ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ MAI HIỀN

NHÂN VẬT TỪ HẢI VÀ NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN

NHÌN THEO QUAN ĐIỂM GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn1

THÁI NGUYÊN - 2012

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ MAI HIỀN

NHÂN VẬT TỪ HẢI VÀ NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN

NHÌN THEO QUAN ĐIỂM GIỚI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS - TS. TRẦN NHO THÌN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn2

THÁI NGUYÊN - 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội

dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố

trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn3

Phạm Thị Mai Hiền

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Trần Nho Thìn - người

đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận

văn này.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn,

khoa sau đại học - Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên đã giảng dạy và

giúp đã chúng tôi hoàn thành khóa học.

Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn BGH, các phòng ban Trường phổ

thông Vùng cao Việt Bắc - TP Thái Nguyên đã tạo điểu kiện giúp tôi về mọi

mặt trong suốt thời gian học tập và hoàn thành bản luận văn này.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng

nghiệp, những người đã động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học

tập và nghiên cứu

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn4

Phạm Thị Mai Hiền

i

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1

NỘI DUNG ................................................................................................... 9

Chương 1: LÝ LUẬN GIỚI VÀ VIỆC PHÂN TÍCH CÁC NHÂN

VẬT NAM NHI – ANH HÙNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ......... 9

1.1 Những khái niệm về giới (gender) và giới tính (sex)............................. 9

1.2 Các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt Nam .................. 14

1.2.1 Các nhân vật văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XV ........................ 16

1.2.2 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII.................. 24

1.2.3 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX ... 27

1.2.4 Các nhân vật văn học cuối thế kỷ XIX: .......................................... 33

1.1 Tiểu kết .............................................................................................. 39

Chương 2: NHÂN VẬT TỪ HẢI TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA

NGUYỄN DU ............................................................................................. 41

2.1 Thân thế và thời đại Nguyễn Du ......................................................... 41

2.2 Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.......................... 44

2.2.1 Chân dung nhân vật Từ Hải......................................................... 44

2.2.2 Thái độ ứng xử với phụ nữ .......................................................... 49

2.2.3 Hành động của người anh hùng Từ Hải ....................................... 52

2.2.4 Những lời bình về nhân vật Từ Hải và các nhân vật nam............. 57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn5

2.3 Tiểu kết .............................................................................................. 64

ii

Chương 3: NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN TRONG TRUYỆN LỤC

VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU .............................................. 65

3.1 Thân thế và thời đại Nguyễn Đình Chiểu............................................ 65

3.2 Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn

Đình Chiểu ............................................................................................... 68

3.2.1 Lí tưởng nhân nghĩa của người anh hùng Lục Vân Tiên .............. 68

3.2.2 Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga ............................... 75

3.2.3 Quan niệm đối lập nhân vật chính diện - phản diện ..................... 82

3.3 Tiểu kết .............................................................................................. 89

KẾT LUẬN................................................................................................. 90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn6

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 92

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Từ Hải và Lục Vân Tiên-hai

nhân vật nam giới. Chúng tôi chọn hai nhân vật nam giới của văn học trung

đại để khảo sát có một số lý do sau. Văn hóa truyền thống phương Đông

trong đó có văn hóa Việt Nam nếu xét từ góc độ văn hóa giới, là văn học nam

quyền. Trong quan hệ xã hội giữa nam và nữ, nam giới thống trị .Từ xa xưa,

sự thống trị của nam giới néo chắc vào vô thức của chúng ta đến mức ta

không nhận thấy nó nữa và phù hợp với những trông đợi của chúng ta đến

mức khó mà xét lại nó. Sự thống trị của nam giới không chỉ tồn tại trong xã

hội mà nó còn ngự trị trong đời sống văn học nghệ thuật

Văn học trung đại Việt Nam trong cái nhìn lịch sử, nhất là từ khi

hệ thống văn tự được xác lập, phái nam gần như giữ vai trò thống trị tuyệt đối.

Họ áp đặt các chuẩn mực của họ về cái đẹp, về hành vi, về đức hạnh cho người

phụ nữ, bất công bất lợi cho người phụ nữ và có lợi cho nam giới. Đó là kiểu văn

hóa nam quyền. Nghiên cứu các nhân vật nữ trong không gian văn hóa nam quyền

đã được một số lv thạc sĩ gần đây tìm hiểu. Nhưng văn hóa truyền thống phương

Đông cũng còn là văn hóa thanh giáo (puritanism), tuyên truyền con người khắc

kỷ, và chủ nghĩa khắc kỷ này chi phối cả hai giới nam và nữ. Không gian văn hóa

Thanh giáo với nhiều cấm kỵ về thân xác của xã hội Nho giáo hóa có ảnh hưởng

lớn đến việc xây dựng hình tượng nhân vật nam giới của văn học trung đại. Vấn

đề này ít được quan tâm ở Việt Nam. Đó là lý do đầu tiên hướng chúng tôi chọn

đề tài.

Nhưng nhân vật đàn ông không phải luôn luôn hiện ra như những người

khô khan, khắc kỳ chỉ biết chiến công hay sự nghiệp. Tùy theo giai đoạn văn học

sử khác nhau, các tác giả có thể xử lý khác nhau đối với nhân vật nam của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn7

Nguyễn Du tiếp tục phát triển những thành quả tích cực của trào lưu nhân đạo chủ

2

nghĩa của văn học Thăng Long. Nguyễn Đình Chiểu lại là tác giả trưởng thành

trong không khí phục hồi Nho giáo của triều Nguyễn ở Đàng Trong. Hai nhà nho

sống ở hai thời điểm gần nhau( cuối thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX) nhưng lại có

nhưng quan điểm trái ngược nhau khi xậy dựng nhân vật nam nhi anh hùng. Nhân

vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một nam nhi anh hùng

nhưng lại không tuân theo những quy tắc ứng xử như các nhân vật anh hùng theo

quan điểm của Nho giáo. Từ Hải có những nét phi thường nhưng cũng có những

yếu tố của con người phàm bình với mọi cung bậc cảm xúc không bị kiểm soát

bởi chủ nghĩa dân bản. Đây là một điểm mới trong quan niệm về người anh hùng

của Nguyễn Du. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn

Đình Chiểu ra đời trong một thời điểm lịch sử đầy biến động ở vùng đất Nam Bộ.

Chính vì thế hình tượng người nam nhi anh hùng có phần chịu ảnh hưởng giáo lí

Nho giáo mang đậm tính khắc kỉ.

Nghiên cứu đề tài " Nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên nhìn theo

quan điểm giới", chúng tôi chọn cách tiếp cận nhân vật dưới góc nhìn văn hoá để

có thể khai thác nhân vật toàn diện hơn ở mọi khía cạnh. Chúng tôi hi vọng kết

quả nghiên cứu của mình sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập và

giảng dạy văn thơ trung đại trong nhà trường.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Hai tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và truyện Lục Vân Tiên

của Nguyễn Đình Chiểu từ lâu đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu

văn học. Tuy nhiên, khi nói về nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân

vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên, các nhà nho, các nhà nghiên cứu

văn học mới chỉ dừng lại ở việc bình phẩm các nhân vật hoặc nhấn mạnh giá

trị phản ánh hiện thực xã hội phong kiến; về quan niệm con người, chú trọng

phân tích nhân vật theo nghĩa không phải là một cá nhân mà là một phần tử

của một giai cấp, một tầng lớp, lý luận điển hình hóa xem xét nhân vật theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn8

nghĩa điển hình giai cấp. Cho đến thời điểm hiện tại, hầu như chưa có hay ít

3

có công trình nghiên cứu nhân vật Từ Hải và Lục Vân Tiên theo lý thuyết về

giới. Học giả Vũ Đình Trác với luận án tiến sĩ Triết lý nhân bản trong Truyện

Kiều bảo vệ tại Nhật Bản năm 1984 có đề cập đến tư tưởng nhân bản của

Nguyễn Du qua vấn đề giới như: cuộc đối thoại đầu tiên ở vườn Thuý,

"nguyên tác đã để Thuý Kiều trở thành chủ động, nói năng huyên thuyên và

tống tình Kim Trọng một cách khiêu khích. Nguyễn Du trái lại, trả Thuý Kiều

về với bản tính thanh cao của giai nhân tài trí, để cho Kim Trọng trở thành

chủ động, theo quan niệm Dương chinh phục Âm". Hoặc "những cảnh báo

oán của Thúy Kiều trong truyện Hán văn có vẻ nhuốm màu bạo dâm (sadism)

biểu lộ hết ác tâm của kẻ báo thù và đường lối dã man của xã hội loài người.

Dưới ngòi bút Nguyễn Du, những cảnh đó cần phải có tối thiểu, để trọn ý

nghĩa nhân quả và tâm lý thường tình của con người, nhưng ông muốn tránh

mọi cử chỉ và hành động vô nhân đạo". Trần Đình Hượu và Trần Ngọc

Vương có nêu vấn đề về loại hình " nhà nho tài tử" với hai nét thị tài, đa tình:

"Tài tử cũng là nho sĩ (...) (...) nhưng lí tưởng làm người của họ (...) không ở

chỗ tu thân, hành đạo, trí quân trạch dân mà là thoả mãn tính cách thị

tài và đa tình (…). Họ không quan tâm nhiều đến nghĩa quân thần, (...)đến

trách nhiệm với xã hội và còn đi xa hơn nữa đối lập tình với tính, tài với

đức, tự coi là những cá nhân chứ không còn là thần tử (...). Ước mong tự do

và hạnh phúc chỉ mới đặt ra trong một phạm vi hẹp là tình yêu (...). Tài tử là

những nhà nho chưa thể gọi là “bội đạo”, “li kinh” nhưng rõ ràng đã xa rời

quĩ đạo chính thống, tức là những nhà nho tu thân hành đạo hay ẩn dật theo lẽ

xuất xử”[64]. Thực chất đây cũng là cách nhìn ít nhiều mang tính chất của

giới tính ( nhà nho là đàn ông thì đa tình, đa dục và đề cao tài), song tiếc là

không đề cập đến nhân vật Từ Hải.

Tại hải ngoại, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc cũng có tiếp cận thú

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn9

vị từ góc nhìn giới đối với nhân vật Lục Vân Tiên khi viết bài " Đọc... chơi

4

vài bài ca dao" đã giải thích vì sao cái tục lại được dân Nam Bộ áp dụng để

"xuyên tạc" nhân vật Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Theo ông, câu

ca dao tục tĩu, nhảm nhí:

Vân Tiên ngồi dưới gốc môn,

Chờ cho trăng lặn bóp ... Nguyệt Nga.

không dành cho nhân vật "máu dê" như Bùi Kiệm hay một nhân vật nào đó

trong Truyện Kiều như Thúc Sinh, Từ Hải, Mã Giám Sinh...lại chọn ngay

chính Lục Vân Tiên, một nhân vật được xem là nghiêm trang, nghiêm túc,

thậm chí nghiêm khắc, có thể xem như một khuôn mẫu về đạo đức, để bắt làm

cái chuyện phàm phu tục tử ấy là bởi vì có lí do của nó. Câu ca dao trên là

"một cách phản ứng chống lại thái độ đạo đức khắt khe, có phần giả tạo của

Lục Vân Tiên, và phần nào cũng là của Nguyễn Đình Chiểu". Vì mục tiêu "tải

đạo", các nhân vật Lục Vân Tiên đã trở thành biểu tượng luân lý do đó mất cả

tự nhiên! Truyện Lục Vân Tiên được truyền bá sâu rộng trong giới bình dân,

cứ "nói thơ" đạo nghĩa hoài cũng sẽ có lúc có người làm "thơ" hay đặt vè phê

phán lại Lục Vân Tiên và tác giả của nó, một phản ứng tâm lý bình thường

chê giới có học, nhà nho vốn đại diện cho uy quyền. Nguyễn Hưng Quốc đã

có lý khi cho rằng qua hai câu ca dao đó, người bình dân muốn Vân Tiên gần

gũi họ, một "người" như họ. Tuy nhiên, đây mới là một gợi mở cho hướng

phê bình văn học nhìn theo quan điểm giới của Nguyễn Hưng Quốc.

Tóm lại, còn rất ít người nghiên cứu nhân vật nam giới ở hai tác phẩm

này theo lý thuyết giới. Điều này khiến các nhân vật nam đôi khi bị nhìn nhận

thiên lệch về vấn đề giai cấp hoặc đạo đức mà mờ nhạt về đặc điểm giới.

Chính vì thế mà luận văn hy vọng góp phần nhỏ xới lên hướng nghiên cứu

giới của nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong

truyện Lục Vân Tiên, góp phần giúp người đọc thấy thêm những phương diện

khác của nhân vật trong hai tác phẩm này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn10

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này là nhân vật Từ

Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện

Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.

4. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu nhân vật nam trong Truyện Kiều và truyện Lục

Vân Tiên trên cơ sở xem xét việc tác giả miêu tả, đánh giá, lý giải các phương

diện giới tính nam của nhân vật. Qua đó làm nổi bật sự chi phối của quan

điểm giới trong thời trung đại như một vấn đề văn hóa ảnh hưởng đến nghệ

thuật xây dựng hình tượng người anh hùng lí tưởng và người anh hùng đã bị

thế tục hoá.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như:

khái niệm giới; điểm qua các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt

nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX.

- Phân tích, cắt nghĩa hai kiểu nhân vật nam trong Truyện Kiều và

truyện Lục Vân Tiên từ góc nhìn giới. Từ đó có sự so sánh hai nhân vật để

thấy sự giống và khác nhau trong biểu hiện nam tính cũng như quan niệm của

hai tác giả về việc xây dựng những hình mẫu nam nhi lí tưởng trong xã hội

phong kiến.

6. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp văn hóa học:

Chúng tôi vận dụng phương pháp tiếp cận văn hoá học để giải mã hình tượng

người nam nhi anh hùng, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng. Trong xã hội

phong kiến, giá trị đạo đức được coi là thước đo chuẩn mực người đàn ông chính là

những giáo lí Nho gia. Nho giáo chủ trương xây dựng con người xã hội theo lí tưởng

thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, con người nội thánh ngoại

vương, tu kỉ trị nhân. Quan điểm văn hoá này đã chi phối đến cách xây dựng hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn11

tượng người nam nhi anh hùng trong các tác phẩm văn học trong đó có nhân vật Từ

6

Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của

Nguyễn Đình Chiểu .

- Phương pháp thống kê:

Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để khảo sát các nhân

vật nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, từ đó đi tìm hiểu nghệ thuật xây dựng hình

tượng nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên trong tác phẩm Truyện Kiều của

Nguyễn Du và truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài ra, chúng tôi

còn sử dụng phương pháp thống kê để xử lý thông tin trong các tư liệu lịch sử, tư

liệu văn học được sử dụng để chứng minh các luận điểm đã đưa ra.

- Phương pháp so sánh:

Chúng tôi lựa chọn phương pháp so sánh để thấy được các mối liên hệ

đa dạng, đa chiều cũng như nét chung, nét riêng độc đáo của nhân vật Từ Hải

và nhân vật Lục Vân Tiên.

- Phương pháp hệ thống:

Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống nhằm mục đích giúp cho việc tìm

hiểu nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục

Vân Tiên có được cái nhìn sâu sắc, đầy đủ hơn.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển

khai trong ba chương:

Chương I: Lý thuyết giới và các kiểu nhân vật nam trong tiến trình văn

học trung đại Việt Nam

Chúng tôi dành chương I làm cơ sở đi vào lý luận về Giới.

Xã hội phương Đông truyền thống là xã hội nam quyền. Trong quan hệ

giới giữa hai phái nam-nữ, người đàn ông thống trị, các chuẩn mực đạo đức,

thẩm mỹ của phụ nữ do nam giới đặt ra, thường có biểu hiện bất công đối với

người phụ nữ (trinh tiết, tam tòng tứ đức…).

Nhưng mẫu hình lý tưởng về nam giới cũng lại mang tính khắc kỷ đậm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn12

nét. Những nhân vật nam giới được văn học nhà nho ca ngợi thường là các

7

anh hùng, nam nhi quân tử, kẻ sĩ khắc kỷ, coi thường sắc đẹp, khô khan.

Những nhân vật nam bị phê phán thường là những kẻ phóng đãng, dâm loạn.

Sự phân tuyến chính diện-phản diện nhiều khi rạch ròi, không có trung gian.

Khái niệm Thân và Tâm của văn hóa truyền thống phương Đông đã chi phối

sâu sắc cách xử lý này. Người xưa dường như có quan niệm rằng sắc đẹp phụ

nữ và những dục tính thân thể có ảnh hưởng xấu, tiêu cực đến việc tu dưỡng

đạo đức, thực hiện lý tưởng của người thánh nhân, quân tử, trượng phu

(những người đàn ông). Vì thế nên họ có tư tưởng cảnh giác hay kỳ thị cao độ

đối với nữ sắc. Tuy nhiên, trong văn học, cũng có những trường hợp đột phá

các chuẩn mực đạo đức thẩm mỹ nho giáo chính thống như Truyện Kiều của

Nguyễn Du mà ta sẽ nghiên cứu.

Chúng tôi chọn nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục

Vân Tiên trong Truyện Lục Vân Tiên: đây là nhân vật của hai tác phẩm thuộc

hai giai đoạn văn học khác nhau, một tác phẩm (Truyện Kiều ) vay mượn cốt

truyện tiểu thuyết tài tử giai nhân (Kim Vân Kiều truyện), một tác phẩm (Lục

Vân Tiên) có tính chất tự truyện. Nguyễn Du tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo,

chủ tình, mang tư tưởng nữ quyền; còn Nguyễn Đình Chiểu sống ở Nam Bộ,

một vùng đất mới khẩn hoang, cư dân từ mọi miền hội tụ rất cần có đạo nghĩa

trong ứng xử, ông lại tiêu biểu cho giai đoạn nhà Nguyễn phục hồi Nho giáo,

giai đoạn văn học mà nhà Nguyễn ưu tiên cho tuồng, đề cao con người phận

sự, chức năng trong luân thường mà coi nhẹ con người trần thế, cá nhân. So

sánh để xem hai tác giả khác nhau xử lý như thế nào với nhân vật nam giới,

sự khác nhau, giống nhau, góp phần hình dung bức tranh văn học sử.

Chương II: Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Chọn nhân vật Từ Hải làm đối tượng khảo sát, chúng tôi có ý tìm hiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn13

những đột phá của Nguyễn Du trong quan niệm đạo đức thẩm mỹ.

8

Những biểu hiện nam giới của Từ Hải: thân thể kỳ vĩ, cường tráng, sức

dư muôn người, có lòng trọng nghĩa khinh tài... Đây là nét truyền thống của

nhân vật anh hùng hảo hán, giang hồ nghĩa hiệp, nhưng có nét mới, cách tân,

biết trân trọng sắc đẹp phụ nữ, có tình yêu lãng mạn Thiếp danh đưa đến lầu

hồng, Đôi bên cùng liếc đôi lòng cùng ưa. Từ Hải là nam nhi, anh hùng

(Nguyễn Du nhiều lần gọi Từ Hải là anh hùng). Nhưng Từ Hải không khắc

kỷ, cũng lãng mạn, đi tìm hình bóng giai nhân, đến với Kiều như việc đi tìm

người tri kỷ, có tình yêu, có hạnh phúc ân ái "trai anh hùng, gái thuyền quyên

/ đẹp nguyền sánh phượng phỉ duyên cưỡi rồng"... Điều này có từ Kim Vân

Kiều Truyện nhưng đã được Nguyễn Du sáng tạo, tô đậm.

Đây là đặc điểm chung cho các nhân vật nam chính diện ở Truyện Kiều.

Truyện Kiều còn có nhân vật Thúc Sinh với biểu hiện nam tính thiên về sắc tình

nhưng tấm lòng độ lượng bao dung của Nguyễn Du không phê phán, lên án.

Chương III: Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của

Nguyễn Đình Chiểu

Ở chương III này, chúng tôi tìm hiểu nhân vật nam Lục Vân Tiên để

thấy xu hướng tôn nho trở lại của vùng đất phương Nam dưới thời Nguyễn đã

ảnh hưởng đến sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Lục Vân Tiên có những vẻ

đẹp truyền thống của nam nhi, anh hùng, nhưng thiếu chất lãng mạn, thiếu sự

đa tình.

So sánh nhân vật Lục Vân Tiên với nhân vật Từ Hải để thấy sự giống

nhau và khác nhau trong biểu hiện nam tính. Một điểm khác biệt quan trọng là

tính chất khắc kỷ, là vẻ nghiêm nghị đạo mạo quá mức trước phụ nữ. Tác giả

Nguyễn Đình Chiểu cũng đối lập gay gắt hai kiểu chính diện -phản diện bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn14

đối lập những biểu hiện yếu tố nam tính.

9

NỘI DUNG

Chương 1

LÝ LUẬN GIỚI VÀ VIỆC PHÂN TÍCH CÁC NHÂN VẬT

NAM NHI –ANH HÙNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

1.1 Những khái niệm về giới (gender) và giới tính (sex)

Trong những năm gần trở lại đây, thuật ngữ “Giới” (gender) – khác biệt

với thuật ngữ “Giới tính” (sex), thường xuất hiện trong các bài viết, các công

trình nghiên cứu ở Việt Nam. Giới thường được nói đến ở hai khía cạnh sinh

học và xã hội. Ở vấn đề này, chúng tôi không có tham vọng đi sâu nghiên cứu

những vấn đề chuyên môn thuộc lĩnh vực này mà chỉ đi tìm hiểu khái niệm "

giới" và "giới tính" để phục vụ cho những vấn đề có liên quan đến bài viết của

mình. Khái niêm "giới" mà chúng tôi đề cập ở đây được hiểu theo góc độ xã hội.

Theo Hoàng Bá Thịnh trong bài Tiểu luận xã hội học về giới thì "giới"

được hiểu như sau: Khái niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả

mối quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ này có sự phân biệt vai trò,

trách nhiệm, hành vi xã hội mong đợi và quy định cho mỗi giới, phù hợp với

những đặc điểm văn hoá, chính trị, kinh tế và tôn giáo. Do vậy, nó luôn biến đổi

theo thời gian và có sự khác biệt theo không gian; vì thế nó luôn biến đổi theo

các giai đoạn lịch sử và có khác biệt giữa các cộng đồng, xã hội” [52.54].

Reiter 1975: 159: Giới là một thành phần của hệ thống giới tính. Hệ

thống giới tính (gender/sex sytem) chỉ "sự sắp xếp mà trong đó xã hội qui

định sự tương ứng giữa giới tính sinh học và hành vi con người, trong đó

(Nguồn: Dịch từ http://en.wikipedia.org/wiki/Gender- role )

những nhu cầu được thỏa mãn".

Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam định nghĩa: “Giới là phạm trù chỉ

quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn15

ra gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm

10

giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi

được” [13.33].

Trong cuốn tài liêu giáo dục Giới và các vấn đề đô thị của TS.Trần Thi

Kim Xuyến thì giới được định nghĩa: "Giới ( gender) là một thuật ngữ chỉ vai

trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ từ góc độ xã

hội; giới đề cập đến sự phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn lựcvà

lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể" [67.3].

Theo Bem và Coltrane, các nhà nghiên cứu xã hội học của đại học

Oregon đã xác định 3 “thấu kính giới” chủ chốt (các giả thuyết ẩn): sự phân

cực giới (đàn ông và đàn bà là khác nhau và sự khác biệt này một nguyên tắc

tổ chức trung tâm của cuộc sống xã hội), androcentrism (nam giới ưu trội

hơn nữ giới; kinh nghiệm nam giới là tiêu chuẩn, nam quyền); và chủ

nghĩa thiên về những kiến giải sinh học (hai thấu kính đầu tiên là do sự

khác biệt về sinh học giữa các giới tính). Đây là một cách tiếp cận cấu trúc xã

hội đã nhìn nhận sự tiếp nhận đặc điểm về giới như sự đoán trước hoàn

thiện nhân cách cá nhân. Như vậy, "giới là sự khác biệt mang tính xã hội

(không phải sự khác biệt về sinh học), chỉ sự tương quan về vai trò xã hội, vị

trí và giá trị xã hội giữa phụ nữ và nam giới". Sự khác biệt về giới không phải

vốn có cùng với sự tồn tại của nam và nữ mà là sự tập hợp các hành vi học

được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm, phẩm chất, năng lực được

cân nhắc nhằm xác định thế nào là một người nam giới hay một người phụ nữ

(hoặc cậu bé – cô bé), trong một xã hội hay nền văn hóa nhất định.

Như vậy, "giới" là những đặc điểm mà xã hội đã tạo nên ở người nam

và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những đặc

trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm

nhiều vấn đề như: vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn16

giới trong xã hội… Những vấn đế này thường do xã hội quy định và biến đổi

11

theo từng giai đoạn lịch sử, từng quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục

tập quán của mỗi dân tộc…

Giới tính(Sex): các đặc điểm về cấu tạo cơ thể, liên quan đến chức

năng sinh sản của phụ nữ và nam giới được gọi là giới tính. Đây là những

đặc điểm mà phụ nữ và nam giới không thể đổi chỗ cho nhau. Cụ thể là phụ nữ

mang thai, sinh con, cho con bú, nam giới tạo ra tinh trùng để thụ thai.

Giới và giới tính có mối quan hệ rất chặt chẽ và phức tạp. Giới là cơ sở

để tạo nên giới tính. Những đặc điểm sinh học của giớí xác định giới tính về

mặt sinh học đồng thời cũng là những biểu hiện của giới tính về mặt sinh học.

Ở góc độ này, giới là một bộ phận của giới tính, đồng thời giới chi phối và

quyết định giới tính. Những đặc điểm xã hội của giới cũng góp phần hình

thành những đặc điểm xã hội của giới tính. Chúng cũng chi phối và quyết

định sự hình thành giới tính.

