BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN XUÂN BIỂN

NỢ CÔNG VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA

BỀN VỮNG: NGHIÊN CỨU TẠI CÁC NỀN

KINH TẾ MỚI NỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN XUÂN BIỂN

NỢ CÔNG VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA

BỀN VỮNG: NGHIÊN CỨU TẠI CÁC NỀN

KINH TẾ MỚI NỔI

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số:

8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

GS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn “Nợ công và chính sách tài khóa bền vững: Bằng

chứng thực nghiệm tại các nền kinh tế mới nổi” là công trình nghiên cứu của tôi,

dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Sử Đình Thành. Các số liệu, trích dẫn trong bài có

nguồn gốc rõ ràng và được tổng hợp từ các nguồn đáng tin cậy. Nội dung và kết quả

của bài nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố tại bất cứ công trình nào

trước đây.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 12 năm 2018

TÁC GIẢ

Trần Xuân Biển

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

TÓM TẮT

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ......................................................... 1

1. Giới thiệu đề tài nghiên cứu ................................................................................. 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 2

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 2

3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3

4. Kết cấu bài nghiên cứu ........................................................................................ 3

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................ 4

2.1. Lý thuyết về nợ công ........................................................................................ 4

2.1.1. Khái niệm về nợ công ................................................................................ 4

2.1.2. Phân loại nợ công ....................................................................................... 5

2.1.3. Đặc trưng, bản chất và tác động kinh tế của nợ công ................................ 6

2.1.4. Rủi ro của nợ công ................................................................................... 10

2.1.5. Tính bền vững của nợ công ...................................................................... 12

2.1.6. Các phương pháp đánh giá tính bền vững của nợ công ........................... 13

2.2. Thâm hụt ngân sách ........................................................................................ 19

2.2.1. Khái niệm thâm hụt ngân sách ................................................................. 19

2.2.2. Nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách ................................................. 20

2.2.3. Tính bền vững của ngân sách ................................................................... 22

2.3. Tính bền vững của chính sách tài khóa ........................................................... 25

2.3.1. Định nghĩa tính bền vững ......................................................................... 25

2.3.2. Các biến số đo lường ................................................................................ 29

2.4. Lược khảo một số nghiên cứu liên quan đến tính bền vững chính sách tài

khóa ........................................................................................................................ 33

2.5. Vấn đề về thể chế ............................................................................................ 39

2.5.1. Tổng quan về thể chế ............................................................................... 39

2.5.2. Chất lượng của thể chế ............................................................................. 42

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ........................ 45

3.1. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 45

3.2. Dữ liệu nghiên cứu .......................................................................................... 51

3.3. Mô hình nghiên cứu ........................................................................................ 54

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 57

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ........................................ 61

5.1. Kết luận ........................................................................................................... 61

5.2. Các gợi ý chính sách ....................................................................................... 62

5.2.1. Gợi ý chính sách chung ............................................................................ 62

5.2.2. Gợi ý chính sách cho Việt Nam ............................................................... 64

5.3. Hạn chế của luận văn và định hướng nghiên cứu trong tương lai .................. 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

KÝ HIỆU TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT

Khối các quốc gia đồng tiền EMU European Monetary Union chung châu Âu

FEM Fixed Effects Method Phương pháp tác động cố định

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

GNP General National Product Tổng sản lượng quốc gia

IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế

Organization Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển OECD Cooperation and Kinh tế Development

Phương pháp bình phương OLS Ordinary Least Squares nhỏ nhất

Phương pháp tác động ngẫu REM Random Effects Method nhiên

WB World Bank Ngân hàng Thế giới

WEF World Economic Forum Diễn đàn kinh tế thế giới

The Worldwide Governance WGI Chỉ số quản trị thế giới Indicators

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Mô hình sơ đồ Cây nhị phân nợ công của Manasse và Roubini............ 16

Bảng 2.2. Bảng phân tích tính bền vững của nợ theo theo quốc gia ...................... 18

Bảng 2.3. Bảng tiêu chí xác định bền vững NSNN ............................................ 24

Bảng 4.1. Kết quả kiểm định tính dừng biến GDP ................................................ 57

Bảng 4.2. Kết quả kiểm định tính dừng biến INFLATION ................................... 57

Bảng 4.3. Kết quả kiểm định tính dừng biến OPENNESS .................................... 58

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định tính dừng biến DEBT .............................................. 58

Bảng 4.5. Kết quả hồi quy ngưỡng ......................................................................... 59

TÓM TẮT

Chính sách tài khóa luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền

kinh tế. Đối với các quốc gia đang phát triển, việc đảm bảo nguồn lực để phát triển

kinh tế luôn là điều được quan tâm đặc biệt. Khi nhu cầu quá lớn nhưng nguồn lực

sẵn có không đủ thì chính phủ các nước này phải đi vay nợ để trang trải, nợ công từ

đó mà phát sinh. Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ nợ công và GDP có mối

quan hệ với nhau, nếu vượt quá mức nợ công cho phép thì sẽ gây ra tác động tiêu

cực đến nền kinh tế, đi đôi với đó là khả năng mất bền vững tài khóa. Với mục đích

đánh giá một cách khoa học, khách quan về tính bền vững của chính sách tài khóa

qua bằng chứng nghiên cứu về nợ công từ 30 nền kinh tế mới nổi trên thế giới bằng

phương pháp định lượng hồi quy ngưỡng của Hansen (1999) trong giai đoạn 1996 –

2016, bài nghiên cứu đã tìm ra ngưỡng tỷ lệ nợ công/GDP ở mức 77,94% với tác

động của yếu tố thể chế, đóng góp thêm một bằng chứng khoa học về sự tồn tại của

ngưỡng nợ công. Ngoài ra, từ kết quả nghiên cứu, tác giả cũng đề xuất một số giải

pháp chung nhằm kiểm soát nợ công hợp lý và cải thiện chất lượng thể chế.

Từ khóa: Nợ công, bền vững tài khóa, thể chế, hồi quy ngưỡng.

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1. Giới thiệu đề tài nghiên cứu

Trong những năm gần đây, dù nền kinh tế thế giới nói chung đã có nhiều dấu

hiệu khởi sắc kể từ sau tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu,

chính phủ các nền kinh tế đang phát triển đã có nhiều nỗ lực trong điều hành, thực

hiện cải cách tài chính công đồng bộ, toàn diện, có chiến lược, kế hoạch rõ ràng để

tiến tới một nền tài chính công bền vững, phát triển kinh tế trong kỷ nguyên hội

nhập, toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc. Trong những chính sách cải

cách đó, cải thiện, tăng cường hiệu quả của chính sách tài khóa là vấn đề quan trọng

không những đối với nền tài chính công mà còn có ý nghĩa rất lớn đối sự phát triển

kinh tế của mỗi quốc gia.

Đối với các quốc gia đang phát triển, vấn đề đảm bảo tính bền vững chính

sách tài khóa lại càng quan trọng hơn. Bởi lẽ, tại các nền kinh tế này, nhu cầu về

nguồn lực để đầu tư xây dựng phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề an sinh xã

hội luôn được quan tâm hàng đầu. Nếu những nguồn lực trong nước không đủ thì

chính phủ các quốc gia này phải tiến hành đi vay nợ bằng nhiều hình thức và phải

đối mặt với tình trạng nợ công hoặc thâm hụt ngân sách. Trong bối cảnh hợp tác

quốc tế đa dạng như hiện nay, việc đảm bảo nguồn lực để quốc gia phát triển là điều

rất cần thiết. Để có thể thực hiện điều đó, vai trò của chính sách tài khóa là không

thể bàn cãi. Do đó, việc tìm hiểu và đánh giá đúng về chính sách tài khóa hiện nay

của các nền kinh tế mới nổi trên thế giới là việc cần phải thực hiện kỹ lưỡng, có căn

cứ khoa học rõ ràng, thuyết phục.

Có nhiều lý thuyết chỉ ra các điều kiện khác nhau của sự bền vững tài khóa

nhưng tựu trung lại, vấn đề luôn là sự cân bằng giữa ngân sách và khả năng hấp thụ

của nền kinh tế. Việc đo lường, tính toán sự bền vững luôn gặp khó khăn về định

nghĩa và các biến dùng để tính. Khái niệm bền vững được đưa ra làm mục tiêu của

Hiệp ước Maastricht, điều 109j của Hiệp ước này buộc chính phủ các nước trong

2

khối đồng tiền chung châu Âu (EMU) đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe trong quản

lý tài chính – ngân sách. Chính sách tài khóa trong Hiệp ước này đòi hỏi ngân sách

quốc gia phải cân đối hoặc thặng dư trong trung hạn, thâm hụt ngân sách dưới 3%

GDP và tỷ lệ nợ công/GDP dưới 60%. Những tiêu chuẩn này được thiết lập nhằm

hướng đến kết hợp giữa kỷ luật và sự linh hoạt ngân sách, tránh tình trạng điều

chỉnh ngân sách thiếu bền vững.

Các đề tài nghiên cứu trước đây chủ yếu đánh giá tác động của nợ công đến

tăng trưởng kinh tế, có khá ít nghiên cứu đánh giá đến tính bền vững chính sách tài

khóa và tác động của nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững của chính sách tài khóa

bằng phương pháp định lượng. Do đó, với chủ ý tìm ra một bằng chứng khoa học về

tính bền vững của chính sách tài khóa qua chỉ tiêu nợ công cùng tác động của yếu tố

thể chế, tác giả tiến hành đề tài nghiên cứu Nợ công và chính sách tài khóa bền

vững: Bằng chứng thực nghiệm tại các nền kinh tế mới nổi.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá một cách khoa học, khách quan về

tính bền vững của chính sách tài khóa qua bằng chứng nghiên cứu về nợ công, dưới

tác động của yếu tố thể chế từ 30 nền kinh tế mới nổi trên thế giới bằng phương

pháp định lượng.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu về tính bền vững của chính sách tài khóa

thông qua chỉ tiêu về ngưỡng nợ công của 30 nền kinh tế mới nổi trên thế giới, gồm

Ai Cập, Argentina, Ấn Độ, Ba Lan, Bulgari, Brazil, Brunei, Campuchia, Chile,

Colombia, Hàn Quốc, Hungary, Indonesia, Kazakhstan, Lào, Malaysia, Mexico,

Myanmar, Nam Phi, Nga, Romani, Peru, Phillpines, Uruguay, Sri Lanka, Thái Lan,

Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Venezuela và Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu: ngưỡng nợ công dưới tác động của yếu tố thể chế và

tính bền vững của chính sách tài khóa 30 nền kinh tế mới nổi trên thế giới trong giai

đoạn từ năm 1996 đến năm 2016.

3

3. Phương pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Thu thập số

liệu của 30 quốc gia có nền kinh tế mới nổi, sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng

của Hansen (1999).

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 30 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 1996

– 2016. Dữ liệu được thu thập từ World Bank, IMF, World Governance Indicators.

4. Kết cấu bài nghiên cứu

Bài nghiên cứu được bố cục như sau:

Chương 1 - Tổng quan nghiên cứu: Giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên

cứu; xác định mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu; trình bày

bố cục toàn bài nghiên cứu.

Chương 2 – Cơ sở lý thuyết: Trong chương này, tác giả tiến hành thu thập,

nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế về chính sách tài khóa bền vững và đo lường

tính bền vững của chính sách tài khóa thông qua các nội dung về thâm hụt ngân

sách, nợ công, tính bền vững chính sách tài khóa. Lược khảo lại các nghiên cứu về

chính sách tài khóa bền vững đã được thực hiện trước đây.

Chương 3 – Phương pháp và mô hình nghiên cứu: Chương này diễn giải các

vấn đề về lựa chọn mô hình cũng như phương pháp nghiên cứu, thu thập số liệu.

Chương 4 - Kết quả nghiên cứu: Trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm

bằng phương pháp định lượng.

Chương 5 – Kết luận và gợi ý chính sách: Chương này trình bày kết luận của

bài nghiên cứu và một số gợi ý giải pháp về những việc rút ra từ kết quả nghiên cứu

nhằm định hướng rõ ràng hơn các giải pháp nhằm cải thiện và hướng đến chính

sách tài khóa bền vững và chất lượng thể chế.

4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Lý thuyết về nợ công

2.1.1. Khái niệm về nợ công

Nợ công có thể hiểu một cách đơn giản là nợ của khu vực công, xuất phát từ

nhu cầu chi tiêu công quá lớn của chính phủ. Chính phủ một quốc gia chi tiêu công

nhằm nhiều mục đích như đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, phân

bổ nguồn lực, phân phối lại thu nhập, đầu tư công vào các công trình cơ sở hạ tầng

trọng điểm... Tuy vậy, nhu cầu thì vô hạn, nguồn lực thì hữu hạn. Khi các nguồn thu

của chính phủ không đáp ứng, trang trải được nhu cầu quá lớn buộc chính phủ phải

đi vay nợ thông qua nhiều hình thức (phát hành công trái, trái phiếu…) và vay tiền

trực tiếp từ các ngân hàng thương mại hoặc các định chế tài chính quốc tế… để bù

vào khoản thâm hụt, từ đó dẫn đến tình trạng nợ công. Hiện nay có khá nhiều cách

định nghĩa về nợ công và vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về nợ công.

Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB, 2002), nợ công được định

nghĩa là tổng tất cả các khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài của khu vực công,

bao gồm chính phủ ở trung ương và các bộ, ban, ngành; các tỉnh, thành phố hoặc

các cấp chính quyền địa phương tương đương; các cơ quan nhà nước tự điều hành

như doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp liên doanh với tư nhân mà nhà

nước sở hữu phần lớn; các nghĩa vụ nợ của các tổ chức công khác dù có sự bảo đảm

hay không bảo đảm của chính phủ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary

Fund – IMF, 2010) thì định nghĩa nợ công là nợ của khu vực công (bao gồm chính

phủ và các tổ chức công khác).

Khái niệm nợ công của Việt Nam theo Luật quản lý nợ công năm 2017 xem

nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa

phương. Trong đó, nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,

nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh nhà nước, nhân danh chính phủ. Nợ

được chính phủ bảo lãnh là nợ doanh nghiệp, ngân hàng chính sách của nhà nước

5

vay được chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ phát sinh do

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vay.

Như vậy, định nghĩa về nợ công của Việt Nam khá sát với định nghĩa của

WB, cách hiểu này hẹp hơn so với định nghĩa nợ công của IMF. Một cách khái quát

nhất, có thể hiểu nợ công là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp

từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân

sách và chính phủ phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản vay đó. Do đó, có

thể xem nợ công là thâm hụt ngân sách lũy kế tính đến một thời điểm nào đó. Để

hình dung quy mô của nợ công, người ta thường đo lường xem khoản nợ này chiếm

tỷ lệ bao nhiêu phần trăm so với GDP.

2.1.2. Phân loại nợ công

Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí mang một ý nghĩa khác

nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công. Các tiêu chí để phân loại nợ công hiện

nay có thể kể đến gồm:

Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay, nợ công gồm có hai loại là nợ

trong nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ mà bên cho vay là cá nhân, tổ

chức trong nước. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là chính phủ nước

ngoài, các vùng lãnh thổ, các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước

ngoài.

Theo phương thức huy động vốn, nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa

thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản

nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ

những hợp đồng vay được thỏa thuận giữa chính phủ các nước. Nợ công từ công cụ

nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hành

các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường

có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.

6

Theo trách nhiệm đối với chủ nợ, nợ công được phân loại thành nợ công phải

trả và nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà chính phủ và chính

quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà chính phủ

có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì chính

phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.

Theo cấp quản lý, nợ công được phân loại thành nợ công của chính quyền

trung ương và nợ công của chính quyền địa phương. Nợ công của chính quyền

trung ương là các khoản nợ của chính phủ, nợ do chính phủ bảo lãnh. Nợ công của

địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay và có nghĩa vụ

trực tiếp trả nợ.

Theo thời hạn cho vay, nợ công vay dưới 01 năm là nợ ngắn hạn, dưới 10

năm là nợ trung hạn và trên 10 năm là nợ dài hạn.

2.1.3. Đặc trưng, bản chất và tác động kinh tế của nợ công

2.1.3.1. Đặc trưng của nợ công

Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng cơ bản, nợ công có những đặc

trưng chủ yếu sau:

Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của nhà nước,

buộc nhà nước phải trả nợ trực tiếp hoặc trả nợ gián tiếp. Trả nợ trực tiếp là việc cơ

quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và có trách nhiệm trả nợ. Trả nợ gián

tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ

thể nào đó trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách

nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh.

Thứ hai, nợ công được quản lý theo những quy định, quy trình chặt chẽ với

sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo khả năng trả

nợ và đạt hiệu quả khi sử dụng nguồn vay đó.

7

Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát

triển kinh tế – xã hội vì lợi ích chung chứ không vì lợi ích riêng của bất kỳ tổ chức,

cá nhân nào.

2.1.3.2. Bản chất của nợ công

Vay nợ là một biện pháp huy động nguồn vốn cho phát triển, đem lại nhiều

tác động tích cực cho nền kinh tế của các nước đi vay. Những nền kinh tế lớn trên

thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản… đều có những khoản vay nợ rất lớn.

Nợ công có nhiều tác động tích cực, nhưng cũng có không ít tác động tiêu cực.

Tác động tích cực thứ nhất là nợ công làm gia tăng nguồn lực cho quốc gia,

tăng cường nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế. Thứ hai, nợ công giúp

tận dụng được nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Với nguồn tiền nhàn rỗi

trong dân cư của người dân, thông qua việc nhà nước vay nợ mà những khoản tiền

nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công

lẫn khu vực tư. Thứ ba, nợ công tận dụng nguồn lực từ nước ngoài (chính phủ nước

ngoài, các định chế tài chính, tổ chức trên khắp thế giới).

Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu

cực, gây áp lực lên chính sách tiền tệ. Nếu kỷ luật tài chính, ngân sách lỏng lẻo,

thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công sẽ dẫn đến tình

trạng tham nhũng, lãng phí. Tình trạng này làm thất thoát các nguồn lực, giảm hiệu

quả đầu tư và giảm nguồn thu ngân sách nhà nước. Ngoài ra, việc sử dụng nguồn

vay không hiệu quả khiến cho nguồn lợi thu được trong tương lai không được đảm

bảo, đe dọa khả năng thanh toán và nguy cơ gây vỡ nợ.

Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân

sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải

thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời

gian đánh thuế hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất

là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho

các hoạt động chi ngân sách. Tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về

8

mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công, mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công

còn phụ thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế.

Khi xét đến nợ công, không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải

trả mà phải quan tâm nhiều tới rủi ro và cơ cấu nợ, vấn đề quan trọng phải tính là

khả năng trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ

công/GDP. Hiện nay, tiêu chí phổ biến để đánh giá mức an toàn của nợ công được

áp dụng cụ thể là:

- Giới hạn nợ công không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá

150% kim ngạch xuất khẩu. WB đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là

50% GDP.

- Dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ

trả nợ của chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế

không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải quốc gia nào có

tỷ lệ nợ công/GDP thấp là sẽ nằm trong giới hạn an toàn và ngược lại, mức độ an

toàn của nợ công phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe chung của nền kinh tế thông

qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.

- Để đánh giá đúng mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến

tỷ lệ nợ công/GDP, mà cần phải xem xét toàn diện với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô,

nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu

quả sử dụng vốn, tỷ lệ thâm hụt ngân sách...

Khi nợ công tăng cao, vượt quá giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế trở

nên dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài. Tóm lại, việc

đánh giá đúng thực trạng và bản chất nợ công là điều vô cùng quan trọng.

2.1.3.3. Tác động kinh tế của nợ công

Khi chi tiêu vượt quá khả năng đáp ứng của ngân sách thì chính phủ buộc

phải vay nợ để trang trải, dẫn đến nợ công. Vì thế, nợ công được xem là hệ quả của

bội chi ngân sách và chính phủ có phải có trách nhiệm hoàn trả.

9

Trong lĩnh vực tài chính công, các nhà kinh tế học cổ điển luôn nhấn mạnh

nguyên tắc ngân sách cân bằng, một nguyên tắc vô cùng quan trọng. Theo đó, ngân

sách phải luôn trong tình trạng cân đối giữa thu và chi (trừ các khoản vay nợ),

khoản vay nợ nếu có chỉ được dùng để đầu tư, phát triển hạ tầng chứ không được

dùng để chi thường xuyên đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều này giúp

chính phủ chi tiêu hợp lý, hiệu quả, tránh lãng phí và hạn chế tình trạng lạm thu

thông qua các chính sách về thuế. Nguyên tắc này được các nhà kinh tế học cổ điển

như Adam Smith, David Ricardo, và John Stuart Mill (Tsoulfidis, 2007) khởi xướng

và ủng hộ, vì thế, các nhà kinh tế học cổ điển hầu hết không đồng tình với việc vay

nợ của chính phủ để chi tiêu.

Tuy nhiên, nhà kinh tế học John Maynar Keynes và những người thuộc

trường phái Keynes lại ủng hộ việc vay nợ của chính phủ để thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế thông qua chi tiêu (Theocarakis, 2014). Họ cho rằng khi nền kinh tế suy

thoái, đầu tư của khu vực tư nhân sụt giảm thì việc gia tăng đầu tư của chính phủ

bằng các dự án công (xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế) bằng nguồn nợ vay sẽ

giúp kích thích nền kinh tế vận hành mạnh mẽ hơn. Các chính phủ thường sử dụng

lý thuyết của trường phái Keynes để làm cơ sở cho các quyết sách về kinh tế của

mình trong giai đoạn khủng hoảng, suy thoái kinh tế.

Paul Samuelson, một nhà kinh tế học ủng hộ trường phái Keynes, cho rằng

việc phối hợp cả chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt là cần

thiết để thúc đẩy hiệu quả nền kinh tế vượt qua suy thoái. Điều này cho thấy nợ

công cũng là một công cụ gián tiếp quan trọng, đóng vai trò như một nhân tố kích

thích nền kinh tế nhưng việc sử dụng nó phải có sự thận trọng, phối hợp hiệu quả

giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.

Nautet & Van Meensel (2011) cho rằng các nghiên cứu lý thuyết và thực

nghiệm liên quan đến tác động của nợ công lên hoạt động kinh tế có phạm vi khá

rộng nhưng không đưa ra một câu trả lời rõ ràng về mối liên hệ giữa nợ công và

hoạt động kinh tế. Tác động này phụ thuộc rất nhiều vào các tình huống, có thể thay

10

đổi theo thời gian và có sự khác biệt giữa các nước. Điều quan trọng ở đây là phân

biệt giữa tác động kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn của nợ công.

Trong ngắn hạn, các công cụ tài khóa dùng để củng cố kỷ luật ngân sách sẽ

làm suy giảm tăng trưởng kinh tế. Tác động âm trong ngắn hạn của việc củng cố kỷ

luật tài khóa lên hoạt động kinh tế thay đổi tùy vào các công cụ tài khóa được vận

dụng. Các công cụ có liên quan đến chi tiêu và đầu tư công có tác động mạnh lên

hoạt động kinh tế, trong khi các công cụ có liên quan đến chi chuyển nhượng (thuế,

các phúc lợi xã hội) có tác động yếu hơn. Nguyên nhân là chi chuyển nhượng chỉ có

tác động gián tiếp lên sự thay đổi tiêu dùng hoặc đầu tư thông qua việc điều chỉnh

thu nhập của các hộ gia đình hoặc doanh nghiệp. Ngoài ra, tác động âm của các

công cụ này lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn yếu hơn (thậm chí không hiện

diện trong thực tế) nếu tình trạng tài trợ công xấu đi và gây quan ngại. Do đó, việc

củng cố tài khóa (hạn chế thâm hụt ngân sách và giảm nợ công) không nhất thiết sẽ

có tác động âm lên hoạt động kinh tế.

Ngược lại với các tác động trong ngắn hạn, tác động dài hạn của việc củng

cố tài khóa để đảm bảo tính bền vững của tài trợ công là tích cực. Các tác động có

thể kể đến là sự sụt giảm lãi suất dài hạn do giảm nguồn cung trái phiếu chính phủ

trên thị trường và sụt giảm phần bù rủi ro. Ngoài ra, sự sụt giảm lãi suất phải trả từ

củng cố tài khóa sẽ giúp các nguồn lực cho chi tiêu công hiệu quả hơn hoặc giảm

bớt gánh nặng thuế. Theo các nghiên cứu, củng cố tài khóa dựa trên cắt giảm chi

tiêu (nhất là chi thường xuyên) có tính hiệu quả hơn và có tác động tốt hơn lên tăng

trưởng trong dài hạn so với dựa vào sự gia tăng nguồn thu. Phạm vi tác động của

củng cố tài khóa lên hoạt động kinh tế tùy vào việc sử dụng lượng tiền tiết kiệm có

được từ cắt giảm các khoản chi không hợp lý.

2.1.4. Rủi ro của nợ công

Trong nghiên cứu về khả năng xảy ra khủng hoảng nợ của các nước trên thế

giới, Manasse và Roubini (2005) đã trình bày ba rủi ro cơ bản của nợ công chính là:

rủi ro thanh toán, rủi ro thanh khoản và rủi ro bất ổn các yếu tố vĩ mô.

11

Rủi ro thanh toán xảy ra khi một quốc gia không có khả năng chi trả các

khoản nợ của họ. Khi rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương

mại, một quốc gia này phải vay nợ để bù đắp các khoản thâm hụt của mình. Rủi ro

thanh toán có xảy ra hay không phụ thuộc vào tổng nợ của nền kinh tế có thể đo

được đo lường bởi: thu nhập của nền kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu hoặc nguồn

thu của chính phủ. Một khoản nợ được xem là có khả năng thanh toán khi mà giá trị

chiết khấu (discount) của dòng ngân sách trong tương lai lớn hơn hoặc bằng với giá

trị hiện tại ròng (NPV) của tổng nợ công. Tương tự như vậy, đối với các khoản nợ

công nước ngoài, do vay mượn bằng ngoại tệ nên phải thực hiện chi trả bằng ngoại

tệ. Nguồn ngoại tệ được thu chủ yếu thông qua giá trị xuất khẩu ròng nền kinh tế.

Do đó, một quốc gia có khả năng thanh toán là quốc gia có giá trị chiết khấu

(Present value) của cán cân thương mại dự kiến lớn hơn hoặc bằng với giá trị hiện

tại (NPV) của tổng nợ nước ngoài. Để có thể tránh được rủi ro thanh toán, tại một

số thời điểm, ngân sách và thương mại cần phải thặng dư để có thể bù đắp được

khoản nợ phải trả trong tương lai.

Khả năng thanh khoản là khả năng chính phủ có thể trả các khoản nợ của

mình một cách nhanh chóng. Khoản nợ của một quốc gia có khả năng thanh toán

thôi thì chưa đủ mà cần phải có cả khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh khoản

thường đến từ nợ ngắn hạn, tức là tiền chưa kịp xài đã đến hạn phải trả và rủi ro này

chủ yếu là các khoản vay nợ nước ngoài. Theo Roubini (2005), rủi ro thanh khoản

có nhiều khả năng xảy ra khi tỷ lệ nợ ngắn hạn/dự trữ ngoại hối vượt quá 1,3 lần.

Bên cạnh đó, những bất ổn từ các yếu tố kinh tế vĩ mô có thể ảnh hưởng xấu

đến nợ công. Các yếu tố vĩ mô này bao gồm tăng trưởng, thu ngân sách chính phủ,

lạm phát và tỷ giá. Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu hàng đầu của

các quốc gia đang phát triển, ngoài ra nó con là điều kiện để các quốc gia này có thể

tiếp cận với các nguồn tài chính từ các thị trường vốn quốc tế. Do đó, nếu tăng

trưởng thấp thì khó có thể vay nợ. Chính sách tài khóa cũng ảnh hưởng đến khả

năng trả nợ, nếu nguồn thu ngân sách dồi dào sẽ giúp giảm thâm hụt vả giảm rủi ro

của nợ. Lạm phát cao hay việc nội tệ bị phá giá cũng khiến cho những khoản nợ

12

nước ngoài tăng cao và tăng nguy cơ vỡ nợ. Nhưng ngược lại nếu nội tệ bị định giá

cao cũng gây ra khó khăn cho xuất khẩu, làm giảm thu hối và cũng làm gia tăng rủi

ro vỡ nợ nước ngoài.

2.1.5. Tính bền vững của nợ công

Theo IMF (2011), nợ được xem là bền vững khi người đi vay được kỳ vọng

là có khả năng tiếp tục trả nợ mà không cần phải thực hiện các khoản điều chỉnh lớn

và phi thực tế trong cán cân thu nhập và chi tiêu. Tính bền vững của nợ được thể

hiện thông qua khả năng thanh toán, khả năng thanh khoản và khả năng điều chỉnh

một cách giới hạn trong chi tiêu và doanh thu và do đó quyết định mức sẵn lòng trả

của một quốc gia. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có một cơ sở thống nhất để có thể đo

lường khả năng thanh toán và khả năng điều chỉnh thu chi, từ đó đánh giá được tính

bền vững nợ của một quốc gia. Hơn nữa, tính bền vững và an toàn của nợ không chỉ

phụ thuộc vào hiện tại của quốc gia vay nợ mà còn chịu ảnh hưởng bởi những biến

động kinh tế toàn cầu. Chi phí tài trợ luôn thay đổi theo thời gian và khó dự đoán

trước. Đặc biệt, nó có thể tăng lên khi bùng phát nợ và có thể tạo ra một vòng lẩn

quẩn, kết quả là một khoản nợ có thể bền vững trong hôm nay nhưng không bền

vững trong tương lai và ngược lại.

Như vậy, có thể xem rằng vấn đề nợ công và tính bền vững của nợ công đã

được thảo luận từ rất lâu nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm về tính bền

vững của nợ công được xác định rõ ràng. Mặc dù các nhà nghiên cứu có thể thống

nhất ý kiến về tình trạng nợ công tuyệt đối bền vững và không bền vững song rất

khó để đưa ra chính xác khi nào ngưỡng bền vững này bị phá vỡ. Tuy nhiên điều

này không đồng nghĩa với việc không có phương pháp đánh giá tính bền vững nợ

công một cách trực tiếp hay gián tiếp.

Theo WB thì nợ công nước ngoài của một quốc gia được coi là bền vững nếu

như các nghĩa vụ nợ (trả gốc và lãi) được thực hiện một cách đầy đủ mà không cần

sử dụng đến các biện pháp tài trợ ngoại lệ (ví dụ như xin miễn giảm) hoặc không

13

cần phải thực hiện những điều chỉnh lớn đối với cán cân thu nhập và chi tiêu của

mình (WB, 2006, A Guide to LIC Debt Substainability Analysis).

Như vậy, tính bền vững nợ công được hiểu là việc vay nợ công vẫn được

quốc gia đảm bảo trả nợ gốc và lãi theo định kỳ như trong cam kết hợp đồng vay trả

và việc trả nợ nằm trong tầm kiểm soát chi trả của một quốc gia.

2.1.6. Các phương pháp đánh giá tính bền vững của nợ công

2.1.6.1. Phương pháp phân tích cây nhị phân của Manasse và Roubini

Phương pháp cây nhị phân dùng để đánh giá khả năng hoặc xác suất xảy ra

khủng hoảng nợ ở một quốc gia. Trong bài nghiên cứu Rules of Thumb for

Sovereign Debt Crises (IMF, 2005), Manasse và Roubini đã tiến hành xây dựng cây

thực nghiệm nhị phân để phân tích rủi ro nợ công dựa trên số liệu theo năm của 47

nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 1970 - 2002.

Để giải thích cho khả năng xảy ra khủng hoảng nợ công, Manasse và

Roubini đã chia khoảng 50 biến số nghiên cứu thành 3 nhóm: (i) các biến vĩ mô căn

bản; (ii) các biến phản ánh sự biến động; (iii) các biến phản ánh kinh tế chính trị.

Manasse và Roubini sử dụng nhiều thước đo về nợ nước ngoài và nợ công như khả

năng thanh toán, khả năng thanh khoản và các biến nằm trong hệ thống cảnh báo

sớm (EWS) của IMF nhằm tính toán khả năng liên kết giữa khủng hoảng tiền tệ và

khủng hoảng nợ công.

Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các chỉ số phản ánh gánh nặng nợ nước

ngoài là tương đối thấp ở những năm không có khủng hoảng nợ, tăng dần ở những

năm trước khi xảy ra khủng hoảng nợ và hầu hết tăng tiếp trong những năm diễn ra

khủng hoảng. Sau đó, các chỉ số này lại giảm dần trong năm trước khi nước đó thoát

khỏi khủng hoảng mặc dù chúng vẫn còn cao hơn so với mức trước khi khủng

hoảng nợ xảy ra. Các thước đo về tổng nợ công cũng có hiện tượng tương tự. Từ đó,

Manasse và Roubini đã kết luận nợ công nước ngoài là tác nhân chính gây ra sự

biến động của tổng nợ công bởi chúng thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ

công ở nhiều quốc gia mới nổi.

14

Để xây dựng Cây thực nghiệm nhị phân, các tác giả lựa chọn ra 10 biến số

quan trọng nhất trong số 50 biến số thuộc ba nhóm có ảnh hưởng đến việc phân loại

rủi ro và dự đoán nợ công ở trên. 10 biến số này bao gồm: tỷ lệ nợ nước

ngoài/GDP; tỷ lệ nợ ngắn hạn/dự trữ ngoại hối; tốc độ tăng trưởng GDP thực; tỷ lệ

nợ công nước ngoài/tổng thu ngân sách; lạm phát; số năm đến cuộc bầu cử tổng

thống tiếp theo; lãi suất trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ; nhu cầu tài trợ từ bên ngoài

(bằng cán cân vãng lai cộng với nợ ngắn hạn chia cho dự trữ ngoại hối); định giá tỷ

giá quá cao và sự biến động của tỷ giá.

Các quốc gia trong mẫu nghiên cứu sẽ được xếp vào vùng an toàn hoặc rủi ro

tuỳ thuộc vào giá trị của các biến số trên ở quốc gia đó. Ví dụ, một quốc gia được

coi là nằm trong vùng an toàn nếu như nó có tổng nợ nước ngoài thấp (< 49,7%

GDP); nợ ngắn hạn nước ngoài thấp (< 130% dự trữ); nợ công nước ngoài thấp (<

214% tổng thu ngân sách); và tỷ giá không bị định giá quá cao (mức độ định giá

quá cao < 48%).

Ba dạng rủi ro được xác định gồm: (i) rủi ro thanh toán hay tính không bền

vững của nợ; (ii) rủi ro thanh khoản; (iii) rủi ro tỷ giá vĩ mô. Rủi ro về tính không

bền vững của nợ được đặc trưng bởi các chỉ số sau: nợ nước ngoài vượt quá 49,7%

GDP, sự mất cân đối về tài khóa hoặc tiền tệ và nhu cầu tài trợ từ bên ngoài lớn.

Rủi ro thanh khoản được xác định bởi quy mô nợ vừa phải nhưng có nợ ngắn hạn

vượt quá 130% dự trữ, cộng với sự bất ổn chính trị và các thị trường vốn quốc tế bị

kiểm soát chặt. Cuối cùng, rủi ro tỷ giá vĩ mô là sự kết hợp của tăng trưởng thấp và

tỷ giá tương đối cố định. Mỗi một loại rủi ro này khác nhau ở khả năng gây ra

khủng hoảng.

Các tác giả đã chỉ ra rằng, phương pháp này mặc dù đơn giản nhưng lại rất

hữu ích trong việc phân tích tính bền vững của nợ do nó xem xét được rủi ro dưới

nhiều góc độ khác nhau. Phương pháp này có khả năng chỉ ra rằng, một quốc gia có

tỷ lệ vay nợ cao nhưng xác suất xảy ra khủng hoảng có thể là thấp, trong khi quốc

gia khác có thể chỉ có tỷ lệ vay nợ ở mức vừa phải nhưng lại có rủi ro vỡ nợ khá

15

lớn. Nguyên nhân ở đây là do hiệu ứng kết hợp của các khoản vay sắp đáo hạn, sự

bất ổn chính trị và tỷ giá tương đối cố định có thể khiến cho khủng hoảng thanh

khoản có thể dễ xảy ra hơn ở quốc gia có tỷ lệ nợ thấp. Trong khi đó, khả năng xảy

ra khủng hoảng ở quốc gia có tỷ lệ nợ cao có thể là rất thấp nếu như quốc gia đó có

được sự ổn định về tiền tệ, thặng dư cán cân vãng lai và nền tảng tài chính công

vững chắc.

Cây nhị phân là phương pháp dùng để phân loại và dự báo theo dạng hình

cây. Mỗi điểm nút mẹ được phân tách thành 2 điểm nút con, sau đó mỗi điểm nút

con lại được phân tách thành hai điểm nút cháu, v.v… Quá trình này được lặp đi lặp

lại cho đến khi chúng ta có được nút cuối cùng. Dựa trên các quy tắc phân nhánh

này, các quan sát có thể được xếp vào vùng rủi ro hoặc vùng an toàn. Các quan sát

trong một nút nào đó được phân vào vùng rủi ro/an toàn nếu trong nút đó tỷ lệ số

quan sát có khủng hoảng lớn hơn/thấp hơn tỷ lệ trung bình đó trong cả mẫu nghiên

cứu. Mặc dù vậy, phương pháp cây nhị phân cũng có nhược điểm, đó là là chỉ đưa

ra được khả năng hoặc nguy cơ rơi vào khủng hoảng nợ tại một thời điểm nào đó

dựa trên số liệu trong quá khứ mà không chỉ ra được những nguyên nhân tiềm ẩn

ảnh hưởng đến tính bền vững của nợ quốc gia.

16

Bảng 2.1. Mô hình sơ đồ Cây nhị phân nợ công của Manasse và Roubini

17

2.1.6.2. Phương pháp đánh giá theo khung nợ bền vững DSF

Tháng 4 năm 2005, IMF và WB đưa ra khung phân tích nợ bền vững

(Debt Sustainability Framework – DSF) nhằm giúp đánh giá tính bền vững nợ

của một quốc gia và những rủi ro tài khóa kèm theo. Theo bản thông tin của IMF

(The Joint World Bank – IMF Debt Sustainability Framework for Low-Income

Countries), phương pháp này nhắm đến hai mục tiêu chính:

Thứ nhất, khuôn khổ được thiết kế để hướng dẫn việc quyết định vay vốn

của các quốc gia có thu nhập thấp trong một cách phù hợp với nhu cầu tài chính,

khả năng trả nợ hiện tại và tương lai của họ, có tính đến hoàn cảnh của mỗi quốc

gia.

Thứ hai, hướng dẫn những quyết định cho vay để đảm bảo rằng nguồn tài

chính được cung cấp đến những quốc gia có thu nhập thấp với những điều kiện

nhất quán với mục tiêu phát triển và khả năng chịu đựng của nợ dài hạn.

Ngoài ra, giúp cải thiện đánh giá của WB và IMF cũng như những khuyến

nghị chính sách đối với khu vực này nhằm sớm giúp loại bỏ những khủng hoảng

tiềm tàng có thể xảy ra.

DSF phân tích cả nợ nước ngoài và nợ khu vực công. Cho vay đối với các

quốc gia có thu nhập thấp khác nhau đáng kể trong tỷ lệ lãi suất và thời gian trả

nợ, khung phân tích tập trung vào hiện giá của các nghĩa vụ nợ. Nó có thể so

sánh qua thời gian và qua các quốc gia.

Những quốc gia có thu nhập thấp với chính sách yếu kém có xu hướng đối

mặt với khó khăn hoàn trả ở mức nợ thấp hơn là những quốc gia có chính sách

vững mạnh. DSF chia các quốc gia thành 3 nhóm chính sách (mạnh, trung bình

và yếu), khuôn khổ đánh giá như sau:

18

Bảng 2.2. Bảng phân tích tính bền vững của nợ theo theo quốc gia

Nghĩa vụ nợ theo & Hiện giá của nợ theo & của của

Thu Thu Xuất khẩu GDP Xuất khẩu ngân sách ngân sách

15 25 200 Chính sách yếu 100 30

Chính sách 20 30 250 150 40 trung bình

25 35 300 Chính sách tốt 200 50

Nguồn: Hướng dẫn phân tích tính bền vững của nợ LIC (A Guide to LIC

Debt Sustainability Analysis) WB (2006)

Việc phân loại chính sách của quốc gia thuộc vào loại yếu, trung bình hay

tốt được dựa trên tiêu chuẩn đánh giá về chất lượng thể chế và chính sách CPIA

(Country Policy and Institutional Accessment) của World Bank. CPIA được

chấm theo thang điểm từ 1 đến 6. Những nước có CPIA thấp hơn hoặc bằng 3,25

được xem là có chính sách yếu, thấp hơn 3,75 được xem là chính sách trung bình

và cao hơn hoặc bằng 3,75 được xem là chính sách tốt. Với mỗi nhóm quốc gia

thì tiêu chí đưa ra ngưỡng an toàn nợ của WB và IMF tong DSF cũng khác nhau

dựa theo bảng.

2.1.6.3. Kiểm tra tính dừng của chuỗi số liệu nợ công

Nghiên cứu thực nghiệm trong kinh tế vĩ mô chủ yếu dựa vào chuỗi thời

gian vì các chỉ số kinh tế luôn biến động theo xu hướng. Theo xu hướng đó,

chuỗi dữ liệu thời gian có thể cố định hoặc không.

Chuỗi số liệu thời gian cố định (chuỗi dữ liệu có tính dừng) có thuộc tính

giá trị trung bình, phương sai, giữa hai giá trị quan sát bất kỳ không có tương

quan với nhau và không có biến động định kỳ. Do đó, nếu chuỗi thời gian của nợ

công không dừng, đồng nghĩa với việc tỷ lệ nợ thực/GDP liên tục tăng và vượt

19

quá giá trị hiện tại của các khoản thặng dư ngân sách trong tương lai thì nợ công

không bền vững.

Đã có nhiều nghiên cứu đã sử dụng các kiểm tra về tính dừng để đánh giá

bền vững nợ công. Corsetti G. và Roubini N. (1991) đã dựa trên bộ số liệu của 18

nước trong khối OECD với chuỗi dữ liệu thời gian từ 1960 – 1989. Hai tác giả đã

phát hiện có sự khác biệt về sự phát triển bền vững của các quốc gia trong dài

hạn. Các quốc gia có nền kinh tế mạnh như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh

và Canada không gặp trở ngại gì về khả năng thanh toán. Trong khi đó, Bỉ,

Ireland, Hà Lan và Hy Lạp lại gặp vấn đề trong phát triển bền vững ở tương lai.

Điểm chung của các quốc gia này là có tỷ lệ nợ công/GDP lớn (ở Bỉ và Ireland là

hơn 100%).

Anca Ruxanda (2011) đã sử dụng số liệu hàng năm của 14 quốc gia châu

Âu trong giai đoạn 1970 – 2012 để chỉ ra tỷ lệ nợ công của một số nước vượt xa

ngưỡng nợ theo quy định của Hiệp ước Maastricht đề ra (ngoại trừ Đan Mạch,

Phần Lan và Thụy Điển). Tình trạng này trở nên tồi tệ hơn khi khủng hoảng tài

chính – kinh tế toàn cầu xảy ra, tỷ lệ nợ công của các nước có xu hướng tăng

nhanh từ năm 2007, một trong số đó đạt đến mức báo động. Các nước như Đan

Mạch, Phần Lan, Hà Lan và Thụy Điển là những nước không có nguy cơ đối mặt

với rủi ro thanh khoản trong tương lai. Vị thế tài chính bền vững của họ dựa trên

một tỷ lệ nợ công không vượt quá ngưỡng và thặng dư ngân sách cơ bản đủ lớn

nhằm đảm bảo cho sự ổn định.

2.2. Thâm hụt ngân sách

2.2.1. Khái niệm thâm hụt ngân sách

Thâm hụt ngân sách (bội chi ngân sách) là tình trạng tổng chi ngân sách

do chính phủ thực hiện lớn hơn các khoản thu mà chính phủ thu được trong năm

tài khóa. Ở phạm vi rộng hơn, thâm hụt ngân sách là hiện tượng ngân sách của

chính phủ không thể cân đối được (chênh lệch giữa cung và cầu về nguồn lực tài

chính của chính phủ). Từ quan điểm về quản lý ngân sách của các quốc gia, tồn

20

tại nhiều quan niệm khác nhau về thâm hụt ngân sách. Việc tính toán mức độ

thâm hụt ngân sách ở mỗi quốc gia thường có sụ khác biệt do cách xác định các

khoản mục thu, chi ngân sách của mỗi quốc gia.

Theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 của Việt Nam, ngân sách nhà

nước (ngân sách chính phủ) bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa

phương. Thâm hụt ngân sách nhà nước là thâm hụt ngân sách trung ương và

được định nghĩa là chênh lệch giữa tổng số chi ngân sách trung ương và tổng số

thu ngân sách trung ương trong năm ngân sách.

Trong Cẩm nang Thống kê tài chính chính phủ (GFS), IMF đã định nghĩa

thu ngân sách là các khoản thu vào quỹ ngân sách mà không kèm theo không làm

phát sinh nghĩa vụ hoàn trả trực tiếp cho các đối tượng có nghĩa vụ phải nộp ngân

sách. Thu ngân sách chính phủ bao gồm: các khoản thu thuế, phí và các khoản

thu khác (kể cả khoản viện trợ không hoàn lại), không bao gồm các khoản vay

trong và ngoài nước. Trên các phương diện khác, thu ngân sách nhà nước là

những khoản thu mang tính chất bắt buộc hay còn được hiểu là trách nhiệm của

mọi thành phần kinh tế đối với nhà nước. Chi ngân sách là các khoản chi ra từ

ngân sách không làm phát sinh nghĩa vụ bồi hoàn trực tiếp đối với các đối tượng

thụ hưởng ngân sách, đo chính là toàn bộ khoản thực chi ngân sách trong một

năm tài khóa. Chi ngân sách chính phủ bao gồm chi thường xuyên, chi đầu tư

phát triển, chi chuyển giao, chi trả lãi vay nhưng không bao gồm chi trả nợ gốc

và các khoản chi khác. Thâm hụt ngân sách được xác định bằng chênh lệch giữa

chi và thu ngân sách.

2.2.2. Nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách

Nguyên nhân của tình trạng thâm hụt ngân sách là các thay đổi về lượng

và cách thức tính toán trong thu và chi ngân sách. Bất kỳ một thay đổi nào về số

lượng hay kỹ thuật phân chia các hạng mục thu, chi ngân sách đều ảnh hưởng

đến mức độ thâm hụt ngân sách. Nguyên nhân của thâm hụt ngân sách có thể

được chia thành 5 nguyên nhân chính như sau:

21

Thứ nhất, do nguồn thu ngân sách không đủ để bù đắp các khoản chi của

chính phủ (thất thu và chi ngân sách lớn). Thuế là nguồn thu chính và bền vững

nhất trong tất cả các nguồn thu của một quốc gia, tuy nhiên ở quốc gia nào cũng

ít hay nhiều xảy ra tình trạng các chủ thể kinh tế có nghĩa vụ nộp thuế cố ý lẩn

tránh, làm giảm hoặc nợ số thuế phải nộp, làm giảm thu ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, một số chính phủ thực thi chính sách tài khóa để đối phó với các cú sốc

kinh tế, ổn định nền kinh tế bằng chính sách tài khóa mở rộng, cụ thể là điều

hành chính sách thuế theo hướng nới lỏng, giảm thuế, miễn thuế đối với các chủ

thể kinh tế mới thành lập hoặc gia hạn thời gian nộp thuế. Trong bối cảnh chi

ngân sách của các chính phủ không ngừng gia tăng để tài trợ cho nhu cầu phát

triển của toàn nền kinh tế, những diễn biến tiêu cực của thu ngân sách mà chủ

yếu là từ việc thất thu thuế sẽ gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách.

Thứ hai, do ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế. Trong thời kỳ kinh tế khủng

hoảng hay suy thoái, thu nhập quốc gia sẽ có chiều hướng giảm, đồng thời nhu

cầu chi tiêu của chính phủ tăng lên để bù đắp lại các khó khăn của nền kinh tế và

tạo động lực để kinh tế quốc gia phục hồi, từ đó dân đến tăng thâm hụt ngân

sách. Ngược lại, ở giai đoạn nền kinh tế đang tăng trưởng hay đang ổn định, thu

ngân sách tăng cao trong khi các khoản chi liên quan đến đầu tư cơ sở hạ tầng và

an sinh xã hội ổn định hoặc có xu hướng giảm làm cho mức độ thâm hụt ngân

sách giảm.

Thứ ba, chính phủ sử dụng chính sách tài khóa để tác động, điều tiết nền

kinh tế theo mục tiêu của mình. Trong dài hạn, chính sách tài khóa có nhiệm vụ

ổn định nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Do đó, thu và chi ngân sách là

công cụ tác động rất quan trọng của chính phủ nhằm hiện thực hóa các mục tiêu

trong nền kinh tế trong từng giai đoạn và điều kiện khác nhau. Khi sản lượng nền

kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng, nền kinh tế chưa đạt mức toàn

dụng, chính phu có thể tăng chi ngân sách, tăng mua sắm chính phủ, tăng thâm

hụt ngân sách để tác động làm tăng tổng cầu, thúc đẩy gia tăng sản lượng trong

nền kinh tế. Đa số các quốc gia trên thế giới đều đối mặt với tình trạng thâm hụt

22

ngân sách (bội chi ngân sách). Các quốc gia đang phát triển thường có mức độ

thâm hụt lớn hơn các quốc gia phát triển do nhu cầu về đầu tư, phát triển cơ sở hạ

tầng kinh tế xã hội. Trong một số giai đoạn, để đảm bảo đầu tư cho nền kinh tế,

mặc dù tăng trưởng kinh tế ở mức cao nhưng các quốc gia này vẫn xảy ra tình

trạng thâm hụt gia tăng qua các năm, thậm chí mức tăng thâm hụt ngân sách còn

cao hơn mức tăng trưởng kinh tế.

Thứ tư, một số nguyên nhân khác như tình hình chính trị bất ổn, thiên tai,

dịch bệnh… Các nguyên nhân này cũng có thể tác động, làm giảm khoản thu và

làm gia tăng chi ngân sách để giải quyết các tình trạng trên như tăng chi tiêu cho

quốc phòng, an ninh, y tế, an sinh xã hội…dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn.

Thứ năm là các yếu tố kỹ thuật trong cơ cấu thu và chi ngân sách. Việc

phân loại các khoản thu – chi ngân sách, phương pháp cân đối, thời điểm ghi

nhận, phương pháp hạch toán… cũng tạo nên những biến động của thâm hụt

ngân sách. Trong nhiều trường hợp, do những quy định thông thường hay bất

thường có chủ ý của chính phủ, việc ghi nhận và phân loại các khoản mục thu –

chi ngân sách thay đổi làm tình trạng thâm hụt ngân sách trở nên tích cực hơn,

tuy nhiên không phải do các khoản thu ngân sách tăng hay các khoản chi ngân

sách giảm (hoặc cả hai) mà do sự phản ánh sai lệch của thu - chi lên tài khoản

quốc gia hay việc chính phủ áp dụng phương pháp tính toán không phù hợp.

Chính phủ các quốc gia có nhiều động cơ để sử dụng các yếu tố kỹ thuật này để

phản ánh một mức độ thâm hụt khả quan, một trong số đó là nhằm gia tăng cơ

hội vay nợ nước ngoài và tăng mức tín nhiệm quốc gia.

2.2.3. Tính bền vững của ngân sách

Bền vững ngân sách được định nghĩa là tình trạng ngân sách luôn có khả

năng cung cấp cho nhà nước những công cụ tài chính khả dụng. Trong bất kỳ

tình huống nào về thu, chi hay nợ, nhà nước đều phải kiểm soát một cách chủ

động, trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để không rơi vào tình trạng vỡ nợ,

mất ổn định, mất an toàn tài khóa. Khi nói đến bền vững ngân sách, các chính

23

sách thu, chi tài chính và nợ công sẽ được xem xét chi tiết, nhất là nợ công. Khi

ngân sách nhà nước đạt tới độ bền vững thì các chính sách thu, chi tiến triển ổn

định, an toàn, vững mạnh, không chứa đựng những nguy cơ xảy ra mất cân đối

nghiêm trọng, không dẫn đến đổ vỡ hoặc khủng hoảng ngân sách.

Dưới góc độ tài chính, bền vững ngân sách mang lại những nguồn thu,

nhất là nguồn thu từ thuế một cách ổn định và có thể ngày càng tăng, có khả năng

đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu một cách thuận lợi, tạo đủ nguồn lực cho nhà

nước thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn. Bền

vững ngân sách không phải là bất động, không thay đổi theo thời gian và không

gian, bền vững ngân sách được hiểu là bền vững trong trạng thái “động”. Mỗi

quốc gia, mỗi thời kỳ, tùy theo các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội cụ thể mà

có các mức độ bền vững khác nhau. Do đó, sẽ không có những tiêu chí hoặc

những ngưỡng cố định về bền vững ngân sách nói chung cho tất cả các quốc gia,

cho mọi thời kỳ.

Bền vững ngân sách không có nghĩa là ngân sách không có bội chi. Bền

vững ngân sách có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm sự bền

vững và an ninh tài chính công và sự bền vững của cả nền kinh tế. Bền vững

ngân sách cũng phụ thuộc vào sự ổn định, bền vững nền kinh tế, tốc độ tăng

trưởng kinh tế, các yếu tố cấu thành thu và chi ngân sách, quản lý nợ công và

quản lý các rủi ro tiềm ẩn có khả năng tác động đến bền vững ngân sách. Trong

đó, thu chi nợ ngân sách không chỉ được hiểu đơn thuần là những con số hay

những tỷ lệ mà tiềm ẩn bên trong là những chính sách thu, chi, vay nợ và an sinh

xã hội.

24

Bảng 2.3. Bảng tiêu chí xác định bền vững NSNN

Tiêu chí Ý nghĩa Thước đo

Khả năng thanh toán

Khả năng của chính phủ trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo cam kết của mình

Giá trị hiện tại của tổng tài sản bừng hoặc lớn hơn giá trị hiện tại của các khoản nợ; Giá trị hiện tại của ngân sách cơ bản của kỳ tiếp bằng số dự nợ công kỳ hiện tại.

Tính thanh khoản

Khả năng của Chính phủ trong việc sẵn sàng thanh toán các nghĩa vụ tài chíh hay nghĩa vụ nợ đáo hạn

Tổng tài sản có tính “lỏng” cao hoặc các khoản vay bằng hoặc lớn hơn các khoản nợ đáo hạn. Mất tính thanh khoản khi tổng các tài sản dễ chuyển đổi thành tiền và các khoản vay không đủ số nợ đáo hạn.

Tính dễ bị tổn thương

Thiếu khả năng tái tài trợ gây ra tình trạng mất tính thanh khoản, lãi suất cao và do vậy sẽ mất khả năng thanh toán

Rủi ro mà các khoản nợ phát triển theo chiều hướng vi phạm tính thanh khoản hoặc khả năng thanh toán và báo trước cá nguy cơ xảy ra khủng hoảng

Chính sách tài khóa phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Các chỉ số về thu, chi, nợ ngân sách với GDP và tăng trưởng GDP

Tăng trưởng và phát triển bền vững

ổn

Tính định

Chỉ tiêu tỷ suất thu NSNN và nợ trên GDP được duy trì ổn định

Khả năng đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của chính phủ mà không phải tăng thêm gánh nặng thuế

Tính công bằng Không dịch chuyển gánh nặng thuế sang các thế hệ tương lai Ngân sách liên thế hệ; tỷ lệ nợ/GDP ổn định

Nguồn: Bùi Đường Nghiêu (2009), Phân tích mức độ bền vững của NSNN

Việt Nam và dự báo đến năm 2020, Nhà xuất bản Tài chính, 2009.

25

2.3. Tính bền vững của chính sách tài khóa

2.3.1. Định nghĩa tính bền vững

Đã có nhiều lý thuyết chỉ ra các điều kiện khác nhau của sự bền vững

nhưng tựu trung lại, vấn đề luôn là sự cân bằng giữa ngân sách và khả năng hấp

thụ của nền kinh tế. Việc đo lường, tính toán sự bền vững luôn gặp khó khăn về

định nghĩa và các biến dùng để tính. Khái niệm bền vững được đưa ra làm mục

tiêu của Hiệp ước Maastricht, điều 109j của Hiệp ước này buộc chính phủ các

nước trong khối đồng tiền chung châu Âu (EMU) đặt ra những tiêu chuẩn khắt

khe trong quản lý tài chính – ngân sách. Chính sách tài khóa trong Hiệp ước này

đòi hỏi ngân sách quốc gia phải cân đối hoặc thặng dư trong trung hạn, thâm hụt

ngân sách dưới 3% GDP và tỷ lệ nợ trên GDP dưới 60%. Những tiêu chuẩn này

nhằm hướng đến kết hợp giữa kỷ luật và sự linh hoạt ngân sách, tránh tình trạng

điều chỉnh ngân sách thiếu bền vững.

EMU đã giảm bớt sự thiếu chắc chắn trong việc thống kê các biến số

chính nhằm đo lường, đánh giá tính bền vững. Theo đó, EMU sử dụng các khái

niệm về nợ và thâm hụt. Các phương pháp đánh giá trong lý thuyết cần phải được

rà soát cẩn trọng. Bài nghiên cứu này sẽ lược khảo các nghiên cứu về bền vững

tài khóa để kiểm tra, đánh giá toàn diện các phương pháp nghiên cứu các chỉ số

khác nhau.

Có 2 dòng nghiên cứu về sự bền vững:

(1) Kiểm định sự bền vững thông qua các chính sách trong quá khứ

(2) Đánh giá sự bền vững thông qua các ý chí, quyết sách trong tương lai

Vấn đề bền vững trong kinh tế đã được đặt ra khá lâu, tập trung vào yếu tố

nợ công của nền kinh tế. Theo Hume, nợ công sẽ dẫn đến việc gia tăng gánh

nặng thuế trong ngắn hạn và khả năng vỡ nợ trong dài hạn. Smith cũng cho rằng

các khoản nợ tài chính sẽ dẫn đến vỡ nợ. Nhiều quan điểm đồng tình cho rằng

26

các khoản nợ tài chính chỉ nên được sử dụng trong các trường hợp ngoại lệ, ví dụ

như chiến tranh.

Trước hết, khi nhắc đến tính bền vững trong tài khóa, người ta tập trung

vào so sánh giữa thuế và thâm hụt trong chi tiêu công. Từ đó, các nhà nghiên cứu

đặt ra giả thuyết về nợ trung lập “debt neutrality” và tính lan tỏa qua nhiều thế hệ

của gánh nặng nợ. Tuy nhiên, Ricardo lại lập luận rằng tùy vào tình hiện tài khóa

(ví dụ như khả năng phải tăng thuế trong tương lai để bù đắp các khoản nợ),

khoản nợ sẽ làm giảm sức tiêu thụ một lượng nhỏ hơn và các tác động từ thuế, do

đó sẽ gây tác động tiêu cực đến quá trình tích lũy tư bản. Bên cạnh đó, Ricardo

cũng cho rằng các thế hệ tương lai sẽ phải gánh chịu những khoản nợ, điều này

gây ra tác động tiêu cực đến thị trường vốn.

Trong những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, một số nhà nghiên cứu ở

Italia là Pantaleoni và Borgatta đưa ra một số điều kiện về nợ trung lập, đó là vai

trò của các bức di chúc để lại tài sản. Trong khi De Viti De Marco thì tập trung

vào các bất hoàn hảo của thị trường tài chính thì Puviani căn cứ vào tình trạng

thực tế hiện hành của chính sách tài khóa. Năm 1974, Barro đưa ra mô hình hóa

và làm sáng tỏ vai trò sự vị tha của các thế hệ tương lai, thay thế cho giả thuyết

của các nhà nghiên cứu trước đây về sự vô hạn của thời gian.

Vấn đề về phân chia gánh nặng các khoản nợ qua nhiều thế hệ gây ra

nhiều tranh luận. Ricardo là người đầu tiên đã đưa quan điểm khi sử dụng nguồn

lực thì sẽ phát sinh chi phí khoản nợ vào khoảng năm 1940, hay còn gọi là “quan

điểm về nguồn lực thực”. Nhiều người đã ủng hộ quan điểm này khi cho rằng

gánh nặng của các khoản nợ gây ra bởi các thế hệ hiện tại tương đương với chi

phí cơ hội của việc tài trợ các khoản nợ. Các thế hệ trong tương lai sẽ phải gánh

chịu khoản nợ này trong thời gian dài, miễn là nợ nội tại không vượt quá tổng thể

nguồn lực có sẵn.

Những người ủng hộ “quan điểm về nguồn lực thực” tìm ra mối liên hệ có

tác động đến khoản nợ thông qua tỷ lệ tích lũy tư bản. Nếu tỷ lệ này làm cho

27

nguồn vốn sụt giảm thấp thì gây ra tác động tiêu cực, các thế hệ tương lai sẽ gánh

chịu những khoản nợ hiện nay. Quan điểm này phát triển mạnh trong bối cảnh lý

thuyết trọng cầu của Keynes đang lan tỏa nhanh chóng, theo đó, thị trường không

thể đảm bảo nguồn lực sẵn có. Các khoản nợ là cần thiết để giúp kích thích tổng

cầu.

Tiếp theo đó, “nguyên tắc vàng” trong đầu tư công dần được nhắc đến và

trở nên phổ biến. Định nghĩa về “Ngân sách kép” cũng được giới thiệu và gây ra

nhiều cuộc tranh luận. Nợ vẫn đối lập với khoản tổn thất vô ích gây ra bởi thuế.

Trái ngược với quan điểm này, Musgrave (1984) cho rằng “nợ công không cần

phải trả lại mà nó phải được hoàn trả”, tức là phải đổi lại bằng một thứ gì đó chứ

không đơn giản là lấy lại khoản tiền đã bỏ ra. Cùng với đó, gánh nặng nợ có

nghĩa là thuế sẽ được dùng để tài trợ cho các chi phí vận hành, phục vụ và thuế

suất trong tương lai chắc chắn phải tăng lên (Domar, 1944).

Kể từ giai đoạn này, các vấn đề về nợ bền vững được nhắc đến nhiều và

câu hỏi lớn nhất đó là dồn tích các khoản nợ đến giới hạn nào thì được chấp

nhận? Để trả lời câu hỏi này, cần xem xét định lượng các các phương trình về tỷ

lệ nợ/GDP (tỷ lệ thuế, lãi suất và chi thường xuyên) và tác động đến các tham số

vĩ mô như lãi suất, tỷ lệ tăng trưởng. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa ngân sách công

và nền kinh tế thì vẫn còn những tranh cãi về mặt lý thuyết. Cho đến nay, lựa

chọn sử dụng mô hình cân bằng từng phần vẫn được sử dụng rộng rãi. Giả định

là cả lãi suất và tỷ lệ tăng trưởng đều là biến ngoại sinh của chính sách tài khóa,

mô hình này cho thấy rằng nhiều khả năng tác động đến sự gia tăng các khoản nợ

có nguyên nhân từ việc bỏ qua lãi suất và tăng trưởng. Từ đó, mô hình này quay

về vấn đề gây tranh cãi từ trước đến nay khi nhắc đến gánh nặng nợ đó là tác

động của các khoản nợ đến tích lũy vốn và tăng trưởng.

Domar (1944) đã sử dụng mô hình này và kết luận rằng các khoản vay nợ

của chính phủ sẽ dẫn đến tăng nợ công và tăng thuế rất cao, điều này sẽ ngấm

ngầm phá hoại nền kinh tế quốc gia. Domar đã tính toán được một tỷ lệ bội chi

28

ngân sách/GDP nhất định sẽ có thể làm cho tỷ lệ nợ/GDP và lãi/GDP hội tụ về

một giá trị xác định. Do đó, khoản thuế cần thiết dùng để trả lãi khoản vay nợ

cũng sẽ được xác định bằng một phần của GDP.

Bên cạnh đó, các khoản chi tiêu tăng lên đồng nghĩa với việc tăng gánh

nặng thuế, điều này trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Đối với

một vài quốc gia, chi phí của các khoản nợ phải trả tiềm tàng cũng được xem như

nợ công. Việc đánh giá tính bền vững của tài chính công luôn luôn là điều cần

thiết, theo Domar, thực hiện đánh giá tài chính công sẽ giúp xác định các mức

thuế suất và mức bội chi. Vì thế, việc ước lượng tỷ lệ thâm hụt ngân sách trong

tương lai bằng các chính sách trong hiện tại là rất cần thiết.

Buiter (1985) định nghĩa chính sách bền vững là khả năng kiểm soát tỷ lệ

của khu vực công tương xứng với mức sản lượng đầu ra. Năm 1990, Blanchard

và các cộng sự đã nêu ra 02 điều kiện của sự bền vững:

(1) Tỷ lệ nợ/GNP phải hội tụ về mức ban đầu

(2) Chiết khấu về hiện giá của tỷ lệ bội chi thường xuyên/GNP bằng với

lượng mất đi của khoản nợ/GNP

Điều 104c, Hiệp ước Maastricht đặt ra tiêu chuẩn để đánh giá tính bền

vững là tỷ lệ bội chi và tỷ lệ nợ/GDP. Theo đó, tỷ lệ bội chi/GDP phải thấp hơn

mức 3% và tỷ lệ nợ công/GDP không vượt quá 60%. Hiệp ước Ổn định và Tăng

trưởng đặt ra mục tiêu trung hạn là ngân sách phải cân đối hoặc thặng dư, kiềm

chế bội chi và giữ vững kỷ luật tài khóa.

Willem Buiter (2003) trong một nghiên cứu sâu sắc về bền vững tài khóa

đã xuất phát từ định nghĩa về phát triển bền vững để đưa ra luận điểm là sớm hay

muộn, chính phủ các quốc gia cũng phải sử dụng đến khoản nợ công để thúc đẩy

phát triển kinh tế. Khi nguồn lực của chính phủ không đủ để trang trải các nhu

cầu khổng lồ của một quốc gia thì chính phủ sẽ bắt đầu đi vay mượn từ khu vực

tư trong nước, khu vực tư nước ngoài, chính phủ các quốc gia khác và các tổ

chức tài chính, tín dụng quốc tế và đương nhiên chính phủ phải có nghĩa vụ trả

29

nợ. Theo Buiter, bền vững tài khóa có thể được hiểu như việc vận hành bộ máy

chính phủ mà không gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán trong hiện tại và cả

trong tương lai. Bên cạnh đó, với vị trí chính trị đặc biệt của mình, chính phủ có

quyền lực đủ để thực hiện việc đánh thuế và các khoản thu khác vào ngân sách

để phục vụ cho việc vận hành nền kinh tế, xã hội cũng như là tài trợ cho các

khoản phải trả của mình. Vì lẽ đó, khi nói đến bền vững tài khóa của một quốc

gia, cần phải đánh giá đến các loại tài sản thuộc sở hữu nhà nước và cả các nguồn

tài nguyên, hạ tầng khác mà nhà nước đang nắm trong tay hay đang được khai

thác, đồng thời phải ước tính được giá trị chiết khấu về hiện tại của các nguồn

thu trong tương lai.

2.3.2. Các biến số đo lường

Nhắc đến nợ công, chúng ta cần xác định cách đo lường về giá trị gộp hay

giá trị ròng của khoản nợ, giá trị thị trường hay mệnh giá và nợ công danh nghĩa

hay nợ công thực.

Trên cán cân tài khoản quốc gia, thâm hụt là chênh lệch giữa tài sản và

các khoản nợ phải trả của chính phủ và đây chính là sự khác biệt với phương

pháp dùng nợ thực. Tuy nhiên, thâm hụt thì không đồng nhất với nợ thực danh

nghĩa, có 3 nhân tố tác động:

(1) Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái tác động đến tổng ngoại tệ trên tài sản

và khoản nợ phải trả nhưng không tác động đến thâm hụt.

(2) Sự khác biệt trong chế độ, chuẩn mực kế toán từng quốc gia.

(3) Việc mua/bán tài sản ảnh hưởng đến nợ thực theo giá trị danh nghĩa

(giá trị sổ sách) của tài sản nhưng thâm hụt thì lại được tính dựa trên giá trị thị

trường.

Khoản trợ cấp phải trả, được tính bằng cách chiết khấu về hiện giá khoản

nợ ròng phải trả trong tương lai. Cách tính này được nhiều bài nghiên cứu lý

thuyết sử dụng, cho rằng thông thường định giá thâm hụt tài khóa sẽ tác động đến

30

bền vững tài khóa. Ngoài ra, áp dụng các phương pháp kế toán theo thông lệ, các

cơ quan có thẩm quyền ngân sách có thể sẽ không giám sát và kiểm soát được tài

khóa tổng thể.

Con số chính xác về tỷ lệ trợ cấp phải trả/GDP không phải là chỉ số dùng

để đo lường cơ chế trợ cấp bền vững mà đó phải là tỷ lệ chi phí trợ cấp/GDP

hoặc ty lệ cân bằng trợ cấp bằng tiền. Cách tiếp cận và đánh giá này có phần hơi

khác so với cách tiếp cận truyền thống.

Theo EMU, nợ công là tổng các khoản phải trả của chính phủ tính theo giá

trị danh nghĩa (giá trị sổ sách). Thâm hụt là tổng cân đối các khoản chi phí phí

giao dịch phi tài chính của chính phủ. Các khoản nợ của doanh nghiệp công cũng

cần được xem xét kỹ khi đánh giá tính bền vững tài khóa.

Năm 1990, Blanchard và các cộng sự đã nêu ra 02 điều kiện của sự bền

vững: (1) Tỷ lệ nợ/GNP phải hội tụ về mức ban đầu; (2) Chiết khấu về hiện giá

của tỷ lệ bội chi thường xuyên/GNP bằng với lượng mất đi của khoản nợ/GNP.

Định nghĩa về tính bền vững căn cứ trên điều kiện thứ hai mà Blanchard và các

cộng sự đưa ra vào năm 1990, dựa trên hiện giá ràng buộc ngân sách, đây là yếu

tố rất quan trọng.

Aschauer (1985), Seater và Mariano (1985) đã tiến hành kiểm định giả

thiết các khoản phải trả của chính phủ bằng với hiện giá chi phí cùng với khoản

thu trong dài hạn.

Barro (1984) kiểm định giả thiết chính phủ nhằm vào hiện giá giới hạn

ngân sách trong điều kiện giả định chính sách thuế và thâm hụt đạt mức tối ưu.

Hamilton và Flavin (1986) đã lập luận “khi một chính phủ rơi vào tình

trạng thâm hụt thì đồng nghĩa với việc chính phủ đó vừa tạo ra những lời hứa hẹn

tiềm ẩn với những người cho vay về việc sẽ bù đắp bằng thặng dư trong tương

lai”. Hamilton và Flavin (1986) lần đầu tiên kiểm định, đo lường hiện giá giới

hạn ngân sách. Với dữ liệu được lấy theo từng quý, sử dụng kiểm định Dickey -

Fuller để kiểm định tính dừng và nghiệm đơn vị. Kết qua kiểm định cho thấy

31

Hamilton và Flavin đã có lý khi kiểm định tính bền vững tài khóa bằng kỹ thuật

hiện giá ràng buộc ngân sách. Tuy nhiên, nghiên cứu này có một số khuyết điểm

như mẫu dữ liệu khá nhỏ, giả định về lãi suất có thể bị thiếu tính cụ thể và dữ liệu

đã được chọn lọc nên không còn tính ngẫu nhiên.

Các nghiên cứu liên quan có những hạn chế nhất định, nhất là về cỡ mẫu,

thời gian nghiên cứu là quá khứ nên không giải quyết được khả năng trả nợ trong

tương lai, ngoài ra còn có sự tác động của các nhân tố ngoại sinh. Vì thế, dù nợ

có tăng nhưng vẫn có thể “vượt qua” kiểm định tính bền vững. Kiểm định tính

bền vững của chính sách tài khóa thật sự không hề đơn giản do gặp nhiều khó

khăn trong phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật kiểm định.

Tác giả Ngan Tran (Đại học RMIT, Australia) trong bài Debt Thresthold

for Fiscal Sustainability Assessment in Emerging Economies đã nghiên cứu về

ngưỡng nợ công để chính sách tài khóa đạt tính bền vững khá toàn diện. Tác giả

đã sử dụng phương pháp định lượng, chạy mô hình dữ liệu bảng cho 14 quốc gia

đang phát triển trong giai đoạn 1999 – 2016. Ngưỡng nợ công trong bài này được

hiểu là mức nợ công cụ thể làm tăng rủi ro vỡ nợ của một quốc gia. Theo nghiên

cứu, các quốc gia không nằm trong khu vực Mỹ Latin có chính sách tài khóa đạt

tính bền vững trong ngắn hạn, ngưỡng nợ công tại các quốc gia này nằm trong

khoảng 40 – 55% GDP. Tuy nhiên, trong dài hạn, khả năng mất bền vững tài

khóa có xu hướng tăng lên. Tác giả cũng định lượng mức nợ dồn tích tại các

quốc gia Mỹ Latin vượt mức 35% GDP thì sẽ phải đối mặt với mất an toàn, bền

vững tài khóa trong tương lai nhiều hơn so với các nước có chỉ số này thấp hơn.

Để khắc phục tình trạng nợ công tăng cao, dẫn đến tăng rủi ro vỡ nợ và mất bền

vững tài khóa, tác giả khuyến nghị chính phủ các nước nên áp dụng các biện

pháp cần thiết nhằm tăng cường kỷ luật tài khóa và giảm gánh nặng nợ công.

Theo IMF (2016), các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình có xu

hướng nợ công tăng cao và tài khóa xấu đi đáng kể. Tỷ lệ nợ công/GDP được

dùng làm chỉ số để đánh giá sức khỏe của chính sách tài khóa. Đối với các nước

32

đang phát triển, tỷ lệ nợ công/GDP tăng cao đồng nghĩa với việc rủi ro vỡ nợ của

quốc gia đó cũng tăng lên. Bài nghiên cứu tập trung xác định ngưỡng nợ công cụ

thể, đưa ra dấu hiệu cảnh báo cho các nhà làm chính sách về khả năng mất bền

vững chính sách tài khóa, từ đó có các biện pháp thích hợp để củng cố chính sách

tài khóa và ổn định nợ công.

Belhocine và Dell’Erba (2013) cũng đã đưa ra kết luận rằng các quốc gia

đang phát triển có thể chịu đựng gánh nặng nợ công nhiều hơn và đối mặt với

nguy cơ vỡ nợ cao hơn so với các quốc gia phát triển. Trong bài nghiên cứu này,

ngưỡng nợ công được hiểu là mức nợ công mà tại đó nhiều khả năng sẽ xảy ra

tình trạng vỡ nợ quốc gia. Nếu nợ dồn tích vượt qua ngưỡng đó thì khả năng vỡ

nợ sẽ càng tăng cao.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu đều gặp khó khăn và rất quan tâm đến

phương pháp đánh giá bền vững chính sách tài khóa. Một trong những phương

pháp được sử dụng nhiều nhất là kiểm định tính vững trong mô hình nghiên cứu

mối quan hệ cùng chiều giữa thặng dư ngân sách và nợ công, với một số điều

kiện về giới hạn ngân sách (Bajo - Rubio và các cộng sự, 2014). Theo đó, để

chính sách tài khóa đạt tính bền vững thì:

Nợ công hiện tại = Hiện giá thặng dư ngân sách trong tương lai

Tỷ lệ nợ công/GDP tăng lên đồng nghĩa với việc thặng dư ngân sách tăng

lên trong tương lai. Cách tiếp cận này cho rằng nợ công tăng lên thì chính sách

tài khóa vẫn đạt tính bền vững, chỉ cần nợ công tăng thấp hơn mức tăng của lãi

suất.

Cách tiếp cận thứ hai theo hướng nợ công bền vững, chính sách tài khóa

sẽ đạt tính bền vững nếu nợ công hiện tại ở dưới ngưỡng cho phép. Có nhiều

phương pháp nghiên cứu được đưa ra để đánh giá tác động của các nhân tố ảnh

hưởng đến ngưỡng nợ công nhưng điểm chung là tất cả nghiên cứu đều cố gắng

xác định mức nợ công mà tại đó, nợ công sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng

kinh tế (Siddique và các cộng sự, 2016; Baharumshah và các cộng sự, 2017).

33

Reihart và các cộng sự (2013) đề xuất phương pháp xác định ngưỡng nợ

công tại các quốc gia đang phát triển bằng tỷ lệ nợ nước ngoài/GNP không vượt

quá 35%.

Mặc dù các nhà nghiên cứu đã cố gắng đưa ra nhiều cách tiếp cận khác

nhau nhưng vẫn gặp khó khăn trong đo lường sự tương tác giữa các biến số và

xuất hiện thiếu sót trong kiểm định tính vững của mô hình (Baldacci và các cộng

𝐷𝑒𝑏𝑡

sự, 2011).

+ 𝛽𝑖𝑋𝑖 ) + 𝜀

𝐺𝐷𝑃

Default risk premium = exp (𝛼

𝐷𝑒𝑏𝑡

Tỷ lệ nợ công/GDP càng cao thì khả năng vỡ nợ cũng tăng lên.

Default risk premium = (

+ 𝜀

+ 𝛽𝑖𝑋𝑖 )

𝐺𝐷𝑃

1− 𝜃

1 𝐷𝑒𝑏𝑡 𝐺𝐷𝑃

2.4. Lược khảo một số nghiên cứu liên quan đến tính bền vững chính

sách tài khóa

Fibrizio Balassone và Daniele Franco trong nghiên cứu Assessing fiscal

sustainability: A review of methods with a view to EMU đã tập trung vào ba vấn

đề chính: khái niệm về tính bền vững, lựa chọn các biến số phù hợp và phương

pháp đánh giá, đo lường tính bền vững tài khóa. Hai tác giả cho rằng không có

định nghĩa hay khái niệm duy nhất nào về tính bền vững của chính sách tài khóa.

Tính bền vững có thể được dựa vào các phân tích cân bằng từng phần của các

yếu tố và những điều kiện ràng buộc. Ví dụ như để đạt được tài khóa bền vững

thì tỷ lệ nợ công/GDP không quá 60% và thâm hụt ngân sách/GDP không quá

3%. Fibrizio Balassone và Daniele Franco chỉ ra rằng việc thiếu đi lý thuyết nền

tảng làm xuất hiện nhiều tiêu chí thống kê dùng để đo lường nợ công và thâm hụt

ngân sách. Ngoài ra, mức độ sẵn có của dữ liệu cũng khiến cho việc thiết lập các

biến số trong mô hình gặp một số khó khăn, đôi khi phải chấp nhận việc đo

lường nợ công và thâm hụt ngân sách thiếu chắc chắn.

34

Tất cả các chỉ số dựa trên các chương trình của chính phủ hướng đến sử

dụng ngân sách trong dài hạn thường khá đơn giản và không hoàn toàn chắc

chắn. Ngân sách trong dài hạn được quyết định bởi nhiều yếu tố tương tác, ví dụ

như sự thay đổi trong mức giá. Các yếu tố về nhân khẩu học, các chỉ số tổng hợp

cũng gây ra các tác động. Hơn nữa, các phương pháp tính toán có thể đòi hỏi các

giả định. Phương pháp tiếp cận kế toán liên thế hệ cho phép ước lượng các tác

động qua nhiều thế hệ và sự thay đổi trong chính sách ngân sách và tác động của

những thay đổi đó không làm ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách thông thường.

Theo EMU, để chính sách tài khóa đạt tính bền vững thì tỷ lệ nợ công/GDP phải

ở dưới mức 60%. Nợ công càng cao thì ngân sách quốc gia càng mong manh

trước các cú sốc tiền tệ. Bên cạnh đó, thuế cũng có những ảnh hưởng đáng kể đến

tính bền vững của chính sách tài khóa.

Trong bài nghiên cứu Debt Thresthold for Fiscal Sustainability

Assessment in Emerging Economies, 2018, tác giả Ngan Tran đã tham khảo 3 mô

hình nghiên cứu kết hợp gồm: mô hình hồi quy ngưỡng theo dữ liệu bảng

(Hansen, 1999), mô hình hồi quy dữ liệu bảng chuyển đổi logistic (Gonzalez và

các cộng sự, 2005) và mô hình phương trình bậc hai (Alper và Forni, 2011) đồng

thời tiến hành các kiểm định tính vững (IMF, 2002; Reihart và các cộng sự,

2003). Tác giả áp dụng mô hình hồi quy ngưỡng tác động cố định theo dữ liệu

bảng (Hansen, 1999) nhằm xác định mối quan hệ giữa nợ công và rủi ro vỡ nợ

đồng thời xác định ngưỡng nợ công mà tại đó, nợ công tăng nhẹ cũng dẫn đến

mất bền vững chính sách tài khóa. Nghiên cứu thực hiện trên phạm vi từ năm

1999 đến 2016 của 14 nền kinh tế mới nổi trên thế giới: Argentina, Brazil, Chile,

Trung Quốc, Colombia, Hungary, Malaysia, Mexico, Phillipines, Poland, Nam

Phi, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Venezuela. Mô hình thực nghiệm nghiên cứu được tác

𝐸𝑀𝐵𝐼𝑖𝑡 = 𝛼𝑖 + 𝛽1𝐷𝐸𝐵𝑇𝑖,𝑡−1 + 𝜃𝑉𝐼𝑋𝑖,𝑡−1 + 𝜀𝑖𝑡 𝑖𝑓 𝛽𝑖𝐷𝐸𝐵𝑇𝑖,𝑡−1 ≤ 𝛾

𝐸𝑀𝐵𝐼𝑖𝑡 = 𝛼𝑖 + 𝛽2𝐷𝐸𝐵𝑇𝑖,𝑡−1 + 𝜃𝑉𝐼𝑋𝑖,𝑡−1 + 𝜀𝑖𝑡 𝑖𝑓 𝛽𝑖𝐷𝐸𝐵𝑇𝑖,𝑡−1 > 𝛾

giả trình bày là:

35

Kết quả nghiên cứu cho thấy có tồn tại một mức nợ công ngưỡng như gia

thiết ban đầu, tại mức ngưỡng này, nếu nợ công càng tăng thì nguy cơ vỡ nợ, mất

bền vững chính sách tài khóa càng lớn. Bên cạnh đó, các nước khu vực Mỹ Latin

cũng chứa nhiều khả năng nghiêm trọng về tài khóa do gánh nặng nợ công lớn.

Bằng mô hình kinh tế lượng, đã được kiểm định tính vững, cho thấy rằng ngưỡng

nợ công ở các quốc gia Mỹ Latin vào khoảng 35% GDP, thấp hơn nhiều so với

mức 40 – 55% GDP của các quốc gia còn lại. Các nước Mỹ Latin có nhiều nguy

cơ vỡ nợ hơn còn các nước còn lại có chính sách tài khóa đạt bền vững trong

ngắn hạn.

Với các kết quả đó, bài nghiên cứu đã thành công khi đánh giá tính bền

vững của chính sách tài khóa thông qua mối quan hệ của tỷ lệ nợ công/GDP và

rủi ro vỡ nợ của các quốc gia. Từ đó, khuyến nghị một số giải pháp chung để cải

thiện bền vững tài khóa nhưng tăng cường kỷ luật tài khóa, giảm áp lực nợ công

trong dài hạn. Đối với các quốc gia hiện có nợ công cao, trong trung hạn và dài

hạn phải tìm mọi biện pháp để ổn định nợ, không để vượt quá ngưỡng nợ công,

nếu không sẽ tăng nguy cơ vỡ nợ.

Dựng lại bức tranh ngân sách, đánh giá tính bền vững tài khóa của Việt

Nam (Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh, 2012) là một trong số những bài nghiên cứu ít ỏi

về tính bền vững của chính sách tài khóa Việt Nam. Lấy bối cảnh khó khăn

chung của nền kinh tế Việt Nam và thế giới sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn

cầu, bằng phương pháp định tính tính trên cơ sở khung phân tích chính sách chi

tiêu (Stiglitz, 1998; S. Chiavo – Campo va P.S.A Sundaran, 2003), tác giả đã tiến

hành phân tích, đánh giá thực trạng thu chi ngân sách Việt Nam từ năm 2003 đến

2010. Nghiên cứu cho thấy thâm hụt ngân sách kéo dài có nguyên nhân từ chính

sách thu và chi, ít bị tác động bởi yếu tố chu kỳ kinh doanh; chính sách tài khóa

có tính thuận chu kỳ và kỷ luật tài khóa chưa nghiêm. Tác giả kết luận rằng Việt

Nam vẫn còn tồn tại một khoảng cách khá lớn để tiến tới bền vững tài khóa vì

một số lý do sau:

36

(1) Kỷ luật tài khóa chưa nghiêm, năng lực xây dựng dự toán và dự báo

ngân sách còn kém.

(2) Nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu vẫn còn chiếm tỷ trọng cao dẫn đến

nguy cơ tăng nhập siêu.

(3) Người dân và doanh nghiệp chịu gánh nặng thuế, thuế suất cao, tính

thực thi kém, cơ sở thuế chưa được cải thiện.

(4) Nguồn thu từ thuế nhà và đất chưa được khai thác để trở thanh nguồn

thu chính của địa phương, chưa giảm được gánh nặng chi tiêu cho ngân sách

trung ương.

Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, thực hiện kiểm tra tính dừng

chuỗi dữ liệu nợ công; so sánh các chỉ số về giá trị nợ và nghĩa vụ nợ theo khung

phân tích nợ bền vững của IMF, WB và sơ đồ cây nhị phân, tác giả Trần Xuân

Tân (2014) trong bài nghiên cứu Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam

đã đi đến kết luận nợ công Việt Nam đạt tính bền vững khi xem xét ở dạng tĩnh.

Nhưng khi phân tích tính động thông qua mô hình Campell và Shiller, nợ công

Việt Nam không hội đủ điều kiện của giới hạn ngân sách liên thời gian của chính

phủ. Bài nghiên cứu đồng thời cũng chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền

vững của nợ công ở Việt Nam gồm các nhân tố nằm trong ràng buộc ngân sách

như mức độ thâm hụt ngân sách, tốc độ tăng trưởng GDP, lãi suất và các nhân tố

nằm ngoài điều kiện ràng buộc như nghĩa vụ trong tương lai (chi bảo hiểm xã

hội, tình trạng già hóa dân số), mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và chính

sách tiền tệ, lạm phát và tỷ giá hối đoái.

Trong bài nghiên cứu Chính sách tài khóa bền vững ở các nền kinh tế

đang phát triển: Khi nào nợ công trở nên xấu đi? của Ahmad Zubaidi

Baharumshah, Siew-Voon Soon, Evan Lau (2016), các tác giả đã sử dụng

phương pháp nghiên cứu định lượng, áp dụng mô hình chuyển trạng thái Markov

để đánh giá tính bền vững của chính sách tài khóa của Malaysia trong giai đoạn

1980 – 2014. Bài nghiên cứu cho rằng ngưỡng nợ công được hiểu là tỷ lệ nợ

37

công/GDP mà tại đó có khả năng gây ra rủi ro vỡ nợ trong tương lai và chính

sách tài khóa đạt tính bền vững khi thỏa điều kiện: nợ công hiện tại bằng với hiện

giá của của thặng dư ngân sách trong tương lai. Các tác giả thu thập dữ liệu

nghiên cứu theo quý, từ quý I năm 1980 đến quý III năm 2014, bao gồm cả thời

kỳ khủng hoảng tài chính châu Á và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, sử dụng mô

hình hồi quy ngưỡng để tìm xác định ngưỡng nợ công. Kết quả nghiên cứu cho

thấy rằng, trong ngắn hạn, nợ công càng giảm thì tăng trưởng kinh tế của

Malayia sẽ tốt hơn. Trong dài hạn, tỷ lệ nợ công/GDP nên được giới hạn ở mức

54,71% (không vượt quá 55% GDP), nếu vượt quá ngưỡng này, nợ công sẽ gây

ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế của Malaysia. Với kết quả đó, các tác giả đã

kết luận rằng chính sách tài khóa của Malaysia trong thời kỳ nghiên cứu đã được

điều hành theo hướng bền vững (trừ giai đoạn khủng hoảng, khó khăn chung),

đồng thời, với việc kiểm định nhân quả Granger, các tác giả cũng cho rằng giữa

nợ công và tăng trưởng có mối liên hệ không trực tiếp với nhau.

Xuất phát từ những khó khăn chung của kinh tế thời giới sau cuộc khủng

hoảng kinh tế 2008 – 2009, nhiều nhà nghiên cứu ở các nước châu Âu đã đạt mối

quan tâm của mình về tính bền vững của chính sách tài khóa trong dài hạn. Các

nhà nghiên cứu cho rằng mặc dù chính phủ cần thiết phải duy trì cơ cấu tỷ lệ nợ

công/GDP hợp lý nhằm đảm bảo nguồn lực để phát triển trong tương lai, tuy

nhiên đã xuất hiện các quan điểm chú ý hơn về tỷ lệ thâm hụt ngân sách/GDP.

Trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa mức nợ và tính bền vững của chính sách

tài khóa tại 17 quốc gia trong khối OECD giai đoạn 1970 – 2012 (The

relationship between debt level and fiscal sustainability in OECD countries,

2013), Mariam Camarero, Josep Lluis Carrion-i-Silvestre và Cecilo Tamarit đã

nghiên cứu nhằm tìm ra mối liên hệ trong dài hạn giữa mức nợ và thâm hụt ngân

sách bằng cách sử dụng phương pháp kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu thời

gian và kiểm định đồng liên kết. Đồng thời, với các biến dữ liệu nghiên cứu là số

thu thực chính phủ, chi tiêu thực tế và nợ thực tế, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra

điểm mà nếu vượt qua khỏi, chính sách tài khóa của chính phủ sẽ trở nên xấu đi.

38

Bên cạnh đó, nghiên cứu của các tác giả cũng tái khẳng định sự tồn tại mối liên

hệ trong dài hạn giữa số thu và chi tiêu của chính phủ.

Willhem Buiter (2003) cũng đã đặt ra câu hỏi mức nợ công (nợ của chính

phủ) là bao nhiêu thì đạt bền vững tài khóa. Trong bài nghiên cứu Fiscal

Sustainability, ông đã chứng minh được rằng để đạt được mức bền vững tài khóa,

tỷ lệ nợ công/GDP phải ở mức thấp hơn tỷ lệ thặng dư ngân sách/GDP, thấp hơn

tỷ lệ lãi suất thực trong dài hạn và cao hơn tỷ lệ tăng trưởng thực trong dài hạn.

Reinhart, Rogoff và Savastano (2003) cho rằng các quốc gia đang phát

triển, các nền kinh tế mới nổi ít có cơ hội thực hiện các khoản vay nợ công, kể cả

nợ trong nước lẫn nợ nước ngoài vì các quốc gia này có khả năng vỡ nợ cao hơn.

Đối với nợ nước ngoài, các tác giả đã tính toán mức ngưỡng an toàn đối với các

nền kinh tế mới nổi duy trì ở mức thấp hơn tỷ lệ 15-20%/GDP trong khi các nền

kinh tế khác có thể có khả năng vay mượn nhiều hơn ở nhiều thời điểm khác

nhau. Càng lo lắng về khả năng vỡ nợ thì càng có nhiều rủi ro vỡ nợ thực sự.

Mehmet Caner, Thomas Grennes và Fritzi Koehler-Geib (2010) trong

nghiên cứu Finding the tipping point – When sovereign debt turns bad đã tiến

hành nghiên cứu ngưỡng tỷ lệ nợ công/GDP trong dài hạn và tác động của nợ

công đến tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của

101 quốc gia (75 quốc gia đang phát triển và 26 quốc gia phát triển) trong giai

đoạn từ năm 1980 đến năm 2008 và mô hình hồi quy ngưỡng của Hansen (1996,

2000). Kết quả nghiên cứu cho thấy có tồn tại ngưỡng tỷ lệ nợ công/GDP, trung

bình là 77% với toàn bộ 101 quốc gia và có tỷ lệ 64% đối với các quốc gia đang

phát triển.

Năm 2012, tác giả Sử Đình Thành đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm

về ngưỡng nợ công ở Việt Nam và cho đến nay đây là một trong số ít các nghiên

cứu về ngưỡng nợ công bằng phương pháp định lượng ở Việt Nam. Nghiên cứu

này đã đưa ra minh chứng thực nghiệm về ngưỡng nợ công ở Việt Nam. Tác giả

sử dụng dữ liệu nợ công của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm

39

2010 thông qua các biến số tăng trưởng kinh tế (GDP), biến tỷ lệ nợ công/GDP,

biến kiểm soát gồm lạm phát và độ mở thương mại. Nghiên cứu sử dụng mô hình

hồi quy ngưỡng của Hansen (1996, 2000) và phương pháp ước lượng bình

phương tối thiểu (OLS) để kiểm định hiệu ứng ngưỡng và ước lượng giá trị

ngưỡng nợ công của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ngưỡng nợ công

của Việt Nam là 75,8% GDP. Kết quả này giúp đưa ra gợi ý chính sách rất quan

trọng đó là chính phủ không nên dựa vào ngưỡng nợ công này để thiết lập hay

điều hành chính sách bởi vì không thể nhận biết được khi nào có một cú sốc bất

thường xảy ra, do đó việc mà chính phủ cần làm là phải kiểm soát nợ công thấp

hơn mức ngưỡng này.

Một bài nghiên cứu kết hợp giữa phương pháp định tính và định lượng của

tác giả Lê Hoàng Đức (2016) cũng góp phần làm rõ các kết yếu tố ảnh hưởng đến

nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Bằng nguồn dữ liệu chuỗi

thời gian của Việt Nam từ năm 1986 – 2014, phương pháp ước lượng bình

phương tối thiểu (OLS) và hồi quy ngưỡng của Hansen (1999), tác giả đã chỉ ra

thực sự nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Đồng thời, tác giả cũng đã tìm ra ngưỡng nợ nước ngoài/GDP và nợ nước

ngoài/xuất khẩu tích cực cho tăng trưởng kinh tế là 35,17% và 67,93%. Kết quả

ước lượng của nghiên cứu cho thấy khi nợ nước ngoài vượt quá ngưỡng thì sẽ

ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Tác giả khuyến nghị chính phủ cần phải quản lý

chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài.

2.5. Vấn đề về thể chế

2.5.1. Tổng quan về thể chế

Các quốc gia có thể phát triển ở các mức khác nhau song đều chịu sự chi

phối trực tiếp hay gián tiếp của yếu tố thể chế. Cho đến nay, đã có nhiều sự ghi

nhận rộng rãi về vai trò của thể chế đối với sự phát triển nhưng vẫn chưa có sự

thống nhất chung về lý luận thể chế và hiện tồn tại những quan niệm khác nhau

về thể chế.

40

Thể chế là một khái niệm rộng, được hiểu như là những “luật chơi” chính

thức hay phi chính thức, lặp đi lặp lại định hình nên phương thức ứng xử của con

người. Một nền kinh tế thường chịu sự chi phối của thể chế chính thức và phi

chính thức. Thể chế chính thức bao gồm Hiến pháp, luật, đặc biệt là các quyền sở

hữu, tự do khế ước, tự do cạnh tranh, các thiết chế thi hành pháp luật và những

quy trình kiểm soát quyền lực công cộng. Thể chế phi chính thức bao gồm vô tận

các quy tắc bất thành văn, các quy phạm, những điều cấm được tuân thủ trong

quan hệ giữa các nhóm người.

Veblen (1857) được xem là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên đặt

nền móng về thể chế, theo đó thể chế là tính quy chuẩn của hành vi hoặc các quy

tắc xác định hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành viên của một

nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự tuân thủ các quy tắc đó là do bản thân tự

kiểm soát hoặc do quyền lực bên ngoài khống chế.

Thể chế thiết lập khuôn khổ cho các hoạt động kinh tế trong phạm vi quốc

gia. Một thể chế tốt sẽ tạo ra môi trường thuận lợi thúc đẩy các hoạt động kinh tế,

sự sáng tạo, tăng trưởng và phát triển. Ngược lại, thể chế kém gây ra các đình trệ

cho nền kinh tế (James, 2006).

Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (World Economics Forum - WEF), thể chế

có thể được hiểu là cái tạo thành khuôn khổ trật tự cho các quan hệ của con

người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia

tương tác. Thể chế là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự,

những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người

chia sẻ.

Theo Douglass North (Nobel Kinh tế 1993), thể chế là những ràng buộc

mà con người tạo ra để định hướng cho những tương tác giữa người với người.

Hoặc nói một cách khác, thể chế là những “luật chơi trong một xã hội”. Thể chế

tốt sẽ khích lệ con người hành động theo hướng tạo ra kết quả tốt và ngược lại.

Thể chế bao gồm những thể chế chính thức (luật pháp, quyền sở hữu, tổ chức

41

quyền lực nhà nước) và những thể chế phi chính thức (tục lệ, truyền thống, chuẩn

mực ứng xử trong xã hội). North cho rằng những thể chế không chính thức cũng

rất quan trọng, có ảnh hưởng đối với sự thành công hay thất bại của những thể

chế chính thức.

Trong tác phẩm Tại sao các quốc gia thất bại (2013), Acemoglu &

Robinson cho rằng thể chế là các quy tắc tác động đến sự vận hành của nền kinh

tế và động cơ khuyến khích của dân chúng. Do đó, thể chế kinh tế sinh ra động

lực và vạch ra giới hạn cho các tác nhân kinh tế. Thể chế kinh tế chia thành hai

loại: thể chế kinh tế dung hợp và thể chế kinh tế chiếm đoạt. Thể chế kinh tế

dung hợp (inclusive economic institutions) cho phép và khuyến khích sự tham

gia của đại đa số dân chúng vào các hoạt động kinh tế, sử dụng tốt nhất tài năng

và trình độ của họ, giúp các cá nhân thực hiện những lựa chọn mình mong muốn.

Thể chế kinh tế chiếm đoạt (extractive economic institutions) không có các đặc

trưng nêu trên mà ở đó, chúng được thiết kế để tước đoạt hay khai thác thu nhập

hay của cải của nhóm này để phục vụ cho một nhóm khác.

Như vậy, hiểu một cách khái quát thì thể chế là những nguyên tắc xác

định mối quan hệ xã hội; định hình cách thức ứng xử của các thành viên trong xã

hội và điều chỉnh sự vận hành xã hội. Một cách cụ thể thì nội hàm thể chế bao

gồm 3 yếu tố chính: Hệ thống pháp luật, các quy tắc xã hội điều chỉnh các mối

quan hệ và các hành vi được pháp luật thừa nhận của một quốc gia; Các chủ thể

thực hiện và quản lý sự vận hành xã hội (bao gồm nhà nước, cộng đồng cư dân,

các tổ chức xã hội dân sự); Các cơ chế, phương pháp, thủ tục thực hiện hoạt động

xã hội, quản lý và điều hành sự vận hành xã hội.

Thể chế kinh tế, chính trị hay xã hội khác nhau là một nguyên nhân giúp

giải thích vì sao các quốc gia trở nên giàu nghèo khác nhau, bởi chúng tạo ra

những động cơ lợi ích khác nhau trong xã hội. Các thể chế căn bản cần cho một

nền kinh tế thị trường bao gồm một hệ thống pháp luật đáng tin cậy, ghi nhận và

bảo hộ các quyền tự do sở hữu, tự do khế ước, tự do cạnh tranh, cơ chế bảo vệ

42

công lý đáng tin cậy giúp giải quyết các tranh chấp như một chính quyền minh

bạch, đáng tin cậy, mọi hành vi can thiệp của chính quyền vào nền kinh tế có tính

tiên liệu và có khả năng dự đoán trước được. Thể chế và hiệu lực của thể chế có

vai trò quan trọng và quyết định đối với phát triển quốc gia. Tuy nhiên, vai trò

của thể chế phụ thuộc lớn vào chất lượng của khung khổ pháp luật; sự can thiệp

của chính phủ và hiệu quả hoạt động của môi trường xã hội. Tình trạng quan liêu

hay can thiệp quá mức, tham nhũng, tình trạng thiếu trung thực trong thực hiện,

quản lý và điều hành sự vận hành xã hội, hoặc thiếu minh bạch, công khai, sự

phụ thuộc lớn của hệ thống tư pháp có thể khiến cho hiệu lực thể chế bị giới hạn,

theo đó sẽ ảnh hưởng và cản trở phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng.

2.5.2. Chất lượng của thể chế

Các thể chế chính trị thiết lập hệ thống pháp luật quy định các quy tắc

kiểm soát biến động. Trong một tiến trình chính trị, các nhóm lợi ích khác nhau

cạnh tranh quyền lực chính trị, đặc lợi kinh tế trong khuôn khổ các quy tắc được

xác định bởi hệ thống pháp luật. Nếu không có một cơ chế khuyến khích thích

hợp trong các thể chế chính trị, các quy tắc có thể được thiết lập để đem lại lợi

ích cho những nhóm đặc biệt có lợi thế chính trị. Nếu không có sự bảo vệ pháp lý

cơ bản, về các quyền sở hữu và chống lại tước quyền sở hữu của chính phủ, sở

hữu tư nhân, tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân bị sụt giảm, do đó sẽ làm giảm tốc

độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Đầu tư tư nhân, đặc biệt là đầu tư

nước ngoài cũng không được khuyến khích vì quan liêu, điều này sẽ làm chậm

tăng trưởng kinh tế.

Một trở ngại lớn thường gặp phải trong bất kỳ một nghiên cứu thực

nghiệm nào để kiểm tra tác động của thể chế được lượng hóa. Không có một biện

pháp đo lường chất lượng thể chế nào hoàn hảo. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm

đã sử dụng các chỉ số chủ quan khác nhau của thể chế dựa trên các quan niệm

khác nhau. Một số nhà khoa học đã tập trung vào nghiên cứu các tác động của

43

biến chính trị và thể chế đến mức GDP bình quân đầu người thực tế, một số

nghiên cứu khác thì sử dụng tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, vào năm 2002, Kaufmann và Kraay đã tính toán 6 chỉ sổ tổng

hợp về thể chế công từ các chỉ số khác nhau dựa trên khía cạnh khác nhau của

thể chế công, được phần lớn các nhà nghiên cứu chấp nhận và lấy làm cơ sở khi

nghiên cứu về thể chế. Các chỉ số tổng hợp đó là:

(1) Tiếng nói và trách nhiệm giải trình: đo lường mức độ mà công dân của

một quốc gia có thể tham gia trong việc lựa chọn chính phủ của họ, cũng như tự

do ngôn luận, tự do lập hội và tự do báo chí.

(2) Tính ổn định chính trị và không có bạo lực hoặc khủng bố: đo lường

các biện pháp và khả năng chính phủ sẽ bị bất ổn hoặc bị lật đổ bằng phương tiện

tinh vi hoặc bạo lực, bao gồm cả bạo lực chính trị và khủng bố.

(3) Hiệu quả của chính phủ: đo lường chất lượng dịch vụ công, chất lượng

của các dịch vụ dân sự và mức độ độc lập khỏi những áp lực chính trị, chất lượng

xây dựng và thực hiện chính sách và độ tin cậy của sự cam kết của chính phủ về

chính sách đó.

(4) Chất lượng điều tiết: đo lường khả năng của chính phủ về chính sách,

các quy định cho phép và thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực tư nhân.

(5) Kiểm soát tham nhũng: đo lường nhận thức về tham nhũng, được định

nghĩa là thực hiện quyền lực công cho các lợi ích cá nhân.

(6) Quy định của pháp luật: đo lường mức độ tuân thủ các quy tắc xã hội,

đặc biệt là chất lượng của việc thực thi quyền sở hữu, cảnh sát, tòa án, cũng như

khả năng của tội phạm và bạo lực.

Hầu hết các nghiên cứu về thể chế đều thiết lập một mới liên kết trực tiếp

và tích cực giữa thể chế và tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ nhân quả tích cực

giữa thể chế và tăng trưởng kinh tế có thể là do những quy định và hạn chế dựa

44

trên các hành động của các quan chức tham nhũng, sự trao quyền và sự tham gia

được cho là làm gia tăng năng suất.

Willem Buiter (2003) đã chỉ ra các cam kết của các quốc gia đang phát

triển khó có thể được thực hiện bởi vì các quốc gia này có thể chế yếu. Reinhert,

Rogoff và Savastano (2003) suy đoán rằng sự vỡ nợ của chính phủ sẽ làm suy

yếu thể chế nhiều hơn, lúc đó sẽ rất khó khăn để vay nợ và như vậy sẽ rơi vào

vòng lẩn quẩn vỡ nợ liên quan. Đối với các nước đang phát triển có lịch sử không

tốt trong việc vay nợ có nhiều rủi ro hơn, thậm chí là rơi vào tình trạng nguy

hiểm. Nghiên cứu của IMF (2003) cũng cho ra kết quả tương tự, một khi đã xảy

ra vỡ nợ trong quá khứ thì nhiều khả năng chính phủ đó sẽ vỡ nợ trong tương lai.

Khi không đạt bền vững tài khóa, các quốc gia khó có thể gọi là thành công

được. Bên cạnh đó, với thể chế yếu (tham nhũng, quản trị hành chính công kém

hiệu quả…) các quốc gia đang phát triển sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm

soát nợ công và các khoản vay khác.

Như vậy, có thể nói rằng yếu tố thể chế cũng có vai trò rõ nét trong việc

đánh giá tính bền vững của chính sách tài khóa. Trong nghiên cứu này, tác giả sử

dụng biến chất lượng thể chế như là một biến kiểm soát trong mô hình nghiên

cứu, giúp đánh giá tốt hơn tính bền vững của chính sách tài khóa.

45

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

3.1. Phương pháp nghiên cứu

Hiện nay, các bài nghiên cứu trên thế giới sử dụng phổ biến ba loại dữ

liệu: dữ liệu chuỗi thời gian (Time Series), dữ liệu chéo (Cross Data) và dữ liệu

bảng (Panel Data). Mỗi loại dữ liệu được thiết kế riêng cho từng mục đích và

điều kiện nghiên cứu. Tuy nhiên, sử dụng dữ liệu bảng có nhiều ưu điểm hơn so

với dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo. Dữ liệu bảng cung cấp nhiều thông

tin hơn, biến thiên hơn, ít có sự đa cộng tuyến giữa các biến số, bậc tự do cao hơn

và hiệu quả hơn. Với những ưu điểm trên và để phù hợp với mục tiêu của bài

nghiên cứu, tác giả triển khai ước lượng mô hình thực nghiệm xây dựng trên mối

quan hệ phi tuyến tính giữa rủi ro vỡ nợ quốc gia và ngưỡng nợ công. Để kiểm

định hiệu ứng ngưỡng, nghiên cứu sử dựng phương pháp hồi quy ngưỡng (Panel

Threshold Regression) được đề xuất bởi Hansen (1999).

Để phân tích ngưỡng nợ công và tính bền vững của chính sách tài khóa,

nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu chuỗi thời gian của 30 nền kinh tế mới nổi từ năm

1996 đến năm 2016, nghiên cứu sử dụng phương pháp tác động cố định (Fixed -

Effect) để ước lượng mối quan hệ giữa rủi ro vỡ nợ quốc gia và nợ công. Sau đó,

thông qua phương pháp tìm ngưỡng nợ của Hansen (1999) để xác định ngưỡng

nợ công cho phép để chính sách tài khóa đạt tính bền vững.

Khi nghiên cứu sử dụng dữ liệu dưới dạng chuỗi dữ liệu thời gian (Time

series), cần thiết phải kiểm tra tính dừng (Stationary). Tính dừng của chuỗi dữ

liệu thời gian rất quan trọng vì hầu hết tất cả những mô hình thống kê đều được

thực hiện với giả định là chuỗi dữ liệu thời gian phải dừng. Nếu chuỗi dữ liệu

thời gian không dừng thì không thể khái quát hóa cho toàn bộ thời kỳ nghiên cứu

và cũng không thể đưa ra các dự báo được. Ngoài ra, chuỗi dữ liệu thời gian

không dừng sẽ dẫn đến hiện tượng hồi quy giả mạo (Spurious Regression) và làm

cho ước lượng của mô hình nghiên cứu không còn đáng tin cậy nữa. Vì thế, để

46

kiểm tra tính dừng của chuỗi dữ liệu thời gian của mỗi quốc gia trong bài nghiên

cứu, tác giả sử dụng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị của Levin – Lin –

Chu.

Theo đề xuất của Hansen (1999), dữ liệu thu thập được từ bảng cân bằng

(yit, qit, xit: 1 ≤ I ≤ n, 1 ≤ t ≤ T). Biến phụ thuộc yit và biến ngưỡng qit là các

biến vô hướng, biến hồi quy xit là một vector k hướng, công thức được xác định

như sau:

𝑌𝑖𝑡 = 𝜇𝑖 + 𝛽′1𝑥𝑖𝑡𝐼 (𝑞𝑖𝑡 ≤ 𝛾 ) + 𝛽′2𝑥𝑖𝑡𝐼 (𝑞𝑖𝑡 > 𝛾 ) + 𝑒𝑖𝑡 (1)

Với I (.) là hàm chức năng, ta có thể viết lại phương trình (1) như sau:

Phương trình (1) viết gọn lại như sau:

1 𝛽′

2 )′, vì vậy phương trình (1) bằng:

Và 𝛽 = ( 𝛽′

(2)

Số quan sát được chia thành hai chế độ, phụ thuộc vào biến ngưỡng qit nhỏ

hơn hay lớn hơn giá trị ngưỡng 𝛾. Các chế độ này được phân biệt bằng các hệ số

hồi quy độ dốc 𝛽1 và 𝛽2. Để xác định 𝛽1 và 𝛽2, yêu cầu các yếu tố của xit phải

không là các nhân tố bất biến theo thời gian. Tác giả cũng giả định biến ngưỡng

qit không là nhân tố bất biến theo thời gian. Sai số eit được giả định là độc lập và

47

có phân phối (iid) với giá trị trung bình bằng 0 và phương sai hữu hạn 𝜎2. Không

chắc chắn việc mở rộng kết quả cho phép mô hình vận động/hoặc phương sai

thay đổi.Việc phân tích là tiệm cận cố định T từ n đến ∞.

Cách truyền thống để loại bỏ các ảnh hưởng riêng lẻ của 𝜇𝑖 là loại bỏ các

giá trị trung bình riêng lẻ xác định. Việc xử lý trong mô hình tuyến tính khá dễ

dàng, tuy nhiên trong mô hình phi tuyến tính đòi hỏi phải xử lý cẩn thận. Giá trị

trung bình của phương trình (1) qua thời gian t là:

(3)

Với:

Lấy hiệu của phương trình (2) và (3), ta được:

Với:

48

Ta thiết lập được các ma trận theo các giá trị đã tính được:

Y*, X* (𝛾) và e* biểu thị cho toàn bộ dữ liệu của tất cả các quan sát:

Sử dụng ký hiệu này để viết lại phương trình (4), ta có:

(5)

Với bất kỳ ngưỡng 𝛾 cho trước, hệ số độ dốc 𝛽 được ước tính bằng

phương pháp bình phương tối thiểu (OLS) theo phương trình sau:

49

(6)

Vector phần dư được xác định như sau:

Và tổng bình phương các sai số là:

(7)

Chan (1993) và Hansen (1999) đề xuất ước tính 𝛾 bằng phương pháp

OLS. Điều này được thực hiện dễ dàng bằng cách tối thiểu hóa phần dư trong

phương trình (7). Vì vậy, giá trị ước lượng của 𝛾 sẽ bằng:

(8)

Khi mức ngưỡng 𝛾 được chọn với quá ít quan sát trong một chế độ này

hay một chế độ khác thì không được mong đợi. Hiện tượng này được loại bỏ

bằng cách hạn chế số quan sát trong phương trình (8) xuống mức thấp nhất trong

mỗi chế độ (1% hay 5%).

Với mỗi giá trị hệ số độ dốc ước lượng được, 𝛽 = 𝛽 (𝛾̂)

Vector phần dư là 𝑒̂ ∗ = 𝑒̂ ∗ (𝛾)

Phương sai của phần dư là :

50

Hansen (1999) đã đề xuất sử dụng phương pháp ước lượng bình phương

tối thiểu (Ordinary Least Squares – OLS) để xác định các giá trị của biến

ngưỡng, được xác định bởi giá trị nhỏ nhất của của tổng bình phương các phần

dư trong mô hình ước lượng

𝑇̂ = arg 𝑚𝑖𝑛 𝑇 𝑆1 (𝛾)

Với S1(γ) là tổng bình phương phần dư từ mô hình nghiên cứu được thiết

lập với γ là giá trị ngưỡng được xác định.

Sau khi xác định được giá trị ngưỡng, tác giả tiến hành kiểm định mức ý

nghĩa của hiệu ứng ngưỡng. Trước tiên, đặt giả thuyết không là không có hiệu

ứng ngưỡng (H0: 𝛽1 = 𝛽2) và giả thuyết đối là có hiệu ứng ngưỡng (HA: 𝛽1 =

𝛽2) bằng cách dùng kiểm định Likelihood – Ratio (LR) với giả thuyết H0: 𝛾1𝑡 =

𝐿𝑅1(𝛾) =

( 𝐿𝑅1(𝛾) − 𝐿𝑅1(𝛾̂) 𝜎̂2

𝛾2𝑡 với t = 1,2,3… Kiểm định LR dựa vào:

Tuy nhiên, Hansen (1996, 1999, 2000) cho rằng trong điều kiện phi tuyến

(chưa biết γ ), vấn đề nhiễu tham số làm cho phân phối ước lượng γ không được

chuẩn. Do đó, Hansen (1999) đề xuất sử dụng phương pháp Bootstrap để mô

phỏng phân phối tiệm cận chuẩn để xác định các giá trị p-value của kiểm định.

Chọn mẫu Bootstrap xác định đúng đắn hơn giá trị tiệm cận của thống kê p. Khi

đó, giả thuyết H0 sẽ là H0: 𝛾 = 𝛾0 (𝛾 là giá trị thực của 𝛾0). Một khi hiệu ứng

ngưỡng tồn tại thì ước lượng ngưỡng 𝛾 sẽ có giá trị thực tế là 𝛾0 và thống kê LR

𝐿𝑅1(𝛾) =

( 𝐿𝑅1(𝛾0) − 𝐿𝑅1(𝛾̂) 𝜎̂2

sẽ được định nghĩa như sau:

51

Trong đó, 𝐿𝑅1(𝛾0) là tổng bình phương số dư có được từ phương trình của mô hình nghiên cứu. 𝐿𝑅1(𝛾̂) là tổng bình phương số dư thu được từ ước

lượng phương trình. Nếu giá trị p-value nhỏ hơn mức ý nghĩa thống kê, giả thiết

H0 bị bác bỏ, đồng nghĩa với việc có tồn tại giá trị ngưỡng.

3.2. Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu được thu thập theo dạng bảng (Panel Data). Dữ liệu

bảng còn được gọi là dữ liệu dài, là các quan sát về một chỉ tiêu nào đó bao gồm

quan sát chéo và quan sát chéo theo thời gian. Bằng cách kết hợp chuỗi thời gian

của các quan sát chéo, dữ liệu bảng cung cấp nhiều thông tin hơn, tính biến thiên

nhiều hơn, ít hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến hơn, nhiều bậc tự do và hiệu

quả hơn. Bằng cách nghiên cứu dữ liệu chéo một cách lặp đi lặp lại, dữ liệu bảng

thực hiện tốt hơn các nghiên cứu về những thay đổi xảy ra liên tục. Dữ liệu bảng

có thể phát hiện và đo lường tốt hơn các tác động không thể quan sát được trong

chuỗi dữ liệu thời gian và dữ liệu chéo, cho phép chúng ta có thể nghiên cứu các

mô hình hành vi phức tạp. Bằng cách cung cấp dữ liệu đối với vài nghìn đơn vị,

dữ liệu bảng có thể làm giảm đến mức thấp nhất hiện tượng chệch có thể xảy ra

nếu chúng ta gộp các cá nhân hay các doanh nghiệp theo những biến số có mức

độ tổng hợp cao.

Mặc dù có các ưu thế vượt trội so với dữ liệu chéo hay dữ liệu chuỗi thời

gian, dữ liệu bảng cũng đặt ra nhiều vấn đề về ước lượng và suy luận. Dữ liệu

bảng bao gồm dữ liệu chéo và dữ liệu chuỗi thời gian nên cần phải giải quyết

những vấn đề gây trở ngại cho dữ liệu chéo như phương sai thay đổi hay vấn đề

của dữ liệu chuỗi thời gian là hiện tượng tự tương quan. Ngoài ra còn có một số

vấn đề khác như tương quan chéo trong các đơn vị cá nhân ở cùng một thời điểm.

Vì vậy, dữ liệu bảng không thể thực hiện hồi quy OLS thông thường mà phải

dùng đến mô hình các tác động cố định (Fixed Effect Model – FEM), mô hình

các tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model – REM) hoặc mô hình các thành

phần sai số (ECM).

52

Dữ liệu về thể chế được thu thập từ The Worldwide Governance

Indicators (WGI). WGI đã tổng hợp các dữ liệu nghiên cứu về chất lượng thể chế

được cung cấp bởi một số lượng lớn các doanh nghiệp, công dân và khảo sát các

chuyên gia ở những nước công nghiệp và những nước đang phát triển. Những dữ

liệu này được thu thập từ một số viện nghiên cứu, các cố vấn, các tổ chức phi

chính phủ, tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp tư nhân. Đo lường các biến đại

diện cho chất lượng thể chế cụ thể như sau:

(1) Tiếng nói và trách nhiệm giải trình nằm bắt những cảm nhận về mức

độ mà công dân của một quốc gia có thể tham gia trong việc lựa chọn chính phủ

của họ, cũng như việc tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do truyền thông. Biến

này được WGI tổng hợp từ nhiều biến riêng lẻ của nhiều nguồn dữ liệu như:

Economist Intelligence Unit Riskwire & Democracy Index (EIU) bao gồm các

yếu tố: chỉ số dân chủ, quyền lợi, trách nhiệm giải trình của công chức nhà nước,

nhân quyền và tự do hiệp hội; Freedom House (FRH) bao gồm các thành phần:

quyền tự do chính trị, tự do dân sự, chỉ số tự do báo chí, phương tiện truyền

thông, tổ chức xã hội và quy trình bầu cử; World Economic Forum Global

Competitiveness Report (GCS) bao gồm: tính minh bạch trong chính sách của

chính phủ, tự do báo chí, thiên vị trong các quyết định của các quan chức chính

phủ, thi hành luật;…

(2) Tính ổn định chính trị và không có bạo lực đo lường khả năng chính

phủ có thể bị bất ổn chính trị hoặc bị lật đổ. Chỉ số này được tổng hợp từ nhiều

biến của nhiều nguồn khác nhau như: EIU bao gồm: xung đột vũ trang, các cuộc

biểu tình bạo lực, tình trạng bất ổn xã hội, căng thẳng quốc tế hoặc mối đe dọa

khủng bố; nguồn từ GCS gồm: chi phí cho khủng bố; Cingranelli Richards

Human Rights Database and Polictical Terror Scale (HUM) gồm: tần số các vụ

giết người chính trị, tần suất mất tích, tần suất tra tấn, quy mô khủng bố chính trị;

từ nguồn iJET Country Security Risk Ratings (IJT) gồm biến đánh giá rủi ro an

ninh; nguồn từ Institution Profiles Database (IPD) gồm: cường độ các cuộc xung

53

đột nội bộ dân tộc, tôn giáo, khu vực, cường độ hoạt động bạo lực của các tổ

chức chính trị ngầm, xung đột nội bộ, căng thẳng sắc tộc,…

(3) Hiệu quả của chính phủ phản ánh về chất lượng dịch vụ công, chất

lượng của công chức và mức độ độc lập với áp lực chính trị, chất lượng xây dựng

và thực hiện chính sách và sự đảm bảo của chính phủ trong thực hiện chính sách.

Các nguồn dữ liệu và các biến được sử dụng để đo lường hiệu quả của chính phủ:

EIU gồm các biến tệ nạn quan liêu hoặc hiệu quả thế chế; GCS gồm cơ sở hạ

tầng, chất lượng giáo dục tiểu học; các biến như sự hài lòng với hệ thống giao

thông công cộng, sự hài lòng với hệ thống giáo dục được thu thập từ nguồn

Gallup World Poll (GWP); các biến đo lường trường công lập, dịch vụ y tế cơ

bản, nước uống và vệ sinh môi trường, lưới điện, xử lý chất thải được lấy từ

IPD…

(4) Chất lượng điều tiết thể hiện khả năng của chính phủ trong việc xây

dựng và thực hiện các chính sách và quy định cho phép thúc đẩy và phát triển

khu vực tư nhân. Chỉ số này được tổng hợp từ các nguồn: EIU gồm các biến:

hành vi cạnh tranh không lành mạnh, kiểm soát giá cả, thuế phân biệt đối xử, bảo

hộ thái quá; các biến như gánh nặng các quy định của chính phủ, mức độ và tác

động của thuế, tỷ lệ rào cản thương mại, mức độ cạnh tranh của địa phương, sự

dễ dàng trong việc thành lập doanh nghiệp mới, hiệu quả chính sách chống độc

quyền, các quy định nghiêm ngặt về môi trường lấy từ GCS; biến tự do đầu tư, tự

do tài chính được lấy từ Heritage Foundation Index of Economic Freedom

(HER)…

(5) Kiểm soát tham nhũng thể hiện khả năng nắm bắt về mức độ mà quyền

lực công được thực hiện nhằm mục đích cá nhân, bao gồm cả hình thức nhỏ và

lớn của tham nhũng, cũng như khả năng nắm bắt của nhà nước trong việc phát

hiện tham nhũng. Biến này được tổng hợp như sau: vấn đề tham nhũng trong

công chức được thu thập từ EIU; các biến niềm tin vào chính trị, sử dụng quỹ

công, những khoản thanh toán bất thường trong xuất, nhập khẩu, dịch vụ công,

54

thuế, các hợp đồng… được thu thập từ GCS; mức độ tham nhũng giữa chính

quyền và công dân, giữa chính quyền và doanh nghiệp, giữa chính quyền và các

công ty nước ngoài được từ IPD; tham nhũng được lấy từ PRS…

(6) Quy định của pháp luật thể hiện mức độ mà các tác nhân tin tưởng và

tuân thủ các quy tắc xã hội, đặc biệt là chất lượng thực thi hợp đồng, quyền sở

hữu, cảnh sát, tòa án, cũng như khả năng xuất hiện tội phạm và bạo lực. Biến này

được tổng hợp từ nhiều nguồn: các biến như tội phạm bạo lực, tổ chức tội phạm,

tính công bằng của quy trình pháp lý, thực thi hợp đồng, bảo vệ quyền sở hữu trí

tuệ, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, tịch thu hoặc trưng thu được lấy từ nguồn EIU;

các biến độ tin cậy của dịch vụ cảnh sát, độc lập pháp lý, bảo vệ sở hữu trí tuệ,

quyền sở hữu, khu vực phi chính thức được lấy từ GCS…

Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu trong khoảng thời gian từ năm 1996 đến

năm 2016 của 30 nền kinh tế mới nổi trên thế giới (theo phân loại của IMF),

gồm:

- Khu vực châu Á (13): Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia,

Malaysia, Myanmar, Phillipnes, Thái Lan, Campuchia, Lào, Brunei, Sri Lanka,

Việt Nam.

- Khu vực châu Âu (7): Ba Lan, Bulgari, Hungary, Kazakhstan, Nga,

Romani, Thổ Nhĩ Kỳ.

- Khu vực châu Mỹ Latin (8): Argentina, Brazil, Chile, Colombia,

Mexico, Peru, Uruguay, Venezuela.

- Khu vực châu Phi (2): Ai Cập, Nam Phi.

3.3. Mô hình nghiên cứu

Dựa trên mô hình của tác giả Mehmet Caner, Thomas Grennes, Fritzi

Koehler-Geib (2010) và Sử Đình Thành (2012), bài nghiên cứu xây dựng mô

hình sau đây để xác định ngưỡng nợ công và tính bền vững chính sách tài khóa:

55

𝑌𝑖 = 𝛽0,11{𝑋𝑖 ≤ 𝛾} + 𝛽0,21{𝑋𝑖 > 𝛾} + 𝛽1,1𝑋𝑖1{𝑋𝑖 ≤ 𝛾} + 𝑋𝑖1{𝑋𝑖 > 𝛾}

+ 𝛽2,1𝑊𝑖1{𝑋𝑖 ≤ 𝛾} + 𝛽1,2𝑋𝑖1{𝑋𝑖 > 𝛾} + 𝜀𝑖

Trong đó:

Y : tốc độ tăng trưởng GDP là biến phụ thuộc

X : tỷ lệ nợ công/GDP

W : đại diện các biến kiểm soát (lạm phát, độ mở thương mại, thể chế)

i : các quốc gia

γ : giá trị ngưỡng chưa biết

β là các hệ số tương quan

Phương trình trên được viết lại thành hai phương trình như sau :

𝑌𝑖 = 𝛽0,1 + 𝛽1,1𝑋𝑖 + 𝛽2,1𝑊𝑖 + 𝜀𝑖 𝑛ế𝑢 𝑋𝑖 ≤ 𝛾

𝑌𝑖 = 𝛽0,2 + 𝛽1,2𝑋𝑖 + 𝛽2,2𝑊𝑖 + 𝜀𝑖 𝑛ế𝑢 𝑋𝑖 > 𝛾

Mô tả biến và nguồn dữ liệu trong mô hình:

TÊN BIẾN GIẢI THÍCH NGUỒN DỮ LIỆU

GDP Tỷ lệ tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm World Bank

Debt IMF Tỷ lệ nợ công/GDP, dùng để xác định ngưỡng nợ công quốc gia.

Chỉ số lạm phát hàng năm Inflation World Bank

Openness World Bank Độ mở của nền kinh tế (tỷ trọng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP)

Institutions (*) Chất lượng thể chế World Govenance Indicators

56

(*) Trong đó, biến chất lượng thể chế được mô tả như sau:

ĐẶT TÊN BIẾN MÔ TẢ CHI TIẾT

INST_1 Voice and Accountability Chỉ số tiếng nói và trách

nhiệm giải trình

INST_2 Political Stability and Chỉ số tính ổn định chính trị

Absence of Violence và không có bạo lực

INST_3 Government Effectiveness Chỉ số hiệu quả chính phủ

INST_4 Regulatory Quality Chỉ số chất lượng điều tiết

INST_5 Control of Corruption Chỉ số kiểm soát tham

nhũng

INST_6 Rule of Law Chỉ số quy định của pháp

luật

57

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Tác giả sử dụng số liệu hàng năm từ 1996 – 2016 để phân tích, kiểm định

tính dừng bằng kiểm định Levin – Lin – Chu. Kết quả kiểm định cho thấy, chuỗi

dữ liệu về GDP, lạm phát, độ mở thương mại đều dừng.

Bảng 4.1. Kết quả kiểm định tính dừng biến GDP

Bảng 4.2. Kết quả kiểm định tính dừng biến INFLATION

58

Bảng 4.3. Kết quả kiểm định tính dừng biến OPENNESS

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định tính dừng biến DEBT

Chuỗi dữ liệu biến DEBT không dừng, do đó, tác giả dùng sai phân bậc

nhất để thực hiện chạy mô hình, tránh bị hiện tượng hồi quy giả mạo.

Kết quả chạy mô hình hồi quy ngưỡng theo Hansen (1999) cho thấy, tỷ lệ

nợ công so với GDP trong khoảng thấp nhất từ 74,38% đến cao nhất là 78,29%,

trong đó ngưỡng nợ công là 77,94% khi có tác động của nhân tố thể chế, mô hình

có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.

59

Bảng 4.5. Kết quả hồi quy ngưỡng

Kết quả này phù hợp và tương đồng với kết quả của nghiên cứu của

Mehmet Caner, Thomas Grennes và Fritzi Koehler-Geib (2010) trong nghiên cứu

Finding the tipping point – When sovereign debt turns bad (tồn tại ngưỡng tỷ lệ

nợ công/GDP, trung bình là 77% với toàn bộ 101 quốc gia và có tỷ lệ 64% đối

với các quốc gia đang phát triển) và kết quả ngưỡng nợ công mức 75,8% trong

nghiên cứu của tác giả Sử Đình Thành (2012) khi nghiên cứu thực nghiệm về

ngưỡng nợ công ở Việt Nam. Với kết quả nghiên cứu thực nghiệm này cho thấy

có tồn tại một mức nợ công ngưỡng, tại mức ngưỡng này, nếu nợ công càng tăng

thì nguy cơ vỡ nợ, mất bền vững chính sách tài khóa càng lớn.

60

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra các hệ số của biến DEBT là -0,0384, biến

INFLATION là -0,05 và biến OPENNESS là 0,0233, đều có ý nghĩa thống kê.

Nếu nợ công tăng lên 1% thì tăng trưởng kinh tế sẽ giảm tương ứng 0,0384%,

lạm phát tăng 1% thì sẽ ảnh hưởng giảm 0,05% tăng trưởng GDP và nếu độ mở

thương mại tăng 1% thì tăng trưởng tăng tương ứng 0,0233%. Điều này là phù

hợp với lý thuyết khi nợ công và lạm phát tăng cao thì sẽ gây ra tác động tiêu cực

đến tăng trưởng kinh tế, ngược lại nền kinh tế càng mở và hội nhập sẽ tác động

tích cực đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Ngoài ra, yếu tố thể chế được

chứng minh là có tác động đến tăng trưởng kinh tế, thể chế tốt, minh bạch sẽ thúc

đẩy kinh tế phát triển, đồng thời giảm được các tác động tiêu cực đến các nhân tố

khác như nợ công hay lạm phát.

61

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

5.1. Kết luận

Với mục đích đánh giá một cách khoa học, khách quan về tính bền vững

của chính sách tài khóa qua bằng chứng nghiên cứu về nợ công từ 30 nền kinh tế

mới nổi trên thế giới bằng phương pháp định lượng hồi quy ngưỡng của Hansen

(1999), bài nghiên cứu đã cho ra kết quả tỷ lệ nợ công so với GDP trong khoảng

thấp nhất từ 74,38% đến cao nhất là 78,29%, trong đó ngưỡng nợ công là 77,94%

khi có tác động của nhân tố thể chế, mô hình có ý nghĩa thống kê ở mức 95%.

Kết quả nghiên cứu này phù hợp với một số nghiên cứu thực nghiệm về ngưỡng

nợ công và bền vững tài khóa trước đây.

Điều 109j của Hiệp ước Maastricht buộc chính phủ các nước trong khối

đồng tiền chung châu Âu (EMU) phải tuân thủ những tiêu chuẩn khắt khe trong

quản lý tài chính – ngân sách. Chính sách tài khóa trong Hiệp ước Maastricht đòi

hỏi ngân sách quốc gia phải cân đối hoặc thặng dư trong trung hạn, thâm hụt

ngân sách dưới 3% GDP và tỷ lệ nợ trên GDP dưới 60%, hướng đến kết hợp giữa

kỷ luật và sự linh hoạt ngân sách, tránh tình trạng điều chỉnh ngân sách thiếu bền

vững. Qua kết quả nghiên cứu, có thể thấy được rằng nếu so với tiêu chuẩn của

các quốc gia thuộc khối EU, ngưỡng nợ công 77,94% là quá cao, đồng nghĩa với

việc chính phủ các quốc gia không được để nợ công vượt qua ngưỡng này cũng

như dựa vào giới hạn nợ công này để thiết lập chính sách bởi vì tiềm ẩn rủi ro rất

lớn khi không thể nhận biết được lúc nào có một cú sốc bất thường xảy ra. Mất

kiểm soát nợ công sẽ dẫn đến việc gia tăng gánh nặng thuế trong ngắn hạn và khả

năng vỡ nợ trong dài hạn (Hume). Vì lẽ đó, các chính phủ phải kiểm soát nợ

công thấp hơn mức ngưỡng này và tiến tới việc kiểm soát tỷ lệ nợ công/GDP

thấp hơn tỷ lệ thặng dư ngân sách/GDP để đạt được bền vững tài khóa (Willhem

Buiter, 2003).

62

Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng xác định tác động của chất lượng thể

chế (thông qua các chỉ số: tiếng nói và trách nhiệm giải trình, tính ổn định chính

trị và không có bạo lực, hiệu quả của chính phủ, chất lượng điều tiết, kiểm soát

tham nhũng, quy định của pháp luật) đến mối quan hệ giữa nợ công và tăng

trưởng kinh tế của 30 nền kinh tế mới nổi. Kết quả của mô hình cho thấy rằng

chất lượng thể chế có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các nền kinh

tế mới nổi. Để có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tốt hơn trong một nền kinh tế

mở, chính phủ các nước phải đặt trọng tâm vào việc kiểm soát tham nhũng, nâng

cao hiệu quả hoạt động của chính phủ và chất lượng điều tiết, các quy định của

pháp luật và duy trì ổn định chính trị.

5.2. Các gợi ý chính sách

5.2.1. Gợi ý chính sách chung

Dựa vào kết quả nghiên cứu về chất lượng thể chế, có thể khuyến nghị

một số giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững thì chính phủ cần làm

là nâng cao hiệu quả của chính phủ, cung ứng các dịch vụ hành chính công phải

đảm bảo minh bạch và công bằng, hiệu quả, nâng cao tinh thần trách nhiệm của

người thi hành công vụ, bên cạnh đó phải đảm bảo an sinh xã hội. Việc nâng cao

và tăng cường các biện pháp phòng, chống tham nhũng, các hành vi tiêu cực,

quan liêu trong bộ máy hành chính là việc rất quan trọng để làm cho bộ máy hoạt

động tốt hơn, cải thiện thể chế để có khả năng cạnh tranh cao, thu hút đầu tư

trong nước và ngoài nước. Sự nhất quán, rõ ràng trong chính sách, chính sách có

tính dự báo cao, tầm nhìn xa sẽ tạo được niềm tin cho các doanh nghiệp và nhà

đầu tư.

Chính phủ cũng cần chú trọng đến nâng cao chất lượng điều tiết, thể hiện

khả năng của chính phủ trong việc thúc đẩy và phát triển khu vực tư nhân. Để

thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, chính phủ cần tôn trọng và đảm bảo quyền tự

do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công

dân, tuân thủ nghiêm các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, các cam kết hội nhập

63

quốc tế. Bình đẳng đối với khu vực kinh tế tư nhân là điều hết sức cần thiết,

Chính phủ cần có những biện pháp cụ thể để thúc đẩy tính minh bạch, nâng cao

trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, cần tiếp

tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách các thủ tục hành chính

phức tạp, gây tốn kém chi phí. Chính sách pháp luật cần được minh bạch hóa, có

thể dự đoán được, nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà

nước nhằm tạo sự bình đẳng đối tất cả các thành phần kinh tế.

Tham nhũng là vấn đề gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp, các nhà

đầu tư ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Do đó, tham

nhũng cần phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn ngừa sự quan liêu, trì trệ trong

hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, tạo ra một môi trường cạnh tranh

bình đẳng, minh bạch.

Đối với các nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu về vốn để đầu tư cơ sở hạ

tầng kinh tế luôn rất lớn. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của nghiên cứu này

không đồng nghĩa với việc chính phủ các quốc gia không được đi vay mà vấn đề

là việc vay nợ của chính phủ phải luôn luôn trong tình trạng kiểm soát được dưới

một tỷ lệ nợ công/GDP nhất định. Nếu vượt quá ngưỡng nợ cho phép, khả năng

vỡ nợ là rất lớn, khi đó mọi việc sẽ vô cùng khó khăn. Ngoài ra, cùng với việc

kiểm soát nợ công, trong dài hạn, các chính phủ cần phải có những giải pháp cụ

thể để cải thiện chất lượng thể chế, tạo môi trường đầu tư – kinh doanh thuận lợi,

từ đó kinh tế phát triển và nguồn thu quốc gia tăng lên, đây cũng chính là cách

giải quyết nợ công hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, tầm quan trọng của việc kiểm

soát ngưỡng nợ công cũng thể hiện ở việc dung hòa tương đối giữa mục tiêu phát

triển bền vững chính sách tài khóa và bền vững từ việc sử dụng các nguồn lực để

phát triển kinh tế. Vì lẽ đó, một trong những giải pháp khả thi của chính phủ

trong các nỗ lực kiểm soát tỷ lệ nợ công/GDP là phải có kế hoạch vay nợ, trả nợ

hợp lý, đặt trong tương quan với những dự báo phát triển kinh tế định trước.

64

Về nợ công và bền vững tài khóa, chính phủ ở các nền kinh tế mới nổi cần

giới hạn mức nợ công phù hợp và giữ lạm phát ở mức vừa phải. Đặc biệt phải lưu

ý nợ là một gánh nặng phải trả trong tương lai, có khả năng gây ra khủng hoảng

và suy thoái kinh tế do vấn đề vỡ nợ gây ra, vì vậy việc vay nợ phải dành cho các

dự án đầu tư phát triển, có khả năng thu hồi vốn và đảm bảo mang lại lợi ích cho

người dân và doanh nghiệp. Đồng thời thúc đẩy các hoạt động đầu tư của khu

vực tư, tạo nguồn thu ngân sách hợp lý và tạo các điều kiện thuận lợi cho các

hoạt động xuất nhập khẩu, tăng cường sự giao thương của các doanh nghiệp,

tham gia các tổ chức thương mại trong khu vực và thế giới vì những điều này

giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

5.2.2. Gợi ý chính sách cho Việt Nam

Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam tăng mạnh do chính sách tài khóa nới

lỏng trong những năm qua. Cụ thể, tỷ lệ nợ công/GDP tăng đáng kể từ 51,7%

năm 2010 lên đến 61% năm 2015, trong đó nợ Chính phủ chiếm 49,2%, nợ

Chính phủ bảo lãnh chiếm 10,9%, 0,9% là nợ của chính quyền địa phương. Điều

đáng lo ngại là dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế tốt nhưng Việt Nam lại có tỷ lệ

nợ công/GDP tăng nhanh (tăng khoảng 10% trong 5 năm qua). Theo số liệu của

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra trong Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2018,

mức nợ công của Việt Nam là 61,4% GDP, song vẫn nằm trong ngưỡng an toàn

về trung hạn. Tuy nợ công vẫn nằm trong ngưỡng cho phép, nhưng hiện đang

phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn. Bội chi ngân sách hiện vẫn đang ở mức cao.

Nếu bội chi ngân sách và mức bảo lãnh của Chính phủ vẫn được duy trì như hiện

nay, thì tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam sẽ tăng vượt trần cho phép (65%

GDP) trong những năm tới, kể cả khi tăng trưởng GDP có được duy trì ở mức

cao và chi phí huy động vẫn còn tương đối thuận lợi như hiện nay. Mặt khác, dư

địa ngân sách đang ngày càng trở nên mỏng, khiến cho nợ công có thể trở nên

mất bền vững ngay kể cả khi có những cú sốc nhẹ.

65

Trong thời gian tới, chính phủ cần phải nghiên cứu, tái tạo các lớp đệm

chính sách trước những rủi ro. Với nợ công đang ở mức cao, Việt Nam còn ít dư

địa để có thể vận dụng chính sách tài khóa nhằm đối phó với biến động chu kỳ,

điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc phải củng cố tình hình tài khóa và đẩy

mạnh cải cách cơ cấu. Nếu tình hình ngân sách hiện nay không được điều chỉnh,

hoặc nếu không có lộ trình giảm bội chi ngân sách, lộ trình nợ của Việt Nam sẽ

sớm đi vào vùng có rủi ro cao, gây trở ngại cho tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ

mô.

Vì vậy, Chính phủ Việt Nam vẫn phải đặc biệt quan tâm xử lý nợ công và

đảm bảo chính sách tài khóa đạt tính bền vững trong dài hạn thông qua một số

giải pháp gợi ý như sau:

Thứ nhất, cần quan tâm hơn đến việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng của

mình từ chiều rộng sang chiều sâu. Trong những năm vừa qua, mô hình tăng

trưởng của Việt Nam còn dựa nhiều vào đầu tư (đặc biệt là đầu tư công), bên

cạnh các yếu tố khác, nhưng hiệu quả mang lại từ đầu tư không được như mong

đợi. Do đó, lợi ích từ tăng trưởng và tăng thu ngân sách chưa bù đắp được các chi

phí liên quan đến gia tăng đầu tư công và nợ công.

Thứ hai, Việt Nam phải đặc biệt quan tâm đến kỷ luật ngân sách, nhất là

chi tiêu công và đầu tư công. Bên cạnh những hệ lụy đối với bất ổn kinh tế vĩ mô,

đầu tư công đang gặp phải nhiều vấn đề liên quan đến dàn trải, lãng phí, kém

hiệu quả. Siết chặt kỷ luật đầu tư công và chi tiêu công sẽ làm giảm quy mô chi

ngân sách cần thiết để đạt các mục tiêu phát triển, qua đó giúp thâm hụt ngân

sách và nợ công trở nên bền vững hơn.

Thứ ba, liên quan đến việc kiểm soát và nâng cao kỷ luật ngân sách, minh

bạch thông tin liên quan đến chi tiêu công và đầu tư công sẽ là những yêu cầu

quan trọng. Bảo đảm minh bạch thông tin trên phương diện này còn giúp tăng

cường giám sát của cộng đồng đối với hiệu quả đầu tư công và chi tiêu công, qua

đó giúp phòng ngừa những rủi ro liên quan đến nợ công. Đồng thời, phối hợp

66

chặt chẽ chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ và chính sách tài

khóa.

Ngoài các biện pháp đồng bộ nhằm giảm bội chi ngân sách, cũng cần tăng

cường năng lực quản lý nợ công. Bên cạnh những áp lực nợ trước mắt nêu trên,

cũng cần chuẩn bị sẵn sàng cho sự chuyển đổi khi nguồn vốn vay có tính chất ưu

đãi (ODA) sẽ dần giảm xuống và nợ thương mại (trong nước và nước ngoài) sẽ

trở thành nguồn huy động chính của Chính phủ. Trong bối cảnh đó, quản lý tài

khóa và quản lý nợ một cách cẩn trọng sẽ đem lại lợi ích là nâng cao lòng tin của

nhà đầu tư, mức tín nhiệm quốc gia và giảm mức chi phí vay.

Cần có một lộ trình củng cố tình hình tài khóa để đảm bảo sự bền vững tài

khóa nhưng ít ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Điều này đòi hỏi Chính phủ

phải giảm bội chi và duy trì nợ công dưới các hạn mức quy định, qua đó giúp hạn

chế tăng nợ và tái tạo được các lớp đệm chính sách nhằm chống đỡ các cú sốc có

thể xảy ra, cũng như các nghĩa vụ nợ dự phòng có thể phát sinh. Các phương án

củng cố tình hình tài khóa có thể được cân nhắc trên cơ sở phối hợp các biện

pháp nhằm đẩy mạnh huy động thu, hạn chế tăng chi, tái cơ cấu và nâng cao hiệu

suất chi tiêu, tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng và khai thác tài sản công,

hiệu quả quản lý nợ công và rủi ro tài khóa. Tái cơ cấu chi tiêu công cần đảm bảo

cho các khoản chi cho các lĩnh vực an sinh xã hội, đầu tư phát triển và tái cấu

trúc nền kinh tế.

5.3. Hạn chế của luận văn và định hướng nghiên cứu trong tương lai

Trong nghiên cứu này, mặc dù đã cố gắng song tác giả vẫn chỉ có thể

dừng lại ở việc đóng góp thêm một bằng chứng thực nghiệm về ngưỡng nợ công

và bền vững chính sách tài khóa cho 30 nền kinh tế mới nổi. Bên cạnh đó, nghiên

cứu cũng chứng minh được yếu tố thể chế có vai trò rất đáng kể trong việc phát

triển kinh tế. Quốc gia nào có chất lượng thể chế tốt thì sẽ có nhiều cơ hội tăng

trưởng kinh tế mạnh mẽ và ngược lại, quốc gia nào có chất lượng thể chế kém thì

tăng trưởng kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn, thể chế yếu kém sẽ kìm hãm sự phát

67

triển của quốc gia đó. Tuy nhiên, với sự hạn chế về dữ liệu và thời gian, đề tài

chưa phân tích được sâu được sự tác động cụ thể về tỷ lệ ngưỡng nợ công của

từng nhóm quốc gia, khu vực cũng như tác động đồng thời của yếu tố thể chế đến

các chỉ tiêu khác khi nghiên cứu về tính bền vững của chính sách tài khóa (thặng

dư, thâm hụt ngân sách). Kết quả và một số gợi ý chính sách rút ra từ nghiên cứu

này là hữu ích, thiết thực và cần thiết cho các nhà kinh tế học và các nhà hoạch

định chính sách tham khảo. Đồng thời, những khúc mắt phát hiện từ nghiên cứu

này cũng sẽ là những gợi ý cho các đề tài nghiên cứu tiếp theo.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục tài liệu tiếng Anh

Ahmad Zubaidi Baharumshah, Siew-Voon Soon, Evan Lau, Fiscal

sustainability in an emerging market economy: When does public debt turn bad?

Journal of Policy Modeling 39 (2017), 99 – 113.

David Hauner, Daniel Leigh and Michael Skaarup, Ensuring fiscal

sustainability in G-7 countries, IMF Working Paper.

Fabrizio Balassone and Daniele Franco, Assessing fiscal sustainability: A

review of methods with a view to EMU.

Mariam Camarero, Josep Lluis Carrion-i-Silvestre và Cecilo Tamarit,

2013. The relationship between debt level and fiscal sustainability in OECD

countries.

Mehmet Caner, Thomas Grennes, Fritzi Koehler-Geib, 2010. Finding the

tipping point – When sovereign debt turns bad.

Ngan Tran, Debt threshold for fiscal sustainability assessment in

emerging economies, Journal of Policy Modeling, 2018.

Shyh – Wei Chen, Testing for fiscal sustainability: New evidence from the

G-7 and some European countries, Economic Modelling, 2013.

Tomoni Miyazaki, Fiscal reform and fiscal sustainability: Evidence from

Australia and Sweden, International Review of Economics and Finance.

Willem H. Buiter, 2003. Fiscal Sustainability.

Danh mục tài liệu tiếng Việt

Chính phủ Việt Nam – Ngân hàng Thế giới, 2017, Đánh giá chi tiêu công

Việt Nam: Chính sách tài khóa hướng tới bền vững, hiệu quả và công bằng.

Đặng Văn Cường, 2016, Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế tại các quốc

gia chuyển đổi. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí

Minh.

Lê Hoàng Đức, 2016. Quan hệ nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế tại

Việt Nam: Cách tiếp cận ngưỡng nợ.

Ngân hàng Thế giới, 2017, Đánh giá minh bạch tài khóa của Việt Nam:

Phân tích và phản hồi của các bên liên quan về thông tin Ngân sách nhà nước

được công khai.

Nguyễn Công Toàn, 2017. Đánh giá tính bền vững của nợ công và mối

quan hệ giữa nợ với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại

học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Như Quỳnh, 2012. Dựng lại bức tranh ngân sách, đánh giá

tính bền vững tài khóa Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Văn Bổn, 2016. Tác động của nợ công và lạm phát lên tăng

trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại học Kinh

tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Sử Đình Thành, 2012. Ngưỡng nợ công: Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt

Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế.

Trần Xuân Tân, 2014. Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam.

Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam, 2013. Nợ công và

tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai.