BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN LƢU TUYẾT SƢƠNG

PHÁT TRIỂN ĐỐI TƢỢNG

THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ,

TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ – NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN LƢU TUYẾT SƢƠNG

PHÁT TRIỂN ĐỐI TƢỢNG

THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ,

TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. ĐINH VĂN TIẾN

THỪA THIÊN HUẾ – NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Phát triển đối tƣợng tham gia Bảo hiểm xã

hội tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị” là đề tài

nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và

chưa được công bố trên các công trình khác. Nếu không đúng như lời cam

đoan trên tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài của mỉnh.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

i

Nguyễn Lƣu Tuyết Sƣơng

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này là kết quả của quá trình học tập ở nhà trường, kinh

nghiệm trong quá trình công tác tại Bảo hiểm xã hội thị xã Quảng Trị, tỉnh

Quảng Trị và sự nỗ lực cố gắng của bản thân.

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ

các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tôi xin trân trọng cảm ơn Phòng Quản lý

đào tạo, bồi dưỡng cùng các thầy giáo, cô giáo tại Học viện hành chính quốc

gia đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn

thiện đề tài luận văn.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy

giáo GS.TS. Đinh Văn Tiến – Người đã nhiệt tình, dành nhiều thời gian và

tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình nghiên

cứu, thực hiện luận văn.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến tập thể Ban lãnh đạo, cán bộ viên

chức Bảo hiểm xã hội thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị và các cá nhân trên

địa bàn thị xã Quảng Trị đã cung cấp những thông tin cần thiết, giúp đỡ, tạo

điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn.

Mặc dù, bản thân đã cố gắng rất nhiều nhưng luận văn không thể tránh

khỏi những khiếm khuyết, hạn chế. Rất mong được sự góp ý chân thành của

Quý thầy, cô giáo, đồng nghiệp và bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn./.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

ii

Nguyễn Lƣu Tuyết Sƣơng

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... I

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... II

MỤC LỤC ................................................................................................................ III

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................. VI

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU ............................................................................. VII

DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ.................................................................... VIII

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỐI TƢỢNG THAM GIA

BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN ..................................................................... 10

1.1. Cơ sở lý luận về phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện .................... 10

1.1.1. Khái niệm về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.............................. 10

1.1.2. Định nghĩa phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện ................. 17

1.2. Nội dung cơ bản về Bảo hiểm xã hội tự nguyện ................................................ 17

1.2.1. Đặc điểm và bản chất của BHXH tự nguyện ......................................... 17

1.2.2. Vai trò của BHXH tự nguyện ................................................................. 21

1.2.3. Nguyên tắc hoạt động của BHXH tự nguyện ......................................... 23

1.2.4. Chính sách BHXH tự nguyện ................................................................. 25

1.3. Nội dung về phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện ........................... 28

1.3.1. Gia tăng mức độ bao phủ của hệ thống BHXH tự nguyện .................... 28

1.3.2. Kích thích nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người dân.............. 28

1.3.3. Hoàn thiện, mở rộng mạng lưới hệ thống Đại lý thu BHXH tự nguyện .... 29

1.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về

BHXH tự nguyện ...................................................................................................... 31

1.3.5. Đổi mới các chế độ BHXH tự nguyện được hưởng ............................... 32

1.3.6. Nâng cao chất lượng dịch vụ BHXH tự nguyện .................................... 38

1.3.7. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc phát triển đối tượng tham

gia BHXH tự nguyện................................................................................................. 38

iii

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỐI TƢỢNG THAM GIA

BHXH TỰ NGUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG

TRỊ ............................................................................................................................ 40

2.1. Tổng quan chung về thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị ..................................... 40

2.2. Tình hình cơ bản về BHXH thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị .......................... 40

2.2.1. Giới thiệu chung về BHXH thị xã Quảng Trị ........................................ 40

2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của BHXH thị xã Quảng Trị ............................... 41

2.2.3. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của BHXH thị xã Quảng Trị .................... 44

2.2.4. Nội dung về công tác thu BHXH tự nguyện và sử dụng quỹ BHXH tự

nguyện tại BHXH thị xã Quảng Trị .......................................................................... 47

2.3. Thực trạng công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa

bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị ........................................................................ 54

2.3.1. Mức độ bao phủ của hệ thống BHXH tự nguyện tại địa bàn thị xã Quảng

Trị .............................................................................................................................. 54

2.3.2. Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người dân trên địa bàn thị xã

Quảng Trị .................................................................................................................. 56

2.3.3. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH tự

nguyện....................................................................................................................... 57

2.3.4. Mạng lưới Đại lý làm công tác BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị . 64

2.3.5. Các chế độ BHXH tự nguyện ................................................................. 66

2.3.6. Chất lượng dịch vụ của cơ quan BHXH thị xã Quảng Trị ..................... 69

2.3.7. Công tác kiểm tra, đánh giá việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện ....................................................................................................................... 72

2.4. Đánh giá chung về tình hình tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã

Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị ........................................................................................ 72

2.4.1. Những kết quả đạt được ......................................................................... 72

2.4.2. Những mặt tồn tại, hạn chế .................................................................... 75

2.4.3. Nguyên nhân các hạn chế ....................................................................... 76

iv

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN

ĐỐI TƢỢNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TRÊN ĐỊA

BÀN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ. .............................................. 83

3.1. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

đến năm 2030 ............................................................................................................ 83

3.1.1. Quan điểm chỉ đạo .................................................................................. 83

3.1.2. Mục tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị

xã Quảng Trị ............................................................................................................. 84

3.2. Giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã

Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị ........................................................................................ 85

3.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách BHXH tự nguyện ...................... 85

3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức triển khai BHXH tự nguyện ....................... 88

3.3. Kiến nghị .......................................................................................................... 100

3.3.1. Kiến nghị với BHXH Việt Nam ........................................................... 100

3.3.2. Kiến nghị với BHXH tỉnh Quảng Trị ................................................... 102

3.3.3. Kiến nghị với UBND thị xã Quảng Trị ................................................ 103

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 105

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 107

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Tên đầy đủ

1. ASXH An sinh xã hội

2. BHXH Bảo hiểm xã hội

3. BHYT Bảo hiểm y tế

4. BNN Bệnh nghề nghiệp

5. CNTT Công nghệ thông tin

6. HĐND Hội đồng nhân dân

7. LLLĐ Lực lượng lao động

8. NLĐ Người lao động

9. PCT Phi chính thức

10. TNLĐ Tai nạn lao động

vi

11. UBND Ủy ban nhân dân

Bảng 2.1. Tình hình tham gia BHXH tại thị xã Quảng Trị giai đoạn 2014 - 2018 ... 48

Bảng 2.2. Số chi của quỹ BHXH tự nguyện tại BHXH thị xã Quảng Trị giai đoạn

2014 – 2018 ........................................................................................... 53

Bảng 2.3. Mức độ bao phủ của BHXH tự nguyện giai đoạn 2014 - 2018 ................. 55

Bảng 2.4. Tổng hợp hoạt động tuyên truyền BHXH trên địa bàn thị xã Quảng Trị

giai đoạn 2014 - 2018 ............................................................................ 58

Bảng 2.5. Ảnh hưởng của mức độ hiểu biết về chính sách BHXH tự nguyện và kết quả

thực hiện BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị ...................... 63

Bảng 2.6. Tình hình phát triển số lượng người tham gia BHXH tự nguyện của các

đại lý thu trong năm 2018 ...................................................................... 65

Bảng 2.7. Đánh giá về thủ tục đăng ký tham gia BHXH tự nguyện ......................... 71

Bảng 2.8. Ảnh hưởng của thu nhập bình quân hàng tháng và quyết định tham gia

BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị ................................... 80

vii

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Kết quả thực hiện thu BHXH tự nguyện so với kế hoạch thu

BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị giai đoạn 2014 – 2018 50

Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ tham gia BHXH tự nguyện của người được điều tra ........ 51

Biểu đồ 2.3. Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người được điều tra ... 56

Biểu đồ 2.4. Nguồn thông tin về BHXH tự nguyện mà người dân có được... 60

Biểu đồ 2.5. Mức độ hiểu biết về chính sách BHXH tự nguyện .................... 61

Biểu đồ 2.6. Nhu cầu của người dân về các chế độ khi tham gia BHXH tự

nguyện ....................................................................................... 67

Biểu đồ 2.7. Mức độ hài lòng của người lao động về tinh thần phục vụ của

viii

cán bộ BHXH thị xã Quảng Trị ................................................ 70

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước

chuyển hết sức mạnh mẽ với dấu mốc là sự kiện Việt Nam trở thành thành

viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Kinh tế Việt Nam

dần tiến tới hội nhập sâu và rộng với nền kinh tế thế giới, đời sống của đại bộ

phận người dân đã có nhiều thay đổi. Để đảm bảo hội nhập sâu sắc và chủ

động đối phó với những rủi ro trong cuộc sống cho người dân, đồng thời xây

dựng đất nước phát triển vững mạnh thì điều quan trọng nhất là phải đảm bảo

sự ổn định và công bằng xã hội.

“Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần bảo

đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự và an toàn

xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc” [3]. Với định

hướng quan trọng này, đã cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng ta đối với sự

nghiệp bảo hiểm xã hội (BHXH), coi BHXH là chính sách xã hội lớn, là nhân

tố chính trong thực hiện mục tiêu bảo đảm An sinh xã hội (ASXH), là nền tảng

góp phần ổn định chính trị, xã hội, là động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chính sách BHXH thể hiện bản chất nhân văn sâu sắc và mục tiêu của

nó là đảm bảo nhu cầu thiết yếu và điều kiện cơ bản của đời sống con người,

mà trước hết là người lao động và gia đình họ, tạo cho xã hội an toàn, ổn định

và phát triển bền vững; mục tiêu cao cả nhất là hướng đến BHXH toàn dân,

để mọi người dân đều được tham gia BHXH, mọi người cao tuổi đều có

lương hưu, góp phần đảm bảo đời sống của hàng triệu người lao động khi họ

gặp phải những bất trắc làm giảm nguồn thu nhập từ lao động như ốm đau,

1

tuổi già, tai nạn lao động…

Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới chính sách xã hội mà trụ cột là

BHXH, BHYT, Đảng ta xác định, việc đổi mới hệ thống BHXH, BHYT có ý

nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội đất

nước. Ngày 22/11/2012, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

XI đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 – 2020 [4], trong đó xác

định mục tiêu cụ thể: Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH,

BHYT xây dựng niềm tin, tạo nền tảng vững chắc để phát triển, tăng nhanh

diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH, trong đó coi trọng BHXH tự nguyện

và thực hiện BHYT toàn dân. Đáng chú ý trong mục tiêu này là định hướng

phát triển BHXH tự nguyện, bởi lẽ đây là đối tượng chiếm số lượng đông đảo

trong xã hội, không thuộc đối tượng BHXH bắt buộc, là những người nông

dân, lao động tự do, người thu nhập thấp… Xã hội ổn định, đất nước phồn

vinh phải bảo đảm an sinh, chăm lo cuộc sống cho toàn bộ dân cư, nhất là đối

tượng yếu thế, dễ bị tổn thương...

Thực tế cho thấy, sự ra đời của chính sách BHXH tự nguyện cũng như

việc vận dụng nó vào thực tiễn ở nước ta trong những năm qua được xem là

một trong những chính sách ưu việt và đầy tính nhân văn cho người lao động

tự do làm việc ở khu vực kinh tế phi chính thức. Bởi tham gia BHXH tự

nguyện, người lao động tự do có thu nhập thấp sẽ được hưởng lương hưu khi

hết tuổi lao động, góp phần bảo đảm cuộc sống khi về già.

Do đó, việc phát triển BHXH tự nguyện cần được quan tâm thực hiện và

tiềm năng phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện ở nước ta còn rất to

lớn. Việc triển khai BHXH tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng hệ thống BHXH

đã phân cấp tổ chức bộ máy hoạt động đến cấp huyện, thành phố và có đại lý

đến cấp xã, phường, rất thuận lợi cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy

2

nhiên, tính đến nay, số lượng người lao động tham gia vào BHXH tự nguyện

trên cả nước vẫn là con số rất khiêm tốn, chưa thể hiện hết nguồn lực tham gia,

cũng như theo định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước.

Không nằm ngoài thực trạng đó, chương trình BHXH tự nguyện ở tỉnh

Quảng Trị đã và đang triển khai trong thời gian qua, dù đã có những chuyển

biến tích cực, nhưng việc thu hút số đông người tham gia cũng như mở rộng

đối tượng người tham gia trên địa bàn tỉnh vẫn là những trăn trở lớn của lãnh

đạo BHXH tỉnh Quảng Trị nói chung và lãnh đạo BHXH thị xã Quảng Trị nói

riêng. Chính vì vậy, lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Phát triển đối tƣợng tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng

Trị", tôi muốn tìm ra những điểm còn hạn chế, nguyên nhân, trở ngại trong

tiến trình thực hiện việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và từ

đó đề xuất những giải pháp nhằm tăng thêm đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, hướng tới mọi người

dân đều có “lương hưu”, đảm bảo an sinh, xã hội công bằng và phát triển.

2. Tình hình nghiên cứu

Liên quan đến BHXH tự nguyện đã có nhiều công trình và bài viết liên

quan đến vấn đề này, cụ thể:

- Đề tài của Ban Thu BHXH thuộc cơ quan BHXH Việt Nam (2004), với

tiêu đề: “Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu bảo hiểm xã hội tự nguyện”

do Nguyễn Anh Vũ làm chủ nhiệm [27]. Đề tài nêu lên những cơ sở khoa học

để nghiên cứu tình hình thu BHXH tự nguyện, phân tích những nhân tố ảnh

hưởng đến việc quản lý và thực hiện thu BHXH tự nguyện, thực trạng tham

gia BHXH tự nguyện qua việc thực hiện thí điểm ở Việt Nam, qua đó xây

dựng mô hình quản lý thu BHXH tự nguyện và đưa ra các giải pháp tổ chức

thực hiện thu BHXH tự nguyện có hiệu quả. Đề tài dừng lại ở việc đưa ra mô

hình quản lý thu BHXH tự nguyện, chưa đánh giá được nhu cầu tham gia và

3

những bất cập khi tổ chức triển khai.

- Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH thuộc cơ quan BHXH Việt

Nam (2004), đã nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia

bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc làm” do TS. Bùi Văn Hồng

làm chủ nhiệm [13]. Đề tài đã đưa ra khái niệm và đặc điểm của lao động tự

tạo việc làm, đánh giá thực trạng lao động tự tạo việc làm ở nước ta. Đề xuất

loại hình BHXH thích hợp, chế độ trợ cấp, cơ chế đóng và hưởng cho các đối

tượng này. Nghiên cứu dừng lại ở việc đưa ra các đề xuất để mở rộng đối

tượng tham gia BHXH đối với người lao động tự tạo việc làm, chưa mở rộng

cho lao động là nông dân, lao động tự do tham gia, phương pháp nghiên cứu

chủ yếu mang tính mô tả, phân tích thực trạng bằng những số liệu thứ cấp.

- Đề tài của Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH thuộc cơ quan

BHXH Việt Nam (2004), với tiêu đề: “Nghiên cứu xây dựng lộ trình thực

hiện bảo hiểm xã hội đối với mọi người lao động ở Việt Nam” do TS. Nguyễn

Tiến Phú làm chủ nhiệm [16]. Đề tài căn cứ vào tình hình thực tế xây dựng lộ

trình thực hiện BHXH đối với mọi người lao động ở Việt Nam. Đánh giá thực

trạng tình hình lao động, việc làm và thực hiện BHXH ở nước ta trong thời

gian qua, đề xuất lộ trình thực hiện BHXH đối với mọi người lao động. Đề tài

chưa đi sâu vào những vấn đề lý luận mà chỉ dừng lại ở việc mô tả thực tế,

sau đó đưa ra lộ trình thực hiện BHXH nói chung ở Việt Nam.

- Đề tài: “Đánh giá 3 năm triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội” do

TS. Đỗ Thị Xuân Phương làm chủ nhiệm (2010) [19]. Đề tài chỉ ra những bất

cập về chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHXH tự nguyện như: Điều

kiện hưởng chế độ hưu trí, tử tuất, chưa quy định về trích hoa hồng cho các đại

lý thu, phương thức đóng chưa linh hoạt… Do vậy, chính sách BHXH tự nguyện

chưa thu hút được nhiều người lao động tham gia. Nghiên cứu này mới dừng lại

ở việc tổng kết, đánh giá 3 năm triển khai thực hiện Luật BHXH nói chung.

Những vấn đề về tổ chức triển khai BHXH tự nguyện tuy có được đề cập song

4

mới dừng lại ở việc đánh giá ưu, nhược điểm và những vấn đề bất cập phát sinh.

- Bài viết của Mỹ Hoa, với tiêu đề: “Tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện: Vì sao ít thu hút người dân tham gia”, đăng trên Báo Quảng Ngãi

(10/2011) [12]. Nội dung bài viết nêu lên thực trạng tham gia BHXH tự

nguyện của tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua, chỉ ra những nguyên nhân vì

sao ít thu hút người dân tham gia như: Công tác thông tin tuyên truyền chưa

sâu rộng, cơ chế chính sách chưa phù hợp, cần thông thoáng hơn, tâm lý

người dân “trẻ cậy cha, già cậy con”. Bài viết dừng lại phạm vi cấp tỉnh và chỉ

ra một vài nguyên nhân vì sao BHXH tự nguyện chưa thực sự thu hút người

dân Quảng Ngãi tham gia, tuy nhiên chưa đưa ra những giải pháp và kiến

nghị để mở rộng đối tượng tham gia.

- Luận văn thạc sĩ Kinh tế: “Các giải pháp tăng cường bảo hiểm xã hội tự

nguyện cho nông dân ở tỉnh Quảng Nam” của Phạm Ngọc Hà (2011) [11]. Đề

tài nêu lên cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện cho nông dân, đánh giá thực trạng

BHXH tự nguyện cho nông dân tỉnh Quảng Nam về nhu cầu tham gia, công tác

quản lý đối tượng, tổ chức thu phí, các chế độ mà nông dân mong muốn, công

tác kiểm tra và mạng lưới làm công tác BHXH, chỉ ra những tồn tại, nguyên

nhân. Từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản về hoàn thiện cơ chế chính sách, tổ

chức thực hiện và điều kiện thực thi giải pháp. Đề tài nghiên cứu ở phạm vi cấp

tỉnh và đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chỉ là nông dân, chưa đề cập đến

các đối tượng khác như lao động tự do, lâm nghiệp, ngư nghiệp…

- Đề tài: “Cơ sở khoa học hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội tự

nguyện ở Việt Nam” do Ths. Lê Thị Quế làm chủ nhiệm (2012) [20]. Đề tài

đánh giá thực trạng chính sách BHXH tự nguyện, chỉ ra những bất cập về cơ

chế chính sách của loại hình bảo hiểm này, nêu lên những bài học kinh nghiệm

về chính sách BHXH tự nguyện hiện nay ở các nước trên thế giới như Pháp,

các nước Đông Âu, Trung Quốc, Indonesia. Từ đó đề xuất các giải pháp và

5

kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện giai đoạn 2010 - 2020.

- Bài viết của Hoàng Bá, với tiêu đề: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Người

dân chưa mặn mà”, đăng trên Thời báo Ngân hàng (5/2013) [1]. Trong đó,

chỉ ra những nguyên nhân mà người dân chưa mặn mà tham gia là do mức phí

đóng cao, chế độ được hưởng ít chỉ có 2 chế độ hưu trí và tử tuất, thời gian

đóng kéo dài 20 năm, thu nhập của người lao động là thấp, biện pháp thông

tin tuyên truyền chưa sâu rộng. Bài viết đã chỉ ra những bất cập về chính sách

và quá trình tổ chức thực hiện nhưng còn chung chung chưa đưa ra những giải

pháp cụ thể.

- Luận văn thạc sĩ Kinh tế: “Phát triển dịch vụ bảo hiểm xã hội tự

nguyện cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định” của Trần Yên Thái (2014)

[24]. Đề tài trình bày cơ sở lý luận phát triển dịch vụ BHXH tự nguyện cho

nông dân, đánh giá thực trạng về nhu cầu và khả năng tham gia dịch vụ này,

thực trạng chính sách và công tác tổ chức triển khai chính sách trên địa bàn

tỉnh Bình Định, đưa ra những kiến nghị và giải pháp tổ chức dịch vụ BHXH

tự nguyện cho nông dân nhằm đáp ứng ngày càng cao chất lượng dịch vụ

BHXH của đối tượng tham gia BHXH ở tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện -

Thực trạng và giải pháp” của Dương Thảo Phương (2014) [18]. Đề tài nghiên

cứu một số vấn đề lý luận chung về pháp luật BHXH tự nguyện, đánh giá

thực trạng pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện, đề

xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện

ở Việt Nam trong thời gian tới.

- Luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện đối

với người lao động trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” của Phạm Thị Lan Phương

(2015) [17]. Đề tài đã góp phần bổ sung và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

và thực tiễn liên quan đến BHXH, phát triển BHXH tự nguyện đối với người

6

lao động như: Khái niệm về BHXH, BHXH tự nguyện, vai trò, bản chất, đặc

điểm và nguyên tắc của BHXH tự nguyện. Đánh giá thực trạng phát triển

BHXH tự nguyện ở tỉnh Vĩnh Phúc và xây dựng mô hình các nhân tố ảnh

hưởng đến sự phát triển BHXH tự nguyện. Qua đó đề xuất các giải pháp phát

triển BHXH tự nguyện đối với người lao động.

Nhìn chung, các công trình và bài viết trên đã góp phần cung cấp cơ sở

khoa học cho việc xây dựng và thực hiện BHXH tự nguyện tại nước ta trong

những năm qua. Đồng thời đánh giá thực trạng phát triển, phân tích tìm ra

những nguyên nhân, giải pháp để phát triển BHXH tự nguyện đối với người

lao động. Tuy vậy cho đến nay, chưa có một công trình khoa học hay bài viết

nào đề cập đến thực trạng phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên

địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục tiêu chung

Phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã

Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị trong thời gian tới có hiệu quả cao nhất.

3.2. Nhiệm vụ cụ thể

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện.

- Đánh giá thực trạng phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

của người lao động trên địa bàn thị xã Quảng Trị giai đoạn 2014 – 2018, từ đó

tìm ra những mặt hạn chế, bất cập và nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến việc

phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị.

- Đề xuất giải pháp nhằm phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

7

nguyện tại địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã

Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung:

+ Các vấn đề liên quan tới việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện tại địa bàn thị xã Quảng Trị.

+ Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới việc tham gia BHXH tự nguyện

như: Chính sách pháp luật của nhà nước, thu nhập của người dân, nhận thức

của người tham gia, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật…

- Về không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn thị xã Quảng Trị,

tỉnh Quảng Trị.

- Về thời gian: Các số liệu phục vụ để đánh giá thực trạng được thu thập

trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2018. Giải pháp đề xuất đến

năm 2030. Tác giả lấy cột mốc từ năm 2014 vì lúc này vừa ban hành Luật

BHXH mới, từ đó đánh giá được sự thay đổi trước và sau khi áp dụng Luật

BHXH mới, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện có sự thay đổi như thế nào?

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu nhằm làm sáng

tỏ nội dung đề tài bao gồm:

- Phương pháp luận: duy vật biện chứng.

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: luận văn sử dụng phương pháp này

để thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu công trình khoa học, tài

liệu, văn bản đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra các kết luận.

- Phương pháp hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để phân

8

tích, tổng hợp: luận văn sử dụng các phương pháp này ngoài việc phân tích và

tổng hợp lý thuyết, còn dùng để phân tích và tổng hợp các số liệu về tình hình

tham gia BHXH tự nguyện của người lao động tại địa bàn thị xã Quảng Trị…

Qua đó đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp về việc phát triển đối tượng

tham gia BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

- Phương pháp điều tra: Tác giả phát ra 600 phiếu điều tra cho những

người đang trong độ tuổi lao động, thu về 572 phiếu, loại trừ các phiếu không

đầy đủ thông tin, nội dung không hợp lệ, tác giả lựa chọn 500 mẫu phiếu hợp lệ

để lấy số liệu sơ cấp phục vụ cho bài luận văn của mình.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ

bản về phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện; xác định vai trò của

BHXH tự nguyện đối với người lao động.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Phân tích, đánh giá về tình hình phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện tại địa bàn thị xã Quảng Trị giai đoạn từ 2014 – 2018.

- Xác định các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc phát triển đối tượng

tham gia BHXH tự nguyện tại địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện tại địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển đối tượng tham gia Bảo hiểm xã

hội tự nguyện.

Chương 2: Thực trạng phát triển đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội tự

nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển đối tượng tham

9

gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

Chƣơng 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỐI TƢỢNG THAM GIA

BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

1.1. Cơ sở lý luận về phát triển đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện

1.1.1. Khái niệm về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

1.1.1.1. Khái niệm về Bảo hiểm xã hội

- Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “BHXH là sự bảo vệ của xã hội

đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng nhằm chống

lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi

ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già, chết; đồng

thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con” [14].

- Theo tập 1 Từ điển Bách khoa Việt Nam:

BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao

động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động

hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất. Dựa trên cơ sở

một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ

của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống của người lao

động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội [23, tr.12].

Tùy từng góc độ tiếp cận khác nhau mà BHXH được hiểu theo những

cách khác nhau:

- Từ góc độ pháp luật:

BHXH là một chế định bảo vệ người lao động sử dụng nguồn đóng góp

của mình, của người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà

nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo hiểm và gia đình họ

trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, tai nạn lao động, hết

10

tuổi lao động hoặc chết theo quy định của pháp luật [10, tr.49].

- Từ góc độ tài chính: “BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính

giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật” [10, tr.49].

- Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2014: “BHXH là sự bảo đảm thay thế

hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất

thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao

động hoặc chết, trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH” [22, tr.2].

Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về BHXH, mỗi khái niệm

đưa ra đều đứng trên một góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, những điểm

chung giống nhau là: BHXH là một chính sách xã hội được luật hóa tùy theo

điều kiện cụ thể của từng nước; người lao động tham gia BHXH và gia đình

họ là những đối tượng trực tiếp được hưởng lợi từ chính sách BHXH, khi có

các sự kiện bảo hiểm xảy ra, như: Bị giảm hoặc bị mất thu nhập từ lao động

do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động… Để tổ chức và thực hiện được chính

sách BHXH phải dựa vào một quỹ tiền tệ do người lao động, người sử dụng

lao động đóng góp và có sự bảo trợ của Nhà nước; mục đích của BHXH là

đảm bảo đời sống cho những người lao động tham gia BHXH và gia đình họ,

từ đó góp phần đảm bảo ASXH.

1.1.1.2. Khái niệm Bảo hiểm xã hội tự nguyện

Bảo hiểm xã hội có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,

tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nhưng tựu chung lại có 2

hình thức: BHXH theo hình thức bắt buộc và BHXH theo hình thức tự

nguyện. Như vậy, BHXH tự nguyện cũng là một loại hình của BHXH nói

chung, bởi vậy nó cũng có đầy đủ bản chất của BHXH.

Mặc dù mang tính chất tự nguyện nhưng chính sách BHXH tự nguyện vẫn

là chính sách do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên

tham gia. Nhà nước quy định mức đóng góp để hình thành Quỹ BHXH tự

11

nguyện đủ lớn để chi trả cho người tham gia BHXH tự nguyện và xây dựng các

chế độ mà người tham gia BHXH được hưởng (bao gồm điều kiện hưởng, mức

hưởng) để bảo đảm bù đắp rủi ro cho người tham gia BHXH tự nguyện. Dưới

góc độ tiếp cận đó, có thể đưa ra khái niệm về BHXH tự nguyện như sau:

“Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước ban

hành và quản lý để vận động, khuyến khích người lao động và người sử dụng

lao động tự nguyện tham gia, nhằm đảm bảo bù đắp một phần thu nhập cho

chính bản thân người lao động và gia đình họ bị giảm hoặc mất nguồn thu

nhập do gặp phải những rủi ro xã hội như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,

tuổi già…Đồng thời góp phần đảm bảo công bằng và ASXH” [15].

- Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2006: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là

loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức

đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH”

[21, tr.3].

- Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2014:

BHXH tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham

gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của

mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người tham gia

hưởng chế độ hưu trí và tử tuất [22, tr.2].

Thực chất, BHXH tự nguyện là hình thức BHXH mà người lao động và

người sử dụng lao động hoàn toàn tự nguyện tham gia, không có tác động

khách quan áp đặt, không bị pháp luật cưỡng chế phải tham gia. Ở đó, họ được

lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để

hưởng BHXH. Có thể nói, BHXH tự nguyện là loại hình BHXH nhằm bao

phủ hết các đối tượng còn chưa được tham gia loại hình BHXH bắt buộc của

NLĐ theo pháp luật, đồng thời là cầu nối trung gian, là bước quá độ tiến tới

12

thực hiện BHXH cho mọi người lao động trong xã hội, đảm bảo ASXH.

Với bản chất như trên, BHXH tự nguyện chỉ có thể được hình thành và

thực hiện trên cơ sở:

- Người lao động và có thể cả người sử dụng lao động tự nguyện tham

gia với điều kiện: Có nhu cầu thực sự về BHXH; Có khả năng tài chính để

tham gia BHXH tự nguyện theo quy định; Có sự thống nhất với những quy

định cụ thể (mức đóng, mức hưởng, quy trình thực hiện, phương pháp quản

lý, sử dụng quỹ BHXH tự nguyện...) của loại hình BHXH tự nguyện.

- Có tổ chức, cơ quan đứng ra thực hiện BHXH tự nguyện.

- Được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết.

1.1.1.3. Khái niệm về đối tượng tham gia BHXH và BHXH tự nguyện

Đối tượng tham của BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.

Họ là những người trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với

một khoản tỷ lệ nhất định so với tiền lương của NLĐ theo quy định của luật

BHXH. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối

tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó trong xã hội.

* Đặc điểm về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.

Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, vấn đề chăm sóc và

bảo vệ quyền lợi cho người lao động luôn được Đảng và Chính phủ quan tâm

chú trọng. Như chúng ta đã nói ở phần trên, vấn đề BHXH cho người lao

động trong những năm vừa qua, đặc biệt là từ khi ngành BHXH được thành

lập số lượng đối tượng được tham gia BHXH đã tăng lên rõ rệt. Với mục tiêu

đặt ra của ngành BHXH trong những năm tới là phải đảm bảo cho 100% đối

tượng; lao động trong các thành phần, kinh tế kể cả trong và ngoài quốc

doanh cũng như đối tượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và lao động

tự do được tham gia và hưởng BHXH. Một số đặc điểm cơ bản của đối tượng

thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện đó là đặc điểm của đối tượng làm việc

13

trong lĩnh vực nông nghiệp (nhóm đối tượng chiếm tỷ trọng lớn nhất).

- Về thu nhập: Thu nhập của người lao động làm việc trong lĩnh vực

nông nghiệp trong những năm vừa qua ngày càng tăng, tốc độ tăng thu nhập

tuy thấp hơn bình quân chung của cả nước, chi phí của hộ nông dân ngày

càng tăng cao, nhưng nhờ thu nhập tăng khá, ngoài phần chi tiêu dùng cho đời

sống, phần lớn các gia đình đã có đầu tư tích lũy.

- Những vấn đề liên quan đến việc làm của người lao động: Do tính chất

đặc trưng nghề nghiệp của đối tượng; tham gia BHXH tự nguyện có nhiều khác

biệt so với nhóm đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Cụ thể như:

+ Đối với lao động làm công ăn lương thuộc các thành phần kinh tế quốc

doanh, họ thường có công việc tương đối ổn định, được pháp luật bảo hộ, được

hưởng các quyền lợi theo quy định trong Bộ Luật Lao động như quy định về

tiền lương, tiền công, ngày nghỉ, thời gian lao động và các chế độ ưu đãi khác.

Tính ổn định trong công việc của NLĐ còn được thể hiện thông qua các ràng

buộc về mặt pháp lý như NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp đều có hợp

đồng lao động ký kết với chủ sử dụng lao động, có thoả ước lao động tập thể

đảm bảo cho NLĐ được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ theo đúng pháp luật

quy định và các công ước Quốc tế. Chính vì vậy, việc tham gia BHXH cho

NLĐ cơ bản được giới chủ thực hiện một cách nghiêm túc. Trong khi đó, nếu

xét trên khía cạnh về việc làm của đối tượng lao động thuộc diện tham gia

BHXH tự nguyện, ta thấy lao động trong lĩnh vực nông nghiệp thì hoạt động

sản xuất kinh doanh của họ chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, hưởng thu nhập

trên giá trị sản phẩm do chính họ tạo ra. Đối với những lao động có tư liệu sản

xuất (ruộng đất) thì thu nhập của họ còn có thể được xác định thông qua sản

lượng thu hoạch của các năm, nhưng đối với những lao động không có tư liệu

sản xuất thì công ăn việc làm và thu nhập của họ hoàn toàn mang tính thời vụ,

tính chất công việc lại càng không mang tính ổn định. Để đảm bảo quyền lợi về

14

BHXH cho nhóm đối tượng này thực sự là một vấn đề rất phức tạp vì quá trình

làm việc của NLĐ có thể không mang tính liên tục. Theo kinh nghiệm về

BHXH của một số nước phát triển như: Pháp, Đức.... họ cũng đã xây dựng một

số mô hình về BHXH tự nguyện cho đối tượng lao động tự tạo việc làm, nhưng

cơ bản phương thức để thực hiện là đều xây dựng một mức tham gia BHXH

bình quân trên cơ sở mức thu nhập tối thiểu của xã hội. Trong điều kiện kinh tế

nước ta hiện nay, vấn đề việc làm cho NLĐ vẫn là một trong những vấn đề

mang tính bức xúc, đặc biệt là việc chuyển đổi tỷ trọng cơ cấu nền kinh tế,

chuyển dần từ nông nghiệp sang công nghiệp. Như vậy, không có nghĩa là việc

tham gia BHXH cho đối tượng làm việc trong lĩnh vực này là không thực hiện

được. Theo số liệu báo cáo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn BHXH tự nguyện ở

một số tỉnh thì đa phần người nông dân rất có ý thức trong việc xác định tham

gia BHXH và hưởng chế độ hưu trí. Như vậy, vấn đề việc làm của NLĐ chỉ có

thể được bảo đảm khi quy định về BHXH tự nguyện đề cập đến các vấn đề như

cách xác định thời gian tham gia BHXH, mức tham gia ở từng thời điểm và

phương thức quy đổi giữa các thời kỳ khác nhau. Ngoài ra do đặc thù công việc

không mang tính ổn định có thể cho phép NLĐ được lựa chọn thời gian nộp

BHXH phù hợp với mức nộp đã đăng ký với cơ quan BHXH và được bảo lưu

thời gian nộp BHXH nếu vì lí do nào đó NLĐ bị mất việc làm.

+ Vấn đề quan hệ xã hội: do tính chất đặc thù công ăn việc làm, nghề

nghiệp và thu nhập của NLĐ, đặc biệt là sự tiếp cận tìm kiếm các thông tin liên

quan đến sự vận động kinh tế, xã hội của đất nước. Họ thường thiếu hiểu biết

về chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như vấn đề về BHXH, vì vậy việc

tuyên truyền nhằm thu hút đối tượng lao động tham gia BHXH gặp rất nhiều

khó khăn. Ngoài ra, do quan điểm mang tính chất chủ quan tức thời, nên việc

ứng ra một khoản tiền để chuẩn bị cho tương lai là điều khó thuyết phục trong

tư duy của người lao động. Một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến việc

15

tham gia BHXH của người lao động, đó là sự mặc cảm tự ti về nghề nghiệp, họ

luôn không bằng lòng với công việc mà họ đang làm. Chính vì vậy, về bản thân

người lao động cũng không có sự chủ động về công việc của mình.

Xét về khả năng tham gia BHXH tự nguyện của lao động làm việc ở khu

vực nông nghiệp và nông thôn nhìn chung còn thấp do thu nhập ở khu vực

nay hiện còn thấp. Về mặt phương pháp luận, bất kỳ một chính sách BHXH

nào, chính sách là điều kiện cần, thì điều kiện thực hiện là điều kiện đủ của

nó. Nói một cách cụ thể, nghiên cứu chính sách để mở rộng đối tượng tham

gia BHXH tự nguyện cho người lao động là chúng ta nghiên cứu điều kiện đủ

của nó để khi Nhà nước ban hành chính sách BHXH tự nguyện cho những đối

tượng này thì nó có thể trở thành hiện thực và đi vào cuộc sống.

Vậy, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo quy định tại

Điều 2 Luật BHXH số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014 (gọi tắt là Luật

BHXH 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như sau:

Người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi

trở lên và không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy

định tại Khoản 4 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội. Bao gồm:

- Người lao động làm việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 1 tháng;

- Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, bản, khu phố;

- Người lao động giúp việc gia đình;

- Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không

hưởng tiền lương;

- Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong hợp tác xã,

liên hiệp hợp tác xã;

- Người nông dân, người lao động tự tạo việc làm bao gồm những người

tự tổ chức hoạt động lao động để có thu nhập cho bản thân và gia đình;

- Người lao động đã đủ điều kiện về tuổi đời nhưng chưa đủ điều kiện về

16

thời gian đóng để hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về BHXH;

- Người tham gia khác.

Ngoài ra, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện có thể chia thành 2 nhóm:

- Nhóm 1: Lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nay vì lý

do nào đó nên không tiếp tục tham gia BHXH bắt buộc nữa.

- Nhóm 2: Những đối tượng chưa tham gia BHXH bắt buộc.

1.1.2. Định nghĩa phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

Theo Từ điển Tiếng Việt, “phát triển” được hiểu là quá trình vận động,

tiến triển theo hướng tăng lên của một sự vật, sự việc. Vậy “phát triển đối

tượng tham gia BHXH tự nguyện” hay còn có thể hiểu là phát triển BHXH tự

nguyện chính là sự gia tăng về số lượng người dân tham gia vào BHXH tự

nguyện. Chỉ tiêu này được đánh giá dựa trên một số nội dung cơ bản như:

- Số lượng người tham gia BHXH tự nguyện năm sau so với năm trước;

- Số thu về quỹ BHXH tự nguyện năm sau so với năm trước;

- Sự tác động của việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

trong hệ thống BHXH, ASXH của đất nước.

1.2. Nội dung cơ bản về Bảo hiểm xã hội tự nguyện

1.2.1. Đặc điểm và bản chất của BHXH tự nguyện

1.2.1.1. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội tự nguyện

Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một bộ phận của chính sách BHXH, do đó

về cơ bản nó có những đặc điểm của BHXH nói chung. Ngoài ra, BHXH tự

nguyện còn có những đặc điểm riêng:

- Việc tham gia hay không tham gia là hoàn toàn tự nguyện. Người tham

gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với nhu cầu và khả

năng tài chính của mình. So với BHXH bắt buộc, cơ chế hoạt động của

BHXH tự nguyện linh hoạt và mềm dẻo hơn.

- Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thường không phải là người có

17

quan hệ lao động (làm việc trong khu vực chính thức), mà là những người lao

động phi chính thức (PCT), nông dân…Những người này thường chiếm tỷ

trọng lớn trong lực lượng lao động (LLLĐ) xã hội, đặc biệt là đối với những

nước đang phát triển (như ở Việt Nam hiện nay). Họ thường có trình độ học

vấn và năng lực chuyên môn thấp, việc làm bấp bênh, không ổn định, thu

nhập thấp… Do vậy, để những đối tượng này tiếp cận được với chính sách

BHXH tự nguyện, thì Nhà nước cần phải xây dựng chính sách phù hợp, đặc

biệt cần có sự hỗ trợ một phần phí BHXH cho các đối tượng tham gia, nhất là

trong những giai đoạn đầu triển khai.

- Nguồn tài chính để hình thành quỹ BHXH tự nguyện chủ yếu do người

lao động đóng góp. Những người này thường có thu nhập thấp và số người

ban đầu tham gia chưa nhiều, cho nên quỹ thường bị hạn hẹp. Để có nguồn

quỹ đáp ứng được yêu cầu hoạt động, cần phải có nhiều biện pháp tích cực,

như: Hình thức tuyên truyền phong phú, linh hoạt, giải thích cặn kẽ đầy đủ để

vận động các tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân hảo tâm ủng hộ quỹ, các nguồn

tài trợ khác và sự đóng góp và bảo trợ của Nhà nước cho quỹ khi cần thiết.

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện thường chỉ được triển khai với một số chế

độ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế và khả năng tài chính của các đối

tượng tham gia. Để lựa chọn những chế độ phù hợp khi triển khai, các nước

đều tiến hành điều tra nhu cầu thực tế từ chính các đối tượng hướng tới và có

tính đến khả năng hỗ trợ của Nhà nước. Đây là đặc điểm rất quan trọng, là cơ

sở để xây dựng và ban hành chính sách BHXH tự nguyện.

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện thường được triển khai sau BHXH bắt

buộc. Vì người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thường là

cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước (những người làm công, hưởng

lương). Những đối tượng này có trình độ học vấn và dân trí cao; công việc và

thu nhập ổn định nên có điều kiện tham gia dễ dàng hơn. Do đó, trong thời kỳ

18

đầu triển khai BHXH các nước thường áp dụng cho những đối tượng này

trước và dưới hình thức bắt buộc. Sau đó mới mở rộng đối tượng tham gia

cho các nhóm lao động khác trong xã hội dưới hình thức BHXH tự nguyện.

1.2.1.2. Bản chất của Bảo hiểm xã hội tự nguyện

* Bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện

Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng thể

hiện ở chỗ những người tham gia cũng đóng góp một khoản tiền trích trong

thu nhập (khoản đóng góp này sau khi đó chi tiêu cho các nhu cầu tối thiểu và

các nhu cầu cần thiết và không ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất - kinh

doanh của cá nhân) để lập một quỹ dự trữ. Mục đích của việc hình thành quỹ

này để trợ cấp cho những người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn

đến giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy BHXH cũng là quá trình phân phối lại

thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP được

xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu về BHXH

như ốm đau, sinh đẻ, già yếu, chết... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối

của BHXH được thực hiện theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo

chiều ngang là sự phân phối giữa chính bản thân người lao động theo thời

gian (giữa thời gian lao động và thời gian nghỉ hưu). Phân phối theo chiều dọc

là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh với người ốm đau; giữa người

trẻ và người già; giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Nhờ

sự phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn

được đảm bảo trước những bất trắc và rủi ro xã hội.

Tóm lại, BHXH tự nguyện được đặc trưng bằng sự vận động của các

nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện

nhằm góp phần ổn định cuộc sống của người tham gia và gia đình họ khi gặp

rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao động.

19

* Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện

Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện được thể hiện ngay trong mục tiêu

của nó. BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Mục tiêu của bất kỳ hệ

thống BHXH nào cũng là mục tiêu xã hội. Điều này được thể hiện thông qua

việc chi trả chế độ BHXH. Người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được thay thế

hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất khả lao động. Do có

sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHXH tự nguyện nên mặc dù chỉ

đóng một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho Quỹ BHXH tự nguyện,

nhưng có thể được bồi hoàn một khoản thu nhập đủ lớn để giúp họ trang trải

rủi ro. Ở đây, Quỹ BHXH tự nguyện đó thực hiện nguyên tắc "lấy của số

đông, bù cho số ít" và BHXH tự nguyện được hiểu như một chính sách xã hội

nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm, bị

mất. Trên góc độ vĩ mô, BHXH tự nguyện gúp phần ổn định an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Tóm lại, hoạt động BHXH tự nguyện không vì mục tiêu lợi nhuận, mà

hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp

phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Điều này giải thích tại sao BHXH

được coi là một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.

Tuy nhiên bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH không tách rời

mà đan xen với nhau. Khi nói đến sự đảm bảo kinh tế cho người lao động và

gia đình họ là nói đến tính xã hội của BHXH. Ngược lại khi nói đến sự đóng

góp ít, nhưng lại được bù đắp đủ trang trải mọi rủi ro, thì cũng đã đề cập đến

20

tính kinh tế của BHXH.

1.2.2. Vai trò của BHXH tự nguyện

1.2.2.1. Góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình mọi

người lao động trong xã hội

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, tình trạng bao cấp của Nhà nước

đối với người dân nói chung và người lao động nói riêng sẽ dần dần được loại

bỏ. Mọi người phải tự mình xoay xở để đảm bảo ổn định cuộc sống. Đặc biệt

là khi gặp phải rủi ro như ốm đau, tai nạn… thu nhập bị giảm sút, chi phí

khám chữa bệnh và điều trị sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi

gia đình. Bởi vậy, tham gia BHXH sẽ giúp người lao động tiết kiệm được

những khoản tiền nhỏ bé, đều đặn từ khi còn trẻ, khỏe để có nguồn lực tài

chính cần thiết, tối thiểu khi về già hoặc khi bị ốm đau, tai nạn do BHXH trợ

cấp. Hơn nữa, việc tham gia BHXH còn được Nhà nước hỗ trợ và bảo trợ, cho

nên họ hoàn toàn an tâm và tự tin trong cuộc sống. Đây chính là chỗ dựa tâm

lý vững chắc để người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất, từ đó

góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động.

Từ thực tế cho thấy, dù người lao động làm việc ở những ngành nghề,

những lĩnh vực rất khác nhau, dù họ có quan hệ lao động hay không có quan

hệ lao động, nhưng khi hết tuổi lao động, thu nhập từ lao động chắc chắn sẽ bị

giảm sút hoặc không còn nữa. Vì thế, tham gia BHXH sẽ trực tiếp giúp họ ổn

định cuộc sống khi về già, giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái hoặc

phúc lợi xã hội. Điều này còn có ý nghĩa vô cùng to lớn trong điều kiện tốc độ

già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay.

1.2.2.2. Đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa những người lao động

Mọi người lao động trong xã hội đều phải làm việc để có thu nhập đảm

bảo ổn định cuộc sống, dù người đó có tham gia vào thị trường lao động hay

lao động tự do, tự tạo việc làm. Tuy nhiên, do thực tế khách quan đòi hỏi, do

21

nhu cầu bức thiết của cuộc sống và do khả năng tổ chức, quản lý của Chính

phủ, mà những người lao động có quan hệ lao động thường được tham gia

BHXH trước dưới hình thức bắt buộc. Khi kinh tế - xã hội phát triển, khi sản

xuất hàng hóa đã trở nên phổ biến, thì nhu cầu tham gia BHXH của những

người nông dân, những lao động tự do, tự tạo việc làm cũng trở nên bức thiết

hơn bao giờ hết. Bởi vậy, hình thức BHXH tự nguyện ra đời đã đáp ứng được

nhu cầu thực sự của họ ở những mức độ và phạm vi khác nhau thể hiện ở số

lượng các chế độ BHXH tự nguyện. Việc ban hành chính sách và tổ chức

triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm này có ý nghĩa vô cùng to lớn và

thực chất cũng là để đảm bảo tính công bằng và bình đẳng giữa những người

lao động, đảm bảo quyền con người mà cả thế giới luôn hướng tới trong một

xã hội văn minh và phát triển như hiện nay.

1.2.2.3. BHXH tự nguyện trực tiếp góp phần đảm bảo An sinh xã hội

Cũng với cơ chế đóng - hưởng, chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng,

BHXH tự nguyện cùng với BHXH bắt buộc đã bao phủ được mọi người lao

động trong xã hội có bảo hiểm. Mảng chính sách này luôn được coi là lưới

ASXH đầu tiên, là trụ cột chính trong hệ thống ASXH quốc gia. Khi diện bao

phủ của BHXH được mở rộng nhờ chính sách BHXH tự nguyện, sẽ làm giảm

đi đáng kể các đối tượng được bảo trợ xã hội, từ đó làm giảm chi tiêu cho

ngân sách Nhà nước. Nhờ đó góp phần đảm bảo ASXH bền vững. Điều này

còn có ý nghĩa và vai trò to lớn đối với những quốc gia đang phát triển (trong

đó có Việt Nam), vì ở đó LLLĐ tham gia BHXH bắt buộc chiếm tỷ lệ rất

khiêm tốn do sản xuất chưa thực sự phát triển. Số lao động là nông dân, lao

động tự do chiếm tỷ lệ rất cao. Một khi LLLĐ này tích cực và có cơ chế thuận

lợi để họ tham gia thì diện bao phủ của BHXH sẽ ngày càng được mở rộng.

Nguồn quỹ BHXH được hình thành ngày càng lớn và hiệu quả chia sẻ rủi ro

sẽ ngày càng cao, quy luật số đông trong bảo hiểm sẽ phát huy tối đa tác

dụng. Nhờ đó hệ thống các chính sách đảm bảo ASXH sẽ ngày càng được

22

hoàn thiện và ASXH sẽ bền vững hơn, ổn định hơn.

1.2.3. Nguyên tắc hoạt động của BHXH tự nguyện

Nguyên tắc của BHXH tự nguyện là những định hướng, những quy định

và những phương thức hoạt động của cả hệ thống BHXH nhằm đạt được

những mục tiêu đề ra. Theo nghĩa đó, BHXH tự nguyện phải được xây dựng

trên nền tảng các nguyên tắc sau:

1.2.3.1. Nguyên tắc tự nguyện

Trong BHXH tự nguyện, việc tham gia hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện

của người lao động, không mang tính bắt buộc. Người lao động có quyền tự

quyết định tham gia hay không tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương

thức đóng phù hợp với nhu cầu và thu nhập của mình. Vì đây là hình thức tự

nguyện, nên để thu hút nhiều người lao động tham gia, nhằm đảm bảo ASXH

thì Nhà nước cần phải thiết kế một chính sách thông thoáng, mềm dẻo, linh hoạt

phù hợp với thực tiễn và tổ chức triển khai có hiệu quả chính sách BHXH tự

nguyện. Thậm chí phải hỗ trợ đóng phí cho những người lao động thuộc đối

tượng thu nhập thấp để họ có cơ hội tham gia. Nếu đảm bảo thực hiện tốt

nguyên tắc này, thì chính sách BHXH tự nguyện mới thực sự đi vào cuộc sống;

công tác tổ chức triển khai mới diễn ra dễ dàng, thuận lợi và có hiệu quả.

1.2.3.2. Nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng và bình đẳng

Có thể nói, mọi hoạt động trong đời sống xã hội nếu thực hiện công bằng

và bình đẳng sẽ hạn chế được những mâu thuẫn nội tại giữa con người với

con người; đây chính là động lực tạo ra sự đoàn kết và khơi dậy tiềm năng,

sức sáng tạo của con người cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong hệ thống BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng, cần phải

tuân thủ theo nguyên tắc này, vì nó liên quan tới quyền và nghĩa vụ của người

lao động và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động và gia đình

họ. Nguyên tắc này phải được thực hiện ngay trong quá trình xây dựng và tổ

23

chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện. Cụ thể, không có sự phân biệt

giữa 2 loại hình BHXH bắt buộc và tự nguyện, hoặc trong cùng BHXH tự

nguyện cũng không được phân biệt về giới tính, ngành nghề, khu vực, thu

nhập… Mức đóng và mức hưởng trợ cấp BHXH tự nguyện thường có mối

quan hệ tương ứng với nhau, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, nếu

chỉ thực hiện với chế độ hưu trí và tử tuất. Nếu thực hiện các chế độ khác thì

BHXH tự nguyện vẫn có tính không hoàn trả nhằm chia sẻ rủi ro, gắn kết

cộng đồng và lợi ích giữa các bên tham gia.

1.2.3.3. Nguyên tắc đơn giản và thuận tiện

Ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hình thức BHXH tự

nguyện thường triển khai sau BHXH bắt buộc. Do vậy, về chính sách cũng

như bộ máy thực hiện không thể đồng bộ và hoàn thiện bằng loại hình BHXH

bắt buộc. Hơn nữa, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là nông

dân, lao động tự do…Những người này có đặc điểm là công việc bấp bênh,

không ổn định, trình độ học vấn, tay nghề chuyên môn kỹ thuật và thu nhập

thấp… Vì vậy, để những người lao động này nhanh chóng tiếp cận với chính

sách BHXH tự nguyện thì quá trình tổ chức thực hiện phải đơn giản, dễ dàng,

thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi cho người tham gia. Cụ thể,

phải đơn giản hóa về thủ tục đăng ký tham gia và hưởng các chế độ; phương

thức thu, chi trả phải linh hoạt và thuận tiện.

1.2.3.4. Nguyên tắc bảo trợ của Nhà nước

Bảo hiểm xã hội ra đời nhằm ổn định đời sống cho người lao động và gia

đình họ, góp phần bảo đảm ASXH. Hoạt động BHXH vừa mang tính kinh tế,

vừa mang tính chính trị, xã hội, vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Do vậy,

cho dù BHXH hoạt động theo hình thức bắt buộc hay tự nguyện thì đều có sự

bảo trợ của Nhà nước. Mục đích bảo trợ của Nhà nước là để cho hoạt động

BHXH tự nguyện được an toàn, lành mạnh, hiệu quả và đạt được mục tiêu đề

24

ra. Hơn nữa, giúp cho người tham gia an tâm, tin tưởng. Không chỉ có bảo trợ,

Nhà nước còn có thể hỗ trợ phí BHXH tự nguyện cho người tham gia, đặc

biệt trong giai đoạn đầu triển khai. Cách làm này sẽ trực tiếp khuyến khích và

tạo sức lan tỏa giữa những lao động trong xã hội nhằm nhanh chóng mở rộng

diện bao phủ của BHXH nói chung.