Sự phân cực vai trò giới trong xã hội ngày càng trở nên rõ nét. Nữ giới thì

được gắn với những đặc điểm như là giàu tình cảm, thận trọng, tính hợp tác,

tinh thần cộng đồng và sự phục tùng. Còn nam giới có xu hướng được

gắn với các đặc điểm như duy lý, có năng lực, thích ganh đua, chủ nghĩa cá

nhân và sự tàn nhẫn. Nam giới theo bản năng tự nhiên của mình luôn thể hiện

sự phân tích và tính cạnh tranh nhiều hơn, trong khi đó phụ nữ giàu lòng trắc

ẩn và thiên về sự chăm chút tỉ mỉ cho những người xung quanh. Có nhiều giả

thuyết và lý giải khác nhau cho sự khác biệt độc đáo này. Theo tiến sĩ người

Mỹ Cordelia Fine, đồng thời là tác giả cuốn Ảo giác về giới tính (Delusions of

gender), sự khác biệt giữa hai giới không chỉ xuất phát từ cấu tạo tự nhiên

khác nhau của não hay sứ mệnh sinh học của mỗi giới mà còn là do yếu tố tác

động của xã hội và môi trường sống.

Trong văn hoá người Việt, giới có tác động không nhỏ đến sự phân

công lao động giữa người phụ nữ và nam giới trong gia đình. Người đàn ông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn17

luôn là người giữ vai trò trụ cột trong gia đình. Mọi lĩnh vực có liên quan đến

12

đời sống gia đình như: làm nhà, dạm vợ, gả chồng cho con cái, chăn nuôi,

trồng trọt… nhất nhất đều do người đàn ông chủ gia đình quyết định. Tư

tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo góp phần làm cho chế độ phụ hệ gia

trưởng trong người Việt thêm củng cố. Trong một gia đình nếu không có con

trai nối dõi tông đường thì dù có bao nhiêu con gái thì dư luận xã hội cũng

chồng, người con gái không có quyền được lựa chọn người chồng. Với tục “Cha

mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và với lệ thách cưới người con gái trở thành một vật

trao đổi mua bán. Người phụ nữ sau khi đi lấy chồng trở thành thành viên của

đều cho là không có con (Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đến tuổi lấy

gia đình chồng "Con gái là con người ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về" và

cũng từ đây họ và tên của người đàn bà sẽ biến mất. Ngay cả cách dạy con

của bà mẹ trong bài ca dao ở Quốc văn giáo khoa thư cũng thể hiện rất rõ vị

trí của người nữ giới và nam giới trong xã hội:

Con ơi muốn nên thân người,

Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha:

Gái thì giữ việc trong nhà,

Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa,

Trai thì đọc sách ngâm thơ,

Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa,

Mai sau nối được nghiệp nhà,

Trước là đẹp mặt sau là ấm thân.

Trong văn hoá làng xã, chỉ có đàn ông mới được lên đình làng bàn

việc, phụ nữ ở nhà, việc tổ chức các lễ nghi tôn giáo cũng do người đàn ông

thực hiện. Cái nhìn của nam giới về phụ nữ cũng có phần khinh miệt. Trong

quan hệ nam nữ, phạm trù trinh tiết như là biểu hiện của đạo đức chỉ áp dụng

cho người phụ nữ; còn người đàn ông không bị ràng buộc bởi phạm trù này.

Không ai lại đi khen hay chê người đàn ông vì giữ (hay không giữ) trinh tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn18

với vợ, song trinh tiết là một trong những chuẩn mực để khen chê đức hạnh

13

người phụ nữ. Một nhà nho có thể có hàng chục vợ hay một ông vua có hàng

trăm cung nữ, nhưng vẫn “vô tư” bàn về trinh tiết phụ nữ, vẫn sẵn sàng làm

thơ, viết văn ngợi ca những người phụ nữ “tiết hạnh khả phong”. Và, với quan

niệm “tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, những

người phụ nữ nạn nhân của chế độ đa thê (bất kể là vợ cả hay vợ lẽ), suốt đời

chìm đắm trong những mối mâu thuẫn, bất hòa, khổ đau nhiều khi chỉ vì

những chuyện rất vụn vặt. Từ luật Hồng Đức đến luật Gia Long là quá trình

phát triển ngày càng phản động của chế độ phong kiến đối với phụ nữ. Những

cực hình, chỉ áp dụng riêng đối với phu nữ khi bị coi là làm những việc trái

với luân thường đạo lí: thả bè trôi sông, gọt gáy bôi vôi, ngựa xé, voi giày...

Thực tế về cái nhìn nam quyền rất phổ biến trong văn học trung đại.

Các nhà nho xưa thường coi phụ nữ là lực cản trên con đường tu dưỡng đạo

đức nên phải xa lánh nữ sắc, coi nữ sắc nguy hiểm như ma quái, quỉ, hồ ly

tinh, rắn báo oán. Truyền thuyết về Thị Lộ là rắn báo oán, các nhân vật phụ

nữ ma quái trong Truyền kỳ mạn lục... ra đời cũng bởi xuất phát từ chính

những quan niệm này. Trong Gia huấn ca của Nguyễn Trãi, phần lớn những

bài giáo huấn là để răn dạy người phụ nữ trong gia đình phải biết đối nhân xử

thế trong mọi trường hợp với cha mẹ, với chồng, với bạn chồng, với trong họ,

ngoài làng...Trái lại, cái nhìn của xã hội (cũng là nam giới thống trị) về người

nam giới thường là ca ngợi mẫu hình nam nhi, quân tử, anh hùng, trượng phu,

con người trên phương diện xã hội mà tỏ ra khinh miệt những kẻ mê đắm nữ

sắc, coi như những nhân vật phản diện. Những hiện tượng này vẫn còn tồn tại

dai dẳng cho đến tận ngày nay. Người đàn ông theo quan niệm Nho giáo phải

lập công danh sự nghiệp, có chí khí nam nhi, chí khí anh hùng. Để thực hiện

lý tưởng cao cả đó, họ phải gạt bỏ tình cảm nhi nữ, không đam mê sắc đẹp

như thiền sư (nam nhân) hy sinh đời sống tình dục để tu luyện những phép

thuật để đạt được những khả năng phi thường hay nhà nho tiết dục, quay lưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn19

lại tiếng gọi của thân xác, của sắc đẹp bởi nó chính là nguyên nhân gây nên

14

suy vong, sụp đổ cho của các triều đình, bất hạnh tai hoạ cho gia đình và nỗi

đâu khổ cho cá nhân Đó là lý do sâu xa của việc họ coi thường sắc đẹp.

Quan niệm văn hóa về đặc điểm và vai trò của giới có vai trò chi phối,

tác động đến cách xây dựng hình tượng nhân vật (cả nam và nữ). Trong

nghiên cứu văn học, người ta có thể vận dụng phương pháp nghiên cứu giới

của nhân vật văn học để tìm hiểu các kiểu hình tượng nam, nữ. Trước đây,

nhân vật nam, nữ thường chỉ được nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay

bị áp bức, theo quan điểm đạo đức, đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn

giới, chúng ta thấy thêm những phương diện khác của nhân vật. Từ đó, chúng

ta có thể phân tích một cách toàn diện sự ảnh hưởng của các quan niệm giới

thời trung đại tới cách nhìn nhận và sự xây dựng hình tượng nhân vật.

1.2 Các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt Nam

Mỗi nền văn học ở một quốc gia nào đó đều có sự vận động theo tiến

trình vận động của lịch sử. Văn học Việt Nam trung đại cũng không nằm

ngoài quy luật đó. Đặt văn học vào tiến trình vận động của nó sẽ giúp người

đọc có cái nhìn toàn diện hơn về đề tài, thể loại, ngôn ngữ, nhân vật ... Tuy

nhiên, các vấn đề về phân kì lịch sử dân tộc và quy luật vận động của văn học

dân tộc vẫn luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận trong các cuộc hội thảo. Có

rất nhiều quan niệm về phân kì lịch sử văn học dân tộc Việt Nam được đưa ra.

Theo giới nghiên cứu mácxít thì quy luật vận động của tiến trình văn học

trung đại đều dựa vào nội dung được phản ánh trong các giai đoạn khác nhau

để phân định ranh giới giữa chúng. Cách phân kì này còn bộc lộ những vấn đề

bất cập bởi "đời sống văn học là kết quả của mối quan hệ tương tác giữa chủ

thể và khách thể. Sự thay đổi của các yếu tố thuộc về hiện thực xã hội lịch sử

với tư cách là đối tượng của sự phản ánh phải được chủ thể là nhà văn nhận

thức để chuyển hoá thành tác phẩm văn học. Tất nhiên, sự thay đổi của chủ

thể cũng là do nhân tố khách thể quy định, song là sự quy định phức tạp. Vả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn20

lại, chủ thể có sự độc lập tương đối với khách thể. Chủ thể sáng tạo nhìn

15

ngắm thế giới khách quan và xử lí các quan sát hiện thực bằng vốn tri thức

văn hoá, bằng quan điểm chính trị , đạo đức - thẩm mĩ, những yếu tố chịu sự

tác động của nhiều nhân tố khác nhau"[49.69]. Ngược dòng thời gian trở lại

với cách nhìn nhận tiến trình văn học của tác gia văn học Phạm Đình Hổ

(1768 - 1839) trong Vũ trung tuỳ bút, ông cho rằng tiến trình văn học sử được

nhìn nhận theo lịch trình các triều đại. Đây là một quan điểm không mấy khoa

học và hiện nay không còn được sử dụng. Tuy nhiên, mốc Lê Trung hưng mà

ông đưa ra đã thuyết phục được giới nghiên cứu văn học trung đại nước nhà.

Sự kiện Lê Trung hưng bắt đầu khi nhà Lê, nhờ có sự phò tá của họ Trịnh,

đánh bại nhà Mạc, trở lại Thăng Long đã mở ra một cái nhìn mới về lịch sử

văn học dân tộc cũng như sự thay đổi về đề tài, thể loại, ngôn ngữ, nhân vật...

Ở đây, chúng tôi không có tham vọng khảo sát tất cả sự đổi thay trong quá

trình vận động của nền văn học Việt Nam trung đại mà chỉ khảo sát một khía

cạnh nhỏ đó là các kiểu nhân vật nam trong văn học Việt Nam trung đại.

Nhìn lại những trang lịch sử từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XVII, các

triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng lần lượt ra

đời, phát triển và suy vong. Tất cả những điều đó đều được phản ánh rõ nét

trên lĩnh vực văn hoá. Sự hình thành và phát triển của dòng văn học viết trong

thời kỳ này là một biểu hiện rõ nét của công cuộc phục hưng và phát triển văn

hoá trong nước Đại Việt ngày càng trên đà lớn mạnh. Nền văn học Đại Việt từ

đây cũng đã hình thành một lực lượng sáng tác ngày càng đông đảo. Tuy

nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy, chủ thể sáng tác và đối tượng phản ánh trong

các tác phẩm văn học gần mười thế kỷ tuyệt đại đa số là nam giới. Những

mẫu hình lí tưởng về nam giới qua các các tác phẩm văn học ở từng thời kỳ

cũng được phản ánh rõ nét. Nhân vật chính từ thơ thiền đến thơ của các nhà

nho đều hướng về những mẫu hình lí tưởng thông qua hai phạm trù thân và

tâm. Các nhân vật như thiền sư, nam nhi, quân tử, sĩ nho, nam giới... đều là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn21

những nhân vật - mẫu người lí tưởng đoạn tuyệt với cái gọi là bản năng như

16

mọi cám dỗ về vật chất, mọi nhu cầu bản năng tình dục ( hay còn gọi là tính

dục), luôn sống phấn đấu vì lí tưởng nhân cách cao thượng. Văn học sau Lê

Trung hưng, con người thế tục là mẫu hình chủ đạo của văn học. Ở giai đoạn

này xuất hiện các nhân vật nam là những sĩ tử đi thi và gian lận trong thi cử,

những tên quan lại ăn hối lộ, sách nhiễu dân lành, chúa Trịnh ăn chơi xa đoạ...

Ở mục này, chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua các nhân vật nam giới trong theo

các giai đoạn lịch sử như đã nói ở trên.

1.2.1 Các nhân vật văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XV

Văn học từ thế kỉ X đến thế đến thế kỉ XV, cụ thể từ đời Lý đến đời Lê,

phát triển rầm rộ xoay quanh các cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm của

dân tộc. Bộ phận văn học đời Lý và đầu đời Trần chủ yếu do các nhà sư sáng

tác và điều mặc nhiên nhận thấy là các nhân vật trong những trang viết là các

thiền sư.

Nói đến Phật giáo, người ta thường nghĩ đến một triết lí siêu hình,

những quan niệm về cuộc đời là ảo ảnh, hư vô và quay lưng lại nó; nhưng các

nhà sư thời Lí, Trần đã không quay lưng lại cuộc đời mà nhập thế tích cực.

Qua thơ văn Lí, Trần, chúng ta dễ dàng nhận ra con người thời kỳ này có cách

nhìn hoàn toàn mới về cuộc đời, một lối sống với đầy đủ chất liệu mang đậm

tính nhân văn. Và hơn thế nữa, “nhà chùa thời này không quay lưng với cuộc

đời, không thoát ly hiện thực mà tham gia đắc lực vào những hoạt động xã

hội. Nhiều nhà sư là chỗ dựa vững chắc cho nhà vua. Họ có vai trò quan trọng

trong triều đình và sáng tác của họ cũng ít tính chất vô hư, thơ văn của họ

thường hồn nhiên, sôi nổi, lạc quan yêu đời, ngay cả những trường hợp họ lý

thuyết về Phật giáo" [25.35]. Mãn Giác thiền sư ((1051-1096) trong bài Cáo

tật thị chúng là hình ảnh một thiền sư với tư tưởng lạc quan yêu đời thể hiện

tinh thần vô uý và tin vào nhịp điệu vận hành biến động liên tục nên không lo

sợ sự biến đổi lên xuống của cuộc đời. Trong cách nhìn của nhà thơ, cuộc đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn22

không phải sớm nở tối tàn , mà tàn rồi lại nở:

17

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhỡn tiền quá,

Lão tòng đầu thượng lai,

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

( Hoàng việt thi tuyển - BÙI HUY BÍCH)

(Xuân qua trăm hoa rụng,

Xuân tới trăm hoa nở.

Việc đời ruổi qua trước mắt,

Cảnh già hiện ra trên đầu.

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua, một cành mai nở trước sân.)

Quảng Nghiêm thiền sư (1121- 1190) trong bài Thị tật khi nhắc đến

quan niệm về "tịch diệt", " vô sinh" không tỏ thái độ khẳng định mà có vẻ

hoài nghi:

Ly tịch phương ngôn tịch diệt

Khứ sinh hậu thuyết vô sinh

( Lìa được cõi tịch mới có thể nói chuyện tịch diệt

Thoát được sự sinh mới nói được chuyênh vô sinh)

Quan niệm của nhà sư về " chí nam nhi", về "tài trai" thì thể hiện khá rõ

nét chủ nghĩa lạc quan dồi dào sinh lực của dân tộc. Đó là hình mẫu nam nhi

có ý chí, có con đường đi riêng cho bản thân mình để đạt được mục đích chứ

không nên theo vết chân người đi trước, dù người ấy đã thành công như Đức

Phật Như Lai:

Nam nhi tự hữu xung thiên chí,

Hưu hướng Như lai hành xứ hành.

(Làm trai tự có cái chí xông lên trời,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn23

Không cần phải đi vào con đường mà Như Lai đã đi)

18

Không chỉ dừng lại ở nhân vật thiền sư ngộ đạo có dũng khí vô uý, văn

học Lí - Trần còn xây dựng những nhân vật thiền sư nhờ quá trình tu tâm mà

có khả năng phi thường có thể đem lại quyền pháp kì vĩ cứu nhân độ thế. Tác

giả Thiền uyển tập anh đã khắc hoạ các kiểu nhân vật thiền sư có sự khác

thường và có phần kì dị về hành trạng, phẩm cách và tài năng. Thiền sư

Không Lộ có thể “bay trên không, đi dưới nước, hàng long phục hổ, muôn

phép lạ không lường hết được”. Thiền sư Đạo Hạnh " ném gậy xuống dòng

nước xiết, gậy liền trôi ngược; lại có thể khiến rắn rết, muông thú đến chầu

phục, đốt ngón tay cầu mưa, phun nước phép chữa bệnh, không việc gì là

không ứng nghiệm”. Nhân vật thiền sư trong Thiền uyển tập anh còn được

biết đến ở trình độ học vấn phi thường. Trong số 41 bài sự tích các vị sư gồm

16 vị sư thuộc phái Thiền tông của Võ Ngôn Thông và 25 vị sư thuộc phái

Thiền tông của Vinitaruci, chúng tôi nhận thấy các nhân vật thiền sư đều có

điểm chung được kể đến ở trình độ học vấn uyên bác, trí tuệ tinh anh ngay từ

nhỏ. Thiền sư Pháp Thuận "học rộng, thơ hay có tài giúp vua, hiểu rõ việc

nước...Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ".Đại sư

Khuông Việt "thụ nghiệp thiền sư Vân Phong ở chùa Khai quốc (?) tại đây sư

đọc khắp kinh sách nhà phật hiểu hết mọi yếu chỉ của thiền tông. Năm 40 tuổi

tiếng tăm lừng lẫy trong nước". Thiền sư Cứu Chỉ "thuở nhỏ hiếu học, đọc

khắp các kinh điển Nho, Phật, Không thứ gì là không quán xuyến". Thiền sư

Quảng Trí "dốc trí tu thiền, không đầy một năm mà phong độ tiếng tăm

truyền xa". Thiền sư Ngộ Ấn "10 tuổi đã theo học nghiệp Nho. Thiền sư Vạn

Hạnh "thuở nhỏ đã khác thường, gồm thông 3 học, nghiên cứu trăm luận".

Tăng sư Huệ Sinh tướng mạo kì vĩ, ăn nói lưu loát , rất giỏi văn chương, có

tài viết vẽ. Học Nho rảnh rỗi sư nghiên cứu thêm sách Pháp, học bách luận và

các kinh, không gì không xem hết". Thiền sư Tịnh Lực "thuở nhỏ thông minh,

biện tài, sở trường nghề văn, thể chữ càng giỏi". Thiền sư Huyền Quang "là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn24

người có tiếng nói dịu dàng, dung mạo đẹp đẽ...Sư học vấn thông tuệ, mỗi

19

ngày học hàng vạn chữ, không đầy 10 năm, gồm thông tam học". Sư đã từng

đỗ đại khoa từ năm 20 tuổi, được triều đình bổ vào làm việc ở Viện Hàn lâm,

chuyên tiếp đón Bắc sứ nhưng sau đó “nhiều lần dâng biểu xin từ chức, muốn

được xuất gia tu hành học đạo” cuối cùng trở thành một vị thánh tăng “tinh

thông thánh đạo, các tăng ni theo học có tới ngàn người”. Rõ ràng, thực hiện

mục đích tôn vinh đức hạnh siêu việt, tài năng khác thường của của các bậc

thiền sư từ thế kỉ IX đến thế kỉ XIII, Thiền uyển tập anh cho người đọc có cơ

hội được nghiền ngẫm, dung nạp, thu nhận các phương thức khắc hoạ kiểu

nhân vật rất thanh thoát mà gần gũi với văn hoá Phật giáo. Có thể nói, các

thời đại kế tiếp khó có thể tìm thấy hình ảnh những thiền sư giàu lòng yêu

đời, yêu cuộc sống, luôn hướng về chúng sinh như thời đại Lý, Trần. Tuy

nhiên, các nhà sư-nam nhân hiện ra trong thơ là vô tính . Họ sợ tính dục thân

xác vì tính dục có thể hại cho sự tu trì phép thuật (Trước nhà vua, sư Huyền

Quang đã chứng minh ông vô tội trong câu chuyện Điểm Bích bằng cách hô

gió gọi mưa, tức là chứng minh ông trong sáng, vì nếu có quan hệ tính dục

với Điểm Bích chắc đã mất phép thiêng )

Bộ phận văn học cuối đời Trần sang đời Hồ và đầu đời Lê chủ yếu là

do các nho sĩ sáng tác vì vậy Nho giáo đã để lại dấu ấn trong văn học. Mẫu

hình con người lí tưởng của Nho giáo với tam cương ngũ thường, với đạo lí

trung hiếu tiết nghĩa, với chí khí tu, tề, trị, bình... cũng xuất hiện ngày càng

nhiều trên những trang văn thơ. Ở thời kì này, hình tượng "nam nhi" gắn liền

với chí hướng lập công, được người đời ca tụng là chủ đề được nhiều nhà thơ,

nhà văn nhắc đến. Theo Phạm Ngũ Lão chí làm trai phải gắn liền với hai chữ

công danh, Chí làm trai này mang tinh thần, tư tưởng tích cực, gắn với ý thức

trách nhiệm, lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm cho đời).

Chí làm trai đó được coi là món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh có

nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn25

đã trở thành lý tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến:

20

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

( Hoàng Việt thi tuyển - BÙI HUY BÍCH)

(Thân nam nhi mà trả trọn nợ công danh,

Thì luống nhữ thẹn thùng khi nghe người đời nói chuyện Vũ hầu)

Về sau, hình tượng nam nhi được thể hiện rõ nét hơn, mang vóc dáng

của bậc đại trượng phu anh hùng. Lê Cảnh Tuân (? - ?) trong bài Vô ý cũng

đã xây dựng hình ảnh nam nhi thông qua những hành động cụ thể:

Tứ phương tự thị nam nhi sự,

Đạp biến giang san dă bất kì.

( Hoàng Việt thi tuyển - BÙI HUY BÍCH)

(Việc bốn phương nguyên là việc của người nam nhi,

Dạo khắp cả núi sông cũng là một sự kỳ lạ)

Bên cạnh chí làm trai, các nhà nho còn xây dựng những mẫu hình quân

tử có trách nhiệm cao với đời. Hình tượng Trần Quốc Tuấn trong Dụ chư tỳ

tướng hịch văn ( Hịch văn răn bảo các tỳ tướng) tiêu biểu cho cốt cách của

người quân tử có ý thức trách nhiệm cao độ với dân, với nước mà quên ăn,

quên ngủ: "Dư thường lâm xan vong thực, chung dạ phủ chẩm; thế tứ giao di,

tâm phúc như đảo; thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì như can ẩm huyết vị

hận dã. Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã, dư chi thiên chi, khoả ư mã

cách, diệc nguyện vi chi".(Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruôt

đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống

máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói

trong da ngựa, ta cũng vui lòng). Người quân tử trong Bình ngô đại cáo cũng

thể hiện là tấm gương sáng về tấm lòng vì dân vì nước mà quên ăn, quên ngủ:

Ta đây:

Chốn Lam Sơn dấy nghĩa,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn26

Chốn hoang dã nương mình,

21

Ngẫm thù lơn há đội trời chung,

Căm thù giặc thề không cùng sống.

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;

Nếm mật nằm gan, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh.

Nói tóm lại, người nam nhi, quân tử, anh hùng trong văn thơ nhà nho là

những người biết dồn sức mạnh của tinh thần và sức lực vào sự nghiệp xây

dựng trật tự xã hội lí tưởng mà họ gọi là thái bình thịnh trị.

Như vậy, văn học thế kỉ X đến thế kỉ XV, là văn học của các thiền sư

hiện là kẻ vô tính, dường như thủ tiêu giới tính là điều kiện cần thiết để tu

và nhà nho. Hình tượng các thiền sư thường có nét phi giới tính, nhà sư còn thể

luyện có được những phép thuật phi thường kỳ vĩ. Phật giáo chủ trương “tiết

dục”, “diệt dục”, coi sắc là cái cần kiêng kỵ nên nhan sắc phụ nữ bị xem

thường trong mắt các tín đồ đạo Phật. Tam tổ thực lục có kể lại câu chuyện ca

ngợi thiền sư Huyền Quang vượt qua sắc dục, giữ lòng chay bạch với thái độ

e sợ, cảnh giác với người phụ nữ nhan sắc. Câu chuyện được kể như sau:

Vua Minh Tông và các đại thần muốn thử lòng dục của Huyền Quang bèn

nén sắp đặt cơ mưu, chọn người cung nữ vô cùng xinh đẹp và khéo léo là cung nhân

Điểm Bích gọi vào nội điện, ban cho một thẻ bài và căn dặn: “Vị tăng ấy vốn không

ưa sắc dục, tánh tình rất cương trực, giới hạnh lại cao nghiêm, ngươi có nhan sắc lại

có tài ăn nói và thông hiểu sử kinh, vậy hãy đến thử thầy. Nếu thầy còn động lòng

quyến luyến tình dục, ngươi hãy dụ lấy cho được kim tử làm bằng chứng, bằng gian

trá sẽ có tội, ngươi phải kính cẩn vâng lời”. Điểm Bích vâng lệnh lên đường, đến

chùa Vân Yên xin nương náu cửa chùa. Ở đây, nàng tìm mọi cách cám dỗ Huyền

Quang nhưng thiền sư tuyệt nhiên không lay động. Biết khó dùng sắc đẹp cám dỗ

Huyền Quang, Điểm Bích nảy ra kế than vãn về gia cảnh và được thiền sư cho một

dật kim tử. Nhận được dật kim tử, Điểm Bích vội về nói dối Vua là đã cám dỗ được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn27

Huyền Quang. Vua nghe xong buồn rầu, bèn lệnh mở đàn tràng để kiểm tra hạnh

22

pháp của sư. Huyền Quang lên đàn tràng chứng minh được hạnh pháp của mình.

Vua biết sư bị oan lại càng kính nể. Riêng nàng Điểm Bích bị phạt làm tỳ nữ quét

tước một ngôi chùa trong nội điện.

Trong câu chuyện này, vẻ đẹp của Điểm Bích không được ca ngợi mà

bị lấy làm nền để tô đậm quan niệm: Nữ sắc là thứ sức mạnh có hại cho lí

tưởng Phật; lí tưởng thánh nhân của nam giới, vì vậy nam giới cần biết cảnh

giác và tránh xa nó.

Mẫu hình các nhà nho thường là những người có sứ mệnh cao cả, đem

lại sự vẻ vang cho cho đất nước. Họ luôn có thái độ khắc kỉ với phụ nữ.

Người phụ nữ thường vắng bóng trong các tác phẩm văn học thời kì này hoặc

nếu có thì đó là thái độ xa lánh, coi sắc đẹp là sự cản trở bước đường lập công

danh. Theo quan niệm của các nhà nho thời kì này, người nam nhi phải luôn

thoát khỏi mọi cám dỗ của những ham muốn vật chất thông thường hay về

tình ái bản năng.

Kim ngân ấy của người cùng muốn;

Tửu sắc ấy là nơi nghiệp khá chừa.

