ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------------------
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
HOÀNG THỊ THINH
--------o0o---------
Họ và tên học viên
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA Ở MỘT SỐ NƢỚC CHÂU Á VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÀNH:
CHUYÊN NGÀNH:
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH/NGHIÊN CỨU
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------------------
HOÀNG THỊ THINH
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA Ở MỘT SỐ NƢỚC CHÂU Á VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số : 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHÍ MẠNH HỒNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Phát triển hệ thống đổi mới quốc gia ở một
số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” là công trình nghiên
cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS Phí Mạnh Hồng. Các số
liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài
liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Thinh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đƣợc luận văn này tôi đã nhận đƣợc rất nhiều sự động
viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phí Mạnh
Hồng đã hƣớng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình. Trong quá trình
hƣớng dẫn, thầy luôn tận tình, động viên và khuyến khích tôi hoàn thành luận
văn.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào
tạo sau đại học, Đại học Kinh tế, Ban Chủ nhiệm Khoa Kinh tế chính trị, đã
tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những ngƣời đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu chƣa nhiều nên luận
văn vẫn còn thiếu sót, rất mong nhận đƣợc sự góp ý của quý Thầy/Cô và các
anh chị học viên.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Học viên
Hoàng Thị Thinh
MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt ........................................................................................... i
Danh mục các bảng ........................................................................................... ii
Danh mục các hình ........................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA .... 8
1.1. Một số khái niệm có liên quan ............................................................................... 8
1.1.1. Công nghệ .......................................................................................... 8
1.1.2. Đổi mới công nghệ ........................................................................... 13
1.1.3. Hệ thống đổi mới quốc gia ............................................................... 15
1.2. Vai trò của NIS trong phát triển kinh tế hiện đại ............................................... 22
1.2.1. Kinh tế tri thức và nhu cầu đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực
công nghệ .................................................................................................. 22
1.2.2. Tầm quan trọng của phát triển NIS đối với việc đổi mới và nâng cấp
liên tục năng lực công nghệ ...................................................................... 26
1.3. Thực chất và nội dung của quá trình phát triển NIS .......................................... 29
1.3.1. Thực chất của quá trình phát triển NIS ........................................... 29
1.3.2. Nội dung chính của phát triển NIS .................................................. 31
CHƢƠNG 2: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC
GIA Ở MỘT SỐ NƢỚC CHÂU Á ................................................................. 35
2.1 NIS của Nhật Bản .................................................................................................. 36
2.1.1. Quá trình hình thành NIS của Nhật Bản .......................................... 36
2.1.2. Các thành phần trong NIS của Nhật Bản ........................................ 37
2.1.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS của
Nhật Bản ................................................................................................... 39
2.1.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Nhật Bản .............. 42
2.2. NIS của Trung Quốc ............................................................................................. 44
2.2.1. Quá trình hình thành NIS của Trung Quốc ..................................... 44
2.2.2. Các thành phần trong NIS của Trung Quốc .................................... 47
2.2.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS của
Trung Quốc ............................................................................................... 51
2.2.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Trung Quốc .......... 54
2.3. NIS của Hàn Quốc ................................................................................................ 56
2.3.1. Quá trình hình thành NIS của Hàn Quốc ........................................ 56
2.3.2. Các thành phần trong NIS của Hàn Quốc ....................................... 58
2.3.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS của
Hàn Quốc .................................................................................................. 60
2.3.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Hàn Quốc ............. 62
2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................................... 63
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH NHẰM PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA Ở VIỆT NAM ............................................. 69
3.1. Thực trạng Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam ....................................... 69
3.1.1. Cách tiếp cận của Việt Nam về NIS ................................................. 69
3.1.2. Sự hình thành và phát triển của NIS ở Việt Nam và đặc điểm của nó ... 71
3.1.3. Một số kết quả đạt được ................................................................... 78
3.1.4. Những vấn đề tồn tại ........................................................................ 83
3.1.5. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém của NIS ở Việt Nam......89
3.1.6. Đánh giá NIS ở Việt Nam ................................................................ 92
3.2. Các giải pháp để phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam. ............. 95
3.2.1. Lựa chọn cách tiếp cận phù hợp và định dạng mô hình NIS của Việt Nam . 95
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về
KH&CN, tạo lập môi trường, thể chế xã hội thích hợp ........................... 96
3.2.3. Chuẩn bị các điều kiện cho việc phát triển phát triển NIS .............. 98
3.2.4. Đổi mới cơ chế tài chính khuyến khích phát triển NIS .................... 99
3.2.5. Nâng cao vai trò của doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới công
nghệ ......................................................................................................... 100
3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về NIS ................................................ 102
KẾT LUẬN ................................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................107
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Số thứ tự Ký hiệu Nguyên nghĩa
ĐMST Đổi mới sáng tạo 1
KH&CN Khoa học và công nghệ 2
KT - XH Kinh tế - xã hội 3
NIS Hệ thống đổi mới quốc gia 4
NCKH Nghiên cứu khoa học 5
OECD 6
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
R&D Nghiên cứu và phát triển 7
SHTT Sở hữu trí tuệ 8
i
SME Doanh nghiệp vừa và nhỏ 9
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT Số hiệu Tên bảng Trang
2.1 Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Nhật Bản 39 1
2.2 Chi tiêu R&D của Nhật Bản từ năm 2002 – 2010 43 2
2.3 Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Trung Quốc 50 3
2.4 Chi tiêu R&D của Trung Quốc từ năm 2002 – 2010 54 4
2.5 Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Hàn Quốc 59 5
2.6 Chi tiêu R&D của Hàn Quốc từ năm 2002 – 2010 62 6
3.1 Thống kê số bằng sáng chế một số nƣớc Đông 84 7
Nam Á giai đoạn 2006 – 2010 đƣợc đăng ký tại
Mỹ
3.2 Điểm đánh giá Chỉ số Đổi mới /Sáng tạo của Việt 85 8
Nam so với các nƣớc xung quanh
3.3 Việt Nam - Điểm và thứ hạng của các tiêu chí Tổ 86 9
chức Nhà nƣớc, Vốn, con ngƣời và Đầu ra sáng
tạo
10 3.4 Tỷ lệ đầu tƣ cho KHCN từ ngân sách nhà nƣớc 91
ii
tính trên GDP của Việt Nam qua các năm
DANH MỤC CÁC HÌNH
TT Số hiệu Tên hình Trang
1.1 Công nghệ là công cụ biến đổi 1 10
2 1.2 Mối quan hệ giữa các thành phần công nghệ 13
3 1.3 Mô hình liên kết trong Hệ thống đổi mới quốc gia 30
4 3.1 Sơ đồ hệ thống các cơ quan, tổ chức tham gia vào 73
iii
hoạch định chính sách phát triển NIS ở Việt Nam
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Jeffrey Sachs, một chuyên gia về phát triển kinh tế của Liên Hợp Quốc,
đồng tác giả của Chƣơng sách với tiêu đề: “Tiến bộ công nghệ và sự tăng
trƣởng kinh tế lâu dài của các quốc gia châu Á”, đã nêu rõ sự cần thiết phải có
chiến lƣợc đổi mới ở các quốc gia này. Ông viết: “Sự cần thiết phải đề ra
chiến lƣợc đổi mới là một thực tiễn đặt ra cho các quốc gia châu Á, cũng nhƣ
ở các nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên, đối với châu Á trong đó có Việt Nam,
nhu cầu này có lẽ còn cấp bách hơn, bởi vì nhiều nền kinh tế châu Á hiện nay
đang đứng ở ngƣỡng cửa của một giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi một cách
tiếp cận mới về công nghệ và tăng trƣởng” [20]. Từ chỗ nhập khẩu, ứng dụng
công nghệ của Mỹ và Tây Âu một cách thành công, các nền kinh tế này phải
phấn đấu để tự mình đổi mới công nghệ.
Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, sự phát triển nhƣ vũ
bão của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu… đã đƣa nhân loại
tới nền kinh tế tri thức. Tri thức đã thực sự trở thành nguồn lực quyết định
cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự thay thế nhanh chóng của
công nghệ tất yếu đòi hỏi một nhu cầu cần thiết phải có sự đổi mới và nâng
cấp công nghệ.
Đổi mới công nghệ là một vấn đề từ lâu đã dành đƣợc sự quan tâm
chú ý ở nƣớc ta, đƣợc xem là một nhân tố tạo nên ƣu thế cạnh tranh của
quốc gia. Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của hoạt động đổi mới công
nghệ, cách tiếp cận theo hƣớng xây dựng và phát triển Hệ thống đổi mới
quốc gia ( National Innovation System - NIS), coi đó là một khuôn khổ thể
chế quan trọng trong việc kết nối, làm gia tăng các năng lực sáng tạo, đổi
mới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH & CN) đã đƣợc nhiều quốc
1
gia quan tâm áp dụng. Ở Việt Nam cũng có một số nỗ lực nghiên cứu để
vận dụng khái niệm và cách tiếp cận này vào hoàn cảnh cụ thể của đất
nƣớc.
Thời gian gần đây có nhiều nền kinh tế châu Á đã bắt đầu quan tâm đến
việc xây dựng và hoàn thiện NIS. Từ cuối thập kỷ 90, Trung Quốc đã có Dự
án nghiên cứu NIS của mình khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền
kinh tế thị trƣờng và đề ra quan điểm “NIS mang các đặc trƣng Trung Quốc”.
Các quốc gia khác nhƣ Hàn Quốc mới đây cũng đề xuất “NIS thế hệ thứ 3”,
khi nền kinh tế này đã hoàn thành giai đoạn rƣợt đuổi và bƣớc sang giai đoạn
đổi mới và chuẩn bị cho nền kinh tế tri thức. Ấn Độ, Thái Lan, Philippin,
Inđônêxia trong các kế hoạch KH&CN mới đây cũng đều đề ra các giải pháp
để hoàn thiện và phát huy hiệu quả của NIS.
Việt Nam cũng đã tiến hành nghiên cứu để vận dụng cách tiếp cận NIS
nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy cách
tiếp cận này còn khá mới mẻ và bƣớc đầu bộc lộ nhiều vƣớng mắc trong áp
dụng đòi hỏi cấp thiết phải bổ sung và hoàn thiện.
Xuất phát từ thực tiễn nhƣ đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển Hệ
thống đổi mới quốc gia ở một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới, vấn đề nghiên cứu và vận dụng cách tiếp cận NIS đã
đƣợc nhiều quốc gia quan tâm. Có khá nhiều công trình nghiên cứu về NIS
nói chung và cả những công trình nghiên cứu cho một số quốc gia cụ thể nhƣ:
“Systems of Innovation, Pinter, London and New York”, của Charles
Edquist, 1997 [15]. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã phân
tích các nguồn gốc lý thuyết và lịch sử của cách tiếp cận NIS. Tác giả đặc biệt
nhấn mạnh lịch sử của cách tiếp cận NIS và chú ý đến cách tiếp cận hệ thống.
2
Đây là cơ sở để chính phủ hoạch định chính sách phát triển NIS.
“The National System of Innovation in Historical Pespective”, của
Chris Freeman, 1995[16], Cambridge Journal of Economics,, February, 5-24.
Chris Freeman đã phân tích và làm rõ thực chất của NIS. Theo ông, NIS là
một mạng lƣới các tổ chức, thiết chế trong các khu vực tƣ nhân và công cộng
cùng phối hợp hoạt động lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu, nhập khẩu, cải
tiến và phổ biến các công nghệ mới.
“Technological advances and the long-term economic growth of Asian
countries” của Sachs, J.D (2001). Trong công trình nghiên cứu này, Sachs đã
phân tích sự cần thiết phải có chiến lƣợc đổi mới ở các quốc gia này. Ông
nhấn mạnh sự cần thiết phải đề ra chiến lƣợc đổi mới là một thực tiễn đặt ra
cho các quốc gia châu Á, cũng nhƣ ở các nơi khác trên thế giới, bởi vì nhiều
nền kinh tế châu Á hiện nay đang đứng ở ngƣỡng cửa của một giai đoạn phát
triển mới, đòi hỏi một cách tiếp cận mới về công nghệ và tăng trƣởng.Từ chỗ
nhập khẩu, ứng dụng công nghệ của Mỹ và Tây Âu một cách thành công, các
nền kinh tế này phải phấn đấu để tự mình đổi mới công nghệ.
“National Innovation Systems: Towards a Theory of Innovation and
Interactive Learning” của Lundvall, B.A. Trong tài liệu này, Lundvall đã
dùng khái niệm NIS để phân tích các quá trình đổi mới, bao gồm các doanh
nghiệp và các tổ chức tri thức tƣơng tác với nhau nhằm mục đích thúc đẩy đổi
mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ.
“The ensence and importance of the National innovation system” của
Patel, P và Pavitt, K (1994). Trong công trình nghiên cứu này, hai tác giả đã
phân tích và làm rõ bản chất và tầm quan trọng của NIS. Theo các ông, NIS
bao gồm các tổ chức thiết chế trong nƣớc, hệ thống các kích thích và năng lực
quyết định tốc độ và chiều hƣớng cải tiến công nghệ (hoặc là tốc độ và cấu
3
thành của các hoạt động tạo ra đổi mới) trong một nƣớc.
Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng NIS trong một vài năm gần đây thu hút
đƣợc sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Đã có một số công trình nghiên cứu
về NIS nhƣ:
“Vận dụng cách tiếp cận NIS để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”, Lê
Đình Tiến, 2000 [8]. Tác giả đã phân tích khái quát cách tiếp cận về NIS và
hƣớng nó vào vấn đề thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.
“Chương trình đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan, Những
kiến thức cơ bản về đổi mới” của TS. Trần Công Yên [14] cũng đã trình bày
những tất yếu của đổi mới công nghệ và nhấn mạnh đến sự đổi mới theo cách
tiếp cận NIS.
Công trình “NIS của các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á” [11]
của trung tâm thông tin khoa học và công nghệ năm 2006. Trong tổng luận
này cũng phân tích và làm rõ NIS của các nền kinh tế đang phát triển ở châu
Á và bƣớc đầu đƣa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Bên cạnh đó còn một số bài báo trên các tạp chí cũng đã đề cập đến vấn
đề xây dựng và hoàn thiện NIS ở Việt Nam nhƣ: “Đổi mới tư duy hoạt động
và quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta sau hội nhập WTO theo cách tiếp
cận NIS về khoa học và công nghệ” [7] của tác giả Trần Đình Quân trên tạp
chí Nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ ; “Thị trường khoa học
công nghệ” của tác giả Vũ Đình Cự (2004), Tạp chí hoạt động khoa học [1];
“Hệ thống đổi mới quốc gia và một số vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Ngọc Trân [9]…Các công trình này đã đề cập đến sự cần thiết của việc
xây dựng Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam, coi đó là động lực thúc đẩy
đổi mới công nghệ. Các công trình đều khẳng định việc xây dựng và phát
triển NIS là tất yếu để các nhà lãnh đạo quốc gia biết đƣợc danh mục các mặt
hàng chủ yếu, các công nghệ cần phát triển, các bƣớc đi về kinh tế đối ngoại
cần tiến hành, sẽ đảm bảo thắng lợi trong thời gian trƣớc mắt (3-5 năm) và về
4
lâu dài. Có thể nói NIS là động lực phát triển thị trƣờng KH&CN. Nếu không
có hệ thống này, hoặc có, nhƣng hoạt động tồi thì thị trƣờng KH&CN rất dễ
bị biến động, dẫn tới khủng hoảng.
Viện Nghiên cứu Chính sách KH&CN (NISTPASS) cũng có những công
trình nghiên cứu và thƣờng xuyên cử cán bộ đi dự các cuộc Hội nghị, Hội thảo
khu vực và quốc tế về NIS. Gần đây nữa, các nhà khoa học có uy tín nhƣ Giáo
sƣ Đặng Hữu, Giáo sƣ Vũ Đình Cự, Giáo sƣ, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trân… cũng
nêu ý kiến về sự cần thiết phải xây dựng và củng cố NIS ở Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách hệ thống về NIS và đề xuất những chính sách thích đáng để xây dựng và
hoàn thiện NIS ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài đƣợc thực hiện là cần thiết cả về lí
luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận giải rõ cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển NIS của một số nƣớc ở
châu Á; trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị, có thể vận
dụng để đề xuất một số giải pháp, chính sách cơ bản nhằm phát triển NIS ở
Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ một số khái niệm có liên quan đến NIS và các thành
phần trong NIS cũng nhƣ tầm quan trọng của NIS đối với việc nâng cấp và
đổi mới công nghệ.
- Làm rõ quá trình hình thành, các thành phần và biện pháp chính sách
nhằm thúc đẩy sự phát triển NIS ở một số nƣớc châu Á từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm phát triển NIS ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng, quá trình hình thành và phát triển, đặc điểm của NIS ở
Việt Nam. Đánh giá những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề còn tồn tại, trên cơ
sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển NIS ở Việt Nam.
5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự phát triển NIS của một số nƣớc ở châu Á là đối tƣợng nghiên cứu của
luận văn. Trên cơ sở đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho sự phát triển NIS ở
Việt Nam thông qua phân tích thực trạng, quá trình hình thành và phát triển, đặc
điểm của NIS ở Việt Nam. Đánh giá những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề
còn tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển NIS ở
Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu NIS của ba nƣớc ở châu Á là: Nhật Bản,
Trung Quốc và Hàn Quốc. Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm và
giải pháp cho việc phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh và đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, pháp luật, chính sách của
Nhà nƣớc Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phƣơng pháp chung của luận văn là sử dụng phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và phƣơng pháp trừu
tƣợng hóa khoa học.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một số phƣơng pháp cụ thể khác, nhƣ:
phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học, phƣơng pháp phân tích – tổng hợp,
phƣơng pháp so sánh, thống kê…
6. Đóng góp mới của luận văn
6
- Góp phần làm rõ cách thức hình thành và phát triển NIS của một số nƣớc ở châu Á, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, chính sách nhằm phát triển NIS ở Việt Nam.
- Luận văn phân tích, đánh giá NIS của Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NIS của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng, 9 tiết:
Chương 1: Tổng quan chung về Hệ thống đổi mới quốc gia
Chương 2: Kinh nghiệm phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở một số
nước châu Á
Chương 3: Một số gợi ý chính sách nhằm phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở
7
Việt Nam
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN CHUNG VỀ HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Công nghệ
1.1.1.1. Khái niệm công nghệ
Có thể nói công nghệ xuất hiện đồng thời với sự hình thành xã hội loài
ngƣời. Từ “công nghệ” xuất phát từ chữ Hy Lạp (Teknve – Tenkhne) có nghĩa
là một công nghệ hay một kỹ năng, và (λoyoσ –logos) có nghĩa là một khoa
học, hay sự nghiên cứu. Nhƣ vậy, thuật ngữ Technology (Tiếng anh) hay
Technologie (Tiếng Pháp) có ý nghĩa là khoa học về kỹ thuật hay sự nghiên
cứu có hệ thống về kỹ thuật – thƣờng đƣợc gọi là Công nghệ học.
Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về công nghệ, trong cuốn
giáo trình “Quản trị công nghệ” đã giới thiệu một định nghĩa tƣơng đối đầy đủ
về công nghệ: “Công nghệ là việc sử dụng sáng tạo các loại công cụ, máy
móc, tri thức và kỹ năng để biến đổi các yếu tố đầu vào thành sản phẩm hay
dịch vụ” [6]
Ở Việt Nam, cho đến nay công nghệ thƣờng đƣợc hiểu là quá trình tiến
hành một công đoạn sản xuất, là thiết bị để thực hiện một công việc (do đó
công nghệ thƣờng là tính từ của cụm thuật ngữ nhƣ: qui trình công nghệ, thiết
bị công nghệ, dây chuyền công nghệ…). Theo những quan niệm này, công
nghệ chỉ liên quan đến sản xuất vật chất.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, khởi đầu từ Mỹ rồi Tây Âu đã sử
dụng thuật ngữ “công nghệ” để chỉ các hoạt động ở mọi lĩnh vực, các hoạt
động này áp dụng những kiến thức là kết quả của nghiên cứu khoa học ứng
dụng – một sự phát triển của khoa học trong thực tiễn – nhằm mang lại hiệu
quả cao hơn trong hoạt động của con ngƣời.
Khái niệm công nghệ này dần dần đƣợc chấp nhận rộng rãi trên thế
8
giới, ví dụ thể hiện ở việc thay đổi tên gọi của các tạp chí lớn trên thế giới,
nhƣ “Tạp chí khoa học và kỹ thuật – Science et technique” đổi thành “Khoa
học và công nghệ - Science et technogie”
Ở Việt Nam, Nghị quyết 26 của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung
ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VI (1991) mang tên “Nghị quyết về
khoa học – công nghệ”. Nhƣ vậy, thuật ngữ công nghệ đã đƣợc sử dụng chính
thức ở nƣớc ta. Năm 1992, Ủy ban khoa học – kỹ thuật Nhà nƣớc đổi thành
Bộ khoa học – công nghệ và Môi trƣờng (nay là Bộ khoa học - công nghệ).
Mặc dầu đã đƣợc sử dụng khá rộng rãi trên thế giới, song việc đƣa ra
một định nghĩa công nghệ lại chƣa có đƣợc sự thống nhất. Đó là do số lƣợng
các công nghệ hiện có nhiều đến mức không thể thống kê đƣợc, công nghệ lại
hết sức đa dạng, khiến những ngƣời sử dụng một công nghệ cụ thể trong
những điều kiện và hoàn cảnh không giống nhau sẽ dẫn đến sự khái quát của
họ về công nghệ sẽ khác nhau. Bên cạnh đó sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa
học công nghệ làm thay đổi nhiều quan niệm cũ tƣởng nhƣ vĩnh cửu, cũng là
nguyên nhân dẫn đến sự không thống nhất trên.
Việc đƣa ra một định nghĩa khái quát đƣợc bản chất của công nghệ là
việc cần thiết, bởi vì không thể quản lý công nghệ, một khi chƣa xác định rõ
nó là cái gì.
Các tổ chức quốc tế về Khoa học – công nghệ đã có nhiều cố gắng
trong việc đƣa ra một định nghĩa công nghệ có thể dung hoà các quan điểm,
đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hoà nhập các quốc gia trong
từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Có bốn khía cạnh cần bao quát trong định nghĩa công nghệ, đó là:
Khía cạnh “công nghệ là máy biến đổi”
Khía cạnh “công nghệ là một công cụ”
Khía cạnh “công nghệ là kiến thức”
9
Khía cạnh “công nghệ hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”.
Khía cạnh thứ nhất đề cập đến khả năng làm ra đồ vật, đồng thời công
nghệ phải đáp ứng mục tiêu khi sử dụng và thoả mãn yêu cầu về mặt kinh tế
nếu nó muốn đƣợc áp dụng trên thực tế. Đây là điểm khác biệt giữa khoa học
và công nghệ.
Môi trƣờng
Nguồn lực
Hàng hoá
Hoạt động sản xuất
Dịch vụ
Công nghệ
công nghệ
Hình 1.1. Công nghệ là công cụ biến đổi
Khía cạnh thứ hai nhấn mạnh công nghệ là một sản phẩm của con
ngƣời, do đó con ngƣời có thể làm chủ đƣợc nó vì nó hoàn toàn không phải là
“cái hộp đen” huyền bí. Vì là một công cụ nên công nghệ có mối quan hệ chặt
chẽ đối với con ngƣời và cơ cấu tổ chức.
Khía cạnh thứ ba đề cập đến cốt lõi của mọi hoạt động công nghệ là
kiến thức. Nó bác bỏ quan niệm công nghệ phải là các vật thể, phải nhìn thấy
đƣợc. Đặc trƣng kiến thức khẳng định vai trò dẫn đƣờng của khoa học đối với
công nghệ, đồng thời nhấn mạnh rằng không phải ở các quốc gia có các công
nghệ giống nhau sẽ đạt đƣợc kết quả nhƣ nhau. Việc sử dụng một công nghệ
đòi hỏi con ngƣời cần phải đƣợc đào tạo về kĩ năng, trang bị kiến thức và phải
10
luôn cập nhật những kiến thức đó.
Khía cạnh thứ tƣ đề cập đến vấn đề: công nghệ dù là kiến thức song
vẫn có thể đƣợc mua, đƣợc bán. Đó là do công nghệ hàm chứa trong các vật
thể tạo nên nó. Trung tâm chuyển giao công nghệ khu vực Châu Á và Thái
Bình Dƣơng (The Asian and Pacific Center For Transfer of Technology –
APCTT) coi công nghệ hàm chứa trong bốn thành phần: kỹ thuật, kỹ năng
con ngƣời, thông tin và tổ chức.
Xuất phát từ các khía cạnh trên, chúng ta có thể thừa nhận định nghĩa
công nghệ do Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á –Thái Bình Dƣơng
(Economic and Social Commission for Asia and the Pacific – ESCAP) đƣa ra:
Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để
chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, thiết bị, phương pháp và
các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ. [13]
Định nghĩa công nghệ của Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á –
Thái Bình Dƣơng đƣợc coi là bƣớc ngoặt trong quan niệm về công nghệ.
Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới dùng công nghệ,
mà khái niệm công nghệ đƣợc mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hoạt động xã
hội. Những lĩnh vực công nghệ mới mẻ dần trở thành quen thuộc: công nghệ
thông tin, công nghệ ngân hàng, công nghệ du lịch, công nghệ văn phòng…
1.1.1.2. Các thành phần cơ bản của công nghệ
Công nghệ bao gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng cốt lõi bao giờ
cũng bao gồm bốn thành phần cơ bản sau:
Thứ nhất: Phần kỹ thuật (Technology - T), bao gồm các phƣơng tiện
vật chất cần thiết cho sản xuất, ví dụ nhƣ máy móc, dụng cụ, các thiết bị trong
dây chuyền... phần này đƣợc coi là phần vật chất cốt lõi của bất kỳ sự chuyển
đổi đối tƣợng lao động nào.
Thứ hai: Phần con ngƣời (Human - H) là kỹ năng và kinh nghiệm của
11
con ngƣời làm chủ công nghệ, nó bao gồm năng lực sáng tạo, sử dụng phần
kỹ thuật một cách khéo léo về thao tác và tƣ duy tổ chức vận hành, hệ thống
thông tin. Đây là phần chủ chốt của bất kỳ thao tác vận hành công nghệ. Con
ngƣời là nguồn gốc của mọi sáng tạo, nền kinh tế tri thức trong tƣơng lai, chất
xám, trí tuệ của con ngƣời tác động nhanh, có sức mạnh quyết định các quá
trình chuyển đổi phát triển.
Thứ ba: Phần thông tin (Information - I), bao gồm các tài liệu mà bản
thân phần vật chất của kỹ thuật của công nghệ mang lại thông tin; ví dụ nhƣ
sơ đồ quy trình công nghệ, bản thiết kế, các bảng tính, công thức, phƣơng
trình biểu đồ lý thuyết, các thao tác chuyển đổi, các mẫu mã, phần mềm hỗ
trợ... Phần này do con ngƣời tạo ra và sử dụng có ý nghĩa trong việc đào tạo,
nghiên cứu phát triển. Đây cũng là phần đƣợc bảo mật.
Thứ tư: Phần tổ chức (Organization - O), là sự bố trí và mối liên hệ con
ngƣời với con ngƣời về thông tin, máy móc, thiết bị trong sản xuất. Nó bao
gồm sơ đồ cơ cấu tổ chức cho các hoạt động, loại hình công ty, ví dụ nhƣ
phân công nhân sự, thiết lập các quy tắc vận hành, phƣơng pháp quản lý công
nghệ, quản lý chất lƣợng, nội quy làm việc...
Bất cứ một sự đổi mới công nghệ nào cũng cần sự phối hợp hoạt bốn
thành phần cơ bản của công nghệ: T, thành phần vật chất cốt lõi của công
nghệ, khi nó thay đổi thì các thành phần H, I, O cũng phải tƣơng thích mới có
ý nghĩa.
Các thành phần của công nghệ có quan hệ mật thiết, bổ sung cho
nhau, không thể thiếu bất cứ thành phần nào. Nếu không hiểu chức năng và
mối tƣơng hỗ giữa các thành phần của công nghệ, có thể dẫn đến lãng phí
trong đầu tƣ trang thiết bị do các thành phần khác không tƣơng xứng (hay
không đồng bộ) khiến trang thiết bị, máy móc không phát huy hết tính năng
12
của chúng.
H
i
O
O
T
I
O
O O
Hình 1.2 : Mối quan hệ giữa các thành phần công nghệ
1.1.2. Đổi mới công nghệ
Lịch sử phát triển xã hội loài ngƣời đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của một loại hình kỹ thuật
đặc trƣng quyết định sự phát triển của xã hội loài ngƣời ở giai đoạn đó. Thời
kỳ đồ đá phát triển cao hơn thời kỳ trƣớc đó là nhờ sự xuất hiện và phát triển
của các công cụ lao động bằng đá. Thời kỳ đó lại đƣợc thay thế bởi thời kỳ đồ
đồng có mức độ phát triển cao hơn với sự xuất hiện và phát triển của việc sản
xuất và sử dụng các công cụ sản xuất bằng đồng… Đến thế kỷ XVIII tất cả
các hệ thống kỹ thuật mà loài ngƣời đã sử dụng lúc đó dần đƣợc thay đổi đó
là nguồn động lực, với sự ra đời của máy hơi nƣớc – nguồn động lực mới thay
thế nguồn động lực truyền thống là sức lực cơ bắp của con ngƣời, gia súc và
một phần nhỏ sức mạnh tự nhiên nhƣ sức gió, sức nƣớc. Đó là một trong các
yếu tố tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, làm thay đổi bộ mặt
của thế giới.
Ngày nay, việc ứng dụng các thành tựu của công nghệ là một xu thế tất
13
yếu của hệ thống công nghệ toàn cầu đã và đang mang lại những hiệu quả to
lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và toàn thế giới nhờ liên tục đổi
mới công nghệ.
Đổi mới công nghệ là cấp cao nhất của thay đổi công nghệ và là quá
trình quan trọng nhất của sự phát triển đối với tất cả các hệ thống công nghệ.
Có quan điểm cho rằng đổi mới công nghệ là sự hoàn thiện và phát triển
không ngừng các thành phần cấu thành công nghệ dựa trên các thành tựu
khoa học nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và quản lý
kinh tế, xã hội. Với quan điểm này, một sự thay đổi trong các thành phần
công nghệ dù nhỏ cũng đƣợc coi là đổi mới công nghệ, thực ra các hoạt động
này nên coi là cải tiến công nghệ thì chính xác hơn. Mặt khác, hệ thống công
nghệ mà con ngƣời đang sử dụng có tính phức tạp và đa dạng cao, chỉ một
loại sản phẩm đã có thể dùng rất nhiều loại công nghệ khác nhau, do đó nếu
xếp tất cả các thay đổi nhỏ về công nghệ thuộc về đổi mới công nghệ thì việc
quản lý đổi mới công nghệ là việc làm không có tính khả thi. Để có thể quản
lý đƣợc các hoạt động đổi mới thì cần tập trung vào những hoạt động cơ bản.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đổi mới công nghệ, theo giáo trình Quản trị
công nghệ [6] là tài liệu cập nhật mới nhất đã đƣa ra định nghĩa về đổi mới
công nghệ:
“Đổi mới công nghệ được hiểu theo bản chất là việc đổi mới các yếu tố
cấu thành một công nghệ trong mối tương quan với công nghệ hiện có của
doanh nghiệp hay đối thủ cạnh tranh trên thế giới. Đổi mới công nghệ liên
quan tới chất lượng các yếu tố cấu thành công nghệ và qua đó là mức độ hiện
đại của một công nghệ”
Có thể hiểu một cách đơn giản là việc chủ động thay thế phần quan
trọng (cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công
nghệ khác tiến tiến hơn, hiệu quả hơn.
Đổi mới công nghệ có thể chỉ nhằm giải quyết các bài toán tối ƣu, các
14
thông số sản xuất nhƣ năng suất, chất lƣợng, hiệu quả… (Đổi mới quá trình)
hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm, dịch vụ mới phục vụ thị trƣờng (Đổi
mới sản phẩm).
Đổi mới công nghệ có thể là đƣa ra hoặc ứng dụng những công nghệ
hoàn toàn mới (ví dụ sáng chế công nghệ mới) chƣa có trên thị trƣờng công
nghệ hoặc là mới ở nơi sử dụng nó lần đầu và trong một hoàn cảnh hoàn toàn
mới (ví dụ đổi mới công nghệ nhờ chuyển giao công nghệ theo chiều ngang).
1.1.3. Hệ thống đổi mới quốc gia
1.1.3.1. Khái quát lịch sử cách tiếp cận khái niệm NIS
Là sản phẩm của cơ chế thị trƣờng và những kinh nghiệm trong quản lý
Nhà nƣớc, từ thập kỷ 80 trở lại đây, tại một số quốc gia tiên tiến thuộc tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã xuất hiện cách tiếp cận “Hệ thống
đổi mới quốc gia (National Innovation System – NIS). Tƣ duy mới này dẫn
tới tại các nƣớc công nghiệp hoá, các chính sách phát triển đã chuyển từ
những quan tâm một cách chuyên biệt đến hệ thống KH&CN, hệ thống R&D
sang NIS; tập trung vào khái niệm chính sách đổi mới, thay cho chính sách
KH&CN. Theo cách tiếp cận này, vấn đề quan trọng thiết yếu không phải là
năng lực R&D mang tính chuyên môn mà là năng lực đổi mới, hơn nữa không
chỉ là năng lực đổi mới ở tầm quốc gia mà quan trọng hơn cả bao gồm năng
lực đổi mới sản phẩm, dịch vụ và các quy trình sản xuất, kinh doanh tại chính
các doanh nghiệp.
Lần đầu tiên thuật ngữ NIS đƣợc trình bày nhƣ một cách tiếp cận là trong
cuốn sách của C. Freeman về chính sách công nghệ của nền kinh tế Nhật Bản
(C. Freeman, 1987). Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hai công trình về hệ
thống đổi mới (Lundvall, 1992 và R. Nelson, 1993) đã đƣợc xuất bản. Kể từ đó,
trong giới nghiên cứu, cách tiếp cận này đã đƣợc sử dụng rộng rãi và phổ biến
nhanh chóng một cách đáng kinh ngạc. Cho đến nay, nhiều quốc gia đang phát
triển trong đó có Việt Nam rất quan tâm và bƣớc đầu nghiên cứu để vận dụng
15
cách tiếp cận này nhằm thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng lực KH&CN.
Lần đầu tiên, cách tiếp cận NIS đã xuất hiện trong tài liệu của Lundvall
(1985) thuộc trƣờng Đại học Aalborg (Đan Mạch). Trong tài liệu này,
Lundvall đã dùng khái niệm NIS để phân tích các quá trình đổi mới, bao gồm
các doanh nghiệp và các tổ chức tri thức tƣơng tác với nhau.
Tiếp đó, Chris Freeman là ngƣời đã đƣa đầy đủ khái niệm NIS vào
trong tài liệu. Ông thực hiện việc này trong cuốn sách đề cập đến quá trình
đổi mới ở Nhật Bản (Chris Freeman, 1987). Công trình phân tích của ông rất
toàn diện, bao hàm những đặc trƣng nội bộ và tổ chức của doanh nghiệp, quản
trị công ty, hệ thống giáo dục và không kém phần quan trọng là vai trò của
Chính phủ trong NIS.
Cũng cần phải kể đến đóng góp của Michael Porter về vấn đề ƣu thế
cạnh tranh của quốc gia. Mặc dù ông không sử dụng khái niệm NIS, nhƣng có
những sự trùng khớp đáng kể giữa cách tiếp cận của ông (Porter, 1990) với
những tài liệu đã nêu ở trên. Đặc biệt, ông đã nhấn mạnh đến các cơ chế phản
hồi và mối tƣơng tác giữa những nhà cung cấp và ngƣời sử dụng- chúng đóng
vai trò là nhân tố tạo ra ƣu thế cạnh tranh.
Hiện nay, cách tiếp cận NIS đã cung cấp thông tin cho các nhà hoạch
định chính sách ở trên khắp thế giới, bao gồm các quốc gia lớn nhƣ Mỹ, Nhật
Bản, Nga, Braxin, Nam Phi, Trung Quốc và Ấn Độ, nhƣng cũng gồm cả
những quốc gia nhỏ ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau. Tốc độ
phổ biến cách tiếp cận NIS rất nhanh chóng, nếu nhƣ cách đây 15 năm, chỉ
một số ít học giả là đƣợc nghe nói về khái niệm này thì hiện nay cách tiếp cận
này đã đƣợc áp dụng để làm công cụ cho các nhà hoạch định chính sách ở cấp
quốc gia cũng nhƣ các chuyên gia thuộc các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế
nhƣ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Ngân hàng Thế giới
(WB), Uỷ ban châu Âu (EC) v.v…
16
1.1.3.2. Khái niệm NIS
Vào những năm cuối của thế kỷ XX, nhiều học thuyết đã đƣợc nêu ra
để giải thích nguyên nhân một số quốc gia tụt hậu, trong khi có những quốc
gia khác lại vƣơn lên những vị trí hàng đầu trong lĩnh vực đổi mới. Cách tiếp
cận NIS đã đƣa ra những luận cứ để chứng minh rằng sở dĩ có sự khác biệt
nêu trên ở các quốc gia tựu trung lại là ở cơ cấu tổ chức NIS của quốc gia đó.
Các quan điểm về NIS trên thế giới
Khái niệm NIS lần đầu tiên đƣợc Nelson, Freeman và Lundvall đƣa ra
để tạo cơ sở cho Chính phủ hoạch định và thực hiện các chính sách nhằm tăng
cƣờng đổi mới công nghệ. Cho đến nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về
NIS gắn với những bối cảnh và mục tiêu nghiên cứu nhất định nhƣ:
Theo C. Freeman (Giáo sƣ danh dự của Viện chính sách khoa học tại
Đại học Sussex, Anh): “ NIS là một mạng lưới các tổ chức, thiết chế trong
các khu vực tư nhân và công cộng cùng phối hợp hoạt động lẫn nhau trong
quá trình nghiên cứu, nhập khẩu, cải tiến và phổ biến các công nghệ mới”
[16, tr. 5-24]
Theo Lundvall (Giáo sƣ tại Cục Nghiên cứu Kinh doanh tại Đại học
Aalborg, Đan Mạch): “NIS gồm những yếu tố và các mối quan hệ tương tác
trong các hoạt động sáng tạo, phổ biến và sử dụng tri thức mới có ích lợi về
kinh tế... diễn ra trong hoặc bắt nguồn từ bên trong biên giới của một quốc
gia”. [17, 1992]
Theo Pate và Pavitt (Giáo sƣ tại Đại học Cambridge, Anh) “NIS bao
gồm các tổ chức thiết chế trong nước, hệ thống các kích thích và năng lực
quyết định tốc độ và chiều hướng cải tiến công nghệ (hoặc là tốc độ và cấu
thành của các hoạt động tạo ra đổi mới) trong một nước”(“Bản chất và tầm
quan trọng của NIS”. [19]
Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD):
“NIS là một hệ thống các cơ quan thuộc các lĩnh vực công và tư nhân, mà
17
hoạt động của nó nhằm khám phá, du nhập, biến đổi và phổ biến các công
nghệ mới. Đó là hệ thống có tính tương hỗ của các doanh nghiệp công và tư,
các trường đại học và các cơ quan Chính phủ, nhằm hướng tới sự phát triển
của khoa học và công nghệ (KH&CN) trong phạm vi quốc gia. Tính tương hỗ
của các đơn vị này có thể là về mặt kỹ thuật, thương mại, luật pháp và tài
chính, nhằm những mục đích phát triển, bảo trợ hay thực hiện các hoạt động
KH&CN” [18].
NIS có thể đƣợc hiểu nhƣ là một tập hợp các cơ quan, tổ chức và các cơ
chế chính sách cùng nhau tƣơng hỗ nhằm theo đuổi các mục tiêu kinh tế - xã
hội và sử dụng đổi mới để khuyến khích sự thay đổi.
Những định nghĩa này dùng làm cơ sở để Chính phủ hoạch định chính
sách, nhƣng những tƣơng tác phức tạp của các nhân tố trong đó buộc phải có
một cách tiếp cận mang tính hệ thống để hiệu chỉnh về số lƣợng và chất lƣợng
những nhân tố này. Việc hiệu chỉnh này cho phép các nhà hoạch định chính
sách vạch rõ những tác động của những công cụ chính sách đề ra đối với
những nhân tố công nghệ và môi trƣờng khác.
Các quan điểm về NIS ở Việt Nam
Theo GS. Vũ Đình Cự: “NIS (National Innovation System-NIS) là một
công cụ hàng đầu để liên tục nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm KH&CN
nói riêng và của toàn nền kinh tế quốc gia nói chung, chủ yếu thông qua việc
đổi mới công nghệ. Đó là một mạng lưới bao gồm tất cả các cơ sở KH&CN,
các tổ chức quy hoạch chiến lược, các doanh nghiệp lớn, các tổ chức quản lý
KH&CN nối mạng với nhau, cũng là tổng hợp các hệ thống đổi mới của vùng,
ngành, doanh nghiệp với sự phối hợp ngang, dọc, trong phạm vi toàn quốc
gia. Chỉ có NIS nhƣ vậy mới có điều kiện để các nhà lãnh đạo quốc gia biết
đƣợc danh mục các mặt hàng chủ yếu, các công nghệ cần phát triển, các bƣớc
đi về kinh tế đối ngoại cần tiến hành, sẽ đảm bảo thắng lợi trong thời gian
18
trƣớc mắt (3-5 năm) và về lâu dài. Có thể nói NIS là động lực phát triển thị
trƣờng KH&CN. Nếu không có hệ thống này, hoặc có, nhƣng hoạt động tồi
thì thị trƣờng KH&CN rất dễ bị biến động, dẫn tới khủng hoảng” [1]…
Theo GS. Đặng Hữu: “NIS bao gồm các thiết chế, các hệ thống tổ chức
ở tầm quốc gia nhằm gắn bó hữu cơ các tổ chức khoa học, các trường đại học
với sản xuất, thúc đẩy việc tạo ra và ứng dụng nhanh chóng các kết quả
nghiên cứu sáng tạo để đổi mới sản xuất, phát triển kinh tế. Các chủ thể của
hệ thống đổi mới là Chính phủ, các doanh nghiệp, các đại học, các tổ chức
khoa học và các cộng đồng dân cư, liên kết chặt chẽ nhau, phối hợp nhịp
nhàng cùng nhằm vào thúc đẩy việc tạo ra các tri thức mới, vận dụng tri thức
vào thực tiễn, biến tri thức thành giá trị.” [3]
Mặc dù trên thế giới và trong nƣớc có nhiều quan niệm khác nhau về
NIS nhƣng xét về tổng thể có thể khái quát: NIS là tập hợp tất cả các thể chế
và cơ chế (công và tư), tương tác với nhau để kích thích và hỗ trợ cho các đổi
mới sản phẩm và hệ thống ở trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.3.3. Các thành phần chính trong NIS
Theo tổ chức OECD, NIS bao gồm hệ thống có sự tƣơng tác của các
doanh nghiệp công và tƣ, các trƣờng đại học, viện nghiên cứu và các cơ quan
Chính phủ tổ chức ở tầm quốc gia nhằm liên kết chặt chẽ giữa khoa học,
trƣờng đại học với sản xuất, thúc đẩy việc tạo và ứng dụng nhanh chóng các
kết quả nghiên cứu sáng tạo để đổi mới sản xuất, phát triển kinh tế.
Tại các nƣớc công nghiệp phát triển, khi nói tới NIS ngƣời ta thƣờng
nhắc đến các thành phần của nó. Đó là các cơ quan và những đối tƣợng tham
gia vào hệ thống hoặc các hoạt động bị ảnh hƣởng mạnh bởi chức năng của hệ
thống. Các thành phần đó là:
Thứ nhất, các cơ quan lãnh đạo: Chính phủ và các cơ quan làm chính
sách, một số cơ quan của Nghị viện, Tổng thống, các Uỷ ban Quốc gia (nhƣ
Uỷ ban Quốc gia về KH&CN đóng vai trò hàng đầu trong thiết lập các chính
19
sách và các chƣơng trình; Uỷ ban Quốc gia về kế hoạch, lo trực tiếp vấn đề tài
chính cho các chƣơng trình KH&CN quan trọng; Uỷ ban Quốc gia về Giáo
dục phụ trách các cơ quan giáo dục và đào tạo; Uỷ ban Quốc gia về Kinh tế
và Thƣơng mại, đóng vai trò quan trọng trong đổi mới công nghệ của doanh
nghiệp...); các Bộ; các viện quan trọng (nhƣ các viện nghiên cứu chiến lƣợc,
đặc biệt là các trung tâm nghiên cứu quốc gia vì sự phát triển KH&CN, các
viện chính sách khoa học và quản lý khoa học của viện hàn lâm khoa học.
Ngoài ra có thể còn có các cơ quan khác ở cấp tỉnh và thành phố. Tất cả các
cơ quan lãnh đạo này đóng vai trò hàng đầu trong NIS.
Thứ hai, các cơ quan KH&CN chính: viện nghiên cứu; doanh nghiệp
nhà nƣớc; doanh nghiệp tƣ nhân, liên doanh; trƣờng Đại học; các doanh
nghiệp và các viện nghiên cứu cho quốc phòng...
Thứ ba, các tổ chức thúc đẩy doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu
công nghiệp và các tổ chức trung gian đổi mới.
Thứ tư, các cơ quan tài chính hay hệ thống tài chính: các cơ quan tài
chính nổi bật nhất trong NIS là các ngân hàng cấp vốn vay cho các hoạt
động KH&CN và các hoạt động gắn với đổi mới; các công ty vốn mạo
hiểm, các quỹ.
Ngoài các thành phần chính nhƣ trên, một NIS hoàn chỉnh còn có các
thành phần khác nhƣ:
Các cơ quan về quy chế: các cơ quan bảo vệ sở hữu trí tuệ; các cơ quan
bảo vệ an ninh, y tế và môi trƣờng; các cơ quan phụ trách về tiêu chuẩn, đo
lƣờng và kiểm định.
Các thành phần khác: các công ty, các cơ quan nƣớc ngoài (giúp đỡ
phát triển) và các cơ quan đa quốc gia tham gia tích cực vào NIS.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả đề cập các thành phần cốt lõi nhất
trong NIS đƣợc công nhận rộng rãi ở tất cả các nƣớc, bao gồm bốn thành
20
phần cơ bản sau:
+ Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đầu tƣ cho hoạt động đổi
mới công nghệ;
+ Các trƣờng đại học, các viện nghiên cứu và các hoạt động đào tạo có
liên quan đến đổi mới công nghệ;
+ Các cơ quan chính phủ tài trợ và thực hiện các hoạt động vừa thúc đẩy
đổi mới công nghệ;
+ Các tổ chức thúc đẩy doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu công
nghiệp và các tổ chức trung gian đổi mới.
Về mối quan hệ giữa các thành phần cốt lõi trên:
Bốn thành phần cơ bản trên luôn gắn kết, hòa trộn với nhau và cùng có
chung một mục tiêu là tạo ra sản phẩm mới, dịch vụ mới, đồng thời nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành, quốc gia. Ngoài ra nó còn thể
hiện sự hòa nhập, gắn kết giữa năng lực nghiên cứu, triển khai công nghệ
trong nƣớc với năng lực đổi mới nƣớc ngoài. Có thể nói, càng ngày khi nền
kinh tế dựa trên tri thức ngƣời ta càng khó phân biệt ranh giới đâu là khoa
học, đâu là công nghệ, và đâu là các quá trình sản xuất, đâu là tiềm lực khoa
học công nghệ và đâu là tiềm lực sản xuất, tiềm lực kinh tế. Nhà doanh
nghiệp giờ đây phải đồng thời là nhà quản lý am hiểu về công nghệ, cạnh
tranh, đổi mới, văn hóa môi trƣờng.
Trong quá trình đổi mới công nghệ/sản phẩm, doanh nghiệp thƣờng
xuyên sử dụng các thông tin sáng chế, hợp tác với các trƣờng đại học, viện
Nghiên cứu và phát triển (R&D) để thực thi các ý tƣởng đổi mới sản phẩm và
dịch vụ. Đồng thời chính bản thân các trƣờng đại học, viện nghiên cứu cũng
thƣờng xuyên hƣớng vào phục vụ các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, toàn bộ các hoạt động này sẽ đƣợc thực hiện trong một môi trƣờng
pháp lý hiện hành và sự điều tiết không thể thiếu của Nhà nƣớc.
Như vậy, bốn thành phần của hệ thống đƣợc liên kết chặt chẽ với nhau.
21
Trong đó, trƣờng đại học và các viện R&D chính là nơi sản sinh ra tri thức,
làm nền tảng cho quá trình đổi mới; doanh nghiệp chính là nơi diễn ra và thực
hiện quá trình thƣơng mại hóa tri thức đƣợc sản sinh từ các trƣờng đại học và
các viện R&D, đóng vai trò trung tâm của quá trình đổi mới; Nhà nƣớc cùng
với hệ thống tài chính đóng vai trò điều phối, hỗ trợ và tạo lập môi trƣờng
thuận lợi cho quá trình sản sinh ra tri thức cũng nhƣ thƣơng mại hoá tri thức
thông qua hệ thống chính sách đổi mới.
1.2. Vai trò của NIS trong phát triển kinh tế hiện đại
1.2.1. Kinh tế tri thức và nhu cầu đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực
công nghệ
1.2.1.1. Vài nét khái quát chung về nền kinh tế tri thức
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX cho tới nay, KH&CN đã có
những bƣớc phát triển kỳ diệu. Thành tựu nổi bật nhất là sự phát triển cực kỳ
nhanh chóng của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô,
công nghệ vật liệu... đó là những công nghệ cao cơ bản, chúng đang hội tụ với
nhau để tạo thành nền tảng cho một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ XXI -
công nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ thống công nghệ mới ấy đang làm biến
đổi sâu sắc các quá trình sản xuất, cách thức sản xuất kinh doanh và mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội loài ngƣời. Đây không chỉ là cách mạng trong kỹ
thuật, trong kinh tế mà còn là cách mạng trong các khái niệm, trong tƣ duy,
trong cách sống, cách làm việc, trong các quan hệ xã hội…Đi đôi với quá
trình biến đổi lực lƣợng sản xuất, từ kinh tế công nghiệp chuyển lên nền kinh
tế tri thức, là quá trình toàn cầu hóa; và trên thực tế đang hình thành nền kinh
tế tri thức toàn cầu. Đó là xu thế phát triển tất yếu khách quan, xu thế ấy lôi
cuốn tất cả các quốc gia, không loại trừ một quốc gia nào.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp trƣớc đây, máy móc thay thế lao
động cơ bắp của con ngƣời; còn ngày nay máy tính giúp con ngƣời trong lao
động trí óc, nhân lên gấp bội sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo của con ngƣời.
22
Thông tin, tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của việc tạo ra của cải,
việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tri thức trở thành hình thức cơ bản
nhất của vốn, quan trọng hơn cả tài nguyên. Lực lƣợng sản xuất xã hội loài
ngƣời từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên đang chuyển dần sang dựa chủ yếu
vào năng lực trí tuệ của con ngƣời.
Trong bài viết “Phát huy năng lực sáng tạo, xây dựng Hệ thống đổi
mới quốc gia để hội nhập vào xu thế phát triển kinh tế tri thức toàn cầu” [3],
Giáo sƣ Đặng Hữu có những nhận định nhƣ sau về tầm quan trọng của việc
xây dựng NIS trong nền kinh tế tri thức :
“Trong nền kinh tế dựa vào tri thức, yếu tố quyết định nhất đối với sự
phát triển là tạo ra, quảng bá và sử dụng tri thức. Trƣớc yêu cầu phát triển
Kinh tế tri thức, cần phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hệ thống KH&CN, nhằm
tăng cƣờng khả năng làm chủ các tri thức mới của thời đại, khả năng sáng tạo
và biến tri thức thành giá trị.
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là tăng cƣờng năng lực KH&CN quốc
gia, chú trọng đặc biệt năng lực nghiên cứu cơ bản, cơ sở để tiếp thu, làm
chủ và sáng tạo công nghệ mới. Đồng thời, cần đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế và quản lý KH&CN, phát triển mạnh thị trƣờng KH&CN, thiết lập một
NIS hữu hiệu”
Đổi mới là sự áp dụng những giải pháp mới có hiệu quả hơn trong
tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh và trong mọi hoạt động. Nguồn gốc
của đổi mới là công tác nghiên cứu, sáng tạo. Đó là sự áp dụng trong bất kỳ tổ
chức nào những ý tƣởng mới đối với tổ chức đó, hoặc trong sản phẩm, quá
trình, dịch vụ, hoặc trong hệ thống quản lý và tiếp thị mà tổ chức đó đang vận
hành. Theo OECD (1997) thì đổi mới là quá trình sáng tạo, thông qua đó tri
thức tạo ra giá trị kinh tế gia tăng; nói cách khác, giá trị kinh tế gia tăng tạo ra
đƣợc thông qua quá trình biến đổi tri thức thành sản phẩm mới, quá trình mới.
Đổi mới chính là sử dụng tri thức cho phát triển: không biến đổi tri thức thành
23
sản phẩm mới, quá trình mới thì không có đổi mới, không có sự phát triển. Do
đó việc xây dựng NIS là mối quan tâm hàng đầu trong chiến lƣợc phát triển
của các quốc gia.
Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu nhất là tạo ra tri thức,
quảng bá tri thức và sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Sức sáng tạo
trở thành động lực trực tiếp nhất của sự phát triển. Trong kinh tế công nghiêp
việc tạo ra giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là dựa vào sự tối ƣu
hoá, hoàn thiện cái đã có; còn trong kinh tế tri thức thì tạo ra giá trị, nâng cao
năng lực cạnh tranh chủ yếu là do tìm ra cái chƣa biết; cái chƣa biết là cái có
giá trị nhất, cái đã biết sẽ dần dần mất giá trị. Tìm ra cái chƣa biết, tạo ra cái
mới cũng tức là loại trừ cái đã biết. Vòng đời của một sản phẩm, một công
nghệ từ lúc nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn;
trƣớc đây vòng đời công nghệ tính bằng nhiều thập kỷ, ngày nay tính bằng
năm và đã có nhiều công nghệ thậm chí tính bằng tháng, tốc độ đổi mới rất
nhanh chóng.
Nhƣ vậy nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển là nhờ năng lực
sáng tạo của con ngƣời, năng lực tạo ra tri thức mới, và vận dụng tri thức,
biến tri thức thành của cải, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, phát triển con ngƣời
và phát triển xã hội. Sáng tạo là điều kiện cần nhƣng chƣa đủ; phải có năng
lực đổi mới tức là năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn thúc đẩy sự đổi
mới và phát triển; và trong đổi mới cũng phải cần yếu tố sáng tạo.
1.2.1.2. Tính tất yếu khách quan của đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực
công nghệ
Thế giới ngày nay đang phải đối mặt với những thách thức không thể
lƣờng trƣớc đƣợc. Những tác động của suy thoái kinh tế sẽ ảnh hƣởng không
nhỏ đến toàn cầu trong những năm tới. Thậm chí ngay trƣớc khi khủng hoảng
xảy ra, tốc độ tăng năng suất chậm lại sẽ đe doạ nghiêm trọng đến sự thịnh
vƣợng và cạnh tranh của các quốc gia. Cuộc khủng hoảng này đã buộc các
24
nƣớc phải tìm ra các nguồn tăng trƣởng mới và bền vững hơn. Trong bối cảnh
khó khăn hiện tại, các chính phủ đang tìm kiếm chính sách và hành động có
thể giúp đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế và bảo đảm công bằng và thịnh
vƣợng trong tƣơng lai. Đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ
chính là chìa khoá mở ra nguồn tăng trƣởng mới và bền vững cho mọi quốc
gia, điều này đƣợc thể hiện rõ thông qua tính tất yếu khách quan và những lợi
ích mà đổi mới công nghệ đem lại đó là:
Thứ nhất, đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ cùng với
ứng dụng tri thức là một trong những giải pháp tối ưu nhất trong việc giải
quyết những khó khăn mà toàn cầu đang vấp phải. Hoạt động này có ý nghĩa
thiết yếu đối với các công ty và quốc gia đang đang vật lộn trong nền kinh tế
toàn cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt, và nó là thứ mà nhiều nƣớc tiên tiến
tìm thấy lợi thế so sánh lớn nhất của họ. Mục tiêu của đổi mới và nâng cấp
liên tục năng lực công nghệ không chỉ dừng lại là tạo ra tăng trƣởng lớn hơn.
Những thách thức lớn nhất của xã hội cho chúng ta thấy chúng không có biên
giới và một nƣớc đơn lẻ không thể giải quyết. Khả năng đối phó với những
vấn đề khẩn cấp đang tăng lên nhƣ biến đổi khí hậu, sức khoẻ, an ninh lƣơng
thực và nghèo đói phụ thuộc vào đổi mới mạnh mẽ hơn và những hình thức
hợp tác quốc tế mới. Những thách thức toàn cầu đòi hỏi những đáp ứng dựa
trên đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ.
Thứ hai, đầu tư vào đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ là
chìa khoá để tạo ra các việc làm và tăng năng suất lao động. Các nƣớc chậm
phát triển cũng tìm thấy đổi mới là cách nâng cao sức cạnh tranh của mình và
chuyển sang các hoạt động có giá trị gia tăng cao hơn. Đổi mới và nâng cấp
liên tục năng lực công nghệ đã tạo ra nhiều ngành sản xuất mới góp phần
quan trọng trong việc giải quyết việc làm, đồng thời thúc đẩy tăng năng suất
lao động.
Thứ ba, sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế xã
25
hội, là nguồn gốc của nền kinh tế tri thức ngày nay. Tài nguyên là có hạn,
năng lực sáng tạo của con ngƣời là vô hạn; một khi nền kinh tế dựa chủ yếu
vào năng lực trí tuệ của con ngƣời, thì khả năng của nền kinh tế là hết sức to
lớn. Năm 2000 tính chung cho các nƣớc trong khối OECD giá trị do tri thức
tạo ra đã chiếm trên 50% tổng GDP. Nhờ đổi mới chính sách và môi trƣờng
kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu, phát triển mạnh các ngành công nghiệp tri
thức, đầu tƣ mạnh vào công nghệ thông tin, các nền kinh tế phát triển nhất
khắc phục đƣợc các cuộc khủng hoảng vốn có, đạt tốc độ tăng trƣởng dài hạn
cao, thất nghiệp không cao, lạm phát thấp. Trên thực tế các nền kinh tế ấy đã
trở thành những nền kinh tế dựa trên tri thức.
Quá trình các nền kinh tế phát triển tiến tới kinh tế tri thức là một quá
trình tự nhiên, hợp qui luật phát triển của lịch sử xã hội loài ngƣời. Trƣớc xu
thế phát triển nền kinh tế tri thức toàn cầu, các nƣớc đang phát triển ý thức
đƣợc ƣu thế vƣợt trội của kinh tế tri thức so với kinh tế công nghiệp; họ chủ
động triển khai các chƣơng trình, chiến lƣợc, kế hoạch hành động đi vào kinh
tế tri thức. Hội nhập quốc tế, khai thác những ƣu thế của kinh tế tri thức toàn
cầu để phát triển đất nƣớc, trong đó đổi mới và nâng cấp công nghệ đó là sự
lựa chọn khả dĩ nhất đối với các nƣớc đang phát triển.
Tóm lại, nếu chúng ta không hƣớng tới tăng trƣởng dựa vào đổi mới và
nâng cấp liên tục năng lực công nghệ thì sẽ phải trả giá đắt cho sự tăng
trƣởng, chịu nhiều thiệt thòi, nguồn tài nguyên bị cạn kiệt nhanh, môi trƣờng
sinh thái ô nhiễm… Các nƣớc đi sau phải có đủ bản lĩnh để có thể vƣơn lên,
sớm tiến kịp các nƣớc đi trƣớc; nếu không đủ bản lĩnh, không chớp lấy thời
cơ thì đất nƣớc tụt hậu ngày càng xa hơn, và bị gạt ra ngoài lề.
1.2.2. Tầm quan trọng của phát triển NIS đối với việc đổi mới và nâng
cấp liên tục năng lực công nghệ
Đổi mới và nâng cấp công nghệ có vai trò quan trọng đối với doanh
nghiệp đổi mới cũng cho toàn xã hội nói chung. Về mặt lợi ích thƣơng mại,
26
quan trọng nhất là nhờ đổi mới công nghệ mà chất lƣợng sản phẩm đƣợc nâng
cao rõ rệt. Các điều tra về đổi mới công nghệ cho thấy phần lớn các doanh
nghiệp đã đổi mới công nghệ đều xếp kết quả này lên hàng đầu trong số các
lợi ích mà họ thu đƣợc.
Việc xây dựng và phát triển NIS có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy quá trình đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ của quốc gia,
đó là:
Thứ nhất, phát triển NIS tạo ra cơ hội cho các quốc gia trong việc tích
hợp năng lực của các thành tố KH&CN ở trong nước, cũng như với nước
ngoài, chuyên môn công nghệ và ngoài công nghệ để sử dụng hiệu quả hơn
tri thức và đổi mới công nghệ nhanh hơn, thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh
tranh của mỗi quốc gia.
Tƣ duy về NIS sẽ tạo ra sự cộng lực, liên kết, tận dụng và phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả quốc gia, mà nòng cốt trong đó là các thành phần chủ
yếu trong NIS nhằm hƣớng vào cạnh tranh và thông qua cạnh tranh trên thị
trƣờng, thông qua vai trò tham dự của tất cả các thành phần để phát huy vai
trò tự chủ của đất nƣớc. Chỉ có sức mạnh tổng hợp và sự cộng lực của cả NIS
về KH&CN thì mới có thể đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng và nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia trong hội nhập. Thiếu đi quan điểm lợi ích quốc gia, thiếu
đi sức mạnh tổng hợp và quan điểm hệ thống thì tăng trƣởng không thể có tốc
độ cao, không thể bền vững về chỉ số môi trƣờng mà còn về cả kinh tế, văn
hoá, xã hội…
Thứ hai, phát triển NIS mở ra cơ hội lớn cho các nước đi sau, nguồn
lực và tiềm lực KH&CN còn yếu có thể thông qua cơ chế liên kết NIS để có
thể nhanh chóng bắt kịp với các quốc gia đi trước.
Phát triển NIS mở ra cơ hội lớn trong việc tích hợp năng lực của các
thành tố KH&CN trong các nƣớc đang và kém phát triển với năng lực công
nghệ của các nƣớc phát triển, qua đó tiếp cận với chuyển giao công nghệ,
27
chuyên môn công nghệ và ngoài công nghệ để đẩy nhanh và có hiệu quả công
nghệ trong nƣớc. Từ đó cho phép các quốc gia này có khả năng thu hẹp
khoảng cách so với các nƣớc phát triển.
Thứ ba, phát triển NIS sẽ giải toả thế khép kín và khó liên kết trong
hoạt động của các tổ chức KH&CN, do đó thúc đẩy quá trình đổi mới và
nâng cấp liên tục năng lực công nghệ.
Phát triển NIS nếu đƣợc vận dụng, trƣớc hết sẽ hƣớng tới và góp phần
tạo ra một mạng lƣới với các tổ chức KH&CN tự chủ hơn, có thể tự sắp xếp và
chuyển đổi trong hệ thống, tự liên kết và hoạt động gắn kết với các doanh nghiệp,
nâng cao hàm lƣợng KH&CN cho các sản phẩm có tính chất cạnh tranh cao hơn
trên thị trƣờng. Nhƣ vậy sẽ khắc phục đƣợc tính tự thân và nhiều khó khăn trong
sắp xếp các viện theo kiểu hành chính.
Đồng thời, tƣ duy theo cách tiếp cận NIS mở ra không gian hoạt động và
liên kết rộng rãi hơn cho các hoạt động KH&CN, đồng thời tự loại bỏ các hình
thức liên kết chủ quan, duy ý chí và kém hiệu quả.
Thứ tư, phát triển NIS sẽ có đóng góp thiết thực vào việc tạo ra và
nâng cao hàm lượng tri thức và công nghệ.
Tƣ duy và cách tiếp cận NIS về KH&CN sẽ làm cho các hoạt động
KH&CN tự chủ hơn, năng động hơn và do đó có đóng góp thiết thực vào việc
tạo và nâng cao hàm lƣợng tri thức và công nghệ. Nhờ đó nâng cao mạnh mẽ
chất lƣợng cho sản phẩm, doanh nghiệp, một số ngành sản xuất mũi nhọn có tính
chất quyết định năng lực cạnh tranh lâu dài của đất nƣớc.
Sự tiếp cận này bắt nguồn từ thực tế tốc độ đổi mới công nghệ ngày
càng nhanh, chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng rút ngắn, các yếu tố ngoài
công nghệ, đặc biệt là tổ chức, thiết chế chính sách, giáo dục đào tạo và văn
hoá kinh doanh có vai trò ngày càng lớn làm cho đổi mới công nghệ ngày
càng mang tính tổng hợp, hệ thống và tích hợp trong nó nhiều tƣ duy xa lạ với
cách tiếp cận truyền thống, chuyên môn hoá về công nghệ nhƣ trƣớc đây. Tƣ
28
duy và cách tiếp cận NIS về KH&CN là chìa khoá để thay đổi quan niệm
truyền thống trƣớc đây, do đó nó tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới
và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ của mỗi quốc gia.
Tóm lại, phát triển NIS về KH&CN có tầm quan trọng to lớn trong việc
thúc đẩy đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ. Cách tƣ duy này
mở ra cơ hội cho tất cả các quốc gia nhằm giải quyết những thách thức lớn về
tăng trƣởng dài hạn và quan trọng hơn nó góp phần làm gia tăng sức cạnh
tranh của mỗi quốc gia trên thế giới.
1.3. Thực chất và nội dung của quá trình phát triển NIS
1.3.1. Thực chất của quá trình phát triển NIS
Những năm gần đây, nhiều học thuyết đã đƣợc đề ra để giải thích
nguyên nhân một số quốc gia tụt hậu trong khi những quốc gia khác vƣơn lên
hàng đầu trong lĩnh vực đổi mới ở quy mô toàn cầu. Những nghiên cứu NIS
đã đƣa ra những luận cứ để chứng minh rằng sự khác biệt nêu trên ở các quốc
gia tựu trung lại là ở cơ cấu tổ chức của Hệ thống đổi mới quốc gia, thí dụ
công trình của Chris Freeman 1987, B.A. Lundvall 1992, R.R. Nelson 1993.
Các công trình đã phân tích và làm rõ bản chất của NIS, có thể khái quát bản
chất của quá trình phát triển NIS nhƣ sau:
Bản chất của NIS là liên kết toàn hệ thống, lấy các công ty, các hãng,
các doanh nghiệp làm chủ thể chính và là trung tâm liên kết các yếu tố của
Hệ thống đổi mới quốc gia về KH&CN nhằm thúc đẩy đổi mới và nâng cấp
liên tục năng lực công nghệ.
Có thể làm rõ bản chất của quá trình phát triển NIS theo hình vẽ dƣới
29
đây:
Cơ sở hạ tầng KH&CN
Đối thủ cạnh tranh
Trƣờng đại học và hệ thống phòng thí nghiệm
Khách hàng chủ yếu
Các nhà cung cấp chủ yếu
DOANH NGHIỆP
Thông tin
Bạn hàng và đồng minh chiến lƣợc
Đầu tƣ và mua sắm thiết bị
Hình 1.3: Mô hình liên kết trong Hệ thống đổi mới quốc gia
Trên hình 1.3, có thể thấy các doanh nghiệp và công ty đƣợc đặt trong
một hệ thống bao gồm các nhà cung cấp đầu vào, với đầu ra là các khách
hàng thƣờng xuyên chiụ sự tác động của các nhân tố cạnh tranh nhƣ các đối
thủ, các bạn hàng. Trong quá trình đổi mới công nghệ/sản phẩm, doanh
nghiệp thƣờng xuyên sử dụng các thông tin sáng chế, hợp tác với các trƣờng
đại học, các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm để thực thi các ý tƣởng
đổi mới sản phẩm và dịch vụ. Đồng thời chính bản thân các đối tác trên cũng
thƣờng xuyên hƣớng vào phục vụ các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển.
Tất cả tạo thành một hệ thống bao gồm các tác nhân và các mối liên kết lấy
doanh nghiệp làm trung tâm. Các hoạt động R&D đƣợc gắn kết với các nhu
cầu sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp. Nếu
không có nhu cầu về KH&CN đặt ra của các doanh nghiệp về đổi mới để
30
cạnh tranh thì sẽ không có lý do tồn tại cho các hoạt động R&D.
Tóm lại, thực chất của sự phát triển NIS là liên kết toàn hệ thống, lấy
các công ty, các hãng, các doanh nghiệp làm chủ thể chính và là trung tâm
liên kết các yếu tố của hệ thống đổi mới nhƣ Chính phủ, cơ cấu tổ chức ngành
tài chính, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), tổ chức R&D, các
trƣờng đại học nghiên cứu. Đó không phải là một hành động tách biệt, cũng
không phải diễn ra theo đƣờng thẳng. Hệ thống chứa đựng nhiều yếu tố của
quá trình đổi mới. Những yếu tố này không tách rời mà tƣơng tác với nhau
nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ của quốc gia.
1.3.2. Nội dung chính của phát triển NIS
Với cách tiếp cận này, nội dung trọng tâm của NIS là tạo môi trƣờng
chính sách thúc đẩy đổi mới sản phẩm, dịch vụ, công nghệ, tổ chức, quản lý
để gắn các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) với các hoạt động kinh
tế - xã hội (KT-XH), khắc phục vai trò tồn tại tự thân của bất kỳ một yếu tố
nào trong hệ thống, đặc biệt là các yếu tố KH&CN.
Một là, xây dựng NIS mang tính hệ thống nhằm thúc đẩy đổi mới sản
phẩm, dịch vụ, công nghệ.
Đây là nội dung mang tính bản chất nhất của cách tiếp cận NIS. Nó thể
ở tính hệ thống. Các yếu tố thuộc NIS bao gồm:
Các yếu tố, loại hoạt động: Nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ,
thƣơng mại hóa sản phẩm mới, tạo môi trƣờng văn hóa, các hoạt động giáo
dục, đào tạo nhân lực KH&CN, các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng KH&CN
(thông tin, tiêu chuẩn hóa, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), v.v...).
Các tổ chức: Chính phủ, doanh nghiệp, đại học, viện nghiên cứu, các
tầng lớp dân cƣ có liên quan hoặc chịu ảnh hƣởng của các chính sách và thành
quả KH&CN.
Các chính sách: Công nghiệp, thƣơng mại, KH&CN, tài chính, tiền tệ,
31
môi trƣờng,v.v...
Các yếu tố này bao gồm tất cả các nhân tố, các tổ chức và các chính
sách trực tiếp và gián tiếp tham gia vào quá trình đổi mới sản phẩm, đổi mới
công nghệ của các doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh trên thị trƣờng. Ở
đây, cả một hệ thống của quốc gia bao gồm hệ thống các tổ chức R&D, các
doanh nghiệp thuộc cộng đồng sản xuất kinh doanh (quốc doanh và dân
doanh), các trƣờng đại học, Chính phủ và các yếu tố thị trƣờng mỗi khi có
mục tiêu chung sẽ lập tức đƣợc huy động và phối kết hợp với nhau một cách
linh hoạt để hƣớng tới tiêu điểm chung là tạo ra sản phẩm, quy trình và dịch
vụ mới theo nhu cầu của khách hàng.
Hai là, phát triển NIS nhằm gắn các hoạt động R&D với các hoạt động
KT-XH, gắn kết giữa các năng lực R&D trong nước với các năng lực đổi mới
nước ngoài; xây dựng NIS mang tính mở.
Mục tiêu phát triển NIS không chỉ là thúc đẩy đổi mới sản phẩm, công
nghệ mà quan trọng hơn đó là hòa trộn, gắn kết các hoạt động KH&CN với
các hoạt động KT-XH. Vì thế NIS thể hiện rõ tính mở.
Tính mở đƣợc thể hiện trƣớc hết ở sự hoà trộn, gắn kết của các hoạt
động KH&CN với các hoạt động KT-XH. Sở dĩ có tính mở là vì trong khuôn
khổ của NIS, các hoạt động đều cùng có chung một mục tiêu là tạo ra sản
phẩm mới, dịch vụ mới, đồng thời nâng cao đƣợc năng lực cạnh tranh của
ngành/quốc gia/doanh nghiệp.
Ngoài ra, tính mở còn đƣợc thể hiện ở sự hoà nhập, gắn kết giữa các
năng lực R&D trong nƣớc với các năng lực đổi mới ngoài nƣớc. Sự tham gia
của các năng lực đổi mới ngoài nƣớc vào quá trình tích luỹ và nâng cao năng
lực đổi mới trong nƣớc là một quá trình phức tạp và đa chiều. Một mặt, thông
qua cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế, những đổi mới sản phẩm của một
hãng, một quốc gia tạm thời thống trị thị trƣờng sản phẩm đó trong một thời
gian nhất định. Mặt khác, cũng không kém phần quan trọng là thông qua cạnh
32
tranh, sản phẩm của một hãng, một quốc gia vốn đang thống trị thị trƣờng thì
bị những đổi mới đƣợc tiến hành tại các hãng khác, quốc gia khác vƣợt qua.
Chính sự thất bại trong đổi mới mà thị trƣờng bên ngoài áp đặt cho một hãng,
một quốc gia lại là một nguồn kích thích đổi mới, thậm chí là tạo nên một
xung lực đổi mới quan trọng đến mức không thể thiếu đƣợc trên thị trƣờng.
Tính mở trong quan niệm về NIS còn thể hiện ở xu thế nhất thể hoá
giữa KH&CN với KT-XH. Khái niệm nền kinh tế dựa trên tri thức là một bằng
chứng cho thấy KH&CN đã thâm nhập và trở thành nền tảng, thành cơ sở và
trụ cột của nền kinh tế và của xã hội trong tƣơng lai. Bằng chứng tiếp theo thể
hiện ở xu hƣớng mở rộng khái niệm công nghệ. Nếu nhƣ ban đầu, công nghệ
chỉ đƣợc hiểu theo nghĩa chuyên môn kỹ thuật thuần tuý, hạn hẹp ở phần
cứng của sản xuất (máy móc/thiết bị) thì giờ đây nó ngày càng đƣợc mở rộng
và đƣa vào thêm các yếu tố về tri thức khoa học và cả các quy trình sản xuất,
yếu tố quản lý, thậm chí cả các sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm. Có thể nói,
càng ngày khi nền kinh tế tri thức hình thành, ngƣời ta càng khó phân biệt
ranh giới đâu là khoa học, đâu là công nghệ và đâu là các quá trình sản xuất,
đâu là tiềm lực KH&CN và đâu là tiềm lực sản xuất, tiềm lực kinh tế. Nhà
doanh nghiệp không chỉ thuần tuý là một nhà tài chính, mà phải đồng thời là
một nhà quản lý am hiểu về công nghệ, về cạnh tranh, về đổi mới, về văn hoá
và về môi trƣờng. Tóm lại, phải có đủ các năng lực cần thiết để đổi mới.
Ba là, phát triển NIS nhằm gắn liền khu vực nghiên cứu và sản xuất –
các doanh nghiệp - đối tượng trung tâm của phát triển NIS
Trên thực tế, những ý tƣởng đổi mới có thể xuất hiện từ rất nhiều
nguồn và ở bất kỳ một giai đoạn nào trong R&D, tiếp thị và phổ biến công
nghệ mới. Thực tế này đã là cơ sở của mô hình đổi mới mang tính liên kết và
hệ thống, nhƣng lấy doanh nghiệp làm trung tâm liên kết sẽ phù hợp với quan
niệm của NIS.
Trong hệ thống và mạng lƣới này có nhiều yếu tố và tác nhân nhƣ các
33
viện R&D, các trƣờng Đại học, phòng thí nghiệm, thông tin sáng chế, các đối
thủ cạnh tranh, khách hàng, cơ sở hạ tầng về KH&CN, các liên minh chiến
lƣợc và quan hệ bạn hàng. Tất cả đều tƣơng tác xoay quanh các hãng, các
công ty nhƣ là hạt nhân của hệ thống. Chuỗi các hoạt động R&D cũng chỉ là
một trong số nhiều thành tố khác tham gia vào mạng lƣới liên kết tạo thành hệ
thống. Cách tiếp cận hệ thống đổi mới tập trung vào các luồng luân chuyển tri
thức trong khuôn khổ của “nền kinh tế tri thức” - nền kinh tế dựa trực tiếp vào
quá trình sáng tạo, phổ biến, sử dụng tri thức và thông tin. Theo quan niệm
này, các hoạt động kinh tế ngày càng trở nên thâm dụng tri thức, gia tăng các
ngành công nghiệp công nghệ cao và nhu cầu ngày càng tăng về lao động có
trình độ, chuyên nghiệp. Cách tiếp cận hệ thống đổi mới phản ánh vai trò kinh
tế của tri thức, theo đó năng lực phân phối tri thức đƣợc xem là yếu tố quyết
định đối với tăng trƣởng và cạnh tranh.
Với cách tiếp cận này, không một hoạt động nào, yếu tố nào, tổ chức
nào, một khâu nào trong chuỗi các hoạt động đổi mới đƣợc tiến hành riêng rẽ,
độc lập với doanh nghiệp. Tất cả đều đƣợc tiến hành song song, trong sự liên
kết chặt chẽ với doanh nghiệp nhằm mục đích gắn liền khu vực nghiên cứu
với khu vực sản xuất.
Khái quát lại, với những nội dung và đặc trƣng trên, NIS bao quát đƣợc
tổng thể các yếu tố, các loại hoạt động cùng với các mối liên kết bên trong,
bên ngoài của một hệ thống chỉnh thể trong quá trình đổi mới. Quản lý các
hoạt động đổi mới nghĩa là phải quản lý rất nhiều các yếu tố, các loại hoạt
động, các tổ chức, thiết chế và chính sách cùng với mạng lƣới vô cùng phức
tạp của các mối liên hệ, các dòng di chuyển tri thức. Nhƣ vậy, thay vì chú
trọng các yếu tố nguồn lực, tổ chức, cách tiếp cận hệ thống đổi mới chú trọng
các mối liên kết giữa các nguồn lực và các thành tố của hệ thống, chú trọng
các sản phẩm đƣợc đổi mới ở đầu ra hơn các nguồn lực đƣợc cung cấp ở đầu
vào, chú trọng nhu cầu động, linh hoạt hơn năng lực cung cấp tĩnh, lấy doanh
34
nghiệp chứ không phải là các tổ chức R&D làm trung tâm sự phát triển.
CHƢƠNG 2 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA Ở MỘT SỐ NƢỚC CHÂU Á
Trung tâm của sức hút kinh tế thế giới đang hƣớng tới châu Á. Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore đang dẫn đầu trên một số lĩnh vực
công nghệ cao. Trung Quốc và Ấn Độ đang chứng tỏ là những thị trƣờng màu
mỡ cho những cơ hội mới. Các nƣớc khác trong vùng nhƣ Malaixia,
Inđônêxia, Thái Lan đang nỗ lực tranh thủ những cơ hội đầu tƣ. Các nƣớc
đƣợc này đều có những NIS và các chính sách thực thi đổi mới khác nhau,
nhƣng đều có chung các cơ quan thuộc Chính phủ phụ trách chính sách đổi
mới với sự phối hợp cao độ các cơ chế ở cấp độ Chính phủ, các tổ chức
nghiên cứu và các tổ chức trung gian.
Có thể chia ra làm 3 nhóm nƣớc và vùng lãnh thổ nhƣ sau:
1. Các nƣớc và vùng lãnh thổ hàng đầu là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore, trong nhiều lĩnh vực đang là thách thức cạnh tranh với châu
Âu. Nhóm này đã có sự phát triển nhanh chóng, nhất là về đầu tƣ công nghệ
với tầm nhìn dài hạn.
2. Trung Quốc và Ấn Độ, những thị trƣờng khổng lồ mới nổi, những
nhà xuất nhập khẩu cạnh tranh và là nơi thu hút các luồng đầu tƣ lớn; mô hình
phát triển và các chính sách đổi mới ở mỗi nƣớc khác nhau. Sau những làn
sóng đầu tƣ từ bên ngoài do giá nhân công thấp, giờ đây các nƣớc này bắt đầu
chú trọng nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực và sẽ là những đối thủ lớn
nhất của châu Âu, Mỹ về cạnh tranh, nhất là trong các ngành công nghiệp
công nghệ cao.
3. Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan đang nỗ lực hoàn thiện NIS của mình,
đây là nhóm mà GDP tăng trƣởng nhanh trong thập kỷ qua và đầu tƣ đổi mới
35
công nghệ đóng vai trò quan trọng.
Trên cơ sở phân tích và làm rõ NIS của các nƣớc, đặc biệt các nƣớc
trong cùng khu vực sẽ là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thúc
đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện NIS của mình.
Trong phạm vi của luận văn, tác giả trình bày kinh nghiệm phát triển
NIS của ba quốc gia, đó là: Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
2.1. NIS của Nhật Bản
2.1.1. Quá trình hình thành NIS của Nhật Bản
Nhật Bản rất quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện NIS. Ngay từ
những năm 1990 đã có những phát triển mới quan trọng trong chính sách đổi
mới bao gồm việc ban hành Luật Khoa học và công nghệ cơ bản vào năm
1995 để thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển, gia tăng đáng kể cho ngân
sách trong khoa học và ngân sách công nghệ; cùng với cải cách thể chế quốc
gia trong các trƣờng đại học và phòng thí nghiệm nghiên cứu, các biện pháp
tăng cƣờng công nghiệp và hợp tác khoa học, và nâng cao đáng kể quyền sở
hữu trí tuệ…
Nhật Bản đã đặt ra mục tiêu Tầm nhìn 25 năm “National Innovation
System 25” thể hiện Nhật Bản muốn có một xã hội nhƣ thế nào vào năm 2025
(trong đó có năng lực đổi mới KH&CN chú trọng vào xây dựng và hoàn thiện
NIS). Các dự án nhìn trƣớc công nghệ 30 năm cứ 5 năm làm một lần để xác định
các lĩnh vực KH&CN ƣu tiên phục vụ cho xây dựng các kế hoạch KH&CN. Hàng
năm, bắt đầu từ 2005, xây dựng Lộ trình công nghệ cho 10 - 15 năm sau. Kế
hoạch cơ bản phát triển KH&CN 5 năm (hiện đã qua ba kế hoạch kể từ năm 1995)
và đang thực hiện kế hoạch lần thứ tƣ cho giai đoạn 2011 – 2015.
Để tăng tối đa tốc độ sáng tạo ra những sản phẩm mới, Chính phủ Nhật
Bản đã tăng cƣờng hoạt động của NIS và tập trung vào đẩy mạnh các hoạt
động đổi mới ở các hãng tƣ nhân. Chính vì vậy, Bộ Thƣơng mại Quốc tế và
Công nghiệp đã đề xuất Mô hình NIS mới từ năm 1995. Cho đến nay, Nhật
36
Bản đã xây dựng một NIS hoàn thiện.
Mô hình NIS của Nhật Bản liên kết 3 bộ phận chủ yếu với nhau là
“Hoạt động công nghiệp” (sản xuất), “Xã hội” (tiêu dùng) và “Cơ sở” (kết cấu
hạ tầng). Quan hệ giữa 3 bộ phận này không phải là tuyến tính. Bộ phận
“Hoạt động công nghiệp” đƣợc coi là động lực đổi mới, trong lúc đó, sự tiếp
nhận của “Xã hội” đối với hàng hoá và dịch vụ sẽ đem lại đổi mới tiếp theo.
Để tăng tối đa tốc độ đổi mới, những nhu cầu của bộ phận “Xã hội” cần phải
đƣợc phản hồi ngay cho “Hoạt động công nghiệp”. Bộ phận “Cơ sở” bao gồm
con ngƣời, tri thức và kết cấu hạ tầng hỗ trợ các hoạt động công nghiệp. Sự
lan toả các hoạt động nghiên cứu công nghiệp đƣợc tích luỹ lại, làm giàu thêm
cho bộ phận “cơ sở”, đặc biệt là vốn tri thức. Đồng thời cũng có sự phản hồi
lại từ bộ phận “Cơ sở” cho bộ phận “Xã hội”, ví dụ ở hình thức giáo dục.
Dựa trên mô hình đổi mới này, Chính phủ có thể tăng đổi mới nhờ hai cách:
- Xây dựng và củng cố bộ phận “Cơ sở”,
- Tăng tính “phù hợp” và giảm ma sát giữa 3 bộ phận chủ yếu đã đề cập.
Cho đến nay, Nhật Bản đƣợc đánh giá là một trong số ít những quốc
gia trên thế giới có NIS hoàn chỉnh và phát triển nhất.
2.1.2. Các thành phần chính trong NIS của Nhật Bản
NIS của Nhật Bản đƣợc cấu thành bởi các thành phần chính sau:
Thứ nhất, Chính phủ Nhật Bản
NIS của Nhật Bản đƣợc đặc trƣng bởi mức độ tập trung cao, tất cả các
chính sách và biện pháp chính liên quan tới đổi mới đều xuất phát từ Chính
phủ, mà cụ thể là 2 Bộ:
+ Bộ Kinh tế, Thƣơng mại và Công nghiệp;
+ Bộ Giáo dục, Văn hoá, Thể thao, KH&CN.
Hai Bộ này điều phối KH&CN, thúc đẩy hợp tác giữa các cơ quan
KH&CN, đánh giá việc thực hiện các chính sách cũng nhƣ thúc đẩy sự quan
37
tâm vào những lĩnh vực chính đối với hệ thống KH&CN Nhật Bản. Cơ quan
thúc đẩy Khoa học Nhật Bản và Cơ quan KH&CN Nhật Bản đều đƣợc cung
cấp tài chính bởi Bộ Kinh tế, Thƣơng mại và Công nghiệp.
Thứ hai, các trường đại học và các viện nghiên cứu
Các trƣờng Đại học và các viện nghiên cứu là những thành phần chính
thực hiện R&D. Các trƣờng đại học công đƣợc coi là những nơi chính thực
hiện các hoạt động nghiên cứu. Sau cải cách quản lý năm 2001, phần lớn các
viện nghiên cứu công đã chuyển thành các Viện Quản lý Độc lập. Theo các
quy định mới, các viện có nhiều tự do hơn trong việc ký kết hợp đồng lao
động dựa trên nhu cầu, cũng nhƣ tự chủ nguồn tài chính. Nhƣng điều quan
trọng nhất là khu vực tƣ nhân có thể tham gia hợp tác với các viện nghiên cứu
công, nhƣ vậy kích thích sự tƣơng liên và hợp tác công – tƣ.
Thứ ba, các tổ chức tài chính trung gian
Các tổ chức tài chính có nhiệm vụ hỗ trợ tài chính trực tiếp cho
ngành công nghiệp. Ở Nhật Bản, thị trƣờng tài chính đã phát triển và tạo
thuận lợi cho đầu tƣ tài chính vào đổi mới khu vực tƣ nhân. Chỉ có khoảng
14% R&D thực hiện trong ngành công nghiệp đƣợc hỗ trợ tài chính từ
Chính phủ, còn lại là từ các tổ chức tài chính trung gian. Tài chính cho đổi
mới NIS là một phần của cơ chế tài chính chung phục vụ cho các hoạt động
và một số cơ quan khác. Nhiều tập đoàn tài chính Nhật Bản, nhƣ Tập đoàn
Tài chính vì Doanh nghiệp nhỏ, Tập đoàn Tài chính vì Sự sống quốc gia
(National Life Finance Corporation), Ngân hàng Shoko Chukin, cung cấp
các vốn dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) có nhu cầu phát
triển kinh doanh với lãi suất thấp.
Thứ tư, các doanh nghiệp
Tại Nhật Bản, nhiều tập đoàn lớn đa quốc gia cùng tồn tại với rất nhiều
SME. Do vậy các chính sách hiện nay của Nhật Bản ƣu tiên cho đổi mới và
38
nâng cấp công nghệ ở các doanh nghiệp, lấy daonh nghiệp làm trung tâm của
NIS. Chính phủ rất coi trọng các SME trong NIS. Nhật Bản cũng có nhiều
chính sách hỗ trợ, nhƣ cấp vốn, các nhà nghiên cứu trong các doanh nghiệp.
Bảng 2. 1: Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Nhật Bản
Tên các tổ chức Website
1. Chính phủ và các cơ quan làm chính sách
Bộ Kinh tế, Thƣơng mại và Công nghiệp www.mext.gov.jp
Bộ Giáo dục, Văn hoá, Thể thao, KH&CN www.meti.gov.jp
Các Bộ/ngành (y tế, nông nghiệp, viễn thông, môi
trƣờng, giao thông và vận tải).
2. Các doanh nghiệp
Liên đoàn các Tổ chức Kinh tế Nhật Bản www.keidanren.org.jp
(Japan Federation of Economic Organisations).
3. Các viện R&D và cơ quan giáo dục
Rất nhiều trƣờng Đại học và viện R&D tầm cỡ thế
giới.
4. Hệ thống tài chính
Tập đoàn Tài chính vì SME. www.jasme.gov.jp
Tập đoàn Tài chính vì Sự sống quốc gia (National www.kokukin.gov.jp
Life Finance Corporation).
Ngân hàng Shoko Chukin. www.shokochukin.go.jp
(Nguồn: Trung tâm thông tin KH&CN quốc gia Việt Nam) [10]
2.1.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS
của Nhật Bản
Trong quá trình xác định các biện pháp để duy trì và tăng sức cạnh
tranh của Nhật Bản ở thế kỷ XXI, một trong những biện pháp mà các nhà làm
39
chính sách Nhật Bản tiến hành là tìm cách phát huy những phƣơng thức đã rất
thành công ở những thập kỷ trƣớc đây, đặc biệt là củng cố và hoàn thiện NIS.
Một số biện pháp chủ yếu đƣợc sử dụng để thúc đẩy sự phát triển NIS ở Nhật
Bản nhƣ:
Thứ nhất, thắt chặt hơn mối quan hệ hợp tác giữa Chính phủ và khu
vực công nghiệp
Chính sách mới kêu gọi hãy tăng cƣờng hơn nữa sự hợp tác giữa Chính
phủ và khu vực công nghiệp - một phƣơng thức đã đƣợc nêu ra từ thập kỷ 90.
Ngoài ra, nó cũng nhấn mạnh lại vai trò của côngxoocxiom R&D để hỗ trợ sự
phát triển công nghệ ở những lĩnh vực then chốt nhƣ công nghệ nano, panel
phẳng, vật liệu mới và pin nhiên liệu.
Mặc dù chính sách mới này không thay đổi nhiều, nhƣng nó khác so
với các chính sách đã ban hành trƣớc đây ở chỗ chú trọng hơn rất nhiều tới
việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) hƣớng vào đổi mới và các
công nghệ phục vụ ngành dịch vụ.
Thứ hai, chú trọng tới các SME
Việc chú trọng nhiều hơn tới SME đƣợc phản ánh ở việc kêu gọi đa
dạng hoá các nguồn vốn tài chính công nghiệp để vƣợt khỏi các khoản vay
ngân hàng thông thƣờng mà trƣớc đây vẫn dựa vào bất động sản để làm vật
thế chấp. Chính sách mới tìm cách tăng tài trợ cho những SME mà đang gặp
phải những trở ngại lớn ở việc tiếp cận với các khoản vay ngân hàng trong
thời kỳ khủng hoảng tài chính-tiền tệ cuối thập kỷ 90. Theo đó, chính sách
mới kêu gọi tăng cƣờng nguồn vốn mạo hiểm, thị trƣờng cổ phiếu điện tử, các
thực tiễn kế toán tốt hơn và hỗ trợ các doanh nghiệp của các trƣờng Đại học.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực cho đổi mới và nâng cấp liên tục
năng lực công nghệ
Liên quan đến phát triển nguồn nhân lực, chính sách mới tìm cách nâng
cao các kỹ năng cần thiết cho một xã hội mới, dựa vào tri thức, với công nghệ
40
cao và định hƣớng dịch vụ nhiều hơn. Chính sách này kêu gọi tăng cƣờng
việc giảng dạy các kỹ năng kinh doanh cần cho doanh nghiệp mới khởi sự và
các kỹ năng cho các cán bộ có chức năng quản lý công nghệ, cũng nhƣ tiếp
tục hỗ trợ cho công tác đào tạo các nhà khoa học và kỹ sƣ.
Nhật Bản đã đề ra kế hoạch đẩy mạnh việc thành lập các mạng lƣới
nguồn nhân lực nhằm bổ sung vào sự phát triển công nghệ ở các địa phƣơng.
Cơ quan này cũng có các kế hoạch để quốc tế hoá hơn nữa các tổ chức nghiên
cứu nhằm tăng cƣờng mối tƣơng tác với các nhà khoa học và kỹ sƣ nƣớc
ngoài.
Thứ tư, tăng cường đầu tư cho R&D
Phần lớn sự thành công của chính sách kinh tế và công nghiệp mới đều
sẽ tuỳ thuộc vào khả năng của Nhật Bản trong việc tiếp tục khuyến khích tăng
cƣờng đầu tƣ vào R&D công nghiệp và chuyển giao các kết quả cho khu vực
công nghiệp.
Thứ năm, tăng cường mối tương tác giữa trường đại học và các doanh
nghiệp
Nhật Bản đã thiết lập mối quan hệ tƣơng tác giữa các trƣờng đại học và
doanh nghiệp, mối quan hệ này đã có tác động lớn đến việc xây dựng NIS, xét
ở khía cạnh tạo khả năng cho các doanh nghiệp Nhật Bản cạnh tranh thành
công với các đấu thủ ở Mỹ, châu Âu và châu Á (số lƣợng ở đây đang ngày
càng tăng). Bên cạnh đó, doanh nghiệp Nhật Bản vẫn còn tìm đến các trƣờng
đại học nƣớc ngoài trƣớc tiên để tiếp cận với những đột phá khoa học.
Cụ thể, trong năm 2010, những biện pháp đã đƣợc áp dụng để tăng
cƣờng mối quan hệ tƣơng tác giữa trƣờng đại học và các doanh nghiệp Nhật
Bản bao gồm:
+ Tăng lƣợng kinh phí thích hợp cho các dự án nghiên cứu hợp tác với
doanh nghiệp;
+ Hỗ trợ các doanh nghiệp mạo hiểm đƣợc thành lập ở trƣờng đại học;
41
+ Bãi bỏ quy định về thời gian làm việc đối với các giáo sƣ;
+ Khuyến khích thành lập các cụm khu vực đối với tri thức khoa học;
+ Duy trì việc tổ chức các cuộc hội nghị thƣợng đỉnh của khu vực với
sự tham gia của các trƣờng đại học và doanh nghiệp.
Ví dụ về những dự án đi đầu trong việc đạt đƣợc mục tiêu này là
Chƣơng trình Trung tâm Xuất sắc của thế kỷ XXI. Chƣơng trình này phân
bổ các khoản kinh phí ƣu tiên để phát triển các trung tâm nghiên cứu và
giáo dục thuộc đẳng cấp quốc tế ở các lĩnh vực KH&CN đƣợc lựa chọn.
Chƣơng trình này đã hỗ trợ 246 dự án ở 85 trƣờng đại học trong năm 2010.
Năm 2010, tổng kinh phí của Chƣơng trình đã tăng từ mức 363.383 triệu
yên lên 367.270 triệu yên.
Với những biện pháp trên, trong hơn hai thập kỷ qua, NIS của Nhật
Bản đã có đóng góp to lớn trong việc thúc đẩy KH&CN phát triển.
2.1.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Nhật Bản
Kể từ những năm 90 đến nay, Nhật Bản không ngừng hoàn thiện NIS
của mình và đƣợc đánh giá là một trong số ít nƣớc có NIS hoàn thiện nhất
trên thế giới với những kết quả sau đây:
Thứ nhất, đóng góp của tiến bộ công nghệ đối với sự tăng trƣởng kinh
tế nhờ phát triển NIS ngày càng tăng. Nếu nhƣ trong những thập niên 90,
đóng góp này là gần 30% thì đến nay với việc xây dựng và phát triển NIS đã
thúc đẩy đổi mới liên tục công nghệ, đóng vai trò chủ đạo và đóng góp cho sự
tăng trƣởng kinh tế đã vƣợt qua con số 50%.
Thứ hai, NIS của Nhật Bản ngày càng mạnh với một bộ máy tập trung,
có sự phân cấp và sự cộng lực chặt chẽ giữa các cơ quan chủ chốt và các
thành phần trong hệ thống.
Thứ ba, đầu tƣ cho đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ
ngày càng tăng. Xét ở phƣơng diện này, chi tiêu cho R&D đang giữ ở mức ổn
định sau sự gia tăng đáng kể trong 10 năm qua. Theo số liệu thống kê công bố
42
tháng 3/2010, tổng chi tiêu cho R&D của Nhật Bản trong tài khoá 2010 đã
tăng 1% so với năm trƣớc, đạt 18.675,1 tỷ yên. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D so với
GDP đạt 3,65%, tăng 0,05% so với năm trƣớc.
Trong năm 2010, tổng ngân sách KH&CN là 3.626,1 tỷ yên, tăng 34,5
tỷ yên so với mức của năm 2009. Lĩnh vực đƣợc nhận kinh phí nhiều nhất là
nghiên cứu cơ bản (257.312 triệu). Ngoài ra, có 272.661 triệu yên dành cho
quỹ nghiên cứu cạnh tranh.
Bảng 2.2: Chi tiêu R&D của Nhật Bản từ năm 2002 – 2010
(đơn vị: % GDP)
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
%GDP 3,04 3,12 3,17 3,20 3,17 3,32 3,40 3,44 3,65
Nguồn: OECD Factbook, 2010
Thứ tư, cơ sở hạ tầng của NIS Nhật Bản ngày càng vững chắc, đủ khả
năng đáp ứng yêu cầu của sự phát triển.
Thứ năm, các doanh nghiệp – trung tâm của NIS Nhật Bản ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết và thắt chặt với các thành phần
khác trong hệ thống nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ, gắn liền khu vực
nghiên cứu với khu vực sản xuất. Các doanh nghiệp Nhật Bản có đóng góp
cho đổi mới công nghệ ngày càng tăng, năm 2010 tỷ lệ đóng góp này là
69,4%, trong khi các viện nghiên cứu đóng góp 10,9% và các trƣờng đại học
là 19,7%. Nhiều dự án liên kết doanh nghiệp và các trƣờng đại học, Viện
nghiên cứu đƣợc triển khai thành công, tạo ra sự cộng lực lớn trong việc đổi
mới liên tục năng lực công nghệ của Nhật Bản nhƣ: Chƣơng trình Cụm công
nghiệp, với tổng kinh phí là 350 triệu yên để hỗ trợ cho các mạng lƣới hợp tác
đa ngành của các doanh nghiệp, trƣờng đại học và các tổ chức khác ở 19
43
vùng, đƣợc xây dựng dựa trên các khả năng cạnh tranh công nghệ hiện có.
2.2. NIS của Trung Quốc
2.2.1. Quá trình hình thành NIS của Trung Quốc
NIS của Trung Quốc đang đƣợc tái tổ chức một cách nhanh chóng và
sâu rộng. Sau Thế chiến thứ II, hệ thống khoa học công nghệ của Trung Quốc
dựa trên mô hình của Liên Xô trƣớc đây. Do đó, hầu hết các tổ chức trong
NIS của Trung Quốc đƣợc tái tổ chức dựa trên các cơ quan sẵn có. Các thành
phần hoạt động độc lập và thiếu sự hợp tác và liên kết. Các hoạt động
KH&CN Trung Quốc xuất phát từ các Viện nghiên cứu công, trong khi các
hoạt động sản xuất chỉ do các doanh nghiệp nhà Nƣớc đảm nhiệm. Nhƣ vậy,
nghiên cứu và sản xuất đã thiếu sự liên kết, chúng hoàn toàn độc lập nhau.
Dƣới hệ thống này, đầu ra KH&CN đƣợc chuyển giao tự do cho và không có
sự khuyến khích cho R&D ở cấp doanh nghiệp.
Năm 1985, với Nghị quyết của Uỷ ban Trung ƣơng Đảng Cộng sản
Trung Quốc nhằm cải tổ từ một hệ thống kế hoạch hoá tập trung sang một
nền kinh tế thị trƣờng, việc cải tổ cấu trúc hệ thống KH&CN đƣợc thông
qua, với hàng loạt những cải cách hệ thống đổi mới và NIS của Trung
Quốc đã bƣớc sang giai đoạn chuyển tiếp, mà hiện nay vẫn đang tiếp tục.
Chính phủ Trung Quốc đã đƣa ra nhiều sáng kiến để tạo thuận lợi cho sự
tƣơng hỗ giữa các thành phần trong NIS. Trung Quốc đã có nhiều chính
sách liên quan đến cải tổ hệ thống đổi mới để tạo lập riêng các hệ thống
khuyến khích KH&CN và công nghiệp nhawmg nâng cao năng lực đổi
mới. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu Trung Quốc, những sáng kiến
này đã có ảnh hƣởng rõ nét tới cấu trúc, tính năng động và năng lực của
NIS theo khái niệm mới của Trung Quốc.
Trƣớc tình hình mới đặt ra đối với phát triển kinh tế và phát triển
KH&CN thế giới, Chính phủ Trung Quốc đã kịp thời đƣa ra các quyết sách
mang tính chiến lƣợc quan trọng về xây dựng NIS, với hàng loạt các chƣơng
44
trình và mục tiêu Tầm nhìn phát triển Khoa học 50 năm, Kế hoạch phát triển
KH&CN trung và dài hạn 15 năm (2006 - 2020), Kế hoạch 5 năm lần thứ 12
(2011 - 2015). Chuyển đổi “Hệ thống KH&CN” sang “NIS về KH&CN lấy
doanh nghiệp làm trung tâm”. Chuyển trọng tâm sang hỗ trợ để các doanh nghiệp
thành chủ thể chính của đổi mới công nghệ. Trở thành quốc gia theo hƣớng đổi
mới (Innovation - Oriented Country) và nằm trong số 5 nƣớc hàng đầu thế giới về
năng lực KH&CN. Tạo ra các thành tựu KH&CN có ảnh hƣởng ở tầm thế giới.
Chi 2% GDP cho KH&CN vào 2015 và 2,5% vào năm 2020.
Bên cạnh việc xác định mục tiêu và tầm nhìn dài hạn, Trung Quốc còn
ban hành các chƣơng trình quốc gia nhằm tăng cƣờng vai trò của NIS để thúc
đẩy đổi mới công nghệ nhƣ:
Chương trình Quốc gia vì Các dự án KH&CN then chốt: đƣợc bắt đầu
từ năm 1982, là một phần quan trọng trong các kế hoạch 5 năm để phát triển
kinh tế - xã hội. Những mục tiêu của nó là tìm ra những giải pháp cho những
vấn đề KH&CN trong phát triển kinh tế và xã hội trung và dài hạn; thúc đẩy
hiện đại hóa các ngành công nghiệp và tối ƣu hóa các cơ cấu công nghiệp; hỗ
trợ phát triển công nghệ cao và công nghiệp hóa công nghệ cao; cải thiện chất
lƣợng phát triển kinh tế và đời sống ngƣời dân và nâng cao năng lực KH&CN
quốc gia.
Chương trình Ngọn đuốc (1988): là một chƣơng trình định hƣớng cho
phát triển các ngành công nghiệp mới và công nghệ cao ở Trung Quốc.
Chƣơng trình chú trọng thúc đẩy thƣơng mại hóa các thành quả công nghệ
cao và công nghệ mới, đặc biệt là thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu đạt
đƣợc từ Chƣơng trình 863; công nghiệp hóa các sản phẩm công nghệ cao và
quốc tế hóa các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao.
Chương trình sản phẩm mới quốc gia (1988): chƣơng trình này hỗ trợ
cho các nỗ lực R&D đƣa đến các sản phẩm công nghệ cao mới, đặc biệt là các
sản phẩm dựa trên tài sản trí tuệ mới, đƣợc chế tạo chủ yếu bằng nội lực trong
45
nƣớc (các thành phần nội địa chiếm từ 80% trở lên), có tiềm năng xuất khẩu
cao hoặc đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Chương trình Phổ biến các thành tựu KH&CN quốc gia (1990):
chƣơng trình này do Hội đồng Nhà nƣớc thông qua, nhằm hỗ trợ cho các
doanh nghiệp trong việc ứng dụng các kết quả R&D KH&CN để có thể
thƣơng mại hóa đƣợc. Chƣơng trình cung cấp tài chính thông qua các khoản
vay của Nhà nƣớc, tài trợ của các chính quyền địa phƣơng và vốn đầu tƣ của
các doanh nghiệp.
Chương trình các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản ưu tiên quốc gia (1991):
chƣơng trình này thúc đẩy sự chú trọng hơn nữa đến nghiên cứu khoa học cơ
bản. Nó đƣợc tổ chức và thực hiện dƣới dạng một chƣơng trình các dự án then
chốt cho nghiên cứu cơ bản của đất nƣớc. Theo Chƣơng trình, Nhà nƣớc chọn
lựa các dự án theo tiêu chí và tổ chức các nhóm nghiên cứu, nhóm này có
năng lực rất cao và đƣợc đầu tƣ rất nhiều để có thể tạo nên những tiến bộ đột
phá nhằm thúc đẩy tiến bộ KH&CN và thực hiện các mục tiêu trong nghiên
cứu cơ bản.
Chương trình nghiên cứu phát triển quốc gia: đƣợc lập năm 1995,
nhằm thực hiện chiến lƣợc "Thúc đẩy sự phát triển đất nƣớc bằng khoa học và
giáo dục" và chiến lƣợc phát triển bền vững.
Gần đây nhất, ngày 9/2/2006 tại Bắc Kinh, Hội đồng Nhà nƣớc
Trung Quốc đã ban hành Định hƣớng Quốc gia về Chƣơng trình phát triển
KH&CN Trung và Dài hạn (2006-2020). Theo đó, đầu tƣ cho nghiên cứu
và phát triển (R&D) của Trung Quốc sẽ đạt mức 2% GDP vào năm 2010 và
2,5% GDP vào năm 2020. Định hƣớng cũng đặt ra mục tiêu giảm 30% sự
lệ thuộc của Trung Quốc vào công nghệ nƣớc ngoài. Theo Định hƣớng,
Trung Quốc sẽ tăng đáng kể năng lực đổi mới, năng lực KH&CN trong
việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia.
Những nỗ lực này sẽ biến Trung Quốc thành một quốc gia đổi mới đƣợc
46
định hƣớng và là nền tảng vững chắc để Trung Quốc trở thành cƣờng quốc
về KH&CN trên thế giới vào giữa thế kỷ này.
Qua sự phản ánh của các chƣơng trình KH&CN trong thời kỳ cải cách
cho thấy, cộng đồng khoa học của Trung Quốc đã bị thúc đẩy để chuyển định
hƣớng các nỗ lực của họ sang các nghiên cứu nhằm đáp ứng thị trƣờng và
mang định hƣớng kết quả hơn. Các chƣơng trình phát triển KH&CN trên sẽ
giúp dẫn hƣớng cho sự chuyển đổi này bằng cách tạo ra các biện pháp khuyến
khích đổi mới.
2.2.2. Các thành phần chính trong NIS của Trung Quốc
NIS của Trung Quốc là một hệ thống mạng lƣới đƣợc cấu thành bởi các
cơ quan liên quan đến đổi mới tri thức và đổi mới công nghệ, bao gồm:
Thứ nhất, Chính phủ Trung Quốc
Hầu hết các chính sách và các biện pháp liên quan tới NIS đều xuất
phát từ Chính phủ, mà Bộ KH&CN đóng vai trò chủ đạo. Bộ KH&CN có
năng lực cao về mặt thiết kế và thực hiện chính sách đổi mới. Thông qua các
cơ quan thực hiện của mình, Bộ KH&CN thực hiện nhiều chƣơng trình nhằm
cấp tài chính cho R&D, phục vụ doanh nghiệp, quản lý và thúc đẩy các công
viên khoa học và các vƣờn ƣơm trong nƣớc, cũng nhƣ phát triển nguồn nhân
lực trong lĩnh vực KH&CN. Các Bộ khác cũng tham gia vào tiến trình làm
chính sách và cấp tài chính, nhƣ Bộ Giáo dục cấp tài chính cho các trƣờng đại
học, Bộ Tài chính cùng với Bộ KH&CN phụ trách Quỹ Đổi mới vì các doanh
nghiệp công nghệ cỡ nhỏ. Các cơ quan khác thuộc Chính phủ cũng giữ những
vai trò quan trọng trong cải tổ KH&CN nƣớc này.
Thứ hai, các trường đại học và các viện nghiên cứu
Từ khi có những cải cách, các trƣờng đại học và các viện nghiên cứu
của nƣớc này buộc phải gắn kết với thị trƣờng và mở rộng hợp tác. Các viện
nghiên cứu công và các trƣờng đại học đƣợc trao quyền tự chủ nhiều hơn
trong việc bán đầu ra nghiên cứu của họ, trong khi ngân sách của Chính phủ
47
cấp cho họ bị giảm đi. Đầu tƣ của Chính phủ giảm mạnh đã khiến các viện
nghiên cứu phải xích lại gần hơn với giới doanh nghiệp.
Trong NIS của Trung Quốc hiện nay, việc phổ biến công nghệ chủ yếu
là từ trƣờng đại học và viện nghiên cứu tới doanh nghiệp, việc chuyển giao
công nghệ giữa các doanh nghiệp là rất ít. Có 3 cơ chế chính phổ biến công
nghệ ở Trung Quốc:
+ Cơ chế thứ nhất là các hợp đồng chuyển giao công nghệ, là cơ chế
chính phổ biến công nghệ ở Trung Quốc.
+ Cơ chế thứ hai là thị trƣờng công nghệ, đƣợc thiết lập trên toàn quốc,
bao gồm từ tƣ vấn, chuyển giao công nghệ, đào tạo đến các dịch vụ kỹ thuật,
là một biện pháp quan trọng cải cách hệ thống đổi mới của Trung Quốc.
+ Cơ chế thứ ba là các công ty spin-off (doanh nghiệp khoa học), đƣợc
thành lập bởi các trƣờng đại học và viện nghiên cứu, đã có hàng nghìn doanh
nghiệp dạng này đƣợc thành lập.
Trung Quốc có một số lƣợng lớn các trƣờng đại học, trong đó Đại học
Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa là lớn nhất. Các trƣờng đại học Trung Quốc
đang đƣợc ƣu tiên nghiên cứu cơ bản, chúng chiếm một nửa chi tiêu nghiên
cứu cơ bản quốc gia và sử dụng hơn một nửa số lƣợng nhà nghiên cứu trong
nghiên cứu cơ bản của nƣớc này. Quỹ Khoa học tự nhiên Quốc gia của Trung
Quốc đƣợc thành lập năm 1986 do Hội đồng Nhà nƣớc thông qua, phụ trách
quản lý Quỹ Khoa học tự nhiên Quốc gia. Nó chỉ đạo, điều phối và hỗ trợ tài
chính cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và báo cáo trực tiếp lên
Hội đồng Nhà nƣớc.
Thứ ba, các doanh nghiệp
Trung Quốc tạo rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, bởi thị trƣờng
rộng lớn và những cải cách thuận lợi. Có thể chia ra làm 3 loại công ty theo
đặc điểm đổi mới của NIS:
+ Doanh nghiệp Nhà nước: Những cải tổ doanh nghiệp nhà nƣớc đa
48
đƣợc thực hiện trong những năm 90 và kinh tế thị trƣờng đã tạo sức ép lớn
hơn cho hoạt động R&D. Trong giai đoạn chuyển tiếp cải tổ hệ thống đổi
mới, một số công ty đã cải thiện đƣợc năng lực công nghệ và bắt đầu hợp tác
với các trƣờng đại học và viện nghiên cứu.
+ Doanh nghiệp nước ngoài: Các công ty này hầu nhƣ sử dụng công
nghệ từ các công ty mẹ ở nƣớc ngoài. Từ vài năm trở lại đây, cùng với sự gia
tăng đầu tƣ của các doanh nghiệp nƣớc ngoài, nhiều công ty lớn Mỹ và châu
Âu đã bắt đầu đầu tƣ vào các phòng thí nghiệm R&D ở Trung Quốc. Điều này
cho thấy một sự chuyển đổi, môi trƣờng trong nƣớc đã có ảnh hƣởng đáng kể
đến các hoạt động R&D của các doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài.
+ Các doanh nghiệp khoa học: do các viện nghiên cứu và trƣờng đại
học thành lập. Đây là thành quả của tiến trình cải tổ nghiên cứu công. Các
công ty này trở thành một phần quan trọng trong NIS của Trung Quốc.
Khuyến khích các trƣờng đại học lập các doanh nghiệp công nghệ là biện
pháp hiệu quả để thúc đẩy các trƣờng đại học liên kết với các ngành công
nghiệp và thúc đẩy phổ biến công nghệ. Các công ty loại này ở Trung Quốc
nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt.
Thứ tư, các tổ chức tài chính
Các thị trƣờng vốn của Trung Quốc chƣa chín muồi nên khó huy động
vốn cho R&D từ khu vực tƣ nhân, do vậy Chính phủ phải đóng vai trò chủ
chốt trong cung cấp tài chính cho các hoạt động R&D. Nhƣ vậy, đầu tƣ của
nƣớc này cho R&D vẫn còn thiếu. Tuy nhiên, từ khi có Quy định về Vốn
Ngân hàng cho Công nghệ, đầu tƣ cho KH&CN quốc gia đã đƣợc tăng thêm,
2 tổ chức tín dụng ngân hàng của Trung Quốc tham gia tích cực nhất vào hoạt
động này là Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và Vốn mạo hiểm Công nghệ
cao Bắc Kinh.
Thứ năm, các tổ chức trung gian
Một khía cạnh khác của NIS Trung Quốc là sự phát triển của các hệ
49
thống đổi mới với sự giúp đỡ của các khu phát triển công nghệ cao. Có
khoảng 53 khu nhƣ vậy, và đó là một dạng công viên công nghệ cao với sự
hội tụ của các thành phần trong NIS và đƣợc hỗ trợ thuế. Các khu phát triển
công nghệ cao đƣợc thành lập liên tiếp kể từ sau sự thành công của Khu công
nghệ cao Zhongguancaun, và phần lớn đƣợc đặt tại các vùng duyên hải để thu
hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Các khu phát triển công nghệ cao đƣợc sử dụng
nhƣ nền tảng cho chuyển giao công nghệ và hoạt động ƣơm tạo. Hiệp hội
KH&CN Trung Quốc là một tổ chức phi lợi nhuận, một tổ chức phi Chính
phủ của các nhà KH&CN Trung Quốc, quy tụ 165 cơ quan đơn vị chuyên
nghiệp trong nƣớc, với tổng cộng 4,3 triện thành viên trên toàn đất nƣớc.
Nhiệm vụ chính của Hiệp hội KH&CN Trung Quốc là tổ chức các cuộc trao
đổi hàn lâm, phổ biến tri thức khoa học đến mọi ngƣời, phổ biến các quan
điểm và nguyện vọng của các nhà KH&CN và tham gia vào đánh giá và đổi
mới công nghệ.
Bảng 2.3 : Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Trung Quốc
Tên các tổ chức Website
1. Chính phủ và các cơ quan làm chính sách
Ủy ban Nhà nƣớc Hƣớng dẫn về KH&CN và
Giáo dục
www.most.gov.cn Bộ KH&CN (MOST)
2. Các doanh nghiệp
Liên đoàn các Tổ chức Kinh tế Trung Quốc
3. Các viện tri thức (Các cơ quan R&D và giáo dục)
Số lƣợng lớn các trƣờng đại học
Quỹ Khoa học Tự nhiên Quốc gia Trung Quốc www.nsfc.gov.cn
Đại học Bắc Kinh www.pku.edu.cn
Đại học Thanh Hoa www.tsinghua.edu.cn
50
4. Các trung tâm nghiên cứu công nghiệp và các tổ chức trung gian đổi mới
Các khu phát triển công nghệ cao
Hiệp hội KH&CN Trung Quốc www.cast.org.cn
5. Hệ thống tài chính
Ngân hàng Phát triển Trung Quốc www.cdb.com.cn
Vốn mạo hiểm Công nghệ cao Bắc Kinh. www.bhti.com.cn
(Nguồn: Trung tâm thông tin KH&CN quốc gia Việt Nam) [11, tr.21]
2.2.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS
của Trung Quốc
Hội nghị về Đổi mới Công nghệ Quốc gia năm 1999 đƣợc coi là cột
mốc đánh dấu bƣớc ngoặt trong chính sách KH&CN của Trung Quốc, với sự
chuyển trọng tâm sang công tác hoàn thiện NIS. Để hoàn thiện NIS, Chính
phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp, trong đó nhấn mạnh các biện
pháp sau:
Thứ nhất, khuyến khích các doanh nghiệp trở thành chủ thể chính của
NIS, nâng cao toàn bộ năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp thuộc khu vực Nhà nƣớc phải coi nhiệm vụ thành lập
hệ thống đổi mới công nghệ hiệu quả hơn và toàn diện hơn làm nội dung
chính trong việc lập ra doanh nghiệp hiện đại, coi việc nâng cao khả năng đổi
mới công nghệ và chất lƣợng quản lý làm phƣơng pháp then chốt để giúp
doanh nghiệp khắc phục khó khăn và phát triển; phấn đấu làm cho doanh
nghiệp thực sự trở thành chủ thể chính của NIS. Để tồn tại và lớn mạnh, các
doanh nghiệp cần phải hƣớng vào thị trƣờng, đẩy mạnh hoạt động R&D, tích
cực chuyển hoá và ứng dụng các thành tựu khoa học, tăng lợi ích kinh tế bằng
cách dựa vào tiến bộ công nghệ và nâng cấp công nghệ.
Thứ hai, hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp KH&CN khác nhau của
khu vực tư nhân.
Các doanh nghiệp tƣ nhân là một lực lƣợng mới ra đời trong sự phát
51
triển ngành công nghệ cao và mới ở Trung Quốc, đóng vai trò ngày càng tăng
trong hệ thống phát triển kinh tế và công nghệ ở Trung Quốc. Quỹ đổi mới
công nghệ quốc gia cho SME sẽ có nhiệm vụ hỗ trợ các doanh nghiệp khoa
học tƣ nhân, đảm bảo để họ có thể tham gia vào cạnh tranh đấu thầu các dự án
KH&CN một cách bình đẳng, xét theo quan điểm hệ thống quản lý.
Thứ ba, phát triển mạnh các tổ chức dịch vụ trung gian cho KH&CN
Các tổ chức dịch vụ trung gian cho KH&CN là những tổ chức phi
Chính phủ. Họ là những mối liên kết không thể thiếu giữa khoa học với các
khâu ứng dụng, sản xuất và tiêu dùng. Chính phủ khuyến khích một số tổ
chức nghiên cứu khoa học có tính chất tƣơng tự chuyển thành các tổ chức
dịch vụ trung gian cho KH&CN với tƣ cách là các doanh nghiệp và cũng
khuyến khích các nhà khoa học đứng ra thành lập các loại hình doanh nghiệp
này.
Thứ tư, thực hiện chính sách hỗ trợ về tài chính và thuế
Phƣơng thức đầu tƣ tài chính sẽ thay đổi, chuyển từ việc hỗ trợ thông
thƣờng sang hỗ trợ theo từng dự án; thành lập quỹ đổi mới công nghệ cho
SME, trợ giúp vốn cho việc chuyển hoá các thành tựu công nghệ cao và mới.
Thực hiện chính sách thu mua của Chính phủ, hƣớng dẫn và khuyến khích các
cơ quan Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức chọn và đặt hàng đối với
các công nghệ có chất lƣợng cao và các thiết bị/sản phẩm liên quan, thông
qua phƣơng thức kiểm soát ngân sách, đấu thầu công khai v.v… Các quỹ
R&D của Nhà nƣớc cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và giáo dục đại học,
có thể đƣợc khấu trừ thuế theo tỷ lệ nhất định.
Thuế doanh thu đối với thu nhập từ chuyển giao công nghệ, phát triển
công nghệ và liên quan đến tƣ vấn công nghệ, dịch vụ công nghệ v.v… có thể
đƣợc miễn giảm. Đối với các doanh nghiệp sản xuất và phân tích phần mềm,
thuế giá trị gia tăng đánh vào sản phẩm phần mềm sẽ đƣợc giảm 6%. Đối với
hoạt động xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao/mới thì thi hành chính sách
52
miễn thuế giá trị gia tăng. Đối với việc nhập công nghệ và thiết bị tiên tiến mà
không thể tìm đƣợc ở trong nƣớc thì thực hiện chính sách thuế ƣu đãi…
Để phát triển ngành công nghệ cao/mới, Trung Quốc cũng từng bƣớc
thành lập hệ thống đầu tƣ vốn mạo hiểm (Venture Capital), phát triển các
công ty đầu tƣ vốn mạo hiểm và các quỹ đầu tƣ mạo hiểm; đẩy nhanh việc
xây dựng các chính sách, luật định có liên quan, tiêu chuẩn hoá các hoạt động
thị trƣờng của đầu tƣ vốn mạo hiểm, hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ
cao/mới xác định để sớm thâm nhập thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống quản lý cán bộ KH&CN, khuyến khích
thương mại hoá các thành tựu KH&CN
Khi các tổ chức nghiên cứu khoa học chuyển thành doanh nghiệp, thì
hệ thống nhân sự và tiền lƣơng phải tuân thủ mọi quy chế liên quan đến doanh
nghiệp. Ở những tổ chức nghiên cứu đó, lực lƣợng lao động thƣờng xuyên sẽ
là bộ phận chính, vẫn đƣợc Chính phủ hỗ trợ. Trung Quốc xác định cần tiến
hành cải cách hệ thống chức danh hiện hành, thúc đẩy hệ thống bổ nhiệm
chức vụ theo công việc
Thứ sáu, đánh giá các thành tựu KH&CN và xúc tiến hệ thống giải
thưởng KH&CN
Nhà nƣớc sẽ thực hiện các phƣơng pháp và tiêu chuẩn đánh giá, giảm
bớt số lƣợng giải thƣởng, tăng giá trị của giải thƣởng. Thành lập giải thƣởng
KH&CN Quốc gia đặc biệt cho những tài năng xuất sắc đem lại lợi ích KT-
XH to lớn trong đổi mới công nghệ, thƣơng mại hoá và ứng dụng thành quả
KH&CN vào lĩnh vực công nghiệp.
Thứ bảy, đẩy mạnh quản lý và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT)
Chính phủ Trung Quốc cho rằng đối với các dự án KH&CN do Chính
phủ tài trợ, cần sử dụng đầy đủ mọi thông tin và sở hữu trí tuệ, lựa chọn mức
khởi điểm sao cho phù hợp, tránh nghiên cứu trùng lặp. Đối với những thành
tựu nghiên cứu khoa học đã hoàn thành cần quan tâm đăng ký quyền SHTT
53
để bảo hộ pháp lý bản quyền và lợi ích; trả lƣơng và phân chia quyền lợi thích
đáng giữa ngƣời sáng chế, ngƣời thiết kế, tác giả và những ngƣời ứng dụng
chủ yếu đối với SHTT. Tăng cƣờng hơn nữa nhận thức và thực thi về bảo hộ
SHTT.
2.2.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Trung Quốc
Với những thay đổi trong chính sách phát triển KH&CN nhƣ trên,
Trung Quốc đã trở thành quốc gia lớn về khía cạnh đầu tƣ cho đổi mới. Từ
năm 2000, Trung Quốc đã vƣơn lên vị trí thứ hai trên thế giới về số nhà
nghiên cứu, chi tiêu cho R&D đã tăng với tốc độ kinh ngạc, trung bình tăng
lên tới 19,5% hàng năm kể từ năm 2000.
Thứ nhất, các chỉ số liên quan đang tăng lên nhanh chóng cho thấy hiệu
quả của NIS, đặc biệt trong lĩnh vực trọng điểm khoa học công nghệ cao.
Tỷ lệ chi cho R&D/GDP tăng hơn gấp đôi trong một thập kỷ và đạt
1,42% năm 2006 so với 0,6% năm 1995. Tổng chi tiêu trong nƣớc cho R&D
đã tăng nhanh trong giai đoạn từ 2002 đến 2010. Về tổng thể, Trung Quốc là
nƣớc đóng góp lớn nhất cho chi tiêu R&D trong số các nƣớc không thuộc
khối OECD.
Bảng 2.4: Chi tiêu R&D của Trung Quốc từ năm 2002 – 2010
(đơn vị: % GDP)
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
%GDP 0,9 0,95 1,07 1,13 1,23 1,34 1,42 1,64 1,72
Nguồn: OECD Factbook, 2010
Các dữ liệu của OECD trong báo cáo năm 2010 cho thấy Trung Quốc
đứng thứ ba thế giới về quy mô chi tiêu R&D, chỉ sau Mỹ và Nhật Bản,
nhƣng đứng trên từng nƣớc thành viên cá thể của EU.
54
Một chỉ số khác cho thấy sự chuyển biến của các thành phần trong NIS
cũng nhƣ quan hệ giữa chúng. Trong đó, khu vực doanh nghiệp đã trở thành
chủ thể R&D chủ đạo. thực hiện 2/3 tổng R&D. Trong thời kỳ đó, tỷ lệ của
các viện nghiên cứu công đã giảm từ gần một nửa tổng R&D xuống dƣới một
phần tƣ. R&D trong khu vực giáo dục đại học không thay đổi nhiều.
Thứ hai, thị trƣờng công nghệ ngày càng mở rộng nhanh chóng, các
quan hệ công nghiệp – khoa học đã đƣợc tái cấu trúc và tăng cƣờng.
Các kênh dựa vào thị trƣờng, nhƣ hợp đồng nghiên cứu hay chuyển
giao sáng chế đóng vai trò ngày càng cao. Năm 2010, khu vực doanh nghiệp
chi tiêu trên thị trƣờng này một giá trị tƣơng đƣơng 85% chi phí R&D của họ.
Việc hình thành thị trƣờng công nghệ đã có tác động tích cực, thúc đẩy tăng
năng suất và hiệu quả nghiên cứu so với thời ký trƣớc đây. Các doanh nghiệp
đã tăng cƣờng đầu tƣ cho R&D.
Thứ ba, kiến tạo khá nhiều quan hệ gắn kết nghiên cứu với sản xuất.
Những quan hệ này bao gồm cả gắn kết theo thị trƣờng và gắn kết hiện đại
mới xuất hiện trên thế giới. Đây thành công nổi bật nhất của việc phát triển
NIS ở Trung Quốc trong thời gian qua
Hiện có khoảng 5000 công ty spin-off của trƣờng đại học hiện có tại
Trung Quốc cho thấy mối liên kết khá tốt giữa các trƣờng đại học, viện
nghiên cứu và ngành công nghiệp trong NIS của Trung Quốc. Về quan hệ gắn
kết theo hƣớng thị trƣờng, hoạt động thƣơng mại thông qua ký kết hợp đồng
tăng lên rất nhanh. Đi đôi và làm cơ sở cho hoạt động ký kết hợp đồng kỹ
thuật giữa tổ chức KH&CN và doanh nghiệp là hàng loạt đổi mới trong cơ
chế quản lý KH&CN.
Thứ tư, các viện nghiên cứu đã chuyển biến nhanh chóng thành những
doanh nghiệp KH&CN thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ thông qua cạnh
tranh trên thị trƣờng.
Trung Quốc rất khuyến khích các viện nghiên cứu chuyển thành doanh
55
nghiệp KH&CN. Tiêu chí xác định doanh nghiệp KH&CN là:
+ Doanh nghiệp vừa và nhỏ (dƣới 500 lao động);
+ Có ít nhất 30% là cán bộ khoa học;
+ Sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp phải là công nghệ cao và mới;
+ Các dự án sản xuất của doanh nghiệp đòi hỏi vốn đầu tƣ lớn, có độ
rủi ro cao, nhƣng khả năng thu lời lớn;
+ Đầu tƣ hàng năm cho nghiên cứu khoa học chiếm từ 1-10% doanh
thu của doanh nghiệp.
Với những kết quả đạt đƣợc có thể đánh giá NIS của Trung Quốc đã
đạt đƣợc nhiều bƣớc phát triển vƣợt bậc trong sự thay đổi chính sách phát
triển KH&CN dựa trên cách tiếp cận NIS.
2.3. NIS của Hàn Quốc
2.3.1. Quá trình hình thành NIS của Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc, các chính sách và hoạt động khoa học, công nghệ và đổi
mới ở nƣớc này trong những năm 60 và 70 đƣợc đặc trƣng bởi mô hình thế hệ
thứ nhất. Trong những năm 80 và 90 đƣợc đánh dấu bởi NIS thế thệ thứ hai
với đặc trƣng là hỗ trợ các tập đoàn lớn. Mô hình thế hệ thứ ba nhấn mạnh sự
liên kết của các chính sách KH&CN và đổi mới về mặt mục tiêu, ý nghĩa, hài
hoà, thời gian và không gian. Mô hình này đƣợc đặc trƣng bởi sự hoà hợp về
mặt chính sách quốc gia của toàn bộ nền kinh tế và xã hội, cũng nhƣ sự hài
hoà kinh tế vùng. Hàn Quốc đang trở thành một trong những quốc gia đi đầu
về đổi mới, với các chính sách nhằm đƣa nƣớc này bắt kịp các nƣớc G7 vào
năm 2015.
Sự thay đổi trong Chính phủ Hàn Quốc vào tháng 2 năm 2003 đã dẫn
đến những thay đổi trong chính sách của nƣớc này đối với các lĩnh vực khác
nhau, trong đó có khoa học, công nghệ và đổi mới. Xây dựng chƣơng trình
Tầm nhìn KH&CN đến năm 2012 và Lộ trình công nghệ 10 năm (2012 -
2022); Kế hoạch cơ bản phát triển KH&CN 5 năm (2012 - 2017) với mục tiêu
56
đƣa Hàn Quốc trở thành một trong số các nƣớc dẫn đầu thế giới với thu nhập
đầu ngƣời 20 - 30 ngàn USD; đất nƣớc có năng lực cạnh tranh đứng thứ 10
thế giới; xã hội thân thiện môi trƣờng; nhà nƣớc phúc lợi phát triển; trở thành
trung tâm Logistics và công nghiệp công nghệ cao tại Đông Bắc Á.
Để hƣớng tới mục tiêu này, Chính phủ Hàn Quốc đã thiết lập một cơ
cấu khung của NIS mới điều hành các chính sách, chƣơng trình khoa học,
công nghệ và đổi mới trong nhiệm kỳ của Chính phủ hiện tại. Các đặc điểm
chính của cơ cấu khung chính sách này gồm:
Một là, trọng tâm của chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sẽ
nhằm vào việc đẩy mạnh năng lực KH&CN, xây dựng và hoàn thiện NIS để
tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển tiếp theo hƣớng xã hội tri thức, thúc đẩy
phát triển các ngành công nghiệp mới và đáp ứng các thách thức cả về kinh tế
lẫn xã hội mà Hàn Quốc đang phải đối mặt. Để đẩy mạnh cơ sở nền tảng cho
phát triển KH&CN, ƣu tiên chính sách sẽ đƣợc nhằm vào việc thúc đẩy
nghiên cứu khoa học cơ bản và phát triển nguồn nhân lực có khả năng sáng
tạo về KH&CN. Đồng thời, để phát triển động lực tăng trƣởng trong tƣơng
lai, các nguồn lực R&D sẽ đƣợc tập trung vào các lĩnh vực công nghệ lựa
chọn, vốn đƣợc coi là có tầm quan trọng mang tính chiến lƣợc đối với sự phát
triển trong tƣơng lai của Hàn Quốc.
Hai là, các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sẽ đƣợc xây
dựng và thực hiện cho phù hợp với bối cảnh toàn cầu, nhằm đẩy mạnh mối
gắn kết quốc tế trong NIS, đồng thời phát triển các cơ sở khu vực về khoa
học, công nghệ và đổi mới. Hàn Quốc đặt mục tiêu đóng vai trò nhƣ một
trung tâm R&D của khu vực Đông Bắc Á.
Ba là, nhằm nâng cao hiệu qủa của đầu tƣ R&D, Chính phủ sẽ thực
hiện cải cách hệ thống R&D của khu vực Nhà nƣớc và khuyến khích sự hợp
tác và mối tƣơng tác tích cực giữa khu vực Nhà nƣớc và tƣ nhân.
Bốn là, Chính phủ khuyến khích sự tham gia của xã hội dân sự và các
57
hãng công nghiệp tƣ nhân trong quá trình hoạch định chính sách KH&CN, coi
đó nhƣ một biện pháp để phản ánh đầy đủ yêu cầu của xã hội và đẩy mạnh
một nền văn hóa thuận lợi cho đổi mới KH&CN.
Năm là, tuân theo cơ cấu khung mới, Chính phủ đã xác định sẽ phát
triển 10 lĩnh vực công nghệ, coi đó nhƣ một động cơ tăng trƣởng kinh tế trong
vòng 10 năm tới và thực hiện những kế hoạch liên bộ để phát triển các lĩnh
vực công nghệ này.
2.3.2. Các thành phần trong NIS của Hàn Quốc
Về cơ bản, các thành phần trong NIS của Hàn Quốc cũng tƣơng tự nhƣ
NIS của Trung Quốc, nó bao gồm các thành phần chính sau:
Thứ nhất, Chính phủ Hàn Quốc
Bộ KH&CN, Bộ Ngoại thƣơng, Công nghiệp và Năng lƣợng và Bộ
Viễn thông là các cơ quan ra chính sách chủ chốt, cấp tài chính cho các
chƣơng trình D&R của Chính phủ hàng năm.
Thứ hai, các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu
Nhiều trƣờng đại học nƣớc ngoài tiến hành các nghiên cứu và chƣơng
trình với trƣờng Đại học Quốc gia Seoul và trƣờng Đại học KH&CN Pohang,
cũng nhƣ với nhiều trƣờng đại học lớn khác ở Hàn Quốc, nhƣ trƣờng Đại học
Hàn Quốc, trƣờng Đại học Sohang, trƣờng Đại học Pusan và trƣờng Đại học
Hanyang. Từ vài năm trở lại đây đã có nhiều sự hợp tác quốc tế giữa các
trƣờng đại học trong nƣớc với các trƣờng đại học lớn của thế giới nhƣ MIT và
Stanford University. Các trung tâm nghiên cứu khoa học và trung tâm nghiên
công trình đƣợc thành lập năm 1989, tập trung vào nghiên cứu đổi mới trong
các ngành khoa học cơ bản và các công nghệ mới; trong khi đó các trung tâm
nghiên cứu vùng tập trung vào nghiên cứu hợp tác giữa các trƣờng đại học
vùng và ngành công nghiệp trong nƣớc. Một khi đƣợc lựa chọn, các trung tâm
này sẽ nhận đƣợc tài trợ từ Chính phủ trong thời gian 9 năm, nếu việc đánh
giá (diễn ra 3 năm một lần) cho thấy nó phát triển tốt. Cho tới nay đã có 36
58
trung tâm nghiên cứu khoa học, 47 trung tâm nghiên cứu công trình và 37
trung tâm nghiên cứu vùng đƣợc lựa chọn và đƣợc cấp tài chính.
Thứ ba, doanh nghiệp và các tổ chức tài chính
Khu vực doanh nghiệp Hàn Quốc đƣợc ngự trị bởi một số tập đoàn
lớn, có tiềm lực nghiên cứu và luôn nắm bắt đƣợc thị trƣờng với các sản phẩm
đổi mới. Chi tiêu cho nghiên cứu của doanh nghiệp là khá cao so với các viện
nghiên cứu. Bên cạnh các doanh nghiệp lớn là các SME đƣợc hỗ trợ bởi Cơ
quan Quản lý SME của Hàn Quốc. Cơ quan này có nhiệm vụ chính là khuyến
khích doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho hợp tác giữa SME với các cơ quan
nghiên cứu hoặc giữa chúng với nhau.
Bảng 2.5: Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Hàn Quốc
Tên các tổ chức Website
1. Chính phủ và các cơ quan làm chính sách
Bộ KH&CN (MOST) www.most.go.kr
Hội đồng KH&CN Quốc gia (NSTC)
Cơ quan Liên lạc Công cộng KH&CN www.pcstnetwork.org
Bộ Thƣơng mại, Công nghiệp và Năng lƣợng www.mocie.go.kr
Bộ Viễn thông www.mic.go.kr
Các doanh nghiệp 2.
Các viện tri thức (Các cơ quan R&D và giáo dục) 3.
Đại học Quốc gia Seoul www.snu.ac.kr
Đại học KH&CN Pohang
Đại học Hàn Quốc Đại học Hàn Quốc Đại học Sohang
Đại học Sohang Đại học Pusan www.postech.ac.kr www.postech.ac.kr www.korea.ac.kr www.korea.ac.kr www.sogang.ac.kr www.sogang.ac.kr www.pusan.ac.kr
Đại học Hanyang Đại học Pusan www.hanyang.ac.kr www.pusan.ac.kr
Đại học Hanyang Đại học KH&CN Pohang www.hanyang.ac.kr
59
Đại học Hàn Quốc
Đại học Sohang
4. Các trung tâm nghiên cứu công nghiệp và các tổ chức trung gian đổi
mới
Viện KH&CN Tiên tiến Hàn Quốc
5. Hệ thống tài chính
Cơ quan Quản lý Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa www.smba.go.kr
của Hàn Quốc
Invest KOREA
(Nguồn: Trung tâm thông tin KH&CN quốc gia Việt Nam) [12, tr.25]
2.3.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS
của Hàn Quốc
Kể từ những năm 70, Hàn Quốc đã thông qua và áp dụng các chƣơng
trình chính sách khác nhau nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc hoàn
thiện NIS, trong đó có các biện pháp khuyến khích về thuế, hỗ trợ về mặt tài
chính, tài trợ R&D, v.v... Các chƣơng trình hỗ trợ hiện tại phần lớn đều đƣợc
giữ nguyên, nhƣng sẽ đƣợc đẩy mạnh hơn nữa trong các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, mở rộng sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật cho các SME và
các doanh nghiệp mới khởi sự như:
+ Chấp nhận công nghệ (tài sản tri thức) nhƣ một khoản thế chấp để
vay ngân hàng;
+ Tài trợ cho các SME để thuê mƣớn nhân lực R&D;
+ Cung cấp cho các SME thông tin và dịch vụ kỹ thuật.
Thứ hai, thúc đẩy sự hợp tác ba bên Viện nghiên cứu công - Trường đại
học - Ngành công nghiệp:
+ Cùng tiến hành R&D;
+ Chia sẻ các phƣơng tiện nghiên cứu;
+ Tăng cƣờng tính hiệu lực của các chƣơng trình khuyên khích về thuế
nhằm thúc đẩy R&D tƣ nhân;
60
+ Cải tiến hệ thống quốc gia về tiêu chuẩn kỹ thuật và đẩy mạnh bảo hộ
sở hữu trí tuệ.
Một số nỗ lực khác cũng đang đƣợc huy động nhằm hoàn thiện NIS.
Chính phủ Hàn Quốc đã đặt ra mục tiêu chính sách lâu dài là phát triển Hàn
Quốc thành một trung tâm R&D trong khu vực Đông Bắc Á, tận dụng lợi thế
về vị trí địa kinh tế của Hàn Quốc trong khu vực. Để tƣ vấn cho Tổng thống
về vấn đề này và để phát triển các chƣơng trình chính sách nhằm chuyển hóa
đất nƣớc thành một trung tâm R&D của khu vực Đông Bắc Á, một ủy ban đặc
biệt đã đƣợc thành lập trực thuộc Văn phòng Tổng thống. Ủy ban này hợp tác
với các Bộ và các cơ quan hữu quan và với khu vực tƣ nhân để tạo lập nên
những môi trƣờng về văn hóa, xã hội, kinh tế và vật chất cần thiết để thu hút
đầu tƣ R&D nƣớc ngoài.
Hàn Quốc đã theo đuổi hai định hƣớng chính sách: một chính sách dài
hạn nhằm mở rộng nhu cầu nghiên cứu khoa học trong các ngành công
nghiệp, bên cạnh đó Chính phủ thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp
mang hàm lƣợng tri thức và khoa học cao.
Song song với việc thực hiện hai định hƣớng chính sách trên, các nỗ
lực chính sách trung và ngắn hạn cũng đang đƣợc huy động nhằm làm cho hệ
thống khoa học phản ứng nhanh hơn trƣớc những thay đổi về nhu cầu:
+ Để hợp nhất các mối quan tâm của ngành công nghiệp vào trong các
quá trình chính sách KH&CN và R&D quốc gia, Chính phủ đã bổ nhiệm các
vị lãnh đạo từ ngành công nghiệp làm thành viên của Hội đồng KH&CN
Quốc gia, nơi điều hành chính sách KH&CN và điều phối sự phân bổ các
nguồn lực R&D.
+ Các hãng công nghiệp đƣợc khuyến khích tham gia vào việc quản lý
các viện nghiên cứu công bằng cách đƣợc mời tham gia vào các ban thuộc
Hội đồng Nghiên cứu, nơi chịu trách nhiệm điều hành các tổ chức R&D của
Chính phủ.
61
+ Chính phủ khuyến khích các hãng công nghiệp tham gia vào các
chƣơng trình R&D quốc gia. Các kiến nghị nghiên cứu liên quan đến các
hãng công nghiệp đƣợc đối xử ƣu đãi trong quá trình cung cấp tài trợ.
+ Chính phủ cố gắng làm giảm những trợ ngại về thể chế nhằm khuyến
khích các viện nghiên cứu công có thể tìm kiếm các nguồn tài trợ ở bên ngoài,
dựa trên cơ sở năng lực của họ đáp ứng đƣợc các yêu cầu của ngƣời sử dụng.
Chính phủ còn cải tiến các luật lệ chi phối các hoạt động của các tổ chức
nghiên cứu công nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện hình thành các sản phẩm phụ
từ nghiên cứu.
2.3.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Hàn Quốc
Kể từ khi thực hiện mô hình NIS thế hệ thứ ba đến nay, Hàn Quốc
không ngừng hoàn thiện NIS của mình và đƣợc đánh giá là một trong số ít các
nƣớc ở châu Á có NIS phát triển nhanh chóng, là thách thức cạnh tranh với
châu Âu, nhất là đầu tƣ về đổi mới công nghệ với tầm nhìn dài hạn.
Thứ nhất, đầu tƣ cho đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ
ngày càng tăng.
Xét ở phƣơng diện này, chi tiêu cho R&D đang giữ ở mức ổn định sau
sự gia tăng đáng kể trong giai đoạn 2002 - 2010. Theo số liệu thống kê công
bố năm 2010 của OECD cho thấy tỷ lệ đầu cho R&D ngày càng tăng:
Bảng 2.6 : Chi tiêu R&D của Hàn Quốc từ năm 2002 – 2010
(đơn vị: % GDP)
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
%GDP 2,3 2,47 2,40 2,49 2,68 2,79 3,01 3,21 3,32
Nguồn: OECD Factbook, 2010
Thứ hai, cơ sở hạ tầng của NIS Hàn Quốc mạnh, đủ khả năng đáp ứng
62
yêu cầu của sự phát triển. Các khu công nghệ cao, viện nghiên cứu gắn liền
với doanh nghiệp và các doanh nghiệp spin – off đang trở thành cơ sở hạ tầng
vững chắc cho việc hoàn thiện NIS của Hàn Quốc.
Thứ ba, các doanh nghiệp – trung tâm của NIS Hàn Quốc ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết và thắt chặt với các thành phần
khác trong hệ thống nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ, gắn liền khu vực
nghiên cứu với khu vực sản xuất. Các doanh nghiệp Hàn Quốc có đóng góp
cho đổi mới công nghệ ngày càng tăng, năm 2010 tỷ lệ đóng góp này là
76,6%, trong khi các viện nghiên cứu đóng góp 8,9% và các trƣờng đại học
là 14,5%.
Cũng giống nhƣ Nhật Bản, NIS của Hàn Quốc ngày càng mạnh với một
bộ máy tập trung, có sự phân cấp và sự cộng lực chặt chẽ giữa các cơ quan
chủ chốt và các thành phần trong hệ thống. Đây là điểm mạnh nổi bật trong
NIS của Hàn Quốc.
2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Không thể xem nhẹ xu hƣớng chung của nhiều quốc gia ở các trình độ
phát triển khác nhau từ mấy thập kỷ gần đây trong việc thay đổi tƣ duy, quan
niệm và cách tiếp cận hoạch định chiến lƣợc phát triển quốc gia trong bối
cảnh toàn cầu hóa. Ngay cả ở Việt Nam, vấn đề đã chính thức đƣợc thừa nhận
từ nhiều năm nay và cũng không còn phải hoài nghi, phải chứng minh tính tất
yếu, hoặc đối phó với quá trình toàn cầu hóa mà chủ yếu là nỗ lực để tìm cách
tham gia sao cho có hiệu quả vào quá trình này. Toàn cầu hóa trong kinh tế và
phát triển tất yếu dẫn đến hình thành những chuẩn mực, quy tắc chung chi
phối các quan hệ hợp tác, cạnh tranh giữa các quốc gia trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và KH&CN nói riêng, gián tiếp liên quan đến
cả việc hình thành một số chuẩn mực chung trong tƣ duy, quan niệm và cách
tiếp cận hoạch định chiến lƣợc phát triển. Cuộc họp cấp bộ trƣởng của các
nƣớc thành viên Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đầu năm 2007
63
tại Paris (Pháp) đã khuyến cáo các nƣớc thành viên sử dụng cách tiếp cận
tổng thể về NIS và sử dụng một khung khổ chiến lƣợc, chính sách rộng lớn
hơn thay cho các cách tiếp cận bộ phận với từng chính sách riêng rẽ cho từng
lĩnh vực trong hoạch định chính sách và chiến lƣợc phát triển. Đây là hệ quả
tất yếu của một thực tế là, hầu hết các quốc gia thuộc OECD đã từ bỏ cách
tiếp cận bộ phận, chuyển sang áp dụng cách tiếp cận mới ở tầm tổng thể,
mang tính chuẩn mực trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt
trong hoạt động KH&CN.
Thứ nhất, cần xác lập mục tiêu và tầm nhìn ngắn hạn, dài hạn với
những bước đi thận trọng, có lựa chọn, có lộ trình cụ thể
Nhìn chung, kinh nghiệm các nƣớc có khác nhau nhƣng đều thể hiện 3
lớp mục tiêu chủ yếu:
1) Các mục tiêu chung theo cách tiếp cận hệ thống đổi mới đặt ra chung
cho cả phát triển kinh tế - xã hội và KH&CN;
2) Các mục tiêu cho nghiên cứu cơ bản và các lĩnh vực công nghệ ƣu
tiên;
3) Các mục tiêu ứng dụng công nghệ trong một số ngành, lĩnh vực, sản
phẩm trọng điểm quốc gia.
Việt Nam nên và hoàn toàn có thể tham khảo cấu trúc xác định và diễn
đạt mục tiêu này trong quá trình xây dựng Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai
đoạn 2011-2020. Cụ thể:
Kinh nghiệm của Hàn Quốc nổi bật trong việc xác lập đƣợc mối liên hệ
chặt chẽ, thống nhất giữa mục tiêu phát triển quốc gia và mục tiêu phát triển
KH&CN. Việc xác định 99 công nghệ then chốt cần ƣu tiên phát triển trong
giai đoạn 2012-2022 đƣợc căn cứ vào và cụ thể hóa từ 13 định hƣớng phát
triển và 49 sản phẩm và dịch vụ chiến lƣợc quốc gia. Đến lƣợt nó, 49 sản
phẩm và dịch vụ chiến lƣợc quốc gia lại đƣợc căn cứ vào và cụ thể hóa từ 5
64
mục tiêu thể hiện tầm nhìn quốc gia vào năm 2022, trong đó mấu chốt nhất là
mục tiêu trở thành quốc gia có năng lực cạnh tranh đứng thứ 10 thế giới, thu
nhập bình quân đầu ngƣời đạt từ 20.000 đến 30.000 USD.
Trung Quốc trong khi sử dụng cách tiếp cận hệ thống đổi mới để gắn
các mục tiêu KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội thì vẫn duy trì 3 loại mục
tiêu: Các mục tiêu cho nghiên cứu cơ bản, mục tiêu về phát triển một số công
nghệ then chốt và mục tiêu ứng dụng công nghệ trong một số lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân. Điều đáng lƣu ý trong kinh nghiệm xác định mục tiêu
của Trung Quốc là việc đƣa ra thứ hạng cụ thể cho năng lực sáng tạo
KH&CN đứng vào hàng ngũ 5 cƣờng quốc về KH&CN trên thế giới và phấn
đấu đƣa ra các kết quả KH&CN có ảnh hƣởng ở tầm thế giới.
Nhật Bản sử dụng tầm nhìn “ Innovation 25 ” để đƣa ra và diễn đạt mục
tiêu chung của quốc gia, sau đó thông qua các dự án nhìn trƣớc công nghệ để
lựa chọn ra 13 lĩnh vực và 858 công nghệ trọng điểm đƣợc ƣu tiên phát triển.
Thứ hai, đổi mới tư duy về KH&CN, xây dựng và cải cách thể chế, tạo
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của NIS nhằm thúc đẩy đổi mới công
nghệ
Đây là bài học có ý nghĩa lớn đối với Việt Nam. Để thúc đẩy sự phát
triển của NIS ở Việt Nam hiện nay, một tác nhân quan trọng đó là phải tạo lập
đƣợc môi trƣờng, thể chế xã hội thích hợp. Ở cả 3 quốc gia Nhật Bản, Trung
Quốc và Hàn Quốc, vấn đề xây dựng một thể chế linh hoạt đƣợc coi là chủ
chốt nhằm phát triển NIS. Trƣớc hết là tạo lập hành lang pháp lý vững chắc,
hoàn thiện các bộ luật nhƣ: luật kinh doanh, luật sở hữu trí tuệ, luật đầu tƣ…
Phải tạo ra sự cộng lực giữa các bộ/ngành, các hoạt động liên quan đến đổi
mới nhƣ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và phát triển và sản xuất kinh doanh.
Tạo lập môi trƣờng kinh doanh sôi động, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng,
chống độc quyền, chống bao cấp, từ bỏ tƣ duy kinh tế hiện vật. Thể chế đƣợc
coi là “khớp nối” gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu với ứng dụng các kết quả
65
nghiên cứu trong sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, thúc đẩy các đơn vị KH&CN nghiên cứu triển khai sang hình
thức hoạt động như một doanh nghiệp
Đây là xu hƣớng diễn ra ở nhiều nƣớc trên thế giới nói chung và 3
quốc gia Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là những quốc gia đi đầu trong
việc chuyển đổi này. Tuy nhiên việc chuyển đổi này cần thực hiện một cách
thận trọng, tránh việc chuyển đổi nhanh, đột ngột và đồng loạt ở các cơ sở
nghiên cứu sang hoạt động theo cơ chế thị trƣờng thì có thể ảnh hƣởng lâu dài
tới sự phát triển của khoa học công nghệ. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong
việc chuyển đổi dần các tổ chức nghiên cứu và triển khai sang hoạt động theo
cơ chế thị trƣờng là bài học tốt cho Việt Nam.
Thứ tư, nhận thức được vai trò trung tâm của các doanh nghiệp trong
NIS
Theo bản chất của cách tiếp cận NIS thì chính doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp lớn là trung tâm của đổi mới chứ không phải các viện
nghiên cứu hay các tổ chức nghiên cứu. Do đó việc nâng cao vai trò của các
doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng mà các quốc gia chú
trọng nhất nhằm phát triển NIS. Để tồn tại và lớn mạnh, các doanh nghiệp cần
phải hƣớng vào thị trƣờng, đẩy mạnh hoạt động R&D, tích cực chuyển hoá và
ứng dụng các thành tựu khoa học, tăng lợi ích kinh tế bằng cách dựa vào tiến
bộ công nghệ và nâng cấp công nghệ. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm
của Trung Quốc về khuyến khích các doanh nghiệp trở thành chủ thể chính
của NIS, nâng cao toàn bộ năng lực công nghệ của doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ
doanh nghiệp công nghệ nhỏ của Trung Quốc. Đây là một Quỹ đặc biệt đƣợc
lập ra để hỗ trợ đổi mới. Bằng các biện pháp phân bổ, cho vay và đầu tƣ cổ
phiếu, Quỹ này nhằm mục đích hỗ trợ và khuyến khích các hoạt động đổi mới
công nghệ, tạo điều kiện chuyển hoá các sản phẩm nghiên cứu khoa học và
chi cho quá trình công nghiệp hoá ở những ngành công nghiệp cao và mới.
66
Quỹ này đóng vai trò tích cực trong việc tối ƣu hoá hỗn hợp sản phẩm và
ngành, tăng cầu thị trƣờng nội địa, tạo ra việc làm mới, thúc đẩy phát triển
kinh tế. Các mục tiêu chủ yếu của Quỹ là nhƣ sau:
+ Hỗ trợ đổi mới công nghệ ở các SME có năng lực công nghệ mạnh;
+ Giúp đỡ phát triển công nghệ tại các SME có hoạt động mạnh về
công nghệ;
+ Tạo điều kiện thuận lợi để thƣơng mại hoá công nghệ;
+ Phát triển các SME mang về công nghệ với những đặc trƣng của
Trung Quốc.
Đây là thực tiễn tốt mà Việt Nam có thể học hỏi. Với đặc thù của các
doanh nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc đầu tƣ cho
đổi mới công nghệ của họ là vô cùng khó khăn. Do đó việc thành lập quỹ hỗ
trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣ ở Trung Quốc là một trong những gợi ý
chính sách giúp các doanh nghiệp của chúng ta có thêm nguồn kinh phí để
đầu tƣ cho đổi mới công nghệ.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc về hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp
SME nhƣ:
+ Chấp nhận công nghệ (tài sản tri thức) nhƣ một khoản thế chấp để
vay ngân hàng;
+ Tài trợ cho các SME để thuê mƣớn nhân lực R&D;
+ Cung cấp cho các SME thông tin và dịch vụ kỹ thuật.
Thứ năm, tăng cường đầu tư cho KH&CN, phát triển cơ sở hạ tầng
KH&CN, thiết lập các tổ chức tài chính trung gian cho việc phát triển NIS
Phân tích giải pháp của 3 quốc gia trên đều cho thấy đầu tƣ cho
KH&CN là nhân tố quan trọng thúc đẩy đổi mới công nghệ, tỷ lệ chi cho
KH&CN ngày càng tăng trong tổng NSNN. Vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng
cũng đƣợc chú trọng nhƣ ở Nhật Bản, các công viên khoa học và cơ sở ƣơm
tạo trong NIS có vai trò lớn trong việc củng cố và hoàn thiện NIS. Bên cạnh
67
đó việc thành lập các tổ chức tài chính trung gian có ý nghĩa to lớn, cốt lõi là
vấn đề ƣu đãi thuế và vốn mạo hiểm. Đây là một hình thức tài chính quan
trọng đƣợc tất cả các nƣớc sử dụng để tạo điều kiện cho các tổ chức nghiên
cứu triển khai hoạt động trong cơ chế thị trƣờng nhƣ miễn giảm thuế nhập
khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, miễn giảm thuế
gián thu đối với việc bán sản phẩm nghiên cứu nhƣ kinh nghiệm của Trung
Quốc, của Hàn Quốc; thực hiện chế độ khấu hao đặc biệt đối với máy móc
phục vụ cho nghiên cứu nhƣ kinh nghiệm của Nhật Bản. Ƣu đãi thuế có tác
động một cách gián tiếp đến sự phát triển của KH&CN.
Tóm lại, thời đại toàn cầu hóa kinh tế và xu thế đẩy mạnh hợp tác quốc
tế đã đặt ra nhiều thách thức với các nƣớc đi sau, nhƣng cũng đồng thời tạo ra
nhiều cơ hội để học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong hoạch định các chiến lƣợc
và chính sách phát triển nói chung và KH&CN nói riêng. Kinh nghiệm hoạch
định chiến lƣợc và chính sách phát triển KH&CN mà nhiều nƣớc đã trải qua
(với cả những thành công và thất bại) trong những bối cảnh lịch sử cụ thể của
mỗi nƣớc thật sự có thể gợi suy nhiều điều cho Việt Nam. Quá trình xây dựng
Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lƣợc phát triển KH&CN Việt
Nam giai đoạn 2011-2020 không thể tách rời và sẽ khó thành công nếu không
68
tham khảo những bài học kinh nghiệm đó.
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH NHẰM PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam
3.1.1. Cách tiếp cận của Việt Nam về NIS
Toàn cầu hóa trong kinh tế và phát triển tất yếu dẫn đến hình thành
những chuẩn mực, quy tắc chung chi phối các quan hệ hợp tác, cạnh tranh
giữa các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa nói chung và
KH&CN nói riêng, và gián tiếp liên quan đến cả việc hình thành một số chuẩn
mực chung trong tƣ duy, quan niệm và cách tiếp cận hoạch định chiến lƣợc
phát triển. Cuộc họp cấp Bộ trƣởng của các nền kinh tế OECD đầu năm 2007
tại Paris (Pháp) đã khuyến cáo các nƣớc thành viên sử dụng cách tiếp cận
tổng thể về NIS và sử dụng một khuôn khổ chiến lƣợc và chính sách rộng lớn
hơn thay cho các cách tiếp cận bộ phận với từng chính sách riêng rẽ cho từng
lĩnh vực phát triển kiểu truyền thống trong hoạch định chính sách và chiến
lƣợc phát triển. Sự việc này là hệ quả tất yếu của một thực tế là hầu hết các
quốc gia thuộc Tổ chức OECD đã từ bỏ cách tiếp cận bộ phận chuyển sang áp
dụng cách tiếp cận mới ở tầm tổng thể mang tính chuẩn mực trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả trong hoạt động KH&CN.
Trƣớc đổi mới, nền kinh tế nƣớc ta hoạt động theo cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, mọi hoạt động đều mang tính áp đặt, không có sự tƣơng tác
trong nền kinh tế. Nhà nƣớc thực thi các chính sách riêng rẽ, độc lập. Đây
chính là cách tiếp cận bộ phận mang tính chất truyền thống. Cách tiếp cận bộ
phận này đã cản trở sự phát triển của nền kinh tế, nghiên cứu xa rời với thực
tiễn hoạt động sản xuất.
Kể từ sau đổi mới, tƣ duy về tiếp cận hệ thống ở Việt Nam đã dần đƣợc
69
hình thành. Các chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đã chú ý tới tính tổng thể
và gắn kết với thực tiễn. Đó chính là cơ sở của sự hình thành cách tiếp cận về
NIS. Tuy nhiên, cách tiếp cận NIS về khoa học công nghệ ở nƣớc ta còn là
một vấn đề khá mới, cả từ góc độ nền kinh tế nói chung cũng nhƣ góc độ
doanh nghiệp nói riêng.
Sự tăng trƣởng của nền kinh tế Việt Nam trong vòng hơn 20 năm qua
đến chủ yếu từ các yếu tố đầu vào - vốn và lao động và tăng trƣởng theo chiều
rộng, trong khi tỷ trọng của các yếu tố nhƣ công nghệ, tri thức còn thấp, dẫn
đến các hạn chế trong năng suất và tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Trƣớc bối cảnh đó, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã xác định:
“Phát triển KH&CN nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc, phát triển kinh tế tri thức, vƣơn lên trình độ tiên tiến của thế
giới” [2, tr.78].
Bên cạnh đó, Nghị định số 677/QĐ-Ttg của Thủ tƣớng Chính phủ về
việc “Phê duyệt chƣơng trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020”
ngày 10/05/2011 cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng NIS đối
với phát triển KH&CN giai đoạn 2011 – 2020, coi đó là một trong những
điểm cốt lõi nhất trong chính sách nhằm phát triển KH&CN nƣớc nhà.
Đối với Việt Nam - nƣớc đang tiến hành công nghiệp hóa, đang chủ
động, tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh việc tổng kết, rút
kinh nghiệm quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lƣợc phát triển
đến năm 2020, việc xác định cách tiếp cận về NIS đã đƣợc nhiều nhà nghiên
cứu, hoạch định chính sách quan tâm.
Có thể khái quát cách tiếp cận của Việt Nam về NIS về KH&CN nhƣ
sau:
Một là, tiếp cận chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới thay cho
chính sách KH&CN thuần túy.
Hai là, áp dụng cách tiếp cận nhìn trƣớc công nghệ, xây dựng tầm nhìn
70
2020, xây dựng mục tiêu trong tƣơng lai và các lộ trình công nghệ quan trọng
then chốt (Thể hiện rõ trong Nghị định 677/QĐ-Ttg ngày 10/05/2011 của Thủ
tƣớng Chính phủ)
Ba là, chú trọng hình thành và nâng cao vai trò của các doanh nghiệp đổi
mới.
Bốn là, đầu tƣ nâng cấp cơ sở hạ tầng, chú trọng đào tạo nhân lực và
đổi mới cơ chế quản lý KH&CN hƣớng vào nâng cao năng lực cạnh tranh về
kinh tế và KH&CN.
3.1.2. Sự hình thành và phát triển của Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt
Nam và đặc điểm của nó
3.1.2.1. Sự hình thành và phát triển NIS ở Việt Nam
Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trƣớc, Việt Nam đã ban hành một
loạt các biện pháp chính sách với mục tiêu xây dựng một hạ tầng cơ sở R&D
mạnh, thúc đẩy chuyển giao tri thức và công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự tƣơng tác giữa các nhân tố trong NIS. Đặc biệt từ sau khi ban hành Nghị
quyết Trung ƣơng 2, khoá VIII của Đảng về phát triển KH&CN trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, KH&CN Việt Nam đã có những
bƣớc phát triển mới, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và của
KH&CN trong phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bài viết nhan đề “Phát triển thị trƣờng KH&CN” trong Tạp chí
Cộng sản số 10/2004, Giáo sƣ Vũ Đình Cự đƣa ra những nhận định dƣới đây:
“NIS là một trong bốn trụ cột chủ yếu của kinh tế tri thức, đồng thời là
công cụ hàng đầu để liên tục nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm KH&CN
nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung, chủ yếu bằng đổi mới công nghệ.
Đó là một mạng lƣới bao gồm tất cả các cơ sở khoa học và công nghệ, các tổ
chức quy hoạch chiến lƣợc, các doanh nghiệp, các tổ chức quản lý KH&CN
nối mạng với nhau, cũng là tổng hợp các hệ thống đổi mới của vùng, ngành,
doanh nghiệp với sự phối hợp ngang, dọc, trong phạm vi cả nƣớc. Ở các nƣớc
71
OECD và nhiều nƣớc đang phát triển, NIS đã đƣợc hình thành từ vài chục
năm nay, ngày càng đƣợc củng cố. Thiếu NIS thì việc tăng đầu tƣ cho
KH&CN không cho hiệu quả nhƣ mong muốn” [1]
Chỉ có một NIS nhƣ vậy mới có điều kiện để các nhà lãnh đạo quốc gia
biết đƣợc danh mục các mặt hàng chủ yếu, các công nghệ cần phát triển, các
bƣớc đi về kinh tế đối ngoại cần tiến hành… sẽ bảo đảm cạnh tranh thắng lợi
trong vài năm tới (3 năm hoặc 5 năm) và về lâu dài. Có thể nói, NIS là động
lực phát triển thị trƣờng KH&CN. Nếu không có hệ thống này, hoặc có nhƣng
hệ thống hoạt động kém, thì thị trƣờng KH&CN rất dễ bị biến động, dễ dẫn
đến khủng hoảng.
Ở nƣớc ta hiện nay chƣa có NIS hoàn chỉnh, chúng ta mới đang trong
quá trình tạo lập các yếu tố của hệ thống. Do đó, việc hoàn thiện NIS rất cần
thiết và là một nhu cầu bức xúc, do phải tăng nhanh sức cạnh tranh của nền
kinh tế để hội nhập. Một số bộ phận của hệ thống này đã hình thành, tuy còn
ở tình trạng sơ khai. Ví dụ, hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngƣ
thực hiện chức năng cầu nối giữa viện nghiên cứu, trƣờng Đại học về nông
nghiệp với các cơ sở sản xuất nông nghiệp. Cũng đã manh nha các hệ thống
tƣơng tự của các ngành, vùng, doanh nghiệp.
Mặc dù Việt Nam chƣa có cơ quan của Chính phủ chuyên trách về
chính sách đổi mới nhƣng Bộ KH&CN đƣợc xem nhƣ cơ quan nhà nƣớc duy
nhất, có chức năng giúp đỡ Chính phủ trong việc hoạch định, xây dựng và tổ
chức thực hiện các chính sách trong lĩnh vực KH&CN, bộ phận cơ bản nhất
cấu thành NIS. Bộ KH&CN là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nƣớc về KH&CN, bao gồm:
+ Hoạt động nghiên cứu khoa học
+ Phát triển tiềm lực KH&CN
+ Sở hữu trí tuệ
+ Tiêu chuẩn đo lƣờng chất lƣợng
72
+ Năng lƣợng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân
+ Quản lý nhà nƣớc về các dịch vụ công trong lĩnh vực KH&CN theo
quy định của pháp luật.
Bên cạnh Bộ KH&CN, Hội đồng chính sách KH&CN quốc gia cũng
đƣợc thành lập và các cơ quan tham vấn của Chính phủ về những vấn đề quan
trọng đến chính sách phát triển KH&CN quốc gia.
Hệ thống các cơ quan trong việc hoạch định chính sách phát triển NIS
ở Việt Nam đƣợc mô tả trong mô hình sau đây:
Quốc hội
Đảng Cộng sản Việt Nam
Chính phủ
Hội đồng chính sách KH&CN
Bộ KH&CN
UBND các tỉnh, Thành phố Bộ, ngành Trung ƣơng
Vụ KH&CN các Bộ, ngành Sở KH&CN
Doanh nghiệp
Viện nghiên cứu, trƣờng đại học
Hình 3.1: Sơ đồ hệ thống các cơ quan, tổ chức tham gia vào
hoạch định chính sách phát triển NIS ở Việt Nam [14]
Nhƣ vậy, ở Việt Nam các cơ quan trong việc hoạch định chính sách
73
phát triển NIS bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nƣớc CHXHCN
Việt Nam, Chính phủ, các Bộ/ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ƣơng, các Vụ KH&CN của các Bộ/ngành cũng nhƣ các tổ
chức cơ quan R&D, các doanh nghiệp, các trƣờng Đại học tham gia vào quá
trình hoạch định chính sách trong lĩnh vực KH&CN.
Sau khi gia nhập tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), Việt Nam đã
không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình để cam kết với
WTO và thực hiện hội nhập quốc tế. Việt Nam đã xây dựng và ban hành một
số hệ thống khung pháp lý tƣơng đối đồng bộ và đầy đủ cho các chính sách
đổi mới nhƣ:
+ Luật sở hữu trí tuệ;
+ Luật thƣơng mại;
+ Luật Công nghệ thông tin;
+ Luật Giao dịch điện tử;
+ Luật KH&CN;
+ Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật;
+ Luật chuyển giao công nghệ;
+ Luật Công nghệ cao;
+ Luật Chất lƣợng sản phẩm hàng hoá;
+ Luật Đầu tƣ;
+ Luật doanh nghiệp;
+ Luật Giáo dục…
Bên cạnh đó là hệ thống các văn bản (Nghị định, Thông tƣ) hƣớng dẫn
thi hành. Phải nói rằng đây là nỗ lực rất lớn của Nhà nƣớc Việt Nam trên
phƣơng diện xây dựng môi trƣờng pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực thi NIS nhằm phát triển KH&CN.
Ngoài các đạo luật quan trọng trên, Chính phủ và Thủ tƣớng đã ban
74
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm khuyến khích việc đầu tƣ cho
KH&CN, thúc đẩy việc ứng dụng và đổi mới công nghệ trong các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhƣ:
+ Nghị định số 119/1999/NĐ-CP về một số chính sách và cơ chế
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tƣ vào KH&CN (Đây là Nghị định đầu
tiên nêu ra vấn đề hình thành NIS nhằm thúc đẩy KH&CN phát triển);
+ Nghị định số 122/2003/NĐ-CP về thành lập quỹ phát triển KH&CN
Quốc gia;
+ Nghị định số 115/2005/NĐ-CP về cơ chế tự chủ của các tổ chức
KH&CN của Nhà nƣớc;
+ Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN;
+ Quyết định số 214/2005/QĐ-TTg về Phê duyệt đề án phát triển thị
trƣờng công nghệ;
+ Nghị định số 96/2010/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điểm
của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP;
+ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia;
Đặc biệt, năm 2011, Thủ tƣớng Chính phủ ra Nghị định 677/QĐ-TTg
ngày 10/05/2011 quyết định về Chiến lƣợc phát triển KH&CN Việt Nam đến
năm 2020 với mục tiêu:
“1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật và công nghệ; đƣa khoa học và công nghệ thực sự trở thành
động lực then chốt, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nƣớc công nghiệp
theo hƣớng hiện đại. Đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam có một
số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến, hiện đại của khu vực ASEAN và thế giới.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Đến năm 2020, khoa học và công nghệ góp phần đáng kể vào tăng
trƣởng kinh tế và tái cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và
75
sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP. Tốc độ đổi mới
công nghệ, thiết bị đạt 10 - 15%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và trên 20%/năm
giai đoạn 2016 - 2020. Giá trị giao dịch của thị trƣờng khoa học và công nghệ
tăng trung bình 15 - 17%/năm.
b) Số lƣợng công bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách
nhà nƣớc tăng trung bình 15 - 20%/năm. Số lƣợng sáng chế đăng ký bảo hộ
giai đoạn 2011 - 2015 tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006 - 2010, giai đoạn
2016 - 2020 tăng 2 lần so với giai đoạn 2011 - 2015, trong đó đặc biệt tăng
nhanh số lƣợng sáng chế đƣợc tạo ra từ các chƣơng trình khoa học và công
nghệ trọng điểm cấp Nhà nƣớc.
c) Phấn đấu tăng tổng đầu tƣ xã hội cho khoa học và công nghệ đạt
1,5% GDP vào năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020. Bảo đảm mức đầu
tƣ từ ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và công nghệ không dƣới 2% tổng chi
ngân sách nhà nƣớc hàng năm.
d) Đến năm 2015, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ đạt 9 - 10 ngƣời trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc
tế 5.000 kỹ sƣ đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất
công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ƣu tiên phát triển của đất nƣớc.
Đến năm 2020, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
đạt 11 - 12 ngƣời trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế
10.000 kỹ sƣ đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất
công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ƣu tiên phát triển của đất nƣớc.
đ) Đến năm 2015, hình thành 30 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng
dụng đạt trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề
trọng yếu quốc gia đặt ra đối với khoa học và công nghệ; 3.000 doanh nghiệp
khoa học và công nghệ; 30 cơ sở ƣơm tạo công nghệ cao, ƣơm tạo doanh
76
nghiệp công nghệ cao.
Đến năm 2020, hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng
đạt trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng
yếu quốc gia đặt ra đối với khoa học và công nghệ; 5.000 doanh nghiệp khoa
học và công nghệ; 60 cơ sở ƣơm tạo công nghệ cao, ƣơm tạo doanh nghiệp
công nghệ cao.”
Tóm lại, Kể từ Nghị định số 119/1999/NĐ-CP đến nay, NIS ở Việt
Nam đã từng bƣớc hoàn thiện và đã có nhiều bƣớc phát triển đáng kể, đặc biệt
trong Chiến lƣợc phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020 đã đƣợc
Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt nêu rõ: “Tới năm 2020, Việt Nam sẽ là một
nƣớc công nghiệp có thu nhập trung bình với nền tảng là nền kinh tế tri thức
và hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia hỗ trợ tích cực cho công cuộc phát
triển kinh tế xã hội”. [5]
Nhƣ vậy, việc xây dựng và hoàn thiện NIS là một trong những trọng
yếu nhằm phát triển mạnh KH&CN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng hiện nay.
3.1.2.2. Đặc điểm của NIS ở Việt Nam
Nhóm chuyên gia quốc tế do Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế
của Canađa tài trợ đã thực hiện một cuộc khảo sát về các chính sách và cải
cách KH&CN ở Việt Nam. Nhóm đã đƣa ra một số đánh giá sơ bộ về năng
lực NIS của Việt Nam, theo đó có 2 đặc điểm lớn nổi lên là:
Thứ nhất, mặc dù NIS của Việt Nam đã có nhiều thành tố đƣợc thiết
lập, nhƣng vẫn chƣa thực hiện đƣợc vai trò của một hệ thống.
Thứ hai, những nghiên cứu khác có liên quan cũng khẳng định những
yếu kém và sự chƣa hoàn thiện trong các mối quan hệ tƣơng tác giữa các
thành phần trong NIS, đồng thời cũng nêu ra những điểm không phù hợp
77
trong khung thể chế nói chung để thúc đẩy hoạt động đổi mới.
Nhìn chung, mối tƣơng tác giữa các thành viên và các luồng thông
tin/tri thức- một yếu tố có tác dụng quyết định đến năng lực của NIS, vẫn còn
rất yếu và hạn chế.
3.1.3. Một số kết quả đạt được
3.1.3.1. Xây dựng môi trường thuận lợi hơn cho phát triển NIS
Về thủ tục hành chính:
Kể từ năm 2007 đến nay, Chính phủ đã triển khai thực hiện quyết liệt Đề
án 30 về đơn giản hoá các thủ tục hành chính để tuân thủ các cam kết của Việt
Nam với WTO và xây dựng một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu
quả và có hiệu suất cao nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính cho các doanh
nghiệp và các viện nghiên cứu, các trƣờng đại học. Trong năm 2010, Chính phủ
đã ban hành Nghị quyết để đơn giản hoá gần 5.000 thủ tục hành chính thuộc
phạm vi chức năng của 24 bộ, ngành. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và các viện nghiên cứu, các trƣờng đại
học cắt giảm đƣợc chi phí đáng kể, nhờ đó hoạt động đầu tƣ cho nghiên cứu
khoa học và đổi mới công nghệ đƣợc nâng cao.
Để đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) cho đổi mới công nghệ,
tuy Luật SHTT đã đƣợc ban hành vào cuối 2005 nhƣng trƣớc những đòi hỏi cấp
bách của thực tiễn, Việt Nam đã nhanh chóng sửa đổi luật sở hữu trí tuệ vào năm
2009 cho phù hợp với thực tiễn và tình hình phát triển của KH&CN.
Bộ KH&CN đang tập trung hoàn thiện và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến quản lý, nhiệm vụ KH&CN và tập trung hoàn thiện và
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cấp quốc gia theo tinh thần của Luật
KH&CN và các nghị định của Chính phủ, đồng thời hoàn thiện hành lang pháp
lý để đƣa quỹ đổi mới công nghệ quốc gia vào vận hành giữa năm 2014… Nhƣ
vậy sẽ có nhiều thay đổi mang tính đột phá, tạo bƣớc phát triển mạnh mẽ cho
78
KH&CN.
Về cơ chế tài chính cho NIS:
Ngay từ những năm 1990, Việt Nam đã sử dụng một số chƣơng trình
KH&CN với các ƣu tiên khác nhau nhƣ hỗ trợ tài chính cho việc thiết lập các
yếu tố của NIS. Ngoài ra, Việt Nam còn xây dựng các cơ chế chính sách nhằm
đa dạng hoá các nguồn tài chính và xã hội hoá các hoạt động KH&CN nhƣ thành
lập Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Đặc biệt với sự ra đời của Quỹ
phát triển KH&CN Quốc gia đã tạo ra một bƣớc đột phá trong việc tài trợ cho
các nghiên cứu cơ bản. Để hỗ trợ cho các hoạt động R&D và hoạt động đổi mới,
Việt Nam đã thực hiện một loạt chính sách và chƣơng trình trọng điểm cấp nhà
nƣớc về KH&CN nhƣ:
+ Chƣơng trình sản phẩm trọng điểm quốc gia;
+ Chƣơng trình phát triển công nghệ cao quốc gia;
+ Chƣơng trình đổi mới công nghệ quốc gia;
+ Chƣơng trình xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia;
+ Chƣơng trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nƣớc;
+ Chƣơng trình khoa học và xã hội nhân văn trọng điểm cấp Nhà nƣớc;
+ Chƣơng trình xây dựng các mô hình ứng dụng KH&CN phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi;
+ Chƣơng trình năng suất chất lƣợng cao;
+ Chƣơng trình hội nhập quốc tế về KH&CN…
Cho đến nay, ở Việt Nam, Nhà nƣớc vẫn là nguồn tài trợ chủ yếu cho các
hoạt động R&D. Tuy còn rất hạn chế về nguồn lực nhƣng từ năm 2000 đến nay,
thực hiện Nghị Quyết Trung ƣơng 2, khoá VIII của Đảng, Việt Nam luôn luôn
phấn đấu dành 2% tổng chi ngân sách Nhà nƣớc cho sự nghiệp KH&CN và đây
chính là sự quan tâm của Nhà nƣớc tới sự phát triển của KH&CN.
Đặc biệt, Chính phủ đã thành lập Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia để hỗ
trợ tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án đổi mới công nghệ, nâng
79
cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Bộ KH&CN
đã thành lập Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ, Cục phát triển thị trƣờng và
Doanh nghiệp KH&CN để hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ ở
Việt Nam.
Về vốn mạo hiểm, hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật chƣa có
văn bản nào đề cập trực tiếp đến hình thức đầu tƣ mạo hiểm này, tuy nhiên đã có
quy định về hoạt động của quỹ đầu tƣ và công ty quản lý quỹ đầu tƣ.
Về hình thành và phát triển cơ sở hạ tầng hỗ trợ hình thành NIS
Ở Việt Nam, một số cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp – trung tâm của NIS đã
đã đƣợc hình thành tuy vẫn còn hạn chế về số lƣợng (khoảng 08 vƣờn ƣơm), với
thời gian hoạt động khoảng 1 – 5 năm và tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực
công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến
thực phẩm. Nhìn chung, các cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp này vẫn trong giai
đoạn đầu phát triển và bắt đầu hoạt động.
Các vƣờn ƣơm này giúp các doanh nghiệp khởi sự kinh doanh; gắn kết
chặt chẽ sản phẩm nghiên cứu của các viện, trƣờng đại học và thị trƣờng; thúc
đẩy đổi mới, chuyển giao công nghệ và các quá trình thƣơng mại hoá kết quả
nghiên cứu khoa học; hỗ trợ các công ty, nhà đầu tƣ tìm thấy cơ hội đầu tƣ vào
lĩnh vực công nghệ.
3.1.3.2. Việc truyền bá tri thức và công nghệ trong nền kinh tế được mở
rộng
Trong NIS ở Việt Nam hiện nay, việc truyền bá tri thức và công nghệ nói
chung từ các trƣờng Đại học, viện R&D đến doanh nghiệp đã dần đƣợc mở rộng.
Ngay từ những năm thập kỷ cuối của thế kỷ trƣớc, Việt Nam đã ban hành
một số chính sách về sắp xếp lại các tổ chức R&D của Nhà nƣớc nhằm tăng
cƣờng liên kết viện – trƣờng – cơ sở sản xuất bằng việc chuyển dần các viện
nghiên cứu với chức năng nghiên cứu với những vấn đề gắn liền với các sản
phẩm cụ thể của sản xuất thành các viện R&D trực thuộc liên hiệp xí nghiệp,
80
tổng công ty hay công ty; tăng cƣờng sự liên kết giữa các viện nghiên cứu với
nhau, giữa các viện nghiên cứu với các trƣờng đại học và cơ sở đào tạo khác
nhau trên địa bàn của từng vùng để tiến hành điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội của vùng, nghiên cứu áp dụng và phổ cập nhanh những thành tựu
khoa học và kỹ thuật phù hợp với đặc điểm sinh thái, kinh tế - xã hội của vùng.
Nhà nƣớc cho phép thành lập các cơ quan hoạt động theo nguyên tắc tự hạch
toán kinh tế trong tất cả các thành phần kinh tế để phục vụ sản xuất và đời sống;
gắn khoa học với sản xuất, tạo điều kiện cho các hoạt động nghiên cứu khoa học
phục vụ trực tiếp nhu cầu do sản xuất đặt ra; bố trí lại các cơ quan nghiên cứu
khoa học theo hƣớng gắn chặt với các cơ sở sản xuất, rút ngắn chu trình “nghiên
cứu – triển khai – sản xuất”.
Đặc biệt, để phát huy vai trò động lực của KH&CN phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
115/2005/NĐ - CP ngày 05/09/2005 quy định các cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập. Biện pháp này đã đƣợc một số nhà
khoa học ví nhƣ là “khoán 10” trong KH&CN. Theo quy định của chính sách
này, việc chuyển đổi các viện R&D đang đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ kinh phí sẽ đƣợc
thực hiện theo 2 hình thức hoặc là thành lập doanh nghiệp KH&CN hoặc là
thành các tổ chức tự trang trải về kinh phí. Chính sách chuyển đổi các tổ chức
KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo các quy định của
Nghị định 115/2005/NĐ-CP hoặc doanh nghiệp KH&CN theo quy định của
Nghị định số 80/2007/NĐ-CP đã và đang tạo sức ép buộc các tổ chức KH&CN
phải thay đổi cách thức nghiên cứu KH&CN, gắn kết KH&CN với nhu cầu thực
tiễn, chú trọng tới thị trƣờng và khách hàng nhiều hơn, đồng thời phải chấp nhận
cạnh tranh để có đơn hàng.
3.1.3.3. Bước đầu thiết lập được mối quan hệ giữa các trường đại học,
81
viện nghiên cứu và các doanh nghiệp – trung tâm của NIS
Trong thời gian qua, Việt Nam đã đề cao vai trò liên kết giữa các
trƣờng đại học, các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp sản xuất – trung tâm
của Hệ thống đổi mới, hay nói cách khác gắn liền nghiên cứu với sản xuất.
Ở cấp độ doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp cũng nhận thấy vai trò của
hoạt động nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo (ĐMST). Theo kết quả
khảo sát của Chƣơng trình ĐMST do Chính phủ Việt Nam và Phần Lan tài trợ
từ năm 2011, hơn một nửa trong số 350 Doanh nghiệp Việt Nam đƣợc khảo
sát đã và đang có những hoạt động ĐMST...
Tỷ lệ đầu tƣ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam so với khu
vực tuy còn thấp so với các nƣớc trong khu vực nhƣng các doanh nghiệp đã
bƣớc đầu nhận thức đƣợc vai trò của đổi mới công nghệ. Trong đó, có khoảng
có 10% các kết quả nghiên cứu của các viện, trƣờng có khả năng ứng dụng
vào sản xuất.
3.1.3.4. Thị trường công nghệ, các tổ chức trung gian tư vấn, môi giới về
công nghệ bắt đầu được hình thành và phát triển
Về phát triển thị trƣờng công nghệ, từ năm 2000 đến nay, Bộ KH&CN đã
phối hợp với các bộ, ngành, địa phƣơng tổ chức một số Techmart (chợ công
nghệ và thiết bị) để hỗ trợ và thúc đẩy sự gắn kết giữa bên cung và bên cầu công
nghệ. Thực hiện Quyết định số 214/2005/QĐ – TTg của Thủ tƣớng Chính phủ
về việc phê duyệt Đề án phát triển thị trƣờng công nghệ, một số tổ chức trung
gian tƣ vấn, môi giới về chuyển giao công nghệ, sàn giao dịch công nghệ, cung
cấp thông tin công nghệ, tƣ vấn đánh giá và giám định công nghệ…đã đƣợc hình
thành ở các địa phƣơng. Những tổ chức này một mặt đã góp cho các doanh
nghiệp nhanh chóng tiếp cận và lựa chọn đƣợc những công nghệ tiên tiến ở trong
nƣớc và nƣớc ngoài có giá cả phù hợp với khả năng của bên sử dụng. Mặt khác,
đây cũng là nơi các nhà khoa học, các tổ chức KH&CN có thể giới thiệu các sản
82
phẩm của mình cho khách hàng.
Tóm lại, những năm gần đây, ở Việt Nam đã hình thành những điều kiện
khung có lợi cho việc phát triển NIS nhƣ các chính sách về đảm bảo quyền
SHTT, chống cạnh tranh không lành mạnh, đổi mới hoạt động KH&CN, đơn
giản hoá thủ tục hành chính, phát triển các quỹ hỗ trợ và phát triển KH&CN,
tăng cƣờng sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh
doanh và đào tạo…; các chính sách về đổi mới và giáo dục công tác cán bộ, sử
dụng nhân tài, luân phiên cán bộ; các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu
tƣ cho nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, cơ chế tự chủ và tự chịu trách
nhiệm cho các viện R&D; các chính sách phát triển thị trƣờng KH&CN, doanh
nghiệp KH&CN…
3.1.4. Những vấn đề tồn tại
3.1.4.1. Mối quan hệ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và khu vực
sản xuất vẫn còn yếu
Một khảo sát khác do Viện Nghiên cứu Chiến lƣợc và Chính sách
KH&CN (NISTPASS) thực hiện năm 2010 cho thấy rằng các doanh nghiệp
đều đánh giá thấp tiềm năng hỗ trợ của các viện nghiên cứu và trƣờng đại học
ở trong nƣớc để tìm giải pháp đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp trong
nƣớc chủ yếu nhằm vào các công nghệ nhập khẩu từ nƣớc. Một công trình
khảo sát gần đây cũng cho thấy có sự bất cập giữa các năng lực hiện có ở các
viện R&D (đƣợc coi là mặt mạnh của các viện R&D) lại không đƣợc các
doanh nghiệp cần đến; những năng lực khác mà các doanh nghiệp rất cần thì
viện lại không đáp ứng đƣợc, ví dụ các năng lực liên quan đến việc truyền bá
và hỗ trợ thực tiễn tốt nhất về công nghệ hiện có, kể cả việc đào tạo, thử
nghiệm và giải quyết các vấn đề nhỏ.
Chỉ có một số lƣợng nhỏ các doanh nghiệp tham gia vào các Chƣơng
trình và Dự án KH&CN cấp quốc gia. Các doanh nghiệp hiếm khi đƣợc mời
để cung cấp các thành viên tham gia vào các Uỷ ban Xem xét và Đánh giá của
83
các Chƣơng trình và Dự án nghiên cứu lớn (các thành viên này chủ yếu thuộc
các Bộ, các cơ quan Nhà nƣớc, các viện R&D và các trƣờng đại học). Tỷ lệ
phần trăm các kết quả từ các Dự án nghiên cứu đƣợc đem ứng dụng vào sản
xuất là rất nhỏ.Ở các nƣớc Nhật Bản, Trung Quốc hay Hàn Quốc nghiên cứu
KH&CN và đào tạo nguồn nhân lực luôn luôn gắn liền với nhau, chứ
không tách rời nhƣ ở Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ KH&CN, trong 5 năm (2006-2010) cả nƣớc chỉ
có 200 bằng sáng chế, giải pháp hữu ích đƣợc cấp tại Cục sở hữu trí tuệ, và
chỉ có 5 bằng sáng chế đƣợc đăng ký tại Mỹ. Riêng năm 2011, Việt Nam
không có bằng sáng chế nào đƣợc đăng ký ở Mỹ, trong đó Singapore tới 647
bằng, Malaysia là 161, Thái Lan 53, Philipines 27 bằng sáng chế.
Bảng 3.1: Thống kê số bằng sáng chế một số nƣớc Đông Nam Á giai đoạn 2006 – 2010 đƣợc đăng ký tại Mỹ [23]
Hạng Nƣớc Dân số (triệu) Số bằng sáng chế
1 Singapore 4,8 2.496
2 Malaysia 27,9 8.77
3 Thái Lan 68,1 206
4 Philippines 93,6 143
5 Indonesia 232 74
6 Việt Nam 89 5
3.1.4.2. Khung thể chế yếu kém, thiếu động lực đổi mới
Ở Việt Nam, khung thể chế, hệ thống quản lý và hoạt động KH&CN
đƣợc tổ chức theo cấp hành chính từ trung ƣơng (Bộ KH&CN, các Bộ ngành
có liên quan) đến địa phƣơng (các Sở KH&CN, các trƣờng, viện nghiên cứu).
Điều này khiến việc tổ chức và hoạt động KH&CN xa rời thực tế, các trƣờng
đại học, viện nghiên cứu hầu nhƣ không có khả năng tự chủ trong hoạt động
84
KH&CN; dấu ấn của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn nặng nề.
Chi tiêu của Chính phủ cho R&D còn tƣơng đối thấp (gần 2% tổng chi tiêu
của Chính phủ) và chủ yếu cung cấp cho các viện nghiên cứu chứ không phải
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tƣ nhân.
Các chính sách công nghệ, tài chính, nhân lực, đào tạo, sở hữu trí tuệ,
thông tin KH&CN không đồng bộ, thậm chí còn mâu thuẫn nhau, do vậy tạo
ra những ách tắc và rào cản để thực thi hiệu quả các chính sách đổi mới. Môi
trƣờng cho hoạt động đổi mới cũng chịu tác động tiêu cực bởi thiếu các kênh
thông tin và không có các cơ quan trung gian, là những yếu tố quan trọng để
tạo thuận lợi cho quá trình đổi mới.
Trong Bảng xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO) năm 2012, Việt Nam xếp thứ 76/141 nƣớc :
Bảng 3.2: Điểm đánh giá Chỉ số Đổi mới /Sáng tạo của Việt Nam
và các nƣớc xung quanh
Điểm Việt Nam Malaysia Singapore Thái Lan
Số cao
Điểm Bậc Điểm Bậc Điểm Bậc Điểm Bậc Năm nƣớc nhất
2008 153 5.8 2.38 65 3.47 26 4.1
2009 130 5.28 2.97 64 4.06 25 4.81
2010 132 4.86 2.95 71 3.77 28 4.65
2011 125 74.1 36.71 51 44.05 31 74.11
7 5 7 1 3 3.01 3.4 3.06 43.33 36.9 2012 141 68.2 33.9 76 45.9 64.8 64.8
34 44 60 48 57
85
Nguồn: globalinnovationindex.org/gii/main/2012rankings.html [21]
Nhìn vào bảng 3.2 đánh giá chỉ số đổi mới/sáng tạo của Việt Nam
chúng ta nhận thấy rõ sự yếu kém trong hoạt động đổi mới của Việt Nam so
với các nƣớc trong khu vực. Phải chăng trí tuệ của chúng ta thấp hơn so với
các nƣớc khác là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên? Câu trả lời không phải
nhƣ vậy, điều này thể hiện rõ qua bảng chỉ số con ngƣời của Việt Nam trong
bảng xếp hạng toàn cầu sau đây:
Bảng 3.3: Việt Nam - Điểm và thứ hạng của các tiêu chí Tổ chức
Nhà nƣớc, Vốn, con ngƣời và Đầu ra sáng tạo
Năm Số nƣớc Tổ chức Vốn về con ngƣời Đầu ra sáng tạo
xếp hạng nhà nƣớc
Điểm Bậc Điểm Bậc Điểm Bậc
2009 130 3.38 99 3.82 69 2.52 63
2010 132 3.47 113 3.27 92 2.38 67
2011 125 54.9 84 31.7 85 33.34 42
2012 141 40.9 112 26.1 107 30.8 59
Nguồn: tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=427 [22]
Không khó để nhận ra rằng chỉ số về Tổ chức và Nguốn vốn con ngƣời
của Việt Nam chẳng những dƣới trung bình mà có lúc còn nằm gần sát đáy
nửa dƣới. Trong lúc chỉ số đầu ra, đánh giá năng lực con ngƣời Việt Nam thì
luôn nằm khá cao ở nửa trên của thế giới. Rõ ràng là trí tuệ của con ngƣời
Việt Nam không hề thấp. Vậy nguyên nhân chính làm cho đổi mới sáng tạo ở
Việt Nam thấp là do sự bất cập của Tổ chức quản lý nhà nƣớc về KH&CN và
sự yếu kém trong chăm lo đầu tƣ cho Vốn con ngƣời.
3.1.4.3. NIS của Việt Nam còn ở tình trạng tĩnh, trong đó các luồng lưu
86
thông tin tri thức giữa các bộ phận trong hệ thống diễn ra rất hạn chế
Những yếu kém của việc truyền bá tri thức ở Việt Nam là việc khó tiếp
cận tới nguồn tri thức một cách kịp thời. Tình trạng này gây ra cản trở lớn cho
quá trình đề ra các quyết cách then chốt, kể cả các nguồn công nghệ phù hợp
nhất. Việt Nam vẫn chƣa phát triển các tổ chức/dịch vụ trung gian là những
phƣơng tiện quan trọng tạo thuận lợi cho việc lƣu thông và phổ biến thông
tin/tri thức giữa nơi sản xuất và ngƣời dùng.
Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam thƣờng hoạt động cô lập, chỉ sử
dụng các nguồn lực trong nội bộ, mà chƣa có sự liên kết hợp tác với các đối
tác bên ngoài, đặc biệt là thiếu sự hợp tác với các đơn vị nghiên cứu. Một số
khảo sát về thực trạng Đổi mới sáng tạo ở các doanh nghiệp Việt Nam cho
thấy chỉ khoảng 20-30% số doanh nghiệp có thực hiện các hoạt động Đổi
mới sáng tạo, trong khi doanh thu từ các hoạt động này đƣợc các doanh
nghiệp nhận định là không đáp ứng đƣợc kỳ vọng.
3.1.4.4. Nguồn nhân lực KH&CN khá lớn nhưng chất lượng yếu, cơ cấu
bất hợp lý
Hiện nay, số lƣợng cán bộ nghiên cứu khoa học của Việt Nam tính theo
tỷ lệ dân số là rất nhỏ trong khu vực và trên thế giới. Theo Chiến lƣợc phát
triển KH&CN Việt Nam đã phê duyệt thì đến năm 2020 mới có 10-11 cán bộ
nghiên cứu khoa học trên một vạn dân. Hệ thống giáo dục đại học và hệ thống
các viện nghiên cứu còn nhiều hạn chế và bất cập để nuôi dƣỡng các năng lực
đổi mới và nhƣ vậy sẽ rất khó để tạo ra một lực lƣợng cán bộ KH&CN có
chất lƣợng để đáp ứng yêu cầu của đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực
công nghệ quốc gia.
Nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp ít về số lượng và yếu về chất
lượng
Theo số liệu của cuộc điều tra 7580 doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp trong năm 2010 do Tổng cục Thống kê tiến hành, nhằm đánh giá đầy
87
đủ hơn về khả năng và tiềm lực khoa học công nghệ (KH&CN) của khối
doanh nghiệp công nghiệp, chỉ có 293 doanh nghiệp có đầu tƣ cho nghiên
cứu khoa học (NCKH) và đổi mới công nghệ (ĐMCN). Tổng số cán bộ
KH&CN thuộc 293 doanh nghiệp này hiện có 28.579 ngƣời. Bình quân một
doanh nghiệp có 97 ngƣời, hay chiếm 10,9% lực lƣợng lao động của 293
doanh nghiệp này, so với tỷ lệ trung bình của toàn bộ 7580 DN đƣợc điều
tra là 7,2%.
Tuy nhiên, số lƣợng cán bộ KH&CN làm việc trong lĩnh vực khoa học
và công nghệ chỉ là 3316 ngƣời, bằng 11,6% lực lƣợng cán bộ có trình độ
cao đẳng trở lên, hay bằng 1,26% lực lƣợng lao động của 293 doanh
nghiệp này. Nếu tính trên toàn bộ 7580 doanh nghiệp đƣợc điều tra thì tỷ
lệ này tƣơng ứng là 1,78% số cán bộ có trình độ cao đẳng trở lên và 0,13%
lực lƣợng lao động (13 ngƣời trên 10.000 lao động).
Xét về loại hình doanh nghiệp, thì khối kinh tế nhà nƣớc có 2812 cán
bộ nghiên cứu, chiếm 84,8%, kinh tế tƣ nhân chỉ có 266 cán bộ nghiên cứu
còn lại 238 cán bộ thuộc khối kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Nếu xét
theo ngành thì ngành có số nhân lực lớn nhất là hóa chất và các sản phẩm
hóa chất với 669 ngƣời (chiếm 20,2% tổng số nhân lực), tiếp theo là ngành
sản xuất thực phẩm và đồ uống với 517 ngƣời (15,6%), sản xuất các
phƣơng tiện vận tải khác với 414 ngƣời (12,5%) và ngành dệt với 219
ngƣời (6,6%)
Xét về cơ cấu theo trình độ cán bộ nghiên cứu khoa học trong doanh
nghiệp thì thấy rất rõ rằng đa số có trình độ đại học và cao đẳng. Số lƣợng
cán bộ có trình độ thạc sĩ chiếm tỷ lệ là 1,7%, còn cán bộ có trình độ tiến sỹ
là 1%. Nhƣ vậy, ta có thể thấy lực lƣợng cán bộ nghiên cứu trình độ cao
trong doanh nghiệp là quá thấp, khiến cho các doanh nghiệp khó có thể dựa
vào khoa học mà phát triển.
Chất lượng nhân lực KH&CN tại các viện nghiên cứu, trường đại học
88
thấp
Một đất nƣớc muốn có một nền khoa học kĩ thuật phát triển thì cần có
một đội ngũ trí thức trình độ cao. Nhiệm vụ đào tạo ra đội ngũ đó phụ
thuộc rất nhiều vào ngành giáo dục, trong đó, vai trò của các trƣờng đại
học, cao đẳng và viện nghiên cứu là hết sức quan trọng. Trên thực tế, số
lƣợng các cơ sở đào tạo bậc đại học, cao đẳng ở nƣớc ta là khá đông, theo
số liệu thống kê của Bộ giáo dục và đào tạo thì năm học 2012 - 2013 có 428
trƣờng đại học và cao đẳng.
Về nguồn nhân lực, ngành KH&CN Việt Nam hiện nay có đội ngũ cán
bộ khoa học tƣơng đối đông đảo khoảng trên 62 nghìn ngƣời làm nghiên cứu
chuyên nghiệp, hơn 3 triệu ngƣời trình độ Đại học và cao đẳng có thể tham
gia vào các hoạt động KH&CN của cả nƣớc. Giáo sƣ và cán bộ trình độ cao
khoảng gần 10 nghìn ngƣời, 24 nghìn tiến sĩ, trên 36 nghìn thạc sĩ. Mặc dù số
lƣợng đội ngũ các nhà nghiên cứu tại các trƣờng đại học, viện nghiên cứu khá
lớn nhƣng chất lƣợng nghiên cứu còn thấp, mang tính chất kinh viện. Các đề
tài chiếm một phần lớn trong đầu tƣ của Nhà nƣớc lại không đƣợc xã hội đón
nhận do kết quả còn chƣa cao. Hầu hết ở các trƣờng đại học, đề tài nghiên
cứu khoa học (NCKH) đƣợc thực hiện theo sự chỉ đạo và chỉ tiêu mà không
quan tâm đến tính sáng tạo, tính mới, cũng nhƣ tính thực tiễn.
Cũng nhƣ trƣờng đại học, các viện nghiên cứu cũng đóng một vai trò
quan trọng trong việc phát triển khoa học công nghệ. Trong khi các trƣờng
đại học có cả hai chức năng là giảng dạy và nghiên cứu thì các viện
nghiên cứu chỉ có chức năng chính là nghiên cứu. Đây là một lợi thế và điều kiện để các viện có thể phát huy hết khả năng của mình.
Tuy nhiên, cũng nhƣ các trƣờng đại học, các viện nghiên cứu cũng
đang gặp phải vấn đề về chất lƣợng của các công trình nghiên cứu khoa học,
cũng nhƣ khả năng áp dụng của các sản phẩm đổi mới công nghệ. Với hơn
một trăm viện và trung tâm nghiên cứu Nhà nƣớc và khoảng vài trăm viện và
89
trung tâm nghiên cứu không thuộc Nhà nƣớc, nhƣng nhìn chung, chất lƣợng
còn thấp, đặc biệt là sự lạc hậu về các trang thiết bị phục vụ cho việc nghiên
cứu. Điều này ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng các công trình nghiên cứu của các viện. Tính hình thức trong nghiên cứu, bảo thủ trong suy nghĩ dẫn đến hậu quả là các nhà khoa học quá lạc hậu về thông tin sáng chế và
khi nghiên cứu thật sự không sát với thực tế, thực hiện đề tài theo chỉ tiêu coi
đó nhƣ một nhiệm vụ bắt buộc. Thực tế có rất nhiều đề tài nghiên cứu đƣợc
nghiệm thu rất cao nhƣng khi áp dụng thực tế thì không có khả năng áp dụng vì nó không có tính mới.
Nhƣ vậy, chất lƣợng nguồn nhân lực cho nghiên cứu khoa học và đổi
mới công nghệ của Việt Nam còn thấp là một trong những thách thức lớn
đối với nhu cầu đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ của Việt
Nam.
3.1.4.5. Kinh phí đầu tư cho đổi mới công nghệ còn thấp, sử dụng vốn đầu
tư lại không hiệu quả
Nguồn kinh phí đầu tƣ cho đổi mới công nghệ ở nƣớc ta chủ yếu từ
ngân sách Nhà nƣớc. Đây là nguồn kinh phí quan trọng và chủ yếu nhất dành
cho hoạt động nghiên cứu khoa học đối với các trƣờng đại học, viện nghiên
cứu, các doanh nghiệp ở Việt Nam. Hàng năm, Nhà nƣớc ta chi khoảng 2%
ngân sách đầu tƣ cho phát triển KH&CN (tƣơng đƣơng với khoảng hơn 80
triệu USD trong những năm gần đây). So với các nƣớc trên thế giới thì
nguồn kinh phí này không cao lắm nhƣng so với tình hình hoàn cảnh của
nƣớc ta hiện nay thì đây cũng là một nguồn kinh phí không nhỏ. Điều quan
trọng ở đây là kết quả của việc đầu tƣ mang lại không tƣơng xứng với
việc đầu tƣ.
Tỷ lệ đầu tƣ cho KHCN từ ngân sách nhà nƣớc tính trên GDP của Việt
Nam là 0,5%, không thấp so với thế giới. Nhƣng mức đầu tƣ của xã hội và
doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc cho KHCN còn rất thấp, khoảng 0,3 - 0,4%
90
GDP. Nhƣ vậy, tổng đầu tƣ của Việt Nam cho KHCN hằng năm vẫn dƣới 1%
GDP. Trong khi đó, mức đầu tƣ của Trung Quốc năm 2010 là 2,2% GDP, của
Hàn Quốc là 4,5% GDP.
Bảng 3.4: Tỷ lệ đầu tƣ cho KHCN từ ngân sách nhà nƣớc tính trên
GDP của Việt Nam qua các năm
(đơn vị: % GDP)
Năm 2005 2007 2008 2009 2010 2011
%GDP 0,9 0,95 1,07 1,13 1,23 1,34
Nguồn: Tổng cục thống kê
Ngoài ra, nguồn kinh phí ít ỏi trên lại đƣợc ta đầu tƣ một cách quá dàn
trải, không tập trung vào các ngành lĩnh vực then chốt. Nói cách khác,
nguồn kinh phí dành cho NCKH đƣợc xem nhƣ một miếng bánh và miếng
bánh ấy đƣợc chia đều cứ nhƣ đó là phần thƣởng hàng năm dành cho các
trƣờng, các viện nghiên cứu mà không có một sự cân nhắc đánh giá cụ thể về
khả năng của từng trung tâm, của từng viện, từng trƣờng. Do đó, tạo ra
một sự lãng phí lớn trong việc sử dụng tiền dành cho NCKH. Ở Hàn Quốc,
khi tiến hành "Chƣơng trình G7": Để quyết tâm trong mƣời năm có thể đuổi
kịp các nƣớc trong G7 về KH&CN, Hàn Quốc đã lập Hội đồng KH&CN liên
ngành để chọn chỉ 11 trong 300 dự án đƣợc nêu ra. Tất cả các dự án nào
không đáp ứng hai mục tiêu cạnh tranh đƣợc trên thị trƣờng thế giới và nâng
cao mức sống ngƣời dân đều bị loại. Kết quả, nhƣ vừa nêu trên, chỉ có 11 dự
án đƣợc triển khai, với mức đầu tƣ 3,2 tỷ USD. Đó là cách làm tập trung và
quyết tâm, kể cả trong việc tuyển chọn ngƣời có năng lực, thu hút kiều bào ở
nƣớc ngoài về để thực hiện một cách hiệu quả.
Nhƣ đã nói ở trên, từ góc độ tài chính, dự toán đƣợc phê duyệt chƣa
hẳn đã phù hợp với yêu cầu nghiên cứu thực tế. Vì thế, kinh phí đƣợc cấp
thƣờng là không đủ để có đƣợc những sản phẩm hay kết quả có chất lƣợng,
91
đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn mặc dù “đề bài” đặt ra là rõ ràng. Nhƣ vậy,
dù kinh phí đƣợc cấp “đƣợc quản lý” chặt song việc sử dụng chúng lại
không đem lại hiệu quả nhƣ mong muốn. Đây cũng đƣợc xem là một sự lãng
phí mà nguyên nhân xuất phát từ khâu “xét duyệt”.
Kinh phí đƣợc cấp quá dƣ thừa đối với những đề tài có “sự ƣu ái”. Do
vậy, kinh phí bị tiêu xài một cách lãng phí, các kết quả đạt đƣợc không
“xứng tầm” với kinh phí Nhà nƣớc bỏ ra. Đó cũng chính là việc sử dụng
chƣa có hiệu quả nguồn kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học. Nguyên
nhân của tình trạng này là tình trạng “tiêu cực” trong xét duyệt và cấp
phát kinh phí nghiên cứu.
Trong không ít các trƣờng hợp, các kết quả nghiên cứu thực sự tốt,
đƣợc đánh giá cao, song việc phổ biến đến ngƣời sử dụng còn rất hạn chế.
Đáng buồn hơn là trong nhiều trƣờng hợp “ngƣời sử dụng” chính là các
nhà quản lý lại rất thờ ơ, “lƣời đọc” những kết quả mà lẽ ra họ rất cần nắm
bắt. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả sử dụng
nguồn kinh phí dành cho nghiên cứu bị hạn chế.
Như vậy, sự lạc hậu của công nghệ Việt Nam hiện nay là do nguồn
kinh phí còn thấp và do đầu tƣ quá dàn trải, không hiệu quả.
3.1.5. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém của NIS ở Việt Nam
Những bất cập, yếu kém nói trên của Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt
Nam có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân
cơ bản sau:
Thứ nhất, nền kinh tế nƣớc ta còn đang trong thời kỳ chuyển đổi sang
cơ chế thị trƣờng trong đó có Hệ thống đổi mới quốc gia. Sự chậm đổi mới
trong một số lĩnh vực cũng có ảnh hƣởng đến quá trình xây dựng và phát triển
của NIS. Chẳng hạn việc chậm thực thi các biện pháp cải cách doanh nghiệp
theo xu hƣớng đổi mới và duy trì quyền bảo hộ, các viện nghiên cứu chƣa
chuyển đổi sang hình thức kinh doanh nhƣ một doanh nghiệp KH&CN. Với
92
cơ chế hiện nay, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nƣớc và
các viện nghiên cứu muốn tìm kiếm những ƣu đãi của Nhà nƣớc thay vì phải
đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Một số doanh nghiệp
trong NIS chƣa thấy đƣợc vai trò của hệ thống, chƣa liên kết với các trƣờng
đại học, viện nghiên cứu trong nƣớc mà thiên về nhập khẩu công nghệ nƣớc
ngoài.
Thứ hai, cách tiếp cận về NIS ở Việt Nam còn khá mới mẻ, chƣa đƣợc
phổ biến rộng rãi đã cản trở quá trình phát triển NIS. Khi chuyển sang cách
tiếp cận NIS, chúng ta chƣa kịp đổi mới tƣ duy, phƣơng pháp quản lý của Nhà
nƣớc cũng nhƣ cách thức liên kết của doanh nghiệp với các trƣờng đại học,
viện nghiên cứu. Một mặt, chƣa làm rõ vai trò, chức năng của các thành phần
trong hệ thống đối với việc đối mới và nâng cấp công nghệ; mặt khác đối với
nhiều lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng và công nghệ cần và có thể vận dụng cơ
chế thị trƣờng thì lại chƣa mạnh dạn áp dụng. Chƣa xác định rõ vai trò và mối
quan hệ gắn bó giữa các cơ quan quản lý KH&CN, các tổ chức, cá nhân hoạt
động KH&CN và cộng đồng doanh nghiệp. Tƣ tƣởng quản lý quan liêu bao
cấp vẫn còn đậm nét trong những chính sách, cơ chế quản lý KH&CN. Cơ
quan quản lý Nhà nƣớc trực tiếp tham gia hoạt động KH&CN mà chƣa coi
trọng việc tạo môi trƣờng, điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp, trƣờng
đại học, viện nghiên cứu cùng tham gia.
Thứ ba, các chính sách xây dựng và phát triển NIS trong thời gian qua
chậm đƣợc cụ thể hoá, triển khai thiếu kiên quyết, hiệu lực kém nên kết quả bị
hạn chế. Thí dụ, việc chuyển đổi các tổ chức KH&CN về doanh nghiệp thông
qua biện pháp hành chính không đem lại kết quả nhƣ mong muốn do chƣa gắn
với những cơ chế mở rộng quyền hạn của tổ chức này và với trách nhiệm của
các bộ, ngành. Hay ý tƣởng thành lập Quỹ hỗ trợ cho hoạt động đổi mới công
93
nghệ đã đƣợc thể chế hoá bằng việc ban hành quy định thành lập Quỹ hỗ trợ
phát triển KH&CN của các Bộ, tỉnh nhƣng cho đến nay hình thức tài trợ cho
hoạt động KH&CN thông qua quỹ vẫn chƣa thực hiện hiệu quả.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tƣ cho phát triển NIS còn hạn hẹp, việc quản lý
việc sử dụng vốn còn yếu kém. Trong những năm qua luôn có một nhận thức
không đúng là vốn đầu tƣ cho đổi mới công nghệ là do Nhà nƣớc bao cấp,
khu vực doanh nghiệp trong nƣớc đầu tƣ cho đổi mới công nghệ còn quá thấp
so với tổng đầu tƣ cho KH&CN. Chi NSNN cho các nội dung đổi mới và
nâng cấp công nghệ còn nhiều bất cập. Điển hình là việc chi cho bộ máy còn
chiếm tỷ lệ lớn, do đó mà thu hẹp vốn cho đầu tƣ và phát triển NIS. Bên cạnh
đó, mức chi cho đào tạo cán bộ KH&CN ở nƣớc ta còn rất thấp, chi lƣơng cho
cán bộ hoạt động KH&CN cũng chƣa thoả đáng, do đó chƣa thể tạo động lực
cho cá nhân hoạt động KH&CN cống hiến hết mình làm việc và sáng tạo.
Tóm lại, trong thời gian qua, cùng với việc đổi mới tƣ duy hoạt động
KH&CN và cách tiếp cận NIS ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên,
vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém làm cho NIS chƣa thực sự là động lực thúc đẩy
KH&CN phát triển.
3.1.6. Đánh giá NIS ở Việt Nam
Phân tích thực trạng NIS ở Việt Nam có thể nhận thấy rõ bên cạnh
những kết quả đạt đƣợc còn rất nhiều bất cập, yếu kém. Qua việc phân tích,
đánh giá sơ bộ tình hình phát triển NIS ở Việt Nam dƣới khuôn khổ chính
sách đổi mới trên có thể rút ra những đánh giá chung sau:
Thứ nhất, Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
NIS từ việc lựa chọn mục tiêu, hoạch định và điều phối chính sách cũng nhƣ
việc tạo lập những nhân tố tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách đổi mới nhƣ
phát triển thị trƣờng công nghệ, cơ sở hạ tầng hỗ trợ đổi mới, nguồn nhân lực
94
và tinh thần doanh nhân.
Thứ hai, NIS của Việt Nam đã bƣớc đầu đã thiết lập đƣợc các thành tố,
tạo lập đƣợc môi trƣờng thuận lợi cho sự phát triển nhƣ thể chế, cơ sở hạ
tầng, nhân lực, tài chính cho đổi mới công nghệ. Đây là những nhân tố quan
trọng trong NIS.
Thứ ba, mặc dù NIS của Việt Nam đã có nhiều thành tố đƣợc thiết lập,
nhƣng vẫn chƣa thực hiện đƣợc vai trò của một hệ thống. Một trong những
đặc trƣng bản chất của NIS đó là tính hệ thống, thể hiện ở sự liên kết toàn hệ
thống, lấy các công ty, các hãng, các doanh nghiệp làm chủ thể chính và là
trung tâm liên kết các yếu tố của hệ thống đổi mới quốc gia về KH&CN. Ở
nƣớc ta hiện nay, mặc dù các thành tố đã đƣợc thiết lập nhƣng sự tƣơng tác
giữa chúng còn rất hạn chế, chƣa thực hiện đƣợc vai trò của hệ thống. Mặt
khác, khung thể chế nói chung chƣa phù hợp để thúc đẩy hoạt động đổi mới.
Nhìn chung, mối tƣơng tác giữa các thành viên và các luồng thông tin/tri
thức- một yếu tố có tác dụng quyết định đến năng lực NIS ở Việt Nam vẫn
còn rất yếu và hạn chế.
3.2. Các giải pháp để phát triển NIS ở Việt Nam
Vừa qua Thủ tƣớng Chính phủ đã ra quyết định số 677/QĐ-TTg ngày
10/05/2011 về việc phê duyệt Chƣơng trình đổi mới công nghệ quốc gia đến
năm 2020, với mục tiêu chính là nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới và nâng
cấp công nghệ quốc gia đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh đến việc xây
dựng và hoàn thiện NIS. Để xây dựng thành công NIS ở Việt Nam nhiều giải
pháp đƣợc sử dụng, trong đó cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:
3.2.1. Lựa chọn cách tiếp cận phù hợp và định dạng mô hình NIS của
Việt Nam
Lựa chọn cách tiếp cận và định dạng mô hình NIS ở Việt Nam đóng vai
trò định hƣớng cho việc phát triển KH&CN. Vấn đề đặt ra là chiến lƣợc này
cần đƣợc hoạch định nhƣ thế nào để KH&CN thực sự trở thành động lực phát
95
triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nƣớc. Xây dựng mô hình
NIS nhƣ thế nào cho phù hợp với thực tiễn và xu hƣớng phát triển của
KH&CN có ý nghĩa quan trọng.
Để NIS ở Việt Nam thực sự là động lực cho sự phát triển của KH&CN,
trƣớc hết cần phải chuyển trọng tâm của cơ chế kế hoạch xuất phát từ các
viện, các trƣờng sang khu vực doanh nghiệp trong NIS. Phải gắn quá trình
hoạch định chiến lƣợc với hệ thống đổi mới trong những năm 2010-2020
trong quá trình hội nhập quốc tế. Tạo ra cơ chế gắn kết hữu cơ hoạt động
R&D của các viện, các trƣờng đại học với hoạt động đổi mới công nghệ tạo ra
những sản phẩm mới, công nghệ cao trong chuỗi giá trị của sản xuất - dịch vụ
- thƣơng mại với hàm lƣợng chất xám cao trong quá trình trao đổi quốc tế của
nền kinh tế mở ở nƣớc ta.
Từ khâu xây dựng đến khâu kế hoạch hóa nên thoát khỏi cách tiếp cận
tuyến tính về KH&CN quyết định theo mệnh lệnh từ trên xuống, thay vào đó
chiến lƣợc KH&CN phải xuất phát từ thị trƣờng, nhu cầu phát triển KT-XH.
Đặc biệt trong xây dựng các chƣơng trình KH&CN, dự án R&D phải gắn liền
hoạt động R&D của các viện, các trƣờng với khu vực doanh nghiệp tạo ra sản
phẩm chủ lực cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, đối với một số chƣơng trình KH&CN quốc gia quan trọng,
ƣu tiên thì Nhà nƣớc phải nghiên cứu lựa chọn ƣu tiên, trực tiếp điều hành,
quản lý theo mục tiêu gắn với thị trƣờng và mục tiêu phát triển KT-XH trên
cơ sở tận dụng và khai thác nhanh, có hiệu quả những thành tựu KH&CN trên
thế giới trong nền kinh tế tri thức của thế kỷ XXI.
Vì vậy, chúng ta cần sớm đổi mới cơ chế hoạch định chiến lƣợc
KH&CN một cách khoa học, xuất phát từ thị trƣờng, gắn với thực tiễn khách
quan của Việt Nam và xu thế phát triển KH&CN trên thế giới.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về
96
KH&CN, tạo lập môi trường, thể chế xã hội thích hợp
Để thúc đẩy sự phát triển của NIS ở Việt Nam hiện nay, một tác nhân
quan trọng đó là phải tạo lập đƣợc môi trƣờng, thể chế xã hội thích hợp, đồng
thời đổi mới cơ chế quản lý Nhà nƣớc về KH&CN.
Trƣớc hết, cần thiết phải nâng cao chất lƣợng và công tác quản lý Nhà
nƣớc về KH&CN, nên tiến hành tách nhiệm vụ sự nghiệp ra khỏi cơ quan
hành chính. Thực hiện sự phân công rõ ràng về quyền hạn và nhiệm vụ của cơ
quan quản lý Nhà nƣớc về KH&CN nhƣ của Chính phủ, Bộ KH&CN, Bộ Kế
hoạch và đầu tƣ, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Lao
động...và các bộ ngành khác, của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ƣơng. Thực hiện cải cách hành chính trong cơ quan quản lý Nhà
nƣớc về KH&CN theo hƣớng tập trung vào nhiệm vụ quản lý Nhà nƣớc, tăng
cƣờng chức năng giám sát, kiểm tra. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao
trình độ, năng lực của đội ngũ nhân lực quản lý Nhà nƣớc về KH&CN
Về tạo lập môi trƣờng, cần thiết lập hành lang pháp lý vững chắc, hoàn
thiện các bộ luật nhƣ: luật kinh doanh, luật sở hữu trí tuệ, luật đầu tƣ… Phải
tạo ra sự cộng lực giữa các bộ/ngành, các hoạt động liên quan đến đổi mới
nhƣ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và phát triển và sản xuất kinh doanh. Tạo
lập môi trƣờng kinh doanh sôi động, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, chống
độc quyền, chống bao cấp. Đối với các dự án KH&CN do Chính phủ tài trợ,
cần sử dụng đầy đủ mọi thông tin và sở hữu trí tuệ, lựa chọn mức khởi điểm
sao cho phù hợp, tránh nghiên cứu trùng lặp ở mức thấp. Đối với những thành
tựu nghiên cứu khoa học đã hoàn thành cần quan tâm đăng ký quyền SHTT
để bảo hộ pháp lý bản quyền và lợi ích; trả lƣơng và phân chia quyền lợi thích
đáng giữa ngƣời sáng chế, ngƣời thiết kế, tác giả và những ngƣời ứng dụng
chủ yếu đối với SHTT. Cần ra sức đẩy mạnh các luật SHTT và chƣơng trình
đào tạo các cán bộ hữu quan, hƣớng dẫn các doanh nghiệp, các tổ chức
nghiên cứu khoa học và các tổ chức đào tạo đại học thành lập và hoàn thiện
hệ thống quản lý SHTT. Tăng cƣờng hơn nữa việc bảo hộ SHTT và nhận thức
97
pháp luật của toàn thể xã hội, củng cố hiệu lực của pháp luật và bảo hộ SHTT,
trừng phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm, giải quyết kịp thời và có các
hiệu quả đối với việc làm vi phạm SHTT và các tranh chấp.
3.2.3. Chuẩn bị các điều kiện cho việc phát triển phát triển NIS
3.2.3.1. Xây dựng kết cấu hạ tầng
Việt Nam cần đầu tƣ đáng kể về kết sở hạ tầng tƣơng ứng để đảm bảo
tính bền vững của cơ sở hạ tầng nghiên cứu. Đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây
dựng các khu công nghệ cao, có chính sách ƣu đãi mạnh mẽ hơn nữa để thu
hút đầu tƣ nƣớc ngoài về công nghệ cao; tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên
cứu, đào tạo và doanh nghiệp trong nƣớc cùng liên kết để phát triển nhanh các
ngành công nghiệp công nghệ cao, nâng cao năng lực công nghệ trong nƣớc.
Mặt khác, cần tăng cƣờng đầu tƣ tài chính cho việc xây dựng NIS. Phƣơng
thức đầu tƣ tài chính sẽ thay đổi, chuyển từ việc hỗ trợ thông thƣờng sang hỗ
trợ theo từng dự án; thành lập quỹ đổi mới công nghệ cho SME, trợ giúp vốn
cho việc chuyển hoá các thành tựu công nghệ cao và mới. Thực hiện chính
sách thu mua của Chính phủ, hƣớng dẫn và khuyến khích các cơ quan Chính
phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức chọn và đặt hàng đối với các công nghệ
có chất lƣợng cao và các thiết bị/sản phẩm liên quan, thông qua phƣơng thức
kiểm soát ngân sách, đấu thầu công khai v.v… Các quỹ R&D của Nhà nƣớc
cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và giáo dục đại học, có thể đƣợc khấu
trừ thuế theo tỷ lệ nhất định.
3.2.3.2. Phát triển nguồn nhân lực KH & CN
Đây là giải pháp quan trọng bởi lẽ con ngƣời nằm ở trung tâm của quá
trình đổi mới. Con ngƣời sáng tạo ra các ý tƣởng đồng thời biến ý tƣởng đó
thành hiện thực, tức là tạo ra các công nghệ, sản phẩm và dịch vụ mới. Hiện
trạng nguồn nhân lực KH&CN ở Việt Nam còn rất yếu kém, mặc dù số lƣợng
đông nhƣng chất lƣợng lại chƣa tƣơng xứng. Do đó chúng ta cần đào tạo và
phát triển đội ngũ nhân lực chất lƣợng cao trong các doanh nghiệp và tại các
98
viện nghiên cứu, trƣờng đại học.
Trƣớc hết, chúng ta cần tạo ra môi trƣờng học tập, nghiên cứu hiện đại,
chú trọng học tập, cập nhật các thành tựu khoa học các nƣớc trên thế giới, đặc
biệt cũng cần có chính sách sử dụng hợp lý thể hiện ở chế độ lƣơng, chính
sách đãi ngộ…
Đồng thời cần có chính sách thu hút nhân tài nghiên cứu phát triển
KH&CN. Để thu hút nhân tài cho nghiên cứu và phát triển KH&CN chế độ
tuyển dụng, đãi ngộ, đề bạt phải chuyển từ tiêu chuẩn “thâm niên” sang “kết
quả”. Cần mở rộng nguồn tài trợ cho các trƣờng đại học, không chỉ bao gồm
học phí và các khoản hỗ trợ của nhà nƣớc mà còn bao gồm hợp đồng nghiên
cứu và đóng góp hảo tâm của khu vực tƣ nhân.
3.2.4. Đổi mới cơ chế tài chính khuyến khích phát triển NIS
Tỷ lệ đầu tƣ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay chỉ đạt dƣới 0,05% doanh thu...Việt Nam xây dựng Chƣơng trình đổi mới
công nghệ quốc gia đến năm 2020 với mục tiêu: Số doanh nghiệp thực hiện
đổi mới công nghệ tăng 10%/năm; giai đoạn 2015 - 2020 tăng 15%, trong đó
5% doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. 100% doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm quốc gia làm chủ đƣợc công
nghệ, giai đoạn 2015 - 2020 doanh nghiệp tạo ra đƣợc công nghệ.
Nhu cầu vốn cho hoạt động đổi mới công nghệ ngày càng lớn, nguồn từ
NSNN không thể đáp ứng đƣợc đủ về số lƣợng và trong một số trƣờng hợp
việc sử dụng vốn này không đem lại hiệu quả cao nhƣ một số vốn khác. Vì
vậy Nhà nƣớc cần ban hành cơ chế chính sách thích hợp nhằm huy động mọi
nguồn vốn cho đổi mới công nghệ nói riêng và phát triển KH&CN nói chung,
khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhất là doanh nghiệp đầu tƣ cho nghiên
cứu, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Việc đầu tƣ cho hoạt động KH&CN nên đƣợc đổi mới theo hƣớng tập
99
trung xây dựng một số viện nghiên cứu, trƣờng đại học, các phòng thí nghiệm
trọng điểm gắn liền với các doanh nghiệp. Tiến hành hoàn thiện cơ chế tài
chính nhằm tạo động lực cho hoạt động đổi mới công nghệ.
Thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các tổ chức
KH&CN; áp dụng cơ chế khoán sản phẩm đối với các đề tài, dự án KH&CN;
đổi mới cơ chế phân bổ NSNN cho hoạt động KH&CN, có chế độ khen
thƣởng các tổ chức, cá nhân có kết quả nghiên cứu đƣợc ứng dụng rộng rãi và
đem lại hiệu quả KT-XH cao.
Ngoài việc đổi mới cơ chế đầu tƣ có mục đích, có trọng điểm cần có
biện pháp hƣớng các nguồn đầu tƣ từ nƣớc ngoài, nguồn vốn viện trợ từ các
tổ chức và cá nhân, trong và ngoài nƣớc, nguồn vốn liên doanh vào các lĩnh
vực then chốt, mũi nhọn nhằm tạo động lực và cú hích cần thiết đối với sự
nghiệp KH&CN nƣớc ta.
Nếu các đề xuất về đấu thầu công khai, các dự án KH&CN đƣợc thực
hiện, và Nhà nƣớc quyết tâm bỏ việc đầu tƣ dàn trải, bao cấp, thì Việt Nam có
thể tăng đƣợc lƣợng đề tài nghiên cứu có chất lƣợng. Nhƣ đã nêu trên, trƣớc
khi một đề tài đƣợc đăng ký nghiên cứu thì cần đƣợc thẩm định về tính ứng
dụng thực tế, đảm bảo đề tài đƣợc đặt ra nhằm giải quyết một vấn đề mà thực
tế đang gặp phải, tránh tình trạng đầu tƣ công sức và tiền của vào việc nghiên
cứu một giải pháp thiếu tính ứng dụng.
3.2.5. Nâng cao vai trò của doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới công
nghệ
Theo bản chất của cách tiếp cận NIS thì chính doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp lớn là trung tâm của đổi mới chứ không phải các viện
nghiên cứu hay các tổ chức nghiên cứu. Do đó việc nâng cao vai trò của các
doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển NIS.
Các doanh nghiệp cần lấy đổi mới công nghệ và chất lƣợng quản lý làm
phƣơng pháp then chốt để khắc phục khó khăn và phát triển; phấn đấu làm
100
cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể chính của NIS. Để tồn tại và lớn
mạnh, các doanh nghiệp cần phải hƣớng vào thị trƣờng, đẩy mạnh hoạt động
R&D, tích cực chuyển hoá và ứng dụng các thành tựu khoa học, tăng lợi ích
kinh tế bằng cách dựa vào tiến bộ công nghệ và nâng cấp công nghệ.
Thực hiện các chính sách và nỗ lực đầu tƣ để thúc đẩy hoạt động đổi
mới công nghệ trong doanh nghiệp. Cùng với việc ban hành các Chƣơng trình
quốc gia với trọng tâm thúc đẩy nâng cao năng lực công nghệ của doanh
nghiệp thông qua các hoạt động đổi mới quy trình và đổi mới sản phẩm công
nghệ. Đồng thời cần nỗ lực hình thành thêm các kênh hỗ trợ tài chính theo
hình thức Quỹ nhƣ Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia, Quỹ Phát triển KH&CN
của địa phƣơng, Quỹ Phát triển KH&CN của doanh nghiệp, đặc biệt là Quỹ
đổi mới công nghệ quốc gia…Đối với các doanh nghiệp coi trọng đầu tƣ đổi
mới công nghệ nên đƣợc hƣởng các ƣu đãi về thuế, phí, lệ phí; có thể miễn
hoặc giảm thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm thể hiện sự quan
tâm, ƣu đãi đối với các doanh nghiệp tích cực đổi mới công nghệ.
Đồng thời cần nhanh chóng thiết lập các tổ chức trung gian thúc đẩy sự
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp nói riêng và thị trƣờng KH&CN nói
chung. Các loại hình tổ chức trung gian của thị trƣờng khoa học và công nghệ
bao gồm:
+ Cơ sở ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp khoa học và công
nghệ;
+ Trung tâm, sàn giao dịch công nghệ, chợ công nghệ - thiết bị;
+ Tổ chức dịch vụ đánh giá, định giá, giám định, tƣ vấn chuyển giao
công nghệ;
+ Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ;
+ Các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ khác liên quan đến thị
101
trƣờng khoa học và công nghệ.
Các hình thức tổ chức trung gian này chính là nơi các sản phẩm đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp đƣợc phổ biến. Phát triển các tổ chức trung
gian của thị trƣờng KH&CN là giải pháp có ý nghĩa to lớn nhằm thúc đẩy quá
trình thƣơng mại hoá các sản phẩm công nghệ.
3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về NIS
Là quốc gia đi sau, với năng lực công nghệ còn yếu kém thì hợp tác
quốc tế là cơ hội lớn để Việt Nam phát triển NIS. Để hợp tác sắp tới có hiệu
quả, chúng ta cần chuẩn bị đội ngũ cán bộ quản lý và nghiên cứu đủ trình độ
làm việc với các đối tác, mạnh dạn hơn nữa đề xƣớng các sáng kiến hợp tác,
tích cực chuẩn bị điều kiện tài chính cho việc tham gia hợp tác...
Thứ nhất, cần khai thác các mối quan hệ với doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài có vai trò quan trọng trong mạng lƣới
liên kết của NIS. Tuy nhiên, vai trò này nhìn chung vẫn chƣa phát huy tác
dụng đáng kể ở nƣớc ta. Để cải thiện tình hình, trong thời gian tới, hợp tác
quốc tế về khoa học-công nghệ cần chú ý đến các biện pháp dƣới đây:
+ Xây dựng và thực hiện các chƣơng trình hỗ trợ hợp tác giữa doanh
nghiệp trong nƣớc với các công ty đa quốc gia.
+ Tăng cƣờng sự phối hợp giữa Bộ Khoa học và Công nghệ với các
doanh nghiệp đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài dƣới hình thức hoạt động chung nhƣ
chƣơng trình, diễn đàn trao đổi, nhóm công tác. Thậm chí nên có cả những tài
trợ nghiên cứu diễn ra ở doanh nghiệp đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.
+ Có các biện pháp khuyến khích liên kết, liên doanh giữa các doanh
nghiệp đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài với các tổ chức nghiên cứu trong nƣớc.
Thứ hai, hợp tác quốc tế khoa học công nghệ hướng vào giải quyết
những vấn đề cụ thể của NIS
Quá trình hình thành và phát huy tác dụng của NIS ở nƣớc ta đang đặt
102
ra khá nhiều vấn đề, trong đó hợp tác quốc tế về KH&CN có thể hƣớng vào
góp phần giải quyết một số vƣớng mắc nhất định. Vừa qua chúng ta đã nỗ lực
hoạt động sở hữu trí tuệ theo hƣớng đáp ứng các điều kiện quy định trong
Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thƣơng mại của quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS) nhằm sớm đƣợc gia nhập WTO, xây dựng cam kết thích hợp về sở
hữu trí tuệ để thiết lập quan hệ thƣơng mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhìn
chung, đó là xu hƣớng thành lập và đẩy mạnh thực hiện các tiêu chuẩn quyền
sở hữu trí tuệ phù hợp thông lệ quốc tế một cách cần thiết để tiếp cận công
nghệ nƣớc ngoài thông qua đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và chuyển giao công
nghệ từ bên ngoài vào. Tuy nhiên, để giải quyết vấn đề bên trong, hợp tác
quốc tế về khoa học công nghệ cần chú ý hơn đến việc đàm phán quốc tế để
có đƣợc các chế độ quyền sở hữu trên cơ sở xem xét thỏa đáng nhu cầu cấp
bách của nền kinh tế nhằm thu hẹp khoảng cách về thông tin, đồng thời cũng
cần nỗ lực thỏa thuận về định nghĩa quyền sở hữu trí tuệ công nhận giá trị của
tri thức bản địa.
Tăng cƣờng thu hút các nguồn vốn và nguồn nhân lực bên ngoài phục
vụ cho mục tiêu liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp và cơ quan KH&CN.
Đồng thời, nâng cao vai trò chủ động của phía Việt Nam trong việc tiếp nhận
công nghệ, một mặt chúng ta cần tăng cƣờng các tri thức và kỹ năng về
chuyển giao công nghệ (trên cơ sở kinh nghiệm thế giới) cho các doanh
nghiệp, mặt khác, hợp tác quốc tế phải tham gia, trợ giúp trực tiếp cho các
quá trình chuyển giao công nghệ quan trọng.
Doanh nghiệp và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp vốn đóng vai trò
trung tâm trong NIS. Để thúc đẩy liên kết trong hệ thống đổi mới, trƣớc hết
cần nâng cao năng lực của doanh nghiệp. Hợp tác quốc tế về khoa học công
nghệ có thể góp phần tăng cƣờng năng lực quản lý công nghệ của doanh
nghiệp bằng cách cung cấp những thông tin, kinh nghiệm về quản lý công
nghệ của thế giới, và thu hút những hỗ trợ từ các chƣơng trình quốc tế có mục
103
tiêu nâng cao năng lực đổi mới cho các nƣớc đang phát triển.
Muốn thực hiện các nhiệm vụ trên, bản thân hợp tác quốc tế về khoa
học công nghệ cũng phải đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ cần
gắn chặt với chiến lƣợc phát triển bên trong, đặc biệt là chiến lƣợc tổng thể về
đổi mới công nghệ... Cần thu hút các đầu mối của NIS cùng với mối quan hệ
liên kết giữa chúng tham gia vào hợp tác quốc tế, thay vì sự tham gia độc lập
của từng đầu mối riêng lẻ. Chẳng hạn, nếu việc nghiên cứu và doanh nghiệp
phối hợp với nhau ngay từ khi tìm hiểu công nghệ nhập thì hoàn toàn có thể
khắc phục tình trạng những chuyển giao công nghệ chỉ dừng lại ở khâu tiếp
nhận, vận hành và chƣa gắn với nghiên cứu thích nghi, cải tiến công nghệ nhƣ
thời gian vừa qua.
Thứ ba, gắn kết chặt chẽ hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ với
các lĩnh vực khác
Đặc điểm của Hệ thống đổi mới là thống nhất giữa chính KH&CN với
chính sách công nghiệp, thống nhất giữa hoạt động bên trong và hoạt động
đối ngoại. Bởi vậy, cần chú ý tới gắn kết giữa hợp tác quốc tế về KH&CN và
các hợp tác quốc tế khác. Xin nêu lên một số khía cạnh gắn kết nhƣ sau:
+ Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm có hàm lƣợng khoa học công nghệ
cao nhằm khuyến khích gắn kết nghiên cứu - triển khai với sản xuất.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các cơ quan nghiên cứu tham gia
kinh doanh vào kinh tế đối ngoại.
+ Kết hợp chuyển giao công nghệ với đào tạo ngƣời quản lý và ngƣời
lao động.
Tóm lại, để xây dựng và phát triển NIS ở Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hoá diễn ra sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chúng ta cần kết hợp sử dụng
đồng bộ nhiều giải pháp. Mặt khác, phải làm cho NIS thực sự là động lực để
phát triển KH&CN, là chìa khoá để Việt Nam có thể thoát khỏi sự tụt hậu về
công nghệ với thế giới và là con đƣờng duy nhất để chúng ta hoàn thành Chiến
104
lƣợc phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
NIS là một trong bốn trụ cột chủ yếu của kinh tế tri thức, đồng thời là
công cụ hàng đầu để liên tục nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm KH&CN
nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung, chủ yếu bằng đổi mới công nghệ.
Đó là một mạng lƣới bao gồm tất cả các cơ sở khoa học và công nghệ, các tổ
chức quy hoạch chiến lƣợc, các doanh nghiệp, các tổ chức quản lý KH&CN
nối mạng với nhau, cũng là tổng hợp các hệ thống đổi mới của vùng, ngành,
doanh nghiệp với sự phối hợp ngang, dọc, trong phạm vi cả nƣớc. Ở các nƣớc
OECD và nhiều nƣớc đang phát triển, NIS đã đƣợc hình thành từ vài chục
năm nay, ngày càng đƣợc củng cố. Thiếu NIS thì việc tăng đầu tƣ cho
KH&CN không cho hiệu quả nhƣ mong muốn.
Đổi mới sáng tạo đƣợc nhìn nhận nhƣ “chìa khóa” dẫn đến thành công
trong thời đại hiện nay. Hoạt động đổi mới sáng tạo đã và đang đƣợc nhiều quốc
gia trên thế giới đẩy mạnh, trong đó nổi bật ở khu vực châu Á là Nhật Bản, Hàn
Quốc và Trung Quốc. Học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia, Việt Nam cũng
đang triển khai nhiều hoạt động nhằm “dọn đƣờng” cho đổi mới sáng tạo.
Bài học từ nghiên cứu NIS ở một số nƣớc châu Á cho thấy học hỏi là vấn
đề sống còn để có đƣợc thành công. NIS của Việt Nam cần một cách nhìn năng
động và áp dụng phù hợp với những thay đổi liên tục và rất nhanh của bối cảnh
quốc tế và quốc gia.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, để xây dựng và hoàn thiện NIS chúng
ta cần đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập môi trƣờng kinh
doanh sôi động, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền, chống bao
cấp, chú trọng ứng dụng tri thức/công nghệ, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân
lực.
Nâng cao vai trò của các công ty lớn trong hoạt động R&D công nghệ;
105
chuyển mạnh các viện nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt
động theo cơ chế doanh nghiệp, với mục tiêu thúc đẩy sự xuất hiện nhiều các
doanh nghiệp sáng tạo, tiến tới xóa bỏ dần ranh giới giữa khu vực nghiên cứu
và sản xuất.
Nhà nƣớc cần hoàn thiện các chính sách khuyến khích các tổ chức
KH&CN, các trƣờng đại học trong việc thành lập các cơ sở sản xuất kinh
doanh, khuyến khích việc đào tạo, nâng cao trình độ nhân lực và tạo ra việc
làm, đầu tƣ cho nghiên cứu khoa học, gắn khoa học - đào tạo với sản xuất -
kinh doanh.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu công nghệ cao, có chính sách ƣu
đãi mạnh hơn nữa để thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài về công nghệ cao, đồng thời
tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu, đào tạo và các doanh nghệp trong
nƣớc cùng hợp tác liên doanh, liên kết để phát triển công nghệ cao, nâng cao
năng lực công nghệ nội sinh….
Như vậy, chìa khoá để Việt Nam có thể thoát khỏi sự tụt hậu về công
nghệ với thế giới chính là nhờ phát triển NIS về KH&CN, đó là con đƣờng
duy nhất để chúng ta hoàn thành Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội và giữ
vững định hƣớng xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng,
106
dân chủ và văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Vũ Đình Cự (2004), “Thị trƣờng khoa học công nghệ”, Tạp chí Hoạt
động khoa học, (10), tr.12-16.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, tr. 78.
3. Đặng Hữu, “Phát huy năng lực sáng tạo, xây dựng Hệ thống đổi mới
quốc gia để hội nhập vào xu thế phát triển kinh tế tri thức toàn cầu”, Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.1-12.
4. Đặng Hữu (2005), Kinh tế tri thức - thời cơ và thách thức đối với sự
phát triển của Việt Nam , Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Nghị định 677/QĐ-TTg ngày 10/05/2011 của Thủ tƣớng Chính phủ
về ”Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2020”.
6. Đinh Hoàng Phi (2011), Giáo trình Quản trị công nghệ, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Trần Đình Quân (2006), “Đổi mới tƣ duy hoạt động và quản lý khoa
học và công nghệ ở nƣớc ta sau hội nhập WTO theo cách tiếp cận NIS về
khoa học và công nghệ”, Tạp chí Nghiên cứu chính sách Khoa học và công
nghệ, (13), tr.25-30.
8. Lê Đình Tiến (2001), “Vận dụng cách tiếp cận NIS để thúc đẩy tăng
trƣởng kinh tế”, Báo cáo tại Hội thảo Sử dụng kiến thức về đổi mới để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005, Hà Nội.
9. Ngọc Trân (2005), “Hệ thống đổi mới quốc gia và một số vấn đề đặt
ra ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (6), tr.13-18.
10. Trung tâm thông tin KH&CN Quốc gia (2006), Tổng luận số 3: Hệ
107
thống đổi mới quốc gia ở các nước phát triển, Cục KH&CN Quốc gia, tr. 26.
11. Trung tâm thông tin KH&CN Quốc gia (2006), Tổng luận số 4: Hệ
thống đổi mới quốc gia ở một số nước đang phát triển ở châu Á, Cục
KH&CN Quốc gia, tr. 21.
12. Trung tâm thông tin KH&CN Quốc gia (2006), Tổng luận số 4: Hệ
thống đổi mới quốc gia ở một số nước đang phát triển ở châu Á, Cục
KH&CN Quốc gia, tr. 25.
13. Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á –Thái Bình Dƣơng
(ESCAP) (1970), “Định nghĩa công nghệ”, Cục KH&CN Quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Công Yên (2012), Chương trình đối tác đổi mới sáng tạo
Việt Nam – Phần Lan: Những kiến thức cơ bản về đổi mới, NXB Khoa học và
Kỹ Thuật, tr.153.
Tiếng Anh
15. Charles Edquist, C. (1997), Systems of Innovation: Technologies,
Institutions and Organizations, Pinter, London.
16. Chris Freeman, C. (1987), “The National System of Innovation in
Historical Pespective”, Cambridge Journal of Economics, (19), pp.5-24.
17. Lundvall, B.A (1992), National Innovation Systems: Towards a
Theory of Innovation and Interactive Learning, London, Pinter Publishers.
18. OECD (2010), Innovation strategy, London, Pinter Publishers.
19. Patel, P. và Pavitt. K. (1994), The ensence and importance of the
National innovation system, (14), OECD.
20. Sachs, J.D (2001), Technological advances and the long-term
economic growth of Asian countries, pp.158-185.
Website:
21. www.globalinnovationindex.org
22. www.tiasang.com.vn
108
23. www.vietnamnet.vn/vn