ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------------
NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội - Năm 2010
MỤC LỤC
Trang
i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ii DANH MỤC CÁC BẢNG
ii DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
1 MỞ ĐẦU
7 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU
LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
1.1. Du lịch và các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch 7
1.1.1. Khái niệm về du lịch 7
1.1.2. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó 10
1.1.3. Các loại hình du lịch 12
1.1.4. Các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch 15
1.2. Kinh tế du lịch và phát triển kinh tế du lịch 16
1.2.1. Kinh tế du lịch 16
1.2.2. Phát triển kinh tế du lịch 22
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch tại một số địa phương ở nước ta 35
1.3.1. Khái quát tình hình phát triển của ngành du lịch Việt Nam 35
1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch của một số địa phương 40
48 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở
TỈNH LÀO CAI
2.1. Tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Lào Cai 48
2.1.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Lào Cai 48
55
2.1.2. Nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh Lào Cai 2.2. Thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai 60
2.2.1. Cơ cấu tổ chức và quản lý Nhà nước về du lịch 60
2.2.2. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực du lịch 64
2.2.3. Tình hình xúc tiến, quảng bá và liên kết, hợp tác du lịch 65
2.2.4. Thực trạng nguồn lao động trong ngành du lịch 67
2.2.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 71
2.2.6. Số lượng du khách và doanh thu du lịch 82
2.3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai 86
trong thời gian qua
2.3.1. Những kết quả đạt được 86
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 88
92 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
3.1. Định hướng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai 92
3.1.1 Bối cảnh kinh tế mới 92
3.1.2. Quan điểm và định hướng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai 95
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai 98
3.2.1. Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về du lịch 99
3.2.2. Giải pháp về đầu tư phát triển kinh tế du lịch 101
3.2.3. Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch 103
3.2.4. Đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch và dịch vụ du 106
lịch
3.2.5. Giải pháp về thị trường 109
3.2.6. Chú trọng phát triển hình thức du lịch cộng đồng thôn, bản 110
3.2.7. Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch 112
115 KẾT LUẬN
117 TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH – HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
HDV Hướng dẫn viên
KDDL Kinh doanh du lịch
KTDL Kinh tế du lịch
LLSX Lực lượng sản xuất
QLNN Quản lý Nhà nước
UBND Ủy Ban Nhân dân
VHTT&DL Văn hóa, thể thao và Du lịch
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Số hiệu Tên bảng Trang
1 Bảng 1.1 Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam (2006 – 5/2010) 38
Thực trạng nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh Lào 2 Bảng 2.1 69 Cai
Bảng 2.2 Hiện trạng cơ sở lưu trú của Lào Cai qua các năm 74 3
Bảng 2.3 Kết quả kinh doanh cơ sở lưu trú 75 4
Bảng 2.4 Kết quả kinh doanh lữ hành 76 5
Bảng 2.5 Kết quả kinh doanh vận chuyển khách du lịch 78 6
Bảng 2.6 Doanh thu ăn uống 79 7
Bảng 2.7 Doanh thu bán hàng 80 8
Bảng 2.8 Khách du lịch đến Lào Cai qua các năm 82 9
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
STT Số hiệu Tên hình Trang
Tỷ trọng doanh thu của các lĩnh vực kinh doanh trong 81 1 Hình 2.1 tổng doanh thu du lịch năm 2009
2 Hình 2.2 Lượng khách và doanh thu du lịch thời kỳ 2000 - 2009 85
ii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Hội
đồng Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council – WTTC) đã
công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản
xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn
thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia khác, du lịch là
một trong những ngành kinh tế hàng đầu. Du lịch đã nhanh chóng trở thành một
ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước trên thế giới.
Để phát triển du lịch thì việc khai thác tiềm năng du lịch có hiệu quả là rất
cần thiết. Thực tiễn cho thấy các nước có nền công nghiệp du lịch phát triển như
Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Thụy Sĩ… đã có nhiều thành công trong việc khai thác tiềm
năng du lịch. Đối với những nước đang phát triển, nhất là những nước còn nghèo và
nhỏ như Việt Nam thì việc khai thác tiềm năng du lịch tuy đã có cố gắng nhưng vẫn
còn nhiều hạn chế. Vì vậy, du lịch vẫn chưa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, vị thế của Lào Cai là
tiềm năng thiên phú cho du lịch. Từ Lào Cai, khách thập phương có thể du lịch sang
Trung Quốc vào sâu nội địa Việt Nam và đi các nước ASEAN. Lào Cai có nhiều
cảnh quan thiên nhiên kỳ thú cùng nhiều truyền thống văn hóa giàu bản sắc của các
dân tộc được bảo lưu phong phú đầy hấp dẫn đan xen như lễ hội xuống đồng, hội
múa xòe, hội xuân Đền Thượng tại thành phố Lào Cai…Lào Cai còn tập hợp nhiều
di tích văn hóa như quần thể hang động Mường Vi, đền Bảo Hà, khu bãi đá khắc cổ
Sapa, tòa lâu đài trên cao nguyên Bắc Hà…là những điều kiện và di vật thuận lợi để
phát triển nhiều loại hình du lịch.
Trong những năm qua, du lịch Lào Cai đã có những phát triển nhất định,
bước đầu khẳng định được tầm quan trọng của kinh tế du lịch đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, so với tiềm năng thì những thành tựu đạt được
1
còn rất khiêm tốn. Đặc biệt trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay thì việc đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch ở Lào Cai đang đặt ra cấp thiết hơn
bao giờ hết. Điều đó đặt cho du lịch Lào Cai phải đánh giá đúng thực trạng của
ngành và phải có những giải pháp đúng hướng để khai thác triệt để tiềm năng sẵn có
và xây dựng chiến lược phát triển phù hợp, nhằm góp phần thúc đẩy ngành du lịch
Lào Cai phát triển bền vững, hòa nhập với trào lưu phát triển du lịch của khu vực và
trên thế giới, thực hiện đúng vai trò của ngành du lịch trong xây dựng và phát triển
của tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào
Cai” làm đề tài luận văn cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, vấn đề du lịch và kinh tế du lịch đã
được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu ở các mức độ và dưới
các góc độ khác nhau. Đáng lưu ý có các công trình liên quan đến đề tài như:
Các công trình ngoài nước có:
+ Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình cùng với tập thể giáo sư và giảng viên
khoa Du lịch Đại học Hải Dương, Thanh Đảo, Trung Quốc hợp soạn với cuốn sách
Kinh tế du lịch và Du lịch học, Nxb Trẻ 2000. Đây là công trình nghiên cứu khoa
học có hệ thống về hoạt động du lịch từ thực tiễn của Trung Quốc, nêu lên nhiều
mặt tương đối phù hợp với điều kiện hoạt động du lịch Việt Nam, từ đó có thể rút ra
được những bài học để đưa du lịch Việt Nam phát triển theo đúng chủ trương đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
+ Robert Lanquar, với cuốn sách Kinh tế du lịch, người dịch Phạm Ngọc
Uyển, Bùi Ngọc Chưởng, Nxb Thế giới, Hà Nội 2002. Giới thiệu cột mốc lịch sử
của công nghiệp du lịch và đi sâu phân tích những ảnh hưởng của du lịch đến kinh
tế, những biến số kinh tế vĩ mô, những công cụ và phương tiện phân tích kinh tế học
du lịch, kinh tế học về kinh doanh du lịch và qua đó nhấn mạnh sự cần thiết phải
tiếp cận theo hệ thống hiện đại.
2
Ở trong nước có những tác giả viết về lĩnh vực du lịch và liên quan đến lĩnh
vực kinh tế du lịch như:
+ Nguyễn Hồng Giáp, với cuốn Kinh tế du lịch, Nxb Trẻ, 2002
+ GS.TS. Nguyễn Văn Đính, TS.Trần Thị Minh Hòa với cuốn Giáo trình
Kinh tế du lịch, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Nxb Lao động - Xã hội.
+ Lê Văn Thắng, Trần Anh Tuấn, Bùi Thị Thu, “Giáo trình du lịch và môi
trường”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
+ Phạm Trung Lương, Đặng Duy Lợi, Vũ Tuấn Cảnh, Nguyễn Văn Bình,
Nguyễn Ngọc Khánh, với cuốn Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà nội 2001.
Những cuốn sách nêu trên đề cập đến những vấn đề cơ bản sau:
- Trên cơ sở khái lược chung nhất những khái niệm về du lịch, sản phẩm du
lịch, cách nhìn nhận kinh tế du lịch từ nhiều góc độ khác nhau của các học giả trong
và ngoài nước để giúp cho độc giả những kiến thức khái quát, cơ bản như khái niệm
về du lịch, lịch sử hình thành, xu hướng phát triển của du lịch, ý nghĩa kinh tế - xã
hội của du lịch, các loại hình kinh doanh du lịch, hiệu quả kinh tế du lịch...Đồng
thời, các tác giả cũng đề cập đến những vấn đề có liên quan đến một số mặt hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, lao động, cơ sở vật chất – kỹ thuật, chất
lượng dịch vụ và hiệu quả kinh tế du lịch, tổ chức và quản lý ngành du lịch ở Việt
Nam. Trên cơ sở đó đưa ra những nội dung để xác định vị trí của ngành du lịch, các
thành phần chủ yếu của sản phẩm du lịch và các đơn vị hoạt động du lịch để đi đến
những vấn đề kinh tế du lịch chính thống theo hướng nghiên cứu và quan điểm của
tác giả.
- Giới thiệu chung về tài nguyên môi trường du lịch nói chung và tài nguyên
môi trường Du lịch Việt Nam nói riêng, những tác động của hoạt động du lịch tới
tài nguyên và môi trường.
Trên nhiều tạp chí có nhiều bài viết nêu lên những thành tựu của ngành du
lịch Việt Nam, đề ra mục tiêu và nhiệm vụ của ngành du lịch. Tiêu biểu như:
3
+ Đón xuân nhìn lại 5 năm du lịch Việt Nam, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
1+2/2004.
+ Du lịch Việt Nam thực hiện chương trình hành động quốc gia về du lịch,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2/2005.
+ Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Tạp chí Du lịch Việt Nam,
số 15/2009.
Các tác giả đã khái quát những mặt hoạt động, những thành tựu đã đạt được
của ngành du lịch Việt Nam trên các mặt cơ bản như: Tổng số doanh nghiệp kinh
doanh du lịch, cơ sở lưu trú, tình hình khách du lịch quốc tế và trong nước, doanh
thu du lịch…Đồng thời chỉ ra những mặt tồn tại, yếu kém trong ngành và xác định
mục tiêu, nhiệm vụ cho ngành du lịch trong thời gian tới.
Cùng với xu hướng phát triển du lịch cả nước, ở phạm vi tỉnh Lào Cai nói
riêng cũng đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch như:
+ Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai (2002),“Đề án phát triển kinh tế du lịch tỉnh
Lào Cai giai đoạn 2001-2005-2010”
+ Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai, quyết định số 660/QĐ-UB ngày 3/11/2004,
“Quy hoạch phát triển du lịch Lào Cai giai đoạn 2005-2010 và định hướng 2020”.
+ Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Lào Cai (2009),“Kế hoạch triển khai
giải pháp cấp bách thu hút khách du lịch quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa đến
Lào Cai năm 2009”.
Tuy nhiên, những đề tài trên mới chỉ nghiên cứu một khía cạnh nào đó về du
lịch và kinh tế du lịch như xác định sản phẩm du lịch chính của địa phương, phân
vùng, xác định tuyến điểm du lịch đầu tư… Chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống về phát triển kinh tế du lịch cũng như phân tích
và đánh giá sâu thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai.
Do đó, đề tài được nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ bé giải
quyết vấn đề khai thác tiềm năng du lịch một cách hợp lý và có hiệu quả nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở hệ thống và khái quát lại những lý luận chung về các khái niệm
du lịch, kinh tế du lịch và phát triển kinh tế du lịch, đồng thời tiếp cận dưới góc độ
kinh tế chính trị theo quan điểm, tư tưởng, lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tác
giả nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai, đề xuất
một số quan điểm, định hướng và giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng
du lịch ở Lào Cai, góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch Lào Cai phát triển trong những
năm tới.
Nhiệm vụ:
Từ mục đích trên các nhiệm vụ cụ thể được xác định là:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về du lịch, kinh tế du lịch và
phát triển kinh tế du lịch.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai
trong thời gian qua, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân.
+ Đưa ra quan điểm, định hướng và đề xuất một số giải pháp có khả năng
thực thi nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai từ nay đến năm
2015 và những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng phát triển của kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai trong thời
gian qua.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Lào Cai
+ Thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển
của kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây.
5
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học tạm thời gạch bỏ những yếu
tố thứ yếu để tìm hiểu bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế du lịch cũng
như nghiên cứu sự phát triển của một ngành kinh tế.
- Luận văn cũng đã sử dụng một cách có hệ thống các phương pháp cụ thể
trong quá trình nghiên cứu như: Phương pháp thống kê, lập bảng biểu, phân tích, so
sánh, tổng hợp và khảo sát thực tế…
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về du lịch và phát triển kinh tế
du lịch.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai.
6
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
1.1. DU LỊCH VÀ CÁC LĨNH VỰC KINH DOANH TRONG DU LỊCH
1.1.1. Khái niệm về du lịch
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, du lịch được ghi nhận như một
sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Quá trình phát triển của
du lịch phản ánh tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở các hình thái kinh tế xã hội khác nhau
mà con người đã trải qua.
Thời kỳ đầu xã hội nguyên thủy con người cũng có sự di chuyển từ nơi này
tới nơi khác nhưng hoạt động di chuyển đó do những nguyên nhân như phòng tránh
thiên tai, những xung đột xảy ra trong xã hội hoặc tìm một nơi khác phù hợp hơn để
sinh sống…Trên phạm vi toàn thế giới, hoạt động đi ra ngoài với mục đích là du
lịch bắt đầu từ giai đoạn cuối xã hội Nguyên thủy và được phát triển nhanh chóng ở
thời kỳ xã hội Nô lệ…Khi ngành thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi ngành trồng trọt
và chăn nuôi, ngành thương nghiệp xuất hiện, quan hệ hàng hóa – tiền tệ hình thành
và phát triển thì du lịch lại càng phát triển hơn.
Du lịch được phát triển thêm một bước mới kể từ khi LLSX có những yếu tố
được biến đổi về chất. Biểu hiện, vào thế kỷ thứ XVII, bắt đầu diễn ra cuộc cách
mạng giao thông trên thế giới, đầu máy hơi nước được sử dụng rộng rãi trong các
ngành đường sắt, đường bộ, đường thủy, sau đó là ngành công nghiệp sản xuất ô tô.
Chỉ sau một thời gian ngắn ở Châu Âu và Châu Mỹ mạng lưới đường sắt đã được
hình thành. Trên biển, nhiều tàu thủy lớn nhỏ, đủ chủng loại, hiện đại đi lại khắp
các vịnh trên thế giới. Giao thông trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy giao lưu
mạnh mẽ của con người ở các vùng đất khác nhau làm cho du lịch trở thành hiện
tượng đại chúng và cũng từ đó bắt đầu xuất hiện hàng loạt loại hình du lịch của mọi
tầng lớp khác nhau trong xã hội.
7
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển
với tốc độ rất nhanh, song cho đến nay khái niệm “du lịch” đã được hiểu rất khác
nhau tại các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Đúng như Giáo sư,
Tiến sỹ Berneker – một chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế giới đã nhận định:
“Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
[7, tr.9]
Tuy chưa có một nhận thức thống nhất về khái niệm “du lịch” trên thế giới
cũng như ở Việt Nam, song trước thực tế phát triển của ngành du lịch về mặt kinh
tế, xã hội cũng như trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến
thống nhất khái niệm “du lịch” giống như một số khái niệm cơ bản khác về du lịch
là một đòi hỏi khách quan.
Để lý giải hiện tượng du lịch, năm 1811 lần đầu tiên tại Anh có định nghĩa về
du lịch như sau: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của
các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. [7, tr.15]. Ông Kuns, một người Thụy Sỹ
cho rằng: “Du lịch là hiện tượng những người ở chỗ khác, ngoài nơi ở thường
xuyên, đi đến bằng các phương tiện giao thông và sử dụng các xí nghiệp du lịch”.
[7, tr.16]. Giáo sư, Tiến sỹ Hunziker và Giáo sư, tiến sỹ Krapf là những người được
coi là đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra khái niệm như sau: “Du
lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành
trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành
cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”. [7, tr.16]
Các khái niệm nên trên đã thành công trong việc mở rộng và bao quát đầy đủ
hơn hiện tượng du lịch, đã tiến được một bước về lý thuyết trong nghiên cứu nội
dung của nó, nhưng cũng có những hạn chế như: Chưa giới hạn được đầy đủ đặc
trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và của mối quan hệ du lịch (các mối quan hệ
và hiện tượng nào thuộc loại kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa…).
Ở Việt Nam, Khoa Du lịch và Khách sạn trường Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội đưa ra khái niệm: “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động
tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh
8
nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm
hiểu các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh
tế chính trị - xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp”.
[7, tr.19-20]
Trong Luật Du lịch của Việt Nam, tại điểm 1điều 4 “Du lịch” được nêu như
sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. [1, tr.9]
Trong các khái niệm trên đây (Khoa Du lịch và Khách sạn trường Đại học
Kinh tế quốc dân Hà Nội) mới đề cập đến mặt kinh tế trong hoạt động du lịch, coi
“Du lịch là một ngành kinh doanh” và nêu lên các thành phần tham gia trong các
hoạt động kinh doanh, đích cần đạt được của hoạt động kinh doanh. Trong khái
niệm “Du lịch” của Luật Du lịch mới đề cập đến hiện tượng di chuyển và mục đích
của du khách một cách khái quát chung mà chưa đề cập rõ nét trên hai mặt của du
lịch là đi du lịch và kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Như vậy, trong hai khái niệm
nêu trên chưa có sự gắn kết mặt kinh doanh du lịch (KDDL) và hoạt động thưởng
ngoạn của du khách mặc dù trong thực tế nó đồng thời diễn ra hoạt động cùng một
thời điểm của người đi du lịch và người kinh doanh du lịch.
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: “Sản xuất, coi là trực tiếp
đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng coi là trực tiếp ăn khớp với sản xuất, cái đó
các nhà kinh tế học gọi là tiêu dùng sản xuất [17, tr.600]. Theo đó, du lịch là một
hoạt động của con người mà trong quá trình đó đồng thời diễn ra cả hai mặt: Sản
xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch, người đi du lịch là người tiêu dùng các sản
phẩm du lịch, người KDDL là người cung cấp các sản phẩm du lịch, chỉ có hoạt
động diễn ra đồng thời thì mới đảm bảo được một tua du lịch hoàn chỉnh.
Bởi thế, để đưa ra được một khái niệm của hiện tượng đó vừa mang tính khái
quát, vừa có tính lý luận và phản ánh được thực tế hoạt động của nó cần thiết phải
có sự thống nhất biện chứng giữa người cung cấp và người tiêu dùng các sản phẩm,
9
dịch vụ du lịch. Dựa theo cách tiếp cận trên, nên tách thuật ngữ du lịch thành hai
phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu như sau:
Thứ nhất, “du lịch là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời
gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức
khỏe, nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc theo
việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên
nghiệp cung ứng.” [27, tr.18]
Thứ hai, “du lịch là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu
cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian
rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe,
nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.” [27, tr.18]
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần
tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch có đặc điểm
của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.
1.1.2. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó
Sản phẩm du lịch
Đề cập đến bất cứ hoạt động kinh doanh nào chúng ta cũng không thể không
nhắc đến sản phẩm của hoạt động đó. Vì vậy, khi tìm hiểu các khái niệm chung về
du lịch chúng ta cũng phải tìm hiểu xem thế nào là sản phẩm du lịch và những nét
đặc trưng cơ bản của nó. Việc hiểu rõ khái niệm sản phẩm du lịch là khởi điểm của
việc nghiên cứu vấn đề kinh tế du lịch.
“ Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo
nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng
các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một
quốc gia nào đó.” [7, tr.31]
Qua khái niệm trên, có thể thấy sản phẩm du lịch là loại sản phẩm có tính
tổng hợp, ngoài sản phẩm vật chất hữu hình, tuyệt đại bộ phận là sản phẩm vô hình
thỏa mãn nhu cầu tinh thần của du khách. Sản phẩm du lịch bao gồm:
10
+ Dịch vụ du lịch là một phần của lao động sống trong ngành du lịch để phục
vụ khách như: Hướng dẫn tham quan, lưu trú, vận chuyển, chăm lo sức khỏe, vui
chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung khác…
+ Các hàng hóa trong du lịch: Là những hàng hóa thông thường, tặng phẩm,
đò lưu niệm và các đặc sản…
+ Tiện nghi du lịch: Là tổng thể các điều kiện phục vụ cho khách. Gồm: Tiện
nghi trong phòng, phương tiện thông tin liên lạc, chất lượng vận chuyển, thủ tục Hải
quan…
+ Tài nguyên du lịch: Là nhân tố hàng đầu có liên quan sức hấp dẫn với du
khách và là điều kiện cần để có hoạt động trong du lịch, gồm tài nguyên du lịch tự
nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
Đặc thù của sản phẩm du lịch
Với cấu thành sản phẩm rất đặc biệt như vậy, sản phẩm du lịch cũng có
những đặc điểm khác với sản phẩm vật chất hay dịch vụ khác. Nói một cách tổng
quát, sản phẩm du lịch chủ yếu có đặc điểm dưới đây:
+ Một là, tính tổng hợp: Tính tổng hợp của sản phẩm du lịch biểu hiện trước
hết ở chỗ sản phẩm du lịch là kết hợp các loại dịch vụ mà xí nghiệp dịch vụ liên
quan cung cấp nhằm thỏa mãn các nhu cầu của du khách. Nó vừa bao gồm sản
phẩm lao động vật chất, tinh thần, vừa bao gồm sản phẩm phi lao động và vật tự
nhiên. Thứ nữa tính tổng hợp của sản phẩm du lịch còn biểu hiện ở chỗ việc sản
xuất và kinh doanh sản phẩm du lịch liên quan đến rất nhiều ngành nghề và bộ
phận.
+ Hai là, tính đồng thời của việc sản xuất và tiêu thụ: Việc sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm du lịch được thực hiện đồng thời, tại chỗ, không mang trưng bày hoặc
tiêu thụ ở nơi khác được.
+ Ba là, tính không thể dự trữ: Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm tiêu
dùng trừu tượng, không lưu kho lưu bãi được. Giống như các sản phẩm dịch vụ
khác, sản phẩm du lịch không bán được thì mất giá trị chứ không để dành trong kho
hoặc cất giữ được. Chính đặc điểm này làm cho tính thời vụ trong hoạt động kinh
11
doanh du lịch càng đậm nét. Sản phẩm du lịch thường được bán trọn gói với các
loại hình, các tuyến điểm với các tiện nghi khác nhau.
+ Bốn là, tính không thể chuyển dịch: Du khách chỉ tiến hành tiêu thụ sản
phẩm du lịch ở nơi sản xuất sản phẩm du lịch chứ không thể như sản phẩm vật chất
nói chung có thể chuyển khỏi nơi sản xuất đi tiêu thụ ở nơi khác. Hơn nữa, trong
quá trình trao đổi sản phẩm du lịch không xảy ra việc chuyển dịch quyền sở hữu sản
phẩm, du khách chỉ có quyền sử dụng tạm thời đối với sản phẩm du lịch trong thời
gian và địa điểm nhất định chứ không có quyền sở hữu sản phẩm.
Do vậy, để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn. Việc
thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng quan trọng
đối với các nhà KDDL. Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường diễn ra không đều
đặn mà chỉ tập trung vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm ở
bộ phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm của thể loại du lịch cuối tuần),
trong năm. Vì vậy, trên thực tế hoạt động KDDL thường mang tính mùa vụ. Sự dao
động (về thời gian) trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động
kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các nhà KDDL. Khắc
phục tính mùa vụ trong du lịch luôn là vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn, cũng như
về mặt lý luận trong lĩnh vực KDDL.
1.1.3. Các loại hình du lịch
Để có thể đưa ra các định hướng và chính sách phát triển đúng đắn về du
lịch, các nhà quản lý vĩ mô về du lịch cũng như các nhà quản trị doanh nghiệp du
lịch cần phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau.
Theo tác giả Trương Sỹ Quý thì loại hình du lịch có thể được định nghĩa như
sau: “Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc
điểm giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự,
hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách
phân phối, một cách tổ chức như nhau, hoặc được xếp chung theo một mức giá bán
nào đó”. [7, tr.71]
12
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại
hình du lịch khác nhau.
* Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch
Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội
địa.
+ Du lịch quốc tế: Là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến
của khách hàng nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.
+ Du lịch nội địa: Là hình thức du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của
khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.
* Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch thì du lịch được phân
thành những loại sau:
+ Du lịch chữa bệnh: Ở loại hình này, khách du lịch do nhu cầu điều trị các
bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ. Ví dụ như chữa bệnh bằng khí khậu, bằng
nước khoáng…
+ Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: Xuất phát từ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí để phục
hồi sức khỏe. Đây là loại hình có tác động thư giãn.
+ Du lịch thể thao: Xuất phát từ sự ham mê thể thao, gồm du lịch thể thao
chủ động (khách đi du lịch để tham gia trực tiếp vào hoạt động thể thao); Du lịch
thể thao thụ động (những cuộc hành trình đi du lịch để xem các cuộc thi thể thao
quốc tế, thế vận hội…)
+ Du lịch văn hóa: Đáp ứng nhu cầu hiểu biết thích nâng cao tìm hiểu nghiên
cứu lịch sử, kiến trúc, danh lam thắng cảnh, chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, phong
tục, tập quán…của nơi đến du lịch.
+ Du lịch công vụ: Mục đích chính của loại hình du lịch này là nhằm thực
hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó.
+ Du lịch thương gia
+ Du lịch tôn giáo
* Căn cứ vào đối tượng khách du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân
thành:
13
+ Du lịch thanh, thiếu niên
+ Du lịch dành cho những người cao tuổi
+ Du lịch phụ nữ, du lịch gia đình
* Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi. Theo tiêu thức này, du lịch được
phân thành:
+ Du lịch theo đoàn: Ở loại hình này, các thành viên tham dự đi theo đoàn và
thường có chuẩn bị chương trình từ trước, trong đó đã định ra nơi sẽ đến thăm, nơi
lưu trú và ăn uống.
+ Du lịch các nhân: Cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của tổ chức
du lịch, tổ chức công đoàn hay tổ chức xã hội khác hoặc cá nhân đi du lịch tự do mà
không cần thông qua tổ chức du lịch nào.
* Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng. Theo tiêu thức này, du
lịch được phân thành:
+ Du lịch bằng xe đạp
+ Du lịch bằng xe máy
+ Du lịch bằng xe ô tô
+ Du lịch bằng tàu hỏa
+ Du lịch bằng tàu thủy
+ Du lịch bằng máy bay.
* Căn cứ vào thời gian đi du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân
thành:
+ Du lịch dài ngày
+ Du lịch ngắn ngày.
* Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch được phân thành:
+ Du lịch nghỉ núi
+ Du lịch nghỉ biển, sông, hồ
+ Du lịch thành phố
+ Du lịch đồng quê.
14
Nhìn chung các loại hình du lịch thường phối hợp chặt chẽ với nhau, do đó,
để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, tổ chức du lịch cần nghiên cứu cách
thức tổ chức các loại hình du lịch đan xen để đáp ứng nhu cầu tối đa của khách, tùy
theo sở thích của từng loại khách.
1.1.4. Các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch
Trong pháp lệnh Du lịch của Việt Nam tại Chương V, Điều 25 có quy định
về các ngành nghề kinh doanh trong du lịch như sau: “Các ngành nghề kinh doanh
du lịch gồm có:
1. Kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế;
2. Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch;
3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch;
4. Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác”.
Kinh doanh lữ hành:
Khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành nói chung, tức là muốn đề cập đến
các hoạt động chính như: “Làm nhiệm vụ giao dịch, ký kết với các tổ chức kinh
doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du
lịch đã bán cho khách du lịch.” [7, tr.77]. Tuy nhiên, trên thực tế khi nói đến hoạt
động kinh doanh lữ hành, thường thấy tồn tại các hoạt động phổ biến sau: Thực hiện
các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay
từng phần; quảng cáo và bán các các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua
các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng
dẫn du lịch.
Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch:
Đây là hình thức kinh doanh du lịch cần thiết đối với khách du lịch bởi nó
đáp ứng nhu cầu tối thiểu về ăn ở, chỗ ngủ nghỉ tạm thời cho du khách trong thời
gian đi du lịch. Hơn nữa, trong tiến trình phát triển của kinh tế du lịch, cùng với tài
nguyên du lịch thì việc hình thành những cơ sở lưu trú tốt mới tạo nên dáng vẻ của
một ngành KDDL. Các cơ sở lưu trú gồm: Khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ…
15
Theo quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục Du lịch ban hành ngày
29/04/1995 lĩnh vực hoạt động kinh doanh này còn được quy định là “Kinh doanh
khách sạn, nhà hàng” và được hiểu là “Làm nhiệm vụ tổ chức việc đón tiếp, phục vụ
việc lưu trú, ăn ống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch”.
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch:
Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển của con người từ
nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Do vậy, khi đề cập đến
hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động KDDL nói riêng không thể không đề
cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Kinh doanh vận chuyển là hoạt động
kinh doanh, nhằm giúp cho du khách dịch chuyển được từ nơi cư trú của mình điểm
du lịch cũng như là dịch chuyển tại điểm du lịch.
Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác:
Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong lĩnh vực hoạt động
KDDL còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình
dịch vụ vui chơi, giải trí; tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn đầu tư du lịch…
1.2. KINH TẾ DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
1.2.1. Kinh tế du lịch
1.2.1.1. Khái niệm kinh tế du lịch
Cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch là hoạt động kinh doanh du lịch.
Kinh tế du lịch (KTDL) từng bước trở thành một bộ phận hợp thành của hoạt động
kinh tế - xã hội, lấy sự phát triển của các loại hình KDDL, biến các tài nguyên du
lịch của một quốc gia, một vùng lãnh thổ thành những hàng hóa và dịch vụ du lịch
đáp ứng nhu cầu cho du khách. Càng ngày trên thế giới du lịch dần dần được xã hội
hóa, số lượng người đi du lịch ngày càng đông, xuất hiện những nhu cầu cần phải
giải quyết như: Bảo đảm chỗ ăn, chỗ ngủ cho những người tạm thời sống ngoài nơi
cư trú thường xuyên của họ. Để đáp ứng nhu cầu đó, đã xuất hiện các nghề mới
trong dân chúng ở các vùng có tài nguyên du lịch, hàng loạt các cơ sở chuyên phục
vụ du lịch như khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải khát, dịch vụ cho thuê, giặt
là, mát xa…cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ phục vụ du khách lần lượt ra đời.
16
Từng bước hình thành một ngành nghề mới là ngành KDDL và theo đó xuất hiện
một thị trường mới là thị trường du lịch. Giải thích quá trình vận động phát triển đó
của KTDL, dưới góc độ tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa ra nhiều cách lập luận.
Thụy Sỹ là nước nhận thức được sớm nhất tầm quan trọng của KTDL đối với
thu nhập kinh tế quốc dân. Năm 1883 đã có tài liệu chính thức đầu tiên được công
bố ở Zurich về ngành khách sạn và năm 1896, Guyer Frenler cho xuất bản cuốn
Góp phần vào thống kê du lịch, đồng thời những công trình khác cũng xuất hiện ở
Áo, Đức, Bỉ, Pháp…Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi du lịch phát triển mạnh mẽ
thì nó mới trở thành đối tượng nghiên cứu có hệ thống, sự kiện đó được đánh dấu
bằng việc thành lập hiệp hội Quốc tế các chuyên gia khoa học về du lịch theo sáng
kiến của hai nhà kinh tế học Thụy Sỹ là Kpaf và Hunziker – một sự kiện có ý nghĩa
về sự tiến triển của việc nghiên cứu du lịch dưới góc độ kinh tế.
Ở Việt Nam trong cuốn Kinh tế du lịch Tiến sỹ Nguyễn Hồng Giáp cho rằng:
“Toàn bộ kinh tế du lịch là một hệ thống gồm những phần nhỏ hay là tiểu hệ thống,
nguyên nó có thể chia nhỏ ra thêm nữa và những biến số độc lập với nhau cho phép
biến đầu vào (nguồn nhân lực, tư bản, nguyên liệu, khoa học kỹ thuật) thành đầu ra
(sản phẩm và dịch vụ) [8, tr.44]. Đây là cách tiếp cận KTDL dưới góc độ lý thuyết
kinh tế học hiện đại theo hướng quan tâm đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia
ở tầm vĩ mô như sản lượng quốc gia, thu nhập quốc dân, tiêu dùng các hộ gia đình,
chi tiêu quốc gia, tiết kiệm, đầu tư, thất nghiệp, việc làm, tổng cung và tổng cầu của
nền kinh tế.
Một cách tiếp cận khác, từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “Kinh tế du
lịch là một loại hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ và thường được xem
như ngành công nghiệp không khói, gồm có du lịch quốc tế và du lịch trong nước,
có chức năng nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất
nước (tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hóa, lịch sử, vv…) nhằm thu
hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ
hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch…”.[31, tr.586]
17
Định nghĩa tiếp cận theo góc độ này coi KTDL là loại hình kinh tế có tính
đặc thù, tổng hợp, đa dạng. Mọi hoạt động KDDL đều gắn bó với môi trường xã
hội, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, tự nhiên…Các loại dịch vụ, hàng hóa cung
cấp cho du khách được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các tài nguyên du
lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn với việc sử dụng các nguồn lực: vốn,
khoa học – công nghệ và nguồn lực lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc
gia nào đó. Tại nơi du khách đến du lịch, để thỏa mãn các loại nhu cầu tiêu thụ của
du khách trong quá trình hoạt động du lịch, người KDDL cung cấp những sản phẩm
đơn lẻ cho người đi du lịch có nhu cầu, bao gồm các loại chủ yếu sau đây: Nhà ở,
giao thông du lịch, cung cấp ăn uống, du ngoạn, tham quan, hạng mục vui chơi giải
trí, dịch vụ mua sắm, tuyến du lịch, sắp xếp chương trình và các dịch vụ chuyên
môn khác…
Tuy nhiên, các góc độ tiếp cận và cách định nghĩa trên chưa đề cập, hoặc là
đề cập chưa rõ nét mặt kinh tế - xã hội trong hoạt động KDDL. Mặt kinh tế - xã hội
trong KTDL trực tiếp liên quan đến yếu tố con người – Yếu tố này rất quan trọng
trong quá trình phát triển các loại hình hoạt động kinh doanh. Bởi vì, con người vừa
là chủ thể sáng tạo ra các sản phẩm du lịch nhưng đồng thời cũng là lực lượng trực
tiếp tiêu thụ các sản phẩm đó.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng quan niệm rằng: “Sản
xuất không những tạo ra vật phẩm tiêu dùng mà còn tạo ra phương thức tiêu dùng,
điều đó không những về mặt khách quan và cả về mặt chủ quan. Như vậy, sản xuất
tạo ra người tiêu dùng”[17, tr.602]. KTDL là tổng hòa các mối quan hệ giữa các
hiện tượng kinh tế với kinh tế, kinh tế với xã hội của hoạt động du lịch, hình thành
trên cơ sở phát triển sản xuất, trao đổi hàng hóa và nhu cầu về đời sống vật chất,
tinh thần của con người trong xã hội ngày càng không ngừng được nâng cao.
Ngày nay hoạt động KTDL mang tính đại chúng, tính toàn cầu và tính liên
tục, mối liên hệ kinh tế - xã hội trong quá trình đó không ngừng tănng cường, phạm
vi quan hệ kinh tế không ngừng mở rộng, mối quan hệ của nó với toàn bộ nền kinh
tế - xã hội ngày càng phát huy tác dụng và không ngừng được nâng cao. Từ những
18
cơ sở đó cho thấy, để đưa ra khái nệm về KTDL dưới góc độ kinh tế chính trị cần
phải có sự thống nhất nhận thức trên các mặt cơ bản như sau:
- KTDL góp phần phản ánh lực lượng sản xuất xã hội ở một trình độ phát
triển trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nó luôn luôn gắn liền với quá trình phát
triển của con người, thể hiện rõ nét trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của con
người ở một trình độ cao hơn thì sản xuất hàng hóa và dịch vụ đa dạng, phong phú
hơn. Do vậy, quá trình vận động phải thiết lập được một quan hệ sản xuất phù hợp,
đồng bộ tương ứng với lực lượng sản xuất về tính chất và trình độ thì mới thúc đẩy
kinh tế - xã hội loài người phát triển.
- KTDL ngày nay đã và đang trở thành ngành kinh tế có thu nhập cao, tốc độ
phát triển nhanh, là ngành kinh tế mũi nhọn, tổng hợp có liên quan mật thiết với
nhiều ngành kinh tế khác trong một quốc gia của nhiều nước trên thế giới. Nó huy
động được mọi yếu tố của LLSX trong quá trình phát triển. Mục đích, tính chất,
chiến lược, quy hoạch phát triển của KTDL phụ thuộc vào tính chất của quan hệ sản
xuất, thể chế chính trị, quan niệm về vai trò, vị trí ngành du lịch của mỗi quốc gia.
- KTDL góp phần tăng cường mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất, tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Mở rộng hướng tiếp cận của con
người với con người, con người với thiên nhiên, giúp cho con người chinh phục, cải
tạo, bảo vệ thiên nhiên có hiệu quả bền vững hơn.
- Quá trình phát triển KTDL góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần
cho con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tác động nhiều chiều, đến nhiều
lĩnh vực trong đời sống của một đất nước.
Từ những nhận thức trên, chúng ta có thể hiểu Kinh tế du lịch là một loại
hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ, nó “phản ánh bước tiến mới của lực
lượng sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của đất nước
thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức
buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch, góp phần
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế xã hội phát
19
triển. Ở các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì có mục đích, tính
chất và chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác nhau.” [22, tr.23]
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của kinh tế du lịch
Từ thực tiễn hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức, các nước trong
lĩnh vực du lịch, các đối tượng tiêu dùng sản phẩm du lịch, dịch vụ. Kinh tế du lịch
có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nói đến KTDL tức là đề cập đến các hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực du lịch, trong đó loại hình dịch vụ là chủ yếu.
Trên cơ sở tài nguyên du lịch, chủ thể KDDL (cá nhân hoặc là tổ chức) sản
xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của khách du lịch, sản
phẩm đó có thể là vật chất hoặc phi vật chất. Sự vận hành của KTDL lấy tiền tệ làm
môi giới, thông qua hoạt động trao đổi sản phẩm du lịch giữa người đi du lịch với
người KDDL, lấy vận động mâu thuẫn giữa hai mặt cung cấp sản phẩm du lịch và
nhu cầu tiêu thụ sản phẩm du lịch làm đặc trưng chủ yếu.
Thứ hai, trong điều kiện thị trường, việc thực hiện thông suốt hoạt động
KTDL được quyết định bởi sự điều hòa nhịp nhàng giữa hai phía cung và cầu du
lịch.
Việc cung cấp sản phẩm du lịch không thể tách rời nhân tố kinh tế - kỹ thuật
và kinh tế - xã hội. Vì thế sự vận hành KTDL tất nhiên chịu ảnh hưởng và chế ước
của những điều kiện kinh tế - xã hội. Hoạt động kinh doanh du lịch có hiệu quả hay
không phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu tiêu thụ của khách. Chất lượng của một sản
phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ
cảm nhận về chất lượng của khách du lịch, chất lượng của sản phẩm du lịch được
đánh giá đều mang tính chủ quan, phụ thuộc vào nhu cầu thị hiếu, mức độ thỏa mãn
của du khách đến đâu. Bởi vì, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm du lịch là nhu cầu mang
tính đặc thù tức là những nhu cầu của du khách mà nơi họ sinh sống không thể có
được chứ không phải là những thứ cao cấp hoặc quý hiếm. Trên thị trường du lịch,
ngoài những đặc điểm như thị trường hàng hóa nói chung, hàng hóa du lịch còn có
những đặc điểm khác các hàng hóa thông thường là: Hàng hóa trao đổi giữa hai bên
20
cung và cầu không phải chỉ là vật cụ thể; đối với khách du lịch cái được là sự cảm
giác, thể nghiệm hoặc hưởng thụ. Sự trao đổi sản phẩm du lịch và tiền tệ do hai bên
cung, cầu du lịch tiến hành không làm thay đổi quyền sở hữu sản phẩm du lịch,
trong quá trình chuyển đổi cũng không xảy ra sự chuyển dịch sản phẩm, chỉ là du
khách có quyền chiếm hữu tạm thời sản phẩm du lịch tại nơi du khách đến để thực
hiện “cầu du lịch” của mình. Cùng một sản phẩm du lịch vẫn bán được nhiều lần
cho nhiều du khách khác nhau sử dụng, sản phẩm du lịch chỉ tạm thời chuyển dịch
quyền sử dụng, còn quyền sở hữu trước sau vẫn nằm trong tay người kinh doanh.
Tất cả những tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn chỉ trở thành sản phẩm
du lịch khi nó phải được con người đầu tư, tôn tạo và sử dụng để phục vụ cho hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Đây chính là đặc điểm cơ bản của KTDL.
Thứ ba, quá trình phát triển KTDL gắn liền với quá trình vận động phát triển
của LLSX và khả năng liên kết rộng rãi của các quốc gia dân tộc.
Khi LLSX càng phát triển, trình độ nhận thức của con người luôn luôn được
nâng cao, khoa học – công nghệ được nhanh chóng áp dụng vào quá trình sản xuất,
của cải do con người tạo ra ngày càng nhiều, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu đời
sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội thì KTDL càng có môi trường hoạt động
rộng rãi, khả năng liên kết cao không chỉ đối với các ngành kinh tế khác trong tổng
thể nền kinh tế của một quốc gia và còn liên kết rộng rãi với các ngành kinh tế,
nhiều lĩnh vực khác của các nước trên thế giới nữa. Là ngành kinh tế tương đối tổng
hợp bởi hoạt động kinh doanh biểu hiện nhiều mặt trong lĩnh vực của đời sống con
người như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho nên khi được tổ chức khoa học,
điều hòa nhịp nhàng, các khâu, các bước luân chuyển hợp lý, cơ chế quản lý đồng
bộ, đa dạng về hình thức sở hữu, quan hệ sản xuất phù hợp mở đường cho LLSX
phát triển sẽ tạo ra hiệu quả hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh và góp phần
thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng cao hơn.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh của kinh tế du lịch mang tính thời vụ là chủ
yếu.
21
Xuất phát từ đặc thù của KTDL mà thể hiện rõ nét tính thời vụ trong quá
trình hoạt động kinh doanh. Tính thời vụ trong du lịch tồn tại bởi tác động của tập
hợp nhiều nhân tố đa dạng (về bản chất và hướng ảnh hưởng). Đó là các nhân tố tự
nhiên, nhân tố kinh tế - xã hội, nhân tố tổ chức, kỹ thuật, nhân tố tâm lý…Một số
các nhân tố tác động chủ yếu đến cung du lịch, một số khác tác động chủ yếu lên
cầu du lịch, có nhân tố lại tác động lên cả cung và cầu du lịch và thông qua đó gây
lên tính thời vụ trong hoạt động KDDL. Tính thời vụ đó đã gây ra những tác động
nhất định đến hoạt động KDDL. Vì vậy, nghiên cứu tính thời vụ của du lịch luôn là
một trong những vấn đề trọng tâm của các nhà khoa học và các nhà kinh doanh
thuộc lĩnh vực này.
1.2.2. Phát triển kinh tế du lịch
1.2.2.1. Khái niệm phát triển kinh tế du lịch
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành và phát triển từ lâu,
KTDL đã và đang được nhiều nước quan tâm đầu tư phát triển, nhưng để xây dựng
một khái niệm hoàn chỉnh về phát triển kinh tế du lịch là vấn đề khó, cần phải có
những luận cứ xác thực. Bởi vì, trong lĩnh vực phát triển của mình KTDL phụ thuộc
rất nhiều yếu tố, ngoài việc chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế nói chung, do
đặc thù của ngành nó còn có cơ chế vận hành riêng.
Trên thực tế phát triển KTDL ở nhiều nước không những đem lại lợi ích kinh
tế, mà còn cả lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh quốc gia…Ở
mỗi quốc gia, dân tộc có tính đặc thù riêng, phụ thuộc vào trình độ phát triển LLSX,
mục đích tính chất của quan hệ sản xuất và quan niệm hay cơ chế, chính sách, quy
hoạch chiến lược phát triển, chế độ chính trị, xã hội của mỗi nước, cho nên trong
nghiên cứu tất yếu sẽ có những lý giải khác nhau. Hiện nay, chưa có một khái niệm
chính thống nào về phát triển KTDL.
Vấn đề mang tính nguyên tắc xuyên suốt là để phát triển KTDL có hiệu quả,
bền vững cần phải nhận thức được mối quan hệ gắn bó giữa tài nguyên du lịch với
môi trường, xã hội, quốc phòng – an ninh trong cả quá trình. Cho nên, nghiên cứu
22
phát triển KTDL và đưa ra định nghĩa về nó phải nhìn ở nhiều góc độ khác nhau,
nhưng phải có tính tổng hợp và có hệ thống. Thể hiện những mặt cơ bản sau đây:
Thứ nhất, từ góc độ kinh tế: Muốn phát triển kinh tế bền vững cần phải khai
thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, phải ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ để
tăng năng suất lao động, tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, mở rộng quy mô và
năng lực sản xuất…Phát triển KTDL cũng phải tuân theo nguyên tắc như vậy.
Nhưng KTDL có những mặt mang tính đặc thù là khai thác các tài nguyên thiên
nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn cho nên phải luôn luôn chú trọng đến yếu tố
hợp lý, an toàn, hiệu quả. Tùy thuộc vào từng loại hình du lịch để ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ phục vụ kinh doanh du lịch trên các mặt như mở rộng
các loại hình dịch vụ, quy mô, trình độ để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận…Trên cơ
sở đó mới có khả năng bù đắp những chi phí và tiếp tục mở rộng sản xuất cho giai
đoạn tiếp sau. Đối với những sản phẩm được chế tạo từ nguồn gốc tự nhiên, thì vấn
đề chủ yếu là xét xem tài nguyên du lịch tự nhiên đó có khả năng tái tạo hay không.
Nếu không thì phải tiến hành nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm có khả năng thay
thế. Muốn vậy phải cộng thêm vào giá thành sản phẩm làm từ tài tài nguyên không
tái tạo một loại chi phí khác đủ để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm thay thế.
Đối với tài nguyên đu lịch nhân văn phải có chiến lược quy hoạch, giữ gìn, đầu tư,
bảo tồn, tôn tạo, phát huy phát triển, tuyền truyền, quảng bá rộng rãi trong mọi tầng
lớp nhân dân trong nước, cho du khách nước ngoài khi đến nước ta. Dưới góc độ
này phải đảm bảo sự tăng trưởng bền vững, phát triển, hiệu quả và ổn định. Bền
vững về kinh tế trong trường hợp này là “sự phát triển ổn định và lâu dài” của
KTDL, tạo ra nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế của xã
hội và đem lại lợi ích cho cộng đồng, đặc biệt là cho người dân địa phương nơi có
tài nguyên du lịch. Khi mức sống của người dân địa phương được cải thiện nhờ du
lịch, họ sẽ có động cơ bảo vệ nguồn thu nhập này bằng cách bảo vệ tài nguyên và
môi trường, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống, tìm mọi phương cách để thu
hút du khách đến với họ. Chia sẻ lợi ích du lịch cũng là phương pháp tích cực trong
23
công cuộc xóa đói, giảm nghèo, đem lại cơ hội nâng cao mức sống cho người dân
địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế ở những vùng còn khó khăn.
Thứ hai, từ góc độ môi trường: Tuân theo quy luật phát triển chung, sự phát
triển KTDL phải giải đáp được bài toán do môi trường đặt ra. Trong bất kỳ phương
án quy hoạch phát triển nào theo hướng bền vững cũng đều phải tính toán kỹ mối
tác động qua lại giữ con người và thiên nhiên sao cho sự phát triển KTDL không
làm suy thoái hay hủy diệt môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn ô
nhiễm. Điều đó đồng nghĩa với việc giữ gìn và phát triển được tài nguyên du lịch tự
nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn, việc sử dụng các tài nguyên không vượt quá
khả năng tự phục hồi của nó, sao cho đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện tại song
không làm suy yếu khả năng tái tạo trong tương lai để đáp ứng được nhu cầu của
thế hệ mai sau.
Thứ ba, từ góc độ xã hội: Sự phát triển KTDL phải đi đôi với sự phát triển xã
hội, nghĩa là không ngừng nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả
mọi người trong suốt quá trình phát triển. Đó cũng chính là sự phát triển tự sinh do
chính xã hội ấy chủ động thực hiện, chứ không phải là một sự phát triển ngoại sinh,
sống nhờ hoàn toàn vào nguồn lực từ bên ngoài, muốn vậy phải thực hiện mục tiêu
xóa đói, giảm nghèo trong suốt quá trình phát triển, coi phát triển KTDL là công cụ
xóa đói giảm nghèo trong những lĩnh vực phù hợp. Thường xuyên xây dựng thể chế
tốt và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Đối với phát triển KTDL yếu tố này cần phải
thường xuyên coi trọng bởi vì nhu cầu hưởng thụ các loại hình sản phẩm du lịch của
con người là vô tận, du lịch được xã hội hóa thì lại càng đòi hỏi có nhiều loại hình
kinh doanh du lịch phù hợp với mọi đối tượng tiêu dùng trong xã hội. Muốn tạo ra
năng suất cao cho sản xuất thì Nhà nước cần phải thể hiện được trình độ quản lý và
điều hành, đưa ra và triển khai những chủ trương, chính sách phát triển phù hợp, có
cơ chế hoạt động thông thoáng đồng bộ, mở đường cho lực lượng sản xuất không
ngừng phát triển.
Thứ tư, từ góc độ quốc phòng – an ninh: Sự phát triển KTDL ổn định, bền
vững cần thiết phải được đặt trong sự bảo đảm của nền quốc phòng đủ mạnh. Phải
24
nhìn thấy được vai trò của quốc phòng an ninh đối với phát triển KTDL, vai trò của
quân đội và công an trong phòng, tránh các hiện tượng phá hoại do thiên tai gây ra,
cứu nạn, cứu hộ, giải quyết hậu quả của các dịch bệnh, thiên tai, hỗ trợ khách du
lịch và các nhà đầu tư du lịch, tạo tâm lý yên tâm, thoải mái thưởng ngoạn cho du
khách…Ngược lại, phát triển KTDL bền vững sẽ góp phần củng cố tăng cường nền
quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh
hơn.
Thứ năm, từ góc độ văn hóa: Quá trình khai thác, đáp ứng các nhu cầu phát
triển du lịch hiện tại không làm tổn hại, suy thoái các giá trị văn hóa truyền thống đã
có và để lại hậu quả xấu cho các thế hệ tiếp theo. Các điểm du lịch có sự kết hợp
giữa cảnh đẹp thiên nhiên và nền văn hóa truyền thống gây ấn tượng mạnh và độc
đáo có sức hấp dẫn hơn đối với du khách. Du khách muốn được xem và hưởng thụ
những giá trị văn hóa đích thực, sống động trong cuộc sống hằng ngày của người
dân. Điều này hấp dẫn hơn nhiều so với những gì tái tạo lại trong một viện bảo tàng,
một cuộc triểm lãm hoặc trình diễn. Như vây, nếu các giá trị văn hóa bị hủy hoại, bị
biến đổi hoặc chỉ còn tồn tại dưới dạng mô phỏng thì sẽ không còn khả năng hấp
dẫn du khách, sức thuyết phục và cuốn hút du khách sẽ bị giảm sút đi nhiều.
Như vậy, phát triển KTDL bền vững, ổn định, hiệu quả là một quá trình phát
triển cân đối, sự kết hợp đồng bộ giữa các mặt: Tăng trưởng kinh tế, văn hóa, xã hội
và môi trường, quốc phòng – an ninh…không được xem nhẹ mặt nào, các mặt trong
tổng thể đó luôn có mối quan hệ qua lại, gắn bó, hỗ trợ, tác động qua lại lẫn nhau,
thúc đẩy cùng nhau phát triển, hoặc có khi kìm hãm nhau, nếu sự kết hợp đó không
phù hợp, khoa học.
Từ những vấn đề lý luận và nhận thức trên có thể hiểu: “Phát triển kinh tế du
lịch là mở rộng quy mô và năng lực sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực nhằm nâng cao số lượng, chất lượng hàng hóa và
dịch vụ du lịch để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, bảo vệ môi trường, thúc đẩy
phân công lao động, bảo tồn và làm phong phú thêm các giá trị văn hóa tốt đẹp của
dân tộc, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã định”. [22, tr.29]
25
1.2.2.2. Điều kiện để phát triển kinh tế du lịch
Muốn đầu tư để phát triển các loại hình KDDL có hiệu quả, cần thiết phải có
những yếu tố khách quan, chủ quan, nguồn lực nhất định mới có thể duy trì hoạt
động lâu bền và phát triển, bởi nó trực tiếp quyết định đến việc sản xuất các loại sản
phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu cho du khách của một cơ sở, một vùng hay của một
quốc gia. Bao gồm những điều kiện cơ bản như: tiềm năng du lịch; cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ kinh doanh du lịch và cơ sở hạ tầng của điểm, khu du lịch; điều
kiện kinh tế; yếu tố dân cư và lao động; nhân tố quốc phòng, an ninh, chính trị, xã
hội…Biểu hiện cụ thể:
Một là, tài nguyên du lịch: được coi là điều kiện cần để phát triển du lịch.
Tài nguyên du lịch có thể do thiên nhiên tạo ra, có thể do con người tạo ra. Vì vậy,
tài nguyên du lịch được phân ra làm hai nhóm: Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch tự nhiên luôn luôn gắn liền với các
điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn luôn luôn gắn liền các điều kiện lịch
sử, văn hóa, kinh tế - xã hội…và chúng đồng thời được khai thác để đáp ứng nhu
cầu cho du khách và chủ thể KDDL.
Các thành phần tự nhiên tạo nên tài nguyên du lịch tự nhiên thường là vị trí
địa lý, địa hình (các vùng núi có phong cảnh đẹp, các hang động, các bãi biển, các
di tích tự nhiên), khí hậu (tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khỏe con người,
phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng; phục vụ cho việc triển khai các hoạt động
du lịch), thủy văn (bề mặt nước và cá bãi nông ven bờ, các điểm nước khoáng và
suối nóng), sinh vật (các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu di
tích lịch sử, văn hóa, môi trường; một số hệ sinh thái đặc biệt tiêu biểu cho từng
vùng như nhiệt đới, ôn đới, hàn đới…).
Tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên du lịch do con người sáng
tạo ra. Toàn bộ những sản phẩm có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con
người sáng tạo ra đều được coi là những sản phẩm văn hóa. Như vậy, tài nguyên du
lịch nhân văn cũng được hiểu là những tài nguyên di sản văn hóa. Tuy nhiên, không
phải sản phẩm văn hóa nào cũng đều là những tài nguyên du lịch nhân văn mà chỉ
26
những sản phẩm văn hóa có giá trị phục vụ cho du lịch thì mới được coi là tài
nguyên du lịch nhân văn. Thông qua những hoạt động du lịch dựa trên việc khai
thác các tài nguyên du lịch nhân văn, du khách có thể hiểu được những đặc trưng cơ
bản về văn hóa của dân tộc, địa phương nơi mình đến. Các tài nguyên du lịch nhân
văn có những đặc tính như: mang tính phổ biến, có tính truyền đạt nhận thức nhiều
hơn là hưởng thụ, giải trí. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các dạng sau đây:
Các di tích lịch sử văn hóa, những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và
các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng có giá trị văn hóa khác,
hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa – xã hội. Theo
đó bao gồm: Các di sản văn hóa thế giới; các di tích lịch sử văn hóa thắng cảnh cấp
quốc gia và địa phương (các di tích lịch sử; các di tích khảo cổ học, các di tích văn
hóa nghệ thuật; các danh lam thắng cảnh); các lễ hội (phần lễ, phần hội); nghề và
làng nghề thủ công truyền thống; các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học; các đối
tượng văn hóa, thể thao hay những hoạt động mang tính sự kiện; các giá trị về văn
hóa lịch sử có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một điểm, một vùng
hoặc một đất nước.
Hai là, các điều kiện về kỹ thuật:
Các điều kiện về kỹ thuật ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch
trước tiên là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KDDL và sau đó là cơ sở vật chất kỹ
thuật hạ tầng xã hội.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KDDL bao gồm toàn bộ nhà cửa và phương
tiện kỹ thuật giúp cho việc phục vụ thỏa mãn các nhu cầu của du khách như: cơ sở
lưu trú, nhà hàng, khách sạn, phương tiện giao thông vận tải, các khu nhà giải trí,
cửa hàng, công viên, đường sá, hệ thống thoát nước, mạng lưới điện trong khu vực
và cơ sở kinh doanh của du lịch. Ngoài ra, cơ sở vật chất kỹ thuật KDDL còn bao
gồm tất cả những công trình mà tổ chức du lịch xây dựng bằng vốn đầu tư của chính
mình như rạp chiếu phim, sân vận động thể thao…Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
KDDL có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ các sản
27
phẩm du lịch. Phát huy tối đa, có hiệu quả tài nguyên du lịch quốc gia của địa
phương đến đâu, đáp ứng nhu cầu của du khách đến mức độ nào đều phụ thuộc vào
cơ sở vật chất kỹ thuật KDDL, bởi vì du khách đến thưởng thức các sản phẩm du
lịch thì trước hết họ phải có chỗ lưu trú để ăn uống, nghỉ ngơi.
+ Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội không chỉ do các tổ chức KDDL xây dựng
mà của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia cùng đầu tư xây dựng để đáp ứng nhu
cầu về đời sống, sinh hoạt, sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội. Đó là hệ thống
đường sá, sân bay, bến cảng, đường sắt, công viên, hệ thống y tế, giáo dục quốc gia,
khu vui chơi giải trí của toàn dân, mạng lưới thương nghiệp của khu dân cư, hệ
thống thông tin viễn thông, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới điện, các rạp chiếu
phim, nhà hát, viện bảo tàng…
Đối với hoạt động KDDL thì cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội là yếu tố cơ sở
nhằm khai thác mọi tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch,
thỏa mãn ngày càng tăng nhu cầu của du khách. Một bộ phận quan trọng của cơ sở
hạ tầng kỹ thuật phục vụ đắc lực nhất cho hoạt động KDDL là hệ thống giao thông
vận tải (đường không, đường bộ, đường thủy). Số lượng, chất lượng của cơ sở hạ
tầng kỹ thuật xã hội là điều kiện quan trọng để thỏa mãn nhu cầu cho du khách và
nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động KDDL. Biểu hiện cụ thể: Hệ thống thông
tin viễn thông bảo đảm cho trao đổi thông tin liên lạc nhanh chóng trong và ngoài
nước; hệ thống giáo dục đào tạo bảo đảm bổ sung nguồn nhân lực, nâng cao trình
độ dân trí, trình độ thưởng thức các sản phẩm văn hóa, ca nhạc, khoa học kỹ thuật;
hệ thống y tế bảo đảm an ninh sức khỏe cho toàn dân và du khách; hệ thống cấp
thoát nước; cung cấp điện…là những yếu tố quan trọng cần thiết để phục vụ sinh
hoạt hàng ngày cho người dân địa phương, cho cộng đồng dân cư và du khách trong
quá trình đến du lịch. Mặt khác, phát triển KTDL có hiệu quả là cơ sở để tạo ra vật
chất góp phần trực tiếp hoàn thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng cho ngành kinh tế
khác của một quốc gia.
Ba là, điều kiện về kinh tế: Đây là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến
quá trình đầu tư, tồn tại và phát triển KTDL. Xuất phát từ mối liên hệ khăng khít
28
giữa KTDL với các ngành kinh tế khác trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Theo ý
kiến của các chuyên gia kinh tế thuộc hội đồng kinh tế và xã hội của Liên Hiệp
Quốc (ECOSOC), một đất nước có thể phát trển KTDL vững chắc nếu nước đó tự
sản xuất và phân phối được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch. Khi
họ phải nhập đa số trang thiết bị, hàng hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và
để bảo đảm phục vụ khách du lịch thì hầu hết lợi nhuận (ngoại tệ) thu được do du
lịch mang lại sẽ rơi vào tay tư bản nước ngoài. Những nước có nền kinh tế phát
triển, có điều kiện sản xuất ra nhiều của cải vật chất có chất lượng đạt tiêu chuẩn
quốc tế sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển KTDL. Biểu hiện rõ nét của quá trình
phát triển kinh tế là nền sản xuất xã hội, sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm
quan trọng quyết định nhất, bởi nó làm xuất hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu du
lịch thành hiện thực. Nếu LLSX xã hội còn ở trình độ thấp kém thì không thể đề cập
đến nhu cầu du lịch hay hoạt động KTDL. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, nhu
cầu tiêu dùng các sản phẩm nói chung, trong đó có sản phẩm du lịch của nhân dân
càng lớn, việc thỏa mãn nhu cầu đó càng cao hơn. Thực tế hiện nay càng cho thấy
rõ ở những nước có kinh tế chậm phát triển, thu nhập bình quân GDP trên đầu
người thấp thì nhu cầu du lịch hạn chế. Ngược lại, ở những nước có thu nhập cao,
nền kinh tế phát triển thì du lịch của họ được xã hội hóa, loại hình đa dạng, diễn ra
dưới nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi cuối tuần, còn
xuất hiện nhu cầu nghỉ ngơi dài ngày ở vùng núi, vùng biển, vùng thôn quê vào mùa
Đông, mùa Hè, mùa Thu…của du khách.
Bốn là, yếu tố dân cư và lao động: Dân cư là nguồn gốc để tạo ra nguồn
nhân lực lao động cho xã hội, vừa là lực lượng trực tiếp tham gia quyết định phát
triển KTDL, đồng thời còn là lực lượng trực tiếp tiêu thụ sản phẩm du lịch. Dân số
của một quốc gia tăng lên, lao động tăng lên, làm chuyển dịch số lượng lao động
giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra mật độ dân số mới sẽ kéo theo
hoạt động du lịch tăng lên. Do đó, việc nắm vững số lượng dân số, đặc điểm dân cư
và lao động có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển KTDL. Cung và cầu của du lịch tùy
thuộc rất lớn vào các đặc điểm xã hội nhân khẩu, trình độ dân trí và mật độ dân cư.
29
Sự tập trung dân cư vào các thành phố, sự gia tăng dân số, tăng mật độ, tuổi thọ
trung bình hay quá trình đô thị hóa…đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan mật thiết
đến phát triển KTDL. Bởi vì, quá trình đô thị hóa đã hình thành nên những thị tứ,
thị trấn, thị xã, thành phố đa dạng, phong phú, đồng thời tạo nên lối sống riêng biệt,
lối sống thành thị, nhu cầu hưởng thụ không chỉ là vật chất mà cả về tinh thần, lối
sống hiện đại tạo điều kiện cho du lịch từng bước được xã hội hóa. Chính quá trình
đô thị hóa đã tạo ra những điều kiện sống tự nhiên bị thay đổi, môi trường, không
khí bị ô nhiễm…trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Sau những thời
gian làm việc căng thẳng người dân thành thị tìm đến những khu du lịch sinh thái,
những nơi có phong cảnh đẹp, có rừng, có biển để thư giãn, để nghỉ dưỡng tái tạo ra
sức lao động của chính ngay bản thân họ. Phát triển KTDL góp phần tạo nên cân
bằng đời sống tinh thần cho nhân dân các đô thị.
Thực tế cho thấy, ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu đại chúng và
các yếu tố tự thân chính làm gia tăng hoạt động du lịch là thời gian nhàn rỗi, thu
nhập và trình độ dân trí.
Thời gian rỗi của nhân dân đóng vai trò quan trọng trong hoạt động du lịch,
muốn có một chuyến du lịch đòi hỏi phải có thời gian nghỉ, đây là điều kiện cần
thiết cho du lịch. Nhờ có các thành tựu khoa học- công nghệ hiện đại mà ngày nay
năng suất lao động không ngừng được tăng lên, kinh tế ngày càng phát triển, mức
sống của con người ngày càng được cải thiện. Xu hướng chung của nhiều nước trên
thế giới trong đó có nước ta là giảm thời gian làm việc, tăng thời gian nghỉ ngơi,
như vậy quỹ thời gian ngoài giờ làm việc tăng lên và đây là điều kiện để người lao
động có thu nhập bố trí thời gian dành cho hoạt động du lịch.
Song hành với thời gian rỗi là thu nhập của nhân dân đóng vai trò quan
trọng, đây là yếu tố cần thiết cho tiêu thụ các sản phẩm du lịch vì con người khi
muốn đi du lịch chỉ có thời gian chưa đủ mà phải có tiền thì mới thực hiện được dự
định của mình. Khi đi du lịch và lưu trú ngoài nơi cư trú thường xuyên, du khách
bắt đầu chi tiêu trong suốt hành trình du lịch như tiền tàu xe, tiền thuê nhà ở, tiền ăn
uống, tiền mua hàng hóa, thưởng thức các dịch vụ về tinh thần như ngắm cảnh, xem
30
ca nhạc…Những nước có thu nhập bình quân đầu người cao, có nền kinh tế phát
triển như Mỹ, Bỉ, Canada, Pháp, Thụy Sỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,…hàng năm tiêu
thụ các sản phẩm du lịch với số lượng lớn kể cả trong và ngoài nước. Đối với họ,
nghỉ ngơi, giải trí, du lịch trở thành một trong những nhu cầu không thể thiếu được.
Trình độ đân trí: Sự tăng trưởng của du lịch còn phụ thuộc vào trình độ văn
hóa của nhân dân. Khi trình độ dân trí càng cao, kinh tế đầy đủ thì lòng ham hiểu
biết làm quen với các nước xa gần cũng ngày càng tăng và như vậy trong nhân dân
sẽ hình thành thói quen đi du lịch ngày càng nhiều. Hơn nữa, nếu trình độ văn hóa
chung của một đất nước cao, thì đất nước đó khi phát triển du lịch sẽ dễ đảm bảo
phục vụ khách du lịch một cách văn minh và làm hài lòng khách du lịch đến đó.
Năm là, nhân tố quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội là những điều kiện hết
sức quan trọng có tác động đến quá trình phát triển KTDL.
Trước hết cần phải khẳng định rằng: Một nền quốc phòng vững mạnh, an
ninh bảo đảm, tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội ổn định là điều kiện quan
trọng cần thiết để phát triển KTDL bền vững, hiệu quả, nó bảo đảm mở rộng các
mối quan hệ kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa và chính trị không chỉ các
vùng, các dân tộc trong nước mà còn cả khu vực và quốc tế. KTDL chỉ có thể phát
triển được khi và chỉ khi giữa các dân tộc có tình hữu nghị hiểu biết lẫn nhau, hòa
bình ổn định được thiết lập một cách thực sự, các mối quan hệ kinh tế quốc tế, sự
trao đổi du lịch quốc tế ngày càng mở rộng và phát triển. Các nước có tình hình
chính trị, quân sự ổn định như Thụy Sỹ, Thụy Điển, Áo, Hà Lan,
Singapore…thường có sự hấp dẫn rất lớn đối với du khách. Khi đến đó khách du
lịch thực sự được hưởng thụ bầu không khí chính trị hòa bình, ổn định, thân thiện,
họ cảm nhận được sự an toàn tuyệt đối về tính mạng, họ được đáp ứng một cách tối
đa các nhu cầu cần hưởng thụ các sản phẩm du lịch. Tại nơi đến, họ có thể tự do đi
lại mà không sợ những điều nguy hại có thể xảy ra đối với bản thân, hơn thế nữa,
còn cảm nhận được sự thân thiện, bình đẳng, không có sự phân biệt chủng tộc, đẳng
cấp, tôn giáo… của chủ nhà. Du khách có thể giao lưu, làm quen, hưởng thụ những
nét văn hóa mới lạ từ những người dân địa phương nơi họ đến, nhờ du lịch mà các
31
dân tộc hiểu biết nhau hơn, gần gũi, sống với nhau thân thiện hơn và tất yếu khi có
du khách càng đông thì số lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch sẽ được tiêu thụ càng
nhiều hơn. Ngược lại, KTDL không thể phát triển được nếu như mất ổn định về
chính trị, an ninh - quốc phòng không bảo đảm tốt, điều này sẽ trực tiếp hoặc gián
tiếp đe dọa sự an toàn của du khách. Ví dụ như ở những quốc gia hay có những biến
cố cách mạng, nội các chính phủ luôn luôn thay đổi, nhiều Đảng phái bất đồng quan
điểm lãnh đạo, đảo chính quân sự như Thái Lan, Pakistan…sự phát triển du lịch bị
ảnh hưởng mạnh mẽ, thậm chí các tài nguyên du lịch còn bị hủy hoại…Rất nhiều
khách du lịch Châu Âu, Châu Mỹ muốn đi du lịch đến Châu Phi, Trung Đông
nhưng chỉ vì họ sợ nạn khủng bố, các loại dịch bệnh nhiệt đới như tả, lị, dịch hạch,
sốt rét, cúm gia cầm lây nhiễm sang người…mà họ không dám đến. Mặt khác, yếu
tố an ninh an toàn cho du khách còn được xem xét theo các hướng khác như các tệ
nạn xã hội và bộ máy bảo vệ an ninh, trật tự xã hội có đủ mạnh hay không, nạn
khủng bố đe dọa đến mức nào? …
Sáu là, đường lối, chính sách phát triển KTDL. Chính sách phát triển của
chính quyền sở tại sẽ giữ vai trò quyết định đến hoạt động du lịch ở địa phương đó.
Một đất nước, một khu vực có tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, mức sống của
người dân không thấp nhưng chính quyền địa phương không hỗ trợ cho hoạt động
du lịch thì các hoạt động này cũng khó có thể phát triển được. Do vậy, đường lối,
chính sách phát triển KTDL là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế du lịch.
Đường lối, chính sách phát triển KTDL thể hiện ở việc xác định vị trí của
ngành du lịch trong tổng thể các ngành kinh tế xã hội, phương hướng, mục tiêu phát
triển KTDL và các chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể. Những vấn đề cốt lõi
đó được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu và biện pháp của các kế hoạch ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn. Do đặc điểm và bản chất của du lịch, nó liên quan và cần có sự phối
hợp đồng bộ cuả nhiều ngành khác cho nên đường lối, chính sách phát triển KTDL
cũng phải mang tính tổng hợp, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành nhằm
mục tiêu phát triển KTDL. Những điều kiện trên tuy có mối quan hệ tương tác với
nhau, nhưng mỗi điều kiện lại có những ảnh hưởng độc lập nhất định đến sự phát
32
triển của kinh tế du lịch. Do đó, nếu thiếu một trong những điều kiện này sẽ làm
cho hoạt động du lịch trì trệ, phát triển mất cân đối, giảm sút hoặc hoàn toàn ngừng
hẳn. Tất cá các điều kiện này được đảm bảo sẽ giúp cho kinh tế du lịch phát triển
một cách mạnh mẽ và bền vững.
1.2.2.3. Vai trò của phát triển kinh tế du lịch đối với đời sống kinh tế - xã hội
Ở nhiều nước trên thế giới, du lịch từ lâu đã trở thành một ngành kinh tế mũi
nhọn, chiếm từ 40% đến 60% tỷ trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt, trong
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, du lịch đã và
đang trở thành một ngành kinh tế có vai trò quan trọng đối kinh tế – xã hội của mỗi
quốc gia, mỗi địa phương. Nó là một trong những điều kiện góp phần phát triển
kinh tế, xóa đói giảm nghèo, lạc hậu, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống
cho dân cư…
- Trước hết, du lịch phát triển góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành du lịch
trong khối ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân. Du lịch mang lại thu nhập
ngày một lớn cho xã hội và tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập
quốc dân.
- Góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển: Du lịch là một ngành
kinh tế tổng hợp, các sản phẩm du lịch tạo ra không đơn thuần là của ngành du lịch
mà còn là sự kết hợp của các ngành khác. Ví dụ muốn có cơ sở lưu trú thì cần phải
có ngành xây dựng, có nguyên liệu chế biến trong kinh doanh ăn uống của nhà
hàng, khách sạn thì phải có ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp chế biến…do
đó, hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên ngành. Mặt khác, sự phát
triển kinh tế du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết
hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật ở
các ngành kinh tế khác. Như vậy, thông qua đó, các ngành kinh tế khác phát triển,
mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy hoạt động thương mại…
- Du lịch còn là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất trong nền kinh tế.
Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước nhất ở chỗ, du lịch là một
ngành “Xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, nông
33
lâm sản…theo giá bán lẻ cao hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá buôn) mà
không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế. Bên cạnh đó, nó còn là ngành
“xuất khẩu vô hình” hàng hóa du lịch. Hai hình thức xuất khẩu trên đem lại lợi
nhuận kinh tế cao hơn, do tiết kiệm được đáng kể chi phí đóng gói bao bì, bảo quản
và thuế xuất nhập khẩu, có khả năng thu hồi vốn nhanh, lãi suất cao do nhu cầu du
lịch là nhu cầu có khả năng thanh toán.
- Du lịch thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các nguồn đầu tư từ
nước ngoài thông qua các dự án xây dựng các khu du lịch tổng hợp, các khu du lịch
trọng điểm.
- Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Du
lịch là một ngành mang yếu tố đối ngoại, không chỉ đơn thuần liên quan đến yếu tố
khách quốc tế mà còn là mối liên hệ hợp tác giữa các nước, các tổ chức quốc tế
mang tính chính phủ và phi chính phủ về du lịch tác động tích cực trong việc hình
thành các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất –
nhập khẩu” ngoại tệ, góp phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế.
- Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm
nghèo. Du lịch là một ngành kinh tế góp phần tích cực giải quyết việc làm cho
người lao động. Nó thu hút một bộ phận lớn dân cư tham gia vào các dịch vụ, xây
dựng, bán sản phẩm…nên có khả năng giảm tình trạng thất nghiệp ở các địa
phương, mặt khác do đặc trưng của ngành du lịch là ngành phục vụ đòi hỏi nhiều
lao động sống, cho nên phát triển kinh tế du lịch sẽ tạo thêm nhiều việc làm mới và
tạo điều kiện tăng thu nhập cho người dân địa phương, nâng cao mức sống, từ đó
góp phần xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi.
- Phát triển KTDL góp phần kích thích cơ sở hạ tầng phát triển. Vì du lịch là
hoạt động liên ngành – liên vùng, cần phải có sự hỗ trợ lớn của các ngành khác.
Muốn KTDL phát triển và đem lại hiệu quả kinh tế cao thì cần phải có sự đầu tư tốt
về cơ sở hạ tầng như: giao thông vận tải, nhà hàng, khách sạn, các cơ sở y tế… có
chất lượng tốt, hiện đại.
34
Qua phân tích các vấn đề nêu trên, có thể khẳng định du lịch là một trong
những ngành kinh tế mang lại nhiều giá trị tích cực đối với đời sống kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia nói chung và của mỗi địa phương nói riêng.
1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TẠI MỘT SỐ ĐỊA
PHƢƠNG Ở NƢỚC TA.
1.3.1. Khái quát tình hình phát triển của ngành du lịch Việt Nam
Từ năm 1992, Đảng và Nhà Nước ta đã xác định du lịch là ngành kinh tế
tổng hợp, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Để đẩy mạnh sự nghiệp phát triển du lịch đạt hiệu quả cao hơn về kinh tế,
trong chỉ thị 46/BCH–CT của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, ngày
14/10/1994 đã nhấn mạnh: “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng
trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” [3]. Trên cơ sở khẳng định lại chủ trương nhất quán
phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn đã nêu trong các văn kiện Đại
hội Đảng VII, VIII, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX xác định: “Phát triển du lịch
thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn…” [4, tr.178]. Văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ X định hướng: “Khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động du lịch, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch”.
[5, tr.202].
Sau 32 năm hình thành và phát triển (kể từ năm 1960) qua 6 lần thử nghiệm
tách, nhập, đến Quốc hội khóa IX, nhờ xác định rõ vị trí, vai trò của du lịch trong sự
nghiệp đổi mới và tiềm năng phát triển du lịch to lớn của đất nước, nên Tổng cục
Du lịch được thành lập, là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện quản lý nhà
nước về du lịch trong phạm vi cả nước. Ở địa phương, cơ quan giúp UBND cấp tỉnh
quản lý nhà nước về du lịch là các Sở, với tên gọi khác nhau. Tổng Cục Du lịch
cùng 17 Sở Du lịch, 2 sở Du lịch - Thương mại, 1 sở Ngoại vụ - Du lịch và 44 Sở
Thương mại - Du lịch từng bước vươn lên thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước
về du lịch. Chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước dần
được thể chế hóa . Để điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động du lịch khi quy
35
mô ngày càng mở rộng, Tổng cục Du lịch đã tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh
Du lịch, phối hợp với các ngành lập pháp, huy động nguồn lực trong và ngoài nước
để xây dựng Luật Du lịch, được Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua, có hiệu
lực từ ngày 01/01/2006. Luật Doanh nghiệp, Pháp lệnh xuất, nhập cảnh, cư trú, đi
lại và các văn bản liên quan khác được rà soát, sửa đổi bổ sung; thủ tục nhập, xuất
cảnh, cư trú, đi lại, hải quan được cải tiến, đã áp dụng miễn thị thực đơn phương
hoặc song phương cho công dân Nhật Bản, Hàn Quốc, 4 nước Bắc Âu và các nước
ASEAN. Khách vào Việt Nam thuận tiện hơn; kinh doanh du lịch có hành lang
pháp lý đủ đảm bảo hoạt động thuận lợi và quản lý tốt. Chương trình hành động
quốc gia về du lịch được đề xuất, phê duyệt, cấp ngân sách và tổ chức thực hiện
hiệu quả, tạo sự chuyển biến nhiều mặt, làm cho hoạt động du lịch sôi động và
phong phú thêm, hình ảnh Du lịch Việt Nam được hình thành, củng cố và ngày một
nâng cao ở cả trong và ngoài nước.
Theo kết quả nghiên cứu tiến hành bởi Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới
(WTTC), phối hợp với Oxford Economic Forecasting (OEF), trong những năm qua
du lịch Việt Nam đã có những bước chuyển mạnh cả về chất và lượng, mở rộng hợp
tác và tích cực chủ động hội nhập với khu vực và thế giới. Vị trí và tầm ảnh hưởng
của Du lịch Việt Nam đã được nâng lên rõ rệt, Việt Nam xếp hạng 6 trên tốp 10 các nước phát triển du lịch và lữ hành tốt nhất trong thời gian từ 2007 – 2016 1.
Ngành Du lịch Việt Nam đã huy động ngày một nhiều nguồn lực để xây
dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hóa sản phẩm. Toàn
ngành và các địa phương, đặc biệt ở các địa bàn trọng điểm du lịch, đã phát huy nội
lực, huy động vốn từ nhiều nguồn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất du
lịch. Phương tiện vận chuyển hành khách phát triển đa dạng cả đường ô tô, đường
sắt, đường thủy, đường hàng không. Với cơ sở vật chất kỹ thuật như hiện nay,
ngành du lịch nước ta đảm bảo phục vụ cho hàng chục triệu lượt khách quốc tế và
nội địa, tổ chức được các sự kiện, hội nghị quốc tế lớn...
_______________________
1 Theo http://vietbao.vn/Kinh-te/Du-lich-Viet-Nam-Top-10-the-gioi/30106877/87/
36
Ngoài ra, ngành du lịch cũng tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế, xúc tiến,
quảng bá điểm đến Việt Nam. Nội dung và hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch
được cải tiến và triển khai mạnh mẽ ở cả trong và ngoài nước, góp phần nâng cao
hình ảnh du lịch Việt Nam với các sự kiện thường niên như tổ chức Festival du lịch
Việt Nam hàng năm do các tỉnh có tiềm năng du lịch lần lượt đăng cai, tham gia các
hội chợ quốc tế, đặc biệt là hợp tác với kênh BBC World News để quảng bá hình
ảnh đất nước, du lịch Việt Nam với thời lượng 30 giây, tổng cộng 429 lần phát sóng
ở hơn 200 các quốc gia và vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, Ngành cũng tổ chức các
hoạt động quảng bá du lịch đặc trưng cho từng địa phương nhằm thúc đẩy du lịch ở
đó phát triển như: Lễ hội biển ở Nha Trang, Đà Nẵng, chương trình “Du lịch về cội
nguồn” do 3 tỉnh Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ phối hợp tổ chức…Đặc biệt, lần đầu
tiên Việt Nam đăng cai thành công Diễn đàn du lịch ASEAN (ATF 2009) và Hội
chợ TRAVEX 2009, sự kiện lớn nhất trong hợp tác du lịch ASEAN đã góp phần
khẳng định vị thế du lịch Việt Nam trong khu vực, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp du lịch trong nước tìm kiếm cơ hội kinh doanh, nâng cao năng lực canh
tranh của ngành KTDL nước nhà.
Du lịch Việt Nam ngày càng đẩy mạnh mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
song phương và đa phương, tạo điều kiện cho du lịch phát triển bền vững, nhất là
trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức WTO. Tính đến
cuối tháng 6 năm 2009, Du lịch Việt Nam đã trình Chính phủ ký hiệp định thỏa
thuận hợp tác du lịch song phương cấp Nhà nước với 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới2. Trong hợp tác đa phương, Tổng cục Du lịch đã tham gia các
chương trình của các tổ chức chuyên ngành du lịch trong và ngoài khu vực như đàm
phán mở cửa dịch vụ du lịch trong khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế (ASEAN,
APEC, WTO); tham gia các tổ chức du lịch đa phương bao gồm ASEAN, Tiểu
vùng Mekong Mở rộng (GMS), Hành lang Đông – Tây (WEC), Tổ chức du lịch thế
giới (UNWTO), Hiệp hội du lịch châu Á – TBD (PATA)…Đồng thời tranh thủ khai
2Theo http://www.vietnamtourism.gov.vn/index.php?cat=1001&itemid=6608
__________________________
37
thác các mối quan hệ hợp tác quốc tế cho phát triển du lịch như: Cộng đồng Châu
Âu hỗ trợ phát triển dự án “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”; Đề nghị
UNWTO xem xét tiếp tục hỗ trợ kỹ thuật phát triển du lịch cộng đồng tại Hồ Ba Bể
và quy hoạch phát triển du lịch tại Côn Đảo; Phối hợp với Dự án Phát triển Du lịch
Mê kông triển khai về quảng bá, xúc tiến du lịch; Chương trình hợp tác du lịch Tiểu
vùng Mêkông mở rộng (GMS) ưu tiên Việt Nam là một trong 3 nước được Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB) cho vay vốn triển khai dự án phát triển cơ sở hạ tầng
du lịch trị giá trên 10 triệu USD.
Với những nỗ lực của ngành cũng như của toàn xã hội, du lịch Việt Nam đã
đạt được nhiều kết quả nổi bật. Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng
tăng lên đáng kể.
Bảng 1.1: Số lƣợng khách quốc tế đến Việt Nam (2006 – 5/2010)
Năm
Năm
Năm
Năm
5 tháng
Năm
2006
Năm 2007
2007
Năm 2008
2008
Năm 2009
2009
2010 so
2006
so với
(Lƣợt
so với
(Lƣợt
so với
(lƣợt
so với
với cùng
(Lƣợt
2005
ngƣời)
2006
ngƣời)
2007
ngƣời)
2008
kỳ năm
ngƣời)
(%)
(%)
(%)
(%)
2009 (%)
3.772.359
Tổng số
3.583.486
103,0
4.171.564
116,0
4.253.740
100,6
89,1
132,2
270.2430
115,7
3.261.941
120,7
3.283.237
99,5
Theo phƣơng tiện Đường không
3.025.625
92,2
127,7
Đường biển
224.081
111,8
224.389
100,1
157.198
69,9
65.934
43,5
57,0
Đường bộ
656.975
69,8
685.234
104,3
813.305
115,6
680.800
85,0
168,7
Theo mục đích
2.068.875
101,5
2.569.150
124,1
2.631.943
101,0
2..226.440
85,2
137,9
575.812
116,2
643.611
111,7
844.777
125,4
Du lịch nghỉ ngơi Đi công việc
783.139
99,8
148,0
Thăm thân nhân
560.903
110,4
603.847
107,6
509.627
84,8
517.703
101,4
103,4
377.896
86,9
354.956
93,9
267.393
76,7
245.077
91,4
101,5
Các mục đích khác
Nguồn: Tổng cục du lịch (2010)
Năm 2008 và năm 2009 là năm khó khăn đối với hoạt động du lịch thế giới
nói chung và du lịchViệt Nam nói riêng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính, kinh tế thế giới cũng như những tác động tiêu cực đại dịch cúm A/H1N1.
38
Ngành du lịch Việt Nam đã chủ động triển khai nhiều giải pháp cấp bách nhằm
chặn đà suy giảm khách quốc tế và kích cầu du lịch nội địa. Tuy rằng tốc độ tăng
trưởng lượng khách quốc tế giảm, tính chung cả năm 2009 chỉ đạt 3.772.359 lượt,
giảm 10,9% so với năm 2008, song so với con số chung của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương chỉ giảm 5%. Trong 5 tháng năm 2010, lượng khách quốc tế tăng
32,2% so với cùng kỳ năm 2009. Tổng cục Du lịch dự kiến trong năm 2010 lượng
khách nội địa đạt khoảng 28 triệu lượt khách và đón khoảng từ 4,5 đến 4,6 triệu lượt
khách quốc tế, tăng từ 18 đến 21% so với năm 2009.
Bên cạnh đó, doanh thu của ngành Du lịch Việt Nam cũng có những bước
tăng trưởng đáng kể, thu nhập xã hội từ du lịch ở hầu hết các vùng trọng điểm du
lịch đều có sự tăng trưởng qua các năm. Năm 2009, doanh thu toàn ngành tăng từ
6,5% đến 9% so với năm 2008, đạt khoảng 70.000 tỉ đồng, thu hút khoảng 8,8 tỷ
USD, chiếm 41% tổng số vốn đăng ký FDI vào Việt Nam. Hiện du lịch đóng góp
khoảng 5% GDP quốc gia. Có thể nói, việc giữ được tốc độ tăng trưởng trong điều
kiện khó khăn vừa qua của Ngành là kết quả rất đáng ghi nhận.
Bên cạnh những kết quả trên, công tác tổ chức đào tạo phát triển nguồn nhân
lực đã được chú trọng, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên một bước,
nguồn lực bên ngoài được thu hút ngày một tăng, tạo thêm nhiều việc làm cho
nguồn lao động. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, từ năm 1991 đến năm 2009,
lao động trực tiếp trong lĩnh vực du lịch tăng gần 20 lần, từ 21.000 người lên
370.000 người và lao động gián tiếp khoảng trên 700.000 người. Hơn nữa, theo dự
báo của của Tổng cục Du lịch, năm 2010 Việt Nam sẽ đón từ 4,5 triệu đến 4,6 triệu
lượt khách quốc tế và khoảng 25 triệu lượt khách nội địa. Do vậy, ngành du lịch cần
1,4 triệu lao động, trong đó khoảng 350.000 người lao động trực tiếp trong ngành,
tỷ lệ tăng bình quân mỗi năm là 8,5%.
Song song với những kết quả trên, ngành du lịch đã đóng góp tích cực tới
bảo vệ môi trường, bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học và sử dụng bền vững nguồn
tài nguyên thiên nhiên, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển du lịch theo hướng
bền vững.
39
Qua phân tích ở trên, có thể thấy hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động du
lịch ngày càng rõ nét. Trong thời gian qua, Du lịch Việt Nam đã có những khởi sắc
mới, phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, Ngành Du lịch Việt Nam vẫn còn
tồn tại một số hạn chế, cản trở sự phát triển hơn nữa của Ngành.
Các Nghị định, văn bản pháp luật chưa được triển khai sâu rộng, Luật du lịch
chưa thực sự hoàn thiện và phát huy hết tác dụng trước thực tế phức tạp nên đã đã
gây ra những hạn chế không nhỏ cho sự phát triển của ngành du lịch.
Tỷ lệ du khách quốc tế đến nước ta tham quan rồi không quay trở lại nữa
ngày càng lớn, đây cũng là một dấu hiệu đáng quan tâm giải quyết.
Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch đã được chú ý nhưng vẫn chưa
hiệu quả, gây thất thoát cho ngân sách của địa phương và Nhà Nước. Bên cạnh đó
cơ sở lưu trú chưa đáp ứng được với tốc độ phát triển của du khách quốc tế. Trình
độ của lực lượng cán bộ, đội ngũ lao động của ngành Du lịch cần phải được nâng
cao hơn nữa.
Ngoài ra, trong quá trình phát triển du lịch ở nước ta vẫn còn một số hạn chế
khác như: Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch vẫn chậm đổi mới cả về hình thức lẫn
nội dung; yếu tố môi trường, xã hội trong phát triển du lịch chưa được đảm bảo. Sự
phát triển của du lịch hiện nay vẫn chưa tương xứng với tầm vóc vốn có của nó.
Từ những hạn chế trên, đòi hỏi Chính phủ và ngành du lịch Việt Nam phải
đưa ra các biện pháp khắc phục để du lịch nước ta phát triển đúng với tiềm năng và
bước vào hàng ngũ các nước có nền du lịch hiện đại, chất lượng cao và bền vững.
1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch của một số địa phƣơng
1.3.2.1. Kinh nghiệm của thủ đô Hà Nội trong phát triển kinh tế du lịch
Hà Nội thành phố với bề dày lịch sử ngàn năm văn hiến, vị trí thủ đô của Hà
Nội có ý nghĩa đặc biệt với phát triển KTDL. Với nguồn tài nguyên tự nhiên và
nhân văn phong phú, hấp dẫn; trong đó văn hóa phi vật thể đóng góp một vai trò rất
quan trọng với nhiều loại hình đậm đà bản sắc. Du lịch Hà Nội ngày càng phát triển
và đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô.
40
Với sự quan tâm chỉ đạo và sự giúp đỡ của các cơ quan từ Trung ương đến
địa phương, ngành du lịch Hà Nội đã xây dựng cho mình những chính sách đúng
đắn và đề ra những phương hướng, mục tiêu, giải pháp kịp thời, tạo môi trường cho
du lịch Hà Nội phát triển và đổi mới phù hợp dần với điều kiện và xu hướng phát
triển của du lịch thế giới và trong nước.
Việc khai thác tiềm năng du lịch đã theo đúng định hướng đề ra trong quy
hoạch; Quản lý khai thác các tài nguyên du lịch được thực hiện nghiêm túc; Các
sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng, đáp ứng nhiều loại hình du lịch và thu hút sự
quan tâm mạnh mẽ của du khách trong nước và quốc tế. Trong những năm qua, tạp
chí Travel & Leisure – Tạp chí du lịch lữ hành hàng đầu thế giới của Mỹ liên tiếp bình chọn Hà Nội là một trong 10 thành phố du lịch tốt nhất của châu Á3.
Bên cạnh đó, ngành du lịch Hà Nội luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến
khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước hợp tác, đầu tư vào phát triển du
lịch, đồng thời tập trung vốn ngân sách đầu tư hạ tầng cơ sở và cơ sở vật chất kỹ
thuật chuyên ngành du lịch, góp phần đáng kể vào việc hoàn thiện hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật của toàn ngành. Lực lượng kinh doanh du lịch Hà Nội cũng không
ngừng gia tăng ở tất cả các loại hình, đặc biệt có 2 doanh nghiệp: Công ty Du lịch
Việt Nam tại Hà Nội và Công ty liên doanh Du lịch Hồ Gươm đạt danh hiệu Topten
công ty lữ hành hàng đầu Việt Nam. Công tác xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du
lịch được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng nhằm thu hút khách, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Năm 2010 là năm có nhiều sự kiện quan trọng đối với Hà Nội
nói chung và du lịch của Thủ đô nói riêng. Hội nghị cấp cao ASEAN được tổ chức
tại Hà Nội góp phần nâng cao hình ảnh vị thế của thủ đô, đặc biệt người dân cả
nước đang tưng bừng chuẩn bị chờ đón “Đại lễ kỷ niệm 1000 Thăng Long Hà Nội”,
đây sẽ là cơ hội để quảng bá và thu hút một lượng lớn khách du lịch trong nước và
3 Theo http://www.dulichviet.info/top-du-lich/10-thanh-pho-du-lich-hap-dan-nhat-chau-a.html.
_____________________________
41
quốc tế đến Hà Nội.
Ngoài ra, việc hợp tác phát triển du lịch Hà Nội được đẩy mạnh. Sở du lịch
Hà Nội đã ký thỏa thuận mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều địa phương trong cả
nước nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp không chỉ để thúc đẩy phát triển du lịch của
Hà Nội nói riêng mà còn của từng địa phương và du lịch cả nước nói chung. Bên
cạnh đó, Sở cũng tiến hành khảo sát, xúc tiến các thị trường du lịch trọng điểm như:
Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp…
Hiện nay, để thúc đẩy hơn nữa sự gia tăng khách quốc tế trong thời gian tới,
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội cũng đã tiến hành một số giải pháp để cải
thiện về văn hóa du lịch và vệ sinh môi trường ở thủ đô tại một số khu vực như hồ
Hoàn Kiếm, khu phố cổ... tránh xảy ra tình trạng chèo kéo, lừa gạt du khách…
Như vậy, với sự nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của ngành du lịch
trong cơ cấu ngành kinh tế cùng với những sách lược có tính chất đón đầu, mở rộng
hợp tác quốc tế đã giúp Du lịch Hà Nội phát triển mạnh, hội nhập với khu vực và
quốc tế, xứng đáng là một ngành kinh tế mũi nhọn góp phần tích cực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
1.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Phú Phọ trong phát triển kinh tế du lịch
Phú Thọ là tỉnh có địa hình bán sơn địa, nhịp cầu nối liền giữa thủ đô Hà Nội
với các tỉnh biên giới phía Bắc. Nơi đây đã từng ra đời kinh đô đầu tiên, Nhà nước
đầu tiên, chiếc nôi của người Lạc Việt. Phú Thọ còn là trung tâm du lịch khá hấp
dẫn với khu di tích lịch sử Ðền Hùng - Trung tâm văn hoá tâm linh của cả nước,
khu nghỉ tắm nước khoáng nóng, đầm Ao Châu, khu rừng nguyên sinh Quốc gia
Xuân Sơn với hệ thống các hang động nước ngọt được ví như “Hạ Long cạn” và
nhiều di tích lịch sử danh lam thắng cảnh khá phong phú. Có thể nói, nguồn tiềm
năng nhân văn và tự nhiên là lợi thế khai thác đa dạng các loại hình du lịch văn hóa
và sinh thái hết sức độc đáo đối với Phú Thọ.
Cùng với trào lưu chung phát triển du lịch, KDDL trong cả nước, du lịch Phú
Thọ đã dần tiếp cận và chuyển mình. Bước đi đầu tiên đó là ngành Thương mại du
lịch đã xây dựng đề án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Phú Thọ đến năm 2010
42
và định hướng phát triển đến năm 2020 và được Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh phê
duyệt trở thành một trong những chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Trong đó đầu tư xây dựng các dự án phát triển các
điểm du lịch, khu du lịch, khai thác các giá trị nhân văn và tài nguyên tự nhiên, tạo
nên sự đa dạng về các sản phẩm du lịch mà du lịch văn hóa được coi là xương sống,
là điểm nhấn của tua du lịch về Phú Thọ đã được đặc biệt quan tâm.
Với quan điểm đúng đắn lấy Việt Trì làm xuất phát điểm đến với các danh
thắng, lễ hội trong tỉnh, quy hoạch Khu du lịch Văn Lang đã được xây dựng cùng
với đó là quy hoạch Khu du lịch Đầm Ao Châu - Hạ Hòa; quy hoạch Khu du lịch
nghỉ dưỡng nước khoáng nóng Thanh Thủy và đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê
duyệt. Bên cạnh đó, còn triển khai lập quy hoạch chi tiết Khu du lịch Bến Gót - Việt
Trì; Khu vui chơi giải trí tổng hợp Núi Trang - Phù Ninh; Khu du lịch Vườn quốc
gia thiên nhiên Xuân Sơn. Phối hợp với các đơn vị tư vấn, các ngành có liên quan
lập dự án khả thi, thiết kế kỹ thuật thi công, tổng dự toán công trình đầu tư xây
dựng các khu du lịch đã được quy hoạch trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt để
làm cơ sở gọi vốn đầu tư của các thành phần kinh doanh trong và ngoài nước. Nhiều
tua, tuyến du lịch, chương trình hợp tác du lịch về cội nguồn với các tỉnh lân cận
như Lào Cai, Yên Bái có nét văn hóa, tự nhiên vừa tương đồng vừa độc đáo, độc
nhất được xây dựng nối tua với tuyến điểm du lịch cả nước.
Song trùng với các hoạt động đó, ngành đã triển khai xây dựng các dự án đầu
tư cơ sở hạ tầng du lịch từ nguồn vốn Trung ương hỗ trợ và các dự án đã được Uỷ
ban nhân dân tỉnh phê duyệt; lồng ghép việc xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch với các
chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; tăng cường xúc tiến đầu tư
giới thiệu nguồn tiềm năng và các dự án đầu tư phát triển du lịch với các doanh
nghiệp, các tập đoàn đầu tư trong và ngoài nước; thực hiện ký kết hợp đồng, các
văn bản với đối tác. Làm thủ tục trình Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp phép đầu tư cho
các doanh nghiệp theo quy định. Nhờ những nỗ lực đó đến nay đã có hàng chục dự
án đầu tư vào lĩnh vực du lịch với tổng số vốn gần 4 ngàn tỷ đồng, trong đó 4 dự án
đã được cấp phép với số vốn đầu tư khoảng 470 tỷ đồng. Tại Việt Trì đã có 5 dự án
43
đầu tư vào khu du lịch Văn Lang với tổng số vốn trên 300 tỷ đồng. Tại khu du lịch
Bạch Hạc - Bến Gót có 1 dự án cấp phép đầu tư, với số vốn trên 100 tỷ đồng. Tại
Khu du lịch Núi Trang - Bãi Bằng đã cấp phép đầu tư cho Công ty liên doanh Phú
Minh, với số vốn đầu tư 4 triệu USD. Tại Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh
Thủy: Có 2 dự án trình UBND tỉnh cấp phép đầu tư, với số vốn 250 tỷ đồng; Công ty TNHH Sông Thao - Hà Nội đã được cấp phép đầu tư với số vốn 180 tỷ đồng4.
Các dự án khác đang được tích cực xúc tiến mời gọi đầu tư dưới nhiều hình thức.
Nhờ thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, từng
bước tạo được những sản phẩm du lịch đa dạng, tạo ra sự hấp dẫn, thu hút ngày
càng nhiều khách du lịch, tăng nguồn thu cho ngân sách, giải quyết một phần việc
làm và nâng cao đời sống cho nhân dân. Trong những năm gần đây số lượng khách
du lịch lưu trú trên địa bàn tỉnh có mức tăng trưởng hàng năm đạt từ 15-20%, năm
sau luôn cao hơn năm trước. Tiềm năng du lịch Phú Thọ đang được thức dậy, góp
phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị, an ninh trật tự và an toàn xã hội, giữ gìn,
phát huy truyền thống và bản sắc văn hóa trên quê hương đất Tổ.
Để nguồn tiềm năng du lịch tiếp tục được khai thác hiệu quả hơn, ngành du lịch Phú
Thọ đang có những nỗ lực mới, dành đầu tư xây dựng quy hoạch, lập dự án khả thi
xây dựng các khu du lịch tập trung theo định hướng quy hoạch tổng thể đề ra làm cơ
sở để gọi vốn đầu tư. Tham mưu với tỉnh xây dựng chính sách ưu tiên phát triển du
lịch nhằm thu hút vốn đầu tư. Lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế, xã hội
của tỉnh, thực hiện xây dựng có hiệu quả hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch trên địa bàn
tỉnh. Đào tạo, quy hoạch, sắp xếp đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác du lịch
đảm bảo các tiêu chuẩn và yêu cầu đặt ra, đáp ứng với nhiệm vụ. Thực hiện tốt công
tác quản lý Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh phát triển,
bình đẳng, theo đúng quy định pháp luật. Xây dựng chiến lược tuyên truyền quảng
bá nguồn tiềm năng, thế mạnh du lịch Phú Thọ nhằm thu hút các nhà đầu tư thuộc
mọi thành phần kinh tế.
4Theohttp://www.baophutho.org.vn/baophutho/vn/website/du-lich-le-hoi-am- thuc/1011798A387/2007/7/108E075FD84/
_________________________
44
1.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Ninh Bình trong phát triển kinh tế du lịch
Cùng với sự phát triển chung của du lịch cả nước, trong thời gian qua du
lịch Ninh Bình cũng đã có bước phát triển đáng kể. Đặc biệt, trong giai đoạn ngành
du lịch nói chung gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nhưng
ngành du lịch Tỉnh đã biết tập trung khai thác thế mạnh du lịch địa phương và đạt
được nhiều thành công đáng ghi nhận.
Lượng khách quốc tế và nội địa không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng
hàng năm của ngành đạt từ 15% - 20%, doanh thu dịch vụ du lịch từng bước được
nâng cao, góp phần tích cực vào sự phát triển của kinh tế địa phương. Năm 2009,
lượng khách đến Ninh bình đạt 2,4 triệu lượt người, tăng 26%; trong đó khách quốc
tế đạt 600.000 lượt, khách lưu trú đạt 130.000 lượt. Nếu như năm 2000, doanh thu
du lịch mới chỉ đạt 14.724 triệu đồng, năm 2006 đạt 87.995 triệu đồng tăng gấp 6
lần so với năm 2000 thì đến năm 2009 doanh thu du lịch đã tăng lên 245 tỷ đồng, tăng 51% so với năm 20085. Bên cạnh đó, du lịch Ninh Bình cũng đã góp phần tạo
thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu ngoại tệ…góp phần tích cực vào
công tác xóa đói, giảm nghèo của địa phương.
Nguyên nhân nào đã làm cho du lịch Ninh Bình có được những thành công
nổi bật trên. Có thể nói, có được những kết quả trên là do các cấp tỉnh ủy, các ban
ngành, đặc biệt là ngành Du lịch Ninh Bình đã có những bước đi chỉ đạo đúng đắn,
tiến bộ. Công tác hướng dẫn thanh tra, kiểm tra chấn chỉnh các vi phạm trong kinh
doanh du lịch được duy trì. Đơn cử như khu du lịch Tam Cốc – Bích Động, đội ngũ
làm nghề chèo đò với hàng ngàn người đã được tập trung huấn luyện phổ biến kiến
thức du lịch, tham quan học hỏi kinh nghiệm. Ban quản lý khu du lịch cũng đã cấp
giấy chứng nhận người hành nghề cho thợ chụp ảnh nhờ đó giảm hiện tượng chèo
kéo khách và phối hợp chặt chẽ với chính quyền xã để thường xuyên vệ sinh môi
trường, đảm bảo an ninh trật tự.
Bên cạnh đó, việc đầu tư mạnh cho du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng giao và
5Theohttp://www.vietnamplus.vn/Home/Nam-2009-khach-du-lich-den-Ninh-Binh-tang-dot-
bien/200912/28103.vnplus
_________________________
45
xây dựng nhiều nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí đã giúp cho Ninh Bình
không những thu hút khách đến mà còn gia tăng được lượng khách lưu trú. Hiện
nay, địa phương cũng đang kêu gọi thu hút các dự án đầu tư vào du lịch, cơ sở lưu
trú để hướng đến mục tiêu phục vụ lượng khách lớn hơn trong tương lai như
chương trình trong quần thể khu du lịch Cố đô Hoa Lư nhằm đáp ứng phục vụ Đại
lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội.
Công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, giới thiệu về quê hương và con
người Ninh Bình cũng được chú trọng. Nhiều ấn phẩm mới như phim, báo, ảnh,
sách…được đưa vào phục vụ khách.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là
đội ngũ lao động phục vụ trực triếp trong ngành du lịch như hướng dẫn viên, lễ tân,
chạy bàn và các dịch vụ hỗ trợ khác đã được ngành du lịch tỉnh chú trọng và quy
hoạch bài bản hơn.
Với những thành công kể trên, đã góp phần khẳng định vai trò quan trọng
của kinh tế du lịch đối với kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình. Du lịch Ninh Bình
dần trở thành điểm đến thu hút lớn du khách trong nước và quốc tế.
Bài học kinh nghiệm cho phát triển KTDL ở tỉnh Lào Cai
Như vậy, thông qua việc đánh giá các thành tựu, hạn chế cũng như nguyên
nhân dẫn đến các hạn chế của du lịch Việt Nam và từ việc phân tích, tổng hợp khái
quát một số kết quả đạt được về phát triển kinh tế du lịch của Thủ đô Hà Nội - trung
tâm văn hóa, du lịch lớn của cả nước; Tỉnh Phú Thọ với nhiều nét tương đồng về
văn hóa và tự nhiên; Tỉnh Ninh Bình – một trong những tỉnh đã đạt được nhiều
thành công đáng kể trong giai đoạn khó khăn của ngành du lịch Việt Nam vừa qua
đã giúp cho Lào Cai có được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá từ việc quản lý,
quy hoạch, khai thác và sử dụng trong quá trình phát triển kinh tế du lịch của địa
phương như sau:
Một là, Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch phải được quan tâm chỉ đạo.
Việc quy hoạch được thực hiện một cách khoa học, thực tiễn giúp cho việc định
hướng đầu tư, qui mô đầu tư, phương thức đầu tư và hiệu quả đầu tư. Nhất thiết
phải đi từ qui hoạch tổng thể rồi đến quy hoạch chi tiết, đồng thời hướng dẫn thanh
tra, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện đúng qui hoạch đã được phê duyệt. Các ngành, các
46
cấp phối hợp chặt chẽ với ngành du lịch trong công tác QLNN về du lịch, trong đó
ngành du lịch phải đi đầu làm nòng cốt trong nghiên cứu, triển khai chiến lược, cơ
chế, chính sách phát triển du lịch và thể chế hóa thành các luật lệ, biện pháp và
chương trình cụ thể. Bên cạnh đó, thường xuyên nghiên cứu thông tin, kinh nghiệm
phát triển KTDL của các địa phương trong và ngoài nước, tổng kết thực tiễn kịp
thời để phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn về du lịch của địa phương.
Hai là, Quản lý Nhà Nước về du lịch cần tăng cường trên tất cả các lĩnh vực,
việc phối hợp QLNN về du lịch giữa ngành với cấp cơ quan và doanh nghiệp phải
thường xuyên và liên tục nhằm đảm bảo sự thống nhất, đúng hướng và nhanh nhậy
từ cấp cao nhất trong bộ máy quản lý đến các cấp thừa hành ở địa phương, tạo điều
kiện cho du lịch phát triển đúng hướng và hiệu quả hướng tới mục tiêu phát triển du
lịch bền vững.
Ba là, Xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên đầu tư và phát triển du lịch phù
hợp với điều kiện địa phương và đặc điểm tài nguyên du lịch, với xu thế phát triển
du lịch thế giới. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội và cở sở vật chất
chuyên ngành du lịch, trước hết phải đầu tư ban đầu bằng ngân sách Nhà Nước và
huy động từ nhiều nguồn khác. Chú trọng đào tạo, bối dưỡng và nâng cao trình độ
cho nguồn nhân lực du lịch và giáo dục du lịch toàn dân.
Bốn là, phải chú trọng công tác xúc tiến, quảng bá, tuyên truyền và hợp tác,
đầu tư về du lịch. Xúc tiến, quảng bá là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế du
lịch, cần được tiến hành một cách khoa học, chuyên nghiệp, sâu rộng và thường
xuyên. Tăng cường công tác tuyên truyền ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả trong nước
và quốc tế dưới nhiều hình thức đa dạng, đặc biệt tập trung ở những thị trường trọng
điểm để phát động, củng cố, mở rộng qui mô thị trường. Song song với nó, cần
phải đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế song phương và đa phương nhằm tranh thủ
tối đa sự hỗ trợ, đầu tư quốc tế về mọi mặt. Bên cạnh đó cũng không ngừng cải tiến,
nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch, tăng khả năng cạnh tranh.
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU
LỊCH Ở TỈNH LÀO CAI
47
2.1. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH LÀO CAI
2.1.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc miền núi phía Bắc Việt Nam, vị
thế của Lào Cai là tiềm năng thiên phú cho du lịch. Với những lợi thế về điều kiện
tự nhiên cũng như đặc điểm kinh tế - xã hội riêng của mình, đã tạo cho Lào Cai có
một nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú, đan xen và kết hợp hài hòa với
nguồn tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo để phát triển kinh tế du lịch của địa
phương.
2.1.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý:
Tỉnh Lào Cai được tái lập từ tháng 10 năm 1991 trên cơ sở tách ra từ tỉnh
Hoàng Liên Sơn, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc của Việt Nam,
cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ.
Địa dư của Lào Cai được xác định ở vị trí từ 103,50 đến 104,50 kinh độ Đông và từ 21,60 đến 22,80 vĩ độ Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203
km đường biên giới, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang,
phía Nam giáp tỉnh Yên Bái và Sơn La.
Ở một vị trí đặc biệt, Lào Cai với lợi thế là cửa ngõ thông thương với Tỉnh
Vân Nam và vùng Tây Nam - Trung Quốc, Lào Cai trở thành cầu nối giữa các tỉnh
phía sau Việt Nam với các tỉnh phía Tây Nam – Trung Quốc. Từ Lào Cai du khách
có thể đi du lịch sang Trung Quốc hoặc vào sâu nội địa Việt Nam. Bên cạnh đó, Lào
Cai nằm trong trục hành lang kinh tế Đông Tây Hải Phòng – Lào Cai – Côn Minh
tạo điều kiện thuận lợi cho mở cửa giao lưu, phát triển kinh tế toàn tỉnh nói chung
và kinh tế du lịch nói riêng.
* Đặc điểm địa hình:
Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc của đất nước, thuộc địa bàn núi cao
nhất Việt Nam, địa hình bị chia cắt mạnh mẽ, điều này liên quan chặt chẽ với đặc
48
tính của các nhóm đá cấu tạo chủ chốt ở đây: Nhóm đá Granit, đá Phiến và Sa
thạch. Tuy nhiên, địa hình cũng phân hóa thành hai vùng khác nhau.
- Vùng núi cao với độ cao từ 700m trở lên, được hình thành từ những dãy
núi, khối núi lớn, trong đó có 2 dãy núi chính là Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi
chạy song song với nhau theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Điểm cao nhất là đỉnh
núi Phan Xi Păng – mái nhà của đất nước có độ cao 3.143m, Tả Giảng Phình có độ
cao 3.096m, Pu Luông (2.983m), Sa Phin (2.897m)…
- Vùng địa hình thấp chủ yếu là các thung lũng dọc sông, suối lớn và các
kiểu địa hình máng trũng có bề mặt dạng đồi, các bồn địa chân núi Hoàng Liên Sơn
như Than Uyên. Bên cạnh thung lũng lớn dọc sông và các thung lũng nhỏ hẹp bị
bao bọc bởi các sơn nguyên, dãy núi.
Địa hình núi cao chia cắt mạnh, độ dốc lớn có ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng sản xuất nông nghiệp, khai thác khoáng sản, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng
song đối với du lịch nó lại đưa lại những giá trị nhất định, tạo nên tiềm năng du lịch
tự nhiên như những vách núi đá, đỉnh núi hiểm trở thuận lợi cho du lịch thể thao leo
núi, chinh phục các đỉnh núi cao, những hang động, thung lũng…đáp ứng nhu cầu
tham quan, nghiên cứu của du khách. Bên cạnh đó, trên nền địa hình ấy là thảm
thực vật tự nhiên phong phú, tạo điều kiện thu hút và phát triển loại hình du lịch
sinh thái.
* Khí hậu:
Lào Cai nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong
lục địa bị chi phối bởi nhiều yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần
thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất
hiện ở dạng nhiệt độ trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá (vùng Sapa có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 0oC và có tuyết rơi).
Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa
bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng cao từ 150C đến 200C (riêng Sa Pa từ 140C đến 160C và không có tháng nào lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800 –
49
2.000mm/năm. Ở vùng thấp, nhiệt độ trung bình từ 230C đến 290C, lượng mưa bình
quân khoảng 1.400 - 1.700mm/năm.
Nhìn chung, Lào Cai có nhiều tiểu vùng khí hậu tốt, nhất là những vùng có
độ cao từ 1.000m trở lên, thời tiết mát mẻ trong mùa hè (đặc biệt là ở Sapa, Bắc
Hà), mùa đông ít lạnh hơn so với những nơi có cùng vĩ độ ở sườn Đông dãy Hoàng Liên Sơn (khoảng 20C) do vậy rất thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng, phục hồi sức
khỏe.
* Thủy văn:
Đặc điểm địa hình và khí hậu đã tạo cho Lào Cai có hệ thống sông suối khá
dày đặc và lượng nước chảy phong phú. Trên địa bàn tỉnh có hai hệ thống sông
chính chảy qua là Sông Hồng và Sông Chảy.
Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam – Trung Quốc, có chiều dài chảy qua tỉnh
là 130km. Ngoài vai trò trong phát triển kinh tế, sông Hồng còn có vai trò to lớn
trong quá trình giao lưu giữa Lào Cai với các vùng trong và ngoài nước thông qua
hệ thống giao thông đường thủy.
Sông Chảy là con sông lớn thứ hai chảy qua địa bàn tỉnh với 124km chiều
dài, từ Pha Luông – Mường Khương qua cao nguyên Bắc Hà tới Phố Ràng.
Ngoài 2 con sông lớn, trên địa bàn tỉnh còn có hàng nghìn con sông, suối lớn
nhỏ (trong đó có 107 sông, suối dài từ 10 km trở lên) cũng có giá trị cho phát triển
kinh tế - xã hội cũng như du lịch của Lào Cai như: Sông Nậm Nhi, sông ngòi
Đum…và rất nhiều con suối nhỏ như suối Mường Hoa, suối Tiên…Bên cạnh đó,
theo các tài liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước nóng có nhiệt độ khoảng 400C và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa hiện chưa được khai
thác, sử dụng, tạo tiềm năng trong phát triển loại hình du lịch nghỉ ngơi, chữa bệnh.
* Tài nguyên sinh vật:
Ở Lào Cai, theo độ cao khác nhau đã tạo nên nhiều kiểu rừng: Rừng kín với
các loại cây lá rộng xanh quanh năm và các loại dây leo, bụi rậm chằng chịt, lên cao
hơn là rừng hỗn hợp cây lá rộng, lá kim, từ độ cao 2.500m trở lên hầu như không
còn cây cối nhiều, chỉ có lác đác Trúc núi.
50
Thực vật rừng rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của thực
vật. Riêng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn đã phát hiện được 847 loài
thực vật thuộc 164 họ, 5 ngành, trong đó có 6 loại quý hiếm đối với nước ta và thế
giới là: Bách Xanh, Thiết Sam, Thông tre, Thông đỏ, Bách tùng, Dẻ tùng.
Động vật rừng Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái. Trong đó thú
có 84 loài thuộc 28 họ, 9 bộ; chim có 251 loài thuộc 41 họ, 14 bộ; bò sát co 73 loài
thuộc 12 họ…Bên cạnh đó, Lào Cai có một số loài động vật đặc hữu như Gà lôi tía
(ở độ cao 2000-3000m), Khướu đuôi đỏ, Rắn lục sừng…Đây là nguồn tiềm năng có
giá trị lớn cho phát triển du lịch nhất là du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu
khoa học.
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai
Đặc điểm dân cư và người lao động:
+ Dân cư, dân tộc Toàn tỉnh Lào Cai có 613.075 người với mật độ dân số là 96 người / km2.
Lào Cai là vùng đất có nhiều có nhiều dân tộc cùng chung sống hòa thuận,
với 25 nhóm ngành dân tộc. Trong đó dân tộc thiểu số chiếm 65% dân số toàn tỉnh
gồm có: Dân tộc Hmông chiếm 22,21%, tiếp đến là dân tộc Tày 15,84%, Dao
14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4% còn lại là các dân tộc đặc biệt ít người như Phù Lá,
Sán Chay, Hà Nhì, La Chí,..., dân tộc Kinh chiếm 35%,.
Mỗi dân tộc có một tập quán sinh hoạt riêng tạo nên sự phong phú đa dạng
của văn hóa Lào Cai, được thể hiện qua cấu trúc nhà ở, trang phục, nghệ thuật ca
múa nhạc, văn hóa dân gian, tín ngưỡng…Đây chính là thế mạnh và là tiềm năng to
lớn để Lào Cai phát triển du lịch dựa trên nền văn hóa đa sắc tộc.
+ Lao động:
Do kết cấu dân số trẻ nên Lào Cai có một nguồn lao động tương đối dồi dào.
Tổng số lao động là 337.803 người chiếm 55,1% dân số toàn tỉnh. Đến thời điểm
hiện nay, Lào Cai có 3.200 lao động trực tiếp trong ngành du lịch, trong đó trình độ
từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 20%. Đa số có trình độ trung, sơ cấp, chưa qua đào
tạo chuyên ngành du lịch và làm việc theo hợp đồng thời vụ.
51
Như vậy, mặc dù nguồn lao động tương đối lớn nhưng trình độ còn chưa cao.
Do vậy, trong những năm tới để phát triển kinh tế du lịch của tỉnh thì Lào Cai cần
phải tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh nói chung và
ngành du lịch nói riêng, góp phần giải quyết và tạo việc làm cho dân cư địa phương.
Về phát triển kinh tế
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ XIII phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, trong những năm qua
Đảng bộ tỉnh đã tập trung cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, có bước đi phù hợp, huy
động được sức mạnh tổng hợp toàn xã hội nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh
khá cao đạt 12%, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tăng 11% so với
năm 2008. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế Lào Cai đã chuyển dịch
theo đúng hướng, hiện nay, tỷ trọng trong GDP của nông, lâm nghiệp chiếm
34,53%, công nghiệp-xây dựng 30,36%, dịch vụ 35,11% .Những kết quả nổi bật
trên, khởi đầu cho sự tiếp nối của nhiệm kỳ mới sẽ góp phần quan trọng tạo động
lực phát triển cho nền kinh tế của tỉnh tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường
CNH – HĐH.
Đặc điểm kết cấu hạ tầng
+ Giao thông:
Với 203 km đường biên giới với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, Lào Cai là
một trong những đầu mối giao thông quan trọng của cả nước nối liền với nước bạn
Trung Hoa. Là một tỉnh miền núi nên địa hình Lào Cai phức tạp, nhiều đồi núi cao,
chia cắt mạnh, rất khó khăn cho việc phát triển giao thông. Nhưng bằng sự nỗ lực
hết mình, ngành giao thông vận tải Lào Cai đã xây dựng được một hệ thống giao
thông thông suốt 4 mùa, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm nhiệm
được vai trò cầu nối của cả nước với vùng Tây Nam - Trung Quốc rộng lớn. Lào
Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng lưới giao thông vận tải đa dạng, bao
gồm: đường bộ, đường sắt, đường sông.
- Đường bộ: Có bốn tuyến quốc lộ chạy qua địa bàn tỉnh (4D, 4E, 279, 70)
với tổng chiều dài trên 400 km; tám tuyến tỉnh lộ với gần 300 km và gần 1.000 km
52
đường liên xã, liên thôn. Mạng lưới giao thông phân bố rộng khắp và khá đồng đều
trên địa bàn các huyện, thị đảm bảo giao thông thuận lợi. Hiện tại tuyến đường giao
thông Hà Nội – Lào Cai (quốc lộ 70) đã được cải tạo, hoàn thành, bên cạnh đó các
tuyến đường nối các khu, điểm du lịch Lào Cai – Sa Pa – Bắc Hà và một số huyện
khác cũng đã được đầu tư, nâng cấp.
Đặc biệt, việc khởi công tuyến đường cao tốc Lào Cai – Nội Bài với chiều
dài 264km, tuyến đường này sẽ kết nối Hà Nội – Hải Phòng, với đường cao tốc Côn
Minh (Trung Quốc) – Hà Khẩu (Lào Cai) tạo thành tuyến cao tốc Côn minh – Hải
Phòng, một trong những tuyến đường hợp tác phát triển trong tuyến hành lang kinh
tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng. Đây là công trình trọng điểm quốc
gia nằm trong chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông (GMS), là điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh.
- Đường sắt: Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đoạn qua địa
phận Lào Cai dài 62 km được nối với đường sắt Trung Quốc, năng lực vận tải
khoảng 1 triệu tấn/năm và hàng ngàn lượt khách/ngày, đêm. Ngoài ra còn có đường
sắt nối từ Phố Lu vào mỏ Apatít Cam Đường và một nhánh từ Xuân Giao đi Nhà
máy Tuyển quặng Tằng Loỏng, với tổng chiều dài 58 km, theo thiết kế có 50 đôi
tàu/ngày đêm.
- Đường sông: Có hai tuyến sông Hồng và sông Chảy chảy dọc tỉnh, tạo
thành một hệ thống giao thông đường thuỷ liên hoàn.
- Bên cạnh đó, Chính phủ đã có chủ trương xây dựng sân bay tại Lào Cai
trong giai đoạn 2010 – 2015 tạo ra những cơ hội thuận lợi cho phát triển du lịch.
Trong lĩnh vực giao thông đối ngoại, ngành giao thông vận tải Lào Cai đã có
quan hệ chặt chẽ với ngành giao thông Vân Nam - Trung Quốc. Những năm qua,
hai bên thường xuyên trao đổi các vấn đề liên quan đến giao thông giữa hai nước
như: xây dựng các cầu qua sông biên giới hai nước, thực hiện tốt Hiệp định vận tải
đã ký kết...
+ Hệ thống điện, thông tin văn hóa:
53
Hiện nay, tỉnh đã xây dựng mạng lưới điện đảm bảo cung cấp cho nhu cầu tại
thành phố và các thị trấn với 9/9 huyện, thành phố; 164 xã, phường, thị trấn có điện
lưới quốc gia; 75% hộ dân được sử dụng điện lưới. Ngoài ra từ năm 2006, ngành
Điện lực Việt Nam đã hoàn thành đấu nối đường dây 220 KV Yên Bái – Lào Cai –
Hà Khẩu để nhập khẩu điện từ Vân Nam (Trung Quốc) với nhu cầu sản lượng
khoản 300MW, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi người dân
trong tỉnh.
Hệ thống thông tin liên lạc đã phát triển trên các huyện, thành phố, bước đầu
đã đáp ứng được yêu cầu cho phát triển du lịch
- Hạ tầng bưu chính: Tính đến 30/9/2009, có 227 điểm phục vụ, trong đó: có
25 Bưu cục, 127/144 xã có điểm bưu điện văn hoá xã; 125 đại lý bưu điện, 100%
trung tâm huyện, thành phố có báo đến trong ngày. Bán kính phục vụ bình quân
2,7km/điểm phục vụ; bình quân số dân được phục vụ là 2.143 người/điểm phục vụ
(đạt 97% chỉ tiêu đến năm 2010).
- Hạ tầng viễn thông: So với những năm trước, mạng lưới viễn thông của
tỉnh Lào Cai đã có sự phát triển vượt bậc. Hiện nay trên toàn mạng có 57 tuyến cáp
quang, 30 tuyến truyền dẫn Vi ba, 170 trạm BTS. Mật độ điện thoại bình quân đạt
62,8 máy/100 dân (gồm cả cố định và di động). Thuê bao Internet đạt trên 11.900
thuê bao trong đó thuê bao băng rộng đạt 5.672 thuê bao. Theo hướng dẫn về hệ số
quy đổi của Bộ Tthông tin và Truyền thông mật độ sử dụng Internet của tỉnh Lào
Cai đạt 10,5/100 dân.
- Việc phát triển hạ tầng CNTT tại các sở, ban, ngành đã được chú trọng đầu
tư, kết nối Internet phục vụ cho công tác quản lý, điều hành. Đến nay đã có 42/59
cơ quan nhà nước có mạng LAN; tỷ lệ máy tính kết nối Internet chiếm hơn 60%.
Hiện tại, Tỉnh đã có Cổng giao tiếp điện tử ở địa chỉ: http://w.w.w.laocai.gov.vn/ là
kênh thông tin chính thức của tỉnh Lào Cai trên môi trường mạng.
+ Dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe:
Mạng lưới y tế cơ sở không ngừng được củng cố và từng bước hoàn thiện,
54
100% số xã, phường, thị trấn có Trạm xá và cán bộ y tế. Tỷ lệ xã phường đạt chuẩn
quốc gia về y tế là 66%. Hiện nay, toàn tỉnh có 4 bệnh viện tuyến tỉnh, 8 bệnh viện
tuyến huyện và 36 phòng khám đa khoa khu vực với 2.180 giường điều trị. Bằng
nhiều nguồn vốn đầu tư các cơ sở y tế đã từng bước trang bị những thiết bị, phương
tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho việc khám, chữa bệnh. Tất cả đều phản ánh năng
lực của ngành trên đà phát triển và đã góp phần tích cực vào việc chăm sóc bảo vệ
sức khỏe cộng đồng dân cư.
+ Giáo dục và đào tạo:
Sự nghiệp giáo dục- đào tạo của tỉnh không ngừng phát triển theo hướng đa
dạng hoá về loại hình, phương thức và nguồn lực, từng bước hội nhập với xu thế
chung của nền giáo dục cả nước. Các ngành học, bậc học của tỉnh tiếp tục phát triển
nhanh về qui mô trường lớp, học sinh. Chất lượng giáo dục toàn diện ở các ngành
học, bậc học qua các năm được giữ vững và có những chuyển biến rõ rệt. Duy trì và
nâng cao tính bền vững phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, đã hoàn thành phổ cập giáo
dục trung học cơ sở vào tháng 12 năm 2007 đúng tiến độ. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi
đến trường đạt 99,4%. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Đào tạo nguồn
nhân lực được chú trọng, tỉnh có nhiều trung tâm dạy nghề ở các địa phương và ở
các ngành. Điều đó cho thấy, trong những năm qua cùng với sự phát triển kinh tế,
lĩnh vực giáo dục đào tạo cũng được quan tâm đầu tư, phát triển tạo đà công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
2.1.2. Nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh Lào Cai
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Đặc điểm điều kiện tự nhiên đã tạo cho Lào Cai một tiềm năng du lịch thiên
nhiên vô cùng phong phú, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều lợi hình du lịch
như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch thể thao, leo núi…với những địa
danh nổi tiếng như Sa Pa, Bắc Hà, Phan Xi Păng, cửa khẩu quốc tế Lào Cai…
- Sa Pa là điểm du lịch nổi tiếng không chỉ của riêng Lào Cai mà còn của
Việt Nam, là một trong 21 trọng điểm du lịch của nước ta. Sa Pa nằm ở độ cao trung
bình 1.200m – 1.800m, khí hậu mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình từ 15 –
55
20oC, điều kiện khí hậu rất thích hợp cho sức khỏe của con người, thuận lợi cho
phát triển du lịch nghỉ dưỡng, tham quan. Đến Sa Pa, du khách có thể ngắm nhìn
hay leo lên đỉnh núi Phan Xi Păng – đỉnh núi cao nhất Đông Dương, tham quan
Thác Bạc – thượng nguồn chính của con suối Mường Hoa, Cầu Mây – cầu treo bắc
qua con suối Mường Hoa, leo núi Hàm Rồng thưởng thức vẻ đẹp của đủ loại phong
lan, đỗ quyên…
- Cao nguyên đá vôi Bắc Hà: Cũng giống như Sa Pa, Bắc Hà có khí hậu
quanh năm mát mẻ và là một vùng mận Tam hoa khổng lồ. Về mùa xuân, Bắc Hà
như một cao nguyên trắng của sương và hoa mận với nhiều cảnh đẹp đáng chú ý
như động Tảng Lùng Phìn, dinh Hoàng A Tưởng xây dựng cách đây gần một thế
kỷ.
- Địa hình núi đã đưa lại cho Lào Cai nhiều hang động đẹp có giá trị cho phát
triển du lịch, trong đó điển hình là động Mường Vi – còn gọi là động Thủy Tiên, là
một quần thể hang động có quy mô vào loại lớn ở miền Bắc Việt Nam. Trong động
có nhiều nhũ đá, cột đá tạo thành những hình thù ký thú, khi gõ vào có thể tạo ra
những âm thanh như tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng đàn. Quần thể hang động
Mường Vi không chỉ đẹp mà còn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian và đã
được Bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia.
Ngoài ra còn nhiều hang động khác như động Tả Phời (Cam Đường), động
Hàm Rồng (Mường Khương)…có thể đưa vào khai thác phục vụ loại hình du lịch
sinh thái, tham quan.
- Địa hình dốc, chia cắt đã tạo nên đặc điểm sông suối nhiều thác,
ghềnh…tạo nên cảnh đẹp hấp dẫn du khách tham quan, tắm mát như Thác Bạc, Huy
Ly, Phai Na…
- Nước khoáng Tăckô: Là mạch nước ngầm trong vắt, nằm ở địa phận
Mường Tiên. Nước ngọt và mát có tác dụng giải khát và chữa bệnh, rất có giá trị
trong phục vụ khách du lịch.
56
- Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên với diện tích khoảng 29.845ha, là khu
dự trữ tự nhiên lớn của Việt Nam với khoảng hơn 700 loài thực vật khác nhau. Đây
thực sự là tiềm năng to lớn cho du lịch sinh thái của Lào Cai.
- Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu cũng là một điểm du lịch thú vị mà
điểm dừng chân không thể là nơi nào khác ngoài thành phố Lào Cai.
2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Với những nét riêng về văn hóa - xã hội đã tạo cho Lào Cai có một nguồn tài
nguyên du lịch nhân văn độc đáo. Các tài nguyên này bao gồm những di tích lịch sử
văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, những sản phẩm thủ công, những giá trị văn hóa phi
vật thể như văn nghệ dân gian, lễ hội, ẩm thực…thể hiện bản sắc văn hóa của Lào
Cai, là lực thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế đến nghiên cứu,
tham quan, tìm hiểu.
Di tích văn hóa – lịch sử
* Di tích lịch sử
- Đền Bảo Hà: Thờ ông Hoàng Bẩy, một anh hùng miền sơn cước đánh giặc
phương Bắc bảo vệ bản làng. Đền được xây dựng vào thế kỷ 17, được triều đình
nhà Lê phong tặng “Trấn an hiển liệt”.
- Đền Mẫu: Xây dựng từ đầu thế kỷ 18 thuộc địa phận làng Lão Nhai (nay là
thành phố Lào Cai). Đây là công trình thể hiện tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
sống ở vùng biên cương của Tổ quốc.
- Đền Thượng: Cách đền Mẫu khoảng 300m, là một ngôi đền cổ với khuôn
viên rộng hàng chục hecta. Đền thờ Trần Hưng Đạo, biểu tượng văn hóa là nơi thờ
cha. Đền được xây từ đầu thế kỷ 19. Khách trong và ngoài nước rất thích đến vãn
cảnh chùa mỗi khi đi du lịch Lào Cai.
- Bên cạnh đó, Lào Cai còn có những di tích lịch sử mang tính cách mạng
như di tích đồn Phố Ràng, pháo đài cổ, được người Pháp khởi công xây dựng, sau
đó người Nhật mở rộng với hệ thống hầm ngầm sâu trong lòng núi, nhiều hang
ngách chằng chịt chứa những điều bí ẩn chưa được khám phá.
* Di tích khảo cổ:
57
Lào Cai là tỉnh có khá nhiều di tích khảo cổ quan trọng, trên địa bàn tỉnh đã
phát hiện được trên 17 di tích văn hóa Đông Sơn. Các di tích này tập trung ở lưu
vực sông Hồng tại các huyện Bát Xát, Cam Đường, Mường Khương, Bảo Thắng và
thành phố Lào Cai. Những di tích phát hiện phần lớn đều là mộ táng, trong đó di vật
Đồng Thau rất phong phú, mang đặc trưng của Đông Sơn miền núi, bao gồm công
cụ sản xuất (lưỡi cày, lưới cuốc, rìu, thuổng…), đồ dùng sinh hoạt (bình âu, bát
đĩa…), vũ khí (giáo, dao găm, chông…) và nhiều loại nhạc khí như chuông voi và
đặc biệt là trống đồng các loại, một hiện vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn.
Bãi đá cổ Sa Pa – di sản của người Việt cổ, là một khu di tích khảo cổ quan trọng có giá trị văn hóa lịch sử lớn. Di tích bãi đá cổ rộng khoảng 8km2, bao gồm
những tảng đá với nhiều lớp chạm khắc cổ nằm trong thung lũng Mường Hoa, rải
rác xen giữa những thửa ruộng bậc thang của đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây.
Các lớp chạm khắc trên đá bao gồm nhiều loại hình khác nhau như tranh vẽ tả thực,
hoa văn trang trí, trong đó đáng chú ý nhất là các hình vẽ người, nhà sàn và các dấu
hiệu có thể là một hình thức phôi thai của chữ viết đến nay vẫn chưa giải mã được.
Hiện nay, khu di tích này thu được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và đang đề
nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Lễ hội truyền thống
Trong các tài nguyên du lịch nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên có
giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Ngoài những lễ hội có tính chất chung của cả nước,
của vùng núi Tây Bắc, Lào Cai còn có những lễ hội riêng, đặc sắc. Thông qua các lễ
hội này, du khách có thể hiểu được về văn hóa và con người Lào Cai.
- Hội chơi núi mùa xuân: Đây là lễ hội của dân tộc H’Mông còn được gọi là
Gầu Tào hoặc Sán Sải (có nghĩa là đi chơi ngoài trời hoặc chơi núi). Lễ hội thường
diễn ra sau tết nguyên đán, từ mùng 3 đến mùng 5 tháng giêng tại những khu đồi
thoải gần các bản làng. Lễ hội mang màu sắc tín ngưỡng dân gian: Cầu con, cầu
mệnh, cầu may, cầu phúc. Trong lễ hội còn tổ chức nhiều trò chơi, trò thi đấu như
thi bắn nỏ, đua ngựa, múa khèn…
58
- Lễ Tết Nhảy của người Dao Đỏ: Được tổ chức vào dịp tết nguyên đán,
thường diễn ra tại các nhà trưởng họ. Nét đặc thù của lễ hội là tắm tượng tổ tiên
bằng gỗ. Trong lễ hội còn có những điệu múa thể hiện tín ngưỡng mang màu sắc
văn hóa, nghệ thuật qua đó thấy được nét sinh hoạt cộng đồng của người Dao Đỏ.
- Hội Lồng Tồng của người Tày (huyện Văn Bàn, huyện Bắc Hà): Là nét
sinh hoạt đặc sắc nhất của người Tày, được tổ chức vào mùng 5 tết hoặc 15 tết tại
khu ruộng gần bản, trung tâm lễ hội là cây còn. Lễ hội phản ánh ước nguyện được
mùa, con người khỏe mạnh, sinh nhiều con cháu. Trong lễ hội có nhiều cuộc vui
như thi ném còn, kéo co, chọi gà bằng hoa chuối, chọi châu bằng măng vầu, hát
giao duyên…
- Hội xuống đồng (dân tộc Giáy, Phù Lá), còn được gọi là hội Cầu múa, tổ
chức vào mùng 3 tết. Hội xuống đồng rất độc đáo, nó mang những nét riêng biệt,
không bị ảnh hưởng pha tạp của dân tộc nào.
- Lễ lập tịch của người Dao (Khe Mạ - Bảo Thắng): Lễ thường được tổ chức
vào dịp nông nhàn (trước hoặc sau tết nguyên đán). Đây là nghi lễ của gia đình khi
có con trai 14-15 tuổi, mời thầy đến làm lễ chính thức nhập vào dòng họ. Sau phần
nghi lễ quan trọng có múa hát rất tưng bừng, múa trống đất, múa sạp…
- Lễ hội đền làng Lão Nhai (tên gọi cũ của Lào Cai): Lễ hội tổ chức trong 3
ngày 11, 12 đến 13 tháng giêng âm lịch tại đền thờ Thánh Mẫu và khu vực bãi sông.
Ngoài ra còn rất nhiều lễ hội khác nữa như: Lễ hội cúng rừng của người
Nùng ở Mường Khương, lễ hội gặt tu tu của người Hà Nhì Đen ở Bát Xát, hội Cốm
của người Tày, lễ cơm mới và hội hoa chuối của người Xa phó ở Văn Bàn…tạo nên
nét phong phú trong tập quán sinh hoạt của đồng bào các dân tộc tỉnh Lào Cai và là
yếu tố hấp dẫn du khách tìm hiểu, nghiên cứu.
Các tài nguyên du lịch nhân văn khác
- Lào Cai là địa phương có sản phẩm thủ công truyền thống khá nổi tiếng ở
Việt Nam. Thêu, dệt thổ cẩm là nghề thủ công truyền thống của đồng bào dân tộc như Dao, H’Mông, Thái, Hà Nhì…Du khách sẽ được chứng kiến những động tác
thao diễn tinh sảo với những hoa văn độc đáo, thông qua đó có thể tạo ra một
59
phương thức du lịch khác như nghiên cứu, quảng bá sản phẩm, tìm kiếm đối tác, ký
hợp đồng kinh doanh trong nước và quốc tế, xuất khẩu tại chỗ…
- Những phiên chợ vùng cao là những nét sinh hoạt có giá trị nhân văn, phục
vụ tốt cho hoạt động du lịch ở Lào Cai, đó là phiên “Chợ văn hóa giao duyên” ở Sa
Pa, phiên chợ Bắc Hà…
- Lào Cai không chỉ có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, văn hóa dân tộc đặc
sắc mà Lào Cai còn nổi tiếng với nhiều món ăn mang đậm hương vị của núi rừng
mà du khách đặc biệt ưa thích như cuốn sủi, khổ nhục, thắng cố, ngẩu pín…
* Đánh giá chung:
Với những nét khái quát và phân tích trên, có thể thấy rằng Lào Cai là một
tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch đa dạng, đặc sắc có khả năng khai thác để phát
triển với những sản phẩm du lịch hấp dẫn, có tính cạnh tranh cao. Hơn nữa, các tài
nguyên phân bố một cách khá tập trung, lại kết hợp được cả tiềm năng du lịch tự
nhiên và du lịch nhân văn đây là một đặc điểm thuận lợi cho việc khai thác phát
triển du lịch của Lào Cai.
Về tự nhiên, Lào Cai có tiềm năng phong phú có thể phát triển nhiều loại
hình du lịch với sản phẩm du lịch chính là du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; du lịch
mạo hiểm (leo núi, thám hiểm hang động).
Về nhân văn, Lào Cai là nơi hấp dẫn du khách đến với văn hóa dân tộc thiểu
số miền núi phía Bắc với sản phẩm du lịch chính là du lịch văn hóa, lịch sử; du lịch
cộng đồng và du lịch mua sắm hàng hóa.
Tuy nhiên, do đặc điểm về tự nhiên, do tác động của hoạt động kinh tế xã hội
trong những năm gần đây đã gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và tiềm năng
cho hoạt động du lịch, do vậy tỉnh cần có kế hoạch bảo vệ và tôn tạo tài nguyên, kể
cả tự nhiên và nhân văn nhằm đảm bảo phát triển trên quan điểm bền vững. 2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
2.2.1. Cơ cấu tổ chức và quản lý Nhà nƣớc về du lịch
Để KTDL phát triển đúng hướng và đạt được những thành công nhất định thì
vai trò quản lý của Nhà nước vô cùng quan trọng. Quản lý Nhà nước (QLNN) về du
60
lịch thể hiện chức năng quản lý vĩ mô về du lịch, không làm chức năng chủ quản,
không làm chức năng kinh doanh thay các doanh nghiệp du lịch. Việc quản lý đó
được thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trên lĩnh vực kinh
tế du lịch. QLNN về du lịch là nhằm đưa du lịch phát triển theo định hướng chung
của tiến trình phát triển đất nước.
Với sự nhận thức đúng đắn về tiềm năng và thế mạnh để phát triển KTDL,
Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành
đi ngay vào việc xác định phương hướng, mục tiêu kinh tế - xã hội theo đặc trưng,
đặc thù riêng của tỉnh Lào Cai. Trong đó, tỉnh đã sớm nắm bắt các tài nguyên du
lịch, khảo sát, tổng hợp tài nguyên đó để đề ra chiến lược phát triển du lịch thành
ngành kinh tế mũi nhọn.
Để thực hiện vai trò QLNN về du lịch cũng như tăng cường sức mạnh và
nâng cao hiệu quả quản lý, UBND tỉnh đã chỉ đạo việc hợp nhất các bộ phận QLNN
về du lịch thành Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL). Đồng thời cũng
quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở VHTT&DL, sắp xếp các phòng
ban theo đúng chức năng, nhiệm vụ, ưu tiên bố trí đội ngũ cán bộ học đúng chuyên
ngành về công tác tại cơ quan quản lý du lịch.
Sở VHTT&DL là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, tham mưu và giúp
cho UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN về du lịch trên phạm vi quản lý của Sở
theo quy định của pháp luật.
Sở VHTT&DL chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp toàn diện của UBND tỉnh
về tổ chức, biên chế và hoạt động đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên
môn nghiệp vụ của Tổng cục Du lịch.
Đứng đầu Sở VHTT&DL là Giám đốc Sở, chịu trách nhiệm trước pháp luật
về toàn bộ mọi hoạt động của Sở về việc thực hiện nhiệm vụ được giao; chịu trách
nhiệm báo cáo trước Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, UBND tỉnh và Tổng cục Du
lịch khi được yêu cầu. Tiếp đó là Phó giám đốc và các phòng ban chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Sở. Ngoài ra còn có các đơn vị trực thuộc Sở là Trung tâm xúc tiến
61
đầu tư – thương mại và du lịch tỉnh Lào Cai. Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu thực
tế, UBND tỉnh đã ban hành quyết định số 1899/QĐ-UBND về việc thành lập Trung
tâm thông tin du lịch Lào Cai và hệ thống 2 nhà du lịch tại Sa Pa, Bắc Hà.
Có thể nói, trong những năm qua công tác QLNN về Du lịch của tỉnh Lào
Cai đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần thúc đẩy KTDL phát triển theo
đúng hướng. UBND tỉnh đã chỉ đạo việc triển khai, hướng dẫn Luật du lịch và các
văn bản dưới Luật đến các cơ sở KDDL, các huyện, thành phố. Triển khai Nghị
định 92/2008/NĐ-CP ngày 1 tháng 2 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số Luật Du lịch; ban hành Quyết định số 05/2008/QĐ-UBND ngày
23/1/2008 về ban hành quy chế quản lý một số hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh
Lào Cai nhằm tăng cường hơn nữa công tác QLNN về du lịch.
Bên cạnh đó, Tỉnh không ngừng tăng cường công tác quản lý cơ sở KDDL,
tiến hành thẩm định các cơ sở lưu trú, phân loại rõ hạng. Đồng thời, thường xuyên
hướng dẫn và đôn đốc các cơ sở lưu trú, phòng văn hóa thông tin các huyện, thành
phố thực hiện các quy định về việc phòng, chống dịch bệnh và đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm trong quá trình phục vụ khách. Việc quản lý giá cơ sở lưu trú đã
được thực hiện tốt với việc tổ chức ký cam kết thực hiện văn minh trong kinh doanh
cơ sở lưu trú và đăng ký giá phòng theo mùa vụ du lịch. Các cơ sở lưu trú hiện nay
hầu hết đều đạt tiêu chuẩn tối thiểu, việc đánh giá xếp hạng được thực hiện theo các
tiêu chí quy định của Tổng cục Du lịch và các văn bản quản lý của địa phương.
Tỉnh đã ban hành Quy chế quản lý lữ hành quốc tế qua cửa khẩu quốc tế Lào
Cai, Quy chế quản lý du lịch tại huyện Sa Pa, đảm bảo các hoạt động du lịch diễn ra
sôi nổi, hoạt động đúng pháp luật. Từ năm 2006 – 2009 đã tổ chức 6 phiên hội đàm
và ký kết Biên bản hợp tác với Cục du lịch tỉnh Vân Nam, Cục du lịch châu Hồng
Hà, Chính quyền nhân dân huyện Hà Khẩu – Trung Quốc nhằm tăng cường hợp tác
quản lý và phát triển du lịch giữa hai bên. Thanh tra du lịch thường trực hàng ngày
tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai nhằm tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt
động lữ hành. Trong năm 2007 – 2009 đã kiểm tra trên 50 đơn vị kinh doanh du lịch
và xử phạt vi phạm hành chính 26 triệu đồng, góp phần đưa các hoạt động lữ hành
62
tại khu vực cửa khẩu quốc tế Lào Cai nói riêng và hoạt động du lịch của tỉnh Lào
Cai nói chung dần đi vào chuyên nghiệp.
Với nhiệm vụ và quyền hạn quy định của mình theo pháp luật, Sở
VHTT&DL cũng đã thực hiện tốt vai trò chỉ đạo của mình. Sở đã xây dựng và trình
UBND tỉnh quy hoạch, kế hoạch cũng như phương hướng và nhiệm vụ để thực hiện
có hiệu quả đề án phát triển KTDL của tỉnh, từng bước mở rộng và phân cấp quản
lý các khu, tuyến, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh. Đồng thời Sở VHTT&DL xây
dựng xong Chính sách khuyến khích phát triển du lịch tỉnh Lào Cai theo trình tự
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trình tỉnh phê duyệt.
Đặc biệt, trong năm 2009 có thể nói là một năm không ít khó khăn đối với du
lịch Lào Cai. Suy thoái kinh tế toàn cầu, giá tour tăng, dịch bệnh…ảnh hưởng
nghiêm trọng đến du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Lào Cai nói riêng. Trước
tình hình khách quốc tế giảm và khó khăn của doanh nghiệp du lịch, ngành Du lịch
Lào Cai đã xây dựng và thực hiện kế hoạch triển khai giải pháp cấp bách để thu hút
khách quốc tế và tăng trưởng du lịch nội địa tỉnh Lào Cai năm 2009. Ngành đã xác
định được các giải pháp quan trọng, cấp bách bao gồm: tăng cường xúc tiến du lịch,
xây dựng sản phẩm du lịch mới, đổi mới tổ chức các sự kiện du lịch và tăng cường
hợp tác quốc tế. Sở VHTT&DL đã phát huy vai trò chỉ đạo, điều hành chung về thị
trường du lịch, quy tụ sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch, tạo sự gắn kết giữa
các doanh nghiệp du lịch vì một mục đích xây dựng những gói sản phẩm kích cầu,
chương trình khuyến mãi và tour du lịch giảm giá nhằm thu hút du khách, kiềm chế
sự sụt giảm về lượng khách và doanh thu du lịch...Gói giải pháp được thực hiện đã
tác động mạnh đến việc hợp tác xây dựng và quảng bá sản phẩm du lịch, dịch vụ
giữa các cơ quan nhà nước và khối tư nhân, qua đó nâng cao hiệu quả kích cầu du
lịch, kịp thời góp phần tháo gỡ trước những khó khăn, thách thức với những giải
pháp mang tính chất cụ thể.
Mặc dù, việc thực hiện gói giải pháp vẫn chưa phát huy hết tác dụng và hiệu
quả do các đơn vị chưa có sự hợp tác sâu, chưa tạo đà thúc đẩy đủ mạnh cho sự
nghiệp phát triển du lịch chung. Song có thể nói rằng, với sự quan tâm chỉ đạo thực
63
hiện kịp thời và phát huy vai trò QLNN về du lịch trong thời gian qua đã tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt
động trên lĩnh vực KTDL đồng thời góp phần tạo động lực thực sự thúc đẩy KTDL
tỉnh Lào Cai ngày càng tăng trưởng và phát triển.
2.2.2. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tƣ vào lĩnh vực du lịch
Trong những năm qua, tỉnh đã tăng cường và tập trung nguồn vốn đầu tư vào
phát triển KTDL. Việc thu hút các dự án đầu tư vào cơ sở vật chất chuyên ngành du
lịch được thực hiện tốt, đã có nhiều nhà đầu tư đến khảo sát, đăng ký đầu tư như:
Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Cao su Việt Nam, Công ty đầu tư xây dựng
Việt Nam (Secoin), Công ty du lịch Saigon Tourism, Công ty cổ phần du lịch
Hoàng Gia (Khách sạn Grand Royal)…Đồng thời thu hút được nhiều doanh nghiệp
lớn đầu tư vào lĩnh vực khách sạn, khu vui chơi giải trí, trong đó có 12 doanh
nghiệp trong và ngoài nước với tổng số vốn đầu tư là trên 800 tỷ đồng. Giai đoạn
2006 – 2010, tổng số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và vui chơi giải trí (đặc biệt là hệ
thống khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp) trong toàn tỉnh ước đạt 1.220.522 triệu đồng6.
Đặc biệt trong 3 năm qua, đã đầu tư 34,469 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách
và vốn từ hạ tầng du lịch quốc gia vào hệ thống các đường du lịch tại Sa pa, Bắc Hà
đã trở thành “vốn mồi” quan trọng để thúc đẩy đầu tư phát triển du lịch Lào Cai.
Qua đó đã thu hút được nhiều dự án du lịch trên địa bàn tỉnh như dự án đầu tư tại
Khu công nghiệp Kim Thành, Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai, Sa Pa với tổng số vốn
xấp xỉ 300 tỷ đồng đầu tư chủ yếu tại Lào Cai, Huyện Sa Pa.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã và đang tập trung đầu tư một số điểm
du lịch có sức hút đối với du khách như Quần thể khu di tích Đền Thượng, công
viên Nhạc Sơn, và tiến hành nâng cấp một số điểm du lịch (Cát Cát, Hàm Rồng –
Sa Pa…).
Tuy nhiên, do công tác giải phóng mặt bằng phức tạp cùng một số nguyên
6 Sở VHTT&DL Lào Cai (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006 –
2010.
________________________
64
nhân từ phía các chủ đầu tư và yêu cầu trong công tác quy hoạch của tỉnh Lào Cai
nên năm 2009 có 6 dự án trong lĩnh vực khách sạn, du lịch sinh thái của các chủ đầu
tư: Công ty TNHH Thương mại Đông Á; Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn; Công ty
Cố phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại; Điện lực Miền Bắc; Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam; Công ty Cổ phần Sài Gòn Sa pa; Công ty Cổ Phần Bảo
Hiểm Dầu Khí Việt Nam đã bị tạm dừng triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, môi
trường đầu tư chưa thực sự tốt đã tác động không nhỏ tới tâm lý của các chủ đầu tư
mới vào các dự án du lịch lớn trên địa bàn. Đây cũng là những trở ngại không nhỏ
trong thu hút đầu tư phát triển cơ sở vật chất chuyên ngành du lịch và thu hút khách
du lịch thu nhập cao đến với Lào Cai. Do đó, để tạo điều kiện cho KTDL phát triển
tương xứng với tiềm năng, thế mạnh du lịch của tỉnh, thì Lào Cai cần phải đề ra giải
pháp tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để tăng thu hút nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực
du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
2.2.3. Tình hình xúc tiến, quảng bá và liên kết, hợp tác du lịch
Với sự nhận thức đúng đắn về vai trò của hoạt động xúc tiến, quảng bá, liên
kết và hợp tác du lịch đối với sự phát triển của KTDL, trong những năm qua tỉnh đã
chú trọng đầu tư và thực hiện có hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư du lịch. Giai
đoạn 2006 -2010 với mức kinh phí ước đạt 12,557 tỷ đồng (chủ yếu từ nguồn xã hội hóa và các tổ chức phi chính phủ)7, góp phần không nhỏ trong việc thu hút khách du
lịch và các dự án đầu tư.
Hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch được thực hiện dưới nhiều hình thức đa
dạng như: Tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên
truyền thông qua tổ chức các sự kiện. Một loạt các ấn phẩm với nội dung phong
phú, thông tin tiện ích như sách ảnh du lịch Lào Cai, cẩm nang du lịch, bản đồ du
lịch…được phát hành, mặt khác tỉnh cũng đã ứng dụng công nghệ thông tin vào
quảng bá du lịch với ba Website riêng về du lịch và 1 Website chung với nhiều
modul về du lịch (www.vanhoalaocai.vn). Những Website này là kênh tuyên truyền
7 Sở VHTT&DL Lào Cai (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006 –
2010.
________________________
65
nhanh, hiệu quả và kịp thời về nhiều sự kiện du lịch của Lào Cai. Bên cạnh đó, liên
tục trong những năm qua, Lào Cai đã tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa du
lịch lớn, thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều du khách trong và ngoài nước.
Tiêu biểu phải kể đến là “Lễ hội Đền thượng”; “Tuần văn hóa du lịch Sapa”;
“Chương trình khám phá Fansipan”… với sự đổi mới về nội dung, hình thức phong
phú và hấp dẫn, gắn kết văn hóa truyền thống với các hoạt động văn hóa, thể thao,
thương mại và ẩm thực, qua đó thu hút được hàng chục nghìn lượt khách, phóng
viên báo chí trong và ngoài nước đến tham dự.
Đặc biệt, với vệc thành lập Trung tâm Thông tin du lịch tỉnh Lào Cai theo
quyết định số 1899/QĐ-UBND ngày 13 tháng 8 năm 2007 và hệ thống 2 nhà du lịch
tại Sa Pa, Bắc Hà, quầy thông tin ga Lào Cai đã phát huy hiệu quả (đã tư vấn du lịch
cho 44.500 lượt khách), góp phần nâng cao chất lượng công tác thông tin, tư vấn và
xúc tiến du lịch tỉnh Lào Cai, hướng công tác xúc tiến du lịch của tỉnh vào chuyên
nghiệp.
Bên cạnh đó, tỉnh còn tăng cường liên kết hợp tác phát triển du lịch với các
tổ chức trong và ngoài nước. Tỉnh đã phối hợp thành công với các tỉnh Yên Bái –
Phú Thọ theo “Chương trình Du lịch về cội nguồn”, chương trình hợp tác phát triển
du lịch khu vực Tây Bắc, mở rộng và hợp tác phát triển du lịch Lào Cai – Hà Giang.
Hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy phát triển du lịch đạt nhiều kết quả quan trọng thông
qua các hoạt động: Hội nghị hợp tác khai thác phát triển du lịch theo hành lang kinh
tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, hợp tác với vùng
Aquitaine – Cộng hòa Pháp…Trong giai đoạn 2006 - 2009, Lào Cai đã thu hút được
7 dự án đầu tư trực tiếp trong lĩnh vực du lịch với tổng số vốn 28,621 triệu USD và
1 dự án đầu tư từ nguồn viện trợ không hoàn lại với số vốn là 1.790.000 Euro.
Đặc biệt, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch đã được sự ủng hộ và tham gia
nhiệt tình của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; xã hội hóa hoạt động du lịch
ngày càng đẩy mạnh. Trong giai đoạn 2006 - 2009 đã thu hút được 28 doanh nghiệp
tài trợ cho các sự kiện du lịch của tỉnh với tổng số tiền và giá trị hiện vật tài trợ lên
tới 3,8 tỷ đồng, trong đó đã ký hợp đồng với Tổng công ty hàng không (Vietnam
66
Airline) là nhà tài trợ chính cho Chương trình Du lịch về cội nguồn với tổng số tiền
và hiện vật tài trợ là 3,3 tỷ đồng.
Qua sự phân tích trên có thể thấy, công tác xúc tiến quảng bá du lịch của tỉnh
Lào Cai đã được quan tâm và thực hiện có hiệu quả, góp phần không nhỏ trong việc
thu hút khách du lịch và các dự án đầu tư. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn gặp phải
một số khó khăn và hạn chế về kinh phí, hoạt động quảng bá xúc tiến còn thiếu tính
chuyên nghiệp và chưa có chiến lược, mới chỉ tập trung quảng bá trong nước và các
thị trường gần, chưa chú trọng quảng bá thị trường ngoài nước và những thị trường
xa theo chủ điểm, trọng điểm hoặc sản phẩm đặc thù theo nhu cầu thị trường.
2.2.4. Thực trạng nguồn lao động trong ngành du lịch
Năng lực và phẩm chất của đội ngũ lao động trong ngành du lịch có tầm
quan trọng đặc biệt đối với việc khai thác có hiệu quả cũng như bảo tồn lâu dài các
nguồn tiềm năng du lịch của đất nước, góp phần tạo ra những sản phẩm du lịch đặc
sắc, có chất lượng, hấp dẫn khách. Đội ngũ này cũng thể hiện khả năng tiếp thu kinh
nghiệm du lịch quốc tế, cũng như khả năng tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế
về du lịch. Phát triển nguồn nhân lực du lịch cũng là nhằm đảm bảo cho Du lịch Lào
Cai phát huy nội lực, nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách. Đây chính là quá trình cụ
thể hóa về nhân tố con người trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Du lịch phát triển đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Đến hết năm
2009 số lao động trực tiếp trong ngành du lịch là 3.200 người, lao động gián tiếp là
5.000 người. Tuy số lượng lao động của ngành tăng trưởng khá nhanh nhưng với số
lượng khách lớn như hiện tại (700.451 lượt khách) thì số lượng lao động này chưa
tương xứng. Số lượng đó chưa đủ để triển khai các hoạt động du lịch ngày một đa
dạng hóa về sản phẩm du lịch, loại hình du lịch và chất lượng các loại sản phẩm du
lịch.
Thời gian qua, công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du
lịch cũng đạt được một số kết quả khá tốt. Từ năm 2006 đến nay đã tổ chức đào tạo
cho trên 400 lao động nông thôn các nghiệp vụ về du lịch và các kỹ năng phục vụ
du lịch cộng đồng tại các xã Tả Van, Tả Phìn, Bản Hồ huyện Sa Pa (theo nguồn vốn
67
từ chương trình đào tạo nghề của tỉnh và các nguồn vốn khác). Tổ chức các lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ du lịch cho Hiệp hội Nhà hàng – Khách sạn; các lớp tiếng Anh
giao tiếp du lịch, nghiệp vụ Lữ hành, Hướng dẫn du lịch…Trong giai đoạn 2006 –
2010, nguồn lực dành cho công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch đạt 6,824 tỷ
đồng, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh.
Bằng những hoạch định chiến lược trong quy hoạch phát triển kinh tế du lịch
bền vững của tỉnh. Nhằm chuyên môn hoá công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
ngày càng cao của du lịch. Tỉnh đã thành lập Trường Trung cấp Văn hoá, Nghệ
thuật - Du lịch và hình thành Khoa Du lịch - Khách sạn thuộc Trường Trung cấp
Kinh tế - Kỹ thuật để từng bước nâng cao chất lượng phục vụ khách du lịch. Đồng
thời, Lào Cai cũng đã liên kết với các trường Đại học để mở các lớp đào tạo Đại học
tại chức và liên thông về chuyên ngành du lịch và phối hợp cùng Trường Đại học
Vân Nam, Học Viện Hồng Hà - Vân Nam - Trung Quốc đào tạo sau đại học, đại
học ở lĩnh vực KTDL cho 26 cán bộ (đào tạo thạc sỹ 5 cán bộ, đào tạo theo nhu cầu
xã hội 21cán bộ).
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra nhằm đẩy mạnh và phát triển KTDL của
tỉnh, nhìn chung chất lượng lao động du lịch của Lào Cai hiện nay vẫn còn nhiều
bất cập và hạn chế thể hiện qua bảng số liệu sau:
68
Bảng 2.1. Thực trạng nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai
Đơn vị: Người
STT Chỉ tiêu 2008
1. Tổng số lao động du lịch Năm 2005 2006 2009 2007 1.400 1.750 2.100 2.600 3.200
1 420 448 312 3 513 519 414 3 552 745 480 6 742 842 570 9 1.256 960 525
2. 3. 4. 5. 6. 219 301 320 440 450
Phân theo trình độ đào tạo Trình độ trên đại học Trình độ đại học, cao đẳng Trình độ trung cấp Trình độ sơ cấp Trình độ sơ cấp (qua đào tạo tại chỗ hoặc huấn luyện nghiệp vụ ngắn hạn) Phân theo loại lao động
7. Đội ngũ quản lý của cơ quan
26 32 34 45 51
8.
388 432 676 732 850
986 180 140 238 40 1286 260 121 368 106 1390 280 141 392 163 1723 382 196 425 178 2299 410 270 568 215
9. 0 0 0 0 49
quản lý nhà nước về du lịch Lao động quản lý tại các doanh nghiệp ( cấp trưởng, phó phòng trở lên) Lao động nghiệp vụ 1 - Lễ tân 2 - Phục vụ buồng 3 - Phục vụ bàn, bar 4 – Đầu bếp 5 – Thẻ Hướng dẫn viên: Thẻ HDV quốc tế 0 0 0 0 108
0 0 0 0 56 Thẻ HDV nội địa Thẻ Thuyết minh viên
284 339 6 - Nhân viên lữ hành 7 - Nhân viên khác 165 223 201 230 200 214 258 293
Phân theo ngành nghề kinh doanh 10. Khách sạn, nhà hàng 11. Lữ hành, vận chuyển du lịch 12. Dịch vụ khác 1627 11908 680 293 1335 551 214 808 369 223 953 339
1091 429 230 Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2010)
Qua bảng số liệu trên có thể thấy, phân theo trình độ đào tạo thì số lượng lao
động du lịch có trình độ trung cấp, sơ cấp hoặc đào tạo ngắn hạn chiếm tỷ lệ chủ
yếu (khoảng 61%), còn lại là lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên. Tuy nhiên,
69
trong số đó thì số lượng lao động được đào tạo chuyên ngành du lịch rất ít, chủ yếu
là đào tạo tại chức, phần còn lại chỉ được đào tạo nghiệp vụ du lịch và cũng có
nhiều lao động chưa qua đào tạo.
Phân theo loại lao động, đội ngũ QLNN về du lịch chiếm chỉ tỷ lệ nhỏ, chỉ
gần 2% trong tổng số 3.200 lao động phục vụ trong ngành du lịch. Cán bộ QLNN
về du lịch phần lớn chưa đáp ứng được công việc hiện nay do số lượng đã qua đào
tạo chuyên ngành về du lịch hiện nay còn thiếu, trình độ ngoại ngữ yếu. Phần lớn
cán bộ đều là kiêm nhiệm và trái ngành, số cán bộ quản lý được đào tạo đúng
chuyên ngành chỉ chiếm 31,5% trong số cán bộ quản lý về du lịch. Đồng thời hệ
thống cán bộ QLNN về du lịch mới chủ yếu tập trung ở tỉnh, các huyện hầu như
chưa có, sự phân bố lao động chưa hợp lý, trái ngành trái nghề. Đây là một trong
những trở ngại lớn cho công tác điều hành, quản lý, phát triển các khu, điểm du lịch
trong tỉnh.
Lao động quản lý trong các doanh nghiệp hiện nay có khoảng 850 người,
chiếm gần 27% trong tổng số lao động. Về kiến thức quản lý, lãnh đạo của đội ngũ
này ở mức độ trung bình, tuy nhiên họ có trình độ ngoại ngữ thành thạo, giao tiếp
tốt. Lao động quản lý doanh nghiệp có nghiệp vụ chuyên môn cao chủ yếu là trình
độ đại học và cao đẳng và tập trung phần đa tại một số Công ty kinh doanh du lịch
lớn như: Công ty Du lịch Lào Cai, Công ty liên doanh khách sạn quốc tế, Công ty
cổ phần Xuất nhập khẩu…
Lao động nghiệp vụ trong các cơ sở kinh doanh chiếm chủ yếu, trong đó
trình độ từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 30%. Đa số lao động trực tiếp có trình độ
trung, sơ cấp, hoặc đào tạo ngắn hạn để phục vụ nhu cầu công việc, ở một số cơ sở
kinh doanh đội ngũ nhân viên hầu hết là người nhà, chỉ mới được đào tạo rất sơ
đẳng hoặc chưa qua đào tạo và làm việc theo hợp đồng thời vụ nên dẫn đến kinh
doanh không mang tính chuyên nghiệp. Nhân viên phục vụ được đào tạo về ngoại
ngữ hoặc có khả năng giao tiếp thành thạo ngoại ngữ với du khách còn ở mức độ
thấp. Thiếu nhân viên chuyên môn và đầu bếp có trình độ tay nghề cao. Ở tất cả các
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đội ngũ HDV còn thiếu và hạn chế về năng lực.
70
Với số lượng 213 HDV được cấp thẻ cho đến nay chưa đáp ứng được nhu cầu hiện
tại và trong những năm tới. Mặt khác, trên thực tế, các HDV du lịch chỉ quan tâm
đến đào tạo ngoại ngữ để nâng cao khả năng đón tiếp khách nước ngoài, cho nên
còn hạn chế về khả năng hiểu biết, thiếu sự am hiểu về dân tộc, lịch sử, văn hoá và
các phong tục tập quán của các dân tộc tại địa phương. Trên địa bàn tỉnh Lào Cai
hiện nay có khoảng 2/3 số HDV đã được cấp thẻ là sử dụng ngoại ngữ tiếng Trung
Quốc, còn khoảng 1/3 là sử dụng ngoại ngữ Anh, Pháp.
Từ những khảo sát thực tế và phân tích trên có thể thấy nguồn lao động du
lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện nay còn thiếu về số lượng so với yêu cầu, còn
nhiều bất cập và hạn chế do thiếu kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ
ngoại ngữ. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển hiện tại và cũng như trong tương
lai, ngành du lịch Lào Cai cần có một chiến lược lâu dài nhằm chuẩn hoá đội ngũ
lao động, cán bộ quản lý nhà nước và trong kinh doanh. Đồng thời xây dựng lực
lượng lao động đủ mạnh để phát huy các tiềm năng thế mạnh của địa phương góp
phần đưa KTDL Lào Cai phát triển và hội nhập cùng với ngành du lịch của cả nước. 2.2.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa
sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Do vậy, hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch cũng không chỉ bao gồm các yếu tố của riêng ngành du lịch mà
bao gồm cả các yếu tố của các ngành khác được huy động vào hoạt động nhằm tạo
ra sản phẩm và dịch vụ du lịch thỏa mãn nhu cầu của con người. Hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng, đồng thời là một điều
kiện không thể thiếu được để phát triển KTDL. Để tạo điều kiện cho KTDL phát
triển nhanh, mạnh, tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nói
chung và cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành du lịch nói riêng.
2.2.5.1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội là yếu tố cơ sở nhằm khai thác tiềm năng du
lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật của xã
hội phục vụ đắc lực nhất và có tầm quan trọng nhất đối với phát triển KTDL là hệ
71
thống giao thông vận tải. Lào Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng lưới giao
thông vận tải đa dạng, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường sông phân bố rộng
khắp và khá đồng đều trên địa bàn các huyện, thị. Hiện nay, Lào Cai cơ bản có hệ
thống giao thông nối với Hà Nội và các tỉnh miền xuôi thuận lợi. Có bốn tuyến quốc
lộ chạy qua địa bàn tỉnh (4D, 4E, 279, 70) với tổng chiều dài trên 400 km; tám
tuyến tỉnh lộ với gần 300 km và gần 1.000 km đường liên xã, liên thôn.
Hiện tại, các tuyến đường nối các khu, điểm du lịch Lào Cai – Sa Pa – Bắc
Hà và một số huyện khác cũng đã được đầu tư, nâng cấp như đường du lịch Sa Pa –
Tả Phìn, đường du lịch suối Mường Hoa (Sa Pa), đường du lịch Bản Phố (Bắc
Hà)…Những tuyến đường này bước đầu đã phát huy tác dụng đi lại thuận lợi cho
du khách và nhân dân địa phương.
Đặc biệt, việc khởi công tuyến đường cao tốc Lào Cai – Nội Bài với chiều
dài 264km, một trong những tuyến đường hợp tác phát triển trong tuyến hành lang
kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, là điều kiện thuận lợi cho việc
vận chuyển khách du lịch cũng như kết nối tour du lịch. Bên cạnh đó, Chính phủ đã
có chủ trương xây dựng sân bay tại Lào Cai trong giai đoạn 2010 – 2015 tạo ra
những cơ hội thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch.
Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đã và đang được nâng cấp,
cải tạo, chất lượng phục vụ cao hơn. Ngành đường sắt đã đầu tư 8 hãng tàu du lịch
với tổng số 15 toa giường nằm cao cấp và 21 toa giường nằm của đường sắt Việt
Nam đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch.
Bên cạnh hệ thống giao thông vận tải thì hệ thống điện, nước, thông tin liên
lạc chính là cơ sở vật chất kỹ thuật bậc hai đối với du lịch. Hiện nay đã đảm bảo cung
cấp cho nhu cầu tại thành phố và các thị trấn, tỉnh đã có cấp hệ thống nước sạch đảm
bảo phục vụ nhu cầu đời sống và dịch vụ du lịch; hệ thống thông tin liên lạc đã phát
triển trên các huyện, thành phố, bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu cho phát triển du
lịch.
Tuy nhiên, do địa hình phức tạp, cùng với đó là những khó khăn vốn có của một
tỉnh vùng cao biên giới, nhiều dân tộc nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội vẫn còn thiếu
72
đồng bộ, nhất là khu vực nông thôn, vùng cao, vùng xa. Hệ thống giao thông không
khỏi bộc lộ những hạn chế như đầu tư tốn kém, kỹ thuật xử lý phức tạp, tại một số
điểm du lịch chưa có trạm biến áp riêng, phải sử dụng chung với hệ thống điện sinh
hoạt của dân cư nên điện áp chưa đảm bảo. 2.2.5.2. Tình hình phát triển của hệ thống cơ sở kinh doanh du lịch
Hệ thống cơ sở KDDL đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra và thực
hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác các tiềm năng nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng. Trong những năm qua tỉnh Lào Cai đã quan
tâm chỉ đạo đúng mức, bước đầu đã hình thành nên các khu điểm du lịch với hệ
thống cơ sở kinh doanh đủ điều kiện phục vụ du lịch. Việc đầu tư cơ sở vật chất
chuyên ngành phục vụ du lịch đã được quan tâm theo hướng Nhà Nước và nhân dân cùng làm8.
Cơ sở kinh doanh lƣu trú:
Hệ thống cơ sở kinh doanh lưu trú của tỉnh Lào Cai phát triển với tốc độ
nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham
gia, không chỉ có khu vực Nhà nước mà còn cả khu vực tư nhân, hộ kinh doanh cá
thể, doanh nghiệp liên doanh…với nhiều loại hình như khách sạn, nhà nghỉ, nhà
sàn, nhà nghỉ lưu trú tại gia tại các thôn bản (homestay)…
Theo số liệu của Sở VHTT&DL Lào Cai, đến nay, toàn tỉnh có 335 cơ sở lưu
trú với 3.296 phòng, chủ yếu tập trung tại Sa Pa (khoảng 70%), thành phố Lào Cai
(khoảng 20%), còn lại Bắc Hà, Bảo Yên và Bảo Thắng. Trong đó, có 20 cơ sở lưu
trú (khách sạn) đạt chất lượng từ 2 sao đến 4 sao với trên 600 phòng. Ngoài ra còn
có 80 nhà nghỉ lưu trú tại gia ở các thôn bản phát triển du lịch cộng đồng tập trung
tại 2 huyện Sa Pa và Bắc Hà. Có thể nói, cơ sơ lưu trú đa dạng với nhiều kiểu và
chất lượng khác nhau bước đầu đáp ứng nhu cầu của từng đối tượng du khách.
8 Tất cả các số liệu về tình hình phát triển của hệ thống cơ sở KDDL của tỉnh Lào Cai trong luận văn được sử
dụng từ “Báo cáo tổng kết tình hình cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ ngành du lịch trên địa bàn tỉnh” và
“Báo cáo kết quả thực hiện đề án phát triển kinh tế Du lịch giai đoạn 2006 - 2010” của Sở VHTT&DL Lào
Cai; Cục thống kê Lào Cai (2010) và được tác giả xử lý, tổng hợp, phân tích theo mục đích nghiên cứu.
_________________________
73
Bảng 2.2. Hiện trạng cơ sở lƣu trú của Lào Cai qua các năm
Năm
TT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
Số lƣợng cơ sở lƣu trú, trong 180 230 235 328 335 đó:
- Khách sạn 3 đến 5 sao 1 2 3 3 5 1
- Khách sạn 1 đến 2 sao 38 41 43 46 48
- Các loại cơ sở lưu trú khác 141 187 189 279 282
2.500 3.000 3.221 3.477 3.926 2 Tổng số phòng
Nguồn: Sở VHTT&DL Lào Cai (2010)
Qua thống kê có thể thấy, số lượng cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh không
ngừng gia tăng qua các năm. Năm 2000, toàn tỉnh mới chỉ có 78 cơ sở lưu trú với
907 phòng, đến 2005 con số này lên tới là 180 cơ sở (tăng gấp 2,3 lần) với 2.500
phòng (tăng gấp 2,75 lần); năm 2009 với 335 cơ sở (tăng gấp 4,3 lần so với năm
2000), 3.296 phòng (tăng gấp 3,6 lần so với năm 2000), trong đó số lượng khách
sạn đạt tiêu chuẩn từ 1 sao trở lên cũng tăng lên đáng kể cùng với nhiều loại hình cơ
sở lưu trú mới được hình thành. Bên cạnh sự gia tăng về số lượng thì chất lượng của
các cơ sở lưu trú cũng không ngừng được cải thiện, đầu tư và xây dựng mới. Đáp
ứng được yêu cầu về nghỉ ngơi cho du khách, nhờ vậy mà thời gian lưu trú của du
khách cũng dài hơn cùng với công suất sử dụng phòng gia tăng, góp phần không
nhỏ vào tăng doanh thu của các cơ sở kinh doanh lưu trú trên địa bàn tỉnh. Doanh
thu ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt, tại các bản làng có hoạt
động du lịch cộng đồng, nhiều gia đình đã chuyển sang làm dịch vụ kinh doanh lưu
trú tại gia: Bản Hồ (30 hộ), Tả Van (28 hộ), Sín Chải (4 hộ)…với mức thu bình
quân một năm từ du lịch đạt 30 triệu đồng/năm/1 hộ, góp phần xóa đói giảm nghèo
ở những khu vực trên.
74
Bảng 2.3. Kết quả kinh doanh cơ sở lƣu trú
Năm
Chỉ tiêu 2000 2005 2006 2007 2008 2009
2,0 2,5 2,9 3,0 3,0 3,0
13.100 60.771 60.956 64.845 68.387 71.816 1. Thời gian lưu trú bình quân (ngày) 2. Doanh thu lưu trú (triệu đồng)
Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)
Mặc dù tỷ trọng doanh thu lưu trú so với tổng doanh thu có xu hướng giảm,
song nhìn chung doanh thu vẫn tiếp tục tăng trưởng qua các năm. Năm 2000, doanh
thu lưu trú mới chỉ đạt 13.100 triệu đồng, thì đến năm 2005 doanh thu lưu trú đạt
60.771 triệu đồng, tăng 4,6 lần so với năm 2000; năm 2009 doanh thu lưu trú đã
tăng lên 71.816 triệu đồng tăng 18,1% so với năm 2005 và tăng 5% so với năm
2008.
Như vậy, với sự cố gắng trong công tác nâng cao chất lượng phục vụ và cơ
sở hạ tầng lưu trú, cũng như tăng cường thực hiện văn minh trong kinh doanh cơ sở
lưu trú mà hoạt động kinh doanh lưu trú đã góp phần không nhỏ vào tăng doanh thu
cho hoạt động du lịch của Tỉnh Lào Cai trong những năm qua, ngày càng khẳng
định vai trò và vị thế của KTDL đối với sự phát triển kinh tế của địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trên thì tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn
trong đầu tư và xây dựng nâng cao chất lượng cơ sở lưu trú. Ngoài các khách sạn
lớn của nước ngoài và của các doanh nghiệp lớn được đầu tư với chất lượng cao
như Khách sạn Victoria, Khách sạn quốc tế, khách sạn Châu Long…thì vẫn còn tồn
tại nhiều cơ sở lưu trú chất lượng còn yếu kém, đầu tư thiếu đồng bộ, không theo
quy chuẩn thống nhất dẫn đến chất lượng công trình không đạt tiêu chuẩn quốc tế,
công suất sử dụng phòng còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao. Bên cạnh đó, các khu
du lịch trọng điểm còn thiếu các khách sạn chất lượng cao để phục vụ khách có du
lịch có thu nhập cao. Vì vậy khách du lịch đến Lào Cai đông nhưng thời gian lưu trú
lại ngắn, mức chi tiêu không cao ảnh hưởng đến doanh thu lưu trú, đây cũng chính
là một trong những nguyên nhân làm cho mức tăng trưởng bình quân còn thấp, tỷ
75
trọng doanh thu lưu trú chưa cao, và có xu hướng giảm trong tổng doanh thu du
lịch.
Cơ sở kinh doanh lữ hành:
Doanh nghiệp lữ hành là cầu nối giữa cung và cầu trong du lịch, là loại hình
doanh nghiệp đặc biệt không thể thiếu được đối với sự phát triển của KTDL. Cùng
với sự gia tăng về số lượng du khách đến Lào Cai, trong những năm qua hoạt động
kinh doanh lữ hành cũng không ngừng phát triển. Tính đến nay toàn tỉnh có 36
doanh nghiệp, chi nhánh hoạt động trong lĩnh vực này với sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế. Trong đó, có 10 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế (gồm
1 doanh nghiệp Nhà nước; 4 công ty cổ phần; 3 chi nhánh và 2 công ty trách nhiệm
hữu hạn) và 26 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa. Để phục vụ và đáp ứng
dịch vụ hướng dẫn tham quan cho du khách thì tỉnh đã cấp 54 thẻ HDV du lịch toàn
quốc (trong đó, tiếng Trung là 32; tiếng Anh 18 và ngoại ngữ khác 4); cấp và đổi lại
219 thẻ HDV du lịch địa phương. Trong thời gian tới sẽ ban hành Giấy chứng nhận
thuyết minh theo Luật du lịch để phục vụ công tác hướng dẫn, giới thiệu tiềm năng
du lịch cho khách tại các khu, tuyến, điểm du lịch của tỉnh Lào Cai.
Có thể nói, kinh doanh lữ hành tại Lào Cai là một hoạt động thu hút được
nhiều lao động du lịch trên địa bàn tỉnh và là một trong những nguồn thu quan trọng
trong tổng doanh thu du lịch.
Bảng 2.4. Kết quả kinh doanh lữ hành
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu 2000 2005 2006 2007 2008 2009
1. Doanh thu lữ hành 8400 39.286 47.572 61.183 64.516 67.751
23 18,3 17 16,9 14,9 13 2. Tỷ trọng doanh thu lữ hành trong tổng doanh thu (%)
Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)
76
Năm 2000 doanh thu lữ hành đạt 8.400 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 23% trong
tổng doanh thu du lịch, đến năm 2005 tỷ trọng này giảm xuống còn 18,3% nhưng
doanh thu đạt 39.286 triệu đồng tăng lên gấp 4,7 lần; năm 2009 đạt 67.751 triệu
đồng tăng gấp 8,1 lần so với năm 2000 và gấp 1,72 lần so với năm 2005, tăng lên so
với năm 2008 là 5% và chiếm tỷ trọng là 13%.
Mặc dù tỷ trọng của doanh thu lữ hành trong tổng doanh thu giảm trong giai
đoạn qua do khó khăn của hoạt động du lịch nói chung, các doanh nghiệp phải thực
hiện giảm giá để thu hút khách song có thể thấy, hoạt động kinh doanh lữ hành đã
có sự tăng trưởng nhanh với mức tăng trưởng bình quân là 14,8%/năm. Như vậy, có
thể thấy, kinh doanh lữ hành là một hoạt động thu hút được nhiều thành phần kinh
tế tham gia và chiếm một tỷ trọng quan trọng trong tổng doanh thu du lịch của tỉnh
Lào Cai.
Phƣơng tiện vận chuyển khách du lịch:
Do đặc điểm địa hình của tuyến, điểm, khu du lịch nên loại hình vận chuyển
phục vụ du khách đến du lịch Lào Cai chủ yếu bằng phương tiện ô tô và tàu hỏa.
Lực lượng vận tải phục vụ khách du lịch tiếp tục có bước phát triển, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của của du khách. Toàn tỉnh hiện có 10 hợp tác xã, 13 công ty,
6 doanh nghiệp, 3 hãng taxi với trên 1.200 đầu xe các loại. Đồng thời, hiện nay có
5 cặp xe ô tô giường nằm cao cấp chạy suốt từ Lào Cai – Hà Nội và ngược lại. Bên
cạnh đó, tỉnh đã hợp tác tốt với ngành đường sắt Việt Nam trong việc đầu tư nâng
cấp và tổ chức nhiều tàu chất lượng cao với 21 toa giường nằm và 8 hãng tàu du
lịch với tổng số 15 toa giường nằm cao cấp, phần nào đáp ứng được nhu cầu của
khách du lịch đến với Lào Cai.
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là một trong 3 ngành chính trong hoạt
động kinh doanh du lịch của tỉnh Lào Cai. Doanh thu vận chuyển khách trong
những năm gần đây đã tăng lên mạnh, hằng năm nó đóng góp một phần không nhỏ
vào tổng doanh thu du lịch trên địa bàn tỉnh.
77
Bảng 2.5. Kết quả kinh doanh vận chuyển khách du lịch
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
21.377 29.972 40.544 50.614 57.513
9,9 10,7 11,2 11,7 11 1. Doanh thu vận chuyển khách 2. Tỷ trọng doanh thu vận chuyển khách trong tổng doanh thu (%)
Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)
Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn 2005 – 2009 doanh thu vận chuyển có
mức tăng trưởng nhanh qua các năm và ngày càng tăng tỷ trọng trong tổng doanh
thu du lịch của Lào Cai. Năm 2009, tỷ trọng doanh thu giảm do ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế toàn cầu, gây khó khăn cho hoạt động du lịch. Nhằm thu hút khách du
lịch đến Lào Cai, tỉnh đã tiến hành chương trình khuyến mại giảm giá 5 dịch vụ cơ
bản, trong đó có dịch vụ vận chuyển khách du lịch. Tuy nhiên, doanh thu vận
chuyển khách năm 2009 đạt 57.513 triệu đồng tăng gấp 13,7 lần so với năm 2000;
gấp 2,7 lần so với năm 2005 và tăng lên so với năm 2008 là 14% .
Hệ thống cơ sở kinh doanh các dịch vụ du lịch khác:
+ Cơ sở ăn uống:
Lào Cai không chỉ có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, văn hóa dân tộc đặc
sắc mà Lào Cai còn nổi tiếng với nhiều món ăn mang đậm hương vị của núi rừng
mà du khách đặc biệt ưa thích như: Thắng cố, mì vằn thắn, rượu Sán Lùng…cùng
với nhiều loại hoa quả và rau xanh. Để đáp ứng nhu cầu thưởng thức các món ăn
đặc sản của địa phương cũng như nhu cầu ăn uống của du khách khi đến Lào Cai du
lịch, hàng loạt các cơ sở kinh doanh, phục vụ ăn uống được đầu tư, xây dựng. Các
cơ sở ăn uống trên địa bàn tỉnh phát triển tương đối phong phú, đa dạng, hiện có
hàng trăm nhà hàng chuyên doanh và các nhà hàng nằm trong khách sạn với hàng
ngàn chỗ ngồi đáp ứng nhu cầu của khách. Doanh thu ăn uống cũng đã chiếm một
78
tỷ trọng lớn so với các loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch khác vào tổng doanh thu
du lịch của tỉnh Lào Cai.
Bảng 2.6. Doanh thu ăn uống
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu 2000 2005 2006 2007 2008 2009
8050 43.000 62.703 124.196 163.087 171.266
22 20 22,4 34,4 37,6 34 1. Doanh thu ăn uống 2. Tỷ trọng doanh thu ăn uống trong tổng doanh thu (%)
Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)
Từ bảng trên ta thấy, doanh thu ăn uống chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh
thu du lịch và đạt mức độ tăng trưởng cao, đặc biệt là giai đoạn 2006 - 2009. Năm
2000 doanh thu ăn uống mới chỉ đạt là 8050 triệu đồng thì đến năm 2009 doanh thu
hoạt động kinh doanh này đã tăng lên 171.266 triệu đồng, tăng gấp 21,27 lần so với
năm 2000. Điều đó cho thấy càng ngày càng có nhiều nhà hàng và các cơ sở tham
gia vào lĩnh vực kinh doanh này và họ đã biết sử dụng những sản phẩm của địa
phương để mang đến hương vị đặc trưng, sâu sắc tới khách.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, hạn chế. Thực đơn trong trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống vẫn còn
đơn điệu, vấn đề chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được quan tâm đúng
mức…Đồng thời nhân sự trong các nhà hàng còn thiếu tính chuyên nghiệp, đặc biệt
là nhân viên nấu ăn thì chiếm tỷ lệ rất ít. Nhân viên nấu ăn chưa được đào tạo một
cách cơ bản và có quy mô cho nên dẫn đến tình trạng kém chất lượng và không đủ
đáp ứng khi lượng khách đến Lào Cai tăng nhanh. Cùng với sự quá tải về sức chứa
sẽ đồng nghĩa với việc chất lượng các dịch vụ phục vụ ăn uống giảm. Qua điều tra
cho thấy tại một số khách sạn và nhà hàng lớn như: Châu Long, Victoria, VietPlaza,
Long Hoè...thu hút được đông đảo du khách tới ăn thì hầu hết đều phải thuê đầu bếp
là người nước ngoài. Ăn uống là nhu cầu thiết yếu đối với du khách nên nếu tập
79
trung khai thác tốt thì hiệu quả mang lại rất cao trong tổng doanh thu các loại hình
kinh doanh dịch vụ du lịch. Do vậy, đây cũng là vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá
trình phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai.
+ Các cơ sở thương mại:
Du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của hoạt động kinh doanh thương
mại hàng hóa. Tại các điểm khu du lịch dân cư địa phương cũng tham gia vào hoạt
động buôn bán hàng lưu niệm, các đặc sản của địa phương. Ngay cả trong khách
sạn, nhà nghỉ cũng trưng bày và bán các sản phẩm này. Mua sắm hàng hóa, đặc sản
địa phương và đồ lưu niệm là một nội dung hấp dẫn khách du lịch, nhất là những
mặt hàng thổ cẩm của Lào Cai. Hệ thống các chợ, cửa hàng, trung tâm thương mại
trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đã được quan tâm đầu tư, bước đầu đáp ứng
nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân và khách du lịch.
Bảng 2.7. Doanh thu bán hàng
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
1. Doanh thu bán hàng 5.436 7.112 9.069 11.913 12.511
2,5 2,6 2,5 2,7 2 2. Tỷ trọng doanh thu bán hàng trong tổng doanh thu (%)
Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)
Tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu du lịch song hoạt động kinh
doanh hàng hóa cũng góp phần đem lại nguồn thu cho hoạt động kinh doanh các
dịch vụ du lịch của địa phương. Năm 2009 doanh thu đạt 12.511 triệu gấp 2,3 lần
năm 2005 và tăng 5% so với năm 2008. Mặc dù doanh thu bán hàng đã tăng rõ rệt
qua các năm với mức tăng trưởng khá cao, song nhìn chung hiệu quả chưa cao. Sở
dĩ như vậy là do phần đa các cơ sở thương mại, mua bán hàng hóa chủ yếu tập trung
ở khu vực thành phố, trung tâm, các điểm bán hàng tại các khu du lịch còn bất cập,
ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông và cảnh quan du lịch, chất lượng thấp,
chưa đảm bảo an toàn để thu hút sự quan tâm của du khách. Bên cạnh đó, các sản
80
phẩm hàng hóa, đồ lưu niệm mang đặc trưng riêng của địa phương còn thiếu và
chưa đa dạng. Mặt khác, hiện tượng chèo kéo khách của những người bán hàng
rong gây tâm lý không tốt cho du khách khi tới tham quan.
+ Các cơ sở thể thao và vui chơi, giải trí:
Hệ thống cơ sở phục vụ hoạt động thể thao và vui chơi, giải trí đã được quan
tâm đầu tư xây dựng, một số cơ sở vui chơi, giải trí được hình thành như: Khu du
lịch sinh thái Thanh Kim, Hàm Rồng (Sa Pa); Hồ Na Cồ (Bắc Hà); công viên Nhạc
Sơn; dịch vụ Casino (Thành phố Lào Cai); dịch vụ tắm thuốc dân tộc…Tuy nhiên,
cơ sở thể thao và vui chơi, giải trí nhìn chung còn chưa phong phú, chưa đáp ứng
được nhu cầu của khách du lịch. Hiện nay hoạt động tiêu khiển chính của khách du
lịch chủ yếu là dựa vào cảnh quan thiên nhiên như đi bộ dạo phố, ngắm cảnh, chơi
chợ và tham quan tìm hiểu về văn hóa các dân tộc…Vì vậy, việc quy hoạch đầu tư
phát triển các cơ sở thể thao và dịch vụ vui chơi giải trí là rất cần thiết.
Qua việc phân tích và tổng hợp tình hình phát triển của hệ thống các cơ sở
kinh doanh du lịch, có thể thấy rằng: Trong tổng số nguồn thu từ du lịch thì có thể
thấy doanh thu ăn uống ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh
thu, doanh thu lưu trú và lữ hành cũng chiếm tỷ trọng khá cao song nhìn chung vẫn
còn thấp, còn lại là doanh thu từ các hoạt động du lịch khác.
Hình 2.1. Tỷ trọng doanh thu của các lĩnh vực kinh doanh trong tổng doanh
thu du lịch năm 2009
Nguồn: Sở VHTT&DL Lào Cai (2010)
81
Do vậy, trong thời gian tới để nâng cao tỷ trọng doanh thu của các hoạt động
du lịch nói trên thì tỉnh cần phải có những giải pháp quan trọng để nâng cao hơn
nữa chất lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật du lịch và các dịch vụ phục vụ du lịch nhằm
thu hút và đẩy mạnh hơn nữa lượng khách đến Lào Cai, đặc biệt là đối tượng khách
có sức mua lớn và chi tiêu nhiều, đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngành du lịch.
2.2.6. Số lƣợng du khách và doanh thu du lịch
2.2.6.1. Tình hình tăng trưởng và đặc điểm nguồn khách
Du khách đến Lào Cai trong những năm gần đây đã tăng trưởng và phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng và cơ cấu khách. Tốc độ tăng trưởng lượng khách bình
quân giai đoạn 2001 - 2009 đạt 14,2 %/năm.
Bảng 2.8. Khách du lịch đến Lào Cai qua các năm
Đơn vị: lượt khách
Tổng số
Khách nội địa
Khách quốc tế
Năm
Số lƣợng
Số lƣợng
Số lƣợng
Tỷ trọng (%)
265.000 331.000 380.000 480.000 510.000 560.000 632.000 667.000 700.451
So với năm trƣớc (%) 126 125 114 126 106 109 112 105 105
146.000 175.000 135.000 170.000 180.000 190.000 223.000 388.000 326.893
119.000 156.000 245.000 310.000 330.000 370.000 409.000 279.000 373.558
45 47 64 64,5 64,7 66 64,7 41,8 53,3
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tỷ trọng (%) 55 53 36 35,6 35,3 34 35,3 58,2 46,7 Nguồn: Sở VHTT&DL Lào Cai (2010)
Khách quốc tế:
Qua bảng số liệu có thể thấy, lượng khách Quốc tế đến Lào Cai tăng nhanh
trong những năm gần đây. Năm 2009, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu,
dịch bệnh…gây khó khăn cho nhiều đoàn khách quốc tế, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Lào Cai nói riêng. Mặc dù lượng khách
quốc tế giảm 16% so với năm 2008, song với 326.893 lượt khách cũng là một kết
quả đang nghi nhận trước sự cố gắng nỗ lực của ngành du lịch Lào Cai cũng như
của các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh.
82
Sở dĩ, lượng khách quốc tế đến Lào Cai tăng nhanh trong những năm gần
đây là do cơ chế chính sách của Nhà nước và của tỉnh ngày càng thông thoáng hơn,
thủ tục xuất nhập cảnh được cải tiến nhanh gọn, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ
thuật trên các tuyến, điểm du lịch đã được nâng cấp đáng kể, đội ngũ lao động du
lịch được củng cố, tạo đà thúc đẩy phát triển du lịch mạnh mẽ. Mặt khác, nhờ có
cửa khẩu thông thương với Trung Quốc nên khách du lịch Trung Quốc đến Lào Cai
chiếm tỷ lệ lớn. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa đặc sắc, đa dạng, phong phú của cộng
đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lào Cai được bảo tồn đang là nguyên nhân thu
hút ngày càng nhiều du khách du lịch Châu Âu tham quan, nghiên cứu.
Từ chỗ cơ cấu khách du lịch quốc tế đến Lào Cai chủ yếu là khách Trung
Quốc, đến nay cơ cấu khách đã trở lên rất phong phú và đa dạng với trên 80 quốc
tịch khác nhau. Khách du lịch Trung Quốc đến Lào Cai chủ yếu với mục đích tham
quan, mua sắm, trong khi đó khách du lịch Châu Âu phần đông là khách đến từ các
nước như: Pháp, Đức, Anh, Thụy Điển... đến Lào Cai với mục đích chính là đến các
địa danh của tỉnh, nơi có các tài nguyên du lịch nhân văn đặc sắc như Sa Pa, Bắc
Hà, chủ yếu họ đến nghiên cứu về dân tộc học và xã hội học, tìm hiểu đời sống,
phong tục tập quán của người dân địa phương. Khách du lịch quốc tế đến Sa Pa đều
thực hiện các tua du lịch tới các bản làng người H’mông, người Dao, người Tày,
người Dáy. Những nơi khách du lịch thường tới thăm là Tả Van, Tả Phìn, Bản Hồ,
Lao Chải, Cát Cát để thưởng thức bầu không khí miền núi trong lành và tìm hiểu
văn hóa dân tộc, đời sống của đồng bào các dân tộc. Du khách nước ngoài còn thích
đi bộ xuyên rừng và thưởng ngoạn cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn của vùng rừng
núi, tham quan thác bạc, bãi đá cổ, cầu mây và tham quan phiên chợ văn hóa giao
duyên Sa Pa vào các tối thứ 7, tham quan phiên chợ văn hóa vùng cao Bắc Hà vào
ngày Chủ nhật.
Thời gian lưu trú bình quân đối với khách Châu Âu là 3-4 ngày, của khách
Trung Quốc là từ 1-2 ngày.
83
Khách du lịch nội địa:
Khách du lịch nội địa đến Lào Cai chủ yếu từ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc
với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, tham dự các lễ hội văn hóa, du lịch công vụ...,
ngoài ra còn một bộ phận người dân Lào Cai cũng tham gia vào dòng khách du lịch
cuối tuần.
Giai đoạn 2001 – 2005, Lào Cai đạt mức tăng trưởng cao về lượng khách du
lịch nội địa. Năm 2008 - 2009 là năm du lịch Lào Cai không đạt chỉ tiêu về lượng
khách so với kế hoạch đề ra.Việc suy giảm của ngành du lịch cũng kéo theo nhiều
ngành dịch vụ khác suy giảm, dẫn tới ảnh hưởng mạnh đến kinh tế và thu ngân sách
tỉnh. Đứng trước tình trạng trên, UBND tỉnh Lào Cai đã có kế hoạch triển khai các
giải pháp cấp bách nhằm thu hút khách du lịch quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa
đến Lào Cai với 4 nhóm giải pháp chính là giải pháp về cơ chế chính sách, giải pháp
về thị trường và quảng bá du lịch, giải pháp về sản phẩm và đầu tư. Nhờ vậy, mặc
dù lượng khách quốc tế giảm chung như toàn quốc nhưng khách du lịch nội địa tăng
mạnh, vượt qua thực trạng kinh tế suy giảm, lạm phát trong nước và dịch bệnh gia
tăng, góp phần tăng trưởng mạnh du lịch nội địa tỉnh Lào Cai năm 2009 với
373.558 lượt khách tăng 33% so với cùng kỳ năm 2008 song nhìn chung mức tăng
trưởng bình quân vẫn còn thấp, đạt 5,8%.
Phần lớn khách nội địa đến Lào Cai để lên Sa Pa thưởng thức bầu không khí
trong lành mát mẻ và quay trở lại Lào Cai để xuất cảnh sang Trung Quốc tham quan
và mua sắm. Vào những ngày cuối tuần khi có phiên chợ văn hóa vùng cao ở Sa Pa
và Bắc Hà, lượng khách du lịch nội địa thường tăng cao đáng kể. Thời gian lưu trú
bình quân của khách du lịch nội địa đạt từ 1,62 - 2 ngày.
Đánh giá chung:
Như vậy có thể thấy rằng số lượng khách đến Lào Cai qua các năm đều có
sự gia tăng. Đặc biệt là lượng khách quốc tế đến Lào Cai ngày càng tăng với nhiều
quốc tịch khác nhau. Chỉ tính hơn 2 tháng đầu năm 2010, Lào Cai đón gần 15 vạn
lượt khách, đạt trên 25% kế hoạch 2010 và tăng trên 40% so với cùng kỳ, trong đó
khách quốc tế đạt gần 60.000 lượt.
84
Qua các điều tra đã khẳng định, nguồn khách đến Lào Cai là những du khách
trẻ, đến đây để tận hưởng không khí mát mẻ, nghỉ ngơi, đi dạo và vui chơi. Tuy
nhiên, trong bối cảnh xã hội và văn hoá của Lào Cai hiện nay, cần phải khuyến
khích và tăng cường thu hút các đối tượng du khách có sức mua lớn và chi tiêu
nhiều, đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngành du lịch.
2.2.6.2. Doanh thu du lịch
Cùng với sự gia tăng về lượng khách cũng như sự tăng lên trong doanh thu
của các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch và doanh thu khác trong thời gian qua,
doanh thu du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đóng góp của ngành du lịch vào tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, thu ngân sách
từ phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006 – 2009 bình quân đạt gần 15 tỷ
đồng/năm. Thu nhập xã hội từ du lịch của tỉnh Lào cai có mức gia tăng khá lớn,
doanh thu do du lịch mang lại được thể hiện qua hình sau:
Hình 2.2. Lƣợng khách và doanh thu từ du lịch thời kỳ 2000-2009
Nguồn: Sở VHTT&DL Lào Cai (2010)
Như vậy, có thể thấy doanh thu du lịch không ngừng gia tăng qua các năm.
Năm 2000, doanh thu chỉ đạt 36.400 triệu đồng thì đến năm 2005 con số này gia
tăng lên gấp 5,9 lần với 215.000 triệu đồng. Năm 2006 doanh thu đạt 280.000 triệu
đồng, tăng 30% so với năm 2005; năm 2007 đạt 362.000 triệu đồng tăng 29% so với
năm 2006; năm 2008 và năm 2009 do khó khăn của ngành du lịch cả nước nói
85
chung cũng như của Lào Cai nói riêng nên mức tăng trưởng tuy có thấp hơn so với
các năm trước song cũng đã đạt được thành công đáng kể, doanh thu đều đạt và
vượt kế hoạch 16,7%. Đây là một kết quả đáng ghi nhận trước sự nỗ lực của các cấp
ngành tỉnh Lào Cai và của ngành du lịch cũng như các doanh nghiệp hoạt động trên
lĩnh vực này.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU
LỊCH TỈNH LÀO CAI TRONG THỜI GIAN QUA
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc
Qua những số liệu thống kê nêu trên cũng như việc đánh giá phân tích thực
trạng phát triển của các hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh nói riêng và của ngành
du lịch tỉnh nói chung, có thể thấy trong những năm gần đây, KTDL của tỉnh Lào
Cai đã có những chuyển động tích cực và có bước khởi sắc:
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý phát triển du lịch được tăng cường và
nâng cao hiệu quả. Bộ máy QLNN về du lịch từ tỉnh tới huyện, xã được kiện toàn
một bước. Các mặt QLNN về du lịch có nhiều tiến bộ, công tác hướng dẫn thanh
tra, kiểm tra chấn chỉnh các vi phạm trong KDDL được duy trì.
- Để ngành du lịch của tỉnh thực sự phát triển mạnh, nhanh và bền vững, Sở
VHTT&DL Lào Cai đã chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền quảng bá du
lịch, nối các tuyến du lịch trong và ngoài tỉnh. Hợp tác trong nước, quốc tế và khu
vực được đẩy mạnh.
- Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch cũng
đang từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là việc đào tạo nâng cao năng lực chuyên
môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, ý thức trách nhiệm cua các bộ công nhân viên
ngành du lịch cũng như nâng cao văn hóa du lịch cho nhân dân ở các địa phương
trọng điểm về du lịch.
- Vốn đầu tư cho phát triển KTDL được huy động và sử dụng hiệu quả. Giai
đoạn 2006 – 2010 ước thực hiện được 1.239.894 triệu đồng đầu tư vào vào cơ sở hạ
tầng, vui chơi giải trí, đào tạo nhân lực, xúc tiến du lịch. Điểm thành công nữa là đã
86
thu hút được rất nhiều nguồn vốn xã hội hóa và các nguồn khác ngoài nguồn ngân
sách.
- Sản phẩm du lịch ngày càng phong phú, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch
văn hóa, du lịch cộng đồng phát triển nhanh, ngày càng khẳng định hướng đi đúng
trong trong mục tiêu phát triển du lịch bền vững.
- Du lịch Lào Cai có sự phát triển về chất. Năm 2009, lượng khách du lịch
chỉ tăng 5% so với năm 2008 nhưng doanh thu du lịch tăng 18% so với năm 2008,
cơ sở vật chất phục vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng, phương tiện vận chuyển…)
ngày càng được đầu tư với chất lượng cao hơn. Phát triển KTDL đã đem lại hiệu
quả tích cực cho kinh tế xã hội của tỉnh Lào Cai.
+ Về kinh tế: Doanh thu xã hội từ phát triển KTDL ngày càng tăng nhanh,
nhờ đó ngành đã có những đóng góp không nhỏ vào ngân sách Nhà Nước. Thông
qua hoạt động du lịch, nhiều ngành nghề, dịch vụ phát triển theo góp phần làm cho
cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch đúng hướng và đóng góp quan trọng vào
tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
+ Về xã hội: Du lịch phát triển tạo ra nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp
cho người lao động và tăng đáng kể thu nhập cho người lao động. Vai trò của du
lịch trong xóa đói, giảm nghèo ngày càng rõ nét. Những bản làng có du lịch phát
triển, tỷ lệ đói nghèo giảm hẳn. Ví dụ ở làng Cát Cát năm 2000 có 30% hộ đói
nghèo, thì đến năm 2009 chỉ còn 11,6% số hộ nghèo; làng Sín Chải, năm 2000 có
tới 68% số hộ đói nghèo đến 6 tháng đầu năm 2009 chỉ còn 36,3% hộ nghèo.
Đặc biệt sự phát triển của KTDL Lào Cai trong thời gian qua đã góp phần tích
cực vào việc phục hồi, tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử, phục hồi và phát triển các
loại hình văn hóa dân gian, phong tục tập quán lễ hội.
Có được những kết quả trên là do ngành du lịch Lào Cai thường xuyên nhận
được sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh Ủy, Hội đồng Nhân dân, UBND tỉnh, tổng cục
du lịch và sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp. Bên cạnh đó, công tác quy
hoạch, quản lý quy hoạch được ngành rất quan tâm. Trong việc chỉ đạo điều hành
Sở VHTT&DL đã sâu sát cơ sở, tập trung giải quyết các khó khăn, phức tạp trong
87
hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đầu tư phát triển để tạo điều kiện cho cơ sở
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển KTDL, nhưng trong quá
trình phát triển, du lịch Lào Cai vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động của ngành.
- Chất lượng cơ sở hạ tầng còn hạn chế, nhiều tuyến điểm du lịch hấp dẫn
nhưng vẫn chưa thút được khách do hệ thống đường xá đã xuống cấp hoặc chưa có
đường gây trở ngại lớn cho các hoạt động du lịch. Hệ thống cung cấp nước sạch
mới chỉ đáp ứng nhu cầu tại thành phố và trung tâm huyện lị, hầu hết tại các xã có
tiềm năng phát triển du lịch thù hệ thống cấp nước còn thiếu. Mạng lưới thông tin
hầu như mới chỉ đến trung tâm xã, chưa mở rộng đến các tuyến, điểm du lịch bản
làng nên ảnh hưởng đến chất lượng các dịch vụ du lịch.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành còn yếu, đặc biệt các khu du lịch trọng
điểm còn thiếu nhiều các dự án đầu tư lớn, thiếu các khách sạn chất lượng cao để
phục vụ khách du lịch có thu nhập cao. Trong toàn tỉnh mới có 20 khách sạn đạt
tiêu chuẩn từ 2 sao đến 4 sao (chiếm 5,9% trong tổng số cơ sở). Mặc dù đã mở
nhiều lớp để nâng cao nhận thức của người dân trong hoạt động phục vụ khách lưu
trú tại các làng bản, tuy nhiên hoạt động này vẫn mang tính tự phát, chưa đem lại sự
hài lòng cho du khách. Dịch vụ ăn uống tại Lào Cai đã phát triển những vẫn còn
thiếu những nhà hàng với các món ăn dân tộc độc đáo, các nhà hàng chất lượng cao
với các món ăn Âu, Á, các món ăn ẩm thực từ 3 miền: Bắc – Trung – Nam. Mặt
khác, phong cách phục vụ còn yếu, chưa chuyên nghiệp, thiếu đầu bếp có tay nghề
cao. Các dịch vụ văn hóa, thể thao như: Sân golf, sân tennis, các dịch vụ vật lý trị
liệu…còn khan hiếm. Nhiều trung tâm, cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị đã hình thành
nhưng vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún thiếu đồng bộ, mặt hàng còn đơn điệu, chưa thể
hiện được bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thần thái độ phục vụ chưa văn minh. Vì vậy
88
khách đến Lào Cai tuy đông nhưng thời gian lưu lại ngắn, mức chi tiêu không cao
ảnh hưởng đến doanh thu du lịch.
- Việc đầu tư khai thác vào các tài nguyên tự nhiên và nhân văn còn nhiều hạn
chế và chưa tướng xứng. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu, nghèo nàn, nhất là việc
khai thác các thế mạnh về văn hóa, dân tộc, các lễ hội và tiềm năng thiên nhiên.
- Nguồn nhân lực du lịch Lào Cai còn thiếu và yếu, nhân lực quản lý du lịch.
Lao động trực tiếp có trên 60% chưa qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành du lịch
nên năng lực, kỹ năng nghề và chất lượng phục vụ thấp.
- Kinh phí dành cho xúc tiến, quảng bá du lịch còn ít; công tác quảng bá du
lịch đã được quan tâm đẩy mạnh nhưng chưa có chiến lược, thiếu tính chuyên
nghiệp, mới chủ yếu tập trung quảng bá trong nước và những thị trường gần, chưa
chú trọng quảng bá các thị trường ngoài nước và những thị trường xa theo chủ
điểm, trọng điểm hoặc sản phẩm đặc thù theo nhu cầu thị trường.
- Mặc dù tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế chính sách khuyến khích, thu hút đầu
tư nhưng hiệu quả chưa cao, chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư bằng các dự án du
lịch lớn và chất lượng. Các dự án lớn hầu như vẫn tập trung tại địa bàn huyện Sa Pa,
thành phố Lào Cai, chưa thu hút được các dự án lớn đầu tư vào Bắc Hà và các khu,
tuyến điểm du lịch khác.
- Một số hiện tượng tồn tại từ nhiều năm nhưng vẫn chưa giải quyết triệt để
như tình trạng chèo kéo khách của một số cơ sở lưu trú, nhà hàng và những người
bán hàng rong.
- Việc quy hoạch một số công trình phục vụ như chợ ẩm thực, các điểm bán
hàng tại các khu, tuyến, điểm du lịch còn bất cập, lấn chiếm hành lang giao thông
để kinh doanh dịch vụ làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông, mỹ quan điểm
du lịch và văn minh trong KDDL. Một số tuyến điểm du lịch cộng đồng đã mất dần
cảnh quan thiên nhiên do tốc độ đô thị hóa, hoặc đầu tư các công trình thủy điện,
đường giao thông.
89
Nhìn chung, hiệu quả kinh tế - xã hội của KTDL còn chưa tương xứng với
tiềm năng và lợi thế và yêu cầu phát triển du lịch của tỉnh. Sở dĩ phát triển kinh tế
du lịch của tỉnh Lào Cai còn tồn tại những hạn chế nêu trên là do một số nguyên
nhân cơ bản sau:
* Nguyên nhân khách quan:
- Xuất phát điểm nền kinh tế Lào Cai và ngành du lịch địa phương thấp, các
yếu tố thị trường chưa hình thành đầy đủ. Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động
du lịch kéo theo những đòi hỏi cấp bách về tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh
vực còn nhiều chỗ bất cập (cơ chế quản lý, chế tài xử phạt, cơ chế hợp tác và hội
nhập quốc tế…)
- Do ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu trong những
năm qua đã làm suy giảm lượng khách quốc tế đến Việt Nam, trong đó có tỉnh Lào
Cai.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Cán bộ và cơ quan quản lý du lịch ở các huyện, thành phố còn yếu và thiếu,
lúng túng trong triển khai các nhiệm vụ chuyên môn liên quan đến tham mưu triển
khai Đề án phát triển KTDL của tỉnh và công tác QLNN về du lịch.
- Thiếu vốn trong quá trình đầu tư và công tác quy hoạch, giải phóng mặt
bằng gặp khó khăn nên một số dự án du lịch triển khai chậm. Chưa hình thành được
nguồn lực đầu tư cho công tác xúc tiến du lịch và đào tạo nhân lực du lịch hàng
năm.
- Sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực du lịch còn hạn chế,
vì vậy môi trường du lịch vẫn còn tình trạng chèo kéo khách, bán hàng rong của
người dân tộc vẫn chưa có giải pháp xử lý.
- Lực lượng lao động trong ngành trình độ học vấn và hiểu biết còn chưa cao. Ý
thức của dân cư sống tại các điểm du lịch vẫn còn thấp.
- Sự phát triển của một số ngành công nghiệp (thủy điện, khai thác mỏ…) đã
làm mất cảnh quan tự nhiên tại nhiều, tuyến điểm du lịch.
90
- Công tác xây dựng và cụ thể các dự án trong đề án còn mang nặng tính hình
thức do đó chưa thu hút được các nguồn vốn từ chương trình mục tiêu và ngân sách
tỉnh.
Trên đây là những hạn chế, khó khăn vướng mắc trong quá trình phát triển
KTDL của tỉnh Lào Cai. Do đó, để KTDL phát triển nhanh hơn nữa, tương xứng
với tiềm năng của tỉnh, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng KTDL trong thời
gian qua, có thể đưa ra những quan điểm, định hướng và giải pháp khắc phục những
hạn chế và phát huy những lợi thế để đưa KTDL của tỉnh phát triển nhanh, mạnh,
bền vững trong thời gian tới.
91
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
3.1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở TỈNH LÀO CAI
3.1.1. Bối cảnh kinh tế mới
* Bối cảnh quốc tế:
Nền kinh tế thế giới đang bước vào thời kỳ phát triển mới, xu hướng phát
triển kinh tế tri thức đang diễn ra mạnh mẽ. Khoa học, công nghệ đang trở thành
LLSX trực tiếp có vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế và trong thời gian tới
sẽ có những bước đột phá mới. Toàn cầu hóa, khu vực hóa là một xu thế khách
quan, ngày càng có nhiều nước tham gia, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là một
xu thế lớn phản ánh nguyện vọng và đòi hỏi của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trong
bối cảnh đó nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới phát triển nhanh với xu thế
chuyển dần sang khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông
Nam Á, trong đó có Việt Nam là điểm mới đang được nhiều thị trường khách du
lịch quốc tế quan tâm tìm hiểu. Đây là cơ hội tốt tạo đà cho thị trường du lịch Việt
Nam nói chung và thị trường du lịch Lào Cai nói riêng phát triển.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế mới trên, cạnh tranh du lịch trong khu vực
và thế giới ngày càng gay gắt, sẽ được đẩy lên ở mức cao trong điều kiện toàn cầu
hóa, khu vực hóa. Trong khi đó khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam còn rất
hạn chế. Trong phát triển du lịch toàn cầu và của Việt Nam cũng cần phải tính đến
những biến động khó lường của khủng hoảng tài chính, năng lượng, thiên tai, dịch
bệnh, của chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố…đã làm suy giảm lượng khách du lịch,
du khách cắt giảm chi tiêu…là những thách thức đặt ra cho phát triển KTDL trong
thời gian tới.
* Bối cảnh trong nước:
Trong những năm qua sự nghiệp đổi mới đất nước đã đạt những thành tựu
quan trọng. Tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được
92
tăng cường; quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở
rộng và thu nhiều kết quả tốt. Hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là đường giao thông,
cầu, cảng, sân bay, điện, nước, bưu chính viễn thông…được tăng cường. Các ngành
kinh tế, trong đó có ngành dịch vụ đều có bước phát triển mới, tích cực, cơ cấu kinh
tế đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hóa và từng bước hiện
đại hóa.
Bên cạnh đó, văn hóa xã hội của đất nước có những tiến bộ, đời sống nhân
tiếp tục được cải thiện. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng
lên. Khoa học, công nghệ có chuyển biến, phục vụ ngày càng nhiều hơn cho sản
xuất, phát triển các ngành kinh tế và đời sống.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang trở thành điểm đến
an toàn và thân thiện của du khách quốc tế, của các loại hình du lịch hội nghị, tổ
chức sự kiện của khu vực và thế giới. Đồng thời sau khi nước ta trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), du lịch Việt Nam cũng
đang đứng trước những cơ hội và thách thức của lộ trình hội nhập thị trường du lịch
vào thị trường du lịch khu vực và thế giới, đồng thời đây cũng là những cơ hội và
thách thức đối với phát triển KTDL của tỉnh Lào Cai.
Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước đã tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch phát triển. Du lịch được xác
định là một ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nói chung và các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch nói riêng sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị trường, nhờ đó
các sản phẩm du lịch ngày càng phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp muốn giữ và phát triển thêm thị trường thì phải nghiên cứu và phát triển các
sản phẩm mới cho phù hợp với nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của du khách,
đây cũng là động lực kích thích các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình trên thị trường khu vực trong nước và quốc tế. Hơn nữa, gia nhập WTO ngành
du lịch Việt Nam sẽ phải đối diện với một môi trường kinh doanh mới, các doanh
nghiệp trong nước không còn được sự bảo hộ của Nhà nước, cho nên để tồn tại và
93
phát triển được buộc các doanh nghiệp phải tự thân vươn lên. Do đó, hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp sẽ năng động hơn, hiệu quả hơn.
Ngoài ra, lượng khách trong và ngoài nước đến Việt Nam nói chung và Lào
Cai nói riêng sẽ gia tăng lên, hoạt động đầu tư cho du lịch cũng sôi động hơn với
nhiều dự án xây dựng các khu du lịch tổng hợp, nhà hàng, khách sạn cao cấp, xây
dựng cơ sở hạ tầng được thực hiện. Nâng cao công tác tuyên truyền và kiến thức về
hội nhập kinh tế quốc tế, các thỏa thuận song phương, đa phương liên quan đến lĩnh
vực du lịch cho các doanh nghiệp, cán bộ quản lý và người lao động.
Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi nêu trên, thì bối cảnh kinh tế mới cũng
đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho phát triển KTDL. Sức cạnh tranh của ngành
du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch tỉnh Lào Cai nói riêng còn yếu. Do
vậy, khi hội nhập kinh tế quốc tế ngành du lịch sẽ phải đối mặt với sự canh tranh
ngày càng gay gắt trong khu vực và thế giới. Mặt khác, môi trường phát triển du
lịch trong nước còn nhiều khó khăn, hoạt động du lịch còn chủ yếu dựa vào khai
thác tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ
còn nhiều bất cập. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn nhiều yếu kém;
vốn đầu tư rất thiếu lại đầu tư chưa đồng bộ, kém hiệu quả là một thách thức không
nhỏ đối với sự phát triển du lịch; hệ thống các chính sách, quy định về du lịch thiếu
nhiều, môi trường quản lý chưa vững chắc, chưa thể hiện tính đồng nhất với luật du
lịch của các quốc gia phát triển về du lịch, trong khi đó các nước Châu Á khác như:
Xingapore, Philippin, Malaixia, Indonexia,…đang liên tục, đưa ra các đợt quảng bá,
tiếp thị rầm rộ nhằm thu hút khách du lịch.
Như vậy, có thể thấy rằng, du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Lào Cai
nói riêng đang có nhiều thuận lợi cũng như cơ hội phát triển song cũng phải đối mặt
với không ít trở ngại. Những trở ngại, thách thức này đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ Bộ
VHTT&DL, từ phía các Bộ, ngành hữu quan, từ các địa phương và các doanh
nghiệp KDDL. Đó chính là những động lực quan trọng thúc đẩy KTDL nước ta và
kinh tế du lịch của Lào Cai ngày càng phát triển.
94
3.1.2. Quan điểm và định hƣớng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai
3.1.2.1. Quan điểm phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai trong thời gian tới
Để du lịch Lào Cai phát triển nhanh, mạnh và bền vững, hoà nhập cùng với
xu hướng phát triển chung của du lịch Việt Nam, ngành du lịch Lào Cai cần nắm
vững các quan điểm sau:
Phát triển du lịch cần quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, nhất là nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, IX, X của Đảng và Nghị quyết
Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XIII. Đó là phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn; tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh về du lịch của tỉnh, tạo bước
phát triển mới về kinh tế du lịch trong những năm tới.
Phát triển du lịch với vai trò là một ngành kinh tế mũi nhọn là hướng tích cực
để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành khác phát triển, góp
phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển du lịch phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh và phải được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với phát triển du lịch liên vùng của
cả nước.
Phát triển du lịch phải dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành,
sự tham gia tích cực, năng động của tất cả các thành phần kinh tế và toàn xã hội.
Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho sự phát triển.
Phát triển du lịch phải gắn với sự bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn
xã hội; vừa tạo được môi trường an toàn, thân thiện cho du khách, vừa giữ được sự
ổn định và yên bình cho cuộc sống của nhân dân trong vùng du lịch.
Phát triển du lịch gắn với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp
ứng nhu cầu của sự phát triển, đồng thời với việc lập kế hoạch đào tạo và đào tạo lại
những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ; vốn hiểu biết về
lịch sử, văn hoá, về tự nhiên, xã hội; kỹ năng giao tiếp, ứng xử... cho đội ngũ cán bộ
quản lý, nhân viên phục vụ, hướng dẫn viên và lực lượng lao động làm việc trong
ngành du lịch, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của cơ quan QLNN về du
lịch các cấp, của các doanh nghiệp và tổ chức tham gia hoạt động du lịch.
95
Phát triển du lịch phải mang tính bền vững gắn với việc bảo vệ môi trường
sinh thái và môi trường xã hội. Phát triển vừa thoả mãn những nhu cầu hiện tại mà
không làm tổn hại đến sự phát triển của các thế hệ tương lai.
3.1.2.2. Định hướng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản trên và thực trạng phát triển KTDL của
tỉnh trong thời gian qua, Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII đã đưa ra định hướng
tổng quát như sau: “Trong những năm tới cần tập trung khai thác tiềm năng thế
mạnh phong phú về cảnh quan thiên nhiên, về văn hóa lịch sử, về điều kiện giao
thông thuận lơi, những cơ sở vật chất đã được đầu tư xây dựng tạo bước phát triển
mới về du lịch. Phấn đấu sau năm 2010 đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn, nâng giá trị gia tăng của ngành du lịch chiếm trên 12% trong cơ cầu GDP của
tỉnh” [33].
Từ định hướng tổng quát nêu trên, phát triển KTDL được cụ thể hóa theo
những hướng cơ bản sau:
Về định hướng thị trường và phát triển sản phẩm:
+ Về thị trường:
Củng cố và mở rộng khai thác có hiệu quả những thị trường du lịch quốc tế
trọng điểm, song song với việc phát triển thị trường nội địa phù hợp với những điều
kiện cụ thể của tỉnh Lào Cai.
Các thị trường quốc tế trọng điểm như Trung Quốc, chiếm tới gần 70% thị
phần khách quốc tế đến Lào Cai; thị trường Châu Âu chủ yếu là Pháp, Đức, Anh,
Thụy Điển và thị trường Bắc Mỹ (phần đa là Mỹ và Canada) là những thị trường có
nhiều triển vọng đối với du lịch Lào Cai. Đây cũng là thị trường có khả năng thanh
toán và có nhu cầu về chất lượng dịch vụ cao. Vì vậy cần phải có kế hoạch cụ thể
khai thác để thúc đẩy tăng trưởng du khách quốc tế đến Lào Cai trong thời gian tới.
Thị trường khách nội địa: Khách nội địa đến Lào Cai rất đa dạng thuộc nhiều
lứa tuổi, nhiều thành phần nghề nghiệp khác nhau có thể đi lẻ hoặc đi theo đoàn
song chủ yếu đến từ các thị trường gần, từ Hà Nội và các tỉnh lân cận phía Bắc. Vì
96
vậy cần phải chú trọng kích cầu du lịch nội địa, đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng
bá thu hút nguồn khách nội địa ở những thị trường xa.
+ Định hướng về phát triển sản phẩm:
Trên cơ sở định hướng thị trường chính xác và điều chỉnh linh hoạt để xây
dựng những sản phẩm du lịch độc đáo mang sắc thái riêng của Lào Cai, đủ sức cạnh
tranh với các tỉnh lân cận và cả nước, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển các sản
phẩm du lịch sinh thái gắn với bảo vệ môi trường, du lịch văn hóa lịch sử, du lịch
cộng đồng, gắn văn hóa dân tộc với phát triển du lịch. Đồng thời đa dạng hóa sản
phẩm du lịch với các sản phẩm phù hợp với từng vùng, tuyến, điểm và khu du lịch
để thỏa mãn nhu cầu đa dạng, ngày càng tăng của các đối tượng khách, nâng cao
hiệu quả hoạt động của kinh tế du lịch.
Định hướng phát triển các vùng du lịch:
Lào Cai được phân chia và định hướng phát triển thành 3 vùng du lịch, trong
đó mỗi vùng có những sản phẩm và tiềm năng du lịch riêng để phát triển và thu hút
khách du lịch.
+ Vùng 1: Gồm thành phố Lào Cai và huyện Sa Pa, Bát Xát. Trong đó, xây
dựng Sa Pa thành đô thị du lịch gắn với sản phẩm du lịch thế mạnh như du lịch nghỉ
dưỡng; du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái có yếu tố mạo hiểm... được phát triển
theo hướng có kiểm soát sức tải, nâng cao chất lượng. Thành phố Lào Cai là điểm
đầu tư trọng tâm hướng tới thị trường khách thương mại, phát triển mạnh loại hình
du lịch mua sắm, du lịch gắn với hội nghị, hội thảo, hội chợ và khảo sát thị trường.
Bát Xát phát triển các loại hình du lịch văn hóa – sinh thái nhỏ, nhằm giảm tải và
phân phối lượng khách từ Sa Pa và Lào Cai.
+ Vùng 2: Gồm Bắc Hà – Si Ma Cai - Mường Khương. Bắc Hà là điểm đầu
tư trọng tâm. Mường Khương và Si Ma Cai là các điểm đến vệ tinh trong các tour
du lịch kết nối tam giác du lịch Bắc Hà – Si Ma Cai - Mường Khương với Hà Giang
và Châu Văn Sơn – Trung Quốc. Vùng này có địa hình núi cao, cảnh quan đẹp, khí
hậu trong lành mát mẻ quanh năm. Cùng với các tài nguyên du lịch nhân văn tập
trung, đặc sắc của các dân tộc, rất hấp dẫn với khách du lịch trong nước và quốc tế.
97
Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng: Du lịch sinh thái, du lịch thể thao, giải
trí, du lịch văn hóa, lịch sử.
+ Vùng 3: Phía Tây Nam tập trung các huyện Bảo Thắng, Bảo Yên và Văn
Bàn. Đây là vùng gắn với Quốc lộ 70 và Cao tốc Lào Cai – Hà Nội, do vậy tạo điều
kiện phát triển mạnh các trạm dừng chân du lịch gắn với mua sắm và bán các sản
phẩm du lịch lưu niệm, quà tặng; hình thành các điểm mua sắm du lịch cho các
tuyến du lịch Hà Nội – Lào Cai; Trung Quốc – Việt Nam và các tuyến du lịch của
các tỉnh Lai Châu (qua Than Uyên), Yên Bái và Hà Giang.
Định hướng về đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất phục vụ du lịch
Đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch, thu hút sự tham
gia của khu vực tư nhân vào đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Ưu tiên đầu tư cho những công trình, dự án có khả năng nâng cao năng lực và chất
lượng cung ứng du lịch.
Định hướng về phát triển nguồn nhân lực du lịch
Xây dựng nguồn nhân lực quản lý và lao động trực tiếp trong ngành du lịch
đáp ứng yêu cầu ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó chú trọng đào tạo (bao gồm cả hệ
thống đào tạo) để nâng cao năng lực; đảm bảo chất lượng, kỹ năng nghề và nghiệp
vụ du lịch, mang tính chuyên nghiệp, góp phần nâng cấp chất lượng dịch vụ du lịch.
Định hướng về quảng bá, xúc tiến đầu tư du lịch
Tiếp tục đẩy mạnh công tác quảng bá, xúc tiến du lịch bằng nhiều nội dung,
hình thức có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu, đảm bảo thiết thực hiệu quả.
Huy động mọi nguồn lực để ưu tiên xúc tiến du lịch đối với thị trường khách du lịch
nội địa tại các đô thị phía Nam, khách Trung Quốc và khách quốc tịch nước thứ 3 từ
Côn Minh – Trung Quốc và Luongprabang – Lào đến Lào Cai.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU
LỊCH TỈNH LÀO CAI
98
Để du lịch Lào Cai hướng tới mục tiêu trở thành một trong những trung tâm
du lịch lớn của miền Bắc và của cả nước, góp phần xây dựng Lào Cai ngày càng
giàu mạnh, tỉnh Lào Cai cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
3.2.1. Tăng cƣờng hiệu lực quản lý Nhà nƣớc về du lịch
Với đặc điểm là ngành kinh tế mang tính tổng hợp cao nên hiệu quả hoạt
động của ngành du lịch liên quan đến nhiều ngành khác trong mối quan hệ tương
hỗ, mà chủ yếu là tổ chức quản lý và cơ chế chính sách. Để đạt được mục tiêu đề ra,
công tác tổ chức, QLNN về du lịch cần được kiện toàn, đổi mới; cơ chế chính sách
về du lịch cần từng bước bổ sung, sửa đổi theo hướng hình thành khung pháp luật
đồng bộ, liên ngành tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho kinh tế du lịch phát
triển. Do vậy, vai trò QLNN về du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Để tăng cường hiệu lực QLNN về du lịch trên địa bàn, tỉnh Lào Cai cần hoàn
thiện và kiện toàn bộ máy tổ chức theo một số hướng sau:
- Kiện toàn, củng cố và tăng cường năng lực cho cơ quan QLNN về du lịch
từ cấp tỉnh, huyện, và một số xã trọng điểm du lịch. Quy định tổ chức bộ máy
QLNN về du lịch phải gắn liền với yêu cầu thực tiễn của tình hình phát triển hoạt
động du lịch trên địa bàn tỉnh. Bộ máy tổ chức phải được tiêu chuẩn hóa về cán bộ
và nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành.
- Thành lập đội liên ngành quản lý khách du lịch tại địa bàn du lịch trọng
điểm. Thống nhất cơ chế quản lý hoạt động lữ hành quốc tế tại cửa khẩu Lào Cai –
Hà Khẩu. Tiếp tục xây dựng và chuyên nghiệp hóa các nhà du lịch và từng bước
xây dựng hệ thống nhà văn hóa du lịch thôn bản theo quy hoạch du lịch. Quan tâm
hình thành và củng cố hoạt động của các hiệp hội khách sạn, lữ hành trên địa bàn
theo hướng hoạt động hiệu quả, thiết thực. Thực hiện phương án cổ phần hóa,
chuyển đổi hình thức các Doanh nghiệp du lịch 100% vốn Nhà nước để kinh doanh
hiệu quả hơn.
- Thực thi chính sách khuyến khích phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Lào
Cai, có các quy định cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển du lịch theo hướng mô hình
liên kết chặt chẽ giữa cơ quan QLNN về du lịch, các doanh nghiệp, nhà tư vấn và
99
người dân, nhằm huy động mọi nguồn lực tham gia đầu tư và xây dựng phát triển
kinh tế du lịch.
- Sở du lịch cần phải thực hiện đầy đủ chức năng của mình là tiến hành tổ
chức quản lý vĩ mô đối với toàn bộ hoạt động du lịch và KDDL thuộc mọi tổ chức
và mọi thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố thay vì chỉ quản lý vĩ mô đối với
những doanh nghiệp Nhà nước do UBND tỉnh quản lý như trước đây.
+ Cụ thể hóa và tổ chức chỉ đạo thực hiện “Đề án phát triển du lịch tỉnh Lào
Cai giai đoạn 2011 – 2015” đã được UBND tỉnh phê duyệt, phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương, có những đề xuất, kiến nghị để UBND tỉnh điều chỉnh kịp
thời trước những biến đổi của môi trường kinh doanh thực tế của địa phương, nhất
là trong bối cảnh hiện nay, kinh tế xã hội có nhiều thay đổi như dịch bệnh bùng
phát, giá cả leo thang, lạm phát…
+ Tổ chức hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật, các quy chế, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật, quy trình, quy
phạm trong hoạt động du lịch. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và thông
tin về du lịch.
+ Trên cơ sở các quy định của Luật Du lịch, Sở cần bổ sung cụ thể hóa cho
phù hợp với tình hình hoạt động du lịch của địa phương và thường xuyên thanh tra,
rà soát lại quá trình cấp giấy phép, giấy chứng nhận trong từng lĩnh vực của hoạt
động du lịch theo đúng luật định. Việc kiểm tra, thanh tra cần được tiến hành
thường xuyên, đi sâu vào thực chất chứ không mang nặng tính hình thức, thường
chỉ tiến hành mạnh tay vào chiến dịch. Cần tổ chức đội thanh tra liên ngành, phối
hợp với các ngành công an, tài chính và chính quyền cơ sở trong việc giữ gìn kỷ
cương trong hoạt động du lịch và KDDL.
Việc quản lý chặt chẽ và sâu sát của các cấp, ban ngành QLNN về du lịch sẽ
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trên lĩnh vực kinh tế du lịch.
100
3.2.2. Giải pháp về đầu tƣ phát triển kinh tế du lịch
Nguồn vốn đầu tư là cơ sở để xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch. Trên cơ sở quy hoạch cụ thể cần xác lập những cơ chế, chính sách phù
hợp khuyến khích cả đầu tư nước ngoài và trong nước, cả khu vực Nhà nước và tư
nhân cũng như danh mục các dự án ưu tiên đầu tư phát triển du lịch. Để đẩy mạnh
hoạt động đầu tư vào phát triển KTDL trên địa bàn tỉnh Lào Cai, nhằm đạt được
hiệu quả cao ngành Du lịch Lào Cai cần phải thực hiện tốt các vấn đề cơ bản sau:
- Phối hợp với các huyện, các tuyến, điểm, khu du lịch tiến hành đánh giá
công tác đầu tư phát triển KTDL. Bên cạnh đó, cùng với các ngành liên quan rà soát
đánh giá và đề xuất cơ chế, chính sách đầu tư du lịch.
- Đầu tư vào những điểm có khả năng phát triển du lịch cao, quy mô lớn và
có khả năng mở rộng trong tương lai nhằm tránh sự phát triển nhỏ lẻ, không hiệu
quả. Xác định đầu tư phải theo mức độ ưu tiên cho các điểm giàu tiềm năng, cơ sở
hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu cần có và theo yêu cầu xây dựng sản phẩm du
lịch chủ đạo của ngành. Ưu tiên đầu tư vào những công trình, dự án có khả nâng cao
năng lực và chất lượng cung ứng du lịch. Ngoài ra tiếp tục tăng cường thu hút đầu
tư các dự án du lịch lớn tại Sa Pa, thành phố Lào Cai, đặc biệt là Bắc Hà theo nguồn
vốn từ các doanh nghiệp và các nguồn vốn khác để nâng cao chất lượng các khu vui
chơi, giải trí và dịch vụ du lịch.
- Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất – kỹ thuật phục
vụ du lịch, trước mắt phải quan tâm đến hệ thống đường xá, điện, nước, thông tin
liên lạc, y tế và các dịch vụ công nhằm kích thích đầu tư từ bên ngoài và tạo tâm lý
ổn định cho doanh nghiệp cũng như du khách. Có chính sách khuyến khích đặc biệt
đối với các dịch vụ còn thiếu và yếu như cơ sở lưu trú cao cấp từ 3 sao trở lên, nhà
hàng sang trọng, khu vui chơi giải trí đa năng…Trên cơ sở các trọng điểm đầu tư đã
được Tỉnh ủy, UBND tỉnh xác định rõ, ngành du lịch xây dựng các phương án cụ
thể quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xây dựng tại các khu, điểm du
lịch như sau:
101
+ Đầu tư phát triển cụm du lịch Thành phố Lào Cai và phụ cận: Khu vực này
cần được đầu tư thành một cụm du lịch liên hoàn với tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
Kết hợp giữa cải tạo và xây dựng mới các cơ sở vật chất phục vụ nghỉ ngơi, vui
chơi giải trí…, đảm bảo các yêu cầu về quản lý quy hoạch đô thị, quản lý về kiến
trúc, không phá vỡ cảnh quan và môi trường.
+ Đầu tư phát triển cụm du lịch tổng hợp Sa Pa và Bắc Hà: Đầu tư tập trung
không dàn trải, ưu tiên đầu tư cho kết cấu hạ tầng, hệ thống xử lý môi trường và tôn
tạo cảnh quan, di tích văn hóa, lịch sử.
- Để khuyến khích các thành phần tham gia đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật,
khai thác tài nguyên du lịch, phát triển các loại hình du lịch còn thiếu và yếu của
tỉnh Lào Cai, tỉnh cần phải tiến hành tổ chức, giới thiệu quy mô tại các hội nghị, hội
chợ và đăng tải liên tục trên các phương tiện thông tin để mọi đối tượng trong và
ngoài nước dễ truy cập, nắm bắt. Đồng thời UBND tỉnh cần ban hành các chính
sách để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư. Cụ
thể:
+ Cần có chính sách ưu tiên, miễn giảm thuế đất, ưu đãi vài năm chưa thu
thuế thu nhập, miễn giảm thuế khai thác sử dụng tài nguyên phục vụ phát triển du
lịch. Ưu tiên bố trí mặt bằng cho thuê đất, thủ tục thuê đất đối với các doanh nghiệp
đầu tư xây dựng các khu, tuyến, điểm du lịch, cơ sở lưu trú, khu nghỉ dưỡng. Có
chính sách ưu đãi về điện, cấp nước, nguyên vật liệu phục vụ cho các công trình, dự
án đầu tư du lịch có các giải pháp cụ thể trong vấn đề giảm thiểu và giải quyết ô
nhiễm môi trường, bảo tồn hệ sinh thái của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong khu du lịch.
+ Để huy động được các nguồn vốn giải quyết nhu cầu đầu tư cho cơ sở hạ
tầng, kỹ thuật phuc vụ du lịch cần có cơ chế chính sách thu hút vốn đầu tư. Khuyến
khích các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư vay vốn nhằm triển khai các dự án du lịch trên địa bàn tỉnh với lãi
suất ưu đãi, thủ tục nhanh gọn. Tích cực khai thác nguồn vốn từ chương trình đầu tư
hạ tầng du lịch của Tổng cục Du lịch để xây dựng hạ tầng các khu, điểm du lịch
102
trọng điểm, ưu tiên thực hiện các dự án đầu tư. Đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa
nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch, tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước. Để thực hiện xã hội hóa nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch
cần chú trọng tiến hành theo hướng:
Đối với vốn đầu tư hạ tầng, vốn quy hoạch và hỗ trợ phát triển du lịch, chủ
yếu huy động từ nguồn ngân sách của Nhà nước. Khai thác nguồn vốn đầu tư hạ
tầng du lịch và lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương để đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng đến các khu, điểm du
lịch. Có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư tự bỏ vốn xây dựng hạ tầng đầu mối
đến các khu du lịch, sau đó tỉnh hoàn trả vốn đầu tư từ phần ngân sách Nhà nước
thu được của hoạt động kinh doanh du lịch về sau hoặc nguồn thu từ đấu giá quyền
sử dụng đất. Bố trí nguồn lực từ chính sách khuyến khích phát triển du lịch để mở
các lớp đào tạo cho cán bộ quản lý, lao động và đào tạo du lịch cộng đồng. Tranh
thủ nguồn kinh phí từ chương trình hành động quốc gia về du lịch, nguồn vốn đào
tạo du lịch từ các tổ chức phi chính phủ để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến quảng bá,
phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Tập trung hỗ trợ đầu tư, khai thác và phát triển sản phẩm du lịch thành hệ
thống sản phẩm, loại hình du lịch đặc trưng, có chất lượng cao dựa trên thế mạnh
đặc thù của tài nguyên du lịch địa phương. Khuyến khích và ưu tiên đầu tư xây
dựng sản phẩm phù hợp với nhu cầu du khách và sản phẩm khách có khả năng chi
trả từ mức khá trở lên. Khai thác mạnh các sản phẩm du lịch gắn với các trọng điểm
du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch để nâng cao tính cạnh tranh đối với các điểm
đến trong nước và khu vực Châu Á. Đối với vốn đầu tư xây dựng các sản phẩm du
lịch do các nhà đầu tư thực hiện sẽ huy động vốn tự có, vốn vay, vốn liên doanh,
liên kết của các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước.
3.2.3. Tăng cƣờng công tác đào tạo và bồi dƣỡng nguồn nhân lực du lịch
Năng lực và phẩm chất của đội ngũ lao động trong ngành du lịch có tầm
quan trọng đặc biệt đối với việc khai thác có hiệu quả cũng như bảo tồn lâu dài các
nguồn tiềm năng du lịch của đất nước, góp phần tạo ra những sản phẩm du lịch đặc
103
sắc, có chất lượng, hấp dẫn khách. Đội ngũ này cũng thể hiện khả năng tiếp thu kinh
nghiệm du lịch quốc tế, cũng như khả năng tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế
về du lịch. Phát triển nguồn nhân lực du lịch cũng là nhằm bảo đảm cho Du lịch Lào
Cai phát huy nội lực, nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách. Đây chính là quá trình cụ
thể hoá yêu cầu về nhân tố con người trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
Thực tế cho thấy chất lượng lao động du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện
nay còn nhiều bất cập và hạn chế do thiếu kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và
trình độ ngoại ngữ. So với tốc độ phát triển hiện nay và trong tương lai thì đội ngũ
lao động trong lĩnh vực du lịch cần phải được huấn luyện và đào tạo lại thông qua
các cơ sở đào tạo có quy mô và chất lượng đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu hiện tại.
Điều đó cho thấy du lịch Lào Cai cần có một chiến lược lâu dài nhằm chuẩn hoá đội
ngũ lao động và cán bộ QLNN và trong kinh doanh. Đồng thời xây dựng lực lượng
lao động đủ về số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu để phát huy các
tiềm năng thế mạnh của địa phương góp phần đưa du lịch Lào Cai trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập cùng với ngành
du lịch của cả nước. Vì vậy, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cần
tiến hành đồng bộ các biện pháp cơ bản sau:
- Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch đến
năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Từ chiến lược đó có thể lên được những kế
hoạch ngắn hạn, dài hạn đào tạo nhân lực theo định hướng phát triển ngành. Nội
dung chủ yếu của kế hoạch này bao gồm đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực hiện có kết hợp với đào tạo mới để đáp ứng yêu cầu trước
mắt và chuẩn bị cho lâu dài.
- Thực hiện đầy đủ và nghiêm túc chính sách cán bộ từ quy hoạch, tuyển
dụng, sắp xếp, sử dụng và quản lý, đến đãi ngộ…, chú trọng từng bước trẻ hóa đội
ngũ cán bộ, kết hợp ưu tiên sử dụng cán bộ có kiến thức, trình độ tay nghề, ý thức
chính trị và kinh nghiệm cao, đảm bảo tính kế thừa. Đặc biệt chú trọng đào tạo, sử
dụng và đãi ngộ tri thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, chuyên gia và nghệ nhân
hoạt động trong lĩnh vực du lịch.
104
- Từng bước xây dựng đội ngũ các nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp năng
động và sáng tạo, đủ năng lực điều hành các hoạt động KDDL theo cơ chế thị
trường và đáp ứng xu hướng phát triển của thời đại. Nâng cao trình độ nghiệp vụ
cho đội ngũ quản lý KDDL bằng cách tổ chức cho các cán bộ quản lý trong các đơn
vị kinh doanh đi học tập và trau dồi kiến thức ở nước ngoài, đồng thời xây dựng hệ
thống các tiêu chuẩn và quy định tối thiểu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng lãnh đạo, kỹ năng giao tiếp, ứng xử… đối với cán bộ và các chủ cơ sở kinh
doanh dịch vụ du lịch nhằm phát triển các dịch vụ du lịch một cách hiệu quả và chất
lượng.
- Tổ chức mạng lưới các cơ sở đào tạo của Nhà nước và của ngành trên địa
bàn toàn tỉnh một cách hợp lý. Đa dạng hóa hình thức đào tạo gồm chính quy, phi
chính quy, ngắn hạn, dài hạn theo cấp độ: hướng nghiệp dạy nghề, trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học…Tăng cường mở các lớp về đào tạo nghiệp vụ lễ tân,
buồng, bàn, bar, bếp, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, lao động ở doanh nghiệp theo
hình thức tại chỗ, “cầm tay chỉ việc”. Ngoài ra, Sở VHTT&DL có thể kết hợp với
các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp để mở lớp bồi dưỡng ngắn hạn, ngoài giờ
ngay tại cơ sở du lịch để đảm bảo nâng cao tay nghề của người lao động mà không
bị gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Bên cạnh đó xây dựng chính sách và chương trình liến kết, hợp tác với các
tổ chức trong và ngoài nước. Hợp tác với tỉnh Vân Nam – Trung Quốc để đào tạo
đội ngũ cán bộ quản lý trong cơ quan nhà nước và HDV, lao động trong cơ sở
KDDL, gửi đào tạo và đào tạo gián tiếp qua chương trình khai thác khách của Công
ty du lịch được đặt tại Côn Minh – Trung Quốc. Phối hợp với một số trường và cơ
sở dạy nghề như: Trường Trung học tư thục Hoa sữa Hà Nội, Trường Cao đẳng du
lịch, Trường Trung cấp Thương mại…để giảng dạy về các nghiệp vụ nấu ăn, buồng,
bar, lễ tân và các nghiệp vụ khác, đồng thời tiến hành trao đổi sinh viên để gửi thực
tập và đào tạo.
- Đào tạo đội ngũ HDV là một vấn đề hết sức nghiêm túc hiện nay, đa số họ
đều không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của khách. Do vậy, tỉnh cần phải có kế
105
hoạch đào tạo lại, đào đạo mới đội ngũ HDV. Trước mắt cần phải bắt đầu đào tạo
và hoàn thiện cho các HDV hiện đang làm việc tại Sa Pa, Bắc Hà vì trong số họ có
nhiều hiểu biết về địa phương. Sau đó là đào tạo cho con em các dân tộc thiểu số
đang tham gia hoạt động hướng dẫn khách du lịch.
- Chỉ đạo, hướng dẫn các nhà đầu tư có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo đội ngũ
lao động là người địa phương ngay từ khi bắt đầu triển khai đầu tư dự án để bố trí
đào tạo và sử dụng khi dự án hoàn thành, đi vào khai thác.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong phát triển
nguồn nhân lực du lịch. Tăng cường công nghệ thông tin, ưu tiên đầu tư cho hoạt
động Internet để phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá, quản lý và KDDL.
- Phát triển du lịch phải dựa vào cộng đồng dân cư địa phương do đó cần
tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch. Từ đó
người dân có thể nhận thức được lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài đối với công
đồng dân cư địa phương, nhằm tăng cường ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa, văn
minh du lịch và bảo vệ môi trường cảnh quan du lịch, tài nguyên du lịch tại các khu,
điểm du lịch trên địa bàn tỉnh.
3.2.4. Đa dạng hóa, nâng cao chất lƣợng sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch
Để kinh tế du lịch thực sự phát triển cũng như các doanh nghiệp hoạt động
KDDL có hiệu quả thì việc khai thác các nguồn tài nguyên du lịch tạo thành những
sản phẩm du lịch phong phú, đa dạng cùng với các dịch vụ du lịch phù hợp, đáp ứng
được nhu cầu của du khách có vai trò vô cùng quan trọng. Do đó, ngành du lịch Lào
Cai cần phải thực hiện những giải pháp nhằm đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản
phẩm và dịch vụ du lịch như sau:
- Trên cơ sở định hướng thị trường chính xác và điều chỉnh linh hoạt để đầu
tư, khai thác và phát triển thành hệ thống sản phẩm, loại hình du lịch đặc trưng dựa
trên thế mạnh đặc thù của tài nguyên du lịch Lào Cai, đủ sức cạnh tranh với các tỉnh
lân cận và cả nước, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển các sản phẩm du lịch sinh
thái gắn với bảo vệ môi trường, du lịch văn hóa lịch sử, du lịch cộng đồng, gắn văn
106
hóa dân tộc với phát triển du lịch. Đồng thời đa dạng hóa sản phẩm du lịch với các
sản phẩm phù hợp với từng vùng, tuyến, điểm và khu du lịch để thỏa mãn nhu cầu
đa dạng, ngày càng tăng của các đối tượng khách. Đặc biệt khuyến khích đầu tư xây
dựng sản phẩm dành cho du khách có khả năng chi trả từ mức khá trở lên.
- Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch là mắt xích quan trọng trong guồng
máy hoạt động của ngành. Hiệu quả của các doanh nghiệp du lịch tác động đến hiệu
quả của ngành. Vì vậy, muốn tăng doanh thu, đạt lợi nhuận cao trong kinh doanh,
góp phần vào sự phát triển của KTDL thì các doanh nghiệp cũng phải có những giải
pháp đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm kinh doanh cũng như lĩnh vực
kinh doanh du lịch của mình. Cụ thể:
+ Đối với dịch vụ lữ hành: Xu hướng tiêu dùng sản phẩm chất lượng ngày
càng cao của khách du lịch đòi hỏi các doanh nghiệp lữ hành cần từng bước giảm
cung cấp sản phẩm du lịch cấp thấp cho khách du lịch. Để thu hút khách du lịch thì
việc tạo ra sản phẩm mới lạ, độc đáo là rất quan trọng. Các doanh nghiệp du lịch
Lào Cai cần coi trọng phát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái,
du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch mạo hiểm…là những thế mạnh
của du lịch Lào Cai.
Các doanh nghiệp lữ hành cần tích cực chủ động trong việc ký kết các hợp
đồng du lịch với các doanh nghiệp lữ hành của các địa phương trong nước và nước
ngoài, đặc biệt đối với khu vực Vân Nam, Côn Minh – Trung Quốc. Đồng thời chủ
động xây dựng các mối liên hệ giữa các doanh nghiệp với nhau thông qua việc hỗ
trợ xây dựng các dự án phát triển sản phẩm du lịch trong hệ thống tour, tuyến du
lịch…
+ Đối với dịch vụ lưu trú: Các du khách có mong muốn khác nhau về tiêu
chuẩn và loại chỗ ở. Một số đòi hỏi khách sạn tiêu chuẩn quốc tế, một số khác thì
hài lòng với chỗ ở đơn giản, đặc biệt là họ có thể tiếp xúc với cuộc sống của dân
bản địa. Vì vậy, đối với KDDL không chỉ đa dạng hóa các loại hình dịch vụ mà đối
với từng loại hình kinh doanh ấy cũng cần phải phong phú và đa dạng các sản phẩm
dịch vụ để có thể hút khách và đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách. Bên cạnh đó,
107
cần phải đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ các cơ sở lưu trú, đảm bảo tiện nghi,
hiện đại và đồng bộ, đưa công suất sử dụng phòng cao hơn, góp phần làm tăng
doanh thu và hiệu quả kinh tế của các cơ sở lưu trú. Đồng thời, có chính sách
khuyến khích đặc biệt đối với các dịch vụ còn thiếu và yếu như cơ sở lưu trú cao
cấp từ 3 sao trở lên nhằm tăng cường thu hút đối tượng khách có khả năng chi trả
cao.
+ Đối với dịch vụ ăn uống: Dịch vụ ăn uống tại Lào Cai đã phát triển tương
đối phong phú nhưng cũng còn thiếu nhiều những nhà hàng chất lượng cao, thực
đơn trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống còn đơn điệu, vấn đề chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, để đáp ứng được
nhu cầu của du khách và nâng cao chất lượng sản phẩm thì các doanh nghiệp du
lịch cần phải phát triển các sản phẩm mang hương vị riêng của Lào Cai và đậm đà
bản sắc dân tộc. Đồng thời xây dựng các nhà hàng với các món ăn Âu, Á, các món
ăn ẩm thực của 3 miền Bắc – Trung – Nam nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều đối
tượng khách. Thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm tại các khách sạn, nhà hàng phục
vụ ăn uống, không cho phép lưu thông và sử dụng các loại thực phẩm không đảm
bảo chất lượng. Mặt khác, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ nhân viên về phong cách
phục vụ, đáp ứng được nhu cầu của khách.
+ Đối với các dịch vụ du lịch khác: Để nâng cao chất lượng dịch vụ vận
chuyển khách đi tham quan, du lịch thì Nhà nước và các doanh nghiệp cần đầu tư
các phương tiện vận chuyển mới, hiện đại kể cả các phương tiện thô sơ như: xe trâu,
xe bò, xe ngựa khi vào tham quan các làng bản… Thường xuyên giám sát, kiểm tra
đột xuất việc phục vụ khách và có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với nhân viên.
Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu thể thao, vui chơi, giải trí và mua sắm thì Tỉnh cần
phải tiến hành quy hoạch đầu tư phát triển các cơ sở thể thao và dịch vụ vui chơi,
giải trí cả về số lượng và chất lượng. Trong thời gian tới tập trung đầu tư một số khu
trung tâm, cửa hàng thương mại lớn ở thành phố Lào Cai, Sa Pa, Bắc Hà và quan
tâm mở rộng và đầu tư xây dựng các cơ sở thương mại ở tuyến huyện, phục vụ nhu
cầu mua sắm hàng hóa, đồ lưu niệm và đặc sản địa phương của khách du lịch.
108
3.2.5. Giải pháp về thị trƣờng
Mở rộng thị trường là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển
KTDL tỉnh Lào Cai. Do vậy, tỉnh phải có kế hoạch không ngừng mở rộng và phát
triển thị trường. Củng cố và mở rộng khai thác có hiệu quả những thị trường du lịch
quốc tế trọng điểm, song song với việc phát triển thị trường nội địa phù hợp với
những điều kiện cụ thể của tỉnh Lào Cai. Cần coi trọng việc mở rộng thị trường với
sự tham gia của các doanh nghiệp KDDL, của nhiều thành phần kinh tế, bên cạnh
việc đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ du lịch để đủ sức cạnh tranh trên thị
trường. Cần tập trung vào những giải pháp sau:
- Tích cực, chủ động trao đổi thông tin và tiến hành liên kết, hợp tác giữa du
lịch Lào Cai với các tỉnh, thành phố như Vân Nam – Trung Quốc, Hà Nội, Hải
phòng, Quảng Ninh để phát triển các sản phẩm du lịch dọc tuyến hành lang kinh tế
Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, đồng thời triển khai các
thỏa thuận hợp tác du lịch với 8 tỉnh Tây Bắc nhằm đẩy mạnh phát triển KTDL theo
hướng liên vùng.
- Liên kết với các doanh nghiệp hoạt động KDDL của các tỉnh bạn để nối
tour, nối tuyến, nhằm tính độc đáo và hấp dẫn du khách, không ngừng mở rộng và
chiếm lĩnh thị trường. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì bản thân các doanh
nghiệp hoàn toàn có khả năng thiết kế và thực hiện các tour du lịch trọn gói, song
nếu có sự liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch của tỉnh lân cận sẽ tạo điều
kiện cung ứng sản phẩm với chất lượng cao nhất, chi phí thấp nhất và tạo sự thỏa
mãn của khách hàng là lớn nhất. Muốn vậy, các doanh nghiệp du lịch Lào Cai và
phụ cận cần ký kết hợp đồng thỏa thuận rõ ràng, quy định rõ quyền hạn, trách
nhiệm, lợi ích mỗi bên, đảm bảo mối quan hệ lâu dài, lợi ích bền vững.
- Củng cố, khai thác có hiệu quả thị trường khách du lịch từ Hà Nội và các
tỉnh lân cận phía Bắc; đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá thu hút nguồn khách
nội địa ở các thành phố lớn phía Nam, miền Trung; phát triển thị trường khách du
lịch quốc tế, khai thác có hiệu quả thị trường khách Trung Quốc và thị trường khách
109
quốc tịch nước thứ ba từ Trung Quốc và Lào đến Sa Pa – Lào Cai. Tập trung khai
thác đối tượng khách có thu nhập và khả năng chi trả cao.
- Bên cạnh đó tăng cường các hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế nhằm
thúc đẩy phát triển du lịch thông qua các hội nghị, hội thảo chuyên đề tại các địa
phương; hội nghị du lịch biên giới; các hội nghị về liên kết phát triển du lịch các
vùng, liên vùng...
Ngoài ra, để tạo lập và nâng cao hình ảnh du lịch Lào Cai cả trong và ngoài
nước, nhằm thu hút khách, mở rộng thị trường du lịch thì cần phải chú trọng đến
các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến phát triển du lịch của địa phương.
Trong đó tập trung vào:
- Nghiên cứu tâm lý, thị hiếu, tập quán, thói quen tiêu dùng của các đối
tượng khách để có những sản phẩm phù hợp với thị trường thông qua các hình thức
tuyên truyền, quảng cáo.
- Tăng cường quảng bá, giới thiệu về du lịch Lào Cai nói chung và các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch nói riêng trên các phương tiện thông tin đại chúng, đài
báo, tạp chí, Internet, ấn phẩm du lịch, hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư du lịch, hội
chợ để thu hút khách. Giới thiệu các quy hoạch, danh mục dự án để kêu gọi, khuyến
khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào du lịch Lào Cai.
- Tăng cường tổ chức các sự kiện du lịch, lễ hội du lịch nhằm phát triển du
lịch gắn với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như tuần lễ du lịch Sa Pa, Lễ hội du
lịch về cội nguồn giữa ba tỉnh Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ…Tổ chức các đợt
quảng bá, giới thiệu rộng rãi các điểm du lịch mới, các tua du lịch mới.
- Tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân để hình thành môi trường xã
hội toàn dân tham gia làm du lịch. Từ đó góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn
của người dân về vị trí, vai trò của kinh tế du lịch trong tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh, giúp người dân có thái độ, có cách ứng xử phù hợp.
3.2.6. Chú trọng phát triển hình thức du lịch cộng đồng thôn, bản
Du lịch cộng đồng là hình thức du lịch mà người dân mời khách đến tham
quan, tham gia các sinh hoạt cộng đồng mang tính làng bản và khách thường lưu trú
110
đêm tại nhà dân. Du khách sẽ được khám phá nơi sinh sống, tìm hiểu, tham dự các
tập tục sinh hoạt, tập quán canh tác của người dân bản địa. Đồng thời thông qua đó,
người dân có thu nhập từ việc đón khách, cho thuê đất cắm trại, chỗ nghỉ đêm, dịch
vụ ăn uống, vận chuyển…Du lịch cộng đồng phát triển sẽ góp phần quan trọng
trong xóa đói, giảm nghèo cho cộng đồng dân cư địa phương.
Đây là sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn lớn đối với du khách, nhất là khách
quốc tế. Với lợi thế là một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống trên
địa bàn, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa, nét độc đáo riêng thể hiện qua các
phong tục, tập quán, lễ hội…đã tạo cho Lào Cai có một thế mạnh để phát triển hình
thức du lịch cộng đồng. Phần đa các chương trình du lịch lữ hành quốc tế đến tỉnh
Lào Cai là nhằm mục đích tìm hiểu, khám phá các giá trị văn hóa độc đáo của cộng
đồng các dân tộc. Khách du lịch muốn tìm hiểu, khám phá về đời sống sinh hoạt,
văn hóa đích thực của người dân bản địa.
Trong những năm qua được sự giúp đỡ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế
giới (IUCN), Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV), Hiệp hội các trường Đại học vùng
Vancouver – Canada và Đại học Mở Hà Nội, loại hình này đã được phát triển khá
hiệu quả ở Sa Pa, song nhìn chung vẫn chưa tạo thành một sản phẩm du lịch thực
sự, chưa được quan tâm đầu tư nhiều. Có thể thấy rằng, lợi ích do hoạt động du lịch
này mang lại là rất lớn, do đó để loại hình du lịch cộng đồng thực sự phát triển có
hiệu quả thì các ngành chức năng phải phối hợp với các địa phương trong tỉnh khảo
sát, xây dựng tiêu chí, lựa chọn các làng, bản đạt tiêu chuẩn để quy hoạch tổ chức
hoạt động du lịch cộng đồng. Trước mắt đào tạo cho các địa phương sau: Tả Van,
Tả phìn, Thanh Phú, Nậm Cang (huyện Sa Pa); Phú Nhuận (huyện Bảo Thắng);
Long Khánh, Long Phúc, Nghĩa Đô (huyện Bảo Yên); Tung Chung Phố (Mường
Khương); Tả Van Chư, Bản Phố, Cố Ly (Bắc Hà); Mường Hum, Y Tý (Bát Xát).
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, phát triển du lịch cộng đồng chủ yếu nhằm tập
trung đào tạo nâng cao năng lực cho cộng đồng, giảm thiểu các tác động tiêu cực từ
hoạt động du lịch để bảo tồn môi trường cảnh quan thiên nhiên, văn hóa dân tộc và
giúp người dân cải thiện nâng cao mức sống. Do vậy, để đáp ứng mục tiêu trên, cần
111
tiếp tục nâng cấp và xây dựng các tuyến du lịch tại các làng bản có tiềm năng về
cảnh quan, môi trường, văn hóa, du lịch. Đồng thời tổ chức nhiều khóa tập huấn đào
tạo du lịch cộng đồng tại các thôn, bản, làng cho các học viên là những người trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động phát triển, khai thác, quản lý du lịch
cộng đồng với các kiến thức cơ bản như: Tổng quan chung về du lịch, du lịch thôn
bản; bảo tồn, khai thác các giá trị văn hóa thành sản phẩm du lịch; Kỹ năng trong
kinh doanh, phục vụ du lịch tại chỗ; trình tự đón khách; vệ sinh và an toàn vệ sinh
thực phẩm; chế biến món ăn; văn minh giao tiếp, ứng xử tình huống, kỹ năng hướng
dẫn khách tham quan và phục vụ lưu trú tại gia…nhằm nâng cao năng lực cho phát
triển du lịch cộng đồng một cách bài bản. Bên cạnh đó, địa phương cần chủ động hỗ
trợ ngân sách cho nhân dân xây dựng một số công trình cơ bản như đường bê tông
hóa, nhà văn hóa, bể chứa nước sạch, công trình vệ sinh công cộng…
3.2.7. Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trƣờng du lịch
Để đảm bảo hoạt động du lịch diễn ra thường xuyên, ngành du lịch phát triển
một cách bền vững, thì vấn đề đặt ra với các nhà quản lý du lịch là việc ngăn ngừa
và giảm thiểu đến mức thấp nhất hoặc chấm dứt hoàn toàn các tác động xấu đến tài
nguyên và môi trường du lịch trong quá trình tiến hành các hoạt động du lịch. Đặc
biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi môi trường sinh thái và văn hóa đang bị ô nhiễm
và suy thoái nghiêm trọng thì bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu phát triển du lịch
bền vững đã và đang là vấn đề mang tính cấp bách của mọi quốc gia trên thế giới,
đối với ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch Lào Cai nói riêng. Do
đó, để KTDL phát triển và đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững thì cần thực hiện
ngay một số giải pháp sau:
- Kiện toàn bộ máy QLNN về du lịch trong đó có bộ phận chuyên trách về
quản lý môi trường. Hoàn thiện những văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, tăng
cường kiểm tra, kê khai về tình trạng ô nhiễm môi trường tại các doanh nghiệp đang
hoạt động, đồng thời đánh giá những tác động đối với môi trường của những hoạt
động này, từ đó xây dựng những dự án với mục đích bảo vệ và phòng chống ô
nhiễm môi trường.
112
- Ban hành và thể chế hóa các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
trong lĩnh vực du lịch. Từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về
quản lý tài nguyên môi trường lịch trên cơ sở triển khai Luật bảo vệ môi trường và
Pháp lệnh Du lịch. Có chính sách ưu đãi trong việc huy động vốn đầu tư đối với các
dự án đầu tư du lịch, có các giải pháp cụ thể trong vấn đề bảo vệ và tôn tạo nâng cao
chất lượng môi trường du lịch.
- Ngành du lịch Lào Cai cũng cần có chiến lược môi trường cụ thể. Các cơ
quan quản lý du lịch phải nhấn mạnh tầm quan trọng của du lịch sinh thái – công cụ
hữu hiệu của du lịch góp phần bảo vệ môi trường. Nhận thức được vai trò của du
lịch sinh thái không chỉ như một loại hình du lịch hấp dẫn, đạt hiệu quả cao về kinh
tế mà còn được xem là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ môi trường tự nhiên. Bên
cạnh đó, tăng cường thanh tra, giám sát xác định các điểm du lịch gây ô nhiễm môi
trường, hướng dẫn du khách để khuyến khích họ giúp đỡ bảo vệ môi trường, đồng
thời có những quy định quản lý chặt chẽ, xử phạt hành chính – kinh tế với những
người vi phạm những quy định gây ô nhiễm môi trường.
- Tập trung mọi nỗ lực nhằm chống xuống cấp, bảo vệ tài nguyên du lịch,
đặc biệt là các tài nguyên nhân văn có giá trị về văn hóa, lịch sử trên nguyên tắc tôn
trọng nguyên trạng và khôi phục nguyên bản các di tích. Bên cạnh đó, không gian
cũng là một phần không thể thiếu để phát triển du lịch, do vậy cần thận trọng trong
việc cấp phép xây dựng các công trình mới làm ảnh hưởng đến cảnh quan du lịch và
môi trường sinh thái, trong đó đặc biệt chú ý việc đưa chỉ tiêu về bảo vệ môi trường
trở thành điều kiện trước khi cấp phép đầu tư về du lịch.
- Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch áp dụng công nghệ thân thiện với
môi trường, giảm thiểu việc khai thác và tiêu dùng nguồn năng lượng, cũng như các
loại tài nguyên khác phục vụ cho du lịch; giảm thiểu lượng chất thải do du lịch gây
ra và cần có những quy định về thu gom và xử lý chất thải, cải thiện cảnh quan môi
trường. Bên cạnh đó, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, quản lý vệ
sinh an toàn thực phẩm trong các nhà hàng, khách sạn. Ban hành các tiêu chí đánh
giá, xếp loại nhà hàng theo Luật Du lịch và các quy định của địa phương.
113
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các kiến thức du lịch bền
vững, môi trường cho cả cộng đồng (Nhà quản lý, nhà kinh doanh, người dân,
khách du lịch) để mọi người hiểu được giá trị của những di tích lịch sử văn hóa,
danh lam thắng cảnh và những lợi ích về tinh thần, vật chất mà du lịch đã mang lại
cho họ, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng trong việc giữ gìn,
bảo vệ và phát triển các tài nguyên du lịch.
114
KẾT LUẬN
Ngày nay, với sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật, thông tin và xu thế toàn cầu
hóa kinh tế đã tạo cho nền kinh tế thế giới phát triển năng động, mạnh mẽ, thúc đẩy
nhu cầu du lịch tăng cao. Du lịch đã thực sự là hoạt động có ý nghĩa và tác động
ngày càng tăng đối với đời sống con người. Phát triển du lịch là một hướng chiến
lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
nhằm góp phần thực hiện quá trình CNH – HĐH đất nước. Cùng với sự phát triển
của ngành Du lịch Việt Nam, trong những năm qua Du lịch Lào Cai đang từng bước
khởi sắc, thể hiện vai trò của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kinh
tế du lịch ngày càng khẳng định vị trí quan trọng, mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của
Lào Cai.
Từ việc phân tích một cách hệ thống, toàn diện thực trạng phát triển KTDL
tỉnh Lào Cai, cho thấy ngành KTDL của tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể,
đem lại hiệu quả tích cực cho kinh tế xã hội của tỉnh. Doanh thu xã hội từ phát triển
kinh tế du lịch ngày càng tăng nhanh, nhờ đó ngành đã có những đóng góp không
nhỏ vào ngân sách Nhà Nước. Thông qua hoạt động du lịch, nhiều ngành nghề, dịch
vụ phát triển theo góp phần làm cho cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch đúng
hướng. Bên cạnh đó, KTDL phát triển tạo ra nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp
cho người lao động, vai trò của du lịch trong xóa đói, giảm nghèo ngày càng rõ nét.
Đặc biệt sự phát triển của kinh tế du lịch Lào Cai trong thời gian qua đã góp phần
tích cực vào việc thu hút đầu tư, cải tạo cơ sở hạ tầng xã hội cũng như cơ sở vật chất
kỹ thuật du lịch; Công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác phát triển du lịch cũng
được chú trọng; Các hoạt động KDDL ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của du khách.
Tuy nhiên, phát triển KTDL Lào Cai vẫn còn một số vấn đề hạn chế, bất cập
như chi tiêu của khách du lịch còn thấp; cải tạo cơ sở hạ tầng còn gặp nhiều khó
khăn; sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa tạo ra được sản phẩm du lịch mới độc
đáo; cơ sở lưu trú và hệ thống dịch vụ du lịch chưa hoàn chỉnh…Đặc biệt nguồn
nhân lực du lịch còn thiếu và hạn chế về chuyên môn, năng lực; cùng với sự phát
115
triển của du lịch thì tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn đã và đang chịu
ảnh hưởng xấu từ các hoạt động du lịch. Vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng có
những những giải pháp hữu hiệu nhằm phát triển mạnh KTDL Lào Cai trong những
năm tới.
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn đặt ra đối với phát triển
KTDL của tỉnh trong bối cảnh mới và những quan điểm, phương hướng phát triển
của ngành du lịch Lào Cai. Luận văn đã đề xuất một hệ thống các giải pháp mang
tính tổng hợp, đồng bộ. Cần nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước về du
lịch; giải pháp về đầu tư nâng cấp và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật; mở rộng
thị trường; giải pháp để có nguồn nhân lực chất lượng cao; chú trọng phát triển hình
thức du lịch cộng đồng thôn, bản và các biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái, đảm
bảo một ngành du lịch phát triển bền vững.
Với nhận thức đúng đắn, kịp thời trong chiến lược phát triển KTDL cũng
như những nỗ lực của chính quyền và nhân dân Lào Cai trong thời gian qua, đã và
đang tạo bước đệm vững chắc để làm nên những bước chuyển lớn trong tương lai
cho ngành “công nghiệp không khói” nói riêng và kinh tế của tỉnh nói chung. Tác
giả tin rằng, kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai sẽ không ngừng phát triển để đạt được mục
tiêu trở thành trung tâm du lịch lớn của miền Bắc và của cả nước./.
116
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Du lịch, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
2. Cục thống kê Lào Cai (2010), Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Lào Cai năm 2009.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 3, khóa VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Đính, Phạm Hồng Chương (2000), Quản trị kinh doanh lữ hành,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2006), Giáo trình Kinh tế du lịch, Nxb
Lao động - Xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Hồng Giáp (2002), Kinh tế du lịch, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
9. Vũ Mạnh Hà, Tạ Đức Khánh (2004), Cơ sở kinh tế du lịch, Khoa du lịch học,
Trường ĐH khoa học xã hội và nhân văn.
10. Long Hà (2009), “Lào Cai làm gì để thu hút khách du lịch”, Tạp chí Du lịch
(29/699).
11. TS. Nguyễn Đình Hòa (2009), “Thử nhận diện du lịch Việt Nam”, Tạp chí Kinh
tế và Phát triển, (140), Tr. 10-15.
12. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (1998), Du lịch bền vững, Nxb ĐH Quốc gia
Hà Nội.
13. Hội nghị triển khai công tác văn hóa, thể thao và du lịch 2009, “Đưa du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn”, Tạp chí Du lịch Việt Nam (15), Tr.3.
14. Vũ Khoan (2005), “Du lịch Việt Nam thực hiện thắng lợi chương trình hành
động Quốc gia về Du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (2), Tr. 2.
117
15. Robert Lanqua (1993), Kinh tế du lịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.
16. Phương Lâm (2006), “Những giải pháp phát triển du lịch Việt Nam hậu WTO”,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, (8), Tr. 8-9.
17. Karl Marx – Engels (1981), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Đổng Ngọc Minh và Vương Lôi Đình (2000), Kinh tế du lịch và Du lịch học,
Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.
19. Vũ Đức Minh (1999), Tổng quan du lịch Hà Nội, Nxb Giáo dục.
20. Trần Ngọc Nam (2000), Marketing du lịch, Nxb Tổng hợp, Đồng Nai.
21. Trần Nhạn (1995), Du lịch và kinh doanh du lịch, Nxb Văn hóa thông tin.
22. Nguyễn Đình Sơn (2007), Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ và
tác động của nó tới Quốc phòng – An ninh, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học
viện Chính trị quân sự - Bộ Quốc phòng.
23. Sở văn hóa – Thể thao và du lịch Lào Cai (2010), Kết quả hoạt động du lịch
năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010.
24. Sở văn hóa – Thể thao và du lịch Lào Cai (2010), Báo cáo kết quả thực hiện đề
án phát triển kinh tế Du lịch giai đoạn 2006 -2010.
25. Sở văn hóa – Thể thao và du lịch Lào Cai (2010), Báo cáo tổng kết tình hình cơ
sở vật chất, kỹ thuật phục vụ ngành du lịch trên địa bàn tỉnh.
26. Sở văn hóa – Thể thao và du lịch Lào Cai (2009), Kế hoạch triển khai giải pháp
cấp bách thu hút khách du lịch quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa đến Lào
Cai năm 2009.
27. Lê Văn Thắng, Trần Anh Tuấn, Bùi Thị Thu (2005), Giáo trình du lịch và môi
trường, Nxb ĐHQG Hà Nội.
28. Võ Thị Thắng (2006), “Cơ hội, thách thức và giải pháp phát triển du lịch sau khi
Việt Nam chính thức ra nhập WTO”, Tạp chí Du lịch, (4), Tr 3- 30 -31.
29. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Minh Đức (2002), Giáo trình địa lý kinh tế, xã hội Việt
Nam, NXb Giáo dục, Hà Nội.
30. Tổng cục du lịch Việt Nam (2002), “Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phát triển du
lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”, Báo Nhân dân.
118
31. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập I, Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội,
tr.586.
32. Ủy ban nhân dân Tỉnh Lào Cai (2002), “Đề án phát triển kinh doanh du lịch tỉnh
Lào Cai giai đoạn 2001-2005-2010”, Quyết định số 47/QĐ-UB.
33. Ủy ban nhân dân Tỉnh Lào Cai (2006), Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ
XIII nhiệm kỳ 2005 -2010.
34. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1999), Pháp lệnh du lịch, Nxb Chính trị Quốc gia
Hà Nội.
Internet
35. http://www.baophutho.org.vn/baophutho/vn/website/du-lich-le-hoi-am-
thuc/1011798A387/2007/7/108E075FD84/
36. http://www.dulichviet.info/top-du-lich/10-thanh-pho-du-lich-hap-dan-nhat-
chau-a.html
37. http://www.vietnamtourism.gov.vn/index.php?cat=1001&itemid=6608
38. http://www.vietnamtourism.gov.vn/index.php?cat=202030&itemid=7384
39. http://vietbao.vn/Kinh-te/Ha-Noi-Mot-trong-5-thanh-pho-du-lich-tot-nhat-chau-
A/45169912/87/
40. http://www.vietnamplus.vn/Home/Nam-2009-khach-du-lich-den-Ninh-Binh-
tang-dot-bien/200912/28103.vnplus
41. http://www.ninhbinhtourism.com.vn:8080/modules.php?name=News&op=view
st&sid=1322
42. http://egov.laocai.gov.vn/gioithieuchung/dieukientunhien/Trang/634046195253
804190.aspx
43. http://egov.laocai.gov.vn/gioithieuchung/tainguyen/Trang/63404619528632419
0.aspx
44. http://egov.laocai.gov.vn/gioithieuchung/cosohatang/Trang/6340461953141841
90.aspx
45. http://www.vanhoalaocai.vn/Index.asp?Lang=&tabid=128&CategoriesID=356
&NewsID=2452
119
46. http://www.vanhoalaocai.vn/Index.asp?Lang=&tabid=128&CategoriesID=349
&NewsID=3166
47. http://www.vanhoalaocai.vn/Index.asp?Lang=&tabid=128&CategoriesID=349
&NewsID=3163
48. http://www.vanhoalaocai.vn/banin.asp?NewsId=2906