MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại hiện nay là thời đại khoa học công nghệ, kinh tế tri thức và hội
nhập quốc tế đang phát triển mạnh mẽ. Đặc trưng nổi bật của thời đại này là
phát triển chủ yếu dựa vào tri thức và ứng dụng khoa học - công nghệ cao,
hiện đại vào quá trình sản xuất để tạo ra năng suất, hiệu quả cao và nâng cao
năng lực cạnh tranh của mỗi nhà sản xuất cũng như của quốc gia. Trong điều
kiện ấy, đội ngũ trí thức - với trình độ cao và khả năng sáng tạo ra những tri
thức mới, giá trị mới; với vai trò, trách nhiệm hướng dẫn, chuyển giao ứng
dụng khoa học - công nghệ cho xã hội trở thành lực lượng hết sức quan trọng
và cần thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Do vậy, hiện nay đang
diễn ra sự cạnh tranh gay gắt để giành giật nguồn nhân lực chất lượng cao
giữa các nhà sản xuất và giữa các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực.
Nhận thức rõ điều này nên tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Đảng ta coi phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từ nay đến năm 2015. Đảng
ta khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong
hoạt động nghiên cứu sáng tạo. Trọng dụng trí thức,... có chính sách đặc biệt
đối với nhân tài của đất nước... Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với
trí thức, giữa trí thức với Đảng, Nhà nước” [21, tr.241-242].
Quán triệt quan điểm của Đảng, những năm qua Lạng Sơn đã chú ý
đến phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ trí thức của tỉnh. Song
việc đầu tư cho lĩnh vực này chưa thoả đáng.
Là một tỉnh nằm ở cửa ngõ trọng yếu phía Bắc của Tổ quốc, bước
vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Lạng Sơn đang có những điều
1
kiện và cơ hội phát triển thuận lợi. Xu thế mở cửa hội nhập với các nước
trên thế giới và các nước trong khu vực ngày càng được đẩy mạnh. Quan
hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam - Trung Quốc và các nước ASEAN
tiếp tục được củng cố và phát triển. Do đó triển vọng hợp tác, giao lưu
kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật… sẽ mở ra rất lớn, tạo điều kiện cho
Lạng Sơn thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, đồng thời có cơ hội để phát
triển nhanh chóng các ngành công nghiệp, thương mại, du lịch, nhất là
phát triển kinh tế cửa khẩu.
Bên cạnh những lợi thế, cơ hội và điều kiện phát triển trên, Lạng
Sơn cũng đang đứng trước nhiều trở lực, thách thức. Nền kinh tế vẫn chủ
yếu là sản xuất nhỏ; công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế diễn ra với tốc độ chậm, năng lực cạnh tranh còn yếu kém,
nguồn nhân lực chất lượng còn thấp...
Để tận dụng được lợi thế phát triển và vượt qua được những khó
khăn thách thức, tất yếu Lạng Sơn phải phát triển nhanh nguồn nhân lực
chất lượng cao, mà trong đó, chủ lực là đội ngũ trí thức.
Song do đặc thù là một tỉnh miền núi có đông đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống, (hiện nay người dân tộc thiểu số chiếm 85% dân số
toàn tỉnh), và trí thức là người dân tộc thiểu số chiếm 48,1% tổng số trí
thức toàn tỉnh, trong đó nhiều người đang giữ những vị trí lãnh đạo, quản
lý chủ chốt trong các lĩnh vực của tỉnh, nên việc phải coi trọng phát triển
nhanh đội ngũ trí thức nói chung, đặc biệt là đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số của tỉnh nói riêng trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay đối với
Lạng Sơn.
Mặc dù chiếm gần một nửa tổng số trí thức toàn tỉnh, song số lượng
của đội trí thức người dân tộc thiểu số còn ít, nhất là trí thức có trình độ
từ thạc sĩ trở lên. Hiện nay, tỉnh chỉ có duy nhất một tiến sỹ là người dân
tộc thiểu số. Mặt khác, chất lượng của đội ngũ này về cơ bản chưa đáp
2
ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở Lạng Sơn.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Phát triển đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá" làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
đội ngũ trí thức với nhiều khía cạnh, trong đó có một số công trình khoa học
đã đề cập đến các góc độ mà đề tài cần tham khảo và kế thừa. Một số công
trình tiêu biểu đó là:
- Phạm Tất Dong (chủ biên): “Trí thức Việt Nam: thực tiễn và triển
vọng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Đây là một công trình nghiên
cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí thức Việt Nam. Các tác giả đã phân
tích quan niệm về trí thức. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ
cấu… tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, các tác giả đã đưa ra một
số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay.
- Phạm Tất Dong (chủ biên): “Định hướng phát triển đội ngũ trí thức
Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001. Các tác giả đã trình bày tổng quát những yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đối với đội ngũ trí thức nước ta, đồng
thời làm rõ vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng
nền kinh tế - xã hội hiện đại, góp phần sáng tạo văn hoá, giữ gìn nền tảng tinh
thần của xã hội, phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; phân tích tương đối toàn diện thực trạng của đội ngũ trí thức
nước ta hiện nay, từ đó đề xuất những định hướng, chính sách xây dựng đội
ngũ trí thức Việt Nam trong những năm tới.
- Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch: “Trí thức trong công cuộc đổi
mới đất nước”, Nxb Lao động, Hà Nội, 1998. Thông qua tác phẩm, các tác
3
giả đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi
mới; phân tích những ưu điểm, hạn chế của họ, trên cơ sở đó đề ra những giải
pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới
đất nước.
- Trịnh Quang Cảnh: “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số ở nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005. Tác giả đã nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nước trong sự nghiệp cách mạng;
đồng thời đề xuất những giải pháp để phát huy hiệu quả vai trò của đội ngũ
này ở Việt Nam hiện nay.
- Nguyễn Đắc Hưng: “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Tác giả làm rõ khái niệm,
nguồn gốc sự hình thành, vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong
thế kỷ XXI; nêu một số vấn đề đặt ra cho đội ngũ trí thức Việt Nam; đồng
thời đề xuất phương hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong tình
hình mới.
- Nguyễn Thanh Tuấn: “Một số vấn đề về trí thức Việt Nam”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Tác giả đã phân tích những đặc trưng chung
của trí thức với tư cách là một tầng lớp xã hội đặc thù; khái quát sự hình
thành, phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử;
từ đó, đề xuất một số phương hướng đổi mới công tác quản lý và xây dựng
chính sách đối với trí thức nước ta hiện nay.
- Ngô Huy Tiếp: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí
thức nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Tác giả đã
phân tích phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với đội ngũ
trí thức, từ đó phân tích thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
đội ngũ trí thức nước ta từ năm 1996 đến nay. Từ sự phân tích đó, tác giả đã
4
nêu ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.
- Bùi Thị Ngọc Lan: “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích, làm rõ vai
trò của nguồn lực trí tuệ - bộ phận cơ bản làm nên chất lượng của nguồn nhân
lực, đồng thời đánh giá thực trạng của nguồn lực trí tuệ Việt Nam, từ đó đưa
ra các giải pháp cơ bản nhằm phát huy và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn
lực đó trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Ngô Thị Phượng: “Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Tác
giả đã phân tích, làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân
văn trong sự nghiệp đổi mới. Trong đó, tác giả phân tích rõ những thành tựu,
hạn chế của ngũ trí thức này trong sự nghiệp đổi mới đất nước, từ đó đề xuất
những quan điểm và các giải pháp để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài những công trình khoa học nêu trên, một số bài viết tiêu biểu về
đội ngũ trí thức được đăng tải trên các tạp chí như:
- Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999 "Bài học từ những quan điểm của chủ
nghĩa Mác về trí thức" trong cuốn "Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 của PGS.TS. Phan Thanh
Khôi... Trong đó, tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề: bản chất giai cấp của
trí thức, chính sách sử dụng các chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí
thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai
trò của trí thức...
Bên cạnh đó, một số Luận án tiến sĩ đã nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc
điểm, động lực sáng tạo của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam như:
"Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các trường Đại học ở
nước ta hiện nay" của Phạm Văn Thanh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội,
5
2001; "Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong
quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Đình Minh, Luận án tiến
sĩ triết học, Hà Nội, 2003; "Vai trò của trí thức Thủ đô Hà Nội trong sự
nghiệp CNH, HĐH" của Nguyễn Xuân Phương, Luận án tiến sĩ triết học, Hà
Nội, 2004...
Dưới góc độ của tỉnh, nhận thức rõ sự cần thiết phải phát triển nguồn
nhân lực, những năm qua, tỉnh Lạng Sơn cũng đã ra một số văn bản quan
trọng có liên quan đến vấn đề này như:
- Định hướng quy hoạch tổng thể tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001 - 2010.
- Quy hoạch tổng thể tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2010- 2020
- Quy hoạch phát triển giáo dục - đào tạo tỉnh Lạng Sơn đến năm 2010.
- Dự án đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực tỉnh Lạng Sơn (giai
đoạn 2001- 2010).
- Quyết định số 04/2002/QĐ- UB về việc điều chỉnh mức hỗ trợ cho
cán bộ được cử đi học.
Các văn bản này một mặt khẳng định tầm quan trọng của việc phát
triển nguồn nhân lực nói chung, đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ trí thức
của tỉnh thông qua các chính sách phát triển giáo dục - đào tạo, chính sách sử
dụng và chế độ đãi ngộ đối với trí thức, song chưa có một văn bản nào bàn
riêng về trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh.
Như vậy, mặc dù đã nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ
trí thức, song có thể khẳng định cho đến nay chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu trực tiếp đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành
Chủ nghĩa xã hội khoa học với mong muốn góp phần vào việc xây dựng đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ những yếu tố tác động và thực trạng, vai trò của đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn, luận văn đề xuất những
quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Trình bày một cách khái quát lý luận cơ bản về đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số, phân tích những đặc điểm cơ bản và vai trò của đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn.
+ Tìm hiểu những yếu tố tác động và đánh giá thực trạng đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Tỉnh Lạng Sơn thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Lạng Sơn trong khoảng thời gian từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1996) đến nay - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
7
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận văn:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về trí thức.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của đất nước và của tỉnh Lạng Sơn; đồng thời là đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số ở tỉnh hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê và điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ thực trạng và vai trò của đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
- Đề xuất một hệ thống quan điểm, giải pháp cơ bản phát triển đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của tỉnh.
- Luận văn cung cấp những cứ liệu thực tế về đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn và có thể được các cấp uỷ Đảng, chính
quyền của tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách
đối với đội ngũ trí thức này của tỉnh, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu
và giảng dạy những chuyên đề liên quan đến trí thức trong các môn lý luận
chính trị Mác-Lênin nói chung và môn Chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết:
Chƣơng 1: Trí thức người dân tộc thiểu số và mối quan hệ giữa phát
triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở tỉnh Lạng Sơn.
Chƣơng 2: Thực trạng và xu hướng phát triển đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp phát triển đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
9
Chƣơng 1
TRÍ THỨC NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN
1.1. Trí thức và trí thức ngƣời dân tộc thiểu số
1.1.1. Quan niệm về trí thức
Hiện nay có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức, bởi vì, trong
từng giai đoạn phát triển của lịch sử, vị trí, vai trò của trí thức cũng có những
thay đổi rất đa dạng. Hơn nữa từ những cách tiếp cận khác nhau nên có thể
đưa ra những định nghĩa khác nhau về trí thức.
Theo quan niệm của Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa X: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ
học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và
vật chất, có giá trị đối với xã hội” [20, tr.64].
Từ khái niệm này, ta thấy trí thức có một số đặc điểm nổi bật (những
đặc điểm này đã được nhiều công trình khoa học đi trước phân tích làm rõ, do
vậy, luận văn kế thừa và không đi sâu phân tích). Đó là:
Một là, lao động của trí thức thuộc loại lao động trí óc phức tạp,
sáng tạo. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của trí thức, lao động trí óc phức tạp
sáng tạo được trí thức thực hiện trong quá trình lao động, đồng thời là dấu
hiệu quan trọng để phân biệt trí thức với các lực lượng lao động khác trong
xã hội.
Lao động trí óc phức tạp, sáng tạo của người trí thức mang đậm dấu
ấn cá nhân và có tính độc lập cao. Sản phẩm lao động trí tuệ phức tạp của
trí thức là các giá trị lý luận, lý thuyết, các công trình khoa học… trong các
lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, văn học, nghệ
10
thuật, lãnh đạo, quản lý… Những tri thức khoa học, những sản phẩm tinh
thần mà người trí thức sáng tạo ra thường có ý nghĩa định hướng cho hoạt
động nhận thức, hoạt động thực tiễn góp phần thúc đẩy xã hôị phát triển.
Hai là, trí thức là những người có trình độ học vấn cao, trình độ
chuyên môn sâu và vững vàng.
Chính hoạt động lao động trí óc phức tạp, sáng tạo đòi hỏi trí thức
phải có trình độ học vấn cao và cần phải được trang bị kiến thức sâu về
chuyên môn, chuyên ngành, thường là đạt trình độ từ cao đẳng, đại học trở
lên. Đây là một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo cho hoạt động trí
tuệ diễn ra một cách thuận lợi, những kiến thức đó không chỉ được trang bị
trong nhà trường mà chủ yếu là kết quả của quá trình tự đào tạo, rèn luyện,
nghiên cứu và nỗ lực phấn đấu không ngừng mới thành.
Ba là, trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt và không có hệ tư
tưởng độc lập.
Khi nghiên cứu về trí thức, V.I.Lênin chỉ ra rằng: trí thức là một tầng
lớp xã hội đặc biệt. Tính chất “đặc biệt” của tầng lớp trí thức biểu hiện ở chỗ
trí thức không có quan hệ riêng và trực tiếp đối với sở hữu tư liệu sản xuất.
Do vậy trí thức không phải là một giai cấp độc lập mà chỉ là một tầng lớp xã
hội. Với tư cách là một tầng lớp xã hội, trí thức luôn gắn liền và đi theo phục
vụ một giai cấp nhất định. Do đó, về mặt tư tưởng, đội ngũ trí thức không có
hệ tư tưởng độc lập đại diện cho hệ tư tưởng của tầng lớp mình.
Nhưng do đặc thù lao động là loại lao động trí tuệ phức tạp sáng tạo,
nên trí thức có khả năng tổng kết, khái quát thực tiễn thành lý luận để xây
dựng hệ tư tưởng cho giai cấp cầm quyền. Do vậy, trong hầu hết mọi thời
đại, trí thức đều được giai cấp thống trị trọng dụng.
Bốn là, về quá trình hình thành trí thức vô sản
Sau khi tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và bắt
tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo
11
của Đảng cộng sản phải xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức của mình
bằng cách sử dụng, cải tạo đội ngũ trí thức của các chế độ cũ; đồng thời
phát triển đội ngũ trí thức mới của giai cấp công nhân, nhất là đào tạo mới
từ con em lao động, trong đó, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đội ngũ trí
thức mới là cơ bản.
Trí thức vô sản có nhân sinh quan và thế giới quan Mácxít, gắn bó
với nhân dân lao động. Đó là cơ sở để khắc phục dần những hạn chế của trí
thức và đồng thời có điều kiện phát huy vai trò ngày càng cao trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Quan niệm về trí thức người dân tộc thiểu số và phát triển đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
- Về khái niệm
“Trí thức người dân tộc thiểu số” có những đặc điểm của trí thức nói
chung và là thuật ngữ dùng để chỉ một đối tượng trí thức đặc thù, với tiêu chí
cơ bản là có nguồn gốc xuất thân từ các dân tộc thiểu số so với dân tộc đa số
(chiếm số đông trong dân cư) của một quốc gia.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, dân tộc thiểu số là: “dân tộc có số
dân ít có thể là hàng trăm, hàng ngàn cho đến hàng triệu người cư trú trong
một quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc, trong đó có một dân tộc có số dân
đông. Trong các quốc gia có nhiều thành phần dân tộc, mỗi dân tộc thành viên
có hai ý thức: ý thức về tổ quốc chung và ý thức về dân tộc mình. Những dân
tộc thiểu số có thể cư trú tập trung hoặc rải rác xen kẽ, thường ở những vùng
ngoại vi, vùng hẻo lánh, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Vì vậy, các
nhà nước tiến bộ thường thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc nhằm xoá bỏ
dần những chênh lệch trong sự phát triển kinh tế - xã hội giữa dân tộc đông
người và dân tộc thiểu số” [57, tr.655].
12
Như vậy, nét đặc thù của các dân tộc thiểu số là có số dân ít, cư trú
trong một quốc gia thống nhất, trong quốc gia đó có thể có 2, 3, 4 thậm chí
hàng chục dân tộc thiểu số. Chẳng hạn, như ở Việt Nam, Trung Quốc...
Dân tộc thiểu số có số dân ít song có tiếng nói riêng và có thể có chữ
viết riêng. Số dân của các dân tộc thiểu số có thể nhiều ít khác nhau, nhưng
mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa
dạng của văn hoá Việt Nam. Ở nước ta, theo cách phân loại hiện nay có 54
thành phần tộc người, trong đó người Kinh được xem là dân tộc đa số, 53 tộc
người còn lại được xem là dân tộc thiểu số.
Khái niệm trí thức người dân tộc thiểu số được dùng khi so sánh với
khái niệm trí thức dân tộc đa số và được xem xét trên phạm vi toàn quốc, mặc
dù trong không gian hẹp (tỉnh, huyện, xã), có khi một dân tộc thiểu số nào đó
lại chiếm số đông.
Như vậy, trí thức người dân tộc thiểu số là những người xuất thân
từ các dân tộc ít người trong một quốc gia, họ là những người lao động
chủ yếu bằng phương thức lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng, có
trình độ từ cao đẳng, đại học và trên đại học, có năng lực sáng tạo, có
trình độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với những biến đổi của xã hội.
- Quan niệm về phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số là quá trình làm
tăng lên về số lượng, chất lượng và xây dựng cơ cấu hợp lý làm tăng
nguồn lao động trí óc là người dân tộc thiểu số, nhằm đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là ở vùng núi, vùng dân
tộc thiểu số.
Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số không phải là quan
điểm hay khái niệm trừu tượng mà gắn với phát triển về trình độ nhận thức,
về năng lực tư duy và trí tuệ của mỗi con người cụ thể. Đúng như C.Mác nói,
con người là yếu tố quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các yếu tố cấu
13
thành lực lượng sản xuất. Người lao động trong lực lượng sản xuất phải là con
người ngày càng được phát triển cao về trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất, trong
sáng về đạo đức, linh hoạt và văn minh trong ứng xử, có kinh nghiệm trong
sản xuất và có kỹ năng lao động cao. Do đó, phát triển đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số có mối quan hệ biện chứng với phát triển nguồn lực con
người. Vì, phát triển nguồn lực con người là quá trình phát triển toàn diện con
người cả về thể lực, trí lực, cả khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển tiềm
năng, năng lực của mỗi người, của cả cộng đồng người nhằm đóng góp nhiều
nhất vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, và quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
1.2. Mối quan hệ giữa phát triển đội ngũ trí thức ngƣời dân tộc
thiểu số với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Lạng Sơn
1.2.1. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và yêu cầu
đặt ra đối với việc phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Lạng Sơn
Vài nét khái quát về tỉnh Lạng Sơn và đặc điểm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, giáp biên với Trung Quốc, tập trung
chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống (85% cư dân là người dân
tộc thiểu số). Trước năm 1990, do điều kiện địa lý, núi đồi hiểm trở, quanh
co, giao thông chưa phát triển nên Lạng Sơn là một tỉnh nghèo, lạc hậu, kinh
tế kém phát triển, trình độ dân trí thấp. Từ khi đổi mới đến nay, cùng với cả
nước. Lạng Sơn cũng đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xét về điều kiện tự nhiên, Lạng Sơn là một tỉnh miền núi thuộc Đông
Bắc của tổ quốc. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Nam giáp tỉnh Bắc
Giang, phía Đông Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng
Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Bắc Cạn, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Nguyên.
14
Lạng Sơn có nhiều tuyến đường quan trọng như tuyến đường nối liền với
Thủ đô Hà Nội (1A) và Cao Bằng (4A); nối với Quảng Ninh (3B); tuyến đường
sắt Hà Nội - Đồng Đăng - Bắc Kinh và các nước Châu Âu qua địa phận Lạng
Sơn. Lạng Sơn có đường biên giới với Trung Quốc dài 253 km (5 huyện và 21
xã biên giới), có 2 cửa khẩu quốc tế (Hữu Nghị, Ga Đồng Đăng), 2 cửa khẩu
quốc gia (Bình Nghi, Chi Ma) và 7 cặp chợ đường biên. Do là tỉnh miền núi, nên
Lạng Sơn có nhiều núi đá vôi (chiếm 14% diện tích) và nguồn khoáng sản khá
phong phú (quặng sắt, nhôm, bôxít, alít...). Đây là điều kiện thuận lợi để phát
triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp khai khoáng, nhiệt
điện. Điều kiện khí hậu ẩm, ôn hòa và mát mẻ, rất thuận lợi cho phát triển du lịch
và nông nghiệp. Đây là điều kiện tự nhiên rất quan trọng để Lạng Sơn thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh những thuận lợi đó, Lạng Sơn cũng gặp nhiều khó khăn.
Đó là, mặc dù người dân tộc thiểu số chiếm đa số trong dân cư của tỉnh,
song nhìn chung trình độ còn thấp, chưa có truyền thống sản xuất hàng
hóa và kinh doanh thương mại. Một bộ phận người dân có lối sống thụ
động và còn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên. Nguồn tài nguyên phong
phú, đa dạng nhưng còn ở dạng tiềm năng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chậm; chưa xác định được ngành, nghề mũi nhọn, đột phá trong từng
vùng, huyện, thị xã; quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, năng xuất lao động
thấp, giá thành sản phẩm cao. Quản lý nhà nước về du lịch và công tác
quảng bá du lịch còn hạn chế. Hoạt động xuất khẩu chưa trở thành động
lực thúc đẩy sản xuất phát triển, chủ yếu thực hiện gia công hàng hóa. Thị
trường nông thôn phát triển chưa đồng đều. Đầu tư xây dựng dàn trải, cơ
cấu chưa hợp lý, tỷ trọng đầu tư phát triển sản xuất thấp; thực hiện một số
chương trình dự án chậm. Như vậy, muốn khai thác cần có vốn đầu tư, có
khoa học công nghệ và đặc biệt là phải có nguồn nhân lực tương xứng,
trong đó vai trò của trí thức rất quan trọng.
15
Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương và của
Đảng bộ tỉnh, nhân dân Lạng Sơn đã đoàn kết, nhất trí, khắc phục khó khăn,
phát huy những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, huy động nội
lực, tranh thủ ngoại lực, từng bước đưa Lạng Sơn thoát nghèo, tạo “thế và
lực” mới trong hội nhập và phát triển. Vì vậy, cùng với cả nước, Lạng Sơn
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà trọng tâm cấp bách là phải công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết một cách hợp lý
mối quan hệ giữa nông nghiệp - công nghiệp - thương mại - du lịch và dịch
vụ. Do vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lạng Sơn hiện nay có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Lạng Sơn tập trung chủ yếu vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn.
Trước yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, nước ta phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện mục tiêu đó, Đại hội Đảng lần thứ X
của Đảng đã chỉ rõ: “... Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới... tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [19, tr.76].
Vận dụng quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ta, Đại hội tỉnh
Đảng bộ lần thứ XIII của Lạng Sơn đã xây dựng chương trình, mục tiêu
nhiệm vụ, giải pháp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn của tỉnh:
Tiếp tục giữ vững và phát huy sức mạnh đoàn kết nội bộ, thống nhất
trong Đảng, đoàn kết nhân dân các dân tộc trong tỉnh, khai thác có hiệu quả
mọi nguồn lực, tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, bảo đảm khai thác có hiệu quả các lợi thế, tiềm năng kinh
tế của địa phương, nhất là đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng,
16
chăn nuôi... đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, sớm đưa Lạng Sơn phát triển và
hội nhập [55, tr.120].
Vì vậy, từ năm 1990 đến nay được sự quan tâm của Trung ương, lãnh
đạo tỉnh và các cấp, các ngành hữu quan, ngành nông nghiệp Lạng Sơn đã có
chuyển biến rõ nét. Trong những năm đầu mới mở cửa khẩu, ngành nông
nghiệp Lạng Sơn chủ yếu sản xuất theo hướng tự cung tự cấp, tình trạnh thiếu
lương thực, thực phẩm, mất cân đối trong các sản phẩm nông nghiệp diễn ra
thường xuyên. Đặc biệt do đặc thù của một tỉnh miền núi nên có nhiều dân tộc
sinh sống và chủ yếu là làm nông nghiệp, hầu hết trình độ dân trí thấp, không
bắt kịp với tiến bộ khoa học kỹ thuật... nên sản xuất còn phụ thuộc vào tự nhiên.
