BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH THỊ TÂM

PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI

SỞ CÔNG THƯƠNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI- NĂM 2019

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH THỊ TÂM

PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI

SỞ CÔNG THƯƠNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN KHÁNH LY

HÀ NỘI- NĂM 2019

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số

liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Đinh Thị Tâm

iii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Học viện Hành chính Quốc gia, các

Thầy, Cô giáo trong Khoa Sau đại học và Khoa Nhà nước, pháp luật và Lý luận cơ sở

đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn Khánh Ly đã

giúp đỡ, động viên, hướng dẫn, định hướng và chỉ bảo tận tình tôi trong quá trình

hoàn thành luận văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám đốc sở Công Thương Hà Nội và

các cán bộ, công chức sở Công Thương Hà Nội đã dành thời gian, công sức và tâm

huyết giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu, đánh giá cũng như giải đáp thắc

mắc trong quá trình hoàn thiện luận văn.

Tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc tới tập thể lãnh đạo sở Y tế, Chi cục An toàn vệ

sinh thực phẩm Hà Nội và cán bộ công chức Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Hà

Nội đã giúp đỡ nhiệt tình để tôi hoàn thiện luận văn này.

Cuối cùng, tôi xin gửi tấm lòng ân tình tới Gia đình, người thân, bạn bè của tôi

là nguồn động viên lớn giúp tôi hoàn thành luận văn.

iv

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... iii

MỤC LỤC ................................................................................................................... v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................... vi

DANH MỤC HÌNH ................................................................................................... vii

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 8

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC

PHẨM ............................................................................................................................ 13

1.1. Một số vấn đề về an toàn thực phẩm và bảo đảm an toàn thực phẩm .................... 13

1.2. Pháp luật an toàn thực phẩm ................................................................................. 16

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật an toàn thực phẩm ....................................... 28

Chương 2: PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN SỞ CÔNG

THƯƠNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 37

2.1. Thực trạng pháp luật an toàn thực phẩm từ thực tiễn Sở Công Thương thành

phố Hà Nội .................................................................................................................. 37

2.2. Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại trong công tác thực hiện pháp luật an toàn

thực phẩm ................................................................................................................... 56

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN

TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN SỞ CÔNG THƯƠNG THÀNH PHỐ HÀ

NỘI ................................................................................................................................ 69

3.1. Các yêu cầu về hoàn thiện pháp luật an toàn thực phẩm ....................................... 69

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm ................................ 72

3.3. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn

thành phố Hà Nội ............................................................................................................ 78

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 98

v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

An toàn thực phẩm ATTP

Tiêu chuẩn toàn cầu về an toàn thực phẩm BRC

Cán bộ công chức CBCC

Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế Codex

Cấu trúc gen di truyền DNA

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc FAO

FSSC 22000 Chứng nhận hệ thống an toàn thực phẩm

Thực hành sản xuất tốt GMP

Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn HACCP

Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế IFS

ISO 22000 Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm

Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA

Phát triển nông thôn PTNT

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN

Quản lý thị trường QLTT

Ủy ban nhân dân UBND

văn bản quy phạm pháp luật VBQPPL

Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam VietGAP

Tổ chức Y tế Thế giới WHO

Tổ chức Thương mại thế giới WTO

vi

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. Kết quả cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm tại Sở

Công Thương Hà Nội giai đoạn 2015-2019 .................................................................... 52

Hình 2.2. Kết quả cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo

loại hình tại Sở Công Thương Hà Nội giai đoạn 2015-2019 ............................................ 52

Hình 2.3. Kết quả cấp giấy xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm tại Sở Công

Thương Hà Nội giai đoạn 2015-2018 .............................................................................. 53

Hình 2.4. Kết quả thanh tra, xử lí vi phạm an toàn thực phẩm tại Sở Công Thương

Hà Nội giai đoạn 2015-2018 ........................................................................................... 55

Hình 2.5. Kết quả kiểm tra, xử lí vi phạm an toàn thực phẩm tại Sở Công Thương

Hà Nội giai đoạn 2015-2018 ......................................................................................... 566

Hình 2.6. Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm ngành Công Thương ........................ 611

vii

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề nóng bỏng mang tính thời sự được toàn

xã hội quan tâm vì tầm quan trọng của nó tới sức khoẻ, trí tuệ, kinh tế và giống nòi.

An toàn thực phẩm không chỉ ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên đến sức khỏe, mà

còn liên quan chặt chẽ đến sự phát triển kinh tế, thương mại, du lịch và an sinh xã

hội. Vấn đề đảm bảo ATTP đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm, không chỉ

các nước phát triển như Nhật Bản, EU, Mỹ,… mà ngay cả các nước đang phát triển,

đặc biệt là các nước Đông Nam Á đặc biệt quan tâm.

Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều các văn bản quy phạm pháp luật

(VBQPPL) về ATTP: Luật ATTP, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật của Chính

Phủ, Nghị định về xử lý vi phạm hành chính về ATTP, Thông tư hướng dẫn thi

hành Luật ATTP của Bộ quản lý chuyên ngành và các văn bản pháp luật liên quan

như: Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa; luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; Nghị

định về ghi nhãn hàng hóa, …; cùng hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về ATTP

từ Trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên, tình trạng thực phẩm nhiễm hóa chất độc hại,

tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, chất kháng sinh, hoóc môn; việc sử dụng hóa chất,

phụ gia không đúng quy định trong chế biến, bảo quản thực phẩm; ngộ độc thực

phẩm tại các bếp ăn tập thể, các khu công nghiệp, trong trường học vẫn xảy ra làm

ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân và ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, du lịch,

văn minh đô thị. Tình trạng thực phẩm giả, kém chất lượng, thực phẩm nhập lậu

qua biên giới chưa được kiểm soát chặt chẽ; các vi phạm pháp luật chưa được xử lý

kịp thời, nghiêm túc và triệt để; công tác bảo đảm vệ sinh môi trường, ATTP chưa

được kiểm soát chặt chẽ.

Chính vì thế, việc đầu tiên và cấp bách hiện này cần hoàn thiện hệ thống pháp

luật về ATTP để làm căn cứ xây dựng hành lang pháp lý nhằm điều chỉnh và tạo

điều kiện các quan hệ pháp luật ATTP hoạt động và phát triển đồng thời khắc phục

và hạn chế tình trạng mất ATTP, bảo vệ sức khỏe nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh

tế,… Muốn vậy, cần có nghiên cứu 1 cách hệ thống, toàn diện cả về cơ sở lý luận và

thực tiễn pháp luật ATTP nhằm đánh giá những ưu điểm, hạn chế, vướng mắc đồng 8

thời đưa ra giải pháp khắc phục hạn chế, tồn tại góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu

quả pháp luật ATTP.

Trên cơ sở thực tiễn công tác quản lý nhà nước về ATTP tại sở Công Thương

Hà Nội và nghiên cứu về hệ thống pháp luật ATTP hiện nay, tác giả lựa chọn đề tài

“Pháp luật về an toàn thực phẩm tại Sở Công Thương thành phố Hà Nội” nhằm

bước đầu đưa ra giải pháp để hoàn thiện pháp luật ATTP.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Liên quan tới vấn đề ATTP hiện đã có rất nhiều các công trình, đề tài, bài viết

liên quan tới vấn đề trên mà chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề chính: các vấn đề liên

quan đến lý luận quản lý nhà nước về ATTP, về cơ cấu tổ chức quản lý ATTP, thực

trạng quản lý nhà nước về ATTP, giải pháp quản lý nhà nước về ATTP.

Luận án Tiến sĩ luật học (2019), Pháp luật an toàn thực phẩm trong hoạt động

thương mại ở Việt Nam của Tác giả Đặng Công Hiển đã đề cập đến những vấn đề lý

luận về pháp luật ATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam; đánh giá thực

trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật ATTP trong hoạt động thương mại

ở Việt Nam; đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật ATTP trong hoạt động

thương mại ở Việt Nam [10].

Luận án tiến sĩ (2012), Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực quản lý

việc sử dụng một số phụ gia trong chế biến thực phẩm tại Quảng Bình của tác giả

Nguyễn Thị Thanh Hương, luận án tiến sĩ dinh dưỡng của Viện dinh dưỡng. Luận

án đã đánh giá thực trạng quản lý việc sử dụng một số phụ gia trong chế biến thực

phẩm tại Quảng Bình và đưa ra giải pháp nâng cao năng lực quản lý việc sử dụng

một số phụ gia trong chế biến thực phẩm tại Quảng Bình [12].

Luận văn Thạc sĩ Luật học (2016), Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn

vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà Nội của tác giả Lê Thị Linh đã đề cập đến những

vấn đề lý luận về pháp luật và thực hiện pháp luật ATTP hiện nay; đánh giá thực

trạng hệ thống pháp luật Việt Nam về ATTP; đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống

pháp luật và thực hiện pháp luật ATTP [15].

Tác giả Đinh Thị Quế với Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về xử lý vi

phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm”, Đại học Huế, năm 2018 [13].

9

Vấn đề ATTP không phải mới nhưng cũng không hề cũ. Nó không chỉ dừng

lại ở mặt lý luận như các các khái niệm về ATTP, nguyên tắc quản lý ATTP, pháp

luật về ATTP,... mà còn ở thực tiễn công tác quản lý ATTP, đó là thực trạng,

nguyên nhân và giải pháp, các mô hình quản lý ATTP, dự báo xu hướng phát triển

và diễn biến tình hình an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nghiên cứu

về thực tiễn công tác quản lý ATTP cũng như đi sâu phân tích những tồn tại, bất cập

trong các quy định của pháp luật về ATTP, đặc biệt trong lĩnh vực ATTP ngành

Công Thương nói chung cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về ATTP tại Sở

Công Thương Hà Nội. Chính vì thế tôi đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về ATTP tại sở

Công Thương thành phố Hà Nội”.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích:

Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về ATTP, đánh giá thực trạng

pháp luật và thực hiện pháp luật về ATTP trong lĩnh vực Công Thương trên địa bàn

Hà Nội, đề tài đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ATTP, đáp ứng yêu cầu

quản lý về ATTP hiện nay.

- Nhiệm vụ:

+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật về an toàn thực phẩm hiện nay.

+ Nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật

về ATTP tại Sở Công Thương thành phố Hà Nội.

+ Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm và nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật về ATTP.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: quy định của pháp luật về ATTP hiện hành và thực

tiễn quản lý nhà nước về ATTP tại Sở Công Thương thành phố Hà Nội.

- Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: đề tài giới hạn trong phạm vi quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm thuộc thẩm quyền Sở Công Thương Hà Nội.

10

Về thời gian: đề tài nghiên cứu pháp luật về ATTP và thực tiễn quản lý nhà

nước về ATTP tại Sở Công Thương thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận: luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên quan điểm, đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về ATTP.

- Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân

tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn, kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và tổng

kết thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài đã làm rõ những vấn đề lý

luận của pháp luật về an toàn thực phẩm, đánh giá và chỉ ra những hạn chế của pháp

luật ATTP hiện nay, đề xuất giải pháp bảo đảm hiệu quả pháp luật ATTP. Do đó,

luận văn đóng góp một phần lý luận làm căn cứ xây dựng và hoàn thiện pháp luật

ATTP.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn:

Từ những căn cứ lý luận về pháp luật ATTP và thực tiễn quản lý nhà nước về

an toàn thực phẩm tại Sở Công Thương thành phố Hà Nội, những giải pháp mà đề

tài đưa ra có ý nghĩa trong việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về ATTP của

Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm

trên địa bàn thành phố Hà Nội.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu thảm khảo, luận văn có 3

Chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận chung của pháp luật về an toàn thực phẩm

- Chương 2: Pháp luật an toàn thực phẩm từ thực tiễn Sở Công Thương thành

phố Hà Nội.

- Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật an toàn thực phẩm

từ thực tiễn Sở Công Thương thành phố Hà Nội

11

12

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA PHÁP LUẬT

VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM

1.1. Một số vấn đề về an toàn thực phẩm và bảo đảm an toàn thực phẩm

1.1.1. Khái niệm

Thực phẩm là khái niệm tồn tại đã lâu và cũng có nhiều khái niệm, quan niệm

khác nhau về nó.

Thực phẩm là những sản phẩm dùng cho việc ăn uống của con người ở dạng

nguyên liệu tươi sống hoặc đã qua chế biến cùng các chất được sử dụng cho sản

xuất, chế biến thực phẩm nhằm cung cấp năng lượng, tăng trưởng, phát triển và duy

trì sự sống của con người.

Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua

sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các

chất sử dụng như dược phẩm [14, tr.3].

An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe,

tính mạng con người [14, tr.1].

- An toàn thực phẩm là tất cả các điều kiện, biện pháp cần thiết từ khâu thu

hoạch, sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển và tiêu dùng nhằm đảm

bảo cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại sức khoẻ, tính mạng người tiêu

dùng. Vì vậy, an toàn thực phẩm là công việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành,

nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như Nông nghiệp, Y tế, Công Thương,

người sản xuất, kinh doanh thực phẩm, người tiêu dùng, các tổ chức chính trị - xã

hội, tổ chức xã hội,….

Như vậy, có thể hiểu an toàn thực phẩm là việc sử dụng các biện pháp, giải

pháp để thực phẩm không gây tác động xấu đến con người (có thể được hiểu là khả

năng gây ngộ độc hoặc tác động cơ học, vật lý đối với con người).

- Điều kiện bảo đảm ATTP là những quy chuẩn kỹ thuật và những quy định

khác đối với thực phẩm, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và hoạt động sản

xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành

13

nhằm mục đích bảo đảm thực phẩm an toàn đối với sức khoẻ, tính mạng con người

[14, tr.2].

Đây là những quy định, nguyên tắc trong quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến,

bảo quản, kinh doanh, vận chuyển, phân phối và tiêu dùng do chính nhà nước, nhà

sản xuất và kinh doanh thực phẩm quy định. Các điều kiện đảm bảo ATTP nhằm

đảm bảo, duy trì việc kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất từ đầu vào nguyên liệu

đến thành phẩm thực phẩm đầu ra hướng tới mục tiêu thực phẩm an toàn. Quy định

các điều kiện đảm bảo ATTP gồm các nhóm quy định như: quy định về cơ sở vật

chất, mặt bằng, trang thiết bị, dụng cụ; quy định về con người và thực hành sản xuất

đảm bảo ATTP; quy định về nguyên liệu đầu vào và thành phẩm đầu ra.

Bảo đảm ATTP là những hành động của con người nhằm ngăn chặn các mối

nguy, hạn chế và xử lý hậu quả do thực phẩm không an toàn gây ra đối với con

người, động thực vật. Cụ thể là: phòng ngừa các mối nguy về ATTP; kiểm tra, kiểm

soát, xử lý các trường hợp vi phạm về ATTP; và can thiệp để loại trừ hậu quả do

thực phẩm gây nên đối với con người, môi trường và phát triển kinh tế - xã hội.

Như vậy, mục đích trực tiếp của việc bảo đảm ATTP là bảo vệ sức khỏe người

tiêu dùng. Tuy nhiên, vấn đề ATTP còn có ý nghĩa to lớn hơn đó là vấn đề phát

triển con người, chất lượng cuộc sống, an sinh xã hội, hội nhập quốc tế và văn hoá.

1.1.2. Vai trò của bảo đảm an toàn thực phẩm

- Thứ nhất, bảo đảm an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp

bảo vệ sức khoẻ nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển

giống nòi, an sinh xã hội, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế, văn hoá xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Cùng với sự phát triển khoa

học công nghệ, sự bùng nổ dân số thế giới khiến cho nhu cầu về thực phẩm càng gia

tăng cả về số lượng và chất lượng. Các biện pháp canh tác mới (chẳng hạn thuỷ

canh, canh tác ngắn ngày,…), sử dụng các chất hoá học mới, đột biến gen,… đi

cùng với đó là quy trình sản xuất đồng bộ, hiện đại đem đến cho con người nguồn

thực phẩm vô cùng phong phú, đa dạng. Chính nguồn thực phẩm đó giúp con người

cung cấp năng lượng duy trì sự sống, sức lao động, học tập từ đó ảnh hưởng tới chất

14

lượng lao động của cả nền kinh tế hiện tại và tương lai, duy trì và phát triển nòi

giống của dân tộc.

- Thứ hai, bảo đảm ATTP còn là lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế

và tiếp cận thị trường thế giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ATTP đóng

vai trò rất lớn đối với sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam là nước đang phát

triển, trình độ kinh tế, khoa học kỹ thuật hạn chế nhưng có thế mạnh rất lớn trong

lĩnh vực nông nghiệp, nông lâm thủy sản. Các sản phẩm nông nghiệp, thủy hải sản

nước ta đã xuất khẩu và chiếm lĩnh các thị trường quốc tế như: EU, Nhật Bản, Mỹ,

Hàn Quốc, Trung Quốc,… Có thể kể đến các sản phẩm nông sản là thế mạnh của

Việt Nam khi xuất khẩu như: cá tra, cá basa, tôm, mực, cá ngừ, thanh long, dưa hấu,

dứa, nhãn, gạo, hạt tiêu, hạt điều, chè, cà phê, ca cao,… Các sản phẩm trên không

chỉ cạnh tranh tốt về giá cả mà còn chất lượng, đảm bảo ATTP. Nhờ đó, thị trường

thế giới biết đến Việt Nam là 1 nước có thế mạnh nông nghiệp, nông sản, thực

phẩm từ đó các ngành kinh tế khác cũng dễ dàng tiếp cận với thị trường thế giới

hơn.

- Thứ ba, bảo đảm ATTP tạo môi trường thuận lợi thu hút ngoại lực như đầu

tư nước ngoài, du lịch, nâng tầm quốc gia trên trường quốc tế. Lĩnh vực thực phẩm

trong những năm gần đây là một trong những lĩnh vực đầu tư hấp dẫn không chỉ với

các nhà đầu tư trong nước mà còn với các nhà đầu tư ngoại quốc. Các tập đoàn đa

quốc gia đã đầu tư mạnh vào mảng bán lẻ thực phẩm, kênh phân phối thực phẩm,

các chuỗi sản xuất – cung ứng thực phẩm an toàn. Bên cạnh đó, ẩm thực cũng là

một kênh thu hút đầu tư, tạo vị thế cho đất nước.

- Thứ tư, bảo đảm ATTP góp phần xây dựng yếu tố văn hóa – xã hội của đất

nước. Ẩm thực là một trong nét văn hóa đặc sắc – độc đáo của Việt Nam, đó không

chỉ thể hiện sức hấp dẫn của nền ẩm thực truyền thống mà còn ở con người Việt

Nam.

- Thứ năm, bảo đảm ATTP góp phần tạo niềm tin của người dân đối với cơ

quan quản lý nhà nước và nền sản xuất nông nghiệp – thực phẩm trong nước. Thực

phẩm được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm an toàn sẽ tạo dựng niềm tin của người dân

vào nền sản xuất thực phẩm trong nước cũng như cơ quan quản lý nhà nước về

ATTP.

15

1.2. Pháp luật an toàn thực phẩm

1.2.1. Khái niệm

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã

hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực hiện

bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước [9].

Pháp luật ATTP là bộ phận của hệ thống pháp luật, một lĩnh vực pháp luật

chuyên ngành tập hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh

các quan hệ xã hội phát sinh giữa chủ thể trong quá trình các chủ thể trong chuỗi

sản xuất - cung ứng – tiêu dùng thực phẩm.

Như vậy, pháp luật ATTP là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc

chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội

giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ và tiêu dùng

thực phẩm.

Các chủ thể pháp luật ATTP có thể là cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức,

doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào chuỗi sản xuất, sơ chế, chế biến, kinh doanh,

bảo quản, vận chuyển, phân phối, tiêu dùng thực phẩm hoặc có liên quan tới thực

phẩm. Khách thể của pháp luật ATTP là những quan hệ xã hội phát sinh trong trình

sản xuất, cung ứng dịch vụ và tiêu dùng thực phẩm.

Hiện ở nước ta, hệ thống pháp luật về ATTP gồm: Luật của Quốc hội, Nghị

định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ quản lý chuyên ngành, Thông tư liên tịch

của các Bộ quản lý chuyên ngành, Quyết định của Bộ quản lý chuyên ngành và

UBND cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương,… Đây là hành lang pháp lý để

kiểm soát chất lượng ATTP, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và yêu cầu hội nhập

quốc tế.

1.2.2. Đặc điểm

Pháp luật ATTP là pháp luật chuyên ngành, cụ thể:

- Mục đích pháp luật ATTP hướng tới là bảo vệ sức khỏe, tính mạng và các lợi

ích khác của người dân.

16

- Đối tượng điều chỉnh của pháp luật ATTP là các quan hệ pháp luật phát sinh

giữa các chủ thể trong suốt quá trình trồng trọt/chăn nuôi/thu hái/đánh bắt, sơ chế,

chế biến, sản xuất, bảo quản, vận chuyển, phân phối, kinh doanh, tiêu dùng thực

phẩm.

- Các chủ thể liên quan đến pháp luật ATTP gồm: nhà nước; các tổ chức, cá

nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm; người tiêu dùng thực phẩm.

- Phạm vi điều chỉnh của pháp luật ATTP rất đa dạng, bao gồm hầu hết các

vấn đề liên quan đến thực phẩm và ATTP như: Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá

nhân trong bảo đảm ATTP; điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, sản xuất,

kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn

thực phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với ATTP; phòng ngừa,

ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP;

trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP…

1.2.3. Vai trò của pháp luật an toàn thực phẩm

Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật an toàn thực

phẩm vừa có những vai trò của pháp luật nói chung, vừa có những vai trò riêng của

nó đối với lĩnh vực chuyên ngành ATTP. Thời gian qua, pháp luật ATTP ở nước ta

đã và đang được xây dựng và hoàn thiện, góp phần điểu chỉnh các quan hệ xã hội

liên quan đến lĩnh vực ATTP. Đó là những quy phạm pháp luật quy định về cơ cấu

tổ chức của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này, là cơ sở pháp lý cho công tác

kiểm tra giám sát an toàn thực phẩm trên địa bàn cả nước; quy phạm về điều kiện

đảm bảo ATTP đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm,… Nó

được thể hiện như sau:

Thứ nhất, là cơ sở pháp lý quan trọng trong quy định hệ thống và hoạt động

của các cơ quan làm nhiệm vụ chức năng trong việc bảo đảm ATTP trong cả nước

từ địa phương đến Trung ương. Pháp luật ATTP quy định vị trí, vai trò, thẩm quyền

và trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý ATTP. Từ đó phân

định rõ ranh giới, tạo cơ chế cho các cơ quan quản lý nhà nước hoạt động quản lý

ATTP từ Trung ương tới địa phương, bảo đảm hệ thống quản lý ATTP được thông

suốt và thống nhất.

17

Thứ hai, pháp luật ATTP nhằm bảo đảm sức khỏe, tính mạng người dân và

góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. ATTP tác động trực tiếp, thường

xuyên đến sức khoẻ, tính mạng của mỗi người dân; từ đó tác động tới sức lao động,

trí tuệ của người lao động và ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, du lịch và an sinh xã

hội, thậm chí ảnh hưởng đến sự phát triển nòi giống dân tộc. Tình hình ô nhiễm,

ngộ độc thực phẩm ở nước ta hàng năm vẫn diễn biến phức tạp đe doạ sức khoẻ và

tính mạng người dân như: ngộ độc Methanol gây chết người, ngộ độc thực phẩm tập

thể trong các bếp ăn tập thể hay sử dụng tràn lan, không kiểm soát các chất kích

thích tăng trưởng, thuốc kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật,… trong thời gian qua đã

gây ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe, an sinh xã hội, tính mạng người dân, ảnh

hưởng tới sự phát triển kinh tế.

Thứ ba, là khuôn mẫu cho việc điều chỉnh các hành vi, các quan hệ xã hội để

bảo đảm an toàn thực phẩm. Pháp luật ATTP là cơ sở để cho mọi người biết mình

được làm gì, không được làm gì, phải làm gì để đảm bảo an toàn thực phẩm trong

quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm; các chế tài xử lý vi phạm

ATTP đủ sức răn đe nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật gây mất ATTP. Từ

đó nâng cao nhận thức xã hội đối với vấn đề bảo đảm ATTP.

Trong thực tế các chủ thể khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh thực

phẩm thường chú ý tới lợi ích của mình mà bỏ qua lợi ích của người khác, của cộng

đồng, bỏ qua hoặc không tự giác thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm phải bảo đảm

ATTP. Việc sử dụng nguyên liệu hết hạn sử dụng, ôi mốc, không đảm bảo chất

lượng; sử dụng các chất cấm trong sản xuất thực phẩm hoặc kinh doanh thực phẩm

nhập lậu, không rõ nguồn gốc xuất xứ,… là những hành vi vi phạm pháp luật mà

pháp luật ATTP cấm. Khi đó, những chế tài mà pháp luật ATTP quy định đóng vai

trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của chính tổ chức, cá nhân và lợi ích chung

lâu dài của xã hội. Các chế tài đó không chỉ là biện pháp trừng phạt vi phạm pháp

luật bảo đảm ATTP, ngăn ngừa, giáo dục cải tạo chủ thể vi phạm mà còn răn đe chủ

thể khác để họ tự giác tuân theo các quy phạm pháp luật, qua đó ngăn ngừa và hạn

chế những hành động sai trái tác động đến ATTP. Bên cạnh đó, các chế tài xử phạt

còn tạo ra sự đồng thuận cao, trách nhiệm và tự giác trong việc thực hiện các biện

pháp bảo đảm ATTP.

18

Thứ tư, là cơ sở pháp lý cho việc thanh tra, giám sát, quản lý, xử lý các vi

phạm trong lĩnh vực này của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật ATTP

tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ pháp luật ATTP được hoạt động trong khuôn

khổ pháp luật. Đối với cơ quan quản lý nhà nước, pháp luật ATTP là “cây gậy” để

nhà nước điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật theo mục tiêu quản lý của mình. Từ

đó góp phần làm cho ATTP được nâng cao, ngăn chặn và đẩy lùi mọi hành vi làm

mất ATTP.

Thứ năm, là cơ sở pháp lý cho mọi người dân được kiểm tra, giám sát các

hành vi trái pháp luật, làm mất ATTP. Muốn bảo đảm ATTP cần có sự tham gia

tích cực của người dân. Pháp luật ATTP ở nước ta thể hiện rõ quan điểm nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu pháp luật ATTP

nhằm đảm bảo sức khỏe, lợi ích người dân. Sự giám sát, kiểm tra của nhân dân đối

với công tác xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật sẽ giúp hệ thống pháp luật

đầy đủ, hoàn thiện hơn. Vì thế, nội dung pháp luật ATTP quy định quyền, nghĩa vụ

của người dân – người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP, vai trò kiểm tra, giám sát

của người dân đối với cơ quan quản lý nhà nước; vai trò giám sát, thông tin của

người dân đối với hành vi gây mất ATTP,…

Thứ sáu, pháp luật ATTP đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, pháp luật về ATTP đóng vai trò quan

trọng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa thực phẩm của Việt Nam ra thế giới như:

nông sản, thủy sản, thực phẩm tươi sống và chế biến,… Những quy định, tiêu chuẩn

về thực phẩm phù hợp với các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về ATTP sẽ tạo điều

kiện để các sản phẩm thực phẩm của chúng ta dễ dàng thâm nhập vào các thị trường

khó tính như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ,... tham gia ngày càng mạnh vào chuỗi giá trị

thực phẩm toàn cầu. Điều này có ý nghĩa quan trọng bởi trong cơ cấu các mặt hàng

xuất khẩu của Việt Nam, mặt hàng nông, thuỷ sản vẫn chiếm tỉ trọng lớn về kim

ngạch xuất khẩu, giúp cân bằng cán cân thương mại và hạn chế thâm hụt thương

mại.

Như vậy, có thể thấy pháp luật ATTP ngày càng đóng vai trò quan trọng, và

cũng thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với lĩnh vực này ngày một cao hơn.

1.2.4. Nội dung pháp luật an toàn thực phẩm

19

1.2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn

thực phẩm

Luật ATTP 2010 phân rõ quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thuộc 3 hình

thức khách nhau: sản xuất thực phẩm, kinh doanh thực phẩm, tiêu dùng thực phẩm.

Đây là 3 đối tượng thuộc 3 khâu: sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm. Mỗi

đối tượng khác nhau sẽ có vai trò khác nhau trong bảo đảm ATTP. Vì thế, pháp luật

ATTP cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của từng đối tượng trong bảo đảm

ATTP.

Đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm có quyền: Yêu cầu tổ chức, cá

nhân sản xuất, nhập khẩu thực phẩm hợp tác trong việc thu hồi và xử lý thực phẩm

không bảo đảm an toàn;… Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật;

Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật” đồng thời có nghĩa vụ:

Tuân thủ quy định của pháp luật, quyết định về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền; Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật khi thực

phẩm mất an toàn do mình kinh doanh gây ra [14].

Đối với người tiêu dùng thực phẩm có quyền: được cung cấp thông tin về

nguy cơ gây mất an toàn, cách phòng ngừa khi nhận được thông tin cảnh báo đối

với thực phẩm;… Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật; Được

bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do sử dụng thực phẩm không an

toàn gây ra. Đồng thời có nghĩa vụ: Kịp thời cung cấp thông tin khi phát hiện nguy

cơ gây mất an toàn thực phẩm, khai báo ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực

phẩm với Ủy ban nhân dân nơi gần nhất, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ quan nhà

nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm [14].

1.2.4.2. Quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất,

kinh doanh thực phẩm

Trong lĩnh vực thực phẩm, các quy định về điều kiện bảo đảm ATTP đó là các

quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật và các yêu cầu khác do các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền ban hành nhằm bảo đảm ATTP trong quá trình các tổ chức, cá

nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, khai

thác, sơ chế, chế biến, sản xuất, kinh doanh, bảo quản, vận chuyển, phân phối và

20

tiêu dùng thực phẩm. Khi thực hiện các hoạt động đó, các tổ chức, cá nhân, ngoài

việc đáp ứng các điều kiện chung về ATTP, tùy từng trường hợp còn phải đáp ứng

thêm các điều kiện riêng đối với từng loại hình, từng đối tượng, từng quá trình, từng

sản phẩm cụ thể.

Điều kiện chung về bảo đảm ATTP là các yêu cầu chung nhất bắt buộc phải

tuân thủ đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Đó là các

yêu cầu tối thiểu các tổ chức, các nhân phải đáp ứng khi tham gia vào quá trình sản

xuất, kinh doanh thực phẩm và các hoạt động khác có liên quan: yêu cầu về cơ sở

vật chất, trang thiết bị, con người, thực hành đảm bảo ATTP trong quá trình sản

xuất, bảo quản, vận chuyển, kinh doanh thực phẩm,…. Điều 7 và Điều 8 Luật

ATTP năm 2010 quy định nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực

phẩm phải có nghĩa vụ: tuân thủ các điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm,

bảo đảm an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất và kinh doanh thực phẩm và

chịu trách nhiệm về ATTP do mình sản xuất, kinh doanh [14].

Ngoài điều kiện chung phải đáp ứng, các tổ chức, các nhân khi sản xuất, kinh

doanh thực phẩm trong trường hợp cụ thể cần phải đáp ứng thêm một số yêu cầu để

bảo đảm ATTP tùy từng đối tượng, loại hình cụ thể. Đó là điều kiện bảo đảm ATTP

trong kinh doanh thực phẩm tươi sống, trong chế biến thực phẩm, điều kiện trong

kinh doanh thực phẩm đã qua chế biến, điều kiện trong kinh doanh thức ăn đường

phố,…

Những tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật về ATTP là một trong những

điều kiện để bảo đảm ATTP, trong đó có các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ

thuật liên quan nhằm bảo đảm ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Đây là

một trong những “rào cản kỹ thuật” nhằm “sàng lọc” thực phẩm trước khi lưu thông

trên thị trường. Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về ATTP là kết quả của hoạt động

tiêu chuẩn hóa, quy chuẩn hóa những yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật, quy trình,…

đối với thực phẩm, cơ sở trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Các tiêu

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về ATTP bao gồm các quy định về đặc tính kỹ thuật và

mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật cho thực phẩm và cơ sở sản xuất, kinh doanh

thực phẩm nhằm bảo đảm thực phẩm an toàn, không gây hại đến tính mạng và sức

khỏe cho người tiêu dùng. Ví dụ: QCVN 6-3:2010/BYT quy chuẩn kỹ thuật quốc

21

gia đối với sản phẩm đồ uống có cồn, QCVN 6-2:2010/BYT quy chuẩn kỹ thuật

quốc gia đối với sản phẩm đồ uống không cồn; QCVN 8-1:2011/BYT quy chuẩn kỹ

thuật quốc gia về giới hạn độc tố vi nấm,… Chính vì thế, lĩnh vực thực phẩm ngoài

chịu quy định của Luật ATTP và các hướng dẫn thực hiện liên quan còn phải thực

hiện các quy định khác như Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật tiêu chuẩn và

quy chuẩn kỹ thuật,…

1.2.4.3. Về điều kiện kinh doanh thực phẩm

Đối với các chủ thể muốn tham gia sản xuất, kinh doanh thực phẩm, pháp luật

đặt ra những yêu cầu bắt buộc phải đáp ứng, đó là những quy định về điều kiện kinh

doanh. Phụ lục 4 Luật số 03/2016/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về

Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư 2014 quy

định về 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, trong đó có lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm. Chính phủ quy định rõ điều kiện đầu tư kinh doanh đối với lĩnh vực

này.

(1) Về đăng kí kinh doanh

Khoản 2, Điều 66, Nghị định 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định đối

tượng không phải đăng kí kinh doanh: “Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp,

làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu

động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh

các ngành, nghề có điều kiện, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương quy định mức thu nhập thấp áp dụng trên phạm vi địa phương” [5]. Như vậy,

đối với lĩnh vực kinh doanh thực phẩm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện nên

tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đều phải đăng ký kinh doanh trừ

đối tượng là hộ gia đình sản xuất ban đầu, những người bán hàng rong, kinh doanh

lưu động.

Căn cứ vào quy định trên có thể khẳng định, các cơ sở sản xuất, kinh doanh

thực phẩm ngành Công Thương đều phải thực hiện thủ tục đăng kí kinh doanh theo

quy định của pháp luật. Đây là điều kiện đầu tiên mang tính bắt buộc đối với cơ sở

sản xuất, kinh doanh thực phẩm ngành Công Thương.

(2) Về giấy phép kinh doanh

22

Tùy từng đối tượng và đặc điểm khác nhau, pháp luật ATTP quy định hình

thức quản lý khác nhau. Hiện nay, hình thức quản lý đối với các cơ sở sản xuất,

kinh doanh thực phẩm gồm: quản lý thông qua các loại giấy phép như giấy chứng

nhận đủ điều kiện, giấy phép lưu hành tự do, đăng kí bản công bố sản phẩm; quản

lý thông qua ký cam kết với cơ quan quản lý nhà nước; quản lý thông qua hình thức

kiểm tra, hậu kiểm, giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trong và sau

khi hoạt động hoặc sau khi được cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận.

Điều 12, Nghị định 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định

10 đối tượng không thuộc diện cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn

thực phẩm [7]. Các cơ sở này phải ký cam kết với cơ quan có thẩm quyền do Ủy

ban nhân dân cấp tỉnh phân cấp quản lý về an toàn thực phẩm trên địa bàn theo

Điểm b, Khoản 2, Điều 24 Nghị định 77/2016/ NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính

phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh

vực mua bán hàng hóa quốc tế, hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp, phân bón, kinh

doanh khí, kinh doanh thực phẩm thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công

Thương.

Đối với đối tượng phải cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, điều

kiện cần và đủ để kinh doanh là phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đã

được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện

ATTP. Các cơ sở này sẽ bị mất quyền kinh doanh thực phẩm khi giấy chứng nhận

cơ sở đủ điều kiện ATTP hết hạn hoặc bị thu hồi giấy chứng nhận cơ sở đủ điều

kiện bảo đảm ATTP.

Việc quy định điều kiện kinh doanh thực phẩm vừa là hình thức quản lý, vừa

là rào cản nhằm hạn chế các cơ sở không đủ điều kiện tham gia vào quá trình sản

xuất, kinh doanh thực phẩm, góp phần bảo đảm ATTP, bảo vệ sức khỏe và quyền

lợi người tiêu dùng thực phẩm.

1.2.4.4. Quy định về giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm đối

với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm

Đây là một trong những điều kiện kinh doanh đối với cơ sở sản xuất, kinh

doanh thực phẩm. Luật đầu tư 2014 quy định kinh doanh thực phẩm thuộc ngành

23

nghề kinh doanh có điều kiện và Chính phủ quy định rõ điều kiện kinh doanh đối

với lĩnh vực này. Luật ATTP 2010 và Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ

quy định rõ đối tượng phải cấp và không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện

ATTP. Giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP là một trong những hình thức quản lý

của cơ quan quản lý nhà nước, là một thủ tục hành chính. Pháp luật ATTP quy định

rõ hồ sơ, quy trình, trình tự thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện

ATTP, thời hạn hiệu lực giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP.

Luật ATTP 2010 của Quốc hội dành chương V quy định về cấp giấy chứng

nhận đủ điều kiện ATTP. Cụ thể:

- Đối tượng phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP: ngoài các đối tượng

không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP do Chính phủ quy định tại

Khoản 1 Điều 12 Nghị định 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ.

- Điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP: Có đủ điều kiện bảo đảm

an toàn thực phẩm phù hợp với từng loại hình sản xuất, kinh doanh thực phẩm; có

đăng ký ngành, nghề kinh doanh thực phẩm trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh [14].

Như vậy, các cơ sở muốn được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện phải đáp

ứng các điều kiện đảm bảo ATTP tương ứng với từng loại hình sản xuất, kinh

doanh thực phẩm; phải thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh và trong giấy chứng

nhận đăng kí kinh doanh đó phải có ngành nghề kinh doanh thực phẩm loại sản

phẩm mà cơ sở sản xuất hoặc kinh doanh. Tổ chức, cá nhân bị thu hồi Giấy chứng

nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm khi không đáp ứng đủ điều kiện quy

định trên.

- Thời hạn hiệu lực của giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP là 03 năm;

Trước 06 tháng tính đến ngày Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực

phẩm hết hạn, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải nộp hồ sơ xin

cấp lại Giấy chứng nhận trong trường hợp tiếp tục sản xuất, kinh doanh [2].

Pháp luật ATTP phân công quản lý ATTP cho 3 Bộ quản lý chuyên ngành: Bộ

Công Thương, Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Y tế. Bộ trưởng Bộ: Y tế, Nông

24

nghiệp &PTNT, Công Thương quy định thẩm quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận

đủ điều kiện ATTP thuộc thẩm quyền quản lý của 3 Bộ trên. Cụ thể:

- Bộ Công Thương ban hành Thông tư 43/2018/TT-BCT ngày 15/11/2018 quy

định về quản lý ATTP thuộc trách nhiệm của Bộ Công Thương [2].

- Bộ Nông nghiệp & PTNT ban hành Thông tư 38/2018/TT-BNNPTNT ngày

25/12/2018 quy định thẩm định, chứng nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm

nông, lâm, thủy sản đủ điều kiện ATTP thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp

& PTNT.

1.2.4.5. Quy định về nhập khẩu và xuất khẩu thực phẩm

Nhập khẩu và xuất khẩu thực phẩm là một trong hoạt động thương mại lĩnh

vực thực phẩm. Quy định về xuất khẩu bao gồm các quy định về điều kiện bảo đảm

ATTP tại Việt Nam, phù hợp với quy định của nước xuất khẩu và quy định quốc tế

về thực phẩm mà Việt Nam tham gia là thành viên; các quy định về chứng nhận đối

với thực phẩm xuất khẩu. Quy định về nhập khẩu bao gồm các quy định về điều

kiện nhập khẩu và quản lý nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu thực phẩm tại

Việt Nam.

Quy định về xuất khẩu thực phẩm đòi hỏi phải vừa tạo điều kiện thuận lợi cho

các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu sản phẩm thực phẩm, vừa phù hợp với các

quy định quốc tế hay các quy định tại nước nhập khẩu.

Quy định về nhập khẩu cần đảm bảo phù hợp với thông lệ, quy định quốc tế

về thực phẩm hoặc các Hiệp ước mà Việt Nam là thành viên, vừa tạo được “rào

cản” về kỹ thuật, thuế, chính sách đảm bảo “sàng lọc” được thực phẩm chất lượng,

an toàn, bảo vệ được nền sản xuất thực phẩm trong nước.

1.2.4.6. Quy định về quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm

Quảng cáo thực phẩm được thực hiện theo các quy định ở Luật ATTP năm

2010, Luật Quảng cáo năm 2012 và văn bản hợp nhất số 47/VBHN-VPQH ngày

10/12/2018 của Quốc hội, các văn bản hướng dẫn thi hành hai luật này như: Nghị

định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật ATTP; Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/01/2013 của

25

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo; Thông tư số

09/2015/TT-BYT ngày 25/5/2015 của Bộ Y tế quy định xác nhận nội dung quảng

cáo đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Y

tế.

Trong hoạt động quảng cáo thực phẩm, ngoài tuân thủ các quy định của pháp

luật về quảng cáo nói chung, các chủ thể còn phải tuân thủ những quy định riêng

đối với quảng cáo sản phẩm thực phẩm. Các quy định này nhằm kiểm soát và quản

lý chặt chẽ nội dung trong quảng cáo sản phẩm thực phẩm, ngăn chặn hành vi

quảng cáo gian dối gây thiệt hạn cho người tiêu dùng.

Việc ghi nhãn thực phẩm được thực hiện theo quy định của Luật ATTP năm

2010, Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật ATTP năm 2010, Nghị định số 43/2017/NĐ-CP

ngày 14/04/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa, Thông tư liên tịch

34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 27/10/2014 của liên Bộ: Y tế, Nông

nghiệp & PTNT, Công Thương về hướng dẫn ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm,

phụ gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm bao gói sẵn.

Đối với hàng hóa là thực phẩm bắt buộc phải thể hiện các nội dung gồm: Tên

hàng hóa; Tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; Xuất

xứ hàng hóa; định lượng, thành phần cấu tạo; ngày sản xuất, hạn sử dụng, thông tin

cảnh báo (nếu có); với rượu, phải có định lượng, hàm lượng ethanol, hạn sử dụng

(nếu có), hướng dẫn bảo quản (đối với rượu vang), thông tin cảnh báo (nếu có),

mã nhận diện lô (nếu có); thông tin bắt buộc trên nhãn bao gồm định lượng, ngày

sản xuất, thông tin cảnh báo, hạn sử dụng và mã số, mã vạch…

Với việc quy định cụ thể và chặt chẽ về ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm

như trên, pháp luật về ATTP đã góp phần bảo đảm quyền được cung cấp thông tin

của người tiêu dùng đồng thời tạo thuận lợi trong quá trình truy xuất thông tin,

nguồn gốc xuất xứ của thực phẩm.

1.2.4.7. Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

Quản lý nhà nước về ATTP là hoạt động có tổ chức của nhà nước thông qua

các văn bản pháp quy, các công cụ, chính sách của nhà nước tác động đến tình hình

26

thực hiện ATTP của đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh trên cả nước nhằm định

hướng, dẫn dắt các chủ thể này thực hiện tốt các vấn đề về ATTP. Nội dung các quy

định pháp luật về trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP là sự phân công, phân cấp

quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ATTP tạo

thành hệ thống quản lý ATTP thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Đó là các

quy định về quyền hạn, phạm vi quản lý, trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa

phương trong lĩnh vực quản lý ATTP, cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước về

ATTP giữa các cơ quan quản lý nhà nước,…

Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP nhằm xác định chủ thể quản

lý, đối tượng quản lý, phạm vi quản lý từ đó phân định rõ quyền hạn, nghĩa vụ và

trách nhiệm của các đối tượng trong mối quan hệ pháp luật AT

TP. Điều này có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với người sản xuất, kinh

doanh thực phẩm mà còn bảo đảm vận hành bộ máy quản lý ATTP một cách thuận

lợi, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về ATTP.

Luật ATTP và các văn bản dưới luật quy định phân cấp quản lý ATTP theo

ngành và cấp. Về quản lý ngành, lĩnh vực ATTP được giao cho 3 ngành: Y tế, Nông

nghiệp, Công Thương xuyên suốt từ tuyến Trung ương tới tuyến cơ sở. Về cấp quản

lý, ở tuyến trung ương có 3 Bộ: Công Thương, Nông nghiệp & PTNT, Y tế; tuyến

địa phương có UBND cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương, UBND cấp huyện

và UBND cấp xã. Tại cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương có đơn vị chuyên

ngành quản lý ATTP là 3 Sở: Công Thương, Nông nghiệp & PTNT, Y tế; tại cấp

huyện có phòng Y tế, phòng Kinh tế, Trung tâm Y tế dự phòng; tại cấp xã có phòng

Văn hóa – xã hội và Trạm Y tế cấp xã.

1.2.4.8. Quy định về xử lý vi phạm an toàn thực phẩm

Pháp luật ATTP bên cạnh quy định những điều tổ chức, cá nhân sản xuất kinh

doanh thực phẩm được làm, các hành vi bị cấm còn quy định chế tài xử phạt đối với

các hành vi bị cấm và các hành vi trái pháp luật nhằm điều chỉnh hành vi pháp luật

và các mối quan hệ pháp luật phát sinh trong lĩnh vực thực phẩm. Nghị định

178/2013/NĐ-CP của Chính phủ được thay thế bởi Nghị định 115/2018/NĐ-CP của

Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính ATTP. Nghị định 115/2018/NĐ-CP của

27

Chính phủ quy định các hành vi vi phạm ATTP được nêu cụ thể hơn và mức xử

phạt cao hơn cho thấy tính răn đe, chế tài mạnh hơn so với quy định cũ [8].

Các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm, ngoài chịu sự điều

chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực ATTP còn bị điều chỉnh bởi các

VBQPPL về lĩnh vực thương mại, đầu tư kinh doanh, quy định về quảng cáo, ghi

nhãn hàng hóa; quy định về chất lượng sản phẩm hàng hóa; tiêu chuẩn, quy chuẩn

kỹ thuật,… Chính vì thế, bên cạnh quy định về xử phạt vi phạm lĩnh vực ATTP; các

tổ chức, cá nhân còn chịu chế tài của các hình thức xử phạt về nhãn, chất lượng sản

phẩm hàng hóa, quảng cáo,…

Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về ATTP được hiểu là những

hậu quả pháp lý bất lợi do pháp luật quy định để áp dụng đối với các chủ thể có

những hành vi vi phạm pháp luật về ATTP. Theo Luật ATTP năm 2010, chế tài xử

lý đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về ATTP gồm: chế tài hành

chính, chế tài hình sự và các biện pháp khắc phục [14].

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật an toàn thực phẩm

Xã hội không chỉ là sự vận hành của hệ thống kinh tế mà còn còn có hệ thống

chính trị, hệ thống đạo đức, hệ thống văn hóa. Đó là một tổng thể phức hợp của các

mối quan hệ đa dạng, sự tương tác lẫn nhau của các nhân tố kinh tế và nhân tố phi

kinh tế, kinh tế và văn hóa. Các nhân tố phi kinh tế tác động đến pháp luật trong

một chỉnh hợp thống nhất và đa dạng, đan xen nhau. Và các yếu tố ảnh hưởng đến

pháp luật ATTP cũng không nằm ngoài các nhân tố trên.

1.3.1. Yếu tố chủ quan

1.3.1.1. Yếu tố chính trị, pháp lý

- Đường lối, chính sách của Đảng

Trong yếu tố chính trị thì đường lối, chính sách của Đảng là yếu tố đầu tiên,

quan trọng và quyết định tới pháp luật, trong đó có pháp luật ATTP. Đường lối,

chính sách của Đảng định ra mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước trong một giai đoạn nhất định, định ra phương pháp cách thức cơ bản

để thực hiện những mục tiêu và phương hướng đó và được nhà nước thể chế hóa

thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế. Vì thế đường lối chính sách của 28

Đảng là một trong những yếu tố có sức ảnh hưởng lớn nhất đến nội dung của pháp

luật, trong đó có pháp luật ATTP. Nội dung quy định trong tất cả các văn bản quy

phạm pháp luật, từ hiến pháp, luật các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không

được trái với đường lối, chính sách của Đảng.

Ở nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước

thông qua các Nghị quyết, các quyết sách chiến lược của Đảng. Đảng cộng sản Việt

Nam là cơ quan lãnh đạo, định hướng, chỉ đạo chính sách, pháp luật Nhà nước. An

toàn thực phẩm là một trong những vấn đề mà Đảng, Nhà nước Việt Nam từ lâu đã

đặc biệt quan tâm và coi đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội, về an

toàn xã hội, sức khoẻ cộng động, về bảo vệ môi trường và cũng là vấn đề có ảnh

hưởng lớn đến tiến trình hội nhập của Việt Nam. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta

thường xuyên chỉ đạo và đưa ra các giải pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực,

hiệu quả trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Pháp luật ATTP được thể chế hóa bằng Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng làm căn

cứ để Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật gồm Luật và các văn bản

dưới Luật nhằm quản lý ATTP. Ban Bí thư đã có Chỉ thị số 08-CT/TW ngày

21/10/2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm

trong tình hình mới; Kết luận số 11-KL/TW ngày 19/01/2017 của Ban bí thư về tiếp

tục thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011 về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới. Nghị định

15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ và các VBQPPL hướng dẫn thi

hành Nghị định thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo của Đảng – tăng cường và gắn trách

nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị đối với vấn đề ATTP thuộc địa bàn,

trách nhiệm quản lý; gắn trách nhiệm của chủ tịch UBND các cấp đối với tình hình

ATTP tại địa bàn quản lý. Cụ thể: toàn bộ Ban chỉ đạo ATTP tại UBND các cấp và

các cơ quan đề do Chủ tịch UBND các cấp hoặc Thủ trưởng cơ quan, đơn vị đó làm

Trưởng ban chỉ đạo ATTP thay vì các Phó Chủ tịch UBND.

- Nhu cầu quản lý đất nước trong thời đại mới

Việt Nam là đất nước đang pháp triển, đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội. Vì thế pháp luật ATTP cũng phải được điều chỉnh phù hợp với tình hình

thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý đất nước.

29

Việt Nam với đặc điểm nền kinh tế nhiều thành phần, quy mô sản xuất nhỏ lẻ,

manh mún; tập quán canh tác, sản xuất còn lạc hậu, trình độ tiếp cận kỹ thuật –

khoa học còn hạn chế dẫn tới nền kinh tế chưa phát triển. Hầu hết các cơ sở sản

xuất, kinh doanh thực phẩm ở quy mô nhỏ lẻ, trình độ công nghệ - dây chuyền còn

hạn chế. Vì thế, việc áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào trong sản xuất, kinh

doanh còn hạn chế - đây là một trong những bất lợi trong việc bảo đảm ATTP, áp

dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào quản lý chất lượng ATTP.

Với tập quán canh tác, sản xuất nhỏ lẻ, trình độ nhận thức pháp luật ATTP hạn

chế cộng thêm tâm lý kinh doanh “chụp giật” dẫn tới tình trạng mất ATTP trong

thời gian vừa qua. Điều này có thể xuất phát từ nguyên nhân ý thức của chủ cơ sở

sản xuất, kinh doanh thực phẩm vì chạy theo lợi nhuận, từ yếu tố khách quan do

người sản xuất, kinh doanh thực phẩm không nhận thức được tính nguy hại của

nguyên liệu hay các chất mà mình đang sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, sản

xuất, chế biến.

Chính từ điều đó, pháp luật ATTP cần điều chỉnh phù hợp, vừa phù hợp với

đặc điểm của tình hình ATTP đất nước, vừa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Cần quy

định trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc tuyên truyền, giáo dục, phổ

biến pháp luật nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật ATTP của người dân,

người sản xuất, kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng thực phẩm. Đồng thời,

cũng cần có những chế tài đủ mạnh, mang tính răn đe đối với hành vi vi phạm pháp

luật ATTP.

Bên cạnh đó, các quy định, chính sách pháp luật ATTP không được trái với

thông lệ quốc tế, các công ước, hiệp định mà Việt Nam là thành viên. Xu thế quốc

tế hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi Việt Nam cần xây dựng

pháp luật ATTP ngày càng đầy đủ, hoàn thiện nhằm tạo hành lang pháp lý đủ mạnh

để điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật ATTP trong nước, giúp các doanh nghiệp

có điều kiện thuận lợi để đầu tư hoặc xuất khẩu các sản phẩm thực phẩm ra nước

ngoài; ngăn chặn thực phẩm kém chất lượng, không đảm bảo ATTP xâm nhập thị

trường trong nước; đồng thời giúp bảo vệ nền sản xuất thực phẩm trong nước.

Từ ngày 01/01/2007, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức

thương mại thế giới (WTO) nên phải từng bước tuân thủ các hiệp định của Tổ chức

30

này, trong đó có các dịch vụ về y tế. Các hiệp định chính của WTO bao gồm: Hiệp

định về các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), Hiệp định về áp dụng các

biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS), Hiệp định về các

quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS) và Hiệp định về thương mại

dịch vụ (GATS). Theo đó, các quy định về SPS như ghi thời hạn sử dụng ghi trên

nhãn sản phẩm thực phẩm nhập khẩu, áp dụng các biện pháp ATTP và kiểm dịch

động, thực vật, đặc biệt là nguyên tắc đánh giá nguy cơ hay các quy định về TBT

(hàng rào kỹ thuật trong thương mại) như áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ

thuật phù hợp với tiêu chuẩn Codex, các tiêu chuẩn quốc tế do WHO và FAO phối

hợp soạn thảo... mà Việt Nam cũng như các quốc gia thành viên đều phải tuân thủ.

Bên cạnh đó, trong điều kiện hội nhập, cần thiết phải có cơ chế pháp lý về việc thừa

nhận tiêu chuẩn lẫn nhau giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực, cũng như

thế giới, đặc biệt là việc áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến trong quản lý an

toàn thực phẩm.

Như vậy, các yêu cầu trên cho thấy, Việt Nam cần phải nội luật hóa các quy

định của WTO, WHO, FAO, CODEX…về ATTP để có cơ sở pháp lý thực hiện tại

Việt Nam.

1.3.1.2. Người xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Đây là một trong các yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến VBQPPL về ATTP. Yếu

tố người xây dựng VBQPPL có thể kể đến như: đơn vị xây dựng VBQPPL, cán bộ

công chức tham gia vào công tác tham mưu – xây dựng – ban hành VBQPPL. Các

yếu tố ảnh hưởng có thể kể đến như: trình độ, năng lực và quan điểm của đơn vị

làm luật hoặc của người làm luật, yếu tố chủ quan của người làm luật – các vấn đề

“lợi ích nhóm” trong VBQPPL,…

Ví dụ, Điều 12 Nghị định 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ

quy định rõ 10 đối tượng không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP trong

đó có đối tượng “kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ” [7]. Nhưng quan điểm quản lý của

Bộ Công Thương với Bộ Y tế và Bộ NN&PTNT có sự không đồng nhất. Cụ thể,

với Bộ Công Thương quan điểm: các cơ sở sản xuất thực phẩm nhỏ lẻ không phải

cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP, trong khi Bộ Y tế và Bộ NN&PTNT

không đồng nhất với quan điểm quản lý trên. Điều này khiến công tác quản lý

31

ATTP đối với các cơ sở sản uất thực phẩm nhỏ lẻ tại tuyến quận/huyện và

xã/phường trở nên phức tạp và khó khăn.

Khoản 3, Điều 28, Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định: từ

ngày 01/7/2019, các cơ sở sản xuất thực phẩm bảo vệ sức khỏe phải áp dụng Thực

hành sản xuất tốt (GMP) thực phẩm bảo vệ sức khỏe theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

Điều này đồng nghĩa với việc tất cả các cơ sở sản xuất thực phẩm bảo vệ sức khỏe

phải có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP đạt yêu cầu thực hành sản xuất

tốt (GMP) thực phẩm bảo vệ sức khỏe, không phân biệt quy mô, công suất sản xuất.

Với đặc điểm của các cơ sở sản xuất thực phẩm bảo vệ sức khỏe hầu hết ở quy mô

nhỏ lẻ, điều kiện về trang thiết bị, nhà xưởng còn hạn chế thì rất nhiều cơ sở khó đạt

được tiêu chuẩn GMP theo quy định. Quy định này có thể được coi là quy điều kiện

kinh doanh đối với cơ sở sản xuất thực phẩm bảo vệ sức khỏe và Chính phủ giao

thẩm quyền cấp cho Bộ Y tế.

1.3.1.3. Yếu tố tài chính

Yếu tố tài chính tác động đến hiệu quả xây dựng và ban hành văn bản quy

phạm pháp luật ATTP. Tài chính ở đây không chỉ nói đến đầu tư kinh phí, cơ sở vật

chất mà còn đầu tư vào con người cho công tác xây dựng và hoàn thiện VBQPPL về

ATTP. Muốn có hệ thống pháp luật ATTP hoàn chỉnh cần có những nghiên cứu,

điều tra, thậm chí dự báo về tình hình, xu hướng các quan hệ pháp luật để đưa ra

những nguyên tắc, quy định điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật sao cho phù hợp

với đời sống, tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm phát triển

và dễ thực hiện. Và đương nhiên là cần phải có kinh phí để xây dựng văn bản quy

phạm pháp luật. Khi hệ thống pháp luật ATTP đã được ban hành cần được thường

xuyên rà soát, đánh giá, sửa đổi bổ sung phù hợp với tình hình thực tiễn công tác

quản lý nhà nước về ATTP.

1.3.2. Yếu tố khách quan

1.3.2.1. Yế tố kinh tế

Yếu tố kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh

về kinh tế xã hội, hệ thống chính sách kinh tế và việc triển khai thực hiện, áp dụng

chúng trong lĩnh vực kinh tế. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển kinh tế.

32

Trình độ nền kinh tế sẽ là điều kiện thuận lợi cho pháp luật phát triển hay kinh tế

phát triển kéo pháp luật phát triển theo. Một nền kinh tế ở trình độ cao, phát triển

năng động, bền vững sẽ tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý

thức pháp luật của tầng lớp trong xã hội. Ngược lại, khi kinh tế phát triển chậm,

kém năng động và kém hiệu quả sẽ tác động tiêu cực tới pháp luật. Điều này được

thể hiện rõ ở những mặt sau:

Thứ nhất, pháp luật ATTP chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phát triển kinh tế –

xã hội. Nước ta là nước đang phát triển, trình độ kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền là

khác nhau, do đó nó cũng ảnh hưởng nhất định đến pháp luật ATTP. Khi nền kinh

tế – xã hội phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp dân cư được cải thiện, lợi

ích kinh tế được đảm bảo thì nhu cầu đảm bảo sức khỏe, tiêu dùng thực phẩm an

toàn càng cao; nhu cầu tìm hiểu, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật về ATTP

cũng cao hơn. Từ đó, trình độ nhận thức, ý thức pháp luật ATTP của người dân cao

hơn đòi hỏi quy định pháp luật ATTP cũng phải được nâng cao nhằm đáp ứng yêu

cầu của kinh tế. Ngược lại khi kinh tế kém phát triển, nhu cầu đời sống vật chất

chưa đảm bảo thì nhu cầu cập nhật kiến thức pháp luật hạn chế, yêu cầu về pháp

luật ATTP cũng chưa cao. Bản thân pháp luật ATTP không thể phát triển đi trước

sự phát triển của kinh tế. Nền kinh tế phát triển đến đâu thì pháp luật ATTP cần

phải hoàn thiện đến đó nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế.

Đặc điểm nền kinh tế phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa cũng ảnh hưởng

không nhỏ tới pháp luật ATTP. Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, hệ thống pháp luật cũng phải theo định hướng đó và pháp luật ATTP là

một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam nên các quy định, các chính sách

pháp luật ATTP đều phục vụ mục tiêu xây dựng nhà nước, nền kinh tế theo định

hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Pháp luật ATTP và các văn bản quy phạm dưới

luật điều chỉnh đối tượng, phạm vi áp dụng và các quy định liên quan phù hợp với

từng đối tượng, thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa. Pháp luật ATTP quy định rõ điều kiện đảm bảo ATTP với các loại hình

kinh doanh khác nhau: kinh doanh nhỏ lẻ, kinh doanh dịch vụ ăn uống, sơ chế nhỏ

lẻ, kinh doanh thực phẩm bao gói sẵn, kinh doanh thức ăn đường phố,… Tương ứng

với mỗi đối tượng và loại hình sản xuất, kinh doanh thực phẩm khác nhau sẽ có

33

hình thức quản lý khác nhau như: quản lý bằng giấy phép, giấy chứng nhận hay ký

cam kết bảo đảm ATTP, quản lý bằng thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm; kiểm tra nhà

nước về ATTP,…

Thứ hai, cơ chế kinh tế cũng có ảnh hưởng tới pháp luật ATTP. Cơ chế kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay với những mặt tích cực của nó

sẽ tạo ra tư duy năng động, sáng tạo, coi trọng uy tín, chất lượng, hiệu quả của hoạt

động kinh tế; từ đó sẽ tác động tích cực hơn đối với hệ thống pháp luật ATTP, đặt

ra yêu cầu – đòi hỏi pháp luật ATTP phải hoàn thiện và đầy đủ hơn.

Cùng với xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển nền kinh tế thị trường và đòi

hỏi nhu cầu tiêu dùng thực phẩm an toàn của người dân ngày càng cao đặt ra yêu

cầu cần quản lý lĩnh vực thực phẩm. Luật ATTP 2010 đã tạo thuận lợi xây dựng các

văn bản dưới luật, trong đó phân cấp rõ ràng, mạch lạc quyền hạn, trách nhiệm của

các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ATTP từ Trung ương (Bộ Y tế, Bộ

Nông nghiệp & PTNT, Bộ Công Thương), UBND cấp tỉnh/thành phố trực thuộc

Trung ương, UBND cấp huyện và UBND cấp xã. Vấn đề ATTP đã được phân cấp

quản lý cho 3 ngành khác nhau: Y tế, Nông nghiệp, Công Thương và tương ứng với

lĩnh vực quản lý chuyên ngành sẽ có các Thông tư, Quyết định quản lý tương ứng

và UBND cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương cũng có Quyết định phân cấp

quản lý ATTP trên địa bàn. Từ đó hình thành hệ thống pháp luật ATTP đầy đủ,

thống nhất, xuyên suốt từ tuyến Trung ương tới địa phương.

1.3.2.2. Yếu tố văn hóa, xã hội

- Các yếu tố văn hóa, xã hội cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến pháp luật và

hoạt động thực hiện pháp luật về ATTP trong giai đoạn hiện nay. Đó là các quan

điểm, lối sống, văn hóa – đạo đức còn tồn tại từ chế độ cũ, thế hệ trước để lại. Với

Việt Nam, một đất nước có hơn bốn nghìn năm lịch sử, trong đó có gần nghìn năm

Bắc thuộc đô hộ và vừa thoát khỏi chiến tranh kéo dài cả thế kỷ thì không thể tránh

khỏi việc tồn tại tư tưởng phong kiến, quan niệm sản xuất manh múm, nhỏ lẻ. Từ đó

dẫn tới các hành vi kinh doanh chụp giật, chỉ hướng tới “lợi ích” trước mắt mà

không chú trọng tới lợi ích lâu dài, không đi sâu vào chất lượng ATTP, không đầu tư

chiều sâu cho việc xây dựng hình ảnh, thương hiệu sản phẩm thực phẩm,… Quá

trình thực thi pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước vẫn tồn tại quan điểm “cả nể”,

34

“một trăm cái lý không bằng tí cái tình” dẫn đến vi phạm pháp luật về ATTP còn kéo

dài và ngày càng phức tạp.

- Ngoài ra, ý thức, niềm tin đối với pháp luật của con người và hoạt động của

các cơ quan chức năng cũng ảnh hưởng rất quan trọng đối với hoạt động thực hiện

pháp luật.

35

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Việc tìm hiểu, luận giải những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về ATTP có ý

nghĩa quan trọng. Nó là những luận cứ về mặt lý luận để phân tích và đánh giá

thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về ATTP. Trong chương này,

luận văn đạt được một số kết quả như sau: Thứ nhất, phân tích và làm sáng tỏ một

số khái niệm liên quan trực tiếp đến đề tài như: “thực phẩm”“An toàn thực phẩm”,

“sản xuất thực phẩm”, “điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm”,… ; chỉ ra vai trò

bảo đảm ATTP; Thứ hai, làm rõ nội dung chính của pháp luật về ATTP: khái

niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của pháp luật ATTP. Thứ ba, phân tích các yêu

tố ảnh hưởng tới pháp luật ATTP như: yếu tố chính trị - pháp lý, người xây dựng

văn bản quy phạm pháp luật, yếu tố kinh tế, yếu tố phong tục tập quán, yêu tố tài

chính.

36

Chương 2: PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN SỞ

CÔNG THƯƠNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Thực trạng pháp luật an toàn thực phẩm từ thực tiễn Sở Công

Thương thành phố Hà Nội

2.1.1. Đánh giá chung về pháp luật an toàn thực phẩm

2.1.1.1. Những kết quả đạt được

Hiện nay ở nước ta, hệ thống pháp luật ATTP gồm: Luật ATTP của Quốc hội,

Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật và Nghị định về

ATTP của Bộ quản lý chuyên ngành (Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Công

Thương), Thông tư liên tịch của các Bộ quản lý chuyên ngành; Quyết định của Thủ

tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ quản lý chuyên ngành, Chủ tịch UBND cấp

tỉnh/Thành phố trực thuộc Trung ương, Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam đối với sản

phẩm thực phẩm, Quy chuẩn kỹ thuật địa phương đối với sản phẩm thực phẩm đặc

thù địa phương…

Pháp luật ATTP trong thời gian vừa qua đã đạt được thành tựu đáng kể, tạo

hành lang pháp lý cho các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sản xuất,

kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm. Hệ thống pháp luật ATTP cũng khá đầy đủ và

điều chỉnh một cách tương đối các mối quan hệ pháp luật ATTP, thể hiện trên một

số các mặt sau:

- Pháp luật ATTP hiện hành đã đưa ra các quy định về nguyên tắc quản lý

ATTP phải bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp liên ngành. Ngoài

quy định trách nhiệm cụ thể của 3 ngành: Nông nghiệp, Công Thương, Y tế thì

pháp luật cũng quy định phải có sự phối hợp liên ngành trong quá trình quản lý. Đối

với các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của 3 Bộ, để thống

nhất hướng dẫn thực hiện, Bộ Y tế đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, Bộ Công Thương ban hành 3 Thông tư liên tịch hướng dẫn, trong

đó Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 27/10/2014

hướng dẫn ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ

chế biến, thực phẩm bao gói sẵn.

37

Bên cạnh đó, pháp luật ATTP cũng quy định rõ trách nhiệm của UBND các

cấp đối với vấn đề ATTP trên địa bàn quản lý; trong đó đáng chú ý tại Nghị định

15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định trách nhiệm UBND cấp

tỉnh. Từ đó tạo điều kiện cho 1 số địa phương đề xuất và thành lập Ban chỉ đạo

ATTP như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bắc Ninh để thống nhất quản lý

ATTP của 3 cơ quan: Sở Y tế, Sở Nông nghiệp & PTNT, sở Công Thương thành 1

đầu mối duy nhất về quản lý ATTP trên địa bàn. Một số địa phương đã ban hành

quy định về phân công, phân cấp quản lý ATTP trên địa bàn, trong đó quy định cụ

thể trách nhiệm quản lý ATTP của cơ quan chuyên môn về ATTP cấp tỉnh (sở Công

Thương, sở Nông nghiệp & PTNT, sở Y tế), UBND cấp huyện, UBND cấp xã và

trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong phối hợp quản lý ATTP. Một số địa

phương có thể kể đến là: UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số

14/2019/QĐ-UBND ngày 05/7/2019 về phân công trách nhiệm quản lý về ATTP

trên địa bàn Hà Nội; UBND tỉnh Quảng Trị ban hành Quyết định số 24/2019/QĐ-

UBND ngày 08/4/2019 về phân cấp quản lý nhà nước về ATTP thuộc trách nhiệm

quản lý của ngành Công Thương trên địa bàn tỉnh Quảng Trị; UBND tỉnh Bình

Thuận ban hành Quyết định số 10/2019/QĐ-UBND ngày 22/4/2019 quy định phân

công, phân cấp quản lý nhà nước về ATTP trên địa bàn tỉnh Bình Thuận; UBND

tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND ngày 15/11/2017 về

phân cấp quản lý nhà nước về ATTP thuộc trách nhiệm quản lý của ngành Công

Thương trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số

37/2017/QĐ-UBND ngày 15/11/2017 về phân cấp quản lý nhà nước về ATTP

thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của ngành Công Thương trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk; UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số 1208/2017/QĐ-UBND ngày

23/4/2019 về phân công quản lý an toàn thực phẩm thuộc trách nhiệm của ngành

Công Thương trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

- Pháp luật ATTP bước đầu đã đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về chất

lượng ATTP và yêu cầu hội nhập quốc tế.

Với việc giao trách nhiệm cho 3 Bộ chính chịu hoàn toàn trách nhiệm trong

quản lý nhà nước về ATTP cho các sản phẩm thực thẩm thuộc ngành mình quản lý

đã bảo đảm được tính xuyên suốt tất cả quá trình từ sản xuất, chế biến và lưu thông

38

trên thị trường đến tay người tiêu dùng là an toàn cho sức khỏe và tính mạng. Trước

khi Luật ATTP năm 2010 có hiệu lực, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm 2003

giao trách nhiệm quản lý ATTP cho Bộ Y tế quản lý. Tuy nhiên, thực tế công tác

quản lý, việc quản lý ATTP bị phân đoạn: Bộ Nông nghiệp & PTNT quản lý ATTP

đối với các sản phẩm nông lâm thủy sản trong quá trình trồng trọt/chăn nuôi, thu

hái, đánh bắt/khai thác và sơ chế, chế biến các sản phẩm trên; Bộ Y tế quản lý quản

lý khâu chế biến, Bộ Công Thương quản lý khâu lưu thông (lĩnh vực quản lý thị

trường). Luật ATTP năm 2010 ra đời đã chuyển đổi quản lý nhà nước về ATTP

theo chuỗi sản phẩm và nhóm ngành hàng, thông suốt từ khâu trồng trọt, chế biến,

lưu thông, phân phối. Luật ATTP năm 2010 đã giao trách nhiệm cụ thể cho 03 Bộ:

Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Y tế, Bộ Công Thương. Từ đó hình thành hệ thống tổ

chức quản lý ATTP từ Trung ương tới tỉnh, huyện và xã/phường/thị trấn quản lý

ATTP xuyên suốt theo chuỗi từ sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, phân phối và tiêu

thụ thực phẩm. Quy định trách nhiệm, thẩm quyền rõ ràng trong quản lý ATTP tạo

điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý ATTP, tăng tính chủ động và phối hợp

giữa các cơ quan trong quản lý ATTP.

Những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật đã được tiếp cận theo

hướng mới, chuyển từ phương thức quản lý tiền kiểm sang hậu kiểm (dựa trên tiêu

chuẩn, quy chuẩn công bố áp dụng); từ quản lý theo công đoạn sang quản lý theo

quá trình, chuỗi cung cấp thực phẩm. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về

ATTP được các cơ quan có thẩm quyền tích cực ban hành, tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước áp dụng trong quá trình sản xuất kinh

doanh thực phẩm, cũng như kiểm soát và quản lý an toàn thực phẩm. Các tiêu

chuẩn và quy chuẩn này đã đáp ứng được yêu cầu của quốc tế và phù hợp với

CODEX.

Bên cạnh đó, xu thế quốc tế hóa đặt ra đòi hỏi các nước cần tăng cường hội

nhập, tự hoàn thiện để theo kịp phát triển của thế giới. Không chỉ ở lĩnh vực kinh tế,

mà lĩnh vực pháp luật cần đi trước để tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội

đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật ATTP cũng cần cập nhật các quy

định quốc tế nhằm đảm bảo tính phù hợp cho các sản phẩm thực phẩm trong nước

xuất khẩu và tạo “hàng rào pháp lý” đối với sản phẩm thực phẩm nhập khẩu đảm

39

bảo an toàn thực phẩm. Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định cụ thể

kiểm tra nhà nước về ATTP nhập khẩu, xuất khẩu: quy định về cơ quan kiểm tra,

phương thức kiểm tra, hồ sơ đăng ký kiểm tra, trình tự kiểm tra, xử lý thực phẩm

khi không đạt yêu cầu,..

- Pháp luật ATTP bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm

Bên cạnh quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh

doanh thực phẩm, pháp luật ATTP quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người tiêu

dùng thực phẩm. Điều này vừa thể hiện vai trò của người tiêu dùng đối với vấn đề

bảo đảm ATTP, vừa thể hiện quyền lợi của người tiêu dùng thực phẩm và pháp luật

bảo đảm quyền lợi của họ bằng các chế tài pháp luật.

Quy định pháp luật về nhãn phải cung cấp đầy đủ thông tin như: tên sản phẩm,

tên và địa chỉ tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm sản phẩm, thành phần, định lượng,

ngày sản xuất, hạn sử dụng, hướng dẫn sử dụng (nếu có),… Người tiêu dùng được

cung cấp đầy đủ thông tin sản phẩm thực phẩm giúp họ nhận biết lựa chọn sản

phẩm mong muốn đồng thời đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng khi sử dụng sản

phẩm đó.

Quy định của pháp luật ATTP về quảng cáo cũng giúp hạn chế hành vi quảng

cáo gian dối, đặc biệt đối với thực phẩm chức năng, thực phẩm bảo vệ sức khỏe.

Các hành vi quảng cáo gian dối như: khuếch đại hoặc quảng cáo sai sự thật về chức

năng hoặc tác dụng của sản phẩm, khai sai về thành phần nguyên liệu sản xuất sản

phẩm,… Việc quy định phải xác nhận nội dung trước khi quảng cáo đối với các sản

phẩm trên là hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt đối với các sản phẩm ảnh

hưởng trực tiếp và quan trọng tới sức khỏe người tiêu dùng.

2.1.1.2. Hạn chế, bất cập

Bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật ATTP cũng bộc lộ những hạn

chế, bất cập nhất định. Cụ thể:

- Tính cập nhật của các văn bản quy phạm pháp luật ATTP còn chậm, chưa

đáp ứng được nhu cầu quản lý.

Luật ATTP có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 nhưng đến 25/4/2012 mới

ban hành Nghị định 38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật 40

ATTP [3]; Đến ngày 05/10/2012, Bộ Công Thương mới ban hành Thông tư

29/2012/TT-BCT hướng dẫn cấp, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP. Suốt

thời gian từ tháng 05/2012 đến tháng 09/2012, sở Công Thương Hà Nội không thực

hiện được thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP cho các đơn vị sản xuất,

kinh doanh thực phẩm trên địa bàn do chưa có Thông tư hướng dẫn thực hiện.

Khoản 1 Điều 12 Nghị định 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 của Chính phủ

quy định 4 đối tượng không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP không

bao gồm cơ sở sản xuất nhỏ lẻ [3], trong khi Thông tư 58/2014/TT-BCT ngày

22/12/2014 của Bộ Công Thương không điều chỉnh đối tượng “sản xuất thực phẩm

nhỏ lẻ” [1]. Đến ngày 31/12/2015, Bộ Công Thương mới ban hành Thông tư

57/2015/TT-BCT về điều kiện bảo đảm ATTP nhỏ lẻ thuộc trách nhiệm quản lý nhà

nước của Bộ Công Thương. Trong khi, Điều 6 Nghị định 38/2012/BNĐ-CP của

Chính phủ quy định rõ hồ sơ công bố phù hợp quy định ATTP đối với sản phẩm

chưa có quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc phải có “giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện

ATTP”. Như vậy, suốt thời gian từ tháng 12/2014 tháng 12/2015, đối tượng “sản

xuất thực phẩm nhỏ lẻ” ngành Công Thương không được cấp giấy xác nhận công

bố phù hợp quy định ATTP.

Điều đó đã tạo một khoảng trống trong thực hiện pháp luật lĩnh vực ATTP,

gây khó khăn cho công tác quản lý ATTP và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực

phẩm khi tuân thủ pháp luật ATTP.

- Tính ổn định, khả thi của các VBQPPL ATTP còn chưa cao, cần phải sửa đổi

bổ sung cho phù hợp thực tiễn áp dụng. Có những văn bản được các cơ quan chức

năng ban hành chỉ trong một thời gian ngắn đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ.

Do đó, đã gây khó khăn cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm, cũng như

công tác kiểm soát ATTP trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước. Nghị

định 08/2018/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15/01/2018 sửa đổi một số

Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà

nước của Bộ Công Thương trong đó bãi bỏ nhiều điều khoản trong lĩnh vực ATTP

đã được ban hành tại Nghị định 77/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 chỉ sau hơn 1 năm

triển khai thực hiện.

41

- Hệ thống VBQPPL về ATTP còn chồng chéo, chưa đồng nhất khiến cho

việc triển khai, thực hiện càng khó khăn. Quan điểm về cơ sở sản xuất, kinh doanh

thực phẩm nhỏ lẻ của ngành Công Thương và ngành Nông nghiệp, Y tế chưa thống

nhất khiến cho phương thức quản lý đối với đối tượng này là khác nhau. Ngành

Công Thương quan điểm tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ (có

hoặc không có đăng kí kinh doanh) là các cơ sở nhỏ lẻ và không phải cấp giấy

chứng nhận đủ điều kiện ATTP. Đối với ngành Y tế và Nông nghiệp thì khác, chỉ

các cơ sở kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều

kiện ATTP.

Cùng hành vi vi phạm “quảng cáo gian dối sản phẩm” nhưng lại quy định ở 2

văn bản với mức phạt khác nhau. Cụ thể: Phạt tiền từ 50 triệu đến 70 triệu đồng đối

với hành vi quảng cáo gian dối sản phẩm (Khoản 5 Điều 51 Nghị định

158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ); Khoản 2 Điều 33 Nghị định

71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định mức phạt tiền từ 80 triệu

đến 140 triệu đồng) [4].

- Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật còn thiếu, gây khó khăn

cho công tác quản lý ATTP và hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Trên

thực tế, số lượng và chủng loại sản phẩm thực phẩm rất đa dạng, phong phú trong

khi số lượng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật ban hành còn hạn chế, rất nhiều sản

phẩm thực phẩm chưa xây dựng được tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật gây

khó khăn cho công tác quản lý và tuân thủ pháp luật của cơ sở, đặc biệt khi các cơ

sở tự công bố sản phẩm. Ví dụ: chưa có tiêu chuẩn/quy chuẩn về sản phẩm rượu thủ

công, rượu thuốc, rượu bổ, mứt, ô mai,… Quy định giới hạn ATTP tại Quy chuẩn

kỹ thuật Quốc gia QCVN 8-1:2011/BYT, QCVN 8-2:2011/BYT, QCVN 8-

3:2012/BYT còn thiếu, chưa cụ thể gây khó khăn cho việc áp dụng và khó khăn khi

kiểm tra, hậu kiểm.

- Mặc dù việc phân công về trách nhiệm của các cơ quan đã được xác định rõ

ràng, nhưng vẫn có sự chồng chéo, phân đoạn quản lý dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm,

thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý dẫn đến hiệu quả quản lý ATTP chưa

cao. Ví dụ đối với sản phẩm sữa: sữa nguyên liệu thuộc quản lý của Bộ Nông

nghiệp & PTNT và phải tuân thủ quy định, giới hạn an toàn do Bộ Nông nghiệp &

42

PTNT quy định, sữa chế biến thuộc quản lý của Bộ Công Thương và phải tuân thủ

quy định, giới hạn an toàn do Bộ Y tế quy định. Điều đó tạo sự phân đoạn quản lý:

sữa vắt từ con bò thì Bộ Nông nghiệp & PTNT quản lý nhưng cùng nguyên liệu sữa

đó được chế biến mà không bổ sung vi chất thì Bộ Công Thương quản lý, còn bổ

sung vi chất thì thuộc quản lý của Bộ Y tế.

Các VBQPPL ATTP được ban hành nhiều nhưng phạm vi và mức độ điều

chỉnh còn chồng chéo, chưa đầy đủ, thống nhất, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.

Tính ổn định, khả thi và tính cập nhật của các văn bản quy phạm pháp luật ATTP

chưa cao, chưa bắt kịp với thực tiễn tình hình ATTP. Sự trùng lắp, chồng chéo và

chưa thống nhất trong quy định pháp luật ATTP gây khó khăn cho công tác triển

khai thực hiện.

2.1.2. Pháp luật an toàn thực phẩm từ thực tiễn Sở Công Thương thành

phố Hà Nội

2.1.2.1. Một số đặc điểm của Hà Nội

Kể từ sau khi sáp nhập tỉnh Hà Tây cũ vào Hà Nội (năm 2008) thì Hà Nội là

địa bàn rộng, với số lượng dân cư lớn (bao gồm cả nội thành, ngoại thành và nhập

cư). Hà Nội có dân số khoảng 7,9 triệu người và hơn 2 triệu người ngoại tỉnh đến

công tác, học tập, lao động, thăm quan du lịch,…Toàn thành phố có 20 trung tâm

thương mại, 120 siêu thị (trong đó có 92 siêu thị kinh doanh tổng hợp có kinh doanh

thực phẩm), 460 chợ (02 chợ đầu mối, 04 chợ có tính chất đầu mối, 454 chợ dân

sinh), hiện có 4/7 cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm công nghiệp, có 13/15 cơ sở giết

mổ gia súc gia cầm bán công nghiệp, 4 khu giết mổ gia súc gia cầm tập trung thủ

công đang hoạt động. Có 1.047 điểm giết mổ nhỏ lẻ thủ công, 59.109 cơ sở thực

phẩm. Để đáp ứng thực phẩm nông lâm thủy sản cho khoảng 10 triệu dân, mỗi ngày

thị trường Hà Nội cần khoảng 800 – 1000 tấn thịt các loại, 2.500 – 3000 tấn rau quả

các loại, 350 - 400 tấn thủy hải sản tươi sống và chế biến,… Sản xuất thực phẩm

của Hà Nội mới chỉ đáp ứng 60% nhu cầu, còn lại 40% nhu cầu phải nhập từ các

tỉnh và nhập khẩu [25].

Với đặc điểm là địa bàn rộng, lượng dân cư và nhu cầu tiêu thụ thực phẩm lớn;

Hà Nội mới chỉ đáp ứng 60% nhu cầu thực phẩm, còn lại 40% thực phẩm nhập

43

khẩu và nhập từ các tỉnh. Bên cạnh đó, với số lượng cơ sở gần 60.000 cơ sở thực

phẩm, hơn 1.000 cơ sở giết mổ và hàng triệu hộ nông dân, sản xuất cá thể nhỏ lẻ

cho thấy tình hình ATTP trên địa bàn Hà Nội phức tạp và thường xuyên biến động.

2.1.2.2. Giới thiệu về Sở Công Thương Hà Nội

Sở Công Thương Hà Nội là cơ quan trực thuộc UBND Thành phố Hà Nội có

trụ sở tại địa chỉ: số 331 đường Cầu Giấy, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Ngày

08/9/2016, UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 39/2016/QĐ-UBND

về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở Công

Thương thành phố Hà Nội [23]. Cụ thể:

(1) Về vị trí và chức năng

- Sở Công Thương thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban

nhân dân thành phố Hà Nội, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân

Thành phố quản lý nhà nước về công thương, bao gồm các ngành và lĩnh vực: Cơ

khí; luyện kim; điện; năng lượng mới; năng lượng tái tạo; hóa chất; vật liệu nổ công

nghiệp; công nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản (trừ vật liệu xây dựng);

công nghiệp tiêu dùng; công nghiệp thực phẩm; công nghiệp chế biến khác; an toàn

thực phẩm; lưu thông hàng hóa trên địa bàn Thành phố; xuất khẩu; nhập khẩu; quản

lý thị trường; xúc tiến thương mại; thương mại điện tử; dịch vụ thương mại, hội

nhập kinh tế quốc tế; quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá; chống trợ cấp, bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng; khuyến công, quản lý cụm công nghiệp, công nghiệp hỗ

trợ; về các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm

vụ, quyền hạn khác theo phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân Thành phố và

theo quy định của pháp luật.

- Chịu sự chỉ đạo, quản lý và điều hành của Ủy ban nhân dân Thành phố về tổ

chức, biên chế và hoạt động; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn thực

hiện về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Công Thương.

(2) Nhiệm vụ và quyền hạn

- Tham mưu UBND thành phố các chương trình, kế hoạch, đề án, giải pháp và

tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý lĩnh vực Công Thương trên địa bàn

44

- Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp

luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình và các quy định về phát

triển công thương sau khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, phổ

biến, giáo dục, theo dõi thi hành pháp luật về lĩnh vực Công Thương.

- Giúp Ủy ban nhân dân Thành phố chủ trì, kiểm tra, thẩm định thiết kế các dự

án đầu tư xây dựng, chất lượng các công trình thuộc ngành công thương trên địa

bàn Thành phố theo phân cấp; cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn và thu hồi các loại giấy

phép, chứng nhận thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của Sở theo quy định của

pháp luật, sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân Thành phố.

- Tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý lĩnh vực công thương trên địa bàn bao

gồm: công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong đó có lĩnh vực ATTP từ khâu sản

xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, kinh doanh đối với các loại rượu, bia, nước

giải khát, sản phẩm sữa chế biến, dầu thực vật, sản phẩm chế biến từ bột, tinh bột,

bánh, mứt, kẹo, bao bì chứa đựng và các sản phẩm khác, an toàn thực phẩm đối với

các chợ, siêu thị và các cơ sở thuộc hệ thống dự trữ, phân phối hàng hóa thực phẩm;

lĩnh vực thương mại

- Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về giám định, đăng ký, cấp giấy phép,

chứng chỉ, chứng nhận trong phạm vi trách nhiệm quản lý của Sở theo quy định của

pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân Thành phố.

- Quản lý, theo dõi, khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập

thể, kinh tế tư nhân, các hội, hiệp hội và các tổ chức phi chính phủ thuộc phạm vi

quản lý của Sở trên địa bàn Thành phố theo quy định của pháp luật.

- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở quản lý theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công thương theo phân công hoặc

ủy quyền của Ủy ban nhân dân Thành phố.

- Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ thuộc lĩnh vực công thương đối với các

Phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế và Hạ tầng thuộc UBND cấp huyện.

- Tổ chức thực hiện kế hoạch nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ

thuật và công nghệ trong công nghiệp và thương mại thuộc phạm vi quản lý của Sở; 45

hướng dẫn thực hiện các tiêu chuẩn, quy phạm, định mức kinh tế - kỹ thuật, chất

lượng sản phẩm công nghiệp; xây dựng hệ thống thông tin lưu trữ phục vụ công tác

quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ; tổ chức thực hiện chính sách, chương

trình, kế hoạch, đề án xây dựng phát triển mạng lưới điện nông thôn và chợ nông

thôn tại các xã trên địa bàn Thành phố, đánh giá công nhận xã đạt tiêu chí về điện

và chợ theo chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

- Triển khai thực hiện chương trình cải cách hành chính của Sở theo mục tiêu

và nội dung chương trình cải cách hành chính của UBND Thành phố.

- Kiểm tra, thanh tra theo ngành, lĩnh vực được phân công quản lý đối với tổ

chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công thương; giải quyết khiếu nại, tố cáo,

phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và theo sự phân công hoặc

ủy quyền của Ủy ban nhân dân Thành phố.

- Quản lý và tổ chức thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực công thương

thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật.

- Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của

các tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở quản lý, phù hợp với chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của Sở theo hướng dẫn chung của Bộ Công Thương, Bộ Nội

vụ và theo quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố.

- Quản lý tổ chức bộ máy, vị trí việc làm, biên chế công chức và số lượng

người làm việc, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong các đơn vị sự

nghiệp công lập thuộc Sở; thực hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi

ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật đối với công chức, viên chức và

người lao động thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật và theo

sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân Thành phố.

- Quản lý theo quy định của pháp luật đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh

tế tập thể, kinh tế tư nhân, các hội và các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh

vực công thương tại địa phương.

- Quản lý và chịu trách nhiệm về tài chính được giao theo quy định của pháp

luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân Thành phố.

46

- Tổng hợp thông tin, báo cáo định kỳ sáu tháng một lần hoặc đột xuất về tình

hình thực hiện nhiệm vụ được giao với UBND Thành phố và Bộ Công Thương.

- Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND Thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân

dân Thành phố giao và theo quy định của pháp luật.

(3) Cơ cấu tổ chức

Sở Công Thương được tổ chức gồm 01 giám đốc Sở, 03 Phó giám đốc Sở, 01

đơn vị trực thuộc (Trung tâm khuyến công và tư vấn phát triển công nghiệp) và 6

phòng ban chuyên môn gồm: Văn phòng, Thanh tra, phòng Quản lý công nghiệp,

phòng Quản lý thương mại, phòng Kế hoạch – Tài chính – Tổng hợp, phòng Quản

lý Năng lượng.

2.1.2.3. Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm tại Sở Công Thương thành

phố Hà Nội

(1) Về công tác chỉ đạo – điều hành

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách liên quan đến

ATTP từ Chính phủ, Bộ Công Thương, UBND Thành phố Hà Nội, từ năm 2015

đến nay, Sở Công Thương Hà Nội đã ban hành 351 văn bản chỉ đạo điều hành liên

quan tới công tác quản lý ATTP. Cụ thể: năm 2015 ban hành 19 văn bản, năm 2016

ban hành 53 văn bản, năm 2017 ban hành 117 văn bản, năm 2018 ban hành 88 văn

bản. Và 6 tháng đầu năm 2019 ban hành 74 văn bản triển khai thực hiện công tác

quản lý ATTP ngành Công Thương trên địa bàn Hà Nội.

(2) Về công tác tham mưu, góp ý các văn bản quy phạm pháp luật

Sở Công Thương là một trong các đơn vị tích cực trong quá trình tham mưu,

góp ý sửa đổi, bổ sung, xây dựng các VBQPPL từ cấp Trung ương tới cấp Thành

phố, đặc biệt là trong lĩnh vực ATTP ngành Công Thương. Cụ thể:

- Đã tham gia góp ý xây dựng Nghị định của Chính phủ về ATTP: Nghị định

15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018; Nghị định 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018;

Nghị định số 08/2018/ND-CP ngày 15/01/2018.

- Đã tham gia góp ý xây dựng các Thông tư hướng dẫn thi hành Luật ATTP và

Nghị định của Chính phủ của Bộ Công Thương: Thông tư 29/2012/TT-BCT, Thông

tư 58/2014/TT-BCT, Thông tư 43/2018/TT-BCT.

47

- Đã tham gia góp ý, xây dựng Quyết định số 14/2019/QĐ-UBND ngày

05/7/2019 của UBND Thành phố (thay thế Quyết định số 16/2016/QĐ-UBND ngày

09/5/2016 của UBND Thành phố Hà Nội).

(3) Về công tác tuyên truyền – phổ biến pháp luật

Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

ATTP được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đi trước một bước trong các hoạt động

bảo đảm ATTP. Việc nâng cao kiến thức và thực hành về ATTP cho các đối tượng

được các Bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng, phong

phú. Các hoạt động tuyên truyền giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng

được đã được triển khai đồng bộ, bài bản, đặc biệt tập trung vào các đợt cao điểm

như: Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán và Lễ hội, Tháng hành động vì ATTP, Tết

trung thu, các đợt cao điểm về ngộ độc rượu,… theo chỉ đạo của Trung ương và

UBND Thành phố Hà Nội nhằm nâng cao vai trò của UBND các cấp, vai trò quản

lý của các cơ quan chức năng, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực

phẩm, trách nhiệm của cộng đồng và bản thân người tiêu dùng trong công tác bảo

đảm ATTP.

Theo số liệu báo cáo của Sở Công Thương Hà Nội giai đoạn 2015-2019 cho

thấy công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về ATTP cho các đối

tượng: cán bộ quản lý ATTP tuyến quận/huyện và xã/phường, người quản lý và

người trực tiếp sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng thực phẩm,… ngày càng được

chú trọng; chủ yếu tập trung vào các nội dung: hướng dẫn thực hiện và phổ biến các

văn bản quy phạm pháp luật về ATTP và các văn bản khác có liên quan, hướng dẫn

thực hành sản xuất kinh doanh thực phẩm. Cụ thể:

- Năm 2015, đã tổ chức 11 lớp tập huấn, phổ biến kiến thức về ATTP, các

VBQPPL về ATTP, đặc biệt là Thông tư liên tịch 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-

BCT ngày 09/4/2014 của Liên Bộ Y tế, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công

Thương; Quyết định 6409/QĐ-BCT và 6410/QĐ-BCT ngày 21/7/2014 của Bộ

Công Thương; Thông tư 58/2014/TT-BCT ngày 22/12/2014 của Bộ Công Thương

(với 1.300 người tham gia); tổ chức Hội Nghị tổng kết 3 năm thực hiện Nghị định

38/2012/NĐ-CP, 01 Hội nghị tuyên truyền các quy định của pháp luật về ATTP và

bảo vệ môi trường cho các DN kinh doanh thực phẩm, Ban quản lý chợ trên địa bàn

48

Thành phố. Chi cục QLTT Hà Nội với vai trò là Cơ quan Thường trực Ban chỉ đạo

389/TP đã phối hợp với Ban chỉ đạo 389 các quận, huyện, thị xã tổ chức ký 180 bản

cam kết đến các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trên địa bàn Thành phố về không

kinh doanh doanh hàng cấm, hàng lậu, hàng giả, hàng vi phạm về ATTP [16].

- Năm 2016, đã tổ chức 18 lớp tập huấn phổ biến kiến thức về ATTP, hướng

dẫn thực hiện Quyết định 16 của UBND Thành phố tại các Quận/Huyện/Thị xã:

Sơn Tây, Nam Từ liêm, Bắc Từ Liêm, Long Biên, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Hoài

Đức (02 lớp), Ứng Hòa, Gia Lâm, Thạch Thất, Thanh Oai, Quốc Oai… ; Hệ thống

siêu thị Vinmart, Fivimart và 1 số doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm với khoảng

2.000 người tham gia; tổ chức Hội Nghị tổng kết 5 năm thực hiện Luật ATTP và

các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật ATTP. Tham dự Hội nghị có đại diện Bộ

Công Thương, sở Y tế, Nông nghiệp & PTNT, phòng kinh tế các quận/huyện/thị xã,

các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của

ngành Công Thương trên địa bàn. Phối hợp với Ban chỉ đạo 389 các quận, huyện,

thị xã tổ chức ký 107.359 bản cam kết đến các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trên địa

bàn Thành phố về không kinh doanh doanh hàng cấm, hàng lậu, hàng giả, hàng vi

phạm về ATTP [17].

- Năm 2017, đã tổ chức 29 lớp tập huấn (trong đó 10 lớp chuyên đề về Đề án

trái cây, 19 lớp phổ biến kiến thức ATTP tại các huyện: Quốc Oai, Mê Linh, Ứng

Hòa, Gia Lâm, Hoài Đức, Sóc Sơn, Hoàng Mai, Sơn Tây, Thạch Thất, Phúc

Thọ…); In ấn 30.200 tờ rơi, tờ gấp tuyên truyền quy định về ATTP. Chi cục QLTT

Hà Nội với vai trò là Cơ quan Thường trực Ban chỉ đạo 389/TP đã phối hợp với

Ban chỉ đạo 389 các quận, huyện, thị xã tổ chức ký 19.662 bản cam kết đến các

doanh nghiệp, hộ kinh doanh trên địa bàn Thành phố về không kinh doanh doanh

hàng cấm, hàng lậu, hàng giả, hàng vi phạm về ATTP [18].

- Năm 2018, đã tổ chức 27 lớp tập huấn các kiến thức ATTP, các quy định của

pháp luật về ATTP, đặc biệt liên quan tới Nghị định 15/2018/NĐ-CP ngày

02/02/2018 của Chính phủ, Nghị định 105/NĐ-CP ngày 14/9/2017 của Chính phủ;

Nghị định 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 cuả Chính phủ về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực ATTP [19].

49

- 6 tháng đầu năm 2019, đã tổ chức 05 lớp tập huấn, phổ biến kiến thức, quy

định của pháp luật về ATTP, việc tự công bố sản phẩm, các TCVN, QCVN đối với

sản phẩm thực phẩm,.. cho cán bộ quản lý ATTP cấp huyện, các cơ sở sản xuất,

kinh doanh thực phẩm trên địa bàn các quận: Đống Đa, Tây Hồ, Ba Đình; các

huyện: Phúc Thọ, Đan Phượng, Thạch Thất, Hoài Đức, Phú Xuyên và thị xã Sơn

Tây [21].

Sở Công Thương cũng tích cực phối hợp với cơ quan báo chí, truyền thông

trong công tác tuyên truyền, đưa tin, giáo dục pháp luật về ATTP tới người dân.

Phối hợp xây dựng các bài đưa tin, phóng sự, chương trình về tình hình ATTP trên

địa bàn Thủ đô, đặc biệt là các phóng sự đưa tin về các vụ việc, điểm nóng ATTP

như: sản xuất bimbim không đảm bảo ATTP, kinh doanh hàng nhập lậu, không rõ

nguồn gốc xuất xứ, ngộ độc Methanol, ….

(4) Hướng dẫn ủy ban nhân dân các quận/huyện/thị xã thực hiện quản lý nhà

nước về an toàn thực phẩm.

Ngoài việc thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn thực hiện các

VBQPPL về ATTP, Sở Công Thương Hà Nội thường xuyên trao đổi chuyên môn,

hướng dẫn nghiệp vụ quản lý nhà nước về ATTP cho cán bộ quản lý ATTP tuyến

quận/huyện và xã/phường.

Ngay khi có văn bản quy phạm pháp luật mới về ATTP từ cấp Trung ương

(Chính phủ, Bộ Công Thương), UBND Thành phố Hà Nội, Sở Công Thương đã có

văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tới UBND các quận/huyện/thị xã trên địa bàn để triển

khai thực hiện. Từ đó giúp cho việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật

về ATTP được thông suốt và nhanh chóng đi vào cuộc sống.

- Về cách thức thực hiện thủ tục hành chính về ATTP:

Năm 2016, để tăng cường hiệu quả quản lý về ATTP ngành Công Thương trên

địa bàn, Sở Công Thương Hà Nội đã mạnh dạn đề xuất UBND Thành phố phân cấp

quản lý ATTP ngành Công Thương tới tuyến quận/huyện, xã/phường tại Quyết định

16/2016/QĐ-UBND ngày 09/5/2016 của UBND Thành phố. Theo đó, UBND cấp

huyện có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP, giấy xác nhận kiến

thức ATTP, tiếp nhận cam kết bảo đảm ATTP [22].

50

Sở Công Thương đ ương đã cử cán bộ tới từng quận/huyện để hướng dẫn các l ớng dẫn các làm,

cách giải quyết thủ tục h ải quyết thủ tục hành chính; từ quy trình, cách thức kiểm tra ểm tra, cách thức tổ

chức thi và chấm bài thi xác nh ài thi xác nhận kiến thức ATTP đảm bảo nhanh v ận kiến thức ATTP đảm bảo nhanh và hiệu quả. Từ

đó, giải quyết các khó khăn, v ớng mắc trong việc triển khai thực hiện các quy định ải quyết các khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai thực hiện các quy định

ủa pháp luật về ATTP tại tuyến quận/huyện. của pháp luật về ATTP tại tuyến quận/

Năm 2019, Sở Công Th ối hợp với Viện kiểm nghiệm quốc gia tổ ở Công Thương đã phối hợp với Viện kiểm nghiệm quốc gia tổ

ấp chứng chỉ nghiệp vụ lấy mẫu thực phẩm cho cán bộ các phòng ấp chứng chỉ nghiệp vụ lấy mẫu thực phẩm cho cán bộ các ph chức đào tạo và cấp chứng chỉ nghiệp vụ lấy mẫu thực phẩm cho cán bộ các ph

kinh tế của 30 UBND quận/huyện/thị x ằm phục vụ công tác kiểm ế của 30 UBND quận/huyện/thị xã trên địa bàn nhằm phục vụ công tác kiểm

tra, hậu kiểm đối với các đơn v các đơn vị sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên đ ên địa bàn.

(5) Việc thực hiện thủ tục h ực phẩm ực hiện thủ tục hành chính lĩnh vực an toàn thực phẩm

Thủ tục hành chính là chi ành chính là chiếc cầu nối quan trọng giữa cơ quan qu ơ quan quản lý nhà nước

với dân và các tổ chức [11], l ổ chức [11], là tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nh ản lý nhà nước. Xác

định được điều đó nên trong nh ên trong những năm qua, Sở Công Thương luôn th ương luôn thực hiện cải

cách thủ tục hành chính trên các phương di ành chính trên các phương diện: đơn giản hóa hồ sơ và cách th ơ và cách thức thực

hiện, giảm thời gian và chi phí th à chi phí thực hiện thủ tục hành chính.

- Về cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm

Theo Thông tư 43/2018/TT-BCT ngày 15/11/2018 của Bộ Công Th Theo Thông tư 43/2018/TT ủa Bộ Công Thương [2],

Quyết định 14/2019/QĐ ết định 14/2019/QĐ-UBND ngày 05/7/2019 của UBND Thành ph ành phố Hà Nội

[24], Sở Công Thương c ận đủ điều kiện ATTP đối với các doanh ương cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP đối với các doanh

nghiệp, hợp tác xã sản xuất, kinh doanh thực phẩm ng ản xuất, kinh doanh thực phẩm ngành Công Thương trên đ ành Công Thương trên địa

1600

1400

1200

1000

800

600

400

200

0

2015

2016

2017

2018

6 tháng 2019 6 tháng 2019

51

bàn.

Hình 2.1. Kết quả cấp giấy chứng nhận c ết quả cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an to ở đủ điều kiện an toàn thực

phẩm tại Sở Công Th 2019 ẩm tại Sở Công Thương Hà Nội giai đoạn 2015-2019

(Nguồn: Sở Công Thương thành ph ương thành phố Hà Nội)

1400

1200

1000

Lĩnh vực sản xuất Lĩnh vực sản xuất

800

Lĩnh vực kinh doanh Lĩnh vực kinh doanh

600

400

200

0

2015

2016 2017 2018

6T 2019

Hình 2.2. Kết quả cấp giấy chứng nhận c ấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn th àn thực phẩm

theo loại hình tại Sở Công Th ại Sở Công Thương Hà Nội giai đoạn 2015 ội giai đoạn 2015-2019

(Nguồn: Sở Công Thương thành ph

ương thành phố Hà Nội) ận đủ điều kiện ATTP theo ể nhận thấy, biến động về cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP theo Có thể nhận thấy, biến động về cấp giấy chứ

các năm tại Sở Công Th ủ yếu ở lĩnh vực kinh doanh (đặc biệt trong năm ại Sở Công Thương chủ yếu ở lĩnh vực kinh doanh (đặc biệt trong năm

2018). Đối với lĩnh vực sản xuất, số l ợng giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP ối với lĩnh vực sản xuất, số lượng giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP

không biến động nhiều (d u (dao động từ 180 – 200 giấy chứng nhận đủ điều ki ấy chứng nhận đủ điều kiện

ATTP). Điều này cũng dễ hiểu khi số l ũng dễ hiểu khi số lượng cơ sở sản xuất thực phẩm ở sản xuất thực phẩm thường ít hơn

rất nhiều lần số lượng cơ s ũng do đặc điểm số ơ sở kinh doanh thực phẩm, ngoài ra cũng do đặc điểm số

lượng cơ sở kinh doanh thực phẩm lớn nh ở nhỏ lẻ (chiếm đến ở kinh doanh thực phẩm lớn nhưng chủ yếu là cơ sở nhỏ lẻ (chiếm đến

hơn 80% số lượng các cơ s ng các cơ sở trên địa bàn).

Năm 2018, số lượng các c ợng các cơ sở kinh doanh thực phẩm trên địa b ịa bàn được cấp

giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP tăng mạnh, chủ yếu do Tập đo ấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP tăng mạnh, chủ yếu do Tập đoàn Vinmart đ àn Vinmart đẩy

mạnh mảng bán lẻ thực phẩm, li ạnh mảng bán lẻ thực phẩm, liên tiếp hệ thống các cửa hàng tiện lợi Vinmart+m ện lợi Vinmart+mở

ấy chứng nhận đăng kí kinh doanh ửa, đi đôi với việc đổi tên doanh nghiệp trên giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cửa, đi đôi với việc đổi t

của đơn vị sở hữu hệ thống Vinmart+. Cuối năm 2018 tại H ội cũng ghi nhận sự ị sở hữu hệ thống Vinmart+. Cuối năm 2018 tại Hà Nội cũng ghi nhận sự

52

ị Fivimart đồng loạt đổi chủ sở hữu sang Vinmart. Bên cạnh ị Fivimart đồng loạt đổi chủ sở hữu sang Vinmart. kiện hàng loạt siêu thị Fivimart đồng loạt đổi chủ sở hữu sang Vinmart.

đó, quy định Nghị định 15/2018/NĐ ị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ mở rộng đối t ủa Chính phủ mở rộng đối tượng không

phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP l ải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP làm cho nhu cầu và s à số lượng các cơ

ợc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP giảm. sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP giảm.

(6) Việc cấp giấy xác nhận kiến thức ệc cấp giấy xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm

10000 10000 9000 9000 8000 8000 7000 7000 6000 6000 5000 5000 4000 4000 3000 3000 2000 2000 1000 1000 0 0

2015

2016

2017

2018

Hình 2.3. Kết quả cấp giấy xác nhận kiến thức an to ực phẩm tại Sở Công ấp giấy xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm tại Sở Công

Thương Hà Nội giai đoạn 2015-2018 Thương Hà N

(Nguồn: Sở Công Thương thành ph

Kết quả cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP đ ết quả cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP được tính theo số ng ương thành phố Hà Nội) ợc tính theo số người được xác

nhận kiến thức ATTP. Đó l ời trực tiếp sản xuất, ức ATTP. Đó là chủ cơ sở, người quản lý, người trực tiếp sản xuất,

kinh doanh thực phẩm. Điều n ực phẩm. Điều này thể hiện số lượng lao động tham gia v ợng lao động tham gia vào quá trình

ản xuất, kinh doanh thực phẩm. Theo quy định, sở Công Thương c sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Theo quy định, sở Công Th ương cấp giấy xác

nhận kiến thức ATTP cho doanh ản xuất, kinh doanh thực phẩm ận kiến thức ATTP cho doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất, kinh doanh thực phẩm

ợc xác nhận kiến thức ATTP. ngành Công Thương và cá nhân có nhu cầu được xác nhận kiến thức ATTP. ngành Công Thương và cá nhân có nhu c

Kết quả trên cho th ợc cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP giảm cho thấy số người được cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP giảm

ưng năm 2018 tăng ừ năm 2015 (gần 8.000 người), tới 2017 (hơn 5.000 người), nhưng năm 2018 tăng từ năm 2015 (gần 8.000 ng

vọt (gần 10.000 người). Cũng cần nói th ấy xác nhận kiến thức ATTP có hạn ời). Cũng cần nói thêm là giấy xác nhận kiến thức ATTP có hạn

hiệu lực là 3 năm, vì thế cho thấy đang có 1 số l ợng không nhỏ lao động mới tham ế cho thấy đang có 1 số lượng không nhỏ lao động mới tham

ản xuất, kinh doanh thực phẩm. gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

(7) Về tiếp nhận hồ s ề tiếp nhận hồ sơ tự công bố sản phẩm

53

Thực hiện Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ và chỉ đạo của UBND

Thành phố Hà Nội, sở Công Thương Hà Nội bắt đầu tiếp nhận hồ sơ tự công bố sản

phẩm thực phẩm ngành Công Thương quản lý từ tháng 04/2018. Đối tượng là các

sản phẩm do doanh nghiệp, hộ kinh doanh sản xuất thực phẩm ngành Công

Thương; các cơ sở, doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm tổng hợp, kinh doanh thực

phẩm ngành Công Thương (bao gồm các sản phẩm thực phẩm nhập khẩu). Mặc dù

đây không phải là thủ tục hành chính nhưng để đảm bảo quyền lợi cho doanh

nghiệp, cơ sở và dễ dàng trong công tác quản lý, sở Công Thương Hà Nội đã xây

dựng quy trình tiếp nhận và cập nhật hàng ngày trên website của Sở Công Thương.

Kết quả: từ tháng 04/2018 đến nay, sở Công Thương Hà Nội đã tiếp nhận 15.403 hồ

sơ công bố sản phẩm thực phẩm. Trong đó: năm 2018, sở Công Thương Hà Nội

tiếp nhận 11.032 hồ sơ tự công bố sản phẩm thực phẩm; riêng 06 tháng đầu năm

2019, sở Công Thương Hà Nội tiếp nhận 4.371 hồ sơ tự công bố sản phẩm thực

phẩm.

(8) Về thanh tra và xử lí vi phạm về an toàn thực phẩm

Thông qua kết thanh tra, xử lí vi phạm có thể thấy số đơn vị được thanh tra và

số tiền xử phạt vi phạm hành chính so với số lượng cơ sở thuộc sở Công Thương

quản lý còn khá khiêm tốn. Một phần do tỷ lệ số đơn vị được thanh tra hàng năm

thấp do hạn chế về số lượng cán bộ thanh tra (hiện Sở Công Thương không có cán

bộ thanh tra chuyên ngành ATTP, các cán bộ tham gia Đoàn Thanh tra hầu hết đều

kiêm nhiệm).

Kết quả thanh tra và xử lí vi phạm ATTP tại Sở Công Thương Hà Nội từ năm

2015 đến năm 2018 như sau:

54

180

160

140

120

100

triệu đồng triệu đồng

80

60

40

20

0

2015 2015

2016

2017

2018

Hình 2.4. Kết quả thanh tra, x ực phẩm tại Sở Công thanh tra, xử lí vi phạm an toàn thực phẩm tại Sở Công

Thương Hà Nội giai đoạn 2015-2018 Thương Hà N

(Nguồn: Sở Công Thương thành ph

Các lỗi vi phạm chủ yếu bao gồm: không có giấ ỗi vi phạm chủ yếu bao gồm: không có giấy xác nhận kiến thức ATTP v ương thành phố Hà Nội) ận kiến thức ATTP và

khám sức khoẻ của chủ c ời trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm; ức khoẻ của chủ cơ sở và người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm;

không thực hiện thủ tục công bố sản phẩm; không duy tr ều kiện đảm bảo ATTP. ực hiện thủ tục công bố sản phẩm; không duy trì điều kiện đảm bảo ATTP.

(9) Về kiểm tra, xử lí vi phạm ề kiểm tra, xử lí vi phạm an toàn thực phẩm

Thông qua kết than ết thanh tra, xử lí vi phạm có thể thấy số đơn vị đư ược thanh tra và

ố tiền xử phạt vi phạm hành chính so với số lượng cơ sở thuộc sở Công Th số tiền xử phạt vi phạm h ở thuộc sở Công Thương

quản lý còn khá khiêm t òn khá khiêm tốn. Một phần do tỷ lệ số đơn vị được thanh tra h ợc thanh tra hàng năm

thấp do hạn chế về số lư ương không có cán ượng cán bộ thanh tra (hiện Sở Công Thương không có cán

bộ thanh tra chuyên ngành ATTP, các cán b ên ngành ATTP, các cán bộ tham gia Đoàn Thanh tra h àn Thanh tra hầu hết đều

kiêm nhiệm).

Kết quả thanh tra v ết quả thanh tra và xử lí vi phạm ATTP tại Sở Công Thương Hà N ương Hà Nội từ năm

ư sau: 2015 đến năm 2018 như sau:

55

25

20

15

Kiểm tra (tỷ đồng) Kiểm tra (tỷ đồng)

10

Tịch thu, tiêu hủy Tịch thu, tiêu hủy (tỷ đồng)

5

0

2015

2016 2017 2018

Hình 2.5. Kết quả ki ực phẩm tại Sở Công kiểm tra, xử lí vi phạm an toàn thực phẩm tại Sở Công

Thương Hà Nội giai đoạn 2015-2018 Thương Hà N

(Nguồn: Sở Công Thương thành ph

Nhìn vào biểu đồ có thể nhận thấy năm 2016 l ểu đồ có thể nhận thấy năm 2016 là năm ra quân m ương thành phố Hà Nội) à năm ra quân mạnh của lực

lượng quản lí thị trường H ờng Hà Nội, tăng cả ở mức xử phạt và giá trị hàng hoá t àng hoá tịch thu,

tiêu huỷ. Liên tiếp các vụ buôn bán thực phẩm kém chất l ếp các vụ buôn bán thực phẩm kém chất lượng, thực phẩm không r ợng, thực phẩm không rõ

nguồn gốc xuất xứ, trong đó có mặt h ệu sử dụng để sản ồn gốc xuất xứ, trong đó có mặt hàng bimbim và các nguyên liệu sử dụng để sản

xuất bimbim. Sở Công Th ất bimbim. Sở Công Thương Hà Nội cũng thực hiện nhiều chuy ực hiện nhiều chuyên đề kiểm tra

như: Chuyên đề bimbim; Chuy ề gia súc, gia cầm ề bimbim; Chuyên đề rượu; Chuyên đề gia súc, gia cầm

Lần đầu tiên, vi phạm ATTP đ ạm ATTP được quy định tại Ðiều 317 của Bộ luật H ều 317 của Bộ luật Hình sự

ật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số ật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật H 2015 theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật H

100/2015/QH13 về “Tội vi phạm quy định về ề “Tội vi phạm quy định về ATTP”, tùy theo mức vi phạm, có ức vi phạm, có thể

phạt tiền đến 500.000.000 đồng hoặc phạt t ạt tiền đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù đến 20 năm.

Điều này cho thấy, mức độ v ấy, mức độ và tính răn đe của pháp luật đối với h ủa pháp luật đối với hành vi vi

phạm pháp luật về ATTP. V ạm pháp luật về ATTP. Và đương nhiên khi mức phạt càng nặng, ặng, việc thực thi

pháp luật càng nghiêm thì ố tiền xử lý vi phạm phải àng nghiêm thì đương nhiên số vụ vi phạm và số tiền xử lý vi phạm phải

giảm.

2.2. Nguyên nhân c ực hiện pháp luật . Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại trong công tác thực hiện pháp luật

an toàn thực phẩm

2.2.1. Nguyên nhân ch Nguyên nhân chủ quan

2.2.1.1. Bất cập trong quy định củ ất cập trong quy định của pháp luật an toàn thực phẩm hiện h ực phẩm hiện hành

56

(1) Chưa xây dựng được hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật đối với các sản

phẩm thực phẩm.

Trên thực tế đối với thực phẩm ngành Công Thương quản lý chỉ có 1 số sản

phẩm có quy chuẩn kỹ thuật, còn đa phần đều chưa có quy chuẩn kỹ thuật để làm

căn cứ quản lý. Ví dụ: Đối với sản phẩm đồ uống có cồn có quy chuẩn kỹ thuật

quốc gia QCVN 6-3:2010/BYT do Bộ Y tế ban hành. Quy chuẩn kỹ thuật này áp

dụng cho các sản phẩm như rượu trắng, rượu vang, bia chai, bia hơi. Tuy nhiên

trong nhóm sản phẩm đồ uống có cồn còn rất nhiều dòng sản phẩm khác như: rượu

hoa quả (làm từ hoa quả ngoài nho) (rượu táo mèo, rượu chuối, … , rượu ngâm,

rượu bổ (rượu ba kích, rượu đông trùng hạ thảo,…), bia tươi,…, rượu thủ công,…;

Đối với sản phẩm đồ uống không cồn có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 6-

2:2010/BYT do Bộ Y tế ban hành. Quy chuẩn kỹ thuật này áp dụng cho các sản

phẩm như: nước giải khát, nước quả,…; Đối với các sản phẩm sữa có quy chuẩn kỹ

thuật sau: quy chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm sữa lên men, quy chuẩn kỹ thuật đối

với sản phẩm sữa tươi, quy chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm sữa nguyên liệu.

Rất nhiều sản phẩm thực phẩm chưa xây dựng được quy chuẩn kỹ thuật tương

ứng để làm căn cứ quản lý và áp dụng thực hiện như: kẹo (kẹo cứng, kẹo mềm, kẹo

dẻo, kẹo socola), mứt tết, bánh trung thu (bánh nướng, bánh dẻo), ô mai, bún, phở,

miến, bánh ngọt, bánh gato, bánh bông lan, thạch,…

Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ đã tạo sự thông thoáng cho doanh

nghiệp khi quy định các sản phẩm thực phẩm thông thường phải thực hiện thủ tục

tự công bố sản phẩm. Các doanh nghiệp sẽ phải tự công bố mức chất lượng đối với

các sản phẩm thực phẩm do doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh. Tuy nhiên, do

các quy định chất lượng tại các quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật đối với

các sản phẩm thực phẩm hiện nay vừa thiếu, vừa chưa đầy đủ gây khó cho các cơ

quan quản lý và doanh nghiệp.

(2) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật an toàn thực phẩm chưa đầy đủ,

còn chồng chéo, chưa thống nhất

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ATTP gồm: Luật ATTP, Nghị định

hướng dẫn thi hành Luật ATTP của Chính phủ, Nghị định xử lí vi phạm hành chính

57

về ATTP, Thông tư hướng dẫn Luật và Nghị định của các Bộ quản lý chuyên ngành

(Y tế, Nông nghiệp, Công Thương), Quyết định của UBND cấp tỉnh/thành phố trực

thuộc Trung ương,…Tuy nhiên, chưa có bất kì một văn bản quy phạm nào phân loại

hay đưa ra khái niệm các dòng sản phẩm thực phẩm. Chẳng hạn một số sản phẩm

thực phẩm như: thạch, bánh chưng, bánh tẻ, tinh bột nghệ,… và chúng chưa được

phân loại thuộc nhóm sản phẩm thực phẩm nào? do ai quản lý. Rất nhiều các cơ sở

như vậy trong 1 thời gian dài chưa được thực hiện thủ tục hành chính về ATTP, gây

khó khăn cho việc sản xuất, kinh doanh do không có giấy phép theo quy định, gây

khó khăn cho công tác quản lý, triển khai thực hiện

Ví dụ: đối với sản phẩm truyền thống như bánh trưng, nguyên liệu chủ yếu

gồm gạo, đậu xanh, thịt, lá dong và có thể có 1 số nguyên liệu khác. Quy trình sản

xuất truyền thống là ngâm, vo gạo, đậu xanh tách vỏ, rửa, thịt được cắt nhỏ sau đó

được gói với lá dong rồi đem luộc hoặc hấp. Với quy trình sản xuất và nguyên liệu

trên là sản phẩm quản lý và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP của ngành

Nông nghiệp. Tuy nhiên, do tên sản phẩm có từ “bánh” trong nhóm “bánh mứt kẹo”

của ngành Công Thương quản lý. Trong 1 thời gian dài đối tượng trên không được

pháp luật quy định thẩm quyền quản lý dẫn đến “lỗ hổng” trong quy định pháp luật.

Ví dụ: đối với sản phẩm bột nghệ hiện cũng chưa có quy định đối với sản

phẩm này. Quy trình sản xuất tinh bột nghệ tương tự như tinh bột sắn (rửa, xay

nghiền, lọc, cô đặc, sấy) nhưng sản phẩm không có hoặc có rất ít hàm lượng tinh

bột.

- Hiện nay, chưa có bất kì văn bản nào của Chính phủ hay hướng dẫn của Bộ

Nội vụ về tổ chức bộ máy, hệ thống quản lý ATTP từ tuyến Trung ương tới tuyến

địa phương (tuyến tỉnh, tuyến huyện, tuyến xã). Trong khi Luật tổ chức chính quyền

địa phương 2015 quy định rõ trách nhiệm của địa phương trong việc để xảy ra vụ

việc hay vi phạm trên địa bàn. Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra

vi phạm trên địa bàn quản lý. Không có hướng dẫn xây dựng, không có hệ thống

quản lý ATTP khiến cho việc quản lý ở từng địa phương theo 1 cách khác nhau.

Chẳng hạn, tại Sở Công Thương Hà Nội giao trách nhiệm quản lý ATTP cho nhiều

đơn vị: phòng Quản lý công nghiệp và phòng Quản lý thương mại sẽ chịu trách

nhiệm quản lý các đơn vị sản xuất và kinh doanh thực phẩm ngành công thương

58

trên địa bàn; Thanh tra Sở thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

ATTP đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn; lực lượng

quản lý thị trường tiến hành kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh, vận chuyển

thực phẩm trên địa bàn. Còn đối với một số Sở Công Thương các tỉnh khác thì giao

quản lý ATTP cho phòng Kỹ thuật An toàn môi trường chịu trách nhiệm quản lý

nhà nước các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm ngành Công Thương trên địa

bàn; các đơn vị: Thanh tra Sở và lực lượng quản lý thị trường thực hiện chức năng

như trên.

Một số địa phương đã thí điểm thành lập Ban quản lý ATTP nhằm thống nhất

công tác quản lý ATTP của 3 ngành: Y tế, Nông nghiệp, Công Thương như: Thành

phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng, Bắc Ninh. Việc thí điểm thành lập Ban

quản lý ATTP được thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và có hiệu

lực trong hai năm. Và hiệu quả hoạt động của Ban quản lý ATTP chúng ta vẫn phải

chờ tổng kết kết quả hoạt động của 3 đơn vị trên sau 2 năm thí điểm.

- Chưa có quy định riêng về điều kiện đảm bảo ATTP đối với cơ sở sản xuất

rượu, bia, nước giải khát, bánh mứt kẹo,…; quy định riêng đối với sản phẩm rượu

thủ công và cơ sở sản xuất rượu thủ công (rượu thủ công là sản phẩm sản xuất theo

công nghệ truyền thống, từ nấu cơm – lên mốc - ủ lên men – chưng cất,…); quy

định riêng đối với sản phẩm rượu thuốc, thuốc bổ.

- Việc cập nhật danh mục các chất cấm, chất phụ gia được phép sử dụng và

giới hạn sử dụng chưa thường xuyên, đầy đủ.

Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, cộng với nhu cầu ngày càng

khắt khe của thị trường thì việc sử dụng các chất phụ gia thực phẩm, các chất kháng

sinh, thuốc bảo vệ thực vật,… trong chăn nuôi, trồng trọt, chế biến, bảo quản thực

phẩm là điều không thể tránh khỏi nhằm nâng cao, năng suất, chất lượng, thời gian

bảo quản, hiệu quả sản xuất – kinh doanh thực phẩm, thậm chí lợi nhuận kinh

doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các chất trên phải đảm bảo sản phẩm thực phẩm đó

an toàn với con người, không gây gại tới sức khỏe con người.

Người sản xuất, kinh doanh thực phẩm sẽ phải luôn tìm cách để sử dụng các

chất phụ gia thực phẩm, các chất kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật, các hóa chất

59

khác để đạt được hiệu quả sản xuất, kinh doanh và lợi nhuận cao nhất. Từ đó sẽ

ngày càng xuất hiện mới và nhiều các chất phụ gia, các chất kháng sinh, các chất

bảo vệ thực vật. Và nếu cơ quan quản lý nhà nước không chịu cập nhật thường

xuyên cũng như quy định về danh mục được phép sử dụng cũng như giới hạn sử

dụng đối với chúng thì rất khó để quản lý cũng như đảm bảo an toàn thực phẩm.

Thông tư 27/2012/TT-BYT ngày 30/11/2012 của Bộ Y tế về hướng dẫn quản

lý phụ gia thực phẩm quy định danh mục, giới hạn và đối tượng sử dụng của 400

chất phụ gia thực phẩm được phép dùng trong sản xuất, chế biến, bảo quản thực

phẩm. Đến năm 2015, Bộ Y tế ban hành Thông tư 08/2015/TT-BYT ngày

11/5/2015 về sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Thông tư 27/2012/TT-BYT;

trong đó có sửa đổi, bổ sung danh mục và cập nhật giới hạn tối đa được phép sử

dụng của một số chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm. Như vậy, trong 3

năm từ 2012-2015 và cho đến nay chúng ta vẫn sử dụng danh mục quy định các

chất phụ gia được phép sử dụng đó trong hai Thông tư trên trong quá trình quản lý

ATTP. Nhưng trên thực tế, rất nhiều loại chất, nhiều loại phụ gia được các cơ sở

chế biến, chăn nuôi sử dụng trong quá trình sản xuất, chế biến. Không thường

xuyên cập nhật các chất mới, chất phụ gia mới trong sản xuất, chế biến thực phẩm

đồng nghĩa với việc chúng ta không quản lý được, cũng không kiểm tra, phát hiện

được chúng; chỉ khi tình trạng sử dụng chúng không kiểm soát được chúng ta mới

“chạy theo” để giải quyết hậu quả. Điều đó thể hiện sự bị động trong công tác quản

lý cũng như yếu kém của các cơ quan quản lý nhà nước.

(3) Chưa có quy định về hệ thống cán bộ quản lý an toàn thực phẩm từ tuyến

Trung ương tới địa phương

Như đã nói ở trên, hiện chưa có bất kỳ văn bản quy định hệ thống quản lý

ATTP xuyên suốt từ tuyến Trung ương tới tuyến cơ sở, đặc biệt đối với ngành Công

Thương. Chưa xây dựng được đề án vị trí việc làm đối với cán bộ quản lý ATTP

ngành Công Thương tại các tuyến Trung ương (Bộ Công Thương); UBND cấp

tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (sở công thương); UBND cấp huyện (phòng

kinh tế), cho tới UBND cấp xã; thậm chí không có cán bộ quản lý ATTP tuyến xã.

Hệ thống quản lý ATTP ngành Công Thương chỉ dừng lại ở tuyến huyện,

không có tuyến xã. Luật ATTP 2010 có hiệu lực 2011, nhưng đến tháng 9/2012 sở

60

Công Thương Hà Nội mới bắt đầu triển khai nhiệm vụ quản lý ATTP trên địa bàn

khi có hướng dẫn và Quyết định của UBND Thành phố Hà Nội. Từ đó cho đến nay,

Sở Công Thương không được Thành phố giao thêm chỉ tiêu cán bộ quản lý ATTP,

mà sử dụng trong chỉ tiêu tuyển dụng hàng năm của Sở. Từ ngày 11/10/2018, Chi

cục QLTT Hà Nội tách khỏi Sở Công Thương và thành lập Cục QLTT Hà Nội trực

thuộc Tổng cục QLTT thuộc Bộ Công Thương cộng với số lượng cán bộ quản lý

ATTP hạn chế khiến cho công tác quản lý ATTP tại Sở Công Thương trở nên khó

khăn, thiếu hụt lực lượng kiểm tra, quản lý tại các địa bàn. Bên cạng đó số lượng

cán bộ quản lý ATTP tại các phòng kinh tế (thuộc UBND cấp huyện) còn khá

khiêm tốn (2 đến 4 người).

Tuyến Trung ương

Bộ Công Thương

Vụ Thị Trường

Vụ Khoa học & Công nghệ

Tuyến Tỉnh

Sở Công Thương

Tuyến Huyện

Phòng Kinh tế

Hình 2.6. Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm ngành Công Thương

Không có đơn vị trực thuộc, không có “hệ thống chân rết” tới tận cấp xã, lại

mất đi lực lượng kiểm tra tại địa phương khiến cho công tác quản lý ATTP ngành

Công Thương trở nên khó khăn. Ngoài 2 phòng chuyên môn (phòng Quản lý Công

nghiệp và phòng Quản lý Thương mại) tham gia vào công tác kiểm tra ATTP, sở

Công Thương có duy nhất đơn vị Thanh tra Sở là lực lượng thanh tra, kiểm tra,

61

trong đó có ATTP. Điều đó, khiến cho công tác quản lý ATTP gặp rất nhiều khó

khăn, hạn chế hiệu quả quản lý ATTP trên địa bàn.

2.2.1.2. Năng lực, trình độ quản lý của các cơ quan quản lý về an toàn thực

phẩm

(1) Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý an toàn thực phẩm

Sở Công Thương Hà Nội hiện có 04 cán bộ quản lý ATTP có chuyên môn về

ATTP (bằng cấp chuyên môn về ATTP), 10 người là cán bộ kiêm nhiệm tham gia

vào công tác quản lý ATTP không có bằng cấp chuyên môn về ATTP. Đối với

tuyến huyện, cán bộ phòng Kinh tế tham gia vào công tác quản lý ATTP thậm chí

có đơn vị không có cán bộ chuyên môn về ATTP. Không có cán bộ chuyên môn về

ATTP, trong khi số lượng cán bộ tham gia công tác quản lý ATTP ngành Công

Thương thấp dẫn tới hiệu quả công tác quản lý ATTP đối với ngành Công Thương

chưa cao.

Bên cạnh đó, công tác quản lý ATTP ngoài trình độ còn đòi hỏi kinh nghiệm

thực tế (thực tế quản lý sản xuất và kinh doanh thực phẩm) mới đáp ứng được nhu

cầu quản lý ATTP với 1 địa bàn rộng, phức tạp và số lượng cơ sở sản xuất, kinh

doanh thực phẩm lớn như Hà Nội. Kinh nghiệm đó chỉ có thể đúc kết được qua thời

gian và qua “va chạm” với thực tế sản xuất, kinh doanh và trong quá trình quản lý.

Kinh nghiệm CBCC làm quản lý về ATTP chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và

xu thế hoà nhập khu vực, quốc tế: Quản lý thực phẩm nhưng thực chất là quản lý

con người, thông qua con người mới có thể tác động vào các yếu tố khác đảm bảo

có hiệu quả. Nhưng quản lý thực phẩm là một lĩnh vực mới hoàn toàn, ngay cả các

trường đại học cũng chưa có chuyên khoa quản lý ATTP, hầu hết các cán bộ Trung

ương từ các chuyên ngành khác chuyển sang nên khi làm công tác quản lý ATTP

chưa thật sự am hiểu pháp luật, chưa được đào tạo bài bản.

Việc hạn chế về trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý ATTP khiến

cho công tác quản lý cũng như giải quyết các sự việc trong quá trình quản lý, triển

khai nhiệm vụ trở nên khó khắn, cứng nhắc, “thiếu uyển chuyển” trong xử lý công

việc với các cơ quan khác và ngay cả với công dân.

62

Chính vì thế, đòi hỏi cán bộ quản lý cần phải có trình độ, năng lực chuyên

môn nghiệp vụ, kinh nghiệm và sự linh hoạt để vừa đáp ứng quy định của pháp luật

về ATTP, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt

động sản xuấ, kinh doanh, vừa phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế.

(2) Trình độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý an toàn thực phẩm

Đối với Sở Công Thương Hà Nội, các thủ tục hành chính đã được thực hiện ở

mức độ 3, 1 số thủ tục đã thực hiện ở mức độ 4. Đối với lĩnh vực ATTP, thủ tục cấp

giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP đang được Sở Công Thương niêm yết công

khai, cập nhật trên Website Sở Công Thương và thực hiện ở mức độ 3. Thủ tục cấp

giấy xác nhận kiến thức ATTP cũng được niêm yết công khai, cập nhật trên

Website Sở Công Thương và thực hiện ở mức độ 4. Thủ tục tiếp nhận công bố sản

phẩm của cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm ngành Công Thương trên địa bàn

cũng được cập nhật hàng ngày thường xuyên trên Website Sở Công Thương. Tuy

nhiên do hạn chế về kinh phí, hệ thống dữ liệu các sản phẩm công bố sản phẩm

ngành Công Thương mới chỉ được cập nhật dưới dạng danh sách các sản phẩm, số

công bố sản phẩm, tên cơ sở và địa chỉ cơ sở, chưa lưu trữ được hồ sơ công bố sản

phẩm dưới dạng file mềm. Điều này sẽ gây khó khăn rất lớn trong việc quản lý hồ

sơ, kiểm tra và quản lý sản phẩm sau công bố.

Chúng ta chưa xây dựng được hệ thống dữ liệu điện tử về các cơ sở sản xuất,

kinh doanh thực phẩm, một phần do chưa thực hiện tốt công tác điều tra dữ liệu cơ

bản, một phần chưa có phần mềm khai báo trực tuyến để các cơ sở hoạt động trong

lĩnh vực thực phẩm tiến hành khai báo. Nếu mỗi 1 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực

phẩm đều được gắn 1 mã số định danh và quản lý trên phần mềm trực tuyến thì việc

quản lý, giám sát đối với các đơn vị trên sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong truy xuất nguồn gốc đối

với sản phẩm thực phẩm rất hạn chế, đặc biệt đối với sản phẩm nông nghiệp (chủ

yếu không có bao gói hoàn chỉnh).

2.2.1.3. Điều kiện cơ sở vật chất, đầu tư kinh phí cho công tác quản lý an

toàn thực phẩm

(1) Về điều kiện cơ sở vật chất

63

Hiện trên địa bàn Hà Nội có một số phòng Thí nghiệm có đầy đủ năng lực

kiểm nghiệm thực phẩm phục vụ công tác quản lý nhà nước về ATTP như: Viện

Kiểm nghiệm quốc gia, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Trung tâm Y tế

dự phòng Hà Nội, Trung tâm kiểm nghiệm thuộc Sở Nông nghiệp Hà Nội,.. Trong

đó, chỉ có đơn vị là Viện Kiểm nghiệm Quốc gia, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường

chất lượng có đầy đủ năng lực kiểm nghiệm chuyên sâu các chỉ tiêu ATTP (dư

lượng thuốc bảo vệ thực vật; dư lượng kháng sinh, phát hiện chất mới trong sản

xuất, bảo quản thực phẩm); số còn lại do hạn chế về điều kiện chưa đủ máy móc để

kiểm nghiệm chuyên sâu.

Đối với ngành Công Thương, chưa có phòng kiểm nghiệm riêng phục vụ công

tác quản lý ATTP. Hiện mới chỉ trang bị được một số dụng cụ Test nhanh như:

kiểm tra Methanol, nồng độ cồn, kiểm tra hàn the và 1 số Test nhanh khác nhưng số

lượng hạn chế. Độ chính xác của các dụng cụ này cũng chưa cao gây khó khăn cho

công tác kiểm tra, xử lý vi phạm. 100% các mẫu được kiểm tra đều phải kiểm

nghiệm lại qua phòng Lab. Điều này gây khó khăn cho công tác kiểm tra, xử lí vi

phạm ATTP.

(2) Về đầu tư kinh phí

Đối với ngành Công Thương, hiện kinh phí phục vụ công tác quản lý ATTP

còn hạn chế. Cụ thể, theo báo cáo của Sở Công Thương Hà Nội tại công văn số

1149/SCT-QLCN ngày 15/3/2019 về khảo sát thực trạng nguồn lực phục vụ công

tác quản lý ATTP của ngành Công thương các tỉnh phía Bắc gửi Bộ Công Thương

thì kinh phí phục vụ công tác quản lý ATTP từ ngân sách nhà nước như sau [20]:

- Năm 2016, kinh phí 2,196 tỷ đồng trong đó chi nghiệp vụ 0,85 tỷ đồng, phí

để lại 1,346 tỷ đồng.

- Năm 2017, kinh phí 3,87 tỷ đồng trong đó chi nghiệp vụ 2,85 tỷ đồng, phí để

lại 1,02 tỷ đồng.

- Năm 2018, kinh phí 5,297 tỷ đồng trong đó chi nghiệp vụ 2 tỷ đồng, phí để

lại 3,297 tỷ đồng.

Nguồn kinh phí phục vụ công tác quản lý ATTP đều lấy từ nguồn ngân sách

Thành phố và thu phí thực hiện thủ tục hành chính tại địa phương, không có nguồn

64

ngân sách từ Trung ương. Phần phí để lại là lệ phí thu được trong quá trình thực

hiện thủ tục hành chính về ATTP cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm

trên địa bàn và phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định về phí và lệ phí.

Với số lượng cơ sở và sản phẩm thực phẩm ngành Công Thương phải quản lý

trên địa bàn thì kinh phí trên trong các năm 2016-2018 là rất hạn chế. Rất khó để sở

Công Thương Hà Nội có thể triển khai các chương trình, đề án, kế hoạch về ATTP

mang tính quy mô. Và trong giai đoạn 2016-2018, sở Công Thương cũng không đầu

tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ quản lý ATTP. Toàn bộ kinh phí ATTP chủ

yếu phục vụ công tác tập huấn, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy

định của pháp luật về ATTP cho tổ chức, cá nhân và cán bộ quản lý ATTP trên địa

bàn; 1 phần kinh phí phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra ATTP (chủ yếu là kinh

phí thê xe, đi lại của cán bộ công chức).

Từ đó có thể thấy hạn chế trong đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất hạ tầng cho

công tác quản lý ATTP dẫn tới hạn ché trong hiệu quả quản lý ATTP.

2.2.2. Nguyên nhân chủ quan

2.2.2.1. Nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân, người sản xuất,

người kinh doanh liên quan tới vấn đề an toàn thực phẩm và quản lý an toàn thực

phẩm

Đây là vấn đề quan trọng mang tính quyết định tới ATTP và quản lý ATTP.

Chúng ta đã quen nghe cụm từ “rau 2 luống, lợn 2 chuồng” rồi phải trở thành

“người tiêu dùng thông thái” trước các loại hàng hóa thực phẩm có đủ chủng loại

thật – giả lẫn lộn, hàng nhái, hàng kém chất lượng – không an toàn tràn lan trên thị

trường. Đã có rất nhiều bài báo, phóng sự về tình trạng vi phạm ATTP của người

sản xuất, kinh doanh thực phẩm; vì chạy theo lợi nhuận, vì kém hiểu biết mà đưa

những sản phẩm không an toàn, sản phẩm nhái tới tay người tiêu dùng. Với hàng

rừng các loại thực phẩm đó cùng với những thực phẩm khác vẫn đang trôi nổi trên

thị trường khiến người tiêu dùng không biết lựa chọn – phân biệt sản phẩm thực

phẩm nào là an toàn là tốt cho sức khỏe. Họ chỉ trông chờ vào “đạo đức” của người

sản xuất và kinh doanh thực phẩm mà thôi.

65

Tuy nhiên, với xu thế hội nhập quốc tế và nhu cầu ngày càng cao của người

tiêu dùng thì các sản phẩm thực phẩm nhập khẩu với giá thành rẻ, chất lượng cao

khiến cho các sản phẩm thực phẩm trong nước cần cải tiến chất lượng, hướng tới

quy mô lớn để giảm giá thành sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và

xuất khẩu. Vì nếu họ vẫn mang tư tưởng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, “chụp giật”,

không chú trọng xây dựng thương hiệu, uy tín thì sẽ chỉ tồn tại được 1 thời gian

ngắn. Chính vì thế, có 1 bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm đã chịu

khó đổi mới công nghệ - máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm; chú

trọng xây dựng thương hiệu, uy tín cho riêng mình.

Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và người dân vào

công tác quản lý ATTP cũng đóng góp 1 phần vô cùng quan trọng. Bởi họ là người

giám sát tích cực, phát hiện và tố giác các hành vi vi phạm ATTP. Từ đó, cơ quan

quản lý nhà nước ATTP làm căn cứ để thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về

ATTP.

2.2.2.2. Tính phức tạp trong quản lý, diễn biến an toàn thực phẩm trên địa

bàn

Hà Nội với địa bàn rộng, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm

lớn, chủ yếu là nhỏ lẻ (trong đó rất nhiều cơ sở không thực hiện thủ tục đăng kí kinh

doanh) và thường xuyên biến động thì vấn đề quản lý ATTP diễn biến phức tạp,

khó quản lý.

Ví dụ, theo thống kê tại Sở Công Thương trung bình có 10 doanh nghiệp được

cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP sau 3 năm (khi hết hiệu lực của giấy chứng

nhận) có 6 doanh nghiệp tiếp tục xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP. Điều

này có thể do cơ sở dừng sản xuất, chuyển địa điểm, chuyển đổi ngành nghề kinh

doanh, hoặc chuyển thẩm quyền quản lý nhưng đa phần do dừng sản xuất, không

hoạt động trong ngành nghề kinh doanh thực phẩm, trong số này chủ yếu là các

doanh nghiệp quy mô nhỏ, sau 3 năm hoạt động không có hiệu quả nên dừng. Hay

việc tồn tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, thường xuyên thay đổi

địa điểm, địa bàn sản xuất kinh doanh thực phẩm cũng gây khó khăn cho công tác

nắm bắt, quản lý cơ sở.

66

Bên cạnh đó, sản xuất thực phẩm tại Hà Nội chỉ đáp ứng 60% nhu cầu thực

phẩm, còn lại 40% thực phẩm nhập khẩu và nhập từ các tỉnh. Dẫn tới 1 số lượng rất

lớn thực phẩm ngoại nhập và thực phẩm nhập từ các tỉnh thành trên cả nước vào Hà

Nội đòi hỏi Hà Nội cần phải kiểm soát nguồn thực phẩm nhập về tiêu thụ tại Hà

Nội. Điều này khiến cho công tác quản lý ATTP trên địa bàn trở nên khó khăn,

phức tạp hơn; cần sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà

nước về ATTP (sở Nông nghiệp & PTNT, sở Công Thương, sở Y tế) và các cơ

quan liên quan như lực lượng hải quan, lực lượng quản lý thị trường, chi cục tiêu

chuẩn đo lường chất lượng, lực lượng công an,…

67

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực thiễn thực hiện pháp luật về ATTP tại sở

Công Thương thành phố Hà Nội, luận văn đã đạt được một số kết quả chính như

sau: Thứ nhất, luận văn đã có phân tích và đánh giá tổng quát về thực trạng pháp

luật về ATTP hiện hành ở Việt Nam, từ đó chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và tồn

tại của hệ thống pháp luật này. Thứ hai, luận văn đã đề cập đến một số đặc điểm

tình hình ATTP tại Hà Nội; Thực tiễn quản lý nhà nước về ATTP tại sở Công

Thương thành phố Hà Nội, nêu bật được những kết quả chung nhất về công tác

quản lý nhà nước lĩnh vực ATTP ngành Công Thương trên địa bàn Hà Nội; Thứ

ba, luận văn đã đưa ra những nguyên nhân dẫn đến bất cập, hạn chế của trong thực

hiện pháp luật ATTP.

68

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN

SỞ CÔNG THƯƠNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Các yêu cầu về hoàn thiện pháp luật an toàn thực phẩm

Cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, vấn đề ATTP không

phải là vấn đề của riêng mỗi khu vực, mỗi quốc gia; không phải là vấn đề của riêng

cơ quan quản lý nhà nước hay tổ chức, cá nhân nào. Chính vì thế, pháp luật ATTP

cần phải hoàn thiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp [10]. Cụ thể:

3.1.1. Tính kế thừa, chọn lọc

Bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào khi đi vào thực tiễn cũng cần tổng kết,

đánh giá những ưu điểm, mặt phù hợp để tiếp tục phát huy; những nhược điểm,

chưa phù hợp nhằm loại bỏ, sửa đổi những quy định lạc hậu, bất cập, đồng thời kế

thừa và bổ sung những quy định đúng đắn, tiến bộ hơn, khả thi hơn và khoa học

hơn. Qua thực tiễn và thời gian sửa đổi, hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm

pháp luật sẽ ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với thực tiễn. Chính vì thế pháp

luật cần có tính kế thừa, chọn lọc.

Ví dụ, Nghị định 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 của Chính phủ về hướng

dẫn Luật ATTP 2010 ra đời năm 2012. Sau 6 năm triển khai thực hiện, tình hình

diễn biến ATTP đã thay đổi mà các quy định cũ tại Nghị định 38/2012/NĐ-CP của

Chính phủ không đáp ứng được yêu cầu thực tế và yêu cầu quản lý nhà nước về

ATTP. Đó là sự chồng chéo trong phân công trách nhiệm quản lý dẫn tới tình trạng

đùn đẩy trách nhiệm trong khi hiệu quả quản lý không cao, tình trạng thực phẩm

không đảm bảo chất lượng ảnh hưởng tới sức khỏe người dân, diễn biến phức tạp

của tình hình ATTP, yêu cầu hội nhập quốc tế, yêu cầu về cải cách hành chính, tạo

điều kiện phát triển doanh nghiệp, … Tất cả điều đó đặt ra cần thiết phải sửa đổi,

thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Và ngày 02/02/2018, Chính phủ

ban hành Nghị định 15/2018/NĐ-CP thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP của Chính

phủ.

3.1.2. Pháp luật an toàn thực phẩm cần nâng cao trách nhiệm của các cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong công tác bảo đảm an toàn thực phẩm

69

Một trong những vấn đề pháp luật ATTP hiện nay tại nước ta đó là sự phân

đoạn trong phân công quản lý. Pháp luật ATTP hiện đang giao trách nhiệm quản lý

cho 3 ngành: Y tế, Nông nghiệp, Công Thương; ngoài ra, UBND các cấp với trách

nhiệm quản lý ATTP trên địa bàn. Đối với một số sản phẩm thực phẩm hiện nay

đang chịu sự quản lý của nhiều cơ quan, nhiều ngành khác nhau. Theo các quy định

hiện hành, Bộ Nông nghiệp & PTNT quản lý đối với các sản phẩm ngành Nông

nghiệp (sản phẩm từ đánh bắt, nuôi trồng, thu hái,…) nhưng kiểm soát các sản

phẩm thực phẩm đó trên thị trường lại do Bộ Công Thương quản lý.

Ví dụ: sữa nguyên liệu (sữa tươi vắt từ con bò) do ngành Nông nghiệp quản lý

và quy định quy chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm tương ứng; sữa chế biến do ngành

Công Thương quản lý và ngành Y tế quy định quy chuẩn kỹ thuật.

Điều đó đã tạo ra sự phân đoạn quản lý, bên cạnh các quy định chồng chéo

dẫn tới đùn đầy trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Vấn đề đặt ra là

pháp luật ATTP cần phân định rõ và nâng cao trách nhiệm cho từng ngành, từng

cấp, từng cá nhân, tổ chức trong xã hội.

3.1.3. Pháp luật an toàn thực phẩm cần phải hoàn thiện theo hướng đổi

mới phương thức quản lý phù hợp pháp luật quốc tế và xu thế hội nhập.

Cần thay đổi cách tiếp cận từ “quản lý sản phẩm” sang “quản lý quá trình”,

quản lý theo “chuỗi thực phẩm” khép kín, tránh tình trạng phân đoạn quản lý như

hiện nay.

Nghị định 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ đã có nhiều điểm

mới so với Nghị định 38/2012/NĐ-CP của Chính phủ thể hiện quan điểm quản lý

mới: chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp,

cắt giảm điều kiện, giấy phép cho doanh nghiệp.

Ví dụ: quy định về tự công bố sản phẩm tại Điều 4, Nghị định 15/2018/NĐ-CP

của Chính phủ. Thay vì doanh nghiệp phải chờ cơ quan quản lý nhà nước tiếp nhận

và xác nhận công bố sản phẩm như trước đây thì giờ doanh nghiệp tự công bố sản

phẩm và được kinh doanh sản phẩm ngay sau khi tự công bố sản phẩm mà không

phải chờ cơ quan quản lý nhà nước cấp giấy xác nhận công bố sản phẩm. Hay quy

định về đối tượng không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP tại Điều 4,

70

Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ. Nghị định 38/2012/NĐ-CP của Chính

phủ chỉ quy định 4 đối tượng không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP

thì tới Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ mở rộng thêm 6 đối tượng là 10

đối tượng không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP [7]. Điều này thể

hiện quan điểm quản lý mới, thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các

doanh nghiệp sản uất, kinh doanh thực phẩm phát triển.

3.1.4. Pháp luật an toàn thực phẩm phải hướng đến mục tiêu là nhằm bảo

vệ sức khỏe của người tiêu dùng.

Pháp luật cần tạo khung pháp lý đầy đủ và hiệu quả cho việc bảo đảm ATTP

đối với các sản phẩm thực phẩm trên thị trường, tạo thuận lợi cho việc phát triển thị

trường hàng thực phẩm của Việt Nam. Mục tiêu của pháp luật ATTP hướng tới là

sức khỏe con người. Vì thế, các quy định pháp luật ATTP cần chú trọng quyền lợi

người tiêu dùng, quy định các điều kiện, các giải pháp nhằm đảm bảo sản phẩm

thực phẩm an toàn tới tay người tiêu dùng.

3.1.5. Xây dựng một hệ thống các quy định pháp luật về an toàn thực

phẩm thống nhất trong tất cả các ngành, các lĩnh vực có liên quan.

Một hệ thống các quy định về ATTP tốt, toàn diện được xây dựng phù hợp với

điều kiện phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, với những mục tiêu cụ thể được

xác định rõ ràng sẽ là cơ sở và định hướng cho việc xây dựng và ban hành hoặc sửa

đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật, là tiền đề nhằm tạo ra sự tương thích, phù hợp

và thống nhất giữa các quy định liên quan đến vấn đề ATTP trong các quy định

pháp luật chuyên ngành khác. Và đó cũng chính là cơ sở để tạo nên sự thống nhất

cho toàn bộ hệ thống pháp luật về ATTP.

3.1.6. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật an toàn thực phẩm theo

hướng đồng bộ, tiên tiến và có tính khoa học cao, đáp ứng thực tiễn công tác

quản lý an toàn thực phẩm trong quá trình phát triển đất nước.

Thực tiễn sau 7 năm thực thi cho thấy, Luật ATTP năm 2010 về cơ bản là tiến

bộ và phù hợp với chính sách ATTP. Cho đến nay Luật ATTP đã phát huy được tốt

vai trò trong việc bảo đảm ATTP trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, điều đó không

có nghĩa Luật ATTP là hoàn hảo. Một trong những yêu cầu và đòi hỏi tất yếu hiện

71

nay là phải tiến hành sửa đổi, bổ sung luật này bởi những nguyên nhân chủ quan và

khách quan sau: Một là, quá trình thực thi đã gặp phải nhiều khó khăn, một phần do

chính sự bất cập và thiếu sót trong các quy định cụ thể của Luật ATTP. Hai là, bản

thân pháp luật ATTP trong hoạt động thương mại cũng có nhiều bất cập, mâu thuẫn.

Cụ thể là sự mâu thuẫn và bất cập giữa những quy định của Luật ATTP và các quy

định trong các văn bản hướng dẫn thi hành. Hay nói cách khác, bản thân hệ thống

pháp luật ATTP đã thiếu tính đồng bộ và thống nhất. Ba là, so với thời kỳ mới ban

hành, hiện nay điều kiện kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi vì vậy việc sửa đổi, bổ

sung là cần thiết nhằm đáp ứng những đòi hỏi và xu thế phát triển mới của kinh tế -

xã hội, bảo đảm ATTP trong bối cảnh mới. Bốn là, trong những năm gần đây nhiều

pháp luật chuyên ngành có xu hướng thoát ly khỏi pháp luật ATTP để xây dựng các

quy định riêng liên quan đến vấn đề ATTP.

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm

3.2.1. Rà soát, hệ thống hóa quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm

Luật ATTP hiện là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất,

ban hành năm 2010, giá trị hiệu lực năm 2011. Tính đến nay, luật ATTP đã có hiệu

lực được 9 năm, một số các quy định trong Luật ATTP chưa phù hợp, đã lỗi thời.

Tại Khoản 3, Điều 12 quy định điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm đã qua

chế biến: “Thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn phải đăng ký bản công bố hợp

quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị trường. Chính

phủ quy định cụ thể việc đăng ký bản công bố hợp quy và thời hạn của bản đăng ký

công bố hợp quy đối với thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn”. Quy định về

công bố hợp quy đã bị bãi bỏ bởi Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ và thay

bằng đăng ký bản công bố sản phẩm đối với một số sản phẩm thực phẩm ngành Y

tế quản lý và tự công bố sản phẩm thực phẩm đối với sản phẩm thực phẩm thông

thường. Vì thế, quy định trên cần phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn

quản lý.

Để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật cũng như tính hệ thống,

đồng bộ trong việc thực thi pháp luật ATTP, việc rà soát, đánh giá sự tương thích,

phù hợp hay mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định của pháp luật về ATTP

72

cũng như các quy định của pháp luật chuyên ngành khác so với pháp luật về ATTP

cần phải được các cơ quan chức năng thực hiện.

Nội dung rà soát cần tập trung vào các vấn đề sau:

- Rà soát các quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP, theo đó

phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng ngành trên nguyên tắc “1 cơ sở, 1 sản

phẩm chỉ chịu sự quản lý của 1 cơ quan”, trường hợp cần sự phối hợp thì phải quy

định cụ thể một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính, hạn chế tình trạng đùn

đẩy trách nhiệm trong quản lý, điều hành.

- Rà soát, bổ sung và hệ thống lại các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật

về ATTP đáp ứng yêu cầu quản lý, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế.

- Rà soát và bổ sung quy chế quản lý nhập khẩu hoá chất, chất kích thích tăng

trưởng, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm, các loại thực phẩm không bảo

đảm an toàn.

- Rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về ATTP và các quy

định liên quan nhằm đảm bảo tính thống nhất, tránh chồng chéo, trùng lắp giữa các

văn bản quy phạm pháp luật. Cần thống nhất quy định về ghi nhãn, quảng cáo, chất

lượng sản phẩm giữa Luật ATTP và các văn bản dưới luật với Luật quản lý chuyên

ngành khác và các văn bản dưới luật.

3.2.2. Rà soát, phân loại các nhóm sản phẩm thực phẩm có tính chất, đặc

điểm tương đồng.

Cần nhóm và phân loại các loại thực phẩm trên thực tế, sắp xếp từng loại thực

phẩm có đặc tính giống nhau, quy trình sản xuất giống nhau vào 1 nhóm sản phẩm

cụ thể. Từ đó có cách giải thích hoặc phân biệt cho cán bộ quản lý ATTP và các cơ

sở sản xuất, người dân nhận biết và phân biệt được. Chẳng hạn theo tác giả, đối với

sản phẩm ô mai: có 2 dòng mặn và ngọt (ô mai mặn là loại chỉ ngâm muối và có bổ

sung 1 số phụ gia mà không có chất tạo ngọt và đường; ô mai ngọt là loại có đường

hoặc chất tạo ngọt, có thể cho thêm 1 số phụ gia khác). Đối với dòng mứt có thể có

2 loại: mứt từ các loại quả (mứt bí, mứt táo), hoặc mứt từ các loại rau củ (cà rốt).

Đối với bánh mì (sử dụng bột mì, đường và 1 số chất khác, tạo xốp bằng phương

pháp sinh học là lên men) có thể có 2 dòng: bánh mì mặn (hàm lượng chất béo và

73

độ ngọt thấp như: bánh mì ta, baguette, bánh mì gối), bánh mì ngọt (hàm lượng chất

béo và độ ngọt cao: croissant, bánh mì có sốt nước hoa quả, mứt,…). Tuy nhiên trên

thực tế cũng có 1 số sản phẩm chưa thể xếp chúng vào nhóm nào. Chẳng hạn như

thạch (sản phẩm gồm có nước, chất tạo đông, đường và có thể có thêm 1 số phụ gia

khác) (xếp vào nhóm nước giải khát hay nhóm kẹo?); bánh trưng, bánh giò,.. (xếp

vào nhóm bánh mứt kẹo hay xếp vào nhóm bánh truyền thống? nhưng khái niệm

“truyền thống” ở đây rất “mơ hồ” và khó định nghĩa, cũng không thể liệt kê hết

được.)

3.2.3. Xây dựng, hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật

về an toàn thực phẩm

Hiện nay, hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật về ATTP

chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý. Chính vì thế, việc xây dựng,

hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật về ATTP làm căn cứ để

quản lý và để cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm thực hiện, để người tiêu dùng

làm căn cứ giám sát, phát hiện các thực phẩm không đạt chất lượng.

Trước tiên, cần hệ thống hóa các quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật về

ATTP hiện có. Trên cơ sở đã phân loại nhóm sản phẩm thực phẩm và đặc điểm của

từng sản phẩm thực phẩm để quy định cụ thể đối với sản phẩm đó. Ví dụ: đối với

sản phẩm kẹo có thể phân làm 4 nhóm: kẹo cứng, kẹo mềm, kẹo dẻo và socola từ đó

quy định các chỉ tiêu an toàn đối với từng nhóm sản phẩm như: chỉ tiêu hóa lý, chỉ

tiêu vi sinh, chỉ tiêu dư lượng kim loại nặng…

Cần có quy định đầy đủ và chặt chẽ đối với giới hạn các chỉ tiêu an toàn đối

với thực phẩm như: giới hạn về ô nhiễm vi sinh vật, giới hạn về ô nhiễm kin loại

nặng, giới hạn ô nhiễm độc tố vi nấm, giới hạn về dư lượng chất bảo vệ thực vật,…

tạo “rào cản kỹ thuật” đối với sản phẩm thực phẩm không đảm bảo an toàn.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn và quy

chuẩn về ATTP theo tiêu chuẩn quốc tế và đặc thù của Việt Nam. Từ đó thúc đẩy

xuất khẩu thực phẩm và bảo vệ ngành hàng thực phẩm trong nước trước thời điểm

các Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực.

74

3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về an

toàn thực phẩm

Điều 61 khẳng định Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản

lý Nhà nước về ATTP. Tuy nhiên, các Điều 63, 64 lại nêu trách nhiệm của các Bộ

NN&PTNT, Bộ Công Thương trong quản lý nhà nước về ATTP. Sự mẫu thuẫn này

sẽ tạo sự chồng chéo trong tư duy quản lý.

Ví dụ: Khoản 4 và 5, Điều 3, Luật an toàn thực phẩm về nguyên tắc quản lý

ATTP nêu rõ “Quản lý an toàn thực phẩm phải được thực hiện trong suốt quá trình

sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với an toàn thực

phẩm” và “Quản lý an toàn thực phẩm phải bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng

và phối hợp liên ngành”. Khoản 5 Điều 36, Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính

phủ quy định nguyên tắc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm: “Bảo đảm nguyên tắc một cửa, một sản phẩm, một cơ sở sản xuất, kinh

doanh chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan quản lý nhà nước”. Việc phân công

trách nhiệm quản lý ATTP hiện đang giao cho 3 Bộ: Y tế, Nông nghiệp và Công

Thương nhưng trên thực tế 1 sản phẩm, 1 cơ sở lại lại chịu sự quản lý của nhiều cơ

quan, nhiều Bộ khác nhau. Chẳng hạn, đối với sản phẩm trứng gà thuộc quản lý của

ngành Nông nghiệp, muốn được lưu thông thì trứng gà đó phải kiểm dịch (nếu lưu

thông nội tỉnh không phải kiểm dịch, ngoại tỉnh phải kiểm dịch theo quy định tại

Luật Thú y) nhưng khi quả trứng gà đó lưu thông trên thị trường thì thuộc quản lý

của ngành Công Thương. Việc phân đoạn thẩm quyền quản lý như vậy sẽ gây khó

khăn cho công tác quản lý, đòi hỏi cần có sự phối hợp và trao đổi thường xuyên,

liên tục và chặt chẽ mới đảm bảo kiểm soát thực phẩm an toàn “từ trang trại tới bàn

ăn”.

Hiện nay ở nước ta có 3 tỉnh đã thực hiện thí điểm Ban quản lý ATTP theo

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ là Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Bắc

Ninh. Ban quản lý ATTP là 1 giải pháp thống nhất cơ quan quản lý nhà nước về 1

đầu mối, thay vì 3 ngành quản lý như trước kia. Tuy nhiên, việc thí điểm này chỉ có

giá trị 2 năm và thực hiện thí điểm ở 3 tỉnh, cần sau 1 thời gian mới có thể đánh giá

được hiệu quả của chính sách trên. Trước mắt về mặt chủ trương là tương đối đúng

đắn nhưng khó khăn trong thực tế thực hiện. Ví dụ: Ban quản lý ATTP chưa có đầy

75

đủ thẩm quyền như một cơ quan quản lý nhà nước (hiện Ban quản lý ATTP vẫn

thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra về ATTP nhưng xử lý vi phạm về ATTP lại

cần phải trình lên Chủ tịch UBND cấp tỉnh đó do chưa có quy định thẩm quyền xử

phạt vi phạm hành chính đối với Trưởng ban quản lý ATTP tại Luật xử lý vi phạm

hành chính).

3.2.5. Tiếp tục sửa đổi quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm an toàn

thực phẩm

Cần tăng mức xử phạt vi phạm hành chính về ATTP. Nghị định 178/2013/NĐ-

CP của Chính phủ trong thời gian qua thực hiện còn nhiều tồn tại, hạn chế về tính

thời sự, về quy định mức xử phạt. Do vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước về ATTP, đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn

áp dụng, Nghị định số 115/2018/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về an

toàn thực phẩm, có hiệu lực từ ngày 20/10/2018 và thay thế Nghị định số

178/2013/NĐ-CP ra đời. Nghị định quy định: Hình thức xử phạt chính là phạt tiền,

không quy định hình thức cảnh cáo, tăng mức phạt tiền các hành vi, mức phạt tiền

tối đa đến 07 lần giá trị hàng hóa vi phạm; quy định nhiều hành vi bị xử phạt bổ

sung tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm,

Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm, đình chỉ hoạt động có thời hạn, tịch

thu tang vật vi phạm; xử phạt bổ sung như buộc thu hồi bản tự công bố sản phẩm,

buộc tiêu hủy thực phẩm, buộc thu hồi thực phẩm, buộc chịu mọi chi phí cho việc

xử lý ngộ độc thực phẩm, buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật vi phạm trong

trường hợp tang vật vi phạm không còn. Nghị định cũng quy định tăng mức phạt

tiền ở các hành vi, mức phạt tối đa đến 7 lần giá trị hàng hóa vi phạm (so với mức

chỉ 3,5 lần trước kia). Hành vi sử dụng động vật chưa qua kiểm tra vệ sinh thú y

theo quy định để sản xuất, chế biến thực phẩm thay vì bị phạt tiền bằng 80-100%

tổng giá trị thực phẩm vi phạm thì nay với nghị định mới, mức xử phạt tăng lên 1-2

lần theo giá trị thực phẩm.

Thực tế tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, số lượng các cơ sở sản

xuất, kinh doanh thực phẩm thực phẩm nhỏ lẻ rất lớn, đặc biệt là các đối tượng

không thực hiện thủ tục đăng kí kinh doanh; ngay cả các doanh nghiệp Việt Nam

cũng hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng công tác thanh tra, kiểm tra và xử

76

lý vi phạm tại các tuyến địa phương, đặc biệt là tuyến xã, thậm chí tuyến huyện còn

hạn chế. Ở tuyến xã, hầu hết hình thức xử lý chủ yếu là nhắc nhở, phạt cảnh cáo, rất

ít trường hợp xử lý vi phạm hành chính bằng phạt tiền. Nguyên nhân chủ yếu do

“tâm lý làng xã”, “cả nể”; bên cạnh đó, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của

chủ tịch UBND cấp xã cũng hạn chế. Điều 28, Nghị định 115/2018/NĐ-CP ngày

04/9/2018 của Chính phủ quy định thẩm quyền của Chủ tịch UBND các cấp trong

xử lý vi phạm hành chính về ATTP: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phạt tối đa 5

triệu đồng đối với cá nhân, 10 triệu đồng đối với tổ chức; Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp huyện phạt tối đa 50 triệu đồng đối với cá nhân, 100 triệu đồng đối với tổ

chức.

Với thẩm quyền xử phạt vi phạm tại cấp xã và cấp huyện thấp như vậy rất khó

cho việc triển khai công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra tại các địa phương. Hầu hết

các vụ vi phạm tại các tuyến xã đều phải hoàn thiện hồ sơ trình Chủ tịch UBND cấp

trên ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP. Theo ý kiến tác

giả, cần tăng mức thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND các

cấp lên mức từ 2 đến 3 lần; riêng đối với tuyến xã cần tăng lên mức 5 đến 6 lần để

đảm bảo hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của UBND cấp xã đối với các cơ sở

sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn.

3.2.6. Hoàn thiện các quy định của pháp luật khác có liên quan.

- Sửa đổi quy định về ghi nhãn thực phẩm: Điều 10 và Phụ lục 1, Nghị định

43/2017/NĐ-CP ngày 14/7/2017 của Chính phủ quy định nội dung bắt buộc phải

ghi trên nhãn đối với thực phẩm thông thường: Tên hàng hóa, tên và địa chỉ của tổ

chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa, xuất xứ hàng hóa, định lượng, ngày

sản xuất, hạn sử dụng, thành phần; thông tin, cảnh báo; hướng dẫn sử dụng, hướng

dẫn bảo quản.

Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 27/10/2014

của liên Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Công Thương quy định nội dung

bắt buộc ghi nhãn đối với thực phẩm thông thường: thành phần cấu tạo; định lượng

sản phẩm; ngày sản xuất; thời hạn sử dụng và hướng dẫn bảo quản; hướng dẫn sử

dụng; tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về sản phẩm; xuất xứ; số

77

Giấy Tiếp nhận bản công bố hợp quy hoặc Giấy Xác nhận công bố phù hợp quy

định an toàn thực phẩm; các khuyến cáo, cảnh báo an toàn thực phẩm.

Nghị định 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ đã bỏ quy định về

“công bố hợp quy/công bố phù hợp quy định ATTP” và thay bằng “tự công bố/đăng

ký bản công bố”. Vì thế, cần bỏ quy định về ghi số giấy Tiếp nhận bản công bố hợp

quy hoặc Giấy Xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm.

- Quy định cụ thể về quảng cáo đối với thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực phẩm

dinh dưỡng y học, thực phẩm dùng cho chế độ ăn đặc biệt; Sản phẩm dinh dưỡng

dùng cho trẻ đến 36 tháng tuổi đặc biệt liên quan tới nội dung: tác dụng bồi bổ cơ

thể, hỗ trợ điều trị bệnh,…

3.3. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm

trên địa bàn thành phố Hà Nội

3.3.1. Giải pháp chung

3.3.1.1. Hoàn thiện thể chế, chính sách.

Rà soát, đề xuất cơ chế, chính sách cho người dân và doanh nghiệp liên kết

chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn; chính sách đầu tư hạ tầng và hỗ trợ phát triển

các mô hình chuỗi giá trị thực phẩm theo hướng sản xuất quy mô lớn gắn với thị

trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu, từ đó nhân rộng ra khắp cả nước.

Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông

nghiệp, nông thôn như: miễn, giảm tiền sử dụng đất; miễn, giảm tiền thuê đất, thuê

mặt nước của Nhà nước; hỗ trợ tập trung đất đai; tiếp cận, hỗ trợ tín dụng; Hỗ trợ

doanh nghiệp nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; hỗ

trợ đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thị trường; hỗ trợ đầu tư cơ sở: Bảo quản, chế

biến nông sản; giết mổ gia súc, gia cầm; chế tạo thiết bị, linh kiện, máy nông

nghiệp; sản xuất sản phẩm phụ trợ; hỗ trợ đầu tư cơ sở giết mổ; hỗ trợ doanh nghiệp

cung cấp dịch vụ công và đầu tư kết cấu hạ tầng …

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật khuyến khích phát triển

nông nghiệp hữu cơ, xanh và sạch; khuyến khích đầu tư sản xuất, chế biến thực

phẩm với quy mô lớn theo chuỗi sản xuất bảo đảm ATTP; đổi mới công nghệ sản

xuất thực phẩm, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, xây dựng thương 78

hiệu, phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn. Hoàn thiện cơ chế, chính sách

khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư, tham gia xây dựng

tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật

bảo đảm ATTP.

Đối với Thành phố Hà Nội, các chính sách có thể kể đến như: chính sách ưu

đãi đối với các nhà đầu tư nông nghiệp công nghệ cao (đất, thuế, công nghệ,…),

chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm công nghiệp và

bán công nghiệp; chính sách hỗ trợ các đơn vị đầu tư dây truyền máy móc thiết bị

để nâng cao chất lượng sản phẩm và công nghệ nằm trong chương trình khuyến

công của Sở Công Thương,… hay chương trình “mỗi làng 1 sản phẩm” không chỉ

với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà còn áp dụng đối với sản phẩm thực phẩm

truyền thống (bánh trưng Tranh Khúc, bánh cuốn Thanh Trì, gà mía Sơn Tây, bánh

tẻ Sơn Tây, miến Làng So (Quốc Oai),…)

Bản thân địa phương với đặc điểm đặc thù và điều kiện riêng của từng địa

phường có thể ban hành các chính sách riêng hoặc đề xuất cơ quan Trung ương, cơ

quan cấp trên cơ chế đặc thù. Ví dụ, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên

thực hiện thí điểm thành lập Ban quản lý ATTP nhưng với Hà Nội do đặc điểm về

chính trị, kinh tế xã hội và dân cư thì hiện nay chưa phải là thời điểm thích hợp để

thành lập Ban quản lý ATTP (Hà Nội đã có ý tưởng thành lập Ban quản lý ATTP từ

năm 2016 khi Sở Nội vụ đề xuất xây dựng Đề án thành lập Ban quản lý ATTP

nhưng đến năm 2018 thì tạm dừng để chờ kết quả thí điểm thành lập Ban quản lý

ATTP của Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Đà Nẵng).

Hà Nội với đặc điểm là địa bàn rộng, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh

thực phẩm lớn, chủ yếu là nhỏ lẻ và thường xuyên biến động. Vì thế, để tăng cường

hiệu quả quản lý ATTP, cần phân cấp mạnh thẩm quyền quản lý cho địa phương. Ví

dụ, nên phân cấp thẩm quyền cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP, tiến nhận hồ sơ

công bố sản phẩm cho UBND cấp huyện; phân cấp thẩm quyền quản lý ATTP theo

nguyên tắc cơ quan nào cấp đăng kí kinh doanh thì cơ quan đó quản lý. Đối với cơ

sở không có đăng kí kinh doanh thuộc thẩm quyền quản lý của UBND cấp xã.

3.3.1.2. Nâng cao năng lực, trình độ quản lý của các cơ quan quản lý an

toàn thực phẩm

79

(1) Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý an toàn thực phẩm xuyên suốt từ

trung ương tới cơ sở.

Như đã phân tích ở trên, hệ thống cơ quan quản lý ATTP ngành Công Thương

từ tuyến Trung ương tới địa phương vừa thiếu, vừa mỏng, chưa đáp ứng được nhu

cầu quản lý. Theo quan điểm của tác giả, việc cần làm trước tiên để nâng cao hiệu

quả quản lý ATTP là Chính phủ cần xây dựng hệ thống quản lý ATTP xuyên suốt

từ tuyến Trung ương tới cơ sở cho cả 3 ngành: Công Thương, Y tế, Nông nghiệp.

Có quy định, cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các ngành và các địa phương trong quản

lý ATTP.

Đối với ngành Công Thương, trong quản lý ATTP hiện đang tách khâu sản

xuất – kinh doanh và lưu thông: Bộ Công Thương giao thẩm quyền cấp phép cho

doanh nghiệp sản xuất cho Vụ khoa học & công nghệ, cấp phép cho doanh nghiệp

kinh doanh cho Vụ thị trường trong nước, quản lý trong lưu thông thực phẩm cho

Tổng cục Quản lý thị trường; Đối với UBND cấp tỉnh như Hà Nội, sở Công Thương

Hà Nội, phòng Quản lý công nghiệp quản lý doanh nghiệp sản xuất thực phẩm,

phòng Quản lý thương mại quản lý doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm; còn quản

lý trong lưu thông vẫn do Cục QLTT Hà Nội. Điều này vô hình chung đã phân tách

quá trình quản lý thành những mảng khác nhau do nhiều cơ quan, đơn vị quản lý

gây khó khăn cho công tác quản lý ATTP. Đối với tuyến huyện, quản lý ATTP

ngành Công Thương được giao cho phòng Kinh tế.

Vì thế, cần xây dựng hệ thống quản lý ATTP xuyên suốt từ tuyến Trung ương

tới tuyến cơ sở. Theo đề xuất của tác giả, hệ thống quản lý ATTP ngành Công

Thương được xây dựng như sau:

- Tại tuyến Trung ương (Bộ Công Thương): thành lập Vụ an toàn thực phẩm

với chức năng quản lý, tham mưu, đề xuất các chính sách về ATTP cho Bộ Công

Thương.

- Tại tuyến tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương (sở Công Thương): thành

lập phòng An toàn thực phẩm với chức năng quản lý, tham mưu, đề xuất các chính

sách quản lý ATTP ngành Công Thương cho UBND cấp tỉnh/Thành phố trực thuộc

Trung ương.

80

- Tại tuyến huyện: thành lập phòng An toàn thực phẩm thống nhất quản lý

ATTP tại địa phương từ 3 ngành Y tế, Nông nghiệp, Công Thương trên địa bàn.

Số lượng cán bộ có thể cân đối trong chỉ tiêu tuyển dụng hàng năm hoặc cán

bộ tại chỗ của cơ quan đó đảm bảo không tăng biên chế hoặc tăng hạn chế. Có như

vậy mới đảm bảo hiệu quả quản lý ATTP, không gây tăng biên chế và tăng ngân

sách nhà nước.

(2) Đổi mới, nâng cao trình độ, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý an

toàn thực phẩm

Để đáp ứng nhu cầu quản lý và tình hình thực tế công tác ATTP hiện nay thì

cán bộ quản lý phải có năng lực, trình độ. Muốn có cán bộ quản lý có năng lực,

trình độ đòi hỏi rất nhiều khâu, từ khâu tuyển dụng, lựa chọn, cho tới khâu đào tạo,

bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ. Đồng thời cán bộ đó ngoài trình độ, còn cần

phải được “cọ xát” với thực tế để nâng cao hiểu biết cũng như kinh nghiệm, trình

độ.

Thứ nhất, tăng cường nguồn lực con người trong công tác bảo đảm ATTP

bằng việc phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong sử dụng.

Tập trung vào các biện pháp đào tạo, tập huấn về ATTP cho đội ngũ chuyên trách,

cán bộ quản lý, thanh tra ATTP của các tuyến; đẩy mạnh công tác đào tạo tại các

trường đại học, viện nghiên cứu; đưa nội dung giáo dục ATTP vào cấp học phổ

thông. Bên cạnh đó, tăng cường biên chế, bố trí đủ cán bộ tại các bộ phận, các đơn

vị theo “Đề án vị trí – việc làm” nhằm tối ưu hóa khả năng quản lý và điều hành

các hoạt động bảo đảm ATTP trên phạm vi toàn quốc; ban hành chính sách để thu

hút nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên gia có chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện

nhiệm vụ quản lý ATTP.

Đối với địa phương cần tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong

việc đảm bảo ATTP trên địa bàn, đặc biệt là kiểm soát các chất phụ gia, các chất

cấm, các chất kích thích tăng trưởng trong sản xuất, chế biến, thực phẩm; tiếp tục

phát triển các vùng nguyên liệu an toàn, chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn; tăng

cường kiểm soát thực phẩm nhập lậu, đặc biệt là các tỉnh biên giới. Đẩy mạnh công

81

tác xây dựng quy hoạch và triển khai thực hiện quy hoạch vùng sản xuất ATTP; cơ

sở giết mổ tập trung, chợ đầu mối, đấu giá nông sản.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác tuyển dụng, lựa chọn cán bộ quản lý

ATTP. Cần đặt ra những tiêu chí, yêu cầu đối với cán bộ quản lý ATTP như: có

bằng cấp chuyên môn về ATTP, có kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực thực

phẩm,… Từ đó tuyển chọn được những cán bộ quản lý có năng lực, có kinh nghiệm

thực tế phục vụ công tác quản lý nhà nước về ATTP.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản

lý, cần:

- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức CBCC trực tiếp tham gia xử lí

các vi phạm hành chính và giải quyết thủ tục hành chính: Tăng cường các biện pháp

giáo dục cho CBCC về tinh thần trách nhiệm, ý thực tận tâm, tận tụy với công việc.

Ban hành và thực hiện nghiêm quy chế công vụ, công khai hóa hoạt động xử lí vi

phạm hành chính, nâng cao trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của đội ngũ cán

bộ…

- Đào tạo, bồi dưỡng gắn liền với quy hoạch. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, đề

án vị trí – việc làm để xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng.

Thứ tư, cần khuyến khích và tạo điều kiện phát triển cho những CBCC luôn

giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong, không ngừng học tập nâng cao

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ nhân dân.

Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực phục vụ quản lý nhà nước về ATTP. Đảm

bảo có đủ biên chế cho các cơ quan quản lý về ATTP để hoạt động theo chức năng,

nhiệm vụ đã được giao. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh quản lý về ATTP.

Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực về quản lý ATTP trên

cơ sở khảo sát, đánh giá, tập hợp nhu cầu đào tạo ngắn hạn và dài hạn đối với từng

lĩnh vực và chuyên ngành trong hệ thống từ trung ương đến địa phương.

Thứ sáu, tăng cường đào tạo, tập huấn về ATTP:

- Tăng cường biên chế cho đội ngũ chuyên trách ATTP của các tuyến, đủ

khả năng quản lý và điều hành các hoạt động bảo đảm ATTP trên phạm vi toàn

quốc.

82

- Đẩy mạnh công tác đào tạo tại các trường đại học, các viện nghiên cứu, các

cơ sở đào tạo có đào tạo chuyên môn về an toàn thực phẩm hệ cao đẳng, đại học.

Tổ chức đào tạo lại cán bộ quản lý, thanh tra, kiểm nghiệm an toàn thực phẩm tại

các tuyến; từng bước tăng tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học, trên đại học.

- Bồi dưỡng, đào tạo, thu hút nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ thực

hiện nhiệm vụ quản lý an toàn thực phẩm.

- Đưa nội dung giáo dục an toàn thực phẩm vào các cấp học phổ thông.

- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học: Các viện nghiên cứu, các trường đại học

tập trung nghiên cứu xác định, đánh giá và các giải pháp can thiệp nhằm cải thiện

tình trạng an toàn thực phẩm.

3.3.1.3. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhận thức, ý thức trách nhiệm

thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm đối với người sản xuất, kinh doanh và tiêu

dùng thực phẩm

Công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật đóng vai trò rất lớn trong thực

hiện pháp luật. Công tác tuyên truyền càng tốt thì pháp luật càng nhanh đi vào

cuộc sống, hiệu quả thực hiện pháp luật càng cao.

Đẩy mạnh công tác thông tin giáo dục truyền thông, đặc biệt là truyền thông

thay đổi hành vi. Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí, truyền hình đưa tin

bài, thông tin về tình hình an toàn thực phẩm, phán ánh những thành tựu đạt được

trong công tác quản lý ATTP, các vụ vi phạm về ATTP, nêu dương các cơ sở thực

hiện tốt các quy định của pháp luật về ATTP. Thông qua các buổi tọa đàm, nói

chuyện, hội nghị,… tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về ATTP, đồng thời

kêu gọi mọi người cùng chung tay “vì sức khỏe cộng đồng, vì thực phẩm an toàn”

Công tác thông tin, tuyên truyền về lĩnh vực ATTP cần phải đi trước, phải có

lộ trình thực hiện mục tiêu phù hợp làm chuyển biến từ nhận thức đến hành vi xã

hội. Nội dung thông tin, tuyên truyền phải sát hợp, thiết thực, tránh chung chung,

làm cho mỗi người dân thấy được lợi ích cụ thể đối với bản thân và cộng đồng; tạo

động lực thúc đẩy các hoạt động nâng cao chất lượng ATTP; nắm vững chế độ

chính sách và pháp luật về lĩnh vực chất lượng ATTP, tạo ra nền tảng cơ bản và

động lực thực hiện chính sách của Nhà nước có kết quả cao trong cuộc sống.

83

Phân công cụ thể trách nhiệm thực hiện công tác thông tin, giáo dục và

truyền thông thay đổi hành vi cho từng Sở, ngành. Các Sở, Phòng, Ban và đoàn

thể có trách nhiệm lập kế hoạch và triển khai các hoạt động thông tin, giáo dục và

truyền thông cho các nhóm đối tượng đặc thù của ngành mình. Ủy ban nhân dân

các cấp tăng cường chỉ đạo, triển khai các hoạt động thông tin, giáo dục và truyền

thông thay đổi hành vi, chú ý tập trung các khu vực, các địa phương trọng điểm về

ATTP. Phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp,

cộng đồng dân cư để tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công tác ATTP đến đông

đảo quần chúng nhân dân, để người dân không tham gia, không tiếp tay cho buôn

lậu, gian lận thương mại và sản xuất, kinh doanh thực phẩm bẩn, thực phẩm không

an toàn…

Tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền đến từng người tiêu dùng và cơ sở sản

xuất kinh doanh như: phát tờ rơi, in băng đĩa, pa nô, áp phích… Tận dụng tối đa

hệ thống thông tin, truyền thông sẵn có ở địa phương, xã, phường, thị trấn tổ chức

một cách thường xuyên, liên tục; đặc biệt đưa công tác giáo dục truyền thông về

ATTP vào các dịp lễ, tết, các sự kiện lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội

hàng năm; đặt biệt vào các đợt cao điểm về ATTP như: tháng hành động vì ATTP

(tháng 4-5 hàng năm); Tết dương lịch, Tết Nguyên đán và Lễ hội (tháng 12 đến

tháng 3 hàng năm), Tết trung thu (tháng 7 đến tháng 9 hàng năm),..

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm nâng cao nhận

thức của toàn xã hội, của doanh nghiệp, của nhân dân về ATTP, về các chủ

trương, chính sách, pháp luật và những kiến thức cần thiết về ATTP; khơi dậy và

phát huy tính trung thực, đạo đức kinh doanh, ý thức trách nhiệm vì cộng đồng

của từng doanh nghiệp, từng doanh nhân, từng hộ gia đình và từng người dân để

bảo đảm ATTP, nhất là trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội phụ nữ và

các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội và hội nghề

nghiệp trong công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục về ATTP.

Về công tác truyền thông đối với ATTP cần tiếp tục thực hiện một số các

công việc sau:

84

Một là, xây dựng và phát triển các kỹ năng truyền thông về ATTP cần:

- Sử dụng cách tiếp cận phù hợp với từng đối tượng cụ thể để tuyên truyền,

vận động, chú trọng hình thức truyền thông trực tiếp, truyền thông theo nhóm nhỏ.

- Đào tạo kiến thức chuyên ngành, nội dung tuyên truyền ATTP cho người

tham gia công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục ATTP.

Hai là, đa dạng hóa các loại hình truyền thông: Bản tin, phim tài liệu, phóng

sự, các trò chơi, xây dựng các tờ rơi, tờ gấp, poster... xuất bản các ấn phẩm để giáo

dục. Sử dụng nhiều kênh tuyên truyền khác nhau như trên đài phát thanh thông qua

các bài tuyên truyền, trên đài truyền hình thông qua các phóng sự, phim tài liệu, tin

ngắn;

Ba là, cần huy động các kênh truyền thông trực tiếp. Tăng cường truyền thông

trực tiếp thông qua đội ngũ cán bộ tuyến cơ sở của các Sở, phòng, ban nhằm đưa

các nội dung tuyên truyền vận động bảo đảm chất lượng ATTP tới mỗi nhóm đối

tượng khác nhau.

- Truyền thông trực tiếp qua các đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị -

xã hội cần tập trung vào mỗi đối tượng của mỗi đoàn thể và tổ chức nhằm thúc đẩy

công tác bảo đảm chất lượng ATTP như: Hội Nông dân; Hội Phụ nữ…

- Duy trì tuyên truyền thường xuyên qua báo chí, đài truyền hình, đặc biệt là

hệ thống phát thanh xã, phường. Huy động chiến dịch truyền thông trong “Tháng

hành động vì chất lượng ATTP” và những dịp cao điểm về ATTP như: Tết dương

lịch, Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì ATTP.

Thực tế, trong những năm qua, công tác ATTP còn nhiều hạn chế, nhưng

người dân chưa thể hiện vai trò của mình trong vấn đề này. Một thực trạng là người

tiêu dùng rất ít khi lên tiếng về hiện tượng mất ATTP. Ngay tại Hà Nội, ba Sở: Y tế,

Nông Nghiệp, Công Thương đều xây dựng đường dây nóng phản ánh tình trạng

mấy ATTP và luôn có người trực 24/24h trên đường dây nóng. Tuy nhiên, số lượng

các vụ việc mất ATTP được tiếp nhận qua đường dây nóng còn hạn chế. Vì vậy,

ngoài việc ban hành các VBQPPL, các chế tài đủ mạnh để xử phạt vi phạm về

ATTP… thì công tác vận động, tuyên truyền, tạo điều kiện để người dân, doanh

nghiệp hiểu đúng và thực hành đúng về ATTP rất quan trọng.

Bốn là, cần nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát của nhân dân, báo chí,

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính

85

trong lĩnh vực ATTP. Để hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP

được công khai, minh bạch, đảm bảo đúng các quy định của pháp luật thì hoạt động

giám sát của quần chúng nhân dân, báo chí là vô cùng quan trọng. Thông qua hoạt

động này, các hành vi vi phạm trong việc phát hiện, xử lí của các lực lượng thực thi

công vụ được phát hiện, chấn chỉnh, xử lí kịp thời qua đó sẽ loại bỏ những CBCC

có hành vi tiêu cực, kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không tích cực tu

dưỡng, rèn luyện, học tập, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao, tạo

điều kiện thu hút được các nhân tài, những người có kinh nghiệm, am hiểu pháp

luật vào công tác tại các cơ quan có chức năng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực ATTP.

3.3.1.4. Xã hội hóa công tác quản lý an toàn thực phẩm

Để công tác quản lý nhà nước được hiệu quả, hiện nay có 1 quan điểm quản lý

mới đó là “xã hội hóa quản lý”. Tức là, thay vì nhà nước là người duy nhất tham gia

quản lý thì thay vào đó, nhà nước sẽ ủy quyền hoặc giao cho 1 tổ chức chính trị - xã

hội hoặc huy động cộng đồng, người dân, các tổ chức xã hội, chính trị - xã hội tham

gia vào công tác quản lý, giám sát công tác quản lý nhà nước. Đối với công tác quản

lý nhà nước về ATTP cũng vậy, muốn quản lý ATTP đạt hiệu quả cao thì một mình

nhà nước tham gia quản lý là không đủ, cần có sự tham gia của người dân, các tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội cùng “chung tay vì sức khỏe cộng đồng, vì

thực phẩm an toàn”.

Chủ trương xã hội hóa chất lượng ATTP đã được thể chế hóa trong Quyết định

20/QĐ-TTg ngày 04/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến

lược quốc gia ATTP giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030. Để thực hiện xã hội

hóa lĩnh vực chất lượng ATTP theo yêu cầu chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, làm

cho lĩnh vực này đi vào đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của

đất nước, cần phải thực hiện tốt các công việc sau:

- Ban hành chính sách, danh mục và lộ trình xã hội hóa đối với các hoạt động

trong lĩnh vực quản lý ATTP; hoàn thiện cơ chế quản lý, đánh giá, công nhận các cơ

sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực quản lý ATTP.

86

- Đẩy mạnh xã hội hóa một số khâu dịch vụ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý

an toàn thực phẩm; phát huy vai trò của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các

tổ chức đoàn thể trong việc tham gia bảo đảm an toàn thực phẩm.

- Phát triển, khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia đầu tư, liên doanh,

liên kết, chuyển giao công nghệ về kiểm nghiệm ATTP và các tổ chức chứng nhận.

- Khuyến khích các cơ sở duy trì tốt điều kiện an toàn thực phẩm song song

với áp dụng chế độ kiểm tra giám sát chặt chẽ đối với các cơ sở vi phạm.

- Tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác bảo đảm an toàn thực phẩm. Xã hội

hóa, đa dạng các nguồn lực tài chính và từng bước tăng mức đầu tư cho công tác

bảo đảm an toàn thực phẩm.

Nhà nước giao cho các Hội chuyên ngành một số nhiệm vụ cụ thể trong lĩnh

vực ATTP; đồng thời khuyến khích việc lập các phòng thí nghiệm tư nhân kiểm tra

chất lượng ATTP; có cơ chế phù hợp để các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước

đầu tư trang thiết bị hiện đại cho các phòng thí nghiệm đáp ứng kịp thời đòi hỏi của

công tác kiểm nghiệm.

Xã hội hóa công tác bảo đảm ATTP cần được thúc đẩy mạnh mẽ với việc ban

hành chính sách, danh mục và lộ trình xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh

vực quản lý ATTP, hoàn thiện cơ chế quản lý, đánh giá, công nhận các cơ sở thực

hiện xã hội hóa trong lĩnh vực quản lý ATTP; tập trung xã hội hóa một số khâu dịch

vụ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý ATTP, phát huy vai trò các doanh nghiệp, tổ

chức xã hội, các tổ chức đoàn thể trong việc tham gia bảo đảm ATTP; phát triển,

khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia đầu tư, liên doanh, liên kết, chuyển

giao công nghệ về kiểm nghiệm ATTP và các tổ chức chứng nhận về ATTP; khuyến

khích, có lộ trình áp dụng quản lý ATTP trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực

phẩm như GMP, HACCP, GAP, GAHP...

Đối với xét nghiệm sản phẩm thực phẩm: Trước kia, doanh nghiệp phải tới các

phòng thí nghiệm thuộc cơ quan quản lý nhà nước có giấy chứng nhận ISO 17025

để kiểm nghiệm sản phẩm thì kết quả kiểm nghiệm đó mới có giá trị pháp lý; Nghị

định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định doanh nghiệp được lựa chọn đơn vị

kiểm nghiệm có chứng nhận ISO 17025, không nhất thiết phải là các đơn vị thuộc

87

quản lý của nhà nước. Hay việc các cơ sở có giấy chứng nhận hệ thống quản lý tiên

tiên như ISO 22000, HACCP, GMP,.. thì không phải cấp giấy chứng nhận đủ điều

kiện ATTP.

Theo ý kiến riêng của tác giả, khi trình độ quản lý và quy mô các cơ sở sản

xuất, kinh doanh thực phẩm đạt đến trình độ nhất định, cơ quan quản lý nhà nước có

thể ủy quyền việc cấp các loại giấy chứng nhận, giấy phép cho đơn vị đủ năng lực

thực hiện. Đương nhiên đơn vị đó phải được cơ quan quản lý nhà nước thẩm định

và cấp phép. Lúc đó, cơ quan quản lý nhà nước sẽ “bớt đi gánh nặng” tập trung vào

nhiệm vụ quản lý, thanh kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh

thực phẩm.

Huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội như:

Mặt trận tổ quốc và Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng,… cùng chung tay tham gia vào công tác quản lý, giám

sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Sự tham gia tích cực của các tổ chức

chính trị - xã hội, tổ chức xã hội đối với công tác quản lý ATTP không khác gì

“camera giám sát” của các cơ quan quản lý nhà nước tại cơ sở. Trước mắt, nhà nước

cần có cơ chế, chính sách giao cho các tổ chức chính trị, xã hội một số nhiệm vụ cụ

thể trong công tác quản lý ATTP, có như vậy mới huy động được lực lượng lớn

tham gia vào công tác quản lý ATTP.

Trong quá trình hội nhập cùng với sự cạnh tranh hết sức khốc liệt của nền kinh

tế thị trường, chất lượng các hàng hóa nói chung và chất lượng các loại thực phẩm

nói riêng, đặc biệt là chất lượng ATTP lại càng có một vai trò hết sức quan trọng và

có một ý nghĩa quyết định trong sự tồn vong của một doanh nghiệp, rộng hơn là của

cả một nền kinh tế của một quốc gia. Do đó, việc điều hành, phối hợp, quản lý chất

lượng ở tầm vĩ mô và vi mô toàn bộ hệ thống dây chuyền sản xuất, chế biến, thương

mại, tiêu dùng nông sản, lương thực, thực phẩm theo phương châm “từ trang trại

đến bàn ăn” phải được đặt ra và thực thi trong thời gian tới ở nước ta thì mới có hy

vọng làm cho các loại nông sản, lương thực, thực phẩm Việt Nam có chất lượng tốt,

đặc biệt là chất lượng ATTP, đáp ứng mọi yêu cầu của cộng đồng người tiêu dùng

Việt Nam và có sức cạnh tranh, gia tăng giá trị và đứng vững trên thị trường đầy

khắc nghiệt của khu vực và thế giới.

88

3.3.1.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác quản lý an

toàn thực phẩm

Đây là điều kiện cần thiết để duy trì bộ máy quản lý nhà nước và triển khai các

hoạt động trong quản lý nhà nước về ATTP. Nguồn kinh phí để đầu tư cơ sở vật

chất, trang thiết bị, đào tạo nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ. Cơ chế

tài chính phù hợp không những khuyến khích, động viên đội ngũ cán bộ nhiệt tình,

hăng say, yên tâm trong công tác từ đó nâng cao hiệu quả quản lý mà còn phát triển

và đẩy mạnh các hoạt động chuyên môn như mở rộng hệ thống kiểm nghiệm về

ATTP, đầu tư trang thiết bị cần thiết cho hoạt động tuyên truyền, tập huấn, thanh

tra, kiểm tra.

Một là, tăng cường đầu tư cơ bản và bổ sung cơ sở vật chất kỹ thuật

- Đầu tư nâng cấp và mở rộng trụ sở làm việc và phòng kiểm nghiệm của các

cơ quan quản lý ATTP từ trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

- Nâng cấp hiện đại các phòng kiểm nghiệm hiện có tương đương với hệ thống

các phòng kiểm nghiệm của các nước trong khu vực. Trang bị đồng bộ thiết bị kiểm

nghiệm các chỉ tiêu chất lượng ATTP cho các phòng kiểm nghiệm địa phương,

phòng kiểm nghiệm kiểm chứng quốc gia và khu vực.

- Các khoản ngân sách thường được huy động từ các nguồn: kinh phí nhà

nước, bao gồm cả kinh phí địa phương đóng góp, kinh phí viện trợ và kinh phí huy

động từ các nguồn khác. Tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước thuộc Chương

trình Mục tiêu quốc gia ATTP. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các đơn vị, cá

nhân tham gia đầu tư cho các hoạt động bảo đảm ATTP tuyến tỉnh. Thực hiện vốn

đầu tư theo hình thức liên doanh, liên kết và huy động các nguồn vốn hợp pháp

khác như: ODA, vay vốn, viện trợ từ các tổ chức quốc tế, tư nhân, thực hiện liên

doanh, liên kết trong đầu tư. Ưu tiên cho các dự án hợp tác quốc tế về hỗ trợ vốn, hỗ

trợ kỹ thuật và chuyển giao các công nghệ hiện đại.

- Hiện đại hóa phương tiện, thiết bị xét nghiệm để cho kết quả nhanh, chính

xác và đẩy mạnh hợp tác quốc tế.

89

- Cho phép tạm ứng và thanh toán từ kinh phí xử phạt vi phạm hành chính để

xử lý vi phạm (tiêu hủy thực phẩm không an toàn, thuốc BVTV, thuốc thú y, chế

phẩm xử lý, cải tạo môi trường giả, kém chất lượng, không an toàn...).

- Hỗ trợ về kỹ thuật, kinh phí cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm áp

dụng các mô hình quản lý ATTP tiên tiến như: GMP, HACCP...

- Phát triển các mô hình đầu tư liên doanh, liên kết, chuyển giao công nghệ với

các hãng sản xuất trang thiết bị xét nghiệm có uy tín trên thế giới.

- Tăng cường chia sẻ thông tin giữa các phòng kiểm nghiệm quốc gia, khu

vực, các phòng kiểm nghiệm quốc tế nhằm phổ biến kinh nghiệm hoạt động xét

nghiệm đảm bảo ATTP.

- Huy động nguồn lực tài chính và các nguồn lực khác thuộc nhiều thành phần

kinh tế, tổ chức chính trị và các lực lượng xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp,

các tổ chức phi chính phủ và công dân tham gia tích cực công tác xã hội hóa lĩnh

vực chất lượng ATTP, làm cho công tác này trở thành vấn đề quan tâm của cả xã

hội; đồng thời, phải có những chế định về trách nhiệm rõ ràng, có kế hoạch cụ thể

cho từng ngành, từng tổ chức xã hội cũng như trách nhiệm của mỗi người dân trong

việc thực hiện các quy định của Nhà nước. Để tránh chồng chéo hoặc bỏ trống quá

trình thực hiện, cần có cơ quan chuyên trách trong tổ chức điều hành và giám sát

thực hiện lĩnh vực này.

Hai là, đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu phân tích nguy cơ và các chương trình

giám sát Đầu tư nghiên cứu và xây dựng chương trình phân tích và kiểm soát rủi ro

về ATTP, đảm bảo gắn kết với các chương trình kiểm soát dịch bệnh; xây dựng hệ

thống cơ sở dữ liệu chia sẻ thông tin với các bên tham gia.

- Tăng cường áp dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, tiến bộ công nghệ

thông tin vào công tác quản lý giám sát, theo dõi và đánh giá chương trình bảo đảm

ATTP để hoạch định các biện pháp can thiệp có hiệu quả. Tăng cường đầu tư cho

các nghiên cứu về thực phẩm, an toàn thực phẩm tại các Viện nghiên cứu, trung tâm

khoa học,…

- Tiếp tục đầu tư về hạ tầng, trang thiết bị cho các Labo của Trung ương đủ

năng lực đóng vai trò là labo kiểm chứng về ATTP. Đầu tư kinh phí nâng cấp một

90

số phòng thí nghiệm để đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, nâng cao năng lực các

phòng thí nghiệm phân tích hiện có.

Ba là, tiếp tục đầu tư và tăng cường kinh phí cho thanh tra chuyên ngành

Hiện Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho phép Hà Nội triển khai rộng thí

điểm thanh tra chuyên ngành ATTP trên địa bàn 30 quận/huyện/thị xã theo Quyết

định số 47/2018 /QĐ-TTg ngày 26/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí

điểm triển khai thanh tra chuyên ngành ATTP. Điều này hứa hẹn sẽ nâng cao hiệu

quả quản lý ATTP đặc biệt tại tuyến xã/phường/thị trấn.

Bốn là, đầu tư nghiên cứu khoa học về an toàn thực phẩm

- Cần đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ đối với

các kỹ thuật mới, hiện đại trong công tác quản lý ATTP, ứng dụng tiến bộ khoa học

công nghệ trong đổi mới quy trình trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ sau thu hoạch

bao gồm cả bảo quản, sơ chế và chế biến thực phẩm. Từ đó nâng cao chuỗi giá trị

thực phẩm, đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm cũng như sức khỏe người dân.

- Tăng cường hợp tác quốc tế về ATTP thông qua trao đổi chuyên gia, hỗ trợ

kinh phí và trang thiết bị cho công tác ATTP và áp dụng các tiến bộ khoa học công

nghệ trong quản lý, kiểm soát chất lượng ATTP. Xây dựng kế hoạch huy động

nguồn kinh phí xã hội hóa, đa dạng các nguồn lực tài chính để từng bước tăng mức

đầu tư thực tế, nguồn ổn định tương ứng với yêu cầu của các hoạt động bảo đảm

ATTP ở Trung ương và địa phương. Huy động nguồn lực quốc tế từ các Tổ chức

phi chính phủ, các nước đầu tư cho công tác ATTP. Hiện nay, Việt Nam vẫn nhận

được hỗ trợ quốc tế cho lĩnh vực nông nghiệp trong việc nâng cao giá trị chuỗi sản

phẩm nông nghiệp Việt Nam. JICA – Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản đã hỗ trợ

tích cực Việt Nam trong xây dựng chuỗi giá trị thực phẩm tại các tỉnh: Sơn La, Lâm

Đồng, Nghệ An và 1 số tỉnh khác.

3.3.2. Giải pháp riêng từ thực tiễn quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

tại Sở Công Thương Thành phố Hà Nội

3.3.2.1. Tăng cường công tác điều tra cơ sở dữ liệu về an toàn thực phẩm,

thường xuyên rà soát, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa

bàn

91

Đây là bước đầu tiên, quan trọng để quản lý tốt các cơ sở sản xuất, kinh doanh

thực phẩm. Dữ liệu cơ sở ban đầu về các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm cho

ta thấy được số lượng, đặc điểm, phân bố hoạt động và quy mô hoạt động của các cơ

sở từ đó có những điều chỉnh hợp lý trong quá trình quản lý ATTP. Và vai trò của

UBND cấp xã rất lớn trong điều tra dữ liệu ban đầu bởi hầu hết các cơ sở sản xuất,

kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, trong đó có 1 số lượng không nhỏ các cơ ở sản xuất,

kinh doanh thực phẩm ở quy mô hộ gia đình không thực hiện thủ tục đăng kí kinh

doanh. Các đối tượng này chủ yếu sản xuất và kinh doanh tại nhà, các sản phẩm do

họ sản xuất, kinh doanh hầu hết bán trong xã hoặc các xã lân cận. Chúng ta có thể

thấy rõ nét nhất là các hộ sản xuất rượu thủ công. Họ chỉ làm rượu để bán cho người

thân, bạn bè hoặc phục vụ các đám cưới, đám tiệc, nhưng mục đích chính là dùng bã

rượu để phục vụ chăn nuôi gia súc; sản lượng hàng ngày cũng chỉ 20 – 30 lít/ngày.

Thực tế, các hộ sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ không thực hiện thủ

tục đăng kí kinh doanh theo quy định nên chủ yếu hoạt động tự phát và thường xuyên

biến động. Nếu chúng ta không thường xuyên rà soát, nắm bắt thì rất khó kiểm soát

được tình hình an toàn thực phẩm. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần huy động

số lượng lớn các điều tra viên ATTP, các cộng tác viên ATTP tham gia vào công tác

điều tra, thống kê các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên từng địa bàn. Thông

qua hình thức tuyên truyền, phát phiếu điều tra ATTP, tổng hợp kết quả và xây dựng

cơ sở dữ liệu về các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên từng địa bàn.

Cũng thông qua công tác rà soát, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực

phẩm mà đơn vị quản lý nắm được đặc điểm, tình hình của các cơ sở thuộc địa bàn

quản lý. Từ đó, đề ra những chính sách, biện pháp, giải pháp quản lý phù hợp.

3.3.2.2. Cải cách hành chính về an toàn thực phẩm

Cải cách hành chính là một trong những giải pháp đầu tiên và quan trọng

nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cũng như hiệu quả thực hiện pháp luật. Muốn cải

cách hành chính thì trước tiên phải cải cách thủ tục hành chính – đây là một trong

những khâu quan trọng, đánh giá hiệu quả hành chính. Đối với lĩnh vực ATTP có 2

thủ tục hành chính: cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP và cấp giấy xác nhận

kiến thức ATTP.

92

Đối với cải cách thủ tục hành chính, có 3 giải pháp cải cách thủ tục là cắt giảm

thời gian giải quyết thủ tục hành chính và cắt giảm hồ sơ hành chính, cải cách

phương thức thực hiện thủ tục hành chính. Cụ thể:

- Về thời gian giải quyết thủ tục hành chính:

Từ năm 2012 đến nay, Sở Công Thương Hà Nội đã 2 lần cắt giảm thời gian

giải quyết thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP từ 27 ngày làm việc

xuống còn 22 ngày làm việc (năm 2015); và 20 ngày làm việc (năm 2018). Phấn

đấu tới năm 2025 có thể giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính xuống còn 15

ngày làm việc.

Từ năm 2014 đến nay, Sở Công Thương Hà Nội đã cắt giảm thời gian giải

quyết thủ tục cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP từ 13 ngày làm việc xuống 11 ngày

làm việc. Phấn đấu tới năm 2025 có thể giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính

xuống 7 ngày làm việc.

- Về hồ sơ hành chính cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm:

Sở Công Thương Hà Nội đã thực hiện phương thức đơn giản hóa hồ sơ hành

chính: bỏ giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, bản sao có xác nhận của cơ sở giấy

khám sức khỏe và giấy xác nhận kiến thức ATTP thay vì bản công chứng, danh

sách khám sức khỏe thay vì giấy khám sức khỏe.

Kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin, có thể tích hợp việc khai báo và

nộp hồ sơ hành chính điện tử, vừa giúp giảm chi phí đi lại, chi phí tuân thủ thực

hiện thủ tục hành chính, giảm gánh nặng lưu trữ và quản lý cho cơ quan quản lý nhà

nước.

Về phương thức thực hiện thủ tục hành chính

- Thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP được thực hiện ở mức độ 3,

thủ tục cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP được thực hiện ở mức độ 4. Cơ sở có thể

thông qua dịch vụ bưu điện để nộp hồ sơ thay vì phải đến Sở Công Thương Hà Nội

nộp hồ sơ và kết quả sẽ được trả tận nơi thông qua dịch vụ bưu điện.

Đối với thủ tục cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP có nội dung kiểm tra về

kiến thức ATTP. Doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức kiểm tra tại doanh

93

nghiệp, tại Sở Công Thương hoặc tại 1 địa điểm do doanh nghiệp chỉ định. Thời

gian kiểm tra có thể được bố trí phù hợp đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi nhất cho

doanh nghiệp. Tiến tới nếu có thể và điều kiện cho phép có thể xây dựng phần mềm

kiểm tra trực tuyến. Tổ chức, cá nhân có thể đăng kí và thực hiện kiểm tra trực

tuyến trên cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý. Điều này vừa rút ngắn thười

gian, chi phí, thủ tục đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực

hiện thủ tục hành chính.

Tất cả các giải pháp trên nhằm mục đích cuối cùng là tạo điều kiện thuận lợi

cho cơ sở thực hiện quy định của pháp luật, tiết kiện chi phí cho doanh nghiệp; nâng

cao hiệu quả quản lý ATTP trên địa bàn.

3.3.2.3. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm các cơ sở sản xuất

kinh doanh thực phẩm

Quản lý ATTP không thể thiếu công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

về ATTP. Để các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm hoạt động hiệu quả đúng

quy định, đáp ứng yêu cầu mục tiêu quản lý, cơ quan quản lý nhà nước cần tăng

cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm về ATTP. Thường xuyên đổi mới

nội dung, phương pháp thanh tra, kiểm tra; bên cạnh hình thức kiểm tra định kỳ

thường xuyên, tăng cường thanh tra, kiểm tra đột xuất các cơ sở sản xuất, kinh

doanh thực phẩm.

Cần thay đổi quan điểm xử phạt từ “phạt cho tồn tại” sang “phạt để xử lý”, các

cơ sở vi phạm nghiêm trọng cần dừng hoạt động, thu hồi giấy phép, thậm chí cấm

hoạt động trong ngành nghề thực phẩm nếu hành vi vi phạm nghiêm trọng. Đặc

biệt, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm ATTP tại các tuyến xã; đưa

chỉ tiêu thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm ATTP vào trong tiêu chí chấm điểm thi

đua hàng năm, tiêu chí chấm điểm nông thôn mới,…

Đồng thời, cần tăng cường phối hợp liên ngành trong công tác thanh tra, kiểm

tra ATTP, tránh chồng chéo, trùng lắp trong nội dung, đối tượng thanh tra, kiểm tra;

vừa tạo điều kiện cho hoạt động của cơ sở, vừa nâng cao hiệu quả quản lý ATTP.

94

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Căn cứ vào cơ sở lý luận được xây dựng trong Chương 1, dựa vào những đánh giá

và phân tích về thực trạng pháp luật ATTP tại Việt Nam và thực hiện pháp luật về

ATTP tại sở Công Thương Hà Nội ở Chương 2, học viên đã tiến hành nghiên xây

dựng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật về ATTP. Trong chương này, luận văn đã đạt được một số kết

quả nghiên cứu chính sau: Thứ nhất, phân tích và đưa ra những yêu cầu đối với

việc hoàn thiện pháp luật về ATTP; Thứ hai, luận văn đã đề xuất sáu nhóm giải

pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật ATTP và tám nhóm giải pháp bảo đảm thực

hiện pháp luật ATTP từ thực tiễn Sở Công Thương Hà Nội.

95

KẾT LUẬN

An toàn thực phẩm là vấn đề mang tính thời sự cao của mọi quốc gia tại mọi

thời điểm trong tiến tình phát triển của lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bảo đảm an

toàn thực phẩm là hoạt động mang tính xã hội hoá cao, cần sự tham gia tích cực, có

hiệu quả của mọi người dân, doanh nghiệp, người trực tiếp sản xuất, kinh doanh và

tiêu dùng thực phẩm, các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức

chính trị - xã hội và của toàn bộ hệ thống chính trị. Một sản phẩm thực phẩm an

toàn chỉ được tạo ra bởi 1 quy trình sản xuất được quản lý chặt chẽ từ đầu vào

nguyên liệu, quá trình sản xuất cho đến sản phẩm đầu ra và tiêu thụ trên thị trường.

Một xã hội được bảo đảm ATTP khi thực phẩm đó là sản phẩm của quy trình quản

lý an toàn với đầy đủ hệ thống kiểm soát, quản lý ATTP, giám sát chặt chẽ đến từ

các nhà quản lý, nhà sản xuất, nhà kinh doanh thực phẩm và người dân trong xã hội

đó.

Quản lý nhà nước về ATTP đóng một vai trò hết sức quan trọng trong các

chính sách điều tiết về kính tế, xã hội và văn hóa của đất nước. Hoạt động của các

cơ quan quản lý nhà nước mang tính dẫn dắt, thông qua các văn bản quy phạm pháp

lậut, các công cụ, chính sách của nhà nước điều chỉnh mối quan hệ pháp luật về

ATTP nhằm định hướng phát triển cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động sản

xuất, kinh doanh thực phẩm vì mục tiêu thực phẩm an toàn, vì sức khỏe người dân

đồng thời phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

Thực trạng an toàn thực phẩm ở Việt Nam nói chung và an toàn thực phẩm

ngành Công Thương trên địa bàn Hà Nội nói riêng cho thấy một bức tranh đa màu

sắc với những mảng đậm – nhạt đan xen. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được với

sự cố gắng, nỗ lực của Thành phố Hà Nội và ngành Công Thương thì vẫn tồn tại

những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý an toàn thực phẩm; tình

trạng mất an toàn thực phẩm đe dọa sức khỏe, tính mạng người dân ảnh hưởng tới

sự phát triển kinh tế và an sinh xã hội.

Với rất nhiều nỗ lực trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động trong lĩnh

vực quản lý nhà nước an toàn thực phẩm, nghiên cứu đã trình bày lý luận về pháp

96

luật ATTP, đặc biệt đi sâu phân tích pháp luật ATTP lĩnh vực Công Thương; đánh

giá kết quả công tác quản lý ATTP lĩnh vực Công Thương trên địa bàn Hà Nội,

những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong công tác

quản lý ATTP. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ATTP và hiệu

quả thi hành pháp luật ATTP. Có 8 nhóm giải pháp bao gồm: hoàn thiện hệ thống

pháp luật ATTP và các quy định liên quan; nâng cao năng lực, trình độ quản lý của

cơ quan quản lý ATTP; tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhận thức, ý thức trách

nhiệm thi hành pháp luật ATTP đối với người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng

thực phẩm; xã hội hóa công tác quản lý ATTP; tăng cường công tác điều tra cơ sở

dữ liệu về ATTP, thường xuyên rà soát, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh

thực phẩm; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí công tác quản lý ATTP, cải

cách hành chính về ATTP và các quy định có liên quan; tăng cường thanh tra, kiểm

tra và xử lí vi phạm ATTP.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công Thương, Thông tư Bộ Công Thương quy định cấp, thu hồi giấy

chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm thuộc trách nhiệm quản lý của

Bộ Công Thương, số 58/2014/TT-BCT, ngày 22 tháng 12 năm 2014.

2. Bộ Công Thương, Thông tư Bộ Công Thương quy định về quản lý an toàn

thực phẩm thuộc trách nhiệm của Bộ Công Thương, số 43/2018/TT-BCT, ngày 15

tháng 11 năm 2018.

3. Chính Phủ, Nghị định Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật ATTP, số 38/2012/NĐ-CP, ngày 25 tháng 4 năm 2012.

4. Chính phủ, Nghị định Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh cực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo, số 158/2013/NĐ-CP, ngày

12 tháng 11 năm 2013.

5. Chính phủ, Nghị định Chính phủ về đăng kí doanh nghiệp, số 78/2015/NĐ-

CP ngày 14 tháng 9 năm 2015.

6. Chính phủ, Nghị định Chính phủ về nhãn hàng hóa, số 43/2017/NĐ-CP,

ngày 14 tháng 4 năm 2017.

7. Chính phủ, Nghị định Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật ATTP, số 15/2018/NĐ-CP, ngày 02 tháng 02 năm 2018.

8. Chính phủ, Nghị định Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về

an toàn thực phẩm, số 115/2018/NĐ-CP, ngày 04 tháng 9 năm 2018.

9. Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật (2007), Giáo trình Lý luận chung về

Nhà nước và pháp luật, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

10. Đặng Công Hiển (2019), Pháp luật an toàn thực phẩm trong hoạt động

thương mại ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà

Nội.

11. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Giáo trình thủ tục hành chính,

NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

98

12. Nguyễn Thị Thanh Hương (2012), Thực trạng và giải pháp nâng cao năng

lực quản lý việc sử dụng một số phụ gia trong chế biến thực phẩm tại Quảng Bình,

Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Đinh Thị Quế (2018), Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Huế, Thừa Thiên Huế.

14. Quốc hội, “Luật an toàn thực phẩm 2010”, (Số: 55/2010/QH12), ngày 17

tháng 6 năm 2010.

15. Lê Thị Linh (2016), Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn thực phẩm

trên địa bàn Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

16 Sở Công Thương Hà Nội (2015), Báo cáo kết quả triển khai công tác đảm

bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2015 và kế hoạch công

tác năm 2016, Hà Nội.

17. Sở Công Thương Hà Nội (2016), Báo cáo kết quả triển khai công tác đảm

bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố năm 2016 và kế hoạch công tác năm

2017, Hà Nội.

18. Sở Công Thương Hà Nội (2017), Báo cáo kết quả triển khai công tác đảm

bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2017 và kế hoạch năm

2018, Hà Nội.

19. Sở Công Thương Hà Nội (2018), Báo cáo kết quả triển khai công tác đảm

bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2018 và nhiệm vụ năm

2019, Hà Nội.

20. Sở Công Thương (2019), Công văn về khảo sát thực trạng nguồn lực phục

vụ công tác quản lý ATTP của ngành Công thương các tỉnh phía Bắc, Hà Nội.

21. Sở Công Thương Hà Nội (2019), Báo cáo kết quả công tác đảm bảo ATTP

6 tháng đầu năm và nhiệm vụ 06 tháng cuối năm 2019, Hà Nội.

22. UBND Thành phố Hà Nội, Quyết định UBND Thành phố Hà Nội về phân

công trách nhiệm quản lý về ATTP trên địa bàn Hà Nội, số 16/2016/QĐ-UBND,

ngày 09 tháng 5 năm 2016.

23. UBND Thành phố Hà Nội, Quyết định UBND Thành phố Hà Nội về quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở Công Thương thành

phố Hà Nội, số 39/2016/QĐ-UBND, ngày 08 tháng 9 năm 2016.

99

24. UBND Thành phố Hà Nội, Quyết định UBND Thành phố Hà Nội về phân

công trách nhiệm quản lý về ATTP trên địa bàn Hà Nội, số 14/2019/QĐ-UBND,

ngày 05 tháng 7 năm 2019.

25. UBND Thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo kết quả an toàn thực phẩm trên

địa bàn thành phố Hà Nội năm 2016, Hà Nội.

100