ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
LƢU NGỌC LY
NHỮNG ĐÊM TRẮNG – CHUYỂN THỂ TỪ VĂN HỌC SANG ĐIỆN ẢNH DƢỚI GÓC NHÌN LIÊN VĂN HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Liên
LƢU NGỌC LY NHỮNG ĐÊM TRẮNG – CHUYỂN THỂ TỪ VĂN HỌC SANG ĐIỆN ẢNH DƢỚI GÓC NHÌN LIÊN VĂN HÓA Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học nước ngoài Mã số: 60 22 02 45
Hà Nội - 2019
LỜI CẢM ƠN
Qua luận văn này tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa
Văn học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn– Đại học Quốc gia Hà
Nội đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt những năm học vừa qua,
giúp tôi trưởng thành hơn trong chuyên môn cũng như cuộc sống.
Tôi xin tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Phương Liên, người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi trong suốt quá
trình thực hiện luận văn này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thành viên khóa K61 khoa Văn học
của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã
giúp đỡ, động viên và chia sẻ khó khăn cùng tôi trong quá trình học tập tại trường.
Xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Trong
luận văn có tham khảo một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các bạn
học viên, các khoá luận tốt nghiệp, luận văn của các khoá trước.
Công trình này chưa được tác giả nào công bố.
Hà Nội, tháng 6 năm 2019
Học viên
LƢU NGỌC LY
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................. 3
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................................... 4
2.1.Tư liệu tiếng Việt ............................................................................................................ 4
2.2. Tư liệu tiếng nước ngoài................................................................................................ 5
2.3. Những vấn đề tồn tại ..................................................................................................... 6
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................................... 8
5. Cấu trúc luận văn................................................................................................................ 8
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT CHUYỂN THỂ................................................ 10
1.1. Khái niệm chuyển thể ................................................................................................. 10
1.1.1. Chuyển thể như là tái hiện ...................................................................................... 10
1.1.2. Chuyển thể như là kiếp sau ..................................................................................... 17
1.2. Tác phẩm Những đêm trắng........................................................................................ 23
1.2.1. Các phiên bản chuyển thể Những đêm trắng ............................................................ 23
1.2.2. Tiềm năng chuyển thể ............................................................................................. 25
1.2.2.1. Tiềm năng từ đề tài .......................................................................................... 25
1.2.2.2. Tiềm năng từ thể loại ....................................................................................... 29
1.2.2.3. Từ nhà làm phim.............................................................................................. 36
1.3. Chuyển thể dƣới góc nhìn liên văn hóa ....................................................................... 39
1.3.1. Giao tiếp liên văn hóa ............................................................................................ 39
1.3.2. Chuyển thể với giao tiếp liên văn hóa ...................................................................... 40
Chƣơng 2: TÍNH LIÊN VĂN HÓA Ở CẤP ĐỘ HÌNH TƢỢNG........................................... 44
2.1. Nhân vật ..................................................................................................................... 44
2.1.1. Ước mơ của kẻ mộng mơ........................................................................................ 44
2.1.2. Chờ đợi – phần thưởng hay sự đọa đày.................................................................... 51
1
2.2. Thời gian .................................................................................................................... 54
2.2.1. Vòng tròn thời gian khép kín trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ ................................... 54
2.2.2. Vòng tròn thời gian tịnh tiến trong Người yêu dấu.................................................... 58
2.3. Không gian ................................................................................................................. 62
2.3.1. Không gian toàn vẹn trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ ............................................... 63
2.3.2. Huyền áo hóa không gian trong Người yêu dấu ........................................................ 72
Chƣơng 3: TÍNH LIÊN VĂN HÓA Ở CẤP ĐỘ THỂ LOẠI ................................................. 76
3.1. Phong cách đạo diễn ................................................................................................... 76
3.1.1. Robert Bresson và Làn sóng mới tại Pháp................................................................ 76
3.1.2. Bhansali với thể loại phim nhạc kịch Ấn Độ ............................................................. 78
3.2. Kỹ thuật làm phim...................................................................................................... 79
3.2.1. Khung cảnh ........................................................................................................... 80
3.2.2. Ánh sáng và màu sắc .............................................................................................. 85
KẾT LUẬN........................................................................................................................... 91
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ........................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 95
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển thể từ văn học đến điện ảnh cũng lâu đời như chính lịch sử điện ảnh.
Ngay từ buổi bình minh của điện ảnh, ngành nghệ thuật này đã gắn chặt số mệnh
của nó với văn học. Tuy nhiên hoạt động chuyển thể thường được coi là việc tạo ra
bản sao mô phỏng, tái hiện văn học dưới dạng hình ảnh. Hiểu chuyển thể như là tái
hiện là quan niệm mà luận văn sẽ áp dụng để khởi đầu nghiên cứu chuyển thể, song,
qua đó, gợi mở ra những khả năng khác của chuyển thể.
Tác phẩm Những đêm trắng (White nights) của F.M. Dostoesky là một tác
phẩm văn học đã được chuyển thể tới hơn 19 lần. Điều đặc biệt là những phiên bản
chuyển thể của nó luôn luôn có sự biến đổi về mặt không - thời gian so với nguồn
văn học, từ thế kỉ XIX của nước Nga đến thế kỉ XX, thậm chí là XXI của các nước
khác trên thế giới. Một tác phẩm có lịch sử chuyển thể đầy ấn tượng và đặc biệt như
Những đêm trắng sẽ cho phép luận văn áp dụng những khả năng của chuyển thể
một cách triệt để.
Dựa trên lý thuyết về chuyển thể, luận văn đặt chuyển thể trong mối quan hệ
với liên văn hóa để thấy được mối quan hệ hai chiều giữa chúng, đồng thời, tạo lập
tiền đề lý thuyết cho phép thăm dò các đặc điểm văn hóa ẩn sau hai phiên bản
chuyển thể mà luận văn sẽ tập trung phân tích là Bốn đêm của kẻ mộng mơ (Phiên
bản chuyển thể Những đêm trắng của đạo diễn người Pháp Robert Bresson) và
Người yêu dấu (Phiên bản chuyển thể của đạo diễn người Ấn Độ Sanjay Leela
Bhansali). Vì thế, chúng tôi đặt tên cho luận văn: Những đêm trắng – chuyển thể
từ văn học sang điện ảnh dưới góc nhìn liên văn hóa.
3
2. Lịch sử vấn đề
2.1.Tư liệu tiếng Việt
Ở Việt Nam, điện ảnh có từ những năm 1890. Tuy nhiên, dấu mốc thực sự cho
sự ra đời của nền điện ảnh Việt Nam vào năm 1923, khi xuất hiện bộ phim truyện
đầu tiên: Kim Vân Kiều - do Công ty Chiếu bóng Đông Dương thực hiện (dựa trên
tác phẩm bất hủ Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du). Từ đó trở đi, những bộ
phim chuyển thể đã trở thành kí ức vàng son một thời trong tâm trí của khán giả:
Lục Vân Tiên (1957, dựa theo truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu),
Vợ chồng A Phủ (1961, chuyển thể từ truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô
Hoài), Chị Tư Hậu (1963, chuyển thể từ tác phẩm Một chuyện chép ở bệnh viện của
nhà văn Bùi Đức Ái), Nổi gió (1966, dựa trên vở kịch cùng tên của Đào Hồng
Cẩm), Loan mắt nhung (1970, dựa theo truyện Loan mắt nhung của Nguyễn Thuỵ
Long), Trống mái và Gánh hàng hoa (1971, dựa theo tiểu thuyết của nhóm Tự lực
văn đoàn)… Thế nhưng, vấn đề nghiên cứu chuyển thể còn khá rời rạc. Nghiên cứu
chuyển thể gần như chỉ xuất hiện dưới hình thức những bài báo đăng trên tạp với
dung lượng ít ỏi: "Về cái gọi là tính văn học trong điện ảnh" (Tạp chí Nghiên cứu
Nghệ thuật, số 06-1984, Lê Châu); "Từ văn học đến điện ảnh" (Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, số 2-2001, Hương Nguyên); "Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh"
(Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 10-2002, Minh Trí)…Các bài báo đều mới chỉ
nhấn mạnh đến vai trò của văn bản nguồn (các tác phẩm văn học) đối với văn bản
đích (phim chuyển thể) mà chưa chỉ được ra những khả năng chuyển thể cụ thể. Có
thể thấy, ở Việt Nam, chuyển thể đã được tiếp cận ở những cấp độ: nghiên cứu
chuyển thể là hình thức của liên văn bản; nghiên cứu chuyển thể như là một hình
thức so sánh liên ngành (đối chiếu giữa một bên là truyện và phim và chỉ ra sự khác
biệt giữa hai loại hình). Vấn đề nghiên cứu chuyển thể ở Việt Nam chưa mang lại ý
thức sâu sắc giữa tác phẩm và bộ phim. Điều này có thể do xuất phát thực tế điện
ảnh chuyển thể còn tương đối nghèo nàn, do đó, chưa thấy tính chất phức tạp của
chuyển thể. Chỉ đến công trình của Nguyễn Nam [8], ông mới có những bước nhìn
nhận vấn đề chuyển thể rộng hơn không chỉ ở khía cạnh phong cách sáng tạo của
4
tác giả mà còn là sự trượt nghĩa gốc của bản chuyển thể, đặt văn bản chuyển thể
trong vùng văn hóa có nhiều yếu tố tiếp nhận phức tạp hơn. Các công trình đó là:
Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo: Liên văn bản trong văn chương và điện ảnh (2000) và
Sự thực tuyệt đối trong tự sự tiếp nhận: tiếp nhận và cải biên Rashomon ở Việt Nam
(2011). “Trong khi ở tiểu luận đầu tiên Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo, Nguyễn Nam
mặc dù có nhắc đến “quan hệ giữa tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh”, tuy
nhiên ông tập trung nhiều hơn vào việc chỉ ra những khác biệt trong sự xử lý những
đơn vị hình thức giữa hai tác phẩm để khám phá những lớp nghĩa chìm, bởi vậy cải
biên/chuyển thể vẫn chỉ được hiểu là sự biến đổi; thì ở tiểu luận về tiếp nhận và cải
biên Rashomon, Nguyễn Nam đã tiến một bước dài khi ứng dụng khái niệm cải biên
vào phân tích đời sống của bộ phim Rashomon ở Việt Nam” [1, tr.3]. Tiếp đó, một
vài học giả đã bắt đầu nhắc đến khái niệm liên văn hóa trong văn học, văn hóa hay
trong lĩnh vực sử học như trong bài viết của Thái Phan Vàng Anh trong Toàn cầu
hóa và xu hướng đa văn hóa, liên văn hóa trong văn học (Nhìn từ văn xuôi Việt
Nam đầu thế kỉ XXI): “Thay vào đó, đa văn hóa, liên văn hóa sẽ làm nên diện mạo
mới của văn hóa toàn cầu, nơi mà cả cái phổ quát lẫn cái riêng/khác đều có thể cùng
tồn tại” [2]. Tác giả đã chỉ ra rằng liên văn hóa là một xu hướng tất yếu của dòng
chảy văn học nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, nhìn chuyển thể từ văn
học sang điện ảnh dưới góc nhìn của liên văn hóa vẫn còn là “mảnh đất” trống.
2.2. Tư liệu tiếng nước ngoài
Tại giải Oscar 2009, trong số 5 đề cử cho Phim hay nhất có tới 3 bộ phim là
phim chuyển thể từ các tác phẩm văn học: The Curious Case of Benjamin Button
chuyển thể từ một truyện ngắn của nhà văn Mỹ Frank Scott Fritzgerald, The Reader
chuyển thể từ tác phẩm best-seller của nhà văn Đức Bernhard Schlink và
Revolutionary Road chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Mỹ Richard
Yates. Thành công lớn của phim No Country for Old Men (chuyển thể từ tác phẩm
cùng tên của nhà văn Cormac McCarthy) tại Oscar 2008 và The Reader (chuyển thể
từ tiểu thuyết The Reader của Bernhard Schlink) tại Oscar 2009 khiến giới phê bình
phim ngày càng ấn tượng với phim chuyển thể từ tác phẩm văn học. Khá nhiều cuộc
5
bình chọn liên quan đến phim chuyển thể đã thu hút sự quan tâm của đông đảo khán
giả, các nhà nghiên cứu – phê bình điện ảnh và báo giới. Hoạt động chuyển thể sôi
nổi tại kinh đô điện ảnh Holywood và cả bên ngoài đế chế này luôn chiếm ưu thế
trong sản xuất phim. Điều này đã tạo động lực cho các nhà nghiên cứu trong lĩnh
vực chuyển thể. Tài liệu nghiên cứu chuyển thể cũng vì thế trở nên rất đa dạng. Có
thể kể đến những tác phẩm khởi đầu và có tầm quan trọng trong nghiên cứu chuyển
thể như: Introduction: The Theory and Practise of Film Adaptation; In Literature
and Film: a Guide to Theory and Practise of Film Adaptation (Robert Stam và
Alessandra Raengo); The Theory of Adaption (Linda Hutcheon); The adaption
industry, the cultural economy of comtemporary literature adaption (Simone
Murray); Beyond fidelity: the dialogics of adaptation ( Robert Stam, biên tập James
Naremore)… Các nghiên cứu trên đã bàn đến địa hạt của chuyển thế như là sự diễn
giải, sự viết lại,… và lí giải khá chi tiết cho những cơ chế đó. Các học giả cũng bắt
đầu chạm đến mối quan hệ của liên văn hóa và chuyển thể qua các bài so sánh
những trào lưu phim đang được chuyển thể rầm rộ trên thế giới như Boy over
Flower hay Ngôi nhà hạnh phúc. Nhìn chung, lý thuyết chuyển thể trong môi
trường liên văn hóa từ tài liệu nước ngoài khá dồi dào và tiềm năng.
2.3. Những vấn đề tồn tại
Qua khảo sát tư liệu nghiên cứu về chuyển thể ở Việt Nam, ta thấy khái niệm
này được nhìn nhận tương đối đơn giản, chưa bao quát được thực tiễn. Chuyển thể
có phần xơ cứng bởi quan niệm cho rằng chuyển thể là đưa một tác phẩm văn học
lên phim mà chưa thấy được đó chính là đưa một hệ thống kí hiệu này được dịch
sang hệ thống kí hiệu khác, đưa một văn bản vốn sáng tạo ở ngữ cảnh này vào một
ngữ cảnh khác, đưa kết quả sáng tạo của một nhà văn trở thành một kết quả tái tạo
của người đạo diễn trong một thế giới không đường biên. Ở phương Tây, các học
giả đã bắt đầu khơi dậy mối quan tâm với chuyển thể trong mối liên hệ liên văn bản
với văn học, bước đầu phá bỏ đi vị trí thứ bậc trong quan hệ chuyển thể với văn bản
nguồn. Văn học từ chỗ độc là sáng tạo thứ nhất, là nguyên bản chi phối cảm quan
của khán giả dần được xem xét lại. Hoạt động chuyển thể điện ảnh vì thế bắt đầu có
6
sự trỗi dậy mạnh mẽ của ý thức tạo điều kiện cho việc tiếp cận phim chuyển thể như
là một mối liên hệ liên văn bản, thậm chí đối thoại với văn bản nguồn trong một bối
cảnh văn hóa liên văn hóa. Bằng cách đó, chúng ta có thể nhìn chuyển thể qua lăng
kính của của liên văn hóa để thấy được tiềm năng vĩnh viễn và dồi dào của chuyển
thể với giao lưu và hội nhập văn hóa. Qua khảo sát tư liệu trong và ngoài nước,
chúng tôi cũng nhận thấy rằng tài liệu bàn về chuyển thể với trường hợp Những đêm
trắng chưa nhiều, thậm chí chưa được bàn luận một cách trực tiếp. Điều này đã thôi
thúc người viết mạnh dạn chọn vấn đề này để nghiên cứu.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chuyển thể cùng những khả năng của nó,
chuyển thể và mối quan hệ với giao tiếp liên văn hóa. Qua đó, luận văn có thể nhận
diện và phân tích được hạt nhân cơ bản được bảo lưu cũng như biến đổi khi chuyển
thể từ văn học lên phim của tác phẩm Những đêm trắng trong bối cảnh liên văn hóa
ấy.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi nội dung: Luận văn sẽ tiến hành tìm hiểu các bình diện cụ thể sau: lý
thuyết và ứng dụng của chuyển thể, mối quan hệ của chuyển thể và giao tiếp liên
văn hóa, những vấn đề về hình tượng và thể loại của tác phẩm văn học nguồn và
Những đêm trắng.
+ Phạm vi tư liệu: Tiến hành phương pháp nghiên cứu trường hợp thông qua
việc khảo sát các tài liệu liên quan đến:
* Các tài liệu liên quan đến nội dung chuyển thể văn học và điện ảnh
* Truyện Những đêm trắng của tác giả F.M Dostoevsky
* Phim Bốn đêm của kẻ mộng mơ của đạo diễn Robert Bresson
* Phim Người yêu dấu của đạo diễn Sanjay Leela Bhansali
7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn có sự kết hợp của nhiều phương pháp:
- Phương pháp liên ngành nhằm phân tích các quan hệ chuyển thể văn học và
điện ảnh.
- Phương pháp xã hội học trong việc phác họa lại lịch sử hình thành của khái
niệm chuyển thể
- Phương pháp so sánh để làm nổi bật đặc điểm của các type chuyển thể sẽ trình
bày cũng như đặc điểm của các phim chuyển thể với văn bản nguồn và với nhau
cũng như triển khai các thảo luận về định nghĩa khái niệm chuyển thể.
- Phương pháp ký hiệu học và ký hiệu học văn hóa để tìm hiểu những dòng
chảy văn hóa ngầm ẩn chi phối đến các kỹ thuật chuyển thể từ văn học sang điện
ảnh.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp giúp bóc tách từng yếu tố cấu thành của các
văn bản dưới tác động của văn hóa và sau cùng là tổng hợp để thấy được một bức
tranh tổng quát về các sinh thể chuyển thể mới được hình thành.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN LÍ THUYẾT CHUYỂN THỂ ĐIỆN ẢNH. ĐỌC
VĂN BẢN NGUỒN
Trong chương này, luận văn sẽ trình bày những quan niệm, khái niệm về
chuyển thể cùng với sự khái quát đặc trưng của chuyển thể từ văn học sang
điện ảnh, để từ đó đi đến quan niệm về chuyển thể của luận văn. Song song với
đó, luận văn sẽ giới thiệu và đánh giá về tiềm năng chuyển thể của văn bản
nguồn Những đêm trắng để lí giải cho hiện tượng chuyển thể mang tính vượt
không gian và thời gian này. Từ đó, luận văn tiến tới xác lập mối quan hệ giữã
chuyển thể và giao tiếp liên văn hóa để xác lập khung lý thuyết khi phân tích
hiện tượng chuyển thể từ văn học sang điện ảnh dưới góc nhìn liên văn hóa.
Chương 2: TÍNH LIÊN VĂN HÓA Ở CẤP ĐỘ HÌNH TƯỢNG
8
Áp dụng lý thuyết đã xác lập ở Chương 1, luận văn sẽ đi vào phân tích tính
liên văn hóa ở cấp độ thứ nhất, cấp độ hình tượng của hai bản chuyển thể điện
ảnh là Bốn đêm của kẻ mộng mơ (Robert Bresson 1971) và Người yêu dấu
(Sanjay Leela Bhansali 2003) qua các tín hiệu về hình tượng. Cụ thể là ở các
khía cạnh: Không gian, thời gian và nhân vật để từ đó thấy được văn hóa đã tác
động, chi phối và tạo ra những tác phẩm chuyển thể mới như thế nào.
Chương 3: TÍNH LIÊN VĂN HÓA Ở CẤP ĐỘ THỂ LOẠI
Trong chương này, luận văn sẽ đi vào phân tích những dấu hiệu ngầm ẩn
của văn hóa mỗi quốc gia (Pháp và Ấn Độ) đã tác động lên đặc trưng thể loại,
cả ở hình thức và nội dung của hai bản chuyển thể điện ảnh. Trong cấp độ thể
loại, luận văn tập trung làm rõ hai khía cạnh là phong cách riêng của hai đạo
diễn: tư tưởng và các kỹ thuật phim đã được áp dụng. Qua đó, chúng ta sẽ thấy
được tính bản địa khi so sánh với văn bản văn chương nguồn.
9
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT CHUYỂN THỂ
1.1. Khái niệm chuyển thể
1.1.1. Chuyển thể như là tái hiện
Đây là một quan niệm phổ biến nhất về chuyển thể trong sáng tạo điện ảnh. Đặc
trưng chất liệu ngôn từ của văn học mang đến những hình tượng gián tiếp và không
có tính trực quan. Điện ảnh lại là loại hình nghệ thuật sinh sau đẻ muộn, bởi vậy, nó
có tham vọng tổng hợp nhiều khả năng trần thuật bên trong mình. Nhờ những
phương tiện điện ảnh mang đến hình ảnh sống động, khả năng hồi cố, đan cài, song
song trong tâm tưởng, điện ảnh đã giúp trực quan hóa văn học mà kịch sân khấu hay
nhà hát opera không thể tái hiện được. Khái niệm chuyển thể (adaptation, một số
cách dịch khác là cải biên/thích nghi) trong các diễn ngôn nghiên cứu điện ảnh, đặc
biệt là điện ảnh chuyển thể và các nghiên cứu sinh học. Nguyên nghĩa,
adaptio/adaptare có nghĩa là làm cho vừa vặn (to make fit, to alter). Chuyển thể
(trong mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh) đã trở thành một hình thức gắn liền
với lịch sử phát triển của màn bạc ngay từ khi nó ra đời vào thế kỉ XX. Điện ảnh
một mặt gắn chặt với những tiến bộ khoa học giúp nó “sao chép” những chuyển
động của đời sống thực, mặt khác tìm nội dung cho việc kể lại đời sống ở người anh
cả lão làng – văn học. Tới năm 1915, các hình ảnh văn chương sẽ ngày càng trở
thành chất liệu cho điện ảnh nhằm tách màn bạc ra khỏi truyền thống nghệ thuật tạp
kỹ và đem đến một kỳ vọng mới từ xã hội cho ngành nghệ thuật máy móc (nổi bật
nhất là phiên bản phim tiếng Ý của tiểu thuyết Ba Lan Quo vadis năm 1913 cùng
tác phẩm huyền thoại Intolerance của D.W.Griffith năm 1916, sử dụng điệp khúc
hình ảnh trong thơ của Walt Whitman để kết nối kinh Tân ước, hai câu chuyện lịch
sử và một tấn kịch hiện đại lại với nhau. Năm 1932, tác phẩm The Magic Mountain
được dựng thành phim kéo theo đó là tâm trạng mâu thuẫn của chính tác giả với
phim chuyển thể: căm ghét nó - nhưng cũng rất yêu nó. Tới năm 1996, các tác phẩm
của Jane Austen như Sense and Sesibility (1915); Clueless (1915)… cũng được
chuyển thể, đã tạo nên một thế hệ độc giả mới quan tâm đến chính tác phẩm văn
10
chương của Jane thông qua việc xem phim. Điện ảnh từ thời sơ khai đã luôn kiếm
tìm những nguồn văn học khác nhau để khai thác (Các tiểu thuyết, kịch văn học,
truyện ngắn, thơ và thậm chí cả bài luận cũng luôn có đối xử xứng tầm trong phim
ảnh), vì thế, Dudley Andrew đã chỉ ra rằng: “việc nghiên cứu chuyển thể cũng
tương đồng như nghiên cứu màn bạc nói chung” [34, trg.7]. Chuyển thể được xem
là một xu hướng phổ quát trong tất cả các xã hội loài người nhằm viết lại một văn
bản gốc nào đó. Kết quả của việc đó là tác phẩm chuyển thể hoặc trung thành hoặc
rất ít liên hệ với văn bản nguồn: “Chuyển thể, với tư cách là là một tác phẩm phát
triển từ bản gốc-đôi khi thậm chí là cả nhào nặn và biến đổi - từ một nguồn có sẵn”
[13].
Có thể thấy, việc làm phim dựa trên một văn bản có trước cũng lâu đời như
chính cơ cấu điện ảnh. Quá nửa số phim thương mại đều bắt nguồn từ những tác
phẩm văn học - cho dù tất cả những văn bản gốc đó đều chẳng nhận được chút tôn
trọng sùng bái nào. Chuyển thể rõ ràng đã mang đến nội dung và đôi khi là cả hình
thức để tái hiện hiện thực và để hình thành cho mình một thứ ngôn ngữ riêng. Với
những bước đỡ đầu đầy vững chắc và hứa hẹn của văn học, chuyển thể đã trở thành
một trong những hoạt động lâu đời nhất và cốt lõi nhất của lịch sử điện ảnh. Trung
tâm tính của chuyển thể thường được đem ra thảo luận chính là trung thành hay
khác biệt, từ đó trở thành một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của lịch sử
chuyển thể. Những động cơ của hành động tái hiện, mô phỏng này có thể tìm thấy
ngay trong chính những tác phẩm nguồn. Văn bản văn chương với chất liệu bằng
ngôn từ đã xây nên những hình tượng gián tiếp. Chúng được gợi ra từ sự đọc của
mỗi độc giả. Tuy không mang đến một chỉ dẫn cụ thể nhất quán cho điện ảnh, song
văn học lại mang đến cho ngành nghệ thuật thị giác này những kinh nghiệm gián
tiếp vô cùng quý giá. Thêm nữa, ước muốn được nhìn những gì trực quan, những gì
hữu hình đã tồn tại quá lâu trong sự tưởng tượng từ việc đọc tác phẩm văn chương
cũng tạo nên động lực để các nhà làm phim chuyển thể để thị giác hóa điều ấy.
Hoạt động chuyển thể từ văn bản văn chương đến phim ảnh theo quan điểm
truyền thống là hoạt động dịch. Nhà làm phim sẽ phải dịch chuyển đơn vị cơ sở của
11
văn chương là ngôn từ sang đơn vị cơ sở của điện ảnh là hình ảnh. Sự dịch chuyển
này về bản chất là tái hiện, thị giác hóa lại ngôn từ lên phim. Cụ thể hơn, hoạt động
chuyển thể mang tính tái hiện này sẽ liên quan đến các thuật ngữ của hệ thống ngôn
ngữ (nếu ta cũng quan niệm phim như một văn bản) mà trong đó đơn vị cơ sở cấu
thành nên văn bản văn học chính là tự vị, từ và câu, còn văn bản phim là bóng tối và
ánh sáng được chiếu đèn, các hình dạng và âm thanh có thể nhận biết được, và các
hành động được biểu diễn. Các hệ thống này có thể được xây dựng theo cách riêng
nhưng chúng ta luôn luôn có thể tạo nên được sự phù hợp thích đáng từ các hệ
thống khác nhau bằng cách tạo nên những dấu hiệu đặc biệt từ mỗi đơn vị trong hệ
thống và nhấn mạnh đặc điểm chung của chúng. Vấn đề chuyển thể sẽ trở thành vấn
đề tìm kiếm hai hệ thống giao tiếp cho các yếu tố có vị trí tương đương trong các hệ
thống có khả năng khơi gợi cái được biểu đạt ở mức độ phù hợp sẵn có. Keith
Cohen trong Film and Literature: The Dynamics of Exchange đã tìm cách chứng
minh cho mối liên hệ giữa những hình thức nghệ thuật này: “Tôi từng đưa ra một
nhận định cơ bản rằng cả ngôn ngữ và hình ảnh đều là tập hợp các ký hiệu thuộc về
hệ thống và rằng, ở một mức độ trừu tượng nhất định, những hệ thống này mang lại
sự tương đồng với hệ thống khác. Cụ thể hơn, trong mỗi hệ thống như thế này đều
có nhiều mã khác nhau (thuộc về cảm giác, quy chiếu, biểu tượng). Vậy thì cái
mang lại khả năng cho một nghiên cứu về liên hệ giữa hai hệ thống ký hiệu khác
biệt, giống như tiểu thuyết và phim, là cái thực tế rằng những mã tương tự có thể tái
hiện không chỉ trong hệ thống… Bởi vậy, người ta có thể thấy chính cơ cấu của hệ
thống ngôn ngữ mang các mối tương quan phức tạp và đa dạng: ngoài các chức
năng khác, chức năng ngôn ngữ là để định rõ các đơn vị được phân cắt bởi hình ảnh
(nhưng cũng góp phần phân cắt chúng), và … ngoài các chức năng khác, chức năng
của hình ảnh là để truyền cảm hứng cho các hình thể ngữ nghĩa (nhưng cũng được
chúng truyền cảm hứng” [4, trg.374]
Chính bản thân điện ảnh trong lịch sử phát triển của mình cũng góp phần định
hình nên quan niệm về việc tái hiện. Ngay từ đầu, điện ảnh đã vay mượn tư liệu văn
học trong mọi thể loại để làm nên nội dung và đề tài với mong muốn tự tách mình
12
ra khỏi nghệ thuật tạp kỹ và vươn tới một địa hạt mà ở đó vị thế của nó được ghi
nhận hơn. Thiết nghĩ, ta cần có một cái nhìn tổng quát về mối “nhân duyên” giữa
điện ảnh và văn học để thấy được những động cơ và cách thức của mối quan hệ
không dễ miêu tả giữa hai ngành này. Điện ảnh có thể coi là sự kế nhiệm của nhiếp
ảnh. Kĩ thuật máy móc đã mang đến cho công chúng phương Tây những năm 1750-
1825 sự hứng thú say mê với hình ảnh và sản phẩm thị giác: “William Hogarth,
người xây dựng phương thức kể chuyện trào phúng thông qua một loạt các khắc
bản; những tranh tầng sâu và tranh toàn cảnh mô phỏng nổi tiếng đã xuất hiện đâu
đó trong sân khấu kịch chính thống và dàn tranh trào phúng (Trong những năm
1790, tác phẩm Phantasmagoria của Etienne Gaspard Robertson đã thu hút hàng
vạn người với những phản thân về Rosseau, Marat và những vĩ nhân khác của Cách
mạng Pháp), và vô số tuyệt tác khoa học (chẳng hạn như kính viễn vọng do Ngài
David Brewster phát minh năm 1814) đã báo trước sự ra đời của phương thức và
công cụ khoa học năm 1826 và 1839” [4, trg.17]. Điều này làm dấy lên sự tranh
luận gay gắt về vị thế của văn học trong nền văn hóa dễ bị cuốn hút bởi hình ảnh
động thay vì sức mạnh truyền thống của ngôn từ tinh xảo. Chủ nghĩa hiện thực thế
kỉ 19 trở thành thước đo phản ánh hiện thực của văn học và các ngành văn hóa thị
giác mới nổi như thế. Tuy nhiên, nếu những tiền thân của điện ảnh cứ kể mãi về
phong cảnh và phản thân, chính nó cùng với sức mạnh mê hoặc của mình khiến
khán giả cảm thấy ngột ngạt. Họ muốn một sản phẩm thị giác kể một nội dung có
chiều sâu. Các dự án quay bằng đèn chiếu Magic lanter trong tiểu thuyết của Walter
Scott; những tác phẩm văn xuôi khác cùng tiểu thuyết hàng loạt trở thành một loại
hình hòa quyện giữa nhiếp ảnh và kể chuyện thông qua sự hỗ trợ của ảnh in bằng
thạch bản hay sau năm 1880 là cả việc in ảnh bán sắc. Sự gặp gỡ văn học và điện
ảnh tiếp tục được phát triển trong hình thái mà chúng tôi khảo sát từ tiền cổ điển, cổ
điển cho đến những bước ngoặt thể nghiệm của điện ảnh. Trong những năm 1895-
1925, những chuyển thể điện ảnh học tập tính kịch từ nhiều tác động, trong đó có
chủ nghĩa hiện thực và kịch melo thế kỉ 19, sự thống trị của các trào lưu kịch đại
chúng như đại sảnh âm nhạc, các màn ca nhạc tạp kỹ, và có lẽ quan trọng nhất, là
13
điều kiện kĩ thuật của điện ảnh thời kì đầu với những máy quay cồng kềnh, chỉ có
thể đặt tĩnh tại để tái hiện lại góc nhìn của khán giả ngồi hàng giữa trong nhà hát
kịch. Những phim tài liệu phản thân trong thời bình minh của lịch sử điện ảnh khó
có thể tiếp cận tới lượng công chúng đại chúng, vì thế, một cách tất yếu, đề tài văn
học trở thành lựa chọn của màn bạc tiền cổ. Một loạt những câu chuyện văn học nổ i
tiếng đang thịnh hành đã được chuyển thể từ phiên bản sân khấu hóa như Cinderella
(1900), Robinson Crusoe (1920), Guilliver's travels (1902), Uncle Tom's cabin
(1903). Động cơ đưa điện ảnh tìm về với văn học là có thể lí giải được. Nó xuất
phát từ vị thế của bộ môn này. Điện ảnh thời kì đầu chỉ là những trò tạp kĩ rẻ tiền
được đem ra hội chợ để kinh doanh. Nó mang đến những khung hình động và
những phong cảnh được ghi lại lướt qua mắt người xem. Nội dung của nó thời kì
đầu vốn chỉ là những chuyển động, những phong cảnh. Điện ảnh tiền cổ điển
chuyển sang cổ điển với sự xuất hiện các tác phẩm của D.W.Griffith năm 1913.