Thế sự trai yêu thiếp mọn,

Nhân tình gái nhớ chồng xưa.

Chẳng say, chẳng đắm là quân tử,

Người hiểm lòng thay hãy khá ngờ.

(Nguyễn Trãi, Bảo kính cảnh giới, bài 42)

Trong bài thơ Giới sắc, Nguyễn Trãi một lần nữa đứng trên lập trường

của một nhà nho khắc kỉ răn dạy nam giới, khuyên người quân tử né tránh nữ

sắc, nên coi nữ sắc là kẻ thù:

Sắc là giặc, đam làm chi

Thuở trọng còn phòng có thuở suy.

Trụ mất quốc gia vì Đát Kỉ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn28

Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi.

23

Bại tan gia thất đời từng thấy,

Tổn hại tinh thần sự ích chi!

(Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập - Bài 190)

Trần Thái Tông, tác giả Khóa hư lục viết Giới sắc văn với những lời lẽ

đầy nghiêm khắc khi đánh giá về những yếu tố ngoại hình hấp dẫn của người

phụ nữ: “Tóc mượt lưng ong dễ khiến mịt mờ tâm tính; mặt hoa da phấn dễ

xui rời rã tinh thần. Mắt đưa lấp lánh như dao, ai không đứt ruột; lưỡi uốn

ngọt ngào tựa sáo, hết thảy nghiêng tai. Người đắm đuối, nghĩa tình xa bỏ; kẻ

đam mê, đạo đức tiêu tan. Trên thì phong giáo đắm chìm; dưới thì cửa nhà

táng loạn. Không kể kẻ phàm người học; đều say áo pháp điểm trang. Cương

kỷ quốc gia đổ vỡ chốn Tô đài… Độc giác gần nữ am mà trở về cõi tục; Chân

Quân xa thán phụ mà được lên thiên đàng. Kẻ lánh sắc được ngũ thần thông;

kẻ phạm sắc mất toàn giới hạnh” [33.98].

Câu chuyện Rắn báo oán trong Tang thương ngẫu lục cũng phần nào

thể hiện quan niệm tương tự về sự kì thị nữ sắc. Theo đánh giá của các nhà

nho thì chính sắc đẹp của Nguyễn Thị Lộ đã làm cho vua Thái Tông phải chết

và gieo rắc tại hoạ cho cả dòng họ Nguyễn Trãi.

Cũng từ đây ta hiểu tại sao các sử gia lại cho rằng những người phụ nữ

hồng nha, tiêu biểu cho sắc dục, là ma quái, hồ li tinh, rắn báo oán, họ chỉ

đem lại bất hạnh cho gia đình, làm khuynh đảo quốc gia, triều đại. Sử gia Ngô

Sĩ Liên khi ghi chép chuyện Nguyễn Thị Lộ đã bình luận: “Nữ sắc làm hại

người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó mà

thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được

ư?” [17.1372-1373].

Tựu chung lại, cũng vì một lí tưởng nhân cách, thi ca cổ thường hay

diễn tả tâm đạo lí lo đời, lo nước mà gạt bỏ tất cả các trạng thái tâm lí có tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn29

tự nhiên. Con người được văn hoá hoá một cách triệt để.

24

1.2.2 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII

Giai đoạn văn học từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII là giai đoạn chuyển

tiếp, xã hội Việt nam bước vào giai đạon khủng hoảng trầm trọng. Chiến

tranh huynh đệ tương tàn diễn ra liên miên giữa các tập đoàn phong kiến. Các

thiết chế chính trị, tư tưởng phong kiến Nho giáo bị xáo trộn, lung lay và rạn

nứt. Nho giáo chiếm địa vị độc tôn, nhưng nó đứng trước những thử thách

mới hết sức cay nghiệt. Nó nhanh chóng trở thành công cụ của giai cấp thống

trị dùng để quản lí xã họi và con người. Giai đoạn này có biến động và tranh

chấp giữa hai kiểu nhân vật nam, truyền thống và đổi mới. Mẫu nhân vật nam

chính thống đề cao ngôi vua, đề cao triều đình, coi trọng nho sĩ, luôn mơ ước

đến một xã hội phong kiến lý tưởng vẫn xuất hiện trong thơ văn Nguyễn Bỉnh

Khiêm, Phùng Khắc Khoan. Các nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bỉnh

Khiêm luôn biết điều tiết dục vọng sao cho không có hại cho trật tự phong

kiến, cho cuộc sống:

Đạo ở mình ta lấy đạo trung,

Chớ cho đục, chớ cho trong.

( Bài số 104)

Bởi theo ông, những người biết điều tiết dục vọng, biết ngăn lòng tư dục, biết

nhường nhin nhau thì sẽ đấng "thánh hiền":

Dù ai ngăn được lòng tư ấy,

Ta ắt dành cho đấng thánh hiền.

( Bài số 124)

Thơ văn Phùng Khắc Khoan thể hiện thái độ ôm ấp lý tưởng hành đạo,

không chịu khuất phục trước thời cuộc khó khăn, muốm đem tài kinh bang tế

thế phò vua giúp nước. Ông hy vọng có thể tìm ra bậc anh hùng cứu nước:

Quét sạch mây mù ai đó nhỉ,

Ung dung định lại bốn phương trời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn30

( Thương loạn)

25

Bên cạnh những con người trong văn học trong những khuôn mẫu "tam

cương, ngũ thường", thời điểm này đã xuất hiện những nhân vật nam giới

kiểu mới, những chàng trai không quan tâm học hành hay làm ăn mà là đệ tử

của thần ái tình như trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.

Trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (? - ?) các nhân vật

nam không còn được xây dựng trên những công thức định sẵn theo quan điểm

của Nho giáo. Các nhân vật nam là những con người phàm bình. Hơn nữa các

nhân vật này đều có tình yêu nam nữ, có nhu cầu bản năng thân xác. Nhân vật

Từ Thức trong Từ Thức lấy vợ tiên kể về một mối tình thơ mộng óc phần si

mê giữa một kẻ sĩ nơi hạ giới nặng tình với một nàng tiên ở chốn Bồng Lai

tiên cảnh nên đã treo ấn từ quan để cùng nàng hưởng thụ. Hay nhân vật Hà

Nhân trong Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây, một nho sĩ quê ở Thiên Trường lên

kinh sư để ăn học nhưng "bút nghiên nản chí, son phấn tình nồng". Hà Nhân

có cuộc tình với hai nàng Đào và Liễu. “Hà Nhân rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ

của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng lả lơi cợt nghẹo, hai ả thẹn thò nói

rằng: “ Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉn e mưa gió

nặng nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân hoa mềm yếu”. Hà Nhân

khuyên lơn dịu ngọt rồi cùng tắt đèn đi nằm. Lửa đượm hương nồng, ái ân

mười phần thỏa nguyện”. Trong cuộc hoan lạc ấy, Hà Nhân tán dương những

bài thơ đầy khoái lạc vật chất của tình nhân và làm thơ đáp trả lại. Chàng

thương gia Trình Trung Ngộ trong “Truyện cây gạo” cũng là một kẻ phóng

đãng, mê si mà liều lĩnh. Trình Trung Ngộ gặp Nhị Khanh trên cây cầu Liều

Khê trong một đêm tình tứ thơ mộng. Từ đó, hai người quấn quýt bên nhau,

miệt mài trong những cuộc truy hoan dâm đãng, xác thịt. Cuối cùng vì si mê

tình ái mà đến nỗi phải bỏ mạng. Truyện yêu quái ở Xương Giang thì kể về

gã phú thương họ Phạm, bỏ tiền ra mua một cô gái nhỏ, có nham sắc để thoả

mãn sự dâm ô. Những nhân vật nam nhiễm những thói hư tật xấu ở đời như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn31

cờ bạc cũng được đưa vào trong Truyền kì mạn lục như Trọng Quỳ, vì chơi

26

bời và ham tiền y đã bán nàng cho Đỗ Tam, một tên lái buôn giàu có, quỷ

quyệt... Ngoài ra, Nguyễn Dữ cũng xây dựng những nhân vật nam mang

nhiều đức tính tốt đẹp trong cách ứng nhân xử thế: Người tiều phu núi Nưa có

phẩm tiết cao không chịu ra làm quan cho kẻ “miệng lưỡi bẻo lẻo , đã dắm

mình vào trong cái triều đình trọc loạn, lại còn toan kéo người khác để cùng

đắm với mình”, nhân vật Dương Đứng thì công bằng và nhân hậu, Ngô Tử

Văn thì dũng cảm, cứng cỏi trong việc truy nã vong hồn tướng giặc dám đốt

ngôi đền để trị tên ác quỷ ấy. Văn Dĩ Thành thì “ tính tình hào hiệp”, đem tài

đức của mình để trừ cho dân khỏi nạn ma quỷ quấy nhiễu, Phạm Tử Hư thì ăn

ở phải đạo với thầy. Tất cả mọi hành động, việc làm của họ đều vì lợi ích

chung của cả cộng đồng.

Như vậy, văn học thời kì này đã có những biến đổi rõ nét. “Văn học

không còn những bức chân dung “ nhìn ngay, ngó thẳng”, cứng nhắc trong

những khuôn mẫu” tam cương, ngũ thường”, “tam tòng tứ đức”, con người

của tinh thần và ý chí, tư tưởng và giáo điều, thì nay bước vào văn học là

những con người trần thế, với da thịt và nhu cầu, hành động và ước muốn chủ

quan của nó”. [14.126]. Những dục vọng, ước muốn thoát ra ngoài sự toả

chiết của tư tưởng Nho giáo về " tu, tề, trị, bình" đối với người quân tử,

"công, dung, ngôn, hạnh" đối với người phụ nữ phong kiến bắt đầu xuất hiện

trong văn học. Tuy nhiên, từ các góc độ khác nhau, dù vô tình hay cố ý khi

biểu thị quan hệ tình dục nam nữ, các "nhân vật nam thường là người còn các

nhân vật nữ thường là yêu ma như là bức bình phong che chắn búa rìu dư luận

của xã hội Nho giáo hoá vốn được định hướng theo lí tưởng quả dục, tiết dục,

thậm chí diệt dục" [49.177]. Lời bình cuối mỗi truyện của tác giả dù có phê

phán người đàn ông nhưng không nhằm hạ thấp mà thiên về giáo huấn họ để bảo

vệ trật tự nam quyền. Trong Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây, tác giả lí giải việc Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn32

Nhân bút nghiên chí nản như sau: "Than ôi, thanh lòng không bằng ít dục, dục

27

nếu yên lặng thì lòng rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lý sẽ

thắng, tà quỷ còn đến quấy nhiễu làm sao được. Chàng họ Hà lòng trẻ có

nhiều vật dục, cho nên loài kia mới thừa cơ quyến rũ. Nếu không thì những

giống nguyệt quái hoa yêu, mê hoặc sao được mà chẳng phải thu hình nép

bóng ở trước Lương công là một bậc chính nhân. Kẻ sĩ gánh cặp đến học ở

Trường An, tưởng nên chăm chỉ về học nghiệp, tuy không dám mong đến

được chỗ vô dục nhưng giá gắng tiến được đến chỗ quả dục thì tốt lắm!" Lời

lí giải đã phần nào cho thấy cái nhìn khắc kỉ của nhà nho đối với người phụ

nữ trong xã hội phong kiến thời bấy giờ.

1.2.3 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX

Hoàn cảnh đáng lưu ý nhất của lịch sử dân tộc trong thời kỳ này là

những cuộc nội chiến và bão táp của các cuộc khởi nghĩa nông dân. Cuộc

khởi nghĩa của đội quân áo vải cờ đào đã lật đổ các tập đoàn phong kiến Đàng

trong (chúa Nguyễn), Đàng ngoài (vua Lê, Chúa Trịnh), đánh tan quân xâm

lược Xiêm ở phía Nam, 20 vạn quân Thanh ở phía Bắc. Sau đó, phong trào

Tây Sơn suy yếu, triều Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến chuyên chế. Đất

nước nằm trước hiểm hoạ xâm lăng của thực dân Pháp.

Thế kỷ thứ XVIII đầu thế kỷ XIX là một giai đoạn văn học có nhiều

biến chuyển to lớn. Bên cạnh hình tượng nghệ thuật về người phụ nữ, văn học

thời kỳ này đã xây dựng thành công hình tượng nghệ thuật về giới trí thức

phong kiến. Theo giới nghiên cứu, các nhân vật nam thời kỳ này là các nhà

nho tài tử.

Nhà nho tài tử là những nhà nho trải qua một quá trình học tập tu

dưỡng dưới “cửa Khổng sân Trình” như bất cứ một tri thức nào của thời đại

mình. Ra đời trong một xã hội Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, nhà nho

tài tử bị hấp dẫn bởi một hình tượng chính thống, quan niệm về người “đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn33

trượng phu”. Đại trượng phu hay người “hào kiệt” là loại nhân vật xuất chúng

28

vượt lên trên quần chúng cả về tầm cỡ của trí tuệ, tài năng, lẫn những hoài

bão, ước vọng to lớn. Trong một bối cảnh xã hội loạn lạc, đại trượng phu là

người tính toán những sự nghiệp lớn. Nhà nghiên cứu văn học Việt Nam

Phan Ngọc cũng cho rằng, vào giai đoạn văn học thế kỷ XVIII - nửa đầu thế

kỷ XIX, “Tư tưởng thị dân đòi hưởng lạc, đòi hỏi hạnh phúc, chống lại thói an

bần lạc đạo xuất hiện, và trở thành xu thế chính. Các tài tử ra đời để thay thế

các quân tử, các trượng phu, là những người độc chiếm văn đàn trước đây.

Các tài tử ấy học đạo thánh hiền, nhưng suy nghĩ theo lối thị dân. Nguyễn Du,

Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đều tự xưng là tài tử. Con người tài tử là điển

hình mới của thời đại. Con người quân tử bị chế giễu, đạo đức sống khắc kỷ

phục lễ bị mạt sát. Một trào lưu tư tưởng mới manh nha trong lòng những

chàng trai tài giỏi nhất của thời đại”[30.44].

Điểm khác biệt cơ bản giữa những người tài tử với người hành

đạo và người ẩn dật là ở chỗ người tài tử coi “tài” và “tình” chứ không

phải đạo đức làm nên giá trị của con người. “Đó không chỉ là điểm để

phân biệt với người thánh hiền mà cao hơn, là điều khiến họ tự hào”.

Người tài tử quan niệm “tài” theo nhiều cách. Có thể đó là tài trị nước,

cầm quân (kinh luân), có thể là tài trong học vấn. Nhưng dẫu đã có

những tài năng ấy, vẫn nhất thiết phải có thêm tài văn chương “nhả

ngọc, phun châu”, rộng hơn nữa là “cầm kì thi họa” - những thứ nghệ

thuật tài hoa, và tài năng đó phải gắn với “tình” nữa mới thành người

tài tử. Theo GS.Trần Đình Sử, thì tài tử không phải là người tài theo quan

niệm thông thường, mà là kẻ lấy ngông làm tài, tài thoát ra thói tục, vì vậy mà

nó gắn rất chặt với tài tình.

Người tài tử cậy tài, mơ ước không phải chỉ là công danh phú

quý, mà còn lập nên những sự nghiệp phi thường. “Vòng trời đất dọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn34

ngang ngang dọc”, “Chí làm trai Nam bắc Đông Tây / Cho phí sức vẫy

29

vùng trong bốn bể” (Nguyễn Công Trứ). Cao Bá Quát còn "kiêu" hơn

khi ông coi những người tài giỏi trong quá khứ chẳng thấm vào đâu so

với ông:"Nghiêng cánh nhạn, tếch mái rừng Nhan, Khổng, chí xông pha

nào quản chông gai; Cựa đuôi kình, toan vượt biển Trình, Chu, tài bay

nhảy ngại chi gian khổ". Nhà nho tài tử trong thơ văn Nguyễn Du, đôi lúc

(trong thơ chữ Hán) cũng hé cho kẻ hậu nhân cái "kiêu ngầm" của mình:

Tam thập hành canh lục xích thân,

Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân.

(Tấm thân sáu thước đã ba mươi tuổi rồi. Vì thông minh làm xuyên tạc, hại

đến tính trời).

Các nhà nho tài tử không chỉ khoe tài của bản thân mà họ còn đưa cái tài

vào trong thế giới nhân vật của họ. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, các

nhân vật nam dù chính diện hay phản diện đều có tài: Kim Trọng: "Nền phú

hậu, bậc tài danh / Văn chương nết đất, thông minh tính trời", Từ Hải cũng

được giới thiệu là một người tài: "Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài",

Thúc Sinh cũng biết làm thơ Đường luật, Sở Khanh cũng biết làm thơ, Hồ

Tôn Hiến cũng "kinh luân gồm tài". Trước đó, Nguyễn Gia Thiều, Ngô gia

văn phái cũng đã từng để cho nhân vật của mình lên tiếng đề cao cái tài của

mình. Tóm lại, "chữ tài , từ chỗ kiêng kỵ của thời đại trước, trở thành một ý

niệm động lực của thời đại mới".[30.46]

Con người tài tử trong thơ Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ đều có

mối quan hệ với các nhân vật ả đào, kĩ nữ. Gò bó, ngột ngạt trong môi trường

chính thống đầy những niêm luật, ước thúc, họ tìm đến sinh hoạt ca trù như

một nhu cầu tất yếu, nhằm thỏa mãn cái tôi bản ngã, ngoài vòng cương tỏa

khắt khe của lễ giáo phong kiến. Nhưng cái nhìn của hai nhà nho về người

phụ nữ ( cụ thể là người hát ả đào, kĩ nữ) lại có phần khác biệt.

Nguyễn Công Trứ nói nhiều đến chí nam nhi, nợ anh hùng, song khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn35

hẳn các tác giả trước đây, anh hùng của ông lại đầy yếu tố sắc tình. Ông khoe

30

đi hát ả đào, khoe có các cô gái trẻ đi tháp tùng lên chùa. Tuy vậy, mặt trái

của ông là tư tưởng nam quyền, khắt khe với phụ nữ, chỉ cho nam giới có

quyền chơi bời phóng đãng. Với Nguyễn Công Trứ, trong số 12 người thiếp

của ông (có tài liệu nói là 14), có không ít người xuất thân là ả đào. Gần gũi

các cô đào là thế, nhưng Nguyễn Công Trứ chưa bao giờ thể hiện thái độ

thương cảm trước thân phận bạc bẽo của những người phụ nữ này. Nguyễn

Công Trứ từng tận mắt chứng kiến tài năng, mê mải sắc đẹp của các ả đào;

cũng gửi gắm không ít tâm sự ruột gan của mình cho cô đào hát; trải qua bao

nhiêu cuộc tình tha thiết sâu nặng với họ, nhưng vẫn không trân trọng họ.

Ông đến với họ đơn thuần chỉ để giải trí, vui chơi, xem họ là thú vui chứ

không nhìn nhận họ như những con người có giá trị. Chính vì chỉ xem ả đào

như một thú chơi mà ông thường có thái độ bỡn đùa họ:

Lật đật qua đèo nóng nực thay

Hai cô thương đến lại cho giày

Ơn này biết lấy chi mà trả

Xin quỳ hai gối chống hai tay

(Cảm ơn hai cô đào)

Cái nhìn về người ả đào thuần túy là cái nhìn từ phía người đàn ông

hưởng thụ ăn chơi. Tiếng đàn hay, giọng hát ngọt, sắc đẹp đã cuốn họ vào

cuộc chơi say sưa mê mải, không một lần dừng lại, không một lần đặt mình

vào vị trí người ca nữ để hiểu phía sau từng cuộc hát là những nỗi đắng cay,

tủi nhục của người phụ nữ đem tài sắc mua vui cho người. Điều này chỉ có thể

lý giải bằng quan điểm nam quyền nho giáo. Những tư liệu còn để lại cho

chúng ta thấy Nguyễn Công Trứ vốn không phải là một người coi trọng phụ

nữ. Ông khá khắt khe trong việc đánh giá tiết hạnh người phụ nữ. Ông lên

tiếng trách móc nàng thiếu phụ Nam Xương – người liệt nữ được chính vua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn36

Lê Thánh Tông ca ngợi hết lời:

31

Thực cùng chồng chi nỡ dối cùng con

Gương nữ tắc trông vào chưa phải lẽ

Đã có ngọn đèn chơi với trẻ

Thời chi chiếc bóng gọi là chồng

Tiếng phụ phàng chi nỡ trách đàn ông

(Vịnh Nam Xương liệt nữ)

Gay gắt hơn, ông chê bai nàng Thúy Kiều của Nguyễn Du: “Bạc mệnh

chẳng lầm người tiết nghĩa/ Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm” (Vịnh Thúy

Kiều). Nàng thiếu phụ Nam Xương trung trinh đến thế ông còn trách móc, thì

những kỹ nữ bán thân như Kiều sao không khỏi bị Nguyễn Công Trứ nặng

lời. Kiều tuy là kỹ nữ Trung Quốc nhưng rất tiêu biểu cho cuộc đời, thân phận

của những ả đào – kỹ nữ Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX, nên chắc hẳn thái độ

của Nguyễn Công Trứ với nàng Kiều cũng là cách mà ông nhìn nhận những ả

đào quanh mình.

Đây cũng là quan niệm của hầu hết các nhà nho đương thời. Các nhà

nho đi nghe hát để thị tài, khoe tài, để thoả mãn nhu cầu giải trí của mình, tuy

nhiên nhiều người trong số họ thể hiện rõ thái độ miệt thị, cái nhìn thiếu trân

trọng đối với nhân vật ả đào. Thái độ ấy bộc lộ ngay từ cách gọi tên “con

hát”, “bọn ca nhi”. Cách xưng hô như vậy thể hiện sự xem thường, khinh

miệt của cả xã hội đối với những người làm nghề cầm ca trên chiếu hát. Hầu

hết họ xem ả đào là một phần của thú cầm ca, là thú vui, là công cụ phục vụ

nhu cầu giải trí chứ không xem các cô đầu là con người có số phận, có cuộc

đời riêng. Điều này dẫn đến quan niệm “xướng ca vô loài”. Xã hội Việt Nam

trung đại vốn có ý thức coi thường nghề ca xướng, miệt thị các nghệ sỹ; triều

đình cũng quan niệm nghệ sĩ chỉ là kẻ để mua vui. Một quan niệm đạo đức

Nho giáo đề cao trinh tiết, thủy chung như nhất của phụ nữ tất không dung

nạp người ả đào nhan sắc thành tài sản chung cho mọi đàn ông có tiền (họ hay

nói đến vàng, ngàn vàng, lạng vàng). Bởi thế người ả đào chưa bao giờ có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn37

được cái nhìn trân trọng trong xã hội Việt Nam cho đến tận hết thế kỷ XIX.

32

Nguyễn Du đã có một quan niệm đi ngược với xu thế chung của các

nhà nho cùng thời khi ông luôn dành những tình cảm trân trọng, sự cảm thông

đối với người phụ nữ. Mệnh đề hồng nhan phận bạc được Nguyễn Du đặc biệt

nhấn mạnh với thân phận của những kĩ nữ - ả đào. Tấm lòng thương cảm ấy

được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ sáng tác của ông, bao gồm cả thơ chữ

Hán và thơ Nôm. Chứng kiến cảnh đời bấp bênh, phiêu bạt, không ổn định

của những kỹ nữ - ả đào, nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện niềm

xót xa đến tột cùng.Cảm thương cho số phận của người ca nữ bất hạnh là

mạch nguồn cảm xúc chính để Nguyễn Du làm bài thơ Long thành cầm giả ca

hay Điếu La Thành ca nữ giả. Trong Truyện Kiều rất nhiều lần Nguyễn Du

nhắc đến nỗi bất hạnh mà người tài sắc phải gánh chịu:

“Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

“Thương thay cũng một thân người,

Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi.”

“Nghĩ đời mà ngán cho đời,

Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.

Người phụ nữ tài sắc không chỉ làm cung phi, làm món mồi tranh đoạt

của bọn quyền quý. Họ còn đem tài sắc phục vụ nhu cầu ăn chơi giải trí của

bọn đàn ông và làm thành một lớp người đặc biệt trong xã hội được gọi là đào

nương, ả đào, cô đào. Sống bằng lời ca tiếng hát, những phụ nữ gọi là ả đào

đã bán tài hát hay, đàn ngọt của mình, thậm chí phải “mắt đi mày lại” với

khán thính giả đàn ông để rồi không ít người trở thành vợ thiếp - vợ nhỏ. Và

cái kết cho họ bao giờ cũng là cuộc sống cực khổ, cô đơn và bất hạnh, thậm

chí có người phải bỏ mạng trong cảnh nghèo đói, bệnh tật, không cửa không

nhà. Không chỉ cảm thông với thân phận của những phụ nữ tài sắc, Nguyễn

Du còn nhìn thấy nơi họ một sự tương đồng với thân phận của những nhà thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn38

như mình. Viết Độc tiểu thanh kí Nguyễn Du đã nhìn thấy thân phận mình

33

trong thân phận nàng Tiểu Thanh – nhân vật mang dáng vẻ là một kĩ nữ. Tiểu

Thanh tài tình nhưng bất hạnh chết yểu. Nguyễn Du liên tưởng đến thân thế

của chính mình và những người làm thơ văn nghệ thuật, một thứ thơ văn

không phải để lập thân, nói chí, giáo huấn mà để bộc lộ cảm xúc. Nguyễn Du

khóc nàng Tiểu Thanh nhưng lại nghĩ đến mình: “ Không biết ba trăm năm lẻ

nữa/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như?” (Độc Tiểu Thanh kí). Có thể suy đoán

rằng triết lý “tài mệnh tương đố” được bắt nguồn từ những quan sát và suy

ngẫm lâu dài của Nguyễn Du về thân phận những người phụ nữ nói chung và

nhân vật ả đào nói riêng mà ông đã có dịp chứng kiến ngay trong gia đình

mình và bắt gặp đâu đó trên đường đời. Chính tấm lòng yêu thương, đồng

cảm ấy cho thấy Nguyễn Du có tầm nhân bản cao hơn các nhà Nho khác.

1.2.4 Các nhân vật văn học cuối thế kỷ XIX:

Cuối thế kỷ XIX, dòng văn học hát nói với các nhân vật tài tử như

Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh đa tình, phóng túng tiếp tục truyền thống

Nguyễn Công Trứ.

