc và quy luật vận động của văn học
dân tộc vẫn luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận trong các cuộc hội thảo. Có
rất nhiều quan niệm về phân kì lịch sử văn học dân tộc Việt Nam được đưa ra.
Theo giới nghiên cứu mácxít thì quy luật vận động của tiến trình văn học
trung đại đều dựa vào nội dung được phản ánh trong các giai đoạn khác nhau
để phân định ranh giới giữa chúng. Cách phân kì này còn bộc lộ những vấn đề
bất cập bởi "đời sống văn học là kết quả của mối quan hệ tương tác giữa chủ
thể và khách thể. Sự thay đổi của các yếu tố thuộc về hiện thực xã hội lịch sử
với tư cách là đối tượng của sự phản ánh phải được chủ thể là nhà văn nhận
thức để chuyển hoá thành tác phẩm văn học. Tất nhiên, sự thay đổi của chủ
thể cũng là do nhân tố khách thể quy định, song là sự quy định phức tạp. Vả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn20
lại, chủ thể có sự độc lập tương đối với khách thể. Chủ thể sáng tạo nhìn
15
ngắm thế giới khách quan và xử lí các quan sát hiện thực bằng vốn tri thức
văn hoá, bằng quan điểm chính trị , đạo đức - thẩm mĩ, những yếu tố chịu sự
tác động của nhiều nhân tố khác nhau"[49.69]. Ngược dòng thời gian trở lại
với cách nhìn nhận tiến trình văn học của tác gia văn học Phạm Đình Hổ
(1768 - 1839) trong Vũ trung tuỳ bút, ông cho rằng tiến trình văn học sử được
nhìn nhận theo lịch trình các triều đại. Đây là một quan điểm không mấy khoa
học và hiện nay không còn được sử dụng. Tuy nhiên, mốc Lê Trung hưng mà
ông đưa ra đã thuyết phục được giới nghiên cứu văn học trung đại nước nhà.
Sự kiện Lê Trung hưng bắt đầu khi nhà Lê, nhờ có sự phò tá của họ Trịnh,
đánh bại nhà Mạc, trở lại Thăng Long đã mở ra một cái nhìn mới về lịch sử
văn học dân tộc cũng như sự thay đổi về đề tài, thể loại, ngôn ngữ, nhân vật...
Ở đây, chúng tôi không có tham vọng khảo sát tất cả sự đổi thay trong quá
trình vận động của nền văn học Việt Nam trung đại mà chỉ khảo sát một khía
cạnh nhỏ đó là các kiểu nhân vật nam trong văn học Việt Nam trung đại.
Nhìn lại những trang lịch sử từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XVII, các
triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng lần lượt ra
đời, phát triển và suy vong. Tất cả những điều đó đều được phản ánh rõ nét
trên lĩnh vực văn hoá. Sự hình thành và phát triển của dòng văn học viết trong
thời kỳ này là một biểu hiện rõ nét của công cuộc phục hưng và phát triển văn
hoá trong nước Đại Việt ngày càng trên đà lớn mạnh. Nền văn học Đại Việt từ
đây cũng đã hình thành một lực lượng sáng tác ngày càng đông đảo. Tuy
nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy, chủ thể sáng tác và đối tượng phản ánh trong
các tác phẩm văn học gần mười thế kỷ tuyệt đại đa số là nam giới. Những
mẫu hình lí tưởng về nam giới qua các các tác phẩm văn học ở từng thời kỳ
cũng được phản ánh rõ nét. Nhân vật chính từ thơ thiền đến thơ của các nhà
nho đều hướng về những mẫu hình lí tưởng thông qua hai phạm trù thân và
tâm. Các nhân vật như thiền sư, nam nhi, quân tử, sĩ nho, nam giới... đều là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn21
những nhân vật - mẫu người lí tưởng đoạn tuyệt với cái gọi là bản năng như
16
mọi cám dỗ về vật chất, mọi nhu cầu bản năng tình dục ( hay còn gọi là tính
dục), luôn sống phấn đấu vì lí tưởng nhân cách cao thượng. Văn học sau Lê
Trung hưng, con người thế tục là mẫu hình chủ đạo của văn học. Ở giai đoạn
này xuất hiện các nhân vật nam là những sĩ tử đi thi và gian lận trong thi cử,
những tên quan lại ăn hối lộ, sách nhiễu dân lành, chúa Trịnh ăn chơi xa đoạ...
Ở mục này, chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua các nhân vật nam giới trong theo
các giai đoạn lịch sử như đã nói ở trên.
1.2.1 Các nhân vật văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
Văn học từ thế kỉ X đến thế đến thế kỉ XV, cụ thể từ đời Lý đến đời Lê,
phát triển rầm rộ xoay quanh các cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm của
dân tộc. Bộ phận văn học đời Lý và đầu đời Trần chủ yếu do các nhà sư sáng
tác và điều mặc nhiên nhận thấy là các nhân vật trong những trang viết là các
thiền sư.
Nói đến Phật giáo, người ta thường nghĩ đến một triết lí siêu hình,
những quan niệm về cuộc đời là ảo ảnh, hư vô và quay lưng lại nó; nhưng các
nhà sư thời Lí, Trần đã không quay lưng lại cuộc đời mà nhập thế tích cực.
Qua thơ văn Lí, Trần, chúng ta dễ dàng nhận ra con người thời kỳ này có cách
nhìn hoàn toàn mới về cuộc đời, một lối sống với đầy đủ chất liệu mang đậm
tính nhân văn. Và hơn thế nữa, “nhà chùa thời này không quay lưng với cuộc
đời, không thoát ly hiện thực mà tham gia đắc lực vào những hoạt động xã
hội. Nhiều nhà sư là chỗ dựa vững chắc cho nhà vua. Họ có vai trò quan trọng
trong triều đình và sáng tác của họ cũng ít tính chất vô hư, thơ văn của họ
thường hồn nhiên, sôi nổi, lạc quan yêu đời, ngay cả những trường hợp họ lý
thuyết về Phật giáo" [25.35]. Mãn Giác thiền sư ((1051-1096) trong bài Cáo
tật thị chúng là hình ảnh một thiền sư với tư tưởng lạc quan yêu đời thể hiện
tinh thần vô uý và tin vào nhịp điệu vận hành biến động liên tục nên không lo
sợ sự biến đổi lên xuống của cuộc đời. Trong cách nhìn của nhà thơ, cuộc đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn22
không phải sớm nở tối tàn , mà tàn rồi lại nở:
17
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhỡn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai,
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
( Hoàng việt thi tuyển - BÙI HUY BÍCH)
(Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân tới trăm hoa nở.
Việc đời ruổi qua trước mắt,
Cảnh già hiện ra trên đầu.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, một cành mai nở trước sân.)
Quảng Nghiêm thiền sư (1121- 1190) trong bài Thị tật khi nhắc đến
quan niệm về "tịch diệt", " vô sinh" không tỏ thái độ khẳng định mà có vẻ
hoài nghi:
Ly tịch phương ngôn tịch diệt
Khứ sinh hậu thuyết vô sinh
( Lìa được cõi tịch mới có thể nói chuyện tịch diệt
Thoát được sự sinh mới nói được chuyênh vô sinh)
Quan niệm của nhà sư về " chí nam nhi", về "tài trai" thì thể hiện khá rõ
nét chủ nghĩa lạc quan dồi dào sinh lực của dân tộc. Đó là hình mẫu nam nhi
có ý chí, có con đường đi riêng cho bản thân mình để đạt được mục đích chứ
không nên theo vết chân người đi trước, dù người ấy đã thành công như Đức
Phật Như Lai:
Nam nhi tự hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như lai hành xứ hành.
(Làm trai tự có cái chí xông lên trời,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn23
Không cần phải đi vào con đường mà Như Lai đã đi)
18
Không chỉ dừng lại ở nhân vật thiền sư ngộ đạo có dũng khí vô uý, văn
học Lí - Trần còn xây dựng những nhân vật thiền sư nhờ quá trình tu tâm mà
có khả năng phi thường có thể đem lại quyền pháp kì vĩ cứu nhân độ thế. Tác
giả Thiền uyển tập anh đã khắc hoạ các kiểu nhân vật thiền sư có sự khác
thường và có phần kì dị về hành trạng, phẩm cách và tài năng. Thiền sư
Không Lộ có thể “bay trên không, đi dưới nước, hàng long phục hổ, muôn
phép lạ không lường hết được”. Thiền sư Đạo Hạnh " ném gậy xuống dòng
nước xiết, gậy liền trôi ngược; lại có thể khiến rắn rết, muông thú đến chầu
phục, đốt ngón tay cầu mưa, phun nước phép chữa bệnh, không việc gì là
không ứng nghiệm”. Nhân vật thiền sư trong Thiền uyển tập anh còn được
biết đến ở trình độ học vấn phi thường. Trong số 41 bài sự tích các vị sư gồm
16 vị sư thuộc phái Thiền tông của Võ Ngôn Thông và 25 vị sư thuộc phái
Thiền tông của Vinitaruci, chúng tôi nhận thấy các nhân vật thiền sư đều có
điểm chung được kể đến ở trình độ học vấn uyên bác, trí tuệ tinh anh ngay từ
nhỏ. Thiền sư Pháp Thuận "học rộng, thơ hay có tài giúp vua, hiểu rõ việc
nước...Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ".Đại sư
Khuông Việt "thụ nghiệp thiền sư Vân Phong ở chùa Khai quốc (?) tại đây sư
đọc khắp kinh sách nhà phật hiểu hết mọi yếu chỉ của thiền tông. Năm 40 tuổi
tiếng tăm lừng lẫy trong nước". Thiền sư Cứu Chỉ "thuở nhỏ hiếu học, đọc
khắp các kinh điển Nho, Phật, Không thứ gì là không quán xuyến". Thiền sư
Quảng Trí "dốc trí tu thiền, không đầy một năm mà phong độ tiếng tăm
truyền xa". Thiền sư Ngộ Ấn "10 tuổi đã theo học nghiệp Nho. Thiền sư Vạn
Hạnh "thuở nhỏ đã khác thường, gồm thông 3 học, nghiên cứu trăm luận".
Tăng sư Huệ Sinh tướng mạo kì vĩ, ăn nói lưu loát , rất giỏi văn chương, có
tài viết vẽ. Học Nho rảnh rỗi sư nghiên cứu thêm sách Pháp, học bách luận và
các kinh, không gì không xem hết". Thiền sư Tịnh Lực "thuở nhỏ thông minh,
biện tài, sở trường nghề văn, thể chữ càng giỏi". Thiền sư Huyền Quang "là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn24
người có tiếng nói dịu dàng, dung mạo đẹp đẽ...Sư học vấn thông tuệ, mỗi
19
ngày học hàng vạn chữ, không đầy 10 năm, gồm thông tam học". Sư đã từng
đỗ đại khoa từ năm 20 tuổi, được triều đình bổ vào làm việc ở Viện Hàn lâm,
chuyên tiếp đón Bắc sứ nhưng sau đó “nhiều lần dâng biểu xin từ chức, muốn
được xuất gia tu hành học đạo” cuối cùng trở thành một vị thánh tăng “tinh
thông thánh đạo, các tăng ni theo học có tới ngàn người”. Rõ ràng, thực hiện
mục đích tôn vinh đức hạnh siêu việt, tài năng khác thường của của các bậc
thiền sư từ thế kỉ IX đến thế kỉ XIII, Thiền uyển tập anh cho người đọc có cơ
hội được nghiền ngẫm, dung nạp, thu nhận các phương thức khắc hoạ kiểu
nhân vật rất thanh thoát mà gần gũi với văn hoá Phật giáo. Có thể nói, các
thời đại kế tiếp khó có thể tìm thấy hình ảnh những thiền sư giàu lòng yêu
đời, yêu cuộc sống, luôn hướng về chúng sinh như thời đại Lý, Trần. Tuy
nhiên, các nhà sư-nam nhân hiện ra trong thơ là vô tính . Họ sợ tính dục thân
xác vì tính dục có thể hại cho sự tu trì phép thuật (Trước nhà vua, sư Huyền
Quang đã chứng minh ông vô tội trong câu chuyện Điểm Bích bằng cách hô
gió gọi mưa, tức là chứng minh ông trong sáng, vì nếu có quan hệ tính dục
với Điểm Bích chắc đã mất phép thiêng )
Bộ phận văn học cuối đời Trần sang đời Hồ và đầu đời Lê chủ yếu là
do các nho sĩ sáng tác vì vậy Nho giáo đã để lại dấu ấn trong văn học. Mẫu
hình con người lí tưởng của Nho giáo với tam cương ngũ thường, với đạo lí
trung hiếu tiết nghĩa, với chí khí tu, tề, trị, bình... cũng xuất hiện ngày càng
nhiều trên những trang văn thơ. Ở thời kì này, hình tượng "nam nhi" gắn liền
với chí hướng lập công, được người đời ca tụng là chủ đề được nhiều nhà thơ,
nhà văn nhắc đến. Theo Phạm Ngũ Lão chí làm trai phải gắn liền với hai chữ
công danh, Chí làm trai này mang tinh thần, tư tưởng tích cực, gắn với ý thức
trách nhiệm, lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm cho đời).
Chí làm trai đó được coi là món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh có
nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn25
đã trở thành lý tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến:
20
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
( Hoàng Việt thi tuyển - BÙI HUY BÍCH)
(Thân nam nhi mà trả trọn nợ công danh,
Thì luống nhữ thẹn thùng khi nghe người đời nói chuyện Vũ hầu)
Về sau, hình tượng nam nhi được thể hiện rõ nét hơn, mang vóc dáng
của bậc đại trượng phu anh hùng. Lê Cảnh Tuân (? - ?) trong bài Vô ý cũng
đã xây dựng hình ảnh nam nhi thông qua những hành động cụ thể:
Tứ phương tự thị nam nhi sự,
Đạp biến giang san dă bất kì.
( Hoàng Việt thi tuyển - BÙI HUY BÍCH)
(Việc bốn phương nguyên là việc của người nam nhi,
Dạo khắp cả núi sông cũng là một sự kỳ lạ)
Bên cạnh chí làm trai, các nhà nho còn xây dựng những mẫu hình quân
tử có trách nhiệm cao với đời. Hình tượng Trần Quốc Tuấn trong Dụ chư tỳ
tướng hịch văn ( Hịch văn răn bảo các tỳ tướng) tiêu biểu cho cốt cách của
người quân tử có ý thức trách nhiệm cao độ với dân, với nước mà quên ăn,
quên ngủ: "Dư thường lâm xan vong thực, chung dạ phủ chẩm; thế tứ giao di,
tâm phúc như đảo; thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì như can ẩm huyết vị
hận dã. Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã, dư chi thiên chi, khoả ư mã
cách, diệc nguyện vi chi".(Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruôt
đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống
máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói
trong da ngựa, ta cũng vui lòng). Người quân tử trong Bình ngô đại cáo cũng
thể hiện là tấm gương sáng về tấm lòng vì dân vì nước mà quên ăn, quên ngủ:
Ta đây:
Chốn Lam Sơn dấy nghĩa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn26
Chốn hoang dã nương mình,
21
Ngẫm thù lơn há đội trời chung,
Căm thù giặc thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gan, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh.
Nói tóm lại, người nam nhi, quân tử, anh hùng trong văn thơ nhà nho là
những người biết dồn sức mạnh của tinh thần và sức lực vào sự nghiệp xây
dựng trật tự xã hội lí tưởng mà họ gọi là thái bình thịnh trị.
Như vậy, văn học thế kỉ X đến thế kỉ XV, là văn học của các thiền sư
hiện là kẻ vô tính, dường như thủ tiêu giới tính là điều kiện cần thiết để tu
và nhà nho. Hình tượng các thiền sư thường có nét phi giới tính, nhà sư còn thể
luyện có được những phép thuật phi thường kỳ vĩ. Phật giáo chủ trương “tiết
dục”, “diệt dục”, coi sắc là cái cần kiêng kỵ nên nhan sắc phụ nữ bị xem
thường trong mắt các tín đồ đạo Phật. Tam tổ thực lục có kể lại câu chuyện ca
ngợi thiền sư Huyền Quang vượt qua sắc dục, giữ lòng chay bạch với thái độ
e sợ, cảnh giác với người phụ nữ nhan sắc. Câu chuyện được kể như sau:
Vua Minh Tông và các đại thần muốn thử lòng dục của Huyền Quang bèn
nén sắp đặt cơ mưu, chọn người cung nữ vô cùng xinh đẹp và khéo léo là cung nhân
Điểm Bích gọi vào nội điện, ban cho một thẻ bài và căn dặn: “Vị tăng ấy vốn không
ưa sắc dục, tánh tình rất cương trực, giới hạnh lại cao nghiêm, ngươi có nhan sắc lại
có tài ăn nói và thông hiểu sử kinh, vậy hãy đến thử thầy. Nếu thầy còn động lòng
quyến luyến tình dục, ngươi hãy dụ lấy cho được kim tử làm bằng chứng, bằng gian
trá sẽ có tội, ngươi phải kính cẩn vâng lời”. Điểm Bích vâng lệnh lên đường, đến
chùa Vân Yên xin nương náu cửa chùa. Ở đây, nàng tìm mọi cách cám dỗ Huyền
Quang nhưng thiền sư tuyệt nhiên không lay động. Biết khó dùng sắc đẹp cám dỗ
Huyền Quang, Điểm Bích nảy ra kế than vãn về gia cảnh và được thiền sư cho một
dật kim tử. Nhận được dật kim tử, Điểm Bích vội về nói dối Vua là đã cám dỗ được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn27
Huyền Quang. Vua nghe xong buồn rầu, bèn lệnh mở đàn tràng để kiểm tra hạnh
22
pháp của sư. Huyền Quang lên đàn tràng chứng minh được hạnh pháp của mình.
Vua biết sư bị oan lại càng kính nể. Riêng nàng Điểm Bích bị phạt làm tỳ nữ quét
tước một ngôi chùa trong nội điện.
Trong câu chuyện này, vẻ đẹp của Điểm Bích không được ca ngợi mà
bị lấy làm nền để tô đậm quan niệm: Nữ sắc là thứ sức mạnh có hại cho lí
tưởng Phật; lí tưởng thánh nhân của nam giới, vì vậy nam giới cần biết cảnh
giác và tránh xa nó.
Mẫu hình các nhà nho thường là những người có sứ mệnh cao cả, đem
lại sự vẻ vang cho cho đất nước. Họ luôn có thái độ khắc kỉ với phụ nữ.
Người phụ nữ thường vắng bóng trong các tác phẩm văn học thời kì này hoặc
nếu có thì đó là thái độ xa lánh, coi sắc đẹp là sự cản trở bước đường lập công
danh. Theo quan niệm của các nhà nho thời kì này, người nam nhi phải luôn
thoát khỏi mọi cám dỗ của những ham muốn vật chất thông thường hay về
tình ái bản năng.
Kim ngân ấy của người cùng muốn;
Tửu sắc ấy là nơi nghiệp khá chừa.
Thế sự trai yêu thiếp mọn,
Nhân tình gái nhớ chồng xưa.
Chẳng say, chẳng đắm là quân tử,
Người hiểm lòng thay hãy khá ngờ.
(Nguyễn Trãi, Bảo kính cảnh giới, bài 42)
Trong bài thơ Giới sắc, Nguyễn Trãi một lần nữa đứng trên lập trường
của một nhà nho khắc kỉ răn dạy nam giới, khuyên người quân tử né tránh nữ
sắc, nên coi nữ sắc là kẻ thù:
Sắc là giặc, đam làm chi
Thuở trọng còn phòng có thuở suy.
Trụ mất quốc gia vì Đát Kỉ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn28
Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi.
23
Bại tan gia thất đời từng thấy,
Tổn hại tinh thần sự ích chi!
(Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập - Bài 190)
Trần Thái Tông, tác giả Khóa hư lục viết Giới sắc văn với những lời lẽ
đầy nghiêm khắc khi đánh giá về những yếu tố ngoại hình hấp dẫn của người
phụ nữ: “Tóc mượt lưng ong dễ khiến mịt mờ tâm tính; mặt hoa da phấn dễ
xui rời rã tinh thần. Mắt đưa lấp lánh như dao, ai không đứt ruột; lưỡi uốn
ngọt ngào tựa sáo, hết thảy nghiêng tai. Người đắm đuối, nghĩa tình xa bỏ; kẻ
đam mê, đạo đức tiêu tan. Trên thì phong giáo đắm chìm; dưới thì cửa nhà
táng loạn. Không kể kẻ phàm người học; đều say áo pháp điểm trang. Cương
kỷ quốc gia đổ vỡ chốn Tô đài… Độc giác gần nữ am mà trở về cõi tục; Chân
Quân xa thán phụ mà được lên thiên đàng. Kẻ lánh sắc được ngũ thần thông;
kẻ phạm sắc mất toàn giới hạnh” [33.98].
Câu chuyện Rắn báo oán trong Tang thương ngẫu lục cũng phần nào
thể hiện quan niệm tương tự về sự kì thị nữ sắc. Theo đánh giá của các nhà
nho thì chính sắc đẹp của Nguyễn Thị Lộ đã làm cho vua Thái Tông phải chết
và gieo rắc tại hoạ cho cả dòng họ Nguyễn Trãi.
Cũng từ đây ta hiểu tại sao các sử gia lại cho rằng những người phụ nữ
hồng nha, tiêu biểu cho sắc dục, là ma quái, hồ li tinh, rắn báo oán, họ chỉ
đem lại bất hạnh cho gia đình, làm khuynh đảo quốc gia, triều đại. Sử gia Ngô
Sĩ Liên khi ghi chép chuyện Nguyễn Thị Lộ đã bình luận: “Nữ sắc làm hại
người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó mà
thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được
ư?” [17.1372-1373].