Griffith đã nỗ lực để đưa điện ảnh và văn học trở thành những đối thủ ngang tài, khi
ông cho rằng, bằng những cải tiến kĩ thuật, hình ảnh có thể đặt ngang hàng với ngôn
từ như một công cụ truyền tải có sức hấp dẫn đối với con người. Từ những bộ phim
một cuộn (dài từ 10-15 phút) của thời tiền cổ điển, màn bạc cổ điển, mà cụ thể là
với kinh nghiệm cá nhân của Griffth, đã ra đời phiên bản chuyển thể phim dài hơn
hai cuộn của Enoch Arden. Điều này đã làm thay đổi hướng đi của điện ảnh và văn
học khi mà giờ đây, điện ảnh có thể kể những câu chuyện dài từ 90-100 phút truyền
tải nội dung của những tiểu thuyết và những vở kịch. Charles Dickens trở thành
nguồn truyền cảm hứng mạnh mẽ cho những bộ phim của Griffith.
Xuất phát từ những căn cứ đầu tiên trong hoạt động chuyển thể văn học của
điện ảnh, ta thấy một động lực rất lớn của ngành nghệ thuật non trẻ này chính là tự
cải thiện mình để bắt kịp với giá trị đã tồn tại lâu đời của ngôn ngữ, từ những phân
cảnh kịch hóa thời kì tiền điện ảnh, từ những bộ phim chuyển thể hiện đại đầu tiên
đủ sức truyền tải chi tiết những cuốn tiểu thuyết đồ sộ lên màn ảnh cho đến sự phát
triển của kỹ thuật điện ảnh để bắt nhịp được tinh thần của văn bản gốc. Chuyển thể
văn học sang điện ảnh do vậy vẫn được coi là tái hiện bởi lẽ “ý thức của chúng ta
14
không mở ra đối với thế giới mà lại thấm vào thế giới tùy theo hình dạng ý thức hệ
của nó, vậy thì mỗi sự biểu diễn trên màn bạc sẽ đều tồn tại trong mối liên hệ với
một khối thống nhất nào đó vốn được đặt trong hệ thống kinh nghiệm cá nhân hoặc
đại chúng” [4, trg.366]. Các nhà làm phim hay bộ phim (ít nhất là theo phương thức
tái hiện hiện thực) đều phải phỏng theo một khuôn mẫu có trước.
Quan niệm này đã bộc lộ những bất cập rõ thấy. Thứ nhất, tính trung thành là
điều không thể phủ nhận trong chuyển thể nhưng bản thân hoạt động chuyển thể đã
mang những mầm mống kháng cự lại tính sao chép tuyệt đối. Hoạt động chuyển thể
chính là sự cơ giới hóa ngôn từ bằng hình ảnh. Dù hai hệ thống này có khả năng
tương tác và chia sẻ những mã tự sự thì theo Gombrich, “chuyển thể là quá trình
hoàn toàn có khả năng, tuy nhiên không bao giờ đạt được đến độ hoàn hảo, bởi vì
mỗi một hình ảnh minh họa đều là một cấu trúc các yếu tố được xây dựng từ sự sử
dụng truyền thống một hệ thống” [4, trg.374]. Thêm vào đó, chuyển thể cũng bị giới
hạn bởi khả năng của nó không thể địch lại được với khả năng kể chuyện vô tận của
văn chương. Những trường hợp bộ phim trung thành với tinh thần của văn bản gốc
nhưng phải lược bỏ đi một vài khía cạnh cho phù hợp với khả năng trình diễn của
màn ảnh (khả năng này đến từ phía bản thân điện ảnh và từ phía khán giả) vẫn được
đánh giá là chuyển thể trung thành. Trường hợp của những phiên bản chuyển thể
tiểu thuyết Anna Karenina có thể giúp ta soi chiếu được vào sự mẫu thuẫn trong
quan niệm và cách đánh giá tính trung thành. Trong những nhân vật chính của tác
phẩm văn học cổ điển này, bên cạnh mối tình của Anna xung quanh hai người đàn
ông là chồng và người tình, thì chuyện tình của Kitty cũng được khắc họa và xuyên
suốt tác phẩm. Thế nhưng, câu chuyện tình yêu không thành của Kitty với Vronsky
và cái kết là cuộc hôn nhân êm đềm với Levin của cô không mấy được các nhà làm
phim đoái hoài. Họ chỉ tập trung làm nổi bật tuyến nhân vật Anna-Alexei-Vronsky.
Nhưng khán giả thay vì tốn nhiều giờ để đọc cuốn tiểu thuyết, họ xem phim và vẫn
thâu tóm được tinh thần của bộ phim. Mãi cho đến bản chuyển thể mới nhất năm
2012, Joe Wright mới đưa lên màn ảnh chuyện tình không kém phần đau đớn và
lãng mạn của Kitty với hai người đàn ông trong cuộc đời cô. Ngoài ra, những yếu tố
15
thương mại can thiệp vào điện ảnh cũng gây ảnh hưởng tới nỗ lực làm tròn tính
trung thành của điện ảnh khi những nhà sản xuất lo sợ rằng họ sẽ không thể giữ
chân khán giả trong một khoảng thời gian quá lâu. Sự cắt gọt nội dung của văn bản
văn chương nguồn vì vậy trở thành tất yếu. Thứ hai, quan niệm về chuyển thể như
hoạt động dịch kém sáng tạo đã tước đi mọi quyền lợi của đạo diễn chuyển thể -một
kiểu dịch giả, quyền sở hữu tác phẩm của chính mình. Tác phẩm chuyển thể vừa là
của anh ta vừa không phải. Trong các hợp đồng tiêu chuẩn ở Anh yêu cầu loại bỏ
dịch giả khỏi bất kì quyền lợi nào trong dịch thuật . Từ đó, dấy lên những vụ kiện
bản quyền giữa văn bản văn học và những bộ phim chuyển thể chỉ mang tính phỏng
tác, hay chuyển thể lỏng (loose adaptation). Vụ kiện trấn động trong giới làm phim
kinh dị những năm 1921 là một ví dụ. Nguyên tác truyện Dracula thuộc bản quyền
của người vợ quá cố của nhà văn Bram Stoker, song bà đã không bán lại nó nhà làm
phim Albin Grau, mặc dù bản quyền của nó được thông cáo là đã thuộc về cộng
đồng Mỹ do sơ suất của cục bản quyền Đức. Grau đã làm bộ phim với rất nhiều sự
khác biệt so với nguồn văn học, từ nhan đề (Nosferatu) cho đến cốt truyện, nhưng
tòa án liên bang vẫn quyết định tiêu hủy toàn bộ những sản phẩm liên quan đến bộ
phim bởi bản quyền vẫn thuộc về người vợ quá cố cho đến kì hạn 50 năm kể từ
ngày người sở hữu qua đời. May mắn là chúng ta vẫn giữ được một kịch bản của bộ
phim Nosferatu. Những nhà phê bình cho rằng, “nếu không có những thay đổi từ bộ
phim này, ma cà rồng sẽ không bao giờ được cho rằng là dễ bị tổn thương dưới ánh
mặt trời hoặc có thể bị giết bởi chính kẻ địch của mình”[12]. Và không có những
cải biến đáng kinh ngạc của Grau thì cũng sẽ không có những bộ phim ma cà rồng
của hiện tại. Việc tước quyền tồn tại của Nosferatu thật phi lí, bởi lẽ, “chính tác
phẩm Dracula của Bram Stoker cũng được khơi gợi cảm hứng từ nhân vật nổi tiếng
nhất trong lịch sử La Mã, Vlad Dracula, đã được nhào nặn và xuất hiện trong văn
học dân gian. Stoker đã đắm chìm vào lịch sử, vào truyền thuyết của Transylvania,
điều mà ông ấy gọi là vòng xoáy của sự tưởng tượng [12] để làm nên tuyệt tác của
mình. Như vậy, chuyển thể như là tái hiện đã bộc lộ những bất cập và cần phải có
một cái nhìn rộng hơn về chuyển thể. Những học giả nổi tiếng về nghiên cứu
16
chuyển thể như Robert Stam và Linda Hutcheon đã bàn về tính trung thành, về quan
niệm chuyển thể như là tái hiện như sau: việc để cho văn bản gốc thống trị bản
chuyển thể là quy chuẩn cứng nhắc, không đủ để phân tích hiện tượng chuyển thể.
1.1.2. Chuyển thể như là kiếp sau
Vậy phải nhìn nhận và đánh giá đúng về chuyển thể ra sao? Trong phần này,
luận văn xin nêu ra quan niệm của mình về chuyển thể và coi chuyển thể như là một
cách viết lại tạo ra những tiền kiếp của tác phẩm văn chương nguồn. Tuy chuyển thể
như là tái hiện bộc lộ những xơ cứng, song, không một hoạt động chuyển thể nào
lại không có yếu tố tái hiện. Để góp phần mở rộng và hoàn thiện thêm khái niệm
chuyển thể, nghiên cứu đi vào tìm hiểu khả năng diễn giải của chuyển thể văn học
trong sáng tạo điện ảnh. Diễn giải ở đây được hiểu là tái hiện lại chủ đề quan trọng
của tác phẩm, đưa ra cách hiểu của mình về chủ đề, tư tưởng tác phẩm hay nhấn
mạnh một số phương diện nào đó (mà không phải toàn bộ của văn bản nguồn) lên
phim. Bộ phim chuyển thể có yếu tố diễn giải sẽ luôn gặp phải những câu hỏi từ
phía nhà làm phim và độc giả: Bộ phim có quyền diễn giải không? Và nếu có thì
đâu là giới hạn của diễn giải? Để có thể trả lời cho những câu hỏi này, nghiên cứu
sẽ khảo sát những ví dụ có độ lùi về thời gian và đặc biệt liên quan đến hành động
dịch-người anh em sinh đôi của chuyển thể. Thời kì trung cổ, những bà đồng ngồi
trên một cái ghế trong các ngôi đền làm nhiệm vụ đọc những chỉ thị toát lên từ khe
nứt lòng đất mà họ cho rằng đó là ý nguyện của thần linh. Hành động này thực chất
chính là hành động dịch/thông ngôn, không loại trừ khả năng những bà đồng đã
thêm bớt ý kiến cá nhân để hoàn thiện một thứ mệnh lệnh được mã hóa với người
thường. Dịch thời kì trung cổ trở thành hoạt động tâm linh quan trọng, ở đó, sản
phẩm diễn ngôn của một người được coi là ý nguyện của thần linh mà không có sự
đối chất hay nghi ngờ. Hay một ví dụ nổi tiếng cũng làm dấy lên quyền hạn của
dịch xuất hiện từ rất sớm trong thần thoại, thơ ca và văn chương- Icarus. Khởi
nguyên trong thần thoại Hi Lạp, câu chuyện chủ yếu lưu truyền bằng phương thức
truyền miệng. Đó là câu chuyên về Icarus và cha mình, Deadalus với đôi cánh
huyền thoại cùng cái kết không có hậu mà phiên bản nổi tiếng nhất được Ovid ghi
17
lại trong Metamorphoses.Trong phiên bản của Ovid, nhân vật chính của chuyện kể
là Daedalus, người được ca ngợi như là một nhà phát minh kì tài. Thực tế, tên của
Icarus không được đề cập mãi cho đến cái kết của câu chuyện khi bố của Icarus gọi
tên nhân vật trước khi rơi xuống biển. Câu chuyện được đẩy lên cao trào chính lúc
đó. Trong đó, có một dòng thơ được dịch sát với phiên bản của Ovid từ tiếng Hi
Lạp: “When the boy boldly began to rojoice in his speed (or wings), he forsook his leader as ambition drew him higher in the skies 1 (Tạm dịch: Khi chàng trai liều lĩnh
bắt đầu tận hưởng tốc độ của mình, anh ta đã làm mất đi sự tỉnh táo bởi ước vọng
bay cao hơn nữa trên bầu trời)”. Các bản dịch từ thời của Ovid đã mang đến những
sắc thái khác nhau. Chúng tôi thử đối chiếu hai bản dịch của Arthur Golding và
George Sandy để tìm ra những cách dịch khác nhau:
Arthur Golding George Sandy
When the Boy a frolicke courage When the boy, much tooke
caught With pleasure of his wings, his
To flie at random. Guide forsooke:
Whereupon forsaking quight his guide, And rauisht with desire of
Of fond desire to flie to Heaven, above heaven, a loft Ascends.
his boundes he stide2
Trong bản dịch của Arthur, từ frolicke ám chỉ một điều gì đó vui vẻ khi sử dụng
nó như một tính từ. Vì thế, Golding tập trung vào sự dũng cảm vui vẻ của Icarus,
trong khi George Sandys tập trung vào niềm vui sướng của mình với đôi cánh trên
vai. George dường như đã dịch với một ý tưởng về ước mơ cổ xưa của loài người về
hành động bay, nhấn mạnh vào hành động bay của Icarus vốn được xem như là
truyền thuyết đầu tiên về hành động này. Không chỉ Arthur hay George có những
1 http://www-personal.umich.edu/~jimw/ myths/Metamorphoses%20-%20Ovid,%20p rose.html 2 https://en.wikisource.org/wiki/Metamorphoses_(tr._Golding)/Book_8
cách biệt về việc dịch mà còn rất nhiều dịch giả khác khi tiếp cận với nguyên tác
18
của Ovid đã cấy ghép vào trong đó một ý tưởng của riêng mình như Sir Samuel
Garth, Dryden, Pope…nhấn mạnh khát vọng con trẻ của Icarus, và cuối cùng
Brookes More đã đem câu chuyện của Icarus sang bối cảnh thế kỉ 20 và nhấn mạnh
vào sự kiêu hãnh và trống rỗng:
“Proud of his success,
the foolish Icarus forsook his guide,
and, bold in vanity, began to soar, rising upon his wings to touch the skies”3
Rõ ràng, phiên bản của Ovid đề cập đến Icarus như là một người có tham vọng
lấn át cả sự sợ hãi bị mặt trời thiêu đốt, tuy nhiên hầu hết các bản dịch lại tập trung
vào sự hiếu thắng và ngu ngốc của tuổi trẻ Icarus dẫn đến sự hủy diệt.
Nhờ các phiên bản dịch khác nhau này mà cho đến tận thế kỉ 20, hình ảnh
Icarus vẫn có sức sống và trở thành biểu tượng của con người cần phải mở rộng giới
hạn của sự tưởng tượng. Hành động thông ngôn của các bà đồng, hay đặc biệt là câu
chuyện về Icarus thực chất đều xuất phát từ một nguồn (tự trị hay được coi tự trị
tạm thời) nhưng lại có thể diễn giải theo rất nhiều cách khác nhau. “Ở một mức độ
nào đó, dịch, bản thân nó chính là diễn giải, nhưng một khi câu chuyện được đặt
vào một hình thái khác, ví dụ như một bức tranh hay một bài hát, cấp độ mới của
diễn giải hiện diện trong chính bản thân chúng” [13, trg.12]. Tính chất sáng tạo của
dịch được mặc nhiên thừa nhận cho đến thời kì Khai sáng với sự trỗi dậy về ý thức
cá nhân. Tại đây, quan niệm về dịch/chuyển thể bị co lại hạn hẹp trong những vấn
đề về tính trung thành (fidelity issue) mà ở trên chỉ ra tính bất cập của nó. Mặc dù,
ta đã chứng mình được tính không toàn diện của hành động chuyển dịch cơ giới
giữa hai hệ thống ngôn ngữ (điện ảnh và văn học) nhưng số phận của phim chuyển
thể không phải chỉ là những phiên bản tái hiện luôn luôn có sự sai khớp với văn bản
gốc, mà nó có thể trở thành “một công cụ có thể được sử dụng để mở ra văn bản
nguồn với sự diễn dịch mới” [13, trg.14]. Bộ phim giờ đây không chỉ là một cách
3 http://amandaeblog.blogspot.com/2005_04_01_archive.html
viết mà còn là một cách đọc.
19
Chuyển thể vì vậy có thể tìm thấy điểm tương đồng trong lý thuyết về diễn dịch.
Quan niệm chuyển thể như là diễn giải không chỉ được củng cố từ những thông điệp
thời trung cổ mà đã được các nhà nghiên cứu quan tâm. Theo lý thuyết diễn dịch
của Wilhem Dilthey, “lý thuyết vòng thông diễn, tập trung vào lý thuyết diễn dịch,
cho rằng sự lý giải về một văn bản chỉ xảy đến sau khi đã có sự thấu hiểu về nó, ấy
vậy nhưng sự thấu hiểu từ trước về nó lại được chứng thực bằng sự lý giải cẩn thận
mà nó cho phép. Nói cách khác, trước khi thảo luận hay phân tích về một văn bản,
chúng ta phải nắm được khái niệm tổng quát về ý nghĩa của nó” [5]. Khi nắm được
khái niệm tổng quát về văn bản nguồn, tức nghĩa, diễn dịch đã trải qua một quá
trình thâu nhận vào mình những nhân tố tiên nghiệm từ bản gốc, để từ đó, dịch giả
thể hiện những ý tưởng khả thể gắn với sự tưởng tưởng và tương thích của mình
sang một hình thái mới. Diễn dịch vì vậy vừa là một bước nhảy, vừa là một quá
trình. Trường hợp Icarus từ thần thoại cho đến phiên bản đầu tiên của Ovid và hàng
loạt những bản dịch sau đó cũng xảy ra với cơ chế vòng thông diễn. Ovid, Arthur,
George hay Brookes…đều bắt đầu từ việc nắm được nội dung của câu chuyện thần
thoại (văn bản tự trị), sau đó “loại trừ Icarus ở vị trí trung tâm hoặc bằng cách loại
bỏ Daedalus ra khỏi bức tranh mà hai nhân vật cùng tồn tại, người nghệ sĩ đang tạo
ra một trần thuật mang tính diễn giải bằng cách yêu cầu độc giả tập trung vào những
khía cạnh khác của câu chuyện” [13, trg.12].
Cơ chế diễn giải này trong chuyển thể bắt nguồn từ việc đọc. Joy Gould Boyum
trong Double Exposure: Fiction into film cho rằng “cả khán giả và nhà làm phim
đều là người đọc” [17, trg.30]. Bà tranh luận rằng mỗi người xem đại diện cho một
cách diễn giải về chuyển thể khác nhau phụ thuộc vào việc họ có hoặc không áp đặt
sự kì vọng của mình vào bản chuyển thể. Theo Boyum, “người xem lí tưởng là
người mà sự tái biểu tượng hóa của họ về một tiểu thuyết cụ thể nào đó sẽ đấu tranh
với sự tái biểu tượng của tiểu thuyết lên phim” [17, trg.30]. Vậy điều gì đã tạo ra
những cuộc picnic diễn giải và trao quyền cho người đọc đến thế? Umberto Eco đã
trao cho chúng ta câu trả lời qua những bài viết về lý thuyết tác phẩm mở. Quan
điểm chuyển thể là diễn giải lại rõ ràng ngày càng được các nhà làm phim thích thú.
20
Neil Sinyard trong Filming Literature (1986) cho rằng: Nghệ thuật chuyển thể quan
tâm việc diễn giải nhiều hơn là việc tái sản xuất và, cuối cùng, chuyển thể là sự tiếp
cận tốt nhất với tư cách một hoạt động của phê bình văn học, không phải sự minh
họa bằng hình ảnh của toàn bộ cuốn tiểu thuyết [37, trg.49]. Cha đẻ của lý thuyết
chuyển thể- Andre Bazin cũng quan niệm: chuyển thể điện ảnh được định nghĩa là
quá trình chuyển hóa mà không nên cố gắng để tái sản xuất nguồn văn bản gốc.
Nhiệm vụ của nhà làm phim là phải có sự tưởng tượng thị giác đủ để tạo ra sư
tương thích trong phong cách giữa phim và văn bản, nếu không thì, đó chỉ là sự
tưởng tượng [14, trg.49]. Nhiệm vụ của một nhà làm phim là chuyển thể chất liệu
văn chương đến chính cách tiếp cận của mình bằng cách chọn ra những tình tiết,
bao gồm cả những cái khác nữa, và đưa ra một sự thay thế. Một phim chuyển thể
tuyệt với sẽ mang đến cho văn chương cuộc đời kịch tính và sống động mà không
phải lo sợ sẽ chà đạp lên cuốn tiểu thuyết bằng cách chiếm lấy tự do với những nhân
vật và cấu trúc khi đưa ra những cách đọc thuyết phục hơn về văn bản nguồn. Rõ
ràng là hằng hà vô số những khả năng của thị giác hóa khiến cho quan niệm chuyển
thể như là diễn dịch rất quan trọng. Nó cho phép chúng ta-với tư cách là người đọc,
giáo viên, nhà phê bình và học sinh của chúng ta so sánh cách đọc với nhau, điều
mà sẽ tạo nên cộng đồng [14, trg.61]. Coi chuyển thể như là diễn giải của tiểu
thuyết mở ra một khả năng mới cho cả hai hình thức. Tóm lại, mọi hoạt động
chuyển thể đều không thể loại trừ sự tái hiện. Song, ta nên nhớ rằng, việc làm một
bộ phim cũng tương đương với quá trình đọc một văn bản văn chương mở và là quá
trình diễn dịch. Chuyển thể từ đó mở ra các khả năng: minh họa, đọc và diễn giải
(viết lại).
Quá trình làm phim trở thành quá trình cấp cho văn bản nguồn những nét nghĩa
mới bởi khi chuyển thể, điện ảnh phải sử dụng chất liệu và phương tiện mang đặc
trưng điện ảnh và bộ phim luôn được xác lập dựa trên một ngữ cảnh xã hội nhất
định. Ngữ cảnh này có tác động ít nhiều đến quá trình diễn giải mà chúng tôi sẽ làm
rõ trong phần sau.
21
Bản chất của chuyển thể đã làm lung lay tính trung thành của nó. Các phiên bản
phim chuyển thể giờ đây đã mạnh dạn viết lại, lược bỏ hoặc cấy ghép những cách
đọc khác của đạo diễn. Người xem trở nên thích thú với việc tiếp cận những lăng
kính mới mà không quá quan tâm đến tính trung thành. Sự khơi gợi hình tượng gián
tiếp và những câu chuyện có đề tài mang tầm nguyên lí phổ quát cho nhân loại mọi
thời đã tạo những khe lạch để những dòng suối mới chảy qua, bồi đắp thêm vào đó,
để huyền thoại trở nên vĩnh hằng hơn trong dòng chảy lịch sử. Cách hiểu này mang
đến cách hiểu rộng rãi nhất về chuyển thể. Bộ phim không chỉ là dịch, không chỉ
chuyển thể cái gì, như thế nào mà còn là chuyển thể nhằm mục đích gì, tương tác
với ngữ cảnh đương đại, chính trị ra sao. Chuyển thể không phải là để minh họa cho
tác phẩm sẵn có hay đưa ra một cách đọc chủ quan mà bằng việc đưa ra diễn giải-
tạo ra đối thoại, tác động, mượn chuyển thể để nói một cái gì đương đại. Chuyển thể
vì thế có thể quan tâm tới sự hồi ứng của công chúng, tới nhu cầu thẩm mĩ thời đại.
Chuyển thể như là kiếp sau của nguyên tác mang cái nhìn rộng nhất, trở thành hành
động bứng trồng nguyên tác vào ngữ cảnh mới, xã hội mới. Trường hợp của
Kurosawa trong chuyển thể điện ảnh đã trở thành điển phạm trong cách diễn giải,
tạo ra hậu kiếp. Bộ phim The bad sleep well (1960) được xem như phiên bản Nhật
Bản hiện đại chuyển thể từ tác phẩm Hamlet của William Shakespeare. Bộ phim
thiết lập bối cảnh Nhật Bản hiện đại ở thế kỉ 20 thay vì Đan Mạch thế kỉ 16 như
trong truyện. Nhân vật chính là Nishi, người vừa bị mất cha, ngài Furuya- viên chức
ở Tập đoàn xã hội về phát triển nhà đất. Một trong những bi kịch của Nishi chính là
hành động tự tử của cha mình khi ông nhảy từ tầng bảy của tòa nhà xuống. Sau đó,
Nishi trở thành thư kí của Tập đoàn xã hội và cưới Yoshiko-con gái của ông chủ
công ty, Iwabuchi như một phần trong kế hoạch điều trần nguyên nhân sự qua đời
của người cha. Ở mặt này, Kurosawa đã bảo lưu motif báo thù trong Hamlet bằng
quyết tâm trả thù cho cha của Nishi. Trong khi nhân vật Yoshiko, người bị lợi dụng
và phải chịu đựng những điều khủng khiếp gợi nhớ đến con người thứ hai Hamlet,
khi hành động đê hèn của cha cô bị phơi bày, cô đã hóa điên. Bộ phim kết lại khi
Nishi bị giết và Iwabuchi giành chiến thắng. Bộ phim mang đến một thông điệp về
22
thời đại, đó là mối liên kết đê hèn giữa doanh nghiệp và chính phủ chỉ vì một mục
tiêu lợi nhuận. Nó ám chỉ về sự mục ruỗng từ bên trong của Nhật Bản hiện đại. Qua
trường hợp này, ta thấy rằng hạt nhân của kiếp sau trước hết phải nằm chính những
đề tài, motif mà văn học mang đến cho điện ảnh. Đó phải là những nội dung, motif
mang tính chất phổ quát nhân loại. Điều này lí giải tại sao những bộ phim thuộc chủ
đề tình yêu kinh điển luôn được chuyển thể không phải một lần, mà sẽ là viễn cảnh
của sự vô hạn.
Chuyển thể giờ đây không còn là tái hiện, mô phỏng, sao chép mà đã là hành vi
sáng tạo, bứng trồng và tạo ra những kiếp sau của sinh thể nguồn. Trên thực tế các
quan niệm này không loại trừ lẫn nhau và mục đích của luận văn là nhằm xây dựng
quan niệm chuyển thể tự do hơn, rộng rãi hơn bởi chỉ khi đó mới có thể khích lệ sự
sáng tạo của đạo diễn, xóa bỏ tính chất đúng sai trên khung qui chiếu chuyển thể. Ta
cần xem chuyển thể văn học trong sáng tạo điện ảnh là một biểu hiện của đời sống
liên văn bản của tác phẩm văn học. Một quan niệm như vậy sẽ cho phép chúng tôi
tiếp cận Bốn đêm của kẻ mộng mơ và Người yêu dấu với những diễn giải kì thú như
là một sinh mệnh mới quẫy đạp và đối thoại lại với chính văn bản gốc Những đêm
trắng. Một trong những lí do thúc đẩy hoạt động chuyển thể là tiềm năng của văn
bản gốc. Phần tiếp theo, nghiên cứu sẽ đi vào phân tích những tiềm năng của văn
bản nguồn Những đêm trắng.
1.2. Tác phẩm Những đêm trắng
1.2.1. Các phiên bản chuyển thể Những đêm trắng
Tác phẩm Những đêm trắng của Dostoevsky được xuất bản năm 1848 là câu
chuyện đẫm nước mắt về thế giới mộng tưởng đẹp đẽ của tinh thần và đề tài tình
yêu bi kịch. Không kinh điển như Romeo và Juliet nhưng cấu trúc và đề tài của
truyện đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho các nhà làm phim. Phim đã được
chuyển thể tới chín lần và còn hứa hẹn một tiềm năng chuyển thể trong tương lai xa
hơn. Những phiên bản chuyển thể được ghi nhận theo trang http://dostoevsky-
bts.com/blog/124-dostoyevsky-film-adaptations/"bts.com/blog/124-dostoyevsky-
film-adaptations/#nights là: (Le notti bianche, 1957) của đạo diễn người Ý Luchino
23
Visconti; (Belye nochi, 1959) của đạo diễn người Nga Ivan Pyryev, (Bốn đêm của
kẻ mộng mơ, 1971) của đạo diễn người Pháp Robert Bresson, (Shabhaye Roshan,
2003) của đạo diễn người Iran Farzad Motamen, ba phiên bản của các đạo diễn Ấn
Độ, (Chhalia, 1960) của Manmohan Desai, (Iyarkai, 2003) của Jananadhan, (Ahista
Ahista, 2006) của Shivam Nair , (Saawariya, 2007) của Sanjay Leela Bhansali,
(Two Lovers, 2008) của đạo diễn người Mỹ James Gray… và phiên bản mới nhất
của đạo diễn người Pháp Nariman Turebaev (Приключение (Adventure) 2015).