Trước tình trạng đó, Lạng Sơn đã tiến hành khai hoang, cải tạo đồng
ruộng, chuyển đổi cơ cấu giống, áp dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến vào sản
xuất để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Đồng thời phát triển nông nghiệp,
nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong sản xuất lương thực, Lạng
Sơn tập trung chủ yếu vào cây lúa, ngô. Cùng với mở rộng diện tích, trình độ
thâm canh lúa của nông dân cũng được nâng cao nhờ áp dụng khoa học - kỹ
thuật, đặc biệt đưa giống mới vào canh tác. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển
các cây công nghiệp như hồi, mía, sắn, vừng đen, vừng trắng,... cây ăn quả
theo mùa vụ như: na, quýt, lê, hồng Bảo Lâm... Đến nay về cơ bản, nhân dân
trong tỉnh đã thoát khỏi cảnh đói nghèo, đồng thời tạo ra sản phẩm có giá trị
kinh tế cao... tạo việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lạng Sơn diễn ra với tốc độ
chậm, quy mô nhỏ bé, sử dụng công nghệ, trang thiết bị lạc hậu là phổ biến
Những năm qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lạng Sơn đã đạt được
những thành tựu bước đầu đáng kể. Tổng sản phẩm (GDP) bình quân hàng
năm tăng 13% (giai đoạn 2000 - 2005); tỷ trọng công nghiệp, xây dựng tăng
từ 11,23% lên 15,32%, thương mại dịch vụ tăng từ 27,02% lên 32,21%, nông
17
- lâm sản từ 33,31% giảm còn 30,33%. Thu ngân sách nhà nước đạt 298 tỷ
đồng/năm [60].
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Lạng Sơn tập trung theo hướng sản xuất
hàng hóa và có những chuyển biến tích cực. Công nghiệp xây dựng tăng trưởng
cao, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được xây dựng mới, mở rộng về quy mô.
Một số doanh nghiệp nước ngoài liên doanh đầu tư sản xuất kinh doanh và kinh
tế tư nhân đóng trên địa bàn tỉnh đã có sự đóng góp đáng kể vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần thu nguồn ngân sách và giải quyết
việc làm cho người lao động. Theo số liệu của Ủy ban nhân dân tỉnh, hiện nay
Lạng Sơn có hơn 450 doanh nghiệp, trong đó có 24 doanh nghiệp Nhà nước,
giải quyết hơn 12.000 lao động trong tỉnh. Ngoài các công trình thủy điện, thủy
lợi, giao thông do Trung ương đầu tư, đường biên giới, đường giao thông,
mạng lưới điện được tỉnh quan tâm xây dựng, nâng cấp, mạng lưới điện đến
100% số xã với trên 94,3% số hộ được sử dụng điện [60, tr.24].
Thương mại - dịch vụ có bước phát triển tăng đều qua các năm.
Tỉnh Lạng Sơn xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Thị
trường xuất khẩu được mở rộng, hoạt động bưu chính, viễn thông có bước
chuyển biến mạnh trong việc hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ
thuật, góp phần nâng số dân được sử dụng điện thoại lên.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nhìn chung tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tiến độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh diễn ra còn chậm; hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém; đầu tư manh mún, hiệu quả
thấp. Tính cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chất lượng sản phẩm hàng hóa
chưa cao, chưa có những sản phẩm chủ lực, chưa có những doanh nghiệp
mạnh về sản xuất kinh doanh và trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch chậm, chưa phù hợp với đặc thù và thế mạnh của tỉnh. Tiềm
năng, lợi thế cây trồng, vật nuôi chưa được khai thác hiệu quả. Giá trị ngành
18
công nghiệp, dịch vụ đạt thấp, chưa đóng vai trò quan trọng và thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
Lạng Sơn phát triển chậm, chưa có lĩnh vực đột phá. Nông nghiệp, lâm
nghiệp chưa phát huy được lợi thế, nhất là lợi thế vùng nguyên liệu và phát
triển chăn nuôi. Công tác trồng rừng được quan tâm, tuy nhiên công tác quản
lý rừng còn lỏng lẻo. Tình trạng phá rừng làm nương rẫy của đồng bào vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn diễn ra; chưa đảm bảo yêu
cầu tiêu thụ sản phẩm nông sản và kích thích sản xuất phát triển. Công tác
quy hoạch và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các đô thị, các khu, cụm công
nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, các tuyến điểm du lịch chưa được quan tâm
đúng mức. Việc đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước, nhất là công tác cổ phần hóa còn rất chậm, lúng túng và gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy, vấn đề tạo thêm việc làm cho người lao động, nhất là
lao động người dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn đối với tỉnh.
Đặc điểm này đặt ra yêu cầu cấp bách là phải coi trọng phát triển nguồn
nhân lực, đặc biệt là đội ngũ trí thức, nhất là đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số để phát huy vai trò của đội ngũ này trong việc phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc thiểu số.
Thứ ba, trọng điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Lạng Sơn là
phát triển kinh tế cửa khẩu, thương mại và du lịch, tạo động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm tới
Do lợi thế của tỉnh là cửa ngõ vùng Đông Bắc Tổ quốc, có đường biên
giới khá dài với Trung Quốc và lợi thế về điều kiện tự nhiên nên những năm
gần đây, Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn xác định: phải coi trọng kinh tế cửa khẩu,
đẩy mạnh phát triển thương mại và du lịch, trong đó quán triệt quan điểm là:
tập trung phát triển vùng kinh tế động lực để phát triển các vùng kinh tế khác,
các khu vực cùng phát triển; ưu tiên cho các vùng có điều kiện phát triển
19
nhanh hơn, tạo cơ sở cho tăng trưởng nhanh, bền vững, tăng khả năng cạnh
tranh; quan tâm hỗ trợ và ưu tiên đầu tư cải thiện kết cấu hạ tầng, hỗ trợ phát
triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo ở các vùng khó khăn, biên giới.
Từ những đặc điểm trên, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng, qui hoạch và phát triển khu vực thành phố Lạng
Sơn, thị trấn Đồng Đăng và các khu kinh tế cửa khẩu thành trung tâm thương
mại, du lịch, dịch vụ của cả nước. Đây là vùng kinh tế động lực của tỉnh, có
vai trò đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng an
ninh, là khu vực tập trung xuất nhập khẩu, du lịch và dịch vụ, các trung tâm
thương mại, du lịch, buôn bán, văn phòng đại diện... từ đó thu hút và tạo công
ăn việc làm cho hàng chục nghìn lao động ở tỉnh Lạng Sơn cũng như khu vực
Đông Bắc và cả nước, góp phần thực hiện xóa đói, giảm nghèo, giải quyết
việc làm, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân tại địa phương.
Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với việc
phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn
Sự phát triển các vùng kinh tế như vậy đồng thời tạo ra cơ sở vững
chắc, điều kiện cần thiết để phát triển nhanh đội ngũ trí thức của tỉnh bao gồm
cả trí thức người dân tộc thiểu số, đồng thời thu hút trí thức và trí thức người
dân tộc thiểu số ở các nơi về làm việc tại tỉnh, góp phần quan trọng vào chiến
lược thu hút nguồn nhân lực của tỉnh trước mắt và lâu dài.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu trong thời gian
tới cần phải tập trung phát triển cả về số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số, nhất là chú trọng phát triển đội ngũ trí thức thuộc vùng
cao, vùng sâu, vùng xa, kết hợp với đội ngũ trí thức người Kinh trong tỉnh để
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu phải coi trọng phát
triển khoa học và công nghệ hướng mạnh vào việc thực hiện những nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là phát triển nông nghiệp,
20
nông thôn; từ đó tạo ra môi trường và điều kiện để phát triển nhanh đội
ngũ trí thức của tỉnh.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa muốn phát triển nhanh, hiệu quả
phải coi trọng phát triển khoa học và công nghệ, nhất là những nghiên cứu về
khoa học - công nghệ phục vụ trực tiếp vào quá trình sản xuất và đời sống
nhân dân, trên cơ sở đó cung cấp các cứ liệu khoa học để các cấp ủy, chính
quyền trong tỉnh thực hiện tốt việc quy hoạch và điều chỉnh bổ sung quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển khoa học - công nghệ còn là căn
cứ khoa học để phát triển cơ sở lý luận cho hệ thống chính trị ở địa phương, có
nhiều phương án lựa chọn chương trình dự án, mô hình sản xuất kinh doanh có
hiệu quả kinh tế cao và bền vững, phù hợp với quy luật phát triển của kinh tế
thị trường và đặc thù của tỉnh. Đó là đặc biệt chú ý đến việc ứng dụng công
nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất,
chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Phát triển khoa học - công nghệ trên một số lĩnh vực về giống nông
nghiệp, giống cây trồng, mô hình chăn nuôi, sản xuất thâm canh và xen canh,
nâng cao hiệu quả sản xuất ở các vùng chuyển dịch, tạo điều kiện cân bằng
thu nhập của người dân thành thị, nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một vấn đề khó khăn, phức tạp cần
phải có chiến lược dài hạn và bước đi thích hợp. Mỗi ngành, mỗi cấp, nhất là
đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh
cần phải nhận thức đúng đắn chủ trương này, xem đây là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu để khơi dậy nội lực, phát huy tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu
số chiếm đa số trong dân cư nên yêu cầu đặt ra là phải phát triển nhanh
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số cả về số lượng và chất lượng, có
đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
21
Do đặc thù của một tỉnh miền núi có đông người dân tộc thiểu số sinh
sống và chiếm đến 85% tổng dân số toàn tỉnh, hơn nữa nhiều cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp ở Lạng Sơn là người dân tộc thiểu số, nên quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một tỉnh miền núi có đông người dân tộc thiểu số
tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan phải phát triển nhanh đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số cả về số lượng và chất lượng có đủ trình độ và năng lực để
làm chủ quá trình này. Họ phải thành thạo chuyên môn, nghề nghiệp có năng
lực tiếp thu chọn lọc và ứng dụng hiệu quả những thành tựu của khoa học -
công nghệ hiện đại, những tinh hoa của văn hóa, văn minh thế giới, những di
sản văn hóa dân tộc vào thực tiễn Việt Nam nói chung và thực tiễn tỉnh Lạng
Sơn nói riêng.
Do xuất thân từ người dân tộc thiểu số, nên ưu thế của trí thức người
dân tộc thiểu số là biết ngôn ngữ dân tộc và hiểu rõ phong tục, tập quán, lối
sống cộng đồng và những thiết chế văn hoá xã hội vùng dân tộc thiểu số; song
đồng thời họ cũng bị ảnh hưởng nhiều nét tiêu cực của chính cộng đồng mình.
Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi đội ngũ này phải có
kỹ năng tổ chức, vận động quần chúng, nhất là quần chúng người dân tộc
thiểu số; biết giải quyết tốt hài hoà các mối quan hệ dân tộc trong đời sống
cộng đồng.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn phải có trình độ chuyên môn thành thạo,
năng lực sáng tạo, có trình độ ngoại ngữ, tin học, khả năng thích nghi nhanh
và có năng lực làm chủ khoa học - công nghệ đồng bộ. Đồng thời, quá trình
này cũng đòi hỏi đội ngũ này phải: có tinh thần kỷ luật, tự giác, tiết kiệm
nguyên vật liệu, thời gian; có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, có
lương tâm nghề nghiệp; có tinh thần hợp tác và tác phong làm việc khẩn
trương, năng động... Nghĩa là người trí thức nói chung và trí thức người dân
tộc thiểu số nói riêng đều cần có văn hóa lao động công nghiệp.
22
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay còn đòi hỏi đội ngũ
trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn phải có tinh thần yêu nước, tự
cường dân tộc, yêu chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở lòng quyết tâm đóng góp
công sức và trí tuệ cùng nhân dân trong tỉnh sớm đưa tỉnh thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, vươn lên phát triển nhanh và bền vững. Lòng yêu nước đó phải
thấm vào con tim, khối óc và phải được thể hiện bằng những việc làm, hành
động cụ thể chứ không phải chỉ bằng tình yêu trừu tượng hoặc mơ hồ nào đó.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới áp lực
của lợi nhuận, lòng yêu nước của người trí thức phải được biểu hiện bằng sự
dũng cảm vượt qua được chính mình, mà trước hết là vượt qua những tính
toán vị kỷ, đầu óc hẹp hòi, bảo thủ, yếu kém về trí tuệ, không chịu học hỏi,
không chịu đổi mới. Đó còn là tinh thần hợp tác, cố kết cộng đồng chặt chẽ
trong hoạt động khoa học và thực tiễn, vì trong điều kiện hiện nay, mỗi người
dù tài giỏi đến đâu cũng rất khó thành công nếu không chịu hợp tác với cộng
đồng. Đó còn là tinh thần, ý trí không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, dám nghĩ,
dám làm, dám hội nhập quốc tế; hăng say học tập, không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn. Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội biểu hiện ở bản lĩnh
chính trị vững vàng, không lung lay, dao động trước những cám dỗ đời
thường,... nhất là trong thời điểm hiện nay khi các thế lực thù địch vẫn thường
lợi dụng vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Vì vậy, đòi hỏi đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số, nhất là trí thức là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
không chỉ có đức, trung thành với lợi ích quốc gia, dân tộc, mà còn phải có
năng lực tuyên truyền, giác ngộ đồng bào dân tộc thiểu số và quần chúng nói
chung hiểu rõ những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
và của chính quyền địa phương.
Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn tác động trực
tiếp đến các vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với thiên nhiên mà
23
sự tác động này chỉ có thể giải quyết tốt khi người trí thức có trình độ cao, có
sự hiểu biết và trách nhiệm cao trong việc tuyên truyền, hướng dẫn quần
chúng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số từ bỏ thói quen khai thác tự nhiên
một cách bừa bãi, như du canh du cư, đốt nương làm rẫy, để định canh định
cư, phát triển sản xuất gắn liền với bảo vệ, cải thiện môi trường sống, vì sự
phát triển bền vững của chính mình và tỉnh, cũng như của đất nước. Đây là
vấn đề sống còn đối với quốc gia, dân tộc và cả nhân loại.
Hiện nay, nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, với tác động tích cực và tiêu cực của nó. Do vậy, đòi hỏi người
trí thức và trí thức người dân tộc thiểu số phải có ý thức tạo ra, vun đắp và gìn
giữ những giá trị nhân văn. Môi trường sống có tính nhân văn là điều kiện
tiên quyết để nâng cao tính tích cực xã hội của người lao động trí óc trong
tình hình hiện nay. Kinh tế thị trường làm cho con người trở nên năng động,
tích cực, nỗ lực, khôn ngoan, quyết đoán hơn. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế
thị trường cũng làm gia tăng những hành động, những cách ứng xử vụ lợi.
Thực tế những năm qua cho thấy ở tỉnh Lạng Sơn đã xuất hiện không ít
cán bộ vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc quản lý kinh tế, quản lý tài chính,
quản lý đất đai, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân... Năng lực, phẩm chất
đạo đức của một số cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ, một số
cán bộ đảng viên thoái hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu cực, gây mất lòng tin
của nhân dân đối với Đảng. Tuy nhiên, nếu những sai lầm đó của một số cán
bộ không bị nghiêm trị kịp thời thì đây sẽ thực sự là một nguy cơ và do đó, rất
có thể những mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Lạng Sơn sẽ
không đạt được.
Chính vì vậy, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Lạng Sơn
đòi hỏi phải đề cao các giá trị nhân văn. Đòi hỏi trí thức nói chung, trí thức
người dân tộc thiểu số của tỉnh nói riêng phải có lối sống lành mạnh, nhân
nghĩa, nếp sống văn minh, coi trọng chữ tín... Họ phải biết và tôn trọng pháp
24
luật, kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng biểu hiện trong lao động
sáng tạo, trong giao tiếp, ứng xử... Đó là một số năng lực và phẩm chất cần có
của người trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó cũng chính là những yếu tố cơ bản
của một nhân cách phát triển toàn diện, đảm bảo cả đức và tài, vừa hồng vừa
chuyên, đáp ứng những yêu cầu mới của quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Lạng Sơn nhanh chóng
đi đến thắng lợi.
Từ tiềm năng và thế mạnh của tỉnh về vị trí địa lý đặt ra yêu cầu là
phải ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số trong lĩnh
vực thương mại, dịch vụ, du lịch và kinh tế cửa khẩu.
Trước khi mở cửa khẩu, thông thương với Trung Quốc về kinh tế, văn
hóa, kinh tế Lạng Sơn vẫn trong tình trạng kém phát triển, mức sống của người
dân thấp, y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở vật chất xuống cấp gây ảnh hưởng đến
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tình trạng phân hóa giàu nghèo giữa
thành thị và nông thôn rõ rệt. Người dân sống gần như phụ thuộc vào thiên
nhiên, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi với qui mô nhỏ, năng suất thấp.
Đầu năm 1990 khi Nhà nước cho phép mở rộng phát triển kinh tế cửa
khẩu, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, các cơ quan, ban
ngành có liên quan phối hợp thực hiện việc trao đổi buôn bán, xuất nhập khẩu
hàng hóa qua hai cửa khẩu Tân Thanh và cửa khẩu Hữu Nghị. Đây là điều
kiện quan trọng cho Lạng Sơn phát triển kinh tế, thương mại và du lịch. Lạng
Sơn có thế mạnh về vị trí địa lý là nằm ở ngay cửa ngõ biên giới, giao thương
với các nguồn lực phát triển bên ngoài đất nước và các địa phương trong
nước. Vị trí địa lý này càng được gia tăng về mặt giá trị và tầm quan trọng bởi
các trục lộ phát triển của khu vực (vành đai vịnh Bắc Bộ, hành lang kinh tế
Việt Nam - Trung Quốc...) đang hình thành và phát triển cùng với qui mô và
mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Lạng Sơn phấn đấu đến năm
25
2020 trở thành một trung tâm thương mại lớn ở khu vực Trung du và Miền
núi phía Bắc của đất nước, một đầu mối thương mại quốc tế quan trọng trong
hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải
Phòng với các kênh phân phối hàng hóa và dịch vụ văn minh hiện đại, một
đầu mối du lịch lớn trong hệ thống các tuyến du lịch quan trọng của quốc gia
và khu vực. Đa dạng hóa nhiều hình thức du lịch và nghỉ dưỡng trong đó có
du lịch văn hóa các dân tộc thiểu số. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu
tư, nâng cao chất lượng hoạt động thương mại, du lịch, dịch vụ.
Về thương mại, tỉnh đã đầu tư mở rộng, hoàn thiện mạng lưới chợ, đặc
biệt chợ ở các trung tâm thành phố, các thị trấn và các khu vực cửa khẩu. Phát
triển mạnh một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, dựa trên lợi thế sẵn có của
tỉnh. Quy hoạch các vùng sản xuất tập trung phục vụ xuất khẩu phù hợp với
khả năng và điều kiện cụ thể của từng khu vực. Hạn chế tình trạng xuất khẩu
thô, tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến. Đẩy mạnh hợp tác liên doanh, tìm
kiếm và tạo thêm một số mặt hàng và dịch vụ xuất khẩu mới có hàm lượng
công nghệ cao, tạo cơ sở để nền kinh tế của tỉnh phát triển bền vững.
Để phát triển mạnh kinh tế cửa khẩu, thương mại, dịch vụ, du lịch của
tỉnh theo sự chỉ đạo của Trung ương, trước hết phải phát triển mạnh nguồn
nhân lực, trong đó đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Vấn đề này
được xác định là một trong những khâu đột phá để việc triển khai thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh thành công. Do vậy, phát triển nhanh số
lượng, nâng cao chất lượng của đội ngũ trí thức nói chung và trí thức người
dân tộc thiểu số trên lĩnh vực này được xem là hướng ưu tiên trong những
năm tới.
1.2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng
Sơn đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh
Cùng với đội ngũ trí thức của tỉnh, đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh có những vai trò cơ bản sau:
26
Thứ nhất, cùng với cán bộ lãnh đạo của địa phương, đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số tuyên truyền và tổ chức thực hiện chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trí thức người dân tộc thiểu số có mặt mạnh là nắm vững ngôn ngữ dân
tộc, thông hiểu địa bàn, phong tục, tập quán, tâm lý dân tộc, do vậy họ là lực
lượng tuyên truyền có hiệu quả đường lối, chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước và chính quyền địa phương xuống tận bản làng, đồng thời, góp phần
thực hiện việc hoạch định, đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước ở địa
phương, đưa những chủ trương chính sách đó vào cuộc sống.
Lạng Sơn tập trung 85% cư dân là đồng bào dân tộc thiểu số. Số cán bộ
là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Trí thức người dân tộc
thiểu số cùng với đội ngũ cán bộ trên địa bàn tỉnh thực hiện vai trò là cầu nối
giữa Đảng với nhân dân, là lực lượng trung gian đưa đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng - Nhà nước đến với nhân dân; đồng thời cũng là người tổ
chức cho nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của Đảng, của dân
tộc. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chỉ có đồng bào và
cán bộ người dân tộc mình mới hiểu dân tộc mình sâu sắc nhất, để phát huy
mọi truyền thống tốt đẹp của dân tộc và mọi tiềm năng của quê hương mình
trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội” [22, tr.3-4].
Không chỉ là cầu nối giữa Đảng với dân, đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số còn đóng vai trò trung tâm đoàn kết, khai thác tập hợp mọi nguồn
lực, trí tuệ của Đảng viên và quần chúng, tổ chức và phát huy sức mạnh tập
thể, động viên mọi người dân ra sức thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế chính
trị, văn hóa, xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn thể nhân dân lao động,
nó phải được thực hiện thông qua hoạt động tự giác của đông đảo quần chúng
có ý thức giác ngộ về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Do đó, công tác
giáo dục tư tưởng, tuyên truyền lý luận cách mạng phải đi trước một bước. Bởi
27
vì, bản thân lý luận không thể làm biến đổi hiện thực, nhưng nó có thể trở
thành “lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [40, tr.580].
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta, để thành
công thì những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cần
được phổ biến sâu rộng, làm cho nhân dân nhận thức được sự cần thiết, lợi ích
cũng như vai trò, nhiệm vụ của mình, từ đó thôi thúc mọi người dân tham gia
một cách tự giác, tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Khi ấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ lý luận mới trở thành sức
mạnh vật chất làm thay đổi sản xuất và đời sống xã hội.
Với chức năng cơ bản là phổ biến, truyền bá kiến thức, trí thức nói
chung và trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng, nhất là những người trực
tiếp công tác trong ngành văn hóa, tư tưởng giáo dục là lực lượng nòng cốt
thực hiện nhiệm vụ này. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo
viết, báo nói, báo hình) và các chương trình tập huấn, họ đã góp phần triển
khai các nghị quyết, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà
nước và của tỉnh về công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách nhanh chóng đến
mọi người dân và ở khắp các địa bàn của tỉnh. Trên cơ sở đó, giúp nhân dân
hiểu, tích cực và chủ động tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Ngoài ra, những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước còn được đội ngũ các nhà giáo người dân tộc thiểu số thực hiện dưới
nhiều hình thức khác như lồng ghép vào các chương trình giảng dạy của các
môn khoa học Mác-Lênin trong các trường, các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình
độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, v.v... Qua đó giúp cho quần chúng nhân dân
và đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu, thực hiện, đồng thời góp phần quan
trọng vào việc ngăn chặn mọi sự xuyên tạc của kẻ thù và làm thất bại mọi âm
mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trong vùng núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
28
Thứ hai, trí thức người dân tộc thiểu số góp phần truyền bá tri thức,
nâng cao dân trí, chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới đến các địa
phương vùng đồng bào dân tộc.
Với kiến thức chuyên môn của mình, cùng với các đồng nghiệp, trí
thức dân tộc thiểu số trở thành lực lượng quan trọng trong việc truyền bá,
hướng dẫn nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số nâng cao trình
độ dân trí, tiếp cận với những thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến hiện đại.
Trí thức người dân tộc thiểu số trở thành nguồn lực phát triển miền núi Lạng
Sơn một cách toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng
- an ninh, trong đó trung tâm là phát triển kinh tế.
Thông qua công tác tuyên truyền của đội ngũ trí thức, nhân dân các dân
tộc thiểu số ở Lạng Sơn nhận rõ để thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu trước hết
phải có “cái chữ”, trình độ văn hóa phải được nâng cao. Như vậy, chức năng
khai sáng là hoạt động lớn và quan trọng của trí thức người dân tộc thiểu số.
Trí thức người dân tộc thiểu số trong các ngành văn hóa - giáo dục, bằng
tuyên truyền, thông tin, giảng dạy đã tham gia trực tiếp trong việc xây dựng
con người mới, nếp sống mới, xóa mù chữ, nâng cao mặt bằng dân trí ở từng
vùng, làm hạn chế những hủ tục lạc hậu trong tư tưởng và tập tục của đồng
bào dân tộc. Những kiến thức khoa học mới thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng thực sự là cầu nối cộng đồng các dân tộc thiểu số với đất nước
và thế giới, giúp đồng bào dân tộc hiểu được để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,
miền núi phải xây dựng theo hướng kinh tế hàng hóa, liên kết chặt chẽ với các
tỉnh đồng bằng. Điều này chỉ có thể đạt được khi đưa nhanh tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào miền núi. Trí thức dân tộc thiểu số là chủ thể đi đầu và trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ này, trong đó trách nhiệm lớn là bộ phận trí thức liên quan
đến nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật ở lĩnh vực kinh tế trồng trọt,
chăn nuôi, chế biến nông - lâm sản.
29
Thứ ba, trí thức người dân tộc thiểu số có vai trò bảo lưu, giữ gìn, phát
triển những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc góp phần nâng cao
đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào các dân tộc của tỉnh.
Hiện nay, trên địa bàn Lạng Sơn tập trung hơn 30 dân tộc anh em cùng
đoàn kết sinh sống. Mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa riêng, độc đáo. Do
vậy, văn hóa các dân tộc ở Lạng Sơn rất đa dạng và đặc sắc. Việc bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa của mỗi dân tộc là thế mạnh để phát triển du
lịch, văn hóa trong tỉnh.