1.2.3.5. Nguyên tắc phát triển

Phát triển chính sách BHXH tự nguyện là thể hiện sự công bằng, văn

minh và tiến bộ xã hội. Để chính sách này thực sự đi vào cuộc sống, thì việc

thiết kế chính sách phải theo hướng “mở và linh hoạt”, tổ chức triển khai phải

phù hợp với thực tiễn. Từ đó mới mở rộng được diện bao phủ BHXH tự

nguyện. Tuy nhiên, số lượng chế độ được áp dụng trong mỗi thời kỳ phải phù

hợp với thể chế chính trị, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, thu nhập của

dân cư, trình độ quản lý… và đáp ứng được nhu cầu thực tế của người tham

gia. Khi phát triển đối tượng tham gia, không nên mở rộng tràn lan, mà phải

có lộ trình và phân loại lao động theo các nhóm có mức thu nhập khác nhau

(cao, trung bình, thấp). Đối với nhóm lao động có mức thu nhập từ trung bình

trở lên thì khả năng tham gia BHXH tự nguyện sẽ rất cao và việc mở rộng đối

tượng tham gia ở nhóm này sẽ dễ dàng hơn. Nhưng nhóm lao động có mức

thu nhập thấp thì khó có khả khả năng tham gia, để nhóm này có cơ hội được

tiếp cận với chính sách BHXH tự nguyện, cần thiết phải có sự hỗ trợ tích cực

của Nhà nước trong việc đóng phí BHXH.

1.2.4. Chính sách BHXH tự nguyện

1.2.4.1. Quyền lợi BHXH tự nguyện

Người đóng BHXH tự nguyện được hưởng những quyền lợi như tham

gia BHXH bắt buộc như:

- Được hưởng chế độ hưu trí khi đóng được ít nhất 20 năm và hết tuổi

25

lao động;

- Được hưởng chế độ BHXH 1 lần nếu không đủ điều kiện hưu trí hoặc

muốn nhận sớm;

- Thân nhân được hưởng chế độ tử tuất nếu người đóng chẳng may qua đời.

Ngoài ra, người tham gia BHXH tự nguyện kể từ ngày 01/01/2018 sẽ

được Ngân sách nhà nước hỗ trợ 1 phần số tiền đóng BHXH tự nguyện.

1.2.4.2. Mức đóng BHXH tự nguyện

* Mức đóng hằng tháng bằng 22% mức thu nhập tháng do người tham

gia BHXH tự nguyện lựa chọn.

Mdt = 22% x Mtnt

Trong đó: + Mdt: Mức đóng BHXH tự nguyện hằng tháng.

+ Mtnt: Mức thu nhập tháng do người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn.

- Mức thu nhập tháng được tính bằng công thức sau:

Mtnt = CN + m x 50.000 (đồng/tháng)

Trong đó: + CN: Mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn tại thời

điểm đóng (đồng/tháng).

+ m: Tham số tự nhiên có giá trị từ 0 đến n.

- Mức thu nhập tháng do người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn thấp

nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn theo quy định của Thủ

tướng Chính phủ (700.000 đồng tháng) và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ

sở tại thời điểm đóng.

* Mức đóng 3 tháng hoặc 6 tháng hoặc 12 tháng một lần được xác định

bằng mức đóng hằng tháng nhân với 3 đối với phương thức đóng 3 tháng;

nhân với 6 đối với phương thức đóng 6 tháng; nhân với 12 đối với phương

thức đóng 12 tháng một lần.

1.2.4.3. Thời điểm và phương thức đóng

Người tham gia BHXH tự nguyện được chọn một trong các phương thức

26

đóng sau đây để đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất:

- Đóng hằng tháng (a);

- Đóng 3 tháng một lần (b);

- Đóng 6 tháng một lần (c);

- Đóng 12 tháng một lần (d);

- Đóng một lần cho nhiều năm về sau nhưng không quá 5 năm 1 lần (đ);

- Đóng một lần cho những năm còn thiếu đối với người tham gia BHXH

đã đủ điều kiện về tuổi để hưởng lương hưu theo quy định nhưng thời gian

đóng BHXH còn thiếu không quá 10 năm (120 tháng) thì được đóng cho đủ

20 năm để hưởng lương hưu (e).

Trường hợp người tham gia bảo hiểm xã hội đã đủ tuổi nghỉ hưu theo

quy định mà thời gian đã đóng BHXH còn thiếu trên 10 năm nếu có nguyện

vọng thì tiếp tục đóng BHXH tự nguyện theo một trong các phương thức quy

định tại các mục a, b, c, d và đ như trên cho đến khi thời gian đóng BHXH

còn thiếu không quá 10 năm thì được đóng một lần cho những năm còn thiếu

để hưởng lương hưu theo quy định tại mục e.

Người tham gia BHXH tự nguyện được thay đổi phương thức đóng hoặc

mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện sau khi thực hiện

xong phương thức đóng đã chọn trước đó.

1.2.4.4. Thủ tục tham gia BHXH tự nguyện

- Trường hợp 1: Nếu đối tượng lần đầu tiên tham gia đóng BHXH tự

nguyện (Tăng mới lần đầu) thì kê khai tờ khai TK01-TS đăng ký tham gia và

nộp tiền cho đại lý thu BHXH.

- Trường hợp 2: Nếu đối tượng trước đây có tham gia đóng BHXH bắt

buộc (lần đầu tham gia BHXH tự nguyện) thì kê khai tờ khai TK01-TS đăng

ký tham gia, nộp sổ và nộp tiền cho đại lý thu BHXH để đại lý nộp cho cơ

27

quan BHXH nhập quá trình tham gia trước đây.

- Trường hợp 3: Người tham gia đã đăng ký đóng BHXH tự nguyện một

thời gian nhưng sau đó vì lý do gì đó không đóng tiếp nên gián đoạn, nay có

nguyện vọng đóng lại thì lập tờ khai TK01-TS ghi rõ lý do đăng ký đóng lại

và nộp tiền cho đại lý thu BHXH.

* Người tham gia đã đăng ký mức đóng, phương thức đóng trước đó

muốn thay đổi mức đóng, phương thức đóng kì này thì lập tờ khai TK01-TS

ghi rõ nội dung thay đổi và nộp cho đại lý thu BHXH.

1.3. Nội dung về phát triển đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện

1.3.1. Gia tăng mức độ bao phủ của hệ thống BHXH tự nguyện

Mức độ bao phủ của hệ thống BHXH tự nguyện là sự phản ánh mức độ

tham gia của người lao động đối với chính sách này. Nếu mức độ tham gia

BHXH tự nguyện càng cao thì mức độ an toàn cho người lao động khi tuổi già

hoặc khi gặp rủi ro càng cao. Điều này cũng đồng nghĩa với khả năng phòng

ngừa rủi ro của người lao động càng cao. Mặt khác, nó cũng phản ánh trình độ

phát triển và sự tiến bộ xã hội của một quốc gia. Xu hướng chung, BHXH tự

nguyện nhằm hướng tới bảo đảm an toàn cho mọi thành viên trong xã hội, phòng

ngừa, giảm thiểu, khắc phục hậu quả rủi ro và đảm bảo ASXH. Từ đó sẽ tạo ra

sự công bằng, bình đẳng giữa các tầng lớp lao động trong xã hội. Qua đó giúp

cho người lao động yên tâm, tin tưởng vào chính sách tốt đẹp của Nhà nước và

đây chính là động lực để khuyến khích họ tích cực lao động, nâng cao năng suất,

chất lượng và hiệu quả lao động. Vì vậy, việc mở rộng diện bao phủ BHXH tự

nguyện là mục tiêu mà các quốc gia đang hướng tới và đây cũng chính là nhu

cầu và nguyện vọng chính đáng của người lao động từ bao đời nay.

1.3.2. Kích thích nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người dân

Như đã biết, để có của cải vật chất con người phải lao động, để lao động

con người phải có sức khoẻ và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế

28

cuộc sống không phải NLĐ nào cũng có đủ điều kiện về sức khoẻ và khả

năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động,

công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Ngược lại, không mấy ai tránh khỏi những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai

nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự

nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội

khác. Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu không vì thế mà

mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới.

Sự xuất hiện của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng là một

tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần

thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm

cho NLĐ. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của NLĐ và được

thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của

con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc

họp thông qua ngày 10-12-1948 đã nêu: “Tất cả mọi người với tư cách là

thành viên của xã hội có quyền hưởng Bảo hiểm xã hội”.

1.3.3. Hoàn thiện, mở rộng mạng lưới hệ thống Đại lý thu BHXH tự nguyện

Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một chính sách mới của Đảng và Nhà

nước ta đối với người lao động là nông dân, ngư dân, diêm dân và lao động ở

khu vực PCT. Để BHXH tự nguyện thực phát huy được tính nhân văn của nó,

thì ngoài việc Nhà nước ban hành chính sách BHXH tự nguyện phù hợp với

thực tiễn, công tác tổ chức bộ máy triển khai cũng hết sức quan trọng. Vì đối

tượng tham gia BHXH tự nguyện là lao động có quy mô rất lớn, chiếm

khoảng 70% LLLĐ trong cả nước, thu nhập thấp và không ổn định, trình độ

chuyên môn thấp, mang nặng tính văn hóa làng xã, chưa có thói quen tham

gia BHXH tự nguyện, nên để phát triển được đối tượng tham gia thì BHXH

Việt Nam cần phải tổ chức bộ máy thực thi chuyên nghiệp, xứng tầm và phù

29

hợp với quy mô và đặc điểm của lao động. Trên thực tế, cơ cấu tổ chức bộ

máy thực thi chính sách BHXH ở Việt Nam được hình thành theo 3 cấp: Ở

trung ương có BHXH Việt Nam; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có

BHXH tỉnh, thành phố; ở quận, huyện, thị xã có BHXH quận, huyện, thị xã.

Như vậy, chỉ có 3 cấp quản lý chung các loại hình BHXH, bảo hiểm y tế

(BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), chưa tổ chức bộ máy triển khai riêng

cho BHXH tự nguyện.

Vì BHXH chưa có bộ máy tổ chức ở cấp xã phường nên những người

lao động có nhu cầu đăng ký tham gia và nộp phí phải đến tận cơ sở BHXH

huyện để làm thủ tục và nộp phí.

Để khắc phục tình trạng trên, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Tổng

công ty Bưu điện Việt Nam ký kết các chương trình hợp tác. Năm 2013, triển

khai thí điểm chi trả chế độ hưu trí thông qua hệ thống này, theo đó, người về

hưu sẽ được nhận tiền lương hưu tại các điểm của Bưu điện xã phường nơi cư

trú. Năm 2014, thí điểm thu BHXH tự nguyện, BHYT tự nguyện thông qua

các điểm Bưu điện xã phường. Trên thực tế, quản lý đối tượng tham gia và

thụ hưởng là một công việc phức tạp ngay cả đối với ngành BHXH Việt Nam.

Vì vậy, để chi trả lương hưu, đăng ký tham gia và thu BHXH tự nguyện qua

hệ thống Bưu điện xã phường được đảm bảo đúng, đủ, kịp thời, thuận lợi và

an toàn, điều này đòi hỏi phải mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn,

nghiệp vụ cho cán bộ ngành Bưu điện về lĩnh vực bảo hiểm. Đồng thời, có sự

phối hợp chặt chẽ với UBND các cấp, cán bộ tư pháp, các tổ chức hưu trí tại

các khu dân cư để nắm bắt kịp thời biến động của đối tượng thụ hưởng.

Do đặc điểm của người nông dân sinh sống trên địa bàn rộng, phức tạp,

hình thức tham gia đơn lẻ…công tác thu phí của người tham gia phải thu trực

tiếp bằng tiền mặt, việc tổ chức ở cơ sở để cho người nông dân tham gia

BHXH tự nguyện là vấn đề cần được quan tâm giải quyết của toàn xã hội, của

30

các cấp, các ngành.

Do vậy, cần phải có chính sách xây dựng mạng lưới đại lý làm

công tác BHXH tự nguyện trên từng địa bàn xã phường, thị trấn. Cần có cơ

chế, chủ trương tăng cường cán bộ chuyên trách của cơ quan BHXH huyện,

thị xã, thành phố trực tiếp cùng các đại lý để triển khai BHXH tự nguyện cho

người dân.

1.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về

BHXH tự nguyện

Để người lao động hiểu được tham gia BHXH tự nguyện vừa là quyền,

vừa là nghĩa vụ của người lao động, thì công tác tuyên truyền giữ vai trò rất

quan trọng. Nếu công tác tuyên truyền phù hợp về nội dung và hình thức cho

từng nhóm đối tượng tham gia sẽ khuyến khích và phát triển được đối tượng

tham gia.

Có thể nói, công tác thông tin tuyên truyền về BHXH tự nguyện luôn

được gắn liền với quá trình hình thành và phát triển chính sách BHXH. Hiện

nay, công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chế độ chính sách BHXH

chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu thông qua hình thức in và phát hành

các văn bản pháp quy. Phạm vi đối tượng nắm và hiểu biết về các chế độ,

chính sách BHXH chủ yếu chỉ dừng lại ở lãnh đạo các cấp, các ngành, những

người làm công tác quản lý trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc

khu vực Nhà nước.

Sau khi hệ thống BHXH Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động, nó đã trở

thành cơ quan có chức năng tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách BHXH -

BHYT và quản lý quỹ theo quy định của pháp luật. Công tác thông tin tuyên

truyền đã được BHXH Việt Nam xác định là một nhiệm vụ và luôn được quan

tâm tổ chức thực hiện. Hệ thống thông tin tuyên truyền BHXH nói chung và

BHXH tự nguyện cho người dân nói riêng được coi là một công tác quan

31

trọng của ngành BHXH.

Do đặc điểm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là nông dân và lao

động thuộc khu vực phi chính thức nên trình độ nhận thức và mức thu nhập

thấp, hơn nữa lại không ổn định, thiếu điều kiện cơ sở vật chất để nắm bắt và

cập nhật thông tin nên người nông dân luôn trong tình trạng thiếu thông tin

trầm trọng. Chính vì vậy, công tác thông tin tuyên truyền phải đa dạng hoá các

hình thức và nội dung truyền thông, đơn giản hoá các vấn đề để người dân dễ

hiểu. Công tác thông tin tuyên truyền có vị trí rất quan trọng, nó có tác dụng chi

phối, can thiệp, tác động đến kết quả tổ chức thực hiện chính sách ASXH.

Đồng thời, đưa chính sách BHXH tự nguyện đến các cấp, các ngành và mọi

thành viên trong xã hội không chỉ nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về

mục đích, ý nghĩa chủ trương đường lối của Đảng và chế độ, chính sách của

Nhà nước. Từ đó đem lại niềm tin và sự quan tâm hơn của mọi người dân.

Với vai trò và sự ảnh hưởng đến quá trình phát triển BHXH tự nguyện

như vậy, công tác thông tin tuyên truyền cần phải có những giải pháp linh hoạt

phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương. Làm sao cho người dân

hiểu đúng hiểu đủ, nắm bắt một cách dễ dàng nhất ý nghĩa và tính nhân văn của

các chế độ, chính sách BHXH tự nguyện dẫn đến tự giác và nhận thức được

tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, kết quả là số nông dân tham gia BHXH tự

nguyện ngày một đông hơn. Điều đó cho thấy công tác thông tin tuyên truyền

có nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển BHXH tự nguyện cho người dân.

1.3.5. Đổi mới các chế độ BHXH tự nguyện được hưởng

Bảo hiểm xã hội tự nguyện thực chất là một loại hình của BHXH, bởi

vậy về bản chất BHXH tự nguyện cũng có những nội dung cơ bản của BHXH

theo quy định tại Công ước 102 của ILO quy định quy phạm tối thiểu về an

toàn xã hội. Theo đó, BHXH tự nguyện cũng có thể bao gồm tất cả 9 chế độ

như trong Công ước. Tuy nhiên, ILO cũng khuyến cáo không bắt buộc các

32

quốc gia phải thực hiện đầy đủ cả 9 chế độ mà chỉ khuyến khích các nước

thành viên thực hiện ít nhất 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong các

chế độ: Trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh

nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật và trợ cấp tử tuất.

Việc lựa chọn chế độ nào để áp dụng là nội dung rất quan trọng khi thiết kế

chính sách BHXH tự nguyện, vì nó phụ thuộc vào thể chế chính trị và trình độ

phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong mỗi thời kỳ. Nội dung chế độ BHXH

tự nguyện phải xác định rõ: Đối tượng được hưởng thụ, điều kiện được hưởng,

thời gian hưởng và mức hưởng. Cơ sở để thiết kế nội dung này phải dựa vào điều

kiện kinh tế - xã hội và điều kiện sinh học của người lao động ở từng quốc gia.

Ở Việt Nam, BHXH tự nguyện bao gồm 2 chế độ là: hưu trí và tử tuất.

Cụ thể:

1.3.5.1. Chế độ Hưu trí

* Hưởng lương hưu hàng tháng

Từ ngày Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực thi hành cho đến trước ngày

01 tháng 01 năm 2018 mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều

kiện quy định: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có 20 năm tham gia BHXH;

Hoặc NLĐ đủ tuổi nhưng chưa đủ 20 năm tham gia BHXH thì được tham gia

cho tới khi đủ 20 năm tham gia BHXH thì được tính bằng 45% mức bình

quân thu nhập tháng đóng BHXH quy định tại Điều 79 của Luật BHXH tương

ứng với 15 năm đóng BHXH; sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối

với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người

lao động đủ điều kiện quy định: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có 20 năm

tham gia BHXH; Hoặc NLĐ đủ tuổi nhưng chưa đủ 20 năm tham gia BHXH

thì được tham gia cho tới khi đủ 20 năm tham gia BHXH thì được tính bằng

45% mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều

33

79 của Luật BHXH và tương ứng với số năm đóng BHXH như sau:

- Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm,

năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;

- Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.

Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định tại điểm a và điểm b

khoản này được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.

Việc điều chỉnh lương hưu được thực hiện theo quy định tại Điều 57 của

Luật BHXH quy định:

- Mức bình quân thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện là

bình quân các mức thu nhập tháng của toàn bộ thời gian đóng BHXH. Đối với

người vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc, vừa có thời gian đóng bảo hiểm

xã hội tự nguyện thì mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng

đóng bảo hiểm xã hội được tính bằng mức bình quân tiền lương, tiền công và

thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội chung của các thời gian.

- Người tham gia BHXH tự nguyện có đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc

trở lên, nếu lương hưu hàng tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung, thì

được quỹ BHXH bù bằng mức lương tối thiểu chung.

- Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh

hoạt và tăng trưởng kinh tế theo quy định của Chính phủ.

- Người hưởng lương hưu được cấp thẻ BHYT do quỹ BHXH đảm bảo.

* Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu:

- Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm

tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu

còn được hưởng trợ cấp một lần.

- Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội cao

hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, cứ mỗi năm đóng bảo

hiểm xã hội thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng

34

bảo hiểm xã hội.

* Trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần:

Người lao động đang tham gia BHXH tự nguyện mà có yêu cầu thì được

hưởng bảo hiểm xã hội một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Đủ điều kiện về tuổi: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, nhưng chưa đủ 20

năm đóng bảo hiểm xã hội mà không tiếp tục tham gia BHXH;

- Ra nước ngoài để định cư;

- Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng

như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã

chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế.

Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần được tính theo số năm đã đóng bảo

hiểm xã hội, cứ mỗi năm được tính như sau:

+ 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội cho

những năm đóng trước năm 2014;

+ 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội cho

những năm đóng từ năm 2014 trở đi;

+ Trường hợp thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ một năm thì mức

hưởng bảo hiểm xã hội bằng số tiền đã đóng, mức tối đa bằng 02 tháng mức

bình quân thu nhập tháng đóng BHXH

- Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần của đối tượng được Nhà nước hỗ

trợ không bao gồm số tiền Nhà nước hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện, trừ

trường hợp là người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính

mạng và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế.

- Người tham gia BHXH tự nguyện dừng đóng BHXH tự nguyện mà

chưa đủ điều kiện để hưởng lương hưu theo quy định mà không nhận BHXH

35

một lần thì được bảo lưu thời gian đóng BHXH.

1.3.5.2. Chế độ Tử tuất

* Trợ cấp mai táng: người lo mai táng được hưởng trợ cấp mai táng do quỹ

BHXH chi trả bằng 10 tháng lương cơ sở tại tháng mà người tham gia BHXH

chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết nếu thuộc 1 trong các trường hợp sau:

- Người tham gia BHXH tự nguyện có thời gian đóng BHXH bắt buộc từ

đủ 12 tháng trở lên;

- Người tham gia BHXH tự nguyện có thời gian tính hưởng chế độ tử tuất

tuất đủ 60 tháng trở lên;

- Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đang hưởng trợ cấp tai nạn

lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng đã nghỉ việc;

- Người đang hưởng lương hưu.

* Trợ cấp tuất một lần

- Người tham gia BHXH tự nguyện đang đóng BHXH hoặc đang bảo lưu

thời gian đóng BHXH chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì thân nhân

được hưởng trợ cấp tuất một lần.

- Mức trợ cấp tuất một lần tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm

tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH cho những

năm đóng BHXH trước năm 2014; bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập

tháng đóng BHXH cho các năm từ năm 2014 trở đi.

+ Trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện có thời gian đóng

BHXH chưa đủ 1 năm thì mức trợ cấp tuất một lần bằng số tiền đã đóng

nhưng mức tối đa bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.

+ Trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện có cả thời gian đóng

BHXH bắt buộc và tự nguyện thì mức hưởng trợ cấp tuất một lần tối thiểu

bằng 03 tháng mức bình quân tiền lương và thu nhập tháng đóng BHXH.

- Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng

36

lương hưu chết được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong

02 tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng;

trường hợp chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 01 tháng lương hưu

thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu.

* Trợ cấp tuất hàng tháng: Người tham gia BHXH tự nguyện chết hoặc

bị Tòa án tuyên bố là đã chết thuộc một trong các trường hợp sau thì thân

nhân theo quy định tại Khoản 2 Điều 67 của Luật Bảo hiểm xã hội được

hưởng trợ cấp tuất hằng tháng theo quy định tại Điều 68 của Luật BHXH:

- Đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên nhưng chưa

hưởng bảo hiểm xã hội một lần;

- Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng với

mức suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;

- Đang hưởng lương hưu mà trước đó có thời gian đóng bảo hiểm xã hội

bắt buộc đủ 15 năm trở lên.

Mức trợ cấp tuất hàng tháng:

- Mỗi thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng bằng 50% mức

lương tối thiểu chung; trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi

dưỡng thì mức trợ cấp tuất hàng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu chung.

- Trường hợp một người chết thì số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất

hàng tháng không quá 4 người; trường hợp có từ 2 người chết trở lên thì thân

nhân của những người này được hưởng 2 lần mức trợ cấp theo quy định trên.

- Thời điểm hưởng trợ cấp tuất hàng tháng của thân nhân được tính từ

tháng liền kề sau tháng đối tượng chết. Trường hợp khi bố chết mà người mẹ

đang mang thai thì thời điểm hưởng trợ cấp tuất tháng của con được tính từ

tháng con được sinh.

- Thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng có nguyện vọng

được hưởng trợ cấp tuất 1 lần thì được hưởng trợ cấp tuất một lần. Trừ trường

hợp con dưới 06 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm khả năng lao

37

động từ 81% trở lên.

1.3.6. Nâng cao chất lượng dịch vụ BHXH tự nguyện

Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO

9001:2008, thì chất lượng dịch vụ là mức phù hợp của sản phẩm dịch vụ thỏa

mãn các yêu cầu đề ra hoặc định trước của người mua. Vì vậy, phải coi BHXH

tự nguyện cho người dân là một dịch vụ và cần thể hiện các nội dung tăng

cường về chất lượng sau: Có cơ chế chính sách về nguồn lực tài chính để đáp

ứng được tăng cường, nâng cao chất lượng dịch vụ về thông tin tuyên truyền

vận động với nhiều kênh, đa dạng; Chính sách về thu, chi BHXH tuyên truyền

cho nông dân phải linh hoạt, thuận lợi; Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ

cho công tác hoạt động BHXH tự nguyện; Tăng cường nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ làm công tác BHXH tự nguyện của cơ quan BHXH các cấp.

1.3.7. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc phát triển đối tượng

tham gia BHXH tự nguyện

Công tác kiểm tra đánh giá là một vấn đề không thể thiếu được trong quá

trình tổ chức thực hiện. Vì vậy, cần phải xây dựng các nội dung kiểm tra đánh

giá phù hợp để thực hiện tăng cường kiểm tra thực hiện chính sách BHXH tự

nguyện đối với người dân.

Kiểm tra, đánh giá việc phân loại đối tượng để quản lý thu BHXH tự

nguyện. Kiểm tra việc tổ chức thực hiện các quy trình nghiệp vụ về công tác

38

BHXH tự nguyện đối với người dân.

Tiểu kết Chƣơng 1:

Trong chương 1, tác giả đã tiến hành làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản

về BHXH tự nguyện và phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Là

một loại hình nằm trong hệ thống BHXH nói chung nên BHXH tự nguyện

cũng có bản chất như BHXH. Bên cạnh những điểm chung, BHXH tự nguyện

có những điểm riêng biệt, vì vậy, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề lý

luận liên quan đến BHXH tự nguyện như: đặc điểm, bản chất, vai trò, nguyên

tắc và các chính sách của BHXH tự nguyện. Đồng thời đề xuất một hệ thống

các chỉ tiêu đánh giá về nội dung phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện, các chỉ tiêu chủ yếu bao gồm:

- Gia tăng mức độ bao phủ của hệ thống BHXH tự nguyện;

- Kích thích nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người dân;

- Hoàn thiện, mở rộng mạng lưới hệ thống đại lý thu BHXH tự nguyện;

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về

BHXH tự nguyện;

- Đổi mới các chế độ BHXH tự nguyện được hưởng;

- Nâng cao chất lượng dịch vụ BHXH tự nguyện;

- Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc phát triển đối tượng tham

gia BHXH tự nguyện.

Từ nội dung lý luận đã triển khai tại chương 1, tác giả đã đánh giá nội

dung về thực trạng phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tại chương

39

2 để làm rõ nét hơn về tình hình phát triển.

Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỐI TƢỢNG THAM GIA BHXH TỰ

NGUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ

2.1. Tổng quan chung về thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

Thị xã Quảng Trị là đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Trị, có một

vị trí quan trọng, nằm ở trung độ giao thông của cả nước, trên giao lộ 1A nối thủ

đô Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh và quốc lộ 9 trong hệ thống đường xuyên

Á, là điểm khởi đầu ở phía Đông của trục Hành lang kinh tế Đông - Tây giữa

đông bắc Thái Lan, Lào, Myanma và miền Trung Việt Nam qua cửa khẩu quốc

tế Lao Bảo và các nước trong khu vực biển Đông qua cảng Cửa Việt, kết thúc ở

thành phố Đà Nẵng. Từ thuận lợi về giao lưu đối ngoại, thị xã Quảng Trị có khả

năng thu hút, hội tụ để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và trở thành trung tâm

phát luồng các mối quan hệ kinh tế trong khu vực và quốc tế.

Thị xã Quảng Trị gồm 4 phường, 1 xã, dân số có 24.870 người, số dân

trong độ tuổi lao động là 14.338 người. Mật độ dân số: 983 người/km2. Thị

xã Quảng Trị giáp ranh phía Bắc với huyện Triệu Phong, phía Nam là huyện

Hải Lăng và cách Huế 57 km, cách Đồng Hới 112 km, cách thành phố Đông

Hà 12 km.

2.2. Tình hình cơ bản về BHXH thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

2.2.1. Giới thiệu chung về BHXH thị xã Quảng Trị

BHXH thị xã Quảng Trị được thành lập theo Quyết định số 76 QĐ/TC-

CB ngày 27/07/1995 của BHXH Việt Nam, được chính thức đi vào hoạt động

kể từ tháng 01/1996; là một trong những đơn vị BHXH trực thuộc BHXH tỉnh

Quảng Trị, nằm trong hệ thống BHXH Việt Nam và chịu sự quản lý theo

40

ngành dọc của BHXH tỉnh Quảng Trị theo quy định của pháp luật.

BHXH thị xã Quảng Trị có tư cách pháp nhân, là đơn vị hạch toán cấp 3,

có con dấu và có tài khoản riêng. BHXH thị xã Quảng Trị có trụ sở đặt tại xã

Hải Lệ, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

Trải qua hơn 24 năm thành lập, từ những khó khăn về cơ sở hạ tầng, điều

kiện trang thiết bị làm việc còn thô sơ và nhiều thiếu thốn, công tác quản lý

các đối tượng BHXH còn nhiều yếu kém, cùng với nguồn nhân lực còn hạn

hẹp (chỉ có 5 cán bộ viên chức với trình độ chuyên môn còn hạn chế). Cho

đến nay dưới sự nỗ lực cố gắng quyết tâm của cán bộ viên chức BHXH thị xã

Quảng Trị đã có nguồn nhân lực tương đối vững mạnh với trình độ chuyên

môn tốt (gồm 15 cán bộ viên chức); cơ sở hạ tầng, điều kiện trang thiết bị làm

việc được trang bị đầy đủ, công tác quản lý các đối tượng tham gia và hưởng

chế độ BHXH luôn được thực hiện một cách chính xác và kịp thời. BHXH thị

xã Quảng Trị đang từng bước phát triển vững mạnh đảm bảo hoàn thành xuất

sắc các nhiệm vụ mà BHXH tỉnh Quảng Trị giao cho. Thực hiện các chính

sách của Đảng và Nhà nước về chế độ BHXH cho người tham gia theo quy

định của Đảng và Nhà nước trong nền cơ chế thị trường theo định hướng xã

hội chủ nghĩa chịu sự quản lý của Nhà nước.

2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của BHXH thị xã Quảng Trị

2.2.2.1. Chức năng của BHXH thị xã Quảng Trị

BHXH thị xã là cơ quan trực thuộc BHXH tỉnh Quảng Trị đặt tại thị xã

Quảng Trị, có chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh tổ chức thực hiện chế

độ, chính sách BHXH, BHYT; quản lý thu, chi BHXH, BHTN, BHYT trên

địa bàn thị xã Quảng Trị theo quy định.

BHXH thị xã Quảng Trị chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Giám

đốc BHXH tỉnh Quảng Trị và chịu sự quản lý hành chính Nhà nước của Ủy

41

ban nhân dân thị xã Quảng Trị.

2.2.2.2. Nhiệm vụ của BHXH thị xã Quảng Trị

- Xây dựng, trình Giám đốc B00HXH tỉnh Quảng Trị phê duyệt kế

hoạch phát triển dài hạn, ngắn hạn và chương trình công tác hàng năm; tổ

chức thực hiện kế hoạch, chương trình sau khi được phê duyệt.

- Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính

sách, pháp luật về BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHYT hộ gia đình.

- Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ theo phân cấp của BHXH Việt Nam và

BHXH tỉnh, cụ thể:

+ Cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho những người tham gia BHXH, BHYT;

+ Khai thác, đăng ký, quản lý các đối tượng tham gia và hưởng chế độ

BHXH, BHTN, BHYT. Thu các khoản đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với

các tổ chức và cá nhân tham gia, từ chối việc đóng các chế độ BHXH, BHTN,

BHYT không đúng quy định.

+ Ký hợp đồng với các tổ chức làm Đại lý thu BHXH, BHYT và Đại lý

chi các chế độ BHXH, BHTN theo quy định;

+ Giải quyết các chế độ BHXH, BHYT; tổ chức Bộ phận tiếp nhận, trả

kết quả giải quyết chế độ BHXH, BHYT theo cơ chế “một cửa”.

+ Chi trả các chế độ BHXH, BHTN, BHYT; từ chối chi trả các chế độ

BHXH, BHTN, BHYT không đúng quy định;

+ Tiếp nhận khoản kinh phí từ Ngân sách Nhà nước chuyển sang để

đóng, hỗ trợ đóng cho các đối tượng tham gia BHXH, BHTN, BHYT;

+ Quản lý, sử dụng, hạch toán kế toán các nguồn kinh phí và tài sản của

BHXH huyện theo phân cấp;

+ Ký, tổ chức thực hiện hợp đồng khám chữa bệnh BHYT với các cơ sở

khám, chữa bệnh có đủ điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, kỹ thuật theo phân cấp.

- Kiểm tra, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại về việc thực hiện chế độ,

chính sách BHXH, BHTN, BHYT đối với các tổ chức, cá nhân tham gia và

42

các cơ sở khám, chữa bệnh BHYT theo quy định.

- Thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách hành chính theo chỉ đạo,

hướng dẫn của BHXH tỉnh. Tổ chức triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo

Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của BHXH huyện.

- Tổ chức thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHTN,

BHYT theo quy định.

- Quản lý, lưu trữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng các chế độ

BHXH, BHYT theo quy định.

- Hướng dẫn nghiệp vụ BHXH, BHTN, BHYT cho các tổ chức, cá nhân

tham gia.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã

hội trên địa bàn, với các tổ chức, cá nhân tham gia BHXH, BHTN, BHYT để

giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện các chế độ BHXH,

BHTN, BHYT theo quy định.

- Đề xuất, kiến nghị, phối hợp với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các chế độ

BHXH, BHTN, BHYT.

- Có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công

cộng, lợi ích nhà nước trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT trên địa bàn.

- Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền

được hưởng các chế độ, thủ tục thực hiện chính sách BHXH, BHTN, BHYT

khi người lao động, người sử dụng lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu;

Cung cấp đầy đủ và kịp thời tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền.

- Định kỳ 6 tháng, phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước về lao động ở

địa phương cập nhật thông tin về tình hình sử dụng lao động trên địa bàn.

Phối hợp cơ quan thuế cập nhật mã số thuế của tổ chức, cá nhân; định kỳ hàng

năm, cập nhật thông tin do cơ quan thuế cung cấp về chi phí tiền lương để

43

tính thuế của doanh nghiệp hoặc tổ chức.

- Quản lý viên chức, lao động hợp đồng của BHXH thị xã Quảng Trị.

- Thực hiện chế độ thông tin, thống kê, báo cáo theo quy định.

- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc BHXH tỉnh giao.

2.2.3. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của BHXH thị xã Quảng Trị

Bảo hiểm xã hội thị xã Quảng Trị gồm 15 cán bộ viên chức, được phân

Phó Giám đốc quản lý điều hành

Phó Giám đốc

Bộ phận Chế độ BHXH

Bộ phận Giám định BHYT

Bộ phận Kế hoạch tài chính

Bộ phận TNTKQ thủ tục hành chính

Bộ phận Hành chính, văn thư, thủ quỹ

Bộ phận Thu, sổ thẻ và kiểm tra

chia theo các bộ phận nghiệp vụ gồm:

Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy của BHXH thị xã Quảng Trị

(Nguồn: BHXH thị xã Quảng Trị)

Do đang trong thời gian kiện toàn lại công tác tổ chức bộ máy nên Bảo

hiểm xã hội thị xã Quảng Trị chưa có Giám đốc. Trách nhiệm được giao cho

Phó Giám đốc quản lý điều hành đơn vị.

* Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận như sau:

- Phó Giám đốc quản lý điều hành: Là người đứng đầu cơ quan BHXH

thị xã, phụ trách và chịu trách nhiệm về toàn bộ các mặt hoạt động công tác

44

BHXH trên địa bàn thị xã Quảng Trị quản lý.

Chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp bộ phận kế toán – giám định BHYT;

bộ phận thu – cấp sổ BHXH, thẻ BHYT và công tác tổ chức hành chính, nhân

sự; công tác thanh kiểm tra.

- Phó Giám đốc: Người có nhiệm vụ thường trực, giúp việc cho Phó

Giám đốc quản lý điều hành. Chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp bộ phận Chế

độ BHXH; bộ phận Tiếp nhận và quản lý hồ sơ của cơ quan.

- Bộ phận Thu, sổ thẻ và kiểm tra: gồm 05 cán bộ, có chức năng giúp

Giám đốc quản lý và thực hiện nhiệm vụ thu đối với đối tượng tham gia bảo

hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, các đối tượng Ngân sách hỗ

trợ theo quy định của pháp luật; tổ chức cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; thực hiện

việc kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn; Cấp phát sổ BHXH,

thẻ BHYT cho đối tượng tham gia; Xây dựng kế hoạch thanh kiểm tra thường

xuyên các đơn vị SDLĐ trên địa bàn đang tham gia và chưa tham gia BHXH,

BHYT, BHTN cho người lao động. Báo cáo chi tiết, tổng hợp về số thu, việc

cấp phát sổ BHXH, thẻ BHYT theo quy định hiện hành

- Bộ phận Chế độ BHXH: gồm 01 cán bộ. Có nhiệm vụ Giải quyết các

chế độ BHXH, BHYT, BHTN theo quy định của pháp luật; Giải quyết hồ sơ,

thẩm định hồ sơ hưởng chế độ BHXH, quản lý các đối tượng hưởng lương

hưu và trợ cấp BHXH trên địa bàn thị xã Quảng Trị….

- Bộ phận Kế hoạch tài chính: gồm 02 cán bộ. Thực hiện công tác, kế hoạch

và quản lý tài chính, tổ chức hạch toán, kế toán theo quy định của pháp luật.

Phân bổ dự toán thu, chi; tổ chức cấp kinh phí chi trả cho đối tượng

hưởng; tổ chức cấp phát và quản lý kinh phí chi cho hoạt động bộ máy, đầu tư

xây dựng cơ bản… Theo dõi, lưu trữ, quản lý chứng từ sổ sách kế toán theo

quy định. Thực hiện chế độ thông tin, tổng hợp báo cáo tài chính theo định kỳ

45

tháng, quý, năm gửi BHXH tỉnh theo quy định.

- Bộ phận Giám định BHYT: gồm 01 cán bộ có trách nhiệm giám định

thường trực tại các cơ sở y tế do đơn vị thực hiện ký kết hợp đồng về việc

khám chữa bệnh cho đối tượng tham gia BHYT. Kiểm tra, kiểm soát thường

xuyên việc tổ chức khám chữa bệnh cho đối tượng nhằm đảm bảo cân đối quỹ

khám chữa bệnh được giao theo kế hoạch. Báo cáo tổng hợp, chi tiết định kỳ

hàng tháng, quý theo quy định của ngành BHXH.

- Bộ phận Tiếp nhận và quản lý hồ sơ (bộ phận 1 cửa): gồm 01 cán bộ.

Kiểm tra và tiếp nhận các loại hồ sơ liên quan tới việc tham gia BHXH,

BHYT, chuyển hồ sơ tiếp nhận và nhận lại kết quả giải quyết từ các phòng

nghiệp vụ có liên quan… trả hồ sơ cho đối tượng một cách nhanh chóng nhất,

giải đáp các thắc mắc của người dân về các vấn đề liên quan đến BHXH,

BHYT. Định kỳ hàng tháng, quý, năm thực hiện lưu trữ hồ sơ theo quy định

của ngành BHXH.

- Bộ phận Hành chính, văn thư, thủ quỹ: gồm 01 cán bộ có trách nhiệm

theo dõi phân loại, tổng hợp, quản lý những văn bản đến, văn bản đi; soạn

thảo, duyệt ký ban hành văn bản, chuyển giao, tiếp nhận, đăng ký vào sổ,

văn bản, lập hồ sơ,… Đồng thời theo dõi, có trách nhiệm cập nhật đầy đủ ,

chính xác , kịp thời Thu – Chi – Tồn quỹ tiền mặt vào Sổ Quỹ, báo cáo khi

cần cho Giám đốc, kế toán trưởng; Thực hiện đúng quy định về trách nhiệm

về quản lý quỹ tiền mặt.

Ngoài ra, BHXH thị xã còn có hệ thống đại diện chi trả lương hưu và trợ

cấp BHXH các xã, phường để đảm bảo cho việc chi trả lương hưu và trợ cấp

BHXH hàng tháng được thuận lợi, kịp thời; Các đại lý thu BHYT, BHXH tự

46

nguyện tại 5 xã, phường và Đại lý thu tại Bưu điện thị xã Quảng Trị.

2.2.4. Nội dung về công tác thu BHXH tự nguyện và sử dụng quỹ BHXH tự

nguyện tại BHXH thị xã Quảng Trị

2.2.4.1. Thực trạng thu BHXH tự nguyện tại BHXH thị xã Quảng Trị

Với mục đích an sinh xã hội, tạo niềm tin và chỗ dựa vững chắc cho

người lao động, BHXH tự nguyện từ khi ra đời có vai trò quan trọng đối với

đại bộ phận lao động nói chung và nông dân nói riêng. Năm 2018, đối tượng

thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị chiếm 84,98%

(12.185/14.338 người) số người trong độ tuổi lao động. Như vậy, có thể nói

số lao động ở khu vực thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện rất lớn, tiềm

năng của BHXH tự nguyện dồi dào.

Theo số liệu báo cáo của BHXH thị xã Quảng Trị, số lao động tham gia

BHXH tự nguyện có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 2008 chỉ có 12

người tham gia, bởi vì BHXH tự nguyện là chính sách mới và công tác tuyên

truyền chưa được chú trọng, ít người biết. Giai đoạn 2014 - 2018, số lượng

người tham gia ngày càng được mở rộng, tốc độ phát triển đối tượng tham gia

BHXH tự nguyện tính theo năm tăng 152,42%. Tuy nhiên, tỷ lệ người tham

gia BHXH tự nguyện vẫn còn rất thấp so với tổng số đối tượng thuộc diện

tham gia BHXH tự nguyện.

Để có cái nhìn tổng quan về thu BHXH và BHXH tự nguyện trên địa bàn

thị xã Quảng Trị, qua đó có cơ sở để đánh giá tình hình và đề ra những biện

pháp nhằm phát triển BHXH tự nguyện, chúng ta sẽ xem xét thực trạng về

BHXH và BHXH tự nguyện hiện nay trên địa bàn thị xã Quảng Trị, cụ thể

47

như sau:

Bảng 2.1. Tình hình tham gia BHXH tại thị xã Quảng Trị

giai đoạn 2014 - 2018

Đơn vị tính: Người

Năm Năm Năm Năm Năm Chỉ tiêu 2014 2015 2016 2017 2018

Tham gia BHXH bắt buộc 1.870 1.891 1.951 1.971 2.153

Tham gia BHXH tự nguyện 70 73 65 62 199

Tổng cộng 1.940 1.964 2.016 2.033 2.352

Tỷ lệ tham gia BHXH tự

nguyện / Tổng số tham gia 3,61 3,72 3,22 3,05 8,46

BHXH (%)

(Nguồn: Bộ phận thu BHXH – BHXH thị xã Quảng Trị)

Có thể thấy rằng, số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chiếm một tỷ

lệ rất nhỏ so với tổng số đối tượng tham gia BHXH cũng như số đối tượng

tham gia BHXH bắt buộc. Cụ thể, năm 2014, số người tham gia BHXH tự

nguyện chiếm 3,61% tổng số người tham gia BHXH trên địa bàn thị xã

Quảng Trị (bằng 70 người/1.940 người), năm 2015 chiếm 3,72% (73/1.964

người); năm 2016 chiếm 3,22% (65/2.016 người), năm 2017 chiếm 3,05%

(62/2.033 người), năm 2018 chiếm 8,46% (199/2.352 người).

Năm 2018, số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tăng 137 người, gấp

3,21 lần so với năm 2017. Để đạt được kết quả này, trong năm 2018, BHXH

thị xã Quảng Trị đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động; giải thích rõ cho người

dân về ý nghĩa và lợi ích của việc tham gia BHXH tự nguyện. Qua đó, giúp

người dân nhận thức được tầm quan trọng của BHXH tự nguyện, lợi ích và

quyền lợi sau này của mình. Ngoài ra, việc Ngân sách nhà nước hỗ trợ một

phần mức đóng cũng có tác động không nhỏ đến việc tham gia BHXH tự

48

nguyện. Tuy nhiên, sau 10 năm triển khai chính sách BHXH tự nguyện, tính

đến 31/12/2018 toàn thị xã mới chỉ có 199 người tham gia BHXH tự nguyện,

chiếm 1,63% số đối tượng thuộc diện tham gia BHXH. Do vậy cần phải điều

tra thực tế để có cái nhìn toàn diện hơn về đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện, tìm ra nguyên nhân thực chất các yếu tố làm ảnh hưởng đến việc

tham gia BHXH tự nguyện của người dân trên địa bàn thị xã Quảng Trị.

Hàng năm, căn cứ vào tình hình hoạt động năm trước của từng huyện,

thành phố, BHXH tỉnh Quảng Trị giao kế hoạch thu BHXH cho từng đơn vị

cho năm sau. Qua đó, đánh giá được tốc độ thu BHXH, khả năng thu hút

BHXH đối với người dân trên địa bàn thị xã Quảng Trị.

Số thu BHXH tự nguyện ghi nhận, đánh giá việc duy trì số đối tượng đã

tham gia, duy trì đóng phí hàng năm; hoặc phát triển số lượt mới; hoặc điều

chỉnh mức đóng tham gia BHXH tự nguyện. Tuy số thu BHXH tự nguyện

tăng hàng năm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng thu BHXH. Năm

2017 tỷ trọng số thu BHXH tự nguyện trong tổng thu BHXH đạt lớn nhất

trong các năm nhưng vẫn chỉ ở mức 2,83%, với tổng số thu BHXH toàn thị xã

Quảng Trị là 26.798.263.398 đồng, trong khi đó số thu từ BHXH tự nguyện

49

chỉ đạt 759.284.963 đồng.

Biểu đồ 2.1. Kết quả thực hiện thu BHXH tự nguyện so với kế hoạch thu

BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị giai đoạn 2014 – 2018

(Nguồn: Bộ phận Thu – BHXH thị xã Quảng Trị)

Có thể thấy rằng, tỷ lệ thực hiện việc thu BHXH tự nguyện các năm hầu

như đều chưa đạt kế hoạch BHXH tỉnh Quảng Trị giao cho BHXH thị xã

Quảng Trị. Trong số thu của BHXH tự nguyện, tỷ lệ đóng một lần cho những

năm còn thiếu đối với người tham gia BHXH đã đủ điều kiện về tuổi để

hưởng lương hưu (nhưng không quá 10 năm) chiếm phần lớn nguồn thu

BHXH tự nguyện, điều này thể hiện rõ nhất ở năm 2017 và 2018. Năm 2017,

tuy số người tham gia BHXH tự nguyện giảm nhưng số thu BHXH tự nguyện

lại lớn nhất trong giai đoạn 2014 – 2018. Ngược lại, năm 2018, số người tham

gia BHXH tự nguyện tăng 137 người so với năm 2017 nhưng số thu lại giảm

50

hẳn 203.538.294 đồng; tỷ lệ hoàn thành so với kế hoạch cũng thấp nhất, chỉ

có 38,73%. Lý do chính là việc BHXH tỉnh Quảng Trị giao kế hoạch, kỳ vọng

quá cao vào mức tham gia BHXH tự nguyện của người dân. Đa số người

tham gia BHXH tự nguyện đều lựa chọn mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng

BHXH tự nguyện thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn

(tức 700.000 đồng/tháng), vì vậy, số lượng người tham gia tăng cao nhưng số

thu lại không đạt.

Qua điều tra cho thấy, trong tổng số 500 người dân tham gia phỏng vấn

thì có 57 người (chiếm 11,40%) đã tham gia BHXH tự nguyện, còn lại 443

người (chiếm 88,60%) là chưa tham gia. Điều này được thể hiện rõ qua biểu

đồ dưới đây:

Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ tham gia BHXH tự nguyện của ngƣời đƣợc điều tra

51

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Số lượng người chưa tham gia BHXH vẫn còn chiếm một tỷ trọng lớn,

chiếm tới 88,60%. Nguyên nhân của tình trạng này thì có rất nhiều: vì thu nhập

chưa đủ điều kiện tham gia, vì chưa hiểu hết về chính sách này… Tuy nhiên,

kết quả trên đã phần nào phản ánh hiệu quả triển khai chính sách BHXH tự

nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị còn thấp. Bên cạnh đó cũng nói lên rằng

tiềm năng để triển khai chính sách BHXH tự nguyện là rất lớn. Từ đó đặt ra

vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để chính sách BHXH tự nguyện được

gần gũi với người dân và là chỗ dựa vững chắc cho họ khi tuổi cao sức yếu.

2.2.4.2. Sử dụng quỹ BHXH tự nguyện tại BHXH thị xã Quảng Trị

Quỹ BHXH tự nguyện được sử dụng vào các mục đích sau: Chi trả các

chế độ cho người tham gia BHXH tự nguyện theo quy định; đóng bảo hiểm y

tế cho người đang hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm

y tế; chi phí quản lý; đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định.

Tại BHXH thị xã Quảng Trị, quỹ BHXH tự nguyện chủ yếu được dùng

để chi trả các chế độ cho người tham gia BHXH tự nguyện và đóng bảo hiểm

y tế cho người đang hưởng lương hưu. Tham gia BHXH tự nguyện, người lao

động được hưởng quyền lợi theo chế độ hưu trí và tử tuất khi có đủ điều kiện

theo quy định. Qua 10 năm triển khai thực hiện, số đối tượng được hưởng và

52

tổng chi do quỹ BHXH tự nguyện chi trả được thể hiện cụ thể tại bảng sau:

Bảng 2.2. Số chi của quỹ BHXH tự nguyện tại BHXH thị xã Quảng Trị giai đoạn 2014 – 2018

Đơn vị tính: Người/ Đồng

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Số

Số

Số

Số

Số

Loại chế độ

Số tiền

Số tiền

Số tiền

Số tiền

Số tiền

lượt

lượt

lượt

lượt

lượt

người

người

người

người

người

103.573.503

157.422.460

277.181.860

614.046.185

639.043.840

49

46

Chế độ Hƣu trí

8

7

26

99.113.400

150.643.500

265.245.800

478.361.900

594.834.200

20

22

Chi trả lương hưu

4

7

13

Trợ cấp 1 lần trước

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

khi nghỉ hưu

4.460.103

6.778.960

13

11.936.060

20

21.526.285

22

26.767.540

Đóng BHYT

4

7

9

2

114.158.000

17.442.100

-

-

-

-

-

-

Chi trả chế độ BHXH 1 lần

0

0

0

0

0

Chế độ Tử tuất

0

0

0

0

0

Chi phí mai táng

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

Tuất hàng tháng

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

Tuất 1 lần

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

Cộng:

8

103.573.503

7

157.422.460

277.181.860

49

614.046.185

46

639.043.840

26 (Nguồn: Bộ phận Kế toán – BHXH thị xã Quảng Trị)

53

Với 2 chế độ khi tham gia BHXH tự nguyện được hưởng là chế độ Hưu

trí và chế độ Tử tuất thì tại thị xã Quảng Trị nguồn chi chủ yếu của quỹ BHXH

tự nguyện là cho chế độ Hưu trí; chưa có trường hợp chi cho đối tượng hưởng

chế độ Tuất. Số đối tượng được hưởng lương hưu từ quỹ BHXH tự nguyện

tăng dần qua các năm, điều này chứng tỏ sự hoạt động an toàn của quỹ.

Giai đoạn 2014 – 2017, người tham gia BHXH tự nguyện để hưởng chế

độ Hưu trí chủ yếu là các đối tượng trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc tại

các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, đã nghỉ việc hoặc chấm dứt HĐLĐ tuy

nhiên chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ, vì vậy tham gia tiếp BHXH tự

nguyện. Số đối tượng tham gia mới không nhiều.

2.3. Thực trạng công tác phát triển đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện

trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

2.3.1. Mức độ bao phủ của hệ thống BHXH tự nguyện tại địa bàn thị xã

Quảng Trị

Tỷ lệ số người tham gia BHXH tự nguyện so với LLLĐ hoặc số người

thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện là sự phản ánh mức độ bao phủ của hệ

thống BHXH tự nguyện và mức độ tham gia của người lao động đối với chính

sách BHXH tự nguyện. Nếu tỷ lệ dân số tham gia BHXH tự nguyện cao, điều

đó cũng đồng nghĩa với khả năng tự an sinh của người lao động khi gặp rủi ro

hoặc hết tuổi lao động, giảm gánh nặng cho Nhà nước đối với người cao tuổi.

Chính vì vậy, mà nhiều quốc gia quan tâm đến việc phát triển đối tượng

BHXH tự nguyện.

Với cách tính trên, nếu đem so sánh số người tham gia BHXH tự nguyện

với LLLĐ hoặc số người thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện thì mức độ

bao phủ của BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị còn rất thấp, thể hiện ở

54

bảng sau:

Bảng 2.3. Mức độ bao phủ của BHXH tự nguyện giai đoạn 2014 - 2018

Lực lượng lao động Người 13.261 13.246 13.724 13.971 14.338

Năm Năm Năm Năm Năm STT Chỉ tiêu ĐVT 2014 2015 2016 2017 2018

Số người thuộc diện

tham gia BHXH tự

1

nguyện

Số người tham gia

Người 11.391 11.355 11.773 12.000 12.185 2

BHXH tự nguyện

Mức độ bao phủ

BHXH tự nguyện so

Người 70 73 65 52 199 3

với LLLĐ

Mức độ bao phủ

BHXH tự nguyện so

với số người thuộc

% 0,53 0,55 0,47 0,37 1,39 4

diện tham gia BHXH

tự nguyện

5 % 0,61 0,6 0,55 0,43 1,63

(Nguồn: Bộ phận thu BHXH – BHXH thị xã Quảng Trị)

Qua số liệu bảng 2.3 cho thấy, mức độ bao phủ của BHXH tự nguyện

tăng liên tục qua các năm, điều đó thể hiện chính sách BHXH tự nguyện đang

có xu hướng phát triển. Tuy nhiên, tốc độ tăng diện bao phủ qua các năm còn

rất chậm. Mức độ bao phủ BHXH tự nguyện năm 2017 chỉ đạt 0,37% so với

LLLĐ và 0,43% so với số người thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện; năm

2018 con số này đạt tương ứng là 1,39% và 1,63%.

Có thể nói, mức độ bao phủ của BHXH tự nguyện còn quá thấp. Phần lớn

người lao động chưa tham gia BHXH tự nguyện, nếu trong thời gian tới số

người tham gia BHXH tự nguyện không tăng nhanh thì cuộc sống của số đông

55

NLĐ khi về già sẽ rất khó khăn và làm tăng thêm gánh nặng đối với xã hội.

2.3.2. Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người dân trên địa bàn thị

xã Quảng Trị

Để biết được mong muốn tham gia BHXH tự nguyện của người dân trên

địa bàn thị xã Quảng Trị, tác giả đã tiến hành khảo sát 500 người về nhu cầu

tham gia BHXH tự nguyện và có kết quả như sau:

Biểu đồ 2.3. Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của ngƣời đƣợc điều tra

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Qua điều tra, có tới gần 90% người dân được điều tra có mong muốn

tham gia BHXH, chỉ có 10,21% số người không có nhu cầu tham gia. Trong

đó, dễ dàng nhận thấy, tỷ lệ người dân tham gia BHXH tự nguyện nếu được

Nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng khá lớn, chiếm 46,32%. Nguyên nhân

của vấn đề này một phần là do mức thu nhập của người dân thuộc nhóm lao

động tự do còn khá thấp, không ổn định, vì vậy chưa có sự tích lũy, không có

56

đủ điều kiện tham gia; ngoài ra, người dân vẫn còn có tư tưởng được bao cấp,

hỗ trợ thì mới thực hiện. Có thể nói rằng, yếu tố về khả năng tài chính là lý do

lớn nhất làm rào cản cho việc tham gia BHXH tự nguyện của người dân. Điều

đó cũng lý giải tại sao khi có đủ khả năng tài chính, người dân sẽ tham gia

chiếm tỷ lệ cũng khá cao là 15,41%. Vì vậy, muốn phát triển được đối tượng

tham gia BHXH tự nguyện thì cần quan tâm đến vấn đề thu nhập của người

dân và khả năng tài chính của họ.

Số người mong muốn tham gia nếu như hiểu rõ hơn về chính sách

BHXH tự nguyện chiếm tỷ lệ 14,99%. Điều này chứng tỏ công tác thông tin,

tuyên truyền về chính sách BHXH tự nguyện chưa bao phủ rộng khắp đến

mọi người dân. Đặc biệt với những người dân sống ở nơi vùng sâu, vùng xa,

việc tiếp cận thông tin còn yếu và thiếu.

Cũng theo biểu đồ 2.3 số người mong muốn tham gia nếu Nhà nước bắt

buộc chiếm 13,07%, số liệu này cho thấy ý thức tự giác hay tinh thần tự

nguyện bảo vệ cho bản thân của người dân còn thấp.

Qua biểu đồ trên có thể nhận thấy được một điều là: mong muốn tham

gia BHXH tự nguyện của người dân thì nhiều nhưng khi triển khai thì lại đạt

kết quả lại ít (chỉ có 11,40% số người tham gia). Để có thể đánh giá nguyên

nhân tại sao lại như vậy, tác giả tiến hành phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới

việc triển khai chính sách và quyết định tham gia BHXH tự nguyện, từ đó có

cơ sở để đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển BHXH tự nguyện

trên địa bàn được hiệu quả hơn.

2.3.3. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH

tự nguyện

Trong những năm qua, BHXH thị xã Quảng Trị đã phối hợp thường

xuyên với các cơ quan, đoàn thể, Phòng, ban ngành như: Thị ủy, UBND -

HĐND thị xã Quảng Trị, Phòng Lao động Thương binh xã hội, Liên Đoàn lao

57

động, Phòng Văn hóa Thông tin, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Ban

Tuyên giáo, Đài truyền thanh thị xã Quảng Trị nhằm tăng cường công tác

tuyên truyền về BHXH cho mọi người lao động và BHYT cho toàn dân; cử

báo cáo viên tuyên truyền về Luật BHXH, BHYT sửa đổi, bổ sung cho báo

cáo viên, bí thư các xã, phường và các cơ quan đơn vị trên địa bàn thị xã.

Nhận thức được vai trò của công tác tuyên truyền, thời gian qua công tác

tuyên truyền của cơ quan BHXH thị xã Quảng Trị đã được coi trọng với các

hoạt động thường xuyên là cung cấp văn bản, tờ rơi, phổ biến pháp luật trên

sóng phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí của thị xã, của ngành. Đồng thời

phổ biến trên các trang thông tin điện tử, diễn đàn để hỗ trợ tra cứu văn bản

pháp quy về chính sách chế độ BHXH. Phối hợp các cơ quan đoàn thể các

cấp, Đài phát thanh truyền hình tổ chức thực hiện công tác thông tin, tuyên

truyền, phổ biến các chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH đến người dân.

Cụ thể hoạt động tuyên truyền tại thị xã Quảng Trị được thể hiện trong báo

cáo tổng hợp của Cơ quan BHXH thị xã Quảng Trị qua các năm như sau:

Bảng 2.4. Tổng hợp hoạt động tuyên truyền BHXH trên địa bàn

thị xã Quảng Trị giai đoạn 2014 - 2018

Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

Cung cấp văn bản 15 22 27 30 35 Văn bản

1500 1800 2100 2500 3200 Cung cấp tờ rơi tuyên truyền Ấn phẩm

Biển 2 4 7 8 10 Biển quảng cáo, pano, áp phích

Bài 5 7 10 13 15 Bài phát trên đài truyền thanh thị xã

20 62 190 95 87 Chi phí cho hoạt động tuyên truyền Triệu đồng

58

(Nguồn: Bộ phận kế toán – BHXH thị xã Quảng Trị)

Số lượng hoạt động tuyên truyền ngày càng được tăng lên, năm sau cao

hơn năm trước. Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền vẫn tập trung chủ yếu về

mảng BHXH bắt buộc, tuyên truyền, phát triển BHYT toàn dân chứ chưa thực

sự chú trọng mảng BHXH tự nguyện. Chính vì vậy, BHXH tự nguyện chưa

được người dân hiểu biết rộng rãi. Năm 2018, song song với việc tuyên

truyền BHXH, BHYT, BHXH thị xã Quảng Trị cũng thực hiện việc tuyên

truyền BHXH tự nguyện thông qua các ấn phẩm, tạp chí, báo đài. Tuy vậy,

việc tuyên truyền không đạt được hiệu quả cao. 9 tháng đầu năm 2018, chỉ có

58 người tham gia BHXH tự nguyện, đạt 53,2% so với kế hoạch được giao.

Nhận thấy tình hình trên, bám sát phong trào thi đua “nước rút” 3 tháng

cuối năm, với chủ đề “Nỗ lực phấn đấu phát triển đối tượng tham gia BHXH,

BHYT, hoàn thành nhiệm vụ thu và giảm nợ BHXH, BHYT, BHTN 3 tháng

cuối năm 2018” do BHXH tỉnh Quảng Trị đề ra, quyết tâm hoàn thành chỉ

tiêu được giao. Quý 4/2018, BHXH thị xã Quảng Trị đã đề ra kế hoạch, tập

trung nguồn nhân lực, phối hợp với UBND các cấp, với Đại lý thu Bưu điện

tổ chức 06 Hội nghị dành riêng cho hoạt động tuyên truyền, phát triển đối

tượng tham gia BHXH tự nguyện tại các phường, xã trên địa bàn; thu hút hơn

400 đối tượng đến tham dự Hội nghị phát triển BHXH tự nguyện. Sau Hội

nghị, đã có hơn 100 đối tượng đăng ký tham gia BHXH tự nguyện.

Điều này cho thấy rằng, hình thức tuyên truyền qua các phương tiện

thông tin đại chúng còn đơn điệu, cứng nhắc, chưa gây được ấn tượng, chưa

thu hút công chúng, nội dung tuyên truyền chưa đi sâu, việc tổ chức thực

hiện công tác tuyên truyền chưa chủ động, chưa thường xuyên liên tục, chưa

thống nhất, chưa đạt hiệu quả. Do đó, nội dung chưa được truyền tải sâu,

59

rộng cho người tham gia và các tầng lớp dân cư.

Để nắm bắt được tình hình BHXH tự nguyện tiếp cận với người dân,

thực hiện khảo sát với 500 đối tượng khác nhau về nguồn thông tin của họ đối

với BHXH tự nguyện, ta có biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.4. Nguồn thông tin về BHXH tự nguyện mà ngƣời dân có đƣợc

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Với 500 phiếu điều tra, có thể nhận thấy các hình thức thông tin truyền

thống như: qua văn bản, qua phương tiện thông tin đại chúng, qua các tổ chức

Đảng, đoàn thể ở địa phương lại không hiệu quả bằng việc truyền miệng trong

nhân dân. Điều này có thể lý giải được rằng: nhân dân ta vốn có truyền thống

truyền miệng qua dân gian khá phổ biến, đơn giản, dễ tiếp cận, dễ đi vào lòng

người, và dễ tin tưởng bởi vì được truyền trực tiếp từ những người thân nhất.

Mặt khác có thể thấy, việc đầu tư cho tuyên truyền thông qua các phương tiện

hiện đại sẽ tốn kém hơn rất nhiều so với tuyên truyền miệng. Nguồn thông tin

60

về chính sách BHXH tự nguyện mà người nông dân có được từ việc nghe

người thân, bạn bè, hàng xóm nói lại chiếm tỉ lệ rất cao (40,40%), tương ứng

với 202 người. Trong khi đó, nguồn thông tin có được từ văn bản chỉ đạt

1,80%, qua báo đài, pa – nô, áp phích đạt 5,80%. Một kênh nữa cũng rất quan

trọng, đó là thông tin về chính sách BHXH tự nguyện mà người dân có được

thông qua các buổi Hội nghị do cơ quan BHXH tổ chức, chiếm 17,40%,

tương ứng với 87 người. Điều đó một lần nữa lại cho thấy, việc tuyên truyền,

phổ biến chính sách từ ngay chính cơ quan chuyên môn bắt đầu phát huy một

cách tốt hơn.

Để có cái nhìn và đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của yếu tố thông tin,

tuyên truyền trong công tác phát triển BHXH tự nguyện, ta sẽ phân tích qua

các biểu đồ sau đây:

Biểu đồ 2.5. Mức độ hiểu biết về chính sách BHXH tự nguyện

61

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Tỷ lệ người dân hiểu biết về chính sách BHXH tự nguyện không nhiều,

mới chỉ chiếm 56,80% trong tổng số đối tượng được phỏng vấn, 12,40% là

không biết gì, còn lại 30,80% là nghe nói nhưng chưa biết rõ những quy định,

thủ tục cũng như những quyền lợi khi tham gia BHXH tự nguyện và các vấn

đề có liên quan đến chính sách BHXH tự nguyện. Điều này cho thấy, việc tiếp

cận qua các kênh thông tin như: các văn bản của Nhà nước, đài phát thanh,

tivi, báo, tờ rơi, người thân, bạn bè, hay từ các cán bộ BHXH, cán bộ chính

quyền, đoàn thể còn yếu. Hoặc các đối tượng này chưa thực sự quan tâm

nhiều đến chính sách BHXH tự nguyện nên chưa chủ động năm bắt thông tin.

Do đó, người dân không thể hiểu rõ được hết những ích lợi và ý nghĩa của

việc tham gia BHXH tự nguyện, ảnh hưởng đến quyết định tham gia BHXH

tự nguyện.

Công tác thông tin tuyên truyền có vị trí rất quan trọng, đưa chính sách

BHXH tự nguyện đến các cấp, các ngành và mọi thành viên trong xã hội

nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về mục đích, ý nghĩa chủ trương

đường lối của Đảng và chế độ, chính sách của Nhà nước. Từ đó đem lại niềm

tin và sự quan tâm hơn của mọi người dân. Đồng thời, nó có tác dụng chi

phối, can thiệp, ảnh hưởng đến kết quả tổ chức thực hiện chính sách BHXH tự

nguyện. Mục đích của công tác thông tin, truyền thông là giúp cho quần

chúng nhân dân hiểu biết sâu sắc, đầy đủ về chính sách BHXH tự nguyện, từ

đó đem lại kết quả cuối cùng là số lượng người dân tham gia BHXH tự

nguyện ngày một đông hơn. Bảng dưới đây sẽ cho ta thấy ảnh hưởng của mức

độ hiểu biết về chính sách BHXH tự nguyện của người dân và kết quả thực

62

hiện BHXH tự nguyện.

Bảng 2.5. Ảnh hƣởng của mức độ hiểu biết về chính sách BHXH tự nguyện

và kết quả thực hiện BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị

Tỉ lệ số Tỉ lệ số Tổng Đã Chƣa ngƣời đã ngƣời chƣa Tiêu chí số tham gia tham gia tham gia tham gia (ngƣời) (ngƣời) (ngƣời) (%) (%)

Tổng số 500 57 443 11,40 88,60

Không biết 62 62 100

Nghe nói nhưng 154 154 100 không hiểu

Có biết 133 11 122 8,27 91,73

Biết khá rõ 105 20 85 19,05 80,95

Nắm vững 46 26 20 56,52 43,48

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Đa số những người được tiếp cận với nguồn thông tin và hiểu biết khá rõ

và nắm vững về chính sách BHXH tự nguyện thì họ sẵn sàng tham gia, tỷ lệ

này chiếm tới 56,52%. Còn lại 43,48% có hiểu biết về chính sách, tuy nhiên

lại chưa tham gia vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Với sự ảnh hưởng

đến việc phát triển BHXH tự nguyện như vậy, công tác thông tin tuyên truyền

cần phải có những giải pháp linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế của từng

địa phương. Làm sao cho người dân hiểu đúng, hiểu đủ, nắm bắt một cách dễ

dàng nhất ý nghĩa và tính nhân văn của các chế độ, chính sách BHXH tự

nguyện; giúp người dân nhận thức tầm quan trọng và lợi ích của việc tham gia

BHXH tự nguyện, làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức của người dân để từ đó

phát triển thêm được đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Vì vậy, có thể nói

rằng, công tác thông tin, truyền thông có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả triển

63

khai BHXH tự nguyện cho nhân dân trên địa bàn thị xã Quảng Trị.

2.3.4. Mạng lưới Đại lý làm công tác BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị

Thực hiện việc xây dựng các đại lý làm công tác BHXH tự nguyện

trên địa bàn thị xã Quảng Trị cũng là vấn đề quan trọng trong việc phát triển

đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. BHXH thị xã Quảng Trị xác định: xây

dựng, phát triển đại lý thu ở cơ sở là biện pháp hữu hiệu đưa chính sách an

sinh xã hội đến với đông đảo người dân, nhất là những người vùng sâu vùng

xa, người có hoàn cảnh khó khăn.

Hiện nay, BHXH thị xã Quảng Trị đã xây dựng được mỗi xã, phường có

một Đại lý thu BHXH, BHYT tự nguyện. Các Đại lý này có tiêu chuẩn là:

Nắm bắt kịp thời các thông tin về pháp luật BHXH, BHYT; Đang công tác tại

UBND các xã, phường và được UBND đồng ý ký hợp đồng với cơ quan

BHXH thị xã Quảng Trị để nhận nhiệm vụ thu BHXH, BHYT theo quy định;

Tiếp nhận các thông tin, các tờ rơi tuyên truyền để thông báo tới người dân

theo phạm vi quản lý của mình; Được cấp thẻ Đại lý thu BHXH, BHYT theo

quy định của BHXH.

Theo Công văn hướng dẫn số 3116/BHXH-BT, về việc triển khai thu

BHXH, BHYT qua hệ thống Bưu điện của BHXH Việt Nam, BHXH thị xã

Quảng Trị có thêm một Đại lý thu là Bưu điện thị xã Quảng Trị. Cho đến nay

đã có 06 đại lý thu BHXH, BHYT trên địa bàn thị xã Quảng Trị.

Thực hiện công văn số 464/UBND-VP ngày 16/5/2018 của Ủy ban nhân

dân thị xã Quảng Trị về việc tăng cường phát triển chỉ tiêu tham gia BHXH,

BHYT năm 2018; Thực hiện kế hoạch giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham

gia BHXH, BHYT của BHXH tỉnh Quảng Trị năm 2018; Ngày 12/06/2019,

BHXH thị xã Quảng Trị đã ra Thông báo số 121/BHXH-TB, giao chỉ tiêu khai

thác, phát triển đối tượng thu BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình 6 tháng

64

cuối năm 2018 cho Đại lý thu các Phường, xã và Bưu điện thị xã Quảng Trị.

Bảng 2.6. Tình hình phát triển số lƣợng ngƣời tham gia BHXH tự nguyện

của các đại lý thu trong năm 2018

Đơn vị tính: Người

Số lƣợng STT Tên Đại lý Kế hoạch Thực hiện đại lý

1 Đại lý thu Phường 1 1 8 0

2 Đại lý thu Phường 2 1 10 2

3 Đại lý thu Phường 3 1 11 3

Đại lý thu Phường An 4 1 4 0 Đôn

5 Đại lý thu Xã Hải Lệ 1 7 4

Đại lý thu Bưu điện thị 6 1 25 190 xã Quảng Trị

Tổng 6 65 199

(Nguồn: Bộ phận Thu – BHXH thị xã Quảng Trị)

Qua bảng sau, có thể nhận thấy Đại lý thu tại các xã, phường hầu hết đều

không hoàn thành chỉ tiêu được đặt ra, nguyên nhân chủ yếu do Đại lý thu tại

các xã, phường là cán bộ kiêm nhiệm nên có ít thời gian dành cho công tác

tuyên truyền, vận động đối tượng tham gia. Hơn nữa nguồn nhân lực mỏng

(chỉ 01 cán bộ đại lý thu tại mỗi phường, xã), kỹ năng tuyên truyền Luật

BHXH, BHYT còn hạn chế; một số nhân viên đại lý thu chưa chủ động trong

việc tiếp cận đến các địa bàn rộng, dân cư không tập trung, vì vậy việc phát

triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện còn hạn chế.

Đại lý là cánh tay nối dài giữa cơ quan BHXH với người dân, cơ chế

thông qua đại lý thu BHXH tự nguyện ở xã, phường, thị trấn để vận động

tham gia, thu phí BHXH tự nguyện. Có như vậy thì mới giảm được áp lực cho

bộ máy BHXH. Ngoài ra, việc hình thành hệ thống đại lý BHXH tự nguyện sẽ

65

tạo tâm lý tích cực cho người dân đến đóng BHXH tự nguyện.

Nhằm góp phần đẩy nhanh tiến độ bao phủ BHXH, BHYT trên địa bàn,

tiến tới BHYT toàn dân, BHXH cho mọi người lao động, một trong những

giải pháp thiết thực đó chính là mở rộng, phát triển hệ thống đại lý thu BHXH

tự nguyện, BHYT hộ gia đình. Với lợi thế bám sát địa bàn, hằng ngày tiếp

xúc với người dân, nhân viên đại lý thu BHXH, BHYT sẽ đóng góp tích cực

vào việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách, chế độ về BHXH, BHYT ở cơ

sở. Từ đó, người dân dần được nâng cao nhận thức, thấy rõ lợi ích, trách

nhiệm của việc tham gia BHXH, BHYT và quyền được đảm bảo an sinh từ

việc thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT. Song song đó, BHXH thị xã cũng

đã tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn quy trình, nghiệp vụ thu, bồi dưỡng kỹ

năng khai thác, vận động thu, tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH,

BHYT cho các nhân viên đại lý thu, nhằm giúp họ nâng cao nghiệp vụ để

thực hiện tốt nhiệm vụ thu. Đồng thời củng cố kiến thức và chất lượng hoạt

động của nhân viên đại lý trong việc thực hiện thu BHXH tự nguyện, BHYT

hộ gia đình, từ đó phát huy hiệu quả trong hoạt động của mạng lưới đại lý thu,

góp phần nâng cao tỷ lệ người dân tham gia BHXH, BHYT.

2.3.5. Các chế độ BHXH tự nguyện

BHXH tự nguyện theo quy định hiện hành gồm có hai chế độ chính là:

chế độ Hưu trí và chế độ Tử tuất. Trong khi BHXH bắt buộc ngoài 2 chế độ

như BHXH tự nguyện còn có thêm các chế độ như: chế độ Ốm đau, chế độ

Thai sản và chế độ TNLĐ-BNN.

Thực tế, nhu cầu của người dân về các chế độ khác ngoài 2 chế độ Hưu

66

trí và Tử tuất là khá lớn, được thể hiện chi tiết tại biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.6. Nhu cầu của ngƣời dân về các chế độ

khi tham gia BHXH tự nguyện

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Số người thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện là lao động trong khu vực

phi chính thức như nông dân, người giúp việc gia đình, người bán hàng rong,

tài xế xe ôm công nghệ…, là đối tượng rất cần các chế độ BHXH khác như thai

sản, ốm đau, TNLĐ, đặc biệt là chế độ về BHYT. Thế nhưng, BHXH tự

nguyện lại không có các chế độ này giống như BHXH bắt buộc, vì vậy nhiều

năm qua, BHXH tự nguyện kém hấp dẫn lao động phi chính thức tham gia.

Ngoài ra, với nguyên tắc đóng và hưởng là nguyên tắc cơ bản của chính

sách BHXH thì mức đóng cao sẽ hưởng cao và ngược lại. Các mức hưởng

hiện nay đều được tính toán dựa trên các mức đóng khác nhau, tùy theo các

mức thu nhập, mức tiền lương của người tham gia. Do đó, sẽ không thể có

67

việc đóng ít hưởng nhiều như mong muốn mà phải có sự đóng góp nhiều.

Trong nghiên cứu này, việc ý kiến của người dân về mức đóng, mức

hưởng bị chi phối bởi tính chất công việc, mức thu nhập, yếu tố tâm lý và

mong muốn của bản thân chứ chưa có cơ sở khoa học. Với công việc thường

rất vất vả, thu nhập thấp lại không ổn định, việc có thể trích ra một khoản tiền

(hiện nay là 22% thu nhập) cho tham gia BHXH tự nguyện là điều vô cùng

khó khăn. Mặc khác, người dân luôn có tâm lý chung là muốn đóng ít lại

được hưởng nhiều, chính vì những lý do đó mà phần lớn ý kiến của người dân

cho là mức đóng BHXH tự nguyện hiện tại là cao và mức hưởng lại thấp.

Cũng chính từ những điều này đã phần nào ảnh hưởng đến kết quả thực hiện

BHXH tự nguyện cho người dân trên địa bàn thị xã Quảng Trị.

Đối với những người chưa tham gia (443 người, chiếm 88,6%), đa số họ

cho rằng mức đóng hiện tại là cao và mức hưởng lại thấp. Điều này ảnh

hưởng tới tâm lý của người tham gia, bởi lẽ với mức đóng cao và mức hưởng

thấp sẽ không tạo động lực để người tham gia mặn mà với BHXH tự nguyện

khi mà họ cảm thấy không có nhiều lợi ích, do đó cũng không quan tâm đến

chính sách BHXH tự nguyện. Từ mối quan hệ giữa mức đóng mức hưởng và

kết quả thực hiện BHXH tự nguyện cho ta thấy, mức đóng mức hưởng có ảnh

hưởng rất nhiều đến kết quả thực hiện BHXH tự nguyện trên địa bàn.

Thực chất của vấn đề này không phải hoàn toàn là do mức đóng cao và

mức hưởng thấp. Theo ý kiến của các nhà khoa học, khi đưa ra chính sách an

sinh xã hội, người ta sẽ phải tính sao cho mức đóng và mức hưởng phù hợp

với mức thu nhập của người tham gia, đồng thời cân đối quỹ BHXH tự

nguyện. Do đó, việc hạ thấp mức đóng xuống và nâng cao mức hưởng lên là

điều không nên làm vì nó sẽ khiến cho quỹ BHXH tự nguyện sẽ không được

bảo đảm, gây ra tình trạng mất cân đối trong thu - chi quỹ BHXH.

Từ các bước phân tích trên, ta có thể thấy rằng, muốn cho việc thực hiện

68

BHXH tự nguyện đạt kết quả cao cần phải tăng cường hơn nữa công tác truyền

thông, bằng nhiều cách thức giúp người dân hiểu biết và nhận thức sâu sắc về

nội dung của chính sách. Từ đó, người dân mới có cái nhìn toàn diện và có ý

kiến nhận xét dựa trên cơ sở khoa học về mức đóng, mức hưởng BHXH tự

nguyện. Một khi họ đã nhận ra rằng mức đóng, mức hưởng được tính toán dựa

trên nguyên tắc cơ bản, khoa học và hoàn toàn phù hợp với mức thu nhập của

họ thì lúc ấy họ sẽ sẵn sàng tự nguyện tham gia, đóng BHXH tự nguyện là

cách để người dân có được sự tích lũy cho tương lai khi vẫn còn khả năng lao

động, tạo chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống sau này khi tuổi già, sức yếu.

2.3.6. Chất lượng dịch vụ của cơ quan BHXH thị xã Quảng Trị

BHXH thị xã Quảng Trị áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu

chuẩn TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của ngành căn cứ vào Quyết định

1098/QĐ-BHXH do BHXH Việt Nam phê duyệt.

Chất lượng dịch vụ được đánh giá thông qua mức độ hài lòng của người

dân về thái độ phục vụ của cán bộ BHXH, Đại lý thu BHXH tự nguyện, thủ

tục hành chính và mức độ quan tâm đối với đối tượng tham gia…. Đồng thời

đáp ứng đầy đủ nhu cầu khi người dân tham gia.

Chính sách BHXH tự nguyện có thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc

cho người dân khi gặp rủi ro, khi về già hay không điều đó phụ thuộc rất

nhiều vào hoạt động dịch vụ của cơ quan BHXH. Chất lượng và hiệu quả dịch

vụ của cơ quan BHXH là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng và phát

triển BHXH tự nguyện cho NLĐ. Bởi lẽ, cơ quan BHXH địa phương là nơi

trực tiếp cung cấp dịch vụ BHXH tự nguyện cho người dân, nếu như dịch vụ

đó tốt và phù hợp với tâm tư nguyện vọng của họ thì sẽ là nhu cầu thiết thực

để họ tự nguyện tham gia.

Yếu tố dịch vụ trong BHXH thường quan tâm đến các công tác thu bảo

hiểm, chi trả các chế độ bảo hiểm có đầy đủ và kịp thời không, hoạt động của

69

đội ngũ cán bộ công nhân viên của cơ quan, thái độ phục vụ của họ khi làm

việc với người dân… đây là vấn đề có tính quyết định cao. Qua khảo sát,

chúng tôi đã tổng hợp được một số ý kiến đánh giá của NLĐ về thái độ làm

việc, tinh thần phục vụ của cán bộ BHXH thị xã Quảng Trị như sau:

Biểu đồ 2.7. Mức độ hài lòng của ngƣời lao động về tinh thần phục vụ

của cán bộ BHXH thị xã Quảng Trị

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Từ điều tra đối tượng về công tác phục vụ cơ quan BHXH trên địa bàn

thị xã Quảng Trị ta có thể nhận thấy công tác phục vụ được đánh giá rất tốt,

các cán bộ viên chức ngành BHXH trên địa bàn luôn nâng cao tinh thần và

thái độ phục vụ nhân dân. Điều đó được thể hiện qua số liệu: có 61,40% cảm

thấy rất hài lòng với thái độ phục vụ của cán bộ BHXH, 35,09% cảm thấy hài

70

lòng và 3,51% cảm thấy bình thường, không có trường hợp nào phật lòng vì

thái độ phục vụ của cán bộ ngành BHXH. Điều này thể hiện sự hết lòng với

công việc, tận tụy phục vụ nhân dân của cán bộ công nhân viên ngành BHXH.

Các cán bộ, viên chức ngành BHXH luôn xác định rằng ngành BHXH là

ngành phục vụ và bản thân phải có thái độ niềm nở, tận tình hướng dẫn, giải

thích những thắc mắc của người dân; đồng thời phải tích cực trau dồi chuyên

môn, năng lực để đảm nhiệm tốt vai trò, nhiệm vụ được giao.

Ngoài ra, ngành BHXH ngày càng nâng cao việc tinh giản thành phần hồ

sơ và thủ tục tham gia BHXH, tạo điều kiện thuận tối đa cho người dân khi

đăng ký tham gia BHXH.

Khi khảo sát về thủ tục đăng ký tham gia, trong số 500 người được khảo

sát, có tới 468 người cho rằng thủ tục đơn giản (chiếm 93,6%); số người cho

rằng thủ tục còn phức tạp là 32 người (chiếm 6,4%), được thể hiện ở bảng số

liệu dưới đây:

Bảng 2.7. Đánh giá về thủ tục đăng ký tham gia BHXH tự nguyện

STT Thủ tục Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%)

1 Đơn giản 468 93,6

2 Phức tạp 32 6,4

Tổng 392 100

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Với những người đánh giá thủ tục còn phức tạp là do hồ sơ ban đầu khi

họ mang đến để đăng ký không trùng khớp thông tin về nhân thân (đối với

những người tham gia mới), hoặc do không trùng khớp với hồ sơ cá nhân mà cơ

quan BHXH đang quản lý (đối với những người đã tham gia BHXH), hoặc do

cá nhân nghỉ việc ở đơn vị cũ nhưng không khai báo được số sổ BHXH của

đơn vị cũ chưa trả sổ…

Việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện phụ thuộc rất lớn

71

vào chất lượng hoạt động dịch vụ của cơ quan BHXH. Bởi lẽ, cơ quan

BHXH là nơi cung cấp dịch vụ BHXH tự nguyện cho người dân, nếu thái độ

phục vụ của các cán bộ BHXH không tốt, thủ tục đăng ký rườm rà, phức tạp

sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý, mong muốn tham gia BHXH tự nguyện của

người dân. Chính vì vậy, cán bộ BHXH thị xã nói riêng và ngành BHXH nói

chung luôn cố gắng, nỗ lực cải thiện chất lượng dịch vụ của ngành, tạo tâm lý

thoải mái cho người dân khi đến giao dịch tại cơ quan BHXH địa phương.

2.3.7. Công tác kiểm tra, đánh giá việc phát triển đối tượng tham gia

BHXH tự nguyện

Hàng tháng, cán bộ phụ trách công tác chuyên môn nghiệp vụ về mảng

BHXH tự nguyện có trách nhiệm đối chiếu, kiểm tra và thanh toán thù lao, hoa

hồng cho các Đại lý căn cứ trên số thu nộp cho người tham gia với cơ quan

BHXH một cách nghiêm ngặt, đúng quy định; kịp thời chi ngay cho các Đại lý

thu BHXH tự nguyện để tạo sự hứng thú cho các đại lý trong việc tiếp tục việc

mở rộng đối tượng. Đồng thời, có trách nhiệm đôn đốc, nhắc nhở các đại lý kịp

thời thu tiền đóng BHXH tự nguyện của các đối tượng khi đến hạn, tránh trường

hợp bị gián đoạn thời gian tham gia của đối tượng; tránh tình trạng nộp chậm,

nộp muộn, vì nếu nộp chậm thì các Đại lý phải chịu tiền lãi theo quy định.

Ngoài ra, định kỳ hàng quý, hàng năm, BHXH thị xã Quảng Trị tổng

hợp, báo cáo BHXH tỉnh Quảng Trị về tỷ lệ tham gia và mức độ hoàn thành

kế hoạch so với chỉ tiêu được giao; đưa ra những nguyên nhân, hạn chế về

tình hình phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, từ đó đề ra những

kiến nghị, đề xuất của mình đối với công tác phát triển đối tượng.

2.4. Đánh giá chung về tình hình tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn

thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

2.4.1. Những kết quả đạt được

- BHXH nói chung, BHXH tự nguyện nói riêng là nhằm đáp ứng nhu

72

cầu cơ bản và thiết yếu cho người lao động, do đó được Nhà nước rất quan

tâm. Quan điểm, chủ trương của Đảng là nhằm đa dạng hóa các loại hình

BHXH, mở rộng cơ hội cho mọi người lao động tham gia, tiến tới BHXH

toàn dân. Chủ trương đó đã từng bước được cụ thể hóa về mặt Nhà nước. Bộ

luật Lao động, đặc biệt là Luật BHXH được ban hành và có hiệu lực thi hành

từ ngày 01/01/2007, trong đó có quy định về BHXH tự nguyện bắt đầu thực

hiện từ ngày 01/01/2008, đây là cơ sở pháp lý cao nhất để người lao động

thuộc khu vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và PCT được tham gia BHXH.

Sự ra đời của chính sách BHXH tự nguyện là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh

của đất nước nhằm thực hiện mục tiêu phát triển xã hội tiến bộ, công bằng,

văn minh và bền vững.

- Mặc dù mức độ bao phủ số người tham gia BHXH tự nguyện còn thấp,

mức hưởng chưa cao nhưng qua kết quả triển khai chính sách này trong thời

gian qua cho thấy số người tham gia và hưởng liên tục tăng qua các năm.

Điều này khẳng định sự đúng đắn của chính sách BHXH tự nguyện. Từ đó đã

góp phần ổn định được cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, khắc

phục được những khó khăn khi gặp rủi ro hoặc về già.

- Chính sách BHXH tự nguyện được thiết kế bao phủ toàn bộ người lao

động trong xã hội có quyền tham gia và hưởng BHXH, tạo sự công bằng và

bình đẳng trong xã hội. Giúp cho người lao động nâng cao năng lực tự an

sinh, giảm áp lực đối với ngân sách Nhà nước giành cho trợ cấp xã hội.

- Chính sách BHXH tự nguyện ra đời đã đảm bảo được tính liên thông

giữa 2 loại hình BHXH bắt buộc và tự nguyện. Tạo điều kiện cho những

người lao động trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc nhưng không đủ điều

kiện hưởng lương hưu hằng tháng, được tham gia tiếp BHXH tự nguyện để đủ

73

điều kiện hưởng lương hưu, đảm bảo ổn định cuộc sống khi về già.

Ngoài ra, chính sách BHXH tự nguyện còn góp phần làm cho thị trường

lao động linh hoạt hơn, tạo điều kiện cho người lao động có thể dịch chuyển

giữa các khu vực kinh tế.

- Việc thay đổi một số điểm của Luật BHXH về BHXH tự nguyện cũng

đã giúp mở rộng thêm đối tượng tham gia như:

+ Không khống chế tuổi “trần” khi tham gia BHXH tự nguyện. Theo quy

định tại Khoản 2 Điều 73 Luật BHXH năm 2014 về điều kiện hưởng lương

hưu: “Người lao động đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ nhưng

thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm thì được đóng cho đến khi đủ

20 năm để hưởng lương hưu”. Đây là một điểm mới của Luật, giúp những đối

tượng có nhu cầu, có khả năng tài chính nhưng gần đến tuổi nghỉ hưu vẫn có

thể tham gia để lo cho tương lai của mình về sau.

+ Quy định về mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tự

nguyện thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn thay vì

bằng mức lương tối thiểu chung như trước đây.

+ Phương thức đóng linh hoạt, thuận tiện hơn cho các đối tượng có thể

tham gia tùy vào khả năng, điều kiện của mình. Nếu như Luật BHXH năm

2006 chỉ có 3 phương án đóng là: hàng tháng, hàng quý, 6 tháng 1 lần thì hiện

tại, Luật BHXH năm 2014, ngoài 3 phương án trên còn mở rộng thêm đóng

12 tháng 1 lần, đóng 1 lần cho nhiều năm về sau.

+ Từ tháng 1/2018, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được Nhà

nước hỗ trợ tiền đóng theo tỷ lệ phần trăm (%) trên mức đóng bảo hiểm xã hội

hằng tháng theo mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn (700.000 đồng/

tháng) quy định về mức đóng BHXH, cụ thể: Bằng 30% đối với người tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thuộc hộ nghèo (tương ứng mức tiền hỗ trợ là

46.200 đồng/ tháng); Bằng 25% đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện thuộc hộ cận nghèo (tương ứng mức hỗ trợ 38.500 đồng/ tháng); Bằng

74

10% đối với các đối tượng khác (tương ứng mức hỗ trợ 15.400 đồng/ tháng).

2.4.2. Những mặt tồn tại, hạn chế

Một là, mức độ bao phủ của BHXH tự nguyện còn rất thấp. Tính đến hết

năm 2018, số người tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị

mới chỉ đạt 199 người (chiếm tỷ lệ 1,63% trong số đối tượng thuộc diện tham

gia). Trong khi đó, đối tượng thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện chiếm

khoảng 84,98% số lượng người trong độ tuổi lao động. Giai đoạn từ 2014 –

2017, số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, phần lớn là những người đã có

thời gian tham gia BHXH bắt buộc, họ đóng tiếp để đủ điều kiện hưởng lương

hưu, số người tham gia mới, đặc biệt là nông dân và lao động trẻ chưa nhiều,

chiếm khoảng 25% trong tổng số đối tượng tham gia.

Hai là, giữa nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện còn khoảng

cách rất xa. Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người lao động để đảm

bảo an sinh cho chính bản thân mình là rất lớn, nhưng khả năng đóng góp lại

hạn chế. Trên thực tế người lao động muốn tham gia BHXH, muốn đóng cao

để được hưởng mức cao nhưng khả năng tài chính lại hạn chế, hoặc nếu có

tham gia thì cũng chỉ có khả năng đóng góp ở mức thấp, và như vậy, mức độ

thỏa mãn cũng thấp.

Ba là, nhận thức của người lao động và xã hội về chính sách BHXH tự

nguyện còn mờ nhạt. Trên thực tế, nhu cầu tham gia BHXH của người dân là

rất lớn, song nhận thức của họ lại chưa đầy đủ và thiếu thông tin về chính sách

này. Bởi vậy, cần phải đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến

chính sách cũng như quy trình, thủ tục đăng ký tham gia và thụ hưởng để người

dân hiểu được, từ đó họ sẽ chủ động tìm hiểu và nhiệt tình tham gia. Đây là

điều kiện hết sức quan trọng để mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.

Bốn là, thực tế số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện gồm nhiều thành

phần, đa số là lao động trong khu vực phi chính thức như nông dân, người

75

giúp việc gia đình, người bán hàng rong, tài xế xe ôm công nghệ…, và có thu

nhập thấp, không thường xuyên. Việc lo cho cuộc sống hàng ngày còn khó

khăn nên chưa suy tính được đến tương lai sau này.

Năm là, xét về mặt giá trị xã hội và lợi ích chưa có tác động lan tỏa, tạo

sự hấp dẫn và có tính thuyết phục đối với đông đảo người lao động, làm thay

đổi hành vi, thói quen có tính chất truyền thống Á Đông là người già sống dựa

vào con cái. Điều này chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường và xu hướng

phát triển chung của xã hội hiện đại là mọi người được bảo hiểm và sống

trong môi trường bảo hiểm để tạo độ an toàn xã hội cao, hướng đến mục tiêu

ASXH là “Mọi người dân đều có lương hưu khi về già”.

Sáu là, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH

tự nguyện còn ít, không thường xuyên; nội dung tuyên truyền còn mang tính

chất đại trà, chưa hướng tới các nhóm đối tượng có đặc điểm giống nhau về

thu nhập, công việc, trình độ…

Bảy là, hiệu quả hoạt động của mạng lưới đại lý làm công tác BHXH tự

nguyện chưa cao, chưa tạo sự đột phá về phát triển đối tượng tham gia BHXH

tự nguyện.

Tám là, các chế độ mà BHXH tự nguyện được hưởng còn ít, chưa đáp

ứng được nhu cầu mà người lao động mong muốn; thời gian để hưởng chế độ

còn dài vì vậy chưa tạo được sự hấp dẫn để người lao động tích cực tham gia.

2.4.3. Nguyên nhân các hạn chế

Có rất nhiều nguyên nhân đã làm cho việc phát triển đối tượng tham gia

BHXH tự nguyện trong thời gian qua còn hạn chế, trong đó phải kể đến có

3 nhóm nguyên nhân chủ yếu là: Chính sách BHXH tự nguyện, tổ chức

triển khai chính sách và từ phía người lao động.

2.4.3.1. Chính sách BHXH tự nguyện

- Mức đóng BHXH tự nguyện theo quy định vẫn còn khá cao so với thu

76

nhập. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 87 Luật BHXH năm 2014, người lao

động tham gia BHXH tự nguyện hàng tháng đóng bằng 22% mức thu nhập

tháng do người lao động lựa chọn để đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất; mức thu

nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH thấp nhất bằng mức chuẩn nghèo của khu

vực nông thôn (700.000 đồng/tháng) và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở.

Tuy mức đóng thấp nhất bằng mức chuẩn nghèo của khu vực nông thôn,

tức là 1 tháng người lao động chỉ cần đóng 154.000 đồng, tuy nhiên với 1 số

đối tượng có việc làm không ổn định, theo thời vụ; thu nhập bấp bênh, nhất là

đối tượng thuộc diện nghèo, cận nghèo thì số tiền trên cũng khá lớn so với

khả năng của họ.

- Còn thiếu có sự công bằng, bình đẳng giữa 2 loại hình BHXH bắt buộc

và tự nguyện, cụ thể:

+ Đối với BHXH bắt buộc, khi tham gia BHXH thì người lao động được

hưởng 5 chế độ nhưng khi tham gia BHXH tự nguyện thì người lao động chỉ

được hưởng 2 chế độ hưu trí và tử tuất, còn 3 chế độ ngắn hạn ốm đau, thai

sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp lại không được hưởng, mặc dù 3

chế độ này cũng rất cần thiết đối với người tham gia BHXH tự nguyện.

+ Điểm a Khoản 1 Điều 80 Luật BHXH năm 2014 về hưởng trợ cấp mai

táng phí đối với người tham gia BHXH tự nguyện quy định: “Người lo mai

táng được nhận trợ cấp mai táng khi người lao động chết có thời gian đóng

bảo hiểm xã hội từ đủ 60 tháng trở lên” là chưa công bằng, bình đẳng vì đối

với người tham gia BHXH bắt buộc thì chỉ cần đóng BHXH từ đủ 12 tháng

trở lên đã được hưởng trợ cấp mai táng phí.

+ Người tham gia BHXH tự nguyện chỉ được hưởng trợ cấp tuất 1 lần. Để

hưởng trợ cấp tuất hàng tháng, người tham gia BHXH tự nguyện phải có thời

77

gian tham gia BHXH bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên mới được hưởng chế độ này.

2.4.3.2. Tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện

- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH tự

nguyện chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Rất nhiều người

lao động chưa hiểu biết về quy trình, thủ tục đăng ký tham gia cũng như

những lợi ích của chính sách BHXH tự nguyện đem lại. Do vậy, để người dân

hiểu rõ được điều đó, thì phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến

chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện. Trong thời gian qua, nội dung

tuyên truyền chưa ngắn gọn, dễ hiểu, chưa sát với thực tế, mà chủ yếu tập

trung vào phổ biến các chế độ của BHXH bắt buộc, phổ biến đến các khu

công nghiệp, nhà máy nơi có nhiều người sử dụng lao động và người lao động

làm công ăn lương. Hình thức tuyên truyền chưa phong phú, đa dạng, hấp dẫn

và còn thiếu các hình thức phù hợp cho từng đối tượng, địa bàn tuyên truyền

(như tuyên truyền trực tiếp, tổ chức các cuộc đối thoại, giải thích đến người

dân tận các thôn bản, cụm dân cư, vùng sâu, vùng xa...).

- Một nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả phát triển đối

tượng tham gia BHXH tự nguyện đó là công tác phát triển mạng lưới đại lý

thu BHXH tự nguyện. Hiện nay mới chỉ có mỗi một xã phường một đại lý thu

BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình. Bên cạnh chuyên môn nghiệp vụ về

BHXH tự nguyện còn hạn chế thì các cán bộ làm đại lý thu BHXH chủ yếu là

cán bộ kiêm nhiệm, vì vậy không có thời gian để tiếp cận từng khách hàng,

gia đình để tiếp thị, tư vấn, thuyết phục khách hàng tham gia bảo hiểm như

lực lượng nhân viên của các mô hình Bảo hiểm nhân thọ. Đây cũng chính là

một hạn chế để mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.

- Sự phối hợp giữa cơ quan BHXH với các các cấp, các ngành chưa chặt

chẽ. Trên thực tế hiện nay, một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực

sự quan tâm đến chính sách BHXH tự nguyện, nên công tác lãnh đạo, chỉ đạo

78

chưa sâu sát mà xem đây như là chuyện riêng của ngành BHXH. Nếu có sự

phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và có trách nhiệm giữa cơ quan BHXH với chính

quyền địa phương và các phòng, ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội trong

công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH tự

nguyện, thì việc triển khai chính sách BHXH tự nguyện sẽ có hiệu quả hơn.

Đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan BHXH cấp huyện với chính quyền xã,

phường và các hội, đoàn thể (như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông

dân...) trong công tác vận động, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của

người lao động về tính nhân văn của chính sách BHXH tự nguyện thì sẽ thu

hút được nhiều người lao động tham gia.

2.4.3.3. Từ phía người lao động

Một là, người lao động có thu nhấp thấp và không ổn định.

Thực tiễn đã chỉ ra là giữa nhân tố thu nhập và mức độ bao phủ BHXH

tự nguyện của người lao động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. BHXH trong

kinh tế thị trường thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng. Cho nên, người

lao động có việc làm mới có thu nhập và do đó, mới có khả năng tham gia

BHXH tự nguyện. Thu nhập của người dân có ảnh hưởng đến quyết định

79

tham gia BHXH tự nguyện được tổng hợp qua bảng số liệu dưới đây:

Bảng 2.8. Ảnh hƣởng của thu nhập bình quân hàng tháng và quyết định

tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị

Tỉ lệ số Đã Chƣa Tỉ lệ số Tổng ngƣời tham tham ngƣời Tiêu chí số chƣa gia gia đã tham (ngƣời) tham gia (ngƣời) (ngƣời) gia (%) (%)

Tổng số (người) 500 443 11,40 88,60 57

Dưới 500.000đ 53 53 100

Từ 500.000đ đến 185 183 1,08 98,92 2 1.1550.000đ

Từ 1.1550.000đ đến 167 158 5,39 94,61 9 2.700.000đ

Từ 2.700.000đ đến 56 30,36 69,64 39 17 3.300.000đ

10 Từ 3.300.000đ trở lên 39 74,36 25,64 29

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra và tính toán)

Như vậy, khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động chủ

yếu phụ thuộc vào thu nhập. Thu nhập của người dân càng tăng thì quyết định

tham gia BHXH tự nguyện càng nhiều. Có thể nói, thu nhập thấp và không ổn

định là trở ngại lớn nhất trong việc quyết định lựa chọn tham gia BHXH tự

nguyện. Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện là rất lớn và chính đáng, song

khả năng đáp ứng nhu cầu của người lao động lại rất hạn chế do thu nhập thấp

và không ổn định. Do vậy, độ bao phủ của BHXH tự nguyện muốn tăng lên

chủ yếu là phải dựa trên cơ sở phát triển kinh tế, tăng thu nhập, nâng cao mức

80

sống của nhân dân.

Hai là, người lao động ít lo cho tương lai xa. Theo truyền thống và

phong tục tập quán của người dân Việt Nam là người già thường được con

cháu chăm lo nuôi dưỡng. Nhiều người già vẫn còn mang nặng tư tưởng “trẻ

cậy cha, già cậy con”, cuộc sống sau này khi già cả sẽ do con cháu chăm lo.

Bên cạnh đó, có thể nói người dân Việt Nam chưa làm quen với các dịch vụ

công, phúc lợi xã hội như các nước trên thế giới. Đây cũng là biểu hiện đặc

trưng của một nước đang phát triển. Chính vì vậy, phần đông người lao động

khi chưa có hiểu biết và nhận thức đầy đủ về chính sách BHXH tự nguyện thì

bản thân họ không thấy được ích lợi an sinh của chính sách này nên không

muốn tham gia và không quan tâm đến BHXH tự nguyện.

Ba là, người tham gia BHXH tự nguyện là những lao động tự do rất khó

quản lý và thường xuyên biến động. Chính đặc điểm này của lao động tham

gia BHXH tự nguyện làm cho công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật, quản

lý đối tượng, quy trình thu nộp, giải quyết chế độ, đảm bảo tuân thủ theo đúng

81

quy định của pháp luật về BHXH tự nguyện gặp nhiều khó khăn.

Tiếu kết Chƣơng 2:

Trong chương 2, tác giả giới thiệu tổng quan về BHXH thị xã Quảng Trị,

chức năng, nhiệm vụ cũng như cơ cấu tổ chức và hoạt động của BHXH thị xã

Quảng Trị. Nêu lên nội dung cơ bản về công tác thu BHXH tự nguyện và sử

dụng quỹ BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị.

Trên cơ sở lý luận tác giả đưa ra trong chương 1, tác giả tiến hành đánh

giá về thực trạng công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

trên địa bàn thị xã Quảng Trị giai đoạn 2014 – 2018. Từ đó, chỉ ra những kết

quả đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại về công tác phát triển đối

tượng tham gia BHXH tự nguyện. Có 3 nhóm nguyên nhân tạo ra sự hạn chế

về việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là:

- Chính sách BHXH tự nguyện;

- Tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện;

- Từ phía người lao động.

Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế tác giả đánh giá trong nội

dung chương 2 sẽ là cơ sở rất quan trọng để tác giả đề xuất những giải pháp

và kiến nghị ở chương 3 nhằm hoàn thiện công tác phát triển đối tượng tham

82

gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị.

Chương 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN

ĐỐI TƢỢNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TRÊN

ĐỊA BÀN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ.

3.1. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu phát triển đối tƣợng tham gia BHXH tự

nguyện đến năm 2030

3.1.1. Quan điểm chỉ đạo

An sinh xã hội cho mọi người dân luôn được Đảng ta quan tâm sâu sắc

và không ngừng hoàn thiện, đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của đất

nước trong từng thời kỳ; điều này thể hiện rất rõ tại các văn kiện qua các kỳ

Đại hội của Đảng và với từng chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước.

Đặc biệt, ngày 22/11/2012, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-TW về “Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020”. Trong đó,

đề ra mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động

tham gia BHXH, 35% lực lượng lao động tham gia Bảo hiểm thất nghiệp”.

Nay với việc Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa XII tiếp tục ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách

BHXH, cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với chính sách BHXH.

Trong đó nhấn mạnh: “mở rộng diện bao phủ BHXH, đẩy nhanh việc gia tăng

người lao động tham gia BHXH, nhất là trong khu vực phi chính thức”. Đây

là một nội dung cực kỳ quan trọng, bởi vì hiện nay, tỷ lệ lao động ở khu vực

phi chính thức còn rất cao.

Với mục tiêu hướng tới BHXH toàn dân, có thể khẳng định đây vừa là

cơ hội, cũng vừa là thách thức cho các Bộ, ngành, các cấp ủy đảng, chính

83

quyền nói chung và BHXH Việt Nam nói riêng trong việc tiếp tục hoàn thiện

chính sách pháp luật BHXH cũng như cơ chế tổ chức thực hiện BHXH phù

hợp với thực tiễn đất nước trong bối cảnh phát triển và hội nhập quốc tế ngày

càng sâu rộng, trước những thách thức trong dịch chuyển lao động, thay đổi

cơ cấu ngành - nghề, mối quan hệ lao động trong cuộc cách mạng 4.0…

3.1.2. Mục tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa

bàn thị xã Quảng Trị

Nghị quyết số 28-NQ/TW đặt mục tiêu tổng quát “Từng bước mở rộng

vững chắc diện bao phủ BHXH, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân”. Trong đó:

Giai đoạn đến năm 2021: Phấn đấu đạt khoảng 35% lực lượng lao động

trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực PCT

tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi.

Giai đoạn đến năm 2025: Phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động

trong độ tuổi tham gia bảo BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực

PCT tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 2,5% LLLĐ trong độ tuổi.

Giai đoạn đến năm 2030: Phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động

trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực PCT

tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi.

Đây là một thách thức đặt ra cho ngành BHXH nói chung và BHXH thị

xã nói riêng. Để đạt được mục tiêu này, trong thời gian tới, cần thực hiện tốt

các nội dung:

- Đổi mới cơ chế tổ chức thực hiện, chuyển đổi tác phong phục vụ; đẩy

mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hệ thống quản lý BHXH;

cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ bảo đảm việc

giải quyết các chế độ BHXH đầy đủ, kịp thời, đúng quy định của pháp luật.

Đồng thời, mở rộng mạng lưới đại lý thu BHXH tự nguyện; có giải pháp

khuyến khích các địa phương vận động, phát triển đối tượng tham gia BHXH,

84

nhất là BHXH tự nguyện.

- Từng bước mở rộng độ bao phủ, với mục tiêu số người tham BHXH

tăng dần qua các năm, và thực hiện nhiều chế độ hơn.

- Xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH trong kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của địa phương, trình HĐND quyết định;

xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện các giải pháp nhằm đạt được chỉ tiêu

phát triển đối tượng tham gia BHXH đã đặt ra.

3.2. Giải pháp phát triển đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện trên địa

bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

Có thể thấy, đối tượng tham gia thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện

tại thị xã Quảng Trị hiện nay là rất lớn, đa dạng, sinh sống và lao động dàn

trải trên khắp địa bàn. Nên để triển khai có hiệu quả chính sách BHXH tự

nguyện, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp có tính chiến lược để đưa

chính sách BHXH tự nguyện vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của

nhân dân lao động, đảm bảo chính sách ASXH. Theo đó, có 2 nhóm giải pháp

cơ bản là cơ chế chính sách và tổ chức triển khai BHXH tự nguyện.

3.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách BHXH tự nguyện

Luật BHXH sửa đổi đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014

(Luật số: 58/2014/QH13), gồm 09 Chương, 125 Điều và có hiệu lực thi hành

từ ngày 01/01/2016.

Mục tiêu đặt ra khi xây dựng Luật BHXH sửa đổi đó là mở rộng đối

tượng tham gia BHXH, hoàn thiện các chế độ chính sách BHXH, đảm bảo sự

bình đẳng trong tham gia và hưởng thụ BHXH, đảm bảo nguyên tắc đóng

hưởng, sự bền vững của hệ thống BHXH, tổ chức thực hiện minh bạch, đơn

giản, thuận tiện hơn. Thực tế cho thấy, việc thay đổi một số điểm của Luật

BHXH về BHXH tự nguyện như: Không khống chế tuổi “trần” khi tham gia

85

BHXH tự nguyện; quy định về mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm

xã hội tự nguyện thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn;

có nhiều phương thức đóng hơn, linh hoạt và thuận tiện hơn cho các đối

tượng; từ tháng 1/2018, Nhà nước hỗ trợ 1 phần mức đóng cho đối tượng

tham gia BHXH tự nguyện… đã giúp mở rộng thêm đối tượng tham gia

BHXH tự nguyện.

Tuy nhiên, Luật BHXH sửa đổi năm 2014 vẫn còn bộc lộ những bất cập,

cần phải được sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện. Sau đây là một số giải pháp

hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện:

Một là, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng về điều kiện hưởng 2 chế độ

hưu trí và tử tuất giữa 2 loại hình BHXH bắt buộc và tự nguyện:

Tại Điểm a Khoản 1 Điều 80 về hưởng trợ cấp mai táng đối với người

tham gia BHXH tự nguyện quy định: “Người lo mai táng được nhận trợ cấp

mai táng khi người lao động chết đã có ít nhất 60 tháng đóng BHXH”, nhưng

tại Điểm a Khoản 1 Điều 66 về hưởng trợ cấp mai táng đối với người tham

gia BHXH bắt buộc quy định: “Người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng

khi người lao động chết đã có ít nhất 12 tháng đóng BHXH”. Như vậy, giữa 2

loại hình có sự phân biệt về điều kiện hưởng trợ cấp mai táng, không đảm bảo

sự công bằng và bình đẳng. Vì vậy sẽ không khuyến khích và tạo điều kiện

thuận lợi cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện. Do đó, nên sửa đổi

lại về điều kiện hưởng trợ cấp mai táng cho thân nhân người lao động của

BHXH tự nguyện ở Điểm a Khoản 1 Điều 80 như Điểm a Khoản 1 Điều 66

của BHXH bắt buộc.

Tại Khoản 5 Điều 56 về mức hưởng lương hưu hằng tháng của BHXH

bắt buộc quy định: “Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức lương cơ

sở”, nhưng trong BHXH tự nguyện lại không có quy định này. Mặc dù cả 2

loại hình đều có quy định tiền lương, thu nhập làm căn cứ đóng BHXH thấp

86

nhất bằng mức lương cơ sở hoặc bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông

thôn và mức cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở. Điều này cũng chưa đảm

bảo sự công bằng, bình đẳng về mức hưởng lương hưu hằng tháng thấp nhất

của người lao động giữa 2 loại hình BHXH. Do đó, để tạo động lực cho người

lao động tham gia BHXH tự nguyện thì nên bổ sung quy định mức lương hưu

tối thiểu hằng tháng của BHXH tự nguyện thấp nhất bằng mức chuẩn hộ

nghèo của khu vực nông thôn. Để khi người lao động nhận được lương hưu

phải đảm bảo đời sống tối thiểu cho họ, khi đó chính sách BHXH tự nguyện

thực sự mới có ý nghĩa.

Hai là, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHXH tự nguyện:

Tại Điều 67, 68 quy định về các trường hợp được hưởng và mức hưởng

trợ cấp tuất hằng tháng đối với BHXH bắt buộc nhưng lại không có quy định

trợ cấp tuất hằng tháng cho BHXH tự nguyện. Sự đảm bảo về quyền lợi trong

chế độ tử tuất của 2 loại hình BHXH là không công bằng. Do vậy, cần bổ

sung thêm trợ cấp tuất hằng tháng cho BHXH tự nguyện. Mặt khác, đối với

BHXH bắt buộc, khi tham gia BHXH thì người lao động được hưởng 5 chế

độ gồm: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử

tuất nhưng khi tham gia BHXH tự nguyện thì người lao động chỉ được hưởng

2 chế độ hưu trí và tử tuất, còn 3 chế độ lại không được hưởng, mặc dù 3 chế

độ này cũng rất cần thiết đối với người tham gia BHXH tự nguyện và đây

cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chính sách BHXH tự nguyện

chưa hấp dẫn người tham gia vì chế độ áp dụng còn quá đơn điệu. Tuy nhiên,

vì đây là chính sách mới cho nên trong giai đoạn đầu áp dụng 2 chế độ là phù

hợp, nhưng về lâu dài nên thiết kế chính sách theo hướng mở rộng dần các

chế độ để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa 2 loại hình BHXH bắt buộc

và tự nguyện và đảm bảo quyền lợi cho người lao động tham gia BHXH tự

nguyện. Ngoài ra, cần nghiên cứu, mở rộng thêm chế độ BHYT cho người

87

tham gia BHXH tự nguyện, cho dù có thể phải tăng mức đóng. Vì theo điều

tra nghiên cứu và phân tích ở trên, nhu cầu được tham gia BHYT tự nguyện

của người lao động là rất lớn. Nếu kết hợp giữa BHXH tự nguyện và BHYT

tự nguyện thì sẽ khuyến khích người lao động tham gia nhiều hơn.

Cần có quy định giảm tuổi nghỉ hưu như BHXH bắt buộc đối với người

tham gia BHXH tự nguyện ở vùng có hệ số phụ cấp khu vực từ 0,7 trở lên;

người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên khi họ đã đóng BHXH từ

đủ 20 năm trở lên.

Ba là, nghiên cứu sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo

hiểm xã hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt:

Sửa đổi điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm

đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống

15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm

tạo điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia bảo hiểm xã

hội thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội. Nghiên

cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội ngắn hạn với mức đóng, mức hưởng,

phương thức giao dịch phù hợp với người lao động trong khu vực phi chính

thức. Nhằm khuyến khích, vận động đối tượng tích cực tham gia vào BHXH

tự nguyện, hướng đến mục đích “tất cả mọi người dân đều có lương hưu”,

đảm bảo ASXH và giảm gánh nặng cho Ngân sách trong tương lai.

3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức triển khai BHXH tự nguyện

3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật

về BHXH tự nguyện

Có thể nói truyền thông là một trong những điều kiện tồn tại tất yếu của

bất kỳ xã hội và hình thái lịch sử nào. Thiết nghĩ, để NLĐ tích cực, tự giác hơn

trong việc tham gia BHXH tự nguyện không chỉ cần cung cấp những thông tin

về quyền lợi khi tham gia BHXH tự nguyện mà trước hết phải giúp họ hiểu

88

được những ý nghĩa, tính nhân văn sâu sắc, tầm quan trọng và vai trò của

BHXH tự nguyện đối với cuộc sống của họ khi đang trong độ tuổi lao động

cho đến khi hết tuổi lao động. Phải làm cho họ nhìn thấy được những nguy cơ,

thách thức mà họ và những người thân có thể gặp phải trong cuộc sống.

Yếu tố truyền thông một yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến ý định

tham gia BHXH tự nguyện của NLĐ, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Truyền

thông rất đa dạng có thể từ các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, ti

vi,… hoặc thông qua các kênh truyền thông không chính thức như truyền

miệng từ người này sang người khác gọi là (truyền thông liên cá nhân), hoặc

truyền thông nhóm.

Qua khảo sát cho thấy gần 85% NLĐ trả lời phỏng vấn tán thành

yếu tố truyền thông là yếu tố quan trọng tác động đến ý định tham gia BHXH

tự nguyện của NLĐ đặc biệt tỏ ra quan tâm đến hình thức truyền thông nhóm.

Một số giải pháp để phát triển các kênh truyền thông như:

* Thay đổi nội dung tuyên truyền về bảo hiểm xã hội tự nguyện

Nguyên nhân quan trọng của việc nhiều lao động không quan tâm hoặc

không muốn tham gia BHXH tự nguyện là do khâu tuyên truyền còn yếu. Vì

vậy, để giải quyết tốt vấn đề thì việc thay đôi nội dung, hình thức tuyên truyền

qua các kênh truyền thông đòi hỏi phải được tiến hành một cách hiệu quả và

đồng bộ. Việc thay đổi nội dung tuyên truyền thay vì các băng rôn, khẩu hiệu,

tờ rơi, sổ tay về BHXH, nội dung tuyên truyền cần được thay đổi để nêu bật

được những vấn đề:

- Nội dung tuyên truyền phải nhắm trực tiếp vào lợi ích mà người tham

gia bảo hiểm sẽ nhận được và những rủi ro mà NLĐ sẽ gặp phải nếu không

tham gia BHXH tự nguyện. Để làm được việc này, đội ngũ làm công tác tuyên

truyền phải thật sự năng động và tâm huyết vì họ là cầu nối giữa chính sách

với người dân. Có như vậy, người dân mới có thể quan tâm, lắng nghe, nhận

89

thức và tin cậy rằng chính sách BHXH tự nguyện chỗ dựa vững chắc khi họ

không may gặp phải những rủi ro trong cuộc sống hay hết tuổi lao động. Từ

đó có thể làm cho họ chuyển biến phần nào tâm lý, cách nghĩ như trước đây là

chỉ lo trang trải cho những việc trước mắt hoặc chỉ tích lũy bằng hình thức

phổ thông hiện nay.

- Nội dung tuyên truyền cần thay đổi để có thể truyền cảm hứng cho

người tham gia để họ thấy rằng việc tham gia BHXH và nhận BHXH là một

giá trị của bản thân mà những người khác không có. Đặc biệt là họ nhận thức

ra một vấn đề mà bấy lâu tưởng chừng như không thể đó là tham gia BHXH

tự nguyện là mang lại sự an tâm và tự tin trong cuộc sống. Bởi lẽ, lâu nay đại

đa số NLĐ chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể được gia nhập ngang hàng với

những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước hay các doanh nghiệp khi

về hưu. Qua đó, họ an tâm, tự tin hơn nhận thấy giá trị của mình được nâng

lên, cảm thấy cuộc sống tuổi già có ý nghĩa vì không phải phụ thuộc nhiều

vào con cái. Nhận thức được tính ASXH của BHXH tự nguyện, NLĐ sẽ có

thái độ tích cực hơn với chính sách BHXH tự nguyện. Có như thế, NLĐ mới

thấy được tham gia BHXH tự nguyện là việc cần thiết nên làm, là việc làm

hoàn toàn đúng đắn và họ sẽ tin cậy vào các quyền lợi mà chính sách BHXH

tự nguyện mang lại.

- Nội dung tuyên truyền không chỉ nhắm tới những người chưa tham gia

hoặc có ý định tham gia BHXH tự nguyện, nội dung tuyên truyền còn phải

nâng cao nhận thức về BHXH của người thân của NLĐ. Khi bạn bè, đồng

nghiệp, người thân trong gia đình hoặc những người đã và đang hưởng chế độ

BHXH hiểu và nhận thức đầy đủ vấn đề cũng như tính thiết yếu của chính

sách BHXH tự nguyện mà Nhà nước ban hành thì họ sẽ trở thành một kênh

tuyên truyền hiệu quả đến tận NLĐ. Bởi chính họ là người biết cách truyền

đạt và diễn giải vấn đề gần gũi nhất đến những người thân của họ. Do vậy,

90

theo tác giả việc tuyên truyền về chính sách BHXH tự nguyện không chỉ tập

trung tuyên truyền cho NLĐ mà cần thiết phải tuyên truyền vào đến tận các

đơn vị có sử dụng lao động để NLĐ biết và nhận thức vấn đề, từ đó họ có sự

đồng thuận về BHXH tự nguyện, rồi từ chính họ lại tuyên truyền cho những

người thân của mình.

* Phát triển truyền thông về bảo hiểm xã hội tự nguyện qua các

phương tiện thông tin đại chúng

- Là phương tiện truyền thông chủ lực, thời gian qua, truyền thanh,

truyền hình và nhất là báo chí đã thể hiện được vai trò là tiếng nói của Đảng,

Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân. Do vậy

UBND tỉnh phải quy định cho các huyện, xã, phường, thị trấn giao nhiệm vụ

cho đài truyền thanh các địa phương phải thường xuyên tuyên truyền về chính

sách BHXH tự nguyện của Nhà nước, đưa ra những con số thống kê tình hình

tham gia BHXH tự nguyện của NLĐ tại những địa phương, xã, phường.

- Chính sách BHXH tự nguyện thực sự đến được với người dân đặc biệt

là ở nông thôn thì cần thiết phải xây dựng những chương trình truyền hình,

truyền thanh, hoặc các bài báo viết phải thật sự thiết thực với nội dung ngắn

gọn, đầy đủ, chính xác, ngôn từ dễ hiểu gần gũi với người dân, hình thức sinh

động, lôi cuốn. Ví dụ: xây dựng các tiểu phẩm truyền thông, ban hành những

ấn phẩm tờ rơi tuyên truyền về BHXH tự nguyện ấn tượng, dễ hiểu, hoặc tại

mỗi nhà văn hóa thôn, xã, phường, thị trấn cần phải có dán các ấn phẩm tuyên

truyền và nội dung quy định về BHXH tự nguyện để người dân được đọc.

Mặt khác, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thì báo chí, truyền thanh,

truyền hình là phương tiện để phổ biến thông tin pháp luật của Nhà nước vì

vậy đối với BHXH tự nguyện là chính sách còn khá mới mẻ đối với đại bộ

phận người lao động, do vậy cần thiết phải phổ biến sâu và rộng để người lao

91

động nhận thức được.

* Về phương pháp tuyên truyền

Tuyên truyền cần nhấn mạnh tính ưu việt của chính sách BHXH tự

nguyện để NLĐ hiểu, dễ cân nhắc và so sánh, cụ thể: Khi có trượt giá thì

được điều chỉnh theo phần trăm lương tối thiểu của năm nghỉ hưu. Đây là ưu

điểm vượt trội của BHXH, BHXH tự nguyện so với bảo hiểm nhân thọ và bảo

hiểm thương mại.

Ngoài ra, đối với truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng:

Tăng cường thời lượng phát sóng các chuyên đề về BHXH tự nguyện trên

truyền hình, truyền thanh, đồng thời nâng cao chất lượng các chuyên đề để

phổ biến đến người dân.

Tăng cường đưa những thông tin, điểm tin, giải đáp thắc mắc các thông

tin BHXH tự nguyện để NLĐ có thể tìm hiểu. Ðặc biệt những nội dung này

nên phát hoặc trình chiếu vào những thời gian mà NLĐ có thể thu nhận dễ

dàng nhất, có thể phát tin lặp đi lặp lại và có những thay đổi hình thức sao cho

phù hợp với dân cư tại địa bàn của mình.

Đối với truyền thông nhóm, người truyền đạt nội dung phải có khả năng

thuyết phục và kỹ năng truyền đạt thông tin trước quần chúng, có sự am hiểu

chính sách nhất định để giải đáp những thắc mắc, tư vấn kỹ lưỡng nội dung

cho đối tượng hiểu rõ hơn về chính sách BHXH tự nguyện đến với tận người

dân lao động.

Phối hợp chương trình BHXH tự nguyện với các chương trình mục tiêu

khác (Chương trình việc làm, Chương trình giảm nghèo, Chương trình phát

triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, bãi ngang ven

biển…). Điều kiện cơ bản nhất để người lao động tham gia BHXH tự nguyện

là phải có việc làm với giá trị cao và thu nhập cao, có tích lũy để có khả năng

đóng BHXH tự nguyện. Do vậy, chiến lược mở rộng độ bao phủ của BHXH

92

tự nguyện phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược việc làm,

xóa đói giảm nghèo và nhất là phối hợp với chương trình việc làm, chương

trình xóa đói giảm nghèo quốc gia… Các chương trình này tập trung vào hỗ

trợ người lao động học nghề, vay vốn tự tạo việc làm hoặc hỗ trợ tìm việc

làm, xóa đói giảm nghèo.

Riêng đối với người nghèo, cận nghèo muốn họ tham gia BHXH tự

nguyện, cần phải có chính sách hỗ trợ đối với họ (giống như mua BHYT cho

người nghèo, cận nghèo). Tuy nhiên, hình thức hỗ trợ có thể cho vay với lãi

suất ưu đãi để họ đóng BHXH tự nguyện. Chương trình cho vay cũng phải

gắn với chương trình mục tiêu giảm nghèo, để đến khi họ vượt được nghèo,

cận nghèo vươn lên khá giả thì họ phải tự đóng BHXH tự nguyện. Nghĩa là

phải có chiến lược hỗ trợ và chiến lược "rút lui", khi họ có khả năng tự đóng

BHXH tự nguyện. Nguồn quỹ cho vay BHXH tự nguyện đối với người

nghèo, cận nghèo có thể thông qua thành lập Quỹ An sinh xã hội ở cơ sở

(thôn, bản, làng, xã) từ nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp của nhân dân và

hỗ trợ quốc tế (hiện nay Ngân hàng Thế giới rất quan tâm và sẵn sàng giúp đỡ

đóng góp vào chương trình này khi chính phủ công bố rõ ràng về chính sách).

3.2.2.2. Phát triển mạng lưới và đào tạo đại lý làm công tác thu BHXH

tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị

Với các đại lý thu của hệ thống Bưu điện cùng các đại lý tại các xã

phường đã có như hiện nay, thì thực hiện mục tiêu phát triển đối tượng tham

gia BHXH tự nguyện là rất khó khăn vì các đại lý này chủ yếu làm nhiệm vụ

thu BHXH tự nguyện, BHYT tự nguyện và chi trả lương hưu. Còn việc tuyên

truyền, vận động, thuyết phục để người dân tham gia BHXH tự nguyện là

chưa đạt hiệu quả. Do vậy, cần thiết phải mở rộng thêm mạng lưới các đại lý

thu BHXH tự nguyện ở cấp xã phường. Số lượng các đại lý được mở phụ

thuộc vào quy mô và đặc điểm lao động ở nơi đó. Việc thành lập các đại lý

được thực hiện thông qua các hội nghị tuyên truyền về BHXH tự nguyện và

93

đào tạo các đại lý thông qua các hội nghị tập huấn.

BHXH thị xã Quảng Trị chủ động phối hợp với UBND, Hội Nông dân,

Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên… tổ chức các cuộc hội nghị tuyên truyền cho

các nhóm đối tượng tại cơ sở nhằm mở rộng tuyên truyền đến vùng sâu, vùng

xa góp phần làm chuyển biến tích cực nhận thức về BHXH tự nguyện của các

cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân; phối hợp cùng chính quyền và các

hội, đoàn thể cơ sở xã, phường, nhằm phát hiện, lựa chọn những người hội tụ

đủ các tiêu chí về trình độ, điều kiện, nhiệt huyết… tham dự khóa tập huấn

nghiệp vụ đại lý thu BHXH tự nguyện, tạo nguồn bổ sung dồi dào cho đội

ngũ đại lý hiện có, để mở rộng hệ thống mạng lưới đại lý trên địa bàn.

Tại các hội nghị tập huấn, ngoài việc lĩnh hội toàn bộ các nội dung cơ bản

về nghiệp vụ BHXH tự nguyện, cần tập trung đi sâu vào những vấn đề cụ thể

như đối tượng tham gia, mức đóng, phương thức đóng, mức hưởng, quy trình,

thủ tục tham gia và hưởng, quyền lợi, trách nhiệm của người tham gia… Ứng

viên đại lý cần được cung cấp một lượng thông tin cần thiết để có cái nhìn đúng

đắn, toàn diện về nghề đại lý bảo hiểm phi thương mại, một nghề mang tính ổn

định, chuyên nghiệp và nhân văn. Điểm nổi bật ở các hội nghị tập huấn này là

sự nhen nhóm lòng đam mê nghề nghiệp, nâng cao chất lượng tư vấn một cách

bài bản cho các đại lý tiềm năng, khơi dậy sự chủ động đầu tư thời gian và lòng

quyết tâm, thực sự là nhịp cầu trung gian dẫn dắt người dân đến với chính sách

nhân văn của Đảng và Nhà nước để được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các quyền

lợi về BHXH tự nguyện. Bên cạnh đó, cần có kế hoạch giao chỉ tiêu phát triển

đối tượng tham gia BHXH tự nguyện hàng năm cho từng đại lý; đồng thời, xây

dựng cơ chế chính sách và mức hoa hồng hỗ trợ phù hợp nhằm động viên,

khuyến khích các đại lý BHXH tự nguyện hoạt động một cách có hiệu quả.

Để đạt 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, trong đó có 3 triệu

người tham gia BHXH tự nguyện đến năm 2020, theo mục tiêu Nghị quyết

94

21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị đã đề ra, ngoài sự vào cuộc với

quyết tâm cao của các cấp, các ngành thì đội ngũ đại lý thu BHXH tự nguyện

ở cấp xã, phường chính là bộ phận chủ lực trực tiếp, là hạt nhân nòng cốt, là

cầu nối đưa chính sách BHXH tự nguyện đến với người lao động, không

ngừng mở rộng, phát triển diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.

3.2.2.3. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND và

phối hợp của các cơ quan ban ngành trên địa bàn thị xã Quảng Trị

Vấn đề phát triển BHXH tự nguyện đã được thể hiện trong các văn bản,

Nghị quyết của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày

01/6/2012 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020 nêu rõ:

“Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu

vực PCT tham gia BHXH tự nguyện. Phấn đấu đến năm 2020 cả nước có

khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, trong đó có 3 triệu người

tham gia BHXH tự nguyện”. Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22/11/2012 của

Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH,

BHYT giai đoạn 2012 – 2020 cũng đặt ra mục tiêu là: “Thực hiện có hiệu quả

các chính sách, chế độ BHXH, BHYT; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng

tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện…”.

Như vậy, có thể thấy thực hiện phát triển BHXH tự nguyện là nhằm thực

hiện mục tiêu ASXH của quốc gia. Chính vì lẽ đó, để đạt được mục tiêu Nghị

quyết đặt ra đòi hỏi không chỉ riêng sự nỗ lực của ngành BHXH mà cần có sự

vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị. Trên thực tế

hiện nay còn một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa thực sự quan

tâm đến chính sách BHXH tự nguyện, công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa sâu sát;

chưa coi công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH tự

nguyện là của cấp mình phải làm mà chỉ xem đó như là chuyện riêng của

95

ngành BHXH. Chưa có sự phối hợp trách nhiệm giữa BHXH quận, huyện với

chính quyền cấp huyện, xã. Nếu cấp xã, thôn, việc tuyên truyền, vận động

người lao động tham gia BHXH tự nguyện bị xem nhẹ, không được quan tâm

đúng mức thì việc phát triển đối tượng tham gia sẽ rất khó khăn vì đây là cấp

cơ sở gần dân nhất và tiếp xúc với dân nhiều nhất.

Chính vì vậy, BHXH thị xã Quảng Trị cần chủ động, kịp thời tham mưu,

đề xuất với HĐND, UBND thị xã Quảng Trị đưa chỉ số phát triển đối tượng

tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình vào chỉ tiêu phát triển kinh tế -

xã hội năm sau của địa phương. Và kiến nghị để cấp ủy Đảng các cấp coi việc

phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là một chỉ tiêu trong kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình. Đồng thời có sự phối hợp

chặt chẽ, thường xuyên, có trách nhiệm giữa cơ quan BHXH với các phòng,

ban ngành, đoàn thể các cấp, đặc biệt là các hội, đoàn thể (Hội Phụ nữ, Hội

Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Khuyến học, Đoàn Thanh niên, các trạm

y tế xã phường …) trong công tác vận động, tuyên truyền, phổ biến chính

sách, pháp luật về BHXH tự nguyện, thông qua việc tổ chức các buổi hội

nghị, nói chuyện. Qua đó, nhằm nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm của

cán bộ, công chức, viên chức, hội viên trong việc tổ chức thực hiện chính sách

BHXH tự nguyện cho người lao động.

3.3.2.4. Xây dựng chiến lược phát triển đối tượng tham gia

Xây dựng chiến lược phát triển đối tượng tham gia là rất quan trọng giúp

cho việc mở rộng được đối tượng tham gia. Do đối tượng thuộc diện tham gia

BHXH tự nguyện có đặc điểm khác hẳn với BHXH bắt buộc về trình độ học

vấn, chuyên môn kỹ thuật, thu nhập... Hơn nữa, đây là một chính sách hoàn

toàn mới, vì vậy không thể triển khai phát triển đối tượng tham gia một cách

tràn lan, mà đòi hỏi phải có thời gian, lộ trình và bước đi phù hợp. Theo đó,

cần thiết phải xác định được từng nhóm đối tượng cụ thể, từ đó đề ra phương

án, chiến lược hợp lý để vận động, khuyến khích đối tượng tham gia vào hệ

96

thống BHXH tự nguyện. Có 2 nhóm đối tượng chính là:

+ Nhóm đối tượng là lao động trong khu vực PCT: Nhóm lao động này

chiếm tỷ lệ rất cao chỉ sau nhóm lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm

khoảng 33,78% so với đối tượng thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện. Đặc

điểm của nhóm lao động này là trình độ học vấn và chuyên môn thấp, việc làm

bấp bênh, không ổn định và có mức thu nhập chỉ cao hơn nhóm lao động trong

lĩnh vực nông nghiệp. Họ không được hưởng quyền, nghĩa vụ lao động, làm

việc ở môi trường rủi ro do tai nạn lao động cao, thiếu thông tin, hay thay đổi

việc làm và nơi cư trú. Vì vậy, để phát triển đối tượng tham gia của nhóm lao

động này cần phải đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để giúp họ nâng

cao nhận thức về chính sách BHXH tự nguyện. Đồng thời phải tạo điều kiện

thuận lợi để họ tiếp cận được với chính sách như đơn giản hóa về quy trình, thủ

tục đăng ký tham gia và hưởng, phương thức đóng phí linh hoạt...Ngoài ra, Nhà

nước cũng cần có chính sách hỗ trợ đóng phí cho nhóm lao động này.

+ Nhóm đối tượng trong lĩnh vực nông nghiệp: Đây là nhóm có số lao

động lớn nhất trong loại hình BHXH tự nguyện, chiếm khoảng 64,52%, nhóm

này có trình độ học vấn và chuyên môn thấp, gia đình đông con, tư tưởng

mang nặng truyền thống của người Á Đông “trẻ cậy cha, già cậy con”, công

việc mang tính thời vụ, thời gian nông nhàn kéo dài, vụ mùa phụ thuộc rất

nhiều vào điều kiện thiên nhiên (có vụ được mùa, có vụ mất mùa). Nhóm lao

động này có mức thu nhập thấp nhất, chỉ một số người biết cách làm ăn, mới

có cuộc sống dư giả và họ có khả năng tích lũy tài chính khi về già hoặc

phòng ngừa khi gặp rủi ro. Còn đa phần nhóm lao động này có cuộc sống khó

khăn, thu nhập chỉ đủ trang trải cho chi tiêu hàng ngày. Do vậy, để mở rộng

đối tượng tham gia BHXH tự nguyện của nhóm lao động này cần phải tăng

cường công tác thông tin tuyên truyền về chính sách BHXH tự nguyện bằng

các hình thức và nội dung phù hợp để họ hiểu được lợi ích của chính sách

này. Tuy nhiên, đối với nhóm này, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tài chính tích cực

97

từ phía Nhà nước và cộng đồng.

BHXH thị xã Quảng Trị cần phối hợp chặt chẽ với UBND, chi cục Thống

kê thị xã Quảng Trị để thống kê số lao động và thu nhập của người lao động

thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện theo từng nhóm đối tượng, từ đó có kế

hoạch về lộ trình triển khai thực hiện BHXH tự nguyện. Đối với người lao động

có khả năng tài chính tham gia BHXH tự nguyện, cần đẩy mạnh công tác thông

tin tuyên truyền và đơn giản hóa về quy trình, thủ tục đăng ký tham gia và thụ

hưởng. Còn những người lao động có mức thu nhập thấp không có khả năng

tham gia, ngoài việc thông tin tuyên truyền, cần có sự động viên, thuyết phục và

hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước để họ có cơ hội được tham gia.

3.2.2.5. Nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa

bàn thị xã Quảng Trị

Chủ động hơn nữa trong việc trang bị kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng,

phương pháp tuyên truyền, vận động, tư vấn về chính sách, pháp luật BHXH,

BHYT cho đội ngũ cán bộ tuyên truyền, các cộng tác viên, cán bộ chủ chốt tại

cơ sở của các đoàn thể, các Đại lý thu BHXH tại các địa phương, đơn vị. Để

đáp ứng tốt nhất các nghiệp vụ chuyên môn liên quan không chỉ đối với lĩnh

vực BHXH tự nguyện.

Tăng cường sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo với BHXH tỉnh, huyện trên

cơ sở xác định rõ trách nhiệm của mỗi bên về công tác quản lý cán bộ. Các cơ

sở đào tạo, bồi dưỡng phải thực hiện nghiêm túc quy chế quản lý học viên

nhằm theo dõi, đánh giá ý thức, thái độ, kết quả học tập của học viên một

cách khách quan, công bằng.

Cán bộ làm công tác tuyên truyền BHXH tự nguyện cần linh hoạt hơn

trong khâu triển khai thực hiện, giảm thiểu tối đa thủ tục giấy tờ, cần phối hợp

chặt chẽ với cơ quan tư pháp để cung cấp giấy tờ tùy thân cho NLĐ chính xác

đúng tên tuổi tránh tình trạng nhầm lẫn sai sót. Cần có sự linh hoạt trong việc

cung cấp thông tin, chi trả BHXH tự nguyện cho NLĐ khi có phát sinh quyền

98

lợi hưởng BHXH tự nguyện.

Đồng thời, cần tiếp tục học tập, đổi mới tác phong làm việc, phong cách

phục vụ. Cần quán triệt coi BHXH tự nguyện thực sự là một dịch vụ công.

Phải đổi mới phong cách phục vụ chuyển từ hành chính sang phục vụ, lấy

người tham gia làm trung tâm và coi họ là đối tượng phục vụ. Khi người dân

có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện, thay vì họ phải tìm đến cơ quan

BHXH để tìm hiểu thông tin, cách thức đóng góp thì cán bộ chuyên quản

BHXH tự nguyện hoặc cộng tác viên cần chủ động tiếp xúc cộng đồng dân cư

để cung cấp thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc

tham gia và hưởng các chế độ.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong quản lý. Người

tham gia BHXH tự nguyện là người nông dân và lao động PCT cho nên việc

di chuyển lao động giữa các vùng miền, các địa phương diễn ra rất thường

xuyên và phổ biến. Vì vậy, hệ thống BHXH tự nguyện phải ứng dụng CNTT

trong quản lý nhằm nối mạng cập nhật thông tin về nhân thân của người tham

gia kịp thời nhằm tạo điều kiện cho họ trong việc đóng và thụ hưởng quyền

lợi khi phát sinh.

3.2.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc phát triển đối

tượng BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị

Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần tăng cường hơn nữa việc tiếp tục chỉ

đạo thực hiện Nghị quyết số 21 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2017 – 2020.

Đồng thời, cơ quan BHXH thị xã Quảng Trị phải chủ động, kịp thời

tham mưu, đề xuất với HĐND các cấp, đưa chỉ số phát triển đối tượng tham

gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã

hội năm sau của địa phương. Và kiến nghị để cấp ủy Đảng các cấp coi nội

dung này là tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành việc thực hiện Nghị quyết

99

số 21 của Bộ Chính trị tại địa phương.

Cán bộ viên chức được phân công chuyên môn nghiệp vụ về BHXH tự

nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị cần lên kế hoạch kiểm tra hàng năm để

cuối mỗi năm tài chính đánh giá tổng kết những mặt đạt được, những mặt cần

khắc phục và tham mưu Ban lãnh đạo đơn vị phương hướng để xây dựng

nhiệm vụ cụ thể cho năm tiếp theo, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin tuyên

truyền về chế độ chính sách BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị

để người dân ngày càng hiểu rõ hơn về chính sách này.

3.3. Kiến nghị

3.3.1. Kiến nghị với BHXH Việt Nam

- Nghiên cứu, đề xuất với Quốc hội sửa đổi, bổ sung 1 số điều còn bất

cập trong Luật BHXH năm 2014, nhằm tạo sự bình đẳng giữa 2 loại hình

BHXH bắt buộc và tự nguyện, cụ thể:

+ Tại Điểm a Khoản 1 Điều 80 về điều kiện hưởng trợ cấp mai táng cho

thân nhân: “Người lao động có thời gian đóng BHXH từ đủ 60 tháng trở lên”,

nên sửa lại là: “Người lao động có thời gian đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên”.

+ Về mức lương hưu hằng tháng, trong Điều 74 về mức lương hưu hằng

tháng cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện, không có quy định mức

lương hưu tối thiểu hằng tháng. Vì vậy, nên bổ sung quy định: “Mức lương

hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn”.

+ Đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHXH tự nguyện, trong chế độ

tử tuất của BHXH bắt buộc, có quy định cả về trợ cấp tuất một lần và hằng

tháng, nhưng trong BHXH tự nguyện chỉ có quy định về trợ cấp tuất một lần

mà không có quy định về trợ cấp tuất hằng tháng. Do đó, cần bổ sung quy định

trợ cấp tuất hằng tháng cho BHXH tự nguyện để đảm bảo quyền lợi cho người

tham gia và tạo sự bình đẳng giữa 2 loại hình. Ngoài ra, đối với BHXH bắt

buộc áp dụng 5 chế độ, nhưng BHXH tự nguyện mới triển khai có 2 chế độ

100

hưu trí và tử tuất, còn 3 chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ chưa được áp dụng,

trong tương lai nên nghiên cứu và bổ sung thêm 3 chế độ còn lại giống như

BHXH bắt buộc để đảm bảo quyền lợi và tạo sự hấp dẫn cho người tham gia.

- Tổ chức, khảo sát trên quy mô cả nước về nhu cầu và khả năng tham

gia BHXH tự nguyện; xây dựng cụ thể chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia

BHXH tự nguyện cho từng vùng, từng địa phương trong từng năm sao cho

phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng địa

phương trong năm đó.

- Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, ngành BHXH Việt Nam

cần chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền hằng năm, từng giai đoạn để

phối hợp với các bộ, ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội, UBND các cấp để

đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền. Từ đó góp phần nâng cao nhận thức của

người lao động và toàn thể xã hội về ý nghĩa và vai trò của BHXH tự nguyện.

Trong đó, đa dạng hóa về nội dung và hình thức tuyên truyền, đưa ra các hình

thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, địa bàn tuyên truyền. Đặc biệt

chú trọng các hình thức tuyên truyền trực tiếp như tổ chức các cuộc đối thoại,

giải đáp, tư vấn…tại các tổ dân phố, thôn bản ở xã phường.

- Nâng cao chất lượng dịch vụ của ngành BHXH Việt Nam như đổi mới

phong cách phục vụ từ hành chính sang chế độ một cửa, lấy người lao động là

trung tâm, là đối tượng phục vụ, có thái độ phục vụ nhiệt tình, chu đáo, không

cửa quyền, quan liêu, hách dịch. Cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa

quy trình, thủ tục đăng ký tham gia, giải quyết chế độ để giảm thời gian, chi

phí đi lại của công dân. Tiến tới mỗi công dân tham gia BHXH, được cấp một

số định danh và thống nhất với số định danh công dân do Nhà nước quy định

để thuận tiện cho việc thu, giải quyết chế độ và quản lý đối tượng tham gia.

- Nâng cấp phần mềm hệ thống quản lý để đảm bảo liên thông, kết nối

thông tin được giữa các đơn vị BHXH trên địa bàn tỉnh, các đơn vị trong toàn

101

ngành trong phạm vi toàn quốc. Từ đó giúp cho việc đăng ký tham gia, giải

quyết chế độ, quản lý đối tượng được đơn giản và thuận tiện. Đồng thời công

khai, minh bạch thông tin đảm bảo sự công bằng, khách quan trong việc đăng

ký tham gia và giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động.

- Kiện toàn lại bộ máy tổ chức của ngành BHXH Việt Nam cho phù hợp

với tình hình thực tế, nâng cao trình độ, năng lực quản lý và chuyên môn của

đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tăng cường biên chế cho đội ngũ cán

bộ chuyên quản BHXH tự nguyện ở cấp xã phường.

- Xây dựng hệ thống đại lý thu BHXH tự nguyện ở cấp xã phường phù

hợp với quy mô và đặc điểm lao động, nâng cao chất lượng hoạt động của đại

lý thu, hình thành mạng lưới cộng tác viên ở cơ sở để tuyên truyền, tư vấn,

giải thích, nắm bắt tình hình đối tượng tham gia.

- Nghiên cứu phương án thực hiện việc trích nộp tiền đóng BHXH tự

nguyện bằng hình thức giao dịch trực tiếp giữa người lao động với cơ quan

BHXH (có thể thông qua hình thức chuyển khoản qua ATM, qua các ngân

hàng thương mại…) nhằm tạo sự thuận tiện cho những lao động trẻ, đi làm ăn

xa nhà có thể tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện không cần thông qua các đại

lý thu BHXH tự nguyện.

3.3.2. Kiến nghị với BHXH tỉnh Quảng Trị

- Trong quá trình thực hiện công tác phát triển đối tượng tham gia

BHXH tự nguyện, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập mà BHXH các

huyện, thành phố phản ánh. Đồng thời trình ý kiến với BHXH Việt Nam để

xin ý kiến lãnh đạo.

- Phối hợp với Tỉnh Ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cần tiếp tục tăng cường

lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể xã

hội. Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển về BHXH phù hợp với tình

hình kinh tế - xã hội và kế hoạch phát triển chung của tỉnh, đồng thời thể chế

102

hoá những chính sách cụ thể về mở rộng loại hình BHXH tự nguyện.

- Đưa công tác tổ chức thực hiện BHXH vào chỉ tiêu thi đua hàng năm

của các ngành, các cấp và các đơn vị.

- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra đánh giá chất lượng

đội ngũ đại lý thu BHXH tự nguyện hàng năm.

3.3.3. Kiến nghị với UBND thị xã Quảng Trị

- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện.

- Xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm trình Hội đồng nhân dân

cùng cấp quyết định.

- Phối hợp với BHXH thị xã Quảng Trị để tuyên truyền, phổ biến chính

103

sách, pháp luật về BHXH tự nguyện.

Tiểu kết Chƣơng 3:

Trên cơ sở phân tích công tác phát triển BHXH tự nguyện ở chương 2 và

nghiên cứu quan điểm, mục tiêu của Đảng và Nhà nước về phát triển BHXH

tự nguyện đến năm 2030, tác giả đề xuất 2 nhóm giải pháp về cơ chế chính

sách và tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện, bao gồm: nhóm giải

pháp về cơ chế chính sách BHXH tự nguyện và nhóm giải pháp về tổ chức

triển khai chính sách BHXH tự nguyện. Đồng thời, tác giả đưa ra một số kiến

nghị đối với BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh Quảng Trị và UBND thị xã Quảng

Trị nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

104

nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

Có thể khẳng định rằng, An sinh xã hội là thước đo đối với sự phát triển

bền vững của mỗi quốc gia; BHXH tự nguyện là một trong những chính sách

có ý nghĩa sâu sắc đối với người lao động tự do, người có thu nhập thấp và

không có thu nhập, thu nhập không ổn định như người nông dân, người mua

bán nhỏ lẻ, người tự tạo việc làm, người lao động đã đủ tuổi hưu nhưng chưa

đủ thời gian đóng BHXH… nhằm giúp người tham gia được hưởng lương

hưu để giảm bớt những khó khăn, rủi ro, nhất là khi về già; góp phần ổn định

cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, đảm bảo chính sách ASXH, thể

hiện sự công bằng, bình đẳng, tiến bộ, văn minh và phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước.

Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống BHXH và ASXH tiến tới áp

dụng chế độ BHXH cho mọi người lao động là một chủ trương lớn của Đảng,

Nhà nước ta trong thời kỳ mới. Chính vì vậy, việc phát triển đối tượng tham

gia BHXH tự nguyện là một trong những mục tiêu quan trọng của ngành

BHXH nhằm mục tiêu cụ thể hóa chủ trương đó.

Mục tiêu phát triển BHXH tự nguyện cho người lao động giai đoạn 2018

– 2020 là đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH cho mọi người lao động khi có

nhu cầu trừ những người đã tham gia BHXH bắt buộc, xây dựng các chính

sách phù hợp, tăng cường mạnh hơn nữa về chất lượng các dịch vụ triển khai

thực hiện nghiệp vụ hoạt động BHXH tự nguyện tăng cường phát triển nhanh

đối tượng lao động tham gia.

Luật BHXH quy định về BHXH tự nguyện đã được ban hành và thực hiện

cho đến nay, tuy nhiên kết quả tham gia BHXH tự nguyện của người lao động

vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng phát triển. Đối tượng thuộc diện tham

105

gia BHXH tự nguyện tại thị xã Quảng Trị rất cao, chiếm 84,98% số người

trong độ tuổi lao động. Với thực trạng đó, luận văn đã đi sâu vào việc phân

tích, chứng minh để làm rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện, nhằm phát

triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị đạt

hiệu quả cao hơn. Thông qua các nội dung sau: đánh giá được thực trạng tham

gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị; đánh giá nhu cầu, công tác

quản lý đối tượng, kiểm tra; đánh giá được các nguyên nhân, các yếu tố ảnh

hưởng đến việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.

Để phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn

thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị đạt được kết quả cao cần thực hiện các giải

pháp chủ yếu như: Hoàn thiện cơ chế chính sách BHXH tự nguyện; tăng

cường các giải pháp về tổ chức triển khai BHXH tự nguyện. Cụ thể:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về

BHXH tự nguyện.

- Phát triển mạng lưới và đào tạo đại lý làm công tác thu BHXH tự

nguyện trên địa bàn thị xã Quảng Trị.

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND và phối

hợp của các cơ quan ban ngành trên địa bàn thị xã Quảng Trị .

- Xây dựng chiến lược phát triển đối tượng tham gia.

- Nâng cao chất lượng dịch vụ BHXH tự nguyện trên địa bàn thị xã

Quảng Trị.

- Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc phát triển đối tượng tham

gia BHXH tự nguyện.

Cuối cùng, tác giả đưa ra một số các kiến nghị với BHXH Việt Nam,

BHXH tỉnh Quảng Trị và UBND thị xã Quảng Trị nhằm giúp cho công tác

triển khai phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn được

106

đồng bộ và đạt được kết quả cao hơn./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Bá (2013), BHXH tự nguyện: Người dân chưa mặn mà, Thời báo

Ngân hàng, truy cập ngày 28/02/2019, từ http://www.

thoibaonganhang.vn.

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2012), Nghị quyết số 15-

NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm về việc ban hành Một số vấn đề về

chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020, ngày 01/6/2012.

3. Bộ Chính Trị (1997), Chỉ thị số 15-CT/TW về tăng cường lãnh đạo thực

hiện các chế độ BHXH, ngày 26/05/1997.

4. Bộ Chính Trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2012), Nghị

quyết số 21- NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020, ngày 22/11/2012.

5. Bộ phận thu bảo hiểm xã hội tự nguyện (năm 2014- 2018), Báo cáo tổng

hợp công tác thu BHXH tự nguyện thường niên năm từ 2014 – 2018 của

BHXH thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

6. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2016), Thông tư số

01/2016/TT-BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện, ngày

18/02/2016.

7. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nghị định

số 12/CP về việc ban hành Điều lệ BHXH Việt Nam, ngày 26/01/1995.

8. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nghị định

số 19/CP về việc ban hành Thành lập hệ thống BHXH Việt Nam, ngày

107

16/02/1995.

9. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nghị định

số 134/2015/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã

hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện, ngày 29/12/2015.

10. Nguyễn Văn Định (2008), Giáo trình An sinh xã hội, Nhà xuất bản Đại

học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

11. Phạm Ngọc Hà (2011), Các giải pháp tăng cường BHXH tự nguyện cho

nông dân ở tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Đà Nẵng, Đà

Nẵng.

12. Mỹ Hoa (2011), Tham gia BHXH tự nguyện: Vì sao ít thu hút người dân

tham gia, Báo Quảng Ngãi, truy cập ngày 29/02/2019, từ

http://www.baoquangngai.vn

13. Bùi Văn Hồng (2004), Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia BHXH

đối với người lao động tự tạo việc làm, Đề tài khoa học, Trung tâm

nghiên cứu khoa học BHXH, Hà Nội

14. ILO (1999), “Social Security in the world”, ISBN 92-2-110736-1.

15. Nguyễn Tiến Phú (2002), Cơ sở lý luận cho việc định hướng thực hiện

loại hình BHXH tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới, Đề tài khoa

học, Cơ quan BHXH Việt Nam, Hà Nội.

16. Nguyễn Tiến Phú (2004), Nghiên cứu xây dựng lộ trình thực hiện BHXH

đối với mọi người lao động ở Việt Nam, Đề tài khoa học, Trung tâm

nghiên cứu khoa học BHXH, Hà Nội

17. Phạm Thị Lan Phương (2015), Nghiên cứu phát triển bảo hiểm xã hội

tự nguyện đối với người lao động trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án

tiến sĩ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

18. Dương Thảo Phương (2014), Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện -

Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà

108

Nội.

19. Đỗ Thị Xuân Phương (2010), Đánh giá 3 năm triển khai Luật BHXH, Đề

tài khoa học, cơ quan BHXH Việt Nam, Hà Nội.

20. Lê Thị Quế (2012), Cơ sở khoa học hoàn thiện chính sách BHXH tự

nguyện ở Việt Nam, Đề tài khoa học, cơ quan BHXH Việt Nam, Hà Nội.

21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006),

Luật số 71/2006/QH11 về việc ban hành Luật BHXH, ngày 29/6/2006.

22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014),

Luật số 58/2014/QH13 về việc ban hành Luật BHXH, ngày 20/11/2014.

23. Nguyễn Tiệp (2011), Giáo trình bảo hiểm xã hội, Nhà xuất bản Lao

động- Xã hội, Hà Nội.

24. Trần Yên Thái (2014), Phát triển dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho

nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định, Luận văn thạc sĩ, Đại học Đà

Nẵng, Đà Nẵng.

25. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1995), Quyết định số

76/QĐ/TC-CB về việc Thành lập BHXH huyện, thị xã thuộc tỉnh Quảng

Trị, ngày 27/07/1995.

26. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quyết định số

595/QĐ-BHXH ban hành quy trình thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp;

quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế, ngày 14/04/2017.

27. Nguyễn Anh Vũ (2004), Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu BHXH

109

tự nguyện, Đề tài khoa học, Ban Thu BHXH, Hà Nội

PHỤ LỤC

PHIẾU ĐIỀU TRA

TÌNH HÌNH THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN CỦA

NGƢỜI DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ

Trước hết, cám ơn ông (bà) đã đồng ý tham gia chương trình phỏng vấn này!

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đảm bảo An sinh

xã hội, đẩy mạnh thực hiện các loại hình BHXH nhằm phát triển BHXH tự nguyện,

mở rộng đối tượng tham gia, xin ông (bà) vui lòng cho biết những thông tin sau:

1. THÔNG TIN CÁ NHÂN

Địa chỉ:

Khu phố (Thôn):…………………………..... Phường (Xã):………….……………. Thị xã Quảng Trị

Đặc điểm người trong gia đình

Giới tính: Nam = 1; Nữ = 0

Đã

Đối

Tình trạng tham gia BHXH

Mối

Giới

Nghề

tham gia

tượng

STT

Tuổi

Học vấn

- Tham gia = 1;

quan hệ

tính

nghiệp

BHXH

tham gia

- Chưa tham gia = 0

chưa?

BHXH

Đối tượng tham gia BHXH

- BHXH tự nguyện = 1

- BHXH bắc buộc = 2

2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC THAM GIA BHXH TỰ NGUYỆN

2.1. Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện

Chuyển

STT

Câu hỏi

Trả lời

hóa

câu hỏi

Trong năm vừa qua có ai

- Có

1

F1.2

F1.1

trong gia đình đến tuổi

- Không

2

nghỉ hưu không?

- Có

1

Nếu có thì nguồn thu nhập

F1.2

có bị ảnh hưởng không?

- Không

2

F1.4

- Không thể làm việc được

1

- Không có công việc phù hợp

2

Lý do vì sao nguồn thu

F1.3

- Không có người thân giúp đỡ

3

nhập lại bị giảm đáng kể?

- Không có nhiều nguồn thu ổn định

4

- Khác (ghi rõ): …………………………

5

- Tham gia: vì có đủ khả năng tài chính

1

- Tham gia: nếu như hiểu rõ hơn về chính sách này

2

Ông (bà) có mong muốn

F1.4

tham gia BHXH tự

- Tham gia: Nếu Nhà nước bắt buộc tham gia

3

nguyện không?

- Tham gia: Nếu Nhà nước hỗ trợ 1 phần mức đóng

4

- Không tham gia

5

2.2. Công tác quản lý, phát triển đối tƣợng và tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện

Chuyển

STT

Câu hỏi

Trả lời

hóa

câu hỏi

- Không biết gì

1

F2.3

- Có nghe nói nhưng không hiểu

2

Ông (bà) có hiểu biết về

F2.1

chính sách BHXH

- Có biết

3

tự nguyện ở mức độ nào?

- Biết khá rõ

4

F2.2

- Nắm vững

5

Hiện tại gia đình mình có

- Đã tham gia: ……….. người

1

F2.4

F2.2

bao nhiêu người tham gia

- Chưa có ai tham gia

2

BHXH tự nguyện?

- Tại địa phương không triển khai

1

- Không hiểu hết lợi ích, thiếu thông tin

2

Tại sao gia đình mình

- Nghe nói thủ tục tham gia BHXH rất phức tạp

3

F2.3

chưa tham gia

- Thu nhập thấp nên không có điều kiện tham gia

4

BHXH tự nguyện?

- Không thích do mức hưởng thấp

5

- Khác (ghi rõ): …………………………

6

- Từ các văn bản của Nhà nước

1

Ông (bà) được biết thông

F2.4

tin về BHXH

- Đài phát thanh, truyền hình

2

tự nguyện từ đâu?

- Báo, tạp chí, tờ rơi, pa nô – áp phích

3

- Nghe giới thiệu tại Hội nghị

4

- Người thân, bạn bè, hàng xóm

5

- Các đại lý, cộng tác viên của BHXH

6

- Khác (ghi rõ): …………………………

7

2.3. Chế độ BHXH tự nguyện

- Được cấp thẻ BHYT, hưởng chế độ BHYT

1

Mong muốn về các chế độ

- Được hưởng chế độ Ốm đau

2

được hưởng của ông (bà)

F3.1

khi tham gia BHXH tự

- Được hưởng chế độ Thai sản

3

nguyện?

- Được hưởng chế độ TNLĐ-BNN

4

2.4. Chất lƣợng dịch vụ BHXH tự nguyện

- Đơn giản

1

Ông (bà) thấy như thế nào

F4.1

về thủ tục tham gia và thủ

- Phức tạp. Nêu rõ lý do:…………………………

2

tục giải quyết BHXH TN?

…………………………………………………..

- Rất hài lòng

1

Ông (bà) cho biết về

- Hài lòng

2

công tác phục vụ của cơ

F4.2

quan BHXH tại địa

- Cảm thấy bình thường

3

phương?

- Không hài lòng

4

2.5. Yếu tố khác ảnh hƣởng đến tham gia BHXH tự nguyện

Chuyển

STT

Câu hỏi

Trả lời

hóa

câu hỏi

- Cấp 1 trở xuống

1

- Cấp 2

2

Trình độ học vấn của

F5.1

- Cấp 3

3

ông (bà) như thế nào?

- Cao đẳng, trung học nghề

4

- Đại học trở lên

5

- Dưới 500.000 đồng

1

- Từ 500.000 đồng đến 1.550.000 đồng

2

Thu nhập bình

F5.2

quân/tháng của 6 tháng

- Từ 1.550.000 đồng đến 2.700.000 đồng

3

gần đây

- Từ 2.700.000 đồng đến 3.300.000 đồng

4

- Từ 3.300.000 đồng trở lên

5

- Rất thấp

1

- Thấp

2

Tự đánh giá thu nhập

F5.3

trong năm 2018

- Trung bình

3

của gia đình mình?

- Cao

4

- Rất cao

5

3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN BHXH TỰ NGUYỆN

- Phải đa dạng hóa các mức đóng

1

- Nhà nước có chính sách hỗ trợ 1 phần mức đóng

2

- Nâng cao chất lượng phục vụ, quản lý

3

Để mọi người lao động đều

F6.1

có thể tham gia BHXH, thì

- Tăng cường thông tin tuyên truyền

4

Nhà nước cần phải làm gì?

- Mở rộng các chế độ được hưởng

5

- BHXH bắt buộc đối với mọi người lao động

6

- Khác (ghi rõ): …………………………

7

- Hội nghị, hội thảo

1

Theo Ông (bà), để nhân dân

có thể hiểu biết nhiều hơn

- Thông tin đại chúng, đài truyền thanh đến thôn, xóm

2

F6.2

về chính sách BHXH tự

- Pano, băng rôn, áp phích

3

nguyện thì cần phải tuyên

- Qua các hội đoàn thể, chính quyền địa phương

4

truyền theo hình thức nào sẽ

có hiệu quả tốt nhất?

Hiện nay Đảng, chính quyền

và nhân dân xã nhà đang

thực hiện Luật BHXH nhằm

tiến tới BHXH toàn dân,

F6.3

ông (bà) có ý kiến đóng góp

gì để chính sách này được

thực hiện tốt hơn? (tóm tắt

và ghi rõ ý trả lời)