ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
DƯƠNG VĂN HIẾN
NHẬT KÝ CHU CẨM PHONG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 02 21
Người hướng dãn khoa học: TS. Nguyễn Kiến Thọ
Thái Nguyên – 2017
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 6
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 7
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 7
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CHUNG VÀ TÁC GIẢ CHU
CẨM PHONG ................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài ......................................... 8
1.1.1. Thể loại nhật ký ...................................................................................... 8
1.1.2. Đặc trưng của thể loại nhật ký .............................................................. 9
1.1.3. Phân loại thể nhật ký ........................................................................... 17
1.2. Nhà văn Chu Cẩm Phong ...................................................................... 20
1.2.1. Vài nét về tiểu sử nhà văn Chu Cẩm Phong ....................................... 20
1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Chu Cẩm Phong ........................... 21
Chương 2: HIỆN THỰC CHỐNG MỸ QUA NHẬT KÝ CHU CẨM
PHONG .......................................................................................................... 32
2.1. Hiện thực chiến trường những năm chống Mỹ ................................... 32
2.1.1. Chiến trường Quảng Đà – mảnh đất khói lửa ................................... 32
2.1.2. Con người trong chiến tranh ............................................................... 34
2.2. Chân dung, tinh thần của nhà văn, liệt sĩ Chu Cẩm Phong ............... 39
2.2.1. Khát vọng giải phóng quê hương và lí tưởng của thế hệ chống Mỹ . 39
2.2.2. Góc nhìn, quan điểm của nhà văn về chiến tranh, về đồng đội, về
nhân dân ......................................................................................................... 41
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG NHẬT
KÝ CỦA CHU CẨM PHONG .................................................................... 57
3.1. Khả năng tái hiện hình ảnh qua ngôn ngữ .......................................... 57
3.2. Ngôn ngữ, giọng điệu trong Nhật ký Chu Cẩm Phong ....................... 59
3.2.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký Chu Cẩm Phong ...................... 59
3.2.2. Giọng điệu nghệ thuật trong Nhật ký Chu Cẩm Phong .................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 84
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nhật ký chiến tranh là một hiện tượng văn học khá đặc biệt, không
chỉ thu hút sự quan tâm của bạn đọc trong nước mà còn gây sự chú ý của cộng
đồng quốc tế như một vấn đề chính trị. Đơn cử như một số nhật ký chiến
tranh của các tác giả: Đặng Thuỳ Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Vũ Xuân, Dương
Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong…những năm gần đây đã thu hút sự quan tâm
không chỉ trong giới nghiên cứu về lịch sử chiến tranh mà cả những nhà văn,
nhà phê bình văn học xem xét, lý giải như một vấn đề văn học, góp phần giải
mã tâm hồn con người trong cuộc chiến. Hiện thực về cuộc chiến tranh chống
Mỹ ác liệt và lý tưởng sống cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong các
cuốn nhật ký chiến tranh như một thước phim sống động khiến người đọc
cảm nhận rõ nhất, bao quát nhất và chân thực nhất về các mặt, góc độ,
phương diện của cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ, giải phóng
dân tộc. Ở đó, hiển hiện rõ không khí ác liệt của cuộc chiến, của những con
người đắm mình trong máu lửa và cả hình ảnh của tác giả với tư cách là một
nhân chứng của lịch sử. Đây là điều khó thấy rõ ở các thể loại văn học khác…
1.2. Thể loại ký có giá trị phản ánh chân thực về cuộc sống thực tại. Với
tư cách một thể loại truyền thống, thể ký cũng có bước tiến mạnh mẽ cả về
chiều rộng và chiều sâu và đến đầu thế kỷ XX, nó nổi lên như một thể loại tiên
phong. Ký làm giàu khả năng phản ánh bằng một hệ thống tiểu loại phong phú,
bắt kịp tốc độ hiện đại hóa văn học so với các loại hình nghệ thuật khác. Trong
sự vận động này, ký là thể loại mới mẻ, được du nhập từ văn học phương Tây
đó là thể nhật ký. Trong suốt chặng đường phát triển của văn học thế kỷ XX, có
thể thấy từ việc xuất hiện tản mạn, ghi chép rời rạc đến hình thành một thể văn
mới, đan xen vào các thể văn xuôi tự sự khác, nhật ký trở thành một phân
nhánh năng động của thể ký. Tiếp tục khơi gợi từ chính cuộc sống, sự kiện
2
đương diễn ra, nhật ký góp vào một cái tôi cá nhân không ngừng khám phá, đổi
mới. Một cái tôi khi thì đấu tranh, phản biện với chính mình, khi lại đối thoại
với chính thế sự, thời cuộc.
1.3. Chu Cẩm Phong tốt nghiệp loại xuất sắc tại Đại học Tổng hợp Hà
Nội, ông được nhà trường cử đi học nước ngoài nhưng đã xung phong vào
miền Nam chiến đấu. Trong sự nghiệp văn chương, Chu Cẩm Phong mới đi
được quãng đường ngắn ngủi chưa đầy 4 năm nhưng đã để lại nhiều tác phẩm
có giá trị, như: Mặt biển - mặt trận (truyện ký); Rét tháng Giêng (truyện ký)
và Nhật ký Chu Cẩm Phong. Những tác phẩm này như là tuyên ngôn của nhà
văn Chu Cẩm Phong trong nền văn học Việt Nam giai đoạn kháng chiến
chống Mỹ. Tên tuổi của Chu Cẩm Phong được biết đến nhiều qua cuốn nhật
ký ghi lại khoảng thời gian tác giả tham gia cuộc chiến tranh giải phóng miền
Nam mà sau này được biết đến với tên gọi Nhật ký Chu Cẩm Phong. Sau gần
30 năm kể từ ngày ông hy sinh, tập sách Nhật ký Chu Cẩm Phong (viết từ
ngày 11/7/1967 đến 27/04/1971) dày hơn 800 trang, được Nhà xuất bản Văn
học ấn hành năm 2015 đã tạo nên niềm cảm xúc sâu xa trong độc giả cả nước,
nhất là thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh. Tác giả Thanh Thảo đã coi
cuốn Nhật ký này là một tác phẩm kỳ lạ bởi lẽ: “Những người đầu tiên được
đọc cuốn nhật ký ấy lại là những người lính của chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn.
Chính họ là những người đã cất giữ bảo vệ nó cho đến ngày hoà bình bởi ở
bên kia chiến tuyến nhưng thực sự xúc động khi đọc những dòng nhật ký này,
coi đó là kỷ vật thiêng liêng, cần được gửi về nơi mà người viết tin gửi…
Cuốn sổ tay ấy là nhật ký mà cũng là một tác phẩm văn học, một tác phẩm
chân thực đến tận cùng vì chỉ viết cho riêng mình, một tác phẩm của nhà văn
lại được viết khi nhà văn không hề nghĩ mình đang viết tác phẩm. Bởi anh chỉ
muốn cuốn nhật ký này cùng lắm là làm tư liệu cho những cuốn sách mà anh
sẽ viết, nếu may mắn anh còn sống để viết” (Thanh Thảo).
3
1.4. Là một học viên cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam và là
một nhà báo công tác cơ quan Báo Thái Nguyên, tôi chọn Nhật ký Chu Cẩm
Phong để nghiên cứu với mục đích: Thứ nhất, nghiên cứu Nhật ký Chu Cẩm
Phong và một số cuốn nhật ký của các chiến sĩ cách mạng khác nhằm củng cố
kiến thức về lịch sử kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, làm nổi bất ý chí kiên
cường, lý tưởng cách mạng của quân và dân ta. Kiến thức này sẽ được bản
thân sử dụng để phục vụ nhiệm vụ tuyên truyền tới cán bộ, đảng viên và Nhân
dân về tinh thần yêu nước, yêu hoà bình; Thứ hai, với nhiệm vụ của một
người nghiên cứu văn học, tôi muốn làm sâu sắc hơn nữa về những đóng góp
của Chu Cẩm Phong và giới văn nghệ sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
mà tiêu biểu là tại chiến trường Quảng – Đà, nơi chiến sự ác liệt, vì vị trí địa
lý vô cùng quan trọng đối với công cuộc giải phóng dân tộc trước đây; xây
dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay. Từ đó khẳng định, Nhật ký Chu Cẩm Phong
là tác phẩm văn học phi hư cấu, có giá trị lớn trong việc tuyên truyền về lịch
sử cách mạng và những giá trị của văn học Việt Nam trong những năm tháng
kháng chiến chống Mỹ.
Một tác phẩm văn học kỳ lạ và có giá trị như vậy nhưng tính đến nay số
lượng các công trình nghiên cứu về nó một cách hệ thống và toàn diện lại rất
ít ỏi. Đây là lý do chúng tôi lựa chọn Nhật ký Chu Cẩm Phong để làm luận
văn nghiên cứu với mong muốn sẽ làm sáng tỏ hơn nữa những giá trị nội
dung cũng như đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm này. Từ đó góp phần
khẳng định vị trí của tác phẩm, cũng như tài năng của nhà văn Chu Cẩm
Phong trong nền văn học Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua tìm hiểu của chúng tôi, số lượng các công trình nghiên cứu chuyên
sâu về nhà văn - chiến sĩ Chu Cẩm Phong và tác phẩm của ông còn rất ít ỏi,
hầu hết là các bài viết tản mạn đăng trên một số trang báo có tính chất giới
4
thiệu ngắn gọn về cuộc đời, thân thế và đóng góp của ông với hai tư cách:
Chiến sĩ và nhà văn. Chẳng hạn, như: Nhật ký Chu Cẩm Phong đăng trong
mục tác giả xứ Quảng tháng 10/2014 đã giới thiệu ngắn gọn về thân thế, cuộc
đời của nhà văn và một số đoạn trích của tác phẩm; bài viết Chu Cẩm Phong -
bút hiệu của tình yêu đăng trên báo Công an Nhân dân; hay bài Nhật ký chiến
tranh: Vẫn còn hơi ấm bàn tay của nhà thơ Ngô Thế Oanh đăng trên trang
điện tử www.sachhay.org...
Đặc biệt có hai công trình bước đầu nghiên cứu khá sâu về tác phẩm
Nhật ký Chu Cẩm Phong nhưng chỉ dừng ở góc độ khai thác giá trị ngôn ngữ
nghệ thuật của tác phẩm. Đó là luận văn Ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký
Chu Cẩm Phong của tác giả Đỗ Thị Thu Hương (năm 2015). Trong công trình
nghiên cứu này, tác giả Đỗ Thị Thu Hương chỉ tập trung làm rõ về ngôn ngữ
nghệ thuật trong Nhật ký Chu Cẩm Phong mà ít quan tâm tới các vấn đề, khác,
như: giá trị hiện thực, tư tưởng, lý tưởng cách mạng của nhà văn, của thế hệ trẻ
lúc bấy giờ cũng như các phương diện nghệ thuật khác của tác phẩm.
Riêng công trình nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thu mang tên Nhật
ký chiến tranh qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu: Nguyễn Văn Thạc;
Đặng Thuỳ Trầm; Chu Cẩm Phong công bố tháng 12/2012 lại đi theo hướng
tìm hiểu những nét chung nhất về nhật ký chiến tranh qua ba tác phẩm, gồm:
Nhật ký Nguyễn Văn Thạc, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và Nhật ký Chu Cẩm
Phong. Là một bộ phận của công trình nghiên cứu nên tác giả Trần Thị Thu
cũng chưa nêu được toàn diện về giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật
trong Nhật ký Chu Cẩm Phong. So sánh về cấu trúc và nội dung, Nhật ký của
Nguyễn Văn Thạc và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm chiếm dung lượng lớn hơn và
có phần “lấn lướt” so với phần viết về Nhật ký Chu Cẩm Phong trong công
trình nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thu. Điều này có thể làm cho các học
5
giả, người đọc chưa nhận thức sâu sắc, toàn diện về giá trị nội dung, nghệ
thuật đích thực của Nhật ký Chu Cẩm Phong.
Có thể nói, các bài viết, công trình nghiên cứu về Nhật ký Chu Cẩm
Phong được đăng tải hoặc công bố thời gian qua mới chỉ bước đầu dừng lại ở
việc giới thiệu sách và khai thác thông tin bên lề tác phẩm, chứ chưa có một
công trình nghiên cứu nào thể hiện được những đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật của thể loại văn học đặc biệt này. Vì vậy, luận văn của chúng tôi được
thực hiện sẽ góp thêm một nghiên cứu có tính hệ thống về giá trị nội dung
cũng như nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó khẳng định rõ hơn những đóng góp
to lớn của nhà văn Chu Cẩm Phong trong dòng chảy văn học cách mạng Việt
Nam những năm kháng chiến chống Mỹ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu Nhật ký Chu Cẩm Phong trên hai phương diện nội dung và
nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm Nhật ký Chu Cẩm Phong, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt
Nam, 863 trang, năm 2015. Ngoài ra, người viết còn nghiên cứu thêm một số
nhật ký chiến tranh của các tác giả, như: Vũ Xuân, Đặng Thuỳ Trâm, Nguyễn
Văn Thạc, Dương Thị Xuân Quý… để làm cứ liệu so sánh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Chỉ ra những nét đặc sắc về nội dung tư tưởng, lý tưởng cách mạng
và hình thức nghệ thuật của Nhật ký Chu Cẩm Phong so với các cuốn nhật ký
6
chiến tranh đã được xuất bản (Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, Nhật ký Nguyễn
Văn Thạc, Nhật ký Vũ Xuân…).
- Bước đầu đưa ra những nhật xét, đánh giá về đóng góp của Nhật ký
Chu Cẩm Phong trên 2 phương diện: Lịch sử và văn học.
- Xác lập vị trí của nhà văn - liệt sĩ Chu Cẩm Phong trong nền văn xuôi
Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát Nhật ký Chu Cẩm Phong và một số tác phẩm nhật ký chiến
tranh khác.
- Nghiên cứu những đặc điểm về nội dung và nghệ thuận của Nhật ký
Chu Cẩm Phong.
- Xác định được những đóng góp của nhà văn - chiến sĩ Chu Cẩm
Phong đối với cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và sự phát triển của văn
xuôi Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
- Ngoài ra, người viết luận văn còn nghiên cứu một số lý thuyết, lý luận
làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này được nghiên cứu bằng một số phương pháp truyền thống,
khoa học, như: Phương pháp nghiên cứu lịch sử văn học; phương pháp thống
kê, phân loại; phương pháp so sách, đối chiếu; phương pháp tổng hợp;
phương pháp nghiên cứu liên ngành và một số phương pháp khác… Phương
pháp nghiên cứu lịch sử văn học được dùng để đánh giá, làm rõ hơn giá trị
của Nhật ký Chu Cẩm Phong đối với hiện thực cuộc kháng chiến chống Mỹ
mà những tài liệu, tác phẩm văn học, nghệ thuật đã công bố. Phương pháp
thống kê cung cấp cho bạn đọc những số liệu, vấn đề, địa danh, con người có
thực mà nhà văn Chu Cẩm Phong đã sử dụng trong tác phẩm này. Phương
7
pháp đối chiếu, so sánh dùng để tìm sự giống, khác biệt giữa tác phẩm Nhật
ký Chu Cẩm Phong đối với các cuốn nhật ký chiến tranh khác. Phương pháp
tổng hợp nhằm giúp người đọc nắm bắt được những thông tin, giá trị cốt lõi
của tác phẩm dài trên 800 trang mà chưa có cơ hội, thời gian đọc, nghiên cứu
Nhật ký Chu Cẩm Phong. Phương pháp nghiên cứu liên ngành được sử dùng
rất khả dụng vì đây là thể loại nhật ký nên tính chất của văn học với tính chất
của lịch sử cần đối chiếu, xem xét khi phân tích, đánh giá.
6. Đóng góp của luận văn
Nếu luận văn được thực hiện thành công, chúng tôi hy vọng có được
những đóng góp sau:
- Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu đánh giá tác phẩm Nhật ký Chu
Cẩm Phong một cách toàn diện về nội dung và nghệ thuật. Từ đó, góp phần
khẳng định và làm nổi bật vị trí, vai trò của tác giả Chu Cẩm Phong trong sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và khẳng định vị trí của tác giả trong
nền văn xuôi Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
- Luận văn còn là nguồn tư liệu hữu ích cho bạn đọc, học sinh, sinh
viên tham khảo khi nghiên cứu về văn học cách mạng nói chung và cuộc đời,
sự nghiệp của nhà văn Chu Cẩm Phong nói riêng.
- Luận văn là công trình nghiên cứu để sử dụng trong công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và
mai sau.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được xây
dựng thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết chung và tác giả Chu Cẩm Phong.
Chương 2: Hiện thực chống Mỹ qua Nhật ký Chu Cẩm Phong.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật trong Nhật ký Chu Cẩm Phong.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CHUNG
VÀ TÁC GIẢ CHU CẨM PHONG
1.1. Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
Dưới nhiều góc độ khác nhau, văn học đã khai thác, khám phá làm nổi
bật tất cả những âm điệu, cung bậc của cảm xúc con người trong sự đa dạng,
làm nên sự phong phú trong tâm hồn trước hiện thực đời sống xã hội. Với các
thể loại nổi bật, như: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch... văn chương Việt
Nam hiện đại đã hấp dẫn bao thế hệ độc giả. Nhưng với ưu thế, đặc thù, mỗi
thể loại văn học lại có sức hấp dẫn riêng. Nếu tiểu thuyết là thể loại với dung
lượng lớn về nhân vật, cốt truyện, phạm vi phản ánh thì truyện ngắn lại là
những lát cắt của cuộc sống, thơ lại nồng nàn say đắm tâm hồn người với
nhiều cung bậc cảm xúc được thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đặc trưng...
Riêng với nhật ký, khi xuất hiện, thể tài này đã khẳng định vị trí trong lòng
độc giả với những hấp dẫn riêng của nó về giọng điệu tâm tình, sự bộc lộ chân
thành và sâu lắng nhất cảm xúc suy nghĩ trong tâm hồn của người viết - mang
dấu ấn đặc biệt của cái tôi cá nhân.
Nằm trong loại thể ký, nhật ký nói chung và nhật ký chiến tranh nói
riêng đều mang những nét đặc điểm chung của thể loại. Đồng thời, nhật ký có
nét riêng độc đáo góp phần làm nên sự phong phú của văn chương nghệ thuật...
1.1.1. Thể loại nhật ký
Theo Từ điển thuật ngữ văn học [38] thì nhật ký “là một thể loại thuộc
loại hình ký”, xuất hiện ở châu Âu khi có sự gia tăng chú ý đến thế giới nội
tâm của con người do nhu cầu tự bộc bạch. Thể loại này phát triển cực thịnh
vào thế ký XIX. Ở Việt Nam, thể ký ra đời muộn, có thể lấy điểm mốc cho sự
xuất hiện của thể loại này ở thời Lý - Trần với Vũ trung tùy bút của Phạm
9
Đình Hổ và Thượng kinh ký sự Lê Hữu Trác. Cũng như ở phương Tây, thể ký
ở Việt Nam được coi là thể loại mở đường dẫn tới sự phát triển rực rỡ của chủ
nghĩa hiện thực trong văn học nghệ thuật. Qua nhiều giai đoạn lịch sử, ký
cũng có những biến thể cho phù hợp với xu thế phát triển của văn học. Nhật
ký chính là một dạng biến thể của ký hiện đại bên cạnh hồi ký, tùy bút, tản
văn, phóng sự...
Từ điển văn học (Bộ mới)[39] định nghĩa nhật ký là “Loại văn ghi
chép sinh hoạt thường ngày. Trong văn học, nhật ký là hình thức trần thuật từ
ngôi thứ nhất số ít, dưới dạng những ghi chép hàng ngày có đánh số ngày
tháng (...) bao giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải,
thể nghiệm; nó ít hồi cố; được viết ra chỉ cho bản thân người ghi chứ không
tính đến việc được công chúng tiếp nhận”[39, tr 1257]. Từ điển thuật ngữ
văn học cũng coi nhật ký là “một thể loại thuộc loại hình ký” hay “là hình
thức tự sự ở ngôi thứ nhất được thực hiện dưới dạng những ghi chép hàng
ngày theo thứ tự ngày tháng về những sự kiện của đời sống mà tác giả hay
nhân vật chính là người trực tiếp tham gia hay chứng kiến”[38, tr 204]. Giáo
trình Lý luận văn học, tập 2:Tác phẩm và thể loại văn học do GS.Trần Đình
Sử chủ biên[44] thì định nghĩa như sau: “Nhật ký là thể loại ký ghi chép sự
việc, suy nghĩ, cảm xúc hàng ngày của chính người viết, là những tư liệu có
giá trị về tiểu sử và thời đại của người viết”[44, tr 261]. Như vậy, có thể nói
rằng, nhật ký chính là những ghi chép của cá nhân về những sự kiện, những
cảm xúc, suy nghĩ trước những sự kiện xảy ra trong ngày.
1.1.2. Đặc trưng của thể loại nhật ký
Là một biến thể của ký, nhật ký mang những nét đặc điểm chung nhất
của ký, đồng thời lại có điểm riêng biệt, làm nên sức thu hút riêng của thể
loại. Với thể ký - thể loại được coi là ghi chép sự việc, thì tính xác thực của
việc ghi chép được xem là đặc trưng quan trọng nhất của thể loại. Nhật ký
10
cũng vậy, cho dù là nhật ký văn học hay các loại nhật ký ngoài văn học thì
đều coi trọng tính chân thực, đáng tin cậy của sự kiện được ghi chép lại, vì
một cuốn nhật ký trước hết chính là sự giao lưu của người viết với chính bản
thân họ, bao giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải, đã
thể nghiệm. Với các thể loại nhật ký ngoài văn học thì tính xác thực là yếu tố
quan trọng hàng đầu, ví dụ như một cuốn nhật ký công tác hay nhật ký khoa
học đòi hỏi một sự chính xác cao, hay với nhật ký riêng tư yếu tố bí mật là
yếu tố quan trọng vì đó là những lời bộc bạch tâm sự của chủ thể không
hướng tới mục đích quảng bá nên những gì viết ra luôn chân thực. Điển hình
như nhật ký “Ở rừng” của Nam Cao là những ghi chép chân thực những ngày
tháng gian khổ mà đầy ý nghĩa trong ngày đầu hoạt động cách mạng của nhà
văn. Đó cũng là những gian khổ, khó khăn thách thức các văn nghệ sĩ trong
việc nhận thức và giác ngộ lý tưởng, trách nhiệm, hướng tới mục tiêu sáng tạo
văn chương phục vụ cách mạng, phục vụ mục tiêu giải phóng con người khỏi
áp bức, bóc lột, tù tội của đế quốc... Tác phẩm thành công bởi trong nó chứa
đựng những cảm xúc chân thành của người viết thể hiện tư tưởng, tình cảm và
cái nhìn bao quát mọi sự vật, sự việc. Hay tập Nhật ký trong tù của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy được bộ mặt tàn ác của kẻ thù, với những
gian khổ, thiếu thốn đủ điều, nhưng qua đó cũng toát lên vẻ đẹp của tinh thần
lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ - thi sĩ cách mạng. Tính xác thực của
nhật ký cũng có nét tương đồng với hồi ký, tuy nhiên nếu như hồi ký có thể
có yếu tố hư cấu những khi thể hiện thái độ, những sự việc mà nhân vật trải
nghiệm nhằm làm nổi bật hơn chủ đề của tác phẩm thì với nhật ký, yêu cầu về
tính xác thực rất khắt khe. Vì hư cấu trong nhật ký là điều tối kị. Người viết
nhật ký không được phép hư cấu thêm tình tiết. Hư cấu ở nhật ký chẳng khác
với sự phản bội chính bản thân mình, lừa dối chính mình.
11
Nhật ký chính là lời tâm sự, bộc bạch của tác giả hay nhân vật những
lúc cô đơn, muốn tự mình chiêm nghiệm lại những gì đã xảy ra. Vì thế, có thể
nói, nhật ký chính là thể loại ký mang tính chất riêng tư, tính chân thật và rất
đời thường. Riêng tư chính là lý do tồn tại của nhật ký, là yếu tố hấp dẫn của
thể loại văn học đặc biệt này, vì nó liên quan đến những tâm tư, tình cảm, bí
mật của cá nhân, đặc biệt là những nhân vật được xã hội quan tâm. Trong quá
trình nghiên cứu về nhật ký, các học giả đều quan niệm về nhật ký: Nếu như
người viết nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình thì đọc cuốn nhật ký đó sẽ
chân thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất. Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào
đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà thực sự họ có. Nhưng nếu nhật ký mà có
thế có người xem nữa thì nó sẽ khác và khác nhiều - Họ không dám nói thật,
nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày, không dám nói hết và đúng
những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén trong lòng họ. Mà đó chính là điều
tối kị khi viết nhật ký. Phải chăng, vì độ chân thực của những cuộc hành quân,
của tâm tư tình cảm chảy tràn trong từng con chữ của Chu Cẩm Phong mà
những trang nhật ký đã cuốn hút người đọc cho dù nhận thức, quan điểm về lý
tưởng, mục tiêu cuộc sống của những con người ở chiến tuyến khác nhau
nhưng vẫn vô cùng trân trọng.
Nhật ký là thể loại độc thoại, tự mình nói với mình, vì thế chúng ta luôn
thấy tác giả hay nhân vật luôn giữ ngôi thứ nhất. Nếu trong các thể loại như
phóng sự, tùy bút, bút ký..., trung tâm thông tin không phải là tác giả mà là
các vấn đề xã hội, thì ở nhật ký văn học, người viết luôn là trung tâm. So với
các thể loại khác, nhật ký văn học bao quát, quán xuyến toàn bộ tác phẩm.
Tác giả không ngại ngần xuất hiện trong từng chi tiết nhỏ nhất và chính sự có
mặt của cái tôi ấy đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra niềm tin của công
chúng vì họ tin rằng đang được nghe kể về những sự thật mà tác giả là người
trực tiếp chứng kiến. Tuy nhiên, có những khi lời độc thoại của tác giả hay
12
nhân vật lại chính là một cuộc đối thoại ngầm với người khác về con người và
cuộc đời nói chung, về bản thân mình nói riêng. Hình tượng tác giả trong nhật
ký văn học là hình tượng mang tầm khái quát tư tưởng thẩm mĩ lớn lao.
Nhật ký ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc theo ngày tháng ở thì hiện
tại, có thể liên tục nhưng cũng có thể ngắt quãng tùy vào người ghi. Nếu như
ở hồi kí là sự ghi chép thời gian đã qua, thời gian quá khứ bằng cách hồi cố,
hồi tưởng lại thì nhật ký ghi chép bằng thời gian hiện tại. Có thể ngắt quãng,
nhưng chắc chắn thời gian phải là thời gian của hiện tại, không thể ở thời
điểm ghi nhật ký mà ghi hộ cho thời điểm trước hay sau đó được.
Đặc điểm lời văn của nhật ký là sự ngắn gọn, tự nhiên bởi nó là lời nói
bên trong, là tiếng nói nội tâm về những sự việc riêng tư, những tâm sự thầm
kín, ý nghĩa thành thực; vì thế lời văn thường kết hợp linh hoạt giữa tự sự và
trữ tình, giữa ngôn ngữ đời thường và giọng văn trữ tình mượt mà.
Thông thường, nhật ký được viết bằng văn xuôi nhưng đôi lúc nhật ký
lại xuất hiện như là một truyện ngắn, như Nhật ký người điên của Lỗ Tấn, hay
có thể được thể hiện dưới hình thức một tập thơ, như Nhật ký trong tù của Hồ
Chí Minh.