Tựu chung lại, cũng vì một lí tưởng nhân cách, thi ca cổ thường hay
diễn tả tâm đạo lí lo đời, lo nước mà gạt bỏ tất cả các trạng thái tâm lí có tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn29
tự nhiên. Con người được văn hoá hoá một cách triệt để.
24
1.2.2 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII
Giai đoạn văn học từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII là giai đoạn chuyển
tiếp, xã hội Việt nam bước vào giai đạon khủng hoảng trầm trọng. Chiến
tranh huynh đệ tương tàn diễn ra liên miên giữa các tập đoàn phong kiến. Các
thiết chế chính trị, tư tưởng phong kiến Nho giáo bị xáo trộn, lung lay và rạn
nứt. Nho giáo chiếm địa vị độc tôn, nhưng nó đứng trước những thử thách
mới hết sức cay nghiệt. Nó nhanh chóng trở thành công cụ của giai cấp thống
trị dùng để quản lí xã họi và con người. Giai đoạn này có biến động và tranh
chấp giữa hai kiểu nhân vật nam, truyền thống và đổi mới. Mẫu nhân vật nam
chính thống đề cao ngôi vua, đề cao triều đình, coi trọng nho sĩ, luôn mơ ước
đến một xã hội phong kiến lý tưởng vẫn xuất hiện trong thơ văn Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phùng Khắc Khoan. Các nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm luôn biết điều tiết dục vọng sao cho không có hại cho trật tự phong
kiến, cho cuộc sống:
Đạo ở mình ta lấy đạo trung,
Chớ cho đục, chớ cho trong.
( Bài số 104)
Bởi theo ông, những người biết điều tiết dục vọng, biết ngăn lòng tư dục, biết
nhường nhin nhau thì sẽ đấng "thánh hiền":
Dù ai ngăn được lòng tư ấy,
Ta ắt dành cho đấng thánh hiền.
( Bài số 124)
Thơ văn Phùng Khắc Khoan thể hiện thái độ ôm ấp lý tưởng hành đạo,
không chịu khuất phục trước thời cuộc khó khăn, muốm đem tài kinh bang tế
thế phò vua giúp nước. Ông hy vọng có thể tìm ra bậc anh hùng cứu nước:
Quét sạch mây mù ai đó nhỉ,
Ung dung định lại bốn phương trời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn30
( Thương loạn)
25
Bên cạnh những con người trong văn học trong những khuôn mẫu "tam
cương, ngũ thường", thời điểm này đã xuất hiện những nhân vật nam giới
kiểu mới, những chàng trai không quan tâm học hành hay làm ăn mà là đệ tử
của thần ái tình như trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (? - ?) các nhân vật
nam không còn được xây dựng trên những công thức định sẵn theo quan điểm
của Nho giáo. Các nhân vật nam là những con người phàm bình. Hơn nữa các
nhân vật này đều có tình yêu nam nữ, có nhu cầu bản năng thân xác. Nhân vật
Từ Thức trong Từ Thức lấy vợ tiên kể về một mối tình thơ mộng óc phần si
mê giữa một kẻ sĩ nơi hạ giới nặng tình với một nàng tiên ở chốn Bồng Lai
tiên cảnh nên đã treo ấn từ quan để cùng nàng hưởng thụ. Hay nhân vật Hà
Nhân trong Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây, một nho sĩ quê ở Thiên Trường lên
kinh sư để ăn học nhưng "bút nghiên nản chí, son phấn tình nồng". Hà Nhân
có cuộc tình với hai nàng Đào và Liễu. “Hà Nhân rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ
của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng lả lơi cợt nghẹo, hai ả thẹn thò nói
rằng: “ Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉn e mưa gió
nặng nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân hoa mềm yếu”. Hà Nhân
khuyên lơn dịu ngọt rồi cùng tắt đèn đi nằm. Lửa đượm hương nồng, ái ân
mười phần thỏa nguyện”. Trong cuộc hoan lạc ấy, Hà Nhân tán dương những
bài thơ đầy khoái lạc vật chất của tình nhân và làm thơ đáp trả lại. Chàng
thương gia Trình Trung Ngộ trong “Truyện cây gạo” cũng là một kẻ phóng
đãng, mê si mà liều lĩnh. Trình Trung Ngộ gặp Nhị Khanh trên cây cầu Liều
Khê trong một đêm tình tứ thơ mộng. Từ đó, hai người quấn quýt bên nhau,
miệt mài trong những cuộc truy hoan dâm đãng, xác thịt. Cuối cùng vì si mê
tình ái mà đến nỗi phải bỏ mạng. Truyện yêu quái ở Xương Giang thì kể về
gã phú thương họ Phạm, bỏ tiền ra mua một cô gái nhỏ, có nham sắc để thoả
mãn sự dâm ô. Những nhân vật nam nhiễm những thói hư tật xấu ở đời như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn31
cờ bạc cũng được đưa vào trong Truyền kì mạn lục như Trọng Quỳ, vì chơi
26
bời và ham tiền y đã bán nàng cho Đỗ Tam, một tên lái buôn giàu có, quỷ
quyệt... Ngoài ra, Nguyễn Dữ cũng xây dựng những nhân vật nam mang
nhiều đức tính tốt đẹp trong cách ứng nhân xử thế: Người tiều phu núi Nưa có
phẩm tiết cao không chịu ra làm quan cho kẻ “miệng lưỡi bẻo lẻo , đã dắm
mình vào trong cái triều đình trọc loạn, lại còn toan kéo người khác để cùng
đắm với mình”, nhân vật Dương Đứng thì công bằng và nhân hậu, Ngô Tử
Văn thì dũng cảm, cứng cỏi trong việc truy nã vong hồn tướng giặc dám đốt
ngôi đền để trị tên ác quỷ ấy. Văn Dĩ Thành thì “ tính tình hào hiệp”, đem tài
đức của mình để trừ cho dân khỏi nạn ma quỷ quấy nhiễu, Phạm Tử Hư thì ăn
ở phải đạo với thầy. Tất cả mọi hành động, việc làm của họ đều vì lợi ích
chung của cả cộng đồng.
Như vậy, văn học thời kì này đã có những biến đổi rõ nét. “Văn học
không còn những bức chân dung “ nhìn ngay, ngó thẳng”, cứng nhắc trong
những khuôn mẫu” tam cương, ngũ thường”, “tam tòng tứ đức”, con người
của tinh thần và ý chí, tư tưởng và giáo điều, thì nay bước vào văn học là
những con người trần thế, với da thịt và nhu cầu, hành động và ước muốn chủ
quan của nó”. [14.126]. Những dục vọng, ước muốn thoát ra ngoài sự toả
chiết của tư tưởng Nho giáo về " tu, tề, trị, bình" đối với người quân tử,
"công, dung, ngôn, hạnh" đối với người phụ nữ phong kiến bắt đầu xuất hiện
trong văn học. Tuy nhiên, từ các góc độ khác nhau, dù vô tình hay cố ý khi
biểu thị quan hệ tình dục nam nữ, các "nhân vật nam thường là người còn các
nhân vật nữ thường là yêu ma như là bức bình phong che chắn búa rìu dư luận
của xã hội Nho giáo hoá vốn được định hướng theo lí tưởng quả dục, tiết dục,
thậm chí diệt dục" [49.177]. Lời bình cuối mỗi truyện của tác giả dù có phê
phán người đàn ông nhưng không nhằm hạ thấp mà thiên về giáo huấn họ để bảo
vệ trật tự nam quyền. Trong Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây, tác giả lí giải việc Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn32
Nhân bút nghiên chí nản như sau: "Than ôi, thanh lòng không bằng ít dục, dục
27
nếu yên lặng thì lòng rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lý sẽ
thắng, tà quỷ còn đến quấy nhiễu làm sao được. Chàng họ Hà lòng trẻ có
nhiều vật dục, cho nên loài kia mới thừa cơ quyến rũ. Nếu không thì những
giống nguyệt quái hoa yêu, mê hoặc sao được mà chẳng phải thu hình nép
bóng ở trước Lương công là một bậc chính nhân. Kẻ sĩ gánh cặp đến học ở
Trường An, tưởng nên chăm chỉ về học nghiệp, tuy không dám mong đến
được chỗ vô dục nhưng giá gắng tiến được đến chỗ quả dục thì tốt lắm!" Lời
lí giải đã phần nào cho thấy cái nhìn khắc kỉ của nhà nho đối với người phụ
nữ trong xã hội phong kiến thời bấy giờ.
1.2.3 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Hoàn cảnh đáng lưu ý nhất của lịch sử dân tộc trong thời kỳ này là
những cuộc nội chiến và bão táp của các cuộc khởi nghĩa nông dân. Cuộc
khởi nghĩa của đội quân áo vải cờ đào đã lật đổ các tập đoàn phong kiến Đàng
trong (chúa Nguyễn), Đàng ngoài (vua Lê, Chúa Trịnh), đánh tan quân xâm
lược Xiêm ở phía Nam, 20 vạn quân Thanh ở phía Bắc. Sau đó, phong trào
Tây Sơn suy yếu, triều Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến chuyên chế. Đất
nước nằm trước hiểm hoạ xâm lăng của thực dân Pháp.
Thế kỷ thứ XVIII đầu thế kỷ XIX là một giai đoạn văn học có nhiều
biến chuyển to lớn. Bên cạnh hình tượng nghệ thuật về người phụ nữ, văn học
thời kỳ này đã xây dựng thành công hình tượng nghệ thuật về giới trí thức
phong kiến. Theo giới nghiên cứu, các nhân vật nam thời kỳ này là các nhà
nho tài tử.
Nhà nho tài tử là những nhà nho trải qua một quá trình học tập tu
dưỡng dưới “cửa Khổng sân Trình” như bất cứ một tri thức nào của thời đại
mình. Ra đời trong một xã hội Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, nhà nho
tài tử bị hấp dẫn bởi một hình tượng chính thống, quan niệm về người “đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn33
trượng phu”. Đại trượng phu hay người “hào kiệt” là loại nhân vật xuất chúng
28
vượt lên trên quần chúng cả về tầm cỡ của trí tuệ, tài năng, lẫn những hoài
bão, ước vọng to lớn. Trong một bối cảnh xã hội loạn lạc, đại trượng phu là
người tính toán những sự nghiệp lớn. Nhà nghiên cứu văn học Việt Nam
Phan Ngọc cũng cho rằng, vào giai đoạn văn học thế kỷ XVIII - nửa đầu thế
kỷ XIX, “Tư tưởng thị dân đòi hưởng lạc, đòi hỏi hạnh phúc, chống lại thói an
bần lạc đạo xuất hiện, và trở thành xu thế chính. Các tài tử ra đời để thay thế
các quân tử, các trượng phu, là những người độc chiếm văn đàn trước đây.
Các tài tử ấy học đạo thánh hiền, nhưng suy nghĩ theo lối thị dân. Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đều tự xưng là tài tử. Con người tài tử là điển
hình mới của thời đại. Con người quân tử bị chế giễu, đạo đức sống khắc kỷ
phục lễ bị mạt sát. Một trào lưu tư tưởng mới manh nha trong lòng những
chàng trai tài giỏi nhất của thời đại”[30.44].
Điểm khác biệt cơ bản giữa những người tài tử với người hành
đạo và người ẩn dật là ở chỗ người tài tử coi “tài” và “tình” chứ không
phải đạo đức làm nên giá trị của con người. “Đó không chỉ là điểm để
phân biệt với người thánh hiền mà cao hơn, là điều khiến họ tự hào”.
Người tài tử quan niệm “tài” theo nhiều cách. Có thể đó là tài trị nước,
cầm quân (kinh luân), có thể là tài trong học vấn. Nhưng dẫu đã có
những tài năng ấy, vẫn nhất thiết phải có thêm tài văn chương “nhả
ngọc, phun châu”, rộng hơn nữa là “cầm kì thi họa” - những thứ nghệ
thuật tài hoa, và tài năng đó phải gắn với “tình” nữa mới thành người
tài tử. Theo GS.Trần Đình Sử, thì tài tử không phải là người tài theo quan
niệm thông thường, mà là kẻ lấy ngông làm tài, tài thoát ra thói tục, vì vậy mà
nó gắn rất chặt với tài tình.
Người tài tử cậy tài, mơ ước không phải chỉ là công danh phú
quý, mà còn lập nên những sự nghiệp phi thường. “Vòng trời đất dọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn34
ngang ngang dọc”, “Chí làm trai Nam bắc Đông Tây / Cho phí sức vẫy
29
vùng trong bốn bể” (Nguyễn Công Trứ). Cao Bá Quát còn "kiêu" hơn
khi ông coi những người tài giỏi trong quá khứ chẳng thấm vào đâu so
với ông:"Nghiêng cánh nhạn, tếch mái rừng Nhan, Khổng, chí xông pha
nào quản chông gai; Cựa đuôi kình, toan vượt biển Trình, Chu, tài bay
nhảy ngại chi gian khổ". Nhà nho tài tử trong thơ văn Nguyễn Du, đôi lúc
(trong thơ chữ Hán) cũng hé cho kẻ hậu nhân cái "kiêu ngầm" của mình:
Tam thập hành canh lục xích thân,
Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân.
(Tấm thân sáu thước đã ba mươi tuổi rồi. Vì thông minh làm xuyên tạc, hại
đến tính trời).
Các nhà nho tài tử không chỉ khoe tài của bản thân mà họ còn đưa cái tài
vào trong thế giới nhân vật của họ. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, các
nhân vật nam dù chính diện hay phản diện đều có tài: Kim Trọng: "Nền phú
hậu, bậc tài danh / Văn chương nết đất, thông minh tính trời", Từ Hải cũng
được giới thiệu là một người tài: "Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài",
Thúc Sinh cũng biết làm thơ Đường luật, Sở Khanh cũng biết làm thơ, Hồ
Tôn Hiến cũng "kinh luân gồm tài". Trước đó, Nguyễn Gia Thiều, Ngô gia
văn phái cũng đã từng để cho nhân vật của mình lên tiếng đề cao cái tài của
mình. Tóm lại, "chữ tài , từ chỗ kiêng kỵ của thời đại trước, trở thành một ý
niệm động lực của thời đại mới".[30.46]
Con người tài tử trong thơ Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ đều có
mối quan hệ với các nhân vật ả đào, kĩ nữ. Gò bó, ngột ngạt trong môi trường
chính thống đầy những niêm luật, ước thúc, họ tìm đến sinh hoạt ca trù như
một nhu cầu tất yếu, nhằm thỏa mãn cái tôi bản ngã, ngoài vòng cương tỏa
khắt khe của lễ giáo phong kiến. Nhưng cái nhìn của hai nhà nho về người
phụ nữ ( cụ thể là người hát ả đào, kĩ nữ) lại có phần khác biệt.
Nguyễn Công Trứ nói nhiều đến chí nam nhi, nợ anh hùng, song khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn35
hẳn các tác giả trước đây, anh hùng của ông lại đầy yếu tố sắc tình. Ông khoe
30
đi hát ả đào, khoe có các cô gái trẻ đi tháp tùng lên chùa. Tuy vậy, mặt trái
của ông là tư tưởng nam quyền, khắt khe với phụ nữ, chỉ cho nam giới có
quyền chơi bời phóng đãng. Với Nguyễn Công Trứ, trong số 12 người thiếp
của ông (có tài liệu nói là 14), có không ít người xuất thân là ả đào. Gần gũi
các cô đào là thế, nhưng Nguyễn Công Trứ chưa bao giờ thể hiện thái độ
thương cảm trước thân phận bạc bẽo của những người phụ nữ này. Nguyễn
Công Trứ từng tận mắt chứng kiến tài năng, mê mải sắc đẹp của các ả đào;
cũng gửi gắm không ít tâm sự ruột gan của mình cho cô đào hát; trải qua bao
nhiêu cuộc tình tha thiết sâu nặng với họ, nhưng vẫn không trân trọng họ.
Ông đến với họ đơn thuần chỉ để giải trí, vui chơi, xem họ là thú vui chứ
không nhìn nhận họ như những con người có giá trị. Chính vì chỉ xem ả đào
như một thú chơi mà ông thường có thái độ bỡn đùa họ:
Lật đật qua đèo nóng nực thay
Hai cô thương đến lại cho giày
Ơn này biết lấy chi mà trả
Xin quỳ hai gối chống hai tay
(Cảm ơn hai cô đào)
Cái nhìn về người ả đào thuần túy là cái nhìn từ phía người đàn ông
hưởng thụ ăn chơi. Tiếng đàn hay, giọng hát ngọt, sắc đẹp đã cuốn họ vào
cuộc chơi say sưa mê mải, không một lần dừng lại, không một lần đặt mình
vào vị trí người ca nữ để hiểu phía sau từng cuộc hát là những nỗi đắng cay,
tủi nhục của người phụ nữ đem tài sắc mua vui cho người. Điều này chỉ có thể
lý giải bằng quan điểm nam quyền nho giáo. Những tư liệu còn để lại cho
chúng ta thấy Nguyễn Công Trứ vốn không phải là một người coi trọng phụ
nữ. Ông khá khắt khe trong việc đánh giá tiết hạnh người phụ nữ. Ông lên
tiếng trách móc nàng thiếu phụ Nam Xương – người liệt nữ được chính vua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn36
Lê Thánh Tông ca ngợi hết lời:
31
Thực cùng chồng chi nỡ dối cùng con
Gương nữ tắc trông vào chưa phải lẽ
Đã có ngọn đèn chơi với trẻ
Thời chi chiếc bóng gọi là chồng
Tiếng phụ phàng chi nỡ trách đàn ông
(Vịnh Nam Xương liệt nữ)
Gay gắt hơn, ông chê bai nàng Thúy Kiều của Nguyễn Du: “Bạc mệnh
chẳng lầm người tiết nghĩa/ Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm” (Vịnh Thúy
Kiều). Nàng thiếu phụ Nam Xương trung trinh đến thế ông còn trách móc, thì
những kỹ nữ bán thân như Kiều sao không khỏi bị Nguyễn Công Trứ nặng
lời. Kiều tuy là kỹ nữ Trung Quốc nhưng rất tiêu biểu cho cuộc đời, thân phận
của những ả đào – kỹ nữ Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX, nên chắc hẳn thái độ
của Nguyễn Công Trứ với nàng Kiều cũng là cách mà ông nhìn nhận những ả
đào quanh mình.
Đây cũng là quan niệm của hầu hết các nhà nho đương thời. Các nhà
nho đi nghe hát để thị tài, khoe tài, để thoả mãn nhu cầu giải trí của mình, tuy
nhiên nhiều người trong số họ thể hiện rõ thái độ miệt thị, cái nhìn thiếu trân
trọng đối với nhân vật ả đào. Thái độ ấy bộc lộ ngay từ cách gọi tên “con
hát”, “bọn ca nhi”. Cách xưng hô như vậy thể hiện sự xem thường, khinh
miệt của cả xã hội đối với những người làm nghề cầm ca trên chiếu hát. Hầu
hết họ xem ả đào là một phần của thú cầm ca, là thú vui, là công cụ phục vụ
nhu cầu giải trí chứ không xem các cô đầu là con người có số phận, có cuộc
đời riêng. Điều này dẫn đến quan niệm “xướng ca vô loài”. Xã hội Việt Nam
trung đại vốn có ý thức coi thường nghề ca xướng, miệt thị các nghệ sỹ; triều
đình cũng quan niệm nghệ sĩ chỉ là kẻ để mua vui. Một quan niệm đạo đức
Nho giáo đề cao trinh tiết, thủy chung như nhất của phụ nữ tất không dung
nạp người ả đào nhan sắc thành tài sản chung cho mọi đàn ông có tiền (họ hay
nói đến vàng, ngàn vàng, lạng vàng). Bởi thế người ả đào chưa bao giờ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn37
được cái nhìn trân trọng trong xã hội Việt Nam cho đến tận hết thế kỷ XIX.
32
Nguyễn Du đã có một quan niệm đi ngược với xu thế chung của các
nhà nho cùng thời khi ông luôn dành những tình cảm trân trọng, sự cảm thông
đối với người phụ nữ. Mệnh đề hồng nhan phận bạc được Nguyễn Du đặc biệt
nhấn mạnh với thân phận của những kĩ nữ - ả đào. Tấm lòng thương cảm ấy
được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ sáng tác của ông, bao gồm cả thơ chữ
Hán và thơ Nôm. Chứng kiến cảnh đời bấp bênh, phiêu bạt, không ổn định
của những kỹ nữ - ả đào, nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện niềm
xót xa đến tột cùng.Cảm thương cho số phận của người ca nữ bất hạnh là
mạch nguồn cảm xúc chính để Nguyễn Du làm bài thơ Long thành cầm giả ca
hay Điếu La Thành ca nữ giả. Trong Truyện Kiều rất nhiều lần Nguyễn Du
nhắc đến nỗi bất hạnh mà người tài sắc phải gánh chịu:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
“Thương thay cũng một thân người,
Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi.”
“Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.
