ĐẠI HỌC Q UỐ C GIA HÀ NỘI TỈUNG TÂM ĐÀO TẠO, B ổi DƯỜNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

— Cũn—

TẠ TH Ị THUÝ NGÂN

PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VÃN THẠC s ĩ KHOA HỌC KINH TẾ

Chuyên ngành: Kinh tê chính trị Mã sỏ: 5.02.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. T rần Q uang Lâm

ĐAI H Ọ C Q U Ố C G IA HA N o. I TRUNG TÂM THÒNG TIN THƯ VIỆN '

~\Ị-1. 0/0 0 4 $ ? I

HÀ NỘI - 2004

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 5

1.1. ^Sự cần thiết phát triển HTX trong nền KTTT định hưóng XHCN 5

1.2. i)ặ c điểm của HTX trong nền KTTT định hướng XHCN 21

1.3. Nhũng nhân tố cơ bản tác động đến sự hình thành và phát triển của HTX 29

1.4. Khái quát về kinh nghiệm phát triển HTX ở một số nước trên thế giới 33

41

Chương 2 : Thực trạng kinh tế HTX ở Hải Dương trong thời gian vừa qua/và những vấn đề đặt ra hiện nay

2.1. Đặc điểm tự nhiên, KT - XH và quá trình hình thành, phát triển 41

kinh tế hợp tác và HTX ở Hải Dương

2.2. Thực trạng kinh tế HTX ở Hải Dương trong thời gian vừa qua 50 ỵ 75

2.3. Đánh giá chung về những kết quả đạt được và những khó khăn, tổn tại cần giải quyết nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả của các HTX trên địa bàn Hải Dương trong nền KTTT định hướng XHCN

84

Chương 3 : Quan điểm, mục tiêu, phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian tới .•

3.1. Quan điểm và mục tiêu đối với HTX 84

3.2. Phương hướng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của HTX 87

3.3. Các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả 94

của HTX trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian tới

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 109

Danh mục tài liệu tham khảo

QUY ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BCH TW: Ban chấp hành Trung ương

2. CNTB: Chủ nghĩa tư bản

CNXH: Chủ nghĩa xã hội 3.

4. CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

5. Công ty cổ phần CTCP:

6. CTTNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn

7. DN: Doanh nghiệp

8. DNV&N: Doanh nghiệp vừa và nhỏ

HTX: Hợp tác xã 9.

Kinh tế thị trường 10. KT1T:

11. KT - XH: Kinh tế - xã hội

12. KTQD: Kinh tế quốc dân

13. LLSX: Lực lượng sản xuất

14. Nxb: Nhà xuất bản

15. PTSX: Phương thức sản xuất

16. QHSX: Quan hệ sản xuất

17. Sản xuất kinh doanh

sx , KD:

18. TLSX: Tư liệu sản xuất

19. UBND: Uỷ ban nhân dân

20. XHCN: Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn Việt Nam cho thấy: HTX là một

loại hình tổ chức kinh tế, tồn tại khách quan ở nhiều PTSX và có vị trí, vai trò

quan trọng trong phát triển kinh tế. Hiện nay, các HTX và các tổ chức của HTX

tồn tại ở hầu hết các nước trên thế giới. Đối với Việt Nam, sự tồn tại và phát triển

của HTX có ý nghĩa đặc biệt.

Ở nước ta, các loại hình tổ chức hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa các thành

viên trong cộng đồng xuất hiện từ rất sớm. Từ đầu những năm 50 của thế kỷ XX,

trong nền kinh tế xuất hiện những hình thức hợp tác mới, các HTX được thành

lập ở hầu hết các ngành kinh tế và phát triển khá mạnh cùng với nền kinh tế kế

hoạch hoá tập trung, HTX đã có vai trò lịch sử rất quan trọng trong phát triển KT

- XH, kháng chiến chống ngoại xâm và thống nhất đất nước...

Khi bước vào cơ chế thị trường, trên phạm vi cả nước cũng như ở Hải

Dương, những hạn chế, yếu kém của mô hình hợp tác hoá trong cơ chế cũ đã

tiềm ẩn từ trước ngày càng bộc lộ rõ, dẫn đến một bộ phận lớn HTX lâm vào

khủng hoảng, bị tan rã hoặc tồn tại mang tính hình thức, trở thành lực cản đối với

sự phát triển. Tuy nhiên, trong tình trạng suy giảm đó cũng bắt đầu xuất hiện

những hình thức hợp tác đa dạng. Ở nhiều địa phương, một số HTX đã tìm kiếm

các giải pháp thiết thực để củng cố và chuyển đổi hình thức tổ chức, quản lý

nhằm thích ứng với cơ chế mới. Điều đó khẳng định việc phát triển kinh tế hợp tác

và HTX là nhu cầu khách quan do đòi hỏi tất yếu kinh tế trong quá trình phát triển.

Trước sự cạnh tranh ngày càng lớn của KTTT và yêu cầu phát triển của nền

kinh tế hàng hoá theo hướng CNH, HĐH, việc đổi mới và phát triển các HTX là một

tất yếu và cấp bách. Tuy vậy, quá trình chuyển đổi HTX cũ và xây dựng HTX mới

thời gian qua còn chậm, chưa tương xứng vói yêu cầu phát triển sức sản xuất, phần

nhiều HTX chuyển đổi còn mang tính hình thức, chưa có sự chuyển biến nhiều về nội

1

dung hoạt động, nội lực của HTX còn yếu, hiệu quả sx , KD thấp, chưa đáp ứng được

các yêu cầu của hộ xã viên và đòi hỏi của thị trường.

Thực tế đang đặt ra vấn đề cấp thiết là phải nghiên cứu, khảo sát, đánh giá

một cách toàn diện, khách quan thực trạng các HTX trên địa bàn Hải Dương, xác

định rõ nguyên nhân, từ đó tìm ra được những cơ chế tác động hợp qui luật,

những giải pháp cần thiết nhằm tiếp tục đổi mới, phát triển có hiệu quả HTX

trong nền KTTT định hướng XHCN.

Do đó, tác giả chọn đề tài: "Phát triển HTX trên địa bàn tình Hải Dương

trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn thạc sĩ kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Phát triển HTX là vấn đế lớn, mang tính chiến lược, luôn được Đảng và Nhà

nước ta quan tâm. Sự quan tâm đó thể hiện thông qua đường lối, chủ trương,

chính sách và đầu tư nhiều mặt của Đảng, Nhà nước cho khu vực kinh tế tập thể

(nòng cốt là các HTX). Vấn đề này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -

Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nhiều nhà khoa học, hoạch định chiến lược

trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.

Các công trình được công bố dưới nhiều dạng khác nhau: sách nghiên cứu,

các bài phát biểu (của các lãnh tụ), đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, bài viết trên

các báo, tạp chí, một số luận án có liên quan đến đề tài... như: PTS. Nguyễn Văn

Bích: "Phát triển và đổi mới quản lý HTX theo Luật HTX", Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà nội. 1997; Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW: "Kinh nghiệm của một

số HTX tiêu biểu trong các ngành kinh tế", Hà nội. 1996; Trần Thanh Hà: "Kinh

tế hợp tác trong nền KTTT ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà nội. 2000...

Các công trình trên đã đưa ra nhiều nhận định, đánh giá chung, những định

hướng lớn hoặc nghiên cứu HTX ở những khía cạnh nhất định, dưới nhiều góc độ

khác nhau như kinh tế phát triển, quản lý kinh tế, kinh tế nông nghiệp nông

thôn... Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu HTX ở Hải Dương

dưới góc độ kinh tế chính trị.

2

Với luận văn này, chúng tôi muốn kế thừa những thành quả nghiên cứu của

các tác giả trên, đồng thời thông qua thực tiễn ở Hải Dương để tìm ra các giải

pháp phát triển kinh tế HTX phù hợp với đặc thù của tỉnh.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.

3.1. Mục đích.

Vận dụng lý luận về HTX vào khảo sát thực tiễn hoạt động của các HTX ở

tỉnh Hải Dương và đề xuất các phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy

các HTX ở Hải Dương phát triển mạnh, đúng hướng, có hiệu quả, phù hợp với

đặc điểm của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ.

- Làm rõ phát triển HTX là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển nển kinh

tế tò sản xuất nhỏ, trình độ lạc hậu đi lên sản xuất lớn XHCN ở nước ta hiện nay.

- Khảo sát, nghiên cứu làm rõ thực trạng của HTX ở Hải Dương hiện nay.

- Đề ra phương hướng và giải pháp phát triển HTX phù hợp vói thực tiễn ở Hải

Dương.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.

4.1. Cơ sở lý luận.

Luận văn vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, các quan điểm đổi mới của Đảng, các luật như Luật HTX, Luật đất

đai và những chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam về HTX. Luận văn

còn kế thừa kết quả nghiên cứu, những thành quả nghiên cứu về HTX của một số

nhà khoa học trong và ngoài nước.

4.2. Phương pháp nghiên cứu.

Luận vãn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của

chủ nghĩa Mác-Lênin, các phương pháp nói chung của khoa học kinh tế, đặc biệt

coi trọng phương pháp khảo sát và tổng kết thực tiễn.

5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.

Luận vãn nghiên cứu HTX trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, nhưng trọng

tâm hướng vào các HTX trong nông nghiệp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

3

*- Ý nghĩa lý luận: Luận vãn đã làm rõ hơn tính tất yếu, vai trò của HTX

trong nền KTTT ở nước ta hiện nay.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những

người làm công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách, chỉ đạo thực tiễn hoặc vận

dụng trong công tác giảng dạy lý luận khoa học kinh tế-chính trị.

7. Kết cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và

phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: HTX trong nền KTTT định hướng XHCN.

Chương 2: Thực trạng kinh tế HTX ở Hải Dương trong thời gian vừa qua và

những vấn đề đặt ra hiện nay.

Chương 3: Quan điểm, mục tiêu, phương hướng và các giải pháp cơ bản

nhằm đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX trên địa bàn

tỉnh Hải Dương trong thời gian tới

4

Chương 1.

HỢP TÁC XÃ TRONG NEN k in h t ê t h ị t r ư ờ n g đ ịn h

HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiểu thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước

theo định hướng XHCN, việc đổi mới và phát triển HTX trở thành đòi hỏi tất yếu

khách quan có ý nghĩa rất quan trọng. Công cuộc đổi mới trong những năm qua

thực sự đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến phong trào HTX; một mặt cho thấy

tuyệt đại đa số các HTX kiểu cũ đã bộc lộ tính không phù hợp với yêu cầu đổi

mới; mặt khác, thực tế cũng khẳng định nhu cầu họp tác là tất yếu để hỗ trợ, giúp đỡ

nhau tạo ra sức mạnh cho các hộ kinh tế tự chủ và cá nhân kinh doanh có sức cạnh

tranh trong cơ chế thị trường.

1.1. Sự cần thiết phát triển HTX trong nền KTTT định hướng XHCN.

1.1.1. HTX và những đặc trưng cơ bản của HTX trong nền KTTT định

hướng XHCN.

Sau nhiều năm nghiên cứu, soạn thảo và trình lên Quốc hội, ngày 20/3/1996

Luật HTX của Việt Nam đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam

khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày

01/01/1997.

Trong hầu hết Luật HTX của các nước, tại chương đầu tiên đều ghi rõ khái

niệm hoặc định nghĩa về HTX để xác định và khẳng định HTX là một tổ chức

kinh tế có đặc thù riêng và tổ chức hoạt động theo những nguyên tắc chặt chẽ.

Qua Luật HTX của một số nước trên thế giới, người ta có thể hiểu HTX là tổ

chức kinh tế của những cá nhân, tập thể tự nguyện liên kết vói nhau, với một mục

đích chung, nhu cầu chung, nhằm hỗ trợ, giúp đỡ nhau tiến hành công việc kinh

doanh có hiệu quả theo những nguyên tắc của HTX.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Muốn tăng gia sản xuất thì cần làm tập

thể, nhưng vì từ trước tới nay, nông dân ta quen làm ăn riêng rẽ từng nhà, không

5

qien tập thể, không quen tổ chức. Để tiến bộ mãi thì đường đi của nông dân phải

có mấy bước, bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi nước" [18,

tr.538]. Do vậy, "trước hết cần nhận rõ mục đích của việc tổ chức HTX là gì ? Là

để cải thiện đời sống nông dân được ấm no, mạnh khoẻ, được học tập, làm cho

dìn giàu, nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Đó là mục đích riêng và mục

ách chung của việc xây dựng HTX" [19, tr. 637].

Thấu suốt tư tưởng của Bác Hồ và đường lối đổi mới của Đảng, có sự chọn

loc tinh hoa của kinh nghiệm quốc tế, Luật HTX của Việt Nam đã đưa ra định

nghĩa về HTX ngay tại điều 1 của Luật HTX là: "HTX là tổ chức kinh tế tự chủ

cb những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp

síc lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của

từng xã viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sx, KD,

(Ịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển KT - XH của đất nước" [21,

ti.5 - 6]. Tuy nhiên, đến Luật HTX sửa đổi năm 2003 có nhấn mạnh thêm: "HTX

li tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hô gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã

viên)... lập ra" và "HTX hoạt động như một loại hình DN" [7, tr.3].

Theo định nghĩa này, HTX là một tổ chức kinh tế có tổ chức chặt chẽ, có tư

cách pháp nhân được đăng ký kinh doanh theo qui định của luật pháp. Đó là một

t<) chức kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, do các xã viên có nhu cầu, lợi ích

chung, tự nguyện lập ra nhằm mục đích giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các

hoạt động sx, KD, dịch vụ, cải thiện đời sống, góp phần phát triển KT - XH của

cất nước.

Từ tổng kết thực tiễn quá trình chuyển đổi các HTX kiểu cũ, thành lập các

HTX kiểu mới theo các nội dung qui định của Luật HTX và các quan điểm có

inh nguyên tắc trong xây dựng kinh tế tập thể ở Nghị quyết số 13/NQ-TW, Hội

Ighị lần thứ năm BCH TW khoá IX về "tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao

ỉiệu quả kinh tế tập thể", có thể nêu lên những đậc trưng cơ bản của mô hình

HTX kiểu mới như sau:

Thứ nhất: v ề thành viên tham gia HTX

6

Khác với HTX kiểu cũ, thành viên HTX chỉ gồm các thể nhân, HTX kiểu

mới là một tổ chức kinh tế do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân

(người lao động, cán bộ, công chức, các hộ sx, KD, trang trại, DNV&N thuộc

các thành phần kinh tế...), cả người có ít vốn và người có nhiều vốn có nhu cầu tự

nguyện cùng nhau góp vốn hoặc có thể góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về

các hoạt động của mình theo qui định của pháp luật về HTX. HTX không thủ tiêu

tính tự chủ sx, KD của các thành viên, mà chỉ làm những gì mỗi thành viên riêng lẻ

không làm được hoặc làm không có hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển.

Thành viên tham gia HTX vẫn là những "đơn vị kinh tế tự chủ".

Thứ hai: v ề quan hệ sở hữu

Trong HTX kiểu mới, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của các thành viên

được phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của HTX) bao gồm các nguồn vốn tích

luỹ tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sấm để dùng cho hoạt động của HTX,

tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng làm tài sản không chia và các

quỹ không chia. Thành viên khi tham gia HTX không phải góp TLSX, mà điểu

kiện tiên quyết là phải góp vốn theo qui định của Điều lệ HTX, có thể góp sức khi

HTX có nhu cầu; suất vốn góp không hạn chế, song được khống chế một tỷ lệ nhất

định so với tổng số vốn góp của các thành viên nhằm bảo đảm tính chất của HTX

(theo Luật HTX hiện hành thì không quá 30%). Vốn góp của thành viên được chia lãi

hàng năm và được rút khi thành viên ra khỏi HTX.

Thứ ba: v ề quan hệ quản lý trong HTX

Trong các HTX kiểu mới, quan hệ giữa HTX và thành viên là quan hệ bình

đẳng, thoả thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sx, KD. Hoạt

động sx, KD của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sx, KD của thành

viên, mà chỉ diễn ra ở từng khâu công việc, từng công đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy

thế mạnh của từng thành viên và do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ

của thành viên. Thành viên tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX

như phương án sx, KD, phương án phân phối thu nhập trong HTX... Nguyên tắc bầu

cử và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, mỗi thành viên một phiếu bầu, không

phân biệt vốn góp ít hay nhiều.

7

Thứ tư: v ề quan hệ phân phối

Trong các HTX kiểu mới, hình thức phân phối được thực hiện trên nguyên

tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo mức độ tham gia dịch vụ.

Người lao động là xã viên, ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất

lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ;

vốn góp càng lớn, mức độ tham gia dịch vụ càng nhiều, thì thu nhập càng cao. Có

thể thấy rõ qua sơ đồ sau:

Sơ đồ so sánh phân phối thu nhập của HTX nông nghiệp kiểu mới và cũ

HTX nông nehiêp kiểu củ HTX nông nshiêp kiểu mới

Thứ năm: v ề cơ chế quản lý đối với HTX

8

Các HTX kiểu mới đã được giải phóng khỏi sự ràng buộc cứng nhắc của cơ

chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. HTX đã thực sự là một đơn vị kinh doanh

độc lập trong cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật với các DN thuộc các

thành phần kinh tế khác, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt

động sx, KD, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần

kinh tế khác, cũng như phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với

Nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm trong hoạt động sx, KD, dịch vụ của HTX, không còn can

thiệp trực tiếp vào các hoạt động của HTX. Vai trò của Nhà nước trong việc quản

lý đối với HTX được chuyển qua việc ban hành pháp luật và các chính sách

khuyến khích phát triển HTX.

Thứ sáu: v ề qui mô và phạm vi hoạt động

Qui mô và phạm vi hoạt động của HTX không còn bị giới hạn như trước.

Mỗi HTX có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghể khác nhau, không giới

hạn địa giới hành chính. Chẳng hạn, các HTX làm dịch vụ cung cấp phân bón,

thuốc trừ sâu... về nguyên tắc, không bị bó hẹp vào đom vị hành chính theo qui

mô thôn, xã. Do đặc điểm của sản xuất hàng hoá nông nghiệp trong một chức

năng lại đòi hỏi phải "liền canh" (dịch vụ thuỷ nông, phòng trừ sâu bệnh), còn

xuất phát từ truyền thống, các hộ nông dân tham gia HTX thường "liền cư". Tuy

nhiên, ngay cả trong trường hợp này, địa bàn hoạt động của HTX cũng không nhất

thiết trùng vào địa giới hành chính.

Thứ bẩv: Về hiệu quả hoạt động của HTX

Cũng như các tổ chức kinh tế khác trong nền KTTT, hoạt động của HTX

phải thích ứng với điểu kiện KTTT, phải chấp nhận cạnh tranh, do đó, kinh doanh

trở thành phương thức để tồn tại, phát triển và thông qua đó mà đánh giá hiệu quả

hoạt động của HTX.

Tuy nhiên, HTX còn có vai trò quan trọng trong việc xoá đói, giảm nghèo,

xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng

đồng... Do đó, mọi hoạt động của HTX phải được đánh giá bằng hiệu quả tổng

hợp, cả về kinh tế, chính trị, xã hội; cả hiệu quả của tập thể và của thành viên.

9

Thứ tám: v ề mô hình HTX

Mô hình HTX kiểu mới linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc

điểm của từng vùng, từng ngành; với nhiều trình độ phát triển, từ thấp đến cao, từ

làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt động sx, KD của các thành viên, đến

mở mang ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp và hình thành các DN của

mình (Luật DN cho phép HTX được thành lập CTTNHH 1 thành viên); từ HTX phát

triển thành Liên hiệp HTX.

Không thể áp dụng rập khuôn, máy móc một kiểu tổ chức HTX đơn điệu

cho tất cả các vùng khác nhau của đất nước. Theo Lênin, chế độ HTX với tư cách

là CNTB nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH trước khi có những HTX văn

minh, thì phải rất đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung hợp tác, phải đi

dần từ thấp đến cao; phải căn cứ vào trình độ phát triển của LLSX; phải căn cứ

vào đặc điểm công nghệ, kỹ thuật, trình độ quản lý trong từng ngành nghề; phải

căn cứ vào những tất yếu kinh tế buộc những hộ gia đình xã viên tự nguyện tham

gia vào HTX.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy rằng: "Không phải làng nào cũng phải

lập mỗi làng một HTX. Cũng không phải mỗi làng phải lập cả mấy HTX. Cũng

không phải có HTX này thì không được lập HTX kia. Chẳng qua, theo hoàn cảnh

nơi nào lập được HTX nào, và có khi hai HTX - mua và bán - lập chung cũng được.

Nếu nhiều noi đã lập thành HTX như nhau, thì các HTX ấy nên liên lạc với

nhau, thế lực càng mạnh hơn..." [10, tr. 256 - 257].

HTX kiểu mới trong nông nghiệp có thể được thiết lập theo chiều dọc hoặc

ngang, hoặc đan xen giữa ngang và dọc. Hình thức phổ biến là hình thành các

HTX gắn với các hộ nông dân theo chiều dọc để cùng sản xuất, tiêu thụ, chế biến

sản phẩm cuối cùng của nông nghiệp. Khi đó, HTX sẽ đảm nhận một hay một số

chức năng nhất định của đầu vào hay đầu ra cho các hộ nông dân. Các HTX sẽ

trở nên đa dạng vể các chức năng cũng như qui mô hoạt động của từng dịch vụ

nông nghiệp. Chẳng hạn, trong ngành trồng trọt, để tăng qui mô diện tích canh

tác nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả (điều này xảy ra trong trường hợp diện

tích canh tác nhỏ hẹp, kinh doanh kém hiệu quả song hộ nông dân nào cũng

10

muốn giữ quyền sở hữu (hay sử dụng) ruộng đất của mình, không chuyển giao

cho người khác). Con đường giải quyết mâu thuẫn này là các hộ hợp tác với nhau

để cùng kinh doanh trên một diện tích canh tác lớn hơn, có hiệu quả hơn, nhưng

vẫn bảo vệ quyền sở hữu (sử dụng) của mình về đất đai.

Để hiểu rõ hơn những đặc trưng của HTX kiểu mới, có thể xem xét sự so

sánh ở Biểu 1 sau :

Biểu 1; So sánh các đặc trưng kinh tế cơ bản

của mô hình HTX kiểu cũ và mới

HTX kiểu mới HTX kiểu cũ

Kinh tế hàng hoá Kinh tế hiện vật 1. Điều kiện ra đòi

Thể nhân + pháp nhân 2. Chủ thể tham gia Thể nhân

Cao Thấp 3. Mức độ tự nguyện

(do chủ trương của cấp trên) (do nhu cầu của kinh tế hộ)

Sở hữu tập thể và sở hữu cá Sở hữu tập thể 4. Quan hệ sở hữu

nhân được phân định rõ

- Nhà nước ít can thiệp 5. Cơ chế quản lý - Nhà nước can thiệp sâu

- Các xã viên quyết định - Lãnh đạo cấp trên + vai trò

của Ban chủ nhiệm

- Tính dân chủ cao - Tính dân chủ hạn chế

Theo vốn, theo lao động và 6. Quan hệ phân phối Vừa theo hoạt động, vừa

theo mức độ tham gia dịch vụ mang tính bình quân

Không phụ thuộc địa giới 7. Địa bàn hoạt động Địa bàn hành chính (làng,

hành chính xã)

Đa dạng 8. Hình thức tổ chức Đơn nhất

Có thể chỉ ở từng khâu công 9. Nội dung kinh Toàn bộ hoạt động sx, KD

việc, từng công đoạn (chủ yếu của các thành viên doanh

khâu dịch vụ)

Như vậy, những chuyển biến của các HTX kiểu cũ cho phù hợp với điều

kiện mới, những HTX giản đơn và những HTX kiểu mới đang hoạt động trên

11

từng lĩnh vực hoặc nhiều lĩnh vực nảy sinh do các hộ tự nguyện lập nên ở nhiều

nơi trong cả nước, chứng tỏ HTX kiểu mới là một hình thức tổ chức kinh tế có ưu

thế và phù hợp với điều kiện ở nước ta hiện nay.

1.1.2. Vai trò của HTX trong nền KTTT định hướng XHCN.

Ngay từ khi CNTB ra đời, cùng với cuộc cách mạng kỹ thuật, sự cạnh tranh

trong sx, KD được hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt, để

tổn tại, tiêu thụ được những sản phẩm làm ra và phát triển, những người nghèo,

người kém thế lực về kinh tế đã cùng nhau hợp tác lại, giúp đỡ, tương trợ nhau

sx, KD, tạo ra sản phẩm tốt hom, giá rẻ hơn và có sức mạnh hom để chống đỡ sự

áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản và cạnh tranh trên thị trường.

Ví dụ: năm 1726, 28 thợ dệt nước Anh đã rủ nhau thành lập 1 Hội làm vải

cho tốt và bán giá trung bình trong hàng xóm, đó là một trong những HTX đầu

tiên trên thế giới [6, tr. 94]. Đến năm 1825 Chính phủ Anh ban hành Luật HTX

Nhiều năm đã trôi qua, HTX ngày càng khẳng định được vai trò của mình

và được xây dựng, phát triển ở nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước chậm

phát triển cũng như phát triển.

Thông qua một quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, các nhà kinh điển của chủ

nghĩa Mác-Lênin cũng đã khẳng định vai trò to lớn của HTX trong việc xây dựng

chế độ kinh tế mới.

Các-Mác và F.Ảng-ghen khi phê phán các nhà XHCN không tưởng vẫn

chưa thấy được vai trò to lớn của HTX đối với hình thái KT - XH tương lai. Hai

ông nghĩ rằng, có thể chuyển trực tiếp từ CNTB lên CNXH không cần có bước

quá độ trung gian. Nhưng sau đó xuất phát từ thực tiễn lịch sử và sự hình thành

của các "HTX nông nghiệp" sau cách mạng dân chủ tư sản ở Châu Âu (1808-

1894), hai ông đã dần dần thấy được vai trò to lớn của HTX . Trong quyển III của

bộ "Tư bản", Mác cho rằng, các HTX lao động ở các cấp độ khác nhau nhưng

đều là "điểm chuyển tiếp" sang sản xuất theo kiểu liên hợp, hợp tác, và các HTX

lao động không chỉ là "điểm chuyển tiếp" mà còn là "lỗ thủng đầu tiên" trong

PTSX TBCN. Các-Mác đã tóm tắt lại rằng, các tập thể lao động hợp tác đó "cho

12

ta thấy rằng, đến một giai đoạn phát triển nhất định của các LLSX vật chất và của

những hình thái sản xuất xã hội tương ứng với những LLSX đó, thì tất nhiên là

một PTSX mới phải nảy sinh và phát triển trên cơ sở một PTSX cũ" [24, tr.44].

Ảng -ghen cũng đã khẳng định: "Trong bước quá độ lên nền kinh tế cộng

sản chủ nghĩa đầy đủ, chúng ta phải áp dụng nền sản xuất HTX coi như một giai

đoạn trung gian trên qui mô rộng lớn, về việc này, tôi và Mác không bao giờ hoài

nghi cả" [11, tr. 19].

Lê-nin cũng đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc phát triển những

quan điểm của Các-Mác và Ăng-ghen về HTX. Lúc đầu Lê-nin chỉ thừa nhận

loại HTX tiêu thụ với tính cách là: "Bộ máy duy nhất có tính chất quần chúng để

phân phối có kế hoạch mà thôi". HTX kiểu như vậy thực chất là một kiểu HTX -

Nhà nước, một bộ phận của kinh tế XHCN theo hướng tập trung.

Thực tiễn nước Nga sau nội chiến đã đưa Lê-nin đến nhận thức mới: Từ bỏ

quan niệm quá độ thẳng trực tiếp lên CNXH. Lê-nin đề ra "Chính sách kinh tế

mới" (NEP), trong đó, ông thừa nhận rằng những HTX với tư cách là đơn vị kinh

tế độc lập, hạch toán kinh tế gắn với tự do trao đổi. Khi bàn về HTX tiêu dùng và

sản xuất, Lê-nin đã nói rõ ý nghĩa, tác dụng của HTX đối với việc phân phối và

phát triển sản xuất hàng hoá nhỏ trong nền KTQD như sau: "HTX tiêu dùng là

sự tập hợp của công nhân và nông dân, nhằm mục đích cung cấp và phân phối

những sản phẩm cần thiết cho họ. HTX sản xuất là sự tập hợp những người tiểu

nông hoặc thợ thủ công nhằm mục đích sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm vừa nông

nghiệp (chẳng hạn như rau, sản phẩm sữa...) vừa phi nông nghiệp (sản xuất công

nghiệp đủ mọi loại, đồ bằng gỗ, bằng sắt, bằng da)" [13, tr. 301].

Trong tác phẩm nổi tiếng: "Bàn về chế độ HTX", tháng giêng năm 1923,

Lê-nin đã đưa ra những kết luận cực kỳ quan trọng:

- "Chế độ kinh tế hợp tác - (Người trích) có ý nghĩa đặc biệt, trước hết là về

phương diện nguyên tắc (Nhà nước nắm quyền sở hữu TLSX), sau nữa là về

phương diện bước quá độ sang chế độ mới bằng con đường giản đơn nhất, dễ

dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân" [14, tr. 422].

13

- Chỉ khi nào phát triển đến "chế độ của những xã viên HTX văn minh" thì mới

là chếđộXHCN" [14, tr. 425],

Như vậy: Tư tưởng của Các-Mác, Ăng-ghen, Lênin đã chỉ rõ vai trò to lớn

của HTX trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong nông nghiệp. Đó là

con đường đơn giản nhất, dễ tiếp thu nhất để dẫn dắt người sản xuất nhỏ đi lên

trong quá trình xây dựng chế độ kinh tế mới.

Hồ Chí Minh - Người tiếp thu, truyền bá, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ

nghĩa Mác-Lênin vào việc đề ra đường lối cho cách mạng Việt Nam cũng đã

dành sự quan tâm đặc biệt đến HTX. Ngay từ những năm 1927, trong tác phẩm

"Đường kách mệnh", Người cũng đã có hẳn một chương viết về "HTX". Sau khi

phân tích 4 cách hợp tác, Người đi đến kết luận: "Nói tóm lại là HTX rất có lợi

cho nên dân các nước làm nhiều lắm. Thử xem các hãng buôn, sở dĩ mà giàu có,

chẳng qua bớt ngược, bớt xuôi của dân. HTX là để khỏi bị hãng buôn ăn bớt"

[17, tr. 318].

Kháng chiến chống Pháp thành công, miền Bắc bước vào xây dựng chế độ

mới, xuất phát từ một nước nông nghiệp: "đa số dân ta là nông dân", Hổ Chí

Minh chỉ rõ: "Chúng ta nhất định phải nâng cao đời sống của đồng bào nông dân.

Nhưng nếu nông dân cứ làm ăn riêng thì đời sống không thể nâng cao. Muốn

nâng cao đời sống thì chỉ có một cách tổ chức nông dân làm ăn tập thể, tức là tổ

chức nông dân vào HTX nông nghiệp" [19, tr. 409].

Như vậy, nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những tư tưởng Hồ Chí

Minh về HTX trong quá trình xây dựng, phát triển HTX của chúng ta hiện nay là

một đòi hỏi mang tính nguyên tắc.

Đảng và Nhà nước ta cũng luôn luôn quan tâm đến phát triển HTX, coi đây

là bộ phận nòng cốt của kinh tế tập thể. Ngay từ những năm 1955 - 1957, Đảng

và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng thí điểm một số HTX nông nghiệp,

khuyến khích, vận động nông dân tham gia các tổ đổi công giúp đỡ lẫn nhau phát

triển sản xuất. Trên cơ sở sơ kết công tác thí điểm xây dựng HTX nông nghiệp,

Đảng ta tiếp tục chủ trương củng cố các HTX thí điểm và đến năm 1958, phong

trào hợp tác hoá được tiến hành trên toàn miền Bắc. Từ năm 1961 - 1965, đây là

14

thời kỳ miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Chủ trương của Đảng

lúc này là củng cố HTX, mở rộng qui mô HTX, phát triển sản xuất toàn diện,

trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến nhiệm vụ mở rộng qui mô HTX từ bậc thấp lên

bậc cao. Bước sang thời kỳ 1965 - 1967, HTX tiếp tục đẩy mạnh công cuộc vận

động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật. Sau khi miền Nam giải phóng, Đảng và

Nhà nước chủ trương: đối với miền Bắc tiếp tục cải tiến quản lý HTX, mở rộng

qui mô HTX; đối với miền Nam, Đảng triển khai công cuộc hợp tác hoá nông

nghiệp theo mô hình đã thực hiện ở miền Bắc. Đến giai đoạn này (cuối thập kỷ

70), HTX lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Chỉ thị 100/CT-TW của Ban Bí thư

về "khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động" đã đáp ứng được

nguyện vọng, quyền lợi của nông dân. Từ Đại hội VI (tháng 12/1986) đến nay,

cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, kinh tế HTX cũng đang được đổi mới,

được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Đó là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị "về

đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp" (tháng 4/1988), và gần đây nhất là Nghị

quyết TW 5 của BCH TW Đảng (khoá IX) về "Tiếp tục đổi mới, phát triển và

nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" (tháng 3/2002).

Từ những quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác và đổi mới của

Đảng, chúng ta có thể thấy việc phát triển HTX trong nền KTTT định hướng XHCN

ở nước ta hiện nay có vai trò rất quan trọng, thể hiện ở các mặt sau:

Thứ nhất: Kinh tế hợp tác là kết quả khách quan của phát triển LLSX và

phân công chuyên môn hoá.

Từ xa xưa, khi con người sống ở trong các bầy đàn nguyên thuỷ thì hoạt

động lao động của họ đã bắt đầu dựa trên cơ sở hợp tác, dù là hợp tác giản đơn

(hợp tác chưa có sự phân công, ở đây cùng một lúc nhiều người sẽ cùng làm một

công việc như nhau).

Phân công xuất hiện là một bước tiến lớn trong đời sống xã hội loài người

với hình thức nguyên sơ nhất là phân công tự nhiên. Cuộc đại phân công lao động

xã hội lần thứ nhất đã tạo ra sự phân công, hợp tác giữa nghề trổng trọt và chăn

nuôi. Việc tách nghề thủ công ra khỏi nghề nông là đặc trưng của cuộc đại phân

công xã hội lần thứ hai, từ đó dẫn đến sự hợp tác giữa nghề nông, nghề chăn nuôi

15

và thủ công. Sự xuất hiện tầng lớp thương nhân không trực tiếp sản xuất mà chỉ

kinh doanh, trao đổi sản phẩm là nội dung của cuộc đại phân công lao động xã

hội lần thứ ba.

Khi phân công xuất hiện, buộc con người phải hợp tác với nhau. Nếu không có

sự hợp tác thì mọi sự phân công sẽ trở nên vô nghĩa. Phân công và hợp tác là hai mặt

có liên hệ hữu cơ với nhau của quá trình phát triển LLSX. Phân công lao động càng

sâu sắc, thì quan hệ hợp tác càng chặt chẽ. Chính quan hệ hợp tác tạo điều kiện để

phát huy hiệu quả của phân công.