Văn chương góp phần không nhỏ vào việc tái hiện chân dung cuộc
sống, trải qua những biến cố, thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước
những thế hệ người dân Việt Nam đều được biết đến qua những tác phẩm
nghệ thuật đi cùng năm tháng của các nhà văn: Nguyễn Thi, Anh Đức, Phan
Tứ, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Chu Lai..., hay bắt gặp tinh thần bất
khuất, quật cường, sẵn sàng vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, luôn lạc quan
yêu đời. Nhật ký cũng đóng góp phần không nhỏ tạo nên sức hút với công
chúng yêu văn chương về những ngày tháng hào hùng của dân tộc. Trước
những năm 1986, nhiều tác phẩm ký xuất hiện, nhưng theo thời gian nó phần
nào lại trở nên mờ nhạt như Ký sự miền đất lửa của Nguyễn Sinh - Vũ Kỳ
13
Lân, hay các tác phẩm ký của Nguyễn Ngọc Tấn. Tiếp đó là những trang nhật
ký Viết dưới chiến hào của Hoàng Thượng Lân, được trích đăng trên các báo
Quân đội Nhân dân, Tiền Phong, Nhân dân vào đầu những năm bảy mươi...
Tuy nhiên, các tác phẩm đó chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của đông
đảo công chúng cũng như giới nghiên cứu. Phải đến những năm gần đây, đặc
biệt với sự xuất hiện của các cuốn nhật ký của nữ bác sĩ - liệt sĩ Đặng Thùy
Trâm, liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, liệt sĩ Chu Cẩm Phong, liệt sĩ Vũ Xuân, với
khả năn gây xúc động trong lòng bạn đọc cùng với sức lan tỏa mạnh mẽ sâu
rộng đến toàn thể các giai tầng trong xã hội cũng như sức ảnh hưởng sâu sắc
đến giới nghiên cứu văn chương nghệ thuật, thể loại nhật ký đã tạo được chỗ
đứng quan trọng trên văn đàn.
Những cuốn nhật ký trên có thể được coi là một kỳ tích trong việc phát
hiện và lưu giữ tư liệu văn học – lịch sử. Đặc biệt là với Nhật ký của Chu Cẩm
Phong, cũng giống với nhật ký của Đặng Thuỳ Trâm, số phận, hành trình bản
thảo của cuốn sách đã tạo sự xúc động mạnh mẽ với những ai đã từng đọc
chúng. Sự xuất hiện hàng loạt tác phẩm đã được xuất bản đã tạo ra một một cao
trào về dư luận nói chung cũng như sự đón nhận nói riêng về nhật ký chiến
tranh. Những cuốn sách như Nhật ký Chu Cẩm Phong, Tài hoa ra trận của
Hoàng Thượng Lân, Nhật ký chiến trường của Dương Thị Xuân Quý, Đường
về của Phạm Thiết Kế, Nhật ký chiến tranh của Trình Văn Vũ... đã đem đến
những giá trị đặc sắc, để lại những vị trí riêng trong lòng người đọc.
Trong luận văn này, tôi đã lựa chọn cuốn Nhật ký của Chu Cẩm Phong
- tác phẩm được coi là ấn tượng nhất trong thể tài nhật kí với sự hội tụ đầy đủ
những đặc điểm tiêu biểu của thể loại này, đại diện cho dòng sách viết về
chiến tranh với đặc điểm thi pháp chịu sự quy định, ràng buộc của điều kiện
chiến tranh. Đó là những dòng tâm sự, suy nghĩ, tình cảm chân thật của những
con người đã trực tiếp sống và chiến đấu, hy sinh quên mình vì lý tưởng của
14
tuổi trẻ. Nếu như những dòng tâm sự của nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm về
những khó khăn, gian khổ, mất mát nơi mảnh đất Đức Phổ được viết một cách
chân thực, đơn giản, mộc mạc, thì những trang văn viết về con người và tình
cảm gắn bó sâu nặng mối tình quân - dân, khí thế hào hùng, tinh thần quật
khởi, hiên ngang của quân dân miền Nam đánh Mỹ, sự tàn khốc, đau thương,
mất mát, ly biệt của chiến tranh lại được lột tả qua ngòi bút của Chu Cẩm
Phong một cách vừa thực, vừa mộc mạc nhưng cũng luyến láy, say mê qua
ngòi bút của một người có nghề viết, với chất đặc trưng của sinh viên văn
khoa được đào tạo ở cơ sở giáo dục lớn nhất Việt Nam lúc bấy giờ. Do vậy,
Nhật ký Chu Cẩm Phong đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
So sánh tiếp những trang nhật ký viết về những ngày tháng huấn luyện đầy
gian khổ của chàng trai đất Hà thành Nguyễn Văn Thạc hay chàng trai ở miền
trung du đất chè, đất thép Thái Nguyên - Vũ Xuân, chúng ta thấy có sự tương
đồng và khác biệt với Chu Cẩm Phong. Tất cả các cuốn nhật ký đều được ghi
chép đầy đủ, chi tiết và chân thật về hiện thực chiến tranh với những trang
nhật ký đặt sâu dưới đáy ba lô khi các chiến sĩ trải qua những cuộc hành quân
gian khổ, nhưng đối với tác phẩm của Chu Cẩm Phong, anh có lợi thế mà ít
nhà văn nào có được khi được đào tạo bài bải về nghiệp vụ viết văn ở một cơ
sở giáo dục uy tín bậc nhất quốc gia lúc bấy giờ là Trường đại học Tổng hợp,
với nguồn tư liệu được tổng hợp, chi tiết hóa trên bước đường anh hành quân.
Đó là những con người, những mảnh đất, những sự kiện anh được tự mình
mắt thấy, tay nghe, không bao giờ lặp lại…
Có thể nói, cuốn nhật ký kể trên là tài sản tinh thần vô giá của mà Chu
Cẩm Phong để lại cho đời. Nó là người bạn tâm tình để Chu Cẩm Phong trút
bầu tâm sự, nỗi nhớ nhung tha thiết, hay thể hiện thái độ yêu - ghét cùng
những suy tư, trăn trở của mình trước cuộc đời người lính... Nhật ký Chu Cẩm
Phong đã cho chúng ta và những thế hệ mai sau một cái nhìn rõ nét nhất, chân
15
thực nhất về những gì cuộc chiến đã đi qua với sự cống hiến, hy sinh xương
máu của các thế hệ cha anh. Những người chiến sĩ như Chu Cẩm Phong đã hi
sinh bản thân với lý tưởng sống cao đẹp của một thế hệ thanh niên sẵn sàng
chiến đấu quên mình vì sự nghiệp chung của dân tộc. Với đặc điểm riêng về
thể loại, có thể coi nhật ký của các chiến sĩ cách mạng nói chung, Nhật ký
Chu Cẩm Phong nói riêng là những thước phim quay chậm, cận cảnh, tái hiện
một cách chân thực và sinh động về hiện thực khốc liệt chiến trường những
ngày tháng hào hùng của dân tộc.
Dòng sách viết về nhật ký chiến tranh, mà đặc biệt là cuốn Nhật ký Chu
Cẩm Phong – tác phẩm người thưch hiện luận văn chọn để triển khai đề tài
này đã hội tụ đầy đủ những đặc điểm chung nhất về thể loại nhật ký. Với việc
đưa ra những minh chứng với các chi tiết, các biến cố, sự kiện đã xảy ra bằng
những hình ảnh sống động qua từng ngày tác giả đã viết, tác giả đã cho chúng
ta nhìn thấy cuộc chiến như đang hiện hữu trước mắt. Người đọc có thể hình
dung ra những chặng đường hành quân vất vả, những ngày tháng huấn luyện
gian khổ trong cuốn Nhật ký Chu Cẩm Phong mà không ngày nào giống ngày
nào. Bối cảnh chung trong những trang nhật ký của Chu Cẩm Phong là sự
thiếu thốn thường trực về vật chất, bệnh tật, những chuyến công tác nguy
hiểm khi người chiến sĩ có thể ngã xuống vĩnh viễn bất cứ lúc nào, những nỗi
niềm day dứt làm sao để hoàn thành nhiệm vụ.v.v..
Bên cạnh yếu tố chân thực thì Nhật ký Chu Cẩm Phong còn mang
những đặc điểm chung của thể loại, đó là lời tâm sự, độc thoại hay đối thoại
với chính bản thân. Những lời tâm sự, nỗi nhớ nhung gia đình, bạn bè, những
cảm nhận về tình bạn, tình yêu, tình đồng chí... đều được thể hiện rõ trong
cuốn nhật ký này. Tất cả đều toát lên một điểm thống nhất trong Nhật ký Chu
Cẩm Phong, đó là những tiếng nói bên trong, tiếng nói nội tâm, lời tâm sự
chân thành của cá nhân tác giả trong từng trang nhật ký.
16
Có thể thấy, có sự khác biệt ở hoàn cảnh ra đời của những cuốn nhật ký
chiến tranh so với những cuốn nhật ký thông thường khác. Những cuốn nhật ký
chiến tranh thường là những dòng ghi chép vội vàng, ngắt quãng trong lúc giải
lao sau cuộc hành quân vất vả, bàn viết có thể là những chiếc ba lô trong điều
kiện thiếu thốn, nhiều khi giấy và mực cũng có khi trở thành thứ hiếm hoi, khó
kiếm. Trong Mãi mãi tuổi hai mươi, Nguyễn Văn Thạc phải dừng sở thích viết
nhật ký lại vì bút hết mực hay vì những trận chạy càn. Việc cứu chữa thương
binh cũng khiến nữ bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm phải tạm thời dừng cảm xúc của
mình. Đối với Chu Cẩm Phong cũng vậy, có khi căn bệnh sốt rét và cái đói
hành hạ nơi chiến trường cũng khiến nhà văn - chiến sĩ Chu Cẩm Phong đành
phải bỏ dở những ý tưởng hay, bỏ lỡ kế hoạch sáng tác văn nghệ phục vụ
kháng chiến. Với nhật ký thông thường thì tác giả có thời gian ghi chép liên tục
theo ngày tháng, theo tâm trạng hay những lúc hứng thú, nhưng với nhật kí
trong chiến tranh thì tác giả lại phải đối mặt với những thử thách không thể
lường trước của hoàn cảnh chiến trận.
Không những thế, những cuốn nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong
cũng như những cuốn nhật ký chiến trường khác đều được viết ở những nơi
nguy hiểm, những nơi bom đạn tàn phá kinh hoàng, cái chết luôn cận kề và có
thể đến bất cứ lúc nào. Dường như, họ đã mang sẵn trong mình tâm lý sẵn
sàng chiến đấu và hy sinh bất kỳ lúc nào, cho nên những trang nhật ký họ
cũng đã có những lời nhắn nhủ tới người thân yêu, tới bạn bè đồng chí nếu
chẳng may họ ngã xuống. Vì thế, nhật ký chiến tranh luôn chứa đựng giọng
điệu trăn trối nhưu thể một di chúc đặc biệt. Trong cuốn nhật ký của mình,
Đặng Thùy Trâm đã nhắn gửi Thuận - người em kết nghĩa: “... Chị gửi ba lô
cho em, trong đó có quyển sổ”, “muốn nói tiếp rằng nếu chị không về nữa thì
nhờ em giữ quyển sổ đó và sau này gửi về gia đình”, “Ngày mai trong tiếng
ca khải hoàn sẽ không có con đâu. Con tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho
17
Tổ quốc. Dĩ nhiên con cũng cay đắng vì không được sống tiếp tục cuộc sống
hòa bình hạnh phúc mà mọi người trong đó có con đã đổ máu xương để giành
lại. Nhưng có gì đâu, hàng triệu người như con đã ngã xuống mà chưa hề
được hưởng trọn lấy một ngày hạnh phúc, cho nên có ân hận gì đâu...”.
Đây cũng là đặc điểm chung của những cuốn nhật ký chiến tranh. Bản
thân họ - những người trong cuộc cũng không thể đoán biết được ngày mai sẽ
ra sao. Cái chết không hề hẹn trước và sẽ đến với họ vào bất cứ lúc nào, vì thế
những dòng nhật ký được xem như những người bạn tâm tình thân thiết nhất
của họ trong những lúc nhớ nhà, nhớ người yêu với những lời tâm sự, nhắn
nhủ đầy thiết tha, nghĩa tình.
1.1.3. Phân loại thể nhật ký
Tùy vào tính chất, mục đích mà người ta phân loại theo những thể khác
nhau của nhật ký. Rõ ràng nhất là sự phân chia nhật ký văn học và nhật ký
ngoài văn học. Các loại nhật ký ngoài văn học như: nhật ký riêng tư, nhật ký
khoa học, nhật ký công tác… không nhằm công bố rộng rãi, chỉ viết dành cho
mục đích cá nhân; đơn thuần chỉ ghi chép lại những sự việc xảy ra với cá
nhân chứ không quan tâm đến những vấn đề, những sự kiện xảy ra với ý
nghĩa xã hội rộng lớn, ý nghĩa nhân bản. Vì thế, nhật ký ngoài văn học thường
không thu hút được sự quan tâm của đông đảo người tiếp nhận cũng như giới
nghiên cứu văn học, không có tầm ảnh hưởng lớn. Còn nhật ký văn học
thường hướng tới các chủ đề nhất định và có sự ưu tiên chú ý đến thế giới nội
tâm của tác giả hoặc của các nhân vật trước những sự kiện lớn có ý nghĩa
không chỉ với cá nhân mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội; nhật ký văn
học thường được viết ra nhằm hướng tới đông đảo công chúng. Bên cạnh đó
có những cuốn nhật ký riêng tư viết không nhằm làm văn, không hướng tới
đông đảo công chúng và không chủ định xây dựng hình tượng văn học, song
một khi nó “thể hiện được một thế giới tâm hồn, khi qua những sự việc và
18
tâm tình của cá nhân, tác giả giúp người đọc nhìn thấy những vấn đề xã hội
trọng đại” thì nó đã mang trong mình phẩm chất văn học.
Năm 2005 có thể được coi là một năm đáng nhớ của văn học Việt Nam,
với sự xuất hiện của hai cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn
Thạc và Nhật ký Đặng Thùy Trâm, đã gây nên hiệu ứng lớn lao trong toàn xã
hội. Đặc biệt là với văn hóa đọc, tưởng chừng sách in đã bị xem nhẹ khi có sự
xuất hiện của các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, cuốn sách này đã
được tái bản rất nhiều và sự ảnh hưởng sâu rộng của nó khiến các nhà nghiên
cứu văn chương buộc phải có cái nhìn nghiêm túc về thể loại văn học đặc biệt
này để giúp độc giả nhận thức được vấn đề của thời đại, của lịch sử, những gì
mà quá khứ đã đi qua cùng những dư âm của nó còn đọng lại đến tận hôm nay.
Xuất hiện muộn hơn nhưng Nhật ký Chu Cẩm Phong cũng tạo được vị trí riêng
bởi ngoài những điều được thể hiện trong những cuốn nhật ký xuất bản trước,
cuốn sách này lại có bản sắc riêng về cách thể hiện, nhất là ngôn ngữ nghệ
thuật. So sánh chỉ ở mức độ, còn tựu chung lại những cuốn nhật ký của những
chiến sĩ giải phóng quân đại diện cho hàng triệu thanh niên Việt Nam lúc đó đã
viết lên những điều sâu thẳm để phục vụ mục đích cá nhân người viết chứ
không hề có ý định phát hành thành sách phục vụ công chúng. Nhưng trên thực
tế, sự xuất hiện của chúng lại tạo ra một sức lan tỏa rộng lớn thực sự hấp dẫn
độc giả.
Theo tiêu chí phân loại của Từ điển thuật ngữ văn học, về mục đích sử
dụng của nhật ký thì những cuốn nhật ký trên được viết chỉ để dành riêng cho
bản thân mà không hề có ý định phổ biển rộng rãi. Do đó, đây đích thực là thể
tài ngoài văn học, là loại nhật ký riêng tư. Nhật ký riêng tư là loại nhật ký gần
gũi với nhật ký văn học hơn cả. Tuy nhiên, cũng theo sự phân chia của cuốn
từ điển trên thì “điểm khác nhau cơ bản là ở chỗ nhật ký văn học thường
hướng về một chủ đề nhất định và có sự ưu tiên chú ý đến nội tâm của tác giả
19
hoặc nhân vật trước những vấn đề, những sự kiện có ý nghĩa xã hội nhân bản
rộng lớn”. Trong ba cuốn nhật ký mà luận văn lựa chọn, các tác giả - chiến sĩ
- liệt sĩ tuy viết về những sự kiện, những vấn đề suy nghĩ của cá nhân mình
song đều liên quan đến một sự kiện vô cùng trọng đại của dân tộc - đó là cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Vì sự kiện trung tâm, trọng đại và lâu dài đó, nhật ký
của các tác giả trên là những dòng cảm xúc, suy nghĩ được ghi vội nơi chiến
trường ác liệt của các chiến sĩ - thi sĩ - nhà văn giữa mưa bom bão đạn, khốc
liệt của chiến tranh.
Có một điều đặc biệt, không giống như Đặng Thùy Trâm và Nguyễn
Văn Thạc, Vũ Xuân…, Chu Cẩm Phong ra trận với tư cách là một nhà văn,
mang trong mình tư chất của một người nghệ sĩ, anh ra trận thực hiện nhiệm
vụ là sáng tác văn nghệ phục vụ chiến tranh. Từ một địa hình gần bờ sông
Thu Bồn thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, nhà văn Chu Cẩm Phong đã
xếp lại cuốn nhật ký đang ghi dở dang và cầm súng chuẩn bị chiến đấu. Cuốn
nhật ký đã vĩnh viễn dừng lại ở dòng chữ “10 giờ, 2 chiếc phản lực đến thả
bom và bắn đạn 20 ly, sau đó quân bộ kéo sang” (ngày 27/4/1971). Đúng ba
ngày sau, anh đã hy sinh khi bị địch khui hầm. Anh và đồng đội đã anh dũng
chống trả quyết liệt đến viên đạn cuối cùng, cuốn nhật ký vẫn lặng lẽ nằm yên
trong ba lô, lẽ ra số phận của nó đã bị chôn vùi trong đất nếu không có hai sĩ
quan bên kia chiến tuyến đã lưu giữ nó trong suốt 4 năm trời để rồi đến ngày
giải phóng đã được trao tận tay một đồng đội của anh, nhà thơ Bùi Minh
Quốc. Cuốn nhật ký có số phận đặc biệt đã thực sự thu hút đốỉ với người lính
đó thậm chí anh đã bọc và vẽ lên đó hình một cái cây mọc thẳng dưới mặt
trời. Bởi một điều đơn giản, cuốn sổ tay ấy là nhật ký mà cũng là một tác
phẩm văn học, một tác phẩm chân thực đến tận cùng vì chỉ viết cho riêng
mình, một tác phẩm của nhà văn lại được viết khi nhà văn không hề nghĩ
mình đang viết tác phẩm: Chu Cẩm Phong chỉ muốn ghi lại cuộc chiến mà
20
anh trực tiếp dấn thân, ghi lại những gì anh đã thấy, đã nghĩ, đã xúc cảm
mãnh liệt về Nhân dân, về đồng đội hay chỉ đơn giản rằng nó sẽ trở thành một
tư liệu quý giá cho những tác phẩm sau này nếu may mắn còn sống sót thì anh
sẽ viết. Ngã xuống khi chưa tròn 4 tuổi văn, chưa kịp bộc lộ hết tài năng,
nhưng những gì anh để lại đều gây ấn tượng đối với độc giả, tác phẩm nào
cũng đáng nhớ. Mỗi tác phẩm là sự chân thành, là khát khao cháy bỏng của
cảm xúc. Với Nhật ký Chu Cẩm Phong những dòng viết tươi ròng, liền mạch,
chân thật và mềm mại... đã làm cho tác phẩm có sức sống bất diệt. Với những
đóng góp lớn lao đó, tháng 5 năm 2011, Hội Nhà văn Việt Nam đã long trọng
tổ chức Lễ tưởng niệm nhà văn liệt sĩ - Anh hùng lực lượng vũ trang Chu
Cẩm Phong.
Như vậy, nhật ký chiến tranh không những có đóng góp lớn về mặt thể
loại mà còn mang đến sự mới lạ cho đời sống văn học, tác động mạnh mẽ và
ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn con người với hiệu ứng xã hội tích cực. Đặc
biệt là trong nhận thức của giới trẻ hiện nay. Sự có mặt của cuốn Nhật ký Chu
Cẩm Phong và nhật ký của các chiến sĩ cách mạng khác xuất bản vừa qua là
minh chứng lịch sử nhắc nhở các thế hệ người Việt Nam về một thời kỳ đau
thương mà hào hùng của dân tộc và công lao to lớn của thế hệ cha anh đi
trước đã cống hiến, hy sinh vì lý tưởng tuổi trẻ vì nền độc lập của Tổ quốc.
1.2. Nhà văn Chu Cẩm Phong
1.2.1. Vài nét về tiểu sử nhà văn Chu Cẩm Phong
Chu Cẩm Phong tên thật là Trần Tiến, sinh ngày 12 tháng 8 năm 1941
tại Hội An (Quảng Nam), là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1954, Chu
Cẩm Phong theo cha tập kết ra Bắc và theo học tại trường học sinh miển
Nam, sau đó là Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1964, ông tốt nghiệp đại học
loại xuất sắc, được nhà trường cử đi học tại nước ngoài nhưng đã xung phong
vào miền Nam chiến đấu. Trong thời gian này, ông công tác tại Ban Tuyên
21
huấn Khu V, làm phóng viên thông tấn rồi chuyển sang làm việc tại Tiểu ban
Văn nghệ Khu V công tác trên toàn tuyến Mặt trận Quảng Nam, Đà Nẵng
(còn có tên là Quảng Đà).
Ngày 1 tháng 5 năm 1971, trong một chuyến đi thực tế, Chu Cẩm Phong
hy sinh anh dũng trong trận đánh ác liệt diễn ra từ 10 giờ đến 14 giờ giữa 8
cán bộ, chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và du kích tại thôn
Vinh Cường, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên với hơn một tiểu đoàn của liên
quân Mỹ và chư hầu. Vì sự dũng cảm và những cống hiến to lớn của mình
cho cuộc kháng chiến vĩ đại, năm 2010, Chu Cẩm Phong được Nhà nước truy
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong thời gian công
tác và sáng tác ngắn ngủi của mình, Chu Cẩm Phong cũng đã để lại nhiều tác
phẩm như: Mặt Biển - Mặt trận (truyện ký); Rét tháng Giêng (truyện và ký);
Nhật ký chiến tranh và một số tác phẩm ký và truyện khác. Những tác phẩm
này là sự đúc kết những trải nghiệm, hiện thực sống động và khắc nghiệt của
chiến trường.
Đặc biệt, sau gần 30 năm kể từ ngày chiến sĩ Chu Cẩm Phong hy sinh, tập
sách Nhật ký Chu Cẩm Phong (viết từ ngày 11 tháng 7 năm 1967 đến 27 tháng 4
năm 1971) dày hơn 800 trang, được NXB Văn học ấn hành đã tạo nên niềm cảm
xúc sâu xa trong độc giả trong, ngoài nước, nhất là thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên
sau chiến tranh. Chu Cẩm Phong được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn
học Nghệ thuật năm 2007. Những kỷ niệm về Chu Cẩm Phong luôn được các
nhà văn, đồng đội của anh gìn giữ và trân trọng như báu vật.
1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Chu Cẩm Phong
Ngay sau khi tốt nghiệp đại học, nhập ngũ, tham gia huấn luyện, Chu
Cẩm Phong đã vào chiến trường Quảng Đà. Chu Cẩm Phong đi nhiều và luôn
đi phía trước, rất xông xáo. Anh luôn muốn đến cho bằng được những nơi
chiến tranh ác liệt nhất để viết lại tinh thần chiến đấu anh dũng, miệt mài sản
22
xuất của quân dân miền Trung Trung Bộ. Năm 1966 anh có mặt ở Hoà Hải,
một xã trọng điểm, có số lính Mỹ đông bằng số dân nhưng nhân dân và lực
lượng vũ trang lại là ngọn cờ tiêu biểu trên vành đai diệt Mỹ bao quanh Đà
Nẵng. Trên một mảnh đất như vậy, người làm tuyên truyền, viết văn muốn
cầm bút cho vững đương nhiên cũng phải biết cầm súng và thích nghi được
với nếp sống đặc biệt của một thế trận nguy hiểm vì địch và ta xen kẽ như da
báo. Chu Cẩm Phong mau chóng thích nghi và thích nghi thuần thục, anh
cũng như các cán bộ địa phương, ngày vào hầm bí mật, đêm đội nắp hầm lên
đi gặp dân làm công tác phát động, xây dựng lực lượng. Năm 1967, Chu Cẩm
Phong xuống vùng đông Sơn Tịnh (tỉnh Quảng Ngãi). Xuân - hè năm 1968
anh về vùng ven Hội An. Xuân - Hè năm 1969, anh bám đất Thăng Bình (tỉnh
Quảng Nam). Đây là xã đánh Mỹ tiêu biểu được tuyên dương Anh hùng. Tiếp
đó, Chu Cẩm Phong trở lại Hoà Hải khi cuộc vật lộn giữa ta và địch ở đây ác
liệt hơn bao giờ hết. Để hoạt động được trong lòng địch, có lần anh đã phải
mặc trang phục giả phụ nữ để theo các em gái giao liên vượt qua những đoạn
đường sát địch giữa ban ngày. Lần đó anh cùng một phóng viên quay phim và
một phóng viên ảnh thoát chết nhờ sự hy sinh anh dũng của 4 nữ chiến sĩ giao
liên. Hè - thu năm 1970, anh lên sống với đồng bào các dân tộc vùng cao
huyện Nam Giang (miền tây Quảng Nam), giáp biên giới Việt Lào.
Chu Cẩm Phong luôn là con người mẫu mực về sức chịu đựng và lòng
can đảm, nhận gian khổ, hiểm nguy về mình. Đi vùng sâu hay trong những
chuyến vượt đường rất dễ đụng các ổ phục kích của giặc, anh đi trước, sát gót
giao liên. Nơi cơ quan Văn nghệ khu V đóng trụ sở nhưng năm 1968, 1969,
1970 và nửa đầu năm 1971 đói đứt bữa nên Chu Cẩm Phong và đồng đội triền
miên thiếu đói,n phải ăn rau, củ, quả mọc tự nhiên trong rừng và các anh phải
phát rẫy tăng gia sản xuất. Nhật ký của Chu Cẩm Phong ghi ngày 24-2-1971:
“Chạy đổi ít lon gạo ăn mấy ngày nay, hôm nay chỉ còn 19 lon. Bọn mình tối
23
qua họp Chi uỷ bàn nhiều chuyện trong đó có chuyện sử dụng 19 lon gạo.
Quyết định của bọn mình thế này: trích 5 lon bồi dưỡng cho Tam vừa đi bệnh
viện về, còn 14 lon giao cho y tá giữ để dành có ai ốm thì ăn cháo. Bắt đầu từ
nay cả cơ quan lại ăn sắn mỗi ngày ba bữa”. Khó khăn là vậy nhưng trừ
những khi ốm đau không dậy được còn ngày nào Chu Cẩm Phong cũng viết.