Người phụ nữ tài sắc không chỉ làm cung phi, làm món mồi tranh đoạt
của bọn quyền quý. Họ còn đem tài sắc phục vụ nhu cầu ăn chơi giải trí của
bọn đàn ông và làm thành một lớp người đặc biệt trong xã hội được gọi là đào
nương, ả đào, cô đào. Sống bằng lời ca tiếng hát, những phụ nữ gọi là ả đào
đã bán tài hát hay, đàn ngọt của mình, thậm chí phải “mắt đi mày lại” với
khán thính giả đàn ông để rồi không ít người trở thành vợ thiếp - vợ nhỏ. Và
cái kết cho họ bao giờ cũng là cuộc sống cực khổ, cô đơn và bất hạnh, thậm
chí có người phải bỏ mạng trong cảnh nghèo đói, bệnh tật, không cửa không
nhà. Không chỉ cảm thông với thân phận của những phụ nữ tài sắc, Nguyễn
Du còn nhìn thấy nơi họ một sự tương đồng với thân phận của những nhà thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn38
như mình. Viết Độc tiểu thanh kí Nguyễn Du đã nhìn thấy thân phận mình
33
trong thân phận nàng Tiểu Thanh – nhân vật mang dáng vẻ là một kĩ nữ. Tiểu
Thanh tài tình nhưng bất hạnh chết yểu. Nguyễn Du liên tưởng đến thân thế
của chính mình và những người làm thơ văn nghệ thuật, một thứ thơ văn
không phải để lập thân, nói chí, giáo huấn mà để bộc lộ cảm xúc. Nguyễn Du
khóc nàng Tiểu Thanh nhưng lại nghĩ đến mình: “ Không biết ba trăm năm lẻ
nữa/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như?” (Độc Tiểu Thanh kí). Có thể suy đoán
rằng triết lý “tài mệnh tương đố” được bắt nguồn từ những quan sát và suy
ngẫm lâu dài của Nguyễn Du về thân phận những người phụ nữ nói chung và
nhân vật ả đào nói riêng mà ông đã có dịp chứng kiến ngay trong gia đình
mình và bắt gặp đâu đó trên đường đời. Chính tấm lòng yêu thương, đồng
cảm ấy cho thấy Nguyễn Du có tầm nhân bản cao hơn các nhà Nho khác.
1.2.4 Các nhân vật văn học cuối thế kỷ XIX:
Cuối thế kỷ XIX, dòng văn học hát nói với các nhân vật tài tử như
Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh đa tình, phóng túng tiếp tục truyền thống
Nguyễn Công Trứ.
Nhân vật tài tử trong hát nói của Dương Khuê đều được miêu tả ở mối
quan hệ tình ái giữa khách chơi - ả đào. Đó có thể là mối quan hệ chênh lệch
tuổi tác như trong Hồng Hồng Tuyết Tuyết; đó có thể là nỗi nhớ nhung của cô
đầu đối với tình quân (Tặng cô đầu Cần); là nỗi băn khoăn về mối tình lửng lơ
mơ hồ (Ở nhà hát ngẫu hứng); cũng có thể là tâm sự của cô đầu về ký ức
những năm tuổi trẻ (Tặng cô đầu Phẩm); là tình cảnh tương đồng giữa mình và
người ca nữ trong thế đối sánh của cặp đôi tài tử – giai nhân (Gặp cô đầu cũ) .
Ở đầu thế kỷ XX, Chu Mạnh Trinh vẫn tự coi mình là nòi đa tình ( ta
cũng nòi tình thương, người đồng điệu) và vẫn dùng khái niệm nòi tình để gọi
nhân vật chính của Truyện Kiều. Với Chu Mạnh Trinh, tập thơ Vịnh Kiều có
một giá trị đặc biệt. Tài hoa của họ Chu, trút hết cả vào tập thơ Vịnh Kiều này.
Thương Kiều như thể thương thân, đó chính là tình cảm của Chu Mạnh Trinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn39
Bởi thế bênh Kiều, nhận ra vẻ đẹp của nàng Kiều sau mười lăm năm lưu lạc;
34
biện bác lại những sự lên án Kiều của những nhà nho câu nệ, nghiêm khắc;
không ai bằng Chu Mạnh Trinh: "... Chỉ vì một nỗi mối manh chưa có, thề
thốt đã nhiều. Trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi. Cũng có người bảo tại
nước chảy mây trôi lỡ bước, nên cành đưa lá đón quen thân. Nào biết đâu
bông hạnh nở ngoài tường, chưa để con ong qua tới. Cho có muốn lưỡi dao
liều với mạng, lại sợ thành cháy vạ lây. Tấm lòng này như tuyết như gương.
Mối sầu nọ qua ngày qua tháng. Ngọc kia không vết, giá liên thành khôn xiết
so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng hãy còn vơ vẩn". Vậy là ngoài Kim
Vân Kiều truyện, tác phẩm thiên tài bất hủ của Nguyễn Du, còn có Thanh
Tâm tài nhân thi tập của Chu Mạnh Trinh. Chu Mạnh Trinh viết về Kiều thật
hết lòng. Ông dồn hết tâm sức trong tập thơ này, chính là ông tôn vinh một vẻ
đẹp tự nhiên, trời phú, ông thông cảm với kiếp tài hoa bạc mệnh, và ông cũng
lên tiếng bảo vệ những nét đẹp tinh thần ẩn sau cuộc đời chìm nổi “thanh lâu
hai lượt, thanh y hai lần” của Thuý Kiều:
Công cha bao quản nài thân thiếp,
Sự nước xui nên phụ với chàng,
Cung oán nỉ non đàn bạc mệnh,
Duyên may run rủi lưới Tiền Đường.
Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu.
Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng!
Có thể nói, Chu Mạnh Trinh rất quý trọng thân xác của người phụ nữ,
coi trọng những người. Ông tìm đến với lối hát ả đào để vượt ra khỏi vòng
kiềm tỏa của xã hội phong kiến. Ông đã tìm thấy trong hình thức sinh hoạt ấy
cái tư tưởng muốn thoát ra khỏi vòng bó buộc của luân thường, sự giam hãm
của khoa cử, đường hẹp hòi của sĩ hoạn, khuôn phép của tinh thần Khổng
Mạnh… Không chỉ say mê tiếng hát của các đào nương, ông còn đặt mình
vào cương vị người ả đào để cảm thông, trân trọng và cất lên tiếng nói nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn40
đạo sâu sắc.
35
Dương Khuê, Nguyễn Khuyến cũng là khán thính giả thường xuyên
của lối hát ả đào nhưng lại thể hiện rất rõ sự thiếu trân trọng với các ả đào.
Dương Khuê nổi danh là tác giả của rất nhiều sáng tác dành riêng cho các đào
hát và những mối quan hệ đặc biệt với các ca nương. Tuy nhiên, ông chưa bao
giờ tôn trọng họ như những người tri kỷ mà chỉ xem họ như một thú vui, một
trò tiêu khiển. Đào nương giống như một cung cụ giải trí, không có quyền mệt
mỏi, không được sống với cảm xúc thật của chính mình. Thậm chí khi nhà có
tang trở vẫn phải đàn hát, giả bộ tươi cười mua vui cho quan khách. Giai thoại
kể lại rằng: Cô đào Hai có chồng cũng tên là Hai, quê ở Trung Kỳ, làm kép
đàn. Kép Hai mới mất chưa lâu, cô Hai lấy cớ nhà có chuyện buồn, ngồi lâu
không tiện, xin cho về sớm. Tác giả giữ cô lại, làm một bài hát nói để cô hát.
Đặc biệt ngay từ câu mở đầu, khi nhắc đến người chồng mới mất Dương
Khuê đã có ý đùa cợt:
Hồng phấn kỷ nhân vi quả phụ
Bạch đầu nan lão Trác Văn Quân”
(Lâu nay son phấn (người đẹp) mấy người chịu làm góa phụ
Nàng Trác Văn Quân khó lòng ở vậy đến lúc bạc đầu).
Quả phụ Trác Văn Quân đã bỏ nhà trốn theo Tư Mã Tương Như.
Dương Khuê không những không cảm thông, thương xót cho cuộc đời bất
hạnh của người ca nữ mà còn bỡn nàng khó lòng chung thủy với chồng cho
trọn vẹn:
Nhân vong cầm tại
Nhớ chàng Hai mà hỏi lại cô Hai.
Tiện đây hỏi một đôi lời,
Đàn bản ấy cùng ai so phím cũ?
Hồng phấn kỷ nhân vi quả phụ,
Bạc đầu nan lão Trác Văn Quân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn41
Thế thì khi gió gác, lúc trăng sân
36
Chừng Bạch tuyết, Dương xuân còn tưởng nhớ
Hãy ngồi lại hát chơi lúc nữa.
(Tặng cô đào Hai )
Dù rất yêu thích lối hát ca trù nhưng trong con mắt văn nhân, ca nhi chỉ
giống như một công cụ phục vụ nhu cầu giải trí, không có quyền nghỉ ngơi,
thậm chí khi bệnh tật, ốm đau họ vẫn phải gắng gượng phục vụ quan khách.
Trong con mắt các văn nhân, đào nương chỉ là người đem lời ca tiếng hát,
mua vui cho các quan khách chứ không xem họ như những bậc tri ân, tri kỷ.
Thái độ coi thường ấy bộc lộ rất rõ trong bài hát nói “Thăm cô đầu ốm”. Đằng
sau những câu hỏi thăm xã giao là yêu cầu đòi hỏi được phục vụ:
Hãy tung màn gượng dậy làm vui,
Tiện đây hỏi một đôi lời.
Lòng chiều khách đã xuôi xuôi thế chửa?
Đàn cầm sắt gảy chơi khúc nữa,
Rượu hoàng hoa còn chứa hay không?
(Thăm cô đầu ốm )
Nguyễn Khuyến cũng bộc lộ thái độ thiếu tôn trọng, cái nhìn coi
thường, miệt thị với những người làm nghề ca xướng. Trong bài hát nói “Cô
Sen mơ bóng đè” tác giả không chỉ cười nhạo giấc mơ của cô đào Sen mà còn
phê phán thói “õng ẹo”, lẳng lơ của các ả đào:
Bóng người, người nghĩ bóng ta,
Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng người.
Tỉnh ra rồi mới nực cười,
Giấc hồ ai khéo vẽ vời cho nên.
Cô đầu Sen là người Thi – liệu
Cớ làm sao õng ẹo với làng nho.
Bóng đâu mà đè lên cô,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn42
Bỗng thấy chuyện nhỏ to thêm thắc mắc.
37
Trong không gian sinh hoạt ca trù, giữa ả đào và văn nhân đã nảy sinh mối
quan hệ tình cảm đặc biệt nhưng trong tâm thức tiếp nhận của nhiều nhà Nho, ả
đào chỉ được xem là công cụ phục vụ nhu cầu giải trí, là xướng ca vô loài
Trần Tế Xương sinh ra vào lúc Nho giáo chỉ còn những hơi thở tàn,
nhưng trong ông quan điểm phụ quyền vẫn còn rất mạnh mẽ. Ông cũng xem ả
đào như một cái thú, hát cô đầu tiến gần đến việc buôn phấn bán hương nhiều
hơn. Trong thơ ông, hát ả đào cũng là một cái thú, đó là thú chơi “hú hí”, là
“dan díu”, thậm chí là “tình dơi chuột” – những ngôn từ mà tự chúng tố cáo
thái độ thiếu tôn trọng trong quan hệ giữa văn nhân với người phụ nữ:
Chẳng gì hơn hú hí với cô đầu
Khi vui chơi năm ba ả ngồi hầu
Chén rượu cúc đánh chầu đôi ba tiếng
(Hát cô đầu)
Trong con mắt nhà thơ, ả đào cũng giống như các cô gái buôn phấn bán
hương khác. Chứng kiến sự nghèo hèn của họ, tác giả không bày tỏ sự cảm
thông mà tỏ rõ thái độ coi thường, khinh miệt:
Chị hỡi chị năm nay túng lắm,
Biết làm sao tết đến nơi rồi.
… Chị cùng em sắm sửa lo toan,
Muốn mua chịu, em nhà hàng ngại lạ.
Chị em ta bảo nhau giữ giá,
Đến bây giờ ngã cả có ai nâng
Cũng liều bán phấn chơi xuân.
(Cảnh tết nhà cô đầu)
Rõ ràng thái độ của những nhà nho như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Khuyến,Trần Tế Xương, Dương Khuê... là hệ quả của quan điểm nam quyền
nho giáo không tôn trọng phụ nữ, nhất là những phụ nữ bán sắc, bán tài, bán
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn43
thân kiếm sống.
38
Hướng về mốc lịch sử gần chúng ta hơn, sang đầu thế kỉ XX, mẫu hình
nam nhi trong thơ văn các nhà nho duy tân vẫn giữ nguyên vẻ đẹp truyền
thống. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Tinh thần tự nhiệm đã làm
nên vẻ đẹp đặc biệt của hình tượng nam nhi, anh hùng. Hình tượng người nam
nhi xuất hiện trong thơ văn của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu vẫn thể hiện
là những con người hành động, con người bản lĩnh, đầy lạc quan, tin tưởng
vào tài năng của mình:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
( Phan Châu Trinh, Đập đá ở Côn Lôn )
Đó còn là khát vọng cao của người nam nhi phải làm được những sự
nghiệp lớn lao, được lưu danh vào sử sách:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di!
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cách vô thuỳ.
( Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời!
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai.)
( Phan Bội Châu, Xuất dương lưu biệt)
Con người thánh nhân, quân tử truyền thống với ý chí làm chủ, kiểm
soát phần thân xác bản năng để vươn tới lí tưởng đạo đức cao cả, biến sức
mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất to lớn vẫn là mẫu hình đẹp được các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn44
nhà chí sĩ yêu nước phát huy:
39
Ai cố gắng từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn.
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa,
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...
( Phan Bội Châu, Bài ca chúc tết thanh niên)
Có thể nói, tư tưởng dám xả thân vì nước, vì dân của các nhà chí sĩ thật
đáng kính trọng, song bên cạnh đó, vẫn còn có những hạn chế trong tư tưởng
của họ. Đó là cái nhìn có phần thiếu bao dung của các nhà chí sĩ như Ngô Đức
Kế, Huỳnh Thúc Kháng với nhân vật Thuý Kiều, người kĩ nữ lầu xanh trong
Truyện Kiều và ngay cả với tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du . Ngô Đức
Kế cho rằng Truyện Kiều là "tà thuyết", là "Ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi"
còn Huỳnh Thúc Kháng cũng chánh cáo với các trí thức trong nước rằng:
"Truyện Kiều chẳng qua chỉ là một lối văn chương mua vui mà thôi, chứ
không phải là thứ sách học, mà nói cho đúng Truyện Kiều là một thứ dâm
thư, rõ không ích mà có hại. Ở xã hội ta từ có kẻ tán dương Kiều, truyền bá
học Kiều đến nay, đã biết bao nhiêu lớp thanh niên say mê sóng sắc, chìm nổi
bể tình, vứt cả nền nếp gia đình, trật tự xã hội mà theo mối đam mê của mình.
Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương phong, bại tục kia,
cái giống độc con đĩ Kiều, gieo vào trong tư tưởng không phải là ít" [18]. Các
ý kiến phê bình về Truyện Kiều và nhân vật Thuý Kiều của các nhà chí sĩ cho
thấy một giới hạn khó tránh khỏi trong tư tưởng nam quyền vẫn còn hiện hữu
trong thời điểm này.
1.3 Tiểu kết
Ở chương 1, chúng tôi tìm hiểu khái niệm giới và phác thảo diện mạo
của văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến đầu thế kỉ XX phương diện đi tìm
hiểu một số nhân vật nam tiêu biểu cho từng thời kì văn học. Theo chúng tôi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn45
giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những
40
đòi hỏi, yêu cầu đối với nam và nữ. Nó là sản phẩm của xã hội - văn hóa. Quy
chiếu quan điểm giới vào các nhân vật nam từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX,
đầu thế kỉ XX có thế nhận thấy một điều. Giai đoạn văn học trước thời kì Lê
Trung Hưng là nền văn học của các bậc thiền sư, các văn sĩ với mệnh đề "văn
dĩ tải đạo", " thi ngôn chí", chình vì vậy mà các nhan vật xuất hiện trong văn
học là những "bậc thánh nhân vong tình", những con người có tài trí hơn
người nhưng khắc kỉ, luôn mang trong mình tư tưởng tiết dục, diệt dục, coi
thường sắc đẹp, thậm chí cho rằng sắc đẹp là thứ yêu ma làm cho lòng người
rối loạn, kỉ cương phép nước không nghiêm. Tương ứng với nó, người đàn
ông giữ vị trí chủ đạo trong đời sống văn học, là nhân vật chính. Sau đời Lê
Trung hưng, mẫu hình thánh nhân quân tử dường như không còn được coi
trọng nữa mà thay vào đó là những con người trần thế. Họ có thế là "những
con người say mê lao mình vào những niềm vui thực tế, quên hết mọi nhiệm
vụ cao quý của nho sĩ, mọi lời răn của thánh nhân".[14.114]. Họ cũng có thế
là những con người chung tình, sống hết mình vì tình yêu... Chính những
nhân vật này góp phần làm nên diện mạo mới cho văn học. Tuy nhiên, sang
thế kỷ XVIII, mặc dù người phụ nữ đã xuất hiện rất nhiều trên những trang
viết nhưng cái nhìn của nam giới về họ vẫn bị chi phối bởi hai luồng quan
điểm. Các nhà nho tài tử như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương
Khuê...vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng nam quyền Nho giáo nên có
cái nhìn thiếu sự cảm thông, bao dung với người phụ nữ, đặc biệt là những
phụ nữ mang nghiệp cầm ca. Các nhà nho theo chủ nghĩa nhân bản như
Nguyễn Du, Chu Mạnh Trinh...lại luôn thể hiện sự trân trọng, cảm thông
trước số phận những người phụ nữ bất hạnh.
Những vấn đề lí luận và thực tiễn này là cơ sở giúp chúng tôi có cơ sở
phân tích, phân loại các kiểu nhân vật nam như Từ Hải trong Truyện Kiều và
Lục Vân Tiên truyện Lục Vân Tiên. Qua đó, chúng tôi sẽ đối chiếu, so sánh,
truy nguyên các quan niệm văn hóa để phân tích những hình tượng này qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn46
góc nhìn giới.
41
Chương 2
NHÂN VẬT TỪ HẢI TRONG TRUYỆN KIỀU
CỦA NGUYỄN DU
Ở chương I, chúng tôi đã khảo sát qua những mẫu hình lí tưởng về nam
giới trong xã hội trung đại Việt Nam cũng như các nhân vật nam giới đã bị
thế tục hoá dựa trên sự phát triển của các thời kì lịch sử qua góc nhìn văn hoá.
Từ đó, chúng tôi có thể nhận thấy những nhân vật nam giới được xây dựng
theo nguyên mẫu của Nho giáo thường là các bậc thánh nhân, quân tử anh
hùng, kẻ sĩ khắc kỉ, coi thường sắc đẹp. Những nhân vật nam bị phê phán
thường là những kẻ phóng đãng, dâm loạn.
Ở chương II, chúng tôi chọn nhân vật Từ Hải làm đối tượng khảo sát để
thấy rõ bước đột phá của Nguyễn Du- cũng là một nhà Nho, trước quan niệm
về chuẩn mực đạo đức thẩm mỹ Nho giáo. Chúng tôi sẽ đi sâu phân tích nhân
vật vật Từ Hải thông qua việc so sánh nhân vật này với nhân vật Từ Hải trong
Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và các nhân vật nam trong
Truyện Kiều để thấy được sự sáng tạo, tô đậm những biểu hiện nam tính của
Nguyễn Du.
2.3 Thân thế và thời đại Nguyễn Du
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu,
niên hiệu Cảnh Hưng. Gia phả họ Nguyễn làng Tiên Điền phát hiện năm 1966
có ghi chú ngày sinh của Nguyễn Du là 23 tháng 11 năm Ất Dậu. Nguyễn Du
ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.
Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm thông minh, học rộng, từng giữ
chức Tể tướng trong triều đình. Lúc ấy người anh đầu của Nguyễn Du là
Nguyễn Khản được bổ chức Nhập thị bồi tụng. Mẹ Nguyễn Du là vợ thứ ba
của Nguyễn Nghiễm, tên là Trần Thị Tần, con gái một ông làm chức câu kê
(kế toán), người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay là huyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn47
Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
42
Gia đình cũng như dòng họ Nguyễn Du có rất nhiều người làm quan
dưới triều Lê - Trịnh. Người địa phương có câu ca dao nói về dòng họ này:
Bao giờ Hống Lĩnh hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan.
Nhưng gia đình Nguyễn Du không phải chỉ có nhiều người làm
quan, mà còn có nhiều người viết sách, làm văn, nghĩa là một gia đình có
truyền thống về văn học. Nguyễn Quỳnh ông nội Nguyễn Du là một nhà triết
học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm một sử gia, đồng thời là
một nhà thơ. Nguyễn Khản anh cả Nguyễn Du giỏi thơ Nôm, hay làm thơ đối
đáp với Trịnh Sâm. Tương truyền Nguyễn Khản là một trong những người có
dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra tiếng Việt. Rồi Nguyễn Đề anh
cùng mẹ với Nguyễn Du, Nguyễn Thiện cháu gọi Nguyễn Du bằng chú ruột,
Nguyễn Hành em ruột Nguyễn Thiện đều là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Họ
Nguyễn Tiên Điền lại thông gia với họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu, cũng là
một họ lớn và nổi tiếng về văn học ở vùng Nghệ - Tĩnh. Sống trong một môi
trường như thế, năng khiếu văn học của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở và
phát triển từ sớm.
Nguyễn Du sinh ra tại phường Bích Câu thuộc kinh thành Thăng Long.
