BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THANH ĐOÀN

NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

TP. HCM – NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THANH ĐOÀN

NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 8 34 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS., TS. NGÔ HƯỚNG

TP. HCM – NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Số liệu và kết quả

nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Đề tài của tôi chưa được công

bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả

NGUYỄN THANH ĐOÀN

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM

đã tận tâm giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu và có những ý kiến

đóng giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này được tốt hơn.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới PGS., TS. Ngô Hướng về sự

hướng dẫn nhiệt tình và đầy tâm huyết trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này.

Tác giả

NGUYỄN THANH ĐOÀN

i

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nợ công luôn là vấn đề mang tính thời sự đối với hầu hết mọi quốc gia trên thế

giới. Dù đó là một quốc gia có nền kinh tế lạc hậu hay tiên tiến, kể cả đó là một quốc

gia có nền kinh tế đứng đầu trên thế giới thì nợ công vẫn luôn luôn hiện hữu.

Đối với những quốc gia kém phát triển hay đang phát triển (như Việt Nam) thì

việc vay nợ, đặc biệt là vay từ các quốc gia phát triển hay từ các tổ chức tài chính quốc

tế như: IMF, WB, ADB,… là nguồn lực quan trọng giúp cho các quốc gia đó có điều

kiện rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các quốc gia có nền kinh tế phát triển.

Tuy nhiên, nếu việc sử dụng nợ công không hiệu quả, thì gánh nặng nợ công sẽ

ngày càng lớn và điều đó rất dễ dẫn đến việc mất khả năng trả nợ. Vì vậy, bất kỳ một

quốc gia nào cũng cần phải luôn thận trọng với vấn đề nợ công.

Điều quan trọng là, Chính phủ cần xác định được nhu cầu vốn cần vay bao nhiêu

từ các tổ chức, cá nhân trong nước và vay bao nhiêu từ nước ngoài cho các mục tiêu

đầu tư công để phục vụ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình trọng điểm

phục vụ cho phúc lợi xã hội và quốc phòng an ninh. Chính phủ cần phải tính toán được

hiệu quả kinh tế - xã hội của việc đầu tư công, đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ việc

sử dụng vốn vay, nhất là đối với nợ vay nước ngoài nhằm đảm bảo khả năng trả nợ.

Việc sử dụng hiệu quả vốn vay, đồng thời đảm bảo được khả năng trả nợ còn lệ

thuộc vào nội lực của nền kinh tế. Cho nên, qui mô nợ công của một quốc gia cao hay

thấp không phải là vấn đề quyết định mức độ rủi ro cao hay thấp mà do năng lực kinh

tế của từng quốc gia đó quyết định. Khả năng chống đỡ nợ công của mỗi quốc gia lệ

thuộc vào nội lực của nền kinh tế cũng như phụ thuộc vào cơ cấu nợ nước ngoài của

quốc gia đó trong tổng dư nợ công ra sao. Đương nhiên là việc vay nợ nước ngoài

nhiều (chiếm tỷ trọng cao) sẽ bất lợi hơn so với việc vay vốn trong nước do biến động

về tỷ giá cũng như các điều kiện ràng buộc và áp lực trả nợ khi đáo hạn.

ii

Vì vậy, chính phủ cần xác định được ngưỡng giới hạn nào là an toàn cho vấn đề

nợ công, và phải đảm bảo là nợ công luôn nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Đồng

thời, chính phủ cũng cần có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ và ứng phó với vấn đề nợ

công, trong đó, biện pháp phòng chống tham nhũng và lãng phí trong bộ máy công

quyền là vấn đề cần đặc biệt quan tâm.

Nợ công là một vấn đề lớn, có liên quan đến rất nhiều vấn đề cần được giải quyết.

Đó là những vấn đề có liên quan đến thể chế kinh tế, kể cả thể chế nhà nước, cả về giáo

dục hay việc thực thi pháp luật cũng là những lĩnh vực có liên quan và ảnh hưởng đến

vấn đề nợ công. Vì vậy, giải quyết vấn đề nợ công không chỉ là công việc của Chính

phủ, của các Bộ, Ngành có liên quan đến việc sử dụng và quản lý nợ công theo Luật

quản lý nợ công mà nó còn là vấn đề có liên quan đển cả hệ thống chính trị và của mọi

tầng lớp nhân dân.

Khi bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả và tình trạng tham

nhũng, lãng phí còn diễn ra thì ngân sách nhà nước bị thâm thủng là điều dễ hiểu. Nếu

tình trạng ngân sách bị thâm hụt kéo dài và không được bù đắp, thì việc vay nợ là việc

đầu tiên nên làm vì dễ thực hiện nhất. Nếu chính phủ lạm dụng việc làm này thì nợ

công sẽ tăng lên nhanh chóng.

Khi việc thực thi pháp luật không nghiêm thì việc vi phạm pháp luật vẫn còn xảy

ra, và việc phòng chống tham nhũng, lãng phí cũng không thể mang lại hiệu quả. Đặc

biệt là những vụ án kinh tế lớn vẫn còn diễn ra ngày càng nhiều, làm ảnh hưởng đến sự

phát triển kinh tế của đất nước. Khi kinh tế không phát triển thì nguồn thu ngân sách sẽ

bị hạn chế, thu không đủ chi, ngân sách sẽ bị thâm hụt.

Khi nền giáo dục không đạt được nhiều tiến bộ mà bị thụt lùi hay chệch hướng thì

không thể đào tạo ra nhiều nhân tài để phục vụ đất nước. Khi đất nước không có nhiều

nhân tài hay nhà nước không có chính sách thu hút nhân tài thì sẽ bị chảy máu chất

xám. Nếu bộ máy nhà nước không thu hút được người tài vào để làm việc, thì phần lớn

những người tham gia vào bộ máy nhà nước toàn là những người yếu kém thì bộ máy

iii

nhà nước không thể hoạt động có hiệu quả được. Đó là chưa kể đến vấn đề đạo đức xã

hội, một khi đã bị xuống cấp thì nguy cơ sẽ còn lớn hơn rất nhiều.

Đó là một số lý do trong rất nhiều lý do lý giải tại sao các tập đoàn kinh tế lớn của

nhà nước phần nhiều đều làm ăn thua lỗ. Khi các tập đoàn kinh tế nhà nước làm ăn

thua lỗ thì nguồn thu ngân sách nhà nước cũng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Đồng thời

các khoản vốn đầu tư ngân sách sẽ phải tiếp tục rót thêm vào để vựt dậy cho nó sống,

cho dù không chắc là nó có thể sống khỏe được hay không. Điều đó sẽ dẫn đến việc

thâm hụt ngân sách ngày càng lớn và nợ công sẽ tiếp tục gia tăng.

Nợ công là vấn đề có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực và cũng có nhiều lĩnh vực

tác động, làm ảnh hưởng đến nợ công. Vì vậy, để giải quyết căn bản vấn đề nợ công thì

Chính phủ cần phải làm rất nhiều việc và không thể giải quyết trong một sớm một

chiều, mà là cả một quá trình lâu dài.

Trong phạm vi luận văn này, cũng chỉ nêu những tồn tại có liên quan đến vấn nợ

công và đề cập đến một số giải pháp trong rất nhiều giải pháp nhằm giải quyết vấn đề

nợ công mà bản thân cho là thiết thực mang tính lâu dài và bền vững hơn.

iv

MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..............................................................................vii

DANH MỤC BẢNG ....................................................................................................viii

DANH MỤC HÌNH ......................................................................................................viii

PHẦN MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .....................................1

1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................1

2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................1

3. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................2

4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu.......................................................................2

5. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2

6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................3

7. Bố cục dự kiến của đề tài ....................................................................................3

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG..................................................................5

1.1. Lý thuyết về nợ công........................................................................................5

1.1.1. Khái niệm về nợ công....................................................................................5

1.1.2. Bản chất kinh tế của nợ công.........................................................................8

1.1.3. Đặc điểm của nợ công....................................................................................9

1.1.4. Vai trò của nợ công......................................................................................10

1.1.5. Phân loại nợ công.........................................................................................15

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công...............................................................16

1.3. Tác động kinh tế của nợ công.........................................................................17

1.4. Tình hình nợ công trên thế giới......................................................................18

1.4.1. Tình hình chung...........................................................................................18

1.4.2. Khủng hỏang nợ công trên thế giới và những tác động đối với Việt Nam..19

Kết luận chương 1..................................................................................................22

v

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI

VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM..................................................................................24

2.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam ....................................................................24

2.1.1. Quy mô nợ công và mức độ an toàn nợ công của Việt Nam.......................24

2.1.2. Tình hình sử dụng nợ công..........................................................................28

2.1.3. Một số tồn tại có liên quan đến vấn đề nợ công..........................................33

2.1.3.1. Tình hình quản lý nợ công còn nhiều hạn chế, yếu kém..........................33

2.1.3.2. Bộ máy quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế...........................................35

2.1.3.3. Hiệu quả hoạt động đối với khu vực kinh tế nhà nước không cao...........37

2.1.3.4. Tình trạng tham nhũng, lãng phí đang ở mức đáng lo ngại......................39

2.1.3.5. Việc thực thi pháp luật nhà nước chưa nghiêm........................................43

2.2. Tác động của nợ công đối với nền kinh tế......................................................45

2.2.1. Đánh giá chung về tác động của nợ công....................................................45

2.2.1.1. Tác động tích cực......................................................................................45

2.2.1.2. Những tác động tiêu cực...........................................................................46

2.2.2. Tác động của nợ công đến các biến số vĩ mô nền kinh tế...........................47

2.2.2.1. Tác động tới lạm phát và tỷ giá................................................................47

2.2.2.2. Tác động tới lãi suất và đầu tư..................................................................52

2.2.2.3. Tác động tới tăng trưởng kinh tế..............................................................53

Kết luận chương 2..................................................................................................57

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ ỨNG PHÓ VỚI

VẤN ĐỀ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM.............................................................................59

3.1. Tăng cường việc sử dụng hiệu quả và quản lý chăt chẽ nợ công...................59

3.1.1. Sử dụng hiệu quả vốn vay đầu tư công........................................................59

3.1.2. Quản lý chặt chẽ về nợ công........................................................................60

3.2. Giảm thâm hụt ngân sách................................................................................61

3.2.1. Cắt giảm chi tiêu công.................................................................................61

vi

3.2.2. Khơi tăng các nguồn thu..............................................................................63

3.3. Nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước.................................................63

3.3.1. Tinh giản và làm trong sạch bộ máy nhà nước............................................63

3.3.2. Lựa chọn nhân tài cho chính phủ.................................................................65

3.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước........................................................66

3.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN..............................66

3.6. Hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về quản lý nợ công..............................69

3.6.1. Thực thi chính sách tài khóa thích hợp........................................................69

3.6.2. Thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt............................................................72

3.6.3. Phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.............................74

3.7. Tăng cường công tác kiểm tóan Nhà nước về quản lý nợ công......................77

3.8. Tăng cường vai trò quản lý của NHNN trong quản lý nợ công......................78

3.9. Những giải pháp khác.....................................................................................81

3.9.1. Đổi mới công tác giáo dục và đào tạo..........................................................81

3.9.2. Có chính sách thu hút và sử dụng nhân tài..................................................84

3.9.3. Thực hiện dân chủ và công bằng xã hội......................................................86

Kết luận chương 3..................................................................................................91

PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................93

vii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Tên viết tắt Tên đầy đủ

1 ABD

2 ASOSAI

3 BHXH 4 CPBL 5 CQĐP 6 CSTK 7 CSTT 6 DNNN IMF 8 Asian Development Bank - Ngân hàng Phát triển châu Á Asian Organization of Supreme Audit Institutions - Hiệp hội các Cơ quan kiểm toán tối cao châu Á Bảo hiểm xã hội Chính phủ bảo lãnh Chính quyền địa phương Chính sách tài khóa Chính sách tiền tệ Doanh nghiệp nhà nước International Monetary Fund - Quỹ tiền tệ quốc tế

9 INTOSAI International Organization of Supreme Audit Institutions - Hiệp hội các Cơ quan kiểm toán tối cao trên Thế giới

10 KTNN 11 NHCSXH 12 NHNN 13 NHTM 14 NHTW 15 NSNN

16 ODA

17 TP. HCM 18 TPCP

19 UNCTAD

20 WB 21 WTO Kiểm toán Nhà nước Ngân hàng Chính sách Xã hội Ngân hàng nhà nước Việt Nam Ngân hàng thương mại Ngân hàng trung ương Ngân sách nhà nước Official Development Assistance - Vay theo điều kiện hỗ trợ phát triển chính thức Thành phố Hồ Chí Minh Trái phiếu Chính phủ United Nations Conference on Trade and Development - Diễn đàn của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển World Bank - Ngân hàng thế giới World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới

viii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Phân biệt phạm vi nợ công theo cách tính của WB, UCTAD, INTOSAI

và Việt Nam

Bảng 2.1. Thống kê tình hình nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2006-2010

Bảng 2.2. Thống kê tình hình nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2011-2015

Bảng 2.3. Hệ số ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006-2010

Bảng 2.4. Hệ số ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2016

Bảng 2.5. Thâm hụt NSNN qua các năm

Bảng 2.6. So sánh mối liên hệ giữa tỷ lệ nợ công và chỉ số lạm phát qua các năm

Bảng 2.7. Tương quan giữa tỷ lệ nợ công với hệ số ICOR và tăng trưởng kinh tế

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1. Các thành phần khu vực công theo định nghĩa của IMF

Hình 1.2. Cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ

Hình 1.3. Mô hình hai khoảng cách

Hình 1.4. Mô hình ba khoảng cách

Hình 2.1. Biểu đồ dư nợ công của Việt Nam qua các năm

Hình 2.2. Biểu đồ cơ cấu nợ công năm 2017

Hình 2.3. Biểu đồ hệ số ICOR Việt Nam qua các năm

Hình 2.4. Biểu đồ tương quan giữa tỷ lệ nợ công / GDP và chỉ số lạm phát

Hình 2.5. Biểu đồ tương quan giữa tỷ lệ nợ công/GDP và tăng trưởng kinh tế

Hình 3.1. Tác động chèn lấn của chi tiêu chính phủ và tài trợ thâm hụt

1

PHẦN MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Không thể phủ nhận vai trò của nợ công đối với nhu cầu phát triển kinh tế của đất

nước, nhưng việc vay nợ nước ngoài luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó mang tính tích

cực nhưng mặt khác lại chứa đựng nhiều rủi ro, trong đó tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ, có thể làm

sụp đổ nền kinh tế quốc gia và gây ra những bất ổn xã hội.

Khi chính phủ không huy động được hoặc huy động không được nhiều nguồn vốn từ

các tổ chức và cá nhân trong nước mà quá lệ thuộc vào việc vay nợ nước ngoài để phục vụ

cho các nhu cầu đầu tư công, cũng như phục vụ cho việc chi tiêu của chính phủ do bội chi

ngân sách ngày càng cao thì nguy cơ vỡ nợ là điều rất khó tránh khỏi.

Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có qui mô nợ công tương đối cao

trong khu vực và trên thế giới, và tỷ lệ nợ công trên GDP cũng tăng nhanh trong những

năm qua. Đến cuối năm 2016, tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam là 63,7%, trong đó, cơ

cấu nợ nước ngoài của chính phủ chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ công (44,3%).

Còn theo đồng hồ nợ công trên thế giới mà một bộ phận của báo tài chính The

Economist lập ra trên mạng, nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là 94.854.098.361

USD. Dựa trên dân số là 92.056.721 thì mỗi người Việt Nam phải gánh một khoản nợ là

1.039 USD.

Đó là những con số rất đáng lo ngại, mà chính phủ phải đặc biệt quan tâm và đồng

thời cũng làm cho người dân bức xúc. Có thể nói, nợ công của Việt Nam đang tiến gần tới

mức trần nợ công mà chính phủ đã đặt ra. Cho nên, chính phủ cần thiết phải có những giải

pháp kiềm chế, kiểm soát để đảm bảo là nợ công luôn được nằm trong giới hạn an toàn cho

phép nhằm ngăn chặn nguy cơ vỡ nợ có thể xảy ra.

Với đề tài “nợ công và những tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam” mà

bản thân lựa chọn chính là sự thể những băn khoăn đối với những vấn đề hệ trọng của đất

nước mà mọi người đều rất quan tâm.

2. Mục tiêu nghiên cứu

2

Mục tiêu tổng quát:

Đánh giá tác động của nợ công đối với nền kinh tế của Việt Nam và những giải pháp

nhằm kiểm soát và ứng phó với vấn đề nợ công ở Việt Nam

Mục tiêu cụ thể

- Lý thuyết về nợ công và những vấn đề cơ bản có liên quan đến nợ công

- Thực trạng về nợ công ở Việt Nam và những tác động của nó đến nền kinh tế Việt

Nam

- Những giải pháp nhằm kiểm soát và ứng phó với vấn đề nợ công ở Việt Nam

3. Câu hỏi nghiên cứu

- Nợ công có vai trò như thế nào đối với nền kinh tế và tác động của nó ra sao?

- Thực trạng nợ công ở Việt Nam và những tác động của nó đối với nền kinh tế Việt

Nam như thế nào?

- Ngưỡng giới hạn an toàn nào dành cho nợ công của Việt Nam và những giải pháp

nhằm kiểm soát và ứng phó với nợ công ra sao?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu về nợ công và những tác động của nó đối với nền kinh tế của Việt Nam

4.2 Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng nợ công của Việt Nam từ năm 2006 –

2015 và phân tích những tác động của nó đối với nền kinh tế của Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1 Thu thập dữ liệu

Nghiên cứu tập trung vào vấn đề thực trạng nợ công và những tác động của nó đối

với nền kinh tế của Việt Nam nên dữ liệu lựa chọn được xác định trên các cơ sở sau:

- Dữ liệu thu thập chủ yếu dựa trên số liệu công bố của Bộ tài chính, tổng cục thống

kê và các tạp chí. Đây là các dữ liệu có thực, dễ kiểm tra.

- Bên cạnh đó luận văn còn tham khảo các nguồn tư liệu của chính phủ, các văn bản

hướng dẫn của NHNN, ý kiến của các chuyên gia kinh tế và của giáo viên hướng dẫn.

3

5.2 Phân tích dữ liệu

Dữ liệu thu thập sẽ được thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh giá; đồng thời sử

dụng bảng, biểu đồ và hình để minh họa làm tăng độ tin cậy trong nghiên cứu.

6. Đóng góp của đề tài

Với những mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn kỳ vọng sẽ mang lại một số đóng

góp về mặt lý luận cũng như thực tiễn:

6.1 Về mặt lý luận:

Luận văn đề cập đến cơ sở lý thuyết về nợ công, đánh giá thực trạng về nợ công ở

việt Nam, đề ra những giải pháp để tăng cường kiểm kiểm soát và ứng phó với nợ công

nhằm giúp các sinh viên ngành tài chính – ngân hàng có thêm tài liệu về mặt học thuật,

làm tài nghiên cứu và có thể vận dụng vào thực tế sau này.

6.2 Về mặt thực tiễn:

Luận văn khái quát một cách tương đối đầy đủ về lý thuyết nợ công, thực trạng nợ

công và những tác động của nó đối với nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời cũng đề xuất một

số giải pháp đối với việc kiểm soát và ứng phó với vấn đề nợ công ở Việt Nam. Từ đó giúp

cho việc sử dụng và quản lý vốn vay của chính phủ được đảm bảo an toàn, hiệu quả hơn.

7. Bố cục dự kiến của luận văn

Ngoài chương mở đầu, phần kết luận, phần Phụ lục và các danh mục tài liệu tham

khảo, nội dung của đề tài được bố cục làm 03 chương, cụ thể như sau:

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG

Chương này trình bày một số vấn đề cơ bản về lý thuyết nợ công, đánh giá chung về

tình hình nợ công trên thế giới và những tác động của nó đối với nền kinh tế của Việt Nam.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI

VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Chương này tập trung nghiên cứu thực trạng nợ công của Việt Nam, đánh giá hiệu

quả về việc sử dụng nợ công cũng như những vấn đề về quản lý nợ công, nêu những mặt

còn tồn tại yếu kém trong việc quản lý và sử dụng nợ công. Bên cạnh đó, cũng đề cập đến

những vấn đề tồn tại có liên quan đến nợ công.

4

Đồng thời, cũng nêu đánh giá chung về những tác động của nợ công đối với nền kinh

tế, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực và những tác động của nó cụ thể đến một số vấn đề về

kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ ỨNG PHÓ

VỚI VẤN ĐỀ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM

Chương này đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm soát và ứng phó với nợ công mang

tính lâu dài và bền vững.

5

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG

1.1. Lý thuyết về nợ công

1.1.1. Khái niệm về nợ công

Cho đến nay khái niệm về nợ công vẫn còn chưa có sự thống nhất tại nhiều quốc gia,

nhất là các quốc gia đang phát triển. Khái niệm về nợ công được định nghĩa trong các

văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam so với các quốc gia khác trên thế giới và các tổ

chức tài chính quốc tế cũng có sự khác nhau.

Theo IMF định nghĩa thì nợ công là Nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các

nghĩa vụ nợ của các tổ chức sau:

- Chính phủ trung ương và các cơ quan của nó;

- Chính quyền địa phương các cấp như bang, tỉnh, thành phố;

- Ngân hàng trung ương;

- Các tổ chức độc lập (Các công ty tài chính và phi tài chính; các ngân hàng thương

mại, các đơn vị công ích…) khi:

+ Ngân sách của tổ chức đó là do Chính phủ báo cáo phê duyệt;

+ Chính phủ sở hữu hơn 50% số cổ phần có quyền biểu quyết hay hơn nửa số thành

viên ban giám đốc là các đại diện của Chính phủ;

+ Khi vỡ nợ, nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm trả nợ của tổ chức đó. (IMF, 2001,

Guidelines for Public dept management)

Theo cách tính của UNCTAD thì nợ công, ngoài nợ của Chính phủ, nợ được Chính

phủ bảo lãnh và nợ của các chính quyền địa phương còn bao gồm khoản nợ của các doanh

nghiệp Nhà nước theo cơ chế tự vay tự trả (có thể là Công ty TNHH Nhà nước một thành

viên, Tập đoàn kinh tế của Nhà nước, các Tổng công ty của Nhà nước, các khoản nợ

tương ứng với tỷ lệ % phần góp vốn của Nhà nước tại các Công ty cổ phần; nếu các công

ty này phá sản Nhà nước sẽ mất đi phần vốn này) với quỹ bảo hiểm xã hội mà Nhà nước

sử dụng để mua trái phiếu, công trái Chính phủ, hay đầu tư vào các công trình kinh tế trọng

6

điểm của quốc gia và khoản tiền này Nhà nước phải chi trả cho người lao động nghỉ hưu

trong tương lai.

Trong hướng dẫn chung về khái niệm nợ công được phát hành bởi Hiệp hội các cơ

quan Kiểm toán tối cao INTOSAI đã định nghĩa nợ công như sau:

(1) Khoản phải trả hay các cam kết khác được gánh chịu trực tiếp bởi các cơ quan

công quyền như là: Chính phủ trung ương, hay một Chính phủ liên bang, tùy thuộc vào thể

chế chính trị của từng nước; Các Chính phủ bang, tỉnh, đô thị, khu vực và địa phương

khác; Các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh do Nhà nước sở hữu hay quản lý; Các đơn vị

Nhà nước khác.

(2) Khoản phải trả hay các cam kết khác mà các cơ quan Nhà nước phải gánh vác với

vai trò đại diện cho các doanh nghiệp tư nhân hay các đơn vị khác.

(3) Việc xử lý đối với các khoản phải trả của Ngân hàng trung ương tùy thuộc vào địa

vị rõ ràng của các ngân hàng và mức độ độc lập của chúng từ Chính phủ trung ương.

Theo WB (2002), nợ công là toàn bộ những khoản nợ của chính phủ và những khoản

nợ được chính phủ bảo lãnh.

Còn theo quy định của Luật Quản lý nợ công 2017 của Việt Nam, nợ công được hiểu

bao gồm ba nhóm là: nợ Chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa

phương.

Như vậy, so với khái niệm nợ công của các tổ chức quốc tế như IMF, UNCTAD,

INTOSAI, thì khái niệm nợ công của Việt Nam chưa bao gồm các khoản vay của Chính

phủ đối với Ngân hàng Nhà nước và các khoản vay của khối các doanh nghiệp Nhà nước

đối với các tổ chức trong nước và nước ngoài không có bảo lãnh của Chính phủ. Có lẽ đây

là nguyên nhân làm cho số liệu về nợ công của Việt Nam trong cơ sở dữ liệu của một số tổ

chức quốc tế cao hơn so với số liệu của Việt Nam. Để hiểu rõ hơn sự khác biệt trong cách

tính toán nợ công của Việt Nam và với các tổ chức tài chính quốc tế ta có thể xem bảng

dưới đây:

7

Bảng 1.1. Phân biệt phạm vi nợ công theo cách tính của IMF, UCTAD, INTOSAI

và Việt Nam

Chỉ tiêu được tính trong nợ công VN

IMF, UNCTAD, INTOSAI X X X X X X X X X không tính X X X X

1. Nợ chính phủ a. Nợ trong nước - Tín phiếu KBNN - Trái phiếu Chính phủ, công trái - Vay từ NHNN để hỗ trợ lãi suất - Vay quỹ BHXH, SCIC b. Nợ nước ngoài - Nợ các chủ nợ đa phương - Nợ các chủ nợ song phương - Nợ thương mại 2. Nợ được Chính phủ bảo lãnh - Bảo lãnh vay trong nước (Bảo lãnh cho VDB, NHCSXH, X X TCT đường cao tốc và các doanh nghiệp khác)

- Bảo lãnh cho các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng vay X X nước ngoài

X

3. Nợ chính quyền địa phương - Trái phiếu chính quyền địa phương - Vay tồn ngân Kho bạc X

X Không tính

4. Nợ của doanh nghiệp Nhà nước - Các khoản vay, phát hành trái phiếu của VDB không có X không tính bảo lãnh của Chính phủ

X không tính

- Các khoản vay trong nước của các tổ chức khác: NHCSXH, TCT đường cao tốc, Vinashin… không có bảo lãnh của Chính phủ

Nguồn: Nguyễn Đăng Hưng (2014)

Việc định nghĩa nợ công là vấn đề rất quan trọng, nếu định nghĩa không chính xác sẽ

dẫn đến việc thống kê không đầy đủ các khoản nợ công, làm cho việc đánh giá nợ công

không đúng với thực trạng của nó. Do đó, sẽ dẫn đến việc đề xuất những giải pháp kiểm

8

soát điều hành nợ công không mang lại hiệu quả, và dễ dẫn đến các rủi ro tài chính, gây

ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.

Do việc định nghĩa nợ công của Việt Nam cũng có sự khác biệt so với thông lệ quốc

tế nên việc áp dụng các nghiên cứu về nợ công trên thế giới, cũng như các đánh giá về nợ

công của các tổ chức tài chính quốc tế về tình hình nợ công trên thế giới và Việt Nam cũng

sẽ gặp nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, trong luận văn này, số liệu nợ công của Việt Nam vẫn được xác định theo

định nghĩa của Luật Quản lý nợ công 2009.

1.1.2. Bản chất kinh tế của nợ công

Theo nguyên tắc, khi việc chi tiêu vượt quá khả năng của nguồn thu từ thuế, phí, lệ

phí và các khoản thu khác thì chính phủ buộc phải vay nợ để tài trợ và việc này khiến nợ

công phát sinh. Điều này cho thấy nợ công là hệ quả của bội chi ngân sách của chính phủ

và chính phủ phải có trách nhiệm hoàn trả.

Các nhà kinh tế học cổ điển luôn nêu bật một nguyên tắc quan trọng và nhất quán về

quản lý ngân sách là nguyên tắc ngân sách cân bằng. Theo đó, ngân sách cân bằng là ngân

sách mà thu và chi bằng nhau. Điều này giúp chính phủ chi tiêu hợp lý, tránh sự hoang phí

và hạn chế tình trạng lạm thu thông qua việc ban hành các chính sách thuế và tăng thuế.

Nguyên tắc này được khởi xướng và ủng hộ triệt để bởi các nhà kinh tế học cổ điển như

Adam Smith, David Ricardo, và John Stuart Mill (Tsoulfidis, 2007). Vì vậy, hầu hết các

nhà kinh tế học cổ điển không đồng tình với việc vay nợ của chính phủ để chi tiêu.

Trái lại, nhà kinh tế học John Maynar Keys và những người thuộc trường phái

Keynes lại ủng hộ việc vay nợ của chính phủ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua chi

tiêu (Theocarakis, 2014). Họ lập luận trong những tình huống suy thoái kinh tế, việc đầu tư

của khu vực tư nhân sụt giảm mạnh thì việc gia tăng đầu tư của chính phủ vào dự án công

như cơ sở hạ tầng, giáo dục, và y tế thông qua vay nợ sẽ giúp phục hồi nền kinh tế. Hầu hết

các chính phủ đều sử dụng lý thuyết của trường phái Keynes để vượt qua khủng hoảng

kinh tế và tình trạng suy thoái của nền kinh tế.

9

Tuy nhiên, Paul Samuelson, một nhà kinh tế học ủng hộ trường phái Keynes, cho

rằng việc phối hợp cả chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt là cần

thiết để thúc đẩy hiệu quả nền kinh tế vượt qua sự suy thoái. Điều này cho thấy nợ công

cũng là một công cụ gián tiếp quan trọng trong điều hành kinh tế của các chính phủ nhưng

việc sử dụng nó phải thận trọng và đòi hỏi phải có sự phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài

khóa và chính sách tiền tệ.