Anh viết bất cứ đâu, khi trong hầm dưới anh đèn mù mờ, khi bên bờ suối, viết
cả lúc tiếng đạn pháo của địch bắn ầm ào. Lúc khỏe, cảm giác tốt, Chu Cẩm
Phong viết liền mạch cả chục trang giấy, có khi ốm yếu anh chỉ viết vài dòng
để nhắc nhở bản thân không quên nhiệm vụ của một cán bộ tuyên huấn chiến
đấu bằng ngòi bút. Ngày 23-7-1967, anh viết: “Cũng lạ, hầu như không có
thuốc điều trị mà hôm nay mình thấy đỡ trong người. Từ hôm qua mình đã cố
gắng viết vài dòng để luyện tay với tất cả nghĩa đen và nghĩa bóng của nó,
với ý nghĩa thể thao và ý nghĩa nghệ thuật. Mình có thể ăn vài miếng cơm và
ra sân không cần phải chống gậy nữa”.
Chu Cẩm Phong hăm hở đi cơ sở, xâm nhập cả vùng địch chiếm để lấy
tư liệu, cảm nhận cuộc sống lao động sản xuất, chiến đấu của nhân dân.
Nhưng anh cũng sẵn sàng nén lòng ở lại căn cứ làm nhiệm vụ để cho anh em
khác được đi. Khi ở cơ quan trong vùng rừng núi bí mật, Chu Cẩm Phong vừa
lo trực công việc, biên tập để xuất bản tờ Tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung
Trung Bộ. Thêm một nhiệm vụ không kém phần quan trọng là Chu Cẩm
Phong lo tổ chức phát rẫy sản xuất nông nghiệp tự túc mà công việc thứ hai
này thì anh là trụ cột của cả cơ quan, không có ai đảm nhiệm nổi thay được.
Chu Cẩm Phong nói thạo tiếng Kà Dong và một ít tiếng Kà Tu, thuộc cả
nhiều bài ca nữa của đồng bào các dân tộc thiểu số miền Trung Trung Bộ.
Anh có mối quan hệ tình nghĩa máu mủ ruột rà với đồng bào. Nên khi anh đến
các bản làng, từ các cụ già tới các em bé đều cảm mến, chia sẻ ngọt bùi và
không muốn xa anh.
24
Thời gian biểu làm việc hàng ngày của Chu Cẩm Phong hồi đó như sau:
- 5 giờ dậy.
- 6 giờ 30’-> 9 giờ: viết, làm công tác chuyên môn.
- 9 - > 17giờ 30: lao động sản xuất (trừ giờ nghỉ trưa).
- 18 giờ 15’ -> 20 giờ: nghe đài, nghỉ
- 20 ->1 giờ 30: viết.
Cộng: công tác chuyên môn 8 tiếng
Lao động sản xuất 6 tiếng rưỡi.
Ngủ 3 tiếng rưỡi” (nhật ký ngày 14-8-1970)
Cứ thế, ngày phát rẫy, đêm Chu Cẩm Phong chong đèn ngồi viết,
chống chọi và vượt lên tất cả mệt mỏi và nhất là phải vượt qua cái cảm giác
bất lực đến dễ nản lòng thường có ở một người biết rõ những yêu cầu nghiêm
khắc của nghề nghiệp đã trở thành sự khe khắt của mình với chính mình.
Những trang viết của anh còn lại đến hôm nay, đều là được viết trong những
đêm dài như thế trên rừng núi chiến khu hoặc dưới tầm đạn giặc, có khi ngay
bên miệng hầm bí mật ở đồng bằng.
Cuối tháng 3-1971, rẫy đốt vừa xong, lúa vừa xuống giống, Chu Cẩm
Phong hăm hở ba lô lên đường trở lại đồng bằng Quảng Đà - vùng trọng điểm
chiến tranh ác liệt. Nhưng đó là miền quê máu thịt vô cùng gắn bó của Chu
Cẩm Phong. Ở đó, trong cái phố cổ Hội An ven biển Cửa Đại, có người mẹ
ngót hai mươi năm đau đáu ngóng chồng chờ con. Không chỉ ngóng chờ
chồng và con, chính mẹ anh cũng tham gia hoạt động, thường xuyên phải chịu
tù đày để cho mau gần lại ngày đoàn tụ nên anh hy vọng chuyến này về sẽ
được gặp mẹ - niềm mong mỏi bao năm qua. Trên đường đi Quảng Đà, Chu
Cẩm Phong dừng lại một ngày bên bờ sông Đăk Vin để chia tay với người
25
yêu mà lời đính ước hợp hôn chỉ vừa mới trao nhau trước đó hai tuần. Tìm
thấy ở nhau một mối hòa quyện mãnh liệt cả tâm hồn và lý tưởng, đôi bạn trẻ
đã quyết đến với nhau với bao nhiêu trăn trở, day dứt. Bạn bè, đồng chí ở cơ
quan Văn nghệ Giải Phóng Khu V đã chờ đợi để chuẩn bị sau chuyến đi đó
của Chu Cẩm Phong sẽ tổ chức một đám cưới thật tuyệt vời cho anh. Đây là
những điều lý giải được một phần vì sao Chu Cẩm Phong không đi nước
ngoài nghiên cứu sinh để trở thành một nhà khoa học mà tình nguyện nhập
ngũ. Vùng đất tươi đẹp và anh hùng này là quê hương anh, là nơi anh sinh ra,
lớn lên với bao kỷ niệm thân thương, chất chứa tình cảm máu mủ. Những
điều vô giá với bất cứ con người nào để sẵn sàng chiến đấu, giải phóng vùng
đất mẹ yêu thương đang bị quân thù xâm chiếm, tàn phá.
Nhưng thật đau đớn, tiếc thương khi Chu Cẩm Phong đã không được
ăn chén cơm từ cái rẫy lúa bội thu do chính anh là chủ lực khai phá, không
bao giờ còn được gặp mẹ, không bao giờ trở thành chú rể. Ba mươi ngày sau
buổi chia tay với người vợ sắp cưới, anh hy sinh.
Tháng 3 năm 2010, nhà văn, liệt sĩ Chu Cẩm Phong được Nhà nước
truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong lịch sử
Hội Nhà văn Việt Nam thành lập từ 1957, Chu Cẩm Phong là nhà văn đầu
tiên được phong anh hùng với tư cách nhà văn. Đời văn của Chu Cẩm Phong
quá ngắn chỉ có gần 4 năm mà lại là khoảng thời gian chồng chất biết bao
công việc ngoài văn chương nên ít nhiều ảnh hưởng tới bút lực và khả năng
biểu lộ đầy đủ năng lực sáng tác văn chương. Tuy nhiên, chỉ qua những trang
nhật ký Chu Cẩm Phong ghi vội giữa khói lửa chiến trường và số tác phẩm
ký, truyện ngắn đã đăng tải trên ẩn phẩm văn nghệ thời anh công tác đã thấy
được tài năng, khối tư liệu hết sức phong phú. Ở đó, chúng ta cũng thấy rõ ở
anh một cặp mắt quan sát rất sắc sảo, một trực giác nắm bắt tâm lý bén nhạy,
tinh tế, với một lối ghi chân mộc và sinh động nhưng cũng thật lãng mạn, xuất
26
thần, năng khiếu của một người viết khá chuyên nghiệp. Xuyên suốt những
trang nhật ký, ta gặp một con người với toàn bộ cuộc sống lao động và chiến
đấu hàng ngày của anh với những ứng xử, lo toan, những vui buồn yêu giận,
suy tư. Đúng hơn, ta gặp một con người vừa bình thường, vừa cao hơn sự
bình thường rất nhiều - đây là một đảng viên cộng sản, một cán bộ đảng,
người chiến sĩ tiền phong gương mẫu của nhân dân, một đảng viên chiến đấu
bằng ngòi bút.
Có điều thật lạ, vượt ra ngoài ý định của người ghi, như một nét riêng
của văn học Việt Nam chiến đấu, Nhật ký Chu Cẩm Phong tự thân nó cứ chứa
đựng một giá trị văn học độc đáo cần được tiếp tục khám phá đó không chỉ là
lý tưởng cách mạng mà là văn hoá, là truyền thống của đồng bào các dân tộc
miền Trung. Cái lớn lao hơn hết ở Chu Cẩm Phong là chính con người anh, là
sự hòa quyện tự nhiên nhuần nhuyễn giữa tác giả và tác phẩm mà Nhật ký
Chu Cẩm Phong là minh chứng mãi mãi sống động.
Những dòng Chu Cẩm Phong ghi ngày 8 tháng 1 năm 1970, kỷ niệm 7
năm anh vào Đảng: “Sắp đến mình sẽ đi công tác, mình nhận đi lại Quảng
Đà, một nơi ác liệt nhất. Mình có thể hy sinh trong mùa xuân lịch sử này lắm.
Mình nghĩ đến điều này một cách nghiêm túc. Nếu mình ngã xuống như
Phương Thảo, Văn Cận, Xuân Quý, thì ba mình, nhất là mẹ mình sẽ đau khổ
đến chừng nào. Mình biết điều đó. Mình là con trai được cả nhà yêu thương...
Nhưng dầu thế nào mình củng không xê dịch cái phương châm sống của
mình: Dũng cảm say sưa quên mình như những chiến sĩ cộng sản chân chính
đi trước. Dẫu ngã xuống một giờ, nửa giờ trước khi ta giành thắng lợi hoàn
toàn cũng Hạnh phúc lắm thay”.
Lần theo từng ngày sống của Chu Cẩm Phong những năm tháng ấy, qua
mỗi dòng nhật ký, ta đến những vùng đất, gặp những con người với bao nhiêu
cảnh ngộ, với cơ man những thử thách hàng ngày của một thời mà người của
27
thời khác khó lòng hình dung nổi nếu không có người ghi lại. Với những ai đã
trải qua chiến tranh, nhưng nếu chỉ ở hậu phương hoặc ở cơ quan chỉ huy, ở
các lực lượng đứng tuyến sau, qua đây sẽ hiểu được phần nào những mất mát,
những chịu đựng, những hy sinh và sức quật cường của nhân dân, của bộ đội
và du kích ở tuyến trước, đặc biệt là cái thế trận chiến tranh nhân dân rất kỳ
lạ, rất Việt Nam. Với lớp người lớn lên hoặc sinh ra sau chiến tranh như
chúng ta hôm nay, qua tác phẩm này của Chu Cẩm Phong sẽ hiểu hơn về mọi
vấn đề trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Tất nhiên, sự hiểu biết này
cũng chỉ là phần nào vì cái thời đau thương khôn xiết và rất đỗi hào hùng của
tiền nhân ấy ai phải trải qua mới thấu hiểu. Cần nói thêm, khi đọc Nhật ký
Chu Cẩm Phong sẽ giúp ích lớn cho người công tác tuyên truyền trong thời
bình của người viết luận văn hay các nhà nghiên cứu về chiến tranh nhân dân,
các nhà Việt Nam học và cả giáo viên dạy văn học. Vì quan niệm sống, quan
niệm thẩm mỹ của Chu Cẩm Phong đã được anh khẳng định bằng chính đời
sống của anh.
Những trang nhật ký ngày 26 tháng 4 năm 1971 của Chu Cẩm Phong
ghi khi vòng càn quét của giặc đang dần siết chặt cho biết, hôm ấy Sáu
Hoàng, một cán bộ địa phương đã đề nghị anh tạm lánh sang Đại Lộc bên kia
sông Thu Bồn là nơi ít căng thẳng hơn, nhưng anh đã quyết định ở lại trong
cuộc chiến đấu của cán bộ và nhân dân địa phương. Những dòng ghi ngày 27
tháng 4 năm 1971, ngày cuối cùng trong cuốn nhật ký - những dòng cuối cùng
trong cuộc đời cầm bút ngắn ngủi của Chu Cẩm Phong, là ghi trong tầm nhìn
thấy giặc đang kéo tới.
Chu Cẩm Phong đã cầm chắc cây bút chiến đấu của mình cho tới phút
không thể cầm bút được nữa thì cầm súng. Và bắn đến viên đạn cuối cùng.
Từng trang viết của anh, từng ngày sống của anh, một dòng sống trong trẻo
như pha lê, cho đến phút cuối, mỗi lúc càng ngời lên sáng láng cái phẩm chất
28
làm người, phẩm chất người chiến sĩ, nghệ sĩ ưu tú của nhân dân. Có thể nói
những dòng nhật ký của Chu Cẩm Phong là những dòng chữ máu, và khi anh
ngã xuống, từng chữ từng chữ đều đau đáu hồn thiêng của anh, của đồng đội
đồng chí anh, những con người đã trọn vẹn hiến mình vì đại nghĩa của dân tộc
và nhân loại.
Trong không gian thanh bình của hôm nay, giữa một đời sống văn hóa
mà nhu cầu giải trí luôn được đáp ứng kịp thời và phong phú, khi chúng ta
lần giở lại những trang Nhật ký Chu Cẩm Phong có thể sẽ lấy làm khó hiểu và
ngỡ ngàng tự hỏi: Chu Cẩm Phong lấy đâu ra cái nghị lực phi thường đến vậy
trong khi anh chỉ là một chàng thư sinh gầy yếu sốt rét triền miên để có thể
sống gương mẫu không phải chỉ vài ngày vài tháng vài năm mà suốt cả cuộc
đời? Câu trả lời chính là nghị lực phi thường ấy bắt nguồn từ lẽ sống của anh,
cũng là của cả thế hệ trẻ thời đó, được khơi nguồn từ những chiến sĩ cộng sản
chân chính đi trước đã kiên định sống là dâng hiến, là quên mình cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Niềm tin có lúc bị lung
lay nhưng sự hi sinh vì đại nghĩa, vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân thì
trong chiến tranh hay hoà bình hôm nay đều được kính trọng như Chu Cẩm
Phong và các chiến sĩ cách mạng khác đã làm.
Độc lập cho dân tộc và tự do cho mỗi con người là thứ cao đẹp mà
người chiến sĩ cộng sản dâng hiến đời mình để góp phần đưa dân tộc thoát ách
nô lệ ngoại bang. Cũng cần khẳng định sự quên mình của Chu Cẩm Phong
không hề đồng nghĩa với sự đánh mất bản ngã, coi thường cái chết, coi thường
thân thể mình. Chu Cẩm Phong quên mình, không sợ hiểm nguy vì lý tưởng của
chiến sĩ cách mạng mà ở đó quyền lợi của nhân dân, đất nước ở trên hết.
Đối với Chu Cẩm Phong, lẽ sống ấy không phải là một dòng tư tưởng
khô lạnh, một thứ ý thức hệ trừu tượng, mà đã nhuần thấm trong anh thành
máu thịt, thành tình yêu, và một cách tự nhiên, trở thành hành động sống bình
29
thường hàng ngày. Tất nhiên anh phải thường xuyên phấn đấu tự vượt lên
chính mình để thường xuyên gương mẫu, nhưng ở đây không có chút gì là sự
gồng mình, sự lên gân, sự trình diễn, bởi anh đã coi sự quên mình là hạnh
phúc, thậm chí dẫu ngã xuống một giờ, nửa giờ trước khi ta giành thắng lợi
hoàn toàn cũng thật Hạnh phúc, như anh đã ghi trong nhật ký - chữ Hạnh phúc
anh viết hoa. Đó là những suy nghĩ riêng của anh, lời thề nguyền riêng của
anh, mà cũng lại là của cả một thế hệ, cả một lớp những chiến sĩ ưu tú của thời
đại mình dấn thân trọn vẹn vì nghĩa lớn, và họ coi đó là Hạnh phúc. Điều này
cũng đã được Dương Thị Xuân Quý một bạn viết của anh đã ghi trong nhật ký
ngày 15 tháng 12 năm 1968 những suy nghĩ gần y như thế: “Sống giữa không
khí mặt trận đầy nguy hiểm nhưng cảm giác của mình say mê và thú vị. Lạ thế,
biết là nguy hiểm lắm nhưng sẵn sàng lao vào, dù có hy sinh. Đời người ai chả
chết. Dĩ nhiên mình có nghĩ đến đau khổ của anh và Ly. Nhưng cái gì rồi cũng
sẽ qua thôi. Đó là ý nghĩ của mình khi được phân công đi công tác Quảng Đà
từ nay đến cuối tháng 3-1969”. Chu Cẩm Phong cũng nghĩ đến cái chết và anh
cũng biết người anh sẽ xót thương, nhất là mẹ anh và chỉ mong mọi người
vượt qua, thấu hiểu cảm nghĩ, lý tưởng anh đang theo đuổi.
Nghị lực sống, chiến đấu của Chu Cẩm Phong sẽ mau chóng vơi cạn
nếu anh không có mối gắn bó máu thịt với nhân dân đang hàng ngày lao động,
chiến đấu và hy sinh. Anh yêu thương nhân dân vô hạn và ở đâu đi đâu anh
cũng được nhân dân yêu thương đùm bọc, từ ông già trên núi cao A-xò đến
các em thiếu niên và bà con ven biển Hoà Hải, đông Sơn Tịnh... Ta hãy đọc
đoạn ghi ngày 13 tháng 9 năm 1968: “... Thế là thím Ba Mân và thằng Thụy
bị bọn Nam Triều Tiên giết hại rồi, cái xóm đó giờ tan tành, toàn mộ... Thảo
kể rằng, cái đêm hai đứa mình vượt lên đường số 1 để về tây Sơn Tịnh, thím
Ba không ngủ cứ ngồi nhắc mãi và lo hai đứa bị phục kích. Đến khi nhận
30
được thư mình viết về, thím mừng quá, ăn mừng Thảo về, chú Ba đến bàn thờ
thím nói lầm rầm, khấn vái không biết những gì, trở ra chú bảo Thảo:
- Mày vào nói với bà biết đi, thằng Phong đang ở đâu và có khoẻ không”.
Chính là tấm lòng và sự hy sinh vô bờ bến của đồng bào, đồng chí mà
Chu Cẩm Phong chứng kiến hàng ngày đã thường xuyên truyền cho anh sức
mạnh. Đồng thời, sức mạnh của anh cũng bắt nguồn từ cái ý thức thường trực
rằng mình là một đảng viên, hơn nữa, là một cán bộ lãnh đạo. Dù chỉ là cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở cơ quan tuyên huấn Khu, nhưng mỗi khi xuống địa
phương, Chu Cẩm Phong đều có chủ đích đem sự hiểu biết phương hướng
chủ trương ở tầm cao hơn để giúp các đồng chí địa phương, anh bất chấp
nguy hiểm vào tận khu đồn An Hoà luôn được canh phòng cẩn mật để xem
xét tại chỗ tình hình thực tế bên trong. Mà làm đảng viên thời ấy, chỉ có nghĩa
là phải biết quên mình, quên mình và quên mình, hy sinh, hy sinh và hy sinh,
kể cả cái quý nhất là mạng sống, không tính toán so đo, mỗi ngày sống là mỗi
ngày tận tụy phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
Nhấn mạnh con người đảng viên trước con người nghệ sĩ, Chu Cẩm
Phong không hề coi nhẹ những yêu cầu cao mang tính đặc thù của sáng tạo
nghệ thuật. Trái lại, chính vì ý thức rất rõ những yêu cầu nghiệt ngã của sáng
tạo nghệ thuật - một con đường đặc thù hướng tới cái đẹp không vụ lợi - mà
anh càng đòi hỏi sự rèn luyện nhân cách ở người nghệ sĩ với những chuẩn
mực cao, và những chuẩn mực ấy anh quyết tự mình xác lập qua con người
đảng viên ở chính mình và tấm gương anh noi theo là những chiến sĩ cộng sản
chân chính đi trước. Anh không thể quan niệm được một người cầm bút truyền
bá những điều cao cả mà bản thân anh ta lại sống thấp hèn, ti tiện. Con người
anh chính là cái đẹp không vụ lợi mà ngòi bút anh hướng tới. Bây giờ mọi
người đều đã biết cuốn nhật ký cuối cùng của Chu Cẩm Phong mà anh đem
theo bên mình suốt chặng đường công tác, chiến đấu. Những dòng nhật ký
31
của Chu Cẩm Phong là những dòng chữ máu, và khi anh ngã xuống, từng chữ
từng chữ đều đau đáu hồn thiêng của anh, của đồng đội, đồng chí anh. Phải
chăng chính hồn thiêng ấy đã tạo ra số phận kỳ lạ của cuốn nhật ký và dun dủi
đến một cuộc gặp gỡ không ngờ mà càng về sau những người góp sức đưa
cuốn nhật ký này đến với bạn đọc càng cảm nhận rõ như là một duyên mệnh
của đời mình. Họ thanh thản với liệt sĩ Chu Cẩm Phong vì đã giúp anh gửi
gắm tâm tư, tình cảm đến được nơi - người cần đến…
Tiểu kết:
Hiện thực chiến tranh là một mảng đề tài đặc biệt được các nhà văn khai
thác trong các sáng tác của mình. Trong đó, nhật kí chiến tranh là một thể tài
đặc biệt, có sức phản ánh chân thực, sống động và sâu sắc. Chu Cẩm Phong là
một nhà văn – chiến sĩ đã dùng ngòi bút của mình đề ghi lại một cách thành
công những trang nhật kí đầy chất hiện thực sống động ấy.
Chu Cẩm Phong với những trang nhật kí chiến tranh của mình đã góp
một phần quan trọng vào việc ghi chép, lưu giữ, tái hiện những tư liệu lịch sử
một thời của đất nước – một việc mà không thể loại nào có thể làm tốt hơn thể
loại nhật kí. Qua những trang nhật kí của mình, Chu Cẩm Phong đã cho thấy
sức viết của một cây bút chiến trường, một nhà văn thực thụ trong thời chiến
tranh.
32
Chương 2
HIỆN THỰC CHỐNG MỸ QUA NHẬT KÝ CHU CẨM PHONG
2.1. Hiện thực chiến trường những năm chống Mỹ
2.1.1. Chiến trường Quảng Đà – mảnh đất khói lửa
Trong các tác phẩm văn học cách mạng phục vụ kháng chiến chống
Mỹ, chúng ta tránh nói đến cái chết, đến sự chia ly, đến nỗi buồn mất mát
nhằm cổ vũ cho tinh thần cách mạng cho quân, dân ta. Vì trong thời kỳ chiến
tranh, không thể làm tinh thần người lính, nhân dân mất đi ý chí hay có cảm
giác nặng nề khi nghĩ đến hy sinh, mất mát. Do đó, các nhà văn và cả độc giả
đều có ý thức hướng đến những tấm gương anh hùng cùng phẩm chất của
người lính, gan dạ bất khuất, hiên ngang, vượt qua mọi khó khăn, thách thức
cam go của cuộc chiến, kể cả việc hy sinh mạng sống để vinh quang ngẩng
cao đầu. Điều này đã khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân, đặc biệt là cổ
vũ tinh thần chiến đấu của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vệ
quốc của dân tộc Việt Nam.
Những chi tiết đó xuất hiện trong những cuốn nhật ký thông thường.
Còn trong Nhật ký Chu Cẩm Phong nói riêng và nhật ký của các chiến sĩ cách
mạng khác nói chung, sự thật được mô tả dưới cái nhìn của người trong cuộc,
nổi bật lên nhiều chi tiết sinh động, chân thật đến trần trụi về tất cả những gì
đang diễn ra trên chiến trường ác liệt, nơi hội tụ không chỉ có sự anh hùng,
hiên ngang, bất khuất mà cả sự mất mát, đau thương, đặc biệt là cái chết…
Mở đầu cuốn nhật ký, Chu Cẩm Phong đã viết: “Ở đây gần đồng bằng –
nói đúng ra là gần trung châu – tiếng đại bác dưới Tư Nghĩa, Sơn Tịnh vọng
đến ì ầm, âm vang từng đợt. Rừng ở gần trung châu khác hẳn rừng núi những
ngày mình vừa đi qua. Không có những dải rừng già bạt ngàn mênh mông nữa,
bắt đầu có những đồi trọc, cây cối thưa thớt…” (nhật ký ngày 11-7-67).
33
Tiếng súng, rừng núi thưa thớt báo hiệu sự hiểm nguy, bất an đối với
Chu Cẩm Phong và đồng đội của anh khi phải băng qua những dải đất bán
sơn địa về vùng đồng bằng ven biển Cửa Đại – vùng địch đang chiếm đóng.
Hành trình của Chu Cẩm Phong trên suốt chặng đường đi, anh đã thấy và chịu
đựng cảnh bom đạn đầy trời như việc nắng, mưa hàng ngày. “Đêm qua phải
quay lại, pháo bắn dữ quá không rút lui sao được. Ngủ lại một nhà – thật ra
chỉ là một cái hầm, bếp bắc ngang ở miệng hầm, che nắng bằng một cái nong
– khoảng 8 giờ bọn mình đến, “nhà” không có người lớn, chỉ có hai đứa bé,
đứa lớn khoảng 10 tuổi, đứa bé khoảng 5 tuổi” (nhật ký ngày 19-7-67). Khi
đọc toàn bộ cuốn Nhật ký Chu Cẩm Phong, chúng ta luôn luôn thấy những địa
danh, tên người được tác giả ghi lại đúng như hiện thực (trừ khi sợ lộ bí mật
tác giá mới dùng ký hiệu) khi đi qua, ở lại nghỉ chân hay làm nhiệm vụ
chuyên môn.
Theo những tài liệu còn được lưu giữ, ngày 11/7/1967, Chu Cẩm Phong
đặt bút viết những dòng nhật ký đầu tiên tại trạm E1 của tỉnh Quảng Ngãi sau
khi đã có những ngày hành quân gian khổ. Từ các vùng đất của tỉnh Quảng
Ngãi, Chu Cẩm Phong tiếp tục hướng tới chiến trường Quảng Nam, Đà Nẵng
với các miền đất từ rừng già, qua vùng bán sơn địa để đến vùng đồng bằng
ven biển Cửa Đại, phố cổ Hội An… Đến vùng đất nào, Chu Cẩm Phong cũng
đều ghi lại hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống nơi chiến trường, những địa
danh với những với cái tên mộc mạc nhưng ấn tượng bởi sự tươi đẹp như bức
tranh thuỷ mặc. Và ở đó, những chiến sĩ giải phóng quân vượt qua với tâm
trạng chịu đựng nhưng vẫn lãng mạn, yêu đời tha thiết. “Đêm qua ngủ lại một
cái nhà hoang giữa rừng. Lúc đầu chỉ có 6 đứa bọn mình, càng về tối càng
đông. Chen chúc trong một cái nhà cũ đã xiêu mục có 21 người. Chật không
có chỗ chen. Đêm nằm, các xà nhà cứ kêu răng rắc muốn sụp. Nước trong
rừng chảy qua nền nhà ướt át, bẩn thỉu. Vẫn cứ phải nấu cơm trên nền ướt
34
đó. Người chia nhau hầm ngô, rang ngô (dạo này anh em đi trên đường dây
hầu hết là phải ăn ngô hột trừ cơm), lấy áo quần ướt sưởi lửa… khói lên ngùn
ngụt, sặc sụa. Lộn xộn, bừa bãi như một bến xe ngày trước. Khi lửa đã tắt,
khói đã hết, bắt đầu một tai nạn khác; con quỷ quái gì đó bay ra chui vào tóc
vào mình cắt vừa đau vừa ngứa. Ở cái nhà ấy, bình thường chắc sẽ đẹp. Nhà
bên bờ sông, dưới một gốc cây cổ thụ rất to, cành cây ngả xoài ra mặt nước,
ngồi ở đây câu cá chắc rất thú…” (nhật ký ngày 5-9-68). Thiếu thốn, hiểm
nguy thường xuất hiện trong các trang nhật ký của Chu Cẩm Phong nhưng ở
phần kết của từng trang nhật ký đó, anh luôn nghĩ đến sự tích cực, nghĩ đến
ngày chiến thắng hay nghĩ đến mẹ, người yêu… để tự động viên mình. Đây
chính là lẽ sống giúp Chu Cẩm Phong vượt qua tất cả sự hiểm nguy trước
bom đạn của kẻ thù, ốm đau bệnh tật, nỗi cô đơn…
2.1.2. Con người trong chiến tranh
Đọc Nhật ký Chu Cẩm Phong từ đầu cho tới kết thúc, chúng ta đều thấy
tác giả không chọn ghi riêng những con người tiêu biểu trong chiến đấu, sản
xuất, công tác mà cả những con người rất đỗi bình dị như một ông lão người
dân tộc thiểu số, một em nhỏ hay một chị phụ nữ quá lứa, lỡ thì…Những con
người ấy trong Nhật ký Chu Cẩm Phong đều bình dị nhưng kiên trung, bất
khuất và cũng đầy tính người - điều đó đã làm nên thành công của tác phẩm.