Từ nhỏ, ông đã được tiếp thu sâu sắc cội nguồn văn hóa Thăng Long. Thăng
Long là kinh đô nên không chỉ có những người quê Thăng Long, mà nhân tài
tứ xứ, đặc biệt là văn sĩ Bắc Hà sinh sống và làm việc ở đó. Xuất thân từ một
gia đình khoa bảng, có truyền thống thi ca lại được giao du, tiếp xúc với
những người tài sống ở Thăng Long, tài thơ bẩm sinh của Nguyễn Du như hạt
giống tốt gặp đất tốt, mưa thuận, gió hoà. Nhà thơ lớn của một dân tộc phải là
người hiểu được văn hoá của cả dân tộc mình chứ không phải chỉ của một
vùng đất, một nhóm người. Khi không có điều kiện lăn lộn khắp các vùng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn48
đất nước, nếu muốn hiểu văn hoá của dân tộc mình thì không sống đâu bằng ở
43
thủ đô, nơi hội tụ tinh hoa của các vùng văn hoá. Hơn nữa, là con trai một vị
Tể tướng, những năm sống ở Thăng Long, Nguyễn Du có điều kiện ra vào
cung vua, phủ chúa, chứng kiến được cuộc sống sang trọng, có khi xa hoa,
truỵ lạc của tầng lớp trên của xã hội bấy giờ, điều này tạo điều kiện cho ông
có những câu thơ tả cảnh, tả người hết sức sinh động trong Truyện Kiều.
Như vậy, Thăng Long không những tạo cơ hội cho con người Nguyễn
Du ra đời, mà còn tạo điều kiện, hun đúc ông trở thành đại thi hào. Nguyễn
Du không chỉ đem lại cho văn học Thăng Long những kiệt tác như Bài ca
người gảy đàn ở Long thành (Long thành cầm giả ca), Thăng Long , Ngộ gia
đệ cựu ca cơ ...Môi trường sinh hoạt ấy tổng hòa cả ngôn ngữ tình tứ, trau
chuốt của các làn điệu quan họ quê mẹ, sự chuẩn xác, thuần cổ của vùng
Nghệ Tĩnh quê cha và nét hào hoa, thanh lịch của kinh kì Thăng Long là nền
tảng vững chắc ảnh hưởng rất nhiều đến kho tàng ngôn ngữ của thi hào khi
dùng để sáng tác nên Truyện Kiều bất hủ.
Sau này, những biến cố chính trị và xã hội khiến ông phải sống lưu lạc
trong dân gian, chứng kiến "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" từ việc
''trải qua một cuộc bể dâu" đã khiến Nguyễn Du chiêm nghiệm thấm thía về
lẽ đời và thân phận con người loạn lạc. Hiện thực dâu bể ấy khiến ông có vốn
sống phong phú và giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những nỗi
khổ của nhân dân. Truyện Kiều là một sáng tạo lớn của Nguyễn Du trong việc
tích lũy vốn sống, vốn trải nghiệm phong phú, sự dung hợp giữa văn học bác
học, vốn văn học dân gian ở phương diện nghệ thuật. Ngoài ra, Truyện Kiều
còn là bức tranh về một xã hội bất công, tàn bạo, là tiếng lòng thương cảm
trước số phận con người, là tiếng nói lên án những thế lực đồng tiền và khẳng
định phẩm chất, thể hiện khát vọng chân chính của con người. Truyện Kiều
cũng đề cao giá trị của những con người trần thế với đầy đủ bản năng thân
xác. Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều chính là sản phẩm của thời đại mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn49
Nguyễn Du đã sống.
44
2.2 Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
2.2.1 Chân dung nhân vật Từ Hải
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ngoài nhân vật chính Vương Thuý
Kiều được Nguyễn Du luôn dành cho những tình cảm ưu ái nhất thì Từ Hải có
lẽ là nhân vật Nguyễn Du yêu thích ngay khi đọc xong tiểu thuyết Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Theo PGS.TS Trần Nho Thìn:
"Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều trên cơ sở vay mượn cốt truyện của một
tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc ra đời khoảng cuối Minh đầu Thanh - Kim
Vân Kiều truyện. Nhưng các nhà nghiên cứu đã khẳng định hết sức đúng đắn
đây không phải là hiện tượng dịch văn học mà là sự sáng tạo mới, đây là hiện
tượng hoán cốt đoạt thai". [49]
Nguyên Từ Hải trong lịch sử trung Quốc chỉ là một tên giặt bể. Theo
sách Ngu Sơ Tân Chí của Dư Hoài thì Từ Hải nguyên là Minh Sơn Hòa
Thượng, tu tại chùa Hổ Bào ở Hàng Châu. Long Văn gặp Từ Hải, đánh giá
Hải là tráng sĩ nên cùng giao tiếp, lại đem cho Lục Châu làm hầu gái. Sống
cùng La Long Văn một thời gian, Từ Hải từ biệt lên đường quyết lập chí dựng
cơ đồ, chiêu tập bọn thảo khấu quay về xâm chiếm Giang Nam, vây đánh
Tuần phủ Nguyễn Ngạc. Thật bất ngờ, trong một trận đánh, quân sĩ lại bắt
được Thúy Kiều và Lục Châu. Mừng lắm, Từ Hải lập Thúy Kiều làm phu
nhân, thường cùng cho dự bàn quân cơ. Lúc này thế lực Từ Hải đã mạnh;
triều đình phải cử Tổng đốc Hồ Tôn Hiến ở Triết Giang đánh dẹp. Hồ Tôn
Hiến nhiều mưu lược, thấy thế lực của Từ mạnh bèn cho Hoa lão nhân đến dụ
hàng. Từ Hải nổi giận bắt trói Hoa lão nhân. May cho Hoa là lúc này tuy Kiều
hết sức được yêu chiều nhưng vẫn canh cánh nỗi nhớ cố hương, mong sớm
được đoàn viên bèn bàn với Từ tha chết cho Hoa. Hoa trở về báo với Tôn
Hiến là thế giặc đang mạnh, chưa thể đánh nhưng xem ra Vương phu nhân có
vẻ có ngoại tâm, ta có thể nhân đây mà thắng giặc. Tôn Hiến có biết La Long
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn50
Văn là ân nhân cũ của Từ Hải và Thúy Kiều bèn dùng Văn để dụ hàng. Long
45
Văn đến dinh, được Từ Hải ân cần tiếp đãi lại cho gọi phu nhân cùng Lục
Châu ra chào. Trở về, Long Văn bàn với Hồ Tôn Hiến dùng kế đem châu báu
lo lót Thúy Kiều, vận động Từ quy hàng. Đúng như ý nguyện, Kiều ra sức
khuyên Từ Hải quy phục triều đình. Nghe lời Thúy Kiều, Từ Hải ước hàng
cùng Tôn Hiến, không phòng bị gì. Tôn Hiến dùng hỏa công đánh giặc tan
tác. Từ Hải nhảy xuống sông bị quan quân vớt lên chém đầu. Còn một vài
truyền thuyết khác, nhưng nhìn chung đều xem Từ Hải là một tên giặc làm
loạn. Đến đời Thanh, dưới ngọn bút của Thanh Tâm Tài Nhân, nhân vật Từ
Hải đã có sự thay đổi. Trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Từ Hải xuất
thân là một nhà nho xấu số, nhiều lần hỏng thi, thối chí bỏ đi buôn, gặp thời
phất to. Sau đó trở thành một đại vương "Có một hảo hán họ Từ tên Hải,
hiệu là Minh Sơn hòa thượng, người đất Việt đến chơi. Người này có lòng ưu
ái, phóng khoáng đại lượng, ôm chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa lông hồng,
xem người bằng vai như cỏ rác. Khí tiết hơn hẳn người cùng lứa, cao lớn
hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao, giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: “Trời
cho ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược
bằng hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời
phải làm sao cho được lỗi lạc, lập được những sự bất hủ trên đời, sao có thể
chết già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng ăn? Còn nếu có tài mà vô
mệnh, anh hùng không có đất dụng võ, không để lại được tiếng thơm cho
trăm đời thì phải tự mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao nơi ngòi đầm
chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục đến vạn năm. Nếu không được như thế thì bầu nhiệt
huyết trong người này làm thế nào sử dụng được?” Hồi nhỏ học hành nhưng
không thành đạt bèn bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao với bạn bè”.
Như vậy, nhân vật Từ Hải của Dư Hoài vẫn là " một tên giặc cỏ tầm thường chỉ
nhờ đàn bà mà lưu chút danh". Còn nhân vật Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân
tuy đã có sự thay đổi, Từ Hải đã biến ra vị anh hùng hào kiệt tài hoa, đương đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn51
với triều đình nhà Minh. Cốt cách là bậc trượng phu cái thế mà tâm hồn lại đa
46
tình như một thi nhân. Nhưng theo nhà phê bình văn học Hoài Thanh thì Từ
Hải vẫn chỉ là một bậc đại vương "dị nhân", "một nhân vật tiểu thuyết".
Đến đầu thế kỉ XIX, đại thi hào Nguyễn Du của Việt Nam đã xây dựng
hình tượng Từ Hải lên một bước mới, một vị anh hùng trong tưởng tượng, thể
hiện nguyện vọng thầm kín của mình.Vị anh hùng ấy có những đức tính đặc
biệt đó là lòng kiên hãnh, chí độc lập ngang tàng, có lòng trọng nghĩa khinh
tài và biết trân trọng tình cảm đối với người con gái mà mình cảm mến.
Nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du có đầy đủ biểu hiện của một nam nhi
anh hùng:
Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm thước rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đáng anh hào,
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.
Nếu nhân vật Từ Hải của Dư Hoài và trong truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân mới chỉ được nói sơ qua về tính cách thì nhân vật Từ Hải ngay từ khi
xuất hiện đã được Nguyễn Du miêu tả một cách cụ thể. Chỉ giới thiệu chân
dung Từ Hải bằng hai câu thơ mà con người Từ Hải đã hiện lên rõ mồn một.
Từ Hải đã gây được ấn tượng ngay lập tức bởi vẻ bề ngoài đầy nam tính.
Nguyễn Lộc khi nghiên cứu về nhân vật Từ Hải đã đưa ra nhận xét về nhân
vật này như sau:" Đó là một con người có bề ngoài phi thường..., có một bản
lĩnh phi thường..., có một phong độ phi thường...". Từ Hải có tướng của một
bậc anh hùng với "râu hùm, hàm én, mày ngài", với thân thể cường tráng "Vai
năm tấc rộng, thân mười thước cao". Vẻ bề ngoài đó không phải nhân vật
nam nào trong Truyện Kiều cũng có được. Nhân vật Kim Trọng cũng chỉ mới
chỉ dừng lại ở cách miêu tả qua loa vẻ bề ngoài:
Phong tư tài mạo tót vời,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn52
Vào trong trang nhã, ra ngoài hào hoa.
47
Nhân vật Mã Giám Sinh cũng chỉ được Nguyễn Du miêu tả sơ qua một
cách dung tục tầm thường:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Nhân vật Sở Khanh, kẻ bạc tình nổi tiếng ở chốn lầu xanh được
Nguyễn Du khoác vẽ lên một bức chân dung chải chuốt nhưng không mấy
thiện cảm:
Một chàng vừa chạc thanh xuân,
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
Nghĩ rẵng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
Nhân vật Thúc Sinh, Nguyễn Du mới chỉ dừng lại ở mức độ kể chứ
chưa gợi tả:
Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri.
Nhân vật Hồ Tôn Hiến cũng chỉ được kể đến là một tên quan lại mưu
mô, có tài trong việc xếp đặt việc chính trị:
Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi, việc ngoài đổng nhung
Tựu chung lại, các nhân vật này chỉ được tả hoặc kể một cách sơ lược.
Các yếu tố nam tính chưa được bộc lộ ra qua dáng vẻ bề ngoài. Chỉ đến Từ
Hải, ngòi bút của nguyễn Du mới phát huy được hết sự sáng tạo của mình. Từ
Hải đã bộc lộ vẻ nam tính - anh hùng ngay từ những nét bút miêu tả chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn53
dung đầu tiên của Nguyễn Du. Chân dung của một anh hùng đúng theo quan
48
điểm của Nho giáo thường được giới thiệu là có những nét kì vĩ, phi thường.
Theo Niculln, nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam của Nga: "Vẽ lên hình
tượng của dũng sĩ Từ Hải, Nguyễn Du đã dựa vào truyền thống sử thi Việt
Nam được thể hiện rõ nét trong hình tượng những nhân vật thần thoại và lịch
sử trong cuốn Thiên Nam ngữ lục, những nhân vật này đã đấu tranh với "kẻ
thù phương Bắc"... Từ Hải có cái dáng dấp như một dũng sĩ oai phong của sử
thi "Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao".[36.647] Nhìn lại hình tượng văn
học của những thời kì trước đó, trong Việt điện u linh khi khi miêu tả về các
vị anh hùng đều có ngoại hình kì vĩ như vậy: Lí Ông Trọng " thân dài hai
trượng ba tấc, khí chất thẳng thắn dũng mãnh, khác với người thường". Lê
Phụng Hiểu " người cao lớn, tướng đẹp, râu tốt, có sức khoẻ phi thường".
Phải chăng Nguyễn Du cũng bị ảnh hưởng của cách xây dựng hình tương
nhân vật anh hùng như vậy? Cách miêu tả nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du có
lẽ cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết chương hồi
Trung Quốc. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung đã không tiếc
những lời khoa trương khi miêu tả chân dung của Trương Phi: “Thân cao 8
xích, đầu báo, mắt tròn, cằm yến, râu hổ, tiếng nói như sấm, thế đi như ngựa
phi”. Quan Vũ "mình cao chín thước, mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm,
râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt". Theo nghiên cứu về những nhân vật
anh hùng lí tưởng của PGS, TS Trần Nho Thìn thì: "đã là những bậc phi
thường thì không thể có chân dung thực, giống bọn phàm phu tục tử được".
Có lẽ vì thế mà các nhân vật này đã thu hút được ngay từ khi xuất hiện, đặc
biệt là cái nhìn đầy thiện cảm của nữ giới dành cho họ.
Từ Hải không chỉ ấn tượng bởi thân hình cao lớn vượt khuôn khổ, dung
mạo uy nghi đường bệ mà còn ấn tượng bởi tài năng phi thường. Tài năng
"côn quyền thao lược" của Từ Hải là dũng và trí như bất cứ nhân vật anh hùng
nào khác. Nhưng với tài thơ của Nguyễn Du, tính chất phi thường ấy được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn54
biểu hiện mạnh mẽ sinh động bằng những từ ngữ có khẩu khí mạnh mẽ:
49
đường đường, một đấng, hơn sức, gồm tài, đội trời, đạp đất, vẫy vùng... Và
như vậy, một chí khí, một phong cách sống ngang tàng ngoài vòng cương toả,
làm chủ sở nguyện cá nhân là một điều tất yếu.
2.2.2 Thái độ ứng xử với phụ nữ
Lần đầu gặp Kiều trong nhà chứa, Từ Hải đã phủ định quan điểm ăn
chơi của Thúc Sinh. Thúc Sinh đến nhà chứa chỉ để truy hoan, về sau gần gũi
chàng mới có ý định yêu và cưới Kiều về làm vợ lẽ. Theo nhà nghiên cứu văn
học Nguyễn Lộc: "cái chuyển biến có tính chất quyết định trong tình cảm của
Thúc Sinh bắt đầu không phải bằng câu chuyện tâm tình, mà bằng chuyện
Thúc Sinh chứng kiến tâm thân ngà ngọc của Thuý Kiều lúc đang tắm".
[26.508] Từ Hải không như vậy. Chàng tìm đến Kiều bởi vì nghe tiếng nàng,
vì muốn tìm một người bạn tri kỷ :
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng
Hai bên cũng liếc, hai lòng cùng ưa.
Chỉ một câu nói nhưng cũng đủ thấy Từ Hải rất trân trọng Thuý Kiều,
một người con gái sống ở chốn lầu xanh. Đó là sự đồng cảm tâm hồn giữa
người anh hùng bạt thế và người phụ nữ "nửa đời nếm trải mọi mùi đắng
cay". Sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn, hai trái tim phảng phất màu sắc "tình yêu
sét đánh ban đầu". Nguyễn Du đã dùng cách diễn đạt gợi liên tưởng đến sự
say mê không kém phần lãng mạn của Từ Hải: "Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu
anh hùng", các từ ngữ "liếc, ưa" đã bộc lộ rõ rệt, công khai cái "cảm" của
tiếng sét ái tình, của hai con người đã phải lòng nhau. Cái cách mà Từ Hải
đến với Kiều hết sức lịch sự, hết sức đàn ông: "Thiếp danh đưa đến lầu
hồng". Thúc Sinh cũng đã từng làm làm thế:" Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, /
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào" nhưng mục đích đến với Thuý Kiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn55
chỉ là để ghẹo hoa thưởng nguyệt mà thôi. Chúng tôi xin trở lại những trang
50
truyện của Dư Hoài và Thanh Tâm Tài Nhân viết về cuộc gặp gỡ giữa Từ Hải
và Thuý Kiều. Trong Ngu Sơ Tân Chí của Dư Hoài, Từ Hải gặp gỡ Thuý
Kiều trong thế của kẻ "gặp lúc quẫn bách lẻn trốn vào ở nhờ nhà Thúy Kiều".
Quả là hành động của một kẻ phàm phu tục tử không xứng bậc anh hùng. Còn
trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, hồi thứ mười bảy viết
về Thuý Kiều và Từ Hải từ gặp gỡ đến lúc yêu nhau, Từ Hải chuộc Thuý
Kiều, hai người có một khoảng thời gian ngọt ngào khoảng vài tháng bên
nhau rồi phải chia ly, tất cả vỏn vẹn vài dòng: " Từ Hải dữ Thuý Kiều sở kỷ
ngũ nguyệt, nãi biệt Thuý Kiều nhi khứ, Khứ tam niên, yểu vô âm tín"( Từ
Hải và Thuý Kiều sống với nhau năm tháng, rồi từ biệt ra đi. Đi ba năm
không có tin gì).[69]
Trong buổi đầu gặp gỡ, Từ Hải đã thể hiện là một con người có học, có
hiểu biết chứ không phải là một anh chàng "võ biền" thô lậu. Lời tỏ tình của
chàng thật tế nhị và đằm thắm biết bao:
Từ rằng: "Tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi các chậu chim lồng mà chơi!
Lời tỏ tình đó thể hiện một thái độ trân trọng, đánh giá cao con người Thuý
Kiều và đồng thời cũng là lời tự khẳng định giá trị của bản thân.
Chỉ với một vài câu thơ, Nguyễn Du đã khiến người anh hùng Từ Hải
đối lập hoàn toàn với quan niệm của đạo đức phong kiến. Táo bạo hơn,
Nguyễn Du đã để cho người anh hùng Từ Hải "tìm thấy ở cô gái giang hồ ( dù
đó là Thuý Kiều) một người tri kỉ, rất đỗi tri kỷ" [8.508]:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn56
Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người
51
Như vậy, Từ Hải là nam nhi, anh hùng nhưng chàng không khắc kỉ mà trái lại,
Từ Hải cũng lãng mạn, đi tìm hình bóng giai nhân. Gặp được người con gái
tâm đầu ý hợp của mình, chàng cũng tâm niệm một lòng một dạ thuỷ chung:
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau.
Tình yêu mà Từ Hải dành cho Thuý Kiều xiết bao chân thành, trong
trắng. Chàng trân trọng, bảo vệ người mình yêu, khác hẳn những kẻ thuộc giai
cấp bóc lột quen bỡn cợt đàn bà. Kết thúc cuộc gặp gỡ ấy, Từ Hải đã chuộc
Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh của Bạc Bà với một sự thanh toán sòng phẳng: "
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn". Quả là một hành động rất quân tử
bởi với sức mạnh của mình, Từ Hải có thể đưa Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh
một cách dễ dàng nhưng chàng đã không làm như vậy.
Hạnh phúc của Từ Hải, Thuý Kiều còn được khẳng qua cuộc sống ái
ân, chăn gối thoả lòng mong ước:
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
Những từ ngữ: "buồng riêng", "giường", "màn" chính là biểu tượng của
nơi diễn ra ân ái nhục thể nhưng đã được Nguyễn Du sử dụng hết sức tinh tế
không gây cảm giác thô tục. Các biểu tượng "giường", "chiếu chăn", "gối" là
để tả ân ái không phải chỉ được nhắc đến một lần trong Truyện Kiều. Trong
cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, Nguyễn Du đã từng vận dụng thủ pháp ẩn
dụ rất đắc địa khi nói về cảnh ân ái vợ chồng bị chia cắt:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường!
Vầng trăng ai xẻ ẩn dụ cho cuộc sống lứa đôi hạnh phúc bị chia loan rẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn57
phụng. Gối chiếc là ẩn dụ về sự cô đơn trong đời sống ân ái vợ chồng của
52
Kiều và Thúc Sinh. Trở lại quãng thời gian trước đó, tác phẩm Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn, khi nói về cuộc chia tay giữa người chinh phu và
người chinh phụ, tác giả cũng đã nhắc đến nỗi cô đơn trong đời sống chăn gối
vợ chồng:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
buồng cũ chiếu chăn là hình ảnh ẩn dụ ước lệ để chỉ cho tổ ấm trước đây của
hai vợ chồng. Tiễn chồng ra đi nơi chiến trường khốc liệt, người vợ trở về tổ
ấm cũ trong sự lẻ loi đơn chiếc. Như vậy, các biểu tượng ái ân được sử dụng
trong các tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và Chinh phụ ngâm khúc của
Đặng Trần Côn đã đánh dấu một bước tiến lớn của văn học trung đại.
Tình yêu của Từ Hải và Thuý Kiều là sự hoà quyện cả về thể xác lẫn
tâm hồn. Đây quả là một sự phá cách trong quan niệm về tình yêu của người
anh hùng mà xưa nay thường hiếm gặp trong văn chương cổ. Trong Ngu sơ
tân chí của Dư Hoài và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có
nhắc đến điều này nhưng phải đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, người anh
hùng mới thật sự được miêu tả dưới góc độ con người bản năng thân xác.