1.1.3. Đặc điểm của nợ công

Mặc dù có sự khác biệt về khái niệm nợ công giữa nhiều quốc gia trên thế giới, và dù

có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có những

đặc trưng sau đây:

Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với

các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao

gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm

trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả nợ gián tiếp. Trả

nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ

quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ

quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong

trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra

bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam vay vốn

nước ngoài).

Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo

hai mục đích: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa

là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; Hai là, đề đạt được

những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách

chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ công

Việt Nam là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ,

sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên.

10

Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh

tế – xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa

mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng

đồng. Ở Việt Nam, xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích

chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ

công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể là để phát triển kinh tế –

xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.

1.1.4. Vai trò của nợ công

Các nhà kinh tế học cho rằng, do các điều kiện khan hiếm nguồn lực và có nhiều khó

khăn nên các nước đang phát triển cần phải sử dụng các nguồn lực đến từ bên ngoài như

các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn viện trợ phát triển ODA (vốn vay

với lãi suất ưu đã dành cho các nước đang phát triển) để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng

cao thu nhập để bắt kịp với sự phát triển của các nước tiên tiến. Khởi đầu là lý thuyết "Cái

vòng luẩn quẩn" và ''Cú huých từ bên ngoài'' của Samuelson & Nordhaus (1976), tiếp theo

mô hình lý thuyết hai khoảng cách của Chenery & Strout (1966) và mô hình lý thuyết ba

khoảng cách được phát triển bởi Bacha (1990), Solimano (1990), và Taylor (1994).

Lý thuyết ''Cái vòng luẩn quẩn" và "Cú huých từ bên ngoài''

Năm 1948, nhà kinh tế học Paul Samuelson đã cho ra đời tác phẩm kinh điển "Kinh

tế học'' trong đó nhấn mạnh đến hoàn cảnh của các nước đang phát triển qua lý thuyết "Cái

vòng luẩn quẩn'' và ''Cú huých từ bên ngoài''. Theo Samuelson, có bốn yếu tố cần thiết cho

sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, qua đó xóa đi khoảng cách giàu nghèo với các

nước phát triển là: nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ. Samuelson lập luận rằng, bốn

yếu tố này ở các nước đang phát triển đều khan hiếm nên việc kết hợp bốn yếu tố này cho

việc thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao thu nhập của người dân có nhiều trở ngại lớn. Đặc

biệt, tình trạng khó khăn này tăng lên gấp bội ở các quốc gia nghèo và Samuelson nhìn

thấy điều này như ''cái vòng luẩn quẩn" của sự nghèo khổ. Hình dưới đây biểu thị ''vòng

luẩn quẩn của sự nghèo khổ''.

11

Samuelson cho rằng, các nước đang phát triển trong ''cái vòng luẩn quẩn'' của sự nghèo

khổ khó mà tự thoát ra được. Để có thể phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này ông cho rằng cần

phải có ''cú huých từ bên ngoài'', nghĩa là các nước đang phát triển cần phải có các nguồn

lực trợ giúp từ bên ngoài về vốn, công nghệ, các chuyên gia, trình độ quản lý,..Vì vậy,

chính phủ ở các nước đang phát triển có thể nhận sự trợ giúp dưới hai hình thức là dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA). Đi kèm

theo các nguồn vốn này là các tiến bộ về công nghệ sản xuất, quản lý và đào tạo và nâng

cao tay nghề cho người lao động sẽ được chuyển giao cho nước tiếp nhận. Đặc biệt nguồn

vốn viện trợ phát triển (ODA) thực chất là vốn vay với lãi suất ưu đãi mà các nước đang

phát triển phải trả trong tương lai.

Mô hình hai khoảng cách (The two - gap model)

Trong tác phẩm ''Forein Assistance and Economic Development'' (Viện trợ nước

ngoài và phát triển kinh tế), Chenery & Strout (1966) trình bày ''mô hình hai khoảng cách''

với việc phân tích các mối quan hệ giữa nguồn vốn từ nước ngoài và phát triển kinh tế. Ý

tưởng chủ yếu của mô hình này là chính phủ ở các nước đang phát triển cần sử dụng hiệu

quả các nguồn lực nội tại trong nước và dùng nguồn vốn nước ngoài (dòng vốn đầu tư FDI

và vốn viện trợ phát triển ODA) làm đòn bẩy để lấp đầy ''khoảng các đầu tư - tiết kiệm'' và

''khoảng cách thương mại''.

12

Cả hai nhà kinh tế này cho rằng sự thiếu hụt đầu tư (khoảng cách giữa đầu tư và tiết

kiệm) là hạn chế chính đối với tăng trưởng bởi vì vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong

việc thúc đẩy gia tăng sản lượng trong các mô hình tăng trưởng kinh tế. Thâm hụt thương

mại là khoảng cách thứ hai gây cản trở cho sự phát triển kinh tế ở các nước đang phát

triển, đặc biệt ở những nước nghèo. Hai nhà nghiên cứu này lập luận nguồn vốn từ bên

ngoài có khả năng giải quyết được vấn đề này.

Thực vậy, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), khoản nợ vay ưu đãi dành

cho các nước đang phát triển, là một trong những dòng vốn đến từ bên ngoài bù đắp hiệu

quả ''hai khoảng cách'' trên. Nguồn vốn viện trợ này không chỉ là những khoản nợ vay có

lãi suất ưu đãi mà còn là những chuyển giao kỷ thuật, kinh nghiệm quản lý, công nghệ đi

kèm, đào tạo nguồn nhân lực. Đây chính là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn lực

để chính phủ gia tăng đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết và cơ bản như y tế, giáo dục,

phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách chính sách và thể chế trong dài hạn để tạo động lực cho

sự phát triển của các hoạt động kinh tế trong nước, tạo điều kiện giảm nghèo và bất bình

đẵng giữa các tầng lớp dân cư và nâng cao mức thu nhập của người dân.

Ngoài ra, mô hình hai khoảng cách còn nhấn mạnh đến sự điều chỉnh cao kỷ thuật sao

cho có sự cân bằng giữa hai khoảng cách này. Nếu "khoảng cách tiết kiệm - đầu tư'' lớn

hơn ''khoảng cách thương mại" thì các nước sẽ giảm bớt đầu tư và gia tăng tiết kiệm trong

nước. Ngược lại thì các nước sẽ tăng cường xuất khẩu và giảm bớt nhập khẩu. Việc sử

dụng nguồn vốn từ bên ngoài để cân bằng hai khoảng cách thì sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế. Theo đó, chính phủ ở các nước sẽ chủ động điều chỉnh việc sử dụng nguồn vốn từ bên

ngoài thông qua ba giai đoạn: giai đoạn một là để bù đắp cho sự thiếu hụt năng lực; giai

đoạn thứ hai là cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư, và giai đoạn thứ ba là để bù đắp những

khoảng cách về ngoại hối.

13

Mô hình ba khoảng cách (The three - gap model)

Mô hình ba khoảng cách là sự bổ sung và phát triển từ mô hình hai khoảng cách và

được phát triển bởi Bacha (1990), Solimano (1990), và Taylor (1994). Theo đó, các nhà

nghiên cứu này bổ sung thêm thể chế tài chính như là một khoảng cách thứ ba "khoảng

thâm hụt ngân sách " do vấn đề bội chi ngân sách của chính phủ. Trong thực tế, vấn đề bội

chi ngân sách được tài trợ thông qua các khoản vay nợ trong nước và nước ngoài của chính

phủ. Đặc biệt với nguồn vốn trong nước có hạn, chính phủ các nước đang phát triển phải

sử dụng các khoản vay ưu đãi đặc biệt đến từ các nguồn viện trợ phát triển ODA. Cách tiếp

cận mô hình ba khoảng cách cho thấy mối tương quan của nợ công với khoảng cách

thương mại và khoảng cách tiết kiệm - đầu tư trên cơ sở kiểm soát khoảng cách thâm hụt

ngân sách.

Ba khoảng cách này chính là ba khiếm khuyết của các nước trên thế giới, đặc biệt là

các nước đang phát triển. Chúng được hình thành tự nhiên trong quá trình phát triển kinh

tế ở mỗi quốc gia và chính phủ ở các nước cần có những biện pháp hợp lý và hiệu quả để

thu hẹp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bacha (1990), Solimano (1990), và Taylor

(1994) cũng nhấn mạnh các nguồn lực từ bên ngoài để giúp điều chỉnh và cân bằng ba

khoảng cách này. Các nguồn lực này cũng đến từ dòng vốn đầu tư nước ngoài FDI và

nguồn vốn viện trợ ODA.

Tương tự như mô hình hai khoảng cách, do các khoảng cách này có tương quan và

tác động lẫn nhau nên mô hình ba khoảng cách cũng nhấn mạnh đến việc điều chỉnh phù

hợp để đảm bảo sự cân bằng hợp lý giữa ba khoảng cách. Nếu "khoảng cách thương mại"

14

lớn hơn "khoảng cách thâm hụt ngân sách" thì chính phủ nên ưu tiên tăng nguồn thu thông

qua thuế đồng thời tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu để giảm bớt khoảng cách thương mại.

Nếu "khoảng cách thâm hụt ngân sách" lớn hơn "khoảng cách tiết kiệm - đầu tư" thì các

chính sách cần có là giảm chi tiêu chính phủ, tăng đầu tư với tốc độ phù hợp cùng với việc

tăng tiết kiệm trong tiêu dùng của người dân.

Tóm lại, từ những nghiên cứu trên cho thấy, nợ công có một vai trò rất lớn trong việc

đầu tư phát triển kinh tế đối với mọi quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các quốc gia

đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Thứ nhất, tăng cường đầu tư phát triển: Đối với các quốc gia đang phát triển, để phát

triển hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ… thì nguồn vốn vay là rất quan trọng. Nguồn

vốn này càng hấp dẫn bới nó còn được các nước phát triển cũng như các tổ chức tài chính

quốc tế hỗ trợ với lãi suất ưu đãi, thời gian ân hạn dài. Chính vì vậy, nguồn vốn vay sẽ hỗ

trợ giúp các quốc gia chậm phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển rút ngắn

khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng trở thành các quốc gia phát triển.

Thứ hai, kích thích tăng trưởng kinh tế: Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị

trường đều có hoạt động vay nợ. Việc vay nợ làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư

trong nước, góp phần thu hút, mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước,

tạo niềm tin và sự tin cậy của đất nước mình trên trường quốc tế. Nợ công an toàn với nền

kinh tế sẽ tạo nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế được bền

vững, qua đó điều chỉnh tốt cán cân thanh toán quốc gia, góp phần hỗ trợ các nước vay nợ

tiếp thu công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài.

Thứ ba, bù đắp các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ: Trong lĩnh vực tài chính

công, một nguyên tắc quan trọng của NSNN được các nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi

trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết các quốc gia, đó là nguyên

tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách thăng bằng được hiểu là một

ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh tế, điều này giúp Nhà nước tiết

kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên tắc này sẽ giúp hạn chế tình trạng

Nhà nước lạm thu thông qua việc quyết định các khoản thuế. Tuy nhiên, trong một số thời

15

điểm, Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá khả năng thu của mình

(khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải vay vốn từ các tổ chức, cá nhân

trong và ngoài nước, điều đó làm phát sinh nợ công. Như vậy, nợ công là hệ quả của việc

Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà nước phải có trách nhiệm hoàn trả; hay nói cách khác,

vai trò quan trọng nhất của nợ công là bù đắp các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ.

1.1.5. Phân loại nợ công

Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong

việc quản lý và sử dụng nợ công.

Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay, thì nợ công gồm có hai loại: nợ trong

nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt

Nam. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ,

tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Việc phân loại nợ trong nước và

nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ, nó giúp xác định chính xác hơn tình

hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài

còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài

chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.

Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực

tiếp và nợ công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát

từ những thỏa thuận vay trực tiếp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ

chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở

tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước ngoài. Nợ

công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền

phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài,

thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.

Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công, thì nợ công có ba loại là

nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.

Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và

nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa

16

phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm

bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ

trả nợ.

Theo cấp quản lý nợ, thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ

công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính

phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền

địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật NSNN

năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân

sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ

đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.

Ở nước ta theo Luật quản lý nợ công, thì nợ công bao gồm:

+ Nợ Chính phủ;

+ Nợ được Chính phủ bảo lãnh;

+ Nợ chính quyền địa phương.

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công

Những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến nợ, gồm có những nhân tố sau đây:

- Tăng trưởng kinh tế giảm có xu hướng làm tăng tỷ nợ trên GDP, ngược lại tăng

trưởng kinh tế tăng trưởng tốt điều đó có nghĩa việc sử dụng nguồn vốn vay đã đem lại

hiệu quả do đó triển vọng trả được nợ trở nên sáng sủa hơn so với khi nền kinh tế kém tăng

trưởng. Mặt khác khi nền kinh tế tăng trưởng cao thì mức độ tiết kiệm trong nền kinh tế

lớn, khả năng huy động được nguồn vốn vay từ trong nước cũng tăng lên. Việc vay vốn

trong nước cao trong cơ cấu nợ công sẽ có lợi hơn so với việc lệ thuộc quá nhiều từ nguồn

vốn vay nước ngoài, vì sẽ ít gặp rủi ro về tỷ giá cũng như về áp lực trả nợ và cả những ràng

buộc bất lợi khác.

- Lạm phát và tỷ giá, lạm phát tăng có tác dụng bào mòn giảm giá trị đồng tiền trong

nước, do đó làm giảm nợ công (đối với nợ vay bằng đồng nội tệ); tỷ giá cao, sẽ gây bất lợi

làm tăng nợ vay bằng đồng ngoại tệ.

17

- Lãi suất và đầu tư, lãi suất cao làm tăng chi phí vay nợ, do đó làm tăng nợ công

trong tương lai. Mặt khác, lãi suất cao làm giảm đầu tư, làm giảm sản lượng, tức làm giảm

các nguồn thu từ thuế, làm mất cân đối thu chi, dẫn đến tình trạng bội chi ngày càng cao.

Bội chi cao, lại tiếp tục vay nợ để bù đắp, dẫn đến nợ công ngày càng gia tăng. Trong

trường hợp lãi suất ngoại tệ tăng làm ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản vay nước ngoài,

các khoản vay ngoại tệ sẽ trở nên đắt đỏ hơn và ngược lại. Điều đó sẽ là gia tăng các khoản

nợ lãi trong tương lai, làm gia tăng nợ công.

- Chính sách tài khóa, chính sách tài khóa mở rộng, là việc chính phủ tăng chi tiêu ở

khu vực công, điều này chắc chắn dẫn đến việc tăng nợ công; ngược lại chính sách tài khóa

thắt chặt sẽ có tác dụng làm giảm nợ công, nhưng cũng có tác dụng làm giảm đầu tư, làm

sụt giảm sản lượng, làm giảm nguồn thu, gây mất cân đối thu chi, và cuối cùng lại làm nợ

công tiếp tục gia tăng.

1.3. Tác động kinh tế của nợ công

Nautet & Van Meensel (2011) nhận định có nhiều cách trong đó nợ công tăng (giảm)

có tác động âm (dương) lên hoạt động kinh tế trong dài hạn. Có ba cơ chế truyền dẫn

chính.

Thứ nhất, nợ công tăng nói chung tương ứng với tiết kiệm của chính phủ giảm, dẫn

đến việc tiết kiệm quốc gia ròng giảm. Điều này có xu hướng làm lãi suất tăng. Lãi suất

tăng làm giảm đầu tư và làm giảm nguồn vốn. Tích lũy vốn giảm làm chậm sự đổi mới và

làm giảm năng suất. Kết quả là năng suất lao động thấp hơn. Đáng chú ý tác động lên lãi

suất phụ thuộc vào quy mô của khu vực bị tác động bởi nợ công tăng. Nếu sự gia tăng đó

được giới hạn trong một nền kinh tế mở nhỏ, tác động lên lãi suất thị trường chỉ vừa phải.

Ngược lại, nếu nợ tăng lên cùng lúc ở các quốc gia hình thành nên khu vực kinh tế

chung, áp lực lên lãi suất thị trường sẽ rất lớn.

Thứ hai, nợ công tăng đưa đến chi phí trả lãi cao hơn. Các chi phí này sau đó được bù

đắp bằng cách cắt giảm các chi tiêu cho năng suất - chẳng hạn như đầu tư công vào hạ tầng

- hoặc bù đắp bởi thuế cao hơn và tạo nên sự bóp méo của thuế. Tùy vào các công cụ tài

khóa được dùng, có thể là tác động âm lên tiêu dùng (trong trường hợp gia tăng thuế VAT

18

và trách nhiệm trả thuế), lên đầu tư tư nhân (trong trường hợp thuế vốn), và lên nguồn

cung lao động (trong trường hợp thuế thu nhập).

Thứ ba, nợ công tăng đưa đến rủi ro vỡ nợ, và làm tăng chi phí rủi ro. Chi phí rủi ro

cao hơn làm tăng chi phí tài trợ và có thể đe dọa khả năng thanh toán của khu vực công.

Ngoài ra, điều này có thể dẫn đến lãi suất dành cho các cá nhân và doanh nghiệp tăng lên.

Lượng nợ cao kết hợp với các điều kiện ngân sách bất lợi sẽ làm tăng tác động xấu

của lượng nợ cao lên lãi suất (Nautet & Van Meensel, 2011). Điều này có nghĩa là chính

phủ sẽ phải cạnh tranh với khu vực tư nhân trong việc vay nợ, tạo nên hiệu ứng chèn lấn

khu vực tư trong việc thu hút nguồn vốn và khiến cho lãi suất tăng cao. Trong tình huống

này, cần quan tâm đến vai trò của các thể chế và cấu trúc thiết lập ngân sách ban đầu, và

các tác động xấu bắt nguồn từ thị trường tài chính. Vì thế, các yêu tố như thể chế yếu kém

và không đầy đủ, tiết kiệm tư nhân thấp, dòng vốn nước ngoài yếu, thất nghiệp cao, khu

vực ngân hàng yếu hoặc nhạy cảm với các tác động xấu sẽ quyết định quy mô của nợ lên

lãi suất. Ảnh hưởng của yếu tố dân số ngày càng già lên tính bền vững của khu vực công

cũng có thể là một yếu tố quan trọng.

Tác động âm của nợ công lên hoạt động kinh tế cũng có thể cảm nhận được thông

qua cơ chế truyền dẫn khác, chẳng hạn như lạm phát kỳ vọng cao hơn, tính bất ổn định và

tính thay đổi của môi trường vĩ mô tăng lên.

1.4. Tình hình nợ công trên thế giới

1.4.1. Tình hình chung

Theo IMF, nợ toàn cầu đã tăng vọt lên mức kỷ lục là 164 nghìn tỷ đô la trong năm

2016, tương với 225% GDP toàn cầu, tăng 8% so với năm 2015. Cả nợ công và nợ tư nhân

đều tăng trong thập kỷ qua. Trong số 164 nghìn tỷ USD, 63% là nợ khu vực tư nhân, còn

lại 37% là nợ khu vực công.

Hơn một phần ba các nền kinh tế tiên tiến có mức nợ trên GDP cao hơn 85%, gấp ba

lần so với năm 2000. Trong số các nền kinh tế lớn, Nhật Bản có mức nợ trên GDP là

236%, Ý là 132% và Mỹ là 108%. Trong khi đó, 1/5 các thị trường mới nổi và các nước có

19

thu nhập trung bình có mức nợ trên 70% GDP, dẫn đầu là Brazil với 84% và Ấn Độ là

70,2%.

Cũng theo số liệu của IMF, nợ chính phủ của Trung Quốc (theo tỷ lệ phần trăm GDP)

dự kiến sẽ tăng từ 47,8% trong năm 2017 lên 65,5% vào năm 2023.

Còn các dự báo cho Hoa Kỳ thì tương đối ảm đạm, nợ công dự kiến sẽ tăng từ 108%

trong năm 2017 lên 117% GDP vào năm 2023, thâm hụt tổng thể sẽ tăng trên 1 nghìn tỷ

USD trong ba năm tới, tương ứng với hơn 5% GDP. Nếu thực hiện chính sách cắt giảm

thuế thì nợ công sẽ còn cao hơn nữa.

Tuy vậy, ngoài nền kinh tế Mỹ - được dự báo không mấy lạc quan, thì triển vọng của

thế giới nói chung có chiều hướng tích cực hơn. Theo dự báo của IMF, cho thấy tỷ lệ nợ

trên GDP sẽ giảm trong vòng 3 đến 5 năm tới ở hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới.

1.4.2. Khủng hỏang nợ công trên thế giới và những tác động đối với Việt Nam

Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh

tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi quá nhiều, trong khi

thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình thức như phát hành

công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân

sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Thế giới từng xảy ra những vụ khủng hoảng nợ

công, mà điển hình cuộc khủng hoảng nợ công khu vực Mỹ La tinh những năm 1980 và

cuộc khủng hoảng nợ công khu vực châu Âu năm từ cuối năm 2009.

Cuộc khủng hoảng nợ diễn ra ở các quốc gia Mỹ La tinh những năm 1970 và 1980

được xem là thảm họa lớn nhất trong lịch sử khu vực này, kể từ sau cuộc Đại khủng hoảng

những năm 1930 và đây cũng là cuộc khủng hoảng nợ công đầu tiên trong lịch sử kinh tế

hiện đại. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Mexico (1982) khi quốc gia này tuyên bố vỡ nợ,

sau đó hầu hết các quốc gia trong khu vực cũng đều không tránh khỏi vòng xoáy này đó là:

Argentina (1982, 1989), Bolivia (1980, 1986, 1989), Brazil (1983, 1986-1987) và Ecuador

(1982, 1984).

Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ tại Mỹ La tinh là: (i) Việc đầu tư

quá nhiều vào kết cấu hạ tầng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa dẫn đến việc chính phủ bội

20

chi ngân sách kéo dài một cách trầm trọng; (ii) Gia tăng tỷ lệ nhập siêu do nhập khẩu nhiều

nguyên, vật liệu, cũng như công nghệ sản xuất từ nước ngoài để thực hiện được mục tiêu

công nghiệp hóa. Hai điều trên dẫn đến sự gia tăng ngày càng lớn nhu cầu về nguồn vốn

của chính phủ. Do đó, họ đã phải đi vay rất nhiều tiền từ các quốc gia phát triển khác

và các tổ chức tài chính quốc tế.

Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bắt đầu từ nửa sau năm 2009 với sự gia tăng

mức nợ công của nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Ireland, Italya, Hy Lạp và Tây Ban Nha). Hy

Lạp là quốc gia đầu tiên bước vào vòng xoáy này, với mức thâm hụt ngân sách đạt tới

13,6% GDP. Nợ công Hy Lạp cũng lên tới 236 tỷ Euro, chiếm khoảng 115% GDP của Hy

Lạp vào năm 2009. Vào tháng 11/2010, Ireland chính thức trở thành nạn nhân thứ hai của

cơn bão khủng hoảng nợ công khi phải cầu viện với EU và IMF. Bước sang năm 2011, Bồ

Đào Nha tiếp tục là quốc gia thứ ba rơi vào khủng hoảng khi tuyên bố mức thâm hụt ngân

sách đã lên tới 8,5%GDP, cùng với đó nợ công cũng đã vượt quá 90% GDP. Ý và Tây Ban

Nha mặc dù chưa thực sự rơi vào khủng hoảng, nhưng cũng rơi vào vòng nguy hiểm.

Thâm hụt ngân sách của Ý vào năm 2011 mới chỉ ở mức 5% GDP, nhưng nợ công đã xấp

xỉ 120% GDP. Tây Ban Nha nợ công ở mức 72% GDP, trong khi thâm hụt ngân sách lại

rất cao, gần 9% GDP.

Nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu là do chính sách tài khóa

thiếu bền vững và sự mất cân đối trong việc vay nợ của các quốc gia. Điển hình là Hy Lạp,

kể từ khi gia nhập khối đồng tiền chung Eurozone vào năm 2001 cho đến khủng hoảng tài

chính năm 2008, mức thâm hụt ngân sách được công bố trung bình vào khoảng 5% mỗi

năm, trong khi con số này của cả khối Eurozone chỉ là khoảng 2% (IMF, 2009). Chính

vì thế, Hy Lạp đã không thể duy trì được những chỉ số theo chuẩn của Ủy ban Kinh

tế và Tiền tệ của EU (EMU), với mức trần thâm hụt ngân sách là 3% và nợ nước ngoài

là 60% GDP. Tuy nhiên, Hy Lạp không phải là quốc gia duy nhất, bởi có đến 25/27 thành

viên EU không đạt được cam kết này (Kirkegaard, 2009).

Sự tác động của khủng hoảng nợ công trên thế giới đối với tình hình kinh tế Việt

Nam, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu, thể hiện qua những mặt sau đây:

21

Thứ nhất là, xuất khẩu giảm: Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ

quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải

chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng

GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu

giảm mạnh.

Thứ hai là, lãi suất thấp ở các nước, trong khi ở Việt Nam lãi cao sẽ bất lợi về chi phí

cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ

công, nhiều ngân hàng trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp

lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất

định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%;

BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất

cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14 -

16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5 - 17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn. Nếu tính

đến lạm phát ước cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỉ suất lợi nhuận

trên 24 - 27%, là mức cao so với tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các

ngành trong năm 2009 (khoảng 20%).

Ba là, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm: khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra

tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc

gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn

FDI dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu

nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. Ngược lại, các

nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được hưởng

lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ

công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút

do cuộc khủng hoảng nợ.

Bốn là, giá vàng bùng nổ: các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú

ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá

vàng trong thời gian qua tăng mạnh. Việc giá vàng và tăng tới một kỷ lục mới, tạo sự tách

22

biệt hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác. Điều này sẽ tác động xấu đến

đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục đầu

tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các doanh mục khác như cổ phiếu, trái

phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế.

Năm là, bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) có xu hướng tăng lên; vấn đề Hy Lạp đang

làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn

nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỉ lệ nợ trên GDP cao;

chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng

trưởng GDP sụt giảm. Hệ quả là Việt Nam với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên

đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp

ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu

hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.

Sáu là, biến động tỉ giá hối đoái sẽ rất khó lường khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo

ra những biến động khó lường về tỉ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà

tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng

hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD, sẽ tạo ra những

rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như

hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Với cơ cấu nợ công của Việt Nam

nghiêng về nợ nước ngoài nhiều thì ảnh hưởng của tỷ giá tới khả năng hoàn trả vốn khi

quản lý nợ công là rất cao.

Kết luận chương 1

Khái niệm về nợ công, cho đến nay vẫn còn chưa có sự thống nhất tại nhiều quốc gia,

nhất là các quốc gia đang phát triển. Cho nên số liệu về nợ công của Việt Nam trong cơ sở

dữ liệu của một số tổ chức quốc tế cũng có sự khác nhau, thường là cao hơn so với số liệu

của Việt Nam. Vì vậy, những đánh giá về mức độ rủi ro nợ công của Việt Nam chưa thực

sự chính xác.

Nợ công có một vai trò rất lớn đối với hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, nhất là đối

với các nước đang phát triển. Các nhà kinh tế học cho rằng, do các điều kiện khan hiếm

23

nguồn lực và có nhiều khó khăn nên các nước đang phát triển cần phải sử dụng các nguồn

lực đến từ bên ngoài như các dòng vốn FDI và vốn viện trợ phát triển ODA (vốn vay với

lãi suất ưu đã dành cho các nước đang phát triển) để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao

thu nhập để bắt kịp với sự phát triển của các nước tiên tiến.

Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh

tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Thế giới từng xảy ra những vụ

khủng hoảng nợ công, mà gần đây nhất cuộc khủng hoảng nợ công khu vực châu Âu năm

từ cuối năm 2009. Khủng hoảng nợ công trên thế giới tác động đối với tình hình kinh tế

Việt Nam thể hiện qua những mặt sau đây: (1) Xuất khẩu giảm. (2) Lãi suất thấp ở các

nước, trong khi ở Việt Nam lãi cao sẽ bất lợi về chi phí cạnh tranh của doanh nghiệp Việt

Nam. (3) Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm. (4) Giá vàng bùng nổ: các nhà đầu tư trên thế

giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn. (5) Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) có xu

hướng tăng lên. (6) Biến động tỉ giá hối đoái sẽ rất khó lường.

Hiểu rõ vai trò quan trọng của nợ công và tác động kinh tế của nợ công, cũng như

nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công và những tác động của nó đối với nền kinh tế

của Việt Nam như thế nào, để có những giải pháp ứng phó kịp thời.

24

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI

VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

2.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam

2.1.1. Quy mô nợ công và mức độ an toàn nợ công của Việt Nam

Theo Economic Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới 11,5 tỷ USD,

tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công sắp xỉ 144 USD. Nhưng

tính đến hết năm 2010, nợ công đã lên đến 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP. Như

vậy chỉ trong vòng 10 năm từ 2001 đến năm 2010, quy mô nợ công đã tăng gần 5 lần và

tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm. Trong giai đoạn 2006 – 2010, cơ cấu nợ công

của Việt Nam gồm nợ chính phủ, bình quân chiếm 78,9%, còn lại là nợ chính phủ bảo lãnh

và nợ chính quyền địa phương. Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 61,5%; nợ trong

nước chiếm 38,5%.

Bảng 2.1. Tình hình nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010.

ĐVT: Tỷ đồng

Chỉ tiêu

2006

2007

2008

2009

2010

BQ

Nợ công

404,556

558,155

657,940

877,753

1,124,638

724,608

1. Nợ chính phủ

336,778

441,025

501,811

696,365

882,750

571,746

a) Nước ngòai

220,863

286,710

312,001

411,117

527,403

351,619

b) Trong nước

115,915

154,315

189,810

286,248

355,347

220,327

2. Nơ CPBL

47,353

94,510

137,732

162,863

225,513

133,594

a) Nước ngòai

16,556

31,999

47,840

68,446

89,108

50,790

b) Trong nước

30,997

62,511

89,892

94,417

36,405

82,844

3. Nơ CQĐP

20,225

22,620

18,397

18,525

16,375

19,228

4.Nợ công/GDP (%)

41.5

48.8

44.5

52.9

56.8

48.9

- Nợ CP/GDP (%)

34.6

38.6

34.0

42.0

44.6

38.8

- Nợ CPBL/GDP (%)

4.9

8.3

9.3

9.8

11.4

8.7

- Nợ CQĐP/GDP (%)

2.1

2.0

1.2

1.1

0.8

1.4

Nguồn: Bộ tài chính, Bản tin nợ công qua các năm

Đến giai đoạn 2011 – 2015, cơ cấu nợ công của Việt Nam gồm nợ chính phủ, chiếm

(bình quân) 78,2%, còn lại là nợ chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong

25

nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 49,2%, nợ trong nước chiếm 50,8%; riêng trong năm

2015, nợ nước ngoài chiếm 42%. So với giai đoạn 2006 – 2010, cơ cấu nợ nước ngoài của

chính phủ có giảm đáng kể. (xem bảng 2.2)

Bảng 2.2. Tình hình nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2011 – 2015

ĐVT: Tỷ đồng

Chỉ tiêu

2011

2012

2013

2014

2015

BQ

Nợ công

1,405,313.23 1,661,438.98 1,984,469.12 2,318,929.89 2,593,396.34 1,992,709.51

1. Nợ chính phủ

1,092,761.48 1,279,484.48 1,528,066.24 1,826,051.12 2,064,632.62 1,558,199.19

a) Nước ngòai

666,372.68

727,434.05

763,224.42

810,125.34

867,813.12

766,993.92

b) Trong nước

426,388.80

552,050.43

764,841.82 1,015,925.78 1,196,819.50

791,205.27

2. Nơ CPBL

288,374.75

343,099.50

396,061.88

422,639.77

455,121.72

381,059.52

a) Nước ngòai

116,734.15

150,628.46

188,485.57

210,802.28

247,667.09

182,863.51

b) Trong nước

171,640.60

192,471.04

207,576.31

211,837.49

207,454.63

198,196.01

3. Nơ CQĐP

24,177.00

38,855.00

60,341.00

70,239.00

73,642.00

53,450.80

4. Nợ công/GDP (%)

54.9

50.8

54.5

58.0

61.0

55.8

- Nợ CP/GDP (%)

43.2

39.4

42.6

46.4

49.2

44.2

- Nợ CPBL/GDP (%)

11.4

10.5

10.9

10.6

10.7

10.8

- Nợ CQĐP/GDP (%)

0.3

0.9

1.0

1.0

1.1

0.8

Nguồn: Bộ tài chính, Bản tin nợ công qua các năm

Hình 2.1 minh họa xu hướng nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2015 không

ngừng tăng lên và tăng một cách đều đặn.

Hình 2.1. Biểu đồ dư nợ công của Việt Nam qua các năm (đơn vị: tỷ đồng)

26

2,593,396

Năm 2015

2,138,930

Năm 2014

1,984,469

Năm 2013

1,661,438

Năm 2012

1,405,313

Năm 2011

Nợ công

1,124,638

Năm 2010

877,753

Năm 2009

657,940

Năm 2008

558,155

Năm 2007

404,556

Năm 2006

-

500,000 1,000,000 1,500,000 2,000,000 2,500,000 3,000,000

Nguồn: Bộ tài chính

Nhìn chung tình hình nợ công của Việt tăng nhanh qua các năm về số tuyệt đối lẫn số

tương đối so với GDP. Chỉ trong vòng 10 năm (từ năm 2006 đến năm 2015), nợ công đã

tăng 6,4 lần. Ngoài ra, dư nợ nước ngoài của Chính phủ đến cuối 2015 đã tăng 6,5 lần so

với năm 2001. Khoản dư nợ này tập trung chủ yếu vào 3 nhà tài trợ chính là Ngân hàng

Phát triển châu Á (ADB) tăng 20,3 lần, Ngân hàng Thế giới (WB) tăng 11,5 lần, Nhật Bản

tăng 6,8 lần…

Các dữ liệu về tỷ lệ nợ công, nợ chính phủ năm 2016 cũng đều tăng so với một năm

trước đó. Cụ thể, tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2016 là 63,7% GDP (tăng 4,4% so với năm

2015); nợ chính phủ chiếm 52,6% GDP, tăng 6,9%. Tỷ lệ nợ công năm 2017 là 61,3%;

trong đó: nợ chính phủ chiếm 51,6%, nợ CPBL chiếm 9,1%, nợ CQĐP chiếm 0,6%. Nhìn

chung nợ công năm 2017 có giảm so với năm 2016. (Hình 2.2) minh họa cơ cấu nợ công

năm 2017.

Hình 2.2. Biểu đồ cơ cấu nợ công năm 2017

27

0.6%

9.1%

Nợ chính phủ

Nợ chính phủ bảo lãnh

Nợ CQĐP

51.6%

Theo đồng hồ nợ công trên thế giới mà một bộ phận của báo tài chính The Economist

lập ra trên mạng, nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là 94.854.098.361 USD. Dựa

trên dân số là 92.056.721 thì mỗi người Việt Nam phải gánh một khoản nợ là 1.039 USD,

cao hơn gấp 6 lần so với năm 2001.

Qua những số liệu trên cho thấy, quy mô nợ công của Việt Nam ngày càng lớn và tỷ

lệ nợ công trên GDP cũng không ngừng tăng nhanh trong những năm qua, và đang tiến gần

tới sát ngưỡng giới hạn an toàn (65%) mà chính phủ đã đặt ra. Đó là những con số rất đáng

lo ngại mà chính phủ phải thực sự quan tâm và cũng làm cho người dân bức xúc.

Mặc dù số liệu nợ công của Việt Nam được Bộ tài chính công bố trên các Bản tin nợ

công hàng năm, nhưng thực chất con số nợ công của Việt Nam chính xác là bao nhiêu vẫn

còn là con số mơ hồ (do cách xác định còn có sự khác biệt so với thông lệ quốc tế). Những

loại nợ được gọi là nợ công mà chính phủ có trách nhiệm hoàn trả cũng khác so với quan

điểm của nhà tài trợ.

Bộ Tài Chính Việt Nam chỉ nhìn nhận nợ công bao gồm: nợ của chính phủ, nợ được

chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương. Nhưng các nhà tài trợ quốc tế thì cho

rằng nợ công phải bao gồm cả các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước. Nếu các

doanh nghiệp này mà không trả được nợ, thì nhà nước phải có trách nhiệm trả nợ thay.

Nếu tính theo thông lệ quốc tế, thì quy nợ công của Việt Nam sẽ còn lớn hơn nhiều.

Có thể nói, nợ công của Việt Nam hiện nay đang ở mức rất cao và rất đáng phải báo động.

Cho nên, chính phủ cần thiết phải có những giải pháp kiềm chế và kiểm soát nợ công để

28

đảm bảo là nợ công luôn được nằm trong giới hạn an toàn cho phép, nhằm ngăn chặn nguy

cơ vỡ nợ có thể xảy ra.

2.1.2. Tình hình sử dụng nợ công

Trong các nguồn vốn hình thành nên nợ công, ODA là nguồn lực quan trọng nhất, có

thể nói đó là “cú huých từ bên ngoài” giúp cho Việt Nam thay đổi diện mạo, từ một quốc

gia kém phát triển đã vươn thành một quốc gia có “thu nhập trung bình thấp”.

Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã nhận được rất nhiều khoản viện trợ và ưu đãi tín

dụng từ các quốc gia phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế. Phần lớn các nguồn vốn

trên được sử dụng chủ yếu vào mục đích nhằm đầu tư vào kết cấu hạ tầng và các chương

trình phục vụ cho an sinh xã hội nhằm tạo nền tảng thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế.

Nguồn vốn ODA hay nợ công đã đóng một vai trò tích cực đối với sự phát triển của

nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu

quả cao, thể hiện trên hai khía cạnh sau đây:

Thứ nhất: hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số ICOR cao.

ICOR (Incremental Capital - Output Ratio) - là một chỉ số cho biết muốn có thêm một

đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị vốn

đầu tư trong kỳ đó. Hệ số ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư càng thấp và

ngược lại.

Hiệu quả đầu tư thấp, là một trong những nguyên nhân gây nên lạm phát, khủng

hoảng và suy thoái kinh tế. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 ít nhiều

chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế thế giới. Hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số

ICOR cao trong khi tăng trưởng kinh tế đạt thấp.

Cụ thể là, năm 2009: hệ số ICOR ở mức rất cao (7,35), trong khi tăng trưởng kinh tế

chỉ đạt 5,40% GDP. Có nghĩa là, trong năm 2009 để tăng 1 đồng GDP thì cần đầu tư đến

7,35 đồng vốn đầu tư. Nhìn vào hệ số ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế, có thể thấy hiệu

quả đầu tư của năm 2009 thấp hơn so với năm 2006 (xem bảng 2.3).

29

Hiệu quả đầu tư giai đoạn 2011 - 2016 vẫn chưa được cải thiện. Cụ thể, hệ ICOR năm

2016 là 6,41 cao hơn rất nhiều so với năm 2006 (4,57), trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế

chỉ đạt 6,21%, thấp hơn so với năm 2006 (8,23%) (xem bảng 2.4).

Theo khuyến cáo của các nước phát triển thì hệ số ICOR của các nước đang phát triển

nên từ 3,00 đến 4,00 thì mới được gọi là hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư. Như vậy,

theo số liệu ở trên từ năm 2006 đến năm 2016, hệ số ICOR của Việt Nam luôn ở mức cao

hơn khuyến cáo, nghĩa là hiệu quả đầu tư của Việt Nam nói chung là thấp.

ICOR của Việt Nam thuộc loại cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

ICOR bình quân thời kỳ 1996 - 2010 của Việt Nam cao gấp trên 2 lần của Đài Loan; gấp

1,9 lần của Hàn Quốc thời kỳ 1961 - 1980; gấp 1,6 lần của Trung Quốc thời kỳ 2001 -

2006; gấp trên 1,3 lần của Malaysia thời kỳ 1981-1985…

Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giai đoạn 2006 – 2016 đạt hiệu quả còn

thấp, thể hiện qua hệ số ICOR vẫn còn cao (xem hình 2.3).

Hình 2.3. Biểu đồ hệ số ICOR giai đoạn 2006 -2016

30

Nguồn: Tổng cục thống kê

Thứ hai: hiệu quả đầu tư công thấp còn do tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn;

tình trạng dự án, công trình thi công chậm tiến độ, dỡ dang, kéo dài; việc đầu tư dàn trải,

lãng phí, thất thoát quá nhiều.

Theo Bộ Tài chính, trong tổng số 50.000 tỉ đồng vốn trái phiếu chính phủ được Quốc

hội phê duyệt trong năm 2017, đến nay Chính phủ mới giao có 5.200 tỉ đồng, bằng 10,4%

dự toán Quốc hội. Trong đó vốn giải ngân đến nay chỉ đạt khoảng 2.640 tỉ đồng, và không

thể giải ngân hết số vốn này trong năm, do đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.

Điển hình là tại ĐBSCL, trong giai đoạn 2011 - 2015, một số dự án giao thông sử

dụng nguồn TPCP được đưa vào danh sách cần được đầu tư, xây dựng cấp bách như tuyến

quốc lộ 61 (Hậu Giang), quốc lộ 63 (Cà Mau), quốc lộ 54, 30 (Vĩnh Long, Đồng Tháp),

quốc lộ 91 (An Giang)... nhưng đến nay vẫn chưa được bố trí đủ vốn. Những dự án này có

tổng mức đầu tư 2.809 tỉ đồng. Cho đến nay trung ương chỉ mới cấp phát được khoảng 530

tỉ đồng. Việc chậm trễ trong giải ngân vốn TPCP dẫn đến một số dự án xuống cấp nghiêm

trọng.

31

Còn dự án tuyến đường sắt đô thị TP. HCM với tuyến số 1 (Bến Thành - Suối Tiên)

và tuyến số 2 (Bến Thành - Tham Lương) bị chậm tiến độ do đội vốn và chậm giải ngân

vốn, gây khó khăn cho phía nhà thầu, làm ảnh hưởng uy tín đối với nhà tài trợ Nhật Bản.

Trong đó, dự án Bến Thành - Suối Tiên, dài 19,7km, được phê duyệt từ năm 2005-

2006 với tổng mức đầu tư ban đầu 17.000 tỷ đồng, sau đó đến năm 2010 được phê duyệt

lại trên cơ sở điều chỉnh, tính toán lại thiết kế cơ sở, tăng thêm quy mô thiết kế, cộng với

sự thay đổi tỷ giá đồng Yên... với tổng mức đầu tư tăng lên mức 47.000 tỷ đồng. Còn dự

án Bến Thành - Tham Lương, dài khoảng 40km, tổng mức đầu tư sau khi tính toán lại cũng

bị đội vốn từ mức 26.000 tỷ đồng lên 48.000 tỷ đồng. Hiện cả hai dự án đều chậm tiến độ

và thiếu vốn.

Theo Bộ GTVT, các dự án trên được Thủ tướng, Chính phủ, cũng như Chính phủ

Nhật Bản rất quan tâm. Đây là thời gian các bộ, ngành liên quan và UBND TP. HCM cần

cấp bách, khẩn trương hoàn thành việc thẩm định để Chính phủ xem xét, trình Quốc hội

thời gian tới.

Để dự án có thể tiếp tục thi công, chính quyền TP.HCM đã tạm ứng 1.673 tỷ đồng để

chi trả cho các nhà thầu. Trong khi Quốc hội chưa có quyết định cuối cùng, tỷ lệ cấp phát

vốn cũng chưa được thống nhất giữa Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính và TP.HCM. Số

tiền mà chính quyền TP.HCM tạm ứng chỉ mang tính tình thế và không thể khơi thông

được nguồn vốn ODA.

Một dự án đường sắt đô thị nữa, đó là tuyến đường sắt Cát Linh - Hà Đông dài 13km,

gồm 12 ga đi trên cao. Dự án thực hiện từ tháng 11/2008 và ban đầu dự kiến đến tháng

11/2013 hoàn thành, với tổng mức đầu tư hơn 552 triệu USD. Tuy nhiên, với tiến độ chậm,

đến tháng 10/2011 dự án mới chính thức triển khai và điều chỉnh tổng vốn đầu tư lên hơn

868 triệu USD (hơn 18.000 tỷ đồng).

Sau nhiều lần chậm tiến độ do chậm được cấp nguồn vốn bổ sung, đến tháng 12/2017

các thủ tục đã được tháo gỡ xong, vốn đã được giải ngân cho các nhà thầu tiếp tục triển

khai và thực hiện.

32

Dự kiến dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông sẽ được vận hành, khai thác thương mại

vào cuối năm 2018. Như vậy, nếu không có gì thay đổi thì so với dự kiến ban đầu, dự án

đã chậm đưa vào hoạt động tới 5 năm.

Trong nhiều năm qua, nhà nước đã đầu tư rất lớn cho các công trình công cộng, đặc

biệt là việc xây dựng kết cấu hạ tầng, cảng biển, sân bay, các đặc khu kinh tế… Việc mở

rộng đầu tư công một cách ồ ạt, dàn trải nhưng không hiệu quả dẫn đến kết quả là làm cho

nợ công tăng lên nhanh chóng.

Đường cao tốc TP HCM - Long Thành - Dầu Giây và cảng nước sâu Thị Vải - Cái

Mép, được coi là hai dự án điển hình của lĩnh vực giao thông, đang có nguy cơ trở thành

gánh nặng nợ công vì chi phí quá cao và hoạt động kém hiệu quả.

Trong đó, dự án thứ nhất đóng vai trò đường giao thông cửa ngõ của TP HCM với

tổng vốn đầu tư lên tới hơn 930 triệu USD cho 55 km với 4 làn đường, suất đầu tư của dự

án này là 18 triệu USD mỗi km, cao hơn hẳn với nhiều nước. Nếu loại trừ các chi phí xây

cầu dẫn, đền bù giải phóng mặt bằng, suất đầu tư riêng cho việc xây đường đã là 12,7 triệu

USD một km. Trong khi đó, chi phí bình quân để xây một km đường cao tốc ở Mỹ chỉ là

1,4 triệu USD, tức 5,6 triệu USD cho 4 làn. Còn ở Trung Quốc và Nigeria chỉ là 1 triệu

USD.

Tại kỳ họp Quốc hội thứ 3 (năm 2017), lần đầu Chính phủ đã báo cáo trước Quốc hội

con số xung quanh 12 dự án nghìn tỷ đang "đắp chiếu" với tổng số nợ phải trả lên tới

55.000 tỷ đồng.

Chỉ tính riêng đối với Công ty Công nghiệp tàu thủy Dung Quất, một nhà máy đóng

tàu của Vinashin sau khi được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tiếp quản thì Tập đoàn này đã

rót về đây 5.000 tỷ đồng để trả nợ. Đối với dự án này, đang có 3 phương án xử lý được

xem xét gồm: (1) chuyển đổi sở hữu công ty Công nghiệp tàu thủy Dung Quất; (2) là phá

sản; (3) là tiếp tục tái cơ cấu. Bộ Công thương đề xuất ưu tiên lựa chọn phương án cho phá

sản. Nếu lựa chọn phương án này, Tập đoàn Dầu khí sẽ mất ít nhất khoảng 5.000 tỷ đồng.

33

Các dự án thua lỗ khác như: dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép

Thái Nguyên; dự án nhà máy đầu tư sản xuất sơ xợi Đình Vũ… cũng đã có phương án xử

lý và sẽ trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Vấn đề sử dụng nợ công kém hiệu quả còn thể hiện ở chổ thiếu sự kiểm tra, giám sát;

việc quản lý lỏng lẽo nên còn để xảy ra tình trạng tham nhũng, lãng phí. Ngoài ra, còn tồn

tại tư tưởng lợi ích nhóm và tư duy mang tính cục bộ, địa phương. Hầu như địa phương

nào cũng muốn nhà nước đầu tư cho mình, cho dù những công trình đó không mang tính

cấp bách trong khi nguồn lực của địa phương cũng như trung ương đều có hạn.

Rất nhiều địa phương, nhiều ngành đề xuất những dự án lên đến hàng nghìn tỉ đồng

để xây tượng đài, nhà bảo tàng…Cho dù là cần thiết, nhưng chưa phải là vấn đề cấp bách

trong tình hình đất nước còn nhiều khó khăn. Trong khi nhiều công trình cấp thiết hơn

nhằm phục vụ cho y tế, giáo dục, an sinh xã hội như: bệnh viện, trường học, đường xá, cầu

cống, điện, nước… thì chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn thiếu vốn để đầu tư. Nhiều

nơi, đời sống người dân vẫn còn rất khó khăn, nhất là đối với khu vực nông thôn, miền núi,

vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, các địa phương cần nên cân nhắc “liệu cơm gắp mắm” cho việc

chi tiêu công khi ngân sách địa phương còn hạn hẹp, khi mà tình hình nợ công đang ở mức

rất đáng lo ngại như hiện nay.

Việc chi tiêu và sử dụng nợ công kém hiệu quả là nguyên nhân dẫn đến rủi ro đáng

báo động cho nền kinh tế, nó khiến cho mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở mức

cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, làm tăng thêm gánh nặng nợ công, làm

tăng nguy cơ vỡ nợ quốc gia, và tạo ra những bất ổn xã hội.

2.1.3. Một số tồn tại có liên quan đến vấn đề nợ công

2.1.3.1. Tình hình quản lý nợ công còn nhiều hạn chế, yếu kém

Thứ nhất, chính sách sử dụng nợ công không hiệu quả. Các khoản vốn vay chủ yếu

được sử dụng trong khu vực đầu tư công, mặc dù được đầu tư vốn rất lớn nhưng nó không

mang lại hiệu quả biểu hiện bởi hệ số ICOR rất cao. Sự thiếu hiệu quả chủ yếu đến từ các

doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là khu vực được Chính phủ bảo lãnh. Các doanh nghiệp

Nhà nước thường đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao như tài chính, ngân hàng, bất động

34

sản, chứng khoán… mà không chú trọng đầu tư vào lĩnh vực ngành nghề kinh doanh

chính. Sự không hiệu quả này đang đe dọa tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính và

nền kinh tế, bởi các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm khoảng 60% dư nợ tín dụng của

các NHTM. Chưa kể, với sự cạnh tranh không bình đẳng, các doanh nghiệp Nhà nước đã

gây sức ép không nhỏ lên các doanh nghiệp ngoài nhà nước, góp phần làm méo mó cơ chế

thị trường và kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân. Sự phối hợp không chặt chẽ, nhiều

thủ tục giữa các cơ quan liên quan khiến tiến độ giải ngân vốn chậm cũng là nguyên nhân

khiến hiệu quả đầu tư công thấp. Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan

Nhà nước không thường xuyên, chưa lien tục nên không đánh giá được hết các sai phạm

trong khâu lập thủ tục đầu tư, thiết kế, đấu thầu, sử dụng vốn sai mục đích, quyết toán sai

gây thất thoát lớn lượng vốn đầu tư, hiêu quả đầu tư thấp.

Thứ hai, chưa tận dụng tối đa nguồn lực từ thì trường chứng khoán. Thị trường thứ

cấp của trái phiếu Chính phủ dường như không phát triển, khối lượng giao dich rất ít. Ngay

cả khi thị trường chứng khoán sôi động thì khối lượng giao dịch cũng chỉ chiếm khoảng 3

– 4% tổng giá trị giao dịch thị trường và chiếm khoảng 6 – 7% tổng giá trị trái phiếu được

niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do đó tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ trở

nên kém đi, mặc dù đây là loại công cụ tài chính có độ an toàn cao nhất nhưng nó chưa

thực sự giữ vai trò chủ đạo trong các giao dịch chứng khoán. Việc hoạch định mục tiêu

CSTT, CSTK và quản lý nợ công trong dài hạn chưa có sự thống nhất. Các mục tiêu về

tăng trưởng, lam phát thường dựa vào kết quả trong năm hiện tại và các năm trước do vậy

ít có sự dự báo về những biến động bất thường trong tương lai. Thực tế cho thấy, Chính

phủ đề ra mục tiêu kiềm chế lạm phát trong thời gian vừa qua nhưng mức vay nợ của

Chính phủ chỉ làm rất ít, cùng với đó là tăng lương, thâm hụt NSNN, thâm hụt cán cân

thương mại. Khi thâm hụt tăng cao, thì mục tiêu của CSTT và CSTK sẽ trở nên mâu thuẫn,

hệ quả tất yếu dẫn tới nợ công tăng cao. Trong khi đó, sự phối hợp giữa CSTT và quản lý

nợ công trong ngắn hạn chưa đem lại hiệu quả. Trong giai đoạn 2009 – 2011, sự bất ổn của

tỉ giá dẫn đến áp lực tăng gánh nặng nợ và chi phí dịch vụ nợ cho các khoản nợ nước

ngoài.

35

Thứ ba, quyền hạn của các cơ quan còn chồng chéo, phân tán. Chẳng hạn, đối với cấp

Bộ, ngành: Theo Luật Quản lý nợ công thì Bộ Tài chính giúp Chính phủ thống nhất quản

lý Nhà nước về nợ công (bao gồm tất cả các khâu từ xây dựng mục tiêu, định hướng huy

dộng, quản lý và sử dụng vốn vay và quản lý nợ công). Nhưng trên thực tế, Bộ Kế hoạch

và Đầu tư lại được Chính phủ giao cho việc huy động vốn ODA và vốn đô la. Tuy nhiên

khâu huy động lại không gắn kết với nguồn trả nợ, không gắn với mục đích sử dụng... Mặt

khác, Bộ Tài chính là đơn vị chủ trì xây dựng hạn mức vay nước ngoài, bao gồm cả hạn

mức tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhưng điều hành cụ thể lại do NHNN. Như vậy, rõ

ràng từ kênh huy động, trả nợ, sử dụng vẫn còn chưa thống nhất với nhau.

2.1.3.2. Bộ máy quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế

Bộ máy nhà nước còn quá cồng kềnh, phương thức quản lý vừa quan liêu vừa phân

tán. Chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp chưa rõ ràng, còn chồng chéo, chưa phù

hợp với cơ chế thị trường. Hệ thống thể chế không đồng bộ, không thống nhất, kỷ cương

quản lý không nghiêm. Trình độ cán bộ còn thấp, tác phong làm việc chậm chạp, ý thức

trách nhiệm chưa cao. Kinh tế chậm phát triển, bộ máy cồng kềnh làm cho thu nhập người

hưởng lương trong khu vực nhà nước còn thấp. Thu nhập thấp là một trong những nguyên

nhân dẫn đến việc phát sinh nhiều tiêu cực, thiếu nhiệt tình, không tâm huyết, gây phiền

hà, nhũng nhiễu, tham ô, lãng phí…

Theo số liệu của WB năm 2015, tỷ lệ công chức và người hưởng lương, phụ cấp từ

ngân sách nhà nước trên 1.000 dân của một số nước trong khu vực (kể cả Quân đội, Công

an): Philippins: 13, Ấn độ, Indonesia: 17; Đông Timo: 18, Singapore: 25, Malaysia: 26,

Nhật Bản: 35, Trung Quốc: 48, Thái Lan : 51; trong khi đó, Việt Nam là 43 (chưa kể Quân

đội, Công An).

Theo báo cáo của Ban Kinh tế Trung ương, năm 2017 Việt Nam có gần 3 triệu công

chức, viên chức (CCVC) đang làm việc và hưởng lương ngân sách trong bộ máy nhà nước,

tương đương tỷ lệ 30,5 CCVC/1.000 dân. Con số này là quá cao so với các nước trong khu

vực: Indonesia là 17,64; Philippines: 13,02; Singapore: 25,69…

36

Công chức nhiều dẫn tới mức chi trả ngân sách nhà nước quá lớn. Tỷ trọng chi tiền

lương trong tổng chi NSNN trên GDP của Việt Nam hiện ở mức cao nhất trong khu vực,

lên gần 10% (Thái Lan: 8, Malaysia: 6, Indonesia: 3…).

Một chỉ số khác mà Ban Kinh tế Trung ương dẫn báo cáo của Ngân hàng Thế giới

cho thấy, tỷ lệ chi tiền lương/tổng chi NSNN ở Việt Nam cũng đứng đầu bảng với hơn

35% (Philippins: 30, Malaysia: 24, Indonesia: 13, Hàn Quốc 9, Nhật Bản 6).

Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam hiện nay từng cho rằng, “Trong bộ máy chúng

ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi,

tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Điều đó cho thấy, số lượng

biên chế viên chức nhiều, trình độ thấp làm cho chính sách xã hội hoá dịch vụ công mang

lại hiệu quả chưa cao, đồng thời cũng làm tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đó là

chưa nói đến việc quản lý trong bộ máy nhà nước còn quá lõng lẽo, dễ dẫn đến phát sinh

nhiều tiêu cực, gây ra tình trạng tham nhũng, lãng phí rất lớn.

Việc chi tiêu cho bộ máy nhà nước quá lớn, cộng với sự thất thoát do tham nhũng,

lãng phí khiến cho tình trạng bội chi ngân sách ngày càng lớn. Thâm hụt ngân sách kéo dài

thường được bù đắp bằng cách vay nợ để tài trợ cho việc chi tiêu công, và điều đó làm cho

nợ công ngày càng tăng lên. Bảng 2.5 cho thấy tình hình thâm hụt NSNN qua các năm.

Năm

GDP (Tỷ đồng)

Tổng thu NSNN (Tỷ đồng)

Tổng chi NSNN (Tỷ đồng)

Thâm hụt NSNN (Tỷ đồng)

2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

721,804 734,883 828,348 877,697 998,217 1,101,452 1,288,665

787,554 978,463 1,088,153 1,103,983 1,265,625 1,360,152 1,462,965

-65,750 -243,580 -259,805 -226,286 -267,408 -258,700 -174,300

2,779,880 3,245,419 3,584,262 3,937,856 4,192,862 4,502,733 5,005,975

Bội chi NSNN so với GDP -2.37% -7.51% -7.25% -5.75% -6.38% -5.75% -3.48%

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Bảng 2.5. Thâm hụt NSNN qua các năm

37

2.1.3.3. Hiệu quả hoạt động đối với khu vực kinh tế nhà nước không cao

Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa hiệu quả, quản trị doanh nghiệp

còn yếu kém; việc sắp xếp, đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước còn chậm so với yêu cầu; hiệu quả trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước

tại doanh nghiệp còn thấp; mức đóng góp vào ngân sách nhà nước, tăng trưởng GDP, tạo

công ăn việc làm mới có xu hướng ngày càng giảm.

Theo báo cáo tóm tắt kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản

lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước” của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội thì trong năm 2008, 56/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước có tỷ suất

lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) dưới 15%, tức là thậm chí còn thấp hơn mặt bằng lãi

suất trong năm 2008 (là năm có chỉ số CPI trung bình lên tới 20%). Nếu tính toán đầy đủ

thì hầu hết các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đều làm ăn thua lỗ. Bởi vì, ngay cả khi

các tập đoàn và tổng công ty có lãi thì cũng chủ yếu nhờ vào sự bảo hộ của Chính phủ, nhờ

vào vị thế độc quyền trên thị trường trong nước, được Chính phủ trợ cấp bằng vốn, đất đai,

tài nguyên giá rẽ, được nhận nguồn vốn tín dụng ưu đãi (từ quỹ hỗ trợ trước đây cũng như

từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam hiện nay), được sử dụng cơ sở hạ tầng từ nguồn đầu tư

trực tiếp của Nhà nước (đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hàng không,

viễn thông).

Theo bài “Đánh giá hiệu quả đầu tư” (2010) của tác giả Bùi Trinh, dù tính theo vốn

đầu tư hay theo tích lũy tài sản thì hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước cũng cao gấp

rưỡi hệ số ICOR chung của toàn nền kinh tế. Có nghĩa là, hiệu quả vốn đầu tư của khu vực

kinh tế nhà nước luôn thấp hơn nhiều so với khu vực kinh tế tư nhân.

Những con số về tình hình sản xuất, kinh doanh của các DNNN những năm gần đây

cho thấy kết quả kinh doanh của khu vực DNNN không khả quan, thậm chí lỗ đến mức

báo động. Theo báo cáo của Chính phủ về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà

nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2015, các tập đoàn, tổng công ty nhà

nước có tổng số nợ phải trả lên đến 1,5 triệu tỷ đồng. Hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu

bình quân năm 2015 là 1,23 lần, trong đó có 25 DNNN có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu

38

lớn hơn 3 lần, đứng đầu là Tổng công ty Phát thanh truyền hình thông tin, Tổng công ty

Xăng dầu quân đội, Tổng công ty Cơ khí xây dựng….

Đáng chú ý, ngành Công Thương có 12 dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém

hiệu quả, làm ăn thua lỗ, điển hình là nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ, dự án nhà máy

gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2, nhà máy nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol Dung Quất,

nhà máy đạm Ninh Bình… Tổng tài sản của 12 nhà máy là hơn 57.600 tỷ đồng, thì tổng nợ

phải trả là hơn 55.000 tỷ đồng.

Theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình tài chính của DNNN năm 2016 cho thấy,

nhiều doanh nghiệp Nhà nước lẽ ra là sức bật của nền kinh tế lại đang thua lỗ hàng nghìn

tỷ đồng. Theo báo cáo, 6 công ty mẹ còn lỗ lũy kế là 4.595 tỷ đồng, gồm Tổng Công ty

Hàng Hải Việt Nam (2.760 tỷ đồng); Tổng Công ty Lương thực Miền Nam (798 tỷ đồng);

Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (687 tỷ đồng); Tổng Công ty Giấy Việt Nam (120 tỷ

đồng),...

Cũng theo báo cáo trên, một số tập đoàn có tổng nợ phải trả lớn. Cụ thể, nợ phải trả

của Tập đoàn Điện lực Việt Nam là hơn gần 487 nghìn tỷ đồng, của Tập đoàn Dầu khí

Việt Nam là hơn 338 nghìn tỷ đồng và Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt

Nam là hơn 100 nghìn tỷ đồng. Những Doanh nghiệp có nợ phải trả nhiều còn có sự góp

mặt của Viettel, Tập đoàn Hóa chất ,... với số nợ cũng lên đến vài chục nghìn tỷ đồng.

Theo Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2010 – 2016, các doanh nghiệp nhà nước đang

trong giai đoạn giảm nhanh quy mô, do chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp lại nên doanh thu

của khu vực này tăng chậm hơn các thành phần kinh tế khác. Năm 2016, các doanh nghiệp

nhà nước chỉ tạo ra 2,88 triệu tỷ đồng, tăng bình quân 6,0%; trong khi đó, các doanh

nghiệp ngoài nhà nước hiện chiếm tỷ lệ doanh thu chi phối và có cơ cấu đóng góp ngày

càng tăng trong toàn bộ các thành phần doanh nghiệp. Năm 2016, tổng doanh thu do khối

doanh nghiệp ngoài nhà nước tạo ra là 9,76 triệu tỷ đồng, chiếm 56% doanh thu của toàn

bộ doanh nghiệp, tăng bình quân 15,7%/năm.

Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước hiện chiếm hữu rất nhiều nguồn lực nhưng sử dụng

chúng một cách kém hiệu quả. Sự đóng góp của khu vực này cho ngân sách nhà nước, tăng

39

trưởng GDP, tạo công ăn việc làm mới ngày càng giảm. Trong khi đó, khu vực tư nhân

đang hoạt động hiệu quả hơn, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế, đang ngày càng khẳng

định vai trò là động lực quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Như vậy, câu hỏi đặt ra là liệu kinh tế nhà nước có còn đóng vai trò chủ đạo đối với

nền kinh tế Việt Nam hiện nay hay không? Có lẽ rất khó để có câu trả lời, vì cơ sở để

khẳng định điều này không có tính thuyết phục cao.

2.1.3.4. Tình trạng tham nhũng, lãng phí đang ở mức đáng lo ngại

Tình trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đang ở mức đáng phải báo động. Điển

hình là những vụ tham nhũng lớn nhất của Việt Nam đã được ghi nhận từ nhiều năm nay,

làm thiệt hại hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước, gây ảnh hưởng rất lớn đến

sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Vụ PMU 18 (PMU viết tắt cho Project Management Unit, tên tiếng Anh của Ban

Quản lý các dự án 18) là một vụ bê bối liên quan đến tham nhũng trong Bộ Giao thông

Vận tải (GTVT) đầu năm 2006. Vụ này đã gây xôn xao dư luận tại Việt Nam cũng như các

nước và tổ chức cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, đã khiến Bộ

trưởng Bộ GTVT Đào Đình Bình phải từ chức và Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Việt

Tiến bị bắt giam.

Đầu tháng 1 năm 2006, ông Bùi Tiến Dũng, Tổng Giám đốc Ban Quản lý Các Dự án

PMU-18 bị bắt giữ và cáo buộc đã cá độ bóng đá với số tiền trên 1,8 triệu đô la. Liên quan

vụ này còn có trên 200 nhân viên đã tham gia cá độ. Ngoài ra, còn có thêm nhiều quan

chức cấp cao khác bị tố cáo tham gia chạy án cho các bị can.

Vụ hối lộ quan chức Việt Nam của công ty PCI (Pacific Consultants International,

viết tắt là PCI, Công ty Tư vấn Quốc tế Thái Bình Dương) Nhật Bản là vụ việc nổi đình

đám trong năm 2008 tại Việt Nam, liên quan đến việc đưa hối lộ của một số quan chức

công ty PCI với Ban Quản lý dự án PMU tại Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là với ông

Huỳnh Ngọc Sĩ, Phó Giám đốc Sở Giao thông Công chính Thành phố Hồ Chí Minh kiêm

Giám đốc Ban Quản lý PMU Đông – Tây.

40

Vụ việc đã khiến cho công chúng Nhật Bản tức giận và chính phủ Nhật Bản đã phải

tuyên bố tạm dừng các dự án ODA cho tới khi Ủy ban hỗn hợp phòng chống tham nhũng

giữa hai nước xem xét lại việc thực hiện vốn ODA của Nhật tại Việt Nam. Sự cố ODA nói

trên gây ảnh hưởng nặng nề tới nhiều dự án thực hiện bằng nguồn vốn ODA tại Việt Nam.

Đề án 112 hay còn gọi là Đề án Tin học hóa hành chính nhà nước của Chính phủ Việt

Nam nhằm mục đích xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam. Đây là một chương trình

hiện đại hóa hành chính của chính phủ Việt Nam giai đoạn từ 2001 – 2010 về cải cách thủ

tục hành chính nhà nước. Đề án này được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam quyết định vào

năm 2001, thực hiện giai đoạn 1 đến năm 2005. Nhưng đến cuối năm 2005, đầu năm 2006,

đề án 112 thất bại sau khi bị phát hiện nhiều sai phạm và chi phí quá lớn nhưng mang lại

hiệu quả quá thấp. Kết quả giai đoạn 1 của đề án 112 là cả 5 mục tiêu cụ thể mà đề án đặt

ra đều chưa được hoàn thành hoàn chỉnh và cảnh sát Việt Nam đã khởi tố bắt giam Vũ

Đình Thuần, Lương Cao Sơn, cùng hàng chục người khác liên quan đến tiêu cực và tham

nhũng. Số tiền đã chi tiêu là 1.534 tỷ đồng trong đó tổng kinh phí đã sử dụng là gần 1.160

tỷ đồng, số tiền đã tạm ứng chưa chi tiêu cần thu hồi lại là trên 300 tỷ đồng (tổng dự toán

của đề án: 3.800 tỷ đồng).

Vinashin là vụ án lớn gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đối với nền kinh tế Việt

Nam. Tại phiên họp ngày 31/7/2010, Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã thảo luận

và kết luận Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) “đang gặp nhiều khó

khăn rất lớn, bộc lộ nhiều yếu kém, sai phạm nghiêm trọng” do đầu tư mở rộng quá nhanh,

quy mô lớn, dàn trải trên nhiều lĩnh vực, địa bàn trái với quy hoạch được phê duyệt. Trong

đó có những lĩnh vực không liên quan đến công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, nhiều

lĩnh vực kém hiệu quả, có nhiều công ty, dự án thua lỗ nặng nề. Tình hình tài chính đứng

trên bờ vực phá sản: Theo số liệu ban đầu, ước tính dư nợ hiện đã lên tới khoảng 86.000 tỉ

đồng; nợ đến hạn phải trả khoảng trên 14.000 tỉ đồng; tỉ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu

gấp gần 11 lần, khó có khả năng tự cân đối dòng tiền.

Những yếu kém nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan;

trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Trách nhiệm trực tiếp thuộc về Hội đồng Quản

41

trị và Ban lãnh đạo Vinashin trong đó có Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn. Một số cơ

quan quản lý nhà nước có liên quan ở Trung ương và địa phương cũng có trách nhiệm.

Lãnh đạo Vinashin, trước hết là Hội đồng Quản trị và người đứng đầu có nhiều

khuyết điểm, sai lầm trong tổ chức, quản lý, điều hành, xác định lĩnh vực sản xuất, kinh

doanh, quản lý các công ty con, công ty liên kết, tiến hành các hoạt động đầu tư xây dựng,

quản lý vốn, tài chính, vay và trả nợ. Người đứng đầu Vinashin có năng lực hạn chế, thiếu

trách nhiệm, tuỳ tiện, báo cáo không trung thực, cố ý làm trái, vi phạm pháp luật trong việc

chấp hành các quy định của Nhà nước, của Thủ tướng Chính phủ khi chỉ đạo các hoạt động

đầu tư, sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và bố trí cán bộ.

Tháng 4 năm 2012, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án “Tham ô

tài sản” xảy ra tại Công ty tài chính TNHH một thành viên Công nghiệp tàu thủy Việt Nam

(thuộc Vinashin) và công ty vận tải Biển Đông (thuộc Vinalines). Bốn người bị bắt tạm

giam, trong đó có cựu phó tổng giám đốc Vinalines Bùi Quốc Anh.

Phó Tổng Giám đốc đương nhiệm Trần Hữu Chiều đã bị bắt vào giữa tháng 5. Ngày

18 tháng 5, liên quan đến những sai phạm trong việc điều hành Vinalines, hai nhân vật

lãnh đạo Dương Chí Dũng (Cục trưởng Hàng hải, cựu Chủ tịch hội đồng quản trị

Vinalines) và Mai Văn Phúc (Vụ phó Vụ Vận tải, cựu tổng giám đốc Vinalines) chính thức

bị khởi tố và tạm giam 4 tháng để điều tra trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý làm trái quy

định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Những sai phạm bị đưa ra

xem xét xử lý bao gồm dự án đầu tư mua ụ nổi 83M.

Ngày 15/9/2016, C46 đã khởi tố vụ án để điều tra khoản thua lỗ gần 3.300 tỷ tại Tổng

công ty Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Theo kết

luận của Ủy ban kiểm tra Trung ương, ông Trịnh Xuân Thanh phải chịu trách nhiệm chính

về những sai phạm này với cương vị người đứng đầu.

Theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong năm 2007-2013, dù đã có kiến

nghị, cảnh báo của các cơ quan thanh tra, kiểm toán về tình hình thua lỗ và tiềm ẩn thua lỗ

nhưng ông Trịnh Xuân Thanh và Ban Thường vụ Đảng ủy, Hội đồng quản trị, Ban tổng

giám đốc, Ban Kiểm soát Tổng công ty đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý

42

điều hành, thiếu kiểm tra, giám sát, mắc nhiều sai phạm và gây thua lỗ gần 3.300 tỷ đồng

(giai đoạn 2011-2013).

Liên quan vụ án, bốn cựu lãnh đạo PVC gồm: ông Vũ Đức Thuận (ủy viên HĐQT

kiêm tổng giám đốc), Nguyễn Mạnh Tiến (phó tổng giám đốc), Trương Quốc Dũng (phó

tổng giám đốc), Phạm Tiến Đạt (kế toán trưởng) đã bị bắt, khởi tố cùng về tội “Cố ý làm

trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

Trên đây chỉ là một số vụ án tham nhũng điển hình trong số rất nhiều những vụ án

đặc biệt nghiêm trọng, làm ảnh hưởng rất nặng nề đối với triển kinh tế đất nước, gây ra

những hậu quả lâu dài, và rất khó có thể khắc phục được trong nhiều năm. Ngoài ra, còn

rất nhiều vụ án có liên quan đến Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực (đầu tư trái ngành),

Tập đoàn Hóa chất,… gây thiệt hại nghiêm trọng vô cùng. Đó là chưa kể đến những vụ án

tham nhũng có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng trong thời gian gần đây đã và đang được

đưa ra xét xử.

Có lẽ tác hại của tham nhũng không chỉ dừng lại ở đó, mà mức độ của nó sẽ còn trầm

trọng hơn nếu khái niệm của nó được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Theo Alan Phan (2010),

“tham nhũng” là một hành xử thiếu đạo đức và lương thiện, lạm dụng chức vụ, quyền lực

hay tình thế để chiếm đoạt tài sản hoặc lợi ích công cộng một cách phi pháp. Như vậy, dù

không chức vụ hay quyền lực hay tình thế để chiếm đoạt tài sản công, người ấy cũng phải

bị coi như một tội phạm hay đồng lõa tham nhũng. Tội trốn thuế cũng bị coi là tham

nhũng, vì một phần thu nhập đáng lẽ phải nộp vào ngân sách nhà nước thì được cho vào túi

riêng. Việc các cán bộ và quan chức nhà nước cấu kết với người nộp thuế để được miễn,

giám thuế hoặc trốn thuế dưới mọi hình thức phi pháp cũng đều được coi là những kẻ tham

nhũng. Gây ô nhiễm mội trường, làm hư hại tài sản công để làm lợi cho thu nhập của mình

cũng là một hình thức tham nhũng.

Alan Phan (2010) cho rằng, mỗi một mét vuông đất ở TP. HCM có giá trung bình là 30 triệu đồng và diện tích hè đường chỉ chiếm 1% toàn thành phố (2.095km2), thì tổng số

tài sản công bị chiếm đoạt đã lên đến 600 ngàn tỷ VND hay 30 tỷ đôla. Nếu tính tất cả hè

đường của các tỉnh thành trong toàn quốc, con số này phải lớn gấp ngàn lần các con số

43

tham nhũng từ chức quyền. Và sẽ còn lớn đến mức nào nếu chúng ta cộng luôn những lạm

khác về đất đai, tài sản, cũng như các hồ sơ gian dối về trợ cấp xã hội, dự án công của

người dân.

Lịch sử nhân loại đã chứng minh lòng tham của con người sẽ đạt đến đỉnh cao khi họ

được giao quyền hành và tài sản mà không có sự kiểm soát. Kinh tế tư nhân luôn luôn hiệu

quả hơn mọi mô hình kinh doanh, vì đồng tiền đi liền khúc ruột. Cha chung không ai khóc

chính là lý do của mọi lãng phí và tham nhũng.

2.1.3.5. Việc thực thi pháp luật nhà nước chưa nghiêm

Tình trạng coi thường pháp luật đang diễn ra ở khắp mọi nơi, từ các cơ quan nhà

nước, thậm chí ở ngay tại các cơ quan thực thi pháp luật cho đến ngoài xã hội. Việc người

dân dùng đủ mọi cách, bằng đủ mọi hình thức và phương tiện để chiếm dụng tài sản công,

bất chấp pháp luật cũng như hậu quả tai hại cho xã hội. Nhỏ nhất là xã rác bừa bãi, ăn cắp

cây cảnh của công viên, dán biểu ngữ quảng cáo ở cột đèn hay cầm nhầm một vài món đồ

của ai đó. Nặng hơn một chút là bày bán hàng rong trên đường, hè phố, sử dụng xe công,

kho bãi chính phủ vào mục đích riêng, hay lấy trộm vật liệu và thiết bị tại các công trường

xây dựng của nhà nước. Tệ nhất là chiếm đất công và phá rừng, khai thác khoáng sản lậu,

mánh mung để mua tài sản công với giá rẽ, ''đi cửa sau'' để có đặc quyền đặc lợi cho bản

thân và phe nhóm...

Còn việc xây dựng trái phép thì diễn ra ở khắp mọi nơi, kể cả ngay ở giữa lòng Thủ

đô Hà nội, tại một vị trí mang tính nhạy cảm, ảnh hưởng đến vấn đề quốc phòng, an ninh,

mà điển hình là công trình số 8B Lê Trực.

Ở Việt Nam, chuyện vượt đèn đỏ ngay cả khi xe trái chiều tấp nập trong giờ cao điểm

đôi khi cũng là chuyện bình thường. Cho nên, khi nhiều người Việt Nam đến các nước Âu

Mỹ đã rất ngạc nhiên khi thấy mọi người lái xe kiên nhẫn chờ đèn xanh trước khi vượt qua

ngã tư, dù giữa đêm khuya vắng vẽ, không một chiếc xe nào qua lại trên đường.

Ở những quốc gia đó, việc tôn trọng pháp luật ngay cả khi không có cảnh sát, công an

hiện diện, hay không có nguy cơ bị bắt giữ, đã ăn sâu vào tâm trí của người dân. Còn ở

Việt Nam, việc coi thường pháp luật vẫn diễn ra nhan nhãn giữa ban ngày. Nhiều thanh

44

niên chạy xe máy phóng nhanh, vượt ẫu, lạn lách, đánh võng, không đội nón bảo hiểm vẫn

còn diễn ra thường xuyên giữa ban ngày ngày, kể cả ngay giữa trung tâm thành phố Hà

Nội. Thậm chí, cả những người thực thi pháp luật như cảnh sát giao thông lại là những

người coi thường pháp luật, lợi dụng việc vi phạm pháp luật của người dân để trục lợi,

ngang nhiên “làm luật” giữa ban ngày.

Ở Singapore, bằng kỷ luật thép như là phạt tiền đối với người xả rác bừa bãi đã làm

cho hòn đảo này trở thành một đất nước có môi trường sạch nhất thế giới. Mức phạt có thể

tăng dần chứ không chỉ giữ nguyên ở 1 giá. Với người xả rác bừa bãi lần đầu tiên sẽ bị

phạt tối đa là 1.000 đôla Singapore, tái phạm thì mức phạt sẽ tăng lên 2.000 - 5.000 đôla.

Nếu một người bị kết tội xả rác ba lần, thì người đó sẽ bị buộc làm vệ sinh đường phố một

tuần với một thông báo đi kèm : “tôi là người xả rác”, một hình thức làm người phạm tội

xấu hổ để đảm bảo rằng họ sẽ không xả rác một lần nữa. Năm 2015, một người đàn ông ở

Singapore đã phải nộp phạt hơn 15.000 USD vì nhiều lần ném tàn thuốc lá ra ngoài cửa sổ

một tòa nhà cao tầng. Theo hãng tin Reuters, đây được coi là mức phạt vì tội vứt rác cao

nhất từ trước đến nay ở đảo quốc này.

Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 có quy định mức phạt từ 100.000 -

300.000 đồng đối với hành vi xả rác nơi công cộng. Tuy nhiên, mức xử phạt này vẫn ở

mức chỉ mang tính hình thức, chỉ làm qua loa, chiếu lệ.

Theo Chủ tịch HĐND TP. HCM, Nguyễn Thị Quyết Tâm cho rằng, mỗi năm thành

phố chi gần 3.000 tỷ đồng để xử lý rác, đó là chưa tính tiền từng hộ dân đóng phí thu gom

rác hàng tháng. Trong khi đó, ý thức của người dân thì quá kém, đôi khi không trả thêm

phí mà kiếm chỗ nào vắng đổ luôn. Nếu như tổ dân phố, dân quân gặp cũng chẳng làm gì.

Nếu bắt cũng không xử lý được vì không biết xử thế nào? Cùng lắm là phạt 500.000 đồng.

Ở Singapore xử lý rất nghiêm việc xả rác nơi công cộng, người Việt mình qua bên đó

cũng phải tuân thủ. Cho nên bên cạnh việc tuyên truyền nâng cao ý thức cho người dân thì

cũng phải cần xử lý nghiêm hành vi xả rác bừa bãi. Việc xử lý nghiêm sẽ khiến người dân

thay đổi ý thức.

45

Alan Phan (2010) cho rằng, đạo đức và dân trí của một xã hội là một tổng hợp đạo

đức và dân trí của từng cá nhân. Sự thay đổi tư duy và thói quen của từng mỗi người dân

thường là bước khởi đầu và là điều kiện tất yếu cho một xã hội văn minh lành mạnh và hài

hòa.

Việc bất tuân pháp luật và coi thường lợi ích xã hội thường thấy rõ tại các quốc gia có

dân trí thấp kém hơn, trong đó có Việt Nam. Cho nên Việt Nam hiện vẫn chưa thể tạo ra

được một xã hội có một chuẩn mực đạo đức tối thiểu.

Năm 1965, khi Singapore được tách ra khỏi Liên Bang Malaysia, vẫn còn là một làng

chày nghèo, có điều kiện kinh tế còn khó khăn hơn Sài Gòn lúc bấy giờ, vậy mà nay đã

vươn lên đứng vào tốp những quốc gia có nền kinh tế tiên tiến nhất trên thế giới, do nhờ

vào biết cách sử dụng con người và áp dụng kỷ luật thép. Cho nên, Việt Nam cần phải lấy

Singapore để làm bài học cho mình, phải sớm từng bước xóa bỏ dần tình trạng coi thường

và bất tuân pháp luật như hiện nay, để dần dần thay đổi ý thức của người dân.

2.2. Tác động của nợ công đối với nền kinh tế

2.2.1. Đánh giá chung về tác động của nợ công

2.2.1.1. Tác động tích cực

Thứ nhất, bù đắp các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ:

Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của NSNN được các nhà

kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu

hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách

thăng bằng được hiểu là một ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh

tế, điều này giúp Nhà nước tiết kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên

tắc này sẽ giúp hạn chế tình trạng Nhà nước lạm thu thông qua việc quyết định các khoản

thuế. Tuy nhiên, trong một số thời điểm, Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu

vượt quá khả năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải

vay vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, điều đó làm phát sinh nợ công. Như

vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà nước phải

46

có trách nhiệm hoàn trả; hay nói cách khác, vai trò quan trọng nhất của nợ công là bù đắp

các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ.

Thứ hai, tăng cường đầu tư phát triển:

Đối với các quốc gia đang phát triển, để phát triển hạ tầng, phát triển khoa học công

nghệ... thì nguồn vốn vay là rất quan trọng. Nguồn vốn này càng hấp dẫn

bởi nó còn được các nước phát triển cũng như các tổ chức tài chính quốc tế hỗ trợ với lãi

suất ưu đãi, thời gian ân hạn lâu dài. Chính vì vậy nguồn vốn vay sẽ hỗ trợ rút ngắn thời

gian tiến tới các mục tiêu phát triển giúp các quốc gia chậm phát triển cũng như các quốc

gia đang phát triển như Việt Nam nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng phấn

đấu để trở thành các quốc gia phát triển.

Thứ ba, kích thích tăng trưởng kinh tế:

Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động vay nợ. Việc

vay nợ làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút, mở rộng

các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước, tạo niềm tin và sự tin cậy của đất nước

mình trên bình diện Thế giới. Nợ công an toàn với nền kinh tế sẽ tạo nguồn vốn bổ sung

cho quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế được bền vững, qua đó điều chỉnh tốt cán

cân thanh toán quốc gia, góp phần hỗ trợ các nước vay nợ tiếp thu công nghệ tiên tiến, học

hỏi kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài.

2.2.1.2. Những tác động tiêu cực

Thứ nhất, ảnh hưởng ngược từ các chính sách khi nợ công quá lớn

Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc

bụng” để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần

thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế

toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói

kích thích kinh tế mà chính phủ đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi

tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ

tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào “khủng hoảng kép”.

Thứ hai, bị hạ bậc tín nhiệm

47

Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ

chức chuyên về việc đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người

dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các

thế lực đầu cơ quốc tế. Khi đó, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng

thời từ chối mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền

từ thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy:

tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm.

Thứ ba, tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế

Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một

khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản

lượng tiềm năng chậm lại. Vì khi nợ công cao, chính phủ buộc phải áp dụng việc thắt chặt

tài khóa, nhằm hạn chế chi tiêu, làm cho đầu tư khu vực công giảm. Bên cạnh đó, việc tăng

thuế để bù đắp nguồn thu cũng có tác dụng làm giảm tiết kiệm cũng như đầu tư khu vực tư

cũng giảm. Việc giảm đầu tư của cả hai khu vực công và tư nhân sẽ làm cho tăng trưởng

của nền kinh tế giảm xuống.

Thứ tư, gánh nặng cho toàn bộ nền kinh tế cùng với rủi ro chênh lệch tỉ giá

Nợ công ở mức cao sẽ kéo theo mức bội chi ngân sách lớn và dần dần sẽ trở thành

gánh nặng cho nền kinh tế. Trong khi trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam

trong những năm gần đây, Chính phủ đang có kế hoạch triển khai nhiều dự án hạ tầng lớn

như sân bay, đường sắt cao tốc,… nên tỷ lệ nợ nước ngoài sẽ tăng vọt. Nhìn lại quá trình

này, đã có lúc Nhà nước phải đi vay với tỷ giá chỉ 11 nghìn Việt Nam đồng quy đổi bằng 1

USD, thì ở thời điểm hiện tại tỷ giá quy đổi đã lên đến mức trên 23 nghìn Việt Nam đồng

quy đổi bằng 1 USD. Như vậy là khoản chênh lệch tỷ giá này toàn bộ nền kinh tế của

chúng ta phải hứng chịu.

2.2.2. Tác động của nợ công đến các biến số vĩ mô nền kinh tế

2.2.2.1. Tác động tới lạm phát và tỷ giá

Lạm phát và tỷ giá có mối lên hệ mật thiết với nhau. Thông thường, lạm phát tăng thì

kéo theo tỷ giá cũng tăng theo (do đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ). Nói chung lạm phát

48

hay tỷ giá tăng (hoặc giảm) đều ảnh hưởng đến nợ công. Ngược lại, nợ công cũng có

những tác động lên lạm phát và tỷ giá.

Lạm phát cao được xem là một yếu tố bất lợi cho tăng trưởng kinh tế ở các nước đang

phát triển. Tăng trưởng kinh tế cao ở mức lạm phát thấp ổn định là một trong những mục

tiêu chính của hầu hết các chính phủ trên thế giới. Tuy nhiên, gần như các nước đang phát

triển nào cũng phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Fischer et al. (2002) cho thấy thâm hụt ngân sách là một trong các yếu tố quyết định

của lạm phát cao. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm và duy trì ổn định

kinh tế xã hội, hầu hết các chính phủ ở các nước đang phát triển tăng cường đầu tư vào

giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng bằng ngân sách chính phủ. Kết quả là thâm hụt ngân sách

xảy ra bởi vì nguồn thu ngân sách từ thuế không thể bù đắp cho chi tiêu chính phủ (chi

thường xuyên và chi đầu tư). Hầu hết các chính phủ phải vay mượn nợ từ trong nước và

nước ngoài để đối phó với các thâm hụt tài khóa thay vì in tiền để tránh lạm phát cao và

bất ổn kinh tế xã hội.

Về mặt lý thuyết, Bhattarai et al. (2014) chỉ rõ ba cơ chế chính sách khác nhau qua đó

nợ công tác động lên lạm phát.

Đầu tiên là cơ chế "tiền tệ lấn át" với chính sách tiền tệ chủ động và tài khóa thụ

động, qua đó một sự phản ứng cao của lãi suất đến lạm phát gắn liền chặt chẽ với sự phản

hồi cao của thuế đến nợ công. Nợ công và lập trường chính sách tài khóa không ảnh hưởng

đến biến động lạm phát.

Cơ chế thứ hai là cơ chế "tài khóa lấn át" (còn gọi là cơ chế phi Ricardo) với chính

sách tiền tệ thụ động và tài khóa chủ động, qua đó một sự phản ứng thấp của lãi suất đối

với lạm phát có liên quan chặt chẽ với sự phản hồi thấp của thuế đối với nợ công. Trong cơ

chế này, chính sách tài khóa - mức nợ công và lập trường chính sách tài khóa - có tác động

mạnh lên biến động lạm phát. Đặc biệt mức nợ công cao làm lạm phát tăng lên.

Cơ chế cuối cùng là cơ chế với chính sách tiền tệ thụ động và tài khóa thụ động, trong

đó phản ứng thấp của lãi suất đối với lạm phát gắn chặt với phản hồi cao của thuế đối với

nợ, và đưa đến cân bằng bất định. Thế thì lập trường của cả chính sách tiền tệ lẫn chính

49

sách tài khóa có tác động lên biến động của lạm phát, mặc dù mức nợ công không ảnh

hưởng gì đến lạm phát.