Nhân vật tài tử trong hát nói của Dương Khuê đều được miêu tả ở mối

quan hệ tình ái giữa khách chơi - ả đào. Đó có thể là mối quan hệ chênh lệch

tuổi tác như trong Hồng Hồng Tuyết Tuyết; đó có thể là nỗi nhớ nhung của cô

đầu đối với tình quân (Tặng cô đầu Cần); là nỗi băn khoăn về mối tình lửng lơ

mơ hồ (Ở nhà hát ngẫu hứng); cũng có thể là tâm sự của cô đầu về ký ức

những năm tuổi trẻ (Tặng cô đầu Phẩm); là tình cảnh tương đồng giữa mình và

người ca nữ trong thế đối sánh của cặp đôi tài tử – giai nhân (Gặp cô đầu cũ) .

Ở đầu thế kỷ XX, Chu Mạnh Trinh vẫn tự coi mình là nòi đa tình ( ta

cũng nòi tình thương, người đồng điệu) và vẫn dùng khái niệm nòi tình để gọi

nhân vật chính của Truyện Kiều. Với Chu Mạnh Trinh, tập thơ Vịnh Kiều có

một giá trị đặc biệt. Tài hoa của họ Chu, trút hết cả vào tập thơ Vịnh Kiều này.

Thương Kiều như thể thương thân, đó chính là tình cảm của Chu Mạnh Trinh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn39

Bởi thế bênh Kiều, nhận ra vẻ đẹp của nàng Kiều sau mười lăm năm lưu lạc;

34

biện bác lại những sự lên án Kiều của những nhà nho câu nệ, nghiêm khắc;

không ai bằng Chu Mạnh Trinh: "... Chỉ vì một nỗi mối manh chưa có, thề

thốt đã nhiều. Trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi. Cũng có người bảo tại

nước chảy mây trôi lỡ bước, nên cành đưa lá đón quen thân. Nào biết đâu

bông hạnh nở ngoài tường, chưa để con ong qua tới. Cho có muốn lưỡi dao

liều với mạng, lại sợ thành cháy vạ lây. Tấm lòng này như tuyết như gương.

Mối sầu nọ qua ngày qua tháng. Ngọc kia không vết, giá liên thành khôn xiết

so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng hãy còn vơ vẩn". Vậy là ngoài Kim

Vân Kiều truyện, tác phẩm thiên tài bất hủ của Nguyễn Du, còn có Thanh

Tâm tài nhân thi tập của Chu Mạnh Trinh. Chu Mạnh Trinh viết về Kiều thật

hết lòng. Ông dồn hết tâm sức trong tập thơ này, chính là ông tôn vinh một vẻ

đẹp tự nhiên, trời phú, ông thông cảm với kiếp tài hoa bạc mệnh, và ông cũng

lên tiếng bảo vệ những nét đẹp tinh thần ẩn sau cuộc đời chìm nổi “thanh lâu

hai lượt, thanh y hai lần” của Thuý Kiều:

Công cha bao quản nài thân thiếp,

Sự nước xui nên phụ với chàng,

Cung oán nỉ non đàn bạc mệnh,

Duyên may run rủi lưới Tiền Đường.

Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu.

Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng!

Có thể nói, Chu Mạnh Trinh rất quý trọng thân xác của người phụ nữ,

coi trọng những người. Ông tìm đến với lối hát ả đào để vượt ra khỏi vòng

kiềm tỏa của xã hội phong kiến. Ông đã tìm thấy trong hình thức sinh hoạt ấy

cái tư tưởng muốn thoát ra khỏi vòng bó buộc của luân thường, sự giam hãm

của khoa cử, đường hẹp hòi của sĩ hoạn, khuôn phép của tinh thần Khổng

Mạnh… Không chỉ say mê tiếng hát của các đào nương, ông còn đặt mình

vào cương vị người ả đào để cảm thông, trân trọng và cất lên tiếng nói nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn40

đạo sâu sắc.

35

Dương Khuê, Nguyễn Khuyến cũng là khán thính giả thường xuyên

của lối hát ả đào nhưng lại thể hiện rất rõ sự thiếu trân trọng với các ả đào.

Dương Khuê nổi danh là tác giả của rất nhiều sáng tác dành riêng cho các đào

hát và những mối quan hệ đặc biệt với các ca nương. Tuy nhiên, ông chưa bao

giờ tôn trọng họ như những người tri kỷ mà chỉ xem họ như một thú vui, một

trò tiêu khiển. Đào nương giống như một cung cụ giải trí, không có quyền mệt

mỏi, không được sống với cảm xúc thật của chính mình. Thậm chí khi nhà có

tang trở vẫn phải đàn hát, giả bộ tươi cười mua vui cho quan khách. Giai thoại

kể lại rằng: Cô đào Hai có chồng cũng tên là Hai, quê ở Trung Kỳ, làm kép

đàn. Kép Hai mới mất chưa lâu, cô Hai lấy cớ nhà có chuyện buồn, ngồi lâu

không tiện, xin cho về sớm. Tác giả giữ cô lại, làm một bài hát nói để cô hát.

Đặc biệt ngay từ câu mở đầu, khi nhắc đến người chồng mới mất Dương

Khuê đã có ý đùa cợt:

Hồng phấn kỷ nhân vi quả phụ

Bạch đầu nan lão Trác Văn Quân”

(Lâu nay son phấn (người đẹp) mấy người chịu làm góa phụ

Nàng Trác Văn Quân khó lòng ở vậy đến lúc bạc đầu).

Quả phụ Trác Văn Quân đã bỏ nhà trốn theo Tư Mã Tương Như.

Dương Khuê không những không cảm thông, thương xót cho cuộc đời bất

hạnh của người ca nữ mà còn bỡn nàng khó lòng chung thủy với chồng cho

trọn vẹn:

Nhân vong cầm tại

Nhớ chàng Hai mà hỏi lại cô Hai.

Tiện đây hỏi một đôi lời,

Đàn bản ấy cùng ai so phím cũ?

Hồng phấn kỷ nhân vi quả phụ,

Bạc đầu nan lão Trác Văn Quân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn41

Thế thì khi gió gác, lúc trăng sân

36

Chừng Bạch tuyết, Dương xuân còn tưởng nhớ

Hãy ngồi lại hát chơi lúc nữa.

(Tặng cô đào Hai )

Dù rất yêu thích lối hát ca trù nhưng trong con mắt văn nhân, ca nhi chỉ

giống như một công cụ phục vụ nhu cầu giải trí, không có quyền nghỉ ngơi,

thậm chí khi bệnh tật, ốm đau họ vẫn phải gắng gượng phục vụ quan khách.

Trong con mắt các văn nhân, đào nương chỉ là người đem lời ca tiếng hát,

mua vui cho các quan khách chứ không xem họ như những bậc tri ân, tri kỷ.

Thái độ coi thường ấy bộc lộ rất rõ trong bài hát nói “Thăm cô đầu ốm”. Đằng

sau những câu hỏi thăm xã giao là yêu cầu đòi hỏi được phục vụ:

Hãy tung màn gượng dậy làm vui,

Tiện đây hỏi một đôi lời.

Lòng chiều khách đã xuôi xuôi thế chửa?

Đàn cầm sắt gảy chơi khúc nữa,

Rượu hoàng hoa còn chứa hay không?

(Thăm cô đầu ốm )

Nguyễn Khuyến cũng bộc lộ thái độ thiếu tôn trọng, cái nhìn coi

thường, miệt thị với những người làm nghề ca xướng. Trong bài hát nói “Cô

Sen mơ bóng đè” tác giả không chỉ cười nhạo giấc mơ của cô đào Sen mà còn

phê phán thói “õng ẹo”, lẳng lơ của các ả đào:

Bóng người, người nghĩ bóng ta,

Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng người.

Tỉnh ra rồi mới nực cười,

Giấc hồ ai khéo vẽ vời cho nên.

Cô đầu Sen là người Thi – liệu

Cớ làm sao õng ẹo với làng nho.

Bóng đâu mà đè lên cô,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn42

Bỗng thấy chuyện nhỏ to thêm thắc mắc.

37

Trong không gian sinh hoạt ca trù, giữa ả đào và văn nhân đã nảy sinh mối

quan hệ tình cảm đặc biệt nhưng trong tâm thức tiếp nhận của nhiều nhà Nho, ả

đào chỉ được xem là công cụ phục vụ nhu cầu giải trí, là xướng ca vô loài

Trần Tế Xương sinh ra vào lúc Nho giáo chỉ còn những hơi thở tàn,

nhưng trong ông quan điểm phụ quyền vẫn còn rất mạnh mẽ. Ông cũng xem ả

đào như một cái thú, hát cô đầu tiến gần đến việc buôn phấn bán hương nhiều

hơn. Trong thơ ông, hát ả đào cũng là một cái thú, đó là thú chơi “hú hí”, là

“dan díu”, thậm chí là “tình dơi chuột” – những ngôn từ mà tự chúng tố cáo

thái độ thiếu tôn trọng trong quan hệ giữa văn nhân với người phụ nữ:

Chẳng gì hơn hú hí với cô đầu

Khi vui chơi năm ba ả ngồi hầu

Chén rượu cúc đánh chầu đôi ba tiếng

(Hát cô đầu)

Trong con mắt nhà thơ, ả đào cũng giống như các cô gái buôn phấn bán

hương khác. Chứng kiến sự nghèo hèn của họ, tác giả không bày tỏ sự cảm

thông mà tỏ rõ thái độ coi thường, khinh miệt:

Chị hỡi chị năm nay túng lắm,

Biết làm sao tết đến nơi rồi.

… Chị cùng em sắm sửa lo toan,

Muốn mua chịu, em nhà hàng ngại lạ.

Chị em ta bảo nhau giữ giá,

Đến bây giờ ngã cả có ai nâng

Cũng liều bán phấn chơi xuân.

(Cảnh tết nhà cô đầu)

Rõ ràng thái độ của những nhà nho như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn

Khuyến,Trần Tế Xương, Dương Khuê... là hệ quả của quan điểm nam quyền

nho giáo không tôn trọng phụ nữ, nhất là những phụ nữ bán sắc, bán tài, bán

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn43

thân kiếm sống.

38

Hướng về mốc lịch sử gần chúng ta hơn, sang đầu thế kỉ XX, mẫu hình

nam nhi trong thơ văn các nhà nho duy tân vẫn giữ nguyên vẻ đẹp truyền

thống. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Tinh thần tự nhiệm đã làm

nên vẻ đẹp đặc biệt của hình tượng nam nhi, anh hùng. Hình tượng người nam

nhi xuất hiện trong thơ văn của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu vẫn thể hiện

là những con người hành động, con người bản lĩnh, đầy lạc quan, tin tưởng

vào tài năng của mình:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

( Phan Châu Trinh, Đập đá ở Côn Lôn )

Đó còn là khát vọng cao của người nam nhi phải làm được những sự

nghiệp lớn lao, được lưu danh vào sử sách:

Sinh vi nam tử yếu hi kì,

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di!

Ư bách niên trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hậu cách vô thuỳ.

( Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời!

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

Sau này muôn thuở há không ai.)

( Phan Bội Châu, Xuất dương lưu biệt)

Con người thánh nhân, quân tử truyền thống với ý chí làm chủ, kiểm

soát phần thân xác bản năng để vươn tới lí tưởng đạo đức cao cả, biến sức

mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất to lớn vẫn là mẫu hình đẹp được các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn44

nhà chí sĩ yêu nước phát huy:

39

Ai cố gắng từ nay xin gắng gỏi

Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần

Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn.

Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa,

Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...

( Phan Bội Châu, Bài ca chúc tết thanh niên)

Có thể nói, tư tưởng dám xả thân vì nước, vì dân của các nhà chí sĩ thật

đáng kính trọng, song bên cạnh đó, vẫn còn có những hạn chế trong tư tưởng

của họ. Đó là cái nhìn có phần thiếu bao dung của các nhà chí sĩ như Ngô Đức

Kế, Huỳnh Thúc Kháng với nhân vật Thuý Kiều, người kĩ nữ lầu xanh trong

Truyện Kiều và ngay cả với tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du . Ngô Đức

Kế cho rằng Truyện Kiều là "tà thuyết", là "Ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi"

còn Huỳnh Thúc Kháng cũng chánh cáo với các trí thức trong nước rằng:

"Truyện Kiều chẳng qua chỉ là một lối văn chương mua vui mà thôi, chứ

không phải là thứ sách học, mà nói cho đúng Truyện Kiều là một thứ dâm

thư, rõ không ích mà có hại. Ở xã hội ta từ có kẻ tán dương Kiều, truyền bá

học Kiều đến nay, đã biết bao nhiêu lớp thanh niên say mê sóng sắc, chìm nổi

bể tình, vứt cả nền nếp gia đình, trật tự xã hội mà theo mối đam mê của mình.

Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương phong, bại tục kia,

cái giống độc con đĩ Kiều, gieo vào trong tư tưởng không phải là ít" [18]. Các

ý kiến phê bình về Truyện Kiều và nhân vật Thuý Kiều của các nhà chí sĩ cho

thấy một giới hạn khó tránh khỏi trong tư tưởng nam quyền vẫn còn hiện hữu

trong thời điểm này.

1.3 Tiểu kết

Ở chương 1, chúng tôi tìm hiểu khái niệm giới và phác thảo diện mạo

của văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến đầu thế kỉ XX phương diện đi tìm

hiểu một số nhân vật nam tiêu biểu cho từng thời kì văn học. Theo chúng tôi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn45

giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những

40

đòi hỏi, yêu cầu đối với nam và nữ. Nó là sản phẩm của xã hội - văn hóa. Quy

chiếu quan điểm giới vào các nhân vật nam từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX,

đầu thế kỉ XX có thế nhận thấy một điều. Giai đoạn văn học trước thời kì Lê

Trung Hưng là nền văn học của các bậc thiền sư, các văn sĩ với mệnh đề "văn

dĩ tải đạo", " thi ngôn chí", chình vì vậy mà các nhan vật xuất hiện trong văn

học là những "bậc thánh nhân vong tình", những con người có tài trí hơn

người nhưng khắc kỉ, luôn mang trong mình tư tưởng tiết dục, diệt dục, coi

thường sắc đẹp, thậm chí cho rằng sắc đẹp là thứ yêu ma làm cho lòng người

rối loạn, kỉ cương phép nước không nghiêm. Tương ứng với nó, người đàn

ông giữ vị trí chủ đạo trong đời sống văn học, là nhân vật chính. Sau đời Lê

Trung hưng, mẫu hình thánh nhân quân tử dường như không còn được coi

trọng nữa mà thay vào đó là những con người trần thế. Họ có thế là "những

con người say mê lao mình vào những niềm vui thực tế, quên hết mọi nhiệm

vụ cao quý của nho sĩ, mọi lời răn của thánh nhân".[14.114]. Họ cũng có thế

là những con người chung tình, sống hết mình vì tình yêu... Chính những

nhân vật này góp phần làm nên diện mạo mới cho văn học. Tuy nhiên, sang

thế kỷ XVIII, mặc dù người phụ nữ đã xuất hiện rất nhiều trên những trang

viết nhưng cái nhìn của nam giới về họ vẫn bị chi phối bởi hai luồng quan

điểm. Các nhà nho tài tử như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương

Khuê...vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng nam quyền Nho giáo nên có

cái nhìn thiếu sự cảm thông, bao dung với người phụ nữ, đặc biệt là những

phụ nữ mang nghiệp cầm ca. Các nhà nho theo chủ nghĩa nhân bản như

Nguyễn Du, Chu Mạnh Trinh...lại luôn thể hiện sự trân trọng, cảm thông

trước số phận những người phụ nữ bất hạnh.

Những vấn đề lí luận và thực tiễn này là cơ sở giúp chúng tôi có cơ sở

phân tích, phân loại các kiểu nhân vật nam như Từ Hải trong Truyện Kiều và

Lục Vân Tiên truyện Lục Vân Tiên. Qua đó, chúng tôi sẽ đối chiếu, so sánh,

truy nguyên các quan niệm văn hóa để phân tích những hình tượng này qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn46

góc nhìn giới.

41

Chương 2

NHÂN VẬT TỪ HẢI TRONG TRUYỆN KIỀU

CỦA NGUYỄN DU

Ở chương I, chúng tôi đã khảo sát qua những mẫu hình lí tưởng về nam

giới trong xã hội trung đại Việt Nam cũng như các nhân vật nam giới đã bị

thế tục hoá dựa trên sự phát triển của các thời kì lịch sử qua góc nhìn văn hoá.

Từ đó, chúng tôi có thể nhận thấy những nhân vật nam giới được xây dựng

theo nguyên mẫu của Nho giáo thường là các bậc thánh nhân, quân tử anh

hùng, kẻ sĩ khắc kỉ, coi thường sắc đẹp. Những nhân vật nam bị phê phán

thường là những kẻ phóng đãng, dâm loạn.

Ở chương II, chúng tôi chọn nhân vật Từ Hải làm đối tượng khảo sát để

thấy rõ bước đột phá của Nguyễn Du- cũng là một nhà Nho, trước quan niệm

về chuẩn mực đạo đức thẩm mỹ Nho giáo. Chúng tôi sẽ đi sâu phân tích nhân

vật vật Từ Hải thông qua việc so sánh nhân vật này với nhân vật Từ Hải trong

Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và các nhân vật nam trong

Truyện Kiều để thấy được sự sáng tạo, tô đậm những biểu hiện nam tính của

Nguyễn Du.

2.3 Thân thế và thời đại Nguyễn Du

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu,

niên hiệu Cảnh Hưng. Gia phả họ Nguyễn làng Tiên Điền phát hiện năm 1966

có ghi chú ngày sinh của Nguyễn Du là 23 tháng 11 năm Ất Dậu. Nguyễn Du

ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.

Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm thông minh, học rộng, từng giữ

chức Tể tướng trong triều đình. Lúc ấy người anh đầu của Nguyễn Du là

Nguyễn Khản được bổ chức Nhập thị bồi tụng. Mẹ Nguyễn Du là vợ thứ ba

của Nguyễn Nghiễm, tên là Trần Thị Tần, con gái một ông làm chức câu kê

(kế toán), người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay là huyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn47

Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

42

Gia đình cũng như dòng họ Nguyễn Du có rất nhiều người làm quan

dưới triều Lê - Trịnh. Người địa phương có câu ca dao nói về dòng họ này:

Bao giờ Hống Lĩnh hết cây,

Sông Rum hết nước, họ này hết quan.

Nhưng gia đình Nguyễn Du không phải chỉ có nhiều người làm

quan, mà còn có nhiều người viết sách, làm văn, nghĩa là một gia đình có

truyền thống về văn học. Nguyễn Quỳnh ông nội Nguyễn Du là một nhà triết

học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm một sử gia, đồng thời là

một nhà thơ. Nguyễn Khản anh cả Nguyễn Du giỏi thơ Nôm, hay làm thơ đối

đáp với Trịnh Sâm. Tương truyền Nguyễn Khản là một trong những người có

dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra tiếng Việt. Rồi Nguyễn Đề anh

cùng mẹ với Nguyễn Du, Nguyễn Thiện cháu gọi Nguyễn Du bằng chú ruột,

Nguyễn Hành em ruột Nguyễn Thiện đều là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Họ

Nguyễn Tiên Điền lại thông gia với họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu, cũng là

một họ lớn và nổi tiếng về văn học ở vùng Nghệ - Tĩnh. Sống trong một môi

trường như thế, năng khiếu văn học của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở và

phát triển từ sớm.

Nguyễn Du sinh ra tại phường Bích Câu thuộc kinh thành Thăng Long.

Từ nhỏ, ông đã được tiếp thu sâu sắc cội nguồn văn hóa Thăng Long. Thăng

Long là kinh đô nên không chỉ có những người quê Thăng Long, mà nhân tài

tứ xứ, đặc biệt là văn sĩ Bắc Hà sinh sống và làm việc ở đó. Xuất thân từ một

gia đình khoa bảng, có truyền thống thi ca lại được giao du, tiếp xúc với

những người tài sống ở Thăng Long, tài thơ bẩm sinh của Nguyễn Du như hạt

giống tốt gặp đất tốt, mưa thuận, gió hoà. Nhà thơ lớn của một dân tộc phải là

người hiểu được văn hoá của cả dân tộc mình chứ không phải chỉ của một

vùng đất, một nhóm người. Khi không có điều kiện lăn lộn khắp các vùng của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn48

đất nước, nếu muốn hiểu văn hoá của dân tộc mình thì không sống đâu bằng ở

43

thủ đô, nơi hội tụ tinh hoa của các vùng văn hoá. Hơn nữa, là con trai một vị

Tể tướng, những năm sống ở Thăng Long, Nguyễn Du có điều kiện ra vào

cung vua, phủ chúa, chứng kiến được cuộc sống sang trọng, có khi xa hoa,

truỵ lạc của tầng lớp trên của xã hội bấy giờ, điều này tạo điều kiện cho ông

có những câu thơ tả cảnh, tả người hết sức sinh động trong Truyện Kiều.

Như vậy, Thăng Long không những tạo cơ hội cho con người Nguyễn

Du ra đời, mà còn tạo điều kiện, hun đúc ông trở thành đại thi hào. Nguyễn

Du không chỉ đem lại cho văn học Thăng Long những kiệt tác như Bài ca

người gảy đàn ở Long thành (Long thành cầm giả ca), Thăng Long , Ngộ gia

đệ cựu ca cơ ...Môi trường sinh hoạt ấy tổng hòa cả ngôn ngữ tình tứ, trau

chuốt của các làn điệu quan họ quê mẹ, sự chuẩn xác, thuần cổ của vùng

Nghệ Tĩnh quê cha và nét hào hoa, thanh lịch của kinh kì Thăng Long là nền

tảng vững chắc ảnh hưởng rất nhiều đến kho tàng ngôn ngữ của thi hào khi

dùng để sáng tác nên Truyện Kiều bất hủ.

Sau này, những biến cố chính trị và xã hội khiến ông phải sống lưu lạc

trong dân gian, chứng kiến "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" từ việc

''trải qua một cuộc bể dâu" đã khiến Nguyễn Du chiêm nghiệm thấm thía về

lẽ đời và thân phận con người loạn lạc. Hiện thực dâu bể ấy khiến ông có vốn

sống phong phú và giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những nỗi

khổ của nhân dân. Truyện Kiều là một sáng tạo lớn của Nguyễn Du trong việc

tích lũy vốn sống, vốn trải nghiệm phong phú, sự dung hợp giữa văn học bác

học, vốn văn học dân gian ở phương diện nghệ thuật. Ngoài ra, Truyện Kiều

còn là bức tranh về một xã hội bất công, tàn bạo, là tiếng lòng thương cảm

trước số phận con người, là tiếng nói lên án những thế lực đồng tiền và khẳng

định phẩm chất, thể hiện khát vọng chân chính của con người. Truyện Kiều

cũng đề cao giá trị của những con người trần thế với đầy đủ bản năng thân

xác. Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều chính là sản phẩm của thời đại mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn49

Nguyễn Du đã sống.

44

2.2 Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

2.2.1 Chân dung nhân vật Từ Hải

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ngoài nhân vật chính Vương Thuý

Kiều được Nguyễn Du luôn dành cho những tình cảm ưu ái nhất thì Từ Hải có

lẽ là nhân vật Nguyễn Du yêu thích ngay khi đọc xong tiểu thuyết Kim Vân

Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Theo PGS.TS Trần Nho Thìn:

"Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều trên cơ sở vay mượn cốt truyện của một

tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc ra đời khoảng cuối Minh đầu Thanh - Kim

Vân Kiều truyện. Nhưng các nhà nghiên cứu đã khẳng định hết sức đúng đắn

đây không phải là hiện tượng dịch văn học mà là sự sáng tạo mới, đây là hiện

tượng hoán cốt đoạt thai". [49]

Nguyên Từ Hải trong lịch sử trung Quốc chỉ là một tên giặt bể. Theo

sách Ngu Sơ Tân Chí của Dư Hoài thì Từ Hải nguyên là Minh Sơn Hòa

Thượng, tu tại chùa Hổ Bào ở Hàng Châu. Long Văn gặp Từ Hải, đánh giá

Hải là tráng sĩ nên cùng giao tiếp, lại đem cho Lục Châu làm hầu gái. Sống

cùng La Long Văn một thời gian, Từ Hải từ biệt lên đường quyết lập chí dựng

cơ đồ, chiêu tập bọn thảo khấu quay về xâm chiếm Giang Nam, vây đánh

Tuần phủ Nguyễn Ngạc. Thật bất ngờ, trong một trận đánh, quân sĩ lại bắt

được Thúy Kiều và Lục Châu. Mừng lắm, Từ Hải lập Thúy Kiều làm phu

nhân, thường cùng cho dự bàn quân cơ. Lúc này thế lực Từ Hải đã mạnh;

triều đình phải cử Tổng đốc Hồ Tôn Hiến ở Triết Giang đánh dẹp. Hồ Tôn

Hiến nhiều mưu lược, thấy thế lực của Từ mạnh bèn cho Hoa lão nhân đến dụ

hàng. Từ Hải nổi giận bắt trói Hoa lão nhân. May cho Hoa là lúc này tuy Kiều

hết sức được yêu chiều nhưng vẫn canh cánh nỗi nhớ cố hương, mong sớm

được đoàn viên bèn bàn với Từ tha chết cho Hoa. Hoa trở về báo với Tôn

Hiến là thế giặc đang mạnh, chưa thể đánh nhưng xem ra Vương phu nhân có

vẻ có ngoại tâm, ta có thể nhân đây mà thắng giặc. Tôn Hiến có biết La Long

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn50

Văn là ân nhân cũ của Từ Hải và Thúy Kiều bèn dùng Văn để dụ hàng. Long

45

Văn đến dinh, được Từ Hải ân cần tiếp đãi lại cho gọi phu nhân cùng Lục

Châu ra chào. Trở về, Long Văn bàn với Hồ Tôn Hiến dùng kế đem châu báu

lo lót Thúy Kiều, vận động Từ quy hàng. Đúng như ý nguyện, Kiều ra sức

khuyên Từ Hải quy phục triều đình. Nghe lời Thúy Kiều, Từ Hải ước hàng

cùng Tôn Hiến, không phòng bị gì. Tôn Hiến dùng hỏa công đánh giặc tan

tác. Từ Hải nhảy xuống sông bị quan quân vớt lên chém đầu. Còn một vài

truyền thuyết khác, nhưng nhìn chung đều xem Từ Hải là một tên giặc làm

loạn. Đến đời Thanh, dưới ngọn bút của Thanh Tâm Tài Nhân, nhân vật Từ

Hải đã có sự thay đổi. Trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Từ Hải xuất

thân là một nhà nho xấu số, nhiều lần hỏng thi, thối chí bỏ đi buôn, gặp thời

phất to. Sau đó trở thành một đại vương "Có một hảo hán họ Từ tên Hải,

hiệu là Minh Sơn hòa thượng, người đất Việt đến chơi. Người này có lòng ưu

ái, phóng khoáng đại lượng, ôm chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa lông hồng,

xem người bằng vai như cỏ rác. Khí tiết hơn hẳn người cùng lứa, cao lớn

hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao, giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: “Trời

cho ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược

bằng hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời

phải làm sao cho được lỗi lạc, lập được những sự bất hủ trên đời, sao có thể

chết già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng ăn? Còn nếu có tài mà vô

mệnh, anh hùng không có đất dụng võ, không để lại được tiếng thơm cho

trăm đời thì phải tự mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao nơi ngòi đầm

chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục đến vạn năm. Nếu không được như thế thì bầu nhiệt

huyết trong người này làm thế nào sử dụng được?” Hồi nhỏ học hành nhưng

không thành đạt bèn bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao với bạn bè”.