2.2.3 Hành động của người anh hùng Từ Hải
Từ Hải được Nguyễn Du nhiều lần gọi là anh hùng: "Tấm lòng nhi nữ
cũng xiêu anh hùng", "Một đời được mấy anh hùng", "Anh hùng đoán giữa
trần ai mới già", "Anh hùng mới biết anh hùng", "Anh hùng tiếng đã gọi
rằng". Nhân vật Thuý Kiều cũng đã công nhận: "Rằng: Từ là đấng anh
hùng". Ngày cả kẻ đối nghịch với Từ Hải, Hồ Tôn Hiến cũng từng nói: "Biết
Từ là đấng anh hùng". Trần Ngọc Vương cũng đã ra nhận định về nhân vật
Từ Hải như sau: "Ông ( Nguyễn Du) gọi Từ là "anh hùng", là "trượng phu, là
"chim bằng", là "Từ Công", đặt vào miệng Từ Hải ngôn ngữ của một người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn58
có tầm sống cao vượt hẳn người bình thường, tuy chưa là khẩu khí vương giả
53
nhưng chắc chắn là của một người anh hùng xuất chúng". [7.499] Như vậy,
Từ Hải, người anh hùng, là điều hiển nhiên.
Theo quan niệm của Nho giáo, hành động của người anh hùng là những
hành động siêu việt vượt lên trên đồng loại. Từ Hải yêu bằng lí trí nên không
có sức mạnh nào có thể giữ chân chàng được, kể cả tình yêu của Thuý Kiều:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa lên đường thẳng giong.
Cuộc ra đi đột ngột không báo trước, tư thế ra đi dứt khoát của kẻ
trượng phu rất hợp với bản tính của Từ Hải, đáng nam nhi đầy bản lĩnh. Bởi
đúng như Hoài Thanh nói: " Con người này quả không phải là con người của
một nhà, một họ, một xóm, hay một làng. Con người này là của đất trời, của
bốn phương"[42]. Yêu Thuý Kiều, tìm thấy người tri kỷ nhưng không vì thế
mà người anh hùng từ bỏ khát vọng của mình, quên hết bổn phận làm trai.
Chàng tin vào sự nghiệp mà mình đã chọn. Sự nghiệp ấy sẽ có ngày chàng
nắm chắc trong tay. Hình ảnh của "mười vạn tinh binh" với cờ xí, chiêng khua
trong ngày chiến thắng trở về là những khao khát mà Từ Hải hướng tới:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.
Đó chính là khát vọng lớn lao, mang tầm vóc vũ trụ, muốn làm nên cơ
đồ bá vương, từ đó thấy được bản lĩnh, tài năng xuất chúng của Từ Hải. Từ
Hải cũng tin vào sự thành công tất yếu của mình chỉ còn là vấn đề thời gian:
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau, vội gì!
Bên cạnh người đàn ông đầy bản lĩnh nam nhi, Từ Hải cũng là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn59
người có trái tim nhân hậu, biết đồng cảm thấu hiểu nỗi lòng của người phụ
54
nữ mình yêu. Lời dặn dò, hứa hẹn dứt khoát, chắc nịch của chàng cũng đã
phần nào đánh trúng tâm lí của người ở lại:
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Từ Hải cũng hiểu khi sự nghiệp chưa thành, chàng sợ Kiều sẽ phải vất
vả, thân gái dặm trường, nạn binh đao khói lửa nơi chiến trường sẽ khiến
chàng thêm bận lòng:
Bằng không bốn bể là nhà,
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đằng sau lời lẽ mang tính chất thuyết phục ấy là cả một sự quan tâm, lo
lắng của Từ Hải dành cho Thuý Kiều. Chính những lời lẽ thân tình, sự thấu
hiểu ấy đã khiến cho nhân vật Từ Hải không chỉ có sự phi thường của người
anh hùng mà còn là một con người rất đỗi bình thường. Nguyễn Du thành
công khi kể, tả về cuộc ra đi của Từ Hải, điều mà trước đó, ta không tìm thấy
được ở nhân vật Từ Hải của Dư Hoài và Thanh Tâm Tài Nhân.
Từ Hải cũng là một con người biết trọng lời hứa. Điều này trong Kim
Vân Kiều Truyện cũng có nhắc đến. Sau khi chiếm được năm toà cõi Nam
(trong Kim Vân Kiều Truyện nói là Từ Hải chiếm được năm huyện), Từ Hải
đã cho rước Kiều về làm vợ. Nghe và thấu hiểu được nỗi oan khuất của Kiều,
Từ Hải đã giúp Kiều báo ân, báo oán. Cách mà Từ Hải trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du chia sẻ nỗi đau với Thuý Kiều cũng rất đỗi phi thường:
Từ công nghe nói thuỷ chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Cái giận của Từ Hải được Hoài Thanh đưa ra lời nhận xét:"Từ Hải
không thể trong lúc giận ném một cái chén, một cái bát, hay đập bàn, đập ghế
như bọn tầm thường là chúng ta. Từ Hải mà giận hẳn là phải kinh khủng như
trời đương lặng lẽ bỗng nổi giông tố sấm sét". Quả là một con người yêu ghét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn60
phân minh, ơn thù rõ rệt. Cũng là một câu nói giúp Thuý Kiều trả nợ ân, oán
55
nhưng nhân vật Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân đã không thể hiện được cơn
giận dữ rất đàn ông đó. Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân khi nghe Kiều nhắc
lại chuyện oan khuất ngày trước thì nói: "Có khó gì việc ấy. Để ta điểm năm
ngàn quân quét sạch đất Truy Lâm trả thù cho phu nhân". Về điểm này, ta lại
nhận thấy một lần nữa tài năng sáng tạo của Nguyễn Du. Từ Hải - người nam
nhi, anh hùng xưng bá phương Nam, chẳng những đưa tay kéo Thuý Kiều ra
khỏi chốn lầu xanh ô nhục mà còn rửa sạch làu nỗi sỉ nhục mà nàng phải chịu
đựng suốt mười năm qua. Bởi theo quan niệm của chàng người anh hùng chỉ là:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân.
Cuộc sống của con người anh hùng ấy những tưởng sẽ êm đềm mãi mãi
bởi sự nghiệp đã hoàn thành. Từ Hải là anh hùng nhưng với triều đình phong
kiến chính thống, Từ là kẻ phiến loạn, là giặc mang tội bất trung. Tội ấy đáng
chém đầu nhưng với một vương triều mạnh, với một con nguời tài giỏi như
Từ, đánh đổ đâu dễ dàng. Chúng nghĩ ngay kế mua chuộc và dụ hàng. Nhà
vua cử tên tổng đốc trọng thần “mặt sắt đen sì” Hồ Tôn Hiến làm nhiệm vụ
này. Hồ Tôn Hiến nghĩ ngay ra diệu kế. Bấy giờ, nàng Kiều sau bao năm lưu
lạc đã thành vợ của Từ Hải. Hồ Tôn Hiến dùng vàng bạc mua chuộc Kiều
mong nàng tìm cách thuyết phục Từ Hải quy hàng triều đình. Cả tin lại chán
ghét cảnh bèo dạt mây trôi, Kiều đành nhận lời. Bởi nghe lời Kiều, Từ Hải đã
quy hàng. Những tưởng triều đình sẽ ban thưởng chức tước như đã hứa,
nhưng tráo trở thay nhân cơ hội này, Hồ Tôn Hiến đã giết Từ Hải. Người anh
hùng đã chết, chết trong sự oan ức. Từ chết đứng “trơ như đá, vững như đồng,
ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời”. Ở Ngu sơ tân chí của Dư Hoài Từ
Hải khi bị mắc mưu Hồ Tôn Hiến thì hốt hoảng đâm đầu xuống sông tự vẫn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn61
Quan quân vớt lên chém lấy đầu. Còn nhân vật Từ Hải trong Kim Vân Kiều
56
Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ra đầu hàng và khi nhận ra mình bị mắc
mưu chàng cũng có khí phách của một bậc anh hùng tả xung hữu đột không
chịu khuất phục. Chết mà cứ đứng trơ. Chi tiết đó được Nguyễn Du khắc hoạ
chỉ trong một vài câu lục bát:
Tử sinh liều giữa trận tiền,
Dạn dày cho biết gan liền tướng quân.
Khí thiêng khi đã về thần,
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh chuyện Từ Hải chết đứng.
Một số nhà nho chính thống phê phán Từ Hải chỉ vì nghe theo lời Kiều, mê
Kiều, quá tin Kiều mà bị phản phúc và chết một cách oan uổng: "Bốn bể anh
hùng còn dại gái".Điều này chưa hẳn đã đúng bởi Từ Hải là một tay giang hồ
cự phách, tung hoành trong bể Sở sông Ngô, chọc trời khuấy nước, "đánh
quen trăm trận sức dư muôn người", nghênh ngang biên thùy một cõi. Chí của
chàng cao cả như chim hồng hộc bay vút tận trời xanh, như cá kình nghê vẫy
vùng nơi bể rộng. Chàng là con người "phong trần mài một lưỡi gươm",
chẳng bao giờ bó thân về với triều đình làm kẻ hàng thần lơ láo để vào luồn ra
cúi như những loài giá áo túi cơm. Một con người đã từng bách chiến bách
thắng, đã tự cho là "sức nầy đã dễ làm gì được nhau", luôn luôn sẵn sàng
đương đầu với kẻ thù, lẽ dĩ nhiên là rất quý chuộng sự tự do độc lập của mình.
Vì thế, lúc nghe Hồ Tôn Hiến chiêu hàng, Từ Hải đã do dự, cái do dự gần như
ngạc nhiên. "Về với triều đình" , thật chưa bao giờ chàng có ý nghĩ như vậy !
Năm năm gầy dựng với biết bao chiến công anh dũng cho đến hôm nay "triều
đình riêng một góc trời, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà" với "trong tay mười
vạn tinh binh", thế thì tại sao chàng lại làm kẻ phục tùng đã chứ ? Lí giải điều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn62
này dưới góc độ văn hoá giới, chúng ta sẽ thấy Từ Hải đã làm một việc rất
57
phải theo tính cương trực ngay thẳng của mình và hợp với sự thuần túy của
tâm hồn con người. Từ Hải hiểu được tâm trạng của Kiều rất nhớ nhà, rất nhớ
cha mẹ và hai em…Trước chàng đã nói “ Làm sao sum họp một nhà / Để
người thấy mặt là ta cam lòng”. Vậy Từ Hải ra hàng thì Kiều mới có cơ hội
trở về Bắc Kinh để một nhà sum họp. Thiết nghĩ, Từ Hải đã đến với Kiều
không phải bằng thứ tình yêu sét đánh hay tình yêu lý trí mà là bằng một thứ
tình yêu đặc biệt: tình yêu vị tha. Từ đã đặt hạnh phúc của Kiều lên trên hạnh
phúc của mình và sẵn sàng hi sinh tất cả vì người mình yêu, một tình yêu đích
thực. Xét cho cùng, công danh sự nghiệp là cái mà người nam nhi, anh hùng
muốn đạt tới nhưng tình yêu, hạnh phúc cũng là cái bản năng không thể thiếu
đối với người đàn ông. Từ Hải có lí trí sáng suốt để nhìn thấu mọi việc nhưng
cũng như bao người đàn ông khác, chàng cũng là người trọng tình cảm, có
những đam mê tình ái, khao khát cuộc sống lứa đôi và khi đã tìm được cho
mình một hồng nhan tri kỷ thì chàng cũng không mong muốn gì hơn là làm
cho người mình yêu được hạnh phúc. Vả lại, trong tình yêu chân thành làm gì
có sự tính toán thiệt hơn!
Hơn ai hết khi quyết định số phận cho nhân vật của mình chắc hẳn
Nguyễn Du cũng hiểu rằng trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ Từ Hải chỉ là âm
vang, một ánh hoà quang, một niềm mơ ước. Cái triều đình mà Từ Hải gây
dựng lên làm thế nào để có thể duy trì được đó là câu hỏi mà nhà văn cũng
như thời đại ông không thể giải đáp được. Nguyễn Phục Đôn, một nhà phê
bình văn học đầu thế kỷ XX, đã có lí khi nói Từ Hải chẳng có gì đáng kể,
ngoài việc lo đền ân báo đáp giúp Kiều và lo thực hiện tâm nguyện của Kiều
trở về cố hương thăm lại gia đình, người thân. "Sự đầu hàng và cái chết của
Từ Hải có thể xem như là một tất yếu của lịch sử".[49.653]
2.2.4 Những lời bình về nhân vật Từ Hải
Theo quan niệm truyền thống phương Đông, người anh hùng được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn63
diễn tả trong văn học phải là những người sống có hoài bão, "sống vì những
58
sứ mệnh xã hội lớn lao, vung thanh gươm dẹp ác trừ gian, đổi trị thành loạn,
thiết lập công lí ở đời"[49.428]. "Cũng vì một nhân cách lí tưởng, thi ca cổ
thường hay diễn tả tâm đạo lí, lo đời lo nước mà gạt bỏ tất cả các trạng thái
tâm lí có tính tự nhiên, do cuộc sống tự nhiên, cá nhân khơi gợi nên"[49.35].
Chính vì thế, họ thường có thái độ nghiêm khắc, lạnh lùng trước sắc đẹp của
người phụ nữ. Bởi "văn học trung đại chủ trương dùng quan hệ tình dục để hạ
bệ, giải thiêng một nhân vật và gạt bỏ đời sống tình dục để ngợi ca một nhân
vật khác" [49.428]. Điều này văn học đã chứng minh qua tác phẩm Tam tổ
thực lục đời Trần. Câu chuyện Giăng lưới bắt chim ca ngợi sư Huyền Quang
không bị cám dỗ bởi sắc đẹp của nàng Điểm Bích là một mình chứng hùng
hồn cho lí tưởng diệt dục của Phật giáo. Trái lại, người anh hùng Tây Sơn
Nguyễn Huệ lại bị Trần Danh Án, là tôi trung của nhà Lê, kiên quyết bất hợp
tác với triều Tây Sơn, thủy chung coi Tây Sơn là giặc mọi, đã viết bài thơ Tây
Sơn hành trong cuốn Tản Ông di cảo (散翁遺稿 mang ký hiệu A.2157) nói
về cảnh ân ái giữa Quang Trung- Nguyễn Huệ và Ngọc Hân công chúa với lời
lẽ thô tục nhằm hạ bệ hình ảnh đẹp đẽ của người anh hùng cái thế này. Hình
ảnh Nguyễn Huệ được tả trong Tây Sơn hành mang dáng dấp của một kẻ kém
văn hoá hơn là của một anh hùng:
Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ
Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm
Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác
Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín
Ngay cả trong cảnh ái ân, nhân vật Nguyễn Huệ cũng được miêu tả ở
sự thô lỗ khó có thể chấp nhận được:
Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn
Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ
Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn64
Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết
59
Có thể nói từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn
xằng bậy. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào
viết về người nam giới đặng so sánh được. Dưới ngòi bút của Trần Danh Án
người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ đã bị hạ bệ một cách không
thương tiếc chẳng khác gì một con quỷ dâm ô, háo sắc.
Nguyễn Du xây dựng nhân vật Từ Hải không trên lập trường quan điểm
như vậy. Nhân vật Từ Hải mang hình dáng, cốt cách của một anh hùng hào
hiệp mà cũng rất phong lưu:" Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo". Nhà
nghiên cứu văn học Đào Duy Anh trong Khảo luận về "Kim Vân Kiều" đã nói
về nhân vật này như sau: "Từ Hải dẫu là có chí khí anh hùng, mà không phải
là người tự nhiệm cái thiên chức lớn lao như anh hùng cứu quốc (Lê Lợi, Câu
Tiễn). Từ Hải chỉ làm anh hùng để cho phỉ cái chí ngang tàng, bẩm phú, cho
nên không ép thân trong cảnh khắc khổ "nằm gai nếm mật", mà trái lại, trong
bước phiêu lưu lại không quên cái thú phong lưu. Cho nên cùng với thanh
gươm là vật tuỳ thân của người võ sĩ, Từ Hải thường kèm theo cái đàn, mà
nhờ cái đàn ấy ta mới không lấy làm lạ khi ta thấy Từ Hải gặp Thuý Kiều ở
chốn thanh lâu". [2] Từ Hải có biểu hiện của tình yêu nam nữ, biết trân trọng
cuộc sống lứa đôi. Bên cạnh một Từ Hải đầy uy lực, dũng mãnh lại là một con
người rất tự nhiên, phàm trần với mọi cung bậc sắc thái tình cảm.
Như vậy, Nguyễn Du là người đánh dấu sự toàn diện của con người
dựa trên chủ nghĩa nhân bản - đánh giá con người trên khía cạnh toàn diện,
chứ không dựa trên chủ nghĩa dân bản như các nhà nho vẫn làm. Nếu như ở
văn học nhà nho truyền thống, nhân vật trong văn học thường là những con
người "sát thân thành nhân", "xả sinh thủ nghĩa", hoặc "nội thánh ngoại
vương", "tu kỉ trị nhân"...Khi muốn ca ngợi một ai đó, nhà nho thường nhấn
mạnh trên phương diện sức khoẻ, những hành động phi thường, những tấm
gương về đạo đức. Người phụ nữ không có chỗ đứng trong lòng những bậc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn65
hiền nhân quân tử, chỉ khi muốn hạ bệ một ai đó người ta mới nhấn mạnh
60
quan hệ nam nữ với bộc lộ thái độ phê phán, kì thị. Nguyễn Du đã làm được
điều mà các nhà nho trước chưa dám vượt qua. Ông đã vượt qua chủ nghĩa
dân bản và nêu những vấn đề nhân bản một cách sâu sắc. Con người không
chỉ là những thần dân, chỉ là những khuôn mẫu máy móc mà xã hội Nho giáo
xây dựng lên. Con người của Nguyễn Du không chỉ cần quan tâm về mặt vật
chất mà con người còn cần được quan tâm về mặt thân xác. Do đó, con người
có quyền sống về mặt thân xác, có quyền được yêu thương, khát vong, ước
ao, vui buồn, đau khổ hay hạnh phúc, có quyền sống riêng về tư tưởng.
Nguyễn Du đã làm được điều này không chỉ với Từ Hải mà ở cả các nhân vật
nam khác trong truyện.
Trong Truyện Kiều, các nhân vật nam chính diện, đều không thiếu màu
sắc thân xác, nhục dục. Kim Trọng, một sĩ nho thông hiểu sách thánh hiền,
một con người hào hoa phong nhã nhưng cũng đầy dục vọng, si mê. Nguyễn
Du đã tả những giây phút Kim Trọng ngồi bên Kiều và những rung động
mang tính chất nhục thể rất hiển nhiên của chàng:
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Những từ "đầu mày cuối mắt", "sóng tình", "vội chi liễu ép hoa nài" ghi
nhận sự bùng phát yếu tố bản năng ở Kim Trọng.
Thúc Sinh, một nhân vật nam trung gian đến với Kiều trước hết là vì
đam mê thân xác khi Nguyễn Du có ý để Thúc Sinh chứng kiến cảnh Kiều tắm:
Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn66
Dầy dầy đúc sẵn một toà thiên nhiên.
61
Điều cần nhấn mạnh chính là thái độ của Nguyễn Du dành cho Thúc
Sinh. Tác giả không hề tỏ ý coi thường Thúc Sinh. Có lẽ trong Truyện Kiều
không có cuộc li biệt nào lại được Nguyễn Du tả thấm thía như cuộc chia li
của Thúc Sinh và Kiều:
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Người đi xa khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mhìn xa xôi.
Vừng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường!
Một hệ thống từ ngữ giàu sắc thái trữ tình, phong cách đối ngẫu trong
thơ ca cổ điển, một bức tranh thời gian và không gian để biểu đạt tâm trạng,
để diễn tả cảnh tình li biệt... Nỗi niềm lưu luyến, tâm trạng cô đơn... trước
cuộc biệt li. Một bức tranh thiên nhiên vừa đẹp, vừa buồn, vừa nhẹ nhàng thấp
thoáng, vừa thấm thía một cảm giác cô đơn bất lực... Hai con người nhỏ bé
trước thiên nhiên và dường như bất lực trước số phận... Một cuộc biệt li bịn
rịn như thế không thể có được ở những con người không có tình cảm với
nhau. Đến lượt mình, nếu Nguyễn Du không có cái nhìn mới, vượt qua cái
nhìn của nhà nho truyền thống về thân xác thì nhà thơ không thể nhìn Thúc
Sinh như thế.
Có thể nói, cách xây dựng nhân vật chính diện, phản diện của Nguyễn
Du trong Truyện Kiều không đối lập một cách gay gắt như trong truyện Lục
Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Trong truyện Lục Vân Tiên, các nhân vật
như Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực là những nhân vật mang phẩm chất
anh hùng thường có cái nhìn khắc kỉ đối với sắc đẹp của người phụ nữ còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn67
những nhân vật phản diện như Bùi Kiệm, Trịnh Hâm luôn là những kẻ háo
62
sắc, tiểu nhân, ti tiện. Nguyễn Du cũng không cứng nhắc trong cách xây dựng
hai kiểu nhân vật chính diện, phản diện. Nhân vật Mã Giám Sinh là kẻ buôn
bán nhưng trước sắc đẹp của Kiều, Mã Giám Sinh không thể không rung
động. Nguyễn Du nhìn thấy sự mâu thuẫn trong lựa chọn của y, một bên
muốn giữ trinh tiết Kiều để bán lấy hoà vốn, một bên lại muốn hưởng thụ sắc
đẹp ấy:
Mừng thầm: Cờ đã đến tay,
Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng
...Miếng ngon kề đến tận nơi,
Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.