Những phiên bản chuyển thể này, trừ phiên bản của Visconti thì hầu hết đều có sự
dịch chuyển không-thời gian so với văn bản văn chương nguồn. Sự gặp gỡ trong
tâm lí chuyển thể này rõ ràng phải xuất phát từ tiềm năng của văn bản văn chương
nguồn và sự đồng cảm của nhà làm phim với thiên tài Dostoevsky. Với dung lượng
ít ỏi, Những đêm trắng đã trở thành một hiện tượng chuyển thể đáng ghi nhận với
nhiều phiên bản trải dài từ thế kỉ 20 sang thế kỉ 21 của chúng ta ngày nay.
Việc lựa chọn ra phiên bản chuyển thể nào để quan sát dòng chảy của liên văn
hóa không phải là một quyết định dễ dàng. Dựa trên tỉ lệ tương đồng và khác biệt về
cấp độ hình tượng và thể loại, dựa trên khả năng tiếp cận và hiểu được các bộ phim
cũng như niềm yêu thích cá nhân, chúng tôi chọn ra hai phiên bản, một đại diện cho
văn hóa phương Tây thế kỉ 19, một đại diện cho văn hóa phương Đông thế kỉ 20 là
Bốn đêm của kẻ mộng mơ và Người yêu dấu. Cả hai phiên bản này đều có sự bảo
lưu trên bề mặt phim những biểu hiện không quá đứt quãng với văn bản nguồn như
không gian, nhân vật và đặc tính gắn với nhân vật… song cũng có những “viết lại”
táo bạo, vừa lạ lẫm với Những đêm trắng lại vừa thân quen với và được khán giả
bản địa đón nhận nồng nhiệt. Nói cách khác, đây là hai trường hợp người xem dù có
thể đoán được ngay văn bản nguồn là Những đêm trắng song vẫn yêu thích và tìm
thấy linh hồn dân tộc mình trong đó. Nó trở thành một sản phẩm văn hóa “nhập
khẩu” (về ý tưởng) thành công.
24
1.2.2. Tiềm năng chuyển thể
1.2.2.1. Tiềm năng từ đề tài
Không quá khi cho rằng Dostoevsky đã hình thành cho mình một dòng phim
riêng, khi rất nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể qua nhiều quan điểm văn
hóa khác nhau. Những tiềm năng từ tác phẩm của Dostoesky xuất phát từ tính cách
Nga đậm đặc của ông, đồng thời xuất phát từ tính quốc tế trong suy tư của nhà văn.
Nếu như mọi thiên tài đều mang tính dân tộc chứ không có tính quốc tế, và thể hiện
cái toàn nhân loại ở trong cái dân tộc tính, thì điều này đặc biệt đúng đối với
Dostoevsky. Ông thật Nga một cách đặc trưng, là thiên tài Nga nhất trong số những
nhà văn vĩ đại của chúng ta và đồng thời lại mang tính toàn nhân loại nhất theo ý
nghĩa của mình và theo những đề tài của mình [3, trg.25]. Ông đã tự khẳng định
“Tôi bao giờ cũng là người Nga đích thực” – ông viết cho A.Maikov về bản thân
mình. Chúng ta tìm thấy tính toàn nhân loại qua văn chương của ông. Fyodor
Dostoevsky như một dấu ấn trong văn học Nga thế kỷ XIX bởi ông không chỉ đơn
giản là mô tả xã hội Nga, ông còn vượt qua những rào cản thời gian để phản ánh
bản chất phức tạp và tình huống phức tạp của con người hiện đại. Tiểu thuyết của
ông có thể được hình thành như sự phản ánh của bất kỳ ai không chỉ với môi trường
của anh ta mà còn với chính anh ta là kết quả của những nguyên nhân bên ngoài [3,
trg 26]. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi các tác phẩm của ông đã ảnh hưởng
đến không chỉ những người kế vị ông trong Văn học Nga mà còn các nhà văn khác
từ các nền văn hóa khác nhau xuất hiện trong thế kỷ XX, thế kỷ XXI và xa hơn nữa.
Những đêm trắng, một truyện ngắn với dung lượng khiêm tốn nhưng đã hiện diện
qua nhiều không thời gian khác nhau với vô vàn phiên bản chuyển thể của nó cũng
trong mình những tiềm năng mời gọi chuyển thể. Trong phần này, luận văn sẽ đi
vào phân tích những khả năng về đề tài, thể loại và sự hứng thú của những nhà làm
phim với văn bản nguồn Những đêm trắng của Dostoevsky. Những phiên bản
chuyển thể này hầu hết đều có sự dịch chuyển không - thời gian so với văn bản văn
chương nguồn - Những đêm trắng. Sự gặp gỡ trong tâm lí chuyển thể này rõ ràng
phải xuất phát từ tiềm năng của văn bản văn chương nguồn và sự đồng cảm của nhà
25
làm phim với thiên tài Dostoevsky. Tác phẩm được giới thiệu như là một dạng nhật
kí tự thuật, nhưng theo một bài nghiên cứu thì nó thực chất là hồi kí. Nó gợi lại mối
tình lãng mạn chóng vánh của người kể chuyện với một phụ nữ trẻ đẹp trong những
đêm trắng của Petersburg. Nhân vật nam chính của Những đêm trắng- thực chất là
người kể chuyện khi còn trẻ - một thư kí 26 tuổi. Người kể chuyện dành hầu hết
thời gian chìm đắm vào ảo giác về thế giới mộng mơ của chính mình. Cốt truyện
khá đơn giản. Trên đường về nhà vào một tối nọ, kẻ mộng mơ đến giúp đỡ một phụ
nữ trẻ, Nastenka bằng cách xua đuổi những kẻ say rượu đang có ý định lợi dụng cô.
Sau khi giới thiệu bản thân mình và có được sự tin tưởng của cô, kẻ mộng mơ hẹn
gặp Nastenka vào tối hôm sau. Họ gặp nhau trong mỗi đêm, mỗi lần gặp gỡ, kẻ
mộng mơ lại thêm yêu người con gái ấy. Hi vọng của anh ta, tuy nhiên, bị vỡ vụn,
vào đêm thứ tư. Hôn phu của Nastenka, người mà cô luôn nghi ngờ, trở về từ
Moscow và mang cô đi. Buổi sáng hôm sau, kẻ mộng mơ thức tỉnh, nhận được lá
thứ cầu xin sự tha thứ của Nastenka và ngẫm nghĩ về sự cô độc đang chờ đón mình
ở phía trước nhưng vẫn ánh lên niềm lạc quan. Những đêm trắng là một trong
những tác phẩm thuộc thời kì đầu trong sự nghiệp sáng tác của Dostoevsky. Tác
phẩm này có thể được xếp vào thể loại truyện vừa bởi dung lượng và nội dung khá
khiêm tốn. Những đêm trắng là tiếng nói bênh vực cho thế giới cảm xúc đầy mơ
mộng của con người, là tác phẩm dành riêng cho trí tưởng tượng lãng mạn. Có thế
thấy, tình yêu là đề tài xuyên suốt và quan trọng nhất của tác phẩm. Và đề tài này đã
gắn liền với bước đi của điện ảnh. Tình ái đã trở thành đề tài mà điện ảnh đã khai
phá ngay từ những bước đi đầu tiên. Tình yêu là một hiện tượng xảy ra trong đời
sống của chúng ta. Khái niệm tình yêu đã được bàn đến rất sôi nổi và được thách
thức bởi các nhà triết học, tâm lý học trong suốt lịch sử nhân loại bởi những tác
động to lớn đối với sự tồn tại của mỗi cá nhân và xã hội. Từ thời Hi Lạp cổ đại,
những nhà triết học nổi tiếng như Socrates, Plato và Aristole đã tranh cãi về định
nghĩa, ý nghĩa và bản chất của tình yêu. Những tranh cãi triết học về tình yêu rất
quan tâm đến bản chất của nó. Trong cuốn sách nổi tiếng của mình, Symposium,
Plato đã bàn về tình yêu trong dạng thức logic, kết luận rằng dạng thức cao nhất
26
của tình yêu là tình yêu thuần khiết (platonic love), tức tình yêu mà không có sự hấp
dẫn nhục dục và nó đáng giá hơn hết thảy những dạng thức khác [26]. Những tranh
luận tiếp tục kể từ thế kỉ 20. Bằng sự phát triển những kinh nghiệm khoa học như là
sinh học, tâm lý học, xã hội học vào đầu thế kỉ, những tranh cãi về chủ đề tình yêu
đã mở ra những hướng khác. Robert Sternberg đã đưa ra ba thành tố của tình yêu
(Xem sơ đồ 1)
Sự thân tín (Intimacy) là dạng thức mà hai người chia sẻ thân tín và những chi
tiết liên quan đến đời sống cá nhân, và thường xu yên hài hòa trong tình bạn và
những chuyện tình lãng mạn. Dạng thức phổ biến nhất của tình yêu là sự hấp dẫn
giới tính và niềm đam mê. Tình yêu đam mê được kết tinh và phản ánh trong sự say
đắm cũng như tình yêu lãng mạn. Cuối cùng là tình yêu cam kết - sự mong đợi rằng
mối tình sẽ mãi vĩnh cửu. Tất cả các dạng thức của tình yêu được xem như là sự kết
hợp đa dạng của ba yếu tố này. Không có tình yêu nào lại không chứa đựng ba yếu
tố ấy. Trạng thái thích một ai đó (liking) chỉ bao gồm chỉ sự thân tín. Tình yê u say
đắm chỉ bao gồm đam mê. Tình yêu trống rỗng chỉ bao gồm sự cam kết. Tuy nhiên,
tình yêu lãng mạn bao gồm cả sự thân tín và niềm đam mê. Tình yêu bền chắc và
sâu đậm (Companionate love) bao gồm sự thân tín và cam kết. Tình yêu say đắm
(Fatuous love) bao gồm niềm đam mê và sự cam kết. Cuối cùng, tình yêu trọn vẹn
(Consummate love) bao gồm cả ba yếu tố trên [33, trg.119-135].
Trong Những đêm trắng, vào đêm đầu tiên, hai nhân vật trở nên thân thiết với
nhau và ở đêm thứ hai, họ kể cho nhau nghe về câu chuyện của mình. Trong hai
đêm này, sự thân mật được hình thành; điều đó có nghĩa là họ đang ở nấc thang đầu
tiên của tình yêu của sự quí mến, tương tự như tình bạn (linking/friendship) (Xem
bảng 2 [21, trg.232]): “Ông đừng phải lòng mà yêu em…Điều đó không thể được,
em cam đoan với ông. Em sẵn sàng kết bạn với ông, đây, tay em đây…”[5;26].
Trong đêm thứ ba, người kể chuyện ngày càng bị hấp dẫn bởi Nastenka, anh ta
bước sang nấc thứ hai của tình yêu trên nền tảng của niềm đam mê, nhưng Nastenka
vẫn duy trì ở nấc thang thứ nhất.
27
Kẻ mộng mơ Nastenka
“Và bây giờ tôi càng biết hơn bao “Bây giờ chúng ta sẽ bên nhau; bây
giờ hết là tôi đã để phí hoài những năm giờ dù có chuyện gì xảy ra với em đi
tháng tốt nhất của đời mình! Bây giờ tôi nữa, chúng ta cũng sẽ không bao giờ xa
biết điều đó, và tôi càng cảm thấy đau nhau…Bây giờ em đã biết ông, biết hết,
buồn hơn bởi điều nhận biết đó, vì rằng biết hết tất cả rồi. Và ông biết sao
chính Đức Chúa Trời đã ban tặng cô không? Em muốn kể cho ông nghe
cho tôi, hỡi thiên thần tốt bụng của tôi, chuyện của em, kể hết không giấu giếm
để nói với tôi và chứng tỏ với tôi điều điều gì. Rồi sau đó, xin ông cho em một
đó. Bây giờ, khi tôi ngồi cạnh cô và nói lời khuyên…Em không cần lời khuyên
với cô, tôi lại khiếp sợ khi nghĩ đến thông minh, em cần một lời khuyên
tương lai, vì rằng trong tương lai sẽ lại chân tình, anh em, một lời khuyên như
là cô đơn, lại là cuộc sống mốc meo, thể ông đã yêu em cả thế kỉ nay ấy!” [5,
không cần thiết; và tôi còn biết ước mơ trg.55-56].
gì nữa, khi trong đời thực tôi đã được
hạnh phúc đến vậy bên cạnh cô! Ôi,
Chúa sẽ ban phước cho cô, hỡi cô gái
dịu hiền, vì rằng cô đã không xua đuổi
tôi ngay từ lần gặp đầu tiên, vì rằng bây
giờ tôi có thể nói, ít ra tôi đã được sống
hai buổi tối trong đời mình!” [5, trg.50-
51].
Trong lời tâm sự của kẻ mộng mơ với Nastenka, ta đã thấy một niềm hạnh phúc
được sóng đôi cùng cô, đây là trạng thái thể hiện cho sự tăng tiến từ nấc thang thứ
nhất của tình yêu lên nấc thang thứ hai. Còn với Nastenka, sự tăng tiến của cô lại
nghiêng về phía thân mật/thân tín nhiều hơn. Cô chỉ coi kẻ mộng mơ như một người
bạn, người anh trai thân thiết.
28
Ta sẽ áp dụng lí thuyết tam giác tình yêu trên để soi chiếu vào mối quan hệ giữa
kẻ mộng mơ và Nastenka.Trong đêm thứ thứ tư, người trần thuật có một tình cảm
sâu sắc và đã thổ lộ nó với Nastenka. Trong đêm này, tình yêu của kẻ mộng mơ đã
có biến chuyển ngày một tăng tiến, nhưng Nastenka vẫn ở nấc thứ nhất. Vào buổi
sáng, họ trở nên cách biệt nảy sinh hành động cam kết qua lá thư của Nastenka. Nấc
thứ ba của tình yêu đã không nảy sinh ra giữa họ, vì thế, người trần thuật phải xử lí
với sự thân mật và đam mê, trải qua một tình yêu lãng mạn, anh ta được bảo trợ với
cả tính thân mật và niềm đam mê mà không xác nhận sự cam kết, và Nastenka duy
trì sự thân mật và chỉ trải qua cảm giác thích/ tương tự như tình bạn mà không có
cảm xúc gắn kết hay cam kết. Cô cảm thấy gần gũi ấm áp mà không có cảm xúc
mãnh liệt hoặc cam kết với người kẻ mộng mơ. (Chính tình cảm này đã góp phần
tạo nên những nảy nở mơ hồ trong người trần thuật về việc anh ta có thể tiến đến
một tình yêu mang tính đam mê và cam kết với cô). Ở phần cuối của tác phẩm,
người trần thuật chỉ muốn Nastenka có được niềm hạnh phúc mà cô ao ước, anh ta
hoàn toàn không oán hận hay bày tỏ sự sở hữu cô mà chúc phúc cho cô. Những lời
cuối này của kẻ mộng mơ đã mang tinh thần của tình yêu vị tha.
Chính chủ đề tình yêu và cốt lõi là kiểu tình yêu vị tha trong Những đêm trắng
đã khiến nó có sức hấp dẫn nhân văn vĩnh cửu. Những đêm trắng đã được chuyển
thể tới chín lần, những tư tưởng khác của truyện Dostoevsky có thể được bảo tồn
hoặc không, nhưng dường như có một xu hướng là, các nhà làm phim ngày càng tô
đậm chủ đề tình yêu, biến những phiên bản Những đêm trắng trở thành một chuyện
tình đầy phiêu lưu, lãng mạn của thời đại mình, quốc gia mình. Nhìn chung, các
phiên bản đều bảo tồn trên bề mặt kiểu tình yêu vị tha. Và tình yêu giữa hai kẻ
mộng mơ và Nastenka đã trở thành một kiểu mẫu mang tính tiềm năng vĩnh cửu đối
với nhân loại mọi thời đại.
1.2.2.2. Tiềm năng từ thể loại
Điện ảnh thời kì đầu nói riêng và mọi thời đại nói chung luôn cần một nội dung
để kể. Những đêm trắng là câu chuyện kể nội dung (chứ chưa phải viết nội dung).
Tính mạch lạc của hệ thống sự kiện qua việc phân chia chương của Những đêm
29
trắng tỏ ra có lợi thế cao so với những tác phẩm viết theo lối dòng ý thức như Đi
tìm thời gian đã mất của Marcel Proust bởi nó tạo điều kiện thuận lợi cho đạo diễn
xây dựng các kịch bản phân cảnh. Những đêm trắng được phân chia rất rõ ràng
thành 5 chương. Mỗi chương được đặt tên theo trình tự thời gian biên niên:
Tên chương Sự kiện Thời gian trần Thời gian được
thuật trần thuật
Đêm thứ nhất - Kẻ mộng mơ
giới thiệu về mình • Hiện tại • Quá khứ
- Kẻ mộng mơ
cứu Nastenka khỏi
việc tự tử, làm bạn
với cô và hẹn gặp
nhau ngày hôm
sau
Đêm thứ hai -Hai người Hiện tại Quá khứ
gặp lại nhau, kẻ
mộng mơ định
nghĩa về mình cho
Nastenka nghe.
- Nastenka kể
về hoàn cảnh của
mình
- Kẻ mộng mơ
giúp Nastenka
trao bức thứ đến
hôn phu của cô
- Họ thân thiết
với nhau hơn và
hẹn gặp lại vào
30
đêm thứ ba
Đêm thứ ba - Họ gặp lại Hiện tại Quá khứ
nhau, Nastenka
buồn bã vì hôn
phu không đến.
- Họ chia tay
và hẹn gặp vào
đêm thứ tư
Đêm thứ tư - Họ gặp lại Hiện tại Quá khứ
nhau, Nastenka
suy sụp vì người
tình không đến.
Kẻ mộng mơ bày
tỏ tình cảm với cô,
họ gần như trở
thành tình nhân.
-Vị hôn phu
xuất hiện,
Nastenka chia tay
kẻ mộng mơ và
đoàn tụ với hôn
phu.
Buổi sáng - Kẻ mộng mơ Hiện tại Quá khứ
tỉnh dậy trong sự
chán chường.
- Nastenka
gửi thư cầu xin sự
tha thứ và tình
cảm của kẻ mộng
31
mơ.
- Kẻ mộng mơ
tha thứ và chúc
phúc cho cô cùng
với một tình yêu
thiết tha không
thay đổi.
Các chương trong Những đêm trắng có quan hệ theo lối diễn giải, theo trật tự
thời gian biên niên. Sau mỗi đêm, các nhân vật hiểu rõ hơn về cuộc sống, tính các h,
số phận của nhau, và qua đó, đẩy những cảm xúc của họ lên cao hơn so với chương
đầu tiên. Kết thúc mỗi chương, mạch truyện vừa mang tính trọn vẹn (cung cấp sâu
thêm cho người đọc về nhân vật và sự giao ước của họ) đồng thời tồn tại những bỏ
ngỏ chờ được sáng tỏ vào chương tiếp theo. Việc phân chia bố cục thành những
mảnh hồi ức nhỏ rất phù hợp với kĩ thuật chuyển cảnh của điện ảnh. Nếu văn học sử
dụng các kĩ thuật ngắt chương, mục, đoạn để hình thành bố cục thì điện ảnh cũng có
thể sử dụng các cơ chế này với những trường đoạn phim mang nội dung tương
đương chương, mục, đoạn. Nhưng không giống như chúng ta lật giở những trang
sách để chuyển chương, các nhà làm phim phải làm sau để những đoạn chuyển cảnh
của họ trở nên mượt mà, không gây ra hiệu ứng sốc thị giác và đứt đoạn khó hiểu
cho người xem. Thêm vào đó, phong cách làm phim Làn sóng mới nói chung và
Robert Bresson nói riêng rất ưa thích việc chia nhỏ các cảnh quay dài và thực hiện
hình thức cắt dán, không liền mạch như các đạo diễn thế hệ trước. Kết cấu phân
chia theo chương của Những đêm trắng đã giúp nhà làm phim chuyển cảnh được dễ
dàng, dựa vào việc đặt những dòng chữ mang chức năng tương tự của bảng tên thời
kì phim câm hiện lên màn hình. Trong phim của Bresson, người xem sống trong câu
chuyện của Marthe và Jacques ở hiện tại thông qua lời trần thuật trực tiếp của ống
kính máy quay. Thậm chí hai hồi ức dài, sự tự thêm vào của cuộc đời nhân vật trước
32
đó, được giới thiệu gần như trọn vẹn bởi cảnh và được nhìn thấy một cách trực tiếp
bởi người xem.
Sự ngắt cảnh, dù đột ngột, cũng trở nên mạch lạc và dễ hiểu với người xem,
khiến cho diễn tiến của bộ phim trở nên liền mạch, đồng thời bảo tồn được sự hồi
hộp do hiệu ứng ngắt cảnh tạo ra.
Thêm vào đó, trên bình diện kết cấu bề mặt, Những đêm trắng được cấu tạo
theo kiểu truyện lồng trong truyện. Block sự kiện thứ nhất (Truyện khung) ở thì
hiện tại qua lời kể trần thuật của kẻ mộng mơ không tên. Block sự kiện thứ hai
chính là câu chuyện của kẻ mộng mơ ở thì quá khứ kể về chuyện tình yêu với
Nastenka. Câu chuyện của cuộc đời hai con người nhỏ bé và tình yêu của họ trở
thành nội dung chính. Những đêm trắng không có một mạng lưới các tình tiết, sự
kiện phức tạp và dày đặc. Cốt truyện mạch lạc nhưng không nhiều sự kiện, thay thế
33
vào đó, lời văn thiên về mơ tưởng, những khoảng nội tâm mênh mông. Kẻ mộng
mơ đã bày tỏ rất nhiều cảm xúc nội tâm cho nhiều đối tượng tại Petersburg: Với bầu
trời Petersburg: “Đó là một đêm kì diệu, một đêm mà có lẽ chỉ có thể có được khi
chúng ta còn trẻ, hỡi bạn đọc thân mến. Bầu trời đầy sao, một bầu trời lộng lẫy đến
mức ngước nhìn lên nó ta phải bất giác tự hỏi mình: chẳng lẽ những con người cau
có, trái tính trái nết đủ loại lại có thể sống dưới một bầu trời như thế... Đây cũng là
một câu hỏi của tuổi trẻ, hỡi bạn đọc thân mến, một câu hỏi rất trẻ, nhưng cầu xin
Đức Chúa Trời ban cho bạn thường xuyên hơn câu hỏi ấy!”[5, trg.1]. Với những
ngôi nhà: “Cả những ngôi nhà cũng quen biết tôi. Khi tôi đi ngang qua, chúng
dường như chạy ra đón gặp, nhìn tôi bằng tất cả các cửa sổ và hình như nói với tôi:
"Chào anh, sức khoẻ anh thế nào... Còn tôi, nhờ trời vẫn khoẻ, đến tháng Năm này
tôi sẽ có thêm một tầng nữa". Hay là: "Anh có khoẻ không... Còn tôi ngày mai sẽ
được sửa chữa". Hoặc: "Hôm rồi tôi suýt cháy rụi, làm tôi sợ quá", và vân vân...
Trong số đó có những ngôi nhà tôi yêu thích, có những ngôi nhà là bạn thân thiết
của tôi; có một ngôi nhà mùa hạ này sẽ nhờ kiến trúc sư chạy chữa”[5, trg.2]; Với
Petersburg vào mùa xuân: “Có một cái gì đó cảm động không giải thích được trong
phong cảnh thiên nhiên Peterburg của chúng ta khi mùa xuân về bỗng phô bày toàn
bộ tiềm năng, toàn bộ sức lực được trời phú cho của mình, lộng lẫy, xanh tươi, rực
rỡ trăm hoa...”6 5, trg.3]; về những cảm giác nhìn từ điểm nhìn của kẻ mộng mơ
trong lời tâm sự với Nastenka, và về chính Nastenka: “Niềm vui và hạnh phúc làm
cho con người đẹp lên biết bao! Ôi trái tim sôi cháy tình yêu! Dường như ta muốn
trút hết trái tim mình sang trái tim bạn tình, ta muốn tất cả đều vui sướng, tất cả đều
cười. Và niềm vui đó mới dễ lây lan làm sao! Đêm qua lời lẽ nàng chứa bao nhiêu
là dịu dàng, bao nhiêu là chân thành với trái tim tôi... Nàng đã chăm sóc tôi, âu yếm
tôi biết mấy! Nàng đã khích lệ và vuốt ve trái tim tôi! Ôi bao nhiêu là nũng nịu lả
lơi vì hạnh phúc!”[5; trg.23]. Sự độc thoại của trí tưởng tượng, những tình cảm lãng
mạn đã lấn át tình tiết sự kiện trong truyện, tạo nên những thiếu vắng về xung đột,
mâu thuẫn, những mối quan hệ đan cài chằng chéo hay tạt ngang. Mối quan hệ của
bộ ba nhân vật kẻ mộng mơ – Nastenka- vị hôn phu của Nastenka cũng không dựa
34
trên quan hệ đối lập tiêu trừ mà mang tính chất của quan hệ bổ sung. Qua cuộc đời
của người này, người kia tìm thấy sự giải tỏa và niềm an ủi (dù có tính tạm thời), họ
hoàn thiện nhau bởi niềm hạnh phúc của sự sẻ chia và đồng cảm. Điều này giữ cho
kết cấu bề mặt của truyện khá êm đềm, đơn giản và không tồn tại mâu thuẫn. Một
kết cấu với các tầng hình tượng nhân vật, sự kiện mỏng như vậy sẽ là mảnh đất màu
mỡ để các nhà làm phim khai thác tiềm năng chuyển thể, tìm ra ngôn ngữ của riêng
mình. Những phiên bản chuyển thể của Những đêm trắng rất ít khi giữ lại nguyên
gốc hình mẫu nhân vật và số phận của họ và thường thêm vào những tình tiết có
tính mâu thuẫn hay một nhân vật hoàn toàn mới như trong phiên bản Saawariya
(2007). Những đêm trắng là câu chuyện của hai người, kẻ mộng mơ và Nastenka,
thế nhưng, phiên bản chuyển thể này lại có một nhân vật thứ ba, người xuất hiện từ
đầu đến cuối- cô gái điếm Gub. Không những thế, cô còn góp phần tạo ra mâu
thuẫn cao trào của mạch tự sự phim. Mâu thuẫn đỉnh điểm của phim xảy ra khi Raj
bị Sakina từ chối, anh chán chường và tìm đến Gub để giải khuây. Cô đã thất vọng
và đuổi anh ra ngoài đường. Sau đó, anh còn bị những gã trai quanh cô đánh đập dã
man, điều này làm nên thời điểm mang tính thử thách ý chí và nghị lực cũng như
phẩm giá của nhân vật. Phiên bản phim Ấn Độ đã mang đến một màu sắc gay cấn
hơn, bạo lực và xung đột hơn nhờ vào việc thêm thắt sự kiện vào cốt truyện mỏng
của văn bản văn chương gốc. Điều đạo diễn bảo tồn chỉ còn là motif tình yêu mang
tính tình cờ, vị tha. Ngoài hai phiên bản chuyển thể thời kì đầu, những bộ phim
chuyển thể sau này đều có sự tái tạo lại hình tượng nhân vật và hệ thống sự kiện.
Chính những khoảng mơ hồ trong lời văn đã tạo ra vừa thách thức, cũng chính là cơ
hội cho điện ảnh. Thông thường, những đoạn nội tâm là sức mạnh của văn học chứ
không phải sức mạnh của điện ảnh. Điện ảnh rất khó để cụ thể hóa những điều thầm
kín bên trong nội tâm. Điều này đặt ra một thách thức cho môn nghệ thuật thứ bảy:
Làm thế nào điện ảnh có thể chạm vào những chỗ tinh vi nhất của địa hạt văn
chương? Nhưng chính điều này lại kích thích điện ảnh (Từ Tân hiện thực qua phiên
bản của Visconti đến Làn sóng mới với phiên bản của Bresson…) bằng cách dùng
tư duy khuôn hình, thủ pháp để thay thế cho sức mạnh lột tả nội tâm của văn
35
chương. Những đêm trắng mang tiềm năng của chuyển thể tạo ra hậu kiếp chính là
nhờ điểm này. Điện ảnh khi đối mặt với tác phẩm chẳng khác nào hành động dám
dấn thân vào những chỗ khó chuyển thể để tìm ra ngôn ngữ của riêng mình. Và phải
trải qua quá trình như vậy, tư duy điện ảnh mới ngày càng được kích thích và phát
triển. Điều này tạo ra tính tiềm năng cho Những đêm trắng. Chắc rằng con số 9
phiên bản chuyển thể chưa phải là con số cuối cùng đối với một tác phẩm nhiều
tiềm năng như thế.
1.2.2.3. Từ nhà làm phim
Khác với chủ đề thường thấy của phong trào làm phim thời đại Bresson - Làn
sóng mới, ông lại rất ưa thích những tác phẩm văn học cổ điển. Với ông, hai nhà
văn khiến ông nể phục và tìm thấy sự đồng điệu trong chất liệu văn chương của họ
chính là Georges Bernanos và F.M.Dostoevsky. “Có một sự trung thành đáng kinh
ngạc về mặt chi tiết nội tại và bình diện bề mặt trong sự phát triển cốt truyện giữa
các phim của Bresson và văn bản mà nó chuyển thể” [42]. Hai nghệ sĩ có mối quan
tâm chung về những vấn đề: cái xấu xa và tội ác, về những phụ nữ bị lạm dụng và
ngược đãi, về một xã hội suy đồi và sùng bái tiền bạc. Trong những bộ phim thời kì
đầu của Bresson, ông đã khắc họa những chỗ mập mờ tinh tế trong những quan hệ
liên cá nhân như là sự phảng phất tinh hoa của Dostoevksky. Bộ phim Pickpocket
(1959) thực sự phản ánh những âm hưởng mạnh mẽ của Tội ác và trừng phạt mặc
dù Bresson tuyên bố đó là kịch bản gốc do ông viết.
Cuối những năm 1960, Bresson đã trực tiếp công khai nguồn văn học từ
Dostoevsky cho những bộ phim của mình: Người phụ nữ dịu dàng (Une femme
douce;1968-69) và Bốn đêm của kẻ mộng mơ (Quatre nuits dun reveur ;1970 -1971)
là hai phim dựa trên tiểu thuyết của Dostoevsky, Cô gái nhu mì và Những đêm
trắng. Trong khi thực hiện hai bộ phim này, Bresson cũng viết Notes sur le
cinematographe (Ghi chú về điện ảnh) và lời bình luận của ông về lý thuyết và thực
hành điện ảnh, thể hiện mối quan tâm đặc biệt tới phương diện hình thức của tiểu
thuyết Dostoevsky. “Dostoevsky đặc biệt độc đáo xét về mặt kết cấu. Tác phẩm của
ông phức tạp một cách lạ thường và có kết cấu chặt chẽ, thuần túy nội tại, với
36
những luồng tư tưởng đối lập nhau giống những con sóng ở đại dương. Bản sao của
chúng sẽ phát huy được hiệu quả trong một bộ phim” (Notes 126-7). Bởi vậy, Unne
femme douce (Dịu dàng) và Quatre nuits dun reveur (Bốn đêm của kẻ mộng mơ) có
thể được nghiên cứu như là thể nghiệm trong việc vận dụng một số những đặc trưng
về hình thức, cấu trúc của diễn ngôn Dostoevsky vào môi trường điện ảnh.
Trong các bài phê bình và bài phỏng vấn của mình, ông phát biểu một cách
miệt thị về những bộ phim nhiễm tính văn học và bảo lưu quan điểm rằng những ý
tưởng từ sự đọc (văn chương) sẽ chỉ có tính sách vở. Tuy nhiên, trừ ba phim: Les
Anges du peche (1943), Au hasard Balthazar (1956-65) và Le Diable, probalement
(1977), còn lại tất cả những bộ phim của Bresson đều dựa trên những văn bản đã
có trước, một vài bộ phim lấy cảm hứng từ văn bản lịch sử, nhưng hầu hết là từ văn
bản văn chương [42]. Nếu ta chia đạo diễn thành hai kiểu, một là đạo diễn như là
người viết kịch bản, thực hiện công việc làm phim như việc viết kịch bản, hai là đạo
diễn chỉ như một nhà quay phim, quay lại những ý tưởng đã tồn tại trước đó thì
Bresson thuộc loại đầu tiên. Sau khi đọc những tác phẩm văn chương, ông đặt nó
xuống (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng) để rồi kiến tạo ra một kịch bản khác. Như
thế, khái niệm kịch bản không còn tồn tại trong quá trình làm phim. Kịch bản là
điều mà người đạo diễn sẽ viết trong khi làm phim. Những ý tưởng ban đầu chỉ là
chất liệu khơi gợi ban đầu.
“Tôi muốn tránh càng xa văn chương càng tốt, cũng giống như sự xa cách với
những loại hình nghệ thuật đã tồn tại trước đó. Đến tận bây giờ, tôi chỉ tìm thấy hai
tác giả mà tôi có thể đồng tình: Georges Bernanos, một chút, không nhiều lắm, và
tất nhiên, Dostoevsky. Tôi mong muốn cội nguồn của những bộ phim của tôi bắt
nguồn từ bên trong tôi, chứ không phải từ văn chương. Tôi không muốn làm một bộ
phim để giới thiệu tác phẩm của Dostoevsky. Khi tôi tìm thấy cuốn sách tôi thích,
như Giám mục chốn đồng quê (Country priest), tôi rút ra những gì tôi có thể thẩm
thấu được. Những gì hiện lên phim là những gì tôi có thể tự mình viết ra” [38,
trg.27]. Đối với Robert Bresson, “văn bản văn chương có chức năng như là điểm
khởi đầu, là nguồn chất liệu trần thuật và là động lực cho thể nghiệm hình thức
37
trong điện ảnh. Ở góc độ này, chuyển thể với Bresson trở thành sự diễn dịch lại
những đặc điểm về chủ đề và cấu trúc của văn bản văn chương- một sự dịch chuyển
liên ký hiệu không chỉ bao hàm sự chuyển dịch, mà còn cả sự mô phỏng, trích dẫn
và bình luận” [38].
Với những tiềm năng về chủ đề và kết cấu, Những đêm trắng đã cung cấp
những khoảng trống, khoảng trắng để nhà làm phim có thể chuyển thể, tạo ra những
sinh mệnh mới độc lập và có mối liên hệ đối thoại với văn bản gốc. Thêm vào đó,
tiềm năng đến từ chính mối đồng cảm sâu sắc về các vấn đề nội dung và hình thức
giữa Robert Bresson và Dostoevsky cũng góp phần thúc đẩy việc chuyển thể giữa
văn học và điện ảnh. Điểm quan trọng cuối cùng trong động cơ chuyển thể Những
đêm trắng chính là bởi bản thân đạo diễn Robert Bresson. Một tác phẩm có độ “đàn
hồi” như Những đêm trắng sẽ cho phép ông thực hiện được bộ phim chuyển thể như
mình mong muốn, đó là diễn giải và viết lại để tìm ra ngôn ngữ mang dấu ấn tác
giả.
Còn đối với đạo diễn Bhansali, đạo diễn phim Người yêu dấu, tuy ông chưa bao
giờ phát biểu một cách trực tiếp về các các tác phẩm của văn học của Dostoevsky,
song lại tuyên ngôn rất rõ về nội dung hấp dẫn cho các ý tưởng làm phim của mình.
Bhansali dường như luôn luôn bị hấp dẫn bởi tình yêu không được đền đáp, nó trở
thành một chủ đề cho các bộ phim của ông. Ông đã nói rằng: “Điều tuyệt vời nhất
của tình yêu là phải được thử thách. Nếu bạn có được người mà mình yêu, nó sẽ
hoàn toàn kết thúc” [35]. Giống như nhân vật chính trong Người yêu dấu, Bhansali,
cũng tương tự, mong muốn ở trong “một trạng thái tình yêu kiên trì của sự khao
khát”. Bạn không bao giờ nên “văng” ra khỏi tình yêu. Sự điên rồ đó của tình yêu
đã quyến rũ tôi” [35], bởi vì Bhansali nghĩ “một tình yêu hạnh phúc không thể tạo
dựng một câu chuyện” [35]. Hai trái tim vừa tan vỡ đã được chữa lành trong một
tình yêu hoặc cao khiết (tình yêu tự thân) hoặc tình yêu lâu bền (lời cam kết sống
đến trọn đời). Và ta hoàn toàn có thể tìm thấy kiểu tình yêu đó trong chất liệu văn
học của Dostoesky, người luôn quan tâm đến từng cung bậc cảm xúc giày vò nhân
sinh.
38
1.3. Chuyển thể dƣới góc nhìn liên văn hóa
1.3.1. Giao tiếp liên văn hóa
Giao tiếp liên văn hóa là một ngành khoa học quan tâm đến sự tương tác giữa
những cá thể và nhóm khác biệt về văn hóa cùng những tác động văn hóa lên việc
định hình con người (họ là ai, họ hành động, cảm nhận, suy nghĩ, và tất nhiên là cả
nghe, nói ra sao). Thuật ngữ “giao tiếp liên văn hóa” được lần đầu sử dụng trong
cuốn sách Ngôn ngữ lặng im (The Silent Language) của Edward T. Hall (1959) và
ông thường được coi là người đặt nền móng cho lĩnh vực này. Ông sinh ra tại St.
Louis nhưng lớn lên ở Tây Nam nước Mĩ. Ông đạt học vị Tiến sĩ trong lĩnh vực
nhân chủng học vào năm 1942 tại Đại học Columbia, nơi khai mở lĩnh vực nghiên
cứu liên văn hóa. Ngôn ngữ lặng im bao gồm các chương “Văn hóa là gì?”, “Văn
hóa là giao tiếp”, “Thời gian chuyện trò”, “Khoảng cách giao tiếp”. Cuốn sách đặc
biệt nhấn mạnh vào giao tiếp không lời. Sự đóng góp quan trọng của cuốn sách tới
độc giả nằm ở sự soi chiếu tới những chiều kích bị ẩn giấu trước đây của giao tiếp
giữa con người với con người, đặc biệt là không gian và thời gian sẽ tác động như
thế nào đến giao tiếp.
Tuy ông chưa bao giờ có ý định viết nó để đặt nền móng cho lĩnh vực mới mẻ
này, song nó đã trở thành nguồn cảm hứng cho một loạt những nghiên cứu về giao
tiếp và liên văn hóa sau đó. Những người kế thừa ông, Bhawuk và Triandis [18,
tr.31] đã khuyên dùng tới phương pháp để nhìn nền văn hóa từ chính góc nhìn của
người bản xứ - gọi là “emic”, ví dụ như kĩ thuật dân tộc học (ethnographic
technique), quan sát hệ thống (systematic observations), phân tích nội dung (content
analysis) và phỏng vấn chuyên sâu (in – depth interviews) khi khởi đầu một nghiên
cứu văn hóa.
Giao tiếp liên văn hóa vì thế sẽ rất đa dạng trong các hình thức giao tiếp. Đó có
thể là giao tiếp thông qua các môi trường được xây dựng bằng các công cụ giao tiếp
như văn chương, âm nhạc, hội họa, kiến trúc… Và chuyển thể cũng là một môi
trường giao tiếp đầy tiềm năng của liên văn hóa thông qua phương tiện chính yếu là
39
hình ảnh. Ứng dụng lý thuyết của giao tiếp liên văn hóa trong ngành ngoại giao nói
trên, chúng tôi xác lập cho mình một quan niệm về liên văn hóa thông qua chuyển
thể như sau: Giao tiếp liên văn hóa thông qua chuyển thể quan tâm đến sự tương tác
giữa các văn bản văn chương nguồn với phiên bản phim chuyển thể được sản sinh
trong các nền văn hóa khác biệt. Sự khác biệt về văn hóa này sẽ định hình sự tương
đồng hay khác biệt trong các cấp độ của bộ phim chuyển thể so với tác phẩm văn
chương nguồn.
1.3.2. Chuyển thể với giao tiếp liên văn hóa
Hiện tượng chuyển thể liên văn hóa đã trở thành một thực tiễn phổ biến trong
thời đại toàn cầu hóa ở thế kỉ 21 này. Trong lĩnh vực truyền thông xuyên quốc gia
hiện nay, rất nhiều bản chuyển thể không chỉ giới thiệu chất liệu được dịch chuyển
từ phương tiện này sang phương tiện khác mà còn từ nền văn hóa và ngữ cảnh dân
tộc này sang nền văn hóa và ngữ cảnh dân tộc khác. Với sự gia tăng đều đặn, văn
bản nguồn có xuất phát từ một ngữ cảnh đặc biệt sẽ thường yield (yếu thế, hòa tan,
hóa thân) vào một tác phẩm chuyển thể mà được tạo ra trong một ngữ cảnh hoàn
toàn khác. Vì thế, chuyển thể liên văn hóa minh họa sự cần thiết phải xem xét lại sự
tồn tại của lý thuyết chuyển thể để chỉ ra những nét riêng của văn hóa. Thực vậy, rất
nhiều hiện tượng chuyển thể ngày nay bắt rễ từ lý thuyết văn học, có xu hướng tập
trung vào ý tưởng về sự trung thành và dường như chức năng của chuyển thể chính
là sự tạo ra một sinh thể mang tính trung thành với văn bản nguồn. Hong viết rằng
“Sự trung thành của văn bản chuyển thể có thể là thước đo tiêu chuẩn cho những
ngụ ý văn hóa trong văn bản được sản sinh ra như là sản phẩm của sự giao tiếp văn
hoá [40]. Mặt khác, trong khi những lý thuyết chuyển thể đang rất được quan tâm
ngày nay vẫn được xét đến tính liên quan hoặc hữu ích cho định nghĩa về sự trung
thành, thì chúng (tuy nhiên) phải cần được xem xét lại để cho phép chúng ta có thể
định nghĩa về chuyển thể trong một thế kỉ toàn cầu hóa chóng mặt như hiện nay,
thông qua ngữ cảnh của quốc gia và văn hóa. Hiện tượng này không chỉ làm nổi bật
thực tiễn công nghiệp và kinh tế cố hữu trong chuyển thể một văn bản sang dạng
thức khác, mà mỗi phản ứng/tương tác của câu chuyện còn chỉ ra những phản ánh
40
hoặc giới thiệu thái độ văn hóa và nỗi băn khoăn của từng quốc gia. Vì vậy, tác
phẩm không chỉ có tác dụng như là ví dụ về chiến lược chuyển thể đa dạng trong sự
biến đổi chất liệu, mà còn tồn tại như là minh chứng cho tác phẩm có ngữ cảnh dịch
chuyển xuyên quốc gia, xuyên văn hóa. Timothy Corrigan đã chạm đến khái niệm
đặc tính văn hóa này khi ông viết về chuyển thể: “đôi khi sự liên hệ trực tiếp với
văn bản nguồn còn ít hơn là hiện tượng môi trường văn hóa trong bản chuyển thể
rộng hơn so với tầm nhìn của văn bản ấy” [25; tr.50]. Rất nhiều chức năng của
phiên bản chuyển thể điện ảnh được xem như là phản chiếu của ý niệm điện ảnh đối
với nhận diện văn hóa xuyên suốt các thời kì lịch sử khác nhau. Vì thế, hơn là tính
trung thành với với ngữ cảnh văn bản nguồn, chuyển thể thay vì đó trung thành với
sự bao quát cấu trúc thần thoại và nguyên mẫu của một nền văn hóa cụ thể hoặc di
sản quốc gia nào đó. Thực vậy, như Emily Apter đã chỉ ra, kiểu thị trường toàn cầu
đã gia tăng nhờ “sự gia tăng những hoạt động thương mại đa văn hóa và những
chuyển biến chính trị” [11; pg 6]. Điều này càng làm gia tăng việc cần phải xem
xét/đánh giá làm thế nào những đối tượng của văn hóa đại chúng đã được truyền tải
hoặc dịch vượt qua biên giới của “ngôn ngữ, văn hóa và ngữ cảnh xã hội”. Học giả
Hong cũng chỉ ra rằng “chuyển thể truyền thông miêu tả một hiện tượng toàn cầu;
bởi những bản chuyển thể này thường có chức năng như một sản phẩm bị điều
khiển bởi những “thế lực” bên ngoài như là thương mại hay chủ nghĩa đế quốc” [40;
tr. 5]. Bất kì sự thay đổi hay chuyển đổi nào cũng cần được xem xét trong mối quan
hệ với đặc tính văn hóa ở thời điểm đó, vì thế, chức năng này được coi như là một
chức năng chính trong giao tiếp văn hóa toàn cầu hóa. Vậy nên trong khi lý thuyết
chuyển thể văn học vẫn được coi là nền tảng hữu dụng cho việc xem xét chuyển thể
liên văn hóa, chúng vẫn chưa đủ để đánh giá về khái niệm đặc tính văn hóa trong
thời đại toàn cầu, vì vậy cần phải xác lập một cái nhìn đa chiều và khách quan hơn
về chuyển thể trong mối quan hệ với giao tiếp liên văn hóa. Không còn bị bài xích
hay ruồng bỏ khi được xem xét như một vấn đề học thuật, chuyển thể ngụ ở một
thuật ngữ mà nên được gọi là “khu vực chợ thương mại”. Đây là một khu chợ đa
văn hóa, đa ngôn ngữ, nơi mà âm thanh lập thể của sự trích dẫn, gợi nhắc, đồng
41
vọng và ngôn ngữ văn hóa gắn kết với khái niệm về sự thông dịch đa cá tính. “Nó
vừa là trung tâm hình ảnh của cộng đồng đô thị, vừa là sự tương kết mang tính cấu
trúc với mạng lưới hàng hóa, thị trường, thương mại và sản xuất duy trì cho mạng
lưới đó. Một chợ thương mại là một hình ảnh thu nhỏ của căn tính bản địa và sự
không cố định của căn tính đó thông qua việc trao đổi và buôn bán hàng hóa từ một
nơi khác. Tại thành bang trung tâm của chợ, chúng ta khám phá ra đống hỗn độn
của các chủng loại thường chia rẽ hoặc đối lập nhau: trung tâm và ngoại vi, trong và
ngoài, người lạ và bản xứ, thương mại và lễ hội, cao và thấp. Trong chợ thương
mại, những chủng loại thuần khiết và giản đơn sẽ cảm thấy lúng túng và phiến diện.
Chỉ có những chủng loại lai ghép mới phù hợp với một nơi lai tạp như thế” [18,
tr.12-13].
Do vậy, nếu nhìn chuyển thể trong những khả năng sáng tạo vô tận của nó, ta có
thể hình dung chuyển thể giống như một thị trường màu mỡ và sôi động, nơi thúc
đẩy cho giao tiếp liên văn hóa được diễn ra thường xuyên và liên tục. Và ngược lại,
những “luồng hàng hóa” phụ thuộc vào văn hóa, xu hướng nổi lên của một thời kì
hay những thứ “đồ cổ” có giá trị muôn đời sẽ tác dụng ngược lại nhịp độ và sự sôi
động của “khu chợ này”.
Mối quan hệ giữa chuyển thể và giao tiếp liên văn hóa, mà ở đây là chuyển thể
văn học và điện ảnh đã thực sự tạo ra một dòng chảy vừa hỗn độn vừa kết nối. Tạo
nên một mạng lưới đa chiều, để từ đó, chúng ta có thể trải qua những kinh nghiệm
của không chỉ riêng một cá nhân nào, mà của mỗi quốc gia, sắc tộc, đồng thời lại
thấy được một bức tranh tổng thể về quan niệm thế giới.
Vì sao lại như thế? Vì bản tính lai ghép của khu chợ sẽ ghi nhận sự thông dịch
chỉ khi người dịch chia sẻ sự hiểu biết của mình về đối tượng. cấp độ cơ bản của sự
hiểu biết về tiểu thuyết và phim dựa trên nền móng của tự sự. Tự sự hiện diện ở mọi
lứa tuổi, mọi nơi, mọi xã hội… Tất cả các tầng lớp, chủng tộc đều có tự sự của riêng
mình, mà sẽ được chia sẻ một cách thích thú bởi những người khác, thậm chí ở
những nền tảng văn hóa đối lập. “Tự sự vì thế, mang tính quốc tế, liên lịch sử, liên
văn hóa” [15, Image 79]. Theo bài phân tích “Pan-global facts of culture” (White,
42
The content 1), “tự sự đáp ứng lại sự nhẫn nại cần để nhân tính hóa thời gian và tạo
nghĩa cho sự bối rối, vô dạng bằng việc cấu tạo chúng vào trong một dạng thức có
thể hiểu được” [29, pg.160]. Theo nghĩa này, cả tiểu thuyết và phim đều là “những
dạng thức nghệ thuật của tự sự”. Và không bị trói buộc vào một phương tiện độc
nhất nào, tự sự có thể dời chuyển được, di trú, và sẵn sàng để tìm kiếm lòng mến
khách và thích nghi nó trong những khu vực có dấu hiệu đa dạng.
Tự sự tuy không phải con đường duy nhất để khám phá ra quan điểm văn hóa
ẩn sau những tác phẩm chuyển thể, song những kĩ thuật như kĩ thuật dân tộc học
(ethnographic technique), quan sát hệ thống (systematic observations), phỏng vấn
chuyên sâu (in – depth interviews) không phải lúc nào cũng thực hiện được một
cách dễ dàng và tường minh. Vì vậy, luận văn sẽ sử dụng kĩ thuật phân tích nội
dung (content analysis) để khảo sát và phân tích các văn bản (phim và văn chương)
khi nghiên cứu về tính liên văn hóa của chúng. Trong chương tiếp theo, chương II,
người viết sẽ đi vào phân tích các cấp độ hình tượng của văn bản nguồn và bộ phim
chuyển thể.
43
Chƣơng 2: TÍNH LIÊN VĂN HÓA Ở CẤP ĐỘ HÌNH TƢỢNG
2.1. Nhân vật
Với cốt truyện khá đơn giản nhằm làm nổi bật lên hai nhân vật chính của một
chuyện tình tan vỡ - kẻ mộng mơ và người tình Nastenka, Dostoevsky đã khắc họa
họ gắn với ước mơ và sự chờ đợi. Trên bề mặt của bộ phim chuyển thể, các nhà làm
phim vẫn bảo lưu đặc tính này của các nhân vật song những suy tư tâm lí, hành
động, lời nói và kết quả hành động ấy lại có sự biến đổi không hề nhỏ trong mỗi bộ
phim. Trong mục này, chúng tôi sẽ đi vào phân tích sự tương đồng và khác biệt của
các đặc tính nêu trên trong hai nhân vật chính của văn chương và điện ảnh, qua đó
tái dựng sự chi phối của văn hóa bản địa lên mỗi phiên bản phim.
2.1.1. Ước mơ của kẻ mộng mơ
Mỗi quốc gia có một đặc điểm tính cách riêng, người Pháp không giống người
Anh và người Hà Lan, không giống người Đức. Tuy nhiên, nỗ lực để xác định điều
gì làm cho mỗi nhân vật trở nên khác biệt quả không dễ dàng. Cá tính quốc gia có
thể phần nào được nhận diện qua cách nhân vật phản ứng với chính mình và với
môi trường xung quanh được dựa trên giả định rằng mỗi quốc gia đều có chung
điểm cơ bản trong mô hình hành vi và đặc điểm tính cách, khác biệt với các quốc
gia khác. Như vậy, có thể hiểu rằng, ban đầu, một con người, hay thậm chí con
người trong văn học sẽ luôn có cá tính cá nhân (basic personality), song, cá tính đó
sẽ được phát triển dưới sự ảnh hưởng của văn hóa quốc gia đó. Tức là từ tính cách
cá nhân, đứa trẻ dần sẽ bồi đắp thêm tính cách cơ bản tương tự của xã hội, quốc gia,
ngữ cảnh văn hóa mình (social character). Khái niệm này sẽ giúp chúng ta khảo sát
về phản ứng của nhân vật với chính mình (mà ở đây là phản ứng của kẻ mộng mơ
với ước mơ) và với người khác (phản ứng của nhân vật nữ với sự chờ đợi, thủy
chung). Qua đó, giúp xác định các cấu trúc nhân vật phổ biến của một nền văn hóa
và động cơ ẩn sau đó.
Các nhân vật trong văn bản nguồn và hai bộ phim chuyển thể đều phải đối mặt
với một thực tại khác của hiện thực – ước mơ. Cách các nhân vật phản ứng với ước
44
mơ trong cuộc đời họ sẽ giúp cho thấy được một ánh xạ trong đời sống tinh thần
của nền văn hóa ấy.
Trước hết, với Những đêm trắng, viên thư kí hoàn toàn không được khắc họa
với một cuộc sống thực, với công việc thực và những băn khoăn rất đời thường.
Anh ta được khắc họa lên trong một đời sống tinh thần luôn có xu hướng lấn át hiện
thực. Anh ta dù đã ở Peteburg 8 năm song vẫn không có một người bạn (thực tế)
nào. Còn trong tiềm thức, anh ta đã tưởng tượng ra vô vàn những cuộc trò chuyện
vô cùng thân thiết giữa mình và thành phố. Kẻ mộng mơ vừa trở thành một kiểu
nhân vật có khả năng vô tận khám phá và tạo mối liên tưởng đến nội tâm, lại vừa trở
thành một thứ ác mộng mà Dostoevsky gọi đó là ác mộng của Petersburg. Chính
tính chất đô thị và hơn hết là tính chất của kiểu con người mộng mơ đã sản sinh một
hệ quả tất yếu trong tâm lí nhân vật-sự cô đơn. Sự cô đơn khởi nguồn từ chính tình
yêu say đắm cái thành phố ồn ào tấp nập với nhiều cuộc đời đa dạng. Nhân vật
trong tiểu thuyết của Dostoevsky đã nhiều lần đi lang thang dọc những con kênh
đào mà quên mất mình đang ở đâu: “Tôi lang thang rất nhiều và rất lâu đến mức,
như thường lệ, đã kịp quên mất mình đang ở đâu, thì bất chợt thấy mình đã đứng
ngay cửa ô. Tôi lập tức cảm thấy sảng khoái; và tôi vội vã vượt qua rào chắn, dạo
bước giữa những thửa ruộng đã gieo hạt và đồng cỏ, không cảm thấy mệt mỏi, chỉ
cảm thấy bằng toàn bộ thân thể là vừa trút đi được một gánh nặng trong lòng. Tất cả
những người qua đường đều nhìn tôi niềm nở đến mức gần như sắp sửa cúi chào
nhau; tất cả đều như vui sướng với một điều gì đó, tất cả, không trừ một ai, đều hút
xì gà. Tôi cũng cảm thấy trong lòng dâng lên một niềm vui trước đây tôi chưa hề.
Dường như đột nhiên tôi được đến Italia - thiên nhiên đã tác động mãnh liệt đến tôi,
một kẻ thị dân ốm yếu đang gần như ngột thở giữa những bức tường thành phố”[5,
trg.12]. Vẻ đẹp của thành phố như là một cứu thế cho sự sống lắm mơ hồ và mơ
mộng của kẻ mộng mơ. Nhưng, hắn si mê thành phố còn chính là bởi si mê sự đông
đúc nơi đây. Những nỗ lực của kẻ mộng mơ trong việc tìm kiếm những mối dây liên
hệ để xóa đi sự cô đơn cố hữu giày vò kẻ mộng mơ. Không làm quen được với con
người, hắn tập nói chuyện với những ngôi nhà, ô cửa của thành phố. Hắn đi thăm
45
chúng mỗi ngày, trò chuyện với chúng về những đặc điểm ít ai để ý như màu sơn
hay vẽ ra một câu chuyện tưởng tượng về tương lai sắp xảy đến với chúng. Hắn
thậm chí còn đến công viên cùng một thời điểm để nuôi một khao khát tìm thấy sự
đồng điệu: “Tôi gần như đã kết bạn với một ông mà tôi vẫn gặp hàng ngày vào một
giờ nhất định ở Đài Phun Nước. Ông ta có vẻ mặt trang trọng, trầm tư, lúc nào cũng
lẩm bẩm nói chuyện một mình và vung vẩy tay trái, còn trong tay phải là cây gậy
dài có nhiều mấu, tay cầm bịt vàng. Ông ta thậm chí đã nhận ra tôi và tỏ vẻ thân
thiện đối với tôi. Nếu như vào cái giờ nhất định đó mà tôi không có mặt ở cạnh Đài
Phun Nước thì chắc là ông ta cảm thấy buồn” [12, trg.10]. Hắn bám víu lấy cái ảo
tưởng rằng mình đã quen biết hết thảy những cư dân S.Petersburg, tình cảm ấy
dường như họ cũng biết nhưng chỉ vì ngại ngùng mà không bày tỏ. Để rồi khi thành
phố thực sự cựa mình vào mùa du lịch, hắn mới tự thú nhận rằng: “Tôi đã nói rằng
tôi bị một nỗi bất an hành hạ suốt ba ngày trước khi tôi đoán ra nguyên nhân của nó.
Ở ngoài phố tôi cảm thấy rất tồi tệ (không thấy người này, chẳng gặp người kia,
người nọ cũng biến đi đâu mất...) - mà ở nhà tôi cũng thấy bứt rứt… Cuối cùng, mãi
đến sáng, tôi mới đoán ra được nguyên do. Thì ra là vì thiên hạ bỏ tôi tếch cả ra các
nhà nghỉ ngoại thành! Xin lỗi vì cách diễn đạt thô thiển, nhưng tôi không còn bụng
dạ nào để tìm lời hoa mĩ nữa... vì rằng tất cả những gì có ở Petersburg đều đã đi
hoặc đang trên đường đi ra nhà nghỉ ngoại thành” [5, trg.15]. Thành phố yêu quí
trong mơ của hắn trở thành một thực thể xa lạ và lạnh lùng. Tâm trạng đau khổ của
một kẻ mộng mơ với ảo tưởng về đô thị đã nhấn hắn xuống hố sâu của lời tự thú
không còn biết đến tự trọng: “dường như toàn bộ Petersburg sắp biến thành hoang
mạc, đến nỗi rốt cuộc tôi cảm thấy xấu hổ, bực bội và chán nản: tôi tuyệt đối chẳng
có nơi nào và chẳng có việc gì để đi ra nhà nghỉ ngoại thành cả. Tôi sẵn sàng đi với
bất kì cỗ xe nào, với bất kì quý ngài có vẻ ngoài đáng kính đã thuê xe nào, nhưng
không một ai, tuyệt nhiên không một người nào mời tôi cả; dường như thiên hạ đã
quên phắt tôi rồi, dường như đối với họ tôi thật sự là một người xa lạ!” [5, trg 13].
Tôi cho rằng, ngoài lòng trắc ẩn của một thanh niên lương thiện, ngoài lí do của
duyên phận đã cho kẻ mộng mơ gặp và yêu Nastenka thì chính ước mơ thoát ra khỏi
46
sự cô đơn mới là lí do để nhân vật tôi bắt đầu mối quan hệ với cô. Nỗi cô đơn thành
thị ám ảnh nhân vật, dường như tìm được đường thoái lui. Thậm chí,vì niềm vui
sướng hạnh phúc được thoát ra khỏi sự cô độc, anh ta còn kết tội sự mơ mộng của
mình như là tội ác chống lại cuộc đời, không chỉ không giúp anh ta vững vàng hơn
mà còn đưa đến cho anh một tương lai vô vọng và cằn cỗi: “Rồi nhiều năm nữa sẽ
trôi qua, và tiếp đến sẽ là sự cô đơn cằn cỗi cùng với tuổi già run rẩy, và tiếp nữa sẽ
là nỗi buồn đau và chán nản. Thế giới tưởng tượng của mi sẽ trở nên nhợt nhạt,
những mơ ước của mi sẽ tàn héo, chết khô và rơi rụng như lá vàng trên cây... Ôi
Nastenka! Thật là buồn khi chỉ còn lại một mình, hoàn toàn đơn độc, và thậm chí
không có gì để luyến tiếc, không có gì, tuyệt nhiên không có gì cả... vì rằng tất cả
những gì đã mất, tất cả những cái đó đều chẳng là gì hết, chỉ là một con số không
ngớ ngẩn, tròn trĩnh, chỉ toàn là hão huyền!” [5, trg.54]. Đô thị Petersburg đã mang
đến cho kẻ mộng mơ một nỗi cô đơn sừng sững mà thầm kín. Dù hắn đã sống ở
Petersburg 8 năm nhưng sự giao tiếp, chuyện trò của hắn dường như luôn nằm trong
sự độc thoại. Petersburg qua lăng kính của kẻ mộng mơ đã trở thành không gian mà
ở đó sự hòa nhập chỉ là thứ ảo ảnh che phủ hố sâu thực sự -hố sâu của sự ngăn cách
một cá thể trở thành một phần của cuộc đời cá thể khác. Kẻ mộng mơ có thể được
coi là nạn nhân của đô thị. Về sau này, ý tưởng về nạn nhân của đô thị đã được
Dostoevsky phát triển thành bi kịch rùng rợn của chàng thanh niên Raskolnikov
trong Tội ác và trừng phạt. Dù có sự dịch chuyển không-thời gian từ Những đêm
trắng sang thế giới của Bốn đêm của kẻ mộng mơ thì có những tinh thần (spirit) vẫn
được bảo lưu. Trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ, người thanh niên của Những đêm
trắng được hiện hình trong một số phận mới- chàng họa sĩ của Paris thế kỉ 20.
Dường như, Bresson đã chia sẻ và đồng cảm với Dostoevsky về mối quan hệ giữa
con người (đặc biệt trong tuổi trẻ) và đô thị hào hoa. Cảnh mở đầu phim, Jacque
làm dấu tay xin đi nhờ taxi, nhưng khi người lái taxi cho anh ta đi nhờ và hỏi anh về
địa điểm, Jacque chỉ vung tay, nhún vai thể hiện cho sự vô định, thậm chí ngớ ngẩn
cho hành trình chuyến đi của mình. Cảnh tiếp sau đó, Jacque vui đùa trong không
gian thiên nhiên, anh ta thậm chí còn lộn hai vòng trên thảm cỏ và hát vang một giai
47
điệu trong ánh nhìn kì lạ của một gia đình đi ngang qua. Cuối cùng, anh ta xuống xe
và đi vào thành phố. Cách anh ta di chuyển, giống như nhân vật trong Những đêm
trắng, đi trở thành hoạt động để tiếp cận lấy thành phố và cư dân của nó. Bresson
nói rằng, ông để cho nhân vật của mình làm những điều vô nghĩa ở đầu phim, đơn
giản chỉ bởi ở đây chẳng có gì để bộc lộ. Nhưng dường như trong việc làm của
Jacque, hơn việc trở thành cái cớ cho cuộc gặp gỡ định mệnh sẽ thúc đẩy câu
chuyện, còn chính là phảng phất những bước chân của kẻ mộng mơ trong Những
đêm trắng tại Petersburg.
Jacque của Paris thời hiện đại cũng đã được tái hiện trong sự cô đơn và ước mơ
tình yêu vượt thoát ra khỏi sự cô đơn đó. Thế giới của Jacque chỉ bao gồm ba không
gian: không gian của cá nhân cô độc-căn phòng trọ; không của hiện thực hóa ảo
mộng-đường phố Paris và không gian gặp gỡ ảo mộng và hiện thực-cây cầu nơi gặp
Nastenka. Jacque tồn tại trong trong gian có tính bó hẹp cùng với một thái độ minh
định với thời gian: Thời điểm ban ngày của Jacque được xác định ngay từ đầu mà
không có sự đảo chiều- đó đã là khoảng thời gian của mộng tưởng. Sau tiêu đề:
Chuyện của Jacque, dưới hình thức lời tự thuật của Jacque kể cho Marthe nghe về
mình, kĩ thuật dựng tạo ra sự nhảy cóc giữa thực tại đang diễn ra và thực tại của câu
chuyện cuộc đời Jacque. Góc quay trung cảnh với sự di chuyển của ống kính bắt
nhịp với bước chân lên của Jacque lên căn hộ của sau khi đi chợ về. Tiếp đó là cảnh
Jacque bước lên từ cầu thang của ga điện ngầm tiến vào khu phố trung tâm tấp nập.
Màn hình sau đó liên tiếp những cảnh quay về những thiếu nữ xinh đẹp và duyên
dáng của Paris. Jacque mải miết đi theo một cô gái, thậm chí chờ họ ở bên ngoài
cửa hiệu quần áo để theo sau họ lần nữa và chỉ dừng lại khi bắt gặp một cô gái xinh
xắn khác đi ngược chiều. Một lần nữa, Jacque chạy theo cô gái mới này cho đến khi
cô biến mất trên chuyến xe buýt. Jacque về nhà và ngay lập tức. Trở về thực tại bên
cạnh Marthe, anh thú nhận: Tôi đã yêu không biết bao nhiêu lần như thế! Sau đó
anh ta về nhà, tưởng tượng ra câu chuyện tình yêu của mình với hai cô gái mình
theo trên phố, ghi âm lại, và bắt đầu vẽ những gam màu nóng đỏ vào bức tranh chân
dung về những người con gái được bo bởi đường viền đen đậm. Những theo đuổi
48
ban ngày trở thành sự hiện thực hóa mộng tưởng. Nó cũng chính là những mộng
tưởng. Thời gian ban ngày của Paris náo nhiệt rõ ràng đã trở thành thời điểm để
Jacque theo đuổi niềm đam mê của mình-vẻ đẹp của những cô gái, để tạo dựng
nguồn cảm hứng về những chuyện tình ảo mà sau đó được anh ghi lại bằng chiếc
máy ghi âm và tự phát cho mình nghe. Sự đeo bám của Jacque theo những bóng
hình con gái xa lạ ở Paris đã minh họa cho khao khát hiện thực hóa tưởng tượng của
nhân vật.
Có thể thấy, ước mơ được hòa nhập và được kết nối trở thành một điều đáng
che giấu và chưa hề được bộc bạch của viên thư kí. Nó vừa như một đặc ân cứu rỗi
cuộc đời y khỏi chuỗi ngày buồn chán, lại vừa như một lời nguyền, bởi nó đã nuôi
dưỡng quá nhiều ảo mộng. Dường như ở hình tượng viên thư kí, ta thấy pha trộn
một vẻ đẹp lãng mạn rất Nga, y như vẻ mỏng manh mơ hồ lãng mạn của hiện tượng
đêm trắng, song lại thấy được sự kín đáo, dè dặt và xa cách trong biểu hiện của văn
hóa Nga. Còn niềm mơ ước với các cuộc tình tưởng tượng mà cũng là mơ ước về sự
giao tiếp, sự gắn kết của Jacque trong phiên bản nước Pháp thế kỉ 20 trở nên mơ hồ
và ngắt quãng hơn. Chúng ta không thấy được cảm xúc mãnh liệt trên bền mặt bộ
phim của nhân vật với ước mơ của anh ta. Jacque cư xử với ước mơ của mình hết
sức trung tính. Anh ta coi nó như một thực thể lưu trữ cảm xúc, một biểu hiện như
bao biểu hiện của đời sống mà không kèm với sắc thái “mơ mộng”. Nó được hữu
hình hóa bằng hội họa, bằng máy ghi âm. Và các ước mơ cứ chồng lên nhau như
những nét vẽ trong bức tranh trừu tượng. Đó là một hiện thực của ước mơ mà không
hề dẫn tới một kết cục chắc chắn hay sự cứu rỗi linh hồn nào. Kết phim, Jacque
trong căn hộ của mình, vẽ tranh và lại tưởng tượng ra lời xin lỗi cùng tình yêu với
một người phụ nữ vào chiếc máy ghi âm của mình, để lại cho người xem một cảm
giác lửng lơ vì ta sẽ tưởng tượng ra tiếp những vòng lặp tiếp theo của những ước
mơ đó. Phải chăng đó chính là không khí của nước Pháp những năm 1970. Mơ
mộng của thời đại này khắc nghiệt hơn thời đại của Dostoevsky rất nhiều. Paris
những năm 1970 đã giã từ hình ảnh của Chúa. Chúa đã chết. Chúa tha hóa thành các
giá trị thực dụng. Các nhân vật phải sống trong một thế giới sau những cuộc Cách
49
mạng nổ ra, Châu Âu chuyển mình, sự mơ mộng trở thành giá trị không được đếm
xỉa đến. Giá trị tinh thần con người bị cuốn theo những cuộc cách mạng và tiêu
dùng. Sự mơ mộng và ngây thơ của Jacques, Marthe được đặt trong bầu không khí
sau Thế chiến II và cách mạng mùa hè năm 1968. Nước Pháp đang già cỗi đi. Các
nhân vật Bresson ở góc độ này, mang tính phản tỉnh với Cách mạng. Bởi con người
ngây thơ giàu mơ mộng là con người tách ra khỏi đám đông và dòng chảy Cách
mạng. Bresson qua sự lãnh đạm hóa ước mơ của các nhân vật, đã đặt ra một câu hỏi
mang tính thời đại: Chúng ta có còn được phép mơ mộng hay thời đại và những
cuộc Cách mạng sẽ giết chết điều ấy? Trong phiên bản chuyển thể mới nhất của
Những đêm trắng là The two lovers của đạo diễn James Gray, tính cách của nhân
vật nữ đã hoàn toàn bị tước bỏ vẻ ngây thơ này. Dường như, thế giới ngày càng mở
rộng với vật chất tiêu dùng và đời sống hiện đại thì càng chật chội với những mơ
mộng nội tâm.
Ngược lại, dù ra đời muộn nhất, song cảm xúc với ước mơ trong Người yêu dấu
được Bhansali coi như điểm nhấn và đẩy lên đến mức vô cùng mãnh liệt. Nó như
tấm biển một chiều báo hiệu điều đúng đắn, một khởi đầu tốt cho chuỗi sự kiện sau
này. Các nhân vật vô cùng lạc quan và tự tin vào ước mơ của mình. Ước mơ không
trở thành một lời nguyền đẩy con người vào vực sâu của những khát vọng không
thành, trái lại, còn là năng lực của những con người mạnh mẽ, dám trao gửi niềm tin
và sẽ nhận lại được một tương lai tốt đẹp hơn. Ước mơ của Raj cũng được mở rộng
theo hướng phản ánh xã hội hơn so với bản gốc. Anh không chỉ ước mơ được sống
mãi trong tình yêu với Sakina, anh còn mong muốn cho những mảnh đời ở khu tối
tăm nhất thành phố, thế giới của Gulab được tốt đẹp hơn. Raj trong biểu hiện cảm
xúc không hề dè dặt ước mơ thầm kín song chính đáng của mình. Anh không chỉ
phát biểu nó thành lời nói, mà còn qua những bài hát, điệu nhảy, ánh mắt thiết tha,
những cú chạm tay. Vậy điều gì khiến cho cách ứng xử của Raj khác phiên bản gốc
đến vậy?
Owen Lynch trong Divine Passions: The Social Construction of Emotion in
India [34] đã cố gắng diễn dịch và thấu hiểu văn hóa Ấn Độ sử dụng khái niệm của
50
Phân tâm học, tập trung vào hệ thống cảm xúc ở Ấn Độ miêu tả tâm lý cá nhân của
“cá tính Ấn Độ”. Lynch đã trích dẫn Spratt và cho rằng “sự khác biệt giữa người Ấn
Độ và đối tác phương Tây của họ nằm trong cách cảm xúc được diễn tả. Tại Ấn Độ,
người dân thường bộc lộ hoàn toàn cảm xúc khi họ đau buồn, hạnh phúc hay đau
đớn, trong khi ở phương Tây, người dân có xu hướng ngụy trang cảm xúc của họ”
[41]. Lynch cũng gợi ý rằng bởi vì “khái niệm về cảm xúc và khả năng điều khiển
cảm xúc sống trong dân tộc Ấn Độ là khác biệt với phương Tây” [34], Lynch thêm
vào những bài luận này, tất cả theo các nhà nhân chủng học, đã được viết không chỉ
“với con mắt Ấn Độ” mà còn cho “sự phát triển của lí thuyết phê bình và sự hiểu
biết của cảm xúc ở phương Tây” (3).
Hầu hết các phim Ấn Độ đều giao tiếp một cách cởi mở về những cảm xúc. Các
học giả phim phương Tây vì thế thường cảm thấy khó khăn trong việc hiểu và “tiêu
hóa” các công thức trong phim Ấn Độ. Nó tràn đầy tính tình cảm tâm lý, ủy mị và
hành động gói trong một bộ phim. Có thể nói, khái niệm cơ bản mà mỹ học Ấn Độ
đã đề cao như hiệu quả quan trọng nhất của một tác phẩm, Rasa, mang hàm nghĩa
cảm xúc, đã xuyên suốt thành yếu tố căn cốt của văn hóa Ấn Độ. Nói cách khác,
yêu cầu tạo nên cảm xúc cho người tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật là yêu cầu quan
trọng nhất của mỹ học cổ điển, duy trì yêu cầu này cho đến thời hiện đại, dù tự ý
thức hay không, là đặc trưng của những tác giả Ấn Độ.
2.1.2. Chờ đợi – phần thưởng hay sự đọa đày
Trong cả ba phiên bản các nhân vật nữ chính đều được khắc họa trong sự chờ
đợi.
Nastenka của Những đêm trắng là người con gái mồ côi đáng thương, một hoàn
cảnh khá quen thuộc trong các nhân vật nữ của Dostoevsky. Cô có một tâm hồn
trong sáng và tình cách ủy mị. Cô yêu vị khách trọ và đã nảy ra ý định muốn đi theo
anh, dù biết anh chỉ là một viên chức nghèo. Tình yêu đã khiến cho Nastenka chờ
đợi suốt 1 năm, và thậm chí còn muốn kết liễu đời mình. Cô thực sự là một mẫu
hình người con gái hi sinh hết mình vì tình yêu. Trong tiểu luận The femme fatale
and fair maiden in Dostoevsky [22], Michael Burton đã phân chia nhân vật nữ trong
51
các tiểu thuyết của Dostoevsky (Thằng ngốc; Anh em nhà Karamazov và Tội ác và
hình phạt) thành hai kiểu: một là những người phụ nữ xinh đẹp chưa chồng (Fair
maiden), hai là kiểu phụ nữ xinh đẹp luôn gây tai họa cho đàn ông (Femme fatatle).
“Cặp đôi nhân vật này phụ thuộc chặt chẽ vào sự đối lập hoàn toàn trong bản chất
của phụ nữ. Một là fair maiden, biệt danh của những trinh nữ bị khổ nhục (the
persecuted maiden), của trinh nữ, vị thánh, người phụ nữ xanh xao (pale lady),
người phụ nữ tốt bụng, một quí cô tiềm năng để kết hôn. Đôi khi, kiểu nhân vật này
được biết đến đơn giản với tư cách một người vợ. Cặp song sinh trái ngược của fair
maiden chính là femme fatale, đại diện cho người phụ nữ hư hỏng, đen tối, tội đồ.
Đôi khi còn được xem là chủ nhà hay ả điếm hoặc Êva hay ả điếm của thành
Babylon, tùy thuộc vào hoàn cảnh” [32, trg.126-127]. Theo phân loại trên, chắc
chắn Nastenka thuộc vào kiểu nhân vật thứ nhất. Cô là một sinh vật vô hại với
Petersburg và những cư dân của nó. Hơn thế, cô còn hi sinh đi tuổi trẻ và mạng
sống của mình chỉ vì một lời hứa. Sự thánh thiện trong sáng của cô là điều rất dễ có
thể nhận ra, và chính điều này đã gây lòng cảm mến của kẻ mộng mơ. Thế nhưng,
kiểu nhân vật này lại luôn tràn đầy sự do dự, sự yếu đuối. Chính tính cách yếu đuối
của Nastenka đã mang mầm mống của một femme fatale. Cô đơn và suy sụp, cô đã
kết thân với kẻ mộng mơ, làm bạn với anh ta, và thậm chí đã có lúc cô giành lấy
quyền bày tỏ tình yêu với kẻ mộng mơ lắm mộng tưởng mà nhút nhát. Nếu
Nastenka không gieo ảo mộng về việc cô sẽ có thể trở thành người tình của anh ta,
thì có lẽ, kẻ mộng mơ đã không bao giờ thốt ra lời yêu và rồi trở nên bẽ bàng khi cô
đoàn tụ với hôn phu của mình. Nastenka trong phiên bản chuyển thể trở thành một
cô gái hiện đại của thủ đô Paris thế kỉ 20. Marthe không còn là đứa trẻ mồ côi đáng
thương, mà sống với mẹ của mình. Hai mẹ con cho thuê phòng trọ và sống bằng
một phần tiền lương hưu của ông bố quá cố. Trong đêm đầu tiên gặp gỡ Jacque, cô
không cần đến yếu tố bất ngờ xảy ra để thử thách sự tử tế của kẻ mộng mơ như
Nastenka, mà gần như ngay lập tức, nghe theo lời Jacque và đi cùng với anh trên
con đường về nhà. Căn phòng của người khách trọ trong Những đêm trắng, ở tầng
hai, cách biệt với cuộc sống của hai bà cháu Nastenka, thì trong Bốn đêm của kẻ
52
mộng mơ, nó được đặt cùng tầng và ngay sát cạnh phòng của Marthe. Sự dịch
chuyển không gian phòng trọ của vị hôn phu giúp những cảnh tỏ tình, giao tiếp,
thậm chí là quan hệ thể xác giữa Marthe và người khách trọ trở nên dễ dàng hơn. Có
thể thấy, Marthe trong phiên bản phim chuyển thể vẫn bảo lưu được bản chất của
một fair maiden cũng như những tiềm năng của một femme fatale như nguyên bản
Nastenka. Song, tính cách của Marthe đã trở nên độc lập hơn, bạo dạn hơn, trở
thành mẫu hình phụ nữ Paris hiện đại. Sakin trong Người yêu dấu kế thừa sự ngây
thơ, hồn nhiên của Nastenka, điều này là dễ lí giải với quan niệm về những người
con gái chưa chồng thường bẽn lẽn và kín đáo theo quan niệm của phương Đông.
Họ đã được dạy phải đề phòng và bảo vệ sự trinh trắng của tâm hồn cũng như thể
xác. Điều đó lí giải tại sao, trong phiên bản phim Ấn Độ, khi Raj muốn đưa Sakina
về nhà, anh ta phải thuyết phục cô trong không dưới 10 lượt thoại để lấy được lòng
tin từ cô. Hơn nữa, anh còn phải chìa chiếc ô ra để cô nắm vào đầu bên kia, thay vì
tiếp xúc trực tiếp. Những rào cản về giới trong văn hóa phương Đông và phương
Tây đã biến đổi người con gái chờ đợi, song họ vẫn giữ nguyên một đặc tính, đó là
sự chờ đợi trong vô vọng người hôn phu của mình sẽ trở về trong đêm. Trên bề mặt,
đó là hành động tạo ra bước ngoặt cho cả câu chuyện khi cô gặp kẻ mộng mơ, song
ẩn dưới đó là quan niệm của mỗi quốc gia về sự chờ đợi. Trong văn hóa phương
Đông có một khái niệm, đó là Nhẫn. Sự nhẫn nại ở đây là tính kiên trì, nhất quán,
dù trải qua những khó khăn, đau đớn và dằn vặt về tâm hồn và thể xác vẫn không bỏ
cuộc. Họ tin rằng những ai nhẫn nại, và đặc biệt là nhẫn nại trong tình yêu sẽ chứng
minh được rằng người đó xứng đáng có được một kết thúc viên mãn nhất vì con
người ta thường bị cám dỗ bởi những sắc dục trên con đường vươn tới chân – thiện
– mĩ. Niềm tin vào một kết thúc có hậu, có các bậc bề trên chứng giám lại càng
được củng cố trong văn hóa Ấn Độ, nơi có hơn 3 triệu vị thần. Sakina có lẽ là phiên
bản đấu tranh tâm lý dữ dội nhất, khi vào giây phút Imaan xuất hiện, cô đã chạy
ngay tới với anh ta, mà quay đầu lại như trăn trối với Raj. Cô yêu Raj và bị giằng xé
bởi nghĩa vụ, lời hứa mình đã nói, và bởi cảm xúc mãnh liệt của thực tại. Cuối cùng,
dù đẫm nước mắt và không muốn phải lựa chọn, cô vẫn chọn Imaan. Lời thoại của
53
Imaan đã thực sự là một câu trả lời vẹn toàn cho lựa chọn đúng đắn này của cô.
Chính sự nhẫn nại đã đề cao tiết hạnh và khiến khán giả xem phim cảm phục cô
hơn.
Trong khi với các nền văn hóa phương Tây, nơi đề cao tình yêu song cũng đề
cao khoảnh khắc hạnh phúc của thực tại, thì sự chờ đợi Nastenka dường như đã có
lúc lụi tàn và cô đã gần như muốn xác định một mối quan hệ mới với viên thư kí.
Và dù là một con chiên ngoan đạo, song cô cũng đã có lúc tra vấn về niềm tin với
Chúa, rằng sự chờ đợi mà cô phải trải qua liệu có phải một sự đọa đày từ ngài?
Trong bức thư từ sự gợi ý của kẻ mộng mơ, đã hơn một lần, họ nhắc tới sự “nghi
ngờ”: "Tôi viết cho ông đây. Hãy bỏ quá cho sự nôn nóng của tôi, nhưng suốt cả
năm qua tôi được hạnh phúc là nhờ vào một niềm hi vọng, vậy tôi có lỗi gì không
nếu như bây giờ không thể chịu nổi lấy một ngày nghi ngờ...” [5, trg.7]. Sự chờ đợi
ở đây là biểu hiện của tình yêu cảm xúc rất bản năng mà không hề bị chi phối bởi
quan niệm về nữ giới, quan niệm về chữ Nhẫn và đức hạnh như phiên bản phim Ấn
Độ.
2.2. Thời gian
Xây dựng kiểu nhân vật mộng mơ với nỗi ám ảnh về sự cô đơn và khao khát
giao hòa với bên ngoài, Dostoevsky đã khắc họa kẻ mộng mơ ấy trong cái nhìn thời
gian đặc biệt của tâm lí. Đồng cảm với ông, các nhà làm phim cũng đã đưa nhân vật
của mình thoát ra khỏi thời gian vật lí và chìm đắm trong không gian tâm lí của
chính mình. Qua việc phân tích về cách thời gian chảy trôi trong hai bản phim dưới
thể dươi đây, ta có thể thấy được ánh xạ của tác động văn hóa lên cách nhìn nhận và
quan niệm thời gian của nó.
2.2.1. Vòng tròn thời gian khép kín trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ
Thời gian nghệ thuật cũng là hình thức nội tại của hình tượng tác phẩm thể hiện
tính chỉnh thể của nó. Nếu không gian nghệ thuật mang đến điểm nhìn, trường nhìn
để từ đó mô hình thế giới được sao chép, tái hiện lại thì cần lưu ý rằng những điểm
nhìn đó trong văn bản bao giờ cũng phải gắn với một thời điểm cụ thể bởi “cái được
trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian” [6, trg.322]. Thời gian nghệ thuật có
54
thể có những qui luật rất khác với thời gian khách quan, nó cũng mang đậm tính chủ
quan của người cảm nhận. Sự nhanh, chậm, tăng tốc, đóng băng… thời gian tạo nên
nhịp điệu cho văn bản. Văn hóa có tác động đáng kể đến các khái niệm về thời gian.
Trong tác phẩm Những đêm trắng của Dostoevsky, tác giả có xu hướng cấu trúc
trục thời gian theo hướng tĩnh tại, mang tính lặp lại cao. Trong Những đêm trắng,
trục giờ cùng thời gian, cùng một địa điểm không chỉ đơn thuần là một nguyên tắc
cấu trúc, mà còn là sự phản ánh nội tâm của kẻ mộng mơ. Đổi lại, sự tồn tại của anh
ta như một thế giới vi mô của toàn bộ thế giới, nó thể hiện một cách nhìn của hai
nền văn hóa.
Kẻ mộng mơ bị mắc kẹt trong thời gian với những thói quen cụ thể, sẽ là mô
hình thời gian thống trị của tác phẩm này. Khoảng thời gian buổi đêm “night” hiện
ra ngay tiêu đề phần đầu tiên, “Night the First”, trong khi “night”, cũng được sử
dụng hai lần trong năm từ đầu tiên của tác phẩm. Sự khăng khăng này về đơn vị
thời gian đặc biệt này tạo nên khung cảnh, trong khi một trong những phụ đề “hồi
ký” (memoirs) gợi nhắc về quá khứ và ý nghĩa của nó đối với hiện tại. Nỗi ám ảnh
về thời gian này được kết hợp với một sự cố định đặt thời gian và địa điểm lại với
nhau, mang lại một sự hiểu biết thực sự về thời gian. Sau khi thông báo cho người
đọc rằng anh ta bị bỏ lại một mình đơn độc như thế nào, kẻ mộng mơ nói với chúng
ta rằng: “cả ba ngày tôi lang thang trong thành phố vắng vẻ” [5, trg.5]. Toàn bộ
đoạn đầu tiên của truyện ngắn có thể được coi là một thời khắc kẻ mộng mơ còn lại
một mình trong một không gian rộng lớn, trống rỗng. Anh ta sau đó đã kể ra ba địa
điểm chính có sức trấn an rất lớn của Petecburg: “Dù xuôi đại lộ Nevxki dù vào
công viên hay lang thang dọc con đường bờ sông – không một khuôn mặt nào tôi
vẫn quen gặp ở những nơi đó, vào một giờ nhất định, trong suốt cả năm qua" [5,
trg.6]. Anh ta đã quen với việc ở cùng một nơi, cùng một lúc, mỗi ngày, cả năm: đó
là sự lặp lại vô tận, đó là dấu hiệu của vòng tròn thời gian khép kín của kẻ mộng
mơ, và đó là cả thế giới bao trùm lên viên thư kí. Bakhtin đã nhận xét về thời gian
trong thế giới của kẻ mộng mơ: “Không có sự kiện nào ở đây, chỉ có sự kiện tái
diễn” [13]. Ngày qua ngày, những hành động tương tự lặp lại. Và vì thế, sự ra đi của
55
cả thành phố khiến cho anh ta “văng” ra khỏi vòng lặp thời gian khép kín với những
hình ảnh và thói quen thân thuộc đã khiến cho anh khiếp sợ tột cùng.
Vì bị bỏ rơi, anh ta bắt đầu tìm kiếm một thói quen mới. Vòng lặp thời gian
không có tiến triển, mà chỉ có những ngưỡng. Và Nastenka là một ngưỡng thời gian
như vậy. Nó tưởng như có thể giúp anh ta an ủi được nỗi buồn chán và sự cô đơn,
nên kẻ mộng mơ thường xuyên gặp gỡ cô. Ngưỡng thời gian mới này tưởng như sẽ
mang đến cho anh ta một trục thời gian mới, nhưng anh ta lại lựa chọn đưa trục thời
gian đó vào sự lặp lại. Cụ thể, anh ta đã yêu cầu gặp Nastenka tại cùng một lúc,
cùng một địa điểm. Và kết cục của kẻ mộng mơ, dường như đã được nhìn thấy
trước, sự cô đơn vĩnh viễn, một lần nữa lại trở về với anh ta.
Ban đầu, trên thực tế, anh ta cư xử như một người đàn ông tái sinh với niềm hân
hoan và nói với Nastenka rằng anh ta dám đến gần cô, đã dám hành động khác biệt
chính xác bởi vì anh ta cảm thấy rất hạnh phúc vượt quá giới hạn của vòng tròn thời
gian lặp lại. Khi họ chia tay, anh cầu xin cô gặp lại anh, cùng một lúc và ở cùng một
nơi. Vì cảm xúc mãnh liệt với Nastenka, điều kẻ mộng mơ khao khát là sự giam
cầm trong sự lặp lại vô tận của những giấc mơ: "Tôi sẽ mơ về em cả đêm tuần, cả
năm" [5, trg.9]. Và sau đó, anh tiết lộ bản chất cố định theo thời gian của bản thân
mình: “Tôi nhất định ngày mai sẽ đến đây, đến đúng đây, đến đúng chỗ này, vào
đúng giờ này, và tôi sẽ hạnh phúc khi nhớ lại việc xảy ra ngày hôm qua”. Tại thời
điểm này, anh tiết lộ toàn bộ bức tranh về thế giới của mình, và theo nghĩa đó, phần
còn lại của câu chuyện, phần còn lại của cuộc đời anh được cố định mãi mãi. Một
lần nữa, anh tiết lộ cả sự nghiện lặp đi lặp lại, cũng như con ốc sên, mãi mãi phải
chịu sự giam cầm trong vỏ bọc của chính mình.
Cách xử lí thời gian của Dostoevsky là những vòng lặp lại đến mức chán ngán
cuộc đời tù túng của viên thư kí 26 tuổi. Thời gian được chia nhỏ thành các khúc
cua mà sẽ dần ghép nối thành một vòng tròn khép kín. Nhân vật có thể trải qua
những ngưỡng thời gian (threshold of time) nhưng cuối cùng vẫn tiếp tục vòng lặp
lại đó của chính mình.
56
Tuy có sự dịch chuyển thời gian từ thế kỉ 19 của nước Nga sang thế kỉ 20 song
Robert Bresson vẫn bảo lưu và sẻ chia về vòng tròn thời gian khép kín. Ông đã viết
kịch bản rất nhanh và dường như hoàn toàn bị thuyết phục bởi chất liệu mà
Dostoevsky đã chuẩn bị. Sự phân chia thành bốn đêm, với sự thêm vào câu chuyện
của hai người trẻ tuổi mà Bresson đặt tên là Martha và Jacque, cũng được duy trì.
Tuy nhiên, Petecburg của những năm 1840 được chuyển sang Paris của những năm
1970, và, đồng hành với sự thay đổi đó, kẻ mộng mơ Jacque trở thành họa sĩ, và
Marthe trở thành cô gái trẻ hiện đại, độc lập. Bộ phim bắt đầu với cảnh về Jacque,
một chàng trai Paris trẻ tuổi đang cố xin đi nhờ xe, sau đó dạo chơi đến nông thôn
với gia đình và dành cả ngày để đi bộ một mình. Phim cắt sang cảnh Paris vào buổi
đêm, nơi Jacque khuyên nhủ Marthe- một cô gái trẻ trước nguy cơ tự tử. Jacque hẹn
gặp cô vào đêm tiếp theo, họ kể với nhau về cuộc đời của mình. Jacque là một họa
sĩ suốt đời tìm kiếm người con gái hoàn hảo của mình, anh chạy theo những cô gái
xa lạ trên đường phố Paris rồi về nhà ghi âm lại cuộc tình tưởng tượng của mình và
những bức tranh trừu tượng. Marthe sống với mẹ. Hai mẹ con sống bằng tiền trợ
cấp của người cha quá cố và việc cho thuê một căn phòng. Người khách trọ thuê
cách đây một năm đã trở thành hôn phu của cô nhưng phải đi xa và hẹn gặp cô đúng
một năm sau. Giờ đây cô đã biết anh trở lại Paris những vẫn chưa đến tìm cô. Đó là
lí do vì sao đêm trước cô định tự tử, Jacque đã trở thành bạn của Marthe trong ba
đêm tiếp theo. Họ nói chuyện với nhau và Jacque đã giúp cô chuyển thư tới vị hôn
phu của mình. Jacque đem lòng yêu cô say đắm. Họ lại tiếp tục chờ đợi vị hôn phu
của cô ở cây cầu bắc qua sông Sein. Đêm thứ tư, Marthe suy sụp vì hôn phu vẫn
không đến, Jacque đã bộc lộ tình yêu với cô, họ yêu nhau. Nhưng khi đi dạo trên
đường phố Paris, Marthe gặp lại người tình. Sau khi ôm hôn Jacque, cô đi theo vị
hôn phu, bỏ lại Jacque trên phố. Kết phim, Jacque trong căn hộ của mình, vẽ tranh
và lại tưởng tượng ra lời xin lỗi cùng tình yêu với một người phụ nữ vào chiếc máy
ghi âm.
Bresson là một người có đức tin nhận thức sâu sắc về những đòi hỏi và thách
thức của đức tin ấy. Ông là một người Công giáo La Mã và một giáo dân Gian-xen
57
(Jansenist). Các nguyên lý chính của giáo phái Gian-xen là tội lỗi nguyên thủy, cái
ác, sự tiền định, sự cứu chuộc và ân sủng thiêng liêng. Chúng cũng chính là nền
tảng cho các chủ đề chính của các bộ phim của ông. Chúng ta sẽ không thể mong
đợi một câu trả lời trực tiếp của ông cho tất cả những nguyên lý chính đó, mà những
bộ phim khiến chúng ta phải vật lộn với nghịch lý và tính hai mặt của những điều
tốt đẹp và xấu xa, đức tin và hoài nghi, hành động và không hành động, hy vọng và
tuyệt vọng. Những mối quan tâm như vậy đã thu hút một cách hợp lý Bresson với
các nhà văn như Dostoevsky, Tolstoy và những người ít được biết đến (ít nhất là
khán giả Mỹ) như Georges Bernanos (1888 - 1948). Chính vì vậy, sự giày vò của
nỗi cô đơn và tra vấn về tình yêu càng trở nên hữu hình qua chi tiết như những nét
vẽ đơn mảnh tái diễn trên bức canvas trắng của Jacque hay lời thu âm lặp đi lặp lại
tên của Marthe trong máy ghi âm của anh ta đã cho thấy khả năng hiện hữu của thời
gian: sự lặp lại như là một cuộc vật lộn tra vấn những vấn đề của hiện sinh. Jacque
của Bresson hay viên thư kí không tên của Dostoevsky đã tái hiện được một mô
hình thế giới vi mô nơi con người mắc kẹt trong vòng tròn thời gian bởi chính
những thói quen thường ngày của anh ta. Có thể ban đầu anh ta là nạn nhân, song
khi đã chạm tới ngưỡng thời gian tái sinh, anh ta lại khao khát được quay trở về
vòng tròn ban đầu. Quan niệm về thời gian của Dostoevsky và Bresson dù cách
nhau đến cả thế kỉ nhưng vẫn có sự sẻ chia. Cả hai nền văn hóa, nước Nga thế kỉ 19
và nước Pháp thế kỉ 20 đều tồn tại sự cô đơn của những con người lạc lõng. Ở
Dostoevsky là sự quan tâm tới nạn nhân của đô thị Peteburg thế kỉ 19 đầy u ám, còn
ở Bresson, dường như vừa mang tư tưởng của nước Pháp với sự quan tâm đến thì
hiện tại hơn là quá khứ và tương lai, cùng với ý nghĩa hiện sinh mà ông quan tâm,
đã sẻ chia và đối thoại với nhau về quan niệm thời gian, đặc biệt là thời gian đối của
những con người cô đơn bé nhỏ.
2.2.2. Vòng tròn thời gian tịnh tiến trong Người yêu dấu
Tịnh tiến ngoài khái niệm toán học là sự dời chỗ sao cho mỗi đường thẳng nối
hai điểm bất kì của một vật luôn song song với chính nó, thì còn có ý nghĩa thông
thường trong đời sống là sự tiến lên dần dần của một sự vật hiện tượng. Sự “tiến
58
lên” này đã được luận văn khai thác để miêu tả về sự tự nhận thức ngày càng rộng
mở, khác với chính mình hôm qua của nhân vật kẻ mộng mơ.
Được phóng tác dựa trên truyện ngắn của Nga, Những đêm trắng của Frydor
Dostoeyevsky, Người yêu dấu (Saawariya) hay tên tiếng Anh là Beloved được đặt
trong một thế giới vi mô kỳ lạ, một thị trấn giả tưởng trong một thung lũng được
bao quanh bởi những ngọn núi mù sương, một thế giới "bất kỳ ai cũng thích sống"
[17]. Ở thị trấn mơ mộng này có một nhạc sĩ tên Ranbir Raj, một cậu bé theo đạo
Hindu đáng mến, là một người theo chủ nghĩa lý tưởng và mơ mộng. Raj có một
công việc là một ca sĩ tại quán bar địa phương nơi anh gặp Gulab, một cô gái điếm,
một người rất năng nổ, đầy hoài nghi với trái tim vàng. Cô kết bạn với Raj và giúp
anh ta tìm chỗ ở tại nhà của người địa phương, một phụ nữ Kitô giáo, Lillian, người
sớm bắt đầu coi Raj là đứa con trai mà cô đã mất.
Trong môi trường thần thoại này, Raj gặp Sakina, một cô gái Hồi giáo bí ẩn
đứng một mình trên cây cầu trong màn đêm tĩnh lặng. Cơ hội gặp gỡ này phát triển
thành tình bạn, nhưng Raj tiếp tục bị cô ấy mê hoặc, vì cô ấy khá tuyệt vọng và nhút
nhát, mặc dù không rụt rè, vì cô ấy lang thang trên đường một mình vào ban đêm,
trốn tránh những người đàn ông say rượu, vì cô đang chờ đợi sự trở lại của Người
tình bí mật của cô. Hai linh hồn giản đơn và ngây thơ, Raj và Sakina, bị thiêu đốt
bởi ước mơ của chính họ. Raj chờ Sakina và Sakina chờ người tình bí ẩn của cô,
Imaan, người mà cô chờ đợi đêm qua tại cây cầu trên hồ ở quảng trường thị trấn. Bộ
phim bắt đầu một cái nhìn được thể hiện kỹ thuật số (không phải là khung cảnh thực
tế) của thị trấn giả tưởng này.
59
Cảnh mở đầu trong phim Người yêu dấu ( Sony Pictures Entertainment phát
hành vào 9/11/2007)
Với những mái vòm và tháp gợi nhớ đến vùng đất cổ tích của Đêm Ả Rập. Đó
là một nơi mà thời gian dường như đã dừng lại giữa dòng, đặc biệt là đối với những
người phụ nữ, những người dường như cam chịu dành cả đời để khao khát những
người thân yêu không bao giờ quay trở lại. Đó là một vùng đất của những kẻ lạc
lõng - gái mại dâm, người say rượu, bà già và một cô gái trẻ cô đơn, đáng yêu đang
bỏ trốn vì người tình bí mật của mình, tất cả bị cuốn vào mạng lưới tình huống mà
dường như không có lối thoát cho những kẻ chối tội. Trong bối cảnh thần tiên này,
Ranbir Raj, Saawariya, như một luồng không khí trong lành và một nguồn vui sống,
mang lại hy vọng cho tất cả mọi người, nhưng bản thân lại rơi vào tình trạng bất
mãn tràn ngập khắp thị trấn. Tuy nhiên, may mắn thay, đối với nhân vật nữ chính,
bộ phim kết thúc với một dấu ấn tích cực với sự trở lại của người tình bí mật của cô,
và cuối cùng họ rời khỏi thế giới đầy khao khát vô tận này.
Raj, cũng tương tự như người thư kí của Dostoevsky hay Jacques của Bresson,
cũng trải qua những vòng lặp của sự gặp gỡ, chờ đợi, nhớ nhung, giày vò, đoàn tụ
rồi chia li tại cùng một không gian, địa điểm đã hẹn trước với người tình trong
mộng.
60
Cảnh gần cuối phim, khi Sakina đoàn tụ với Imaan, để anh một mình trong sự
cô đơn
Nhưng kết phim lại thực sự bất ngờ và khác biệt hoàn toàn với bản gốc và phiên
bản của Bresson.
Trời bắt đầu đổ mưa, làm Raj bất giác mỉm cười
Anh bật ô với nụ cười tươi hơn – báo hiệu sự thay đổi trong tâm lí
Song song với đó là lời tự sự của Gulab: “Họ nói rằng nếu bạn tìm thấy tình yêu
đích thực, Chúa sẽ đã rất hào phóng với bạn. Và nếu như bạn không tìm thấy, đó là
bởi vì người tình đã hòa làm một bên trong bạn”. Có thể nói, đây là một cái kết có
hậu, một “happy ending” cho câu chuyện tình tan vỡ. Ngay trong khoảnh khắc
61
mong manh nhất của sự chia lìa, Sakina tìm thấy người cô chờ đợi và một lời hứa sẽ
bên nhau trọn đời từ Imaan. Còn Raj, anh đã tìm thấy thông điệp của Chúa trong
cơn mưa. Đó là cơn mưa thức tỉnh, cơn mưa an ủi để anh hiểu rằng tình yêu luôn
bên trong mình, miễn là mình còn có một trái tim yêu nồng cháy. Chúng ta có thể
thấy một kết thúc có hậu và đẫm màu sắc lạc quan của Người yêu dấu dường như đã
bắt rễ từ công thức dựa trên kịch mê-lô thế kỉ 19 của Ấn Độ, nơi những mâu thuẫn
đầy kịch tính thường được kết cấu xung quanh hai vai trò đối lập nhau mà chắc
chắn đại diện cho bên ác và bên thiện, cho anh hùng và kẻ hung ác”. Trong khi đối
lập và cảm xúc thường được thể hiện qua khái niệm về hành vi bạo lực, đạo đức tốt
– xấu hiện diện rất dứt khoát, làm hài lòng sự giải quyết cốt truyện, đó chắc chắn
phải là một “happy ending”, mà kẻ xấu bị trừng trị còn người tốt được tán thưởng.
“Kết thúc khiến khán giả không dấy lên bất kì sự hoài nghi nào về việc tôn giáo là
một thế lực tích cực và trí tưởng tượng của họ có thể trở thành hiện thực” [37, trg.4 -
5]. Và đây là điều chính xác mà công thức điện ảnh Ấn Độ tồn tại kể từ khởi đầu –
chiến thắng cái tốt với cái xấu là kết quả khởi đầu của kết thúc hạnh phúc. Nó gợi
lên đặc điểm tâm thức của văn hóa Ấn Độ đối với sự an bài và an ủi của Chúa trời,
con người ta có thể phải loay hoay và bị giày vò bởi những vòng xoáy lặp lại của
nỗi đau, sự khát khao không có được, song tất cả những vòng xoáy đó sẽ đưa ta đến
một nhận thức cao hơn về hạnh phúc. Vòng lặp của thời gian không còn trở thành
hình thức nghệ thuật để diễn tả sự cô đơn, lạc lõng mà là “nền tảng” để đưa con
người vượt qua ngưỡng, hướng tới sự hiểu biết cao cả. Giống như Raj đã nhận ra
“người tình đã hòa làm một bên trong bạn”.
2.3. Không gian
Kẻ mộng mơ với tính cách mộng mơ và cô đơn được Dostoevsky gắn với các
không gian nhất định. Không gian hiện hữu như một nhân vật thứ ba kể cho độc giả
về mọi điều đang diễn ra. Sự hiện hữu của không gian đã mang đến cho tác phẩm
Những đêm trắng một câu chuyển để kể. Chính vì tầm quan trọng ấy, trong mục
này, chúng tôi tập trung đi vào phân tích ý nghĩa hiện hữu của các không gian trong
tác phẩm Những đêm trắng trong đối sánh với hai phiên bản phim chuyển thể để
62
thấy được câu chuyện về kẻ mộng mơ đã được dòng chảy liên văn hóa đẩy xa đến
thế nào khi chu du qua các nền văn hóa khác.
2.3.1. Không gian toàn vẹn trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó” [7, trg.160]. “Không gian nghệ thuật có tính tổng hợp
những đối tượng cùng loại mà giữa chúng có các quan hệ giống như các quan hệ
không gian thông thường” [11, trg.377]. Không gian nghệ thuật luôn gắn với điểm
nhìn, trường nhìn để từ đó phản ánh cái nó thấy về thế giới. Đặc điểm này của
không gian trong văn bản nghệ thuật đã chia không gian nghệ thuật, ngoài không
gian mang tính chất vật lí, còn là không gian mang tính chất tâm lí. Không gian
trong mỗi một tác phẩm (văn bản) vì thế mang sắc thái chủ quan. Cấu trúc không
gian của văn bản đã trở thành mô hình cấu trúc không gian thế giới [11, trg.377].
Tìm hiểu không gian trong mỗi tập hợp những phức điệu kí hiệu (văn chương, hội
họa, điện ảnh…) sẽ mang đến một nhãn quan trước thế giới của tác giả, trở thành cơ
sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các
hình tượng nghệ thuật [6, trg.161].
“Các nền văn hóa phương Tây tập trung sự chú ý của họ vào các đồ vật và
không quan tâm đến không gian ở giữa. Người Nhật, mặt khác, tôn vinh không gian
ở giữa như “ma” (hay còn được gọi là không gian âm tính). Trong một hệ thống
khác, người Ấn Độ Hopi trong ngôn ngữ của họ không có từ nào miêu tả một không
gian cố định: tất cả các đối tượng được mô tả trong mối quan hệ của chúng với
nhau, nhưng không có khái niệm về không gian ba chiều tồn tại” [30].
Trong Những đêm trắng, không gian gắn bó trực tiếp với kẻ mộng mơ chính là
căn phòng trọ của anh ta. Thế nhưng, không gian căn phòng lại rất ít được miêu tả
trong lời trần thuật.
63
Tần suất xuất hiện Hoàn cảnh xuất hiện
Lần 1: “…-và tôi cáu kỉnh săm soi
những bức tường ố xanh ố xám, cái trần
nhà chăng đầy mạng của những chú Kẻ mộng mơ ngắm nhìn căn phòng
nhện được Mat’rena cho tha hồ trú ngụ, khi cư dân thành phố Petersburg chuẩn
săm soi toàn bộ số đồ gỗ tôi có, săm soi bị rời thành phố cho kì nghỉ ngoại ô. Kẻ
đến từng chiếc ghế ngồi một, nghĩ mộng mơ cảm thấy chán ghét căn phòng
không biết nguyên do có phải ở đó cực độ.
không…( vì rằng ở trong phòng tôi dù
một chiếc ghế nằm không đúng chỗ như
hôm qua đã nằm cũng khiến tôi khó
chịu). Rồi tôi nhìn ra cửa sổ, tất cả đều
vô ích-tôi không hề cảm thấy dễ chịu
hơn chút nào!” [5, trg.10-11]
Lần 2: “Kẻ mơ mộng - nếu như ta
cần một định nghĩa cụ thể- không phải Kẻ mộng mơ định nghĩa về mình
là người, cô biết không, mà là một sinh trong đêm thức hai gặp Nastenka. Phòng
vật giống trung nào đó. Phần lớn nó cư trọ hiện lên qua lời bộc bạch say mê,
trú ở những xó xỉnh không ai đến được, chân thành. Căn phòng trọ trở thành
dường như muốn trốn tránh cả ánh mặt minh họa cho cái mai rùa, nơi ẩn náu
trời, và một khi đã về nhà riêng thì nó khép kín của cuộc sống kẻ mộng mơ.
bám riệt lấy cái xó của mình như một Trở thành chính lối sống của kẻ mộng
con sên, hay ít ra về phương diện này mơ.
nó rất giống với một con vật thú vị -
vừa là con vật vừa là nhà ở - mà người
ta gọi là con rùa. Cô nghĩ sao, vì cớ gì
anh ta yêu mến bốn bức tường của
mình, những bức tường nhất thiết phải
được quét ve xanh, ám khói ảm đậm và
64
nồng nặc mùi thuốc lá đến không thể
chịu được?...-vì cớ gì cái con người kì
quái này lại đón tiếp khách với vẻ
ngượng ngập, luống cuống tới mức tái
cả mặt mày đến thế, dường như anh ta
vừa phạm phải một tội ác nào đó trong
bốn bức tường của nhà mình” [5,
trg.35-36].
Lần 3: “Căn phòng nhỏ im ắng;
cảnh cô tịch và sự nhàn rỗi ve vuốt trí Hoàn cảnh: Như lần 2
tưởng tượng của anh ta, nó nhẹ nhàng Căn phòng trở thành nơi nuôi dưỡng
bén lửa và sôi lên như ấm nước của bà ảo tưởng.
Mat'rena già nua đang bình thản loay
hoay bên cạnh để đun cà phê tối” [5,
trg.43]
Lần 4: “Tại sao những đêm dài
không ngủ thoáng qua như một tích tắc, Hoàn cảnh: như lần 2
trong hạnh phúc và niềm vui bất tận, và Căn phòng trở thành nơi giao hòa
khi bình minh chiếu tia nắng hồng vào với đời sống Petersburg, là điểm tựa tinh
cửa sổ và rọi sáng căn buồng ảm đạm thần an ủi kẻ mộng mơ.
bằng thứ ánh sáng hư ảo đáng ngờ như
ở Petersburg của chúng ta thì anh chàng
mơ mộng mệt mỏi, kiệt sức của chúng
ta ném mình xuống giường, lịm đi
trong nỗi khoái cảm của trạng thái tinh
thần bệnh hoạn chấn động của mình và
với một nỗi đau ngọt ngào uể oải trong
tim?” [5, trg.46-47]
Lần 5: “Những đêm trắng của tôi • Chương cuối cùng, buổi sáng sau
65
kết thúc bằng một buổi sáng. Ngày mới khi chia tay Nastenka vào đêm
sang thật tồi tệ. Trời mưa, những giọt hôm trước. Căn phòng hiện lên
mưa gõ buồn tẻ vào của kính phòng tôi. âm u, ảm đạm.
Trong phòng âm u, ngoài trời ảm đạm.
Đầu tôi đau nhức, quay cuồng, khắp
người sốt hâm hấp” [5, trg.109].
“…Không biết vì sao tôi bỗng thấy
căn phòng của tôi cũng đột ngột trở nên • Sau khi đọc xong thư của
già nua như bà Mat'rena. Tường nhà và Nastenka. Căn phòng trở thành
sàn bạc thếch, mọi vật đen sạm, mạng một phần trong viễn cảnh tương
nhện chăng dày đặc hơn. Không hiểu vì lai cô độc của kẻ mộng mơ.
sao khi nhìn qua cửa sổ, tôi cảm thấy
ngôi nhà đối diện cũng trở nên rệu rã và
âm ú, lớp vữa trên dãy cột lở ra, rơi
xuống, các mái gờ đen đúa, nứt nẻ và
những bức tường màu vàng tươi trở nên
xám xịt, loang lổ…hay là, có thể, trước
mắt tôi vụt thoáng qua một cách thê
lương, buồn thảm toàn bộ viễn cảnh
tương lai của tôi, và tôi đã nhìn thấy
mình đúng như tôi bây giờ, chẵn mười
lăm năm sau, đã già đi, vẫn trong căn
phòng này, vẫn cô đơn như xưa, vẫn
với mụ Mat'rena không hề sáng dạ thêm
chút nào sau ngần ấy năm” [5, trg.112].
Căn phòng hiện lên như một ảnh chiếu cho sự đơn độc đáng thương của kẻ
mộng mơ. Căn phòng hiện lên với hai tính chất, thứ nhất chính là nơi trú ngụ, một
66
không gian hẹp, đóng kín và an toàn để nuôi dưỡng những ảo mộng, thứ hai, căn
phòng được trả về ý nghĩa của chính nó, là hiện thực gần gụi nhất đối với kẻ mộng
mơ. Anh ta vừa được nuôi dưỡng trí tưởng tượng trong căn phòng ấy nhưng đồng
thời không gian phòng đôi khi lại trở thành tiếng chuông hiện thực thức tỉnh kẻ
mộng mơ sau cơn ảo mộng. Vì thế, nó hiện lên không tránh khỏi vẻ bức bối, bế tắc.
Không gian phòng trọ trong Những đêm trắng trở thành một không gian biến
tùy, trở thành tấm gương phản chiếu cho tâm trạng của kẻ mộng mơ. Khi tâm hồn
anh ta hòa nhập với thành phố (theo cách riêng của mình), phòng trọ sẽ trở thành
nơi nuôi dưỡng những cảm giác hạnh phúc, nuôi dưỡng ảo mộng. Nhưng khi tâm
hồn kẻ mộng mơ bị bỏ rơi, trở nên lạc lõng thì căn phòng lại là một nhà tù bức bí
nhưng chính anh ta cũng không thể thoát ra khỏi. Bởi biên giới của nhà tù ấy đã
được giãn nở đến vô biên, trở thành chính không gian ngoài kia. Không gian phòng
và không gian thành phố đã không còn sự cách ngăn. Cả hai hòa làm một, trở thành
hiện thực chúa chát mà kẻ mộng mơ phải đối mặt. Phòng trọ của kẻ mộng mơ- viên
thư kí Petersburg thế kỉ 19 đã trở thành phòng trọ-phòng tranh của họa sĩ Paris thế
kỉ 20. Tính chất hai mặt của phòng trọ kẻ mộng mơ trong Những đêm trắng không
còn được bảo toàn. Qua lời kể chuyện của Jacque vào đêm thứ hai với Marthe,
không gian phòng tranh lần đầu xuất hiện. Phòng tranh trở thành điểm trú ngụ tâm
hồn cho Jacque mỗi lần anh ta thất bại trong việc cố gắng tìm kiếm thiên sứ tình yêu
trong mộng của mình trên đường phố Paris. Trở về với văn phòng, anh ngay lập tức
dùng máy ghi âm ghi lại câu chuyện tình yêu bịa đặt, tưởng tượng với cái kết tốt
đẹp của mình với những người con gái xa lạ trên phố rồi nằm xuống giường và nghe
đi nghe lại. Sau đó, Jacque lấy bức tranh chân dung anh ta đang vẽ dở về một khuôn
mặt phụ nữ, tô thêm những gam màu đỏ vào khoảng trống giữa những bo viền màu
đen đậm. Ngay cả vào buổi sáng, sau đêm chia tay với Nastenka và đọc thư xin lỗi
của cô, căn phòng cũng không trở thành không gian gây hấn với kẻ mộng mơ thế kỉ
20 này. Anh ta bỏ lá thư xuống, tiếp tục vẽ những gam màu khác lên bức chân
dung. Bộ phim kết lại ở cảnh đó, gợi lên một cảm giác chông chênh nhưng không bi
lụy như cái kết về viễn tưởng của sự cô độc trong Những đêm trắng.
67
Có thể thấy, không gian phòng trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ trở nên vững
chắc và biệt lập hơn so với không gian trong Những đêm trắng. Dường như căn
phòng đã trở thành một thành trì kiên cố, một lâu đài của thế giới ảo mộng thực sự
với kẻ mộng mơ. Khi hiện thực thức tỉnh bản thân, anh ta về căn phòng và giải tòa
qua những câu chuyện tưởng tượng được ghi lại trong máy ghi âm và tiếp tục hoàn
thiện những bức tranh của mình. Ống kính của Bresson chưa một lần đề cập đến
những chi tiết như mạng nhện, những góc nhỏ hẹp hay khung cảnh vào sáng sớm,
khi những tia nắng của thành phố ngoài kia soi rọi vào căn phòng. Jacque chưa bao
giờ ngắm nhìn căn phòng của mình, săm soi những chi tiết ấy và cảm thấy bức bối
hay lạc lõng. Với Jacque, căn phòng trở thành một đồng minh, một phần của thế
giới mộng mơ, và với nhà làm phim, tính chất vững chắc của căn phòng được tô
đậm đã gián tiếp nhấn mạnh đến sự cách ngăn của những cá thể thời hiện đại. Thế
giới mộng tưởng của Jacque chính là ẩn dụ cho tính gắn kết xã hội, trong khi, hiện
thực, chính là những gì đã tác động lên tính gắn kết đó, được qui giản thành không
gian phòng tranh và không gian thành phố Petersburg. Không gian căn phòng càng
vững chắc, càng trở thành nơi nuôi dưỡng ảo mộng thì sự gắn kết trong xã hội càng
lỏng lẻo.
Nhân vật tôi của Dostoevsky sống trong không gian thành phố S.Petersburg-
thành phố trên bờ biển Baltich do Piot'r Đại đế xây dựng vào đầu thế kỷ XVIII, một
thời là thủ đô của nước Nga, sau Cách mạng Tháng Mười được đổi thành
Leningrad, hiện nay được lấy lại tên cũ. Tính chất đô thị hào hoa dễ dàng bắt nhịp
với tâm lí của kiểu nhân vật mộng mơ. Dưới con mắt của kẻ mộng mơ, Petersburg
hiện lên hết sức kiều diễm và lung linh. Đó là một đô thị đông đúc, xinh xắn, tươi
đẹp, nhộn nhịp và ẩn chứa đầy tiềm năng giúp cho kẻ mộng mơ có thể thoát ra khỏi
cái mai rùa cố hữu. Vào ban đêm, không gian đô thị phô bày ra tất cả những nét
quyến rũ của nó: “Đó là một đêm kì diệu, một đêm mà có lẽ chỉ có thể có được khi
chúng ta còn trẻ, hỡi bạn đọc thân mến. Bầu trời đầy sao, một bầu trời lộng lẫy đến
mức ngước nhìn lên nó ta phải bất giác tự hỏi mình: chẳng lẽ những con người cau
có, trái tính trái nết đủ loại lại có thể sống dưới một bầu trời như thế...”[5, trg.1].
68
Thế giới nghệ thuật trong các tác phẩm thời kì đầu của Dostoevsky được được
hướng theo truyền thống của văn chương lãng mạn Nga đầu thế kỉ 19. Chúng ta biết
rằng Pushkin đã tạo ra một thể loại đặc biệt trong cuốn Câu chuyện Petersburg (The
Petersburg tale) với “sự rút gọn lại lịch sử từ hiện tại quay trở về quá khứ với những
địa danh cụ thể. Gogol và Dostoevsky đã cố gắng để tìm ra cho mình sự khác biệt
so với truyền thống của Puskhin và để phát triển chính tầm nhìn của họ về thành
phố” [28, trg.28]. "Những phong cảnh thời kì đầu của Dostoevsky về Petersburg
xuất hiện như là kết quả của mối liên hệ liên văn bản với Pushkin và Gogol" [27].
Trong Những đêm trắng, sự đối lập này được diễn tả trong sự nhân cách hóa thiên
nhiên Petersburg: “Có một cái gì đó cảm động không giải thích được trong phong
cảnh thiên nhiên Petersburg của chúng ta khi mùa xuân về bỗng phô bày toàn bộ
tiềm năng, toàn bộ sức lực được trời phú cho của mình, lộng lẫy, xanh tươi, rực rỡ
trăm hoa... Bất giác nó khiến tôi liên tưởng đến một cô gái gầy gò ốm yếu mà đôi
khi chúng ta nhìn với vẻ thông cảm, đôi khi với lòng thương hại, và nhiều khi đơn
giản là không nhìn thấy cô ta; thế rồi bỗng nhiên cô gái đó, trong một khoảnh khắc,
bất ngờ trở nên xinh đẹp lạ lùng, không tả nổi… Nhưng khoảnh khắc qua đi, và có
thể ngày mai ta lại gặp vẫn ánh nhìn u buồn thờ ơ như cũ, vẫn khuôn mặt nhợt nhạt,
vẻ nhẫn nhục và rụt rè trong các cử chỉ ấy và thậm chí cả sự ăn năn, thậm chí cả dấu
vết của một sự chán chường và nỗi buồn tang tóc vì nỗi đam mê phút chốc thoáng
qua... Và ta cảm thấy tiếc nuối vì cái vẻ đẹp chớp mắt ấy đã tàn đi quá nhanh, không
trở lại, vì nó ngời lên giả tạo và phí hoài trước mắt ta, - ta nuối tiếc vì ta chưa có đủ
thời gian để mà yêu nó...”[5, trg.17-18]. Hình ảnh về thiên nhiên Petersburg có thể
liên quan đến cái mà Vyachelav Ivanov gọi là chủ đề của sự nữ tính vĩnh cửu trong
văn hóa của St. Petersburg [47]. Nó tượng trưng cho sự lãng mạn giữa nhân vật
nam chính và Nastenka. Tất cả những hình ảnh được khắc họa như là một giấc mơ,
sự tưởng tượng (khoảnh khắc thiên nhiên mùa xuân ở St. Petersburg cũng tương tự
như bản chất phù du/ngắn ngủi của những đêm trắng cũng như tình yêu của nhân
vật chính. Tình yêu ấy dường như là một sự ảo tưởng. Trong Những đêm trắng,
chúng ta cảm thấy thật tiếc nuối khi bông hoa của sắc đẹp héo tàn rất nhanh. Sự
69
lãng mạn trong bắt đầu với đêm trắng đầu tiên và kết thúc với đêm cuối cùng và nó
cũng ngắn ngủi giống như bông hoa của sắc đẹp, gợi nhắc chúng ta đến thiên nhiên
Petersburg. Trong bức thư cuối cùng Nastenka gửi cho kẻ mộng mơ, cô viết rằng sự
lãng mạn của họ là "một giấc mơ, một bóng ma" [5, trg.108]. Dostoevsky đi theo
truyền thống sử dụng biểu tượng thiên đường trong khi kết nối hình ảnh nữ tính vào
thế giới tự nhiên. Tác giả đã xây dựng một Petersburg tràn đầy năng lượng, trở
thành phông nền thích hợp để kẻ mộng mơ xây dựng những mộng tưởng.
Trong For nights of a dreamer, ta bắt gặp sự hội ngộ giữa bộ ba Dostoevsky- Robert Bresson và những nhà làm phim trong Làn sóng mới (Nouvelle Vague)1 ở
Pháp ở nhiều điểm, mà trước hết là sự sẻ chia tính chất không gian đô thị từ Những
đêm trắng ở thế kỉ 19. Làn sóng mới mang tính chất tiên phong, hầu hết là tập hợp
của những đạo diễn trẻ sản xuất những bộ phim mang nhãn quan riêng trong phản
ánh hiện thực. Tính tiên phong của nó biểu hiện rõ nhất qua việc những bộ phim
như La Règle du Jeu của Renoir, các phim của Welles, và Les dames du Bois de
Boulogne của Bresson-tất cả những phim thiết lập nên nền tảng cho một tương lai
mới của điện ảnh đều bị các nhà phê bình phớt lờ. Nhưng chính những phim không
được đề cấp đó lại có yếu tố tiền phong (avant-garde), là tương lai của điện ảnh mới
(Young cinema) đối thoại lại với nghệ thuật điện ảnh truyền thống: “Điện ảnh ngày
nay đang dần trở thành một công cụ biểu hiện giống như tất cả những nghệ thuật có
trước nó, và cụ thể là hội họa và tiểu thuyết. Sau khi thành công trong vai trò thu
hút sự chú ý tại các hội trợ, một trò tiêu khiển như các rạp hát lớn, hay là một
phương tiện để lưu giữ những hình ảnh về một kỷ nguyên, điện ảnh đã dẫn trở thành
một ngôn ngữ, một hình thức mà qua đó một nghệ sĩ có thể diễn tả các suy nghĩ của
mình dù chúng có trừu tượng đến đâu, hoặc chuyển tải nỗi ám ảnh của anh ta giống
hệt như những gì anh ta viết trong các bài luận hay tiểu thuyết đương đại. Đó là lý
do vì sao có thể gọi thời đại này là caméra-stylo hay camera-pen. Nó có thể xử trí
bất cứ chủ đề hay thể loại nào: từ những suy ngẫm triết học cao nhất về sự sản xuất
mang tính nhân bản, tâm lý học, ý tưởng và niềm say mê, tất cả đều nằm trong
phạm trù của nó” [4, trg.215].
70
Theo cách mô tả trong Lịch sử điện ảnh “Làn sóng mới: Nước Pháp trong
những năm cuối thập kỷ 50, chủ nghĩa Duy tâm và các phong trào chính trị trong
những năm ngay sau chiến tranh đã mở đường cho việc hình thành một nền văn hóa
tiêu dùng và giải trí không mang màu sắc chính trị. Thế hệ mới nổi này được gọi là
Nouvelle Vague, sau này phát triển và bao trùm toàn bộ nước Pháp. Làn sóng mới ở
Pháp chính là kẻ đã tạo nên một hình ảnh hết sức lãng mạn thời bấy giờ về người
đạo diễn trẻ đang vật lộn để làm ra những bộ phim của riêng mình (auteur film),
những bộ phim thách thức cả một nền công nghiệp điện ảnh truyền thống” [10,
trg.139].
Tiểu thuyết của Dostoevsky ngoài cung cấp mâu thuẫn giữa kẻ mộng mơ và
thành phố để có thể cấy ghép những diễn giải thời đại thì còn mang đến một không
gian được Làn sóng mới hết sức ưa chuộng – không gian đô thị. “Bằng việc tập
trung vào cuộc sống chuyên nghiệp thành thị với thời trang thanh lịch và xe ô tô thể
thao, các bữa tiệc thâu đêm, quán rượu và những câu lạc bộ Jazz, loại hình điện ảnh
này cho thấy rằng cảnh quay trong quán cà-phê gắn liền với Điện ảnh trực tiếp
(Direct cinema)” [10, trg.141]. Không gian thành thị hào hoa đông đúc trong Những
đêm trắng dễ dàng sẻ chia những đặc điểm với không gian Paris với tư cách là
(hoặc từng là) thủ đô. Ngoài câu chuyện tình yêu kinh điển, Bốn đêm của kẻ mộng
mơ còn được nhớ đến như là một bộ phim có tính chất thị giác đậm tính thơ ca. Màu
sắc thơ ca bàng bạc được tạo nên bởi những cảnh quay lặp đi lặp lại hình ảnh con
tàu du lịch thắp sáng sông Sein và Paris trong đêm tối với ánh sáng đèn điện quanh
thân tàu và âm thanh du dương từ ban nhạc dây chơi trên boong tàu. Nhịp phim ở
những cảnh xuất hiện con tàu được điều tiết làm cho chậm lại. Một khoảnh khắc
đóng băng cảm xúc, rất khác so với hầu hết những cảnh quay khác trong phim, tạo
nên nhịp điệu nhanh qua hình ảnh sự di chuyển trên phố phường Paris. Bresson
đang cố gắng tái hiện lại linh hồn Paris thơ mộng dường như đang nhạt phai theo
thời hiện đại trong bộ phim của mình.
Với không gian đô thị, những đạo diễn Làn sóng mới dùng phim ảnh của mình
để phát biểu cho một thế hệ những người trẻ Paris. Đề tài của những bộ phim
71
thường là về “chính quyền bị mất lòng tin, cam kết về chính trị và tình cảm cũng bị
hoài nghi. Những hành động vô cớ của nhân vật đều mang dấu ấn của thuyết hiện
sinh. Và trong bản họa lại của chủ nghĩa Hiện thực thi ca, của Truyền thống Chất
lượng (Tradition of quality) và trong phim tội phạm của Mỹ, những bộ phim thường
tập trung vào một nhân vật nữ quyến rũ đến nỗi mà đàn ông phải gặp tai họa
(femme fatale)” [22, trg.141].
Tóm lại, không gian đô thị Petersburg trong Những đêm trắng được khắc họa để
trở thành công cụ mang chức năng phông nền, phản ánh tâm trạng của kẻ mộng mơ.
Dựa vào tính chất hào hoa của đô thị Petersburg thế kỉ 19, Bresson đã đưa lên màn
ảnh một Paris với những vẻ đẹp độc đáo, đặc trưng, làm nổi bật không gian thành
phố, như thể, thành phố trong phim có thể kể một câu chuyện của chính nó, mang
hơi thở thời đại và phong cách riêng của nhà làm phim. Đối với nhà tiểu thuyết
Nga, quan niệm về không gian không bao chứa toàn bộ khoảng không gian ấy, nó bị
triệt tiêu đi những khoảng ở giữa để chỉ tập trung làm nổi bật đối tượng, mà ở đây
chính là tâm trạng của kẻ mộng mơ. Còn đối với nhà làm phim Pháp, không gian lại
trở thành chính đối tượng. Nó đôi khi đặc lại và ẩn chứa những ẩn ức của Jacque
như căn phòng tranh, đôi khi lại trở thành điểm nhìn trung tâm như hình ảnh dòng
sông, cây cầu của Paris.
2.3.2. Huyền áo hóa không gian trong Người yêu dấu
Người yêu dấu, khác hẳn với văn bản nguồn, được đặt trong một thế giới vi mô
kỳ lạ, một thị trấn giả tưởng trong một thung lũng được bao quanh bởi những ngọn
núi mù sương, một thế giới "bất kỳ ai cũng thích sống". Đó là một thành phố không
tên gợi nhớ đến những năm 1940.
Mỗi khung hình có một linh hồn, một phong cách và cảm giác siêu thực. Một
chất lượng vượt thời gian nhất định thấm vào mọi khung hình. Từ việc tạo ra một
tượng Phật lớn hơn cuộc sống đến việc xây dựng hồ nước và những chiếc thuyền
đều được thiết kế đặc biệt để thiết lập những con đường náo nhiệt với cửa hàng, đèn
và đèn neon mà họa sĩ thiết kế cho bộ phim đã mô tả: “Chúng tôi vẽ các bức tường
72
và sàn nhà bằng con công và hoa sen đưa chúng ta vào một thế giới mà về cơ bản là
rất Ấn Độ nhưng không giống như bất kỳ ai từng thấy trước đây” [17].
Khung cảnh thị trấn với những biển hiệu hiện đại
Cổng vào thị trấn giống với cổng Khải Hoàn Môn tại Pháp
Dòng sông và cây cầu mang phong cách huyền ảo
73
Đầu tượng Phật lớn nằm bên bờ sông gợi màu sắc tôn giáo truyền thống
Trong một thế giới giả tưởng đó, gợi lên sự giao thoa giữa các dấu hiệu của rạp
hát Moulin Rogue và nhà trọ Bates với những dấu gạch ngang dẫn lối tới khu
Sonagachi (khu đèn đỏ nổi tiếng của Ấn Độ), khác hẳn với thành phố Petecburg của
viên thư kí. Đó là một thành phố huyền ảo mà lộng lẫy, xa hoa. Nó dường như là
một không gian mong đợi trong tâm thức của khán giả xem phim và của chính đạo
diễn. Bhansali luôn muốn phát huy tuân thủ chặt chẽ các quy ước của Ấn Độ cổ đại
trong cách trình bày với các kỹ năng kỹ thuật hiện đại để tăng thêm trải nghiệm điện
ảnh. Ngoài ra, nó được quay độc quyền trong tám khung cảnh cực kì sang trọng
trong những trường quay trong nhà. Bhansali muốn khung hình trông giống như
một bức tranh hơn là một bức ảnh, một kỳ công mà nhà quay phim từng đoạt giải
thưởng Ravi K Chandran đã thành công đạt được bằng cách sử dụng đèn không
gian và CT bule, và quay qua một camera gần như tĩnh để đạt hiệu ứng mong muốn,
mỗi khuôn hình giống như một bức tranh tuyệt đẹp trên vải canvas. Người yêu dấu
cũng là phim Ấn Độ đầu tiên sử dụng công nghệ đèn không gian. Omung Kumar,
Giám đốc nghệ thuật của Người yêu dấu đã phát biểu rằng: “Mỗi khung hình được
tạo ra cho cảm giác, phong cách và linh hồn của Chủ nghĩa siêu thực” [17]. Có thể
nói rằng, điện ảnh Ấn Độ đã tạo dựng “một thế giới tưởng tượng thuần khiết” [46].
Dường như, hầu hết những người Ấn Độ hoặc không phải Ấn đều hiểu và tôn trọng
khái niệm này. Carl Jung đã minh họa như sau: “Cuộc sống của chúng ta được dành
để đấu tranh cho hiện thực mà chúng ta mong muốn: tất cả hành động của chúng ta
74
bắt nguồn từ ước muốn. Đây là lí do để chúng ta làm việc, suy nghĩ. Nếu chúng ta
không thể thực hiện được mong muốn trong thực tại, chúng ta sẽ nhận được nó ít
nhất trong trí tưởng tượng” [33]. Điện ảnh Ấn Độ vì thế, là “sự tưởng tượng ở mức
cao nhất, một nhà máy đáp ứng lại các điều ước cho hàng triệu người dân Ấn Độ và
toàn thế giới”[46; trg.32].
Không phải vô cớ mà xứ sở của biển sữa và những câu chuyện kỳ lạ bất tận này
có được số lượng khổng lồ những bộ phim cho ngành điện ảnh đương đại. Hoàn
toàn có thể lý giải điều này bằng trí tưởng tượng phong phú của người Ấn Độ, dẫu
cho nền văn hóa này không ngừng tái hiện lại những cốt truyện cổ xưa trong những
hình thức mới của nghệ thuật, và điện ảnh không phải là ngoại lệ. Thêm vào đó,
kiểu phim riêng biệt của Ấn Độ, hòa trộn mọi yếu tố tinh hoa trong văn hóa lâu đời
của họ để tạo nên sức hấp dẫn riêng: những bài ca và điệu múa (đặc biệt là đồng
diễn tập thể), yếu tố hài hước và chất bi lụy, những cảnh quay tận dụng kỹ thuật
quay chậm các chi tiết và sự hoành tráng của những đại cảnh, tôn giáo và triết học
trong đời thực... đã trở nên những thành tố trong công thức của phim Ấn Độ mà các
nhà phê bình đã mượn món ăn quen thuộc có tính tổng hợp masala để gọi tên. Với
bộ phim Người yêu dấu, công thức ấy đã phát huy tác dụng của nó khi tạo nên sự
khác biệt với những bản chuyển thể khác của Những đêm trắng.
75
Chƣơng 3: TÍNH LIÊN VĂN HÓA Ở CẤP ĐỘ THỂ LOẠI
3.1. Phong cách đạo diễn
Trong chương 1, chúng ta đã thấy được những khả năng sáng tạo vô hạn của
chuyển thể từ văn chương đến điện ảnh, điều ấy cho phép ta nghĩ tới việc coi một
phiên bản phim chuyển thể cũng tương tự như một văn bản, chỉ khác ở điểm chất
liệu của nó không phải ngôn từ mà là màu sắc, âm thanh, hình ảnh, đường nét… và
nhà chuyển thể cũng là một nhà văn đồng sáng tạo. Vì vậy, phong cách của đạo diễn
sẽ quyết định trực tiếp đến sự biến đổi hình thức của bộ phim, tương đương với cấp
độ thể loại của văn bản. Trong mục này, chúng tôi sẽ bàn luận về phong cách riêng,
độc đáo của hai nhà làm phim Robert Bresson và Bhansali gắn với xu hướng làm
phim mà họ hướng tới trên nền tác động của văn hóa nơi hun đúc tâm hồn họ.
3.1.1. Robert Bresson và Làn sóng mới tại Pháp
Những đêm trắng được viết ở dạng hồi kí tự thuật với dung lượng chỉ hơn 100
trang, song ta không có cảm giác bị ngắt quãng hay tỉnh lược về mặt tự sự hay cảm
xúc. Đặc biệt thể loại hồi kí này đã mang đến cho người đọc những rung cảm vô
cùng sâu sắc về thế giới cảm xúc nhìn từ bên trong nhân vật. Song khi chuyển thể,
Bốn đêm của kẻ mộng mơ lại hiện hữu trong một “hình hài” mới với nhiều nét tỏ ra
xa lạ với văn bản nguồn. Điều này bắt nguồn từ một phong cách làm phim độc đáo
của đạo diễn.
Bresson sinh ngày 25/11/1901. Ông là đạo diễn người Pháp được biết đến với
phong cách độc đáo và thuần khiết. Robert Bresson không xếp mình vào Làn sóng
mới, song, ông có đóng góp rất lớn cho nghệ thuật điện ảnh và là người có ảnh
hưởng rất lớn tới Làn sóng mơi tại Pháp. Ông được mệnh danh là nhà làm phim lỗi
lạc bậc thầy (sau Jean Renoir) . Colin Burnett cho rằng “Robert Bresson và Jean-
Luc Godard đóng vai trò nòng cốt trong sự sống còn và phát triển của điện ảnh Pháp
những năm 1950, 1960” [21]. Họ đã tạo nên nguồn cảm hứng và những cách thức
làm phim riêng biệt, giúp định hình khái niệm new wave tại Pháp. Trước Làn sóng
mới, điện ảnh thường bị coi là nhiễm tính văn học, sự hấp dẫn của điện ảnh đôi khi
76
là sự hấp dẫn của văn học. Làn sóng mới ra đời sẽ định hình lại sức hấp dẫn của
điện ảnh. Ở khía cạnh cạnh này, có thể coi Làn sóng mới là Chủ nghĩa hình thức
trong điện ảnh. Tại đây, các đạo diễn đi tìm đặc trưng kể chuyện của điện ảnh qua
việc khai thác thăm dò khả năng kể chuyện của khuôn hình, chuyển động máy quay,
montage...Làn sóng mới tuy là một nhóm những nhà làm phim có phong cách riêng
biệt, song họ vẫn tìm gặp gỡ nhau ở những kĩ thuật thịnh hành như không gian thủ
đô trong thiết lập khung cảnh, tăng cường nghệ thuật điện ảnh có lối kể chuyển mở,
kỹ thuật khuôn hình tĩnh để diễn tả một tình huống không thể giải quyết được hay
việc chia nhỏ những cảnh quay dài đang hấp dẫn thành những cảnh quay cận cảnh
một cách đột ngột…Cũng như các nhà làm phim Làn sóng mới khác, Bresson tự đặt
ra cho mình câu hỏi thế nào là điện ảnh?. Ông đã trả lời điều ấy bằng quan niệm và
kỹ thuật điện ảnh. Trước hết, ông kịch liệt phản đối những bộ phim mang đến sắc
thái kịch của nhà hát. Những khái niệm về dàn cảnh và phong cách riêng của tác giả
được ông đặc biệt quan tâm và tìm tòi cho mình một cách biểu hiện định hình. Ông
luôn sẵn sàng đi tìm khả năng của điện ảnh ngay trong lĩnh vực còn nhiều ràng buộc
là chuyển thể. Quan niệm này dẫn đến yêu cầu khắt khe của Bresson trong chỉ đạo
diễn xuất nhân vật. Trong bộ phim Lacncelot de lac, không tồn tại kiểu diễn truyền
thống, kể cả những điều xúc động nhất cũng được nói ra bằng giọng trung tính
(monotone) với sự thiếu hụt biểu cảm trên khuôn măt. Những diễn viên dường như
nói với chính mình. Ông không bao giờ làm việc với diễn viên chuyên nghiệp, bởi
theo ông, họ thuộc về nhà hát. Ông thường gọi họ là models và thường thử vai họ
bằng việc bắt họ nói rất dài. Ông đề ra quy tắc: No actors (No directing of actors).
No parts (No learning of part). Từ đó, dẫn đến No staging- sự loại bỏ thấu triệt tính
kịch của nhà hát. Ông muốn diễn viên của mình là một model thay vì một actor.
Giữa hai khái niệm này có sự đảo chiểu về biểu hiện và nội tâm. (Models: sự
chuyển đổi từ ngoài vào trong (interior); actors: sự chuyển đổi từ trong ra ngoài) .
Điều này tạo nên sự lãnh đạm trong phim, bởi với Robert Bresson, khi diễn viên
không phản ứng thì cảm xúc của người xem sẽ tăng lên gấp bội. Việc lựa chọn
những diễn viên không chuyên này rất phổ biến trong các bộ phim của Làn sóng
77
mới. Ống kính máy quay của đạo diễn giống như máy ảnh của nhà báo, ghi lại
những chân thực và tự nhiên nhất của một đối tượng. Kỹ thuật quay phim của
Bresson có nhiều điểm tương đồng với Làn sóng mới bao gồm việc quay phim từ
góc xa, dùng những cảnh quay lia để quay được hành động, sử dụng ống kính máy
ảnh để có thể phóng đại các chi tiết hay kỹ thuật quay cận cảnh và đảo hướng. Các
nhà làm phim trẻ đã tận dụng tối đa sức mạnh của dựng phim tách mảng và không
liên tục. Kỹ thuật ấy xuất hiện rất nhiều trong phim của Bresson.
Chúng ta có thể thấy những biểu hiện này trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ với
tư cách một phim được thực hiện theo phong cách phóng sự (chúng tôi tạm dịch từ
khái niệm “camera pen” [4]), từ đó, tỉnh lược đi toàn bộ lời dẫn về cá nhân, thời
gian kết nối hay lối diễn giải biên niên cho bộ phim
3.1.2. Bhansali với thể loại phim nhạc kịch Ấn Độ
Như những bộ phim đại chúng khác, Người yêu dấu thuộc thể loại nhạc kịch
pha trộn giữa hài hước, tình cảm cùng những đặc trưng không thể trộn lẫn của phim
nhạc kịch Ấn Độ. Nó hoàn toàn đã tái sinh trong một hình thức rất bản địa so với
văn bản nguồn trước khi đến với độc giả trong và ngoài nước, đặc biệt là thị trường
Hollywood.
Sanjay Leela Bhasali được xem là Đạo diễn Ấn Độ với nhiều chiến thắng ở các
giải thưởng trong nước, người mà sau mỗi bộ phim của mình lại tăng thêm danh
tiếng sự nghiệp trong vòng 10 năm qua. Ông là đạo diễn không hề lo lắng khi phải
thử nghiệm một hình thức mới cho phim. Trong bài bình phim hằng tuần tháng
11/2017 về Người yêu dấu, nhà phê bình phim David Chute nói rằng: “Quá khứ của
điện ảnh Ấn Độ gặp sự hiện diện của nó trong bộ phim Saawariya. Trong giai đoạn
mà những nhà làm phim tân thời bị kêu ca về phong cách làm phim Mĩ, lược bỏ đi
những bài hát và thay bằng xúc cảm nhạo báng, đạo diễn như Bhansali vẫn duy trì
quyết tâm đưa Điện ảnh phổ thông Ấn Độ tiến về phía trước trong khi vẫn bảo tồn
những những quy ước độc đáo của nền công nghiệp phim mà cũng là thể loại” [26].
Người ta thường nhớ đến phim Bollywood như một tổng hợp của cốt truyện và
những màn vũ đạo đan xen dày đặc. Điều này xuất phát phong cách múa truyền
78
thống Ấn Độ. Vào cuối thập niên 1950, các điệu nhảy theo nhóm bắt đầu phát triển
trong các bộ phim Bollywood. Sau đó, đến thời đại của phim màu, tuy xuất hiện các
vũ công, diễn viên tuyệt vời như Geetanjali, Sandhya, Helen và Mahipal nhưng các
động tác nhảy múa vẫn theo phong cách cổ điển. Phim Bollywood bắt đầu thay đổi
trong những năm 1970. Phong cách múa Cabaret đã trở thành xu hướng chủ đạo và
được thực hiện trong nhiều bộ phim. Sau này, Cabaret đã được thay thế bằng Disco,
vốn được coi là một hiện tượng trên toàn thế giới vào thời điểm đó. Âm nhạc dần
trở thành một phần quan trọng của bộ phim. Những bộ phim Ấn Độ chưa bao giờ có
sự phân loại về ca kịch, tất cả đều xếp vào nhóm ca kịch. Thực tế rất hiếm có bộ
phim nào mà không có bài hát. Bộ phim đầu tiên có tựa đề Alam Ara, do Ardeshar
Irani xây dựng, nhưng bộ phim nói thứ 2 với tựa đề Indra Sabha có vô vàn bài hát
và điệu múa. Phim thường được xây dựng trên nền các vở kịch của Nhà hát Parsi-
Urdu ở Bombay hay nhà hát Bengal ở Calcutta. Lời thoại trong phim thường rất
bóng bẩy và diễn theo kiểu kịch Melo. Cốt truyện chính trong các bộ phim Ấn Độ
những năm 1940 là bi kịch thì trong đó nhân vật chính thường tỏ ra bất lực. Đến
giai đoạn 1960-1970, tâm trạng lạc quan, trong sáng trở thành yếu tố chủ đạo.
Mỗi đạo diễn đều chịu ảnh hưởng của phong cách thời đại, đồng thời từ những
quan điểm văn hóa mà sau đây, qua việc tìm hiểu kỹ thuật làm phim, luận văn sẽ chỉ
ra được sự khác biệt ấy.
3.2. Kỹ thuật làm phim
Với hai phong cách hoàn toàn độc lập và riêng biệt, hai nhà làm phim đã sử
dụng những kỹ thuật làm phim khác nhau cho bộ phim chuyển thể của mình nhằm
diễn đạt một cách kể chuyện mang đậm phong cách riêng cũng như bản sắc văn hóa
đất nước mình. Trong mục này, chúng tôi không đi vào phân tích toàn bộ những kỹ
thuật làm phim, mà chỉ tập trung vào khung cảnh trong dựng phim và ánh sáng màu
sắc của khuôn hình. Mong rằng, khảo sát này sẽ giúp chúng ta hình dung ra được
phần nào về tác động của liên văn hóa tới hình thức của một bộ phim chuyển thể.
79
3.2.1. Khung cảnh
Từ nền móng đầu tiên của Mélies, điện ảnh đã hình thành được cho mình những
thành tố nội tại của dàn cảnh. Đầu tiên, phải kể đến khung cảnh, đó là không gian
nơi cảnh phim diễn ra. “Nhà làm phim có thể lựa chọn một địa điểm sẵn có để dàn
dựng hành động, hoặc có thể tạo ra không gian trong xưởng phim”[11, trg.234].
Khung cảnh vốn được biết đến như một phông nền cho việc làm phim, nó mang
tính minh họa và gắn chặt với việc giải thích hành động, làm cho hành động trở nên
có lí. Tuy nhiên, khung cảnh cũng cất tiếng nói riêng trong việc tạo nên ngôn ngữ
điện ảnh.
Khung cảnh trong Những đêm trắng gồm không gian phòng tranh của Jacque
(khung cảnh nội) và đường phố Paris (khung cảnh ngoại). Tỉ lệ khung cảnh ngoại có
phần áp đảo khung cảnh nội. Mở đầu phim là cảnh Jacque ra hiệu xin đi nhờ xe.
Tiếp đó, màn hình chuyển sang cảnh những dãy chung cư đang được xây dựng dang
dở.
Những dãy chung cư đang xây dựng dang dở
Khung cảnh trên gợi nhắc về chính sách qui hoạch thành phố Paris từ những
năm 1950, 1960. Vào thời gian đó, hình ảnh những dãy nhà chung cư tồi tạn, mục
nát bị phá bỏ và được hoàn thiện, xây mới diễn ra ở rất nhiều nơi. Cùng với đó là sự
qui hoạch lại các con đường. Lần đầu tiên, đường phố Paris có sự hiện diện của
đường vỉa hè. Nhờ đó, người dân Paris cũng trở nên thích đi bộ hơn. Hình ảnh
những dãy nhà chờ hoàn thiện, nằm chỏng chơ, phô bày ra khung xương bê tông và
80
sự tấp nập trên các vỉa hè đã trở nên quen thuộc với người dân. Robert Bresson mở
đầu bộ phim của mình bằng một khung cảnh Paris đang ở ngưỡng của sự đổi thay
đã thể hiện sự quan tâm của ông với khung cảnh đô thị. Qua đó, ta thấy sự xác lập
một khung cảnh chủ đạo trong phim của ông- khung cảnh phố phường Paris. Ta đã
biết các được rằng các nhà làm phim Làn sóng mới rất yêu thích khung cảnh thủ đô
này. Sự cầu kì trong dàn cảnh khung cảnh được thay thế bằng việc để diễn viên của
mình hòa vào dòng người lưu thông trên đường phố. Với những máy quay nhỏ gọn,
một phát mình của thời kì Làn sóng mới, các nhà làm phim giờ đây có thể xuống
phố. Quá trình làm phim đồng nghĩa với quá trình theo sát bước chân của diễn viên
trong khi ghi lại quang cảnh đường phố một cách tự nhiên nhất. Các diễn viên xuất
hiện chỉ như một sự tình cờ lọt vào khuôn hình. Một ví dụ điển hình cho phong cách
làm phim này là bộ phim Nadja in Paris (1964) của đạo diễn Éric Rohmer. Nadja là
một sinh viên sắp tốt nghiệp, cô là một nhân vật có thật và đồng ý trở thành diễn
viên trong bộ phim ghi hình trực tiếp về cuộc sống của mình. Cô luôn muốn mở
rộng và khám phá các mối quan hệ của mình, với cả giới trí thức và giới lao động
bình dân. Cô thường đến quán café để trò chuyện với những người đàn ông, thậm
chí có cả những thân mật suồng sã. Khi Rohmer hô diễn, Nadja bắt đầu sống cuộc
sống của mình. Cuộc đời của Nadja qua máy quay của Rohmer mang tính chất của
một bộ phim tài liệu. Ống kính may quay ghi được hầu hết những biểu hiện của cô,
song, ngay trong lúc đó, ánh mắt của Nadja về sự hoài nghi, trống rỗng trước những
mối quan hệ này cũng hiện lên khuôn hình một cách đầy tự nhiên. Điều này cho
thấy, đôi khi cô thực sự quên rằng cô đang ở trong khuôn hình. Sự tinh tế của
Rohmer thể hiện ở những cận cảnh ngay đúng lúc nét buồn bã ánh lên. Như thế, lối
làm phim ghi chép lại tình cờ câu chuyện của một thị dân vô danh đã tự động sản
sinh kịch bản, trở thành bộ phim dành tặng cho những con người Paris đang tìm
kiếm câu trả lời cho sự hoài nghi tuổi trẻ. Bộ phim cuối cùng mang đến một thông
điệp rằng, chính đường phố Paris đã dạy cho Nadja thấu hiểu về bản thân mình, hơn
là chúng ta học được gì từ thành phố. Sự chiếm lĩnh của không gian đường phố trở
thành cách để đạo diễn thể hiện những phát hiện của mình về mối quan hệ liên cá
81
nhân và tính cách của nhân vật. Kẻ mộng mơ Jacque luôn gắn với những lộ trình
trên đường phố Paris. Jacque rất ít khi được tái hiện trong trạng thái tĩnh. Anh ta
luôn di chuyển và dành hầu hết thời gian của mình để di chuyển trên những tuyến
đường trong thành phố. Ở trường đoạn Câu chuyện của Jacque, mở đầu là cảnh
Jacque bước từ ga tàu điện ngầm ra. Điều này ngầm ẩn rằng trước đó anh ta đã thực
hiện một chuyến đi để tiếp tục một chuyến đi khác. Trong định nghĩa mang tính
phản thân, kẻ mộng mơ Jacque đã tự gắn cuộc đời mình với những lộ trình Paris.
Jacque bước ra khỏi nhà ga để tiếp tục lộ trình
Hành trình của Jacque dường như cũng giống hành trình của Nadja. Anh ta
xuống phố để tìm kiếm niềm vui, sự giao kết, cuối cùng, để hiện thực hóa những
mộng tưởng tình ái của mình. Những khung cảnh gắn liền với lộ trình của Jacque là
những nơi mà các nhà làm phim Làn sóng mới rất ưa thích. Đó là cầu thang đi lên từ
nhà ga, sông Sein, những quán café, nơi thị dân Paris có thể quan sát mọi người và
chính họ cũng bị quan sát. Lưu lượng người tập trung ở những địa điểm này luôn
cao, chính ở đó, tự sự của điện ảnh Làn sóng mới tìm thấy được những mẩu đối
thoại (dù không lời hay có lời) của hồn cốt Paris. Trong một phim khác của Éric
Rohmer, Cô gái ở tiệm bánh đường Monceau, người trần thuật không tên tình cờ
gặp Sylvia trên phố và ngay lập tức bị hấp dẫn. Anh ta lập kế hoạch theo đuổi cô và
nghĩ rằng cô cũng có thiện cảm với mình. Một lần tình cờ, người trần thuật gặp lại
Sylvia trên phố. Anh ta cố gắng bắt chuyện với cô nhưng cô nhanh chóng bỏ đi, hòa
82
vào dòng người đông đúc. Từ đó, anh luôn chờ tại cung đường này, hi vọng gặp lại
cô. Nhưng Sylvia chẳng bao giờ đi qua đó nữa. Người kể chuyện sau khi đi lang
thang tìm kiếm cô, đã nảy sinh tình cảm với một cô gái bán bánh ngọt trên đường
Lebouteux. Trong một lần hẹn hò, anh gặp Sylvia. Hóa ra, cô sống đối diện với hiệu
bánh ngọt. Chúng ta không biết tại sao Sylvia không đi qua cung đường đó thêm
một lần nào nữa. Rohmer không giải đáp, bởi ông cho rằng, đó chính là sự giao tiếp
trong xã hội Paris hiện đại. Đường phố Paris nhỏ hẹp, nhưng vẫn sẽ luôn có hàng
trăm lối đi khác đẩy chúng ta rời xa nhau, lặn mất tăm và cuối cùng chỉ còn lại kí ức
và những con đường. Hành trình đi của các nhân vật trên đường phố ở điểm này đã
bộc lộ một dự cảm về liên hệ cá nhân với cá nhân, về tình yêu trong xã hội đương
thời. Đây có thể được xem là cuộc hội thoại không lời của thành phố Paris. Kẻ
mộng mơ Jacque khi đuổi theo những người con gái đẹp trên phố cũng đã vẽ ra
những cung đường, nhưng đối tượng của anh luôn đi theo những cung đường ngược
lại. Giữa Jacque và họ không hề có điểm giao kết. Chỉ khi anh gặp Marthe, điểm
đầu và điểm cuối lộ trình của kẻ mộng mơ và một người con gái lần đầu trở nên
trùng khít. Điều ấy chứng tỏ sự nối kết đã bắt đầu được thiết lập.
Trái ngược với phong cách phim phóng sự, khước từ khung cảnh nhà hát của
đạo diễn người Pháp, phiên bản phim Ấn Độ của Bhansali hoàn toàn được quay
trong các khung cảnh nhân tạo. Toàn bộ khung cảnh phim được thiết lập trong 8
trường quay nhằm diễn tả một thế giới ảo tưởng (fantasy) trong phim.
Charles Affron trong Thiết lập khung cảnh đã đưa ra 5 mức độ của khung cảnh:
1. Thiết lập như là dấu hiệu (denotation) trong đó "sự bày trí biểu đạt tường
thuật ở mức thấp" [24, trg.37].
2. Thiết lập như là quy tắc trong đó "khung cảnh mờ đi khi chúng trở nên cụ thể
và dễ đọc thông qua việc dàn dựng và chụp ảnh" [24, trg.38].
3. Thiết lập như là sự tô điểm trong đó thay vì "định vị câu chuyện theo thời
gian và không gian và tâm trạng, trang trí đôi khi tiến một bước xa hơn ở cấp độ 2
trong việc hỗ trợ và tăng cường tường thuật" [24, trg.38]
83
4. Thiết lập như là tự sự trong đó "những bộ phim khác thường mà trường đọc
được soạn ra trong một không gian duy nhất [...] những sự bày trí độc đáo [...] trở
thành bộ phận chủ yếu và đáng kinh ngạc" [24, trg.39].
5. Thiết lập như là sự bài trí tinh xảo là những khung cảnh "mang đặc quyền
tinh xảo của chính nó" (Affron 39), và ở cấp độ này, khung cảnh như sự xếp đặt tinh
xỏa, mà Bhansali nhắm đến ở Saawariya sẽ "hiệu ứng huyền ảo" [24, trg.39].
Việc thiết lập một khung cảnh hoàn toàn nhân tạo như vậy sẽ tạo dễ dàng truyền
tải về một không gian huyền hoặc mang tính ảo tưởng cho bộ phim. Bhansaly,
khước từ khung cảnh tự nhiên của đường phố đô thị để tiến tới kiến tạo một khung
cảnh mang “đặc quyền tinh xảo của chính nó”. Không gian bàng bạc cổ tích của
Người yêu dấu vì thế sẽ tự nhiên thu hút được sự chú ý của đại chúng Ấn Độ cũng
như thế giới, về một chốn “hương xa xứ lạ”, nơi có sự pha trộn giữa những nét châu
Á và châu Âu trong kiến trúc, bối cảnh thành phố, quán bar, quảng trường song lại
không phải bất cứ đâu trên bản đồ vật lý. Nó trở thành không gian của tâm tưởng,
một sản phẩm được sản xuất ra phục vụ cho nhu cầu “mơ ước của nhân dân Ấn
Độ”. Ta bắt gặp ở đây cả những nét huyền thoại trong các tác phẩm sử thi với lời kể
chuyện của cô gái điếm Gulab. Hình thức sử thi thường được người đời sau kể lại
cho con cháu nghe về giai thoại các vị thần và những chiến công của họ. Tại khung
cảnh ảo tưởng này, Raj cũng hiện lên qua lời kể của Gulab như một thiên thần,
người mang đến cho thị trấn một luồng gió mới biểu tượng tình yêu đích thực
thiêng liêng. Do đó, Saawariya có nghĩa là "Người yêu dấu", nhưng anh không chỉ
là người yêu. Anh ta là vị thần tối tăm, nhuốm màu xanh da trời (savla) như nước da
của chàng Krishna mục đồng trong Mục tử ca, người được tôn sùng là Saawariya.
Saawariya là người yêu dấu luôn luôn sống trong tình yêu. Nhưng không phải người
yêu nào cũng có thể đủ điều kiện là Saawariya. Chỉ có người yêu đứng trước thử
thách của thời gian, vượt qua mọi trở ngại, người không quan tâm liệu anh ta có lấy
được cô gái hay không ... miễn là anh ta thiêu đốt bởi tình yêu ... miễn là anh ta còn
ở lại một trạng thái vĩnh viễn của người đang yêu. Người đàn ông, người tình hiếm
hoi đó, là Saawariya.
84
3.2.2. Ánh sáng và màu sắc
Theo cuốn Ngôn ngữ điện ảnh, “ánh sáng chính là yếu tố tạo nên tính biểu hiện
của hình ảnh, ngoài chiếc máy quay phim, nhằm tạo ra “không khí”- một yếu tố rất
khó phân tích.“Ánh sáng dùng để tạo ra hình khối cho các mặt phẳng của đối tượng
quay, gây ấn tượng và chiều sâu của không gian, đem lại cho người xem cảm giác
về không khí của cảnh quay, tính hấp dẫn và trong trường hợp cần thiết, còn đạt
được cả một số hiệu quả kịch tính.”[4, trg.62]. “Màu sắc có được nhờ vào sự bố trí
ánh sáng. Màu sắc có thể coi như một phép ẩn dụ về cuộc sống vật chất, nhục dục,
sắc giới hay sức mạnh. Màu đen trắng giúp phân biệt thực tế với tưởng tượng, quá
khứ với hiện tại. Trong nhiều bộ phim, màu sắc tượng trưng cho sự đau đớn, xung
đột, phù du, cảm giác tự vấn…”[10]. Bốn đêm của kẻ mộng mơ là một trong những
bộ phim màu đầu tiên của Robert Bresson. Cách thức đạo diễn này xử lí ánh sáng
mang đậm tính ẩn dụ.Trong Những đêm trắng, niềm vui của kẻ mộng mơ khi lạc
bước và hòa mình vào thiên nhiên được thể hiện qua lời trần thuật: “Tôi lang thang
rất nhiều và rất lâu đến mức, như thường lệ, đã kịp quên mất mình đang ở đâu, thì
bất chợt thấy mình đã đứng ngay cửa ô. Tôi lập tức cảm thấy sảng khoái; và tôi vội
vã vượt qua rào chắn, dạo bước giữa những thửa ruộng đã gieo hạt và đồng cỏ,
không cảm thấy mệt mỏi, chỉ cảm thấy bằng toàn bộ thân thể là vừa trút đi được
một gánh nặng trong lòng. Tất cả những người qua đường đều nhìn tôi niềm nở đến
mức gần như sắp sửa cúi chào nhau; tất cả đều như vui sướng với một điều gì đó, tất
cả, không trừ một ai, đều hút xì gà. Tôi cũng cảm thấy trong lòng dâng lên một
niềm vui trước đây tôi chưa hề. Dường như đột nhiên tôi được đến Italia - thiên
nhiên đã tác động mãnh liệt đến tôi, một kẻ thị dân ốm yếu đang gần như ngột thở
giữa những bức tường thành phố” [5, trg.5]. Cảm xúc đó của kẻ mộng mơ qua ống
kính máy quay của Robert Bresson trở thành những trung và đại cảnh về thiên
nhiên:
85
Thay vì sử dụng giọng dẫn thoại hay chính là giọng trần thuật trong Những đêm
trắng, màu sắc góp phần diễn tả niềm vui sướng của Jacque, giống như bức tranh
thiên nhiên đang rực rỡ dưới ánh nắng ban ngày.
Robert Bresson dường như có xu hướng phân bố bố trí ánh sáng thành nhiều
tâm điểm rồi làm mờ chúng đi vào hậu cảnh. Điều này tạo ra hiệu ứng thu hút tối đa
với điểm nhìn người xem, khi dàn cảnh luôn chọn những nguồn ánh sáng rực rỡ
nhất của thành phố nhưng sau đó lại mờ hóa chúng. Nó tạo ra những khoảnh khắc
như khi chúng ta nhìn sâu vào một vật thể, vật thể đó dần sẽ nhòa dần đi, trở nên
mờ nhòe đến mức méo mó hình dạng ban đầu. Trong những cảnh đầu tiên, Bresson
đã đưa lên khuôn hình một loạt những trung cảnh có tính chất này:
Jacque xuống xe trước cổng hiệu thuốc để vào thành phố. Tiêu cự từ máy quay
đến cửa hiệu thuốc rất xa, tạo nên sự mờ nhòa về màu sắc rực rỡ của những bóng
đèn điện
86
Cảnh tiếp theo, đèn đường và những nguồn ánh sáng khác trong đêm bị làm mờ đi
Cảnh tiếp theo, khi Jacque đến cứu Marthe khỏi ý định tự tử. Đèn đường phía
sau cô bị làm mờ đi.
Nếu vẻ đẹp của Petersburg trong Những đêm trắng được tô điểm bởi một “bầu
trời đầy sao, một bầu trời lộng lẫy đến mức ngước nhìn lên nó ta phải bất giác tự hỏi
mình: chẳng lẽ những con người cau có, trái tính trái nết đủ loại lại có thể s ống dưới
một bầu trời như thế”...[5, trg.1] thì phiên bản chuyển thể Bốn đêm của kẻ mộng mơ
không có một ngoại cảnh nào miêu tả vẻ đẹp của bầu trời. Thay vào đó, Bresson tìm
kiếm và thu vào khuôn hình những đốm sáng của thành phố Paris hiện đại. Nhà làm
phim đã biến vẻ đẹp lộng lẫy của thiên nhiên Petersburg thế kỉ 19 thành những vẻ
đẹp nhân tạo từ các nguồn sáng trong thành phố. Những dàn cảnh ánh sáng này đã
góp phần khắc họa lại một Paris đầy thơ mộng khi đêm xuống, khơi gợi được vẻ
đẹp cổ điển, hài hòa trong tiềm thức của người xem về kinh đô ánh sáng Paris.
Trái lại, ánh sáng chủ đạo trong Người yêu dấu hoàn toàn là ánh sáng của buổi
đêm, ánh sáng lung linh của biển hiệu nơi quán bar, ánh sáng mờ ảo hiu hắt của ánh
đèn đường, và ánh sáng mặt trăng thần thánh chiếu sáng những đêm đầy thi vị khi
Raj gặp Sakina. Màu sắc chủ đạo trong tất cả các bối cảnh là màu xanh. Bhansali
giải thích “Đó là màu xanh lá ánh dương (blue-green), màu sắc lông chú công của
87
Krishna. Màu xanh lá ánh dương luôn là biểu tượng tình yêu với tôi. Nó là sự màu
sắc nguội lạnh, điềm tĩnh. Cả bộ phim là một sự tìm tòi các cấp độ của màu xanh”.
Trong một phỏng vấn tương tự, Bhansali nói về 9 rasa, rằng ông luôn bị hấp dẫn
bởi Shringara rasa (cảm thức tình ái), cùng với đó là viraha (niềm đau đớn chia li),
một phần trong Shringara rasa. “Tất cả các bộ phim của tôi đều được thực hiện với
hai yếu tố này. Đó là lí do vì sao rất nhiều bộ phim của tôi là rất hoa mỹ vì
Shringara và viraha dẫn đến sự hoa mỹ” [35]. Coi trọng Rasa tình ái hơn cả, tập
trung xoay quanh nó bằng tất cả những thủ pháp khơi gợi, chính là yêu cầu cốt lõi
đã xuyên suốt mỹ học cổ điển với các nhà lý luận Ấn Độ. Vì thế, khi khẳng định
điều này, Bhansali đã tuân thủ nghiêm ngặt truyền thống của mỹ học Ấn Độ vốn
xuất phát từ những vở ca kịch và thể loại đã phát triển mạnh mẽ ấy vẫn để lại
nguyên vẹn dấu vết trong phim Ấn Độ hiện đại.
Vậy rasa là gì? Giữa rasa và cách xử lí màu sắc của bộ phim có quan hệ ra sao?
Trước hết, ta cần biết rằng rasa là một từ không có liên quan gì tới ngôn ngữ Anh,
và nếu không hiểu sâu sắc khái niệm quan trọng này, sẽ rất khó khăn để hiểu được
lý thuyết kịch nghệ viết bằng tiếng Sanskrit này. Vì vậy, các học giả thường sử
dụng thuật ngữ nguyên bản được dịch từ tiếng Sankrit, thành ra, rasa như là sự thiết
yếu để khu biệt giữa những trải nghiệm cảm xúc hàng ngày và những trải nghiệm
trong nhà hát. Rasa là trung tâm tính của Natyashastra, học thuyết sớm nhất về kịch
và thơ ca Ấn Độ (thế kỉ thứ I trước công nguyên đến thế kỉ thứ I sau công nguyên),
được cho là do triết nhân Bharata viết, có lẽ bởi vì, ông là người đầu tiên đưa những
những hướng dẫn cụ thể này vào công trình. Giống như Aristole, cha đẻ của thơ ca
Hy Lạp, Bharata được xem là cha đẻ của thơ ca Ấn Độ với tác phẩm Natyshastra.
Nhưng trong khi thi pháp thơ của Aristotle dài khoảng 100 trang, Natyshastra là
một bộ bách khoa về kịch và thơ ca, với những hướng dẫn chi tiết không chỉ hành
động và nghệ thuật viết kịch, kĩ thuật trang điểm, trang phục, khí cụ và đồ dùng sân
khấu, nhưng cũng ghi rất rõ về cấu trúc của khu vực biểu diễn. Rasa được miêu tả
cơ bản như là những trải nghiệm mĩ học, Bharata sử dụng sự tương tự từ ẩm thực
Ấn Độ nơi mà những vị và nguyên liệu khác nhau được trộn lẫn với nhau để tạo nên
88
một món ăn. Vì vậy, ý nghĩa rõ ràng nhất của rasa theo nghĩa vật lý, tuy nhiên, là
nước ép (ras); trong nghĩa thứ hai, nó là mùi hương “essence” giống như nước hoa,
vì thế nó rất khó để miêu tả. Tuy nhiên, chính là nghĩa thứ ba “sự nếm của mùi vị”,
hương vị hay sự hứng thú liên quan đến tiêu thụ, thường được kết hợp với người
nếm được gọi là rasika, nhưng trong hầu hết dạng thức tinh tế của nó, ý nghĩa gần
giống với trải nghiệm mĩ học. Rasa, vì vậy, biểu hiện trạng thái cảm xúc của sự hại
hài lòng hoặc khoái cảm được gia tăng (anada), gần tới niềm hạnh phúc cao cả. Vì
vậy, Rasa là phẩm chất bên trong và bên ngoài như là đối tượng của sự cảm nhận,
hương vị của đối tượng, khả năng của người thưởng thức (taster) và tán thưởng nó,
niềm hân hoan và sự “nếm” hương vị. Trải nghiệm tâm lý của “sự nếm” cung cấp
điều cơ bản cho lý thuyết của trải nghiệm mĩ học mà lần lượt cung cấp nền cho sự
hệ thống hóa của trải nghiệm tôn giáo.
“Rasa chính là bản chất (essence) trong ẩm thực mà cung cấp cho người nếm
cảm giác, trải nghiệm mĩ học được tạo lập thông qua cơ thể, sau đó, trở thành
phương tiện của việc đạt tới mục đích tinh thần của niềm hạnh phúc cao cả hoặc Ananda” (Goswamy, pg 19). 4
Theo Naty-shastra, có tám màu sắc Rasa. Màu xanh – đen (tượng trưng cho
tình ái/shringara), màu trắng (sự vui vẻ/hasya), màu xám (sự đáng thương/karuna),
màu đỏ (sự giận giữ), màu vàng (sự anh hùng/vira), màu đen (sự sợ hãi/bhayanaka),
màu xanh (sự ghê tởm/bibhasta), sắc vàng (sự tuyệt hảo/adbhuta), và màu rasa thứ 9
(có lẽ được giới thiệu về sau này), là màu của hoa nhài và ánh trăng (shanta). Các
màu này có thể được kết hợp với nhau với những màu sắc bổ sung khác, để tạo nên sự tương phản về mặt cảm xúc.
4 B.N.Gosamy (1986), Rasa: Delight of the Reason, in Essence of Indian Art,
Ví dụ, trong khung cảnh góc phố, cây cầu, nơi Raj lần đầu gặp Sakina, chúng ta sẽ thấy sự lấn át của màu xanh phối hợp với các màu rasa khác như sau:
San Francisco CA, Asian Art Museum of San Francisco.
89
Màu sắc chủ đạo Tâm trạng chủ đạo (Dominant Bhava)
Xanh đen ánh dương, Tình yêu xám, vàng, đỏ
Còn trong phiên bản gốc Những đêm trắng, khung cảnh được Dostoevsky phủ
lên màu sắc chủ đạo của màn đêm Peteburg vào khoảng 10 giờ đêm, điểm xuyết
thêm màu vàng từ trang phục của Nastenka hay mái tóc và hàng mi đen đẫm lệ của
cô. Màu sắc hoàn toàn không đóng vai trò như một hình thức bài trí mang lại cảm
thức về tình yêu giống như trong Người yêu dấu. Như vậy, theo các cấp bậc của
việc bài trí khung cảnh phim, thì Người yêu dấu đang ở mức số 5, với việc sử dụng
màu sắc một cách có dụng ý qua việc bố trí hệ thống đèn chiếu không gian, sắp đặt
và tô điểm các không gian để tạo ra ám chỉ về cảm thức tình ái trong tác phẩm, điều
mà văn bản nguồn chỉ coi như một yếu tố tự nhiên theo diễn tiến câu chuyên và bản
chuyển thể phim Pháp chỉ coi như một sự tô điểm cho tâm trạng hay vẻ đẹp của
thành phố.
Có thể thấy rằng, cách xử lí màu sắc và ánh sáng của ba tác phẩm Những đêm
trắng, Bốn đêm của kẻ mộng mơ và Người yêu dấu đã phản chiếu được sự khác biệt
văn hóa trong quan niệm về tình yêu và các vấn đề liên quan. Sự thay đổi màu sắc
đã tạo ra một sợi dây vắt qua các nền văn hóa. Đi qua mỗi vùng đất khác nhau, sợi
dây đó lại được “nhuộm màu”, từ ít biến đổi đến biến đổi hoàn toàn. Nó tạo ra
những màu sắc rất riêng cho các phiên bản chuyển thể so với tác phẩm nguồn.
Thông qua sự biến đổi về mặt hình thức của một sinh thể chuyển thể so với tác
phẩm văn chương mà nó lấy cảm hứng đã cho phép ta vén bức màn văn hóa ngầm
ẩn. Giờ đây, mảnh đất hoang – chuyển thể đã không còn hoang vắng, mà trái lại, trở
thành nơi hòa thanh cho những bắt nối, đồng vọng của những quan niệm văn hóa
khác nhau tìm thấy sự đồng điệu trong cốt cách của nhau.
90
KẾT LUẬN
• Trong lịch sử điện ảnh, hoạt động chuyển thể đã ra đời song song với những
bước tiến của nó. Chuyển thể ngay từ khi ra đời đã gắn chặt sinh mệnh với nguồn
nội dung, đôi khi là cả hình thức-văn học. Sự sinh sau đẻ muộn của loại hình nghệ
thuật này là một trong những nguyên nhân khiến cho chuyển thể bị xếp vào hạng
hai và mất đi tính sáng tạo. Những yếu tố khác đẩy hoạt động chuyển thể ra khỏi
bản chất sáng tạo của còn xuất phát từ tâm lí đánh giá về bản quyền/cái tôi từ thời
Khai sáng. Điều này dẫn đến tâm lí coi phiên bản chuyển thể phim chỉ như một sự
thị giác hóa văn học. Nhà làm phim chỉ là người dùng những kỹ thuật cơ giới để tái
hiện những gì đã được nhà văn thể hiện từ trang giấy lên khuôn hình. Nhưng bản
thân việc chuyển thể đã bao hàm tính sáng tạo của, bởi mỗi một hệ thống đều có
những qui ước riêng, dù văn học và điện ảnh có thể chia sẻ với nhau mã tự sự thì
không bao giờ, chuyển thể là trọn vẹn. Gán đặc tính trung thành cho hành động
chuyển thể rõ ràng là không đủ để đánh giá một sinh mệnh nghệ thuật. Trong bối
cảnh thế kỉ 21, chuyển thể lại càng mới mẻ và phát triển và mở rộng đường biên
hơn nữa trong bối cảnh liên văn hóa. Chuyển thể lúc này đóng vai trò như một “khu
chợ thương mại” sầm uất và tự do, nơi thúc đẩy cho giao tiếp liên văn hóa diễn
ra.Tóm lại, chuyển thể cần được nhìn nhân như là diễn giải, và thậm chí là cả kiếp
sau, để từ đó, tạo tâm lí và kĩ năng để nhìn nhận chuyển thể ở góc độ linh hoạt và
nhạy bén hơn trong bối cảnh sẻ chia văn hóa diễn ra thường xuyên như hiện nay.
• Ứng dụng những quan niệm mở rộng về chuyển thể và mối quan hệ với giao
tiếp liên văn hóa đã cho phép ta khám phá khả năng tạo ra diễn giải, hậu kiếp dưới
góc nhìn văn hóa của Những đêm trắng trong trường hợp phim chuyển thể Bốn đêm
của kẻ mộng mơ và Người yêu dấu. Cơ chế nào thúc đẩy hướng đi của các bản
chuyển thể? Do sở thích và phong cách của đạo diễn? Do thời đại, xu hướng? Và ở
tầng sâu nhất là do những động cơ văn hóa ẩn tàng và chi phối xu hướng và mô
hình hành vi của mỗi quốc gia. Luận văn đã khám phá những động cơ ẩn tàng này
qua hai mức độ, hình tượng và hình thức (hay thể loại). Ở mức độ hình tượng, ta
thấy được sự khác biệt trong quan niệm phương Đông, mà cụ thể ở đây là Ấn Độ và
91
quan niệm phương Tây nước Nga thế kỉ 19 và nước Pháp những năm 1970 về thời
gian, không gian và cách các nhân vật phản ứng với nhau và với chính mình. Những
quan niệm văn hóa của mỗi quốc gia đã khắc họa lên phiên bản vô cùng sinh động
mang tính bản địa của quốc gia. Nhờ thế, đẩy hình tượng kẻ mộng mơ trong văn
bản nguồn ban đầu cập bến và được chào đón, yêu thích tại các nền văn hóa khác
biệt, ở những thời gian khác biệt. Ở cấp độ hình thức, luận văn không đi vào phân
tích toàn bộ những kết cấu mà chỉ tập trung vào các biểu hiện của kỹ thuật dựng
phim mà qua đó, ta thấy được sự sẻ chia, kế thừa hay viết lại, cấy ghép những tư
tưởng mới, đậm đà bản sắc văn hóa qua mỗi bản chuyển thể.
Chuyển thể dưới góc nhìn liên văn hóa không phải là một sự gây hấn hay mất
mát về dân tộc tính, về cái “ta riêng”, mà chính là phát triển “cái ta” ấy trong một
bối cảnh rộng hơn, để có thể trao đổi và viết tiếp những triển vọng của chính nền
văn hóa mình, làm cho nó trở nên đa dạng song vẫn tự tin và kiêu hãnh với cá tính
riêng.
• Qua phân tích và khảo sát hai phiên bản phim của Pháp là Bốn đêm của kẻ
mộng mơ và của Ấn Độ là Người yêu dấu, ta thấy được phiên bản chuyển thể
Pháp dường như hướng về phong cách cá nhân của chính đạo diễn (Làn sóng
mới) cùng với những cấy ghép về mặt chính trị xã hội đương thời, còn phiên
bản chuyển thể Ấn Độ lại có thiên hướng nghiêng về mặt tôn giáo, tín
ngưỡng cùng những quan niệm bản địa truyền thống về tình yêu, sự chung
thủy, đức hạnh hay thần linh. Người yêu dấu, khác với Bốn đêm của kẻ mộng
mơ, đã tự tách nó ra khỏi phông chính trị đương thời để chạm tới những khao
khát thầm kín mang tính miên viễn của dân tộc mình. Nó không còn là đại
diện cho một xu hướng làm phim như Làn sóng mới kén người xem mà trở
thành đại diện cho một bộ phim điện ảnh mang tính toàn dân của khán giả
Ấn Độ.
• Ứng dụng những kết quả trên, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu dòng chảy
của liên văn hóa trong bối cảnh đương thời tại Việt Nam và trên thế giới để
có thể dự đoán, đón đầu và thử nghiệm những khả năng của nó.
92
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2 [31, trg.232]
93
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Lộ Đức Anh (2013), Viết lại Alice: cải biên như một cơ chế văn hóa. Khóa
luận tốt nghiệp khoa Ngữ văn- Đại học Sư phạm Hà Nội.
2. Thái Phan Vàng Anh, “Toàn cầu hóa và xu hướng đa văn hóa, liên văn hóa
trong văn học (Nhìn từ văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XXI)”
https://www.khoanguvandhsphue.org/chi_tiet_hoat_dong.aspx?ID=8220&
nc=2&w=TOAN_CAU_HOA_VA_XU_HUONG_DA_VAN_HOA,_LIE
N_VAN_HOA__TRONG_VAN_HOC_(NHIN_TU_VAN_XUOI_VIET_
NAM_DAU_THE_KI_XXI).html . Ngày truy cập: 20/6/2019.
3. Berdyaev.N (2017), Thế giới quan của Dostoesky, Nguyễn Văn Trọng
dịch, NXB Tri thức.
4. Timothy Corrigan (2013), Điện ảnh và văn học, Nhiều người dịch, NXB
Thế giới.
5. Dostoevski Phedor (2011), Đêm trắng, Đoàn Tử Huyến dịch, NXB Lao
động- Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2011), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Giáo dục Việt Nam.
7. IU.M.Lotman (2007), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
8. Nguyễn Nam, Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo: Liên văn bản trong văn chương
và điện ảnh (website: vienvanhoc. org.vn ngày 9/3/2015)
9. Nguyễn Anh Ngọc (2011), Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật tự sự của điện
ảnh qua bộ phim “Brokeback mountain”, Khóa luận tốt nghiệp khoa Ngữ
văn- Đại học Sư phạm Hà Nội.
10. Thompson Kristin, Bordwell David (2007), Lịch sử điện ảnh, Nhiều người
dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Thompson Kristin, Bordwell David (2008), Nghệ thuật điện ảnh, Nhiều
người dịch, NXB Giáo dục.
95
Tài liệu tiếng Anh
12. Apter, Emily (2001), On Translation in a Global Market, Public
Culture 13: 1-12.
13. Jonathan Bailey, Nosferatu vs Dracula: A True Copyright Horror Story ,
PlagiarismToday. 7 Oct. 2007. Web. 26 Jan. 2013.
http://www.plagiarismtoday.com/2011/10/17/dracula-vs-nosferatu-a-true-
copyright-horror-story/
14. M M Bakhtin (1978), The Forms of Time and the Chronotopos in the
Novel, From the Greek Novel to Modem Fiction’ in PTL. A Journal for
Descriptive Poetics and Theory of Literature, 3.
15. Charles Bane (2006), Viewing Novels, Reading Films: Stanley Kubrick and
the Art of Adaptation as Interpretation, The department of English of
Louisiana State University.
16. Barthes Roland (1968), Elements of Semiology, Trans. Annette Lavers and
Colin Smith, New York: Hill and Wang.
17. Andre Bazin (1967), In Defense of Mixed Media: What Is Cinema?, Ed and
trans Hugh Gray vol I, 53-57, Berkeley: U of California P.
18. Bhansali Sanjay Leela. Director (2008), Saawariya 2017, Official Website
19. Bhawuk, D. and Triandis, H. (1996), “The Role of Culture Theory in the
Study of Culture and Intercultural Training”, Landis, D. and Brislin, R.W.,
Eds. Handbook of Intercultural Training, Sage, Thousand Oaks, pp.17-34.
20. Joy Gould Boyum (1985), Double Exposure: Fiction Into Film, New
American Library, 1989.
21. McFarlance Brian (1996), Novel to Film: An Introduction to Theory of
Adaptation, Oxford: Clarendon.
22. Colin Burnett (2014), Robert Bresson as a Precursor to the Nouvella
Vague: A Brief Historical Sketch, Volume 8, Issue 3/3/2004 at
www.offscreen.com
96
23. Michael Burton (2006), The femme fatale and fair maiden in Dostoevsky,
Pace University.
24. Leo Chan (2012), A Survey of the New Discipline of Adaptation Studies:
between Translation and Interculturalism, Department of translation,
Lingnan University, Hong Kong.
25. Affron Charles and Mirella Joan Affron (1995), Sets in Motion: Art
director and Film Narrative, New Brunswick, Rutgers University Press.
26. Corrigan Timothy (1999), Pens, Pulp, and the Crisis of the Word, 1940-
1960, In Film and Literature: an Introduction and Reader, Upper Saddle
River, New Jersey: Routledge.
27. Chute David (2007), Bollywood Bohème, L.A.Weekly.
< https://www.wired.com/2007/11/yet-another-sta/>
28. Olga Diliaktorskia (1966), Petrburgskaiapovest's Dostoevsky, St.
Peterburg: Dimitry Bulanin.
29. Alberta Edmonton (1999), Landscape Representations in Dostoesky's
Works- Dostoevsky's Use of Works of Art, University of Alberta.
30. Kermode Frank (1967), The Sense of an Ending: Studies in the Theory of
Fiction, Max Flexner Lectures 1965, London: Oxford UP.
31. Hall, ET (1966), The Hidden Dimension, New York: Doubleday.
32. Hamid Tatari (2014), The concept of Love in Dostoevsky's White Nights,
Department of English language and literature, University of Lorestan,
Iran.
33. Robert Louis Jackson (1996), Dostoevsky's Quest for Form. A Study of His
Philosophy of Art, New Haven and London: Yale University Press.224
34. Jung Carl Guvstav (1990), Dreams, The Collected Works of C.G.Jung,
1974 vols 4,8,12,16), Trans R.F.C Hull Princeton, Princeton University
Press.
97
35. Lynch Owen M.ed (30/9/2008), Divine Passions: The Social Construction
of Emotion in India, Berkeley: University of California Press 1990,
36. Naachgaana (2008), Bhansali Interview,
http://www.naachgaana.com/2017/11/04/an-interview-with-sanjay-leela-
bhansali/.
37. Plato (1998), The Symposium, trans by Robin Waterfield, Oxford
University Press.
38. Roffman Peter và Jim Prudy (1981), The Hollywood Social Problem Film:
Madness, Despair and Politics from the Depression to the Fifties,
Bloomington: Indiana University Press.
39. Paul Shrader (1977), Robert Bresson, Possibly, Film comment 13 no 5.
40. Sinyard, Neil (1986), Filming Literature: The Art of Screen Adaptation,
London: Croom Helm.
41. Hong, Soo Jung (2014), Three Adaptations of the Japanese Comic Book
Boys Over Flowers in the Asian Cultural Community: Analyzing Fidelity
and Modification from the Perspective of Globalization and
Glocalization, The Qualitative Report 19: 1-18.
42. Sprat P (1966), Hindu Culture and Personality: A Psychoanalytical Study,
Bombay: Manaktalas.
43. Eva Maria Stadler (2013), Bresson, Dostoevsky, Bakhtin:Adaptation as
Intertextual Dialogue , Quarterly Review of Film and Video, 20:1, 15-22.
44. Sternberg RJ (1986), A triangular Theory of Love, Psychological Review
93.
45. The believer (2013), Bringing Your Ghosts to Life- Interview with film
directior Olivier Assays. bringing-your-ghosts-to-life-interview-with/>. 46. Lawrence Venuti (1995), The Translator’s Invisibility, Routledge. 98 47. Virdi Jyotika (2003), The Cinematic Imagination: Indian Popular Film as Social History, New Brunswick: Rutgers University Press. 48. Vyacheslav Ivanov (1977), Dostoevsky Roman- Tragedia, Sakt-Peterburg. 99