Như vậy, nhân vật Từ Hải của Dư Hoài vẫn là " một tên giặc cỏ tầm thường chỉ

nhờ đàn bà mà lưu chút danh". Còn nhân vật Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân

tuy đã có sự thay đổi, Từ Hải đã biến ra vị anh hùng hào kiệt tài hoa, đương đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn51

với triều đình nhà Minh. Cốt cách là bậc trượng phu cái thế mà tâm hồn lại đa

46

tình như một thi nhân. Nhưng theo nhà phê bình văn học Hoài Thanh thì Từ

Hải vẫn chỉ là một bậc đại vương "dị nhân", "một nhân vật tiểu thuyết".

Đến đầu thế kỉ XIX, đại thi hào Nguyễn Du của Việt Nam đã xây dựng

hình tượng Từ Hải lên một bước mới, một vị anh hùng trong tưởng tượng, thể

hiện nguyện vọng thầm kín của mình.Vị anh hùng ấy có những đức tính đặc

biệt đó là lòng kiên hãnh, chí độc lập ngang tàng, có lòng trọng nghĩa khinh

tài và biết trân trọng tình cảm đối với người con gái mà mình cảm mến.

Nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du có đầy đủ biểu hiện của một nam nhi

anh hùng:

Râu hùm, hàm én, mày ngài

Vai năm thước rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đáng anh hào,

Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.

Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.

Nếu nhân vật Từ Hải của Dư Hoài và trong truyện của Thanh Tâm Tài

Nhân mới chỉ được nói sơ qua về tính cách thì nhân vật Từ Hải ngay từ khi

xuất hiện đã được Nguyễn Du miêu tả một cách cụ thể. Chỉ giới thiệu chân

dung Từ Hải bằng hai câu thơ mà con người Từ Hải đã hiện lên rõ mồn một.

Từ Hải đã gây được ấn tượng ngay lập tức bởi vẻ bề ngoài đầy nam tính.

Nguyễn Lộc khi nghiên cứu về nhân vật Từ Hải đã đưa ra nhận xét về nhân

vật này như sau:" Đó là một con người có bề ngoài phi thường..., có một bản

lĩnh phi thường..., có một phong độ phi thường...". Từ Hải có tướng của một

bậc anh hùng với "râu hùm, hàm én, mày ngài", với thân thể cường tráng "Vai

năm tấc rộng, thân mười thước cao". Vẻ bề ngoài đó không phải nhân vật

nam nào trong Truyện Kiều cũng có được. Nhân vật Kim Trọng cũng chỉ mới

chỉ dừng lại ở cách miêu tả qua loa vẻ bề ngoài:

Phong tư tài mạo tót vời,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn52

Vào trong trang nhã, ra ngoài hào hoa.

47

Nhân vật Mã Giám Sinh cũng chỉ được Nguyễn Du miêu tả sơ qua một

cách dung tục tầm thường:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.

Nhân vật Sở Khanh, kẻ bạc tình nổi tiếng ở chốn lầu xanh được

Nguyễn Du khoác vẽ lên một bức chân dung chải chuốt nhưng không mấy

thiện cảm:

Một chàng vừa chạc thanh xuân,

Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.

Nghĩ rẵng cũng mạch thư hương,

Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.

Nhân vật Thúc Sinh, Nguyễn Du mới chỉ dừng lại ở mức độ kể chứ

chưa gợi tả:

Khách du bỗng có một người,

Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.

Vốn người huyện Tích châu Thường,

Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri.

Nhân vật Hồ Tôn Hiến cũng chỉ được kể đến là một tên quan lại mưu

mô, có tài trong việc xếp đặt việc chính trị:

Có quan tổng đốc trọng thần,

Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài.

Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,

Tiện nghi, việc ngoài đổng nhung

Tựu chung lại, các nhân vật này chỉ được tả hoặc kể một cách sơ lược.

Các yếu tố nam tính chưa được bộc lộ ra qua dáng vẻ bề ngoài. Chỉ đến Từ

Hải, ngòi bút của nguyễn Du mới phát huy được hết sự sáng tạo của mình. Từ

Hải đã bộc lộ vẻ nam tính - anh hùng ngay từ những nét bút miêu tả chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn53

dung đầu tiên của Nguyễn Du. Chân dung của một anh hùng đúng theo quan

48

điểm của Nho giáo thường được giới thiệu là có những nét kì vĩ, phi thường.

Theo Niculln, nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam của Nga: "Vẽ lên hình

tượng của dũng sĩ Từ Hải, Nguyễn Du đã dựa vào truyền thống sử thi Việt

Nam được thể hiện rõ nét trong hình tượng những nhân vật thần thoại và lịch

sử trong cuốn Thiên Nam ngữ lục, những nhân vật này đã đấu tranh với "kẻ

thù phương Bắc"... Từ Hải có cái dáng dấp như một dũng sĩ oai phong của sử

thi "Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao".[36.647] Nhìn lại hình tượng văn

học của những thời kì trước đó, trong Việt điện u linh khi khi miêu tả về các

vị anh hùng đều có ngoại hình kì vĩ như vậy: Lí Ông Trọng " thân dài hai

trượng ba tấc, khí chất thẳng thắn dũng mãnh, khác với người thường". Lê

Phụng Hiểu " người cao lớn, tướng đẹp, râu tốt, có sức khoẻ phi thường".

Phải chăng Nguyễn Du cũng bị ảnh hưởng của cách xây dựng hình tương

nhân vật anh hùng như vậy? Cách miêu tả nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du có

lẽ cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết chương hồi

Trung Quốc. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung đã không tiếc

những lời khoa trương khi miêu tả chân dung của Trương Phi: “Thân cao 8

xích, đầu báo, mắt tròn, cằm yến, râu hổ, tiếng nói như sấm, thế đi như ngựa

phi”. Quan Vũ "mình cao chín thước, mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm,

râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt". Theo nghiên cứu về những nhân vật

anh hùng lí tưởng của PGS, TS Trần Nho Thìn thì: "đã là những bậc phi

thường thì không thể có chân dung thực, giống bọn phàm phu tục tử được".

Có lẽ vì thế mà các nhân vật này đã thu hút được ngay từ khi xuất hiện, đặc

biệt là cái nhìn đầy thiện cảm của nữ giới dành cho họ.

Từ Hải không chỉ ấn tượng bởi thân hình cao lớn vượt khuôn khổ, dung

mạo uy nghi đường bệ mà còn ấn tượng bởi tài năng phi thường. Tài năng

"côn quyền thao lược" của Từ Hải là dũng và trí như bất cứ nhân vật anh hùng

nào khác. Nhưng với tài thơ của Nguyễn Du, tính chất phi thường ấy được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn54

biểu hiện mạnh mẽ sinh động bằng những từ ngữ có khẩu khí mạnh mẽ:

49

đường đường, một đấng, hơn sức, gồm tài, đội trời, đạp đất, vẫy vùng... Và

như vậy, một chí khí, một phong cách sống ngang tàng ngoài vòng cương toả,

làm chủ sở nguyện cá nhân là một điều tất yếu.

2.2.2 Thái độ ứng xử với phụ nữ

Lần đầu gặp Kiều trong nhà chứa, Từ Hải đã phủ định quan điểm ăn

chơi của Thúc Sinh. Thúc Sinh đến nhà chứa chỉ để truy hoan, về sau gần gũi

chàng mới có ý định yêu và cưới Kiều về làm vợ lẽ. Theo nhà nghiên cứu văn

học Nguyễn Lộc: "cái chuyển biến có tính chất quyết định trong tình cảm của

Thúc Sinh bắt đầu không phải bằng câu chuyện tâm tình, mà bằng chuyện

Thúc Sinh chứng kiến tâm thân ngà ngọc của Thuý Kiều lúc đang tắm".

[26.508] Từ Hải không như vậy. Chàng tìm đến Kiều bởi vì nghe tiếng nàng,

vì muốn tìm một người bạn tri kỷ :

Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng

Hai bên cũng liếc, hai lòng cùng ưa.

Chỉ một câu nói nhưng cũng đủ thấy Từ Hải rất trân trọng Thuý Kiều,

một người con gái sống ở chốn lầu xanh. Đó là sự đồng cảm tâm hồn giữa

người anh hùng bạt thế và người phụ nữ "nửa đời nếm trải mọi mùi đắng

cay". Sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn, hai trái tim phảng phất màu sắc "tình yêu

sét đánh ban đầu". Nguyễn Du đã dùng cách diễn đạt gợi liên tưởng đến sự

say mê không kém phần lãng mạn của Từ Hải: "Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu

anh hùng", các từ ngữ "liếc, ưa" đã bộc lộ rõ rệt, công khai cái "cảm" của

tiếng sét ái tình, của hai con người đã phải lòng nhau. Cái cách mà Từ Hải

đến với Kiều hết sức lịch sự, hết sức đàn ông: "Thiếp danh đưa đến lầu

hồng". Thúc Sinh cũng đã từng làm làm thế:" Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, /

Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào" nhưng mục đích đến với Thuý Kiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn55

chỉ là để ghẹo hoa thưởng nguyệt mà thôi. Chúng tôi xin trở lại những trang

50

truyện của Dư Hoài và Thanh Tâm Tài Nhân viết về cuộc gặp gỡ giữa Từ Hải

và Thuý Kiều. Trong Ngu Sơ Tân Chí của Dư Hoài, Từ Hải gặp gỡ Thuý

Kiều trong thế của kẻ "gặp lúc quẫn bách lẻn trốn vào ở nhờ nhà Thúy Kiều".

Quả là hành động của một kẻ phàm phu tục tử không xứng bậc anh hùng. Còn

trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, hồi thứ mười bảy viết

về Thuý Kiều và Từ Hải từ gặp gỡ đến lúc yêu nhau, Từ Hải chuộc Thuý

Kiều, hai người có một khoảng thời gian ngọt ngào khoảng vài tháng bên

nhau rồi phải chia ly, tất cả vỏn vẹn vài dòng: " Từ Hải dữ Thuý Kiều sở kỷ

ngũ nguyệt, nãi biệt Thuý Kiều nhi khứ, Khứ tam niên, yểu vô âm tín"( Từ

Hải và Thuý Kiều sống với nhau năm tháng, rồi từ biệt ra đi. Đi ba năm

không có tin gì).[69]

Trong buổi đầu gặp gỡ, Từ Hải đã thể hiện là một con người có học, có

hiểu biết chứ không phải là một anh chàng "võ biền" thô lậu. Lời tỏ tình của

chàng thật tế nhị và đằm thắm biết bao:

Từ rằng: "Tâm phúc tương cờ,

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bấy lâu nghe tiếng má đào

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi các chậu chim lồng mà chơi!

Lời tỏ tình đó thể hiện một thái độ trân trọng, đánh giá cao con người Thuý

Kiều và đồng thời cũng là lời tự khẳng định giá trị của bản thân.

Chỉ với một vài câu thơ, Nguyễn Du đã khiến người anh hùng Từ Hải

đối lập hoàn toàn với quan niệm của đạo đức phong kiến. Táo bạo hơn,

Nguyễn Du đã để cho người anh hùng Từ Hải "tìm thấy ở cô gái giang hồ ( dù

đó là Thuý Kiều) một người tri kỉ, rất đỗi tri kỷ" [8.508]:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn56

Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người

51

Như vậy, Từ Hải là nam nhi, anh hùng nhưng chàng không khắc kỉ mà trái lại,

Từ Hải cũng lãng mạn, đi tìm hình bóng giai nhân. Gặp được người con gái

tâm đầu ý hợp của mình, chàng cũng tâm niệm một lòng một dạ thuỷ chung:

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau.

Tình yêu mà Từ Hải dành cho Thuý Kiều xiết bao chân thành, trong

trắng. Chàng trân trọng, bảo vệ người mình yêu, khác hẳn những kẻ thuộc giai

cấp bóc lột quen bỡn cợt đàn bà. Kết thúc cuộc gặp gỡ ấy, Từ Hải đã chuộc

Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh của Bạc Bà với một sự thanh toán sòng phẳng: "

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn". Quả là một hành động rất quân tử

bởi với sức mạnh của mình, Từ Hải có thể đưa Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh

một cách dễ dàng nhưng chàng đã không làm như vậy.

Hạnh phúc của Từ Hải, Thuý Kiều còn được khẳng qua cuộc sống ái

ân, chăn gối thoả lòng mong ước:

Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.

Những từ ngữ: "buồng riêng", "giường", "màn" chính là biểu tượng của

nơi diễn ra ân ái nhục thể nhưng đã được Nguyễn Du sử dụng hết sức tinh tế

không gây cảm giác thô tục. Các biểu tượng "giường", "chiếu chăn", "gối" là

để tả ân ái không phải chỉ được nhắc đến một lần trong Truyện Kiều. Trong

cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, Nguyễn Du đã từng vận dụng thủ pháp ẩn

dụ rất đắc địa khi nói về cảnh ân ái vợ chồng bị chia cắt:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường!

Vầng trăng ai xẻ ẩn dụ cho cuộc sống lứa đôi hạnh phúc bị chia loan rẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn57

phụng. Gối chiếc là ẩn dụ về sự cô đơn trong đời sống ân ái vợ chồng của

52

Kiều và Thúc Sinh. Trở lại quãng thời gian trước đó, tác phẩm Chinh phụ

ngâm của Đặng Trần Côn, khi nói về cuộc chia tay giữa người chinh phu và

người chinh phụ, tác giả cũng đã nhắc đến nỗi cô đơn trong đời sống chăn gối

vợ chồng:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

buồng cũ chiếu chăn là hình ảnh ẩn dụ ước lệ để chỉ cho tổ ấm trước đây của

hai vợ chồng. Tiễn chồng ra đi nơi chiến trường khốc liệt, người vợ trở về tổ

ấm cũ trong sự lẻ loi đơn chiếc. Như vậy, các biểu tượng ái ân được sử dụng

trong các tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và Chinh phụ ngâm khúc của

Đặng Trần Côn đã đánh dấu một bước tiến lớn của văn học trung đại.

Tình yêu của Từ Hải và Thuý Kiều là sự hoà quyện cả về thể xác lẫn

tâm hồn. Đây quả là một sự phá cách trong quan niệm về tình yêu của người

anh hùng mà xưa nay thường hiếm gặp trong văn chương cổ. Trong Ngu sơ

tân chí của Dư Hoài và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có

nhắc đến điều này nhưng phải đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, người anh

hùng mới thật sự được miêu tả dưới góc độ con người bản năng thân xác.

2.2.3 Hành động của người anh hùng Từ Hải

Từ Hải được Nguyễn Du nhiều lần gọi là anh hùng: "Tấm lòng nhi nữ

cũng xiêu anh hùng", "Một đời được mấy anh hùng", "Anh hùng đoán giữa

trần ai mới già", "Anh hùng mới biết anh hùng", "Anh hùng tiếng đã gọi

rằng". Nhân vật Thuý Kiều cũng đã công nhận: "Rằng: Từ là đấng anh

hùng". Ngày cả kẻ đối nghịch với Từ Hải, Hồ Tôn Hiến cũng từng nói: "Biết

Từ là đấng anh hùng". Trần Ngọc Vương cũng đã ra nhận định về nhân vật

Từ Hải như sau: "Ông ( Nguyễn Du) gọi Từ là "anh hùng", là "trượng phu, là

"chim bằng", là "Từ Công", đặt vào miệng Từ Hải ngôn ngữ của một người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn58

có tầm sống cao vượt hẳn người bình thường, tuy chưa là khẩu khí vương giả

53

nhưng chắc chắn là của một người anh hùng xuất chúng". [7.499] Như vậy,

Từ Hải, người anh hùng, là điều hiển nhiên.

Theo quan niệm của Nho giáo, hành động của người anh hùng là những

hành động siêu việt vượt lên trên đồng loại. Từ Hải yêu bằng lí trí nên không

có sức mạnh nào có thể giữ chân chàng được, kể cả tình yêu của Thuý Kiều:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm, yên ngựa lên đường thẳng giong.

Cuộc ra đi đột ngột không báo trước, tư thế ra đi dứt khoát của kẻ

trượng phu rất hợp với bản tính của Từ Hải, đáng nam nhi đầy bản lĩnh. Bởi

đúng như Hoài Thanh nói: " Con người này quả không phải là con người của

một nhà, một họ, một xóm, hay một làng. Con người này là của đất trời, của

bốn phương"[42]. Yêu Thuý Kiều, tìm thấy người tri kỷ nhưng không vì thế

mà người anh hùng từ bỏ khát vọng của mình, quên hết bổn phận làm trai.

Chàng tin vào sự nghiệp mà mình đã chọn. Sự nghiệp ấy sẽ có ngày chàng

nắm chắc trong tay. Hình ảnh của "mười vạn tinh binh" với cờ xí, chiêng khua

trong ngày chiến thắng trở về là những khao khát mà Từ Hải hướng tới:

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.

Đó chính là khát vọng lớn lao, mang tầm vóc vũ trụ, muốn làm nên cơ

đồ bá vương, từ đó thấy được bản lĩnh, tài năng xuất chúng của Từ Hải. Từ

Hải cũng tin vào sự thành công tất yếu của mình chỉ còn là vấn đề thời gian:

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau, vội gì!

Bên cạnh người đàn ông đầy bản lĩnh nam nhi, Từ Hải cũng là một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn59

người có trái tim nhân hậu, biết đồng cảm thấu hiểu nỗi lòng của người phụ

54

nữ mình yêu. Lời dặn dò, hứa hẹn dứt khoát, chắc nịch của chàng cũng đã

phần nào đánh trúng tâm lí của người ở lại:

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Từ Hải cũng hiểu khi sự nghiệp chưa thành, chàng sợ Kiều sẽ phải vất

vả, thân gái dặm trường, nạn binh đao khói lửa nơi chiến trường sẽ khiến

chàng thêm bận lòng:

Bằng không bốn bể là nhà,

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

Đằng sau lời lẽ mang tính chất thuyết phục ấy là cả một sự quan tâm, lo

lắng của Từ Hải dành cho Thuý Kiều. Chính những lời lẽ thân tình, sự thấu

hiểu ấy đã khiến cho nhân vật Từ Hải không chỉ có sự phi thường của người

anh hùng mà còn là một con người rất đỗi bình thường. Nguyễn Du thành

công khi kể, tả về cuộc ra đi của Từ Hải, điều mà trước đó, ta không tìm thấy

được ở nhân vật Từ Hải của Dư Hoài và Thanh Tâm Tài Nhân.

Từ Hải cũng là một con người biết trọng lời hứa. Điều này trong Kim

Vân Kiều Truyện cũng có nhắc đến. Sau khi chiếm được năm toà cõi Nam

(trong Kim Vân Kiều Truyện nói là Từ Hải chiếm được năm huyện), Từ Hải

đã cho rước Kiều về làm vợ. Nghe và thấu hiểu được nỗi oan khuất của Kiều,

Từ Hải đã giúp Kiều báo ân, báo oán. Cách mà Từ Hải trong Truyện Kiều của

Nguyễn Du chia sẻ nỗi đau với Thuý Kiều cũng rất đỗi phi thường:

Từ công nghe nói thuỷ chung,

Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.

Cái giận của Từ Hải được Hoài Thanh đưa ra lời nhận xét:"Từ Hải

không thể trong lúc giận ném một cái chén, một cái bát, hay đập bàn, đập ghế

như bọn tầm thường là chúng ta. Từ Hải mà giận hẳn là phải kinh khủng như

trời đương lặng lẽ bỗng nổi giông tố sấm sét". Quả là một con người yêu ghét

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn60

phân minh, ơn thù rõ rệt. Cũng là một câu nói giúp Thuý Kiều trả nợ ân, oán

55

nhưng nhân vật Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân đã không thể hiện được cơn

giận dữ rất đàn ông đó. Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân khi nghe Kiều nhắc

lại chuyện oan khuất ngày trước thì nói: "Có khó gì việc ấy. Để ta điểm năm

ngàn quân quét sạch đất Truy Lâm trả thù cho phu nhân". Về điểm này, ta lại

nhận thấy một lần nữa tài năng sáng tạo của Nguyễn Du. Từ Hải - người nam

nhi, anh hùng xưng bá phương Nam, chẳng những đưa tay kéo Thuý Kiều ra

khỏi chốn lầu xanh ô nhục mà còn rửa sạch làu nỗi sỉ nhục mà nàng phải chịu

đựng suốt mười năm qua. Bởi theo quan niệm của chàng người anh hùng chỉ là:

Anh hùng tiếng đã gọi rằng:

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.

Huống chi việc cũng việc nhà,

Lọ là thâm tạ mới là tri ân.

Cuộc sống của con người anh hùng ấy những tưởng sẽ êm đềm mãi mãi

bởi sự nghiệp đã hoàn thành. Từ Hải là anh hùng nhưng với triều đình phong

kiến chính thống, Từ là kẻ phiến loạn, là giặc mang tội bất trung. Tội ấy đáng

chém đầu nhưng với một vương triều mạnh, với một con nguời tài giỏi như

Từ, đánh đổ đâu dễ dàng. Chúng nghĩ ngay kế mua chuộc và dụ hàng. Nhà

vua cử tên tổng đốc trọng thần “mặt sắt đen sì” Hồ Tôn Hiến làm nhiệm vụ

này. Hồ Tôn Hiến nghĩ ngay ra diệu kế. Bấy giờ, nàng Kiều sau bao năm lưu

lạc đã thành vợ của Từ Hải. Hồ Tôn Hiến dùng vàng bạc mua chuộc Kiều

mong nàng tìm cách thuyết phục Từ Hải quy hàng triều đình. Cả tin lại chán

ghét cảnh bèo dạt mây trôi, Kiều đành nhận lời. Bởi nghe lời Kiều, Từ Hải đã

quy hàng. Những tưởng triều đình sẽ ban thưởng chức tước như đã hứa,

nhưng tráo trở thay nhân cơ hội này, Hồ Tôn Hiến đã giết Từ Hải. Người anh

hùng đã chết, chết trong sự oan ức. Từ chết đứng “trơ như đá, vững như đồng,

ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời”. Ở Ngu sơ tân chí của Dư Hoài Từ

Hải khi bị mắc mưu Hồ Tôn Hiến thì hốt hoảng đâm đầu xuống sông tự vẫn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn61

Quan quân vớt lên chém lấy đầu. Còn nhân vật Từ Hải trong Kim Vân Kiều

56

Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ra đầu hàng và khi nhận ra mình bị mắc

mưu chàng cũng có khí phách của một bậc anh hùng tả xung hữu đột không

chịu khuất phục. Chết mà cứ đứng trơ. Chi tiết đó được Nguyễn Du khắc hoạ

chỉ trong một vài câu lục bát:

Tử sinh liều giữa trận tiền,

Dạn dày cho biết gan liền tướng quân.

Khí thiêng khi đã về thần,

Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.

Trơ như đá vững như đồng,

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời.

Có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh chuyện Từ Hải chết đứng.

Một số nhà nho chính thống phê phán Từ Hải chỉ vì nghe theo lời Kiều, mê

Kiều, quá tin Kiều mà bị phản phúc và chết một cách oan uổng: "Bốn bể anh

hùng còn dại gái".Điều này chưa hẳn đã đúng bởi Từ Hải là một tay giang hồ

cự phách, tung hoành trong bể Sở sông Ngô, chọc trời khuấy nước, "đánh

quen trăm trận sức dư muôn người", nghênh ngang biên thùy một cõi. Chí của

chàng cao cả như chim hồng hộc bay vút tận trời xanh, như cá kình nghê vẫy

vùng nơi bể rộng. Chàng là con người "phong trần mài một lưỡi gươm",

chẳng bao giờ bó thân về với triều đình làm kẻ hàng thần lơ láo để vào luồn ra

cúi như những loài giá áo túi cơm. Một con người đã từng bách chiến bách

thắng, đã tự cho là "sức nầy đã dễ làm gì được nhau", luôn luôn sẵn sàng

đương đầu với kẻ thù, lẽ dĩ nhiên là rất quý chuộng sự tự do độc lập của mình.

Vì thế, lúc nghe Hồ Tôn Hiến chiêu hàng, Từ Hải đã do dự, cái do dự gần như

ngạc nhiên. "Về với triều đình" , thật chưa bao giờ chàng có ý nghĩ như vậy !

Năm năm gầy dựng với biết bao chiến công anh dũng cho đến hôm nay "triều

đình riêng một góc trời, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà" với "trong tay mười

vạn tinh binh", thế thì tại sao chàng lại làm kẻ phục tùng đã chứ ? Lí giải điều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn62

này dưới góc độ văn hoá giới, chúng ta sẽ thấy Từ Hải đã làm một việc rất

57

phải theo tính cương trực ngay thẳng của mình và hợp với sự thuần túy của

tâm hồn con người. Từ Hải hiểu được tâm trạng của Kiều rất nhớ nhà, rất nhớ

cha mẹ và hai em…Trước chàng đã nói “ Làm sao sum họp một nhà / Để

người thấy mặt là ta cam lòng”. Vậy Từ Hải ra hàng thì Kiều mới có cơ hội

trở về Bắc Kinh để một nhà sum họp. Thiết nghĩ, Từ Hải đã đến với Kiều

không phải bằng thứ tình yêu sét đánh hay tình yêu lý trí mà là bằng một thứ

tình yêu đặc biệt: tình yêu vị tha. Từ đã đặt hạnh phúc của Kiều lên trên hạnh

phúc của mình và sẵn sàng hi sinh tất cả vì người mình yêu, một tình yêu đích

thực. Xét cho cùng, công danh sự nghiệp là cái mà người nam nhi, anh hùng

muốn đạt tới nhưng tình yêu, hạnh phúc cũng là cái bản năng không thể thiếu

đối với người đàn ông. Từ Hải có lí trí sáng suốt để nhìn thấu mọi việc nhưng

cũng như bao người đàn ông khác, chàng cũng là người trọng tình cảm, có

những đam mê tình ái, khao khát cuộc sống lứa đôi và khi đã tìm được cho

mình một hồng nhan tri kỷ thì chàng cũng không mong muốn gì hơn là làm

cho người mình yêu được hạnh phúc. Vả lại, trong tình yêu chân thành làm gì

có sự tính toán thiệt hơn!

Hơn ai hết khi quyết định số phận cho nhân vật của mình chắc hẳn

Nguyễn Du cũng hiểu rằng trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ Từ Hải chỉ là âm

vang, một ánh hoà quang, một niềm mơ ước. Cái triều đình mà Từ Hải gây

dựng lên làm thế nào để có thể duy trì được đó là câu hỏi mà nhà văn cũng

như thời đại ông không thể giải đáp được. Nguyễn Phục Đôn, một nhà phê

bình văn học đầu thế kỷ XX, đã có lí khi nói Từ Hải chẳng có gì đáng kể,

ngoài việc lo đền ân báo đáp giúp Kiều và lo thực hiện tâm nguyện của Kiều

trở về cố hương thăm lại gia đình, người thân. "Sự đầu hàng và cái chết của

Từ Hải có thể xem như là một tất yếu của lịch sử".[49.653]

2.2.4 Những lời bình về nhân vật Từ Hải

Theo quan niệm truyền thống phương Đông, người anh hùng được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn63

diễn tả trong văn học phải là những người sống có hoài bão, "sống vì những

58

sứ mệnh xã hội lớn lao, vung thanh gươm dẹp ác trừ gian, đổi trị thành loạn,

thiết lập công lí ở đời"[49.428]. "Cũng vì một nhân cách lí tưởng, thi ca cổ

thường hay diễn tả tâm đạo lí, lo đời lo nước mà gạt bỏ tất cả các trạng thái

tâm lí có tính tự nhiên, do cuộc sống tự nhiên, cá nhân khơi gợi nên"[49.35].

Chính vì thế, họ thường có thái độ nghiêm khắc, lạnh lùng trước sắc đẹp của

người phụ nữ. Bởi "văn học trung đại chủ trương dùng quan hệ tình dục để hạ

bệ, giải thiêng một nhân vật và gạt bỏ đời sống tình dục để ngợi ca một nhân

vật khác" [49.428]. Điều này văn học đã chứng minh qua tác phẩm Tam tổ

thực lục đời Trần. Câu chuyện Giăng lưới bắt chim ca ngợi sư Huyền Quang

không bị cám dỗ bởi sắc đẹp của nàng Điểm Bích là một mình chứng hùng

hồn cho lí tưởng diệt dục của Phật giáo. Trái lại, người anh hùng Tây Sơn

Nguyễn Huệ lại bị Trần Danh Án, là tôi trung của nhà Lê, kiên quyết bất hợp

tác với triều Tây Sơn, thủy chung coi Tây Sơn là giặc mọi, đã viết bài thơ Tây

Sơn hành trong cuốn Tản Ông di cảo (散翁遺稿 mang ký hiệu A.2157) nói

về cảnh ân ái giữa Quang Trung- Nguyễn Huệ và Ngọc Hân công chúa với lời

lẽ thô tục nhằm hạ bệ hình ảnh đẹp đẽ của người anh hùng cái thế này. Hình

ảnh Nguyễn Huệ được tả trong Tây Sơn hành mang dáng dấp của một kẻ kém

văn hoá hơn là của một anh hùng:

Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ

Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm

Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác

Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín

Ngay cả trong cảnh ái ân, nhân vật Nguyễn Huệ cũng được miêu tả ở

sự thô lỗ khó có thể chấp nhận được:

Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn

Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ

Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn64

Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết

59

Có thể nói từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn

xằng bậy. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào

viết về người nam giới đặng so sánh được. Dưới ngòi bút của Trần Danh Án

người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ đã bị hạ bệ một cách không

thương tiếc chẳng khác gì một con quỷ dâm ô, háo sắc.

Nguyễn Du xây dựng nhân vật Từ Hải không trên lập trường quan điểm

như vậy. Nhân vật Từ Hải mang hình dáng, cốt cách của một anh hùng hào

hiệp mà cũng rất phong lưu:" Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo". Nhà

nghiên cứu văn học Đào Duy Anh trong Khảo luận về "Kim Vân Kiều" đã nói

về nhân vật này như sau: "Từ Hải dẫu là có chí khí anh hùng, mà không phải

là người tự nhiệm cái thiên chức lớn lao như anh hùng cứu quốc (Lê Lợi, Câu

Tiễn). Từ Hải chỉ làm anh hùng để cho phỉ cái chí ngang tàng, bẩm phú, cho

nên không ép thân trong cảnh khắc khổ "nằm gai nếm mật", mà trái lại, trong

bước phiêu lưu lại không quên cái thú phong lưu. Cho nên cùng với thanh

gươm là vật tuỳ thân của người võ sĩ, Từ Hải thường kèm theo cái đàn, mà

nhờ cái đàn ấy ta mới không lấy làm lạ khi ta thấy Từ Hải gặp Thuý Kiều ở

chốn thanh lâu". [2] Từ Hải có biểu hiện của tình yêu nam nữ, biết trân trọng

cuộc sống lứa đôi. Bên cạnh một Từ Hải đầy uy lực, dũng mãnh lại là một con

người rất tự nhiên, phàm trần với mọi cung bậc sắc thái tình cảm.

Như vậy, Nguyễn Du là người đánh dấu sự toàn diện của con người

dựa trên chủ nghĩa nhân bản - đánh giá con người trên khía cạnh toàn diện,

chứ không dựa trên chủ nghĩa dân bản như các nhà nho vẫn làm. Nếu như ở

văn học nhà nho truyền thống, nhân vật trong văn học thường là những con

người "sát thân thành nhân", "xả sinh thủ nghĩa", hoặc "nội thánh ngoại

vương", "tu kỉ trị nhân"...Khi muốn ca ngợi một ai đó, nhà nho thường nhấn

mạnh trên phương diện sức khoẻ, những hành động phi thường, những tấm

gương về đạo đức. Người phụ nữ không có chỗ đứng trong lòng những bậc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn65

hiền nhân quân tử, chỉ khi muốn hạ bệ một ai đó người ta mới nhấn mạnh

60

quan hệ nam nữ với bộc lộ thái độ phê phán, kì thị. Nguyễn Du đã làm được

điều mà các nhà nho trước chưa dám vượt qua. Ông đã vượt qua chủ nghĩa

dân bản và nêu những vấn đề nhân bản một cách sâu sắc. Con người không

chỉ là những thần dân, chỉ là những khuôn mẫu máy móc mà xã hội Nho giáo

xây dựng lên. Con người của Nguyễn Du không chỉ cần quan tâm về mặt vật

chất mà con người còn cần được quan tâm về mặt thân xác. Do đó, con người

có quyền sống về mặt thân xác, có quyền được yêu thương, khát vong, ước

ao, vui buồn, đau khổ hay hạnh phúc, có quyền sống riêng về tư tưởng.

Nguyễn Du đã làm được điều này không chỉ với Từ Hải mà ở cả các nhân vật

nam khác trong truyện.

Trong Truyện Kiều, các nhân vật nam chính diện, đều không thiếu màu

sắc thân xác, nhục dục. Kim Trọng, một sĩ nho thông hiểu sách thánh hiền,

một con người hào hoa phong nhã nhưng cũng đầy dục vọng, si mê. Nguyễn

Du đã tả những giây phút Kim Trọng ngồi bên Kiều và những rung động

mang tính chất nhục thể rất hiển nhiên của chàng:

Hoa hương càng tỏ thức hồng,

Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.

Sóng tình dường đã xiêu xiêu,

Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.

Những từ "đầu mày cuối mắt", "sóng tình", "vội chi liễu ép hoa nài" ghi

nhận sự bùng phát yếu tố bản năng ở Kim Trọng.

Thúc Sinh, một nhân vật nam trung gian đến với Kiều trước hết là vì

đam mê thân xác khi Nguyễn Du có ý để Thúc Sinh chứng kiến cảnh Kiều tắm:

Buồng the phải buổi thong dong,

Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn66

Dầy dầy đúc sẵn một toà thiên nhiên.

61

Điều cần nhấn mạnh chính là thái độ của Nguyễn Du dành cho Thúc

Sinh. Tác giả không hề tỏ ý coi thường Thúc Sinh. Có lẽ trong Truyện Kiều

không có cuộc li biệt nào lại được Nguyễn Du tả thấm thía như cuộc chia li

của Thúc Sinh và Kiều:

Người lên ngựa kẻ chia bào,

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Dặm hồng bụi cuốn chinh an,

Người đi xa khuất mấy ngàn dâu xanh.

Người về chiếc bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mhìn xa xôi.

Vừng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường!

Một hệ thống từ ngữ giàu sắc thái trữ tình, phong cách đối ngẫu trong

thơ ca cổ điển, một bức tranh thời gian và không gian để biểu đạt tâm trạng,

để diễn tả cảnh tình li biệt... Nỗi niềm lưu luyến, tâm trạng cô đơn... trước

cuộc biệt li. Một bức tranh thiên nhiên vừa đẹp, vừa buồn, vừa nhẹ nhàng thấp

thoáng, vừa thấm thía một cảm giác cô đơn bất lực... Hai con người nhỏ bé

trước thiên nhiên và dường như bất lực trước số phận... Một cuộc biệt li bịn

rịn như thế không thể có được ở những con người không có tình cảm với

nhau. Đến lượt mình, nếu Nguyễn Du không có cái nhìn mới, vượt qua cái

nhìn của nhà nho truyền thống về thân xác thì nhà thơ không thể nhìn Thúc

Sinh như thế.

Có thể nói, cách xây dựng nhân vật chính diện, phản diện của Nguyễn

Du trong Truyện Kiều không đối lập một cách gay gắt như trong truyện Lục

Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Trong truyện Lục Vân Tiên, các nhân vật

như Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực là những nhân vật mang phẩm chất

anh hùng thường có cái nhìn khắc kỉ đối với sắc đẹp của người phụ nữ còn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn67

những nhân vật phản diện như Bùi Kiệm, Trịnh Hâm luôn là những kẻ háo

62

sắc, tiểu nhân, ti tiện. Nguyễn Du cũng không cứng nhắc trong cách xây dựng

hai kiểu nhân vật chính diện, phản diện. Nhân vật Mã Giám Sinh là kẻ buôn

bán nhưng trước sắc đẹp của Kiều, Mã Giám Sinh không thể không rung

động. Nguyễn Du nhìn thấy sự mâu thuẫn trong lựa chọn của y, một bên

muốn giữ trinh tiết Kiều để bán lấy hoà vốn, một bên lại muốn hưởng thụ sắc

đẹp ấy:

Mừng thầm: Cờ đã đến tay,

Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng

...Miếng ngon kề đến tận nơi,

Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.

Đào tiên đã bén tay phàm,

Thì vin cành quýt cho cam sự đời.

... Vả đây đường xá xa xôi,

Mà ta bất động nữa người sinh nghi.

Quả là một sự tính toán chi li của một kẻ con buôn nhưng thái độ của

tác giả khi nói về nhân vật này cũng không hề tỏ ý khinh miệt. Bởi một người

đàn ông thấy con gái đẹp, hơn nữa lại đang ở trong tay mình mà không rung

động, không muốn sở hữu thì quả là một sự khác thường. Ngay cả với Hồ Tôn

Hiến, loại người sinh ra không phải để rung động trước tài hoa và nhan sắc

nhưng khi nghe Kiều đánh đàn, Nguyễn Du đã dùng từ "cũng" để biểu lộ sự

ngạc nhiên của mình:

Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.

Hình ảnh của Hồ Tôn Hiến nghe đàn cũng khác hẳn những người khác.

Ta có cảm tưởng như khó khăn lắm, tài đàn tuyệt diệu kia mới "lọt" nổi vào

tai vị Tổng đốc trọng thần. Hình ảnh hắn ở đây không thể so sánh với thái độ

rung động đồng cảm của Kim Trọng đối với tiếng đàn của Thuý Kiều, không

thể so sánh với nụ cười sảng khoái của Từ Hải khi gặp người tri kỉ, mà cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn68

chẳng được như sự đắm đuối của Thúc Sinh khi "Trướng tô giáp mặt hoa

63

đào". Vậy mà, Nguyễn Du phác hoạ rất thành công một "gương mặt sắt" đẫn đờ

của " quan Tổng đốc trọng thần"cũng đang "ngây" ra vì sắc đẹp của nàng Kiều.

Nguyễn Du đã thoát khỏi nhị nguyên luận truyền thống để xây dựng

những nhân vật có khả năng kết hợp các phẩm chất đối lập. Dù là nhân vật

thư sinh hào hoa, phong nhã hay người anh hùng nghĩa hiệp thì ở họ đều có

những khao khát ham muốn trần thế, bản năng. Như vậy,Nguyễn Du đã có

một thay đổi đáng kể đối với vấn đề con người lí tưởng. Chỉ có Nguyễn Du,

các nhân vật mới thoát khỏi mẫu hình con người lí tưởng và trở về với cuộc

đời thường ngày với tất cả những yếu tố phàm trần, đời thường của chúng.

Đặt nhân vật Từ Hải và các nhân vật vào trong thời đại mà Nguyễn Du sống,

thời đại mà những giáo lí của Nho gia ăn sâu vào mọi ngõ nghách tâm hồn

con người thì đâu có dễ gì thay đổi được được bản chất của nó. Nguyễn Du

cũng là một nhà nho, hơn nữa lại là một mệnh quan triều đình nhưng ông đã

làm trái với những điều mà người nho sĩ của cửa Khổng sân Trình được học.

Ông đã xây dựng nhân vật người anh hùng của mình trên tổng hoà các mối

quan hệ vật chất và tư tưởng, bản năng và văn hoá, đạo và tự nhiên. Và như

vậy, Nguyễn Du đã đi trước thời đại một bước đáng kể. Ông chính là một

trường hợp ngoại lệ. Phải chăng cũng vì điều đó mà Truyện Kiều và các nhân

vật trong Truyện Kiều sống mãi với thời gian?

Nếu đem so sánh nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều với các nhân vật

nam trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ thì đây quả là một sự bứt phá

đáng kể. Nam nhân trong Truyền kỳ mạn lục được tả rất bạo, nhưng thiên về

con người trần tục mà không có nét anh hùng, trượng phu nên không so sánh

với Từ Hải được, tuy vậy, thái độ của Nguyễn Du rất khác với Nguyễn Dữ.

Nguyễn Du đồng tình, ca ngợi, còn Nguyễn Dữ có lời bình mang tính phê

phán các nhân vật nam, ngược lại với việc ông miêu tả, khiến cho người đọc

có thể hiểu là các nhân vật nam này là nhân vật phản diện, là sản phẩm của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn69

giai đoạn Nho giáo khủng hoảng.

64

2.3 Tiểu kết

Qua phân tích nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều, chúng ta có thể thấy

không phải nhân vật người đàn ông lí tưởng nào trong nền văn học trung đại

cũng phải là những con người thực thi theo quan điểm giáo lí Nho gia. Người

đàn ông nam tính phải là những người có đầy đủ mọi tố chất của một con

người vừa phi thường nhưng cũng rất bình thường Họ có quyền được sống

theo đúng bản năng của mình, được làm những điều mà mình muốn và được

sống hết mình với tình yêu. Từ Hải đã đã làm được điều đó. Đây cũng chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn70

là điều đáng trân trọng ở con người đại thi hào Nguyễn Du.

65

Chương 3

NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN TRONG TRUYỆN

LỤC VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Chương III, chúng tôi trình bày đôi nét về thân thế, thời đại của Nguyễn

Đình Chiểu, văn hóa và tư tưởng ở Nam Bộ, vùng đất mới và lịch sử phục hồi

Nho giáo của triều Nguyễn để thấy Lục Vân Tiên cũng là sản phẩm của văn

hóa Nam Bộ, trên vùng đất mới này, Nho giáo vẫn có những tác dụng, vai trò

nhất định. Từ đó, chúng tôi đi sâu phân tích và lý giải hình tượng nhân vật Lục

Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên từ góc nhìn giới bằng việc tìm hiểu cách

ứng xử hành động, quan niệm trong tình yêu, cách miêu tả, cách đánh giá của

người trần thuật về các nhân vật chính diện - phản diện, của tác giả lời bình về họ.

3.1 Thân thế và thời đại Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (chữ Hán: 阮廷沼; 1822-1888), tục gọi là Đồ

Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị

mù). Ông sinh ra tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình

Dương, tỉnh Gia Định . Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong gia đình nhà nho.

Thuở nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo

học với một ông thầy đồ ở làng. Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm

sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi, vì bất mãn đã làm cuộc nổi dậy

chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm cả Nam Kỳ. Trong cơn binh

biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế, nên bị cách hết chức tước.

Song vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người

bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống

ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840), thì trở về Gia Định. Năm Quý

Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy, có một

nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn71

thi năm Kỷ Dậu (1849). Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (10 tháng

66

12 năm 1848), mẹ Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi,

dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ. Trên đường trở về, vì quá

thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường, nên đến Quảng Nam thì

Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở nhà một

thầy thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết, nhưng ông cũng đã học

được nghề thuốc. Lâm cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn

Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường dạy học

Nguyễn Đình Chiểu sinh ra và trưởng thành ở thế kỷ XIX. Đây là thời

và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định).

kì có nhiều biến động về chính trị, về văn hoá xã hội. Đầu thời Nguyễn, Nho

giáo được đề cao hơn trước. Các vua đầu triều Nguyễn nhận thức được vai trò

quan trong của Nho giáo trong việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền

chuyên chế nên đã lấy Nho giáo làm quốc giáo. Sau 1832, những nỗ lực về

chính trị của Minh Mạng đã ít nhiều đưa Nho giáo quan phương ở Việt Nam

trở vào khuôn khổ Nho giáo chính thống, nhưng lúc bấy giờ thì hệ thống học

thuật - lý luận Nho giáo đã không còn khả năng phản ảnh chính xác và toàn

diện các quá trình xã hội trong đất nước nữa. Hệ thống Nho giáo quan phương

vừa lạc hậu về học thuật - lý luận vừa cực đoan về chuẩn mực xã hội của triều

Nguyễn đã dẫn tới sự bế tắc của ý thức hệ chính thống. Trong khi đó, mặc dù

không thể vươn tới chỗ trở thành một học phái thống nhất trên toàn quốc, hệ

thống Nho giáo nhân dân hóa vẫn tiếp tục phát triển một cách tự phát với

nhiều biến thái địa phương. Cục diện Nho giáo ở Đàng Trong và Đàng Ngoài

đã có sự thay đổi. Mô hình “quân bất quân thần bất thần” của Nho giáo ở

Đàng Ngoài luôn tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ cung đình. Phương thức phát triển

hội tụ của văn hóa Việt Nam ở Đàng Trong đã đưa tới cho Nho giáo ở vùng

này một nguồn sinh lực mới, mà biểu hiện tập trung là quá trình nhân dân hóa

qua thực tiễn xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, tổ chức xã hội và bảo vệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn72

biên cương. Chính yếu tố “vô thần” trong thiết chế Nho Thích hỗn dung của

67

Nho giáo ở Đàng Trong đã giúp chính quyền và nhân dân Việt Nam ở vùng

này nhất hóa chứ không đồng hóa nhiều nhóm cư dân có nguồn gốc văn hóa

và lịch sử, phong tục và tín ngưỡng khác nhau thành một cộng đồng. "Sống

giữa tình thương yêu và niềm kính trọng của nhân dân thái ấp, Nguyễn Đình

Chiểu đã làm được việc là dung hoà hệ tư tưởng Nho giáo với đời sống tinh

thần của nhân dân lao động, đặc biệt là nhân dân lao động miền

Nam"[45.273]. Tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu về cơ bản là tư tưởng của một

nhà Nho chính thống. Tư tưởng này đã để lại dấu ấn trong Lục Vân Tiên và thể

hiện khá rõ nét qua các nhân vật chính diện của tác phẩm này.

Một đặc điểm đáng lưu ý có ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của

Nguyễn Đình Chiểu mà theo tác giả Nguyễn Thế đó là nghệ thuật tuồng,

phương tiện truyền bá tư tưởng Nho giáo thời phong kiến. Thời vua Tự Đức,

nhiều chính sách để phát triển đất nước được đưa vào, trong đó có cả việc

phát triển văn hóa. Bộ môn nghệ thuật tuồng được đặc biệt quan tâm. Kịch

bản tuồng, dù được sáng tác trong cung đình hay ở ngoài dân gian; tất cả đều

lấy chủ đề "quân, quốc" làm tư tưởng chủ đạo. Trung quân, ái quốc là hai yếu

tố luân lý được Nho giáo đề cao. Bởi vào cái buổi xế chiều của chế độ phong

kiến, khi mà các ngai vàng, có nguy cơ lung lay, nguy cơ bị thoán đoạt thì chữ

trung càng phải được chú trọng hơn. Vì vậy, những nhân vật chính trong

tuồng thường là những anh hùng có tư tưởng trung quân phò vua giúp nước.

Tuồng đề cao đạo đức luân lý của con người thông qua mối quan hệ giữa vua

tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn... nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục

mọi tầng lớp trong xã hội luôn tuân thủ luật pháp, hết lòng thực hiện chức phận

ái quốc trung quân của kẻ bề tôi và dân chúng. Việc sử dụng nghệ thuật tuồng

làm phương tiện chuyển tải tư tưởng Nho giáo đến tận dân chúng là một việc

làm có ý nghĩa. Bởi vì tuồng là bộ môn nghệ thuật được quần chúng bấy giờ

yêu thích. Khi xem tuồng, dù sân khấu chỉ là một góc sân đình hay bãi chợ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn73

nhưng với mặt nạ, phục trang cùng nghệ thuật diễn xuất ước lệ, khán giả cho

68

dù là người dân bình thường cũng có thể phân biệt được nhân vật nào là

chính, tà; trung, nịnh; vị vua nào là đấng minh quân, ai là kẻ gian thần bán

nước, hãm hại bậc trung lương, soán đoạt ngôi vua... Kết thúc của các vở tuồng

bao giờ cũng nêu cao chính nghĩa ái quốc trung quân, trừ gian diệt nịnh... mang

lại cho đất nước yên vui, muôn dân được hưởng phúc thái bình thịnh trị. Cho dù

đó chỉ là ước mơ, song cũng làm thỏa lòng khán giả xem tuồng. Sống trong một

không gian văn hoá như vậy, tác phẩm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu ít nhiều đã

ảnh hưởng bởi bộ môn nghệ thuật này .

3.2 Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu

3.2.1 Lí tưởng nhân nghĩa của người anh hùng Lục Vân Tiên

Trong văn học trung đại, các nhân vật nam lí tưởng đều là những con

người hiền nhân, quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, muốn hành đạo, giúp vua

cứu đời và cứu dân. Tư tưởng nhân nghĩa được người nam nhi, quân tử đặt

lên hàng đầu. Nhân là sự tương thân, tương ái, sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau

giữa người với người. Nghĩa là cái phải làm của con người, là hành động hợp

với lẽ phải, hợp với đạo lý, theo đúng các chuẩn mực trong nghệ thuật “Đối

nhân, xử thế”. Tóm lại, nhân nghĩa là là lòng thương người, là đạo lý, lời lẽ

cần thực hiện trong quan hệ giữa người với người.

Nguyễn Ðình Chiểu là một nhà nho sống dưới thời nhà Nguyễn là thời

kỳ nho giáo được đề cao. Các vua đầu triều Nguyễn đều nhận thức được vai

trò quan trọng của Nho giáo trong việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền

chuyên chế nên đã lấy Nho giáo làm quốc giáo. Nhà nước chủ trương truyền

bá, công bố rộng rãi, huấn dịch tập điều, nêu cao trung hiếu, lễ nghĩa theo

quan niệm Nho giáo. Nhưng “giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam

trên đường suy vong đã đến độ cực kì mục nát. Cả những nhà nho vốn hăm

hở bảo vệ nó như Nguyễn Công Trứ cũng đã buông xuôi, chỉ có một lối thoát

là “ Kiếp sau xin chớ làm người”. Giữa lúc ấy một tiếng nói của nhà nho cất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn74

lên mà sao đầy lạc quan tin tưởng. Và cũng không chỉ là một tiếng nói.

69

Nguyễn Đình Chiểu đã ném ra giữa cuộc đời cả một loạt nhân vật: Nguyệt

Nga, Vân Tiên, Tiểu đồng, Hớn Minh, Tử Trực...có thể nói là một đội quân

bừng bừng khí thế kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” [

lời tựa cuốn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958]

Nhân vật Lục Vân Tiên ra đời cũng vì lí tưởng cao đẹp đó. Tác giả đã

khắc họa lên hình tượng một Lục Vân Tiên luôn mang trong mình một đạo

đức cao đẹp thấm nhuần chữ nhân. Nhân vật Lục Vân Tiên được sinh ra trong

một gia đình thường dân ở quận Đông Thành. Sự ra đời của Lục vân Tiên là

kết quả của quá trình tu nhân , tích đức:

Có người ở quận Đông Thành,

Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.

Đặt tên là Lục Vân Tiên,

Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành.

Chàng là người học rộng, tài cao, văn võ kiêm toàn lại luôn sẵn sàng ra

tay cứu giúp người khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống núi, định về

kinh ứng thi, trên đường đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ chạy,

chàng liến hỏi chuyện mới hay có một bọn cướp dữ vừa phá làng xóm và bắt

đi hai cô gái. Lục Vân Tiên không chịu nổi cản bất bình, nổi giận:

Vân Tiên nổi giận lôi đình,

Hỏi thăm lũ nó còn dình nơi nao.

Tôi xin ra sức anh hào,

Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.

Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:

Vân tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.

Dẫu chỉ mỗi một mình, bọn cướp thì đông; dẫu trước đó, dân làng hết

sức khuyên chàng tuổi trẻ không nê dính vào việc này, e sẽ mang hoạ vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn75

thân, nhưng Lục Vân tiên chủ động đi tìm cướp, đánh tan chúng để cứu người

70

gặp nạn yếu đuối. Hành động đánh cướp, trước hết bộc lộ tính cách anh hùng,

tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Hành động “bẻ cây làm gậy

nhằm làng xông vô” của chành trai Vân Tiên thật đẹp đẽ và mãnh liệt vì đã

khắc hoạ được hình ảnh một chàng trai nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân.

Chàng chỉ có một mình, hai tay không trong khi bọn cướp đông người, gươm

giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng “người đều sợ nó có tài khôn đương”. Vậy mà

Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong

trận đánh thật dũng mãnh, bất chấp bọn cướp bao vây tứ phía. Lục Vân Tiên

đã dũng cảm “tả đột, hữu xông”, “khác nào Triệu Tử mở vòng Đương

Dương”. Theo tiểu thuyết chương hồi Tam quốc diễn nghĩa của La Quán

Trung (Trung Quốc), nhân vật viên tướng trẻ Triệu Vân, còn gọi Triệu Tử

Long, đã một mình phá vòng vây của Tào Tháo, bảo vệ được A Đẩu, con của

chủ tướng Lưu Bị. Đó là một việc làm hết sức nghĩa hiệp của người anh hùng.

Lục Vân Tiên cũng vì việc nghĩa mà ra tay cứu giúp người khi gặp nạn đó là

việc làm nhân nghĩa mà người nam nhi anh hùng phải làm. Ngay từ phần mở

đầu truyện thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người “Văn đà

khởi phụng đằng giao / Võ thêm tam lược lục thao ai bì”. Thì lúc này, chính

là cơ hội để chàng thi thố tài năng võ nghệ của mình. Hình ảnh Vân Tiên tung

hoành với chiếc gậy trong tay là biểu hiện của sức mạnh phi đầy nam tính.

Sức mạnh của chàng trai trẻ đã khiến bọn “lâu la khiếp sợ”: “Lâu la bốn phía

vỡ tan / Đều quăng gươm giáo tìm đường chạy ngay”. Bọn lâu la phải quăng

cả vũ khí để chạy tháo thân, còn tên đầu đảng thì:

Phong lai trở chẳng kịp tay,

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ cướp. Khi đánh

tan lũ kiến, đàn ong để cứu Nguyệt Nga, con người ấy trở về với thái độ của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn76

một môn sinh đạo Khổng biết giữ lễ khi tiếp xúc với phụ nữ:

71

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,

Nàng là phận gái, ta là phận trai.

Trong sách Lễ Kí có nói rằng: Nam nữ không được phép ngồi lẫn với

nhau, không được dùng chung lược, không được đón tay nhau. Chị dâu em

trai của chồng không được nhìn thẳng vào mắt nhau. Phụ nữ phải nghe lời

chồng, anh, không có việc lớn thì không được phép nói chen, hay vào nhà lớn.

Nữ ăn nhà dưới, nam ăn chiếu trên. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho vì thế

nhân vật Lục Vân Tiên là người có học sẽ phải biết phép tắc ứng xử, hơn nữa

lại là cách ứng xử giữa nam và nữ. Chàng trai đọc sách thánh hiền sẽ hiểu

rằng lễ giáo phong kiến không cho phép người con trai và người con gái có

thể đứng nói chuyện trực tiếp với nhau chính vì thế mà chàng từ chối để Kiều

Nguyệt Nga ra chào. Vẻ nghiêm nghị đạo mạo quá mức của Lục Vân Tiên

trước một người con gái đẹp, thông minh như Kiều Nguyệt Nga khác hẳn với

nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Từ Hải biết tìm đến cái

đẹp, trân trọng cái đẹp của nàng Kiều, chủ động tìm Kiều với những nghi thức

tôn trọng Kiều nhất (thiếp danh đưa đến lầu hồng), bỏ tiền chuộc Kiều, mà

Kiều lúc đó đang là kỹ nữ, loại phụ nữ bị nho gia khinh miệt thì Lục Vân Tiên

lại quá giữ lễ, khắc kỉ trước cái đẹp của Kiều Nguyêt Nga. Có lẽ nếp nghĩ nhà

nho đã không cho phép Nguyễn Đình Chiểu để nhân vật của mình vượt qua

giới hạn của lễ giáo phong kiến?

Trở lại câu chuyện về Lục Vân Tiên, làm xong việc nghĩa, chàng đã

khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp:

Vân Tiên nghe nói liền cười

Làm ơn há dễ trông người trả ơn.

Sau khi nghe lời bày tỏ của Kiều Nguyệt Nga, chàng lại càng khẳng

định thêm tinh thần nghĩa hiệp, chính trực, trọng nghĩa khinh tài:

Nay đà rõ đặng nguồn cơn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn77

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.

72

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Điều quan trọng hơn, ngay cả sau khi nghe lời Kiều Nguyệt Nga nói về

sự đền ơn, Lục Vân Tiên vẫn thành thực với quan niệm sống của mình, trước

sau vẫn kiên định với tư tưởng làm việc nghĩa như một phẩm chất bậc anh

hùng hảo hán, không đòi hỏi được hưởng ơn huệ, tiền tài vật chất đúng như

quan niệm của Nho giáo về người nam nhi, quân tử "thi ân bất cầu báo".

Quan niệm "thi ân bất cầu báo" còn được nhắc đến qua các nhân vật

khác trong truyện như vơ chồng ông chài, ông tiều. Khi cứu vớt Lục Vân

Tiên, lão chài đã nói những lời thật chí tình:

Ngư rằng:” Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn".

Sau khi được thần linh cứu thoát khỏi hang Thương Tòng, đang bơ vơ

trong rừng thì được ông tiều giúp đỡ. Vân Tiên và Hớn Minh hứa sẽ báo đáp

ơn sâu, ông tiều đã chối từ:

Lão tiều mới nói: "Thôi thôi,

Làm ơn mà lại trông người sao hay.

Già hay thương kẻ thảo ngay,

Này thôi để lão dắt ngay về nhà"

hay:

Tiều rằng:” Vốn lão tình không,

Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.

Tấm lòng chẳng muốn của ai,

Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng...

Cuộc sống của con người không bao giờ bằng phẳng, cũng như người

anh hùng phải trải qua nhiều thử thách trong trường đời để tôi luyện bản thân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn78

mới có thể được khẳng định chí khí nam nhi. Nguyễn Đình Chiểu đã đẩy nhân

73

vật của mình trải nghiệm trong nhiều gian nan thử thách. Trên đường ra ứng

thí, hay tin mẹ từ trần, Lục Vân Tiên đau xót vô cùng, vội quay về lo tang lễ:

Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,

Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.

Cánh buồm bao quản gió xiêu,

Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau.

Thương thay chín chữ cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.

Cuộc thử thách đối với chàng bắt đầu từ đây. Chàng quyết dứt bỏ công

danh, vượt qua gian lao vất vả để về chịu tang mẹ bởi hiếu là phận sự, đạo

nghĩa của kẻ làm con: "làm con trước phải đền ơn sinh thành". Nhưng rồi điều

đó chàng cũng không thực hiện được vậy là: “Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập

thân”. Niềm đau dồn dập đến khi chàng, phần vì đau yếu, phần vì khóc

thương mẹ nên bị mù cả hai con mắt:

Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu,

Mịt mù nào thấy chi đâu.

Trước cơ nguy biến, Lục Vân Tiên lại gặp anh bạn xấu Trịnh Hâm lập

mưu đẩy xuống sông. Chàng may mắn được ngư ông cứu sống. Lục Vân Tiên

tìm đến gia đình người vợ đính ước trước khi đi thi là Võ Thể Loan mong có

chỗ nương nhờ cho qua cơn hoạn nạn. Nhưng cha con Võ Thể Loan nhẫn tâm

bội ước, đem chàng vứt vào hang núi. Chàng lại được ông tiều cứu thoát và

đến ở nhờ một ngôi chùa. Triết lí "ở hiền gặp lành" của đạo Phật đã được

Nguyễn Đình Chiểu vận dụng để đưa vào nhân vật của mình. Vân Tiên trải

qua những thử thách chất chồng nhưng tấm lòng nhân nghĩa, hiếu thảo của

chàng đã làm cho trời đất phải động lòng thương cảm. Về sau, được thuốc

tiên chữa cho sáng mắt, chàng lại theo đuổi bước đường quan lộ mà mình đã

chọn. Vân Tiên thi đỗ trạng nguyên, mục đích của người anh hùng lúc này là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn79

phục vụ cho triều đình, trở thành một người anh hùng trung quân báo quốc.

74

Bằng tài lược và học vấn của mình, nhân vật Lục Vân Tiên đã vạch ra những

điều sai trái của nhà vua khi nghe lời nịnh thần mê hoặc làm cho xã hội rối

ren, dân chúng đau khổ, giặc ngoài xâm lược. Cuối cùng, trước cảnh đất nước

bị xâm lăng, người nam nhi anh hùng không thể đứng nhìn, họ dốc lòng giúp

nước bởi anh hùng vì nước vì đời, đó là tư cách của nam nhi, anh hùng:

Làm trai trong cõi thế gian,

Phù đời giúp nước phơi gan anh hào.

Nói về người anh hùng Lục Vân Tiên trong cuộc thử thách cuối cùng

này, Nguyễn Đổng Chi đã nhận xét: " Như vậy, cứu cánh của trí và dũng

trước hết là vì dân, vì nước đông thời là vì vua. Người anh hùng không thể

nhắm mắt ngồi nhìn những tên cầm quyền gian nịnh đang làm cho nước

nghiêng đổ. Nhiệm vụ của người anh hùng là phải xoay chuyển lại cuộc

cờ"[4.179]. Như vậy, hành động "cứu khốn phò nguy" lại một lần nữa được

người anh hùng thực hiện đúng lúc. Về điểm này, quan niệm về nhân vật anh

hùng của Nguyễn Du không như vậy. Từ Hải có cái khí phách hiên ngang của

một con người không chịu ép mình vào khuôn khổ của xã hội phong kiến.

Với chàng, quan niệm về cuộc sống là "dọc ngang nào biết trên đầu có ai", là

" gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo". Hai con người với hai quan điểm

dường như trái ngược nhau nhưng họ lại có cùng chung một điểm đó là sư

quyết tâm thực hiện ý tưởng của mình. Sau cả một hành trình đầu "dâu bể",

qua bao thử thách đã tôi luyện tâm hồn con người đầy hoài bão cuối cùng

người anh hùng Lục Vân Tiên đã chiến thắng tất cả mọi gian tà, vượt qua

được mọi thử thách. Món qua cuối cùng mà tạo hoá sắp đặt là khi chàng được

gặp lại Kiều Nguyệt Nga và kết duyên cùng nàng. Vị trạng nguyên cũng

không quên sai quân bày tiệc tế lễ khi tưởng chú tiểu đồng đã chết và vui

mừng khôn xiết khi tiểu đồng còn sống trở về:

Trạng nguyên khi ấy vui mừng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn80

Tớ thầy sum họp tại nơi Đại Đề.

75

Còn Từ Hải chàng cũng đã thực hiện được ước mơ đó là xưng cõi bá

vương, giúp Kiều báo ân, báo oán mặc dù kết cục của người anh hùng ấy có

phần bi thảm.

Có thể khái quát cuộc đời của Vân Tiên từ khi xuất hiện cho tới khi kết

thúc câu chuyện là một hành trình khổ ải để bồi đắp cái đức của mình ngày

một cao hơn. Cũng chính vì thế mà chàng được báo đáp, được giúp đỡ. Sự

báo bổ này không cần chờ đến phần cốt truyện mà nó xảy ra liên tục trong thế

sóng đôi với những bất hạnh. Sau mỗi khó khăn hoạn nạn, bao giờ Vân Tiên

cũng được cứu giúp: bị thả vào rừng thì có du thần dẫn ra gặp ông Tiều, bị

đẩy xuống sông thì có giao long dìu vào bờ để gặp nhà thuyền chài, mắt bị mù

thì có tiên ông cho thuốc… Họa và phúc được trình bày như hai mặt đối lập

nhau của cùng một sự kiện. Tinh thần lạc quan của Nguyễn Đình Chiểu, niềm

tin vào cuộc đời, vào con người được bộ lộ rõ nhất ở đây: Trong cơn bĩ cực

thới lai/ Giữ mình cho trọn việc ai chớ sờn. Đây là triết lí sống của nhân dân,

chính xác và giản dị như chân lí. Tác giả khép lại câu chuyện bằng một viễn

cảnh thật huy hoàng, trong đó những con người đức độ, nhân nghĩa sẽ nối

nhau làm chủ trên mặt đất này: Trăm năm biết mấy tinh thần/ Sinh con sau

nối gót lân đời đời. Đây là lối kết thúc có hậu đặc sắc bởi nó tạo được sự hô

ứng với phần đầu của câu chuyện về nhân vật chính. Nó là lời khẳng định sự

ngự trị vĩnh viễn của cái thiện, cái nhân nghĩa, cái đạo lý. Giữa tiền thân và

hậu thân của nhân vật luôn có sự tiếp nối liên tục. Đó cũng là cái hậu lớn nhất

của câu chuyện.

3.2.2 Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga

Không giống như cuộc gặp gỡ giữa Thuý Kiều và Từ Hải trong chốn

lầu xanh đã có sự đánh tiếng trước: "thiếp danh đưa đến lầu hồng", cuộc gặp

gỡ của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga thật bất ngờ khi cả hai là những

người không hề quen biết. Nếu mối tình Từ Hải, Thuý Kiều bắt nguồn từ sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn81

tri kỉ: "Hai bên ý hợp tâm đầu / Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân" thì mối

76

tình của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga "bắt nguồn từ một lòng hào hiệp

quên mình để cứu người và một lòng nghĩa cung quên mình để trả ơn

ngườicủa một đôi anh hùng, tiết hạnh" [48.40]. Trong buổi đầu gặp gỡ, Vân

Tiên luôn giữ cho mình một khoảng cách với hai người con gái trong xe khi

Nguyệt Nga có ý muốn xuống xe cúi lạy tạ ơn người anh hùng đã cứu mình:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái, ta là phận trai.

Cách ứng xử của chàng trai: "tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành"

không có cái bản lĩnh của kẻ "giang hồ quên thói vẫy vùng" như Từ Hải.

Chàng không phải là hạng người lịch duyệt, biết ân cần, săn sóc phụ nữ,

nhưng chàng đã quan tâm hỏi chuyện Nguyệt Nga mặc dầu chàng vẫn giữ

một khoảng cách với nàng:

Tiểu thư con cái nhà ai?

Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?

Chẳng hay tên họ là chi?

Khuê môn phận gái việc gì đến đây?

Khi Nguyệt Nga có ý muốn trao vật làm tin cho chàng thì chàng cũng chỉ dám: "ngơ mặt chẳng nhìn". Kiều Nguyệt Nga có ý trách chàng thì con người ấy cũng rất thật thà phân trần:

Than rằng: "Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy, của nầy rất sang.

Đương khi gặp gỡ giữa đàng,

Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai

Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì".

Cái cốt cách chân thật của chàng trai suốt ngày dùi mài kinh sử lần đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn82

tiên được tiếp xúc với người con gái đẹp có cái gì đó gượng gạo, bối rối. Ngay

77

cả cách đáp lời Nguyệt Nga khi nàng có ý làm một bài thơ trước khi giã từ

cũng có phần hơi cộc lốc:

Vân Tiên ngó lại rằng: " Ừ"!

Điều này hoàn toàn trái ngược với các nhân vật nam trong Truyện

Làm thơ cho kịp bây giờ chớ lâu.

Kiều. Kim Trọng trong lần đầu gặp gỡ đã xao xuyến trước vẻ đẹp của nàng

Kiều: " Tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Từ Hải trong buổi đầu gặp gỡ

Thuý Kiều cũng đã: "Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa". Ngay cả chàng

Thúc Sinh quen thói bốc trời, " trăm nghìn đổ một trận cười như không" cũng

đã một tỉnh mười mê ngay trong lần đầu tiên giáp mặt Thuý Kiều:

Trướng tô giáp mặt hoa đào,

Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa.

Đến cả tên quan Hồ Tôn Hiến, kẻ đại diện cho triều đình phong kiến

khi nghe Kiều đánh đàn cũng được Nguyễn Du tả lại một cách thú vị: "Lạ cho

mặt sắt cũng ngây vì tình". Trong cuộc xướng hoạ thơ cùng nhau này, Lục

Vân Tiên đã có phần cảm phục tài năng của Nguyệt Nga:

Vân Tiên xen thấy ngạt ngào,

Ai dè sức gái tài cao thế này.

Đã mau mà lại thêm hay,

Chẳng phen Tạ nữ, cũng tày Từ phi.

Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,

Cho hay tài gái kém gì tài trai.

để rồi sau đó "Gặp nhau ta đã cạn lời rồi thôi". Cuộc chia tay của một chàng

trai anh hùng và một cô gái đẹp không có chút gì lưu luyến. Cũng dễ cảm

thông cho Lục Vân Tiên là một chàng trai mới lớn, chưa hề quen biết một cô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn83

gái nào, và cũng chưa hề yêu đương cho nên đối với nữ nhân chàng còn nhiều

78

e ngại. Hơn nữa, chàng thuộc thế hệ nho sĩ ngày xưa, trọng nghĩa khinh tài,

biết thủ lễ và tránh những hành động có thể bị coi là lợi dụng.

Sau khi từ giã Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên trước khi lên đường

vào kinh ứng thí có ghé qua nhà viếng thăm cha mẹ. Lúc này, hình bóng

Nguyệt Nga và những gì đã trải qua không còn đọng lại trong tâm trí chàng.

Chàng giữ trọn chữ hiếu với cha mẹ và thực hiện lời đính ước hôn nhân do

các bậc cha mẹ quyết định từ trước:

Xưa đà định chữ lương duyên,

Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang.

Con người là Võ Thể Loan,

Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.

Chữ rằng Hồ Việt nhất gia,

Con đi tới đó trao qua thư nàỵ

Con dầu bước đặng thang mây,

Dưới chân đã sẵn một dây tơ hồng

Như vậy, Lục Vân Tiên không được xây dựng như một người tình lang,

chỉ là anh hùng, là người con hiếu thảo, trung nghĩa, tức là con người chức

năng, phận vị nói như Trần Đình Hượu, không có cái cá nhân. Về sau khi

nghe cha kể lại:

Ông rằng: "Có nàng Nguyệt Nga,

Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.

Nhờ nàng nên mới ra bề,

Chẳng thì khó đói bỏ quê hư rồi".

Dường như lúc này, Vân Tiên mới chợt nhớ đến người con gái mà

mình đã gặp:

Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn84

Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.

79

Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu

Đặng con đến đó đáp câu ân tình".

Đây thực sự là bước khởi đầu nảy sinh tình cảm của chàng trai họ Lục

với người con gái chỉ một lần gặp gỡ giữa đường. Chàng cảm động trước tấm

lòng thuỷ chung đầy ân nghĩa của Kiều Nguyệt Nga đối với chàng và gia đình

chàng. Sau này, khi đã trở thành trạng nguyên và đánh tan giặc Ô Qua, trên

đường trở về, tác giả đã để cho nhân vật của mình bị lạc trong chốn non xanh.

Bước chân của kẻ lạc đường đã đưa Lục Vân Tiền gặp lại Kiều Nguyệt Nga.

Nhưng chàng không thể nhận ra người con gái năm xưa được chàng cứu giúp

mà chỉ sinh nghi:

Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,

Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.

Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,

Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình".

Khi nghe Kiều Nguyệt Nga giãi bày sự tình, Vân Tiên mới biết nỗi

Nguyệt Nga chung thuỷ chờ đợi mình:

Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.

Thưa rằng: "May gặp nàng đây,

Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.

Để lời thệ hải minh sơn,

Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.

Vân Tiên vốn thiệt là tôi,

Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ".

Hành động quỳ lạy Kiều Nguyệt Nga của người anh hùng thật đáng

quý biết nhường nào. Và câu chuyện tình nghĩa, nghĩa chứ không phải tình

kết thúc thật có hậu:

Trạng nguyên về đến Đông thành,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn85

Lục ông trước đă xây dinh ở làng.

80

Bày ra sáu lễ sẵn sàng,

Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.

Sui gia đă xứng sui gia,

Rày mừng hai họ một nhà thành thân.

Trăm năm biết mấy tinh thần,

Sinh con sau nối gót lân đời đời.

Xét từ góc nhìn về văn hoá giới, nhân vật Lục Vân Tiên hội tụ rất nhiều

những biểu hiện nam tính. Chàng là một chàng trai đẹp có diện mạo khôi ngô

tuấn tú:

Mày tằm mắt phụng môi son,

Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.

Về tài năng trí tuệ, chàng cũng không kém gì những bậc anh hùng hào kiệt:

Văn đà khởi phụng đằng giao,

Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.

Về ý chí nghị lực của kẻ sĩ cũng thật đáng khen ngợi:

Chí lăm bắn nhạn ven mây,

Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.

Làm trai trong cõi người ta,

Trước là báo bổ sau là hiển vang.

Đặt trong bối cảnh xã hội phong kiến, chàng là mẫu người nam nhi anh

hùng theo đúng quan điểm của nho gia. Nhưng đặt con người ấy từ điểm nhìn

về giới thì con người ấy thiếu đi một biểu hiện nam tính đó là sự hào hoa,

lãng mạn, chỉ là người anh hùng, người trung nghĩa trong bổn phận, con

người đơn giản trong đời sống tâm lý có cái nhìn khắc kỉ đối với phụ nữ. So

với các nhân vật như Từ Hải, Kim Trọng, Thúc Sinh trong Truyện Kiều của

Nguyễn Du, thì nhân vật Lục Vân Tiên không phải là mẫu đàn ông lí tưởng

trong tình yêu bởi ở chàng không có được tình yêu sâu đậm, chân thành như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn86

Kim Trọng, không có sự chủ động, cam kết gắn bó như Từ Hải, không có

81

bản năng si mê như Thúc Sinh mà đến với Kiều Nguyệt Nga chỉ là sự gắn kết

bởi ân tình. Nhìn rộng ra, có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu vẫn chịu ảnh hưởng

trong cách xậy dựng nhân vật mẫu hình người anh hùng của văn hoá phương

Đông nói chung và Trung Quốc. Nhân vật Lục Vân Tiên có cái dáng dấp của

nhân vật Quan Vân Trường ( Quan Vũ) trong truyện Tam quốc diễn nghĩa của

La Quán Trung. Quan Vân Trường cũng luôn thể hiện thái độ của người anh

hùng khắc kỉ, đạo mạo trước phụ nữ. Khi Tào Tháo truyền lệnh thu binh về

Hứa Xương, Quan Vân Trường thỉnh nhị tẩu lên xe, tự mình đi theo hộ vệ.

Khi quân đến trạm dịch, Tào Tháo truyền quân đóng lại nghỉ ngơi, lại truyền

Quan Vân Trường ở chung một nhà với nhị tẩu là Cam Phu nhân và My Phu

nhân, hai bà vợ của Lưu Bị, tức là 2 chị dâu của Quan Võ. Đêm ấy, Quan Võ

cầm đuốc đứng trước cửa nhà suốt đêm để canh cho 2 chị dâu an giấc, đồng

thời lấy Thanh Long đao chém sạt một góc tường để người ngoài nhìn vào

thấy rõ lòng quang minh chính đại của mình. Nhân vật Võ Tòng trong tác

phẩm Thuỷ hử của Thi Nại Am, cũng được ngợi ca bỏi tấm lòng trong sạch

không bị rung động trước sắc đẹp Phan Kim Liên. Anh trai Võ Tòng tên Võ

Đại Lang làm nghề bán bánh hấp, là người lùn, dung mạo xấu xí nhưng có vợ

là Phan Kim Liên rất đẹp nhưng cũng rất đa tình. Nhân dịp Võ Tòng về thăm

anh, Phan Kim Liên thấy hình dung tuấn kiệt, mấy lần đòi tư thông với Võ

Tòng nhưng đều bị cự tuyệt. Sau đó Võ Tòng có việc phải đi xa, Phan Kim

Liên ở nhà lựa lúc Võ Đại Lang đi bán bánh, tư thông với tên nhà giàu Tây

Môn Khánh. Việc bị Võ Đại Lang phát hiện, hai người bày mưu rồi giết hại

Võ Đại Lang. Vài ngày sau khi Võ Đại chết, Võ Tòng quay về, nghe tin dữ

liền đi báo quan. Nhưng quan sợ uy thế của Tây Môn Khánh, không dám xử.

Thế là Võ Tòng, trước tiên tìm tới nhà giết chết Tây Môn Khánh cho hả giận,

rồi mới tự mình đi tìm chứng cứ điều tra. Tinh chất khắc kỉ ấy còn thể hiện ở

thái độ lạnh lùng khi trừng trị Phan Kim Liên trước sự chứng kiến của 3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn87

người hàng xóm, chàng ép Phan Kim Liên khai nhận tội rồi mổ bụng, cắt đầu

82

ả, đem ruột và đầu lên tế vong linh anh trai mình. Lục Vân Tiên không có cái

lạnh lùng như Võ Tòng nhưng chàng luôn giữ một khoáng cách nhất định.

Nhìn chung, các nhân vật như Lục Vân Tiên hay Võ Tòng, Quan Vân Trường

đều chịu sự chi phối của một quan niệm chung mang tính chất văn hoá hoá về

nhân cách đó là luôn biết chế ngự, khắc phục bản năng. Chính yếu tố này mà

tình yêu trong truyện Lục Vân Tiên kém phần lãng mạn.

3.2.3 Quan niệm đối lập nhân vật chính diện - phản diện

Trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên cả một xã

hội trong đó những nhân vật chính diện - phản diện bằng đối lập những biểu

hiện nam tính.

Nhân vật nam chính diện tiêu biểu là Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử

Trực, tiểu đồng, ông quán, ông ngư, ông tiều. Họ chính là tượng trưng cho tài

năng, trí tuệ, nhân phẩm của người luôn sống vì chính nghĩa. Nhân vật Lục

Vân Tiên toát lên vẻ đẹp nam tính khi hội tụ ở chàng tất cả các yếu tố: trí

dũng song toàn, văn võ toàn tài, hình dáng, tướng mạo đẹp đẽ. Chàng có lòng

nghĩa hiệp khi ra tay cứu giúp người gặp nạn mà không cần báo đáp, giúp vua

dẹp giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Cuối cùng, chàng cũng tìm được người

con gái thuỷ chung với mình.

Nhân vật tiếp theo được nói nhiều ở trong truyện là Hớn Minh. Hớn

Minh có dáng dấp của một nhân vật lạ thường:

Xa xem mặt mũi đen x́ì,

Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.

... Vân Tiên biết lẽ chính tà,

Hễ người dị tướng ắt là tài cao.

Chàng là người có vẻ thô lỗ từ diện mạo đến lời ăn tiếng nói. Có ý kiến

cho rằng con người Hớn Minh có bóng dáng của một Lỗ Trí Thâm trong

truyện Thuỷ hử (Trung Quốc). Nhân vật Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm, một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn88

nhân vật điển hình cho sự cương trực và lòng nghĩa hiệp. Hành động giữa chợ

83

với ba quyền đánh chết Trấn Quan Tây Trịnh Đồ, kẻ chuyên ức hiếp dân lành,

đã thể hiện rõ con người ông. Hớn Minh cũng có tấm lòng chính trực, yêu,

ghét rõ ràng, thấy chuyện bất bình chẳng tha. Chàng "sẵn sàng hy sinh cả

tương lai, vứt bỏ cả con đường đi đến danh vọng để biểu thị một thái độ đầy

khí phách của một hiệp sĩ" [21.304]. Nhìn thấy tên con quan huyện Đặng Sinh

ỷ thế cưỡng hiếp con gái nhà dân lương thiện, chàng bèn nổi giận: "Vật chàng

xuống đó bẻ đi một giò". Sau đó sợ liên luỵ cho người khác, chàng tự trói

mình nộp cho huyện đường chịu tội để rồi tìm cách vượt ngục. Con người

nghĩa khí ấy còn có một tấm lòng thuỷ chung, trọn vẹn trong tình bạn. Chỉ

một lần gặp gỡ Vân Tiên, mến nhau vì tài mà tình bạn ấy luôn bền chặt. Gặp

lại nhau trong tình cảnh bạn bị mù loà, Hớn Minh đã lạy tạ ân nhân cứu bạn

mình, rồi đưa bạn về nơi ẩn nấp để chăm lo chạy chữa thuốc thang. Tóm lại,

con người ấy từ dáng vẻ bề ngoài đến tính cách bên trong đều toát lên vẻ tự

nhiên, rất đáng trân trọng.

Vương Tử Trực cũng là một người đáng mến. Qua lời giới thiệu của Võ

Công thì chàng cũng là người " văn chương tót vờì". Gặp Lục Vân Tiên, mến

nhau vì tài, Tử Trực luôn giữ thái độ kính trọng Vân Tiên:

Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,

Có đâu én hộc sánh vai một bầỵ

Tình cờ mà gặp nhau đây,

Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh.

Sau này, khi đã đỗ đầu khoa thi, chàng trở về hỏi thăm tin tức Vân

Tiên, gia đình Võ Thể Loan gạ gẫm gả Võ Thể Loan cho chàng, chàng đã lớn

tiếng mắng nhiếc:

Trực rằng: " Ngòi viết dĩa nghiên,

Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.

Vợ Tiên là Trực chị dâu,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn89

Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.

84

Chẳng hay người học sách chi,

Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe,

Hay là học thói nước Tề,

Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công.

Hay là học thói Đường cung,

Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân.

Người nay sao phải nhà Tần,

Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm.

Nói sao chẳng biết hổ thầm,

Người ta há phải là cầm thú sao?"

Từ Trực trước sau vẫn giữ trọn tình nghĩa anh em, trước sau vẫn giữ

phẩm chất thanh cao. con người ấy cũng thật là đáng quý.

Nhân vật ông quán, ông ngư, ông tiều, tiểu đồng đều là những người

tốt. Ông quán dám lên tiếng chê trách những tham quan và phê phán những

ông vua bạo ngược với thái độ rõ ràng:

Quán rằng: ghét việc tầm phào,

Ghét cay ghét đắng, ghét vào tới tâm.

Ghét đời Kiệt,Trụ mê dâm,

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời U, Lệ đa đoan,

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời Ngũ bá phân- vân,

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Ghét đời Thúc -quí phân băng,

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Ông ngư cũng thẳng thắn bày tỏ quan niệm sống của mình và thẳng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn90

thắn từ chối khi Vân Tiên có ý định sau này đền ơn:

85

Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn ?

Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đâỵ

Rày doi, mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng.

Một mình thong thả làm ăn,

Khỏe quơ chày kéo, mệt quăng câu dầm.

Nghêu ngao nay chích mai đầm,

Một bầu trời đất vui thầm ai hay.

Kinh luân đă sẵn trong tay,

Thung dung dưới thế vui say trong trời.

Thuyền nan một chiếc ở đời,

Tắm mưa trải gíó trong vời Hàn giang".

Ông tiều thấy Vân Tiên bị nạn thì lấy cơm nắm cho chàng ăn, rồi mặc

dù già cả, ông cúng ra sức cõng Vân Tiên về nhà. Tiểu đồng cũng là người

sống có tình, có nghĩa. Hai thầy trò tiểu đồng luôn sát cánh bên nhau trên

bước đường ra kinh ứng thí cho đến khi gặp nạn. Khi thầy gặp nạn, tiểu đồng

tìm mọi cách để an ủi, chạy chữa thuốc thang. Vì nghe lời Trịnh Hâm vào

rừng lấy thuốc mà hai thầy trọ lạc nhau. Gặp người bị nạn, tưởng là thầy của

mình đã chết, tiểu đồng dốc lòng báo đáp:

Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,

Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.

Một mình ở đất Đại Đề,

Sớm đi khuyến giáo, tối về quảy đơm.

Dốc lòng trả nợ áo cơm,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn91

Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền.

86

Tóm lại, nhân vật chính diện trong truyện Lục Vân Tiên tuy mỗi người

mỗi vẻ, mỗi nét mặt khác nhau, nhưng họ đều là những người "cương trực",

"khẳng khái", "vị tha" và “trọng nghĩa hiệp". Họ sẵn sàng cứu giúp người

khác không sợ khó khăn nguy hiểm và nêu cao cái nghĩa khí “giữa đường gặp

sự bất bình chẳng tha". Họ kiên trì đứng về lẽ phải mà suy nghĩ và hành động.

Họ đã ăn ở, giao tiếp và đối xử với nhau thật là trọn tình vẹn nghĩa, thủy

chung. Họ chính là đại diện cho bản tính của người dân Nam Bộ như Nguyễn

Lộc đã giải thích khi nói về các nhân vật chính diện trong truyện Lục Vân

Tiên: " Nam Bộ là một miền đất đai phì nhiêu mới khai phá của Tổ quốc.

Người dân Nam Bộ ngoài những người bản địa, một số không ít vốn là những

nông dân nghèo miền Bắc vào đây sinh cơ lập nghiệp, hoặc là những người

chống đối các triều đình phong kiến ngoài Bắcbị khùng bố, chạy vào đây trốn

tránh. Lại có cả một ít những người Trung Quốc, những người "Minh hương"

chống nhà Thanhbị khủng bố cũng chạy sang đây. Tất cả những con người

nghèo khổ và nghĩa khí ấy sông với nhau trong điều kiện thiên nhiên có nhiều

thuận lợicho việc làm ăn nên càng hào hiệp, nghĩa khí. Tính cách của họ vẫn

là tính cách của cộng đồng người Việt Nam nói chung, nhưng ở họ còn có

một số nét địa phương rất rõ. Đõ là những con người " đã tròn thì ra tròn, đã

vuông thì ra vuông, dứt khoát rõ ràng, như rựa chém đất, không lắt léo khó

hiểu, có thể nói là không suy nghĩ lâu, không tính toán kỹ". Chung thuỷ phải

là chung thuỷ như Kiều Nguyệt Nga, nghĩa khí hào hiệp phải là nghĩa khí hào

hiệp như Hơn Minh, tiểu đồng; ghét đời phải bỏ đời vào rừng mà ở như ông

ngư, ông tiều...có cái gì như quá đáng, nhưng phải như vậy mới phản ánh

được tính cách của người Nam Bộ" [25.649].

Trái ngược với nhân vật chính diện là nhân vật phản diện. Yếu tố phản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn92

diện thường được bộc lộ rõ qua tính cách con người. Nhân vật Trịnh Hâm là

87

một kẻ nham hiểm, coi thường người khác. Khi làm thơ kém bị ông quán chê

cười, Trịnh Hâm đã buông ra nhưng lời lẽ hằn học, khinh người:

Hâm rằng : "Lão quán nói nhăng,

Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.

Gối rơm theo phạn gối rơm,

Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".

Kẻ tiểu nhân đó còn giả vờ an ủi và gạt nước mắt tiễn đưa Vân Tiên khi

chàng trở về quê chịu tang mẹ. Gặp lại Vân Tiên trong cảnh mù loà, Trịnh

Hâm không những cảm thương cho bạn mà còn lập mưu giết tiểu đồng và lừa

lúc nửa đêm xô Vân Tiên xuống biển:

Trịnh Hâm khi ấy ra tay,

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,

Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.

Bên cạnh một Trịnh Hâm tán tận lương tâm còn có một Bùi Kiệm

quen thói dâm ô, hưởng lạc. Khi biết Kiều Nguyệt Nga yêu Lục Vân Tiên,

Bùi Kiệm đã khuyên nàng với lời lẽ thật bỉ ổi:

Chúa xuân còn ở vườn đào,

Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.

Chúa đông ra khỏi vườn xuân,

Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang.

Ở đời ai cậy giàu sang,

Ba xuân dẫu hết ngàn vàng khôn mua.

Những tưởng Bùi ông thấu hiểu đạo lí hơn con nhưng rồi cũng rập theo

một giọng:

Bùi ông ngon ngọt trau dồi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn93

Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình.

88

Làm người chấp nhất sao đành,

Hễ là lịch sự có kinh có quyền.

Trăng thanh gió mát cắm thuyền chờ ai ?

Nhớ câu xuân bất tái lai,

Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn.

Làm chi thiệt mạng hồng nhan,

Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.

Vọng Phu xưa cũng trông chồng,

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

Thôi thôi khuyên chớ thở ra,

Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi"

Ngoài ra còn có những kẻ cơ hội như gia đìnhVõ Công, khi thấy Vân

Tiên bị mù thì sẵn sàng đem bỏ chàng vào trong hang tối và tìm cơ hội để con

gái mình lấy được tân khoa Tử Trực. Sau này khi Vân Tiên đỗ đạt, dẹp giặc

xong thì mẹ con Thể Loan lại tính đến đem sắc đẹp ra dụ Vân Tiên cho chàng

đắm lòng. Những thầy ngang, thầy tướng cũng là những kẻ lừa bịp đáng lên án.

Các nhân vật làm điều ác trong truyện cuối cùng đều bị trừng trị,

không loại trừ ai. Trịnh Hâm, kẻ đã đẩy Vân Tiên xuống sông thì về sau bị

chết chìm, làm mồi cho cá. Võ Công thì xấu hổ mà chết, hai mẹ con Võ Thể

Loan thì bị hổ đưa vào hang sâu (nơi trước đây Võ đã nhốt Vân Tiên), rồi lấy

đá chẹn ngang. Còn Bùi Kiệm thì "Trong lòng hổ thẹn mình vì máu dê". Thái

sư bị cách chức, về nhà,… Đây chính là ước mơ về một xã hội công bằng mà

Nguyễn Đình Chiểu đang hướng tới. Trong xã hội ấy, những con người có

lòng phản trắc, độc ác cuối cùng cũng bị tiêu diệt chỉ còn lại những con người

sống gắn bó với nhau bằng tấm lòng nhân hậu, bằng những tình cảm chân

thành xuất phát từ trái tim.

Có thể nói, lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật anh hùng đã nêu bật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn94

một lối sống có văn hóa và khí phách anh hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam.

89

Đó là lối sống trọng đạo lý và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét

áp bức, bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” ấy được thể hiện qua hành động

của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên và sau này là trong các nghĩa

sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp. Tuy vậy, cách

phân loại nhân vật phiến diện, một chiều của tác giả sẽ làm cho nhân vật thiếu

đi yếu tố tự nhiên, trần thế. Kiểu nhân vật nam nhi chính diện thường mang

tính khắc kỷ, chỉ được xây dựng trên các cương vị nghĩa vụ, bổn phận mà

không có khía cạnh cá nhân cũng khiến nhân vật kém hấp dẫn, thiếu sự chân

thực. Kiểu nhân vật nam chính diện, phản diện vẫn chưa thoát khỏi môtíp của

văn học dân gian truyền thống với quan niệm "ở hiền, gặp lành", "ác giả, ác

báo". Hơn thế nữa, Nguyễn Đình Chiểu lại đang sống trong một không gian

văn hoá nghệ thuật tuồng đề cao tư tưởng "quân , quốc", trừ gian diệt nịnh... nên

các nhân vật trong Lục Vân Tiên cũng bị ảnh hưởng bởi bộ môn nghệ thuật này.

3.3 Tiểu kết

Xuất thân từ một nhà nho, lại sống trong thời kì xu hướng tôn nho đang

trở lại vùng đất phương Nam nên Nguyễn Đình Chiểu không tránh khỏi sự áp

đặt các chuẩn mức Nho gia cho nhân vật của mình. Các nhân vật chính diện,

phản diện bị phân tuyến rạch ròi. Các nhân vật nam chính diện như Lục Vân

Tiên, Tử Trực, Hớn Minh, Tiểu đồng...thường được khắc hoạ ở yếu tố: có

lòng trọng nghĩa khinh tài, có tài năng xuất chúng nhưng lại có những biểu

hiện khắc kỷ đối với phụ nữ, thiếu tính lãng mạn trong tình yêu. Các nhân vật

nam phản diện luôn có những hành động được coi là trái với đạo lí làm người

như tính nết xấu xa, có những dục vọng thấp hèn như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm,

Võ Công...Những quan niệm văn hoá này đã làm cho các nhân vật khá mờ nhạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn95

về phương diện nhân bản.

90

KẾT LUẬN

Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi vận dụng những tri thức về văn hóa

giới thời trung đại ở Việt Nam để phân tích, cắt nghĩa hình tượng nhân vật Từ

Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên

từ góc nhìn giới. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận

như sau:

1. Quan niệm văn hóa của xã hội Nho giáo về người nam nhi có phần

khắc kỷ, biến người đàn ông thành những con người phận sự khô khan: hiếu

với cha mẹ, trung với vua, có chính nghĩa, nhưng nam nhi hiếm được tả như

một tình nhân. Nếu là tình nhân thì được tả với dụng ý phê phán (các nhân vật

nam trong Truyền kỳ mạn lục )

2. Trong bối cảnh đó, Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một

biểu tượng mới, sống động, phản ánh quan niệm mới về con người mang vẻ

đẹp nhân bản. Chủ nghĩa nhân bản không nhìn con người như một chiếc máy

sàng lọc cảm xúc mà trân trọng ghi lại hết thảy mọi phản ứng tình cảm của

con người trước các tình huống phong phú của cuộc sống. Trân trọng con

người không thể không coi trọng đời sống thể xác, đến thế giới nội tâm phong

phú, đa dạng, tự do, không bị kiểm soát. Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều

đã phần nào khắc phục được kiểu tư duy sáng tác áp đặt con người như là đối

tượng của nhà chính trị. Có lẽ vì thế mà nhân vật Từ Hải cũng như các nhân

vật khác trong Truyện Kiều sống mãi với thời gian.

3. Lục Vân Tiên là sản phẩm của giai đoạn lịch sử đặc biệt, phản ánh

văn hóa của người dân Nam Bộ trên vùng đất mới. Con người cần cố kết, sẵn

lòng cứu giúp lẫn nhau trong lao động, chinh phục tự nhiên và chống xâm

lược, rất cần tinh thần hy sinh, vị tha, tinh thần cộng đồng. Tuy vậy, kiểu nhân

vật nam nhi khắc kỷ, chỉ được xây dựng trên các cương vị nghĩa vụ, bổn phận

mà không có khía cạnh cá nhân cũng khiến nhân vật kém hấp dẫn, thiếu sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn96

chân thực.

91

Từ đây có thể liên hệ với các sáng tác hiện đại, nhân vật nam muốn cho

hấp dẫn, chân thực, phải có cả những yếu tố giới tính nam. Xem tiểu thuyết

Kim Dung hay phim dã sử Trung Quốc hiện nay, thấy rõ họ đã rút được bài

học quá khứ. Các nhân vật nam anh hùng nghĩa hiệp đều có ý trung nhân, tình

nhân kèm theo.

4. Xưa nay, trong nghiên cứu và giảng dạy các tác phẩm văn học trung

đại nói chung và Truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên nói riêng, chúng ta

thường xem xét, phân tích nhân vật ở khía cạnh chủ nghĩa hiện thực, chủ

nghĩa nhân đạo nghĩa là quy chiếu con người dưới góc độ chủ nghĩa dân bản.

Còn quá ít các công trình khảo cứu về phương diện con người tự nhiên của

nhân vật nên vô tình đã khiến cho việc giảng dạy văn học lâu nay trở nên

nhàm chán. Thiết nghĩ, trong nghiên cứu văn học, có dùng khái niệm “chủ

nghĩa nhân bản” để tìm hiểu tác phẩm mới khắc phục được cách hiểu có phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn97

đơn giản như hiện nay.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt tái bản, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1958 ), Khảo luận về Kim Vân Kiều tái bản,, Nxb Văn hóa,

Hà Nội.

3. Phan Văn Các (2003), Từ điển từ Hán Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Nguyễn Đổng Chi (1972), Nguồn gốc và quá trình hình thành chủ nghĩa anh

hùng của Nguyễn Đình Chiểu, Nghiên cứu lịch sử, số 145, tháng 7/8 - 1972

5. Trương Chính (1983), Thơ văn Nguyễn Công Trứ. Hà Nội, Nxb Văn Học.

6. Nguyễn Đình Chú (1972), Từ lý tưởng nhân nghĩa đến chủ nghĩa yêu

nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Xuân Diệu (1996), Thi hào dân tộc Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Ngô Viết Dinh tuyển chọn và biên tập (1999), Những chân dung truyện

Kiều, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

9. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (1998), Nguyễn Du, về tác

giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Lưu Thế Đức, Lý Tu Chương (1967), Nguyễn Du, nhà thơ kiệt xuất Việt

Nam và Truyện Kiều của ông,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Vũ Hạnh (1992),Những khuôn mặt tình yêu trong Truyện Kiều, Nxb Văn

nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Hồ Sĩ Hiệp, Hoài Thanh (1990), Nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc:

Nguyễn Đình Chiểu ( 1822 - 1888) tái bản, Nxb Tổng hợp, Tiền Giang.

13. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2005),Những điều cần biết về bình đẳng giới,

http://www.hoilhpn.org.vn/NewsDetail.asp?Catid=115&NewsId=516&la

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn98

ng=VN

93

14. Nguyễn Phạm Hùng (2011), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế Kỷ XX,

Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

15. Khái Hưng (2010), Tiêu sơn tráng sĩ ( tiểu thuyết), Nxb Đà Nẵng

16. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội

17. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử ký toàn thư,

Nxb Khoa học xã hội.

18. Huỳnh Thúc Kháng -Tiếng dân, số 317, ngày 17/9/1930.

19. Đinh Gia Khánh ( 1976), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X - thế kỷ

XVII, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội.

20. Đinh Gia Khánh (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ

XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội

21. Vũ Ngọc Khánh (1996), Nguyễn Công Trứ, một cá nhân, một danh nhân

văn hoá, trong sách Nguyễn Công Trứ - con người, cuộc đời và thơ. Hà

Nội, Nxb Hội Nhà văn.

22. Vũ Khiêu (1987), Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử,

Nxb Tp Hồ Chí Minh.

23. Dương Khuê, http://www.daovien.net/t279-topic

24. Lê Đình Kỵ (1972), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Nguyễn Lộc ( 1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế

kỉ XIX, tập 1, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

26. Nguyễn Lộc ( 1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ

XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Nguyễn Lộc (1997), Cảm hứng chủ đạo và nội dung xã hội của Truyện

Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

28. Đặng Thanh Mại, Nguyễn Đình Chiểu, lá cờ đầu của nền thơ văn yêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn99

nước thời kỳ cận đại. Tạp chí Văn học, số 1, tháng 7 - 1963

94

29. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học, 2006

30. Nguyễn Bích Ngô (2001), Thánh Tông di thảo - Khuyết danh, Nxb Văn

học, Hà Nội.

31. Phan Ngọc (1985 ), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,

Nxb Khoahọc xã hội, Hà Nội.

32. Đạm Nguyên (1970), Tang thương ngẫu lục - Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Nhiều tác giả (1977), Thơ văn Lý - Trần, Tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.

34. Nhiều tác giả (1988), Thơ văn Lý - Trần, Tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội

36. Nhiều tác giả (2005), Gia huấn ca - Nguyễn Trãi, http://vnthuquan.net/truyen/,

Hà Nội.

35. Nhiều tác giả (1978), Thơ văn Lý - Trần, Tập 3, Nxb KHXH, Hà Nội.

37. N.I. Niculin (1967), Nguyễn Du, nhà thơ nhân đạo lỗi lạc, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

38. Vũ Đức Phúc, Đạo Nho và các nhân vật trí thức trong sáng tác của

Nguyễn Đình Chiểu, Tạp chí Văn học, số 4 - 1982

39. Hoài Phương tuyển chọn và biên soạn( 2003) ,Truyện Kiều những lời

bình, Nxb Văn hoá- thông tin, Hà Nội.

40. Huỳnh Như Phương (1982), Suy nghĩ về yếu tố đạo lí trong thơ văn

Nguyễn Đình Chiểu, Sở Văn hoá - Thông tin và Hội Văn nghệ Nguyễn

Đình Chiểu, Bến Tre.

41. Pierre Bourdieu, Lê Hồng Sâm dịch (2011), Sự thống trị của nam giới

Nxb Tri thức.

42. Nguyễn Hưng Quốc, Đọc... đọc chơi vài bài ca dao, https://tienve.org

43. Hoài Thanh, Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du: Từ Hải, Thanh

nghị, số 36, tháng 5- 1943.

44. Hoài Thanh (1963), Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn100

chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Diễn văn đọc trong

95

buổi kỷ niệm 75 năm này Nguyễn Đình Chiểu mất, tổ chức tại Nhà hát

thành phố Hà Nội.

45. Cao Tự Thanh (1996), Nho giáo ở Gia Định, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.

46. Cao Tự Thanh (1982), Hiện tượng Nguyễn Đình Chiểu trong văn hoá Việt

Nam, Sở Văn hoá - Thông tin và Hội Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre.

47. Hoàng Minh Thảo, Đinh Ngọc Lân, Nguyễn Vinh Phúc( 1995) biên soạn,

Almanach những nền văn minh thế giới, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội

48. Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn và giới thiệu (2003) ,Nguyễn Đình

Chiểu- Về tác gia, tác phẩm, Nxb Giáo dục,Hà Nội

49. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Trần Nho Thìn (2007), Truyện Kiều: Khảo - chú - bình, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Nho Thìn, (giới thiệu và tuyển chọn), (2003), Nguyễn Công Trứ về

tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

52. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

53. Phan Việt Thủy, Phái tính trong ngôn ngữ và văn học,

http://tienve.org/home/viet/viewVietJournals.do?action=viewArtwork&ar

tworkId=278#2

54. Dương Thiệu Tống (1995), Tâm Trạng Dương Khuê, Dương Lâm, Nxb

Văn Học, Hà Nội.

55. Vũ Đình Trác ( 1993), Triết lí nhân bản Nguyễn Du,

http://www.dunglac.org

56. Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Văn hoá truyền thống trong truyện " Lục vân

Tiên" và cuốc sống của tác phẩm, Sở Văn hoá - Thông tin Long An .

57. Tạ Chí Đại Trường - Sử Việt đọc vài quyển, http://www.lichsuvn.info

58. Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và chú thích (2008),Lục Vân Tiên- Bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn101

Nôm và bản quốc ngữ cổ nhất, tác giả: Nguyễn Đình Chiểu Nxb Văn học,

96

59. Khổng Tử (2002), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.

60. Đoàn Thị Thu Vân(1996), Đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam

thế kỉ X đến thế kỉ XIV, Nxb Văn học.

61. Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Phê. Nguyễn Thị Nhất (2007) tuyển

chọn và giới thiệu, Truyện Kiều và nghiên cứu sáng tác văn học, Nxb Văn

Hoá Sài Gòn.

62. Nguyễn Quang Vinh, Thơ truyện " Lục Vân Tiên" với văn hoá dân gian,

Tạp chí văn học, số 4 - 1972.

63. Lâm Vinh (1982), Truyện " Lục Vân Tiên" và vấn đề mối quan hệ đạo

đức và thẩm mỹ, Sở Văn hoá- Thông tin và Hội văn nghệ Nguyễn Đình

Chiểu, Bến Tre

64. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại

học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

65. Trần Ngọc Vương ( 2007), Văn học Việt nam thế kỉ X - XIX những vấn đề

lí luận và lich sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội

66. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập, Bản dịch của Lê Hữu

Mục,http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=7983.

67. Trần Thị Kim Xuyến, Giới và các vấn đề đô thị,

http://www.slideshare.net.

68. Phương Yến (2008), Lệ tục làng xã cổ truyền và những ảnh hưởng đối với

người phụ nữ ở xã hội phong kiến, thongtinphapluatdansu.wrdpres.com.

69. ZhaoZhao Yanqiu 赵炎秋, Song Yaling 宋亚玲, Kim Vân Kiều truyện”

của Nguyễn Du với “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân:

Kế thừa và biến đổi, Viện Văn học, Đại học Sư phạm Hồ Nam, Trung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn102

Quốc, TS. Phan Thu Vân dịch. http://ngonnguhoc.org/