Đào tiên đã bén tay phàm,
Thì vin cành quýt cho cam sự đời.
... Vả đây đường xá xa xôi,
Mà ta bất động nữa người sinh nghi.
Quả là một sự tính toán chi li của một kẻ con buôn nhưng thái độ của
tác giả khi nói về nhân vật này cũng không hề tỏ ý khinh miệt. Bởi một người
đàn ông thấy con gái đẹp, hơn nữa lại đang ở trong tay mình mà không rung
động, không muốn sở hữu thì quả là một sự khác thường. Ngay cả với Hồ Tôn
Hiến, loại người sinh ra không phải để rung động trước tài hoa và nhan sắc
nhưng khi nghe Kiều đánh đàn, Nguyễn Du đã dùng từ "cũng" để biểu lộ sự
ngạc nhiên của mình:
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
Hình ảnh của Hồ Tôn Hiến nghe đàn cũng khác hẳn những người khác.
Ta có cảm tưởng như khó khăn lắm, tài đàn tuyệt diệu kia mới "lọt" nổi vào
tai vị Tổng đốc trọng thần. Hình ảnh hắn ở đây không thể so sánh với thái độ
rung động đồng cảm của Kim Trọng đối với tiếng đàn của Thuý Kiều, không
thể so sánh với nụ cười sảng khoái của Từ Hải khi gặp người tri kỉ, mà cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn68
chẳng được như sự đắm đuối của Thúc Sinh khi "Trướng tô giáp mặt hoa
63
đào". Vậy mà, Nguyễn Du phác hoạ rất thành công một "gương mặt sắt" đẫn đờ
của " quan Tổng đốc trọng thần"cũng đang "ngây" ra vì sắc đẹp của nàng Kiều.
Nguyễn Du đã thoát khỏi nhị nguyên luận truyền thống để xây dựng
những nhân vật có khả năng kết hợp các phẩm chất đối lập. Dù là nhân vật
thư sinh hào hoa, phong nhã hay người anh hùng nghĩa hiệp thì ở họ đều có
những khao khát ham muốn trần thế, bản năng. Như vậy,Nguyễn Du đã có
một thay đổi đáng kể đối với vấn đề con người lí tưởng. Chỉ có Nguyễn Du,
các nhân vật mới thoát khỏi mẫu hình con người lí tưởng và trở về với cuộc
đời thường ngày với tất cả những yếu tố phàm trần, đời thường của chúng.
Đặt nhân vật Từ Hải và các nhân vật vào trong thời đại mà Nguyễn Du sống,
thời đại mà những giáo lí của Nho gia ăn sâu vào mọi ngõ nghách tâm hồn
con người thì đâu có dễ gì thay đổi được được bản chất của nó. Nguyễn Du
cũng là một nhà nho, hơn nữa lại là một mệnh quan triều đình nhưng ông đã
làm trái với những điều mà người nho sĩ của cửa Khổng sân Trình được học.
Ông đã xây dựng nhân vật người anh hùng của mình trên tổng hoà các mối
quan hệ vật chất và tư tưởng, bản năng và văn hoá, đạo và tự nhiên. Và như
vậy, Nguyễn Du đã đi trước thời đại một bước đáng kể. Ông chính là một
trường hợp ngoại lệ. Phải chăng cũng vì điều đó mà Truyện Kiều và các nhân
vật trong Truyện Kiều sống mãi với thời gian?
Nếu đem so sánh nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều với các nhân vật
nam trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ thì đây quả là một sự bứt phá
đáng kể. Nam nhân trong Truyền kỳ mạn lục được tả rất bạo, nhưng thiên về
con người trần tục mà không có nét anh hùng, trượng phu nên không so sánh
với Từ Hải được, tuy vậy, thái độ của Nguyễn Du rất khác với Nguyễn Dữ.
Nguyễn Du đồng tình, ca ngợi, còn Nguyễn Dữ có lời bình mang tính phê
phán các nhân vật nam, ngược lại với việc ông miêu tả, khiến cho người đọc
có thể hiểu là các nhân vật nam này là nhân vật phản diện, là sản phẩm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn69
giai đoạn Nho giáo khủng hoảng.
64
2.3 Tiểu kết
Qua phân tích nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều, chúng ta có thể thấy
không phải nhân vật người đàn ông lí tưởng nào trong nền văn học trung đại
cũng phải là những con người thực thi theo quan điểm giáo lí Nho gia. Người
đàn ông nam tính phải là những người có đầy đủ mọi tố chất của một con
người vừa phi thường nhưng cũng rất bình thường Họ có quyền được sống
theo đúng bản năng của mình, được làm những điều mà mình muốn và được
sống hết mình với tình yêu. Từ Hải đã đã làm được điều đó. Đây cũng chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn70
là điều đáng trân trọng ở con người đại thi hào Nguyễn Du.
65
Chương 3
NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN TRONG TRUYỆN
LỤC VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Chương III, chúng tôi trình bày đôi nét về thân thế, thời đại của Nguyễn
Đình Chiểu, văn hóa và tư tưởng ở Nam Bộ, vùng đất mới và lịch sử phục hồi
Nho giáo của triều Nguyễn để thấy Lục Vân Tiên cũng là sản phẩm của văn
hóa Nam Bộ, trên vùng đất mới này, Nho giáo vẫn có những tác dụng, vai trò
nhất định. Từ đó, chúng tôi đi sâu phân tích và lý giải hình tượng nhân vật Lục
Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên từ góc nhìn giới bằng việc tìm hiểu cách
ứng xử hành động, quan niệm trong tình yêu, cách miêu tả, cách đánh giá của
người trần thuật về các nhân vật chính diện - phản diện, của tác giả lời bình về họ.
3.1 Thân thế và thời đại Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (chữ Hán: 阮廷沼; 1822-1888), tục gọi là Đồ
Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị
mù). Ông sinh ra tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình
Dương, tỉnh Gia Định . Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong gia đình nhà nho.
Thuở nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo
học với một ông thầy đồ ở làng. Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm
sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi, vì bất mãn đã làm cuộc nổi dậy
chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm cả Nam Kỳ. Trong cơn binh
biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế, nên bị cách hết chức tước.
Song vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người
bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống
ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840), thì trở về Gia Định. Năm Quý
Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy, có một
nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn71
thi năm Kỷ Dậu (1849). Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (10 tháng
66
12 năm 1848), mẹ Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi,
dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ. Trên đường trở về, vì quá
thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường, nên đến Quảng Nam thì
Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở nhà một
thầy thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết, nhưng ông cũng đã học
được nghề thuốc. Lâm cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn
Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường dạy học
Nguyễn Đình Chiểu sinh ra và trưởng thành ở thế kỷ XIX. Đây là thời
và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định).
kì có nhiều biến động về chính trị, về văn hoá xã hội. Đầu thời Nguyễn, Nho
giáo được đề cao hơn trước. Các vua đầu triều Nguyễn nhận thức được vai trò
quan trong của Nho giáo trong việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền
chuyên chế nên đã lấy Nho giáo làm quốc giáo. Sau 1832, những nỗ lực về
chính trị của Minh Mạng đã ít nhiều đưa Nho giáo quan phương ở Việt Nam
trở vào khuôn khổ Nho giáo chính thống, nhưng lúc bấy giờ thì hệ thống học
thuật - lý luận Nho giáo đã không còn khả năng phản ảnh chính xác và toàn
diện các quá trình xã hội trong đất nước nữa. Hệ thống Nho giáo quan phương
vừa lạc hậu về học thuật - lý luận vừa cực đoan về chuẩn mực xã hội của triều
Nguyễn đã dẫn tới sự bế tắc của ý thức hệ chính thống. Trong khi đó, mặc dù
không thể vươn tới chỗ trở thành một học phái thống nhất trên toàn quốc, hệ
thống Nho giáo nhân dân hóa vẫn tiếp tục phát triển một cách tự phát với
nhiều biến thái địa phương. Cục diện Nho giáo ở Đàng Trong và Đàng Ngoài
đã có sự thay đổi. Mô hình “quân bất quân thần bất thần” của Nho giáo ở
Đàng Ngoài luôn tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ cung đình. Phương thức phát triển
hội tụ của văn hóa Việt Nam ở Đàng Trong đã đưa tới cho Nho giáo ở vùng
này một nguồn sinh lực mới, mà biểu hiện tập trung là quá trình nhân dân hóa
qua thực tiễn xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, tổ chức xã hội và bảo vệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn72
biên cương. Chính yếu tố “vô thần” trong thiết chế Nho Thích hỗn dung của
67
Nho giáo ở Đàng Trong đã giúp chính quyền và nhân dân Việt Nam ở vùng
này nhất hóa chứ không đồng hóa nhiều nhóm cư dân có nguồn gốc văn hóa
và lịch sử, phong tục và tín ngưỡng khác nhau thành một cộng đồng. "Sống
giữa tình thương yêu và niềm kính trọng của nhân dân thái ấp, Nguyễn Đình
Chiểu đã làm được việc là dung hoà hệ tư tưởng Nho giáo với đời sống tinh
thần của nhân dân lao động, đặc biệt là nhân dân lao động miền
Nam"[45.273]. Tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu về cơ bản là tư tưởng của một
nhà Nho chính thống. Tư tưởng này đã để lại dấu ấn trong Lục Vân Tiên và thể
hiện khá rõ nét qua các nhân vật chính diện của tác phẩm này.
Một đặc điểm đáng lưu ý có ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của
Nguyễn Đình Chiểu mà theo tác giả Nguyễn Thế đó là nghệ thuật tuồng,
phương tiện truyền bá tư tưởng Nho giáo thời phong kiến. Thời vua Tự Đức,
nhiều chính sách để phát triển đất nước được đưa vào, trong đó có cả việc
phát triển văn hóa. Bộ môn nghệ thuật tuồng được đặc biệt quan tâm. Kịch
bản tuồng, dù được sáng tác trong cung đình hay ở ngoài dân gian; tất cả đều
lấy chủ đề "quân, quốc" làm tư tưởng chủ đạo. Trung quân, ái quốc là hai yếu
tố luân lý được Nho giáo đề cao. Bởi vào cái buổi xế chiều của chế độ phong
kiến, khi mà các ngai vàng, có nguy cơ lung lay, nguy cơ bị thoán đoạt thì chữ
trung càng phải được chú trọng hơn. Vì vậy, những nhân vật chính trong
tuồng thường là những anh hùng có tư tưởng trung quân phò vua giúp nước.
Tuồng đề cao đạo đức luân lý của con người thông qua mối quan hệ giữa vua
tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn... nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục
mọi tầng lớp trong xã hội luôn tuân thủ luật pháp, hết lòng thực hiện chức phận
ái quốc trung quân của kẻ bề tôi và dân chúng. Việc sử dụng nghệ thuật tuồng
làm phương tiện chuyển tải tư tưởng Nho giáo đến tận dân chúng là một việc
làm có ý nghĩa. Bởi vì tuồng là bộ môn nghệ thuật được quần chúng bấy giờ
yêu thích. Khi xem tuồng, dù sân khấu chỉ là một góc sân đình hay bãi chợ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn73
nhưng với mặt nạ, phục trang cùng nghệ thuật diễn xuất ước lệ, khán giả cho
68
dù là người dân bình thường cũng có thể phân biệt được nhân vật nào là
chính, tà; trung, nịnh; vị vua nào là đấng minh quân, ai là kẻ gian thần bán
nước, hãm hại bậc trung lương, soán đoạt ngôi vua... Kết thúc của các vở tuồng
bao giờ cũng nêu cao chính nghĩa ái quốc trung quân, trừ gian diệt nịnh... mang
lại cho đất nước yên vui, muôn dân được hưởng phúc thái bình thịnh trị. Cho dù
đó chỉ là ước mơ, song cũng làm thỏa lòng khán giả xem tuồng. Sống trong một
không gian văn hoá như vậy, tác phẩm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu ít nhiều đã
ảnh hưởng bởi bộ môn nghệ thuật này .
3.2 Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
3.2.1 Lí tưởng nhân nghĩa của người anh hùng Lục Vân Tiên
Trong văn học trung đại, các nhân vật nam lí tưởng đều là những con
người hiền nhân, quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, muốn hành đạo, giúp vua
cứu đời và cứu dân. Tư tưởng nhân nghĩa được người nam nhi, quân tử đặt
lên hàng đầu. Nhân là sự tương thân, tương ái, sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau
giữa người với người. Nghĩa là cái phải làm của con người, là hành động hợp
với lẽ phải, hợp với đạo lý, theo đúng các chuẩn mực trong nghệ thuật “Đối
nhân, xử thế”. Tóm lại, nhân nghĩa là là lòng thương người, là đạo lý, lời lẽ
cần thực hiện trong quan hệ giữa người với người.
Nguyễn Ðình Chiểu là một nhà nho sống dưới thời nhà Nguyễn là thời
kỳ nho giáo được đề cao. Các vua đầu triều Nguyễn đều nhận thức được vai
trò quan trọng của Nho giáo trong việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền
chuyên chế nên đã lấy Nho giáo làm quốc giáo. Nhà nước chủ trương truyền
bá, công bố rộng rãi, huấn dịch tập điều, nêu cao trung hiếu, lễ nghĩa theo
quan niệm Nho giáo. Nhưng “giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam
trên đường suy vong đã đến độ cực kì mục nát. Cả những nhà nho vốn hăm
hở bảo vệ nó như Nguyễn Công Trứ cũng đã buông xuôi, chỉ có một lối thoát
là “ Kiếp sau xin chớ làm người”. Giữa lúc ấy một tiếng nói của nhà nho cất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn74
lên mà sao đầy lạc quan tin tưởng. Và cũng không chỉ là một tiếng nói.
69
Nguyễn Đình Chiểu đã ném ra giữa cuộc đời cả một loạt nhân vật: Nguyệt
Nga, Vân Tiên, Tiểu đồng, Hớn Minh, Tử Trực...có thể nói là một đội quân
bừng bừng khí thế kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” [
lời tựa cuốn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958]
Nhân vật Lục Vân Tiên ra đời cũng vì lí tưởng cao đẹp đó. Tác giả đã
khắc họa lên hình tượng một Lục Vân Tiên luôn mang trong mình một đạo
đức cao đẹp thấm nhuần chữ nhân. Nhân vật Lục Vân Tiên được sinh ra trong
một gia đình thường dân ở quận Đông Thành. Sự ra đời của Lục vân Tiên là
kết quả của quá trình tu nhân , tích đức:
Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành.
Chàng là người học rộng, tài cao, văn võ kiêm toàn lại luôn sẵn sàng ra
tay cứu giúp người khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống núi, định về
kinh ứng thi, trên đường đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ chạy,
chàng liến hỏi chuyện mới hay có một bọn cướp dữ vừa phá làng xóm và bắt
đi hai cô gái. Lục Vân Tiên không chịu nổi cản bất bình, nổi giận:
Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm lũ nó còn dình nơi nao.
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.
Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:
Vân tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Dẫu chỉ mỗi một mình, bọn cướp thì đông; dẫu trước đó, dân làng hết
sức khuyên chàng tuổi trẻ không nê dính vào việc này, e sẽ mang hoạ vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn75
thân, nhưng Lục Vân tiên chủ động đi tìm cướp, đánh tan chúng để cứu người
70
gặp nạn yếu đuối. Hành động đánh cướp, trước hết bộc lộ tính cách anh hùng,
tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Hành động “bẻ cây làm gậy
nhằm làng xông vô” của chành trai Vân Tiên thật đẹp đẽ và mãnh liệt vì đã
khắc hoạ được hình ảnh một chàng trai nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân.
Chàng chỉ có một mình, hai tay không trong khi bọn cướp đông người, gươm
giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng “người đều sợ nó có tài khôn đương”. Vậy mà
Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong
trận đánh thật dũng mãnh, bất chấp bọn cướp bao vây tứ phía. Lục Vân Tiên
đã dũng cảm “tả đột, hữu xông”, “khác nào Triệu Tử mở vòng Đương
Dương”. Theo tiểu thuyết chương hồi Tam quốc diễn nghĩa của La Quán
Trung (Trung Quốc), nhân vật viên tướng trẻ Triệu Vân, còn gọi Triệu Tử
Long, đã một mình phá vòng vây của Tào Tháo, bảo vệ được A Đẩu, con của
chủ tướng Lưu Bị. Đó là một việc làm hết sức nghĩa hiệp của người anh hùng.
Lục Vân Tiên cũng vì việc nghĩa mà ra tay cứu giúp người khi gặp nạn đó là
việc làm nhân nghĩa mà người nam nhi anh hùng phải làm. Ngay từ phần mở
đầu truyện thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người “Văn đà
khởi phụng đằng giao / Võ thêm tam lược lục thao ai bì”. Thì lúc này, chính
là cơ hội để chàng thi thố tài năng võ nghệ của mình. Hình ảnh Vân Tiên tung
hoành với chiếc gậy trong tay là biểu hiện của sức mạnh phi đầy nam tính.
Sức mạnh của chàng trai trẻ đã khiến bọn “lâu la khiếp sợ”: “Lâu la bốn phía
vỡ tan / Đều quăng gươm giáo tìm đường chạy ngay”. Bọn lâu la phải quăng
cả vũ khí để chạy tháo thân, còn tên đầu đảng thì:
Phong lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ cướp. Khi đánh
tan lũ kiến, đàn ong để cứu Nguyệt Nga, con người ấy trở về với thái độ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn76
một môn sinh đạo Khổng biết giữ lễ khi tiếp xúc với phụ nữ:
71
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Trong sách Lễ Kí có nói rằng: Nam nữ không được phép ngồi lẫn với
nhau, không được dùng chung lược, không được đón tay nhau. Chị dâu em
trai của chồng không được nhìn thẳng vào mắt nhau. Phụ nữ phải nghe lời
chồng, anh, không có việc lớn thì không được phép nói chen, hay vào nhà lớn.
Nữ ăn nhà dưới, nam ăn chiếu trên. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho vì thế
nhân vật Lục Vân Tiên là người có học sẽ phải biết phép tắc ứng xử, hơn nữa
lại là cách ứng xử giữa nam và nữ. Chàng trai đọc sách thánh hiền sẽ hiểu
rằng lễ giáo phong kiến không cho phép người con trai và người con gái có
thể đứng nói chuyện trực tiếp với nhau chính vì thế mà chàng từ chối để Kiều
Nguyệt Nga ra chào. Vẻ nghiêm nghị đạo mạo quá mức của Lục Vân Tiên
trước một người con gái đẹp, thông minh như Kiều Nguyệt Nga khác hẳn với
nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Từ Hải biết tìm đến cái
đẹp, trân trọng cái đẹp của nàng Kiều, chủ động tìm Kiều với những nghi thức
tôn trọng Kiều nhất (thiếp danh đưa đến lầu hồng), bỏ tiền chuộc Kiều, mà
Kiều lúc đó đang là kỹ nữ, loại phụ nữ bị nho gia khinh miệt thì Lục Vân Tiên
lại quá giữ lễ, khắc kỉ trước cái đẹp của Kiều Nguyêt Nga. Có lẽ nếp nghĩ nhà
nho đã không cho phép Nguyễn Đình Chiểu để nhân vật của mình vượt qua
giới hạn của lễ giáo phong kiến?
Trở lại câu chuyện về Lục Vân Tiên, làm xong việc nghĩa, chàng đã
khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp:
Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Sau khi nghe lời bày tỏ của Kiều Nguyệt Nga, chàng lại càng khẳng
định thêm tinh thần nghĩa hiệp, chính trực, trọng nghĩa khinh tài:
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn77
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
72
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Điều quan trọng hơn, ngay cả sau khi nghe lời Kiều Nguyệt Nga nói về
sự đền ơn, Lục Vân Tiên vẫn thành thực với quan niệm sống của mình, trước
sau vẫn kiên định với tư tưởng làm việc nghĩa như một phẩm chất bậc anh
hùng hảo hán, không đòi hỏi được hưởng ơn huệ, tiền tài vật chất đúng như
quan niệm của Nho giáo về người nam nhi, quân tử "thi ân bất cầu báo".
Quan niệm "thi ân bất cầu báo" còn được nhắc đến qua các nhân vật
khác trong truyện như vơ chồng ông chài, ông tiều. Khi cứu vớt Lục Vân
Tiên, lão chài đã nói những lời thật chí tình:
Ngư rằng:” Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn".
Sau khi được thần linh cứu thoát khỏi hang Thương Tòng, đang bơ vơ
trong rừng thì được ông tiều giúp đỡ. Vân Tiên và Hớn Minh hứa sẽ báo đáp
ơn sâu, ông tiều đã chối từ:
Lão tiều mới nói: "Thôi thôi,
Làm ơn mà lại trông người sao hay.
Già hay thương kẻ thảo ngay,
Này thôi để lão dắt ngay về nhà"
hay:
Tiều rằng:” Vốn lão tình không,
Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng...
Cuộc sống của con người không bao giờ bằng phẳng, cũng như người
anh hùng phải trải qua nhiều thử thách trong trường đời để tôi luyện bản thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn78
mới có thể được khẳng định chí khí nam nhi. Nguyễn Đình Chiểu đã đẩy nhân
73
vật của mình trải nghiệm trong nhiều gian nan thử thách. Trên đường ra ứng
thí, hay tin mẹ từ trần, Lục Vân Tiên đau xót vô cùng, vội quay về lo tang lễ:
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Cuộc thử thách đối với chàng bắt đầu từ đây. Chàng quyết dứt bỏ công
danh, vượt qua gian lao vất vả để về chịu tang mẹ bởi hiếu là phận sự, đạo
nghĩa của kẻ làm con: "làm con trước phải đền ơn sinh thành". Nhưng rồi điều
đó chàng cũng không thực hiện được vậy là: “Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập
thân”. Niềm đau dồn dập đến khi chàng, phần vì đau yếu, phần vì khóc
thương mẹ nên bị mù cả hai con mắt:
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu,
Mịt mù nào thấy chi đâu.
Trước cơ nguy biến, Lục Vân Tiên lại gặp anh bạn xấu Trịnh Hâm lập
mưu đẩy xuống sông. Chàng may mắn được ngư ông cứu sống. Lục Vân Tiên
tìm đến gia đình người vợ đính ước trước khi đi thi là Võ Thể Loan mong có
chỗ nương nhờ cho qua cơn hoạn nạn. Nhưng cha con Võ Thể Loan nhẫn tâm
bội ước, đem chàng vứt vào hang núi. Chàng lại được ông tiều cứu thoát và
đến ở nhờ một ngôi chùa. Triết lí "ở hiền gặp lành" của đạo Phật đã được
Nguyễn Đình Chiểu vận dụng để đưa vào nhân vật của mình. Vân Tiên trải
qua những thử thách chất chồng nhưng tấm lòng nhân nghĩa, hiếu thảo của
chàng đã làm cho trời đất phải động lòng thương cảm. Về sau, được thuốc
tiên chữa cho sáng mắt, chàng lại theo đuổi bước đường quan lộ mà mình đã
chọn. Vân Tiên thi đỗ trạng nguyên, mục đích của người anh hùng lúc này là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn79
phục vụ cho triều đình, trở thành một người anh hùng trung quân báo quốc.
74
Bằng tài lược và học vấn của mình, nhân vật Lục Vân Tiên đã vạch ra những
điều sai trái của nhà vua khi nghe lời nịnh thần mê hoặc làm cho xã hội rối
ren, dân chúng đau khổ, giặc ngoài xâm lược. Cuối cùng, trước cảnh đất nước
bị xâm lăng, người nam nhi anh hùng không thể đứng nhìn, họ dốc lòng giúp
nước bởi anh hùng vì nước vì đời, đó là tư cách của nam nhi, anh hùng:
Làm trai trong cõi thế gian,
Phù đời giúp nước phơi gan anh hào.
Nói về người anh hùng Lục Vân Tiên trong cuộc thử thách cuối cùng
này, Nguyễn Đổng Chi đã nhận xét: " Như vậy, cứu cánh của trí và dũng
trước hết là vì dân, vì nước đông thời là vì vua. Người anh hùng không thể
nhắm mắt ngồi nhìn những tên cầm quyền gian nịnh đang làm cho nước
nghiêng đổ. Nhiệm vụ của người anh hùng là phải xoay chuyển lại cuộc
cờ"[4.179]. Như vậy, hành động "cứu khốn phò nguy" lại một lần nữa được
người anh hùng thực hiện đúng lúc. Về điểm này, quan niệm về nhân vật anh
hùng của Nguyễn Du không như vậy. Từ Hải có cái khí phách hiên ngang của
một con người không chịu ép mình vào khuôn khổ của xã hội phong kiến.
Với chàng, quan niệm về cuộc sống là "dọc ngang nào biết trên đầu có ai", là
" gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo". Hai con người với hai quan điểm
dường như trái ngược nhau nhưng họ lại có cùng chung một điểm đó là sư
quyết tâm thực hiện ý tưởng của mình. Sau cả một hành trình đầu "dâu bể",
qua bao thử thách đã tôi luyện tâm hồn con người đầy hoài bão cuối cùng
người anh hùng Lục Vân Tiên đã chiến thắng tất cả mọi gian tà, vượt qua
được mọi thử thách. Món qua cuối cùng mà tạo hoá sắp đặt là khi chàng được
gặp lại Kiều Nguyệt Nga và kết duyên cùng nàng. Vị trạng nguyên cũng
không quên sai quân bày tiệc tế lễ khi tưởng chú tiểu đồng đã chết và vui
mừng khôn xiết khi tiểu đồng còn sống trở về:
Trạng nguyên khi ấy vui mừng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn80
Tớ thầy sum họp tại nơi Đại Đề.
75
Còn Từ Hải chàng cũng đã thực hiện được ước mơ đó là xưng cõi bá
vương, giúp Kiều báo ân, báo oán mặc dù kết cục của người anh hùng ấy có
phần bi thảm.
Có thể khái quát cuộc đời của Vân Tiên từ khi xuất hiện cho tới khi kết
thúc câu chuyện là một hành trình khổ ải để bồi đắp cái đức của mình ngày
một cao hơn. Cũng chính vì thế mà chàng được báo đáp, được giúp đỡ. Sự
báo bổ này không cần chờ đến phần cốt truyện mà nó xảy ra liên tục trong thế
sóng đôi với những bất hạnh. Sau mỗi khó khăn hoạn nạn, bao giờ Vân Tiên
cũng được cứu giúp: bị thả vào rừng thì có du thần dẫn ra gặp ông Tiều, bị
đẩy xuống sông thì có giao long dìu vào bờ để gặp nhà thuyền chài, mắt bị mù
thì có tiên ông cho thuốc… Họa và phúc được trình bày như hai mặt đối lập
nhau của cùng một sự kiện. Tinh thần lạc quan của Nguyễn Đình Chiểu, niềm
tin vào cuộc đời, vào con người được bộ lộ rõ nhất ở đây: Trong cơn bĩ cực
thới lai/ Giữ mình cho trọn việc ai chớ sờn. Đây là triết lí sống của nhân dân,
chính xác và giản dị như chân lí. Tác giả khép lại câu chuyện bằng một viễn
cảnh thật huy hoàng, trong đó những con người đức độ, nhân nghĩa sẽ nối
nhau làm chủ trên mặt đất này: Trăm năm biết mấy tinh thần/ Sinh con sau
nối gót lân đời đời. Đây là lối kết thúc có hậu đặc sắc bởi nó tạo được sự hô
ứng với phần đầu của câu chuyện về nhân vật chính. Nó là lời khẳng định sự
ngự trị vĩnh viễn của cái thiện, cái nhân nghĩa, cái đạo lý. Giữa tiền thân và
hậu thân của nhân vật luôn có sự tiếp nối liên tục. Đó cũng là cái hậu lớn nhất
của câu chuyện.
3.2.2 Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga
Không giống như cuộc gặp gỡ giữa Thuý Kiều và Từ Hải trong chốn
lầu xanh đã có sự đánh tiếng trước: "thiếp danh đưa đến lầu hồng", cuộc gặp
gỡ của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga thật bất ngờ khi cả hai là những
người không hề quen biết. Nếu mối tình Từ Hải, Thuý Kiều bắt nguồn từ sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn81
tri kỉ: "Hai bên ý hợp tâm đầu / Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân" thì mối
76
tình của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga "bắt nguồn từ một lòng hào hiệp
quên mình để cứu người và một lòng nghĩa cung quên mình để trả ơn
ngườicủa một đôi anh hùng, tiết hạnh" [48.40]. Trong buổi đầu gặp gỡ, Vân
Tiên luôn giữ cho mình một khoảng cách với hai người con gái trong xe khi
Nguyệt Nga có ý muốn xuống xe cúi lạy tạ ơn người anh hùng đã cứu mình:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Cách ứng xử của chàng trai: "tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành"
không có cái bản lĩnh của kẻ "giang hồ quên thói vẫy vùng" như Từ Hải.
Chàng không phải là hạng người lịch duyệt, biết ân cần, săn sóc phụ nữ,
nhưng chàng đã quan tâm hỏi chuyện Nguyệt Nga mặc dầu chàng vẫn giữ
một khoảng cách với nàng:
Tiểu thư con cái nhà ai?
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?
Chẳng hay tên họ là chi?
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Khi Nguyệt Nga có ý muốn trao vật làm tin cho chàng thì chàng cũng chỉ dám: "ngơ mặt chẳng nhìn". Kiều Nguyệt Nga có ý trách chàng thì con người ấy cũng rất thật thà phân trần:
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy, của nầy rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì".
Cái cốt cách chân thật của chàng trai suốt ngày dùi mài kinh sử lần đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn82
tiên được tiếp xúc với người con gái đẹp có cái gì đó gượng gạo, bối rối. Ngay
77
cả cách đáp lời Nguyệt Nga khi nàng có ý làm một bài thơ trước khi giã từ
cũng có phần hơi cộc lốc:
Vân Tiên ngó lại rằng: " Ừ"!
Điều này hoàn toàn trái ngược với các nhân vật nam trong Truyện
Làm thơ cho kịp bây giờ chớ lâu.
Kiều. Kim Trọng trong lần đầu gặp gỡ đã xao xuyến trước vẻ đẹp của nàng
Kiều: " Tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Từ Hải trong buổi đầu gặp gỡ
Thuý Kiều cũng đã: "Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa". Ngay cả chàng
Thúc Sinh quen thói bốc trời, " trăm nghìn đổ một trận cười như không" cũng
đã một tỉnh mười mê ngay trong lần đầu tiên giáp mặt Thuý Kiều:
Trướng tô giáp mặt hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa.
Đến cả tên quan Hồ Tôn Hiến, kẻ đại diện cho triều đình phong kiến
khi nghe Kiều đánh đàn cũng được Nguyễn Du tả lại một cách thú vị: "Lạ cho
mặt sắt cũng ngây vì tình". Trong cuộc xướng hoạ thơ cùng nhau này, Lục
Vân Tiên đã có phần cảm phục tài năng của Nguyệt Nga:
Vân Tiên xen thấy ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao thế này.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ, cũng tày Từ phi.
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
để rồi sau đó "Gặp nhau ta đã cạn lời rồi thôi". Cuộc chia tay của một chàng
trai anh hùng và một cô gái đẹp không có chút gì lưu luyến. Cũng dễ cảm
thông cho Lục Vân Tiên là một chàng trai mới lớn, chưa hề quen biết một cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn83
gái nào, và cũng chưa hề yêu đương cho nên đối với nữ nhân chàng còn nhiều
78
e ngại. Hơn nữa, chàng thuộc thế hệ nho sĩ ngày xưa, trọng nghĩa khinh tài,
biết thủ lễ và tránh những hành động có thể bị coi là lợi dụng.
Sau khi từ giã Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên trước khi lên đường
vào kinh ứng thí có ghé qua nhà viếng thăm cha mẹ. Lúc này, hình bóng
Nguyệt Nga và những gì đã trải qua không còn đọng lại trong tâm trí chàng.
Chàng giữ trọn chữ hiếu với cha mẹ và thực hiện lời đính ước hôn nhân do
các bậc cha mẹ quyết định từ trước:
Xưa đà định chữ lương duyên,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang.
Con người là Võ Thể Loan,
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.
Chữ rằng Hồ Việt nhất gia,
Con đi tới đó trao qua thư nàỵ
Con dầu bước đặng thang mây,
Dưới chân đã sẵn một dây tơ hồng
Như vậy, Lục Vân Tiên không được xây dựng như một người tình lang,
chỉ là anh hùng, là người con hiếu thảo, trung nghĩa, tức là con người chức
năng, phận vị nói như Trần Đình Hượu, không có cái cá nhân. Về sau khi
nghe cha kể lại:
Ông rằng: "Có nàng Nguyệt Nga,
Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề,
Chẳng thì khó đói bỏ quê hư rồi".
Dường như lúc này, Vân Tiên mới chợt nhớ đến người con gái mà
mình đã gặp:
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn84
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
79
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu
Đặng con đến đó đáp câu ân tình".
Đây thực sự là bước khởi đầu nảy sinh tình cảm của chàng trai họ Lục
với người con gái chỉ một lần gặp gỡ giữa đường. Chàng cảm động trước tấm
lòng thuỷ chung đầy ân nghĩa của Kiều Nguyệt Nga đối với chàng và gia đình
chàng. Sau này, khi đã trở thành trạng nguyên và đánh tan giặc Ô Qua, trên
đường trở về, tác giả đã để cho nhân vật của mình bị lạc trong chốn non xanh.
Bước chân của kẻ lạc đường đã đưa Lục Vân Tiền gặp lại Kiều Nguyệt Nga.
Nhưng chàng không thể nhận ra người con gái năm xưa được chàng cứu giúp
mà chỉ sinh nghi:
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình".
Khi nghe Kiều Nguyệt Nga giãi bày sự tình, Vân Tiên mới biết nỗi
Nguyệt Nga chung thuỷ chờ đợi mình:
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
Để lời thệ hải minh sơn,
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ".
Hành động quỳ lạy Kiều Nguyệt Nga của người anh hùng thật đáng
quý biết nhường nào. Và câu chuyện tình nghĩa, nghĩa chứ không phải tình
kết thúc thật có hậu:
Trạng nguyên về đến Đông thành,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn85
Lục ông trước đă xây dinh ở làng.
80
Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đă xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời.
Xét từ góc nhìn về văn hoá giới, nhân vật Lục Vân Tiên hội tụ rất nhiều
những biểu hiện nam tính. Chàng là một chàng trai đẹp có diện mạo khôi ngô
tuấn tú:
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
Về tài năng trí tuệ, chàng cũng không kém gì những bậc anh hùng hào kiệt:
Văn đà khởi phụng đằng giao,
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
Về ý chí nghị lực của kẻ sĩ cũng thật đáng khen ngợi:
Chí lăm bắn nhạn ven mây,
Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.
Làm trai trong cõi người ta,
Trước là báo bổ sau là hiển vang.
Đặt trong bối cảnh xã hội phong kiến, chàng là mẫu người nam nhi anh
hùng theo đúng quan điểm của nho gia. Nhưng đặt con người ấy từ điểm nhìn
về giới thì con người ấy thiếu đi một biểu hiện nam tính đó là sự hào hoa,
lãng mạn, chỉ là người anh hùng, người trung nghĩa trong bổn phận, con
người đơn giản trong đời sống tâm lý có cái nhìn khắc kỉ đối với phụ nữ. So
với các nhân vật như Từ Hải, Kim Trọng, Thúc Sinh trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, thì nhân vật Lục Vân Tiên không phải là mẫu đàn ông lí tưởng
trong tình yêu bởi ở chàng không có được tình yêu sâu đậm, chân thành như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn86
Kim Trọng, không có sự chủ động, cam kết gắn bó như Từ Hải, không có
81
bản năng si mê như Thúc Sinh mà đến với Kiều Nguyệt Nga chỉ là sự gắn kết
bởi ân tình. Nhìn rộng ra, có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu vẫn chịu ảnh hưởng
trong cách xậy dựng nhân vật mẫu hình người anh hùng của văn hoá phương
Đông nói chung và Trung Quốc. Nhân vật Lục Vân Tiên có cái dáng dấp của
nhân vật Quan Vân Trường ( Quan Vũ) trong truyện Tam quốc diễn nghĩa của
La Quán Trung. Quan Vân Trường cũng luôn thể hiện thái độ của người anh
hùng khắc kỉ, đạo mạo trước phụ nữ. Khi Tào Tháo truyền lệnh thu binh về
Hứa Xương, Quan Vân Trường thỉnh nhị tẩu lên xe, tự mình đi theo hộ vệ.
Khi quân đến trạm dịch, Tào Tháo truyền quân đóng lại nghỉ ngơi, lại truyền
Quan Vân Trường ở chung một nhà với nhị tẩu là Cam Phu nhân và My Phu
nhân, hai bà vợ của Lưu Bị, tức là 2 chị dâu của Quan Võ. Đêm ấy, Quan Võ
cầm đuốc đứng trước cửa nhà suốt đêm để canh cho 2 chị dâu an giấc, đồng
thời lấy Thanh Long đao chém sạt một góc tường để người ngoài nhìn vào
thấy rõ lòng quang minh chính đại của mình. Nhân vật Võ Tòng trong tác
phẩm Thuỷ hử của Thi Nại Am, cũng được ngợi ca bỏi tấm lòng trong sạch
không bị rung động trước sắc đẹp Phan Kim Liên. Anh trai Võ Tòng tên Võ
Đại Lang làm nghề bán bánh hấp, là người lùn, dung mạo xấu xí nhưng có vợ
là Phan Kim Liên rất đẹp nhưng cũng rất đa tình. Nhân dịp Võ Tòng về thăm
anh, Phan Kim Liên thấy hình dung tuấn kiệt, mấy lần đòi tư thông với Võ
Tòng nhưng đều bị cự tuyệt. Sau đó Võ Tòng có việc phải đi xa, Phan Kim
Liên ở nhà lựa lúc Võ Đại Lang đi bán bánh, tư thông với tên nhà giàu Tây
Môn Khánh. Việc bị Võ Đại Lang phát hiện, hai người bày mưu rồi giết hại
Võ Đại Lang. Vài ngày sau khi Võ Đại chết, Võ Tòng quay về, nghe tin dữ
liền đi báo quan. Nhưng quan sợ uy thế của Tây Môn Khánh, không dám xử.
Thế là Võ Tòng, trước tiên tìm tới nhà giết chết Tây Môn Khánh cho hả giận,
rồi mới tự mình đi tìm chứng cứ điều tra. Tinh chất khắc kỉ ấy còn thể hiện ở
thái độ lạnh lùng khi trừng trị Phan Kim Liên trước sự chứng kiến của 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn87
người hàng xóm, chàng ép Phan Kim Liên khai nhận tội rồi mổ bụng, cắt đầu
82
ả, đem ruột và đầu lên tế vong linh anh trai mình. Lục Vân Tiên không có cái
lạnh lùng như Võ Tòng nhưng chàng luôn giữ một khoáng cách nhất định.
Nhìn chung, các nhân vật như Lục Vân Tiên hay Võ Tòng, Quan Vân Trường
đều chịu sự chi phối của một quan niệm chung mang tính chất văn hoá hoá về
nhân cách đó là luôn biết chế ngự, khắc phục bản năng. Chính yếu tố này mà
tình yêu trong truyện Lục Vân Tiên kém phần lãng mạn.
3.2.3 Quan niệm đối lập nhân vật chính diện - phản diện
Trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên cả một xã
hội trong đó những nhân vật chính diện - phản diện bằng đối lập những biểu
hiện nam tính.
Nhân vật nam chính diện tiêu biểu là Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử
Trực, tiểu đồng, ông quán, ông ngư, ông tiều. Họ chính là tượng trưng cho tài
năng, trí tuệ, nhân phẩm của người luôn sống vì chính nghĩa. Nhân vật Lục
Vân Tiên toát lên vẻ đẹp nam tính khi hội tụ ở chàng tất cả các yếu tố: trí
dũng song toàn, văn võ toàn tài, hình dáng, tướng mạo đẹp đẽ. Chàng có lòng
nghĩa hiệp khi ra tay cứu giúp người gặp nạn mà không cần báo đáp, giúp vua
dẹp giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Cuối cùng, chàng cũng tìm được người
con gái thuỷ chung với mình.
Nhân vật tiếp theo được nói nhiều ở trong truyện là Hớn Minh. Hớn
Minh có dáng dấp của một nhân vật lạ thường:
Xa xem mặt mũi đen x́ì,
Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
... Vân Tiên biết lẽ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
Chàng là người có vẻ thô lỗ từ diện mạo đến lời ăn tiếng nói. Có ý kiến
cho rằng con người Hớn Minh có bóng dáng của một Lỗ Trí Thâm trong
truyện Thuỷ hử (Trung Quốc). Nhân vật Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm, một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn88
nhân vật điển hình cho sự cương trực và lòng nghĩa hiệp. Hành động giữa chợ
83
với ba quyền đánh chết Trấn Quan Tây Trịnh Đồ, kẻ chuyên ức hiếp dân lành,
đã thể hiện rõ con người ông. Hớn Minh cũng có tấm lòng chính trực, yêu,
ghét rõ ràng, thấy chuyện bất bình chẳng tha. Chàng "sẵn sàng hy sinh cả
tương lai, vứt bỏ cả con đường đi đến danh vọng để biểu thị một thái độ đầy
khí phách của một hiệp sĩ" [21.304]. Nhìn thấy tên con quan huyện Đặng Sinh
ỷ thế cưỡng hiếp con gái nhà dân lương thiện, chàng bèn nổi giận: "Vật chàng
xuống đó bẻ đi một giò". Sau đó sợ liên luỵ cho người khác, chàng tự trói
mình nộp cho huyện đường chịu tội để rồi tìm cách vượt ngục. Con người
nghĩa khí ấy còn có một tấm lòng thuỷ chung, trọn vẹn trong tình bạn. Chỉ
một lần gặp gỡ Vân Tiên, mến nhau vì tài mà tình bạn ấy luôn bền chặt. Gặp
lại nhau trong tình cảnh bạn bị mù loà, Hớn Minh đã lạy tạ ân nhân cứu bạn
mình, rồi đưa bạn về nơi ẩn nấp để chăm lo chạy chữa thuốc thang. Tóm lại,
con người ấy từ dáng vẻ bề ngoài đến tính cách bên trong đều toát lên vẻ tự
nhiên, rất đáng trân trọng.
Vương Tử Trực cũng là một người đáng mến. Qua lời giới thiệu của Võ
Công thì chàng cũng là người " văn chương tót vờì". Gặp Lục Vân Tiên, mến
nhau vì tài, Tử Trực luôn giữ thái độ kính trọng Vân Tiên:
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc sánh vai một bầỵ
Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh.
Sau này, khi đã đỗ đầu khoa thi, chàng trở về hỏi thăm tin tức Vân
Tiên, gia đình Võ Thể Loan gạ gẫm gả Võ Thể Loan cho chàng, chàng đã lớn
tiếng mắng nhiếc:
Trực rằng: " Ngòi viết dĩa nghiên,
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn89
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
84
Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe,
Hay là học thói nước Tề,
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công.
Hay là học thói Đường cung,
Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân.
Người nay sao phải nhà Tần,
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm.
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao?"
Từ Trực trước sau vẫn giữ trọn tình nghĩa anh em, trước sau vẫn giữ
phẩm chất thanh cao. con người ấy cũng thật là đáng quý.
Nhân vật ông quán, ông ngư, ông tiều, tiểu đồng đều là những người
tốt. Ông quán dám lên tiếng chê trách những tham quan và phê phán những
ông vua bạo ngược với thái độ rõ ràng:
Quán rằng: ghét việc tầm phào,
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt,Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân- vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc -quí phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Ông ngư cũng thẳng thắn bày tỏ quan niệm sống của mình và thẳng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn90
thắn từ chối khi Vân Tiên có ý định sau này đền ơn:
85
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn ?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đâỵ
Rày doi, mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chày kéo, mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm,
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đă sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa trải gíó trong vời Hàn giang".
Ông tiều thấy Vân Tiên bị nạn thì lấy cơm nắm cho chàng ăn, rồi mặc
dù già cả, ông cúng ra sức cõng Vân Tiên về nhà. Tiểu đồng cũng là người
sống có tình, có nghĩa. Hai thầy trò tiểu đồng luôn sát cánh bên nhau trên
bước đường ra kinh ứng thí cho đến khi gặp nạn. Khi thầy gặp nạn, tiểu đồng
tìm mọi cách để an ủi, chạy chữa thuốc thang. Vì nghe lời Trịnh Hâm vào
rừng lấy thuốc mà hai thầy trọ lạc nhau. Gặp người bị nạn, tưởng là thầy của
mình đã chết, tiểu đồng dốc lòng báo đáp:
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại Đề,
Sớm đi khuyến giáo, tối về quảy đơm.
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn91
Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền.
86
Tóm lại, nhân vật chính diện trong truyện Lục Vân Tiên tuy mỗi người
mỗi vẻ, mỗi nét mặt khác nhau, nhưng họ đều là những người "cương trực",
"khẳng khái", "vị tha" và “trọng nghĩa hiệp". Họ sẵn sàng cứu giúp người
khác không sợ khó khăn nguy hiểm và nêu cao cái nghĩa khí “giữa đường gặp
sự bất bình chẳng tha". Họ kiên trì đứng về lẽ phải mà suy nghĩ và hành động.
Họ đã ăn ở, giao tiếp và đối xử với nhau thật là trọn tình vẹn nghĩa, thủy
chung. Họ chính là đại diện cho bản tính của người dân Nam Bộ như Nguyễn
Lộc đã giải thích khi nói về các nhân vật chính diện trong truyện Lục Vân
Tiên: " Nam Bộ là một miền đất đai phì nhiêu mới khai phá của Tổ quốc.
Người dân Nam Bộ ngoài những người bản địa, một số không ít vốn là những
nông dân nghèo miền Bắc vào đây sinh cơ lập nghiệp, hoặc là những người
chống đối các triều đình phong kiến ngoài Bắcbị khùng bố, chạy vào đây trốn
tránh. Lại có cả một ít những người Trung Quốc, những người "Minh hương"
chống nhà Thanhbị khủng bố cũng chạy sang đây. Tất cả những con người
nghèo khổ và nghĩa khí ấy sông với nhau trong điều kiện thiên nhiên có nhiều
thuận lợicho việc làm ăn nên càng hào hiệp, nghĩa khí. Tính cách của họ vẫn
là tính cách của cộng đồng người Việt Nam nói chung, nhưng ở họ còn có
một số nét địa phương rất rõ. Đõ là những con người " đã tròn thì ra tròn, đã
vuông thì ra vuông, dứt khoát rõ ràng, như rựa chém đất, không lắt léo khó
hiểu, có thể nói là không suy nghĩ lâu, không tính toán kỹ". Chung thuỷ phải
là chung thuỷ như Kiều Nguyệt Nga, nghĩa khí hào hiệp phải là nghĩa khí hào
hiệp như Hơn Minh, tiểu đồng; ghét đời phải bỏ đời vào rừng mà ở như ông
ngư, ông tiều...có cái gì như quá đáng, nhưng phải như vậy mới phản ánh
được tính cách của người Nam Bộ" [25.649].
Trái ngược với nhân vật chính diện là nhân vật phản diện. Yếu tố phản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn92
diện thường được bộc lộ rõ qua tính cách con người. Nhân vật Trịnh Hâm là
87
một kẻ nham hiểm, coi thường người khác. Khi làm thơ kém bị ông quán chê
cười, Trịnh Hâm đã buông ra nhưng lời lẽ hằn học, khinh người:
Hâm rằng : "Lão quán nói nhăng,
Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
Gối rơm theo phạn gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
Kẻ tiểu nhân đó còn giả vờ an ủi và gạt nước mắt tiễn đưa Vân Tiên khi
chàng trở về quê chịu tang mẹ. Gặp lại Vân Tiên trong cảnh mù loà, Trịnh
Hâm không những cảm thương cho bạn mà còn lập mưu giết tiểu đồng và lừa
lúc nửa đêm xô Vân Tiên xuống biển:
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.
Bên cạnh một Trịnh Hâm tán tận lương tâm còn có một Bùi Kiệm
quen thói dâm ô, hưởng lạc. Khi biết Kiều Nguyệt Nga yêu Lục Vân Tiên,
Bùi Kiệm đã khuyên nàng với lời lẽ thật bỉ ổi:
Chúa xuân còn ở vườn đào,
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.
Chúa đông ra khỏi vườn xuân,
Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang.
Ở đời ai cậy giàu sang,
Ba xuân dẫu hết ngàn vàng khôn mua.
Những tưởng Bùi ông thấu hiểu đạo lí hơn con nhưng rồi cũng rập theo
một giọng:
Bùi ông ngon ngọt trau dồi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn93
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình.
88
Làm người chấp nhất sao đành,
Hễ là lịch sự có kinh có quyền.
Trăng thanh gió mát cắm thuyền chờ ai ?
Nhớ câu xuân bất tái lai,
Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn.
Làm chi thiệt mạng hồng nhan,
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.
Vọng Phu xưa cũng trông chồng,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi"
Ngoài ra còn có những kẻ cơ hội như gia đìnhVõ Công, khi thấy Vân
Tiên bị mù thì sẵn sàng đem bỏ chàng vào trong hang tối và tìm cơ hội để con
gái mình lấy được tân khoa Tử Trực. Sau này khi Vân Tiên đỗ đạt, dẹp giặc
xong thì mẹ con Thể Loan lại tính đến đem sắc đẹp ra dụ Vân Tiên cho chàng
đắm lòng. Những thầy ngang, thầy tướng cũng là những kẻ lừa bịp đáng lên án.
Các nhân vật làm điều ác trong truyện cuối cùng đều bị trừng trị,
không loại trừ ai. Trịnh Hâm, kẻ đã đẩy Vân Tiên xuống sông thì về sau bị
chết chìm, làm mồi cho cá. Võ Công thì xấu hổ mà chết, hai mẹ con Võ Thể
Loan thì bị hổ đưa vào hang sâu (nơi trước đây Võ đã nhốt Vân Tiên), rồi lấy
đá chẹn ngang. Còn Bùi Kiệm thì "Trong lòng hổ thẹn mình vì máu dê". Thái
sư bị cách chức, về nhà,… Đây chính là ước mơ về một xã hội công bằng mà
Nguyễn Đình Chiểu đang hướng tới. Trong xã hội ấy, những con người có
lòng phản trắc, độc ác cuối cùng cũng bị tiêu diệt chỉ còn lại những con người
sống gắn bó với nhau bằng tấm lòng nhân hậu, bằng những tình cảm chân
thành xuất phát từ trái tim.
Có thể nói, lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật anh hùng đã nêu bật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn94
một lối sống có văn hóa và khí phách anh hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam.
89
Đó là lối sống trọng đạo lý và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét
áp bức, bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” ấy được thể hiện qua hành động
của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên và sau này là trong các nghĩa
sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp. Tuy vậy, cách
phân loại nhân vật phiến diện, một chiều của tác giả sẽ làm cho nhân vật thiếu
đi yếu tố tự nhiên, trần thế. Kiểu nhân vật nam nhi chính diện thường mang
tính khắc kỷ, chỉ được xây dựng trên các cương vị nghĩa vụ, bổn phận mà
không có khía cạnh cá nhân cũng khiến nhân vật kém hấp dẫn, thiếu sự chân
thực. Kiểu nhân vật nam chính diện, phản diện vẫn chưa thoát khỏi môtíp của
văn học dân gian truyền thống với quan niệm "ở hiền, gặp lành", "ác giả, ác
báo". Hơn thế nữa, Nguyễn Đình Chiểu lại đang sống trong một không gian
văn hoá nghệ thuật tuồng đề cao tư tưởng "quân , quốc", trừ gian diệt nịnh... nên
các nhân vật trong Lục Vân Tiên cũng bị ảnh hưởng bởi bộ môn nghệ thuật này.
3.3 Tiểu kết
Xuất thân từ một nhà nho, lại sống trong thời kì xu hướng tôn nho đang
trở lại vùng đất phương Nam nên Nguyễn Đình Chiểu không tránh khỏi sự áp
đặt các chuẩn mức Nho gia cho nhân vật của mình. Các nhân vật chính diện,
phản diện bị phân tuyến rạch ròi. Các nhân vật nam chính diện như Lục Vân
Tiên, Tử Trực, Hớn Minh, Tiểu đồng...thường được khắc hoạ ở yếu tố: có
lòng trọng nghĩa khinh tài, có tài năng xuất chúng nhưng lại có những biểu
hiện khắc kỷ đối với phụ nữ, thiếu tính lãng mạn trong tình yêu. Các nhân vật
nam phản diện luôn có những hành động được coi là trái với đạo lí làm người
như tính nết xấu xa, có những dục vọng thấp hèn như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm,
Võ Công...Những quan niệm văn hoá này đã làm cho các nhân vật khá mờ nhạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn95
về phương diện nhân bản.
90
KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi vận dụng những tri thức về văn hóa
giới thời trung đại ở Việt Nam để phân tích, cắt nghĩa hình tượng nhân vật Từ
Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên
từ góc nhìn giới. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận
như sau:
1. Quan niệm văn hóa của xã hội Nho giáo về người nam nhi có phần
khắc kỷ, biến người đàn ông thành những con người phận sự khô khan: hiếu
với cha mẹ, trung với vua, có chính nghĩa, nhưng nam nhi hiếm được tả như
một tình nhân. Nếu là tình nhân thì được tả với dụng ý phê phán (các nhân vật
nam trong Truyền kỳ mạn lục )
2. Trong bối cảnh đó, Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một
biểu tượng mới, sống động, phản ánh quan niệm mới về con người mang vẻ
đẹp nhân bản. Chủ nghĩa nhân bản không nhìn con người như một chiếc máy
sàng lọc cảm xúc mà trân trọng ghi lại hết thảy mọi phản ứng tình cảm của
con người trước các tình huống phong phú của cuộc sống. Trân trọng con
người không thể không coi trọng đời sống thể xác, đến thế giới nội tâm phong
phú, đa dạng, tự do, không bị kiểm soát. Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều
đã phần nào khắc phục được kiểu tư duy sáng tác áp đặt con người như là đối
tượng của nhà chính trị. Có lẽ vì thế mà nhân vật Từ Hải cũng như các nhân
vật khác trong Truyện Kiều sống mãi với thời gian.
3. Lục Vân Tiên là sản phẩm của giai đoạn lịch sử đặc biệt, phản ánh
văn hóa của người dân Nam Bộ trên vùng đất mới. Con người cần cố kết, sẵn
lòng cứu giúp lẫn nhau trong lao động, chinh phục tự nhiên và chống xâm
lược, rất cần tinh thần hy sinh, vị tha, tinh thần cộng đồng. Tuy vậy, kiểu nhân
vật nam nhi khắc kỷ, chỉ được xây dựng trên các cương vị nghĩa vụ, bổn phận
mà không có khía cạnh cá nhân cũng khiến nhân vật kém hấp dẫn, thiếu sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn96
chân thực.
91
Từ đây có thể liên hệ với các sáng tác hiện đại, nhân vật nam muốn cho
hấp dẫn, chân thực, phải có cả những yếu tố giới tính nam. Xem tiểu thuyết
Kim Dung hay phim dã sử Trung Quốc hiện nay, thấy rõ họ đã rút được bài
học quá khứ. Các nhân vật nam anh hùng nghĩa hiệp đều có ý trung nhân, tình
nhân kèm theo.
4. Xưa nay, trong nghiên cứu và giảng dạy các tác phẩm văn học trung
đại nói chung và Truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên nói riêng, chúng ta
thường xem xét, phân tích nhân vật ở khía cạnh chủ nghĩa hiện thực, chủ
nghĩa nhân đạo nghĩa là quy chiếu con người dưới góc độ chủ nghĩa dân bản.
Còn quá ít các công trình khảo cứu về phương diện con người tự nhiên của
nhân vật nên vô tình đã khiến cho việc giảng dạy văn học lâu nay trở nên
nhàm chán. Thiết nghĩ, trong nghiên cứu văn học, có dùng khái niệm “chủ
nghĩa nhân bản” để tìm hiểu tác phẩm mới khắc phục được cách hiểu có phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn97
đơn giản như hiện nay.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt tái bản, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1958 ), Khảo luận về Kim Vân Kiều tái bản,, Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
3. Phan Văn Các (2003), Từ điển từ Hán Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Đổng Chi (1972), Nguồn gốc và quá trình hình thành chủ nghĩa anh
hùng của Nguyễn Đình Chiểu, Nghiên cứu lịch sử, số 145, tháng 7/8 - 1972
5. Trương Chính (1983), Thơ văn Nguyễn Công Trứ. Hà Nội, Nxb Văn Học.
6. Nguyễn Đình Chú (1972), Từ lý tưởng nhân nghĩa đến chủ nghĩa yêu
nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Xuân Diệu (1996), Thi hào dân tộc Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Ngô Viết Dinh tuyển chọn và biên tập (1999), Những chân dung truyện
Kiều, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
9. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (1998), Nguyễn Du, về tác
giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Lưu Thế Đức, Lý Tu Chương (1967), Nguyễn Du, nhà thơ kiệt xuất Việt
Nam và Truyện Kiều của ông,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Vũ Hạnh (1992),Những khuôn mặt tình yêu trong Truyện Kiều, Nxb Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Hồ Sĩ Hiệp, Hoài Thanh (1990), Nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc:
Nguyễn Đình Chiểu ( 1822 - 1888) tái bản, Nxb Tổng hợp, Tiền Giang.
13. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2005),Những điều cần biết về bình đẳng giới,
http://www.hoilhpn.org.vn/NewsDetail.asp?Catid=115&NewsId=516&la
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn98
ng=VN
93
14. Nguyễn Phạm Hùng (2011), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế Kỷ XX,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
15. Khái Hưng (2010), Tiêu sơn tráng sĩ ( tiểu thuyết), Nxb Đà Nẵng
16. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
17. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử ký toàn thư,
Nxb Khoa học xã hội.
18. Huỳnh Thúc Kháng -Tiếng dân, số 317, ngày 17/9/1930.
19. Đinh Gia Khánh ( 1976), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X - thế kỷ
XVII, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Đinh Gia Khánh (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ
XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội
21. Vũ Ngọc Khánh (1996), Nguyễn Công Trứ, một cá nhân, một danh nhân
văn hoá, trong sách Nguyễn Công Trứ - con người, cuộc đời và thơ. Hà
Nội, Nxb Hội Nhà văn.
22. Vũ Khiêu (1987), Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử,
Nxb Tp Hồ Chí Minh.
23. Dương Khuê, http://www.daovien.net/t279-topic
24. Lê Đình Kỵ (1972), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Nguyễn Lộc ( 1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế
kỉ XIX, tập 1, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
26. Nguyễn Lộc ( 1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ
XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Lộc (1997), Cảm hứng chủ đạo và nội dung xã hội của Truyện
Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Đặng Thanh Mại, Nguyễn Đình Chiểu, lá cờ đầu của nền thơ văn yêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn99
nước thời kỳ cận đại. Tạp chí Văn học, số 1, tháng 7 - 1963
94
29. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học, 2006
30. Nguyễn Bích Ngô (2001), Thánh Tông di thảo - Khuyết danh, Nxb Văn
học, Hà Nội.
31. Phan Ngọc (1985 ), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
Nxb Khoahọc xã hội, Hà Nội.
32. Đạm Nguyên (1970), Tang thương ngẫu lục - Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Nhiều tác giả (1977), Thơ văn Lý - Trần, Tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.
34. Nhiều tác giả (1988), Thơ văn Lý - Trần, Tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội
36. Nhiều tác giả (2005), Gia huấn ca - Nguyễn Trãi, http://vnthuquan.net/truyen/,
Hà Nội.
35. Nhiều tác giả (1978), Thơ văn Lý - Trần, Tập 3, Nxb KHXH, Hà Nội.
37. N.I. Niculin (1967), Nguyễn Du, nhà thơ nhân đạo lỗi lạc, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
38. Vũ Đức Phúc, Đạo Nho và các nhân vật trí thức trong sáng tác của
Nguyễn Đình Chiểu, Tạp chí Văn học, số 4 - 1982
39. Hoài Phương tuyển chọn và biên soạn( 2003) ,Truyện Kiều những lời
bình, Nxb Văn hoá- thông tin, Hà Nội.
40. Huỳnh Như Phương (1982), Suy nghĩ về yếu tố đạo lí trong thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu, Sở Văn hoá - Thông tin và Hội Văn nghệ Nguyễn
Đình Chiểu, Bến Tre.
41. Pierre Bourdieu, Lê Hồng Sâm dịch (2011), Sự thống trị của nam giới
Nxb Tri thức.
42. Nguyễn Hưng Quốc, Đọc... đọc chơi vài bài ca dao, https://tienve.org
43. Hoài Thanh, Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du: Từ Hải, Thanh
nghị, số 36, tháng 5- 1943.
44. Hoài Thanh (1963), Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn100
chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Diễn văn đọc trong
95
buổi kỷ niệm 75 năm này Nguyễn Đình Chiểu mất, tổ chức tại Nhà hát
thành phố Hà Nội.
45. Cao Tự Thanh (1996), Nho giáo ở Gia Định, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
46. Cao Tự Thanh (1982), Hiện tượng Nguyễn Đình Chiểu trong văn hoá Việt
Nam, Sở Văn hoá - Thông tin và Hội Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre.
47. Hoàng Minh Thảo, Đinh Ngọc Lân, Nguyễn Vinh Phúc( 1995) biên soạn,
Almanach những nền văn minh thế giới, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội
48. Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn và giới thiệu (2003) ,Nguyễn Đình
Chiểu- Về tác gia, tác phẩm, Nxb Giáo dục,Hà Nội
49. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Trần Nho Thìn (2007), Truyện Kiều: Khảo - chú - bình, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Trần Nho Thìn, (giới thiệu và tuyển chọn), (2003), Nguyễn Công Trứ về
tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
52. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
53. Phan Việt Thủy, Phái tính trong ngôn ngữ và văn học,
http://tienve.org/home/viet/viewVietJournals.do?action=viewArtwork&ar
tworkId=278#2
54. Dương Thiệu Tống (1995), Tâm Trạng Dương Khuê, Dương Lâm, Nxb
Văn Học, Hà Nội.
55. Vũ Đình Trác ( 1993), Triết lí nhân bản Nguyễn Du,
http://www.dunglac.org
56. Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Văn hoá truyền thống trong truyện " Lục vân
Tiên" và cuốc sống của tác phẩm, Sở Văn hoá - Thông tin Long An .
57. Tạ Chí Đại Trường - Sử Việt đọc vài quyển, http://www.lichsuvn.info
58. Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và chú thích (2008),Lục Vân Tiên- Bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn101
Nôm và bản quốc ngữ cổ nhất, tác giả: Nguyễn Đình Chiểu Nxb Văn học,
96
59. Khổng Tử (2002), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Đoàn Thị Thu Vân(1996), Đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam
thế kỉ X đến thế kỉ XIV, Nxb Văn học.
61. Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Phê. Nguyễn Thị Nhất (2007) tuyển
chọn và giới thiệu, Truyện Kiều và nghiên cứu sáng tác văn học, Nxb Văn
Hoá Sài Gòn.
62. Nguyễn Quang Vinh, Thơ truyện " Lục Vân Tiên" với văn hoá dân gian,
Tạp chí văn học, số 4 - 1972.
63. Lâm Vinh (1982), Truyện " Lục Vân Tiên" và vấn đề mối quan hệ đạo
đức và thẩm mỹ, Sở Văn hoá- Thông tin và Hội văn nghệ Nguyễn Đình
Chiểu, Bến Tre
64. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
65. Trần Ngọc Vương ( 2007), Văn học Việt nam thế kỉ X - XIX những vấn đề
lí luận và lich sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội
66. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập, Bản dịch của Lê Hữu
Mục,http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=7983.
67. Trần Thị Kim Xuyến, Giới và các vấn đề đô thị,
http://www.slideshare.net.
68. Phương Yến (2008), Lệ tục làng xã cổ truyền và những ảnh hưởng đối với
người phụ nữ ở xã hội phong kiến, thongtinphapluatdansu.wrdpres.com.
69. ZhaoZhao Yanqiu 赵炎秋, Song Yaling 宋亚玲, Kim Vân Kiều truyện”
của Nguyễn Du với “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân:
Kế thừa và biến đổi, Viện Văn học, Đại học Sư phạm Hồ Nam, Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn102
Quốc, TS. Phan Thu Vân dịch. http://ngonnguhoc.org/