ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________
TRẦN HOÀNG HẢI
PHÁT TRIỂN ĐỘI TÀU BIỂN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________
TRẦN HOÀNG HẢI
PHÁT TRIỂN ĐỘI TÀU BIỂN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC THANH
HÀ NỘI - 2012
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN ĐỘI
TÀU BIỂN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ.. .............................................................................................. 12
1.1. Cở sở lý luận................................................................................................... 12
1.1.1. Đặc điểm đội tàu biển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ......... 12
1.1.2. Phương thức vận chuyển của hàng hoá xuất nhập khẩu của vận
tải biển .................................................................................................... 15
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới thị phần đội tàu biển ................................ 19
thương ..................................................................................................... 21
1.1.4. Mối quan hệ giữa phát triển đội tàu biển với hoạt động ngoại
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................... 23
1.2.1. Nhu cầu phát triển đội tàu của Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ........................................................................................ 23
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển đội tàu của một số nước trên thế giới ............ 26
1.2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................... 34
Chương 2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN ĐỘI TÀU BIỂN VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ......................................... 35
2.1. Tổng quan về vận tải biển Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ................................................................................................... .35
2.1.1. Tổng quan về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ......... 35
2.1.2. Khối lượng hàng hoá vận chuyển ........................................................ 39
2.1.3. Tuyến đường và giá cước .................................................................... 41
2.1.4. Thị phần chuyên chở của đội tàu biển Việt Nam ................................ 43
2.1.5. Những kết quả đạt được ...................................................................... 45
2.2. Thực trạng đội tàu biển Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế ............................................................................................................. 47
2.2.1. Quá trình phát triển của đội tàu biển Việt Nam .................................. 47
2.2.3. Tổ chức và quản lý của đội tàu biển Việt Nam .................................... 54
2.2.4. Cảng biển ............................................................................................. 55
2.2.5. Đội ngũ thuyền viên của đội tàu biển Việt Nam ................................. 57
2.2.2. Qui mô, cơ cấu và chất lượng của tàu biển Việt Nam ........................ 50
4
2.2.6. Mối quan hệ giữa phát triển đội tàu với hoạt động ngoại thương ....... 59
2.3. Đánh giá chung ............................................................................................... 66
2.3.1. Thuận lợi .............................................................................................. 65
2.3.2. Khó khăn .............................................................................................. 66
Chương 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI TÀU BIỂN VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN SẮP TỚI .............................................................................. 73
3.1. Định hướng mục tiêu cho đội tàu biển Việt Nam từ nay đến 2020 ................ 73
3.1.1. Những dự báo của Ngành Hàng hải về nhu cầu vận tải biển Việt
3.1.2. Mục tiêu phát triển đội tàu biển Việt Nam .......................................... 77
Nam giai đoạn từ nay đến năm 2020 ..................................................... 73
3.2. Một số giải pháp cụ thể để phát triển đội tàu biển Việt Nam trong thời
gian sắp tới ............................................................................................. 78
3.2.1. Các giải pháp phía Nhà nước .............................................................. 78
3.2.2. Các giải pháp phía doanh nghiệp ........................................................ 89
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 101
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên tiếng Anh
Tên tiếng Việt
APEC:
Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN: Association of Southeast Asia Nations
Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á
CIF :
Cost, Insurance and Freight
Giá thành, bảo hiểm và cước
trong thương mại quốc tế
GTVT:
Giao thông vận tải
FOB:
Free On Board
Miễn trách nhiệm Trên
Boong tàu nơi đi
IMF:
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
IMO:
International Maritime Organizatio
Tổ chức Hàng Hải Quốc tế
Giao thông vận tải
ODA:
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD: Organization for Economic Cooperation Tổ chức Hợp tác và Phát triển
and Development
Kinh tế
UNCTAD: United Nations Conference on Trade
Diễn đàn Thương mại và
and Development
Phát triển Liên Hiệp quốc
VAT:
Value Added Tax
Thuế giá trị gia tăng
VTB:
Vận tải biển
WB:
World Bank
Ngân hàng thế giới
XNK:
Xuất nhập khẩu
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ trước tới nay, phát triển kinh tế là vấn đề cần thiết và tất yếu đối với mọi
quốc gia. Để thực hiện điều đó, thì mỗi nước cần phải dựa vào tiềm lực của chính
mình đồng thời tranh thủ những điều kiện từ bên ngoài. Ở Việt Nam, từ khi xóa bỏ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước xây dựng nền
kinh tế mở, hội nhập. Hội nhập kinh tế mở ra một thị trường phát triển mới, đồng
thời lực lượng sản xuất mang tính quốc tế thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế
của cả nước.
Kinh tế vận tải biển là một trong những thế mạnh của Việt Nam, và được coi
là đòn bẩy quan trọng trong quá trình hội nhập. Cho đến nay, kinh tế vận tải biển đã
mang lại những thành tựu đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương. Có thể
nói, kinh tế vận tải biển là một trong những phương tiện hữu hiệu để thúc đẩy kinh
tế đối ngoại phát triển, góp phần tích lũy vốn cho nền kinh tế đồng thời giải quyết
được các vấn đề mang tính xã hội như tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người
dân.
Trong thời gian vừa qua cùng với sự phát triển chung của ngành kinh tế vận
tải biển, đội tàu biển Việt Nam đã có sự phát triển rất nhanh chóng về mặt số lượng
và chất lượng. Ngoài các tàu biển đã mua từ nước ngoài, ngành công nghiệp đóng
tàu trong nước đã cho ra đời một số lượng tương đối lớn các tàu đóng mới. Đội tàu
biển Việt Nam đang từng bước vươn ra xa hơn trên các vùng biển quốc tế và khả
năng cạnh tranh cũng được nâng cao đáng kể… Tuy đã có rất nhiều cải thiện,
nhưng nhìn chung đội tàu của chúng ta vẫn là đội tàu già, lạc hậu, còn nhiều hạn
chế về mặt chất lượng kỹ thuật và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn rất cao. Minh chứng
cụ thể là tỷ lệ lớn tàu treo cờ Việt Nam bị lưu giữ ở các cảng nước ngoài do có các
khiếm khuyết về an toàn hàng hải; hay như thời gian gần đây tàu Vina Queen gặp
7
sự cố bất ngờ bị đắm đã khiến dư luận quan tâm. Chính vì vậy, nghiên cứu về đội
tàu biển của Việt Nam là một đòi hỏi bức thiết trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Mặc dù vấn đề nghiên cứu về đội tàu biển Việt Nam không còn là vấn đề
mới, thực tế đã có nhiều đề tài nghiên cứu với tầm cỡ, quy mô và khía cạnh khác
nhau, tuy nhiên, do yêu cầu của mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển của đất nước
mà nội dung này vẫn cần phải có sự bổ sung và hoàn thiện. Và để trả lời câu hỏi:
Thực trạng phát triển đội tàu biển của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế như thế nào? Tác giả đã chọn đề tài “Phát triển đội tàu biển Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” làm luận văn thạc sỹ và cũng mong
muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình cho công cuộc xây dựng nước nhà.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về đội tàu biển Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học, dự án
đã được công bố dưới nhiều khía cạnh khác nhau, điển hình như:
- “Nghiên cứu các biện pháp để nâng cao hiệu quả khai thác đội tàu dầu của
Việt Nam” của PGS.TS Phạm Văn Cương.
- Liên quan tới vấn đề tài chính cho hoạt động xuất nhập khẩu bằng đường
biển, KS. Phạm Tiến Tịnh có bài viết Một số biện pháp tài chính nhằm hỗ trợ
ngành xuất nhập khẩu để giành quyền vận chuyển chó các chủ tàu Việt Nam trên
Tạp chí GTVT tháng 9/1997.
- Liên quan tới giải pháp tăng năng lực cạnh tranh của ngành hàng hải Việt
Nam nói chung, Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (2002) có đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Nhà nước “nghiên cứu các giải pháp tăng khả năng cạnh tranh của
ngành hàng hải Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”.
- Đối với container đường biển, Nguyễn Văn Chương có bài nghiên cứu Mở
rộng và phát triển vận tải container đường biển của Việt Nam. Bài nghiên cứu tập
trung phân tích thực trạng của đội tàu container và giải pháp nâng cao thị phần của
đội tàu container Việt Nam.
8
- “Mô hình hóa công tác quản lý tàu biển” - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường của tập thể giảng viên tổ Quản lý và khai thác đội tàu (2004) - Trường Đại
học Hàng hải
- “Thực trạng đội tàu biển Việt Nam dưới góc độ phát triển bền vững” - Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2007) - Trường Đại học Hàng hải. Trong đề tài
này, tác giả chủ yếu làm rõ mối quan hệ giữa giữa nhu cầu phát triển đội tàu biển
Việt Nam gắn với quá trình phát triển bền vững đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi
trường.
Thậm chí, nhiều cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước còn
có những bộ phận chuyên nghiên cứu về đội tàu biển Việt Nam, như Cục đăng
kiểm Hàng hải Việt Nam, Cục Hàng hải Việt Nam, Tạp chí Hàng hải Việt Nam,
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam… Như vậy, vấn đề nghiên cứu về đội tàu biển là
một trong những vấn đề nóng bỏng, mang tính chiến lược cao của Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung. Tuy nhiên, đứng dưới góc độ kinh tế chính trị, việc
nghiên cứu phát triển đội tàu biển thì chưa có đề tài nào làm rõ. Đây cũng là một
hướng mới để tác giả phân tích làm rõ hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Một là, làm rõ thực trạng năng lực vận chuyển, thị phần của đội tàu biển
Việt Nam hiện nay và mục tiêu phát triển đội tàu biển trong tương lai theo chiến
lược chung của ngành Hàng hải.
- Hai là, dưới góc độ kinh tế chính trị sẽ xác định mối quan hệ giữa phát triển
đội tàu biển với ngoại thương: vai trò đội tàu trong việc thúc đẩy ngoại thương và
ngoại thương đã tác động thế nào tới việc xây dựng đội tàu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của phát triển đội tàu biển.
- Phân tích thực trạng phát triển đội tàu biển trong giai đoạn từ 1995 đến 2011.
9
- Làm rõ mối quan hệ giữa phát triển đội tàu biển với hoạt động ngoại thương.
- Đề ra phương hướng, giải pháp phát triển đội tàu trong tiến trình hội nhập
sắp tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng phát triển đội tàu biển của
Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó tập trung nghiên cứu
mối quan hệ giữa phát triển đội tàu biển với ngoại thương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình phát triển đội tàu biển Việt Nam
(quốc doanh và ngoài quốc doanh).
- Thời gian nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1995 đến 2011, tầm nhìn đến
năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đội tàu biển Việt Nam được đặt trong 2 bối cảnh:
- Đội tàu biển Việt Nam trong hệ thống vận chuyển trong nước.
- Đội tàu biển Việt Nam trong hệ thống vận chuyển đường biển trên thế giới.
Cách giải quyết này trên cơ sở phân tích hệ thống. Tác giả sẽ tập trung khảo
sát thực trạng về năng lực vận chuyển của đội tàu biển. Đồng thời, dựa trên tình
hình thực tế về vận tải biển trong và ngoài nước, sẽ dự báo phân tích các giải pháp
để xây dựng đội tàu biển trong tương lai. Vì vậy, tác giả sẽ sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh trên quan điểm tiếp cận hệ thống.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở xem xét thực trạng của đội tàu biển
Việt Nam, tình hình thị trường vận tải biển của Việt Nam, khu vực và thế giới.
Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu các chủ trương, đường lối, chiến lược phát
triển kinh tế của Việt Nam nói chung, các định hướng, quy hoạch phát triển ngành
10
Hàng hải nói riêng và xu hướng phát triển Ngành Hàng hải thế giới nhằm để luận
giải sự cần thiết phải phát triển đội tàu biển trong giai đoạn hội nhập.
Luận văn cũng đề xuất những giải pháp đầu tư thích hợp cho đội tàu biển
Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hàng hóa vận chuyển bằng đường biển theo mục
tiêu thị phần đặt ra trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển đội tàu biển Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Tình hình phát triển đội tàu biển Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3: Giải pháp phát triển đội tàu biển Việt Nam trong giai đoạn sắp
tới.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN ĐỘI TÀU
BIỂN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Cở sở lý luận
1.1.1. Đặc điểm đội tàu biển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
a) Đặc điểm chung về hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.
Hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển là loại hàng hoá mang yếu tố
quốc tế, hàng hoá đó đi qua biên giới của hai hay nhiều quốc gia, là hàng hoá phù
hợp cho vận chuyển bằng đường biển, chủ yếu là hàng hoá cồng kềnh, giá trị
thường lớn, không có yêu cầu cấp bách về mặt thời gian do chuyên chở bằng đường
biển mất nhiều thời gian. Hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển liên quan tới
nhiều yếu tố như: thị trường, cán cân thương mại quốc tế, pháp luật quốc tế, và rủi
ro đặc thù như thời tiết, môi trường, nạn cướp biển, khủng bố, các rủi ro khi thay
đổi các chính sách của công ước quốc tế về an toàn môi trường, bảo vệ sinh mạng
trên biển…
Phương tiện vận tải biển chủ yếu là tàu biển, tàu biển có hai loại: tàu buôn và
tàu quân sự. Tàu buôn là những tàu biển được dùng vào mục đích kinh tế, trong đó
tàu container là loại tàu chiếm tỷ lệ cao nhất trong đội tàu buôn. Trên thế giới
chuyên chở hàng hoá bằng đường biển chiếm trên 80% tổng khối lượng hàng hoá
trong thương mại quốc tế và liên quan trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế thế giới.
b) Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của đội tàu biển thế giới.
Vận tải đường biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác.
Ngay từ thế kỷ thứ V trước công nguyên con người đã biết lợi dụng biển làm các
tuyến đường giao thông để giao lưu các vùng các miền, các quốc gia với nhau trên
thế giới. Cho đến nay vận tải biển được phát triển mạnh và trở thành ngành vận tải
hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế.
12
Vận tải biển đóng vai trò quan trọng nhất trong vận chuyển hàng hoá ngoại
thương, là phương thức chuyên chở chủ yếu trong buôn bán quốc tế, đảm bảo chuyên
chở trên 80% tổng khối lượng hàng hoá trong buôn bán quốc tế.
- Vận tải đường biển có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hoá
trong buôn bán quốc tế.
- Các tuyến đường vận tải trên biển hầu hết là những tuyến đường giao thông
tự nhiên.
- Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển rất lớn. Nhìn chung năng lực
chuyên chở của công cụ vận tải đường biển không bị hạn chế như các công cụ của
các phương thức vận tải khác.
* Ưu điểm nổi bật của vận tải đường biển là giá thành thấp. Tuy nhiên, vận
tải đường biển có một số nhược điểm:
- Vận tải đường biển phụ thuộc rất nhiều vào điệu kiện tự nhiên.
- Tốc độ của tàu biển còn thấp và việc tăng tốc độ khai thác của tàu biển còn
bị hạn chế.
Bảng 1.1. Cơ cấu đội tàu biển thế giới theo chủng loại và trọng tải tàu giai đoạn 1980-2009
(Triệu DWT)
Loại tàu Container Tổng hợp 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2007 2008 2009 162 64 11 109 101 116 26 103 20 106 44 104 128 101 145 105 98 92
Hàng khô Dầu Khác Tổng 186 339 31 683 232 261 45 664 235 246 49 659 262 268 58 736 276 282 75 798 321 336 49 896 418 391 368 418 408 383 85 69 63 1043 1118 1176
Nguồn: UNCTAD
Nhìn chung đội tàu thế giới có xu hướng tăng mạnh qua các năm 1980-2009.
Nhìn vào bảng ta thấy năm 2009 số lượng đã tăng gần gấp đôi so với
năm 1980 (so về trọng tải). Trong đó chiếm tỷ trọng lớn là tàu chở dầu và tàu chở
hàng khô, chiếm đến 80% tổng thể. Tàu chở hàng hóa tổng hợp nhìn chung ổn định
13
qua các năm. Đáng kể nhất là container tăng rất nhanh qua các năm, từ 11
triệu DWT năm 1980 lên 162 triệu DWT, tăng xấp xỉ 15 lần. Điều này chứng tỏ xu
thế phát triển đội tàu thế giới đang có chiều hướng thiên về loại tàu conteainer, đây
vốn là một loại phương tiện đại diện cho phương thức vận chuyển hàng hóa hiện
đại. Không những thế tàu còn thay đổi cả về kích thước, tốc độ tàu. Về kích thước,
trong giai đoạn 2000-2009 số lượng tàu cũng như kích thước tàu đã tăng trưởng rất
nhanh chóng. Kích thước nếu một mẫu số chung cho các tàu là nó thể hiện loại
cũng như năng lực. Mỗi lần kích thước của tàu được tăng lên gấp đôi, công suất của
nó tăng gấp ba lần. Mặc dù kích thước tối thiểu cho hiệu quả xử lý số lượng lớn chi
phí được ước tính là khoảng 1.000 tấn DWT, quy mô nền kinh tế đã khiến cho kích
cỡ tàu lớn hơn để phục vụ nhu cầu vận chuyển. Đối với chủ tàu, các lý do cho tàu
thuyền lớn hơn có nghĩa giảm, nhiên liệu, cập bến, bảo hiểm và chi phí bảo trì. Các
tàu chở dầu lớn nhất (ULCC) là khoảng 500.000 DWT (chiếm ưu thế kích thước
khoảng từ 250.000 đến 350.000 DWT), trong khi tàu chở hàng rời lớn nhất khô là
khoảng 350.000 DWT (chiếm ưu thế kích thước từ 100.000 đến 150.000 DWT).
Các hạn chế duy nhất còn lại ở kích thước tàu hiện nay công suất của cảng, bến
cảng và các kênh rạch để chứa chúng.
* Từ những đặc điểm kinh tế kỹ thuật nói trên của vận tải đường biển, ta có
thể rút ra kết luận một cách tổng quát về phạm vi áp dụng như sau:
+ Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hoá trong buôn bán
quốc tế.
+ Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hoá có khối lượng lớn,
chuyên chở trên cự ly dài nhưng không đòi hỏi thời gian giao hàng nhanh chóng.
+ Vận tải đường biển đang có xu thế mở rộng phát triển đội tàu container.
Với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật và hoàn thiện về cơ chế quản lý hiệu
quả kinh tế của vận tải biển ngày càng cao.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật của vận tải đường biển.
14
- Các tuyến đường biển: Là các tuyến đường nối hai hay nhiều cảng với nhau
trên đó tàu biển hoạt động chở khách hoặc hàng hoá.
- Cảng biển: Là nơi ra vào neo đậu của tàu biển, là nơi phục vụ tàu và hàng hoá
trên tàu và là đầu mối giao thông quan trọng của một quốc gia có biển. Hiện nay, ở Việt
Nam hàng hóa được vận chuyển chủ yếu thông qua các cảng biển chính như: Hải phòng,
Sài gòn, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, Cần Thơ…
1.1.2. Phương thức vận chuyển của hàng hoá xuất nhập khẩu của vận tải
biển
Các phương thức thuê tàu chuyên chở hàng hoá:
+ Phương thức thuê tàu chợ (Liner chartering)
+ Phương thức thuê tàu chuyến (Voyage chartering)
+ Phương thức thuê tàu định hạn (Time chartering)
a) Tàu chợ (Liner chartering)
Tàu chợ là tàu chạy thường xuyên trên một tuyến đường nhất định, ghé qua
những cảng nhất định theo một lịch trình định trước. Tàu chợ hoạt động trên tuyến
đường nhất định nên người ta còn gọi là tầu định tuyến. Lịch chạy tàu thường được
các hãng tàu công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để phục vụ khách
hàng.
* Đặc điểm tàu chợ
- Tàu chợ thường chở hàng bách hoá có khối lượng nhỏ.
- Cấu tạo của tàu chợ phức tạp hơn các loại tàu khác.
- Điều kiện chuyên chở do các hãng tàu quy định và in sẵn trên vận đơn
đường biển (B/L) để phát hành cho người gửi hàng.
* Phương thức thuê tàu chợ
Thuê tàu chợ hay người ta còn gọi là lưu cước tàu chợ (liner booking note). Thuê
tàu chợ là chủ hàng (shipper) trực tiếp hay thông qua người môi giới (broker) yêu
cầu chuyển tàu (ship owner) giành cho mình thuê một phần chiếc tàu để chuyên
15
chở hàng hoá từ cảng này đến cảng khác.
Mối quan hệ giữa người thuê với người cho thuê trong phương thức thuê tàu
chợ được điều chỉnh bằng một chứng từ được gọi là vận đơn đường biển. Nội dung
của vận đơn đường biển do hãng tàu quy định sẵn.
b) Tàu chuyến (voyage chartering)
Tàu chuyến là tàu chuyên chở hàng hoá giữa hai hoặc nhiều cảng theo yêu
cầu của chủ hàng trên cơ sở một hợp đồng thuê tàu. Thuê tàu chuyến là việc chủ
hàng liên hệ với chủ tàu hoặc đại diện của chủ tàu để thuê toàn bộ con tàu để
chuyên chở hàng hoá từ một hoặc nhiều cảng xếp đến một hoặc nhiều cảng dỡ theo
yêu cầu của chủ hàng.
* Đặc điểm
- Tàu không chạy theo lịch trình cố định như tàu chợ mà theo yêu cầu của
chủ hàng.
- Văn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên trong thuê tàu chuyến là hợp
đồng thuê tàu chuyến (voyage charter party - CP ) và vận đơn đường biển. Hợp
đồng tàu chuyến được ký kết giữa người thuê tàu (chaterer) và người chuyên chở
(chủ tàu hoặc người quản lý tàu), trong đó người chuyên chở cam kết chuyên chở
hàng hoá để giao cho người nhận ở cảng đến còn người thuê tàu cam kết trả tiền
cước chuyên chở theo mức hai bên thoả thuận.
Khi xếp hàng lên tàu hoặc khi nhận để xếp người chuyên chở sẽ cấp vận đơn
đường biển. Vận đơn này điều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên chở với người
gửi hàng, giữa người chuyên chở với người nhận hàng hoặc người cầm vận đơn.
- Người thuê tàu có thể tự do thoả thuận, mặc cả về các điều kiện chuyên chở
và giá cước trong hợp đồng thuê tàu.
- Giá cước trong thuê tàu chuyến có thể gồm cả chi phí xếp dỡ hoặc không,
do thoả thuận của hai bên và được tính theo trọng lượng hàng, thể tích hàng hoặc
tính theo giá thuê bao (lumpsum) cho một tuyến.
16
- Chủ tàu có thể đóng vai trò là người chuyên chở hoặc không.
- Tàu chuyến thường được thường được dùng khi thuê chở dầu và hàng có
khối lượng lớn như than, quặng, ngũ cốc, boxit, photphat, xi măng, phân bón… và
người thuê tàu phải có khối lượng hàng hoá tương đối lớn, đủ để xếp một tàu.
* Các hình thức thuê tàu chuyến
- Thuê một chuyến (Single trip) tức là thuê tàu để chở hàng từ một cảng này
đến một cảng khác.
- Thuê chuyến khứ hồi (Round trip) tức là thuê tàu chở hàng từ một cảng này
đến một cảng khác rồi chở hàng từ cảng đó về.
- Thuê chuyến một liên tục (Consecutive voyage) tức là thuê tàu chở hàng từ
một cảng này đến một cảng khác nhiều chuyến liên tục nhau.
- Thuê tàu theo hợp đồng có khối lượng lớn (Contract Shipping). Các chủ tàu
có khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu lớn, ổn định trên một tuyến đường nhất
định, thường ký kết hợp đồng (Contract of Affreightment - COA) với chủ tàu để
thuê chuyên chở một số chuyến nhất định trong một năm hay khối lưọng hàng hoá
nhất định, trên một tuyến đường nhất định trong một thời gian nhất định. Giá cước
thuê tàu trong trường hợp này cũng được tính theo trọng lượng hoặc thể tích với
mức rẻ hơn giá trị thường.
c) Tàu định hạn (Time Chatering)
Thuê tàu định hạn hay còn gọi là thuê tàu theo thời hạn là việc chủ tàu cho
người thuê tàu thuê toàn bộ con tàu, có thể gồm cả một thuyền bộ (tập thể thuyền
trưởng và thuyền thủ) hoặc không, để chuyên chở hàng hoá trong một thời gian
nhất định, còn người thuê tàu phải trả tiền thuê tàu và các chi phí hoạt động của con
tàu.
* Đặc điểm
17
- Người thuê tàu được quyền quản lý và sử dụng con tàu trong một thời gian
nhất định. Người thuê tàu phải tìm hàng để chở và có thể chở nhiều chuyến trong
thời gian thuê.
- Văn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ tàu và người thuê tàu là hợp đồng
thuê tàu định hạn (time charter).
Hợp đồng thuê tàu định hạn mang tính chất là một hợp đồng thuê tài sản
được ký kết giữa chủ tàu và người thuê tàu, qui định những nội dung như tên tàu,
trọng tải, dung tích đăng ký, dung tích chứa hàng, khả năng đi biển của tàu, thời
gian và địa điểm giao tàu, trả tàu, thời gian thuê tàu, vùng biển được phép kinh
doanh, tiền thuê, phân chia một số phí hoạt động của tàu như nhiên liệu, nước
ngọt…
- Người thuê tàu phải trả cho chủ tàu tiền thuê tàu (Hire) chứ không phải tiền
cước (Freght). Tiền thuê tàu được tính theo ngày hay tháng cho toàn tàu hoặc cho một
đơn vị trọng tải hay dung tích của tàu. Ngoài tiền thuê tàu, người thuê tàu còn phải
chịu các chi phí hoạt động (Operation cost ) của tàu như nhiên liệu, nước ngọt, cảng
phí, đại lý phí, hoa hồng môi giới, vật liệu chèn lót…
- Chủ tàu không đóng vai trò là người chuyên chở. Khi đi chở thuê theo
chuyến thì người thuê tàu (Time charterer) sẽ đóng vai trò là người chuyên chở chứ
không phải là chủ tàu.
Với những đặc diểm trên người thuê tàu thường sử dụng phương thức thuê
tàu này khi thị trường thuê tàu nhộn nhịp, giá cước có xu hướng tăng, việc thuê tàu
khó khăn. Hiện nay người thuê tàu Việt Nam ít sử dụng phương thức thuê tàu theo
định hạn.
* Các hình thức thuê tàu định hạn
* Thuê toàn bộ: tức là thuê toàn bộ con tàu cùng với thuyền bộ (thuyền
trưởng, sỹ quan, thuỷ thủ). Trong hình thức này có hai cách thuê:
- Thuê theo thời hạn (Period time charter): Tức là thuê tàu trong một thời
gian, có thể là 6 tháng, một năm, nhiều năm…
18
- Thuê định hạn chuyến (trip time charter): tức là thuê tàu kiểu định hạn
nhưng chỉ chở một chuyến.
* Thuê định hạn trơn (bare boat charter) chủ tàu cho người thuê tàu thuê con
tàu mà không có một thuyền bộ. Trong trường hợp này người thuê tàu phải biên
chế một thuyền bộ mới có thể khai thác con tàu được.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới thị phần đội tàu biển
Như ta đã biết, hoạt động của đội tàu vận tải biển luôn gắn với thị trường vận
tải biển. Thị trường vận tải biển là nơi diễn ra hoạt động của các tàu vận tải biển để
tiến hành quá trình vận chuyển hàng hoá, hành khách trên các tuyến vận tải biển.
Thị trường vận tải càng được mở rộng thì nhu cầu về đội tàu càng lớn, vì vậy khi
tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển đội tàu, thì yếu tố quan trọng nhất
đó là thị phần vận tải biển (TPVT).
Khi đề cập đến đội tàu biển quốc gia cần phải đề cập đến các doanh nghiệp
vận tải biển, vì các tàu thuộc đội tàu biển quốc gia đều phải trực thuộc sở hữu và
chịu sự quản lý điều hành của một trong các doanh nghiệp vận tải biển (DN.VTB).
Với đặc thù của vận tải biển, ta có thể xác lập được mô hình môi trường kinh doanh
của DN.VTB như sau:
Biểu đồ 1.1: Mô hình môi trường kinh doanh của doanh nghiệp vận tải biển
DN Vận tải biển
Các yếu tố đầu vào cho DN hoạt động Các yếu tố về cầu
Cơ chế chính sách của Nhà nước DN hỗ trợ (DN.CB & DN.DVHH)
19
Thông qua sơ đồ trên cho thấy thị phần vận tải (TPVT) sẽ chịu sự tác động
của các nhân tố thuộc năm nhóm sau:
Nhóm DN.VTB: đội tàu biển- cơ sở vật chất nòng cốt của doanh
nghiệp, phương thức tổ chức khai thác kinh doanh, chính sách về tàu biển…
- Doanh nghiệp cảng biển- DN.CB: khả năng giải phóng tàu -năng suất xếp
Nhóm các doanh nghiệp hỗ trợ (trực tiếp):
- Doanh nghiệp dịch vụ hàng hải - DN.DVHH: thời gian, chất lượng dịch
dỡ, trang thiết bị xếp dỡ, các chính sách về cảng biển…
vụ, chính sách về dịch vụ hàng hải…
Nhóm các yếu tố đầu vào: vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, cơ sở hạ
tầng cho hoạt động vận tải biển… Nguồn lực cung cấp cho hoạt động vận tải biển
về cơ bản bao gồm: đội ngũ thuyền viên cung cấp cho đội tàu, các cán bộ khai thác
làm việc tại các DN.VTB, DN.CB, nguồn lực phục vụ cho hoạt động của hệ thống
DN.DVHH.
Nhóm yếu tố về cầu: Nhu cầu hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường
biển.
Nhóm yếu tố cơ chế, chính sách của Nhà nước: Hoạt động kinh tế của
bất kỳ chủ thể nào trong quốc gia luôn chịu sự chi phối, tác động điều tiết của nhà
nước. Nếu nhìn nhận được đúng bản chất và phát hiện được quy luật ảnh hưởng các
nhân tố tới mục tiêu cần đạt được sẽ tạo nền tảng vững chắc để nhà nước sử dụng
phương thức quản lý, tác động, khuyến khích phù hợp, phát huy tốt công năng của
nhân tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến TPVT. Đồng thời, cũng trên cơ sở đó chính
bản thân doanh nghiệp sẽ phải chọn lọc phương thức kinh doanh khai thác hiệu
quả, thúc đẩy nâng cao TPVT.
Như vậy, thị phần vận tải biển chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố tác động
trong những mối quan hệ phức tạp đặc biệt trước bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế.
Sự phát triển kinh tế của quốc gia luôn chịu sự tác động chi phối của quy luật cạnh
20
tranh trong đó ngành hàng hải cụ thể là hoạt động vận tải biển đang phải chịu sức
ép cạnh tranh khốc liệt trong xu thế tự do hoá thương mại, vận tải biển quốc gia
phải tham gia vào “sân chơi chung” với những quy tắc chặt chẽ của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Thị phần vận tải là một trong những chỉ số quan
trọng đánh giá sức cạnh tranh của đội tàu biển quốc gia.
Trong năm nhóm nhân tố nêu trên, hàng hoá luôn là đối tượng của hoạt động
vận tải biển, dự báo nhu cầu hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển chính là
lượng hàng tiềm năng mà đội tàu quốc gia phải giữ trọng trách và được xem là
nguồn đã có. Với đặc thù của hoạt động vận tải biển, các nhân tố đầu vào như vốn,
công nghệ, nguồn nhân lực - đội ngũ sỹ quan thuyền viên, cán bộ khai thác tàu, khai
thác cảng, dịch vụ hàng hải… cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến thị
phần vận tải. Khi nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn nhân lực đến thị phần vận tải
không thể tách rời khỏi quy mô, cơ cấu và xu hướng phát triển của doanh nghiệp nói
riêng và ngành hàng hải nói chung mà luôn có sự gắn kết chặt chẽ với nhóm doanh
nghiệp vận tải biển, doanh nghiệp hỗ trợ (trực tiếp) đó là đội tàu, cảng biển và hệ
thống dịch vụ hàng hải vì đây chính là một trong những vùng thị trường sử dụng
nguồn lực, nơi kiểm định chất lượng nguồn nhân lực, thông qua đó gián tiếp đánh giá
được ảnh hưởng của chúng đến thị phần vận tải.
1.1.4. Mối quan hệ giữa phát triển đội tàu biển với hoạt động ngoại thương
Đối với các quốc gia có lợi thế về hàng hải, phát triển đội tàu biển và ngoại
thương (buôn bán quốc tế) có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, có tác
dụng thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đội tàu biển tiền đề, là điều kiện tiên quyết để
buôn bán quốc tế ra đời và phát triển. Lênin nói: “Vận tải là phương tiện vật chất
cuả mối liên hệ kinh tế với nước ngoài”.
Đối với thương mại quốc tế, vận tải biển có những tác dụng sau đây:
- Đảm bảo chuyên chở khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng tăng
trong thương mại quốc tế.
- Làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu thị trườngtrong buôn bán quốc tế
21
- Vận tải biển ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thanh toán của một nước. Vận
tải biển được coi là lĩnh vực xuất nhập khẩu vô hình (Invisible trade), nó có thể góp
phần cải thiện hay làm trầm trọng thêm cán cân thanh toán quốc tế của mỗi nước.
Ngược lại, khi buôn bán quốc tế phát triển lại tạo ra yêu cầu để thúc đẩy vận
tải biển trong đó có đội tàu biển phát triển. Đội tàu biển phát triển làm cho giá
thành vận chuyển hạ, tạo điều kiện để nhiều mặt hàng có giá trị thấp có thể tham
gia buôn bán quốc tế. Chính vì vậy, các quốc gia có bờ biển đều tìm cách khai thác
tối đa lợi thế này.
Biểu đồ 1.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế & Tốc độ tăng trưởng container
Nguồn: IMF October 2009, Drewry CF Q3.
Chú thích:
World GDP: GDP thế giới
Containerized Trade Rate: tỷ lệ tăng trưởng Container
22
Real GDP Growth: Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm
Average world Containerized Trade Rate: Tăng trưởng trung bình giao dịch
container thế giới.
Containerized Trade over period: Tăng trưởng giao dịch container theo từng
thời kỳ.
Từ biểu đồ 1.2, ta thấy mối quan hệ mật thiết giữa tăng trưởng kinh tế thế
giới với tăng trưởng đội tàu container. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế kéo theo
mức tăng trưởng đội tàu container thế giới. Container vận tải biển thế giới từ 1987
tới 2008, nhìn chung là tăng trưởng khá 9,8% tương ứng với mức tăng trưởng trung
bình 3,4% của kinh tế thế giới. Giai đoạn 2004 - 2008, kinh tế thế giới tăng trưởng
trung bình 4,5%, tăng trưởng container tăng trưởng là 9,9%. Riêng năm 2009, trước
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tăng trưởng kinh tế thế giới - 1,1%, tăng trưởng đội
tàu container sụt giảm khoảng -11%. Thực tế , ngoại thương đóng góp phần rất lớn
cho tăng trưởng kinh tế, trong đó đội tàu container là phương tiện chính cho hoạt
động ngoại thương. Từ đó ta thấy mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa sự tăng trưởng kinh
tế với tăng trưởng đội tàu container, đây là xu hướng tất yếu của tất cả các quốc gia
có lợi thế ngành hàng hải trên thế giới.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nhu cầu phát triển đội tàu của Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế
Theo thống kê của cơ quan nhà nước về vận tải biển cho thấy, tính đến năm
2011, đội tàu biển Việt Nam gồm 1.691 tàu biển, trong đó có 450 tàu biển hoạt
động tuyến quốc tế, với tổng trọng tải đạt 6,2 triệu DWT, chỉ giành chưa đầy 20%
thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu. Như vậy, việc vận chuyển hơn 80%
tổng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng biển cả nước, với 251 triệu tấn/năm
đang do các đội tàu nước ngoài đảm nhiệm. Có thể nói ngay tại thị trường nội địa,
đội tàu biển Việt Nam vẫn đang bị đuối trong cuộc cạnh tranh với các tàu nước
ngoài. Điều này có nghĩa là, việc nâng thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập
23
khẩu do đội tàu biển Việt Nam đảm nhận lên 27% - 30% vào năm 2020 được đề ra
trong Quy hoạch Phát triển vận tải biển đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
là mục tiêu không hề đơn giản. Đồng thời, khai thác lĩnh vực vận tải biển vẫn đang
là một lĩnh vực tiềm năng lớn đối với nền kinh tế nước ta.
Bảng 1.2.: Khối lượng hàng hóa vận chuyển phân theo ngành vận tải
(Đơn vị: Nghìn tấn)
Năm Tổng số
Đường sắt Loại hình vận chuyển Đường sông Đường biển Đường bộ Đường hàng không
2005 460146,3
2006 513575,1
2007 596800,9
2008 653235,3
2009 699810,0
8786,6 (1,9%) 9153,2 (1,8%) 9050,0 (1,5%) 8481,1 (1,3%) 8068,1 (1,2%) 298051,3 (64,8%) 338623,3 (65,9%) 403361,8 (67,6%) 455898,4 (69,8%) 494649,8 (70,1%) 111145,9 (24,2%) 122984,4 (24%) 135282,8 (22,7%) 133027,9 (20,4%) 135688,4 (19,4%) 42051,5 (9,1%) 42693,4 (8,3%) 48976,7 (8,2%) 55696,5 (8,5%) 61266,1 (8,8%) 111,0 (0,02%) 120,8 (0,02%) 129,6 (0,02%) 131,4 (0,02%) 137,6 (0,02%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
24
Bảng 1.3. Khối lượng hàng hóa luân chuyển phân theo ngành vận tải
(Đơn vị: Triệu tấn.km)
Loại hình luân chuyển
Năm Tổng số
Đường sắt Đường bộ Đường sông Đường biển Đường hàng không
2005 100728,3
2949,3 (2,9%) 17668,3 (17,6%) 17999,0 (17,9%) 61872,4 (61,4%) 239,3 (0,2%)
2006 113550,0
3446,6 (3,0%) 20537,1 (18,1%) 18843,7 (16,6%) 70453,2 (62,1%) 269,4 (0,2%)
2007 134883,0
3882,5 (2,9%) 24646,9 (18,3%) 22235,6 (16,5%) 83838,1 (62,2%) 279,9 (0,2%)
2008 172859,1
4170,9 (2,4%) 27968,0 (16,2%) 24867,8 (14,4%) 115556,8 (66,8%) 295,6 (0,2%)
2009 194949,7
3805,1 (2%) 30261,4 (15,5%) 25365,2 (13,0%) 135201,4 (69,3%) 316,6 (0,2%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Từ bảng số liệu trên ta thấy, trong các loại hình vận chuyển hàng hóa của
nước ta, khối lượng hàng hóa vận chuyển theo đường biển mặc dù chiếm tỷ trọng
thấp (ví dụ: năm 2009 là 61266,1 nghìn tấn - chiếm khoảng 8,8%) tuy nhiên khối
lượng hàng hóa luân chuyển theo đường biển lại chiếm tỷ trọng rất cao (ví dụ: năm
2009 là 135201,4 triệu tấn.km - chiếm khoảng 69,3 %). Điều này chứng tỏ đặc
điểm của phương thức vận chuyển đường biển được sử dụng nhiều cho việc vận
chuyển hàng hóa đường dài, và là phương tiện số một cho các hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hóa. Với ưu thế về chi phí vận chuyển thấp, khối lượng hàng hóa vận
chuyển lớn, hơn 80% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận
chuyển bằng đường biển thông qua các cảng trong toàn quốc, ngành vận tải biển
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sản lượng vận tải biển tăng bình quân 11%/năm trong thực tế, cao hơn mức đề ra
(10%), sản lượng hàng thông qua cảng tăng bình quân 17%/năm, cao hơn 2 lần
25
mức đề ra. Dự kiến trong những năm tới, khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu nói
chung và khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển nói riêng sẽ tăng
đáng kể. Đặc biệt giai đoạn 2015 trở đi, nhu cầu vận tải biển nội địa sẽ tăng đột
biến đối với các mặt hàng dâu thô, xăng dầu do các nhà máy lọc dầu lần lượt đi vào
hoạt động; các mặt hàng rời như than, quặng cũng sẽ tăng mạnh, đặc biệt là than
nhập khẩu cho các nhà máy nhiệt điện. Đây là điều kiện thuận lợi cho ngành vận tải
biển Việt Nam lớn mạnh và phát triển.
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển đội tàu của một số nước trên thế giới
* Đội tàu biển Hàn Quốc.
Ngành vận tải biển của Hàn Quốc đã có được một giai đoạn phát triển rất
mạnh (từ sau chiến tranh năm 1953) và đã có sự đóng góp to lớn cho sự phát triển
của hoạt động ngoại thương nói riêng và kinh tế Hàn Quốc nói chung. Đội tàu biển
của Hàn Quốc hiện nay đang đứng thứ 8 về tổng dung tích so với đội tàu của các
quốc gia trên thế giới, riêng đội tàu container xếp vị trí thứ 4.
Ngành vận tải biển Hàn Quốc có được những thành tựu như ngày nay là nhờ
những chính sách thích hợp và luôn luôn được điều chỉnh của Chính phủ Hàn
Quốc.
Biện pháp giành quyền chủ động: Các thủ tục ngặt nghèo nhằm ngăn chặn
các tàu biển nước ngoài hoặc các nhà khai thác nước ngoài thâm nhập vào ngành
ngoại thương của Hàn Quốc đã được tiến hành rộng rãi thông qua chính sách giành
quyền chủ động của Chính phủ:
- Chính sách ưu tiên về hàng hoá: Năm 1984, Điều luật hỗ trợ ngành vận tải
biển được ban hành. Theo điều 16 của Điều luật - 1984 thì danh mục hàng hoá ưu
tiên cho các nhà vận chuyển được nêu cụ thể trong Nghị định (gồm 11 loại hàng rời
được ưu tiên cho tàu treo cờ Hàn Quốc). Tuy nhiên, đến nay quy định này bị đình
chỉ hẳn vào cuối năm 1998 như là một cam kết đối với OECD.
- Chính sách ưu đãi về giá cước: Chính phủ Hàn Quốc ấn định giá cước
nhằm mục đích ổn định giá cước vận tải biển để có được một giá cước ưu đãi cho
26
đội tàu biển quốc gia. Nói cách khác, giá cước ưu đãi tạo điều kiện xác lập một giá
cước cao cho những tàu biển chấp nhận treo cờ Hàn Quốc như là một tiêu chí cho
công việc khai thác… Chính sách trên đã làm tăng mạnh đội tàu chở hàng rời của
Hàn Quốc vào những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80.
Chính sách trợ giúp về tài chính.
- Chính phủ Hàn Quốc đã tạo lập một nguồn tài trợ và một quỹ phát triển vận
tải biển nhằm phát triển đội tàu biển quốc gia. Nhưng rất tiếc trong thực tế do có
nhiều khó khăn nên quỹ này đã không phát triển được và nó chỉ tồn tại trong một
thời gian ngắn.
- Nguồn tài trợ khai thác: nguồn tài chính được hình thành theo Điều luật xúc
tiến phát triển vận tải biển năm 1976. Đến năm 1979, lại có một chương trình trợ
cấp cho các nhà khai thác tàu container chuyên tuyến với mục đích cổ vũ sự phát
triển vận tải biển bằng container. Sau năm 1984 nguồn tài trợ này được đình chỉ.
- Quỹ phát triển vận tải biển: nhằm trợ giúp cho việc đóng tàu biển ở các nhà
máy đóng tàu Hàn Quốc. Tuy nhiên quỹ này cũng chỉ đạt tới 1 tỷ Won và sau đó bị
đình chỉ hoạt động vào năm 1983.
Năm 1975, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra chương trình 5 năm phát triển
ngành Vận tải biển nhằm giúp đỡ các nhà khai thác tàu về vốn trong việc phát triển
đội tàu. Để thực hiện chương trình này, một khoản tài chính trợ giúp cho ngành
Vận tải biển và công nghiệp đóng tàu đã được cấp thông qua "chương trình đóng
tàu có kế hoạch của Chính phủ". Nội dung chương trình này gồm:
- Trước năm 1984, những con tàu viễn dương đáp ứng được các yêu cầu của
chính quyền cảng và ngành Hàng hải Hàn Quốc có thể nhận được khoản tài chính
tương đương 70-75% tổng trị giá con tàu với lãi suất 10% trong thời gian 10,5 năm
và ân hạn 2.5 năm.
- Từ năm 1985, tất cả các công ty khai thác tàu đã được phân cấp có thể được
gia thêm ân hạn đến 5 năm.
27
- Những công ty khai thác tàu được phân hạng theo chương trình đóng tàu
còn có thể nhận được các khoản vay ngoại tệ tương đương 15 đến 20% tổng trị giá
con tàu. Những khoản vay này thường có ân hạn trong 4 năm đầu và thời gian vay
là 10 năm.
- Các công ty khai thác tàu phải đầu tư 10% vốn cố định cho tàu đóng mới,
nhưng chủ tàu của các tàu container chỉ phải đầu tư 8%.
Những biện pháp khác:
- Việc miễn giảm thuế:
Biện pháp này cho phép các công ty vận tải biển hoặc là không phải đóng
thuế hoặc là đóng ở mức thấp. Một vài nước phát triển cũng đã tiến hành biện pháp
này khi Chính phủ không có nhu cầu phải tăng bổ sung quỹ phúc lợi xã hội. Chính
phủ Hàn Quốc đã áp dụng những hình thức miễn giảm sau:
+ Giảm thuế doanh thu cho các công ty vận tải viễn dương (năm 1958)
+ Giảm thuế nhập khẩu các vật tư, thiết bị dự trữ cho tàu biển (năm 1964)
+ Giảm phí bảo hiểm liên quan đến tàu (năm 1969)
+ Giảm mức thuế vốn cố định đối với tàu biển (năm 1970)
+ Giảm thuế nhập khẩu tàu biển (năm 1973)
Tuy nhiên, các hình thức miễn giảm trên đã bị xoá bỏ vào đầu những năm 80.
Có thể nói rằng, những trợ giúp của Chính phủ Hàn Quốc đối với ngành
công nghiệp Hàng hải vào những năm 70 là rất to lớn tuy nhiên đã làm cho thị
trường Hàn Quốc lâm vào hoàn cảnh cung vượt quá cầu, tương quan đến tốc độ
phát triển chậm hơn và chi phí cơ cấu đầu tư cho cơ sở hạ tầng cao. Tổng hợp các
nhân tố trên đã đẩy phần lớn các nhà khai thác vận tải biển Hàn Quốc lâm vào
khủng hoảng đầu những năm 80.
Với những lý do trên, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra chương trình hợp lý
hoá nền công nghiệp Hàng hải vào cuối năm 1983. Mục tiêu chính của chương
trình này là tránh cho nền công nghiệp hàng hải Hàn Quốc khỏi bị phá sản hàng
28
loạt bằng việc sáp nhập 112 nhà khai thác viễn dương vào 34 đơn vị. Người ta cho
rằng chương trình này đã đạt được mục tiêu chính, nhưng cũng có lời bình luận
mạnh mẽ rằng: các nhà khai thác tàu Hàn Quốc cũng có thể được lợi hơn nếu như
chương trình hợp lý hoá ngành Hàng hải được thực hiện mà không có việc sáp
nhập kể trên.
Tóm lại, Chính phủ Hàn Quốc đã đóng một vai trò rất tích cực trong quá
trình phát triển của ngành công nghiệp hàng hải Hàn Quốc bằng việc áp dụng nhiều
công cụ, chính sách khác nhau. Các công cụ, chính sách này đã tập trung cao độ
trong việc ưu tiên đối xử cho đội tàu treo cờ Hàn Quốc như chính sách giành hàng,
ưu đãi về giá… Lý do chính của điều này có thể do Chính phủ không có khả năng
tăng mức trợ giúp, điều mà nhìn chung là có thể làm được đối với một nước phát
triển với các ngành dịch vụ phát triển. Hàn Quốc đã thành công trong việc hình
thành đội tàu quốc gia trong một thời gian tương đối ngắn. Tuy vậy, việc phân biệt
đối xử cho đội tàu treo cờ Hàn Quốc trong quá khứ đã làm cho tổng trọng tải của
đội tàu quá lớn, làm giảm khả năng cạnh tranh và giá cước thấp trong nền ngoại
thương Hàn Quốc.
* Đội tàu biển Mỹ
Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc rộng lớn nằm giữa lục địa Bắc Mỹ, giáp Thái
Bình Dương và Đại Tây Dương. Bang Alaxca ở tây bắc lục địa Bắc Mỹ và đảo
Hawaii ở giữa Thái Bình Dương… Với vị trí địa lý này, nước Mỹ có nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển ngành vận tải biển thành một ngành kinh tế mũi nhọn,
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia. Ngành vận tải biển của Mỹ từ
lâu đã đóng góp tích cực vào hoạt động ngoại thương của nhiều nước Châu Âu và
Châu Á.
Vị trí địa lý của Mỹ đã đưa ngành vận tải biển lên một vị trí quan trọng
không chỉ trong khuôn khổ châu lục mà còn mang tính toàn cầu. Riêng trong quan
hệ ngoại thương, chỉ có Canada và Mehico có thể trao đổi với Mỹ bằng đường bộ,
các quốc gia khác, quá trình trao đổi này chỉ có thể thực hiện bằng đường biển hoặc
29
hàng không. Song, có thể khẳng định ưu thế để thực hiện ưu thế để thực hiện trao
đổi ngoại thương sẽ thuộc về ngành Vận tải biển.
Hiện nay, đội tàu vận tải biển của Mỹ được chia làm 3 nhóm:
- Đội tàu vận tải quốc tế (viễn dương)
- Đội tàu vận tải nội địa.
- Đội tàu vận tải thuộc vùng Hồ Lớn.
Nhằm khuyến khích sự phát triển của đội tàu biển quốc gia, Chính phủ Mỹ
đã chú trọng đến việc tìm kiếm những biện pháp cơ bản, có lợi cho đội tàu quốc gia
hoạt động. Cụ thể như:
- Ưu tiên giành hàng cho đội tàu biển quốc gia song cũng lới lỏng việc quy
định các mặt hàng cho các tàu nước ngoài chuyên chở. Những mặt hàng phục vụ
nhu cầu quân sự, hàng của Chính phủ, loại hàng hoá được Chính phủ trợ cấp (hàng
nông sản) chỉ giành riêng cho đội tàu quốc gia.
- Chính phủ ưu tiên trợ cấp trực tiếp cho đội tàu quốc gia: đối với các tàu
được đóng tại Mỹ, Chính phủ trực tiếp trợ cấp đóng mới và trợ cấp khai thác cho
giai đoạn đầu khi tàu mới đưa vào hoạt động vận tải. Hai khoản trợ cấp này nếu
thực hiện đầy đủ thực sự trở thành gánh nặng cho ngân sách quốc gia, vì vậy hai
khoản này bị cắt giảm phần nào trong những năm gần đây.
Trong hoạt động của ngành vận tải biển ở Mỹ, chi phí tiền thưởng cho thuỷ
thủ, công nhân làm việc trên tàu, trong các nhà máy đóng tàu cao nhất thế giới, nên
số lượng đơn đặt hàng tại các nhà máy đóng tàu ở Mỹ đang có nguy cơ giảm sút
nhiều so với Hàn Quốc và Trung Quốc. Vì vậy, dư luận chung đòi hỏi Chính phủ
Mỹ phải tiếp tục ưu tiên cho các nhà máy đóng tàu trong nước, tăng cường các biện
pháp bảo hộ đội tàu Mỹ.
- Thực hiện giảm thuế cho chủ tàu là người Mỹ hoạt động vận tải biển.
Chính phủ Mỹ quy định các chủ tàu sẽ không phải nộp thuế thu nhập nếu dùng tiền
đó để đổi mới, hoán cải hay đóng mới tàu phục vụ vận tải biển. Nhà nước thành lập
30
Quỹ xây dựng cơ bản và Quỹ dự trữ xây dựng mới để các chủ tàu gửi toàn bộ số
tiền thu nhập được vào mục đích đổi mới, hiện đại hoá đội tàu.
- Đối với các chủ tàu chưa đủ vốn để đầu tư, mua sắm trang thiết bị, đổi mới
đội tàu, Nhà nước chủ động cho vay vốn để thực hiện mục tiêu trên. Đây là biện
pháp gián tiếp khuyến khích phát triển đội tàu. Chính phủ cũng thành lập Quỹ đảm
bảo quốc gia nhằm giúp các công dân Mỹ có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có
thể vay 75-90% vốn đóng mới phương tiện.
- Chính phủ Mỹ có trách nhiệm bảo hiểm tàu, hàng hoá và con người trước
rủi ro do thiên tai và chiến tranh. Chính phủ còn cung cấp tài chính cho công tác
nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân lực cho ngành vận tải biển. Chi phí này hàng
năm khoảng 0,5 tỷ USD.
- Duy trì hoạt động của đội tàu dự trữ quốc gia vì mục đích quân sự, nhằm
đáp ứng đòi hỏi của quốc gia trong tình trạng khẩn cấp. Hiện nay, Mỹ có 85 tàu
hiện đại nhất của ngành Vận tải biển nằm trong đội tàu dự trữ. Chi phí để duy trì
tình trạng sẵn sàng của lực lượng dự trữ khoảng hơn 4,5 triệu tấn trọng tải này đã là
một con số khổng lồ. Riêng việc phòng chống rỉ cho đội tàu dự trữ này đã phải chi
11-15 triệu USD/năm.
- Cơ quan quản lý biển còn thực hiện cả chức năng quảng cáo, giới thiệu cho
đội tàu treo cờ Mỹ. Hoạt động trợ giúp của cơ quan này đã mang về cho các công
ty vận tải biển Mỹ khoảng 6 triệu USD lợi nhuận bổ sung mỗi năm.