Saggent & Wallace (1981) là hai nhà nghiên cứu đầu tiên đưa ra quan điểm sự gia

tăng nợ công gây ra lạm phát ở các quốc gia mắc nợ cao. Quan điểm này gần như được xác

nhận ở hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm (Kwon et al., 2009; Bildirici & Ersin, 2007;

Ahmad et al., 2012; Nastansky et al., 2014).

Khác với các nghiên cứu thực nghiệm, phân tích của Davig & Leeper (2011) cho thấy

khoản nợ tạm thời không tác động lên lạm phát nếu các hộ gia đình kỳ vọng tất cả các sự

điều chỉnh xảy ra thông qua cải cách. Tuy nhiên nếu các hộ gia đình tin là trong tương lai,

chính sách tiền tệ sẽ chuyển từ lạm phát mục tiêu sang ổn định nợ thì nợ tác động trực tiếp

lên chiều hướng lạm phát và chính sách tiền tệ có thể không còn kiểm soát được lạm phát.

Cùng lúc đó, Martin (2015) nhận thấy mặc dù việc cải cách các cơ chế hoạt động của ngân

hàng trung ương sẽ mang lại lợi ích xã hội và ban đầu làm giảm lạm phát nhưng điều này

sẽ không hạ thấp lạm phát lâu dài. Martin phát hiện các bóp méo chính sách từ cơ chế hoạt

động của ngân hàng trung ương sẽ khiến cho chính phủ trả giá bằng thâm hụt tài khoản

vãng lai cao trong tương lai. Kết quả là trong dài hạn lượng nợ công cao hơn sẽ đưa đến

lạm phát gia tăng. Ông cũng cảm thấy việc áp đặt lạm phát mục tiêu chặt chẽ sẽ làm giảm

lạm phát lâu dài và ngăn ngừa thâm hụt ngân sách đến từ các bóp mép chính trị.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tình trạng tài chính quốc gia, khả năng trả nợ quốc gia

là chỉ số rất quan trọng đảm bảo về lòng tin của cộng đồng với đồng tiền nội tệ. Thực tế

chỉ ra rằng khủng hoảng nợ công thường kéo theo hoặc đi kèm khủng hoảng tiền tệ ngân

hàng.

Trong ngắn hạn, sự gia tăng GDP sẽ kéo theo sự thay đổi của các biến số kinh tế

khác. Trước hết, khi GDP tăng, cầu tiền tệ tăng lên. Nếu cung tiền tệ không thay đổi, sự

gia tăng cầu tiền tệ sẽ khiến lãi suất tăng dẫn tới đồng nội tệ tăng giá, điều này dẫn tới nhập

siêu, khuyến khích nhập khẩu, cản trở xuất khẩu. Trong dài hạn cả lạm phát và lãi suất

danh nghĩa cũng tăng theo cùng sự gia tăng của cung tiền.

50

Hiện tượng này thương thấy ở các nước đang phát triển do nguồn thu từ thuế còn hạn

chế trong khi nhu cầu chi tiêu của chính phủ lại lớn. Hơn nữa, tại các nước đang phát triển,

thị trường tài chính còn trong giai đoạn phát triển nên các chính phủ vay nợ ít trên thị

trường và sử dụng biện pháp in tiền để tài trợ cho các khoản chi của mình. Trong lịch sử,

nhiều nước đã thực hiện biện pháp in tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách và dẫn đến lạm

phát phi mã (như Việt Nam nhưng năm cuối thập kỷ 1980), và siêu lạm phát như tại Đức

những năm 1920.

Tại các nước phát triển in tiền để tài trợ cho chi tiêu chính phủ cũng xảy ra, nhưng

thường là trong giai đoạn chiến tranh, khi nhu cầu chi tiêu và các khoản nợ của chính phủ

quá lớn, trong thời bình phần lớn các chính phủ chọn cách vạy nợ trên thị trường vốn

thông qua phát hành trái phiếu để tài trợ cho các khoản chi tiêu. Việc tăng nợ công còn tác

động tới lạm phát thông qua kênh khác. Khi các hộ gia đình nắm giữ nhiều trái phiếu chính

phủ hơn, họ sẽ cảm thấy giàu hơn dẫn tới việc chi tiêu nhiều hơn.

Số liệu thống kê tỷ lệ nợ công và chỉ số lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2006 –

2016 cho thấy sự tác động của nợ công lên lạm phát. (xem bảng 2.6) và (hình 2.4).

Bảng 2.6. So sánh mối liên hệ giữa tỷ lệ nợ công và chỉ số lạm phát qua các năm

Năm Tỷ lệ nợ công trên GDP (%) Lạm phát (%)

Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 41,50 48,80 44,50 52,90 56,80 54,90 50,80 54,50 58,00 61,00 63,70 6,60 12,6 19,89 6,52 11,75 18,58 6,81 6,04 1,84 0,60 4,74

Nguồn: Tổng cục thống kê

Hình 2.4. Biểu đồ tương quan giữa tỷ lệ nợ công / GDP và chỉ số lạm phát

51

70.00%

63.70%

61.00%

60.00%

58.00%

56.80%

54.90%

54.50%

52.90%

50.80%

50.00%

48.80%

44.50%

41.50%

40.00%

Tỷ lệ nợ công trên GDP

30.00%

Lạm phát (%)

20.00%

19.89%

18.58%

12.60%

11.75%

10.00%

6.60%

6.52%

6.81% 6.04%

4.74%

1.84% 0.60%

0.00%

Nguồn: Tổng cục thống kê

Nhìn chung khi nợ công tăng có tác động làm lạm phát tăng, cụ thể nợ công tăng từ

41,5% (năm 2006) lên 48,8% (năm 2007) thì lạm phát cũng tăng từ 6,6% (năm 2006) lên

12,6% (năm 2007); tương tự nợ công tăng từ 52,9% (năm 2009) lên 56,8% (năm 2010), thì

lạm phát cũng tăng từ 6,52% (năm 2009) lên 11,75% (năm 2010).

Tuy nhiên, không phải lúc nào nợ công tăng cũng có tác động làm cho lạm phát tăng,

mà có những thời điểm nợ công tăng nhưng lạm phát lại giảm. Bởi vì lạm phát tăng hay

giảm còn do rất nhiều nguyên nhân, mà trong đó có nguyên nhân chủ yếu như: do ảnh

hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới hoặc do việc thực thi CSTK của chính phủ hoặc

do việc thực hiện CSTT của NHNN.

Tóm lại, nợ công cao có tác động làm tăng lạm phát. Tuy nhiên, nợ công tăng có tác

động làm tăng lạm phát hay không còn lệ thuộc chủ yếu vào việc thực thi CSTT và CSTK

cũng như sự phối hợp giữa chúng với nhau. Trong ngắn hạn, nợ công có thể không làm

tăng lạm phát, nhưng trong dài hạn nợ công cao sẽ làm gia tăng lạm phát theo như cơ chế

mà Bhattarai et al. (2014) đã đề cập ở trên.

52

2.2.2.2. Tác động tới lãi suất và đầu tư

Khi một quốc gia lâm vào tình trạng vỡ nợ, không thực hiện được các nghĩa vụ nợ

(trả nợ gốc và lãi…) thì quốc gia sẽ ngay lập tức bị hạ mức tín nhiệm. Việc chính phủ huy

động thông qua trái phiếu (hay hình thức vay khác) đều trở nên khó khăn và lãi suất sẽ cao

hơn.

Khi tín nhiệm trái phiếu quốc tế của chính phủ bị sụt hạng, nhất là khi bị khủng hoảng

nợ công, chính phủ thiên về huy động vốn từ thị trường trong nước với lãi suất cao. Tình

trạng lấn át đầu tư có thể dẫn đến khu vực tư nhân thu hẹp sản xuất và dẫn đến suy giảm

kinh tế trong trung hạn. Tình trạng này được lý giải như sau: khi chính phủ tăng cường huy

động trong nước để tài trợ cho hoạt động của mình (thường là sau khủng hoảng nợ công),

chính phủ phải huy động với lãi suất cao và do đó lãi suất thị trường trong nước sẽ gia

tăng, khu vực kinh tế tư nhân sẽ thu hẹp đầu tư do không tiếp cận được vốn vì khi đó đầu

tư công đã cạnh tranh với nguồn vốn của khu vực tư nhân.

Khi nợ công, nợ nước ngoài gia tăng, nhất là khi có khủng hoảng nợ công thì chi phí

của các khoản vay của khu vực doanh nghiệp sẽ tăng lên cao. Điều này dễ hiểu vì nguyên

tắc tính lãi trong cho vay quốc tế thường được tính đến yếu tố rủi ro quốc gia. Khi một

quốc gia vỡ nợ thường dẫn đến mức bù rủi ro tăng cao, chi phí bảo hiểm khoản vay CDS

(credit default Swap rate) tăng, dẫn đến chi phí khoản vay ở khu vực doanh nhiệp gia tăng.

Việc đầu tư nhiều, kém hiệu quả, tăng vay nợ dẫn đến lấn át đầu tư và khủng hoảng

nợ công. Tuy nhiên, trên phương diện trung hạn, sau các cuộc khủng hoảng nợ công là một

chu kỳ tăng cường huy động mới mạnh mẽ hơn để trang trải cho các khoản cứu trợ từ cộng

đồng quốc tế. Và điều đó có thể dẫn đến hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân, lãi suất cao do

chính phủ tăng huy động hoặc tăng thuế để tận thu đảm bảo nguồn trả nợ.

Tỉ lệ nợ công của Việt Nam hiện đang ở mức cao và thâm hụt ngân sách kéo dài,

đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp

ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu

hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.

53

Mặt khác, Việt Nam đang có nguy cơ rơi vào “bẩy thu nhập trung bình”. Trong tương

lai, các tổ chức tài chính quốc tế sẽ không còn cấp tín dụng ưu đãi cho Việt Nam như là

một quốc gia có thu nhập thấp. Nhật Bản, một trong những nhà tài trợ tín dụng ưu đãi chủ

yếu cho Việt Nam cũng sẽ cắt giảm dần các khoản cho vay ưu đãi và chuyển dần sang cấp

tín dụng theo lãi suất thị trường, ít ưu đãi hơn.

Nếu chính phủ không thể tiếp tục vay vốn nước ngoài thì sẽ phải huy động vốn từ thị

trường trong nước với lãi suất cao. Khi chính phủ huy động với lãi suất cao thì lãi suất thị

trường trong nước sẽ gia tăng, khu vực kinh tế tư nhân sẽ thu hẹp đầu tư do không tiếp cận

được vốn vì khi đó đầu tư công đã cạnh tranh với nguồn vốn của khu vực tư nhân. Tình

trạng lấn át đầu tư có thể dẫn đến khu vực tư nhân thu hẹp sản xuất và dẫn đến suy giảm

kinh tế trong trung hạn.

2.2.2.3. Tác động tới tăng trưởng kinh tế

Cuộc khủng hoảng ở các nước châu Âu năm 2010 khiến cho vấn đề nợ công ở các

quốc gia trên thế giới trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Hầu hết các nghiên cứu tập

trung vào tác động gây bởi nợ ngày càng cao của các quốc gia lên tăng trưởng kinh tế. Chỉ

một số rất ít các nghiên cứu cho rằng nợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi gần một

nữa kết luận nợ tăng lên làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và hơn một nữa còn lại nói

rằng quy luật này đúng chỉ khi dựa trên một tỷ lệ nhất định của nợ theo GDP, nghĩa là tác

động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế có tính phi tuyến.

Hầu hết các nghiên cứu liên quan đến tác động dương của nợ lên tăng trưởng kinh tế

được thực hiện gần đây. Khởi đầu là nghiên cứu của Moore & Thomas (2010) cho nhóm

các quốc gia đang phát triển. Moore và Thomas nhận định lượng vốn có từ vay nợ có tác

động dương lên tăng trưởng nếu nó được dùng để mở rộng năng suất lao động của quốc

gia. Khác với nghiên cứu cho các nhóm quốc gia, Egbetunde (2012), Al-Zeaud (2014) và

Spilioti & Vamvoukas (2015) nghiên cứu cho từng quốc gia riêng lẽ. Egbetunde (2012)

nhận định nợ sẽ có tác động dương lên tăng trưởng kinh tế nếu chính phủ minh bạch với

lượng tiền vay và sử dụng nó cho sự phát triển kinh tế thay vì qua các kênh làm lợi cho cá

nhân họ.

54

Trái lại, phần lớn các nghiên cứu khác cho rằng nợ công có tác động âm lên tăng

trưởng kinh tế. Schclarek (2004) phát hiện nợ công có tác động âm lên tăng trưởng kinh tế

cho nhóm 59 nước đang phát triển trong khi không tìm thấy tác động nào của nợ công lên

tăng trưởng cho 24 quốc gia công nghiệp trong giai đoạn 1970 - 2002. Tương tự, Calderón

& Fuentes (2013) xác định tác động âm ý nghĩa của nợ công lên tăng trưởng cho 136 quốc

gia trong giai đoạn 1970 - 2010. Tuy nhiên, Calderón và Fuentes nhấn mạnh các thể chế

tốt, chính sách trong nước có chất lượng tốt và các chính sách hướng ra bên ngoài có thể

làm giảm nhẹ tác động âm này.

Mới đây, Eberhardt & Presbitero (2015) sử dụng các ước lượng tuyến tính và phi

tuyến với các kỷ thuật hồi qui mới nhất để nghiên cứu tác động này ở 118 quốc gia từ năm

1961 - 2012. Eberhardt và Presbitero cũng phát hiện tác động âm của nợ công lên tăng

trưởng kinh tế trong dài hạn ở tất cả các quốc gia.

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển có điều kiện kinh tế tương tự nhiều quốc

gia trong khu vực và trên thế giới cũng không nằm ngoài những kết quả nghiên cứu trên.

Cho nên với thực trạng nợ công Việt Nam hiện nay, tỷ lệ nợ công đã lên đến 63,7% (năm

2016) thì tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế chắc chắn là không còn mang lại

hiệu quả cao như những giai đoạn trước đó. Vậy câu hỏi đặt ra là, ngưỡng giới hạn nào là

an toàn dành cho nợ công của Việt Nam? Có lẽ đây là một câu hỏi khó.

Phần lớn các nghiên cứu về nợ công và tăng trưởng phát hiện tác động phi tuyến của

nợ công lên tăng trưởng kinh tế. Theo đó, các nghiên cứu thực nghiệm xác định được giá

trị ngưỡng của nợ công mà dưới giá trị này nợ công có tác động dương và trên nó thì nợ

công có tác động âm ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt giá trị ngưỡng này tùy thuộc

nhiều vào vào mẫu nghiên cứu, thời gian nghiên cứu và phương pháp ước lượng.

Giá trị ngưỡng nợ công này giữa các nhóm nước có sự khác biệt nhau. Thông thường

giá trị ngưỡng nợ công của nhóm các nước phát triển và công nghiệp cao hơn so với nhóm

các nước đang phát triển.

Đối với các quốc gia đang phát triển, giá trị ngưỡng nợ công thường dao động trong

khoảng 30% - 60% GDP. Pattillo et al. (2011) phát hiện ngưỡng nợ công theo GDP ở

55

khoảng 35 - 40% cho 93 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1969 - 1989 với các

phương pháp ước lượng OLS đơn giản, biến công cụ, tác động cố định và GMM hệ thống.

Pattillo và các cộng sự cho rằng, nợ cao làm giảm tăng trưởng kinh tế chủ yếu bới việc

giảm hiệu suất đầu tư. Tương tự, Craigwell et al. (2012) cũng tìm thấy gia trị ngưỡng của

nợ công theo GDP nhưng cao hơn (55-56%) cho 12 quốc gia vùng Caribbe từ năm 1980

đến năm 2010 với mô hình hồi qui ngưỡng (fixed effects). Craigwell và các cộng sự nhận

thấy ở mức thấp hơn 30% GDP, việc gia tăng nợ gắn với sự phát triển kinh tế nhanh hơn.

Tuy nhiên, khi nợ tăng trên 30%, tác động lên tăng trưởng kinh tế giảm dần nhanh chóng

và ở mức ngưỡng 55-56%, tác động này dịch chuyển từ dương sang âm. Gần đây, Wrigh

& Gerenade (2014) lại tìm thấy giá trị ngưỡng của nợ công cho 13 quốc gia Caribbe là

61% bằng phương pháp ước lượng DOLS dữ liệu bảng. Ngoài ra, cũng còn có rất nhiều

nghiên cứu cũng cho những kết quả tương tự, có mức dao động từ 30 - 61%.

Theo số liệu thống kê giai đoạn 2006 - 2016, cho thấy nợ công của Việt Nam tăng

nhanh; đồng thời tăng trưởng kinh tế cũng có xu hướng giảm chủ yếu do việc giảm hiệu

suất đầu tư, thể hiện qua hệ số ICOR vẫn còn cao (xem hình 2.7).

Bảng 2.7. Tương quan giữa tỷ lệ nợ công với hệ số ICOR và tăng trưởng kinh tế

Năm Tỷ lệ nợ công / GDP Hệ số ICOR

Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính

Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 41.5 48.8 44.5 52.9 56.8 54.9 50.8 54.50 58.0 61.0 63.7 4.57 5.36 6.75 7.35 6.38 5.72 6.76 6.67 6.29 5.80 6.41 Tăng trưởng kinh tế (%) 8.23 8.46 5.66 5.40 6.40 6.20 5.30 5.40 6.00 6.70 6.21

Theo bảng số liệu trên ta thấy, nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2016 có xu

hướng tăng nhanh; trong khi đó, tăng trưởng kinh tế cũng có xu hướng giảm xuống hoặc

56

tăng chậm lại. Để thấy rõ hơn về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế của Việt

Nam trong những năm qua, có thể xem biểu đồ (hình 2.5).

70.00%

60.00%

50.00%

40.00%

Tỷ lệ nợ công / GDP)

30.00%

Tăng trưởng kinh tế (%)

20.00%

10.00%

0.00%

Hình 2.5. Biểu đồ tương quan giữa tỷ lệ nợ công/GDP và tăng trưởng kinh tế

Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính

Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy, đường nợ công có xu hướng tăng lên, trong khi đó tăng

trưởng kinh tế lại có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, giai đoạn 2006 – 2016, nợ công

của Việt Nam đã ở mức 41.5% GDP (năm 2006) và không ngừng tăng lên đến 63,7% (năm

2016). Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế lại có xu hướng tiếp tục đi xuống và tăng chậm

lại. Như vậy, theo các kết quả nghiên cứu về tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế

như đã đề cập ở trên đối với những quốc gia đang phát triển cũng hoàn toàn phù hợp với

nền kinh tế của Việt Nam. Có nghĩa là nợ công có tác động âm lên tăng trưởng kinh tế.

Ở Việt Nam hiện nay, chưa có kết quả nghiên cứu nào cho thấy ngưỡng giới hạn nào

là an toàn dành cho nợ công của Việt Nam. Tuy nhiên, theo Quyết định số 958/QĐ-TTg

ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài quốc

giai giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2030, thì chỉ tiêu an toàn về nợ công của Việt

Nam đến năm 2020 được đặt ra là không quá 65% GDP.

Qua số liệu giai đoạn từ năm 2006 – 2016 và nhìn vào biểu đồ ở trên, cũng có thể

đánh giá được việc tăng nợ công của Việt Nam đang trong giai đoạn hiện nay không còn

57

mang lại hiệu quả đối với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nữa. Vì nợ công càng tăng thì

tăng trưởng kinh tế lại có xu hướng giảm xuống hoặc tăng chậm lại càng thấy rõ. Điều đó

cũng có thể nhìn thấy rõ qua hệ số ICOR vẫn còn đang ở mức cao, chưa được cải thiện.

Cho nên hiện nay Việt Nam được khuyến cáo sẽ kiềm chế và kiểm soát nợ công theo

hướng giảm dần và luôn phải đảm bảo là nợ công không được vượt quá con số 65% GDP

mà chính phủ đã đặt ra. Tuy nhiên, đây cũng không phải là một con số cứng nhắc, vì khi

nền kinh tế đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Có nghĩa là, khi Việt Nam đã hoàn

thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã trở thành một quốc gia phát

triển thì tỷ lệ trên cũng không còn nhiều ý nghĩa.

Kết luận chương 2

Trong các nguồn vốn hình thành nên nợ công, ODA là nguồn lực quan trọng nhất. Có

thể nói, đó là “cú huých từ bên ngoài” giúp cho Việt Nam thay đổi diện mạo từ một quốc

gia kém phát triển đã vươn thành một quốc gia có “thu nhập trung bình thấp”.

Mặc dù nợ công có một vai trò tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt

Nam. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao thể hiện

trên hai khía cạnh sau đây: (1) Hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số ICOR cao. (2)

Hiệu quả đầu tư công thấp còn do tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn; tình trạng dự án,

công trình thi công chậm tiến độ, dỡ dang, kéo dài; việc đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát

quá nhiều.

Ngoài ra, còn có những tồn tại khác có liên quan đến vấn đề nợ chủ yếu như: bộ máy

quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế; hiệu quả hoạt động đối với khu vực kinh tế nhà nước

còn thấp; tình trạng tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng; việc thực thi pháp luật nhà

nước chưa nghiêm…

Nợ công có những tác động tích cực, nhưng đồng thời có những mặt tiêu cực lên nền

kinh tế. Những tác động của nợ công đối với nền kinh tế chủ yếu qua các biến vĩ mô nền

của kinh tế như: tăng trưởng kinh tế; lạm phát và tỷ giá; lãi suất và đầu tư. Trong đó, tác

động của nợ lên tăng trưởng kinh tế là quan trọng nhất.

58

Hầu hết các nghiên cứu gần đây đều tập trung vào tác động gây bởi nợ ngày càng cao

của các quốc gia lên tăng trưởng kinh tế. Chỉ một số rất ít các nghiên cứu cho rằng nợ thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi gần một nữa kết luận nợ tăng lên làm giảm tốc độ tăng

trưởng kinh tế và hơn một nữa còn lại nói rằng quy luật này đúng chỉ khi dựa trên một tỷ lệ

nhất định (ngưỡng nợ công) của nợ theo GDP, nghĩa là tác động của nợ công lên tăng

trưởng kinh tế có tính phi tuyến.

Giá trị ngưỡng nợ công này giữa các nhóm nước có sự khác biệt nhau. Thông thường

giá trị ngưỡng nợ công của nhóm các nước phát triển và công nghiệp cao hơn so với nhóm

các nước đang phát triển. Đối với các quốc gia đang phát triển, giá trị ngưỡng nợ công

thường dao động trong khoảng 30% - 60% GDP.

Tuy nhiên, quy mô nợ công của Việt Nam ngày càng lớn và tỷ lệ nợ công trên GDP

cũng không ngừng tăng nhanh trong những năm qua, và đang tiến gần tới sát ngưỡng giới

hạn an toàn cho phép (65%). Có nghĩa là ở mức nợ công này, thì việc gia tăng nợ công

không còn mang ý nghĩa tạo ra tăng trưởng kinh tế nữa. Mà trái lại, nó sẽ làm tăng nguy cơ

vỡ nợ và gây ra những bất ổn xã hội.

Cho nên chính phủ phải có biện pháp hữu hiệu nhằm kiềm chế và kiểm soát chặt chẽ

nợ công nhằm đảm bảo là nợ công luôn được nằm trong giới hạn an toàn đã đặt ra.

59

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ ỨNG PHÓ VỚI

VẤN ĐỀ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM

3.1. Tăng cường việc sử dụng hiệu quả và quản lý chăt chẽ nợ công

3.1.1. Sử dụng hiệu quả vốn vay đầu tư công

So với tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới, hệ số hiệu quả đầu tư trên đồng vốn

(ICOR) ở các nước đang phát triển đạt mức 3.0, thì Việt Nam có ICOR khá cao, giai đoạn

2007-2016 là trên 5.

Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư công nhằm đảm bảo phát triển kinh tế - xã

hội bền vững, trong những năm tới cần thực hiện tái cơ cấu kinh tế sâu rộng. Đối với chính

sách tăng trưởng, tài chính công và đầu tư công, cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý công, tập trung thống nhất về phạm vi

đầu tư. Trên cơ sở đó, triển khai kế hoạch đầu tư công trung hạn. Xây dựng và thực hiện hệ

thống thông tin phục vụ công tác chuẩn bị lập dự án ngân sách, có quy trình quản lý, cập

nhật kịp thời tình hình thu chi ngân sách để cho các cấp chính quyền thực hiện và tự chịu

trách nhiệm. Tập trung đầu tư công vào các công trình trọng điểm, có tính đột phá và lan

tỏa nhằm nhanh chóng đưa vào sử dụng.

Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và phân bổ vốn đầu tư theo các

nguyên tắc và tiêu chí đã đưa ra, đảm bảo tính công khai, minh bạch. Đối với các công

trình xây dựng cơ bản thì cần kiên quyết thu hồi các khoản tạm ứng và xử lý dứt điểm nợ

tồn đọng. Đặc biệt, tăng cường kỷ luật tài chính trong quản lý vốn đầu tư công, ngăn chặn

kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.

Thứ ba, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư toàn xã hội, đầu tư nước ngoài, nâng cao hiệu

quả kinh tế xã hội. Giảm dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước (<40%) và tạo điều

kiện thuận lợi để thu hút đầu tư công của khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu

tư nước ngoài để tăng dần tỷ trọng vốn ở các khu vực này.

Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công cần có sự đảm bảo đồng bộ trong đột phá thể

chế, thúc đẩy cải cách thể chế từ vĩ mô đến vi mô, tạo động lực về chất cho sự phát triển

60

của đất nước. Có như vậy việc sử dụng hiệu quả và khơi thông dòng chảy vốn đầu tư công

mới triệt để và bền vững trong nền kinh tế xã hội Việt Nam.

3.1.2. Quản lý chặt chẽ về nợ công

Cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ luật liên quan như Luật Đầu tư công,

Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Chính

phủ, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.

Cắt giảm đến mức tối đa các khoản nợ bảo lãnh vay đối với khoản vay của DNNN, để

cho các doanh nghiệp này tự chủ trong việc tự vay, tự trả. Đây là khoản dễ thực hiện nhất,

như vậy sẽ kéo giảm được nợ công xuống. Vì khoản nợ của DN nhà nước do Chính phủ

bảo lãnh hiện chiếm khoảng 18% tổng nợ công của cả nước.

Đối với nợ chính quyền địa phương, chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng nợ công cả nước,

nhưng chúng ta cũng cẩn phải quản lý chặt chẽ, để tránh tình trạng các địa phương dù

trong hoàn cảnh ngân sách eo hẹp vẫn vay nợ để thực hiện những dự án chỉ có tính hình

thức, hoặc chỉ phục vụ địa phương nhưng nợ lại do trung ương trả.

Phối hợp quản lý nợ công giữa các cơ quan chức năng, đặc biệt là sự phối hợp giữa

Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan phân bổ

nguồn vốn. Việc sử dụng nguồn vốn từ nợ công như thế nào, hiệu quả ra sao, thì kết quả

cuối cùng phải tạo ra nguồn thu ngân sách. Chính khoản thu này giúp Bộ Tài chính sử

dụng để thanh toán các khoản nợ vay.

Như vậy, phải tạo ra được một sự liên kết trong quá trình phân bổ, sử dụng vốn vào

những dự án phát huy được hiệu quả. Việc sử dụng hiệu quả vốn từ nợ công phải được đặt

lên hàng đầu khi xem xét phân bổ vốn đầu tư.

Tăng cường việc kiểm soát và kiềm chế nợ công nhằm đảm bảo là nợ công luôn được

nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Câu hỏi đặt ra là, giới hạn nào là an toàn dành cho nợ

công của Việt Nam? Nợ công của chúng ta ở mức an toàn hay báo động? Rất khó để có

một câu trả lời chính xác. Bởi vì, hiện trên thế giới chưa có tiêu chuẩn chung nào về

ngưỡng an toàn đối với nợ công. Về nguyên tắc, việc xác định chỉ tiêu an toàn nợ công

61

thường dựa trên cơ sở như: đánh giá thực trạng nợ; tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài

khoá, chính sách tiền tệ; nhu cầu về vốn đầu tư phát triển; hệ số tín nhiệm của quốc gia …

Chẵng hạn đối với nền kinh tế Nhật Bản, nợ công đã tăng từ mức 218,8% năm 2013

lên 227,2% năm 2014. Tăng trưởng kinh tế chậm, nợ công tăng cao, đồng Yên tiếp tục

giảm giá, áp lực thâm hụt thương mại, đó là các vấn đề mà nền kinh tế Nhật Bản đang phải

đối mặt. Mặc dù quy mô và tỷ lệ nợ công/GDP ở mức cao, nhưng Nhật Bản vẫn là cường

quốc kinh tế đứng thứ ba thế giới và là một trong những nước chủ nợ lớn nhất thế giới.

Cho nên nợ công của Nhật Bản dù cao nhưng vẫn an toàn. Bởi vì phần lớn nợ công của

Nhật Bản là nợ nội địa với lãi suất thấp và thời gian dài. Khi đáo hạn món nợ cũ, Chính

phủ có thể dễ dàng vay nợ mới trong nước để trả nợ cũ mà không bị những tổ chức tài

chính quốc tế can thiệp.

Khu vực đồng tiền chung Châu Âu thì có hạn mức trần nợ công áp dụng chung cho

tất cả các nước trong khối là dưới 60% GDP; Thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP.

Theo Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến

lược nợ công và nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2030, chỉ

tiêu an toàn về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam như sau: Nợ công đến năm 2020

không quá 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài

của quốc gia không quá 50% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp Chính phủ (không kể cho vay

lại) so với tổng thu NSNN hàng năm dưới 25% giá trị XK hàng hóa và dịch vụ; tỷ lệ dự trữ

ngoại hối nhà nước so với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm trên 200%.

Theo khuyến nghị của IMF đối với các nước như Việt Nam: nợ nước ngoài quốc gia

nên ở mức 50% GDP, dựa trên cơ sở IMF xếp chúng ta vào các nước có khuôn khổ chính

sách tương đối tốt, môi trường chính trị ổn định.

3.2. Giảm thâm hụt ngân sách

3.2.1. Cắt giảm chi tiêu công

Mục tiêu của Chính phủ là tiếp tục đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống

lãng phí trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lực

62

và góp phần tích cực bổ sung nguồn lực thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh

tế, ổn định đời sống, tiêu dùng của nhân dân, bảo đảm an sinh, xã hội.

Quản lý chặt chẽ, tiết kiệm chi tiêu ngân sách nhà nước để giảm chi thường xuyên,

góp phần cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước. Bố trí lại các Bộ, Ngành, cơ quan, đơn vị triệt

để tiết kiệm. Trong đó, tiết kiệm 10% chi thường xuyên (không kể tiền lương và các khoản

có tính chất lương) để tạo nguồn cải cách tiền lương. Tiết kiệm tối thiểu các khoản kinh

phí chi hội nghị, hội thảo, tọa đàm, họp, chi tiếp khách, khánh tiết, tổ chức lễ hội, lễ kỷ

niệm, sử dụng xăng xe, điện, nước, văn phòng phẩm, sách, báo, tạp chí…

Bên cạnh đó, rà soát các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền quyết định

để ưu tiên bố trí nguồn lực đối với các chương trình, dự án cần thiết, hiệu quả; cắt giảm các

chương trình, dự án có nội dung trùng lặp, kém hiệu quả, những dự án hàng nghìn tỷ

nhưng không mang tính thiết thực như đã đề cập ở phần thực trạng về việc sử dụng nợ

công.

Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng

tăng cường phân cấp và tăng cường tự chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực tài

chính trên cơ sở có tính đến đặc điểm của từng loại hình dịch vụ, khả năng và nhu cầu thị

trường, trình độ quản lý.

Thực hiện tiết kiệm từ chủ trương đầu tư; tiến hành rà soát cắt giảm 100% các dự án

không nằm trong quy hoạch, kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt; thu hồi đối với

các dự án đã được cấp phép đầu tư nhưng quá thời hạn quy định không triển khai thực hiện

theo cam kết hoặc theo giấy phép; cắt giảm, tạm dừng các hạng mục công trình chưa thực

sự cần thiết hoặc hiệu quả đầu tư thấp; không để phát sinh thêm và xử lý dứt điểm nợ đọng

xây dựng cơ bản.

Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thông qua đổi mới cơ bản cơ chế phân bổ và

quản lý sử dụng vốn đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công. Phấn đấu đảm bảo 100%

việc phân bổ vốn đầu tư công tuân thủ nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư

công do cấp có thẩm quyền quyết định. Trong đó, tập trung bố trí vốn đầu tư công để hoàn

thành và đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình, dự án quan trọng quốc gia, chương

63

trình, dự án trọng điểm có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của

các cấp, các ngành; hoàn trả các khoản vốn ngân sách nhà nước ứng trước kế hoạch; các

khoản vốn vay ngân sách địa phương đúng nguồn và đúng mục tiêu.

Chống lãng phí, nâng cao chất lượng công tác khảo sát, thiết kế, giải pháp thi công,

thẩm định dự án để phấn đấu tiết kiệm từ 10% đến 15% tổng mức đầu tư; cắt giảm 100%

việc tổ chức lễ động thổ, lễ khởi công, khánh thành các công trình xây dựng cơ bản, trừ

các công trình quan trọng quốc gia; công trình có giá trị lớn, có ý nghĩa quan trọng về kinh

tế, chính trị, văn hóa - xã hội của địa phương.

3.2.2. Khơi tăng các nguồn thu

- Cần phải tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên dùng cho thuê, nhượng bán.

Không làm cạn kiệt và phá hủy tài sản, tài nguyên vì lợi ích trước mắt.

- Chính sách thuế phải vừa huy động được nguồn thu vừa khuyến khích tích tụ vốn

cho doanh nghiệp và dân cư.

- Dùng ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan trọng

trong những lĩnh vực then chốt nhằm tạo ra nguồn tài chính mới.

- Kiểm soát chặt chẽ nguồn thu ngân sách, thường xuyên kiểm tra, rà soát để nắm bắt

kịp thời số lượng, tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, hộ kinh doanh trên địa bàn để

đưa vào diện quản lý.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu ngân sách, chú trọng việc

thanh tra đối với các chuyên đề như: chuyển giá, thương mại điện tử, kinh doanh qua

mạng, hoàn thuế, hộ kinh doanh cá thể; thanh tra đối với các doanh nghiệp lớn, doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Đẩy mạnh áp dụng các biện pháp thu nợ và cưỡng chế nợ thuế nhằm hạn chế nợ

mới phát sinh, động viên kịp thời nguồn lực cho NSNN.

- Nhà nước cần thực hiện chính sách tiết kiệm, tinh giản bộ máy công quyền, cải cách

hành chính để tích lũy vốn chi cho đầu tư.

3.3. Nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước

3.3.1. Tinh giản và làm trong sạch bộ máy nhà nước

64

Hiện nay bộ máy nhà nước còn quá cồng kềnh đang thực sự là một gánh nặng cho

NHSNN. Nguồn chi cho bộ máy này rất lớn, nó cũng chính là một trong những nguyên

nhân làm gia tăng bội chi ngân sách, góp phần làm tăng nợ công. Cho nên việc tinh giản bộ

máy nhà nước là một yêu cầu cấp bách mang tính tất yếu, theo xu hướng hội nhập quốc tế.

Bộ máy nhà nước quá cồng kềnh vừa thừa lại vừa thiếu, đây mới thực sự là một

nghịch lý. Thừa ở đây là thừa cán bộ, công chức “không có cũng được”, vì hiệu quả làm

việc không cao, không quan trọng, không cần thiết, con số này thực sự là rất lớn. Theo như

lời Thủ tướng Chính phủ đương nhiệm nói, “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công

chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang

lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Còn thiếu là thiếu cán bộ có trình độ, có năng lực,

có tầm nhìn, những người này thường làm việc ở các Công ty nước ngoài, các DNTN hoặc

đã đi nước ngoài làm việc và sinh sống.

Để tinh gọn bộ máy nhà nước, Chính phủ cần phải đưa ứng dụng công nghệ thông tin

vào việc tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước, thiết kế một hệ thống kết hợp để cung cấp

dịch vụ tốt hơn cho người dân. Các cơ quan chính phủ ở mọi cấp phải thực hiện việc giảm

bớt thông tin giấy tờ và sắp xếp hợp lý các quy trình thông tin thông qua các hệ thống kỷ

thuật số. Các cơ quan chính phủ phải nhận thức được rằng, họ là người hỗ trợ cho người

dân, không phải là một cơ quan để đặt ra luật lệ cho người dân. Chính phủ phải giúp cho

người dân có điều kiện để tự hành động mà không cần một hệ thống quan liêu.

Các quy trình kỷ thuật số sẽ đem lại cho chính phủ cơ hội tổ chức lại các bộ phận cấu

thành thay vì các thủ tục quan liêu bàn giấy. Chính phủ có thể thực hiện các bước sau để

đưa đất nước bước vào kỷ nguyên kỷ thuật số. Thứ nhất, đưa các nhân viên chính phủ vào

hệ thống e-mail và từng bước xóa bỏ tất cả công việc lưu trử hồ sơ bằng giấy tờ. Bảo đảm

rằng mọi thông tin trong văn phòng chính phủ đều được lưu trữ và chia sẽ bằng kỷ thuật

số. Thứ hai, đưa các dịch vụ của chính phủ lên mạng cùng với một giao diện thiết kế cho

người dùng. Công bố mọi thông tin trên internet và chỉ in ấn các văn bản giấy tờ trong

những trường hợp thực sự cần thiết.

65

Việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức vận hành chính phủ vừa tinh

giản được bộ máy, vừa nâng cao được hiệu quả hoạt động, giúp cải thiện được các dịch vụ

chính phủ để phục vụ tốt cho người dân, xóa bỏ việc gây phiền hà, sách nhiễu người dân.

Đồng thời cũng tiết kiệm được một khoản chi tiêu rất lớn cho bộ máy quá cồng kềnh như

hiện nay.

Hiện nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỷ thuật, việc chế tạo ra

các loại máy vi tính, laptop, máy tính bảng, đặc biệt là điện thoại thông minh với giá rẽ có

khả năng truy cập internet dễ dàng, nhanh chóng. Đây chính là một điều kiện rất thuận lợi

để xây dựng một chính phủ điện tử hiệu quả trong tương lai. Người dân có thể truy cập vào

các trang thông tin của chính phủ để tìm kiếm và xem các thông tin về pháp luật một cách

nhanh chóng, và có thể kết nối vào trang web của chính quyền địa phương để thực hiện các

thủ tục hành chính tại nhà mà không cần phải chen chút, chờ đợi tại các cơ quan công

quyền. Vừa tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại cho người dân, cũng như tiết kiệm thời gian

và chi phí cho bộ máy nhà nước một khoản rất lớn.

3.3.2. Lựa chọn nhân tài cho chính phủ

Nếu bộ máy nhà nước không có người giỏi vào làm việc thì bộ máy sẽ không hoạt

động hiệu quả, nếu bộ máy cồng kềnh, tiêu tốn quá nhiều tiền thuế của dân gây lãng phí,

gây phiền hà, sẽ gây ra sự bất bình trong dân chúng, và người dân sẽ mất lòng tin. Chính

sự nhũng nhiễu, tham nhũng, lãng phí là một trong những nguyên nhân gây ra sự bất bình

đẳng trong xã hội. Nó cũng chính là nguyên nhân tạo ra những điểm nóng và gây ra những

bất ổn xã hội.

Lý Quang Diệu (2006) cho rằng, nền tảng vững chắc để Singapore phát triển thần tốc

và cải cách, chính là làm cách nào để có được một chính quyền với trình độ cao. Có nghĩa

là, chính phủ cần phải có biện pháp thu hút và giữ nhân tài. Nhân tài không chỉ là các học

giả, còn có các ngôi sao bóng đá, ngôi sao quần vợt, ca sĩ, nghệ sĩ nhạc rock và những

người khác…Có bốn kiểu nhân tài: nhà phát minh, doanh nhân, thầy hướng dẫn và thầy

hướng dẫn cấp cao. Sở dĩ nước Mỹ phát triển hùng mạnh như vậy, chính là do họ có đủ cả

bốn kiểu nhân tài này, họ có nền văn minh thu hút nhân tài.

66

Cho nên để xây dựng một xã hội phát triển, Việt Nam cũng cần một chính phủ rất

mạnh, với những lãnh đạo có năng lực nhất, mạnh mẽ nhất và tận tâm nhất. Để bộ máy nhà

nước hoạt động hiệu quả thì phải thu hút được những người thực sự có tài, có đức vào làm

việc trong bộ máy nhà nước, phải từng bước làm trong sạch bộ máy nhà nước.

Mặc dù có những khó khăn nhất định, nhưng chúng ta cũng có một điều rất thuận lợi.

Đó là, chính phủ có thể học hỏi nhiều kinh nghiệm từ những quốc gia tiên tiến ở rất gần

chúng ta như Nhật Bản, Singapore là một điển hình thành công mà chúng ta có thể học tập.

3.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước

Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính

khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất

hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh

còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực

hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu

quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm

thi hành pháp luật còn thiếu và yếu.

Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước, việc ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật từ nay đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là một đòi hỏi cấp bách.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai,

minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và

vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và

hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển

kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con

người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại vào năm 2020.

3.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

67

Thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm và là thành quả phát triển của nền văn minh

nhân loại. Không một quốc gia nào muốn phát triển, giàu mạnh mà không qua sự phát triển

của thể chế kinh tế thị trường. Cho nên việc đổi mới tư duy và nhận thức về mô hình kinh

tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam ở Đại hội VI (năm 1986) là bước ngoặt mang tính lịch sử.

Việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN là một tiến vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam.

Tuy nhiên, vấn đề nhận thức về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự rõ ràng, chưa đầy đủ. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Mặt khác,

công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này cũng chưa theo kịp thực tiễn. Cho nên

việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn

nhiều hạn chế.

Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề

lớn vừa mang tính cấp bách và cũng mang tính lâu dài. Ở đây chỉ đề cập đến một số vấn đề

có liên quan đến việc “ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần

kinh tế, các loại hình doanh nghiệp”

Về việc hoàn thiện thể chế về sở hữu

- Thể chế hoá đầy đủ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được

quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách

nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch

thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản.

- Hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu

quả đất đai, tài nguyên, khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí

trong lĩnh vực này. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám

sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh

nghiệp nhà nước.

68

- Hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên

thiên nhiên. Nhà nước giao quyền khai thác tài nguyên cho các doanh nghiệp theo cơ chế

thị trường.

- Hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản

công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện chính sách xã hội.

Đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.

- Hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm

tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả.

- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự theo hướng thống

nhất, đồng bộ. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các thiết chế giải quyết tranh chấp dân

sự với các quy trình, thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch. Hoàn thiện các quy định về

đăng ký và giao dịch tài sản; phát triển hệ thống đăng ký minh bạch, liên thông, dễ tiếp

cận, nhất là bất động sản.

Vấn đề hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh

nghiệp

- Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không

phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp

luật. Tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt

Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

- Hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, nhất là về đầu tư công, đấu thầu. Bảo

đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể kinh tế đã được Hiến

pháp quy định; xoá bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đẩy mạnh cải

cách thủ tục hành chính. Hoàn thiện các quy định liên quan để khuyến khích và tạo điều

kiện thuận lợi nhất cho hoạt động khởi nghiệp.

69

- Hoàn thiện thể chế về cạnh tranh; tăng cường tính minh bạch về độc quyền nhà

nước. Xoá bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp của Nhà nước đối với

doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp

nhà nước, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; thực sự hoạt động

theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong nông

nghiệp, lâm nghiệp nhằm phát huy hiệu quả sử dụng đất, rừng và các tài sản nhà nước đã

đầu tư; bảo đảm lợi ích của Nhà nước và các bên đang nhận khoán đất đai, vườn cây lâu

năm. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà

nước, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước.

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực sự

trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành và phát triển các

tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn

thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài; chủ động lựa chọn các

dự án đầu tư nước ngoài có chuyển giao công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, có cơ sở

nghiên cứu và phát triển công nghệ tại Việt Nam, có cam kết liên kết, hỗ trợ doanh nghiệp

trong nước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế

và các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế.

3.6. Hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về quản lý nợ công

3.6.1. Thực thi chính sách tài khóa thích hợp

Chính sách tài khóa, là các biện pháp can thiệp của chính phủ đến hệ thống thuế khóa

và chi tiêu của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô như tăng

trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm hoặc ổn định giá cả và lạm phát. Như vậy, việc thực

thi chính sách tài khóa sẽ do chính phủ thực hiện liên quan đến những thay đổi trong các

chính sách thuế hoặc/và chi tiêu chính phủ.

70

Để thực thi chính sách tài khóa thì chính phủ sẽ cần phải sử dụng các công cụ của nó.

Các công cụ của chính sách tài khóa bao gồm các công cụ về thuế, công cụ chi tiêu, và

công cụ tài trợ cho thâm hụt ngân sách.

Ở đây, chúng ta chỉ cần hiểu nôm na là chính sách thuế (T) nói chung (không chỉ có

thuế mà còn các khoản thu ngân sách ngoài thuế khác và không tính nợ vay. Ngoài ra,

chúng ta xem trợ cấp như một loại thuế âm) và chi tiêu chính phủ (G) (chi tiêu mua sắm

hàng hóa, dịch vụ của chính phủ). Ngoài công cụ thuế và chi tiêu, các công cụ tài trợ cho

thâm hụt ngân sách hay tài trợ nợ của chính phủ (tạm gọi là nợ công) cũng được xem là

một phần của chính sách tài khóa.

Như vậy, chúng ta thấy có ba trạng thái của cán cân ngân sách chính phủ (T – G):

 Nếu T > G => chúng ta gọi là thặng dư ngân sách

 Nếu T < G => chúng ta gọi là thâm hụt ngân sách

 Nếu T = G => chúng ta gọi là cân bằng ngân sách

Trong trường hợp ngân sách thặng dư (T > G) chúng ta thấy chính phủ khi đó có

khoản tiết kiệm dương. Khoản tiết kiệm này có thể được dùng để trả nợ công (do thâm hụt

tích lũy trong những năm tài khóa trước) hoặc cho vay nền kinh tế trong nước hay nước

ngoài. Ngược lại, nếu ngân sách thâm hụt thì chính phủ sẽ phải đi vay để tài trợ cho phần

thâm hụt đó.

Có một số cách để chính sách tài trợ thâm hụt ngân sách, chẳng hạn như phát hành tín

phiếu/trái phiếu chính phủ (nghĩa là đi vay trong nước hoặc nước ngoài), bán bớt các tài

sản quốc gia (chẳng hạn bán tài nguyên hay bán cổ phần trong các doanh nghiệp nhà nước)

hoặc thậm chí có thể in tiền. Tất nhiên chính phủ sẽ phải cân nhắc các lựa chọn này vì mỗi

một lựa chọn như vậy đều có lợi ích và chi phí kinh tế đi kèm. Chẳng hạn như vay nợ sẽ

phải trả lãi suất, thậm chí vay nước ngoài (vay ngoại tệ) sẽ còn chịu rủi ro biến động tỷ giá

hối đoái. Tương tự, nếu bán tài sản quốc gia có thể làm suy giảm nguồn lực của thế hệ

tương lai, hay in tiền có thể gây áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô...).

Ngoài vấn đề lựa chọn kênh tài trợ thâm hụt, việc sử dụng nguồn tài trợ đó như thế

nào cũng là một thách thức không nhỏ. Có một nguyên tắc tài trợ thâm hụt là chính phủ

71

không nên đi vay để chi tiêu mà phải dùng cho đầu tư phát triển. Người ta gọi đó là nguyên

tắc tài khóa vàng (golden rule). Ngụ ý ở đây là việc đi vay để chi tiêu sẽ không thể tạo ra

nguồn tiền cho việc trả nợ trong tương lai, ảnh hưởng đến tính an toàn của nợ công. Thay

vào đó, việc đi vay chỉ được dùng để tài trợ cho các dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn

hoặc ít nhất là cũng tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế.

Các lý thuyết kinh tế vĩ mô (đặc biệt là học thuyết của Keynes) cũng chứng minh

rằng việc gia tăng chi tiêu chính phủ cũng sẽ giúp kích thích gia tăng sản lượng của nền

kinh tế, tránh được tình trạng thất nghiệp. Tuy nhiên, nhiều người khác lại lo ngại rằng

thâm hụt ngân sách thường là mầm móng cho sự trỗi dậy của lạm phát. Thâm hụt ngân

sách và tài trợ thâm hụt cũng tạo ra tác động chèn lấn (crowding out) đầu tư và tiêu dùng

của khu vực tư nhân.

Khi chính phủ đi vay để tài trợ thâm hụt sẽ làm tăng nhu cầu vay vốn trên thị trường

tài chính, sẽ làm tăng lãi suất của nền kinh tế. Lãi suất tăng lên sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu

vay vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp cũng như nhu cầu vay mượn cho tiêu dùng của

khu vực hộ gia đình. Người ta gọi đây là tác động chèn lấn của tài trợ thâm hụt. Việc chính

phủ tăng chi tiêu cũng tạo ra tác động chèn lấn với cơ chế tương tự như tài trợ thâm hụt.

Hiện tại nền kinh tế vẫn tăng trưởng rất thấp và thiếu ổn định, các nguy cơ của bất ổn

vĩ mô vẫn còn hiện hữu. Trong bối cảnh đó xuất hiện những ý kiến cho rằng Chính phủ

nên tiếp tục gia tăng tổng cầu thông qua việc mở rộng chính sách tài khóa và chính sách

tiền tệ. Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại cho rằng trong điều kiện thâm hụt ngân sách

ngày càng nhiều và gánh nặng nợ công quá cao, Chính phủ sẽ rất khó để có thể tiếp tục

72

thực hiện các gói kích cầu để kích thích nền kinh tế. Theo quan điểm này, Chính phủ nên

tiếp tục theo đuổi mục tiêu ổn định vĩ mô và cải cách thể chế nhằm chuẩn bị nền tảng cho

sự phục hồi vững chắc cho nền kinh tế trong tương lai.

Cho nên Chính phủ cần phải luôn cân nhắc, không phải mọi biện pháp gia tăng chi

tiêu và tài trợ thâm hụt của chính phủ đều có tác động hữu hiệu lên tổng cầu nội địa. Trong

điều kiện nền sản xuất trong nước còn yếu kém thì việc gia tăng chi tiêu chính phủ thường

sẽ dẫn đến tình trạng nhập siêu nặng nền hơn. Chẵng hạn như, gói kích cầu năm 2009 thực

ra lại ít phát huy tác dụng trong việc kích thích nền sản xuất nội địa, thay vào đó lại kích

thích gia tăng nhập khẩu từ bên ngoài nhiều hơn.

Vì vậy, việc thực hiện chính sách tài tài khóa cần quan tâm đến việc giảm bội chi

ngân sách thường xuyên như: thực hành tiết kiệm, sắp xếp bộ máy gọn nhẹ, giảm bớt các

chi tiêu phúc lợi vượt quá khả năng của nền kinh tế về văn hóa, y tế, xã hội, chi phí quốc

phòng, an ninh…

Ngoài ra, phải nỗ lực khơi tăng các nguồn thu ngân sách, như điều chỉnh thuế suất

hợp lý, tăng thuế đánh vào những hàng hóa xa xỉ, cao cấp, không thiết yếu; đồng thời thực

hiện chống tiêu cực, lãng phí, chống thất thu thuế…

Cuối cùng, tác động của tài trợ thâm hụt còn phụ thuộc vào động thái của chính sách

tiền tệ. Trong nhiều trường hợp, việc thực thi chính sách tiền tệ lại làm vô hiệu tác dụng

của chính sách tài khóa. Cho nên vấn đề đặt ra là, cần phải có sự phối hợp giữa chính sách

tài khóa và chính sách tiền tệ.

3.6.2. Thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt

Theo Luật NHNN 2010 của Việt Nam, định nghĩa: chính sách tiền tệ quốc gia là các

quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết

định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử

dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Nói chung, chính sách tiền tệ

cũng hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa nhưng mục tiêu chính

thường được xác định là ổn định giá cả và lạm phát.

73

Để đạt được mục tiêu ổn định lạm phát đòi hỏi chính phủ phải sử dụng nhiều biện

pháp khác nhau, kể cả chính sách tài khóa, nhưng chính sách tiền tệ thường được xem là

chính sách đi đầu trong việc đạt được mục tiêu đó. Như vậy, kiềm chế lạm phát là việc

kiểm soát sao cho lạm phát, tức mức giá chung, không tăng vượt quá một giới hạn nhất

định.

Ngoài mục tiêu kiềm chế lạm phát, các chính sách tiền tệ cũng thường được thiết kế

nhằm theo đuổi một số mục tiêu khác chẳng hạn như giảm tình trạng thất nghiệp của nền

kinh tế hay nói cách khác là tăng nhân dụng. Chính sách tiền tệ như chúng ta biết sẽ tác

động đến khối tiền của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng lên mức lãi suất cân bằng trên thị

trường tiền tệ. Lãi suất là một yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đầu tư của khu vực doanh

nghiệp và kể cả tiêu dùng của khu vực hộ gia đình. Việc mở rộng hay thu hẹp đầu tư này

đến lượt nó lại ảnh hưởng đến vấn đề công ăn việc làm cho người lao động.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay chống suy thoái kinh tế cũng là mục tiêu quan trọng

của chính sách tiền tệ. Việc mở rộng đầu tư nhờ sự kích thích bởi chính sách lãi suất thấp

của chính sách tiền tệ không chỉ giúp giải quyết công ăn việc làm cho người dân mà còn

giúp gia tăng sản lượng và thu nhập của nền kinh tế. Tuy nhiên, một số người cũng tranh

luận về mục tiêu này của chính sách tiền tệ. Theo họ, mục tiêu tăng trưởng kinh tế thường

được xem là mục tiêu chung của chính phủ và do đó bằng nhiều chính sách và biện pháp

khác nhau của chính phủ, chẳng hạn như cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút các nhà

đầu tư trong và ngoài nước đầu tư kinh doanh hay cải cách môi trường cạnh tranh khuyến

khích và thúc đẩy tinh thần doanh nhân, sẽ có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế thay vì

để cho chính sách tiền tệ làm thay các chính sách này của chính phủ mà xa rời các mục

tiêu cốt lỗi của mình.

Không chỉ đảm bảo mục tiêu chống lạm phát, tạo công ăn việc hay gia tăng sản

lượng, chính sách tiền tệ còn được thiết kế nhằm để duy trì sự ổn định của hệ thống tài

chính và các tổ chức tài chính. Một hệ thống tài chính ổn định và một hệ thống ngân hàng

lành mạnh sẽ giúp truyền dẫn một cách có hiệu lực và hiệu quả hơn các mục tiêu của chính

sách tiền tệ ra nền kinh tế cũng như các khu vực trong nền kinh tế. Hơn nữa, khi hệ thống

74

tài chính ổn định, bản thân nó cũng sẽ giúp huy động và phân bổ nguồn vốn tốt hơn, qua

đó sẽ giúp gia tăng tiết kiệm và đầu tư, góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Cuối cùng, các

chính sách tiền tệ nhiều lúc còn theo đuổi một số mục tiêu khác nữa, chẳng hạn như ổn

định tỷ giá, ổn định lãi suất, hay đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ trên đây có sự mâu thuẫn và có sự đánh đổi

giữa các mục tiêu đó. Chẳng hạn như hai mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế thường

có mâu thuẫn nhau (tất nhiên không phải luôn luôn), tức là ở những thời kỳ tăng trưởng

cao thì thường đi liền với lạm phát và ngược lại khi chống lạm phát thì thường lại làm suy

giảm tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều trường hợp, việc hy sinh mục tiêu này để đạt được

mục tiêu kia là điều mà các nhà hoạch định chính sách phải chấp nhận. Vấn đề quan trọng

hơn chính là nên hy sinh mục tiêu nào để theo đuổi mục tiêu nào? Lẽ thông thường các

chính phủ thường thích theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế vì nó có thể ảnh hưởng đến

lá phiếu chính trị của họ, trong khi đó NHTW lại thường bị ràng buộc với mục tiêu kiềm

chế lạm phát. Trong tình huống này người ta sẽ nói đến vị trí của NHTW trong mối quan

hệ với chính phủ. Tức liệu NHTW có đủ độc lập với chính phủ trong việc theo đuổi các

mục tiêu của mình mà không chịu sự chi phối bởi các mục tiêu khác của chính phủ như

tăng trưởng kinh tế hay kể cả việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách và gánh nặng nợ công

của chính phủ.

3.6.3. Phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chinh sách tài khóa

Về cơ bản, CSTK là chính sách thu chi của Chính phủ hay còn gọi là chính sách

Ngân sách. Còn chính sách tiền tệ là việc thực hiện tổng thể các biện pháp, sử dụng các

công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô

thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền.

Mục tiêu của CSTT là: Ổn định định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng, tạo công ăn việc

làm và giảm thất nghiệp. Trong đó, ổn định tiền tệ là mục tiêu hàng đầu. Nội dung quan

trọng nhất của CSTT là việc cung tiền cho nền kinh tế. Việc cung ứng tiền có thể thông

qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua hoạt động của thị trường mở (mua bán giấy

tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán ngoại tệ) và để điều tiết mức tiền cung ứng,

75

NHTW sử dụng các công cụ khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trử bắt buộc ... CSTT là

công cụ của NHTW để điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và tín dụng, kết quả là chi

phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để đạt mục tiêu chính sách đề ra. Một CSTT

nới lõng sẽ làm tăng lượng cung tiền, giảm lãi suất, qua đó thúc đẩy tăng tổng cầu và gây

áp lực lạm phát nếu cung tiền quá mức so với sản lượng tiềm năng.

Mục tiêu của CSTK: ổn định và tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng và giải

quyết việc làm được ưu tiên hơn tỷ lệ lạm phát. Nội dung cơ bản của CSTK là kiểm soát

thu chi ngân sách do những khoản thu chi này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm

phát và nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác. Vì thế, CSTK được coi là một trong những chính

sách quan trọng đối với việc ổn định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, một chính sách

phù hợp sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và làm cơ sở để các Doanh nghiệp đưa ra các

quyết định đầu tư. Trong mối quan hệ với giá cả, CSTK là một trong những nguyên nhân

cơ bản của lạm phát, một sự nới lõng CSTK đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ

trên hai kênh là thúc đẩy tổng cầu và tài trợ thâm hụt.

CSTT và CSTK là hai công cụ trọng yếu quyết định trong việc quản lý, điều tiết vĩ

mô kinh tế, cùng theo đuổi mục tiêu chung là tăng trưởng bền vững và có mối quan hệ chặt

chẽ với nhau. Tuy nhiên, giữa hai chính sách trên có những mâu thuẩn và xung đột nhau,

cho nên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa 2 chính sách này.

Trong ngắn hạn, giữa CSTT và CSTK có sự mâu thuẩn nhau giữa mục tiêu ổn định

tiền tệ (lạm phát thấp) và mục tiêu tăng trưởng, giảm thất nghiệp (có thể gây lạm phát cao).

Vì vậy cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa hai chính sách này với nhau. Trong thực tế ở

Việt Nam nền kinh tế vẫn chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả và đồng bộ giữa Bộ

tài chính (cơ quan thực thi CSTK) và NHTW (cơ quan thực thi CSTT). Ở một thời điểm

nào đó, vẫn còn tồn tại những xung đột giữa hai cơ quan này, theo đó NHTW thì ưu tiên

thực hiện mục tiêu CSTT, còn Bộ Tài chính thì ưu tiên thực hiện dự toán ngân sách nhà

nước được duyệt. Mỗi cơ quan điều theo đuổi những mục tiêu và công cụ khác nhau sẽ dẫn

đến sự xung đột với nhau giữa các mục tiêu, trong đó có hai mục tiêu cơ bản là tăng trưởng

và lạm phát.

76

Về dài hạn, cả hai chính sách đều hướng tới những mục tiêu này. Nhưng trong ngắn

hạn, việc mở rộng chính sách tài khóa để thức đẩy tăng trưởng thì lại tạo áp lực gây ra lạm

phát. Trong khi đó, NHTW lại đang thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, thì lại gây ra

việc hạn chế tăng trưởng. Bởi vậy, để đảm bảo cả hai chính sách cùng đạt những mục tiêu

đề ra phải có sự phối hợp đồng bộ với nhau. Trong ngắn hạn, phải xác định được mục tiêu

nào mang tính ưu tiên hàng đầu để cân nhắc đánh đổi với những mục tiêu khác. Đồng thời,

trong dài hạn phải đạt được cả những mục tiêu chung là ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng

trưởng và giảm thất nghiệp.

Để phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ và CSTK các nhà kinh tế sử dụng mô hình

IS-LM. Tuy nhiên ở đây không đi sâu phân tích về mặt kỷ thuật vấn đề này, mà chỉ nêu

một số nội dung đơn giản và có thể hiểu được.

Muốn chống suy thoái kinh tế, có thể mở rộng tài khóa, tiền tệ hoặc cả hai. Mở rộng

tài khóa làm tăng tổng cầu, làm tăng sản lượng và tăng lãi suất. Mở rộng tiền tệ làm tăng

lượng cung tiền, làm tăng sản lượng và giảm lãi suất. Mở rộng tài khóa lẫn tiền tệ làm tăng

sản lượng, lãi suất có thể tăng hay giảm hoặc không đổi. Ngược lại, muốn chống lạm phát

thì áp dụng chính sách thu hẹp tài khóa, tiền tệ hoặc cả hai.

Việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng chắc chắn sẽ làm cho nợ công tăng lên,

ngược lại để giảm nợ công thì phải thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Tuy nhiên, việc

thắt chặt tài khóa phải dựa trên cơ sở tiết kiệm chi tiêu hợp lý, nhất là đối những khoản chi,

những khu vực không quan trọng, không cần thiết, đặc biệt là phải làm tốt công tác phòng

chống tham nhũng, lãng phí. Trong điều kiện thâm hụt ngân sách ngày càng lớn, nợ công

ngày càng cao thì việc thực thi chính sách tài khóa là cần thiết. Nhưng việc thắt chặt tài

khóa cũng có tác dụng làm giảm sản lượng và tăng thất nghiệp, có thể dẫn đến suy thoái,

làm nguồn thu bị hạn chế và thâm hụt ngân sách cũng sẽ không giảm. Cho nên để chống

suy thoái kinh tế, cần phải thực thi chính sách tiền tệ mở rộng. Tuy nhiên việc thực thi

chính sách tiền tệ mở rộng lại còn tùy thuộc vào việc thực thi mục tiêu ổn định tiền tệ,

chống lạm phát. Vấn đề quan trọng là phải xác định mục tiêu nào là mục tiêu cần ưu tiên

77

thực hiện trước mắt, giảm nợ công hay chống lạm phát nhằm ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng

trưởng để có sự sự đánh đổi.

Để giải quyết tốt vấn đề nợ công nhất thiết cần phải có sự hoạch định chính sách kinh

tế vĩ mô về vấn đề nợ công. Trong đó cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc thực hiện

CSTK và CSTT nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu ổn định tiền tệ, tạo công ăn việc

làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì có thực hiện tốt hai chính sách này mới tạo điều kiện

thức đẩy nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Khi kinh tế phát triển thì nguồn thu

ngân sách sẽ càng dồi dào thì thâm hụt ngân sách sẽ giảm thì vấn đề nợ công cũng sẽ được

giải quyết.

3.7. Tăng cường công tác kiểm tóan Nhà nước về quản lý nợ công

Tăng cường vai trò của KTNN trong quản lý nợ công nhằm đảm bảo cho KTNN trở

thành một công cụ kiểm tra, kiểm soát chủ yếu đối với nền kinh tế và đối với việc thực

hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước.

Việc thể hiện thẩm quyền của KTNN trong các quy định của các văn bản pháp luật,

cũng như nhận thức về vai trò, vị trí của KTNN trong hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm

soát ở các ngành, các cấp cần được nâng cao và hoàn thiện nhằm tăng cường hiệu quả,

hiệu lực hoạt động của KTNN. Việc phát triển KTNN trên cơ sở tăng cường quyền hạn và

trách nhiệm pháp lý của KTNN là điều kiện căn bản để đưa cơ quan này trở thành cơ quan

kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước.

Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ công nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia

đảm bảo các khoản vay nợ công được sử dụng đúng mục đích theo quy định của Luật

Ngân sách nhà nước. Việc vay nợ chỉ được sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển. Quá

trình cải cách tài chính công theo hướng công khai, minh bạch, phù hợp với các tiêu chuẩn

và thực tiễn tốt của quốc tế đòi hỏi KTNN cũng phải xây dựng, hoạch định được kế hoạch

trung hạn, dài hạn trong việc kiểm toán nợ công. Việc kiểm toán phải được thực hiện theo

các tiêu chuẩn thông lệ được chấp nhận.

Cơ quan KTNN thực hiện kiểm toán chuyên đề về nợ công. Các chuyên đề có thể bao

quát từ hình thức vay, trả nợ, các nghiệp vụ vay nợ, chi phí vay nợ đến tổ chức quản lý nợ,

78

chiến lược quản lý nợ, quản lý rủi ro trong việc vay nợ. Ngoài ra còn tiến hành nghiệp vụ

bảo lãnh nợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức. Thông qua kiểm toán chuyên đề về nợ

công, có thể chỉ rõ những yêu kém bất cập trong quản lý nợ để từ đó có chiến lược quản lý

nợ một cách bền vững.

Ngoài việc kiểm toán theo các chuyên đề thì việc kiểm toán nợ công hàng năm cần

được đặt trong mối liên hệ với kiểm toán quyết toán NSNN. Thông qua mối liên hệ này để

thấy được tính bền vững của tài chính ngân sách quốc gia cũng như thấy được bất cập

trong việc vay, trả nợ, hạch toán các khoản nợ công. Thông qua kiểm toán quyết toán

NSNN thấy được việc hạch toán đầy đủ các khoản nợ kể cả trung ương và địa phương

đồng thời thấy được mức chi trả hàng năm cho chi phí vay nợ.

3.8. Tăng cường vai trò quản lý của NHNN trong quản lý nợ công

Theo Luật quản lý nợ công năm 2009, Bộ tài chính là cơ quan chịu trách nhiệm chính

trong việc quản lý nợ công. Song, các Bộ, Ngành khác cũng có những trách nhiệm liên

quan nhất định. Theo quy định này, tại điều 12, thì trách nhiệm của NHNN là:

1. Theo phân công, ủy quyền của Chỉ tịch nước hoặc Chính phủ, chủ trì phối hợp với

Bộ Tài chính và cơ quan khác có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm phán, ký kết

các điều ước quốc tế với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế mà NHNN Việt Nam là đại

diện chính thức của người vay tại các điều ước quốc tế này.

2. Thẩm định phương án vay lại vốn vay thương mại nước ngoài của Chính phủ theo

các chương trình, hạn mức tín dụng và vay thương mại có bảo lãnh Chính phủ của tổ chức

tín dụng.

3. Hướng dẫn và tổ chức đăng ký các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp, tổ

chức tài chính, tín dụng được Chính phủ bảo lãnh.

4. Tham gia với Bộ Tài chính trong việc:

a) Xây dựng mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công

trong từng giai đoạn 5 năm; chương trình quản lý nợ trung hạn và kế hoạch vay, trả nợ chi

tiết hàng năm của Chính phủ;

b) Xây dựng chỉ tiêu giám sát nợ Chính phủ, nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia;

79

c) Xây dựng phương pháp huy động vốn trong nước, nước ngoài của Chính phủ gắn

với điều hành chính sách tiền tệ - tín dụng.

Như vậy, NHNN có một vai trò rất quan trọng trong việc quản lý nợ công, cụ thể là:

- Thứ nhất, góp phần giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của thâm hụt ngân sách đến các

lĩnh vực khác của nền kinh tế thông qua việc điều tiết dòng tiền giữa các lĩnh vực của nền

kinh tế một cách hợp lý bằng các công cụ của chính sách tiền tệ.

Thu chi trong khu vực Chính phủ là một bộ phận cấu thành trong dòng luân chuyển

vốn của một quốc gia, những biến động trong chi tiêu trong khu vực Chính phủ làm thay

đổi khối lượng tiền trong nền kinh tế, thay đổi dòng chu chuyển tiền. Một sự gia tăng chi

tiêu khu vực chính phủ sẽ làm giảm chi tiêu của khu vực phi chính phủ của nền kinh tế và

ngược lại.

Mức độ thâm hụt ngân sách càng lớn thì mức độ ảnh hưởng của khu vực Chính phủ

đến các khu vực khác của nền kinh tế càng lớn, và để giảm những ảnh hưởng bất lợi từ khu

vực Chính phủ và tạo sự luân chuyển cân bằng hợp lý của dòng chu chuyển vốn trong xã

hội thì vai trò của chính sách tiền tệ là rất lớn. Chẵng hạn, khi khu vực Chính phủ chi tiêu

lớn làm tăng lượng tiền trong nền kinh tế có thể gây nguy cơ lạm phát, khi đó để hạn chế

lượng tiền này, NHTW có thể thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, theo đó sẽ hạn chế

lượng chi tiêu khu vực phi Chính phủ.

Thông qua các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sử dụng các công cụ của

chính sách tiền tệ để điều tiết dòng vốn bù đắp thâm hụt ngân sách ở một mức độ hợp lý.

Đây cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu để quản lý tốt nợ công.

Thứ hai, hỗ trợ tích cực việc huy động vốn cho bù đắp thâm hụt ngân sách, thông qua

việc góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, như tạo cầu về trái

phiếu Chính phủ, tạo tính thanh khoản cho trái phiếu và phối hợp với Bộ tài chính trong

việc xác định mức độ mức lãi suất trái phiếu Chính phủ cho phù hợp với mặt bằng lãi suất

của thị trường tài chính.

Thực tế cho thấy, việc bù đắp thâm hụt ngân sách của Chính phủ chỉ có thể được bù

đắp bởi nguồn vốn vay trong nước dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ, công

80

trái quốc gia, tín phiếu kho bạc, và vay nợ nước ngoài dưới hình thức ODA, vay thương

mại, phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế và vay NHTW (đây là biện

pháp cuối cùng, không được khuyến khích).

Việc huy động vốn cho khu vực Chính phủ dưới hình thức trái phiếu được ưa chuộng

và hiệu quả nhất, hiện đang được áp dụng ở hầu hết các quốc gia. Để hình thức này mang

lại hiệu quả cao, các nước đã phát triển thành một thị trường trái phiếu Chính phủ nhằm

tạo ra tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ, qua đó thu hút được các nguồn vốn nhàn

rỗi của các khu vực khác của nền kinh tế. Đồng thời, thị trường trái phiếu Chính phủ là nơi

tạo ra mức lãi suất dài hạn chuẩn cho thị trường tài chính (vì mức lãi suất này không chứa

đựng những yếu tố rủi ro). Trong thị trường này thì vai trò của NHTW rất quan trọng.

NHTW góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường. Trái phiếu Chính phủ là một

phương tiện quan trọng để NHTW thực thi chính sách tiền tệ, thông qua việc mua bán trái

phiếu Chính phủ mà NHTW tác động mạnh, thậm chí, chi phối giá cả trái phiếu trên thị

trường. Các tín hiệu thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ cũng tác động mạnh đến giá

trái phiếu Chính phủ.

Ở Việt Nam hiện nay, thị trường trái phiếu Chính phủ chưa phát triển mạnh như ở các

nước phát triển. Do vậy, sự ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến thị trường trái phiếu, đến

giá trái phiếu Chính phủ còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay trái phiếu Chính phủ là

phương tiện chủ yếu để NHNN thực thi việc bơm hay hút tiền từ nền kinh tế thông qua các

công cụ chính sách tiền tệ. Đặc biệt, là thông qua nghiệp vụ thị trường mở, tạo tính thanh

khoản cho trái phiếu Chính phủ và hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại

(NHTM). Nhờ vậy, trái phiếu Chính phủ là kênh đầu tư an toàn, là danh mục đầu tư đảm

bảo thanh khoản của các NHTM. Lượng trái phiếu mà các NHTM mua ngày càng tăng qua

các năm. Việc các NHTM mua trái phiếu là điều kiện tốt để có thể huy động nguồn bù đắp

thâm hụt ngân sách một các thuận lợi với chi phí thấp hơn nhiều so với phát hành trái

phiếu trực tiếp cho người dân.

Với tư cách là cơ quan làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc

Nhà nước, hiện nay NHNN đang làm đại lý phát hành tín phiếu kho bạc cho Bộ Tài chính,

81

tham gia cùng với Bộ Tài chính xác định mức lãi suất tín phiếu hợp lý. Với vai trò đại lý,

trong những trường hợp cần thiết khi lượng tín phiếu kho bạc không bán hết cho các

NHTM, NHNN có thể mua để làm công cụ can thiệp thị trường khi cần thiết, đồng thời,

cũng đáp ứng kịp thời nguồn thu của Chính phủ.

- Thứ ba, có vai trò quan trọng trong việc tham gia chiến lược quản lý nợ nước ngoài

của quốc gia, trong đó, có nợ công của Chính phủ.

Trong cơ cấu nợ Chính phủ, nợ nước ngoài có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng

thanh toán quốc gia, sự vay mượn nước ngoài quá mức sẽ đẩy nền kinh tế quốc gia phụ

thuộc vào kinh tế nước ngoài. Hy lạp là một bài học cho những quốc gia đang phát triển

muốn theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao bằng cách đi vay nợ, và sử dụng tiền vay không

hiệu quả, cho nên đã để lại một món nợ khổng lồ cho thế hệ tương lai.

- Thứ tư, giảm thiểu rủi ro nợ Chính phủ: Đứng trên giác độ quản lý rủi ro nợ Chính

phủ, sự ổn định tiền tệ, đảm bảo giữ giá trị của đồng tiền quốc gia, hay nói cách khác,

không để đồng tiền trong nước mất giá, đảm bảo cân bằng cung, cầu ngoại tệ, giảm tình

trạng đô la hóa có ý nghĩa quan trọng không làm gia tăng nợ Chính phủ tính theo đơn vị

đồng tiền quốc gia.

Mặc dù NHNN không phải là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong quản lý nợ công,

nhưng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính hiệu quả của quản lý nợ công, từ khâu

xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến việc thực hiện chiến lược. NHNN tham gia ý

kiến với Bộ Tài chính về những vấn đề liên quan đến biến động thị trường tiền tệ, như mức

lãi suất, tình hình thanh khoản, sự thay đổi về cung tiền; đưa ra quan điểm về xây dựng kế

hoạch, chiến lược quản lý nợ công về cơ cấu nợ, cơ cấu các loại chứng khoán, công cụ vay

nợ, khối lượng và lãi suất, nguồn vay nợ; thực hiện chức năng đại lý phát hành tín phiếu

kho bạc và nhận tiền gửi kho bạc; tạo tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu Chính

phủ; bù đắp nguồn vốn thiếu hụt cho ngân sách trong khuôn khổ chính sách tiền tệ cho

phép.

3.9. Những giải pháp khác

3.9.1. Đổi mới công tác giáo dục và đào tạo

82

Alan Phan (2010) cho rằng, những tồn tại hiện nay của Việt Nam như kinh tế, tài

chính hay y tế, giáo dục, môi trường và dân trí... đều rất quen thuộc với các quốc gia trong

tình trạng ''mới nổi''. Các vấn đề này, 15 năm trước Trung Quốc đã trải nghiệm, 30 năm

trước Thái Lan đã phải đối đầu, 60 năm trước Nhật Bản đã phải vượt qua và 100 năm

trước, nước Mỹ đã tìm cách giải quyết. Có nghĩa là, về kinh tế và xã hội Việt Nam đã phát

triển chậm hơn nhiều quốc gia trong khu vực. Mặc dù chúng ta chậm hơn, nhưng lại có lợi

thế là có thể dùng kinh nghiệm của kẻ đi trước để tránh nhiều sai lầm. Chúng ta có thể lạc

quan mà nghĩ rằng Việt Nam sẽ ''đi tắt đón đầu'' hay cũng có thể bi quan mà cho rằng Việt

Nam sẽ không bao giờ ''vượt bẩy thu nhập trung bình'' như nhiều chuyên gia lo ngại.

Muốn đi tắt đón đầu thì phải quan tâm đến giáo dục, bởi vì trí tuệ mới là thứ tài sản

vô giá. Và những tài sản làm ra có chứa hàm lượng tri thức càng nhiều thì giá trị của nó

càng lớn. Chẵng hạn, Zuckerberg với ý tưởng facebook, khởi đầu chỉ với 1 ngàn đô la và

sau 5 năm khai thác, anh sinh viên 26 tuổi này đã biến ý tưởng của mình thành 60 tỉ đô la.

Cho nên, việc đầu tư vào giáo dục là đầu tư mang lại hiệu quả nhất cho mỗi người và đây

cũng là hướng đi bắt buộc của mọi nền kinh tế trong tương lai.

Chúng ta đã từng rất tự hào có một nền giáo dục lâu đời, nhưng tiếc rằng sự phát triển

lại vô cùng chậm chạp và nhanh chóng bị tụt lại phía sau so với thế giới và các nước trong

khu vực. Trường đại học đầu tiên của Việt Nam thành lập từ năm 1906, trong khi đến tận

năm 1961, khi Singapore rời khỏi Liên hiệp Malaysia, hai nước này mới có chung một

trường cao đẳng với hai phân hiệu - một ở Kuala Lumpur và một ở Singapore. Hai phân

hiệu này sau đó phát triển thành hai trường Đại học Quốc gia của Singapore và Malaysia.

Năm 1975, Malaysia mới vẻn vẹn có 5 trường đại học, trong khi riêng miền Bắc của

chúng ta đã có 36 trường, miền Nam có hơn một chục trường đại học đa ngành kiểu Mỹ.

Tóm lại, chúng ta đã vượt họ rất xa. Nhưng đến năm 2000, Malaysia có 700 trường đại học

và cao đẳng. Và chúng ta bị tụt lại, không phải chỉ về số lượng, mà cả chất lượng. Đầu

những năm 2000, chúng ta bắt đầu phải nhập khẩu giáo dục từ Malaysia. Khoa Quốc tế -

Đại học Quốc gia Hà Nội, cũng phải liên kết với đại học HELP, một trường đại học tư thục

còn rất trẻ Malaysia.

83

Hằng năm, người Việt Nam bỏ ra hàng tỷ đô la để học đại học nước ngoài, trong đó

có các nước láng giềng như Malaysia, Singapore, Thái Lan và Philippines. Chúng ta chảy

máu tiền tệ, chất xám, và có thể nói là chảy máu cả lòng tin về giáo dục nữa.

Việt Nam đã hội với thế giới về kinh tế, thì không có lý do gì giáo dục lại không thể

không hội nhập. Hội nhập không chỉ ở cách tổ chức dạy học, cách tổ chức làm sách giáo

khoa. Cho nên, Việt Nam cũng có thể lựa chọn một bộ sách giáo khoa chuẩn của những

quốc gia tiên tiến, đã được thực tiễn chứng minh là thành công trong giáo dục Mỹ, Anh,

Pháp, Nhật Bản, Singapore để nghiên cứu và từ đó rút kinh nghiệm, học phương pháp để

xây dựng sách giáo khoa của ta cho phù hợp với điều kiện nước ta.

Chúng ta đang rơi vào vòng luẩn quẩn với việc cải cách, việc thay đổi chóng mặt

trong việc sửa đổi sách giáo khoa, rồi phương pháp giảng dạy. Chỉ riêng việc này cũng đủ

làm cho học sinh và cả giáo viên bị quay như chong chóng. Chương trình giảng dạy quá

nặng nề, cho nên việc học hành cũng như giảng dạy quá mệt mỏi, nhiều áp lực. Học sinh

không còn hứng thú trong việc học hành, và cũng mất dần đi tính sáng tạo.

Vấn đề sách giáo khoa là một trong những vấn đề được nhiều người rất quan tâm,

cũng là vấn đề tiêu tốn rất nhiều tiền của nhất. Có lẽ Singgapore là một quốc gia khôn

ngoan, vì được tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của nước Anh rất sớm. Họ không cần phải

tốn kém nhiều công sức, tiền của để biên soạn sách giáo khoa như chúng ta.

Một lợi thế nữa, là về ngôn ngữ, Singapore chọn tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất mặc

dù tiếng mẹ đẻ của họ là tiếng Trung (phần lớn dân số Singapore là người Trung Quốc).

Họ cho rằng, nếu ai đó muốn thành công, thì cần phải nắm vững tiếng Anh, bởi vì đó là

ngôn ngữ của kinh doanh, khoa học, ngoại giao và học thuật. Còn Việt Nam thì không có

được lợi thế này. Cho nên việc đào tạo tiếng Anh có vai trò quan trọng đối với sự phát

triển của đất nước. Còn những ngoại ngữ khác như: Nga, Pháp, Trung… chỉ là những môn

tự chọn. Bộ giáo dục không nên bắt buộc giáo viên dạy tiếng Anh phải biết thêm một

ngoại ngữ thứ hai. Vì điều đó chỉ làm phát sinh những tiêu cực (mua bằng), gây lãng phí

thời gian và tiền bạc cho giáo viên (vì không có giáo viên nào có thời gian để mà đi học)

và cũng không thực sự cần thiết.

84

Một vấn đề cần quan tâm nữa đó là việc giáo dục đối với chương trình mầm non. Vì ở

lứa tuổi mầm non là quãng thời gian đứa trẻ tiếp thu ngôn ngữ và giá trị đạo đức thích hợp

nhất, cũng là thời điểm khơi dậy sức sáng tạo nhất. Cho nên việc đưa vào hoạt động một

nền giáo dục mầm non chất lượng với chi phí phải chăng, nhất là cho con cái những gia

đình có hoàn cảnh xã hội khó khăn, là cách tốt nhất để đưa đất nước đi lên.

Chính phủ phải đầu tư vào lĩnh vực này và tìm cách hỗ trợ, khuyến khích các trường

mẫu giáo đưa một nền giáo dục chất lượng vào hoạt động. Không có sự hỗ trợ của Chính

phủ, các trường mẫu giáo sẽ không thể cung cấp chất lượng giáo dục cần thiết vì chi phí

quá cao.

3.9.2. Có chính sách thu hút và sử dụng nhân tài

Các quốc gia thành công là những quốc gia dễ dàng đồng hóa người nước ngoài.

Chẵng hạn như Mỹ, mà thung lũng Silicon là một ví dụ. Đây là nơi không chỉ trọng dụng

và đãi ngộ nhân tài mà còn có một nền văn hóa thu hút những người mới. Không có nguồn

bổ sung nhân tài từ nước ngoài thì ngay cả Mỹ cũng không thể thành công đến vậy. Bom

nguyên tử của họ là nhờ những nhân tài từ châu Âu trốn tránh chế độ Hitler vào những

năm 1930 và 1940. Ngay cả chương trình không gian của Mỹ khởi động được cũng là nhờ

khoa học người Đức chuyên về tên lữa [Wernher] von Braun, người sang chế ra bom V

trong thế chiến II, bị quân đội Hoa Kỳ bắt giữ khi chiến tranh kết thúc và được đưa về Mỹ.

Kể từ đó, hàng năm, có hàng nghìn chuyên gia, học giả, nhà nghiên cứu và nhà văn tài

năng thu hút từ Anh và EU sang Hòa Kỳ bởi vì họ được chào đón tại Mỹ và được trao mọi

phương tiện để nghiên cứu hoặc trở nên thành công trong chuyên môn hay lĩnh vực kinh

doanh của mình.

Singapore là một quốc gia có sự phát triển vượt bậc của khu vực châu Á nói chung và

Đông Nam Á nói riêng, là một điển hình thành công rất đáng để chúng ta học tập. Sự phát

triển kinh tế nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn (1965 đến 1990), quốc gia này đã

vươn từ thế giới thứ ba lên thế giới thứ nhất. Sự thành công đó, chủ yếu là họ biết cách thu

hút và sử dụng nhân tài. Trước hết, họ có một chính phủ trong sạch, hầu hết toàn là những

85

người có bộ óc tài năng và liêm chính. Ngoài ra, còn có chính sách thu hút nhân tài từ khắp

mọi nơi trên thế giới.

Ở Việt Nam, do không có nguồn tài chính mạnh để thu hút nhân tài đến từ các quốc

gia trên thế giới như các quốc gia phát triển. Ngoài ra cũng không có biện pháp hữu hiệu

để giữ chân được người tài trong nước. Hầu hết những du học sinh xuất sắc của Việt Nam

đến các quốc gia tiên tiến để học tập đều không muốn quay trở về. Việc chảy máu chất

xám đang là một vấn đề nhức nhói đối với Việt Nam.

Nếu chúng ta làm tốt công tác phòng, chống tham nhũng và lãng phí thì sẽ có một

nguồn tài chính rất lớn để thu hút những nhân tài, và đầu tư cho giáo dục để tạo ra nhân tài

trong nước. Nếu chúng ta không có một chính phủ trong sạch, đủ mạnh thì không thể làm

được điều đó. Nếu chính phủ có quá nhiều những người kém tài, kém đức thì tình trạng

tham nhũng chẵng những không được cải thiện, mà còn làm cho nó ngày càng trở nên

nghiêm trọng hơn. Đây cũng chính là nguyên nhân tạo ra sự bất bình đẵng và gây ra những

bức xúc cho xã hội. Khi người dân bất mãn, thì cũng chính là cơ hội để cho những kẻ quá

khích lôi kéo, lợi dụng tham gia vào những vụ gây rối và tạo ra những điểm nóng, gây bất

ổn xã hội.

Chính phủ nên có biện pháp thu hút nhân tài, trước hết là phải lựa chọn những người

có tài, có đức vào làm việc cho bộ máy nhà nước. Việc lựa chọn nhân tài cần được quan

tâm và lựa chọn theo một quy trình nghiêm ngặt và kỹ lưởng. Nếu bộ máy nhà nước nước

trong sạch, làm việc hiệu quả, sẽ tiết kiệm rất nhiều chi phí, để phục vụ cho đầu tư phát

triển.

Thứ hai, phải lựa chọn những nhân tài cho ngành giáo dục, nhất là đối với người

đứng đầu ngành giáo dục. Người đứng đầu ngành giáo dục phải là người có tài, có tâm và

có tầm nhìn xa, trông rộng. Việc đào tạo, trước hết là phải đào tạo một đội ngủ quản lý,

giáo viên giỏi, có đạo đức thì mới có đủ điều kiện để đào tạo lớp trẻ, kể từ lứa tuổi mầm

non. Đây là giai đoạn hình thành nên các giá trị đạo đức và nhân cách của chúng sau này.

Thứ ba, chính sách đoàn kết dân tộc cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Nếu làm

tốt vấn đề này, sẽ có nhiều nhân tài ở khắp nơi trên thế giới quay trở về phục vụ cho đất

86

nước. Đồng thời mang về cho đất nước một nguồn lực tài chính rất lớn để phục vụ cho đầu

tư phát triển. Vấn đề đoàn kết dân tộc, nhằm chống sự chia rẽ là một trong những vấn đề

mang tính cấp thiết và lâu dài. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước cũng rất quan

tâm đến chính sách kiều bào. Nhà nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ quay về đầu

tư, phát triển kinh tế. Song do nhận thức, quan điểm có sự khác nhau về nhiều vấn đề như:

thế chính trị, về dân chủ, về vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,… Đó là vấn đề khó

khăn trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, và cũng chính là trở ngại lớn trong việc

đầu tư phát triển kinh tế, ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề quốc phòng và an ninh.

Thứ tư, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong mỗi người dân. Đây là

vấn đề lớn có liên quan đến công tác giáo dục; công tác vận động, tuyên truyền. Nhưng

điều không kém phần quan trọng là những người lãnh đạo đất nước, những người đại diện

cho bộ máy công quyền phải tạo được hình ảnh đẹp trong mắt người dân thì đó mới chính

là sự tuyên truyền thuyết phục hơn cả.

Không phải bất cứ những người tài giỏi nào làm việc tất cả cũng đều vì tiền. Khi đã

có quá nhiều tiền, thì họ cũng cần danh tiếng, cần sự trân trọng. Họ cũng có tinh thần yêu

nước, có tinh thần dân tộc và cũng có nhu cầu phục vụ cho quê hương, đất nước. Trong

thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều văn sĩ, trí thức, nhà khoa học ở nước ngoài

đã từ bỏ cuộc sống giàu sang để trở về nước phục vụ kháng chiến. Tháng 5 năm 1946 khi

Bác Hồ sang Pháp tham dự hội nghị, có nhiều người đã theo Bác Hồ trở về Việt Nam,

trong đó có giáo sư Trần Đại Nghĩa.

Nhân tài của Việt Nam được trọng dụng và thành công ở rất nhiều nơi trên thế giới.

Trong đó, chắc chắn cũng có không ít người muốn đem tài năng và nguồn lực của mình để

quay về đầu tư phát triển kinh tế đất nước.

Cho nên Nhà nước cần phải có chính sách thu hút nguồn nhân lực này, đồng thời

cũng phải có chính sách giữ chân được nhân tài trong nước nhằm ngăn chặn tình trạng

chảy máu chất xám như hiện nay.

3.9.3. Thực hiện dân chủ và công bằng xã hội

87

Bất kỳ xã hội nào trên thế giới cũng đều có những bất xúc và giận dữ của người dân

khi nhìn thấy những cảnh trái tay gai mắt hàng ngày. Ở các xã hội mà người dân có cơ hội

bày tỏ chính kiến của mình bằng việc tự do ngôn luận, thì người dân thường thoải mái và

hành xử văn minh hơn và ít có sự bức xúc hơn.

Ở Việt Nam gần đây, người ta thường hay nhắc đến vấn đề “lợi ích nhóm” hay nạn

tham nhũng, lãng phí. Tình trạng đó đang trở nên rất nghiêm trọng và cũng ngày càng làm

cho người dân phải quan tâm, bức xúc.

Khi cơ chế kinh tế dồn quyền lực vào tay một thiểu số nhóm người hay nhóm lợi ích

thay vì phân tán cho đại đa số người dân, thì sân chơi này sẽ không còn bình đẳng nữa.

Cũng có nghĩa là nó không giải phóng tiềm năng của mỗi công dân trong việc sáng tạo,

cũng như trong việc đầu tư phát triển. Nếu tiền và quyền tập trung vào tay các nhóm lợi ích

thì người dân vẫn nghèo và kinh tế sẽ không thể phát triển được. Kinh tế lụn bại thì quốc

gia sẽ yếu kém, nghèo khổ.

Khi kinh tế khó khăn thì nhà nước sẽ nghĩ đến việc đi nhờ sự giúp đở của các quốc

gia phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế để xin được viện trợ (ODA) hoặc vay vốn với

lãi suất ưu đải hoặc kể cả vay với lãi suất thương mại. Khi tình trạng thâm hụt ngân sách

ngày càng trở nên nghiêm trọng và việc tiếp tục đi vay sẽ làm cho nợ công ngày một gia

tăng, đồng thời làm tăng nguy cơ gây ra những bất ổn xã hội.

Muốn phát triển kinh tế bền vững cần sự sáng tạo và sáng tạo phải đi kèm với “phá

bỏ”. Phá bỏ cái cũ đã hư thối mục nát để thay bằng cái mới năng động, hiện đại hơn. Nếu

nhà nước không chấp nhận một sự thật là hầu hết những doanh nghiệp quốc doanh đều làm

ăn không hiệu quả thì sẽ phải tiếp tục sử dụng ngân sách để cứu các nhóm lợi ích và giữ lại

những doanh nghiệp (đã chết), chỉ mang tính tượng trưng cho một thể chế kinh tế đã cũ kỹ.

Những doanh nghiệp này không thể sáng tạo hay cạnh tranh trên thị trường quốc tế

cũng như trên bất kỳ một sân chơi bình đẵng nào, kể cả trong nước. Nếu loại bỏ những ưu

đãi của nhà nước về việc sử dụng đất đai, tài nguyên giá rẽ, hay được cấp vốn hoặc cho

vay với lãi suất cực kỳ thấp, thì những doanh nghiệp này hầu hết đều làm ăn thua lỗ.

88

Chính phủ cần phải xây dựng một xã hội, trong đó người dân được tưởng thưởng

không phải theo số lượng tài sản họ có, mà theo những đóng góp tích cực của họ cho xã

hội bằng sức lao động thể chất hoặc tinh thần, theo đúng năng lực của người đó, đúng theo

giá trị và sự đóng góp của người đó cho xã hội.

Một chính phủ tốt được kỳ vọng không chỉ thực hiện và duy trì các chuẩn mực, và

ngày càng phải nâng cao những chuẩn mực ấy. Và cuối cùng, chính trong lĩnh vực kinh tế

mới là vấn đề quyết định việc tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm; có thêm nhiều người

dân có lượng tài sản ngày càng lớn hơn.

Nhiệm vụ của chính phủ là thông qua chính quyền ở cấp cơ sở, phải nắm bắt cho

được tâm tư tình cảm, những bức xúc của người dân trước khi một lời than phiền hoặc bất

bình trở thành gay gắt để có những giải pháp xử lý kịp thời. Đồng thời, chính phủ cần phải

giữ mối liên hệ thường xuyên với người dân không chỉ để biết được họ than phiền điều gì,

mà còn để dẫn dắt và tổ chức họ, để giúp họ hiểu rõ những đặc tính xã hội có ích trong

việc xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.

Nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo là tạo nên niềm tin trong người dân để họ sẵn sàng

đứng lên hưởng ứng những chính sách mà mình đưa ra. Công việc của những nhà lãnh đạo

với tư cách là truyền cảm hứng và khích lệ, chứ không phải rêu rao những lý luận đã cũ kỹ.

Một thủ lĩnh chính trị phải vẽ ra được tầm nhìn tương lai cho người dân của mình, sau đó

biến tầm nhìn đó thành các chính sách mà họ phải thuyết phục cho người dân là rất đáng

để ủng hộ, và cuối cùng là khích lệ họ giúp mình triển khai các chính sách ấy.

Sự ổn định và tiến bộ trong tương lai của chính phủ còn tùy thuộc vào những người

kế tục, những người thấu hiểu ý thức về nhiệm vụ được ủy thác, nhận thức được rằng lạm

dụng quyền lực và sức mạnh mà họ được giao phó chính là phản bội lại niềm tin của người

dân. Cho nên người lãnh đạo đương nhiệm phải luôn quan tâm châm bồi cho đội ngủ kế

thừa, trước khi mình rời khỏi chính trường. Cần phải đảm bảo là lực lượng kế thừa có đủ

năng lực và phẩm chất đạo đức cần thiết để lãnh đạo đất nước.

Trong thời đại có quá nhiều thông tin, thì người lãnh đạo không nên tiếp nhận bất kỳ

điều gì một cách quá nghiêm trọng. Người ta sẽ nói về những người lãnh đạo, về chính phủ

89

với rất nhiều chuyện ngớ ngẫn. Nếu tiếp nhận những thông tin ấy quá nghiêm túc thì có lẽ

những người lãnh đạo sẽ phải rất mệt mỏi, hay các cơ quan an ninh và pháp luật sẽ phải

tốn rất nhiều công sức để đối phó, ngăn chặn. Cho nên chính phủ hay các nhà lãnh đạo

không nên quá bận tâm nhiều với những gì các phương tiện truyền thông thời sự nói, mà

hãy xem thái độ và những phản ứng của người dân của mình ra sao. Tuy nhiên, đôi lúc

những gì người dân nghĩ cũng có lúc này lúc khác, có thể trái ngược nhau. Điều quan trọng

là người lãnh đạo cần nhận thức được những chính sách mình đưa ra là đúng đắn và quyết

tâm thực hiện chúng một cách tôt nhất.

Một xã hội dân chủ không thể tự vận hành được, nó đòi hỏi hai thứ để thành công.

Thứ nhất, phải có một quốc hội đủ mạnh, với một đội ngũ có tầm và có tâm; sau đó được

kiểm soát bằng sức mạnh của công luận đối với những chính trị gia mà họ chọn để đảm

nhận những công việc của đất nước. Thứ hai, một hệ thống dân chủ phải có một chính

đảng trung thực và đủ năng lực để hệ thống ấy có thể lựa chọn những đảng lãnh đạo thay

thế. Riêng ở Việt Nam chỉ có một chính đảng duy nhất thì có thể học tập theo mô hình của Singapore.

Việc một quốc gia có thành công như một chế độ dân chủ với một bộ máy hành chính

trung thực, hay rơi vào tuyệt vọng và chế độ độc tài với một bộ máy hành chính tham

nhũng, tùy thuộc vào việc liệu có đủ những con người được giáo dục đào tạo sẵn sàng xuất hiện để đảm nhận trách nhiệm của mình thay vì nhìn đất nước đi xuống hay không.

Sự vận hành của một hệ thống dân chủ về cơ bản là những vấn đề quan trọng được

đặt ra trước nhân dân qua các cuộc bầu cử nghiêm túc. Và bất kỳ ai được lựa chọn để đại

diện cho người dân đều được kỳ vọng thực hiện những nhiệm vụ mà nhân dân trao cho họ.

Đây chính, là cốt lõi của hệ thống dân chủ.

Một điều quan trọng nữa là, chính phủ cũng phải đảm bảo duy trì sự cân bằng phù

hợp giữa cạnh tranh và bình đẵng. Để thành công, xã hội phải duy trì sự cân bằng giữa việc

bồi dưỡng nhóm ưu tú và khuyến khích nhóm trung bình cải thiện. Phải có cả hợp tác và cạnh tranh giữa người dân trong xã hội.

90

Bởi vì, nếu tất cả mọi người trong xã hội đều đạt được phần thưởng như nhau, thì

cũng chẳng còn ai cố gắng vượt lên cả. Xã hội sẽ không phát triển và sự tiến bộ cũng chỉ ở

mức tối thiểu. Mặt khác trong một xã hội cạnh tranh cao, nơi người thắng có phần thưởng

lớn còn người thua hưởng ít, sẽ có sự chênh lệch lớn giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới

đáy xã hội, như ở Mỹ chẵng hạn.

Cho nên để tạo ra một xã hội về cơ bản có sự công bằng hơn thì nhà nước phải có một

chính sách phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội. Nhưng trước tiên, chúng ta phải tạo ra

của cải vật chất. Để làm điều đó, chúng ta phải cạnh tranh và có một phần “dương” đủ

mạnh. Nếu chúng ta có quá nhiều phần “âm” và phân phối lại quá nhiều thu nhập của

những người thành công thì khi đó chúng ta sẽ làm thui chột động lực phấn đấu và thành

công của họ, và có thể để mất quá nhiều những người có năng lực, những người sẽ tìm tới

các quốc gia khác nơi họ không bị đánh thuế cao. Mặt khác, nếu có quá nhiều người ở tầng

lớp dưới cảm thấy bị gạt bỏ thì xã hội sẽ bị chia rẽ và bức xúc, và tính đoàn kết sẽ bị mất đi.

Cần phải giải quyết vấn đề cân bằng giữa cạnh tranh cá nhân và đoàn kết. Trong xã

hội cạnh tranh có “phần dương” càng lớn thì thành tích tổng thể càng cao. Nếu người thắng

cuộc lấy cả thì cạnh tranh sẽ gay gắt, nhưng đoàn kết nhóm sẽ yếu. Nếu phần thưởng được

chia đồng đều, thì đoàn kết nhóm càng lớn, nhưng tổng thành tích càng yếu do cạnh tranh

giảm đi. Nếu chúng ta thu xếp sự hỗ trợ, nhưng theo cách sao cho chỉ những người yếu thế

hơn cũng nhận được phần thu nhập bổ sung.

Chỉ trong một thế hệ (1965 đến 1990), Singapore đã đi từ thế giới thứ ba lên thế giới

thứ nhất. Để xây dựng một Singapore như thế, họ cần một chính phủ rất mạnh, với những

lãnh đạo có năng lực nhất, mạnh mẽ nhất và tận tâm nhất. Chỉ những lãnh đạo như vậy

mới có thể giúp cho tăng trưởng, tạo ra nhiều công ăn việc làm và tạo ra thu nhập để chi trả

cho việc trang bị cho quân đội, cảnh sát nhằm đem lại an ninh và tự tin cho người dân và

các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu xảy ra tình trạng mất an ninh thì đầu tư sẽ giảm đi. Điều

đó có nghĩa là người dân nghèo đi và bất ổn tăng lên.

91

Để duy trì sự gắn kết xã hội, Chính phủ Singapore đã tạo vùng đệm cho nhóm thấp

nhất, những người có thành tích kém hơn, khoảng 20-25% so với sự cạnh tranh quyết liệt

của thị trường. Cần có sự hỗ trợ những người lao động có thu nhập thấp hơn bằng thu nhập

bổ sung nhằm giảm bớt những khó khăn cho tầng lớp có thu nhập thấp để có một xã hội

công bằng hơn.

Việt Nam muốn có sự phát triển mang tính đột phá thì phải có sự thay đổi mạnh mẽ

một cách tương tự. Nếu không, chúng ta cũng sẽ mãi mãi chạy theo sau họ. Có khi chúng

ta còn bị tụt lại phía sau so với những nước nghèo hơn ở bên cạnh chúng ta, cũng giống

như việc Singapore từng vượt lên chúng ta một cách nhanh chóng.

Cho nên, trước hết chúng ta phải xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch, mạnh

mẽ, quyết liệt trong việc phòng chống tham nhũng. Bên cạnh đó, phải tạo ra một môi

trường cạnh tranh bình đẵng cho mỗi cá nhân và doanh nghiệp, để tạo động lực cho sự

phát triển. Đồng thời, cũng có những chính sách hỗ trợ cho tầng lớp yếu thế hơn nhằm

giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, để tạo ra một xã hội có sự hài hòa, bình đẵng hơn.

Có tạo ra một xã hội dân chủ, công bằng mới tạo điều kiện cho kinh tế và xã hội phát

triển. Kinh tế xã hội có phát triển thì vấn đề nợ công mới có thể giải quyết một cách căn

bản và bền vững.

Kết luận chương 3

Quy mô nợ công của Việt Nam ngày càng lớn, tỷ lệ nợ công trên GDP đang gia tăng

với tốc độ nhanh trong những năm qua. Tình hình nợ công của Việt Nam hiện đang ở mức

rất đáng lo ngại. Vì vậy, cần phải có những giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát và ứng

phó với vấn đề nợ công một cách hiệu quả hơn. Để giải quyết vấn đề nợ công, chính phủ

cần thực hiện nhiều giải pháp, trong đó có những giải pháp chủ yếu sau đây:

thoát gây lãng phí, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

1. Tăng cường việc sử dụng hiệu quả và quản lý chăt chẽ nợ công, nhằm chống thất

cần thiết; đồng thời khơi tăng các nguồn thu bằng nhiều biện pháp.

2. Giảm thâm hụt ngân sách bằng cách tiết kiệm chi tiêu, cắt giảm các khoản chi không

3. Nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước bằng cách tinh giản bộ máy, lựa chọn

nhân tài cho chính phủ nhằm đảm bảo có được một chính phủ có trình độ cao.

92

hạn chế thấp nhất những vụ vi phạm pháp luật, phòng ngừa nạn tham nhũng và lãng phí.

4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước, nâng cao hiệu quả thực thi, tạo sự răng đe,

5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm tạo môi trường đầu

tư thuận lợi, đảm bảo có một sân chơi bình đẵng, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.

6. Hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về quản lý nợ công, trong đó: thực hiện chính

sách tài khóa thích hợp và thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt; đồng thời có sự phối hợp

chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ một cách hiệu quả cao nhất, mới tạo

điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định.

7. Tăng cường công tác kiểm tóan Nhà nước về quản lý nợ công, nhằm phát hiện và

ngăn chặn những vi phạm trong việc sử dụng và quản lý nợ công. Đồng thời, nâng cao việc

quản lý chặt chẽ và sử dụng nợ công một cách hiệu quả hơn.

8. Tăng cường vai trò quản lý của NHNN trong quản lý nợ công. NHNN tham gia

thực hiện việc xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến việc thực hiện chiến lược, tham

gia ý kiến với Bộ Tài chính về những vấn đề liên quan đến biến động thị trường tiền tệ,

thực hiện chức năng đại lý phát hành tín phiếu kho bạc và nhận tiền gửi kho bạc; tạo tính

thanh khoản cho thị trường trái phiếu Chính phủ; bù đắp nguồn vốn thiếu hụt cho ngân

sách trong khuôn khổ chính sách tiền tệ cho phép.

9. Những giải pháp khác, trong đó: cần đổi mới công tác giáo dục và đào tạo, có chính

sách thu hút và sử dụng nhân tài, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội.

93

PHẦN KẾT LUẬN

Nợ công là một vấn đề lớn đối với mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các

quốc gia đang phát triển, như Việt Nam. Mặc dù nợ công có một vai trò tích cực đối với

nền kinh tế, nhưng nợ công cũng có những mặt tiêu cực của nó. Nếu việc sử dụng nợ công

không hiệu quả, thì gánh nặng nợ công sẽ ngày càng lớn. Điều đó dễ dẫn đến việc mất khả

năng trả nợ, và cũng rất dễ dẫn đến nguy cơ làm sụp đổ nền tài chính quốc gia và gây ra

những bất ổn xã hội.

Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có qui mô nợ công tương đối cao

trong khu vực và trên thế giới, và tỷ lệ nợ công trên GDP cũng tăng nhanh trong những

năm qua. Vì vậy, chính phủ cần tăng cường việc kiểm soát và kiềm chế nợ công nhằm đảm

bảo là nợ công luôn được nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Câu hỏi đặt ra là, giới hạn

nào là an toàn dành cho nợ công của Việt Nam? Nợ công của chúng ta ở mức an toàn hay

báo động?

Có lẽ, rất khó để có một câu trả lời chính xác. Bởi vì, hiện nay trên thế giới chưa có

tiêu chuẩn chung nào về ngưỡng an toàn đối với nợ công. Về nguyên tắc, việc xác định chỉ

tiêu an toàn nợ công thường dựa trên cơ sở như: đánh giá thực trạng nợ; tình hình kinh tế

vĩ mô, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ; nhu cầu về vốn đầu tư phát triển; hệ số tín

nhiệm của quốc gia …

Đối với khu vực đồng tiền chung Châu Âu thì có hạn mức trần nợ công áp dụng

chung cho tất cả các nước trong khối là dưới 60% GDP. Còn ở Việt Nam, theo Quyết định

số 958/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược nợ công và nợ

nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2030, chỉ tiêu an toàn về nợ

công và nợ nước ngoài của Việt Nam như sau: Nợ công đến năm 2020 không quá 65%

GDP.

Gần đây, cuộc khủng hoảng ở các nước châu Âu năm 2010 khiến cho vấn đề nợ công

ở các quốc gia trên thế giới trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Cho nên các nhà kinh tế

rất quan tâm đến những tác động của nợ công đối với nền kinh tế. Hầu hết các nghiên cứu

tập trung vào tác động gây bởi nợ ngày càng cao của các quốc gia lên tăng trưởng kinh tế.

94

Kết quả cho thấy, chỉ một số rất ít các nghiên cứu cho rằng nợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

trong khi gần một nữa kết luận nợ tăng lên làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và hơn một

nữa còn lại nói rằng quy luật này đúng chỉ khi dựa trên một tỷ lệ nhất định của nợ theo

GDP (ngưỡng nợ công), nghĩa là tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế có tính phi

tuyến.

Giá trị ngưỡng nợ công này giữa các nhóm nước có sự khác biệt nhau. Thông thường

giá trị ngưỡng nợ công của nhóm các nước phát triển và công nghiệp cao hơn so với nhóm

các nước đang phát triển. Đối với các quốc gia đang phát triển, giá trị ngưỡng nợ công

thường dao động trong khoảng 30% - 60% GDP.

Craigwell et al. (2012) cho rằng ở mức thấp hơn 30% GDP, việc gia tăng nợ gắn với

sự phát triển kinh tế nhanh hơn. Tuy nhiên, khi nợ tăng trên 30%, tác động lên tăng trưởng

kinh tế giảm dần nhanh chóng và ở mức ngưỡng 55-56%, tác động này dịch chuyển từ

dương sang âm.

Hiện nay tỷ lệ nợ công của Việt Nam đã vượt con số 60% GDP. Cho nên Việt Nam

cần phải có giải pháp kiềm chế và kiểm soát nợ công theo hướng giảm xuống và luôn đảm

bảo là nợ công sẽ không được vượt quá con số 65% GDP mà chính phủ đã đặt ra.

Tuy nhiên, đây là con số đặt ra trong ngắn hạn, cũng không phải là một con số cứng

nhắc. Vì khi nền kinh tế đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, chắc chắn nó phải có sự

thay đổi theo xu hướng chung của thế giới là phải tăng lên. Có nghĩa là, khi Việt Nam đã

hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã trở thành một quốc gia

phát triển thì tỷ lệ trên cũng không còn nhiều ý nghĩa.

Việc sử dụng hiệu quả vốn vay, đồng thời đảm bảo được khả năng trả nợ còn lệ thuộc

vào nội lực của nền kinh tế. Cho nên, qui mô nợ công của một quốc gia cao hay thấp

không phải là vấn đề quyết định mức độ rủi ro cao hay thấp mà do năng lực kinh tế của

từng quốc gia đó quyết định. Ngoài ra, nó còn lệ thuộc vào cơ cấu nợ nước ngoài của quốc

gia đó trong tổng dư nợ công ra sao. Đương nhiên là việc vay nợ nước ngoài nhiều hay vốn

vay nước ngoài chiếm tỷ trọng cao sẽ bất lợi hơn so với việc vay vốn trong nước, do biến

động về tỷ giá cũng như các điều kiện ràng buộc và áp lực trả nợ khi đáo hạn.

95

Nợ công là một vấn đề lớn, có liên quan đến rất nhiều vấn đề cần được giải quyết. Đó

là những vấn đề có liên quan đến thể chế kinh tế, kể cả thể chế nhà nước, cả về giáo dục

hay việc thực thi pháp luật cũng là những lĩnh vực có liên quan và ảnh hưởng đến vấn đề

nợ công. Vì vậy, giải quyết vấn đề nợ công không chỉ là công việc của Chính phủ, của các

Bộ, Ngành có liên quan đến việc sử dụng và quản lý nợ công theo Luật quản lý nợ công

mà nó còn là vấn đề có liên quan đển cả hệ thống chính trị và của mọi tầng lớp nhân dân.

Khi bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả và tình trạng tham

nhũng, lãng phí còn diễn ra thì ngân sách nhà nước bị thâm thủng là điều dễ hiểu. Nếu tình

trạng ngân sách bị thâm hụt kéo dài và không được bù đắp, thì việc vay nợ là việc đầu tiên

nên làm vì dễ thực hiện nhất. Nếu lạm dụng việc làm này thì nợ công sẽ tăng lên nhanh

chóng.

Khi việc thực thi pháp luật không nghiêm thì việc vi phạm pháp luật vẫn còn xảy ra,

và việc phòng chống tham nhũng, lãng phí cũng không thể mang lại hiệu quả cao. Đặc biệt

là những vụ án kinh tế lớn vẫn còn diễn ra ngày càng nhiều, làm ảnh hưởng đến sự phát

triển kinh tế của đất nước. Khi kinh tế không phát triển thì nguồn thu ngân sách sẽ bị hạn

chế, thu không đủ chi, ngân sách sẽ bị thâm hụt.

Khi nền giáo dục không đạt được nhiều tiến bộ mà bị thụt lùi hay chệch hướng thì

không thể tạo ra nhiều nhân tài để phục vụ đất nước. Khi đất nước không có nhiều nhân tài

hay nhà nước không có chính sách thu hút nhân tài thì sẽ bị chảy máu chất xám. Nếu bộ

máy nhà nước không thu hút được người tài vào để làm việc, thì phần lớn những người

tham gia vào bộ máy nhà nước sẽ không có nhiều người giỏi. Không có nhiều người giỏi

thì bộ máy nhà nước không thể hoạt động có hiệu quả được, đó là chưa kể đến vấn đề đạo

đức xã hội, một khi đã bị xuống cấp thì nguy cơ sẽ còn lớn hơn rất nhiều.

Tóm lại, nợ công là vấn đề có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực; đồng thời cũng có

nhiều lĩnh vực tác động, làm ảnh hưởng đến nợ công. Vì vậy, để giải quyết căn bản vấn đề

nợ công thì Chính phủ cần phải làm rất nhiều việc. Đó là phải giải quyết những vấn đề tồn

tại có liên quan đến nợ công. Phải đánh giá đánh giá được những tác động của nó đối với

nền kinh tế; đồng thời phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như đã nêu trên. Vì nợ công

96

là một vấn đề lớn, nên không thể giải quyết trong một sớm một chiều, mà phải là cả một

quá trình liên tục và lâu dài.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Samuelson, P.A., & Nordhaus, W.D., 1989, Kinh tế học, Nhà xuất bản Thống kê, Tái

bản lần 2 (Tập 2), Hà Nội.

2. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2017), Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14

ngày 23/11/2017, Hà Nội.

3. Chính phủ (2010), Nghị định về nghiệp vụ quản lý nợ công số 79/2010/NĐ-CP ngày

14/07/2010, Hà nội.

4. Bộ Tài chính (2012-2017), Bản tin nợ công qua các năm, Hà Nội

5. Phạm văn Dũng (2011), Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Luân văn

thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM.

6. Trương Trọng Tùng (2015), An toàn nợ công của Việt Nam, Luân văn thạc sĩ tài chính

ngân hàng, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế.

7. Nguyễn Đăng Hưng (2014), Vai trò của kiểm toán trong việc quản lý nợ công, Luận án

tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

8. Nguyễn Văn Bổn (2016), Tác động của nợ công và lạm phát lên tăng trưởng kinh tế ở

các nước đang phát triển, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

9. Lê Phan Diệu Thảo, Nguyễn Thảo Phương (2011), Nợ công Việt Nam - những vấn đề

cần bàn thêm, Tạp chí Ngân hàng số 11 tháng 6/2011.

10. Nguyễn Tuấn Tú (2012), Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Tạp

chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh số 28.

11. Lê Thị Diệu Huyền (2011), Lợi ích phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ nhằm

quản lý nợ công ở Việt Nam, Tạp chí khoa học & đào tạo Ngân hàng số 106.

12. Đỗ Văn Đức (2011), Tác động của khủng hoảng tài chính, nợ công và tăng trưởng đến

nền kinh tế thế giới và những vấn đề kinh tế đối với Việt Nam, Tạp chí khoa học & đào

tạo Ngân hàng số 115.

13. Nguyễn Thị Kim Thanh (2011), Vai trò của Ngân hàng nhà nước trong quản lý nợ

công, Tạp chí Ngân hàng số 2+3/2011

98

14. Đoàn Thanh Hà (2015), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, tài liệu môn Phương

pháp luận nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, năm 2015.

15. Lê Thị Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Nhung 2012, Tiền tệ- Ngân hàng, NXB Phương Đông.

Tp HCM.

16. Alan Phan (2010), Một tư duy khác về kinh tế và xã hội Việt Nam, NXB Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

17. Lý Quang Diệu (2013), Bàn về Trung Quốc, Hoa Kỳ và thế giới, NXB Thế giới, Hà

nội.

18. Lý Quang Diệu (2016), Kỷ luật thép của Singapore, NXB Hồng Đức, Hà nội.

Website:

- http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-dieu-tra/thuc-trang-no-

cong-va-quan-ly-no-cong-o-viet-nam-31983.html [Truy cập ngày 28/11/2018]

- http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/khung-hoang-no-

cong-the-gioi-va-bai-hoc-cho-viet-nam-24573.html [Truy cập ngày 18/05/2018]

- http://baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/nhat-no-nhieu-van-an-toan-giai-phap-cho-

viet-nam-3278552/ [Truy cập ngày: 11/04/2018]

- http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Nghi-quyet-Trung-uong-5-ve-hoan-thien-the-

che-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-XHCN/307873.vgp [Truy cập ngày 20/08/2018]

- http://ndh.vn/bo-tai-chinh-no-cong-viet-nam-nam-2017-o-muc-61-3-gdp-

20180108080238421p4c145.news [Truy cập ngày 09/01/2018]

- http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/bo-truong-tai-chinh-15-nam-no-cong-

tang-gan-15-lan-3492364.html [Truy cập ngày 11/03/2018]

- http://www.tienphong.vn/kinh-te/giam-doc-wb-noi-ve-quan-ly-no-cong-o-viet-nam-

1155633.tpo [Truy cập ngày 15/04/2018]

- http://vietstock.vn/2017/05/ke-hoach-vay-tra-no-cua-chinh-phu-nam-2017-758-

534908.htm [Truy cập ngày 17/05/2018]

- http://www.thesaigontimes.vn/156693/No-tra-no-va-khung-hoang.html [Truy cập

ngày 20/06/2018]

99

- http://tapchinganhang.gov.vn/phoi-hop-chinh-sach-tai-khoa-va-chinh-sach-tien-te-

o-viet-nam-giai-doan-2011-2015-va-giai-phap-den-n.htm [Truy cập ngày

25/07/2018]

- https://tuoitre.vn/tien-cat-ngan-hang-cong-trinh-doi-von-20170913080958205.htm

[Truy cập ngày 13/09/2018]

- http://cafef.vn/nam-2018-no-cong-co-tiep-tuc-la-noi-am-anh-voi-nguoi-dan-

20180102150133355.chn [Truy cập ngày 11/07/2018]

- https://www.bloomberg.com/news/articles/2018-04-18/world-debt-hits-record-164-

trillion-as-crisis-hangover-lingers [Truy cập ngày 18/05/2018]

- https://www.businesstoday.in/current/economy-politics/imf-global-debt-record-

usd-164-trillion-india-praised-right-policies/story/275209.html [Truy cập ngày

08/06/2018]