Bởi chính những con người ấy là niềm khát khao khiến tác giả muốn tìm đến,
là nguồn cảm hứng sáng tác không hề vơi cạn, cứ đầy lên từng ngày trong
Chu Cẩm Phong. Chính trong chiến trường khốc liệt của đạn bom, của sự
ngặt nghèo, thiếu thốn, chính sự bao dung, yêu thương của cấp trên, của đồng
đội, nhân dân đã giúp Chu Cẩm Phong chắc tay súng, vững vàng tay bút.
“Buổi chiều mình ra làng đồng bào chơi. Làng đang ăn Tết. Người các làng
khác đến đông quá, chật chội, nên tối mình không ở lại như kế hoạch mà về.
Về nhà đọc sách nhưng nghe tiếng trống tiếng chiêng và nhất là tiếng reo hò,
35
tự nhiên muốn biết thêm về người Kà Dong và các phong tục của họ. Về
những điệu nhảy này, mình đã biết rồi nhưng mình nhận thấy bỏ qua là một
thiếu sót. Thế là mình mượn đèn pin lần mò ra làng. Hai đêm nay trăng sáng
lắm. Hôm nay là 14 trăng lọt qua vòm lá rọi xuống loang lổ như da trăn.
Quanh cái bếp giữa gian nhà kháng chiến, người đứng chật như nêm. Một số
phải đứng nhà bên cạnh vạch nứa nhìn qua. Tuần tự buổi vui chơi của họ như
thế này: nấu cơm ra họ vãi xung quanh bếp, khắp sạp và quanh nhà (họ cầu
mong mùa lúa gạo thừa thãi?), sau đó nhảy. Đàn ông nhảy trước, nhảy vòng
tròn quanh đống lửa theo nhịp trống miệng hét vang: “Cà vô! Cà vô!” theo
nhịp dóng đôi. Đàn ông nhảy rất ồn ào. Những người già vẫn ngồi ở góc nhà
ăn trầu. Họ nhảy mồ hôi vã ra, có người vừa nhảy vừa bốc cơm trên giàn mà
ăn. Họ nhảy như vậy rất lâu sau đó họ mới ngồi quanh bếp lửa. Những người
trong gia đình cúng: người già nhất trong gia đình cầm một ngọn lửa, một
ống nứa, một cành cây đi quanh bếp miệng đọc thần chú, cuối cùng ông đi
đến chỗ đặt những teo, bồ lúa huơ lửa. Trong lúc đó mọi người trong gia
đình: đàn bà, các người khác đứng bất kỳ ở đâu đều đọc to những câu thần
chú, khấn vái rất lộn xộn, họ đọc ran rồi lại tiếp tục nhảy, rồi uống rượu. Tất
cả mọi người đều uống, đàn ông, đàn bà, con nít, chủ, khách…Mấy ông già
cắt nghĩa với mình:
- Ai cũng uống. Ai cũng làm, ai cũng đánh Mỹ, ai cũng uống.
Sau đó phụ nữ nhảy. Phụ nữa nhảy theo nhịp trống và chiêng. Họ nhảy
không ôn ào, ầm ĩ như nam giới. Có những cô rất diện. Prết đao đầy cổ,
thòng xuống đến bụng cooc đeo đầy hai ống tay, quanh người đeo
đầy…Trong mặc áo, ở ngoài mặc yếm. Áo và yếm đều mới. Họ nhảy say sưa
theo một tiết tấu rất đơn giản. Động tác cũng đơn giản. Họ nhảy đến sáng
(nhật ký ngày 21-12 - 69).
36
Điều này đã lý giải sức sống mãnh liệt của nhân dân miền Trung Trung
bộ qua Nhật ký Chu Cẩm Phong khiến kẻ thù khiếp sợ vì bom đạn tàn phá
hôm trước, hôm sau căn nhà kháng chiến mới đã được dựng lên bằng cây
rừng, nứa lá. Sức mạnh ấy thể hiện bằng những thửa ruộng, nương rẫy hôm
trước bị bom mìn hất tung tóe thì vài hôm sau mầm non của hạt giống đã xanh
biếc, bám dễ sâu xuống lòng đất mẹ và cả những điệu nhảy mê say, tiếng
trống, tiếng chiêng của đồng bào dân tộc ít người vang vọng cả núi rừng…
Song, vũ khí của kẻ thù không phân biệt được trắng đen, phải trái, nó
như con ác quỷ phá hết, giết sạch khi phát nổ bất cứ đâu khiến sự tang thương
đến vô tận. Cái chết với muôn hình muôn vẻ luôn hiện hữu quanh Chu Cẩm
Phong, khi anh thấy những xác chết không toàn thây, khi khác anh lại thấy
cảnh hoang tàn đổ nát sau những trận càn của kẻ thù, cái chết hiện ra trong
những trang nhật ký. Tất cả nhưng điều nêu trên đã là tư liệu sống giúp Chu
Cẩm Phong sáng tác, tạo cảm hứng và tinh thần trách nhiệm để sáng tác văn
chương nghệ thuật phục vụ cách mạng... Chu Cẩm Phong và đồng đội của anh
- những con người nhỏ bé, bình dị lại mang trong mình bầu nhiệt huyết với
sức mạnh ghê gớm của tình yêu nước. Đặc biệt là lý tưởng sống cao đẹp của
Chu Cẩm Phong và những người lính thời đó thật đáng khâm phục
Cuộc sống luôn là vậy, luôn có những người tốt, kẻ xấu, những hành
động, việc làm khiến chúng ta phải ngưỡng mộ, kính trọng, điều này càng có
ý nghĩa khích lệ ý chí của thế trẻ khiến họ cảm thấy yên lòng vững bước, giữ
vững lập trường của mình, hăng hái bước tiếp con đường lý tưởng phía trước.
Dù thất vọng khi thấy đồng đội còn bon chen, kèn cựa nhau từng tý bởi phàm
là con người đều có đức tính này nếu không rèn luyện để vượt qua chính
mình. “Đảng viên cơ quan ở lại chỉnh huấn. Cả 2 ngày mình đều bị sốt.
Nhiều vấn đề mình muốn phát biểu, nhưng nằm trên võng mệt quá. Trường
hợp BMQ hơi buồn, trước đây mình cũng đã nghe, mình không ngờ cậu ta lại
37
có những suy nghĩ tệ vậy, mình thất vọng ghê. (chuyện trên đường đi, chuyện
định xin ra, chuyện ghen tị với mình). Trong chỉnh huấn cậu ta tự phê phán
thành khẩn, kiểm điểm tốt. Minh tin cậu ta sẽ khác. Quốc ơi, muốn sáng tác
phục vụ tốt cho nhân dân, hãy vứt bỏ những cái quái quỷ, thấp kém đó đi”
(nhật ký ngày 13-10-67). Những “khoảng tối” trong cuộc chiến tranh vệ quốc
vĩ đại của dân tộc thập kỷ 60 của thế kỷ trước rất ít xuất hiện trong các sáng
tác của các thể loại văn học khác mà chủ yếu là chủ đề về hùng ca, sử thi và
nếu có cũng chỉ xuất hiện thời hậu chiến. Sự khác biệt này của thể loại nhật
ký so với các thể loại văn học khác được thể hiện rõ, khách quan nhất là quá
trình sáng tác, ghi chép với mục đích dành riêng cho mình của Chu Cẩm
Phong. Đây có thể coi là một trong những dấu ấn tạo nên sự khác biệt giữa
Nhật ký Chu Cẩm Phong với các tác phẩm văn học khác trong hời kỳ kháng
chiến chống Mỹ.
Những con người và mảnh đất anh hùng trên đường hành quân qua
khiến Chu Cẩm Phong phải cảm phục. Hình ảnh những o du kích dịu dàng
nhưng rất dũng cảm khi cõng thương binh, nhanh nhẹn gan dạ khi tải đạn, phá
bom mở đường thông xe... Điều này đã tiếp thêm sức mạnh và ý chí Chu Cẩm
Phong thêm vững bước hành quân và tin vào ngày mai tươi sáng của dân tộc
vì vẫn còn có những con người cùng chí hướng, cùng tâm huyết cống hiến
sức trẻ cho Tổ quốc như mình. Trên hành trình đi tìm nguồn tư liệu sáng tác
phục vụ kháng chiến, nhà văn, chiến sĩ Chu Cẩm Phong cũng đã gặp những
con người, những gia đình anh dũng, những tấm gương sáng khiến anh thầm
cảm phục và ngưỡng mộ. Cái nghèo không làm con người nơi đây trở nên ích
kỉ, nhỏ nhen, họ sẵn sàng nhường cơm sẻ áo cho bộ đội, thậm chí chia nhau
từng củ sắn đã cương vàng, mất vị.
Đó là mảnh đất Quảng Nam kiên cường với gia đình đồng chí tên Dũng,
nhà anh có 9 người thì cả 9 người đều đi bộ đội, cha mẹ anh ở nhà tăng gia
sản xuất, nuôi giấu cán bộ, người cha nổi tiếng về tài rèn và chế tác vũ khí,
38
giặc dụ dỗ mua chuộc nhiều lần không được nên bắt ông đi tù và hành hạ.
Song, tinh thần bất khuất đó không hề nao núng và khuất phục trước sự dã
man tàn bạo của kẻ thù. Phải chứng kiến cái chết của đồng đội, anh vừa xót
thương vừa cảm phục: “Ngày hôm nay, tổn thất thật đau đớn, Phong hy sinh
vì vấp phải mìn trong khi xách AK chạy theo bắn máy bay... Trước khi chết
cậu ta tỉnh táo bắt tay tiễn anh em hoạt động phía trước. Phong hỏi tham mưu
tình hình dân bị bắt rồi nói: “Cố gắng đánh địch cả phía trước phía sau”. Bắt
tay anh em chưa kịp thả ra thì giật chân tay tắt thở”. Đó là anh chiến sĩ tên
Miên, dù đã bị thương trong một trận đánh nhưng vẫn anh dũng chiến đấu với
kẻ thù: “Chân bị thương rồi anh còn dùng lựu đạn và thủ pháo diệt thêm một
địch mới thôi. Anh bị thương nặng, nhưng không chịu để đồng chí vác mình,
anh nói với bạn: “đồng chí hãy vác tử sĩ’. Ở bệnh viện điều trị anh quyết tâm
tập đi ngay khi vừa bỏ đôi nạng và đi kiếm củi cho bệnh viện. Khi được ra
Bắc an dưỡng, anh van xin được ở lại chiến trường. Anh xin phép được về
thăm đơn vị rồi sẽ trở lên. Nhưng anh đã nói dối và ở lại luôn đơn vị vì: “anh
không thể đi Bắc giữa lúc này, giữa lúc cả quê hương anh cần từng người
con, dốc hết sức lực đi vào giai đoạn quyết liệt của cuộc chiến đấu. Anh kể
chuyện vượt đường số 1 và chứng minh rằng anh có thể chạy, có thể chiến
đấu được” [24, tr 130]. Khi đồng chí thủ trưởng không cho phép anh trở lại
đơn vị, anh đã nói gần như khóc: “Trời ơi. Không, từ ngày làm chiến sỹ, tôi
chưa lần nào trái lệnh của đồng chí, đồng chí thủ trưởng ạ, tôi đã làm đúng
kỷ luật của một quân nhân cách mạng. Nhưng lần này, xin đồng chí, xin đồng
chí cho tôi được không tuân lệnh đồng chí” [24, tr 131]. Trước nhiệt tình cách
mạng của anh, lãnh đạo đã điều anh về tổ quân giới, và anh nhanh chóng thích
nghi ngay với nhiệm vụ mới. Hay như cô gái có tên Hồng- người được tặng
huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba rất rụt rè nói không ra lời cho
thật trôi chảy về những chiến công xuất sắc của mình nhưng lại là người con
gái đầu tiên cưỡi lên trái bom 500kg để mở bom, xung phong nhận công việc
39
nguy hiểm. Cái chết có thể đến với mình bất cứ lúc nào không hề run sợ, cô
nói với đồng đội: “Tôi vừa mở và nói to cho các đồng chí biết, làm tới đâu
nói tới đó. Tôi có hy sinh các đồng chí rút kinh nghiệm” [24, tr 131]... Những
con người nhỏ bé đó thật gan góc, kiên cường, súng đạn kẻ thù không là họ
run sợ hay lùi bước, trái lại càng khiến họ càng nung nấu quyết tâm chiến
thắng kẻ thù mang lại hòa bình trên mảnh đất quê hương. Tận mắt thấy, tai
nghe những con người bình dị và hiên ngang, bất khuất đó càng giúp Chu
Cẩm Phong kiên định về cuộc chiến nhất định thắng lợi.
Trên khắp mảnh đất đau thương này, đâu đâu ta cũng bắt gặp những gia
đình, những người con anh dũng, họ thật gần gũi, giản dị mà anh dũng biết
bao. Đó thực sự là một nghị lực phi thường của tình yêu nước đã giúp họ,
những con người nhỏ bé, giản dị đó anh dũng gan dạ đối diện với cái chết một
cách hết sức nhẹ nhàng: “Cẩm Thanh bị phá hoang tàn, khủng khiếp. Trước
đây mình viết “Làng trụi” đọc cho anh em nghe, anh em bảo mình viết về
Cẩm Thanh, nhưng thật ra Cẩm Thanh bị tàn phá ghê gớm. Ở đây như Củ
Chi vậy. Toàn xã chỉ có 1 thôn có dân. Thôn 1 bị bom và pháo ghê gớm,
không có ngày nào, đêm nào là không có hàng tràng bom đạn trút xuống,
nhưng dân vẫn bám trụ cái thôn xác xơ, trơ trụi, đúng hơn chỉ là cài gò bé xíu
giữa con sông mênh mông…” (nhật ký ngày 7-4-68).
Những khó khăn đó không quật ngã được ý chí chiến đấu của những
người lính như Chu Cẩm Phong mà anh kiên cường luôn hướng về miền Nam
ruột thịt chiến đấu và mong đến ngày hòa bình lập lại trên quê thân yêu. Anh
sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ, tương lai và xương máu của mình vì nền độc lập của
dân tộc. Thật đáng tự hào và cảm phục biết bao.
2.2. Chân dung, tinh thần của nhà văn, liệt sĩ Chu Cẩm Phong
2.2.1. Khát vọng giải phóng quê hương và lí tưởng của thế hệ chống Mỹ
Theo cha tập kết ra Bắc và được nuôi dưỡng, đào tạo trong môi trường
hạnh phúc của người dân tự do, người dân làm chủ đất nước nhưng nỗi nhớ
40
mẹ, nhớ quê hương luôn đau đáu trong con người Chu Cẩm Phong. Quê
hương anh ngày đêm bị quân thù tàn phá, người thân, bạn bè, hàng xóm của
anh phải sống trong sự khổ đau, kìm kẹp dưới ách cai trị của quân thù nên giải
phong quê hương là niềm mong mỏi luôn trào thúc trong anh. Vì những điều
này mà Chu Cẩm Phong vào chiến trường với tâm trạng hồ hởi và ý chí đầy
quyết tâm.
Chu Cẩm Phong cũng như bao chàng trai, cô gái Việt Nam thời đó
hăng hái khoác trên mình chiếc ba lô và lăn lộn cuộc đời giữa mưa bom bão
đạn, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc… Trong số họ có nhiều người
sinh ra, lớn lên ở miền Nam đã ra Bắc tập kết để được học tập, rèn luyện, bồi
dưỡng thành đội ngũ cán bộ của đất nước. Chu Cẩm Phong là một trường hợp
như vậy, anh theo cha tập kế ra Bắc được nuôi dưỡng, giáo dục trở thành trí
thức để thực hiện nghiên cứu khoa học, giảng dạy. Nhưng hình ảnh người mẹ
già ở quê hương Hội An luôn thôi thúc anh sớm trở lại vùng đất thân thương,
gắn bó. Việc mẹ anh bị bắt tù đày khi hoạt động cách mạng, quê hương anh bị
quân thù xâm chiếm, tàn phá, đồng bào miền Nam bị đàn áp… đã khiến Chu
Cẩm Phong quyết tâm vào chiến trường để cầm sung, cầm bút phục vụ cách
mạng. Do đó, giải phóng quê hương là nội dung bao trùm toàn bộ trong Nhật
ký Chu Cẩm Phong, điều này đã giải thích rất rõ cho chúng ta biết vì sao vùng
đất phố cổ Hội An giao tranh ác liệt như vậy nhưng Chu Cẩm Phong luôn
hướng tới trong những chuyến đi thực tế. Anh muốn trở lại quê hương sau
bao năm xa cách, muốn gặp lại mẹ anh. Ấy vậy mà khi đã đến đất Hội An,
nhìn thấy căn nhà của mình, nhưng do điều kiện công tác, kỷ luật quân đội,
Chu Cẩm Phong vẫn nén lòng mình, không vào thăm mẹ, tiếp tục hành quân.
Qua đó, cho chúng ta thấy Chu Cẩm Phong là người trách nhiệm, chịu đựng
ra sao, anh đã hy sinh những điều riêng tư vì nền tự do, độc lập của dân tộc,
41
điều tưởng trừng rất đơn giản nhưng đặt vào hoàn cảnh cụ thể thì không phải
ai cũng thực hiện được.
2.2.2. Góc nhìn, quan điểm của nhà văn về chiến tranh, về đồng đội, về
nhân dân
Có những lúc, tâm trạng Chu Cẩm Phong cũng buồn thương nhớ mong
da diết đối với quê hương, gia đình, bạn bè, người yêu, một nỗi lo lắng rất mơ
hồ xuất hiện trong tâm trí anh như mình ra đi mãi mãi không bao giờ trở về,
không còn được gặp lại người thân thì sẽ đau khổ biết chừng nào. Nhưng
những dòng suy nghĩ đó chỉ thoảng qua, phút chốc còn trong cuốn nhật ký của
mình, Chu Cẩm Phong đã dành những giây phút sâu lắng nhất của trái tim để
nhớ về người yêu. Chúng ta hãy cảm nhận điều nay khi đọc những dòng nhật
ký anh viết cho P.L: “Chiều hôm qua và chiều hôm nay. Anh nhớ em đến điêu
đứng và buồn đến rã rời. Em ạ, anh nói thật điều đó mà không sợ em chê.
Anh sẽ mang theo hình ảnh đằm thắm dịu dàng, ngọt ngào và tha thiết của em
ra chiến trường cùng với những thương nhớ cháy bỏng trong tim anh. Anh sẽ
đi xa, đến nơi đến chốn, sẽ sống xứng đáng. Anh không bao giờ muốn hai đứa
mình là những kẻ tầm thường, tình yêu của mình chật hẹp...”. Lời hẹn ước
của Chu Cẩm Phong với người yêu sẽ có một đám cưới ngày gặp lại đã không
thành hiện thực. Tất cả họ, những con người giản dị trong sáng đó đều chất
chứa trong mình những tâm trạng nhớ nhung da diết. Cũng có những người
lính trước khi lên đường mà không kịp trao lời yêu thương đến người mình
yêu và âm thầm day dứt lỡ như mình không bao giờ còn có cơ hội để bày tỏ
nỗi lòng thì đáng buồn biểt bao. Tình yêu là một nguồn động lực vô hình có
sức mạnh cổ vũ, khích lệ Chu Cẩm Phong trên những con đường hành quân
vất vả và những khó khăn thử thách nơi chiến trường ác liệt, mong chóng đến
ngày đoàn tụ sum vầy trong hạnh phúc. Ở Chu Cẩm Phong hay những người
lính trẻ khác là sự tỏa sáng của lý tưởng sống, lý tưởng cách mạng mà họ
42
cống hiến một cách vô tư không hề do dự, đặt hạnh phúc to lớn của cả dân tộc
lên trên hạnh phúc cá nhân nhỏ bé của mình. Cũng giống như bao thế hệ
thanh niên thời đó, Chu Cẩm Phong ý thức sâu sắc nhiệm vụ của công dân khi
đất nước có chiến tranh, vì thế anh luôn đặt nền độc lập của nước nhà lên trên
hạnh phúc cá nhân, tất cả cho chiến trường không tiếc hy sinh thân mình.
Chiến trường có thể một đi không trở lại, nhưng Chu Cẩm Phong và
các chiến sĩ cách mạng thời đó với ý chí sắt đá và lòng quyết tâm đó vẫn
không hề phai nhạt lý tưởng, thêm vững bước đi lên, vì có niềm tin vào cuộc
sống. Dù phải đối diện với thiếu thốn, khó khăn gian khổ thậm chí là cái chết
nhưng Chu Cẩm Phong hay các chiến sĩ khác không hề nuối tiếc hay ân hận
vì quyết định của mình. Ví dụ như chàng sinh viên khoa Toán, trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, Nguyễn Văn Thạc đã tạm gác sự nghiệp học tập, từ chối cơ
hội tốt đẹp để hăng hái xung phong lên đường. Khoác trên mình chiếc ba lô
nặng trĩu với cái nắng bỏng rát trên đường hành quân, những thử thách ban
đầu đối với anh lính tân binh trước khi ra trận chiến. Hay như Đặng Thùy
Trâm, cô gái nhỏ nhắn đất Hà thành từ chối một cuộc sống hạnh phúc với
người thân, một công việc tốt đang đón đợi một mình xông pha nơi tuyến lửa,
chấp nhận đương đầu với khó khăn thách thức. Còn với Vũ Xuân, người con
của đất chè, đất thép Thái Nguyên vừa tốt nghiệp phổ thông với học lực giỏi,
tư chất thông minh, nhanh nhẹn lẽ ra cánh cửa tương lai phải rất rộng mở với
anh. Nhưng khi đất nước còn chia cắt, anh đã tình nguyện nhập ngũ để đi
khắp các chiến trường miền Nam, qua Lào rồi anh dũng hy sinh tại miền Tây
Nam Bộ để lại sự tiếc thương đối với người thân, đồng đội.
Với Chu cẩm Phong cũng vậy, anh có lý tưởng cách mạng của thế hệ trẻ
lúc bấy giờ nên sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng tư để tình nguyện nhập ngũ,
cống hiến sức trẻ của mình cho Tổ quốc...Song, ở Chu Cẩm Phòng có một
điều khác hơn so với các chiến sĩ cách mạng quê ở miền Bắc tình nguyện vào
43
Nam chiến đấu để thống nhất đất nước thì Chu Cẩm Phong có thêm tình yêu
của quê hương, người thân bởi anh sinh ra tại đất Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Trong lý tưởng chung của thể hệ trẻ lúc bấy giờ, Chu Cẩm Phong còn có cái
riêng đó nên sự quyết tâm chiến đấu, công tác để giải phóng quê hương. Do
vậy, từ tinh thần, tư tưởng đến việc làm của anh luôn rất quyệt liệt. Khi liên
tưởng, suy nghĩ về tinh thần cách mạng của Chu Cẩm Phong và một số chiến
sĩ cách mạng từ miền Nam tập kết ra Bắc từ năm 1954 như: Nguyễn Thi, Lê
Anh Xuân…chúng ta sẽ hiểu được vì sao giữa đầy trời bom đạn mà các anh
vẫn quyết tâm lào vào cuộc chiến không một chút do dự. Bởi đó là quê hương
máu thịt mà các anh đã xa cách bao năm…
Tất cả những chiến sĩ cách mạng nhỏ bé, giản dị mà cũng vĩ đại vô cùng,
luôn cống hiến hết mình vì sự nghệp vĩ đại của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì lý tưởng cách mạng, không hề do dự hay đắn đo suy nghĩ thiệt hơn
cho bản thân mình. Nguyễn Văn Thạc đã nói với những đứa em mà cũng là
nói với chính lòng mình: “Em ơi, tất cả những niềm vui nhỏ bé đó, phải biết
hy sinh. Nếu em muốn đi xa hơn nữa. Đất nước gọi em, và chìa tay đón em
vào lòng, với ước mong em là đứa con khỏe mạnh và có ích. Em hãy biết bỏ
qua những điều không nhỏ mà nắm lấy cái gì lớn nhất mà cánh tay em có thể
dâng trọn cho Tổ quổc” [29, tr 145]. Hay nồi buồn và xấu hổ khi đã chính
thức trở thành một anh lính thông tin vậy mà, Nguyễn Văn Thạc vẫn chưa
cầm súng giết chết tên giặc nào: “Ta biết giấu mặt vào đâu, vào gấu quần hay
gấu áo, khi đường Trường Son không có dấu chân ta? Khi cả cuộc đời ta
chưa có niềm vui mãnh liệt của người chiến thắng, cắm cờ Tổ quốc trên cả
nước thân yêu” [29, tr 53]. Đối với Đặng Thùy Trâm cũng bộc lộ tâm sự của
mình trong những trang nhật ký: “Con cũng là một trong muôn nghìn người
đó, con sống và chiến đấu và nghĩ rằng mình ngã xuống vì ngày mai của dân
tộc. Ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có con đâu. Con tự hào vì đã
44
dâng trọn đời mình cho Tổ quôc. Dĩ nhiên con cũng cay đăng vì không được
sông tiêp trong cuộc sông hòa bình hạnh phúc mà mọi người trong đó có con
đã đổ xương máu để giành lại. Nhưng có gì đâu, hàng triệu người như con đã
ngã xuống mà chưa hề được hưởng trọn lấy một ngày hạnh phúc. Cho nên có
ân hận gì đâu.” [32, tr 167]. Hay cũng có khi đó là lời tự vấn đầy tâm trạng
của chị như: “Tuối xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã
cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa
xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng
mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng.. .tuổi hai mươi của thời đại
này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc lẽ ra họ phải có... Ước mơ bây
giờ là đánh giặc Mĩ, là Độc lập, Tự do của đất nước” [32, tr 206]. Hay những
lời tâm sự với người thân trong nhật ký, liệt sĩ Hoàng Kim Giao đã viết: “Anh
quan niệm hạnh phúc của chúng ta vững chắc, khi chúng ta đóng góp được
nhiều nhất sức lực của chúng ta cho cách mạng. Hạnh phúc lớn lao sẽ đảm
bảo hạnh phúc riêng tư của chúng ta” [11, tr 39]. Anh cũng giống như biết
bao thế hệ thanh niên thời đó, không quản gian lao, dâng trọn cuộc đời mình
vì sự nghiệp chung của dân tộc, sẵn sàng chấp nhận hy sinh hạnh phúc cá
nhân vì lợi ích chung với tài năng của một thanh niên ưu tú tốt nghiệp hai
trường đại học, một nhà khoa học trẻ có nhiều đóng góp cho tích cực về giải
pháp khoa học công nghệ với công trình “Phá hủy lôi từ tính và bom từ
trường, đảm bảo giao thông 1967- 1972”. Cống hiến này của Hoàng Kim
Giao đã được Đảng Nhà nước vinh danh, truy tặng anh Giải thưởng Hồ Chí
Minh 1996. Anh đã ngã xuống khi đang làm nhiệm vụ, phá bom thông đường
cho xe ra tiền tuyến, cho sản xuất thuận lợi. Sự hy sinh của anh cùng biết bao
chiến sĩ thời đó đã trở thành tấm gương anh dũng bất khuất, góp phần cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc mang lại thắng lợi vẻ vang cho Tổ quốc.
45
Đôi lúc, nhìn mái tóc của mình, Nguyễn Văn Thạc chán nản nghĩ đến
người thân, người yêu và không muốn gặp gỡ, không muốn sẻ chia với ai nữa,
kể cả với nhật ký của mình anh cũng không muốn viết. Có lúc, anh thấy nỗi
buồn, trống trải và sự thất vọng ghê gớm xâm chiếm tâm hồn mình, có lúc lại
thấy bị dằn vặt, buồn rầu thậm chí cả cảm giác điên dại, bi quan khi nghĩ chắc
chắn mình sẽ chết và không còn được găp ai nữa.. .Hay tâm trạng buồn chán
vì mình chưa thực sự được Đảng tin tưởng, chưa được chính thức đứng vào
hàng ngũ vẻ vang đó vì hoàn cảnh xuất thân không thuận lợi như những người
khác. Anh tự vấn lòng mình: “Mình đi bộ đội, chẳng qua là buộc phải đi!
Không đi ư, thì tức là anh đã chống lại chính sách, chống lại Đảng. Đấy,
những ngày đầu đi bộ đội của mình là như thế” [29, tr 181]. Có khi, trước
thực tế khắc nghiệt và nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu da diết, Nguyễn Văn Thạc
thấy chán nản: “Phải, tôi hiểu rằng với một người con trai đang khỏe mạnh,
đang sung sức, đang ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán
đời là một điều xấu xa và không thể nào tưởng tượng được - Người ta đã chửi
rủa biết bao lần những thanh niên như thể - Nhưng tôi biết làm sao khi chính
bản thân tôi đang buồn chán đến tận cùng này” [29, tr 232]. Nhiều khi anh
lính binh nhì thấy buồn nản vì gần một tuổi quân nhưng chưa được đứng
trong hàng ngũ của Đảng, chưa được Đảng tin cậy hoàn toàn. Anh cũng băn
khoăn vì hoàn cảnh xuất thân của mình và cảm giác mình không được ưu ái
như đồng đội: “không ở đâu sự đấu tranh giai cấp lại diễn ra quyết liệt như
trong quân đội cả”. Thậm chí là tâm trạng đầy chất chứa nỗi niềm của
Nguyễn Văn Thạc: “Đôi lúc, mình có cảm giác tội lỗi rằng mình đi bộ đội là
tạm thời thôi. Hình như xa nhà chỉ vài ngày và không lâu nữa lại trở về Hà
Nội” [29, tr 114]. Khi được hỏi đển chuyện đi học ở nước ngoài Nguyễn Văn
Thạc cũng thấy chạnh lòng: “Dũng hỏi mình về chuyện đi nước ngoài. Khơi
dậy làm gì chuyện ấy. Nó khiến mình buồn bã suốt một thời gian dài. Thật
hèn hạ và xấu xa” [29, tr 52]
46
Bản thân bác sĩ Đặng Thùy Trâm cũng vậy, những cảm xúc buồn vui
nhớ mong da diết luôn hướng về miền Bắc yêu thương, ở đó chị có ba, có mẹ,
có các chị em gái thân thương và những người bạn học... đến với chiến trường
ác liệt, hàng ngày hàng giờ, chị phải đối mặt với sự chết chóc, hy sinh, với
khó khăn thiếu thốn trăm bề, và hon hết là sự thất vọng về lòng người vẫn còn
mang nặng tư tưởng kèn cựa đố kị nhau vì mang danh là con gái đất Hà thành
và tiểu tư sản nên đường đi có lắm chông gai thử thách, tâm trạng bực dọc
khiến Đặng Thùy Trâm bộc lộ: “Đành rằng vì tính chất giai cấp, nhưng mình
vẫn thấy rất rõ có một điều ngoài cái lẽ dĩ nhiên ấy. Có một cái gì đó bắt bẻ,
gọi là bắt bí của một vài cá nhân có trách nhiệm. Chẳng biểt nói sao, đời nó
là như vậy đó”. Có những lúc tưởng chị sẽ gục ngã vì khối lượng công việc
quá sức đè nặng lên đôi vai nhỏ bé của mình, hay có những lúc sự mất mát hy
sinh đã khiến ý chí của con người không còn kiên định, không còn thấy hào
hứng gánh vác công việc được giao phó nữa. Chị nhận thấy: “Những chuyến
ra đi vẫn còn tiếp diễn, mình đã gặp biết bao người vì nhiệm vụ ra đi, chưa
chắc đã có đầy đủ niềm tự hào phấn khởi khi bước chân trên con đường rất
đỗi vinh quang. Vì sao ư? Dễ hiểu thôi,vì chiến trường đòi hỏi qúa cao mà
hậu phương thì đã tất cả cho tiền tuyển từ những năm nào” [32, tr 168- 169].
Khi đó chị phải tự động viên, cô vũ mình để vượt qua khó khăn gian khổ,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ với niềm tin yêu nơi mảnh đất Đức Phổ thân
yêu, nơi quê hương thứ hai của chị, nơi mà chị đã cống hiến tuổi xuân, mồ hôi
và nước mắt của mình và hơn hết bên cạnh chị vẫn có những người em như
Thuận, người đồng đội thân yêu như Hường, anh Tân, Cúc.. .luôn hiểu và yêu
thương chị hết lòng.
Những cảm xúc chân thực, sự hoang mạng lo lắng, những phút giây dao
động rất bản thể của con người trôi qua rất nhanh. Họ lại trở về sống trong
không khí hào hùng của dân tộc, được gặp gỡ tiếp xúc vơi những con người
47
và mảnh đất nơi hành quân qua đã giúp chàng lính tân binh Nguyễn Văn Thạc
có cái nhìn cảm phục về tình quân - dân, tình đồng đội đã khiến anh trưởng
thành lên rất nhiều và dần hòa mình vào cuộc kháng chiến thêm vững tâm
chiến đấu vì lý tưởng, tin tưởng vào ngày mai tất thắng của đất nước. Anh tự
hứa với mình, hãy sống như một Đảng viên ưu tú, hãy góp hết sức mình vào
sự nghiệp vĩ đại của dân tộc thế là đã đem lại nem tự hào cho mình rồi. Mỗi
khi thất vọng hay cô đơn nhất, bác sĩ Đặng Thùy Trâm lại hướng cặp mắt và
trái tim mình về miền Bắc thân thương, nơi cuộc sống hạnh phúc, bình yên
bên gia đình thân yêu để mong ngóng ngày trở, nhưng với một tình thương kỳ
lạ chị đã giành cho Đức Phổ, quê hương thứ hai của mình, nơi chị giành một
phần tuổi thanh xuân và mồ hôi nước mắt. Hơn hết là tình người nơi đây đã
đưa chị về thực tại, tạm gác lại những nhớ thương da diết: “Hãy nhìn lại đi,
bên cạnh mình có bao nhiêu đồng chí, bao nhiêu thanh niên đã cống hiến tuổi
trẻ của họ cho cách mạng, họ ngã xuống mà chưa được hưởng hạnh phúc.
Sao Th lại nghĩ đến riêng tư? Đừng nghĩ đến miền Bắc, hãy nhìn ở đây, ở
mảnh đất còn nóng bỏng đạn bom, đau thương và lửa khói này” [32, tr 106].
Điều này ta cũng bắt gặp ở đâu đó trong những trang nhật ký của Dương
Thị Xuân Quý: Đáng sợ nhất là lòng ta nguội lạnh, chính ta tự hủy nhựa sống
trong ta. Còn nếu ta vẫn nguyên vẹn nhiệt tình và sức sống thì không một thế
lực nào, một khó khăn nào khiến ta chùn bước, khiến ta gục ngã”
Trở lại với Chu Cẩm Phong, chúng ta thấy anh cũng giống như bao con
người bằng xương, bằng thịt khác, anh cũng bộc lộ cảm xúc và tâm trạng
mình trong những trang nhật ký khi đối diện với thực tế quá khắc nghiệt của
chiến tranh. Đó là những suy nghĩ chất chứa nỗi niềm chua xót, cay đắng
trước hiện tại, đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. Nhưng khi vấp phải
thực tế khắc nghiệt đã xuất hiện không ít những tư tưởng bi quan, chán nản,
muốn trốn tránh thực tại, rũ bỏ lý tưởng và xa rời hàng ngũ. Điều này hoàn
48
toàn có thể hiểu nhưng đó chỉ là phút giây thoáng qua, những khoảnh khắc
dao động rất bản thể, rất thật của con người nên Chu Cẩm Phong cũng không
phải là ngoại lệ.
Song, ước mơ về một tương lai tươi sáng, sẽ lập được chiến công chói
lọi và hạnh phúc gia đình luôn ngự trị trong tâm trí Chu Cẩm Phong. Thật
đáng trân trọng biết bao vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng Chu
Cẩm Phong. Dường như mọi khó khăn gian khổ, thiếu thốn hy sinh không
làm mất đi tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống của anh. Thiên nhiên thật hài hòa,
gần gũi trên những bước đường hành quân còn lắm chông gai thử thách
nhưng Chu Cẩm Phong luôn giữ vững được lý tưởng cách mạng, giữ vững
niềm tin vào tương lai và tận hưởng những phút giây thư thái, thả hồn mình
vào khám phá thiên nhiên, cảnh đẹp của đất nước muôn vàn thân thương. Và
hơn hết là ý chí quyết tâm chiến thắng kẻ thù để gìn giữ mãi màu xanh yêu
thương của Tổ quốc. Những trang nhật ký đã giúp chúng ta thêm mến yêu và
cảm phục trước những con người bé nhỏ mà kỳ vĩ lớn lao, cảm nhận sự tinh tế
trong tâm hồn giàu cảm xúc của Chu Cẩm Phong.
Nhật ký là những dòng cảm xúc, những trải nghiệm chiến trường khác
nhau nhưng ở Chu Cẩm Phong hay các chiến sĩ quân giải phóng khác đều có
một điểm chung, điểm tương đồng đặc biệt, đó là lý tưởng cách mạng và nhiệt
huyết tuổi trẻ. Những cống hiến vô tư quên mình vì sự nghiệp chung của đất
nước đã khiến họ cùng cất cao khúc ca khải hoàn mong đến ngày đất nước
thống nhất. Cảm xúc chất chứa trong từng trang viết, sức hấp dẫn vô hình đã
khiến số phận của những cuốn sổ nhỏ bé đóng bằng giấy pơ-luy của Chu Cẩm
Phong trở nên bất diệt và cũng giống như chủ nhân của chúng, thế hệ hôm
nay nhớ về anh trong sự cảm phục, trân trọng và tiếc thương. Bản thân Chu
Cẩm Phong cũng không hề nghĩ mình ghi nhật ký để sau này sẽ được xuất
bản và trở thành những tác phẩm văn chương, tên tuổi sẽ được đánh bóng và
49
nổi tiếng, mà chỉ đơn giản rằng họ viết cho chính mình vì nhu cầu và mục
đích cá nhân. Song, khi xem xem kỹ hệ thống ghi chép của Chu Cẩm Phong,
chúng ta thấy anh có ý thức và rất kỷ luật của một người chuẩn bị tự đào tạo
mình thành một nhà văn.
Cuốn nhật ký của nhà văn, liệt sĩ của Chu Cẩm Phong cho ta cái nhìn
chân thực nhất về chiến trường gian lao, dù trong hoàn cảnh ác liệt nhất nơi
mà mong manh giữa sự sống và cái chết, anh và các đồng đội vẫn luôn giữ
vững lý tưởng chất chứa tâm trạng nhất, nhiều cảm xúc nhất muốn tự mình
chiêm nghiệm lại những sự kiện vừa mới xảy ra, đang xảy ra hoặc đang được
chứng kiến. Đáp lại lời kêu gọi của đất nước, hàng vạn trái tim tràn đầy nhiệt
huyết tuổi trẻ đã hăng hái xung phong ra trận, bỏ lại sau lưng là sách vở mái
trường, là hạnh phúc sum vầy bên gia đình người thân, bè bạn, là từ bỏ một
tương lai sự nghiệp rộng mở. Chu Cẩm Phong hồ hởi khoác trên mình chiếc
ba lô lên đường đến những nơi khốc liệt nhất, nơi mà thiếu thốn hy sinh, đói
khát, bệnh tật luôn hiện hữu nhưng điều này không khiển họ sờn lòng, chùn
bước hay tỏ ra hèn nhát, yếu đuối. Tuy có đôi lúc, trước hiện thực quá khốc
liệt, tàn bạo của chiến tranh, không hẳn không xuất hiện những dao động,
buồn chán nhưng họ đã nhanh chóng vượt qua, kịp xốc lại tinh thần, vượt qua
gian truân thử thách, tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng của cách mạng
Việt Nam, độc lập, tự do sẽ đến.
Trong hầu hết các cuốn nhật ký đều thấy những tấm gương ngời sáng
về lòng quả cảm, sự hy sinh quên mình và hơn hết là tình yêu cuộc sống, sự
lạc quan yêu đời trong những tâm hồn người lính. Các chiến sỹ đã vượt qua
mọi khó khăn thách thức của thực tế khắc nghiệt để hòa mình, trải lòng vào vẻ
đẹp của thiên nhiên, giữ vững lý tưởng sống của mình. Tất cả đều hiện lên
một cách cụ thể, chi tiết trên từng con chữ của cuốn nhật ký. Trong những
cuốn nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong có thể là nỗi nhớ về gia đình,
50
nỗi nhớ da diết người yêu hay sự ngưỡng mộ cảm phục về một tấm gương
anh hùng... tất cả chất chứa tình cảm, nỗi niềm của người trong cuộc nhìn
nhận cuộc sống từ chiến trường khắc nghiệt.
Có một thời trong các tác phẩm văn chương chúng ta hết sức tránh nói
đến cái chết, đến sự chia ly, đến nỗi buồn mất mát. Trong thời kỳ chiến tranh,
để không làm cho tinh thần người lính mất đi ý chí hay có cảm giác nặng nề
khi nghĩ đến chiến tranh, nhà văn và cả độc giả đều có ý thức hướng đến
những tấm gương anh hùng cùng phẩm chất của người lính, gan dạ bất khuất,
hiên ngang, vượt qua mọi khó khăn thách thức cam go của cuộc chiến để vinh
quang ngẩng cao đầu đã khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân, đặc biệt là
cổ vũ tinh thần tham gia chiến đấu của thế hệ trẻ. Những chi tiết đó xuất hiện
trong những cuốn nhật ký thông thường. Còn trong nhật ký chiến tranh, sự
thật được mô tả dưới cái nhìn của người trong cuộc, nổi bật lên nhiều chi tiết
sinh động, chân thật đến trần trụi về tất cả những gì đang diễn ra trên chiến
trường ác liệt, nơi hội tụ mất mát đau thương, đặc biệt là cái chết. Cái chết với
muôn hình muôn vẻ luôn hiện hữu quanh họ, khi thì ở những xác chết không
toàn thây, khi thì ở cảnh hoang tàn đổ nát sau những trận càn của kẻ thù... cái
chết hiện ra trong những trang nhật ký. Chu Cẩm Phong đã nhắc đi nhắc lại
nhiều lần cụm từ hy sinh không phải vì ám ảnh mà là một cách để tự xác định
tư tưởng chiến đấu, “Thêm một thằng bạn - lại là bạn văn hy sinh, thật xót xa.
Trong giai đoạn quyết liệt này, sắp đến còn có những thử thách lớn lao hơn.
Mình cũng đã nghĩ, nghĩ từ lâu rồi trên đường đi công tác, mình cũng có thế
ngã xuống như các đồng chí bạn bè mình đã hy sinh. Nhưng mình hoàn toàn
không e ngại” hay “Nghe tin anh Ngô Hữu Trí sốt rét ác tính chết, mình rụng
rời cả người” [26, tr 142], “Ở miền Nam không phải chỉ chết vì bom đạn mà
còn chết vì bệnh tật” [26, tr 137]; “Hôm nay mình đi đến trạm 36, nơi đây sẽ
tách làm 2 đường: đi Bắc Âu và đi Hải Yến. Đến đây mà các đoàn đã ốm kha
51
khá, đoàn A để lại 3 người, đoàn anh Quốc tính đến cả anh là 12 người. Cái
chứng sốt rét đã đánh ngã anh ta, mới mấy hôm trước đây trông anh ta còn
khỏe mạnh thế mà giờ đã ngã rồi” [12, tr 28]. Cái chết thảm thương của
những người lính, người dân trong đợt càn quét tàn sát của kẻ thù, cử mỗi trận
bom đạn của kẻ thù dội xuống lại là những sinh mạng dọc khắp các nẻo
đường hành quân.
Có trải qua và phải chứng kiến những cái chết của đồng đội mới thấy
được sự tàn khốc của chiến tranh, cái giá để đòi lại hòa bình, hạnh phúc cho
dân tộc thật là đắt. Chính vì thế chắc chắn không thể tránh khỏi những tâm
trạng lo âu, một nỗi sợ hãi và cảm giác hoang mang trong lòng người chiến sĩ.
Điều này vô cùng dễ hiểu, đó là cảm giác rất thật, rất bản thể của con người,
điều này đã được chất chứa trong từng trang nhật kí. Ở đó, họ có thể nói lên
những suy nghĩ rất thật của mình không có gì phải giấu giếm, họ trải lòng
mình ra với những tâm trạng, những cung bậc của cảm xúc, mừng vui, hờn tủi
đan xen, ngay cả sự sợ hãi khi chứng kiến những cái chết đau đớn của đồng
đội mình. Tất cả là những suy nghĩ, cảm nhận tâm trạng của họ chứ không
phải là sự hèn nhát, là sự ham sống sợ chết hay nhận những việc nhẹ nhàng về
phần mình.
Trong mọi hoàn cảnh của đời sống xã hội, đặc biệt là trong chiến tranh,
chúng ta thấy nhiều tấm gương anh hùng không quản ngại gian lao vất vả,
dâng hiến trọn cuộc đời mình cho cách mạng thậm chí từ bỏ ước mơ tương lai
tươi đẹp, xa rời cuộc sống bình yên hạnh phúc và tạm gác lại chuyện tình cảm
riêng tư đáp lại lời kêu gọi của đất nước hăng hái lên đường làm nhiệm vụ.
Khi phải đối diện với khó khăn thách thức là cái đói, cái rét là sự thiểu thốn
về vật chất hay cái chết luôn rình rập cũng đã khiến con người ta phải băn
khoăn do dự thậm chí là hoang mang lo sợ. Chính là lúc họ bộc lộ những suy
nghĩ chân thực nhất của mình thậm chí cả sự nhỏ nhen, ích kỉ và tàn nhẫn
52
nữa. Nhật ký Chu Cẩm Phong với đặc trưng thể loại đã lột tả một cách chi tiết
những xúc cảm của con người trong từng hoàn cảnh khác nhau không hề che
đậy hay giấu giếm. Điều này không xuất hiện trong các tác phẩm văn học
truyền thống thời kỳ đó. Nguyên tắc của một tác phẩm văn học sử thi là một
chiều, chỉ tập trung xây dựng hình ảnh người lính sáng ngời phẩm chất cách
mạng và lý tưởng sống cao đẹp. Nhật ký có thể dành tình cảm, thái độ yêu
ghét thậm chí lên án một cách gay gắt thẳng thắn vào những con người hèn
nhát, có lối sống ích kỉ, vụ lợi. Ngoài ra, trong nhật ký chúng ta còn bắt gặp
những câu hỏi tự vấn lương tâm, tự chỉnh đốn tư cách đạo đức của chính họ
khi dao động, khi buồn chán, thất vọng và cô đơn vì thế có thể thấy, nhật ký
chiến tranh bộc lộ một cách chi tiết nhất sinh động nhất về bản chất của con
người trong sự đa diện nhiều chiều. Với Chu Cẩm Phong cũng vậy, anh từ bỏ
cơ hội không phải dễ gì mà ai cũng có được đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài,
anh chọn con đường ở lại để công tác. Chiến trường là mảnh đất hiện thực
giúp anh sáng tác văn chương nghệ thuật phục vụ cách mạng... Họ, những con
người nhỏ bé, bình dị đó lại mang trong mình bầu nhiệt huyết với sức mạnh
ghê gớm của tình yêu nước, đặc biệt là lý tưởng sống cao đẹp, đáng khâm
phục. Nhìn nhận con người từ góc độ của hiện thực chiến tranh mới thấy hết
được mặt tối của cuộc sống. Tuy vậy, đó chỉ là một bộ phận nhỏ trong tập thể
mà thôi, nổi bật hơn cả là những tấm gương con người bất khuất hy sinh lợi
ích bản thân, dâng hiến trọn bầu nhiệt huyết cho cách mạng và lý tưởng tuổi
trẻ.
Trên hành trình đi tìm nguồn tư liệu sáng tác phục vụ kháng chiến, nhà
văn, chiến sĩ Chu Cẩm Phong cũng đã gặp những con người, những gia đình
anh dũng, những tấm gương sáng khiến anh thầm cảm phục và ngưỡng mộ.
Chiến tranh với sự thật tàn khốc là đau thương, mất mát, là chia ly xa cách,
một đi không bao giờ trở lại... Tất cả đều hiện lên trong những trang nhật ký
53
thẫm đẫm cảm xúc của những con người đã sống và cống hiến tuổi trẻ của
mình trên những chặng đường đầy gian truân thử thách của dân tộc. Điều gì
khiến họ có thể giữ vững niềm tin vào ngày mai tất thắng đến như vậy? Vì
trong họ, bầu nhiệt huyết và tình yêu cách mạng luôn chảy tràn mãnh liệt, họ
có niềm tin vào tương lai và hơn hết, ở chốn hậu phương họ còn có đôi mắt
mong chờ ngày chiến thắng trở về cùng hát khúc khải hoàn ca đoàn tụ. Đó
chính là tình yêu lứa đôi, một động lực mạnh mẽ trỗi dậy thôi thúc ý chí chiến
đấu trong họ. Nói đến tình yêu, chắc hẳn đây là một đề tài vô cùng hấp dẫn
với bạn đọc yêu văn chương, vì đó là một nguồn cảm hứng bất tận cho những
bài thơ, những cuốn tiểu thuyết, những câu chuyện ra đời. Không chỉ là tình
yêu nam nữ, mà đó là tình yêu quê hương, yêu đất nước, tình yêu gia đình và
tình yêu bạn bè, đồng chí, những con người cùng chí hướng dành cho nhau.
“Tổng kết đợt thi đua, sau đó tổ chức kết nạp em Tam vào Đoàn. Sau buổi lễ,
bọn mình ngồi lại rất lâu bên nhau, giây phút đó mình cảm thấy đầm ấm. Việc
Bác từ trần làm cho mọi người nhìn lại mình nghiêm khắc hơn và hứa hẹn
xứng đáng với hy sinh của Bác để Bác vui lòng. Kết thúc tuần lễ chịu tang
Bác, một lần nữa con thề với anh linh của Bác sẽ nghiêm chỉnh chấp hành
những dặn dò của Bác trong di chúc, làm tròn lời thề mà đồng chí Lê Duẩn
đã thay mặt Đảng thề trước linh cữu Bác” (nhật ký ngày 11-9-69). Đó chính
là động lực tinh thần mạnh mẽ đã tiếp thêm sức mạnh giúp họ, những người
chiến sĩ có thể vượt qua những thử thách khắc nghiệt của chiến trường để
xứng đáng với tình yêu, tình cảm họ nhận được.
Trong cuốn nhật ký của mình, Chu Cẩm Phong đã dành những giây phút
sâu lắng nhất của trái tim vì tình yêu là một nguồn động lực vô hình có sức
mạnh cổ vũ, khích lệ họ trên những con đường hành quân vất vả và những khó
khăn thử thách nơi chiến trường ác liệt, mong chóng đến ngày đoàn tụ sum vầy
trong hạnh phúc. Trong tình yêu đôi lứa, Chu Cẩm Phong không ngần ngại mà
54
chủ động một cách mãnh liệt qua mỗi bức thư, khi trực tiếp gặp gỡ. Anh và
người yêu có cùng lý tưởng cách mạng, quan điểm sống, hẹn ước kết đôi lứa
ngay khi đất nước còn chiến tranh… Ở Chu Cẩm Phong là sự tỏa sáng của lý
tưởng tuổi trẻ, lý tưởng cách mạng mà họ cống hiến một cách vô tư không hề
do dự, đặt hạnh phúc to lớn của cả dân tộc lên trên hạnh phúc cá nhân nhỏ bé
của mình. Từ đó cho thấy con người anh nhỏ bé, giản dị mà cũng vĩ đại vô
cùng, luôn cống hiến hết mình vì sự nghệp vĩ đại của dân tộc, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì lý tưởng cách mạng, không hề do dự hay đắn đo suy nghĩ thiệt
hơn cho bản thân mình.
Ông Hoàng Đình Hiếu, nguyên là sĩ quan chính trị thuộc Sư đoàn 3 của
chính quyền Ngụy – người đã cất giữ một phần nhật ký của Chu Cẩm Phong
trong suốt 10 năm đã bày tỏ: Tôi thật sự tiếc thương sự hy sinh của chiến sĩ
Chu Cẩm Phong khi nhận được cuốn nhật ký như một chiến lợi phẩm…Phải
nói là Chu Cẩm Phong là người sống xót duy nhất và làm chứng cho mình
hơn bất cứ ai…Việc biểu dương xứng đáng xin dành cho chiến sĩ Chu Cẩm
Phong. Điều tôi thường trân trọng là sự chân thật của tấm lòng . Oái ăm thay
tôi đã đọc được từ tấm lòng chân thành của Chu Cẩm Phong. Phải chăng,
trong một hoàn cảnh nào đó, chiến tranh đem chúng tôi đến gần nhau hơn!
Đọc Nhật ký Chu Cẩm Phong, chúng ta thấy những con người anh nêu
không phải là nhân vật trong văn học với hàng loạt các biện pháp nghệ thuật
tu từ để xây dựng theo kiểu mẫu mà là những con người thực, những con
người vượt qua sự khắc nghiệt của chiến tranh để tồn tại với sự hỗn độn đau
thương, bi tráng, hào hung. Về phương diện cá nhân, Chu Cẩm Phong đã sống
xứng đáng với lý tưởng, hoài bão của một chiến sĩ cách mạng, anh đã hy sinh
tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình cho quê hương, đất nước, trở thành
niềm tự hào của đồng đội, người thân và nhân dân. Nhà văn Hồ Duy Lệ, một
người đồng đội của Chu Cẩm Phong trong hành trình tìm kiếm tư liệu, nhân
55
chứng để hoàn thành tác phẩm Nhật ký Chu Cẩm Phong đã từng quay lại nơi
Chu Cẩm Phong hy sinh và đã được nhiều nhân chứng sống kể về anh với sự
cảm phục, trìu mến, tiếc thương. Nhà văn Hồ Duy Lệ viết: “Nhân chứng vẫn
còn, nhiều bà mẹ bám trụ, có cả bà mẹ Việt Nam Anh hùng vẫn còn. Nhiều
chiến sĩ mưu trí gan dạ ngày ấy vẫn còn. Ngày ngày, họ còn phải vật lột với
cuộc sống mưu sinh vất vả trăm bề, nhìn họ bây giờ đố biết được họ ngày
ấy…Chỉ cần gợi lại chuyện bám trụ, chống càn, chiến đấu thì họ cảm thấy
thật tự hào. Họ kể chuyện mà cứ rơm rớm nước mắt. Họ có thể kể chuyện suốt
ngày, hết chuyện này đến chuyện khác, nhiều chuyện rất hay, nhiều chuyện
buồn muốn khóc. Buôn, làng, xã, thôn nào trên quê hương ta không có những
trận đánh tuyệt vời như thế! Mỗi chiến công đều có thể ghi vào sử sách, tạc
trên bia để ghi nhớ đời đời. Đến hôm nay không còn khuyết điểm hay có lỗi
nữa. Tôi bỗng thấy lo nếu như không còn có các anh, các chị, các chú, các mẹ
ngày ấy, nếu như không ai kể lại và, nếu như không ghi chép bằng lời văn hay
bằng một loại hình nghệ thuật nào đó, thì ai biết được ngày ấy, ngày xưa…”
Nỗi niềm người đồng đội của Chu Cẩm Phong như thức tỉnh chúng ta
cần có trách nhiệm với thế hệ cha anh đã hy sinh vì tổ quốc nói chung và
trách nhiệm của những người sáng tác văn chương nghệ thuật, báo chí hôm
nay với những người đồng nghiệp đã ngã xuống nơi chiến trường năm xưa
như Chu Cẩm Phong. Giờ Chu Cẩm Phong yên nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ Hội
An, ngày ngày anh và đồng đội được nghe tiếng sóng êm đềm của biển Cửa
Đại, tự hào khi quê hương Quảng Nam, Đà Nẵng phát triển rực rỡ, đúng như
điều anh hằng mong ước…
Tiểu kết:
Bằng việc nêu bật lý tưởng cách mạng của quân và dân trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ thần thánh khi miêu tả chiến trường Quảng Đà – mảnh
đất khói lửa cũng như con người trong chiến tranh, cũng như phác dựng chân
56
dung, tinh thần của nhà văn, liệt sĩ Chu Cẩm Phong với khát vọng giải phóng
quê hương và lí tưởng của thế hệ chống Mỹ cũng như góc nhìn, quan điểm
của nhà văn về chiến tranh, về đồng đội, về nhân dân, những trang nhật kí của
Chu Cẩm Phong đã mang đến cho người đọc những trang tư liệu sống động,
chân thực về những năm tháng chiến tranh.
Đây có thể coi là một nguồn tự liệu lịch sử - văn học quý giá, giúp cho
người đọc hôm nay hiểu một cách đầy đủ hơn về hiện thực chiến tranh chống
Mỹ đầy khốc liệt, bi tráng của đất nước những năm tháng đạn bom khói lửa.
57
Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
TRONG NHẬT KÝ CỦA CHU CẨM PHONG
3.1. Khả năng tái hiện hình ảnh qua ngôn ngữ
Trong luận văn này, chúng tôi lựa chọn Nhật ký Chu Cẩm Phong để
nghiên cứu vì nó hội tụ đầy đủ những đặc điểm tiêu biểu của thể loại ký và là
tác phẩm đại diện cho dòng sách viết về chiến tranh. Là người được đào tạo
để viết văn chuyên nghiệp nên Chu Cẩm Phong đã rất “kỷ luật” khi ghi lại
hiện thực cuộc chiến một cách chi tiết và trung thực qua cảnh vật, con người
trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày đến tinh thần chiến đấu quật cường của
quân, dân vùng Trung Trung bộ
Nhật ký Chu Cẩm Phong đã hội tụ đầy đủ những nét đặc điểm chung
nhất về thể loại nhật ký, đó là độ chân thực của các chi tiết, các biến cố, sự
kiện đã xảy ra bằng những hình ảnh sống động. Qua cuốn nhật ký này cuộc
chiến đang hiện hữu trước mắt, người đọc có thể hình dung ra những chặng
đường hành quân vất vả của tác giả nhưng cũng thật đẹp, lãng mạn. “Buổi
chiều về trên dòng sông Thu Bồn thật tuyệt diệu. Từ Sơn Tây trở xuống gọi là
sông Thu Bồn, dòng sông mở rộng, nước chảy mềm mại êm xuôi, chỉ gợn
những làn sóng lăn tăn. Mùa lụt nước cuốn theo cát và đá, xoáy dòng sông
nên có vài cái thác nhỏ. Chúng mình ngồi đò dọc nhìn sắc trời đang chuyển
dần tối, chỉ còn những vảy mây sáng rồi tắt hẳn. Những rẫy tranh, nương ngô
hai bên bờ mườn mượt xanh đậm nhạt xa dần…” (nhật ký ngày 18-3-68) hay
“Bọn Mỹ ném xuống đây khá nhiều bom, những trái bom phá khoét những hố
sâu hoẳm liên tiếp nhau. Dân ở đây, không thừa nhận bất cứ một sự đầu hàng
dưới hình thức nào, không thừa nhận chết trên mảnh đất mà dòng sông Thu
Bồn đã mang mầu mỡ của muôn nơi về bồi đắp, mảnh đất mà họ đã đem máu
58
và mồ hôi, nước mắt của mình ra thâm canh. Họ trồng rau muống quanh
miệng hố bom, trong lòng hố bom. Rau muống giờ đã xanh, làm thành một
vòng xanh tròn trịa, khoẻ mạnh cứ thít chặt mãi, thít chặt mãi. Những ngọn
rau như còn rụt rè chưa muốn vươn ra mặt nước trong hồ vì còn e dè cái chất
thuốc nồng nặc giết sự sống của bom Mỹ, nhưng nhiều ngọn khác đã coi
khinh, thách thức vươn ra, nằm trên mặt nước, ngọn rau xanh mướt, to căng,
khoẻ mạnh và hào hứng kỳ lạ…” (nhật ký ngày 19-3-68).
Thiếu thốn thường trực về vật chất, bệnh tật quật ngã chỉ là một phần
thử thách bởi những chuyến công tác nguy hiểm có thể ngã xuống vĩnh viễn
bất cứ lúc nào vì kẻ thù có ở khắp nới và những day dứt làm sao hoàn thành
nhiệm vụ được ghi chép tỉ mỉ trong những trang nhật ký của Chu Cẩm Phong.
“Làng bị đánh xơ xác, nhiều bụi tre như bứng lên. Quanh các hầm, các em
vẫn tổ chức những trò chơi riêng. Áo xanh, áo đỏ rực rỡ. Trong các làng có
những bia căm thù đề: “Hãy nhớ lấy tội ác này. Gia đình anh… có 8 người
đều bị giết. Đó là những người…”, các khẩu hiệu: “Nợ máu phải trả bằng
máu” (nhật ký ngày 23-3-68).
Từ một địa hình gần bờ sông Thu Bồn thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng
Nam, nhà văn Chu Cẩm Phong đã xếp lại cuốn nhật ký đang ghi dở dang và
cầm súng chuẩn bị chiến đấu. Cuốn nhật ký đã vĩnh viễn dừng lại ở dòng chữ
“10 giờ, 2 chiếc phản lực đến thả bom và bắn đạn 20 ly, sau đó quân bộ kéo
sang” (ngày 27-4-971).
Chu Cẩm Phong chỉ muốn ghi lại cuộc chiến mà anh trực tiếp dấn thân,
ghi lại những gì anh đã thấy, đã nghĩ, đã xúc cảm mãnh liệt về nhân dân, về
đồng đội hay chỉ đơn giản rằng nó sẽ trở thành một tư liệu quý giá cho những
tác phẩm sau này nếu may mắn còn sống sót thì anh sẽ viết. Ngã xuống khi
chưa tròn 4 tuổi văn, chưa kịp bộc lộ hết tài năng, nhưng những gì anh để lại
đều gây ấn tượng đối với độc giả, tác phẩm nào cũng đáng nhớ. Mỗi tác phẩm
59
là sự chân thành, là khát khao cháy bỏng của cảm xúc. Với Nhật ký Chu Cẩm
Phong - những dòng viết tươi ròng, liền mạch, chân thật và mềm mại... đã làm
cho tác phẩm có sức sống bất diệt.
Tóm lại, khi đọc Nhật ký Chu Cẩm Phong, chúng ta như là người “đồng
hành” cùng tác giả trải qua từng vùng đất, trò chuyện với những con người
mà anh ghi lại. Đây là tài năng của Chu Cẩm Phong khi quan sát, ghi chép lại
từng chi tiết nhỏ nhất đến cả bối cảnh rộng lớn là cuộc chiến tranh tàn khốc
mà bên nào cũng chịu sự đau thương. Sự mộc mạc trong các trang nhật ký của
Chu Cẩm Phong cũng có ý kiến cho rằng đó là những trang viết đơn giản, ít
giá trị nghệ thuật. Song, nếu nghiên cứu thật kỹ lưỡng, chúng ta thấy tác giả
đã thực hiện nguyên tắc nghệ thuật, đặc trưng của thể ký. Việc chuyển tải toàn
diện bối cảnh, khung cảnh, diễn biến sự việc, hiện tượng để người đọc như
xem một thước phim qua ngôn ngữ viết mà không sử dụng biện pháp “phù
thủy” ngôn từ là điều không hề dễ nhưng Chu Cẩm Phong đã thật sự rất thành
công. Đây là giá trị nghệ thuật lớn nhất của cuốn Nhật ký Chu Cẩm Phong
3.2. Ngôn ngữ, giọng điệu trong Nhật ký Chu Cẩm Phong
3.2.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký Chu Cẩm Phong
Do bản thân tác giả Chu Cẩm Phong là một người được đào tạo chuyên
về viết văn tại Trường đại học Tổng hợp Hà Nội và đã trở thành nhà văn khi
có nhiều tác phẩm nên trong cuốn Nhật ký Chu Cẩm Phong, chúng ta thấy
được những thủ pháp sáng tạo ngôn từ rất đặc sắc. Trên cấp độ từ vựng, Chu
Cẩm Phong đã sử dụng một cách rất độc đáo và linh hoạt nhiều lớp từ vựng,
mang đến những hiệu quả nghệ thuật bất ngờ. Với việc lặp đi lặp lại những từ
ngữ, hình ảnh, sử dụng lớp từ triết lí, lớp từ phân tích tâm lí đã tạo ra được cái
nhìn mới mẻ về cuộc sống, con người trong chiến tranh, thấy được ý chí, nghị
lực của nhà văn khoác trên mình màu xanh áo lính này. Hơn thế nữa, việc tác
giả sử dụng thành thạo tiếng địa phương cũng như tiếng của bà con dân tộc ít
60
người cho thấy tài năng cũng như sự gần gũi, gắn bó của tác giả với nhân dân.
“Xứ đất này trở nên tốt tươi. Trong những đám thổ mình đi qua, đậu phụng
xanh mướt, giàn khổ qua rậm rịt, những bãi bí ngô lổn ngổn trái, dày đặc mà
người ta chưa vội hái. Đặc biệt những luống khoai tề chỉnh, tăm tắp cả gần
một thước, lá sum xuê, bò xoã ra luống đất lực lưỡng, nở nang. Khoai ở đây
chưa bằng ở Trà Đoã nhưng cũng ngon lắm” (nhật ký ngày 31-3-68).
Trên cấp độ câu văn, nhà văn đã sử dụng những cấu trúc câu đa dạng,
gợi cảm, những câu văn trần thuật chứa đựng nhiều thông tin và đặc biệt là
khả năng sử dụng linh hoạt các loại câu kế, câu tả và câu cảm thản, Chu Cẩm
Phong đã tạo cho mình được một phong cách sử dụng ngôn ngữ rất riêng và
thành công. “Trời nắng dữ dội. Các dãy núi bên bờ sông X bị chất độc giờ
ngả màu như một đốm lửa lớn liếm qua tất cả, khô héo trong màu nâu cháy
nhức mắt. Người ta vẫn cứ phát rẫy, trỉa bắp. Đây đó trên các sườn đồi núi
bốc lên những đụn khói lớn, lúc đầu màu vàng chạch, sau chuyển sang màu
trắng nhẹ nhàng, tản đi trong nắng. Trên bầu trời máy bay trinh sát L19,
OV10A, trực thăng vẫn quần, rình mò. Các đám cháy, đụn khói vẫn thách
thức…” (nhật ký ngày 21-2-70). Điều này có vai trò tích cực trong việc thể
hiện những trăn trở, những suy nghĩ trong con người Chu Cẩm Phong.
Đáp lại lời kêu gọi của quê hương đất nước, những chàng trai, cô gái
tạm từ bỏ ước mơ, tương lai, cuộc sống bình yên và hạnh phúc cá nhân để hòa
mình vào cuộc chiến của toàn dân tộc. Dù biết khó khăn gian khổ, cái chết
luôn diễn ra từng giây từng phút nhưng nó không làm họ nhụt chí mà ngược
lại còn làm tăng thêm ý chí chiến đấu và trả thù cho người đã khuất. Tất cả
những điều đó thế hiện rõ nét qua ngôn ngữ trong cuốn nhật ký của Chu Cẩm
Phong. Chính điều này đã tạo nên sức hút vô cùng hấp dẫn và mang lại sức
sống cho cuốn nhật ký này.
61
Trong điều kiện khó khăn về mọi mặt có lẽ điều kinh khủng nhất mà
người lính phải đối mặt là cái đói và những cơn sốt rét rừng. Tiểu ban văn
nghệ của Chu Cẩm Phong dường như đã quá quen thuộc với những bữa cơm
thòm thèm, chia nhau từng củ sắn, bát ngô, thậm chí đói quá thì những củ sắn
chết nhựa cũng trở thành món ngon, anh kể về những hôm cõng gùi đi vào
làng xin đổi khoai sắn của bà con thật xúc động: bộ đội đã đói nhưng nhiều
gia đình còn đói hơn mình, cứ trồng được luống ngô, khoai sắn nào thì lại bị
bọn giặc thả chất độc ngấm vào khiến chúng không thể sống nổi; hay khi vào
nhà dân xin lương thực, nhìn vào đáy thùng chỉ còn lại ít gạo, vậy mà họ cũng
vui vẻ san sẻ cho anh... tất cả những chi tiết miêu tả về cuộc sống khó khăn
thiếu thốn đủ đường đó đã được anh ghi lại trong nhật ký một cách chi tiết và
đầy đủ nhất, nhưng những thiểu thốn “đói hoa cả mắt tay run không thể cầm
bút mà viết được”, đó không làm mất đi ý chí chiến đấu trong anh. Phải chống
chọi với những cơn đói, với trận sốt rét rừng ác tính vậy mà anh vẫn hăng say
sáng tác, mau chóng hoàn thành những tác phẩm văn nghệ phục vụ chiến đấu.
Trong Nhật ký Chu Cẩm Phong ta bắt gặp những ngôn ngữ được người
viết dùng như một kí hiệu chỉ riêng mình biết. Đó là tên gọi của đồng đội, bạn
bè thậm chí là của người yêu... là cách để tác giả tự nói với mình hay hình
dung ra những người thân yêu của mình đang hiện diện, thổ lộ tâm tư tình
cảm và thái độ của mình với họ. Trong nhật ký thông thường, cách sử dụng
này cũng xuất hiện, nhưng với nhật ký chiến tranh thì mật độ xuất hiện vô
cùng dày đặc, các ký hiệu tên được viết tắt. Những ngôn ngữ quy ước này
được tác giả sử dụng như một thứ ký hiệu riêng trong những trang nhật ký của
mình, để gọi tên một người thân thương nào đó và để bộc lộ cảm xúc suy
nghĩ, thái độ của mình một cách kín đáo và khách quan nhất. Nhật ký chiến
tranh là những trang viết từ chiến trường khói lửa, giữa làn mưa bom bão đạn,
vì thế để viết ra những dòng chữ đó của một người phải thật sự trải qua tất cả.
Người chiến sĩ của chúng ta hoàn toàn không có nhiều thời gian để có thể đầu
62
tư vào câu chữ sao cho thật trau chuốt hay chọn lựa các tình tiết, sự kiện để
ghi chép, trái lại, đó là những ghi chép nhanh, linh hoạt và chi tiết những sự
kiện đang diễn ra trên mặt trận. Kể cả những lúc đau ốm, mưa bão phải nằm
nhà một mình của Chu Cẩm Phong... Điều này hoàn toàn khác biệt với những
cuốn nhật ký thông thường khác, vì nhật ký thông thường có thể viết lúc rảnh
rỗi hay tùy theo tâm trạng muốn viết hay không muốn viết. Vì thế nhật ký
chiến tranh thực sự như những cuộc hành trình ngôn ngữ gian nan, đồng hành
cùng tác giả. Những cuốn nhật ký được hoàn thiện và nguyên vẹn đến với độc
giả đã trải qua biết bao nhiêu khó khăn giữa trăm bề thiếu thốn. Trải nghiệm
qua gian khổ mới thấy hết nỗi gian truân mà những người lính của chúng ta
đang nếm trải, càng khẳng định nỗ lực phi thường và sức sống mãnh liệt mà
không bom đạn của kẻ thù nào có thể khuất phục được họ. Những trang viết
đầy sức sống của những người nghệ sĩ - chiến sĩ đã tái hiện và miêu tả một
cách sinh động về một thời đại hào hùng của dân tộc, đã trở thành kho tư liệu
vô giá những gì mà chiến tranh đã đi qua, phản ánh được một cách chân thực
những tấm gương anh dũng của thế hệ cha anh đi trước, đặc biệt là ước mơ
hoài bão và lý tưởng sống của tuổi trẻ thời đại Hồ Chí Minh, đã thành niềm tự
hào của tuổi trẻ Việt Nam mọi thế hệ. Nhà văn Thanh Quế có nhận xét rất chí
tình chí lý về Chu Cẩm Phong như sau:“Chu Cẩm Phong ghi chép rất kĩ
lưỡng. Trong cuốn sổ tay để lại anh tả từng khuôn mặt người, ghi từng câu
nói, từng từ lạ, những từ mang bản sắc vùng đất cùng những vật dụng mà bà
con dùng ở từng vùng... Những gì anh viết ra chỉ là một phẩn rất nhỏ so với
những điều anh thu nhặt được. Anh hiểu thấu đáo nhiều việc xảy ra ở đồng
bằng, miền núi khu V... Tạng của anh là tạng của một nhà tiểu thuyết lớn”.
3.2.2. Giọng điệu nghệ thuật trong Nhật ký Chu Cẩm Phong
3.2.2.1. Giọng điệu tự sự, tâm tình
Trong Nhật ký Chu Cẩm Phong, một người nghệ sĩ trực tiếp có mặt nơi
chiến trường ác liệt để tìm tư liệu sáng tác phục vụ văn nghệ trong chiến
63
tranh, độc giả không thể tưởng tượng được trong hoàn cảnh khó khăn thiếu
thốn trăm bề, đặc biệt là người nghệ sĩ lúc nào cũng phải đối mặt với những
cơn sốt rét hành hạ và cái đói triền miên lại có thể sáng tạo nghệ thuật lại một
cách đều đặn, anh viết trong những trang nhật ký của mình: “Mình lấy một
cửa hầm làm phòng viết, bàn là một tấm ván một đầu kê vào bậc lên xuống
của cửa hầm, một đầu bắc lên một đoạn tre” [ 2 4 , tr875]. Hành trình đi tìm
tư liệu sáng tác đầy nguy hiểm gian lao, nhiều khi không theo đúng như ý
muốn, dự định của tác giả, cái đói, những trận sốt rét và những trận ốm làm
suy giảm đi sức lực của anh, đặc biệt anh viết lại hoàn cảnh của mình ngay
trong lúc bị cái đói hoành hành khiến mắt hoa, tay run không thế nhấc nổi bút
để viết nữa: “Ăn ngày hai bữa 0,8 lon gạo với thân cây dớn, bụng sôi sùng
sục, cồn cào. Mấy đêm liền mỗi đêm chỉ ngủ có 2 tiếng, thức khuya bụng đói”
[24, tr 613]...
Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta vẫn thấy ở những con người
nhỏ bé đó, sức chịu đựng của họ thật phi thường, đáng khâm phục. Khả năng
nhanh nhạy trước mọi hoàn cảnh để ghi lại cảm xúc suy tư của mình một cách
sâu lắng nhất, chân thành nhất. Sự linh hoạt đó thể hiện ở nội dung của nhật
ký hết sức đa dạng phong phú, mô tả được nhiều cung bậc cảm xúc của người
viết. Trong các cuốn nhật ký, chúng ta đều bắt gặp yếu tố tổng hợp, nghĩa là
ghi chép tất cả những gì tác giả cảm nhận, chứng kiến và trải nghiệm, chứ
không hề có sự chọn lựa, chắt lọc những tình tiết hay sự kiện nổi bật mà trau
chuốt ngôn từ sao cho thật hay, thật hấp dẫn, mà thay vào đó, tất cả đều là
những chi tiết có thật, đầy sống động đang diễn ra trước mắt họ. Để duy trì sự
tồn tại và có mặt của những cuốn nhật ký đến ngày nay như: Nhật ký Chu
Cẩm Phong hay của các tác giả khác không biết bao người đã truyền tay gìn
giữ. Nguyên bản các cuốn nhật ký đó đã trải qua những chặng đường gian
64
truân, khói lửa, bom đạn chiến tranh đã vùi lấp chúng, xé lẻ từng số phận của
những cuốn nhật ký.
3.2.2.2. Giọng điệu di chúc, từ biệt
Bên cạnh phong cách ghi chép linh hoạt, sự gửi gắm cũng là một yểu tố
tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của Nhật ký Chu Cẩm Phong. Sự thật chiến tranh
được khắc họa một cách sinh động và đầy đủ nhất, hiện thực khắc nghiệt của
chiến trường khiến người đọc phải trùng lòng xúc động khi tưởng tượng ra
những mất mát hy sinh, khó khăn thiếu thốn mà những người lính của chúng
ta phải chịu. Đối mặt với thách thức đó, con người ta rất dễ dao động, thậm
chí nản lòng khi suy nghĩ về sự sống còn, được - mất sau chiến tranh, sự kiên
trì, bền bỉ chiến đấu trường kỳ đó đã được tác giả ghi lại trong những trang
nhật ký của mình thật xúc động. Tạm gác lại những ước mơ, sự nghiệp và một
tương lai sáng lạn phía trước, họ vui vẻ khoác ba lô lên đường đáp lời kêu gọi
của non sông, những chàng trai, cô gái phơi phới tuổi xuân chưa thể và không
thể hình dung nổi hiện thực khắc nghiệt cùng với những thử thách đang đón
đợi họ phía trước. Phải đối diện và chứng kiến cái chết đang diễn ra từng
ngày, từng giờ của đồng đội, thậm chí chính bản thân họ cũng nhiều lần nguy
hiểm đến tính mạng, ở chốn chiến trường này cái chết hiện diện khắp mọi nơi,
cái chết tưởng chừng như có thể sờ thấy được. Vì thế, giọng điệu di chúc là
một yếu tố thi pháp đặc thù, nổi bật của thể loại nhật ký chiến tranh. Giọng
điệu này chỉ có thể tìm thấy khi tác giả đối mặt với cái chết, khi mà sự ra đi
của họ gần như không hẹn ngày trở về. Những dòng tâm tư tình cảm dành cho
người ở lại được các tác giả ghi tất cả vào trang nhật ký của mình như một lời
di chúc.
Đặc điểm khu biệt cuối cùng của Nhật ký Chu Cẩm Phong là giọng điệu
gửi gắm. Do ý thức thường xuyên về cái chết, về sự hy sinh bất chợt, tác giả
đã để lại trong các trang viết của mình một kiểu văn phong dặn dò, giả định
65
những người đọc tương lai sau khi mình đã chết. Người đọc tương lai đó có
thể là người yêu, cha mẹ, người thân, bạn bè hay đồng đội. Lời dặn dò có thể
được thể hiện, được viết ra trực tiếp. Song, lời gửi gắm cũng có thể ẩn chứa
trong từng trang viết như một kiểu hành văn, hơi văn, tạo nên từ những ám
ảnh và dự cảm về sự hy sinh đang đến với mình. Thể loại nhật ký nói chung
và tác phẩm Nhật ký Chu Cẩm Phong nói riêng có những đặc điểm rất khác so
với các tác phẩm văn học tự sự như: truyện ngắn hay tiểu thuyết. Sự khác biệt
đó tiêu biểu phải kể đến đó là khả năng đan xen, đổi hướng của ngôn ngữ.
Thông thường, đổi với những tác phẩm văn học tự sự, mạch cảm xúc
xuyên suốt tác phẩm thường phụ thuộc vào cốt truyện và chính vì lẽ đó mà
ngôn ngữ thường có sự thống nhất từ đầu đến cuối văn bản. Tuy nhiên, đối
với thể loại nhật ký nói chung hay đối với Nhật ký Chu Cẩm Phong nói riêng
thì tư tưởng, suy nghĩ của nhân vật lại có sự thay đổi, đan xen đa chiều không
theo một trình tự nhất định. “Đại hội chi bộ hai đêm liền (ban ngày lo sản
xuất). Mình trúng cử vào chi uỷ mới và được phân công làm bí thư. Trong chi
uỷ còn có Quốc và Minh. Đại hội lần này thảo luận rất nhiều vấn đề làm thế
nào để bảo đảm chỉ tiêu sản xuất, nâng mức sống mà vẫn đảm bảo được 50%
thời gian làm công tác chuyên môn. Mình nghĩ làm một anh đảng viên cầm
bút lúc này phải để tâm tới tất cả mọi việc, từ nhỏ nhất là cọng rau đến việc
lớn là sự nghiệp sáng tác” (nhật ký 16-5-70).
Sở dĩ có điều khác biệt này là bởi nội dung của Nhật ký Chu Cẩm
Phong không phải là tình tiết, sự kiện được sáng tạo ra nhằm mục đích tạo
nên một tác phẩm văn học mà nó chính là những suy nghĩ, cảm xúc rất chân
thật của người viết, được viết vội vàng trên đường hành quân, công tác, ghi lại
những sự kiện, sự việc, con người mà người viết được gặp, được chứng kiến.
Nhật ký là thế lời độc thoại, tự mình nói với mình, vì thế chúng ta luôn thấy
tác giả hay nhân vật giữ ngôi thứ nhất. Nếu trong các thể loại như phóng sự,
66
tùy bút, bút ký... trung tâm thông tin không phải là tác giả mà là các vấn đề xã
hội thì ở nhật ký văn học người viết luôn là trung tâm. So với các thể loại
khác, vai trò của cái tôi trần thuật trong nhật ký văn học bao quát, quán xuyến
toàn bộ tác phẩm. Tác giả không ngại ngần xuất hiện trong từng chi tiết nhỏ
nhất và chính sự có mặt của cái tôi ấy đã góp phần quan trọng trong việc tạo
ra niềm tin của công chúng vì họ tin rằng đang được nghe kể về những sự thật
mà tác giả là người trực tiếp chứng kiến.
Tuy nhiên, có khi lời độc thoại của tác giả hay nhân vật lại chính là cuộc
đổi thoại ngầm với người khác về con người và cuộc đời nói chung, về bản
thân mình nói riêng. Hình tượng tác giả trong Nhật ký Chu Cẩm Phong là
hình tượng mang tầm khái quát tư tưởng thẩm mĩ lớn lao.
Nhật ký chiến tranh là những ghi chép của Chu Cẩm Phong về sự việc,
suy nghĩ, cảm xúc theo ngày tháng ở thì hiện tại, có lúc liên tục, nhưng cũng
có lúc ngắt quãng vì những lí do khách quan mang tới. Chính vì lẽ đó mà
ngôn ngữ trong tác phẩm có sự đan xen, đổi hướng liên tục theo dòng hồi
tưởng, suy nghĩ của tác giả. Ta có thể thấy rõ điều này qua trang viết của nhà
văn Chu Cẩm Phong. Trong nhật ký ghi ngày 27/1/69, anh có viết: “Cải ký
này mình định đặt đề “Mặt biển, mặt trận” nhưng nằm nghĩ mãi, buổi sáng
mới viết được hơn một trang. Đang viết về tác phẩm ký của mình, Chu Cẩm
Phong lại viết tiếp về tình hình chiến sự: “Từ 9 giờ, tàu gáo, tàu rắn mối vào
quần bẳn riết vùng thôn 2 thôn 3. Rốc-két, M79 bắn giập như thể một tấm
thép, liên thanh. Có tin xe ra, rồi hai chiếc phản lực đến ném bom hàng tiếng
đồng hồ, một chiếc gọng bừa chỉ điểm dân thường. Đến chiều thì tin xe ra
chính xác. Xe đến thôn 2. Đạn đại liên trên xe bắn rộn và có tràng vút qua
đầu công sự...”. Ta có thế thấy, mỗi một sự chuyển hướng cảm xúc là một sự
chiêm nghiệm, chứng kiến hay suy nghĩ của người viết. Dường như trong cái
khó khăn, vất vả, thiếu thốn và đầy hiểm nguy của chiến trường đầy bom đạn,
67
người lính ấy đã cố gắng để gom hết tất cả những gì mình thấy, mình làm vào
từng con chữ, từng trang giấy. Có thể những dòng chữ ấy còn có cái gì đó lộn
xộn, bụi bặm của chiến trường khốc liệt và không thiên về văn chương vì bản
thân nó chỉ là một sự ghi chép cá nhân nhưng nó lại mang ý nghĩa nhân văn
và giá trị lịch sử vô cùng to lớn.
Ngôn ngữ trong Nhật ký Chu Cẩm Phong có sự đổi hướng liên tục theo
dòng hồi tưởng và suy nghĩ của người viết, điều này mang lại hiệu quả nghệ
thuật rất lớn cho tác phẩm. Nó không chỉ nhấn mạnh tính chất của thể loại
nhật ký nói chung mà đồng thời những quan sát, chiêm nghiệm của nhà văn
cũng được đặc tả một cách chân thực và sâu sắc nhất. Cuốn nhật ký như một
bộ phim tư liệu quay chậm, ghi lại một phần quá khứ đau thương của dân tộc
trong chiến tranh. Nó có ý nghĩa giáo dục lớn đối với thế hệ trẻ sau này, nhắc
nhở họ phải sống, học tập, lao động và cống hiến sao cho không hổ thẹn với
sự hy sinh của thế hệ cha anh đi trước; nhắc nhở họ nhớ rằng, trong thời kỳ
bom đạn gian khổ ấy, đã có những con người sống với lý tưởng cao cả, dành
trọn trái tim, tâm tư, tình cảm và cả sự sống của mình cho nền độc lập dân tộc.
Đáp lại lời kêu gọi của quê hương đất nước, những chàng trai, cô gái tạm
từ bỏ ước mơ, tương lai, cuộc sống bình yên và hạnh phúc cá nhân để hòa
mình vào cuộc chiến của toàn dân tộc. Dù biết khó khăn gian khổ, cái chết có
thể đến bất cứ lúc nào nhưng nó không làm họ nhụt chí mà ngược lại còn làm
tăng thêm ý chí chiến đấu và trả thù cho người đã khuất. Tất cả những điều đó
thể hiện rõ nét qua ngôn ngữ trong cuốn nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm
Phong. Chính điều này đã tạo nên sức hút vô cùng hấp dẫn và mang lại sức
sống cho cuốn nhật ký này.
Trong các sáng tác văn học nói chung, ngôn ngữ được sáng tạo bởi
người nghệ sĩ nhưng không phải lúc nào bản thân ngôn ngữ cũng mang tính
chủ quan của cá nhân tác giả. Bởi, ngoài các yếu tố chủ quan thì ngôn ngữ
68
trong văn học còn bị chi phối mạnh mẽ bởi các nhân tố như cốt truyện, sự
kiện, nhân vật... Tuy nhiên, đối với thể loại nhật ký, một thể loại đặc thù với
đặc trưng nổi bật là đề cao yếu tố cá nhân thì quan điểm chủ quan của tác giả
được tô đậm trong ngôn ngữ diễn đạt.
Yếu tố chủ quan của tác giả trong Nhật ký Chu Cẩm Phong được biểu
hiện qua những suy nghĩ, cảm nhận, cảm nghĩ về con người, sự vật, hiện
tượng xung quanh. Nó là những tình cảm xuất phát từ bản thân tác giả, mang
tính cá nhân và riêng tư rất cao. Nhật ký Chu Cẩm Phong có đặc tính chủ
quan của cá nhân tác giả thông qua ngôn ngữ nghệ thuật càng được biểu hiện
một cách rõ nét. Đó có thể là thái độ thất vọng với những hành xử và suy nghĩ
chưa chuẩn của một người đồng đội: “Lại phải nghe những chuyện gì đâu,
chán vô cùng. Thế mới biết chủ nghĩa cá nhân ở trong mỗi người đều còn
nặng nề, muôn hình, muôn vẻ. Với những anh chàng tri thức tiểu tư sản, lại là
văn nghệ (cũng có thô lỗ chứ không phải là không đâu, đừng tưởng) mà là
thường núp dưới những câu nói ngọt ngào, dưới nhũng cử chỉ vuốt ve để che
đậy một sự kèn cựa xen với những tuyên bố rực rỡ về những động cơ cách
mạng chân chỉnh là những suy tính về những danh vọng, sau sự hào phóng là
những tính toán triền miên...” [19; tr185].
Viết về người lính cảm xúc bao trùm luôn là cảm hứng ngợi ca điều
cũng dễ nhận thấy ở Nhật ký Chu Cẩm Phong. Song, dù trong bất cứ hoàn
cảnh nào họ cũng luôn phơi phới niềm lạc quan. Song cảm hứng ngợi ca về
người lính thì chưa đủ, bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp ở Nhật ký Chu Cẩm
Phong còn những nỗi niềm sâu kín, những trăn trở suy tư về con người. Nhật
ký chính là người bạn đồng hành của họ, chia sẻ những tình cảm riêng tư
thầm kín. Mỗi cuốn nhật ký như những bức tranh toàn diện về tâm hồn của
những người viết nên nó. Do vậy, ngôn ngữ trong Nhật ký Chu Cẩm Phong
luôn mang đậm tính chủ quan của người viết. Từ những dẫn chứng trên, ta có
69
thể thấy ngôn ngữ trong nhật ký của Chu Cẩm Phong mang đậm dấu ấn chủ
quan của bản thân tác giả. Sự chủ quan ấy thể hiện thông qua thái độ, tâm tư,
tình cảm của riêng người viết. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thể loại nhật ký nói
chung và trong Nhật ký Chu Cẩm Phong nói riêng mang đậm yếu tố chủ quan
cá nhân không chỉ góp phần hình thành nên đặc trưng chung của thể loại mà
hơn hết, nó tô đậm tính chân thực của lời văn mà không phải thể loại văn học
nào cũng có được.
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học sáng tạo, tiếp nhận và đánh giá
văn học nói chung và nhật ký nói riêng không thể thiếu yếu tố này... Ngôn
ngữ trong văn học vô cùng phong phú, điều này phụ thuộc vào khả năng sáng
tạo và vận dụng của người viết. Ngôn ngữ nghệ thuật là sự phân từ khác của
ngôn ngữ tự nhiên, tương đồng nhưng không đồng nhất với ngôn ngữ tự
nhiên. Nhật ký Chu Cẩm Phong là sự kết hợp tài tình vừa mang ngôn ngữ đời
thường vừa kết hợp yếu tố tự sự, trữ tình lãng mạn. Điều này khẳng định được
tài năng của Chu Cẩm Phong trong việc nghệ thuật hóa ngôn từ với sự tươi
mới của cuộc sống thực tại.
Ngôn từ quy ước, ẩn dụ là thứ ngôn ngữ được sử dụng khá phổ biến
trong thể loại nhật ký đặc biệt trong nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong.
Tác giả sử dụng nó như một ký hiệu riêng trong những trang nhật ký của
mình, để gọi tên thân thương nào đó và để bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc, thái độ
của mình một cách kín đáo và khách quan nhất. Đó là tên gọi của đồng đội,
bạn bè, thậm chí là người yêu là cách tác giả tự nói với mình hay hình dung ra
người thân yêu đang hiện diện để thổ lộ tâm sự, tình cảm của mình vói họ.
Trong nhật ký thông thường, cách sử dụng ký hiệu này cũng xuất hiện, nhưng
với Nhật ký Chu Cẩm Phong thì xuất hiện với mật độ dày đặc, các ký hiệu,
như : BMQ, P.L, P.A, M... được sử dụng khá nhiều trong mỗi trang nhật ký.
70
Bắt nguồn từ điều kiện ra đời, đặc biệt là viết trong bom đạn, trong ý
thức thường trực về cái chết đến bất ngờ. Hệ thống từ ngữ, tên riêng viết tắt,
những ký hiệu, ẩn dụ trong cuốn Nhật ký của Chu Cẩm Phong đều có thể cắt
nghĩa bằng tâm thức đặc biệt của người viết là để đảm bảo bí mật cho đồng
đội, người thân và giữ kín chuyện riêng tư, phòng khi chiến sự ác liệt, cuốn
nhật ký có thể rơi vào tay kẻ thù hoặc nhiều người khác. Vì thế các ký hiệu
hay chữ viết tắt là công cụ hữu hiệu hơn cả. Chu Cẩm Phong đã ghi lại những
cảm xúc nhớ nhung người yêu, anh gọi chị bằng ký hiệu riêng như chỉ để cất
giấu chị cho riêng mình. Yêu nhau đâu phải nói ra chỉ thông qua ký hiệu tên
người yêu thôi cũng đủ, để nhấn mạnh tình cảm, tình yêu. Trên đường hành
quân vất vả, Chu Cẩm Phong vẫn dành một khoảng lặng nhỏ, sự quan tâm
nho nhỏ cho người mình yêu thương ; “Nghe tin P.L có một chuyện buồn, do
một sơ xuất trong công tác mà bị kiểm điểm, và hôm nay lại sốt. Chắc P.L
buồn và khổ vì chuyện đó lắm. Tự nhiên mình cũng thấy không vui. Mình
muốn có một lá thư, một lời an ủi, động viên gửi tới P.L nhưng không biết làm
sao được” [19, tr444]. Khói lửa chiến tranh ngăn bước họ gần lại bên nhau,
nhưng cứ mỗi lúc có cơ hội được gặp nhau, họ lại có rất nhiều cảm xúc khó
nói thành lời: “Ph.A reo lên: “Ôi, P.L đến!”. Bỗng dưng mình lặng người đi
trong giây lát rồi trong lòng rộn rực niềm vui sôi nổi, người nóng rực. Mình
nén xúc động, bình tĩnh bước ra tận ngõ đón P.L. Điều mình nhận ra đầu tiên
là P.L không đến nỗi gầy, có hơi xanh, nhưng vì đi đường hay xúc động nên
gương mặt thoáng hồng, P.L rụt rè và ít nói. Anh em trong cơ quan thì cứ
ghẹo mình. Mình rất muốn nói chuyện với P.L nhưng lần đầu tiên em đến, vả
lại anh em đông quá, rất tinh nghịch, P.L lại rất rụt rè lúc nào cũng ngồi với
Ph.A, nên mình chẳng nói được gì. Buổi tối nói được tí câu, nhưng toàn
nhũng chuyện đâu đâu như không phải chính miệng mình nói ra. Buổi tối em
lại giành ngủ dưới bếp với Ph.A để canh bánh chưng. Mình không biết làm
thế nào để trò chuyện sau nửa năm xa cách. Mình nằm ở nhà trên vẫn nghe
71
tiếng hai cô bạn gái chuyện trò thức suốt đêm. P.L bảo sáng mai phải về vì lý
do công tác chuyên môn. Mình thấy buồn chẳng lẽ không nói được gì? Nhưng
không có cách nào giữ P.L lại được. Khuya, mình thức dậy viết một lá thư
ngắn ” [19; tr459]. Tình yêu trải qua trong chiến tranh dường như nó thiêng
liêng và cao cả hơn nhiều lắm, hạnh phúc của những đôi lứa yêu nhau đôi khi
chỉ bình dị là được nhìn thấy nhau hay giản đơn hơn chỉ là thỉnh thoảng được
nghe tin về nhau. Chu Cẩm Phong viết: “Trông gặp P.L là một khao khát:
mỗi lần gặp em, mình càng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp và nết na
rất đáng yêu và đáng kính trọng. Sau mỗi lần gặp, hình ảnh P.L càng tràn
ngập trong tim mình và mình cảm thấv đang xích lại gần em, đang đi đến một
Tình Yêu. Đến với P.L, mình cảm thấy đó là một cuộc gặp gỡ kì diệu, sự hòa
hợp của hai tâm hồn mà mình vẫn ôm ấp mong ước. Đến với P.L, mình sẽ
chan chứa hạnh phúc suốt cả cuộc đời. Đêm nay ngồi trước trang giấy, hình
ảnh P.L thắm thiết tràn ngập trong những mơ ước về tương lai...” [19;tr459].
Như vậy, ta thấy qua việc dùng từ ngữ quy ước, người viết bày tỏ được
tâm tư, tình cảm, thái độ của bản thân khi nhận xét một cách khách quan về
mọi việc xung quanh. Cách dùng ký hiệu trong ngôn ngữ khiến Nhật ký Chu
Cẩm Phong tạo nên được sức hút đối với độc giả, làm cho người đọc có thể tư
duy theo suy nghĩ chủ quan của bản thân để dò đoán người mà tác giả nhắc
đến ở đây là ai. Nhưng điều quan trọng ở đây là dùng từ ngữ quy ước như vậy
thì người viết có thể bày tỏ được quan điểm của bản thân khi nhận xét về
đồng đội của mình và khách quan nói ra những suy nghĩ nhận xét về đức tính
của con người trong hoàn cảnh khó khăn, nơi mà mặt tốt và mặt xấu của con
người rất dễ bộc lộ. Việc sử dựng ngôn ngữ có những ký hiệu riêng đồng thời
còn góp phần khẳng định quan điểm cá nhân, cái riêng của tác giả trong
những trang viết của mình mà không có sự trùng lặp hay giống bất cứ một bài
viết của ai khác.
72
Trên từng trang nhật ký, nhà văn Chu Cẩm Phong thể hiện khả năng sử
dụng ngôn ngữ hết sức phong phú và linh hoạt. Trong công tác chuyên môn
hay sản xuất, chiến đấu, Chu Cẩm Phong luôn được nhắc đến như một tấm
gương mẫu mực về sức chịu đựng và lòng can đảm, nhận lấy trước hết về
mình những gian khổ, hiểm nguy. Không những vậy, anh luôn là người sống
gần gũi với bà con dân tộc mỗi nơi anh được tiếp xúc và đi qua. Chu Cẩm
Phong nói thạo tiếng Kà Dong và một ít tiếng Kà Tu, thuộc cả nhiều bài ca
nữa. Anh có mối quan hệ tình nghĩa ruột rà với đồng bào, từ các cụ già đến
các em nhỏ ở các nóc dân tộc thiểu số xung quanh cơ quan hoặc bất cứ nơi
nào mà anh đặt chân đến. Ở các đoạn hội thoại được Chu Cẩm Phong viết lại
trong nhật ký, ta có thể dễ dàng thấy được ngôn ngữ nói mang đặc trưng của
bà con dân tộc... Điều mà nhiều cuốn sách văn học không có được vì tác giả ít
có cơ hội tiếp xúc dài lâu và sống chan hòa, thân thiện với đồng bào dân tộc
thiểu số. Bên cạnh đó, ngôn ngữ trong nhật ký của Chu Cẩm Phong còn mang
đậm chất địa phương của người dân Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Đọc Nhật ký Chu Cẩm Phong, ta thấy những tình cảm, cảm xúc cũng
như ngôn ngữ hết sức chân thật và gần gũi với đời sống hàng ngày. Nó đúng
với những đặc trưng của thể loại nhật ký, tác giả cầm bút viết cho chính mình,
mà khi người ta viết cho chính mình thì thường hết sức chân thật. Điều mà
trong một giai đoạn khủng hoảng về giá trị tinh thần, niềm tin, con người cần
đến nó như một loại tiên dược. Bên cạnh lớp từ vựng thuộc phong cách ngôn
ngữ bình dân, thường được sử dụng hàng ngày thì ngôn ngữ trong Nhật ký
Chu Cẩm Phong còn mang đậm phong cách văn chương nghệ thuật. Ví dụ
như hệ thống từ láy, từ tượng thanh, tượng hình...
Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy trong tác phẩm của mình, Chu Cẩm Phong
sử dụng khá thường xuyên và linh hoạt hệ thống các từ láy. Tác giả sử dụng từ
láy trong cả lời đối thoại, lời độc thoại nhung nhiều nhất vẫn là trong lời trần
73
thuật. Từ láy cũng xuất hiện nhiều trong các câu văn miêu tả nhân vật, chẳng
hạn trong câu văn miêu tả các em bộ đội nhỏ tuổi ở Hội An, Chu Cẩm Phong
viết: “Trong cuộc họp, họ ngồi lén khoèo lấy một củ khoai xong ngồi gặm lốp
bốp rất tự nhiên...” [19; 101]. Miêu tả ông già anh gặp ở Bảo An, Chu Cẩm
Phong viết: “Ông chủ nhà đã già, cặp mắt hơi lem nhem, nhưng tính tình vui
vẻ” [19,80] hay khi viết về một chỉnh trị viên thị đội tên Hiên, nhà văn viết:
“Người nhỏ bé loắt choắt, mặt tròn, gặp ai cũng cười rất vui vẻ” [19;87]...
Có thể nói vốn từ láy trong kho từ vựng của Chu Cẩm Phong khá phong
phú. Bằng việc sử dụng các từ láy đúng chỗ, đúng lúc, Chu Cẩm Phong đã
cho người đọc thấy được sự sống động và chân thực của cảnh sắc cũng như
con người mà anh đã được gặp, được chứng kiến trên đường công tác. Trong
cuốn nhật ký của mình, Chu Cẩm Phong đã kết họp sử dụng nhiều kiểu cấu
trúc câu như: câu đơn, câu đối xứng, câu dài, câu nhiều tầng bậc. Trước
những hoàn cảnh và đối tượng khác nhau, nhà văn đã vận dụng linh hoạt các
kiểu diễn đạt khác nhau. Nhờ thế ngôn ngữ văn chương trong tác phẩm trở
nên phong phú và đa dạng hơn rất nhiều.
Trên đường đi công tác, giữa cảnh mưa bom bão đạn nguv hiểm, để mô
tả, ghi chép cho kịp, cho đúng cảnh tượng của đời sống, của thiên nhiên, của
con người, Chu cẩm Phong thường sử dụng kiểu câu đơn giản mà đa số là
những câu đơn. Chẳng hạn trên đường đến núi Tròn, tác giả viết: “Hố pháo
chỉ chít hai bên đường. Tre gãy cụp” [19;25]. Hay khi viết về những ngày
mưa bão, Chu Cẩm Phong viết: “Hai ngày dầm mưa. Bão gần, bão số 6 đổ
bộ vào miền Trung. Nước lũ đổ về dữ quá. Con sông Nước Mỹ xám ngắt réo
rắt xiết qua các thác đá. Các suối nhỏ thành suối lớn. Suối lớn thành sông”
[19, tr179]. Những câu văn viết về quá trình trên đường đi công tác vất vả
cũng được tác giả rút ngắn giản đơn: “Lên đường đi về. Đi một mình tự lực.
Con đường này khác hẳn. Bom tọa độ đánh dày đặc. Nắng như đổ lửa, đường
74
nhiều dốc mình lại không có bi đông mang nặng. Mồ hôi ra như tắm. Xuống
suối tắm lên lại nóng. Hơi nóng bốc lên mặt thở không được. Không có bóng
mát đế nghỉ có lúc mình hoá điên. Mình càng thấy sức khỏe mình xuống" [19;
tr298]. Các câu văn ngắn tạo cảm giác gấp gáp, vội vã, cũng như cho người
đọc thấy được nỗi gian lao và vất vả trên đường hành quân công tác của nhà
văn mang áo lính và những người đồng đội của mình.
Nhưng có lẽ kiểu kiến trúc câu đặc sắc hơn cả là kiểu kiến trúc câu dài
nhiều tầng bậc. Chu Cẩm Phong đã sử dụng các câu văn với nhiều vế câu,
nhiều thành phần mở rộng, biến hóa linh hoạt. Loại câu này rất phù hợp khi
tác giả miêu tả đối tượng đồng thời qua đó thể hiện cảm xúc riêng của mình.
Khi miêu tả về mảnh đất Trà Quế nổi tiếng về trồng rau, nhà văn viết: “Trồng
rau trở thành một nghề nghiệp chuyên môn, một thứ gia truyền người ta sinh
sống, phát đạt bằng những mảnh vườn tăm tắp, ngăn nắp và xinh đẹp như
vườn hoa. Khắp các ngõ lối trong làng, chỗ nào cũng ngào ngạt hương thơm
quyến rũ, kích thích của rau. Nhất là buổi chiều về, khi gió ngoài sông thổi
lộng vào, các chị gái và các bà gánh những gánh rau đầy ắp từ ngoài vườn về
đổ đầy sân, chuẩn bị cho chuyến chợ phố ngày mai, hương vị rau càng nồng
đượm, rau ở đây ngon nhờ chất đất” [19; tr110]. Hay khi viết về vùng đất
cửa ngõ của Hội An, Chu Cẩm Phong viết: “Dừa nước ở đây nhiều vô kể,
mọc thành tùng cụm rải rác, mọc thành đám khổng lồ, mênh mông dọc theo
các sông... Đó vẫn là một căn cứ, một cái hầm bí mật, một thế trận đó, có
điều là cái căn cứ nổi nàỵ, cái hầm bí mật này ngày nay to hơn ngày kháng
chiến trước rất nhiều” [19; tr97]. Nhà văn cứ viết, cứ viết mà không để ý đến
việc ngắt câu, cứ để mạch cảm xúc ào ạt, tuôn trào và chân thực.
Đọc Nhật ký Chu Cẩm Phong, ta có thế bắt gặp nhiều câu dài như thế và
đa phần ở những đoạn văn miêu tả về phong cảnh, về quê hương là những
đoạn chứa những câu văn dài nhiều tầng bậc như thế. Dường như giữa mưa
75
bom bão đạn, giữa sự tàn khốc của khói lửa chiến tranh thì tình yêu quê
hương, đất nước, tình yêu của anh với mỗi mảnh đất nơi anh đặt chân đến lại
làm cho tác giả có những cảm xúc khó nói thành lời và rồi người lính ấy cứ để
cho những dòng cảm xúc ấy tuôn trào trên trang nhật ký thân thương.
Việc sử dụng nhiều kiểu cấu trúc câu không chỉ đáp ứng nhu cầu thểhiện
cảm xúc của tác giả mà hơn hết nó còn phù hợp với hoàn cảnh khó khăn khi
sáng tác trong chiến tranh ác liệt, mang lại những hiệu quả nghệ thuật rất lớn
cho tác phẩm.
Không giống với Đặng Thùy Trâm hay Nguyễn Văn Thạc, Vũ Xuân...
Chu Cẩm Phong khoác lên mình chiếc áo lính ra chiến trường với tư cách một
nhà văn. Do vậy, trong hoàn cảnh khó khăn và gian khổ giữa vùng bom đạn,
phải lao động, sản xuẩt và đi công tác rất nhiều nhưng vẫn viết như một điều
kỷ luật bắt buộc với bản thân, viết bởi ý thức chứ không phải cảm xúc bột
phát, nhất thời. Tuy vậy, với Chu Cẩm Phong, mỗi khi được viết, được sáng
tác không hẳn chỉ là trách nhiệm, là công việc mà còn là cả một niềm đam mê
đối với anh. Ngay cả những khi viết nhật ký, công việc tưởng chừng như rất
cá nhân, rất riêng tư ấy, Chu Cẩm Phong cũng tranh thủ chuẩn bị cho những
sáng tác của mình. Với cặp mắt quan sát rất sắc sảo, một trực giác nắm bắt
tâm lý bén nhạy, tinh tế, một lối ghi chân mộc và sinh động, Chu Cẩm Phong
đã chắt chiu những gì mắt thấy, tai nghe trên đường đi công tác vào những
trang nhật ký với hy vọng có thể làm tư liệu phục vụ cho những sáng tác sau
này của anh nếu có cơ hội. Chính vì lẽ đó là trong những trang nhật ký của
Chu Cẩm Phong, ta bắt gặp rất nhiều câu văn, đoạn văn trần thuật về con
người, về những chiến dịch, những miền quê anh qua... cung cấp những thông
tin rất có giá trị và có ý nghĩa lịch sử rất to lớn. Kể về chiến công của người
thiếu niên anh dũng, Chu Cẩm Phong có viết: “Chiến sĩ Xong 16 tuổi người
mảnh khảnh, nhỏ nhắn như một thiếu nhi còn quàng khăn đỏ giữ khẩu B40 và
76
mang gùi chất đầy những quả đạn B40 như những bắp chuối có cuống, màu
vàng. Cái nhà mái bằng đồ sộ trước mặt. Trong đó đang đầy lúc nhúc bọn
tình báo nước ngoài (theo con số nắm được, trong đó có 72 tên). Kê khẩu 40
lên vai, Xong bắn hai phát. Phát thứ nhất trúng vào góc dưới, phát thứ hai
trúng góc trên, ngôi nhà sụp hẳn. Một chiếc xe bọc thép gần đấy xả đại liên
ra. Xong chuyển khẩu B40 về chiếc xe tăng. Chiếc xe bốc cháy. Lại có một
chiếc xe tăng khác xuất hiện, chúng bắn đại liên và ĐK ra. Hai đồng chí hy
sinh, hai đồng chí khác bị thương. Một viên đạn bắn ngay trước mặt Xong.
Đất vào đầy miệng, Xong biết sức mình chỉ bắn được 4 phát là cùng, phát thứ
4 muốn để dành cho ngôi nhà thứ hai. Xong cầm thủ pháo và lựu đạn trường
lên sát chiếc xe bọc thép. Xong phá hủy khẩu đại liên và khẩu ĐK. Xong bò
đến rào, leo lên một bờ đất, gác khẩu súng vào rào Xong mới phát hiện viên
đạn vẫn chưa đúng khớp. Xong bình tĩnh nhảy xuống lắp lại rồi lại leo lên.