- Để tăng sự cạnh tranh vận biển trên phạm vi toàn cầu, ngoài biện pháp
giành hàng, giành cảng, trợ cấp cho chi phí khai thác, đóng mới…, Chính phủ Mỹ
còn dùng biện pháp trừng phạt các quốc gia có hành động hạn chế tàu Mỹ.
- Hình thức cuối cùng để bảo hộ cho đội tàu Mỹ là chính sách tiếp cận "bình
đẳng", sử dụng sức mạnh của đội tàu quốc gia để tăng cường cạnh tranh với các đội
tàu nước ngoài mang tính chất "cá lớn nuốt cá bé". Đạo luật ra đời năm 1954 ngăn
cấm sự tham gia của tàu nước ngoài vận chuyển hàng hoá qua lại các cảng ở Mỹ,
trong khi đó Mỹ lại không muốn có sự ngăn cấm như vậy đối với các đội tàu của
Mỹ ở các cảng nước ngoài.
31
Để nắm được thế chủ động trong cạnh tranh ngày càng ác liệt của ngành
Hàng hải quốc tế, Chính phủ Mỹ và các công ty vận tải biển chủ yếu phải đầu tư
các trang thiết bị mới để từng bước hiện đại hoá đội tàu; mặt khác Chính phủ cũng
chú trọng việc tuyển chọn đội tàu và quy mô trọng tải để cạnh tranh và tăng hiệu
quả kinh tế, thích ứng với xu thế tàu trọng tải lớn và tàu chuyên chở container đang
thịnh hành hiện nay trên trường quốc tế.
* Đội tàu biển Singapo
Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, cả nước mới hiện có trên 1000
tầu với tổng trọng tải khoảng hơn 3,5 triệu tấn. Cần phải nhắc lại rằng, đảo quốc
nhỏ bé Singapore chỉ có khoảng 900 tàu các loại song tổng trọng tải lên tới 36,39
triệu DWT. Singapore được Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá là nước đứng đầu
thế giới về năng lực vận tải đường biển. Trong bảng xếp hạng mang tên “Liên kết
để cạnh tranh: hậu cần thương mại trong nền kinh tế toàn cầu” công bố ngày
5.11.2007, việc đánh giá dựa trên các tiêu chí như dịch vụ chuyên chở và khả năng
vận chuyển nhanh, phí vận chuyển, chất lượng thiết bị, đúng giờ... Trước đó,
Singapore đứng đầu bảng xếp hạng của WB về thuận lợi trong điều chỉnh doanh
nghiệp, dựa trên tiêu chí liên kết thị trường. Singapore được coi là quốc gia có
chính sách hàng hải tự do và năng động nhất trong khối ASEAN. Để khuyến khích
phát triển đội tàu quốc gia, Singapore đó áp dụng nhiều biện pháp ưu tiên thông
qua đấu thầu với hàng Chính phủ. Đây là những hàng hoá mà bản thân chính phủ
hoặc bản cơ quan của Chính phủ mua trực tiếp hoặc gián tiếp cho các dự án, mà
Chính phủ tham gia toàn bộ hoặc một phần. Các công ty tàu biển Singapore đáp
ứng được các tiêu chẩn qui định, sẽ được quyền ưu tiên bỏ thầu đối với hàng hoá
đó. Khi các công ty này không đáp ứng được yêu cầu, thì mới đến lượt các công ty
nước ngoài. Đồng thời, Chính phủ cũng có thể cho vay thêm 90% giá trị hợp đồng
và hoàn trả chậm trong vòng 15 năm để đóng tàu hay sửa chữa cải tạo qui mô.
* Đội tàu biển Philipines
Philipines là nước thể hiện rừ nhất chính sách bảo hộ hàng hải thông qua qui
định về việc chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu giữa Philipines và một số nước
32
khác. Chính phủ Philipines chú trọng tăng cường quản lý và khuyến khích các hãng
tàu đăng kí treo cờ Philipines. Quyền giành hàng hoá cho đội Philipines luôn được
ưu tiên. Chính phủ Philipines qui định những hàng hoá ngoại thương do chính phủ
kiểm soát phải được chuyên chở bằng tàu mang cờ Philipines. Những hàng do
chính phủ vay tiền, hàng được cấp tín dụng hay hàng do Chính phủ bảo đảm nghĩa
vụ cũng phải vận chuyển bằng tàu treo cờ Philipines. Hiệu quả của những qui định
này đó làm tăng nhanh tỷ lệ vận chuyển hàng hoá quốc gia bằng tàu mang cờ
Philipines từ 7,8% lên 15% trong vòng 6 năm. Đây là một trong những vấn đề Việt
Nam cần học hỏi.
Trong vận tải biển và liên đảo, Philipines cũng có những chủ trương giành
hàng cho chủ tàu nội địa. Chính phủ tạo ra nhiều sự hấp dẫn về tài chính cho các
chủ tàu đăng ký tại địa phương, nhằm tạo công ăn việc làm trong khu vực kinh tế tư
nhân. Ngay cả các chủ tàu ngoại quốc muốn đăng ký tại philipines cũng phải tuân
thủ theo điều kiện định biên của tàu đó, có tỷ lệ đáng kể với thuyền bộ người
Philipines.
Để phát triển đội tàu, Chính phủ Philipines đã thông qua đạo luật Hàng hải
cho vay lãi xuất thấp hoặc Chính phủ tài trợ tài chính để mua tàu. Nếu chủ tàu vay
vốn của tư nhân, Chính phủ đứng ra bảo đảm, chính phủ cũng khuyến khích ngân
hàng trong nước và các tổ chức kinh tế cho vay có thế chấp với tàu mang cờ
Philipines.
Đối với tàu phải mua của nước ngoài, Chính phủ miễn thuế hải quan 10% và
miễn thuế bồi thường 7%. Bên cạnh đó, Chính phủ Philipines cũng đề ra hàng loạt
các chính sách cụ thể để khuyến khích ngành hàng hải phát triển như, các công ty
vận tải biển chỉ phải đóng thuế thu nhập trong 10 năm đầu hoạt động, kể từ năm
thứ 11 trở đi được miễn thuế, với điều kiện công ty đó cam kết vận tải hải ngoại và
lợi nhuận thuần tuý được đầu tư trở lại cho sản xuất kinh doanh. Tàu biển cũng
được miễn thuế phường hội. Về vay vốn, ngân hàng phát triển Philipines có nhiều
mức vay ưu đãi đối với đội tàu: nếu muốn vay để sửa chữa hoặc phục hồi, ngân
hàng sẽ cấp vốn tới 80% giá trị tàu nếu tàu dưới 10 tuổi (trị giá tàu đánh giá qua hội
33
đồng thẩm định), 60% giá trị tàu nếu từ 12 tuổi và 40% giá trị của tàu nếu tàu từ
13-16 tuổi.
1.2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Sau khi nghiên cứu một số chính sách phát triển đội tàu biển của một số
nước, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
+ Vai trò của Chính phủ rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của
đội tàu vận tải biển. Chính phủ các nước này thường có những chính sách can thiệp
trực tiếp vào ngành vận tải biển. Để nâng cao năng lực chuyên chở hàng hoá nói
chung và hàng xuất nhập khẩu nói riêng bằng đội tàu biển, Chính phủ các nước này
đặc biệt chú ý tới biện pháp hỗ trợ tài chính để phát triển đội tàu và chính sách
giành quyền hàng cho đội tàu quốc gia.
+ Song song với việc đầu tư phát triển đội tàu biển, Chính phủ các nước cũng
chú trọng phát triển đồng bộ hệ thống cảng biển và dịch vụ hàng hải; có chính sách
đầu tư cho ngành công nghiệp đóng tàu biển quốc gia.
+ Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới chính sách bảo hộ mậu dịch của
các nước. Chính phủ luôn ưu ái, tạo điều kiện cho các tàu quốc gia có thể đảm
nhiệm nguồn hàng một cách tốt nhất, thậm chí là Chính phủ còn đứng ra bảo lãnh
khi các hãng tàu quốc gia cần sự hỗ trợ tài chính từ phía ngân hàng.
Nghiên cứu hệ thống chính sách phát triển đội tàu của một số nước trong khu
vực và trên thế giới cho thấy tác động tích cực của hệ thống chính sách này tới sự
phát triển vận tải biển của mỗi quốc gia - đây chính là nền tảng vững chắc giúp vận
tải biển các quốc gia phát triển, giành thế mạnh và chủ động trong cạnh tranh. Các
chính sách cơ bản về phát triển đội tàu được các quốc gia sử dụng là một công cụ
quản lý đắc lực thúc đẩy vận tải biển quốc gia phát triển.
34
Chương 2
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN ĐỘI TÀU BIỂN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Tổng quan về vận tải biển Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế
2.1.1. Tổng quan về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới.
Nó phản ánh sự nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế
diễn ra ngày càng sâu rộng dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
và tích tụ tập trung tư bản. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang
từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục
tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế
Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Đại hội VI của Đảng (12/1986), trên cơ sở
nhận thức đặc điểm nổi bật của thế giới là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang
diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận
định: “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ
kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Từ đó Đảng chủ trương phải biết kết
hợp sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp
phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi. Để thực hiện mục tiêu trên, sau hơn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà
nước đã ban hành những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật phù hợp
nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập như: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
(12/1987), Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (5/1988) về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới, Nghị quyết số 07 (11/2007) của Bộ Chính trị về hội
35
nhập kinh tế quốc tế và một số văn bản pháp luật khác như luật thương mại, luật
ngân hàng, luật hải quan, luật lao động…
Trên thực tế, với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, Việt Nam đã thu được
nhiều thành tựu to lớn:
+ 10/11/1991: Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
+ 11/1992: Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt
Nam.
+ 7/1995: Việt Nam gia nhập ASEAN.
+ 3/1996: Tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM).
+ 11/1998: Gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC).
+ 10/2007: Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không
thường trực Hội đồng bảo an nhiệm kỳ 2008-2009.
+ 7/11/2006: Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Bên cạnh đó, nếu xét cán cân thương mại của Việt Nam trong những năm
qua, ta thấy:
36
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam
(Đơn vị tính: Tỷ USD)
Tổng số 30,1 31,2 36,4 45,4 58,5 69,2 84,7 111,3 143,4 127,0 Nhập khẩu 15,6 16,2 19,7 25,3 32,0 36,7 44,9 62,8 80,7 69,9 Cân đối -1,1 -1,2 -3,0 -5,2 -5,5 -4,2 -5,1 -14,2 -18,0 -12,9 Xuất khẩu 14,5 15,0 16,7 20,1 26,5 32,5 39,8 48,6 62,7 57,1 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
84,0 105,8 -12,4 -8,5 71,6 96,3 2010 2011
155,6 202,1 Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Biểu đồ. 2.1
Từ bảng Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu ta thấy, kể từ năm
2000 tới nay, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam với các nước trên
thế giới tăng trưởng rõ rệt. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu năm
37
2000 là 30,1 tỷ USD, năm 2011 tăng lên 202,1 tỷ USD tăng gấp gần 7 lần so với
năm 2000. Điều đó, phản ánh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn
ra ngày càng sâu rộng, Việt Nam dần trở thành một mắt xích trong dòng luân
chuyển hàng hóa chung của thế giới. Tuy nhiên, xét về cán cân thương mại, nước ta
vẫn là nước nhập siêu, thâm hụt cán cân thương mại có chiều hướng ngày càng lớn,
thâm hụt cán cân thương mại năm 2000 là -1,1 tỷ USD, năm 2008 là -18 tỷ USD,
năm 2011 là -8,5 tỷ USD. Các sản phẩm hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài của
Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô, đồ may mặc, nông sản, thủy hải sản... ngược
lại, nước ta lại nhập khẩu các sản phẩm đã qua chế biến, xăng dầu, điện tử, ô tô,
máy móc... Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta hiện nay, đang từng bước thực hiện
cải thiện cán cân thương mại, kích thích xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu bởi
các hàng nội địa, hoặc liên doanh.
Mặc dù vậy, hội nhập kinh tế quốc tế bên cạnh những ưu điểm mang lại, nó
còn tiềm ẩn nhiều hạn chế:
- Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng,
bị động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các
nước.
- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn
chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ
chức kinh tế quốc tế.
- Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế và
một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
- Doanh nghiệp nước ta hầu hết qui mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công
nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ, trang thiết bị lạc hậu; kết cấu
hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát
triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.
38
- Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu
cả về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế,
về kỹ thuật kinh doanh.
Như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam đòi hỏi phải có một
lộ trình thích hợp, từng bước cải thiện môi trường kinh doanh, hoàn thiện thể chế
kinh tế và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Đây là bài toán khó đặt ra cho các
cấp, các ngành có liên quan…
2.1.2. Khối lượng hàng hoá vận chuyển
Vài năm trở lại đây, cùng với sự gia tăng lượng hàng hoá lưu thông nội địa,
các mặt hàng xuất nhập khẩu như gạo, cà phê, tiêu, hạt điều, dầu thô, khí đốt…
cũng tăng đáng kể. Đặc biệt, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước trên thế giới có sự tăng
trưởng rõ rệt.
Ngoài 2 mặt hàng lớn là gạo và phân bón, một số mặt hàng khác như cà phê,
cao su, hạt điều, thủy sản xuất sang châu Âu, Mỹ cũng tăng nhanh. Khối lượng
hàng hoá vận chuyển ven biển giai đoạn 2001 - 2010 tăng trung bình 17%/năm.
Khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2001 là 57,79 triệu tấn, đến năm 2010
đạt 108 triệu tấn và đến năm 2020 dự kiến sẽ là 210 triệu tấn.
Thị trường hàng hóa trong nước có nhiều khởi sắc, thị trường nước ngoài có
những tín hiệu đáng mừng. Trong khu vực, Indonesia và Philippines vẫn là 2 nước
nhập khẩu gạo lớn của nước ta. Lượng hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan cũng vô
cùng dồi dào. Tuy nhiên, đội tàu biển của những nước này không đáp ứng kịp, vì
vậy, đội tàu biển Việt Nam ngoài việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu trong
nước vẫn còn nhiều cơ hội để chia sẻ thị trường với các nước trong khu vực. Bên
cạnh đó, các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia cũng là một thị
trường đầy tiềm năng cho ngành vận tải biển Việt Nam.
Việc thông thương những khối lượng hàng lớn giữa Việt Nam và Trung
Quốc chủ yếu dựa vào vận tải biển. Đặc biệt, do không có biển nên hầu hết lượng
39
hàng hoá xuất nhập khẩu của Lào đều thông qua các cảng biển Việt Nam vì thế
việc đảm nhận vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của Lào đã và sẽ là nguồn
hàng lớn cho đội tàu biển của chúng ta. Ngoài ra, còn phải kể đến Ấn Độ đang
thiếu nghiêm trọng tàu vận chuyển do lượng hàng xuất nhập khẩu quá lớn.
Bảng 2.2. Khối lượng vận tải biển do đội tàu Việt Nam thực hiện giai đoạn 2004-2011
2004 37,517 2005 42,653 2006 49,480 2007 61,317 2008 69,386 Đơn vị tính: triệu tấn, TEU 2010 88,320 2011 ~96,000 2009 78,460
22,573 26,523 36,300 44,286 47,389 53,635 58,080 ~66,000
14,574 16,130 13,180 17,031 21,997 24,825 26,040 ~30,000
Chỉ tiêu Tổng sản lượng VTB đội tàu Việt Nam Vận tải quốc tế Vận tải trong nước
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam
Từ bảng số liệu 2.2, ta thấy được năng lực vận chuyển hàng hóa bằng đường
biển của đội tàu biển Việt Nam thực hiện. Trong những năm gần đây, khối lượng
vận tải biển của đội tàu Việt Nam có sự tăng trưởng rõ rệt, năm 2004 là 37,517
triệu tấn, đến năm 2011 là khoảng 96 triệu tấn. Trong đó, khối lượng vận tải biển
quốc tế tăng trưởng với tốc độ khá, so với vận tải trong nước (tăng 15,7%/năm).
Đầu năm 2010, sản lượng vận tải biển của các doanh nghiệp trong nước tăng
nhanh. Quý II/2010 đạt 21,1 triệu tấn, tăng 31% so với quý I và tăng 21% so với
cùng kỳ năm 2009. Năm 2009, tổng sản lượng hàng hóa vận tải biển của các doanh
nghiệp đạt xấp xỉ 80 triệu tấn (trong đó, Tổng Công ty Hàng hải VN - Vinalines đạt
gần 33 triệu tấn, năng lực vận tải biển chiếm 60% của cả nước), tăng 15% so với
năm 2008, nhưng về doanh thu và lợi nhuận thì lại giảm đi rất nhiều. Bước sang
năm 2010, lợi nhuận các doanh nghiệp vận tải tăng lên, mặc dù tỷ suất sinh lời vẫn
còn thấp so với giai đoạn trước khủng hoảng bởi áp lực chi phí lãi vay, khấu hao vẫn
còn lớn và giá cước chỉ mới ở giai đoạn đầu của tăng trưởng. Theo dự báo của Bộ
40
GTVT, tổng lượng hàng qua cảng Việt Nam đến năm 2015 vào khoảng 500 triệu tấn,
năm 2020 khoảng 1 tỷ tấn, năm 2030 khoảng 2 tỷ tấn. Có thể thấy, trong tương lai,
nguồn hàng cho ngành vận tải biển của Việt Nam là rất lớn, tạo tiền đề cho sự phát
triển không ngừng của ngành này.
2.1.3. Tuyến đường và giá cước
Đội tàu biển Việt Nam phải chịu sức ép lớn về đối thủ cạnh tranh nhiều lần về
năng lực vận tải. Điều này buộc các hãng tàu Việt Nam phải tìm hãng tàu khác để
hoạt động, một số tuyến chuyển sang chạy những tuyến khó khăn, nhiều rủi ro như
Tây Phi, Irắc, một số chạy sang những tuyến nội địa vốn cũng rất khó khăn. Đội tàu
hàng rời vẫn vận chuyển theo từng chuyến không có khả năng tổ chức được các
tuyến tàu chợ chạy theo một tuyến đường nhất định và lịch trình sẵn. Bên cạnh đó
giá cước vận chuyển liên tục biến đổi thất thường.
Giá cước vận tải biển tăng giảm ảnh hưởng lớn tới giao thương buôn bán
quốc tế. Giá cước vận tải biển được quyết định căn cứ vào tình hình cung - cầu thực
tế, tuy nhiên, diễn biến giá cước thế giới có tác động dẫn dắt đến Việt Nam. Cuối
năm 2008, giá cước vận tải hàng rời sụt giảm hơn 90%. Bình quân cả năm 2009,
giá cước giảm hơn 60% so với năm 2008 đã khiến cho thị trường vận tải biển gặp
rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với sự tác động bởi chi phí nhiên liệu tăng, nhu cầu
vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là container và hàng lỏng gia tăng mạnh, nên từ đầu
năm 2010, hoạt động vận tải biển bắt đầu nhộn nhịp trở lại và giá cước vận tải biển
quốc tế tổng hợp (Baltic Dry Index - BDI) đã phục hồi đáng kể. Trong quý I/2010,
giá cước vận tải biển trong nước qua 3 lần điều chỉnh đã tăng bình quân 15 - 20%.
Bước sang quý II, BDI đã tăng trên 40% trong đợt tháng 4, 5 và đến đầu tháng
6/2010, chỉ số BDI là 34,5% so với cuối năm 2009. Đến cuối năm 2010, chỉ số BDI
tăng thêm 61%. Đây là một tín hiệu khả quan, vì mức cước hiện tại đã giúp gia tăng
đáng kể tỷ lệ lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp trong ngành. Cơn bão giá cước
theo chiều đi xuống được nhận định là khủng khiếp và chưa từng có trong vài chục
năm trở lại đây, đang khiến các Công ty vận tải biển lao đao. Đây là đợt giảm giá
nhất trong vài chục năm trở lại đây của ngành vận tải biển thế giới.
41
Giá cước vận tải biển lên - xuống theo chu kỳ là chuyện thông thường,
nhưng giảm kiểu "rơi tự do" như hiện nay thì chưa từng có. Các tàu hàng loại nhỏ
còn có khả năng cầm cự với những lô hàng thường xuyên. Trong khi đó, loại tàu
hàng khô có trọng tải lớn gần như không có hàng. Các tàu chở container cũng giảm
cước mạnh, chỉ kém khủng khiếp hơn tàu hàng cỡ lớn. Hiện chỉ có tàu chở dầu là
vẫn giữ giá do hàng loạt tàu dầu đáy đơn bị công ước quốc tế của IMO (Tổ chức
Hàng hải thế giới) loại bỏ. Vì vậy, tàu dầu đáy đôi mới được đóng bổ sung không
nhiều nên cung - cầu vẫn ở mức cân bằng. Điều này đã được báo trước từ hai năm
qua. Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến nguồn hàng luân chuyển
sụt giảm mạnh trong một thời gian ngắn chỉ là một trong những nguyên nhân.
Nguyên nhân trực tiếp là các tàu dầu đáy đơn - khi không thoả mãn Công ước IMO,
bị hoán cải thành tàu chở hàng loại lớn - đã tạo ra một lượng tải dư thừa đột biến.
Các nguyên nhân này cộng hưởng, đã đẩy giá cước vận tải biển rơi khủng khiếp.
Theo nhận định của một số chuyên gia, cơn bão giảm cước này sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến ngành vận tải biển quốc tế, mà Việt Nam không là ngoại lệ. Hiện
đội tàu của Việt Nam không lớn, không có nguồn hàng ổn định, nên khi việc dư
thừa trọng tải xảy ra thì những đối thủ yếu sẽ gần như bị loại đầu tiên. Mặt khác,
đội tàu Việt Nam được đầu tư chủ yếu bằng vốn vay, rất ít đơn vị đầu tư bằng vốn
tự có, nên áp lực trả nợ quá lớn. Trong đợt giảm giá này, đơn vị nào mới đầu tư tàu
- đặc biệt là những tàu hàng rời cỡ lớn, loại tàu bị giảm giá cước mạnh nhất - sẽ
phải đối đầu với khó khăn lớn.
Mặt khác, nhu cầu vận tải và giá cước vận tải giảm được phản ánh rõ nét
thông qua giá thuê tàu định hạn (time charter). Giá thuê tàu phụ thuộc loại tàu, tuổi
tàu, tính năng của tàu, tuyến hoạt động và thời hạn thuê. Theo thống kê, trung bình
giá thuê tàu/năm trong một số mốc thời gian với các loại tàu tương đương đội tàu
của một số chủ tàu Việt Nam có độ tuổi trung bình diễn biến như bảng dưới đây:
42
Bảng 2.3: Giá thuê tàu trung bình
Đơn vị tính: USD/ngày
12/2007 8/2008 4/2009
7.500 12.500 16.500 21.000 7.000 11.000 15.000 20.000 3.500 4.000 5.500 7.000
25.000 33.000 24.000 42.000 15.000 19.000
Loại tàu 1. Container 500 TEU 1.000 TEU 1.700 TEU 2.500 TEU 2. Tàu chở dầu MR side (45.000 DWT) Aframax (105.000DWT) 3. Tàu hàng rời- bách hóa Panamax (70.000 DWT) Capesize (175.000 DWT) 90.000 195.000 70.000 170.000 12.000 22.000
Nguồn: www.vinamarine.gov.vn/
Phần lớn các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam hiện vẫn còn cầm cự là do
kinh doanh theo phương thức cho thuê định hạn. Những hợp đồng cho thuê ký từ
trước, với thời hạn dài vẫn đang được duy trì có thể là "chiếc phao" giúp các Công
ty vận tải biển trong nước vượt qua thời kỳ đen tối. Song chiếc phao này có thể bị
"xì hơi" nếu tình trạng giảm giá cước kéo dài. Bên thuê tàu không thể chịu được, sẽ
phá vỡ hợp đồng. Nhìn chung giá cước vận tải biển liên tục thay đổi, vẫn chưa có
xu hướng ổn định.
2.1.4. Thị phần chuyên chở của đội tàu biển Việt Nam
Bảng 2.4. Thị phần chuyên chở của đội tàu biển Việt Nam
Đơn vị tính: %
2004 2005 2006 21,9 20,1 19,6 2007 21,4 2008 22,1 2009 22,3 2010 22,2 2011 ~23,0
Năm Thị phần đội tàu biển Việt Nam
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam
43
23%
Đội tàu biển Việt Nam
Đội tàu biển nước ngoài
77%
Biểu đồ 2.2. Thị phần đội tàu biển Việt Nam năm 2011
Nguồn: Cục Hàng Hải Việt Nam
Thị phần đảm nhiệm của đội tàu biển Việt Nam tăng từ 19,6% (năm 2004) lên
22,1 % (năm 2008) và ~23% (năm 2011). Mặc dù, đây là một tín hiệu mừng cho
ngành vận tải biển Việt Nam nhưng cũng là con số khá khiêm tốn, đội tàu biển Việt
Nam vẫn chưa đủ sức gánh vác yêu cầu đặt ra do vận tải biển yêu cầu ra.
Cùng với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế và định hướng đúng đắn
của chính phủ trong việc tập trung phát triển ngành vận tải biển, theo quy hoạch phát
triển vận tải biển Việt Nam định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt thì mục tiêu phát triển sẽ là nâng cao thị phần vận chuyển hàng hoá xuất
nhập khẩu đến năm 2020 là 35% và vận tải biển nội địa là 100%.
Với số tàu và khối lượng hàng hoá vận chuyển của đội tàu quốc gia đã tăng
đáng kể so với năm 2000 (trên 50%). Nhưng ngay trên sân nhà, đội tàu biển Việt Nam
vẫn phải "nhường" tới gần 80% miếng bánh thị phần cho thương thuyền nước ngoài.
Thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam cho thấy, tính đến ngày 31/6/2011 đã có 44
tàu trọng tải từ 6.000 - 27.000 DWT treo cờ Panama, Bahamas, Liberia, Nhật Bản,
Antigua Barbuda, Campuchia… được cấp phép vận chuyển tuyến nội địa. Với lực
lượng hùng hậu kể trên, thị phần vận chuyển hàng hóa nội địa bằng đường biển của
đội tàu biển treo cờ Việt Nam đã tụt xuống mức thê thảm: chỉ còn 6%! Vì vậy,
hàng loạt doanh nghiệp vận tải biển trong nước đứng trước nguy cơ phá sản.
44
Ngành vận tải biển đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn trong quá trình
cùng đất nước phát triển nền kinh tế. Với tốc độ tăng trưởng lưu lượng hàng hóa
xuất nhập khẩu, ngành vận tải biển đang phải nỗ lực đầu tư, nâng cao hiệu quả và
năng lực vận tải để đáp ứng được nhu cầu trong nước và giữ vững thị phần trước
sức ép cạnh tranh của các công ty vận tải nước ngoài. Chủ tàu của ta thì bất lực
trong việc đàm phán giành quyền vận tải.
Các chủ tàu nội của chúng ta chưa tìm được cách nào để vượt qua được 23%
thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu trong khi đó không ít những con tàu -
phần lớn đội tầu của các doanh nghiệp vận tải biển (với những con tầu hiện đại
nhất, tốt nhất của ta) đang khai thác trên các thị trường Nam Mỹ, Châu Phi, Trung
Đông và Đông Nam Á.
Các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam hầu như không có quyền chủ động chọn tàu
do thói quen “mua FOB, bán CIF” nên quyền chọn tàu hầu hết là của thương nhân
nước ngoài. Lúc thì không có quyền chủ động chọn tàu vận tải, khi có quyền thì các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng không tin, không hợp tác với các các chủ tàu
trong nước nên hàng ngày, tại các cảng lớn của ta, hàng nhập khẩu thì không nói làm
gì nhưng ngay cả những mặt hàng xuất với khối lượng lớn như dầu thô, than, gạo…
vẫn đi tàu nước ngoài. Và hàng năm làm thất thu một khoản ngoại tệ lớn khi các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu đi thuê tàu nước ngoài.
Để tránh nguy cơ mất thị phần, các doanh nghiệp trong nước phải tự nâng cao
năng lực cạnh tranh từ đó mở rộng phạm vi hoạt động ra các nước khác. Luật pháp
phải điều chỉnh để phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường, phù hợp với các cam kết
quốc tế và đặc biệt cần sự kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong nước với sự
hỗ trợ của chính phủ từ nguồn vốn cũng như đào tạo nguồn nhân lực.
2.1.5. Những kết quả đạt được
Thời gian qua, ngành vận tải biển Việt Nam đã có những bước phát triển
đáng kể: đội tàu tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng cũng như
chủng loại, thị trường vận tải cũng mở rộng sang nhiều khu vực mới như Bắc Mỹ,
45
Nam Mỹ, Châu Úc, Tây Âu, Tây Phi…
Nếu năm 2001 cả nước có khoảng 600 tàu với tổng trọng tải 1.800.000
DWT; năm 2007, số lượng tàu đã lên đến 1.219 chiếc với tổng trọng tải 4.000.000
DWT. Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, sản lượng vận tải biển năm
2007 ước đạt 59.376.000 tấn hàng hoá, tăng 20% so với năm 2006, thị phần vận tải
đã đạt 18,5% tổng lượng hàng hóa nhập khẩu. Trong đó, vận chuyển container đạt
1.347.000 TEU, tăng 21%; vận tải nước ngoài đạt 44.286.000 tấn và vận tải trong
nước đạt 15.090.000 tấn.
Năm 2008 đánh dấu là một năm nhiều khởi sắc trong hoạt động đầu tư cảng
biển nước ta với hàng loạt các dự án lớn được đầu tư, khởi công xây dựng. Lượng
hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam trong cả năm 2008 đạt 196,580
triệu tấn, tăng 9% so với năm trước; sản lượng vận tải biển đạt 69.285 triệu tấn,
tăng 13% so với năm ngoái…
Trong năm 2009, các doanh nghiệp vận tải biển là những doanh nghiệp chịu
ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới với sự
suy giảm đột ngột trên thị trường cước vận tải biển. Tuy nhiên, hầu hết các doanh
nghiệp đều đảm bảo duy trì hoạt động ổn định và đều đặn cho đội tàu, hạn chế tối
đa tình trạng dừng khai thác để chờ hàng.
Năm 2010, mặc dù chịu nhiều tác động không tốt do giá dầu tăng cao, thiên
tai, bão lũ... nhưng hầu hết các chỉ tiêu của ngành đều vượt kế hoạch đề ra. Đội tàu
biển Việt Nam đã được bổ sung thêm cả về số lượng, tổng trọng tải, đáp ứng hiệu
quả nhu cầu lưu thông hàng hóa trong nước và tham gia vận tải quốc tế. Sản lượng
vận tải đường biển của cả nước đạt gần 89 triệu tấn, tăng 9,7% so với năm 2009,
trong đó vận tải quốc tế đạt hơn 62 triệu tấn. Về khai thác cảng biển, trong năm
2010, tàu biển Việt Nam và nước ngoài vào các cảng biển nước ta tăng gần 12% về
lượt tàu và trên 9% về tổng dung tích so với năm 2009. Sản lượng hàng hóa thông
qua đạt trên 259 triệu tấn, tăng 3,16% so với năm 2009, trong đó hàng container đạt
6,52 triệu TEU, hàng lỏng đạt hơn 51 triệu tấn và hàng quá cảnh đạt hơn 29 triệu
46
tấn. Về đóng mới và sửa chữa tàu biển, cuối năm 2010 đã có một số tàu biển các
loại tiếp tục được hạ thủy, đóng mới. Năm 2011, ngành Hàng hải Việt Nam đã tăng
sản lượng vận tải biển từ 6 - 8%, hạn chế việc tàu biển nước ngoài vận chuyển hàng
hóa trên các tuyến trong nước nhằm đảm bảo quyền vận tải nội địa cho đội tàu biển
Việt Nam. Về khai thác cảng biển, tăng 9 - 11% so với năm 2010, đạt khoảng trên
280 triệu tấn, trong đó hàng container tăng 18 - 20%.
2.2. Thực trạng đội tàu biển Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
2.2.1. Quá trình phát triển của đội tàu biển Việt Nam
a) Trước khi gia nhập WTO
Mãi đến năm 1989 các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam dường như vẫn còn xa
lạ với phương tiện vận tải hàng hoá container. Tuy hàng tháng cũng có vận chuyển
tàu container của các hãng tàu Fasco, Hắc Hải (Liên Xô cũ) cập cảng ở Việt Nam
nhưng phần lớn các tàu hàng xuất nhập bằng đường biển của Việt Nam vẫn do các
tàu hàng rời thực hiện.
Đầu năm 1989, công ty vận tải biển Germatrans (liên doanh giữa liên hiệp
hàng hải Việt Nam và công ty CMG - Pháp) ra đời. Một năm sau đến lượt EAC -
Saigonshipping được thành lập (liên doanh giữa Saigonship và công ty EAC - Đan
Mạch). Khi CGM bắt đầu đặt chân đến Việt Nam, kinh doanh vận tải biển bằng
container vẫn là hình thức làm ăn rủi ro, nhưng khi EAC xuất hiện và liền sau đó là
hàng loạt những hãng tàu quốc tế khác, người ta nhận ra rằng đây là một lĩnh vực
kinh doanh đầy hấp dẫn. Chưa đầy 3 năm sau, chỉ riêng ở thành phố Hồ Chí Minh đã
có gần 20 hãng tàu vận tải biển quốc tế, trong đó có nhiều tên tuổi tiếng tăm như:
NYK; Mitsu; K’Line; Hapag Lloyd; DSR-Senatar (Đức); EAC; Maersk Line (Đan
Mạch); Evergreen; WanHai Lines (Đài Loan); CGM-CMA (Pháp); MTSC
(Malaysia); RCL (Thái Lan)…
Đội tàu Việt Nam phát triển mạnh, song chưa có được chiến lược rõ ràng,
phần lớn vẫn đầu tư manh mún, không bền vững. Doanh nghiệp vận tải biển Việt
47
Nam nhìn chung tỏ ra yếu thế, kém khả năng cạnh tranh, đội tàu nhỏ và kém đa
dạng.
b) Sau khi gia nhập WTO
Trong tiến trình tự do hóa dịch vụ vận tải biển, cùng với việc Việt Nam gia
nhập WTO và các cam kết của Việt Nam trong phân ngành dịch vụ vận tải biển
cùng với các ngoại lệ tối huệ quốc (MFN), ngành Hàng hải Việt Nam đã có những
điều chỉnh thích hợp để phát triển .
Theo cam kết gia nhập WTO, các nhà đầu tư nước ngoài có thể kinh doanh
hàng hải theo hình thức bắt buộc là liên doanh hoặc BOT. Các công ty vận tải biển
nước ngoài được phép thành lập liên doanh với vốn góp không quá 51% ngay từ
khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và được phép thành
lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động vận tải biển của chính công ty đó. Đây là một trong
những cam kết được các chuyên gia trong ngành giao thông vận tải đánh giá là sẽ
có tác động nhiều nhất đến các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam kể từ khi Việt
Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Với cam kết này, các hãng tàu
nước ngoài sẽ thành lập công ty liên doanh để được thực hiện các dịch vụ hỗ trợ
vận tải cho chính hãng tàu đó tại Việt Nam, thay vì như trước đây, khi các hãng tàu
nước ngoài vận chuyển hàng hoá đến cảng biển Việt Nam phải thông qua các đại lý
tàu biển và đại lý vận tải để thực hiện các công việc của chủ tàu và cung cấp dịch
vụ trọn gói cho khách hàng của mình.
Việt Nam (Cục Hàng hải Việt Nam) là chủ tịch nhóm công tác ASEAN về
vận tải biển với nhiệm kỳ 2 năm (2008 - 2009). Ngày 23-25/4/2008, Cục Hàng hải
Việt Nam đã tổ chức và chủ trì thành công Hội nghị lần thứ 15 nhóm công tác Vận
tải biển ASEAN tại Hà Nội. Cục Hàng hải Việt Nam đăng cai tổ chức và chủ trì
Hội nghị lần thứ 11 của diễn đàn lãnh đạo các cơ quan an toàn hàng hải Châu Á
Thái Bình Dương (2009), tổ chức Hội nghị thường niên ủy ban Tokyo MOU về
kiểm tra nhà nước cảng biển (2010). Việc tham gia và chủ trì các diễn đàn quốc tế
48
sẽ góp phần nâng cao vị thế của ngành hàng hải Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện
cho cán bộ trong Ngành tiếp cận, cọ xát, hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các
đồng nghiệp quốc tế. Hiện nay, Việt Nam là thành viên và tích cực tham gia các
diễn đàn của Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), Hiệp hội Hải đăng Quốc tế (IALA),
Tổ chức Vệ tinh Hàng hải Quốc tế (INMARSAT), Hiệp định COSPAS - SARSAT,
thỏa thuận Tokyo về kiểm tra nhà nước cảng biển (Tokyo MOU), các diễn đàn về
giao thông hàng hải của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nhóm công
tác giao thông vận tải của APEC…
Việt Nam là thành viên của 12 công ước và Nghị định thư của IMO về hàng
hải, trong đó gần đây nhất là công ước quốc tế về tạo thuận lợi cho giao thông hàng
hải (FAL-65) và Công ước quốc tế về tìm kiếm và cứu nạn hàng hải (SAR 1979).
Trong giai đoạn tới, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu đề xuất ký kết, gia nhập các
công ước quốc tế về hàng hải, trong đó đến năm 2015 cần nghiên cứu, trình Chính
phủ quyết định gia nhập công ước lao động hàng hải (MLC) 2006, Công ước quốc
tế về an toàn container 1972, Công ước về thành lập quỹ quốc tế bồi thường thiệt
hại do ô nhiễm dầu (FUND 1992) và một số công ước hàng hải quốc tế cần thiết
khác. Qua những báo cáo và quan sát từ đại hội đồng cho thấy sự tham gia của Việt
Nam vào các hoạt động của IMO vẫn còn hạn chế trên cơ sở so sánh với các nước
trong khu vực và trên thế giới, mặc dù theo báo cáo của IMO, đội tàu treo cờ Việt
Nam đứng khoảng thứ 36/167 nước thành viên về tổng dung tích. Trong các nước
ASEAN, năm nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines, Thailand đều
tham dự và tích cực đóng góp trong hoạt động IMO (tham dự công tác của các ủy
ban, tiểu ban, tham luận phát biểu và tranh cử vào Hội đồng và đã trúng cử).
Tăng cường công tác PSC, FSI, các quy định của bộ luật ISPS, nội luật hóa
quy định của các công ước quốc tế; hợp tác với nước ngoài trong việc đào tạo, nâng
cao trình độ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp liên quan đến công tác thực hiện công
ước; trao đổi kinh nghiệm với các nước. Cục Hàng hải Việt Nam đang có kế hoạch
xây dựng và triển khai thực hiện chương trình cụ thể nhằm trước năm 2015 Việt
49
Nam ứng cử và trở thành thành viên của hội đồng IMO (IMO Council) ở Nhóm C
và tham gia công việc của các ủy ban chuyên môn thuộc tổ chức này; xây dựng đề
án cử đại diện của Việt Nam tại IMO; xây dựng chương trình mời Tổng thư ký
IMO sang thăm Việt Nam vào cuối năm 2008/2009; xây dựng đề án cử cán bộ
tham gia vào hoạt động của các ủy ban, tiểu ban chuyên môn thuộc IMO; tăng
cường tổ chức các hội nghị, tập huấn chuyên đề cho cán bộ Việt Nam.
Ngoài các cam kết đa phương và những cam kết chính thức trong WTO, Việt
Nam còn thực hiện một số thoả thuận song phương khác. Sau Hiệp định vận tải biển
Việt Nam - Hoa Kỳ được ký tháng 3/2007, chúng ta đang nghiên cứu để ký với
Singapore (thay thế cho Hiệp định đã ký năm 1992) và với một số quốc gia khác. Các
hãng vận tải lớn của Nhật Bản như MOL, NYK, K’Lines… đã có mặt tại Việt
Nam. Ngoài ra, nhiều nhà đầu tư cảng biển nổi tiếng như PSA (Singapore),
Hutchinson (Hồng Công - Trung Quốc), APM (Đan Mạch), SSA (Mỹ)… đã liên
doanh với Vinalines, hiện đại hóa và khai thác đầu tư một số cảng biển lớn tại Việt
Nam.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị
thế nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX và lần thứ X khẳng định chủ
trương “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững”. Đây là nhiệm vụ chung của cả nước và cũng là nhiệm vụ của ngành Hàng
hải Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, ngoài việc khắc phục những khó khăn,
chúng ta cần tận dụng những thời cơ để đưa Ngành Hàng hải phát triển, hội nhập
vào hoạt động Hàng hải trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
2.2.2. Qui mô, cơ cấu và chất lượng của tàu biển Việt Nam
Gần đây một số tàu có trọng tải lớn được đóng mới bổ sung cho đội tàu biển
quốc gia nhưng không đủ so với sự phát triển lưu thông hàng hoá tại Việt Nam hiện
nay. Đội tàu biển Việt Nam có qui mô, cơ cấu bất hợp lý cả về chủng loại và trọng
tải tàu đặc biệt thiếu tàu chuyên dụng và tàu trọng tải lớn.
50
Hiện nay Việt Nam có khoảng trên dưới 100 công ty có tàu vận tải biển, tuy
nhiên chỉ có 28 công ty tham gia Hiệp hội các chủ tàu vận tải biển Việt Nam. So
với cách đây 5-10 năm, đội tàu biển chúng ta đã có những phát triển vượt bậc về trẻ
hóa tuổi tàu và nâng tổng trọng tải từ 3 triệu tấn độ tuổi trung bình 15 lên 4,5 triệu
tấn với độ tuổi trung bình là 10 tuổi. Số tàu có trọng tải trên 40.000 tấn rất ít, còn
đa phần là tàu có trọng tải dưới 30.000 tấn. Gần 80% số tàu của chúng ta hoạt động
trong vùng biển Đông Nam Á với nhiệm vụ làm tàu con thoi chung chuyển hàng
hóa từ Việt Nam đến các cảng lớn trong khu vực. Tuổi trung bình của đội tàu Việt
Nam là 14,5 tuổi, so với tuổi trung bình của đội tàu thế giới là 12 tuổi. Đây là một
độ tuổi không tồi để có thể phát triển đội tàu về lâu dài, nhưng các tàu “già” (trên
20 tuổi) chiếm tỷ lệ khá cao trong đội tàu Việt Nam: 38,9% (so với thế giới là
26,2%).
Từ năm 2005-2007, các tàu treo cờ Việt Nam nằm trong danh sách đen với 988
lần bị kiểm tra và 124 lần bị giữ lại, tỷ lệ 12,5%, trong khi tỷ lệ cho phép là dưới 7%.
Chỉ tính riêng số tàu biển Việt Nam bị kiểm tra bởi chính tổ chức hợp tác kiểm tra nhà
nước tại các cảng biển khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Tokyo - MOU) năm 2007
đã là 370 tàu. Thời gian gần đây, mặc dù đã có sự cải thiện về nhiều mặt nhưng năm
2009 số tàu Việt Nam bị lưu giữ ở các cảng của nước ngoài là 37 tàu, năm 2010
con số này tăng lên 62 tàu. Cho đến thời điểm này Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi
danh sách “đen” của Tổ chức hợp tác liên Chính phủ khu vực châu Á- Thái Bình
Dương về quản lí cảng biển (Tokyo MoU) mà vẫn còn nằm trong top 10 quốc gia
có tàu biển bị lưu giữ cao nhất thế giới. Năm 2011 tình hình còn xấu hơn vì số
lượng tàu lưu giữ ngày càng nhiều. Điều này có ba lí do: Thứ nhất, trang thiết bị kĩ
thuật cho con tàu của Việt Nam còn tương đối nghèo nàn, không đáp ứng được các
tiêu chuẩn. Thứ hai là các chủ tàu, đặc biệt các chủ tàu mới thành lập còn rất mơ hồ
về kiến thức hàng hải cũng như công ước quốc tế liên quan đến hàng hải. Thứ ba,
trình độ của thuyền viên còn hạn chế. Trong suốt những năm qua, đội ngũ tàu biển
Việt Nam luôn nằm trong "danh sách đen" của Tokyo - MOU. Điều này nói lên chất
51
lượng tàu của Việt Nam rất kém và Việt Nam cần phải làm rất nhiều điều để ra khỏi
danh sách đen này.
Phát triển rất nhanh những năm gần đây, hiện đội tàu biển Việt Nam đã có
khoảng 1.691 chiếc và ngày càng có nhiều tàu lớn hoạt động trên các tuyến biển xa.
Phát triển nhanh về số lượng đã dẫn đến một thực trạng vi phạm các quy định về an
toàn hàng hải ngày càng nhiều cùng hàng loạt các vấn đề khác làm ảnh hưởng xấu
đến uy tín đội tàu biển quốc gia ; đội tàu biển Việt Nam luôn nằm trong nhóm có
nguy cơ cao và rất cao theo bảng xếp hạng của chính quyền cảng các nước, từ đó
luôn bị kiểm tra rất kỹ ở tất cả các cảng biển quốc tế… Chưa kể tình trạng, những
tàu đã bị lưu giữ sẽ bị lưu trong hồ sơ, đến bất kỳ cảng quốc tế nào cũng sẽ bị kiểm
tra.
Trong khi thế giới đang ngày càng chú trọng đến việc phát triển các thế hệ
tàu biển có sức chở lớn cũng như các tàu chuyên dụng thì các doanh nghiệp Việt
Nam chỉ có phần lớn các tàu vận tải hàng khô với trọng tải nhỏ, chủ yếu không quá
20.000 tấn. Xu hướng vận tải của thế giới hiện nay là hàng container, trong khi đội
tàu container của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2% số lượng tàu với 7% số tấn trọng
tải.
So với đội tàu biển hùng hậu của các nước trên thế giới và khu vực thì cơ cấu
đội tàu của ta yếu hẳn cả về số lượng và trọng tải tàu, năng lực và phương thức quản
lý. Xu hướng phát triển của đội vận tải biển thế giới và khu vực trong những năm
gần đây chủ yếu là tàu container. Về trọng tải tàu theo số liệu thống kê trọng tải tàu
bình quân của thế giới và đội tàu biển nước ta có độ chênh lệch lớn. Tuy những năm
gần đây đội tàu biển Việt Nam đã có những thay đổi tích cực, nhưng so với tiềm
năng, lợi thế về mặt địa lý và điều kiện chung thì sự phát triẻn này vẫn chưa tương
xứng. Nhìn chung về số lượng, cơ cấu, trọng tải... để phục vụ cho các loại mặt hàng,
luồng vận tải từng khu vực vẫn chưa được đáp ứng.
52
Bảng 2.5 : Cơ cấu đội tàu Việt Nam và một số nước khác
Việt Nam Thái Lan Indonesia Philippines Trung Quốc Loại tàu
(%) 5,49 SL 75
SL (%) 26 8,28 238 75,8 SL 53 140 (%) SL (%) (%) SL 13,09 415 23,38 19,58 53 34,57 689 38,82 522 54,09 120 31,33
7 6 6 2,23 1,91 1,91 16 21 30 3,95 5,19 7,41 62 157 35 3,49 8,85 1,97 25 66 7 2,59 6,84 0,73 16 5 5 4,18 1,31 1,31
26 8,28 0,64 2 0,32 1 0,32 1 101 32 0 2 24,94 250 14,08 155 16,06 0,21 1,86 7,90 1,14 0,51 0,00 0,83 0,45 0,49 33 9 8 2 11 8 34 14 13 0 8,88 3,66 3,39 0,00
Hàng rời Hàng tổng hợp Hóa chất Container Khí hóa lỏng Dầu Đông lạnh Ro-Ro Tàu dầu chuyên dụng Khách
0 9 0 0 0,00 0,00 0,00 2,22 8 84 0,45 4,73 44 67 4,56 6,94 7 66 1,83 17,23
Khách + hàng hóa
1 1 0,32 0,25 25 1,41 5 0,52 28 7,31
314 1.739.927 405 2.640.857 1775 22.219.786 965 4.409.198 383 4.542.681
5.541,17 6.520,63 12.518,19 4.569,12 11.860,79
Tàu khác Tổng số tàu Tổng dung tải (GRT) Dung tải trung bình/mỗi tàu
Nguồn: CIA World Fact Book 2008
Nhìn vào bảng trên, ta thấy số lượng đội tàu Việt Nam còn rất khiêm tốn so
với các nước trong khu vực. Năm 2008, chúng ta tăng thêm 314 tàu các loại, so với
Trung Quốc, Indonexia, và Thái Lan chúng ta vẫn bị bỏ xa. Mặt khác, dung tải
53
trung bình của đội tàu Việt Nam khá thấp, đa số tàu chúng ta có là tàu nhỏ. Đây là
một bất lợi rất lớn, vì tàu nhỏ không chở được nhiều, trong khi chi phí khai thác
trên đơn vị vận chuyển lại lớn, nên những đơn hàng lớn đa phần sẽ rơi vào tay các
hãng tàu nước ngoài. Cũng phải nói thêm, về cơ cấu đội tàu Việt Nam chủ yếu
thiên về tàu tổng hợp (chiếm 75,8%) còn các loại tàu khác như tàu container thì rất
hạn chế, riêng tàu khách + Hàng hóa thì ta chưa có.
Thống kê mới nhất cho thấy, đội tàu biển quốc gia Việt Nam hiện đang
xếp hạng 60/150 nước trên thế giới, hạng 4/10 nước trong khu vực Đông Nam Á,
xếp thứ 60/152 quốc gia có tàu mang cờ quốc tịch và xếp thứ 5/11 nước ASEAN.
Nhóm công ty vận tải biển Việt Nam đã có số lượng tàu khá lớn nhưng đội tàu của
các công ty này chủ yếu là tàu có trọng tải nhỏ và già nên năng suất vận chuyển vẫn
còn hạn chế. Tàu biển Việt Nam hiện nay đang phát triển nhưng các tàu chuyên
dụng chở các mặt hàng đặc biệt như hàng đông lạnh, hàng lâm sản, hóa chất, khí
hóa lỏng LPG, dầu thô… vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu vận chuyển khối lượng
lớn.
2.2.3. Tổ chức và quản lý của đội tàu biển Việt Nam
Với trình độ công nghệ thấp, công nghệ quản lý vận tải ở Việt Nam rất yếu
so với các nước trên thế giới. Các hợp đồng giữa các công ty vận tải và kho vận với
các khách hàng về cơ bản vẫn được trao đổi qua đường thư truyền thống. Trong
khi, các nước trong khu vực như Singapore, Thailand và Malaysia đã áp dụng công
nghệ trao đổi số liệu điện tử (EDI) cho phép các đối tác liên lạc điện tử và thực
hiện các thủ tục một cách nhanh chóng. Trong vận chuyển đa phương tiện, sự phối
hợp với các loại phương tiện, đương thủy, đường sông, đường bộ, hàng không là
rất yếu kém. Cơ sở hạ tầng giao thông lạc hậu, do đó hiệu quả kinh doanh là rất
thấp. Việc bốc xếp vẫn phần lớn sử dụng nhân công mà chưa đưa các công nghệ
bốc xếp tự động - tiên tiến vào sử dụng. Phương pháp quản lý kho bãi còn lạc hậu
và vẫn chưa áp dụng các công nghệ tin học như việc quản lý bằng mã vạch. Trong
thời gian tới nhiệm vụ quan trọng là phải đẩy mạnh phát triển đội tàu và năng lực
54
cảng biển cũng như dịch vụ hậu cần cảng biển cả về số lượng và chất lượng để
phục vụ sự phát triển kinh tế.
Hiện tại vẫn còn thiếu hụt các công cụ hộ trợ xử lý container hiện đại và kinh
nghiệm trong việc xếp, bốc dỡ container. Hạ tầng giao thông không được thiết kế
cho việc vận tải container, trong khi các xe tải container thì đã quá lỗi thời. Đường
sắt cũng chưa thực hiện đầy đủ vai trò trong vận tải container vì vẫn chưa được
hiện đại hóa. Vận tải hàng không trở nên thiếu nghiêm trọng trong mùa vụ cao
điểm. Các sân bay quốc tế như Nội bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng hiện vẫn chưa có
cảng tiếp nhận hàng hóa hoặc khu vực cho các đại lý kho vận bốc dỡ hàng hóa.
Từ khi nước ta mở cửa nền kinh tế ngành vận tải biển cũng phát triển hơn
nhưng lại thiếu định hướng gây ra tình trạng lộn xộn, phân tán manh mún. Nhiều
công ty vận tải biển ra đời nhưng không có thực lực về kinh nghiệm quản lý và
hiệu quả sử dụng nên chỉ đáp ứng được một phần công suất sử dụng. Việc thành lập
Cục Hàng hải Việt Nam đã có tác dụng tích cực trong việc chuẩn bị những tiền đề
thiết lập bộ máy quản lý có sự phối hợp chặt chẽ với các ban ngành liên quan. Tuy
nhiên mô hình tổ chức hiện nay vẫn chưa phát huy được tính năng động sáng tạo,
tự chủ trong điều hành ít nhiều làm ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của các
doanh nghiệp vận tải.
2.2.4. Cảng biển
Cảng biển của Việt Nam tuy nhiều nhưng bố trí chưa hợp lý và ít cảng nước
sâu để đón tàu có trọng tải lớn. Hiện nay, Việt Nam có 266 cảng biển bố trí tại 24
tỉnh, thành. Trong số này chỉ có 9 cảng lớn, lại không đủ khả năng đón tàu trọng tải
50 nghìn tấn. Chỉ tính riêng việc do thiếu cảng trung chuyển nên hàng xuất khẩu
của các doanh nghiệp trong nước phải trung chuyển qua các cảng ở Hồng Kông,
Singapore đã làm đội thêm chi phí trong vận chuyển với trị giá hơn 1,7 tỉ đô la Mỹ
mỗi năm.
