BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

DƢƠNG THỊ LINH

PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NHO QUAN, TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

MÃ SỐ: 60380102

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ THU HÀ

HÀ NỘI – 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn thạc sĩ với đề tài “Pháp luật về phân cấp

quản lý ngân sách nhà nước - từ thực tiễn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh

Bình” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai.

Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình !

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2017

Tác giả luận văn

Dƣơng Thị Linh

LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính với

đề tài “Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước - từ thực tiễn

huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình” là kết quả của quá trình cố gắng không

ngừng của bản thân và đƣợc sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy cô,

bạn bè và ngƣời thân. Qua trang viết này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những

ngƣời đã giúp đỡ tôi trong thời gian vừa qua.

Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với cô giáo PGS.TS

Nguyễn Thị Thu Hà đã trực tiếp tận tình hƣớng dẫn cũng nhƣ cung cấp tài

liệu thông tin khoa học cần thiết cho luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Học viện Hành chính Quốc gia, đã

tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và viết

luận văn.

Trân trọng cảm ơn Ủy ban nhân dân huyện Nho Quan đã hỗ trợ, cung

cấp thông tin để tôi hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn

Dƣơng Thị Linh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CẤP QUẢN

LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC ...................................................................... 7

1.1. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ....................................................... 7

1.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ................................... 7

1.1.2. Nội dung, nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ................. 8

1.2. Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ................................ 16

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc ................................................................................................................ 16

1.2.2. Nội dung, nguyên tắc pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc ................................................................................................................. 18

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về phân

cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ...................................................................... 24

1.3.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc.. ............................................................................................................... 24

1.3.2. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nƣớc .................................................................................................. 27

Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................ 32

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN

SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN NHO

QUAN, TỈNH NINH BÌNH ............................................................................ 33

2.1. Thực trạng pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nƣớc ........................... 33

2.1.1. Các quy phạm pháp luật đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc về hoạt động

phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ............................................................. 33

2.1.2 Các quy phạm pháp luật đối với hoạt động phân cấp quản lý ngân sách

nhà nƣớc .......................................................................................................... 36

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc trên

địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình ....................................................... 39

2.2.1. Tình hình thi hành pháp luật về phân cấp nguồn thu ngân sách nhà nƣớc

từ thực tiễn huyện Nho Quan .......................................................................... 39

2.2.2. Tình hình thi hành pháp luật về phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách nhà

nƣớc từ thực tiễn huyện Nho Quan ................................................................. 47

2.3. Nhận xét pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nƣớc .............................. 49

2.3.1. Kết quả đạt đƣợc ................................................................................... 49

2.3.2. Một số hạn chế ...................................................................................... 51

2.3.3. Nguyên nhân ......................................................................................... 60

Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................ 64

Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC – TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN NHO QUAN, TỈNH NINH BÌNH ................................................... 65

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc ................................................................................................................. 65

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc – từ thực tiễn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình .................................... 66

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc thực hiện việc

phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ............................................................. 66

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách 70

3.2.3. Các giải pháp khác ................................................................................ 73

Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................ 81

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 84

PHỤ LỤC ........................................................................................................ 86

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Ký hiệu Nguyên nghĩa

CQ Cơ quan

ĐP Địa phƣơng

GTGT Giá trị gia tăng

KBNN Kho bạc nhà nƣớc

KTTT Kinh tế thị trƣờng

Ngân sách NS

Ngân sách địa phƣơng NSĐP

Ngân sách nhà nƣớc NSNN

Ngân sách trung ƣơng NSTW

Uỷ ban nhân dân UBND

Xây dựng cơ bản XDCB

Xã hội chủ nghĩa XHCN

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Tỷ lệ % phân chia nguồn thu NSNN đối với việc sử dụng các loại đất

khác trên địa bàn huyện Nho Quan trng năm 2011 - 2016 ............................. 43

Bảng 2: Tổng thu NSNN trên địa bàn huyện Nho Quan ................................ 44

Bảng 3: Tổng thu NSNN trên địa bàn huyện theo từng sắc thuế .................... 45

Bảng 4: Tổng chi NSNN trên địa bàn huyện Nho Quan................................. 48

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Phân cấp quản lý là một trong những vẫn đề cơ bản của quản lý. Xu

hƣớng phân cấp quản lý đã và đang đƣợc thực hiện rộng khắp trên thế giới.

Về bản chất, đó là sự chia sẻ quyền hạn, trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ

chức nhà nƣớc ở nhiều cấp độ theo các mục tiêu khác nhau tuỳ vào đặc điểm

chính trị, kinh tế ở mỗi quốc gia. Phân cấp quản lý ngân sách giữa trung ƣơng

và địa phƣơng, là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp cơ quan nhà nƣớc

trong hoạt động quản lý ngân sách, đồng thời làm rõ quyền và trách nhiệm,

phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi cấp chính quyền nhà nƣớc,

ghóp phần cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành ngân

sách. Đây là nội dung cốt lõi trong phân cấp quản lý của nhà nƣớc. Ở Việt

Nam quá trình này đã đƣợc thực hiện từ nhiều năm trƣớc đây, đƣợc luật hoá

lần đầu trong Luật NSNN năm 1996, và đã đƣợc bổ sung hoàn thiện mới nhất

trong Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực vào năm NS 2017). Theo đó, nhiều

vấn đề tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách địa phƣơng đã đƣợc xử lý, khắc phục.

Vấn đề lớn tồn tại trong Luật NSNN hiện hành là tính lồng ghép trong hệ

thống ngân sách, ngân sách cấp dƣới là một bộ phận hợp thành của ngân sách

cấp trên; thẩm quyền giữa các cấp chồng chéo, quy trình ngân sách tƣơng đối

phức tạp. Quy định về phạm vi thu, chi ngân sách chƣa rõ ràng, việc quản lý

các khoản phí, lệ phí còn chƣa thống nhất. Chính quyền địa phƣơng đƣợc tăng

quyền về tổ chức thực thi ngân sách nhƣng thẩm quyền quyết định ngân sách

vẫn thuộc về trung ƣơng; việc giao nhiều quyền cho cấp tỉnh có những ƣu

điểm nhƣng cũng có phần làm hạn chế tính tự chủ của ngân sách cấp dƣới ở

mỗi địa phƣơng. Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp NSĐP

còn chƣa phù hợp với thực tế. Trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình,

1

việc thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách, các cấp chính quyền

từ tỉnh đến xã đã nâng cao trách nhiệm. Vai trò của pháp luật trong quá trình

thực hiện phân cấp quản lý ngân sách, và tăng tính chủ động tích cực, phát

huy cao độ tính tự chủ trong quản lý ngân sách cấp mình, bƣớc đầu quan tâm

khai thác, nuôi dƣỡng nguồn thu, hạn chế bớt tình trạng thụ động, trông chờ ỷ

lại vào ngân sách cấp trên. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân cả khách quan và

chủ quan mà việc thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn

huyện vẫn còn nhiều điểm hạn chế cả về hoạt động của NSNN và cơ chế quản

lý NSNN.

Để phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao trách nhiệm của các cấp

chính quyền địa phƣơng, đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở trong việc quản lý

khai thác và nuôi dƣỡng nguồn thu đáp ứng yêu cầu chi thực hiện các nhiệm

vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng, nâng cao hiệu quả sử

dụng NSNN, việc thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý thu, chi ngân sách

giữa các cấp chính quyền địa phƣơng cho đúng quy định của pháp luật và phù

hợp với đặc điểm tình hình thực tiễn của huyện Nho Quan là rất cần thiết. Vì

thế tôi chọn đề tài của luận văn: “Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách

nhà nước - từ thực tiễn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

- Sách “ Phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phƣơng. Thực trạng và

gải pháp”, PGS-TS Lê Chi Mai (2006), NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội đã

đƣa ra các lý thuyết về phân cấp ngân sách nhà nƣớc và giải pháp nhằm đẩy

mạnh việc phân cấp quản lý NSNN cho chính quyền địa phƣơng ở Việt Nam,

trong đó có chính quyền cấp huyện.

- Luận văn thạc sỹ kinh tế: “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách tỉnh

Kiên Giang” , Vũ Tuấn Kiệt (2007), Trƣờng đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh.

Luận văn đề cập đến những vấn đề lý luận về ngân sách nhà nƣớc và nội dung

hoạt động của nó, xem xét khái quát thực trạng về quản lý ngân sách nhà

nƣớc tại tỉnh Kiên Giang. Từ đó tìm ra những tồn tại, hạn chế của việc quản

2

lý ngân sách và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc quản

lý ngân sách địa phƣơng.

- Đề tài: “Một số vấn đề về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc” do

Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Hƣơng, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

nghiên cứu năm 2012. Tác gải đã chỉ ra các bất cập về phân cấp quản lý ngân

sách, đặc biệt là phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi theo Luật NSNN. Từ đó,

tacs giả đề ra các giải pháp để tăng cƣờng tính chủ động cho chính quyền địa

phƣơng và hoàn thiện phân quản lý ngân sách nhà nƣớc.

- Luận văn thạc sỹ kinh tế: “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách nhà

nƣớc huyện Phù Cát”, Phạm Văn Thịnh (2011), Đại học Đà Nẵng đã đƣa ra

các lý luận về ngân sách nhà nƣớc và quản lý ngân sách huyện, từ đó đã chỉ ra

các kết quả đạt đƣợc và một số hạn chế mà huyện Phú Cát chƣa khắc phục

đƣợc. Thông qua đó, tác giả đã dƣa các giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu

quả quản lý ngân sách huyện và ghóp phần hoàn thiện hệ thống quản lý ngân

sách trên toàn địa bàn tỉnh Bình Định nói riêng và cả nƣớc nói chung.

- Đề tài: “Thực hiện tốt sự phân cấp giữa chính quyền Trug ƣơng với

chính quyền địa phƣơng” do Viện quản lý kinh tế Trung ƣơng thực hiện năm

2005. Đề tài đã xem xét và phân tích xu thế phân cấp trong cải cách hành

chính nhà nƣớc ta hiện nay, trong đó lý giải các nguyên nhân khiến phân cấp

trở thành xu thế tất yếu của thời đại, đặc biệt trong bối cảnh cải cách hành

chính nhà nƣớc.

- Luận án tiến sỹ kinh tế “Phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ở Việt

Nam hiện nay”, Lê Toàn Thắng (2014), Học viện hành chính. Luận án đã làm

sáng tỏ các lý luận về quản lý ngân sách nhà nƣớc nói chung và phân cấp

quản lý ngân sách nhà nƣớc nói riêng, cùng với đó là chỉ ra các kết quả đạt

đƣợc và các hạn chế trong việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc tại Việt

Nam. Từ đó, Luận văn đã đề xuất những biện pháp nhằm hoàn thiện hiệu quả

phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ở Việt Nam.

- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Hoàn thiện cơ chế phân cấp ngân sách nhà

3

nƣớc cho các cấp chính quyền địa phƣơng” tác giả Đào Xuân Liên (2007) tại

trƣờng Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn về chuyên ngành

tài chính nên tác giả chƣa đề cập nhiều đến hoạt động quản lý nhà nƣớc của

các cơ quan Nhà nƣớc trong vấn đề thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc.

- Đề tài: “Phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ở Việt Nam kết quả và

những vấn đề đặt ra”, do Thạc sỹ Phạm Ngọc Thắng, Phó Vụ trƣởng Vụ Kinh

tế Văn phòng Trung Ƣơng Đảng thực hiện năm 2010. Đề tài đã chỉ ra đƣợc

những hạn chế trong quá trình phân cấp quản lý ngân sách nƣớc ta sau sáu

năm thực hiện Luật NSNN 2002, từ đó đã đề ra các giải pháp để khắc phục

sự chồng chéo về thẩm quyền về phân cấp ngân sách nhà nƣớc và nâng cao

hiệu quả phân cấp ngân sách nhà nƣớc Việt Nam.

Phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc đã đƣợc đề cập nhiều trong các tài

liệu nghiên cứu và các công trình khoa học. Còn riêng đối với đề tài pháp luật

về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc đến nay có ít công trình nghiên cứu

về vấn đề này. Đề tài của tôi sẽ góp phần nhỏ để làm rõ hơn thực trạng pháp

luật về phân cấp quản lý ngân sách - từ thực tiễn huyện Nho Quan và từ đó có

các giải pháp để hoàn thiện pháp luật, cũng nhƣ việc thực hiện pháp luật về

phân cấp quản lý ngân sách.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích:

Thông qua việc phân tích cơ sở lý luận của phap luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc, nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh

Ninh Bình trong khoảng thời gian 2011- 2016 để có thể đánh giá thực trạng

pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nƣớc, từ đó đề ra các giải pháp nhằm

hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ nâng cao hơn nữa hiệu quả về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc.

- Nhiệm vụ

Để đạt đƣợc mục đích đã nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:

4

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật về phân cấp quản lý NSNN trong

điều kiện phát triển nền KTTT định hƣớng XHCN ở Việt Nam.

-Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về phân cấp quản lý NSNN

huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình trên các phƣơng diện, từ đó chỉ ra những kết

quả đạt đƣợc, những hạn chế và nguyên nhân.

- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nƣớc.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu:

Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc

- Phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc từ thực

tiễn huyện Nho Quan trong giai đoạn 2011-2016 và định hƣớng đến năm

2020.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận:

Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của phép duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử.

- Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả tổng hợp để có những đánh

giá,những giải pháp, những kết luận phù hợp với cơ sở lý luận và thực tiễn

của pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc.

- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phƣơng pháp so sánh để có các

nhận xét, đánh giá và đƣa ra các giải pháp pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nƣớc.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ cung cấp luận cứ khoa học và

thông tin về những vấn đề liên quan đến lý luận pháp luật về phân cấp quản

lý ngân sách nhà nƣớc.

5

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có tác động tích cực đến việc đẩy mạnh

hơn nữa hoạt động phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc giữa trung ƣơng và

địa phƣơng.

- Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cán

bộ nghiên cứu khoa học hành chính sinh viên, học viên cao học tại Học viện

Hành chính và các cán bộ công chức quan tâm.

6. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm các nội dung sau:

Chƣơng 1 : Cơ sở lý luận của pháp luật về phân cấp quản lý NSNN

Chƣơng 2 : Thực trạng pháp luật về phân cấp quản lý NSNN và thực tiễn

thực hiện tại huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp

6

quản lý ngân sách nhà nƣớc - từ thực tiễn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ

NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

1.1. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc

1.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Hiện nay khái niệm về phân cấp quản lý NSNN đƣợc hiểu rất khác nhau,

là chủ đề đƣợc bàn luận rất nhiều. Nếu phân cấp quản lý ngân sách không

đƣợc quy định rõ ràng, không triệt để dễ dẫn đến tình trạng rối loạn trong

quản lý tài chính nhà nƣớc, không thúc đẩy đƣợc nền kinh tế phát triển.

Ngân sách nhà nƣớc là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nƣớc đƣợc dự

toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nƣớc

có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của

Nhà nƣớc. [2, tr.10]

Phân cấp quản lý ngân sách là việc xác định phạm vi, trách nhiệm và

quyền hạn của chính quyền các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách trong việc

quản lý ngân sách nhà nƣớc phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội.[5,

tr.7]

Vậy, phân cấp quản lý NSNN gắn với việc giải quyết mối quan hệ vật

chất giữa các cấp chính quyền nhà nƣớc. Đây là mối quan hệ lợi ích, rất phức

tạp. Giải quyết mối quan hệ này thực chất là phân định nhiệm vụ, quyền hạn

giữa các cấp chính quyền nhà nƣớc trong tổ chức, quản lý, điều hành ngân

sách. Mỗi cấp ngân sách đều có tính độc lập gắn với nhiệm vụ của cấp chính

quyền tƣơng ứng. Tuy nhiên, tính độc lập này chỉ là tƣơng đối, bởi lẽ hoạt

động của các cấp ngân sách nói riêng và toàn bộ ngân sách nhà nƣớc nói

chung đều nhằm tạo cơ sở vật chất cho Nhà nƣớc thực hiện các chức năng,

nhiệm vụ của nhà nƣớc. Quan hệ giữa ngân sách các cấp đƣợc thực hiện theo

7

nguyên tắc:

- Ngân sách trung ƣơng và ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có

Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đƣợc phân đƣợc phân định nguồn thu

và nhiệm vụ chi cụ thể; Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm đối với các

khoản thu phân chia giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên

cho cấp dƣới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các địa nphƣơng.

Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu và số bổ sung cân đối từ ngân sách

cấp trên cho ngân sách cấp dƣới đƣợc ổn định từ 3 đến 5 năm. Số bổ sung từ

ngân sách cấp trên là khoản thu của ngân sách cấp dƣới (Điểm e Khoản 2

Điều 4 Luật NSNN).

-Trong trƣờng hợp cơ quan quản lý nhà nƣớc cấp trên uỷ quyền cho cơ

quan quản lý nhà nƣớc cấp dƣới thực hiện nhiệm vụ chi của mình thì phải

chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dƣới để thực hiện nhiệm vụ đó.

Ngoài việc bổ sung nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ nói trên,

không đƣợc dùng ngân sách cấp này để chi cho ngân sách cấp khác.

Để NSNN đƣợc sử dụng hiệu quả thì phân cấp quản lý ngân sách phải rõ

ràng, bảo đảm các nguồn vốn NSNN đƣợc chuyển dịch công khai, minh bạch,

kiểm soát đƣợc ở bất kỳ thời điểm nào.

1.1.2. Nội dung, nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

1.1.2.1. Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc là việc xử lý các mối quan hệ giữa

các cấp chính quyền nhà nƣớc từ trung ƣơng đến địa phƣơng trong hoạt động

của ngân sách nhà nƣớc, từ đó cho phép hình thành một cơ chế phân chia ranh

giới quyền lực về quản lý ngân sách nhà nƣớc giữa các cấp chính quyền. Vì

vậy nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc về cơ bản bao gồm 2 nội

dung chủ yếu sau:

Một là, về quyền lực: Phân cấp ban hành chế độ, chính sách, tiêu chuẩn,

định mức:

Trong quản lý ngân sách nhà nƣớc, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định

8

mức có vai trò và vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là một trong những

căn cứ quan trọng để xây dựng dự toán, phân bổ ngân sách và kiểm soát chi

tiêu, mà còn là một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lƣợng quản lý và

điều hành ngân sách của các cấp chính quyền.

Thông qua việc phân cấp nhằm làm rõ vấn đề cơ quan nhà nƣớc nào có

thẩm quyền ban hành ra các chế độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn, phạm

vi, mức độ của mỗi cấp chính quyền. Cơ sở pháp lý này đƣợc xây dựng dựa

trên hiến pháp hoặc các đạo luật tổ chức hành chính, từ đó định ra hành lang

pháp lý cho việc chuyển giao các thẩm quyền gắn với các trách nhiệm tƣơng

ứng với quyền lực đã đƣợc phân cấp, đảm bảo tính ổn định, tính pháp lý,

không gây sự rối loạn trong quản lý ngân sách nhà nƣớc.

Hội đồng nhân dân cấp thành phố quyết định một số chế độ thu phí gắn

với quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên, gắn với chức năng quản lý hành

chính nhà nƣớc của chính quyền địa phƣơng và các khoản đóng góp của nhân

dân theo quy định của pháp luật; việc huy động vốn để đầu tƣ xây dựng kết

cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp thành phố. Đƣợc quyết định chế độ

chi ngân sách phù hợp với đặc điểm thực tế ở địa phƣơng. Riêng chế độ chi

có tính chất tiền lƣơng, tiền công, phụ cấp, trƣớc khi quyết định phải có ý kiến

của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.

Hai là, phân cấp về mặt vật chất, tức là phân cấp về nguồn thu và nhiệm

vụ chi:

Có thể nói đây luôn là vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, gây nhiều bất

đồng nhất trong quá trình xây dựng và triển khai các đề án phân cấp quản lý

ngân sách. Sự khó khăn này bắt nguồn từ sự phát triển không đồng đều giữa

các địa phƣơng, sự khác biệt về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa

các vùng miền trong cả nƣớc.

Ngân sách trung ƣơng hƣởng các khoản thu tập trung quan trọng không

gắn trực tiếp với công tác quản lý của địa phƣơng nhƣ: Thuế xuất khẩu, thuế

nhập khẩu, thu từ dầu thô…hoặc không đủ căn cứ chính xác để phân chia

9

nhƣ: thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành, đồng

thời đảm bảo nhiệm vụ chi cho các hoạt động có tính chất đảm bảo thực hiện

các nhiệm vụ chiến lƣợc, quan trọng của quốc gia nhƣ: Chi đầu tƣ cơ sở hạ

tầng kinh tế – xã hội, chi quốc phòng, an ninh, chi giáo dục, y tế, chi đảm bảo

xã hội do Trung ƣơng quản lý…và hỗ trợ các địa phƣơng chƣa cân đối đƣợc

thu, chi ngân sách

Ngân sách địa phƣơng đƣợc phân cấp nguồn thu để đảm bảo chủ động

thực hiện những nhiệm vụ đƣợc giao, gắn trực tiếp với công tác quản lý tại

địa phƣơng nhƣ: Thuế nhà đất, thuế môn bài, thuế chuyển quyền sử dụng đất,

thuế thu nhập đối với ngƣời có thu nhập cao…

Nhiệm vụ chi ngân sách địa phƣơng gắn liền với nhiệm vụ quản lý kinh tế

- xã hội, quốc phòng, an ninh do địa phƣơng trực tiếp quản lý. Việc đẩy mạnh

phân cấp quản lý ngân sách trong điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ quản

lý ở các vùng, miền khác nhau là động lực quan trọng để khơi dậy các khả

năng của địa phƣơng, xử lý kịp thời các nhiệm vụ của Nhà nƣớc trên phạm vi

từng địa phƣơng.

Ngân sách cấp trên thực hiện nhiệm vụ bổ sung ngân sách cho ngân sách

cấp dƣới dƣới hai hình thức: Bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu.

1.1.2.2. Mục tiêu

- Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc

ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức tài chính. Đây là nội

dung chủ yếu của phân cấp ngân sách.

- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nguồn thu,

nhiệm vụ chi và cân đối ngân sách. Đây là mối quan hệ lợi ích nên trong thực

tế giải quyết mối quan hệ này rất phức tạp, gay cấn. Do đó phải xác định rõ

nhiệm vụ kinh tế, chính trị của mỗi cấp chính quyền. Phân cấp này phải ổn

định và đảm bảo cho NSTW giữ vai trò chủ đạo, tập trung những nguồn thu

lớn để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng trên phạm vi cả nƣớc, đồng thời

những nhiệm vụ nào ổn định mang tính thƣờng xuyên, có tính xã hội rộng

10

phân cấp cho chính quyền địa phƣơng.

- Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách.

Đó là quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách.

1.1.2.3. Nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Nhằm giải quyết các mối quan hệ trong quản lý, sử dụng NSNN, trong

quá trình thực hiện chu trình ngân sách, phân cấp quản lý NSNN cần phải

đƣợc thực hiện theo những nguyên tắc nhất định:

- Phân cấp quản lý NSNN phải phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã

hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn.

Phân cấp quản lý kinh tế - xã hội là tiền đề, cơ sở cho việc phân cấp quản

lý NSNN. Mỗi cấp chính quyền, phụ thuộc vào phạm vi quản lý, nhiệm vụ,

quyền hạn nhất định là cơ sở để xác định phạm vi, mức độ thu chi của ngân

sách cấp đó.

Phân cấp quản lý ngân sách của các cấp chính quyền không tách rời phân

cấp quản lý kinh tế - xã hội. Mỗi đơn vị hành chính có chức năng và nhiệm vụ

quản lý kinh tế - xã hội theo phân cấp phù hợp với đặc điểm của mỗi cấp

chính quyền. Do đó cần phải xem xét về chức năng thực tế và quy mô nhiệm

vụ từng cấp hành chính để có quy định phân thành một cấp ngân sách hay chỉ

là một đơn vị dự toán. Phân cấp quản lý ngân sách phải gắn với mô hình tổ

chức bộ máy nhà nƣớc, phải phù hợp và tƣơng ứng với mô hình tổ chức các

cơ quan công quyền, gắn với thực trạng nền kinh tế và phải đƣợc đánh giá

trên các khía cạnh chủ yếu nhƣ cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề, tốc độ tăng

trƣởng, năng suất, hiệu quả thu nhập và phân phối thu nhập…Thực trạng kinh

tế mỗi địa phƣơng sẽ quyết định đến nguồn lực tài chính ở địa phƣơng đó.

Phân cấp nguồn lực tài chính ở mỗi địa phƣơng phải quan hệ chặt chẽ với

phân cấp quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn. Vì vậy, phân cấp quản lý ngân

sách phải phù hợp, nhằm đảm bảo điều kiện vật chất để thực thi nhiệm vụ một

cách hiệu quả.

Khi phân cấp nguồn thu chú trọng khả năng đáp ứng nhu cầu chi tại chỗ,

11

khuyến khích khai thác thu và phải phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng

vùng. Nguồn thu gắn liền với vai trò quản lý của cấp chính quyền nào thì

phân cấp cho ngân sách cấp chính quyền đó.

+ Phân cấp tối đa nguồn thu trên địa bàn để bảo đảm nhiệm vụ chi đƣợc

giao; hạn chế bổ sung từ ngân sách cấp trên.

+ Hạn chế phân cấp cho nhiều cấp ngân sách đối với các nguồn thu có quy

mô nhỏ.

+ Bảo đảm tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu cho ngân sách

cấp mình và ngân sách các cấp dƣới không đƣợc vƣợt quá tỷ lệ phần trăm (%)

phân chia quy định của cấp trên về từng khoản thu đƣợc phân chia.

Trên cơ sở nguồn thu ngân sách các cấp đƣợc hƣởng (các khoản thu đƣợc

hƣởng 100%; các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm %) ngân sách các

cấp lập dự toán thu NSNN trên địa bàn, và dự toán chi ngân sách địa phƣơng.

Về nguyên tắc ngân sách địa phƣơng không đƣợc bội chi nên khi cân đối ngân

sách địa phƣơng, nguồn thu ngân sách địa phƣơng đƣợc hƣởng không đáp

ứng đƣợc yêu cầu chi của địa phƣơng thì sẽ áp dụng phƣơng pháp bổ sung

cân đối.

Phân cấp nhiệm vụ chi phải gắn với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh

tế - xã hội của mỗi cấp chính quyền địa phƣơng, đặc biệt là những vấn đề liên

quan mật thiết đến đời sống dân cƣ trên địa bàn.

- Nhiệm vụ chi của ngân sách cấp nào ngân sách cấp đó đảm bảo; việc

ban hành và thực hiện chính sách, chế độ làm tăng chi ngân sách phải có giải

pháp đảm bảo nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách

từng cấp.

- Trƣờng hợp cơ quan quản lý nhà nƣớc cấp trên uỷ quyền cho cơ quan

quản lý nhà nƣớc cấp dƣới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển

kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dƣới để thực hiện nhiệm vụ.

- Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính

quyền địa phƣơng do Hội đồng nhân dân cấp thành phố quyết định, thời gian

12

thực hiện phân cấp này phải phù hợp với thời kỳ ổn định ngân sách ở địa

phƣơng; cấp xã đƣợc tăng cƣờng nguồn thu, phƣơng tiện và cán bộ quản lý tài

chính - ngân sách để quản lý tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trên địa

bàn đƣợc phân cấp.

Cần có sự thống nhất trong phân cấp quản lí ngân sách nhà nƣớc. Mặc dù

đƣợc phân định thành nhiều cấp nhƣng tựu trung thì các cấp vẫn cùng thuộc

một hệ thống duy nhất. Trong hệ thống này, mặc dù mỗi cấp đều có hoạt động

thu - chi riêng biệt của mình nhƣng chúng đều phải nhất quán, phải dựa trên

những chuẩn mực nhất định và tuân thủ một chính sách cùng chế độ thu - chi

ngân sách.

- Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các

nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương

chưa cân đối được thu, chi ngân sách.

Ngân sách địa phƣơng đƣợc phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong

thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao, tăng cƣờng nguồn lực cho ngân sách xã. Có

thể nói, đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ƣơng là một đòi hỏi tất

yếu, bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền trung ƣơng trong việc thực

hiện những nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của quốc gia. NS trung ƣơng là

nơi tập trung đại bộ phận nguồn thu của cả nƣớc, thực hiện các khoản chi có

tính chất huyết mạch của quốc gia. Bên cạnh vai trò chủ đạo của NS trung

ƣơng, không nên coi nhẹ vai trò của ngân sách địa phƣơng. Mỗi NS địa

phƣơng giữa vị trí độc lập tƣơng đối của mình, đƣợc thể hiện chủ yếu trên các

khía cạnh: các cấp chính quyền lập, chấp hành, quyết toán NS cấp mình trên

cơ sở những quy định của nhà nƣớc; bên cạnh đó, phải chủ động, sáng tạo

trong việc động viên khai thác các thế mạnh của địa phƣơng để tăng thu, giảm

chi, thực hiện cân đối ngân sách. Tuy nhiên, trong quản lý NSNN, nếu quan

niệm các cấp ngân sách nhƣ các bộ phận độc lập thì sẽ phá vỡ tính thống nhất

của NSNN; Ngƣợc lại, nếu quan niệm NSNN là thống nhất tuyệt đối, không

thể phân chia thì sẽ không phát huy đƣợc tính chủ động, sáng tạo của các địa

13

phƣơng. Vì vậy, để NSNN thực sự là công cụ của Nhà nƣớc thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của mình, thì việc phân cấp quản lý ngân sách gắn liền với sự

phân định quyền hạn thu chi ngân sách trung ƣơng, địa phƣơng, phù hợp với

chức năng quản lý của mỗi cấp chính quyền.

Ngoài ra, phân cấp quản lý ngân sách cần đảm bảo nguồn thu ổn định

trong nhiều năm, phát huy quyền chủ động của chính quyền địa phƣơng.

Đồng thời việc phân cấp phải đảm bảo đƣợc khả năng chi phối, kiểm soát

toàn bộ hoạt động NSNN trong một năm. Một khi nguồn tài chính ngân sách

đã đƣợc phân bổ hợp lý, công khai, đồng thời có sự kiểm tra, giám sát thƣờng

xuyên thì việc sử dụng sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

- Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp quản lý NSNN.

Đảm bảo tính cân đối giữa thu nhập quốc dân sản xuất và thu nhập quốc

dân sử dụng trên từng vùng, từng địa phƣơng. Để giảm bớt khoảng cách giàu,

nghèo giữa các vùng, các địa phƣơng, trong quá trình phân cấp cần đƣợc sử

dụng phƣơng pháp điều hoà ngân sách, tức là quá trình phân phối lại các

nguồn tài chính trong phạm vi hệ thống ngân sách, chuyển một phần số thu

của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dƣới. Thông qua phƣơng pháp bổ

sung cân đối và bổ sung có mục tiêu, đây là hai phƣơng pháp tài trợ mà chính

quyền cấp trên thƣờng sử dụng đối với chính quyền cấp dƣới.

Bổ sung cân đối: Bổ sung cân đối thu, chi ngân sách nhằm bảo đảm cho

chính quyền cấp dƣới cân đối nguồn ngân sách để thực hiện nhiệm vụ kinh tế

- xã hội, quốc phòng, an ninh đƣợc giao. Số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp

trên cho ngân sách cấp dƣới ở địa phƣơng đƣợc xác định theo nguyên tắc xác

định số chênh lệch giữa số chi và nguồn thu ngân sách cấp dƣới (các khoản

thu đƣợc hƣởng 100% và phần đƣợc hƣởng theo tỷ lệ phần trăm (%) từ các

khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách chính quyền địa phƣơng).

Bổ sung có mục tiêu: Bổ sung có mục tiêu nhằm hỗ trợ ngân sách cấp

dƣới thực hiện các nhiệm vụ:

+ Hỗ trợ thực hiện các chính sách, chế độ mới do cấp trên ban hành chƣa

14

đƣợc bố trí trong dự toán ngân sách của năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách,

mức hỗ trợ cụ thể đƣợc xác định trên cơ sở khả năng cân đối của ngân sách

các cấp có liên quan;

+ Hỗ trợ thực hiện các chƣơng trình, dự án quốc gia giao các cơ quan địa

phƣơng thực hiện, mức hỗ trợ cụ thể thực hiện theo dự toán chi đƣợc cấp có

thẩm quyền giao;

+ Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu, công trình, dự án có ý nghĩa lớn đối với

yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phƣơng, nằm trong quy hoạch và

đã đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật về

quản lý đầu tƣ và xây dựng, ngân sách cấp dƣới đã bố trí chi nhƣng chƣa đủ

nguồn, mức hỗ trợ theo phƣơng án đƣợc cấp thẩm quyền phê duyệt.

+ Hỗ trợ một phần để xử lý khó khăn đột xuất: khắc phục thiên tai, hoả

hoạn, tai nạn trên diện rộng với mức độ nghiêm trọng, sau khi ngân sách cấp

dƣới đã sử dụng dự phòng, một phần quỹ dự trữ tài chính của địa phƣơng

nhƣng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu.

+ Hỗ trợ thực hiện một số nhiệm vụ cần thiết, cấp bách khác, mức bổ sung

theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

+ Số bổ sung theo mục tiêu từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dƣới

đƣợc xác định hàng năm. Mức bổ sung cụ thể đƣợc căn cứ khả năng cân đối

ngân sách cấp trên và yêu cầu về mục tiêu cụ thể của cấp dƣới. Việc sử dụng

vốn, kinh phí bổ sung theo mục tiêu phải theo đúng mục tiêu quy định.

Ngoài ra, việc thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng, miền qua

chi ngân sách cấp trên vào đầu tƣ cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội cũng đƣợc sử

dụng nhƣ biện pháp bổ trợ cho hai phƣơng thức trên.

Vấn đề phân cấp quản lí ngân sách nhà nƣớc là vấn đề không hề đơn giản

đối với các cấp ngân sách và có thể sẽ làm cho các cấp khó thực hiện đƣợc tốt

nhiệm của cấp mình nếu không tuân theo các nguyên tắc trên. Bởi các nguyên

tắc trên đã phân định rõ ràng hoạt động thu - chi của từng cấp ngân sách, giúp

15

các cấp ngân sách thực hiện tốt chức năng của cấp mình, phù hợp với tình

hình địa phƣơng của cấp mình và bên cạnh đó có sự hỗ trợ từ cấp trung ƣơng

xuống địa phƣơng, và giữa các địa phƣơng với nhau.

Vì vậy, từ những phân tích trên ta thấy phân cấp NSNN là một tất yếu

khách quan, khởi nguồn từ phân cấp quản lý kinh tế - xã hội và phân chia hệ

thống tổ chức hành chính của Nhà nƣớc. Phân cấp quản lý ngân sách là việc

giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền trong việc thực hiện

chu trình ngân sách, trong việc ban hành các chính sách, tiêu chuẩn, chế độ,

định mức liên quan tới ngân sách. Việc phân cấp phải đảm bảo những nguyên

tắc nhất định. Nếu bỏ qua các nguyên tắc đó sẽ làm cho NSNN mất cân đối,

gây ra những tác hại khôn lƣờng cho an ninh tài chính và không thực hiện

đƣợc cải cách thủ thục hành chính trong lĩnh vực tài chính.

1.2. Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách

nhà nước

1.2.1.1. Khái niệm pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc là việc phân định trách nhiệm quyền

hạn, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trong quản lý và điều

hành ngân sách nhà nƣớc.

Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách Nhà nƣớc đƣợc hiểu là tổng hợp

các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành hoặc

thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực

hiện trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền

trong lĩnh vực ngân sách Nhà nƣớc cũng nhƣ các quan hệ xã hội phát sinh

trong quá trình phân giao nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp.

Các quy định pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nƣớc chủ yếu đƣợc đề

cập trong các văn bản nhƣ: Luật Ngân sách nhà nƣớc, Nghị định của Chính

Phủ và Thông tƣ hƣớng dẫn của Bộ Tài chính. Nhằm mục đích phân định rõ

ràng hoạt động thu - chi của từng cấp ngân sách, giúp các cấp ngân sách thực

16

hiện tốt chức năng của cấp mình, phù hợp với tình hình địa phƣơng của cấp

mình và bên cạnh đó có sự hỗ trợ từ cấp trung ƣơng xuống địa phƣơng, và

giữa các địa phƣơng với nhau.

1.2.1.2. Đặc điểm pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc trong hệ thống luật của

nƣớc ta nên có những đặc điểm giống hệ thống pháp luật chung của nƣớc ta.

Thứ nhất, các quy định về phân cấp quản lý ngân sách nhà mang tính quy

phạm phổ biến: Tính quy phạm là đặc trƣng vốn có của mọi pháp luật. Bởi

pháp luật là hệ thống các quy tắc mang tính chất mẫu mực, khuôn thƣớc cho

mọi ngƣời trong cách xử sự, chính thông qua những khuôn mẫu, những mô

hình xử sự chung đó mà ngƣời ta “đo” đƣợc hành vi của mình, ngƣời ta biết

đƣợc mình có thể và không cần phải làm gì, không đƣợc làm gì và phải làm

nhƣ thế nào trong quá trình phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc.

Thứ hai, pháp luật về phân cấp quản lý NSNN mang tính bắt buộc chung:

Pháp luật là những quy tắc chuẩn mực về ứng xử của giai cấp thống trị, cho

nên pháp luật về phân cấp quản lý NSNN mang tính bắt buộc chung. Điều đó

thể hiện ở chỗ: việc thực hiện pháp luật không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan

của mỗi ngƣời. Khi pháp luật đƣợc Nhà nƣớc đặt ra thì dù muốn hay không

muốn tất cả mọi ngƣời trong trƣờng hợp đó đều phải chấp hành một cách

nghiêm chỉnh và triệt để, không phân biệt giữa ngƣời này hay ngƣời khác.

Thứ ba, pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc mang tính đƣợc

đảm bảo bằng Nhà nƣớc: Khác với các quy phạm xã hội khác, pháp luật do

Nhà nƣớc ban hành , thể hiện ý chí của Nhà nƣớc và vì vậy đƣợc Nhà nƣớc

đảm bảo thực hiện. Điều này có nghĩa là Nhà nƣớc đã trao cho các quy phạm

pháp luật tính quyền lực bắt buộc với mọi cơ quan, tổ chức và công dân. Có

nhƣ vậy pháp luật mới trở thành các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung

và pháp luật mới thực sự là công cụ hữu hiệu có trong tay Nhà nƣớc để Nhà

nƣớc quản lý và điều hành mọi quan hệ, hoạt động của xã hội.

Thứ tư, pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc mang tính ý chí

17

của nhà nƣớc, thể hiện ý chí của nhà nƣớc thông qua các quy định pháp luật,

đặc biệt là các quy định về phân cấp quản lý ngân sách để làm rõ nhiệm vụ,

quyền hạn của các cấp trong việc phân cấp ngân sách.

Thứ năm, pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ở nƣớc ta

không chỉ đƣợc quy định trong Luật Ngân sách nhà nƣớc mà còn đƣợc quy

định trong nhiều văn bản pháp luật của nhà nƣớc. Pháp luật về phân cấp quản

lý ngân sách nhà nƣớc đƣợc quy định cụ thể trong Luật NSNN dựa trên quy

định của Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh. Và chịu ảnh hƣởng của nhiều văn bản

Luật nhƣ: Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng, Luật Thuế thu nhập doanh

nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật phí và lệ phí…. Trong những văn

bản này đều có quy định liên quan đến phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc.

Vì vậy, pháp luật về phân cấp quản lý NSNN đồng bộ với các quy định của

Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng, Luật thuế thu nhập các

nhân, Luật phí và lệ phí…

Thứ sáu, các quy định pháp luật phải có nội dung phù hợp với quan

điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc. Tiếp đến là phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của từng

địa phƣơn, tính phù hợp của pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc thể hiện sự tƣơng quan giữa trình độ của pháp luật về phân cấp quản lý

NSNN với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở mỗi thời

kỳ phát triển cũng nhƣ hệ thống pháp luật nói chung.Và cuối cùng là phù hợp

với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt

Nam, thể hiện ở những tiêu chí nhƣ tính công khai, minh bạch, dân chủ và xã

hội hoá...

1.2.2. Nội dung, nguyên tắc pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách

nhà nước

1.2.2.1. Nội dung pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Nội dung pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc là các quy

phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quan hệ pháp luật về phân

18

cáp quản lý NSNN.

- Các quy định đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc: Các cơ quan quản lý

nhà nƣớc là chủ thể ban hành các quy định của pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc và cũng là chủ thể thực thi các quy định này trên thực tế.

Các quy định của pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc đã chỉ rõ

nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nƣớc quản lý hoạt động phân cấp

quản lý ngân sách nhà nƣớc từ Trung ƣơng đến địa phƣơng, trong đó, nhiệm

vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp và Ủy ban nhân dân các cấp

đƣợc quy định rõ ràng trong việc phân cấp quản lý ngân sách địa phƣơng.

Theo Luật NSNN quy định, Hội đồng nhân dân các cấp có quyền quyết

định dự toán và phân bổ ngân sách địa phƣơng; phê chuẩn quyết toán ngân

sách địa phƣơng; quyết định các chủ trƣơng, biện pháp để triển khai thực hiện

ngân sách địa phƣơng; quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phƣơng

trong trƣờng hợp cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã đƣợc Hội

đồng nhân dân quyết định.

Ủy ban nhân dân các cấp có quyền lập dự toán và phƣơng án phân bổ

ngân sách địa phƣơng, dự toán điều chỉnh ngân sách địa phƣơng trong trƣờng

hợp cần thiết trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ

quan hành chính Nhà nƣớc, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.

Tại điểm b và điểm c, khoản 3, điều 19 của Luật Tổ chức chính quyền địa

phƣơng năm quy định: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có quyền quyết định dự

toán thu ngân sách nhà nƣớc trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa

phƣơng và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; điều chỉnh dự toán ngân sách

địa phƣơng trong trƣờng hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa

phƣơng.Và quyết định chủ trƣơng đầu tƣ, chƣơng trình dự án của tỉnh theo

quy định của pháp luật. Quyết định các nội dung liên quan đến phí, lệ phí theo

quy định của pháp luật; các khoản đóng góp của Nhân dân; quyết định việc

vay các nguồn vốn trong nƣớc thông qua phát hành trái phiếu địa phƣơng, trái

phiếu đô thị, trái phiếu công trình và các hình thức huy động vốn khác theo

19

quy định của pháp luật.

Đối với Hội đồng nhân dân cấp huyện có quyền quyết định dự toán thu

ngân sách nhà nƣớc trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phƣơng và

phân bổ dự toán ngân sách huyện; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phƣơng

trong trƣờng hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phƣơng.

Quyết định chủ trƣơng đầu tƣ chƣơng trình, dự án của huyện theo quy định

của pháp luật. (Tại điểm b, khoản 2, điều 26, Luật Tổ chức chính quyền địa

phƣơng).

- Các quy định về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ở địa phƣơng gồm:

+ Các quy định về phân cấp nguồn thu ngân sách địa phƣơng, ví dụ:

Nguồn thu ngân sách địa phƣơng đƣợc hƣởng 100% (Thuế nhà, đất; Thuế tài

nguyên không kể thuế tài nguyên thu đƣợc từ hoạt động dầu khí; Thuế môn

bài; thuế chuyển quyền sử dụng đất; tiền cho thuê đất, thuê mặt nƣớc không

kể tiền thuê mặt nƣớc thu từ hoạt động dầu khí; tiền đền bù thiệt hại đất; Tiền

thuê bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nƣớc; lệ phí trƣớc bạ; thu từ hoạt động sổ số

kiến thiết; thu nhập từ vốn góp của ngân sách địa phƣơng; tiền thu hồi vốn

của ngân sách địa phƣơng tại các cơ sở kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của

cấp tỉnh…).

+ Đối với nguồn thu ngân sách địa phƣơng hƣởng theo tỷ lệ %.

Do điều kiện kinh tế - xã hội, tự nhiên của các địa phƣơng khác nhau,

trình độ phát triển không đều, do đó, số thu và yêu cầu chi của các địa phƣơng

không giống nhau. Vì vậy, ngoài các khoản thu từng cấp đƣợc hƣởng 100%

nêu trên. Luật ngân sách năm 2002 ở nƣớc ta cũng quy định có một số khoản

thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách các cấp trung ƣơng và địa phƣơng

(tỉnh, thành phố). Các khoản đó là: thuế giá trị gia tăng (không kể thuế giá trị

gia tăng hàng hoá nhập khẩu) và thuế giá trị gia tăng thu từ hoạt động xổ số

kiến thiết; Thuế thu nhạp doanh nghiệp (không kể thuế thu nhạp doanh nghiệp

của các đơn vị hạch toán toàn ngành (theo quy định của Bộ Tài chính) và thuế

thu nhập từ hoạt động xổ số kiến thiết. Thuế thu nhập với ngƣời có thu nhập

20

cao (không kể các khoản thuế và thu khác từ hoạt động thăm dò, khai thác

dầu khí, tiền thuê mặt đất, mặt nƣớc); Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá,

dịch vụ trong nƣớc (không kể thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hoạt động xổ số

kiến thiết; phí xăng, dầu.

Tỷ lệ phần trăm các khoản thu phân chia các khoản thu chính là cái "van"

điều chỉnh nguồn thu giữa các địa phƣơng, bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa

các địa phƣơng. Địa phƣơng nào có điều kiện phát triển kinh tế thuận lợi, có

nguồn thu lớn thì tỷ lệ (%) này thấp; ngƣợc lại, địa phƣơng nào kinh tế chậm

phát triển, nguồn thu nhỏ thì tỷ lệ này tăng lên. Tỷ lệ phân chia này do chính

phủ quyết định cho tất cả các khoản thu phân chia, đƣợc xác định riêng cho

từng tỉnh (thành phố).

Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu (và số bổ xung cân đối từ

ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dƣới) đƣợc ổn định từ 35 năm (gọi là

thời kỳ ổn định ngân sách). Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phƣơng

đƣợc sử dụng nguồn tăng thu ngân sách hàng năm (phần ngân sách địa

phƣơng đƣợc hƣởng) để chi cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên

địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối,

phát triển ngân sách địa phƣơng, thực hiện giảm dân số bổ sung từ ngân sách

cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết thu nộp về ngân sách cấp trên

(Đối với các địa phƣơng có điều tiết ngân sách về cấp trên).

Các khoản thu phân chia giữa ngân sách tỉnh (thành phố) với ngân sách

huyện (thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) gồm: thuế chuyển quyền sử dụng

đất; thuế nhà đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng

đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trƣớc bạ nhà đất.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nguồn thu cho các cấp chính

quyền huyện, xã theo nguyên tắc (phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế; phân

định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi

ổn định theo thời gian của thời kỳ ổn định ngân sách. Kết thúc mỗi thời kỳ ổn

21

định ngân sách sẽ có sự điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%).

- Đối với các quy định về nhiệm cụ chi ngân sách địa phƣơng nhƣ: chi đầu

tƣ xây dựng cơ bản (ví dụ: ch đầu tƣ xây dựng các kết cấu hạ tầng,đầu tƣ hỗ

trợ các doanh nghiệp, tổ chức…), chi thƣờng xuyên đối với các hoạt động

giáo dục, văn hóa, y tế…, chi các hoạt động sự nghiệp kinh tế do địa phƣơng

quản lý…. Các quy định về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi đƣợc quy định

rõ ràng trong Luật NSNN năm 2002 để hoạt động phân cấp quản lý ngân

sách đƣợc thực hiện đúng, đủ và phù hợp với từng địa phƣơng.

1.2.2.2. Nguyên tắc pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

- Phải thể chế hóa pháp luật, chính sách, tiêu chuẩn, định mức về thu - chi

ngân sách.

Các quy định này sẽ làm cơ sở pháp lí cho mọi cấp ngân sách, nhƣ vậy sẽ

đảm bảo cho mọi cấp có cơ chế thu - chi rõ ràng , thực hiện nhiệm vụ, chức

năng của mình phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, chính trị của cấp mà

mình quản lí. Phải có sự nhất quán đồng bộ trên phạm vi toàn quốc trong hệ

thống ngân sách. Ví dụ nhƣ : có 1 chuẩn mức kế toán, phƣơng thức báo cáo,

trình tự lập, phê chuẩn…… nhất quán từ trung ƣơng xuống địa phƣơng. Có cơ

sớ pháp lí cho việc thiết lấp mối quan hệ giữa ngân sách cấp trên và ngân sách

cấp dƣới. Chẳng hạn nhƣ : việc điều chuyển nguồn vốn giữa các cấp ngân sách.

Do các cấp ngân sách là các bộ phận cấu thành nên 1 hệ thống ngân sách thống

nhất và duy nhất cho nên tiền trên tài khoản của các cấp cũng chính là của ngân

sách nhà nƣớc. Nếu không có sự điều chuyển vốn giữa các cấp sẽ gây ra tình

trạng ứ đọng tiền bởi vì không phải các cấp ngân sách cũng thu đầy đủ và chi

đúng bằng mức thu, thực tiễn thì luôn dƣ ngân sách ở cấp này nhƣng lại thiếu

hụt ở ngân sách cấp khác, do vậy sẽ làm cản trở hoạt động thu - chi trôi chảy

giữa các cấp ngân sách trong toàn bộ hệ thống ngân sách nhà nƣớc .

- Tôn trọng tính tối cao, tuân thủ các quy định của Hiến pháp và các

đạo luật khác.

Hiến pháp là luật cơ bản nhà nƣớc, có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn

22

bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp, nhũng đạo luật thấp hơn Hiến

pháp nhƣng cao hơn những văn bản dƣới luật. Pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc phải tôn trọng và tuân thủ các quy định Hiến pháp và các

luật khác. Đồng thời, luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc phải tuân

thủ các quy định của Luật Ngân sách nhà nƣớc, Luật Tổ chức chính quyền địa

phƣơng và các thông tƣ, nghị định hƣớng dẫn trong việc quy định nhiệm vụ,

quyền hạn của các cấp chính quyền địa phƣơng, để quyền và nhiệm vụ của

csc cấp chính quyền thóng nhất, xuyên suốt từ Hiến pháp tới luật Tổ chức

chnhs quyền địa phƣơng và các quy định trong luật ngân sách nhà nƣớc.Và

tuân thủ các quy định pháp luật đểcác cấp chính quyền địa phƣơng có trách

nhiệm cao hƣn trong việc giải trình và chịu trách nhiệm của mình.

- Đảm bảo nguyên tắc phù hợp trong phân cấp quản lý NSNN giữa các

địa phương.

Sự phù hợp ở đây chỉ mang tính chất tƣơng đối, có nghĩa là việc giao

nhiệm vụ thu chi cho địa phƣơng cần căn cứ vào thực trạng, nhu cầu thu chi

của từng địa phƣơng, từ đó ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về

phân cấp phù hợp với địa phƣơng đó, phù hợp với thời kỳ ổn định ngân sách

ở địa phƣơng, để nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách và hiệu quả các nguồn

lực tài chính trên địa bàn đƣợc phân cấp ngân sách, và hạn chế tới mức thấp

nhất sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá, xã hội do hậu quả của phân cấp nảy

sinh. Để thực hiện đƣợc nguyên tắc trên, việc xác định những nhiệm vụ kinh

tế, chính trị, xã hội của từng cấp chính quyền địa phƣơng, phù hợp với năng

lực, trình độ và sự cần thiết phát triển địa phƣơng về các mặt nhất định là vô

cùng quan trọng, quyết định tới hiệu quả sử dụng NSNN.

- Phân cấp NSNN phải đảm bảo tính hiệu quả.

Nguyên tắc này yêu cầu phân cấp NSNN không dẫn đến sự chia cắt

nguồn thu ngân sách, làm suy yếu và phân tán nguồn tài chính quốc gia. Phân

cấp NSNN phải đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp trong hệ thống

23

ngân sách để hƣớng vào phục vụ lợi ích chung của quốc gia. Bên cạnh đó,

phân cấp NSNN phải mang tính ổn định để tạo điều kiện cho các cấp ngân

sách chủ động khai thác và bồi dƣỡng nguồn thu, tiến đến cân đối ngân sách.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật

về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nước

Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc chịu ảnh hƣởng của rất

nhiều những tác động khác nhau, trong đó đƣờng lối chính sách của Đảng, ý

thức pháp luật và trình độcủa chủ thể có thẩm quyền tham gia phân cấp quản

lý NSNN, sự hoàn thiện các văn bản pháp luật khác và những diều kiện vật

chất kỹ thuật là những yếu tố ảnh hƣởng lớn nhất tới pháp luật về phân cấp

quản lý NSNN.

Thứ nhất, đƣờng lối chính sách của Đảng.

Đƣờng lối chính sách của Đảng định ra mục tiêu và phƣơng hƣớng phát

triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong một giai đoạn nhất định, định ra

những phƣơng pháp cách thức cơ bản để có thể thực hiện những mục tiêu và

phƣơng hƣớng đó. Những mục tiêu, phƣơng hƣớng, phƣơng pháp và cách

thức đó sẽ đƣợc nhà nƣớc thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện

trong thực tế. Vì thế đƣờng lối chính sách của Đảng là một trong những yếu

tố có sức ảnh hƣởng lớn nhất đến nội dung của pháp luật, đặc biệt là pháp luật

về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc. Nội dung các quy định trong tất cả

các văn bản quy phạm pháp luật, từ hiến pháp, luật cho đến các văn bản dƣới

luật đều phải phù hợp, không đƣợc trái với đƣờng lối, chính sách của Đảng.

Thứ hai, ý thức pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và tổ

chức thi hành pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc.

Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tƣ tƣởng, quan điểm, quan

niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con ngƣời đối với

pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự

24

đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con

ngƣời, cũng nhƣ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc và các

tổ chức xã hội. Sự thể hiện tập trung của ý thức pháp luật là hệ tƣ tƣởng pháp

luật, có nghĩa là hệ thống các quan điểm pháp luật dựa trên những lập trƣờng

khoa học và xã hội nhất định. Ý thức pháp luật có 3 nội dung sau: i) Sự hiểu

biết về pháp luật; ii)Thái độ đối với pháp luật; iii) Khả năng thực hiện và áp

dụng pháp luật. Thông qua ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm

quyền áp đặt hay tác động đến quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về

phân cấp quản lý NSNN hay nói cách khác, cho ra đời những quy định về

phân cấp quản lý NSNN thể hiện đƣợc những tƣ tƣởng, quan điểm của họ.

Nếu các chủ thể đó đại diện cho giai cấp tiến bộ thì sẽ có những quy định về

phân cấp quản lý NSNN nhằm bảo đảm lợi ích chung cho xã hội, mà trƣớc

hết là lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

trong xã hội. Ngƣợc lại, nếu các chủ thể đó có tƣ tƣởng lạc hậu, cá nhân chủ

nghĩa, cộng với thói tham lam, ích kỷ, thì sự tác động của họ vào các quy định

của pháp luật về phân cấp quản lý NSNN sẽ có xu hƣớng thiên lệch để bảo vệ

những lợi ích riêng của họ, khi đó, pháp luật về phân cấp quản lý NSNN khó

có thể đạt hiệu quả và nhằm xây dựng một nền tài chính nhà nƣớc ổn định,

vững chắc, có tiềm lực mạnh, có kỷ cƣơng, kỷ luật, phục vụ ngày càng tốt

hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.

Thứ ba, sự hoàn thiện các văn bản pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nƣớc.

Bởi tính hiệu quả của hoạt động thực hiện các quy định pháp luật về

phân cấp quản lý NSNN phụ thuộc rất nhiều vào chất lƣợng, sự tác động của

các văn bản pháp luật có liên quan đến phân cấp NSNN. Do vậy các văn bản

pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc phải đƣợc ban hành phù

hợp với một số yêu cầu sau : văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp, nghĩa

là nó đƣợc ban hành đúng thẩm quyền hoặc nhà chức trách chỉ đƣợc ban hành

một số văn bản áp dụng pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật, văn

25

bản áp dụng pháp luật phải đƣợc ban hành có cơ sở thực tế, nghĩa là nó đƣợc

ban hành căn cứ vào những sự kiện, những đòi hỏi thực tế đầy đủ, chính xác

và đáng tin cậy .

Thứ tư, những điều kiện vật chất - kỹ thuật.

Việc thi hành pháp luật về phân cấp quản lý NSNN còn chịu ảnh hƣởng

của những điều kiện đảm bảo cần thiết về vật chất - kỹ thuật. Nhiều văn bản

pháp luật, nhiều quy định của pháp luật muốn thực hiện đƣợc trong thực tế

đòi hỏi phải có một chi phí rất lớn về sức ngƣời và trang bị vật chất - kỹ thuật

(Ví dụ nhƣ kinh phí để thực hiện các quy định của pháp luật). Pháp luật phải

luôn tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tất cả các công

đoạn, đấu tranh không khoan nhƣợng với những biểu hiện vi phạm pháp luật,

những hành vi áp dụng pháp luật không đúng, không phù hợp.

Thứ năm, công tác tổ chức và trình độ của cán bộ, công chức của các cơ

quan có thẩm quyền thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý NSNN

Các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cần đƣợc tổ chức thực hiện pháp

luật về phân cấp quản lý NSNN một cách khoa học, có sự phân công rõ ràng

về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của mỗi cơ quan, mỗi bộ

phận để tránh hiện tƣợng chồng chéo, mâu thuẫn cản trở nhau trong công việc

của các cơ quan này. Sự không thống nhất, không phân định rõ ràng phạm vi,

lĩnh vực hoạt động hoặc thẩm quyền của các cơ quan dẫn đến có những vụ

việc thì nhiều cơ quan tranh nhau giải quyết nhƣng lại có những vụ việc thì

đùm đẩy không cơ quan nào nhận trách nhiệm giải quyết. Trong tổ chức và

hoạt động của các cơ quan phải đảm bảo tính năng động, chủ động, sáng tạo,

sự độc lập của mỗi cơ quan hoặc mỗi bộ phận đồng thời đảm bảo sự phối hợp

đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, giữa các bộ phận cùng tham gia thi

hành pháp luật cũng nhƣ sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan thi hành pháp

luật với các cơ quan khác của Nhà nƣớc hoặc với các tổ chức xã hội. Và để

đạt hiệu quả cao trong việc thi hành pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách

nhà nƣớc thì cần phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức tổ chức

26

thực hiện các quy định pháp luật một cách chi tiết, rõ ràng, cụ thể và hợp pháp.

1.3.2. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nước

Việc bảo đảm thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau, bao gồm những điều kiện

khách quan và chủ quan có liên quan đến quy phạm pháp luật trực tiếp điều

chỉnh vào môi trƣờng tác động của nó. Để pháp luật về phân cấp quản lý

NSNN trở thành công cụ điều chỉnh có hiệu quả, thì những điều đảm bảo gồm:

- Các văn bản quy phạm pháp luật phải rõ ràng, đảm bảo tính hệ thống

Để đảm bảo tính khả thi của một văn bản quy phạm pháp luật, quy trình

và kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm những yêu

cầu nhất định.

Trƣớc hết, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về phân cấp

quản lý NSNN phải đƣợc tiến hành trên cơ sở xác định rõ các vấn đề của cấp

địa phƣơng và các mục tiêu chính sách rõ ràng cần phải đạt đến. Xác định các

mục tiêu của chính sách cũng chính là thiết lập các tiêu chí để đánh giá hiệu

quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật về sau. Qua đó, những hành vi của

các chủ thể cần điều chỉnh sẽ đƣợc xác định với những định hƣớng cụ thể.

Mục đích của pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc là đƣợc

ban hành để điều các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện trách

nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền trong lĩnh vực

ngân sách Nhà nƣớc cũng nhƣ các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình

phân giao nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp. Mong muốn của

các nhà lập pháp là các khuôn mẫu hành vi đó sẽ đƣợc các đối tƣợng tuân thủ.

Chính vì vậy, để tránh tình trạng thiết kế những quy phạm không phù hợp,

khó tổ chức thực hiện trên thực tế, khi thiết kế các quy phạm, các yếu tố tác

động đến hoạt động phân cấp rất cần đƣợc chú trọng. Pháp luật quy định

không rõ ràng, hoặc chồng chéo có thể là nguyên nhân của việc làm thế nào

cũng đƣợc hoặc không biết phải làm thế nào. Nhƣ vậy, có nhiều hoạt động

27

phân cấp phát sinh các vấn đề xã hội do chính các quy định của hệ thống pháp

luật hiện hành gây ra. Vậy nên, xây dựng pháp luật rõ ràng và đầy đủ còn bao

hàm cả việc xây dựng các quy định pháp luật đƣợc thực hiện với chi phí hợp

lý nhất. Một vấn đề tồn tại có thể đƣợc giải quyết bởi nhiều giải pháp khác

nhau. Nhiệm vụ của nhà lập pháp là phải đánh giá để lựa chọn đƣợc giải pháp

với chi phí ít nhất cho xã hội. Để thực hiện đƣợc điều này, phƣơng pháp đánh

giá tác động của dự thảo văn bản rất có ý nghĩa. Việc thu thập số liệu, dự kiến

và so sánh các tác động về chi phí và lợi ích của từng giải pháp sẽ giúp cho

các nhà lập pháp tìm đƣợc giải pháp có chi phí hợp lý nhất

- Hiệu quả hoạt động của cơ quan tổ chức thực hiện phải được bảo đảm

Trong một quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, ngoài việc quy định về các

yếu tố hành vi của chủ thể cần tác động (ai, làm gì, làm trong hoàn cảnh nào),

còn có một loạt các yếu tố khác có liên quan mà trong đó thƣờng bao gồm

một cơ quan chịu trách nhiệm bảo đảm thực thi. Vai trò của cơ quan tổ chức

thực hiện pháp luật, hay chính xác hơn là cơ quan chịu trách nhiệm bảo đảm

thực hiện văn bản, là rất quan trọng, đặc biệt là trong hoàn cảnh ý thức tuân

thủ pháp luật của các đối tƣợng có trách nhiệm thực hiện pháp luật chƣa cao.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để phát huy đƣợc vai trò của các cơ quan

chịu trách nhiệm đảm bảo thực thi pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách

nhà nƣớc. Vấn đề cơ bản nhất cần lƣu ý chính là yếu tố hành vi của các công

chức, viên chức trực tiếp chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ trong những cơ

quan này.

Các quy định pháp luật thƣờng chỉ đề cập đến cơ quan chịu trách nhiệm

thực hiện hoạt động phân cấp ngân sách với tƣ cách là một tập thể hay nói

cách khác, các cơ quan đó đƣợc đề cập đến nhƣ một chủ thể có lý trí riêng lẻ.

Về cơ bản, vận hành của các cơ quan quản lý nhà nƣớc vẫn là do các thành

viên đơn lẻ có ý thức và tƣ duy độc lập thực hiện. Hành vi chung của các cơ

quan nhà nƣớc chỉ có thể đƣợc định hƣớng trong khuôn khổ các quy định

chung về hành vi đƣợc đặt ra đối với các thành viên đơn lẻ của tổ chức. Do

28

đó, việc xem xét các trở ngại trong việc tổ chức thực hiện pháp luật thƣờng

tập trung vào hai vấn đề chính là: (1) Các cán bộ, công chức của cơ quan quản

lý nà nƣớc chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện hoạt động phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc có tác động nhƣ thế nào đối với việc thực hiện pháp luật -

theo hƣớng cản trở hay ngăn cản? (2) Tại sao các cán bộ, công chức đó ứng

xử theo hƣớng có vấn đề? Và những yếu tố quan trọng hàng đầu đối với các

cán bộ, công chức chính là: Quy trình, Năng lực và Lợi ích. Việc xác định

một quy trình làm việc không rõ ràng đƣơng nhiên sẽ dẫn đến tình trạng việc

tổ chức thực hiện hoạt động phân cấp ngân sách kém hiệu quả. Các cán bộ,

công chức trong chuỗi quy trình ra quyết định của tổ chức nếu không rõ mình

phải làm gì, trong giai đoạn nào, phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi nhƣ thế

nào cho hợp lý thì rõ ràng hiệu quả công việc sẽ không đảm bảo hoặc thậm

chí, quy trình công việc không thể vận hành.

Nội dung của hoạt động phân cấp quản lý NSNN luôn đòi hỏi những

ngƣời tổ chức thực hiện có năng lực tƣơng ứng. Chính vì vậy, năng lực của

các cán bộ, công chức chịu trách nhiệm thực thi cũng là một yếu tố hết sức

quan trọng. Nếu năng lực của các cán bộ, công chức có trách nhiệm không

đáp ứng theo đúng yêu cầu thì việc tổ chức thực hiện pháp luật rõ ràng bị ảnh

hƣởng.Vì thế, ngay từ trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

về phân cấp quản lý NSNN, các nhà lập pháp phải làm rõ các yêu cầu đối với

năng lực của đội ngũ công chức, viên chức có trách nhiệm thực hiện pháp luật

với các câu hỏi nhƣ: các công việc đòi hỏi mức độ chuyên môn nhƣ thế nào?

Các cán bộ, công chức hiện tại có chuyên môn đó hay không? Nếu chƣa thì

cần đƣợc hỗ trợ ở mức độ nào?

Một vấn đề khác liên quan rất lớn đến động lực tổ chức thực hiện công

việc của các cán bộ, công chức chính là lợi ích của các cán bộ, công chức

trong quá trình tổ chức thực hiện. Các vấn đề nhƣ: thực hiện tốt phân cấp

ngan sách thì các cán bộ, công chức có đƣợc đền bù xứng đáng hay không?

Các cán bộ, công chức có những động cơ riêng nào trong quá trình tổ chức

29

thực hiện pháp luật về phân cấp ngân sách hay không? Có bằng chứng cho

thấy có sự xung đột về lợi ích nào không của cán bộ, công chức trong quá

trình tổ chức thực hiện pháp luật đem lại?... đều có thể ảnh hƣởng đến hiệu

quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật.

- Có cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật một cách chặt chẽ

Tổ chức giám sát và đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật cũng là

một giải pháp lập pháp hoàn chỉnh. Giám sát và đánh giá chính là cơ chế hữu

hiệu để điều chỉnh và xử lý những sai sót có thể có trong hoạt động phân cấp

quản lý NSNN nhằm đảm bảo đạt đƣợc các mục tiêu đề ra.

Giám sát và đánh giá có rất nhiều ý nghĩa đối với việc nâng cao hiệu quả

của việc tổ chức thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách. Đó là

công cụ để kiểm soát việc thực hiện pháp luật và đặc biệt là để hạn chế sự lạm

quyền của các cán bộ, công chức trong quá trình tổ chức thực thi các văn bản

quy phạm pháp luật về phân cấp ngân sách. Giám sát và đánh giá cũng tạo ra

áp lực để các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật phải

thực hiện theo đúng bổn phận của mình, tránh trƣờng hợp trễ nải trong việc

thực hiện nhiệm vụ. Và giám sát, đánh giá cũng là công cụ để thu thập phản

hồi nhằm điều chỉnh bản thân các quy định của văn bản quy phạm pháp luật.

Cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật gắn liền với việc cơ chế

kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh của quyền lực nhà nƣớc. Kiểm soát quyền

lực nhà nƣớc trong Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc hiểu là một hệ thống những

cơ chế đƣợc thực hiện bởi Nhà nƣớc và xã hội nhằm giữ cho việc thực thi

quyền lực nhà nƣớc đúng mục đích, hiệu quả. Kiểm soát quyền lực nhà nƣớc

bao gồm kiểm soát phạm vi hoạt động của cơ quan nhà nƣớc; kiểm soát quá

trình thông qua và sửa đổi Hiến pháp; kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nƣớc; kiểm soát những ngƣời thực thi quyền lực và có thể kiểm soát

từ bên ngoài và bên trong nhà nƣớc. Kiểm soát từ bên ngoài nhà nƣớc là kiểm

soát từ nhân dân và xã hội, kiểm soát từ bên trong là kiểm soát do chính Nhà

nƣớc thực hiện. Trong hệ thống đó, trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật ở

30

tầm vĩ mô của các cơ quan nhà nƣớc sẽ đƣợc xác định rõ ràng. Và đây cũng

chính là động lực chính trị cơ bản nhất để vận hành có hiệu quả hệ thống cơ

quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nƣớc.

- Đảm bảo sự độc lập của cơ quan tư pháp

Sự độc lập của cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để các chủ thể

trong xã hội có thể tiếp cận đƣợc với công lý, đảm bảo sự nghiêm minh của

pháp luật. Các hành vi lạm quyền hoặc vi phạm các quyền trong quá trình

thực hiện phân cấp quản lý NSNN có thể bị khởi kiện và đƣợc xem xét theo

những thủ tục độc lập, rõ ràng và công minh sẽ là cơ sở cho việc làm tăng

niềm tin của ngƣời dân vào hệ thống pháp luật nói chung và việc thực hiện

pháp luật về phân cấp ngân sách nói riêng. Đây có thể nói là một trong những

yếu tố cơ bản nhất làm tăng ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể trong xã

hội, là cơ sở cho việc thực hiện pháp luật về phân cấp ngân sách có hiệu quả.

- Đảm bảo tính công khai và minh bạch

Công khai, minh bạch vừa là yêu cầu vừa là điều kiện để tổ chức thực hiện

pháp luật có hiệu quả. Đảm bảo công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực

hiện pháp luật về phân cấp quản lý NSNN trƣớc hết đƣợc thể hiện ở việc công

khai các quy định về mặt nội dung, quy trình tổ chức thực hiện làm cơ sở để

tăng cƣờng sự hiểu biết của ngƣời dân đối với việc tổ chức thực hiện pháp

luật về phân cấp ngân sách. Sự hiểu biết pháp luật của những chủ thể tham gia

vào quá trình thực hiện pháp luật là điều kiện cơ bản nhất để tổ chức thực

hiện pháp luật có hiệu quả. Thực tế cho thấy, đã có nhiều trƣờng hợp việc

thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về các nội dung của quy phạm pháp luật và

cách thức tổ chức thực hiện pháp luật đã tạo ra những cản trở đối với quá

trình thực hiện pháp luật.

Đảm bảo công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện pháp luật

còn bao hàm nghĩa tạo cơ hội cho các chủ thể trong xã hội đƣợc tham gia

phản biện về nội dung của các quy định pháp luật cũng nhƣ cách thức tổ chức

31

thực hiện các quy định pháp luật đó. Tạo cơ hội để thu nhận các phản biện sẽ

giúp cho những cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật phát

hiện đƣợc những điểm bất cập trong quá trình thực hiện phân cấp quản lý

NSNN. Đó là những cơ sở quan trọng đề điều chỉnh, hoàn thiện và nâng cao

hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý NSNN.

Tiểu kết chƣơng 1

Chƣơng 1 đã lý giải cơ sở lý luận của pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc thông qua việc phân tích các nội dung pháp luật về phân

cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc, các yếu tố ảnh hƣởng và các điều kiện đảm

bảo thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc. Tác giả đã

làm rõ khái niệm pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách là tổng hợp các quy

phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện trách

nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền trong lĩnh vực

ngân sách Nhà nƣớc cũng nhƣ các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình

phân giao nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp. Pháp luật về

phân cấp quản lý nhà nƣớc ở đã đƣợc phân tích sâu về 2 nội dung chính, đó

là: Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng trong

việc quản lý ngân sách nhà nƣớc và phân cấp nguồn thu - nhiệm vụ chi. Phân

tích 2 nội dung trên làm cơ sở để đƣa ra các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện

pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc. Qua đó, tác gải dựa trên

các cơ sở lý luận để phân tích, đánh giá thực trạng thực tiễn thi hành pháp luật

về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc tại huyện Nho Quan (trong chƣơng

2) và việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý

32

ngân sách nhà nƣớc tại địa phƣơng (trong chƣơng 3).

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH

NHÀ NƢỚC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN NHO QUAN,

TỈNH NINH BÌNH

2.1. Thực trạng pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nƣớc

2.1.1. Các quy phạm pháp luật đối với cơ quan quản lý nhà nước về

hoạt động phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Năm 2002, nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý NSNN theo hƣớng

đổi mới, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật NSNN (sửa

đổi) và có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004. Luật NSNN năm 2002 đã

quy định nguyên tắc phân cấp: NSTW và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa

phƣơng đƣợc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể. NSTW giữ vai trò

chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lƣợc, quan trọng của quốc gia

và hỗ trợ những địa phƣơng chƣa cân đối đƣợc thu, chi ngân sách. Ngân sách

địa phƣơng (NSĐP) đƣợc phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực

hiện những nhiệm vụ đƣợc giao; tăng cƣờng nguồn lực cho ngân sách xã. Việc

điều tiết nguồn thu sẽ đƣợc đảm bảo trong thời kỳ ổn định (từ 3 đến 5 năm).

Luật NSNN cũng đã quy định cụ thể vai trò, quyền hạn của Quốc hội và

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc lập, quyết định dự

toán, phân bổ, phê chuẩn quyết toán NSNN và đồng thời cũng bảo đảm sự chỉ

đạo điều hành thống nhất NSNN trong phạm vi cả nƣớc của Chính phủ. Quy

định thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nƣớc về phân cấp quản lý ngân

sách nhƣ sau:

* Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp:

+ Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách đƣợc cấp trên giao và tình hình

thực tế tại địa phƣơng, quyết định:

- Dự toán thu ngân sách nhà nƣớc trên địa bàn, bao gồm thu nội địa, thu từ

33

hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại.

- Dự toán thu ngân sách địa phƣơng, bao gồm các khoản thu ngân sách địa

phƣơng hƣởng 100%, phần ngân sách địa phƣơng đƣợc hƣởng từ các khoản

thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%), thu bổ sung từ ngân sách cấp trên.

- Dự toán chi ngân sách địa phƣơng, bao gồm chi ngân sách cấp mình và

chi ngân sách địa phƣơng cấp dƣới, chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tƣ phát

triển, chi thƣờng xuyên, chi trả nợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng

ngân sách. Trong chi đầu tƣ phát triển và chi thƣờng xuyên có mức chi cụ thể

cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.

+ Quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình: Tổng số và mức chi

từng lĩnh vực; Dự toán chi ngân sách của từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp

mình theo từng lĩnh vực; Mức bổ sung cho ngân sách từng địa phƣơng cấp

dƣới, gồm bổ sung cân đối, bổ sung có mục tiêu.

+ Phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phƣơng;

+ Quyết định các chủ trƣơng, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách

địa phƣơng;

+ Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phƣơng trong trƣờng hợp

cần thiết;

+ Giám sát việc thực hiện ngân sách đã đƣợc Hội đồng nhân dân quyết định;

+ Bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính - ngân sách của

Uỷ ban nhân dân cùng cấp và Hội đồng nhân dân cấp dƣới trực tiếp trái với

Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban

Thƣờng vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nƣớc cấp trên;

+ Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, ngoài nhiệm vụ, quyền hạn quy

định tại các khoản 1, 2, 3. 4, 5, 6. và Điều 25 Luật NSNN 2002, còn có nhiệm

vụ, quyền hạn:

- Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân

sách ở địa phƣơng theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 của Luật này;

- Quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách các cấp chính

34

quyền địa phƣơng đôi với phần ngân sách địa phƣơng đƣợc hƣởng từ các

khoản thu quy định tại khoản 2 Điều 80 của Luật NSNN 2002 và các khoản

thu phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phƣơng;

- Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy

định của pháp luật;

- Quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu

chuẩn, định mức chi theo quy định của Chính phủ;

- Quyết định mức huy động vốn theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của

Luật NSNN 2002.

* Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các cấp:

+ Lập dự toán ngân sách địa phƣơng, phƣơng án phân bổ ngân sách cấp

mình theo các chỉ tiêu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật này;

dự toán điều chỉnh ngân sách địa phƣơng trong trƣờng hợp cần thiết, trình Hội

đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nƣớc,

cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.

+ Lập quyết toán ngân sách địa phƣơng trình Hội đồng nhân dân cùng cấp

phê chuẩn và báo cáo cơ quan hành chính nhà nƣớc, cơ quan tài chính cấp

trên trực tiếp.

+ Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dƣới về tài chính - ngân

sách.

+ Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định

giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm

vụ thu, chi, mức bổ sung cho ngân sách cấp dƣới và tỷ lệ phần trăm (%) phân

chia giữa các cấp ngân sách ở địa phƣơng đối với các khoản thu phân chia;

quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách đối với một

số lĩnh vực chi đƣợc Hội đồng nhân dân quyết định theo quy định tại điểm c

khoản 1 Điều 25 của Luật NSNN 2002.

+ Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện ngân sách đia phƣơng;

+ Phối hợp với các cơ quan nhà nƣớc cấp trên trong việc quản lý ngân

35

sách nhà nƣớc trên địa bàn.

+ Báo cáo về ngân sách nhà nƣớc theo quy định của pháp luật.

+ Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn quy

định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 26 Luật NSNN 2002, còn có

nhiệm vụ lập và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định các vấn đề

đƣợc quy định tại khoản 8 Điều 25 của Luật NSNN 2002.

+ Chỉ đạo cơ quan tài chính địa phƣơng chủ trì phối hợp với các cơ quan

liên quan giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại các

khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 26 Luật NSNN 2002.

2.1.2. Các quy phạm pháp luật đối với hoạt động phân cấp quản lý ngân

sách nhà nước

* Nguồn thu của ngân sách địa phương

Nguồn thu của ngân sách địa phƣơng đƣợc quy định cụ thể nhƣ sau:

+ Các khoản thu ngân sách địa phƣơng hƣởng 100%: Thuế nhà, đất; Thuế

tài nguyên; không kể thuế tài nguyên thu từ hoạt động dầu, khí; Thuế môn

bài; Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Tiền sử

dụng đất; Tiền cho thuê đất, thuê mặt nƣớc không kể tiền thuê mặt nƣớc thu

từ hoạt động dầu khí; Tiền đền bù thiệt hại đất; Tiền cho thuê và bán nhà ở

thuộc sở hữu nhà nƣớc; Lệ phí trƣớc bạ; Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;

Thu nhập từ vốn góp của ngân sách địa phƣơng, tiền thu hồi vốn của ngân

sách địa phƣơng tại các cơ sở kinh tế, thu từ Quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh

theo quy định tại Điều 58 của Nghị định 60/2003/NĐCP ngày 6/6/2003; Viện

trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nƣớc ngoài trực tiếp cho địa

phƣơng theo quy định của pháp luật; Phần nộp ngân sách theo quy định của

pháp luật từ các khoản phí, lệ phí do các cơ quan, đơn vị thuộc địa phƣơng tổ

chức thu, không kể phí xăng, dầu và lệ phí trƣớc bạ; Thu từ quỹ đất công ích

và thu hoa lợi công sản khác; Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật

từ các khoản thu sự nghiệp của các đơn vị do địa phƣơng quản lý; Huy động

từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật; Đóng góp tự nguyện của

36

các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nƣớc; Thu từ huy động đầu tƣ xây dựng

các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Luật

Ngân sách nhà nƣớc; Thu kết dƣ ngân sách địa phƣơng; Các khoản phạt, tịch

thu và thu khác của ngân sách địa phƣơng theo quy định của pháp luật; Thu

bổ sung từ ngân sách cấp trên; Thu chuyển nguồn từ ngân sách địa phƣơng

năm trƣớc sang ngân sách địa phƣơng năm sau.

+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung

ƣơng và ngân sách địa phƣơng theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 của của

Nghị định 60/2003/NĐCP ngày 6/6/2003.

* Nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương

+ Chi đầu tƣ phát triển về: Đầu tƣ xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do địa phƣơng quản lý; Đầu tƣ

và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của

Nhà nƣớc theo quy định của pháp luật; Phần chi đầu tƣ phát triển trong các

chƣơng trình quốc gia do các cơ quan địa phƣơng thực hiện; Các khoản chi

đầu tƣ phát triển khác theo quy định của pháp luật.

+ Chi thƣờng xuyên về:

- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn

hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ,

môi trƣờng, các sự nghiệp khác do địa phƣơng quản lý: Giáo dục phổ thông,

bổ túc văn hóa, nhà trẻ, mẫu giáo, phổ thông dân tộc nội trú và các hoạt động

giáo dục khác; Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đào tạo nghề, đào

tạo ngắn hạn và các hình thức đào tạo bồi dƣỡng khác; Phòng bệnh, chữa

bệnh và các hoạt động y tế khác; Các trại xã hội, cứu tế xã hội, cứu đói, phòng

chống các tệ nạn xã hội và các hoạt động xã hội khác; Bảo tồn, bảo tàng, thƣ

viện, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động văn hóa khác; Phát thanh, truyền hình

và các hoạt động thông tin khác; Bồi dƣỡng, huấn luyện huấn luyện viên, vận

động viên các đội tuyển cấp tỉnh; các giải thi đấu cấp tỉnh; quản lý các cơ sở

thi đấu thể dục, thể thao và các hoạt động thể dục, thể thao khác; Nghiên cứu

37

khoa học, phát triển công nghệ; Các sự nghiệp khác do địa phƣơng quản lý.

- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do địa phƣơng quản lý: Sự nghiệp giao

thông: duy tu, bảo dƣỡng và sửa chữa cầu đƣờng và các công trình giao thông

khác; lập biển báo và các biện pháp bảo đảm an toàn giao thông trên các

tuyến đƣờng; Sự nghiệp nông nghiệp, thủy lợi, ngƣ nghiệp, diêm nghiệp và

lâm nghiệp: duy tu, bảo dƣỡng các tuyến đê, các công trình thủy lợi, các trạm

trại nông nghiệp, lâm nghiệp, ngƣ nghiệp; công tác khuyến lâm, khuyến nông,

khuyến ngƣ; chi khoanh nuôi, bảo vệ, phòng chống cháy rừng, bảo vệ nguồn

lợi thủy sản; Sự nghiệp thị chính: duy tu, bảo dƣỡng hệ thống đèn chiếu sáng,

vỉa hè, hệ thống cấp thoát nƣớc, giao thông nội thị, công viên và các sự

nghiệp thị chính khác; Đo đạc, lập bản đồ và lƣu trữ hồ sơ địa chính và các

hoạt động sự nghiệp địa chính khác; Điều tra cơ bản; Các hoạt động sự nghiệp

về môi trƣờng; Các sự nghiệp kinh tế khác.

- Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội do ngân

sách địa phƣơng thực hiện theo quy định của Chính phủ;

- Hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam

ở địa phƣơng;

- Hoạt động của các cơ quan địa phƣơng của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,

Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

- Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ

chức xã hội - nghề nghiệp ở địa phƣơng theo quy định của pháp luật;

- Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tƣợng do địa phƣơng

quản lý;

- Phần chi thƣờng xuyên trong các chƣơng trình quốc gia do các cơ quan

địa phƣơng thực hiện;

- Trợ giá theo chính sách của Nhà nƣớc;

+ Các khoản chi thƣờng xuyên khác theo quy định của pháp luật.

+ Chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu tƣ theo quy định tại Khoản 3

38

Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nƣớc 2002.

+ Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh.

+ Chi bổ sung cho ngân sách cấp dƣới.

+ Chi chuyển nguồn ngân sách địa phƣơng năm trƣớc sang ngân sách địa

phƣơng năm sau.

+ Các nhiệm vụ chi quy định tại điểm b Khoản 1 và các Khoản 3 và 4

Điều 24 Nghị định 60/2003/NĐCP ngày 6/6/2003, chỉ quy định cho ngân sách

cấp tỉnh, không áp dụng cho ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã.

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình

Huyện Nho Quan đã thực hiện các quy định về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nƣớc theo Luật NSNN năm 2002, Nghị định 60/2003/NĐCP ngày

6/6/2003/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành luật NSNN,

Nghị quyết số 03/2010/NQ - HĐND ngày 27/7/2010 về phân cấp nguồn thu,

nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách

các cấp chính quyền địa phƣơng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình do Hội đồng

nhân dân tỉnh Ninh Bình ban hành.

2.2.1. Tình hình thi hành pháp luật về phân cấp nguồn thu ngân sách

nhà nước từ thực tiễn huyện Nho Quan

Huyện Nho Quan đã thi hành các quy định về phân cấp nguồn thu, chi

ngân sách địa phƣơng đƣợc quy định tại Chƣơng III, Luật NSNN 2002;

Chƣơng II, Nghị định 60/2003/NĐCP ngày 6/6/2003 và các quy định tại Nghị

quyết số 03 do Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh ban hành. Trong đó, huyện đã

tiến hành thu đúng ngân sách mà cấp huyện đƣợc hƣởng.

- Các khoản thu ngân sách cấp huyện hưởng 100%:

+ Thuế môn bài, trừ thuế môn bài từ các hộ kinh doanh trên địa bàn xã;

+ Lệ phí trƣớc bạ, không kể lệ phí trƣớc bạ nhà đất;

+ Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết trên địa bàn huyện;

+ Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nƣớc ngoài trực tiếp

39

cho ngân sách cấp huyện;

+ Các khoản phí, lệ phí phần nộp ngân sách do các cơ quan đơn vị thuộc

huyện tổ chức thu;

+ Thu sự nghiệp phần nộp ngân sách do các đơn vị trực thuộc huyện quản lý;

+ Huy động đóng góp từ các tổ chức cá nhân cho ngân sách huyện.

+ Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nƣớc cho

ngân sách cấp huyện;

+ Các khoản phạt, tịch thu do các cơ quan thuộc huyện quản lý;

+ Thu kết dƣ ngân sách cấp huyện;

+ Các khoản thanh lý tài sản, thu khác của ngân sách do các đơn vị, cơ

quan trực thuộc huyện quản lý nộp NSNN;

+ Thu bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh;

+ Thu chuyển nguồn từ ngân sách cấp huyện năm trƣớc sang ngân sách

cấp huyện năm sau;

- Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) NS cấp huyện và NS

cấp xã

+ Thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các tổ chức, cá nhân có

sản xuất kinh doanh khác, đăng ký kê khai nộp thuế vào ngân sách cấp huyện

theo quy định của pháp luật phân chia cho ngân sách cấp huyện 100%.

+ Thu từ các hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn các xã, phƣờng, thị trấn:

Trên địa bàn các xã, thị trấn phân chia cho ngân sách cấp huyện 30%,

ngân sách cấp xã 70%.

Trên địa bàn các phƣờng phân chia cho ngân sách cấp huyện 80%, ngân

sách phƣờng 20%.

+ Thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các tổ chức có sản xuất

kinh doanh khác, đăng ký kê khai nộp thuế vào ngân sách cấp huyện theo quy

định của pháp luật phân chia cho ngân sách cấp huyện 100% ;

+ Thuế nhà đất phân chia cho ngân sách cấp huyện 30%, ngân sách xã 70%.

+ Thuế tài nguyên:

40

Thuế tài nguyên nƣớc: Phân chia ngân sách cấp tỉnh 100%.

Thuế tài nguyên khác (không bao gồm tài nguyên nƣớc): Phân chia cho

ngân sách cấp tỉnh 40%, ngân sách cấp huyện 50%, ngân sách xã 10%.

+ Phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải:

Đối với số phí thu qua giá nƣớc sạch do Công ty TNHH một thành viên

kinh doanh nƣớc sạch Ninh Bình và các đơn vị cấp nƣớc sạch thu trên địa bàn

các huyện, thị xã, thành phố: Phân chia cho ngân sách cấp tỉnh 50%, ngân

sách cấp huyện 50%.

Đối với số phí do các xã, phƣờng, thị trấn thu: Phân chia cho ngân sách

cấp xã 100%.

Phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải công nghiệp, phần nộp ngân sách

phân chia cho ngân sách cấp tỉnh 100%;

+ Thuế sử dụng đất nông nghiệp: Phân chia cho ngân sách cấp huyện

30%; ngân sách cấp xã 70%.

+ Lệ phí trƣớc bạ nhà đất: Trên địa bàn các xã, thị trấn phân chia cho ngân

sách cấp huyện 30%, ngân sách cấp xã 70%. Trên địa bàn các phƣờng phân

chia cho ngân sách cấp huyện 80%, ngân sách phƣờng 20%.

+ Phí thăm quan danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử phân chia cho ngân

sách cấp tỉnh 50%, ngân sách cấp huyện 30%, ngân sách cấp xã 20%.

+ Phí bảo vệ môi trƣờng đối với khai thác khoáng sản:

Đối với huyện Nho Quan, Gia Viễn và thị xã Tam Điệp: Phân chia cho

ngân sách cấp tỉnh 30%, ngân sách cấp huyện 50%, ngân sách cấp xã 20%.

Đối với các huyện Hoa Lƣ, Yên Khánh, Yên Mô, Kim Sơn và thành phố

Ninh Bình: Phân chia cho ngân sách cấp tỉnh 30%, ngân sách cấp huyện 30%,

ngân sách cấp xã 40%.

+ Thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhƣợng bất động sản phân chia cho

ngân sách cấp huyện 70%, ngân sách cấp xã 30%.

+ Thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân:

Thu trên địa bàn các xã, thị trấn phân chia cho ngân sách cấp huyện 30%,

41

ngân sách cấp xã 70%.

Thu trên địa bàn các phƣờng phân chia cho ngân sách cấp huyện 80%,

ngân sách phƣờng 20%.

+ Tiền cho thuê đất sau khi trích tỷ lệ phần trăm (%) do HĐND tỉnh quyết

định hàng năm nộp ngân sách cấp tỉnh để lập Quỹ phát triển đất, thực hiện

phân chia cho ngân sách cấp tỉnh 50%, ngân sách cấp huyện 50%.

+ Tiền sử dụng đất:

Đối với diện tích đất thu hồi của các cơ quan Nhà nƣớc, đơn vị sự nghiệp,

cơ quan Đảng, Đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp Nhà

nƣớc và các đơn vị thuê đất, số tiền sử dụng đất thu đƣợc từ giao đất, đấu giá

quyền sử dụng đất sau khi trừ đi chi phí hợp lý, trừ đi khoản trích theo tỷ lệ

(%) nộp ngân sách cấp tỉnh do HĐND tỉnh quyết định hàng năm nộp ngân

sách cấp tỉnh để lập Quỹ phát triển đất, đƣợc phân chia nhƣ sau:

Thu từ đất có tài sản thanh lý trên đất do các cơ quan thuộc tỉnh quản lý

và các loại đất khác ngoài diện tích đất quy định phân chia cho ngân sách cấp

huyện, cấp xã dƣới đây phân chia cho ngân sách tỉnh 100%.

Thu từ đất có tài sản thanh lý trên đất do các cơ quan thuộc huyện, thị xã,

thành phố quản lý phân chia cho ngân sách cấp huyện 100%,

Thu từ đất có tài sản thanh lý trên đất do các cơ quan thuộc xã, phƣờng,

thị trấn quản lý phân chia cho ngân sách cấp xã 100%.

Đối với diện tích đất khác (ngoài đất thu hồi của các cơ quan Nhà nƣớc,

đơn vị sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội, các

doanh nghiệp Nhà nƣớc và các đơn vị thuê đất nêu tại điểm j) số tiền sử dụng

đất thu đƣợc từ giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất, sau khi trừ chi phí về đền

bù giải phóng mặt bằng và chi phí đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng không vƣợt

quá 35% đối với các huyện, thị xã, thành phố; trừ đi khoản trích theo tỷ lệ

phần trăm (%) do HĐND tỉnh quyết định hàng năm nộp ngân sách cấp tỉnh để

lập Quỹ phát triển đất; số còn lại đƣợc nộp vào NSNN và phân chia giữa ngân

42

sách các cấp nhƣ sau:

Bảng 1: Tỷ lệ % phân chia nguồn thu NSNN đối với việc sử dụng các loại

đất khác trên địa bàn huyện Nho Quan trong năm 2011-2016

Tỷ lệ (%) phân chia

NS NS NS TT Tên xã, thị trấn cấp cấp cấp

tỉnh huyện xã

1 Thị trấn Nho Quan và các xã: Đồng Phong, 10% 50% 40% Lạng Phong, Lạc Vân

2 Các xã Sơn Thành, Cúc Phƣơng 10% 30% 60%

3 Các xã Thạch Bình, Kỳ Phú, Phú Long,

Văn Phƣơng, Văn Phong, Thanh Lạc, 10% 90%

Thƣợng Hoà, Gia Sơn, Quảng Lạc

4 Các xã còn lại 10% 40% 50%

Nguồn: Phòng tài chính huyện Nho Quan

Trong phân cấp NSĐP, việc phân cấp nguồn thu cho ngân sách xã đƣợc

tăng cƣờng nhiều hơn, theo đó ngân sách xã đƣợc hƣởng 70% đối với các

khoản thu: thuế nhà đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế sử dụng đất

nông nghiệp; lệ phí trƣớc bạ nhà, đất. Khoản thu tiền sử dụng đất cũng đƣợc

điều chỉnh theo hƣớng tăng tỷ lệ (%) phân chia cho ngân sách cấp huyện, cấp

xã để có thêm nguồn đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng theo phân cấp, khuyến

khích đẩy mạnh đấu giá quyền sử dụng đất và giao đất có thu tiền; Nhờ vậy,

đã khuyến khích các địa phƣơng tăng cƣờng công tác quản lý tài chính, ngân

sách, phấn đấu tăng thu ngân sách, sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu quả góp

phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc

phòng của từng địa phƣơng và cả nƣớc theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

43

quốc và Nghị quyết Đảng bộ địa phƣơng.

Bảng 2: Tổng thu NSNN trên địa bàn huyện Nho Quan

ĐVT: Triệu đồng

Năm Năm Năm Năm Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016

Tổng thu NSNN trên địa bàn 547.391 618.259 790.336 887.034

72.747 104.232 128.764 147.241 A. Thu nội địa

1. Thu từ kinh tế quốc doanh 135 163 193 228

2. Thu từ khu vực công thƣơng 21.521 25.924 36.001 39.856 nghiệp ngoài quốc doanh

3. Thuế sử dụng đất nông nghệp 0 0 0 0

4. Thuế thu nhập cá nhân 982 1.572 2.382 3.597

6. Lệ phí trƣớc bạ 1.245 5.740 9.432 13.569

7. Thuế bảo vệ môi trƣờng do CQ 0,985 5,81 7 9,24 thuế thực hiện

8. Thu phí, lệ phí 1.012 4.121 6.496 7.568

9. Các khoản thu về nhà đất, 42.869 54.261 57.224 59.238 khoáng sản

10. Các khoản thu tại xã 3.124 7.412 11.089 14.129

11.Thu xổ số kiến thiết 847 1.014 1.729 2.198

12. Thu khác 1.012 4.025 4.211 6.849

B. Thu bổ sung NS cấp trên 449.771 480.777 625.402 701.894

C. Thu chuyển nguồn từ NS 21.141 25.124 26.196 27.154 năm trƣớc

D. Thu kết dƣ ngân sách 1.652 3.250 4.129 4.754

E. Các khoản huy động đóng 2.080 4.876 5.845 5.991 ghóp

44

Nguồn: Báo cáo quyết toán ngân sách huyện Nho quan từ năm 2013-2016

Bảng 3: Tổng thu NSNN trên địa bàn huyện theo từng sắc thuế

ĐVT: Triệu đồng

Chỉ tiêu Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Tổng thu NSNN trên địa bàn 545.311 613.383 784.492 881.043

A. Thu NSNN 72.747 104.232 128.765 147.241

I. Các khoản thu từ thuế 22.638 30.910 38.583 45.204

1. Thuế GTGT 20.338 23.800 32.537 37.068

2. Thuế thu nhập doanh nghiệp 420 854 1.332 1.711

3. Thuế môn bài 487 529 675 795

4. Thuế tiêu thụ đặc biệt 1 3.254 5 7

5. Thuế thu nhập cá nhân 982 1.572 2.382 3.597

6. Thuế tài nguyên 410 901 1.646 2.017

7. Thuế bảo vệ môi trƣờng do CQ thuế 0,985 5,81 7 9,24 thực hiện

II. Các khoản phí, lệ phí 2.257 9.861 15.928 20.592

1. Lệ phí trƣớc bạ 1.245 5.740 9.432 13.024

2. Các khoản phí, lệ phí khác 1.012 4.121 6.496 7.568

III. Các khoản thu khác 47.852 63.461 74.254 81.445

1. Thu tiền sử dụng đất 24.895 41.001 54.138 62.146

2. Thu sử dụng đất phi ngông nghiệp 104 302 445 524

3. Thu tiền thuê mặt đất, mặt nƣớc 114 290 559 681

4. Thu xổ số kiến thiết 847 1.014 1.729 2.198

5. Thu khác 21.892 20.854 17.383 15.896

B. Thu bổ sung NS cấp trên 449.771 480.777 625.402 701.894

C. Thu chuyển nguồn từ NS năm trƣớc 21.141 25.124 26.196 27.154

D. Thu kết dƣ ngân sách 1.652 3.250 4.129 4.754

45

Nguồn: Báo cáo quyết toán ngân sách huyện Nho quan từ năm 2013-2016

Tổng thu NSNN có tốc độ tăng trƣởng khá cao và ổn định. Năm 2013,

tổng thu NS là 547.391 triệu đồng ( trong đó thu NSNN là 72.747 triệu đồng),

đến năm 2016 đạt 887.034 triệu đồng ( trong đó thu NSNN là 147.241 triệu

đồng), tăng 62,04% so với năm 2013. Đây là một nguồn thu khá lơn so với

các huyện khác. Nguồn thu về thuế chƣa chiếm tỷ trọng cao, các khoản thu từ

thuế năm 2013 đạt 22.638 triệu đồng, năm 2015 đạt 38.538 triệu đồng và năm

2016 đạt 45.204 triệu đồng. Có thể thấy, nguồn thu thuế năm 2016 không có

sự tăng trƣởng vƣợt trội so với năm 2015 và năm 2014, khoản thu thuế tăng

đều đều và ổn định so với năm 2014 và năm 2013. Còn đối với các khoản thu

về nhà đất và khoáng sản chiếm tỷ trong cao, năm 2013 đạt 42,869 triệu đồng,

năm 2015 đạt 57,224 triệu đồng, năm 2016 đạt 59.238 triệu đồng [0, tr.87-88].

Hai nguồn thu thuế và khoản thu về nhà đất và khoáng sản là nguồn thu chủ

yếu của ngân sách huyện, tuy hai nguồn thu chƣa có tốc độ tăng khá cao, tốc

độ tăng bình quân hàng năm lại không có sự tăng vƣợt trội. Có thể thấy chính

sách phát triển kinh tế của huyện chƣa thu hứt đƣợc nhiều nhà đầu tƣ, chƣa

đạt hiệu quả.

Nhìn chung, việc phân cấp nguồn thu giai đoạn 2013-2016 đã t đóhực

hiện đúng các quy định theo Luật NSNN và các văn bản quy phạm khác, đồng

thời qua đó có sự điều chỉnh theo hƣớng mở rộng phân cấp một số khoản thu

cho ngân sách cấp huyện, ngân sách cấp xã nhằm tăng cƣờng nguồn lực tài

chính cho ngân sách cấp dƣới, tạo sự chủ động và khuyến khích chính quyền

cấp huyện, cấp xã quản lý, khai thác nguồn thu gắn với nuôi dƣỡng nguồn

thu. Ngân sách cấp huyện, ngân sách xã đƣợc phân cấp nguồn thu nhằm có đủ

nguồn lực đáp ứng nhiệm vụ kinh tế - xã hội đƣợc phân cấp, từng bƣớc tạo sự

chủ động, phát huy tính năng động sáng tạo của các cấp chính quyền trong

quản lý, khai thác nguồn thu trên địa bàn, góp phần chủ động nguồn để thực

hiện các nhiệm vụ trên địa bàn. Các cơ quan quản lý đã tuân thủ các quy định

pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc để tiến hành thu NSNN đúng

46

các quy định của Luật NSNN 2002 và các quy định của chính quyền địa phƣơng.

2.2.2. Tình hình thi hành pháp luật về phân cấp nhiệm vụ chi ngân

sách nhà nước từ thực tiễn huyện Nho Quan

Nhìn chung, việc phân cấp nhiệm vụ chi NSĐP là tƣơng đối ổn định; Hiện

tại phân cấp phân cấp nhiệm vụ chi của các cấp NSĐP theo Nghị quyết số

03/2010/NQ-HĐND ngày 27/7/2010 của HĐND tỉnh về phân cấp nguồn thu,

nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách

các cấp chính quyền địa phƣơng, cụ thể:

a) Nhiệm vụ chi của ngân sách cấp huyện:

+ Chi đầu tƣ phát triển: Chi đầu tƣ các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế -

xã hội theo phân cấp của UBND tỉnh.

+ Chi thƣờng xuyên.

- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục - đào tạo;

- Giáo dục mầm non quốc lập, giáo dục tiểu học, giáo dục phổ thông trung

học cơ sở và các hoạt động giáo dục khác do cấp huyện quản lý;

- Chi đào tạo, bồi dƣỡng và các hoạt động đào tạo khác do cấp huyện

quản lý;

- Các hoạt động sự nghiệp y tế, môi trƣờng, văn hoá thông tin, thể dục thể

thao, truyền thanh truyền hình do cấp huyện quản lý ;

- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các đơn vị huyện, thị xã quản lý;

- Quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội do cấp huyện thực hiện;

- Hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc cấp huyện;

- Hoạt động của cơ quan cấp huyện của Đảng Cộng sản Việt Nam;

- Hoạt động của cơ quan cấp huyện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc việt

Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt

Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam;

- Hỗ trợ cho các tổ chức xã hội, nghề nghiệp theo quy định;

- Các khoản chi khác của cấp huyện theo quy định của pháp luật.

+ Chi bổ sung cho ngân sách cấp xã.

47

+ Chi chuyển nguồn từ ngân sách cấp huyện năm trƣớc sang ngân sách

cấp huyện năm sau.

Trong năm 2013-2016, chi ngân sách đã có sự chủ động trong tổ chức

điều hành NSNN, triển khai quyết liệt các quy định của Luật NSNN và các

nghị định , thông tƣ hƣớng dẫn, và theo các quy định của Nghị Quyết 03/2010

của HĐND tỉnh Ninh Bình. Tuân thủ theo các quy định pháp luật về phân cấp

quản lý ngân sách ghóp phần nâng cao hiệu quả các giải pháp đảm bảo nguồn

ngân sách, vì vậy, các nhiệm vụ chi ngân sách vẫn đƣợc đảm bảo, đặc biệt là

thực hiện các chính sách an ninh xã hội, các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và

các nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết nhƣ: tu bổ các công trình phòng chống bão

lụt, bổ sung kinh phí chống hạn vụ đông, phòng chống dịch bệnh…. Công tác

phân cấp quản lý ngân sách đƣợc chỉ đạo sát sao theo đúng Luật NSNN nhằm

đảm bảo tiết kiệm, chặt chẽ, hiệu quả; tập trung vốn đầu tƣ cho phát triển kinh

tế xã hội ghóp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

của huyện.

Bảng 4: Tổng chi NSNN trên địa bàn huyện Nho Quan

ĐVT: Triệu đồng

Năm Năm Năm Năm Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016

Tổng chi NSNN 544.141 618.194 787.696 866.845

1. Chi đầu tƣ phát triển 160.919 209.450 285.102 321.989

2. Chi thƣờng xuyên 341.458 362.335 450.828 495.124

3. Chi chuyển nguồn sang năm 37.102 41.781 46.245 44.235

4. Chi nộp ngân sách cấp trên 451 569 801 795

5. Chi trợ cấp trùng tại NSĐP 1.102 1.051 1.214 1.123

6. Chi bổ sung cho NS cấp dƣới 3.109 3.008 3.506 3.579

Nguồn: Báo cáo quyết toán ngân sách huyện Nho quan từ năm 2013-2016

Tổng chi ngân sách qua các năm 2013, năm 2014 và năm 2016 là nhƣ sau:

48

544.141 triệu đồng; 618.194 triệu đồng và 866.845 triệu đồng. Tổng chi ngân

sách năm 2014 tăng 13,60% so với năm 2013, còn năm 2016 tăng 10,04% so

với năm 2015. Trong đó, chi thƣờng xyên năm 2013 là 341.458 triệu đồng và

năm 2016 là 495.124 triệu đồng, tăng 59,30%. Chi thƣờng xuyên là khoản chi

lớn nhất, chi cho an ninh, quốc phòng; y tế; giáo dục; khoa học, công nghệ;

kinh tế..., nhằm bảo dảm cho sự thực thi của các chính sách kinh tế - xã hôi,

phát triển kinh tế tại địa phƣơng. Nhiệm vụ chi qua các năm ổn định và tuân

thủ các quy định của Luật NSNN 2002 và các quy định khác.[0, tr.87-88].

2.3. Nhận xét pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nƣớc

2.3.1. Kết quả đạt được

- Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách hiện hành các cấp chính quyền địa

phƣơng từ tỉnh đến xã đã bƣớc đầu quan tâm khai thác, nuôi dƣỡng nguồn

thu. Việc phân cấp nguồn thu gắn liền với nhiệm vụ chi của từng cấp ngân

sách, vì vậy nhiệm vụ thu ngân sách luôn đƣợc coi là công tác trọng tâm. Các

cấp chính quyền ở địa phƣơng đã tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp, các

đơn vị trực thuộc quan tâm thu ngân sách tốt, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời

theo luật định để có nguồn thực hiện nhiệm vụ chi đƣợc giao. Do vậy, các cấp

chính quyền địa phƣơng đã từng bƣớc chủ động trong hoạt động ngân sách,

hạn chế đƣợc tình trạng thụ động, trông chờ, ỷ lại vào ngân sách cấp trên và

tuân thủ pháp luật về phân cấp nguông thu, chi ngân sách.

- Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức và cá

nhân trong lĩnh vực ngân sách đƣợc luật hoá và từng bƣớc đƣợc nâng cao.

Đối với HĐND các cấp, quyền hạn về quản lý ngân sách đã đƣợc nâng lên

một bƣớc đáng kể, vai trò giám sát của HĐND các cấp trong lĩnh vực ngân

sách từng bƣớc đƣợc nâng cao. HĐND các cấp từ tỉnh đến xã có quyền quyết

định ngân sách cấp mình; chủ động quyết định các biện pháp tăng thu, tiết

kiệm chi tiêu, tập trung nguồn lực cho những mục tiêu quan trọng của địa

phƣơng. Chính quyền các cấp địa phƣơng bƣớc đầu chủ động sắp xếp, phân

bổ ngân sách và khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phƣơng để đáp ứng

49

nhu cầu chi tiêu của địa phƣơng. Đặc biệt theo quy định của Luật NSNN năm

2002, HĐND cấp tỉnh có quyền quyết định thu một số khoản thu về phí, lệ

phí, các khoản phụ thu theo quy định của Chính phủ.

- Luật NSNN quy định cho phép ổn định NSĐP từ 3-5 năm. Trong thời

gian đó nếu NSĐP tăng thu (phần NSĐP đƣợc hƣởng) thì sẽ đƣợc tăng chi

tƣơng ứng. NSTW thƣởng NSĐP có nguồn thu nộp NSTW cao hơn mức dự

toán giao. Đây là động lực quan trọng giúp các địa phƣơng chủ động khai thác

nguồn lực tại địa phƣơng, bố trí sắp xếp chi tiêu có hiệu quả. Đối với các xã,

thị trấn có số thu nộp NSNN vƣợt cả về tổng số và số phân chia về ngân sách

cấp huyện so với dự toán do HĐND huyện giao; Ngân sách huyện cấp lại

100% số vƣợt thu tiền sử dụng đất và 50% số vƣợt thu các khoản thu cân đối

chi thƣờng xuyên sau khi đã trừ phần làm lƣơng theo quy định.

- Từng bƣớc phân cấp mạnh nguồn thu và nhiệm vụ chi cho ngân sách xã.

Ngân sách xã dần khẳng định vị trí quan trọng trong NSĐP. Qua phân cấp

nguồn thu gắn liền với trách nhiệm quản lý, các xã, thị trấn đã bƣớc đầu tích

cực khai thác nguồn thu gắn liền với nuôi dƣỡng nguồn thu, chủ động bố trí

chi tiêu. Cấp xã đã điều hành ngân sách chủ động hơn, hạn chế tình trạng

trông chờ vào trợ cấp của ngân sách cấp huyện. Qua phân cấp nhiệm vụ chi

cho xã, ngân sách xã đã có dự toán chi thực sự và điều hành theo dự toán,

giảm dần tình trạng lập dự toán chiếu lệ, hình thức. Tình trạng nợ, đi vay để

chi có xu hƣớng giảm. Các khoản thu, chi ngân sách xã đƣợc quản lý qua

KBNN theo đúng trình tự và thủ tục quy định. Nhờ đó đã góp phần hạn chế

và ngăn ngừa đƣợc những tiêu cực trong quản lý ngân sách xã. Thông qua cơ

chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho ngân sách xã, chất lƣợng dự toán

ngân sách xã đã từng bƣớc đƣợc nâng cao. Các khoản thu, chi ngân sách xã

đƣợc tính toán, phân bổ theo đúng mục lục NSNN đã tạo thuận lợi cho công

tác điều hành ngân sách của chính quyền cơ sở.

- Việc quy định cơ chế thƣởng vƣợt thu cho ngân sách cấp huyện đối với

những khoản thu điều tiết về ngân sách tỉnh, đặc biệt là cấp lại 100% nguồn

50

vƣợt thu tiền sử dụng đất đã có tác dụng khuyến khích cấp huyện, xã tăng

cƣờng công tác thu ngân sách, phấn đấu hoàn thành vƣợt mức dự toán để có

nguồn đáp ứng những nhiệm vụ chi ngân sách ngày càng tăng.

Nhìn chung cơ chế phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp ngân sách ở

tỉnh Ninh Bình đã bám sát Luật NSNN và đặc điểm của địa phƣơng. Nguồn

thu và nhiệm vụ chi cho từng cấp chính quyền ở địa phƣơng đã đƣợc quy định

cụ thể, rõ ràng. Chính quyền địa phƣơng đã bƣớc đầu chủ động trong việc xây

dựng và phân bổ ngân sách cấp mình, chủ động khai thác tiềm năng, thế mạnh

của địa phƣơng. Việc bố chí chi tiêu ngân sách hiệu quả hơn, hạn chế tình

trạng cấp trên can thiệp vào công việc của cấp dƣới, góp phần phát triển kinh

tế - xã hội của địa phƣơng.

2.3.2. Một số hạn chế

Từ thực tiễn huyện Nho Quan có thể thấy còn những hạn chế của pháp

luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc nhƣ sau:

* Thẩm quyền của cơ quan thực hiện hoạt động về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nước

ột là, quy định tại điều 25, Luật NSNN năm 2002 về thẩm quyền ngân

sách của 03 cấp Hội đồng nhân dân tƣơng đối giống nhau đã tạo thành hệ

thống ngân sách có tính chất ”lồng ghép” - ngân sách cấp dƣới là một bộ phận

hợp thành của ngân sách cấp trên và dẫn đến việc quyết định dự toán ngân

sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách của các cấp chính quyền địa phƣơng

bị trùng lắp, nhiều cấp chính quyền cùng quyết định một vấn đề, cấp dƣới

quyết định lại những vấn đề đã đƣợc cấp trên quyết định và ngƣợc lại, cấp

trên phê chuẩn lại những vấn đề đã đƣợc cấp dƣới thông qua. Quy định hiện

hành theo hƣớng “lồng ghép ngân sách” làm cho các địa phƣơng trở nên bị

động (cấp tỉnh đợi cấp huyện, cấp huyện chờ cấp xã), thậm chí là trông chờ

trong việc thực hiện nhiệm vụ thu chi ngân sách, khai thác nguồn thu, điều

tiết nguồn chi… cho phù hợp tình hình địa phƣơng và yêu cầu của trung

ƣơng. Cách quản lý và điều hành ngân sách hiện nay ngoài việc buộc ngân

51

sách địa phƣơng phụ thuộc ngân sách trung ƣơng thì còn dẫn đến tình trạng

“không phải chịu trách nhiệm đến cùng” bởi trung ƣơng không thể quản lý

chặt chẽ, chi tiết ngân sách của địa phƣơng, còn địa phƣơng cũng không phải

chịu trách nhiệm hoàn toàn khi có sai lầm trong quản lý ngân sách. Nguyên

nhân chính là địa phƣơng chƣa có quyền tự chủ tài chính. Các cấp chính

quyền thƣờng thiếu chủ động trong việc quản lý trên địa bàn của mình do phải

chờ đợi các hỗ trợ về tài chính, về nguồn nhân lực từ “cấp trên”, dẫn đến hoạt

động của nền hành chính trở nên bị động, không linh hoạt hoặc bỏ qua những

nhiệm vụ cần thiết cũng nhƣ sử dụng lãng phí nguồn lực.

ai là, quy định hiện hành giao nhiều quyền cho cấp tỉnh đồng thời làm

hạn chế tính tự chủ của ngân sách cấp dƣới. Bên cạnh đó, việc trao quyền chủ

động quá lớn cho HĐND tỉnh ở địa phƣơng đã làm ảnh hƣởng đến vai trò của

ngân sách cấp huyện và xã, đồng thời tạo điều kiện cho chính quyền cấp tỉnh

tập trung các nguồn lực lớn trong tay mình và vô hình chung lại tạo ra một cơ

chế xin – cho. Tính độc lập của các cấp ngân sách bên dƣới rất hạn chế dẫn

đến sự phức tạp trong quản lý ngân sách và sự thiếu phân định trách nhiệm rõ

ràng. Địa phƣơng chƣa có quyền tự chủ tài chính nên ngoài việc ngân sách địa

phƣơng phụ thuộc ngân sách trung ƣơng thì còn dẫn đến tình trạng “không

phải chịu trách nhiệm đến cùng” bởi trung ƣơng không thể quản lý chặt chẽ,

chi tiết ngân sách của địa phƣơng, còn địa phƣơng cũng không phải chịu trách

nhiệm hoàn toàn khi có sai lầm trong quản lý ngân sách.

Ba là, pháp luật không phân định rõ ràng về nguồn thu và nhiệm vụ chi

của mỗi cấp nên các cấp chính quyền thiếu sự chủ động trong lập kế hoạch

ngân sách dài hạn và chƣa khuyến khích cấp huyện, cấp xã quan tâm nuôi

dƣỡng và phát triển các nguồn thu của riêng mình và cũng không khuyến

khích đƣợc các địa phƣơng khai thác lợi thế của mình. Quyền tự chủ trong

quyết định các khoản thu ngân sách của địa phƣơng là hết sức hạn chế. Chính

quyền địa phƣơng chỉ đƣợc quyền quyết định đối với một số loại phí, lệ phí

nhỏ mà trung ƣơng quy định khung hoặc mang tính địa phƣơng đặc thù.

52

Quyền chủ động cho chính quyền cấp tỉnh cao và vai trò của ngân sách huyện

và xã ngày càng mờ nhạt, thậm chí hầu hết các cấp huyện và xã đều không thể

tự cân đối đƣợc giữa nguồn thu đƣợc hƣởng trên địa bàn với tổng nhiệm vụ

chi. Các nguồn thu đƣợc hƣởng trên địa bàn huyện và xã thƣờng không nhiều,

nếu bị điều tiết lớn về cấp tỉnh thì đƣơng nhiên phần thu còn lại sẽ rất hạn

chế, trong khi đó quyền phân bổ nhiệm vụ chi lại do chính quyền cấp tỉnh

quyết định. Qua thực tế cho thấy ở một số địa phƣơng, HĐND tỉnh đã quy

định nhiệm vụ chi cho cấp huyện và cấp xã khá “nặng nề”, không tƣơng xứng

với khả năng thu tự cân đối của các cấp ngân sách này, dẫn đến để đảm bảo

nhiệm vụ chi sẽ cần phải thƣờng xuyên lệ thuộc vào sự hỗ trợ của ngân sách

cấp trên.

Bốn là, quy định về quyền tự chủ trong quyết định các khoản thu ngân

sách của địa phƣơng bị hạn chế: Các nguồn thu đƣợc phân chia 100% cho

NSĐP thƣờng là những sắc thuế có hiệu suất thu thấp và không bền vững.

Chính quyền địa phƣơng bị hạn chế về khả năng tăng nguồn thu cho mình

ngoài các chính sách thu do trung ƣơng quy định. Địa phƣơng chỉ có quyền

quyết định một số loại phí, lệ phí theo phân cấp của Chính phủ và đƣợc quy

định mức thu một số loại phí, lệ phí trong khung pháp luật hiện hành quy

định. Nguồn thu từ các loại phí, lệ phí này trên thực tế là rất nhỏ, chỉ chiếm

khoảng 10% tổng thu NSĐP; chính quyền địa phƣơng có rất ít biện pháp tạo

nguồn thu ngân sách và có rất ít quyền kiểm soát đối với ngân sách mà họ thu

đƣợc. Quy định hiện nay cũng chƣa khuyến khích địa phƣơng nuôi dƣỡng

nguồn thu. Các sắc thuế đều do Trung ƣơng quyết định cả về thuế suất, cơ sở

tính thuế nên không gian cho việc thực hiện sự tự chủ của địa phƣơng là hết

sức hạn chế. Do vậy, các địa phƣơng buộc phải tìm kiếm tăng nguồn thu qua

việc tăng thu từ đất đai - một loại nguồn thu đƣợc phân cấp hoàn toàn cho địa

phƣơng. Tuy nhiên, các khoản thu này thƣờng có tính chất thu một lần nhƣ

thu từ giao quyền sử dụng đất. Sự phụ thuộc rất lớn vào thu từ giao quyền sử

dụng đất là nguồn thu chỉ phát sinh một lần dẫn đến vấn đề là thu NSNN từ

53

đất đai sẽ không thể đáp ứng các yêu cầu dài hạn ở địa phƣơng. Hơn nữa đây

là nguồn thu không ổn định phụ thuộc vào sự phát triển của thị trƣờng bất

động sản.

Năm là, quy định về số bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP đƣợc ổn

định theo số tuyệt đối trong thời kỳ ổn định NSĐP dẫn đến cân đối NSĐP rất

khó khăn, nhất là các địa phƣơng quy mô kinh tế nhỏ, số tăng thu hàng năm

không lớn, nhiệm vụ chi ngân sách tăng rất nhanh do yêu cầu phát triển kinh

tế - xã hội theo các chính sách do Trung ƣơng ban hành (chi cải cách tiền

lƣơng, xoá đói giảm nghèo, an sinh xã hội,...), trong khi đó chi NSĐP lại chủ

yếu nhận bổ sung cân đối từ NSTW, nên gặp khó khăn trong việc đảm bảo

nguồn để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong điều

kiện giá cả tăng. Ngoài ra, quy định về số bổ sung có mục tiêu từ NSTW cho

NSĐP chƣa đầy đủ và chƣa quy định cụ thể về các tiêu chí cho từng mục tiêu

đƣợc NSTW hỗ trợ, tạo cơ chế “xin cho”. Thực tế hiện nay các khoản bổ sung

có mục tiêu (vốn đầu tƣ) hàng năm lớn hơn số chi đầu tƣ trong cân đối NSĐP,

có những dự án NSTW bổ sung cho NSĐP với mức thấp dẫn tới mất chủ

động cho NSĐP.

* Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách địa phương

- Về phân cấp nguồn thu:

Việc phân định nguồn thu giữa các cấp ngân sách thƣờng đƣợc xác định

dựa trên vai trò của cấp ngân sách, cũng nhƣ thẩm quyền quản lý của chính

quyền cấp đó. Nói một cách ngắn gọn thì ngân sách cấp trên đƣợc thu nhiều,

tập trung hơn so với ngân sách cấp dƣới, đồng thời cũng phải chi nhiều hơn

và đảm bảo vai trò điều tiết. Bên cạnh đó nguồn thu gắn với hoạt động quản

lý nhà nƣớc của cấp nào thì cấp đó đƣợc hƣởng toàn bộ hoặc một phần. Luật

Ngân sách nhà nƣớc còn chú trọng đến khả năng cân đối của ngân sách cấp xã

vì cấp ngân sách này có số thu ít nhất nhƣng thẩm quyền quản lý lại khá rộng.

Một là, quy định tại điểm b, khoản 1, điều 34, Luật NSNN năm 2002, để

lại tối thiểu 70% một số khoản thu thu cho ngân sách xã, thị trấn còn chƣa

54

phù hợp đối với hầu hết các địa phƣơng.

Hiện nay theo quy định của Thông tƣ 59/2003/TT-BTC thì ngân sách xã,

thị trấn đƣợc hƣởng tối thiểu 70% đối với các khoản thu gồm: thuế chuyển

quyền sử dụng đất (nay là thuế thu nhập cá nhân hoặc thuế thu nhập doanh

nghiệp đối với việc chuyển quyền sử dụng đất); thuế nhà, đất (nay là thuế sử

dụng đất phi nông nghiệp); thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế

sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình và lệ phí trƣớc bạ nhà, đất. Quy

định này nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách xã và thị trấn vì những nơi

này nguồn thu thƣờng thấp hơn so với đơn vị hành chính tƣơng đƣơng

là phường, trong khi đó nhiệm vụ chi thƣờng nặng nề hơn. Tuy nhiên, hiện

nay ở nhiều địa phƣơng, mức độ chênh lệch về khả năng động viên ngân sách

giữa xã và thị trấn, thậm chí giữa các xã với nhau là rất khác biệt. Ở thị trấn

và một số xã có điều kiện phát triển kinh tế tốt hơn, nhiều doanh nghiệp và hộ

kinh doanh thì việc để lại 70% các nguồn thu trên là quá nhiều so với nhiệm

vụ chi, trong khi đó ở những xã khác thì mặc dù để lại đến 100% vẫn không

đủ. Chính vì có quy định “cứng” là để lại tối thiểu 70% cho ngân sách xã, thị

trấn nên khả năng điều tiết của ngân sách tỉnh và huyện đối với các xã, thị

trấn bị ảnh hƣởng rất nhiều.

Hai là, việc quy định nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất là nguồn thu

100% của ngân sách địa phƣơng đã tạo điều kiện cho một số ít địa phƣơng

đƣợc hƣởng lợi. (Quy định tại điểm d, khoản 1, điều 32, Luật NSNN năm

2002)

Hiện nay theo quy định, tất cả các khoản thu liên quan đến đất đai đều

thuộc nguồn thu 100% của ngân sách địa phƣơng. Tuy nhiên, thị trƣờng bất

động sản lại rất khác biệt giữa các địa phƣơng. Theo chính sách về đất đai

hiện hành thì đất đai là nguồn tài nguyên quý giá thuộc sở hữu toàn dân, do

nhà nƣớc là chủ sở hữu, do đó nguồn thu từ đất đai cần đƣợc điều tiết chung

cho cả nƣớc chứ không nên dành riêng cho địa phƣơng vì giá trị của chúng rất

khác nhau giữa các địa phƣơng. Ở một số địa phƣơng nhƣ Hà Nội, Thành phố

55

Hồ Chí Minh hay Đà Nẵng, nguồn thu từ đất, đặc biệt là từ đấu giá quyền sử

dụng đất là khá lớn, trong khi đó những địa phƣơng khác thì ngƣợc lại. Nếu

tiếp tục để nguồn thu này là nguồn thu 100% của ngân sách địa phƣơng, thì

chỉ có một số ít các tỉnh, thành phố đƣợc hƣởng lợi một cách tự nhiên, trong

khi ngân sách trung ƣơng không thể điều tiết đƣợc một phần nguồn lợi này

cho những địa phƣơng khác. Mặt khác, vì đƣợc hƣởng lợi tự nhiên nên càng

khuyến khích các địa phƣơng này tiếp tục đẩy mạnh đấu giá đất, mở rộng các

dự án bất chấp hiệu quả, thậm chí sẵn sàng đấu giá với mức giá thấp hơn so

với mặt bằng chung của thị trƣờng bất động sản để nhanh chóng có nguồn

vốn đầu tƣ, dẫn đến lãng phí nguồn tài nguyên đất đai.

Ba là, nguồn thu từ hoạt động xổ số kiến thiết còn chƣa đƣợc phản ánh

đầy đủ vào ngân sách. (Quy định tại điểm k, khoản 1, điều 32, Luật NSNN

năm 2002)

Nguồn thu từ hoạt động xổ số kiến thiết là nguồn thu của địa phƣơng,

nhƣng việc phản ánh nguồn thu này vào ngân sách là hết sức khác nhau giữa

các địa phƣơng. Hầu hết các địa phƣơng hoạt động xổ số kiến thiết đƣợc thực

hiện thông qua mô hình công ty, do đó về mặt pháp lý, với tƣ cách doanh

nghiệp thì họ chỉ phải nộp các loại thuế theo quy định nhƣ thuế thu nhập

doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt… Bên cạnh đó một số địa phƣơng còn để

công ty sử dụng ngay thu nhập từ hoạt động kinh doanh xổ số kiến thiết vào

việc xây dựng các công trình an sinh xã hội mà không phản ánh qua ngân sách

thành nguồn thu và nhiệm vụ chi, nhƣ vậy là đã vi phạm pháp luật ngân sách.

Bốn là, quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán

toàn ngành là nguồn thu 100% của ngân sách trung ƣơng là chƣa phù hợp.

(Quy định tại điểm d, khoản 1, điều 3, Luật NSNN năm 2002)

Hiện nay theo quy định thì thuế thu nhập từ các hoạt động kinh doanh

chính của các đơn vị hạch toán toàn ngành là nguồn thu 100% của ngân sách

trung ƣơng. Điều này đƣợc lý giải là để nhằm đảm bảo khả năng điều tiết của

ngân sách trung ƣơng vì nguồn thu này về lý thuyết là rất lớn, thêm nữa do

56

hạch toán toàn ngành nên rất khó xác định mức thu nhập phát sinh ở từng địa

phƣơng. Tuy nhiên, quy định này đến nay là không phù hợp vì hiện nay hầu

hết các doanh nghiệp này đều chuyển sang hình thức công ty cổ phần chứ

không hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nƣớc nhƣ trƣớc đây nên cần

bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Ở hầu hết những doanh

nghiệp nêu trên, các công ty thành viên ở các địa phƣơng đều có tƣ cách pháp

nhân nên hoàn toàn có thể hạch toán đƣợc chi phí. Theo cách tiếp cận hiện

nay của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu một doanh nghiệp hoạt động ở

nhiều tỉnh, thành phố khác nhau thì nguồn thuế thu nhập cần đƣợc phân chia

cho các địa phƣơng này dựa trên chi phí phát sinh, vì các doanh nghiệp đã sử

dụng hạ tầng, nhân công của địa phƣơng nên có trách nhiệm đóng góp cho địa

phƣơng. Do đó, thuế thu nhập doanh nghiệp của những doanh nghiệp nếu

hoạt động ở nhiều địa phƣơng thì cần đƣợc phân chia giữa trung ƣơng và địa

phƣơng, chứ không nên dành cho trung ƣơng 100% nhƣ hiện nay, nhƣ vậy

mới tăng cƣờng đƣợc nguồn thu cho ngân sách địa phƣơng.

- Về phân cấp nhiệm vụ chi:

Một là, mặc dù đã có định mức phân bổ chi thƣờng xuyên do Thủ tƣớng

Chính phủ quyết định hàng năm, nhƣng trên thực tế, có địa phƣơng đã lạm

dụng quyền của mình để quyết định phân bổ cho các đơn vị ở mức thấp hơn.

Ví dụ: kinh phí dành cho sự nghiệp giáo dục theo Quyết định số 59/2010/QĐ-

TTg ban hành định mức phân bổ dự toán chi thƣờng xuyên ngân sách nhà

nƣớc áp dụng cho năm ngân sách 2011 thì ở khu vực đồng bằng, định mức

phân bổ cho một đầu ngƣời trong độ tuổi đi học là 1.460.800/ngƣời/năm. Ví

dụ tại một địa phƣơng mà ngƣời viết có tham gia thực tế: Một trƣờng trung

học cơ sở với quy mô 500 học sinh chỉ đƣợc phân bổ kinh phí hoạt động

thƣờng xuyên khoảng 50 triệu đồng/năm, do đó nhà trƣờng không thể đảm

bảo việc đầu tƣ tốt vào hoạt động giảng dạy và các hoạt động chuyên môn

khác, đồng thời có thể dễ dẫn đến những vi phạm từ công tác thu chi các

57

nguồn kinh phí xã hội hóa.

Ở một góc độ khác, việc phân bổ kinh phí hoạt động thƣờng xuyên theo

dân số cũng bộc lộ một số bất cập nhƣ thực trạng những địa phƣơng có thu

nhập bình quân trên đầu ngƣời cao, lại thƣờng có dân số đông, từ đó có số thu

phân bổ cho hoạt động sự nghiệp cũng tăng cao, nhƣng trên thực tế lại không

sử dụng hết, đặc biệt là đối với giáo dục và y tế, trong khi đó hai lĩnh vực này

ở những địa bàn còn nghèo lại đang rất cần tăng thêm kinh phí, nhƣng vì số

dân ít nên đƣơng nhiên kinh phí cũng đƣợc phân bổ ít tƣơng ứng. Tuy nhiên,

một số thành phố lớn nhƣ Hà Nội hoặc Thành phố Hồ Chí Minh, tuy thu nhập

bình quân đầu ngƣời thuộc diện cao nhất nƣớc, nhƣng ngƣời dân thuộc diện

tạm trú không đăng ký lại rất đông, không có căn cứ để đƣợc phân bổ thêm

kinh phí theo thực tế mà chỉ đƣợc thêm theo dạng “khoán”, nên áp lực chi đối

với sự nghiệp giao thông, y tế và giáo dục lại rất lớn.

Hai là, về phƣơng thức cũng nhƣ số chi bổ sung từ ngân sách cấp trên

hiện nay cũng chƣa đảm bảo sự minh bạch. Hiện nay theo quy định của Luật

Ngân sách Nhà nƣớc, việc bổ sung kinh phí từ ngân sách cấp trên xuống ngân

sách cấp dƣới đƣợc thực hiện dƣới hai hình thức là bổ sung cân đối và bổ

sung có mục tiêu. Ngoài việc xác định số bổ sung cân đối thiếu căn cứ cụ thể

nhƣ đã phân tích ở trên, thì các quyết định bổ sung có mục tiêu lại còn thiếu

minh bạch hơn. Ngoài những nội dung bổ sung có mục tiêu theo các chƣơng

trình quốc gia đƣợc ghi nhận trong dự toán ngân sách hàng năm hay bổ sung

nhằm giải quyết khắc phục hậu quả thiên tai, thì nhiều trƣờng hợp việc bổ

sung là dành riêng cho các công trình văn hóa xã hội hay cơ sở hạ tầng của

một số địa phƣơng đã chứng minh rằng phƣơng thức “xin-cho” vẫn còn hiện

hữu mà chƣa đƣợc ngăn chặn hiệu quả. Thậm chí, chính sách thiếu minh bạch

này còn đƣợc quy định khá rõ về cái gọi là “nguồn thu để lại” nhƣ sau:

“Riêng các địa phƣơng có tỷ lệ điều tiết về ngân sách địa phƣơng giảm lớn so

với giai đoạn 2007 – 2010 sẽ đƣợc để lại nguồn thu theo khả năng cân đối của

58

ngân sách trung ƣơng để các địa phƣơng có thêm nguồn lực thực hiện các

nhiệm vụ chi các chƣơng trình mục tiêu quốc gia, các chế độ chính sách do

Trung ƣơng ban hành và các công trình quan trọng trên địa bàn…”

Ba là, về nguyên tắc quản lý ngân sách thì nhiệm vụ chi thuộc ngân sách

cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm tức là cấp nào quyết định chi thì cấp đó

phải đảm bảo cân đối đƣợc nguồn vốn để thực hiện nhiệm vụ chi đó, tuy

nhiên hiện nay thực tế đang nảy sinh ra nhiều bất cập. Một mặt, các địa

phƣơng ngày càng gia tăng các nội dung chi đầu tƣ cơ sở hạ tầng, thông qua

việc sử dụng tối đa quyền huy động vốn theo Điều 8 Luật Ngân sách Nhà

nƣớc mặc dù trên thực tế chƣa thật sự cần thiết, hoặc thậm chí còn sẵn sàng

đề xuất việc xin đƣợc ứng kinh phí ngân sách của năm sau để sử dụng cho

năm trƣớc. Tại sao các địa phƣơng lại nhiệt tình đến thế? Câu trả lời là: ngân

sách địa phƣơng về nguyên tắc luôn đƣợc cân đối bằng nguồn thu bổ sung của

ngân sách trung ƣơng, nên việc vay nợ sẽ có ngân sách trung ƣơng chịu trách

nhiệm, đặc biệt đối với các công trình đƣợc coi là phục vụ lợi ích cộng đồng,

không có khả năng thu hồi vốn thì lại càng dễ thực hiện vì dễ thuyết minh với

cơ quan quản lý cấp trên. Nhƣng mặt khác, thực tế là hiện nay có nhiều khoản

chi do Quốc hội, Chính phủ quyết định nhƣng lại sử dụng nguồn lực của địa

phƣơng hoặc trƣờng hợp cấp tỉnh ban hành kế hoạch chi nhƣng lại yêu cầu

cấp huyện và xã thu xếp kinh phí để thực hiện. Điều này làm cho ngân sách

cấp dƣới bị phá vỡ sự cân đối, đồng thời gặp khó khăn trong thu xếp nguồn

vốn để đảm bảo thực hiện đúng chính sách.

Bốn là, pháp luật có phân định nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ƣơng và

địa phƣơng tƣơng đối rõ, nhƣng giữa các cấp ngân sách ở địa phƣơng thì

không đƣợc quy định cụ thể; do đó, các nhiệm vụ chi hiện nay giữa các cấp

ngân sách địa phƣơng thƣờng có sự trùng lắp giữa các cấp ngân sách, đặc biệt

là các khoản chi có tính chất sự nghiệp, dẫn đến việc phân bổ nguồn lực dành

cho các nhiệm vụ chi không giống nhau tùy theo quan điểm của từng địa

59

phƣơng. Trên thực tế có nhiều địa phƣơng quy định về nội dung này hết sức

chung chung, nên rất khó xác định thực chất thuộc nhiệm vụ của ngân sách

cấp nào.

Năm là, nhiệm vụ chi phân cấp cho ngân sách cấp huyện, cấp xã là tƣơng

đối lớn so với nguồn thu đƣợc phân cấp, hầu hết các đơn vị cấp xã đều phải

nhận trợ cấp từ ngân sách cấp huyện. Đặc biệt, ngân sách xã phải đảm nhiệm

những nhiệm vụ chi thực tế phát sinh lớn nhƣ chi lƣơng cho cán bộ chuyên

trách và công chức cấp xã, phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách cấp xã và

ở thôn, tổ dân phố, chi sự nghiệp đảm bảo xã hội, các khoản chi liên quan mật

thiết đến đời sống của nhân dân trên địa bàn xã nhƣ chi hỗ trợ giáo dục mầm

non, chi xây dựng các công trình phúc lợi nhỏ... Ngân sách cấp xã tuy đƣợc

phân cấp nhiệm vụ chi đầu tƣ XDCB đối với các công trình kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội trên địa bàn nhƣng trên thực tế việc thực hiện phân cấp đó còn

nhiều hạn chế do năng lực của cán bộ cấp xã trong việc quản lý đầu tƣ và xây

dựng tƣơng đối yếu.

Sáu là, chi sự nghiệp môi trƣờng chƣa đƣợc phân cấp cho ngân sách cấp

huyện. Ở tỉnh Ninh Bình, trong mấy năm qua cùng với việc phát triển mạnh

ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, tình trạng ô nhiễm môi trƣờng, ô nhiễm

nguồn nƣớc ở nhiều nơi trong huyện đáng báo động. Để giải quyết vấn đề

này, chính quyền cấp huyện giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, do chƣa đƣợc

phân cấp nhiệm vụ chi sự nghiệp môi trƣờng, nên việc bố trí nguồn ngân sách

huyện để đảm bảo nhiệm vụ cho các hoạt động trong lĩnh vực này là rất khó

khăn. Đối với ngân sách cấp huyện, xã, khoản thu từ thuế tài nguyên, phí bảo

vệ môi trƣờng còn phải cân đối vào để đáp ứng nhiệm vụ chi thƣờng xuyên,

chƣa dành ra phần thích đáng để tái tạo, bảo vệ môi trƣờng.

2.3.3. Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế nêu trên. Có thể liệt

kê một số nguyên nhân chủ yếu nhƣ sau:

- Đối với phân cấp nguồn thu ngân sách

60

Thứ nhất, các nguồn thu đƣợc phân chia 100% cho NSĐP thƣờng là

những sắc thuế có hiệu suất thu thấp và không bền vững, chính quyền địa

phƣơng bị hạn chế về khả năng tăng nguồn thu cho mình ngoài các chính sách

thu do Trung ƣơng quy định. Trong các nguồn thu hiện nay NSĐP đƣợc

hƣởng 100% thì các khoản thu từ đất đai chiếm tỷ trọng khá lớn. Tuy nhiên,

các khoản thu này thƣờng có tính chất thu một lần nhƣ thu từ giao quyền sử

dụng đất.

Thứ hai, địa phƣơng chỉ có quyền quyết định một số loại phí, lệ phí theo

phân cấp của Chính phủ và đƣợc quy định mức thu một số loại phí, lệ phí

trong khung pháp luật hiện hành quy định. Tuy nhiên, nguồn thu từ các loại

phí, lệ phí này trên thực tế là rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 10% tổng thu NSĐP.

Thứ ba, hiện nay khung luật pháp chƣa có quy định về thuế địa phƣơng.

Toàn bộ các vấn đề về thu thuế nào, mức thuế suất bao nhiêu, cơ sở tính thuế

nhƣ thế nào… đều do Trung ƣơng quy định. Mặt khác, trong những năm gần

đây do kinh tế suy giảm, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Chính phủ,

Quốc hội đã ban hành các chính sách miễn, giảm, giãn thời hạn nộp một số

sắc thuế, khoản thu NSNN gây ảnh hƣởng tới nguồn thu của NSĐP trong khi

các nhiệm vụ chi không giảm.

Thứ tư, mặc dù quy định tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng có toàn

quyền quyết định việc phân cấp nguồn thu cho chính quyền cấp huyện, xã

trong phạm vi đƣợc phân cấp nhƣng một số nội dung phân cấp thu cụ thể lại

đƣợc quy định trong Luật NSNN năm 2002 nhƣ: (i) Phân cấp tối thiểu 70%

các khoản thu thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà, đất; thuế môn bài thu

từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ

phí trƣớc bạ nhà, đất cho ngân sách xã, thị trấn; (ii) phân cấp tối thiểu 50%

khoản thu lệ phí trƣớc bạ, không kể lệ phí trƣớc bạ nhà, đất cho ngân sách thị

xã, thành phố thuộc tỉnh.

Thứ năm, việc không quy định cụ thể nguồn thu ở cấp huyện và cấp xã

trong Luật NSNN năm 2002 mà giao cho chính quyền cấp tỉnh quy định đã

61

tạo cho chính quyền tỉnh có đƣợc sự linh hoạt trong điều hành ngân sách, tuy

nhiên hạn chế mức độ chắc chắn và khả năng dự đoán trƣớc về nguồn thu

ngân sách của cấp huyện và cấp xã.

Thứ sáu, việc phân cấp nguồn thu chƣa đi đôi với phân cấp quản lý thu

gây ảnh hƣởng đến nguồn thu của các cấp ngân sách. Chẳng hạn trƣờng hợp

Cục thuế tỉnh quản lý thu một doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang thực hiện

điều tiết 100% số thu về ngân sách cấp tỉnh, trong năm ngân sách nếu có sự

điều chuyển doanh nghiệp đó về huyện thì sẽ thực hiện điều tiết 100% số thu

cho ngân sách cấp huyện. Điều đó gây ảnh hƣởng rất lớn trong việc điều hành

ngân sách, tạo nên cơ chế “xin - cho” các doanh nghiệp trong các cơ quan

quản lý thu giữa tỉnh và huyện.

- Đối với phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách

Thứ nhất, Luật NSNN năm 2002 cho phép các tỉnh đƣợc quyết định phân

cấp nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách trực thuộc (huyện, xã), mặt khác lại

phân cấp cụ thể nhiệm vụ chi đầu tƣ xây dựng các trƣờng phổ thông, điện

chiếu sáng, cấp thoát nƣớc, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình

phúc lợi công cộng cho thị xã, thành phố thuộc tỉnh nên đã phần nào hạn chế

quyền chủ động của chính quyền cấp tỉnh. Đồng thời, việc khống chế các tỷ lệ

cứng đối với chi cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ… đã tạo ra sự

cứng nhắc và kém linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội tại các tỉnh.

Thứ hai, việc thực hiện thời kỳ ổn định ngân sách nhƣ hiện hành cũng làm

hạn chế nguồn lực của các tỉnh do các tỉnh tăng thu thì đƣợc tăng chi trong

thời kỳ ổn định ngân sách (từ 3 đến 5 năm) song qua mỗi thời kỳ ổn định thì

tỷ lệ điều tiết về NSTW bắt buộc phải tăng lên.

Thứ ba, phân cấp chi ngân sách chƣa gắn liền với việc cung cấp các dịch

vụ công cộng ở địa phƣơng mà chủ yếu vẫn đƣợc phân bổ dựa trên hệ thống

tiêu chí, định mức phân bổ ngân sách theo yếu tố đầu vào, chƣa tính đến hiệu

quả đầu ra của các nhiệm vụ chi, hiệu quả phân bổ chƣa cao, gây thất thoát,

62

lãng phí.

Thứ tư, mặc dù Luật NSNN năm 2002 quy định không đƣợc dùng ngân

sách của cấp này để chi nhiệm vụ của cấp khác (trừ trƣờng hợp đặc biệt theo

quy định của Chính phủ) nhƣng thực tế nhiều địa còn phải hỗ trợ thêm kinh

phí cho các cơ quan Trung ƣơng ở địa phƣơng (cơ quan tƣ pháp, công an,

quân đội) để thực hiện nhiệm vụ chung trên địa bàn. Mặt khác, mức hỗ trợ và

đối tƣợng hỗ trợ giữa các tỉnh khác nhau đã gây áp lực cho NSĐP, đặc biệt là

các tỉnh còn phải nhận hỗ trợ từ NSTW.

- Phân cấp chƣa dựa trên cơ sở tăng cƣờng năng lực quản lý, hỗ trợ điều

kiện, cơ sở vật chất cho cấp dƣới. Năng lực, trình độ cán bộ quản lý tài chính,

ngân sách chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là

63

cán bộ quản lý tài chính ngân sách xã.

Tiểu kết chƣơng 2

Chƣơng này đã đi sâu phân tích thực tiễn thi hành pháp luật về phân cấp

quản lý ngân sách nhà nƣớc tại huyện Nho Quan và thu đƣợc một số kết quả:

Nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấp chính quyền ở địa phƣơng đã đƣợc

quy định cụ thể, rõ ràng. Chính quyền địa phƣơng đã bƣớc đầu chủ động

trong việc xây dựng và phân bổ ngân sách cấp mình, chủ động khai thác tiềm

năng, thế mạnh của địa phƣơng, đặc biệt là cấp xã đã chủ động, linh hoạt hơn

và từng bƣớc phân cấp mạnh nguồn thu và nhiệm vụ chi cho cấp của mình.

Bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, việc thi hành pháp luật về phân cấp

quản lý ngân sách nhà nƣớc vẫn còn một số hạn chế về thẩm quyền của các

cơ quan nhà nƣớc thực hiện phân cấp ngân sách và hoạt động phân cấp quản

lý ngân sách nhà nƣớc.

Khi phân tích các thực trạng trên, tác giả đều xem xét dựa trên văn bản

quy phạm pháp luật về phân cấp và đánh giá triển khai thực hiện phân cấp

quản lý ngân sách nhà nƣớc trên thực tế.

Từ đó đánh giá đƣợc những kết quả đạt đƣợc và hạn chế trong việc thi

hành pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc ở huyện Nho Quan

hiện nay và chỉ ra đƣợc các nguyên nhân của hạn chế. Những đánh giá về

thực trạng là căn cứ thực tiễn để tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp

64

luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc trong thời gian tới.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC – TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN NHO QUAN, TỈNH NINH BÌNH

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nƣớc

Thứ nhất, thiết kế lại hệ thống NSNN: Cần tách bạch rõ ràng các cấp ngân

sách. Sửa đổi cơ chế phân cấp theo hƣớng tạo quyền chủ động hơn cho địa

phƣơng trong phân bổ và quyết định ngân sách. Ngân sách phải đƣợc phân bổ

trên cơ sở đo lƣờng kết quả đầu ra một cách chính xác. Phân cấp cũng cần

xem xét đến điều kiện, năng lực thực tế từng địa phƣơng và cơ chế để thực

hiện các dự án đầu tƣ mang tính liên khu vực.

Thứ hai, phân cấp các khoản thu cần dựa trên nguyên tắc “lợi ích”, nghĩa

là tăng thu của NSĐP phải đi kèm với việc cải thiện chất lƣợng dịch vụ công

do địa phƣơng có cung cấp. Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi

ích tối thiểu cần thiết của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững có

kỷ cƣơng, trật tự. Do vậy, tăng thu NSĐP, chủ yếu là các khoản thuế do nhân

dân ĐP đóng, thì chính quyền địa phƣơng cần phải đặt lợi ích của nhân dân

lên trên hết. Phải nâng cao, cải thiện chất lƣợng dịch vụ công do địa phƣơng

cung cấp để nâng cao đƣợc mức sống của ngƣời dân và xứng đáng với các

mức đóng góp vào NSNN của nhân dân.

Thứ ba, đổi mới quy trình lập, phân bổ, chấp hành và quyết toán ngân sách:

Quy trình ngân sách theo kiểu truyền thống dựa trên cơ sở tổng nguồn lực hiện

có và hệ thống các chế độ, tiêu chuẩn, định mức hiện hành để xây dựng dự toán

và phân bổ ngân sách, dẫn đến hiệu quả quản lý ngân sách thấp, không gắn giữa

kinh phí đầu vào với kết quả đầu ra, chỉ quan tâm đến lợi ích trớc mắt, không có

tầm nhìn trung hạn, ngân sách bị phân bổ dàn trải, hiệu quả sử dụng nguồn lực

thấp. Cần đổi mới một cách cơ bản quy trình này theo tƣ duy và phƣơng pháp

65

hiện đại, dựa vào kết quả đầu ra và gắn với tầm nhìn trung hạn.

Thứ tư, cần kiên định chủ trƣơng tăng cƣờng tính tự chủ của ngân sách địa

phƣơng bằng cách tăng dần các nguồn thu cho địa phƣơng. Thực tiễn phân

cấp ngân sách ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những nƣớc phát triển cho thấy,

việc phi tập trung hóa bằng cách tăng cƣờng khả năng thu và chi cho ngân

sách cấp dƣới đem lại nhiều hiệu quả tích cực và hoàn toàn không làm xói

mòn sự ổn định của ngân sách. Với mô hình thiết kế các nguồn thu nhƣ hiện

nay, thực tế đã cho thấy hầu hết các địa phƣơng không thể tự cân đối đƣợc,

điều đó cho thấy cần có những khảo sát, đánh giá cụ thể để đƣa ra phƣơng

thức mới hoặc cơ cấu lại các nguồn thu sao cho trong từ 5 đến 10 năm tới sẽ

có từ 50% đến 60% số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng có thể cân đối

đƣợc nguồn thu đáp ứng nhiệm vụ chi.

Thứ năm, cần nghiên cứu bãi bỏ mô hình ngân sách địa phƣơng lồng ghép

hiện nay vì mô hình này thƣờng dẫn đến việc lạm quyền của cấp trên trong

việc điều hành ngân sách. Trong trƣờng hợp giữ lại mô hình này thì cần đƣợc

tiếp tục hoàn thiện bằng việc tăng cƣờng nguồn thu cho ngân sách huyện và

xã cũng nhƣ đề ra các nguyên tắc nhằm phân định rõ ràng nguồn thu và nhiệm

vụ chi của các cấp ngân sách địa phƣơng.

Thứ sáu, cần tăng cƣờng công tác giám sát và hƣớng dẫn của cơ quan tài

chính cấp trên đối với quá trình ngân sách nhà nƣớc nói chung trong đó đặc

biệt là ngân sách địa phƣơng nhằm đảm bảo phát huy đƣợc ý nghĩa của việc

phân cấp ngân sách, đồng thời cần tăng cƣờng nội dung và chất lƣợng kiểm

toán nhà nƣớc đối với ngân sách cấp huyện và xã.

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nƣớc – từ thực tiễn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật đối với cơ quan quản lý nhà nước thực hiện

việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Một là, quy định rõ về thẩm quyền ngân sách của 3 cấp Hội đồng nhân

dân, đồng thời không trao hết thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân cấp

66

tỉnh quyết định phân cấp nguồn thu, đặc biệt là tỷ lệ phân chia các khoản thu

của từng cấp ngân sách ở địa phƣơng, trao cho Hội đồng nhân dân các cấp

quyết định tỷ lệ phân chia các khoản thu của địa phƣơng mình; đồng thời Hội

đồng nhân dân các cấp đƣợc quyết định các chế độ chi ngân sách để phù hợp

với tình hình thực tế của từng địa phƣơng.

Hai là, trao cho địa phƣơng quyền tự chủ cao hơn trong quyết định và

quản lý nguồn thu: Quyền tự chủ về thu bao gồm quyền thay đổi thuế suất

một số sắc thuế, hoặc ở mức tự chủ cao hơn là địa phƣơng có thể tự định ra

sắc thuế của riêng mình. Trong điều kiện cụ thể của Nho Quan nói riêng và

Việt Nam nói chung, việc để địa phƣơng tự định ra các sắc thuế của riêng

mình là không khả thi, bởi vì điều này có thể tạo ra sự cạnh tranh về thuế giữa

các địa phƣơng và khuyến khích việc di chuyển của hàng hóa và dịch vụ sang

những địa phƣơng có lợi về thuế, do đó sẽ làm thay đổi phân bố sản xuất và

tiêu dùng, mở rộng khoảng cách bất bình đẳng giữa các địa phƣơng. Trƣớc

mắt có thể thí điểm áp dụng cho phép chính quyền địa phƣơng đƣợc tự quyết

định thuế suất đối với một số loại thuế trong khung thuế suất do Trung ƣơng

quyết định. Thông thƣờng, nhiều nƣớc trên thế giới lựa chọn thuế đánh vào

đất đai, tài sản (nhƣ thuế nhà đất, tiền cho thuê đất) làm loại thuế của địa

phƣơng. Để khắc phục sự chênh lệch giữa các địa phƣơng, Chính phủ có thể hạn

chế quyền tự chủ này bằng cách đặt ra mức trần cho các loại thuế nói trên.

Ba là, tăng cƣờng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài chính ở

cấp địa phƣơng, thực hiện nghiêm kỷ luật tài khóa: Việc đẩy mạnh phân cấp

quản lý ngân sách chỉ có thể đạt đƣợc mục tiêu mong muốn nếu đƣợc gắn liền

với việc tăng cƣờng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài chính ở

cấp địa phƣơng. Tăng cƣờng tính minh bạch, công khai trong quản lý ngân

sách ở các cấp chính quyền, đồng thời tăng cƣờng hoạt động kiểm tra, giám

sát của các cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo đảm tính hiệu quả của quản lý

ngân sách. Tăng cƣờng trách nhiệm giải trình của mỗi cấp chính quyền trong

quản lý ngân sách không chỉ với cấp trên mà trƣớc hết là với trƣớc Hội đồng

67

nhân dân và ngƣời dân ở địa phƣơng đó.

Bốn là, mở rộng quyền tự chủ của địa phƣơng trong quyết định chi tiêu:

Cho phép chính quyền địa phƣơng tự chủ ở một mức độ thích hợp trong việc

ra các quyết định chi tiêu theo ƣu tiên của địa phƣơng. Việc đặt ra những ƣu

tiên chi tiêu của địa phƣơng phải phù hợp với chiến lƣợc và mục tiêu phát

triển của quốc gia. Việc mở rộng quyền tự chủ của địa phƣơng trong các

quyết định chi tiêu sẽ dựa trên nguyên tắc chi tiêu đƣợc thực hiện ở cấp chính

quyền nào trực tiếp cung ứng dịch vụ công có hiệu quả nhất. Tránh tình trạng

cùng một nhiệm vụ chi đƣợc phân ra cho quá nhiều cấp mà không có sự xác

định ranh giới rõ ràng, dẫn đến chỗ không quy đƣợc trách nhiệm giải trình và

sự chồng chéo, đùn đẩy giữa các cấp chính quyền.

Năm là, cần có cơ chế để từng bƣớc tăng sự tự chủ về tài chính cho chính

quyền địa phƣơng, đặc biệt là những nguồn thu địa phƣơng đƣợc hƣởng

100%, gắn với việc quản lý và cung ứng dịch vụ công tại địa phƣơng. Cụ thể:

Từng bƣớc tăng cƣờng vai trò của thuế nhà, đất trong việc tạo nguồn thu cho

chính quyền địa phƣơng. Nghiên cứu xem xét tăng mức thuế suất để phát huy

vai trò của sắc thuế này trong nền kinh tế, nghiên cứu đánh thuế đối với nhà ở

nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên, việc thu thuế vào nhà, đất là rất nhạy

cảm nên cần có sự đồng thuận cao trong xã hội. Nghiên cứu hƣớng dẫn điểm

c khoản 3 điều 5 của Luật Đất đai về việc điều tiết phần giá trị tăng thêm từ

đất mà không do đầu tƣ của ngƣời sử dụng đất mang lại để tạo thêm nguồn

thu chủ động cho địa phƣơng. Hoàn thiện hệ thống phí, lệ phí; xây dựng mức

thu, chế độ và phƣơng pháp thu hợp lý, thống nhất theo hƣớng đơn giản, hiệu

quả. Nghiên cứu ban hành Luật Phí, lệ phí thay thế Pháp lệnh Phí, lệ phí theo

hƣớng phân định rõ phí và lệ phí; tăng cƣờng phân cấp cho các địa phƣơng

trong việc quyết định các khoản thu phí, lệ phí gắn với chức năng quản lý nhà

nƣớc của chính quyền địa phƣơng; quy định rõ về thẩm quyền ban hành danh

mục, khung và mức phí, lệ phí cụ thể cũng nhƣ thẩm quyền hƣớng dẫn, quản

68

lý sử dụng phí, lệ phí.

Sáu là, quy định cụ thể phƣơng thức bổ sung từ ngân sách cấp trên cho

ngân sách cấp dƣới theo nguyên tắc nhiệm vụ chi thuộc địa phƣơng nào địa

phƣơng đó phải sắp xếp kinh phí để thực hiện, nếu còn thiếu thì ngân sách cấp

trên mới hỗ trợ để thực hiện mục tiêu trên. Ngân sách các cấp địa phƣơng sẽ

đƣợc bổ sung thềm nguồn thu hỗ trợ từ ngân sách nhà nƣớc trong trƣờng hợp

tổng nguồn thu của địa phƣơng đó không đủ cho các nhiệm vụ chi. Nhƣng ở

đây vấn đề cần đƣợc quan tâm là khi nào ngân sách nhà nƣớc sẽ chi bổ sung

cho ngân sách địa phƣơng. Nếu nhƣ, chỉ cần ở ngân sách địa phƣơng không

đủ thì ngân sách nhà nƣớc sẽ hỗ trợ ngay thì khi đó sẽ rất dễ xảy ra tình trạng

địa phƣơng ở trong tình thế bị động và chỉ chờ kinh phí từ cấp trên mà không

thể tận dụng đƣợc hết khả năng nhạy bén, linh hoạt của bộ máy chính quyền ở

cấp địa phƣơng trong hoạt động phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách

nhà nƣớc.

Hoàn thiện pháp luật phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc trên cơ ở kế

thừa có chọn lọc những quy định trong pháp luật ngân sách hiện hành, đảm

bảo phù hợp với thực tiễn và hệ thống pháp luật của Việt Nam và phù hợp với

thông lệ quốc tế. Luật ngân sách nhà nƣớc cần đƣợc đảm bảo tiếp thu những

thành tựu của các đạo luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc trƣớc đó

đồng thời có những điều chỉnh hợp lý nhằm khắc phục những hạn chế của

pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách cũ. Việc ban hành các quy định pháp

luật về phân cấp ngân sách phải đảm bảo luôn phù hợp với thực tiễn kinh tế,

xã hội đất nƣớc.

Hoàn thiện các quy định về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc do cơ

quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh trong quá trình phân định trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan

nhà nƣớc có thẩm quyền trong lĩnh vực ngân sách nhà nƣớc và các quan hệ xã

hội phát sinh trong quá trình thực hiện việc phân cấp nguồn thu và chi của

69

ngân sách các cấp.

Hoàn thiện quy định pháp luật về việc phân bổ nguồn thu và nhiệm

vụ chi cho từng cấp ngân sách địa phƣơng phải phù hợp với phân cấp

nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và phù hợp với đặc điểm

của từng vùng cũng nhƣ đối với trình độ quản lý của từng địa phƣơng.

Trình độ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của mỗi vùng là khác nhau

cũng nhƣ trình độ quản lý của từng địa phƣơng là khác nhau. Có địa

phƣơng mạnh về lĩnh vực kinh tế - xã hội này, có địa phƣơng mạnh về

lĩnh vực kinh tế - xã hội khác và quốc phòng, an ninh cũng vậy, hay nói

cách khác, tùy thuộc vào điều kiện của từng địa phƣơng, cấp địa phƣơng

mà việc phân bổ nguồn thu, nhiệm vụ chi cũng có sự khác nhau và phải

dựa vào đó để thực hiện. Nhƣ vậy, sẽ giúp cho ngân sách địa phƣơng

hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội của mình đồng thời hỗ trợ vốn

cho các địa phƣơng miền núi, vùng dân tộc và thực hiện các chƣơng trình

mục tiêu quốc gia, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chế độ đối với gia đình

chính sách, ngƣời có công, cán bộ hƣu trí.

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách

- Hoàn thiện pháp luật về phân cấp nguồn thu

Một là, cần sửa đổi quy định tại điểm b, khoản 1, điều 34, Luật NSNN

năm 202 về mức để lại tối thiểu 70% một số nguồn thu cho ngân sách xã, thị

trấn theo hƣớng: đối với các xã, thị trấn có khả năng đảm bảo cân đối thu, chi

thì Hội đồng nhân dân tỉnh có quyền điều chỉnh giảm tỷ lệ xuống dƣới 70%

cho phù hợp.

Hai là, cần sửa đổi quy định tại điểm d, khoản 1, điều 32, Luật NSNN

năm 2002 về nguồn thu từ đấu giá đất là nguồn thu phân chia giữa ngân sách

trung ƣơng và ngân sách địa phƣơng để đảm bảo điều tiết nguồn lực từ đất đai

một cách hài hòa giữa các địa phƣơng. Việc trung ƣơng điều tiết nguồn thu về

đất cũng không làm ảnh hƣởng gì đến những địa phƣơng còn lại vì hầu hết họ

70

đều có tỷ lệ điều tiết các nguồn thu phân chia là 100%.

Ba là, cần sửa đổi quy định tại điểm k, khoản 1, điều 32, Luật NSNN năm

2002 về nguồn thu từ hoạt động xổ số kiến thiết là nhƣ thế nào, bao gồm

những khoản thu gì? Đồng thời quy định cụ thể nguyên tắc hạch toán nguồn

thu xổ số kiến thiết vào ngân sách nhà nƣớc theo đúng quy định, cùng nhƣ

nguyên tắc sử dụng nguồn thu từ xổ số kiến thiết.

Bốn là, cần sửa đổi quy định tại điểm d, khoản 1, điều 30, Luật NSNN năm

2002, phân hóa các doanh nghiệp hạch toán toàn ngành thành 2 nhóm: một

nhóm số ít các đơn vị không liên quan quá nhiều đến các địa phƣơng hoặc có

số thuế thu nhập doanh nghiệp không lớn thì nguồn thu thuế thu nhập doanh

nghiệp sẽ thuộc nguồn thu 100% của ngân sách trung ƣơng (ví dụ nhƣ hàng

không, bảo hiểm, đƣờng sắt), còn các đơn vị còn lại có liên quan mật thiết đến

địa phƣơng (nhƣ bƣu chính viễn thông, ngân hàng, điện lực) thì thuế thu nhập

là nguồn thu phân chia giữa trung ƣơng và địa phƣơng. Có nhƣ vậy ngân sách

của địa phƣơng mới giảm sự lệ thuộc vào nguồn bổ sung của trung ƣơng.

Năm là, quy định cụ thể các nguồn thu đối với từng cấp chính quyền địa

phƣơng nhƣng có cơ chế điều hòa theo chiều ngang giữa ngân sách cấp xã,

cấp huyện trong một tỉnh. Theo đó, vẫn tiếp tục phân cấp các khoản thu này

cho ngân sách cấp xã, thị trấn và khoản thu lệ phí trƣớc bạ (không kể thuế

trƣớc bạ nhà, đất) cho thị xã, thành phố thuộc tỉnh, song việc quyết định tỷ lệ

để lại cụ thể cho ngân sách xã, thị trấn; thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội

đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định theo tình hình thực tế địa phƣơng nhằm tăng

tính chủ động cho địa phƣơng trong việc thực hiện các nhiệm vụ của mình.

- Hoàn thiện pháp luật về phân cấp chi ngân sách

Một là, hoàn thiện các quy định về phân định nhiệm vụ chi giữa các cấp

ngân sách phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cấp chính quyền theo

phân cấp quản lý kinh tế - xã hội (phân loại về các cấp chính quyền địa

phƣơng; cơ cấu tổ chức, trong đó quy định rõ vai trò và trách nhiệm của các

tổ chức, cơ quan; mức độ độc lập trong quản lý điều hành của chính quyền địa

71

phƣơng...). Hạn chế việc cùng một nhiệm vụ chi đƣợc phân ra cho quá nhiều

cấp mà không có ranh giới rõ ràng, dẫn đến sự chồng chéo, không quy đƣợc

trách nhiệm giải trình giữa các cấp chính quyền. Yếu tố cơ bản nhất để có

đƣợc sự thành công của một hệ thống phân cấp là đảm bảo nhiệm vụ chi đƣợc

xây dựng phù hợp với trách nhiệm cung cấp các dịch vụ công đƣợc giao.

Hai là, gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phƣơng với hiệu quả

chi NSNN trong khuôn khổ pháp luật về quản lý ngân sách.

Hiệu quả của chi tiêu NSNN là một khái niệm mang tính chuẩn tắc mà mọi

quốc gia cần phải hƣớng tới và có thể đƣợc hiểu một cách khá thống nhất, đó

là cùng một lƣợng vốn đầu vào có thể tạo ra đƣợc một lƣợng đầu ra tối ƣu.

Tính hiệu quả chi NSNN phải thể hiện ở Dự toán NSNN phải phản ánh trung

thực nhu cầu chi tiêu và bảo đảm việc chi tiêu đó mang lại hiệu quả trên thực

tế. Đối với các dự án đầu tƣ nhằm mục đích phát triển kinh tế khu vực, không

phải dự án nào cũng đạt hiệu quả kinh tế, tuy nhiên, cũng cần đặt ra tiêu chí

để hạn chế việc các cơ quan có thẩm quyền lạm dụng quyền quyết định đầu tƣ

làm thất thoát vốn NSNN. Còn đối với hoạt động đầu tƣ vào các lĩnh vực phi

lợi nhuận là lĩnh vực giáo dục, y tế và an sinh xã hội, thì hiệu quả chi NSNN

chỉ có thể đánh giá đƣợc thông qua sự thay đổi về chất lƣợng của dịch vụ

công và sự thay đổi của dịch vụ y tế, giáo dục đƣợc cung cấp. Việc phân bổ

nguồn thu để thực hiện các hoạt động này cần phải dựa trên kết quả điều tra

xã hội học và thẩm định phƣơng án đầu tƣ cũng nhƣ đánh giá chất lƣợng dịch

vụ cung cấp sau đầu tƣ để làm căn cứ khắc phục những thiếu sót trong quyết

định đầu tƣ gây thất thoát cho NSNN. Nếu chỉ chú ý mở rộng thẩm quyền

phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các chính quyền địa phƣơng mà

không chú ý tới trách nhiệm của các cấp chính quyền sẽ rất dễ dẫn đến tính

trạng phân phối ngân sách một cách vô tổ chức, dẫn tới sử dụng ngân sách

không đạt hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nƣớc. Hiện nay

tình trạng “địa phƣơng quyết định dự án đầu tƣ, trung ƣơng lo vốn” vẫn còn

thƣờng xuyên xảy ra đã gây ảnh hƣởng không nhỏ đến việc thực hiện thu, chi

72

ngân sách ở địa phƣơng, làm giảm tính linh hoạt trong hoạt động tổ chức thực

hiện pháp luật quản lý ngân sách của bộ máy chính quyền địa phƣơng trong

việc thu chi ngân sách. Vì vậy, cần xây dựng cơ chế rằng buộc trách nhiệm

đối với các cấp ngân sách địa phƣơng, giúp các cấp chính quyền tự giác hơn

trong hoạt động phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chia ngân sách nhà nƣớc và

hoạt động thực hiện pháp luật quản lý ngân sách ở địa phƣơng mình.

Ba là, cần xác định rõ nguyên tắc bổ sung có mục tiêu của ngân sách cấp

trên cho ngân sách cấp dƣới: bổ sung trong trƣờng hợp nào? Do ai quyết

định? Có cần đƣợc sự phê chuẩn của Hội đồng nhân dân để bổ sung vào dự

toán hay không? Thêm nữa, cần dứt khoát chấm dứt tình trạng còn các khoản

thu “để lại” nhƣ hiện nay, vì điều đó không những không đảm bảo tính minh

bạch, mà còn trao quyền cho Bộ Tài chính quyết định định mức bổ sung, mà

đúng ra phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội hoặc của Thủ tƣớng Chính phủ

(trong những trƣờng hợp đột xuất).

Bốn là, cần bổ sung quy định về tăng thêm các nhiệm vụ chi theo hƣớng

nếu phân công thêm các nhiệm vụ chi thì cần phải đƣợc đánh giá thận trọng

về nguồn thu nhằm đảm bảo nguyên tắc thêm nhiệm vụ thì phải thêm nguồn

thu để tránh tình trạng co kéo ngân sách, mất cân đối ngân sách và làm giảm

sút hiệu quả chi tiêu công.

3.2.3. Các giải pháp khác

3.2.3.1. Hoàn thiện việc tổ chức thi hành pháp luật quản lý ngân sách nhà nước

- Kiện toàn bộ máy quản lý ngân sách nhà nước và hoàn thiện các quy

định về tuyển dụng, sử dụng và xử lý vi phạm đối với đội ngũ cán bộ, công

chức thực hiện quản lý ngân sách nhà nước.

Xây dựng bộ máy quản lý NSNN có trách nhiệm, quyền hạn trong nội bộ

hệ thống dọc của cơ cấu bộ máy và các quy định quan hệ ngang với các tổ

chức, đơn vị ở địa phƣơng để phối hợp quản lý NSNN. Xây dựng bộ máy

quản lý NSNN gọn nhẹ theo tinh thần cải cách hành chính nhƣng làm việc có

73

hiệu quả, tổ chức cơ cấu các bộ phận quản lý hợp lý với một số cán bộ có

năng lực và số lƣợng vừa đủ. Đồng thời, trang bị đầy đủ các phƣơng tiện kỹ

thuật hiện đại cần thiết cho bộ máy quản lý NSNN hoạt động có hiệu quả.

Hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, sử dụng bảo đảm hợp lý, hiệu quả cả về số

lƣợng và cơ cấu cán bộ, công chức quản lý ngân sách chuyên trách, kiêm

nhiệm; phát triển năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức: tăng cƣờng, chuẩn

hoá kiến thức, kỹ năng, hành vi và thái độ của cán bộ, công chức nhƣ: Nâng

cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, nhận thức chính trị, phẩm

chất đạo đức và bản lĩnh của cán bộ, công chức quản lý ngân sách; tạo lập

môi trƣờng học tập, chia sẻ kinh nghiệm công tác. Đồng thời, quy định chi tiết

xử lý vi phạm đối với các cán bộ, công chức trong việc tổ chức pháp luật về

quản lý ngân sách, để đảm bảo tính hiệu quả trong quản lý ngân sách.

- Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý

Bên cạnh tƣ tƣởng chính trị vững vàng thì việc nâng cao trình độ chuyên

môn công tác là một việc làm cần thiết. Xã hội ngày càng phát triển, xuất hiện

nhiều tiến bộ khoa học công nghệ làm thay đổi mọi mặt của đời sống, vì vậy

luôn cần đƣợc học hỏi tu luyện để nâng cao nghiệp vụ hoàn thành tốt mọi

công việc đƣợc giao. Một số giải pháp để nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ

trong thời gian này cần tập trung là:

+ Tổ chức tập huấn nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đƣa các áp dụng hệ

thống phần mền vào quản lý nhằm giúp quản lý có hiệu quả hơn.

+ Thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ đại học chính

quy về làm việc cho chính quyền địa phƣơng bằng các chế độ đãi ngộ hợp lý,

trẻ hóa đội ngũ cán bộ ở địa phƣơng và tạo một phong cách làm việc mới mẻ,

trẻ trung nhƣng cũng rất vững vàng về nghiệp vụ cũng nhƣ lý luận chính trị.

+ Đối với các cán bộ có tuổi, có nhiều kinh nghiệm trong công việc cần đƣợc

tạo điều kiện trong công việc với chủ trƣơng đào tạo cho lớp trẻ kế cận. Đây là

công việc quan trọng vì với những kiến thức thực tế ngoài cuộc sống tầng lớp cán

bộ trẻ chƣa lĩnh hội nhiều. Vì thế cần tổ chức nhiều cuộc họp cán bộ bàn về vấn đề

74

đào tạo cán bộ trẻ trong đó kinh nghiệm của các bậc đi trƣớc là rất cần thiết.

+ Đặc biệt hiện nay cán bộ tài chính cấp xã còn yếu, chủ yếu đƣợc đào tạo

qua các trƣờng trung cấp. Vì vậy cần có chính sách quan tâm hơn nữa đến đội

ngũ này phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý NS.

- Đẩy mạnh các biện pháp hành chính nhằm xây dựng hệ thống tổ chức

thực hiện pháp luật về quản lý thu ngân sách

Xây dựng bộ máy hành chính quản lý ngân sách tinh giản, hiệu quả. Phân

công nhiệm vụ rõ ràng giữa các cấp chính quyền, đơn vị thu nhằm thực hiện

đồng bộ các biện pháp quản lý hành thu đối với từng khoản thu, sắc thuế, từng

địa bàn, từng đối tƣợng nộp thuế. Thu hẹp các đầu mối quản lý trực tiếp và

các khâu chức năng mang tính phục vụ nội ngành để tập trung nguồn nhân lực

cho các bộ phận chức năng quản lý thuế chủ yếu nhƣ tuyên truyền - hỗ trợ,

thanh tra - kiểm tra, xử lý tờ khai dữ liệu thuế... Mở rộng ủy nhiệm thu để thu

hẹp, tiến tới giải thể phòng trƣớc bạ, phòng quản lý doanh nghiệp dân

doanh…

Đẩy mạnh cải cách hành chính - hiện đại hóa công tác thu ngân sách. Xây

dựng cơ sở dữ liệu đối với đối tƣợng nộp thuế; Rà soát để mở rộng có chọn

lọc các doanh nghiệp có đủ điều kiện đƣa vào diện thực hiện cơ chế tự khai -

tự nộp thuế. Thƣờng xuyên đánh giá lại quy trình, thủ tục về thuế để đề xuất,

kiến nghị nhà nƣớc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế, tránh gây phiền

hà cho tổ chức, cá nhân nộp thuế…

Tăng cƣờng biện pháp quản lý đối tƣợng chịu thuế. Phối hợp với các

ngành liên quan, tổ chức giám sát chặt chẽ việc đăng ký thuế, kê khai thuế,

tình hình nộp thuế trên địa bàn để có những biện pháp kịp thời đôn đốc, xử lý

mọi vi phạm pháp luật, đảm bảo thu đầy đủ, kịp thời các nguồn thu phát sinh,

các khoản thuế nợ đọng vào NSNN...

Nâng cao chất lƣợng công tác tuyên truyền thuế. Tăng cƣờng đối thoại,

tập huấn chính sách, chế độ và các thủ tục hành chính thuế, giải quyết kịp thời

vƣớng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế. Thƣờng xuyên thực hiện

75

thăm dò nhu cầu và tổ chức các lớp tập huấn miễn phí phổ biến về chính sách

thuế cho từng đối tƣợng, tích cực tuyên truyền thuế qua phƣơng tiện thông tin

đại chúng, báo đài...

Quản lý con ngƣời, phòng chống tiêu cực trong công tác thu NSNN trên

địa bàn. Đầu tƣ tăng cƣờng công tác đào tạo bồi dƣỡng cán bộ nhằm nâng cao

trình độ nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng giao tiếp ứng xử đối với ngƣời nộp

thuế, khả năng ứng dụng tin học trong công tác quản lý thuế của cán bộ công

chức. Việc sử dụng chế độ luân phiên các cán bộ thuế cũng rất đáng lƣu tâm,

không để cho các cán bộ và các đối tƣợng nộp thuế có thời gian, điều kiện

móc ngoặc nảy sinh tiêu cực.

- Đảm bảo tính đồng bộ giữa các quy định về tổ chức chính quyền địa

phương quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương với các thiết

chế về phân cấp ngân sách theo Luật Ngân sách nhà nước.

Phân cấp ngân sách phải có sự đồng bộ và đƣợc đặt trong tổng thể mối

quan hệ về phân cấp các lĩnh vực quản lý nhà nƣớc khác có ảnh hƣởng đến

kết quả triển khai phân cấp ngân sách, đặc biệt là việc xác định nhiệm vụ và

quyền hạn của chính quyền địa phƣơng các cấp; đồng thời phƣơng thức phân

cấp ngân sách cũng phải phù hợp với đặc điểm của từng cấp chính quyền

(nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt). Để đạt đƣợc

yêu cầu này, Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng cần quy định cụ thể về

quyền hạn và trách nhiệm của HĐND và UBND các cấp đối với vấn đề liên

quan đến việc quản lý nguồn lực NSNN, trong đó phải bao quát đƣợc các

khâu của quy trình ngân sách.

- Nâng cao công tác giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật quản lý

ngân sách một cách chặt chẽ

Giám sát và đánh giá chính là cơ chế hữu hiệu để điều chỉnh và xử lý

những sai sót có thể có nhằm đảm bảo đạt đƣợc các mục tiêu đề ra. Giám sát

và đánh giá có rất nhiều ý nghĩa đối với việc nâng cao hiệu quả của việc tổ

chức thực hiện pháp luật. Đó là công cụ để kiểm soát việc thực hiện pháp luật

76

và đặc biệt là để hạn chế sự lạm quyền của các công chức, viên chức trong

quá trình tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp luật quản lý ngân sách

nhà nƣớc. Giám sát cũng tạo ra áp lực để các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm

tổ chức thực hiện pháp luật quản lý ngân sách phải thực hiện theo đúng bổn

phận của mình, tránh trƣờng hợp trễ nải trong việc thực hiện nhiệm vụ. Và

giám sát, đánh giá cũng là công cụ để thu thập phản hồi nhằm điều chỉnh bản

thân các quy định của văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngân sách.

Trong công tác giám sát ngân sách nhà nƣớc thời gian qua, thì hoạt động này

vẫn còn những hạn chế nhất định nhƣ chất lƣợng chƣa cao, còn tình trạng nể

nang, né tránh, chƣa thực sự mang tính xây dựng và thúc đẩy công tác quản lý

và điều hành ngân sách nhà nƣớc có hiệu quả. Để thực hịên tốt các nội dung,

hình thức và phƣơng pháp giám sát thì cần tăng cƣờng sự phối hợp giữa Quốc

hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Sau giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân

dân cấp tỉnh cần có kiến nghị xác đáng với Chính phủ, Uỷ ban nhân dân trong

việc chấp hành Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết của Hội đồng nhân

dân; xử lý các kiến nghị sau giám sát.

Hoàn thiện pháp luật về giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật về quản

lý ngân sách, trƣớc tiên là hoàn thiện các quy định về hoạt động giám sát của

Quốc hội và đặc biệt là HĐND, bổ sung các quy định về quyền hạn của

HĐND trong việc giám sát đối với hoạt động quản lý ngân sách nhà nƣớc.

3.2.3.2. Thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nước

Thứ nhất, thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về phân cấp nguồn

thu thuế

- Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra. Đẩy mạnh công tác thanh

tra, kiểm tra thuế trên cơ sở thu thập thông tin, phân tích thông tin và phân

loại doanh nghiệp để lựa chọn đúng những đối tƣợng có hành vi gian lận thuế

dƣới mọi hình thức. Tập trung thanh tra, kiểm tra những doanh nghiệp, hộ có

tình trạng thất thu lớn, các doanh nghiệp có dấu hiệu sử dụng hóa đơn bất hợp

77

pháp, chiếm đoạt tiền thuế GTGT và trốn thuế TNDN. Thanh tra nội bộ phải

đƣợc thực hiện quyết liệt, coi đây nhƣ phƣơng pháp thúc đẩy quá trình thanh

tra các đối tƣợng nộp thuế.

- Bổ sung thêm quy định về phối hợp điều tra thuế nhằm nâng cao hơn nữa

hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra thuế kịp thời phát hiện các hành vi vi

phạm pháp luật có tính chất phức tạp, tinh vi. Quy định về điều tra thuế nên

theo hƣớng xác định điều tra thuế là chỉ điều tra hành chính, đồng thời với

quy định về điều tra thuế cần bổ sung các quy định rõ về trách nhiệm của cơ

quan thuế, công chức thuế trƣớc các quyết định của mình.

- Ban hành các quy định hƣớng dẫn một cách cụ thể về vấn đề kiểm tra

tính đầy đủ, chính xác của các tài liệu thông tin trong hồ sơ thuế để tránh tính

trạng cơ quan thuế và doanh nghiệp có cách hiểu khác nhau về trách nhiệm

xác định tính đầy đủ và chính xác trong hồ sơ nộp thuế của ngƣời nộp thuế.

Theo cơ chế quản lý thu thuế tự khai, tự nộp thuế, ngƣời nộp thuế phải chịu

trách nhiệm về những thông tin, tài liệu đã khai trong hồ sơ nộp thuế, việc

kiểm tra của cơ quan thuế và việc chấp nhận tờ khai của cơ quan thuế mới là

các thủ tục chỉ mang tính chất hành chính.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định về mô hình tổ chức thanh tra, kiểm tra

việc thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nói riêng và thực hiện

quản lý NSNN nói chung. Để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong việc thực hiện

chức năng thanh tra, kiểm tra; tạo điều kiện cho các cơ quan thanh tra hoạt

động có hiệu quả cao và theo đúng khuôn khổ pháp luật.

Thứ ba, bổ sung quy định về thanh tra, kiểm tra đột xuất: tiến hành thanh

tra, kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về phân cấp quản lý

NSNN hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quy định phải đƣợc làm rõ đƣợc dấu

hiệu vi phạm về phân cấp quản lý ngân sách để cơ quan quản lý ngân sách

mới có quyền tiến hành thanh tra đột xuất; phải làm rõ đƣợc việc giải quyết

kiếu nai, tố cáo phải đƣợc xác minh và xác định chính xác nhƣ thế nào thì cơ

78

quan quản lý ngân sách mới tiến hành thanh tra đột xuất.

Thứ tư, đẩy mạnh, nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật

ngân sách dƣới nhiều hình thức phong phú. Các cơ quan quản lý ngân sách

cần chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục

quốc dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để mọi tổ chức

cá nhân hiểu biết rõ và tự giác nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật

Thứ năm, kiểm tra các văn bản pháp lý quản lý, sử dụng ngân sách địa

phƣơng, Kiểm toán nhà nƣớc cần xem đây là một trong những nội dung chủ

yếu và cần phải tập trung kiểm toán tại sở tài chính và các đơn vị quản lý

ngân sách. Qua đó, kiểm tra một cách đầy đủ và toàn diện hơn các văn bản do

Hội đồng nhân dân, Ủy ban Nhân dân và các cơ quan chức năng ban hành liên

quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, từ đó có thể kiến nghị thu hồi, sửa đổi

các quyết định, quy định, hƣớng dẫn không đúng hoặc không phù hợp, không

đúng với quy định pháp luật, quy định của Trung ƣơng. Nhƣ vậy, Kiểm toán

nhà nƣớc mới có thể kiến nghị đúng đắn với Quốc hội, Chính phủ sửa đổi các

quy định pháp luật trong quản lý ngân sách, kiến nghị sửa đổi các chế độ

chính sách không phù hợp. Để kiểm toán nội dung này, kiểm toán viên yêu

cầu các cơ quan quản lý ngân sách cung cấp các văn bản do tỉnh ban hành

hiện đang áp dụng và các văn bản về điều hành ngân sách để kiểm tra chính

xác việc thực hiện pháp luật về quản lý ngân sách, từ đó có bổ sung, sửa đổi

các quy định pháp luật phù hợp hơn với tình hình thực tế.

Tăng cƣờng thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc là biện pháp nhằm bảo đảm cho pháp luật đƣợc thực hiện

nghiêm chỉnh, mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật. Biện pháp này đòi hỏi

trƣớc hết phải thƣờng xuyên kiểm tra hoạt động thu, chi ngân sách nhà nƣớc để

phát hiện những sai sót lệch lạc, kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm, bảo đảm

cho việc thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý NSNN hoạt động nhịp nhàng

đúng nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật. Đặc biệt, cần tăng cƣờng công tác

thanh tra, kiểm tra, rà soát những đối tƣợng có dấu hiệu gian lận thuế. Từ đó có

79

biện pháp xử lý thu hồi kịp thời tránh tình trạng thất thoát nguồn thu.

Những vi phạm pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc cần

phải đƣợc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo nguyên tắc, mọi cán

bộ quản lý ngân sách nhà nƣớc đều bình đẳng trƣớc pháp luật, bất kỳ ai dù ở

cƣơng vị nào cũng phải sống và làm việc theo pháp luật. Mọi hành vi vi phạm

pháp luật của cán bộ, công chức trong quản lý NSNN đều có ảnh hƣởng

không tốt đến quá trình điều chỉnh pháp luật, làm tổn hại đến pháp chế. Do

vậy, Nhà nƣớc cần có những biện pháp hữu hiệu để xử lý nghiêm minh, kịp

thời các hành vi vi phạm pháp luật. Để nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện

pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc.

3.2.3.3. Công khai hóa ngân sách

Các cấp NS từ huyện đến xã, các đơn vị hành chính sự nghiệp phải công

khai dự toán thu, chi NS theo đúng quy định hiện hành của Nhà nƣớc. Các

đơn vị hành chính sự nghiệp phải xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, thực hiện

công khai quyết toán chi đến mã chƣơng, mã ngành kinh tế, mã nội dung kinh

tế chi NS bằng các hình thức thông báo trong hội nghị tổng kết năm, hội nghị

cán bộ công nhân viên chức, niêm yết quyết toán chi tại trụ sở cơ quan đơn vị

để cán bộ công nhân viên chức biết, qua đó, cán bộ, nhân viên đơn vị biết và

kiểm tra, giám sát, góp phần làm lành mạnh, minh bạch hoá chi tiêu NS, tăng

cƣờng hiệu quả sử dụng NS, góp phần chống tiêu cực, lãng phí trong chi tiêu

NSNN.

Muốn đƣợc phân cấp mạnh mẽ cần có hoạt động quản lý NS hiệu quả

gắn liền với các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khác trên địa bàn.

Vì vậy từng đồng vốn NS cần đƣợc cân nhắc kỹ và làm sáng rõ thể hiện đƣợc

những nhiệm vụ chi là chính đáng và hiệu quả. Đồng thời các khoản thu cũng

80

cần giám sát sao cho công bằng và hợp lý.

Tiểu kết chƣơng 3

Dựa trên cơ sở lý luận của pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà

nƣớc và những đánh giá về thực tiễn thi hành pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách trong giai đoạn 2013-2016, tác giả đã đề xuất một số phƣơng

hƣớng nhƣ: thiết kế lại hệ thống ngân sách nhà nƣớc; trao cho địa phƣơng

quyền tự chủ cao hơn trong quyết định và quản lý nguồn thu - chi; tăng thu

của NSĐP phải đi kèm với việc cải thiện chất lƣợng dịch vụ công do địa

phƣơng có cung cấp; đổi mới quy trình lập, phân bổ, chấp hành và quyết toán

ngân sách; đặc biệt là tăng cƣờng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về

tài chính ở cấp địa phƣơng, thực hiện nghiêm kỷ luật tài khóa để đạt đƣợc

mục tiêu trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc.

Và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách

nhà nƣớc trong thời gian tới: Hoàn thiện pháp luật về phân cấp nguồn thu -

chi ngân sách; tăng quyền tự chủ về tài chính cho cấp địa phƣơng, đồng thời

gắn trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng với hiệu quả chi ngân sách để

đảm bảo việc tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý ngân sách đạt hiệu quả

và nâng cao công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về

phân cấp quản lý ngân sách.

Tác giả đã đề xuất các giải pháp từ tổng thế tới các giải pháp cụ thể về

hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc nhằm tạo khung

khổ pháp lý trong việc xác định rõ thẩm quyền giữa các cấp chính quyền địa

phƣơng, tạo sự tự chủ cho chính quyền cấp huyện và xã, nâng cao hiệu quả

81

phân cấp nguồn thu, chi ngân sách một cách hài hòa, hợp lý.

KẾT LUẬN

Hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý thu, chi ngân sách nhà nƣớc của

huyện Nho Quan hiện nay là một yêu cầu cấp thiết có tính khách quan. Điều

này không chỉ bắt nguồn từ sự hạn chế yếu kém trong quá trình thực hiện

phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc theo pháp luật mà còn là sự đòi hỏi của

các qui luật, Nghị quyết của Đảng và chính sách Nhà nƣớc về đổi mới cơ chế

pháp lý về quản lý thu chi ngân sách. Đây là một hoạt động quản lý có liên

quan đến mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực, do vậy cần phải đƣợc quan tâm

đúng mức và cần phải có các giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả

pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc. Bởi vì nó có ý nghĩa trên

nhiều mặt, tác động, chi phối, quyết định trong phát triển kinh tế - xã hội ở

trên địa bàn huyện và luôn gắn với trách nhiệm quản lý, lãnh đạo của Đảng bộ

và UBND huyện cho đến các xã, thị trấn và các cơ quan chức năng.

Việc triển khai công tác phân cấp NSNN theo Luật ngân sách nhà nƣớc

2002 trên thực tế còn hạn chế. Chẳng hạn nhƣ, đối với các khoản thu phí lệ

phí, các cơ quan hành chính nhà nƣớc đƣợc để lại một phần để bù đắp chi phí

thu, phần còn lại mới nộp vào ngân sách nhà nƣớc, việc để lại nhƣ vậy làm

một phần số thu phí bị để ngoài ngân sách đồng thời tỷ lệ để lại đƣợc Bộ tài

chính quyết định chƣa sát hoạt động của đơn vị nên có đơn vị không đủ kinh

phí để tổ chức thu, có đơn vị thừa nguồn dẫn đến dƣ kinh phí lớn hoặc sử

dụng sai mục đích.

Luật ngân sách nhà nƣớc 2015 hiện hành đã thay thế Luật NSNN 2002 và

quy định cụ thể các cơ quan đƣợc ban hành các chính sách về định mức phân

bổ ngân sách, chế độ tiêu chuẩn ngân sách. Tuy nhiên, các bộ, ngành chức

năng chậm ban hành hoặc sửa đổi các tiêu chuẩn, định mức chi làm căn cứ lập

dự toán và kiểm soát chi; nhiều chế độ chi còn chƣa sát chi phí, giá cả đã biến

82

động trên thực tế ở chênh lệch lớn.

Trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, qua 10 năm thực hiện Luật

Ngân sách nhà nƣớc 2002 với cơ chế phân cấp quản lý ngân sách, các cấp

chính quyền từ tỉnh đến xã đã tăng tính chủ động tích cực, phát huy cao độ

tính tự chủ trong quản lý ngân sách cấp mình, bƣớc đầu quan tâm khai thác,

nuôi dƣỡng nguồn thu, hạn chế bớt tình trạng thụ động, trông chờ ỷ lại vào

ngân sách cấp trên. Tuy nhiên, do bối cảnh kinh tế liên tục thay đổi, xu hƣớng

toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, cải cách hành chính địa

phƣơng... nên chƣa hoàn thiện hệ thống pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách, vì vậy, địa phƣơng chƣa kịp thích ứng, chƣa tạo động lực khai thác tốt

nguồn thu, tình trạng dây dƣa, trốn lậu thuế, thất thu thuế còn diễn ra khá phổ

biến... Mặt khác, một số chính sách của Nhà nƣớc thay đổi nhƣ: Thuế bảo vệ

môi trƣờng thay thế cho khoản thu phí xăng dầu, thuế sử dụng đất phi nông

nghiệp thay thế cho luật thuế nhà đất,... cũng ảnh hƣởng đến việc thực hiện

83

phân cấp quản lý ngân sách địa phƣơng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính (1996), ướng dẫn Luật Ngân sách nhà nước, Nhà xuấ

bản Tài chính, Hà Nội.

2. Bộ Tài chính (2003), Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng

dẫn thực hiện, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

3. Chính Phủ (2003), Nghị định số 60/NĐ-CP ngày 06/06/2003 Quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước.

4. Phạm Tiến Dũng (2011), “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện kiểm

toán quyết toán ngân sách huyện và kiểm toán điều hành ngân sách cấp

huyện”, Tạp chí Kiểm toán, số 5 (14), tr. 23-47.

5. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Nhà

xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

6. Trần Vũ Hải (2013), “Thực tiễn áp dụng pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nƣớc ở Việt Nam và phƣơng hƣớng hoàn thiện”, Tạp chí luật

học, số 3 (17), tr. 12-23.

7. Học viện tài chính (2016), Giáo trình lý thuyết quản lý tài chính công,

Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

8. Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình (2010), Nghị quyết số 03/2010/NQ -

ĐND ngày 27/7/2010 về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần

trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp chính quyền địa

phương trên địa bàn tỉnh.

9. Lê Chi Mai (2006), Phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phương.

Thực trạng và gải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

10. Bùi Đƣờng Nghiêu (2006), Điều hòa ngân sách giữa trung ương và

địa phương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đặng Văn Thanh (2013), Phân cấp quản lý tài chính nhà nước và

ngân sách nhà nước - thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Cổng thông tin

84

điện tử Viện nghiên cứu lập pháp, tại địa chỉ:http://vnclp.gov.vn/ct/cms/ngh

iencuuchuyende/Lists/nghiencuuphapluat/View_Detail.aspx?ItemID=156.

12. Lê Toàn Thắng (2014), Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt

Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Quản lý hành chính công, Học viện hành

chính quốc gia, Hà Nội.

13. Lê Thị Thu Thủy (2010), “Một số vấn đề pháp lý về phân cấp quản lý

Ngân sách Nhà nƣớc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Khoa học

Đại học Quốc gia Hà Nội, số 26 (1), tr. 34- 10.

14. Trƣơng Bá Tuấn (2014), “Phân cấp ngân sách trong bối cảnh cải cách

mô hình tổ chức chính quyền địa phƣơng”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 15

(47), tr. 11-36.

15. Uỷ ban nhân dân huyện Nho Quan (2010), Báo cáo phát triển kinh tế

xã hội của huyện 5 năm (giai đoạn 2015-2020).

16. Uỷ ban nhân dân huyện Nho Quan, Báo cáo quyết toán ngân sách

huyện năm 2013,2014,2015, 2016.

17. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013), Đổi mới chính sách pháp luật về phân

cấp quản lý ngân sách nhà nước, Cổng thông tin điện tử Tạp chí tài chính, tại

địa chỉ: http://m.tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/doi-

moi-chinh-sach-phap-luat-ve-phan-cap-quan-ly-ngan-sach-nha-nuoc-

85

32533.html.

PHỤ LỤC

Phụ lục 01

Tổng thu - chi ngân sách huyện Nho Quan gia đoạn năm 2013-2016

Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm Năm Năm Năm STT Nội dung 2013 2014 2015 2016

Tổng thu NSNN trên địa 790.33 887.03 547.391 618.259 A bàn 6 4

128.76 147.24 1 Thu nội địa 72.747 104.232 4 1

625.40 701.89 2 Thu bổ sung NS cấp trên 449.771 480.777 2 4

Thu chuyển nguồn từ NS 21.141 25.124 26.196 27.154 3 năm trƣớc

Thu kết dƣ ngân sách 1.652 3.250 4.129 4.754 4

Các khoản huy động đóng 2.080 4.876 5.845 5.991 5 ghóp

906.95 999.78 545.311 720.313 B Thu NS Địa phƣơng 6 2

Thu NSĐP hƣởng theo 122.46 129.76 70.316 102.957 1 phân cấp 5 0

Thu NSNN hƣởng 100% 36.004 52.746 62.600 67.214

Thu NSNN theo tỷ lệ % 34312 50.211 59.865 62.546

625.40 701.89 2 Thu bổ sung NS cấp trên 449.771 480.777 2 4

Thu chuyển nguồn từ NS 21.141 25.124 26.196 27.154 3 năm trƣớc

86

Thu kết dƣ ngân sách 1.652 3.250 4.129 4.754 4

Thu từ NS cấp dƣới nộp 351 372 454 469 5 lên

Các khoản huy động đóng 2.080 4.876 5.845 5.991 6 ghóp

787.69 866.84 C Tổng chi NSNN 544.141 618.194 5 6

285.10 321.98 1 Chi đầu tƣ phát triển 160.919 209.450 9 2

450.82 495.12 2 Chi thƣờng xuyên 341.458 362.335 4 8

Chi chuyển nguồn sang 37.102 41.781 46.245 44.235 3 năm

Chi nộp ngân sách cấp trên 451 569 801 795 4

Chi trợ cấp trùng tại NSĐP 1.102 1.051 1.214 1.123 5

87

Chi bổ sung cho NS cấp 3.109 3.008 3.506 3.579 6 dƣới

Phụ lục 02

Thu Ngân sách nội địa huyện Nho Quan

Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm Năm Năm Năm Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016

Thu nội địa 72.747 104.232 128.764 147.241

1. Thu từ kinh tế quốc doanh 135 163 193 228

Thuế GTGT 101 112 129 154

Thuế thu nhập doanh nghiệp 33 47 57 64

Thuế môn bài 1 4 7 10

2. Thu từ khu vực công thƣơng 21.521 25.924 36.001 39.856 nghiệp ngoài quốc doanh

Thuế GTGT 20.237 23.688 32.408 35.400

Thuế thu nhập doanh nghiệp 1.275 1.647 387 807

Thuế môn bài 486 525 668 785

Thuế tiêu thụ đặc biệt 1 3 5 7

Thuế tài nguyên 410 901 1.646 2.017

3. Thuế thu nhập cá nhân 982 1.572 2.382 3.597

4. Lệ phí trƣớc bạ 1.245 5.740 9.432 13.569

5. Thuế bảo vệ môi trƣờng do CQ 0,985 5,81 7 9,24 thuế thực hiện

6. Thu phí, lệ phí 1.012 4.121 6.496 7.568

7. Các khoản thu về nhà đất, 42.869 54.261 57.224 59.238 khoáng sản

8.Thu xổ số kiến thiết 847 1.014 1.729 2.198

88

4.135 11.431 15.300 20.978 9. Thu khác

Phụ lục 03

Tổng chi NSNN cấp huyện

Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm Năm Năm Năm Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016

Tổng chi NSNN 542.588 616.574 785.681 864.927

1. Chi đầu tƣ phát triển 160.919 209.450 285.102 321.989

Chi đầu tƣ xây dựng cơ bản 160.919 209.450 285.102 321.989

2. Chi thƣờng xuyên 341.458 362.335 450.828 495.124

Chi sự nghiệp giáo dục - đào 86.323 97.938 129.569 141.184 tạo

Chi sự nghiệp Y tế 101.543 102.922 125.642 135.361

Chi sự nghiệp môi trƣờng 805 854 1.124 1.568

Chi sự nghiệp thể dục, thể thao 758 821 1.428 1.848

Chi sự nghiệp văn hóa thông 874 897 1.214 1.455 tin

Chi Quốc phòng và an ninh 1.586 1.750 2.625 3.984

Chi sự nghiệp phát thanh 568 584 1.054 1.513 truyền hình

Chi sự nghiệp kinh tế 42.285 45.008 54.972 63.351

Chi quản lý hành chính 93.546 97.128 116.095 124.810

Chi đảm bảo xã hội 12.481 13.652 15.867 18.561

Chi khác 689 781 1.238 1.489

3. Chi chuyển nguồn sang năm 37.102 41.781 46.245 44.235

89

4. Chi bổ sung cho NS cấp 3.109 3.008 3.506 3.579 dƣới