Phát đạn nổ, vật ngã Xong xuống nằm thiếp đi. Trong cơn nửa mê nửa tỉnh
Xong thấy tai mình điếc đặc, cổ rát rạt như muốn chảy máu, mũi khét, miệng
đắng. Người mệt lả nằm xõng xoài. Lần đầu tiên Xong bắn cùng lúc 4 quả
B40...” [19; tr129]. Hay viết về vùng đất mình đi qua, anh ghi rất tỉ mỉ:
“Thạnh Mỹ là nơi xây dựng làng kiểu mẫu của thời thằng Diệm. Giờ chỉ còn
lại dấu vết ở một cải nền nhà, cái sườn nhà, hai trụ với cổng ra vào hoặc cái
cầu tiêu đúc…
Câu văn, đoạn văn trần thuật ta bắt gặp rất nhiều trong mỗi trang nhật ký
của Chu Cẩm Phong. Bên cạnh mục đích viết ra để trải nỗi lòng và tâm sự thì
ngay khi được công bố rộng rãi, cuốn Nhật ký Chu Cẩm Phong với những
thông tin trần thuật chân thực đã cung cấp cho thế hệ sau những cái nhìn
khách quan đối với một thời đau thương của dân tộc oằn mình trong chiến
tranh. Cuốn sách mang trong mình giá trị lịch sử to lớn mà không phải tác
phẩm nào cũng có được.
77
Không giống như những cuốn nhật ký khác, Nhật ký Chu Cẩm Phong có
chút gì đó rất thời sự và có tính chính luận khá cao. Ta có thế hiểu được điều
này bởi bản thân Chu Cẩm Phong là một người sống rất nguyên tắc và anh rắt
khắt khe với bản thân mình cho dù là trong sáng tác chuyên môn hay lao động
sản xuất. Mặt khác, anh viết nhật ký không những để bộc lộ tâm tư, nỗí lòng
mình mà anh còn tranh thủ viết lại những gì mình chứng kiến thực tế để làm
tư liệu sáng tác. Chính vì vậy mà Nhật ký Chu Cẩm Phong sử dụng rất linh
hoạt các loại câu kể, câu tả và câu cảm thán.
Hiện thực tàn khốc của chiến tranh, đau thương, loạn lạc hiện lên rất
chân thực dưới ngòi bút của nhà văn Chu Cẩm Phong, đặc biệt bằng những
câu kể rất thuần thục. Ví dụ như: “Cả cánh đồng Đại Lộc mùa tháng 3 năm
nay gần như không thu được một hột: 1 ang giống thu 2 ang lúa! Bọn Mĩ phá
hoại và trời nắng hạn. Suốt mấy tháng nay không có một hột mưa, ruộng khô
nẻ, nứt ra những đường rộng ngoằn ngoèo, dày đặc. Mặt ruộng nhăn nheo, gồ
ghề, khô khốc. Lúa chỉ lên không đến hai gang tay thì vàng, đỏ quạch. Hiện
nay đồng bào đang đi tìm giống lúa “Nông nghiệp 1 ” về để cấy. Giống này từ
miền Bắc đưa vào, có những ưu điểm: cứng rạ, lá to như lá nếp, chỉ hai tháng
rưỡi thu hoạch, sản lượng lại cao gấp đôi giống khác. Tất cả đang lo chống
một nạn đói để tổng tấn công địch và nổi dậy đồng loạt” [19; tr72]. Hay khi
viết về một ngôi làng ven đất Hội An, nhà văn viết: “Làng ở gần địch, thấy rõ
mồn một nhà cửa ở quận Hiếu Nhơn có mấy cái cờ bay vật vờ. Buổi sáng nghe
tiếng hô tập thể dục của tụi lính Nam Triều Tiên, tiếng tập hợp và tiếng máy
hát. Sau đó bọn Nam Triều Tiên đi thành một đội hình hàng dọc, chúng vừa đi
vừa chạy lấc láo theo sau xe bọc thép. Súng bắn loạn xạ. Tụi này hay dội cối
lắm, cối dập hàng trùng” [19; 111]. Những câu kể có tác dụng rất lớn trong
thành công của cuốn nhật ký này. Nó không những cung cấp thông tin làm tư
liệu cho sáng tác của tác giả mà nó còn tạo cảm giác mới lạ cho thể loại nhật
78
ký. Đọc những câu văn, đoạn văn kể như vậy, người đọc như đang đọc một
cuốn sách tư liệu về chiến tranh hơn là đang đọc một cuốn nhật ký.
Xuất hiện xuyên suốt nội dung của cuốn Nhật ký Chu Cẩm Phong là
những con người, những vùng đất mà nhà văn được gặp và đi qua. Những con
người ấy, những mảnh đất ấy gắn bó với Chu Cẩm Phong như chính những
người thân và quê hương của mình. Cho dù gặp ai hay đi đâu, anh cũng có
những ghi chép khá tỉ mỉ về họ. Dường như nhà văn làm vậy là để lưu giữ lại
cho riêng mình những khoảnh khắc đáng nhớ, những dáng dấp đáng nhớ vào
tận sâu trong trái tim. Để làm được điều này, Chu Cẩm Phong sử dụng rất
nhiều câu tả, đặc biệt là tả người, anh có những quan sát tỉ mỉ và cụ thế: “L
vẫn nhỏ nhẻ hiền lành, dịu dàng. Hình ảnh hai năm trước mà vân giữ nguyên
được vậy. Tóc vấn trần đen nhánh, mặt đầy đặn, phúc hậu, răng đều và trắng.
Chỉ tiếc người hơi thấp. Lúc bình thường có vẻ đăm chiêu như đang suy nghĩ
về một việc gì đó. Một người như L chỉ biết lo công tác. L tiến bộ rất nhanh,
được nhiều người mến và giao những công việc xứng đáng. Nhìn L kỹ những
quyết nghị, mình rất thương, nhỏ nhẻ và khiêm tốn” [19;261]. Hay: “Lê Thị
Tín mập mạp, tròn trịa, cơ thế của cô tràn trề sức sống mãnh liệt, sôi nổi của
cái tuổi 20. Mặt tròn, lúc nào cũng ửng lên màu hồng, nhìn đã mới thấy
những nốt tàn nhang phơn phớt, lấm tấm. Mắt long lanh, luôn luôn ẩn một nụ
cười mỉm vừa như e thẹn vừa như sung sướng. Tín không đẹp nhưng rất có
duyên, rất mặn mà, làm người ta ưa nhìn một cách đúng đắn, nồng nàn. Cách
ăn mặc, sửa soạn hơi chải chuốt nhưng là một sự chải chuốt kín đáo. Chiếc
áo xanh và chiếc áo lót màu trắng may khít thân hình gọn lẳn, tóc lúc nào
cũng gọn gàng suôn sẻ” [19; tr220]... Đọc những dòng viết này, ta thấy chân
dung những chiến sĩ qua ngòi bút của Chu Cẩm Phong hiện lên hết sức chân
thực và sống động.
79
Nhật ký Chu Cẩm Phong được viết để bày tỏ tâm tư, tình cảm và nỗi
niềm thầm kín của mỗi cá nhân, chính vì vậy sẽ là rất thiếu sót nếu ta đi tìm
hiểu về ngôn ngữ nhật ký mà không xem xét đến những câu cảm, những câu
văn bộc lộ cảm xúc của chính tác giả. Nhật ký Chu Cẩm Phong có rất nhiều
câu, đoạn bộc lộ trực tiếp cảm xúc của nhà văn: “Nghe Thảo kể mình xúc
động vô cùng” hay “Lại phải nghe những chuyện gì đây, chán vô cùng” [19;
tr185]. Đặc biệt trong trang nhật ký ghi ngày 4-5-69, ngày mà cả nước nhận
được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Chu Cẩm Phong đã viết trong nhật
ký của mình những dòng tâm sự rất xúc động và chân thực: “Bác ơi, Bác mất
đi lòng chúng con thương xót vô hạn. Bác đã nuôi và dạy chúng con. Ngày
nhỏ mẹ con một nắng hai sương tần tảo nuôi con muốn con ăn học đến lớp 3
cũng phải bữa cháo bữa khoai. Bác đã nuôi con lớn, Bác dạy con thành
người, cơm áo ánh sáng và hạnh phúc của con có được ngày nay là nhờ
những hy sinh lớn lao của Bác. Bác mất rồi con không còn gặp Bác nhưng
ánh sáng cả cuộc đời Bác vẫn rọi mãi con đường con đi. Con phấn đấu là
một Đảng viên kiên cường suốt cuộc đời trung thành với lý tưởng của Bác.
Gian khổ mấy, ác liệt mấy con sẽ đi không chùn bước một ly. Con sẽ rèn
luyện đạo đức cho thật liêm khiết để Bác vui lòng. Bác mãi mãi trong trái tim
con. Ngày ngày con sẽ nhìn nó mà tu dưỡng mình theo tinh thần của Bác”
[19; tr311]. Những câu văn bộc lộ tình cảm, cảm xúc của tác giả hết sức gần
gũi, thân thuộc khiến cho người đọc cũng như đồng tâm trạng với chính người
viết vậy.
Như vậy, chúng ta có thế thấy, bằng việc sử dụng linh hoạt các kiểu câu
kể, câu tả và câu bộc lộ cảm xúc, Chu Cẩm Phong đã tạo được cho mình một
lối viết rất riêng mà khó có thể nhầm lẫn với phong cách viết nhật ký của một
ai khác. Hơn thế, những kiểu câu này đã góp phần rất lớn đến thành công trong
việc sử dụng ngôn ngữ nói riêng và thành công của cả cuốn nhật ký nói chung.
80
Nội dung và nghệ thuật là hai vấn đề lớn, toàn diện và sâu sắc nhưng
cũng tương đối phức tạp mà trong khuôn khổ một luận văn chưa thể bao quát,
đi sâu phân tích, lột tả toàn diện tới người đọc. Chính vì vậy, luận văn này
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định và người viết luận văn rất mong
nhận được ý kiến đóng góp và nhận xét từ phía thầy cô và các thành viên hội
đồng. Người viết mong muốn có các học giả uyên thâm văn học và lịch sử
tiếp tục nghiên cứu để làm nổi bật hơn nữa giá trị về nội dung và nghệ thuật
Nhật ký Chu Cẩm Phong.
Những trang nhật ký như lời di chúc nhắn nhủ của Chu Cẩm Phong dành
cho thế hệ hôm nay và mai sau của đất nước có thể hiểu thêm về trang sử hào
hùng của dân tộc, tự hào thay về lớp người đi trước. Hòa bình, ấm no, hạnh
phúc hôm nay được đánh đổi bằng máu và nước mắt của thế hệ cha anh đi
trước. Vì thế chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về những con người nhỏ bé mà
kiên cương bất khuất, dù trong bất cứ khó khăn gian khổ nào vẫn sáng ngời
phẩm chất cách mạng, dám sống và hy sinh hết mình vì lý tưởng của tuổi trẻ.
Tiểu kết:
Với những tư liệu xác thực, sinh động, nhật kí của Chu Cẩm Phong đã
cũng cấp những tư liệu mang tính xác thực về chiến tranh, bom đạn và cái
chết trong chiến trường những năm chống Mỹ. Để truyền tải và phác họa lại
bức tranh hiện thực đó, tác giả đã sử dụng thứ ngôn ngữ nghệ thuật đầy truyền
cảm, cá tính, với giọng điệu lúc như lời tự sự - tâm tình, lúc như một di chúc -
lời từ biệt. Giọng điệu ấy đem lại một sức truyền cảm đặc biệt cho nhà văn,
khiến người đọc nhận được sự truyền cảm - lay động mạnh mẽ.
Với kiểu ngôn ngữ nghệ thuật và giọng điệu nghệ thuật đặc trưng của
riêng mình, nhà văn - chiến sĩ Chu Cẩm Phong đã đem đến những trang viết
vừa giàu chất tư liệu lịch sử, vừa thấm đẫm vẻ đẹp văn chương. Đây là một
đóng góp quan trọng của tác giả cho văn học kháng chiến nước nhà nói
chung, đặc biệt là cho thể tài nhật kí văn học nói riêng.
81
KẾT LUẬN
Những trang nhật ký này tập hợp lại thành sách để xuất bản mà nhà văn
Chu Cẩm Phong ghi không phải để cho người khác đọc, càng không phải để
in ra nên đó chính là giá trị lại của tác phẩm để lại với người đọc vì tính chân
thực đáng tin cậy. Tất cả những gì ta đọc được ở đây đều là sự thật, cái sự thật
thô tháp tươi ròng và sống động. Những con người thật, những địa chỉ thật,
những sự việc thật, những tâm trạng thật được nhà văn Chu Cẩm Phong
không bỏ sót một chi tiết nào dù là nhỏ nhặt nhất. Cùng với đó là năng lực
quan sát thật là sắc sảo và tinh tế của tác giả nên tác phẩm như một cuốn phim
phong phú, rất sinh động về chiến tranh. Cuộc chiến tranh nhân dân ở tận thôn
xóm, ở cái nơi đối đầu trực tiếp giữa những người dân thường với kẻ địch vũ
trang đến tận răng, cuộc vật lộn dai dẳng mà tất cả sống chết, đói no, tiếng
khóc, tiếng cười đã thành chuyện thường ngày trong cuốn nhật ký của Chu
Cẩm Phong.
Trong công trình nghiên cứu, người viết luận văn đã triển khai, làm rõ
những giá trị về nội dung và nghệ thuật trong Nhật ký Chu Cẩm Phong. Từ
kết quả nghiên cứu ban đầu, chúng ta có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:
1. Nhật ký là một tiểu loại thuộc loại hình ký ghi chép những tâm tư, tình
cảm, những sự việc chân thật nhất diễn ra hằng ngày của cá nhân người viết.
Những tâm tư tình cảm sâu kín khó có thể chia sẻ được với ai thì nhật ký lại
chính là người bạn tri kỉ nhất để người viết bộc lộ tâm tư, tình cảm. Vì vậy,
nhật ký luôn tôn trọng tính riêng tư, bí mật. Nhật ký là thể loại độc thoại, tự
mình nói với mình, nói cho mình và nói về mình. Sự xuất hiện của cuốn Nhật
ký Chu Cẩm Phong đã tạo ra một hiệu ứng mạnh mẽ đối với đời sống xã hội
và văn học. Cuốn nhật ký này đã khẳng định được vị trí của mình và tác giả
trong lòng độc giả yêu văn chương. Nó không còn là một hiện tượng mới lạ
như ban đầu nữa nhưng có sức hút kì lạ đối với bạn đọc và trở thành một thể
82
loại văn học khiến các nhà nghiên cứu văn chương phải có thái độ và cái nhìn
nghiêm túc.
2. Nhật ký là nơi ghi chép các sự kiện đã diễn ra của một cá nhân, đồng
thời là nơi bộc lộ tâm tư tình cảm của người viết. Nhật ký là một thể loại mới
trong quá trình đổi mới văn học mà cuốn Nhật ký Chu Cẩm Phong cùng với
Nhật ký Đặng Thùy Trâm của bác sĩ - liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, Mãi mãi tuổi hai
mươi của Nguyễn Văn Thạc, Nhật ký chiến trường của Dương Thị Xuân Quý,
Nhật ký Vũ Xuân… là tiêu biểu, là đại diện xuất sắc cho một thể loại hiện đại
của văn học. Với những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuận Nhật ký Chu Cẩm
Phong đã góp phần đưa thể loại nhật ký đến gần hơn với độc giả. Xét cả hai
phương diện nội dung và nghệ thuật trong Nhật ký Chu Cẩm Phong, có thể thấy
đấy như một cuốn phim ghi lại những ngày tháng chiến tranh với bao khó khăn
thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần, sự tàn phá ghê gớm của chiến tranh nhưng
cũng thật hiên ngang, anh hùng khi quân dân cả nước đánh bại Mỹ, ngụy bằng
những đòn chí mạng... Tất cả đều được bộc lộ trực tiếp qua ngôn từ được sử
dụng trong cuốn nhật ký. Với những ghi chép chân thực và không có ý định viết
cho ai đọc nên ở cuốn nhật ký thể hiện chân thực về nội dung một cách khách
quan và đa dạng, phong phú. Cuốn nhật ký đã miêu tả được cuộc chiến tranh từ
nhiều góc độ khác nhau từ trong lòng đất, trên bầu trời và toàn bộ bề mặt cuộc
sống. Bằng nội dung và ngôn ngữ mang tính chất hướng nội, đi sâu vào mô tả
tâm lí, suy nghĩ của nhà văn chiến sĩ Chu Cẩm Phong mang đậm chất độc thoại.
Ngôn ngữ có khả năng đan xen sự đổi hướng liên tục theo dòng hồi tưởng, suy
nghĩ, mang đậm tính chủ quan của tác giả, mang tính quy ước, ẩn dụ, thái độ và
tâm tư tình cảm của nhà văn khoác trên mình chiếc áo lính được bộc lộ một cách
rõ nét.
Qua nhật ký của nhà văn, chiến sĩ Chu Cẩm Phong, ta thấy được ngoài
sự hào hùng, anh dũng vẫn chứa đựng những mảng hiện thực đen tối, đau
thương của chiến tranh vì đã cướp đi tất cả những gì tốt đẹp nhất của con
83
người. Bằng tài năng và khả năng của mình, Chu Cẩm Phong đã sử dụng khéo
léo những câu chữ để dựng lên trên những trang nhật ký cuộc đời lính của
mình mà chỉ nhắm mắt lại người đọc thấy được một con người với toàn bộ
cuộc sống hàng ngày của anh, cuộc chiến đấu hàng ngày của anh với những
ứng xử, lo toan, những vui buồn, yêu giận hay suy tư. Những giây phút cuối
cùng lẫm liệt của Chu Cẩm Phong không phải là một khoảnh khắc đột khởi
trong một tình huống đột xuất; nó là kết tinh rất logic toàn bộ vẻ đẹp tinh thần
những năm tháng sống rất đẹp của anh giữa một chiến trường dồn dập thử
thách. Ở đó, mỗi người phải đối mặt với cái đói, ốm đau và hiểm nguy hơn là
cái chết đe dọa từng ngày, từng giờ.
Những năm tháng ấy, trừ một số những kẻ lánh nặng tìm nhẹ, lén lút khôn
khéo luồn lỏi lui lại phía sau đỡ ác liệt, còn hầu hết nhưng con người vốn coi sự
dấn thân vì đại nghĩa như một nhu cầu tự thân mà Chu Cẩm Phong và những
người đồng đội của anh là một trong những gương sáng tiêu biểu nhất.
3. Do bản thân tác giả Chu Cẩm Phong là một nhà văn nên ngoài hiện
thực như một thước phim, trong cuốn Nhật ký Chu Cẩm Phong ta còn thấy
được những thủ pháp sáng tạo ngôn từ rất đặc sắc. Trên cấp độ từ vựng, Chu
Cẩm Phong đã sử dụng một cách rất độc đáo và linh hoạt nhiều lớp từ vựng,
mang đến những hiệu quả nghệ thuật bất ngờ. Với việc lặp đi lặp lại những từ
ngữ, hình ảnh, sử dụng lớp từ triết lý, lớp từ phân tích tâm lý và cả những từ
phương ngữ, lối nghĩ, nói mộc mạc của người dân tộc thiểu số đã tạo ra được
cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, con người trong chiến tranh, thấy được ý chí,
nghị lực của nhà văn khoác trên mình màu xanh áo lính này. Hơn thế nữa,
việc tác giả sử dụng thành thạo tiếng địa phương cũng như tiếng của bà con
dân tộc ít người còn cho thấy tài năng cũng như sự gần gũi, gắn bó của tác giả
với nhân dân, sử dụng phổ thông hóa ngôn từ để đạt mục tiêu viết cho cán bộ,
chiến sĩ và đồng bào. Điều mà những người viết văn hôm nay vẫn cần học
tập, làm theo và sáng tạo hơn nữa.
84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đỗ Văn Ảnh, Đọc nhật ký chiến tranh để lấy tinh thần cho một cuộc
chiến mới, Website Báo điện tử vietnamnet, ngày 9/9/2005, URL:
http://vietnamnet.vn/bandocviet/2005/09/487557/
2. Lại Nguyên Ân (Biên soạn, 1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Trần Duy Chiến (2005), Tây Tiến viễn chinh (Đặng Vương Hưng sưu
tầm và 2giới thiệu), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
4. Triệu Bôn (1975), Cửa ngỗ mặt trận(truyện ngắn), Nxb Giải phóng
5. Đức Dũng (2003), Ký văn học và ký báo chí, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
6. Quang Dũng (1970), Nhà đồi (truyện và ký), Nxb Văn học, Hà Nội
7. Anh Đức (2006), Hòn đất, Nxb Văn học, Hà Nội
8. Hà Minh Đức (chủ biên, 2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
9. Nguyễn Văn Giá (2005), Những tấm ảnh trở về (Ảnh, thư từ, nhật ký
chiến tranh), Nxb Phụ nữ, Hà Nội
10. Lê Thành Giai (2007), Đặng Thùy Trâm và chiến trường Đức Phổ,
Nxb Văn học, Hà Nội
11. Lưu Hà, Sức hút từ hai cuốn Nhật ký chiến tranh, Báo điện tử Việt
báo, URL: http://vietbao.vn/Van- hoa/ Suc- hut- tu-hai- cuon- nhat-
kythoi- chien/10927572/181/
12. Lê Bá Hãn (chủ biên,1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Nguyễn Phan Hách (1994), Tuyển tập truyện ngắn kháng chiến (1945-
1954), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
14. Quý Hải (2008), Mùa hè cháy, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
15. Đỗ Đức Hiểu, Nguyến Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Huệ Chi, Trần
Hữu Tá (đồng chủ biên, 2004), Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Giáo dục.
85
16. Nguyễn Hòa, “Qua Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thùy
Trâm, nghĩ về văn hóc đọc”. Báo Thể thao Văn hóa 7/9/2005.
17. Lê Thị Bích Hồng (2005), “Suy nghĩ từ hai cuốn nhật ký của Đặng
Thùy Trâm- Nguyễn Văn Thạc” Tư tưởng văn hóa (số 9), tr 38-40.
18. Nguyễn Thị Thúy Hồng, Nhật ký trong văn chương và tiểu thuyết nửa
đầu thế kỷ XX URL: http://vanhien.vn/news/Nhat-ky-trong-van-
chuong-va-tieu-thuyet-nua-dau-the-ky-XX-39560.
19. Đỗ Thị Thu Hương (2015), Ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký chiến
tranh của Chu Cẩm Phong, Khóa luận TN đại học, Trường ĐH Sư
phạm Hà Nội 2.
20. Từ Bích Hoàng (1982), Hoa núi (Truyện và ký), Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
21. Đặng Vương Hưng (sưu tầm và giới thiệu, 2005), Những lá thư thời
chiến Việt Nam, Tập 1, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
22. Đặng Vưong Hưng (sưu tầm và giới thiệu, 2005), Những lá thư thời
chiến Việt Nam, Tập 2, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
23. Phạm Thiết Kê (2007), Đường về (Trần Bình Tám giới thiệu), Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
24. Đặng Ngọc Khoa, “Đi tìm người cất giữ Nhật ký chiến tranh của Chu
Cẩm Phong”, Báo điện tử Việt báo, URL: http://vietbao.vn/Van- hoa/
Di-ti-nguoi-cat-giu-Nhat-ký-chien-tranh-cua-Chu-
CamPhong/45168776/181/
25. Chu Lai (2006), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Lao động, Hà Nội.
26. Chu Lai (1985) Nắng đòng bằng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
27. Vương Liêm (2005), Nhật ký người nữ biệt động Sài Gòn trên đường
Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
28. Phạm Việt Long (2003), B trọc, Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Tôn Phương Lan, “Nguồn tư liệu đáng quý qua nhật ký chiến tranh”,
Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 11), tháng 8/2008.
86
30. Phương Lựu (chủ biên, 2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
Báo Tuổi trẻ, 26/7/2005.
31. Lê Minh (1969), Ngày mai sắp đến (Truyện và ký), Nxb Văn học, Hà
Nội.
32. Nguyên Ngọc,“Những rung chuyển từ cách sống Thùy Trâm”, Báo Sài
Gòn giải phóng, 8/2005.
33. Võ Minh (2008), Có một thời như thế (Hồi ký), Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
34. Đặng Sỹ Ngọc (2006), Trời xanh không biên giới (Đặng Vương Hưng
giới thiệu), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Nhiều tác giả (2006), Cuối trời mây trắng bay (Nhật ký), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
36. Bảo Ninh (2005), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
37. Phạm Xuân Nguyên, “Trang sách cuộc đời anh”, Báo Tuổi trẻ,
21/5/2005. Bảo Ninh (2005), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
38. Hoàng Minh Nhân, Chu Cẩm Phong xứng đáng là 1 anh hùng, Báo
điện tử Việt báo, URL: http://vietbao.vn/Van- hoa/ Chu- Cam-
Phongxung-dang-la-mot-anh-hung/45172052/181/.
39. Nhiều tác giả (1973), Làng ven, Nxb Văn nghệ giải phóng.
40. Nguyễn Khắc Phê, “Có thêm một nhật ký chiến tranh chân thật”, Báo
Lao động điện tử,
URL:http://www.laodong.com.vn/Home/vanhoa/2006/ 12/16256.laodong.
41. Chu Cẩm Phong (2000), Nhật ký chiến tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.
42. Trần Quốc Phong (2006), Nhật ký chiến tranh, Nxb Quân đội Nhân
dân, Hà Nội.
43. Dương Thị Xuân Quý (2007), Nhật ký chiến trường, Nxb Văn nghệ TP.
44. Minh Sơn, Thêm một cuốn “Nhật ký chiến tranh”xúc động, Báo điện
tử Quân đội nhân dân, URL:http://www.qdnd.vn/qdndcuoituan.
87
vanhoanghethuat.20511.qdnd
45. Nguyễn Văn Thạc (2005), Mãi mãi tuổi hai mươi, (Đặng Vương Hưng
sưu tầm và giới thiệu), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
46. Thanh Thảo, “Đọc Nhật ký chiến tranh: Một tác phẩm văn học kỳ lạ”.
Báo Thanh niên, 4/2005 hoặc URL:http://www.talawas.org/
talaDB/showFile.php?res=10123&rb=0307
47. Lê Minh Tiến, “Nghĩ về hiện tượng Nhật ký chiến tranh”. Báo điện tử
Việt báo, URL: http://vietbao.vn/Xa- hoi/Nghi-ve-hien-tuong-Nhat-
kychien-tranh/30079378/126..
48. Trần Thị Thu (2012), Nhật ký chiến tranh qua sáng tác của một số tác
giả tiêu biểu: Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Chu Cẩm Phong,
Luận văn thạc sĩ. Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2.
49. Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lý luận - phê bình văn học thế
giới thế kỷ XX (tập 1), NXB Giáo dục.
50. Đặng Thùy Trâm (2005), Nhật ký Đặng Thùy Trâm, (Vương Trí Nhàn
giới thiệu), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
51. Nguyễn Ngọc Tấn (2005), Nhật ký Nguyễn Ngọc Tấn (1953 - 1955),
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
52. Trần Mộng Thành (2007), Nhật ký Trần Mộng Thành, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
53. Trần Minh Tiến (2005), Trở về từ giấc mơ (Đặng Vương Hưng sưu
tầm và giới thiệu), Nxb Hội nhà văn, Hội nhà văn, Hà Nội.
54. Đặng Thùy Trâm (2005), Nhật kỷ Đặng Thùy Trâm, (Vương Trí Nhàn
giới thiệu), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
TIẾNG ANH
55. Anne Frank (2007), Nhật ký (Đặng Kim Trâm dịch), Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội