BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THANH ĐOÀN
NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
TP. HCM – NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THANH ĐOÀN
NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 8 34 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS., TS. NGÔ HƯỚNG
TP. HCM – NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Số liệu và kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Đề tài của tôi chưa được công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
NGUYỄN THANH ĐOÀN
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
đã tận tâm giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu và có những ý kiến
đóng giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này được tốt hơn.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới PGS., TS. Ngô Hướng về sự
hướng dẫn nhiệt tình và đầy tâm huyết trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này.
Tác giả
NGUYỄN THANH ĐOÀN
i
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nợ công luôn là vấn đề mang tính thời sự đối với hầu hết mọi quốc gia trên thế
giới. Dù đó là một quốc gia có nền kinh tế lạc hậu hay tiên tiến, kể cả đó là một quốc
gia có nền kinh tế đứng đầu trên thế giới thì nợ công vẫn luôn luôn hiện hữu.
Đối với những quốc gia kém phát triển hay đang phát triển (như Việt Nam) thì
việc vay nợ, đặc biệt là vay từ các quốc gia phát triển hay từ các tổ chức tài chính quốc
tế như: IMF, WB, ADB,… là nguồn lực quan trọng giúp cho các quốc gia đó có điều
kiện rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, nếu việc sử dụng nợ công không hiệu quả, thì gánh nặng nợ công sẽ
ngày càng lớn và điều đó rất dễ dẫn đến việc mất khả năng trả nợ. Vì vậy, bất kỳ một
quốc gia nào cũng cần phải luôn thận trọng với vấn đề nợ công.
Điều quan trọng là, Chính phủ cần xác định được nhu cầu vốn cần vay bao nhiêu
từ các tổ chức, cá nhân trong nước và vay bao nhiêu từ nước ngoài cho các mục tiêu
đầu tư công để phục vụ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình trọng điểm
phục vụ cho phúc lợi xã hội và quốc phòng an ninh. Chính phủ cần phải tính toán được
hiệu quả kinh tế - xã hội của việc đầu tư công, đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ việc
sử dụng vốn vay, nhất là đối với nợ vay nước ngoài nhằm đảm bảo khả năng trả nợ.
Việc sử dụng hiệu quả vốn vay, đồng thời đảm bảo được khả năng trả nợ còn lệ
thuộc vào nội lực của nền kinh tế. Cho nên, qui mô nợ công của một quốc gia cao hay
thấp không phải là vấn đề quyết định mức độ rủi ro cao hay thấp mà do năng lực kinh
tế của từng quốc gia đó quyết định. Khả năng chống đỡ nợ công của mỗi quốc gia lệ
thuộc vào nội lực của nền kinh tế cũng như phụ thuộc vào cơ cấu nợ nước ngoài của
quốc gia đó trong tổng dư nợ công ra sao. Đương nhiên là việc vay nợ nước ngoài
nhiều (chiếm tỷ trọng cao) sẽ bất lợi hơn so với việc vay vốn trong nước do biến động
về tỷ giá cũng như các điều kiện ràng buộc và áp lực trả nợ khi đáo hạn.
ii
Vì vậy, chính phủ cần xác định được ngưỡng giới hạn nào là an toàn cho vấn đề
nợ công, và phải đảm bảo là nợ công luôn nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Đồng
thời, chính phủ cũng cần có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ và ứng phó với vấn đề nợ
công, trong đó, biện pháp phòng chống tham nhũng và lãng phí trong bộ máy công
quyền là vấn đề cần đặc biệt quan tâm.
Nợ công là một vấn đề lớn, có liên quan đến rất nhiều vấn đề cần được giải quyết.
Đó là những vấn đề có liên quan đến thể chế kinh tế, kể cả thể chế nhà nước, cả về giáo
dục hay việc thực thi pháp luật cũng là những lĩnh vực có liên quan và ảnh hưởng đến
vấn đề nợ công. Vì vậy, giải quyết vấn đề nợ công không chỉ là công việc của Chính
phủ, của các Bộ, Ngành có liên quan đến việc sử dụng và quản lý nợ công theo Luật
quản lý nợ công mà nó còn là vấn đề có liên quan đển cả hệ thống chính trị và của mọi
tầng lớp nhân dân.
Khi bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả và tình trạng tham
nhũng, lãng phí còn diễn ra thì ngân sách nhà nước bị thâm thủng là điều dễ hiểu. Nếu
tình trạng ngân sách bị thâm hụt kéo dài và không được bù đắp, thì việc vay nợ là việc
đầu tiên nên làm vì dễ thực hiện nhất. Nếu chính phủ lạm dụng việc làm này thì nợ
công sẽ tăng lên nhanh chóng.
Khi việc thực thi pháp luật không nghiêm thì việc vi phạm pháp luật vẫn còn xảy
ra, và việc phòng chống tham nhũng, lãng phí cũng không thể mang lại hiệu quả. Đặc
biệt là những vụ án kinh tế lớn vẫn còn diễn ra ngày càng nhiều, làm ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế của đất nước. Khi kinh tế không phát triển thì nguồn thu ngân sách sẽ
bị hạn chế, thu không đủ chi, ngân sách sẽ bị thâm hụt.
Khi nền giáo dục không đạt được nhiều tiến bộ mà bị thụt lùi hay chệch hướng thì
không thể đào tạo ra nhiều nhân tài để phục vụ đất nước. Khi đất nước không có nhiều
nhân tài hay nhà nước không có chính sách thu hút nhân tài thì sẽ bị chảy máu chất
xám. Nếu bộ máy nhà nước không thu hút được người tài vào để làm việc, thì phần lớn
những người tham gia vào bộ máy nhà nước toàn là những người yếu kém thì bộ máy
iii
nhà nước không thể hoạt động có hiệu quả được. Đó là chưa kể đến vấn đề đạo đức xã
hội, một khi đã bị xuống cấp thì nguy cơ sẽ còn lớn hơn rất nhiều.
Đó là một số lý do trong rất nhiều lý do lý giải tại sao các tập đoàn kinh tế lớn của
nhà nước phần nhiều đều làm ăn thua lỗ. Khi các tập đoàn kinh tế nhà nước làm ăn
thua lỗ thì nguồn thu ngân sách nhà nước cũng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Đồng thời
các khoản vốn đầu tư ngân sách sẽ phải tiếp tục rót thêm vào để vựt dậy cho nó sống,
cho dù không chắc là nó có thể sống khỏe được hay không. Điều đó sẽ dẫn đến việc
thâm hụt ngân sách ngày càng lớn và nợ công sẽ tiếp tục gia tăng.
Nợ công là vấn đề có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực và cũng có nhiều lĩnh vực
tác động, làm ảnh hưởng đến nợ công. Vì vậy, để giải quyết căn bản vấn đề nợ công thì
Chính phủ cần phải làm rất nhiều việc và không thể giải quyết trong một sớm một
chiều, mà là cả một quá trình lâu dài.
Trong phạm vi luận văn này, cũng chỉ nêu những tồn tại có liên quan đến vấn nợ
công và đề cập đến một số giải pháp trong rất nhiều giải pháp nhằm giải quyết vấn đề
nợ công mà bản thân cho là thiết thực mang tính lâu dài và bền vững hơn.
iv
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..............................................................................vii
DANH MỤC BẢNG ....................................................................................................viii
DANH MỤC HÌNH ......................................................................................................viii
PHẦN MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .....................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................1
3. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................2
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu.......................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................3
7. Bố cục dự kiến của đề tài ....................................................................................3
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG..................................................................5
1.1. Lý thuyết về nợ công........................................................................................5
1.1.1. Khái niệm về nợ công....................................................................................5
1.1.2. Bản chất kinh tế của nợ công.........................................................................8
1.1.3. Đặc điểm của nợ công....................................................................................9
1.1.4. Vai trò của nợ công......................................................................................10
1.1.5. Phân loại nợ công.........................................................................................15
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công...............................................................16
1.3. Tác động kinh tế của nợ công.........................................................................17
1.4. Tình hình nợ công trên thế giới......................................................................18
1.4.1. Tình hình chung...........................................................................................18
1.4.2. Khủng hỏang nợ công trên thế giới và những tác động đối với Việt Nam..19
Kết luận chương 1..................................................................................................22
v
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM..................................................................................24
2.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam ....................................................................24
2.1.1. Quy mô nợ công và mức độ an toàn nợ công của Việt Nam.......................24
2.1.2. Tình hình sử dụng nợ công..........................................................................28
2.1.3. Một số tồn tại có liên quan đến vấn đề nợ công..........................................33
2.1.3.1. Tình hình quản lý nợ công còn nhiều hạn chế, yếu kém..........................33
2.1.3.2. Bộ máy quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế...........................................35
2.1.3.3. Hiệu quả hoạt động đối với khu vực kinh tế nhà nước không cao...........37
2.1.3.4. Tình trạng tham nhũng, lãng phí đang ở mức đáng lo ngại......................39
2.1.3.5. Việc thực thi pháp luật nhà nước chưa nghiêm........................................43
2.2. Tác động của nợ công đối với nền kinh tế......................................................45
2.2.1. Đánh giá chung về tác động của nợ công....................................................45
2.2.1.1. Tác động tích cực......................................................................................45
2.2.1.2. Những tác động tiêu cực...........................................................................46
2.2.2. Tác động của nợ công đến các biến số vĩ mô nền kinh tế...........................47
2.2.2.1. Tác động tới lạm phát và tỷ giá................................................................47
2.2.2.2. Tác động tới lãi suất và đầu tư..................................................................52
2.2.2.3. Tác động tới tăng trưởng kinh tế..............................................................53
Kết luận chương 2..................................................................................................57
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ ỨNG PHÓ VỚI
VẤN ĐỀ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM.............................................................................59
3.1. Tăng cường việc sử dụng hiệu quả và quản lý chăt chẽ nợ công...................59
3.1.1. Sử dụng hiệu quả vốn vay đầu tư công........................................................59
3.1.2. Quản lý chặt chẽ về nợ công........................................................................60
3.2. Giảm thâm hụt ngân sách................................................................................61
3.2.1. Cắt giảm chi tiêu công.................................................................................61
vi
3.2.2. Khơi tăng các nguồn thu..............................................................................63
3.3. Nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước.................................................63
3.3.1. Tinh giản và làm trong sạch bộ máy nhà nước............................................63
3.3.2. Lựa chọn nhân tài cho chính phủ.................................................................65
3.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước........................................................66
3.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN..............................66
3.6. Hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về quản lý nợ công..............................69
3.6.1. Thực thi chính sách tài khóa thích hợp........................................................69
3.6.2. Thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt............................................................72
3.6.3. Phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.............................74
3.7. Tăng cường công tác kiểm tóan Nhà nước về quản lý nợ công......................77
3.8. Tăng cường vai trò quản lý của NHNN trong quản lý nợ công......................78
3.9. Những giải pháp khác.....................................................................................81
3.9.1. Đổi mới công tác giáo dục và đào tạo..........................................................81
3.9.2. Có chính sách thu hút và sử dụng nhân tài..................................................84
3.9.3. Thực hiện dân chủ và công bằng xã hội......................................................86
Kết luận chương 3..................................................................................................91
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................93
vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Tên viết tắt Tên đầy đủ
1 ABD
2 ASOSAI
3 BHXH 4 CPBL 5 CQĐP 6 CSTK 7 CSTT 6 DNNN IMF 8 Asian Development Bank - Ngân hàng Phát triển châu Á Asian Organization of Supreme Audit Institutions - Hiệp hội các Cơ quan kiểm toán tối cao châu Á Bảo hiểm xã hội Chính phủ bảo lãnh Chính quyền địa phương Chính sách tài khóa Chính sách tiền tệ Doanh nghiệp nhà nước International Monetary Fund - Quỹ tiền tệ quốc tế
9 INTOSAI International Organization of Supreme Audit Institutions - Hiệp hội các Cơ quan kiểm toán tối cao trên Thế giới
10 KTNN 11 NHCSXH 12 NHNN 13 NHTM 14 NHTW 15 NSNN
16 ODA
17 TP. HCM 18 TPCP
19 UNCTAD
20 WB 21 WTO Kiểm toán Nhà nước Ngân hàng Chính sách Xã hội Ngân hàng nhà nước Việt Nam Ngân hàng thương mại Ngân hàng trung ương Ngân sách nhà nước Official Development Assistance - Vay theo điều kiện hỗ trợ phát triển chính thức Thành phố Hồ Chí Minh Trái phiếu Chính phủ United Nations Conference on Trade and Development - Diễn đàn của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển World Bank - Ngân hàng thế giới World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Phân biệt phạm vi nợ công theo cách tính của WB, UCTAD, INTOSAI
và Việt Nam
Bảng 2.1. Thống kê tình hình nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2006-2010
Bảng 2.2. Thống kê tình hình nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2011-2015
Bảng 2.3. Hệ số ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006-2010
Bảng 2.4. Hệ số ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2016
Bảng 2.5. Thâm hụt NSNN qua các năm
Bảng 2.6. So sánh mối liên hệ giữa tỷ lệ nợ công và chỉ số lạm phát qua các năm
Bảng 2.7. Tương quan giữa tỷ lệ nợ công với hệ số ICOR và tăng trưởng kinh tế
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Các thành phần khu vực công theo định nghĩa của IMF
Hình 1.2. Cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Hình 1.3. Mô hình hai khoảng cách
Hình 1.4. Mô hình ba khoảng cách
Hình 2.1. Biểu đồ dư nợ công của Việt Nam qua các năm
Hình 2.2. Biểu đồ cơ cấu nợ công năm 2017
Hình 2.3. Biểu đồ hệ số ICOR Việt Nam qua các năm
Hình 2.4. Biểu đồ tương quan giữa tỷ lệ nợ công / GDP và chỉ số lạm phát
Hình 2.5. Biểu đồ tương quan giữa tỷ lệ nợ công/GDP và tăng trưởng kinh tế
Hình 3.1. Tác động chèn lấn của chi tiêu chính phủ và tài trợ thâm hụt
1
PHẦN MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không thể phủ nhận vai trò của nợ công đối với nhu cầu phát triển kinh tế của đất
nước, nhưng việc vay nợ nước ngoài luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó mang tính tích
cực nhưng mặt khác lại chứa đựng nhiều rủi ro, trong đó tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ, có thể làm
sụp đổ nền kinh tế quốc gia và gây ra những bất ổn xã hội.
Khi chính phủ không huy động được hoặc huy động không được nhiều nguồn vốn từ
các tổ chức và cá nhân trong nước mà quá lệ thuộc vào việc vay nợ nước ngoài để phục vụ
cho các nhu cầu đầu tư công, cũng như phục vụ cho việc chi tiêu của chính phủ do bội chi
ngân sách ngày càng cao thì nguy cơ vỡ nợ là điều rất khó tránh khỏi.
Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có qui mô nợ công tương đối cao
trong khu vực và trên thế giới, và tỷ lệ nợ công trên GDP cũng tăng nhanh trong những
năm qua. Đến cuối năm 2016, tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam là 63,7%, trong đó, cơ
cấu nợ nước ngoài của chính phủ chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ công (44,3%).
Còn theo đồng hồ nợ công trên thế giới mà một bộ phận của báo tài chính The
Economist lập ra trên mạng, nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là 94.854.098.361
USD. Dựa trên dân số là 92.056.721 thì mỗi người Việt Nam phải gánh một khoản nợ là
1.039 USD.
Đó là những con số rất đáng lo ngại, mà chính phủ phải đặc biệt quan tâm và đồng
thời cũng làm cho người dân bức xúc. Có thể nói, nợ công của Việt Nam đang tiến gần tới
mức trần nợ công mà chính phủ đã đặt ra. Cho nên, chính phủ cần thiết phải có những giải
pháp kiềm chế, kiểm soát để đảm bảo là nợ công luôn được nằm trong giới hạn an toàn cho
phép nhằm ngăn chặn nguy cơ vỡ nợ có thể xảy ra.
Với đề tài “nợ công và những tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam” mà
bản thân lựa chọn chính là sự thể những băn khoăn đối với những vấn đề hệ trọng của đất
nước mà mọi người đều rất quan tâm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2
Mục tiêu tổng quát:
Đánh giá tác động của nợ công đối với nền kinh tế của Việt Nam và những giải pháp
nhằm kiểm soát và ứng phó với vấn đề nợ công ở Việt Nam
Mục tiêu cụ thể
- Lý thuyết về nợ công và những vấn đề cơ bản có liên quan đến nợ công
- Thực trạng về nợ công ở Việt Nam và những tác động của nó đến nền kinh tế Việt
Nam
- Những giải pháp nhằm kiểm soát và ứng phó với vấn đề nợ công ở Việt Nam
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Nợ công có vai trò như thế nào đối với nền kinh tế và tác động của nó ra sao?
- Thực trạng nợ công ở Việt Nam và những tác động của nó đối với nền kinh tế Việt
Nam như thế nào?
- Ngưỡng giới hạn an toàn nào dành cho nợ công của Việt Nam và những giải pháp
nhằm kiểm soát và ứng phó với nợ công ra sao?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về nợ công và những tác động của nó đối với nền kinh tế của Việt Nam
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng nợ công của Việt Nam từ năm 2006 –
2015 và phân tích những tác động của nó đối với nền kinh tế của Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Thu thập dữ liệu
Nghiên cứu tập trung vào vấn đề thực trạng nợ công và những tác động của nó đối
với nền kinh tế của Việt Nam nên dữ liệu lựa chọn được xác định trên các cơ sở sau:
- Dữ liệu thu thập chủ yếu dựa trên số liệu công bố của Bộ tài chính, tổng cục thống
kê và các tạp chí. Đây là các dữ liệu có thực, dễ kiểm tra.
- Bên cạnh đó luận văn còn tham khảo các nguồn tư liệu của chính phủ, các văn bản
hướng dẫn của NHNN, ý kiến của các chuyên gia kinh tế và của giáo viên hướng dẫn.
3
5.2 Phân tích dữ liệu
Dữ liệu thu thập sẽ được thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh giá; đồng thời sử
dụng bảng, biểu đồ và hình để minh họa làm tăng độ tin cậy trong nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
Với những mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn kỳ vọng sẽ mang lại một số đóng
góp về mặt lý luận cũng như thực tiễn:
6.1 Về mặt lý luận:
Luận văn đề cập đến cơ sở lý thuyết về nợ công, đánh giá thực trạng về nợ công ở
việt Nam, đề ra những giải pháp để tăng cường kiểm kiểm soát và ứng phó với nợ công
nhằm giúp các sinh viên ngành tài chính – ngân hàng có thêm tài liệu về mặt học thuật,
làm tài nghiên cứu và có thể vận dụng vào thực tế sau này.
6.2 Về mặt thực tiễn:
Luận văn khái quát một cách tương đối đầy đủ về lý thuyết nợ công, thực trạng nợ
công và những tác động của nó đối với nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời cũng đề xuất một
số giải pháp đối với việc kiểm soát và ứng phó với vấn đề nợ công ở Việt Nam. Từ đó giúp
cho việc sử dụng và quản lý vốn vay của chính phủ được đảm bảo an toàn, hiệu quả hơn.
7. Bố cục dự kiến của luận văn
Ngoài chương mở đầu, phần kết luận, phần Phụ lục và các danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của đề tài được bố cục làm 03 chương, cụ thể như sau:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG
Chương này trình bày một số vấn đề cơ bản về lý thuyết nợ công, đánh giá chung về
tình hình nợ công trên thế giới và những tác động của nó đối với nền kinh tế của Việt Nam.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Chương này tập trung nghiên cứu thực trạng nợ công của Việt Nam, đánh giá hiệu
quả về việc sử dụng nợ công cũng như những vấn đề về quản lý nợ công, nêu những mặt
còn tồn tại yếu kém trong việc quản lý và sử dụng nợ công. Bên cạnh đó, cũng đề cập đến
những vấn đề tồn tại có liên quan đến nợ công.
4
Đồng thời, cũng nêu đánh giá chung về những tác động của nợ công đối với nền kinh
tế, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực và những tác động của nó cụ thể đến một số vấn đề về
kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ ỨNG PHÓ
VỚI VẤN ĐỀ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
Chương này đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm soát và ứng phó với nợ công mang
tính lâu dài và bền vững.
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG
1.1. Lý thuyết về nợ công
1.1.1. Khái niệm về nợ công
Cho đến nay khái niệm về nợ công vẫn còn chưa có sự thống nhất tại nhiều quốc gia,
nhất là các quốc gia đang phát triển. Khái niệm về nợ công được định nghĩa trong các
văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam so với các quốc gia khác trên thế giới và các tổ
chức tài chính quốc tế cũng có sự khác nhau.
Theo IMF định nghĩa thì nợ công là Nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các
nghĩa vụ nợ của các tổ chức sau:
- Chính phủ trung ương và các cơ quan của nó;
- Chính quyền địa phương các cấp như bang, tỉnh, thành phố;
- Ngân hàng trung ương;
- Các tổ chức độc lập (Các công ty tài chính và phi tài chính; các ngân hàng thương
mại, các đơn vị công ích…) khi:
+ Ngân sách của tổ chức đó là do Chính phủ báo cáo phê duyệt;
+ Chính phủ sở hữu hơn 50% số cổ phần có quyền biểu quyết hay hơn nửa số thành
viên ban giám đốc là các đại diện của Chính phủ;
+ Khi vỡ nợ, nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm trả nợ của tổ chức đó. (IMF, 2001,
Guidelines for Public dept management)
Theo cách tính của UNCTAD thì nợ công, ngoài nợ của Chính phủ, nợ được Chính
phủ bảo lãnh và nợ của các chính quyền địa phương còn bao gồm khoản nợ của các doanh
nghiệp Nhà nước theo cơ chế tự vay tự trả (có thể là Công ty TNHH Nhà nước một thành
viên, Tập đoàn kinh tế của Nhà nước, các Tổng công ty của Nhà nước, các khoản nợ
tương ứng với tỷ lệ % phần góp vốn của Nhà nước tại các Công ty cổ phần; nếu các công
ty này phá sản Nhà nước sẽ mất đi phần vốn này) với quỹ bảo hiểm xã hội mà Nhà nước
sử dụng để mua trái phiếu, công trái Chính phủ, hay đầu tư vào các công trình kinh tế trọng
6
điểm của quốc gia và khoản tiền này Nhà nước phải chi trả cho người lao động nghỉ hưu
trong tương lai.
Trong hướng dẫn chung về khái niệm nợ công được phát hành bởi Hiệp hội các cơ
quan Kiểm toán tối cao INTOSAI đã định nghĩa nợ công như sau:
(1) Khoản phải trả hay các cam kết khác được gánh chịu trực tiếp bởi các cơ quan
công quyền như là: Chính phủ trung ương, hay một Chính phủ liên bang, tùy thuộc vào thể
chế chính trị của từng nước; Các Chính phủ bang, tỉnh, đô thị, khu vực và địa phương
khác; Các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh do Nhà nước sở hữu hay quản lý; Các đơn vị
Nhà nước khác.
(2) Khoản phải trả hay các cam kết khác mà các cơ quan Nhà nước phải gánh vác với
vai trò đại diện cho các doanh nghiệp tư nhân hay các đơn vị khác.
(3) Việc xử lý đối với các khoản phải trả của Ngân hàng trung ương tùy thuộc vào địa
vị rõ ràng của các ngân hàng và mức độ độc lập của chúng từ Chính phủ trung ương.
Theo WB (2002), nợ công là toàn bộ những khoản nợ của chính phủ và những khoản
nợ được chính phủ bảo lãnh.
Còn theo quy định của Luật Quản lý nợ công 2017 của Việt Nam, nợ công được hiểu
bao gồm ba nhóm là: nợ Chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa
phương.
Như vậy, so với khái niệm nợ công của các tổ chức quốc tế như IMF, UNCTAD,
INTOSAI, thì khái niệm nợ công của Việt Nam chưa bao gồm các khoản vay của Chính
phủ đối với Ngân hàng Nhà nước và các khoản vay của khối các doanh nghiệp Nhà nước
đối với các tổ chức trong nước và nước ngoài không có bảo lãnh của Chính phủ. Có lẽ đây
là nguyên nhân làm cho số liệu về nợ công của Việt Nam trong cơ sở dữ liệu của một số tổ
chức quốc tế cao hơn so với số liệu của Việt Nam. Để hiểu rõ hơn sự khác biệt trong cách
tính toán nợ công của Việt Nam và với các tổ chức tài chính quốc tế ta có thể xem bảng
dưới đây:
7
Bảng 1.1. Phân biệt phạm vi nợ công theo cách tính của IMF, UCTAD, INTOSAI
và Việt Nam
Chỉ tiêu được tính trong nợ công VN
IMF, UNCTAD, INTOSAI X X X X X X X X X không tính X X X X
1. Nợ chính phủ a. Nợ trong nước - Tín phiếu KBNN - Trái phiếu Chính phủ, công trái - Vay từ NHNN để hỗ trợ lãi suất - Vay quỹ BHXH, SCIC b. Nợ nước ngoài - Nợ các chủ nợ đa phương - Nợ các chủ nợ song phương - Nợ thương mại 2. Nợ được Chính phủ bảo lãnh - Bảo lãnh vay trong nước (Bảo lãnh cho VDB, NHCSXH, X X TCT đường cao tốc và các doanh nghiệp khác)
- Bảo lãnh cho các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng vay X X nước ngoài
X
3. Nợ chính quyền địa phương - Trái phiếu chính quyền địa phương - Vay tồn ngân Kho bạc X
X Không tính
4. Nợ của doanh nghiệp Nhà nước - Các khoản vay, phát hành trái phiếu của VDB không có X không tính bảo lãnh của Chính phủ
X không tính
- Các khoản vay trong nước của các tổ chức khác: NHCSXH, TCT đường cao tốc, Vinashin… không có bảo lãnh của Chính phủ
Nguồn: Nguyễn Đăng Hưng (2014)
Việc định nghĩa nợ công là vấn đề rất quan trọng, nếu định nghĩa không chính xác sẽ
dẫn đến việc thống kê không đầy đủ các khoản nợ công, làm cho việc đánh giá nợ công
không đúng với thực trạng của nó. Do đó, sẽ dẫn đến việc đề xuất những giải pháp kiểm
8
soát điều hành nợ công không mang lại hiệu quả, và dễ dẫn đến các rủi ro tài chính, gây
ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
Do việc định nghĩa nợ công của Việt Nam cũng có sự khác biệt so với thông lệ quốc
tế nên việc áp dụng các nghiên cứu về nợ công trên thế giới, cũng như các đánh giá về nợ
công của các tổ chức tài chính quốc tế về tình hình nợ công trên thế giới và Việt Nam cũng
sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, trong luận văn này, số liệu nợ công của Việt Nam vẫn được xác định theo
định nghĩa của Luật Quản lý nợ công 2009.
1.1.2. Bản chất kinh tế của nợ công
Theo nguyên tắc, khi việc chi tiêu vượt quá khả năng của nguồn thu từ thuế, phí, lệ
phí và các khoản thu khác thì chính phủ buộc phải vay nợ để tài trợ và việc này khiến nợ
công phát sinh. Điều này cho thấy nợ công là hệ quả của bội chi ngân sách của chính phủ
và chính phủ phải có trách nhiệm hoàn trả.
Các nhà kinh tế học cổ điển luôn nêu bật một nguyên tắc quan trọng và nhất quán về
quản lý ngân sách là nguyên tắc ngân sách cân bằng. Theo đó, ngân sách cân bằng là ngân
sách mà thu và chi bằng nhau. Điều này giúp chính phủ chi tiêu hợp lý, tránh sự hoang phí
và hạn chế tình trạng lạm thu thông qua việc ban hành các chính sách thuế và tăng thuế.
Nguyên tắc này được khởi xướng và ủng hộ triệt để bởi các nhà kinh tế học cổ điển như
Adam Smith, David Ricardo, và John Stuart Mill (Tsoulfidis, 2007). Vì vậy, hầu hết các
nhà kinh tế học cổ điển không đồng tình với việc vay nợ của chính phủ để chi tiêu.
Trái lại, nhà kinh tế học John Maynar Keys và những người thuộc trường phái
Keynes lại ủng hộ việc vay nợ của chính phủ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua chi
tiêu (Theocarakis, 2014). Họ lập luận trong những tình huống suy thoái kinh tế, việc đầu tư
của khu vực tư nhân sụt giảm mạnh thì việc gia tăng đầu tư của chính phủ vào dự án công
như cơ sở hạ tầng, giáo dục, và y tế thông qua vay nợ sẽ giúp phục hồi nền kinh tế. Hầu hết
các chính phủ đều sử dụng lý thuyết của trường phái Keynes để vượt qua khủng hoảng
kinh tế và tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
9
Tuy nhiên, Paul Samuelson, một nhà kinh tế học ủng hộ trường phái Keynes, cho
rằng việc phối hợp cả chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt là cần
thiết để thúc đẩy hiệu quả nền kinh tế vượt qua sự suy thoái. Điều này cho thấy nợ công
cũng là một công cụ gián tiếp quan trọng trong điều hành kinh tế của các chính phủ nhưng
việc sử dụng nó phải thận trọng và đòi hỏi phải có sự phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ.
1.1.3. Đặc điểm của nợ công
Mặc dù có sự khác biệt về khái niệm nợ công giữa nhiều quốc gia trên thế giới, và dù
có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có những
đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với
các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao
gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm
trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả nợ gián tiếp. Trả
nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ
quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong
trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra
bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam vay vốn
nước ngoài).
Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo
hai mục đích: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa
là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; Hai là, đề đạt được
những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách
chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ công
Việt Nam là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ,
sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên.
10
Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh
tế – xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa
mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng
đồng. Ở Việt Nam, xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích
chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ
công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể là để phát triển kinh tế –
xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
1.1.4. Vai trò của nợ công
Các nhà kinh tế học cho rằng, do các điều kiện khan hiếm nguồn lực và có nhiều khó
khăn nên các nước đang phát triển cần phải sử dụng các nguồn lực đến từ bên ngoài như
các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn viện trợ phát triển ODA (vốn vay
với lãi suất ưu đã dành cho các nước đang phát triển) để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng
cao thu nhập để bắt kịp với sự phát triển của các nước tiên tiến. Khởi đầu là lý thuyết "Cái
vòng luẩn quẩn" và ''Cú huých từ bên ngoài'' của Samuelson & Nordhaus (1976), tiếp theo
mô hình lý thuyết hai khoảng cách của Chenery & Strout (1966) và mô hình lý thuyết ba
khoảng cách được phát triển bởi Bacha (1990), Solimano (1990), và Taylor (1994).
Lý thuyết ''Cái vòng luẩn quẩn" và "Cú huých từ bên ngoài''
Năm 1948, nhà kinh tế học Paul Samuelson đã cho ra đời tác phẩm kinh điển "Kinh
tế học'' trong đó nhấn mạnh đến hoàn cảnh của các nước đang phát triển qua lý thuyết "Cái
vòng luẩn quẩn'' và ''Cú huých từ bên ngoài''. Theo Samuelson, có bốn yếu tố cần thiết cho
sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, qua đó xóa đi khoảng cách giàu nghèo với các
nước phát triển là: nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ. Samuelson lập luận rằng, bốn
yếu tố này ở các nước đang phát triển đều khan hiếm nên việc kết hợp bốn yếu tố này cho
việc thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao thu nhập của người dân có nhiều trở ngại lớn. Đặc
biệt, tình trạng khó khăn này tăng lên gấp bội ở các quốc gia nghèo và Samuelson nhìn
thấy điều này như ''cái vòng luẩn quẩn" của sự nghèo khổ. Hình dưới đây biểu thị ''vòng
luẩn quẩn của sự nghèo khổ''.
11
Samuelson cho rằng, các nước đang phát triển trong ''cái vòng luẩn quẩn'' của sự nghèo
khổ khó mà tự thoát ra được. Để có thể phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này ông cho rằng cần
phải có ''cú huých từ bên ngoài'', nghĩa là các nước đang phát triển cần phải có các nguồn
lực trợ giúp từ bên ngoài về vốn, công nghệ, các chuyên gia, trình độ quản lý,..Vì vậy,
chính phủ ở các nước đang phát triển có thể nhận sự trợ giúp dưới hai hình thức là dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA). Đi kèm
theo các nguồn vốn này là các tiến bộ về công nghệ sản xuất, quản lý và đào tạo và nâng
cao tay nghề cho người lao động sẽ được chuyển giao cho nước tiếp nhận. Đặc biệt nguồn
vốn viện trợ phát triển (ODA) thực chất là vốn vay với lãi suất ưu đãi mà các nước đang
phát triển phải trả trong tương lai.
Mô hình hai khoảng cách (The two - gap model)
Trong tác phẩm ''Forein Assistance and Economic Development'' (Viện trợ nước
ngoài và phát triển kinh tế), Chenery & Strout (1966) trình bày ''mô hình hai khoảng cách''
với việc phân tích các mối quan hệ giữa nguồn vốn từ nước ngoài và phát triển kinh tế. Ý
tưởng chủ yếu của mô hình này là chính phủ ở các nước đang phát triển cần sử dụng hiệu
quả các nguồn lực nội tại trong nước và dùng nguồn vốn nước ngoài (dòng vốn đầu tư FDI
và vốn viện trợ phát triển ODA) làm đòn bẩy để lấp đầy ''khoảng các đầu tư - tiết kiệm'' và
''khoảng cách thương mại''.
12
Cả hai nhà kinh tế này cho rằng sự thiếu hụt đầu tư (khoảng cách giữa đầu tư và tiết
kiệm) là hạn chế chính đối với tăng trưởng bởi vì vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy gia tăng sản lượng trong các mô hình tăng trưởng kinh tế. Thâm hụt thương
mại là khoảng cách thứ hai gây cản trở cho sự phát triển kinh tế ở các nước đang phát
triển, đặc biệt ở những nước nghèo. Hai nhà nghiên cứu này lập luận nguồn vốn từ bên
ngoài có khả năng giải quyết được vấn đề này.
Thực vậy, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), khoản nợ vay ưu đãi dành
cho các nước đang phát triển, là một trong những dòng vốn đến từ bên ngoài bù đắp hiệu
quả ''hai khoảng cách'' trên. Nguồn vốn viện trợ này không chỉ là những khoản nợ vay có
lãi suất ưu đãi mà còn là những chuyển giao kỷ thuật, kinh nghiệm quản lý, công nghệ đi
kèm, đào tạo nguồn nhân lực. Đây chính là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn lực
để chính phủ gia tăng đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết và cơ bản như y tế, giáo dục,
phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách chính sách và thể chế trong dài hạn để tạo động lực cho
sự phát triển của các hoạt động kinh tế trong nước, tạo điều kiện giảm nghèo và bất bình
đẵng giữa các tầng lớp dân cư và nâng cao mức thu nhập của người dân.
Ngoài ra, mô hình hai khoảng cách còn nhấn mạnh đến sự điều chỉnh cao kỷ thuật sao
cho có sự cân bằng giữa hai khoảng cách này. Nếu "khoảng cách tiết kiệm - đầu tư'' lớn
hơn ''khoảng cách thương mại" thì các nước sẽ giảm bớt đầu tư và gia tăng tiết kiệm trong
nước. Ngược lại thì các nước sẽ tăng cường xuất khẩu và giảm bớt nhập khẩu. Việc sử
dụng nguồn vốn từ bên ngoài để cân bằng hai khoảng cách thì sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Theo đó, chính phủ ở các nước sẽ chủ động điều chỉnh việc sử dụng nguồn vốn từ bên
ngoài thông qua ba giai đoạn: giai đoạn một là để bù đắp cho sự thiếu hụt năng lực; giai
đoạn thứ hai là cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư, và giai đoạn thứ ba là để bù đắp những
khoảng cách về ngoại hối.
13
Mô hình ba khoảng cách (The three - gap model)
Mô hình ba khoảng cách là sự bổ sung và phát triển từ mô hình hai khoảng cách và
được phát triển bởi Bacha (1990), Solimano (1990), và Taylor (1994). Theo đó, các nhà
nghiên cứu này bổ sung thêm thể chế tài chính như là một khoảng cách thứ ba "khoảng
thâm hụt ngân sách " do vấn đề bội chi ngân sách của chính phủ. Trong thực tế, vấn đề bội
chi ngân sách được tài trợ thông qua các khoản vay nợ trong nước và nước ngoài của chính
phủ. Đặc biệt với nguồn vốn trong nước có hạn, chính phủ các nước đang phát triển phải
sử dụng các khoản vay ưu đãi đặc biệt đến từ các nguồn viện trợ phát triển ODA. Cách tiếp
cận mô hình ba khoảng cách cho thấy mối tương quan của nợ công với khoảng cách
thương mại và khoảng cách tiết kiệm - đầu tư trên cơ sở kiểm soát khoảng cách thâm hụt
ngân sách.
Ba khoảng cách này chính là ba khiếm khuyết của các nước trên thế giới, đặc biệt là
các nước đang phát triển. Chúng được hình thành tự nhiên trong quá trình phát triển kinh
tế ở mỗi quốc gia và chính phủ ở các nước cần có những biện pháp hợp lý và hiệu quả để
thu hẹp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bacha (1990), Solimano (1990), và Taylor
(1994) cũng nhấn mạnh các nguồn lực từ bên ngoài để giúp điều chỉnh và cân bằng ba
khoảng cách này. Các nguồn lực này cũng đến từ dòng vốn đầu tư nước ngoài FDI và
nguồn vốn viện trợ ODA.
Tương tự như mô hình hai khoảng cách, do các khoảng cách này có tương quan và
tác động lẫn nhau nên mô hình ba khoảng cách cũng nhấn mạnh đến việc điều chỉnh phù
hợp để đảm bảo sự cân bằng hợp lý giữa ba khoảng cách. Nếu "khoảng cách thương mại"
14
lớn hơn "khoảng cách thâm hụt ngân sách" thì chính phủ nên ưu tiên tăng nguồn thu thông
qua thuế đồng thời tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu để giảm bớt khoảng cách thương mại.
Nếu "khoảng cách thâm hụt ngân sách" lớn hơn "khoảng cách tiết kiệm - đầu tư" thì các
chính sách cần có là giảm chi tiêu chính phủ, tăng đầu tư với tốc độ phù hợp cùng với việc
tăng tiết kiệm trong tiêu dùng của người dân.
Tóm lại, từ những nghiên cứu trên cho thấy, nợ công có một vai trò rất lớn trong việc
đầu tư phát triển kinh tế đối với mọi quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các quốc gia
đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Thứ nhất, tăng cường đầu tư phát triển: Đối với các quốc gia đang phát triển, để phát
triển hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ… thì nguồn vốn vay là rất quan trọng. Nguồn
vốn này càng hấp dẫn bới nó còn được các nước phát triển cũng như các tổ chức tài chính
quốc tế hỗ trợ với lãi suất ưu đãi, thời gian ân hạn dài. Chính vì vậy, nguồn vốn vay sẽ hỗ
trợ giúp các quốc gia chậm phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển rút ngắn
khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng trở thành các quốc gia phát triển.
Thứ hai, kích thích tăng trưởng kinh tế: Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị
trường đều có hoạt động vay nợ. Việc vay nợ làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư
trong nước, góp phần thu hút, mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước,
tạo niềm tin và sự tin cậy của đất nước mình trên trường quốc tế. Nợ công an toàn với nền
kinh tế sẽ tạo nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế được bền
vững, qua đó điều chỉnh tốt cán cân thanh toán quốc gia, góp phần hỗ trợ các nước vay nợ
tiếp thu công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài.
Thứ ba, bù đắp các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ: Trong lĩnh vực tài chính
công, một nguyên tắc quan trọng của NSNN được các nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi
trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết các quốc gia, đó là nguyên
tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách thăng bằng được hiểu là một
ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh tế, điều này giúp Nhà nước tiết
kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên tắc này sẽ giúp hạn chế tình trạng
Nhà nước lạm thu thông qua việc quyết định các khoản thuế. Tuy nhiên, trong một số thời
15
điểm, Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá khả năng thu của mình
(khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải vay vốn từ các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, điều đó làm phát sinh nợ công. Như vậy, nợ công là hệ quả của việc
Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà nước phải có trách nhiệm hoàn trả; hay nói cách khác,
vai trò quan trọng nhất của nợ công là bù đắp các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ.
1.1.5. Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong
việc quản lý và sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay, thì nợ công gồm có hai loại: nợ trong
nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt
Nam. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ,
tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Việc phân loại nợ trong nước và
nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ, nó giúp xác định chính xác hơn tình
hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài
còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài
chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực
tiếp và nợ công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát
từ những thỏa thuận vay trực tiếp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ
chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở
tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước ngoài. Nợ
công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài,
thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công, thì nợ công có ba loại là
nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và
nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa
16
phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm
bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ
trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ, thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ
công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính
phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền
địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật NSNN
năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân
sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ
đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
Ở nước ta theo Luật quản lý nợ công, thì nợ công bao gồm:
+ Nợ Chính phủ;
+ Nợ được Chính phủ bảo lãnh;
+ Nợ chính quyền địa phương.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
Những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến nợ, gồm có những nhân tố sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế giảm có xu hướng làm tăng tỷ nợ trên GDP, ngược lại tăng
trưởng kinh tế tăng trưởng tốt điều đó có nghĩa việc sử dụng nguồn vốn vay đã đem lại
hiệu quả do đó triển vọng trả được nợ trở nên sáng sủa hơn so với khi nền kinh tế kém tăng
trưởng. Mặt khác khi nền kinh tế tăng trưởng cao thì mức độ tiết kiệm trong nền kinh tế
lớn, khả năng huy động được nguồn vốn vay từ trong nước cũng tăng lên. Việc vay vốn
trong nước cao trong cơ cấu nợ công sẽ có lợi hơn so với việc lệ thuộc quá nhiều từ nguồn
vốn vay nước ngoài, vì sẽ ít gặp rủi ro về tỷ giá cũng như về áp lực trả nợ và cả những ràng
buộc bất lợi khác.
- Lạm phát và tỷ giá, lạm phát tăng có tác dụng bào mòn giảm giá trị đồng tiền trong
nước, do đó làm giảm nợ công (đối với nợ vay bằng đồng nội tệ); tỷ giá cao, sẽ gây bất lợi
làm tăng nợ vay bằng đồng ngoại tệ.
17
- Lãi suất và đầu tư, lãi suất cao làm tăng chi phí vay nợ, do đó làm tăng nợ công
trong tương lai. Mặt khác, lãi suất cao làm giảm đầu tư, làm giảm sản lượng, tức làm giảm
các nguồn thu từ thuế, làm mất cân đối thu chi, dẫn đến tình trạng bội chi ngày càng cao.
Bội chi cao, lại tiếp tục vay nợ để bù đắp, dẫn đến nợ công ngày càng gia tăng. Trong
trường hợp lãi suất ngoại tệ tăng làm ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản vay nước ngoài,
các khoản vay ngoại tệ sẽ trở nên đắt đỏ hơn và ngược lại. Điều đó sẽ là gia tăng các khoản
nợ lãi trong tương lai, làm gia tăng nợ công.
- Chính sách tài khóa, chính sách tài khóa mở rộng, là việc chính phủ tăng chi tiêu ở
khu vực công, điều này chắc chắn dẫn đến việc tăng nợ công; ngược lại chính sách tài khóa
thắt chặt sẽ có tác dụng làm giảm nợ công, nhưng cũng có tác dụng làm giảm đầu tư, làm
sụt giảm sản lượng, làm giảm nguồn thu, gây mất cân đối thu chi, và cuối cùng lại làm nợ
công tiếp tục gia tăng.
1.3. Tác động kinh tế của nợ công
Nautet & Van Meensel (2011) nhận định có nhiều cách trong đó nợ công tăng (giảm)
có tác động âm (dương) lên hoạt động kinh tế trong dài hạn. Có ba cơ chế truyền dẫn
chính.
Thứ nhất, nợ công tăng nói chung tương ứng với tiết kiệm của chính phủ giảm, dẫn
đến việc tiết kiệm quốc gia ròng giảm. Điều này có xu hướng làm lãi suất tăng. Lãi suất
tăng làm giảm đầu tư và làm giảm nguồn vốn. Tích lũy vốn giảm làm chậm sự đổi mới và
làm giảm năng suất. Kết quả là năng suất lao động thấp hơn. Đáng chú ý tác động lên lãi
suất phụ thuộc vào quy mô của khu vực bị tác động bởi nợ công tăng. Nếu sự gia tăng đó
được giới hạn trong một nền kinh tế mở nhỏ, tác động lên lãi suất thị trường chỉ vừa phải.
Ngược lại, nếu nợ tăng lên cùng lúc ở các quốc gia hình thành nên khu vực kinh tế
chung, áp lực lên lãi suất thị trường sẽ rất lớn.
Thứ hai, nợ công tăng đưa đến chi phí trả lãi cao hơn. Các chi phí này sau đó được bù
đắp bằng cách cắt giảm các chi tiêu cho năng suất - chẳng hạn như đầu tư công vào hạ tầng
- hoặc bù đắp bởi thuế cao hơn và tạo nên sự bóp méo của thuế. Tùy vào các công cụ tài
khóa được dùng, có thể là tác động âm lên tiêu dùng (trong trường hợp gia tăng thuế VAT
18
và trách nhiệm trả thuế), lên đầu tư tư nhân (trong trường hợp thuế vốn), và lên nguồn
cung lao động (trong trường hợp thuế thu nhập).
Thứ ba, nợ công tăng đưa đến rủi ro vỡ nợ, và làm tăng chi phí rủi ro. Chi phí rủi ro
cao hơn làm tăng chi phí tài trợ và có thể đe dọa khả năng thanh toán của khu vực công.
Ngoài ra, điều này có thể dẫn đến lãi suất dành cho các cá nhân và doanh nghiệp tăng lên.
Lượng nợ cao kết hợp với các điều kiện ngân sách bất lợi sẽ làm tăng tác động xấu
của lượng nợ cao lên lãi suất (Nautet & Van Meensel, 2011). Điều này có nghĩa là chính
phủ sẽ phải cạnh tranh với khu vực tư nhân trong việc vay nợ, tạo nên hiệu ứng chèn lấn
khu vực tư trong việc thu hút nguồn vốn và khiến cho lãi suất tăng cao. Trong tình huống
này, cần quan tâm đến vai trò của các thể chế và cấu trúc thiết lập ngân sách ban đầu, và
các tác động xấu bắt nguồn từ thị trường tài chính. Vì thế, các yêu tố như thể chế yếu kém
và không đầy đủ, tiết kiệm tư nhân thấp, dòng vốn nước ngoài yếu, thất nghiệp cao, khu
vực ngân hàng yếu hoặc nhạy cảm với các tác động xấu sẽ quyết định quy mô của nợ lên
lãi suất. Ảnh hưởng của yếu tố dân số ngày càng già lên tính bền vững của khu vực công
cũng có thể là một yếu tố quan trọng.
Tác động âm của nợ công lên hoạt động kinh tế cũng có thể cảm nhận được thông
qua cơ chế truyền dẫn khác, chẳng hạn như lạm phát kỳ vọng cao hơn, tính bất ổn định và
tính thay đổi của môi trường vĩ mô tăng lên.
1.4. Tình hình nợ công trên thế giới
1.4.1. Tình hình chung
Theo IMF, nợ toàn cầu đã tăng vọt lên mức kỷ lục là 164 nghìn tỷ đô la trong năm
2016, tương với 225% GDP toàn cầu, tăng 8% so với năm 2015. Cả nợ công và nợ tư nhân
đều tăng trong thập kỷ qua. Trong số 164 nghìn tỷ USD, 63% là nợ khu vực tư nhân, còn
lại 37% là nợ khu vực công.
Hơn một phần ba các nền kinh tế tiên tiến có mức nợ trên GDP cao hơn 85%, gấp ba
lần so với năm 2000. Trong số các nền kinh tế lớn, Nhật Bản có mức nợ trên GDP là
236%, Ý là 132% và Mỹ là 108%. Trong khi đó, 1/5 các thị trường mới nổi và các nước có
19
thu nhập trung bình có mức nợ trên 70% GDP, dẫn đầu là Brazil với 84% và Ấn Độ là
70,2%.
Cũng theo số liệu của IMF, nợ chính phủ của Trung Quốc (theo tỷ lệ phần trăm GDP)
dự kiến sẽ tăng từ 47,8% trong năm 2017 lên 65,5% vào năm 2023.
Còn các dự báo cho Hoa Kỳ thì tương đối ảm đạm, nợ công dự kiến sẽ tăng từ 108%
trong năm 2017 lên 117% GDP vào năm 2023, thâm hụt tổng thể sẽ tăng trên 1 nghìn tỷ
USD trong ba năm tới, tương ứng với hơn 5% GDP. Nếu thực hiện chính sách cắt giảm
thuế thì nợ công sẽ còn cao hơn nữa.
Tuy vậy, ngoài nền kinh tế Mỹ - được dự báo không mấy lạc quan, thì triển vọng của
thế giới nói chung có chiều hướng tích cực hơn. Theo dự báo của IMF, cho thấy tỷ lệ nợ
trên GDP sẽ giảm trong vòng 3 đến 5 năm tới ở hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới.
1.4.2. Khủng hỏang nợ công trên thế giới và những tác động đối với Việt Nam
Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh
tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi quá nhiều, trong khi
thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình thức như phát hành
công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân
sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Thế giới từng xảy ra những vụ khủng hoảng nợ
công, mà điển hình cuộc khủng hoảng nợ công khu vực Mỹ La tinh những năm 1980 và
cuộc khủng hoảng nợ công khu vực châu Âu năm từ cuối năm 2009.
Cuộc khủng hoảng nợ diễn ra ở các quốc gia Mỹ La tinh những năm 1970 và 1980
được xem là thảm họa lớn nhất trong lịch sử khu vực này, kể từ sau cuộc Đại khủng hoảng
những năm 1930 và đây cũng là cuộc khủng hoảng nợ công đầu tiên trong lịch sử kinh tế
hiện đại. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Mexico (1982) khi quốc gia này tuyên bố vỡ nợ,
sau đó hầu hết các quốc gia trong khu vực cũng đều không tránh khỏi vòng xoáy này đó là:
Argentina (1982, 1989), Bolivia (1980, 1986, 1989), Brazil (1983, 1986-1987) và Ecuador
(1982, 1984).
Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ tại Mỹ La tinh là: (i) Việc đầu tư
quá nhiều vào kết cấu hạ tầng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa dẫn đến việc chính phủ bội
20
chi ngân sách kéo dài một cách trầm trọng; (ii) Gia tăng tỷ lệ nhập siêu do nhập khẩu nhiều
nguyên, vật liệu, cũng như công nghệ sản xuất từ nước ngoài để thực hiện được mục tiêu
công nghiệp hóa. Hai điều trên dẫn đến sự gia tăng ngày càng lớn nhu cầu về nguồn vốn
của chính phủ. Do đó, họ đã phải đi vay rất nhiều tiền từ các quốc gia phát triển khác
và các tổ chức tài chính quốc tế.
Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bắt đầu từ nửa sau năm 2009 với sự gia tăng
mức nợ công của nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Ireland, Italya, Hy Lạp và Tây Ban Nha). Hy
Lạp là quốc gia đầu tiên bước vào vòng xoáy này, với mức thâm hụt ngân sách đạt tới
13,6% GDP. Nợ công Hy Lạp cũng lên tới 236 tỷ Euro, chiếm khoảng 115% GDP của Hy
Lạp vào năm 2009. Vào tháng 11/2010, Ireland chính thức trở thành nạn nhân thứ hai của
cơn bão khủng hoảng nợ công khi phải cầu viện với EU và IMF. Bước sang năm 2011, Bồ
Đào Nha tiếp tục là quốc gia thứ ba rơi vào khủng hoảng khi tuyên bố mức thâm hụt ngân
sách đã lên tới 8,5%GDP, cùng với đó nợ công cũng đã vượt quá 90% GDP. Ý và Tây Ban
Nha mặc dù chưa thực sự rơi vào khủng hoảng, nhưng cũng rơi vào vòng nguy hiểm.
Thâm hụt ngân sách của Ý vào năm 2011 mới chỉ ở mức 5% GDP, nhưng nợ công đã xấp
xỉ 120% GDP. Tây Ban Nha nợ công ở mức 72% GDP, trong khi thâm hụt ngân sách lại
rất cao, gần 9% GDP.
Nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu là do chính sách tài khóa
thiếu bền vững và sự mất cân đối trong việc vay nợ của các quốc gia. Điển hình là Hy Lạp,
kể từ khi gia nhập khối đồng tiền chung Eurozone vào năm 2001 cho đến khủng hoảng tài
chính năm 2008, mức thâm hụt ngân sách được công bố trung bình vào khoảng 5% mỗi
năm, trong khi con số này của cả khối Eurozone chỉ là khoảng 2% (IMF, 2009). Chính
vì thế, Hy Lạp đã không thể duy trì được những chỉ số theo chuẩn của Ủy ban Kinh
tế và Tiền tệ của EU (EMU), với mức trần thâm hụt ngân sách là 3% và nợ nước ngoài
là 60% GDP. Tuy nhiên, Hy Lạp không phải là quốc gia duy nhất, bởi có đến 25/27 thành
viên EU không đạt được cam kết này (Kirkegaard, 2009).
Sự tác động của khủng hoảng nợ công trên thế giới đối với tình hình kinh tế Việt
Nam, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu, thể hiện qua những mặt sau đây:
21
Thứ nhất là, xuất khẩu giảm: Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ
quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải
chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng
GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu
giảm mạnh.
Thứ hai là, lãi suất thấp ở các nước, trong khi ở Việt Nam lãi cao sẽ bất lợi về chi phí
cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ
công, nhiều ngân hàng trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp
lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất
định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%;
BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất
cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14 -
16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5 - 17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn. Nếu tính
đến lạm phát ước cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỉ suất lợi nhuận
trên 24 - 27%, là mức cao so với tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các
ngành trong năm 2009 (khoảng 20%).
Ba là, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm: khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra
tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc
gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn
FDI dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu
nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. Ngược lại, các
nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được hưởng
lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ
công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút
do cuộc khủng hoảng nợ.
Bốn là, giá vàng bùng nổ: các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú
ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá
vàng trong thời gian qua tăng mạnh. Việc giá vàng và tăng tới một kỷ lục mới, tạo sự tách
22
biệt hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác. Điều này sẽ tác động xấu đến
đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục đầu
tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các doanh mục khác như cổ phiếu, trái
phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế.
Năm là, bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) có xu hướng tăng lên; vấn đề Hy Lạp đang
làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn
nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỉ lệ nợ trên GDP cao;
chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng
trưởng GDP sụt giảm. Hệ quả là Việt Nam với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên
đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp
ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu
hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.
Sáu là, biến động tỉ giá hối đoái sẽ rất khó lường khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo
ra những biến động khó lường về tỉ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà
tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng
hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD, sẽ tạo ra những
rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như
hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Với cơ cấu nợ công của Việt Nam
nghiêng về nợ nước ngoài nhiều thì ảnh hưởng của tỷ giá tới khả năng hoàn trả vốn khi
quản lý nợ công là rất cao.
Kết luận chương 1
Khái niệm về nợ công, cho đến nay vẫn còn chưa có sự thống nhất tại nhiều quốc gia,
nhất là các quốc gia đang phát triển. Cho nên số liệu về nợ công của Việt Nam trong cơ sở
dữ liệu của một số tổ chức quốc tế cũng có sự khác nhau, thường là cao hơn so với số liệu
của Việt Nam. Vì vậy, những đánh giá về mức độ rủi ro nợ công của Việt Nam chưa thực
sự chính xác.
Nợ công có một vai trò rất lớn đối với hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, nhất là đối
với các nước đang phát triển. Các nhà kinh tế học cho rằng, do các điều kiện khan hiếm
23
nguồn lực và có nhiều khó khăn nên các nước đang phát triển cần phải sử dụng các nguồn
lực đến từ bên ngoài như các dòng vốn FDI và vốn viện trợ phát triển ODA (vốn vay với
lãi suất ưu đã dành cho các nước đang phát triển) để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao
thu nhập để bắt kịp với sự phát triển của các nước tiên tiến.
Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh
tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Thế giới từng xảy ra những vụ
khủng hoảng nợ công, mà gần đây nhất cuộc khủng hoảng nợ công khu vực châu Âu năm
từ cuối năm 2009. Khủng hoảng nợ công trên thế giới tác động đối với tình hình kinh tế
Việt Nam thể hiện qua những mặt sau đây: (1) Xuất khẩu giảm. (2) Lãi suất thấp ở các
nước, trong khi ở Việt Nam lãi cao sẽ bất lợi về chi phí cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam. (3) Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm. (4) Giá vàng bùng nổ: các nhà đầu tư trên thế
giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn. (5) Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) có xu
hướng tăng lên. (6) Biến động tỉ giá hối đoái sẽ rất khó lường.
Hiểu rõ vai trò quan trọng của nợ công và tác động kinh tế của nợ công, cũng như
nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công và những tác động của nó đối với nền kinh tế
của Việt Nam như thế nào, để có những giải pháp ứng phó kịp thời.
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam
2.1.1. Quy mô nợ công và mức độ an toàn nợ công của Việt Nam
Theo Economic Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới 11,5 tỷ USD,
tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công sắp xỉ 144 USD. Nhưng
tính đến hết năm 2010, nợ công đã lên đến 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP. Như
vậy chỉ trong vòng 10 năm từ 2001 đến năm 2010, quy mô nợ công đã tăng gần 5 lần và
tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm. Trong giai đoạn 2006 – 2010, cơ cấu nợ công
của Việt Nam gồm nợ chính phủ, bình quân chiếm 78,9%, còn lại là nợ chính phủ bảo lãnh
và nợ chính quyền địa phương. Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 61,5%; nợ trong
nước chiếm 38,5%.
Bảng 2.1. Tình hình nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010.
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
2010
BQ
Nợ công
404,556
558,155
657,940
877,753
1,124,638
724,608
1. Nợ chính phủ
336,778
441,025
501,811
696,365
882,750
571,746
a) Nước ngòai
220,863
286,710
312,001
411,117
527,403
351,619
b) Trong nước
115,915
154,315
189,810
286,248
355,347
220,327
2. Nơ CPBL
47,353
94,510
137,732
162,863
225,513
133,594
a) Nước ngòai
16,556
31,999
47,840
68,446
89,108
50,790
b) Trong nước
30,997
62,511
89,892
94,417
36,405
82,844
3. Nơ CQĐP
20,225
22,620
18,397
18,525
16,375
19,228
4.Nợ công/GDP (%)
41.5
48.8
44.5
52.9
56.8
48.9
- Nợ CP/GDP (%)
34.6
38.6
34.0
42.0
44.6
38.8
- Nợ CPBL/GDP (%)
4.9
8.3
9.3
9.8
11.4
8.7
- Nợ CQĐP/GDP (%)
2.1
2.0
1.2
1.1
0.8
1.4
Nguồn: Bộ tài chính, Bản tin nợ công qua các năm
Đến giai đoạn 2011 – 2015, cơ cấu nợ công của Việt Nam gồm nợ chính phủ, chiếm
(bình quân) 78,2%, còn lại là nợ chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong
25
nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 49,2%, nợ trong nước chiếm 50,8%; riêng trong năm
2015, nợ nước ngoài chiếm 42%. So với giai đoạn 2006 – 2010, cơ cấu nợ nước ngoài của
chính phủ có giảm đáng kể. (xem bảng 2.2)
Bảng 2.2. Tình hình nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2011 – 2015
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2011
2012
2013
2014
2015
BQ
Nợ công
1,405,313.23 1,661,438.98 1,984,469.12 2,318,929.89 2,593,396.34 1,992,709.51
1. Nợ chính phủ
1,092,761.48 1,279,484.48 1,528,066.24 1,826,051.12 2,064,632.62 1,558,199.19
a) Nước ngòai
666,372.68
727,434.05
763,224.42
810,125.34
867,813.12
766,993.92
b) Trong nước
426,388.80
552,050.43
764,841.82 1,015,925.78 1,196,819.50
791,205.27
2. Nơ CPBL
288,374.75
343,099.50
396,061.88
422,639.77
455,121.72
381,059.52
a) Nước ngòai
116,734.15
150,628.46
188,485.57
210,802.28
247,667.09
182,863.51
b) Trong nước
171,640.60
192,471.04
207,576.31
211,837.49
207,454.63
198,196.01
3. Nơ CQĐP
24,177.00
38,855.00
60,341.00
70,239.00
73,642.00
53,450.80
4. Nợ công/GDP (%)
54.9
50.8
54.5
58.0
61.0
55.8
- Nợ CP/GDP (%)
43.2
39.4
42.6
46.4
49.2
44.2
- Nợ CPBL/GDP (%)
11.4
10.5
10.9
10.6
10.7
10.8
- Nợ CQĐP/GDP (%)
0.3
0.9
1.0
1.0
1.1
0.8
Nguồn: Bộ tài chính, Bản tin nợ công qua các năm
Hình 2.1 minh họa xu hướng nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2015 không
ngừng tăng lên và tăng một cách đều đặn.
Hình 2.1. Biểu đồ dư nợ công của Việt Nam qua các năm (đơn vị: tỷ đồng)
26
2,593,396
Năm 2015
2,138,930
Năm 2014
1,984,469
Năm 2013
1,661,438
Năm 2012
1,405,313
Năm 2011
Nợ công
1,124,638
Năm 2010
877,753
Năm 2009
657,940
Năm 2008
558,155
Năm 2007
404,556
Năm 2006
-
500,000 1,000,000 1,500,000 2,000,000 2,500,000 3,000,000
Nguồn: Bộ tài chính
Nhìn chung tình hình nợ công của Việt tăng nhanh qua các năm về số tuyệt đối lẫn số
tương đối so với GDP. Chỉ trong vòng 10 năm (từ năm 2006 đến năm 2015), nợ công đã
tăng 6,4 lần. Ngoài ra, dư nợ nước ngoài của Chính phủ đến cuối 2015 đã tăng 6,5 lần so
với năm 2001. Khoản dư nợ này tập trung chủ yếu vào 3 nhà tài trợ chính là Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB) tăng 20,3 lần, Ngân hàng Thế giới (WB) tăng 11,5 lần, Nhật Bản
tăng 6,8 lần…
Các dữ liệu về tỷ lệ nợ công, nợ chính phủ năm 2016 cũng đều tăng so với một năm
trước đó. Cụ thể, tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2016 là 63,7% GDP (tăng 4,4% so với năm
2015); nợ chính phủ chiếm 52,6% GDP, tăng 6,9%. Tỷ lệ nợ công năm 2017 là 61,3%;
trong đó: nợ chính phủ chiếm 51,6%, nợ CPBL chiếm 9,1%, nợ CQĐP chiếm 0,6%. Nhìn
chung nợ công năm 2017 có giảm so với năm 2016. (Hình 2.2) minh họa cơ cấu nợ công
năm 2017.
Hình 2.2. Biểu đồ cơ cấu nợ công năm 2017
27
0.6%
9.1%
Nợ chính phủ
Nợ chính phủ bảo lãnh
Nợ CQĐP
51.6%
Theo đồng hồ nợ công trên thế giới mà một bộ phận của báo tài chính The Economist
lập ra trên mạng, nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là 94.854.098.361 USD. Dựa
trên dân số là 92.056.721 thì mỗi người Việt Nam phải gánh một khoản nợ là 1.039 USD,
cao hơn gấp 6 lần so với năm 2001.
Qua những số liệu trên cho thấy, quy mô nợ công của Việt Nam ngày càng lớn và tỷ
lệ nợ công trên GDP cũng không ngừng tăng nhanh trong những năm qua, và đang tiến gần
tới sát ngưỡng giới hạn an toàn (65%) mà chính phủ đã đặt ra. Đó là những con số rất đáng
lo ngại mà chính phủ phải thực sự quan tâm và cũng làm cho người dân bức xúc.
Mặc dù số liệu nợ công của Việt Nam được Bộ tài chính công bố trên các Bản tin nợ
công hàng năm, nhưng thực chất con số nợ công của Việt Nam chính xác là bao nhiêu vẫn
còn là con số mơ hồ (do cách xác định còn có sự khác biệt so với thông lệ quốc tế). Những
loại nợ được gọi là nợ công mà chính phủ có trách nhiệm hoàn trả cũng khác so với quan
điểm của nhà tài trợ.
Bộ Tài Chính Việt Nam chỉ nhìn nhận nợ công bao gồm: nợ của chính phủ, nợ được
chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương. Nhưng các nhà tài trợ quốc tế thì cho
rằng nợ công phải bao gồm cả các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước. Nếu các
doanh nghiệp này mà không trả được nợ, thì nhà nước phải có trách nhiệm trả nợ thay.
Nếu tính theo thông lệ quốc tế, thì quy nợ công của Việt Nam sẽ còn lớn hơn nhiều.
Có thể nói, nợ công của Việt Nam hiện nay đang ở mức rất cao và rất đáng phải báo động.
Cho nên, chính phủ cần thiết phải có những giải pháp kiềm chế và kiểm soát nợ công để
28
đảm bảo là nợ công luôn được nằm trong giới hạn an toàn cho phép, nhằm ngăn chặn nguy
cơ vỡ nợ có thể xảy ra.
2.1.2. Tình hình sử dụng nợ công
Trong các nguồn vốn hình thành nên nợ công, ODA là nguồn lực quan trọng nhất, có
thể nói đó là “cú huých từ bên ngoài” giúp cho Việt Nam thay đổi diện mạo, từ một quốc
gia kém phát triển đã vươn thành một quốc gia có “thu nhập trung bình thấp”.
Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã nhận được rất nhiều khoản viện trợ và ưu đãi tín
dụng từ các quốc gia phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế. Phần lớn các nguồn vốn
trên được sử dụng chủ yếu vào mục đích nhằm đầu tư vào kết cấu hạ tầng và các chương
trình phục vụ cho an sinh xã hội nhằm tạo nền tảng thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế.
Nguồn vốn ODA hay nợ công đã đóng một vai trò tích cực đối với sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu
quả cao, thể hiện trên hai khía cạnh sau đây:
Thứ nhất: hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số ICOR cao.
ICOR (Incremental Capital - Output Ratio) - là một chỉ số cho biết muốn có thêm một
đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị vốn
đầu tư trong kỳ đó. Hệ số ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư càng thấp và
ngược lại.
Hiệu quả đầu tư thấp, là một trong những nguyên nhân gây nên lạm phát, khủng
hoảng và suy thoái kinh tế. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 ít nhiều
chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế thế giới. Hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số
ICOR cao trong khi tăng trưởng kinh tế đạt thấp.
Cụ thể là, năm 2009: hệ số ICOR ở mức rất cao (7,35), trong khi tăng trưởng kinh tế
chỉ đạt 5,40% GDP. Có nghĩa là, trong năm 2009 để tăng 1 đồng GDP thì cần đầu tư đến
7,35 đồng vốn đầu tư. Nhìn vào hệ số ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế, có thể thấy hiệu
quả đầu tư của năm 2009 thấp hơn so với năm 2006 (xem bảng 2.3).
29
Hiệu quả đầu tư giai đoạn 2011 - 2016 vẫn chưa được cải thiện. Cụ thể, hệ ICOR năm
2016 là 6,41 cao hơn rất nhiều so với năm 2006 (4,57), trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế
chỉ đạt 6,21%, thấp hơn so với năm 2006 (8,23%) (xem bảng 2.4).
Theo khuyến cáo của các nước phát triển thì hệ số ICOR của các nước đang phát triển
nên từ 3,00 đến 4,00 thì mới được gọi là hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư. Như vậy,
theo số liệu ở trên từ năm 2006 đến năm 2016, hệ số ICOR của Việt Nam luôn ở mức cao
hơn khuyến cáo, nghĩa là hiệu quả đầu tư của Việt Nam nói chung là thấp.
ICOR của Việt Nam thuộc loại cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
ICOR bình quân thời kỳ 1996 - 2010 của Việt Nam cao gấp trên 2 lần của Đài Loan; gấp
1,9 lần của Hàn Quốc thời kỳ 1961 - 1980; gấp 1,6 lần của Trung Quốc thời kỳ 2001 -
2006; gấp trên 1,3 lần của Malaysia thời kỳ 1981-1985…
Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giai đoạn 2006 – 2016 đạt hiệu quả còn
thấp, thể hiện qua hệ số ICOR vẫn còn cao (xem hình 2.3).
Hình 2.3. Biểu đồ hệ số ICOR giai đoạn 2006 -2016
30
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thứ hai: hiệu quả đầu tư công thấp còn do tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn;
tình trạng dự án, công trình thi công chậm tiến độ, dỡ dang, kéo dài; việc đầu tư dàn trải,
lãng phí, thất thoát quá nhiều.
Theo Bộ Tài chính, trong tổng số 50.000 tỉ đồng vốn trái phiếu chính phủ được Quốc
hội phê duyệt trong năm 2017, đến nay Chính phủ mới giao có 5.200 tỉ đồng, bằng 10,4%
dự toán Quốc hội. Trong đó vốn giải ngân đến nay chỉ đạt khoảng 2.640 tỉ đồng, và không
thể giải ngân hết số vốn này trong năm, do đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Điển hình là tại ĐBSCL, trong giai đoạn 2011 - 2015, một số dự án giao thông sử
dụng nguồn TPCP được đưa vào danh sách cần được đầu tư, xây dựng cấp bách như tuyến
quốc lộ 61 (Hậu Giang), quốc lộ 63 (Cà Mau), quốc lộ 54, 30 (Vĩnh Long, Đồng Tháp),
quốc lộ 91 (An Giang)... nhưng đến nay vẫn chưa được bố trí đủ vốn. Những dự án này có
tổng mức đầu tư 2.809 tỉ đồng. Cho đến nay trung ương chỉ mới cấp phát được khoảng 530
tỉ đồng. Việc chậm trễ trong giải ngân vốn TPCP dẫn đến một số dự án xuống cấp nghiêm
trọng.
31
Còn dự án tuyến đường sắt đô thị TP. HCM với tuyến số 1 (Bến Thành - Suối Tiên)
và tuyến số 2 (Bến Thành - Tham Lương) bị chậm tiến độ do đội vốn và chậm giải ngân
vốn, gây khó khăn cho phía nhà thầu, làm ảnh hưởng uy tín đối với nhà tài trợ Nhật Bản.
Trong đó, dự án Bến Thành - Suối Tiên, dài 19,7km, được phê duyệt từ năm 2005-
2006 với tổng mức đầu tư ban đầu 17.000 tỷ đồng, sau đó đến năm 2010 được phê duyệt
lại trên cơ sở điều chỉnh, tính toán lại thiết kế cơ sở, tăng thêm quy mô thiết kế, cộng với
sự thay đổi tỷ giá đồng Yên... với tổng mức đầu tư tăng lên mức 47.000 tỷ đồng. Còn dự
án Bến Thành - Tham Lương, dài khoảng 40km, tổng mức đầu tư sau khi tính toán lại cũng
bị đội vốn từ mức 26.000 tỷ đồng lên 48.000 tỷ đồng. Hiện cả hai dự án đều chậm tiến độ
và thiếu vốn.
Theo Bộ GTVT, các dự án trên được Thủ tướng, Chính phủ, cũng như Chính phủ
Nhật Bản rất quan tâm. Đây là thời gian các bộ, ngành liên quan và UBND TP. HCM cần
cấp bách, khẩn trương hoàn thành việc thẩm định để Chính phủ xem xét, trình Quốc hội
thời gian tới.
Để dự án có thể tiếp tục thi công, chính quyền TP.HCM đã tạm ứng 1.673 tỷ đồng để
chi trả cho các nhà thầu. Trong khi Quốc hội chưa có quyết định cuối cùng, tỷ lệ cấp phát
vốn cũng chưa được thống nhất giữa Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính và TP.HCM. Số
tiền mà chính quyền TP.HCM tạm ứng chỉ mang tính tình thế và không thể khơi thông
được nguồn vốn ODA.
Một dự án đường sắt đô thị nữa, đó là tuyến đường sắt Cát Linh - Hà Đông dài 13km,
gồm 12 ga đi trên cao. Dự án thực hiện từ tháng 11/2008 và ban đầu dự kiến đến tháng
11/2013 hoàn thành, với tổng mức đầu tư hơn 552 triệu USD. Tuy nhiên, với tiến độ chậm,
đến tháng 10/2011 dự án mới chính thức triển khai và điều chỉnh tổng vốn đầu tư lên hơn
868 triệu USD (hơn 18.000 tỷ đồng).
Sau nhiều lần chậm tiến độ do chậm được cấp nguồn vốn bổ sung, đến tháng 12/2017
các thủ tục đã được tháo gỡ xong, vốn đã được giải ngân cho các nhà thầu tiếp tục triển
khai và thực hiện.
32
Dự kiến dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông sẽ được vận hành, khai thác thương mại
vào cuối năm 2018. Như vậy, nếu không có gì thay đổi thì so với dự kiến ban đầu, dự án
đã chậm đưa vào hoạt động tới 5 năm.
Trong nhiều năm qua, nhà nước đã đầu tư rất lớn cho các công trình công cộng, đặc
biệt là việc xây dựng kết cấu hạ tầng, cảng biển, sân bay, các đặc khu kinh tế… Việc mở
rộng đầu tư công một cách ồ ạt, dàn trải nhưng không hiệu quả dẫn đến kết quả là làm cho
nợ công tăng lên nhanh chóng.
Đường cao tốc TP HCM - Long Thành - Dầu Giây và cảng nước sâu Thị Vải - Cái
Mép, được coi là hai dự án điển hình của lĩnh vực giao thông, đang có nguy cơ trở thành
gánh nặng nợ công vì chi phí quá cao và hoạt động kém hiệu quả.
Trong đó, dự án thứ nhất đóng vai trò đường giao thông cửa ngõ của TP HCM với
tổng vốn đầu tư lên tới hơn 930 triệu USD cho 55 km với 4 làn đường, suất đầu tư của dự
án này là 18 triệu USD mỗi km, cao hơn hẳn với nhiều nước. Nếu loại trừ các chi phí xây
cầu dẫn, đền bù giải phóng mặt bằng, suất đầu tư riêng cho việc xây đường đã là 12,7 triệu
USD một km. Trong khi đó, chi phí bình quân để xây một km đường cao tốc ở Mỹ chỉ là
1,4 triệu USD, tức 5,6 triệu USD cho 4 làn. Còn ở Trung Quốc và Nigeria chỉ là 1 triệu
USD.
Tại kỳ họp Quốc hội thứ 3 (năm 2017), lần đầu Chính phủ đã báo cáo trước Quốc hội
con số xung quanh 12 dự án nghìn tỷ đang "đắp chiếu" với tổng số nợ phải trả lên tới
55.000 tỷ đồng.
Chỉ tính riêng đối với Công ty Công nghiệp tàu thủy Dung Quất, một nhà máy đóng
tàu của Vinashin sau khi được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tiếp quản thì Tập đoàn này đã
rót về đây 5.000 tỷ đồng để trả nợ. Đối với dự án này, đang có 3 phương án xử lý được
xem xét gồm: (1) chuyển đổi sở hữu công ty Công nghiệp tàu thủy Dung Quất; (2) là phá
sản; (3) là tiếp tục tái cơ cấu. Bộ Công thương đề xuất ưu tiên lựa chọn phương án cho phá
sản. Nếu lựa chọn phương án này, Tập đoàn Dầu khí sẽ mất ít nhất khoảng 5.000 tỷ đồng.
33
Các dự án thua lỗ khác như: dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép
Thái Nguyên; dự án nhà máy đầu tư sản xuất sơ xợi Đình Vũ… cũng đã có phương án xử
lý và sẽ trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Vấn đề sử dụng nợ công kém hiệu quả còn thể hiện ở chổ thiếu sự kiểm tra, giám sát;
việc quản lý lỏng lẽo nên còn để xảy ra tình trạng tham nhũng, lãng phí. Ngoài ra, còn tồn
tại tư tưởng lợi ích nhóm và tư duy mang tính cục bộ, địa phương. Hầu như địa phương
nào cũng muốn nhà nước đầu tư cho mình, cho dù những công trình đó không mang tính
cấp bách trong khi nguồn lực của địa phương cũng như trung ương đều có hạn.
Rất nhiều địa phương, nhiều ngành đề xuất những dự án lên đến hàng nghìn tỉ đồng
để xây tượng đài, nhà bảo tàng…Cho dù là cần thiết, nhưng chưa phải là vấn đề cấp bách
trong tình hình đất nước còn nhiều khó khăn. Trong khi nhiều công trình cấp thiết hơn
nhằm phục vụ cho y tế, giáo dục, an sinh xã hội như: bệnh viện, trường học, đường xá, cầu
cống, điện, nước… thì chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn thiếu vốn để đầu tư. Nhiều
nơi, đời sống người dân vẫn còn rất khó khăn, nhất là đối với khu vực nông thôn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, các địa phương cần nên cân nhắc “liệu cơm gắp mắm” cho việc
chi tiêu công khi ngân sách địa phương còn hạn hẹp, khi mà tình hình nợ công đang ở mức
rất đáng lo ngại như hiện nay.
Việc chi tiêu và sử dụng nợ công kém hiệu quả là nguyên nhân dẫn đến rủi ro đáng
báo động cho nền kinh tế, nó khiến cho mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở mức
cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, làm tăng thêm gánh nặng nợ công, làm
tăng nguy cơ vỡ nợ quốc gia, và tạo ra những bất ổn xã hội.
2.1.3. Một số tồn tại có liên quan đến vấn đề nợ công
2.1.3.1. Tình hình quản lý nợ công còn nhiều hạn chế, yếu kém
Thứ nhất, chính sách sử dụng nợ công không hiệu quả. Các khoản vốn vay chủ yếu
được sử dụng trong khu vực đầu tư công, mặc dù được đầu tư vốn rất lớn nhưng nó không
mang lại hiệu quả biểu hiện bởi hệ số ICOR rất cao. Sự thiếu hiệu quả chủ yếu đến từ các
doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là khu vực được Chính phủ bảo lãnh. Các doanh nghiệp
Nhà nước thường đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao như tài chính, ngân hàng, bất động
34
sản, chứng khoán… mà không chú trọng đầu tư vào lĩnh vực ngành nghề kinh doanh
chính. Sự không hiệu quả này đang đe dọa tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính và
nền kinh tế, bởi các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm khoảng 60% dư nợ tín dụng của
các NHTM. Chưa kể, với sự cạnh tranh không bình đẳng, các doanh nghiệp Nhà nước đã
gây sức ép không nhỏ lên các doanh nghiệp ngoài nhà nước, góp phần làm méo mó cơ chế
thị trường và kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân. Sự phối hợp không chặt chẽ, nhiều
thủ tục giữa các cơ quan liên quan khiến tiến độ giải ngân vốn chậm cũng là nguyên nhân
khiến hiệu quả đầu tư công thấp. Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan
Nhà nước không thường xuyên, chưa lien tục nên không đánh giá được hết các sai phạm
trong khâu lập thủ tục đầu tư, thiết kế, đấu thầu, sử dụng vốn sai mục đích, quyết toán sai
gây thất thoát lớn lượng vốn đầu tư, hiêu quả đầu tư thấp.
Thứ hai, chưa tận dụng tối đa nguồn lực từ thì trường chứng khoán. Thị trường thứ
cấp của trái phiếu Chính phủ dường như không phát triển, khối lượng giao dich rất ít. Ngay
cả khi thị trường chứng khoán sôi động thì khối lượng giao dịch cũng chỉ chiếm khoảng 3
– 4% tổng giá trị giao dịch thị trường và chiếm khoảng 6 – 7% tổng giá trị trái phiếu được
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do đó tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ trở
nên kém đi, mặc dù đây là loại công cụ tài chính có độ an toàn cao nhất nhưng nó chưa
thực sự giữ vai trò chủ đạo trong các giao dịch chứng khoán. Việc hoạch định mục tiêu
CSTT, CSTK và quản lý nợ công trong dài hạn chưa có sự thống nhất. Các mục tiêu về
tăng trưởng, lam phát thường dựa vào kết quả trong năm hiện tại và các năm trước do vậy
ít có sự dự báo về những biến động bất thường trong tương lai. Thực tế cho thấy, Chính
phủ đề ra mục tiêu kiềm chế lạm phát trong thời gian vừa qua nhưng mức vay nợ của
Chính phủ chỉ làm rất ít, cùng với đó là tăng lương, thâm hụt NSNN, thâm hụt cán cân
thương mại. Khi thâm hụt tăng cao, thì mục tiêu của CSTT và CSTK sẽ trở nên mâu thuẫn,
hệ quả tất yếu dẫn tới nợ công tăng cao. Trong khi đó, sự phối hợp giữa CSTT và quản lý
nợ công trong ngắn hạn chưa đem lại hiệu quả. Trong giai đoạn 2009 – 2011, sự bất ổn của
tỉ giá dẫn đến áp lực tăng gánh nặng nợ và chi phí dịch vụ nợ cho các khoản nợ nước
ngoài.
35
Thứ ba, quyền hạn của các cơ quan còn chồng chéo, phân tán. Chẳng hạn, đối với cấp
Bộ, ngành: Theo Luật Quản lý nợ công thì Bộ Tài chính giúp Chính phủ thống nhất quản
lý Nhà nước về nợ công (bao gồm tất cả các khâu từ xây dựng mục tiêu, định hướng huy
dộng, quản lý và sử dụng vốn vay và quản lý nợ công). Nhưng trên thực tế, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư lại được Chính phủ giao cho việc huy động vốn ODA và vốn đô la. Tuy nhiên
khâu huy động lại không gắn kết với nguồn trả nợ, không gắn với mục đích sử dụng... Mặt
khác, Bộ Tài chính là đơn vị chủ trì xây dựng hạn mức vay nước ngoài, bao gồm cả hạn
mức tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhưng điều hành cụ thể lại do NHNN. Như vậy, rõ
ràng từ kênh huy động, trả nợ, sử dụng vẫn còn chưa thống nhất với nhau.
2.1.3.2. Bộ máy quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế
Bộ máy nhà nước còn quá cồng kềnh, phương thức quản lý vừa quan liêu vừa phân
tán. Chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp chưa rõ ràng, còn chồng chéo, chưa phù
hợp với cơ chế thị trường. Hệ thống thể chế không đồng bộ, không thống nhất, kỷ cương
quản lý không nghiêm. Trình độ cán bộ còn thấp, tác phong làm việc chậm chạp, ý thức
trách nhiệm chưa cao. Kinh tế chậm phát triển, bộ máy cồng kềnh làm cho thu nhập người
hưởng lương trong khu vực nhà nước còn thấp. Thu nhập thấp là một trong những nguyên
nhân dẫn đến việc phát sinh nhiều tiêu cực, thiếu nhiệt tình, không tâm huyết, gây phiền
hà, nhũng nhiễu, tham ô, lãng phí…
Theo số liệu của WB năm 2015, tỷ lệ công chức và người hưởng lương, phụ cấp từ
ngân sách nhà nước trên 1.000 dân của một số nước trong khu vực (kể cả Quân đội, Công
an): Philippins: 13, Ấn độ, Indonesia: 17; Đông Timo: 18, Singapore: 25, Malaysia: 26,
Nhật Bản: 35, Trung Quốc: 48, Thái Lan : 51; trong khi đó, Việt Nam là 43 (chưa kể Quân
đội, Công An).
Theo báo cáo của Ban Kinh tế Trung ương, năm 2017 Việt Nam có gần 3 triệu công
chức, viên chức (CCVC) đang làm việc và hưởng lương ngân sách trong bộ máy nhà nước,
tương đương tỷ lệ 30,5 CCVC/1.000 dân. Con số này là quá cao so với các nước trong khu
vực: Indonesia là 17,64; Philippines: 13,02; Singapore: 25,69…
36
Công chức nhiều dẫn tới mức chi trả ngân sách nhà nước quá lớn. Tỷ trọng chi tiền
lương trong tổng chi NSNN trên GDP của Việt Nam hiện ở mức cao nhất trong khu vực,
lên gần 10% (Thái Lan: 8, Malaysia: 6, Indonesia: 3…).
Một chỉ số khác mà Ban Kinh tế Trung ương dẫn báo cáo của Ngân hàng Thế giới
cho thấy, tỷ lệ chi tiền lương/tổng chi NSNN ở Việt Nam cũng đứng đầu bảng với hơn
35% (Philippins: 30, Malaysia: 24, Indonesia: 13, Hàn Quốc 9, Nhật Bản 6).
Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam hiện nay từng cho rằng, “Trong bộ máy chúng
ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi,
tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Điều đó cho thấy, số lượng
biên chế viên chức nhiều, trình độ thấp làm cho chính sách xã hội hoá dịch vụ công mang
lại hiệu quả chưa cao, đồng thời cũng làm tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đó là
chưa nói đến việc quản lý trong bộ máy nhà nước còn quá lõng lẽo, dễ dẫn đến phát sinh
nhiều tiêu cực, gây ra tình trạng tham nhũng, lãng phí rất lớn.
Việc chi tiêu cho bộ máy nhà nước quá lớn, cộng với sự thất thoát do tham nhũng,
lãng phí khiến cho tình trạng bội chi ngân sách ngày càng lớn. Thâm hụt ngân sách kéo dài
thường được bù đắp bằng cách vay nợ để tài trợ cho việc chi tiêu công, và điều đó làm cho
nợ công ngày càng tăng lên. Bảng 2.5 cho thấy tình hình thâm hụt NSNN qua các năm.
Năm
GDP (Tỷ đồng)
Tổng thu NSNN (Tỷ đồng)
Tổng chi NSNN (Tỷ đồng)
Thâm hụt NSNN (Tỷ đồng)
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
721,804 734,883 828,348 877,697 998,217 1,101,452 1,288,665
787,554 978,463 1,088,153 1,103,983 1,265,625 1,360,152 1,462,965
-65,750 -243,580 -259,805 -226,286 -267,408 -258,700 -174,300
2,779,880 3,245,419 3,584,262 3,937,856 4,192,862 4,502,733 5,005,975
Bội chi NSNN so với GDP -2.37% -7.51% -7.25% -5.75% -6.38% -5.75% -3.48%
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 2.5. Thâm hụt NSNN qua các năm
37
2.1.3.3. Hiệu quả hoạt động đối với khu vực kinh tế nhà nước không cao
Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa hiệu quả, quản trị doanh nghiệp
còn yếu kém; việc sắp xếp, đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước còn chậm so với yêu cầu; hiệu quả trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước
tại doanh nghiệp còn thấp; mức đóng góp vào ngân sách nhà nước, tăng trưởng GDP, tạo
công ăn việc làm mới có xu hướng ngày càng giảm.
Theo báo cáo tóm tắt kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản
lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước” của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thì trong năm 2008, 56/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước có tỷ suất
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) dưới 15%, tức là thậm chí còn thấp hơn mặt bằng lãi
suất trong năm 2008 (là năm có chỉ số CPI trung bình lên tới 20%). Nếu tính toán đầy đủ
thì hầu hết các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đều làm ăn thua lỗ. Bởi vì, ngay cả khi
các tập đoàn và tổng công ty có lãi thì cũng chủ yếu nhờ vào sự bảo hộ của Chính phủ, nhờ
vào vị thế độc quyền trên thị trường trong nước, được Chính phủ trợ cấp bằng vốn, đất đai,
tài nguyên giá rẽ, được nhận nguồn vốn tín dụng ưu đãi (từ quỹ hỗ trợ trước đây cũng như
từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam hiện nay), được sử dụng cơ sở hạ tầng từ nguồn đầu tư
trực tiếp của Nhà nước (đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hàng không,
viễn thông).
Theo bài “Đánh giá hiệu quả đầu tư” (2010) của tác giả Bùi Trinh, dù tính theo vốn
đầu tư hay theo tích lũy tài sản thì hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước cũng cao gấp
rưỡi hệ số ICOR chung của toàn nền kinh tế. Có nghĩa là, hiệu quả vốn đầu tư của khu vực
kinh tế nhà nước luôn thấp hơn nhiều so với khu vực kinh tế tư nhân.
Những con số về tình hình sản xuất, kinh doanh của các DNNN những năm gần đây
cho thấy kết quả kinh doanh của khu vực DNNN không khả quan, thậm chí lỗ đến mức
báo động. Theo báo cáo của Chính phủ về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà
nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2015, các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước có tổng số nợ phải trả lên đến 1,5 triệu tỷ đồng. Hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu
bình quân năm 2015 là 1,23 lần, trong đó có 25 DNNN có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu
38
lớn hơn 3 lần, đứng đầu là Tổng công ty Phát thanh truyền hình thông tin, Tổng công ty
Xăng dầu quân đội, Tổng công ty Cơ khí xây dựng….
Đáng chú ý, ngành Công Thương có 12 dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém
hiệu quả, làm ăn thua lỗ, điển hình là nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ, dự án nhà máy
gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2, nhà máy nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol Dung Quất,
nhà máy đạm Ninh Bình… Tổng tài sản của 12 nhà máy là hơn 57.600 tỷ đồng, thì tổng nợ
phải trả là hơn 55.000 tỷ đồng.
Theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình tài chính của DNNN năm 2016 cho thấy,
nhiều doanh nghiệp Nhà nước lẽ ra là sức bật của nền kinh tế lại đang thua lỗ hàng nghìn
tỷ đồng. Theo báo cáo, 6 công ty mẹ còn lỗ lũy kế là 4.595 tỷ đồng, gồm Tổng Công ty
Hàng Hải Việt Nam (2.760 tỷ đồng); Tổng Công ty Lương thực Miền Nam (798 tỷ đồng);
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (687 tỷ đồng); Tổng Công ty Giấy Việt Nam (120 tỷ
đồng),...
Cũng theo báo cáo trên, một số tập đoàn có tổng nợ phải trả lớn. Cụ thể, nợ phải trả
của Tập đoàn Điện lực Việt Nam là hơn gần 487 nghìn tỷ đồng, của Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam là hơn 338 nghìn tỷ đồng và Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt
Nam là hơn 100 nghìn tỷ đồng. Những Doanh nghiệp có nợ phải trả nhiều còn có sự góp
mặt của Viettel, Tập đoàn Hóa chất ,... với số nợ cũng lên đến vài chục nghìn tỷ đồng.
Theo Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2010 – 2016, các doanh nghiệp nhà nước đang
trong giai đoạn giảm nhanh quy mô, do chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp lại nên doanh thu
của khu vực này tăng chậm hơn các thành phần kinh tế khác. Năm 2016, các doanh nghiệp
nhà nước chỉ tạo ra 2,88 triệu tỷ đồng, tăng bình quân 6,0%; trong khi đó, các doanh
nghiệp ngoài nhà nước hiện chiếm tỷ lệ doanh thu chi phối và có cơ cấu đóng góp ngày
càng tăng trong toàn bộ các thành phần doanh nghiệp. Năm 2016, tổng doanh thu do khối
doanh nghiệp ngoài nhà nước tạo ra là 9,76 triệu tỷ đồng, chiếm 56% doanh thu của toàn
bộ doanh nghiệp, tăng bình quân 15,7%/năm.
Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước hiện chiếm hữu rất nhiều nguồn lực nhưng sử dụng
chúng một cách kém hiệu quả. Sự đóng góp của khu vực này cho ngân sách nhà nước, tăng
39
trưởng GDP, tạo công ăn việc làm mới ngày càng giảm. Trong khi đó, khu vực tư nhân
đang hoạt động hiệu quả hơn, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế, đang ngày càng khẳng
định vai trò là động lực quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Như vậy, câu hỏi đặt ra là liệu kinh tế nhà nước có còn đóng vai trò chủ đạo đối với
nền kinh tế Việt Nam hiện nay hay không? Có lẽ rất khó để có câu trả lời, vì cơ sở để
khẳng định điều này không có tính thuyết phục cao.
2.1.3.4. Tình trạng tham nhũng, lãng phí đang ở mức đáng lo ngại
Tình trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đang ở mức đáng phải báo động. Điển
hình là những vụ tham nhũng lớn nhất của Việt Nam đã được ghi nhận từ nhiều năm nay,
làm thiệt hại hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước, gây ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vụ PMU 18 (PMU viết tắt cho Project Management Unit, tên tiếng Anh của Ban
Quản lý các dự án 18) là một vụ bê bối liên quan đến tham nhũng trong Bộ Giao thông
Vận tải (GTVT) đầu năm 2006. Vụ này đã gây xôn xao dư luận tại Việt Nam cũng như các
nước và tổ chức cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, đã khiến Bộ
trưởng Bộ GTVT Đào Đình Bình phải từ chức và Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Việt
Tiến bị bắt giam.
Đầu tháng 1 năm 2006, ông Bùi Tiến Dũng, Tổng Giám đốc Ban Quản lý Các Dự án
PMU-18 bị bắt giữ và cáo buộc đã cá độ bóng đá với số tiền trên 1,8 triệu đô la. Liên quan
vụ này còn có trên 200 nhân viên đã tham gia cá độ. Ngoài ra, còn có thêm nhiều quan
chức cấp cao khác bị tố cáo tham gia chạy án cho các bị can.
Vụ hối lộ quan chức Việt Nam của công ty PCI (Pacific Consultants International,
viết tắt là PCI, Công ty Tư vấn Quốc tế Thái Bình Dương) Nhật Bản là vụ việc nổi đình
đám trong năm 2008 tại Việt Nam, liên quan đến việc đưa hối lộ của một số quan chức
công ty PCI với Ban Quản lý dự án PMU tại Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là với ông
Huỳnh Ngọc Sĩ, Phó Giám đốc Sở Giao thông Công chính Thành phố Hồ Chí Minh kiêm
Giám đốc Ban Quản lý PMU Đông – Tây.
40
Vụ việc đã khiến cho công chúng Nhật Bản tức giận và chính phủ Nhật Bản đã phải
tuyên bố tạm dừng các dự án ODA cho tới khi Ủy ban hỗn hợp phòng chống tham nhũng
giữa hai nước xem xét lại việc thực hiện vốn ODA của Nhật tại Việt Nam. Sự cố ODA nói
trên gây ảnh hưởng nặng nề tới nhiều dự án thực hiện bằng nguồn vốn ODA tại Việt Nam.
Đề án 112 hay còn gọi là Đề án Tin học hóa hành chính nhà nước của Chính phủ Việt
Nam nhằm mục đích xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam. Đây là một chương trình
hiện đại hóa hành chính của chính phủ Việt Nam giai đoạn từ 2001 – 2010 về cải cách thủ
tục hành chính nhà nước. Đề án này được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam quyết định vào
năm 2001, thực hiện giai đoạn 1 đến năm 2005. Nhưng đến cuối năm 2005, đầu năm 2006,
đề án 112 thất bại sau khi bị phát hiện nhiều sai phạm và chi phí quá lớn nhưng mang lại
hiệu quả quá thấp. Kết quả giai đoạn 1 của đề án 112 là cả 5 mục tiêu cụ thể mà đề án đặt
ra đều chưa được hoàn thành hoàn chỉnh và cảnh sát Việt Nam đã khởi tố bắt giam Vũ
Đình Thuần, Lương Cao Sơn, cùng hàng chục người khác liên quan đến tiêu cực và tham
nhũng. Số tiền đã chi tiêu là 1.534 tỷ đồng trong đó tổng kinh phí đã sử dụng là gần 1.160
tỷ đồng, số tiền đã tạm ứng chưa chi tiêu cần thu hồi lại là trên 300 tỷ đồng (tổng dự toán
của đề án: 3.800 tỷ đồng).
Vinashin là vụ án lớn gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đối với nền kinh tế Việt
Nam. Tại phiên họp ngày 31/7/2010, Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã thảo luận
và kết luận Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) “đang gặp nhiều khó
khăn rất lớn, bộc lộ nhiều yếu kém, sai phạm nghiêm trọng” do đầu tư mở rộng quá nhanh,
quy mô lớn, dàn trải trên nhiều lĩnh vực, địa bàn trái với quy hoạch được phê duyệt. Trong
đó có những lĩnh vực không liên quan đến công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, nhiều
lĩnh vực kém hiệu quả, có nhiều công ty, dự án thua lỗ nặng nề. Tình hình tài chính đứng
trên bờ vực phá sản: Theo số liệu ban đầu, ước tính dư nợ hiện đã lên tới khoảng 86.000 tỉ
đồng; nợ đến hạn phải trả khoảng trên 14.000 tỉ đồng; tỉ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu
gấp gần 11 lần, khó có khả năng tự cân đối dòng tiền.
Những yếu kém nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan;
trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Trách nhiệm trực tiếp thuộc về Hội đồng Quản
41
trị và Ban lãnh đạo Vinashin trong đó có Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn. Một số cơ
quan quản lý nhà nước có liên quan ở Trung ương và địa phương cũng có trách nhiệm.
Lãnh đạo Vinashin, trước hết là Hội đồng Quản trị và người đứng đầu có nhiều
khuyết điểm, sai lầm trong tổ chức, quản lý, điều hành, xác định lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh, quản lý các công ty con, công ty liên kết, tiến hành các hoạt động đầu tư xây dựng,
quản lý vốn, tài chính, vay và trả nợ. Người đứng đầu Vinashin có năng lực hạn chế, thiếu
trách nhiệm, tuỳ tiện, báo cáo không trung thực, cố ý làm trái, vi phạm pháp luật trong việc
chấp hành các quy định của Nhà nước, của Thủ tướng Chính phủ khi chỉ đạo các hoạt động
đầu tư, sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và bố trí cán bộ.
Tháng 4 năm 2012, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án “Tham ô
tài sản” xảy ra tại Công ty tài chính TNHH một thành viên Công nghiệp tàu thủy Việt Nam
(thuộc Vinashin) và công ty vận tải Biển Đông (thuộc Vinalines). Bốn người bị bắt tạm
giam, trong đó có cựu phó tổng giám đốc Vinalines Bùi Quốc Anh.
Phó Tổng Giám đốc đương nhiệm Trần Hữu Chiều đã bị bắt vào giữa tháng 5. Ngày
18 tháng 5, liên quan đến những sai phạm trong việc điều hành Vinalines, hai nhân vật
lãnh đạo Dương Chí Dũng (Cục trưởng Hàng hải, cựu Chủ tịch hội đồng quản trị
Vinalines) và Mai Văn Phúc (Vụ phó Vụ Vận tải, cựu tổng giám đốc Vinalines) chính thức
bị khởi tố và tạm giam 4 tháng để điều tra trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý làm trái quy
định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Những sai phạm bị đưa ra
xem xét xử lý bao gồm dự án đầu tư mua ụ nổi 83M.
Ngày 15/9/2016, C46 đã khởi tố vụ án để điều tra khoản thua lỗ gần 3.300 tỷ tại Tổng
công ty Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Theo kết
luận của Ủy ban kiểm tra Trung ương, ông Trịnh Xuân Thanh phải chịu trách nhiệm chính
về những sai phạm này với cương vị người đứng đầu.
Theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong năm 2007-2013, dù đã có kiến
nghị, cảnh báo của các cơ quan thanh tra, kiểm toán về tình hình thua lỗ và tiềm ẩn thua lỗ
nhưng ông Trịnh Xuân Thanh và Ban Thường vụ Đảng ủy, Hội đồng quản trị, Ban tổng
giám đốc, Ban Kiểm soát Tổng công ty đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý
42
điều hành, thiếu kiểm tra, giám sát, mắc nhiều sai phạm và gây thua lỗ gần 3.300 tỷ đồng
(giai đoạn 2011-2013).
Liên quan vụ án, bốn cựu lãnh đạo PVC gồm: ông Vũ Đức Thuận (ủy viên HĐQT
kiêm tổng giám đốc), Nguyễn Mạnh Tiến (phó tổng giám đốc), Trương Quốc Dũng (phó
tổng giám đốc), Phạm Tiến Đạt (kế toán trưởng) đã bị bắt, khởi tố cùng về tội “Cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Trên đây chỉ là một số vụ án tham nhũng điển hình trong số rất nhiều những vụ án
đặc biệt nghiêm trọng, làm ảnh hưởng rất nặng nề đối với triển kinh tế đất nước, gây ra
những hậu quả lâu dài, và rất khó có thể khắc phục được trong nhiều năm. Ngoài ra, còn
rất nhiều vụ án có liên quan đến Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực (đầu tư trái ngành),
Tập đoàn Hóa chất,… gây thiệt hại nghiêm trọng vô cùng. Đó là chưa kể đến những vụ án
tham nhũng có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng trong thời gian gần đây đã và đang được
đưa ra xét xử.
Có lẽ tác hại của tham nhũng không chỉ dừng lại ở đó, mà mức độ của nó sẽ còn trầm
trọng hơn nếu khái niệm của nó được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Theo Alan Phan (2010),
“tham nhũng” là một hành xử thiếu đạo đức và lương thiện, lạm dụng chức vụ, quyền lực
hay tình thế để chiếm đoạt tài sản hoặc lợi ích công cộng một cách phi pháp. Như vậy, dù
không chức vụ hay quyền lực hay tình thế để chiếm đoạt tài sản công, người ấy cũng phải
bị coi như một tội phạm hay đồng lõa tham nhũng. Tội trốn thuế cũng bị coi là tham
nhũng, vì một phần thu nhập đáng lẽ phải nộp vào ngân sách nhà nước thì được cho vào túi
riêng. Việc các cán bộ và quan chức nhà nước cấu kết với người nộp thuế để được miễn,
giám thuế hoặc trốn thuế dưới mọi hình thức phi pháp cũng đều được coi là những kẻ tham
nhũng. Gây ô nhiễm mội trường, làm hư hại tài sản công để làm lợi cho thu nhập của mình
cũng là một hình thức tham nhũng.
Alan Phan (2010) cho rằng, mỗi một mét vuông đất ở TP. HCM có giá trung bình là 30 triệu đồng và diện tích hè đường chỉ chiếm 1% toàn thành phố (2.095km2), thì tổng số
tài sản công bị chiếm đoạt đã lên đến 600 ngàn tỷ VND hay 30 tỷ đôla. Nếu tính tất cả hè
đường của các tỉnh thành trong toàn quốc, con số này phải lớn gấp ngàn lần các con số
43
tham nhũng từ chức quyền. Và sẽ còn lớn đến mức nào nếu chúng ta cộng luôn những lạm
khác về đất đai, tài sản, cũng như các hồ sơ gian dối về trợ cấp xã hội, dự án công của
người dân.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh lòng tham của con người sẽ đạt đến đỉnh cao khi họ
được giao quyền hành và tài sản mà không có sự kiểm soát. Kinh tế tư nhân luôn luôn hiệu
quả hơn mọi mô hình kinh doanh, vì đồng tiền đi liền khúc ruột. Cha chung không ai khóc
chính là lý do của mọi lãng phí và tham nhũng.
2.1.3.5. Việc thực thi pháp luật nhà nước chưa nghiêm
Tình trạng coi thường pháp luật đang diễn ra ở khắp mọi nơi, từ các cơ quan nhà
nước, thậm chí ở ngay tại các cơ quan thực thi pháp luật cho đến ngoài xã hội. Việc người
dân dùng đủ mọi cách, bằng đủ mọi hình thức và phương tiện để chiếm dụng tài sản công,
bất chấp pháp luật cũng như hậu quả tai hại cho xã hội. Nhỏ nhất là xã rác bừa bãi, ăn cắp
cây cảnh của công viên, dán biểu ngữ quảng cáo ở cột đèn hay cầm nhầm một vài món đồ
của ai đó. Nặng hơn một chút là bày bán hàng rong trên đường, hè phố, sử dụng xe công,
kho bãi chính phủ vào mục đích riêng, hay lấy trộm vật liệu và thiết bị tại các công trường
xây dựng của nhà nước. Tệ nhất là chiếm đất công và phá rừng, khai thác khoáng sản lậu,
mánh mung để mua tài sản công với giá rẽ, ''đi cửa sau'' để có đặc quyền đặc lợi cho bản
thân và phe nhóm...
Còn việc xây dựng trái phép thì diễn ra ở khắp mọi nơi, kể cả ngay ở giữa lòng Thủ
đô Hà nội, tại một vị trí mang tính nhạy cảm, ảnh hưởng đến vấn đề quốc phòng, an ninh,
mà điển hình là công trình số 8B Lê Trực.
Ở Việt Nam, chuyện vượt đèn đỏ ngay cả khi xe trái chiều tấp nập trong giờ cao điểm
đôi khi cũng là chuyện bình thường. Cho nên, khi nhiều người Việt Nam đến các nước Âu
Mỹ đã rất ngạc nhiên khi thấy mọi người lái xe kiên nhẫn chờ đèn xanh trước khi vượt qua
ngã tư, dù giữa đêm khuya vắng vẽ, không một chiếc xe nào qua lại trên đường.
Ở những quốc gia đó, việc tôn trọng pháp luật ngay cả khi không có cảnh sát, công an
hiện diện, hay không có nguy cơ bị bắt giữ, đã ăn sâu vào tâm trí của người dân. Còn ở
Việt Nam, việc coi thường pháp luật vẫn diễn ra nhan nhãn giữa ban ngày. Nhiều thanh
44
niên chạy xe máy phóng nhanh, vượt ẫu, lạn lách, đánh võng, không đội nón bảo hiểm vẫn
còn diễn ra thường xuyên giữa ban ngày ngày, kể cả ngay giữa trung tâm thành phố Hà
Nội. Thậm chí, cả những người thực thi pháp luật như cảnh sát giao thông lại là những
người coi thường pháp luật, lợi dụng việc vi phạm pháp luật của người dân để trục lợi,
ngang nhiên “làm luật” giữa ban ngày.
Ở Singapore, bằng kỷ luật thép như là phạt tiền đối với người xả rác bừa bãi đã làm
cho hòn đảo này trở thành một đất nước có môi trường sạch nhất thế giới. Mức phạt có thể
tăng dần chứ không chỉ giữ nguyên ở 1 giá. Với người xả rác bừa bãi lần đầu tiên sẽ bị
phạt tối đa là 1.000 đôla Singapore, tái phạm thì mức phạt sẽ tăng lên 2.000 - 5.000 đôla.
Nếu một người bị kết tội xả rác ba lần, thì người đó sẽ bị buộc làm vệ sinh đường phố một
tuần với một thông báo đi kèm : “tôi là người xả rác”, một hình thức làm người phạm tội
xấu hổ để đảm bảo rằng họ sẽ không xả rác một lần nữa. Năm 2015, một người đàn ông ở
Singapore đã phải nộp phạt hơn 15.000 USD vì nhiều lần ném tàn thuốc lá ra ngoài cửa sổ
một tòa nhà cao tầng. Theo hãng tin Reuters, đây được coi là mức phạt vì tội vứt rác cao
nhất từ trước đến nay ở đảo quốc này.
Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 có quy định mức phạt từ 100.000 -
300.000 đồng đối với hành vi xả rác nơi công cộng. Tuy nhiên, mức xử phạt này vẫn ở
mức chỉ mang tính hình thức, chỉ làm qua loa, chiếu lệ.
Theo Chủ tịch HĐND TP. HCM, Nguyễn Thị Quyết Tâm cho rằng, mỗi năm thành
phố chi gần 3.000 tỷ đồng để xử lý rác, đó là chưa tính tiền từng hộ dân đóng phí thu gom
rác hàng tháng. Trong khi đó, ý thức của người dân thì quá kém, đôi khi không trả thêm
phí mà kiếm chỗ nào vắng đổ luôn. Nếu như tổ dân phố, dân quân gặp cũng chẳng làm gì.
Nếu bắt cũng không xử lý được vì không biết xử thế nào? Cùng lắm là phạt 500.000 đồng.
Ở Singapore xử lý rất nghiêm việc xả rác nơi công cộng, người Việt mình qua bên đó
cũng phải tuân thủ. Cho nên bên cạnh việc tuyên truyền nâng cao ý thức cho người dân thì
cũng phải cần xử lý nghiêm hành vi xả rác bừa bãi. Việc xử lý nghiêm sẽ khiến người dân
thay đổi ý thức.
45
Alan Phan (2010) cho rằng, đạo đức và dân trí của một xã hội là một tổng hợp đạo
đức và dân trí của từng cá nhân. Sự thay đổi tư duy và thói quen của từng mỗi người dân
thường là bước khởi đầu và là điều kiện tất yếu cho một xã hội văn minh lành mạnh và hài
hòa.
Việc bất tuân pháp luật và coi thường lợi ích xã hội thường thấy rõ tại các quốc gia có
dân trí thấp kém hơn, trong đó có Việt Nam. Cho nên Việt Nam hiện vẫn chưa thể tạo ra
được một xã hội có một chuẩn mực đạo đức tối thiểu.
Năm 1965, khi Singapore được tách ra khỏi Liên Bang Malaysia, vẫn còn là một làng
chày nghèo, có điều kiện kinh tế còn khó khăn hơn Sài Gòn lúc bấy giờ, vậy mà nay đã
vươn lên đứng vào tốp những quốc gia có nền kinh tế tiên tiến nhất trên thế giới, do nhờ
vào biết cách sử dụng con người và áp dụng kỷ luật thép. Cho nên, Việt Nam cần phải lấy
Singapore để làm bài học cho mình, phải sớm từng bước xóa bỏ dần tình trạng coi thường
và bất tuân pháp luật như hiện nay, để dần dần thay đổi ý thức của người dân.
2.2. Tác động của nợ công đối với nền kinh tế
2.2.1. Đánh giá chung về tác động của nợ công
2.2.1.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, bù đắp các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ:
Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của NSNN được các nhà
kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu
hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách
thăng bằng được hiểu là một ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh
tế, điều này giúp Nhà nước tiết kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên
tắc này sẽ giúp hạn chế tình trạng Nhà nước lạm thu thông qua việc quyết định các khoản
thuế. Tuy nhiên, trong một số thời điểm, Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu
vượt quá khả năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải
vay vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, điều đó làm phát sinh nợ công. Như
vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà nước phải
46
có trách nhiệm hoàn trả; hay nói cách khác, vai trò quan trọng nhất của nợ công là bù đắp
các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ.
Thứ hai, tăng cường đầu tư phát triển:
Đối với các quốc gia đang phát triển, để phát triển hạ tầng, phát triển khoa học công
nghệ... thì nguồn vốn vay là rất quan trọng. Nguồn vốn này càng hấp dẫn
bởi nó còn được các nước phát triển cũng như các tổ chức tài chính quốc tế hỗ trợ với lãi
suất ưu đãi, thời gian ân hạn lâu dài. Chính vì vậy nguồn vốn vay sẽ hỗ trợ rút ngắn thời
gian tiến tới các mục tiêu phát triển giúp các quốc gia chậm phát triển cũng như các quốc
gia đang phát triển như Việt Nam nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng phấn
đấu để trở thành các quốc gia phát triển.
Thứ ba, kích thích tăng trưởng kinh tế:
Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động vay nợ. Việc
vay nợ làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút, mở rộng
các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước, tạo niềm tin và sự tin cậy của đất nước
mình trên bình diện Thế giới. Nợ công an toàn với nền kinh tế sẽ tạo nguồn vốn bổ sung
cho quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế được bền vững, qua đó điều chỉnh tốt cán
cân thanh toán quốc gia, góp phần hỗ trợ các nước vay nợ tiếp thu công nghệ tiên tiến, học
hỏi kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài.
2.2.1.2. Những tác động tiêu cực
Thứ nhất, ảnh hưởng ngược từ các chính sách khi nợ công quá lớn
Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc
bụng” để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần
thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế
toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói
kích thích kinh tế mà chính phủ đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi
tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ
tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào “khủng hoảng kép”.
Thứ hai, bị hạ bậc tín nhiệm
47
Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ
chức chuyên về việc đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người
dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các
thế lực đầu cơ quốc tế. Khi đó, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng
thời từ chối mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền
từ thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy:
tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm.
Thứ ba, tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một
khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản
lượng tiềm năng chậm lại. Vì khi nợ công cao, chính phủ buộc phải áp dụng việc thắt chặt
tài khóa, nhằm hạn chế chi tiêu, làm cho đầu tư khu vực công giảm. Bên cạnh đó, việc tăng
thuế để bù đắp nguồn thu cũng có tác dụng làm giảm tiết kiệm cũng như đầu tư khu vực tư
cũng giảm. Việc giảm đầu tư của cả hai khu vực công và tư nhân sẽ làm cho tăng trưởng
của nền kinh tế giảm xuống.
Thứ tư, gánh nặng cho toàn bộ nền kinh tế cùng với rủi ro chênh lệch tỉ giá
Nợ công ở mức cao sẽ kéo theo mức bội chi ngân sách lớn và dần dần sẽ trở thành
gánh nặng cho nền kinh tế. Trong khi trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam
trong những năm gần đây, Chính phủ đang có kế hoạch triển khai nhiều dự án hạ tầng lớn
như sân bay, đường sắt cao tốc,… nên tỷ lệ nợ nước ngoài sẽ tăng vọt. Nhìn lại quá trình
này, đã có lúc Nhà nước phải đi vay với tỷ giá chỉ 11 nghìn Việt Nam đồng quy đổi bằng 1
USD, thì ở thời điểm hiện tại tỷ giá quy đổi đã lên đến mức trên 23 nghìn Việt Nam đồng
quy đổi bằng 1 USD. Như vậy là khoản chênh lệch tỷ giá này toàn bộ nền kinh tế của
chúng ta phải hứng chịu.
2.2.2. Tác động của nợ công đến các biến số vĩ mô nền kinh tế
2.2.2.1. Tác động tới lạm phát và tỷ giá
Lạm phát và tỷ giá có mối lên hệ mật thiết với nhau. Thông thường, lạm phát tăng thì
kéo theo tỷ giá cũng tăng theo (do đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ). Nói chung lạm phát
48
hay tỷ giá tăng (hoặc giảm) đều ảnh hưởng đến nợ công. Ngược lại, nợ công cũng có
những tác động lên lạm phát và tỷ giá.
Lạm phát cao được xem là một yếu tố bất lợi cho tăng trưởng kinh tế ở các nước đang
phát triển. Tăng trưởng kinh tế cao ở mức lạm phát thấp ổn định là một trong những mục
tiêu chính của hầu hết các chính phủ trên thế giới. Tuy nhiên, gần như các nước đang phát
triển nào cũng phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Fischer et al. (2002) cho thấy thâm hụt ngân sách là một trong các yếu tố quyết định
của lạm phát cao. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm và duy trì ổn định
kinh tế xã hội, hầu hết các chính phủ ở các nước đang phát triển tăng cường đầu tư vào
giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng bằng ngân sách chính phủ. Kết quả là thâm hụt ngân sách
xảy ra bởi vì nguồn thu ngân sách từ thuế không thể bù đắp cho chi tiêu chính phủ (chi
thường xuyên và chi đầu tư). Hầu hết các chính phủ phải vay mượn nợ từ trong nước và
nước ngoài để đối phó với các thâm hụt tài khóa thay vì in tiền để tránh lạm phát cao và
bất ổn kinh tế xã hội.
Về mặt lý thuyết, Bhattarai et al. (2014) chỉ rõ ba cơ chế chính sách khác nhau qua đó
nợ công tác động lên lạm phát.
Đầu tiên là cơ chế "tiền tệ lấn át" với chính sách tiền tệ chủ động và tài khóa thụ
động, qua đó một sự phản ứng cao của lãi suất đến lạm phát gắn liền chặt chẽ với sự phản
hồi cao của thuế đến nợ công. Nợ công và lập trường chính sách tài khóa không ảnh hưởng
đến biến động lạm phát.
Cơ chế thứ hai là cơ chế "tài khóa lấn át" (còn gọi là cơ chế phi Ricardo) với chính
sách tiền tệ thụ động và tài khóa chủ động, qua đó một sự phản ứng thấp của lãi suất đối
với lạm phát có liên quan chặt chẽ với sự phản hồi thấp của thuế đối với nợ công. Trong cơ
chế này, chính sách tài khóa - mức nợ công và lập trường chính sách tài khóa - có tác động
mạnh lên biến động lạm phát. Đặc biệt mức nợ công cao làm lạm phát tăng lên.
Cơ chế cuối cùng là cơ chế với chính sách tiền tệ thụ động và tài khóa thụ động, trong
đó phản ứng thấp của lãi suất đối với lạm phát gắn chặt với phản hồi cao của thuế đối với
nợ, và đưa đến cân bằng bất định. Thế thì lập trường của cả chính sách tiền tệ lẫn chính
49
sách tài khóa có tác động lên biến động của lạm phát, mặc dù mức nợ công không ảnh
hưởng gì đến lạm phát.
Saggent & Wallace (1981) là hai nhà nghiên cứu đầu tiên đưa ra quan điểm sự gia
tăng nợ công gây ra lạm phát ở các quốc gia mắc nợ cao. Quan điểm này gần như được xác
nhận ở hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm (Kwon et al., 2009; Bildirici & Ersin, 2007;
Ahmad et al., 2012; Nastansky et al., 2014).
Khác với các nghiên cứu thực nghiệm, phân tích của Davig & Leeper (2011) cho thấy
khoản nợ tạm thời không tác động lên lạm phát nếu các hộ gia đình kỳ vọng tất cả các sự
điều chỉnh xảy ra thông qua cải cách. Tuy nhiên nếu các hộ gia đình tin là trong tương lai,
chính sách tiền tệ sẽ chuyển từ lạm phát mục tiêu sang ổn định nợ thì nợ tác động trực tiếp
lên chiều hướng lạm phát và chính sách tiền tệ có thể không còn kiểm soát được lạm phát.
Cùng lúc đó, Martin (2015) nhận thấy mặc dù việc cải cách các cơ chế hoạt động của ngân
hàng trung ương sẽ mang lại lợi ích xã hội và ban đầu làm giảm lạm phát nhưng điều này
sẽ không hạ thấp lạm phát lâu dài. Martin phát hiện các bóp méo chính sách từ cơ chế hoạt
động của ngân hàng trung ương sẽ khiến cho chính phủ trả giá bằng thâm hụt tài khoản
vãng lai cao trong tương lai. Kết quả là trong dài hạn lượng nợ công cao hơn sẽ đưa đến
lạm phát gia tăng. Ông cũng cảm thấy việc áp đặt lạm phát mục tiêu chặt chẽ sẽ làm giảm
lạm phát lâu dài và ngăn ngừa thâm hụt ngân sách đến từ các bóp mép chính trị.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tình trạng tài chính quốc gia, khả năng trả nợ quốc gia
là chỉ số rất quan trọng đảm bảo về lòng tin của cộng đồng với đồng tiền nội tệ. Thực tế
chỉ ra rằng khủng hoảng nợ công thường kéo theo hoặc đi kèm khủng hoảng tiền tệ ngân
hàng.
Trong ngắn hạn, sự gia tăng GDP sẽ kéo theo sự thay đổi của các biến số kinh tế
khác. Trước hết, khi GDP tăng, cầu tiền tệ tăng lên. Nếu cung tiền tệ không thay đổi, sự
gia tăng cầu tiền tệ sẽ khiến lãi suất tăng dẫn tới đồng nội tệ tăng giá, điều này dẫn tới nhập
siêu, khuyến khích nhập khẩu, cản trở xuất khẩu. Trong dài hạn cả lạm phát và lãi suất
danh nghĩa cũng tăng theo cùng sự gia tăng của cung tiền.
50
Hiện tượng này thương thấy ở các nước đang phát triển do nguồn thu từ thuế còn hạn
chế trong khi nhu cầu chi tiêu của chính phủ lại lớn. Hơn nữa, tại các nước đang phát triển,
thị trường tài chính còn trong giai đoạn phát triển nên các chính phủ vay nợ ít trên thị
trường và sử dụng biện pháp in tiền để tài trợ cho các khoản chi của mình. Trong lịch sử,
nhiều nước đã thực hiện biện pháp in tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách và dẫn đến lạm
phát phi mã (như Việt Nam nhưng năm cuối thập kỷ 1980), và siêu lạm phát như tại Đức
những năm 1920.
Tại các nước phát triển in tiền để tài trợ cho chi tiêu chính phủ cũng xảy ra, nhưng
thường là trong giai đoạn chiến tranh, khi nhu cầu chi tiêu và các khoản nợ của chính phủ
quá lớn, trong thời bình phần lớn các chính phủ chọn cách vạy nợ trên thị trường vốn
thông qua phát hành trái phiếu để tài trợ cho các khoản chi tiêu. Việc tăng nợ công còn tác
động tới lạm phát thông qua kênh khác. Khi các hộ gia đình nắm giữ nhiều trái phiếu chính
phủ hơn, họ sẽ cảm thấy giàu hơn dẫn tới việc chi tiêu nhiều hơn.
Số liệu thống kê tỷ lệ nợ công và chỉ số lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2006 –
2016 cho thấy sự tác động của nợ công lên lạm phát. (xem bảng 2.6) và (hình 2.4).
Bảng 2.6. So sánh mối liên hệ giữa tỷ lệ nợ công và chỉ số lạm phát qua các năm
Năm Tỷ lệ nợ công trên GDP (%) Lạm phát (%)
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 41,50 48,80 44,50 52,90 56,80 54,90 50,80 54,50 58,00 61,00 63,70 6,60 12,6 19,89 6,52 11,75 18,58 6,81 6,04 1,84 0,60 4,74
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 2.4. Biểu đồ tương quan giữa tỷ lệ nợ công / GDP và chỉ số lạm phát
51
70.00%
63.70%
61.00%
60.00%
58.00%
56.80%
54.90%
54.50%
52.90%
50.80%
50.00%
48.80%
44.50%
41.50%
40.00%
Tỷ lệ nợ công trên GDP
30.00%
Lạm phát (%)
20.00%
19.89%
18.58%
12.60%
11.75%
10.00%
6.60%
6.52%
6.81% 6.04%
4.74%
1.84% 0.60%
0.00%
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn chung khi nợ công tăng có tác động làm lạm phát tăng, cụ thể nợ công tăng từ
41,5% (năm 2006) lên 48,8% (năm 2007) thì lạm phát cũng tăng từ 6,6% (năm 2006) lên
12,6% (năm 2007); tương tự nợ công tăng từ 52,9% (năm 2009) lên 56,8% (năm 2010), thì
lạm phát cũng tăng từ 6,52% (năm 2009) lên 11,75% (năm 2010).
Tuy nhiên, không phải lúc nào nợ công tăng cũng có tác động làm cho lạm phát tăng,
mà có những thời điểm nợ công tăng nhưng lạm phát lại giảm. Bởi vì lạm phát tăng hay
giảm còn do rất nhiều nguyên nhân, mà trong đó có nguyên nhân chủ yếu như: do ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới hoặc do việc thực thi CSTK của chính phủ hoặc
do việc thực hiện CSTT của NHNN.
Tóm lại, nợ công cao có tác động làm tăng lạm phát. Tuy nhiên, nợ công tăng có tác
động làm tăng lạm phát hay không còn lệ thuộc chủ yếu vào việc thực thi CSTT và CSTK
cũng như sự phối hợp giữa chúng với nhau. Trong ngắn hạn, nợ công có thể không làm
tăng lạm phát, nhưng trong dài hạn nợ công cao sẽ làm gia tăng lạm phát theo như cơ chế
mà Bhattarai et al. (2014) đã đề cập ở trên.
52
2.2.2.2. Tác động tới lãi suất và đầu tư
Khi một quốc gia lâm vào tình trạng vỡ nợ, không thực hiện được các nghĩa vụ nợ
(trả nợ gốc và lãi…) thì quốc gia sẽ ngay lập tức bị hạ mức tín nhiệm. Việc chính phủ huy
động thông qua trái phiếu (hay hình thức vay khác) đều trở nên khó khăn và lãi suất sẽ cao
hơn.
Khi tín nhiệm trái phiếu quốc tế của chính phủ bị sụt hạng, nhất là khi bị khủng hoảng
nợ công, chính phủ thiên về huy động vốn từ thị trường trong nước với lãi suất cao. Tình
trạng lấn át đầu tư có thể dẫn đến khu vực tư nhân thu hẹp sản xuất và dẫn đến suy giảm
kinh tế trong trung hạn. Tình trạng này được lý giải như sau: khi chính phủ tăng cường huy
động trong nước để tài trợ cho hoạt động của mình (thường là sau khủng hoảng nợ công),
chính phủ phải huy động với lãi suất cao và do đó lãi suất thị trường trong nước sẽ gia
tăng, khu vực kinh tế tư nhân sẽ thu hẹp đầu tư do không tiếp cận được vốn vì khi đó đầu
tư công đã cạnh tranh với nguồn vốn của khu vực tư nhân.
Khi nợ công, nợ nước ngoài gia tăng, nhất là khi có khủng hoảng nợ công thì chi phí
của các khoản vay của khu vực doanh nghiệp sẽ tăng lên cao. Điều này dễ hiểu vì nguyên
tắc tính lãi trong cho vay quốc tế thường được tính đến yếu tố rủi ro quốc gia. Khi một
quốc gia vỡ nợ thường dẫn đến mức bù rủi ro tăng cao, chi phí bảo hiểm khoản vay CDS
(credit default Swap rate) tăng, dẫn đến chi phí khoản vay ở khu vực doanh nhiệp gia tăng.
Việc đầu tư nhiều, kém hiệu quả, tăng vay nợ dẫn đến lấn át đầu tư và khủng hoảng
nợ công. Tuy nhiên, trên phương diện trung hạn, sau các cuộc khủng hoảng nợ công là một
chu kỳ tăng cường huy động mới mạnh mẽ hơn để trang trải cho các khoản cứu trợ từ cộng
đồng quốc tế. Và điều đó có thể dẫn đến hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân, lãi suất cao do
chính phủ tăng huy động hoặc tăng thuế để tận thu đảm bảo nguồn trả nợ.
Tỉ lệ nợ công của Việt Nam hiện đang ở mức cao và thâm hụt ngân sách kéo dài,
đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp
ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu
hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.
53
Mặt khác, Việt Nam đang có nguy cơ rơi vào “bẩy thu nhập trung bình”. Trong tương
lai, các tổ chức tài chính quốc tế sẽ không còn cấp tín dụng ưu đãi cho Việt Nam như là
một quốc gia có thu nhập thấp. Nhật Bản, một trong những nhà tài trợ tín dụng ưu đãi chủ
yếu cho Việt Nam cũng sẽ cắt giảm dần các khoản cho vay ưu đãi và chuyển dần sang cấp
tín dụng theo lãi suất thị trường, ít ưu đãi hơn.
Nếu chính phủ không thể tiếp tục vay vốn nước ngoài thì sẽ phải huy động vốn từ thị
trường trong nước với lãi suất cao. Khi chính phủ huy động với lãi suất cao thì lãi suất thị
trường trong nước sẽ gia tăng, khu vực kinh tế tư nhân sẽ thu hẹp đầu tư do không tiếp cận
được vốn vì khi đó đầu tư công đã cạnh tranh với nguồn vốn của khu vực tư nhân. Tình
trạng lấn át đầu tư có thể dẫn đến khu vực tư nhân thu hẹp sản xuất và dẫn đến suy giảm
kinh tế trong trung hạn.
2.2.2.3. Tác động tới tăng trưởng kinh tế
Cuộc khủng hoảng ở các nước châu Âu năm 2010 khiến cho vấn đề nợ công ở các
quốc gia trên thế giới trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Hầu hết các nghiên cứu tập
trung vào tác động gây bởi nợ ngày càng cao của các quốc gia lên tăng trưởng kinh tế. Chỉ
một số rất ít các nghiên cứu cho rằng nợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi gần một
nữa kết luận nợ tăng lên làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và hơn một nữa còn lại nói
rằng quy luật này đúng chỉ khi dựa trên một tỷ lệ nhất định của nợ theo GDP, nghĩa là tác
động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế có tính phi tuyến.
Hầu hết các nghiên cứu liên quan đến tác động dương của nợ lên tăng trưởng kinh tế
được thực hiện gần đây. Khởi đầu là nghiên cứu của Moore & Thomas (2010) cho nhóm
các quốc gia đang phát triển. Moore và Thomas nhận định lượng vốn có từ vay nợ có tác
động dương lên tăng trưởng nếu nó được dùng để mở rộng năng suất lao động của quốc
gia. Khác với nghiên cứu cho các nhóm quốc gia, Egbetunde (2012), Al-Zeaud (2014) và
Spilioti & Vamvoukas (2015) nghiên cứu cho từng quốc gia riêng lẽ. Egbetunde (2012)
nhận định nợ sẽ có tác động dương lên tăng trưởng kinh tế nếu chính phủ minh bạch với
lượng tiền vay và sử dụng nó cho sự phát triển kinh tế thay vì qua các kênh làm lợi cho cá
nhân họ.
54
Trái lại, phần lớn các nghiên cứu khác cho rằng nợ công có tác động âm lên tăng
trưởng kinh tế. Schclarek (2004) phát hiện nợ công có tác động âm lên tăng trưởng kinh tế
cho nhóm 59 nước đang phát triển trong khi không tìm thấy tác động nào của nợ công lên
tăng trưởng cho 24 quốc gia công nghiệp trong giai đoạn 1970 - 2002. Tương tự, Calderón
& Fuentes (2013) xác định tác động âm ý nghĩa của nợ công lên tăng trưởng cho 136 quốc
gia trong giai đoạn 1970 - 2010. Tuy nhiên, Calderón và Fuentes nhấn mạnh các thể chế
tốt, chính sách trong nước có chất lượng tốt và các chính sách hướng ra bên ngoài có thể
làm giảm nhẹ tác động âm này.
Mới đây, Eberhardt & Presbitero (2015) sử dụng các ước lượng tuyến tính và phi
tuyến với các kỷ thuật hồi qui mới nhất để nghiên cứu tác động này ở 118 quốc gia từ năm
1961 - 2012. Eberhardt và Presbitero cũng phát hiện tác động âm của nợ công lên tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn ở tất cả các quốc gia.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển có điều kiện kinh tế tương tự nhiều quốc
gia trong khu vực và trên thế giới cũng không nằm ngoài những kết quả nghiên cứu trên.
Cho nên với thực trạng nợ công Việt Nam hiện nay, tỷ lệ nợ công đã lên đến 63,7% (năm
2016) thì tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế chắc chắn là không còn mang lại
hiệu quả cao như những giai đoạn trước đó. Vậy câu hỏi đặt ra là, ngưỡng giới hạn nào là
an toàn dành cho nợ công của Việt Nam? Có lẽ đây là một câu hỏi khó.
Phần lớn các nghiên cứu về nợ công và tăng trưởng phát hiện tác động phi tuyến của
nợ công lên tăng trưởng kinh tế. Theo đó, các nghiên cứu thực nghiệm xác định được giá
trị ngưỡng của nợ công mà dưới giá trị này nợ công có tác động dương và trên nó thì nợ
công có tác động âm ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt giá trị ngưỡng này tùy thuộc
nhiều vào vào mẫu nghiên cứu, thời gian nghiên cứu và phương pháp ước lượng.
Giá trị ngưỡng nợ công này giữa các nhóm nước có sự khác biệt nhau. Thông thường
giá trị ngưỡng nợ công của nhóm các nước phát triển và công nghiệp cao hơn so với nhóm
các nước đang phát triển.
Đối với các quốc gia đang phát triển, giá trị ngưỡng nợ công thường dao động trong
khoảng 30% - 60% GDP. Pattillo et al. (2011) phát hiện ngưỡng nợ công theo GDP ở
55
khoảng 35 - 40% cho 93 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1969 - 1989 với các
phương pháp ước lượng OLS đơn giản, biến công cụ, tác động cố định và GMM hệ thống.
Pattillo và các cộng sự cho rằng, nợ cao làm giảm tăng trưởng kinh tế chủ yếu bới việc
giảm hiệu suất đầu tư. Tương tự, Craigwell et al. (2012) cũng tìm thấy gia trị ngưỡng của
nợ công theo GDP nhưng cao hơn (55-56%) cho 12 quốc gia vùng Caribbe từ năm 1980
đến năm 2010 với mô hình hồi qui ngưỡng (fixed effects). Craigwell và các cộng sự nhận
thấy ở mức thấp hơn 30% GDP, việc gia tăng nợ gắn với sự phát triển kinh tế nhanh hơn.
Tuy nhiên, khi nợ tăng trên 30%, tác động lên tăng trưởng kinh tế giảm dần nhanh chóng
và ở mức ngưỡng 55-56%, tác động này dịch chuyển từ dương sang âm. Gần đây, Wrigh
& Gerenade (2014) lại tìm thấy giá trị ngưỡng của nợ công cho 13 quốc gia Caribbe là
61% bằng phương pháp ước lượng DOLS dữ liệu bảng. Ngoài ra, cũng còn có rất nhiều
nghiên cứu cũng cho những kết quả tương tự, có mức dao động từ 30 - 61%.
Theo số liệu thống kê giai đoạn 2006 - 2016, cho thấy nợ công của Việt Nam tăng
nhanh; đồng thời tăng trưởng kinh tế cũng có xu hướng giảm chủ yếu do việc giảm hiệu
suất đầu tư, thể hiện qua hệ số ICOR vẫn còn cao (xem hình 2.7).
Bảng 2.7. Tương quan giữa tỷ lệ nợ công với hệ số ICOR và tăng trưởng kinh tế
Năm Tỷ lệ nợ công / GDP Hệ số ICOR
Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 41.5 48.8 44.5 52.9 56.8 54.9 50.8 54.50 58.0 61.0 63.7 4.57 5.36 6.75 7.35 6.38 5.72 6.76 6.67 6.29 5.80 6.41 Tăng trưởng kinh tế (%) 8.23 8.46 5.66 5.40 6.40 6.20 5.30 5.40 6.00 6.70 6.21
Theo bảng số liệu trên ta thấy, nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2016 có xu
hướng tăng nhanh; trong khi đó, tăng trưởng kinh tế cũng có xu hướng giảm xuống hoặc
56
tăng chậm lại. Để thấy rõ hơn về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam trong những năm qua, có thể xem biểu đồ (hình 2.5).
70.00%
60.00%
50.00%
40.00%
Tỷ lệ nợ công / GDP)
30.00%
Tăng trưởng kinh tế (%)
20.00%
10.00%
0.00%
Hình 2.5. Biểu đồ tương quan giữa tỷ lệ nợ công/GDP và tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy, đường nợ công có xu hướng tăng lên, trong khi đó tăng
trưởng kinh tế lại có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, giai đoạn 2006 – 2016, nợ công
của Việt Nam đã ở mức 41.5% GDP (năm 2006) và không ngừng tăng lên đến 63,7% (năm
2016). Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế lại có xu hướng tiếp tục đi xuống và tăng chậm
lại. Như vậy, theo các kết quả nghiên cứu về tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế
như đã đề cập ở trên đối với những quốc gia đang phát triển cũng hoàn toàn phù hợp với
nền kinh tế của Việt Nam. Có nghĩa là nợ công có tác động âm lên tăng trưởng kinh tế.
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có kết quả nghiên cứu nào cho thấy ngưỡng giới hạn nào
là an toàn dành cho nợ công của Việt Nam. Tuy nhiên, theo Quyết định số 958/QĐ-TTg
ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài quốc
giai giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2030, thì chỉ tiêu an toàn về nợ công của Việt
Nam đến năm 2020 được đặt ra là không quá 65% GDP.
Qua số liệu giai đoạn từ năm 2006 – 2016 và nhìn vào biểu đồ ở trên, cũng có thể
đánh giá được việc tăng nợ công của Việt Nam đang trong giai đoạn hiện nay không còn
57
mang lại hiệu quả đối với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nữa. Vì nợ công càng tăng thì
tăng trưởng kinh tế lại có xu hướng giảm xuống hoặc tăng chậm lại càng thấy rõ. Điều đó
cũng có thể nhìn thấy rõ qua hệ số ICOR vẫn còn đang ở mức cao, chưa được cải thiện.
Cho nên hiện nay Việt Nam được khuyến cáo sẽ kiềm chế và kiểm soát nợ công theo
hướng giảm dần và luôn phải đảm bảo là nợ công không được vượt quá con số 65% GDP
mà chính phủ đã đặt ra. Tuy nhiên, đây cũng không phải là một con số cứng nhắc, vì khi
nền kinh tế đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Có nghĩa là, khi Việt Nam đã hoàn
thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã trở thành một quốc gia phát
triển thì tỷ lệ trên cũng không còn nhiều ý nghĩa.
Kết luận chương 2
Trong các nguồn vốn hình thành nên nợ công, ODA là nguồn lực quan trọng nhất. Có
thể nói, đó là “cú huých từ bên ngoài” giúp cho Việt Nam thay đổi diện mạo từ một quốc
gia kém phát triển đã vươn thành một quốc gia có “thu nhập trung bình thấp”.
Mặc dù nợ công có một vai trò tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao thể hiện
trên hai khía cạnh sau đây: (1) Hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số ICOR cao. (2)
Hiệu quả đầu tư công thấp còn do tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn; tình trạng dự án,
công trình thi công chậm tiến độ, dỡ dang, kéo dài; việc đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát
quá nhiều.
Ngoài ra, còn có những tồn tại khác có liên quan đến vấn đề nợ chủ yếu như: bộ máy
quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế; hiệu quả hoạt động đối với khu vực kinh tế nhà nước
còn thấp; tình trạng tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng; việc thực thi pháp luật nhà
nước chưa nghiêm…
Nợ công có những tác động tích cực, nhưng đồng thời có những mặt tiêu cực lên nền
kinh tế. Những tác động của nợ công đối với nền kinh tế chủ yếu qua các biến vĩ mô nền
của kinh tế như: tăng trưởng kinh tế; lạm phát và tỷ giá; lãi suất và đầu tư. Trong đó, tác
động của nợ lên tăng trưởng kinh tế là quan trọng nhất.
58
Hầu hết các nghiên cứu gần đây đều tập trung vào tác động gây bởi nợ ngày càng cao
của các quốc gia lên tăng trưởng kinh tế. Chỉ một số rất ít các nghiên cứu cho rằng nợ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi gần một nữa kết luận nợ tăng lên làm giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế và hơn một nữa còn lại nói rằng quy luật này đúng chỉ khi dựa trên một tỷ lệ
nhất định (ngưỡng nợ công) của nợ theo GDP, nghĩa là tác động của nợ công lên tăng
trưởng kinh tế có tính phi tuyến.
Giá trị ngưỡng nợ công này giữa các nhóm nước có sự khác biệt nhau. Thông thường
giá trị ngưỡng nợ công của nhóm các nước phát triển và công nghiệp cao hơn so với nhóm
các nước đang phát triển. Đối với các quốc gia đang phát triển, giá trị ngưỡng nợ công
thường dao động trong khoảng 30% - 60% GDP.
Tuy nhiên, quy mô nợ công của Việt Nam ngày càng lớn và tỷ lệ nợ công trên GDP
cũng không ngừng tăng nhanh trong những năm qua, và đang tiến gần tới sát ngưỡng giới
hạn an toàn cho phép (65%). Có nghĩa là ở mức nợ công này, thì việc gia tăng nợ công
không còn mang ý nghĩa tạo ra tăng trưởng kinh tế nữa. Mà trái lại, nó sẽ làm tăng nguy cơ
vỡ nợ và gây ra những bất ổn xã hội.
Cho nên chính phủ phải có biện pháp hữu hiệu nhằm kiềm chế và kiểm soát chặt chẽ
nợ công nhằm đảm bảo là nợ công luôn được nằm trong giới hạn an toàn đã đặt ra.
59
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ ỨNG PHÓ VỚI
VẤN ĐỀ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
3.1. Tăng cường việc sử dụng hiệu quả và quản lý chăt chẽ nợ công
3.1.1. Sử dụng hiệu quả vốn vay đầu tư công
So với tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới, hệ số hiệu quả đầu tư trên đồng vốn
(ICOR) ở các nước đang phát triển đạt mức 3.0, thì Việt Nam có ICOR khá cao, giai đoạn
2007-2016 là trên 5.
Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư công nhằm đảm bảo phát triển kinh tế - xã
hội bền vững, trong những năm tới cần thực hiện tái cơ cấu kinh tế sâu rộng. Đối với chính
sách tăng trưởng, tài chính công và đầu tư công, cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý công, tập trung thống nhất về phạm vi
đầu tư. Trên cơ sở đó, triển khai kế hoạch đầu tư công trung hạn. Xây dựng và thực hiện hệ
thống thông tin phục vụ công tác chuẩn bị lập dự án ngân sách, có quy trình quản lý, cập
nhật kịp thời tình hình thu chi ngân sách để cho các cấp chính quyền thực hiện và tự chịu
trách nhiệm. Tập trung đầu tư công vào các công trình trọng điểm, có tính đột phá và lan
tỏa nhằm nhanh chóng đưa vào sử dụng.
Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và phân bổ vốn đầu tư theo các
nguyên tắc và tiêu chí đã đưa ra, đảm bảo tính công khai, minh bạch. Đối với các công
trình xây dựng cơ bản thì cần kiên quyết thu hồi các khoản tạm ứng và xử lý dứt điểm nợ
tồn đọng. Đặc biệt, tăng cường kỷ luật tài chính trong quản lý vốn đầu tư công, ngăn chặn
kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư toàn xã hội, đầu tư nước ngoài, nâng cao hiệu
quả kinh tế xã hội. Giảm dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước (<40%) và tạo điều
kiện thuận lợi để thu hút đầu tư công của khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài để tăng dần tỷ trọng vốn ở các khu vực này.
Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công cần có sự đảm bảo đồng bộ trong đột phá thể
chế, thúc đẩy cải cách thể chế từ vĩ mô đến vi mô, tạo động lực về chất cho sự phát triển
60
của đất nước. Có như vậy việc sử dụng hiệu quả và khơi thông dòng chảy vốn đầu tư công
mới triệt để và bền vững trong nền kinh tế xã hội Việt Nam.
3.1.2. Quản lý chặt chẽ về nợ công
Cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ luật liên quan như Luật Đầu tư công,
Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
Cắt giảm đến mức tối đa các khoản nợ bảo lãnh vay đối với khoản vay của DNNN, để
cho các doanh nghiệp này tự chủ trong việc tự vay, tự trả. Đây là khoản dễ thực hiện nhất,
như vậy sẽ kéo giảm được nợ công xuống. Vì khoản nợ của DN nhà nước do Chính phủ
bảo lãnh hiện chiếm khoảng 18% tổng nợ công của cả nước.
Đối với nợ chính quyền địa phương, chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng nợ công cả nước,
nhưng chúng ta cũng cẩn phải quản lý chặt chẽ, để tránh tình trạng các địa phương dù
trong hoàn cảnh ngân sách eo hẹp vẫn vay nợ để thực hiện những dự án chỉ có tính hình
thức, hoặc chỉ phục vụ địa phương nhưng nợ lại do trung ương trả.
Phối hợp quản lý nợ công giữa các cơ quan chức năng, đặc biệt là sự phối hợp giữa
Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan phân bổ
nguồn vốn. Việc sử dụng nguồn vốn từ nợ công như thế nào, hiệu quả ra sao, thì kết quả
cuối cùng phải tạo ra nguồn thu ngân sách. Chính khoản thu này giúp Bộ Tài chính sử
dụng để thanh toán các khoản nợ vay.
Như vậy, phải tạo ra được một sự liên kết trong quá trình phân bổ, sử dụng vốn vào
những dự án phát huy được hiệu quả. Việc sử dụng hiệu quả vốn từ nợ công phải được đặt
lên hàng đầu khi xem xét phân bổ vốn đầu tư.
Tăng cường việc kiểm soát và kiềm chế nợ công nhằm đảm bảo là nợ công luôn được
nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Câu hỏi đặt ra là, giới hạn nào là an toàn dành cho nợ
công của Việt Nam? Nợ công của chúng ta ở mức an toàn hay báo động? Rất khó để có
một câu trả lời chính xác. Bởi vì, hiện trên thế giới chưa có tiêu chuẩn chung nào về
ngưỡng an toàn đối với nợ công. Về nguyên tắc, việc xác định chỉ tiêu an toàn nợ công
61
thường dựa trên cơ sở như: đánh giá thực trạng nợ; tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài
khoá, chính sách tiền tệ; nhu cầu về vốn đầu tư phát triển; hệ số tín nhiệm của quốc gia …
Chẵng hạn đối với nền kinh tế Nhật Bản, nợ công đã tăng từ mức 218,8% năm 2013
lên 227,2% năm 2014. Tăng trưởng kinh tế chậm, nợ công tăng cao, đồng Yên tiếp tục
giảm giá, áp lực thâm hụt thương mại, đó là các vấn đề mà nền kinh tế Nhật Bản đang phải
đối mặt. Mặc dù quy mô và tỷ lệ nợ công/GDP ở mức cao, nhưng Nhật Bản vẫn là cường
quốc kinh tế đứng thứ ba thế giới và là một trong những nước chủ nợ lớn nhất thế giới.
Cho nên nợ công của Nhật Bản dù cao nhưng vẫn an toàn. Bởi vì phần lớn nợ công của
Nhật Bản là nợ nội địa với lãi suất thấp và thời gian dài. Khi đáo hạn món nợ cũ, Chính
phủ có thể dễ dàng vay nợ mới trong nước để trả nợ cũ mà không bị những tổ chức tài
chính quốc tế can thiệp.
Khu vực đồng tiền chung Châu Âu thì có hạn mức trần nợ công áp dụng chung cho
tất cả các nước trong khối là dưới 60% GDP; Thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP.
Theo Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến
lược nợ công và nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2030, chỉ
tiêu an toàn về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam như sau: Nợ công đến năm 2020
không quá 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài
của quốc gia không quá 50% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp Chính phủ (không kể cho vay
lại) so với tổng thu NSNN hàng năm dưới 25% giá trị XK hàng hóa và dịch vụ; tỷ lệ dự trữ
ngoại hối nhà nước so với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm trên 200%.
Theo khuyến nghị của IMF đối với các nước như Việt Nam: nợ nước ngoài quốc gia
nên ở mức 50% GDP, dựa trên cơ sở IMF xếp chúng ta vào các nước có khuôn khổ chính
sách tương đối tốt, môi trường chính trị ổn định.
3.2. Giảm thâm hụt ngân sách
3.2.1. Cắt giảm chi tiêu công
Mục tiêu của Chính phủ là tiếp tục đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lực
62
và góp phần tích cực bổ sung nguồn lực thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh
tế, ổn định đời sống, tiêu dùng của nhân dân, bảo đảm an sinh, xã hội.
Quản lý chặt chẽ, tiết kiệm chi tiêu ngân sách nhà nước để giảm chi thường xuyên,
góp phần cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước. Bố trí lại các Bộ, Ngành, cơ quan, đơn vị triệt
để tiết kiệm. Trong đó, tiết kiệm 10% chi thường xuyên (không kể tiền lương và các khoản
có tính chất lương) để tạo nguồn cải cách tiền lương. Tiết kiệm tối thiểu các khoản kinh
phí chi hội nghị, hội thảo, tọa đàm, họp, chi tiếp khách, khánh tiết, tổ chức lễ hội, lễ kỷ
niệm, sử dụng xăng xe, điện, nước, văn phòng phẩm, sách, báo, tạp chí…
Bên cạnh đó, rà soát các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền quyết định
để ưu tiên bố trí nguồn lực đối với các chương trình, dự án cần thiết, hiệu quả; cắt giảm các
chương trình, dự án có nội dung trùng lặp, kém hiệu quả, những dự án hàng nghìn tỷ
nhưng không mang tính thiết thực như đã đề cập ở phần thực trạng về việc sử dụng nợ
công.
Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng
tăng cường phân cấp và tăng cường tự chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực tài
chính trên cơ sở có tính đến đặc điểm của từng loại hình dịch vụ, khả năng và nhu cầu thị
trường, trình độ quản lý.
Thực hiện tiết kiệm từ chủ trương đầu tư; tiến hành rà soát cắt giảm 100% các dự án
không nằm trong quy hoạch, kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt; thu hồi đối với
các dự án đã được cấp phép đầu tư nhưng quá thời hạn quy định không triển khai thực hiện
theo cam kết hoặc theo giấy phép; cắt giảm, tạm dừng các hạng mục công trình chưa thực
sự cần thiết hoặc hiệu quả đầu tư thấp; không để phát sinh thêm và xử lý dứt điểm nợ đọng
xây dựng cơ bản.
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thông qua đổi mới cơ bản cơ chế phân bổ và
quản lý sử dụng vốn đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công. Phấn đấu đảm bảo 100%
việc phân bổ vốn đầu tư công tuân thủ nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư
công do cấp có thẩm quyền quyết định. Trong đó, tập trung bố trí vốn đầu tư công để hoàn
thành và đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình, dự án quan trọng quốc gia, chương
63
trình, dự án trọng điểm có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của
các cấp, các ngành; hoàn trả các khoản vốn ngân sách nhà nước ứng trước kế hoạch; các
khoản vốn vay ngân sách địa phương đúng nguồn và đúng mục tiêu.
Chống lãng phí, nâng cao chất lượng công tác khảo sát, thiết kế, giải pháp thi công,
thẩm định dự án để phấn đấu tiết kiệm từ 10% đến 15% tổng mức đầu tư; cắt giảm 100%
việc tổ chức lễ động thổ, lễ khởi công, khánh thành các công trình xây dựng cơ bản, trừ
các công trình quan trọng quốc gia; công trình có giá trị lớn, có ý nghĩa quan trọng về kinh
tế, chính trị, văn hóa - xã hội của địa phương.
3.2.2. Khơi tăng các nguồn thu
- Cần phải tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên dùng cho thuê, nhượng bán.
Không làm cạn kiệt và phá hủy tài sản, tài nguyên vì lợi ích trước mắt.
- Chính sách thuế phải vừa huy động được nguồn thu vừa khuyến khích tích tụ vốn
cho doanh nghiệp và dân cư.
- Dùng ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan trọng
trong những lĩnh vực then chốt nhằm tạo ra nguồn tài chính mới.
- Kiểm soát chặt chẽ nguồn thu ngân sách, thường xuyên kiểm tra, rà soát để nắm bắt
kịp thời số lượng, tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, hộ kinh doanh trên địa bàn để
đưa vào diện quản lý.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu ngân sách, chú trọng việc
thanh tra đối với các chuyên đề như: chuyển giá, thương mại điện tử, kinh doanh qua
mạng, hoàn thuế, hộ kinh doanh cá thể; thanh tra đối với các doanh nghiệp lớn, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đẩy mạnh áp dụng các biện pháp thu nợ và cưỡng chế nợ thuế nhằm hạn chế nợ
mới phát sinh, động viên kịp thời nguồn lực cho NSNN.
- Nhà nước cần thực hiện chính sách tiết kiệm, tinh giản bộ máy công quyền, cải cách
hành chính để tích lũy vốn chi cho đầu tư.
3.3. Nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước
3.3.1. Tinh giản và làm trong sạch bộ máy nhà nước
64
Hiện nay bộ máy nhà nước còn quá cồng kềnh đang thực sự là một gánh nặng cho
NHSNN. Nguồn chi cho bộ máy này rất lớn, nó cũng chính là một trong những nguyên
nhân làm gia tăng bội chi ngân sách, góp phần làm tăng nợ công. Cho nên việc tinh giản bộ
máy nhà nước là một yêu cầu cấp bách mang tính tất yếu, theo xu hướng hội nhập quốc tế.
Bộ máy nhà nước quá cồng kềnh vừa thừa lại vừa thiếu, đây mới thực sự là một
nghịch lý. Thừa ở đây là thừa cán bộ, công chức “không có cũng được”, vì hiệu quả làm
việc không cao, không quan trọng, không cần thiết, con số này thực sự là rất lớn. Theo như
lời Thủ tướng Chính phủ đương nhiệm nói, “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công
chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang
lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Còn thiếu là thiếu cán bộ có trình độ, có năng lực,
có tầm nhìn, những người này thường làm việc ở các Công ty nước ngoài, các DNTN hoặc
đã đi nước ngoài làm việc và sinh sống.
Để tinh gọn bộ máy nhà nước, Chính phủ cần phải đưa ứng dụng công nghệ thông tin
vào việc tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước, thiết kế một hệ thống kết hợp để cung cấp
dịch vụ tốt hơn cho người dân. Các cơ quan chính phủ ở mọi cấp phải thực hiện việc giảm
bớt thông tin giấy tờ và sắp xếp hợp lý các quy trình thông tin thông qua các hệ thống kỷ
thuật số. Các cơ quan chính phủ phải nhận thức được rằng, họ là người hỗ trợ cho người
dân, không phải là một cơ quan để đặt ra luật lệ cho người dân. Chính phủ phải giúp cho
người dân có điều kiện để tự hành động mà không cần một hệ thống quan liêu.
Các quy trình kỷ thuật số sẽ đem lại cho chính phủ cơ hội tổ chức lại các bộ phận cấu
thành thay vì các thủ tục quan liêu bàn giấy. Chính phủ có thể thực hiện các bước sau để
đưa đất nước bước vào kỷ nguyên kỷ thuật số. Thứ nhất, đưa các nhân viên chính phủ vào
hệ thống e-mail và từng bước xóa bỏ tất cả công việc lưu trử hồ sơ bằng giấy tờ. Bảo đảm
rằng mọi thông tin trong văn phòng chính phủ đều được lưu trữ và chia sẽ bằng kỷ thuật
số. Thứ hai, đưa các dịch vụ của chính phủ lên mạng cùng với một giao diện thiết kế cho
người dùng. Công bố mọi thông tin trên internet và chỉ in ấn các văn bản giấy tờ trong
những trường hợp thực sự cần thiết.
65
Việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức vận hành chính phủ vừa tinh
giản được bộ máy, vừa nâng cao được hiệu quả hoạt động, giúp cải thiện được các dịch vụ
chính phủ để phục vụ tốt cho người dân, xóa bỏ việc gây phiền hà, sách nhiễu người dân.
Đồng thời cũng tiết kiệm được một khoản chi tiêu rất lớn cho bộ máy quá cồng kềnh như
hiện nay.
Hiện nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỷ thuật, việc chế tạo ra
các loại máy vi tính, laptop, máy tính bảng, đặc biệt là điện thoại thông minh với giá rẽ có
khả năng truy cập internet dễ dàng, nhanh chóng. Đây chính là một điều kiện rất thuận lợi
để xây dựng một chính phủ điện tử hiệu quả trong tương lai. Người dân có thể truy cập vào
các trang thông tin của chính phủ để tìm kiếm và xem các thông tin về pháp luật một cách
nhanh chóng, và có thể kết nối vào trang web của chính quyền địa phương để thực hiện các
thủ tục hành chính tại nhà mà không cần phải chen chút, chờ đợi tại các cơ quan công
quyền. Vừa tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại cho người dân, cũng như tiết kiệm thời gian
và chi phí cho bộ máy nhà nước một khoản rất lớn.
3.3.2. Lựa chọn nhân tài cho chính phủ
Nếu bộ máy nhà nước không có người giỏi vào làm việc thì bộ máy sẽ không hoạt
động hiệu quả, nếu bộ máy cồng kềnh, tiêu tốn quá nhiều tiền thuế của dân gây lãng phí,
gây phiền hà, sẽ gây ra sự bất bình trong dân chúng, và người dân sẽ mất lòng tin. Chính
sự nhũng nhiễu, tham nhũng, lãng phí là một trong những nguyên nhân gây ra sự bất bình
đẳng trong xã hội. Nó cũng chính là nguyên nhân tạo ra những điểm nóng và gây ra những
bất ổn xã hội.
Lý Quang Diệu (2006) cho rằng, nền tảng vững chắc để Singapore phát triển thần tốc
và cải cách, chính là làm cách nào để có được một chính quyền với trình độ cao. Có nghĩa
là, chính phủ cần phải có biện pháp thu hút và giữ nhân tài. Nhân tài không chỉ là các học
giả, còn có các ngôi sao bóng đá, ngôi sao quần vợt, ca sĩ, nghệ sĩ nhạc rock và những
người khác…Có bốn kiểu nhân tài: nhà phát minh, doanh nhân, thầy hướng dẫn và thầy
hướng dẫn cấp cao. Sở dĩ nước Mỹ phát triển hùng mạnh như vậy, chính là do họ có đủ cả
bốn kiểu nhân tài này, họ có nền văn minh thu hút nhân tài.
66
Cho nên để xây dựng một xã hội phát triển, Việt Nam cũng cần một chính phủ rất
mạnh, với những lãnh đạo có năng lực nhất, mạnh mẽ nhất và tận tâm nhất. Để bộ máy nhà
nước hoạt động hiệu quả thì phải thu hút được những người thực sự có tài, có đức vào làm
việc trong bộ máy nhà nước, phải từng bước làm trong sạch bộ máy nhà nước.
Mặc dù có những khó khăn nhất định, nhưng chúng ta cũng có một điều rất thuận lợi.
Đó là, chính phủ có thể học hỏi nhiều kinh nghiệm từ những quốc gia tiên tiến ở rất gần
chúng ta như Nhật Bản, Singapore là một điển hình thành công mà chúng ta có thể học tập.
3.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước
Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính
khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất
hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh
còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực
hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu
quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm
thi hành pháp luật còn thiếu và yếu.
Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, việc ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật từ nay đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là một đòi hỏi cấp bách.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai,
minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và
hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020.
3.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
67
Thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm và là thành quả phát triển của nền văn minh
nhân loại. Không một quốc gia nào muốn phát triển, giàu mạnh mà không qua sự phát triển
của thể chế kinh tế thị trường. Cho nên việc đổi mới tư duy và nhận thức về mô hình kinh
tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam ở Đại hội VI (năm 1986) là bước ngoặt mang tính lịch sử.
Việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một tiến vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề nhận thức về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự rõ ràng, chưa đầy đủ. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Mặt khác,
công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này cũng chưa theo kịp thực tiễn. Cho nên
việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế.
Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề
lớn vừa mang tính cấp bách và cũng mang tính lâu dài. Ở đây chỉ đề cập đến một số vấn đề
có liên quan đến việc “ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp”
Về việc hoàn thiện thể chế về sở hữu
- Thể chế hoá đầy đủ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được
quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách
nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch
thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản.
- Hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu
quả đất đai, tài nguyên, khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí
trong lĩnh vực này. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám
sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh
nghiệp nhà nước.
68
- Hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên. Nhà nước giao quyền khai thác tài nguyên cho các doanh nghiệp theo cơ chế
thị trường.
- Hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản
công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện chính sách xã hội.
Đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm
tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả.
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự theo hướng thống
nhất, đồng bộ. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các thiết chế giải quyết tranh chấp dân
sự với các quy trình, thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch. Hoàn thiện các quy định về
đăng ký và giao dịch tài sản; phát triển hệ thống đăng ký minh bạch, liên thông, dễ tiếp
cận, nhất là bất động sản.
Vấn đề hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp
- Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không
phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp
luật. Tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt
Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
- Hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, nhất là về đầu tư công, đấu thầu. Bảo
đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể kinh tế đã được Hiến
pháp quy định; xoá bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính. Hoàn thiện các quy định liên quan để khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho hoạt động khởi nghiệp.
69
- Hoàn thiện thể chế về cạnh tranh; tăng cường tính minh bạch về độc quyền nhà
nước. Xoá bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp của Nhà nước đối với
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; thực sự hoạt động
theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong nông
nghiệp, lâm nghiệp nhằm phát huy hiệu quả sử dụng đất, rừng và các tài sản nhà nước đã
đầu tư; bảo đảm lợi ích của Nhà nước và các bên đang nhận khoán đất đai, vườn cây lâu
năm. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực sự
trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành và phát triển các
tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn
thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài; chủ động lựa chọn các
dự án đầu tư nước ngoài có chuyển giao công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, có cơ sở
nghiên cứu và phát triển công nghệ tại Việt Nam, có cam kết liên kết, hỗ trợ doanh nghiệp
trong nước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế
và các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế.
3.6. Hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về quản lý nợ công
3.6.1. Thực thi chính sách tài khóa thích hợp
Chính sách tài khóa, là các biện pháp can thiệp của chính phủ đến hệ thống thuế khóa
và chi tiêu của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô như tăng
trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm hoặc ổn định giá cả và lạm phát. Như vậy, việc thực
thi chính sách tài khóa sẽ do chính phủ thực hiện liên quan đến những thay đổi trong các
chính sách thuế hoặc/và chi tiêu chính phủ.
70
Để thực thi chính sách tài khóa thì chính phủ sẽ cần phải sử dụng các công cụ của nó.
Các công cụ của chính sách tài khóa bao gồm các công cụ về thuế, công cụ chi tiêu, và
công cụ tài trợ cho thâm hụt ngân sách.
Ở đây, chúng ta chỉ cần hiểu nôm na là chính sách thuế (T) nói chung (không chỉ có
thuế mà còn các khoản thu ngân sách ngoài thuế khác và không tính nợ vay. Ngoài ra,
chúng ta xem trợ cấp như một loại thuế âm) và chi tiêu chính phủ (G) (chi tiêu mua sắm
hàng hóa, dịch vụ của chính phủ). Ngoài công cụ thuế và chi tiêu, các công cụ tài trợ cho
thâm hụt ngân sách hay tài trợ nợ của chính phủ (tạm gọi là nợ công) cũng được xem là
một phần của chính sách tài khóa.
Như vậy, chúng ta thấy có ba trạng thái của cán cân ngân sách chính phủ (T – G):
Nếu T > G => chúng ta gọi là thặng dư ngân sách
Nếu T < G => chúng ta gọi là thâm hụt ngân sách
Nếu T = G => chúng ta gọi là cân bằng ngân sách
Trong trường hợp ngân sách thặng dư (T > G) chúng ta thấy chính phủ khi đó có
khoản tiết kiệm dương. Khoản tiết kiệm này có thể được dùng để trả nợ công (do thâm hụt
tích lũy trong những năm tài khóa trước) hoặc cho vay nền kinh tế trong nước hay nước
ngoài. Ngược lại, nếu ngân sách thâm hụt thì chính phủ sẽ phải đi vay để tài trợ cho phần
thâm hụt đó.
Có một số cách để chính sách tài trợ thâm hụt ngân sách, chẳng hạn như phát hành tín
phiếu/trái phiếu chính phủ (nghĩa là đi vay trong nước hoặc nước ngoài), bán bớt các tài
sản quốc gia (chẳng hạn bán tài nguyên hay bán cổ phần trong các doanh nghiệp nhà nước)
hoặc thậm chí có thể in tiền. Tất nhiên chính phủ sẽ phải cân nhắc các lựa chọn này vì mỗi
một lựa chọn như vậy đều có lợi ích và chi phí kinh tế đi kèm. Chẳng hạn như vay nợ sẽ
phải trả lãi suất, thậm chí vay nước ngoài (vay ngoại tệ) sẽ còn chịu rủi ro biến động tỷ giá
hối đoái. Tương tự, nếu bán tài sản quốc gia có thể làm suy giảm nguồn lực của thế hệ
tương lai, hay in tiền có thể gây áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô...).
Ngoài vấn đề lựa chọn kênh tài trợ thâm hụt, việc sử dụng nguồn tài trợ đó như thế
nào cũng là một thách thức không nhỏ. Có một nguyên tắc tài trợ thâm hụt là chính phủ
71
không nên đi vay để chi tiêu mà phải dùng cho đầu tư phát triển. Người ta gọi đó là nguyên
tắc tài khóa vàng (golden rule). Ngụ ý ở đây là việc đi vay để chi tiêu sẽ không thể tạo ra
nguồn tiền cho việc trả nợ trong tương lai, ảnh hưởng đến tính an toàn của nợ công. Thay
vào đó, việc đi vay chỉ được dùng để tài trợ cho các dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn
hoặc ít nhất là cũng tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Các lý thuyết kinh tế vĩ mô (đặc biệt là học thuyết của Keynes) cũng chứng minh
rằng việc gia tăng chi tiêu chính phủ cũng sẽ giúp kích thích gia tăng sản lượng của nền
kinh tế, tránh được tình trạng thất nghiệp. Tuy nhiên, nhiều người khác lại lo ngại rằng
thâm hụt ngân sách thường là mầm móng cho sự trỗi dậy của lạm phát. Thâm hụt ngân
sách và tài trợ thâm hụt cũng tạo ra tác động chèn lấn (crowding out) đầu tư và tiêu dùng
của khu vực tư nhân.
Khi chính phủ đi vay để tài trợ thâm hụt sẽ làm tăng nhu cầu vay vốn trên thị trường
tài chính, sẽ làm tăng lãi suất của nền kinh tế. Lãi suất tăng lên sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu
vay vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp cũng như nhu cầu vay mượn cho tiêu dùng của
khu vực hộ gia đình. Người ta gọi đây là tác động chèn lấn của tài trợ thâm hụt. Việc chính
phủ tăng chi tiêu cũng tạo ra tác động chèn lấn với cơ chế tương tự như tài trợ thâm hụt.
Hiện tại nền kinh tế vẫn tăng trưởng rất thấp và thiếu ổn định, các nguy cơ của bất ổn
vĩ mô vẫn còn hiện hữu. Trong bối cảnh đó xuất hiện những ý kiến cho rằng Chính phủ
nên tiếp tục gia tăng tổng cầu thông qua việc mở rộng chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ. Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại cho rằng trong điều kiện thâm hụt ngân sách
ngày càng nhiều và gánh nặng nợ công quá cao, Chính phủ sẽ rất khó để có thể tiếp tục
72
thực hiện các gói kích cầu để kích thích nền kinh tế. Theo quan điểm này, Chính phủ nên
tiếp tục theo đuổi mục tiêu ổn định vĩ mô và cải cách thể chế nhằm chuẩn bị nền tảng cho
sự phục hồi vững chắc cho nền kinh tế trong tương lai.
Cho nên Chính phủ cần phải luôn cân nhắc, không phải mọi biện pháp gia tăng chi
tiêu và tài trợ thâm hụt của chính phủ đều có tác động hữu hiệu lên tổng cầu nội địa. Trong
điều kiện nền sản xuất trong nước còn yếu kém thì việc gia tăng chi tiêu chính phủ thường
sẽ dẫn đến tình trạng nhập siêu nặng nền hơn. Chẵng hạn như, gói kích cầu năm 2009 thực
ra lại ít phát huy tác dụng trong việc kích thích nền sản xuất nội địa, thay vào đó lại kích
thích gia tăng nhập khẩu từ bên ngoài nhiều hơn.
Vì vậy, việc thực hiện chính sách tài tài khóa cần quan tâm đến việc giảm bội chi
ngân sách thường xuyên như: thực hành tiết kiệm, sắp xếp bộ máy gọn nhẹ, giảm bớt các
chi tiêu phúc lợi vượt quá khả năng của nền kinh tế về văn hóa, y tế, xã hội, chi phí quốc
phòng, an ninh…
Ngoài ra, phải nỗ lực khơi tăng các nguồn thu ngân sách, như điều chỉnh thuế suất
hợp lý, tăng thuế đánh vào những hàng hóa xa xỉ, cao cấp, không thiết yếu; đồng thời thực
hiện chống tiêu cực, lãng phí, chống thất thu thuế…
Cuối cùng, tác động của tài trợ thâm hụt còn phụ thuộc vào động thái của chính sách
tiền tệ. Trong nhiều trường hợp, việc thực thi chính sách tiền tệ lại làm vô hiệu tác dụng
của chính sách tài khóa. Cho nên vấn đề đặt ra là, cần phải có sự phối hợp giữa chính sách
tài khóa và chính sách tiền tệ.
3.6.2. Thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt
Theo Luật NHNN 2010 của Việt Nam, định nghĩa: chính sách tiền tệ quốc gia là các
quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết
định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử
dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Nói chung, chính sách tiền tệ
cũng hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa nhưng mục tiêu chính
thường được xác định là ổn định giá cả và lạm phát.
73
Để đạt được mục tiêu ổn định lạm phát đòi hỏi chính phủ phải sử dụng nhiều biện
pháp khác nhau, kể cả chính sách tài khóa, nhưng chính sách tiền tệ thường được xem là
chính sách đi đầu trong việc đạt được mục tiêu đó. Như vậy, kiềm chế lạm phát là việc
kiểm soát sao cho lạm phát, tức mức giá chung, không tăng vượt quá một giới hạn nhất
định.
Ngoài mục tiêu kiềm chế lạm phát, các chính sách tiền tệ cũng thường được thiết kế
nhằm theo đuổi một số mục tiêu khác chẳng hạn như giảm tình trạng thất nghiệp của nền
kinh tế hay nói cách khác là tăng nhân dụng. Chính sách tiền tệ như chúng ta biết sẽ tác
động đến khối tiền của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng lên mức lãi suất cân bằng trên thị
trường tiền tệ. Lãi suất là một yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đầu tư của khu vực doanh
nghiệp và kể cả tiêu dùng của khu vực hộ gia đình. Việc mở rộng hay thu hẹp đầu tư này
đến lượt nó lại ảnh hưởng đến vấn đề công ăn việc làm cho người lao động.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay chống suy thoái kinh tế cũng là mục tiêu quan trọng
của chính sách tiền tệ. Việc mở rộng đầu tư nhờ sự kích thích bởi chính sách lãi suất thấp
của chính sách tiền tệ không chỉ giúp giải quyết công ăn việc làm cho người dân mà còn
giúp gia tăng sản lượng và thu nhập của nền kinh tế. Tuy nhiên, một số người cũng tranh
luận về mục tiêu này của chính sách tiền tệ. Theo họ, mục tiêu tăng trưởng kinh tế thường
được xem là mục tiêu chung của chính phủ và do đó bằng nhiều chính sách và biện pháp
khác nhau của chính phủ, chẳng hạn như cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đầu tư kinh doanh hay cải cách môi trường cạnh tranh khuyến
khích và thúc đẩy tinh thần doanh nhân, sẽ có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế thay vì
để cho chính sách tiền tệ làm thay các chính sách này của chính phủ mà xa rời các mục
tiêu cốt lỗi của mình.
Không chỉ đảm bảo mục tiêu chống lạm phát, tạo công ăn việc hay gia tăng sản
lượng, chính sách tiền tệ còn được thiết kế nhằm để duy trì sự ổn định của hệ thống tài
chính và các tổ chức tài chính. Một hệ thống tài chính ổn định và một hệ thống ngân hàng
lành mạnh sẽ giúp truyền dẫn một cách có hiệu lực và hiệu quả hơn các mục tiêu của chính
sách tiền tệ ra nền kinh tế cũng như các khu vực trong nền kinh tế. Hơn nữa, khi hệ thống
74
tài chính ổn định, bản thân nó cũng sẽ giúp huy động và phân bổ nguồn vốn tốt hơn, qua
đó sẽ giúp gia tăng tiết kiệm và đầu tư, góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Cuối cùng, các
chính sách tiền tệ nhiều lúc còn theo đuổi một số mục tiêu khác nữa, chẳng hạn như ổn
định tỷ giá, ổn định lãi suất, hay đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ trên đây có sự mâu thuẫn và có sự đánh đổi
giữa các mục tiêu đó. Chẳng hạn như hai mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế thường
có mâu thuẫn nhau (tất nhiên không phải luôn luôn), tức là ở những thời kỳ tăng trưởng
cao thì thường đi liền với lạm phát và ngược lại khi chống lạm phát thì thường lại làm suy
giảm tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều trường hợp, việc hy sinh mục tiêu này để đạt được
mục tiêu kia là điều mà các nhà hoạch định chính sách phải chấp nhận. Vấn đề quan trọng
hơn chính là nên hy sinh mục tiêu nào để theo đuổi mục tiêu nào? Lẽ thông thường các
chính phủ thường thích theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế vì nó có thể ảnh hưởng đến
lá phiếu chính trị của họ, trong khi đó NHTW lại thường bị ràng buộc với mục tiêu kiềm
chế lạm phát. Trong tình huống này người ta sẽ nói đến vị trí của NHTW trong mối quan
hệ với chính phủ. Tức liệu NHTW có đủ độc lập với chính phủ trong việc theo đuổi các
mục tiêu của mình mà không chịu sự chi phối bởi các mục tiêu khác của chính phủ như
tăng trưởng kinh tế hay kể cả việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách và gánh nặng nợ công
của chính phủ.
3.6.3. Phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chinh sách tài khóa
Về cơ bản, CSTK là chính sách thu chi của Chính phủ hay còn gọi là chính sách
Ngân sách. Còn chính sách tiền tệ là việc thực hiện tổng thể các biện pháp, sử dụng các
công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô
thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền.
Mục tiêu của CSTT là: Ổn định định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng, tạo công ăn việc
làm và giảm thất nghiệp. Trong đó, ổn định tiền tệ là mục tiêu hàng đầu. Nội dung quan
trọng nhất của CSTT là việc cung tiền cho nền kinh tế. Việc cung ứng tiền có thể thông
qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua hoạt động của thị trường mở (mua bán giấy
tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán ngoại tệ) và để điều tiết mức tiền cung ứng,
75
NHTW sử dụng các công cụ khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trử bắt buộc ... CSTT là
công cụ của NHTW để điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và tín dụng, kết quả là chi
phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để đạt mục tiêu chính sách đề ra. Một CSTT
nới lõng sẽ làm tăng lượng cung tiền, giảm lãi suất, qua đó thúc đẩy tăng tổng cầu và gây
áp lực lạm phát nếu cung tiền quá mức so với sản lượng tiềm năng.
Mục tiêu của CSTK: ổn định và tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng và giải
quyết việc làm được ưu tiên hơn tỷ lệ lạm phát. Nội dung cơ bản của CSTK là kiểm soát
thu chi ngân sách do những khoản thu chi này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm
phát và nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác. Vì thế, CSTK được coi là một trong những chính
sách quan trọng đối với việc ổn định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, một chính sách
phù hợp sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và làm cơ sở để các Doanh nghiệp đưa ra các
quyết định đầu tư. Trong mối quan hệ với giá cả, CSTK là một trong những nguyên nhân
cơ bản của lạm phát, một sự nới lõng CSTK đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ
trên hai kênh là thúc đẩy tổng cầu và tài trợ thâm hụt.
CSTT và CSTK là hai công cụ trọng yếu quyết định trong việc quản lý, điều tiết vĩ
mô kinh tế, cùng theo đuổi mục tiêu chung là tăng trưởng bền vững và có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Tuy nhiên, giữa hai chính sách trên có những mâu thuẩn và xung đột nhau,
cho nên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa 2 chính sách này.
Trong ngắn hạn, giữa CSTT và CSTK có sự mâu thuẩn nhau giữa mục tiêu ổn định
tiền tệ (lạm phát thấp) và mục tiêu tăng trưởng, giảm thất nghiệp (có thể gây lạm phát cao).
Vì vậy cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa hai chính sách này với nhau. Trong thực tế ở
Việt Nam nền kinh tế vẫn chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả và đồng bộ giữa Bộ
tài chính (cơ quan thực thi CSTK) và NHTW (cơ quan thực thi CSTT). Ở một thời điểm
nào đó, vẫn còn tồn tại những xung đột giữa hai cơ quan này, theo đó NHTW thì ưu tiên
thực hiện mục tiêu CSTT, còn Bộ Tài chính thì ưu tiên thực hiện dự toán ngân sách nhà
nước được duyệt. Mỗi cơ quan điều theo đuổi những mục tiêu và công cụ khác nhau sẽ dẫn
đến sự xung đột với nhau giữa các mục tiêu, trong đó có hai mục tiêu cơ bản là tăng trưởng
và lạm phát.
76
Về dài hạn, cả hai chính sách đều hướng tới những mục tiêu này. Nhưng trong ngắn
hạn, việc mở rộng chính sách tài khóa để thức đẩy tăng trưởng thì lại tạo áp lực gây ra lạm
phát. Trong khi đó, NHTW lại đang thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, thì lại gây ra
việc hạn chế tăng trưởng. Bởi vậy, để đảm bảo cả hai chính sách cùng đạt những mục tiêu
đề ra phải có sự phối hợp đồng bộ với nhau. Trong ngắn hạn, phải xác định được mục tiêu
nào mang tính ưu tiên hàng đầu để cân nhắc đánh đổi với những mục tiêu khác. Đồng thời,
trong dài hạn phải đạt được cả những mục tiêu chung là ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng
trưởng và giảm thất nghiệp.
Để phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ và CSTK các nhà kinh tế sử dụng mô hình
IS-LM. Tuy nhiên ở đây không đi sâu phân tích về mặt kỷ thuật vấn đề này, mà chỉ nêu
một số nội dung đơn giản và có thể hiểu được.
Muốn chống suy thoái kinh tế, có thể mở rộng tài khóa, tiền tệ hoặc cả hai. Mở rộng
tài khóa làm tăng tổng cầu, làm tăng sản lượng và tăng lãi suất. Mở rộng tiền tệ làm tăng
lượng cung tiền, làm tăng sản lượng và giảm lãi suất. Mở rộng tài khóa lẫn tiền tệ làm tăng
sản lượng, lãi suất có thể tăng hay giảm hoặc không đổi. Ngược lại, muốn chống lạm phát
thì áp dụng chính sách thu hẹp tài khóa, tiền tệ hoặc cả hai.
Việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng chắc chắn sẽ làm cho nợ công tăng lên,
ngược lại để giảm nợ công thì phải thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Tuy nhiên, việc
thắt chặt tài khóa phải dựa trên cơ sở tiết kiệm chi tiêu hợp lý, nhất là đối những khoản chi,
những khu vực không quan trọng, không cần thiết, đặc biệt là phải làm tốt công tác phòng
chống tham nhũng, lãng phí. Trong điều kiện thâm hụt ngân sách ngày càng lớn, nợ công
ngày càng cao thì việc thực thi chính sách tài khóa là cần thiết. Nhưng việc thắt chặt tài
khóa cũng có tác dụng làm giảm sản lượng và tăng thất nghiệp, có thể dẫn đến suy thoái,
làm nguồn thu bị hạn chế và thâm hụt ngân sách cũng sẽ không giảm. Cho nên để chống
suy thoái kinh tế, cần phải thực thi chính sách tiền tệ mở rộng. Tuy nhiên việc thực thi
chính sách tiền tệ mở rộng lại còn tùy thuộc vào việc thực thi mục tiêu ổn định tiền tệ,
chống lạm phát. Vấn đề quan trọng là phải xác định mục tiêu nào là mục tiêu cần ưu tiên
77
thực hiện trước mắt, giảm nợ công hay chống lạm phát nhằm ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng
trưởng để có sự sự đánh đổi.
Để giải quyết tốt vấn đề nợ công nhất thiết cần phải có sự hoạch định chính sách kinh
tế vĩ mô về vấn đề nợ công. Trong đó cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc thực hiện
CSTK và CSTT nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu ổn định tiền tệ, tạo công ăn việc
làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì có thực hiện tốt hai chính sách này mới tạo điều kiện
thức đẩy nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Khi kinh tế phát triển thì nguồn thu
ngân sách sẽ càng dồi dào thì thâm hụt ngân sách sẽ giảm thì vấn đề nợ công cũng sẽ được
giải quyết.
3.7. Tăng cường công tác kiểm tóan Nhà nước về quản lý nợ công
Tăng cường vai trò của KTNN trong quản lý nợ công nhằm đảm bảo cho KTNN trở
thành một công cụ kiểm tra, kiểm soát chủ yếu đối với nền kinh tế và đối với việc thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước.
Việc thể hiện thẩm quyền của KTNN trong các quy định của các văn bản pháp luật,
cũng như nhận thức về vai trò, vị trí của KTNN trong hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm
soát ở các ngành, các cấp cần được nâng cao và hoàn thiện nhằm tăng cường hiệu quả,
hiệu lực hoạt động của KTNN. Việc phát triển KTNN trên cơ sở tăng cường quyền hạn và
trách nhiệm pháp lý của KTNN là điều kiện căn bản để đưa cơ quan này trở thành cơ quan
kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước.
Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ công nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia
đảm bảo các khoản vay nợ công được sử dụng đúng mục đích theo quy định của Luật
Ngân sách nhà nước. Việc vay nợ chỉ được sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển. Quá
trình cải cách tài chính công theo hướng công khai, minh bạch, phù hợp với các tiêu chuẩn
và thực tiễn tốt của quốc tế đòi hỏi KTNN cũng phải xây dựng, hoạch định được kế hoạch
trung hạn, dài hạn trong việc kiểm toán nợ công. Việc kiểm toán phải được thực hiện theo
các tiêu chuẩn thông lệ được chấp nhận.
Cơ quan KTNN thực hiện kiểm toán chuyên đề về nợ công. Các chuyên đề có thể bao
quát từ hình thức vay, trả nợ, các nghiệp vụ vay nợ, chi phí vay nợ đến tổ chức quản lý nợ,
78
chiến lược quản lý nợ, quản lý rủi ro trong việc vay nợ. Ngoài ra còn tiến hành nghiệp vụ
bảo lãnh nợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức. Thông qua kiểm toán chuyên đề về nợ
công, có thể chỉ rõ những yêu kém bất cập trong quản lý nợ để từ đó có chiến lược quản lý
nợ một cách bền vững.
Ngoài việc kiểm toán theo các chuyên đề thì việc kiểm toán nợ công hàng năm cần
được đặt trong mối liên hệ với kiểm toán quyết toán NSNN. Thông qua mối liên hệ này để
thấy được tính bền vững của tài chính ngân sách quốc gia cũng như thấy được bất cập
trong việc vay, trả nợ, hạch toán các khoản nợ công. Thông qua kiểm toán quyết toán
NSNN thấy được việc hạch toán đầy đủ các khoản nợ kể cả trung ương và địa phương
đồng thời thấy được mức chi trả hàng năm cho chi phí vay nợ.
3.8. Tăng cường vai trò quản lý của NHNN trong quản lý nợ công
Theo Luật quản lý nợ công năm 2009, Bộ tài chính là cơ quan chịu trách nhiệm chính
trong việc quản lý nợ công. Song, các Bộ, Ngành khác cũng có những trách nhiệm liên
quan nhất định. Theo quy định này, tại điều 12, thì trách nhiệm của NHNN là:
1. Theo phân công, ủy quyền của Chỉ tịch nước hoặc Chính phủ, chủ trì phối hợp với
Bộ Tài chính và cơ quan khác có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm phán, ký kết
các điều ước quốc tế với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế mà NHNN Việt Nam là đại
diện chính thức của người vay tại các điều ước quốc tế này.
2. Thẩm định phương án vay lại vốn vay thương mại nước ngoài của Chính phủ theo
các chương trình, hạn mức tín dụng và vay thương mại có bảo lãnh Chính phủ của tổ chức
tín dụng.
3. Hướng dẫn và tổ chức đăng ký các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp, tổ
chức tài chính, tín dụng được Chính phủ bảo lãnh.
4. Tham gia với Bộ Tài chính trong việc:
a) Xây dựng mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công
trong từng giai đoạn 5 năm; chương trình quản lý nợ trung hạn và kế hoạch vay, trả nợ chi
tiết hàng năm của Chính phủ;
b) Xây dựng chỉ tiêu giám sát nợ Chính phủ, nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia;
79
c) Xây dựng phương pháp huy động vốn trong nước, nước ngoài của Chính phủ gắn
với điều hành chính sách tiền tệ - tín dụng.
Như vậy, NHNN có một vai trò rất quan trọng trong việc quản lý nợ công, cụ thể là:
- Thứ nhất, góp phần giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của thâm hụt ngân sách đến các
lĩnh vực khác của nền kinh tế thông qua việc điều tiết dòng tiền giữa các lĩnh vực của nền
kinh tế một cách hợp lý bằng các công cụ của chính sách tiền tệ.
Thu chi trong khu vực Chính phủ là một bộ phận cấu thành trong dòng luân chuyển
vốn của một quốc gia, những biến động trong chi tiêu trong khu vực Chính phủ làm thay
đổi khối lượng tiền trong nền kinh tế, thay đổi dòng chu chuyển tiền. Một sự gia tăng chi
tiêu khu vực chính phủ sẽ làm giảm chi tiêu của khu vực phi chính phủ của nền kinh tế và
ngược lại.
Mức độ thâm hụt ngân sách càng lớn thì mức độ ảnh hưởng của khu vực Chính phủ
đến các khu vực khác của nền kinh tế càng lớn, và để giảm những ảnh hưởng bất lợi từ khu
vực Chính phủ và tạo sự luân chuyển cân bằng hợp lý của dòng chu chuyển vốn trong xã
hội thì vai trò của chính sách tiền tệ là rất lớn. Chẵng hạn, khi khu vực Chính phủ chi tiêu
lớn làm tăng lượng tiền trong nền kinh tế có thể gây nguy cơ lạm phát, khi đó để hạn chế
lượng tiền này, NHTW có thể thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, theo đó sẽ hạn chế
lượng chi tiêu khu vực phi Chính phủ.
Thông qua các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sử dụng các công cụ của
chính sách tiền tệ để điều tiết dòng vốn bù đắp thâm hụt ngân sách ở một mức độ hợp lý.
Đây cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu để quản lý tốt nợ công.
Thứ hai, hỗ trợ tích cực việc huy động vốn cho bù đắp thâm hụt ngân sách, thông qua
việc góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, như tạo cầu về trái
phiếu Chính phủ, tạo tính thanh khoản cho trái phiếu và phối hợp với Bộ tài chính trong
việc xác định mức độ mức lãi suất trái phiếu Chính phủ cho phù hợp với mặt bằng lãi suất
của thị trường tài chính.
Thực tế cho thấy, việc bù đắp thâm hụt ngân sách của Chính phủ chỉ có thể được bù
đắp bởi nguồn vốn vay trong nước dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ, công
80
trái quốc gia, tín phiếu kho bạc, và vay nợ nước ngoài dưới hình thức ODA, vay thương
mại, phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế và vay NHTW (đây là biện
pháp cuối cùng, không được khuyến khích).
Việc huy động vốn cho khu vực Chính phủ dưới hình thức trái phiếu được ưa chuộng
và hiệu quả nhất, hiện đang được áp dụng ở hầu hết các quốc gia. Để hình thức này mang
lại hiệu quả cao, các nước đã phát triển thành một thị trường trái phiếu Chính phủ nhằm
tạo ra tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ, qua đó thu hút được các nguồn vốn nhàn
rỗi của các khu vực khác của nền kinh tế. Đồng thời, thị trường trái phiếu Chính phủ là nơi
tạo ra mức lãi suất dài hạn chuẩn cho thị trường tài chính (vì mức lãi suất này không chứa
đựng những yếu tố rủi ro). Trong thị trường này thì vai trò của NHTW rất quan trọng.
NHTW góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường. Trái phiếu Chính phủ là một
phương tiện quan trọng để NHTW thực thi chính sách tiền tệ, thông qua việc mua bán trái
phiếu Chính phủ mà NHTW tác động mạnh, thậm chí, chi phối giá cả trái phiếu trên thị
trường. Các tín hiệu thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ cũng tác động mạnh đến giá
trái phiếu Chính phủ.
Ở Việt Nam hiện nay, thị trường trái phiếu Chính phủ chưa phát triển mạnh như ở các
nước phát triển. Do vậy, sự ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến thị trường trái phiếu, đến
giá trái phiếu Chính phủ còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay trái phiếu Chính phủ là
phương tiện chủ yếu để NHNN thực thi việc bơm hay hút tiền từ nền kinh tế thông qua các
công cụ chính sách tiền tệ. Đặc biệt, là thông qua nghiệp vụ thị trường mở, tạo tính thanh
khoản cho trái phiếu Chính phủ và hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại
(NHTM). Nhờ vậy, trái phiếu Chính phủ là kênh đầu tư an toàn, là danh mục đầu tư đảm
bảo thanh khoản của các NHTM. Lượng trái phiếu mà các NHTM mua ngày càng tăng qua
các năm. Việc các NHTM mua trái phiếu là điều kiện tốt để có thể huy động nguồn bù đắp
thâm hụt ngân sách một các thuận lợi với chi phí thấp hơn nhiều so với phát hành trái
phiếu trực tiếp cho người dân.
Với tư cách là cơ quan làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc
Nhà nước, hiện nay NHNN đang làm đại lý phát hành tín phiếu kho bạc cho Bộ Tài chính,
81
tham gia cùng với Bộ Tài chính xác định mức lãi suất tín phiếu hợp lý. Với vai trò đại lý,
trong những trường hợp cần thiết khi lượng tín phiếu kho bạc không bán hết cho các
NHTM, NHNN có thể mua để làm công cụ can thiệp thị trường khi cần thiết, đồng thời,
cũng đáp ứng kịp thời nguồn thu của Chính phủ.
- Thứ ba, có vai trò quan trọng trong việc tham gia chiến lược quản lý nợ nước ngoài
của quốc gia, trong đó, có nợ công của Chính phủ.
Trong cơ cấu nợ Chính phủ, nợ nước ngoài có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng
thanh toán quốc gia, sự vay mượn nước ngoài quá mức sẽ đẩy nền kinh tế quốc gia phụ
thuộc vào kinh tế nước ngoài. Hy lạp là một bài học cho những quốc gia đang phát triển
muốn theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao bằng cách đi vay nợ, và sử dụng tiền vay không
hiệu quả, cho nên đã để lại một món nợ khổng lồ cho thế hệ tương lai.
- Thứ tư, giảm thiểu rủi ro nợ Chính phủ: Đứng trên giác độ quản lý rủi ro nợ Chính
phủ, sự ổn định tiền tệ, đảm bảo giữ giá trị của đồng tiền quốc gia, hay nói cách khác,
không để đồng tiền trong nước mất giá, đảm bảo cân bằng cung, cầu ngoại tệ, giảm tình
trạng đô la hóa có ý nghĩa quan trọng không làm gia tăng nợ Chính phủ tính theo đơn vị
đồng tiền quốc gia.
Mặc dù NHNN không phải là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong quản lý nợ công,
nhưng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính hiệu quả của quản lý nợ công, từ khâu
xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến việc thực hiện chiến lược. NHNN tham gia ý
kiến với Bộ Tài chính về những vấn đề liên quan đến biến động thị trường tiền tệ, như mức
lãi suất, tình hình thanh khoản, sự thay đổi về cung tiền; đưa ra quan điểm về xây dựng kế
hoạch, chiến lược quản lý nợ công về cơ cấu nợ, cơ cấu các loại chứng khoán, công cụ vay
nợ, khối lượng và lãi suất, nguồn vay nợ; thực hiện chức năng đại lý phát hành tín phiếu
kho bạc và nhận tiền gửi kho bạc; tạo tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu Chính
phủ; bù đắp nguồn vốn thiếu hụt cho ngân sách trong khuôn khổ chính sách tiền tệ cho
phép.
3.9. Những giải pháp khác
3.9.1. Đổi mới công tác giáo dục và đào tạo
82
Alan Phan (2010) cho rằng, những tồn tại hiện nay của Việt Nam như kinh tế, tài
chính hay y tế, giáo dục, môi trường và dân trí... đều rất quen thuộc với các quốc gia trong
tình trạng ''mới nổi''. Các vấn đề này, 15 năm trước Trung Quốc đã trải nghiệm, 30 năm
trước Thái Lan đã phải đối đầu, 60 năm trước Nhật Bản đã phải vượt qua và 100 năm
trước, nước Mỹ đã tìm cách giải quyết. Có nghĩa là, về kinh tế và xã hội Việt Nam đã phát
triển chậm hơn nhiều quốc gia trong khu vực. Mặc dù chúng ta chậm hơn, nhưng lại có lợi
thế là có thể dùng kinh nghiệm của kẻ đi trước để tránh nhiều sai lầm. Chúng ta có thể lạc
quan mà nghĩ rằng Việt Nam sẽ ''đi tắt đón đầu'' hay cũng có thể bi quan mà cho rằng Việt
Nam sẽ không bao giờ ''vượt bẩy thu nhập trung bình'' như nhiều chuyên gia lo ngại.
Muốn đi tắt đón đầu thì phải quan tâm đến giáo dục, bởi vì trí tuệ mới là thứ tài sản
vô giá. Và những tài sản làm ra có chứa hàm lượng tri thức càng nhiều thì giá trị của nó
càng lớn. Chẵng hạn, Zuckerberg với ý tưởng facebook, khởi đầu chỉ với 1 ngàn đô la và
sau 5 năm khai thác, anh sinh viên 26 tuổi này đã biến ý tưởng của mình thành 60 tỉ đô la.
Cho nên, việc đầu tư vào giáo dục là đầu tư mang lại hiệu quả nhất cho mỗi người và đây
cũng là hướng đi bắt buộc của mọi nền kinh tế trong tương lai.
Chúng ta đã từng rất tự hào có một nền giáo dục lâu đời, nhưng tiếc rằng sự phát triển
lại vô cùng chậm chạp và nhanh chóng bị tụt lại phía sau so với thế giới và các nước trong
khu vực. Trường đại học đầu tiên của Việt Nam thành lập từ năm 1906, trong khi đến tận
năm 1961, khi Singapore rời khỏi Liên hiệp Malaysia, hai nước này mới có chung một
trường cao đẳng với hai phân hiệu - một ở Kuala Lumpur và một ở Singapore. Hai phân
hiệu này sau đó phát triển thành hai trường Đại học Quốc gia của Singapore và Malaysia.
Năm 1975, Malaysia mới vẻn vẹn có 5 trường đại học, trong khi riêng miền Bắc của
chúng ta đã có 36 trường, miền Nam có hơn một chục trường đại học đa ngành kiểu Mỹ.
Tóm lại, chúng ta đã vượt họ rất xa. Nhưng đến năm 2000, Malaysia có 700 trường đại học
và cao đẳng. Và chúng ta bị tụt lại, không phải chỉ về số lượng, mà cả chất lượng. Đầu
những năm 2000, chúng ta bắt đầu phải nhập khẩu giáo dục từ Malaysia. Khoa Quốc tế -
Đại học Quốc gia Hà Nội, cũng phải liên kết với đại học HELP, một trường đại học tư thục
còn rất trẻ Malaysia.
83
Hằng năm, người Việt Nam bỏ ra hàng tỷ đô la để học đại học nước ngoài, trong đó
có các nước láng giềng như Malaysia, Singapore, Thái Lan và Philippines. Chúng ta chảy
máu tiền tệ, chất xám, và có thể nói là chảy máu cả lòng tin về giáo dục nữa.
Việt Nam đã hội với thế giới về kinh tế, thì không có lý do gì giáo dục lại không thể
không hội nhập. Hội nhập không chỉ ở cách tổ chức dạy học, cách tổ chức làm sách giáo
khoa. Cho nên, Việt Nam cũng có thể lựa chọn một bộ sách giáo khoa chuẩn của những
quốc gia tiên tiến, đã được thực tiễn chứng minh là thành công trong giáo dục Mỹ, Anh,
Pháp, Nhật Bản, Singapore để nghiên cứu và từ đó rút kinh nghiệm, học phương pháp để
xây dựng sách giáo khoa của ta cho phù hợp với điều kiện nước ta.
Chúng ta đang rơi vào vòng luẩn quẩn với việc cải cách, việc thay đổi chóng mặt
trong việc sửa đổi sách giáo khoa, rồi phương pháp giảng dạy. Chỉ riêng việc này cũng đủ
làm cho học sinh và cả giáo viên bị quay như chong chóng. Chương trình giảng dạy quá
nặng nề, cho nên việc học hành cũng như giảng dạy quá mệt mỏi, nhiều áp lực. Học sinh
không còn hứng thú trong việc học hành, và cũng mất dần đi tính sáng tạo.
Vấn đề sách giáo khoa là một trong những vấn đề được nhiều người rất quan tâm,
cũng là vấn đề tiêu tốn rất nhiều tiền của nhất. Có lẽ Singgapore là một quốc gia khôn
ngoan, vì được tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của nước Anh rất sớm. Họ không cần phải
tốn kém nhiều công sức, tiền của để biên soạn sách giáo khoa như chúng ta.
Một lợi thế nữa, là về ngôn ngữ, Singapore chọn tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất mặc
dù tiếng mẹ đẻ của họ là tiếng Trung (phần lớn dân số Singapore là người Trung Quốc).
Họ cho rằng, nếu ai đó muốn thành công, thì cần phải nắm vững tiếng Anh, bởi vì đó là
ngôn ngữ của kinh doanh, khoa học, ngoại giao và học thuật. Còn Việt Nam thì không có
được lợi thế này. Cho nên việc đào tạo tiếng Anh có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của đất nước. Còn những ngoại ngữ khác như: Nga, Pháp, Trung… chỉ là những môn
tự chọn. Bộ giáo dục không nên bắt buộc giáo viên dạy tiếng Anh phải biết thêm một
ngoại ngữ thứ hai. Vì điều đó chỉ làm phát sinh những tiêu cực (mua bằng), gây lãng phí
thời gian và tiền bạc cho giáo viên (vì không có giáo viên nào có thời gian để mà đi học)
và cũng không thực sự cần thiết.
84
Một vấn đề cần quan tâm nữa đó là việc giáo dục đối với chương trình mầm non. Vì ở
lứa tuổi mầm non là quãng thời gian đứa trẻ tiếp thu ngôn ngữ và giá trị đạo đức thích hợp
nhất, cũng là thời điểm khơi dậy sức sáng tạo nhất. Cho nên việc đưa vào hoạt động một
nền giáo dục mầm non chất lượng với chi phí phải chăng, nhất là cho con cái những gia
đình có hoàn cảnh xã hội khó khăn, là cách tốt nhất để đưa đất nước đi lên.
Chính phủ phải đầu tư vào lĩnh vực này và tìm cách hỗ trợ, khuyến khích các trường
mẫu giáo đưa một nền giáo dục chất lượng vào hoạt động. Không có sự hỗ trợ của Chính
phủ, các trường mẫu giáo sẽ không thể cung cấp chất lượng giáo dục cần thiết vì chi phí
quá cao.
3.9.2. Có chính sách thu hút và sử dụng nhân tài
Các quốc gia thành công là những quốc gia dễ dàng đồng hóa người nước ngoài.
Chẵng hạn như Mỹ, mà thung lũng Silicon là một ví dụ. Đây là nơi không chỉ trọng dụng
và đãi ngộ nhân tài mà còn có một nền văn hóa thu hút những người mới. Không có nguồn
bổ sung nhân tài từ nước ngoài thì ngay cả Mỹ cũng không thể thành công đến vậy. Bom
nguyên tử của họ là nhờ những nhân tài từ châu Âu trốn tránh chế độ Hitler vào những
năm 1930 và 1940. Ngay cả chương trình không gian của Mỹ khởi động được cũng là nhờ
khoa học người Đức chuyên về tên lữa [Wernher] von Braun, người sang chế ra bom V
trong thế chiến II, bị quân đội Hoa Kỳ bắt giữ khi chiến tranh kết thúc và được đưa về Mỹ.
Kể từ đó, hàng năm, có hàng nghìn chuyên gia, học giả, nhà nghiên cứu và nhà văn tài
năng thu hút từ Anh và EU sang Hòa Kỳ bởi vì họ được chào đón tại Mỹ và được trao mọi
phương tiện để nghiên cứu hoặc trở nên thành công trong chuyên môn hay lĩnh vực kinh
doanh của mình.
Singapore là một quốc gia có sự phát triển vượt bậc của khu vực châu Á nói chung và
Đông Nam Á nói riêng, là một điển hình thành công rất đáng để chúng ta học tập. Sự phát
triển kinh tế nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn (1965 đến 1990), quốc gia này đã
vươn từ thế giới thứ ba lên thế giới thứ nhất. Sự thành công đó, chủ yếu là họ biết cách thu
hút và sử dụng nhân tài. Trước hết, họ có một chính phủ trong sạch, hầu hết toàn là những
85
người có bộ óc tài năng và liêm chính. Ngoài ra, còn có chính sách thu hút nhân tài từ khắp
mọi nơi trên thế giới.
Ở Việt Nam, do không có nguồn tài chính mạnh để thu hút nhân tài đến từ các quốc
gia trên thế giới như các quốc gia phát triển. Ngoài ra cũng không có biện pháp hữu hiệu
để giữ chân được người tài trong nước. Hầu hết những du học sinh xuất sắc của Việt Nam
đến các quốc gia tiên tiến để học tập đều không muốn quay trở về. Việc chảy máu chất
xám đang là một vấn đề nhức nhói đối với Việt Nam.
Nếu chúng ta làm tốt công tác phòng, chống tham nhũng và lãng phí thì sẽ có một
nguồn tài chính rất lớn để thu hút những nhân tài, và đầu tư cho giáo dục để tạo ra nhân tài
trong nước. Nếu chúng ta không có một chính phủ trong sạch, đủ mạnh thì không thể làm
được điều đó. Nếu chính phủ có quá nhiều những người kém tài, kém đức thì tình trạng
tham nhũng chẵng những không được cải thiện, mà còn làm cho nó ngày càng trở nên
nghiêm trọng hơn. Đây cũng chính là nguyên nhân tạo ra sự bất bình đẵng và gây ra những
bức xúc cho xã hội. Khi người dân bất mãn, thì cũng chính là cơ hội để cho những kẻ quá
khích lôi kéo, lợi dụng tham gia vào những vụ gây rối và tạo ra những điểm nóng, gây bất
ổn xã hội.
Chính phủ nên có biện pháp thu hút nhân tài, trước hết là phải lựa chọn những người
có tài, có đức vào làm việc cho bộ máy nhà nước. Việc lựa chọn nhân tài cần được quan
tâm và lựa chọn theo một quy trình nghiêm ngặt và kỹ lưởng. Nếu bộ máy nhà nước nước
trong sạch, làm việc hiệu quả, sẽ tiết kiệm rất nhiều chi phí, để phục vụ cho đầu tư phát
triển.
Thứ hai, phải lựa chọn những nhân tài cho ngành giáo dục, nhất là đối với người
đứng đầu ngành giáo dục. Người đứng đầu ngành giáo dục phải là người có tài, có tâm và
có tầm nhìn xa, trông rộng. Việc đào tạo, trước hết là phải đào tạo một đội ngủ quản lý,
giáo viên giỏi, có đạo đức thì mới có đủ điều kiện để đào tạo lớp trẻ, kể từ lứa tuổi mầm
non. Đây là giai đoạn hình thành nên các giá trị đạo đức và nhân cách của chúng sau này.
Thứ ba, chính sách đoàn kết dân tộc cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Nếu làm
tốt vấn đề này, sẽ có nhiều nhân tài ở khắp nơi trên thế giới quay trở về phục vụ cho đất
86
nước. Đồng thời mang về cho đất nước một nguồn lực tài chính rất lớn để phục vụ cho đầu
tư phát triển. Vấn đề đoàn kết dân tộc, nhằm chống sự chia rẽ là một trong những vấn đề
mang tính cấp thiết và lâu dài. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước cũng rất quan
tâm đến chính sách kiều bào. Nhà nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ quay về đầu
tư, phát triển kinh tế. Song do nhận thức, quan điểm có sự khác nhau về nhiều vấn đề như:
thế chính trị, về dân chủ, về vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,… Đó là vấn đề khó
khăn trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, và cũng chính là trở ngại lớn trong việc
đầu tư phát triển kinh tế, ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề quốc phòng và an ninh.
Thứ tư, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong mỗi người dân. Đây là
vấn đề lớn có liên quan đến công tác giáo dục; công tác vận động, tuyên truyền. Nhưng
điều không kém phần quan trọng là những người lãnh đạo đất nước, những người đại diện
cho bộ máy công quyền phải tạo được hình ảnh đẹp trong mắt người dân thì đó mới chính
là sự tuyên truyền thuyết phục hơn cả.
Không phải bất cứ những người tài giỏi nào làm việc tất cả cũng đều vì tiền. Khi đã
có quá nhiều tiền, thì họ cũng cần danh tiếng, cần sự trân trọng. Họ cũng có tinh thần yêu
nước, có tinh thần dân tộc và cũng có nhu cầu phục vụ cho quê hương, đất nước. Trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều văn sĩ, trí thức, nhà khoa học ở nước ngoài
đã từ bỏ cuộc sống giàu sang để trở về nước phục vụ kháng chiến. Tháng 5 năm 1946 khi
Bác Hồ sang Pháp tham dự hội nghị, có nhiều người đã theo Bác Hồ trở về Việt Nam,
trong đó có giáo sư Trần Đại Nghĩa.
Nhân tài của Việt Nam được trọng dụng và thành công ở rất nhiều nơi trên thế giới.
Trong đó, chắc chắn cũng có không ít người muốn đem tài năng và nguồn lực của mình để
quay về đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
Cho nên Nhà nước cần phải có chính sách thu hút nguồn nhân lực này, đồng thời
cũng phải có chính sách giữ chân được nhân tài trong nước nhằm ngăn chặn tình trạng
chảy máu chất xám như hiện nay.
3.9.3. Thực hiện dân chủ và công bằng xã hội
87
Bất kỳ xã hội nào trên thế giới cũng đều có những bất xúc và giận dữ của người dân
khi nhìn thấy những cảnh trái tay gai mắt hàng ngày. Ở các xã hội mà người dân có cơ hội
bày tỏ chính kiến của mình bằng việc tự do ngôn luận, thì người dân thường thoải mái và
hành xử văn minh hơn và ít có sự bức xúc hơn.
Ở Việt Nam gần đây, người ta thường hay nhắc đến vấn đề “lợi ích nhóm” hay nạn
tham nhũng, lãng phí. Tình trạng đó đang trở nên rất nghiêm trọng và cũng ngày càng làm
cho người dân phải quan tâm, bức xúc.
Khi cơ chế kinh tế dồn quyền lực vào tay một thiểu số nhóm người hay nhóm lợi ích
thay vì phân tán cho đại đa số người dân, thì sân chơi này sẽ không còn bình đẳng nữa.
Cũng có nghĩa là nó không giải phóng tiềm năng của mỗi công dân trong việc sáng tạo,
cũng như trong việc đầu tư phát triển. Nếu tiền và quyền tập trung vào tay các nhóm lợi ích
thì người dân vẫn nghèo và kinh tế sẽ không thể phát triển được. Kinh tế lụn bại thì quốc
gia sẽ yếu kém, nghèo khổ.
Khi kinh tế khó khăn thì nhà nước sẽ nghĩ đến việc đi nhờ sự giúp đở của các quốc
gia phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế để xin được viện trợ (ODA) hoặc vay vốn với
lãi suất ưu đải hoặc kể cả vay với lãi suất thương mại. Khi tình trạng thâm hụt ngân sách
ngày càng trở nên nghiêm trọng và việc tiếp tục đi vay sẽ làm cho nợ công ngày một gia
tăng, đồng thời làm tăng nguy cơ gây ra những bất ổn xã hội.
Muốn phát triển kinh tế bền vững cần sự sáng tạo và sáng tạo phải đi kèm với “phá
bỏ”. Phá bỏ cái cũ đã hư thối mục nát để thay bằng cái mới năng động, hiện đại hơn. Nếu
nhà nước không chấp nhận một sự thật là hầu hết những doanh nghiệp quốc doanh đều làm
ăn không hiệu quả thì sẽ phải tiếp tục sử dụng ngân sách để cứu các nhóm lợi ích và giữ lại
những doanh nghiệp (đã chết), chỉ mang tính tượng trưng cho một thể chế kinh tế đã cũ kỹ.
Những doanh nghiệp này không thể sáng tạo hay cạnh tranh trên thị trường quốc tế
cũng như trên bất kỳ một sân chơi bình đẵng nào, kể cả trong nước. Nếu loại bỏ những ưu
đãi của nhà nước về việc sử dụng đất đai, tài nguyên giá rẽ, hay được cấp vốn hoặc cho
vay với lãi suất cực kỳ thấp, thì những doanh nghiệp này hầu hết đều làm ăn thua lỗ.
88
Chính phủ cần phải xây dựng một xã hội, trong đó người dân được tưởng thưởng
không phải theo số lượng tài sản họ có, mà theo những đóng góp tích cực của họ cho xã
hội bằng sức lao động thể chất hoặc tinh thần, theo đúng năng lực của người đó, đúng theo
giá trị và sự đóng góp của người đó cho xã hội.
Một chính phủ tốt được kỳ vọng không chỉ thực hiện và duy trì các chuẩn mực, và
ngày càng phải nâng cao những chuẩn mực ấy. Và cuối cùng, chính trong lĩnh vực kinh tế
mới là vấn đề quyết định việc tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm; có thêm nhiều người
dân có lượng tài sản ngày càng lớn hơn.
Nhiệm vụ của chính phủ là thông qua chính quyền ở cấp cơ sở, phải nắm bắt cho
được tâm tư tình cảm, những bức xúc của người dân trước khi một lời than phiền hoặc bất
bình trở thành gay gắt để có những giải pháp xử lý kịp thời. Đồng thời, chính phủ cần phải
giữ mối liên hệ thường xuyên với người dân không chỉ để biết được họ than phiền điều gì,
mà còn để dẫn dắt và tổ chức họ, để giúp họ hiểu rõ những đặc tính xã hội có ích trong
việc xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.
Nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo là tạo nên niềm tin trong người dân để họ sẵn sàng
đứng lên hưởng ứng những chính sách mà mình đưa ra. Công việc của những nhà lãnh đạo
với tư cách là truyền cảm hứng và khích lệ, chứ không phải rêu rao những lý luận đã cũ kỹ.
Một thủ lĩnh chính trị phải vẽ ra được tầm nhìn tương lai cho người dân của mình, sau đó
biến tầm nhìn đó thành các chính sách mà họ phải thuyết phục cho người dân là rất đáng
để ủng hộ, và cuối cùng là khích lệ họ giúp mình triển khai các chính sách ấy.
Sự ổn định và tiến bộ trong tương lai của chính phủ còn tùy thuộc vào những người
kế tục, những người thấu hiểu ý thức về nhiệm vụ được ủy thác, nhận thức được rằng lạm
dụng quyền lực và sức mạnh mà họ được giao phó chính là phản bội lại niềm tin của người
dân. Cho nên người lãnh đạo đương nhiệm phải luôn quan tâm châm bồi cho đội ngủ kế
thừa, trước khi mình rời khỏi chính trường. Cần phải đảm bảo là lực lượng kế thừa có đủ
năng lực và phẩm chất đạo đức cần thiết để lãnh đạo đất nước.
Trong thời đại có quá nhiều thông tin, thì người lãnh đạo không nên tiếp nhận bất kỳ
điều gì một cách quá nghiêm trọng. Người ta sẽ nói về những người lãnh đạo, về chính phủ
89
với rất nhiều chuyện ngớ ngẫn. Nếu tiếp nhận những thông tin ấy quá nghiêm túc thì có lẽ
những người lãnh đạo sẽ phải rất mệt mỏi, hay các cơ quan an ninh và pháp luật sẽ phải
tốn rất nhiều công sức để đối phó, ngăn chặn. Cho nên chính phủ hay các nhà lãnh đạo
không nên quá bận tâm nhiều với những gì các phương tiện truyền thông thời sự nói, mà
hãy xem thái độ và những phản ứng của người dân của mình ra sao. Tuy nhiên, đôi lúc
những gì người dân nghĩ cũng có lúc này lúc khác, có thể trái ngược nhau. Điều quan trọng
là người lãnh đạo cần nhận thức được những chính sách mình đưa ra là đúng đắn và quyết
tâm thực hiện chúng một cách tôt nhất.
Một xã hội dân chủ không thể tự vận hành được, nó đòi hỏi hai thứ để thành công.
Thứ nhất, phải có một quốc hội đủ mạnh, với một đội ngũ có tầm và có tâm; sau đó được
kiểm soát bằng sức mạnh của công luận đối với những chính trị gia mà họ chọn để đảm
nhận những công việc của đất nước. Thứ hai, một hệ thống dân chủ phải có một chính
đảng trung thực và đủ năng lực để hệ thống ấy có thể lựa chọn những đảng lãnh đạo thay
thế. Riêng ở Việt Nam chỉ có một chính đảng duy nhất thì có thể học tập theo mô hình của Singapore.
Việc một quốc gia có thành công như một chế độ dân chủ với một bộ máy hành chính
trung thực, hay rơi vào tuyệt vọng và chế độ độc tài với một bộ máy hành chính tham
nhũng, tùy thuộc vào việc liệu có đủ những con người được giáo dục đào tạo sẵn sàng xuất hiện để đảm nhận trách nhiệm của mình thay vì nhìn đất nước đi xuống hay không.
Sự vận hành của một hệ thống dân chủ về cơ bản là những vấn đề quan trọng được
đặt ra trước nhân dân qua các cuộc bầu cử nghiêm túc. Và bất kỳ ai được lựa chọn để đại
diện cho người dân đều được kỳ vọng thực hiện những nhiệm vụ mà nhân dân trao cho họ.
Đây chính, là cốt lõi của hệ thống dân chủ.
Một điều quan trọng nữa là, chính phủ cũng phải đảm bảo duy trì sự cân bằng phù
hợp giữa cạnh tranh và bình đẵng. Để thành công, xã hội phải duy trì sự cân bằng giữa việc
bồi dưỡng nhóm ưu tú và khuyến khích nhóm trung bình cải thiện. Phải có cả hợp tác và cạnh tranh giữa người dân trong xã hội.
90
Bởi vì, nếu tất cả mọi người trong xã hội đều đạt được phần thưởng như nhau, thì
cũng chẳng còn ai cố gắng vượt lên cả. Xã hội sẽ không phát triển và sự tiến bộ cũng chỉ ở
mức tối thiểu. Mặt khác trong một xã hội cạnh tranh cao, nơi người thắng có phần thưởng
lớn còn người thua hưởng ít, sẽ có sự chênh lệch lớn giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới
đáy xã hội, như ở Mỹ chẵng hạn.
Cho nên để tạo ra một xã hội về cơ bản có sự công bằng hơn thì nhà nước phải có một
chính sách phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội. Nhưng trước tiên, chúng ta phải tạo ra
của cải vật chất. Để làm điều đó, chúng ta phải cạnh tranh và có một phần “dương” đủ
mạnh. Nếu chúng ta có quá nhiều phần “âm” và phân phối lại quá nhiều thu nhập của
những người thành công thì khi đó chúng ta sẽ làm thui chột động lực phấn đấu và thành
công của họ, và có thể để mất quá nhiều những người có năng lực, những người sẽ tìm tới
các quốc gia khác nơi họ không bị đánh thuế cao. Mặt khác, nếu có quá nhiều người ở tầng
lớp dưới cảm thấy bị gạt bỏ thì xã hội sẽ bị chia rẽ và bức xúc, và tính đoàn kết sẽ bị mất đi.
Cần phải giải quyết vấn đề cân bằng giữa cạnh tranh cá nhân và đoàn kết. Trong xã
hội cạnh tranh có “phần dương” càng lớn thì thành tích tổng thể càng cao. Nếu người thắng
cuộc lấy cả thì cạnh tranh sẽ gay gắt, nhưng đoàn kết nhóm sẽ yếu. Nếu phần thưởng được
chia đồng đều, thì đoàn kết nhóm càng lớn, nhưng tổng thành tích càng yếu do cạnh tranh
giảm đi. Nếu chúng ta thu xếp sự hỗ trợ, nhưng theo cách sao cho chỉ những người yếu thế
hơn cũng nhận được phần thu nhập bổ sung.
Chỉ trong một thế hệ (1965 đến 1990), Singapore đã đi từ thế giới thứ ba lên thế giới
thứ nhất. Để xây dựng một Singapore như thế, họ cần một chính phủ rất mạnh, với những
lãnh đạo có năng lực nhất, mạnh mẽ nhất và tận tâm nhất. Chỉ những lãnh đạo như vậy
mới có thể giúp cho tăng trưởng, tạo ra nhiều công ăn việc làm và tạo ra thu nhập để chi trả
cho việc trang bị cho quân đội, cảnh sát nhằm đem lại an ninh và tự tin cho người dân và
các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu xảy ra tình trạng mất an ninh thì đầu tư sẽ giảm đi. Điều
đó có nghĩa là người dân nghèo đi và bất ổn tăng lên.
91
Để duy trì sự gắn kết xã hội, Chính phủ Singapore đã tạo vùng đệm cho nhóm thấp
nhất, những người có thành tích kém hơn, khoảng 20-25% so với sự cạnh tranh quyết liệt
của thị trường. Cần có sự hỗ trợ những người lao động có thu nhập thấp hơn bằng thu nhập
bổ sung nhằm giảm bớt những khó khăn cho tầng lớp có thu nhập thấp để có một xã hội
công bằng hơn.
Việt Nam muốn có sự phát triển mang tính đột phá thì phải có sự thay đổi mạnh mẽ
một cách tương tự. Nếu không, chúng ta cũng sẽ mãi mãi chạy theo sau họ. Có khi chúng
ta còn bị tụt lại phía sau so với những nước nghèo hơn ở bên cạnh chúng ta, cũng giống
như việc Singapore từng vượt lên chúng ta một cách nhanh chóng.
Cho nên, trước hết chúng ta phải xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch, mạnh
mẽ, quyết liệt trong việc phòng chống tham nhũng. Bên cạnh đó, phải tạo ra một môi
trường cạnh tranh bình đẵng cho mỗi cá nhân và doanh nghiệp, để tạo động lực cho sự
phát triển. Đồng thời, cũng có những chính sách hỗ trợ cho tầng lớp yếu thế hơn nhằm
giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, để tạo ra một xã hội có sự hài hòa, bình đẵng hơn.
Có tạo ra một xã hội dân chủ, công bằng mới tạo điều kiện cho kinh tế và xã hội phát
triển. Kinh tế xã hội có phát triển thì vấn đề nợ công mới có thể giải quyết một cách căn
bản và bền vững.
Kết luận chương 3
Quy mô nợ công của Việt Nam ngày càng lớn, tỷ lệ nợ công trên GDP đang gia tăng
với tốc độ nhanh trong những năm qua. Tình hình nợ công của Việt Nam hiện đang ở mức
rất đáng lo ngại. Vì vậy, cần phải có những giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát và ứng
phó với vấn đề nợ công một cách hiệu quả hơn. Để giải quyết vấn đề nợ công, chính phủ
cần thực hiện nhiều giải pháp, trong đó có những giải pháp chủ yếu sau đây:
thoát gây lãng phí, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1. Tăng cường việc sử dụng hiệu quả và quản lý chăt chẽ nợ công, nhằm chống thất
cần thiết; đồng thời khơi tăng các nguồn thu bằng nhiều biện pháp.
2. Giảm thâm hụt ngân sách bằng cách tiết kiệm chi tiêu, cắt giảm các khoản chi không
3. Nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước bằng cách tinh giản bộ máy, lựa chọn
nhân tài cho chính phủ nhằm đảm bảo có được một chính phủ có trình độ cao.
92
hạn chế thấp nhất những vụ vi phạm pháp luật, phòng ngừa nạn tham nhũng và lãng phí.
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước, nâng cao hiệu quả thực thi, tạo sự răng đe,
5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm tạo môi trường đầu
tư thuận lợi, đảm bảo có một sân chơi bình đẵng, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
6. Hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về quản lý nợ công, trong đó: thực hiện chính
sách tài khóa thích hợp và thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt; đồng thời có sự phối hợp
chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ một cách hiệu quả cao nhất, mới tạo
điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định.
7. Tăng cường công tác kiểm tóan Nhà nước về quản lý nợ công, nhằm phát hiện và
ngăn chặn những vi phạm trong việc sử dụng và quản lý nợ công. Đồng thời, nâng cao việc
quản lý chặt chẽ và sử dụng nợ công một cách hiệu quả hơn.
8. Tăng cường vai trò quản lý của NHNN trong quản lý nợ công. NHNN tham gia
thực hiện việc xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến việc thực hiện chiến lược, tham
gia ý kiến với Bộ Tài chính về những vấn đề liên quan đến biến động thị trường tiền tệ,
thực hiện chức năng đại lý phát hành tín phiếu kho bạc và nhận tiền gửi kho bạc; tạo tính
thanh khoản cho thị trường trái phiếu Chính phủ; bù đắp nguồn vốn thiếu hụt cho ngân
sách trong khuôn khổ chính sách tiền tệ cho phép.
9. Những giải pháp khác, trong đó: cần đổi mới công tác giáo dục và đào tạo, có chính
sách thu hút và sử dụng nhân tài, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội.
93
PHẦN KẾT LUẬN
Nợ công là một vấn đề lớn đối với mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các
quốc gia đang phát triển, như Việt Nam. Mặc dù nợ công có một vai trò tích cực đối với
nền kinh tế, nhưng nợ công cũng có những mặt tiêu cực của nó. Nếu việc sử dụng nợ công
không hiệu quả, thì gánh nặng nợ công sẽ ngày càng lớn. Điều đó dễ dẫn đến việc mất khả
năng trả nợ, và cũng rất dễ dẫn đến nguy cơ làm sụp đổ nền tài chính quốc gia và gây ra
những bất ổn xã hội.
Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có qui mô nợ công tương đối cao
trong khu vực và trên thế giới, và tỷ lệ nợ công trên GDP cũng tăng nhanh trong những
năm qua. Vì vậy, chính phủ cần tăng cường việc kiểm soát và kiềm chế nợ công nhằm đảm
bảo là nợ công luôn được nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Câu hỏi đặt ra là, giới hạn
nào là an toàn dành cho nợ công của Việt Nam? Nợ công của chúng ta ở mức an toàn hay
báo động?
Có lẽ, rất khó để có một câu trả lời chính xác. Bởi vì, hiện nay trên thế giới chưa có
tiêu chuẩn chung nào về ngưỡng an toàn đối với nợ công. Về nguyên tắc, việc xác định chỉ
tiêu an toàn nợ công thường dựa trên cơ sở như: đánh giá thực trạng nợ; tình hình kinh tế
vĩ mô, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ; nhu cầu về vốn đầu tư phát triển; hệ số tín
nhiệm của quốc gia …
Đối với khu vực đồng tiền chung Châu Âu thì có hạn mức trần nợ công áp dụng
chung cho tất cả các nước trong khối là dưới 60% GDP. Còn ở Việt Nam, theo Quyết định
số 958/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược nợ công và nợ
nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2030, chỉ tiêu an toàn về nợ
công và nợ nước ngoài của Việt Nam như sau: Nợ công đến năm 2020 không quá 65%
GDP.
Gần đây, cuộc khủng hoảng ở các nước châu Âu năm 2010 khiến cho vấn đề nợ công
ở các quốc gia trên thế giới trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Cho nên các nhà kinh tế
rất quan tâm đến những tác động của nợ công đối với nền kinh tế. Hầu hết các nghiên cứu
tập trung vào tác động gây bởi nợ ngày càng cao của các quốc gia lên tăng trưởng kinh tế.
94
Kết quả cho thấy, chỉ một số rất ít các nghiên cứu cho rằng nợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong khi gần một nữa kết luận nợ tăng lên làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và hơn một
nữa còn lại nói rằng quy luật này đúng chỉ khi dựa trên một tỷ lệ nhất định của nợ theo
GDP (ngưỡng nợ công), nghĩa là tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế có tính phi
tuyến.
Giá trị ngưỡng nợ công này giữa các nhóm nước có sự khác biệt nhau. Thông thường
giá trị ngưỡng nợ công của nhóm các nước phát triển và công nghiệp cao hơn so với nhóm
các nước đang phát triển. Đối với các quốc gia đang phát triển, giá trị ngưỡng nợ công
thường dao động trong khoảng 30% - 60% GDP.
Craigwell et al. (2012) cho rằng ở mức thấp hơn 30% GDP, việc gia tăng nợ gắn với
sự phát triển kinh tế nhanh hơn. Tuy nhiên, khi nợ tăng trên 30%, tác động lên tăng trưởng
kinh tế giảm dần nhanh chóng và ở mức ngưỡng 55-56%, tác động này dịch chuyển từ
dương sang âm.
Hiện nay tỷ lệ nợ công của Việt Nam đã vượt con số 60% GDP. Cho nên Việt Nam
cần phải có giải pháp kiềm chế và kiểm soát nợ công theo hướng giảm xuống và luôn đảm
bảo là nợ công sẽ không được vượt quá con số 65% GDP mà chính phủ đã đặt ra.
Tuy nhiên, đây là con số đặt ra trong ngắn hạn, cũng không phải là một con số cứng
nhắc. Vì khi nền kinh tế đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, chắc chắn nó phải có sự
thay đổi theo xu hướng chung của thế giới là phải tăng lên. Có nghĩa là, khi Việt Nam đã
hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã trở thành một quốc gia
phát triển thì tỷ lệ trên cũng không còn nhiều ý nghĩa.
Việc sử dụng hiệu quả vốn vay, đồng thời đảm bảo được khả năng trả nợ còn lệ thuộc
vào nội lực của nền kinh tế. Cho nên, qui mô nợ công của một quốc gia cao hay thấp
không phải là vấn đề quyết định mức độ rủi ro cao hay thấp mà do năng lực kinh tế của
từng quốc gia đó quyết định. Ngoài ra, nó còn lệ thuộc vào cơ cấu nợ nước ngoài của quốc
gia đó trong tổng dư nợ công ra sao. Đương nhiên là việc vay nợ nước ngoài nhiều hay vốn
vay nước ngoài chiếm tỷ trọng cao sẽ bất lợi hơn so với việc vay vốn trong nước, do biến
động về tỷ giá cũng như các điều kiện ràng buộc và áp lực trả nợ khi đáo hạn.
95
Nợ công là một vấn đề lớn, có liên quan đến rất nhiều vấn đề cần được giải quyết. Đó
là những vấn đề có liên quan đến thể chế kinh tế, kể cả thể chế nhà nước, cả về giáo dục
hay việc thực thi pháp luật cũng là những lĩnh vực có liên quan và ảnh hưởng đến vấn đề
nợ công. Vì vậy, giải quyết vấn đề nợ công không chỉ là công việc của Chính phủ, của các
Bộ, Ngành có liên quan đến việc sử dụng và quản lý nợ công theo Luật quản lý nợ công
mà nó còn là vấn đề có liên quan đển cả hệ thống chính trị và của mọi tầng lớp nhân dân.
Khi bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả và tình trạng tham
nhũng, lãng phí còn diễn ra thì ngân sách nhà nước bị thâm thủng là điều dễ hiểu. Nếu tình
trạng ngân sách bị thâm hụt kéo dài và không được bù đắp, thì việc vay nợ là việc đầu tiên
nên làm vì dễ thực hiện nhất. Nếu lạm dụng việc làm này thì nợ công sẽ tăng lên nhanh
chóng.
Khi việc thực thi pháp luật không nghiêm thì việc vi phạm pháp luật vẫn còn xảy ra,
và việc phòng chống tham nhũng, lãng phí cũng không thể mang lại hiệu quả cao. Đặc biệt
là những vụ án kinh tế lớn vẫn còn diễn ra ngày càng nhiều, làm ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế của đất nước. Khi kinh tế không phát triển thì nguồn thu ngân sách sẽ bị hạn
chế, thu không đủ chi, ngân sách sẽ bị thâm hụt.
Khi nền giáo dục không đạt được nhiều tiến bộ mà bị thụt lùi hay chệch hướng thì
không thể tạo ra nhiều nhân tài để phục vụ đất nước. Khi đất nước không có nhiều nhân tài
hay nhà nước không có chính sách thu hút nhân tài thì sẽ bị chảy máu chất xám. Nếu bộ
máy nhà nước không thu hút được người tài vào để làm việc, thì phần lớn những người
tham gia vào bộ máy nhà nước sẽ không có nhiều người giỏi. Không có nhiều người giỏi
thì bộ máy nhà nước không thể hoạt động có hiệu quả được, đó là chưa kể đến vấn đề đạo
đức xã hội, một khi đã bị xuống cấp thì nguy cơ sẽ còn lớn hơn rất nhiều.
Tóm lại, nợ công là vấn đề có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực; đồng thời cũng có
nhiều lĩnh vực tác động, làm ảnh hưởng đến nợ công. Vì vậy, để giải quyết căn bản vấn đề
nợ công thì Chính phủ cần phải làm rất nhiều việc. Đó là phải giải quyết những vấn đề tồn
tại có liên quan đến nợ công. Phải đánh giá đánh giá được những tác động của nó đối với
nền kinh tế; đồng thời phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như đã nêu trên. Vì nợ công
96
là một vấn đề lớn, nên không thể giải quyết trong một sớm một chiều, mà phải là cả một
quá trình liên tục và lâu dài.
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Samuelson, P.A., & Nordhaus, W.D., 1989, Kinh tế học, Nhà xuất bản Thống kê, Tái
bản lần 2 (Tập 2), Hà Nội.
2. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2017), Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14
ngày 23/11/2017, Hà Nội.
3. Chính phủ (2010), Nghị định về nghiệp vụ quản lý nợ công số 79/2010/NĐ-CP ngày
14/07/2010, Hà nội.
4. Bộ Tài chính (2012-2017), Bản tin nợ công qua các năm, Hà Nội
5. Phạm văn Dũng (2011), Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Luân văn
thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM.
6. Trương Trọng Tùng (2015), An toàn nợ công của Việt Nam, Luân văn thạc sĩ tài chính
ngân hàng, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế.
7. Nguyễn Đăng Hưng (2014), Vai trò của kiểm toán trong việc quản lý nợ công, Luận án
tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Bổn (2016), Tác động của nợ công và lạm phát lên tăng trưởng kinh tế ở
các nước đang phát triển, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
9. Lê Phan Diệu Thảo, Nguyễn Thảo Phương (2011), Nợ công Việt Nam - những vấn đề
cần bàn thêm, Tạp chí Ngân hàng số 11 tháng 6/2011.
10. Nguyễn Tuấn Tú (2012), Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Tạp
chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh số 28.
11. Lê Thị Diệu Huyền (2011), Lợi ích phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ nhằm
quản lý nợ công ở Việt Nam, Tạp chí khoa học & đào tạo Ngân hàng số 106.
12. Đỗ Văn Đức (2011), Tác động của khủng hoảng tài chính, nợ công và tăng trưởng đến
nền kinh tế thế giới và những vấn đề kinh tế đối với Việt Nam, Tạp chí khoa học & đào
tạo Ngân hàng số 115.
13. Nguyễn Thị Kim Thanh (2011), Vai trò của Ngân hàng nhà nước trong quản lý nợ
công, Tạp chí Ngân hàng số 2+3/2011
98
14. Đoàn Thanh Hà (2015), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, tài liệu môn Phương
pháp luận nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, năm 2015.
15. Lê Thị Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Nhung 2012, Tiền tệ- Ngân hàng, NXB Phương Đông.
Tp HCM.
16. Alan Phan (2010), Một tư duy khác về kinh tế và xã hội Việt Nam, NXB Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
17. Lý Quang Diệu (2013), Bàn về Trung Quốc, Hoa Kỳ và thế giới, NXB Thế giới, Hà
nội.
18. Lý Quang Diệu (2016), Kỷ luật thép của Singapore, NXB Hồng Đức, Hà nội.
Website:
- http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-dieu-tra/thuc-trang-no-
cong-va-quan-ly-no-cong-o-viet-nam-31983.html [Truy cập ngày 28/11/2018]
- http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/khung-hoang-no-
cong-the-gioi-va-bai-hoc-cho-viet-nam-24573.html [Truy cập ngày 18/05/2018]
- http://baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/nhat-no-nhieu-van-an-toan-giai-phap-cho-
viet-nam-3278552/ [Truy cập ngày: 11/04/2018]
- http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Nghi-quyet-Trung-uong-5-ve-hoan-thien-the-
che-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-XHCN/307873.vgp [Truy cập ngày 20/08/2018]
- http://ndh.vn/bo-tai-chinh-no-cong-viet-nam-nam-2017-o-muc-61-3-gdp-
20180108080238421p4c145.news [Truy cập ngày 09/01/2018]
- http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/bo-truong-tai-chinh-15-nam-no-cong-
tang-gan-15-lan-3492364.html [Truy cập ngày 11/03/2018]
- http://www.tienphong.vn/kinh-te/giam-doc-wb-noi-ve-quan-ly-no-cong-o-viet-nam-
1155633.tpo [Truy cập ngày 15/04/2018]
- http://vietstock.vn/2017/05/ke-hoach-vay-tra-no-cua-chinh-phu-nam-2017-758-
534908.htm [Truy cập ngày 17/05/2018]
- http://www.thesaigontimes.vn/156693/No-tra-no-va-khung-hoang.html [Truy cập
ngày 20/06/2018]
99
- http://tapchinganhang.gov.vn/phoi-hop-chinh-sach-tai-khoa-va-chinh-sach-tien-te-
o-viet-nam-giai-doan-2011-2015-va-giai-phap-den-n.htm [Truy cập ngày
25/07/2018]
- https://tuoitre.vn/tien-cat-ngan-hang-cong-trinh-doi-von-20170913080958205.htm
[Truy cập ngày 13/09/2018]
- http://cafef.vn/nam-2018-no-cong-co-tiep-tuc-la-noi-am-anh-voi-nguoi-dan-
20180102150133355.chn [Truy cập ngày 11/07/2018]
- https://www.bloomberg.com/news/articles/2018-04-18/world-debt-hits-record-164-
trillion-as-crisis-hangover-lingers [Truy cập ngày 18/05/2018]
- https://www.businesstoday.in/current/economy-politics/imf-global-debt-record-
usd-164-trillion-india-praised-right-policies/story/275209.html [Truy cập ngày
08/06/2018]