Phân công và hợp tác là đòi hỏi khách quan của cuộc sống kinh tế. Hợp tác

diễn ra ở các khâu, các công đoạn trong quá trình sản xuất và phát triển dần đến

các ngành dịch vụ có liên quan. Khi nền kinh tế còn ở trình độ thấp, sản xuất

hàng hoá chưa phát triển, chủ yếu là hợp tác giản đơn. Khi chuyển sang nền kinh

tế hàng hoá, do sự phát triển của phân công lao động xã hội, do yêu cầu của qui

luật cạnh tranh nên đã phát triển đa dạng các loại hình HTX. Sở dĩ như vậy là vì,

khi chuyển sang nền KTTT thì mọi hoạt động sx, KD đều do thị trường chi phối,

quyết định. Để giải quyết những khó khăn cho từng hộ gia đình (vốn, điều kiện

sản xuất, thông tin trên thị trường...), thì càng cần thiết phải có sự hợp tác với

nhau. HTX sẽ là hình thức gần gũi, phù hợp với hoạt động kinh tế của các hộ gia

đình để họ thực hiện và bảo vệ lợi ích của mình.

Thứ hai: HTX sẽ tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hộ phát triển:

Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, phát triển HTX là

một tất yếu, một điểu kiện để thúc đẩy kinh tế hộ phát triển. Vì rằng, để tạo ra

sản phẩm hàng hoá có giá trị cao, có những khâu, những việc mà kinh tế hộ

không làm được hoặc làm kém hiệu quả hơn so với HTX. Chẳng hạn, việc xây

dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng ở nông thôn như thuỷ lợi, đường

giao thông, nước sạch, thông tin bưu điện... là việc làm đem lại lợi ích kinh tế,

văn hoá cho từng hộ nhưng không phải là nhiệm vụ riêng của mỗi hộ. Do đó phải

sử dụng năng lực sản xuất chung của các hộ, của những người lao động dưới sự

lãnh đạo của các cơ quan chính quyền. Tuy nhiên, sự tồn tại của HTX không phải

16

là hình thức tổ chức kinh tế thủ tiêu kinh tế hộ, trái lại đó là hình thức thực hiện

sự phát triển của kinh tế hộ, lấy sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ làm cơ sở.

Ví dụ: ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, HTX Hợp Tiến tập hợp xã viên

nuôi lợn chất lượng cao. HTX tổ chức: cùng mua con giống, cùng chăn nuôi, cùng

sử dụng dịch vụ thú y, cùng bán sản phẩm, do vậy đã giảm chi phí rất nhiều so với

chăn nuôi riêng lẻ của từng hộ. Nhu cầu liên kết sản xuất trong lĩnh vực này còn rất

lớn và mô hình này đang được tiếp tục nhân rộng ở Hải Dương và Bắc Ninh.

Theo kết quả khảo sát ở Hải Dương, các hộ nông dân cần đến dịch vụ của

HTX như sau: làm đất 67%, thuỷ lợi 100%, bảo vệ thực vật 96%, thú y 63%,

cung ứng vật tư, giống cây, con 76%, điện 100%, chế biến nông sản 50%, tín

dụng 53%, tiêu thụ sản phẩm 92%... Đây là vấn đề chủ yếu của kinh tế hộ trong

nông nghiệp [29, tr. 7].

Lợi ích của HTX mang lại cho các hộ nông dân trong thời gian qua cũng đã có

những kết quả đáng khích lệ. Qua điều tra 100 hộ ở Hải Dương thì kết quả thu được

kết quả theo Biểu 2 như sau:

Biểu 2: Kết quả điều tra ý kiến của nông dân

về lợi ích mà HTX mang lại cho họ

Lợi ích Tỷ trọng (%) Sô ý kiến trả lời HTX

có mang lại lợi ích

- Kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất 53 53%

- Hỗ trợ vốn 36 36%

- Cung ứng vật tư nông nghiệp 23 23%

- Cung cấp giống cây, con 18 18%

- Tiêu thụ sản phẩm 10 10%

Nguồn : Tỉnh uỷ Hải Dương (7/2001), báo cáo tổng kết kinh tế hợp tác và

HTX5 năm ị1996-2000), trang 7.

Như vậy, HTX đã có tác dụng tích cực trong việc giúp đỡ các thành viên

I ĐẠI H Ọ C Q U Ố C G IA HÀ NỔ Ị _ỈRUNG TẨM THCWG TIM THU VIÊN :

hiểu biết kỹ thuật và có thêm kinh nghiệm trong sản xuất, đặc biệt những nơi có

hoạt động của Uỷ ban khuyến nông đã tạo điều kiện để hỗ trợ vốn cho nông dân,

góp phần làm giảm hiện tượng cho vay nặng lãi trong nông thôn.

Như vậy, việc khẳng định và tạo mọi điều kiện để kinh tế hộ trở thành đơn

vị sx, KD tự chủ theo hướng sản xuất hàng hoá là bước khởi đầu hợp qui luật.

Thành tựu kinh tế trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta đã

chứng minh sức sống và khả năng to lớn của kinh tế hộ, nhất là trong lĩnh vực

nông nghiệp. Tuy nhiên, kinh tế hộ có nhiều giới hạn mà từng hộ không thể vượt

qua, phải liên kết hợp tác lại, có sự lãnh đạo hỗ trợ của Nhà nước mới tạo ra sức

mạnh, mới làm ra sự nghiệp chung của mỗi người. Kinh tế hộ chỉ là bước đầu của

sự nghiệp giải phóng nông dân, còn để giải phóng triệt để thì cần tiến đến các hình

thức có tổ chức cao hơn là kinh tế hợp tác và HTX.

Thứ ba: Phát triển HTX góp phần vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước:

CNH, HĐH là con đường tất yếu đưa nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu

so với các nước xung quanh; đó cũng chính là nội dung chủ yếu của chiến lược

phát triển kinh tế đất nước trong thời gian vài ba thập kỷ tới.

Đặc trưng của CNH, HĐH là nền sản xuất hàng hoá phát triển với tính chất

xã hội hoá cao - đó chính là nhu cầu khách quan và triển vọng rộng lớn cho kinh

tế hợp tác và HTX của những người sản xuất nhỏ phát triển. Riêng đối với nước

ta, địa bàn quan trọng trước mắt để tiến hành CNH, HĐH là nông nghiệp và nông

thôn, nhằm tạo ra nhiều ngành nghề mới, việc làm mới, từ đó chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần giá trị sản lượng nông nghiệp một cách

tương đối và chuyển một phần lao động nông nghiệp sang các ngành khác. Để

thực hiện sự chuyển dịch này, tất yếu không thể dựa vào cách tổ chức sản xuất

với qui mô nhỏ, manh mún, với kỹ thuật lạc hậu của từng hộ gia đình đơn lẻ, mà

phải có sự liên kết hợp tác, phát huy được sự tham gia của nhiều chủ thể thuộc

mọi thành phần kinh tế.

Quá trình CNH, HĐH có nhiều lực lượng, tác nhân tham gia, song có thể

nói nông dân và cư dân nông thôn có vai trò hết sức quan trọng. Làm thế nào để

hộ nông dân tiếp nhận, ứng dụng khoa học kỹ thuật, có đủ vốn, đủ điều kiện vật

chất để phát triển sx, KD ra nhiều sản xuất hàng hoá, thực sự trở thành đơn vị

18

sản xuất tự chủ - những chủ thể tích cực của quá trình CNH, HĐH ? Rõ ràng, cần

phải phát triển và củng cố kinh tế hợp tác và HTX, tạo nên sức mạnh tổng hợp,

hỗ trợ lẫn nhau, giúp giải quyết những khó khăn mà từng hộ nông dân riêng lẻ

không đủ sức thực hiện. Xét trên tổng thể nền kinh tế, trong quá trình CNH,

HĐH, các tổ chức kinh tế hợp tác và HTX là một thị trường rộng lớn cho các

ngành công nghiệp sản xuất các TLSX phục vụ cho nông - lâm - ngư nghiệp, và

đây còn là một thị trường hàng tiêu dùng đáng kể. Ngược lại, các tổ chức kinh tế

hợp tác và HTX còn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu tập trung quan trọng cho

công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm. Công nghiệp chế biến không thể

hình thành và phát triển trên nền tảng của các hộ nông dân cá thể, sản xuất manh

mún, tuỳ tiện theo kiểu tự cung tự cấp (trong tương lai, không loại trừ khả năng ở kinh

tế hợp tác và HTX xuất hiện những xí nghiệp sơ chế hoặc chế biến nông phẩm).

Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp cũng dần hình thành các loại hình hợp

tác (trong đó có HTX) theo tính chất nghề nghiệp, theo ngành nghề truyền thống.

Các ngành nghề thủ công sẽ được cơ giới hoá dần. Các tổ chức kinh tế hợp tác này có

một số ngày càng lớn sẽ chuyển thành cơ sở sản xuất vệ tinh cho các DN lớn.

Như vậy, xây dựng và củng cố HTX, tạo mọi điều kiện để các HTX mới phát

triển đúng qui luật là tạo dựng được một tiền đề quan trọng để thực hiện thành công

sự nghiệp CNH, HĐH đối với nước ta hiện nay.

Thứ tư: Phát triển HTX sẽ góp phần vào việc củng cố, phát triển QHSX, xây

dựng nền KTTT theo định hướng XHCN:

Muốn xây dựng CNXH, nhất thiết phải xây dựng chế độ sở hữu công cộng

về TLSX, phải coi đó là một trong những mục tiêu cơ bản để có CNXH. Việc từng

bước xác lập chế độ công hữu về TLSX chủ yếu vẫn là một trong những mục tiêu cơ

bản của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.

Ta biết rằng, phát triển nền KTTT định hướng XHCN là đường lối chiến

lược của Đảng ta. Trong nền KTTT, kinh tế tập thể (nòng cốt là các HTX) phải

trở thành nền tảng của nền KTQD . Đây vừa là kết quả của quá trình xã hội hoá

nền sản xuất, là kết quả của quá trình phát triển LLSX trong một thời gian dài,

vừa là kết quả của sự quản lý, tác động có hiệu quả của Nhà nước XHCN để thúc

19

đẩy và định hướng quá trình này. Trong HTX, phần sở hữu tập thể được hình

thành phải phù hợp và tác động tích cực đến yêu cầu quản lý và chế độ phân phối

trong các đơn vị hợp tác do chính những người tạo lập nên nó qui định. Đặt lợi ích

của người lao động lên hàng đầu là vấn đề luôn phải được ưu tiên, coi trọng. Sở

hữu tập thể trong HTX không phủ nhận, xoá bỏ sở hữu tư nhân của các thành viên

cũng tồn tại và cũng không được tạo nên bằng phong trào tập thể hoá.

Sự tác động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến phân hoá giàu nghèo, một

bộ phận nhỏ giàu lên, còn số đông rơi vào thua thiệt phá sản. Trong cuộc cạnh

tranh nghiệt ngã này, khu vực kinh tế hàng hoá nhỏ, kinh tế của những hộ nông

dân, tiểu thương, tiểu chủ sẽ phải chịu thua thiệt, nếu để mặc họ tự bươn trải. Con

đường làm cho những người lao động không phải trải qua ách bóc lột TBCN, mà

vẫn có thể đi lên cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tách những người tiểu sản xuất

khỏi ảnh hưởng của CNTB và sớm đưa họ vào con đường XHCN là con đường

tạo điều kiện cho sức lao động của người kinh doanh nhỏ được kết hợp trực tiếp

với TLSX và phương tiện lao động của họ, làm cho họ giàu có lên. ở đây vẫn

chưa phải là chế độ công hữu hoàn toàn, mà là chế độ sở hữu tập thể của một

nhóm người lao động cá thể tự nguyện tập hợp lại dưới sự hỗ trợ giúp đỡ của Nhà

nước XHCN để tổ chức sx, KD.

Tuy nhiên, nền sản xuất nhỏ về TLSX không dừng lại ở đấy. Trong nền kinh

tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, điều kiện sản xuất ngày càng hiện

đại, nếu nó không muốn làm địa bàn cho CNTB phát triển, thì con đường sống

duy nhất của nó là chế độ hợp tác. HTX ra đời cùng với thời gian, hiệu quả kinh

doanh và khả năng tích luỹ sẽ xuất hiện dần sở hữu của tập thể, tạo ra sự đan xen

và kết hợp nhân tố công hữu và tư hữu, đó chính là chủ thể kinh tế mang tính chất

XHCN. Con đường đưa nông dân và những người sản xuất nhỏ đi lên CNXH nhất

định phải là con đường hợp tác với những bước đi và hình thức phù hợp, xuất phát từ

nguyện vọng của người lao động, từ nhu cầu phát triển sx, KD, từ trình độ phát triển

kinh tế từng vùng cũng như cả nền kinh tế dưói sự giúp đỡ đắc lực của Nhà nước

XHCN. Về vấn đề này, Lênin đã khẳng định: "Nếu chúng ta tổ chức được toàn thể

20

nông dân vào HTX thì chúng ta đứng vững được hai chân trên miếng đất XHCN" [14,

tr. 428].

Hiện nay, ngay ở các nước tư bản phát triển, Chính phủ cũng ủng hộ các

HTX (của những người lao động), giúp đỡ để phát triển HTX. Các hình thức khác

nhau của kinh tế hợp tác đang chuyển thành một thành phần kinh tế độc lập ngay

ở những nước tư bản phát triển. Trong cơ cấu kinh tế của các nước tư bản phát

triển, các hình thức khác nhau của kinh tế hợp tác chiếm trung bình gần 10%. Ví

dụ: ở Anh vào cuối những năm 1980, số lượng các HTX đã tăng gần 40 lần so

với cuối những năm 1970; ở Italia vào cuối những năm 1981, trong một số

ngành, HTX đã sản xuất được 8 - 10% sản phẩm. Trên thế giới đang có xu hướng

là: Tỷ trọng của sở hữu tập thể lao động trong hệ thống KTQD đang tăng lên. Ở

Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, sản xuất trong khu vực HTX hiện đã đạt mức sản

xuất trong khu vực nhà nước và chiếm hơn 40% khối lượng sản xuất nói chung.

Xuất hiện nhiều hình thức xí nghiệp tập thể lao động mới như các Liên hiệp HTX,

các CTCP hữu hạn, hợp nhất các HTX ở cấp huyện. Ở các nước tư bản phát triển,

các xí nghiệp và DN thuộc lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế... đều là sở hữu

tập thể lao động [24, tr. 44].

Như vậy, việc tạo mọi điều kiện để xây dựng, phát triển HTX là chúng ta đã

xây dựng một lực lượng kinh tế có tổ chức theo định hướng XHCN để cùng với

kinh tế nhà nước hợp thành nền tảng vững chắc của nền KTQD.

1.2. Đặc điểm của HTX trong nền KTTT định hướng XHCN.

1.2.1. Phân biệt HTX với DN nhà nước và kinh tế tư bản tư nhàn.

- Khác nhau về sở hữu:

Đối với DN nhà nước, hình thức sở hữu về TLSX là hình thức sở hữu nhà

nước. Có loại DN 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước, có loại tỷ trọng của sở hữu

nhà nước chiếm dưới 50%, thậm chí dưới 30%. Nhưng ở đây, sở hữu nhà nước

chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối. Có loại DN được cổ phần hoá cho công nhân và

viên chức làm việc trong xí nghiệp, trong trường hợp đó có sở hữu tư nhân của

người lao động trong DN nhà nước.

21

Trong DN tư bản tư nhân, TLSX chủ yếu thuộc về tư bản tư nhân. Có thể

một số DN loại này bán cổ phần cho người lao động, một số cổ phần bán cho

Nhà nước hoặc cho nhà tư bản khác. Nhưng bất cứ các trường hợp nào, nhà tư

bản vẫn chiếm vị trí chi phối xí nghiệp của họ.

Ở các HTX, hình thức sở hữu chiếm vị trí thống trị là hình thức sở hữu tập

thể. Hình thức sở hữu tập thể là hình thức sở hữu cộng đồng trong phạm vi HTX

có thể có một phần là do tài sản công tài trợ - mọi thành viên đều được hưởng

quyền lợi từ sở hữu tập thể mang lại. Trong HTX còn có sở hữu tư nhân nhỏ của

người lao động đóng góp, được cụ thể hoá thành giá trị (cổ phần). Đây là cơ sở để

người lao động hưởng lợi nhuận do kết quả của HTX thu được từ quá trình sx, KD,

ngoài tiền công.

Đó là sự khác nhau về mặt sở hữu giữa DN nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân

và HTX. Như vậy, về mặt lý luận cũng như trên thực tiễn, một tổ chức (đơn vị)

kinh tế có thể chứa đựng nhiều hình thức sở hữu; các hình thức sở hữu có thể chuyển

hoá cho nhau; việc xác định một DN thuộc thành phần kinh tế nào cần dựa vào hình

thức sở hữu chiếm vị trí chi phối và nó cũng chỉ có ý nghĩa tương đối.

- Khác nhau về phân phối:

Trong các DN nhà nước, ngoài viộc thành lập các quỹ phúc lợi, quỹ tích luỹ để

mở rộng sx, KD..., một phần lao động thặng dư, biểu hiện dưới hình thức lợi nhuận,

được nộp vào ngân sách nhà nước và được để lại xí nghiệp.

Trong kinh tế tư bản tư nhân, lợi nhuận thu được, một phần nộp cho Nhà

nước dưới hình thức thuế, phần còn lại của nhà tư bản. Họ tuỳ ý sử dụng, có thể

dành một phần để tái sản xuất mở rộng, một phần dành cho tiêu dùng đòi sống cá

nhân của bản thân và gia đình.

Trong kinh tế HTX, phần lao động thặng dư, một phần nộp vào ngân sách

nhà nước dưới hình thức thuế, một phần lập các quỹ theo Điều lệ HTX và tích luỹ

để phát triển sx , KD, một phần để chia cho xã viên. Người xã viên hưởng thu nhập từ

HTX do vốn đóng góp, lao động và sử dụng các dịch vụ của HTX. Nguồn thu từ HTX

chỉ là một phần trong tổng thu nhập tạo thành ngân sách gia đình.

- Khác nhau về mặt quản lý:

22

Trong DN nhà nước và DN tư bản tư nhân có Hội đồng quản trị (tuỳ nơi) và

Giám đốc điều hành. Trong HTX cũng có Hội đồng quản trị và người điều hành.

Thực chất là như vậy, nhưng tên gọi có thể khác nhau do điều lệ HTX qui định,

theo qui ước của Đại hội xã viên. Trong DN tư bản tư nhân, quyền quyết định

thuộc về chủ sở hữu nào chiếm số cổ phần chi phối hay còn gọi là cổ phần khống

chế. Trong Hội đồng quản trị của các DN nhà nước, làm việc theo nguyên tắc tập

trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số. Trong HTX, Ban quản trị cũng làm việc

theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Nhưng trên Hội đồng quản trị còn có

Đại hội xã viên. Đại hội này có quyền lực cao nhất. Đại hội xã viên khác với Đại

hội cổ đông của xí nghiệp, ở Đại hội cổ đông, người có quyền quyết định khi có

tranh chấp là người cổ đông nào sở hữu được số cổ phần chi phối. Trong kinh tế

HTX không phải như vậy, tất cả xã viên đều bình đẳng về quyền và biểu quyết,

không kể xã viên đó góp nhiều hay góp ít vốn cho HTX. Đây là sự biểu quyết theo

nguyên tắc đối nhân chứ không phải theo nguyên tắc đối vốn.

1.2.2. Mục tiêu của HTX.

HTX là một tổ chức kinh tế, vì vậy mục tiêu của HTX trước hết là phải hoạt

động có hiệu quả để tổn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường.

Nội dung, mức độ, cách thức tổ chức HTX về kinh tế là do hiệu quả kinh tế

mong muốn quyết định. Mục tiêu này của các HTX có thể không giống nhau về

lao động, về tài sản, vốn, về trí tuệ hoặc để giải quyết tiêu thụ sản phẩm... Nó

được biểu hiện ở hiệu quả sx, KD, ở mức sống của các thành viên, ở khả năng

tái sản xuất ngày càng tăng và góp phần bảo vệ tài nguyên môi trường.

Mục tiêu kinh tế được thực hiện tốt, thì những ưu thế của HTX so với sx,

KD tư nhân, cá thể càng rõ rệt. Trên cơ sở ấy, HTX mới có điều kiện để củng cố

và phát triển.

Ngoài mục tiêu kinh tế, HTX còn có mục tiêu xã hội. HTX không phải là

một tổ chức kinh tế thuần tuý lấy mục tiêu lợi nhuận là trên hết, mà còn nhằm

tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã viên. Hồ Chí Minh đã từng nói về mục

đích của HTX: "Tuy cách làm thì có khác nhau ít nhiều, nhưng mục đích thì

nước nào cũng như nhau. Mục đích ấy thì trong lời tuyên ngôn của HTX Anh đã

23

nói "Cốt làm cho những người vô sản giai cấp hoá ra anh em. Anh em thì làm

giùm nhau nhờ lẫn nhau. Bỏ hết thói cạnh tranh. Làm sao cho ai trổng cây thì

được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây" [10, tr. 255-256]; "HTX

khác hội buôn, vì hội buôn lợi riêng, HTX lợi chung". Đối với điều kiện nền kinh

tế chưa phát triển và đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của

Nhà nước, ở nước ta HTX còn là phương tiện để kết hợp và phát huy sức mạnh

của từng xã viên và của tập thể, thông qua kết quả hoạt động của HTX mà cải

thiện đời sống xã viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo, thu ngắn khoảng cách về

sự phân hoá giàu nghèo, thực hiện bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội, nhất

là ở nông thôn. Thông qua HTX, Chính phủ có thể giải quyết các mục tiêu xã hội

cho cộng đổng như: giải quyết nhà ở, chữa bệnh, mua bán hàng hoá thuận lợi, hỗ

trợ về vốn và kỹ thuật... HTX thực hiện các mục tiêu xã hội của mình trước hết là

trong nội bộ HTX. Mục tiêu xã hội của HTX không xa rời lý tưởng mà gắn chặt

với cuộc sống, nâng cao mức sống, tính cộng đồng cùng có lợi của xã viên và

HTX, của tầng lớp dân cư kém thế lực về kinh tế trong xã hội. Hai mục tiêu kinh

tế và xã hội là đặc trưng để phân biệt HTX với các tổ chức kinh tế chỉ hướng tới

các mục tiêu lợi nhuận.

Tuy thực hiện mục tiêu xã hội nhưng HTX không phải là các tổ chức từ

thiện. Bác Hồ dạy: "HTX tuy là để giúp nhau nhưng không giống các hội từ

thiện. Vì các hội ấy có tiêu đi mà không làm ra, và giúp đỡ bất kỳ ai nhưng cũng

có ý bố thí; HTX có tiêu đi, có làm ra, chỉ giúp cho người trong hội nhưng giúp

một cách bình đẳng, một cách "cách mệnh" ai cũng giúp mà ai cũng bị giúp" [10,

tr. 256].

Nếu chỉ có mục tiêu xã hội thì HTX không còn là các tổ chức kinh tế nữa và

mặt khác nó cũng không thể thực hiện được mục tiêu xã hội. Nếu chỉ có mục tiêu

kinh tế thì bản chất tương trợ giữa các thành viên để hướng tới lợi ích chung cũng

sẽ bị biến dạng dần và tổ chức kinh tế đó cũng không còn là HTX (bộ phận nòng

cốt của kinh tế tập thể), vì sẽ dẫn đến sự trạnh tranh, chèn ép ngay trong nội bộ,

giữa các thành viên, từ đó phá vỡ tổ chức HTX do chính mình tự nguyện liên kết

tạo ra.

24

Ngay cả HTX ở các nước tư bản trong quá trình hình thành, tổn tại và phát

triển cũng luôn đảm bảo hai mục tiêu kinh tế và xã hội để giúp các thành viên phát

triển sx , KD, canh tranh được với các xí nghiệp tư bản tư nhân luôn có xu hướng

độc quyền.

Đối với Việt Nam, để thực hiện sự nghiệp đổi mới đảm bảo định hướng

XHCN về mặt kinh tế, thì HTX ngoài việc hướng tới mục tiêu kinh tế thì mục

tiêu xã hội phải luôn luôn được coi trọng. Một lý do nữa là ngày nay có những

vấn đề kinh tế không thể giải quyết trực tiếp từ kinh tế, mà lại phải giải quyết bắt

đầu từ vấn đề xã hội. Vì vậy, quá trình phát triển HTX phải chú ý cả hai mục tiêu

kinh tế và xã hội.

1.2.3. Nguyên tắc tổ chức HTX.

Bất kỳ một tổ chức nào, trong hoạt động của mình đều phải dựa trên những

nguyên tắc nhất định. HTX là tổ chức kinh tế tự chủ, đương nhiên cũng có những

nguyên tắc riêng cho mình. Các nguyên tắc tổ chức hoạt động của HTX là những

qui đinh căn bản nhất và riêng nhất, làm đường lối chỉ đạo và nền tảng cho HTX tổ

chức hoạt động và thực hiện mục đích của mình trong thực tiễn đồng thời qua đó

phân biệt HTX với những loại hình DN khác.

Năm 1966, Liên minh HTX quốc tế (ICA: International Cooperative

Alliance) đã họp đại hội và thống nhất thông qua 6 nguyên tắc tổ chức hoạt động

của HTX, đó là:

- Tự nguyện gia nhập HTX.

- Quản lý dân chủ.

- Lợi tức cổ phần được chia có giới hạn.

- Lợi nhuận thuộc về các xã viên.

- Giáo dục và nâng cao hiểu biết về HTX.

- Hợp tác giữa các HTX với nhau và hợp tác quốc tế.

Đại hội liên minh HTX quốc tế lần thứ 31 (năm 1995, tại Anh) đã họp trên cơ

sở bổ sung, hoàn thiện 6 nguyên tắc đề ra năm 1966 để đưa ra Đại hội thông qua 7

nguyên tắc tổ chức hành động của HTX trong thế kỷ 21. Cụ thể là:

- Tính tự nguyện và mở rộng đối với những người muốn trở thành xã viên HTX.

25

- Xã viên kiểm soát một cách dân chủ.

- Xã viên tham gia vào hoạt động kinh tế.

- Quyền tự chủ và độc lập.

- Giáo dục, đào tạo và thông tin.

- Hợp tác giữa các xã viên.

- Quan tâm đến cộng đồng.

Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức hoạt động của HTX do Liên minh HTX quốc

tế đề ra, Luật HTX của các nước đều vận dụng nội dung của các nguyên tắc đó

để thể hiện thành các nguyên tắc thích hợp với điều kiện quốc tế, xã hội, tập quán

của mỗi nước.

Đến nay đã qua hơn 100 năm phát triển, ICA có tới 250 tổ chức quốc gia và

quốc tế của 100 nước tham gia. Việt Nam được chính thức kết nạp làm thành

viên của ICA tại Đại hội 29 ở Stốckhôm (Thuỵ Điển) năm 1988 [28, tr.99]. Luật

HTX Việt Nam đã cụ thể hoá nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lọi đã

được ghi trong điều lệ HTX do Bác Hồ phê duyệt. Trong xu thế hội nhập với thế giới

và khu vực, trong điều kiện phong trào HTX Việt Nam chính thức là phong trào

HTX quốc tế (ICA), Luật HTX Việt Nam đã chắt lọc và thể hiện được những nội

dung quan trọng nhất của 7 nguyên tắc do Liên minh HTX quốc tế mới thông qua

tại đại hội lẩn thứ 31.

Thứ nhất: Nguyên tắc tự nguyện

Nguyên tắc này xác định việc gia nhập và xin ra HTX là hoàn toàn tự

nguyện, không có sự gò bó, ép buộc nếu như người dân không có nhu cầu hoặc

chưa muốn. Tuy nhiên, HTX là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân, được tổ

chức chặt chẽ, vì vậy để tránh tình trạng phát triển một cách tự phát, việc xin vào,

xin ra HTX phải được qui định rõ ràng. Nếu dù có tự nguyện gia nhập HTX mà

thiếu điều kiện thì HTX cũng không thể kết nạp để thành xã viên.

Cả Các-Mác và Ăng-ghen đều có những thái độ hết sức thận trọng đối với

nông dân. Ăng-ghen đã từng nêu luận điểm: Hãy để người nông dân suy nghĩ

trên luống cày của họ. Ăng-ghen khẳng định một cách dứt khoát rằng: Khi giai

cấp vô sản đã giành được chính quyền thì tuyệt đối không được tước đoạn đối với

26

tiểu nông dưới bất kỳ hình thức gì như buộc phải làm đối với những chủ đất lớn.

Nói một cách khác, công việc phải làm không phải là dùng quyền lực để xoá bỏ

một cách thô bạo cơ sở tồn tại của kinh tế nông hộ mà tạo ra môi trường mới,

điều kiện để nền kinh tế phát triển hiệu qua hơn mà thôi.

Lênin coi tự nguyện, không ép buộc đối với nông dân là một trong những

nguyên tắc quan trọng nhất của HTX. Lênin đã đấu tranh quyết liệt với xu hướng

cưỡng bức nông dân vào HTX, bởi vì, theo Người, đó là: "một việc làm ngu xuẩn

to lớn nhất". Tháng 3/1919 tại Đại hội VIII Đảng cộng sản (b) Nga, trước xu

hướng cưỡng bức nông dân vào các HTX và tập thể hoá tràn lan, Người nhấn

mạnh một lần nữa rằng: "ở đây mà dùng bạo lực thì có nghĩa là làm nguy hại đến

toàn bộ sự nghiệp, ở đây, điều cần phải làm là công tác giáo dục lâu dài và không

bao giờ được dùng mệnh lệnh" [12, tr. 16].

Bác Hồ luôn căn dặn chúng ta: "...Đối với những người chưa vào HTX cũng

không được gò ép, coi thường họ, HTX đoàn kết chặt chẽ, sản xuất tốt, thu nhập

cao, họ nhận thấy HTX là hơn hẳn thì họ tự nguyện xin vào" [20, tr. 409].

Thứ hai: Nguyên tắc quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai

Nguyên tắc này thể hiện xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám

sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai phương

hướng sx, KD, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ

HTX.

Về vấn đề này, Lênin cũng luôn nhấn mạnh: "Chỉ những HTX do chính

những người nông dân điều hành theo sáng kiến của họ và lợi ích của các HTX

ấy được kiểm nghiệm trên thực tế mới có giá trị" [12, tr. 16].

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: "HTX chỉ có hội viên mới được hưởng lợi,

hội viên mới có quyền... đã vào hội thì bất kỳ ai góp nhiều, góp ít, vào trước, vào

sau, ai ai cũng bình đẳng như nhau" [17, tr. 318]. Người nhấn mạnh: Quản lý

phải dân chủ, tài chính phải công khai, sổ sách phải minh bạch: "Quản lý tốt thì

HTX phát triển tốt và ngày càng củng cố. Quản lý kém thì xã viên không phấn

khởi, không đoàn kết và HTX không phát triển được. Vì vậy phải ra sức cải tiến

việc quản lý HTX" [23, tr. 15-16]. Từ đó, yêu cầu đối với cán bộ quản lý HTX là:

27

"Ban quản trị phải thật sự dân chủ, thật công bằng, một lòng, một dạ phục vụ lợi

ích của xã viên và HTX" [20, tr. 210].

Thứ ba: Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi

Nguyên tắc này xác định rõ HTX là tổ chức kinh tế tự chủ, tự quyết định

phương hướng, mục tiêu HTX và chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả hoạt

động sx, KD, dịch vụ của mình; tự quyết định việc phân phối kết quả sx, KD

và thu nhập trong HTX, đặc biệt HTX và xã viên cùng có lợi. Việc quan tâm đến

lợi ích của các thành viên rất quan trọng, vì đây là động lực trực tiếp thúc đẩy họ

tự nguyện tham gia vào HTX.

Lênin cũng luôn quan tâm đến việc tôn trọng lợi ích của HTX. Người căn

dặn: không được xoá bỏ quyền sở hữu tư nhân về vật phẩm tiêu dùng và TLSX

của nông dân.

Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh mục đích, lợi ích thiết thực mà tổ chức HTX

phải đạt được. Người viết: "Cần phải nêu cao tính hơn hẳn của HTX bằng những

kết quả thiết thực là làm cho thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã

viên sau khi vào HTX thu hoạch nhiều hơn hẳn khi ở ngoài. Như thế thì xã viên

sẽ phấn khởi, sẽ gắn bó chặt chẽ với HTX của mình. Đó là phương pháp tuyên

truyền thuyết phục tốt nhất để khuyến khích nông dân vào HTX" [19, tr. 409].

Thứ tư: Nguyên tắc chia lãi đảm bảo kết hợp lọi ích của xã viên và sự phát triển

củaHTX

Đây là nguyên tắc mới đối với HTX Việt Nam, song nó là một nguyên tắc

quan trọng thể hiện tính chất khác biệt giữa HTX với CTCP mà toàn thế giới

không nước nào không đề cập đến trong Luật HTX.

Nguyên tắc này nhằm xác định rõ việc phân bổ lợi nhuận trong HTX là

khuyến khích cho việc phát triển HTX và xây dựng cộng đồng mà không lấy việc

phân chia lãi theo vốn cổ phần là chủ yếu (trong khi đó CTCP lại coi trọng việc

chia lãi theo vốn cổ phần). Các HTX sau khi làm xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi

được trích một phần vào quỹ của HTX, một phần chia theo vốn và công sức đóng

góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của

HTX do Đại hội xã viên quyết định.

28

Thứ năm: Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng

Nguyên tắc này xác định trách nhiệm của mỗi xã viên HTX phải phát huy

tinh thần tập thể, đoàn kết, không ngừng nâng cao ý thức hợp tác với nhau trong

HTX và trong cộng đồng nhằm mục tiêu xây dựng HTX lớn mạnh. Đồng thời

nguyên tắc này cũng đòi hỏi các HTX hợp tác với nhau cả phạm vi trong nước và

quốc tế. Có thể nói, nguyên tắc này đã dung nạp hai nguyên tắc thứ 6 và thứ 7

của ICA.

Như vậy, trên đây là 5 nguyên tắc quan trọng nhất, làm nền tảng cho tất cả

các HTX thuộc các ngành kinh tế tổ chức hoạt động. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt

động của HTX, nhất là trong điều kiện cụ thể của mỗi ngành kinh tế có những đặc

điểm riêng, cần vận dụng để thực hiện bằng các nội dung phù họp. Có như vậy cuộc

sống mới chấp nhân và thực hiện có hiệu quả.

13. Những nhân tố cơ bản tác động đến sự hình thành và phát triển của

HTX

Mục tiêu nâng cao thu nhập và tự bảo vệ thông qua phát triển sản xuất tạo

nên nhu cầu hình thành và phát triển HTX. Nhu cầu này đã biến HTX trở thành

một yếu tố tất yếu trong nền KTTT ở nước ta hiện nay. Khi đã đặt nguyên tắc tự

nguyên là nguyên tắc đầu tiên của kinh tế HTX, người ta đã coi nó là một khách

quan kinh tế, là một trong những sức sống quan trọng giúp cho HTX vượt qua

mọi trở ngại để có thể hình thành và phát triển. Tuy nhiên, trong thực tế, việc

hình thành và phát triển HTX nhiều khi không bắt nguồn từ nhu cầu của bản thân

xã viên, mà xuất phát từ các tác động bên ngoài. Ở nhiều nước trên thế giới hay ở

Việt Nam trước đây, hợp tác hoá từng là giải pháp để thu mua lương thực có hiệu

quả, là con đường để thực hiện đầu tư phát triển, là tổ chức để củng cố cơ sở chính trị

ở nông thôn... Tuy nhiên, các tác động bên ngoài đó chỉ có thể thành công một cách

vững chắc một khi chúng thống nhất, hoặc khơi dậy được nhu cầu chính đáng của xã

viên, bằng không sớm muôn cũng sẽ bị thất bại, nhiều khi càng đem lại những thiệt hại

to lớn.

Như vậy, HTX được hình thành và phát triển một cách khách quan do tác

động bởi các nhân tố chủ yếu sau:

29

1.3.1. Trình độ phát triển của LLSX.

Khi LLSX chưa phát triển, thì mức độ, nhu cầu hình thành và phát triển HTX

còn thấp, khi LLSX đã phát triển đến mức độ nhất đinh thì nhu cầu hợp tác sẽ phát

triển và mở rộng để các loại hình HTX xuất hiện và phát triển.

Bởi vì, khi LLSX chưa phát triển, TLSX còn thô sơ, sự tác động của thị

trường chưa cao, sản xuất chủ yếu là nhằm mục đích tự cung, tự cấp, do đó chưa

có nhu cầu hợp tác sản xuất (nếu có thì mức độ thấp và qui mô nhỏ bé), nên HTX

chưa được hình thành. Nhưng khi LLSX đã được phát triển, TLSX (mà chủ yếu là

công cụ lao động) được cải tiến từ công cụ thủ công, thô sơ lên cơ khí, máy

móc... khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất tăng lên,

thị trường ngày càng mở rộng và sự tác động của các qui luật kinh tế trong nền

KTTT càng trở nên mạnh mẽ hơn. Điều đó đặt những người sản xuất cá thể trước

hai con đường: Một là, họ sẽ bị phá sản nếu không thích ứng kịp với sự phát triển

của LLSX. Hai là, họ phải hợp tác với nhau (hợp tác ở trình độ cao sẽ xuất hiện

HTX) để khắc phục những hạn chế của từng cá nhân.

Sự phát triển của LLSX, đến lượt nó lại tạo điếu kiện đòi hỏi mức độ hợp tác

tãng lên và các hình thức hợp tác được phát triển đa dạng, phong phú. Chẳng hạn,

trước đây khi LLSX chưa phát triển, thì mức độ hợp tác chỉ nằm ở một sô' khâu

của quá trình kinh tế (như hợp tác về thuỷ lợi...) và qui mô hợp tác chỉ bó hẹp ở

một số hộ sản xuất; nhưng khi LLSX phát triển, thì mức độ hợp tác trong quá

trình sản xuất sẽ nhiều hơn (họp tác trong khâu làm đất, chọn giống, bảo vệ thực

vật, thu hoạch, chế biến, tiêu thụ sản phẩm...), và qui mô hợp tác cũng mở rộng

theo (có thể giữa các hộ sản xuất, có thể với các thành phần kinh tế khác trong

các khâu phục vụ quá trình sản xuất).

Khi HTX được hình thành và phát triển sẽ tạo môi trường cho việc áp dụng

những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tâng năng suất cây trồng,

vật nuôi. HTX vừa là kết quả, vừa là động lực của sự phát triển LLSX. Sự phát

triển của LLSX là nhân tố khách quan thúc đẩy HTX hình thành và phát triển.

30

1.3.2. Sự tác động vê mặt vĩ mô của Nhà nước.

Sự định hướng của Nhà nước ở tầm vĩ mô vừa là sự định hướng, vừa là sự hỗ

trợ tạo điều kiện cho HTX phát triển.

HTX chỉ có thể phát triển vững chắc khi có sự giúp đỡ của Nhà nước về cơ chế,

chính sách, đặc biệt là sự giúp đỡ về tài chính. Lênin cho rằng: "Chế độ HTX ở nông

thôn chỉ có thể được xây dựng và củng cố khi có sự giúp đỡ thường xuyên của Nhà

nước vô sản bằng tiền của, máy móc, cán bộ..." [23, tì-. 17].

Sự giúp đỡ toàn diện và ngày càng tăng lên của Nhà nước vô sản đối với chế

độ HTX còn non trẻ là điều kiện quyết định để cải tạo XHCN đối với nền sản

xuất hàng hoá nhỏ đang gặp khó khăn. Lênin viết: "Mỗi chế độ xã hội chỉ nảy

sinh ra nếu được một giai cấp nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính. Trong lúc

này, chế độ xã hội mà chúng ta phải ủng hộ hơn hết là chế độ HTX" [23, tr. 17],

"Phải cho chế độ HTX hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân hàng; sự

ủng hộ mà Nhà nước XHCN của chúng ta mang lại cho nguyên tắc tổ chức mới

của dân cư phải là như vậy" [12, tr.16]. Trên cơ sở nguyên tắc đó, Lênin còn chỉ

ra rằng: "...Cần phải xác định, qui định tỷ mỷ mặt thực tiễn nữa, nghĩa là chúng

ta cần xác định hình thức "tiền thưởng" (và những điều kiện cấp tiền thưởng) cấp

cho HTX, hình thức làm cho chúng ta có thể giúp đỡ có hiệu quả các HTX đào

tạo những xã viên văn minh" [12, tr.16]. Người còn đề ra biện pháp cụ thể để

giúp đỡ các HTX về mặt vật chất như qui định: "Tỷ suất tiền lòi cho ngân hàng"

hoặc "Nhà nước bỏ ra cho HTX vay một số vốn ít ra cũng là cao hơn đôi chút so

với số vốn cho xí nghiệp tư nhân vay, thậm chí nâng một số vốn ấy lên ngang với

mức vốn cho công nghiệp nặng vay..." [12, tr.16-17].

Bác Hồ cũng đã nhận thấy ý nghĩa quan trọng về sự giúp đỡ của Nhà nước đối

với HTX: "Đảng và Nhà nước cũng sẽ giúp thêm như thu mua lâm sản, thổ sản cho

nông dân, giúp thêm cán bộ, cho vay vốn" [23, ừ. 17].

Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc xây dựng và phát triển

HTX, Đảng ta coi đó là con đường tốt nhất để đưa nông dân thoát khỏi đói

nghèo. Vì vậy, các chính sách, các quyết định của Nhà nước về thuế, đào tạo cán

bộ... là những tác động ở tầm vĩ mô để tạo cho người dân yên tâm sx, KD có hiệu quả.

31

Thực tế đã cho thấy, ở địa phương nào chính quyền quan tâm giúp đỡ thì ở đó HTX sẽ

được phát triển manh mẽ, ngược lại, phát triển gặp khó khăn.

Vai trò của Đảng, Nhà nước đối với HTX thể hiện ở:

- Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện của xã viên trong việc thành lập HTX.

- Hỗ trợ xây dựng những HTX đa dạng cả về hình thức, qui mô cũng như cả

về trình độ.

- Xây dựng các chính sách kinh tế đối với HTX, từ đó tổng kết thực tiễn,

đúc rút và phổ biến kinh nghiệm để thúc đẩy HTX phát triển.

1.3.3. Trinh độ dân trí:

Lênin luôn gắn việc giải quyết nhiệm vụ kinh tế với những vấn đề của cuộc

cách mạng trong lĩnh vực văn hoá. CNXH không chỉ đòi hỏi có một chế độ kinh

tế và một chế độ chính trị mới, mà còn đòi hỏi một kiểu vãn hoá mới, một chế độ

phát triển mới về chất trong khoa học, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục con người

mới. Do đó, thực chất của việc giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, chú ý phát

triển đời sống văn hoá là nhằm mục tiêu kinh tế. Vì vậy, Lênin đã chỉ ra rằng

trọng tâm cần phải được chuyển sang công tác hoà bình, tổ chức "văn hoá", rằng

việc hợp tác hoá hoàn toàn đòi hỏi phải "có một cuộc cách mạng văn hoá".

Lênin viết: "Nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào HTX thì

chúng ta đã đứng vững hai chân trên miếng đất XHCN. Nhưng điều đó bao hàm

một trình độ văn hoá nhất định của nông dân. Cho nên không có cả một cuộc

cách mạng văn hoá thì không thể nào thực hiện được hợp tác hoá" [23, tr.18].

Người còn nói rằng, để làm cho toàn thể nông dân tham gia vào HTX thì cần có

cả một thời kỳ lịch sử... Vậy, HTX văn minh chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở

một trình độ văn hoá nhất định.

Thực tế thời gian qua cho thấy, có nơi HTX vẫn ra đời và phát triển, có nơi

HTX không còn và nếu còn hoạt động thì gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những

nguyên nhân gây nên tình hình đó là do nhân thức của người dân chưa đúng, chưa

đủ về HTX. Sở dĩ có hiện tượng đó là do các nguyên nhân sau:

- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế hợp tác và HTX chưa được

phổ biến rộng rãi.

32

- Do trình độ học vấn của người dân còn thấp (đặc biệt là của người nông

dân, thậm chí có người không biết chữ).

- Do sự thiếu quan tâm của các cấp chính quyền địa phương trong việc tổ

chức, hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ để nông dân nhận thức rõ hơn về HTX.

- Hội nông dân nông nghiệp (đặc biệt ở vùng sâu, xa) thường thiếu các thông tin

về kinh nghiệm phát triển HTX cũng như các mô hình HTX có hiệu quả.

- Một bộ phận nông dân thiếu niềm tin vào HTX do bị ảnh hưởng của phong

trào hợp tác hoá cũ trước đây, họ lo sợ vào HTX sẽ bị tập thể hoá về TLSX.

Chính vì vậy, khi tổng kết về kinh tế hợp tác và HTX giai đoạn 1996 - 2000,

Nghị quyết TW 5 (khoá IX) của Đảng đã khẳng định: "Một trong những yếu kém

cơ bản trong Gnh vực này là do: "Việc giải thích mô hình kinh tế HTX kiểu mới

chưa được quan tâm đúng mức" và "Tâm lý hoài nghi, mặc cảm với mô hình HTX

kiểu cũ trong xã hội còn khá phổ biến" [9, tr.12].

Như vậy, việc hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho người dân hiểu và

thấy được những ưu thế của HTX cũng như chỉ ra kinh tế hợp tác và HTX là con

đường để đưa người dân vượt qua được những hạn chế của lao động cá thể, khắc

phục được những tác động xấu của nền KTTT là một yêu cầu cấp thiết và có ý

nghĩa to lớn trong việc thực hiện thành công công cuộc CNH, HĐH ở nước ta

hiện nay.

1.4. Khái quát về kinh nghiệm phát triển HTX ở một số nước trên thê giới.

Qua hơn hai thế kỷ tồn tại và phát triển, HTX đã trở thành một phong trào

lớn trên thế giới, thu hút hơn 1 tỷ người ở 120 nước trên thế giói vào làm ăn trong

HTX. HTX đã trở nên phổ biến đối với thế giới và có những đóng góp tích cực

vào phát triển KT - XH, góp phần tạo ra công bằng xã hội ở rất nhiều quốc gia.

Trong thực tiễn phong trào hợp tác hoá và sự phát triển HTX rất đa dạng ở các

quốc gia khác nhau:

1.4.1. Phong trào hợp tác hoá ở Ân Độ:

Ấn Độ là nước có phong trào HTX phát triển mạnh nhất trong số các nước

đang phát triển. Hiện Ấn Độ có 488.158 HTX với hơn 200 triệu xã viên, 67% số

33

hộ gia đình ở Ân Độ là xã viên HTX. HTX có vai trò quan trọng trong nền kinh

tế Ấn Độ:

- HTX tín dụng chiếm 43% tổng số tín dụng trong cả nước.

- Các HTX sản xuất phân bón chiếm 34% lượng phân bón được sản xuất trong

cả nước.

- Các HTX sản xuất đường chiếm 62,4% lượng đường được sản xuất trong

cả nước.

- Liên hiệp HTX Amul bang Gajaza chiêm 42,6% thị phần sữa trong cả nước.

Ở Ân Độ, các HTX hoạt động trong một hoặc một số lĩnh vực (ngành) cùng

nhau lập ra các Liên đoàn HTX. Ví dụ:

Biểu 3: Các Liên đoàn HTX điển hình ở Ấn Độ

STT SỐHTX Liên đoàn

1 Liên đoàn HTX marketing nông nghiệp 5.585

2 Liên đoàn HTX tiêu dùng 26.426

3 Liên đoàn HTX sữa 99.997

4 Liên đoàn HTX nghề cá 13.649

Liên đoàn HTX lao động 5 36.260

Liên đoàn HTX thuốc lá 6 217

Nguồn :B.Las Berg (2003), một số thông tin về tình hình phát triển HTXỞcác

nước trên thế giới, Báo cáo tại Hội thảo phát triển HTX trong cơ chế thị trường qua

kinh nẹhiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam ( tổ chức tại Hải Dương), Trang 1.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, HTX hoạt động ở nhiều vùng, trong nhiều lĩnh

vực sản xuất: trồng trọt, chăn nuôi, trong đó hoạt động của HTX đem lại hiệu quả

rõ rệt, nhất là trong ngành sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm sữa. Ví dụ: HTX

sữa Amand đảm nhiệm dịch vụ cung cấp giống, thức ăn gia súc, thuốc và dịch vụ

thú y, và tiêu thụ sữa của các hộ chăn nuôi. Hàng ngày HTX có xe chuyên dùng

với thiết bị lạnh đến từng làng, xã nhận sữa của các hộ chăn nuôi tập trung ở các

điểm nhất định trong làng, xã đưa về xí nghiệp chế biến thành sữa nước, bánh

34

sữa, bơ, pho mát với các loại bao bì khác nhau, sau đó đưa đến các cửa hàng và

đại lý bán sữa ở các thành phố. HTX còn tổ chức để các kỹ sư chăn nuôi và bác sĩ

thú y đến từng thôn, xóm thụ tinh nhân tạo, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi và

khám chữa bệnh cho gia súc tại nhà.

1.4.2. Phong trào hợp tác hoá ở Nhật Bản:

HTX đầu tiên ra đời ở Nhật Bản vào năm 1868 và Luật HTX ở Nhật Bản ra

đời năm 1900. Nhờ đó, HTX ở Nhật bản phát triển trong nhiều lĩnh vực khác

nhau. Những lĩnh vực mà HTX phát triển mạnh và có ưu thế là HTX tiêu dùng,

HTX tín dụng, HTX trường học, HTX nông nghiệp, HTX bảo hiểm... Riêng HTX

tiêu dùng của Nhật Bản có đến 21 triệu xã viên, số vốn góp lên đến 6 tỷ USD,

doanh thu hàng năm đạt 30 tỷ USD. Trong nông nghiệp, mạng lưới HTX của Nhật

Bản được tập hợp thành một hệ thống HTX nông nghiệp quốc gia 3 cấp, với 2 loại

hình: HTX tổng hợp (đa ngành) và HTX chuyên ngành, với hai loại xã viên: xã viên

làm nông nghiệp bao gồm nông dân, chủ trang trại gia đình và xã viên không trực tiếp

làm nông nghiệp bao gồm những người làm dịch vụ kinh tế kỹ thuật phục vụ nông

nghiệp, những người góp vốn vào hoạt động kinh doanh HTX.

1.4.3. Phong trào hợp tác hoá ở Vương quốc Thái Lan:

Ý tưởng về HTX xâm nhập vào Thái Lan từ năm 1915 với mục tiêu ban đầu

là hỗ trợ nâng cao đời sống của người dân ở các vùng nông thôn. Tháng 12/1916,

Chính phủ Hoàng gia giới thiệu mô hình HTX tín dụng tiết kiệm theo ý tưởng

của Raiffeisen (Đức). Mục tiêu của các HTX tiết kiệm và tín dụng lúc này cũng là

hỗ trợ nông dân ở các vùng nông thôn có vốn làm ăn, thoát khỏi tình trạng cho vay

nặng lãi và nợ triền miên. Các HTX tín dụng và tiết kiệm phát triển mạnh và trên cơ

sở này các Ngân hàng HTX được thành lập. Các HTX cũng được hình thành và phát

triển trong các Gnh vực khác.

Hiện nay, Thái Lan có 6.400 HTX cơ sở hoạt động trong 6 lĩnh vực: nông

nghiệp, đất đai và cơ sở hạ tầng, đánh cá, tiêu dùng, túi dụng và tiết kiệm. Hơn 8

triệu người dân đang là thành viên của các HTX. HTX trong nông nghiệp được đánh

giá là có vai trò quan trọng nhất với hơn 5 triệu thành viên.

35

Chính phủ Thái Lan rất quan tâm đến HTX và có các hình thức trợ giúp

như: hướng dẫn nghiệp vụ đào tạo cán bộ HTX, trợ giúp tài chính cho HTX nhằm

mục đích giúp các HTX đem lại lợi ích cho xã viên, cung cấp các dịch vụ kỹ

thuật cho các HTX thông qua các trung tâm dịch vụ kỹ thuật ở các khu vực, đưa

chủ đề HTX vào quá trình giảng dạy ở các trường học từ sơ cấp đến Đại học, một

số trường Đại học có khoa HTX...

1.4.4. Phong trào hợp tác hoá ở Cộng hoà Liên bang Đức:

Nước Đức là noi khai sinh ra hình thức HTX tín dụng đầu tiên trên thế giới.

Đức cũng là nước sớm có các HTX cung ứng, HTX dịch vụ kỹ thuật và HTX mua

bán, tiêu thụ nông sản và tổ chức thành Hiệp hội HTX toàn Đức. Hiệp hội HTX

toàn Đức được hình thành trên cơ sở của Hiệp hội HTX nông nghiệp DRV (hay hiệp

hội HTX Raiffeisen), Hiệp hội HTX ngân hàng BVR và Hiệp hội HTX phi nông

nghiệp ZGV.

Hiệp hội HTX toàn Đức có khoảng 6.800 HTX thành viên, với hơn 16 triệu

thành viên.

HTX nông nghiệp có 3.812 HTX.

HTX phi nông nghiệp có 1.115 HTX.

HTX ngân hàng có 1.800 HTX. HTX Ngân hàng được coi là cột trụ quan

trọng nhất của Hiệp hội HTX toàn Đức với khoảng 15 triệu xã viên và phục vụ

cho khoảng 30 triệu khách hàng.

1.4.5. Những kinh nghiệm phát triển HTX có thể vận dụng vào nước ta

và tình Hải Dương:

Từ việc xem xét một cách khái quát sự phát triển HTX ở một số nước trên

thế giới và đi sâu tìm hiểu vể hoạt động của HTX, có thể rút ra những nhận xét và

kinh nghiệm bổ ích để vận dụng vào quá trình phát triển HTX ở nước ta nói

chung và Hải Dương nói riêng trên các mặt sau:

Thứ nhất: HTX là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá, cạnh tranh là nguyên

nhân, là động lực chủ yếu hình thành và phát triển các HTX. Đã có nhiều người

từng cho rằng: HTX là sản phẩm đặc thù của CNXH, HTX đi liền với hình thức

sở hữu tập thể. Thực tiễn phát triển HTX của nhiều nước trên thế giới cho ta thấy

36

rằng, HTX là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Hơn hai thế kỷ qua,

HTX vẫn đang tồn tại và phát triển ở rất nhiều quốc gia với các chế độ chính trị,

trình độ phát triển khác nhau. Chính ở các nước tư bản công nghiệp phát triển

nhất như Mỹ, Đức, Nhật... HTX phát triển mạnh và có vai trò quan trọng trong

đời sống KT - XH của người dân các quốc gia này.

ở các nước này, HTX là rất phổ biến không phải chỉ với người dân mà cả

với DN và giới công chức. Thụy Điển có hơn 8 triệu dân, nhưng Liên hiệp các

HTX tiêu dùng Thụy Điển (KF) có gần 2,6 triệu thành viên. Hầu hết những người

ở trong độ tuổi lao động đều là thành viên của một hoặc vài HTX. Hàng không

Thái Lan có các HTX riêng cung cấp các dịch vụ cho cán bộ cồng nhân viên

hàng không (tín dụng, nhà ở, tiêu dùng...).

Cạnh tranh là qui luật cơ bản chi phối hoạt động của tất cả các đối tượng

kinh doanh trong KTTT. Sản xuất hàng hoá diễn ra ở mức độ càng cao thì cạnh

tranh càng khốc liệt. Có thể chia đối tượng kinh doanh thành: Các DN kinh

doanh lớn, các DNV&N (trong đó có HTX), các hộ sản xuất. Trong cạnh tranh,

các DN lớn có những ưu thế, còn các DNV&N, các hộ kinh doanh bị đẩy vào

nhóm những người kinh doanh yếu thế lực, gặp nhiều khó khăn để tồn tại, phát

triển được trong nền KTTT. Trong khi đó, ở các nước phát triển, các DNV&N và

kinh doanh hộ gia đình lại có vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho xã

hội và huy động nguồn lực. Do vậy, các DNV&N phải tìm cách liên kết, hợp tác

với nhau để tồn tại và phát triển. HTX là cách thức tốt và phù hợp để những

người kinh doanh yếu thế hơn cùng nhau tồn tại. Điều đó giải thích vì sao ở các

nước tư bản, các cơ quan Chính phủ không làm công việc vận động phát triển

HTX nhưng HTX vẫn phát triển.

Thứ hai: Mục tiêu hoạt động của các HTX tương tự nhau dù trình độ phát

triển kinh tế khác nhau, chủ yếu là phục vụ sản xuất cho các xã viên, bảo vệ lợi

ích kinh tế cho xã viên chứ không phải kinh doanh kiếm lãi.

Ví dụ: Trang đầu tiên trong Điều lệ của HTX chợ trung tâm vùng

RHEINLAN nêu rõ: mục đích của HTX là thông qua các hoạt động kinh doanh

chung, hỗ trợ thành viên nâng cao thu nhập và phát triển kinh tế. Hoặc, trang đầu

37

tiên trong Điều lệ của HTX mua bán của những thợ cả làm nghề chế biến thịt

vùng WUERZBURG cũng ghi rõ: Mục đích của HTX là hỗ trợ hoạt động kinh tế

và chăm sóc thành viên.

Điều cần phải nhấn mạnh là trong tất cả các ví dụ trên, HTX chỉ làm các dịch

vụ chung mà tất cả các thành viên HTX thấy là cần trong khi các DN hay hộ sản

xuất vẫn tiếp tục các hoạt động sản xuất của riêng họ.

Thứ ba: Phát triển đa dạng các hình thức HTX

Đối với các nước phát triển cao thì tính đa dạng của các loại hình HTX

phong phú hơn, tính chất chuyên môn hoá sâu hơn. ở Nhật Bản, kinh tế HTX

không chỉ dừng lại ở các dịch vụ phát triển sản xuất, mà mở rộng ra các hoạt

động tiêu dùng, dịch vụ thông tin, dịch vụ nhà ở... Đồng thời có xu hướng tập

trung hoá các HTX thành qui mô lớn, đủ sức cạnh tranh với các công ty tư bản

trong các dịch vụ phục vụ và ít cấp trung gian.

Thứ tư: Hệ thống mạng lưới tổ chức HTX được xây dựng theo 3 cấp: cơ sở;

cấp tỉnh, thành phố và toàn quốc. Trong đó HTX cơ sở là tổ chức đầu mối quan

ưọng nhất của hệ thống mạng lưới HTX, được xây dựng trên địa bàn lãnh thổ, một

địa điểm dân cư, theo tất cả các loại hình khác nhau ở nhiều nước. Một người có thể

tham gia nhiều loại hình HTX.

Thứ năm: Các tác động của Nhà nước đối với HTX

ở các nước có phong trào HTX phát triển, HTX là rất phổ biến, có vai trò

quan trọng đối với việc phát triển KT -XH và đời sống con người, nên Chính phủ

các nước này đều có các chính sách cụ thể hỗ trợ các HTX với các lý do được

đưa ra là:

- HTX có vai trò quan trọng trong việc đào tạo việc làm cho một bộ phận lón

dân cư.

- HTX là tổ chức kinh tế của các thể nhân hay pháp nhân nhưng yếu thế hơn

trong cạnh tranh.

- HTX có vai trò quan trọng trong đòi sống xã hội.

38

Các hỗ trợ của Chính phủ đối với HTX cũng rất khác nhau, tuỳ vào từng

nước, nhưng thường là như sau: Miễn giảm thuế thu nhập; Hỗ trợ đào tạo, tư vấn,

hỗ trợ xuất khẩu; Kiểm toán HTX.

Thứ sáu: Kiểm toán HTX là công cụ có vai trò then chốt đối với sự phát

triển HTX ở các nước

Kiểm toán HTX nhằm mục đích bảo vệ thành viên của HTX. Nội dung của

kiểm toán gồm: kiểm toán về kinh tế, kiểm toán về hoạt động điều hành và tư vấn

hỗ trợ. Kiểm toán có một tác động to lớn đối với HTX: Tất cả các HTX ở Đức

đều khẳng định kiểm toán HTX là rất cần thiết và đều sẵn sàng trả tiền cho kiểm

toán. Kiểm toán thực sự là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích thành viên

HTX, giúp các HTX tránh được các rủi ro (tỷ lệ các HTX bị phá sản là không

đáng kể). Ví dụ:

- Luật HTX Đức dành một chương riêng với 11 điều (từ điều 53 đến điều

64c) về kiểm toán qui định: kiểm toán HTX là bắt buộc đối vói các HTX. Các

HTX phải là thành viên của Hiệp hội kiểm toán. HTX có quyền rút ra khỏi một

Hiệp hội kiểm toán nhưng trong một khoảng thời gian qui định (luật định), HTX

phải tham gia một Hiệp hội kiểm toán khác và phải thông báo với Toà án. Nếu

quá thời gian trên mà HTX chưa là thành viên của một hiệp hội kiểm toán thì Toà

án tuyên bố giải thể HTX.

- Luật HTX Thái Lan qui định kiểm toán là bắt buộc đối với tất cả các

HTX. Để thực hiện các qui định về kiểm toán trong Luật HTX, Chính phủ Thái

Lan đã thành lập Vụ kiểm toán HTX thuộc Bộ nông nghiệp và HTX. Chức năng

của Vụ là kiểm toán HTX và hướng dẫn các HTX thực hiện các qui định về quản

lý tài chính và kế toán. Để có thể kiểm toán các HTX trong cả nước, Vụ kiểm

toán HTX thành lập các Văn phòng kiểm toán HTX ở các tỉnh, thành phố. Các

kiểm toán viên thuộc các Văn phòng kiểm toán HTX ở các tỉnh, thành phố là

người trực tiếp kiểm toán HTX.

Thứ bảy: Phải nâng cao nhận thức và hiểu biết của mọi người về HTX. Đối với

mọi công dân, ngay khi còn ngồi học trong trường phổ thông đã được học qua chương

trình về HTX, điều lệ HTX để họ tự lựa chọn và quyết định.

39

Những bài học quý trên đây có thể vận dụng vào việc lựa chọn, xây dựng

những hình thức HTX thích hợp với đặc điểm của nước ta, nhất là vận dụng vào

quá trình chuyển đổi HTX kiểu cũ và phát triển HTX kiểu mới phù hợp với cơ

chế thị trường.

Tóm lạ i:

Kinh tế HTX tồn tại và phát triển là một xu thế khách quan. Các loại hình

và cấp độ HTX được hình thành và phát triển là do nhu cầu của sx, KD nhằm đạt

được lợi ích cao hơn của các thành viên, nó không xoá bỏ mà hỗ trợ cho sự phát

triển của kinh tế hộ, nhất là trong điểu kiện của cơ chế thị trường.

Những thành tựu lý luận cũng như thực tiễn hoạt động của các HTX ở các

nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong thời gian qua đều khẳng định kinh

tế HTX có vai trò to lớn trong việc phát triển LLSX, góp phần hình thành các

QHSX tiến bộ theo hướng dân chủ và xã hội hoá nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là

mỗi nước, mỗi địa phương phải xuất phát từ trình độ phát triển của LLSX và hoàn

cảnh lịch sử, điều kiện cụ thể để chọn lọc được những hình thức, mô hình HTX

với những phương thức hoạt động thích hợp đem lại hiệu quả, thúc đẩy KT - XH

phát triển.

Quan điểm của Đảng đã khẳng định: "Kinh tế tập thể phát triển với nhiều

hình thức hợp tác đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt. Các HTX dựa trên sở hữu

của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ

sx, KD, các DNV&N không giới hạn qui mô, lĩnh vực và địa bàn. Phát triển HTX

kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành" [8, tr.98J.

40

Chương 2.

THỰC TRẠNG KINH TÊ HỢP TÁC XÃ Ở HẢI DƯƠNG

TRONG THỜI GIAN VỪA QUA VÀ NHỮNG VẤN ĐỂ

ĐẶT RA HIỆN NAY

2.1. Đặc điểm tự nhiên, KT - XH và quá trình hình thành, phát triển

kinh tế hợp tác và HTX ở Hải Dương.

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, KT -XH.

2.1.1.1. Những thuận lợi.

Hải Dương là một tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997, là một tỉnh thuộc khu vực

đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc giữa tam giác

kinh tế: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng ninh, tiếp giáp với 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc

Giang, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh và Thái Bình; có vị trí và điều kiện tự

nhiên thuận lợi cho việc phát triển nhanh và toàn diện KT-XH.

Diện tích đất tự nhiên là 1.661 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 59,7%;

đất lâm nghiệp 7,3%; đất chuyên dùng 14,2%; đất chưa sử dụng 14%... Đất nông

nghiệp bình quân đầu người 625 m2 (bình quân ở đồng bằng Sông Hồng là

540m2/người); đất lúa màu bình quân 570 m2/l khẩu. Địa hình được chia làm hai

phần: vùng đồng bằng 89% và vùng đồi núi 11%. Đất đai tương đối bằng phẳng

và màu mỡ, có độ cao trung bình 3 - 4m. Là một tỉnh nằm trong vùng nhiệt đối

gió mùa, nóng ẩm, với 4 mùa rõ rệt. Lượng mưa vào loại trung bình (1500 -

1700mm), nhiệt độ trung bình hàng năm 23°c, độ ẩm 85 - 88%... rất thuận lợi

cho phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá với các sản phẩm đa dạng, có giá

trị kinh tế cao.

Hệ thống giao thông vận tải tương đối phát triển. Hiện có các tuyến đường

bộ quan trọng của quốc gia chạy qua như: Quốc lộ số 5, 18, 37, 38, 183, nối liền

các tỉnh phía Bắc với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh... Đường tỉnh lộ và huyện

có khoảng hơn 80% được rải nhựa. Có một số tuyến đường sắt: Hà Nội - Hải

41

Phòng, Kép - Bãi Cháy, tuyến chuyên dùng Hà Nội - Phả Lại. Gần các cảng biển:

Hải Phòng, Cái Lân (Quảng Ninh) và các cảng hàng không: Nội Bài (Hà Nội),

Cát Bi (Hải Phòng). Theo dọc 102 km Quốc lộ 5, thành phố Hải Dương (trung

tâm của tỉnh) cách Hải Phòng 45 km về phía Đông và cách Hà Nội 57 km về phía

Tây. Sông ngòi của tỉnh khá dày đặc, có khả năng bồi đắp phù sa cho vùng đồng

bằng của tỉnh.

Toàn tỉnh Hải Dương được chia thành 12 đơn vị hành chính, gồm 01 thành

phố và 11 huyện (trong đó có 2 huyện miền núi). Dân số toàn tỉnh a 1,7 triệu

người (đứng thứ 13/61 tỉnh, thành phố), mật độ dân cư khoảng hơn 1000 người/1

km2. Trong đó, dân số nông nghiệp « 1,43 triệu người (a 85% dân số). Lao động

trong các ngành kinh tế chiếm 54% dân số, trong đó lao động trong các ngành nông,

lâm, thuỷ sản chiếm 83% tổng lao động xã hội. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng từ

13,3% (năm 1996) lên 18,1% (năm 2000).

Cùng với cả nước, sau gần 20 năm đổi mới (nhất là từ năm 1996 đến nay),

Đảng bộ và nhân dân Hải Dương đã giành được thắng lợi to lớn trên nhiều lĩnh

vực, làm thay đổi cơ bản đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Kinh tế của

tỉnh phát triển với tốc độ khá, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của tỉnh bình quân

từ năm 1996 đến nay tăng hơn 9% (năm 2002 tăng 12,1% vượt kế hoạch 3,1%;

năm 2003 là 12,8%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (tăng tỷ

trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỷ trọng nông nghiệp). Năm 1985, cơ cấu kinh

tế nông, lâm, thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - thương mại, dịch vụ là 53,2% -

20,4% - 26,4%; đến năm 1996 là 41,8% - 33,9% - 24,3%; năm 2002 đạt 32,3% -

39,2% - 28,5% và năm 2003 là 30,7% - 40,7% - 28,6%. Giá trị sản xuất nông

nghiệp năm 2003 tăng 5,4%, công nghiệp tăng 27,2%, dịch vụ tăng 12,9% so với

năm 2002. Tổng thu ngân sách đạt 1141 tỷ (thu nội địa 693,4 tỷ vượt dự toán

27% và tăng 31% so với năm 2002; thu xuất nhập khẩu trên 448 tỷ vượt dự toán

49%, tăng 50% so với năm 2002). Đến hết năm 2003 có 53 dự án nước ngoài với

tổng vốn đăng ký trên 572 triệu USD (là địa phương đứng thứ 10 toàn quốc về

thu hút vốn đầu tư nước ngoài) [2, tr.2]. Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 71,9

triệu USD, nhập khẩu 126,6 triệu USD. Hàng năm giải quyết việc làm mới cho

42

trên 2 vạn lao động. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2001 là 10,09%, năm 2002 là 8,75%,

năm 2003 là 6,97%. Thu nhập bình quân GDP/người (theo giá so sánh) đạt 4.076

triệu đồng (đứng thứ 3/11 tỉnh đồng bằng sông Hồng) [3, tr. 8].

Nhìn chung, Hải Dương có nhiều lợi thế như: vị trí tương đối thuận lợi; kết

cấu hạ tầng khá phát triển; nguồn nhân lực dồi dào, trình độ dân trí cao, các khu

công nghiệp đã hình thành và phát triển; hệ thống giao thông thuận lợi, dễ dàng

gắn kết và giao lưu kinh tế với các vùng khác, nhất là các tỉnh thuộc vùng kinh tế

trọng điểm của miền Bắc... Đây là những điều kiện thuận lợi cho các thành phần

kinh tế, các chủ thể kinh tế đầu tư sx, KD và phát triển. Trong đó có kinh tế tập

thể có thể đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động trong nền KTTT

định hướng XHCN. Đặc biệt những năm gần đây, kinh tế Hải Dương phát triển

với tốc độ khá nhanh, ổn định; khả năng tích luỹ từng bước được tăng lên; thu

nhập và đời sống của nhân dân được nâng cao; nguồn lao động đã và đang được

đào tạo một cách hệ thống, có khả năng tiếp thu và chuyển giao khoa học - công

nghệ mới... Đây là những thế mạnh cho phát triển KT-XH, nâng cao sức cạnh

tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường và nâng cao vị thế của Hải Dương.

2.1.1.2. Những khó khăn, thách thức.

Mặc dù có những tiềm năng, thuận lợi, song Hải Dương cũng gặp không ít khó

khăn, thách thức trong đổi mói, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các

HTX, thể hiện ở các mặt sau:

Thứ nhất: Cơ sở vật chất kỹ thuật của các HTX còn thấp kém, lao động thủ

công còn phổ biến, năng suất, chất lượng và hiệu quả sx, KD còn thấp, giá thành

sản phẩm cao, sức cạnh tranh còn yếu, kinh tế hàng hoá phát triển chưa đồng đều,

việc hoà nhập với thị trường trong và ngoài nước gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai: Nhiều tiềm năng về cơ sở vật chất, vốn, đất đai, lao động, trí tuệ,

ngành nghề truyền thống chưa được khai thác và sử dụng tốt.

Thứ ba: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH còn chậm, tỷ

trọng thủ công, công nghiệp, dịch vụ còn thấp, nghề nông vẫn còn chiếm tỷ trọng

lớn nên giá trị hàng hoá sản xuất ra chưa cao.

43

Thứ tư: Vốn đầu tư cho phát triển còn thiếu, tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ kinh tế

của HTX còn nhỏ, khó tạo ra bước đột phá nhanh. Việc đổi mới các HTX còn

chậm, gặp nhiều khó khăn, vẫn còn trông chờ quá nhiều vào sự hỗ trợ của Nhà

nước. Nhiều HTX tuy đã được chuyển đổi theo luật nhưng còn mang tính hình

thức, đặc biệt là HTX nông nghiệp.

Thứ năm: Công tác quản lý nhà nước đối với HTX và bộ máy quản lý HTX còn

nhiều yếu kém, tay nghề người lao động thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn nhỏ.

Thứ sáu: Sự liên doanh, liên kết của HTX với các tổ chức kinh tế, nhất là

với DN nhà nước còn hạn hẹp. Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách cụ thể, phù

hợp, tạo thuận lợi cho liên doanh, liên k ế t...

Tuy nhiên, với những đặc điểm thuận lợi, những ưu thế về điều kiện tự

nhiên, KT - XH của Hải Dương nêu trên, đã tạo điều kiện cho các HTX đổi mới,

phát triển trong nền KTTT định hướng XHCN.

2.1.2. Quá trình hình thành, phát triển kinh tế hợp tác và HTX ở Hải

Dương.

Ngay từ xa xưa trong nền kinh tế tiểu nông, trong nông nghiệp và nông thôn

nước ta đã có nhiều loại hình tổ chức hợp tác, tương trợ giữa các hộ nông dân với

những nội dung đơn giản và qui ước không thành văn, nhưng đã được các thành

viên cộng đồng ở nông thôn tự giác thực hiện qua nhiều thế hệ và còn nhiều tập

quán đẹp còn tồn tại cho đến ngày nay.

Từ giữa những năm 50 của thế kỷ XX đến nay, trong nền kinh tế nước ta

xuất hiện những hình thức hợp tác mới, có tổ chức chặt chẽ, có điều lệ thành văn như

các HTX sản xuất nông nghiệp, tín dụng, mua bán, tiểu thủ công nghiệp. Nhưng loại

hình này đã trải qua những bước thăng trầm và đang có những thay đổi để khẳng định

vị trí đích thực trong nển kinh tế quốc dân hiện nay.

Dựa trên nền tảng của quan niệm về kinh tế CNXH là chế độ công hữu về

TLSX, với hai hình thức toàn dân và tập thể, sau giai đoạn hàn gắn vết thương

chiến tranh ở miền Bắc (1955 - 1957) là giai đoạn đẩy mạnh cải tạo XHCN đối

với các thành phần kinh tế. Công cuộc cải tạo XHCN đối với sản xuất nhỏ ở Hải

Dương cũng như nhiều địa phương khác bắt đầu từ nông nghiệp với quá trình tập thể

44

hoá, quốc doanh hoá. Trong nông nghiệp đưa những người nông dân cá thể vào các

tổ chức HTX từ bậc thấp đến bậc cao. Trong những năm 1958 - 1960, công nghiệp

và tiểu thủ công nghiệp chưa có gì đáng kể, cả tỉnh chỉ có vài chục hộ tư sản, tiểu

chủ. Sau cải tạo năm 1960 những người sản xuất nhỏ được đưa vào các HTX tiểu

thủ công nghiệp, 90% các hộ tiểu thương các nghề dịch vụ, vận tải thô sơ đã vào tổ

chức hợp tác hoặc tổ hợp tác.

Quá trình phát triển kinh tế hợp tác và HTX ở Hải Dương có thể chia làm 3

giai đoạn chính như sau:

2.1.2.1. Giai đoạn từ khi có phong trào hợp tác hoá đến khi có Nghị quyết

10 của Bộ Chính trị (5/4/1988):

Đây là thòi kỳ phong trào HTX ở Hải Dương phát triển mạnh. Có thể xem

xét giai đoạn này qua các thời kỳ sau:

+ Thời kỳ 1955 - 1960: Đây là thời kỳ phát triển mạnh các loại hình tổ đổi

công, tổ hợp tác và HTX bậc thấp với qui mô thôn, làng.

+ Thời kỳ 1960 - 1980: Đây là thòi kỳ phát triển mạnh HTX bậc cao với qui

mô toàn xã.

+ Thòi kỳ 1981 - 1988: Đây là thời kỳ kinh tế hợp tác và HTX bộc lộ những yếu

kém, lâm vào tình trạng trì trệ, hoạt động kém hiệu quả. Đồng thời, đây cũng là thời

kỳ vân động chuyển đổi HTX có những bước thăng trầm nhằm tạo ra sự chuyển hoá

dần về chất trong các HTX, nhất là khu vực HTX nông nghiệp.

Toàn tỉnh có 258 HTX nông nghiệp, 257 HTX mua bán, 174 HTX tiểu thủ

công nghiệp và hơn 90 HTX giao thông vận tải và dịch vụ khác... [22, tr. 40].

Trong thời kỳ đầu, phong trào hợp tác hoá, sản xuất nông nghiệp đã có bước phát

triển đáng kể. Có được thành quả đó là do tỉnh đã quan tâm tới người nông dân,

phát huy vai trò làm chủ ruộng đất của họ, đồng thời do Nhà nước đã quan tâm

đến việc cải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật (điển hình như việc xây dựng hệ thống

thuỷ lợi Bắc Hưng Hải).

Nhìn chung trong giai đoạn này, kinh tế tập thể và HTX đã đóng vai trò

không nhỏ trong sản xuất lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp

chế biến và nông sản xuất khẩu. Tuy nhiên, từ những năm 1979 - 1980, những

45

yếu kém của mô hình HTX trong cơ chế cũ đã tiềm ẩn từ trước ngày càng bộc lộ

rõ. Việc tập thể hoá toàn bộ TLSX đi đôi với việc mở rộng qui mô HTX không

phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong nông nghiệp, nông thôn đã gây

nhiều tác động tiêu cực về KT - XH và tâm lý trong nông dân.

Sau khi có Chỉ thị 100/CT-TW Ban Bí thư ban hành ngày 13/1/1981 về

khoán sản phẩm trong nông nghiệp, ngày 6/3/1981 Tỉnh uỷ Hải Hưng (nay tách

thành Hải Dương và Hưng Yên) đã cụ thể hoá bằng Nghị quyết 22/NQ-TƯ về

"hoàn thiện các hình thức khoán sản phẩm trong các HTX nông nghiệp". Đến cuối

năm 1981, đã có 96% số HTX thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao

động. Xã viên phấn khởi đầu tư vốn, sức lao động... nhằm vượt khoán. Kết quả là

từ 1981-1985, sản lượng lương thực tăng bình quân 16,5%/năm, đàn lợn tăng

6,5%, đàn bò tăng 11,3% so với thời kỳ 1976 - 1980. Tuy nhiên, trong thời kỳ này

cơ chế khoán đã được áp dụng đối với nông dân trong điều kiện cơ chế bao cấp

vẫn còn nặng nề, lợi ích của người nhận khoán chưa thật sự được coi trọng đã dẫn

đến tình trạng khê đọng sản phẩm trong nông dân tăng lên. Tính đến cuối năm

1986, số thóc xã viên nợ HTX là 49.255 tấn (bình quân 1 HTX khoảng 190 tấn).

Có một số HTX, số thóc xã viên nợ HTX lớn hơn số thóc sản xuất ra một năm.

Một số hộ xã viên đề nghị trả lại ruộng khoán cho HTX.

Ngày 15/8/1987, quán triệt đường lối của Đảng, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã

có Nghị quyết 04 về "Hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm trong nông nghiệp".

Thực hiện gắn kế hoạch sản xuất với kế hoạch phân phối, từng bước ổn định giá trị

ngày công bằng lương thực, thực phẩm; định mức trong các khâu của quá trình sản

xuất được tính công khai, rõ ràng, người lao động nắm chắc được phần thu do lao

động và chi phí của mình bỏ ra nên họ đã gắn bó với HTX hơn.

2.1.2.2. Giai đoạn đổi mới đến trước khi cố Luật HTX(được Quốc hội thông

qua ngày 201311996, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1997)

Đây là thời kỳ kinh tế hợp tác và HTX dần được đổi mới, củng cố theo các

Nghị quyết của TW và của tỉnh, đặc biệt là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị

(5/4/1988). Ngay sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Tỉnh uỷ đã cụ thể

hoá bằng Nghị quyết 28 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (5/1988) về "Đổi mới quản

46

lý kinh tế trong các HTX nông nghiệp" trên địa bàn tỉnh. Đây thực chất là định

hướng đổi mới quan hệ kinh tế giữa kinh tế hộ tư nhân, cá thể với kinh tế HTX,

khẳng định một bước vai trò tự chủ của kinh tế hộ, chuyển hình thức sở hữu đối

với TLSX của tập thể quản lý và sử dụng kém hiệu quả sang hộ xã viên thông

qua bán hoặc đấu thầu. Ruộng đất cũng được giao khoán đến hộ và xoá bỏ chế

độ hạch toán công điểm, xã viên có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và các quỹ

cho HTX.

Việc điều chỉnh quan hệ sở hữu và quyền sử dụng TLSX, chủ yếu là ruộng

đát giữa HTX và hộ xã viên theo số liệu điều tra ở 360 HTX của tỉnh Hải Hưng

cho thấy giá trị tài sản bình quân của một HTX có 411, 267 triệu đồng, thì đã

chuyển nhượng TLSX cho các hộ xã viên 37% tổng giá trị tài sản, HTX giữ lại

21,2% và chuyển giao cho ƯBND xã 40,8% tổng giá trị tài sản [10, tr. 150].

Đối với các HTX túi dụng nông thôn hoạt động trong cơ chế cũ, mặc dù đã có

những đóng góp tích cực vào hoạt động tài chính ở nông thôn, nhưng khi nền kinh tế

chuyển sang KTTT có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống HTX trong cả nước đã

lâm vào tình trạng khủng hoảng, tan vỡ. Sau khủng hoảng 1990, cả nước có đến hơn

6000 (trong tổng số hơn 7000) HTX tín dụng nông thôn phải ngừng hoạt động.

Trong số đó Hải Hưng có 300 HTX tín dụng bị đổ bể, nợ nần tồn đọng gần 6 tỷ

đồng, Ngân hàng đã tích cực giải quyết nhưng đến 1995 vãn còn khê đọng 900 triệu

đồng của 86 HTX tín dụng [10, tr.141].

Ngày 28/4/1992, Thường vụ Tỉnh uỷ Hải Hưng ra Nghị quyết 03/NQ-TƯ về

tiếp tục đổi mới tổ chức và quản lý HTX nông nghiệp, được thể chế hoá bằng các

Quyết định số 721/QĐ-ƯB ngày 17/9/1992 và Quyết định 235/QĐ-UB ngày

25/2/1993 của UBND tỉnh về việc: giao quyền sử dụng đất ổn đinh lâu dài cho hộ

nông dân trong toàn tỉnh, thực hiện quyền sử dụng đất theo Luật đất đai (1993) và

đổi mới, phát triển đa dạng các HTX nông nghiệp.

Đặc biệt, tháng 8/1994 Tỉnh uỷ Hải Hưng có Nghị quyết 21 về "Đổi mới tổ

chức quản lý HTX" và các Quyết định 1755, 1756 của UBND tỉnh (về thực hiện

Nghị quyết 21) đã đưa phong trào HTX, nhất là HTX nông nghiệp sang giai đoạn

phát triển mới. Vì vậy, đến trước khi có Luật HTX, ở địa bàn Hải Hưng đã có

47

470 HTX được đổi mới (316 HTX nông nghiệp và 174 HTX phi nông nghiệp)

[22, tr.41].

Nhìn chung, trong giai đoạn này sự phát triển của HTX có nhiều bước thăng

trầm, nhiều loại hình HTX hoạt động kém hiệu quả, lâm vào tình trạng khủng

hoảng, tan vỡ (HTX tín dụng). Tuy nhiên đây cũng là giai đoạn kinh tế hợp tác và

HTX dần được củng cố, tìm tòi mô hình hoạt động, đổi mới nhằm tạo ra sự

chuyển biến về chất trong các HTX.

2.1.2.3. Giai đoạn từ năm 1997 đến nay

Đây là giai đoạn các HTX tiến hành chuyển đổi, củng cố, thành lập và phát

triển theo Luật HTX. Trong giai đoạn này có thể xem xét ở hai thời kỳ:

Thứ nhất: Thời kỳ từ khi có Luật HTX đến trước khi có Nghị quyết số 13

của Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 5 khoá IX (3/2002). Có thể đánh giá: Hải

Dương là một trong các tỉnh làm tốt việc tổ chức, chuyển đổi, đổi mới và phát

triển HTX theo luật. Đến năm 2000, Hải Dương đã cơ bản thực hiện xong việc

chuyển đổi HTX từ mô hình cũ sang HTX theo luật. Trước khi có Nghị quyết số

13/NQ-TW, trên địa bàn Hải Dương có:

- Về tổ hợp tác: có 43 đơn vị, trong đó có 24 tổ dịch vụ điện, 09 tổ tiểu thủ

công nghiệp, 02 tổ dịch vụ thuỷ nông và 08 tổ các loại khác. Ngoài ra còn có

nhiều tổ hợp tác thuộc các lĩnh vực như nuôi trồng thuỷ sản, xay sát, tuốt lúa... thì

không thể thống kê hết được. Nhìn chung, các tổ nhóm hợp tác đang phát triển khá,

đã góp phần tạo lập môi trường KT-XH cho sự hình thành các HTX (khoảng hơn

10% HTX mới thành lập từ tổ hợp tác chuyển lên).

- Về tình hình số lượng HTX: Có tổng số 566 HTX, trong đó có 499 HTX

được chuyển đổi từ mô hình cũ sang mô hình theo Luật HTX (bao gồm 370 HTX

dịch vụ nông nghiệp, 17 HTX tiểu thủ công nghiệp, 32 HTX giao thông vận tải,

11 HTX xây dựng, 01 HTX thương mại và 68 quỹ tín dụng) [31, tr.l].

Thứ hai: Thời kỳ thực hiện Nghị quyết số 13/NQ-TW và Chương trình hành

động số 20/CTr-TƯ của Tỉnh uỷ Hải Dương đến nay

Sau hơn 1 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 (khoá IX) về kinh tế tập thể đến

30/5/2003, tình hình phát triển kinh tế hợp tác và HTX cho thấy:

48

- Hiện toàn tỉnh có khoảng 300 tổ hợp tác có đăng ký hoạt động với UBND

cấp xã, phường, thị trấn. Ngoài ra còn có hàng trăm nhóm, tổ hợp tác giản đơn khác

như: tổ nhóm túi chấp vay vốn, tổ đổi công... đang hoạt động. Việc ngày càng có

nhiều tổ, nhóm hợp tác giản đơn trong sx , KD là biểu hiện của qui luật vận động tất

yếu của khu vực kinh tế tập thể trong nền K i l l .

- Trên địa bàn toàn tỉnh có 657 HTX. Trong đó có 376 HTX dịch vụ nông

nghiệp, 24 HTX dịch vụ thương mại, 27 HTX xây dựng, 100 HTX tiểu thủ công

nghiệp, 57 HTX giao thông vận tải, 73 quỹ tín dụng nhân dân.

Điều đáng chú ý là, trong số 657 HTX có 499 HTX hoạt động trong các

ngành và lĩnh vực đã tiến hành chuyển đổi theo Luật, 33 HTX đã giải thể và 158

HTX thành lập mới [5, tr.l- 2]. Sau hơn 5 năm thực hiện theo Luật HTX, ngoài

các HTX dịch vụ nông nghiệp và các quỹ tín dụng nhân dân cơ bản ổn định về số

lượng và qui mô đã được xác định, thì số lượng các HTX phi nông nghiệp vẫn

tiếp tục tăng lên (bình quân mỗi năm tăng 25 - 30 HTX) trong tất cả các loại hình

dịch vụ thương mại, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải, vệ

sinh môi trường, điện nông thôn... Số lượng các HTX tăng, thu hút thêm xã viên,

giải quyết thêm lao động, góp phần làm ổn định đời sống kinh tế, chính trị, xã

hội, văn hoá, an ninh quốc phòng ở địa phương.

Có thể khẳng định rằng: trong gần 50 năm qua, phong trào HTX ở Hải

Dương đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau, có thòi kỳ phát triển

rầm rộ, có những đóng góp to lớn cho công cuộc khôi phục và phát triển KT -

XH của tỉnh Hải Dương; có thời kỳ trì trệ, hoạt động kém hiệu quả. Hiện nay

HTX đã và đang trong quá trình củng cố, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu

quả hoạt động phù hợp với yêu cầu của nền KTTT. Đó là xu hướng tất yếu của

HTX. Chính vì vậy, trong các chính sách phát triển nền KTTT định hướng

XHCN, Đảng ta đã xác định kinh tế hợp tác và HTX là một bộ phận quan trọng,

cùng với kinh tế nhà nước cần được củng cố và phát triển để ngày càng trở thành

nền tảng của nền KTQD, để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, vãn minh.

49

2.2. Thực trạng kinh tê HTX ở Hải Dương trong thời gian vừa qua.

Để phân tích làm rõ thực trạng hoạt động của các HTX trên địa bàn tỉnh, có

nhiều cách tiếp cận để giải quyết. Chúng tôi lựa chọn cách phân tích với những

vấn đề sau:

2.2.1. Vê sô lượng và các loại hình HTX ở Hải Dương.

Nhận rõ xu hướng tất yếu khách quan và vai trò quan trọng của kinh tế hợp

tác và HTX, đồng thời xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của Hải Dương, cho nên

đến trước khi Luật HTX được Quốc hội thông qua ngày 20/3/1996, Tỉnh uỷ Hải

Dương đã có đường lối, chủ trương đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác và HTX

phù hợp với cơ chế thị trường. Đặc biệt tháng 8/1994, Nghị quyết 21/TU về "Đổi

mới tổ chức quản lý HTX" được ban hành đã đưa phong trào HTX, nhất là HTX

nông nghiệp của Hải Dương phát triển.

Tổng kết kinh tế hợp tác và HTX 5 nãm (1996 - 2000) cho thấy: toàn tỉnh

có 603 HTX gồm: 374 HTX nông nghiệp, 64 HTX tiểu thủ công nghiệp, 59 HTX

giao thông, 15 HTX xây dựng, 16 HTX thương mại, 75 quỹ tín dụng. Hiện còn

37 HTX chưa chuyển đổi (03 HTX nông nghiệp, 08 HTX tiểu thủ công nghiệp,

15 HTX giao thông, 01 HTX xây dựng, 03 HTX thương mại và 07 quỹ tín dụng)

[29, tr. 6],

Qua số liệu trên cho thấy HTX hoạt động ở khá nhiều ngành nghề, lĩnh vực.

Trong số 371 HTX nông nghiệp được chuyển đổi và thành lập mới, có 201 HTX

qui mô toàn xã (chiếm 54%), 170 HTX qui mô thôn và liên thôn (chiếm 46%).

Nếu phân loại HTX nông nghiệp theo khâu dịch vụ mà HTX đảm nhiệm thì thấy:

- Số HTX hoạt động dịch vụ tổng hợp (từ 2 khâu trở lên) có 355/371 HTX

(chiếm 95,7%). Trong đó, HTX dịch vụ hai khâu 78 HTX (22,0%), 3 khâu là 100

HTX (28,8%), 4 khâu là 97 HTX (27,3%), 5 khâu là 40 HTX (11,3%), từ 6 - 8

khâu là 40 HTX (11,3%) và được tập trung ở các huyện cẩm Giàng (10 HTX),

Bình Giang (16 HTX), Tứ Kỳ (74 HTX), Kinh Môn (02 HTX), Gia Lộc (02

HTX).

- Số HTX hoạt động chuyên khâu là 16 HTX (chiếm 4,3%) tập trung ở 4

huyện Nam Sách, cẩm Giàng, Gia Lộc, Thanh Hà. Trong đó, HTX chuyên khâu

50

thuỷ nông 11 HTX, chuyên khâu điện 03 HTX, chuyên khâu chuyển giao khoa

học kỹ thuật 02 HTX.

Tuy nhiên, hiện nay một số HTX nội dung hoạt động giảm do thực hiện đề

án điện nông thôn (chuyển về ngành điện quản lý), tách hoạt động dịch vụ điện

để thành lập HTX chuyên khâu. Đến nay, sau gần 2 năm thực hiện đề án "mô

hình tổ chức quản lý điện nông thôn" (12/2001 - 10/2003) đã thành lập được 49

HTX điện độc lập (chiếm 20,77% tổng số xã cần chuyển đổi); 163 HTX dịch vụ

nông nghiệp đủ điều kiện cấp giấy phép hoạt động về kinh doanh điện. Một số

huyện có số lượng HTX điện độc lập chiếm tỷ trọng lớn như: Thanh Hà 19/25 xã

(76%), Nam Sách 6/22 xã (24%)... [1, tr.3].

Tổng số xã viên của các HTX được chuyển đổi và thành lập mới là 245.300

người (giảm 25% so với năm 1996), chủ yếu do xã viên HTX nông nghiệp giảm

93.600 người (giảm 34%). Hiện số xã viên trong 371 HTX nông nghiệp là

182.794 người, bình quân 493 xã viên/1 HTX.

Thực tế trong nông nghiệp ở Hải Dương hiện nay không còn tồn tại HTX nông

nghiệp như trước đây mà hình thành 03 loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp. Cụ thể:

- Loại HTX dịch vụ nông nghiệp nhiều xã viên góp vốn mới.

- Loại HTX dịch vụ nông nghiệp nhiều xã viên không góp vốn mới.

- Loại HTX dịch vụ nông nghiệp ít xã viên đều có góp vốn mới.

Trong 03 loại hình HTX, loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp ít xã viên góp

vốn mói, qua thực tiễn ở Hải Dương cho thấy có nhiều ưu điểm hơn. Chức năng

và nhiêm vụ của HTX đã thay đổi, từ trực tiếp điều hành sản xuất và sản xuất ra

các sản phẩm nông nghiệp sang cung ứng các dịch vụ phục vụ sản xuất cho các

hộ nông dân. Các HTX chuyển đổi đã đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của hợp

tác là: Tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Tự hạch toán và tự chịu

trách nhiệm về hoạt động của mình, song HTX nông nghiệp vẫn đảm bảo phát

huy sức mạnh của cộng đồng và tinh thần tương thân, tương ái trong nông thôn.

HTX đổi mới tuy không nắm quyền sử dụng ruộng đất, nhưng nắm giữ quyền sử

dụng đối với hệ thống dịch vụ quan trọng nhất, đó là dịch vụ cung cấp nước tưới

và thông qua đó Nhà nước áp dụng chính sách thuỷ lợi phí... duy trì sự phát triển

51

thắng lợi của ngành nông nghiệp trong nhiều năm qua. Như vậy, với tư cách là

người cung cấp dịch vụ quan trọng nhất, HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hải Dương

vẫn đang có địa vị chi phối đối với kinh tế hộ.

Trong mấy năm gần đây, nhất là từ khi có Nghị quyết TW 5 và thực hiện

chương trình sô' 20/CTr-TƯ của Tỉnh uỷ Hải Dương về kinh tế tập thể, Đảng bộ và

nhân dân tỉnh Hải Dương đã phát huy những mặt thuận lợi, khắc phục khó khăn

nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả và phát triển kinh tế HTX.

Hiện nay với 376 HTX dịch vụ nông nghiệp với qui mô toàn xã là chủ yếu

(Riêng huyện Tứ Kỳ, các HTX chủ yếu ở qui mô thôn và liên thôn), v ề xã viên,

có 50% số HTX tất cả các hộ nông nghiệp trong toàn thôn, xã đều là xã viên (xã

viên cả làng), 30% là xã viên đại diện bao gồm những người trực tiếp hoạt động

trong các khâu dịch vụ (thuỷ nông, điện, bảo vệ thực vật, thú y, bảo vệ đổng

ruộng...) và một sô' xã viên không tham gia trực tiếp các hoạt động dịch vụ, 20% số

HTX còn lại xã viên chỉ bao gồm những người trực tiếp trong các khâu dịch vụ.

Về hoạt động sx, KD, các HTX dịch vụ nông nghiệp chủ yếu (khoảng

90%) chỉ làm dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp trong các khâu hỗ trợ

sản xuất. Rất ít HTX thực hiện được dịch vụ đầu ra, tiêu thụ sản phẩm cho nông

dân. Theo báo cáo năm 2002, trong tổng số 310 HTX tổng họp (số HTX có báo

cáo), chỉ có 17 HTX làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, nếu so với năm 2001 tăng

hơn 10 HTX [26, tr.6]. Hiện nay đã xuất hiện một số mô hình HTX gắn quá trình

sản xuất với tiêu thụ sản phẩm như: HTX rau quả Nhật Tân (huyện Gia Lộc),

HTX chăn nuôi lợn Nam Tân (Đồng Lạc - Nam Sách), HTX chăn nuôi, chế biến

nông sản ở Chí Linh... Với qui mô hoạt động rộng hơn, các HTX không chỉ làm

dịch vụ cho các hộ nông dân sản xuất mà còn tăng năng lực kinh doanh dịch vụ

để HTX làm tốt chức năng kinh doanh. Có những HTX thành lập hoàn toàn tự

nguyện và xuất phát từ nhu cầu cần hợp tác làm ăn của nhiều hộ trong một hoặc

nhiều xã trong một huyện, hoặc nhiều huyện... Đây là những mô hình cần được

nghiên cứu tổng kết để nhân rộng, có như vậy HTX mới trở lại tính đích thực, đủ

sức phát triển và có hiệu quả trong nền KTTT.

52

v ề các HTX phi nông nghiệp: Sau thời kỳ tan rã cho đến trước năm 1997,

toàn tỉnh chỉ còn 1 HTX thương mại (HTX thương mại Chí Linh). Đến khi thực hiện

Nghị quyết TW 5 (khoá IX) toàn tỉnh có 13 HTX, sau hơn 1 năm thực hiện Nghị

quyết TW 5 (khoá IX) đã thành lập thêm 12 HTX, nâng tổng số lên 24 HTX thương

mại (01 HTX đã chuyển đổi hình thức kinh doanh).

Ngoài ra, hiện nay toàn tỉnh còn có 27 HTX xây dựng, 73 quỹ tín dụng

nhân dân, 100 HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và 57 HTX giao thông

vận tải.

Hầu hết các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và giao

thông vận tải đều có qui mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, hầu như tập trung

thành phố Hải Dương, huyện Chí Linh, Kinh Môn. Các huyện khác số lượng ít,

ngành nghề và lĩnh vực hoạt động hạn chế. Thực trạng này đã ảnh hưởng không

nhỏ tới quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì, muốn

sản xuất nông nghiệp phát triển đa dạng rất cần sự phát triển cân đối với các

ngành lĩnh vực khác: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải,

thương mại, quỹ tín dụng...

2.2.2. Vê tình hình chuyển đổi và thành lập mới các HTX.

Sau một quá trình thực hiện Chỉ thị 07/CT-TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ

về tiếp tục đổi mới tổ chức, quản lý HTX theo Nghị quyết 21/NQ-TƯ của Tỉnh

uỷ, thực hiện Luật HTX, thực hiện Nghị quyết số 13/NQ-TW của Hội nghị TW 5

(khoá IX) và Chương trình số 20/CT-TU của Tỉnh uỷ, đến nay Hải Dương đã cơ

bản hoàn thành việc chuyển đổi HTX theo luật và thành lập mới nhiều HTX.

2.2.2.1. Đối với HTXđã chuyển đổi.

Về số lượng: Tổng số 499 HTX đã chuyển đổi, trong đó có 371 HTX dịch

vụ nông nghiệp, 17 HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, 32 HTX giao thông vận

tải, 11 HTX xây dựng, 01 HTX thương mại và 67 quỹ túi dụng.

Về chất lượng: Có thể khẳng định những mặt được của các HTX đã chuyển

đổi như sau:

53

- Ở các HTX phi nông nghiệp, nguyên tắc tự nguyện và tự chủ của xã viên

được thực hiện đầy đủ hơn. ở khu vực HTX dịch vụ nông nghiệp, có khoảng

30% số HTX thực hiện các nguyên tắc này, chủ yếu là các HTX có ít xã viên.

- Bộ máy quản lý, điều hành HTX được kiện toàn một bước, giảm về số

lượng, chất lượng ngày một tăng so với trước chuyển đổi.

- Tinh hình tài chính của HTX được xử lý về cơ bản, lành mạnh hơn, nợ cũ

được từng bước giải quyết, tài sản vốn liếng được xác định rõ về trách nhiệm và

được bảo toàn, vốn điều lệ của các HTX tăng lên rõ rệt.

- Các dịch vụ thiết yếu trong nông nghiệp như thuỷ lợi, điện, bảo vệ thực vật...

được các HTX bảo đảm kịp thời hơn, chất lượng tốt hơn, giá thành hạ hơn.

- Phân phối trong các HTX nói chung bảo đảm tính dân chủ, bình đẳng,

khắc phục dần tính bao cấp trong các HTX.

- Phần lớn các HTX đã xây dựng được các phương án sx , KD, sau mỗi

năm hoạt động đều có sự điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp. Đến nay, hầu hết

các phương án s x , KD của các HTX đều sát với thực tế và có tính khả thi.

Tuy vậy, các HTX chuyển đổi còn bộc lộ một số hạn chế, nhược điểm cơ

bản sau:

- Nhiều HTX dịch vụ nông nghiệp chuyển đổi còn mang tính hình thức

(Mặc dù số lượng này có giảm từ 70% thời kỳ 1996 - 2000, hiện nay còn khoảng

49%). Biểu hiện cụ thể là: Số lượng xã viên tuy có giảm, song số xã viên không góp

vốn hoặc góp vốn tượng trương và cũng không tham gia lao động còn lớn; hoạt động

kinh doanh dịch vụ không khác trước khi chuyển đổi.

- Phần lớn các HTX đều thiếu vốn, thiếu cơ sở vật chất cần thiết để mở rộng

sx , KD. Ngược lại, hiện tượng không thiếu vốn thậm chí thừa vốn xảy ra ở một số

HTX do sợ trách nhiệm, không dám mạnh dạn đầu tư để mở rộng sx , KD dịch vụ;

khấu hao cơ bản không đủ để tái đầu tư tài sản cố định mà HTX đang sử dụng.

- Trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành HTX còn thấp

so với yêu cầu của nhiệm vụ. Đơn cử: v ề Chủ nhiệm HTX, số qua đào tạo 40,4%

(2,4% có trình độ Đại học, 20% có trình độ Trung cấp và 18% có trình độ sơ cấp),

54

còn lại 59,6% chưa qua đào tạo; Các cán bộ kế toán HTX qua đào tạo từ sơ cấp trở

lên 51%, 49% chưa qua đào tạo [15, tr.4].

- Số lượng dịch vụ hoạt động còn quá ít, hầu hết các HTX dịch vụ nông

nghiệp chỉ đảm nhận từ 3 - 4 khâu dịch vụ thiết yếu như: cung ứng điện, thủy

nông... Riêng dịch vụ đảm nhận đầu ra như tiêu thụ, chế biến sản phẩm cho hộ

nông dân rất ít HTX làm được.

- Hiệu quả kinh doanh thấp nên việc thu hút vốn đầu tư của xã viên rất hạn

chế, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của xã viên chưa cao.

- Phân phối trong HTX dịch vụ nông nghiệp vẫn còn nhiều nhược điểm như:

thu nhập trong Ban quản trị HTX chưa được tính theo doanh thu hoặc lợi nhuận;

thu nhập của xã viên chưa được tính theo vốn góp.

2.22.2. Vê tình hình thành lập mới các HTX.

Từ năm 1997 đến nay (tính đến tháng 5/2003), toàn tỉnh đã có 158 HTX

mới được thành lập theo Luật (bình quân mỗi năm tăng thêm 25 - 30 HTX). Trong đó

có 05 HTX dịch vụ nông nghiệp, 27 HTX thương mại, 16 HTX xây dựng, 83 HTX

tiểu thủ công nghiệp, 25 HTX giao thông vận tải, 06 quỹ túi dụng.

Các HTX mới được thành lập ở Hải Dương có một số đặc trưng sau:

- Hầu hết các HTX đều thuộc khu vực phi nông nghiệp.

- Nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi của các

thành viên được bảo đảm.

- Mục tiêu lợi nhuận là động lực trực tiếp, đồng thòi làm tốt việc giải quyết các

vấn đề xã hội có ý nghĩa quyết định sự tổn tại và phát triển của HTX.

- Lựa chọn được đội ngũ cán bộ quản lý đáp úng được yêu cầu của K i l l .

- Các điều kiện như vốn, mặt bằng sản xuất, lao động... được đảm bảo chủ

động hơn, đáp ứng đầy đủ, kịp thòfi hơn các yêu cầu của s x , KD.

- Hiệu quả s x , KD cao hơn.

2.2.3. Vê tình hình tài sản, vốn quỹ và công nợ của các HTX.

2.2.3.1 .V ề tài sản, vốn quỹ.

Năm 2000: Trung bình 1 HTX dịch vụ nông nghiệp có vốn kinh doanh là 319

triệu đồng (vốn cố định as 221 triệu, vốn lưu động w 98 triệu). Trong đó, vốn vay là

55

10,9 triệu đồng (chiếm 3,4%); 1 HTX phi nông nghiệp có 1.322 triệu đổng (vốn cố

định « 938 triệu, vốn lưu động * 384 triệu), trong đó vốn vay là 831 triệu (62,8%).

Hiện nay, các HTX đang từng bước đầu tư, bổ sung tài sản phục vụ cho sx ,

KD. Một số HTX đã xây dựng được trụ sở làm việc, nhà kho và cửa hàng kinh

doanh vật tư, nhưng số lượng chưa nhiều. Năm 2002, nhiều HTX được làm chủ

dự án kiên cố hoá kênh mương cấp 3, công trình điện được nâng cấp bằng vốn

Nhà nước trả khi giao trạm biến thế và đường dây cao thế, trung thế của HTX

cho ngành điện...Vốn do xã viên đóng góp của 1 HTX phi nông nghiệp là 403

triệu đồng, trong đó vốn góp mới là 323 triệu đồng; của 1 HTX dịch vụ nông

nghiệp là 119 triệu đồng, trong đó vốn góp mới là 8,6 triệu đồng. Quỹ tích luỹ

của 1 HTX phi nông nghiệp đạt 54,3 triệu đồng; của 1 HTX dịch vụ nông nghiệp

đạt 16,5 triệu đồng.

So với năm 1996, vốn kinh doanh của 1 HTX tiểu thủ công nghiệp tăng 511

triệu đồng (146%). Đối với quỹ túi dụng nhân dân: vốn điều lệ tăng 3,4 tỷ đồng

(+45,3%); vốn kinh doanh tăng 80,7 triệu đồng (84%). Đối với vốn kinh doanh của

1 HTX dịch vụ nông nghiệp giảm 71 triệu đổng (- 18,2%), trong đó vốn cố định

giảm 134 triệu đồng, vốn lưu động tăng 63 triệu đồng [29, tr.10].

Giá trị tài sản giảm là do khi chuyển đổi, các HTX đã tiến hành chuyển đổi

quyền sở hữu, quyền sử dụng các TLSX cho các hộ xã viên, ƯBND xã. Đồng thời

qua đó cũng tạo điều kiện huy động vốn góp mới, lành mạnh tình hình tài chính của

các HTX. Đơn cử: Ở HTX dịch vụ nông nghiệp Toàn Thắng (xã Toàn Thắng -

huyện Gia Lộc), đến thời điểm 31/5/1995, tổng vốn 833,891 triệu đồng, trong đó:

- Tài sản có tính chất phúc lợi xã hội như: Hội trường, nhà trẻ, đường điện...

là 436,223 triệu đồng (52,31%).

- Tài sản phục vụ sản xuất là 315,403 triệu đồng (37,82%).

- Vốn lưu động là 43,027 triệu đồng (5,16%).

- Xã viên nợ là 39,238 triệu đồng (4,71%).

Khi tiến hành chuyển đổi, phần vốn cũ chuyển sang gồm: vốn tài sản cố

định đang dùng 315,403 triệu đồng, vốn lưu động 43,027 triệu đồng được chia

56

đều cho xã viên 124.000đ/người, được coi là vốn cổ phần nguyên thuỷ góp vào

HTX, sau này không chia lãi vì mọi người góp như nhau.

Vốn cổ phần góp mới:

- Thành viên Hội đồng quản trị và Ban quản lý góp 1,5 triệu đồng/người.

- Nhân viên tổ dịch vụ thuỷ nông 350.000đ/người (riêng 4 người phụ trách

máy phải góp 1 triệu đồng/người).

- Nhân viên tổ làm đất góp 500.000đ/người (riêng 4 người lái máy chính

góp 03 triệu đồng/người).

Số cổ phần mới huy động được là 42 triệu đồng, bổ sung vào vốn lưu động.

Người góp cổ phần được chia lãi theo tỷ lệ góp.

Đến hết năm 2002, tổng vốn là 975,197 triệu (vốn cố định 840,839 triệu; vốn

lưu động 134,358 triệu). Hàng năm doanh thu đạt khoảng 2 tỷ đồng.

ở HTX sản xuất, xây dựng Phúc Thành (thành phố Hải Dương), thành lập

tháng 6/1963, với số xã viên ban đầu là 12 người, vốn đóng góp cổ phần là 45

triệu đổng. Sau khi chuyển đổi (1995), vốn cổ phần đạt 355 triệu đồng với 25 xã

viên, giá trị doanh thu năm 1995 đạt 960 triệu đồng.

Quỹ tín dụng Sao Đỏ (thị trấn Sao Đỏ - huyện Chí Linh), được thành lập

tháng 7/1978 với số xã viên ban đầu là 114 người, đóng góp cổ phần với mức 05

đồng, tổng vốn điều lệ là 570 đồng. Tháng 9/1990, HTX tín dụng Sao Đỏ phải

ngừng hoạt động. Được sự quan tâm của các cấp, ngành, cuối năm 1991 HTX đã

xử lý dứt điểm tồn tại, trả hết nợ, chấm dứt thòi kỳ hoạt động theo cơ chế bao

cấp. Đến tháng 6/1992, Quỹ tín dụng Sao Đỏ thành lập lại, đối với xã viên cũ tiếp

tục tham gia đóng thêm cổ phần cho đủ 50.000đ/l thẻ, ai không tham gia thì

được rút cổ phần cả gốc và lãi. Quỹ tín dụng mới được hoạt động theo Pháp lệnh

ngân hàng HTX tín dụng và công ty tài chính. Đến tháng 12/1992, quỹ tín dụng

kết nạp được 216 xã viên, huy động được 21,4 triệu đồng vốn cổ phần, tiền gửi

dân cư là 141,3 triệu đồng, dư nợ cho vay xã viên 172 triệu đồng, lãi ròng 11,2

triệu đồng, lợi tức cổ phần được chia là 3%/tháng. Sau khi chuyển đổi sang Quỹ

tín dụng nhân dân, đến tháng 11/1*995, quỹ đã có 410 thành viên, vốn điều lệ 174

triệu đồng, tiền gửi dân cư đạt 3.063 triệu đồng, cho vay thành viên 3.126 triệu

57

đồng, chênh lệch thu chi nghiệp vụ là 185,8 triệu đồng (năm 1994 lãi ròng 33,9

triệu đồng). Đến đầu năm 2003, vốn của quỹ tăng lên 10 tỷ, tổng số xã viên là

980 người, vốn hoạt động là 07 tỷ.

Có thể nói, sau hơn 5 năm thực hiện theo Luật HTX, tình hình tài sản, vốn

quỹ của các HTX đã được cải thiện. Đối với HTX dịch vụ nông nghiệp mà xã

viên bao gồm cả làng (gần như 100%) chỉ góp vốn tượng trưng (từ 30.000đ đến

50.000đ), còn những người trực tiếp lao động và cán bộ quản lý góp nhiều hơn

(từ 500.000đ đến 05 triệu đồng). Riêng đối với quỹ tín dụng nhân dân, qua điều

tra tại 66 quỹ tín dụng với 48.249 thành viên có nguồn vốn hoạt động 195 tỷ

đồng, trong đó vốn điều lệ 11 tỷ đồng, vốn huy động 144,258 tỷ đổng.

Tóm lại, về quan hệ sở hữu, tài sản của HTX thuộc sở hữu tập thể xã viên,

nhưng tuỳ đặc điểm hình thành tài sản của HTX mà quan hệ sở hữu trong HTX

có biểu hiện cụ thể khác nhau.

Trong các HTX chuyển đổi mà xã viên không góp vốn mới thì phần tài sản

chung kế thừa của HTX cũ thường không được phân bổ cho xã viên, nên họ

không ý thức được phần tài sản thuộc sở hữu của mình, thậm chí không quan tâm

tới việc tái tạo, bảo toàn những tài sản đó.

Những HTX chuyển đổi mà các khoản nợ (phải thu, phải trả) được chuyển

từ HTX cũ sang, thì trên thực tế cả Ban quản trị lẫn xã viên không có ý thức và

khả năng giải quyết các khoản nợ đó. Vì vậy, việc tồn đọng lâu dài trong các

HTX là điều khó tránh khỏi, gây khó khăn cho hoạt động sx, KD của HTX.

Những tài sản của HTX cũ do UBND xã quản lý được giao cho HTX mới sử

dụng với mức khấu hao cơ bản thấp, thực chất là tài sản của tập thể, nhưng qui

trình và nguyên tắc bàn giao thiếu chặt chẽ. Đây là vấn đề cần xem xét, xử lý để

quan hệ sở hữu trong các HTX hoàn thiện.

2.23.2. Về công nợ của các HTX.

Đến 31/12/2000, số nợ phải trả của các HTX là 23,68 tỷ đồng. Trong đó

HTX phi nông nghiệp là 16,41 tỷ đồng, HTX dịch vụ nông nghiệp là 6,67 tỷ

đổng (bao gồm: nợ ngân hàng, nợ DN nhà nước, nợ xã viên...).

58

Số nợ phải thu là 40 tỷ đồng, gồm HTX phi nông nghiệp 11,01 tỷ đồng,

HTX dịch vụ nông nghiệp 28,99 tỷ đồng. Trong đó, xã viên nợ của HTX phi

nông nghiệp 2 tỷ, HTX dịch vụ nông nghiệp 22,11 tỷ (số nợ của xã viên sau

chuyển đổi của HTX phi nông nghiệp 0,54 tỷ, của HTX dịch vụ nông nghiệp

6,11 tỷ) [29, tr. 10- 11].

Về khả năng thực tế thu nợ của các HTX: Đối với HTX phi nông nghiệp là

95%, HTX dịch vụ nông nghiệp chỉ đạt 26,7%. Các khoản nợ trước chuyển đổi của

các HTX dịch vụ nông nghiệp đều là nợ xấu, không có khả năng thu hồi.

Nhìn chung, so với trước khi thực hiện Luật HTX, tình hình tài chính của

các HTX đã được xử lý một bước, lành mạnh hơn, nhiều món nợ cũ đã được giải

quyết, tài sản vốn liếng được xác định trách nhiệm, bảo toàn; vốn điều lệ của các

HTX tăng lên rõ rệt. Ví dụ: Trong năm 2002, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn phối hợp với Sở Tài chính Vật giá và các huyện, thành phố triển khai và chỉ

đạo các HTX nông nghiệp làm thủ tục xoá nợ từ 1996 trở về trước cho HTX nông

nghiệp theo quyết định 146/TTg của Thủ tướng Chính phủ góp phần lành mạnh hoá

tài chính cho HTX nông nghiệp. Đến tháng 4/2003 đã thẩm đinh và trình UBND

tỉnh xem xét xoá nợ:

- Các khoản nợ phải trả gồm có 261 khoản nợ của HTX nông nghiệp trong tỉnh

nợ 32 DN và các tổ chức đoàn thể xã hội với số tiền là 11987,881 triệu.

- HTX nợ xã viên là 1149,029 triệu.

- Xã viên nợ HTX là 13.221,622 triệu đồng và 1.522,36 tấn thóc.

2.2.4. Vê tổ chức bộ máy, cán bộ HTX.

Qua các phần trên đã cho thấy, các HTX sau chuyển đổi có bộ máy gọn,

nhẹ hơn, chất lượng được tăng cường. Tình hình cụ thể như sau:

Thứ nhất: Số uỷ viên Ban quản trị trước chuyển đổi trong HTX nông nghiệp

bình quân 4 - 5 người, thì nay chỉ còn 2 - 3 người, trong các HTX phi nông

nghiệp cũng giảm 2 người.

Theo số liệu báo cáo năm 2000, tổ chức bộ máy quản lý HTX ở 371 HTX

nông nghiệp như sau:

59

- Ban quản trị HTX gồm 668 người, trong đó có 225 HTX có 2 người/1

HTX; 146 HTX có 3 người/1 HTX.

- Ban kiểm soát có 428 người, trong đó có 206 HTX có 1 người/1 HTX, 165

HTX có 2 người/1 HTX.

- Nhân viên giúp việc có 1.098 người (bình quân gần 3 người/1 HTX).

- Xã viên trực tiếp làm dịch vụ có 8.165 người, bình quân 25 người/1 HTX.

Các HTX với qui mô toàn xã thường tổ chức các tổ dịch vụ dưới sự điều hành

trực tiếp của Ban quản trị [25, tr.l].

Ví dụ: HTX nông nghiệp Gia Xuyên (Gia Xuyên - Gia Lộc) là một HTX có

qui mô toàn xã với trên 1600 xã viên, trong đó có 46 xã viên thực hiện các khâu

dịch vụ. Đội ngũ cán bộ có 05 người (02 cán bộ quản trị, 01 thành viên Ban kiểm

soát và 02 thành viên là kế toán và thủ quỹ). HTX điều hành trực tiếp các tổ dịch vụ,

tổ trưởng các tổ dịch vụ vừa do xã viên bầu, vừa do Ban quản trị HTX bổ nhiệm.

HTX dịch vụ nông nghiệp Đoàn Thượng (Đoàn Thượng - Gia Lộc) là 1

HTX có qui mô toàn xã, với tổng số xã viên là 1.427 hộ. Tổng số cán bộ, nhân

viên dịch vụ HTX là 50 người. Trong đó: Ban quản trị 03 người, Ban kiểm soát

03 người, cán bộ giúp việc 04 người, cán bộ trực tiếp dịch vụ 08 người, xã viên

trực tiếp làm các khâu dịch vụ 32 người.

Quỹ tín dụng nhân dân Sao Đỏ (Thị trấn Sao Đỏ - Chí linh) có 980 thành

viên. Đại hội đại biểu xã viên thông qua điều lệ quỹ tín dụng nhân dân và phương

án hoạt động hai năm. Đại hội bầu Hội đồng quản trị gồm 05 người, 01 kiểm soát

viên trưởng, bầu Ban tín dụng 03 người. Hội đồng quản trị đều là những người có

uy tín, trình độ, hầu hết đã qua công tác tiền tệ. Biên chế của quỹ hiện nay gồm

01 giám đốc, 01 phó giám đốc, 02 kế toán, 01 thủ quỹ, 01 cán bộ túi dụng, đồng

thời các chức năng, quyền hạn của từng chức danh được xác định, có phân công

trách nhiệm rõ ràng.

Thứ hai: v ề chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ HTX (xem biểu 4)

60

Biểu 4 : Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo HTX ở Hải Dương

HTX nông HTX phi nông

Loại hình HTX nghiệp nghiệp

Chủ nhiệm HTX Đảng viên 98,2% 58,0%

Văn hoá cấp III 66,6% 69,8%

Cao đẳng, Đại học 4,8% 12,6%

Chưa qua đào tạo 59,6% 31,9%

Kế toán trưởng Đảng viên 39,7% 86,3%

Văn hoá cấp III 70,2% 72,8%

Cao đẳng, Đại học 5,4% 1,1%

Chưa qua đào tạo 49,2% 23,5%

Trưởng ban kiểm soát Đảng viên 55,4% 85,1%

Văn hoá cấp III 58,4% 45,5%

Cao đẳng, Đại học 0,8% 3,6%

Chưa qua đào tạo 85,2% 44,5%

Nguồn : Tỉnh uỷ Hải Dương (712001), Báo cáo tổng kết kinh tế hợp tác và

HTX 5 năm (1996 - 2000), Trang 11-12.

Nói chung, chất lượng, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, điều

hành HTX còn quá thấp so với yêu cầu nhiệm vụ, chưa đáp ứng yêu cầu sx, KD

trong cơ chế thị trường. Chỉ có 2,4% Chủ nhiệm HTX có trình độ đại học, 20%

có trình độ trung cấp, 18% có trình độ sơ cấp, còn lại 59,9% chưa qua đào tạo.

Kế toán HTX có 51 % được đào tạo từ sơ cấp trở lên, còn 49% chưa qua đào tạo.

Thứ ba: Nhìn chung, các HTX đã thực hiện nguyên tắc quản lý "tập thể xã

viên quyết định; Ban quản trị điều hành, tổ chức thực hiện; xã viên kiểm tra,

giám sát". Nhưng do tính không hoàn thiện của quan hệ sở hữu trong các HTX

nên trong nhiều trường hợp nguyên tắc trên trở thành hình thức. Nhiều quyết định

61

của Đại hội xã viên chưa phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng và trách nhiệm của

tập thể xã viên.

Hơn nữa, việc lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ quản lý HTX còn nhiều bất

cập về chất lượng; chưa thật sự tôn trọng quyền tự quyết của xã viên, do vậy đã hạn

chê tính tích cực, năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ quản lý HTX.

2.2.5. Vê tình hình và kết quả hoạt động của các HTX.

2.2.5.1 .V ê nội dung hoạt động

Trong số khoảng 10 loại dịch vụ được các HTX dịch vụ nông nghiệp triển

khai, thì dịch vụ thuỷ lợi, bảo vệ thực vật và điện là có đa số các HTX thực hiện.

Cụ thể: dịch vụ thuỷ lợi đạt 98%, dịch vụ bảo vệ thực vật đạt 50% và dịch vụ điện

đạt 65% số HTX tham gia. Kết quả điều tra cho thấy 80,4% số người được hỏi

khẳng định chất lượng dịch vụ của các HTX tốt hơn tư nhân [29, tr.9]

Tuy nhiên, số lượng dịch vụ còn quá ít, hầu hết các HTX dịch vụ nông

nghiệp mới chỉ đảm nhận từ 3 - 4 khâu dịch vụ thiết yếu. Việc mở rộng phạm vi

dịch vụ của HTX là rất khó khăn, nhất là dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, cung ứng vật

tư, làm đất... Chỉ có 2,7 - 6% số HTX thực hiện được các dịch vụ này.

Các HTX phi nông nghiệp hiện tập trung vào một số ngành nghể, lĩnh vực:

tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải thương mại, dịch vụ, tín dụng, đặc biệt là

các HTX tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, phạm vi và nội dung hoạt động còn

nhiều hạn chế, đơn điệu; chưa phát huy được những lĩnh vực mà Hải Dương có

những ưu thế nhất định như: chế biến nông sản, thực phẩm, các ngành nghề

truyền thống, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, cơ khí phục vụ nông nghiệp...

Các lĩnh vực khác như dịch vụ khoa học công nghệ, HTX môi trường dịch vụ đời

sống, tang lễ, dịch vụ y tế và dược... gần như kinh tế HTX chưa xâm nhập.

2.2.5.2. Vê các hình thức liên doanh, liên kết.

Trong nền KTTT định hướng XHCN, sự liên doanh, liên kết giữa các HTX

với nhau và giữa các HTX với các tổ chức kinh tế khác, nhất là với các DN nhà

nước là nhu cầu khách quan nhằm mở rộng qui mô và nâng cao hiệu quả sx,

62

Trong thời gian qua, ở Hải Dương xu thế hợp tác, liên doanh, liên kết trong

khu vực kinh tế hợp tác và HTX có những bước phát triển mới và đem lại những

kết quả đáng khích lệ. Sự liên kết được thực hiện dưới khá nhiều hình thức đa

dạng như: liên kết giữa các HTX cùng ngành nghề, không cùng ngành nghề, liên

kết giữa HTX với các Công ty tư nhân, DN nhà nước... Kết quả đạt được tuy còn

nhiều hạn chế về số lượng và phạm vi, song hiệu quả KT - XH của các hình thức

liên kết trên là rõ ràng và cụ thể. Ví dụ: nhiều HTX trong tỉnh (chủ yếu là các

HTX dịch vụ nông nghiệp) đã liên doanh, liên kết với các DN nhà nước như:

Công ty supe phốt phát Lâm Thao, các Xí nghiệp khai thác các công trình thuỷ

lợi, Công ty cung ứng giống và vật tư nông nghiệp, các đơn vị kinh tế ngoài quốc

doanh. Hình thức liên doanh, liên kết phổ biến là hợp đồng kinh tế mua bán hàng

Tuy vậy, việc liên doanh, liên kết trên đây (trừ mối quan hệ với các xí

nghiệp khai thác các công trình thuỷ lợi) diễn ra không đồng đều, không thường

xuyên, phạm vi liên doanh, liên kết còn hạn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu

phát triển của các HTX. Nhưng bước đầu những mô hình liên doanh, liên kết

giữa các HTX với các chủ thể kinh tế đã mang đậm nét KTTT và đã có hiệu quả,

thiết thực như: DN Hùng Sơn, Công ty phát triển nông nghiệp Việt Hưng,

CTTNHH Châu Á - Thái Bình Dương, HTX công nghiệp số 1 (huyện Kinh Môn),

HTX rau quả Nhật Tân (Gia Lộc)...

22.5.3. Về kết quả hoạt động của các HTX

Như phần trên đã đề cập, nội dung và phạm vi hoạt động của các HTX còn

đơn điệu, các dịch vụ nông nghiệp mà đa số HTX dịch vụ thực hiện đều không có

lãi hoặc lãi ít, vì giá đầu vào của các dịch vụ đã được qui định trước như mức thu

thuỷ lợi phí, giá điện...

Năm 2000: Mỗi HTX dịch vụ nông nghiệp tạo ra 13,2 triệu đồng lãi trước

thuế, nhưng chủ yếu được tạo ra từ kinh doanh các dịch vụ khác (có đến 46,6%

số HTX dịch vụ nông nghiệp kinh doanh dịch vụ khác). Còn các HTX phi nông

nghiệp đạt mức bình quân 827 triệu đồng doanh thu (lớn gấp 2,5 lần so với HTX

dịch vụ nông nghiệp). Mặc dù chỉ có 69% số HTX phi nông nghiệp có lãi, thấp

63

hon các HTX dịch vụ nông nghiệp (89%), nhưng mức lãi trước thuế bình quân

đạt 32 triệu (lớn gấp 2,46 lần so với HTX dịch vụ nông nghiệp).

Trong năm 2001, các HTX dịch vụ nông nghiệp có doanh thu ước đạt

195,795 tỷ, nộp thuế môn bài 143,773 triệu, khấu hao cơ bản 5,935 tỷ, lãi 4,935

tỷ đồng.

Đối với HTX tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải: doanh thu

ước đạt 66,248 tỷ, nộp ngân sách 2,079 tỷ, khấu hao cơ bản 1,69 tỷ.

Đối với HTX thương mại, dịch vụ: Tổng mức mua vào 18,521 tỷ, tổng mức

bán ra 17,613 tỷ, nộp ngân sách 249,4 triệu.

Đối với 69 Quỹ tín dụng với 45.000 thành viên, tổng vốn huy động là 161

tỷ, tãng 9% so với năm 2000 (trong đó, vốn tại chỗ đạt 124 tỷ, tăng 16,9%). Dư

nợ cho vay thành viên 142 tỷ, tăng 10,9%. Dư nợ quá hạn còn 2,12%. Tổng lãi

2,8 tỷ, nộp ngân sách 450 triệu.

Nhìn chung, kết quả sx , KD của khu vực kinh tế hợp tác và HTX năm 2001 về

mọi mặt đều tăng so với năm 2000 như: tổng giá trị sản phẩm đạt 979,676 tỷ, trong

đó, HTX đạt 262,643 tỷ, tăng 17% so với năm 2000; nộp ngân sách 23,028 tỷ, tăng

8% so với năm 2000 [15, tr.6].

Đến năm 2002, doanh thu bình quân một HTX dịch vụ nông nghiệp đạt 370

triệu; lãi bình quân 15 triệu/1 HTX. Qua tổng hợp chi tiết kết quả kinh doanh của

năm 2002 của 247 HTX thì số HTX có lãi chiếm 87%, tăng 1% so với năm 2001,

số HTX hoà vốn chiếm 7%, tăng 5% so với năm 2001, số HTX lỗ vốn chiếm 6%,

giảm 6% so với năm 2001 (HTX lỗ vốn nhiều nhất là 14,3 triệu đồng, trong khi

đó năm 2001 là 39,2 triệu đồng).

HTX có doanh thu cao nhất là HTX Đoàn Thượng (Gia Lộc): 2.673,888

triệu (tăng 591,37 triệu so với năm 2001). HTX có lãi cao nhất là HTX thị trấn

Lai Cách (Cẩm Giàng): 140,785 triệu. Ngoài ra, còn một số HTX kinh doanh có lãi

cao như: HTX cẩm Hưng (Cẩm Giàng): 85,863 triệu; HTX Vĩnh Hồng (Bình

Giang): 82,123 triệu; HTX Duy Tân (Kinh Môn): 77,685 triệu... [27, tr.l].

Các HTX phi nông nghiệp doanh thu đạt 548 triệu/1 HTX, lãi bình quân 75

triệu đồng/1 HTX.

64

v ề hoạt động của các quỹ tín dụng, theo báo cáo của 66 quỹ với 48.249 thành

viên: tổng vốn huy động 144,258 tỷ, vốn vay 25,2 tỷ, dư nợ cho vay 173,6 tỷ (chủ

yếu cho vay dài hạn), nợ quá hạn 1,64%, lợi nhuận đạt 3,53 tỷ [5, tr.2].

22.5.4. Vê' vấn đề phân phối thu nhập và giải quyết việc làm

Năm 2000: trong các HTX phi nông nghiệp thu nhập của lao động đạt bình

quân từ 300 - 400 ngàn đồng/người/tháng (năm 1996 là 200 - 300 ngàn đồng).

Thu nhập của Ban quản trị HTX còn ở mức thấp, chỉ có 12,8% số HTX trả công

cho Ban quản trị từ 500.000đ - l.OOO.OOOđ/tháng. Thu nhập theo vốn góp đạt

0,49 đổng/1 đồng vốn góp.

Trong HTX dịch vụ nông nghiệp, thu nhập theo lao động ở mức thấp hơn,

chỉ đạt 150 - 260 nghìn đồng/người/tháng. Thu nhập theo vốn góp chỉ đạt 0,087

đồng/1 đổng vốn góp, tức là chỉ bằng 17,7% mức của HTX phi nông nghiệp.

Điểu này càng chứng tỏ hiệu quả sx, KD của HTX dịch vụ nông nghiệp thấp hơn

nhiều so với HTX phi nông nghiệp. Trong khi đó, HTX dịch vụ nông nghiệp phải

đóng góp nhiều khoản ngoài sx, KD. Năm 2000 số tiền này lên tới 257,9 triệu

đồng [29, tr.ll]. Như vậy, trong HTX dịch vụ nông nghiệp, xã viên nói chung

thu nhập chủ yếu từ sx, KD của hộ chứ không phải từ HTX. Song cũng có một

thực tế mà số liệu điều tra, khảo sát chưa phản ánh tình hình ở các HTX phi nông

nghiệp là: đã xuất hiện việc trả lãi tiền vay cao hơn lãi suất ngân hàng, vì nó được

hạch toán ngay vào chi phí sx, KD. Điều này giải thích vì sao 81 % vốn lưu động

của các HTX phi nông nghiệp là vốn vay, mà chủ yếu là vay của các thành viên

Ban quản trị.

Năm 2001: Đối với các HTX dịch vụ nông nghiệp, lương bình quân đạt 250

nghìn đồng/người/tháng; trích lập các quỹ bình quân 11 triệu/1 HTX.

Đối với HTX tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, lương bình

quân của một xã viên là 450 nghìn đồng/người/tháng; thu nhập theo vốn góp đạt

0,49 đổng/1 đồng vốn góp.

Đối với HTX thương mại dịch vụ, thu nhập bình quân 470 nghln

đồng/người/tháng.

65

Qua thực trạng trên cho thấy, nguyên tắc phân phối trong các HTX về cơ

bản là bình đẳng, dựa trên kết quả lao động và vốn góp. Nhưng ở các HTX có

nhiều xã viên, thực hiện được phân phối theo lao động chưa đầy đủ, chưa thực

hiện phân phối theo vốn góp (mới và cũ).

Phân phối trong các HTX dịch vụ nông nghiệp, một mặt vẫn còn mang nặng

tính bình quân, do HTX chưa thực hiện được lợi nhuận ở mức cần thiết. Mặt

khác, do quan hệ sở hữu và quản lý còn nhiều hạn chế nên phân phối trong HTX

đang chứa đựng mâu thuẫn, chưa tạo động lực thúc đẩy HTX phát triển. Ví dụ:

Mức tiền công của Chủ nhiệm HTX thường bị giới hạn bởi mức tiền lương của

Chủ tịch UBND xã, trong khi Chủ nhiệm HTX thường không phải là cán bộ xã.

Trong các HTX phi nông nghiệp có thuê lao động ngoài, thì mức tiền công

của số lao động này được quyết định bởi quan hệ cung - cầu vể lao động xã hội

và chi phí tối thiểu cần thiết để tái sản xuất giản đơn sức lao động. Như vậy,

trong HTX cũng bắt đầu xuất hiện hình thức phân phối theo lao động và phân

phối khác của các DN.

22.5.5. Về phân loại HTX

Qua điều tra, khảo sát cho phép xác định một số tiêu chí chủ yếu để phân

loại HTX như sau:

- Tỷ suất lợi nhuận (lợi nhuận trên vốn kinh doanh).

- Số lượng các khâu dịch vụ.

- Thu nhập bình quân 1 lao động.

- Doanh thu bình quân 1 lao động.

- Vốn kinh doanh bình quân 1 xã viên.

- lìn h hình chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Nội bộ HTX đoàn kết, ổn định.

Kết quả phân loại HTX năm 2000 như sau: (xem biểu 5)

66

Biểu 5: Phân loại chất lượng hoạt động của các HTX

ở Hải Dương năm 2000

TT Phân loại HTX Chia ra Tổng số Tỷ lệ

HTX có Tỷ lệ HTX dịch Tỷ lệ HTX phi

báo cáo vụ nông nghiệp nông nghiệp

Loại khá 1 205 35,5% 35% 35,8%

2 Loại trung bình 263 45,8% 51,8% 35%

Loại yếu kém 3 12,4% 107 18,7% 30%

Kết quả phân loại F TX năm 2002 như sau: (xem biểu 6)

Biểu 6: Phân loại chất lượng hoạt động của các HTX

ở Hải dương năm 2002

TT Loại hình HTX HTX đạt HTX yếu HTX đạt

khá trung bình kém

1 HTX dịch vụ nông nghiệp 54% 18% 28%

2 HTX dịch vụ thương mại 53,8% 15,5% 30,7%

3 HTX tiểu thủ CN, công nghiệp 81,7%

4 HTX giao thông vận tải, x/dựng 30%

Quỹ tín dụng nhân dân 5 40% 60%

* Loại khá: Lãi từ 10 triệu trở lên.

Nguồn : Hoàng Bình (7/2003), tình hình kinh tế hợp tác, HTX ở Hải

Dươnạ, các giải pháp thực hiện chương trình hoạt động của Tỉnh uỷ Hải Dương

về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế, Hội thảo về phát triển kinh

tế HTX trong cơ chế thị trường qua kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam

(tổ chức tại Hải Dương), Trang 2.

Nếu so sánh kết quả phân loại HTX ở Hải Dương với kết quả phân loại

HTX cả nước năm 2002 là: Số HTX kinh doanh có lãi (thuộc loại khá, giỏi) đạt

44%, trung bình đạt 45%, yếu kém 11%. Số liệu này cho thấy các HTX ở Hải

Dương còn quá nhiểu việc phải làm.

67

2.2.6. Vé tình hình hoạt động của Liên minh HTX.

Liên minh HTX là tổ chức KT - XH, có chức năng đại diện và bảo vệ quyền lợi

của các HTX; tư văn, cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ các HTX; tham gia xây dựng

chính sách, pháp luật về HTX; tuyên truyền, vận động, hướng dẫn các hộ kinh tế cá

thể, tiểu chủ, các hộ gia đình, kinh tế hợp tác và HTX.

Với chức năng trên, Liên minh HTX hoàn toàn có thể phát huy đầy đủ vai

trò của mình trong quá trình phát triển KT - XH và phong trào hợp tác hoá. Vấn

đề còn lại là Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm thiết lập những

điều kiện cần thiết để thực hiện có kết quả những nhiệm vụ, quyền hạn của Liên

minh HTX được qui định tại điểm 2, điều 3, Điều lệ Liên minh HTX Việt Nam.

Theo điều 4, Điều lệ này hoàn toàn có thể kết nạp các DN làm thành viên liên kết

của Liên minh HTX, và như thế sẽ làm tăng nguồn lực để Liên minh hoạt động

tốt hơn.

Liên minh HTX tỉnh Hải Dương được thành lập từ năm 1994, hoạt động

theo Điều lệ Liên minh HTX Việt Nam năm 1993 và Điều lệ Liên minh HTX

Việt Nam sửa đổi năm 2000.

Trong những năm qua, Liên minh HTX tỉnh Hải Dương đã phấn đấu thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của mình và đã đạt được những kết quả bước đầu:

Thứ nhất: Thực hiện chức năng đại diện, hỗ trợ các HTX, Liên minh đã kịp

thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, tập hợp nguyện vọng, kiến nghị của

các thành viên để phản ánh, đề xuất với cấp uỷ, chính quyền địa phương và các

cơ quan nhà nước về chủ trương, biện pháp giải quyết.

Đến hết năm 2002, tổng số thành viên của Liên minh HTX tỉnh là 128 thành

viên, trong đó có 77 HTX, 19 tổ hợp tác, 32 DN ngoài quốc doanh (trong 77 HTX,

có 19 HTX dịch vụ nông nghiệp, 54 HTX phi nông nghiệp, 4 quỹ túi dụng nhân

dân). Bình quân hàng năm kết nạp thêm hơn 10 thành viên mới là các tổ hợp tác,

HTX và các DN ở tất cả các ngành và Gnh vực kinh tế trong tỉnh [16, tr. 8].

Thứ hai: Kiểm tra, xác minh, giải quyết những khiếu nại, kiến nghị của các

HTX, phát hiện và tham gia giải quyết các tranh chấp, vương mắc giữa các đơn vị

thành viên.

68

Thứ ba: Tư vấn, hỗ trợ các đơn vị thành viên mở rộng hoạt động xuất nhập

khẩu như hướng dẫn, giúp đỡ các HTX tham gia hội chợ triển lãm, tổ chức nhiều

khoá đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các thành viên.

Trong 5 năm qua, Liên minh HTX tỉnh đã mở được 20 lớp bồi dưỡng, đào

tạo và đào tạo lại cho cán bộ khu vực kinh tế hợp tác và HTX. Năm 2001, đã kiện

toàn bộ máy Trung tâm hỗ trợ phát triển HTX và DN ngoài quốc doanh; đã chọn

cử hàng chục cán bộ thuộc các đơn vị thành viên tham gia các lớp đào tạo, bồi

dưỡng do Liên minh HTX Việt Nam, Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt

Nam và các cơ quan khác tổ chức với các chuyên đề như: Phát triển HTX trong

nền KTTT, marketing, xuất nhập khẩu, ứng dụng khoa học công nghệ, kinh

nghiệm phát triển HTX nông nghiệp ở Nhật Bản... Riêng năm 2002 và 6 tháng

đầu năm 2003, đã mở được 10 lớp cho cán bộ quản lý kinh tế hợp tác của tỉnh,

huyện, xã và cán bộ điều hành trong HTX với 1.002 người theo chương trình

khung bồi dưỡng 3 chức danh trong HTX.

Thứ tư: Hướng dẫn các đơn vị thành viên xây dựng nhiều dự án phát triển

sx, KD, thu hút lao động; giới thiệu các dự án vay vốn...

Trong năm 2001, đã có 10 dự án được vay vốn mới với tổng số là 2,7 tỷ,

trong đó có 05 dự án vay từ chương trình quốc gia hỗ trợ việc làm, 05 dự án vay

từ Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với số tiền là 2,3

tỷ... Kết quả của các hoạt động hỗ trợ của Liên minh HTX tỉnh đã giúp các đơn

vị thành viên về việc đào tạo cán bộ có đủ thông tin, nắm bắt thị trường, đầu tư

khoa học công nghệ, liên doanh, liên kết, tiêu thụ sản phẩm...

Tuy đã có nhiều cố gắng trong hoạt động nhằm thực hiện 5 chức năng và 8

nhiệm vụ trong qui chế đã được UBND tỉnh chuẩn y và đã đạt được những kết

quả nhất định, nhưng trong quá trình hoạt động của mình, Liên minh HTX tỉnh

còn một số khó khăn, hạn chế với những nguyên nhân chủ yếu là:

Thứ nhất: Tổ chức bộ máy của Liên minh còn thiếu cả về số lượng và chất

lượng so với yêu cầu nhiệm vụ. Hiện tại mới có 11 biên chế, 02 hợp đổng công

việc và 05 hợp đồng dịch vụ; điều kiện về cơ sở vật chất tuy đã được quan tâm

đầu tư nhưng vẫn còn thiếu thốn.

69

Thứ hai: Kinh tế hợp tác và HTX trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản

lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với công

tác quản lý nhà nước, nhưng hệ thống tổ chức quản lý HTX chưa được củng cố,

hoàn thiện để phối hợp giúp Liên minh HTX hoạt động.

Theo thông lệ thì Liên minh HTX ra đời khi các HTX thực sự có nhu cầu, tự

tổ chức ra cơ quan đại diện và bảo vệ lợi ích của mình. Nhưng ở nước ta, Liên

minh HTX được thành lập chưa tuân theo qui luật đó. Vì vậy, ở Hải Dương chỉ có

15% số HTX tham gia Liên minh HTX.

Thứ ba: Các cơ chế chính sách hỗ trợ khu vực kinh tế hợp tác và HTX tuy

đã được ban hành nhưng thiếu đồng bộ, thiếu tính khả thi, lại không được các

cấp, các ngành có liên quan triển khai một cách đầy đủ, nghiêm túc như: chính

sách thuế, đất đai, đào tạo cán bộ, bảo hiểm xã hội...

Liên minh HTX hoạt động trong điều kiện hệ thống các văn bản pháp qui

chưa đầy đủ. Ngoài Điều 49 của Luật HTX và Điểu lệ Liên minh HTX Việt Nam

thì chưa có các văn bản của Chính phủ qui định cụ thể về trách nhiệm phối hợp, giúp

đỡ, tạo điều kiện của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính t r ị - x ã hội đối với

Liên minh HTX. Vì vậy Liên minh HTX thiếu những điều kiên cần thiết để tổ chức

hỗ trợ các thành viên. Do đó, sự phối kết hợp giữa Liên minh HTX với các sở,

ngành, đoàn thể, các cấp chính quyền... còn rất hạn chế.

Thứ tư: Hệ thống các công cụ hỗ trợ của Liên minh HTX tỉnh còn thiếu và

chưa đáp ứng được nhu cầu của các thành viên... nhất là các hoạt động về tiêu thụ

sản phẩm và nguồn vốn vay. Đến hết năm 2001 đã có 1,26 tỷ từ Quỹ quốc gia hỗ

trợ việc làm; 2,3 tỷ do Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp Hải Dương cho vay...

Nhưng so với nhu cầu thực tế, chỉ đáp ứng được khoảng 15%. Trong khi đó, tại

02 đơn vị DN tư nhân Phương Phú (Kinh Môn) đã bị thu hồi giấy phép hoạt động

và tổ hợp tác Như Thành (huyện Kim Thành) được vay 250 triệu đồng đã quá

thời hạn nhiều nãm nhưng vẫn chưa trả được.

Qua thực tế hoạt động triển khai việc giới thiệu cho vay vốn đối với các đơn

vị thành viên thì đa số đều rất cần vay vốn, nhưng hầu hết các đơn vị không đủ

điều kiện về thế chấp theo qui định.

70

Thứ năm: Việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo của một số đơn vị với

Liên minh HTX tỉnh không được chấp hành nghiêm chỉnh, kịp thời và đầy đủ...

Do đó đã ảnh hưởng không tốt đến công tác thống kê, tổng hợp đánh giá tình

hình.

Việc chấp hành nghĩa vụ đóng hội phí theo qui định chưa tốt, tính đến hết

năm 2001 mới có 36/114 thành viên đóng hội phí năm 2001, nên đã ảnh hưởng

đến các hoạt động hỗ trợ và thực hiện nghĩa vụ đối với cấp trên.

2.2.7. Tình hình quản lý nhà nước đối với HTX.

2.2.7.1. Hệ thống quản lý nhà nước

ở Hải Dương, hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác và HTX được

thiết lập theo sở, ngành chuyên quản từ cấp tỉnh đến cấp huyện. Các sở, ngành có

Phòng quản lý kinh tế ngoài quốc doanh, riêng ở Sở nông nghiệp có Phòng chính

sách, được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý kinh tế hợp tác và HTX. ở cấp huyện,

Phòng nông nghiệp thực thi nhiệm vụ này và có 01 cán bộ đặc trách.

Trong quá trình chỉ đạo, UBND tỉnh đã thể chế hoá các văn bản phát triển

về HTX như Nghị định số 02 của Chính phủ ngày 2/1/1997 về nhiệm vụ, quyền

hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước đối với HTX; các Nghị quyết của Tỉnh uỷ

bằng các quyết định và chỉ thị như Chỉ thị số 19/CT-ƯB ngày 4/8/1997 về việc

triển khai thực hiện Luật HTX, Quyết định số 1027/QĐ-UB ngày 24/6/1997 về

việc thành lập Ban chỉ đạo tổng kết và chuyển đổi HTX...

Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước đối vói kinh tế hợp tác và HTX trong

thời gian qua còn bộc lộ nhiều nhược điểm, trong đó đáng chú ý là:

Thứ nhất: Chưa nghiên cứu xây dựng chiến lược, qui hoạch phát triển kinh

tế HTX thuộc các ngành kinh tế trên địa bàn.

Thứ hai: Trong quá trình tổ chức chỉ đạo chuyển đổi HTX ở một số cơ sở

chưa thực hiện đầy đủ yêu cầu, nội dung của Luật HTX và các văn bản pháp qui

khác, nên chất lượng các HTX chuyển đổi đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục

xử lý.

71

Thứ ba: Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, KT-

XH trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước chưa tốt, nên nhiều chính

sách ưu đãi của Nhà nước dành cho HTX chưa được thực hiện hoặc được thực

hiện chưa đạt yêu cầu.

22.7.2. Tình hình thực hiện Luật HTX và các chính sách đối với HTX

Thứ nhất: Tình hình thực hiện Luật HTX

Sau khi Luật HTX được công bố (tháng 3/1996) và Ban Thường vụ Tỉnh uỷ

ra Chỉ thị số 07/CT-TU về tiếp tục đổi mới HTX theo tinh thần Nghị quyết 21 và

Luật HTX, Hải Dương đã thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi HTX theo Luật và

ngày 5/8/1997 Ban chỉ đạo tỉnh có Kế hoạch số 783 hướng dẫn các cấp, ngành thực

hiện việc chuyển đổi, và gần đây là một số văn bản nhằm triển khai thực hiện

Chương trình số 20/CT-TU ngày 1/6/2002 của Tỉnh uỷ Hải Dương về chương trình

hành động thực hiện Nghị quyết hội nghị lẩn thứ 5 BCH TW Đảng khoá IX về tiếp

tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể...

Như đã biết, sau hơn 5 năm thực hiện, tỉnh đã cơ bản hoàn thành chuyển đổi

HTX và thành lập mới nhiều HTX khác. Đánh giá chung về quá trình thực hiện

Luật HTX ở Hải Dương, có thể nêu một số nhận xét sau đây:

- Tỉnh uỷ và ƯBND tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo tích cực, sâu sát, cụ thể các ngành

chức năng và các huyện, thành phố tập trung lực lượng, xây dựng kế hoạch chi tiết tổ

chức thực hiện Luật HTX phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương.

- Nắm chắc tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh, các cấp, ngành đã

lựa chọn hình thức chuyển đổi HTX theo Luật một cách thích hợp. Có thể nêu lên

một số hình thức sau:

+ Chuyển đổi HTX cũ thành HTX mới với đa số xã viên cũ. Hình thức này

được áp dụng ở nhiều huyện và chiếm 49% số HTX chuyển đổi.

+ Chuyển đổi HTX cũ để thành lập HTX mới gồm một số xã viên của HTX

cũ chiếm từ 3 - 5% số lao động trên địa bàn. Trong nông nghiệp số HTX này

chiếm khoảng 51%.

+ Giải thể HTX cũ, thành lập HTX mới. Hình thức này chủ yếu áp dụng cho

các HTX phi nông nghiệp.

72

- Trong quá trình thực hiện Luật HTX, đã quan tâm phát huy vai trò của các

đoàn thể quần chúng, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tạo ra sự chuyển

biến tích cực; nhân thức cán bộ, đảng viên và nhân dân về mô hình HTX mới...

Tóm lại, có thể nói, việc thực hiện Luật HTX ở Hải Dương đã đạt được kết quả

tích cực, bước đầu hình thành cơ chế và bộ máy hoạt động theo mô hình mới.

Thứ hai: Thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển HTX

Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển HTX, được qui

định trong Nghị định 15/NĐ-CP ngày 21/2/1997. Một số chính sách đã được các

Bộ, ngành hướng dẫn thực hiện và đạt kết quả bước đầu. Song do nhiều nguyên

nhân khác nhau, phần lớn các HTX chưa được hưởng các chính sách ưu đãi của

Nhà nước. Cụ thể là:

-V ề đất đai: Các HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hải Dương hầu hết không

thuộc diện được hưởng các chính sách ưu đãi ở Điều 4 của Nghị định 15/NĐ-CP.

Các HTX phi nông nghiệp thuộc diện thuê đất thì chưa được thuê nên cũng chưa

được hưởng ưu đãi theo Điều 5 của Nghị định trên.

- Về tín dụng: Tất cả các HTX dịch vụ nông nghiệp đều chưa được vay vốn

Ngân hàng, vì không có tài sản thế chấp. Nhiều HTX phải lấy danh nghĩa từng cá

nhân Ban quản trị để vay vốn cho HTX hoạt động.

HTX được vay quá ít các nguồn vốn từ các chương trình KT - XH, từ quỹ

quốc gia giải quyết việc làm, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ đầu tư phát

triển khác của Nhà nước.

- Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Cán bộ chủ chốt của HTX (Chủ nhiệm, Kế

toán trưởng, Trưởng ban kiểm soát) chưa được giảm 50% học phí khi đi học tại các

cơ sở thuộc hệ thống đào tạo của Nhà nước và của Liên minh HTX Việt Nam.

- Về thuế: Những ưu đãi về miễn, giảm thuế chưa được triển khai thực hiện,

vì bản thân việc tính thuế của các HTX hiện nay chưa khách quan, còn thấp so

với thực tế. Hơn nữa, để thực hiện theo Nghị định 15/CP thì cần phải có thông tư

hướng dẫn cụ thể.

- Về chế độ bảo hiểm xã hội: Đến nay, xã viên HTX chưa được đóng bảo

hiểm xã hội vì Bộ lao động - thương bình và xã hội chưa có những hướng dẫn cụ

73

thể. Hơn nữa, trong điều kiện thu nhập của xã viên thấp, cần phải qui định tỷ lệ

hỗ trợ cần thiết để giúp xã viên đóng bảo hiểm xã hội.

- Về hỗ trợ khoa học và công nghệ: Đây là chính sách rất quan trọng giúp

HTX khẳng định vị trí và vai trò chủ đạo trong việc chuyển giao tiến bộ khoa học

công nghệ cho xã viên và nông dân. Tuy vậy, trong Nghị định 15/CP chưa đều

cập đến vấn đề này.

2.2.8. Vê lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với sự phát triển của kinh tế

hợp tác và HTX

Tỉnh uỷ Hải Dương rất quan tâm lãnh đạo sự phát triển của kinh tế hợp tác

và HTX. Khi chưa có các văn bản pháp qui của Nhà nước, ngay từ năm 1992,

Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hải Hưng đã ra Nghị quyết 03 về đổi mới tổ chức và

quản lý HTX với tư tưởng cơ bản là: "Phát triển đa dạng các HTX, trong nông

nghiệp khuyến khích thành lập các tổ hợp tác để làm tốt hơn dịch vụ đầu vào và

đầu ra cho kinh tế hộ; đổi mới phương thức hoạt động của các HTX hiện có cho

phù hợp với cơ chế mới, với những biến đổi của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần;

tăng cường quản lý đối với HTX". Nghị quyết 03 có ý nghĩa mở đầu thời kỳ đổi

mới toàn diện và cơ bản kinh tế HTX. Tuy vậy, Nghị quyết 03 vẫn chưa đáp ứng

được những đòi hỏi ngày càng bức xúc của sản xuất và đời sống. Do đó, ngày

4/8/1994, Tỉnh uỷ lại ra Nghị quyết 21 nhằm đẩy mạnh đổi mới HTX với những

nội dung cơ bản là: "Bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi; mọi xã

viên đều phải góp vốn và hưởng thu nhập theo lao động và theo vốn góp; một hộ

hoặc một lao động có thể tham gia nhiều HTX không phụ thuộc vào địa giới

hành chính. Qui mô và hình thức của HTX tuỳ thuộc vào yêu cầu của sx, KD,

có thể kinh doanh tổng hợp hoặc nhiều khâu. Đối với HTX kém thì kiên quyết

giải thể, tích cực chỉ đạo thành lập các HTX và tổ hợp tác mới".

Sau khi Luật HTX được công bố (tháng 3/1996), Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra

Chỉ thị số 07 ngày 18/6/1997 để chỉ đạo việc chuyển đổi HTX theo Luật. Gần

đây, sau khi có Nghị quyết số 13 của TW, ngày 1/6/2002, Tỉnh uỷ Hải Dương đã

công bố chương trình hành động số 20/CT-TU về "Thực hiện Nghị quyết Hội

74

nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao

hiệu quả kinh tế tập thể".

Các chỉ thị, nghị quyết trên đây và Luật HTX cùng các văn bản pháp qui có

liên quan đã được các huyện, thành uỷ, các Đảng cơ sở lãnh đạo, vận dụng thực

hiện một cách nghiêm túc, thể hiện trên những mặt sau:

Qua phỏng vấn trực tiếp có 97,4% số người khẳng định được nghe phổ biến

về Luật HTX; 86% khẳng định Đảng uỷ, chi bộ thường xuyên vận động, tổ chức

các hình thức kinh tế hợp tác và HTX; 84% khẳng định Đảng uỷ, chi bộ có lãnh

đạo việc chuyển đổi, thành lập HTX; 87% cho biết các kỳ Đại hội, hội nghị, sinh

hoạt của Đảng bộ, chi bộ thường xuyên có kiểm điểm về phát triển kinh tế hợp

tác và HTX [29, tr.21].

2.3. Đánh giá chung về những kết quả đạt được và những khó khăn, tồn

tại cần giải quyết nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả của các HTX trên

địa bàn Hải Dương trong nền KTTT định hướng XHCN.

2.3.1. Những kết quả đạt được.

Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây hay trong cơ chế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước hiện nay, HTX luôn có vai trò trọng yếu,

cùng kinh tế nhà nước tạo nền tảng cho nền KTQD, bảo đảm định hướng XHCN.

Đặc biệt trong nông nghiệp, sau khi thực hiện Nghị quyết 10 (1998) của Bộ

chính trị đến nay, khi vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của kinh tế hộ được

khẳng định thì sự tồn tại và phát triển của HTX vẫn là một yêu cầu khách quan,

là con đường cơ bản để đưa nền kinh tế tiểu nông lên sản xuất hàng hoá lớn theo

hướng CNH, HĐH.

Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế tập thể nói chung và HTX nói riêng của tỉnh

Hải Dương đã từng bước đổi mới và phát triển trong tất cả các ngành và lĩnh vực

kinh tế. Đặc biệt là từ khi thực hiện theo Luật HTX và gần đây là Nghị quyết số

13 Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 5 (khoá IX). Nhiều HTX đã đứng vững và

phát triển tốt trong cơ chế thị trường, hiệu quả sx, KD ngày một cao hơn, thu hút

nhiều lao động có việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo và phát triển KT - XH

của tỉnh.

75

Qua phần phân tích tình hình thực trạng hoạt động của HTX, có thể đánh

giá khái quát những kết quả đạt được của các HTX trên địa bàn Hải Dương trong

thời gian qua ở một số nét cơ bản sau:

Thứ nhất: Cùng với quá trình đổi mới, nhất là sau hơn 5 năm thực hiện Luật

HTX, triển khai thực hiện các Nghị quyết của TW, của tỉnh, đặc biệt là Nghị

quyết TW 5 (khoá IX) về kinh tế tập thể; những quan điểm, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt

động của kinh tế hợp tác và HTX, đã làm cho nhận thức của các cấp, các ngành

về kinh tế tập thể nói chung và HTX nói riêng đã có chuyển biến một bước.

Những mặc cảm về mô hình HTX kiểu cũ từng bước được xoá bỏ, khắc phục

được tình trạng duy ý chí muốn phát triển tràn lan như phong trào hợp tác hoá

trước đây, không tôn trọng nguyên tắc tự nguyện. Người dân hiểu rõ hơn về mô

hình HTX kiểu mới, xã viên và người lao động yên tâm hơn trong việc duy trì và

phát triển HTX.

Thứ hai: Các cấp, các ngành, các cấp uỷ, chính quyền từ tỉnh xuống cơ sở

đã thực sự quan tâm và chú trọng hơn đến quá trình chuyển đổi, đổi mới phát

triển kinh tế hợp tác và HTX. Hầu hết các địa phương đều có các chương trình

hành động, các đề án cụ thể và có tính khả thi. Trong đó đã xác định đuợc những

phương án hoạt động, những chế độ, chính sách cụ thể nhằm hỗ trợ HTX. Bước

đầu, một số chính sách đã có tác động tốt như: chính sách xoá nợ cho các HTX

nông nghiệp, chính sách miễn giảm thuế, chính sách về thị trường và tiêu thụ sản

phẩm.

Thứ ba: Trong thời gian qua, ngoài các HTX dịch vụ nông nghiệp đã được

chuyển đổi và các quỹ tín dụng nhân dân cơ bản ổn định về số lượng và qui mô

đã được xác định, số lượng các HTX phi nông nghiệp ở Hải Dương vẫn tiếp tục

tăng lên (bình quân mỗi năm tăng 25 - 30 HTX) ở tất cả các loại hình: dịch vụ

thương mại, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, vệ

sinh môi trường, HTX điện nông thôn... Sự tăng lên về số lượng và đa dạng hoá loại

hình, lĩnh vực hoạt động của các HTX là phù hợp vói nền KTTT định hướng XHCN.

76

Thứ tư: Trong quá trình đổi mới, các HTX đã chú trọng vào việc đổi mới

QHSX trên cả 3 mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối nhằm

tạo ra sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.

Các HTX đã chú trọng chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động sx, KD.

Từng bước khắc phục những thiếu sót trong tổ chức và hoạt động. Các HTX đã

xác định lại tài sản, vốn quỹ, thu đủ vốn góp của xã viên hoặc tăng thêm vốn góp.

vể cơ bản chấm dứt tình trạng chỉ có vốn ghi trên sổ sách, tích cực thu nợ để bổ

sung, quản lý các nguồn vốn tốt hơn.

Nhiều HTX đã hoàn thiện phương án sx, KD, mở rộng thêm ngành nghề và

nnh vực hoạt động, kết hợp giữa dịch vụ và kinh doanh tổng hợp. Một bộ phận các

HTX đã từng bước thoát khỏi tình trạng yếu kém về vốn, công nghệ, chất lượng sản

phẩm, năng động hơn trong sx, KD, đầu tư phát triển sản xuất.

Các mối quan hệ trong nội bộ HTX và giữa HTX với ngoài HTX được xác

định rõ nét hơn như: quan hệ giữa HTX với kinh tế hộ, xã viên trở thành quan hệ

bình đẳng, thoả thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sx , KD.

Xã viên quyết định những công việc quan trọng của HTX một cách bình đẳng.

Bộ máy quản lý HTX được tổ chức gọn nhẹ và hiệu quả hơn. Chủ nhiệm HTX

được giao quyền chủ động điều hành công việc và tự chịu trách nhiệm về những

quyết định của mình...

Các mối quan hệ lợi ích được kết hợp chặt chẽ hơn giữa lợi ích cá nhân và

lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài. Nhìn chung, xã viên và người lao

động trong các HTX yên tâm đầu tư và phát triển s x , KD hơn so với trước đây.

Thứ năm: Xu hướng phát triển hợp tác, liên kết là một nhu cầu tất yếu.

Trong lĩnh vực nông, công nghiệp, các HTX đã nâng cao hiệu quả của một số

khâu dịch vụ cho hộ xã viên, nhất là khâu bơm nước, làm đất, bảo vệ thực vật,

dịch vụ kỹ thuật... Chi phí dịch vụ giảm dần, vừa có lợi cho xã viên, vừa thúc đẩy

sản xuất phát triển. Trong quá trình sx, KD, các HTX đã tăng dẩn sức mạnh của

kinh tế tập thể, hỗ trợ và giúp đỡ kinh tế hộ. Trong nông nghiệp, các HTX bên

cạnh việc đảm nhận những khâu, lĩnh vực mà hộ xã viên không có điều kiện làm

hoặc làm không hiệu quả đã có sự chuyển hướng trong các quan hệ hợp tác như

77

chuyển giao công nghê, tín dụng, chế biến nông sản, tiêu thụ sản phẩm... Trong

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh tế HTX dần hướng vào đầu tư phát triển

những ngành nghề thu hút nhiều lao động, tận dụng tiềm năng về nguyên liệu, cơ sở

vật chất -kỹ thuật hiện có và tay nghề truyền thống, từng bước hiện đại hoá và đưa

công nghệ mới vào sản xuất, chú trọng phát triển công nghiệp nhỏ ở nông thôn.

Thứ sáu: Với đặc điểm trải rộng trên khắp các địa bàn trong tỉnh, các HTX

đã đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hôi trên

từng địa bàn. Các HTX đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (cơ cấu

ngành và cơ cấu thành phần), phát triển các ngành nghề ở nông thôn (trong đó có

làng nghề), đẩy nhanh quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH. Đối với

những HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp có qui mô toàn xã với nhiều xã viên

(dưới 90%) và xã viên có góp vốn ở mức độ khá thì thực sự đóng vai trò tích cực

trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Nhờ sự chuyển biến mang tính ổn định và bền vững hơn, các HTX đã đóng

góp một tỷ lệ đáng khích lệ về giá trị sản xuất của các ngành, giá trị tăng thêm cũng

như đóng góp vào ngân sách hàng năm của tỉnh, góp phần tạo nên tốc độ tăng

trưởng kinh tế và sự đổi mới nhiều mặt KT - XH của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.

Bên cạnh sự đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế nói chung, các HTX

trong thời gian qua đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động

xã hội; tham gia xoá đói giảm nghèo, phòng chống các tệ nạn xã hội, thực hiện

các chính sách xã hội của Nhà nước; góp phần nâng cao dân trí, năng lực quản lý

của đội ngũ cán bộ, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, ổn định chính trị, bảo

đảm an ninh quốc phòng.

Đạt được những kết quả trên là do Đảng và Nhà nước có những chủ trương,

chính sách đúng đắn, kịp thời; sự chỉ đạo, lãnh đạo tích cực của Tỉnh uỷ, HĐND,

UBND tỉnh và sự phối kết họp trong hoạt động triển khai của các sở, ngành, đoàn

thể, các phương tiện thông tin đại chúng, cấp ủy chính quyền các cấp; đặc biệt là sự

cố gắng vươn lên trên cơ sở năng lực nội tại của các HTX.

78

2.3.2. Những khó khăn tồn tại

Bên cạnh những kết quả trên, quá trình phát triển kinh tế HTX trong thòi gian

qua ở Hải Dương cũng còn bộc lộ không ít khó khăn, tồn tại, yếu kém.

Thứ nhất: Việc tổ chức triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước còn chậm, chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. Việc thể chế hoá các

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế tập thể nói chung và

kinh tế HTX nói riêng còn chưa kịp thời, có những vấn đề đã thể chế hoá nhưng

không đi vào cuộc sống, vì vậy nhiều nội dung triển khai thiếu thống nhất và đổng

bộ. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về HTX ở các cấp chưa được xác định cụ thể.

Chưa có sự nghiên cứu, xây dựng chiến lược, qui hoạch phát triển kinh tế HTX

thuộc các ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh.

Thứ hai: Sự phát triển của HTX, tuy đã có những dấu hiệu tích cực, nhưng

nhìn chung còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này; số HTX

làm ăn có hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại cho các thành viên chưa nhiều; kinh tế

tập thể và HTX chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sản phẩm xã hội của tỉnh chưa đủ

sức đảm nhận tốt vai trò cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng

vững chắc cho nền kinh tế nhiều thành phần đinh hướng XHCN.

Thứ ba: Những khó khăn mang tính nội tại của HTX vẫn chưa được khắc

phục như: qui mô sản xuất nhỏ bé, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, sản xuất

thủ công vẫn còn chiếm đa số, thiếu vốn, cơ sở vật chất nghèo nàn, sản phẩm làm

ra còn đơn điệu, thiếu sức cạnh tranh. HTX dịch vụ nông nghiệp mới chỉ đảm

đương được một số khâu dịch vụ đầu vào nhưng hiệu quả còn thấp. Trình độ đội

ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật và lao động có tay nghề trong các HTX

còn yếu lại không ổn định.

Thứ tư: Không ít HTX còn chưa thích ứng với cơ chế thị trường, hoạt động

hình thức, không có chiến lược sản xuất rõ ràng, hiệu quả dịch vụ hỗ trợ cho xã viên

còn thấp. Nhiều noi, xã viên tham gia HTX không phải xuất phát từ nhu cầu hợp tác

mà vì mong nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước, của chính quyền địa phương.

Thứ năm: Nhiều HTX có nhu cầu mở rộng sx, KD, đầu tư đổi mới công

nghệ nhưng không tiếp cận được với các nguồn vốn của các tổ chức tín dụng do

79

thủ tục cho vay còn vướng mắc. Việc huy động vốn góp của xã viên còn nhiều hạn

chế. Các HTX cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn thông tin thị

trường, các dịch vụ tư vấn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ...

Thứ sáu: Một bộ phận HTX không phát triển được do năng lực kém, do sai

phạm về tổ chức, về các nguyên tắc HTX... đã bộc lộ rõ ràng hơn và đứng trước

nguy cơ giải thể.

2.3.3. Nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại, yếu kém và một sô

kinh nghiệm.

2.3.3.1. Nguyên nhân.

+'Về những nguyên nhân chủ quan.

Thứ nhất: Do chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền KTTT định

hướng XHCN nên nhận thức của cán bộ, đảng viên còn có khoảng cách. Đã có

một thời gian dài HTX bị lãng quên. Vị đắng của HTX cũ vẫn còn trong mỗi

người dân, trong các hộ, vì vậy mỗi khi có ai đề cập đến HTX là mọi người hình

dung ngay kiểu "Đánh kẻng chấm công", "cha chung không ai khóc", "tập thể

hoá TLSX"...

Mặc dù đã có Luật HTX làm cơ sở cho HTX kiểu mới, nhưng công tác

tuyên truyền chưa sâu rộng, ảnh hưởng đến nhận thức về kinh tế hợp tác và HTX

của người dân . Do đó, Luật HTX và các chủ trương, chính sách mới của Đảng và

Nhà nước chưa đến được với người dân. Hơn nữa, các cấp uỷ Đảng và chính

quyền địa phương cũng thiếu quan tâm tới công tác này, sự chỉ đạo, lãnh đạo còn

tỏ ra lúng túng. Đây là nguyên nhân chính làm cản trở sự phát triển của kinh tế

HTX.

Thứ hai: Việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về HTX còn nhiều

bất cập, thể hiện ở chỗ:

- Các cơ chế, chính sách, pháp luật được ban hành thiếu đồng bộ, nhất quán

và khi sửa chữa, bổ sung lại không kịp thời.

- Việc tổ chức thực hiện ở các địa phương, nhất là ở cơ sở chưa thật nghiêm

túc, thiếu chặt chẽ, kết quả còn rất hạn chế.

80

- Lực lượng cán bộ đầu tư cho việc triển khai các văn bản pháp luật HTX

vừa thiếu, vừa yếu, hoạt động theo kiểu khoán việc, ít kiểm tra sâu sát.

Thứ ba: Khi chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò tự chủ của kinh tế hộ

được khẳng định, quan hệ giữa xã viên và HTX thay đổi cơ bản nhưng công tác

quản lý nhà nước đối với HTX còn bất cập, bộ máy quản lý bị thu hẹp, lực lượng

cán bộ quản lý mỏng dẫn đến sx, KD kém hiệu quả.

Tổ chức và quản lý thị trường ở tầm vĩ mô còn nhiều tồn tại và yếu kém, đã

tạo ra những bất lợi cho HTX khi tham gia vào thị trường. Nhất là HTX dịch vụ

nông nghiệp rất khó khăn trong việc bảo đảm các yếu tố đầu vào và đầu ra cho

nông dân.

Thứ tư: Việc sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nhân điển hình ra diện

rộng chưa được thực hiện nghiêm túc và định kỳ.

Các mô hình HTX, tuy đã có một thời gian dài tự mày mò, tự chuyển đổi,

tìm hướng đi cho mình nhưng vẫn chưa thoát khỏi quan niệm cũ. Cách làm việc,

quản lý, việc xác định, trách nhiệm với xã viên, tâm lý trông chờ vào sự hỗ trợ

của Nhà nước... vẫn còn đè nặng trong ý thức của cả HTX và của mỗi hộ, xã

viên. Vì thế, có một thực trạng là những HTX cũ chuyển đổi chưa thực sự thoát

thai cái cũ, trong khi cái mới tuy đã xuất hiện nhưng chưa đủ điều kiện để tự

khẳng định mình.

Còn không ít thái độ bàng quan, thoả mãn của một bộ phận cán bộ, đảng

viên giữ cương vị lãnh đạo. Họ quan niệm rằng: có hay không có HTX thì kinh tế

hộ vẫn phát triển, tất cả là theo qui luật của thị trường hoặc trong điều kiện hiện

nay các HTX tồn tại như vậy là được.

+ Về những nguyên nhân khách quan.

Thứ nhất: Từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, LLSX phát triển

nhanh hơn đã tác động tích cực đến sự phát triển của các HTX, đồng thời đặt các

HTX trước những thách thức mới, những đòi hỏi ngày càng bức xúc trên nhiểu

mạt như:

- Mở rộng qui mô sx, KD, tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ thiết bị,

nâng cao hiệu quả kinh tế.

81

- Nâng cao trình độ và năng lực tổ chức sx, KD theo cơ chế thị trường.

- Tham gia liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế khác, trong đó có DN nhà

nước.

Thứ hai: Sự chậm đổi mới các quan hệ đất đai, lao động, các TLSX khác trong cơ

chế thị trưòng cũng kìm hãm sự hình thành và phát triển của HTX.

Thứ ba: Việc chuyển từ mô hình hợp tác tập thể hoá trong cơ chế tập trung

bao cấp sang mô hình HTX mới trong cơ chế thị trường là một quá trình nhận

thức, đòi hỏi phải có đủ thời gian để tiếp nhận đầy đủ hơn mô hình mới. Đây

cũng là nguyên nhân làm chậm lại quá trình đổi mới HTX.

2.33.2. Một s ố kinh nghiệm.

Trên cơ sở tổng kết, đánh giá tình hình hoạt động của phong trào HTX ở

Hải Dương trong thời gian qua, có thể nêu lên một số kinh nghiệm bước đầu:

Thứ nhất: Chủ động vận dụng sáng tạo các chủ trương, đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước vể hợp tác hoá vào điều kiện cụ thể của địa phương.

Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo và giúp đỡ của TW; sâu sát cơ sở, nắm bắt được

tâm tư nguyện vọng của nhân dân, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân

dân thực hiện.

Thứ hai: Phải trên cơ sở đặc điểm và nhu cầu phát triển của từng ngành mà

lựa chọn hình thức hợp tác, mô hình HTX phù hợp với tính chất và trình độ phát

triển của LLSX, không nóng vội, gò ép.

Thứ ba: Chính quyền các cấp phải coi trọng việc thể chế hoá các chỉ thị,

nghị quyết của Đảng, biến các chủ trương của Đảng thành các chương trình, kế

hoạch cụ thể, thiết thực, có tính khả thi cao.

Thứ tư: Kiên quyết chống tư tưởng ngại khó, lo mất ổn định mà đổi mới một

cách hình thức "bình mới rượu cũ"; đồng thời phải quan tâm đầy đủ đến mục tiêu có

tính chất hai mặt của HTX, nhất là HTX nông nghiệp: vừa hạch toán kinh doanh

nhằm mục đích lợi nhuận, vừa hỗ trợ, giúp đỡ, phục vụ cộng đồng.

Thứ năm: Các cấp uỷ Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tạo điều kiện để các

tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại

82

chúng tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng

và pháp luật về HTX.

Tóm lạ i:

Hải Dương là một tỉnh có những thuận lợi trong phát triển KT-XH. Các

hình thức kinh tế hợp tác được hình thành từ khá sớm, trên cơ sở đó các loại hình

HTX được hình thành. Là một tỉnh có phong trào HTX phát triển khá mạnh, hoạt

động của các HTX có vai trò quan trọng, đóng góp đáng kể vào sự phát triển KT-

XH của tỉnh.

Nhìn bức tranh khái quát về HTX những nãm trước đây, nhất là từ khi đổi

mới kinh tế, có thể khẳng định: Hệ thống HTX kiểu cũ là không còn phù hợp,

không thể tồn tại trong điều kiện của nền KTTT. Do đó cần xử lý hệ thống HTX

kiểu cũ một cách dứt điểm; chuyển đổi thành HTX kiểu mới, trên cơ sở đảm bảo

quyền sở hữu về TLSX, về sx, KD và về phân phối.

Sự phát triển của nền KTTT định hướng XHCN đã tạo ra những tiền đề để

các HTX phát triển với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với đặc

điểm từng vùng, từng ngành nghề, lĩnh vực. Các hình thức, các mô hình HTX

kiểu mới hoạt động có hiệu quả xuất hiện ngày càng nhiều. Tuy vậy, các HTX

trên địa bàn Hải Dương đã và đang trong quá trình củng cố, đổi mới, phát triển;

đang gặp không ít khó khăn, còn những mặt hạn chế, những vấn đề nảy sinh cần

tiếp tục giải quyết. Thực trạng tình hình hoạt động của các HTX ở Hải Dương

hiện nay đòi hỏi phải có phương hướng và các giải pháp hữu hiệu để nhằm phát

huy vai trò, lợi thế của loại hình kinh tế HTX; để củng cố, phát triển và nâng cao

hiệu quả hoạt động của các HTX phù hợp với điều kiện của nền KTTT định

hướng XHCN.

83

Chương 3.

QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI

PHÁP C ơ BẢN NHẰM ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN v à n â n g c a o

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH HẢI DƯƠNG TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Quan điểm và mục tiêu đối với HTX.

3.1.1. Quan điểm.

Nhận thức rõ xu hướng tất yếu khách quan và vai trò quan trọng của kinh tế

hợp tác, HTX; đổng thời xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nước ta, Đảng và Nhà

nước đã có những đường lối, chủ trương về đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác,

HTX phù hợp với yêu cầu của nền KTTT. Trong chính sách phát triển nền kinh tế

hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta

xác định kinh tế hợp tác, HTX là một bộ phận quan trọng, cùng với kinh tế nhà

nước (là chủ đạo) ngày càng trở thành nền tảng của nền KTQD để đạt mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: "Thực hiện nhất quán

chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh

doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT định

hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó

kinh tê nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể

ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền KTQD " [8, tr.95 - 96], và "Kinh tế

tập thể phát triển với nhiều hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt" [8, tr. 98].

Trên cơ sở đường lối Đại hội IX, Nghị quyết 13/NQ-TW Hội nghị lần thứ 5

BCH TW Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh

tế tập thể đã khẳng định: "Cần củng cố những tổ hợp tác và HTX hiện có, tiếp tục

84

phát triển rộng rãi kinh tế hợp tác với nhiều hình thức, qui mô, trình độ khác nhau

trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn có điều kiện... Khi HTX phát triển đến trình độ

cao hơn thì sẽ hình thành các DN của HTX, các Liên hiệp HTX" [9, tr. 13].

Từ thực tiễn phát triển của kinh tế hợp tác và HTX ở Hải Dương, nhất là từ

khi thực hiện Luật HTX đến nay; đồng thời, nhằm quán triệt sâu sắc thêm những

quan điểm của Đảng về kinh tế tập thể, về HTX và để triển khai thực hiện các Nghị

quyết của TW trong điều kiện của Hải Dương, cần khẳng định và nhấn mạnh một số

quan điểm cơ bản về kinh tế hợp tác và HTX như sau:

Thứ nhất: Kinh tế hợp tác và HTX có vai trò to lớn cùng với kinh tê nhà

nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền KTQD .

Kinh tế hợp tác và HTX là một trong những hình thức phát triển cao hơn từ

kinh tế hộ, đồng thời HTX còn là nơi để Nhà nước gắn phát triển kinh tê với giải

quyết các vấn đề xã hội.

Kinh tế tập thể là một tổ chức kinh tế kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và

lợi ích xã hội của các thành viên và lợi ích tập thể thì mới phát triển bền vững

theo đúng tính chất của nó. Coi trọng lợi ích kinh tế sẽ tạo được động lực để thu

hút các thành viên tham gia đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên

và phát triển cộng đồng thì mới thực sự là tổ chức kinh tế làm chỗ dựa cho người

lao động, hộ s x , KD cá thể, các DNV&N. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh tế

của HTX không chỉ dựa đơn thuần vào một mặt nào đó, mà phải có quan điểm toàn

diện cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên.

Thứ hai: Khẳng định kinh tế tập thể thời gian tới phát triển đa dạng về hình

thức, đa dạng về sở hữu, với nhiều trình độ khác nhau, từ tổ hợp tác đến HTX và

Liên hiệp HTX vói đặc trưng cơ bản của HTX kiểu mới.

Tuỳ theo nhu cầu của sản xuất và đời sống, Nhà nưóc khuyến khích HTX

phát triển không phân biệt địa giới hành chính, được kinh doanh tổng hợp hoặc

chuyên doanh một ngành nghề mà luật pháp không cấm. Kinh tế hộ được lựa

chọn qui mô, hình thức phù hợp để tham gia.

Thứ ba: Những năm tới, trong nông nghiệp, nông thôn, kinh tế hộ tự chủ

tiếp tục tồn tại lâu dài, song phải có sự hợp tác với nhau để nâng cao hiệu quả và

85

khả năng cạnh tranh, giúp kinh tế hộ đứng vững được trong nền KTTT. Kinh tế

tập thể mà nòng cốt là HTX kiểu mới là hình thức tổ chức kinh tế tập thể trong

tất cả các ngành, lĩnh vực và địa bàn. Trong đó phát triển kinh tế tập thể trong

nông nghiệp, nông thôn phải được xem là trọng tâm, cần tập trung chỉ đạo nhằm

tạo ra một thể chế kinh tế có thể đảm nhân vai trò hỗ trợ, nâng đỡ kinh tế hộ,

trang trại phát triển, làm cầu nối để tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước cho kinh tế

hộ, trang trại. Kinh tế tập thể tuyệt nhiên không thay thế hoặc thủ tiêu kinh tế hộ,

trang trại; gắn phát triển kinh tế tập thể với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và

xây dựng nông thôn mới; thúc đẩy kinh tế tập thể không ngừng phát triển sức sản

xuất, vươn lên cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư: Các HTX ngoài chức năng kinh tế còn có khả năng giải quyết được

nhiều vấn đề xã hội, phát triển cộng đổng. Do vậy, sự quan tâm của Đảng và trợ

giúp của Nhà nước là cần thiết và hợp lý, nhưng hoàn toàn không hàm nghĩa bao

cấp. Phát triển HTX nói riêng và kinh tế tập thể nói chung là nhiệm vụ quan

trọng của Đảng và Nhà nước, không chỉ để xây dựng và củng cố QHSX theo định

hướng XHCN, mà còn là một trong những con đường thúc đẩy LLSX trong

những năm tới có hiệu quả theo hướng CNH, HĐH.

Quan điểm này xuất phát từ vai trò "bà đỡ" của Nhà nước XHCN - nhân tố

cực kỳ quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của HTX một cách tự giác

trong nền KTTT.

Thứ năm: Nhấn mạnh việc phát triển kinh tế tập thể trong thời gian tới phải

theo phương châm tích cực, chủ động, phát triển vững chắc, xuất phát từ nhu cầu

thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đa dạng về mô hình, hiệu quả thiết thực, trước hết là

vì sự phát triển của sức sản xuất nên cần triệt để tôn trọng nguyên tắc tự nguyện,

nhất quyết không nóng vội, chủ quan duy ý chí, áp đặt. Các cấp uỷ Đảng và chính

quyền các cấp cần khắc phục sự buông lỏng lãnh đạo, bị động ngồi chờ, để mặc sự

phát triển tự phát của nền kinh tế, chậm trễ trong việc nắm bắt và đáp ứng những đòi

hỏi của nhân dân về phát triển kinh tế tập thể.

Chính vì vậy, phát triển kinh tế tập thể và HTX là cuộc vận động cách mạng

rộng lớn và sâu sắc, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo thường xuyên; cơ

86

quan nhà nước tổ chức thực hiện chặt chẽ, sâu sát; các đoàn thể tích cực vận

động, thuyết phục nhân dân tham gia. Thực tế đã chỉ ra rằng, ở nơi nào, địa

phương nào, cấp uỷ Đảng và chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, nghiêm túc

thì phong trào HTX phát triển thuận lợi, đạt kết quả khá.

3.1.2. Mục tiêu cơ bản.

Thứ nhất: Mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2010 là đưa kinh tế tập thể

thoát khỏi những yếu kém hiện nay, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có tỷ

trọng ngày càng lớn hơn trong GDP của tỉnh [31, tr.4].

Thứ hai: Mục tiêu đến năm 2005 là:

- Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các HTX theo hướng: tăng cường đầu tư,

mở rộng phạm vi và các khâu dịch vụ tiến tới kinh doanh tổng hợp; tiến tới HTX

đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các yếu tố đầu vào và tiêu thụ nông sản

hàng hoá cho nông dân. Phấn đấu 50% số HTX nông nghiệp có hoạt động dịch

vụ tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, có trên 50% số HTX thực sự đạt từ loại khá

trở lên.

- Các HTX khai thác và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có,

tăng vốn điều lệ, khắc phục dần tính hình thức trong việc gia nhập HTX của xã viên.

- Xử lý xong các quan hệ tài sản, vốn quỹ, công nợ của HTX cũ và tổn đọng

chưa được giải quyết, nhằm lành mạnh hoá vấn đề tài chính của HTX.

- Giải thể các HTX chưa chuyển đổi theo Luật HTX để thành lập HTX mới.

Tăng nhanh số lượng và chất lượng các HTX phi nông nghiệp, đặc biệt là ở khu

vực nông thôn.

- Tăng cường đào tạo, bổi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ

HTX. Phấn đấu 100% Chủ nhiệm, Kế toán trưởng, Trưởng ban kiểm soát có trình

độ từ sơ cấp trở lên; các thành viên khác của Ban quản trị, Ban kiểm soát được

tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn.

3.2. Phương hướng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của HTX.

3.2.1. Đổi mới và phát triển HTX phải trên cơ sở tôn trọng tính tự chủ,

phù hợp với hình thức, mức độ và yêu cầu cấp thiết của kinh tế hộ:

87

Đổi mới và phát triển kinh tế HTX là một tất yếu khách quan, nhằm đáp

ứng nhu cầu chính đáng của người lao động, của kinh tế hộ. Dù có nhiều loại

hình kinh tế hợp tác khác nhau, nhưng đặc trưng chung của các loại hình là

không bao trùm toàn bộ các hoạt động sx, KD của hộ. Nó chỉ diễn ra ở từng

khâu, từng công việc, công đoạn của một chu trình sản xuất. Vì vậy, hoạt động

kinh doanh của các đơn vị trong HTX chỉ tập trung vào những khâu, lĩnh vực đòi

hỏi cần phải có sự hợp tác, liên kết nhau nhằm giúp đỡ các hộ, các chủ thể kinh

tế tự chủ tiến hành quá trình sx, KD có hiệu quả hom.

Hải Dương là một tỉnh mà sản xuất nông nghiệp hiện vẫn chiếm tỷ trọng

lớn (năm 2002 tỷ trọng nông - lâm - thuỷ sản vẫn chiếm 32,3% GDP, lao động

chiếm 82,8%). Từng vùng, khu vực còn có sự khác biệt về trình độ phát triển,

tiềm năng thế mạnh, nhu cầu phát triển kinh tế hàng hoá đòi hỏi phải phát triển

kinh tế hợp tác phù hợp tuỳ theo từng vùng. VI vậy, việc xác định rõ yêu cầu của

từng vùng, đặc điểm sản xuất, tập quán của nhân dân, điều tra tình hình cụ thể để

xác định nhu cầu hợp tác ở mức độ nào, hình thức nào là một vấn đề có ý nghĩa

to lớn trong việc thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển.

Sự phát triển các hình thức kinh tế hợp tác là tất yếu trong nền KTTT, đòi

hỏi của quá trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, dù bất cứ trường hợp nào cũng không

được dùng mệnh lệnh cưỡng bức tập thể hoá các TLSX của kinh tế hộ khi họ

tham gia HTX. v ề mặt nhận thức, tư tưởng, quan điểm phải nhất quán: Đây là

một quá trình cách mạng gian khổ, lâu dài, các hình thức và loại hình không thể

ra đời theo sự áp đặt, chủ quan duy ý chí theo kiểu chiến dịch mà phải trên cơ sở

tự nguyện, vì lợi ích thiết thân của kinh tế hộ, của tập thể người lao động.

h o á y phải theo cơ chê thị trường có sự hỗ trợ của Nhà nước

3.2.2. Phát triển HTX phải trên cơ sở bảo đảm các nguyên tắc tập thể

Thực tiễn hoạt động của các loại hình HTX đã cho thấy, muốn tổ chức

thành công và hoạt động có hiệu quả thì trong quá trình chỉ đạo thực tiễn cần

phải có phương châm, phương pháp và đặc biệt là phải thực hiện đúng các yêu

cầu của các nguyên tắc tổ chức hoạt động được qui định tại điều 7 (Luật HTX)

mà chương 1 đã phân tích. Những nguyên tắc này là cụ thể hoá các nguyên tắc:

88

tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, đã được ghi trong Điều lệ HTX do Hồ Chủ Tịch

phê duyệt. Đồng thời, trong xu thế hội nhập vói kinh tế thế giới, Luật HTX của

Việt Nam cũng đã tiếp thu và thể hiện được những nội dung quan trọng của 7

nguyên tắc do Liên minh HTX quốc tế (ICA) đề ra.

Trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc hợp tác hoá, hoạt động của các HTX

trong điều kiện nền KTTT định hướng XHCN, cần phải tuân thủ các qui luật kinh

tế khách quan, phải theo cơ chế thị trường và rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước.

Kinh tế hộ, cá thể, tiểu chủ chỉ có thể phát huy được ưu thế, phát triển được

trong cơ chế thị trường nên cần thiết tham gia vào các tổ chức kinh tế hợp tác

theo truyền thống "buôn phải có bạn, bán phải có phường". Sự cạnh tranh gay gắt

trong cơ chế thị trường tạo ra sức ép tối đa hoá lợi ích kinh tế, buộc các nông hộ,

người sản xuất cá thể phải liên kết nhằm tăng cường sức mạnh. Các đơn vị kinh

tế hợp tác sẽ được tuyển chọn thông qua sự tác động của các qui luật kinh tế.

Trong quá trình hoạt động, các đơn vị kinh tế họp tác chỉ tồn tại, phát triển khi

mang lại lợi ích thực sự, thiết thực, là chỗ dựa cho các thành viên tham gia hợp

tác. Để có được ưu thế cạnh tranh, trước hết các hộ xã viên phải nỗ lực bản thân

để tạo ra một năng lực kinh doanh, không thể trông chờ vào những phao cứu hộ,

nhưng những tác động, giúp đỡ của trường hợp này là cần thiết. Hơn nữa, để chế

độ hợp tác mà chúng ta đang quyết tâm xây dựng mang bản chất XHCN, và từ

những hình thức kinh tế hợp tác giản đơn đến hình thức cao; nâng dần từ các tổ

hợp tác tự nguyện tiến tới chế độ HTX văn minh, cần có sự lãnh đạo của Đảng,

sự giúp đỡ đắc lực của Nhà nước vô sản.

Lênin cho rằng: Sự giúp đỡ toàn diện và ngày càng tăng lên của Nhà nước

vô sản đối với chế độ HTX còn non trẻ ở nông thôn là điều kiện quyết định để cải

tạo XHCN đối với nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá nhỏ đang gặp không ít khó

khăn, trong buổi ban đầu mới hình thành.

"Mỗi chế độ xã hội chỉ nảy sinh ra nếu được một giai cấp nhất định nào đó

giúp đỡ về tài chính... Trong lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta phải ủng hộ hơn

hết là chế độ HTX" [14, tr. 423].

89

3.2.3. Đổi mới và phát triển HTX phải phù hợp với điều kiện, tiềm năng,

đặc điểm của từng vùng, từng đia bàn trong tình.

Hải Dương là một tỉnh nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc, là một

tỉnh sớm có nhiều sản phẩm nông nghiệp hàng hoá, có nhiều loại hình tiểu thủ

công nghiệp (với 60 ngành nghề), nhiểu làng nghề. Trong phong trào hợp tác hoá,

Hải Dương còn là tỉnh sớm có chủ trương đổi mới về tổ chức quản lý HTX (nhất là

HTX nông nghiệp). Từ thực tiễn trong thời gian qua, việc đổi mới và phát triển các

loại HTX cần chú ý theo các phương hướng sau đây:

3.2.3.1. Vê phương hướng phát triển theo nẹành.

Thứ nhất: Trong lĩnh vực nông - lâm - thuỷ sản

Trên cơ sở khuyến khích phát triển kinh tế nông hộ tự chủ theo hướng sản

xuất hàng hoá, hướng dẫn và tạo điều kiện hình thành các cơ sở kinh tế hợp tác

với các hình thức HTX đa dạng từ thấp đến cao để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển.

Phát triển các HTX trong lĩnh vực này cần triển khai theo các hướng sau:

- Tiếp tục xây dựng, phát triển các HTX theo hướng mở rộng các khâu dịch

vụ, theo mô hình kinh doanh tổng hợp, vừa làm dịch vụ nông nghiệp, vừa phát

triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động thương mại dịch vụ đời sống

khác hoặc các HTX chuyên dịch vụ (dịch vụ chuyên khâu, dịch vụ tổng hợp).

- Kiên quyết giải thể các HTX kém nát, giải quyết dứt điểm tính hình thức trong

việc gia nhập và hoạt động của các HTX (không góp vốn, không góp sức...).

- Xây dựng các HTX đất đai trên cơ sở khuyến khích khai khẩn đất hoang

hoá, sử dụng hợp lý và kinh doanh đất đai có hiệu qủa. Đối với các vùng có điều

kiện nuôi trồng thuỷ sản tập trung, các vùng bãi ngang... cần làm tốt khâu qui

hoạch theo hướng tập trung, hiện đại, chú trọng tới vấn đề thuỷ lọi, xử lý môi

trường, các khâu dịch vụ hậu cần, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

- Phát triển các HTX có tính chất cao cấp như: trổng rau, hoa, quả sạch cao

cấp, nuôi con cảnh, trồng cây cảnh, chăn nuôi gia súc gia cầm theo hướng công

nghiệp để lấy thịt, trứng, sữa...

90

- ở những nơi có nhu cầu và điều kiện, người dân tự nguyện xây dựng các

HTX trên cơ sở góp vốn cổ phần bằng quyền sử dụng đất đai, tiến hành sản xuất

tập trung. Đa dạng về hình thức, có loại HTX "lỏng" với nhiều loại hình tổ chức

hợp tác, có loại HTX cổ phần chặt chẽ...

Thứ hai: Trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải

- Phát triển các HTX ở những ngành nghề và nơi có thế mạnh, có nguồn

nhân lực và nguyên liệu tại chỗ (chế biến nông - lâm sản, thực phẩm, sản xuất

công nghiệp phục vụ nông nghiệp, hàng tiêu dùng, xuất khẩu...). Giúp đỡ các

HTX hiện đại hoá trang thiết bị, đổi mới công nghệ và sản phẩm, nâng cao năng

lực và hiệu quả sản xuất.

- Chú trọng phát triển các HTX tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, tập trung

vào mở mang, phát triển các ngành nghề truyền thống, nghề mới, hàng thủ công

mỹ nghệ...

- Củng cố và phát triển các HTX khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, các

HTX xây lắp công trình, dịch vụ vận tải thuỷ, bộ... Trong đó chú trọng tăng

cường về đội ngũ cán bộ kỹ thuật, về vốn, máy móc, phương tiện thiết bị sản xuất

và công nghệ.

- Mờ rộng, phát triển các HTX cơ khí vận tải, bến bãi cho các phương tiện

vận tải... Nghiên cứu xây dựng thí điểm và từng bước phát triển mô hình HTX

nhà ở (xây dựng và kinh doanh nhà ở) nhất là ở thành phố, thị trấn.

Thứ ba: Trong ngành thương mại, dịch vụ và các lĩnh vực khác

- ở nông thôn, miển núi chú ý tới các hoạt động thương mại trong các HTX

dịch vụ tổng hợp làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho hộ nông dân và cung ứng hàng

tiêu dùng cho dân cư nông thôn và hàng chính sách cho đồng bào miền núi. ở

thành phó và các thị trấn, cần phát triển các HTX tiêu dùng, nghiên cứu xây dựng

các HTX siêu thị và mạng lưới siêu thị HTX với phương thức bán hàng vãn minh,

tiên tiến, xây dựng các HTX chợ đầu mối ở thị trường tập trung. Hiện nay, toàn

tỉnh có 147 chợ với 352.690m2, trong đó 3 chợ loại 1; 17 chợ loại 2 và 113 chợ

loại 3; 24 chợ tạm. Dự kiến đến năm 2005 có 160 chợ với tổng diện tích

91

450.000m2. Đây là cơ sở có tính chất tiền để để các HTX thương mại, với các

loại như: HTX chợ đầu mối, cung ứng, tiêu thụ hàng hoá... phát triển [30, tr.7].

- Tập trung củng cố các quỹ tín dụng nhân dân hiện có, tiếp tục thành lập

mới ở những nơi có nhu cầu và điều kiện. Mở rộng và phát triển sự liên kết giữa

các quỹ tín dụng với các loại hình HTX, kết nạp và huy động vốn nhàn rỗi của

các loại HTX khác và cho họ vay khi có nhu cầu. Hỗ trợ cho hệ thống quỹ tín

dụng trong định hướng phát triển đào tạo cán bộ, kiểm toán, cung cấp thông tin,

tư vấn...

- Tiếp tục mở rộng, phát triển mới các cơ sở kinh tế hợp tác, HTX trong các

ngành nghề khác như: dịch vụ khoa học công nghệ, môi trường, dịch vụ đời sống,

tang lễ, dịch vụ y tế và dược... Xây dựng thí điểm mô hình Liên hiệp HTX

chuyên ngành và tổng hợp với qui mô khác nhau.

3.23.2. Phương hướng phát triển theo các vùng, địa bàn trong tỉnh

Xét về mặt kinh tế và phân bổ sản xuất thì Hải Dương có thể được chia làm

4 tiểu vùng kinh tế: tiểu vùng phát triển công nghiệp - dịch v ụ - d u lịch dọc tuyến

quốc lộ 18 (nằm gọn trong huyện Chí Linh); Tiểu vùng công nghiệp sản xuất vật

liệu xây dựng Nhị Chiểu - Kinh Môn; Tiểu vùng phát triển công nghiệp nhẹ, dịch

vụ gồm các huyện chạy dọc Quốc lộ 5 và Tiểu vùng công nghiệp chế biến và

nông nghiệp gồm các huyện còn lại thuộc phía Nam của tỉnh [22, tr. 65]. Hiện

nay, tỉnh Hải Dương gồm có 01 thành phố và hàng loạt các thị trấn, huyện lỵ, thị

tứ (sắp tới hình thành thêm 2 thị xã mới). Tốc độ CNH, HĐH và đô thị hoá diễn

ra tương đối nhanh... Chính vì vậy, phương hướng phát triển các HTX cần tính

đến lợi thế của từng vùng, địa bàn, địa điểm... để trên cơ sở đó có các giải pháp

phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX. Cụ thể:

Thứ nhất: Đối với khu vực thành phố, thị trấn

- Cần chú trọng xây dựng các HTX có qui mô tương đối lớn, sản xuất tập

trung, đi đầu trong ứng dụng khoa học, công nghệ và kỹ thuật vào sản xuất. Các

HTX thuộc khu vực này phải là trung tâm thu hút nguồn lực vật chất, giải quyết

sản phẩm đầu ra cho các HTX ở vùng nông thôn, miển núi. Xây dựng các HTX dịch

vụ phục vụ cho các đối tượng dân cư khác nhau, góp phần ổn định thị trường, tập

92

hợp đông đảo những người sản xuất nhỏ lẻ, kinh doanh cá thể vào con đường làm ăn

tập thể để đổi mới bộ mặt đô thị, nếp sống văn minh, văn hoá...

- Từng bước tổ chức các hình thức kinh doanh tiên tiến trong các hoạt động

như: siêu thị HTX, trung tâm giới thiệu sản phẩm ngành nghề cho các khu vực

kinh tế hợp tác và HTX, trung tâm dịch vụ, tư vấn cho các HTX trong vùng lân

cận ở nông thôn, miền núi. Xây dựng các mô hình HTX dịch vụ cung ứng đầu

vào cho các khu, cụm công nghiệp tập trung, các tổ chức liên kết tiêu thụ sản

phẩm đầu ra cho khu vực HTX trong vùng.

Thứ hai; Đối với khu vực nông thôn, đồng bằng

- Vận động, hướng dẫn các HTX nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật

tiên tiến vào sản xuất. Mở rộng các loại hình HTX kinh doanh tổng hợp, kết hợp

giữa dịch vụ nông nghiệp với kinh doanh thương mại, phát triển ngành nghể nông

thôn.

- Chú trọng phát triển các ngành nghể truyền thống, nghể mới để giải quyết

nhu cầu việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngay trên địa bàn. Hình thành các

mô hình HTX chế biến, tổ chức cung ứng đầu vào, đầu ra cho các hộ sản xuất

tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề, dịch vụ đời sống.

Thứ ba: Đối với khu vực nông thôn miền núi (tập trung ở một sô' địa

phương thuộc 2 huyện Kinh Môn và Chí Linh)

- Tập trung tuyên truyền và hướng dẫn các thủ tục xây dựng HTX trồng cây

ãn quả, cây công nghiệp, các HTX định cư đất đai, hoặc HTX trồng rừng. Phát

triển kinh tế trang trại đổng thời với việc vận động các trang trại tham gia HTX

để cùng nhau giải quyết các dịch vụ đầu ra cho sản xuất hàng hoá.

- Tổ chức các HTX thương mại - dịch vụ theo từng xã, liên xã thuận tiện đi

lại của người dân. Tổ chức kinh doanh các mặt hàng thiết yếu cho các DN nhà

nước, tổ chức thu mua hoặc làm đại lý thu mua, có giải pháp hỗ trợ thiết thực về

vốn, đào tạo, công nghệ đối với các HTX ở vùng sâu, vùng xa.

- Xây dựng và hình thành ở các cụm hoặc các khu vực dân cư các HTX chợ

đầu mối, HTX kinh doanh tổng hợp để nhằm đáp ứng các nhu cầu khách quan từ

sản xuất và đời sống đặt ra.

93

3.3. Các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu

quả của kinh tế tập thể và hoạt động của HTX trên địa bàn tỉnh Hải Dương

trong thời gian tới.

Từ lợi thế của một tỉnh nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc, giữa

tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có nhiều thuận lợi trong phát

triển KT - XH nói chung và kinh tế tập thể nói riêng. Nhằm tranh thủ thuận lợi, vượt

qua khó khăn thử thách, triển khai và đẩy mạnh thực hiện các chương trình, đề án

trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị

quyết Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ và nhân dân đã ra sức phấn đấu giành

được kết quả to lớn, khá toàn diện về mặt KT - XH.

Để tiếp tục củng cố, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của

HTX theo tinh thần Nghị quyết 13/NQ-TW ngày 18/3/2002 của TW và Chương

trình hành động của Tỉnh uỷ. Trong thời gian tới cần tập trung thực hiện các

nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:

3.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nhằm thông nhất và nâng cao

nhận thức về kinh tế tập thể và HTX.

Thứ nhất: Các cấp uỷ Đảng các cấp cần xây dựng tuyên truyền về chủ

trương, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước về phát triển kinh tế tập

thể, về các mô hình kinh tế tập thể hoạt động có hiệu quả với những nội dung

thiết thực đi vào chiều sâu và có chất lượng tốt hơn.

Thứ hai: Đổi mới nhận thức về kinh tế hợp tác, HTX trong phát triển kinh

tế, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xác định kinh tế tập thể, mà nòng

cốt là các HTX, cùng với kinh tế nhà nước là nền tảng của KTQD. Trong cơ chế thị

trường chỉ có hợp tác trong sx, KD mới tạo ra sản phẩm hàng hoá có khối lượng lớn,

chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội, nhất là trong xu

thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Thứ ba: Phải huy động mọi lực lượng, kết hợp nhiều hình thức, sử dụng mọi

phương tiện, nhất là các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm tuyên truyền giáo

dục về truyền thống của HTX để mọi đối tượng (cán bộ, đảng viên, nhân dân)

hiểu đầy đủ những đặc trưng của HTX kiểu mới, hiểu rõ hom về mô hình pháp lý

94

HTX, xác định đúng vai trò thực sự của HTX, những nhiệm vụ và quyền lợi mà

mỗi thành viên tham gia. Từ đó nâng cao tính tự nguyện, tự giác trong quá trình

tham gia HTX, có thái độ trân trọng, bình đẳng như các thành phần kinh tế khác.

Thứ tư: Có chính sách tôn vinh các cá nhân và tổ chức kinh tế hợp tác và

HTX làm ăn giỏi, có hiệu quả, vừa nâng cao phúc lợi cho thành viên, vừa góp

phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.

3.3.2. Tổ chức qui hoạch, sắp xếp hệ thống HTX trên địa bàn nhằm đạt

mục tiêu chất lượng và hiệu quả.

Việc hình thành và hoạt động của các HTX được dựa trên cơ sở tự nguyện,

nhưng ở tầm vĩ mô, việc phát triển hệ thống HTX và đảm bảo khả năng thực hiện

vai trò của nó trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn, trong đó trọng tâm là khu vực

nông nghiệp, nông thôn, không thể là quá trình tự thân vận động, tự phát, mà cần

có sự chỉ đạo của Nhà nước. Phương châm đặt ra ở đây là phải tích cực nhưng

vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết

thực, vì sự phát triển của sản xuất, tránh duy ý chí, nóng vội, gò ép, áp đặt và trên

cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của các thành viên, gắn sự phát triển các HTX với

tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.

Vai trò của Nhà nước không chỉ đơn giản đảm bảo sự vận động của hệ

thống các đơn vị HTX mà quan trọng hơn là đảm bảo yêu cầu sử dụng hiệu quả

các nguồn lực: lao động, vốn, đất đai... cho quá trình phát triển. Do đó, toàn bộ

quá trình phát triển các HTX cần đặt trong sự chỉ đạo, qui hoạch Nhà nước trên

cơ sở kế hoạch phát triển trên các địa bàn toàn tỉnh. Cụ thể, hệ thống qui hoạch

chi phối sự phát triển kinh tế HTX bao gồm:

Thứ nhất: Qui hoạch phát triển các đơn vị kinh tế HTX theo đặc điểm KT -

XH của các tiểu vùng, các địa bàn cụ thể. Đồng thời gắn vấn đề này theo nội

dung cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Thứ hai: Qui hoạch chuyển tiếp các đơn vị HTX từ thấp đến cao theo trình

độ, qui mô hoạt động theo yêu cầu. Nhưng phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả

hoạt động của các HTX nhằm đạt mục tiêu đến năm 2005 có 50% HTX đạt loại

khá trở lên.

95

Thứ ba: Qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, lao động (năm 2005 có 100%

cán bộ chủ chốt HTX có trình độ chuyên môn từ sơ cấp trở lên). Triển khai các

dự án quốc gia, tỉnh tới HTX làm chủ dự án. Qui hoạch công nghệ triển khai cho

HTX...

Cùng với qui hoạch cần tổ chức, sắp xếp lại hệ thống các HTX theo nguyên

tắc loại thải các HTX không có khả năng HTX có hiệu quả; tiếp tục hỗ trợ,

khuyến khích các HTX làm ăn tốt hoặc đang phát huy vai trò trong các ngành,

các lĩnh vực. Nội dung tổ chức, sắp xếp lại bao gồm 2 vấn đề:

Thứ nhất: Nhà nước có biện pháp tiến hành xoá bỏ các HTX chuyển đổi,

các HTX hoạt động không hiệu quả.

Thứ hai: Nhà nước từng bước thực hiện sự tác động để dần hình thành hệ thống

ngàiih dọc của HTX theo mô hình cơ cấu nhiều tầng: cơ sở, huyện, thành phố, tính,

theo hướng chuyên môn hoá các hoạt động tổ chức sản xuất, quản lý. Hệ thống này sẽ

dần đảm nhiệm những vãh đề chiến lược trong quá trình phát triển như: định hướng các

hoạt động sx, KD, thị trường, đào tạo cán bộ, lao động...

3.3.3. Tiến hành tổng kết, củng cố, phát triển và nhân rộng những mô

hình HTX làm ăn giỏi thích ứng nhanh với cơ chế thị trường.

Đây là một yêu cầu cấp thiết, vì trên cơ sở tổng kết các mô hình HTX nhằm

tìm ra những mô hình HTX hoạt động có hiệu quả, phù hợp với từng địa bàn cụ

thể, qua đó tạo điều kiện để Nhà nước có chính sách trợ giúp. Tuy nhiên, việc

tiến hành tổng kết, nhân rộng các mô hình phải có quan điểm đúng đắn khách

quan, trong phân tích chỉ rõ những mặt tốt, những hạn chế và những nguyên

nhân, rút kinh nghiệm để hoàn thiện các mô hình kinh tế ấy. Để thực hiện giải

pháp này, cần chú ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Tiến hành lựa chọn một số HTX điển hình ở các ngành nghề lĩnh

vực khác nhau, tiến hành tổng kết về tổ chức, phương thức hoạt động... từ đó

nhân rộng ra trên các địa bàn trong tỉnh theo phương châm thận trọng, sáng tạo,

coi trọng chất lượng, hiệu quả. Bởi người dân chỉ dựa vào những điều tai nghe

mắt thấy, sức hấp dẫn, lôi cuốn là ở chất lượng, hiệu quả hoạt động chứ không

phải là ở những lòi hứa hay khẩu hiệu. Cụ thể: Liên minh HTX tỉnh cần phối hợp

96

với các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố... xây dựng mô hình HTX kiểu

mới, phấn đấu mỗi ngành, lĩnh vực có ít nhất từ 2 - 3 HTX điểm trở lên; hàng

năm có sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để nhân ra diện rộng.

Thứ hai: Tiếp tục quán triệt nội dung của Luật HTX và các văn bản pháp

luật về HTX, Nghị quyết TW 5 (khoá IX) về đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt

động của khu vực kinh tế tập thể. Làm chuyển biến mới nhận thức về HTX, tạo

ra sự thống nhất về nhận thức về đổi mới HTX đối với cán bộ, các ngành, các cấp

và người dân. Trên cơ sở đó tạo ra sự thống nhất trong hành động, có những biện

pháp tổ chức thực hiện cụ thể, thiết thực để có thể phát triển và nhân rộng các mô

hình HTX. Đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của HTX không chỉ vì mục đích xã hội

thông qua các hoạt động hỗ trợ dịch vụ sản xuất, mà phải chú trọng tới hiệu quả

sx, KD. Lấy kinh doanh làm mục tiêu cho sản xuất, không chỉ sản xuất cái mà

xã viên có thể sản xuất, mà phải sản xuất cái gì, trồng cây gì, nuôi con gì mà xã

hội cần, đáp ứng cả nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh, trong nước và tiến tới xuất

khẩu, thông qua chế biến để xuất khẩu nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mặc dù trong thời gian qua (hơn 5 năm), Liên minh HTX tỉnh, Ngân hàng

Nhà nước tỉnh Hải Dương... đã mở hàng chục lofp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ

HTX, quỹ tín dụng... Tuy nhiên, so với yêu cầu của thực tiễn còn hạn chế. Do đó

trong thời gian tới cần có nhiều lớp, loại hình bồi dưỡng, tập huấn về các mô hình

HTX mới. Nội dung tuyên truyền phải ngắn gọn, xúc tích theo từng chủ đế và

lồng ghép trong phổ biến công tác khuyến nông chuyển giao công nghệ. Cần kịp

thời tổng kết và phổ biến các HTX tiên tiến, điển hình, tổ chức các cuộc tham

quan học hỏi kinh nghiệm ở trong và ngoài nước, thậm chí chọn những xã viên

HTX, nông dân, chủ trang trại... xuất sắc ra nước ngoài tham qua, học tập kinh

nghiệm. Đây là những việc làm có ý nghĩa thiết thực, động viên tuyên truyền để

thúc đẩy kinh tế HTX phát triển trong thời gian tới.

Thứ ba: Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động và thúc đẩy việc hình thành

các tổ, nhóm hợp tác liên kết mới nhằm tạo ra những tiền đề, cơ sở vững chắc để

tiếp tục xây dựng, tổ chức và phát triển kinh tế HTX trong thời gian tới.

97

3.3.4. Thực hiện các cơ chế chính sách đối với H T X .

3.3.4.1. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và lao động.

Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt đối với việc đổi mới, phát triển và nâng

cao hiệu quả của HTX. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: Cái chìa khoá

của việc phát triển nông nghiệp là chỉnh đốn Ban quản trị HTX.

Mặc dù trong những năm qua công tác này đã có sự quan tâm nhất định,

chất lượng cán bộ quản lý HTX đã từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, một

trong những điểm hạn chế cơ bản của các HTX hiên nay là đội ngũ cán bộ còn

thiếu về số lượng, đặc biệt là yếu kém về chất lượng. Cán bộ chủ chốt (Chủ

nhiệm, Kế toán trưởng, Trưởng ban kiểm soát) phần lớn chưa được đào tạo về lý

luận, chuyên mồn nghiệp vụ; người lao động không được bồi dưỡng kiến thức về

khoa học, công nghệ, kinh nghiệm sx, KD... Đây là một trong những nguyên

nhân cơ bản dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả của các HTX. Để khắc

phục hạn chế này, giúp cho các HTX phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động,

đáp ứng yêu cầu của quá tình CNH, HĐH, Hải Dương cần ưu tiên tập trung giải

quyết một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Các ngành, các địa phương cần chủ động xây dựng qui hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và nghiệp vụ cho HTX trên cơ sở phải

thống nhất quan điểm lựa chọn cán bộ, xác lập cơ chế lợi ích với chính sách

khuyến khích cán bộ quản lý HTX. Qui hoạch đối tượng đào tạo, bồi dưỡng

không chỉ cho cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ hiện có mà cả cho lực

lượng kế cận, tạo nguồn cho tương lai.

Thứ hai: Dành một phần kinh phí thích đáng từ ngân sách của tỉnh để đào tạo

cán bộ và xác đinh đây là khoản đầu tư cần thiết cho phát triển KT - XH. Cụ thể:

- Đối với cán bộ quản lý và nghiệp vụ của HTX được cử đi đào tạo tại các

cơ sở thuộc hệ thống đào tạo của Nhà nước và của Liên minh HTX Việt Nam,

Trường cán bộ HTX và DN nhỏ... được giảm 50% học phí.

- Ngoài việc cử cán bộ đi đào tạo tập trung, các ngành phải có kế hoạch bồi

dưỡng thường xuyên thông qua các lớp ngắn hạn để cán bộ quản lý ngày càng

98

nâng cao trình độ năng lực sx, KD trong điều kiện KTTT. Kinh phí do Nhà nước

cấp 100%.

Thứ ba: Cần đa dạng hoá hình thức, kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng. Cùng

với phương thức đào tạo theo trường lớp, cần mở rộng hình thức đào tạo tại chỗ,

tại cộng đổng cho cán bộ quản lý, thợ thủ công và người lao động bằng cách

thông qua hệ thống khuyên nông, khuyến công, khuyến lâm. Nội dung đào tạo

phải phù hợp với yêu cầu hoạt động của từng đối tượng.

Thứ tư: Để có cán bộ quản lý HTX giỏi, cần thực hiện cơ chế để các xã viên

ứng cử, đề cử và bầu những người có năng lực, phẩm chất, có kinh nghiệm tham

gia quản lý HTX. Có như vậy mới bảo đảm, tôn trọng nguyên tắc hợp tác hoá gắn liền

với dân chủ hoá. Cơ chế này sẽ tạo ra những cán bộ quản lý thực sự có tâm huyết, gắn

bó với HTX, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Thường xuyên tổng kết những điển hình quản lý giỏi. Đồng thời phải có

chính sách đãi ngộ thích đáng. Hiện nay, do quan hệ sở hữu và quản lý còn nhiều

hạn chế, nên phân phối trong HTX đang chứa đựng mâu thuẫn. Ví dụ: mức tiền

công của Chủ nhiệm HTX thường bị giới hạn mức tiền lương của Chủ tịch UBND

xâ, trong khi Chủ nhiệm HTX không phải là cán bộ xã. Do đó, trong thời gian tới

các HTX cần căn cứ vào kết quả sx, KD và điều lệ HTX tự quyết định mức lương

cho các chức danh cán bộ quản lý, mức tiền công trả cho người lao động, thù lao

trả cho xã viên và quyết định các quan hệ phân phối khác trong nội bộ đơn vị mà

không bị giới hạn bởi bất kỳ một quan hệ phân phối nào ở địa phương. Có như

vậy mới tạo ra động lực về lợi ích cho các chủ thể.

Thứ năm: Đối với cán bộ quản lý và khoa học kỹ thuật được tăng cường về công

tác HTX trong một thời gian nhất định, được giữ nguyên lương và chế độ bảo hiểm xã

hội, được tính phụ cấp gắn với hiệu quả sx, KD của HTX.

Thứ sáu: Thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với xã viên HTX và người

lao động làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công qui định tại Bộ luật

lao động; các thành viên khác không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tạo

điều kiện để tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo nhu cầu.

99

3.3.4.2. Vấn đ ề đất đai, đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng.

Thứ nhất: v ề đất đai

- Tiếp tục tổ chức thực hiện thắng lợi đề án "Hướng dẫn nông dân chuyển

đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn". Đồng thời triển khai đo đạc lập

bản đồ địa chính và cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ

sau khi chuyển đổi ruộng đất. Xây dựng hệ thống lưu trữ hồ sơ địa chính ở cả 3

cấp (tỉnh, huyện, xã).

- Giao đất không thu tiền và cấp giấy chứngnhận quyền sử dụng đất cho

HTX nông nghiệp để xây dựng trụ sở, làm cơ sở s x , KD. Không chỉ miễn tiền

thuê đất chuyên dùng cho các HTX ở miền núi như Thông tư 44/1999/TT-BTC,

mà còn miễn cho tất cả các HTX ở nông thôn, vì diện tích đất chuyên dùng của

các HTX này còn rất nhỏ.

- Các HTX phi nông nghiệp mới thành lập được giảm mức tiền thuê đất

trong thời gian 5 năm và được nộp tiền thuê đất nhiều lần. HTX có diện tích đất

chuyên dùng do xã viên đóng góp, nay đăng ký lại theo Luật HTX thì không phải

chuyển sang thuê đất, vì đây thực chất là đất chuyên dùng mà HTX đã nhận

chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ xã viên (khoản 1 điều 27, Nghị định

44/2000/NĐ-CP ngày 11/2/2000).

- Xã viên có quyền góp vốn cổ phần vào HTX bằng giá trị quyền sử dụng

đất. Vì Luật đất đai cho phép thu tiền khi chuyển nhượng sử dụng đất và trong cơ

chế thị trường quyền sử dụng đất được coi là một tài sản có giá trị để thế chấp

vay vốn.

- Đất do các HTX đầu tư khai phá, tôn tạo, khi Nhà nước chuyển sang chế

độ cho thuê đất, cần trả lại chi phí khai phá cho HTX.

Thứ hai: v ề đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng

Nhà nước hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, công trình

thuỷ lợi... Đặc biệt cho nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH, phát

triển sản xuất hàng hoá lớn, tạo điều kiện cho sự phát triển của hệ thống HTX.

Cụ thể:

100

- Tập trung triển khai các đề án về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông

nghiệp nông thôn như: đề án "Phát triển giao thông nông thôn", "kiên cố hoá 850

- 1000 km kênh mương lưới", "Nước sạch và vệ sinh môi trường", đề án "Xây

dựng mô hình tổ chức và quản lý điện nông thôn"...

Ví dụ: Đến tháng 10/2003, vẫn còn 24 xã (9,74%) chưa chuyển đổi sang mô

hình quản lý điện theo nội dung đề án "Mô hình tổ chức quản lý điện nông thôn".

Đặc biệt, còn 35 xã (14,8% số xã) vẫn bán điện vượt giá trần theo qui định của

Chính phủ (trên 700đ/l KW).

- Tiếp tục triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ xã nghèo, các xã vùng

sâu, vùng xa đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng như điện, đường, trường, trạm...

33.4.3. Về tài chính - tín dụng.

Thứ nhất: Cần có chính sách tạo vốn cho HTX với một hệ thống các biện

pháp bảo đảm tính khả thi của chính sách đó.

Vốn là yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động s x , KD của các HTX. Chỉ

có huy động tập trung ngày càng nhiều và bố trí sử dụng hiệu quả theo cơ cấu

hợp lý các nguồn vốn đầu tư mới tạo được "cú huých" mạnh đẩy khu vực này ra

khỏi tình trạng trì trệ hiện nay. Do đó trong thời gian tới cần tập trung giải quyết

một số vấn đề sau:

- Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sử

dụng đất... của các thành viên để tăng vốn kinh doanh cho HTX. Giao lại tài sản

của HTX cũ và tài sản của Nhà nước giao cho HTX sử dụng trước đây cho các

HTX chuyển đổi làm vốn không chia thuộc sở hữu chung. Thực hiện việc cho các

HTX tổ chức tín dụng trong nội bộ HTX theo qui định của Luật các tổ chức tín

dụng.

- Ngoài cho vay thông thường, cần cho HTX hưởng các chính sách vay ưu

đãi như: vay khuyến khích đầu tư, vay theo chính sách của Nhà nước, coi phát

triển HTX là một chương trình ưu tiên. HTX được vay vốn từ các chương trình,

dự án quốc gia, của tỉnh và các tổ chức phi chính phủ; được làm chủ một số dự án

phát triển nông nghiệp, nông thôn để tiếp nhận và sử dụng vốn, như: chương trình

101

mục tiêu xoá đói giảm nghèo, chương trình quốc gia hỗ trợ việc làm, chương

trình khuyến nông, khuyến công, khôi phục phát triển làng nghề.

- Cần coi HTX là một loại hình DN, hơn nữa là DN đặc thù đang được

khuyến khích phát triển, do đó các tổ chức tín dụng cần tăng mức cho vay, tạo

thuận lợi về thủ tục cho vay. Các HTX được thế chấp bằng tài sản hình thành từ

nguồn vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay bằng tín chấp và vay theo các dự

án sx , KD được duyệt.

- Xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển HTX để xử lý rủi ro nảy sinh trong quá

trình s x , KD của HTX. Quỹ này hình thành từ các nguồn: ngân sách nhà nước, sự

đóng góp của các HTX và xã viên, viện trợ... Quỹ này được đặt trong quỹ hỗ trợ

phát triển từ TW, tỉnh và huyện. Xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng cho HTX, quỹ này

hình thành ở cấp tỉnh và có chi nhánh ở cấp huyện và giao cho quỹ hỗ trợ phát triển

của tỉnh trực tiếp quản lý và điều hành.

- Ngân hàng nhà nước tăng cường quản lý và củng cố hệ thống quỹ tín dụng

nhân dân hiện có và phát triển mới ở những nơi có đủ điều kiện.

- Cần tập trung, thống nhất quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các nguồn

vốn đối với nông nghiệp, nông thôn và các HTX. Xoá bỏ tình trạng nhiều đầu

mối, nhiều nấc thang trung gian trong quản lý vốn. Xây dựng cơ chế giám sát,

kiểm tra chặt chẽ các đầu mối cho vay và hỗ trợ vốn đối với HTX nhằm loại trừ

các hiện tượng tiêu cực.

Thứ hai: v ể chính sách thuế

- Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền đến nãm 2010 cho hộ

nông dân. Miễn thuế thu nhập DN trong thời gian 5 năm đối với các HTX nông

nghiệp mới chuyển đổi hoặc mới thành lập.

- Miễn các loại thuế cho HTX dịch vụ nông nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng

vật tư, chế biến, tiêu thụ nông sản cho hộ xã viên và nông dân.

- Miễn thuế thu nhập đối với quỹ tín dụng nhân dân.

- Miễn giảm thuế thu nhập DN cho các HTX công nghiệp, giao thông và

xây dựng để tạo sức cạnh tranh với các DN khác.

Thứ ba: Xử lý nợ tồn đọng cũ và lành mạnh tài chính HTX

102

Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của HTX nông nghiệp từ năm 1996 trở về trước

theo quyết định 146/200 l/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và tích cực thu hồi nợ

để bổ sung vốn, hạn chế thấp nhất nợ mới phát sinh. Khẩn trương thu đủ vốn góp

của xã viên, không để tình trạng vốn chỉ ghi tên trong danh sách điều lệ. Tiếp tục

xem xét để xử lý nợ tồn đọng cho HTX phi nông nghiệp.

3.3.44. Hỗ trợ về khoa học - công nghệ

Thứ nhất: Thực hiện chính sách hỗ trợ các HTX ứng dụng khoa học - công

nghệ vào sx, KD, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế

biến, công nghệ thông tin... thông qua các hoạt động của hệ thống khuyến nông,

công, lâm. Thực tiễn những năm qua cho thấy đây thực sự là một cuộc cách

mạng ở nông nghiệp, nông thôn Hải Dương, nó đã góp phần đẩy mạnh việc áp

dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, tạo nên diện mạo mới

cho nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.

Thứ hai: Đầu tư nâng cấp các trường đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng

khu vực nông nghiệp, nông thôn. Khuyến khích các cơ quan nghiên cứu khoa học

- công nghệ liên kết với HTX sản xuất, chuyển giao các thành tựu khoa học mới

cho HTX nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới.

Thứ ba: Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản,

nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề... Hướng dẫn giúp đỡ các HTX tiểu

thủ công nghiệp đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, hạ giá thành, nâng

cao sức cạnh tranh.

3.3.4.5. Hỗ trợ công tác tiếp thị và mở rộng thị trường

Hoạt động trong cơ chế thị trường sản xuất phải gắn liền với thị trường để

làm ra những sản phẩm với số lượng, chất lượng và thời gian mà thị trường cần.

Trong thời gian qua, phần lớn các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của khu vực

kinh tế của HTX chất lượng thấp, giá thành còn cao, sức cạnh tranh yếu. Tuy

nhiên, quá trình hình thành và phát triển các loại hình HTX của tỉnh đã góp phần

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, gắn với nhu

cầu của thị trường. Để hoạt động của các HTX có hiệu quả hơn, đóng góp nhiều

103

hon vào phát triển KT - XH, cần thực hiện tốt chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở

rộng thị trường với một số công việc sau:

Thứ nhất: Các ngành, các địa phương, các hiệp hội nghề nghiệp và Liên

minh HTX tỉnh cần hỗ trợ các HTX xúc tiến thương mại, kịp thời cung cấp thông

tin, tìm kiếm thị trường, tổ chức các hình thức giới thiệu sản phẩm ở trong và

ngoài nước phù hợp với trình độ hiện đại và xu thế phát triển của các HTX. Cụ

thê như: thực hiện đề án "Khai thác và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản,

thực phẩm và sản phẩm mũi nhọn của tỉnh"; giúp cho HTX và các thành viên

tham gia các hội chợ triển lãm; tổ chức tham quan, tiếp cận, khảo sát, tìm kiếm

đối tác; thành lập Phòng xúc tiến thương mại (hoặc Trung tâm nghiên cứu thị

trường) để tổ chức dịch vụ tư vấn, tiếp thị...

Thứ hai: Thực hiện rộng rãi việc ký kết hợp đồng trực tiếp giữa các DN chế

biến và tiêu thụ nông sản, thực phẩm với người dân (nhất là đối với nông dân)

qua HTX, nhằm giúp các hộ xã viên mua được các yếu tố đầu vào cho sản xuất

đảm bảo chất lượng với giá thấp và bán đầu ra với giá cao, giảm bớt những ảnh

hưởng bất lợi của tự nhiên và thị trường đối với sản xuất.

Mạng lưới cung ứng liên kết cần tổ chức theo những phương thức thích hợp

như: các DN cung ứng vật tư phân bón, hướng dẫn qui trình kỹ thuật và thu mua

sản phẩm cho HTX theo các hợp đồng dài hạn đối với những sản phẩm có khối

lượng lớn và có chế độ ưu đãi với các DN này... Có như vậy mới nâng cao được

hiệu quả khâu lưu thông phục vụ cho sản xuất, đây cũng là một trong những cách

phát huy nội lực để phát triển kinh tế. Mạng lưới cung ứng và bao tiêu về cơ bản

nên theo mô hình liên kết giữa công - nông - thương - tín - dịch vụ, tuy nhiên cần

chú ý tới sự bảo đảm, sự ràng buộc chặt chẽ về lợi ích trong liên kết giữa kinh tế

hộ, xã viên với HTX và các DN.

Thứ ba: Cần khuyến khích xã viên và HTX sản xuất nguyên liệu mua cổ

phần, trở thành cổ đông của các DN chế biến và tiêu thụ sản phẩm, nhằm tăng

khả năng liên kết và hỗ trợ, phát huy các lợi thế.

104

3.3.5. Cần táng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, nâng cao vai trò

quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Liên minh HTX và các đoàn thể

nhân dân, tổ chức KT - XH.

3.3.5.1. Cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảnẹ trong quá trình

đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của HTX.

Thứ nhất: Các cấp uỷ Đảng có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công

tác tuyên truyền, học tập quán triệt các Nghị quyết của Đảng và pháp luật về

HTX như: Nghị quyết TW 5 (khoá IX), Chương trình hành động thực hiện Nghị

quyết TW 5 về tiếp tục đổi mói, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể của

Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, nhằm tạo ra sự chuyển biến về nhận thức vị trí, vai trò

của kinh tế tập thể cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thứ hai: Nâng cao vai trò trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng đối với sự phát

triển của HTX nói riêng và kinh tế tập thể nói chung. Các cấp cần có các chương

trình hành động và kế hoạch cụ thể để tổ chức thực hiện tốt việc xây dựng, củng cố

và nâng cao chất lượng hoạt động của các HTX. Thường xuyên kiểm tra, tổng kết,

nhân rộng các mô hình HTX hoạt động có hiệu quả.

Thứ ba: Những HTX có đủ điều kiện để thành lập các tổ chức Đảng, đoàn

thể, quần chúng thì tạo điều kiên để HTX thành lập các tổ chức này, nhằm đảm

bảo vai trò lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với hoạt động của HTX, tính độc lập

tương đối của các tổ chức này trong hoạt động của HTX đối với các tổ chức

chính trị - xã hội ở nông thôn, xã, phường, thị trấn.

33.5.2. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tếHTX

Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với

kinh tế tập thể nói chung và HTX nói riêng. Cụ thể hoá hơn nữa nhiệm vụ quản

lý nhà nước cho các cấp, các ngành theo tinh thần Nghị định số 02/1997/NĐ-CP

ngày 02/1/1997 của Chính phủ vể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý

nhà nước đối với HTX; Nghị quyết 13/NQ-TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị

BCH TW Đảng lần thứ 5 (khoá IX) và Chương trình hành động số 20/CTr-TU

ngày 01/6/2002 của Tỉnh uỷ vể tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

kinh tế tập thể.

105

Thứ nhất: Trong tổng biên chế hành chính của tỉnh, cần điều chỉnh để bố trí

thêm cán bộ quản lý HTX ở cấp tỉnh và cấp huyện. Cụ thể, cần tăng cường số

lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với HTX ở các phòng

chức năng quản lý của các sở, ngành và các Phòng nông nghiệp và phát triển

nông thôn thuộc ƯBND các huyện, thành phố.

Thứ hai: Qui định rõ chức năng, nhiệm vụ cho từng cơ quan, đơn vị và cá

nhân ở các cấp đối với hoạt động của kinh tế HTX. Cụ thể:

- UBND tỉnh cần có 01 đồng chí Phó chủ tịch tỉnh trực tiếp phụ trách, có bộ

phận giúp việc để chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể nói chung và HTX nói riêng.

- Các Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Công nghiệp, Sở Xây

dựng, Sở thương mại du lịch, Sở giao thông vận tải., phối hợp với các cấp, các

ngành có liên quan thường xuyên thực hiện việc rà soát, phân loại các HTX hiện

có thuộc ngành mình quản lý để nắm được thực trạng hoạt động của các HTX,

tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, xây dựng mô hình HTX kiểu mới, nhân rộng các

mô hình hoạt động có hiệu quả, có những giải pháp hữu hiệu để giúp đỡ, hỗ trợ

và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để các HTX phát

triển. Phấn đấu giảm tỷ lệ HTX yếu kém, tăng tỷ lệ HTX khá giỏi (năm 2005 có

50% số HTX khá trở lên). Tiến hành xem xét giải thể những HTX không hoạt

động hoặc hoạt động hình thức, không còn khả năng củng cố.

- Các sở, ngành có nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bổi dưỡng cán bộ HTX tiếp

tục thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đã được duyệt. Đảm bảo đến hết năm

2005 có 100% cán bộ HTX có trình độ sơ cấp trở lên, đồng thời đa dạng hoá loại

hình đào tạo.

- Các Sở tài chính vật, giá, Sở tài nguyên môi trường, Sở khoa học công

nghệ, Cục thuế tỉnh... tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách hiện hành về

khuyến khích phát triển HTX như: về cho thuê đất, miễn giảm thuế sử dụng đất,

cho vay vốn ưu đãi, hỗ trợ khoa học công nghệ... theo tinh thần Nghị định số

15/1997/NĐ-CP ngày 21/2/1997 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát

triển HTX, nhằm đảm bảo cho các HTX được hưởng tối đa những ưu đãi của Nhà

106

nước và những ưu đãi của tỉnh, phù hợp với điều kiện KT - XH của Hải Dương,

nhất là các HTX dịch vụ nông nghiệp.

Thứ ba: Thường xuyên kiểm tra, rà soát lại các chính sách do tỉnh ban hành

có liên quan đến HTX để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các văn bản pháp luật

có liên quan. Đánh giá kết quả thực hiện ở các cấp, các ngành chức năng, từ đó

có biện pháp chấn chỉnh ngay những mặt còn yếu kém, khiếm khuyết trong việc

thực hiện các Nghị quyết của Đảng và luật pháp về HTX.

3.3.5.3.

Phát huy vai trò của Liên minh HTXtỉnh và các đoàn thể nhân dân,

các tổ chức KT - XH trong phát triển HTX

Thứ nhất: Cần củng cố tổ chức, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

vai trò trách nhiệm để nâng cao năng lực, hiộu quả hoạt động của Liên minh

HTX trong việc phát triển HTX Theo hướng tổ chức thực hiện tốt 5 chức năng, 8

nhiệm vụ trong qui chế hoạt động của Liên minh HTX tỉnh đã được UBND tỉnh

chuẩn y ngày 21/3/2001 tại quyết định số 568/QĐ-UB, để Liên minh HTX tỉnh thực

sự là ngôi nhà chung cho các đơn vị thành viên, là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước

với khu vực kinh tế hợp tác, HTX của tỉnh.

Ngoài việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chính, trong thời gian tới, cần

độc biệt chú trọng giải quyết một số vấn đề đặt ra như:

- Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng và cơ bản hơn về vấn đề HTX, Luật HTX,

làm chuyển biến mạnh nhận thức về HTX, xoá bỏ mặc cảm và cách hiểu sai lệch

về HTX.

- Coi trọng việc củng cố kiện toàn các HTX sau chuyển đổi để HTX từng

bước phát triển đúng hướng. Triển khai tích cực và có hiệu quả công tác hỗ trợ

cho HTX. Tăng cưòmg thêm thành viên mới (hiện chỉ có 1/5 số HTX tham gia

Liên minh HTX tỉnh).

- Tập trung củng cố tổ chức, tăng cường cán bộ, nâng cao chế độ trách

nhiệm, kiện toàn bộ phận giúp việc, hình thành thêm một số bộ phận như: tổ

chức phong trào, quan hệ quốc tế, xúc tiến thương mại, quỹ hỗ trợ phát triển để

mở rộng phạm vi hoạt động trên một số lĩnh vực như: xúc tiến thương mại, đào

107

tạo nghề, tổ chức hội thảo, hội chợ, giới thiệu sản phẩm, mở rộng quan hệ tìm

kiếm bạn hàng, mở rộng hoạt động trong một số lĩnh vực công.

Thứ hai: Phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội,

các hội nghề nghiệp... trong quá trình phát triển HTX. Bởi vì, sức mạnh của nhân

dân, của cộng đồng được tập hợp trong các đoàn thể quần chúng, do đó kinh tế

hợp tác và HTX chỉ có thể phát triển mạnh mẽ nếu động viên được các đoàn thể

tham gia tích cực vào quá trình thực hiên chủ trương, chính sách, luật pháp về HTX

như: công tác vận động, giáo dục quần chúng tự nguyện tham gia vào HTX, phát

huy vai trò làm chủ trong các tổ chức này.

Tóm lạ i:

Nhận thức rõ xu hướng tất yếu khách quan và vai trò quan trọng của HTX,

sự phái triển của nó không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà cả về chính trị, xã

hội. Việc củng cố, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các

HTX là sự cụ thể hoá đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định

hướng XHCN.

Từ thực tiễn hoạt động của các HTX ở Hải Dương, nhất là từ khi thực hiện

Luật HTX đến nay, đồng thời nhằm quán triệt sâu sắc thêm những quan điểm của

Đảng về kinh tế tập thể, về HTX và để triển khai thực hiện các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước trong điều kiện ở Hải Dương, trong thời gian tới, trên

cơ sở phương hướng đã được xác định, cần đặc biệt chú ý và thực hiện tốt một số

giải pháp chủ yếu như: Tạo ra một sự nhận thức mới về kinh tế HTX; tổ chức quy

hoạch và sắp xếp một cách hợp lý hệ thống HTX; củng cố, phát triển và nhân

rộng những mô hình HTX mói hoạt động có hiệu quả; quan tâm đúng mức tới

việc đào tạo cán bộ và lao động cho HTX; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ

HTX; nâng cao sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước.

108

PHẨN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

HTX là loại hình tổ chức kinh tế đã tồn tại hàng thế kỷ và phát triển ở hầu

hết các nước trên thế giới. Tại nhiều nước, phong trào HTX phát triển rất mạnh,

có những đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế. Ở Việt Nam, ngay sau

khi cách mạng dân tộc dân chủ thành công, miền Bắc được giải phóng, Đảng và

Nhà nước đã coi trọng xây dựng và phát triển HTX trong các ngành kinh tế, xác

định kinh tế tập thể, mà nòng cốt là các HTX, cùng với kinh tế nhà nước trở

thành nền tảng của KTQD.

Trải qua nửa thế kỷ, phong trào HTX ở Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ

phát triển thăng trầm khác nhau, có thòi kỳ phát triển rầm rộ, có những đóng góp

to lớn cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, đấu tranh thống nhất đất

nước. Tuy nhiên, khi chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang

KTTT các HTX lâm vào thòi kỳ khủng hoảng, trì trệ, phát huy tác dụng kém, và

tan rã. Nhưng không vì thế mà phủ nhận tính tất yếu và những ưu thế của HTX.

Sở dĩ các HTX kiểu cũ trì trệ, phát huy tác dụng kém và tan rã có nhiều ỉý do,

trong đó có những vấn đề như: không tôn trọng tính tự chủ, lợi ích thiết thân của

các thành viên, của kinh tế hộ; không tuân thủ các điều kiện cơ bản của hợp tác

lao động và những nguyên tắc của hợp tác hoá.

Cùng với đà phát triển của sản xuất hàng hoá, của KTTT, trình độ xã hội

hoá sản xuất diễn ra ngày càng sâu rộng thì kinh tế hộ, cá thể, nhỏ lẻ cũng bộc lộ

những hạn chế mà họ không thể tự giải quyết hoặc làm không có hiệu quả. Chỉ

có thông qua những hình thức hợp tác, phát triển các HTX phù hợp mới có điều

kiện phát huy những ưu tế, cũng như khắc phục những hạn chế để sx, KD có

hiệu quả.

Thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền KTTT định hướng XHCN,

Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp để thúc đẩy

sự phát triển của các HTX. Tuy nhiên, sự chuyển biến, phát triển của các HTX

còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng.

109

Hải Dương là một tỉnh có nhiều thuận lợi trong phát triển KT - XH, có lịch

sử phong trào HTX phát triển khá mạnh. Thực trạng hoạt động của các HTX

trong thời gian qua đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Việc khắc phục những

nhược điểm của mô hình kiểu cũ, hình thành và phát triển của các mô hình HTX

kiểu mới là một tất yếu. Tuy nhiên, sự phát triển của các HTX bị tác động rất

nhiều các nhân tố khác nhau: trình độ phát triển của LLSX, sự tác động về mặt vĩ

mô của Nhà nước, mức độ phát triển của thị trường và nhận thức của các tầng lófp

nhân dân, của kinh tế hộ...

Từ năm 1986, nhất là từ 1996 đến nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh

uỷ và UBND tỉnh, các huyện, thành phố đã tiến hành củng cố, chuyển đổi và

đăng ký thành lập mới cho HTX theo nội dung Luật HTX qui định. Qua quá trình

chuyển đổi, một số HTX đã đứng vững, ổn định và hoạt động có hiệu quả; một số

hoạt động kém hiệu quả phải giải thể. Đặc biệt, đã xuất hiện một số mô hình mới

(tuy thòi gian còn ngắn để khẳng định), nhưng đó là những mô hình làm ăn có hiệu

quả và có triển vọng trong tương lai. Tuy vậy, việc phát triển HTX ở Hải Dương

cũng gặp phải nhiều khó khăn về vốn sx, KD, về cơ sở vật chất kỹ thuật, về trình độ

cán bộ, sức ép của cạnh tranh...

Để củng cố, phát triển và nhân rộng các mô hình HTX kiểu mới có hiệu

quả, cần nắm vững nội dung định hướng phát triển như: phát triển HTX phải phù

hợp với hình thức, mức độ yêu cầu cấp thiết của hộ xã viên; phát triển HTX phải

phù hợp với qui luật kinh tế khách quan; bảo đảm các nguyên tắc tập thể hoá, phải

theo cơ chế thị trường và có sự hỗ trợ của Nhà nước; phải phù hợp với điều kiện,

tiềm năng, đặc điểm của từng vùng, từng địa bàn trong tỉnh.

Trên cơ sở các phương hướng đó, cần thực hiện tốt những giải pháp cơ bản

sau: Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nhằm thống nhất và nâng cao nhận thức về

kinh tế tập thể, về HTX; tổ chức qui hoạch, sắp xếp hệ thống kinh tế HTX trên

địa bàn nhằm đạt mục tiêu chất lượng và hiệu quả; tiến hành tổng kết, củng cố,

phát triển và nhân rộng các mô hình HTX hoạt động hiệu quả; thực hiện đầy đủ,

có hiệu quả các cơ chế chính sách đối với HTX như: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

và lao động, về đất đai, đầu tư, tài chính tín dụng, thị trường, khoa học - công

110

nghệ... Đồng thời cẩn tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, vai trò quản

lý của Nhà nước, vai trò của Liên minh HTX và các đoàn thể nhân dân, tổ chức

KT -XH.

Bên cạnh việc thực hiện tốt những phương hướng và giải pháp trên đây cần

thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, học tập kinh nghiệm từ các địa phương

khác và trên thế giới (kể cả thành công và chưa thành công), nhất định các HTX

ở Hải Dương sẽ phát triển đúng qui luật và góp phần phát triển KT -XH của tỉnh.

Từ tình hình phát triển ở Hải Dương và để tiếp tục củng cố, đổi mới, phát

triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX, Luận văn nêu ra một số kiến

nghị sau đây:

Thứ nhất: Cần tiếp tục khẳng định chủ trương phát triển kinh tế tập thể mà

nòng cốt là HTX. Coi vấn đề phát triển HTX là một trong những vấn đề có tính

chiến lược lâu dài trong phát triển KT-XH, là sự cụ thể hoá đường lối, chủ trương

phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Coi sự ưu đãi, hỗ

trợ của Nhà nước về tài chính, kỹ thuật, quản lý... đối với HTX là một yêu cầu khách

quan, bắt nguồn từ lợi ích chung của nền KTQD, của các thành phần kinh tế.

Thứ hai: Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp qui về quản lý và chính sách hỗ

trợ phát triển HTX như: sửa đổi và bổ sung Luật và điều lệ mẫu HTX cho phù

họp với Nghị quyết TW 5 và tình hình thực tế hiện nay; ban hành và hướng dẫn

thực hiện chính sách cho cán bộ, xã viên HTX đóng bảo hiểm xã hội; thành lập

quỹ bảo lãnh tín dụng cho HTX vay vốn, quỹ hỗ trợ HTX mở rộng dịch vụ, đưa

khoa học và tiến bộ vào sản xuất, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn;

chế độ quản lý tài chính HTX... Đồng thời tiến hành rà soát và điều chỉnh các

văn bản pháp qui từ cấp TW đến tỉnh, huyện có liên quan tới HTX để tạo điều

kiện cho HTX phát triển và thực hiện đúng chủ trương của Đảng và đúng luật.

Thứ ba: Tổ chức lại thị trường, giúp các HTX chế biến và tiêu thụ sản phẩm

hàng hoá. Trước hết, Nhà nước tổ chức, quản lý tốt thị trường nội địa để hàng hoá

(nhất là nông sản) được lưu thông thuận tiện, chống mọi biểu hiện chia cắt thị

trường, gây tình trạng mất cân đối cung - cầu, cung vượt cầu giả tạo trong từng

khu vực và cả nước. Nhà nước tổ chức tiếp cận thị trường và hỗ trợ các HTX sx,

111

KD theo định hướng của Nhà nước, gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất với chế biến

và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Qua đó, tăng cường điều tiết vĩ mô quan hệ cung

- cầu nội địa và xuất nhập khẩu đối với một số nông sản quan trọng.

Thứ tư: Định biên cán bộ quản lý nhà nước các cấp tỉnh, huyện. Hoàn thiện

hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX. Các ngành, các cấp cần

xây dựng kế hoạch, đề án nhằm phát triển HTX phù hợp với điều kiện cụ thể. Qui

định một cách chặt chẽ, cụ thể về mối quan hệ trách nhiệm giữa Nhà nước với

các đoàn thể quần chúng và Liên minh HTX trong quản lý nhà nước đối với

HTX. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn HTX thực hiện các

chủ trương, chính sách của Nhà nước. Động viên kịp thời những HTX thực hiện

tốt, đồng thời xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật với một chế tài đủ

mạnh.

Nói tóm lại, phát triển HTX là một nội dung rộng, phức tạp. Trong khuôn

khổ một Luận văn thạc sĩ kinh tế và còn có những giới hạn nhất định. Do đó

Luận văn không thể đề cập hết các vấn đề liên quan tới HTX ở Hải Dương. Tuy

nhiên, những vấn đề mà Luận văn đã đề cập, sẽ là một tiền đề quan trọng để tiếp

tục nghiên cứu tiếp. Vì vậy, việc hoàn thành Luận văn, hy vọng sẽ góp phần nhỏ

tác động tới sự chuyển biến mới đối với HTX, góp phần vào quá trình CNH,

HĐH và phát triển KT-XH của tỉnh, góp phần xây dựng Hải Dương giàu đẹp, văn

minh, hiện đại.

112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] - Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hải Dương (12/2003), Thông báo nội bộ,

Số 83, trang 3.

[2] - Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hải Dương (01/2004), Thông báo nội bộ,

Số 84, trang 2.

[3] - Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hải Dương (02/2004), Thông báo nội bộ,

Số 85, trang 8.

[4] - Báo Hải Dương (2/1/2004): Số 4878, trang 1 - 2

[5] - Hoàng Bình (7/2003), Tình hình kinh tế hợp tác, HTXỎ Hải Dương, các giải pháp thực hiện chương trình hoạt động của Tỉnh uỷ Hải Dương vê

đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế, Hội thảo về phát triển kinh tế HTX trong cơ chế thị trường qua kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam (tổ chức tại Hải Dương).

[6] - Nguyễn Văn Bích (1997), Phát triển và đổi mới quản lý HTX theo Luật

HTX., Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[7] - Công báo, số 4, ngày 4/1/2004.

[8] - Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[9] - Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Các Nghị quyết Trung ương 5 Hội nghị lần thứ5 BCH.TW Đảng khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.

[10] - Nguyễn Điền (1996), Kỉnh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn

trên thế giới và Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.

[11] - Trần Thanh Hà (2000), Kinh tế hợp tác trong nền KTTT ở Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[12] - Nguyễn Đình Hợi (1995), Xu hướng biến đổi của HTX nông nghiệp trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội.

[13] - V. I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Matxcova

[14] - V. I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Matxcova

[15] - Liên minh HTX tỉnh Hải Dương (2002), Báo cáo tình hình kinh tế hợp tác và HTX và hoạt độnq của Liên minh HTXtỉnh Hải Dươnẹ năm 2001

và phương hướnẹ nhiệm vụ cônẹ tác năm 2002.

[16] - Liên minh HTX tỉnh Hải Dương (12/2003), Tình hình kinh tế hợp tác,

HTX và hoạt động của Liên minh HTX tỉnh năm 2002; phương hướng

nhiệm vụ cônẹ tác năm 2003.

[17] - Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

[18] - Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[ 19] - Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[20] - Hổ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[21] - Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (1996), Luật Hợp tác xã.

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[22J - Phạm Đức Minh (2002), Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Hải Dương - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

[23] - Vũ Thị Nên (2000), Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác nông nghiệp ở An Giang, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội.

[24] - Vũ Văn Phúc (12/2002), "Kinh tế hợp tác trong giai đoạn mới hiện

nay", Nghiên cứu kinh tế, số 295, trang 44.

[25] - Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn (2002), Báo cáo tình hình và kết

quả hoạt động của HTX nông nghiệp và những giải pháp tiếp tục nâng

cao chất lượng hoạt động của các HTXnông nghiệp theo Luật.

[26] - Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn (1/2003), Báo cáo tình hình

HTX nông nghiệp sau ỉ năm thực hiện Nghị quyết 13/NQ-TW của

BCH.TW Đang khoá IX,.

[27] - Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn (6/2003), Báo cáo kết quả sx -

KD của HTXnông nghiệp năm 2002.

[28] - Trường cán bộ HTX và DN nhỏ (2003), Tài liệu dùng cho lớp bồi dưỡng

cán bộ quản lý kinh tếHTX, (Lưu hành nội bộ).

[29] - Tỉnh uỷ Hải Dương (7/2001), Báo cáo tổnẹ kết kinh tế hợp tác và HTX

5 năm (1996 - 2000).

[30J - Tỉnh uỷ Hải Dương (10/2001), Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ đáp ứnẹ yêu cầu phục vụ s x - KD và đời sống của tỉnh Hải Dươnẹ thỏi kỳ

2001-2005.

[31] - Tỉnh uỷ Hải Dương (2002), Chương trình hành động thực hiện Nghị

quyết TW 5 BCH.TW Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Số 20/CTr - TƯ.

[32] - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (1996), Kinh nghiệm của một số

HTX riêu biểu trong các ngành kinh tế, Hà nội.

[33] - B. Las Berg (2003), Một số thông tin vê tình hình phát triển HTX ở các nước trên thế giới, Báo cáo tại Hội thảo phát triển HTX trong cơ chế thị trường qua kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam (tổ chức tại Hải Dương).