BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------(cid:0)ω(cid:0)----------
PHẠM VĂN DŨNG
NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------(cid:0)ω(cid:0)----------
PHẠM VĂN DŨNG
NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế -Tài chính - Ngân hàng. Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2011
Mục Lục
Mở đầu ............................................................................................. ..1
CHƯƠNG I : KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .............. ..5
1.1. Các khái niệm về nợ và tăng trưởng kinh tề: ............................................ ..5
1.1.1 Nợ nước ngoài của quốc gia ...................................................................... . 5
1.1.2 Tăng trưởng kinh tế ................................................................................... ..5
1.1.3 Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. ..................................... ...6
1.2 Giá trị tới hạn của nợ đối với tăng trưởng kinh tế .................................... ..8
1.3 Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối các quốc gia có thu nhập thấp ................................................................................................. .....9
1.3.1- Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài của IMF. .................. .... 9
1.3.2- Tiêu chí của Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá mức độ nợ của các quốc gia vay nợ. ........................................................................................... ...10
1.4.1- Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài........................................... ............,........11
1.4.2- Các nghiên cứu của tác giả trong nước. .......................................................... ....15
1.4 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế .......................................................................................... ...11
CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM ................................................................................................................. ...18
2.1- Tổng quan về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2010 ........ ...18
2.2- Những nguyên nhân làm gia tăng nợ nước ngoài của Việt Nam. ........... ...21
2.2.1- Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt thương mại :…………………….....21
2.2.1.1 Thâm hụt thương mại do chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm:……...22
2.2.1.2 Thâm hụt thương mại do đầu tư tăng quá cao:…………...…….....…22
2.2.1.3 Thâm hụt thương mại do đầu tư không hiệu quả…………....…........26
2.2.1.4 Thâm hụt thương mại do mức tiết kiệm thấp………………..............29
2.2.1.5 Thâm hụt thương mại do mất cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu……………….…………………………………………...........30
2.2.2- Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt ngân sách :……………………...…31
2.2.3- Thâm hụt kép khuếch đại tác động đến nợ nước ngoài:……………….....33
2.3- Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam…...................................35
2.3.1- Đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam theo mức ngưỡng của HIPCs………………………...………………………………………......35
2.3.2- Đánh giá tính ổn định của nợ theo các tiêu chí giám sát an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam……………………………........………..............….36
2.3.3- Đánh giá tính ổn định của nợ theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ nước ngoài………………………………….............…..38
2.3.4- Đánh giá khả năng trả nợ nước ngoài trong tương lai…………...……... 39
2.3.5- Đánh giá rủi ro việc vay nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh………………………………………..……………………...…........42
2.3.6- Đánh giá tính công bằng liên thế hệ trong quản lý và sử dụng nợ vay nước ngoài tương lai…………………………………………...…………...... 44
2.3.7- Những bất cập về quản lý nợ nước ngoài hiện nay...…… ... …....…........45
CHƯƠNG III PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ NƯỚC NGOÀI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986- 2010 .................................................................................................................. . 47
3.1. Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài theo mô phỏng đường cong Laffer nợ .......................................................................................................................... .47
3.2. Phân tích thực nghiệm ảnh hưởng nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2010 ........................................................................ 48
3.2.1. Mô hình nghiên cứu. ............................................................................. 48
3.2.2. Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thực nghiệm. ............................... 50
3.2.3. Kết quả thực nghiệm. ............................................................................ 50
3.2.3.1 Các phân tích và kiểm định ban đầu. .............................................. 50
3.2.3.2 Phân tích cân bằng dài hạn-Phân tích đồng liên kết ........................ 52
3.2.3.3 Phân tích cân bằng ngắn hạn .......................................................... ......
56
3.2.4. Kết luận ................................................................................................ . 63
3.2.5. Hạn chế của mô hình định lượng ........................................................... . 64
CHƯƠNG IV : MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM. ........................................ . 65
4.1- Gắn kết quy mô nợ nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ...................... . 65
4.2- Hướng đến cân đối tiết kiệm- đầu tư. ..................................................... . 66
4.3- Tăng cường quản lý việc vay nợ nước ngoài không được bảo lãnh…...... 68
4.4- Cải thiện thể chế và chính sách để hướng đến xây dựng một chiến lược quản lý nợ thích nghi với bối cảnh hiện nay................................................... .. 69
4.5- Hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài: .............................................. . 72
KẾT LUẬN …..................................................................................................... 78
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO............ 79
PHỤ LỤC 1.
PHỤ LỤC 2.
PHỤ LỤC 3.
PHỤ LỤC 4.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 : Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn về nợ của MF..................................9
Bảng 1.2 : Tiêu chí đánh giá mức độ nợ nước ngoài của WB.............................10
Bảng 1.3 : Một số nghiên cứu gần đây về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và
tăng trưởng kinh tế………..........……… ………..…………............14
Bảng 2.1 : Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư giai đoạn 2000-2009................…................22
Bảng 2.2 : Tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư các thành phần kinh tế (theo giá thực tế)
giai đoạn 1999 – 2010..............................……...................................23
Bảng 2.3 : Cơ cấu đầu tư phân theo ngành giai đoạn 2005 – 2010...........…........25
Bảng 2.4: Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Châu Á - Giai đọan từ
2000 -2009..........................................................................................26
Bảng 2.5: Tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ đầu tư và ICOR của Việt Nam, giai đoạn
1995-2010…………….............................................................. …….27
Bảng 2.6: Thâm hụt thương mại Việt Nam, giai đoạn 1995-2010.........……......31
Bảng 2.7: Thâm hụt NSNN giai đoạn 2000 – 2011F...........................…….........32
Bảng 2.8. Thâm hụt NSNN và cán cân thương mại Việt Nam, giai đoạn 2000 –
2010.............………….......................................................................33
Bảng 2.9 : Các tiêu chí đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của IMF và WB cho
HIPCs.................... ...........................................................................35
Bảng 2.10: Các chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam............................37
Bảng 2.11: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế theo tiêu chuẩn của HIPCs. ................................................................................................39
Bảng 2.12: Dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài của Chính phủ, tính đến 31/12/2010...................................................................................40
Bảng 2.13: Các chỉ tiêu giám sát về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế (Giai
đoạn 2005-2010). ...............................................................................42
Bảng 2.14 : Tốc độ tăng nợ nước ngoài của quốc gia, khu vực công và không
được bảo lãnh, giai đoạn 2006-2010...................................................42
Bảng 3.1: Ma trận hệ số tương quan.....................................................................51
Bảng 3.2 :Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị........................................................51
Bảng 3.3 : Kiểm định wald mô hình 1..................................................................53
Bảng 3.4 : Kiểm định phần dư của mô hình (2)....................................................53
Bảng 3.5 : Hồi qui mô hình ECM với 2 bước trễ..................................................57
Bảng 3.6: Hồi qui mô hình ECM với 1 bước trễ..................................................59
Bảng 3.7 : Kết quả kiểm ý nghĩa thống kê mô hình ECM (Mô hình 1 bước trễ) .61
Bảng 3.9: Kiểm định wald mô hình ECM 1 bước trễ.......................................... 63
Bảng 3.8: Phần dư có phân phối chuẩn................................................................ 62
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1 : Đường cong Laffter về nợ.................................................... …...............7
Hình 2.1: Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ, GDP và tăng trưởng GDP.......... ............ 18
Hình 2.2 : Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế (giá thực tế, tỷ đồng), giai
đoạn 1999 – 2010............................................................................... .23
Hình 2.3 : So sánh tỷ lệ đầu tư/GDP (%) của Việt Nam với các nước trong
khu vực châu Á, giai đoạn 2000-2009.............................. ...................24
Hình 2.4 : So sánh hệ số ICOR của các thành phần kinh tế.................................. 28
Hình 2.5 : Tỷ lệ tiết kiệm/GDP giai đoạn 1996- 2009 ....................... ...................29
Hình 2.6: Quan hệ tỷ lệ thâm hụt NSNN và cán cân thương mại, giai đoạn
2000 – 2010............................ ……………………………………..34
Hình 3.1 : Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài trên GDP (2000) của Việt
Nam..………………………………………………………………....47
Hình 3.2. Đường biểu diễn giá trị dự báo và phần dư mô mình ECM dựa
trên phần dư phương pháp Engle-Granger (3).................................... 58
Hình 3.3. Đường biểu diễn giá trị dự báo và phần dư mô mình ECM, dựa
trên phần dư phương pháp Engle-Granger (4).....................................60
Hình 3.4. Kết quả kiểm định Histogram-Normality...............................................62
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADB: Ngân hàng Phát triển châu Á M hoặc NK: Giá trị nhập khẩu.
ADF: Augmented Dickey-Fuller MOF: Bộ Tài Chính
DN : Doanh nghiệp NHNN: Ngân hàng Nhà nước
DW: Durbin-Watson NSNN: Ngân sách Nhà nước
ECM: Error correction model ODA: Viện trợ chính thức không
hoàn lại EDT : Tổng nợ nước ngoài
OLS : Phương pháp bình phương EXP : Độ mở nền kinh tế bé nhất. EUR: Đồng tiền chung Châu Âu
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
SRD : Quyền rút vốn đặc biệt (Đồng tiền qui ước của một số nước thành viên IMF) FII: Đầu tư gián tiếp
TB: Cán cân thương mại GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
TDS : Tổng dịch vụ nợ hay nghĩa GNP : Tổng sản phẩm quốc dân vụ nợ GNI : Tổng thu nhập quốc dân USD: Đô la Mỹ GSO: Tổng cục thống kê Việt Nam VN: Việt Nam HIPCs : Các nước nghèo gánh nặng WB: Ngân hàng Thế giới nợ
WTO: Tổ chức Thương mại Thế ICOR: Incremental Capital Output giới Ratio
EX hoặc XK: Giá trị xuất khẩu IMF: Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
XNK: Xuất nhập khẩu. INV : Đầu tư nội địa
JPY : Đồng Yên Nhật
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua, nước ta liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
điều đó không chỉ dựa vào yếu tố nội sinh, mà còn có sự tác động của yếu tố bên
ngoài. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện tiết kiệm trong nước còn
hạn chế, các nước đang phát triển thường thu hút các nguồn vốn nước ngoài bằng
nhiều cách khác nhau, trong đó vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước
ngoài bao gồm vay nợ dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
có tính chất ưu đãi và vay thương mại theo các điều kiện thị trường. Chính nguồn
vốn bổ sung từ bên ngoài đã giúp nhiều quốc gia khắc phục tình trạng chậm phát
triển và chuyển sang phát triển bền vững.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, khủng hoảng tiền tệ
luôn đe dọa các nền kinh tế, việc vay nợ nước ngoài luôn gắn với các rủi ro tài
chính qua các yếu tố tỷ giá, chi phí sử dụng nợ, lạm phát,… đây là vấn đề mà nhiều
nhà kinh tế đã cảnh báo. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao, giá trị
đồng nội tệ ngày càng suy giảm so với ngoại tệ vay nợ, thì quy mô nợ và gánh nặng
trả nợ ngày càng lớn. Thực tế các nước cho thấy, việc vay nợ và sử dụng nợ kém
hiệu quả đã dẫn nhiều nước đến tình trạng “vạ nợ”, chìm đắm trong khủng hoảng
nợ. Như vậy, có thể xem nợ nước ngoài như là một “con dao hai lưỡi”, vừa giúp các
nước đang “thiếu vốn” tăng cường và đẩy mạnh phát triển kinh tế, ngược lại sẽ gây
ra những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế của nước vay nợ.
Để tìm hiểu vấn đề này, đã có các nghiên cứu trong nước về tác động của các biến
kinh tế vĩ mô đến tăng trưởng và phần nhiều nghiên cứu thuộc về nhóm nghiên cứu
định tính, một số ít nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng nhưng không có biến
trực tiếp giải thích mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế, chưa có
các nghiên cứu phân tích sâu nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài, kết hợp giữa
phân tích định tính và phân tích định lượng để giải thích tác động của nợ nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Để bổ sung cho vấn đề này, tác giả quyết định chọn
2
đề tài “Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, làm cho nợ công
và nợ nước ngoài trở thành vấn đề sống còn của nhiều nước trên thế giới, nhất là
các nước Châu âu đang chìm đắm trong nợ và quan tâm đặt biệt ở Việt Nam hiện
nay. Bởi vì, nợ nước ngoài là một biến kinh tế vĩ mô tác động mạnh đến tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam. Những năm gần đây, nợ nước ngoài của Việt Nam tăng lên
rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế, điều này đã gây nhiều quan ngại cho
những nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách và Chính phủ Việt Nam. Do đó, việc
nghiên cứu sâu hơn sự tác động này trong thực trạng của nền kinh tế Việt Nam là
hết sức cần thiết, để rút kinh nghiệm và đề xuất những biện pháp , những chính sách
quản lý vay nợ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo sự tăng trưởng kinh
tế bền vững trong tương lai.
Ngoài việc tập trung phân tích nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài ở hai góc độ
thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách, nghiên cứu còn đo lường một số yếu tố
vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam bằng kỹ thuật phân tích đồng
liên kết và mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM -Error correction model). Đây là kỹ
thuật được rất nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài ứng dụng khi nghiên cứu về tăng
trưởng kinh tế, vì nó phù hợp với đặc điểm dữ liệu chuỗi thời gian.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song luận văn cũng không
thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được được sự góp ý chân thành
của thầy cô và bạn đọc nhằm giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu :
Mục tiêu của đề tài là thông qua việc phân tích, nghiên cứu tìm hiểu thực trạng vay
nợ nước ngoài và mối quan hệ tác động giữa nợ nước ngoài đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam. Từ đó, tác giả rút ra các nhận xét và đề xuất một số biện pháp
nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam.
3
3. Đối tượng nghiên cứu :
Để đạt mục tiêu nghiên cứu như nêu trên, luận văn hướng đến các đối tượng nghiên
cứu như sau:
- Nợ nước ngoài và dịch vụ nợ của Việt Nam;
- Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam;
- Quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP tại Việt Nam;
- Tổng mức đầu tư nội địa trên GDP;
- Độ mở nền kinh tế (EXP)
- Trị giá xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam;
- Mức đầu tư và mức tiết kiệm của nền kinh tế Việt Nam;
- Thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách của Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu tập trung vào thực trạng vay nợ nước ngoài và phân tích định
lượng mối quan hệ giữa vay nợ nước ngoài/GDP, dịch vụ nợ/GDP, đầu tư nội
địa/GDP, đầu tư trực tiếp nước ngoài/GDP, độ mở nên kinh tế với tăng trưởng kinh
tế tại Việt Nam từ năm 1986, khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa cho đến hết năm 2010.
Phạm vi nghiên cứu cụ thể của đề tài là:
- Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài và dịch vụ nợ của Việt Nam, giai đoạn
1986-2010;
- Phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt nam, giai đoạn 1986-2010;
- Phân tích giá trị xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam;
- Phân tích thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách của Việt Nam, giai
đoạn 2000-2010;
- Phân tích định tính và định lượng nợ nước ngoài tác động đến tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam, giai đoạn 1986-2010.
5- Phương pháp nghiên cứu :
4
Để hoàn thành đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp:
- Phương thu thập thông tin, tổng hợp và phân tích số liệu từ Internet, các bài
báo, các bài nghiên cứu trong và ngoài nước.
- Phương pháp mô hình hoá: Phương pháp này được sử dụng để làm rõ những
phân tích định tính bằng các hình vẽ cụ thể để vấn đề trở nên dễ hiểu hơn;
- Phương pháp phân tích kinh tế lượng: Tác giả sử dụng kỹ thuật hồi quy đồng
liên kết để phân tích cân bằng dài hạn và mô hình ECM để phân tích cân
bằng ngắn hạn của một số yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
giai đoan 1986 - 2010.
6- Dữ liệu nghiên cứu :
Trong luận văn tác giả đã sử dụng số liệu thống kê từ Tổng cục thống kê (GSO), Bộ
Tài Chính (MOF), Bộ Công thương (MOIT), Quỹ Tiền tệ quốc (IMF), Ngân hàng
Thế giới (WB), công bố trong khoảng thời gian từ 1986 đến 2010.
7- Đóng góp của luận văn:
Luận văn với đề tài “Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” khi đạt
được những mục tiêu nghiên cứu sẽ có các khuyến nghị để Chính phủ hoàn thiện
các thể chế, tiến tới nâng cao hiệu quả quản lý vay nợ nước ngoài Việt Nam
8- Bố cục luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo luận văn chia làm 4
chương:
- Chương I : Khung lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về nợ nước ngoài và
tăng trưởng kinh tế;
- Chương II : Phân tích thực trạng nợ nước ngoài ở Việt Nam 1986-2010;
- Chương III : Phân tích định lượng ảnh hưởng của nợ nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế;
- Chương IV : Một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của
Việt Nam hiện nay.
5
CHƯƠNG I KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ
NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
1.1- Khái niệm về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế:
1.1.1 Nợ nước ngoài của quốc gia : là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính
phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác được vay
theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1.1.2- Tăng trưởng kinh tế :
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về giá trị trong phạm vi một nền kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế được phản ánh ở nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu thường được sử dụng
là Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng thu nhập
quốc dân (GNI), tăng trưởng vốn, lao động, sự gia tăng dung lượng thị trường...Sự
tương tác giữa các bộ phận cấu thành GDP như tiêu dùng nội địa, đầu tư, chi tiêu
chính phủ và cán cân thương mại sẽ làm thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Quá trình tăng trưởng thể hiện các nguồn lực tăng trưởng như tài nguyên thiên
nhiên, vốn, lao động, công nghệ, quản lý, quan hệ, thị trường... được khai thác và sử
dụng có hiệu quả cao nhất. Tăng trưởng kinh tế bao hàm cả tăng trưởng theo chiều
rộng và chiều sâu, số lượng và chất lượng, ngắn hạn và dài hạn...Nhiều công trình
nghiên cứu trong ngoài nước đã lượng hoá tác động của các nguồn lực tăng trưởng
đến chất lượng và động thái tăng trưởng thông qua các mô hình như mô hình tái sản
xuất giản đơn của C,Mác, tái sản xuất mở rộng của V.I. Lênin, mô hình các giai
đoạn tăng trưởng kinh tế của W.Rostow hoặc Solow...hoặc hàm sản xuất Cob
Douglas.
Quá trình tăng trưởng kinh tế có thể có nhiều mô hình khác nhau như tăng trưởng
kinh tế hướng nội, tăng trưởng kinh tế hướng ngoại hoặc sự kết hợp của cả hai mô
hình này tùy điều kiện và sự lựa chọn chiến lược của các quốc gia. Như vậy, tăng
trưởng kinh tế là quá trình tích luỹ giá trị gia tăng của một nền kinh tế từ các nguồn
6
lực trong và ngoài nước và nó phải được thúc đẩy bằng những động lực đủ mạnh
của chính sách, lòng tự hào dân tộc hoặc những yếu tố khác trong điều kiện toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.3- Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế.
Các lí thuyết kinh tế cho rằng mức vay nợ nước ngoài hợp lý ở các nước đang phát
triển sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia ở giai đoạn phát triển đầu với
dung lượng vốn nhỏ hơn sẽ có những cơ hội đầu tư với tỷ suất hoàn vốn cao hơn so
với các nền kinh tế phát triển. Câu hỏi đặt ra là tại sao mức nợ tích lũy cao quá mức
hợp lý lại có thể dẫn tới tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Sự lý giải tốt nhất có thể xuất phát từ lý thuyết “debt overhang”1.
Theo Krugman (1988) định nghĩa “debt overhang” là tình trạng trong đó số tiền dự
kiến chi trả nợ nước ngoài sẽ giảm dần khi dung lượng nợ tăng lên. Lý thuyết “debt
overhang” cho rằng nếu như nợ trong tương lai vượt quá khả năng trả nợ của một
nước thì các chi phí dự tính chi trả cho các khoản nợ sẽ kìm hãm đầu tư trong nước
và đầu tư nước ngoài, từ đó ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng. Các nhà đầu tư tiềm
năng sẽ lo sợ rằng khi quốc gia đó sản xuất càng nhiều, họ sẽ bị các nước đánh thuế
nặng hơn để chi trả cho các khoản nợ nước ngoài, do đó các nhà đầu tư sẽ khó có
thể bỏ các chi phí đầu tư hiện tại để thu về sản lượng cao hơn trong tương lai. Lý
thuyết “debt overhang” còn đi đến một kết quả rộng hơn, đó là mức nợ nước ngoài
quá cao sẽ làm giảm các ưu đãi của chính phủ cho các hoạt động cải tổ cơ cấu và tài
khóa do việc củng cố tình hình tài khóa quốc gia có thể làm tăng áp lực trả nợ cho
nước ngoài. Những bất lợi này đối với công cuộc cải tổ đang là mối quan ngại lớn ở
các nước có thu nhập thấp, nơi mà việc cải cách cơ cấu là cần thiết để duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
Tình trạng “Debt overhang” cũng đồng thời kìm hãm đầu tư và tăng trưởng do gây
ra sự lo ngại về các quyết định của Chính phủ. Khi quy mô nợ công tăng lên, khó có
1 -“debt overhang” tạm dịch là việc vay nợ quá mức dẫn đến việc đầu tư sẽ không hiệu quả.
thể chắc chắc rằng chính phủ sẽ viện tới những chính sách gì để giải quyết các
7
khoản nợ phải trả. Trên thực tế, người ta cho rằng Chính phủ có thể dùng các công
cụ tác động đến đầu tư để chi trả cho các khoản nợ (theo Agenor và Montiel 1996).
Lập luận này có thể được xem xét trong đường cong Laffer về nợ ( Hình 1.1), cho
thấy rằng tổng nợ càng lớn sẽ đi kèm với khả năng trả nợ càng giảm. Trên phần dốc
lên của đường cong, giá trị hiện tại của nợ càng tăng sẽ đi cùng với khả năng trả nợ
cũng tăng lên.Trên phần dốc xuống của đường cong, giá trị hiện tại của nợ càng
tăng lại đi kèm với khả năng trả nợ càng giảm.
Debt Overhang
Khả năng trả nợ
Dung lượng nợ
Nguồn: Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci (2002):” External Debt and Growth”, Magazine Finance and Development of the IMF.,
Hình 1.1 : Đường cong Laffter về nợ
Đỉnh đường cong Laffer về nợ (hình 1.1) là điểm mà tại đó sự tăng lên trong tổng
nợ bắt đầu tạo ra gánh nặng cho đầu tư, cải tổ kinh tế và các hoạt động khác, điểm
này có thể liên quan đến điểm mà tại đó nợ bắt đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng
trưởng. Do vậy, ở mức nợ hợp lí, vay nợ tăng lên sẽ có tác động tích cực đến tăng
trưởng. Ngược lại, tổng nợ tích lũy lớn sẽ có thể cản trở tăng trưởng.
Dung lượng nợ lớn có thể ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng do tác động xấu
đến tích lũy vốn sản xuất và tăng trưởng năng suất các nhân tổ tổng hợp. Bên cạnh
đó, môi trường chính sách của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa nợ
và tăng trưởng.
8
1.2- Giá trị tới hạn của nợ đối với tăng trưởng kinh tế 2 . Nợ công đã tăng lên đáng kể ở hầu hết các nước đã và đang phát triển hiện nay, đây
là hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Và sự gia tăng nợ
công đã dấy lên lo ngại liệu nó đang bắt đầu đạt đến mức độ mà tại đó nó có thể làm
chậm tăng trưởng kinh tế. Có một "đỉnh điểm" tồn tại? Làm thế nào tác động tăng
trưởng mạnh mẽ được nếu nợ đã vượt qua ngưỡng? Điều gì sẽ xảy ra nếu nợ vẫn ở
mức cao trong một thời gian dài?
Theo nghiên cứu của Reinhart và Rogoff (2010), sử dụng biểu đồ tổng hợp từ 44
quốc gia phát triển và đang phát triển, họ tìm thấy một ngưỡng nợ của chính phủ
trên GDP 90%, nếu vượt qúa mốc này tốc độ tăng trưởng thực tế giảm. Ngưỡng này
được xem là "điểm tới hạn" hay “ngưỡng nợ”.
Theo nghiên cứu của Mehmet Caner, Thomas Grennes và Koehler Fritzi-Geib, các
chuyên gia kinh tế của World bank (2010) bằng lý thuyết và thực nghiệm trên mẫu
là 101 quốc gia ( 75 quốc gia đang phát triển và 26 quốc gia phát triển), trong đó có
Việt Nam, về mối quan hệ trong dài hạn giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, giai
đoạn 1980-2008, phân tích này cung cấp một nền tảng cho sự phát triển các nghiên
cứu chứng minh sự tồn tại ngưỡng nợ và ước tính ngưỡng nợ (nợ công trên GDP)
cho từng quốc gia, từ đó có những chính sách phù hợp đối phó với nguy cơ khủng
hoảng nợ đang đe dọa các nước có nợ nước ngoài cao hiện nay. Và kết quả nghiên
cứu cho thấy có sự tồn tại ngưỡng nợ ( Debt threshold), mức ngưỡng của tỷ lệ nợ
công trung bình dài hạn so với GDP là 77 % cho các nhóm mẫu chung (gồm các
quốc gia đã phát triển và đang phát triển) và 64% cho các các nước đang phát triển.
Nếu nợ công vượt qua mức 77%, mỗi điểm phần trăm tăng thêm trong tỷ lệ nợ công
trên GDP của nền kinh tế làm mất 0,0174 điểm phần trăm tăng trưởng thực trung
bình hàng năm. Hiệu ứng này là rất quan trọng. Dưới ngưỡng này, mỗi điểm phần
trăm tăng thêm trong tỷ lệ nợ công trên GDP của nền kinh tế làm tăng 0,065 điểm 2“Finding the Tipping Point - When Sovereign Debt Turns Bad” by Mehmet Caner, North Carolina State University, Thomas Grennes, North Carolina State University, Fritzi Koehler-Geib, World Bank.
9
phần trăm tăng trưởng thực trung bình hàng năm. Như vậy, có sự tồn tại ngưỡng nợ,
đây là giá trị tới hạn.
1.3- Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối các quốc gia có thu nhập thấp.
Các chỉ số đánh giá mức độ an toàn về nợ nước ngoài được xây dựng thành hệ
thống nhằm xác định mức độ nghiêm trọng của nợ nước ngoài đối với an ninh tài
chính quốc gia. Cũng cần phải xác định lại là các chỉ tiêu đánh giá chung về nợ
nước ngoài, trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ là chủ yếu, còn nợ của khu vực
tư nhân hầu như không đáng kể.
1.3.1- Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài của IMF.
Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các
quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ (nghĩa vụ trả
nợ), một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh
đồng nghĩa với kém an toàn về nợ.
Bảng 1.1 : Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn về nợ của IMF.
NPV của nợ (%)
Dịch vụ nợ (%)
Gánh nặng nợ theo tiêu chí DSF
GDP Xuất khẩu Thu ngân Xuất khẩu Thu ngân sách sách
100 30 200 15 25 An toàn
150 40 250 20 30 Trung Bình
Nguồn: IMF.
200 50 300 25 35 Mạnh
- Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu (NPV/X): đo lường hiện giá thuần của nợ nước ngoài
liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia từ nguồn thu xuất khẩu;
- Tỷ lệ NPV của nợ/thu ngân sách nhà nước (NPV/DBR): đo lường hiện giá thuần
của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu
ngân sách nhà nước.
10
Tuy nhiên, chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: (i) tỷ lệ
xuất khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc bằng 30% và (ii) tỷ lệ thu ngân sách nhà
nước/GDP ( DBR/GDP) phải lớn hơn 15%. Một quốc gia được xem là an toàn nếu
như NPV/X nhỏ hơn 150%; NPV/DBR nhỏ hơn 250%.
- Tỷ lệ NPV của nợ/GDP (NPV/GDP): đo lường hiện giá thuần của nợ nước ngoài
trên tổng thu nhập quốc nội;
- Dịch vụ nợ/xuất khẩu (TDS/X) và dịch vụ nợ/nguồn thu ngân sách (TDS/DBR): là
những chỉ tiêu đo lường tính lỏng được Ngân hàng Thế giới và IMF đưa vào để
đánh giá mức độ bền vững nợ công. TDS/X đo lường khả năng thanh toán dịch vụ
nợ từ nguồn thu xuất khẩu. Còn TDS/DBR đo lường khả năng thanh toán dịch vụ
nợ từ thu ngân sách nhà nước. Một quốc gia đảm bảo tính lỏng, TDS/X phải thấp
hơn 15% và TDS/DBR thấp hơn 10%.
1.3.2- Tiêu chí của Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá mức độ nợ của các quốc
gia vay nợ.
Để xếp loại các con nợ theo mức độ nợ, Ngân hàng thế giới sử dụng các chỉ số đánh
giá mức độ nợ nần của các quốc gia vay nợ như ở bảng 2.
Bảng 1.2: Tiêu chí đánh giá mức độ nợ nước ngoài của WB.
Chỉ số
Mức độ bình thường Mức độ khó khăn Mức độ trầm trọng
≤ 30% 30 – 50% ≥ 50%
1. Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với GDP
≤ 165% 165 – 200% ≥ 200%
2. Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
≤ 18% 18 – 30% ≥ 30%
3. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
4. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so ≤ 2% 2 – 4% ≥ 4%
11
với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ so với GDP
≤ 12% 12 – 20% ≥ 20%
5. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả lãi so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
Nguồn : World Bank.
Dựa vào các chỉ số trên, các tổ chức tài chính quốc tế có thể đánh giá mức độ nợ
nần và khả năng tài trợ cho các nước thành viên. Các chỉ số này cũng là căn cứ để
các quốc gia vay nợ tham khảo, xác định tình trạng nợ để hoạch định chiến lược vay
nợ cho quốc gia.
Quy mô nợ và trả nợ, trả lãi so với nguồn thu trực tiếp và gián tiếp để trả nợ thường
được dùng để đánh giá mức độ nợ. Mức độ nợ cũng ngầm cho biết khả năng trả nợ
của các quốc gia trong trung và dài hạn. Các chỉ tiêu thường dùng:
* Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài (EDT/XGS)
- Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa dịch vụ: Chỉ tiêu này biểu diễn tỷ lệ
nợ nước ngoài bao gồm nợ tư nhân, nợ được chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn
thu xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng
để trả nợ nước ngoài.
* Tỷ lệ nợ nước ngoài so với tổng sản phẩm quốc nội (EDT/GDP )
- Nợ/GDP: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua tổng sản phẩm quốc
nội được tạo ra. Hay nói cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước
ngoài. Thông thường các nước đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội
tệ hoặc sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do
vậy, tình trạng nợ có thể không được đánh giá đúng mức.
1.4. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế.
1.4.1- Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài.
12
Đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều chuyên gia kinh tế nghiên cứu thực nghiệm về
tăng trưởng kinh tế. Các tác giả tập trung vào việc đo lường ảnh hưởng của các biến
kinh tế vĩ mô tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế và phổ biến là đo lường
ảnh hưởng của nợ nước ngoài, nghĩa vụ trả nợ, đầu tư nội địa, đầu tư nước ngoài,..
đến tăng trưởng kinh tế. Dưới đây, tác giả tóm lượt một vài nghiên cứu điển hình về
mối quan hệ tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của một số quốc
gia trên thế giới, làm cơ sở nền tảng nghiên cứu thực nghiệm cho tăng trưởng kinh
tế tại Việt Nam, như sau.
Nghiên cứu của tác giả Frimpong, J. M. and Oteng-Abayi, E. F., đăng trong Tạp
chí Khoa học và Công nghệ, Vol 26 No.3, 12/2006 “The Impact Of External Debt
On Economic Growth In Ghana: A Cointegration Analysis”. Trọng tâm của nghiên
cứu này là đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của Ghana,.
Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thời gian từ năm 1970-1999, để tiến hành các bước
thực nghiệm.
Những năm của thập niên 80, Ghana phải đối mặt với một vấn đề nợ rất nghiêm
trọng, các khoản thanh toán nợ nước ngoài là 577.000.000 USD (114% GDP) vào
cuối năm 1982. Cuộc khủng hoảng nợ này là do sự tăng vọt giá dầu trên thị trường
quốc tế, và việc tăng lãi suất cho vay ở phương Tây, trong bối cảnh các chính sách
kinh tế và quản lý kinh tế trong nước yếu kém. Vào cuối năm 2000, nợ của Chính
phủ Ghana và nợ bảo lãnh đã lên đến 6 tỷ USD, chiếm khoảng 571% của doanh thu
tài chính, 157% xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, và 78% của GDP.
Tình trạng nợ nước ngoài của Ghana cũng giống như các nước HIPC hay Sub
Sahara, quốc gia pha trộn bởi đói nghèo, cơ cấu kinh tế yếu kém, mối nguy đạo đức
và năng lực thể chế yếu kém, là một nước có lịch sử khó khăn về trả nợ và đã được
nhóm nước G8 xóa nợ vào tháng 7 năm 2005. Các tỷ số về nợ nước ngoài trên GDP
rất cao, chỉ ra rằng Ghana đứng nguy cơ của việc tích lũy nợ, có thể là không bền
vững trong dài hạn. Xu hướng này nếu không được kiểm tra có thể có dẫn vào một
13
cuộc khủng hoảng nợ, có thể làm cho đất nước một tình trạng rủi ro tài chính
nghiêm trọng.
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF),
Phillips-Perron (PP) và KPSS để kiểm nghiệm đơn vị và tiếp tục sử dụng phương
pháp phân tích đồng tích hợp (Co-integration) của Johansen-Juselius để đo lường
các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ đồng liên kết). Cuối cùng, tác
giả sử dụng mô hình điều chỉnh sai số VECM (Vector Error Correction Model) để
thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các biến vĩ mô. Từ đó, rút
ra kết luận và nhận xét đề xuất. Mô hình cụ thể như sau:
Yt = α0 + α1 lnEDTt + α2 lnFDIt + α3 lnINVt + α4 lnTDSt + α5 EXPt + εt
Trong đó : Biến Y là biến phụ thuộc đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế; biến
EDT là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP; biến FDI là tỷ lệ đầu tư trực
tiếp nước ngoài trên GDP; biến INV là tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP; biến TDS
là tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên xuất khẩu (%) và biến EXP là chỉ tiêu đại diện cho biến
đo lường độ mở của nền kinh tế (%), được tính bằng cách lấy tổng giá trị xuất khẩu
hàng hóa dịch vụ tính theo giá hiện tại qui về đồng tiền địa phương chia cho chỉ số
giá điều chỉnh hàng nhập khẩu.
Các yếu tố quyết định phân tích của tác giả là một mô hình tăng trưởng Elbadawi.
Et al(1996) trong đó tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư quốc nội, đầu tư trực tiếp
nước ngoài, dịch vụ nợ, nguồn vốn nợ nước ngoài và năng lực xuất khẩu.
Kết quả thực nghiệm có sự tồn tại của một phương trình tăng trưởng dài hạn tại
Ghana. Trong dài hạn, dòng nợ nước ngoài (EDT), dịch vụ nợ (TDS) và đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP. Sự gia tăng dòng vốn nợ
nước ngoài có tác dụng tích cực đối với tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, sự gia tăng
dịch vụ nợ nước ngoài giảm tăng trưởng kinh tế và có bằng chứng cho sự tồn tại của
"hiệu ứng lấn át“ ở Ghana. Bên cạnh đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có
14
ảnh hưởng tích cực và đáng kể đến tăng trưởng GDP. Đầu tư nội địa (INV) đã bất
ngờ tác động tiêu cực và đáng kể vào sự tăng trưởng.
Ngoài ra, còn một số nghiên cứu phân tích đánh giá mối quan hệ tác động giữa nợ
nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế tại các nước Kenya, Nepal, Pakistan và Turkye,
với kết quả tóm lượt như sau:
Bảng 1.3 : Một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Năm Tác giả Kết quả
Thời gian và quốc gia nghiên cứu
2001 Maureen Were 1970-1995, Kenya
Nợ nước ngoài đã tác động tiêu cực tăng trưởng kinh tế thực, sự gia tăng trong tỷ lệ dịch vụ nợ hiện tại ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư nhân, điều này khẳng định hiệu ứng lấn át dịch vụ nợ trên đầu tư tư nhân
2002 Karagol, Causality 1965-2001, Turkey
Tồn tại một mối quan hệ tiêu cực giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong thời gian dài Chi trả cho nợ nước ngoài ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Có quan hệ nhân quả đơn hướng chạy từ dịch vụ nợ đến tăng trưởng kinh tế
2008 1986- 2006, Krishna Prasad Regmi Nepal Sự gia tăng nợ nước ngoài và dịch vụ nợ đã tác động tiêu cực, gây khó khăn trở ngại tăng trưởng kinh tế.
2010 1972-2005, Pakistan
Nợ nước ngoài tác động tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế. nợ nước ngoài, là nguyên nhân chính của suy giảm trong đầu tư sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế.
Nguồn : Tác giả tổng hợp, chi tiết xem phụ lục số 1
Shahnawaz Malik ; Muhammad Khizar Hayat và Muhammad Umer Hayat
15
Nhìn chung phần lớn các nghiên cứu của tác giả nước ngoài cho rằng nợ nước ngoài
có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, dịch vụ nợ cao gây ra hiện tượng lấn át
đầu tư tư nhân, đầu tư trong nước và hoạt động xuất khẩu có đóng góp tích cực vào
tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển.
1.4.2- Các nghiên cứu của tác giả trong nước.
Trong nước hiện chưa có nhiều nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng để giải
thích tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, điển hình thì
có nghiên cứu của Ths. Đoàn Kim Thành – Viện nghiên cứu phát triển Tp.Hồ Chí
Minh (HIDS) , đã thực hiện với đề tài :” Vốn vay ODA và khả năng trả nợ của Việt
Nam, giai đoạn 1990-2005”, trình bày tại Hội nghị nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho
Việt Nam, ngày 4/12/2008. Trọng tâm của nghiên cứu này qua sử dụng mô hình hệ
thống dạng tĩnh lược của Jame de Pines và mô hình hồi quy bội để giải thích tác
động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Mục đích của nghiên
cứu nhằm tìm hiểu liệu nợ nước ngoài ở Việt Nam có bền vững hay không và đóng
góp của nó cho tăng trưởng kinh tế như thế nào. Tác giả đã sử dụng số liệu từ Ngân
hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Tổng Cục thống kê
Việt Nam (GSO), để phân tích thực nghiệm.
Trước tiên, tác giả đã phân tích định tính tổng quan về tình hình vay vốn ODA,
đánh giá khả năng chịu đựng nợ của Việt Nam theo khung của WB và IMF, chỉ số
độ an toàn nợ của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2005. Đánh giá chung
nợ nước ngoài đối với VN cho tới thời điểm này chủ yếu là vốn ODA với lãi suất
thấp và thời gian cho vay dài, tỷ lệ vay thương mại là không đáng kể. Các chỉ số an
toàn về nợ nước ngoài cho thấy Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn và khó có
khả năng xảy ra khủng hoảng về nợ .
Tuy nhiên đánh giá này chỉ mới thấy được tính thanh khoản trong thời điểm hiện tại
mà chưa dự báo tới khả năng khủng hoảng nợ trong tương lai, để làm rỏ hơn vấn đề
trên tác giả tiến hành phân tích thực nghiệm mối quan hệ của nguồn vốn ODA tác
16
động đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Việc phân tích tập trung và mô hình nợ bền
vững Jame de Pines và mô hình hồi qui bội.
+ Mô hình hồi quy bội giải thích tăng trưởng kinh tế có dạng như sau :
TDS GDPt
AID GDPt
+6 + ut gt = 0 + 1lnIt + 2lnXt +3inft-1 +4lnFDIt + 5
Trong đó : gt là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế; biến I là tỷ lệ đầu
tư trong nước ; biến X là giá trị xuất khẩu ; biến Inf t-1 là mức độ lạm phát có độ trể
thời gian là 1 kỳ ; biến FDI đầu tư trực tiếp của nước ngoài; biến TDS/GDP là tỷ lệ
dịch vụ nợ trên GDP ; biến AID/GDP là tỷ lệ viện trợ của nước ngoài trên GDP t-1
(AID có độ trể thời gian là 1 kỳ).
Kết quả chạy mô hình.
gt = 8,486 + 0,219 lnIt +0,408 lnXt -0,001 inft-1 + 0,037 lnFDIt
TDS GDPt
AID GDPt
– 0,030 -0,059 + ut
Qua số liệu từ kết quả của mô hình ta thấy, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài và
xuất khẩu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam 20 năm qua; Viện trợ có thể
không trực tiếp tác động hay tác động ít (nghịch biến) đến tăng trưởng, nhưng có
thể có tác động đến tăng trưởng phúc lợi bình quân đầu người thông qua các dự án
công. Nợ có thể tác động âm đến tăng trưởng, có thể do vay mượn và sử dụng
không hiệu quả hay có thể đầu tư vào các dự án dài hạn mà tác động của nó nằm
ngoài mô hình này.
Mô hình hệ thống dạng tĩnh lược của Jame de Pines cho thấy nợ Việt Nam đến năm
2020 vẫn bền vững (nợ trên xuất khẩu dưới 200%) nếu tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dưới 2% hàng năm. Nợ nước ngoài có tác
động âm đến tăng trưởng Việt Nam trong ngắn hạn. Cho nên việc quản lý và sử
dụng các khoản vay phải tính toán đến nhiều yếu tố: Chênh lệch lãi suất và lạm phát
trong và ngoài nước, thời điểm vay và thời gian vay, ràng buộc của các khoản vay ,
hiệu quả kinh tế và xã hội của việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn đi vay, thời điểm
trả nợ. Như đã phân tích ở trên, tác động của nợ cũng như viện trợ là đến phúc lợi
17
bình quân đầu người hơn là tăng trưởng kinh tế. Việt Nam hiện tại và trong tương
lai gần không gặp rủi ro về nợ nước ngoài để có thể dẫn tới một sự khủng hoảng
kinh tế trong trường hợp không có sự đột biến lớn.
Bên cạnh đó, còn có nghiên cứu của Ths. Nguyễn Hoàng Phương với đề tài “ Ước
lượng hiệu quả của vốn ODA đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, giai đoạn
1986-2007”, đăng trên tập Nguồn tài chính trong nước và nước ngoài cho tăng
trưởng ở Việt, Nam, Diễn đàn Phát triển Việt Nam, NXB Lao động Xã hội, năm
2007. Mô hình cụ thể như sau.: GY = g + skGK + (1-sl)GL
Trong đó : GY là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế ; GL là tỉ lệ tăng
trưởng của lao động, GK là tỉ lệ tăng trưởng của tổng nguồn vốn.
Kết quả ước lượng : Vốn ODA đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong tổng
vốn tích luỹ, tổng đầu tư toàn xã hội cũng như sự tăng trưởng của nền kinh tế: ODA
đóng góp 0,73% vào tăng trưởng GDP năm 1993, tăng lên 10% năm 1999, và sau
đó ổn định ở mức 8% cho đến năm 2006; sự đóng góp của ODA đối với tổng vốn
đầu tư toàn xã hội và tổng vốn tích luỹ chiếm tỉ lệ đáng kể trong giai đoạn nghiên
cứu, trung bình ở mức 15% và 11%. Tuy nhiên, kết quả tính toán của sự đóng góp
của ODA đối với sự tăng trưởng của GDP chỉ là sự ước lượng trong ngắn hạn, và sự
đóng góp dài hạn của ODA đối với sự tăng trưởng GDP trong dài hạn vẫn chưa
được xác định. Do đó, có thể khẳng định rằng tổng đóng góp của ODA đối với sự
tăng trưởng của GDP sẽ cao hơn nhiều so với kết quả ước lượng.
18
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM,
GIAI ĐOẠN 1986-2010.
2.1- Tổng quan về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2010
Để khái quát tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam (gồm Nợ Chính phủ và nợ do
Chính phủ bảo lãnh) trong giai đoạn 1986-2010, chúng ta nên xem xét trên các
phương diện: Quy mô nợ, dịch vụ nợ so với GDP, cơ cấu nợ, các chỉ số về an toàn
nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam.
Qua số liệu thống kê cho thấy, tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam hiện đang
có xu hướng tăng rất nhanh và luôn ở mức cao so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do
đó, nguy cơ khủng hoảng nợ công như các nước Châu Âu (Hy lạp. Ireland,..) là điều
có thể, nếu không có những chính sách quản lý và sử dụng vốn vay một cách có
hiệu quả thì sẽ đi vào vết xe đỗ của các nước Nam Âu hiện nay.
Hình 2.1: Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ, GDP và tăng trưởng GDP Giai đoạn 1986 – 2010.
Triệ u USD
12
120.000
Tăng trưởng GDP (%)
10
100.000
8
80.000
GDP và nợ
6
60.000
4
40.000
2
20.000
0 0 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
GDP
Nợ nước ngoài
Tăng trưởng GDP
Dịch vụ nơ
Năm
Nguồn : World Bank và Bộ Tài chính.
19
Trong những năm đầu thập niên 90, Việt Nam là một nước nợ lớn, nợ nước ngoài
cao rất nhiều lần so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cụ thể : năm 1990 là 23,27
tỷ USD trong khi GDP chỉ là 6,4 tỷ USD, điều này cho thấy sự khủng hoảng về khả
năng thanh toán nợ của Việt Nam. Trong giai đoạn này, do được hưởng những ưu
đãi của Hội đồng tương trợ kinh tế (CMEA/SEV), Việt Nam đã vay nợ rất lớn từ tổ
chức này, chủ yếu là vay từ các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là vay nợ của Liên Xô
cũ và các nước Đông Âu với lãi suất ưu đãi rất thấp hoặc miễn lãi suất và kỳ hạn trả
nợ 20-30 năm. Ngoài ra, viện trợ không hoàn lại chiếm phần lớn trong số vay đó.
Việc vay và trả nợ do Nhà nước quản lý và được tiến hành ở dạng trao đổi hàng hóa
với giá cố định theo giá thỏa thuận của các thành viên CMEA năm 1957, trên cơ sở
các hiệp định và hiệp ước hữu nghị.
Sau khi hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa tan rã ở Đông Âu (Năm 1991), Hội đồng tương
trợ kinh tế không còn nữa, mức nợ tồn đọng trước đó tiếp tục sinh lãi, nên nợ của
Việt Nam vẫn ở mức cao, từ 23, 27 tỷ USD năm 1990 tăng lên 26,25 tỷ USD năm
1996.
Đến năm 1997, tổng nợ cũng như dịch vụ nợ của Việt Nam bắt đầu được cải thiện,
từ 27% trên giá trị xuất khẩu năm 1989 giảm xuống còn chưa tới 12% năm 1997,
điều này có được nhờ Việt Nam được giảm nợ và bố trí lại lịch trả nợ theo điều
khoản của câu lạc bộ Paris và các điều khoản của câu lạc bộ London chứ không
phải nỗ lực trả nợ của Việt Nam.
Trong thời gian từ năm 1993 - 1997, Việt Nam đã đàm phán song biên với các chủ
nợ thành viên câu lạc bộ Paris, tổng nợ được giảm là 745 triệu USD. Đến tháng 5-
1996, Việt Nam đã thỏa thuận với câu lạc bộ London, kết quả giảm 53% nghĩa vụ
nợ theo phương án Brady qua các hình thức như: mua lại nợ, chuyển đổi nợ thành
các trái phiếu chiết khấu, chuyển đổi nợ trái phiếu ngang giá, chuyển đổi nợ thành
trái phiếu có lãi. Tháng 12/1997, Việt Nam đã hoàn tất được thỏa thuận giảm nợ là
572 triệu USD, trong đó nợ lãi là 304 triệu USD của các NHTM. Như vậy, tổng nợ
20
của Việt Nam năm 1997 đã giảm xuống còn 21,78 tỷ USD, tức là giảm 17% so với
năm 1996, gánh nặng nợ nần đã giảm đáng kể.
Trong đó, khoản nợ cũ lớn nhất của Việt Nam là khoản nợ với Liên bang Nga. Sau
tám vòng đàm phán kể từ 1994 - 2000, hai bên đã thỏa thuận và ký kết hiệp định xử
lý nợ tổng thể của Việt Nam với Liên Xô (cũ), giảm nợ ngay 85% tổng nợ cũ, tương
đương 9,3 tỷ USD. Hiệp định này đã đưa mức nợ tồn đọng của năm 1999 là 23, 260
tỷ USD, giảm xuống còn 12,787 tỷ USD vào năm 2000. Cộng thêm vào đó, nền
kinh tế Việt Nam luôn tăng trưởng ở mức cao và ổn định trong thập niên 1990, nên
đến năm 2000 tổng nợ chỉ bằng khoảng 1/3 so với tổng sản phẩm quốc nội.
Đến hết năm 2006, tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam bằng 32,5% GDP giảm so
với các năm trước đó và chiếm 52 % tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng gần 2 lần
dự trữ ngoại hối. Năm 2007 tổng nợ ước tính là 32,6% GDP, chiếm 51% tổng kim
ngạch xuất khẩu.
Với ưu thế ổn định về chính trị và sự điều hành hợp lý của Chính phủ nền kinh tế đã
tăng trưởng khả quan, từ đó nước ta nhận được sự tín nhiệm rất cao của cộng đồng
quốc tế. Việt Nam liên tục nhận được những khoản vay ưu đãi hỗ trợ phát triển mà
nổi bật là những khoản ODA đến từ Nhật Bản, WB và ADB. Do đó, tổng nợ nước
ngoài của Việt Nam có xu hướng liên tục tăng trong những năm gần đây. Đến năm
2010, theo Bộ tài chính thì nợ nước ngoài của Việt Nam (Nợ của Chính Phủ và
Chính phủ bảo lãnh) vào khoảng 32,5 tỷ USD bằng khoảng 42,2 % GDP.
Nhìn chung, Việt Nam đã thành công trong xử lý nợ đến hạn, khống chế được luồng
nợ vay ngắn hạn, nhưng còn một số vấn đề trong sử dụng và quản lý nợ ở nước ta
còn nhiều vướng mắc cần được giải quyết. Đó là trong vay nợ và viện trợ, chúng ta
chưa xác định rõ mục tiêu, hiệu quả kinh tế theo quan điểm thúc đẩy hàng hóa xuất
khẩu tạo ra lợi nhuận và có ngoại tệ để trả nợ. Nhiều cán bộ lãnh đạo của chúng ta
khi nhận được các khoản ODA vẫn còn nghĩ là “của cho không”, họ không có ý
thức vay là phải trả vì thế đã để buông lỏng trong quá trình thực hiện các dự án.
21
Ngay cả khi viện trợ không hoàn lại cũng có cái giá của nó, nhà tài trợ đòi hỏi
người sử dụng phải dùng vốn vào đúng mục đích, đúng nơi, đúng chỗ.
Việt Nam hiện chưa xây dựng một chiến lược vay và trả nợ cụ thể rõ ràng cho từng
khoản vay, do đó việc ban hành các chính sách và cơ chế quản lý không khỏi lúng
túng. Nhiều cấp cùng quản lý một dự án và có khi một nguồn viện trợ được phân
tán ở nhiều ngành, nhiều địa phương gây ra những chi phí giao dịch không đáng kể.
Hiện nay, nợ nước ngoài đã gia tăng rất nhanh, tương ứng nghĩa vụ nợ cũng gia
tăng đáng kể, năm 2009 chúng ta phải trả cả gốc và lãi là 1.290,93 triệu USD và
tăng lên 1.672,32 triệu USD vào năm 2010, trong khi đó khả năng thanh toán nợ
của nền kinh tế nói chung và của ngân sách Nhà nước nói riêng là còn rất khó khăn.
Để tìm hiểu sâu hơn thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, về cơ cấu nợ, các chỉ
số về an toàn nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam xem thêm phụ lục số 2.
2.2- Những nguyên nhân làm gia tăng nợ nước ngoài của Việt Nam.
Mặc dù, các chỉ số đánh giá về nợ nước ngoài của Việt Nam đang nằm trong giới
hạn an toàn theo chuẩn mực của WB và không đáng lo ngại, nhưng thực tế, nợ nước
ngoài của Việt Nam giảm là do được giảm nợ chứ không phải nội lực trả nợ (Giai
đoạn từ 1993-2000). Hiện nay, nợ nước ngoài vẫn ngày càng tăng, thêm vào đó các
nguy cơ làm gia tăng nợ vẫn luôn tiềm ẩn, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế lại
không tương xứng với tốc độ gia tăng nợ, điều này dễ dẫn tới gia tăng rủi ro tài
chính.
Vì vậy, cần phải tìm hiểu các nguyên nhân gây ra gia tăng nợ nước ngoài, từ đó có
những nghiên cứu đề xuất kiểm soát sự gia tăng nợ nước ngoài tại Việt Nam trong
thời gian tới. Trong phần này, tác giả tiến hành phân tích việc gia tăng nợ nước
ngoài do thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách trong thời gian qua.
2.2.1- Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt thương mại :
Người ta có thể phân tích một cách đơn giản vấn đề quan hệ giữa ngoại thương và
nợ nước ngoài này bằng mô hình "thâm hụt kép" chênh lệch giữa đầu tư và tiết
kiệm (I-S) và chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu (M-X). Nếu thâm hụt M-X
22
lớn hơn I-S, khi ấy cần có các khoản vay nước ngoài để bù vào khoản thiếu hụt
ngoại tệ. Do vậy, dựa trên cách tiếp cận lý thuyết này, khi tình trạng nhập siêu kéo
dài mà nguồn lực trong nước không đủ để bù đấp thâm hụt thì nợ nước ngoài sẽ gia
tăng. Đó chính là lý do khiến quan hệ giữa ngoại thương và nợ nước ngoài thường
là trọng tâm của các nước đang phát triển trong việc tìm những giải pháp để giảm
gánh nặng nợ nước ngoài thông qua hệ thống thương mại đa phương.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, trong phạm vi
nghiên cứu này tác giả tập trung phân tích thâm hụt thương mại do chênh lệch giữa
đầu tư và tiết kiệm và do mất cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
2.2.1.1 Thâm hụt thương mại do chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm:
Nếu xem xét thâm hụt thương mại là chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nước
thì có hai vấn đề cơ bản cần xem là đầu tư và tiết kiệm. Thâm hụt thương mại là do
đầu tư tăng cao trong khi mức tiết kiệm thấp.
Bảng 2.1: Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư giai đoạn 2000-2009.
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
2009
28,94
- Tổng tiết kiệm (% GDP) 31,27 31,40 31,91 31,16 32,84 35,78 35,97 34,18 29,37
29,61 31,17 33,23 35,44 35,47 35,57 36,81 43,13 39,71
38,13
- Tổng đầu tư (% GDP)
1,66 0,23 -1,32 -4,29 -2,62 0,21 -0,84 -8,95 -10,3
-9,19
- Cán cân tiết kiệm và đầu tư (% GDP)
Nguồn: World Bank.
Chỉ tiêu
Qua số liệu trên, ta thấy những năm gần đây mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu
tư toàn xã hội xấp xỉ 9% GDP, đã thu hẹp so với mức 10-12% của thập niên trước
đây. Tuy nhiên, mức gia tăng tiết kiệm nội địa thấp hơn mức gia tăng đầu tư, sau
khi đạt mức thặng dư không đáng kể vào 2000, 2001 thì những năm tiếp theo cán
cân tiết kiệm - đầu tư liên tục bị thâm hụt.
2.2.1.2 Thâm hụt thương mại do đầu tư tăng quá cao:
Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt thương mại là do nhu cầu đầu tư
23
tăng cao hơn mức tiết kiệm trong nền kinh tế. Theo số liệu thống kê của GSO, tính
theo giá thực tế tổng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế đã tăng từ hơn 131.171 tỷ
đồng vào năm 1999 lên 830.278 tỷ đồng vào năm 2010. Xét theo khu vực kinh tế
(theo giá thực tế) thì mức tăng bình quân lần lượt của các khu vực kinh tế nhà nước
là 14%, kinh tế ngoài nhà nước là 22,6% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài lần
lượt là 22,2%. Như vậy, khu vực tư nhân là khu vực có tỷ lệ tăng vốn đầu tư cao
nhất.
Hình 2.2 : Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế (giá thực tế, tỷ đồng)
900000
800000
700000
600000
500000
giai đoạn 1999 – 2010
g n ồ đ ỷ T
400000
300000
200000
100000
0
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Năm
Tổng vốn đầu tư
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO).
Bảng 2.2 : Tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư các thành phần kinh tế (theo giá thực tế) giai đoạn 1999 – 2010
24
Cả nước (%)
Năm 1999
2000
2001
Kinh tế Nhà nước (%) 1,18 1,16 1,14 1,13
Kinh tế ngoài nhà nước (%) 1,13 1,10 1,11 1,31
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (%) 0,93 1,20 1,10 1,16
2002
2003
2004
1,12 1,15 1,13 1,17
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Trung bình
1,20 1,22 1,10 1,10 1,47 1,48 1,10 1,08
Nguồn: GSO và tính toán của tác giả.
1,18 1,18 1,31 1,16 1,15 1,17 1,176 1,16 1,15 1,07 1,06 1,38 1,10 1,143 1,19 1,18 1,33 1,06 1,11 1,25 1,226 1,24 1,28 1,97 1,47 0,95 1,18 1,223
Hình 2.3 : So sánh tỷ lệ đầu tư/GDP (%) của Việt Nam với các nước trong khu
50%
45%
40%
Malaysia
35%
Indonesia
30%
Thái Lan
25%
Hàn Quốc
20%
Nhật
Ấn độ
15%
Việt Nam
10%
5%
0%
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
vực châu Á, giai đoạn 2000-2009.
Năm
Nguồn : World Bank.
25
Qua đồ thị , ta thấy kể từ năm 2000 ÷ 2009 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam luôn ở
mức cao hơn các nước trong khu vực bình quân 40%/GDP. Trong khi đó, Việt Nam
có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân ngang với Ấn độ (7%/năm) nhưng tỷ lệ đầu
tư/GDP trong thập niên qua cao hơn rất nhiều, điều này cho thấy hiệu quả đầu tư
của Việt Nam là rất kém so với các nước trong khu vực, bình quân phải bỏ ra 6
đồng vốn đề đạt 1 đồng tăng trưởng. (ICOR =6).
Tuy nhiên, nếu mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư là do nhu cầu đầu tư tăng cao
thì thâm hụt chưa hẳn là một vấn đề nghiêm trọng, khi đầu tư nhiều tài sản cố định
như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất thì trong tương lai năng suất sẽ
cao hơn, sẽ sản xuất nhiều hơn và hàng hóa sản xuất ra có thể để tăng xuất khẩu
nhằm cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai (trả nợ). Ngược lại, nếu
đầu tư tăng cao vào khu vực bất động sản thì lại đáng lo ngại, vì khu vực này
thường không làm tăng năng suất, cũng như tạo ra các sản phẩm có thể được dùng
để trả nợ.
Thực tế, qua số liệu thống kê của GSO cho thấy trong suốt thập niên qua, tỷ lệ vốn
đầu tư vào các ngành thì không có nhiều biến đổi (Bảng 3.5), tỷ lệ đầu tư vào khu
vực sản xuất trung bình khoảng 45%/năm. Khu vực sản xuất được xem xét gồm các
ngành như: Công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến, ản xuất và phân phối
điện, khí đốt, nước và nông lâm thuỷ sản. Vốn đầu tư vào ngành xây dựng và nhà
hàng khách sạn chiếm tỷ trọng thấp khoảng 6%. Như vậy, xét về cơ cấu thì thâm
hụt thương mại do đầu tư tăng cao hiện nay chưa phải là vấn đề nghiêm trọng.
Bảng 2.3: Cơ cấu đầu tư phân theo ngành giai đoạn 2005 – 2010
Cơ cấu đầu tư theo ngành
Các ngành sản xuất 2005 47% 2007 45% 2008 44% 2009 44% 2010 44%
Ngành xây dựng 4% 4% 4% 4% 4%
Ngành thương nghiệp và sửa chữa 5% 4% 5% 4% 4%
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 15% 17% 16% 16% 16%
Khách sạn và nhà hàng 2% 2% 2% 2% 2%
26
1% Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 1% 1% 1% 1%
1% Kinh doanh bất động sản 4% 5% 5% 5%
1% Hoạt động khao học và công nghệ 1% 1% 1% 1%
3% Giáo dục và đào tạo 3% 3% 3% 3%
Nguồn: GSO.
Các ngành khác 21% 19% 20% 20% 20%
2.2.1.3 Thâm hụt thương mại do đầu tư không hiệu quả.
Để đo lường hiệu quả đầu tư các nhà kinh tế thường lấy hệ số ICOR (Incremental
Capital Output Ratio) để đánh giá, ICOR xác định mối quan hệ giữa vốn - tư bản
và đầu ra - GDP. Có nhiều cách để tính toán hệ số ICOR, nếu tiếp cận theo hiệu quả
sử dụng vốn ICOR là tỷ số giữa tỷ lệ đầu tư trên GDP so với tốc độ tăng trưởng
GDP. Theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững3.
Theo tính toán của WB và tính toán của các nhà kinh tế trong nước thì ICOR của
Việt Nam hiện hay còn quá cao (xem bảng 3.7). Điều này cho thấy vốn đầu tư của
Việt Nam kém hiệu quả.
Bảng 2.4 : Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Châu Á Giai đọan từ 2000 -2009
Quốc gia GDP % Đầu tư/GDP ICOR
Trung Quốc 10.3 41.2 4.1
Indonesia 5.1 25 4.9
Ấn độ 7.2 31.2 4.7
Philippines 4.46 16.58 4.7
Nguồn: World Bank, GSO và tác giả tự tính toán.
3 Nguy cơ từ ICOR tăng vọt! ngày 3/11/2009 tại http://cafef.vn/20091103104319252CA33/nguy-co-tu-icor- tang-vot.chn
Việt Nam 7.26 44 5.6
27
Bảng 2.5: Tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ đầu tư và ICOR của Việt Nam, giai đoạn
ICOR
Năm
GDP (Tỷ đồng)
Đầu tư (Tỷ đồng)
Đầu tư/GDP (%) 31,65
Tăng trưởng GDP (%) 9,54
1995-2010
72.447 3,32 1995 228.892
87.394 32,13 3,44 9,34 1996 272.036
108.370 34,55 4,24 8,15 1997 313.623
117.134 32,45 5,63 5,76 1998 361.017
131.171 32,80 6,87 4,77 1999 399.942
151.183 34,23 5,04 6,79 2000 441.646
170.496 35,42 5,14 6,89 2001 481.295
200.145 37,36 5,28 7,08 2002 535.762
239.246 39,00 5,31 7,34 2003 613.443
290.927 40,67 5,22 7,79 2004 715.307
343.135 40,89 4,84 8,44 2005 839.211
404.712 41,54 5,05 8,23 2006 974.266
532.093 46,52 5,50 8,46 2007 1.143.715
616.735 41,53 6,58 6,31 2008 1.485.038
708.826 42,74 8,03 5,32 2009 1.658.389
Nguồn:GSO
830.278 41,91 6,18 6,78 2010 1.980.914
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy ICOR của Việt Nam tăng rất nhanh giai đoạn
1991-1995 trung bình là 3,5 nhưng đến 2009-2010 đã tăng lên gấp đôi là 7,11. Hệ
số ICOR tăng nhanh đồng nghĩa với đầu tư kém hiệu quả và tăng trưởng kinh tế
không bền vững, trưởng kinh tế không dựa nhiều vào yếu tố công nghệ và chỉ tăng
trưởng dựa vào vốn chiếm khoảng trên 57%, tỷ lệ TFP (năng suất các yếu tố tổng
hợp) còn rất thấp khoảng 30% và phần còn lại là nhân tố lao động. Xu hướng này
đang xảy ra với vốn đầu tư toàn xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước,
thành phần chủ đạo của nền kinh tế, thì hệ số ICOR lại cao vọt. Nếu hệ số ICOR
28
chung của nền kinh tế là 8 (Năm 2009), ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước lên tới
12.
18
16
14
12
10
8
6
4
2
0
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
ICOR Kinh tế nhà nước
ICOR kinh tế ngoài nhà nước
ICOR đầu tư nước ngoài
Nguồn : GSO và tác giả tự tính toán.
Hình 2.4 : So sánh hệ số ICOR của các thành phần kinh tế.
Trong quá trình đầu tư phát triển kinh tế, ICOR tăng nhanh lại luôn là không bình
thường và đáng lo ngại của mọi nền kinh tế. ICOR ở Việt Nam thậm chí còn cao
hơn cả một số nước trong khu vực như: Indonesia, Trung Quốc Ấn Độ và
Philippines. Vì vậy, để có thể đạt được hệ số ICOR = 3 (theo khuyến nghị của Ngân
hàng Thế giới) thì trong tương lai ta phải nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế trong
khi vẫn giảm được tỷ lệ đầu tư/GDP. Điều này có nghĩa là vẫn gia tăng mức đầu tư
trong đó mức gia tăng của GDP phải nhanh hơn. Tuy nhiên, làm sao đảm bảo được
đồng vốn đầu tư của Nhà nước nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng đạt được
hiệu quả cao nhất, là một câu hỏi không dễ giải một sớm, một chiều. Do đó, Việt
Nam cần phải có những chiến lược đầu tư thích hợp để cải thiện hệ số ICOR trong
gian tới.
29
2.2.1.4 Thâm hụt thương mại do mức tiết kiệm thấp.
+ Sg Cán cân thương mại là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư : TB = Sp – I
là tiết kiệm của khu vực tư nhân (thu nhập trừ đi tiêu dùng và nộp thuế Trong đó Sp
là tiết kiệm của khu vực chính phủ. Theo đẳng thức này, nếu như cho chính phủ); Sg
và I mà không thay đổi thì cán cân thương mại sẽ thâm hụt, các yếu tố khác như Sg
nếu như mức tiết kiệm trong nước của khu vực tư nhân giảm đi.
Ở giai đoạn mới bắt đầu phát triển, các nước đang phát triển thường có mức tiết
kiệm khá thấp so với nhu cầu đầu tư trong nước (do thu nhập thấp nên mức tiết
kiệm cũng thấp). Việt Nam là quốc gia có thu nhập trung bình, mức tiết kiệm vốn dĩ
đã không cao, trong thời gian vừa qua mức độ tiết kiệm của Việt Nam so với GDP
còn tăng trưởng rất chậm nguyên nhân có thể do mức tiêu dùng tăng cao đột biến.
40%
35%
30%
25%
20%
15%
10%
5%
0%
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Hình 2.5: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP, giai đoạn 1996- 2009
Năm
Tiết kiệm /GDP
Nguồn : WB.
Việt Nam đã duy trì được tỷ lệ tiết kiệm gia tăng liên tục từ năm 1996 là 20,4% cho
đến năm 2006 là 35,8%. Tuy nhiên, 03 năm gần đây (2007-2009), do ảnh hưởng
của khủng hoảng kinh tế tòan cầu năm 2008, làm cho tỷ lệ tiết kiệm có xu hướng
giảm rất nhiều năm 2009 giảm 7% so với năm 2006, tác động mạnh đến cán cân
30
thương mai và phải bù đấp bằng nguồn vay nợ trong và nước để đáp ứng nhu cầu
đầu tư đang tăng cao. Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP của Việt Nam thấp hơn so với các
nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc trong những thời kỳ tương tự, do đó Việt
Nam vẫn phải dựa nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế
Việt Nam trong thời gian qua vẫn dựa quá nhiều vào yếu tố vốn, điều này đã đẩy tỷ
lệ đầu tư của Việt Nam bình quân 40%/ GDP, cao bằng tỷ lệ đầu tư của Trung
Quốc, nước đang tăng trưởng quá nóng. Do vậy, vấn đề quan trọng của Việt Nam
hiện nay là nâng cao chất lượng đầu tư chứ không phải gia tăng tỷ lệ này và tăng
trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu.
Hơn nữa, Việt Nam cũng cần tạo ra thể chế tốt hơn để nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, đặc
biệt là tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình. Yêu cầu vốn cho quá
trình công nghiệp hóa sẽ làm cho nhu cầu vốn tăng lên, khả năng nguồn cung vốn
phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm trong nước và nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Vấn đề
quan trọng đối với Việt Nam là tạo ra khung pháp lý đầy đủ và đồng bộ để đảm bảo
thị trường vốn và tiền tệ phát triển lành mạnh, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa khủng hoảng 4.
2.2.1.5 Thâm hụt thương mại do mất cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Thâm hụt thương mại xảy ra do tình trạng nhập khẩu vượt quá mức xuất khẩu của
quốc gia. Số liệu cho thấy hơn 10 năm qua thương mại hàng hoá quốc tế của Việt
Nam đã tăng nhanh chóng. Cả nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng nhanh, đó có thể là
do kết quả những cải cách kinh tế mà Việt Nam đã thực hiện trong những năm 90,
thể hiện qua việc ký kết các hiệp định thương mại song phương và gần nhất là việc
Việt Nam gia nhập tổ chức WTO (01/11/2007) sức cạnh tranh của hàng hoá xuất
khẩu tăng lên, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ đầu tư sản xuất và tiêu
dùng cũng gia tăng. Những mất cân đối trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
hay năng lực cạnh tranh yếu kém của doanh nghiệp trong nước hoặc các bất ổn các
yếu tố kinh tế vĩ mô đều có thể xem là những nguyên nhân chính tạo nên thâm hụt thương mại. 4 Cân đối giữa đầu tư và tiết kiệm của TS. Nguyễn Thanh Sơn.
31
Bảng 2.6: Thâm hụt thương mại Việt Nam, giai đoạn 1995-2010
ĐVT: Triệu USD
Năm Giá trị xuất khẩu Giá trị nhập khẩu Cán cân thương mại
8.155,40 1995 5.448,90 -2.706,50
11.143,60 1996 7.255,90 -3.887,70
11.592,30 1997 9.185,00 -2.407,30
11.499,60 1998 9.360,30 -2.139,30
11.742,10 1999 11.541,40 -200,70
15.636,50 2000 14.482,70 -1.153,80
16.218,00 2001 15.029,20 -1.188,80
19.745,60 2002 16.706,10 -3.039,50
25.255,80 2003 20.149,30 -5.106,50
31.968,80 2004 26.485,00 -5.483,80
36.761,30 2005 32.447,10 -4.314,20
44.891,10 2006 39.826,20 -5.064,90
62.764,40 2007 48.561,40 -14.203,00
80.713,80 2008 62.685,10 -18.028,70
69.948,80 2009 57.096,30 -12.852,50
Nguồn : Bộ Công thương (MOIT).
84.801,20 2010 72.191,90 -12.609,30
2.2.2- Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt ngân sách :
Thâm hụt ngân sách Nhà nước (NSNN) được hiểu một cách chung nhất là sự vượt
trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt NSNN do sự
cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách
để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi
ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để bù đắp chi
tiêu;... Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và
chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia.
32
Bảng 2.7: Thâm hụt NSNN giai đoạn 2000 – 2011F
ĐVT: Tỷ đồng
Năm
Tổng thu
Tổng chi
Thâm hụt
GDP
90.749 108.961 (18.212) 441.646 2000
Tỷ lệ thâm hụt trên GDP 4,12%
100.000 129.773 (29.773) 481.295 2001 6,19%
123.860 148.208 (24.348) 535.762 2002 4,54%
152.274 181.183 (28.909) 613.443 2003 4,71%
190.928 214.176 (23.248) 715.307 2004 3,25%
228.287 262.697 (34.410) 839.211 2005 4,10%
279.472 308.058 (28.586) 974.266 2006 2,93%
315.915 399.402 (83.487) 1.143.715 2007 7,30%
416.783 494.600 (77.817) 1.485.038 2008 5,24%
442.340 584.695 (142.355) 1.658.389 2009 8,58%
560.170 675.063 (114.893) 1.980.914 2010 5,80%
Nguồn : GSO, MOF và tính toán của tác giả.
Qua số liệu từ bảng 2.7 cho thấy, tình trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam bình
5,55% 2011F 595.000 725.600 (130.600) 2.355.109
quân khoảng trên 5% GDP. Thâm hụt ngân sách tính từ 2000 đến 2010 hầu như
không giảm về tỷ trọng, quy mô gia tăng nhanh chóng: Năm 2000, con số thâm hụt
ngân sách là 18,2 ngàn tỷ VND tương đương tỷ lệ bội chi là 4,12% GDP và luôn
giữ mức cao qua các năm. Đến năm 2007 các con số này tương ứng là 83,4 ngàn tỷ
VND tương đương 7,3% GDP; năm 2009 tăng cao 142,3 ngàn tỷ VND tương
đương 8,58% là do Chính phủ thực thi chính sách kích cầu khoảng 15 ngàn tỷ đồng
và năm 2010 là 114,89 ngàn tỷ đồng và tỷ lệ bội chi ở mức 5,8% và nếu tính cả việc
phát hành trái phiếu chính phủ thì thâm hụt ngân sách còn cao hơn nhiều, 9,7%
GDP năm 2009 và 8,7% năm 2010.
Thâm hụt ngân sách tăng cao là do Việt Nam thực hiện nhiều cam kết WTO và cam
kết đa phương, song phương về giảm thuế nhập khẩu thì nguồn thu ngân sách chỉ
33
còn trông chờ vào tăng thuế trong nước, đồng thời Chính phủ thực thi chính sách
đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng đã làm tăng mức bội chi NSNN. Trong
những năm gần đây, chi tiêu đầu tư công quá lớn trong khi tiết kiệm nội địa còn hạn
chế, đầu tư khu vực Nhà nước hiệu quả rất thấp (ngoại trừ các dự án mang tính án
sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo), đầu tư mang tính dàn trãi, tham nhũng rất lớn, khả
năng thu hồi từ dự án rất thấp, dẫn đến thất thu, làm tăng bội chi ngân sách Nhà
nước trong thời gian dài.
Thâm hụt ngân sách triền miên ở mức độ cao trong hơn mười năm qua đã làm cho
nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong thế bất cân đối gia tăng, bất ổn kinh tế vĩ
mô trở thành vấn đề thường trực. Theo đó nợ Chính phủ đã gia tăng.
2.2.3- Thâm hụt kép khuếch đại tác động đến nợ nước ngoài:
– I = (Y – T – C) + (T – G) – I + Sg Được thể hiện qua đẳng thức như sau: TB = Sp
chính là chênh lệch giữa thu ngân Trong đó: Sp là tiết kiệm của khu vực tư nhân, Sg
sách (T) và chi tiêu của chính phủ (G). Con số chênh lệch giữa thu (T) và chi ngân
sách (G) chính là thâm hụt ngân sách.
Số liệu thống kê cho thấy có sự tương quan thuận giữa tỷ lệ thâm hụt NSNN với
mức độ gia tăng thâm hụt thương mại trong giai đoạn 2000 - 2010 ( Bảng 2.8 ).
Bảng 2.8. Thâm hụt NSNN và cán cân thương mại Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2010
Năm Cán cân thương mại (Triệu USD)
Tỷ lệ thâm hụt NSNN trên GDP 4,12% 2000 -1.153,80
2001 6,19% -1.188,80
2002 4,54% -3.039,50
2003 4,71% -5.106,50
2004 3,25% -5.483,80
2005 4,10% -4.314,20
2006 2,93% -5.064,90
2007 7,30% -14.203,00
34
2008 5,24% -18.028,70
2009 8,58% -12.852,50
2010 5,80% -12.609,30
Nguồn: Bộ Công thương và tự tính toán của tác giả.
Hình 2.6 : Quan hệ tỷ lệ thâm hụt NSNN và cán cân thương mại
0.00%
0.00
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
-1.00%
-2,000.00
-2.00%
-4,000.00
-3.00%
-6,000.00
-4.00%
-8,000.00
-5.00%
-10,000.00
-6.00%
-12,000.00
Thang bên phải
-7.00%
-14,000.00
-8.00%
-16,000.00
-9.00%
-18,000.00
-10.00%
-20,000.00
Thâm hụt thương mại (Triệu USD)
Thâm hụt ngân sách (%GDP)
Nguồn: Tính toán của tác giả.
giai đoạn 2000 – 2010
Để giảm được thâm hụt ngân sách (T-G), thì chúng ta có thể giảm chi tiêu của chính
phủ và tăng thu ngân sách. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang có chương trình
tăng thu ngân sách thông qua việc tăng cường hiệu quả thu ngân sách của ngành
thuế. Hy vọng trong tương lai, nguồn thu ngân sách của chính phủ sẽ tốt hơn với sự
hoạt động hiệu quả hơn của bộ máy thuế và điều này cũng sẽ giảm bớt áp lực của
thâm hụt tài khoản vãng lai nói chung và cán cân thương mại nói riêng. Tuy nhiên,
đây là biện pháp dài hạn còn về ngắn hạn để giảm được thâm hụt ngân sách thì điều
hiển nhiên là phải cắt giảm chi tiêu của chính phủ.
35
2.3- Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam.
Việc đánh giá thực trạng nợ nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết
định xem xét nên tăng thêm nợ hay giảm nợ, hoặc lựa chọn nguồn vốn nào tài trợ
cho thích hợp, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nợ và sử dụng nợ một cách hiệu
quả trong tương lai.
Khi đánh giá tính ổn định bền vững nợ của Việt Nam, chúng ta cũng áp dụng theo
các tiêu chí mà Ngân hàng thế giới hay IMF đang áp dụng cho những nước nghèo
có tỷ lệ nợ cao (HIPCs) và các chỉ tiêu giám sát an tòan nợ do Việt Nam thiết lập
(Luật quản lý nợ công có hiệu lực 01/01/2010), với các nội dung sau:
2.3.1- Đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam theo mức ngưỡng của
HIPCs.
Qua số liệu từ bảng 2.9, ta thấy từ năm 2004 đến năm 2010, tỷ lệ NPV/DBR bình
quân là 98,1% ( <250%) và tỷ lệ NPV/X bình quân là 47,9% ( < 150%), đồng thời
các tiêu chí tính lỏng nợ nước ngoài của Việt Nam là ổn định (TDS/XK là 2,32% và
TDS/DBR là 5,72%) và thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế, về cơ bản là do Việt Nam đẩy
mạnh kim ngạch xuất khẩu và duy trì mức thu ngân sách ổn định. Tổng hợp các chỉ
tiêu tỷ lệ NPV/XK, NPV/DBR, đều thấp so với ngưỡng của HIPCs, nợ nước ngoài
của Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về nợ bền vững và được đánh giá là vẫn ở
ngưỡng an toàn mà Ngân hàng Thế giới đưa ra.
Bảng 2.9: Các tiêu chí đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của IMF và WB cho
HIPCs.
Năm Chỉ tiêu
đánh giá 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Trung bình (%)
NPV/XK 55.08 51.03 50.91 45.96 35.44 51.41 40.49 47.19
NPV/DBR 116.42 92.48 89.96 81.29 67.56 137.74 101.28 98.10
36
NPV/GDP 32.32 31.28 33.07 30.72 24.12 30.79 28.43 30.10
X/GDP 58.69 61.28 64.95 66.84 68.06 59.88 70.23 64.28
DBR/GDP 27.77 33.82 36.76 37.79 35.71 22.35 28.08 31.75
TDS/XK 2.76 2.66 2.17 2.29 1.57 1.94 2.32 2.24
TDS/DBR 6.53 5.51 4.42 4.85 3.80 6.41 5.72 5.32
Nguồn : (5) và tác giả tự tính toán.
Tuy nhiên, theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro thấp của nợ
nước ngoài. Do nợ nước ngoài của Việt Nam chưa tính đến nợ của các doanh
nghiệp không được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề hiện nay không chỉ là tỷ lệ
nợ so với GDP mà cả quy mô, tốc độ , điều kiện và lãi suất nợ nước ngoài của Việt
Nam đang có xu hướng tăng rất mạnh.
2.3.2- Đánh giá tính ổn định của nợ theo các tiêu chí giám sát an toàn nợ nước
ngoài của Việt Nam.
Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ
số đánh giá phổ biến nhất cho cái nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một quốc
gia, đánh giá mức an toàn của nợ công. Mức độ an toàn được thể hiện qua việc nợ
công có vượt ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó hay không.
Để bảo đảm an toàn của nợ công, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau làm giới
hạn vay và trả nợ: Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP
hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ công
không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không
vượt quá 10% chi ngân sách. Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra mức quy định
5 - Trích dẫn từ nghiên cứu :”Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam năm 2010” của TS. Mai Thu Hiền- GV. Đại học Ngoại thương Tp.HCM
ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ
37
lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Tuy
nhiên, trên thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế; việc xác
định “ngưỡng an toàn” chỉ là khái niệm tương đối, không phải tỷ lệ nợ công trên
GDP thấp là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ
thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng, tính bền vững trong phát triển, khả năng chống đỡ
rủi ro.
Bảng 2.10 : Các chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam.
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng số dư nợ nước ngoài so với
32.2
31.4
32.5
29.8
39
42.2
GDP (%)
Nợ nước ngoài khu vực công so
27.8
26.7
28.2
25.1
29.3
31.1
GDP (%)
Nghĩa vụ trả nợ trung và dài hạn so
4.8
4
3.8
3.3
4.2
3.4
với xuất khẩu hàng hóa dịch vụ (%)
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của
4.1
3.7
3.6
3.5
5.1
3.7
Chính phủ so với thu NSNN (%)
Dự trữ ngoại hối so tổng dự nợ
4.075
6.380 10.177 2.808
290
187
ngắn hạn (%)
Nghĩa vụ nợ dự phòng của chính
5.2
4.5
4.6
4.7
4.3
5.8
phủ so với thu NSNN (%)
Nguồn : Bộ tài chính.
Như vậy, trong thời điểm hiện tại, tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP, các chỉ tiêu nợ
Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia đều trong giới hạn an toàn. Phần lớn các khoản
vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất ưu đãi. Mức lãi vay trung bình
nợ nước ngoài của Chính phủ năm 2009 là 1,9%/năm, năm 2010 là 2,1%/năm
Theo Bộ Tài chính, các chỉ số nợ của Việt Nam ở mức an toàn, nợ công được quản
lý chặt chẽ theo quy định. Các khoản nợ trong nước và nước ngoài được thanh toán
38
đầy đủ, không có nợ xấu. Cụ thể, chỉ số nợ nước ngoài của Chính phủ trên GDP là
42,2%, vẫn dưới ngưỡng an toàn (50% GDP). Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ
khoảng 16% tổng thu ngân sách nhà nước (giới hạn an toàn 35%). Nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài trung và dài hạn trong nhiều năm qua khoảng 3,3 - 4,8% kim ngạch xuất
khẩu (giới hạn an toàn là 25%). Cơ cấu nợ nước ngoài đang giảm dần so với tổng
dư nợ của Chính phủ nhằm giảm sự phụ thuộc vào vốn vay nước ngoài… So với
các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm, chỉ số nợ công và nợ nước ngoài
của Việt Nam ở mức trung bình.
Vì vậy, để xác định, đánh giá đúng đắn mức độ an toàn của nợ công, không thể chỉ
quan tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP, mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện
trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân,
nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu
quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội
địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí, như cơ cấu nợ công,
tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ.... cũng cần được phân tích kỹ
lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công.
Đánh giá kết quả họat động vay, trả nợ và quản lý nợ công, nợ nước ngoài năm
2010, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho rằng, Việt Nam đã huy động được
khối lượng vốn lớn bổ sung cho đầu tư phát triển, cân đối ngân sách nhà nước,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các chỉ tiêu về nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của
quốc gia nằm trong giới hạn an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Các hình
thức huy động vốn ngày càng đa dạng, linh họat, tạo tiền đề cho sự hình thành và
phát triển đồng bộ thị trường tài chính...
2.3.3- Đánh giá tính ổn định của nợ theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính
sách quản lý nợ nước ngoài.
Trong vài năm gần đây, một cách tiếp cận mới mà Ngân hàng Thế giới đưa vào để
đánh giá chất lượng quản lý nợ công đó là dựa vào chất lượng chính sách và thể
chế. Các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ cao
39
hơn so với mức ổn định nợ cơ bản. Cách tiếp cận này đưa ra giá trị mức ngưỡng
dựa vào tỷ lệ nợ truyền thống để làm cơ sở đánh giá thể chế và chính sách của quốc
gia. Dựa vào giá trị ngưỡng, Ngân hàng Thế giới phân loại 3 mức thực hiện chính
sách: kém, vừa và mạnh (Bảng 2.11).
Bảng 2.11: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và
thể chế theo tiêu chuẩn của HIPCs.
Đánh giá sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách
Mức ngưỡng % Mạnh Kém Vừa CPIA ≥ 3.9 CPIA ≤ 3 3 < CPIA < 3,9
30% 45% 60% NPV/GDP
100% 200% 300% NPV/X
200% 275% 350% NPV/DBR
Nguồn: Ngân hàng thế giới. (chú thích: NPV/GDP: Nợ nước ngoài/GDP)
Qua số liệu từ bảng số 2.9 cho thấy, từ năm 2004 đến năm 2010, ba chỉ số hiện giá
thuần nợ nước ngoài của Việt Nam : NPV/GDP ≤ 30% , NPV/X < 60% và
NPV/DBR < 150%. Điều này cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ nước ngoài
của Việt Nam xếp vào chỉ số CPIA ≤3, tức là ở mức kém.
Tóm lại, qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài, nghiên cứu nhận thấy
mặc dù nợ nước ngoài của Việt Nam có gia tăng nhanh trong những năm gần đây
nhưng vẫn nằm trong khả năng thanh toán, chưa rơi vào tình trạng nguy kịch như
một số quốc gia Châu Âu.
2.3.4- Đánh giá khả năng trả nợ nước ngoài trong tương lai.
Theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, năm 2010 khi Chính phủ
vay thêm 4.571,84 triệu USD thì sau khi trả nợ và phí (1.672,32 triệu USD) còn lại
2.899,52 triệu USD. Với số nợ và lãi suất hiện tại, trong những năm tới không vay
thêm thì số tiền Việt Nam phải bỏ ra mỗi năm để trả nợ sẽ cao nhất vào năm 2020
40
trên 2,380 tỉ USD (Trong đó : trả nợ gốc 2.134,62 triệu USD và trả lãi trên 245.71
triệu USD). Trước mắt, năm 2011 Việt Nam sẽ phải trả nợ khoảng 1.331,50 triệu
USD tính cả gốc lẫn lãi. Đến năm 2026, cũng còn phải trả 865 triệu USD/năm tiền
gốc và 110,23 triệu USD lãi.
Bảng 2.12 : Dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài của Chính
phủ, tính đến 31/12/2010
So sánh Dự kiến nghĩa vụ nợ tại thời điểm 31/12/2010 Năm (%) Gốc Lãi và phí Dự kiến nghĩa vụ nợ tại thời điểm 31/12/2009
116%
1.148,01
809,04
522,46
2011
1.330,43
971,95
528,24
1.500,19
113%
2012
1.492,24
1.163,29
488,73
1.652,02
111%
2013
1.389,96
1.071,37
452,89
1.524,26
110%
2014
1.281,99
1.056,52
423,72
1.480,24
115%
2015
2.015,43
1.844,76
380,50
2.225,26
110%
2016
1.196,70
1.146,84
333,75
1.480,59
124%
2017
1.186,03
1.100,42
316,42
1.416,84
119%
2018
1.176,75
1.096,65
299,12
1.395,77
119%
2019
1.150,64
2.134,62
245,71
2.380,33
207%
2020
1.119,24
1.114,87
193,31
1.308,18
117%
2021
1.109,98
1.150,16
173,76
1.323,92
119%
2022
982,01
976,42
154,95
1.131,37
115%
2023
952,83
1.007,91
139,77
1.147,68
120%
2024
856,56
924,30
124,50
1.048,80
122%
2025
760,29
865,00
110,23
975,23
128%
2026
Nguồn : Bộ Tài chính.
Nghĩa vụ trả nợ 1.331,50
Với số nợ hiện tại theo bảng 2.12, dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài
của chính phủ năm đã tăng lên đáng kể, nợ gốc tăng bình quân 19%, lãi và phí tăng
45%, nếu tính đến năm 2026 thì nghĩa vụ nợ tăng bình quân 25% mỗi năm. Điều
41
này thật sự đáng lo ngại về khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai, vì dự
kiến nghĩa vụ nợ năm vào 31/12/2009 chỉ là 1.101,57 triệu USD, thì năm 2010 thực
tế trả nợ đã tăng lên đến 52% (1.673,32 triệu USD), trong khi số nợ nước ngoài huy
động thêm chỉ tăng lên 16,3% (từ 27,9 lến 32,5 tỷ).
Rõ ràng là Việt Nam nếu tiếp tục với cách điều hành kinh tế như hiện nay thì có thể
sẽ nhanh chóng mất khả năng chi trả nợ nước ngoài. Ta có thể suy ra điều này khi
thấy là tổng số nợ nước ngoài tăng rất nhanh (trung bình 22 % một năm), cao hơn
nhiều so với mức tăng danh nghĩa của GDP (trung bình 16 % một năm). Nhưng
quan trọng hơn là nợ nước ngoài đang tăng tốc, vào năm 2009 tăng ở mức khủng 49
%. Và đặc biệt quan trọng là nợ doanh nghiệp không có bảo lãnh là nợ có lãi suất
thị trường còn tăng mạnh hơn nhiều, ở mức 125 %.
Chính việc tăng loại nợ của doanh nghiệp kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh,
có bảo lãnh hay không bảo lãnh của chính phủ hiện nay đã tới mức gần 12 tỷ và
đang tăng nhanh là điều đáng lo ngại. Số nợ này có thể nói gần như toàn bộ là nợ
của doanh nghiệp quốc doanh vì chỉ có doanh nghiệp quốc doanh mới có thể vay
mượn được, dù chính phủ chính thức đứng ra bảo lãnh hay không; lý do là các nhà
ngân hàng và các đầu tư nước ngoài cho vay hay mua trái khoán doanh nghiệp chỉ
vì họ biết rằng chúng là doanh nghiệp nhà nước do đó chính phủ Việt Nam có trách
nhiệm chi trả.
Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của
Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và
năm nay đạt tới 2,1%/năm. Theo lộ trình đến năm 2012, Việt Nam sẽ dần dần bị
giảm đi các khoản vay ưu đãi do trở thành nước có thu nhập trung bình. Thay vào
đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian ngắn hơn. Điều này
đòi hỏi việc sử dụng vốn phải hiệu quả nhiều hơn nữa, nếu không, áp lực trả nợ
ngày càng lớn hơn và tác động ngay đến ngưỡng an toàn nợ công.
Tuy nhiên, nếu không tiếp tục tăng mạnh vay nợ nước ngoài thì nghĩa vụ nợ hàng
năm dưới 2 tỷ USD vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ Việt Nam, đây là
42
số tiền không lớn để chúng ta trả nợ nước ngoài, đồng thời trên 80% số nợ nước
ngoài của Việt Nam là vay nợ dài hạn.
2.3.5- Đánh giá rủi ro việc vay nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh.
Theo Luật Quản lý nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: Nợ nước ngoài
của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác
được vay theo hình thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy rõ, nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ nước ngoài của doanh
nghiệp được Chính phủ bảo lãnh chỉ là một bộ phận trong khái niệm “Nợ nước
ngoài của quốc gia” nêu trên.
Bảng 2.13 : Các chỉ tiêu giám sát về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế
(Giai đoạn 2005-2010).
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010
GDP (tỷ USD) 51.1 58.6 68.3 86.9 95.3 104.6
Tổng số dư nợ nước ngoài quốc gia so với GDP (%) 32.2 31.4 32.5 29.8 39 42.2
Nợ nước ngoài khu vực công so GDP (%) 27.8 26.7 28.2 25.1 29.3 31.1
Tổng nợ nước ngoài quốc gia (Tỷ USD) 16.45 18.39 22.19 25.90 37.17 44.14
Nợ nước ngoài khu vực công (tỷ USD) 14.20 15.64 19.25 21.82 27.93 32.53
Nguồn : Bộ Tài chính và tác giả tự tính toán.
Nợ nước ngoài của các tổ chức không được bảo lãnh (tỷ USD) 2.25 2.75 2.94 4.09 9.25 11.60
Bảng 2.14 : Tốc độ tăng nợ nước ngoài của quốc gia, khu vực công
và không được bảo lãnh, giai đoạn 2006-2010 .
43
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 Trung bình (%)
12% 21% 17% 44% 19% 22% Tổng nợ nước ngoài quốc gia
Nợ nước ngoài khu vực công 10% 23% 13% 28% 16% 18%
Nguồn : Bộ Tài chính và tác giả tự tính toán.
23% 7% 39% 126% 26% 44% Nợ nước ngoài của các tổ chức không được bảo lãnh
Theo công bố của Bộ Tài chính tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP tại
thời điểm 31/12/2010 là 42,2% và nợ nước ngoài của khu vực công là 32,5 tỷ USD
( Chỉ bao gồm nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh). Như
vậy, nếu so sánh với GDP năm 2010 được Tổng cục Thống kê công bố là khoảng
104,6 tỷ USD, thì tổng nợ nước ngoài của quốc gia tính đến 31/12/2010 vào khoảng
44,1 tỷ USD. Phần nợ của doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp có cổ phần
của nhà nước vay theo hình thức tự vay tự trả (Nợ nước ngoài của các tổ chức
không được bảo lãnh) là 11,6 tỷ USD, con số này thật là một số bí ẩn đầy rủi ro.
Bởi vì, trước tình trạng một số doanh nghiệp, thậm chí cả các tập đoàn, tổng công ty
Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ, không trả được nợ thì Chính phủ phải
trả nợ bằng tiền thuế của dân hoặc từ nguồn từ bán tài sản quốc gia (nguồn thu từ
khai thác tài nguyên).
Qua số liệu tính toán từ bảng 2.13 và 2.14, ta thấy nợ nước ngoài không được bảo
lãnh đã tăng rất nhanh những năm gần đây ( Năm 2008 là 4.09 tỷ USD; năm 2009
là 9.25 tỷ USD , đến 2010 đã tăng lên 11,6 tỷ và hiện nay cũng đang tiếp tục tăng).
Đây là những khoản nợ mà Chính phủ không nắm được rồi cuối cùng khoản vay đó
lại sử dụng không hiệu quả, dẫn tới vỡ nợ thì quy luật tài chính nó như bình thông
nhau, khi một lĩnh vực đã bị khủng hoảng thì sẽ tác động đến nhau theo hiệu ứng
domino, ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tòan bộ nền kinh tế.
44
Trong những năm gần đây nợ nước ngoài quốc gia có xu hướng tăng khá nhanh do
thời gian qua có nhiều dự án đầu tư lớn được triển khai với các khoản vay lớn từ
nước ngoài. Đồng thời, vay thương mại nước ngoài của doanh nghiệp theo phương
thức tự vay tự trả cũng có xu hướng tăng nhanh, nhất là nợ ngắn hạn. Mặc dù, các
doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp có cổ phần của nhà nước vay theo
nguyên tắc “tự vay, tự trả” phần lớn là vay thương mại lãi suất cao không được
chính phủ bảo lãnh nhưng nhà nước không thể hay khó lòng về mặt chính trị xóa
trách nhiệm đối với nợ của các doanh nghiệp do chính Chính phủ dựng lên. Vì nợ
công là thước đo hành xử về chính sách của nhà nước.
Theo nhận định của GS. Trần Ngọc Thơ, nguyên tắc “ tư vay, tự trả” nghe thì hợp
lý nhưng thật sự không ổn, do người vay và người trả có thể là hai chủ thể khác
nhau. Bởi vì, “tự vay” là lãnh đạo doanh nghiệp (không có tài sản thế chấp) sẽ thực
hiện nhiều phi vụ kinh doanh, nếu thắng lãnh đạo DNNN vừa được lợi vừa có thành
tích để thăng tiến, nếu khi làm ăn thua lỗ, không hiệu quả thì Chính phủ tiếp tục trả
nợ, “tự trả” từ tiền thuế của dân. Vì vậy, từ nguyên tắc “tự vay, tự trả”, ở một số
trường hợp đã trở thành “tự vay, người khác trả”. Các cơ quan chức năng luôn tự tin
khẳng định con số nợ nước ngoài và nợ công của Việt Nam vẫn trong ngưỡng an
toàn. Nhưng quan điểm này có thể bị lung lay trong trường hợp liên tục diễn ra các
kịch bản chuyển dịch rủi ro theo hướng “tự vay, người khác trả”.
Trong bối cảnh nhu cầu vốn chi cho phát triển kinh tế - xã hội lớn, khả năng nguồn
lực nội tại chưa đáp ứng thì việc huy động nguồn lực thông qua vay nợ từ bên ngoài
là cần thiết. Trong giai đoạn tập trung đầu tư, việc gia tăng chỉ số nợ nước ngoài là
không thể tránh khỏi. Việc cân đối giữa vay nợ với đảm bảo an ninh tài chính và
cân đối vĩ mô luôn là một yêu cầu hàng đầu của Chính phủ.
2.3.6- Đánh giá tính công bằng liên thế hệ trong quản lý và sử dụng nợ vay
nước ngoài tương lai.
Theo lý thuyết tân cổ điển cho rằng vay nợ gây chèn lấn đầu tư khu vực tư. Khi
Chính phủ thực hiện dự án, cho dù được tài trợ bằng thuế hay vay nợ, thì những
45
nguồn lực đều lấy từ khu vực tư. Như vậy, nợ có ảnh hưởng đến vốn đầu tư của khu
vực tư và tạo ra gánh nặng cho thế hệ tương lai. Để khắc phục chèn lấn, yêu cầu các
dự án đầu tư của Chính phủ phải có hiệu quả để thu hút lại sự đầu tư của khu vực
tư.
Việt Nam vay nợ để đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội, song hiệu quả đầu tư thấp
khiến nguồn thu hồi để trả nợ trong tương lai từ các dự án này thấp và bị hạn chế.
Các khoản vay và chi tiêu hiện tại của Chính phủ không tạo nên nguồn thu hiệu quả
trong tương lai; chúng làm tăng sức ép lên bội chi mới. Hậu quả là, thế hệ tương lai
sẽ phải chịu gánh nặng nợ cao hơn thế hệ hiện tại. Tóm lại, tính công bằng liên thế
hệ về gánh nặng nợ ở Việt Nam được đánh giá là thấp. Các dự án đầu tư từ nguồn
vốn khu vực công, trong đó có nợ, mặc dù có sự đóng góp đáng kể đến tăng trưởng
kinh tế trong thời gian qua. Song, nếu tính đến bài toán công bằng giữa các thế hệ
thì quản lý nợ công của Việt Nam còn kém hiệu quả, cần phải được cải thiện trong
thời gian tới.
3.7- Những bất cập về quản lý nợ nước ngoài hiện nay.
Hiện nay, trong công tác quản lý nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia còn nhiều
bất cập, chưa thực hiện đầy đủ việc công khai nợ và đặc biệt năng lực quản lý nợ
cũng cần được cải thiện. Những bất cập có thể kể đến bao gồm nhưng vấn đề cơ bản
như sau:
- Việc quản lý và sử dụng nguồn vốn vay chưa thật sự mang lại hiệu quả: Nguồn
vốn vay nợ nước ngoài trong thời gian qua chưa thực sự gắn với hiệu quả sử dụng
và trách nhiệm trả nợ, nhiều dự án không trả được khó khăn trong việc hoàn trả vốn
vay, chủ trương đầu tư và phân phối cho các đối tượng sử dụng vốn đôi khi không
rõ ràng, không gắn trách nhiệm của cơ quan ra quyết định, cơ quan sử dụng vốn và
cơ quan trả nợ trong khi chế tài xử lý không nghiêm. Vì vậy, nên có một số nơi tiếp
nhận nguồn vốn này như là một khoản tiền được tặng hoặc nếu không thì Chính phủ
là người có trách nhiệm trả nợ lấy từ nguồn thu ngân sách. Từ đó, đã xảy ra tình
46
trạng thất thoát, tham nhũng, lãng phí, biến tiền ODA thành tiền của mình và tiêu
xài ăn chơi một cách phung phí;
- Việc tổ chức đánh giá mức an toàn nợ chưa toàn diện, đúng ra phải đánh giá cả
phần nợ của tổ chức, doanh nghiệp vay nợ nước ngoài với hình thức tự vay tự trả, vì
theo nguyên tắc bình thông nhau, các doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh
trong nước nếu bị thua lỗ, mất khả năng thanh khoản sẽ tác động dây chuyền đến
các doanh nghiệp khác và nếu nhiều doanh nghiệp phá sản sẽ tác động xấu cả nền
kinh tế theo hiệu ứng Domino.
47
CHƯƠNG III
PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ NƯỚC NGOÀI
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2010
3.1. Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam theo mô phỏng đường cong Laffer nợ.
Mặc dù các lí thuyết “debt overhang” không trực tiếp giải thích ảnh hưởng của nợ
đến tăng trưởng nhưng ta có thể mở rộng và áp dụng đường cong Laffer nợ để mô
tả đường cong Laffer về ảnh hưởng của nợ đến tăng trưởng. Do đỉnh đường cong
Laffer nợ là điểm mà tại đó sự tăng lên trong tổng nợ bắt đầu tạo ra gánh nặng cho
đầu tư, cải tổ kinh tế và các hoạt động khác, điểm này có thể liên quan đến điểm mà
tại đó nợ bắt đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng. Nó cũng chính là điểm
chỉ ra mức độ nợ tối ưu mà một quốc gia có thể duy trì mà không phải lo ngại vấn
đề “debt overhang”.
Nghiên cứu sử dụng hàm phi tuyến dạng đường cong phương trình bậc hai để mô
phỏng đường cong Laffer nợ. Để vẽ được đường cong này nghiên cứu sử dụng phần
mềm thống kê SPSS để vẽ đường cong theo các điểm phân tán của biến tỷ lệ tăng
trưởng theo tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP (theo giá cố định năm 2000), ký hiệu
GDP, số liệu từ năm 1986-2010. Đường cong được tìm thấy như Hình 3.1. Đỉnh của
đường cong được xác định với giá trị bằng 90.6% đây chính là ngưỡng nợ nước
ngoài trên GDP mà nghiên cứu cần tìm.
Tuy nhiên, để ngưỡng nợ nêu trên phản ánh đúng mức độ an tòan nợ của Việt Nam
cần phải xem xét, đánh giá một cách toàn diện trong mối quan hệ tác động của các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tỷ giá hối đoái, lạm phát, tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng chóng đỡ rủi ro của nền kinh tế.
Hình 3.1 : Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài trên GDP (2000) của Việt Nam.
48
Đường mô phỏng tỷ lệ tăng trưởng theo tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP.
90.6
Đường mô phỏng đường cong Laffer nợ.
Nguồn : World Bank và kết quả tính toán từ phần mềm thống kê SPSS.
3.2. Phân tích thực nghiệm ảnh hưởng nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam, giai đoạn 1986-2010.
3.2.1 Mô hình nghiên cứu.
Nhằm đo lường tác động của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
tác giả thực hiện mô hình nghiên cứu với giả định là tăng trưởng kinh tế chịu ảnh
hưởng bởi các biến kinh tế vĩ mô như: Nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, dịch vụ
nợ, độ mở của nền kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài, mô hình dạng bán logarit
(Lin-log), mô hình được tác giả sử dụng tương tự như mô hình Frimpong, J.
M.Oteng-Abayi, E. F sử dụng khi nghiên cứu các nhân tố tác động đến tăng trưởng
kinh tế tại Ghana, 2006. Mô hình này theo tác giả là phù hợp với hoàn cảnh nghiên
cứu về nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vì tình trạng nợ nước ngoài của
Ghana cũng giống như các nước HIPCs, có thể tìm thấy số liệu thống kê của các
49
biến trong mô hình trong khi các mô hình khác rất khó tìm được đủ số liệu thống
kê. Mặc khác hệ số tuyến tính giữa biến tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ nợ nước ngoài
trên GDP chỉ ở mức 17,7% cho nên mô hình đa biến là lựa chọn phù hợp hơn. Mô
hình cụ thể như sau :
Yt = α0 + α1 lnEDTt + α2 lnFDIt + α3 lnINVt + α4 lnTDSt + α5 EXPt + εt (1)
Trong đó:
- Biến Y (%) là biến phụ thuộc đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế và các biến
độc lập hay biến giải thích sau:
- Biến EDT là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP, (%);
- Biến FDI là tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP (%);
- Biến INV là tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP (%);
- Biến TDS là tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên xuất khẩu (%);
- Biến EXP là chỉ tiêu đại diện cho biến đo lường độ mở của nền kinh tế (%),
được tính bằng cách lấy tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ tính theo giá
hiện tại qui về Việt Nam Đồng chia cho chỉ số giá điều chỉnh hàng nhập khẩu.
Tất cả các biến này đều được biểu diễn dưới dạng hàm số logarith cơ số tự nhiên,
ngoại trừ biến phụ thuộc Y và biến độc lập EXP.
Để phù hợp với mô hình tăng trưởng kinh tế, quan điểm lý thuyết và phân tích phần
trên đã trình bày, khi nợ nước ngoài của Việt Nam chưa vượt ngưỡng an toàn
“threshold level” nên nghiên cứu kỳ vọng nợ nước ngoài tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế, nghiên cứu mong đợi α1 > 0; tương tự tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên GDP bổ sung nguồn lực bên ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và mong
đợi một tác động tích cực đến tăng trưởng, vì vậy kỳ vọng α2 >0 ; tỷ lệ đầu tư trong
nước so với GDP dự kiến sẽ có ảnh hưởng tích cực đáng kể vào tăng trưởng GDP,
nên nghiên cứu mong đợi α3>0 ; tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên xuất khẩu dự kiến sẽ tác
động tiêu cực do việc giảm chi phí đầu tư trong nước từ dịch vụ thanh toán nợ, nên
nghiên cứu dự đoán α4 <0. Nền kinh tế Việt Nam hiện đã và đang hòa nhập sâu
rộng vào kinh tế thế giới, tốc độ xuất khẩu tăng nhanh qua các năm so với nhập
khẩu, độ mở nền kinh tế ngày càng rộng, nghiên cứu kỳ vọng α5 > 0.
50
Mô hình trên được sử dụng nhằm mục đích tìm hiểu liệu có hay không mối quan hệ
trong dài hạn giữa tăng trưởng kinh tế Việt Nam và các yếu tố đầu vào nêu trên.
Khả năng xảy ra mối quan hệ trong dài hạn được kiểm định bằng kỹ thuật đồng liên
kết.
3.2.2- Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thực nghiệm.
Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng dữ liệu hàng năm 1986 đến năm 2009. Dữ
liệu được thu thập chủ yếu từ nguồn thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), Bộ
Tài chính (MOF) và Tổng Cục thống kê Việt Nam (GSO).
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả thực hiện theo các bước sau :
Bước một, thực hiện việc kiểm định tính dừng và không dừng (unit roots or
non-stationary) của các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm (kiểm
định nghiệm đơn vị ). Giữa các chuỗi số không dừng có thể tồn tại mối quan hệ
đồng liên kết (mối quan hệ trong dài hạn). Tương quan đồng liên kết tồn tại khi
quan hệ tuyến tính giữa hai chuỗi là một chuỗi có tính dừng (stationary). Kết hợp
tuyến tính giữa các cặp chuỗi thời gian là hiệu số giữa chúng. Nếu có quan hệ đồng
liên kết, hiệu số đó là một chuỗi ngẫu nhiên có tính chất của nhiễu trắng.
Bước hai, sử dụng phương pháp phân tích đồng tích hợp (Cointegration) của
Engle – Granger (1987) để đo lường các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến
(quan hệ đồng liên kết).
Cuối cùng, tác giả sẽ thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn
giữa tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng. Mô hình điều chỉnh sai số ECM
(Error Correction Model) được sử dụng nếu tồn tại các mối quan hệ trong dài hạn
kể trên.
3.2.3. Kết quả thực nghiệm.
3.2.3.1 Các phân tích và kiểm định ban đầu
a- Phân tích ma trận hệ số tương quan :
Từ kết quả phân tích ma trận hệ số tương quan cho thấy các cặp hệ số tương quan
giữa các biến giải thích trong mô hình có giá trị < 0.9, nên sự kết hợp giải thích giữa
51
các biến trong mô hình là phù hợp và đáng tin cậy.
Bảng 3.1: Ma trận hệ số tương quan.
LnEDT LnFDI LnINV LnTDS EXP
1 LnEDT
0.693947 1 LnFDI
0.084898 0.629561 1 LnINV
0.836063 0.711098 0.235481 1 LnTDS
Nguồn: Kết quả tính toán từ Eview 5.1
0.363403 0.469147 0.310004 0.422376 1 EXP
b- Kiểm định nghiệm đơn vị.
Có nhiều cách để nhận dạng một chuỗi thời gian là dừng hay không dừng như :
Phân tích đồ thị, sai phân, hàm tự tương quan, kiểm định Ljung-Box. Tuy nhiên,
kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root test) là cách kiểm định được sử dụng phổ biến
hiện nay.
Trong bài nghiên cứu, tác giả đã tiến hành kiểm định nghiệm đơn vị của từng biến
riêng biệt để xác định thuộc tính dừng bằng hai phương pháp phổ biến là phương
pháp ADF (Augmented Dickey-Fuller) và KPSS (Kwiatkowski-Phillips-Schmidt-
Shin).
Kết quả kiểm định ở cả hai phương pháp đều cho thấy các biến Y, LnEDT, LnFDI,
LnINV, Ln TDS và EXP,là chuỗi thời gian không dừng (không xu hướng) I(0) và
chuỗi dừng I (1).
Bảng 3.2. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị
ADF Mức 1% Mức 5% Mức 10%
Y -2.076 -3.788 -3.012 -2.646 Không dừng
Không dừng mức 10%, mức 5% LnEDT -2.928 -3.738 -2.992 -2.636
52
LnFDI -6.770 -3.738 -2.992 -2.636 Dừng
LnINV -1.047 -3.738 -2.992 -2.636 Không dừng
LnTDS -3.087 -3.738 -2.992 -2.636 Không dừng mức 1%
EXP -3.083 -3.738 -2.992 -2.636 Không dừng mức 1%
KPSS
Y 0.218 0.739 0.463 0.347 Dừng
LnEDT 0.138 0.739 0.463 0.347 Dừng
LnFDI 0.420 0.739 0.463 0.347 Không dừng mức 10%
Không dừng mức 5%, mức 10% LnINV 0.676 0.739 0.463 0.347
LnTDS 0.203 0.739 0.463 0.347 Dừng
EXP 0.170 0.739 0.463 0.347 Dừng
ADF
D(Y) -4.271 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng
DLnEDT -3.505 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng mức 5%
DLnFDI -6.980 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng
DLnINV -4.922 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng
DLnTDS -4.118 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng
DEXP -7.603 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng
KPSS
D(Y) 0.229 0.739 0.463 0.347 Dừng
DLnEDT 0.339 0.739 0.463 0.347 Dừng
DLnFDI 0.580 0.739 0.463 0.347 Dừng mức 1%
DLnINV 0.096 0.739 0.463 0.347 Dừng
DLnTDS 0.302 0.739 0.463 0.347 Dừng
DEXP 0.053 0.739 0.463 0.347 Dừng
3.2.3.2 Phân tích cân bằng dài hạn – Phân tích đồng liên kế:
Hồi quy đồng liên kết theo phương pháp phân tích phần dư (εt) hai bước của Engle-
Granger. Tại bước 1, nghiên cứu thiết lập mối tương quan cân bằng trong dài hạn
trong số các biến; bước 2 nghiên cứu kiểm định tính liên kết của phần dư (εt) bằng
53
cách dùng thống kê ADF. Nếu kết quả kiểm định cho thấy phần dư là chuổi dừng
thì khẳng định tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến trong mô hình đã
thực hiện ở bước 1.
Bước 1: Hồi quy phương trình (1)
Với sự hỗ trợ của phần mền Eview 5.1 (phụ lục 3), kết quả hồi quy phương trình (1)
như sau :
Yt = 0,073177 + 0,01264 lnEDTt + 0,001061 lnFDIt + 0,024589 lnINVt
- 0.008371 lnTDSt + 0,043041 EXPt + εt (2)
R2 = 0.591688 ; Adjusted R2 = 0.484238 ; DW = 1.254809
Để kiểm chứng các hệ số hồi qui tuyến tính của mô hình (1) có đồng thời bằng
không , chúng ta thực hiện kiểm định Wald, với giả thuyết hệ số các biến trong mô
hình đồng thời bằng không. Kết quả như sau :
Bảng 3.3 : Kiểm định wald mô hình 1
Test Statistic Value df Probability
F-statistic 5.506614 (5, 19) 0.0027
Chi-square 27.53307 5 0.0001
Với mức ý nghĩa = 5%, kiểm định ràng buộc tuyến tính (kiểm định Wald) bác bỏ
giả thuyết các biến trong mô mình đồng thời bằng không. Điều này cho thấy kết quả
hồi quy mô hình là có ý nghĩa.
Bước 2 : Kiểm định phần dư.
εt = Yt - 0.073177- 0,012641 lnEDTt – 0.001061 lnFDIt – 0.024589 lnINVt
+ 0.008371 lnTDSt – 0.043041 EXPt (2)
Thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị phần dư. Kết quả kiểm định như sau:
Bảng 3.4 : Kiểm định phần dư của mô hình (2)
t-Statistic Prob.*
Augmented Dickey-Fuller test statistic -4,290,818 0.0030
54
Test critical values: 1% level -3,752,946
5% level -2,998,064
10% level -2,638,752
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Ta thấy trị tuyệt đối giá trị thống kê ADF lớn hơn trị tuyệt đối giá trị tới hạn nên kết
luận phần dư là chuỗi dừng. Khi phần dư là một chuỗi dừng khẳng định các biến
trong mô hình (1) là đồng liên kết, nghĩa là các biến trong mô hình này có tồn tại
quan hệ cân bằng về dài hạn.
+ Giải thích ý nghĩa mô hình: R2 = 0.591688 cho biết mô hình giải thích được 59,2 % sự phụ thuộc của tăng
trưởng kinh tế Việt Nam vào nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, đầu tư trực tiếp
nước ngoài, độ mở nền kinh tế và dịch vụ nợ trên xuất khẩu.
DW = 1.254809 cho thấy mô hình không có dấu hiệu xảy ra hiện tượng tương quan
chuỗi (tự tương quan).
Căn cứ kết quả hồi qui, dấu của các hệ số hồi qui phù hợp với kỳ vọng của nghiên
cứu. Trước hết, hệ số của Ln EDT = 0.012641, hệ số mang dấu dương cho thấy nợ
nước ngoài trên GDP đồng biến với tăng trưởng kinh tế, nợ nước ngoài bổ sung
nguồn vốn bị thiếu hụt do mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư. Như vậy, tỷ lệ nợ
nước ngoài trên GDP của Việt Nam chưa vượt qua ngưỡng nợ “ Debt threshold”
hay ngưỡng an toàn.
Tiếp theo là biến số đầu tư trong nước trên GDP cũng đồng biến với tăng trưởng
kinh tế là hoàn toàn phù hợp. Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao trong gần 20 năm qua, trung bình 7,4% hàng năm trong giai đoạn
1990 - 2010. Tốc độ tăng trưởng tương đối cao phù hợp với sự tăng nhanh về đầu tư
nhà nước và tư nhân. Hiệu quả của đầu tư trong nước từ việc sử dụng các nguồn lực
55
trong nước để duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất,
kinh doanh, nhằm tạo ra nhiều hàng hóa có giá trị, dịch vụ tốt hơn, góp phần nâng
cao giá trị sinh hoạt đời sống cao hơn. Như vậy, đầu tư trong nước là nền tảng, phát
triển kết cấu tầng kinh tế -xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp
trong mọi lĩnh vực phát triển, đồng thời thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đảm
bảo sự phát triển toàn diện giữa các ngành, vùng , miền kinh tế, góp phần đảm bảo
tăng trưởng kinh tế bền vững.
Bên cạnh đó độ mở nền kinh tế, cũng tương quan thuận với tăng trưởng kinh tế, khi
độ mở nền kinh tế gia tăng, đồng nghĩa với việc cơ hội giao thương hàng hóa của
Việt Nam với bên ngoài tăng lên nên góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt
Nam. Điều này phù hợp xu thế thời đại, thực trạng và chính sách mở cửa kinh tế của
Việt Nam hiện nay, bằng chứng việc gia nhập WTO đã có tác động tích cực đến
tăng trưởng kinh tế của nước ta trong bốn năm qua, xuất-nhập khẩu tăng mạnh,
quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại với nhiều nước được tăng cường và mở rộng,
đặc biệt là với các đối tác quan trọng. Lực lượng doanh nghiệp phát triển nhanh, các
thị trường nhân tố mau chóng mở rộng, một số sản phẩm và doanh nghiệp khẳng
định được chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế. Thể chế kinh tế và môi
trường kinh doanh trong nước được cải thiện về nhiều mặt theo hướng mở rộng tự
do hóa thương mại và đầu tư, phù hợp với các cam kết của nước ta với WTO cũng
như các cam kết đa phương và song phương khác, đặc biệt trong khuôn khổ
ASEAN và với các đối tác trong khu vực.
Trong khi đó, theo kết quả hồi qui thì tỷ lệ dịch vụ nợ trên xuất khẩu tác động âm
đến tăng trưởng, cho thấy việc thanh toán nợ làm giảm nguồn lực đầu tư trong
nước, nên việc gia tăng tỷ lệ này làm giảm tăng trưởng kinh tế là phù hợp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP tỷ lệ thuận với tăng trưởng kinh tế. Vai trò
của FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng của tăng
trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm,…Ngoài ra, FDI cũng đóng góp tích cực
56
vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết đến là quốc gia phát
triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Tuy
nhiên, FDI cũng đã và đang tạo ra nhiều vấn đề ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền
vững của tăng trưởng và chất lượng cuộc sống của người dân. Gần đây, đã xuất hiện
hàng loạt vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội, trong đó nổi bật là chất lượng sử dụng
FDI thấp, thiếu tính bền vững, ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Trong mức ý nghĩa thống kê:
Khi tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP tăng lên 1% thì tăng trưởng kinh tế sẽ tăng
0.012641 điểm phần trăm;
Khi tỷ lệ tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế sẽ
tăng 0.024589 điểm phần trăm;
3.2.3.3 Phân tích cân bằng ngắn hạn - Mô hình ECM.
Theo Granger (1983 và 1986) khái niệm cân bằng dài hạn chỉ định sự tương đương
về mặt thống kê của đồng tích hợp. Khi có đồng tích hợp và khi có một cú sốc bất
kỳ xảy ra gây ra sự mất cân bằng thì sẽ tồn tại quá trình điều chỉnh động ngắn hạn
như cơ chế hiệu chỉnh sai số. Cơ chế này sẽ đưa hệ thống trở lại cân bằng dài hạn.
Thực tế cho thấy, đồng tích hợp hàm ý sự tồn tại dạng hàm hiệu chỉnh sai số động
trong xem xét quan hệ giữa các biến, do vậy mô hình ECM được sử dụng trong ước
lượng sẽ cho phép xác định cân bằng dài hạn từ sự vận động ngắn hạn được xác
định từ dữ liệu thực tế.
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho thấy hầu hết các biến là chuỗi dừng ở sai
phân bậc một I(1), và có tồn tại sự đồng liên kết trong phương trình (1) nên ta có thể
sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM), để tính toán mức độ tác động của các
nhân tố đến biến động của tăng trưởng kinh tế và xác định mức chênh lệch trong
ngắn hạn so với mức cân bằng dài hạn của chỉ số tăng trưởng kinh tế.
Trước khi thực hiện mô hình ECM, tác giả thực hiện kiểm định VAR các biến của
57
mô hình ở sai phân bậc một, để tìm ra bước trể tối ưu. Kết quả cho thấy các tiêu
chuẩn FPE, AIC,SC và HQ chỉ ra bước trể tối ưu là 2, trong khi tiêu chuẩn LR chỉ
ra bước trể là 1 (xem thêm Phụ lục 4).
Với kết quả lựa chọn bước trể như trên, đầu tiên mô hình ECM được thực hiện với
bước trể giới hạn là 2 kỳ, phần hiệu chỉnh sai số là biến ECt-1 được lấy từ phương
trình (1).
ECt-1 = LnYt-1 - α0 - α1 lnEDTt-1 - α2 lnEXPt-1 - α3 lnFDIt-1 - α4 lnINVt-1 - α5 lnTDSt-1
2
2
2
2
+
+
+
+
∆y = 0 +
y t
i
EDT t
i
i EXP t i
INV t
i
ln i
ln i
ln i
i
0
i
0
i
0
i
0
2
+ ECt-1
+ ut (3)
TDS t
i
ln i
i
0
Mô hình cụ thể :
+ Kết quả hồi qui mô hình hiệu chỉnh sai số ECM với 2 bước trễ được trình
bày trong Bảng 3.5.
Bảng 3.5: Hồi qui mô hình ECM với 2 bước trễ.
Dependent Variable: DY
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
0.834475 0.427518 1.951906 0.146 DY t_1
-0.56538 0.395899 -1.42809 0.2486 DY t_2
DEXP 0.13964 0.119675 1.166828 0.3276
-0.13934 0.05222 -2.66837 0.0758 DEXP t_1
0.337598 0.218376 1.545946 0.2198 DEXP t_2
DLnEDT -0.01705 0.010194 -1.67277 0.193
0.093038 0.044986 2.068142 0.1305 DLnEDT t_1
-0.06031 0.049023 -1.23032 0.3063 DLnEDT t_2
DLnFDI -0.04771 0.025398 -1.87844 0.1569
0.078622 0.052242 1.504947 0.2294 DLnFDI t_1
-0.02985 0.016915 -1.76476 0.1758 DLnFDI t_2
DLnINV 0.082433 0.0321 2.567984 0.0826
58
0.084166 0.056759 1.48286 0.2347 DLnINV t_1
-0.15486 0.134322 -1.15288 0.3325 DLnINV t_2
DLnTDS 0.047054 0.023619 1.992193 0.1404
-0.04644 0.020425 -2.27348 0.1076 DLnTDSt_1
0.004823 0.01212 0.397919 0.7173 DLnTDS t_2
-0.65619 0.634861 -1.03359 0.3773 EC t_1
C 0.005511 0.008888 0.620049 0.5791
R-squared 0.975859 Mean dependent var 0.000749
Adjusted R-squared 0.831016 S.D. dependent var 0.013812
S.E. of regression 0.005678 Akaike info criterion -7.7696
Sum squared resid 9.67E-05 Schwarz criterion -6.82734
Log likelihood 104.4656 F-statistic 6.737354
2.432294 Prob(F-statistic) 0.07065
Durbin-Watson stat Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
Hình 3.2. Đường biểu diễn giá trị dự báo và phần dư mô mình ECM
.03
.02
.01
.00
-.01
.008
-.02
-.03
.004
.000
-.004
-.008
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
Phan du Gia tri thuc Du bao
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
dựa trên phần dư phương pháp Engle-Granger (3)
59
Kết quả hồi quy (bảng 3.5) cho thấy khó có thể xác định chắc chắn biến nào là biến
có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn vì nếu căn cứ vào xác xuất
khả năng (Pro) của các hệ số hồi quy thì các hệ số này chưa đáng tin cậy về mặt
thống kê. Do đó, cần phải xem xét để điều chỉnh bước trể xuống còn 1 kỳ.
1
1
1
1
+
+
+
+
∆y = 0 +
y t
i
EDT t
i
i EXP t
i
INV t
i
ln i
ln i
ln i
i
0
i
0
i
0
i
0
1
+ ECt-1
+ ut (4)
TDS t
i
ln i
i
0
Mô hình điều chỉnh như sau:
Kết quả hồi qui mô hình hiệu chỉnh sai số ECM với 1 bước trễ được trình bày trong
Bảng 3.6.
Bảng 3.6: Hồi qui mô hình ECM với 1 bước trễ.
Dependent Variable: DY
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
0.398003 0.182429 2.18169 0.0541 DY t_1
DEXP -0.03105 0.0224 -1.38614 0.1958
-0.11205 0.032877 -3.40804 0.0067 DEXP t_1
DLnEDT -0.00023 0.006334 -0.03608 0.9719
0.018424 0.009184 2.006124 0.0726 DLnEDT t_1
DLnFDI -0.00857 0.008372 -1.02352 0.3302
0.007344 0.002895 2.537008 0.0295 DLnFDI t_1
0.053421 0.026458 2.019059 DLnINV 0.0711
0.091286 0.030211 3.021571 0.0129 DLnINV t_1
DLnTDS 0.003299 0.005807 0.568155 0.5825
-0.01246 0.004677 -2.66456 0.0237 DLnTDS t_1
0.191427 -5.82631 0.0002 -1.11531 ECt_1
C -0.00486 0.002254 -2.15781 0.0563
60
0.897227
0.001391
R-squared Mean dependent var
0.773898
0.013842
Adjusted R-squared S.D. dependent var
0.006582
-6.91151
S.E. of regression Akaike info criterion
0.000433
-6.26971
Sum squared resid Schwarz criterion
92.48237
7.275112
Log likelihood F-statistic
2.198496
0.001851
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
Durbin-Watson stat Prob(F-statistic)
Hình 3.3. Đường biểu diễn giá trị dự báo và phần dư mô mình ECM
.03
.02
.01
.00
.012
-.01
.008
-.02
-.03
.004
.000
-.004
-.008
4
6
8
10 12 14 16 18 20 22 24
Phan du Gia tri thuc Du bao
dựa trên phần dư phương pháp Engle-Granger (4)
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
Từ kết quả phân tích được trình bày tóm tắt trong bảng 3.6, ở các mức ý nghĩa
thống kê, trong ngắn hạn, biến tăng trưởng kinh tế chịu tác động bởi chính nó trong
61
độ trể 1 kỳ, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng bởi các biến: DEXPt_1(Độ mở nền kinh tế
độ trể 1 kỳ) , DLnEDTt_1 (Tỷ lệ nợ nước ngòai trên GDP độ trể 1 kỳ), DLnFDIt_1
(Tỷ lệ đầu tư nước ngòai trên GDP độ trể 1 kỳ), DlnINV và DLnINVt_1(Tỷ lệ đầu tư
trong nước trên GDP độ trể 1 kỳ) và DLnTDS t_1 (Tỷ lệ dịch vụ nợ trên GDP độ trể
1 kỳ).
Hệ số phần điều chỉnh sai số ECt-1 của mô hình đều mang dấu âm, hệ số mang dấu
âm cho biết các nhân tố ở thời kỳ này có chịu ảnh hưởng bởi những bất cân bằng
thời kỳ trước. Thứ hai, hệ số ECt-1 đảm bảo mối quan hệ đồng liên kết đã tìm ra ở
phần trước. Hệ số ECt-1 có giá trị -1.11531 với phương pháp hồi quy của Engle-
Granger cho thấy tốc độ điều chỉnh về cân bằng là khá nhanh.
+ Kiểm định sự phù hợp của mô hình ECM 1 bước trễ:
Kiểm định RESET của Ramsey:
Một trong những kiểm định phổ biến nhất để kiểm định sai dạng mô hình là kiểm
định RESET của Ramsay (1969), đây là loại kiểm định Wald thông thường (dựa
trên thống kê F) cho việc đưa thêm các giải thích vào mô hình. Nếu một hoặc một
số hệ số có ý nghĩa thống kê, thì đó là dấu hiệu của việc sai mô hình (tổng quát),
ngược lại nếu chấp thuận giả thuyết thì mô hình ban đầu là đúng.
Bản 3.7. Kết quả kiểm ý nghĩa thống kê mô hình ECM (Mô hình 1 bước trễ)
Ramsey RESET Test: 4
F-statistic 1,605722 Prob. F(4,6) 0,287413
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1 Căn cứ vào kết quả kiểm định, với mức ý nghĩa 5% các hệ số của mô hình không có
Log likelihood ratio 16,73897 Prob. Chi-Square(4) 0,002172
ý nghĩa thống kê và xác xuất Pro.F là 28,74% >5%, do đó ta chấp thuận giả thuyết
và nhận định mô hình ban đầu là đúng.
62
Kiểm định phần dư có phân phối chuẩn (Kiểm định Histogram-Normality ).
Theo lý thuyết định lượng nếu phần dư không ngẫu nhiên, không có phân phối
chuẩn là một thông tin quan trọng cho biết mô hình hồi quy chưa tốt do có thể bị
các lỗi như bỏ sót biến quan trọng, sai dạng hàm, phương sai thay đổi, tự tương
quan,..Hơn nữa, phần dự là hạng nhiễu có trung bình bằng không và phương sai
không đổi. Nếu giả định này không thõa mãn thì các thống kê suy luận của mô hình
hồi quy ( như tstat, Fstas, …) không có giá trị nữa. Do đó, để kiểm định phần dư có
phân phối chuẩn hay không chúng ta sử dụng thống kê JB của jarque-berra (1990).
Bảng 3.8: Phần dư có phân phối chuẩn
Mức ý nghĩa Kết luận ECM dựa trên phần dư phương pháp Engle- Granger
Histogram-Normality test: H0 : Phần dư có phân phối chuẩn
Jarque-Bera 1.774091
Probability 0.411871 5% Chấp nhận giả thuyết
Căn cứ vào kết quả kiểm định, xác xuất Pro. là 41.18% >5%, do đó ta chấp thuận
giả thuyết và mô hình có phân phối chuẩn.
7
6
Series: Residuals Sample 3 25 Observations 23
5
4
3
2
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis
1.38e-18 -8.18e-05 0.011752 -0.007073 0.004437 0.632283 3.502096
1
Jarque-Bera Probability
1.774091 0.411871
0
-0.005
0.000
0.005
0.010
Hình 3.4 : Kết quả kiểm định Histogram-Normality.
63
Kiểm định wald ECM 1 bước trê:
Để kiểm chứng các hệ số hồi qui tuyến tính của mô hình (4) có đồng thời bằng
không , chúng ta thực hiện kiểm định Wald, với giả thuyết hệ số các biến trong mô
hình đồng thời bằng không. Kết quả như sau :
Bảng 3.9 : Kiểm định wald mô hình ECM 1 bước trể
Mức ý nghĩa Kết luận ECM dựa trên phần dư phương pháp Engle- Granger
Wald Test: Tất cả các biến của mô hình đồng thời bằng 0
F-statistic 7.275112
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
Probability 0.0019 5% Bác bỏ giả thuyết
Với mức ý nghĩa = 5%, kiểm định ràng buộc tuyến tính (kiểm định Wald) bác bỏ
giả thuyết các biến trong mô mình đồng thời bằng không. Điều này cho thấy kết quả
hồi quy mô hình là có ý nghĩa.
3.2.4 Kết luận:
Theo kết quả kiểm định mô hình các biến nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, dịch
vụ nợ, độ mở của nền kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải thích được
khoảng 59.2% thay đổi của biến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
nghiên cứu. Trong dài hạn nợ nước ngoài và đầu tư trong nước là hai yếu tố chính
trong các biến được lựa chọn có tác động nhiều đến tăng trưởng kinh tế. Trong ngắn
hạn, Nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài trực tiếp, độ mở nền kinh
tế ờ kỳ trước có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh kế kỳ hiện tại. Khi có biến động
mạnh của các yếu tố vĩ mô quá trình điều chỉnh từ cân bằng ngắn hạn về dài hạn là
nhanh hệ số cân bằng lớn (ECt-1 = - 1.11531).
Cũng từ kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy trong các biến kinh tế vĩ mô nợ
nước ngoài, đầu tư trong nước có tác động nhiều đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Do đó, để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững, chúng ta
64
cần đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh đầu tư trong nước bằng
nguồn vốn tiết kiệm, kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài không để vượt ngưỡng an
toàn, quản lý khai thác vốn đầu tư có hiệu quả và khả năng trả nợ vay, đồng thời thu
hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài với những dự án có trình độ công nghệ cao, máy
móc hiện đại và hạn chế tác động xấu đến môi trường.
3.2.5 Hạn chế của mô hình định lượng.
Mẫu quan sát tương đối nhỏ (25 quan sát, theo số liệu năm 1986-2010), nếu số liệu
của Việt Nam được phản ảnh theo quý, thì số mẫu quan sát nhiều hơn và kết quả đo
lường kinh tế lượng sẽ chuẩn xác hơn, lúc đó chúng ta có thể sử dụng phương pháp
đồng liên kết của Johansen và Juselius (1990) để so sánh kết quả với phương pháp
đã thực hiện, nhằm đạt độ tin cậy cao hơn từ mô hình
Do thống kê tài chính trong nước không đầy đủ và rất kho tiếp cận nên nghiên cứu
sử dụng số liệu từ các tổ chức tài chính quốc tế nên có thể sẽ có một số điểm khác
biệt với các số liệu báo cáo trong nước, điều này có thể do phương pháp và cách
phân bổ khác nhau.
65
CHƯƠNG IV MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, nợ nước ngoài đã đóng
góp nhất định đến công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Dòng nợ nước ngoài
góp phần lấp vào lỗ hổng thiếu hụt giữa tiết kiệm và đầu tư; thiếu hụt của cán cân
thanh toán quốc tế. Đây là nguồn vốn đầu tư ổn định để Chính phủ thực hiện thành
công các chương trình đầu tư công, chương trình phát triển kinh tế xã hội theo các
mục tiêu hoạch định. Việc quản lý nợ nước ngoài hiệu quả cần phải được nhìn nhận
và đánh giá qua tính ổn định nợ công, khả năng trả nợ trong tương lai, tính công
bằng về gánh nặng nợ giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai theo các tiêu chí phù
hợp với mục tiêu quản lý và thông lệ quốc tế, từ đó hướng tới hoàn thiện thể chế,
chiến lược, chính sách trong vay và quản lý nợ nhằm tối đa hóa lợi ích và tối thiểu
hóa chi phí vay nợ trong khuôn khổ trung và dài hạn, kiểm soát rủi ro ở mức chấp
nhận được, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ đó, tác giả đề xuất
một số khuyến nghị sau đây
4.1- Gắn kết quy mô nợ nước ngoài với tăng trưởng kinh tế;
Căn cứ nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế, lãi suất vay nợ nước ngoài trên thị
trường và tốc độ tăng trưởng kinh tế, Chính phủ có thể kiểm soát mức bội chi ngân
sách để ổn định tỷ lệ nợ vay/GDP, không tạo gánh nặng nợ trong tương lai. Bên
cạnh đó, để nâng cao khả năng hấp thụ nợ công cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt nợ
nước ngoài, giải pháp hàng đầu là phải chú trọng đến việc cải thiện hoạt động xuất
khẩu. Bởi vì, vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu đã bộc lộ trong nhiều năm qua là
việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản,
dệt may, da giầy… Hơn nữa, các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính
chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn
có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với
nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Tiếp đến phải đổi mới chính sách tài khóa, kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công, hướng
66
đến các biện pháp tăng nguồn thu, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng bền vững. Từng bước thiết lập cơ chế phân phối nguồn lực tài chính phù hợp
các mục tiêu ưu tiên của chiến lược tăng trưởng, đồng thời nâng cao tính trách
nhiệm, minh bạch trong quản lý chi tiêu công, đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực
của những chương trình và cung cấp hàng hóa công cho xã hội.
Nước ta hiện đang trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế, nguồn lực tài chính trong
nước có hạn, trong khi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển tăng cao, nên nợ nước
ngoài đối với Việt Nam vẫn là nguồn tài chính quan trọng bù đắp thâm hụt ngân
sách để chi đầu tư cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế là bình thường. Trên thế
giới, nước nào cũng tận dụng cơ hội vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi để đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng, chứ không riêng gì Việt Nam. Tuy vậy, vay nợ bao nhiêu là
an toàn lại là một bài toán khó giải, cần có biện pháp tính toán kiểm soát mức nợ
phù hợp với nền kinh tế và kiểm soát tốt quá trình sử dụng nguồn vốn vay.
Do đó, phải gắn kết quy mô nợ nước ngoài với mục tiêu tăng trưởng, bảo đảm tính
bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ nước ngoài, trong đó, phải xây
dựng chiến lược vay và sử dụng nợ vay một cách hiệu quả, đảm bảo khả năng thanh
toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, đồng thời phải thường
xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ chính phủ, để đảm bảo quy
mô nợ vay phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, không làm tăng thêm gánh nặng
nợ cho quốc gia.
4.2- Hướng đến cân đối tiết kiệm- đầu tư.
Thu ngân sách không bù trừ được chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư trong nước thì
tốc độ vay nợ sẽ tăng. Như vậy, để giảm áp lực vay nợ nước ngoài thì giải pháp tốt
nhất đòi hỏi phải gia tăng tiết kiệm trong nước, giảm chi tiêu dùng của nhà nước.
Theo tác giả cải thiện hiệu quả đầu tư được xem là giải pháp quan trọng để góp
phần cải thiện sự chênh lệch giữa tiết kiệm nội địa và đầu tư, và nên tập trung vào
khu vực đầu tư vốn nhà nước, vì đây là khu vực có vốn đầu tư chiếm tỷ trọng cao
không chỉ ở hiện tại mà còn duy trì tỷ lệ cao trong nhiều năm tới, nhưng hiệu quả
67
kinh tế rất thấp. Để cải thiện hiệu quả đầu tư khu vực công cần chú ý đến những vấn
đề sau:
Đổi mới quản trị và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước; bãi bỏ các đặc quyền và độc quyền có thể tạo ra sức ỳ và mang lại lợi ích cục
bộ cho doanh nghiệp nhà nước; thiết lập thể chế thường xuyên giám sát và đánh giá
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Cần phải giám sát chặt chẽ công tác tổ chức đấu thầu đầu tư và xây dựng,
đấu thầu chọn tư vấn, thiết kế,.. kể cả đấu thầu mua sắm, đảm bảo công khai minh
bạch, công bằng đúng pháp luật và quy luật cạnh tranh, từ đó mới giảm được chi phí
đầu tư. Bởi vì, thực trạng đấu thầu hiện nay phần lớn mang hình thức, không đảm
bảo tính cạnh tranh, đây là mãnh đất màu mỡ cho tham nhũng và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hiệu quả đầu tư khu vực nhà nước. Đây là việc cần làm từ trước khi quyết
định đầu tư tới lúc chọn dự án, thực hiện và giám sát, duy trì hiệu quả của dự án đầu
tư.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho đầu tư công, quản lý nợ công ;
Cần thiết cải thiện việc phối hợp giữa trung ương và địa phương. Các địa
phương cần ngồi lại với nhau và dùng phương pháp tiếp cận ở quy mô vùng để đưa
ra quyết định lựa chọn đầu tư nhằm tránh chồng chéo và lãng phí;
Tiết kiệm khu vực tư nhân là một yếu tố quan trọng trong các yếu tố tác động rất
lớn đến tăng trưởng kinh tế. Để khuyến khích tiết kiệm khu vực tư nhân nên hoàn
thiện chính sách và hệ thống thuế. Với sự điều chỉnh mức thuế suất thuế thu nhập cá
nhân và ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp chính phủ có khuyến khích gia tăng tiết
kiệm nhiều hơn đối với khu vực tư.
Bên cạnh những biện pháp kiểm soát chặt chẽ đầu tư công, kêu gọi sự tiết kiệm của
người dân, của doanh nghiệp để giảm sự thâm hụt ngân sách, Chính phủ cũng cần
hướng đến các biện pháp tăng thu ngân sách. Trong đó:
Cải thiện các nguồn thu ngân sách từ thuế, phí lệ phí bao gồm nâng cao
68
hiệu quả thu, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn thu
không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt
thuế bất động sản, thực hiện các biện pháp chống thất thu thuế ;
Hoàn thiện các hình thức thu từ hoạt động kinh tế và hoạt động khác trong
nước vào NSNN bao gồm: thu từ hoạt động góp vốn của NSNN vào các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, thu từ nguồn tài sản công ;
Như vậy, nếu thực hiện tốt những biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công, nhất là
khu vực nhà nước và cải thiện các nguồn thu sẽ góp phần cân đối giữa tiết kiệm và
đầu tư, giảm vay nợ nước ngoài, tạo tiền để tăng trưởng kinh tế bền vững, không tạo
gánh nặng nợ công cho quốc gia.
4.3- Tăng cường quản lý việc vay nợ nước ngoài không được bảo lãnh.
Việc vay nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh với hình thức “tự vay, tự
trả”, không bị chi phối bởi Luật quản lý nợ công có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010,
và Chính phủ cũng không chịu trách nhiệm thanh toán các khoản vay này, bên đi
vay phải chịu trách nhiệm thanh toán. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế thì họ vẫn
tính vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia, nếu Việt nam tính khoản nợ này vào thì
tổng nợ nước ngoài quốc gia rất lớn, có thể vượt rất xa ngưỡng an toàn nợ.
Cho đến nay, hình thức tự vay, tự trả vẫn chưa được Chính phủ kiểm soát. Theo tác
giả, các đơn vị vay nợ nước ngoài cùng đầu tư trong nước Việt Nam, nếu kinh
doanh thua lỗ, dẫn đến phá sản, mất khả năng thanh toán thì sẽ tác động rất nghiêm
trọng đến tòan bộ nền kinh tế. Và với vị thế chính trị trên trường quốc tế, Việt nam
không thể chối bỏ trách nhiệm thanh toán, lý do là nhà nước không thể hay khó
lòng về mặt chính trị xóa trách nhiệm đối với nợ của các doanh nghiệp do chính
chính phủ dựng lên. Nợ công là thước đo hành xử về chính sách của nhà nước. Do
đó, để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, Chính phủ nên ban hành các quy phạm
pháp luật để quản lý, kiểm soát loại hình này.
69
Chính phủ quản lý vay nước ngoài tự vay, tự trả trong khuôn khổ quản lý nợ nước
ngoài của quốc gia, bảo đảm an toàn nợ trong giới hạn được cấp có thẩm quyền phê
duyệt, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và cân đối vĩ mô của nền kinh tế.
Việc quản lý hình thức tự vay, tự trả thông qua đầu mối Ngân hàng Nhà nước, đảm
bảo phù hợp với chính sách quản lý tín dụng trong nước, đảm bảo thống nhất mục
tiêu của chính sách tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối trong từng thời kỳ, kể cả
Các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp dưới hình thức phát hành trái phiếu
quốc tế phải tuân thủ quy định hiện hành của pháp luật về phát hành trái phiếu quốc
tế.
4.4- Cải thiện thể chế và chính sách để hướng đến xây dựng một chiến lược quản lý nợ thích nghi với bối cảnh hiện nay.
Qua kết quả đánh giá theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ
nước ngoài, cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam
xếp vào chỉ số CPIA ≤3, tức là ở mức kém. Do đó, cần phải cải thiện thể chế và
chính sách quốc gia (CPIAs) nhằm ngăn chặn cú sốc từ bên ngoài đối với những
nước có thu nhập trung bình như Việt Nam.
Cách tiếp cận này dựa vào khuôn khổ chi tiết của từng quốc gia trên nền tảng thể
chế và chính sách nhằm hướng đến phân tích nợ năng động và định lượng các
ngưỡng ổn định nợ dựa vào cơ sở chất lượng của chính sách và thể chế. Nghĩa là,
các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ cao hơn
so với mức ổn định nợ cơ bản. Ngược lại, quốc gia nào mà thể chế và chính sách
yếu kém thì mức độ và quy mô nợ công cần được khống chế trong giới hạn ngưỡng
của các nước HIPCs.
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập đang tiến dần đến chính sách tự do hóa tài chính
và trong đó có tự do hóa tài khoản vốn. Đồng thời. do tính phức tạp ngày càng lớn
của danh mục nợ bao gồm nợ trong nước và nước ngoài, cần thiết phải cải thiện thể
chế và chính sách quốc gia để ứng phó với những bất ổn định của nợ công và nợ
70
nước ngoài.Trong đó, thể chế và chính sách quốc gia cần được đổi mới và cải thiện
nhằm vào các tiêu chí sau:
- Thứ nhất: Quản lý kinh tế
Quản lý kinh tế vĩ mô: Yêu cầu chính sách tỷ giá và tiền tệ phải hướng đến ổn định
giá cả; chính sách tổng cầu của Chính phủ không gây chèn lấn đầu tư của khu vực
vực tư.
Chính sách tài khóa: Cân bằng cơ bản cần được kiểm soát để đảm bảo sự ổn định
của tài chính công; thu, chi công cần được điều chỉnh để ngăn chặn các cú sốc khi
cần thiết; và sự cung cấp hàng hóa công phải thống nhất trong khuôn khổ trung hạn.
Thứ hai: Chính sách cơ cấu
- Thương mại: Xem xét khuôn khổ chính sách hỗ trợ phát triển thương mại. Có hai
lĩnh vực cần quan tâm đó là, (a) những giới hạn của chế độ thương mại mà chủ yếu
là tập trung vào độ cao của hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng như tính minh
bạch và tiên liệu của chế độ thương mại; (b) mức độ tạo điều kiện cho hoạt động
thương mại của chính sách hải quan.
- Khu vực tài chính: Có 3 vấn đề cần quan tâm, (a) sự ổn định tài chính; (b) tính
hiệu quả và độ sâu tài chính, sức mạnh huy động nguồn lực; và (c) tiếp cận các dịch
vụ tài chính.
- Môi trường luật pháp kinh doanh.
Thứ ba: Chính sách xã hội và công bằng xã hội
- Công bằng về giới: Tiêu chí này đánh giá mức độ mà quốc gia tăng cường và đưa
vào các chương trình và thể chế (a) nhằm đẩy mạnh sự tiếp cận của phụ nữ đối với
các nguồn lực kinh tế và sản xuất; (b) nâng cao địa vị của phụ nữ trong xã hội…
- Công bằng sử dụng nguồn lực công: Thu chi tài khóa phải tác động đến người
nghèo và thống nhất với các ưu tiên giảm nghèo quốc gia.
71
- Phát triển nguồn nhân lực: Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia là
yếu tố quan trọng cho sự phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế. Tiêu chí được
đánh giá qua (a) chất lượng dịch vụ y tế và dinh dưỡng; (b) chất lượng của hệ thống
giáo dục và đào tạo; (c) công tác phòng chống và điều trị HIV/AIDS…
- Lao động và đảm bảo xã hội: Tiêu chí này đánh giá chính sách của Chính phủ
trong việc giảm thiểu rủi ro trở nên nghèo, giúp cho người nghèo quản lý tốt các rủi
ro và đảm bảo mức độ phúc lợi tối thiểu cho tất cả mọi người, như: (a) chương trình
mạng lưới an toàn xã hội; (b) bảo vệ các tiêu chuẩn lao động cơ bản; (c) quy định
thị trường lao động; (d) lương hưu và các chế độ đảm bảo cho người già…
- Chính sách và thể chế ổn định môi trường: Đánh giá mức độ chính sách bảo vệ
môi trường và sử dụng ổn định nguồn tài nguyên thiên nhiên và quản lý ô nhiễm.
Thứ tư: Thể chế và quản lý khu vực công
- Quyền tài sản và quản lý dựa vào pháp luật: Tiêu chí này đánh giá mức độ tạo điều
kiện cho khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh. Có các tiêu
chí cần xem xét, (a) nền tảng pháp lý về quyền tài sản và hợp đồng; (b) tính tiên
liệu, minh bạch và công bằng của luật pháp tác động đến hoạt động kinh tế …
- Chất lượng quản lý tài chính và lập ngân sách: Được đánh giá qua các tiêu chí (a)
ngân sách đáng tin cậy và tổng thể có gắn kết với các ưu tiên chính sách; (b) hệ
thống quản lý tài chính hiệu quả để đảm bảo ngân sách được thực hiện có hiệu quả
và hiệu lực; (c) kế toán và báo cáo tài chính chính xác và kịp thời.
- Hiệu quả huy động nguồn thu: (a) chính sách thuế; (b) quản trị thuế với chi phí
thấp nhất.
- Chất lượng quản trị công: (a) hợp tác chính sách và trách nhiệm; (b) cung cấp dịch
vụ và hiệu quả hoạt động…
- Tính minh bạch, trách nhiệm và tham nhũng của khu vực công.
Các tiêu chí CPIAs được xây dựng ở chừng mực nhất định nó tạo ra khuôn khổ hỗ
trợ tăng trưởng ổn định, giảm nghèo và sử dụng có hiệu quả nợ công.
72
4.5- Hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài:
- Xây dựng chiến lược vay nợ an toàn.
Việt Nam đã có Luật quản lý nợ công, cơ sở pháp lý quan trọng để tiến tới một
chiến lược quản lý nợ công, nợ nước ngoài hoàn chỉnh. Tuy nhiên, Luật quản lý nợ
công Việt Nam không đề cập việc xây dựng chiến lược quản lý nợ mà chỉ quy định
chung là Quốc hội quyết định “mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và
quản lý nợ công trong từng giai đoạn 5 năm”. Do đó, cần xây dựng kế hoạch chiến
lược về vay nợ công trên cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến
lược về vay nợ công xác định rõ mục đích vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân
sách, tái cơ cấu nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án
đầu tư quan trọng, hiệu quả, vay nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia), mức
huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và
ngoài nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp.
Kế hoạch chiến lược về vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản
vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn,
tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự
có nhu cầu sử dụng. Đồng thời, lựa chọn hợp lí các nguồn vay nước ngoài nhằm
hướng tới nâng cao chất lượng nguồn vay. Bởi vì, mỗi nguồn vốn có đặc điểm
riêng, cần phối hợp các nguồn vay nợ nước ngoài một cách thích hợp nhất theo mục
đích sử dụng trên nguyên tắc khai thác triệt để các nguồn vốn ưu đãi có thời gian
dài, thời gian ân hạn dài, lãi suất thấp, tỷ lệ ưu đãi cao như viện trợ phát triển chính
thức để đầu tư phát triển cơ sở hạn tầng, vì cần vốn đầu tư lớn, tác động đến tăng
trưởng lâu dài, bền vững.
Chính sách nợ công hiệu quả cần xem xét liệu chiến lược quản lý nợ công có hấp
thu tốt các khoản vay cho tăng trưởng kinh tế hay không; có giảm thiểu rủi ro tài
khóa và đảm bảo ổn định nợ dài hạn hay không; nợ công phải hướng đến duy trì ổn
định nợ và mức độ phối hợp giữa quản lý nợ công và chính sách vĩ mô; trong chiến
73
lược quản lý nợ công, thông tin phải được cập nhật đầy đủ và kịp thời; bộ phận
quản lý nợ công có đủ năng lực kiểm soát các khoản nợ mới nhằm đảm bảo ổn định
nợ.
- Nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn được Chính
phủ bảo lãnh..
Đây là vấn đề cốt yếu bảo đảm cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công.
Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng
các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh
nghiệp; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro
trong toàn bộ quá trình vay nợ.
Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ 2
nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước
ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và
bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá
trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại
các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước,
ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng.
Cần chú ý đến khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam, không nên chủ
quan khi chỉ dựa vào ngưỡng an toàn cho nợ nước ngoài theo tập quán quốc tế là
50% GDP. Trong thực tế, theo tiêu chuẩn phân loại mức độ nợ của Ngân hàng Thế
giới, cho rằng tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP trong khoảng 30% - 50% có nghĩa là quốc
gia đó đang ở mức độ khó khăn. Với tình hình ngân sách luôn bị thâm hụt, nếu công
tác kiểm soát nợ không chặt chẽ và hiệu quả thì khả năng vượt ngưỡng an toàn sẽ
rất gần. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải tính đến tổng nợ nước ngoài phải trả với
tổng các khoản vay mới, tránh tình trạng tổng phải trả lớn hơn tổng khoản vay vì
các năm qua con số trả nợ thấp do các khoản vay mới chưa đến hạn nhưng những
năm sắp tới đây chúng ta sẽ chịu áp lực trả nợ khi hạn thanh toán đã đến và cũng
74
theo thông tin từ Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2006- 2010, Việt N am phải trả nước
ngoài l0 - 11 tỷ USD, tính bình quân mỗi năm phải trả 2 tỷ USD.
Để sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả, cần phải xem xét một cách độc lập, khách
quan và đánh giá cẩn trọng các phương án kinh doanh, năng lực và tiềm năng của
các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, cần định giá được lợi nhuận ròng trong
phương án này phải cao hơn lãi suất đi vay. Phân chia rủi ro cho việc phân bố các
khoản vay vào các dự án đầu tư nên phân vốn vay này vào các dự án đầu tư trong
các lĩnh vực ngành nghề khác nhau nhưng chủ yếu tập trung vào ngành kinh tế đang
là mũi nhọn. Có các biện pháp chế tài mạnh không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp
được vay lại nguồn vốn từ trái phiếu mà cả với các vị trí lãnh đạo liên quan từ khâu
đề nghị, xét duyệt dự án, điều hành và thực hiện dự án, có như vậy mới ràng buộc
được trách nhiệm tài chính.
- Kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế, giám sát hệ thống tài chính tiền tệ,
thắt chặt chính sách tài khoá.
Vay nợ để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều bình thường. Tuy vậy, nợ bao
nhiêu là an toàn lại là một bài toán khó giải. Nợ hơn 100% GDP đã đủ làm sập nền
kinh tế Hy Lạp nhưng nợ 200% GDP như Nhật Bản lại vẫn chưa bị coi là nguy
hiểm. Tuy nhiên, bài toán chi tiêu vốn không dễ với các nước giàu, lại càng khó với
các nước đang phát triển có nền kinh tế hạn chế. Không thể vì mục tiêu phát triển
trước mắt mà thiếu tính toán về dài hạn.
Đối với Việt Nam, là phải vay mượn, nhất là vay vốn nước ngoài dưới nhiều hình
thức, thì mới có nguồn đầu tư cho tăng trưởng. Do đó, không lúc nào được lãng
quên vấn đề sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả, bởi đó là những đồng tiền vay
mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ phải trả nợ. Nếu sử dụng các khoản vay không hiệu
quả, tham nhũng gây thất thoát và thu không nghiêm (trốn thuế) hay thu không đủ,
nợ nần có thể chồng chất và rất dễ lâm vào tình trạng vỡ nợ.
Việt Nam rất cần sự giám sát chặt chẽ đối với hệ thống tài chính và các doanh
nghiệp lớn trong nền kinh tế, giảm thiểu các khoản cho vay kém chất lượng và loại
75
bỏ những doanh nghiệp nhà nước lớn kém hiệu quả càng sớm càng tốt để tránh đến
khi một doanh nghiệp quá lớn để đổ vỡ bị lâm vào nguy cơ sụp đổ thì Nhà nước
phải đứng ra bảo lãnh và cứu trợ. Nếu vẫn tiếp tục chạy theo tăng trưởng, bỏ mặc an
toàn hệ thống và dung túng những doanh nghiệp có quy mô quá lớn nhưng thực tế
chỉ còn các vỏ bọc bên ngoài thì rủi ro khủng hoảng tài khóa và nợ công sẽ ngày
một tăng lên. Vì vậy, trường hợp của Ireland hàm chứa những kinh nghiệm và cũng
là một lời cảnh báo cần được chú ý.
- Công khai minh bạch thông tin về nợ nước ngoài của quốc gia.
Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng
các khoản nợ nước ngoài và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ. Việc
công bố thông tin và minh bạch chính sách liên quan đến ngân sách và nợ nước
ngoài là hết sức cần thiết và quan trọng. Đây là xu hướng tất yếu mà Chính phủ Việt
Nam, và cụ thể là Bộ Tài chính phải thực hiện. Tuy nhiên, công bố thông tin không
nhất quán cũng có thể trở thành con dao hai lưỡi, gây ra tâm lý nghi ngờ và bất ổn
cho các nhà đầu tư cũng như thị trường. Do vậy, trong thời gian tới, Bộ Tài chính
cần phải đưa ra những thông điệp nhất quán, rõ ràng, có cơ sở hỗ trợ giải thích phù
hợp (với thông lệ quốc tế và tiêu chuẩn thị trường) về vấn đề nợ công, thâm hụt
ngân sách, và các chính sách tài chính có liên quan của Việt Nam để tránh gây tâm
lý bất ổn và nghi ngờ cho thị trường. Như trường hợp của Hy Lạp là điển hình cho
việc công bố thông tin không nhất quán, sai lệch trong bối cảnh đã đầy các bất ổn
và nghi ngờ, làm cho khủng hoảng ở nước này càng trở nên trầm trọng.
Hiện tại, Bộ Tài chính mới công bố trên cổng thông tin điện tử Bản tin Nợ nước
ngoài với chu kỳ 6 tháng một lần, với độ trễ là 6 tháng Bản tin Nợ nước ngoài này
không bao gồm các khoản nợ nước ngoài còn lại của khu vực công, khu vực tư nhân
và đặc biệt là nợ trong nước với xu thế ngày một tăng cả về trị số tuyệt đối và tỷ
trọng trong tổng số nợ.
Theo điều 47- Luật Quản lý nợ công quy định Bộ Tài chính phải công khai thông
tin về nợ công, bao gồm : “Tổng số dư nợ, cơ cấu nợ trong nước, nợ nước ngoài của
76
Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương, số liệu
vốn vay thực nhận và trả nợ hàng năm, các chỉ tiêu giám sát nợ chính phủ, nợ công,
nợ nước ngoài của quốc gia”. Tuy nhiên, cho đến nay việc tiếp cận thông tin của
công chúng về nợ nói chung, nợ công nói riêng ở nước ta hiện nay rất hạn chế.
Những khỏan mục nợ nước ngoài của quốc gia, cơ cấu nợ trong nước, nợ của chính
quyền địa phương,... vẫn chưa được công bố.
- Đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước.
Để giảm bớt tình trạng tham nhũng cần:
(i) minh bạch, công khai đầy đủ các thông tin như thông tin liên quan đến tài chính
và thủ tục hành chính bởi vì khi có tình trạng thông tin bất đối xứng thì người nắm
giữ thông tin sẽ được lợi nhờ giảm được chi phí còn người thiếu thông tin sẽ phải
gia tăng chi phí để có được thông tin. Điều này dễ nảy sinh tình trạng nhũng nhiễu
và hối lộ. Do vậy, các quy hoạch, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu sử dụng ngân sách
nhà nước phải công khai, phải phù hợp với mặt bằng giá cả trong từng thời kỳ nhất
định. Mọi thông tin liên quan đến quy trình thực hiện các thủ tục phải niêm yết công
khai trên các bản thông báo, trên mạng hoặc phương tiện thông tin đại chúng để
người dân có thể tiếp cận;
(ii) cải cách hành chính, giảm bớt các khâu, các thủ tục không cần thiết gây phiền
hà cho dân. Các chính sách, văn bản đưa ra phải sát với thực tế, rõ ràng và có thể
thực hiện; tránh tình trạng văn bản vừa đưa ra đã hủy bỏ hoặc một nội dung được
hiểu theo nhiều ý;
(iii) định mức thời gian hoặc thiết lập một quy trình nghiệp vụ chuẩnn cho tất cả
mọi công việc từ công việc sự vụ hàng ngày đến việc thực hiện các dự án lớn; chấm
dứt tình trạng quy hoạch treo hoặc đầu tư kéo dài;
(iv) giảm bớt hội họp, phong bì, thay thế việc hội họp bằng phân công phân nhiệm
rõ ràng; thay thế các cuộc họp mặt truyền thống bằng các cuộc họp thông qua mạng
viễn thông; sử dụng hình thức liên lạc thông qua mạng nội bộ và mạng toàn cầu
thay vì sử dụng văn bản giấy nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí;
77
(v) gắn quyền lợi với trách nhiệm. Quyền lợi và trách nhiệm phải cụ thể hóa đối với
từng cá nhân; trong quy chế tài chính về khen thưởng được cụ thể hóa bằng vật chất
thì đối lại cũng phải có các quy định về đền bù thiệt hại khi sai phạm chứ không
phải cứ sai là sử dụng công quỹ để đền bù thiệt hại về vật chất,
(vi) tránh tinh trạng có luật mà không ai thi hành. Việc thanh tra, giám sát hiện nay
mang nặng tính hình thức, thiếu chuyên nghiệp, cung cách xử lý còn nặng tình cảm.
Việc giám sát phát hiện sai phạm phải thể hiện tính chuyên nghiệp, không giám sát
một cách tự phát hoặc tình cờ mà phải có chuyên môn, phải có chiến thuật hay nói
cách khác là phải có một cung cách làm việc hiệu quả. Cá nhân, cơ quan thực hiện
giám sát phải thực sự có quyền và phải được đảm bảo an toàn về tính mạng và tài
sản. Thực quyền này đòi hỏi phải phân cấp và cụ thể hóa bằng luật.
Cho đến nay, chưa một quốc gia nào có thể chứng tỏ đã thành công hoàn toàn trong
việc chống tham nhũng, nhất là trong quá trình sử dụng nguồn vốn ODA. Tuy
nhiên, ở những góc nhìn khác nhau, có thể cho thấy ở quốc gia này hay quốc gia kia
đạt được những kết quả nhất định trong việc hạn chế các tác nhân gây nên nạn tham
nhũng, hoặc có những công cụ hữu hiệu cho việc phòng ngừa tham nhũng.
Trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ nước ngoài là danh mục nợ lớn. Đây là một
cơ cấu tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm năng ảnh hưởng đến sự
ổn định tài chính trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Do vậy,
nâng cao hiệu quả quản lý nợ quốc gia nói chung và quản lý nợ nước ngoài nói
riêng hiện được Chính phủ rất quan tâm. Thời gian qua, Việt Nam thành công trong
việc thực hiện chính sách quản lý nợ thận trọng, kiểm soát quy mô nợ công ở mức
khá an toàn. Phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, VN cần hoàn thiện thể
chế và chính sách để qua đó chuyển chính sách quản lý nợ công từ chiến lược
phòng thủ sang chiến lược thích nghi với xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
toàn cầu hiện nay.
78
KẾT LUẬN
Vay nợ nước ngoài là một nguồn vốn cần thiết cho phát triển kinh tế, tuy nhiên
không nên vay nợ nước ngoài bằng mọi giá, càng không thể coi việc vay nợ nước
ngoài là một cứu cánh để tăng trưởng trong hiện tại mà không chú ý đến sự phát
triển bền vững trong quá trình phát triển của nền kinh tế.
Qua phân tích thực trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam, nghiên cứu nhận thấy
mặc dù nợ nước ngoài ở Việt Nam đang gia tăng mạnh trong những năm gần đây
nhưng so với các tiêu chí đánh giá trong nước và các tổ chức tài chính quốc tế thì
tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Nghiên cứu
cũng cho thấy sử dụng nợ chưa được như mong đợi, hiệu quả sử dụng nợ nói riêng
và sử dụng vốn nói chung còn thấp, nếu dùng chỉ số ICOR để đánh giá hệ số này ở
Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khu vực Châu Á. Quản lý nợ cũng còn
nhiều điểm cần hoàn thiện để vay nợ không còn là gánh nặng quốc gia.
Ngoài ra nghiên cứu còn phân tích mối quan hệ định lượng giữa GDP, nợ nước
ngoài, đầu tư nội địa, dịch vụ nợ và độ mở nền kinh tế, trong đó mục đích chính là
tìm ra mối quan hệ trong ngắn hạn và dài hạn giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế từ 1986-2010. Kết
quả cho thấy trong dài hạn, nợ nước ngoài, đầu tư nội địa, độ mở nền kinh tế, xuất
khẩu đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay. Trong đó, gánh
nặng nghĩa vụ nợ phải trả cho nước ngoài tác động ngược chiều đến tăng trưởng
kinh tế.
Trên cơ sở phân tích nghiên cứu có nêu ra một số khuyến nghị về chính sách quản
lý vay nợ nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
như hiện nay, thách thức đặt ra cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển
khác nói chung là cần nhận thức đúng đắn vai trò vay và trả nợ như thế nào để vừa
khai thác nguồn vốn vay nước ngoài sao cho hiệu quả để biến việc vay mượn thành
một đòn bẩy phát triển kinh tế, vừa không làm gia tăng những nguy cơ đối với an
79
ninh tài chính và không phụ thuộc vào những can thiệp về kinh tế chính trị từ nước
ngoài.
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng theo tác giả, đề tài vẫn còn một số hạn chế.
Như đã trình bày, số liệu thống kê tài chính trong nước không đầy đủ và rất khó tiếp
cận nên nhiều chỉ tiêu, bảng biểu không trình bày đầy đủ số liệu xuyên suốt từ năm
1986 đến nay. Số liệu được tổng hợp từ nhiều tổ chức khác nhau trong và ngoài
nước;
Nghiên cứu sử dụng số liệu hằng năm nên số quan sát chưa đủ lớn để thực hiện
kiểm định đồng liên kết theo phương pháp Johansen và Juselius (1990) để so sánh
kết quả với phương pháp đã thực hiện;
Vì hạn chế thời gian và dữ liệu nên nghiên cứu chỉ tập trung vào chỉ tiêu ICOR ở
gốc độ cơ bản nhất để đánh giá hiệu quả đầu tư, chưa so sánh với các chỉ tiêu khác.
Để hoàn chủ đề nghiên cứu nợ nước ngoài, theo quan điểm của tác giả có thể thực
hiện thêm các chủ đề như:
Thiết lập mô hình xác định ngưỡng nợ nước ngoài;
Biện pháp kiểm soát và sử dụng hiệu quả vốn ODA;
Hoàn thiện khuôn khổ luật quản lý nợ công của Việt Nam.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt Sách, Công trình nghiên cứu và tạp chí: Nguyễn Ngọc Sơn, Trần Thị Thanh Tú (2007), Nguồn tài chính trong nước và
nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt Nam, Diễn đàn phát triển Việt Nam, NXB
Lao Động – Xã Hội;
Nguyễn Trọng Hoài (2009), Dự báo và phân tích dữ liệu trong kinh tế và tài
chính, NXB Thống Kê ;
Phạm Trí Cao, Vũ Minh Châu (2009), Kinh tế lượng ứng dụng, NXB Thống Kê
;
PGS.TS. Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định (2008), Tài chính Quốc Tế, NXB
Thống Kê ;
PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang (2007), Tài chính Doanh nghiệp Hiện đại, NSX
Thống Kê ;
GS.TS. Dương Thị Bình Minh & PGS.TS. Sử Đình Thành (2008), “ Phương
pháp tiếp cận đánh giá hiệu quả nợ công”, Tạp chí kinh tế Phát triển số 215;
Ths. Đoàn Kim Thành – Viện nghiên cứu phát triển Tp.Hồ Chí Minh (HIDS)
(2008):” Vốn vay ODA và khả năng trả nợ của Việt Nam”, trình bày tại Hội
nghị nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam, ngày 4/12/2008 ;
Ths. Nguyễn Hoàng Phương với đề tài “ Ước lượng hiệu quả của vốn ODA đối
với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”, đăng trên tập Nguồn tài chính trong nước
và nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt, Nam, Diễn đàn Phát triển Việt Nam,
NXB Lao động Xã hội, năm 2007 ;
TS. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt (2010)”Tình hình nợ công và
quản lý nợ công ở Việt Nam”;
Các Bản tin nợ nước ngoài số 1,2,3,4,5,6 và 7- Bộ Tài chính;
Luật quản lý nợ công của Quốc hội khóa XII số 29/2009/QH12 ngày 17 tháng 6
cơ
từ
ICOR
tăng
vọt!
ngày
3/11/2009
tại
năm 2009, hiệu lực 01/01/2010; và các Nghị định , thông tư hướng dẫn;
Nguy
81
http://cafef.vn/20091103104319252CA33/ nguy-co-tu-icor-tang-vot.chn.
Tiếng Anh
Krugman, Paul, (1988), “Financing versus forgiving a debt overhang,” Journal
of Development Economics, Washington;
Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci (2002):” External Debt and
Growth”, Magazine Finance and Development of the IMF, June 2002, Volume
39, Number 2;
Frimpong, J. M. and Oteng-Abayi, E. F., (2006) “The Impact Of External Debt
On Economic Growth In Ghana: A Cointegration Analysis”;
Elbadawi, A. I., J. B. Ndulu, and N. Ndung'u (1996) ‘Debt Overhang and
Economic Growth in Sub-Saharan Africa’. Paper presented at the IMF/World
Bank Conference on External Financing for Low-income Countries, December.
Washington, DC: IMF/World Bank ;
Mehmet Caner, North Carolina State University, Thomas Grennes, North
Carolina State University, Fritzi Koehler-Geib, World Bank (). “Finding the
Shahnawaz Malik , Muhammad Khizar Hayat và Muhammad Umer Hayat
Tipping Point - When Sovereign Debt Turns Bad”;
(2010): “External Debt and Economic Growth: Empirical Evidence from
Pakistan”, International Research Journal of Finance and Economics - Issue 44
(2010)
Krishna Prasad Regmi (2008): “A Study on Public Debt and its Impact on
Economic Growth in Nepal”, World Bank;
Were, Maureen, (2001), “The Impact of External Debt on Economic Growth and
Private Investment in Kenya: An Empirical Assessment”, Kenya Institute for
Public Policy Research and Analysis ;
Reinhart, Carmen and Kenneth Rogoff ( 2010) “Growth in a Time of Debt”.
American Economic Review, May forthcoming;
82
Mehmet Caner, Thomas Grennes và Koehler Fritzi-Geib (2010), “Finding the
Tipping Point—When Sovereign Debt Turns Bad”, Policy Research Working
Paper 5391, World Bank;
Theo Engle,R.F and Granger, C.W.J (1983 và 1986) :“Cointe-gration and Error
Correction Representation. Estimation and Testing. Econometrica, 55: 251-76;
Adepoju, Adenike Adebusola, Salau,Adekunle Sheu and Obayelu, Abiodun
Elijah (2007), “The effects of External Debt Management on Sustainable
Economic Growth and Development: Lessons from Nigeria”, Munich Personal
RePEc Archive.
Cohen, D. (1989). ‘How to Cope with Debt Overhang: Cut Flows rather than
Stocks’, in I. Diwan and I. Husain (eds), Dealing with the Debt Crisis.
Washington, DC: World Bank.
83
PHỤ LỤC SỐ 1
Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ tác động của nợ nước
ngoài đến tăng trường kinh tế.
1- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Pakistan.
Nghiên cứu của đồng tác giả Shahnawaz Malik (Chairman Department of
Economics, Bahauddin Zakaryia University, Multan, Pakistan), Muhammad Khizar
Hayat (Corresponding Author Department of Economics, Bahauddin Zakaryia
University, Multan, Pakistan) và Muhammad Umer Hayat University Science
Sociale Toluse, France, với bài viết : “External Debt and Economic Growth:
Empirical Evidence from Pakistan” , do Tạp chí Nghiên cứu Tài chính và Kinh tế
Quốc tế, số ISSN 1450-2887 Phát hành 44 (2010). Trọng tâm của nghiên cứu này là
khám phá mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Pakistan cho
giai đoạn năm 1972 – 2005, từ đó đưa ra những nhận xét và khuyến nghị về nợ
nước ngoài của Pakistan.
Mặc dù, tình hình chính trị thường xuyên bất ổn nhưng Pakistan có tốc độ tăng
trưởng kinh tế rất cao. Tuy nhiên, Pakistan lại thường xuyên phải đối mặt với vấn
đề nghiêm trọng trong cán cân thanh toán do thâm hụt ngân sách. Để giải quyết
thâm hụt cán cân thanh toán quốc gia họ dựa vào nợ nước ngoài. Do quá phụ thuộc
vào nguồn lực bên ngoài và trở nên không kiểm soát được. Ngân hàng Thế giới
phân loại Pakistan là quốc gia mắc nợ nghiêm trọng của Nam Á vào năm 2001. Nợ
nước ngoài của Pakistan bình quân trên 50% GDP. Pakistan đã được sắp xếp lại nợ
nước ngoài hai lần giữa năm 1998 và 2001 bởi vì nước này không thể trả nợ nước
ngoài. Trong đó nợ nước ngoài năm 1972-1973 là 4.385 triệu USD đã tăng lên
29.630 triệu USD (năm 2005-2006). Dữ liệu cho thấy một sự gia tăng liên tục nợ
nước ngoài. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình như sau.
GDP = α0 + α1 ED + α2 DS + ut
Trong đó : Biến GDP là biến phụ thuộc đại cho tổng sản phẩm quốc nội ; “ED” là
biến tổng nợ nước ngoài và “DS” là biến dịch vụ nợ.
84
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF) để kiểm
định tính dừng và không dừng (unit roots or non-stationary tests) của các chuỗi thời
gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm. Sau đó, áp dụng phương bình phương bé
nhất (OLS) để hồi qui mộ hình và kết luận và nhận xét đề xuất.
Kết quả thực nghiệm cho thấy: Nợ nước ngoài tác động tiêu cực và đáng kể đến
tăng trưởng kinh tế. Bằng chứng cho thấy khi tăng nợ nước ngoài là nguyên nhân
chính của suy giảm trong đầu tư sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế. Nghĩa vụ
nợ cũng đã tác động đáng kể và tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Tình trạng nợ nước ngoài tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của Pakistan là
do Pakistan đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như bất ổn chính trị, khủng bố, dẫn
đến công tác quản lý nợ của Chính phủ quá yếu kém, trong khi chi tiêu công quá
lớn không kiểm soát được, phải chấp thuận các điều kiện không thuận lợi từ WB và
IMF. Cuối cùng phải thu hẹp hoạt động thương mại để tiết kiệm cán cân thanh toán
đáp ứng nghĩa vụ nợ của đất nước.
2- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Nepal.
Nghiên cứu của tác giả Krishna Prasad Regmi trong bài viết : “A Study on Public
Debt and its Impact on Economic Growth in Nepal” năm 2008. Mục tiêu chính của
nghiên cứu này là đánh giá tác động của nợ nước ngoài và dịch vụ nợ đến tăng
trưởng kinh tế của Nepal. Tác giả đã sử dụng dữ liệu từ năm 1986 - 2006, để tiến
hành các bước thực nghiệm.
Nợ nước ngoài đại diện cho một nguồn tài chính quan trọng ở Nepal, nơi mà nó bổ
sung tiết kiệm thấp, kim ngạch xuất khẩu thu hẹp, và các căn cứ tính thuế mỏng.
Trong sự chênh lệch của khoảng cách tiết kiệm-đầu tư liên tục, khoảng cách xuất
nhập khẩu, và thâm hụt tài chính, quản lý nợ công là một vấn đề cần thiết cho sự ổn
định vĩ mô nền kinh tế Nepal.
Nepal liên tục thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài trong những thập kỷ gần đây, vay
nợ để giải quyết với đói nghèo. Trong cơ cấu nợ công của Nepal, bao gồm nợ trong
85
nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước chiếm bình quân 38,6% (1986-1987) và tăng
lên 47,7% (2005-2006), tỷ lệ tăng bình quân 13,6%/năm. Nợ nước ngoài chiếm
63,6% trong 1986-1987 đến năm 2005/06 chiếm 71,4 % trong tổng số thâm hụt tài
chính, tỷ lệ tăng bình quân là 16,5%/năm. Mặc dù, nợ công có xu hướng tăng nhanh
bình quân 62,58% GDP (1986-2006), và dịch vụ nợ cũng tăng nhanh trung bình
hàng năm là 15,9%, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao bình quân
12,45%/năm. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình cụ thể nhu sau:
GDPGR = a0 + a1 DEDTGD + a2 DSR + a3 DSFCR + a4 TDGDP + a5 GDEIV +a6
GDERV + a7INF + ut
Trong đó : GDPGR biến phụ thuộc đại diện cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thực;
biến DEDTGD là tỷ lệ nợ trên GDP; biến DSR là tỷ lệ dịch vụ nợ trên thu nhập
xuất khẩu; biến DSFCR là dịch vụ nợ trên dự trữ ngoại hối; biến TDGDP tỷ lệ tổng
GDERV là tỷ lệ chi thường xuyên trên GDP và biến INF là tỷ lệ lạm phát.
dịch vụ nợ trên GDP; biến GDEIV tỷ lệ chi phí phát triển GDERV trên GDP; biến
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) hồi qui mô
hình.
Kết quả thực nghiệm từ mô hình cho thấy sự gia tăng nợ nước ngoài và dịch vụ nợ
đã tác động tiêu cực, gây khó khăn trở ngại tăng trưởng kinh tế. Bởi những nguyên
nhân chính mà tác giả phát hiện đưa ra: Vay nợ mới để trả nợ cũ và lãi, việc chi tiêu
vào các lĩnh vực không hiệu quả, tình trạng tham nhũng là khá phổ biến, tiền vay
đầu tư không đúng mục đích nhằm hoạt động tạo việc làm và phát triển cơ sở hạ
tầng, công tác quản lý nợ nước ngoài rất kém, làm tăng thêm gánh nặng nợ cho
quốc gia. Cuối cùng, nợ nước ngoài phải trả và các khoản dịch vụ của nó đã tăng
lên gây khó khăn trở ngại cho tăng trưởng kinh tế.
Tỷ lệ nợ công cao là 58% của GDP (2005-2006), nếu nó tiếp tục tăng rất nhanh
trong những năm tới, sẽ tăng nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tài chính, và chi
86
phí đi vay cao, lãi suất trong nước cao sẽ không khuyến khích đầu tư tư nhân, dẫn
đến hạn chế sự linh hoạt của chính sách tài khóa.
3- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Kenya.
Nghiên cứu của tác giả Maureen Were trong bài viết : “The Impact of External Debt
on Economic Growth in Kenya” năm 2001. Trọng tâm của nghiên cứu này là đánh
giá cơ cấu, độ lớn, thành phần và yếu tố quyết định nợ nước ngoài tác động đến
tăng trưởng kinh tế của Kenya. Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thời gian từ năm
1970-1995, để tiến hành các bước thực nghiệm.
Trong cơ cấu nợ nước ngoài của Kenya, những năm 1970, chủ yếu là nợ song
phương. Từ đầu năm 1980 trở đi, chủ yếu là nợ dài hạn khu vực công, nợ đa
phương chính thức,. Kể từ đầu những năm 1990, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP rất
cao 39% (1970-1980), 67% (1981-1990) và 89% (1991-1999). Tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế bình quân 5,1% (1970-1980), 4.2% (1981-1990) và 2.3% (1991-1999). Tỷ lệ
nợ nước ngoài trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ bình quân 121% (1970-1980),
260% (1981-1990) và 268% (1991-1999).
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Dickey-Fuller (DF) và Augmented
Dickey-Fuller (ADF) để kiểm định tính dừng và không dừng (unit roots or non-
stationary tests) của các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm, và tiếp
tục sử dụng phương pháp phân tích đồng tích hợp (Cointegration) của Engle –
Granger (1987) để đo lường các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ
đồng liên kết). Cuối cùng, tác giả sử dụng mô hình điều chỉnh sai số ECM (Error
Correction Model) để thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các
biến vĩ mô. Từ đó, rút ra kết luận, nhận xét và đề xuất. Mô hình nghiên cứu cụ thể như sau.
GRATE = a0 + a1 DEDGDP + a2 DDSR + a3 FFDC + a4 PINV + a5 DTOT +a6 SER + a7
INFL + a8 GPUIV + a9 DRER + ut
87
Trong đó : GRATE là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế thực; biến
EDGDP là tỷ lệ của nợ nước ngoài trên GDP; biến DSR dịch vụ nợ trên giá trị xuất
khẩu; biến FFDC là tài trợ nước ngoài ròng bù đấp thâm hụt; biến PINV tỷ lệ đầu tư
tư nhân trên GDP; biến TOT là các điều khoản thương mại (tỷ giá trao đổi thương
mại); biến SER tỷ lệ nhập học tiểu học như đào tạo phát triển nguồn nhân lực ; biến
INFL là tỷ lệ lạm phát ; biến RER là tỷ giá hối đoái thực và biến GPUIV là tỷ lệ đầu
tư công trên GDP
Kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng sự gia tăng nợ nước ngoài đã tác động tiêu cực
tăng trưởng kinh tế thực, nợ hiện tại ngăn chặn tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.
Một sự gia tăng trong tỷ lệ dịch vụ nợ hiện tại ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư
nhân, điều này khẳng định hiệu ứng lấn át dịch vụ nợ trên đầu tư tư nhân. Những
yếu tố trên, xác nhận sự tồn tại của một vấn đề nợ ngưỡng nợ ở Kenya. Thâm hụt
ngân sách là một tỷ lệ thâm hụt tài chính tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Nhưng đầu tư tư nhân và đầu tư phát triển nguồn nhân lực lại có tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế. Đầu tư công hiện tại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng
không ngờ đầu tư công trong quá khứ (GPUIVt-1) đã được tìm thấy có một tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ lạm phát hiện tại ngăn cản tăng trưởng
kinh tế trong khi tỷ lệ lạm phát (INFLt-1) kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài ở Kenya có thể được truy nguồn từ cả
yếu tố bên trong và bên ngoài. Yếu tố nội bộ chủ yếu là quá chính sách mở rộng tài
khóa và chính sách thương mại bị bóp méo, đặc biệt là các chính sách đã tạo ra một
thành kiến nặng nề đối với xuất khẩu. Các yếu tố bên ngoài bao gồm sự suy giảm về
thương mại dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tỷ lệ lãi suất cao trên thế giới và
chủ nghĩa bảo hộ gia tăng bởi các nước phát triển, có xu hướng phân biệt đối xử
chống lại xuất khẩu nước kém phát triển. Ngoài những yếu tố này, tình trạng hạn
hán cũng đã góp phần vào gánh nặng nợ nước ngoài tại Kenya.
88
PHỤ LỤC SỐ 2
Thực trạng về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986-2010
+ Nợ nước ngoài (EDT), dịch vụ nợ (TDS) và giá trị xuất khẩu (EX):
Giá trị xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu thể hiện cho khả năng trả nợ của
một quốc gia. Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế của khu vực và
thế giới, VN là một trong những nước có độ mở cửa thương mại lớn. Tổng giá trị
xuất khẩu của VN đã tăng 24 lần từ 2,4 tỷ USD năm 1990 lên 57 tỷ USD năm 2009,
năm 2010 tăng lên 72,2 tỷ USD và hơn gấp đôi tổng số nợ hiện hữu. Qua số liệu từ
đồ thị (Hình 3.2) cho thấy, mặc dù Việt Nam có tổng nợ lớn và có xu hướng tăng
mạnh trong những năm gần đây, tuy nhiên giá trị xuất khẩu tăng cao hơn gấp nhiều
lần so với số nợ phải trả hàng năm cho thấy khả năng thanh toán nợ nước ngoài qua
nguồn thu xuất khẩu là khá tốt. Tuy nhiên, tình trạng nhập siêu của Việt Nam nhiều
năm dẫn đến thâm hụt thương mại, cộng thêm thâm hụt ngân sách kéo dài dẫn đến
khả năng toán nợ nước ngoài cần phải được quan tâm đúng mức.
Hình : Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ và xuất khẩu, giai đoạn 1990-2010.
Triệu USD
80,000
70,000
60,000
50,000
40,000
30,000
20,000
10,000
0
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2000 Năm
EX
EDS
EDT
Nguồn : World Bank và Bộ Tài chính.
89
+ Cơ cấu nợ ngắn hạn,dài hạn so với tổng nợ nước ngoài.
Cơ cấu thời hạn vay nợ nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng đến mức độ rủi
ro tài chính. Nếu như một quốc gia chỉ dựa chủ yếu vào vốn vay ngắn hạn thì áp lực
trả nợ rất cao, nợ công và bảo lãnh công chiếm tỷ lệ cao sẽ tạo áp lực cho chính phủ
tạo nguồn để trả nợ.
120%
100%
80%
Hình : Cơ cấu nợ nước ngoài ngắn hạn, dài hạn so với tổng nợ
ợ n g n ổ t /
n ạ h
60%
40%
i à D à v n ạ h n ắ g n ợ N
20%
0%
1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm
Nợ dài hạn
Nợ ngắn hạn
Nguồn : World Bank.
Qua số liệu cho thấy, tỉ lệ nợ ngắn hạn trên tổng nợ nước ngoài của Việt Nam hiện
nay có xu hướng tăng nhanh các năm gần đây từ 11% năm 2004 tăng lên 18% năm
2009. Tỷ lệ này ngày càng tăng đã tạo áp lực rất lớn cho Chính phủ trong việc chi
trả nợ gốc, chi phí và lãi vay. Mặt khác, các khoản vay trong những năm 90 sẽ đến
hạn, thời gian ân hạn cho những khoản vay trước đó sẽ dần kết thúc nghĩa vụ nợ
tăng lên sẽ gây những áp lực cho công tác trả` nợ trong những năm tới. Mặc dù,
trong cơ cấu nợ vay nước ngoài của Việt nam nợ trung và dài hạn chiếm tỷ trọng
khá cao bình quân trên 80%.
+ Các chủ nợ của chính phủ, cơ cấu lãi vay và đồng tiền vay.
90
Theo Bộ Tài chính, tính đến 31/12/2010, Việt Nam hiện đang vay nợ từ 25 quốc gia
(Song phương), 9 tổ chức quốc tế (Đa phương) và các chủ nợ tư nhân khác.
Trong đó :
- Nợ đa phương : vay nhiều nhất từ Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) với số tiền
6.930,41 triệu USD, tiếp theo là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) 4.174,74 triệu
USD; các chủ nợ tư nhân khác 2.437 triệu USD.
- Nợ song phương : nhiều Nhật Bản nhiều nhất (trên 9.547,79 triệu USD), tiếp theo
là Pháp (trên 1.167,06 triệu USD), Nga (568 triệu USD), Trung Quốc (551,74 triệu
USD)...Tuy nhiên, với Mỹ, Việt Nam chỉ nợ trên 83,8 triệu USD.
- Cơ cấu lãi vay nợ nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng đến mức độ rủi ro
tài chính, hiệu quả đầu tư cũng như khả năng trả nợ của Chính phủ.
Bảng : Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ theo lãi vay,
từ năm 2007-2010.
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
17.270,60
(%) 18.916,05
(%) 23.942,51
(%) 27.857,76
(%)
Tổng cộng
16.839,67
98% 18.294,36 97 % 22.029,11 92 % 25.895,93 93 %
Lãi suất cố định
299,07
2 %
257,82 1 %
281,73 1 %
563,17
2 %
0% - 99%
13.917,54
81% 15.553,96 82 % 19.325,39 81 % 21.289,85 76 %
1% - 2.99%
1.492,99
9 %
1.557,09 8 %
1.502,96 6 %
2.152,22
8 %
3% - 5.99%
1.130,07
7 %
925,49 5 %
919,09 4 %
1.890,69
7 %
6% - 10%
Lãi suất thả nổi
430,93
2 %
621,69 3 %
1.913,40 8 %
1.961,83
7 %
369,91
2 %
508,26 3 %
1.728,66 7 %
1.798,86
6 %
Libor 6 tháng
3,10 0,02 %
-
-
-
Thả nổi của NIB
(ĐVT : Triệu USD, tỷ giá tại thời điểm cuối kỳ)
91
57,92 0,34 %
113,42 0,6 %
184,74 0,7 %
162,97
Euro 6 tháng
0,6 %
Nguồn : Bộ tài chính.
Nếu không tính khoản nợ nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh, thì tổng dư nợ nước
ngoài của Chính phủ chủ yếu là vay với lãi suất cố định bình quân trên 90% và 10%
lãi suất thả nổi. Trong đó : trên 80% vay với lãi suất ưu đãi dưới 3%; 8% vay lãi
suất 3-5,9% ; 7% vay lãi suất cao 6-10%/năm và còn lại vay với lãi suất Libor 6
tháng và Euro 6 tháng.
Riêng năm 2010, vay lãi suất 3-5,9% đã tăng từ 6% (2009) lên 8% (2010), tương
đương dư nợ tăng lên 649,26 triệu USD so với năm 2009 ; vay với lãi suất cao tăng
mạnh từ 4% (2009) tăng lên 7% (2010), tương đương dư nợ tăng lên 971,6 triệu
USD so với năm 2009; vay với lãi suất dưới 3% tăng lên 2.245,90 triệu USD so với
năm 2009; và vay lãi suất thả nỗi ít biến động từ năm 2009 sang năm 2010 vẫn giữ
ở mức 7% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ.
Lãi suất vay tăng cao trong bối cảnh khủng hoảng nợ công hiện đang lan rộng tại
các nước Nam Âu là một tất yếu, dẫn đến việc vay nợ nước ngoài là rất khó khăn để
đáp ứng các khoản thâm hụt đầu tư trong nước. Nhưng điều này chưa đáng lo ngại
vì thường thì nợ của chính phủ từ các nguồn vay chính thức, từ các tổ chức quốc tế
và chính phủ các nước phát triển cao đều có lãi suất rất thấp và thời gian chưa phải
trả nợ có thể kéo dài đến 10 năm hay dài hơn nhiều. Nên áp lực chi trả nợ tương đối
thấp và có thể tính toán trước về khả năng trả vì lãi suất cố định. Trường hợp Việt
Nam là rất thuận lợi. Vào năm 2010, tỷ lệ vay chính thức lên tới 83,5 % và phần
vay tư nhân là 16,5 %. Hơn nữa, 86 % tổng số nợ này chịu lãi suất thấp dưới 6 %,
trong đó 78 % số nợ có lãi suất dưới 3 %.
Hình : Cơ cấu nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo lãi suất, tính đến 31/12/2010.
92
0.59%
2.02%
6.46 %
6.79%
76.42 % Lãi suất 0%-99%
7.73%
Lãi suất 1%-2.99%
Lãi suất 3%-5.99%
Lãi suất 6%-10%
Lãi suất Libor 6 tháng
Lãi suất Euro 6 tháng
Nguồn : Bộ Tài chính.
Bên cạnh cơ cấu lãi suất vay, đồng tiền vay cũng không kém phần quan trọng góp
phần mang lại hiệu quả đầu tư từ vốn vay và quyết định khả năng trả nợ vay của
Việt Nam. Hiện tại, cơ cấu đồng tiền trong nợ vay của Chính phủ cũng khá đa dạng,
vay bằng đồng Yên chiếm 38,83% (10.817,18 triệu USD), quyền rút vốn đặc biệt
SDR (Đồng tiền qui ước của một số nước thành viên IMF) chiếm 27.06 %
(7.538,65 triệu USD), vay bằng tiền USD chiếm 22,16% (6.174,17 triệu USD),
Euro chiếm 9.18% (2.558,54triệu USD) và phần còn lại vay bằng các đồng tiền
khác.
Hình : Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo loại tiền, Tính đến 31/12/2010
Khác 2.77%
EUR 9.18%
JPY 38.83%
JPY
USD 22.16%
SRD
USD
SRD 27.06%
EUR
Khác
93
Nguồn : Bộ Tài chính.
Theo cơ cấu nợ như hiện nay thì phần lớn Việt Nam vay nợ bằng đồng tiền mạnh
(như đồng Yên, USD,..), làm tăng áp lực rủi ro về tỷ giá, việc này sẽ rất khó khăn
cho Việt Nam khi trả nợ. Bởi vì, khi đồng yên lên giá 5-10% thì tiền đi vay về đổi
ra tiền đồng để đầu tư bị mất 5-10%. Rồi khi kinh doanh xong thì muốn trả nợ thì
phải đổi ra tiền yên để trả nợ, nếu giá trị đồng yên mạnh thì tức là mình đổi được ít.
Cũng có trường hợp các công ty làm ăn tưởng có lời nhưng tới cuối năm tính toán
lại thấy lỗ do tỷ giá. Do đó, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn tới nợ nước ngoài của
các quốc gia vay nợ.
Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam ngoài việc tính đến khả năng trả nợ khi vay,
cần tính toán kỹ việc vay bằng đồng tiền nào để tránh rủi ro tỉ giá, nhất là với đồng
yen và cả USD. Điều này làm giảm áp lực rủi ro về tỷ giá do vay bằng các đồng tiền
mạnh.
Năm 2010, cơ cấu đồng tiền cũng có thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng vay bằng
USD và giảm ở các đồng tiền mạnh khác. Tỷ trọng vay bằng USD từ mức gần 17%
vào cuối năm 2009 đã tăng lên xấp xỉ 22,16 % năm 2010.
Cùng thời gian này, các khoản vay bằng đồng Yên đã giảm tỷ trọng từ 39,63%
xuống còn 38,83%; SDR giảm từ 29,29% xuống 27,06%; vay bằng đồng Euro từ
10,78% còn 9,18%.
Theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, năm 2010 khi Chính phủ
vay thêm 4.571,84 triệu USD thì sau khi trả nợ và phí (1.672,32 triệu USD) còn lại
2.899,52 triệu USD. Với số nợ và lãi suất hiện tại, trong những năm tới không vay
thêm thì số tiền Việt Nam phải bỏ ra mỗi năm để trả nợ sẽ cao nhất vào năm 2020
trên 2,380 tỉ USD (Trong đó: trả nợ gốc 2.134,62 triệu USD và trả lãi trên 245.71
triệu USD). Trước mắt, năm 2011 Việt Nam sẽ phải trả nợ khoảng 1.331,50 triệu
USD tính cả gốc lẫn lãi. Đến năm 2026, cũng còn phải trả 865 triệu USD/năm tiền
gốc và 110,23 triệu USD lãi.
94
Với số nợ hiện tại, dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài của chính phủ
năm 2010 đã tăng lên đáng kể so với năm 2009, nợ gốc tăng bình quân 19%, lãi và
phí tăng 45%, nếu tính đến năm 2025 thì nghĩa vụ nợ tăng bình quân 24% mỗi năm.
Điều này thật sự đáng lo ngại về khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai, vì
dự kiến nghĩa vụ nợ năm vào 31/12/2009 chỉ là 1.101,57 triệu USD, thì năm 2010
thực tế trả nợ đã tăng lên đến 52% (1.673,32 triệu USD), trong khi số nợ nước
ngoài huy động thêm chỉ tăng lên 16,3% (từ 27,9 lến 32,5 tỷ).
95
PHU LỤC 3
Kết quả hồi quy mô hình (1)
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
LnEDT 0.012641 0.005812 2.175192 0.0424
LnFDI 0.001061 0.002341 0.450751 0.6573
LnINV 0.024589 0.012225 2.011367 0.0587
LnTDS -0.008371 0.006184 -1.35362 0.1917
EXP 0.043041 0.034858 1.234723 0.2321
C 0.073177 0.018549 3.945125 0.0009
R-squared Mean dependent var 0.069 0.591688
Adjusted R- squared 0.484238 S.D. dependent var 0.017592
S.E. of regression 0.012634 Akaike info criterion -5.69925
Sum squared resid 0.003033 Schwarz criterion -5.40672
Log likelihood 77.24068 F-statistic 5.506614
Durbin-Watson stat 1.254809 Prob(F-statistic) 0.002677
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
Hình 4.2. Đồ thị giá trị thực tế và giá trị dự báo của mô hình (1)
96
.10
.08
.06
.02
.04
.01
.02
.00
-.01
-.02
-.03
2
4
6
8
10 12 14 16 18 20 22 24
Phan du Gia tri thuc te Du bao
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
97
PHỤ LỤC 4
Lag
LogL
LR
FPE
AIC
SC
HQ
0
130.769 NA
1.54E-13
-12.4769
-12.17818
-12.4186
1
167.4177 47.64331
1.73E-13
-12.54177
-10.45073
-12.1336
2
910.0336
519.8311*
1.33e-43*
-83.20336*
-79.32000*
-82.4452*
* indicates lag order selected by the criterion
LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level)
FPE: Final prediction error
AIC: Akaike information criterion
SC: Schwarz information criterion
HQ: Hannan-Quinn information criterion
Kết quả chọn bước trễ của mô hình ECM