BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------(cid:0)ω(cid:0)----------

PHẠM VĂN DŨNG

NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------(cid:0)ω(cid:0)----------

PHẠM VĂN DŨNG

NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế -Tài chính - Ngân hàng. Mã số : 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2011

Mục Lục

Mở đầu ............................................................................................. ..1

CHƯƠNG I : KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .............. ..5

1.1. Các khái niệm về nợ và tăng trưởng kinh tề: ............................................ ..5

1.1.1 Nợ nước ngoài của quốc gia ...................................................................... . 5

1.1.2 Tăng trưởng kinh tế ................................................................................... ..5

1.1.3 Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. ..................................... ...6

1.2 Giá trị tới hạn của nợ đối với tăng trưởng kinh tế .................................... ..8

1.3 Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối các quốc gia có thu nhập thấp ................................................................................................. .....9

1.3.1- Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài của IMF. .................. .... 9

1.3.2- Tiêu chí của Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá mức độ nợ của các quốc gia vay nợ. ........................................................................................... ...10

1.4.1- Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài........................................... ............,........11

1.4.2- Các nghiên cứu của tác giả trong nước. .......................................................... ....15

1.4 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế .......................................................................................... ...11

CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM ................................................................................................................. ...18

2.1- Tổng quan về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2010 ........ ...18

2.2- Những nguyên nhân làm gia tăng nợ nước ngoài của Việt Nam. ........... ...21

2.2.1- Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt thương mại :…………………….....21

2.2.1.1 Thâm hụt thương mại do chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm:……...22

2.2.1.2 Thâm hụt thương mại do đầu tư tăng quá cao:…………...…….....…22

2.2.1.3 Thâm hụt thương mại do đầu tư không hiệu quả…………....…........26

2.2.1.4 Thâm hụt thương mại do mức tiết kiệm thấp………………..............29

2.2.1.5 Thâm hụt thương mại do mất cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu……………….…………………………………………...........30

2.2.2- Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt ngân sách :……………………...…31

2.2.3- Thâm hụt kép khuếch đại tác động đến nợ nước ngoài:……………….....33

2.3- Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam…...................................35

2.3.1- Đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam theo mức ngưỡng của HIPCs………………………...………………………………………......35

2.3.2- Đánh giá tính ổn định của nợ theo các tiêu chí giám sát an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam……………………………........………..............….36

2.3.3- Đánh giá tính ổn định của nợ theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ nước ngoài………………………………….............…..38

2.3.4- Đánh giá khả năng trả nợ nước ngoài trong tương lai…………...……... 39

2.3.5- Đánh giá rủi ro việc vay nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh………………………………………..……………………...…........42

2.3.6- Đánh giá tính công bằng liên thế hệ trong quản lý và sử dụng nợ vay nước ngoài tương lai…………………………………………...…………...... 44

2.3.7- Những bất cập về quản lý nợ nước ngoài hiện nay...…… ... …....…........45

CHƯƠNG III PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ NƯỚC NGOÀI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986- 2010 .................................................................................................................. . 47

3.1. Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài theo mô phỏng đường cong Laffer nợ .......................................................................................................................... .47

3.2. Phân tích thực nghiệm ảnh hưởng nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2010 ........................................................................ 48

3.2.1. Mô hình nghiên cứu. ............................................................................. 48

3.2.2. Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thực nghiệm. ............................... 50

3.2.3. Kết quả thực nghiệm. ............................................................................ 50

3.2.3.1 Các phân tích và kiểm định ban đầu. .............................................. 50

3.2.3.2 Phân tích cân bằng dài hạn-Phân tích đồng liên kết ........................ 52

3.2.3.3 Phân tích cân bằng ngắn hạn .......................................................... ......

56

3.2.4. Kết luận ................................................................................................ . 63

3.2.5. Hạn chế của mô hình định lượng ........................................................... . 64

CHƯƠNG IV : MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM. ........................................ . 65

4.1- Gắn kết quy mô nợ nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ...................... . 65

4.2- Hướng đến cân đối tiết kiệm- đầu tư. ..................................................... . 66

4.3- Tăng cường quản lý việc vay nợ nước ngoài không được bảo lãnh…...... 68

4.4- Cải thiện thể chế và chính sách để hướng đến xây dựng một chiến lược quản lý nợ thích nghi với bối cảnh hiện nay................................................... .. 69

4.5- Hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài: .............................................. . 72

KẾT LUẬN …..................................................................................................... 78

HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO............ 79

PHỤ LỤC 1.

PHỤ LỤC 2.

PHỤ LỤC 3.

PHỤ LỤC 4.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .

DANH MỤC BẢNG

 Bảng 1.1 : Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn về nợ của MF..................................9

 Bảng 1.2 : Tiêu chí đánh giá mức độ nợ nước ngoài của WB.............................10

 Bảng 1.3 : Một số nghiên cứu gần đây về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và

tăng trưởng kinh tế………..........……… ………..…………............14

 Bảng 2.1 : Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư giai đoạn 2000-2009................…................22

 Bảng 2.2 : Tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư các thành phần kinh tế (theo giá thực tế)

giai đoạn 1999 – 2010..............................……...................................23

 Bảng 2.3 : Cơ cấu đầu tư phân theo ngành giai đoạn 2005 – 2010...........…........25

 Bảng 2.4: Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Châu Á - Giai đọan từ

2000 -2009..........................................................................................26

 Bảng 2.5: Tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ đầu tư và ICOR của Việt Nam, giai đoạn

1995-2010…………….............................................................. …….27

 Bảng 2.6: Thâm hụt thương mại Việt Nam, giai đoạn 1995-2010.........……......31

 Bảng 2.7: Thâm hụt NSNN giai đoạn 2000 – 2011F...........................…….........32

 Bảng 2.8. Thâm hụt NSNN và cán cân thương mại Việt Nam, giai đoạn 2000 –

2010.............………….......................................................................33

 Bảng 2.9 : Các tiêu chí đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của IMF và WB cho

HIPCs.................... ...........................................................................35

 Bảng 2.10: Các chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam............................37

 Bảng 2.11: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế theo tiêu chuẩn của HIPCs. ................................................................................................39

 Bảng 2.12: Dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài của Chính phủ, tính đến 31/12/2010...................................................................................40

 Bảng 2.13: Các chỉ tiêu giám sát về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế (Giai

đoạn 2005-2010). ...............................................................................42

 Bảng 2.14 : Tốc độ tăng nợ nước ngoài của quốc gia, khu vực công và không

được bảo lãnh, giai đoạn 2006-2010...................................................42

 Bảng 3.1: Ma trận hệ số tương quan.....................................................................51

 Bảng 3.2 :Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị........................................................51

 Bảng 3.3 : Kiểm định wald mô hình 1..................................................................53

 Bảng 3.4 : Kiểm định phần dư của mô hình (2)....................................................53

 Bảng 3.5 : Hồi qui mô hình ECM với 2 bước trễ..................................................57

 Bảng 3.6: Hồi qui mô hình ECM với 1 bước trễ..................................................59

 Bảng 3.7 : Kết quả kiểm ý nghĩa thống kê mô hình ECM (Mô hình 1 bước trễ) .61

 Bảng 3.9: Kiểm định wald mô hình ECM 1 bước trễ.......................................... 63

 Bảng 3.8: Phần dư có phân phối chuẩn................................................................ 62

 DANH MỤC HÌNH VẼ

 Hình 1.1 : Đường cong Laffter về nợ.................................................... …...............7

 Hình 2.1: Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ, GDP và tăng trưởng GDP.......... ............ 18

 Hình 2.2 : Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế (giá thực tế, tỷ đồng), giai

đoạn 1999 – 2010............................................................................... .23

 Hình 2.3 : So sánh tỷ lệ đầu tư/GDP (%) của Việt Nam với các nước trong

khu vực châu Á, giai đoạn 2000-2009.............................. ...................24

 Hình 2.4 : So sánh hệ số ICOR của các thành phần kinh tế.................................. 28

 Hình 2.5 : Tỷ lệ tiết kiệm/GDP giai đoạn 1996- 2009 ....................... ...................29

 Hình 2.6: Quan hệ tỷ lệ thâm hụt NSNN và cán cân thương mại, giai đoạn

2000 – 2010............................ ……………………………………..34

 Hình 3.1 : Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài trên GDP (2000) của Việt

Nam..………………………………………………………………....47

 Hình 3.2. Đường biểu diễn giá trị dự báo và phần dư mô mình ECM dựa

trên phần dư phương pháp Engle-Granger (3).................................... 58

 Hình 3.3. Đường biểu diễn giá trị dự báo và phần dư mô mình ECM, dựa

trên phần dư phương pháp Engle-Granger (4).....................................60

 Hình 3.4. Kết quả kiểm định Histogram-Normality...............................................62

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

 ADB: Ngân hàng Phát triển châu Á  M hoặc NK: Giá trị nhập khẩu.

 ADF: Augmented Dickey-Fuller  MOF: Bộ Tài Chính

 DN : Doanh nghiệp  NHNN: Ngân hàng Nhà nước

 DW: Durbin-Watson  NSNN: Ngân sách Nhà nước

 ECM: Error correction model  ODA: Viện trợ chính thức không

hoàn lại  EDT : Tổng nợ nước ngoài

 OLS : Phương pháp bình phương  EXP : Độ mở nền kinh tế bé nhất.  EUR: Đồng tiền chung Châu Âu

 FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

 SRD : Quyền rút vốn đặc biệt (Đồng tiền qui ước của một số nước thành viên IMF)  FII: Đầu tư gián tiếp

 TB: Cán cân thương mại  GDP: Tổng sản phẩm quốc nội

 TDS : Tổng dịch vụ nợ hay nghĩa  GNP : Tổng sản phẩm quốc dân vụ nợ  GNI : Tổng thu nhập quốc dân  USD: Đô la Mỹ  GSO: Tổng cục thống kê Việt Nam  VN: Việt Nam  HIPCs : Các nước nghèo gánh nặng  WB: Ngân hàng Thế giới nợ

 WTO: Tổ chức Thương mại Thế  ICOR: Incremental Capital Output giới Ratio

 EX hoặc XK: Giá trị xuất khẩu  IMF: Quỹ Tiền tệ Quốc tế.

 XNK: Xuất nhập khẩu.  INV : Đầu tư nội địa

 JPY : Đồng Yên Nhật

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Trong những năm qua, nước ta liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,

điều đó không chỉ dựa vào yếu tố nội sinh, mà còn có sự tác động của yếu tố bên

ngoài. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện tiết kiệm trong nước còn

hạn chế, các nước đang phát triển thường thu hút các nguồn vốn nước ngoài bằng

nhiều cách khác nhau, trong đó vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước

ngoài bao gồm vay nợ dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

có tính chất ưu đãi và vay thương mại theo các điều kiện thị trường. Chính nguồn

vốn bổ sung từ bên ngoài đã giúp nhiều quốc gia khắc phục tình trạng chậm phát

triển và chuyển sang phát triển bền vững.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, khủng hoảng tiền tệ

luôn đe dọa các nền kinh tế, việc vay nợ nước ngoài luôn gắn với các rủi ro tài

chính qua các yếu tố tỷ giá, chi phí sử dụng nợ, lạm phát,… đây là vấn đề mà nhiều

nhà kinh tế đã cảnh báo. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao, giá trị

đồng nội tệ ngày càng suy giảm so với ngoại tệ vay nợ, thì quy mô nợ và gánh nặng

trả nợ ngày càng lớn. Thực tế các nước cho thấy, việc vay nợ và sử dụng nợ kém

hiệu quả đã dẫn nhiều nước đến tình trạng “vạ nợ”, chìm đắm trong khủng hoảng

nợ. Như vậy, có thể xem nợ nước ngoài như là một “con dao hai lưỡi”, vừa giúp các

nước đang “thiếu vốn” tăng cường và đẩy mạnh phát triển kinh tế, ngược lại sẽ gây

ra những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế của nước vay nợ.

Để tìm hiểu vấn đề này, đã có các nghiên cứu trong nước về tác động của các biến

kinh tế vĩ mô đến tăng trưởng và phần nhiều nghiên cứu thuộc về nhóm nghiên cứu

định tính, một số ít nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng nhưng không có biến

trực tiếp giải thích mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế, chưa có

các nghiên cứu phân tích sâu nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài, kết hợp giữa

phân tích định tính và phân tích định lượng để giải thích tác động của nợ nước

ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Để bổ sung cho vấn đề này, tác giả quyết định chọn

2

đề tài “Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” làm đề tài nghiên

cứu của mình.

Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, làm cho nợ công

và nợ nước ngoài trở thành vấn đề sống còn của nhiều nước trên thế giới, nhất là

các nước Châu âu đang chìm đắm trong nợ và quan tâm đặt biệt ở Việt Nam hiện

nay. Bởi vì, nợ nước ngoài là một biến kinh tế vĩ mô tác động mạnh đến tăng trưởng

kinh tế của Việt Nam. Những năm gần đây, nợ nước ngoài của Việt Nam tăng lên

rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế, điều này đã gây nhiều quan ngại cho

những nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách và Chính phủ Việt Nam. Do đó, việc

nghiên cứu sâu hơn sự tác động này trong thực trạng của nền kinh tế Việt Nam là

hết sức cần thiết, để rút kinh nghiệm và đề xuất những biện pháp , những chính sách

quản lý vay nợ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo sự tăng trưởng kinh

tế bền vững trong tương lai.

Ngoài việc tập trung phân tích nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài ở hai góc độ

thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách, nghiên cứu còn đo lường một số yếu tố

vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam bằng kỹ thuật phân tích đồng

liên kết và mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM -Error correction model). Đây là kỹ

thuật được rất nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài ứng dụng khi nghiên cứu về tăng

trưởng kinh tế, vì nó phù hợp với đặc điểm dữ liệu chuỗi thời gian.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song luận văn cũng không

thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được được sự góp ý chân thành

của thầy cô và bạn đọc nhằm giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.

2. Mục tiêu nghiên cứu :

Mục tiêu của đề tài là thông qua việc phân tích, nghiên cứu tìm hiểu thực trạng vay

nợ nước ngoài và mối quan hệ tác động giữa nợ nước ngoài đối với tăng trưởng

kinh tế Việt Nam. Từ đó, tác giả rút ra các nhận xét và đề xuất một số biện pháp

nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam.

3

3. Đối tượng nghiên cứu :

Để đạt mục tiêu nghiên cứu như nêu trên, luận văn hướng đến các đối tượng nghiên

cứu như sau:

- Nợ nước ngoài và dịch vụ nợ của Việt Nam;

- Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam;

- Quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP tại Việt Nam;

- Tổng mức đầu tư nội địa trên GDP;

- Độ mở nền kinh tế (EXP)

- Trị giá xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam;

- Mức đầu tư và mức tiết kiệm của nền kinh tế Việt Nam;

- Thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách của Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu :

Đề tài nghiên cứu tập trung vào thực trạng vay nợ nước ngoài và phân tích định

lượng mối quan hệ giữa vay nợ nước ngoài/GDP, dịch vụ nợ/GDP, đầu tư nội

địa/GDP, đầu tư trực tiếp nước ngoài/GDP, độ mở nên kinh tế với tăng trưởng kinh

tế tại Việt Nam từ năm 1986, khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa cho đến hết năm 2010.

Phạm vi nghiên cứu cụ thể của đề tài là:

- Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài và dịch vụ nợ của Việt Nam, giai đoạn

1986-2010;

- Phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt nam, giai đoạn 1986-2010;

- Phân tích giá trị xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam;

- Phân tích thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách của Việt Nam, giai

đoạn 2000-2010;

- Phân tích định tính và định lượng nợ nước ngoài tác động đến tăng trưởng

kinh tế của Việt Nam, giai đoạn 1986-2010.

5- Phương pháp nghiên cứu :

4

Để hoàn thành đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp:

- Phương thu thập thông tin, tổng hợp và phân tích số liệu từ Internet, các bài

báo, các bài nghiên cứu trong và ngoài nước.

- Phương pháp mô hình hoá: Phương pháp này được sử dụng để làm rõ những

phân tích định tính bằng các hình vẽ cụ thể để vấn đề trở nên dễ hiểu hơn;

- Phương pháp phân tích kinh tế lượng: Tác giả sử dụng kỹ thuật hồi quy đồng

liên kết để phân tích cân bằng dài hạn và mô hình ECM để phân tích cân

bằng ngắn hạn của một số yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế

giai đoan 1986 - 2010.

6- Dữ liệu nghiên cứu :

Trong luận văn tác giả đã sử dụng số liệu thống kê từ Tổng cục thống kê (GSO), Bộ

Tài Chính (MOF), Bộ Công thương (MOIT), Quỹ Tiền tệ quốc (IMF), Ngân hàng

Thế giới (WB), công bố trong khoảng thời gian từ 1986 đến 2010.

7- Đóng góp của luận văn:

Luận văn với đề tài “Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” khi đạt

được những mục tiêu nghiên cứu sẽ có các khuyến nghị để Chính phủ hoàn thiện

các thể chế, tiến tới nâng cao hiệu quả quản lý vay nợ nước ngoài Việt Nam

8- Bố cục luận văn:

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo luận văn chia làm 4

chương:

- Chương I : Khung lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về nợ nước ngoài và

tăng trưởng kinh tế;

- Chương II : Phân tích thực trạng nợ nước ngoài ở Việt Nam 1986-2010;

- Chương III : Phân tích định lượng ảnh hưởng của nợ nước ngoài đến tăng trưởng

kinh tế;

- Chương IV : Một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của

Việt Nam hiện nay.

5

CHƯƠNG I KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ

NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.

1.1- Khái niệm về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế:

1.1.1 Nợ nước ngoài của quốc gia : là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính

phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác được vay

theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.

1.1.2- Tăng trưởng kinh tế :

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về giá trị trong phạm vi một nền kinh tế. Tăng

trưởng kinh tế được phản ánh ở nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu thường được sử dụng

là Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng thu nhập

quốc dân (GNI), tăng trưởng vốn, lao động, sự gia tăng dung lượng thị trường...Sự

tương tác giữa các bộ phận cấu thành GDP như tiêu dùng nội địa, đầu tư, chi tiêu

chính phủ và cán cân thương mại sẽ làm thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Quá trình tăng trưởng thể hiện các nguồn lực tăng trưởng như tài nguyên thiên

nhiên, vốn, lao động, công nghệ, quản lý, quan hệ, thị trường... được khai thác và sử

dụng có hiệu quả cao nhất. Tăng trưởng kinh tế bao hàm cả tăng trưởng theo chiều

rộng và chiều sâu, số lượng và chất lượng, ngắn hạn và dài hạn...Nhiều công trình

nghiên cứu trong ngoài nước đã lượng hoá tác động của các nguồn lực tăng trưởng

đến chất lượng và động thái tăng trưởng thông qua các mô hình như mô hình tái sản

xuất giản đơn của C,Mác, tái sản xuất mở rộng của V.I. Lênin, mô hình các giai

đoạn tăng trưởng kinh tế của W.Rostow hoặc Solow...hoặc hàm sản xuất Cob

Douglas.

Quá trình tăng trưởng kinh tế có thể có nhiều mô hình khác nhau như tăng trưởng

kinh tế hướng nội, tăng trưởng kinh tế hướng ngoại hoặc sự kết hợp của cả hai mô

hình này tùy điều kiện và sự lựa chọn chiến lược của các quốc gia. Như vậy, tăng

trưởng kinh tế là quá trình tích luỹ giá trị gia tăng của một nền kinh tế từ các nguồn

6

lực trong và ngoài nước và nó phải được thúc đẩy bằng những động lực đủ mạnh

của chính sách, lòng tự hào dân tộc hoặc những yếu tố khác trong điều kiện toàn

cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

1.1.3- Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế.

Các lí thuyết kinh tế cho rằng mức vay nợ nước ngoài hợp lý ở các nước đang phát

triển sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia ở giai đoạn phát triển đầu với

dung lượng vốn nhỏ hơn sẽ có những cơ hội đầu tư với tỷ suất hoàn vốn cao hơn so

với các nền kinh tế phát triển. Câu hỏi đặt ra là tại sao mức nợ tích lũy cao quá mức

hợp lý lại có thể dẫn tới tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Sự lý giải tốt nhất có thể xuất phát từ lý thuyết “debt overhang”1.

Theo Krugman (1988) định nghĩa “debt overhang” là tình trạng trong đó số tiền dự

kiến chi trả nợ nước ngoài sẽ giảm dần khi dung lượng nợ tăng lên. Lý thuyết “debt

overhang” cho rằng nếu như nợ trong tương lai vượt quá khả năng trả nợ của một

nước thì các chi phí dự tính chi trả cho các khoản nợ sẽ kìm hãm đầu tư trong nước

và đầu tư nước ngoài, từ đó ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng. Các nhà đầu tư tiềm

năng sẽ lo sợ rằng khi quốc gia đó sản xuất càng nhiều, họ sẽ bị các nước đánh thuế

nặng hơn để chi trả cho các khoản nợ nước ngoài, do đó các nhà đầu tư sẽ khó có

thể bỏ các chi phí đầu tư hiện tại để thu về sản lượng cao hơn trong tương lai. Lý

thuyết “debt overhang” còn đi đến một kết quả rộng hơn, đó là mức nợ nước ngoài

quá cao sẽ làm giảm các ưu đãi của chính phủ cho các hoạt động cải tổ cơ cấu và tài

khóa do việc củng cố tình hình tài khóa quốc gia có thể làm tăng áp lực trả nợ cho

nước ngoài. Những bất lợi này đối với công cuộc cải tổ đang là mối quan ngại lớn ở

các nước có thu nhập thấp, nơi mà việc cải cách cơ cấu là cần thiết để duy trì tốc độ

tăng trưởng kinh tế.

Tình trạng “Debt overhang” cũng đồng thời kìm hãm đầu tư và tăng trưởng do gây

ra sự lo ngại về các quyết định của Chính phủ. Khi quy mô nợ công tăng lên, khó có

1 -“debt overhang” tạm dịch là việc vay nợ quá mức dẫn đến việc đầu tư sẽ không hiệu quả.

thể chắc chắc rằng chính phủ sẽ viện tới những chính sách gì để giải quyết các

7

khoản nợ phải trả. Trên thực tế, người ta cho rằng Chính phủ có thể dùng các công

cụ tác động đến đầu tư để chi trả cho các khoản nợ (theo Agenor và Montiel 1996).

Lập luận này có thể được xem xét trong đường cong Laffer về nợ ( Hình 1.1), cho

thấy rằng tổng nợ càng lớn sẽ đi kèm với khả năng trả nợ càng giảm. Trên phần dốc

lên của đường cong, giá trị hiện tại của nợ càng tăng sẽ đi cùng với khả năng trả nợ

cũng tăng lên.Trên phần dốc xuống của đường cong, giá trị hiện tại của nợ càng

tăng lại đi kèm với khả năng trả nợ càng giảm.

Debt Overhang

Khả năng trả nợ

Dung lượng nợ

Nguồn: Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci (2002):” External Debt and Growth”, Magazine Finance and Development of the IMF.,

Hình 1.1 : Đường cong Laffter về nợ

Đỉnh đường cong Laffer về nợ (hình 1.1) là điểm mà tại đó sự tăng lên trong tổng

nợ bắt đầu tạo ra gánh nặng cho đầu tư, cải tổ kinh tế và các hoạt động khác, điểm

này có thể liên quan đến điểm mà tại đó nợ bắt đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng

trưởng. Do vậy, ở mức nợ hợp lí, vay nợ tăng lên sẽ có tác động tích cực đến tăng

trưởng. Ngược lại, tổng nợ tích lũy lớn sẽ có thể cản trở tăng trưởng.

Dung lượng nợ lớn có thể ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng do tác động xấu

đến tích lũy vốn sản xuất và tăng trưởng năng suất các nhân tổ tổng hợp. Bên cạnh

đó, môi trường chính sách của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa nợ

và tăng trưởng.

8

1.2- Giá trị tới hạn của nợ đối với tăng trưởng kinh tế 2 . Nợ công đã tăng lên đáng kể ở hầu hết các nước đã và đang phát triển hiện nay, đây

là hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Và sự gia tăng nợ

công đã dấy lên lo ngại liệu nó đang bắt đầu đạt đến mức độ mà tại đó nó có thể làm

chậm tăng trưởng kinh tế. Có một "đỉnh điểm" tồn tại? Làm thế nào tác động tăng

trưởng mạnh mẽ được nếu nợ đã vượt qua ngưỡng? Điều gì sẽ xảy ra nếu nợ vẫn ở

mức cao trong một thời gian dài?

Theo nghiên cứu của Reinhart và Rogoff (2010), sử dụng biểu đồ tổng hợp từ 44

quốc gia phát triển và đang phát triển, họ tìm thấy một ngưỡng nợ của chính phủ

trên GDP 90%, nếu vượt qúa mốc này tốc độ tăng trưởng thực tế giảm. Ngưỡng này

được xem là "điểm tới hạn" hay “ngưỡng nợ”.

Theo nghiên cứu của Mehmet Caner, Thomas Grennes và Koehler Fritzi-Geib, các

chuyên gia kinh tế của World bank (2010) bằng lý thuyết và thực nghiệm trên mẫu

là 101 quốc gia ( 75 quốc gia đang phát triển và 26 quốc gia phát triển), trong đó có

Việt Nam, về mối quan hệ trong dài hạn giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, giai

đoạn 1980-2008, phân tích này cung cấp một nền tảng cho sự phát triển các nghiên

cứu chứng minh sự tồn tại ngưỡng nợ và ước tính ngưỡng nợ (nợ công trên GDP)

cho từng quốc gia, từ đó có những chính sách phù hợp đối phó với nguy cơ khủng

hoảng nợ đang đe dọa các nước có nợ nước ngoài cao hiện nay. Và kết quả nghiên

cứu cho thấy có sự tồn tại ngưỡng nợ ( Debt threshold), mức ngưỡng của tỷ lệ nợ

công trung bình dài hạn so với GDP là 77 % cho các nhóm mẫu chung (gồm các

quốc gia đã phát triển và đang phát triển) và 64% cho các các nước đang phát triển.

Nếu nợ công vượt qua mức 77%, mỗi điểm phần trăm tăng thêm trong tỷ lệ nợ công

trên GDP của nền kinh tế làm mất 0,0174 điểm phần trăm tăng trưởng thực trung

bình hàng năm. Hiệu ứng này là rất quan trọng. Dưới ngưỡng này, mỗi điểm phần

trăm tăng thêm trong tỷ lệ nợ công trên GDP của nền kinh tế làm tăng 0,065 điểm 2“Finding the Tipping Point - When Sovereign Debt Turns Bad” by Mehmet Caner, North Carolina State University, Thomas Grennes, North Carolina State University, Fritzi Koehler-Geib, World Bank.

9

phần trăm tăng trưởng thực trung bình hàng năm. Như vậy, có sự tồn tại ngưỡng nợ,

đây là giá trị tới hạn.

1.3- Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối các quốc gia có thu nhập thấp.

Các chỉ số đánh giá mức độ an toàn về nợ nước ngoài được xây dựng thành hệ

thống nhằm xác định mức độ nghiêm trọng của nợ nước ngoài đối với an ninh tài

chính quốc gia. Cũng cần phải xác định lại là các chỉ tiêu đánh giá chung về nợ

nước ngoài, trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ là chủ yếu, còn nợ của khu vực

tư nhân hầu như không đáng kể.

1.3.1- Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài của IMF.

Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các

quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ (nghĩa vụ trả

nợ), một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh

đồng nghĩa với kém an toàn về nợ.

Bảng 1.1 : Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn về nợ của IMF.

NPV của nợ (%)

Dịch vụ nợ (%)

Gánh nặng nợ theo tiêu chí DSF

GDP Xuất khẩu Thu ngân Xuất khẩu Thu ngân sách sách

100 30 200 15 25 An toàn

150 40 250 20 30 Trung Bình

Nguồn: IMF.

200 50 300 25 35 Mạnh

- Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu (NPV/X): đo lường hiện giá thuần của nợ nước ngoài

liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia từ nguồn thu xuất khẩu;

- Tỷ lệ NPV của nợ/thu ngân sách nhà nước (NPV/DBR): đo lường hiện giá thuần

của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu

ngân sách nhà nước.

10

Tuy nhiên, chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: (i) tỷ lệ

xuất khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc bằng 30% và (ii) tỷ lệ thu ngân sách nhà

nước/GDP ( DBR/GDP) phải lớn hơn 15%. Một quốc gia được xem là an toàn nếu

như NPV/X nhỏ hơn 150%; NPV/DBR nhỏ hơn 250%.

- Tỷ lệ NPV của nợ/GDP (NPV/GDP): đo lường hiện giá thuần của nợ nước ngoài

trên tổng thu nhập quốc nội;

- Dịch vụ nợ/xuất khẩu (TDS/X) và dịch vụ nợ/nguồn thu ngân sách (TDS/DBR): là

những chỉ tiêu đo lường tính lỏng được Ngân hàng Thế giới và IMF đưa vào để

đánh giá mức độ bền vững nợ công. TDS/X đo lường khả năng thanh toán dịch vụ

nợ từ nguồn thu xuất khẩu. Còn TDS/DBR đo lường khả năng thanh toán dịch vụ

nợ từ thu ngân sách nhà nước. Một quốc gia đảm bảo tính lỏng, TDS/X phải thấp

hơn 15% và TDS/DBR thấp hơn 10%.

1.3.2- Tiêu chí của Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá mức độ nợ của các quốc

gia vay nợ.

Để xếp loại các con nợ theo mức độ nợ, Ngân hàng thế giới sử dụng các chỉ số đánh

giá mức độ nợ nần của các quốc gia vay nợ như ở bảng 2.

Bảng 1.2: Tiêu chí đánh giá mức độ nợ nước ngoài của WB.

Chỉ số

Mức độ bình thường Mức độ khó khăn Mức độ trầm trọng

≤ 30% 30 – 50% ≥ 50%

1. Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với GDP

≤ 165% 165 – 200% ≥ 200%

2. Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ

≤ 18% 18 – 30% ≥ 30%

3. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ

4. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so ≤ 2% 2 – 4% ≥ 4%

11

với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ so với GDP

≤ 12% 12 – 20% ≥ 20%

5. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả lãi so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ

Nguồn : World Bank.

Dựa vào các chỉ số trên, các tổ chức tài chính quốc tế có thể đánh giá mức độ nợ

nần và khả năng tài trợ cho các nước thành viên. Các chỉ số này cũng là căn cứ để

các quốc gia vay nợ tham khảo, xác định tình trạng nợ để hoạch định chiến lược vay

nợ cho quốc gia.

Quy mô nợ và trả nợ, trả lãi so với nguồn thu trực tiếp và gián tiếp để trả nợ thường

được dùng để đánh giá mức độ nợ. Mức độ nợ cũng ngầm cho biết khả năng trả nợ

của các quốc gia trong trung và dài hạn. Các chỉ tiêu thường dùng:

* Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài (EDT/XGS)

- Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa dịch vụ: Chỉ tiêu này biểu diễn tỷ lệ

nợ nước ngoài bao gồm nợ tư nhân, nợ được chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất

khẩu hàng hóa và dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn

thu xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng

để trả nợ nước ngoài.

* Tỷ lệ nợ nước ngoài so với tổng sản phẩm quốc nội (EDT/GDP )

- Nợ/GDP: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua tổng sản phẩm quốc

nội được tạo ra. Hay nói cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước

ngoài. Thông thường các nước đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội

tệ hoặc sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do

vậy, tình trạng nợ có thể không được đánh giá đúng mức.

1.4. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng

trưởng kinh tế.

1.4.1- Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài.

12

Đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều chuyên gia kinh tế nghiên cứu thực nghiệm về

tăng trưởng kinh tế. Các tác giả tập trung vào việc đo lường ảnh hưởng của các biến

kinh tế vĩ mô tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế và phổ biến là đo lường

ảnh hưởng của nợ nước ngoài, nghĩa vụ trả nợ, đầu tư nội địa, đầu tư nước ngoài,..

đến tăng trưởng kinh tế. Dưới đây, tác giả tóm lượt một vài nghiên cứu điển hình về

mối quan hệ tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của một số quốc

gia trên thế giới, làm cơ sở nền tảng nghiên cứu thực nghiệm cho tăng trưởng kinh

tế tại Việt Nam, như sau.

Nghiên cứu của tác giả Frimpong, J. M. and Oteng-Abayi, E. F., đăng trong Tạp

chí Khoa học và Công nghệ, Vol 26 No.3, 12/2006 “The Impact Of External Debt

On Economic Growth In Ghana: A Cointegration Analysis”. Trọng tâm của nghiên

cứu này là đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của Ghana,.

Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thời gian từ năm 1970-1999, để tiến hành các bước

thực nghiệm.

Những năm của thập niên 80, Ghana phải đối mặt với một vấn đề nợ rất nghiêm

trọng, các khoản thanh toán nợ nước ngoài là 577.000.000 USD (114% GDP) vào

cuối năm 1982. Cuộc khủng hoảng nợ này là do sự tăng vọt giá dầu trên thị trường

quốc tế, và việc tăng lãi suất cho vay ở phương Tây, trong bối cảnh các chính sách

kinh tế và quản lý kinh tế trong nước yếu kém. Vào cuối năm 2000, nợ của Chính

phủ Ghana và nợ bảo lãnh đã lên đến 6 tỷ USD, chiếm khoảng 571% của doanh thu

tài chính, 157% xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, và 78% của GDP.

Tình trạng nợ nước ngoài của Ghana cũng giống như các nước HIPC hay Sub

Sahara, quốc gia pha trộn bởi đói nghèo, cơ cấu kinh tế yếu kém, mối nguy đạo đức

và năng lực thể chế yếu kém, là một nước có lịch sử khó khăn về trả nợ và đã được

nhóm nước G8 xóa nợ vào tháng 7 năm 2005. Các tỷ số về nợ nước ngoài trên GDP

rất cao, chỉ ra rằng Ghana đứng nguy cơ của việc tích lũy nợ, có thể là không bền

vững trong dài hạn. Xu hướng này nếu không được kiểm tra có thể có dẫn vào một

13

cuộc khủng hoảng nợ, có thể làm cho đất nước một tình trạng rủi ro tài chính

nghiêm trọng.

Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực

nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF),

Phillips-Perron (PP) và KPSS để kiểm nghiệm đơn vị và tiếp tục sử dụng phương

pháp phân tích đồng tích hợp (Co-integration) của Johansen-Juselius để đo lường

các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ đồng liên kết). Cuối cùng, tác

giả sử dụng mô hình điều chỉnh sai số VECM (Vector Error Correction Model) để

thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các biến vĩ mô. Từ đó, rút

ra kết luận và nhận xét đề xuất. Mô hình cụ thể như sau:

Yt = α0 + α1 lnEDTt + α2 lnFDIt + α3 lnINVt + α4 lnTDSt + α5 EXPt + εt

Trong đó : Biến Y là biến phụ thuộc đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế; biến

EDT là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP; biến FDI là tỷ lệ đầu tư trực

tiếp nước ngoài trên GDP; biến INV là tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP; biến TDS

là tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên xuất khẩu (%) và biến EXP là chỉ tiêu đại diện cho biến

đo lường độ mở của nền kinh tế (%), được tính bằng cách lấy tổng giá trị xuất khẩu

hàng hóa dịch vụ tính theo giá hiện tại qui về đồng tiền địa phương chia cho chỉ số

giá điều chỉnh hàng nhập khẩu.

Các yếu tố quyết định phân tích của tác giả là một mô hình tăng trưởng Elbadawi.

Et al(1996) trong đó tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư quốc nội, đầu tư trực tiếp

nước ngoài, dịch vụ nợ, nguồn vốn nợ nước ngoài và năng lực xuất khẩu.

Kết quả thực nghiệm có sự tồn tại của một phương trình tăng trưởng dài hạn tại

Ghana. Trong dài hạn, dòng nợ nước ngoài (EDT), dịch vụ nợ (TDS) và đầu tư trực

tiếp nước ngoài (FDI) ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP. Sự gia tăng dòng vốn nợ

nước ngoài có tác dụng tích cực đối với tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, sự gia tăng

dịch vụ nợ nước ngoài giảm tăng trưởng kinh tế và có bằng chứng cho sự tồn tại của

"hiệu ứng lấn át“ ở Ghana. Bên cạnh đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có

14

ảnh hưởng tích cực và đáng kể đến tăng trưởng GDP. Đầu tư nội địa (INV) đã bất

ngờ tác động tiêu cực và đáng kể vào sự tăng trưởng.

Ngoài ra, còn một số nghiên cứu phân tích đánh giá mối quan hệ tác động giữa nợ

nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế tại các nước Kenya, Nepal, Pakistan và Turkye,

với kết quả tóm lượt như sau:

Bảng 1.3 : Một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.

Năm Tác giả Kết quả

Thời gian và quốc gia nghiên cứu

2001 Maureen Were 1970-1995, Kenya

Nợ nước ngoài đã tác động tiêu cực tăng trưởng kinh tế thực, sự gia tăng trong tỷ lệ dịch vụ nợ hiện tại ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư nhân, điều này khẳng định hiệu ứng lấn át dịch vụ nợ trên đầu tư tư nhân

2002 Karagol, Causality 1965-2001, Turkey

Tồn tại một mối quan hệ tiêu cực giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong thời gian dài Chi trả cho nợ nước ngoài ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn

Có quan hệ nhân quả đơn hướng chạy từ dịch vụ nợ đến tăng trưởng kinh tế

2008 1986- 2006, Krishna Prasad Regmi Nepal Sự gia tăng nợ nước ngoài và dịch vụ nợ đã tác động tiêu cực, gây khó khăn trở ngại tăng trưởng kinh tế.

2010 1972-2005, Pakistan

Nợ nước ngoài tác động tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế. nợ nước ngoài, là nguyên nhân chính của suy giảm trong đầu tư sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế.

Nguồn : Tác giả tổng hợp, chi tiết xem phụ lục số 1

Shahnawaz Malik ; Muhammad Khizar Hayat và Muhammad Umer Hayat

15

Nhìn chung phần lớn các nghiên cứu của tác giả nước ngoài cho rằng nợ nước ngoài

có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, dịch vụ nợ cao gây ra hiện tượng lấn át

đầu tư tư nhân, đầu tư trong nước và hoạt động xuất khẩu có đóng góp tích cực vào

tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển.

1.4.2- Các nghiên cứu của tác giả trong nước.

Trong nước hiện chưa có nhiều nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng để giải

thích tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, điển hình thì

có nghiên cứu của Ths. Đoàn Kim Thành – Viện nghiên cứu phát triển Tp.Hồ Chí

Minh (HIDS) , đã thực hiện với đề tài :” Vốn vay ODA và khả năng trả nợ của Việt

Nam, giai đoạn 1990-2005”, trình bày tại Hội nghị nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho

Việt Nam, ngày 4/12/2008. Trọng tâm của nghiên cứu này qua sử dụng mô hình hệ

thống dạng tĩnh lược của Jame de Pines và mô hình hồi quy bội để giải thích tác

động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Mục đích của nghiên

cứu nhằm tìm hiểu liệu nợ nước ngoài ở Việt Nam có bền vững hay không và đóng

góp của nó cho tăng trưởng kinh tế như thế nào. Tác giả đã sử dụng số liệu từ Ngân

hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Tổng Cục thống kê

Việt Nam (GSO), để phân tích thực nghiệm.

Trước tiên, tác giả đã phân tích định tính tổng quan về tình hình vay vốn ODA,

đánh giá khả năng chịu đựng nợ của Việt Nam theo khung của WB và IMF, chỉ số

độ an toàn nợ của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2005. Đánh giá chung

nợ nước ngoài đối với VN cho tới thời điểm này chủ yếu là vốn ODA với lãi suất

thấp và thời gian cho vay dài, tỷ lệ vay thương mại là không đáng kể. Các chỉ số an

toàn về nợ nước ngoài cho thấy Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn và khó có

khả năng xảy ra khủng hoảng về nợ .

Tuy nhiên đánh giá này chỉ mới thấy được tính thanh khoản trong thời điểm hiện tại

mà chưa dự báo tới khả năng khủng hoảng nợ trong tương lai, để làm rỏ hơn vấn đề

trên tác giả tiến hành phân tích thực nghiệm mối quan hệ của nguồn vốn ODA tác

16

động đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Việc phân tích tập trung và mô hình nợ bền

vững Jame de Pines và mô hình hồi qui bội.

+ Mô hình hồi quy bội giải thích tăng trưởng kinh tế có dạng như sau :

TDS GDPt

AID GDPt

+6 + ut gt = 0 + 1lnIt + 2lnXt +3inft-1 +4lnFDIt + 5

Trong đó : gt là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế; biến I là tỷ lệ đầu

tư trong nước ; biến X là giá trị xuất khẩu ; biến Inf t-1 là mức độ lạm phát có độ trể

thời gian là 1 kỳ ; biến FDI đầu tư trực tiếp của nước ngoài; biến TDS/GDP là tỷ lệ

dịch vụ nợ trên GDP ; biến AID/GDP là tỷ lệ viện trợ của nước ngoài trên GDP t-1

(AID có độ trể thời gian là 1 kỳ).

Kết quả chạy mô hình.

gt = 8,486 + 0,219 lnIt +0,408 lnXt -0,001 inft-1 + 0,037 lnFDIt

TDS GDPt

AID GDPt

– 0,030 -0,059 + ut

Qua số liệu từ kết quả của mô hình ta thấy, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài và

xuất khẩu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam 20 năm qua; Viện trợ có thể

không trực tiếp tác động hay tác động ít (nghịch biến) đến tăng trưởng, nhưng có

thể có tác động đến tăng trưởng phúc lợi bình quân đầu người thông qua các dự án

công. Nợ có thể tác động âm đến tăng trưởng, có thể do vay mượn và sử dụng

không hiệu quả hay có thể đầu tư vào các dự án dài hạn mà tác động của nó nằm

ngoài mô hình này.

Mô hình hệ thống dạng tĩnh lược của Jame de Pines cho thấy nợ Việt Nam đến năm

2020 vẫn bền vững (nợ trên xuất khẩu dưới 200%) nếu tốc độ tăng trưởng nhập

khẩu so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dưới 2% hàng năm. Nợ nước ngoài có tác

động âm đến tăng trưởng Việt Nam trong ngắn hạn. Cho nên việc quản lý và sử

dụng các khoản vay phải tính toán đến nhiều yếu tố: Chênh lệch lãi suất và lạm phát

trong và ngoài nước, thời điểm vay và thời gian vay, ràng buộc của các khoản vay ,

hiệu quả kinh tế và xã hội của việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn đi vay, thời điểm

trả nợ. Như đã phân tích ở trên, tác động của nợ cũng như viện trợ là đến phúc lợi

17

bình quân đầu người hơn là tăng trưởng kinh tế. Việt Nam hiện tại và trong tương

lai gần không gặp rủi ro về nợ nước ngoài để có thể dẫn tới một sự khủng hoảng

kinh tế trong trường hợp không có sự đột biến lớn.

Bên cạnh đó, còn có nghiên cứu của Ths. Nguyễn Hoàng Phương với đề tài “ Ước

lượng hiệu quả của vốn ODA đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, giai đoạn

1986-2007”, đăng trên tập Nguồn tài chính trong nước và nước ngoài cho tăng

trưởng ở Việt, Nam, Diễn đàn Phát triển Việt Nam, NXB Lao động Xã hội, năm

2007. Mô hình cụ thể như sau.: GY = g + skGK + (1-sl)GL

Trong đó : GY là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế ; GL là tỉ lệ tăng

trưởng của lao động, GK là tỉ lệ tăng trưởng của tổng nguồn vốn.

Kết quả ước lượng : Vốn ODA đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong tổng

vốn tích luỹ, tổng đầu tư toàn xã hội cũng như sự tăng trưởng của nền kinh tế: ODA

đóng góp 0,73% vào tăng trưởng GDP năm 1993, tăng lên 10% năm 1999, và sau

đó ổn định ở mức 8% cho đến năm 2006; sự đóng góp của ODA đối với tổng vốn

đầu tư toàn xã hội và tổng vốn tích luỹ chiếm tỉ lệ đáng kể trong giai đoạn nghiên

cứu, trung bình ở mức 15% và 11%. Tuy nhiên, kết quả tính toán của sự đóng góp

của ODA đối với sự tăng trưởng của GDP chỉ là sự ước lượng trong ngắn hạn, và sự

đóng góp dài hạn của ODA đối với sự tăng trưởng GDP trong dài hạn vẫn chưa

được xác định. Do đó, có thể khẳng định rằng tổng đóng góp của ODA đối với sự

tăng trưởng của GDP sẽ cao hơn nhiều so với kết quả ước lượng.

18

CHƯƠNG II

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM,

GIAI ĐOẠN 1986-2010.

2.1- Tổng quan về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2010

Để khái quát tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam (gồm Nợ Chính phủ và nợ do

Chính phủ bảo lãnh) trong giai đoạn 1986-2010, chúng ta nên xem xét trên các

phương diện: Quy mô nợ, dịch vụ nợ so với GDP, cơ cấu nợ, các chỉ số về an toàn

nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam.

Qua số liệu thống kê cho thấy, tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam hiện đang

có xu hướng tăng rất nhanh và luôn ở mức cao so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do

đó, nguy cơ khủng hoảng nợ công như các nước Châu Âu (Hy lạp. Ireland,..) là điều

có thể, nếu không có những chính sách quản lý và sử dụng vốn vay một cách có

hiệu quả thì sẽ đi vào vết xe đỗ của các nước Nam Âu hiện nay.

Hình 2.1: Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ, GDP và tăng trưởng GDP Giai đoạn 1986 – 2010.

Triệ u USD

12

120.000

Tăng trưởng GDP (%)

10

100.000

8

80.000

GDP và nợ

6

60.000

4

40.000

2

20.000

0 0 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

GDP

Nợ nước ngoài

Tăng trưởng GDP

Dịch vụ nơ

Năm

Nguồn : World Bank và Bộ Tài chính.

19

Trong những năm đầu thập niên 90, Việt Nam là một nước nợ lớn, nợ nước ngoài

cao rất nhiều lần so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cụ thể : năm 1990 là 23,27

tỷ USD trong khi GDP chỉ là 6,4 tỷ USD, điều này cho thấy sự khủng hoảng về khả

năng thanh toán nợ của Việt Nam. Trong giai đoạn này, do được hưởng những ưu

đãi của Hội đồng tương trợ kinh tế (CMEA/SEV), Việt Nam đã vay nợ rất lớn từ tổ

chức này, chủ yếu là vay từ các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là vay nợ của Liên Xô

cũ và các nước Đông Âu với lãi suất ưu đãi rất thấp hoặc miễn lãi suất và kỳ hạn trả

nợ 20-30 năm. Ngoài ra, viện trợ không hoàn lại chiếm phần lớn trong số vay đó.

Việc vay và trả nợ do Nhà nước quản lý và được tiến hành ở dạng trao đổi hàng hóa

với giá cố định theo giá thỏa thuận của các thành viên CMEA năm 1957, trên cơ sở

các hiệp định và hiệp ước hữu nghị.

Sau khi hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa tan rã ở Đông Âu (Năm 1991), Hội đồng tương

trợ kinh tế không còn nữa, mức nợ tồn đọng trước đó tiếp tục sinh lãi, nên nợ của

Việt Nam vẫn ở mức cao, từ 23, 27 tỷ USD năm 1990 tăng lên 26,25 tỷ USD năm

1996.

Đến năm 1997, tổng nợ cũng như dịch vụ nợ của Việt Nam bắt đầu được cải thiện,

từ 27% trên giá trị xuất khẩu năm 1989 giảm xuống còn chưa tới 12% năm 1997,

điều này có được nhờ Việt Nam được giảm nợ và bố trí lại lịch trả nợ theo điều

khoản của câu lạc bộ Paris và các điều khoản của câu lạc bộ London chứ không

phải nỗ lực trả nợ của Việt Nam.

Trong thời gian từ năm 1993 - 1997, Việt Nam đã đàm phán song biên với các chủ

nợ thành viên câu lạc bộ Paris, tổng nợ được giảm là 745 triệu USD. Đến tháng 5-

1996, Việt Nam đã thỏa thuận với câu lạc bộ London, kết quả giảm 53% nghĩa vụ

nợ theo phương án Brady qua các hình thức như: mua lại nợ, chuyển đổi nợ thành

các trái phiếu chiết khấu, chuyển đổi nợ trái phiếu ngang giá, chuyển đổi nợ thành

trái phiếu có lãi. Tháng 12/1997, Việt Nam đã hoàn tất được thỏa thuận giảm nợ là

572 triệu USD, trong đó nợ lãi là 304 triệu USD của các NHTM. Như vậy, tổng nợ

20

của Việt Nam năm 1997 đã giảm xuống còn 21,78 tỷ USD, tức là giảm 17% so với

năm 1996, gánh nặng nợ nần đã giảm đáng kể.

Trong đó, khoản nợ cũ lớn nhất của Việt Nam là khoản nợ với Liên bang Nga. Sau

tám vòng đàm phán kể từ 1994 - 2000, hai bên đã thỏa thuận và ký kết hiệp định xử

lý nợ tổng thể của Việt Nam với Liên Xô (cũ), giảm nợ ngay 85% tổng nợ cũ, tương

đương 9,3 tỷ USD. Hiệp định này đã đưa mức nợ tồn đọng của năm 1999 là 23, 260

tỷ USD, giảm xuống còn 12,787 tỷ USD vào năm 2000. Cộng thêm vào đó, nền

kinh tế Việt Nam luôn tăng trưởng ở mức cao và ổn định trong thập niên 1990, nên

đến năm 2000 tổng nợ chỉ bằng khoảng 1/3 so với tổng sản phẩm quốc nội.

Đến hết năm 2006, tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam bằng 32,5% GDP giảm so

với các năm trước đó và chiếm 52 % tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng gần 2 lần

dự trữ ngoại hối. Năm 2007 tổng nợ ước tính là 32,6% GDP, chiếm 51% tổng kim

ngạch xuất khẩu.

Với ưu thế ổn định về chính trị và sự điều hành hợp lý của Chính phủ nền kinh tế đã

tăng trưởng khả quan, từ đó nước ta nhận được sự tín nhiệm rất cao của cộng đồng

quốc tế. Việt Nam liên tục nhận được những khoản vay ưu đãi hỗ trợ phát triển mà

nổi bật là những khoản ODA đến từ Nhật Bản, WB và ADB. Do đó, tổng nợ nước

ngoài của Việt Nam có xu hướng liên tục tăng trong những năm gần đây. Đến năm

2010, theo Bộ tài chính thì nợ nước ngoài của Việt Nam (Nợ của Chính Phủ và

Chính phủ bảo lãnh) vào khoảng 32,5 tỷ USD bằng khoảng 42,2 % GDP.

Nhìn chung, Việt Nam đã thành công trong xử lý nợ đến hạn, khống chế được luồng

nợ vay ngắn hạn, nhưng còn một số vấn đề trong sử dụng và quản lý nợ ở nước ta

còn nhiều vướng mắc cần được giải quyết. Đó là trong vay nợ và viện trợ, chúng ta

chưa xác định rõ mục tiêu, hiệu quả kinh tế theo quan điểm thúc đẩy hàng hóa xuất

khẩu tạo ra lợi nhuận và có ngoại tệ để trả nợ. Nhiều cán bộ lãnh đạo của chúng ta

khi nhận được các khoản ODA vẫn còn nghĩ là “của cho không”, họ không có ý

thức vay là phải trả vì thế đã để buông lỏng trong quá trình thực hiện các dự án.

21

Ngay cả khi viện trợ không hoàn lại cũng có cái giá của nó, nhà tài trợ đòi hỏi

người sử dụng phải dùng vốn vào đúng mục đích, đúng nơi, đúng chỗ.

Việt Nam hiện chưa xây dựng một chiến lược vay và trả nợ cụ thể rõ ràng cho từng

khoản vay, do đó việc ban hành các chính sách và cơ chế quản lý không khỏi lúng

túng. Nhiều cấp cùng quản lý một dự án và có khi một nguồn viện trợ được phân

tán ở nhiều ngành, nhiều địa phương gây ra những chi phí giao dịch không đáng kể.

Hiện nay, nợ nước ngoài đã gia tăng rất nhanh, tương ứng nghĩa vụ nợ cũng gia

tăng đáng kể, năm 2009 chúng ta phải trả cả gốc và lãi là 1.290,93 triệu USD và

tăng lên 1.672,32 triệu USD vào năm 2010, trong khi đó khả năng thanh toán nợ

của nền kinh tế nói chung và của ngân sách Nhà nước nói riêng là còn rất khó khăn.

Để tìm hiểu sâu hơn thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, về cơ cấu nợ, các chỉ

số về an toàn nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam xem thêm phụ lục số 2.

2.2- Những nguyên nhân làm gia tăng nợ nước ngoài của Việt Nam.

Mặc dù, các chỉ số đánh giá về nợ nước ngoài của Việt Nam đang nằm trong giới

hạn an toàn theo chuẩn mực của WB và không đáng lo ngại, nhưng thực tế, nợ nước

ngoài của Việt Nam giảm là do được giảm nợ chứ không phải nội lực trả nợ (Giai

đoạn từ 1993-2000). Hiện nay, nợ nước ngoài vẫn ngày càng tăng, thêm vào đó các

nguy cơ làm gia tăng nợ vẫn luôn tiềm ẩn, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế lại

không tương xứng với tốc độ gia tăng nợ, điều này dễ dẫn tới gia tăng rủi ro tài

chính.

Vì vậy, cần phải tìm hiểu các nguyên nhân gây ra gia tăng nợ nước ngoài, từ đó có

những nghiên cứu đề xuất kiểm soát sự gia tăng nợ nước ngoài tại Việt Nam trong

thời gian tới. Trong phần này, tác giả tiến hành phân tích việc gia tăng nợ nước

ngoài do thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách trong thời gian qua.

2.2.1- Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt thương mại :

Người ta có thể phân tích một cách đơn giản vấn đề quan hệ giữa ngoại thương và

nợ nước ngoài này bằng mô hình "thâm hụt kép" chênh lệch giữa đầu tư và tiết

kiệm (I-S) và chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu (M-X). Nếu thâm hụt M-X

22

lớn hơn I-S, khi ấy cần có các khoản vay nước ngoài để bù vào khoản thiếu hụt

ngoại tệ. Do vậy, dựa trên cách tiếp cận lý thuyết này, khi tình trạng nhập siêu kéo

dài mà nguồn lực trong nước không đủ để bù đấp thâm hụt thì nợ nước ngoài sẽ gia

tăng. Đó chính là lý do khiến quan hệ giữa ngoại thương và nợ nước ngoài thường

là trọng tâm của các nước đang phát triển trong việc tìm những giải pháp để giảm

gánh nặng nợ nước ngoài thông qua hệ thống thương mại đa phương.

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, trong phạm vi

nghiên cứu này tác giả tập trung phân tích thâm hụt thương mại do chênh lệch giữa

đầu tư và tiết kiệm và do mất cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.

2.2.1.1 Thâm hụt thương mại do chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm:

Nếu xem xét thâm hụt thương mại là chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nước

thì có hai vấn đề cơ bản cần xem là đầu tư và tiết kiệm. Thâm hụt thương mại là do

đầu tư tăng cao trong khi mức tiết kiệm thấp.

Bảng 2.1: Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư giai đoạn 2000-2009.

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

2009

28,94

- Tổng tiết kiệm (% GDP) 31,27 31,40 31,91 31,16 32,84 35,78 35,97 34,18 29,37

29,61 31,17 33,23 35,44 35,47 35,57 36,81 43,13 39,71

38,13

- Tổng đầu tư (% GDP)

1,66 0,23 -1,32 -4,29 -2,62 0,21 -0,84 -8,95 -10,3

-9,19

- Cán cân tiết kiệm và đầu tư (% GDP)

Nguồn: World Bank.

Chỉ tiêu

Qua số liệu trên, ta thấy những năm gần đây mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu

tư toàn xã hội xấp xỉ 9% GDP, đã thu hẹp so với mức 10-12% của thập niên trước

đây. Tuy nhiên, mức gia tăng tiết kiệm nội địa thấp hơn mức gia tăng đầu tư, sau

khi đạt mức thặng dư không đáng kể vào 2000, 2001 thì những năm tiếp theo cán

cân tiết kiệm - đầu tư liên tục bị thâm hụt.

2.2.1.2 Thâm hụt thương mại do đầu tư tăng quá cao:

Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt thương mại là do nhu cầu đầu tư

23

tăng cao hơn mức tiết kiệm trong nền kinh tế. Theo số liệu thống kê của GSO, tính

theo giá thực tế tổng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế đã tăng từ hơn 131.171 tỷ

đồng vào năm 1999 lên 830.278 tỷ đồng vào năm 2010. Xét theo khu vực kinh tế

(theo giá thực tế) thì mức tăng bình quân lần lượt của các khu vực kinh tế nhà nước

là 14%, kinh tế ngoài nhà nước là 22,6% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài lần

lượt là 22,2%. Như vậy, khu vực tư nhân là khu vực có tỷ lệ tăng vốn đầu tư cao

nhất.

Hình 2.2 : Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế (giá thực tế, tỷ đồng)

900000

800000

700000

600000

500000

giai đoạn 1999 – 2010

g n ồ đ ỷ T

400000

300000

200000

100000

0

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Năm

Tổng vốn đầu tư

Kinh tế Nhà nước

Kinh tế ngoài nhà nước

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO).

Bảng 2.2 : Tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư các thành phần kinh tế (theo giá thực tế) giai đoạn 1999 – 2010

24

Cả nước (%)

Năm 1999

2000

2001

Kinh tế Nhà nước (%) 1,18 1,16 1,14 1,13

Kinh tế ngoài nhà nước (%) 1,13 1,10 1,11 1,31

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (%) 0,93 1,20 1,10 1,16

2002

2003

2004

1,12 1,15 1,13 1,17

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Trung bình

1,20 1,22 1,10 1,10 1,47 1,48 1,10 1,08

Nguồn: GSO và tính toán của tác giả.

1,18 1,18 1,31 1,16 1,15 1,17 1,176 1,16 1,15 1,07 1,06 1,38 1,10 1,143 1,19 1,18 1,33 1,06 1,11 1,25 1,226 1,24 1,28 1,97 1,47 0,95 1,18 1,223

Hình 2.3 : So sánh tỷ lệ đầu tư/GDP (%) của Việt Nam với các nước trong khu

50%

45%

40%

Malaysia

35%

Indonesia

30%

Thái Lan

25%

Hàn Quốc

20%

Nhật

Ấn độ

15%

Việt Nam

10%

5%

0%

1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

vực châu Á, giai đoạn 2000-2009.

Năm

Nguồn : World Bank.

25

Qua đồ thị , ta thấy kể từ năm 2000 ÷ 2009 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam luôn ở

mức cao hơn các nước trong khu vực bình quân 40%/GDP. Trong khi đó, Việt Nam

có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân ngang với Ấn độ (7%/năm) nhưng tỷ lệ đầu

tư/GDP trong thập niên qua cao hơn rất nhiều, điều này cho thấy hiệu quả đầu tư

của Việt Nam là rất kém so với các nước trong khu vực, bình quân phải bỏ ra 6

đồng vốn đề đạt 1 đồng tăng trưởng. (ICOR =6).

Tuy nhiên, nếu mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư là do nhu cầu đầu tư tăng cao

thì thâm hụt chưa hẳn là một vấn đề nghiêm trọng, khi đầu tư nhiều tài sản cố định

như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất thì trong tương lai năng suất sẽ

cao hơn, sẽ sản xuất nhiều hơn và hàng hóa sản xuất ra có thể để tăng xuất khẩu

nhằm cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai (trả nợ). Ngược lại, nếu

đầu tư tăng cao vào khu vực bất động sản thì lại đáng lo ngại, vì khu vực này

thường không làm tăng năng suất, cũng như tạo ra các sản phẩm có thể được dùng

để trả nợ.

Thực tế, qua số liệu thống kê của GSO cho thấy trong suốt thập niên qua, tỷ lệ vốn

đầu tư vào các ngành thì không có nhiều biến đổi (Bảng 3.5), tỷ lệ đầu tư vào khu

vực sản xuất trung bình khoảng 45%/năm. Khu vực sản xuất được xem xét gồm các

ngành như: Công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến, ản xuất và phân phối

điện, khí đốt, nước và nông lâm thuỷ sản. Vốn đầu tư vào ngành xây dựng và nhà

hàng khách sạn chiếm tỷ trọng thấp khoảng 6%. Như vậy, xét về cơ cấu thì thâm

hụt thương mại do đầu tư tăng cao hiện nay chưa phải là vấn đề nghiêm trọng.

Bảng 2.3: Cơ cấu đầu tư phân theo ngành giai đoạn 2005 – 2010

Cơ cấu đầu tư theo ngành

Các ngành sản xuất 2005 47% 2007 45% 2008 44% 2009 44% 2010 44%

Ngành xây dựng 4% 4% 4% 4% 4%

Ngành thương nghiệp và sửa chữa 5% 4% 5% 4% 4%

Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 15% 17% 16% 16% 16%

Khách sạn và nhà hàng 2% 2% 2% 2% 2%

26

1% Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 1% 1% 1% 1%

1% Kinh doanh bất động sản 4% 5% 5% 5%

1% Hoạt động khao học và công nghệ 1% 1% 1% 1%

3% Giáo dục và đào tạo 3% 3% 3% 3%

Nguồn: GSO.

Các ngành khác 21% 19% 20% 20% 20%

2.2.1.3 Thâm hụt thương mại do đầu tư không hiệu quả.

Để đo lường hiệu quả đầu tư các nhà kinh tế thường lấy hệ số ICOR (Incremental

Capital Output Ratio) để đánh giá, ICOR xác định mối quan hệ giữa vốn - tư bản

và đầu ra - GDP. Có nhiều cách để tính toán hệ số ICOR, nếu tiếp cận theo hiệu quả

sử dụng vốn ICOR là tỷ số giữa tỷ lệ đầu tư trên GDP so với tốc độ tăng trưởng

GDP. Theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững3.

Theo tính toán của WB và tính toán của các nhà kinh tế trong nước thì ICOR của

Việt Nam hiện hay còn quá cao (xem bảng 3.7). Điều này cho thấy vốn đầu tư của

Việt Nam kém hiệu quả.

Bảng 2.4 : Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Châu Á Giai đọan từ 2000 -2009

Quốc gia GDP % Đầu tư/GDP ICOR

Trung Quốc 10.3 41.2 4.1

Indonesia 5.1 25 4.9

Ấn độ 7.2 31.2 4.7

Philippines 4.46 16.58 4.7

Nguồn: World Bank, GSO và tác giả tự tính toán.

3 Nguy cơ từ ICOR tăng vọt! ngày 3/11/2009 tại http://cafef.vn/20091103104319252CA33/nguy-co-tu-icor- tang-vot.chn

Việt Nam 7.26 44 5.6

27

Bảng 2.5: Tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ đầu tư và ICOR của Việt Nam, giai đoạn

ICOR

Năm

GDP (Tỷ đồng)

Đầu tư (Tỷ đồng)

Đầu tư/GDP (%) 31,65

Tăng trưởng GDP (%) 9,54

1995-2010

72.447 3,32 1995 228.892

87.394 32,13 3,44 9,34 1996 272.036

108.370 34,55 4,24 8,15 1997 313.623

117.134 32,45 5,63 5,76 1998 361.017

131.171 32,80 6,87 4,77 1999 399.942

151.183 34,23 5,04 6,79 2000 441.646

170.496 35,42 5,14 6,89 2001 481.295

200.145 37,36 5,28 7,08 2002 535.762

239.246 39,00 5,31 7,34 2003 613.443

290.927 40,67 5,22 7,79 2004 715.307

343.135 40,89 4,84 8,44 2005 839.211

404.712 41,54 5,05 8,23 2006 974.266

532.093 46,52 5,50 8,46 2007 1.143.715

616.735 41,53 6,58 6,31 2008 1.485.038

708.826 42,74 8,03 5,32 2009 1.658.389

Nguồn:GSO

830.278 41,91 6,18 6,78 2010 1.980.914

Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy ICOR của Việt Nam tăng rất nhanh giai đoạn

1991-1995 trung bình là 3,5 nhưng đến 2009-2010 đã tăng lên gấp đôi là 7,11. Hệ

số ICOR tăng nhanh đồng nghĩa với đầu tư kém hiệu quả và tăng trưởng kinh tế

không bền vững, trưởng kinh tế không dựa nhiều vào yếu tố công nghệ và chỉ tăng

trưởng dựa vào vốn chiếm khoảng trên 57%, tỷ lệ TFP (năng suất các yếu tố tổng

hợp) còn rất thấp khoảng 30% và phần còn lại là nhân tố lao động. Xu hướng này

đang xảy ra với vốn đầu tư toàn xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước,

thành phần chủ đạo của nền kinh tế, thì hệ số ICOR lại cao vọt. Nếu hệ số ICOR

28

chung của nền kinh tế là 8 (Năm 2009), ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước lên tới

12.

18

16

14

12

10

8

6

4

2

0

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

ICOR Kinh tế nhà nước

ICOR kinh tế ngoài nhà nước

ICOR đầu tư nước ngoài

Nguồn : GSO và tác giả tự tính toán.

Hình 2.4 : So sánh hệ số ICOR của các thành phần kinh tế.

Trong quá trình đầu tư phát triển kinh tế, ICOR tăng nhanh lại luôn là không bình

thường và đáng lo ngại của mọi nền kinh tế. ICOR ở Việt Nam thậm chí còn cao

hơn cả một số nước trong khu vực như: Indonesia, Trung Quốc Ấn Độ và

Philippines. Vì vậy, để có thể đạt được hệ số ICOR = 3 (theo khuyến nghị của Ngân

hàng Thế giới) thì trong tương lai ta phải nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế trong

khi vẫn giảm được tỷ lệ đầu tư/GDP. Điều này có nghĩa là vẫn gia tăng mức đầu tư

trong đó mức gia tăng của GDP phải nhanh hơn. Tuy nhiên, làm sao đảm bảo được

đồng vốn đầu tư của Nhà nước nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng đạt được

hiệu quả cao nhất, là một câu hỏi không dễ giải một sớm, một chiều. Do đó, Việt

Nam cần phải có những chiến lược đầu tư thích hợp để cải thiện hệ số ICOR trong

gian tới.

29

2.2.1.4 Thâm hụt thương mại do mức tiết kiệm thấp.

+ Sg Cán cân thương mại là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư : TB = Sp – I

là tiết kiệm của khu vực tư nhân (thu nhập trừ đi tiêu dùng và nộp thuế Trong đó Sp

là tiết kiệm của khu vực chính phủ. Theo đẳng thức này, nếu như cho chính phủ); Sg

và I mà không thay đổi thì cán cân thương mại sẽ thâm hụt, các yếu tố khác như Sg

nếu như mức tiết kiệm trong nước của khu vực tư nhân giảm đi.

Ở giai đoạn mới bắt đầu phát triển, các nước đang phát triển thường có mức tiết

kiệm khá thấp so với nhu cầu đầu tư trong nước (do thu nhập thấp nên mức tiết

kiệm cũng thấp). Việt Nam là quốc gia có thu nhập trung bình, mức tiết kiệm vốn dĩ

đã không cao, trong thời gian vừa qua mức độ tiết kiệm của Việt Nam so với GDP

còn tăng trưởng rất chậm nguyên nhân có thể do mức tiêu dùng tăng cao đột biến.

40%

35%

30%

25%

20%

15%

10%

5%

0%

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Hình 2.5: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP, giai đoạn 1996- 2009

Năm

Tiết kiệm /GDP

Nguồn : WB.

Việt Nam đã duy trì được tỷ lệ tiết kiệm gia tăng liên tục từ năm 1996 là 20,4% cho

đến năm 2006 là 35,8%. Tuy nhiên, 03 năm gần đây (2007-2009), do ảnh hưởng

của khủng hoảng kinh tế tòan cầu năm 2008, làm cho tỷ lệ tiết kiệm có xu hướng

giảm rất nhiều năm 2009 giảm 7% so với năm 2006, tác động mạnh đến cán cân

30

thương mai và phải bù đấp bằng nguồn vay nợ trong và nước để đáp ứng nhu cầu

đầu tư đang tăng cao. Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP của Việt Nam thấp hơn so với các

nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc trong những thời kỳ tương tự, do đó Việt

Nam vẫn phải dựa nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế

Việt Nam trong thời gian qua vẫn dựa quá nhiều vào yếu tố vốn, điều này đã đẩy tỷ

lệ đầu tư của Việt Nam bình quân 40%/ GDP, cao bằng tỷ lệ đầu tư của Trung

Quốc, nước đang tăng trưởng quá nóng. Do vậy, vấn đề quan trọng của Việt Nam

hiện nay là nâng cao chất lượng đầu tư chứ không phải gia tăng tỷ lệ này và tăng

trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu.

Hơn nữa, Việt Nam cũng cần tạo ra thể chế tốt hơn để nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, đặc

biệt là tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình. Yêu cầu vốn cho quá

trình công nghiệp hóa sẽ làm cho nhu cầu vốn tăng lên, khả năng nguồn cung vốn

phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm trong nước và nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Vấn đề

quan trọng đối với Việt Nam là tạo ra khung pháp lý đầy đủ và đồng bộ để đảm bảo

thị trường vốn và tiền tệ phát triển lành mạnh, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa khủng hoảng 4.

2.2.1.5 Thâm hụt thương mại do mất cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.

Thâm hụt thương mại xảy ra do tình trạng nhập khẩu vượt quá mức xuất khẩu của

quốc gia. Số liệu cho thấy hơn 10 năm qua thương mại hàng hoá quốc tế của Việt

Nam đã tăng nhanh chóng. Cả nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng nhanh, đó có thể là

do kết quả những cải cách kinh tế mà Việt Nam đã thực hiện trong những năm 90,

thể hiện qua việc ký kết các hiệp định thương mại song phương và gần nhất là việc

Việt Nam gia nhập tổ chức WTO (01/11/2007) sức cạnh tranh của hàng hoá xuất

khẩu tăng lên, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ đầu tư sản xuất và tiêu

dùng cũng gia tăng. Những mất cân đối trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu

hay năng lực cạnh tranh yếu kém của doanh nghiệp trong nước hoặc các bất ổn các

yếu tố kinh tế vĩ mô đều có thể xem là những nguyên nhân chính tạo nên thâm hụt thương mại. 4 Cân đối giữa đầu tư và tiết kiệm của TS. Nguyễn Thanh Sơn.

31

Bảng 2.6: Thâm hụt thương mại Việt Nam, giai đoạn 1995-2010

ĐVT: Triệu USD

Năm Giá trị xuất khẩu Giá trị nhập khẩu Cán cân thương mại

8.155,40 1995 5.448,90 -2.706,50

11.143,60 1996 7.255,90 -3.887,70

11.592,30 1997 9.185,00 -2.407,30

11.499,60 1998 9.360,30 -2.139,30

11.742,10 1999 11.541,40 -200,70

15.636,50 2000 14.482,70 -1.153,80

16.218,00 2001 15.029,20 -1.188,80

19.745,60 2002 16.706,10 -3.039,50

25.255,80 2003 20.149,30 -5.106,50

31.968,80 2004 26.485,00 -5.483,80

36.761,30 2005 32.447,10 -4.314,20

44.891,10 2006 39.826,20 -5.064,90

62.764,40 2007 48.561,40 -14.203,00

80.713,80 2008 62.685,10 -18.028,70

69.948,80 2009 57.096,30 -12.852,50

Nguồn : Bộ Công thương (MOIT).

84.801,20 2010 72.191,90 -12.609,30

2.2.2- Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt ngân sách :

Thâm hụt ngân sách Nhà nước (NSNN) được hiểu một cách chung nhất là sự vượt

trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt NSNN do sự

cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách

để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi

ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để bù đắp chi

tiêu;... Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và

chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia.

32

Bảng 2.7: Thâm hụt NSNN giai đoạn 2000 – 2011F

ĐVT: Tỷ đồng

Năm

Tổng thu

Tổng chi

Thâm hụt

GDP

90.749 108.961 (18.212) 441.646 2000

Tỷ lệ thâm hụt trên GDP 4,12%

100.000 129.773 (29.773) 481.295 2001 6,19%

123.860 148.208 (24.348) 535.762 2002 4,54%

152.274 181.183 (28.909) 613.443 2003 4,71%

190.928 214.176 (23.248) 715.307 2004 3,25%

228.287 262.697 (34.410) 839.211 2005 4,10%

279.472 308.058 (28.586) 974.266 2006 2,93%

315.915 399.402 (83.487) 1.143.715 2007 7,30%

416.783 494.600 (77.817) 1.485.038 2008 5,24%

442.340 584.695 (142.355) 1.658.389 2009 8,58%

560.170 675.063 (114.893) 1.980.914 2010 5,80%

Nguồn : GSO, MOF và tính toán của tác giả.

Qua số liệu từ bảng 2.7 cho thấy, tình trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam bình

5,55% 2011F 595.000 725.600 (130.600) 2.355.109

quân khoảng trên 5% GDP. Thâm hụt ngân sách tính từ 2000 đến 2010 hầu như

không giảm về tỷ trọng, quy mô gia tăng nhanh chóng: Năm 2000, con số thâm hụt

ngân sách là 18,2 ngàn tỷ VND tương đương tỷ lệ bội chi là 4,12% GDP và luôn

giữ mức cao qua các năm. Đến năm 2007 các con số này tương ứng là 83,4 ngàn tỷ

VND tương đương 7,3% GDP; năm 2009 tăng cao 142,3 ngàn tỷ VND tương

đương 8,58% là do Chính phủ thực thi chính sách kích cầu khoảng 15 ngàn tỷ đồng

và năm 2010 là 114,89 ngàn tỷ đồng và tỷ lệ bội chi ở mức 5,8% và nếu tính cả việc

phát hành trái phiếu chính phủ thì thâm hụt ngân sách còn cao hơn nhiều, 9,7%

GDP năm 2009 và 8,7% năm 2010.

Thâm hụt ngân sách tăng cao là do Việt Nam thực hiện nhiều cam kết WTO và cam

kết đa phương, song phương về giảm thuế nhập khẩu thì nguồn thu ngân sách chỉ

33

còn trông chờ vào tăng thuế trong nước, đồng thời Chính phủ thực thi chính sách

đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng đã làm tăng mức bội chi NSNN. Trong

những năm gần đây, chi tiêu đầu tư công quá lớn trong khi tiết kiệm nội địa còn hạn

chế, đầu tư khu vực Nhà nước hiệu quả rất thấp (ngoại trừ các dự án mang tính án

sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo), đầu tư mang tính dàn trãi, tham nhũng rất lớn, khả

năng thu hồi từ dự án rất thấp, dẫn đến thất thu, làm tăng bội chi ngân sách Nhà

nước trong thời gian dài.

Thâm hụt ngân sách triền miên ở mức độ cao trong hơn mười năm qua đã làm cho

nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong thế bất cân đối gia tăng, bất ổn kinh tế vĩ

mô trở thành vấn đề thường trực. Theo đó nợ Chính phủ đã gia tăng.

2.2.3- Thâm hụt kép khuếch đại tác động đến nợ nước ngoài:

– I = (Y – T – C) + (T – G) – I + Sg Được thể hiện qua đẳng thức như sau: TB = Sp

chính là chênh lệch giữa thu ngân Trong đó: Sp là tiết kiệm của khu vực tư nhân, Sg

sách (T) và chi tiêu của chính phủ (G). Con số chênh lệch giữa thu (T) và chi ngân

sách (G) chính là thâm hụt ngân sách.

Số liệu thống kê cho thấy có sự tương quan thuận giữa tỷ lệ thâm hụt NSNN với

mức độ gia tăng thâm hụt thương mại trong giai đoạn 2000 - 2010 ( Bảng 2.8 ).

Bảng 2.8. Thâm hụt NSNN và cán cân thương mại Việt Nam

giai đoạn 2000 – 2010

Năm Cán cân thương mại (Triệu USD)

Tỷ lệ thâm hụt NSNN trên GDP 4,12% 2000 -1.153,80

2001 6,19% -1.188,80

2002 4,54% -3.039,50

2003 4,71% -5.106,50

2004 3,25% -5.483,80

2005 4,10% -4.314,20

2006 2,93% -5.064,90

2007 7,30% -14.203,00

34

2008 5,24% -18.028,70

2009 8,58% -12.852,50

2010 5,80% -12.609,30

Nguồn: Bộ Công thương và tự tính toán của tác giả.

Hình 2.6 : Quan hệ tỷ lệ thâm hụt NSNN và cán cân thương mại

0.00%

0.00

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

-1.00%

-2,000.00

-2.00%

-4,000.00

-3.00%

-6,000.00

-4.00%

-8,000.00

-5.00%

-10,000.00

-6.00%

-12,000.00

Thang bên phải

-7.00%

-14,000.00

-8.00%

-16,000.00

-9.00%

-18,000.00

-10.00%

-20,000.00

Thâm hụt thương mại (Triệu USD)

Thâm hụt ngân sách (%GDP)

Nguồn: Tính toán của tác giả.

giai đoạn 2000 – 2010

Để giảm được thâm hụt ngân sách (T-G), thì chúng ta có thể giảm chi tiêu của chính

phủ và tăng thu ngân sách. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang có chương trình

tăng thu ngân sách thông qua việc tăng cường hiệu quả thu ngân sách của ngành

thuế. Hy vọng trong tương lai, nguồn thu ngân sách của chính phủ sẽ tốt hơn với sự

hoạt động hiệu quả hơn của bộ máy thuế và điều này cũng sẽ giảm bớt áp lực của

thâm hụt tài khoản vãng lai nói chung và cán cân thương mại nói riêng. Tuy nhiên,

đây là biện pháp dài hạn còn về ngắn hạn để giảm được thâm hụt ngân sách thì điều

hiển nhiên là phải cắt giảm chi tiêu của chính phủ.

35

2.3- Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam.

Việc đánh giá thực trạng nợ nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết

định xem xét nên tăng thêm nợ hay giảm nợ, hoặc lựa chọn nguồn vốn nào tài trợ

cho thích hợp, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nợ và sử dụng nợ một cách hiệu

quả trong tương lai.

Khi đánh giá tính ổn định bền vững nợ của Việt Nam, chúng ta cũng áp dụng theo

các tiêu chí mà Ngân hàng thế giới hay IMF đang áp dụng cho những nước nghèo

có tỷ lệ nợ cao (HIPCs) và các chỉ tiêu giám sát an tòan nợ do Việt Nam thiết lập

(Luật quản lý nợ công có hiệu lực 01/01/2010), với các nội dung sau:

2.3.1- Đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam theo mức ngưỡng của

HIPCs.

Qua số liệu từ bảng 2.9, ta thấy từ năm 2004 đến năm 2010, tỷ lệ NPV/DBR bình

quân là 98,1% ( <250%) và tỷ lệ NPV/X bình quân là 47,9% ( < 150%), đồng thời

các tiêu chí tính lỏng nợ nước ngoài của Việt Nam là ổn định (TDS/XK là 2,32% và

TDS/DBR là 5,72%) và thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế, về cơ bản là do Việt Nam đẩy

mạnh kim ngạch xuất khẩu và duy trì mức thu ngân sách ổn định. Tổng hợp các chỉ

tiêu tỷ lệ NPV/XK, NPV/DBR, đều thấp so với ngưỡng của HIPCs, nợ nước ngoài

của Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về nợ bền vững và được đánh giá là vẫn ở

ngưỡng an toàn mà Ngân hàng Thế giới đưa ra.

Bảng 2.9: Các tiêu chí đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của IMF và WB cho

HIPCs.

Năm Chỉ tiêu

đánh giá 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Trung bình (%)

NPV/XK 55.08 51.03 50.91 45.96 35.44 51.41 40.49 47.19

NPV/DBR 116.42 92.48 89.96 81.29 67.56 137.74 101.28 98.10

36

NPV/GDP 32.32 31.28 33.07 30.72 24.12 30.79 28.43 30.10

X/GDP 58.69 61.28 64.95 66.84 68.06 59.88 70.23 64.28

DBR/GDP 27.77 33.82 36.76 37.79 35.71 22.35 28.08 31.75

TDS/XK 2.76 2.66 2.17 2.29 1.57 1.94 2.32 2.24

TDS/DBR 6.53 5.51 4.42 4.85 3.80 6.41 5.72 5.32

Nguồn : (5) và tác giả tự tính toán.

Tuy nhiên, theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro thấp của nợ

nước ngoài. Do nợ nước ngoài của Việt Nam chưa tính đến nợ của các doanh

nghiệp không được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề hiện nay không chỉ là tỷ lệ

nợ so với GDP mà cả quy mô, tốc độ , điều kiện và lãi suất nợ nước ngoài của Việt

Nam đang có xu hướng tăng rất mạnh.

2.3.2- Đánh giá tính ổn định của nợ theo các tiêu chí giám sát an toàn nợ nước

ngoài của Việt Nam.

Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ

số đánh giá phổ biến nhất cho cái nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một quốc

gia, đánh giá mức an toàn của nợ công. Mức độ an toàn được thể hiện qua việc nợ

công có vượt ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó hay không.

Để bảo đảm an toàn của nợ công, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau làm giới

hạn vay và trả nợ: Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP

hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ công

không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không

vượt quá 10% chi ngân sách. Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra mức quy định

5 - Trích dẫn từ nghiên cứu :”Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam năm 2010” của TS. Mai Thu Hiền- GV. Đại học Ngoại thương Tp.HCM

ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ

37

lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Tuy

nhiên, trên thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế; việc xác

định “ngưỡng an toàn” chỉ là khái niệm tương đối, không phải tỷ lệ nợ công trên

GDP thấp là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ

thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh

tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng, tính bền vững trong phát triển, khả năng chống đỡ

rủi ro.

Bảng 2.10 : Các chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam.

Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Tổng số dư nợ nước ngoài so với

32.2

31.4

32.5

29.8

39

42.2

GDP (%)

Nợ nước ngoài khu vực công so

27.8

26.7

28.2

25.1

29.3

31.1

GDP (%)

Nghĩa vụ trả nợ trung và dài hạn so

4.8

4

3.8

3.3

4.2

3.4

với xuất khẩu hàng hóa dịch vụ (%)

Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của

4.1

3.7

3.6

3.5

5.1

3.7

Chính phủ so với thu NSNN (%)

Dự trữ ngoại hối so tổng dự nợ

4.075

6.380 10.177 2.808

290

187

ngắn hạn (%)

Nghĩa vụ nợ dự phòng của chính

5.2

4.5

4.6

4.7

4.3

5.8

phủ so với thu NSNN (%)

Nguồn : Bộ tài chính.

Như vậy, trong thời điểm hiện tại, tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP, các chỉ tiêu nợ

Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia đều trong giới hạn an toàn. Phần lớn các khoản

vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất ưu đãi. Mức lãi vay trung bình

nợ nước ngoài của Chính phủ năm 2009 là 1,9%/năm, năm 2010 là 2,1%/năm

Theo Bộ Tài chính, các chỉ số nợ của Việt Nam ở mức an toàn, nợ công được quản

lý chặt chẽ theo quy định. Các khoản nợ trong nước và nước ngoài được thanh toán

38

đầy đủ, không có nợ xấu. Cụ thể, chỉ số nợ nước ngoài của Chính phủ trên GDP là

42,2%, vẫn dưới ngưỡng an toàn (50% GDP). Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ

khoảng 16% tổng thu ngân sách nhà nước (giới hạn an toàn 35%). Nghĩa vụ trả nợ

nước ngoài trung và dài hạn trong nhiều năm qua khoảng 3,3 - 4,8% kim ngạch xuất

khẩu (giới hạn an toàn là 25%). Cơ cấu nợ nước ngoài đang giảm dần so với tổng

dư nợ của Chính phủ nhằm giảm sự phụ thuộc vào vốn vay nước ngoài… So với

các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm, chỉ số nợ công và nợ nước ngoài

của Việt Nam ở mức trung bình.

Vì vậy, để xác định, đánh giá đúng đắn mức độ an toàn của nợ công, không thể chỉ

quan tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP, mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện

trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân,

nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu

quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội

địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí, như cơ cấu nợ công,

tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ.... cũng cần được phân tích kỹ

lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công.

Đánh giá kết quả họat động vay, trả nợ và quản lý nợ công, nợ nước ngoài năm

2010, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho rằng, Việt Nam đã huy động được

khối lượng vốn lớn bổ sung cho đầu tư phát triển, cân đối ngân sách nhà nước,

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các chỉ tiêu về nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của

quốc gia nằm trong giới hạn an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Các hình

thức huy động vốn ngày càng đa dạng, linh họat, tạo tiền đề cho sự hình thành và

phát triển đồng bộ thị trường tài chính...

2.3.3- Đánh giá tính ổn định của nợ theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính

sách quản lý nợ nước ngoài.

Trong vài năm gần đây, một cách tiếp cận mới mà Ngân hàng Thế giới đưa vào để

đánh giá chất lượng quản lý nợ công đó là dựa vào chất lượng chính sách và thể

chế. Các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ cao

39

hơn so với mức ổn định nợ cơ bản. Cách tiếp cận này đưa ra giá trị mức ngưỡng

dựa vào tỷ lệ nợ truyền thống để làm cơ sở đánh giá thể chế và chính sách của quốc

gia. Dựa vào giá trị ngưỡng, Ngân hàng Thế giới phân loại 3 mức thực hiện chính

sách: kém, vừa và mạnh (Bảng 2.11).

Bảng 2.11: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và

thể chế theo tiêu chuẩn của HIPCs.

Đánh giá sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách

Mức ngưỡng % Mạnh Kém Vừa CPIA ≥ 3.9 CPIA ≤ 3 3 < CPIA < 3,9

30% 45% 60% NPV/GDP

100% 200% 300% NPV/X

200% 275% 350% NPV/DBR

Nguồn: Ngân hàng thế giới. (chú thích: NPV/GDP: Nợ nước ngoài/GDP)

Qua số liệu từ bảng số 2.9 cho thấy, từ năm 2004 đến năm 2010, ba chỉ số hiện giá

thuần nợ nước ngoài của Việt Nam : NPV/GDP ≤ 30% , NPV/X < 60% và

NPV/DBR < 150%. Điều này cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ nước ngoài

của Việt Nam xếp vào chỉ số CPIA ≤3, tức là ở mức kém.

Tóm lại, qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài, nghiên cứu nhận thấy

mặc dù nợ nước ngoài của Việt Nam có gia tăng nhanh trong những năm gần đây

nhưng vẫn nằm trong khả năng thanh toán, chưa rơi vào tình trạng nguy kịch như

một số quốc gia Châu Âu.

2.3.4- Đánh giá khả năng trả nợ nước ngoài trong tương lai.

Theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, năm 2010 khi Chính phủ

vay thêm 4.571,84 triệu USD thì sau khi trả nợ và phí (1.672,32 triệu USD) còn lại

2.899,52 triệu USD. Với số nợ và lãi suất hiện tại, trong những năm tới không vay

thêm thì số tiền Việt Nam phải bỏ ra mỗi năm để trả nợ sẽ cao nhất vào năm 2020

40

trên 2,380 tỉ USD (Trong đó : trả nợ gốc 2.134,62 triệu USD và trả lãi trên 245.71

triệu USD). Trước mắt, năm 2011 Việt Nam sẽ phải trả nợ khoảng 1.331,50 triệu

USD tính cả gốc lẫn lãi. Đến năm 2026, cũng còn phải trả 865 triệu USD/năm tiền

gốc và 110,23 triệu USD lãi.

Bảng 2.12 : Dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài của Chính

phủ, tính đến 31/12/2010

So sánh Dự kiến nghĩa vụ nợ tại thời điểm 31/12/2010 Năm (%) Gốc Lãi và phí Dự kiến nghĩa vụ nợ tại thời điểm 31/12/2009

116%

1.148,01

809,04

522,46

2011

1.330,43

971,95

528,24

1.500,19

113%

2012

1.492,24

1.163,29

488,73

1.652,02

111%

2013

1.389,96

1.071,37

452,89

1.524,26

110%

2014

1.281,99

1.056,52

423,72

1.480,24

115%

2015

2.015,43

1.844,76

380,50

2.225,26

110%

2016

1.196,70

1.146,84

333,75

1.480,59

124%

2017

1.186,03

1.100,42

316,42

1.416,84

119%

2018

1.176,75

1.096,65

299,12

1.395,77

119%

2019

1.150,64

2.134,62

245,71

2.380,33

207%

2020

1.119,24

1.114,87

193,31

1.308,18

117%

2021

1.109,98

1.150,16

173,76

1.323,92

119%

2022

982,01

976,42

154,95

1.131,37

115%

2023

952,83

1.007,91

139,77

1.147,68

120%

2024

856,56

924,30

124,50

1.048,80

122%

2025

760,29

865,00

110,23

975,23

128%

2026

Nguồn : Bộ Tài chính.

Nghĩa vụ trả nợ 1.331,50

Với số nợ hiện tại theo bảng 2.12, dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài

của chính phủ năm đã tăng lên đáng kể, nợ gốc tăng bình quân 19%, lãi và phí tăng

45%, nếu tính đến năm 2026 thì nghĩa vụ nợ tăng bình quân 25% mỗi năm. Điều

41

này thật sự đáng lo ngại về khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai, vì dự

kiến nghĩa vụ nợ năm vào 31/12/2009 chỉ là 1.101,57 triệu USD, thì năm 2010 thực

tế trả nợ đã tăng lên đến 52% (1.673,32 triệu USD), trong khi số nợ nước ngoài huy

động thêm chỉ tăng lên 16,3% (từ 27,9 lến 32,5 tỷ).

Rõ ràng là Việt Nam nếu tiếp tục với cách điều hành kinh tế như hiện nay thì có thể

sẽ nhanh chóng mất khả năng chi trả nợ nước ngoài. Ta có thể suy ra điều này khi

thấy là tổng số nợ nước ngoài tăng rất nhanh (trung bình 22 % một năm), cao hơn

nhiều so với mức tăng danh nghĩa của GDP (trung bình 16 % một năm). Nhưng

quan trọng hơn là nợ nước ngoài đang tăng tốc, vào năm 2009 tăng ở mức khủng 49

%. Và đặc biệt quan trọng là nợ doanh nghiệp không có bảo lãnh là nợ có lãi suất

thị trường còn tăng mạnh hơn nhiều, ở mức 125 %.

Chính việc tăng loại nợ của doanh nghiệp kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh,

có bảo lãnh hay không bảo lãnh của chính phủ hiện nay đã tới mức gần 12 tỷ và

đang tăng nhanh là điều đáng lo ngại. Số nợ này có thể nói gần như toàn bộ là nợ

của doanh nghiệp quốc doanh vì chỉ có doanh nghiệp quốc doanh mới có thể vay

mượn được, dù chính phủ chính thức đứng ra bảo lãnh hay không; lý do là các nhà

ngân hàng và các đầu tư nước ngoài cho vay hay mua trái khoán doanh nghiệp chỉ

vì họ biết rằng chúng là doanh nghiệp nhà nước do đó chính phủ Việt Nam có trách

nhiệm chi trả.

Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của

Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và

năm nay đạt tới 2,1%/năm. Theo lộ trình đến năm 2012, Việt Nam sẽ dần dần bị

giảm đi các khoản vay ưu đãi do trở thành nước có thu nhập trung bình. Thay vào

đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian ngắn hơn. Điều này

đòi hỏi việc sử dụng vốn phải hiệu quả nhiều hơn nữa, nếu không, áp lực trả nợ

ngày càng lớn hơn và tác động ngay đến ngưỡng an toàn nợ công.

Tuy nhiên, nếu không tiếp tục tăng mạnh vay nợ nước ngoài thì nghĩa vụ nợ hàng

năm dưới 2 tỷ USD vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ Việt Nam, đây là

42

số tiền không lớn để chúng ta trả nợ nước ngoài, đồng thời trên 80% số nợ nước

ngoài của Việt Nam là vay nợ dài hạn.

2.3.5- Đánh giá rủi ro việc vay nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh.

Theo Luật Quản lý nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: Nợ nước ngoài

của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác

được vay theo hình thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy rõ, nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ nước ngoài của doanh

nghiệp được Chính phủ bảo lãnh chỉ là một bộ phận trong khái niệm “Nợ nước

ngoài của quốc gia” nêu trên.

Bảng 2.13 : Các chỉ tiêu giám sát về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế

(Giai đoạn 2005-2010).

Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010

GDP (tỷ USD) 51.1 58.6 68.3 86.9 95.3 104.6

Tổng số dư nợ nước ngoài quốc gia so với GDP (%) 32.2 31.4 32.5 29.8 39 42.2

Nợ nước ngoài khu vực công so GDP (%) 27.8 26.7 28.2 25.1 29.3 31.1

Tổng nợ nước ngoài quốc gia (Tỷ USD) 16.45 18.39 22.19 25.90 37.17 44.14

Nợ nước ngoài khu vực công (tỷ USD) 14.20 15.64 19.25 21.82 27.93 32.53

Nguồn : Bộ Tài chính và tác giả tự tính toán.

Nợ nước ngoài của các tổ chức không được bảo lãnh (tỷ USD) 2.25 2.75 2.94 4.09 9.25 11.60

Bảng 2.14 : Tốc độ tăng nợ nước ngoài của quốc gia, khu vực công

và không được bảo lãnh, giai đoạn 2006-2010 .

43

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 Trung bình (%)

12% 21% 17% 44% 19% 22% Tổng nợ nước ngoài quốc gia

Nợ nước ngoài khu vực công 10% 23% 13% 28% 16% 18%

Nguồn : Bộ Tài chính và tác giả tự tính toán.

23% 7% 39% 126% 26% 44% Nợ nước ngoài của các tổ chức không được bảo lãnh

Theo công bố của Bộ Tài chính tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP tại

thời điểm 31/12/2010 là 42,2% và nợ nước ngoài của khu vực công là 32,5 tỷ USD

( Chỉ bao gồm nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh). Như

vậy, nếu so sánh với GDP năm 2010 được Tổng cục Thống kê công bố là khoảng

104,6 tỷ USD, thì tổng nợ nước ngoài của quốc gia tính đến 31/12/2010 vào khoảng

44,1 tỷ USD. Phần nợ của doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp có cổ phần

của nhà nước vay theo hình thức tự vay tự trả (Nợ nước ngoài của các tổ chức

không được bảo lãnh) là 11,6 tỷ USD, con số này thật là một số bí ẩn đầy rủi ro.

Bởi vì, trước tình trạng một số doanh nghiệp, thậm chí cả các tập đoàn, tổng công ty

Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ, không trả được nợ thì Chính phủ phải

trả nợ bằng tiền thuế của dân hoặc từ nguồn từ bán tài sản quốc gia (nguồn thu từ

khai thác tài nguyên).

Qua số liệu tính toán từ bảng 2.13 và 2.14, ta thấy nợ nước ngoài không được bảo

lãnh đã tăng rất nhanh những năm gần đây ( Năm 2008 là 4.09 tỷ USD; năm 2009

là 9.25 tỷ USD , đến 2010 đã tăng lên 11,6 tỷ và hiện nay cũng đang tiếp tục tăng).

Đây là những khoản nợ mà Chính phủ không nắm được rồi cuối cùng khoản vay đó

lại sử dụng không hiệu quả, dẫn tới vỡ nợ thì quy luật tài chính nó như bình thông

nhau, khi một lĩnh vực đã bị khủng hoảng thì sẽ tác động đến nhau theo hiệu ứng

domino, ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tòan bộ nền kinh tế.

44

Trong những năm gần đây nợ nước ngoài quốc gia có xu hướng tăng khá nhanh do

thời gian qua có nhiều dự án đầu tư lớn được triển khai với các khoản vay lớn từ

nước ngoài. Đồng thời, vay thương mại nước ngoài của doanh nghiệp theo phương

thức tự vay tự trả cũng có xu hướng tăng nhanh, nhất là nợ ngắn hạn. Mặc dù, các

doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp có cổ phần của nhà nước vay theo

nguyên tắc “tự vay, tự trả” phần lớn là vay thương mại lãi suất cao không được

chính phủ bảo lãnh nhưng nhà nước không thể hay khó lòng về mặt chính trị xóa

trách nhiệm đối với nợ của các doanh nghiệp do chính Chính phủ dựng lên. Vì nợ

công là thước đo hành xử về chính sách của nhà nước.

Theo nhận định của GS. Trần Ngọc Thơ, nguyên tắc “ tư vay, tự trả” nghe thì hợp

lý nhưng thật sự không ổn, do người vay và người trả có thể là hai chủ thể khác

nhau. Bởi vì, “tự vay” là lãnh đạo doanh nghiệp (không có tài sản thế chấp) sẽ thực

hiện nhiều phi vụ kinh doanh, nếu thắng lãnh đạo DNNN vừa được lợi vừa có thành

tích để thăng tiến, nếu khi làm ăn thua lỗ, không hiệu quả thì Chính phủ tiếp tục trả

nợ, “tự trả” từ tiền thuế của dân. Vì vậy, từ nguyên tắc “tự vay, tự trả”, ở một số

trường hợp đã trở thành “tự vay, người khác trả”. Các cơ quan chức năng luôn tự tin

khẳng định con số nợ nước ngoài và nợ công của Việt Nam vẫn trong ngưỡng an

toàn. Nhưng quan điểm này có thể bị lung lay trong trường hợp liên tục diễn ra các

kịch bản chuyển dịch rủi ro theo hướng “tự vay, người khác trả”.

Trong bối cảnh nhu cầu vốn chi cho phát triển kinh tế - xã hội lớn, khả năng nguồn

lực nội tại chưa đáp ứng thì việc huy động nguồn lực thông qua vay nợ từ bên ngoài

là cần thiết. Trong giai đoạn tập trung đầu tư, việc gia tăng chỉ số nợ nước ngoài là

không thể tránh khỏi. Việc cân đối giữa vay nợ với đảm bảo an ninh tài chính và

cân đối vĩ mô luôn là một yêu cầu hàng đầu của Chính phủ.

2.3.6- Đánh giá tính công bằng liên thế hệ trong quản lý và sử dụng nợ vay

nước ngoài tương lai.

Theo lý thuyết tân cổ điển cho rằng vay nợ gây chèn lấn đầu tư khu vực tư. Khi

Chính phủ thực hiện dự án, cho dù được tài trợ bằng thuế hay vay nợ, thì những

45

nguồn lực đều lấy từ khu vực tư. Như vậy, nợ có ảnh hưởng đến vốn đầu tư của khu

vực tư và tạo ra gánh nặng cho thế hệ tương lai. Để khắc phục chèn lấn, yêu cầu các

dự án đầu tư của Chính phủ phải có hiệu quả để thu hút lại sự đầu tư của khu vực

tư.

Việt Nam vay nợ để đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội, song hiệu quả đầu tư thấp

khiến nguồn thu hồi để trả nợ trong tương lai từ các dự án này thấp và bị hạn chế.

Các khoản vay và chi tiêu hiện tại của Chính phủ không tạo nên nguồn thu hiệu quả

trong tương lai; chúng làm tăng sức ép lên bội chi mới. Hậu quả là, thế hệ tương lai

sẽ phải chịu gánh nặng nợ cao hơn thế hệ hiện tại. Tóm lại, tính công bằng liên thế

hệ về gánh nặng nợ ở Việt Nam được đánh giá là thấp. Các dự án đầu tư từ nguồn

vốn khu vực công, trong đó có nợ, mặc dù có sự đóng góp đáng kể đến tăng trưởng

kinh tế trong thời gian qua. Song, nếu tính đến bài toán công bằng giữa các thế hệ

thì quản lý nợ công của Việt Nam còn kém hiệu quả, cần phải được cải thiện trong

thời gian tới.

3.7- Những bất cập về quản lý nợ nước ngoài hiện nay.

Hiện nay, trong công tác quản lý nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia còn nhiều

bất cập, chưa thực hiện đầy đủ việc công khai nợ và đặc biệt năng lực quản lý nợ

cũng cần được cải thiện. Những bất cập có thể kể đến bao gồm nhưng vấn đề cơ bản

như sau:

- Việc quản lý và sử dụng nguồn vốn vay chưa thật sự mang lại hiệu quả: Nguồn

vốn vay nợ nước ngoài trong thời gian qua chưa thực sự gắn với hiệu quả sử dụng

và trách nhiệm trả nợ, nhiều dự án không trả được khó khăn trong việc hoàn trả vốn

vay, chủ trương đầu tư và phân phối cho các đối tượng sử dụng vốn đôi khi không

rõ ràng, không gắn trách nhiệm của cơ quan ra quyết định, cơ quan sử dụng vốn và

cơ quan trả nợ trong khi chế tài xử lý không nghiêm. Vì vậy, nên có một số nơi tiếp

nhận nguồn vốn này như là một khoản tiền được tặng hoặc nếu không thì Chính phủ

là người có trách nhiệm trả nợ lấy từ nguồn thu ngân sách. Từ đó, đã xảy ra tình

46

trạng thất thoát, tham nhũng, lãng phí, biến tiền ODA thành tiền của mình và tiêu

xài ăn chơi một cách phung phí;

- Việc tổ chức đánh giá mức an toàn nợ chưa toàn diện, đúng ra phải đánh giá cả

phần nợ của tổ chức, doanh nghiệp vay nợ nước ngoài với hình thức tự vay tự trả, vì

theo nguyên tắc bình thông nhau, các doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh

trong nước nếu bị thua lỗ, mất khả năng thanh khoản sẽ tác động dây chuyền đến

các doanh nghiệp khác và nếu nhiều doanh nghiệp phá sản sẽ tác động xấu cả nền

kinh tế theo hiệu ứng Domino.

47

CHƯƠNG III

PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ NƯỚC NGOÀI

ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2010

3.1. Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam theo mô phỏng đường cong Laffer nợ.

Mặc dù các lí thuyết “debt overhang” không trực tiếp giải thích ảnh hưởng của nợ

đến tăng trưởng nhưng ta có thể mở rộng và áp dụng đường cong Laffer nợ để mô

tả đường cong Laffer về ảnh hưởng của nợ đến tăng trưởng. Do đỉnh đường cong

Laffer nợ là điểm mà tại đó sự tăng lên trong tổng nợ bắt đầu tạo ra gánh nặng cho

đầu tư, cải tổ kinh tế và các hoạt động khác, điểm này có thể liên quan đến điểm mà

tại đó nợ bắt đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng. Nó cũng chính là điểm

chỉ ra mức độ nợ tối ưu mà một quốc gia có thể duy trì mà không phải lo ngại vấn

đề “debt overhang”.

Nghiên cứu sử dụng hàm phi tuyến dạng đường cong phương trình bậc hai để mô

phỏng đường cong Laffer nợ. Để vẽ được đường cong này nghiên cứu sử dụng phần

mềm thống kê SPSS để vẽ đường cong theo các điểm phân tán của biến tỷ lệ tăng

trưởng theo tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP (theo giá cố định năm 2000), ký hiệu

GDP, số liệu từ năm 1986-2010. Đường cong được tìm thấy như Hình 3.1. Đỉnh của

đường cong được xác định với giá trị bằng 90.6% đây chính là ngưỡng nợ nước

ngoài trên GDP mà nghiên cứu cần tìm.

Tuy nhiên, để ngưỡng nợ nêu trên phản ánh đúng mức độ an tòan nợ của Việt Nam

cần phải xem xét, đánh giá một cách toàn diện trong mối quan hệ tác động của các

chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tỷ giá hối đoái, lạm phát, tốc độ và chất lượng tăng

trưởng kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng chóng đỡ rủi ro của nền kinh tế.

Hình 3.1 : Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài trên GDP (2000) của Việt Nam.

48

Đường mô phỏng tỷ lệ tăng trưởng theo tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP.

90.6

Đường mô phỏng đường cong Laffer nợ.

Nguồn : World Bank và kết quả tính toán từ phần mềm thống kê SPSS.

3.2. Phân tích thực nghiệm ảnh hưởng nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế

Việt Nam, giai đoạn 1986-2010.

3.2.1 Mô hình nghiên cứu.

Nhằm đo lường tác động của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam,

tác giả thực hiện mô hình nghiên cứu với giả định là tăng trưởng kinh tế chịu ảnh

hưởng bởi các biến kinh tế vĩ mô như: Nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, dịch vụ

nợ, độ mở của nền kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài, mô hình dạng bán logarit

(Lin-log), mô hình được tác giả sử dụng tương tự như mô hình Frimpong, J.

M.Oteng-Abayi, E. F sử dụng khi nghiên cứu các nhân tố tác động đến tăng trưởng

kinh tế tại Ghana, 2006. Mô hình này theo tác giả là phù hợp với hoàn cảnh nghiên

cứu về nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vì tình trạng nợ nước ngoài của

Ghana cũng giống như các nước HIPCs, có thể tìm thấy số liệu thống kê của các

49

biến trong mô hình trong khi các mô hình khác rất khó tìm được đủ số liệu thống

kê. Mặc khác hệ số tuyến tính giữa biến tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ nợ nước ngoài

trên GDP chỉ ở mức 17,7% cho nên mô hình đa biến là lựa chọn phù hợp hơn. Mô

hình cụ thể như sau :

Yt = α0 + α1 lnEDTt + α2 lnFDIt + α3 lnINVt + α4 lnTDSt + α5 EXPt + εt (1)

Trong đó:

- Biến Y (%) là biến phụ thuộc đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế và các biến

độc lập hay biến giải thích sau:

- Biến EDT là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP, (%);

- Biến FDI là tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP (%);

- Biến INV là tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP (%);

- Biến TDS là tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên xuất khẩu (%);

- Biến EXP là chỉ tiêu đại diện cho biến đo lường độ mở của nền kinh tế (%),

được tính bằng cách lấy tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ tính theo giá

hiện tại qui về Việt Nam Đồng chia cho chỉ số giá điều chỉnh hàng nhập khẩu.

Tất cả các biến này đều được biểu diễn dưới dạng hàm số logarith cơ số tự nhiên,

ngoại trừ biến phụ thuộc Y và biến độc lập EXP.

Để phù hợp với mô hình tăng trưởng kinh tế, quan điểm lý thuyết và phân tích phần

trên đã trình bày, khi nợ nước ngoài của Việt Nam chưa vượt ngưỡng an toàn

“threshold level” nên nghiên cứu kỳ vọng nợ nước ngoài tác động tích cực đến tăng

trưởng kinh tế, nghiên cứu mong đợi α1 > 0; tương tự tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước

ngoài trên GDP bổ sung nguồn lực bên ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và mong

đợi một tác động tích cực đến tăng trưởng, vì vậy kỳ vọng α2 >0 ; tỷ lệ đầu tư trong

nước so với GDP dự kiến sẽ có ảnh hưởng tích cực đáng kể vào tăng trưởng GDP,

nên nghiên cứu mong đợi α3>0 ; tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên xuất khẩu dự kiến sẽ tác

động tiêu cực do việc giảm chi phí đầu tư trong nước từ dịch vụ thanh toán nợ, nên

nghiên cứu dự đoán α4 <0. Nền kinh tế Việt Nam hiện đã và đang hòa nhập sâu

rộng vào kinh tế thế giới, tốc độ xuất khẩu tăng nhanh qua các năm so với nhập

khẩu, độ mở nền kinh tế ngày càng rộng, nghiên cứu kỳ vọng α5 > 0.

50

Mô hình trên được sử dụng nhằm mục đích tìm hiểu liệu có hay không mối quan hệ

trong dài hạn giữa tăng trưởng kinh tế Việt Nam và các yếu tố đầu vào nêu trên.

Khả năng xảy ra mối quan hệ trong dài hạn được kiểm định bằng kỹ thuật đồng liên

kết.

3.2.2- Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thực nghiệm.

Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng dữ liệu hàng năm 1986 đến năm 2009. Dữ

liệu được thu thập chủ yếu từ nguồn thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), Bộ

Tài chính (MOF) và Tổng Cục thống kê Việt Nam (GSO).

Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực

nghiệm, tác giả thực hiện theo các bước sau :

 Bước một, thực hiện việc kiểm định tính dừng và không dừng (unit roots or

non-stationary) của các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm (kiểm

định nghiệm đơn vị ). Giữa các chuỗi số không dừng có thể tồn tại mối quan hệ

đồng liên kết (mối quan hệ trong dài hạn). Tương quan đồng liên kết tồn tại khi

quan hệ tuyến tính giữa hai chuỗi là một chuỗi có tính dừng (stationary). Kết hợp

tuyến tính giữa các cặp chuỗi thời gian là hiệu số giữa chúng. Nếu có quan hệ đồng

liên kết, hiệu số đó là một chuỗi ngẫu nhiên có tính chất của nhiễu trắng.

 Bước hai, sử dụng phương pháp phân tích đồng tích hợp (Cointegration) của

Engle – Granger (1987) để đo lường các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến

(quan hệ đồng liên kết).

 Cuối cùng, tác giả sẽ thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn

giữa tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng. Mô hình điều chỉnh sai số ECM

(Error Correction Model) được sử dụng nếu tồn tại các mối quan hệ trong dài hạn

kể trên.

3.2.3. Kết quả thực nghiệm.

3.2.3.1 Các phân tích và kiểm định ban đầu

a- Phân tích ma trận hệ số tương quan :

Từ kết quả phân tích ma trận hệ số tương quan cho thấy các cặp hệ số tương quan

giữa các biến giải thích trong mô hình có giá trị < 0.9, nên sự kết hợp giải thích giữa

51

các biến trong mô hình là phù hợp và đáng tin cậy.

Bảng 3.1: Ma trận hệ số tương quan.

LnEDT LnFDI LnINV LnTDS EXP

1 LnEDT

0.693947 1 LnFDI

0.084898 0.629561 1 LnINV

0.836063 0.711098 0.235481 1 LnTDS

Nguồn: Kết quả tính toán từ Eview 5.1

0.363403 0.469147 0.310004 0.422376 1 EXP

b- Kiểm định nghiệm đơn vị.

Có nhiều cách để nhận dạng một chuỗi thời gian là dừng hay không dừng như :

Phân tích đồ thị, sai phân, hàm tự tương quan, kiểm định Ljung-Box. Tuy nhiên,

kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root test) là cách kiểm định được sử dụng phổ biến

hiện nay.

Trong bài nghiên cứu, tác giả đã tiến hành kiểm định nghiệm đơn vị của từng biến

riêng biệt để xác định thuộc tính dừng bằng hai phương pháp phổ biến là phương

pháp ADF (Augmented Dickey-Fuller) và KPSS (Kwiatkowski-Phillips-Schmidt-

Shin).

Kết quả kiểm định ở cả hai phương pháp đều cho thấy các biến Y, LnEDT, LnFDI,

LnINV, Ln TDS và EXP,là chuỗi thời gian không dừng (không xu hướng) I(0) và

chuỗi dừng I (1).

Bảng 3.2. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị

ADF Mức 1% Mức 5% Mức 10%

Y -2.076 -3.788 -3.012 -2.646 Không dừng

Không dừng mức 10%, mức 5% LnEDT -2.928 -3.738 -2.992 -2.636

52

LnFDI -6.770 -3.738 -2.992 -2.636 Dừng

LnINV -1.047 -3.738 -2.992 -2.636 Không dừng

LnTDS -3.087 -3.738 -2.992 -2.636 Không dừng mức 1%

EXP -3.083 -3.738 -2.992 -2.636 Không dừng mức 1%

KPSS

Y 0.218 0.739 0.463 0.347 Dừng

LnEDT 0.138 0.739 0.463 0.347 Dừng

LnFDI 0.420 0.739 0.463 0.347 Không dừng mức 10%

Không dừng mức 5%, mức 10% LnINV 0.676 0.739 0.463 0.347

LnTDS 0.203 0.739 0.463 0.347 Dừng

EXP 0.170 0.739 0.463 0.347 Dừng

ADF

D(Y) -4.271 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng

DLnEDT -3.505 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng mức 5%

DLnFDI -6.980 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng

DLnINV -4.922 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng

DLnTDS -4.118 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng

DEXP -7.603 -3.753 -2.998 -2.639 Dừng

KPSS

D(Y) 0.229 0.739 0.463 0.347 Dừng

DLnEDT 0.339 0.739 0.463 0.347 Dừng

DLnFDI 0.580 0.739 0.463 0.347 Dừng mức 1%

DLnINV 0.096 0.739 0.463 0.347 Dừng

DLnTDS 0.302 0.739 0.463 0.347 Dừng

DEXP 0.053 0.739 0.463 0.347 Dừng

3.2.3.2 Phân tích cân bằng dài hạn – Phân tích đồng liên kế:

Hồi quy đồng liên kết theo phương pháp phân tích phần dư (εt) hai bước của Engle-

Granger. Tại bước 1, nghiên cứu thiết lập mối tương quan cân bằng trong dài hạn

trong số các biến; bước 2 nghiên cứu kiểm định tính liên kết của phần dư (εt) bằng

53

cách dùng thống kê ADF. Nếu kết quả kiểm định cho thấy phần dư là chuổi dừng

thì khẳng định tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến trong mô hình đã

thực hiện ở bước 1.

Bước 1: Hồi quy phương trình (1)

Với sự hỗ trợ của phần mền Eview 5.1 (phụ lục 3), kết quả hồi quy phương trình (1)

như sau :

Yt = 0,073177 + 0,01264 lnEDTt + 0,001061 lnFDIt + 0,024589 lnINVt

- 0.008371 lnTDSt + 0,043041 EXPt + εt (2)

R2 = 0.591688 ; Adjusted R2 = 0.484238 ; DW = 1.254809

Để kiểm chứng các hệ số hồi qui tuyến tính của mô hình (1) có đồng thời bằng

không , chúng ta thực hiện kiểm định Wald, với giả thuyết hệ số các biến trong mô

hình đồng thời bằng không. Kết quả như sau :

Bảng 3.3 : Kiểm định wald mô hình 1

Test Statistic Value df Probability

F-statistic 5.506614 (5, 19) 0.0027

Chi-square 27.53307 5 0.0001

Với mức ý nghĩa  = 5%, kiểm định ràng buộc tuyến tính (kiểm định Wald) bác bỏ

giả thuyết các biến trong mô mình đồng thời bằng không. Điều này cho thấy kết quả

hồi quy mô hình là có ý nghĩa.

Bước 2 : Kiểm định phần dư.

εt = Yt - 0.073177- 0,012641 lnEDTt – 0.001061 lnFDIt – 0.024589 lnINVt

+ 0.008371 lnTDSt – 0.043041 EXPt (2)

Thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị phần dư. Kết quả kiểm định như sau:

Bảng 3.4 : Kiểm định phần dư của mô hình (2)

t-Statistic Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic -4,290,818 0.0030

54

Test critical values: 1% level -3,752,946

5% level -2,998,064

10% level -2,638,752

Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Ta thấy trị tuyệt đối giá trị thống kê ADF lớn hơn trị tuyệt đối giá trị tới hạn nên kết

luận phần dư là chuỗi dừng. Khi phần dư là một chuỗi dừng khẳng định các biến

trong mô hình (1) là đồng liên kết, nghĩa là các biến trong mô hình này có tồn tại

quan hệ cân bằng về dài hạn.

+ Giải thích ý nghĩa mô hình: R2 = 0.591688 cho biết mô hình giải thích được 59,2 % sự phụ thuộc của tăng

trưởng kinh tế Việt Nam vào nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, đầu tư trực tiếp

nước ngoài, độ mở nền kinh tế và dịch vụ nợ trên xuất khẩu.

DW = 1.254809 cho thấy mô hình không có dấu hiệu xảy ra hiện tượng tương quan

chuỗi (tự tương quan).

Căn cứ kết quả hồi qui, dấu của các hệ số hồi qui phù hợp với kỳ vọng của nghiên

cứu. Trước hết, hệ số của Ln EDT = 0.012641, hệ số mang dấu dương cho thấy nợ

nước ngoài trên GDP đồng biến với tăng trưởng kinh tế, nợ nước ngoài bổ sung

nguồn vốn bị thiếu hụt do mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư. Như vậy, tỷ lệ nợ

nước ngoài trên GDP của Việt Nam chưa vượt qua ngưỡng nợ “ Debt threshold”

hay ngưỡng an toàn.

Tiếp theo là biến số đầu tư trong nước trên GDP cũng đồng biến với tăng trưởng

kinh tế là hoàn toàn phù hợp. Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế

tương đối cao trong gần 20 năm qua, trung bình 7,4% hàng năm trong giai đoạn

1990 - 2010. Tốc độ tăng trưởng tương đối cao phù hợp với sự tăng nhanh về đầu tư

nhà nước và tư nhân. Hiệu quả của đầu tư trong nước từ việc sử dụng các nguồn lực

55

trong nước để duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất,

kinh doanh, nhằm tạo ra nhiều hàng hóa có giá trị, dịch vụ tốt hơn, góp phần nâng

cao giá trị sinh hoạt đời sống cao hơn. Như vậy, đầu tư trong nước là nền tảng, phát

triển kết cấu tầng kinh tế -xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp

trong mọi lĩnh vực phát triển, đồng thời thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đảm

bảo sự phát triển toàn diện giữa các ngành, vùng , miền kinh tế, góp phần đảm bảo

tăng trưởng kinh tế bền vững.

Bên cạnh đó độ mở nền kinh tế, cũng tương quan thuận với tăng trưởng kinh tế, khi

độ mở nền kinh tế gia tăng, đồng nghĩa với việc cơ hội giao thương hàng hóa của

Việt Nam với bên ngoài tăng lên nên góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt

Nam. Điều này phù hợp xu thế thời đại, thực trạng và chính sách mở cửa kinh tế của

Việt Nam hiện nay, bằng chứng việc gia nhập WTO đã có tác động tích cực đến

tăng trưởng kinh tế của nước ta trong bốn năm qua, xuất-nhập khẩu tăng mạnh,

quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại với nhiều nước được tăng cường và mở rộng,

đặc biệt là với các đối tác quan trọng. Lực lượng doanh nghiệp phát triển nhanh, các

thị trường nhân tố mau chóng mở rộng, một số sản phẩm và doanh nghiệp khẳng

định được chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế. Thể chế kinh tế và môi

trường kinh doanh trong nước được cải thiện về nhiều mặt theo hướng mở rộng tự

do hóa thương mại và đầu tư, phù hợp với các cam kết của nước ta với WTO cũng

như các cam kết đa phương và song phương khác, đặc biệt trong khuôn khổ

ASEAN và với các đối tác trong khu vực.

Trong khi đó, theo kết quả hồi qui thì tỷ lệ dịch vụ nợ trên xuất khẩu tác động âm

đến tăng trưởng, cho thấy việc thanh toán nợ làm giảm nguồn lực đầu tư trong

nước, nên việc gia tăng tỷ lệ này làm giảm tăng trưởng kinh tế là phù hợp.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP tỷ lệ thuận với tăng trưởng kinh tế. Vai trò

của FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng của tăng

trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ,

phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm,…Ngoài ra, FDI cũng đóng góp tích cực

56

vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh

tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc

độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết đến là quốc gia phát

triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Tuy

nhiên, FDI cũng đã và đang tạo ra nhiều vấn đề ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền

vững của tăng trưởng và chất lượng cuộc sống của người dân. Gần đây, đã xuất hiện

hàng loạt vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội, trong đó nổi bật là chất lượng sử dụng

FDI thấp, thiếu tính bền vững, ô nhiễm môi trường trầm trọng.

Trong mức ý nghĩa thống kê:

 Khi tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP tăng lên 1% thì tăng trưởng kinh tế sẽ tăng

0.012641 điểm phần trăm;

 Khi tỷ lệ tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế sẽ

tăng 0.024589 điểm phần trăm;

3.2.3.3 Phân tích cân bằng ngắn hạn - Mô hình ECM.

Theo Granger (1983 và 1986) khái niệm cân bằng dài hạn chỉ định sự tương đương

về mặt thống kê của đồng tích hợp. Khi có đồng tích hợp và khi có một cú sốc bất

kỳ xảy ra gây ra sự mất cân bằng thì sẽ tồn tại quá trình điều chỉnh động ngắn hạn

như cơ chế hiệu chỉnh sai số. Cơ chế này sẽ đưa hệ thống trở lại cân bằng dài hạn.

Thực tế cho thấy, đồng tích hợp hàm ý sự tồn tại dạng hàm hiệu chỉnh sai số động

trong xem xét quan hệ giữa các biến, do vậy mô hình ECM được sử dụng trong ước

lượng sẽ cho phép xác định cân bằng dài hạn từ sự vận động ngắn hạn được xác

định từ dữ liệu thực tế.

Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho thấy hầu hết các biến là chuỗi dừng ở sai

phân bậc một I(1), và có tồn tại sự đồng liên kết trong phương trình (1) nên ta có thể

sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM), để tính toán mức độ tác động của các

nhân tố đến biến động của tăng trưởng kinh tế và xác định mức chênh lệch trong

ngắn hạn so với mức cân bằng dài hạn của chỉ số tăng trưởng kinh tế.

Trước khi thực hiện mô hình ECM, tác giả thực hiện kiểm định VAR các biến của

57

mô hình ở sai phân bậc một, để tìm ra bước trể tối ưu. Kết quả cho thấy các tiêu

chuẩn FPE, AIC,SC và HQ chỉ ra bước trể tối ưu là 2, trong khi tiêu chuẩn LR chỉ

ra bước trể là 1 (xem thêm Phụ lục 4).

Với kết quả lựa chọn bước trể như trên, đầu tiên mô hình ECM được thực hiện với

bước trể giới hạn là 2 kỳ, phần hiệu chỉnh sai số là biến ECt-1 được lấy từ phương

trình (1).

ECt-1 = LnYt-1 - α0 - α1 lnEDTt-1 - α2 lnEXPt-1 - α3 lnFDIt-1 - α4 lnINVt-1 - α5 lnTDSt-1

2

2

2

2

+

+

+

+

∆y =  0 +

y  t

i

EDT  t

i

i EXP  t i

INV  t

i

 ln  i

 ln  i

 

 ln  i

i

0

i

0

i

0

i

0

2

+ ECt-1

+ ut (3)

TDS  t

i

 ln  i

i

0

Mô hình cụ thể :

+ Kết quả hồi qui mô hình hiệu chỉnh sai số ECM với 2 bước trễ được trình

bày trong Bảng 3.5.

Bảng 3.5: Hồi qui mô hình ECM với 2 bước trễ.

Dependent Variable: DY

Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.

0.834475 0.427518 1.951906 0.146 DY t_1

-0.56538 0.395899 -1.42809 0.2486 DY t_2

DEXP 0.13964 0.119675 1.166828 0.3276

-0.13934 0.05222 -2.66837 0.0758 DEXP t_1

0.337598 0.218376 1.545946 0.2198 DEXP t_2

DLnEDT -0.01705 0.010194 -1.67277 0.193

0.093038 0.044986 2.068142 0.1305 DLnEDT t_1

-0.06031 0.049023 -1.23032 0.3063 DLnEDT t_2

DLnFDI -0.04771 0.025398 -1.87844 0.1569

0.078622 0.052242 1.504947 0.2294 DLnFDI t_1

-0.02985 0.016915 -1.76476 0.1758 DLnFDI t_2

DLnINV 0.082433 0.0321 2.567984 0.0826

58

0.084166 0.056759 1.48286 0.2347 DLnINV t_1

-0.15486 0.134322 -1.15288 0.3325 DLnINV t_2

DLnTDS 0.047054 0.023619 1.992193 0.1404

-0.04644 0.020425 -2.27348 0.1076 DLnTDSt_1

0.004823 0.01212 0.397919 0.7173 DLnTDS t_2

-0.65619 0.634861 -1.03359 0.3773 EC t_1

C 0.005511 0.008888 0.620049 0.5791

R-squared 0.975859 Mean dependent var 0.000749

Adjusted R-squared 0.831016 S.D. dependent var 0.013812

S.E. of regression 0.005678 Akaike info criterion -7.7696

Sum squared resid 9.67E-05 Schwarz criterion -6.82734

Log likelihood 104.4656 F-statistic 6.737354

2.432294 Prob(F-statistic) 0.07065

Durbin-Watson stat Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1

Hình 3.2. Đường biểu diễn giá trị dự báo và phần dư mô mình ECM

.03

.02

.01

.00

-.01

.008

-.02

-.03

.004

.000

-.004

-.008

4

6

8

10

12

14

16

18

20

22

24

Phan du Gia tri thuc Du bao

Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1

dựa trên phần dư phương pháp Engle-Granger (3)

59

Kết quả hồi quy (bảng 3.5) cho thấy khó có thể xác định chắc chắn biến nào là biến

có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn vì nếu căn cứ vào xác xuất

khả năng (Pro) của các hệ số hồi quy thì các hệ số này chưa đáng tin cậy về mặt

thống kê. Do đó, cần phải xem xét để điều chỉnh bước trể xuống còn 1 kỳ.

1

1

1

1

+

+

+

+

∆y =  0 +

y  t

i

EDT  t

i

i EXP  t

i

INV  t

i

 ln  i

 ln  i

 

 ln  i

i

0 

i

0

i

0

i

0

1

+ ECt-1

+ ut (4)

TDS  t

i

 ln  i

i

0

Mô hình điều chỉnh như sau:

Kết quả hồi qui mô hình hiệu chỉnh sai số ECM với 1 bước trễ được trình bày trong

Bảng 3.6.

Bảng 3.6: Hồi qui mô hình ECM với 1 bước trễ.

Dependent Variable: DY

Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.

0.398003 0.182429 2.18169 0.0541 DY t_1

DEXP -0.03105 0.0224 -1.38614 0.1958

-0.11205 0.032877 -3.40804 0.0067 DEXP t_1

DLnEDT -0.00023 0.006334 -0.03608 0.9719

0.018424 0.009184 2.006124 0.0726 DLnEDT t_1

DLnFDI -0.00857 0.008372 -1.02352 0.3302

0.007344 0.002895 2.537008 0.0295 DLnFDI t_1

0.053421 0.026458 2.019059 DLnINV 0.0711

0.091286 0.030211 3.021571 0.0129 DLnINV t_1

DLnTDS 0.003299 0.005807 0.568155 0.5825

-0.01246 0.004677 -2.66456 0.0237 DLnTDS t_1

0.191427 -5.82631 0.0002 -1.11531 ECt_1

C -0.00486 0.002254 -2.15781 0.0563

60

0.897227

0.001391

R-squared Mean dependent var

0.773898

0.013842

Adjusted R-squared S.D. dependent var

0.006582

-6.91151

S.E. of regression Akaike info criterion

0.000433

-6.26971

Sum squared resid Schwarz criterion

92.48237

7.275112

Log likelihood F-statistic

2.198496

0.001851

Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1

Durbin-Watson stat Prob(F-statistic)

Hình 3.3. Đường biểu diễn giá trị dự báo và phần dư mô mình ECM

.03

.02

.01

.00

.012

-.01

.008

-.02

-.03

.004

.000

-.004

-.008

4

6

8

10 12 14 16 18 20 22 24

Phan du Gia tri thuc Du bao

dựa trên phần dư phương pháp Engle-Granger (4)

Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1

Từ kết quả phân tích được trình bày tóm tắt trong bảng 3.6, ở các mức ý nghĩa

thống kê, trong ngắn hạn, biến tăng trưởng kinh tế chịu tác động bởi chính nó trong

61

độ trể 1 kỳ, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng bởi các biến: DEXPt_1(Độ mở nền kinh tế

độ trể 1 kỳ) , DLnEDTt_1 (Tỷ lệ nợ nước ngòai trên GDP độ trể 1 kỳ), DLnFDIt_1

(Tỷ lệ đầu tư nước ngòai trên GDP độ trể 1 kỳ), DlnINV và DLnINVt_1(Tỷ lệ đầu tư

trong nước trên GDP độ trể 1 kỳ) và DLnTDS t_1 (Tỷ lệ dịch vụ nợ trên GDP độ trể

1 kỳ).

Hệ số phần điều chỉnh sai số ECt-1 của mô hình đều mang dấu âm, hệ số mang dấu

âm cho biết các nhân tố ở thời kỳ này có chịu ảnh hưởng bởi những bất cân bằng

thời kỳ trước. Thứ hai, hệ số ECt-1 đảm bảo mối quan hệ đồng liên kết đã tìm ra ở

phần trước. Hệ số ECt-1 có giá trị -1.11531 với phương pháp hồi quy của Engle-

Granger cho thấy tốc độ điều chỉnh về cân bằng là khá nhanh.

+ Kiểm định sự phù hợp của mô hình ECM 1 bước trễ:

 Kiểm định RESET của Ramsey:

Một trong những kiểm định phổ biến nhất để kiểm định sai dạng mô hình là kiểm

định RESET của Ramsay (1969), đây là loại kiểm định Wald thông thường (dựa

trên thống kê F) cho việc đưa thêm các giải thích vào mô hình. Nếu một hoặc một

số hệ số có ý nghĩa thống kê, thì đó là dấu hiệu của việc sai mô hình (tổng quát),

ngược lại nếu chấp thuận giả thuyết thì mô hình ban đầu là đúng.

Bản 3.7. Kết quả kiểm ý nghĩa thống kê mô hình ECM (Mô hình 1 bước trễ)

Ramsey RESET Test: 4

F-statistic 1,605722 Prob. F(4,6) 0,287413

Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1 Căn cứ vào kết quả kiểm định, với mức ý nghĩa 5% các hệ số của mô hình không có

Log likelihood ratio 16,73897 Prob. Chi-Square(4) 0,002172

ý nghĩa thống kê và xác xuất Pro.F là 28,74% >5%, do đó ta chấp thuận giả thuyết

và nhận định mô hình ban đầu là đúng.

62

 Kiểm định phần dư có phân phối chuẩn (Kiểm định Histogram-Normality ).

Theo lý thuyết định lượng nếu phần dư không ngẫu nhiên, không có phân phối

chuẩn là một thông tin quan trọng cho biết mô hình hồi quy chưa tốt do có thể bị

các lỗi như bỏ sót biến quan trọng, sai dạng hàm, phương sai thay đổi, tự tương

quan,..Hơn nữa, phần dự là hạng nhiễu có trung bình bằng không và phương sai

không đổi. Nếu giả định này không thõa mãn thì các thống kê suy luận của mô hình

hồi quy ( như tstat, Fstas, …) không có giá trị nữa. Do đó, để kiểm định phần dư có

phân phối chuẩn hay không chúng ta sử dụng thống kê JB của jarque-berra (1990).

Bảng 3.8: Phần dư có phân phối chuẩn

Mức ý nghĩa Kết luận ECM dựa trên phần dư phương pháp Engle- Granger

Histogram-Normality test: H0 : Phần dư có phân phối chuẩn

Jarque-Bera 1.774091

Probability 0.411871 5% Chấp nhận giả thuyết

Căn cứ vào kết quả kiểm định, xác xuất Pro. là 41.18% >5%, do đó ta chấp thuận

giả thuyết và mô hình có phân phối chuẩn.

7

6

Series: Residuals Sample 3 25 Observations 23

5

4

3

2

Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis

1.38e-18 -8.18e-05 0.011752 -0.007073 0.004437 0.632283 3.502096

1

Jarque-Bera Probability

1.774091 0.411871

0

-0.005

0.000

0.005

0.010

Hình 3.4 : Kết quả kiểm định Histogram-Normality.

63

 Kiểm định wald ECM 1 bước trê:

Để kiểm chứng các hệ số hồi qui tuyến tính của mô hình (4) có đồng thời bằng

không , chúng ta thực hiện kiểm định Wald, với giả thuyết hệ số các biến trong mô

hình đồng thời bằng không. Kết quả như sau :

Bảng 3.9 : Kiểm định wald mô hình ECM 1 bước trể

Mức ý nghĩa Kết luận ECM dựa trên phần dư phương pháp Engle- Granger

Wald Test: Tất cả các biến của mô hình đồng thời bằng 0

F-statistic 7.275112

Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1

Probability 0.0019 5% Bác bỏ giả thuyết

Với mức ý nghĩa  = 5%, kiểm định ràng buộc tuyến tính (kiểm định Wald) bác bỏ

giả thuyết các biến trong mô mình đồng thời bằng không. Điều này cho thấy kết quả

hồi quy mô hình là có ý nghĩa.

3.2.4 Kết luận:

Theo kết quả kiểm định mô hình các biến nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, dịch

vụ nợ, độ mở của nền kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải thích được

khoảng 59.2% thay đổi của biến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn

nghiên cứu. Trong dài hạn nợ nước ngoài và đầu tư trong nước là hai yếu tố chính

trong các biến được lựa chọn có tác động nhiều đến tăng trưởng kinh tế. Trong ngắn

hạn, Nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài trực tiếp, độ mở nền kinh

tế ờ kỳ trước có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh kế kỳ hiện tại. Khi có biến động

mạnh của các yếu tố vĩ mô quá trình điều chỉnh từ cân bằng ngắn hạn về dài hạn là

nhanh hệ số cân bằng lớn (ECt-1 = - 1.11531).

Cũng từ kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy trong các biến kinh tế vĩ mô nợ

nước ngoài, đầu tư trong nước có tác động nhiều đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

Do đó, để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững, chúng ta

64

cần đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh đầu tư trong nước bằng

nguồn vốn tiết kiệm, kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài không để vượt ngưỡng an

toàn, quản lý khai thác vốn đầu tư có hiệu quả và khả năng trả nợ vay, đồng thời thu

hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài với những dự án có trình độ công nghệ cao, máy

móc hiện đại và hạn chế tác động xấu đến môi trường.

3.2.5 Hạn chế của mô hình định lượng.

Mẫu quan sát tương đối nhỏ (25 quan sát, theo số liệu năm 1986-2010), nếu số liệu

của Việt Nam được phản ảnh theo quý, thì số mẫu quan sát nhiều hơn và kết quả đo

lường kinh tế lượng sẽ chuẩn xác hơn, lúc đó chúng ta có thể sử dụng phương pháp

đồng liên kết của Johansen và Juselius (1990) để so sánh kết quả với phương pháp

đã thực hiện, nhằm đạt độ tin cậy cao hơn từ mô hình

Do thống kê tài chính trong nước không đầy đủ và rất kho tiếp cận nên nghiên cứu

sử dụng số liệu từ các tổ chức tài chính quốc tế nên có thể sẽ có một số điểm khác

biệt với các số liệu báo cáo trong nước, điều này có thể do phương pháp và cách

phân bổ khác nhau.

65

CHƯƠNG IV MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM.

Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, nợ nước ngoài đã đóng

góp nhất định đến công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Dòng nợ nước ngoài

góp phần lấp vào lỗ hổng thiếu hụt giữa tiết kiệm và đầu tư; thiếu hụt của cán cân

thanh toán quốc tế. Đây là nguồn vốn đầu tư ổn định để Chính phủ thực hiện thành

công các chương trình đầu tư công, chương trình phát triển kinh tế xã hội theo các

mục tiêu hoạch định. Việc quản lý nợ nước ngoài hiệu quả cần phải được nhìn nhận

và đánh giá qua tính ổn định nợ công, khả năng trả nợ trong tương lai, tính công

bằng về gánh nặng nợ giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai theo các tiêu chí phù

hợp với mục tiêu quản lý và thông lệ quốc tế, từ đó hướng tới hoàn thiện thể chế,

chiến lược, chính sách trong vay và quản lý nợ nhằm tối đa hóa lợi ích và tối thiểu

hóa chi phí vay nợ trong khuôn khổ trung và dài hạn, kiểm soát rủi ro ở mức chấp

nhận được, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ đó, tác giả đề xuất

một số khuyến nghị sau đây

4.1- Gắn kết quy mô nợ nước ngoài với tăng trưởng kinh tế;

Căn cứ nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế, lãi suất vay nợ nước ngoài trên thị

trường và tốc độ tăng trưởng kinh tế, Chính phủ có thể kiểm soát mức bội chi ngân

sách để ổn định tỷ lệ nợ vay/GDP, không tạo gánh nặng nợ trong tương lai. Bên

cạnh đó, để nâng cao khả năng hấp thụ nợ công cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt nợ

nước ngoài, giải pháp hàng đầu là phải chú trọng đến việc cải thiện hoạt động xuất

khẩu. Bởi vì, vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu đã bộc lộ trong nhiều năm qua là

việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản,

dệt may, da giầy… Hơn nữa, các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính

chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn

có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với

nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.

Tiếp đến phải đổi mới chính sách tài khóa, kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công, hướng

66

đến các biện pháp tăng nguồn thu, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng

trưởng bền vững. Từng bước thiết lập cơ chế phân phối nguồn lực tài chính phù hợp

các mục tiêu ưu tiên của chiến lược tăng trưởng, đồng thời nâng cao tính trách

nhiệm, minh bạch trong quản lý chi tiêu công, đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực

của những chương trình và cung cấp hàng hóa công cho xã hội.

Nước ta hiện đang trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế, nguồn lực tài chính trong

nước có hạn, trong khi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển tăng cao, nên nợ nước

ngoài đối với Việt Nam vẫn là nguồn tài chính quan trọng bù đắp thâm hụt ngân

sách để chi đầu tư cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế là bình thường. Trên thế

giới, nước nào cũng tận dụng cơ hội vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi để đầu tư

phát triển cơ sở hạ tầng, chứ không riêng gì Việt Nam. Tuy vậy, vay nợ bao nhiêu là

an toàn lại là một bài toán khó giải, cần có biện pháp tính toán kiểm soát mức nợ

phù hợp với nền kinh tế và kiểm soát tốt quá trình sử dụng nguồn vốn vay.

Do đó, phải gắn kết quy mô nợ nước ngoài với mục tiêu tăng trưởng, bảo đảm tính

bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ nước ngoài, trong đó, phải xây

dựng chiến lược vay và sử dụng nợ vay một cách hiệu quả, đảm bảo khả năng thanh

toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, đồng thời phải thường

xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ chính phủ, để đảm bảo quy

mô nợ vay phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, không làm tăng thêm gánh nặng

nợ cho quốc gia.

4.2- Hướng đến cân đối tiết kiệm- đầu tư.

Thu ngân sách không bù trừ được chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư trong nước thì

tốc độ vay nợ sẽ tăng. Như vậy, để giảm áp lực vay nợ nước ngoài thì giải pháp tốt

nhất đòi hỏi phải gia tăng tiết kiệm trong nước, giảm chi tiêu dùng của nhà nước.

Theo tác giả cải thiện hiệu quả đầu tư được xem là giải pháp quan trọng để góp

phần cải thiện sự chênh lệch giữa tiết kiệm nội địa và đầu tư, và nên tập trung vào

khu vực đầu tư vốn nhà nước, vì đây là khu vực có vốn đầu tư chiếm tỷ trọng cao

không chỉ ở hiện tại mà còn duy trì tỷ lệ cao trong nhiều năm tới, nhưng hiệu quả

67

kinh tế rất thấp. Để cải thiện hiệu quả đầu tư khu vực công cần chú ý đến những vấn

đề sau:

 Đổi mới quản trị và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà

nước; bãi bỏ các đặc quyền và độc quyền có thể tạo ra sức ỳ và mang lại lợi ích cục

bộ cho doanh nghiệp nhà nước; thiết lập thể chế thường xuyên giám sát và đánh giá

hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.

 Cần phải giám sát chặt chẽ công tác tổ chức đấu thầu đầu tư và xây dựng,

đấu thầu chọn tư vấn, thiết kế,.. kể cả đấu thầu mua sắm, đảm bảo công khai minh

bạch, công bằng đúng pháp luật và quy luật cạnh tranh, từ đó mới giảm được chi phí

đầu tư. Bởi vì, thực trạng đấu thầu hiện nay phần lớn mang hình thức, không đảm

bảo tính cạnh tranh, đây là mãnh đất màu mỡ cho tham nhũng và ảnh hưởng nghiêm

trọng đến hiệu quả đầu tư khu vực nhà nước. Đây là việc cần làm từ trước khi quyết

định đầu tư tới lúc chọn dự án, thực hiện và giám sát, duy trì hiệu quả của dự án đầu

tư.

 Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho đầu tư công, quản lý nợ công ;

 Cần thiết cải thiện việc phối hợp giữa trung ương và địa phương. Các địa

phương cần ngồi lại với nhau và dùng phương pháp tiếp cận ở quy mô vùng để đưa

ra quyết định lựa chọn đầu tư nhằm tránh chồng chéo và lãng phí;

Tiết kiệm khu vực tư nhân là một yếu tố quan trọng trong các yếu tố tác động rất

lớn đến tăng trưởng kinh tế. Để khuyến khích tiết kiệm khu vực tư nhân nên hoàn

thiện chính sách và hệ thống thuế. Với sự điều chỉnh mức thuế suất thuế thu nhập cá

nhân và ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp chính phủ có khuyến khích gia tăng tiết

kiệm nhiều hơn đối với khu vực tư.

Bên cạnh những biện pháp kiểm soát chặt chẽ đầu tư công, kêu gọi sự tiết kiệm của

người dân, của doanh nghiệp để giảm sự thâm hụt ngân sách, Chính phủ cũng cần

hướng đến các biện pháp tăng thu ngân sách. Trong đó:

 Cải thiện các nguồn thu ngân sách từ thuế, phí lệ phí bao gồm nâng cao

68

hiệu quả thu, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn thu

không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt

thuế bất động sản, thực hiện các biện pháp chống thất thu thuế ;

 Hoàn thiện các hình thức thu từ hoạt động kinh tế và hoạt động khác trong

nước vào NSNN bao gồm: thu từ hoạt động góp vốn của NSNN vào các doanh

nghiệp trong và ngoài nước, thu từ nguồn tài sản công ;

Như vậy, nếu thực hiện tốt những biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công, nhất là

khu vực nhà nước và cải thiện các nguồn thu sẽ góp phần cân đối giữa tiết kiệm và

đầu tư, giảm vay nợ nước ngoài, tạo tiền để tăng trưởng kinh tế bền vững, không tạo

gánh nặng nợ công cho quốc gia.

4.3- Tăng cường quản lý việc vay nợ nước ngoài không được bảo lãnh.

Việc vay nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh với hình thức “tự vay, tự

trả”, không bị chi phối bởi Luật quản lý nợ công có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010,

và Chính phủ cũng không chịu trách nhiệm thanh toán các khoản vay này, bên đi

vay phải chịu trách nhiệm thanh toán. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế thì họ vẫn

tính vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia, nếu Việt nam tính khoản nợ này vào thì

tổng nợ nước ngoài quốc gia rất lớn, có thể vượt rất xa ngưỡng an toàn nợ.

Cho đến nay, hình thức tự vay, tự trả vẫn chưa được Chính phủ kiểm soát. Theo tác

giả, các đơn vị vay nợ nước ngoài cùng đầu tư trong nước Việt Nam, nếu kinh

doanh thua lỗ, dẫn đến phá sản, mất khả năng thanh toán thì sẽ tác động rất nghiêm

trọng đến tòan bộ nền kinh tế. Và với vị thế chính trị trên trường quốc tế, Việt nam

không thể chối bỏ trách nhiệm thanh toán, lý do là nhà nước không thể hay khó

lòng về mặt chính trị xóa trách nhiệm đối với nợ của các doanh nghiệp do chính

chính phủ dựng lên. Nợ công là thước đo hành xử về chính sách của nhà nước. Do

đó, để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, Chính phủ nên ban hành các quy phạm

pháp luật để quản lý, kiểm soát loại hình này.

69

Chính phủ quản lý vay nước ngoài tự vay, tự trả trong khuôn khổ quản lý nợ nước

ngoài của quốc gia, bảo đảm an toàn nợ trong giới hạn được cấp có thẩm quyền phê

duyệt, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và cân đối vĩ mô của nền kinh tế.

Việc quản lý hình thức tự vay, tự trả thông qua đầu mối Ngân hàng Nhà nước, đảm

bảo phù hợp với chính sách quản lý tín dụng trong nước, đảm bảo thống nhất mục

tiêu của chính sách tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối trong từng thời kỳ, kể cả

Các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp dưới hình thức phát hành trái phiếu

quốc tế phải tuân thủ quy định hiện hành của pháp luật về phát hành trái phiếu quốc

tế.

4.4- Cải thiện thể chế và chính sách để hướng đến xây dựng một chiến lược quản lý nợ thích nghi với bối cảnh hiện nay.

Qua kết quả đánh giá theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ

nước ngoài, cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam

xếp vào chỉ số CPIA ≤3, tức là ở mức kém. Do đó, cần phải cải thiện thể chế và

chính sách quốc gia (CPIAs) nhằm ngăn chặn cú sốc từ bên ngoài đối với những

nước có thu nhập trung bình như Việt Nam.

Cách tiếp cận này dựa vào khuôn khổ chi tiết của từng quốc gia trên nền tảng thể

chế và chính sách nhằm hướng đến phân tích nợ năng động và định lượng các

ngưỡng ổn định nợ dựa vào cơ sở chất lượng của chính sách và thể chế. Nghĩa là,

các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ cao hơn

so với mức ổn định nợ cơ bản. Ngược lại, quốc gia nào mà thể chế và chính sách

yếu kém thì mức độ và quy mô nợ công cần được khống chế trong giới hạn ngưỡng

của các nước HIPCs.

Việt Nam trong bối cảnh hội nhập đang tiến dần đến chính sách tự do hóa tài chính

và trong đó có tự do hóa tài khoản vốn. Đồng thời. do tính phức tạp ngày càng lớn

của danh mục nợ bao gồm nợ trong nước và nước ngoài, cần thiết phải cải thiện thể

chế và chính sách quốc gia để ứng phó với những bất ổn định của nợ công và nợ

70

nước ngoài.Trong đó, thể chế và chính sách quốc gia cần được đổi mới và cải thiện

nhằm vào các tiêu chí sau:

- Thứ nhất: Quản lý kinh tế

Quản lý kinh tế vĩ mô: Yêu cầu chính sách tỷ giá và tiền tệ phải hướng đến ổn định

giá cả; chính sách tổng cầu của Chính phủ không gây chèn lấn đầu tư của khu vực

vực tư.

Chính sách tài khóa: Cân bằng cơ bản cần được kiểm soát để đảm bảo sự ổn định

của tài chính công; thu, chi công cần được điều chỉnh để ngăn chặn các cú sốc khi

cần thiết; và sự cung cấp hàng hóa công phải thống nhất trong khuôn khổ trung hạn.

Thứ hai: Chính sách cơ cấu

- Thương mại: Xem xét khuôn khổ chính sách hỗ trợ phát triển thương mại. Có hai

lĩnh vực cần quan tâm đó là, (a) những giới hạn của chế độ thương mại mà chủ yếu

là tập trung vào độ cao của hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng như tính minh

bạch và tiên liệu của chế độ thương mại; (b) mức độ tạo điều kiện cho hoạt động

thương mại của chính sách hải quan.

- Khu vực tài chính: Có 3 vấn đề cần quan tâm, (a) sự ổn định tài chính; (b) tính

hiệu quả và độ sâu tài chính, sức mạnh huy động nguồn lực; và (c) tiếp cận các dịch

vụ tài chính.

- Môi trường luật pháp kinh doanh.

Thứ ba: Chính sách xã hội và công bằng xã hội

- Công bằng về giới: Tiêu chí này đánh giá mức độ mà quốc gia tăng cường và đưa

vào các chương trình và thể chế (a) nhằm đẩy mạnh sự tiếp cận của phụ nữ đối với

các nguồn lực kinh tế và sản xuất; (b) nâng cao địa vị của phụ nữ trong xã hội…

- Công bằng sử dụng nguồn lực công: Thu chi tài khóa phải tác động đến người

nghèo và thống nhất với các ưu tiên giảm nghèo quốc gia.

71

- Phát triển nguồn nhân lực: Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia là

yếu tố quan trọng cho sự phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế. Tiêu chí được

đánh giá qua (a) chất lượng dịch vụ y tế và dinh dưỡng; (b) chất lượng của hệ thống

giáo dục và đào tạo; (c) công tác phòng chống và điều trị HIV/AIDS…

- Lao động và đảm bảo xã hội: Tiêu chí này đánh giá chính sách của Chính phủ

trong việc giảm thiểu rủi ro trở nên nghèo, giúp cho người nghèo quản lý tốt các rủi

ro và đảm bảo mức độ phúc lợi tối thiểu cho tất cả mọi người, như: (a) chương trình

mạng lưới an toàn xã hội; (b) bảo vệ các tiêu chuẩn lao động cơ bản; (c) quy định

thị trường lao động; (d) lương hưu và các chế độ đảm bảo cho người già…

- Chính sách và thể chế ổn định môi trường: Đánh giá mức độ chính sách bảo vệ

môi trường và sử dụng ổn định nguồn tài nguyên thiên nhiên và quản lý ô nhiễm.

Thứ tư: Thể chế và quản lý khu vực công

- Quyền tài sản và quản lý dựa vào pháp luật: Tiêu chí này đánh giá mức độ tạo điều

kiện cho khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh. Có các tiêu

chí cần xem xét, (a) nền tảng pháp lý về quyền tài sản và hợp đồng; (b) tính tiên

liệu, minh bạch và công bằng của luật pháp tác động đến hoạt động kinh tế …

- Chất lượng quản lý tài chính và lập ngân sách: Được đánh giá qua các tiêu chí (a)

ngân sách đáng tin cậy và tổng thể có gắn kết với các ưu tiên chính sách; (b) hệ

thống quản lý tài chính hiệu quả để đảm bảo ngân sách được thực hiện có hiệu quả

và hiệu lực; (c) kế toán và báo cáo tài chính chính xác và kịp thời.

- Hiệu quả huy động nguồn thu: (a) chính sách thuế; (b) quản trị thuế với chi phí

thấp nhất.

- Chất lượng quản trị công: (a) hợp tác chính sách và trách nhiệm; (b) cung cấp dịch

vụ và hiệu quả hoạt động…

- Tính minh bạch, trách nhiệm và tham nhũng của khu vực công.

Các tiêu chí CPIAs được xây dựng ở chừng mực nhất định nó tạo ra khuôn khổ hỗ

trợ tăng trưởng ổn định, giảm nghèo và sử dụng có hiệu quả nợ công.

72

4.5- Hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài:

- Xây dựng chiến lược vay nợ an toàn.

Việt Nam đã có Luật quản lý nợ công, cơ sở pháp lý quan trọng để tiến tới một

chiến lược quản lý nợ công, nợ nước ngoài hoàn chỉnh. Tuy nhiên, Luật quản lý nợ

công Việt Nam không đề cập việc xây dựng chiến lược quản lý nợ mà chỉ quy định

chung là Quốc hội quyết định “mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và

quản lý nợ công trong từng giai đoạn 5 năm”. Do đó, cần xây dựng kế hoạch chiến

lược về vay nợ công trên cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,

kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến

lược về vay nợ công xác định rõ mục đích vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân

sách, tái cơ cấu nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án

đầu tư quan trọng, hiệu quả, vay nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia), mức

huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và

ngoài nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp.

Kế hoạch chiến lược về vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản

vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn,

tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự

có nhu cầu sử dụng. Đồng thời, lựa chọn hợp lí các nguồn vay nước ngoài nhằm

hướng tới nâng cao chất lượng nguồn vay. Bởi vì, mỗi nguồn vốn có đặc điểm

riêng, cần phối hợp các nguồn vay nợ nước ngoài một cách thích hợp nhất theo mục

đích sử dụng trên nguyên tắc khai thác triệt để các nguồn vốn ưu đãi có thời gian

dài, thời gian ân hạn dài, lãi suất thấp, tỷ lệ ưu đãi cao như viện trợ phát triển chính

thức để đầu tư phát triển cơ sở hạn tầng, vì cần vốn đầu tư lớn, tác động đến tăng

trưởng lâu dài, bền vững.

Chính sách nợ công hiệu quả cần xem xét liệu chiến lược quản lý nợ công có hấp

thu tốt các khoản vay cho tăng trưởng kinh tế hay không; có giảm thiểu rủi ro tài

khóa và đảm bảo ổn định nợ dài hạn hay không; nợ công phải hướng đến duy trì ổn

định nợ và mức độ phối hợp giữa quản lý nợ công và chính sách vĩ mô; trong chiến

73

lược quản lý nợ công, thông tin phải được cập nhật đầy đủ và kịp thời; bộ phận

quản lý nợ công có đủ năng lực kiểm soát các khoản nợ mới nhằm đảm bảo ổn định

nợ.

- Nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn được Chính

phủ bảo lãnh..

Đây là vấn đề cốt yếu bảo đảm cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công.

Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng

các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh

nghiệp; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro

trong toàn bộ quá trình vay nợ.

Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ 2

nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước

ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và

bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá

trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại

các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước,

ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng.

Cần chú ý đến khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam, không nên chủ

quan khi chỉ dựa vào ngưỡng an toàn cho nợ nước ngoài theo tập quán quốc tế là

50% GDP. Trong thực tế, theo tiêu chuẩn phân loại mức độ nợ của Ngân hàng Thế

giới, cho rằng tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP trong khoảng 30% - 50% có nghĩa là quốc

gia đó đang ở mức độ khó khăn. Với tình hình ngân sách luôn bị thâm hụt, nếu công

tác kiểm soát nợ không chặt chẽ và hiệu quả thì khả năng vượt ngưỡng an toàn sẽ

rất gần. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải tính đến tổng nợ nước ngoài phải trả với

tổng các khoản vay mới, tránh tình trạng tổng phải trả lớn hơn tổng khoản vay vì

các năm qua con số trả nợ thấp do các khoản vay mới chưa đến hạn nhưng những

năm sắp tới đây chúng ta sẽ chịu áp lực trả nợ khi hạn thanh toán đã đến và cũng

74

theo thông tin từ Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2006- 2010, Việt N am phải trả nước

ngoài l0 - 11 tỷ USD, tính bình quân mỗi năm phải trả 2 tỷ USD.

Để sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả, cần phải xem xét một cách độc lập, khách

quan và đánh giá cẩn trọng các phương án kinh doanh, năng lực và tiềm năng của

các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, cần định giá được lợi nhuận ròng trong

phương án này phải cao hơn lãi suất đi vay. Phân chia rủi ro cho việc phân bố các

khoản vay vào các dự án đầu tư nên phân vốn vay này vào các dự án đầu tư trong

các lĩnh vực ngành nghề khác nhau nhưng chủ yếu tập trung vào ngành kinh tế đang

là mũi nhọn. Có các biện pháp chế tài mạnh không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp

được vay lại nguồn vốn từ trái phiếu mà cả với các vị trí lãnh đạo liên quan từ khâu

đề nghị, xét duyệt dự án, điều hành và thực hiện dự án, có như vậy mới ràng buộc

được trách nhiệm tài chính.

- Kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế, giám sát hệ thống tài chính tiền tệ,

thắt chặt chính sách tài khoá.

Vay nợ để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều bình thường. Tuy vậy, nợ bao

nhiêu là an toàn lại là một bài toán khó giải. Nợ hơn 100% GDP đã đủ làm sập nền

kinh tế Hy Lạp nhưng nợ 200% GDP như Nhật Bản lại vẫn chưa bị coi là nguy

hiểm. Tuy nhiên, bài toán chi tiêu vốn không dễ với các nước giàu, lại càng khó với

các nước đang phát triển có nền kinh tế hạn chế. Không thể vì mục tiêu phát triển

trước mắt mà thiếu tính toán về dài hạn.

Đối với Việt Nam, là phải vay mượn, nhất là vay vốn nước ngoài dưới nhiều hình

thức, thì mới có nguồn đầu tư cho tăng trưởng. Do đó, không lúc nào được lãng

quên vấn đề sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả, bởi đó là những đồng tiền vay

mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ phải trả nợ. Nếu sử dụng các khoản vay không hiệu

quả, tham nhũng gây thất thoát và thu không nghiêm (trốn thuế) hay thu không đủ,

nợ nần có thể chồng chất và rất dễ lâm vào tình trạng vỡ nợ.

Việt Nam rất cần sự giám sát chặt chẽ đối với hệ thống tài chính và các doanh

nghiệp lớn trong nền kinh tế, giảm thiểu các khoản cho vay kém chất lượng và loại

75

bỏ những doanh nghiệp nhà nước lớn kém hiệu quả càng sớm càng tốt để tránh đến

khi một doanh nghiệp quá lớn để đổ vỡ bị lâm vào nguy cơ sụp đổ thì Nhà nước

phải đứng ra bảo lãnh và cứu trợ. Nếu vẫn tiếp tục chạy theo tăng trưởng, bỏ mặc an

toàn hệ thống và dung túng những doanh nghiệp có quy mô quá lớn nhưng thực tế

chỉ còn các vỏ bọc bên ngoài thì rủi ro khủng hoảng tài khóa và nợ công sẽ ngày

một tăng lên. Vì vậy, trường hợp của Ireland hàm chứa những kinh nghiệm và cũng

là một lời cảnh báo cần được chú ý.

- Công khai minh bạch thông tin về nợ nước ngoài của quốc gia.

Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng

các khoản nợ nước ngoài và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ. Việc

công bố thông tin và minh bạch chính sách liên quan đến ngân sách và nợ nước

ngoài là hết sức cần thiết và quan trọng. Đây là xu hướng tất yếu mà Chính phủ Việt

Nam, và cụ thể là Bộ Tài chính phải thực hiện. Tuy nhiên, công bố thông tin không

nhất quán cũng có thể trở thành con dao hai lưỡi, gây ra tâm lý nghi ngờ và bất ổn

cho các nhà đầu tư cũng như thị trường. Do vậy, trong thời gian tới, Bộ Tài chính

cần phải đưa ra những thông điệp nhất quán, rõ ràng, có cơ sở hỗ trợ giải thích phù

hợp (với thông lệ quốc tế và tiêu chuẩn thị trường) về vấn đề nợ công, thâm hụt

ngân sách, và các chính sách tài chính có liên quan của Việt Nam để tránh gây tâm

lý bất ổn và nghi ngờ cho thị trường. Như trường hợp của Hy Lạp là điển hình cho

việc công bố thông tin không nhất quán, sai lệch trong bối cảnh đã đầy các bất ổn

và nghi ngờ, làm cho khủng hoảng ở nước này càng trở nên trầm trọng.

Hiện tại, Bộ Tài chính mới công bố trên cổng thông tin điện tử Bản tin Nợ nước

ngoài với chu kỳ 6 tháng một lần, với độ trễ là 6 tháng Bản tin Nợ nước ngoài này

không bao gồm các khoản nợ nước ngoài còn lại của khu vực công, khu vực tư nhân

và đặc biệt là nợ trong nước với xu thế ngày một tăng cả về trị số tuyệt đối và tỷ

trọng trong tổng số nợ.

Theo điều 47- Luật Quản lý nợ công quy định Bộ Tài chính phải công khai thông

tin về nợ công, bao gồm : “Tổng số dư nợ, cơ cấu nợ trong nước, nợ nước ngoài của

76

Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương, số liệu

vốn vay thực nhận và trả nợ hàng năm, các chỉ tiêu giám sát nợ chính phủ, nợ công,

nợ nước ngoài của quốc gia”. Tuy nhiên, cho đến nay việc tiếp cận thông tin của

công chúng về nợ nói chung, nợ công nói riêng ở nước ta hiện nay rất hạn chế.

Những khỏan mục nợ nước ngoài của quốc gia, cơ cấu nợ trong nước, nợ của chính

quyền địa phương,... vẫn chưa được công bố.

- Đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước.

Để giảm bớt tình trạng tham nhũng cần:

(i) minh bạch, công khai đầy đủ các thông tin như thông tin liên quan đến tài chính

và thủ tục hành chính bởi vì khi có tình trạng thông tin bất đối xứng thì người nắm

giữ thông tin sẽ được lợi nhờ giảm được chi phí còn người thiếu thông tin sẽ phải

gia tăng chi phí để có được thông tin. Điều này dễ nảy sinh tình trạng nhũng nhiễu

và hối lộ. Do vậy, các quy hoạch, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu sử dụng ngân sách

nhà nước phải công khai, phải phù hợp với mặt bằng giá cả trong từng thời kỳ nhất

định. Mọi thông tin liên quan đến quy trình thực hiện các thủ tục phải niêm yết công

khai trên các bản thông báo, trên mạng hoặc phương tiện thông tin đại chúng để

người dân có thể tiếp cận;

(ii) cải cách hành chính, giảm bớt các khâu, các thủ tục không cần thiết gây phiền

hà cho dân. Các chính sách, văn bản đưa ra phải sát với thực tế, rõ ràng và có thể

thực hiện; tránh tình trạng văn bản vừa đưa ra đã hủy bỏ hoặc một nội dung được

hiểu theo nhiều ý;

(iii) định mức thời gian hoặc thiết lập một quy trình nghiệp vụ chuẩnn cho tất cả

mọi công việc từ công việc sự vụ hàng ngày đến việc thực hiện các dự án lớn; chấm

dứt tình trạng quy hoạch treo hoặc đầu tư kéo dài;

(iv) giảm bớt hội họp, phong bì, thay thế việc hội họp bằng phân công phân nhiệm

rõ ràng; thay thế các cuộc họp mặt truyền thống bằng các cuộc họp thông qua mạng

viễn thông; sử dụng hình thức liên lạc thông qua mạng nội bộ và mạng toàn cầu

thay vì sử dụng văn bản giấy nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí;

77

(v) gắn quyền lợi với trách nhiệm. Quyền lợi và trách nhiệm phải cụ thể hóa đối với

từng cá nhân; trong quy chế tài chính về khen thưởng được cụ thể hóa bằng vật chất

thì đối lại cũng phải có các quy định về đền bù thiệt hại khi sai phạm chứ không

phải cứ sai là sử dụng công quỹ để đền bù thiệt hại về vật chất,

(vi) tránh tinh trạng có luật mà không ai thi hành. Việc thanh tra, giám sát hiện nay

mang nặng tính hình thức, thiếu chuyên nghiệp, cung cách xử lý còn nặng tình cảm.

Việc giám sát phát hiện sai phạm phải thể hiện tính chuyên nghiệp, không giám sát

một cách tự phát hoặc tình cờ mà phải có chuyên môn, phải có chiến thuật hay nói

cách khác là phải có một cung cách làm việc hiệu quả. Cá nhân, cơ quan thực hiện

giám sát phải thực sự có quyền và phải được đảm bảo an toàn về tính mạng và tài

sản. Thực quyền này đòi hỏi phải phân cấp và cụ thể hóa bằng luật.

Cho đến nay, chưa một quốc gia nào có thể chứng tỏ đã thành công hoàn toàn trong

việc chống tham nhũng, nhất là trong quá trình sử dụng nguồn vốn ODA. Tuy

nhiên, ở những góc nhìn khác nhau, có thể cho thấy ở quốc gia này hay quốc gia kia

đạt được những kết quả nhất định trong việc hạn chế các tác nhân gây nên nạn tham

nhũng, hoặc có những công cụ hữu hiệu cho việc phòng ngừa tham nhũng.

Trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ nước ngoài là danh mục nợ lớn. Đây là một

cơ cấu tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm năng ảnh hưởng đến sự

ổn định tài chính trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Do vậy,

nâng cao hiệu quả quản lý nợ quốc gia nói chung và quản lý nợ nước ngoài nói

riêng hiện được Chính phủ rất quan tâm. Thời gian qua, Việt Nam thành công trong

việc thực hiện chính sách quản lý nợ thận trọng, kiểm soát quy mô nợ công ở mức

khá an toàn. Phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, VN cần hoàn thiện thể

chế và chính sách để qua đó chuyển chính sách quản lý nợ công từ chiến lược

phòng thủ sang chiến lược thích nghi với xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế

toàn cầu hiện nay.

78

KẾT LUẬN

Vay nợ nước ngoài là một nguồn vốn cần thiết cho phát triển kinh tế, tuy nhiên

không nên vay nợ nước ngoài bằng mọi giá, càng không thể coi việc vay nợ nước

ngoài là một cứu cánh để tăng trưởng trong hiện tại mà không chú ý đến sự phát

triển bền vững trong quá trình phát triển của nền kinh tế.

Qua phân tích thực trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam, nghiên cứu nhận thấy

mặc dù nợ nước ngoài ở Việt Nam đang gia tăng mạnh trong những năm gần đây

nhưng so với các tiêu chí đánh giá trong nước và các tổ chức tài chính quốc tế thì

tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Nghiên cứu

cũng cho thấy sử dụng nợ chưa được như mong đợi, hiệu quả sử dụng nợ nói riêng

và sử dụng vốn nói chung còn thấp, nếu dùng chỉ số ICOR để đánh giá hệ số này ở

Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khu vực Châu Á. Quản lý nợ cũng còn

nhiều điểm cần hoàn thiện để vay nợ không còn là gánh nặng quốc gia.

Ngoài ra nghiên cứu còn phân tích mối quan hệ định lượng giữa GDP, nợ nước

ngoài, đầu tư nội địa, dịch vụ nợ và độ mở nền kinh tế, trong đó mục đích chính là

tìm ra mối quan hệ trong ngắn hạn và dài hạn giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng

kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế từ 1986-2010. Kết

quả cho thấy trong dài hạn, nợ nước ngoài, đầu tư nội địa, độ mở nền kinh tế, xuất

khẩu đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay. Trong đó, gánh

nặng nghĩa vụ nợ phải trả cho nước ngoài tác động ngược chiều đến tăng trưởng

kinh tế.

Trên cơ sở phân tích nghiên cứu có nêu ra một số khuyến nghị về chính sách quản

lý vay nợ nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng

như hiện nay, thách thức đặt ra cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển

khác nói chung là cần nhận thức đúng đắn vai trò vay và trả nợ như thế nào để vừa

khai thác nguồn vốn vay nước ngoài sao cho hiệu quả để biến việc vay mượn thành

một đòn bẩy phát triển kinh tế, vừa không làm gia tăng những nguy cơ đối với an

79

ninh tài chính và không phụ thuộc vào những can thiệp về kinh tế chính trị từ nước

ngoài.

HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng theo tác giả, đề tài vẫn còn một số hạn chế.

Như đã trình bày, số liệu thống kê tài chính trong nước không đầy đủ và rất khó tiếp

cận nên nhiều chỉ tiêu, bảng biểu không trình bày đầy đủ số liệu xuyên suốt từ năm

1986 đến nay. Số liệu được tổng hợp từ nhiều tổ chức khác nhau trong và ngoài

nước;

Nghiên cứu sử dụng số liệu hằng năm nên số quan sát chưa đủ lớn để thực hiện

kiểm định đồng liên kết theo phương pháp Johansen và Juselius (1990) để so sánh

kết quả với phương pháp đã thực hiện;

Vì hạn chế thời gian và dữ liệu nên nghiên cứu chỉ tập trung vào chỉ tiêu ICOR ở

gốc độ cơ bản nhất để đánh giá hiệu quả đầu tư, chưa so sánh với các chỉ tiêu khác.

Để hoàn chủ đề nghiên cứu nợ nước ngoài, theo quan điểm của tác giả có thể thực

hiện thêm các chủ đề như:

 Thiết lập mô hình xác định ngưỡng nợ nước ngoài;

 Biện pháp kiểm soát và sử dụng hiệu quả vốn ODA;

 Hoàn thiện khuôn khổ luật quản lý nợ công của Việt Nam.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt Sách, Công trình nghiên cứu và tạp chí:  Nguyễn Ngọc Sơn, Trần Thị Thanh Tú (2007), Nguồn tài chính trong nước và

nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt Nam, Diễn đàn phát triển Việt Nam, NXB

Lao Động – Xã Hội;

 Nguyễn Trọng Hoài (2009), Dự báo và phân tích dữ liệu trong kinh tế và tài

chính, NXB Thống Kê ;

 Phạm Trí Cao, Vũ Minh Châu (2009), Kinh tế lượng ứng dụng, NXB Thống Kê

;

 PGS.TS. Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định (2008), Tài chính Quốc Tế, NXB

Thống Kê ;

 PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang (2007), Tài chính Doanh nghiệp Hiện đại, NSX

Thống Kê ;

 GS.TS. Dương Thị Bình Minh & PGS.TS. Sử Đình Thành (2008), “ Phương

pháp tiếp cận đánh giá hiệu quả nợ công”, Tạp chí kinh tế Phát triển số 215;

 Ths. Đoàn Kim Thành – Viện nghiên cứu phát triển Tp.Hồ Chí Minh (HIDS)

(2008):” Vốn vay ODA và khả năng trả nợ của Việt Nam”, trình bày tại Hội

nghị nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam, ngày 4/12/2008 ;

 Ths. Nguyễn Hoàng Phương với đề tài “ Ước lượng hiệu quả của vốn ODA đối

với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”, đăng trên tập Nguồn tài chính trong nước

và nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt, Nam, Diễn đàn Phát triển Việt Nam,

NXB Lao động Xã hội, năm 2007 ;

 TS. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt (2010)”Tình hình nợ công và

quản lý nợ công ở Việt Nam”;

 Các Bản tin nợ nước ngoài số 1,2,3,4,5,6 và 7- Bộ Tài chính;

 Luật quản lý nợ công của Quốc hội khóa XII số 29/2009/QH12 ngày 17 tháng 6

từ

ICOR

tăng

vọt!

ngày

3/11/2009

tại

năm 2009, hiệu lực 01/01/2010; và các Nghị định , thông tư hướng dẫn;

 Nguy

81

http://cafef.vn/20091103104319252CA33/ nguy-co-tu-icor-tang-vot.chn.

Tiếng Anh

 Krugman, Paul, (1988), “Financing versus forgiving a debt overhang,” Journal

of Development Economics, Washington;

 Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci (2002):” External Debt and

Growth”, Magazine Finance and Development of the IMF, June 2002, Volume

39, Number 2;

 Frimpong, J. M. and Oteng-Abayi, E. F., (2006) “The Impact Of External Debt

On Economic Growth In Ghana: A Cointegration Analysis”;

 Elbadawi, A. I., J. B. Ndulu, and N. Ndung'u (1996) ‘Debt Overhang and

Economic Growth in Sub-Saharan Africa’. Paper presented at the IMF/World

Bank Conference on External Financing for Low-income Countries, December.

Washington, DC: IMF/World Bank ;

 Mehmet Caner, North Carolina State University, Thomas Grennes, North

Carolina State University, Fritzi Koehler-Geib, World Bank (). “Finding the

 Shahnawaz Malik , Muhammad Khizar Hayat và Muhammad Umer Hayat

Tipping Point - When Sovereign Debt Turns Bad”;

(2010): “External Debt and Economic Growth: Empirical Evidence from

Pakistan”, International Research Journal of Finance and Economics - Issue 44

(2010)

 Krishna Prasad Regmi (2008): “A Study on Public Debt and its Impact on

Economic Growth in Nepal”, World Bank;

 Were, Maureen, (2001), “The Impact of External Debt on Economic Growth and

Private Investment in Kenya: An Empirical Assessment”, Kenya Institute for

Public Policy Research and Analysis ;

 Reinhart, Carmen and Kenneth Rogoff ( 2010) “Growth in a Time of Debt”.

American Economic Review, May forthcoming;

82

 Mehmet Caner, Thomas Grennes và Koehler Fritzi-Geib (2010), “Finding the

Tipping Point—When Sovereign Debt Turns Bad”, Policy Research Working

Paper 5391, World Bank;

 Theo Engle,R.F and Granger, C.W.J (1983 và 1986) :“Cointe-gration and Error

Correction Representation. Estimation and Testing. Econometrica, 55: 251-76;

 Adepoju, Adenike Adebusola, Salau,Adekunle Sheu and Obayelu, Abiodun

Elijah (2007), “The effects of External Debt Management on Sustainable

Economic Growth and Development: Lessons from Nigeria”, Munich Personal

RePEc Archive.

 Cohen, D. (1989). ‘How to Cope with Debt Overhang: Cut Flows rather than

Stocks’, in I. Diwan and I. Husain (eds), Dealing with the Debt Crisis.

Washington, DC: World Bank.

83

PHỤ LỤC SỐ 1

Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ tác động của nợ nước

ngoài đến tăng trường kinh tế.

1- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Pakistan.

Nghiên cứu của đồng tác giả Shahnawaz Malik (Chairman Department of

Economics, Bahauddin Zakaryia University, Multan, Pakistan), Muhammad Khizar

Hayat (Corresponding Author Department of Economics, Bahauddin Zakaryia

University, Multan, Pakistan) và Muhammad Umer Hayat University Science

Sociale Toluse, France, với bài viết : “External Debt and Economic Growth:

Empirical Evidence from Pakistan” , do Tạp chí Nghiên cứu Tài chính và Kinh tế

Quốc tế, số ISSN 1450-2887 Phát hành 44 (2010). Trọng tâm của nghiên cứu này là

khám phá mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Pakistan cho

giai đoạn năm 1972 – 2005, từ đó đưa ra những nhận xét và khuyến nghị về nợ

nước ngoài của Pakistan.

Mặc dù, tình hình chính trị thường xuyên bất ổn nhưng Pakistan có tốc độ tăng

trưởng kinh tế rất cao. Tuy nhiên, Pakistan lại thường xuyên phải đối mặt với vấn

đề nghiêm trọng trong cán cân thanh toán do thâm hụt ngân sách. Để giải quyết

thâm hụt cán cân thanh toán quốc gia họ dựa vào nợ nước ngoài. Do quá phụ thuộc

vào nguồn lực bên ngoài và trở nên không kiểm soát được. Ngân hàng Thế giới

phân loại Pakistan là quốc gia mắc nợ nghiêm trọng của Nam Á vào năm 2001. Nợ

nước ngoài của Pakistan bình quân trên 50% GDP. Pakistan đã được sắp xếp lại nợ

nước ngoài hai lần giữa năm 1998 và 2001 bởi vì nước này không thể trả nợ nước

ngoài. Trong đó nợ nước ngoài năm 1972-1973 là 4.385 triệu USD đã tăng lên

29.630 triệu USD (năm 2005-2006). Dữ liệu cho thấy một sự gia tăng liên tục nợ

nước ngoài. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình như sau.

GDP = α0 + α1 ED + α2 DS + ut

Trong đó : Biến GDP là biến phụ thuộc đại cho tổng sản phẩm quốc nội ; “ED” là

biến tổng nợ nước ngoài và “DS” là biến dịch vụ nợ.

84

Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực

nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF) để kiểm

định tính dừng và không dừng (unit roots or non-stationary tests) của các chuỗi thời

gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm. Sau đó, áp dụng phương bình phương bé

nhất (OLS) để hồi qui mộ hình và kết luận và nhận xét đề xuất.

Kết quả thực nghiệm cho thấy: Nợ nước ngoài tác động tiêu cực và đáng kể đến

tăng trưởng kinh tế. Bằng chứng cho thấy khi tăng nợ nước ngoài là nguyên nhân

chính của suy giảm trong đầu tư sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế. Nghĩa vụ

nợ cũng đã tác động đáng kể và tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Tình trạng nợ nước ngoài tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của Pakistan là

do Pakistan đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như bất ổn chính trị, khủng bố, dẫn

đến công tác quản lý nợ của Chính phủ quá yếu kém, trong khi chi tiêu công quá

lớn không kiểm soát được, phải chấp thuận các điều kiện không thuận lợi từ WB và

IMF. Cuối cùng phải thu hẹp hoạt động thương mại để tiết kiệm cán cân thanh toán

đáp ứng nghĩa vụ nợ của đất nước.

2- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Nepal.

Nghiên cứu của tác giả Krishna Prasad Regmi trong bài viết : “A Study on Public

Debt and its Impact on Economic Growth in Nepal” năm 2008. Mục tiêu chính của

nghiên cứu này là đánh giá tác động của nợ nước ngoài và dịch vụ nợ đến tăng

trưởng kinh tế của Nepal. Tác giả đã sử dụng dữ liệu từ năm 1986 - 2006, để tiến

hành các bước thực nghiệm.

Nợ nước ngoài đại diện cho một nguồn tài chính quan trọng ở Nepal, nơi mà nó bổ

sung tiết kiệm thấp, kim ngạch xuất khẩu thu hẹp, và các căn cứ tính thuế mỏng.

Trong sự chênh lệch của khoảng cách tiết kiệm-đầu tư liên tục, khoảng cách xuất

nhập khẩu, và thâm hụt tài chính, quản lý nợ công là một vấn đề cần thiết cho sự ổn

định vĩ mô nền kinh tế Nepal.

Nepal liên tục thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài trong những thập kỷ gần đây, vay

nợ để giải quyết với đói nghèo. Trong cơ cấu nợ công của Nepal, bao gồm nợ trong

85

nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước chiếm bình quân 38,6% (1986-1987) và tăng

lên 47,7% (2005-2006), tỷ lệ tăng bình quân 13,6%/năm. Nợ nước ngoài chiếm

63,6% trong 1986-1987 đến năm 2005/06 chiếm 71,4 % trong tổng số thâm hụt tài

chính, tỷ lệ tăng bình quân là 16,5%/năm. Mặc dù, nợ công có xu hướng tăng nhanh

bình quân 62,58% GDP (1986-2006), và dịch vụ nợ cũng tăng nhanh trung bình

hàng năm là 15,9%, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao bình quân

12,45%/năm. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình cụ thể nhu sau:

GDPGR = a0 + a1 DEDTGD + a2 DSR + a3 DSFCR + a4 TDGDP + a5 GDEIV +a6

GDERV + a7INF + ut

Trong đó : GDPGR biến phụ thuộc đại diện cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thực;

biến DEDTGD là tỷ lệ nợ trên GDP; biến DSR là tỷ lệ dịch vụ nợ trên thu nhập

xuất khẩu; biến DSFCR là dịch vụ nợ trên dự trữ ngoại hối; biến TDGDP tỷ lệ tổng

GDERV là tỷ lệ chi thường xuyên trên GDP và biến INF là tỷ lệ lạm phát.

dịch vụ nợ trên GDP; biến GDEIV tỷ lệ chi phí phát triển GDERV trên GDP; biến

Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực

nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) hồi qui mô

hình.

Kết quả thực nghiệm từ mô hình cho thấy sự gia tăng nợ nước ngoài và dịch vụ nợ

đã tác động tiêu cực, gây khó khăn trở ngại tăng trưởng kinh tế. Bởi những nguyên

nhân chính mà tác giả phát hiện đưa ra: Vay nợ mới để trả nợ cũ và lãi, việc chi tiêu

vào các lĩnh vực không hiệu quả, tình trạng tham nhũng là khá phổ biến, tiền vay

đầu tư không đúng mục đích nhằm hoạt động tạo việc làm và phát triển cơ sở hạ

tầng, công tác quản lý nợ nước ngoài rất kém, làm tăng thêm gánh nặng nợ cho

quốc gia. Cuối cùng, nợ nước ngoài phải trả và các khoản dịch vụ của nó đã tăng

lên gây khó khăn trở ngại cho tăng trưởng kinh tế.

Tỷ lệ nợ công cao là 58% của GDP (2005-2006), nếu nó tiếp tục tăng rất nhanh

trong những năm tới, sẽ tăng nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tài chính, và chi

86

phí đi vay cao, lãi suất trong nước cao sẽ không khuyến khích đầu tư tư nhân, dẫn

đến hạn chế sự linh hoạt của chính sách tài khóa.

3- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Kenya.

Nghiên cứu của tác giả Maureen Were trong bài viết : “The Impact of External Debt

on Economic Growth in Kenya” năm 2001. Trọng tâm của nghiên cứu này là đánh

giá cơ cấu, độ lớn, thành phần và yếu tố quyết định nợ nước ngoài tác động đến

tăng trưởng kinh tế của Kenya. Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thời gian từ năm

1970-1995, để tiến hành các bước thực nghiệm.

Trong cơ cấu nợ nước ngoài của Kenya, những năm 1970, chủ yếu là nợ song

phương. Từ đầu năm 1980 trở đi, chủ yếu là nợ dài hạn khu vực công, nợ đa

phương chính thức,. Kể từ đầu những năm 1990, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP rất

cao 39% (1970-1980), 67% (1981-1990) và 89% (1991-1999). Tỷ lệ tăng trưởng

kinh tế bình quân 5,1% (1970-1980), 4.2% (1981-1990) và 2.3% (1991-1999). Tỷ lệ

nợ nước ngoài trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ bình quân 121% (1970-1980),

260% (1981-1990) và 268% (1991-1999).

Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực

nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Dickey-Fuller (DF) và Augmented

Dickey-Fuller (ADF) để kiểm định tính dừng và không dừng (unit roots or non-

stationary tests) của các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm, và tiếp

tục sử dụng phương pháp phân tích đồng tích hợp (Cointegration) của Engle –

Granger (1987) để đo lường các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ

đồng liên kết). Cuối cùng, tác giả sử dụng mô hình điều chỉnh sai số ECM (Error

Correction Model) để thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các

biến vĩ mô. Từ đó, rút ra kết luận, nhận xét và đề xuất. Mô hình nghiên cứu cụ thể như sau.

GRATE = a0 + a1 DEDGDP + a2 DDSR + a3 FFDC + a4 PINV + a5 DTOT +a6 SER + a7

INFL + a8 GPUIV + a9 DRER + ut

87

Trong đó : GRATE là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế thực; biến

EDGDP là tỷ lệ của nợ nước ngoài trên GDP; biến DSR dịch vụ nợ trên giá trị xuất

khẩu; biến FFDC là tài trợ nước ngoài ròng bù đấp thâm hụt; biến PINV tỷ lệ đầu tư

tư nhân trên GDP; biến TOT là các điều khoản thương mại (tỷ giá trao đổi thương

mại); biến SER tỷ lệ nhập học tiểu học như đào tạo phát triển nguồn nhân lực ; biến

INFL là tỷ lệ lạm phát ; biến RER là tỷ giá hối đoái thực và biến GPUIV là tỷ lệ đầu

tư công trên GDP

Kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng sự gia tăng nợ nước ngoài đã tác động tiêu cực

tăng trưởng kinh tế thực, nợ hiện tại ngăn chặn tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.

Một sự gia tăng trong tỷ lệ dịch vụ nợ hiện tại ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư

nhân, điều này khẳng định hiệu ứng lấn át dịch vụ nợ trên đầu tư tư nhân. Những

yếu tố trên, xác nhận sự tồn tại của một vấn đề nợ ngưỡng nợ ở Kenya. Thâm hụt

ngân sách là một tỷ lệ thâm hụt tài chính tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Nhưng đầu tư tư nhân và đầu tư phát triển nguồn nhân lực lại có tác động tích cực

đến tăng trưởng kinh tế. Đầu tư công hiện tại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng

không ngờ đầu tư công trong quá khứ (GPUIVt-1) đã được tìm thấy có một tác

động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ lạm phát hiện tại ngăn cản tăng trưởng

kinh tế trong khi tỷ lệ lạm phát (INFLt-1) kích thích tăng trưởng kinh tế.

Tóm lại, nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài ở Kenya có thể được truy nguồn từ cả

yếu tố bên trong và bên ngoài. Yếu tố nội bộ chủ yếu là quá chính sách mở rộng tài

khóa và chính sách thương mại bị bóp méo, đặc biệt là các chính sách đã tạo ra một

thành kiến nặng nề đối với xuất khẩu. Các yếu tố bên ngoài bao gồm sự suy giảm về

thương mại dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tỷ lệ lãi suất cao trên thế giới và

chủ nghĩa bảo hộ gia tăng bởi các nước phát triển, có xu hướng phân biệt đối xử

chống lại xuất khẩu nước kém phát triển. Ngoài những yếu tố này, tình trạng hạn

hán cũng đã góp phần vào gánh nặng nợ nước ngoài tại Kenya.

88

PHỤ LỤC SỐ 2

Thực trạng về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986-2010

+ Nợ nước ngoài (EDT), dịch vụ nợ (TDS) và giá trị xuất khẩu (EX):

Giá trị xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu thể hiện cho khả năng trả nợ của

một quốc gia. Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế của khu vực và

thế giới, VN là một trong những nước có độ mở cửa thương mại lớn. Tổng giá trị

xuất khẩu của VN đã tăng 24 lần từ 2,4 tỷ USD năm 1990 lên 57 tỷ USD năm 2009,

năm 2010 tăng lên 72,2 tỷ USD và hơn gấp đôi tổng số nợ hiện hữu. Qua số liệu từ

đồ thị (Hình 3.2) cho thấy, mặc dù Việt Nam có tổng nợ lớn và có xu hướng tăng

mạnh trong những năm gần đây, tuy nhiên giá trị xuất khẩu tăng cao hơn gấp nhiều

lần so với số nợ phải trả hàng năm cho thấy khả năng thanh toán nợ nước ngoài qua

nguồn thu xuất khẩu là khá tốt. Tuy nhiên, tình trạng nhập siêu của Việt Nam nhiều

năm dẫn đến thâm hụt thương mại, cộng thêm thâm hụt ngân sách kéo dài dẫn đến

khả năng toán nợ nước ngoài cần phải được quan tâm đúng mức.

Hình : Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ và xuất khẩu, giai đoạn 1990-2010.

Triệu USD

80,000

70,000

60,000

50,000

40,000

30,000

20,000

10,000

0

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2000 Năm

EX

EDS

EDT

Nguồn : World Bank và Bộ Tài chính.

89

+ Cơ cấu nợ ngắn hạn,dài hạn so với tổng nợ nước ngoài.

Cơ cấu thời hạn vay nợ nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng đến mức độ rủi

ro tài chính. Nếu như một quốc gia chỉ dựa chủ yếu vào vốn vay ngắn hạn thì áp lực

trả nợ rất cao, nợ công và bảo lãnh công chiếm tỷ lệ cao sẽ tạo áp lực cho chính phủ

tạo nguồn để trả nợ.

120%

100%

80%

Hình : Cơ cấu nợ nước ngoài ngắn hạn, dài hạn so với tổng nợ

ợ n g n ổ t /

n ạ h

60%

40%

i à D à v n ạ h n ắ g n ợ N

20%

0%

1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

Năm

Nợ dài hạn

Nợ ngắn hạn

Nguồn : World Bank.

Qua số liệu cho thấy, tỉ lệ nợ ngắn hạn trên tổng nợ nước ngoài của Việt Nam hiện

nay có xu hướng tăng nhanh các năm gần đây từ 11% năm 2004 tăng lên 18% năm

2009. Tỷ lệ này ngày càng tăng đã tạo áp lực rất lớn cho Chính phủ trong việc chi

trả nợ gốc, chi phí và lãi vay. Mặt khác, các khoản vay trong những năm 90 sẽ đến

hạn, thời gian ân hạn cho những khoản vay trước đó sẽ dần kết thúc nghĩa vụ nợ

tăng lên sẽ gây những áp lực cho công tác trả` nợ trong những năm tới. Mặc dù,

trong cơ cấu nợ vay nước ngoài của Việt nam nợ trung và dài hạn chiếm tỷ trọng

khá cao bình quân trên 80%.

+ Các chủ nợ của chính phủ, cơ cấu lãi vay và đồng tiền vay.

90

Theo Bộ Tài chính, tính đến 31/12/2010, Việt Nam hiện đang vay nợ từ 25 quốc gia

(Song phương), 9 tổ chức quốc tế (Đa phương) và các chủ nợ tư nhân khác.

Trong đó :

- Nợ đa phương : vay nhiều nhất từ Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) với số tiền

6.930,41 triệu USD, tiếp theo là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) 4.174,74 triệu

USD; các chủ nợ tư nhân khác 2.437 triệu USD.

- Nợ song phương : nhiều Nhật Bản nhiều nhất (trên 9.547,79 triệu USD), tiếp theo

là Pháp (trên 1.167,06 triệu USD), Nga (568 triệu USD), Trung Quốc (551,74 triệu

USD)...Tuy nhiên, với Mỹ, Việt Nam chỉ nợ trên 83,8 triệu USD.

- Cơ cấu lãi vay nợ nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng đến mức độ rủi ro

tài chính, hiệu quả đầu tư cũng như khả năng trả nợ của Chính phủ.

Bảng : Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ theo lãi vay,

từ năm 2007-2010.

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

17.270,60

(%) 18.916,05

(%) 23.942,51

(%) 27.857,76

(%)

Tổng cộng

16.839,67

98% 18.294,36 97 % 22.029,11 92 % 25.895,93 93 %

Lãi suất cố định

299,07

2 %

257,82 1 %

281,73 1 %

563,17

2 %

0% - 99%

13.917,54

81% 15.553,96 82 % 19.325,39 81 % 21.289,85 76 %

1% - 2.99%

1.492,99

9 %

1.557,09 8 %

1.502,96 6 %

2.152,22

8 %

3% - 5.99%

1.130,07

7 %

925,49 5 %

919,09 4 %

1.890,69

7 %

6% - 10%

Lãi suất thả nổi

430,93

2 %

621,69 3 %

1.913,40 8 %

1.961,83

7 %

369,91

2 %

508,26 3 %

1.728,66 7 %

1.798,86

6 %

Libor 6 tháng

3,10 0,02 %

-

-

-

Thả nổi của NIB

(ĐVT : Triệu USD, tỷ giá tại thời điểm cuối kỳ)

91

57,92 0,34 %

113,42 0,6 %

184,74 0,7 %

162,97

Euro 6 tháng

0,6 %

Nguồn : Bộ tài chính.

Nếu không tính khoản nợ nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh, thì tổng dư nợ nước

ngoài của Chính phủ chủ yếu là vay với lãi suất cố định bình quân trên 90% và 10%

lãi suất thả nổi. Trong đó : trên 80% vay với lãi suất ưu đãi dưới 3%; 8% vay lãi

suất 3-5,9% ; 7% vay lãi suất cao 6-10%/năm và còn lại vay với lãi suất Libor 6

tháng và Euro 6 tháng.

Riêng năm 2010, vay lãi suất 3-5,9% đã tăng từ 6% (2009) lên 8% (2010), tương

đương dư nợ tăng lên 649,26 triệu USD so với năm 2009 ; vay với lãi suất cao tăng

mạnh từ 4% (2009) tăng lên 7% (2010), tương đương dư nợ tăng lên 971,6 triệu

USD so với năm 2009; vay với lãi suất dưới 3% tăng lên 2.245,90 triệu USD so với

năm 2009; và vay lãi suất thả nỗi ít biến động từ năm 2009 sang năm 2010 vẫn giữ

ở mức 7% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ.

Lãi suất vay tăng cao trong bối cảnh khủng hoảng nợ công hiện đang lan rộng tại

các nước Nam Âu là một tất yếu, dẫn đến việc vay nợ nước ngoài là rất khó khăn để

đáp ứng các khoản thâm hụt đầu tư trong nước. Nhưng điều này chưa đáng lo ngại

vì thường thì nợ của chính phủ từ các nguồn vay chính thức, từ các tổ chức quốc tế

và chính phủ các nước phát triển cao đều có lãi suất rất thấp và thời gian chưa phải

trả nợ có thể kéo dài đến 10 năm hay dài hơn nhiều. Nên áp lực chi trả nợ tương đối

thấp và có thể tính toán trước về khả năng trả vì lãi suất cố định. Trường hợp Việt

Nam là rất thuận lợi. Vào năm 2010, tỷ lệ vay chính thức lên tới 83,5 % và phần

vay tư nhân là 16,5 %. Hơn nữa, 86 % tổng số nợ này chịu lãi suất thấp dưới 6 %,

trong đó 78 % số nợ có lãi suất dưới 3 %.

Hình : Cơ cấu nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo lãi suất, tính đến 31/12/2010.

92

0.59%

2.02%

6.46 %

6.79%

76.42 % Lãi suất 0%-99%

7.73%

Lãi suất 1%-2.99%

Lãi suất 3%-5.99%

Lãi suất 6%-10%

Lãi suất Libor 6 tháng

Lãi suất Euro 6 tháng

Nguồn : Bộ Tài chính.

Bên cạnh cơ cấu lãi suất vay, đồng tiền vay cũng không kém phần quan trọng góp

phần mang lại hiệu quả đầu tư từ vốn vay và quyết định khả năng trả nợ vay của

Việt Nam. Hiện tại, cơ cấu đồng tiền trong nợ vay của Chính phủ cũng khá đa dạng,

vay bằng đồng Yên chiếm 38,83% (10.817,18 triệu USD), quyền rút vốn đặc biệt

SDR (Đồng tiền qui ước của một số nước thành viên IMF) chiếm 27.06 %

(7.538,65 triệu USD), vay bằng tiền USD chiếm 22,16% (6.174,17 triệu USD),

Euro chiếm 9.18% (2.558,54triệu USD) và phần còn lại vay bằng các đồng tiền

khác.

Hình : Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo loại tiền, Tính đến 31/12/2010

Khác 2.77%

EUR 9.18%

JPY 38.83%

JPY

USD 22.16%

SRD

USD

SRD 27.06%

EUR

Khác

93

Nguồn : Bộ Tài chính.

Theo cơ cấu nợ như hiện nay thì phần lớn Việt Nam vay nợ bằng đồng tiền mạnh

(như đồng Yên, USD,..), làm tăng áp lực rủi ro về tỷ giá, việc này sẽ rất khó khăn

cho Việt Nam khi trả nợ. Bởi vì, khi đồng yên lên giá 5-10% thì tiền đi vay về đổi

ra tiền đồng để đầu tư bị mất 5-10%. Rồi khi kinh doanh xong thì muốn trả nợ thì

phải đổi ra tiền yên để trả nợ, nếu giá trị đồng yên mạnh thì tức là mình đổi được ít.

Cũng có trường hợp các công ty làm ăn tưởng có lời nhưng tới cuối năm tính toán

lại thấy lỗ do tỷ giá. Do đó, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn tới nợ nước ngoài của

các quốc gia vay nợ.

Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam ngoài việc tính đến khả năng trả nợ khi vay,

cần tính toán kỹ việc vay bằng đồng tiền nào để tránh rủi ro tỉ giá, nhất là với đồng

yen và cả USD. Điều này làm giảm áp lực rủi ro về tỷ giá do vay bằng các đồng tiền

mạnh.

Năm 2010, cơ cấu đồng tiền cũng có thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng vay bằng

USD và giảm ở các đồng tiền mạnh khác. Tỷ trọng vay bằng USD từ mức gần 17%

vào cuối năm 2009 đã tăng lên xấp xỉ 22,16 % năm 2010.

Cùng thời gian này, các khoản vay bằng đồng Yên đã giảm tỷ trọng từ 39,63%

xuống còn 38,83%; SDR giảm từ 29,29% xuống 27,06%; vay bằng đồng Euro từ

10,78% còn 9,18%.

Theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, năm 2010 khi Chính phủ

vay thêm 4.571,84 triệu USD thì sau khi trả nợ và phí (1.672,32 triệu USD) còn lại

2.899,52 triệu USD. Với số nợ và lãi suất hiện tại, trong những năm tới không vay

thêm thì số tiền Việt Nam phải bỏ ra mỗi năm để trả nợ sẽ cao nhất vào năm 2020

trên 2,380 tỉ USD (Trong đó: trả nợ gốc 2.134,62 triệu USD và trả lãi trên 245.71

triệu USD). Trước mắt, năm 2011 Việt Nam sẽ phải trả nợ khoảng 1.331,50 triệu

USD tính cả gốc lẫn lãi. Đến năm 2026, cũng còn phải trả 865 triệu USD/năm tiền

gốc và 110,23 triệu USD lãi.

94

Với số nợ hiện tại, dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài của chính phủ

năm 2010 đã tăng lên đáng kể so với năm 2009, nợ gốc tăng bình quân 19%, lãi và

phí tăng 45%, nếu tính đến năm 2025 thì nghĩa vụ nợ tăng bình quân 24% mỗi năm.

Điều này thật sự đáng lo ngại về khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai, vì

dự kiến nghĩa vụ nợ năm vào 31/12/2009 chỉ là 1.101,57 triệu USD, thì năm 2010

thực tế trả nợ đã tăng lên đến 52% (1.673,32 triệu USD), trong khi số nợ nước

ngoài huy động thêm chỉ tăng lên 16,3% (từ 27,9 lến 32,5 tỷ).

95

PHU LỤC 3

Kết quả hồi quy mô hình (1)

Variable

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

LnEDT 0.012641 0.005812 2.175192 0.0424

LnFDI 0.001061 0.002341 0.450751 0.6573

LnINV 0.024589 0.012225 2.011367 0.0587

LnTDS -0.008371 0.006184 -1.35362 0.1917

EXP 0.043041 0.034858 1.234723 0.2321

C 0.073177 0.018549 3.945125 0.0009

R-squared Mean dependent var 0.069 0.591688

Adjusted R- squared 0.484238 S.D. dependent var 0.017592

S.E. of regression 0.012634 Akaike info criterion -5.69925

Sum squared resid 0.003033 Schwarz criterion -5.40672

Log likelihood 77.24068 F-statistic 5.506614

Durbin-Watson stat 1.254809 Prob(F-statistic) 0.002677

Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1

Hình 4.2. Đồ thị giá trị thực tế và giá trị dự báo của mô hình (1)

96

.10

.08

.06

.02

.04

.01

.02

.00

-.01

-.02

-.03

2

4

6

8

10 12 14 16 18 20 22 24

Phan du Gia tri thuc te Du bao

Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1

97

PHỤ LỤC 4

Lag

LogL

LR

FPE

AIC

SC

HQ

0

130.769 NA

1.54E-13

-12.4769

-12.17818

-12.4186

1

167.4177 47.64331

1.73E-13

-12.54177

-10.45073

-12.1336

2

910.0336

519.8311*

1.33e-43*

-83.20336*

-79.32000*

-82.4452*

* indicates lag order selected by the criterion

LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level)

FPE: Final prediction error

AIC: Akaike information criterion

SC: Schwarz information criterion

HQ: Hannan-Quinn information criterion

Kết quả chọn bước trễ của mô hình ECM

Nguồn : kết quả tính toán từ Eview 5.1