Lễ hô ̣i La ̣ng Sơn nhiều về số lươ ̣ ng, phong phú về nô ̣i dung và loa ̣i
hình. Đặc biệt , lễ hô ̣i La ̣ng Sơn vừ a mang những đă ̣c trưng củ a lễ hô ̣i cổ truyền Viê ̣t Nam và vù ng núi phía Bắc , vừ a mang sắc thái riêng củ a vù ng văn Văn hóa - Thông tin La ̣ng Sơn , hóa Xứ Lạng . Theo số liê ̣u khảo sát củ a Sở đến năm 2003, Lạng Sơn có trên 365 lễ hô ̣i dân gian vớ i tính chất , quy mô lớ n, nhỏ khác nhau . Các lễ hội thường được tổ chức vào mùa xuân , từ tháng giêng đến tháng tư âm li ̣ch hàng năm. Các lễ hội đều mang nô ̣i dung xây dựng và bảo vệ cuộc sống ấm no , hạnh phúc . Ngoài các giá trị về tinh thần , văn
hóa, lịch sử, lễ hô ̣i La ̣ng Sơn còn chứ a đựng giá tri ̣ văn hóa - du li ̣ch sâu sắc.
Vài năm gần đây, được sự chỉ đạo thường xuyên của các cấp, các
ngành, đội ngũ cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số, đặc biệt là đội ngũ nhà
báo, nhà văn, nhà thơ (tiêu biểu như nữ Nhà thơ Hoàng Diệu Tuyết (dân tộc
Tày) đã có nhiều đóng góp trong việc bảo lưu, quảng bá những nét đặc sắc
của văn hóa các dân tộc ở Lạng Sơn. Họ đã tổ chức nhiều hoạt động để bảo
tồn các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa
bàn, như: Lễ hội Lồng Tồng (cầu mùa), lễ hội ném Còn, lễ hội Đâm Trâu... tổ
chức diễn các trò chơi dân gian của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao…
Những lễ hội truyền thống ở Bản Ngà thuộc huyện Cao Lộc đã thu hút hàng
vạn người dân địa phương tham dự với niềm tự hào về văn hóa truyền thống
của dân tộc mình. Trong cuô ̣c sống hiê ̣n đa ̣i đầy những lo toan , bô ̣n bề, trở về
30
,
không khí lễ hô ̣i , du khách như bỏ la ̣i đằng sau những tháng ngày mê ̣t mỏi cùng hoà mình vào không khí tưng bừng của lễ hội
, sôi nổi , tham gia vào những trò chơi dân gian giản di ̣ và thú vi ̣ , hay trở la ̣i những quan niê ̣m tâ m linh thờ i xưa. Tất cả những cảm giác đó như mãi là lờ i mờ i go ̣i du khách đến vớ i La ̣ng Sơn để cù ng tham dự mô ̣t lễ hô ̣i truyền thống đầy chất huyền thoa ̣i.
Trí thức người dân tộc thiểu số cùng với người dân bản địa ở Lạng Sơn
luôn tự hào về thế mạnh và tiềm năng văn hóa - du lịch rất lớn của tỉnh. Vào
mỗi mùa lễ hội, trí thức người dân tộc thiểu số cùng với cán bộ lãnh đạo các
địa phương và đông đảo đồng bào các dân tộc tổ chức ôn lại, dựng lại, tổ chức
các cuộc thi tìm hiểu về lễ hội văn hóa của tỉnh. Những hoạt động đó thu hút
đông đảo đồng bào các dân tộc tham gia với niềm vui, niềm tự hào về bản sắc
văn hóa dân tộc. Mỗi mùa lễ hội qua đi để lại ấn tượng sâu sắc với đồng bào
các dân tộc, làm tăng tình cảm yêu quê hương, tự hào về những giá trị văn
hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn, qua đó gìn giữ và quảng
bá những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số Lạng Sơn,
đồng thời góp phần làm đa dạng, phong phú nền văn hóa Việt Nam.
Cùng với trí thức người Kinh, trí thức người dân tộc thiểu số đóng
vai trò quan trọng trong việc thực hiện “trí thức hóa công - nông”.
Đội ngũ công nhân và nông dân là lực lượng cơ bản, to lớn, là chủ
thể trực tiếp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy: trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ này, nhất là công nhân, nông dân người
dân tộc thiểu số còn rất hạn chế. Để quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh thành công cần phải thực hiện “trí
thức hóa công - nông”. Đó là phải từng bước nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ thuật, đào tạo và đào tạo lại nghề và kỹ năng lao động cho
đội ngũ công nhân và nông dân trong tỉnh. Trong nhiệm vụ này đội ngũ trí
thức đóng vai trò chủ yếu.
31
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh bên cạnh số đông trí thức là người dân
tộc thiểu số, số trí thức người Kinh cũng chiếm tỷ lệ tương đối cao. Đây
là lực lượng lao động có trình độ cao, nhạy bén, am hiểu khoa học kỹ
thuật, chủ yếu tập trung sinh sống và làm việc ở trung tâm thành phố. Để
nâng cao trình độ cho công nhân và nông dân, giúp họ có đủ điều kiện và
khả năng tham gia trực tiếp vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
một cách hiệu quả, cần phải kết hợp sự giúp đỡ giữa trí thức người Kinh
và trí thức người dân tộc thiểu số trong tỉnh. Đây là một trong những
nhiệm vụ quan trọng và cấp bách cần phải làm trong quá trình thực hiện
liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1.3. Những yếu tố tác động đến sự phát triển của đội ngũ trí thức
ngƣời dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong điều kiện có tính đặc thù của tỉnh Lạng Sơn, việc làm rõ những
yếu tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số của tỉnh là vô cùng cần thiết, bởi đây là một trong những căn
cứ quan trọng để xây dựng những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế -
xã hội nói chung, cũng như xây dựng chính sách phát triển đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số của tỉnh nói riêng.
1.3.1. Tác động bởi yếu tố khách quan
Tác động bởi điều kiện tự nhiên và đặc điểm truyền thống tâm lý dân tộc
Là một tỉnh miền núi cao, nhiều vùng đồi núi hiểm trở, cơ sở hạ tầng,
đường giao thông, điều kiện giáo dục kém phát triển, nên điều kiện về môi
trường để phát triển giáo dục, nâng cao dân trí tất yếu bị hạn chế. Vì vậy, đây
chính là những yếu tố cơ bản cản trở làm cho tốc độ phát triển đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số của tỉnh diễn ra chậm, chưa đáp ứng được quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Lạng Sơn hiện nay có hơn 30 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó,
dân tộc Nùng (42,96%); Tày (35,89%); Kinh (15,27%); Hoa (0,35%) đều sinh
32
sống ở các huyện và thành phố. Các dân tộc: Dao (3,47%) sinh sống ở 7/11
huyện và thành phố, dân tộc Sán Chay (0,56%) sinh sống ở 2/11 huyện và
thành phố.
Các dân tộc sinh sống đan xen với nhau thành làng, bản. Đây là
điều kiện thuận lợi cho các dân tộc hiểu rõ về phong tục, tập quán, lối
sống, giao lưu văn hoá, giúp đỡ nhau cùng phát triển, từ đó góp phần thắt
chặt tình đoàn kết giữa các dân tộc. Cụ thể như sau:
Dân tộc Nùng có số dân đông nhất trong toàn tỉnh (42,97%), sống
định cư quanh các bản làng và ven núi. Làng là đơn vị cơ sở của xã hội
Nùng gồm nhiều tiểu gia đình phụ quyền mà tế bào gia đình là cha mẹ và
con cái, trong đó, quyền thế tập thuộc về con trai trưởng. Do vậy, tính gia
trưởng thể hiện khá đậm nét trong dân tộc Nùng và trí thức người dân tộc
Nùng. Ảnh hưởng tích cực là tính quyết đoán trong công việc, song có
mặt tiêu cực là tính độc đoán, chuyên quyền, hạn chế dân chủ. Đây là
điểm cần chú ý khắc phục, nhất là khi trí thức người Nùng tham gia công
tác lãnh đạo, quản lý.
Mỗi làng của người Nùng thường quần tụ nhiều dòng họ. Đặc điểm
nổi bật của người Nùng là tính cộng đồng, được thể hiện trên nhiều mặt
đời sống của làng. Các hình thức sản xuất tập thể được hình thành phổ
biến và có ý nghĩa quan trọng đối với từng đơn vị kinh tế gia đình. Chẳng
hạn như tổ chức nhóm lao động mà không phân định thành phần tham gia,
được hình thành và tập hợp nhất thời theo mùa vụ, bằng sự tự nguyện của
các thành viên nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách về nhân lực dưới hình
thức đổi công. Đối với những gia đình neo đơn, gặp hoạn nạn, hoặc mất
mùa, đói kém, người dân trong làng thường giúp đỡ, cưu mang và không
tính thiệt hơn.
Đồng bào Nùng tổ chức nhiều lễ hội trong năm như tết cơm mới, lễ
cầu mưa, hội Lồng Tồng... Đời sống văn hóa, văn nghệ phong phú như hát
33
si, hát lượn, hát đối, múa sạp... và thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Những đặc điểm này ảnh hưởng khá đậm nét đến mỗi người dân Nùng, kể
cả trong trí thức người Nùng. Tính cộng đồng làm cho trí thức người
Nùng có khả năng đoàn kết, hợp tác, qui tụ, gần gũi với quần chúng nhân
dân và có ảnh hưởng tích cực trong công tác vận động quần chúng.
Dân tộc Tày chiếm khoảng (35,92%) dân số trong toàn tỉnh, tập
trung chủ yếu ở huyện Bình Gia, huyện Bắc Sơn, sinh sống chủ yếu bằng
nghề nương rẫy. Sống trong vùng có nhiều cư dân người Nùng, nên người
Tày Lạng Sơn đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa Nùng (nhất là trang phục
và kiến trúc nhà cửa...). Nhưng đặc trưng văn hóa dân tộc Tày vẫn được
người Tày giữ gìn và phát huy trong đời sống cộng đồng, biểu hiện qua
ngôn ngữ, văn hóa, âm nhạc, kiến trúc, tập quán, tín ngưỡng, trang phục
truyền thống. Từ lâu đời, người Tày đã khai thác khu vực đáy thung lũng
thành hệ thống ruộng để trồng lúa nước và thiết lập khu cư trú của mình
ngay chân núi, cạnh các thung lũng. Đặc điểm khu dân cư người Tày là
mật tập, nghĩa là các gia đình làm nhà sàn liền mái, đi chung ngõ với
nhau, vườn ở cạnh nhà, xung quanh nhà và trên nương. Với lối sống này,
ý thức cộng đồng được đề cao trong quan hệ xã hội. Người dân tộc Tày ở
Lạng Sơn có lối sống đạt đến trình độ cao về phép tắc ứng xử trong quan
hệ gia đình, quan hệ bên nội, bên ngoại và quan hệ với khách. Đó là thái
độ tận tình, hiếu khách, trân trọng dành cho khách tình cảm tốt đẹp nhất.
Những phẩm chất đó tạo cho trí thức người Tày luôn gần gũi, tôn trọng
bạn bè, đồng nghiệp, xử lý công việc có tình có lý...
Do sinh sống xen kẽ với người Kinh nên người Tày cũng có những
nét tương đồng và học tập, tiếp thu được nhiều yếu tố tích cực của người
Kinh, nhất là trong phương thức sản xuất. Do vậy, nhìn chung đời sống
kinh tế - xã hội của người Tày có điều kiện phát triển và ổn định và vì
34
vậy, trong đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh, trí thức người
Tày khá đông.
Người Hoa ở Lạng Sơn chiếm 0,37% dân số toàn tỉnh và sống tập
trung ở các huyện Văn Lãng, huyện Cao Lộc; huyện Lộc Bình. Họ có
những đặc điểm riêng về tập tục, thờ cúng thần linh và chịu ảnh hưởng rất
lớn từ Nho giáo. Do cư trú chủ yếu ở ven địa bàn gần biên giới giáp
Trung Quốc nên người dân tộc Hoa nói chung và trí thức người Hoa rất
nhạy bén, có tư duy linh hoạt trong kinh doanh, dễ thích ứng với mọi hoàn
cảnh. Họ có nền sản xuất nông nghiệp phát triển đa dạng, làng xóm hình
thành từ vài chục gia đình, sống gắn bó với nhau.
Dân tộc Dao ở Lạng Sơn chiếm khoảng (3,47%) dân số trong toàn
tỉnh, sinh sống chủ yếu ở các xóm, bản, các xã vùng cao, xa xôi hẻo lánh
của các huyện Văn Quan, Cao Lộc, Đình Lập... Dân tộc Dao có hai nhóm
chính là: nhóm Dao tiểu bản và Dao đại bản. Người Dao ở Lạng Sơn chủ
yếu là Dao tiểu bản gồm 6 dòng họ: Triệu, Dương, Phùng, Lý, Trịnh, Bàn...
Trước năm 1945, người Dao sống du cư trên các sườn núi cao, sống
bằng nghề nương rẫy. Ngày nay với chính sách của Đảng và Nhà nước,
đại bộ phận người Dao đã xuống sinh sống xen kẽ với các dân tộc khác,
định canh ở vùng thấp hơn, sống bằng trồng lúa nước, canh tác nương rẫy
và làm nghề thủ công như nghề mộc, dệt vải, thêu, nấu và trưng cất
rượu... Tiếng nói, chữ viết của người Dao có nguồn gốc từ quan hỏa, được
nôm hóa thành tiếng Dao. Hiện nay, người Dao ở Lạng Sơn không sử
dụng chữ viết riêng mà chỉ còn số ít người già sử dụng chữ Nôm - Dao
trong lập bùa, thờ cúng. Các điệu hát ví, hát lượn, hát đối... thường được
sử dụng trong các dịp lễ tết, ma chay.
Do đặc điểm cư trú, lịch sử xã hội, nên người Dao có tâm lý rất tự
trọng, có tri thức dân gian phong phú, nhất là y học dân tộc cổ truyền.
Người Dao ở Lạng Sơn rất mến khách và có tính cộng đồng dân tộc cao.
35
Tất cả những đặc điểm này ảnh hưởng lớn đến trí thức người Dao, họ
thường rất có trách nhiệm với công việc, sống gần gũi, chân tình với
người thân và những người trong bản. Tuy nhiên trí thức người Dao
thường tự ty, tự ái, đôi khi bảo thủ...
Dân tộc H’mông ở Lạng Sơn chiếm khoảng (1,41%) dân số trong
toàn tỉnh, sinh sống chủ yếu ở các vùng núi cao, vùng sâu (tập trung ở các
xã Cao Lâu, Xuất Lễ, Mẫu Sơn...), trình độ dân trí thấp, số lượng trí thức
rất hạn chế do vậy cần phải có chính sách để phát triển trí thức người
H’mông. Tiếng H’mông thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao. Người
H’mông sống bằng nghề nương rẫy, đã định cư nhưng một bộ phận còn du
canh. Các dòng họ sống quây quần thành từng cụm. Trưởng họ lo đảm
nhiệm việc chung; người cùng dòng họ có thể đẻ và chết trong nhà nhau
với quan niệm cùng một tổ tiên phải giúp đỡ, cưu mang lẫn nhau. Ngày
nay, do điều kiện môi trường sống và các yếu tố lịch sử chi phối nên
người H’mông còn gặp rất nhiều khó khăn trong ổn định cuộc sống và
trong phát triển sản xuất của mình.
Từ sự phân tích đặc điểm của một số dân tộc điển hình ở Lạng Sơn
như trên có thể rút ra kết luận: Là con em của các dân tộc thiểu số sống
trên địa bàn tỉnh, nên trí thức dân tộc thiểu số cũng mang đậm trong mình
những đặc điểm nổi bật của dân tộc họ và được in dấu ấn đặc sắc trong lối
sống, thói quen, sinh hoạt, trong tiềm thức của họ.
Cũng do xuất phát điểm còn thấp, lại bị ảnh hưởng nhiều bởi những
phong tục, tập quán còn lạc hậu, nên nhìn chung đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số ở Lạng Sơn số lượng còn ít; chất lượng hạn chế, bị ảnh hưởng bởi
tri thức kinh nghiệm. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải nâng cao trình độ năng lực
một cách toàn diện cho đội ngũ này sao cho họ giỏi về chuyên môn, có khả
năng nắm bắt và xử lý thông tin, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà Nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và biết vận dụng vào điều kiện,
36
hoàn cảnh cụ thể một cách có hiệu quả, nhất là năng lực tổ chức thực tiễn, tức
là khả năng chuyển hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước
thành hiện thực trong đời sống hàng ngày ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
ở các vị trí mà họ đảm trách. Chẳng hạn, trong điều kiện hiện nay, có nhiều
chương trình dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh, đòi hỏi đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số phải có năng lực để triển khai có hiệu quả các chương trình dự án
đó; ngoài ra trí thức người dân tộc thiểu số còn phải có năng lực tập hợp, lôi
cuốn đông đảo quần chúng tích cực tham gia thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị
ở địa phương.
Do vậy, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất là công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn miền núi Lạng Sơn hiện nay đòi hỏi
cấp thiết phải phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, cả về số
lượng, chất lượng với một cơ cấu hợp lý.
- Tác động bởi kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Yếu tố này tác động đến
mỗi con người, trong đó có trí thức người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn theo cả
hai chiều tích cực và hạn chế.
+ Tác động tích cực:
Kinh tế thị trường một mặt giải phóng sức lao động, tạo điều kiện để
vươn lên làm giàu, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân. Là một tỉnh biên giới giáp biên, Lạng Sơn có điều
kiện thuận lợi tham gia vào nền kinh tế thị trường sớm, có điều kiện giao
thương, hợp tác với Trung Quốc. Đó vừa là mặt thuận lợi để Lạng Sơn phát triển
kinh tế - văn hóa xã hội, vừa có mặt hạn chế là ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế
thị trường và kinh tế mở rất lớn đến đời sống của nhân dân các dân tộc trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn, trong đó có đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số theo cả
hai chiều thuận và nghịch.
37
Kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã tác động tích cực đến khuynh
hướng phát triển đa dạng, phong phú trong hoạt động văn hóa của tỉnh. Các
chính sách kinh tế mới sẽ tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội mới cho các hoạt động
văn hóa của tỉnh có cơ hội giao lưu, quảng bá những nét đẹp văn hóa của các
dân tộc thiểu số trong tỉnh. Nhờ những chính sách mới, phù hợp mà những
tiềm năng văn hóa vốn tiềm ẩn sẽ được bộc lộ phát triển với nhiều hình thức
phong phú khác nhau. Nhiều thành phần xã hội sẽ cùng với đông đảo đồng
bào dân tộc thiểu số tham gia vào quá trình phát triển văn hóa. Hàng năm, Sở
Thương Mại và Sở Văn hóa du lịch Lạng Sơn thường kết hợp tổ chức các
chương trình giao lưu văn hóa giữa Lạng Sơn và Trung Quốc, tổ chức các hội
chợ bán hàng Việt Nam và Trung Quốc, tạo ra nhiều điều kiện giao lưu, phát
triển về kinh tế, văn hóa giữa Lạng Sơn với Trung Quốc. Thông qua những
hoạt động này, trí thức người dân tộc thiểu số trong các ngành văn hóa - du
lịch được trao đổi, giao lưu và nâng cao trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ trong
giao tiếp.
Kinh tế thị trường chấp nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các
thành phần kinh tế tác động và bình đẳng với nhau trong thực hiện các quyền
kinh tế. Đặc điểm này tác động lớn đến tư duy của đồng bào các dân tộc
Lạng Sơn, trong đó có đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, họ thấy
được khả năng, tiềm năng và thế mạnh của tỉnh nên không ngừng học hỏi,
tìm kiếm cơ hội giao lưu, đầu tư và hợp tác để phát triển.
Kinh tế thị trường thúc đẩy hoạt động văn hóa theo hướng xã hội
hóa. Ý thức dân chủ, vai trò cá nhân, sự tự ý thức về bản thân sẽ có điều
kiện và cơ hội để phát triển. Quá trình sáng tạo, phổ biến các giá trị văn
hóa sẽ thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
Kinh tế thị trường cũng đề cao trách nhiệm cá nhân, gắn liền động cơ và
hiệu quả như là một chuẩn mực giá trị trong hoạt động của con người,
trong nhân cách mỗi người.
38
Như vậy, dưới sự tác động của kinh tế thị trường và hội nhập, trí
thức người dân tộc thiểu số cũng trở nên năng động, nhạy bén hơn và dần
dần khắc phục lối tư duy cảm tính, tư duy kinh nghiệm, chủ quan và phải
rèn luyện, nâng cao phương thức tư duy khoa học. Kinh tế thị trường là
điều kiện kích thích tăng năng suất lao động không ngừng. Sự tìm tòi,
sáng tạo của cá nhân luôn được khuyến khích. Chính điều này đòi hỏi mỗi
trí thức dân tộc thiểu số phải không ngừng học tập, rèn luyện tay nghề,
rèn luyện bản thân. Kinh tế thị trường cũng rất nghiêm khắc đào thải
những trì trệ, sự lạc hậu, lỗi thời của con người và các sản phẩm kém về
chất lượng cũng như hình thức.
Về phương diện đạo đức, lối sống, sự ảnh hưởng tích cực của kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế đến trí thức người dân tộc thiểu số là
từng bước hình thành nhân cách tự chủ, rèn luyện đội ngũ này ý thức lao
động, bản lĩnh trong công việc, năng động, thích nghi và sáng tạo.
+ Tác động tiêu cực:
Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế cũng có tác động tiêu cực đến đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu
số tỉnh Lạng Sơn.
Kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế làm cho một bộ phận trí thức
người dân tộc thiểu số có lối sống chạy theo đồng tiền; thương mại hóa.
Kinh tế thị trường có khuynh hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị
trường ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống cá nhân, đời
sống cộng đồng, có khuynh hướng làm cho người ta coi giá trị thị trường
là giá trị chân thực duy nhất dùng để đo các giá trị khác. Họ định giá trị
của con người căn cứ vào của cải của người đó, từ đó tìm các quan hệ
trong sự đem lại lợi ích gì cho cá nhân mình. Từ đây mà các quan hệ tình
cảm cao đẹp, ấm áp tình người vốn là bản chất của trí thức người dân tộc
thiểu số có nguy cơ bị băng hoại trong sự tính toán vị kỷ. Biểu hiện là: từ
39
chỗ lấy con người tập thể, con người xã hội làm mẫu mực (hy sinh vì tập
thể, vì cộng đồng) là đạo đức cao nhất của người trí thức dân tộc thiểu số
nay có thể trượt sang tuyệt đối hóa con người cá nhân; từ chỗ lấy lý
tưởng, đạo đức làm mẫu mực chuyển sang coi thường đạo đức, phẩm giá.
Chính vì vậy những hiện tượng tham ô, hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu, lừa
đảo, làm hàng giả, mua quan bán chức, chạy chức, chạy quyền đang có
chiều hướng phát triển trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có
một bộ phận trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh.
1.3.2. Tác động bởi yếu tố chủ quan
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước tác động đến sự phát triển
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
Ý thức rõ tầm quan trọng của trí thức người dân tộc thiểu số, trong
những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp
để phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng của đội ngũ này. Do đó, số
lượng trí thức người dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nước ngày càng tăng về
số lượng và chất lượng, trí thức người dân tộc thiểu số có trình độ trên đại
học, đại học và cao đẳng ngày càng tăng. Số dân tộc có con em đạt trình độ
cao đẳng, đại học ngày càng tăng không chỉ ở các dân tộc thiểu số có số lượng
dân lớn như Thái, Mường, Tày, Nùng...mà ở cả các dân tộc có số dân ít.
Những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách lớn phát
triển vùng dân tộc miền núi như Chương trình 135 (chương trình phát triển
kinh tế - xã hội các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn).
Nghị quyết Trung ương bảy khóa IX (2001) của Bộ Chính Trị về công tác dân
tộc. Nghị quyết Trung ương bảy khóa X (2006) về xây dựng giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Triển khai thực hiện chương trình và Nghị quyết này, Lạng Sơn
đã xây dựng kế hoạch thực hiện tốt Chương trình 135 qua các giai đoạn, nhờ
đó thúc đẩy sản xuất vùng dân tộc thiểu số phát triển, chuyển dịch cơ cấu sản
40
xuất hàng hóa, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập, xóa đói
giảm nghèo, từng bước ổn định, cải thiện đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng
xa. Quản lý, sử dụng báo, tạp chí cấp không thu tiền cho vùng dân tộc thiểu số
và miền núi đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần cho đồng bào vùng dân tộc
miền núi nâng cao trình độ nhận thức và trình độ hiểu biết cho người dân. Đó
là cơ sở quan trọng để phát triển đội ngũ trí thức nói chung, trí thức người dân
tộc thiểu số nói riêng của tỉnh.
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về công tác
dân tộc cũng chỉ rõ: Chính quyền địa phương, nơi có con em dân tộc thiểu số
thi đỗ đại học, cao đẳng và sinh viên được cử đi học cử tuyển, có trách nhiệm
tiếp nhận và phân công công tác phù hợp với ngành nghề đào tạo sau khi tốt
nghiệp. Nghị định cũng yêu cầu phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số theo
chương trình chung của quốc gia, xây dựng chính sách giáo dục ở tất cả các
cấp phù hợp với đặc thù dân tộc. Phát triển trường mầm non, trường phổ
thông, trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm
giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, trường dạy nghề,
trường dự bị đại học. Nghiên cứu hình thức đào tạo đa ngành bậc đại học cho
con em các dân tộc thiểu số để đẩy nhanh việc tạo nguồn nhân lực phục vụ
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Quy định
các điều kiện và biện pháp cụ thể, phù hợp để hỗ trợ cho học sinh, sinh viên là
người dân tộc thiểu số; giải quyết chỗ ở, học bổng và cho vay vốn trong thời
gian học tập phù hợp với ngành nghề đào tạo và địa bàn cư trú của sinh viên
dân tộc thiểu số. Học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số rất ít người, ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn được miễn
học phí ở tất cả các cấp học, ngành học. Bên cạnh đó Nghị định cũng yêu cầu
quy định việc hỗ trợ giáo viên giảng dạy tại các vùng kinh tế - xã hội khó
khăn và đặc biệt khó khăn; đào tạo giáo viên là người dân tộc thiểu số và giáo
41
viên dạy tiếng dân tộc (Nghị định 05/2011/NĐ-CP sẽ có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 4/3/2011).
Như vậy, những chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về dân tộc
và chính sách dân tộc là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng có tác
động tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự phát triển của đồng bào dân
tộc thiểu số nói chung và trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng.
Chế độ, chính sách của tỉnh đối với cán bộ và trí thức người dân tộc
thiểu số.
Quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng cùng với các cơ chế,
chính sách của Nhà nước đã được ban hành, tỉnh ủy Lạng Sơn đã triển khai
thực hiện và đề ra nhiều chương trình hành động phát triển giáo dục đào tạo,
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt ưu tiên phát
triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số. Việc triển khai này đã làm
chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động của các cấp, các ngành đối
với công tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ trí thức người dân tộc thiểu
số; bước đầu xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ tạo nguồn cán bộ người dân
tộc thiểu số có trình độ cao cho hệ thống chính trị của tỉnh. Nhờ đó, những
năm qua đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn đã và đang tăng
lên cả về số lượng và chất lượng (điều này sẽ được làm rõ ở phần sau).
Tuy nhiên, do nguồn ngân sách của tỉnh còn hạn chế nên một số chế độ
phụ cấp, trợ cấp chưa được áp dụng thực hiện. Nguồn ngân sách Trung ương
phân bổ về địa phương còn chậm, nên việc điều chỉnh một số loại trợ cấp, phụ
cấp theo quy định của Chính phủ đối với người lao động chưa được kịp thời.
Do vậy, sự phát triển của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn
nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Như vậy, những cơ chế, chính sách của tỉnh đối với cán bộ nói chung
và trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng là một trong những yếu tố quan
42
trọng đã có tác động trực tiếp mạnh mẽ đến quá trình phát triển đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn.
Bản thân trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn
Cho dù tất cả những yếu tố trên có tác động thuận lợi đến mấy, song
bản thân mỗi trí thức người dân tộc thiểu số không chịu vận động, không chịu
học tập, nỗ lực phấn đấu vươn lên thì mỗi cá nhân, cũng như đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số cũng không thể phát triển được. Do vậy, sự nỗ lực học
tập rèn luyện vượt qua mọi rào cản của mỗi cá nhân là nhân tố có ý nghĩa
quyết định đến sự phát triển của mỗi trí thức người dân tộc thiểu số.
Nếu xét về nguồn gốc xuất thân thì hầu hết trí thức người dân tộc thiểu
số đều xuất thân từ nông dân, gắn liền với đồng ruộng và nương rẫy nên sự
phát triển của họ đã chứng tỏ họ những người dám nghĩ, dám làm, vượt qua
những rào cản để đến với ánh sáng của tri thức khoa học. Ý chí, tinh thần và
nghị lực này của mỗi trí thức người dân tộc thiểu số phải được tiếp tục nuôi
dưỡng, không ngừng phát huy để tự khẳng định mình.
Song do xuất phát điểm thấp, lại chịu tác động bởi nhiều yếu tố như
điều kiện tự nhiên, địa lý không thuận lợi, đi lại khó khăn, các phong tục, lối
sống lạc hậu nên phần lớn trí thức người dân tộc thiểu số còn có nhiều hạn
chế như thiếu nhạy bén trong xử lý công việc, tâm lý tự ty, bảo thủ; thói quen
sản xuất tự cấp, tự túc nên ý thức, tư duy về kinh tế thị trường còn hạn chế.
Do vậy, có vượt qua những rào cản này để vươn lên hay không, điều đó phần
lớn do mỗi cá nhân quyết định.
43
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VÀ XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH LẠNG SƠN
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. Thực trạng đội ngũ trí thức ngƣời dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn và công
tác phát triển đội ngũ này của tỉnh
2.1.1. Thực trạng về số lượng, chất lượng và sự phân bố của đội ngũ
trí thức người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và
những ngày đầu sau khi đất nước thống nhất, số lượng cán bộ được coi là trí
thức người dân tộc thiểu số của Lạng Sơn rất ít, chủ yếu là số trí thức từ chiến
khu và tập kết (1954) trở về, một số lượng trí thức được lưu dụng từ các bộ,
ngành Trung ương; lực lượng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục. Theo Cục
Thống kê tỉnh Lạng Sơn, đến trước năm 1990, tổng số trí thức người dân tộc
thiểu số của tỉnh chỉ có 3.968 người, chủ yếu tập trung ở hai lĩnh vực: Giáo
dục - đào tạo: 2.960 người và y tế là: 1.008 người.
Từ khi Lạng Sơn mở cửa khẩu năm 1990 đến nay, đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số tăng khá nhanh về số lượng và được phân bố ở hầu hết
các lĩnh vực: lãnh đạo, quản lý, hoạt động nghiên cứu, giảng dạy; kinh tế,
chính trị - xã hội và chuyển giao khoa học - kỹ thuật…
Theo số liệu điều tra của Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn: Năm 2007, tổng
số trí thức trên địa bàn tỉnh là: 11.390 người (chủ yếu là cán bộ trí thức thuộc
các ngành giáo dục - đào tạo và y tế), trong đó đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số là: 7.437 người (tính từ trình độ cao đẳng, đại học trở lên) [9, tr.35].
Tổng số trí thức người dân tộc thiểu số đang công tác ở các ngành, các cấp
trong tỉnh đến thời điểm hết năm 2009 có: 8.268 người, chiếm 10,37% tổng
44
số lao động trong khu vực Nhà Nước. Đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
làm việc trong các thành phần kinh tế khác là 1.412 người [11, tr.56].
Đến năm 2010, đội ngũ trí thức của tỉnh có 28.024 người. Trong đó, trí
thức người dân tộc thiểu số có 13.481 người, chiếm 48,1% [5]. Điều đó cho
thấy: mặc dù các cấp, các ngành trong tỉnh đã quan tâm xây dựng đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số, song đội ngũ trí thức này nhìn chung còn ít, chưa
tương xứng với vị thế và tiềm năng của dân tộc.
- Về chất lượng
Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự lãnh
đạo trực tiếp của tỉnh ủy Lạng Sơn, đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
được tăng lên về số lượng. Tuy nhiên, chất lượng của đội ngũ này còn hạn
chế. Trình độ, năng lực của một bộ phận không nhỏ đội ngũ này nhìn chung
chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc
biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi thao tác tư duy phức tạp - nhất là khoa học và
công nghệ. Một bộ phận nhỏ trí thức dân tộc thiểu số được cơ cấu vào các
thiết chế, tổ chức mang tính hình thức, ít chú ý đến chất lượng, hiệu quả công
việc cho nên khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hạn chế. Những trí thức
được đào tạo theo hình thức cử tuyển, tuy đáp ứng nhu cầu gia tăng về số
lượng, nhưng chất lượng còn không ít vấn đề cần được quan tâm, chất lượng
văn hóa đầu vào của đối tượng cử tuyển nhìn chung là yếu, không theo kịp
chương trình đào tạo chung. Ngoài ra, một bộ phận trí thức dân tộc thiểu số
sau khi ra trường không được sử dụng theo đúng ngành nghề đào tạo nên đã
ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả tác nghiệp, làm cho nhiều tiềm năng bị
mai một.
Hiện nay trong số 13.481 trí thức người dân tộc thiểu số đang làm việc,
số có trình độ trên đại học là 40 người, chiếm 0,04%; trình độ đại học là 6.986
người, chiếm 70,77%; trình độ cao đẳng 2.742 người, chiếm 27,27%.
45
Phân tích sâu hơn mối quan hệ giữa các loại trình độ của đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số cho thấy, cơ cấu chất lượng của đội ngũ này còn
bất hợp lý, cụ thể: học vị tiến sĩ chỉ có 1 người tương quan với 39 thạc sĩ và
6.986 đại học; 1 người có trình độ trên đại học tương quan với 67,6 người
trình độ đại học, cao đẳng và 126,2 trung học chuyên nghiệp; 1 bác sĩ chuyên
khoa có 13,8 bác sĩ, dược sĩ đại học và 23,5 y sĩ trung học; 1 đại học có 8
trung cấp và 10 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó, cơ cấu của cả nước cứ
1.000 người có trình độ đại học thì có 8 tiến sĩ và 22 thạc sĩ.
Sự phân tích trên cho thấy, cơ cấu giữa bác sĩ chuyên khoa với bác sĩ,
dược sĩ đại học, y sĩ, dược sĩ trung cấp có quan hệ tỷ lệ chênh lệch, chưa hợp
lý và cơ cấu giữa tiến sĩ với thạc sỹ, đại học; giữa trình độ trên đại học với đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp cũng chưa hợp lý. Nguyên nhân là do
công tác đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ từ năm 2005 về trước chưa được chú trọng,
chưa có chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nhân tài
tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Về trình độ ngoại ngữ của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh
Lạng Sơn.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
đòi hỏi trí thức nói chung, đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng
cần phải biết và không ngừng nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học. Qua số
liệu điều tra trực tiếp trên 42% tổng số trí thức người dân tộc thiểu số trong
tỉnh của Sở nội vụ tỉnh Lạng Sơn năm 2008 cho thấy thực trạng về trình độ
ngoại ngữ của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn còn khá
khiêm tốn, cụ thể như sau:
Anh văn, trình độ A: 21,65%; B: 16,17%; C: 2,85%
Trung văn, trình độ A, B, C: 2,73%
Nga văn, trình độ A, B, C: 1,35%
Ngoại ngữ khác: 0,92% [5].
46
Như vậy, số trí thức người dân tộc thiểu số biết ngoại ngữ (trình độ A,
B, C) chỉ chiếm 45,67%, trong đó trình độ đạt chứng chỉ C và đại học ngoại
ngữ chiếm số ít, chủ yếu trong ngành giáo dục - đào tạo, du lịch, thương
mại và một số doanh nghiệp. Nhưng khảo sát thực tế cho thấy, phần lớn
trong số có trình độ ngoại ngữ A, B, nhất là những người lớn tuổi không
phát huy được ngoại ngữ đã học.
Về trình độ tin học
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế diễn ra ở tỉnh
Lạng Sơn nhanh hay chậm có sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số gắn với đẩy nhanh việc phát triển nguồn nhân lực,
trong đó công nghệ thông tin phải có sự chuyển biến mạnh mẽ. Do vậy,
đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt và đi đầu trong ứng dụng, phát triển
công nghệ thông tin. Số liệu điều tra về trình độ tin học của trí thức người
dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn năm 2008 như sau:
Biết sử dụng công nghệ thông tin là: 37%.
Trình độ chứng chỉ A tin học: 20,28%.
Trình độ chứng chỉ B: 9,08%.
Trình độ chứng chỉ C: 1,52% [5].
Qua số liệu trên cho thấy, số trí thức người dân tộc thiểu số biết sử
dụng tin học và có trình độ A, B, C tin học là tương đối khá (chiếm 67,88%).
Tuy nhiên, so với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, bởi vì, đã là trí thức thì trình độ mọi
mặt phải hơn hẳn so với mặt bằng chung của xã hội. Do đó, trình độ tin học
của trí thức nói chung phải đạt từ 90 đến 100%. Muốn có được trình độ như
vậy đòi hỏi tỉnh cần có chủ trương, chính sách quy hoạch, đào tạo thật cụ thể
ở từng ngành, từng lĩnh vực, có chế độ đãi ngộ xứng đáng cho những trí thức
người dân tộc thiểu số hoàn thành các chương trình đào tạo và sử dụng thành
thạo ngoại ngữ, tin học trong các cơ quan, đơn vị. Mặt khác, bản thân trí thức
47
người dân tộc thiểu số cũng phải có ý thức phấn đấu vươn lên, tự học tập để
nâng cao trình độ, nhất là lĩnh vực ngoại ngữ, tin học, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Về trình độ chính trị
Ngoài đào tạo chuyên môn, tùy theo cương vị công tác và quy hoạch
cán bộ, khá nhiều trí thức người dân tộc thiểu số được các cấp, các ngành cử
đi học các lớp đào tạo lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, nhằm đào tạo toàn
diện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở từng địa phương, đơn vị trong tỉnh.
Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
của tỉnh năm 2008 như sau:
Cử nhân chính trị: 5,72%.
Cao cấp chính trị: 6.59%.
Trung cấp chính trị: 37,73% (được đào tạo lại) [5].
Như vậy, trí thức người dân tộc thiểu số được đào tạo nâng cao trình độ
lý luận chính trị (cử nhân, cao cấp chính trị) so với tổng số trí thức của tỉnh
chiếm 10,37%. Trong đó, số trí thức người dân tộc thiểu số thuộc các Ban
Đảng thuộc tỉnh ủy được đào tạo lý luận chiếm 58,21%; huyện, thành phố
20%; khối quản lý nhà nước cấp tỉnh 10,71%; khối văn hóa, văn nghệ 8,19%,
khối giáo dục - đào tạo và doanh nghiệp 1%; số được đào tạo lại trung cấp
chính trị 37,7%.
Việc bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đối với trí thức người dân tộc thiểu
số được các ngành các cấp quan tâm, qua đó giúp cho phần lớn trí thức người
dân tộc thiểu số được bổ sung, cập nhật kiến thức mới, hoặc nâng cao trình độ
mọi mặt, đáp ứng theo yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Trong 5 năm (2005 - 2009),
số trí thức người dân tộc thiểu số được cử đi học các khóa bồi dưỡng, đào tạo
ngắn hạn, dài hạn (bao gồm cả học chính trị, chuyên môn, quản lý nhà nước)
như sau:
Dưới 1 tháng: 42,46% số lượt người được cử đi đào tạo, bồi dưỡng.
48
Từ 1-6 tháng: 17,26% số lượt người được cử đi đào tạo, bồi dưỡng.
Trên 6 tháng đến 1 năm: 7,34% số lượt người được cử đi đào tạo, bồi
dưỡng.
1 năm đến 3 năm: 12,26% số lượt người được cử đi đào tạo, bồi dưỡng.
Trên 3 năm: 8,79% số lượt người được cử đi đào tạo, bồi dưỡng [5].
Số liệu trên cho thấy, số lượt đối tượng được cử đi dự các khóa bồi
dưỡng, đào tạo ngắn hạn dưới 1 tháng và dưới 6 tháng chiếm tỷ lệ cao. Số
được cử đi học dài hạn trên 3 năm chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Do đó, về trình độ
nhận thức, về tư tưởng, lý tưởng, niềm tin vào chế độ, vào Đảng, vào công
cuộc đổi mới, năng lực hoạt động thực tiễn… của đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Tuy nhiên, hình thức đào tạo như vậy là chưa đạt yêu cầu. Cần mở ra
nhiều hình thức và loại hình đào tạo hơn nữa để đối tượng được đào tạo có
nhiều cơ hội tiếp thu khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới trên tất cả các lĩnh
vực, từng bước tăng nhanh số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
trong đó có đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu
số nói riêng. Đây là lực lượng quan trọng trong nguồn lực lao động của các
tỉnh miền núi, trong đó có Lạng Sơn, lực lượng nòng cốt trong việc “đi tắt”,
“đón đầu”, ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản
xuất và đời sống, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa
bàn tỉnh.
Số trí thức người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh hiện có được đào tạo
bằng nhiều hình thức: chính quy, tại chức, học từ xa v.v… Trong đó, số đào
tạo chính quy chiếm 47,4 %; số đào tạo tại chức và các hình thức khác chiếm
52,6%. Trong thực tế, chất lượng đào tạo sinh viên theo hình thức tại chức,
học từ xa tuy hạn chế so với đào tạo chính quy, song phương thức đào tạo này
đã tạo cơ hội cho nhiều đối tượng là cán bộ lãnh đạo, cán bộ công nhân viên
49
đang công tác được đào tạo, đào tạo lại nhằm không ngừng nâng cao trình độ
chính trị, chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và chuẩn hóa cán bộ; đồng
thời, còn tạo điều kiện cho phần lớn học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học
có hoàn cảnh khó khăn, không có điều kiện học các trường đại học ngoài tỉnh,
được tiếp cận với bậc đại học tại tỉnh. Đây là một trong những nguyên nhân
quan trọng thúc đẩy tăng nhanh số lượng trí thức người dân tộc thiểu số của
tỉnh thời kỳ 2001 - 2009. Một số ngành, đơn vị có số trí thức học chính quy
chiếm tỷ lệ cao là cán bộ, giáo viên các trường chuyên nghiệp, ngành y tế,
bưu chính viễn thông, ngân hàng, điện lực, xây dựng v.v…
Về cơ cấu trí thức người dân tộc thiểu số tham gia lãnh đạo, quản lý
Trí thức người dân tộc thiểu số giữ các chức vụ lãnh đạo từ cấp phòng
trở lên ở cấp tỉnh và cấp huyện, thành phố như sau:
- Khối các ban ngành cấp tỉnh (so với tổng số trí thức ban ngành cấp tỉnh).
Lãnh đạo tỉnh và tương đương: 0,51%
Giám đốc sở và tương đương: 1,06%
Phó Giám đốc sở và tương đương: 2,3%
Trưởng phòng và tương đương: 9,04%
Phó phòng và tương đương: 11,08%
- Khối các huyện, thành phố:
Lãnh đạo huyện và tương đương: 2,5%
Trưởng phòng và tương đương: 12,14%
Phó phòng và tương đương: 9,79% [5]
Qua số liệu trên cho thấy, trí thức người dân tộc thiểu số giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý các ban, ngành cấp tỉnh, huyện, thành phố và các doanh
nghiệp từ cấp phó phòng đến cán bộ lãnh đạo chủ chốt chiếm 24,13%. Trong
đó khối các ban, ngành, doanh nghiệp cấp tỉnh chiếm tỷ lệ 24%; cấp huyện,
thành phố 24,43%. Trung bình, cứ 4 trí thức có 1 người giữ chức vụ lãnh đạo,
50
quản lý; tỷ lệ giữa cấp tỉnh và cấp huyện, thành phố ngang nhau. Như vậy,
hầu hết các chức danh lãnh đạo ở các cấp, các ngành, các doanh nghiệp trong
tỉnh đều có trình độ đại học, cao đẳng về chính trị, hoặc chuyên môn, hoặc cả
chính trị, chuyên môn và đang đẩy nhanh quá trình thực hiện chủ trương
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự lãnh đạo, điều hành hiệu quả trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, số trí thức người dân tộc thiểu số được đào tạo bài bản,
chính quy chuyên ngành khoa học - công nghệ và ngành khoa học cơ bản
khác được đề bạt, cân nhắc vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý các ban ngành
tỉnh, các huyện, xã, phường, thị trấn chưa nhiều. Đại bộ phận trí thức lãnh đạo
cấp huyện, thành phố đều là người dân tộc thiểu số và được đào tạo, chuẩn
hóa về trình độ lý luận chính trị. Trong đó, một số trường hợp chưa được đào
tạo chuyên môn hoặc đào tạo chuyên ngành không phù hợp với công việc
đang phụ trách.
Ở Lạng Sơn, tỷ lệ cán bộ trí thức là người dân tộc thiểu số tham gia
lãnh đạo, quản lý chiếm tỷ lệ tương đối cao so với một số vùng miền núi phía
Bắc. Chẳng hạn, khóa 2000 - 2005: tỉnh ủy Lạng Sơn có 84,37% là trí thức
người dân tộc thiểu số. Ban thường vụ tỉnh ủy : 90,2% là trí thức người dân
tộc thiểu số. Huyện Cao Lộc (Lạng Sơn): Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân là người dân tộc thiểu số và có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm
78,3%; ủy viên Ủy ban nhân dân huyện số lượng trí thức người dân tộc thiểu
số chiếm 80,2%.
Trong khi đó ở huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu, huyện ủy viên là trí
thức dân tộc thiểu số chiếm 30,35%, Sìn Hồ (Lai Châu) trí thức người dân tộc
thiểu số là huyện ủy viên chỉ chiếm 40,44%; ủy viên ban thường vụ người dân
tộc thiểu số chiếm 36,8% trong khi người dân tộc thiểu số chiếm 96,6% cơ
cấu dân cư [47, tr.172-173].
51
Như vậy, tỷ lệ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn tuy có thấp
hơn so với tỷ lệ cư dân là người dân tộc thiểu số, nhưng so với một số tỉnh
miền núi khác tỷ lệ này ở Lạng Sơn chênh lệch không đáng kể.
Về thâm niên công tác:
Trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn có thâm niên công tác từ
6 năm đến 25 năm, chiếm 52,33%. Đây là lực lượng đông đảo, có năng lực,
có kinh nghiệm và có nhiều cống hiến, sáng tạo. Số người có thời gian công
tác dưới 5 năm chiếm 35,46%. Đây là lực lượng trí thức trẻ sẽ tiếp tục tích lũy
kinh nghiệm, là lực lượng, kế thừa, bổ sung quan trọng cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị và các doanh nghiệp của tỉnh thời
gian tới.
Nhìn chung, tuổi đời của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh
Lạng Sơn còn khá trẻ (trung bình từ 30 - 35 tuổi); trong số đó có trên 29% là
đảng viên. Chất lượng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số không ngừng
được nâng cao, được chú ý, quan tâm đào tạo toàn diện hơn. Số cán bộ trí
thức người dân tộc thiểu số giữ các chức vụ từ cấp phòng trở lên chiếm 24%
trong tổng số trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh. Xu hướng trí thức hóa,
chuyên môn hóa cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước,
đoàn thể, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang ngày càng gia tăng. Đặc biệt, cán
bộ cấp xã, phường được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học càng nhiều. Chủ
trương tăng cường giáo viên, bác sĩ, kỹ sư trẻ về công tác ở vùng sâu, vùng xa
đã mang lại hiệu quả thiết thực và đem lại ấn tượng tốt trong quần chúng nhân
dân. Điều đó nói lên sự quan tâm, sự đổi mới về mặt nhận thức của tỉnh đối
với trí thức người dân tộc thiểu số và việc đào tạo, sử dụng, đãi ngộ trí thức
cuả tỉnh, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về phẩm chất đạo đức
Đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số được hình thành và phát triển
cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, từ đấu tranh giành độc lập
52
đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung hiện nay, đội
ngũ này có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, không dao động trước những âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch, trước những biến động phức tạp của tình
hình trong nước và quốc tế.
Đa số trí thức người dân tộc thiểu số có đạo đức trong sáng, lối sống
lành mạnh, gần gũi với đồng chí, đồng nghiệp, tận tụy hết lòng với công việc,
cố gắng vươn lên đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra trong quá trình chuyển
đổi cơ chế quản lý, mở cửa và hội nhập.
Lạng Sơn là tỉnh có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống nhưng
không xảy ra tình trạng mất đoàn kết giữa các dân tộc và giữa trí thức các dân
tộc khác nhau. Không có biểu hiện dân tộc hẹp hòi, kỳ thị hoặc thành kiến dân
tộc trong đội ngũ trí thức công tác trong các cấp, các ngành, các khối cơ quan.
Tuy nhiên, bên cạnh những phẩm chất tích cực, đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Một bộ phận sa sút về
phẩm chất đạo đức, thiếu tu dưỡng rèn luyện, ngại khó, ngại khổ, ngại đi công
tác ở cơ sở do đường đi lại khó khăn, thiếu hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục
tập quán của đồng bào các dân tộc.
Một số ít trí thức người dân tộc thiểu số chạy theo chủ nghĩa thực dụng,
quan liêu, độc đoán. Tình trạng tương đối phổ biến là cán bộ trí thức có tư
tưởng lựa chọn vị trí công tác, không muốn làm ở cơ quan Đảng và đoàn thể
mà muốn chuyển sang công tác ở cơ quan quản lý nhà nước. Một số cán bộ trí
thức chạy theo lợi ích trước mắt mang tính cục bộ cá nhân, “chạy” chức
quyền, học vị bằng cấp, kèn cựa địa vị, ngôi thứ làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Bên cạnh đó còn một số cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số chưa
khắc phục được tâm lý an phận, tự ty, ngại học tập, tiếp thu tri thức mới; có
tác phong gia trưởng, độc đoán, thói quen tùy tiện của nếp sống tự nhiên trong
xã hội truyền thống. Một số cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số còn xử lý
53
công việc thường “nặng tình”, “nhẹ lý” do ảnh hưởng của quan hệ dòng họ
dẫn đến những vi phạm pháp luật.
Về cơ cấu phân bố
Trí thức dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn chiếm tỷ lệ thấp so với trí thức
người Kinh, phân bố không đều và cơ cấu còn bất hợp lý, giữa các dân tộc
thiểu số của tỉnh. Trình độ phát triển không đều giữa các dân tộc thiểu số dẫn
đến tình trạng này. Cụ thể là, trí thức người dân tộc thiểu số phần lớn chỉ tập
trung ở những dân tộc có trình độ phát triển khá như: Tày, Nùng, Dao. Các
dân tộc này có con em đạt trình độ cao đẳng, đại học ngày càng tăng và phát
triển rộng khắp ở các lĩnh vực từ giáo dục, văn hóa - nghệ thuật, y tế đến
khoa học - công nghệ và dịch vụ.
Trí thức dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh phân bố không đều và cơ cấu
còn bất hợp lý, tập trung chủ yếu ở thành phố, thị trấn; còn ở vùng sâu, vùng
xa, vùng “đặc biệt khó khăn” chiếm tỷ lệ không đáng kể. Trong khi đó hiện
nay lại xuất hiện một xu hướng đáng lo ngại là tình trạng chuyển dịch trí thức
dân tộc thiểu số từ các vùng khó khăn đến những đô thị và thành phố.
Cơ cấu đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số trên tất cả các mặt: cơ
cấu ngành/ lĩnh vực, cơ cấu độ tuổi, giới tính đều bất hợp lý. Về cơ cấu
ngành/ lĩnh vực, trí thức người dân tộc thiểu số chủ yếu tập trung ở các cơ
quan thuộc hệ thống chính trị, văn hóa - nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, còn
các lĩnh vực kinh tế và khoa học - công nghệ số lượng không đáng kể. Tình
trạng bất hợp lý không chỉ thể hiện giữa ngành này với ngành khác mà ngay
cả nội ngành, chẳng hạn như: trong lĩnh vực giáo dục - một lĩnh vực được
xem có số lượng trí thức dân tộc thiểu số nhiều nhất - thì cũng tập trung chủ
yếu là giáo viên các ngành khoa học xã hội - nhân văn, còn các lĩnh vực khoa
học tự nhiên chiếm tỷ lệ ít. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo viên người dân tộc
thiểu số chủ yếu giảng dạy ở bậc tiểu học, trung học cơ sở, còn lên đến bậc
trung học phổ thông ít dần và càng ít hơn khi lên các bậc trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng và đại học. Hoặc, trong lĩnh vực y tế, số bác sỹ người dân
54
tộc thiểu số chủ yếu ở tuyến huyện, tuyến xã, còn lên cấp tỉnh rất ít và càng ít
hơn đối với các cơ sở y tế thuộc Trung ương. Trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ - trí thức người dân tộc thiểu số càng thiếu và hạn chế về năng lực
hoạt động.
Tỷ lệ trí thức người dân tộc thiểu số tham gia làm việc ở cấp xã cao hơn
cấp huyện, cấp huyện cao hơn cấp tỉnh. Tỷ lệ trí thức là người dân tộc thiểu số
khối Đảng, đoàn thể cao hơn cấp chính quyền. Chẳng hạn:
- Khối Đảng: Trí thức người dân tộc thiểu số cấp tỉnh chiếm
53,93%; cấp huyện chiếm 70,62%; cấp xã chiếm 85,91%.
- Khối đoàn thể: Trí thức người dân tộc thiểu số cấp tỉnh chiếm
45,18%; Cấp huyện chiếm 80,48%; cấp xã chiếm 84, 60% .
- Khối chính quyền: trí thức là cán bộ người dân tộc thiểu số các sở,
ban, ngành của tỉnh, các huyện chiếm 36,8%; cấp xã 62,33%.
Phân tích sâu từng dân tộc cho thấy, tỷ lệ này còn có sự chênh lệch lớn
hơn so với cơ cấu dân cư. Chẳng hạn: Dân tộc Nùng chiếm 42,96% cư dân
trong toàn tỉnh, trí thức dân tộc Nùng chiếm 38,23% trong tổng số trí thức
người dân tộc thiểu số trong tỉnh. Tương ứng như vậy, dân tộc Tày 35,98% và
19,96% , dân tộc Dao 3,47% và 0,6%, dân tộc H’mông 1,41% và 0,2%... [5].
Với số lượng ít, sự phân bố còn bất hợp lý và chất lượng nhìn chung
còn thấp như vậy nên đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số chưa thể đóng vai trò
chủ đạo trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ngay tại những địa phương
mà đồng bào dân tộc thiểu số chiếm số đông như ở tỉnh Lạng Sơn.
2.1.2. Thực trạng công tác phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn
* Những kết quả đạt được
Xuất phát từ quan điểm: trí thức là vốn quí của dân tộc, là một lực
lượng cách mạng, là động lực của sự phát triển, Đảng bộ và lãnh đạo các ban
ngành tỉnh Lạng Sơn đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên, đãi ngộ phát
55
triển nguồn nhân lực trong tỉnh, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển đội ngũ
trí thức và trí thức người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Cụ thể là:
Công tác quy hoạch cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số
Nghị quyết Trung ương ba (khóa VIII) về chiến lược cán bộ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn
mạnh: "Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo
đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài" [13, tr.82].
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác quy hoạch, ngày
10/3/1998, Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 17-CT/TU về công tác xây dựng quy
hoạch cán bộ, trí thức. Theo sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, từ Tỉnh
ủy đến các huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc, các Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng
tiến hành việc nhận xét, đánh giá và phân loại cán bộ theo ba loại: đã được
đào tạo cơ bản, hoàn thành nhiệm vụ có khả năng phát triển cao hơn; hoàn
thành nhiệm vụ, ổn định công tác; cần phải thay đổi bố trí lại công tác. Đồng
thời, tiến hành xây dựng quy hoạch cán bộ ở tất cả các ngành. Tỉnh ủy đã xây
dựng quy hoạch 7 chức danh lãnh đạo chủ chốt: Bí thư, phó Bí thư, Chủ tịch,
phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và
Thường vụ trưởng các Ban Đảng tỉnh. Chỉ đạo các huyện, thị, Đảng ủy trực
thuộc; các sở, ban, ngành đoàn thể tỉnh xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo của
địa phương, đơn vị mình.
Theo kết quả tổng hợp ở 11 huyện, thị và 28 cơ sở, ban ngành, căn cứ
tiêu chuẩn cán bộ và tình hình thực tiễn, có 282 lượt cán bộ được đưa vào
diện quy hoạch tạo nguồn cán bộ lãnh đạo các chức danh diện Tỉnh ủy quản
lý [53].
Tiếp tục thực hiện các văn bản hướng dẫn của Trung ương và kết luận
Hội nghị Trung ương bảy (khóa X) về công tác xây dựng phát triển đội ngũ trí
thức, Tỉnh ủy đã quán triệt và xây dựng Chương trình hành động số 163-
56
Chtr/TU ngày 21/10/2002, chú trọng nhiệm vụ xây dựng quy hoạch đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm chủ động tạo nguồn, đảm bảo sự chuyển tiếp
cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành trong những năm tới.
Để tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh và quy hoạch cán bộ, Thường
vụ Tỉnh ủy đã có Công văn số 173-CV/TU ngày 18/12/2002 về xây dựng quy
hoạch cán bộ Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009, nhiệm kỳ cấp ủy 2005-
2010. Căn cứ hướng dẫn số 17-HD/TCTW ngày 23/4/2003 của Ban tổ chức
Trung ương về quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; Ban Tổ chức Tỉnh ủy có Công văn số 441-CV/TC
ngày 30/5/2003 hướng dẫn công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Kết quả quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2005-2010 như sau:
- Quy hoạch nguồn Bí thư, phó Bí thư, Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân (cấp huyện, thị) có 57 đồng chí. Trong đó: dân tộc
thiểu số 41 đồng chí, chiếm 71,93%; nữ 2 đồng chí, chiếm 3,51%.
- Quy hoạch nguồn các chức danh cấp trưởng, phó các sở, ban, ngành,
đoàn thể có 95 đồng chí. Trong đó: dân tộc thiểu số 89 đồng chí, chiếm
93,68%; nữ 11 đồng chí, chiếm 11,58%.
- Quy hoạch nguồn nhân sự Ban Chấp hành khóa XIV có 73 đồng chí.
Trong đó: dân tộc thiểu số 57 đồng chí, chiếm 78,08%; nữ 9 đồng chí, chiếm
12,33%.
- Quy hoạch nguồn nhân sự Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 22 đồng chí.
Trong đó: dân tộc thiểu số 18 đồng chí, chiếm 81,82%; nữ 1 đồng chí, chiếm
4,55%.
Thông qua các số liệu trên cho thấy, cơ cấu dân tộc và giới trong quy
hoạch đã được các đơn vị chú trọng nên tỷ lệ tương đối cao. Một số cán bộ trí
thức dân tộc thiểu số trẻ có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức, có triển
vọng phát triển đã đưa vào quy hoạch kế cận, dự bị cho các chức danh chủ
chốt [53].
57
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số
Trên cơ sở quy hoạch, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được tiến
hành thường xuyên và bước đầu có những chuyển biến tích cực cả về đối
tượng, nội dung và phương thức. "Chỉ tính từ 1996-2000, đã có trên 9.000
lượt cán bộ được cử đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên
môn, nghiệp vụ, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế... ở Trung ương và địa
phương" [52]. Trong đó, đào tạo hệ cao cấp, cử nhân người dân tộc thiểu số
gần 30%; đào tạo hệ trung cấp và bồi dưỡng người dân tộc thiểu số ước
khoảng 65% trở lên.
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo tinh
thần Quyết định số 74-QĐ/TTg ngày 7/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ và
Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 18/12/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc:
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001 - 2010, từ năm 2001 đến
tháng 6/2005, Trường Chính trị tỉnh Lạng Sơn đã mở được các lớp như sau:
- Hệ đào tạo:
+ Trung cấp lý luận chính trị hệ chính quy tập trung 1 lớp, với 48 học viên.
+ Trung cấp lý luận chính trị hệ tại chức: 22 lớp, với tổng số 1.518 học viên.
+ Trung cấp hành chính: 3 lớp với 223 học viên.
- Hệ bồi dưỡng:
+ Các lớp bồi dưỡng mở theo kế hoạch của Tỉnh ủy cho cán bộ khối
Đảng, đoàn thể nhân dân ở cơ sở (xã, phường, thị trấn): 61 lớp với 3.996 học viên.
+ Các lớp bồi dưỡng mở theo quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh: 50
lớp với 2.715 học viên.
+ Các lớp mở theo dự án đào tạo cán bộ xã nghèo đặc biệt khó khăn
(Chương trình 135 của Chính phủ): 39 lớp với 2.181 học viên gồm các đối
tượng là Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; trưởng thôn, bản; trưởng
đoàn thể nhân dân: Mặt trận, thanh niên, phụ nữ, nông dân và ban giám sát xã.
58
Như vậy, chỉ trong vòng 4,5 năm, Trường Chính trị tỉnh Lạng Sơn mở
được 177 lớp với 10.819 học viên. Trong đó, hệ đào tạo: 27 lớp với 1.927 học
viên, tỷ lệ học viên là người dân tộc thiểu số ước khoảng trên 70%; hệ bồi
dưỡng: 150 lớp với 8.892 học viên, tỷ lệ học viên người dân tộc thiểu số ước
khoảng trên 80%.
Về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng: tỷ lệ tốt nghiệp các lớp đào tạo đạt
100%, trong đó: khá, giỏi chiếm 65%; các lớp bồi dưỡng khá, giỏi chiếm 70%
trở lên.
Với phương châm: đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tỉnh đã chú trọng
mở các lớp đào tạo tại chức cho cán bộ đương chức, cán bộ nguồn, cán bộ
thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác ngay trên địa bàn tỉnh như: Phối hợp với
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh mở 3 lớp cao cấp lý
luận chính trị với 305 học viên (gần 31% là người dân tộc thiểu số). Phối hợp
với Học viện Hành chính Quốc gia mở 1 lớp cử nhân hành chính với 151 học
viên (31% là người dân tộc thiểu số). Phối hợp với Học viện Báo chí - Tuyên
truyền mở 1 lớp đại học báo chí cho 86 học viên (51% là người dân tộc thiểu
số). Ngoài ra, hàng năm tỉnh còn cử khoảng trên dưới 100 cán bộ đi đào tạo
tập trung về chuyên môn nghiệp vụ tại các trường ở Trung ương (tỷ lệ người
dân tộc thiểu số trên, dưới 30%).
Như vậy, tổng hợp kết quả đào tạo, bồi dưỡng trí thức của tỉnh từ 2001
đến hết 2005 cho thấy:
- Tổng số trí thức được đào tạo, bồi dưỡng là 22.360. Trong đó, trí thức
người dân tộc thiểu số là 11.490, chiếm 51,27%; cán bộ nữ là 8.180, chiếm
37,68% trong tổng số cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng [50].
- Chia theo cấp quản lý:
+ Cấp tỉnh: đào tạo, bồi dưỡng được 5.631 người. Trong đó, người dân
tộc thiểu số là 2.194, chiếm 38,96%; cán bộ nữ: 1.295, chiếm 23% trong tổng
số cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng.
59
+ Cấp huyện: đào tạo, bồi dưỡng được 4.439 người. Trong đó, người
dân tộc thiểu số là 2.185, chiếm 49,22%; trí thức nữ: 840, chiếm 18,92%
trong tổng số trí thức được đào tạo, bồi dưỡng.
Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức người dân tộc thiểu số
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức người dân tộc thiểu số, để
tạo động lực và khuyến khích phát triển đội ngũ này, tỉnh đã vận dụng linh
hoạt một số quy định của chính phủ để phụ cấp hỗ trợ thêm cho đối tượng
này. Cụ thể là ngày 22/7/2005, tại kỳ họp thứ 4 - Hội đồng nhân dân tỉnh khóa
XIV, thông qua Nghị quyết số 35/2005/NQ-HĐND-14 "Quy định một số
chính sách khuyến khích cán bộ, công chức học tập".
Tại Khoản 1 Mục I phần A có quy định chế độ chính sách và mức trợ
cấp như sau:
- Đối với cán bộ, công chức đang công tác tại các cơ quan Đảng, Nhà
nước, đoàn thể cấp tỉnh, huyện, thị xã được cử đi đào tạo sau đại học, ngoài
các chế độ được hưởng theo quy định của Nhà nước hiện hành, còn được hỗ
trợ sau khi nhận bằng tốt nghiệp:
+ Tốt nghiệp thạc sĩ hệ vừa học, vừa làm: 5.000.000 đồng/người. Nếu
đạt loại khá: 7.000.000 đồng/người; loại giỏi: 9.000.000 đồng/người.
+ Tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên khoa cấp II hệ tập trung: 7.000.000 đồng/
người. Nếu đạt loại khá: 9.000.000 đồng/người; loại giỏi: 12.000.000 đồng/người.
+ Tốt nghiệp tiến sĩ hệ vừa học, vừa làm: 12.000.000 đồng/người. Nếu
đạt loại khá: 14.000.000 đồng/người; loại giỏi: 16.000.000 đồng/người.
+ Tốt nghiệp tiến sĩ hệ tập trung: 15.000.000 đồng/người. Nếu đạt loại
khá: 17.000.000 đồng/người; loại giỏi 20.000.000 đồng/người.
Nếu là người dân tộc thiểu số, ngoài các chế độ được hưởng theo quy
định trên còn được hỗ trợ trong quá trình học tập thực tế:
+ Cán bộ, công chức đang công tác tại những nơi có hệ số phụ cấp khu vực
từ 0,1 - 0,2: nam 350.000 đồng/người/tháng; nữ 400.000 đồng/người/tháng.
60
+ Cán bộ, công chức đang công tác tại những nơi có hệ số phụ cấp khu vực
0,3 trở lên: nam 400.000 đồng/người/tháng, nữ 450.000 đồng/người/tháng.
- Đối với cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã được cử đi học đại học
trong và ngoài tỉnh, được hưởng theo quy định của Nhà nước hiện hành, còn
được hỗ trợ mua tài liệu 200.000 đồng/người/năm; nghiên cứu thực tế
400.000 đồng/người/khóa học và hỗ trợ trong quá trình học tập thực tế.
+ Cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã đang công tác những nơi có
hệ số trợ cấp khu vực từ 0,1 - 0,2: đào tạo trong tỉnh nam 150.000
đồng/người/tháng, nữ 200.000 đồng/người/tháng (trừ thời gian nghỉ hè); đào tạo
ngoài tỉnh: nam 350.000 đồng/người/tháng, nữ 400.000 đồng/người/tháng (trừ
thời gian nghỉ hè).
+ Cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã đang công tác những nơi có hệ số
khu vực 0,3 trở lên: Đào tạo trong tỉnh: nam 200.000 đồng/người/tháng, nữ 250.000
đồng/người/tháng (trừ thời gian nghỉ hè); đào tạo ngoài tỉnh: nam 400.000
đồng/người/tháng, nữ: 450.000 đồng/người/tháng (trừ thời gian nghỉ hè) [6].
Như vậy, nếu so sánh chính sách chế độ hiện hành về đào tạo, bồi
dưỡng của tỉnh Lạng Sơn hiện nay với chính sách chế độ mới của tỉnh trước
đây, có thể thấy rằng: đây là sự "đột phá" trong nhận thức và hành động đối
với việc ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ người dân tộc thiểu số học
tập, nâng cao trình độ chuyên môn. Chính sách này không chỉ chú ý tới cán
bộ người dân tộc thiểu số, mà còn có sự quan tâm cụ thể tới từng vùng (khu
vực); đồng thời, còn có sự khuyến khích trong học tập đạt kết quả cao.
Về công tác bố trí, sử dụng trí thức người dân tộc thiểu số
Phần lớn trí thức người dân tộc thiểu số sau khi đào tạo về được bố trí
công việc một cách tương đối hợp lý. Việc sử dụng trí thức người dân tộc
thiểu số đã được các cấp, các ngành chú ý quan tâm hơn trước.
Đội ngũ trí thức hiện nay nói chung, trí thức người dân tộc thiểu số
nói riêng từng bước được thay thế, bố trí lại để đáp ứng yêu cầu của cơ chế
61
mới trong điều kiện kinh tế thị trường. Đối với trí thức là cán bộ lãnh đạo,
quản lý, bên cạnh những cán bộ người dân tộc thiểu số có thâm niên công
tác, vững về chính trị và giàu kinh nghiệm thực tiễn, đã chú trọng sử dụng
những cán bộ trí thức trẻ người dân tộc thiểu số được đào tạo cơ bản, có tư
duy đổi mới, năng động, tháo vát, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách
nhiệm, có kiến thức về kinh tế, pháp luật.
Việc bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức nói chung, trí thức người dân tộc
thiểu số nói riêng dần gắn với quy hoạch dựa trên nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tỉnh đã xây dựng quy chế bổ nhiệm; quy định rõ mọi chức danh bổ
nhiệm có thời hạn và nhất thiết phải được sự tín nhiệm của tập thể mới được
bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý.
Về công tác luân chuyển trí thức người dân tộc thiểu số
Căn cứ yêu cầu công tác và năng lực của trí thức, tỉnh đã điều động
luân chuyển, bố trí lại một số trí thức trẻ có triển vọng trong quy hoạch để rèn
luyện, bồi dưỡng năng lực thực tiễn, khắc phục một bước tình trạng khép kín
trong từng ngành, từng huyện, thị, tạo nguồn cán bộ trí thức lâu dài cho địa
phương.
Thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị ngày 25/01/2002 về luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, tỉnh đã xây dựng Kế hoạch số 136-KHTU
ngày 30/6/2002 về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Kết quả, từ năm 2001 đến năm 2006: Trí thức dân tộc thiểu số là cán bộ
thuộc diện Tỉnh ủy quản lý, luân chuyển được 35 đồng chí: từ tỉnh đi Trung
ương 5 đồng chí, từ tỉnh về huyện 3 đồng chí, từ huyện về tỉnh 9 đồng chí,
Tỉnh ủy sang ủy ban nhân dân tỉnh 1 đồng chí, ngành này sang ngành khác 7
đồng chí, từ Huyện ủy sang ủy ban nhân dân huyện 3 đồng chí, huyện này
sang huyện khác 2 đồng chí.
Cán bộ trí thức dân tộc thiểu số thuộc diện huyện, ngành quản lý đã
luân chuyển 59 đồng chí: Từ huyện xuống cơ sở 3 đồng chí, huyện này
62
sang huyện khác 7 đồng chí, cơ sở về huyện 11 đồng chí, từ huyện và cơ sở
về tỉnh 4 đồng chí, huyện này sang huyện khác 7 đồng chí, huyện ủy sang
ủy ban nhân dân huyện 5 đồng chí, luân chuyển trong ủy ban nhân dân
huyện 19 đồng chí, tỉnh về huyện và cơ sở 3 đồng chí [53].
Quá trình thực hiện luân chuyển cán bộ trí thức đã tạo ra động lực mới
cho công tác đào tạo trí thức dân tộc thiểu số, nhất là đối với đội ngũ trí thức
trong quy hoạch có năng lực, triển vọng góp phần thúc đẩy tốt hơn công tác
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng trí thức, bước đầu khắc phục tình
trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá trong công tác cán bộ. Tỷ lệ trí thức người
dân tộc thiểu số chiếm khoảng trên 70% trong tổng số trí thức được luân
chuyển. Đại đa số cán bộ trí thức được luân chuyển trong thời gian qua là cán
bộ trẻ, tiếp cận nhanh với cương vị và môi trường công tác mới, nâng cao
được tầm tư duy, sự hiểu biết cả lý luận và thực tiễn, được cán bộ, đảng viên,
được nhân dân các dân tộc tín nhiệm.
Các số liệu trên là minh chứng về thành tựu trong công tác phát triển
đội ngũ trí thức của tỉnh nói chung và trí thức người dân tộc thiểu số nói
riêng trong thời gian qua.
Nguyên nhân của thành tựu là do các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt
trận và đoàn thể đã nhận thức đúng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
công tác đào tạo, bồi dưỡng; cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách
của Nhà nước thành những chương trình hành động của các cấp, các ngành,
tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ một phần kinh phí để đội ngũ trí thức nói
chung, trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng chuyên tâm học tập.
Đồng thời đó là là sự tự ý thức vươn lên trong học tập của đội ngũ trí
thức, nhất là trí thức người dân tộc thiểu số nhằm từng bước nâng cao trình
độ, với ý chí quyết tâm đưa địa phương mình thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
63
* Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện công tác phát
triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số cũng còn nhiều hạn chế. Cụ thể là:
- Công tác quy hoạch cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số
Công tác rà soát, đánh giá đưa vào diện quy hoạch cán bộ nguồn (kế cận
và dự bị) chưa thực sự đối chiếu với nhiệm vụ, trách nhiệm được giao và căn
cứ vào hiệu quả công tác. Có lúc, có nơi còn nhấn mạnh một chiều thành phần
xuất thân, quá trình cống hiến, hoặc đề cao bằng cấp. Các tiêu chuẩn đánh giá
để đưa vào quy hoạch còn chung chung, thường chỉ căn cứ vào tiêu chí định
lượng như tuổi, bằng cấp, số nhiệm kỳ tham gia mà chưa có tiêu chí cụ thể về
giới tính, về thành phần dân tộc, về độ tuổi nên số cán bộ nữ, cán bộ người dân
tộc thiểu số (trừ dân tộc Nùng) trong quy hoạch các chức danh còn ít, tuổi bình
quân của cán bộ trong quy hoạch cao. Chẳng hạn, quy hoạch nguồn 2005 -
2010: cấp huyện, thị: quy hoạch nguồn Bí thư nữ = 0; tuổi dưới 40 = 0; quy
hoạch nguồn Chủ tịch Hội đồng nhân dân nữ = 0; tuổi dưới 40 = 0 [53].
Việc triển khai thực hiện công tác quy hoạch trí thức người dân tộc
thiểu số còn chậm, không đều khắp, nhất là ở cơ sở và nhìn chung còn khép
kín trong từng địa phương, đơn vị. Số lượng cán bộ được quy hoạch vào chức
danh lãnh đạo, quản lý ở các sở, ban, ngành của tỉnh và các huyện, thị còn ít.
Chẳng hạn, quy hoạch cán bộ nguồn giai đoạn 2005 - 2010:
Cấp huyện, thị quy hoạch nguồn Bí thư có 13 đồng chí dự nguồn/10
đơn vị = 1,3 đồng chí/1 chức danh;
Phó Bí thư có 11 đồng chí dự nguồn/10 đơn vị = 1,1 đồng chí/1 chức danh;
Quy hoạch nguồn Chủ tịch Hội đồng nhân dân có 11 đồng chí dự
nguồn/8 đơn vị = 1,38 đồng chí/1 chức danh;
Quy hoạch nguồn trưởng ngành có 49 đồng chí/39 chức danh = 1,26
đồng chí /1 chức danh [37].
64
Một số đồng chí trong diện quy hoạch nhưng chưa qua đào tạo cơ bản
về trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ và trải nghiệm thực tế.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do một số cấp ủy chưa trực
tiếp, thường xuyên chỉ đạo thực hiện quy hoạch cán bộ; còn có tình trạng
khoán trắng cho cơ quan tham mưu. Chưa mạnh dạn tin tưởng và kiên quyết
trong trẻ hóa cán bộ, một mặt lo họ chưa đủ phẩm chất, năng lực và bản lĩnh
để đảm trách; mặt khác, một số cán bộ bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân, ham
quyền lực nên chậm trễ trong công tác đào tạo cán bộ kế cận. Có lúc, có nơi
cấp ủy chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc đánh giá cán bộ liên quan trực
tiếp đến sinh mệnh chính trị cán bộ, đến tuyển chọn, đào tạo đúng và sử dụng
tốt cán bộ người dân tộc thiểu số, nên việc đánh giá còn mang tính chủ quan,
thiếu khoa học dẫn tới công tác quy hoạch còn chưa đảm bảo về số lượng,
chất lượng và cơ cấu theo yêu cầu.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số ở
Lạng Sơn tuy đã được đẩy mạnh nhưng hiệu quả còn thấp, chất lượng chưa
cao. Đào tạo chưa gắn với quy hoạch, chưa chú ý đào tạo theo tiêu chuẩn
chức danh, thậm chí còn mang tính tự phát, tràn lan. Một bộ phận cán bộ tự
thấy "cần gì, học nấy" nên dẫn đến tình trạng có những trường hợp cùng một
thời điểm tham gia học cả hai lớp, do vậy hiệu quả không cao.
Trong chỉ đạo, nặng về bồi dưỡng, đào tạo tại chức nhiều hơn đào tạo
chính quy nhưng thiếu kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ một cách hệ
thống. Chưa tích cực đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa. Kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trí thức người dân tộc
thiểu số còn thấp, nhất là chưa có chính sách chế độ riêng cho đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số (tính từ năm 1996 đến hết năm 2005).
Nội dung, phương thức đào tạo mới dừng lại ở việc đào tạo chung cho
đội ngũ cán bộ trí thức cho các cấp, các ngành, chưa xây dựng kế hoạch,
65
chương trình đào tạo riêng cho đội ngũ cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số,
nhất là đối với cán bộ người dân tộc thiểu số cấp cơ sở. Với những đối tượng
này, trình độ học vấn rất khác nhau, nhưng khi mở lớp đào tạo (chẳng hạn:
trung cấp lý luận, trung cấp hành chính) cho cán bộ đương chức, cán bộ
nguồn cấp huyện, thị xã và cấp cơ sở thì đều "được" học chung 1 lớp với
những nhu cầu và khả năng tiếp thu kiến thức "khác nhau" nên đã ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng đào tạo.
Công tác bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ trí thức người dân tộc
thiểu số.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số còn mang
tính dân chủ hình thức. Một số nơi sử dụng cán bộ còn tùy tiện, chắp vá,
không trên cơ sở chọn đúng người có đủ tiêu chuẩn, chức danh; không vì việc
mà đặt người. Bố trí cán bộ còn theo cảm tính hoặc nặng về cơ cấu, nên dẫn
đến tình trạng: đào tạo một đằng nhưng sử dụng một nẻo, tức là việc bố trí sử
dụng không gắn với chuyên môn đào tạo.
Chưa gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch, đào tạo với bố trí, sử dụng cán
bộ trí thức người dân tộc thiểu số, nhất là đối với học sinh, sinh viên là người
dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp. Cơ chế tuyển dụng cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số chưa
thật hợp lý, thiếu ưu tiên. Chế độ thi tuyển công chức cũng còn nhiều bất cập và
tiêu cực.
Tuy đã đạt được những tiến bộ nhất định trong công tác luân chuyển,
nhưng cũng phải thừa nhận rằng: việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
còn không ít những tồn tại, hạn chế và nhiều mặt bất cập. Ở một số cấp,
ngành còn bị động trong xây dựng kế hoạch luân chuyển, dẫn tới thiếu đồng
bộ. Thậm chí có trường hợp luân chuyển để giải quyết tình thế, luân chuyển
không dựa trên đánh giá, quy hoạch cán bộ nên số cán bộ đó khi được cọ sát
với thực tiễn tỏ ra lúng túng, hiệu quả công việc không cao.
66
Một số nơi còn có sự nhầm lẫn giữa việc luân chuyển cán bộ người dân
tộc thiểu số theo quy hoạch để rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lâu dài
với việc điều động, bố trí cán bộ người dân tộc thiểu số theo yêu cầu trước
mắt. Số lượng cán bộ người dân tộc thiểu số được luân chuyển giữa các cấp,
các ngành chưa nhiều. Do chưa làm tốt công tác tư tưởng, một số cán bộ
người dân tộc thiểu số khi được gợi ý luân chuyển có biểu hiện ngại khó, ngại
khổ, tính toán thiệt hơn, nên việc luân chuyển từ dưới lên trên; từ khối Đảng,
đoàn thể sang cơ quan nhà nước thì dễ được chấp nhận, còn ngược lại thì gặp
khó khăn hơn.
Một trong những nguyên nhân quan trọng của hạn chế, thiếu sót trên do
một số cấp, ngành, một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa nhận thức
đầy đủ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc luân chuyển. Chưa xây
dựng được chiến lược cán bộ người dân tộc thiểu số trong tổng thể công tác
cán bộ; chưa gắn luân chuyển với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ người dân tộc thiểu số. Chưa xây dựng được chính sách chế độ
phù hợp đối với cán bộ người dân tộc thiểu số được luân chuyển, nhất là đối
với cán bộ được luân chuyển tới vùng sâu, vùng xa, vùng cao - nơi có nhiều
đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống. Chưa chủ động tiến hành thành nề
nếp việc luân chuyển cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị;
quá trình thực hiện luân chuyển còn thiếu kiểm tra, đôn đốc thường xuyên.
Trên đây là những thành tựu và hạn chế căn bản trong việc phát triển
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn những năm qua. Nhận
diện rõ thực trạng này là một trong những căn cứ quan trọng để dự báo xu
hướng phát triển chủ yếu của đội ngũ này trong những năm tiếp theo, đồng
thời là căn cứ thực tiễn đề đề xuất một hệ giải pháp phù hợp nhằm phát nhanh
đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu của thời ký công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Lạng Sơn.
67
2.2. Xu hƣớng phát triển đội ngũ trí thức ngƣời dân tộc thiểu số ở
tỉnh Lạng Sơn
Muốn có giải pháp phù hợp để phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn, thì việc dự báo đúng xu hướng phát triển của đội
ngũ này là điều rất quan trọng. Căn cứ vào yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh; vào thực trạng đội ngũ này và thực
trạng phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn
những năm qua, luận văn dự báo một số xu hướng chủ yếu sau.
2.2.1. Trong những năm tới, đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
của tỉnh Lạng Sơn sẽ tăng về số lượng và chất lượng
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
nói chung và trên địa bàn Lạng Sơn nói riêng trong điều kiện cách mạng khoa
học - công nghệ, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế phát triển đặt ra yêu cầu
chung là người lao động ngày nay phải có kiến thức, kỹ năng, nghề nghiệp và
phẩm chất đạo đức; có nghiệp vụ và tác phong công nghiệp, cần cù lao động
và sáng tạo để có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Để thực hiện được yêu
cầu đó cần phải có nguồn lực con người có trình độ chuyên môn cao, trong đó
đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt, là tinh hoa tiêu biểu cho nguồn nhân
lực chất lượng cao của dân tộc.
Hiện nay, Lạng Sơn sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu, do vậy, lao
động nông, lâm nghiệp chiếm tỷ lệ lớn. Trong đó, đồng bào các dân tộc thiểu
số tăng gia sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn, vùng núi cao. Do đó
để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh nói chung và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng, tỉnh Lạng Sơn
phải đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và coi trọng chính sách, quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng lao động,
trình độ chuyên môn, tay nghề của lực lượng lao động. Nhờ đó, số lượng và
68
chất lượng của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh sẽ ngày càng
gia tăng.
Tỉnh Lạng Sơn có nhiều thuận lợi trong việc đào tạo, phát triển đội ngũ
trí thức nói chung và trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng với chất lượng
ngày càng tốt hơn. Những chủ trương, chính sách của Đảng trong Nghị quyết
hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, đã được thông qua và đi vào đời
sống xã hội. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được đổi mới theo hướng tích cực,
hiện đại, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo vươn tới ngang bằng các
nước trong khu vực. Ngân sách Nhà nước và các thành phần kinh tế đầu tư
cho nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học có xu hướng tăng dần theo quá
trình tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Đó là cơ sở quan trọng để đội ngũ
trí thức ngày càng lớn mạnh về lực lượng và đạt được những thành tựu về
khoa học và công nghệ trong hoạt động thực tiễn của mình.
Các ngành, các cấp cũng ngày càng nhận thức đúng đắn hơn vị trí, vai
trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên
chính sách ưu đãi và trọng dụng trí thức ngày càng được chú trọng hơn. Đồng
thời, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho trí thức, trong đó có đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số tiếp cận với nền khoa học và công nghệ hiện đại của
thế giới, thúc đẩy việc học tập, nâng cao trình độ, tự vươn lên để cống hiến và
làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.
Tỉnh cũng đang thực hiện nhiều chủ trương, chính sách đối với đội ngũ
trí thức trong tỉnh nói chung và trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng, trong
đó đặc biệt là “Dự án đào tạo, thu hút nguồn nhân lực tỉnh Lạng Sơn, giai
đoạn 2005- 2015”. Mục tiêu của dự án là phát triển một đội ngũ trí thức có
trình độ sau đại học đủ tiêu chuẩn và điều kiện để tiến tới xây dựng trường
69
Đại học Cộng Đồng tại Lạng Sơn. (Dự án phát triển trường Đại học ở Lạng
Sơn); Các cơ quan, ban ngành trong tỉnh thực hiện theo Công văn số
28/UBND tỉnh Lạng Sơn về chế độ cho cán bộ đi học thạc sỹ và nghiên cứu
sinh. Dự án đào tạo liên thông trình độ cao đẳng, đại học cho cán bộ công
nhân viên chức trong tỉnh (có chỉ tiêu phù hợp với từng đơn vị). Như vậy, chỉ
tiêu, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đã được thực hiện và
bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực, khuyến khích đông đảo công chức,
viên chức tham gia. Theo dự báo và kế hoạch, trong 5 năm tới (2010 - 2015),
số trí thức có trình độ trên đại học sẽ tăng lên đủ số lượng cần thiết, để một số
trường chuyên nghiệp trong tỉnh xây dựng mô hình trường cấp cao hơn
Như vậy, với sự đầu tư mạnh mẽ và sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, cộng với sự nỗ lực của chính các nhà trí thức, chắc chắn
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn sẽ tăng lên cùng với
đội ngũ trí thức của tỉnh về cả số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện thành công các kế hoạch, định hướng
phát triển bền vững cho tỉnh.
2.2.2. Xuất phát từ tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực liên quan đến thương mại, du lịch
và dịch vụ có xu hướng tăng nhanh
Với lợi thế về vị trí địa lý, quan hệ giao lưu văn hóa, thương mại với
Trung Quốc, trong những năm tới số lượng trí thức sẽ tăng nhanh trong các
lĩnh vực thương mại, du lịch và dịch vụ.
Việc giao lưu, hợp tác, trao đổi kinh tế với Trung Quốc ở Lạng Sơn
ngày càng phát triển và mở rộng. Hoạt động thương mại và kinh tế cửa khẩu
đã mang đến cho Lạng Sơn những điều kiện để phát triển. Hoạt động này thu
về cho ngân sách tỉnh nguồn thu tương đối lớn. Hàng năm, Lạng Sơn thu hút
được đông đảo du khách thập phương đến tham quan, du lịch, bởi vì nơi đây
có nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú với trên 100 hang động lớn nhỏ, phân
70
bố lộ trình lôi cuốn người du lịch tới cuội nguồn của nền văn hóa Bắc Sơn nổi
tiếng. Các khu nghỉ mát, điều dưỡng ở Mẫu Sơn, Thác trà - Nà Me, Khuổi
Sao... cùng nhiều nền văn hóa đặc sắc của các dân tộc thuộc tỉnh Lạng Sơn,
với các lễ hội truyền thống, chợ phiên, chợ hội và các sản phẩm đặc sản như
Phở chua, vịt Quay, quýt Bắc Sơn, hồng Bảo Lâm mang đậm đà bản sắc của
các dân tộc. Với loại hình du lịch này, vai trò của trí thức người dân tộc thiểu
số, nhất là các trí thức người dân tộc thiểu số hoạt đông trên lĩnh vực văn hóa
- du lịch, dịch vụ, giáo dục đóng vai trò đặc biệt quan trọng, vì họ vừa hiểu rõ
phong tục, truyền thống của dân tộc mình, vừa có năng lực, trình độ để quảng
bá và phát triển du lịch. Do vậy, Lạng Sơn có điều kiện để xây dựng và phát
triển ngành du lịch trên cả ba lĩnh vực: du lịch an dưỡng - nghỉ ngơi - hồi
tưởng, du lịch văn hóa cảnh quan, du lịch kinh tế thương mại.
Thực tế khẳng định du lịch là thế mạnh của Lạng Sơn - một ngành
kinh tế có hiệu quả cao, do đó cần tập trung nhiều nguồn lực và phối hợp tất
cả các ngành, các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh cùng tham gia đầu tư
phát triển. Mặt khác không ngừng nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản
phẩm du lịch, tạo hấp dẫn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước với
phương châm “ khách đến nhiều lần vẫn cảm thấy thoải mái và muốn quay trở
lại”. Để thực hiện mục tiêu trên, tỉnh Lạng Sơn đã có các mục tiêu và chương
trình cụ thể như:
- Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực phục vụ ngành du lịch, đặc biệt
ưu tiên cán bộ có trình độ ngoại ngữ tiếng Trung Quốc, tiếng Anh... phục vụ
trong ngành du lịch, chú ý đến cán bộ là người dân tộc thiểu số.
- Đầu tư tập trung để phát triển các khu du lịch nổi tiếng như: Khu Lâm
viên Nhất - Nhị - Tam Thanh, khu nghỉ mát Thác Trà... Các điểm du lịch này là
các đầu mối trong chu trình khép kín của đợt tham quan du lịch trên địa bàn tỉnh.
- Dự án hợp tác với trường Đại học Nam Ninh (Trung Quốc) đào tạo
cán bộ, sinh viên, học viên du học nâng cao trình độ.
71
Thương mại, là lĩnh vực kinh tế quan trọng, có tiềm lực lớn và có khả
năng tạo ra sự tăng trưởng nhanh. Do đó hiện nay tỉnh Lạng Sơn đã có nhiều
hình thức tập trung đầu tư phát triển nhanh lĩnh vực kinh tế này. Tỉnh xác
định rõ cần phải mở rộng qui mô buôn bán chính ngạch với Trung Quốc, bằng
nhiều con đường, bằng nhiều hình thức như: trao đổi tiền tệ, trao đổi hàng
hóa, chuyển khoản và buôn bán bồi hoàn...
Phát triển buôn bán vùng biên giới, mục tiêu buôn bán giữa hai bên dần
chuyển thành nhiều bên, chuyển từ buôn bán là chính sang hợp tác kinh tế là
trọng điểm. Vì vậy trong tương lai không xa, đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số cũng sẽ ngày càng tham gia hoạt động nhiều hơn trên lĩnh vực này.
Chủ trương của tỉnh là: Phát triển mạnh khai thác đá các loại làm nguyên
liệu để cung cấp cho các nhà máy xi măng trên địa bàn tỉnh; làm vật liệu xây dựng
cơ bản; khai thác sét làm gạch ngói; khai thác cát, sỏi làm vật liệu xây dựng. Tiếp
tục mở rộng, tăng cường khai thác mỏ than Na Dương phục vụ nhà máy nhiệt điện
Na Dương. Hoàn thành xây dựng và đưa vào sản xuất nhà máy xi măng Đồng
Bành công suất 91 vạn tấn/năm, nhà máy xi măng Hồng Phong công suất 8,5 vạn
tấn/năm; tiến hành lập dự án gọi vốn đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gạch chịu
lửa tại Đông Quan - Lộc Bình. Phát triển các khu công nghiệp tập trung như: Khu
công nghiệp Lạng Sơn - Cao Lộc - Đồng Đăng; Khu công nghiệp Hữu Lũng -
Đồng Mỏ; Khu công nghiệp Lộc Bình - Na Dương - Đình Lập... Do đó, trong
tương lai các cụm, khu công nghiệp này sẽ thu hút đông đảo lực lượng lao động
và trí thức người dân tộc thiểu số tham gia.
2.2.3. Xu hướng biến động về sự phân bố của đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn
Tình trạng dịch chuyển cơ cấu hoặc không thu hút được trí thức sẽ diễn ra
nếu không có cơ chế, chính sách xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số cho phù hợp
72
Do tác động của cơ chế thị trường, nhất là thị trường lao động đang hình
thành và phát triển, dẫn đến sự di chuyển lao động giữa các ngành và các vùng.
Trong đó một bộ phận trí thức sẽ dịch chuyển từ: lĩnh vực kinh tế nông nghiệp,
nông thôn sang lĩnh vực kinh tế công nghiệp, thương mại và du lịch; từ doanh
nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài do được trả lương cao, chế độ đãi ngộ tốt; môi trường và điều kiện lao
động, nghiên cứu sáng tạo để bộc lộ tài năng. Điều này sẽ diễn ra cả trong trí thức
nói chung và trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng.
Nếu cơ chế, chính sách của tỉnh phù hợp tạo động lực, môi trường, điều
kiện thuận lợi cho trí thức phát triển và nếu có chế độ bồi dưỡng, sử dụng đãi ngộ
thỏa đáng đối với trí thức thì Lạng Sơn sẽ thu hút được nhiều trí thức tài năng,
trong đó có trí thức người dân tộc thiểu số từ nơi khác về phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Ngược lại, nếu chính sách thu hút nhân tài của tỉnh không tốt, không được
coi trọng thỏa đáng sẽ dẫn đến tình trạng: trí thức có tài đang làm việc tại tỉnh,
trong đó có cả trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh sẽ rời đi nơi khác. Do vậy,
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tỉnh Lạng Sơn phải có
quy hoạch, kế hoạch cụ thể về đào tạo và đào tạo lại trí thức và trí thức người dân
tộc thiểu số của tỉnh, trân trọng sử dụng và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng với những
cống hiến của đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức người dân tộc thiểu số, từ đó xây
dựng định hướng đúng cho quá trình phát triển của đội ngũ này ở tỉnh Lạng Sơn
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước mắt
cũng như về lâu dài.
73
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở LẠNG SƠN THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
3.1. Những quan điểm cơ bản
3.1.1. Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số phải đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về vấn đề dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước ta là một
nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt
Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ... Chính sách dân tộc của chúng
ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau
tiến lên chủ nghĩa xã hội" [44, tr.587]. Người cho rằng, trên dải đất Việt Nam,
"Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Êđê, Xê đăng hay
Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em
ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp
nhau" [42, tr.217].
Đảng và Nhà nước Việt Nam trước sau như một luôn tôn trọng quyền
bình đẳng giữa các dân tộc, phấn đấu để thực hiện triệt để quyền bình đẳng
ấy, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ
giữa các dân tộc; thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp
nhau cùng tiến bộ trên cơ sở tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ
và phong tục tập quán tốt đẹp của các dân tộc. Do đó, phải có đội ngũ cán bộ
đông đảo bao gồm đủ các dân tộc thì mới phát động được nhân dân các dân
tộc, thể hiện trên thực tế sự bình đẳng về chính trị và thiết thực tăng cường
đoàn kết giữa các dân tộc. Chú trọng xây dựng cho từng dân tộc một số cán
bộ cốt cán vững vàng về chính trị, tuyệt đối trung thành và chấp hành tốt
74
đường lối, chính sách của Đảng, có năng lực lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn
[26, tr.159].
Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số là quan
điểm rõ ràng và nhất quán của Đảng ta, nhằm phát huy tính tích cực cách
mạng và khả năng to lớn của các dân tộc. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ mọi mặt, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số phát huy hết khả năng và năng lực vốn có của mình.
Để tồn tại và phát triển, mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc đều có nhu
cầu được giúp đỡ và có trách nhiệm giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau.
Bên cạnh sự quan tâm giúp đỡ của cán bộ trí thức người Kinh, trí thức
người dân tộc thiểu số phải luôn cố gắng vươn lên để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng đặt ra, tránh tư tưởng mặc cảm, tự ti, ngăn ngừa những biểu hiện
dân tộc hẹp hòi, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, thực hiện theo tinh thần chỉ dẫn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đồng bào miền núi phải đoàn kết giúp đỡ đồng
bào miền xuôi và đồng bào miền xuôi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền
núi" [44, tr.135].
Phát triển vững mạnh đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở các cấp,
các ngành của cả nước nói chung, của tỉnh Lạng Sơn nói riêng là sự biểu hiện
cụ thể và sinh động nhất cho sự bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng
phát triển, góp phần tạo động lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh.
3.1.2. Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số phải được coi
là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra mục tiêu và phương hướng
tổng quát của Đại hội là: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết
75
dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội;... tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại"
[21, tr.188].
Đây là giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Do vậy, quan điểm của
Đảng ta là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển
kinh tế tri thức; nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Để đạt được mục tiêu đó, đội ngũ trí thức nói chung và trí thức người
dân tộc thiểu số nói riêng đóng một vai trò to lớn: Là lực lượng quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khẳng định điều này, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X nêu rõ: “Trí
thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm
trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội
ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững” [20, tr.5].
Trong khi phần lớn các nước phát triển đã hoàn thành công nghiệp hóa
và đang thực hiện kinh tế tri thức thì Việt Nam mới bước vào thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh đó, nước ta có những vận hội lớn,
đồng thời cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức phức tạp và quyết liệt.
Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức và giải quyết mâu thuẫn lớn nhất
hiện nay của nước ta là mâu thuẫn giữa trình độ còn thấp kém của lực lượng
sản xuất với yêu cầu phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất hiện đại,
đòi hỏi chúng ta phải dốc toàn lực vào việc phát triển lực lượng sản xuất trên
cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết là công
76
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Để làm được việc đó, bằng
mọi cách, phải tận dụng và phát huy nguồn lực nội sinh, trước hết là nguồn
lực con người, trong đó phải đặc biệt chú ý nguồn nhân lực chất lượng cao,
bao hàm đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số.
Hiện nay, cùng với cả nước, tỉnh Lạng Sơn cũng đang triển khai thực
hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn thực hiện thành công sự
nghiệp này trong toàn tỉnh, Lạng Sơn cần phải coi trọng phát triển nguồn nhân
lực, phát triển đội ngũ trí thức, trong đó có trí thức người dân tộc thiểu số
đông về số lượng, mạnh về chất lượng, có đủ bản lĩnh và trí tuệ, có năng lực
sáng tạo. Do vậy, các cấp ủy Đảng, chính quyền trong tỉnh cần có nhận thức
đúng đắn hơn, quán triệt sâu sắc hơn chính sách trọng dụng nhân tài của
Đảng, Nhà nước, thấy rõ vai trò đặc biệt của đội ngũ trí thức và trí thức người
dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, quy hoạch, đào tạo, xây dựng cơ chế, chính
sách phù hợp để tạo bước đột phá trong việc phát triển và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên địa bàn tỉnh.
3.1.3. Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số phải trên cơ
sở củng cố vững chắc khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Nghị quyết Đại hội X khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam;
là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng
lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc [19, tr.116].
Vì vậy, đối với Việt Nam nói chung và với tỉnh Lạng Sơn nói riêng,
việc phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải trên cơ sở củng cố vững chắc khối liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
77
Đảng. Đây là quan điểm mang tính chiến lược, xuyên suốt quá trình cách
mạng của Đảng ta.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược, Đảng ta đã
thực hiện nhất quán đường lối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm động lực chủ
yếu, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay trong thời đại
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, Đảng ta tiếp tục khẳng định cần
tạo môi trường và điều kiện hoạt động nghiên cứu, sáng tạo thuận lợi gắn với
thực tiễn lao động sản xuất cho đội ngũ trí thức, trong đó có đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số.
Mặt khác, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cũng phải không
ngừng được "trí thức hoá", nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng
ứng dụng nhanh, linh hoạt những thành tựu mới, tiến bộ của khoa học - công
nghệ vào sản xuất, do yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đang phát triển mạnh mẽ. Nếu không được bổ sung kịp thời kiến thức mới,
tiến bộ thì hoạt động lao động sản xuất của công nhân và nông dân sẽ bị lạc
hậu và gặp vô vàn khó khăn, trở ngại, thậm chí thất bại, thua lỗ trong sản xuất
kinh doanh.
Do ở Lạng Sơn, người dân tộc thiểu số chiếm đa số trong dân số của
tỉnh nên việc nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật cho đồng bào
dân tộc thiểu số đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ đắc lực từ phía đội ngũ trí
thức, nhất là đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh. Do vậy, việc xây
dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và trí thức người dân
tộc thiểu số nói riêng của tỉnh phải gắn bó chặt chẽ với việc củng cố khối liên
minh công - nông - trí thức một cách vững chắc dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh mới bảo đảm thành công cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
78
3.1.4 .Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh vừa
phải đặt trong tổng thể chính sách phát triển đội ngũ trí thức, vừa coi trọng
tính đặc thù của đội ngũ này
Trí thức và trí thức người dân tộc thiểu số là lực lượng đóng vai trò
quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Do vậy,
phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh phải đặt trong chính
sách tổng thể phát triển đội ngũ trí thức nói chung, đồng thời thấy được tính
đặc thù của đội ngũ này.
Là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng, là lực lượng lao
động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, họ luôn có nhu cầu nhận
thức và khám phá cái mới, mong muốn hoàn thiện trí năng, thỏa mãn ước
vọng tự do sáng tạo, cống hiến.
Mặt khác lại công tác ở miền núi, điều kiện cơ sở vật chất, kinh tế - xã
hội khó khăn và xuất thân từ con em của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng
sâu, vùng xa giao thông đi lại khó khăn, để thu hút trí thức người dân tộc
thiểu số sau khi được đào tạo về công tác ở tỉnh, cần phải có những chính
sách đặc biệt ưu tiên cho đội ngũ này, phải có cơ chế, chính sách tạo ra những
động lực để thu hút nhân tài như: động lực về vật chất, về tinh thần, về tình
cảm,... tạo ra môi trường nghiên cứu, tranh luận, phản biện khoa học lành
mạnh, thẳng thắn để trí thức người dân tộc thiểu số có điều kiện sử dụng tiếng
nói của dân tộc mình. Trong đó, tỉnh cần đặc biệt quan tâm và tạo ra động lực
kinh tế - vật chất để đáp ứng nhu cầu, làm việc thiết thực của trí thức người
dân tộc thiểu số, trước hết là nhu cầu vật chất, giao lưu khoa học, nghỉ ngơi,
nâng cao sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đối với trí thức người dân tộc thiểu số, tỉnh cần nhất quán quan điểm:
chế độ tiền lương phải phản ánh được cả hai yêu cầu: trọng dụng người tài và
chính sách dân tộc của Đảng.
79
Trên đây là những quan điểm cơ bản có tính chỉ đạo thực tiễn. Để hiện
thực hóa, cần có một hệ giải pháp khoa học và phù hợp với đối tượng đặc thù này.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển đội ngũ trí thức
ngƣời dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức và trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn, vấn đề cơ
bản là phải xây dựng đội ngũ trí thức của tỉnh phát triển cả về số lượng và
chất lượng. Trước yêu cầu của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa vấn đề này càng trở nên bức thiết. Để thực hiện mục tiêu đó, cần tập trung
vào một số nhóm giải pháp cơ bản sau đây:
3.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải phát
triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh và giáo dục lý tưởng,
đạo đức cách mạng cho đội ngũ này
Thứ nhất, cần phải nâng cao nhận thức trong các cấp ủy, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và nhân dân về công tác phát triển đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số và đánh giá đúng vai trò của họ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh.
Phải coi trí thức người dân tộc thiểu số là lực lượng quan trọng và cơ
bản để thực hiện tốt và rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giao
lưu và hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trực tiếp nhất là ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Do vậy, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục rộng
rãi trong toàn xã hội để mọi người quán triệt, hiểu rõ đường lối, quan điểm
của Đảng đối với đội ngũ trí thức nói chung và trí thức người dân tộc thiểu số
nói riêng, trước hết là nâng cao nhận thức của lãnh đạo, quản lý các cấp.
Các cấp lãnh đạo, q1uản lý của tỉnh phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc các
quan điểm mới, các chủ trương lớn của Đảng về vị trí, vai trò của trí thức và
nhiệm vụ đối với trí thức. Ngoài ra, các cấp ủy, chính quyền cần động viên,
khuyến khích trí thức người dân tộc thiểu số tích cực học tập, nghiên cứu và
80
đem hết khả năng cống hiến cho xã hội; làm cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân nhất trí, đồng thuận về suy nghĩ và hành động đối với công
tác phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Thứ hai, cần phải coi trọng công tác giáo dục lý luận chính trị, nâng
cao nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh.
Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giao lưu và hợp tác
quốc tế, cần phải giữ vững, kiên định mục tiêu và định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện và yêu cầu
phát triển mới của đất nước. Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh
thần tiến bộ, nhân đạo của nhân loại; gắn việc phát triển đời sống tinh thần
với giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố các
chuẩn mực đạo đức và nâng cao giá trị thẩm mỹ của xã hội. Phòng ngừa
khủng hoảng tinh thần, nguy cơ này có thể là do khủng hoảng kinh tế - xã hội
dẫn tới khủng hoảng chính trị (do sự phá hoại của các thế lực thù địch trong
và ngoài nước, do nghèo nàn, lạc hậu; do tác động bởi mặt trái của cơ chế thị
trường...). Do vậy, giáo dục ý thức chính trị, lý tưởng cách mạng cho đội ngũ
trí thức người dân tộc thiểu số là vô cùng cần thiết để họ có thể kiên định và
trung thành với đường lối cách mạng của Đảng, hết lòng phục vụ nhân dân.
Cùng với giáo dục tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng, cần quan
tâm giáo dục đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ý thức tập thể, đoàn kết
các dân tộc trong tỉnh và cộng đồng dân tộc Việt Nam, gắn bó lợi ích dân tộc
với lợi ích chung của đất nước, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh; có
lương tâm nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, chăm chỉ trong lao động, đi đầu
trong nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để không ngừng sáng
tạo, làm giàu cho quê hương, đất nước; thường xuyên học tập, rèn luyện để
81
nâng cao hiểu biết, có trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và sức khoẻ tốt
đảm bảo phục vụ lâu dài.
Ba là, đấu tranh khắc phục những nhận thức tư tưởng lệch lạc và
chống các luận điệu sai trái, phản động của kẻ thù
Trong thực tiễn, sự biến động xã hội từng lúc, từng nơi dễ phát sinh
những luồng tư tưởng khác nhau, kể cả những tư tưởng lệch lạc. Vì vậy, việc
khắc phục những nhận thức lệch lạc về tư tưởng và đấu tranh chống lại nó là
không thể xem nhẹ. Do đó, phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối
sống mới cho đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số trong tỉnh. Chăm lo xây
dựng một thế hệ trí thức có đủ đức, đủ tài, sẵn sàng kề vai sát cánh gánh vác
trọng trách thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế. Trong đó, yêu cầu về chuẩn mực đạo đức được đặt lên hàng đầu là
phải có ý thức công dân, tinh thần độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát
huy chủ nghĩa yêu nước trong thời đại mới. Tinh thần yêu nước của người trí
thức trong thời đại mới, ngoài những yếu tố truyền thống như tinh thần tự
cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cần phải có ý
thức vươn lên góp công, góp sức giúp đỡ các đồng bào dân tộc thiểu số vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn trong lao động sản xuất và đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.
Nâng cao trình độ lý luận, tăng cường sức chiến đấu và đảm bảo mở
rộng việc cung cấp thông tin cho đội ngũ này và quản lý chặt chẽ lượng thông
tin, nhất là những thông tin xấu từ bên ngoài vào. Đi sâu tìm hiểu âm mưu,
thủ đoạn chống phá về tư tưởng của các thế lực thù địch để có phương pháp
đấu tranh, vận động trí thức người dân tộc thiểu số tham gia đấu tranh, chống
lại các âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu
diễn biến hòa bình của chúng trong vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng
xa. Vận động quần chúng trí thức nói chung và người trí thức dân tộc thiểu số
82
nói riêng suy nghĩ hành động theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây
dựng nhân cách người trí thức xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Như trên đã phân tích, do nguồn gốc xuất thân và bị tác động của nhiều
yếu tố, trong đó có yếu tố truyền thống, tâm lý dân tộc, nên cần coi trọng công
tác bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức và lối sống mới, khoa học cho
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn.
Đồng thời, để tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, mỗi trí thức
người dân tộc thiểu số phải tự giác nỗ lực học tập rèn luyện, khắc phục những
tác động tiêu cực của phong tục, tập quán cũ lạc hậu, lối sống tư duy kinh
nghiệm của dân tộc mình và khắc phục chủ nghĩa cá nhân trong chính bản
thân họ, luôn luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức, không để sa ngã trước những
cám dỗ của vật chất. Nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức, lối
sống, chính là nâng cao bản chất xã hội chủ nghĩa của trí thức. Đã là người trí
thức xã hội chủ nghĩa, ngoài yếu tố tài năng, yếu tố phẩm chất chính trị, tư
tưởng, thì trình độ giác ngộ mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách
mạng là cái gốc, là cơ sở để phát triển của người trí thức. Do đó, đòi hỏi trí
thức người dân tộc thiểu số không chỉ nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mà còn phải nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, luôn nâng cao ý thức, trách nhiệm của
mình trước yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
83
3.2.2. Nhóm giải pháp về giáo dục và đào tạo
* Đổi mới giáo dục và đào tạo
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" [19, tr.94-95].
Quan tâm chăm lo xây dựng nguồn nhân lực trí thức có chất lượng cao
nhằm từng bước rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Muốn vậy,
cần tính toán các đề án quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng, thu hút và đãi ngộ
hợp lý đội ngũ trí thức nói chung. Riêng với trí thức người dân tộc thiểu số,
cần phải có chế độ, chính sách khuyến khích, ưu tiên hơn. Mặt khác, đề xuất
ban hành các chính sách đào tạo đông đảo đội ngũ cán bộ trí thức chuyên sâu,
nắm bắt được khoa học công nghệ ở trình độ cao; coi trọng công tác phát triển
đảng trong đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh. Đồng thời, Đảng
bộ tỉnh phải tăng cường sự lãnh đạo đối với đội ngũ này thông qua các tổ
chức của trí thức như Liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật. Đặc biệt, trong
bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, việc xây dựng các chính sách rộng mở để
thu hút các chuyên gia nước ngoài, trí thức người Việt đang công tác trong và
ngoài nước về làm việc tại tỉnh Lạng Sơn là vấn đề mang tính chiến lược. Bởi
vì, trong quan hệ tổng thể đó chất lượng của đội ngũ trí thức của tỉnh sẽ được
nâng cao, đồng thời thể hiện rõ quan điểm nhất quán của Đảng ta: Sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa miền núi là sự nghiệp
chung của nhân dân cả nước, trước hết là nhiệm vụ của nhân dân các dân tộc
miền núi. Khai thác và sử dụng miền núi là vì lợi ích trực tiếp của nhân dân
các dân tộc miền núi, đồng thời vì lợi ích chung của cả nước.
Ngoài ra, trường Chính trị tỉnh, thành phố các Trung tâm bồi dưỡng lý
luận chính trị của các huyện trong tỉnh cần tăng cường mở các lớp đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, các kiến thức quản
lý nhà nước trên các lĩnh vực với nội dung và hình thức phù hợp với đối
84
tượng là người dân tộc thiểu số và ở vùng núi cao. Nhiệm vụ này không
những đáp ứng được yêu cầu bức xúc của công tác cán bộ từ tỉnh đến cơ sở,
mà còn trang bị cho đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh những
kiến thức mới, nhận thức mới trước xu thế mở cửa hội nhập. Bên cạnh đó,
phải đổi mới công tác triển khai, quán triệt Nghị quyết của Đảng về trí thức
người dân tộc thiểu số, lắng nghe trí thức nói, khuyến khích họ đối thoại,
đóng góp trí tuệ vào các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trí thức có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, tích cực tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đội ngũ trí thức tỉnh Lạng Sơn chưa nhiều và mạnh so với khu vực phía
Bắc và cả nước nhưng lại là vốn quý, là nguồn lực rất quan trọng cần được
phát huy có hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
Trong đó, việc đổi mới giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức của tỉnh nói chung
và trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng cần tập trung vào những nhiệm vụ
lớn như sau:
- Đổi mới và bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy hoạch, dự án
đào tạo trí thức dân tộc thiểu số cho phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh.
Xác định rõ trong giai đoạn trước mắt (2010 - 2015) cần ưu tiên đào tạo, bồi
dưỡng những ngành nghề, lĩnh vực đang thiếu, nhất là nhân lực có trình độ
cao, nhằm khắc phục dần sự thiếu đồng bộ trong đào tạo của tỉnh. Cơ chế,
chính sách đúng đắn, hợp lý sẽ tạo động lực thúc đẩy khuyến khích các nhà
khoa học, người trí thức say mê nghiên cứu, sáng tạo những sản phẩm trí tuệ
để phục vụ quê hương, phát huy có hiệu quả vai trò, tiềm lực trí tuệ của đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế cho hoạt động nghiên cứu sáng
tạo của trí thức còn nhiều bất cập. Một số chính sách đối với hoạt động nghiên
cứu khoa học và đối với đội ngũ trí thức đã tỏ ra không phù hợp với tình hình
85
mới. Do vậy trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung sửa đổi,
hoàn thiện cơ chế chính sách cho phù hợp, có như vậy mới phát huy được vai
trò của đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số nói riêng.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo trên đại học (tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ chuyên
khoa), nhanh chóng hình thành đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật đầu đàn có
trình độ chuyên môn cao, trước hết là cán bộ giảng dạy trong các trường
chuyên nghiệp, trường chính trị, đơn vị quản lý khoa học và công nghệ, các
trung tâm nghiên cứu, chuyển giao khoa học và công nghệ. Coi trọng bồi
dưỡng những cán bộ khoa học - kỹ thuật trẻ người dân tộc thiểu số có triển
vọng trong các lĩnh vực, mạnh dạn tạo điều kiện thử thách họ trong vị trí lãnh
đạo từ thấp đến cao nhằm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo kế cận.
- Thường xuyên cập nhật kiến thức, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính
trị, chuyên môn cho đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số hiện có, trước hết là cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, các ngành, giám đốc doanh nghiệp, cán
bộ khoa học và công nghệ trong một số ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
- Đa dạng hoá các hình thức học tập, các loại hình trường, lớp cao
đẳng, đại học. Tranh thủ các bộ, ngành trung ương sớm đầu tư trường đại học,
cao đẳng cộng đồng tại tỉnh nhằm tạo điều kiện và cơ hội học tập cho mọi đối
tượng, đặc biệt chú trọng đào tạo trí thức người dân tộc thiểu số và trí thức nữ.
Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đào tạo các trường
dân tộc nội trú, trường cao đẳng sư phạm, trung học chuyên nghiệp. Chú ý
công tác tuyển chọn, cử tuyển đúng đối tượng và đảm bảo chất lượng, trú
trọng công tác phát hiện, đào tạo bồi dưỡng các năng khiếu, tài năng trẻ là con
em đồng bào dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực.
- Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ kinh phí cho cán bộ người dân tộc
thiểu số, nhất là cán bộ trí thức trẻ có điều kiện tiếp tục học và làm các luận
án thạc sĩ, tiến sĩ. Tăng nhanh đội ngũ cán bộ có trình độ trung cấp chuyên
nghiệp, xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề. Mở rộng quan hệ đào tạo với
86
các trường công nhân kỹ thuật, cao đẳng sư phạm và các trường dạy nghề
khác, triển khai đúng tiến độ dự án xây dựng trường đại học cộng đồng tại
tỉnh Lạng Sơn.
* Xây dựng và ban hành chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ trí thức ng êi dân tộc thiểu số
Những năm qua, tỉnh Lạng Sơn đã vận dụng, ban hành một số chính
sách đối với cán bộ và trí thức người dân tộc thiểu số, song nhìn chung các
chính sách chế độ này còn nhiều bất cập và chưa thống nhất. Do vậy, trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số cần phải
xây dựng và ban hành chính sách chế độ mang tính đặc thù như: chính sách
ưu tiên đặc biệt cho những dân tộc có số lượng trí thức còn ít hoặc chưa có
trình độ đại học, sau đại học.
Xây dựng và ban hành chính sách chế độ đối với trí thức nữ người dân
tộc thiểu số, trong thời gian đào tạo nếu có con nhỏ, ngoài hưởng sinh hoạt
phí, phải được bố trí nơi ở thuận lợi và hỗ trợ tiền gửi con ở nhà trẻ, mẫu giáo
công lập.
Xây dựng và ban hành chính sách chế độ hỗ trợ kinh phí đối với cán bộ trí
thức người dân tộc thiểu số vừa học, vừa làm (được cơ quan chủ quản đồng ý),
học từ xa hoặc học có hướng dẫn và được cấp bằng tốt nghiệp của hệ thống giáo
dục quốc dân, nhằm khuyến khích cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số tự học
tập, hoàn thiện và vươn lên.
Xây dựng và ban hành chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho trí thức người
dân tộc thiểu số có thành tích xuất sắc trong học tập, công tác như: khen
thưởng, tăng lương, bổ nhiệm... Những cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số
nòng cốt, có uy tín cao, có trình độ học vấn cao, có cống hiến lớn phải được
tôn vinh các danh hiệu và nhận phần thưởng cao quý.
87
3.2.3. Nhóm giải pháp tạo điều kiện vật chất và môi trường thuận lợi
cho hoạt động nghiên cứu sáng tạo của trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tập trung phát triển mạnh một số ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng dân tộc thiểu số và
cơ cấu kinh tế nông thôn.
Phát triển khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng - Tân Thanh -
Hữu Nghị Quan trở thành trung tâm tăng trưởng Việt Nam - Trung Quốc, tạo
ra bước phát triển đột phá quan trọng, tạo thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán,
trao đổi hàng hóa, phát triển dịch vụ... từ đó thay đổi dần lối sống cũ, phương
thức sản xuất cũ, lạc hậu, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào
các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Phát triển toàn diện kinh tế nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát huy tốt nhất các tiềm năng về
rừng, đất đai, tài nguyên nước.
Đầu tư mạnh và đưa vào sử dụng các công trình thủy điện. Đây là
ngành thu hút nhiều nguồn lao động từ lao động phổ thông đến lao động chất
lượng cao, tạo cơ hội cho đồng bào các dân tộc thiểu số tiếp cận đến phát
triển, đồng thời khuyến khích phát triển trí thức người dân tộc thiểu số ở
những lĩnh vực này.
Những giải pháp kinh tế được thực hiện tốt không chỉ thúc đẩy tiến
trình phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước
cải thiện và nâng cao đời sống vật chất cho đồng bào, mà còn là giải pháp
quan trọng góp phần tích cực vào việc thay đổi dần tâm lý, thói quen cũ, lạc
hậu; những phong tục tập quán cổ hủ vẫn tồn tại và các chế định đời sống của
đồng bào dân tộc thiểu số từ bao đời nay, đồng thời tạo cơ sở vật chất cần
thiết để thực hiện tốt chiến lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh nói chung
và nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số nói riêng ở tỉnh Lạng Sơn.
88
Chính sách đầu tư nghiên cứu khoa học tạo điều kiện và môi trường
thuận lợi cho hoạt động sáng tạo của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
tỉnh Lạng Sơn cần được các cấp ủy Đảng chính quyền và toàn xã hội quan
tâm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX chỉ
rõ: phải tập trung mọi nguồn vốn đầu tư, đảm bảo kinh phí hoạt động nghiên
cứu khoa học của trí thức; cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
đúng với vị trí là quốc sách hàng đầu. Việc đầu tư đúng mức cho các lĩnh vực
này chính là đầu tư nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
Mặt khác, tỉnh cần đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về vai trò, vị trí
của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi cho đội ngũ này phát huy sáng tạo. Tôn trọng và tạo điều kiện vật chất và
tinh thần, tạo môi trường xã hội tốt đẹp, đảm bảo dân chủ trong các hoạt động
sáng tạo của trí thức. Tăng mức đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn vốn đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ, cho các hoạt động
nghiên cứu sáng tạo của trí thức. Nội dung này vừa đòi hỏi phải tôn trọng sự
tự do sáng tạo của cá nhân và các tập thể lao động trí tuệ, vừa phải đề cao
trách nhiệm chính trị - xã hội, trách nhiệm công dân của trí thức trong nghiên
cứu khoa học và sáng tạo; kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm đối với
những hành vi lợi dụng tự do, dân chủ để thực hiện những ý đồ xấu về chính
trị có hại cho lợi ích của đất nước và nhân dân.
Ngân sách Nhà nước địa phương cần tăng cường mức đầu tư thoả đáng
cho nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo, văn hoá - xã hội... Ưu tiên đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng khoa học và công nghệ như nâng cấp các phòng thí
nghiệm, thư viện các trường học, cơ sở vật chất các trường chuyên nghiệp,
trường dân tộc nội trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập
cộng đồng... nhằm đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực của tỉnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể là:
89
- Tăng ngân sách đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục
và đào tạo, trong đó, tập trung vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ, các
ngành mũi nhọn du lịch, thương mại của tỉnh vùng biên giới.
- Huy động, vận động, thu hút, đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư (ngân
sách tỉnh, trung ương; các thành phần kinh tế, các tổ chức quốc tế, các doanh
nghiệp, cá nhân...) cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, nhất là trên các
lĩnh vực kinh tế đặc thù của tỉnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Trung ương, tỉnh cần tăng ngân sách đầu tư cho công tác bồi dưỡng,
đào tạo lại đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số hiện có để họ có thể cập
nhật kiến thức khoa học mới, nâng cao trình độ khoa học, phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng, năng lực nghiên cứu và hoạt động thực tiễn trong sản
xuất và phục vụ nhân dân.
Tạo điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi cho trí thức người dân
tộc thiểu số là vấn đề quan trọng nhằm phát huy khả năng sáng tạo của đội
ngũ này. Xây dựng không khí dân chủ, đoàn kết trong hoạt động khoa học,
tăng cường sự hợp tác giữa các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những người
trí thức; khuyến khích tìm tòi và tranh luận để tìm ra cái mới, có tác dụng
trong thực tiễn sản xuất và đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó, hệ thống quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước với tư cách là yếu tố quyết định để trí
thức hoạt động sáng tạo. Vì vậy, cơ chế, chính sách về trí thức phải được quán
triệt, nhận thức đầy đủ, sâu sắc, tổ chức thực hiện nghiêm túc và phải tạo ra sự
đồng thuận về mặt xã hội thì mới đi vào đời sống nhân dân, góp phần tích cực
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, các cấp trong tỉnh cần phối
hợp xây dựng đồng bộ cơ chế quản lý khoa học, tạo ra bầu không khí thi đua
sôi nổi trong đội ngũ trí thức giữa trí thức người Kinh với trí thức người dân
90
tộc thiểu số; khuyến khích lao động sáng tạo, tạo điều kiện cho trí thức phấn
đấu trưởng thành về mọi mặt. Thường xuyên tổ chức hội thảo, tổng kết hoạt
động, khen thưởng kịp thời đối với trí thức, đánh giá đúng giá trị lao động
sáng tạo của họ.
Những năm qua, tỉnh Lạng Sơn rất chú trọng đến việc đầu tư cho khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo. Cụ thể, tỉnh đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo như: "Quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo tỉnh Lạng Sơn
đến năm 2020"; Quy hoạch phát triển ngành y tế tỉnh Lạng Sơn đến năm
2015, "Dự án đào tạo, thu hút nguồn nhân lực tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2005-
2015", "Đề án xây dựng nguồn cán bộ có trình độ khoa học - kỹ thuật cao cho
hệ thống trường Chính trị tỉnh Lạng Sơn", "Đề án đào tạo, bồi dưỡng, thu hút
giáo viên dạy nghề giai đoạn 2006 - 2010", "Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân tỉnh về xây dựng mạng lưới cán bộ kỹ thuật cơ sở"; Chỉ thị của Tỉnh uỷ
về chỉ đạo củng cố kiện toàn tổ chức Liên hiệp hội khoa học - kỹ thuật tỉnh
Lạng Sơn". Việc triển khai thực hiện tốt những văn bản này sẽ tạo ra môi
trường, điều kiện thuận lợi và cơ hội tốt cho trí thức nói chung và trí thức
người dân tộc thiểu số nói riêng không ngừng phát triển.
3.2.4. Nhóm giải pháp về quy hoạch, bố trí, sử dụng và đãi ngộ đối
với đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn
Là một tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng tỷ lệ cán bộ trí
thức người dân tộc thiểu số có trình độ đại học trở lên còn rất khiêm tốn
nhưng trong chính sách nêu trên không hề đề cập tới thu hút, đãi ngộ cán bộ
trí thức người dân tộc thiểu số tại chỗ có trình độ cao. Do đó, cần phải xây
dựng bổ sung chính sách thu hút, sử dụng cán bộ trí thức người dân tộc thiểu
số, chính sách luân chuyển cán bộ người dân tộc thiểu số. Các cơ quan tổ
chức - cán bộ, cơ quan tài chính, kế hoạch cần kết hợp với các ban tham mưu
ban hành chính sách đãi ngộ vừa hấp dẫn, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế -
91
xã hội địa phương, vừa tạo cơ hội bình đẳng giữa các dân tộc, vừa thể hiện
được tính ưu việt của chế độ.
Trong điều kiện chỉ tiêu biên chế Trung ương giao còn hạn hẹp; đồng
thời đang trong quá trình tinh giản biên chế, đòi hỏi phải xây dựng và ban hành
chính sách bố trí, sử dụng phù hợp với địa phương. Tiếp nhận số sinh viên sau khi
ra trường về địa phương công tác, đặc biệt là con em đồng bào dân tộc thiểu số.
Tinh giản biên chế không đồng nghĩa với hạn chế tiếp nhận, tuyển dụng, mà nhằm
mục đích nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy vì cán bộ có trình độ chính là sợi dây chuyền của bộ
máy đó.
Cùng với việc bố trí, sử dụng cán bộ, trí thức người dân tộc thiểu số theo
quy hoạch, tích cực thực hiện luân chuyển cán bộ trí thức thành nề nếp, thường
xuyên. Căn cứ vào quy hoạch, vào đặc điểm địa phương, của từng cấp, từng
ngành và căn cứ năng lực sở trường của từng trí thức, xây dựng kế hoạch luân
chuyển chặt chẽ theo quy trình, tránh ồ ạt, hình thức. Làm tốt công tác tư tưởng
cho các trí thức trong diện luân chuyển. Đồng thời, quan tâm giải quyết thỏa đáng
chính sách chế độ đối với trí thức nói chung, trí thức người dân tộc thiểu số nói
riêng khi được luân chuyển tới nơi công tác mới để cuộc sống gia đình và của bản
thân bớt khó khăn, xáo trộn, nhất là những cán bộ trí thức được luân chuyển tới
vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có như vậy
họ mới yên tâm công tác.
Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số tham
gia các chương trình, đề tài khoa học, các hợp đồng nghiên cứu, triển khai,
làm cộng tác viên để tăng thu nhập. Thực hiện các chế độ thưởng, trợ cấp cho
các công trình được Hội đồng khoa học nghiệm thu đánh giá cao và có giá trị
thực tiễn. Xem xét, điều chỉnh hợp lý một số chính sách đãi ngộ đối với trí
thức người dân tộc thiểu số chuyên về khoa học và công nghệ về làm việc tại
cơ sở, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
92
thiểu số. Khuyến khích, ưu đãi đối với các chương trình, đề tài phục vụ cho sự
phát triển nông thôn, nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao
vai trò tư vấn, phản biện đối với các chương trình, đề tài khoa học - công
nghệ, các chủ trương, chính sách của địa phương.
Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, Sở Nội vụ cần chú trọng bố trí, sử dụng hợp lý
đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật hiện có. Phối hợp với Sở Giáo dục - Đào
tạo, Sở Khoa học - Công nghệ, Sở Thuỷ sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Sở Tài nguyên Môi trường... xây dựng kế hoạch và có chính sách
đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực cán bộ khoa học và công nghệ của tỉnh, kể
cả tham quan, học tập kinh nghiệm trong nước và ngoài nước, khuyến khích
du học tự túc.
Quan tâm chăm lo xây dựng và phát triển Đảng trong đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số, chú trọng cán bộ trí thức trẻ, giỏi, tài năng. Khuyến
khích sáng tạo, tìm tòi trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng thành tựu khoa
học và công nghệ. Giáo dục tôn vinh, trân trọng các tài năng trí thức người
dân tộc thiểu số trong xã hội.
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc
thu hút, bố trí, sử dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức và trí thức người
dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn nói riêng là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa
chiến lược đặc biệt quan trọng, bao gồm các giải pháp cụ thể sau đây:
Thứ nhất, thu hút trí thức về tỉnh
Trên cơ sở sơ kết đánh giá kết quả 5 năm thực hiện dự án đào tạo, bồi
dưỡng, thu hút nguồn nhân lực tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2005 - 2020, cần rút
kinh nghiệm và tiếp tục điều chỉnh, bổ sung số liệu, tìm ra giải pháp mới cũng
như chính sách mới phù hợp với điều kiện thực tế tỉnh Lạng Sơn trong giai
đoạn mới.
Thực hiện tốt chính sách thu hút và phát huy có hiệu quả nhân tài ở tất
cả các lĩnh vực khoa học trong và ngoài nước, từ các thành phần kinh tế, từ
93
các ban, ngành trung ương trên địa bàn tỉnh với mục đích là phát triển kinh tế
- xã hội, phục vụ đời sống nhân dân. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, hoạt
động khoa học - công nghệ theo hướng thông thoáng, hấp dẫn nhằm thu hút
trí thức nói chung, trí thức người dân tộc thiểu số nói riêng có năng lực, tâm
huyết về tỉnh công tác, có điều kiện tiến thân và thu nhập ổn định, đảm bảo
cuộc sống bằng con đường khoa học của mình.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách thu hút, sử dụng hợp lý cán bộ
khoa học - công nghệ mới tốt nghiệp, các nhà khoa học, công nghệ giỏi ngoài
tỉnh; ban hành các quy chế sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo; phân bổ hợp
lý cán bộ khoa học - công nghệ ở các sở, ban, ngành huyện, thành phố, chú
trọng tăng cường cho cơ sở.
Thứ hai, về quy hoạch đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
Quy hoạch đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn phải
trên cơ sở khảo sát nghiên cứu thực trạng của đội ngũ này, tạo nguồn từ sinh
viên của các trường cao đẳng, đại học (chủ yếu là người dân tộc thiểu số của
địa phương) nhằm tuyển chọn những sinh viên xuất sắc, có năng khiếu, sức
khoẻ tốt, có triển vọng phát triển để đưa vào quy hoạch. Đào tạo đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số kế cận, đảm bảo quy hoạch đúng ngành nghề,
đúng khả năng, nguyện vọng của sinh viên. Khi số sinh viên được quy hoạch
tốt nghiệp ra trường nhưng chưa được sử dụng, hoặc chưa sắp xếp, bố trí việc
làm, tỉnh cần chủ động tiếp nhận, đưa vào quy hoạch cán bộ để tiếp tục bồi
dưỡng, đào tạo, nâng cao trình độ. Sau đó đưa họ về hoạt động trong lĩnh vực
khoa học, sản xuất, kinh doanh và các thành phần kinh tế của tỉnh.
Quy hoạch phải trên cơ sở nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,
tập trung vào các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của tỉnh như kinh tế nông nghiệp,
lâm nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ.
94
Thứ ba, về bố trí sử dụng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
Đổi mới cơ chế tuyển chọn lao động theo hình thức tổ chức thi tuyển
công khai, minh bạch, trân trọng người có thực tài, tạo sự cạnh tranh lành
mạnh trong tìm kiếm việc làm. Tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức người dân
tộc thiểu số được lựa chọn nơi làm việc đúng với ngành nghề đào tạo, phù
hợp với sở trường và nguyện vọng của từng người.
Trong bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số không đơn
thuần chạy theo bằng cấp, học vị, tuổi tác mà phải chú ý đến năng lực thực sự
của họ; tránh trường hợp bố trí nhầm người, nhầm việc cho những người
không có năng lực, nhưng cũng tuyệt đối tránh trường hợp không trọng dụng,
sử dụng đúng tài năng và những cống hiến của trí thức.
Bổ sung thêm một số quy định ưu đãi đối với trí thức về công tác vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số liên tục
nhiều năm thì được ưu tiên cử đi học, nâng cao trình độ chính trị, khoa học -
kỹ thuật, đề bạt, cất nhắc...
Cần đấu tranh chống tư tưởng cục bộ, địa phương, dân tộc cực đoan,
bảo thủ, trì trệ trong bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số.
Xác định rõ việc sử dụng trí thức phải trên cơ sở đức và tài. Trong cơ chế thị
trường, trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập hiện nay,
vấn đề lương tâm, trách nhiệm trước đất nước, trước cộng đồng là yêu cầu
không thể thiếu. Do vậy, khi bố trí, sử dụng trí thức người dân tộc thiểu số,
ngoài trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cần quan tâm, chú ý đến phẩm chất
đạo đức, lối sống, có như thế mới đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước mắt và lâu dài của tỉnh.
Thứ tư, về chế độ đãi ngộ đối với trí thức người dân tộc thiểu số
Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định:
“Muốn cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự phát triển
thì trước nhất phải tìm ra động lực cho sự phát triển của bản thân khoa học và
95
công nghệ. Động lực này nằm ở lợi ích của những người nghiên cứu, phát
minh và ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ, bao gồm cả lợi ích vật
chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội. Sản phẩm
trí tuệ trước hết phải là sở hữu của người trực tiếp tạo ra chúng, được coi như
những thứ hàng hoá đặc biệt, được trả giá tương xứng với giá trị của chúng”
[29, tr.226].
Do đó, để khơi dậy tiềm năng và sức cống hiến của trí thức, Đảng và
Nhà nước cần có chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với họ.
Đối với tỉnh Lạng Sơn, việc đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số cần thực hiện theo các biện pháp sau:
Thực hiện việc nâng lương trước thời hạn đối với trí thức người dân tộc
thiểu số có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu, vận dụng những chính sách, chế độ khuyến khích trí thức
người dân tộc thiểu số về công tác ở vùng sâu, vùng xa, giúp họ ngày càng
gắn bó lâu dài với người dân ở cơ sở. Nâng mức giá trị thù lao ngày công lao
động trí óc nhằm tạo động lực khuyến khích cán bộ khoa học nghiên cứu sáng
tạo, toàn tâm toàn ý với công việc và gắn bó với quê hương, với đồng bào dân
tộc thiểu số.
Quy định mức thưởng xứng đáng cho các công trình khoa học và văn
học nghệ thuật của trí thức người dân tộc thiểu số có giá trị trong thực tiễn đời
sống xã hội, phục vụ lợi ích cho cộng đồng dân tộc trong tỉnh. Bảo lưu, gìn
giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc trên
địa bàn tỉnh.
- Coi trọng các hình thức động viên về chính trị, tinh thần, các hình
thức tôn vinh những trí thức người dân tộc thiểu số có những cống hiến xuất
sắc cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tổ chức các cuộc gặp gỡ,
tiếp xúc giữa lãnh đạo tỉnh với trí thức người dân tộc thiểu số để trân trọng
96
lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, hiến kế làm giàu cho quê hương, đất nước
của họ.
Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh góp phần
cùng Nhà nước, địa phương thực hiện chiến lược giáo dục - đào tạo, thu hút
và tạo môi trường thuận lợi cho trí thức dân tộc thiểu số ở tỉnh cống hiến tài
năng của mình, góp phần xây dựng quê hương Lạng Sơn giàu đẹp.
Đặc biệt, chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng cho lớp trí thức người
dân tộc thiểu số trẻ, ưu tú để phát triển Đảng hoặc vào các tổ chức đoàn thể,
tổ chức chính trị - xã hội của tỉnh, nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững
vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, làm nòng cốt
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
3.2.5. Nhóm giải pháp về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh nhằm huy động mọi nguồn lực
để phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong các giải pháp nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, nhóm giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và sự
quản lý của chính quyền các cấp đối với trí thức dân tộc thiểu số là rất quan
trọng. Sự đổi mới đó trước hết phải xác định được những quan điểm và đường
lối chiến lược đúng đắn, có cơ sở khoa học, khi xác định vị trí, vai trò của trí
thức người dân tộc thiểu số cũng như công tác xây dựng đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn trong tình hình mới. Đối với các cơ
quan, đơn vị tập trung đông đảo lực lượng trí thức người dân tộc thiểu số như
Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các
tổ chức Đảng ở đó, nhất là các chi bộ phải chú trọng chăm lo công tác xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo công tác chuyên môn, trở
97
thành hạt nhân lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Để thực hiện
đạt kết quả tốt nhiệm vụ đó, cần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các cấp uỷ Đảng và đảng viên trên cơ sở trí thức hoá đội ngũ của Đảng
trên cái nền nâng cao dân trí để đưa trí tuệ của Đảng ngang tầm với trí tuệ của
thời đại.
Đảng bộ tỉnh cần chú ý, quan tâm chỉ đạo công tác phát triển đảng
viên mới trong đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số, nhất là trí thức trẻ có
năng lực, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức, lối sống
trong sạch, lành mạnh. Làm được như vậy, Lạng Sơn không những tạo
được sự đoàn kết giữa các dân tộc, ủng hộ và cống hiến của trí thức mà
còn củng cố vững chắc vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trước
những thay đổi hết sức to lớn, sâu sắc của đất nước, của khoa học và công
nghệ, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Mặt khác, trong quá trình lãnh đạo của mình, Đảng bộ tỉnh cần tạo
điều kiện thuận lợi để trí thức người dân tộc thiểu số cùng với đội ngũ trí
thức trong tỉnh phát huy năng lực phát minh, sáng tạo và thực hiện tốt
chức năng phê phán, phản biện, phát hiện và dự báo tương lai. Trí thức
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn cần phải được thu hút, tập hợp vào
các tổ chức và hoạt động xã hội - chính trị đa dạng. Ngoài việc tham gia
các tổ chức có tính chất Nhà nước như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên
hiệp công đoàn và các tổ chức đoàn thể khác, trí thức còn cần được tập
hợp vào các tổ chức có tính chất nghề nghiệp, qua đó có thể tập hợp, thu
hút đông đảo lực lượng trí thức trong tất cả các ngành, các cấp, các thành
phần kinh tế trong tỉnh, kể cả trí thức Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh.
Mục đích cuối cùng là hướng họ cùng phấn đấu cho sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Đi đôi với việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh phải gắn liền
với việc đổi mới sự quản lý của hệ thống chính quyền từ tỉnh đến cơ sở
98
nhằm huy động mọi nguồn lực để xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể là:
- Các cấp chính quyền trong tỉnh cần kịp thời thể chế hoá các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng đối với trí thức người dân tộc
thiểu số. Rà soát, sửa đổi, bổ sung những chế độ, chính sách đã bộc lộ
những điểm bất hợp lý, tạo động lực mạnh mẽ để phát huy trí tuệ và tiềm
năng to lớn của đội ngũ trí thức đặc thù trong tỉnh.
- Kiện toàn và đổi mới công tác quản lý khoa học và hoạt động
nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ khoa học, văn học nghệ thuật;
khoa học hoá các hoạt động hành chính của Nhà nước; sắp xếp lại các cơ
quan nghiên cứu khoa học hợp lý; giải thể các cơ quan hoạt động không
hiệu quả, hợp nhất các trung tâm có cùng chức năng nghiên cứu. Liên
hiệp Hội khoa học - kỹ thuật, Hội văn học - nghệ thuật tỉnh và các hội
nghề nghiệp cần phải chủ động, thường xuyên nắm tình hình thực hiện
các chế độ, chính sách đối với đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số; đề
xuất với cơ quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết những vấn đề chưa
hợp lý để bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với trí thức người
dân tộc thiểu số của tỉnh nhằm phát huy vai trò, năng lực cống hiến của họ
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
- Cần quan tâm quản lý chặt chẽ công tác đào tạo tại các trường dân
tộc nội trú, trường cao đẳng, đại học trong tỉnh. Hiện nay, công tác quản
lý nhà nước về lĩnh vực này còn khá lỏng lẻo, chưa khoa học. Việc thực
hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức học tập và các loại hình đào
tạo là phù hợp với yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên
địa bàn tỉnh, song trong quá trình thực hiện vẫn còn nảy sinh những biểu
hiện tiêu cực từ khâu tuyển chọn, thi cử, học tập... Vì vậy, tỉnh Lạng Sơn
cần chỉ đạo đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới từ hình thức đến nội dung đào
tạo, tập trung đào tạo các lĩnh vực xã hội đang cần, nhất là lĩnh vực kinh
99
tế mũi nhọn, thế mạnh của tỉnh, đảm bảo cho phát triển bền vững trước
mắt và trong tương lai.
3.2.6. Giải pháp phát huy nội lực của bản thân đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn
Bên cạnh việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và sự quản lý
của chính quyền các cấp, bản thân người trí thức dân tộc thiểu số trong
tỉnh cũng cần phải tự đổi mới cả trong nhận thức, hành động và hoạt động
sáng tạo. Phải luôn suy nghĩ, trăn trở trước một thực tế là, Lạng Sơn có tài
nguyên rừng, đất, con người Lạng Sơn cần cù, thông minh, chịu thương,
chịu khó nhưng đến nay tại sao Lạng Sơn vẫn còn là tỉnh nghèo, cơ sở hạ
tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp. Do đó, mỗi trí thức người dân tộc
thiểu số tỉnh Lạng Sơn phải xác định rõ cho mình trách nhiệm tự học tập,
rèn luyện, cố gắng phấn đấu vươn lên không ngừng để nâng cao tri thức,
nâng cao trình độ chuyên môn kiến thức, nghiệp vụ. Nhận thức đó giúp
cho quá trình phát huy vai trò của đội ngũ này trở thành quá trình tự giác,
tích cực. Chỉ có như vậy thì nội lực của đội ngũ này mới được phát huy
đầy đủ.
Trí thức người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn phải không ngừng học
và tự học để bổ sung cập nhật tri thức để theo kịp thời đại và không bị tụt
hậu; tăng cường đổi mới, nâng cao chất lượng thông qua việc tổ chức học
tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; thông qua việc tổ chức hội thảo, tọa
đàm, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt chính trị, báo cáo chuyên đề về tình
hình tư tưởng và nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng. Qua đó, mỗi trí
thức tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ lý luận chính trị.
Trí thức nắm các cương vị lãnh đạo chủ chốt cần không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và trình độ trí tuệ. Bởi vì, trí thức thường không dễ chấp
nhận người lãnh đạo mình lại quá non kém về trình độ trí tuệ. Và như vậy thì
cán bộ lãnh đạo khó mà tuyên truyền một cách thuyết phục đường lối, quan
điểm của Đảng cho đội ngũ trí thức và càng khó định hướng hoạt động của trí
100
thức theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng cũng như không thể khơi dậy,
phát huy tốt tính sáng tạo của trí thức cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Bởi
vậy, bản thân trí thức là các cấp lãnh đạo cần tự nâng cao năng lực lãnh đạo,
nâng cao trình độ chuyên môn, gương mẫu thực hiện những chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, thực sự là cán bộ lãnh đạo gương mẫu. Có như vậy mới thực sự phát
huy được vai trò lãnh đạo của mình và thuyết phục được đông đảo trí thức
người dân tộc thiểu số tham gia cống hiến vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
Trong quá trình lao động, trí thức người dân tộc thiểu số phải là
những người chủ động đến với công nhân và nông dân, nhất là phải gắn
bó chặt chẽ với đồng bào dân tộc thiểu số, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
căn dặn: “Trí thức ta nên chủ động đi bước trước tìm đến công, nông và
tôi tin chắc rằng công, nông sẽ nhiệt liệt hoan nghênh trí thức” [43,
tr.215]. Hơn ai hết, đội ngũ trí thức tỉnh Lạng Sơn cũng hiểu rất rõ chân lý
của thời đại: "Trí thức là yếu tố chủ yếu của cuộc cạnh tranh ngày nay",
nên bản thân mỗi trí thức người dân tộc thiểu số phải tự học hỏi, phấn đấu
không mệt mỏi để vươn lên không ngừng và hoàn thành xuất sắc những
công việc mà mình đảm trách, có như vậy mới góp phần đưa tỉnh Lạng
Sơn thoát khỏi tỉnh nghèo vào năm 2013 và thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
Trên đây là những quan điểm và giải pháp cơ bản để phát triển đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn. Những giải pháp nêu
ra trên đây có mối quan hệ gắn bó với nhau, do vậy, trong quá trình thực
hiện, cần chú ý thực hiện đồng bộ các giải pháp đó.
101
KẾT LUẬN
Là tỉnh miền núi, biên giới tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống, nên phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số có vai trò
quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh, góp phần
không nhỏ vào tiến trình phát triển chung của đất nước. Tính đặc thù trong sự
hình thành và phát triển của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số bị quy
định bởi nhiều yếu tố: từ điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội; từ các
yếu tố truyền thống và quan hệ tộc người, đến các yếu tố quốc tế và thời đại.
Trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải có một đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số tương xứng đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Nhưng do còn rất nhiều khó khăn, nên tỉnh Lạng Sơn khó có khả năng đẩy
nhanh quá trình tạo nguồn tại chỗ và ít có sức thu hút cán bộ từ nơi khác đến. Do
vậy, yêu cầu đặt ra cần phải xây dựng được cơ chế chính sách đòn bẩy mới có
thể đẩy nhanh tốc độ phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số.
Được sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, thời gian qua đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số của tỉnh đã từng bước có những chuyển biến tích
cực ở tất cả các cấp, các ngành. Tuy nhiên, đội ngũ này hiện vẫn còn tồn tại
không ít những bất cập: số lượng cán bộ trí thức người dân tộc thiểu số còn
thiếu, nhất là ở cấp cơ sở; chất lượng còn hạn chế. Một số có biểu hiện sa sút
về phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ chuyên môn, lý luận chính trị,
quản lý nhà nước chưa được đào tạo cơ bản, hệ thống; đặc biệt là ngoại ngữ
và tin học còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Cơ cấu
của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số còn mất cân đối về giới tính, về
ngành, vùng. Những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn có đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nhưng thiếu nghiêm
trọng cán bộ dân tộc có trình độ. Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, có
nguyên nhân khách quan, có những nguyên nhân chủ quan và nhất là còn thiếu
102
những giải pháp mang tính đột phá vào những khâu trọng yếu mang tính đặc
thù của công tác phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc và trí thức, cần nhận rõ yêu cầu
xây dựng một đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số sao cho khai thác và
phát huy hiệu quả tiềm năng ẩn chứa vốn có của đội ngũ này. Phát triển đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số phải xuất phát từ yêu cầu phát huy năng
lực nội sinh, chú trọng tạo nguồn cơ bản, lâu dài từ Trường Dân tộc nội trú
của tỉnh làm tiền đề trực tiếp cho giáo dục đại học. Phát huy vai trò và trách
nhiệm của các tổ chức trong toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa
phương nhằm tạo ra được một đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số đảm bảo
về số lượng, nâng cao về chất lượng và đồng bộ về cơ cấu.
Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn không chỉ
là giải pháp trước mắt, mà còn là một chiến lược lâu dài, không chỉ là đòi hỏi
của nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, mà còn có thể coi là
yêu cầu sống còn để góp phần đảm bảo sự ổn định về chính trị, giữ vững an
ninh - quốc phòng, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết giữa các dân tộc
trong phạm vi các tỉnh miền núi phía Bắc và trong cả nước.
Xây dựng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số nói chung, phát triển
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn nói riêng luôn là một
vấn đề lớn, phức tạp và nhạy cảm. Nên, mặc dù tác giả luận văn rất tâm huyết
với đề tài, nhưng với khoảng thời gian nghiên cứu và khả năng còn hạn hẹp,
đặc biệt bản thân tác giả cũng là một trí thức người dân tộc thiểu số, chắc
chắn không tránh khỏi hạn chế. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
quý báu của các nhà khoa học và của các đồng nghiệp.
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Dân tộc và Tôn giáo (2004), Báo cáo số 191/BC-DTTG về kết quả
thực hiện một số chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc tỉnh Lạng
Sơn, ngày 29/11.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết
hội nghị trung ương Đảng, Khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tổ chức chính quyền tỉnh (1999), Báo cáo khoa học điều tra, đánh
giá thực trạng chất lượng cán bộ cơ sở, đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Lạng Sơn.
4. Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Ban Dân tộc và tôn giáo - Tỉnh Lạng Sơn
(2005), Tổng hợp từ thống kê số lượng, chất lượng cán bộ, công chức.
5. Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Ban Dân tộc và tôn giáo - Tỉnh Lạng
Sơn (2009), Tổng hợp từ thống kê số lượng, chất lượng cán bộ, công chức.
6. Báo Lạng Sơn (2005), “Các nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh”,
(2115), ra ngày 10/9.
7. Bộ Nội vụ, Ban Quản lý dự án ADL - ủy ban dân tộc (2004), Báo cáo
tổng hợp các văn bản tham luận tại Hội thảo chính sách, chế độ đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức dân tộc thiểu số, tháng 10.
8. Cục Thống kê Lạng Sơn (2004), Niên giám Thống kê tỉnh Lạng Sơn
năm 2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
9. Cục Thống kê Lạng Sơn (2008), Niên giám Thống kê tỉnh Lạng Sơn
năm 2007, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
10. Cục Thống kê Lạng Sơn (2009), Niên giám Thống kê tỉnh Lạng Sơn
năm 2008, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
104
11. Cục Thống kê Lạng Sơn (2010), Thống kê kinh tế - xã hội 2005-2010,
Lạng Sơn.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 45 - CT/TW ngày 11/11 về
đẩy mạnh hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Thông báo Kết luận số 145-TB/TW
ngày 09/7 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị 45-
CT/TW đối với Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong
giai đoạn từ nay đến năm 2010, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
21. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105
22. Phạm Văn Đồng (1986), "Truyền thống tốt đẹp của Việt Nam: sự đoàn
kết hòa hợp của các dân tộc anh em cùng nhau giữ nước và dựng nước",
Báo Nhân dân, ra ngày 15/1.
23. Trần Ngọc Hiên (2003), "Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát
triển đội ngũ trí thức và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam", Tin hoạt động các Hội Khoa học và Kỹ thuật, (4), tr.15-17.
24. Trần Đình Hoan (2002), "Luân chuyển cán bộ - khâu đột phá nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển
mới", Tạp chí Cộng sản, (7), tr.8.
25. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Những quan điểm cơ
bản của các nhà kinh điển về tầng lớp trí thức và yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta đối với đội ngũ trí thức Việt Nam
hiện nay, Kỷ yếu Đề tài cấp bộ 1999-2000, Hà Nội.
26. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X (2000), Chính sách pháp luật
của Đảng và Nhà nước về dân tộc, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
27. Đặng Hữu (2000), "Phát huy đội ngũ trí thức trẻ để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa", Xây dựng Đảng, (11), tr.17-19.
28. Phan Thanh Khôi (1998), Đội ngũ trí thức, chuyên gia và cán bộ quản lý
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề tài KX05. 03, Hà Nội.
29. Phan Thanh Khôi (1999), "Trí thức trong khối liên minh công - nông -
trí vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (22),
tr.34-38.
30. Phan Thanh Khôi (2000), "Tổng quan về đội ngũ trí thức nước ta hiện
nay", Thông tin lý luận, (4), tr.17-19.
31. Phan Thanh Khôi (2002), "Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học
xã hội", Khoa học Chính trị, (1), tr.33-38, 62.
106
32. Phan Thanh Khôi (2005), "Trí thức hóa công nhân"- Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn", Lao động và Công đoàn, (323 + 324), tr.17-19,51.
33. Kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa "rút ngắn" ở Việt Nam
(2003), Hội thảo khoa học, Hà Nội.
34. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí thức trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 9, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
36. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 22, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
37. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 23, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
38. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
39. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
40. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
41. Nguyễn Đình Minh (2003), Phát huy vai trò nguồn lực trí thức Khoa
học xã hội và nhân văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng
đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
47. Lê Văn Phụng (2003), Thực trạng tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị cấp huyện, xã các tỉnh miền núi nước ta hiện nay,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107
48. Nguyễn Xuân Phương (2004), Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
49. Lê Quang Quý (2005), Xây dựng đội ngũ trí thức ngành kiến trúc trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
50. Sở Nội vụ tỉnh Lạng Sơn (2005), Tổng hợp từ số liệu thống kê kết quả
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức (2001 -2003) và kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ công chức (2004-2005).
51. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2002), Báo cáo số 38-BC/TU tổng kết việc thực hiện
3 Nghị quyết Trung ương về công tác tổ chức và cán bộ, ngày 29/4.
53. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2003), Báo cáo số 89-BC/TU công tác quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Lạng Sơn, ngày 10/12.
54. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng
Sơn lần thứ XIV, Lạng Sơn.
55. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng
Sơn lần thứ XV, Lạng Sơn.
56. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học (1986), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
57. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), tập 1, Trung tâm biện soạn Từ điển
Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
58. Từ điển Triết học (1986), Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
59. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2002), Quyết định số 04/2002/QĐ-UB
về việc điều chỉnh mức hỗ trợ cán bộ được cử đi học, ngày 23/01.
108
60. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2005), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ, kế hoạch năm 2005, nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch năm 2006,
Lạng Sơn.
61. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2000), Quy hoạch tổng thể tỉnh Lạng
Sơn giai đoạn 2001 - 2010, Lạng Sơn.
62. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2009), Quy hoạch tổng thể tỉnh Lạng
Sơn giai đoạn 2010 - 2020, Lạng Sơn.
109