Với năng lực cảng biển của Việt Nam như hiện nay, nếu không đẩy mạnh
phát triển thì thời gian tới tàu bè sẽ phải xếp hàng chờ bốc xếp hàng xuất nhập
55
khẩu. Thời gian chờ đợi lâu, sẽ làm cho chi phí của các doanh nghiệp tăng cao và
khả năng cạnh tranh quốc tế giảm, ảnh hưởng tới sự phát triển chung của kinh tế
đất nước. Do chưa chú trọng xây dựng các cảng biển mới, nên đến nay Việt Nam
chưa có cảng nào đạt tầm quốc tế, thiếu các cảng container hiện đại, cảng chuyên
dụng có khả năng tiếp nhận các tàu biển có tải trọng lớn hơn 50.000 DWT.
Nhu cầu vận chuyển bằng đường biển thời gian qua đã phát triển quá nhanh
so với dự báo. Để khắc phục những hạn chế, đáp ứng được nhu cầu thực tế trong
tương lai, Cục quản lý Hàng hải đã phối hợp với công ty tư vấn Port Coasts thực
hiện đề án nghiên cứu quy hoạch xây dựng hệ thống cảng biển Việt Nam. Theo đề
án, khối lượng hàng hóa vận tải bằng đường biển qua các cảng của Việt Nam là 480
triệu tấn sẽ vào năm 2020. Đề án còn tập trung vào phát triển các cảng biển nước
sâu phục vụ các tàu có tải trọng lớn trên 30.000 DWT, phát triển các cảng chuyên
biệt hóa phục vụ tàu container, tàu chở chất lỏng và phát triển các cảng thành các
trạm trung chuyển quốc tế. Xây dựng cảng phải có kế hoạch chi tiết hiệu quả, phải
tính được các dịch vụ đi theo như là kho bãi, hậu cần, kiểm tra hải quan… Nếu cứ
xây dựng tràn lan và không có những tính toán phù hợp thì chỉ tốn kém và gây ách
tắc. Quy hoạch cảng biển hiện vẫn chưa đánh giá và xác định được phải xây dựng
các cảng nước sâu cho các tàu có tải trọng lớn phục vụ cho việc chở dầu và chở
than.
Hệ thống cảng biển ở Việt Nam còn quá ít nên chưa đáp ứng được nhu cầu
tiếp nhận hàng hóa từ các tàu lớn. Quy hoạch cảng biển Việt Nam thời gian qua
chưa có tầm nhìn chiến lược và dài hạn, chưa nghiên cứu đi sâu vào đánh giá thị
trường nên dẫn đến dự báo không chính xác quy hoạch hàng hoá thông qua cảng
biển theo các năm, thường là thấp hơn mức tăng trưởng thực tế. Do quy hoạch cảng
biển thời gian qua thiếu đồng bộ đã dẫn đến tình trạng quá tải ở các cảng biển. Như
tình trạng tắc nghẽn hàng hóa xảy ra thường xuyên tại các cảng trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh là do địa phương này có quá ít cảng, nhưng phải chịu đến 65%
lượng hàng hóa lưu thông bằng đường biển của toàn quốc. Thành phố Hồ Chí Minh
56
có quá ít cảng phục vụ các tàu 30.000 DWT trở lên, trong khi đa số tàu ra vào đây
đều là tàu cỡ lớn. Cảng Cái Lân đầu tư đến 120 triệu USD, nhưng tàu phải đợi nước
lên mới ra vào được.
Vai trò các ICD (cảng cạn) ở ta quá mờ nhạt. Các ICD của ta thường nằm
gần cảng thay vì phải nằm tại các khu công nghiệp lớn. Hơn thế nữa, các ICD mới
chỉ đảm trách một phần vận tải nội địa, chia sẻ phần nhỏ sức chứa và dịch vụ kho bãi
của cảng trong khi đúng ra nó phải là tổ chức hoàn chỉnh với các dịch vụ logistics như
cảng mở, kiểm hóa, khai thuê hải quan, kiểm soát chất lượng hàng hóa và giao nhận
tận cửa cho khách hàng. Để làm tốt hơn dịch vụ hậu cảng, nên chăng cần coi việc xây
dựng ICD như là một chuỗi phát triển cảng lâu dài, việc đầu tư phải có sự quan tâm
của chính quyền địa phương, nhà nước về thủ tục, biểu giá và đặc biệt là về hệ thống
giao thông kết nối.
Thời gian qua, các cảng trong cả nước đã có những bước phát triển lớn về
quy mô. Chỉ sau một thời gian ngắn, Cảng Cát Lái của Tân Cảng Sài Gòn đã trở
thành cảng có trang thiết bị hiện đại và đạt sản lượng thông qua cao nhất cả nước.
Nhưng Việt Nam vẫn chưa chú trọng xây dựng các cảng biển mới, nên chưa đáp
ứng được yêu cầu vận tải biển.
2.2.5. Đội ngũ thuyền viên của đội tàu biển Việt Nam
Thuyền viên là một loại hình lao động rất đặc thù. Thuyền viên làm việc cho
chủ tàu Việt Nam, trên tàu Việt Nam hoặc tàu mang cờ nước ngoài nhưng lại nay
đây mai đó trên thế giới do đó việc đề ra các qui định pháp luật để đảm bảo quyền
lợi và nghĩa vụ cho thuyền viên và chủ tàu là vấn đề rất quan trọng.
Vài năm trở lại đây, đội tàu của chúng ta phát triển nhanh chóng cả về số
lượng và chất lượng. Đến nay chúng ta có hơn 1.691 tàu với hơn 500 tàu chạy viễn
dương. Về số lượng thuyền viên, hiện tại, chúng ta có 1.170 thuyền trưởng (gấp 2,3
lần so với số tàu), đại phó 721 (gấp 1,4 lần so với số tàu), máy trưởng 1.038 (gấp 2,1
lần so với số tàu) và máy hai 608 (gấp 1,2 lần so với số tàu). Như vậy sỹ quan quản
lý boong gấp 1,9 lần số tàu, sỹ quan quản lý máy gấp 1,6 lần số tàu. Số lượng thuyền
57
viên lại càng không thể thiếu. Đặc biệt hàng năm số thuyền viên mới bổ sung rất
nhiều. Và việc giải quyết việc làm cho thuyền viên mới vào nghề vẫn là một vấn đề
nan giải cho ngành hàng hải.
Đào tạo thuyền viên đáp ứng đủ về số lượng mà vẫn đảm bảo về chất lượng
là một đòi hỏi gắt gao hiện nay và cũng là thách thức lớn với các trung tâm đào tạo.
Hiện tại, Việt Nam có 5 cơ sở đào tạo được bộ giao thông vận tải cho phép đào tạo
thuyền viên theo chương trình được bộ giao thông vận tải phê duyệt. Trong quá
trình triển khai thực hiện công ước STCW 78/95 và những vấn đề phát sinh trong
quá trình triển khai các văn bản dưới luật, việc cập nhật sửa đổi bổ sung theo trình
tự hành chính hiện nay còn nhiều cấp bậc do đó tính thời sự không được đáp ứng.
Để đào tạo được một người sau khi tốt nghiệp Đại học Hàng hải lên thuyền
trưởng, máy trưởng mất thêm ít nhất 10 năm, số trường đào tạo nhân lực hàng hải
trên cả nước rất hạn chế, chỉ có hai trường đào tạo bậc đại học (Đại học Hàng hải ở
Hải Phòng, Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh) và một số trường
cao đẳng, trung học khác. Đã vậy, giáo trình đào tạo cho cả đội ngũ kế hoạch, khai
thác lẫn đội ngũ thuyền viên hiện nay đã lỗi thời, không theo kịp với thực tế. Số
lượng hạn chế, chất lượng cũng đang là một vấn đề khó khăn. Chương trình đào tạo
ngành hàng hải nặng về lý thuyết, sinh viên không có nhiều điều kiện để thực tập
và tiếp cận các kiến thức, công nghệ mới. Các sinh viên giỏi ra trường thì bị các
công ty môi giới thuyền viên, các hãng tàu lớn nước ngoài thu hút hơn, các hãng
tàu, công ty vận tải trong nước chỉ có được các sinh viên trình độ hạn chế hơn. Vì
vậy, các hãng tàu trong nước luôn trong trạng thái thiếu nhân lực chuyên môn.
Đội ngũ thuyền viên trụ cột hầu hết tuổi khá cao, khả năng giao tiếp tiếng anh
hạn chế nên không phát huy hết được năng lực chuyên môn, giảm khả năng tiếp thu
khoa học kỹ thuật Hàng Hải mới, cũng như cập nhật bổ sung về luật Hàng Hải của các
công ước quốc tế mói có hiệu lực. Điều này gây hạn chế trong công việc do họ phải
thường xuyên làm việc tại các cảng nước ngoài.
Thuyền viên trẻ mới tốt nghiệp khá năng động, khá ngoại ngữ nhưng không
58
có kinh nghiệm về nghiệp vụ, ý thức kỷ luật về lao động và sức khoẻ hạn chế (so
với mặt bằng chung của thuyền viên nước ngoài). Điều này là do một thời gian dài
chúng ta chưa chú trọng đến chất lượng của đội ngũ thuyền viên, thuyền viên Việt
Nam còn lạc hậu với những tiến bộ mới trong ngành Hàng hải. Hệ thống đào tạo
còn nặng nhiều về lý thuyết, thiếu thực hành, sinh viên nếu có thời gian đi thực tế
cũng chỉ là trong thời gian rất ngắn, có những sinh viên đã tốt nghiệp mà chưa bao
giờ xuống tàu và chưa biết sóng gió. Do quá thiếu kinh nghiệm nên sinh viên mới
ra truờng phải mất nhiều thời gian để rèn luyện về tay nghề mới có thể làm việc
được.
Nếu chúng ta cố gắng đầu tư phát triển tàu chuyên dụng hiện đại mà không
kèm theo việc nâng cấp, giáo dục đào tạo thuyền viên, không có đội ngũ thuyền
viên giỏi thì cũng không thể phát triển xa hơn. Chúng ta có thể thuê thuyền viên
nước ngoài nhưng sẽ tốn thêm khoản ngoại tệ không cần thiết. Thêm vào đó, các
chính sách ưu đãi của nhà nước đối với thuyền viên như lương, phụ cấp ưu đãi…
chưa thực sự được khuyến khích, dẫn đến một số thuyền viên giỏi chuyển nghề
hoặc làm thuê cho tàu nước ngoài gây thất thoát lớn cho Nhà nước.
Nước ta là nước non trẻ trong công nghiệp vận tải biển, hệ thống giáo dục đào
tạo chuyên gia, chuyên viên vận tải biển chưa hoàn chỉnh, vì vậy đào tạo và đào tạo lại
để hình thành nguồn nhân lực chuyên nghiệp cả trong kinh doanh, khai thác, vận hành
đội tàu là yếu tố tiên quyết của các doanh nghiệp hiện nay.
a) Phát triển đội tàu biển tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương
2.2.6. Mối quan hệ giữa phát triển đội tàu với hoạt động ngoại thương
Lợi ích của vận tải biển trong đó có đội tàu biển mang lại được thể hiện trên
các mặt về kinh tế - xã hội - chính trị và ngoại giao đặc biệt là thúc đẩy hoạt động
xuất nhập khẩu phát triển. Các nhà chuyên môn kết luận, một đội tàu biển mạnh sẽ
đem lại nhiều lợi ích như tạo nguồn thu ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế, giải quyết việc làm, tăng cường thương mại quốc tế và an ninh quốc phòng,
nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
59
Đội tàu biển là một bộ phận cấu thành quan trọng không thể thiếu của hàng
hải và đặc thù là một ngành kinh doanh có tính chất dây truyền khép kín giữa “Đội
tàu - cảng biển - hệ thống dịch vụ”.
Tất cả các phương thức vận tải đều có thể tham gia chuyên chở hàng hoá
xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, lựa chọn phương thức nào để vận chuyển phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, như: loại hàng, hành trình của hàng hoá, điều kiện buôn bán, yêu
cầu của khách hàng... Một yếu tố quan trọng nữa cần phải tính đến là đặc điểm, ưu,
nhược điểm của từng phương thức vận tải. Sau đây là bảng so sánh tính ưu việt (1
là tốt nhất, 5 là kém nhất) của từng phương thức vận tải theo một số các tiêu chí,
như: tốc độ.
Bảng 2.6. So sánh tính ưu việt của từng phương thức vận tải
Giá thành Tốc độ
Xếp hạng Tính đều đặn Độ tin cậy Năng lực vận chuyển Tính linh hoạt
1 Đường thuỷ Đường
Đường không Đường ống Đường ống ô tô Đường thuỷ
2 Đường sắt Đường
Đường ô tô Đường ô tô Đường ô tô sắt Đường ống
3
Đường sắt Đường không Đường sắt Đường ô tô Đường không Đường sắt
4
Đường thuỷ Đường sắt Đường thuỷ Đường không Đường thuỷ Đường ô tô
5 Đường ống Đường thuỷ Đường không Đường ống Đường ống Đường không
Nguồn: Vận tải Ngoại thương (GS.TS. Hoàng Châu- ĐH Ngoại Thương)
Qua bảng trên ta thấy về tốc độ vận tải hàng không có tốc độ cao nhất, về
năng lực vận chuyển và giá thành Vận tải đường thuỷ (Đường biển và Đường sông)
là ưu việt nhất... Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào hành trình của hàng hoá, cũng có thể lựa
chọn hình thức vận tải đa phương thức (kết hợp nhiều phương thức vận tải) để khắc
60
phục nhựơc điểm của phương thức vận tải này, phát huy ưu điểm của phương thức
vận tải kia nhằm đưa hàng hoá từ nơi đi tới nơi đến một cách hiệu quả nhất.
Đội tàu biển kết hợp các phương thức vận tải khác tạo mạng lưới giao thông
thông suốt trong vận tải hàng hoá. Sự phát triển của đội tàu biển có mối quan hệ
chặt chẽ với hoạt động xuất nhập khẩu, cả hai tác động qua lại hỗ trợ cho nhau.
Bảng 2.7. Sản lượng hàng hóa và số lượng đội tàu quốc gia chuyên chở
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Sản lượng hàng hóa
(triệu tấn) 61.32 69.39 78.46 88.32 ~96.00
Số lượng đội tàu quốc
1219 1445 1598 1636 1691 gia (chiếc)
Tổng sản lượng xuất
nhập khẩu quốc gia (tỷ
111,3 143,4 127.0 155,6 202,1 USD)
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam
Biểu đồ 2.3.
Sản lượng hàng hóa do đội tàu biển chuyên chở
96
88.32
78.46
69.39
61.32
Triệu tấn
150 100 50 0
2007
2008
2010
2011
2009
năm
Sản lượng hàng hóa
61
Nguồn: Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam
Từ bảng 2.6, ta thấy mối quan hệ giữa đội tàu biển với hoạt động ngoại
thương. Có thể nói, từ năm 2007 trở lại đây, đội tàu biển tăng trưởng khá về số
lượng, và sản lượng hàng hóa xuất nhập khẩu cũng tăng trưởng theo chiều hướng
tích cực.
Vận tải biển đảm bảo chuyên chở hàng hoá trên 80% khối lượng hàng hoá
xuất khẩu. Với khối lượng hàng hoá lớn như thế nên bất cứ sự biến động nào của
thị trường vận tải biển cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu. Một
đội tàu mạnh hoạt động trên nhiều tuyến cùng hệ thống cảng biển và dịch vụ vận
tải phù hợp sẽ tận dụng được tối đa những ưu thế của vận tải biển.
Chi phí vận tải chiếm tỷ trọng nhất định trong giá cả hàng hoá xuất nhập
khẩu do đó vận tải biển với ưu thế giá cước thấp và đặc biệt những đội tàu biển
62
càng có chi phí thấp càng có tác dụng thúc đẩy ngoại thương phát triển tăng
cường cạnh tranh hàng hoá trên thị trường quốc tế. Nếu đội tàu biển đáp ứng
chuyên chở được nhiều loại hàng hoá đến nhiều thị trường khác nhau càng thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá phát triển. Điều này được thể hiện khá rõ khi hàng hoá Việt
Nam được xuất nhập khẩu trên nhiều thị trường nhưng đội tàu Việt Nam không đủ
năng lực, các hãng doanh nghiệp Việt Nam phải thuê tàu của các hãng tàu nước
ngoài. Như vậy vận tải biển Việt Nam bỏ mất một phần đáng kể thị phần cho hãng
tàu nước ngoài.
Ngoài việc chuyên chở hàng hoá cho quốc gia mình đội tàu biển còn có thể
thực hiện xuất khẩu sản phẩm vận tải bằng cách chuyên chở hàng hoá cho nước khác.
Việc xuất khẩu sản phẩm vận tải cũng góp phần phát triển thúc đẩy hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá phát triển.
Đội tàu biển quốc gia phát triển sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá phát triển đồng thời thay đổi thói quen mua CIF, bán FOB của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam dẫn tới tăng thị phần vận chuyển hàng hoá xuất nhập
khẩu cho đội tàu biển Việt Nam.
Sự phát triển đội tàu biển quốc gia góp phần tăng thu, giảm chi ngoại tệ góp
phần tích cực và bảo vệ cán cân thanh toán quốc tế. Nếu đội tàu biển không đáp
ứng được nhu cầu chuyên chở của ngoại thương thì đòi hỏi phải chi ra một lượng
ngoại tệ để nhập khẩu sản phẩm vận tải. Sự thiếu hụt trong cán cân xuất nhập khẩu
sản phẩm vận tải có thể làm cho cán cân thương mại và thanh toán quốc tế xấu đi.
Trái lại sự dư thừa trong cán cân thanh toán về dịch vụ vận tải có thể bù đắp một
phần thiếu hụt trong cán cân mậu dịch nói riêng và cán cân thanh toán quốc tế nói
chung.
Đội tàu biển phát triển mạnh sẽ tác động trực tiếp vào thị trường đặc biệt
nhằm giảm cước, ổn định và có lợi cho hoạt động ngoại thuơng. Để hoạt động xuất
nhập khẩu phát triển thì cần phải tăng thị phần chuyên chở hàng hoá
b) Hoạt động ngoại thương là động lực để thúc đẩy phát triển đội tàu biển.
63
Mặc dù, thời điểm hiện tại đội tàu biển Việt Nam mới chỉ đáp ứng đuợc gần
30% thị phần trong nước, tuy nhiên khi chúng ta đã gia nhập WTO và các tổ chức
kinh tế quốc tế khác hoạt động ngoại thương sẽ là động lực thúc đẩy phát triển đội
tàu biển quốc gia. Lượng hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam ngày càng tăng, vận
tải biển chiếm trên 80% khối lượng vận chuyển, đây là nhân tố thuận lợi để phát
triển đội tàu biển.
Đội tàu biển Việt Nam vẫn chưa giành được thị phần tương ứng với năng lực
và yêu cầu. Điều này không chỉ làm các công ty vận tải biển lâm vào tình trạng
thừa tàu (thường xuyên có trên 30% năng lực của đội tàu biển không sử dụng).
Không có doanh thu, không có vốn để đổi mới và nhà nước mất đi một khoản ngoại
tệ lớn khi phải thuê tàu nước ngoài và thất thu ngoại tệ khi đội tàu biển Việt Nam
không tận dụng được thuận lợi về thị trường của mình. Cán cân thanh toán thâm
hụt về hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam càng không có sức cạnh tranh.
Trước bất cập này nhà nước, các doanh nghiệp vận tải và các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu đã có nhiều biện pháp và nỗ lực để khắc phục nhưng cho đến nay vẫn
chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém. Chính sự yếu kém của đội tàu là vấn đề cần
phải được quan tâm và khắc phục nhiều nhất, vì đây là yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến năng lực cạnh tranh của đội tàu biển cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến việc mất thị phần vào tay các hãng tàu nước ngoài.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, vận tải biển và dịch vụ cảng biển
được coi là hạ tầng quan trọng, là đầu vào và đầu ra của một nền kinh tế. Để Việt
Nam thoát khỏi tình trạng là nước kém phát triển thì tăng trưởng hàng năm của
quốc gia phải đạt từ 8,5%/năm trở lên. Để có tốc độ phát triển này thì cảng biển và
vận tải biển phải đi trước 1 bước. Sự tăng trưởng của ngành này phải đạt từ
10%/năm trở lên. Hiện nay sự phát triển của ngành hàng hải chưa tương xứng với
tiềm năng và lợi thế của đất nước. Vận tải biển cả nước mới đạt năng lực 3,6 triệu
DWT, bằng 18% tổng năng lực vận tải biển, đội tàu thì già cũ và lạc hậu, còn cảng
biển hầu hết đã hết công suất. Trong khi đó xuất khẩu của Việt Nam chiếm trên
64
50% GDP và nhập khẩu cũng chiếm trên 50% GDP. Trong số 100 đồng làm ra thì
có tới 60 đồng được đem bán ra nước ngoài và bên cạnh đó là phải nhập khẩu nhiều
nguyên liệu phục vụ cho làm hàng xuất khẩu. Nhưng đến nay năng lực đội tàu và
cảng biển không đáp ứng được nhu cầu chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu trong
nước.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đặc biệt là phục vụ cho hoạt
động xuất nhập khẩu phát triển, các doanh nghiệp vận tải biển cần xem lại năng lực
hoạt động của mình, những ưu nhược điểm nhằm tìm cách khắc phục để phát triển
và hoàn thiện hơn đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang trong kì hội
nhập WTO khi hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng tăng, việc đổi mới và hoàn
thiện đội tàu biển ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Không chỉ các doanh nghiệp
kinh doanh vận tải biển vào cuộc mà nhà nước, các nhà hoạch định chính sách, các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần có những phương hướng mới đưa vận tải biển
Việt Nam khởi sắc với một đội tàu mạnh đảm bảo chuyên chở hàng hoá xuất nhập
khẩu quốc gia và quốc tế. Điều này mang lại lợi ích trực tiếp cho các doanh nghiệp
và tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước điều chỉnh cán cân thanh toán thương mại quốc
tế.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Thuận lợi
Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi so với nhiều quốc gia khác. Việt Nam
nằm trên giao điểm của các tuyến đường hàng hải, hàng không, đường bộ quốc tế,
cách đều các trung tâm kinh tế khu vực từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam.
Theo các chuyên gia Hàng hải, so với các nước có biển trong khu vực như Nhật
Bản, Indonesia, Malaisia… thì điều kiện phát triển ngành vận tải biển của Việt
Nam thuận lợi hơn nhiều. Đối với Lào, một quốc gia không có biển nằm cạnh Việt
Nam hay phía Nam Trung Quốc, vùng Đông Bắc Campuchia, Đông Bắc Thái Lan
thì đi qua Việt Nam là con đường ra biển ngắn nhất. Hơn nữa bờ biển Việt Nam
gần đường Hàng hải quốc tế đi tới các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, và khi
65
kênh đào Kora được hoàn thành khai thông tuyến đường biển từ Ấn Độ Dương
sang Thái Bình Dương, Việt Nam còn có nhiều điều kiện thuận lợi hơn nữa để vừa
phát triển đội tàu vừa phát triển dịch vụ cảng trung chuyển quốc tế. Điều này vô
cùng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế biển của Việt Nam.
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á, một trong những vùng kinh tế năng
động nhất trên thế giới, châu Á sẽ còn tiếp tục là đầu tàu của nền kinh tế thế giới
trong tương lai, ngày càng nhiều các công ty vận tải đường biển của phương Tây
tìm đến với thị trường thị trường này. Lượng hàng hóa lưu thông vô cùng dồi dào
đang và sẽ là “đòn bẩy” giúp ngành vận tải biển Việt Nam phát triển. Đáng nói
hơn, cơ hội dành cho đội tàu biển Việt Nam không chỉ là vận chuyển nguồn hàng
xuất nhập khẩu trong nước mà còn tham gia chia sẻ thị trường với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Tháng 11-2007, Việt Nam là chủ tịch luân phiên hiệp hội chủ tàu ASIA, đây
là cơ hội để chúng ta học hỏi kinh nghiệm nhằm phát huy và khai thác thế mạnh
vận tải biển của Việt Nam. Mặc dù còn có nhiều khó khăn, nhưng với định hướng
đúng trong việc khai thác tiềm năng được thiên nhiên ưu đãi và nhu cầu gia tăng
nhanh chóng, khu vực vận tải biển - kho vận ở Việt Nam đang phát triển rất mạnh
mẽ. Thêm vào đó là sự hỗ trợ của Chính phủ, các công ty vận tải, kho vận đang
chuẩn bị tốt để cạnh tranh với các đối thủ trong thời gian tới và đóng góp vào sự
phát triển chung của ngành công nghiệp vận tải và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Như vậy, tiềm năng cho phát triển vận tải biển tại thị trường Việt Nam và thế
giới là rất lớn. Tận dụng được những thuận lợi này các công ty kinh doanh vận tải
biển đang từng bước đổi mới để phát triển phục vụ tốt cho nhu cầu vận tải biển
trong nước và vươn ra thị trường quốc tế.
2.3.2. Khó khăn
a). Khó khăn từ những yếu tố khách quan
+ Việc tăng thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu của chúng ta chưa bao
giờ vượt qua được 20% thị phần, trước đây đã không dễ, giờ lại càng trở nên khó
66
hơn. Đơn giản là vì cánh cửa hội nhập đã mở, các doanh nghiệp vận tải biển giờ
phải tự “vùng vẫy trong biển lớn”. Vào WTO, đối với dịch vụ vận tải biển, Việt
Nam cam kết “không hạn chế” ở phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới đối
với vận tải hàng hoá quốc tế (nghĩa là các nhà cung cấp dịch vụ vận tải biển nước
ngoài được quyền thực hiện việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt
Nam mà không có bất cứ rào cản nào). Trước đây các doanh nghiệp của chúng ta
được hưởng hàng loạt các cơ chế ưu đãi mà vẫn không thể đánh bật được các đối
thủ đến từ các công ty nước ngoài. Năng lực cạnh tranh của đội tầu biển Việt Nam
hiện nay thực sự không thể so sánh với năng lực cạnh tranh quá mạnh mẽ của các
quốc gia có ngành Hàng hải phát triển khác trên thị trường quốc tế, thậm chí, ngay
cả với đội tầu của một số hãng tầu lớn đang và sẽ cạnh tranh trực tiếp với chúng ta
ngay trên sân nhà như Maersk Line, NYK, P&O.
+ Cạnh tranh nội ngành và quốc tế ngày một gay gắt. Rủi ro về mặt tỷ giá hối
đoái cũng là sức ép lớn tới ngành: việc tỷ giá hối đoái biến động mạnh trong thời
gian qua có ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến kết quả hoạt động sản xuất của
nhóm công ty vận tải biển. Bởi vì, việc kinh doanh vận tải biển chủ yếu sử dụng
đồng USD là đồng tiền thanh toán, các hợp đồng đã phải ký kết với mức giá cũ
trong khi tỷ giá VND/USD đang có xu hướng giảm (USD mất giá). Bên cạnh đó,
các công ty vận tải biển nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam nói chung vẫn chưa
thực sự quan tâm tới các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá, đặc biệt trong hoàn
cảnh hiện nay, khi việc áp dụng biên độ giao động tỷ giá được nới rộng +/-1% đã
có hiệu lực.
+ Việc giá dầu không ổn định và vẫn ở mức cao. Trên thực tế, chi phí nhiên
liệu chiếm trên 40% giá thành vận tải biển. Tàu càng to, càng hiện đại, tiêu hao
nhiên liệu càng lớn. Đáng nói hơn, giá nhiên liệu tăng trong bối cảnh tốc độ tăng
trưởng kinh tế suy giảm, nhu cầu về vận tải biển giảm. Đây chính là nguy cơ lớn
mà các chủ tàu trên toàn thế giới, không riêng gì các chủ tàu Việt Nam phải đối
mặt.
67
+ Các dự án hạ tầng cảng biển lớn đang được thực hiện cũng kéo theo nhiều
khó khăn cho ngành hàng hải, nhất là nguồn nhân lực và nhà máy sửa chữa, nâng
cấp tàu biển. Sỹ quan, thuyền viên của chúng ta vừa thiếu lại vừa yếu là một khó
khăn không mới nhưng luôn nóng của ngành vận tải biển. Nếu tính cả số sĩ quan
tham gia vào thị trường xuất khẩu thì con số này sẽ không dưới 1000 người. Tình
trạng này đã khiến nhiều doanh nghiệp của ta phải thuê sĩ quan, thuyền viên nước
ngoài với mức lương cao hơn hẳn. Thuyền viên đã thiếu, thuyền viên lại còn rất
yếu về chất lượng. Sỹ quan thuyền viên của ta phần lớn yếu về khả năng thực hành
và ngoại ngữ. Ngoài ra, còn không ít thuyền viên thiếu sự cần mẫn trong công
việc…
+ “Gà nhà đá nhau” cũng là nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của tàu
biển Việt Nam. Tuy có trên 100 công ty có tàu biển nhưng chỉ 28 công ty tham gia
Hiệp hội các chủ tàu, vì thế chưa có việc thống nhất giá cước giữa các công ty.
Trên cùng một cung đường nhưng mỗi công ty của Việt Nam có mức giá khác
nhau. Trong khi đó châu Á có hẳn một Hiệp hội bình ổn giá cước gọi tắt là IADA
nhằm thống nhất mức giá.
+ Mục tiêu đề ra của đội tàu biển Việt Nam là ưu tiên cho việc trẻ hoá và
hiện đại hoá đội tàu. Thế nhưng, cũng như mọi ngành kinh tế khác, nguồn vốn cho
việc đầu tư, đổi mới này vẫn là một vấn đề nan giải . Vừa qua chính phủ đã thành
lập quỹ hỗ trợ mua hoặc đóng tàu với lãi suất 3%/năm. Tuy nhiên do vốn của
nguồn quỹ này có giới hạn nên mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu của các
doanh nghiệp. Giá để đóng hoặc mua một tàu biển có trọng tải 20.000 tấn cả chục
triệu USD, trong khi đa số các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển của chúng ta
chỉ ở quy mô vừa và nhỏ, do vậy nếu không được sự hỗ trợ vốn của nhà nước thì
việc trẻ hóa và tăng tổng trọng tải đội tàu Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn dù
chúng ta đang rất thiếu tàu.
+ Các chính cách và qui định của Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong
việc đổi mới và phát triển đội tàu biển Việt Nam. Thực tế những chính sách đã ban
68
hành vẫn chưa phát huy hết tác dụng do quá trình triển khai xuống các cấp không
đồng bộ, chậm chạp gây tâm lý không tốt cho các hãng tàu. Hơn nữa một số chính
sách của Nhà nước ta đang gây ra những cản trở khó khăn cho việc phát triển đội
tàu biển Việt Nam.
+ Dòng chảy hàng hoá từ nước này sang nước khác được bảo đảm nhờ vào
công cụ tài chính chủ yếu là tín dụng thư (L/C). Đó là cách người bán bảo đảm
người mua sẽ trả tiền hay người mua bảo đảm hàng sẽ đến đúng hẹn. Nay, bộ máy
hoạt động suôn sẻ bấy lâu, là động lực cho quá trình toàn cầu hoá, đang bị tắc
nghẽn nhiều chỗ. Nhiều chủ tàu cho biết không thể thuyết phục ngân hàng mở tín
dụng thư như trước, đặc biệt cho loại hàng giá cả lên xuống thất thường vì họ
không chịu nhận chúng làm vật thế chấp. Ai mở được tín dụng thư thì bạn hàng lại
chê, chỉ chấp nhận những ngân hàng tên tuổi vì sợ rủi ro ngân hàng sụp tiệm trước
khi được thanh toán. Ngân hàng lớn nhân cơ hội này mở tín dụng thư với phí cao
hơn trước gấp ba lần. Các báo cáo của các hãng tàu cho thấy giao thương hầu như
tắc nghẽn vì thương nhân không dám cho hàng lên tàu vì sợ rủi ro không nhận được
tiền thanh toán. Xu hướng suy thoái của nền kinh tế thế giới. Năm 2010, nền kinh
tế thế giới có nhiều biến động phức tạp, lạm phát tăng cao, tốc độ tăng trưởng kinh
tế giảm. Chính sự suy giảm này đã khiến nhu cầu vận tải bằng đường biển giảm
mạnh, tình trạng thừa tàu xuất hiện. Bằng chứng cụ thể nhất là mới đây, chính phủ
Trung Quốc đã cắt giảm đơn đặt hàng đóng 80 tàu chở hàng.
b) Khó khăn từ những yếu tố chủ quan
* Về chất lượng của đội tàu
Chất lượng của đội tàu biển Việt Nam khó có thể làm cho khách hàng kể cả
trong nước lẫn ngoài nước hài lòng về mọi phương diện: kỹ thuật, công nghệ (tuổi
tàu, chủng loại tàu, trang thiết bị trên tàu, phương thức khai thác) và cả con người.
Chính yếu tố chất lượng kém này làm giảm khả năng cạnh tranh của đội tàu biển
Việt Nam trên thị trường vận tải biển. Đội tàu biển Việt Nam hiện có quy mô nhỏ,
tuổi trung bình cao và còn thiếu tàu chuyên dụng như chở công-ten-nơ, dầu, khí
69
hóa lỏng, hàng siêu trường, siêu trọng… Vì vậy, doanh nghiệp kinh doanh cảng và
vận tải biển gặp không ít khó khăn trong việc thuyết phục đối tác, khách hàng sử
dụng dịch vụ của mình.
Đội tàu biển Việt Nam chưa hoàn thiện về mặt chất lượng đã gây ra một thực
trạng là tàu Việt Nam bị bắt giữ tại các cảng nước ngoài. Theo báo cáo của Cục
Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông Vận tải), trong quý III năm 2011, chính quyền
cảng các nước đã kiểm tra 302 lượt tàu biển Việt Nam, trong đó đã lưu giữ 35 lượt
tàu.
Bảng 2.8. Số lượng tàu bị lưu giữ
Năm 2008 2009 2010 Số lượng tàu bị lưu giữ 62 chiếc 70 chiếc 37 chiếc
Nguồn: vinalines
Căn cứ vào số liệu thu thập được thì tàu biển Việt Nam bị kiểm tra tập trung
chủ yếu tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (Tokyo MOU).
So sánh các số liệu cũng cho thấy số lượt tàu Việt Nam bị lưu giữ tại nước ngoài
trong quý III đã gần bằng số lượng của 6 tháng đầu năm và tăng gần 50% so với
cùng kỳ năm 2010.
Cụ thể, trong tổng số 35 lượt tàu biển Việt Nam bị lưu giữ tại nước ngoài có
khoảng 446 lỗi các loại được phát hiện trong quá trình kiểm tra với 105 lỗi dẫn đến
lưu giữ tàu. Phần lớn các tàu bị lưu giữ là liên quan đến trang thiết bị của tàu,
chiếm tới trên 70%; tiếp theo là liên quan đến giấy tờ, tài liệu của tàu (chiếm hơn
15%), còn lại là liên quan đến hệ thống an toàn quốc tế, vận hành của thuyền viên.
Trong 35 lượt tàu bị lưu giữ này có gần 46% số tàu là rời các cảng Việt Nam
ra nước ngoài, còn lại là các tàu hoạt động tại nước ngoài thời gian dài chưa trở về
Việt Nam.
Tàu bị lưu giữ tại các cảng đều phải giải quyết theo luật của tổ chức quốc tế,
do vậy trách nhiệm của các nước tham gia là phải thực hiện nghiêm chỉnh. Tàu bị
70
giữ khi có chất lượng chưa tốt hay có sự sai khác giữa giấy chứng nhận của tàu với
con tàu. Chính quyền cảng sẽ yêu cầu thuyền trưởng khắc phục cho đến khi đạt
được sự phù hợp cần thiết mới được rời cảng. Do đó các chủ tàu Việt Nam phải
mua trang thiết bị sửa chữa con tàu với giá thành đắt hơn nhiều so với mua trang
thiết bị sửa chữa trong nước. Đồng thời kế hoạch chạy tàu bị đảo lộn, phải trả thêm
cảng phí trong thời gian lưu lại, chính quyền cảng sẽ lưu tâm khám xét hơn, phải
đền bù trong việc giao chậm hàng hoá va quan trọng hơn cả là lòng tin của khách
hàng với chủ tàu bị giảm sút. Điều này càng gây khó khăn hơn trong việc giành
quyền vận tải về sau.
* Giá cước vận tải
Một trong những khó khăn của các chủ tàu là hạ giá cước để tăng thêm
khách hàng. Tuy nhiên vấn đề không đơn giản khi các chủ tàu phải tính toán các
yếu tố cấu thành giá cước một cách hợp lý nhất sao cho vừa đảm bảo lợi nhuận vừa
được các chủ hàng chấp nhận và phải có khả năng cạnh tranh với các tàu khác. Giá
cước vận tải biển bị ảnh hưởng rất nhiều yếu tố như: Hàng hoá, tuyến đường, đặc
trưng kinh tế kỹ thuật của tàu,tình hình cung cầu và cạnh tranh trên các tuyến…
Trên thực tế nhưng yếu tố trên là nguyên nhân các chủ tàu Việt Nam khó hạ
giá cước vì:
- Về đặc điểm kỹ thuật của đội tàu: đội tàu Việt Nam độ tuổi cao, công suất
kém, chi phí sử chứa khá lớn, hơn nữa các nhà máy sửa chữa chưa được trang bị
hiện đại nên thời gian sửa chữa kéo dài, chi phí cao, mức tiêu hao nhiên liệu lớn
hơn định mức, số ngày kinh doanh khai thác tàu thấp, chi phí bảo dưỡng cao…
- Về tuyến đường: tàu chạy tuyến đường xa rất ít, hệ thống cảng biển Việt Nam
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của vận tải biển nhiều cảng bị hạn chế luồng lạch và
chế độ thuỷ chiều, hệ thống cầu tàu, kho bãi, bến cảng yếu kém làm cảng phí cũng như
hoa tiêu phí tăng. Hệ thống trang thiết bị xếp dỡ lạc hậu, làm tăng thời gian của tàu
nằm ở cảng, vòng quay phương tiện vận tải giảm.
- Về tình hình cung cầu: đội tàu biển Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh vô
cùng găy gắt của các hãng tầu nước ngoài, đặc biệt càng khó khăn hơn tù khi Việt
71
Nam gia nhập WTO và do tình trạng khủng hoảng kinh tế thị trường như hiện nay.
Giá cước của các hãng tàu trong nước thường cao hơn giá cước của hãng tàu nước
ngoài.
Ngoài ra cac chi phí tiền lương, phụ cấp đi biển của các thuyên viên cũng
tăng lên, có như vậy các công ty vận tải biển trong nước mới giữ được thuyền viên
giỏi cho mình.
Hơn nữa đội tàu Việt Nam chủ yếu vận chuyển theo từng chuyến “ăn đong”
nên khả năng bố trí vận tải hàng hoá hai chiều, hay kế hoạch khai thác tàu rỗng rất
khó thực hiện. Khó khăn về nguồn hàng cũng là một trong những nguyên nhân đẩy
giá lên cao, nhiều hãng tàu cố duy trì các tuyến vận tải, phải chịu tới nhiều cảng xa
sóng gió, điều kiện bốc xếp khó khăn nhưng cũng không thay đổi được tình thế.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu càng làm cho lượng hàng trao đổi và
cước phí giảm mạnh. Giá cước vận tải giảm 30% có những loại giảm tới 90%. Cho
tới nay mọi biện pháp để đội tàu biển hạ giá cước không thu được kết quả bao
nhiêu. Nhiều chuyến tàu chấp nhận cước phí thấp làm cân bằng thu chi thậm chí là
lỗ. Xét ở mọi khía cạnh việc giảm giá như hiện nay chắc chắn phìa Việt Nam sẽ
không có lợi. Nhà nước sẽ thất thu thuế cước, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Việt Nam phải tăng thêm một khoản chi phí bán hàng, về phía các hãng tàu càng
thêm phần bất lợi.
72
Chương 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI TÀU BIỂN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN SẮP TỚI
3.1. Định hướng mục tiêu cho đội tàu biển Việt Nam từ nay đến 2020
3.1.1. Những dự báo của Ngành Hàng hải về nhu cầu vận tải biển Việt
Nam giai đoạn từ nay đến năm 2020
“Phát triển vận tải biển theo hướng hiện đại hóa với chất lượng ngày càng
cao, chi phí hợp lý, an toàn, hạn chế ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng;
tăng sức cạnh tranh của vận tải biển để chủ động hội nhập và mở rộng thị trường
vận tải biển trong khu vực và trên thế giới” - đó là một trong những mục tiêu của
Quy hoạch phát triển vận tải biển Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm
2030 được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 1601/QĐ-TTg ngày 15/10/2009.
Quy hoạch cũng nêu rõ mục tiêu của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020,
kinh tế hàng hải đứng thứ hai và sau 2020 kinh tế hàng hải đứng đầu trong 5 lĩnh
vực phát triển kinh tế biển; đồng thời góp phần củng cố an ninh, quốc phòng của
đất nước.
Từ nay đến 2002, theo dự báo của Viện Chiến lược và Phát triển GTVT -Bộ
GTVT, khối lượng hàng và luồng hàng vận tải biển Việt Nam tăng trưởng khá. Thật
vậy, phương pháp dự báo dựa trên hàm số tuyến tính phù hợp với dãy số liệu trong
cùng một thời gian:
Yt = a + bXt +ct
Yt = khối lượng hàng vận chuyển tính bằng tấn/km trong năm t
Xt = xuất nhập khẩu hàng hóa chọn lựa trong năm t
t = năm tính toán
a = hằng số
b,c = tham số, thể hiện tác động của Xt và t tương ứng đối với Yt
73
Như vậy, bằng cách đưa GDP hoặc mức xuất (nhập) khẩu hàng hóa chọn lựa
trong tương lai có thể thực hiện được một cách đáng tin cậy. Thống kê toàn diện về
nhu cầu vận chuyển nói chung có giá trị đối với vận tải đường biển trong những
năm gần đây.
Dưới đây là một số dự báo mà Viện Chiến lược và phát triển GTVT - Bộ
GTVT đưa ra.
Bảng 3.1. Dự báo khối lượng hàng và luồng hàng vận tải biển nội địa
năm 2020
Đơn vị: nghìn tấn
Năm 2020 Loại hàng
Than 1.000
Lương thực 500
Xi măng 9.000
Dầu thô 12.000
Xăng dầu 9.000
Phân lân 120
Hàng khác 2.620
Tổng 34.240
Nguồn: Viện Chiến lược và Phát triển GTVT - Bộ GTVT
74
Bảng 3.2. Dự báo khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu
và thị phần vận tải năm 2020
Đơn vị: triệu tấn, nghìn TEU
2020
Loại hàng Thị phần Tổng số lượng
Hàng xuất khẩu Hàng khô Container Dầu thô Hàng nhập khẩu Hàng khô Container Xăng dầu Tổng 86 20 38 28 84 16 38 30 170 % 40 40 40 40 40,4 40 40 42 40 Khối lượng 34 8 15 11 34 6,4 15 12,6 68
Nguồn: Viện Chiến lược và Phát triển GTVT - Bộ GTVT
Bảng 3.3. Dự báo thị trường vận tải viễn dương của đội tàu biển Việt Nam năm 2020
Đơn vị: triệu tấn
Năm 2020 Khu vực
K.lượng 27.200 13.600 20.400 6.800 68.000 1991-1997 (%) 80 15 2 3 100 Tỷ lệ 40 20 30 10 100
Châu Á- TB Dương Châu Âu Châu Mỹ (Bắc Mỹ) Các khu vực khác Tổng Nguồn: Viện Chiến lược và Phát triển GTVT-Bộ GTVT
75
B¶ng 3.4. Dù b¸o khèi lîng hµng ho¸ th«ng qua hÖ
thèng c¶ng biÓn ViÖt Nam năm 2020
§¬n vÞ: TriÖu tÊn
Nhãm c¶ng N¨m 2020 TT
1 MiÒn B¾c 92
2 MiÒn Trung 85
3 MiÒn Nam 140
4 40 C¶ng dÇu th« kh«ng
bÕn
Tæng chung 357
Nguån: ViÖn ChiÕn lîc vµ Ph¸t triÓn GTVT - Bé GTVT
Tóm lại, từ những dự báo của ViÖn ChiÕn lîc vµ Ph¸t triÓn
GTVT - Bé GTVT ta rút ra những nhận xét sau:
+ Thứ nhất, từ nay đến 2020 mục tiêu Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp vì vậy khối lượng hàng hóa trong các ngành công nghiệp (than, ximăng, dầu
thô, xăng dầu) dự kiến khối lượng vận chuyển nhiều hơn các loại hàng hóa nông
nghiệp (lương thực, phân bón…). Và dự kiến tổng khối lượng hàng hóa năm 2020
sẽ vận chuyển khối lượng gấp đôi năm 2010.
+ Thứ hai, dự kiến khối lượng hàng xuất nhập khẩu sẽ tăng trưởng khá, đạt
tổng mức 170 triệu tấn năm 2020. Khối lượng hàng hóa đội tàu trong nước sẽ tăng
nhanh khoảng 68 nghìn TEU, kéo theo mức thị phần đảm nhiệm của đội tàu biển
Việt Nam tăng lên 40% năm 2020.
+ Thứ ba, vận tải biển viễn dương Việt Nam vẫn tiếp tục khai thác mạnh thị
trường Châu Á Thái Bình Dương, tuy nhiên mở ra nhiều loại thị trường ở khu vực
khác trên thế giới đặc biệt là thị trường Châu Âu và Châu Mỹ được coi là 2 tiềm
năng lớn.
76
+ Thứ tư, đối với hàng hóa thông qua cảng Việt Nam, nhóm cảng Miền Nam
vẫn được coi là nhóm cảng trọng yếu của kinh tế biển. Bên cạnh đó, không thể phủ
nhận sự kỳ vọng tăng trưởng mạnh của nhóm cảng Miền Bắc và Miền Trung trong
giai đoạn sắp tới.
3.1.2. Mục tiêu phát triển đội tàu biển Việt Nam
Theo Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và mục tiêu phát triển kinh tế
biển theo Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đề ra ngành
Hàng hải có vai trò, tiềm năng rất lớn và mang tính quốc tế hóa cao. Từ nay đến
đến năm 2020 sẽ đẩy mạnh việc phát triển kinh tế vận tải biển và một trong những
mục tiêu cơ bản là: Phát triển đội tàu biển Việt Nam
+ Tập trung đầu tư phát triển nhanh, hiệu quả đội tàu biển Việt Nam theo
hướng trẻ hóa, hiện đại hóa và chuyên dụng hóa, đặc biệt là tàu dầu, tàu hàng rời,
tàu công-te-nơ, tàu khách để đến năm 2010, tổng trọng tải đạt trên 5 triệu DWT;
năm 2015 trên 7 triệu DWT và năm 2020 trên 11 triệu DWT.
+ Phát triển theo hướng hiện đại hóa cả về số lượng và chất lượng đội tàu
dịch vụ chuyên dụng: công vụ, hoa tiêu, lai dắt, bảo đảm hàng hải, tìm kiếm cứu
nạn, cứu hộ hàng hải, xây dựng công trình biển, khai thác dầu khí, nghiên cứu khoa
học biển, thăm dò.
+ Đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách trong nước, đặc
biệt chú trọng tăng nhanh sản lượng vận tải nội địa của đội tàu biển Việt Nam
nhằm giảm bớt sự quá tải của vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa với
mục tiêu: đến năm 2015 đạt trên 35% và năm 2020 đạt trên 45% tổng sản lượng
hàng hoá vận chuyển trong nước. Đồng thời, bảo đảm nhu cầu lưu thông hàng hoá,
hành khách giữa các vùng, khu vực ven biển và từ bờ ra các đảo xa bờ.
+ Tham gia hiệu quả thị trường vận tải biển trong khu vực và thế giới theo
hướng tăng mạnh sản luợng vận tải quốc tế; tăng thị phần nhằm bảo đảm hợp lý lợi ích
kinh tế vận tải ngoại thương để đến năm 2015 đạt trên 25% và 2020 đạt trên 35% tổng
sản lượng vận chuyển hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam.
77
3.2. Một số giải pháp cụ thể để phát triển đội tàu biển Việt Nam trong
thời gian sắp tới
3.2.1. Các giải pháp phía Nhà nước
a) Các biện pháp tài chính
* Điều chỉnh thuế, phí, lệ phí
Các sắc thuế, phí, lệ phí ảnh hưởng tới giá cước vận tải đường biển, làm cho
giá cước tăng lên hoặc giảm xuống, từ đó tác động tới năng lực cạnh tranh của đội
tàu biển Việt Nam. Các sắc thuế, phí, lệ phí là đối tượng do Chính phủ điều chỉnh.
Hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển còn phải chịu nhiều loại
thuế với thuế suất cao làm giảm đáng kể động lực phát triển của họ. Thuế nhập
khẩu vật tư-thiết bị, thuế mua, bán, xuất nhập khẩu tàu biển, thuế sử dụng vốn, thuế
đối với tàu đóng mới,… với cùng một loại mức thuế suất cho các loại tàu biển và
các loại hình tổ chức kinh doanh đã không tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vận
tải biển mở rộng quy mô đội tàu và hoạt động có hiệu quả.
Một số loại phí, lệ phí liên quan đến vận tải biển còn thu trùng, như tàu biển
khi đăng ký đã nộp lệ phí đăng ký còn phải nộp lệ phí trước bạ, tàu biển đã phải
nộp các loại phí hàng hải lại còn phải nộp lệ phí giao thông thu gián tiếp qua giá
nhiên liệu. Nhìn chung, các doanh nghiệp vận tải biển muốn mua, bán tàu biển để
phục vụ sản xuất - kinh doanh phải nộp quá nhiều lệ phí, phí và các khoản thuế nên
lãi suất kinh doanh của tàu không bù đắp nổi hàng loạt các khoản chi phí đã bỏ ra.
Một số quy định về thuế, nhất là thuế VAT đối với hoạt động vận tải đa phương
thức còn chưa hợp lý, chưa khuyến khích đội tàu Việt Nam kinh doanh theo hình
thức cả gói từ nơi nhận hàng tới nơi giao hàng theo hình thức door-to-door (cước
vận tải quốc tế có thuế VAT bằng 0 nhưng trong cước vận tải đa phương thức với
chặng nội địa chủ tàu Việt Nam vẫn phải chịu thuế VAT 5%).
Để góp phần giúp các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam hạ giá cước, tăng
sức cạnh tranh trong chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu, trước mắt, Chính phủ có
thể áp dụng một số chính sách sau:
78
- Miễn hoặc giảm một số thuế: thuế giá trị gia tăng; thu nhập cho thuyền
viên. Trong tình hình khó khăn như hiện nay, Chính phủ nên thực hiện giảm thuế
thu nhập, thậm chí có thể miễn thuế đối với một số doanh nghiệp có thành tích kinh
doanh tốt trong một thời gian để doanh nghiệp có thêm vốn đầu tư mở rộng hoạt
động kinh doanh, đồng thời đây cũng là biện pháp cổ động doanh nghiệp vận tải
biển khác vươn lên đạt thành tích tốt trong kinh doanh. Chính phủ cũng nên có
những chính sách ưu đãi về thuế đối với một số doanh nghiệp vận tải biển đang gặp
nhiều khó khăn, có thể giảm 50% thuế doanh thu vận tải đối với tàu Việt Nam và
tàu nước ngoài do Việt Nam thuê mua hay vay trả dần trong thời kỳ đầu kinh doanh
(khoảng 3-5 năm).
Giảm thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp vận tải biển còn ở mức 2-5%
vì thực chất, thuế giá trị gia tăng đầu vào của các doanh nghiệp vận tải biển được
khấu trừ không đáng kể do hầu hết vật tư, phụ tùng cho vận tải biển được mua ở
nước ngoài. Nếu các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam kinh doanh vận tải đa
phương thức thì toàn bộ tiền cước toàn chặng không phải là đối tượng áp dụng thuế
VAT (hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh phương thức này phải tách
riêng chặng nội địa với thuế VAT là 5%).
- Điều chỉnh hợp lý thuế nhập khẩu tàu (theo tuổi, trọng tải và loại tàu) và lệ
phí trước bạ:
+ Về thuế nhập khẩu tàu thì Chính phủ nên miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu
khi mua tàu biển từ nước ngoài vào trong khi mà ngành công nghiệp đóng tàu trong
nước chưa đủ khả năng đóng mới và sửa chữa các loại tàu theo yêu cầu. Tuy nhiên,
khi ngành công nghiệp đóng tàu trong nước phát triển hơn, đủ sức đóng những con
tàu có trọng tải lớn và chuyên dụng thì cần phải chấm dứt cơ chế này.
+ Về lệ phí trước bạ: Việc chủ tàu biển Việt Nam khi mua mới tàu phải nộp
cả lệ phí trước bạ và lệ phí đăng ký là không hợp lý. Chính phủ nên sớm hợp nhất
hai loại lệ phí này.
79
- Khuyến khích việc đóng mới, sửa chữa hoặc hoán cải các loại tàu vận tải
biển tại các cơ sở đóng và sửa chữa tàu trong nước bằng cách: miễn giảm thuế nhập
khẩu các vật tư, thiết bị phục vụ công nghiệp đóng tàu biển mà trong nước chưa sản
xuất được (bên cạnh việc cho vay vốn với lãi suất thấp);
Bên cạnh đó, để thực hiện các chính sách về thuế, Chính phủ cần phải đồng
bộ và cụ thể hoá các loại văn bản pháp luật có liên quan đến thuế XNK hàng hoá
giành cho vận chuyển bằng đường biển. Đồng thời, Chính phủ nên xem xét để quy
định một khung giá cước vận chuyển hàng hoá của đội tàu Việt Nam bằng hoặc xấp
xỉ giá cước của các đội tàu nước ngoài.
Làm được như vậy cũng là bớt được "gánh nặng" cho các doanh nghiệp vận
tải biển, đồng thời góp phần giảm giá cước vận tải biển để thu hút được nhiều hơn
các chủ hàng đến với đội tàu biển Việt Nam.
* Hỗ trợ các doanh nghiệp vận tải biển trong việc đầu tư phát triển đội tàu
Để phát triển đội tàu biển quốc gia, đòi hỏi một lượng vốn tương đối lớn. Do
vậy, nếu không có sự trợ giúp từ phía Chính phủ và các ngành có liên quan ngành
Hàng hải Việt Nam khó có thể hoàn thành các kế hoạch đề ra. Từ trước đến nay,
Chính phủ chỉ chú ý đến việc cấp vốn cho ngành để xây dựng, nâng cấp cảng biển
còn vốn để mua hoặc đóng mới tàu là do ngành tự xoay sở lấy nên để phát triển đội
tàu theo hướng hiện đại hoá, chuyên dụng hoá và trẻ hoá, Chính phủ có thể áp dụng
các biện pháp trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc gián tiếp để tạo vốn cho ngành:
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đầu tư để các công ty vận tải biển thuê,
mua và vay mua tàu mới. Cụ thể, Nhà nước cần có chính sách bảo lãnh cho các
công ty vận tải biển vay vốn của các ngân hàng trong và ngoài nước để mua tàu với
lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên, việc bảo lãnh của Chính phủ chỉ nên giành cho những dự
án trọng điểm, có tính khả thi cao. Việc bảo lãnh của Chính phủ phải được tiến
hành trên nguyên tắc người vay phải trả nên trước khi quyết định đứng ra bảo lãnh,
Chính phủ cần phải xem xét kỹ lưỡng dự án, thực lực của doanh nghiệp, kể cả năng
lực của cán bộ lãnh đạo để chắc chắn rằng doanh nghiệp có khả năng trả nợ sau
80
này. Trong quá trình thực hiện dự án, Chính phủ phải đặc biệt quan tâm đến công
tác kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời những tiêu cực phát sinh nhằm đảm bảo hiệu
quả của dự án và bảo toàn vốn đầu tư.
- Chính phủ kết hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chọn lựa và chỉ định
một Ngân hàng thương mại Việt Nam làm đầu mối huy động vốn từ các ngân hàng
và các tổ chức tài chính trong nước để cho các doanh nghiệp vận tải biển vay tiền
đặt cọc và mua tàu.
- Chính phủ nên coi việc phát triển đội tàu cũng là một hình thức đầu tư vào
cơ sở hạ tầng của ngành Vận tải biển, từ đó giành một phần ngân sách đầu tư trực
tiếp cho đội tàu biển quốc gia. Trong thời gian qua, Chính phủ đều giành các nguồn
vốn vay ưu đãi, vốn ODA để phát triển cảng biển chứ chưa giành cho phát triển đội
tàu. Trong thời gian tới, cần ưu tiên giành một phần vốn vay của Chính phủ cho đội
tàu nòng cốt vay lại để phát triển đội tàu.
Ngoài ra, Chính phủ có thể áp dụng một số biện pháp tạo vốn gián tiếp cho
các doanh nghiệp vận tải:
- Chính phủ gián tiếp đầu tư phát triển đội tàu quốc gia bằng cách tăng đầu tư
cho các xí nghiệp đóng tàu, đặc biệt là những dự án đóng tàu có trọng tải lớn và
hiện đại.
- Thực hiện chính sách nhằm khuyến khích đóng tàu viễn dương trong nước,
nâng cao năng lực và hiệu quả kinh doanh của ngành đóng tàu Việt Nam. Nhà nước
cần ưu tiên hỗ trợ vốn cho việc mua tàu trong nước đóng và có quy định không cho
phép các doanh nghiệp vận tải biển mua tàu chở hàng khô dưới 6000 tấn của nước
ngoài.
Tuy nhiên, Nhà nước cần xem xét lại việc đặt mức giá của các cơ sở đóng
tàu trong nước để có thể cạnh tranh với các cơ sở đóng tàu nước ngoài. Bỏ mức
thuế 5% với loại tàu biển nhập khẩu mà các cơ sở đóng tàu trong nước chưa có điều
kiện làm được.
81
- Hiệp hội Chủ tàu Việt Nam có thể đứng ra phát hiện và chắp nối cho các
hội viên ký kết hợp đồng vay - mượn, thuê mướn hoặc trao đổi, mua-bán phương
tiện, trang thiết bị. Tuy không trực tiếp cho vay vốn đầu tư bằng tiền mặt nhưng
thông qua cách này, các doanh nghiệp vận tải biển có thể đáp ứng được một số nhu
cầu của mình mà không phải tốn ngoại tệ.
b) Nâng cao thị phần cho đội tàu biển Việt Nam
Khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển là yếu tố quan trọng
và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của đội tàu vận tải biển Việt Nam. Nguồn
hàng là yếu tố thúc đẩy các chủ tàu đầu tư thêm tàu để chuyên chở đáp ứng yêu cầu
của chủ hàng. Nếu không có nguồn hàng ổn định thì các chủ tàu sẽ không dám mạo
hiểm đầu tư những con tàu trẻ, hiện đại vì không có nguồn thu để trang trải tiền
mua tàu. Việc giành nguồn hàng vận chuyển, tất nhiên, phụ thuộc rất lớn vào khả
năng, uy tín của chủ tàu và sự "hấp dẫn" của đội tàu biển Việt Nam (thể hiện: giá
cước phải hạ, tàu đảm bảo an toàn, chất lượng phục vụ tốt, thời gian vận chuyển
nhanh,…). Tuy nhiên, với tình hình chuyên chở hàng hoá ngoại thương của đội tàu
biển Việt Nam hiện nay, một đòn bẩy của Chính phủ là rất quan trọng. Vai trò điều
tiết của Chính phủ có thể được thực hiện thông qua một số chính sách sau:
- Quy định cụ thể về việc giành quyền vận tải cho đội tàu biển Việt Nam đối
với một số hàng hoá xuất nhập khẩu như than, dầu thô, lương thực, nông sản,… đặc
biệt là những hàng hoá nhập khẩu được mua bằng nguồn tài chính của Chính phủ
(hàng cho các công trình của Nhà nước, hàng viện trợ, hàng mua bằng các nguồn
vay do Chính phủ bảo lãnh hoặc Chính phủ cho vay ưu đãi,…), các chủ hàng này
bắt buộc phải ký hợp đồng vận chuyển với đội tàu biển Việt Nam.
- Trước mắt, các tuyến vận tải biển feeder trong khu vực có tàu biển Việt
Nam tham gia khai thác sẽ được ưu đãi để giành thị phần vận chuyển hàng hoá
XNK.
- Có chính sách miễn, giảm một số thuế và phí (trọng tải phí, hoa tiêu phí,…)
cho việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của đội tàu biển quốc gia qua các
82
cảng biển Việt Nam trong một thời gian nhất định (khoảng 5 năm), cho đến khi đội
tàu biển Việt Nam phát triển mạnh lên và có khả năng cạnh tranh về giá cước vận
chuyển với các đội tàu nước ngoài.
- Thực hiện những chính sách tài chính khuyến khích việc các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu Việt Nam mua FOB, bán CIF thông qua các biện pháp cụ thể như:
Nhà nước ưu tiên bảo lãnh cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, giảm thuế xuất nhập
khẩu (có thể ở mức giảm 1% thuế xuất nhập khẩu cho giá trị lô hàng mua FOB/bán
CIF hoặc tăng 2% thuế xuất nhập khẩu cho giá trị lô hàng mua CIF/bán FOB),
giảm một số loại phí và lệ phí,… cho các doanh nghiệp này, cũng như có quy định
khuyến khích trực tiếp những cán bộ nghiệp vụ xuất nhập khẩu trực tiếp đàm phán
và ký kết được những hợp đồng theo điều kiện mua FOB, bán CIF (trích thưởng
theo từng hợp đồng).
- Ký hiệp định song phương với các nước nhập khẩu dầu, gạo và than của
Việt Nam, trong đó phân chia rõ quyền tham gia vận chuyển của đội tàu Việt Nam.
Nhiều nước trên thế giới cũng đã thành công với biện pháp này như Indonesia,
Philppines, Canada,…
Các biện pháp trên kết hợp với biện pháp tuyên truyền, hy vọng rằng sẽ nâng
cao được khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu do đội tàu biển Việt Nam chuyên
chở. Tuy nhiên, đây chỉ là những giải pháp tình thế, nhằm tạo đà phát triển cho
ngành vận tải biển. Trong tương lai, nếu muốn giành thêm được thị phần vận
chuyển, các doanh nghiệp vận tải biển phải nỗ lực hoàn thiện bản thân, phải thuyết
phục các chủ hàng xuất nhập khẩu bằng chất lượng dịch vụ của mình chứ không
phải bằng các chỉ thị từ Chính phủ.
c) Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp vận tải biển
Môi trường kinh doanh lành mạnh là một trong những yếu tố giúp các doanh
nghiệp vận tải biển nâng cao năng lực kinh doanh của mình. Nó cũng giúp cho các
chủ hàng nước ngoài yên tâm hơn khi thuê tàu Việt Nam chuyên chở hàng hoá.
83
- Để tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh, Chính phủ phải bổ sung,
hoàn thiện hệ thống luật pháp để có một hành lang pháp lý vững chắc, bảo vệ được
quyền lợi của chủ tàu và chủ hàng. Trước tiên, cần phải bổ sung, sửa đổi các quy
định về các hình thức vận tải tiên tiến như vận chuyển bằng container, vận tải đa
phương thức, trách nhiệm dân sự của chủ tàu, giải quyết tranh chấp hàng hải, tố
tụng hàng hải,…trong Bộ luật Hàng hải cho phù hợp với thực tiễn phát triển của
Hàng hải Quốc tế và Việt Nam.
- Kịp thời phê duyệt, ban hành Pháp lệnh về Tố tụng Hàng hải tại Việt Nam,
tạo khung pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hàng hải. Bên cạnh
đó, Chính phủ phải bổ sung, điều chỉnh một số chính sách cần thiết nhằm tạo hiệu
quả kinh doanh tốt hơn như chính sách hỗ trợ dự án đầu tư công nghệ mới, ban
hành hệ thống cước vận tải biển trong nước, điều chỉnh các lệ phí chủ tàu phải
nộp,…
- Cần ban hành những văn bản pháp quy cụ thể quy định việc khuyến khích
và đảm bảo quyền bình đẳng thực sự cho mọi thành phần kinh tế tham gia vận tải
biển.
Hiện nay, trên thị trường vận tải biển Việt Nam tập trung rất nhiều hãng vận
tải biển lớn của nước ngoài, rất có kinh nghiệm trong việc thôn tính các hãng tàu
nhỏ hơn hoặc chiếm đoạt thị trường bằng các thủ đoạn cạnh tranh bất hợp pháp nên
Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước cần có những biện pháp phạt mạnh
theo pháp luật hiện hành của nước ta đối với những hãng tàu nước ngoài có hành
động cạnh tranh không lành mạnh như vậy.
- Hiệp hội chủ tàu Việt Nam phải tích cực phát huy vai trò của mình hơn để
tổ chức, liên kết các hội viên nhằm bảo vệ thích đáng quyền lợi kinh tế hợp pháp
của mỗi hội viên, ngăn chặn hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và tích cực triển khai các Công ước mà Việt
Nam đã ký kết.
84
d) Phát triển nguồn nhân lực trong ngành vận tải biển
Thực hiện việc gắn kết, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước
(Bộ Giao thông Vận tải, Cục Hàng hải Việt Nam) với các cơ sở đào tạo và các
doanh nghiệp dịch vụ vận tải biển trong việc đào tạo, đào tạo lại, huấn luyện đội
ngũ sỹ quan, thuyền viên làm việc trên các tàu biển quốc gia.
Đối với sỹ quan và thuyền viên làm việc trên các tuyến hàng hải quốc tế, cần
có chính sách trả lương căn cứ vào hiệu quả kinh doanh của tàu, có thể cao hơn
mức lương quy định theo Nghị định 26/CP ngày 23/5/1999 và không dưới 100
USD/người/tháng. Nới rộng hạn ngạch hàng hoá miễn thuế nhập khẩu sau mỗi lần
đi biển xa của sỹ quan, thuyền viên. Hạn ngạch này nên quy định riêng tuỳ thuộc
vào thời hạn chuyến đi trên biển của sỹ quan, thuyền viên. Ngoài ra, nên có các
chính sách phụ cấp và khuyến khích tài chính cao hơn nữa đối với sỹ quan, thuyền
viên như phụ cấp độc hại (đối với tàu chở dầu, hiện đang áp dụng mức 0,3-0,4),
phụ cấp khó khăn nguy hiểm, phụ cấp đắt đỏ… Phấn đấu mức lương của sỹ quan,
thuyền viên Việt Nam bằng 75% bảng lương ITF vào năm 2005 và bằng 100% vào
năm 2010.
Cho phép các đơn vị vận tải biển đưa thuyền viên đi làm thuê trên các tàu
nước ngoài được trích tới 70% ngoại tệ trả cho thuyền viên, 20% dành cho đơn vị
(để đóng bảo hiểm xã hội, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, phát triển đội
tàu,…) và 5% nộp ngân sách Nhà nước.
e) Phát triển hệ thống cảng biển và dịch vụ hàng hải
* Hệ thống cảng biển
- Về triển khai thực hiện quy hoạch cảng: Cục Hàng hải Việt Nam phối hợp
cùng với Bộ Giao thông Vận tải và các Bộ, ngành có liên quan triển khai xây dựng
quy hoạch chi tiết 8 nhóm cảng theo Quyết định số 202/1999/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ; đồng thời giám sát việc xây dựng cảng tại các địa phương theo
đúng quy hoạch được duyệt; nghiên cứu, đề xuất các các địa điểm phù hợp xây
85
dựng cảng nước sâu tại khu vực Quảng Ninh - Hải Phòng, vịnh Đà Nẵng, Vũng
Tàu - Thị Vải và cảng trung chuyển quốc tế tại vịnh Văn Phong -Khánh Hoà.
- Về chính sách giá, cước, phí cảng biển: Cục Hàng hải Việt Nam cùng với
các cơ quan chức năng nghiên cứu xây dựng chính sách giá, cước, phí tại cảng biển
với mục tiêu đưa ra một biểu giá thống nhất, hợp lý, đảm bảo tính cạnh tranh và
ngang bằng với giá cước, phí của các nước trong khu vực.
- Nghiên cứu và thực hiện cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển với mục
đích đơn giản hoá thủ tục đối với tàu thuyền ra vào các cảng biển Việt Nam, tiến
tới hình thành và cung cấp "dịch vụ một cửa" cho các chủ tàu, doanh nghiệp phù
hợp với thông lệ quốc tế và áp dụng tối đa các tiến bộ của công nghệ thông tin
trong quản lý, điều hành.
* Dịch vụ hàng hải
Dịch vụ hàng hải bao gồm trên 20 loại hình khác nhau, như trên đã nói
những năm gần đây các loại hình hoạt động này đã phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và hình thức kinh doanh. Để giúp các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả
trước sự cạnh tranh gay gắt của nước ngoài, Cục Hàng hải Việt Nam nghiên cứu,
đề xuất, trình Bộ Giao thông Vận tải, Chính phủ ban hành kịp thời một số cơ chế và
giải pháp quản lý, tổ chức lại và sắp xếp lại sản xuất của các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ hàng hải. Song song với việc tổ chức sắp xếp lại các Doanh nghiệp,
Chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp yếu (hỗ trợ về vốn là chủ
yếu).
- Chính phủ cần có định hướng và hỗ trợ vốn đầu tư phát triển cho các doanh
nghiệp dịch vụ hàng hải trong việc xây dựng các cơ sở dịch vụ liên quan đến quy
trình vận tải container; hiện đại hoá công nghệ; nâng cao chất lượng dịch vụ… để
dần đạt được trình độ khai thác dịch vụ hàng hải tiên tiến, đủ khả năng cạnh tranh
với các doanh nghiệp dịch vụ hàng hải nước ngoài tại thị trường Việt Nam, tham
gia hợp tác, chia sẻ thị trường một cách bình đẳng trong hoạt động dịch vụ hàng hải
của khu vực Châu Á
86
- Cần tiêu chuẩn hoá các doanh nghiệp làm dịch vụ hàng hải và có các quy
chế hoạt động thống nhất trong khuôn khổ pháp luật, nhằm đảm bảo các doanh
nghiệp thuộc các thành phần đều bình đẳng trước pháp luật về quyền lợi cũng như
trách nhiệm, tránh tình trạng cạnh tranh tuỳ tiện.
- Thời gian qua do cơ chế, biện pháp quản lý chưa đáp ứng được thực tế sản
xuất kinh doanh nên có hiện tượng cạnh tranh tuỳ tiện, vượt quá khả năng kiểm
soát của cơ quan chức năng. Để sớm lập lại trật tự và đảm bảo uy tín với khách
hàng, thời gian tới đề nghị các hiệp hội phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý
chuyên ngành để xây dựng những quy định và có các giải pháp quản lý thực sự có
hiệu quả.
- Do các doanh nghiệp hàng hải Việt Nam còn chưa đủ mạnh nên để giảm
bớt áp lực cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải nước
ngoài thì vẫn cần có những biện pháp bảo hộ trong một thời gian. Một biện pháp
được Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam đề xuất với Chính phủ để thực hiện mục
tiêu này là: Việt Nam vẫn giữ độc quyền đối với một số dịch vụ như dịch vụ đại lý
tàu biển đến thời hạn cuối cùng phải tự do hoá hoàn toàn.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải thuộc Tổng công ty
Hàng hải Việt Nam, bên cạnh việc đầu tư phương tiện thiết bị, công nghệ mới và
giao lại khi các doanh nghiệp dịch vụ hàng hải đủ khả năng khai thác có hiệu quả,
Tổng công ty phải tiến các biện pháp tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhằm
xoá bỏ dần các doanh nghiệp yếu kém, tăng năng lực về vốn, quy mô hoạt động của
từng doanh nghiệp thành viên để trở thành các doanh nghiệp dịch vụ đủ sức cạnh
tranh ngay tại thị trường trong nước khi tự do hoá thị trường, đồng thời có khả năng
xuất khẩu dịch vụ ra nước ngoài. Những biện pháp tổ chức cụ thể để đạt được mục
tiêu trên là:
+ Sáp nhập những doanh nghiệp có chức năng nhiệm vụ gần giống nhau
nhằm tăng quy mô doanh nghiệp.
87
+ Sáp nhập những doanh nghiệp yếu, khó khăn về vốn, không có định hướng
kinh doanh vào các doanh nghiệp mạnh.
+ Đối với các doanh nghiệp yếu kém có định hướng kinh doanh nhưng khó
khăn về vốn, phương tiện sản xuất thì Tổng công ty cùng các doanh nghiệp thành
viên khác hỗ trợ về phương tiện, thiết bị trên nguyên tắc chuyển vốn trong nội bộ
Tổng công ty; đồng thời Tổng công ty cho vay vốn từ nguồn vốn tập trung của
Tổng công ty để doanh nghiệp đầu tư, phát triển sản xuất.
Bên cạnh đó, xu hướng của ngành Dịch vụ hàng hải là mở rộng hoạt động ra
các cảng khác nhau của khu vực và thế giới, do vậy, thời gian tới Tổng Công ty
Hàng hải Việt Nam phải xây dựng kế hoạch thành lập các công ty dịch vụ kinh
doanh ở các nước Châu Á.
f) Biện pháp bảo hộ
Nhìn chung, chính sách Hàng hải của Việt Nam hiện hành thiên về bảo vệ
quyền lợi của chủ tàu, điều này được thể chế hoá trong Bộ luật Hàng hải của nước
ta. Tuy nhiên, các quy định trong Bộ luật này còn có nhiều mâu thuẫn nên tác dụng
bảo hộ vẫn chưa thực sự phát huy.
Ngành vận tải biển của ta còn non yếu, lại hoạt động trong một môi trường
cạnh tranh gay gắt nên trước mắt, Chính phủ phải đưa ra một số biện pháp bảo hộ
để giúp đội tàu của Việt Nam giành được thị phần và tích luỹ vốn để phát triển. Các
biện pháp tình thế có thể áp dụng:
- Tàu nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam phải xin giấy phép có thời
hạn đối với một số loại hàng chính và tuyến đường cụ thể.
- Giảm bớt áp lực cạnh tranh từ phía các đội tàu nước ngoài trong vận tải
hàng XNK của Việt Nam bằng cách hạn chế các hãng tàu nước ngoài mở thêm
tuyến hoặc đưa thêm tàu vào khai thác tại thị trường Việt Nam khi mà đội tàu biển
Việt Nam có đủ năng lực vận chuyển, đặc biệt là trong vận tải container.
Tuy nhiên, những biện pháp trên chỉ có thể áp dụng được đối với những
nước mà chúng ta chưa ký hiệp định Hàng hải.
88
- Không cho phép các tàu nước ngoài trên 20 tuổi đến cảng Việt Nam; các
công ty tàu biển Việt Nam không được đăng ký hoạt động đối với các tàu trên 15
tuổi mua ở nước ngoài về (vì nếu các hãng tàu đưa tàu già vào khai thác thì tiền
cước của họ sẽ thấp hơn tiền cước của đội tàu biển Việt Nam rất nhiều, trong
trường hợp đó thì các hãng tàu của Việt Nam không thể cạnh tranh được).
- Không cho phép các hãng tàu nước ngoài khi đưa tàu đến Việt Nam được
mở các chi nhánh hoạt động tại Việt Nam để khép kín dịch vụ. Khi đưa tàu đến
Việt Nam, buộc họ phải sử dụng các dịch vụ đại lý tàu biển của Việt Nam ít nhất là
tới năm 2015.
3.2.2. Các giải pháp phía doanh nghiệp
a) Các giải pháp phía doanh nghiệp vận tải biển
* Có biện pháp giảm giá cước
Để giảm giá cước, trước hết các công ty vận tải biển cần phải tập trung xây
dựng hệ thống định mức (bằng hiện vật), dựa trên cơ sở khoa học để tính toán các
chi phí. Các định mức hiện vật đó sẽ là cơ sở để xác định chi phí tổng hợp với mục
tiêu tổng chi phí là nhỏ nhất.
Thiết nghĩ, một trong nhiều giải pháp để thực hiện mục tiêu giảm tổng chi
phí là các doanh nghiệp vận tải biển cần mạnh dạn đổi mới nâng cao chất lượng đội
tàu, có cơ cấu hợp lý, hoặc thanh lý những tàu đã quá cũ và lạc hậu (tiêu tốn chi phí
sửa chữa, nhiên liệu; trong trường hợp tàu quá cũ không đủ tiêu chuẩn an toàn đi
biển, bị lưu giữ tại các cảng nước ngoài thì chi phí phải bỏ ra còn lớn hơn nhiều) để
sớm thu hồi vốn đầu tư.
Bản thân các doanh nghiệp phải tích cực nghiên cứu thị trường kinh doanh
vận tải biển, thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu (trong nước và thế giới) cũng như
định hướng phát triển đội tàu của Việt Nam để từ đó đề ra kế hoạch phát triển đội
tàu cho doanh nghiệp mình. Căn cứ vào xu hướng phát triển của đội tàu biển trên
thế giới, các doanh nghiệp vận tải biển nên mạnh dạn tập trung xây dựng, phát triển
đội tàu của mình theo hướng trẻ hoá, hiện đại hoá, khả năng khai thác tốt, đội tàu
89
phải có cơ cấu hợp lý và trọng tải phù hợp với yêu cầu thị trường. Đó chính là động
lực tích cực làm giảm các loại chi phí.
Các doanh nghiệp vận tải biển lớn, đóng vai trò nòng cốt trong ngành vận tải
biển Việt Nam như Vinalines cần xác định, phát triển nhanh và có định hướng đội
tàu chủ lực theo hướng đi thẳng lên hiện đại hoá, bao gồm tàu chở container, tàu
chở dầu, tàu chở hàng khô loại lớn, nhằm tăng khả năng cạnh tranh, tạo thêm thị
trường, trực tiếp tham gia chia sẻ thị trường khu vực; tạo sự thay đổi cơ bản về cơ
cấu, chất lượng đội tàu quốc gia, từng bước nâng cao thị phần trong thị trường vận
tải biển quốc tế và khu vực.
Muốn làm được như vậy thì từ nay cho đến năm 2010, Tổng Công ty phải
hoàn thành việc xây dựng Tổng Công ty thành một tập đoàn kinh tế của Việt Nam
theo hình thức Tổng Công ty sở hữu vốn (công ty mẹ - công ty con), thay đổi cơ
bản về hình thức tổ chức và quản lý từ hành chính sang cơ chế sở hữu vốn. So với
khu vực, về vốn đạt ở mức một công ty hàng hải trung bình, có công nghệ và trình
độ khai thác tiên tiến để đủ sức tham gia hợp tác, chia sẻ thị trường cùng các công
ty hàng hải các nước trong khu vực Châu Á.
* Nỗ lực tìm và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển đội tàu
Bên cạnh những biện pháp hỗ trợ về vốn của Chính phủ, bản thân doanh
nghiệp kinh doanh vận tải biển cũng cần phải tự thân vận động tìm nguồn vốn để
đáp ứng kịp thời và chủ động đối với những nhu cầu đầu tư cho đội tàu biển của
mình. Đồng thời, việc tìm kiếm nguồn vốn phải đi đôi với một kế hoạch sử dụng
nguồn vốn hợp lý và có hiệu quả.
Biện pháp hàng đầu để tạo nguồn vốn vững chắc và lâu dài là các doanh
nghiệp vận tải biển Việt Nam phải nỗ lực tăng cường năng lực kinh doanh, tạo
nguồn vốn để tự đầu tư phát triển đội tàu của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay khi nhiều doanh nghiệp vận tải biển
Việt Nam đang làm ăn thua lỗ, thì việc huy động vốn để mua hay đóng mới một
con tàu là điều hết sức khó khăn. Trước mắt các doanh nghiệp vận tải biển nên chủ
90
động thực hiện nhiều hình thức huy động vốn như vay vốn thương mại, thuê mua
hay vay mua, liên doanh trong và ngoài nước để đầu tư phát triển đội tàu (đóng mới
hoặc nâng cấp đội tàu hiện có của doanh nghiệp), mở rộng kinh doanh. Hiện tại,
nếu muốn đóng mới tàu, các doanh nghiệp có thể tận dụng các nguồn tín dụng của
các nước đóng tàu vì Chính phủ một số nước có nền công nghiệp đóng tàu phát
triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đang cung cấp các nguồn tín dụng
đóng tàu cho các chủ tàu của các nước có nhu cầu để thu hút thêm nhiều đơn đặt
hàng cho ngành công nghiệp đóng tàu nước mình).
Khi quyết định vay vốn để đóng tàu hay có kế hoạch vay mua, thuê mua thì
các doanh nghiệp vận tải biển phải lập kế hoạch trả nợ, kế hoạch khai thác cho từng
con tàu cụ thể, trong đó phải dự tính kỹ lưỡng trước giá cước, sản lượng chuyên
chở bình quân, số chuyến trung bình thực hiện trong một năm, các chi phí liên
quan…, từ đó dự kiến được số lãi ước tính thu được để đảm bảo khả năng thanh
toán.
* Nỗ lực tìm kiếm nguồn hàng để chuyên chở bằng đội tàu biển
Các doanh nghiệp vận tải biển phải chủ động và nỗ lực tìm kiếm nguồn hàng
để vận chuyển. Bên cạnh việc đầu tư, nâng cấp, phát triển đội tàu để hấp dẫn các
chủ hàng thuê tàu của doanh nghiệp mình thì các doanh nghiệp vận tải biển cần
phải xây dựng chiến lược makerting để quảng bá đội tàu và chất lượng dịch vụ vận
tải của doanh nghiệp đến khách hàng trong nước và nước ngoài. Hình thức quảng
cáo trên Internet là một biện pháp có hiệu quả để đưa thông tin đến khách hàng, đặc
biệt là những khách hàng nước ngoài.
* Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Các doanh nghiệp vận tải biển cần phải coi việc đào tạo nguồn nhân lực là
ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải biển. Việc đào tạo và
nâng cao tay nghề cho đội ngũ sỹ quan, thuyền viên phải được thực hiện thường
xuyên.
91
Tháng 7/1995, Tổ chức IMO đã sửa đổi Công ước Quốc tế về tiêu chuẩn
huấn luyện, cấp chứng chỉ và trực ca đối với thuyền viên (the International
Convention on Standards of Training, Certification and Watchkeeping for seafares
- STCW78/95). Theo Công ước này, một hệ thống thông tin an toàn cứu nạn
GMDSS và RADAR, ARPA được xây dựng và đưa lên tàu biển. Khi tàu biển chưa
được trang bị hệ thống này thì cần có thêm đội ngũ điện báo viên, điện tử. Ngày
nay khi đã đưa GMDSS, RADAR, ARPA lên tàu, bản thân đội ngũ sỹ quan tự theo
dõi hệ thống này để điều khiển tàu. Tất cả các thuyền viên trên thế giới chỉ được
phép làm việc trên tàu biển khi đã có chứng chỉ về hệ thống này. Do vậy, đối với
đội ngũ sỹ quan, thuyền viên, bên cạnh việc nắm chắc nghiệp vụ hàng hải thì cần
phải được đào tạo về hệ thống thông tin an toàn và cứu nạn GMDSS, RADAR,
ARPA. Để có thể lấy được chứng về hệ thống này, trước tiên đội ngũ sỹ quan,
thuyền viên phải đạt được một số yêu cầu sau:
+ Ngoài trình độ chuyên môn, thuyền viên phải có khả năng hiểu được các
thuật ngữ chuyên môn, thực hiện được các giao dịch thông dụng trong hàng hải
bằng tiếng Anh vì ngày nay, phần lớn máy móc thiết bị hàng hải trên tàu đều có
hiển thị các chức năng, các thông báo, cách sử dụng bằng tiếng Anh. Nếu không
biết tiếng Anh sẽ rất khó sử dụng.
+ Đội ngũ thuyền viên cần phải có những kiến thức nhất định về tin học.
Trong ngành hàng hải, công nghệ tin học được áp dụng vào ngày càng nhiều ví dụ
như hệ thống GMDSS, RADAR, ARPA, chương trình tính toán ổn định cho tàu
dầu, tàu container, chương trình sắp xếp, bố trí hàng, quản lý các tank, két cũng
như các hệ thống định vị, thông tin liên lạc. Vì vậy, để có thể điều khiển được con
tàu và đảm bảo an toàn cho người và tài sản trên tàu, các thuyền viên phải được
trang bị đầy đủ các kiến thức tin học cần thiết.
+ Thuyền viên cần phải có một thể lực tốt, không chỉ khoẻ mạnh về cơ bắp
mà còn phải có tinh thần vững vàng, đủ minh mẫn để xử lý các tình huống trên
biển. Xu hướng hiện nay của ngành hàng hải thế giới là các tàu sẽ tự động hoá cao
92
hơn và biên chế thuyền viên trên tàu sẽ ít đi, việc này thực tế rất phổ biển ở các
nước phát triển. Đội tàu biển của nước ta tuy chưa đạt được đến trình độ đó nhưng
đó phải là định hướng lâu dài cho các công ty vận tải biển Việt Nam vì vậy cần
phải nâng cao về mặt thể lực cho thuyền viên ngay từ bây giờ để họ có thể đáp ứng
được cường độ làm việc trên những con tàu trong hiện tại và cả tương lai.
Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp, cần phải nâng cao
số lượng các thạc sỹ, tiến sỹ về chuyên môn hàng hải, đồng thời tiến hành cập nhật
kiến thức chuyên môn thường xuyên. Các doanh nghiệp vận tải biển phải trích kinh
phí hoặc tìm kiếm các nguồn tài trợ để đưa cán bộ của doanh nghiệp mình đi học
tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ ở những nước có ngành hàng hải tiên tiến. Ngoài
ra, có thể tổ chức các khoá học ngắn hạn và mời các chuyên gia trong nước hoăc
nước ngoài về giảng dạy, thuyết trình các đề tài liên quan đến hoạt động hàng hải.
Cùng với nghiệp vụ hàng hải, các cán bộ quản lý cũng phải thường xuyên nâng cao
trình độ tiếng Anh, kiến thức kinh tế, pháp luật để tránh bị thua thiệt trong làm ăn
kinh tế.
Một trong những vấn đề quan trọng cần lưu ý trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực đối với doanh nghiệp vận tải biển là việc phát huy, tận dụng
được những năng lực sẵn có của đội ngũ cán bộ. Do đó, phải thường xuyên rà soát,
đánh giá lại trình độ chuyên môn hiện có của người lao động, căn cứ vào nhu cầu
công việc, tiến hành sắp xếp, bố trí lại cho phù hợp với khả năng của cán bộ. Đó
cũng là một thao tác cần thiết trong việc xây dựng một lực lượng lao động phù hợp
với tốc độ phát triển của ngành.
* Tiến hành đổi mới và ứng dụng công nghệ tin học vào việc quản lý kỹ
thuật đội tàu.
Đội tàu biển là tư liệu sản xuất chính của các công ty vận tải biển Việt Nam.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty vận tải biển
thì việc quản lý một cách chặt chẽ, khai thác một cách có hiệu quả đội tàu vận tải
93
biển là điều rất quan trọng. Trong các mặt quản lý thì quản lý kỹ thuật có một tầm
quan trọng đặc biệt.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày nay các yêu cầu đối với
ngành vận tải biển cũng ngày một tăng. Đội tàu vận tải ngày càng được chuyên
dụng hoá ở mức cao hơn, các quy định về an toàn của các Công ước Quốc tế đối
với đội tàu biển ngày càng chặt chẽ hơn, nghiêm ngặt hơn và do đó đòi hỏi trình độ
quản lý, khai thác kỹ thuật đội tàu của các doanh nghiệp vận tải biển cũng phải
vươn lên với trình độ cao hơn. Để có thể tồn tại và phát triển, công việc quan trọng
đầu tiên của các doanh nghiệp vận tải biển là phải có một hệ thống quản lý chất
lượng có hiệu quả, mà hệ thống này lại phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống xử lý
thông tin về đội tàu của mình một cách khoa học mới có thể đưa ra một cách nhanh
nhất các phương án kinh doanh có lợi nhất.
Hiện tại, hầu hết các doanh nghiệp vận tải biển trong nước nói chung đang
quản lý hồ sơ kỹ thuật và tình trạng kỹ thuật đội tàu còn dưới dạng thủ công thuần
tuý, rất khó khăn trong việc cập nhật, tìm kiếm, tra cứu thông tin phục vụ cho công
việc quản lý và khai thác. Việc tính toán các loại thời gian kiểm tra và tính toán một
số chỉ tiêu định mức kỹ thuật hoàn toàn thủ công, tốn nhiều thời gian, nhân lực và
hiệu quả kinh tế không cao. Nhằm khắc phục những hạn chế trên, vấn đề nghiên cứu
để xây dựng một chương trình quản lý kỹ thuật phục vụ cho khai thác đội tàu biển
của Việt Nam là rất cấp thiết. Để làm được điều đó, cần thiết phải nghiên cứu hệ
thống quản lý kỹ thuật của đội tàu biển hiện tại và xây dựng một chương trình quản
lý kỹ thuật đội tàu trên máy tính để phục vụ cho việc quản lý và khai thác đội tàu của
các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam.
Để xây dựng được chương trình này, đối tượng nghiên cứu chính là hoạt động
quản lý kỹ thuật phục vụ cho việc ra quyết định trong công tác quản lý khai thác đội
tàu của các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam. Chương trình phần mềm này sẽ
giúp cho việc phân tích về hiện trạng kỹ thuật đội tàu, và xử lý thông tin trên máy
tính trước khi ra các quyết định về quản lý khai thác đội tàu vận tải biển trong nền
94
kinh tế thị trường mở như hiện nay ở nước ta. Đồng thời chương trình có thể được sử
dụng phục vụ cho công tác giảng dạy môn Tin học cho sinh viên ngành Kinh tế vận
tải biển và giúp sinh viên thực hành tại phòng mô phỏng Quản lý và khai thác đội tàu
vận tải biển của khoa Kinh tế vận tải biển.
Nếu chương trình được sử dụng tại các doanh nghiệp vận tải biển của Việt
Nam, chắc chắn sẽ đem đến cho các cán bộ quản lý một phương thức làm việc mới,
nhanh chóng, chính xác và hiệu quả đối với công tác quản lý kỹ thuật, khai thác đội
tàu vận tải biển của mình; sẽ giúp các cán bộ lãnh đạo tại các doanh nghiệp vận tải
biển tiết kiệm được nhân lực quản lý mà vẫn đảm bảo xử lý thông tin nhanh, chính
xác trước khi ra các quyết định quản lý.
b) Các giải pháp phía doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá
Bên cạnh các biện pháp hành chính và kinh tế nhằm giành quyền vận tải
hàng hoá cho đội tàu biển quốc gia, các biện pháp nâng cao chất lượng đội tàu và
dịch vụ vận tải biển thì sự chuyển biến trong tập quán kinh doanh của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu là hết sức cần thiết trong việc góp phần phát triển chuyên
chở hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đội tàu biển Việt Nam.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải ý thức được những lợi ích thực tế của
việc giành được quyền thuê tàu, phải hiểu được mối gắn kết về lợi ích kinh tế giữa
doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam. Do vậy, trong giai
đoạn đàm phán ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu phải có những cố gắng để giành được quyền vận tải hàng hoá; đồng thời
sau đó khi lựa chọn con tàu chuyên chở hàng hoá thì cân nhắc đầu tiên của các
doanh nghiệp là những con tàu thuộc đội tàu biển quốc gia.
Việc giành được quyền vận tải rất có lợi đối với các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu căn cứ vào những điểm sau:
- Các doanh nghiệp XNK có thể chủ động trong việc bảo vệ được quyền lợi
của mình. Họ tự lựa chọn người chuyên chở, tự thoả thuận các điều kiện chuyên
chở trong hợp đồng thuê tàu có lợi cho doanh nghiệp. Ví dụ như họ có thể chủ
95
động lựa chọn luật và cơ quan trọng tài xử lý tranh chấp trong hợp đồng vận tải sao
cho thuận tiện. Trong trường hợp tranh chấp xảy ra, nếu không giải quyết được
bằng hoà giải thì sẽ có thể tránh được những khó khăn trong việc kiện ra trọng tài
hoặc toà án như là các xung đột quy phạm pháp luật. Nếu để đối tác thuê tàu thì
chắc chắn họ sẽ phải thoả thuận những điều kiện có lợi cho họ, mà những điều kiện
này chắc chắn là không có lợi đối với phía chúng ta, thậm chí có rất nhiều trường
hợp ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp XNK Việt Nam (như thuê
tàu có tình trạng kỹ thuật kém, ký kết các hợp đồng thuê tàu không chặt chẽ,…).
- Nếu các doanh nghiệp XNK trực tiếp thuê tàu, họ có thể tiết kiệm được một
khoản hoa hồng do phải trả cho bên nước ngoài khi bên yêu cầu bên nước ngoài
thuê tàu hộ. Khi nhường quyền vận tải cho bên nước ngoài (nhập CIF, bán FOB)
như hiện nay thì các doanh nghiệp XNK Việt Nam vô hình chung đã để tuột một số
tiền vào tay các chủ hàng nước ngoài.Tất nhiên, các đơn vị kinh doanh cũng đã
hạch toán để đảm bảo có lãi nhưng đã là nền kinh tế thị trường thì không thể lãng
phí bất kỳ một khoản tiền nào cho dù là nhỏ. Ngoài ra, việc lựa chọn, thuê một con
tàu như thế nào không chỉ ảnh hưởng tới khoản tiền cước mà nó còn liên quan đến
khoản tiền bảo hiểm phải trả. Tuổi tàu càng cao thì phí bảo hiểm càng lớn. Khi chủ
động thuê tàu các doanh nghiệp XNK Việt Nam có thể điều tiết, tính toán sao cho
thuê được một con tàu có khoản cước, phí tối ưu mà vẫn đảm bảo an toàn cho hàng
hoá.
Như vậy, các doanh nghiệp XNK Việt Nam cần phải có một cách nhìn mới
về việc vận dụng các điều kiện INCOTERMS trong thực tế, dứt khoát từ bỏ thói
quen "bán FOB, mua CIF".
c) Các giải pháp phía doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải
Dịch vụ hàng hải đóng vai trò quan trọng trong việc bổ trợ, nâng cao sức
cạnh tranh của việc chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đội tàu biển Việt
Nam. Để phát triển chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển thì
không thể không quan tâm, chú ý tới việc nâng cao chất lượng của dịch vụ hàng
96
hải. Cũng giống như các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu, các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải cũng phải thấy được mối quan hệ tương
hỗ giữa lợi ích của doanh nghiệp vận tải biển và lợi ích của doanh nghiệp mình.
Hàng hoá chuyên chở bằng đường biển có nhiều thì dịch vụ hàng hải mới có điều
kiện phát triển và ngược lại chất lượng dịch vụ hàng hải tốt thì sẽ khuyến khích các
chủ hàng xuất nhập khẩu gửi hàng bằng đường biển nhiều hơn.
Trong năm vừa qua, đối với các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ hàng hải, hầu
hết các cơ quan quản lý chuyên ngành hàng hải đều đã nhận thấy nguy cơ thị
trường bị thu hẹp hay phân tán trong thời gian tới. Để tăng cường năng lực kinh
doanh thì cùng với những biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, bản thân các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải phải có những biện pháp tích cực phát triển
dịch vụ của mình.
- Nhiệm vụ trước tiên đối với các Doanh nghiệp là phải xây dựng và thực
hiện thành công kế hoạch cải tiến tổ chức và tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng,
phương tiện thiết bị để tăng khả năng cạnh tranh, bảo vệ thị phần.
- Để tăng sức hấp dẫn của dịch vụ, các Doanh nghiệp phải đa dạng hoá dịch
vụ, đơn giản hoá, dịch vụ trọn gói (package job), phát triển song song với vận tải đa
phương thức, cung cấp dịch vụ từ cửa đến cửa (door-to-door). Trong khi đa dạng
hoá dịch vụ, các doanh nghiệp dịch vụ hàng hải nên ưu tiên phát triển những dịch
vụ có hiệu quả cao như đại lý tàu biển, đại lý vận tải, xuất khẩu thuyền viên.
Đối với khâu đại lý và vận tải đa phương thức, phải xây dựng hệ thống cơ sở
vật chất thống nhất đủ khả năng phục vụ vận tải hàng hoá trọn gói "door-to-door",
bao gồm kho bãi, cảng cạn, thiết bị bốc xếp, vận tải container trên bộ…
Đối với Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, do quản lý cả các doanh nghiệp
khai thác cảng, các doanh nghiệp vận tải biển, các doanh nghiệp dịch vụ hàng hải
nên cần sớm hình thành các tổ chức thống nhất "Vận tải - Cảng biển - Dịch vụ" để
khai thác dịch vụ "Vận tải đa phương thức" nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho
97
khối dịch vụ phục vụ container, tăng thị phần vận tải và tạo điều kiện giành hàng
cho các cảng biển và đội tàu biển.
- Ứng dụng công nghệ thông tin điện tử, giảm bớt giấy tờ (paperless
documentation) vào hoạt động dịch vụ.
- Trong xu thế liên kết, hợp nhất của vận tải biển, ngành dịch vụ hàng hải
cũng phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá: các tập đoàn dịch vụ lớn đều có các
công ty con hoạt động tại những trung tâm hàng hải lớn trên thế giới, tại những
cảng khác nhau của các lục địa, cung cấp bất cứ dịch vụ nào về đại lý tàu biển, đại
lý vận tải đa phương thức, cung ứng, sửa chữa, thuyền viên, kiểm đếm… cho thân
chủ (chủ tàu) và khách hàng khác. Như vậy trong quá trình hoạt động của mình,
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải phải tính tới việc mở rộng phạm vi
kinh doanh của mình sang các cảng trong khu vực và trên thế giới. Với khả năng về
tài chính còn hạn hẹp, các Doanh nghiệp có thể tiến hành liên doanh, liên kết với
các doanh nghiệp nước ngoài (vừa qua, trong quá trình đàm phán thực hiện hiệp
định khung ASEAN về thương mại dịch vụ, Bộ GTVT đã xây dựng chính sách hợp
tác dịch vụ vận tải biển trong ASEAN và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận,
theo đó cho phép doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải liên doanh với nước
ngoài ngoại trừ dịch vụ đại lý tàu biển và môi giới hàng hải). Khi tiến hành liên
doanh, liên kết với nước ngoài, các doanh nghiệp khai thác dịch vụ hàng hải sẽ tận
dụng được vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm của nước ngoài, nhờ đó, sẽ nâng cao được
năng lực cạnh tranh của dịch vụ mà mình cung cấp.
Bên cạnh đó, để chủ động hơn trong việc tìm kiếm khách hàng, các doanh
nghiệp khai thác dịch vụ hàng hải phải có chiến lược quảng bá mình với khách
hàng trong nước và quốc tế. Biện pháp này có thể được thực hiện thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, Internet, các hội chợ triển lãm của ngành vận tải
biển.
98
KẾT LUẬN
Với gần 3.200 kilômét bờ biển Việt Nam có lợi thế rất lớn trên lĩnh vực vận
tải biển; lợi ích của vận tải biển trong đó có đội tàu biển mang lại được thể hiện
trên các mặt về kinh tế - xã hội - chính trị và ngoại giao đặc biệt là thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu phát triển. Một đội tàu biển mạnh sẽ đem lại nhiều lợi ích như
tạo nguồn thu ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, giải quyết việc làm,
tăng cường thương mại quốc tế và an ninh quốc phòng, nâng cao vị thế quốc gia
trên trường quốc tế. Phát triển đội tàu biển đóng vai trò quan trọng trong lưu thông
hàng hóa giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này góp
phần quan trọng vào việc đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, trên thực tế đội tàu biển Việt Nam mới chỉ đảm bảo được gần 30%
thị phần trong nước, do đó vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Đội tàu biển Việt
Nam có quy mô nhỏ, cơ cấu bất hợp lý, công nghệ lạc hậu, tuổi tàu cao…. đó có
thể coi là những nguyên nhân khiến cho đội tàu thất bại ngay trên sân nhà. So với
đội tàu biển hùng hậu của các nước trên thế giới và khu vực thì cơ cấu đội tàu của ta
yếu hẳn cả về số lượng và trọng tải tàu, năng lực và phương thức quản lý. Xu hướng
phát triển của đội vận tải biển thế giới và khu vực trong những năm gần đây chủ yếu
là tàu container. Về trọng tải tàu theo số liệu thống kê trọng tải tàu bình quân của thế
giới và đội tàu biển nước ta có độ chênh lệch lớn. Tuy những năm gần đây đội tàu
biển Việt Nam đã có những thay đổi tích cực, nhưng so với tiềm năng, lợi thế về mặt
địa lý và điều kiện chung thì sự phát triển này vẫn chưa tương xứng. Nhìn chung về
số lượng, cơ cấu, trọng tải... để phục vụ cho các loại mặt hàng, luồng vận tải từng
khu vực vẫn chưa được đáp ứng.
Việc phát triển đội tàu biển Việt Nam trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn,
xuất phát từ cả yếu tố khách quan và cả yếu tố chủ quan. Từ kinh nghiệm của các
nước trong khu vực và trên thế giới, để phát triển đội tàu biển Việt Nam trong thời
gian tới cần phải có các giải pháp đồng bộ giữa Nhà nước, các doanh nghiệp vận tải
99
biển, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, và các ngành liên quan. Các chính sách và
qui định của Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc đổi mới và phát triển
đội tàu biển Việt Nam. Thực tế những chính sách đã ban hành vẫn chưa phát huy
hết tác dụng do quá trình triển khai xuống các cấp không đồng bộ, chậm chạp gây
tâm lý không tốt cho các hãng tàu. Hơn nữa một số chính sách của Nhà nước ta
đang gây ra những cản trở khó khăn cho việc phát triển đội tàu biển Việt Nam.
Với những định hướng phát triển đội tàu biển Việt Nam được đề xuất trong
đề tài, tác giả mong muốn đội tàu biển Việt Nam sẽ sớm trở thành nhân tố quan
trọng thúc đẩy kinh tế đất nước nói chung và kinh tế vận tải biển nói riêng. Bên
cạnh những điểm đã đạt được, đề tài còn tồn tại những hạn chế như: Đứng dưới góc
độ kinh tế chính trị, nghiên cứu tiền đề lý luận và thực tiễn để đưa ra những giài
pháp, chính sách phù hợp với tình hình phát triển đội tàu biển Việt Nam, tuy nhiên
những giải pháp tác giả đưa ra mới chỉ dừng lại ở phương diện đường lối, cần phải
có những chủ trương, chính sách cụ thể hơn để đạt được mục đích thực tế. Đây
cũng chính là hướng mở để tác giả tiếp tục nghiên cứu sâu hơn sau này.
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngân Anh (2007), “Phát triển đội tàu biển Việt Nam: số lượng phải song hành
với chất lượng”, Tạp chí Hàng Hải Việt Nam, (4), tr.13 và 20.
2. Nguyễn Tấn Bình (2000), Phân tích quản trị tài chính, Nxb. Thống kê, Hà
Nội.
3. Bộ Giao thông vận tải (2006), “Tin tức sự kiện”, Giao thông vận tải, tr.6.
4. Bộ luật Hàng hải Việt Nam (2004), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Hoàng Châu (1999), Vận tải giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu,
Nxb. Kỹ thuật, Hà Nội.
6. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nghị định
160/2003 quy định về quản lý hoạt động hàng hải tại cảng biển và khu vực
hàng hải của Việt Nam.
7. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định
71/2006 quy định về quản lý cảng biển và luồng hàng hóa.
8. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Nghị định
115/2007 về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển.
9. Nguyễn Văn Chương (2004), “Mở rộng và phát triển vận tải container đường
biển của Việt Nam”, Giao thông vận tải.
10. Nguyễn Văn Chương (2006), “Phát triển hệ thống logistics ở Việt Nam”,
Giao thông vận tải
11. Công ước về tạo điều kiện thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế năm
1965 (FAL65) (2002), Bản hợp nhất sửa đổi.
12. Tiến sỹ Phạm Văn Cương (1999), Tổ chức khai thác đội tàu vận tải biển -
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam.
13. Nguyễn Khắc Duật (1987), Địa lý kinh tế vận tải biển, Nxb. Giao thông vận
101
tải, Hà Nội.
14. Đubinxki P.R Xưro E.N (1985), Những hệ thống công nghệ tiên tiến vận
chuyển hàng bằng đường biển, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội.
15. Lê Vũ Khánh (2005), Tàu container thế hệ mới và cảng biển Hàng Hải, đề tài
nghiên cứu khoa học.
16. Luật Thương mại (2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. KS. Dương Văn Phương, Viconship phía Nam (1996), “Đội tàu Container thế
giới hướng tới năm 2000”, Tạp chí Hàng Hải, (1 +2).
18. KS Dương Thị Quý (năm 2005), Đặc trưng kỹ thuật của một số tàu biển Việt
Nam và đặc điểm khai thác một số cảng biển thế giới, Trường Đại học Hàng
hải Việt Nam.
19. Tập thể giảng viên Tổ Quản lý và khai thác đội tàu (2007), Thực trạng phát
triển đội tàu biển Việt Nam dưới góc độ phát triển bền vững, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp bộ - Trường Đại học Hàng hải Việt Nam.
20. Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (2002), Nghiên cứu các giải pháp tăng khả
năng cạnh tranh của ngành hàng hải Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc
tế, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, Nxb. Giao thông vận tải, Hà
Nội.
21. KS. Phạm Tiến Tịnh (9/1997), “Một số biện pháp tài chính nhằm hỗ trợ
ngành xuất nhập khẩu để giành quyền vận chuyển cho các chủ tàu Việt Nam”,
Tạp chí Giao thông vận tải.
22. Nguyễn Hoàng Tiệm (2000), Một số biện pháp nhằm đổi mới cơ chế quản lý
đối với các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành Hàng Hải Việt Nam, Luận
án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
23. Nguyễn Hoàng Tiệm (2003), “Cần có những cơ chế chính sách thích hợp với
thị trường để giành quyền vận tải cho đội tàu biển Việt Nam”, Tạp chí Hàng
102
Hải Việt Nam, (11), tr.22-23.
24. Đinh Ngọc Viện (2002), Nghiên cứu các giải pháp tăng năng lực cạnh tranh
của ngành Hàng hải Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, Nxb. Giao
thông vận tải, Hà Nội.
25. Công ty Thông tin điện tử Hàng hải www.vishipel.com.vn/
26. Cục đăng kiểm Việt Nam www.vr.org.vn/
27. Cục Hàng hải Việt Nam www.vinamarine.gov.vn/
28. Diễn đàn Hàng hải Việt Nam www.vinamaso.net/forum/
29. Tạp chí Chủ hàng Việt Nam www.vietnamshipper.com/
30. Tạp chí Hàng hải Việt Nam hanghaivietnam.vn/
31. Tổng công ty Hàng hải Việt Nam www.vinalines.com.vn/
32. Tổng hội Hải quan Hàng hải Việt Nam www.vietnamnavy.com/
103
33. Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn/