ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

---------------------------

NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội - Năm 2010

MỤC LỤC

Trang

i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ii DANH MỤC CÁC BẢNG

ii DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

1 MỞ ĐẦU

7 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU

LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH

1.1. Du lịch và các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch 7

1.1.1. Khái niệm về du lịch 7

1.1.2. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó 10

1.1.3. Các loại hình du lịch 12

1.1.4. Các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch 15

1.2. Kinh tế du lịch và phát triển kinh tế du lịch 16

1.2.1. Kinh tế du lịch 16

1.2.2. Phát triển kinh tế du lịch 22

1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch tại một số địa phương ở nước ta 35

1.3.1. Khái quát tình hình phát triển của ngành du lịch Việt Nam 35

1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch của một số địa phương 40

48 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở

TỈNH LÀO CAI

2.1. Tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Lào Cai 48

2.1.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Lào Cai 48

55

2.1.2. Nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh Lào Cai 2.2. Thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai 60

2.2.1. Cơ cấu tổ chức và quản lý Nhà nước về du lịch 60

2.2.2. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực du lịch 64

2.2.3. Tình hình xúc tiến, quảng bá và liên kết, hợp tác du lịch 65

2.2.4. Thực trạng nguồn lao động trong ngành du lịch 67

2.2.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 71

2.2.6. Số lượng du khách và doanh thu du lịch 82

2.3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai 86

trong thời gian qua

2.3.1. Những kết quả đạt được 86

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 88

92 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ

DU LỊCH TỈNH LÀO CAI

3.1. Định hướng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai 92

3.1.1 Bối cảnh kinh tế mới 92

3.1.2. Quan điểm và định hướng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai 95

3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai 98

3.2.1. Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về du lịch 99

3.2.2. Giải pháp về đầu tư phát triển kinh tế du lịch 101

3.2.3. Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch 103

3.2.4. Đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch và dịch vụ du 106

lịch

3.2.5. Giải pháp về thị trường 109

3.2.6. Chú trọng phát triển hình thức du lịch cộng đồng thôn, bản 110

3.2.7. Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch 112

115 KẾT LUẬN

117 TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH – HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

HDV Hướng dẫn viên

KDDL Kinh doanh du lịch

KTDL Kinh tế du lịch

LLSX Lực lượng sản xuất

QLNN Quản lý Nhà nước

UBND Ủy Ban Nhân dân

VHTT&DL Văn hóa, thể thao và Du lịch

i

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Số hiệu Tên bảng Trang

1 Bảng 1.1 Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam (2006 – 5/2010) 38

Thực trạng nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh Lào 2 Bảng 2.1 69 Cai

Bảng 2.2 Hiện trạng cơ sở lưu trú của Lào Cai qua các năm 74 3

Bảng 2.3 Kết quả kinh doanh cơ sở lưu trú 75 4

Bảng 2.4 Kết quả kinh doanh lữ hành 76 5

Bảng 2.5 Kết quả kinh doanh vận chuyển khách du lịch 78 6

Bảng 2.6 Doanh thu ăn uống 79 7

Bảng 2.7 Doanh thu bán hàng 80 8

Bảng 2.8 Khách du lịch đến Lào Cai qua các năm 82 9

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

STT Số hiệu Tên hình Trang

Tỷ trọng doanh thu của các lĩnh vực kinh doanh trong 81 1 Hình 2.1 tổng doanh thu du lịch năm 2009

2 Hình 2.2 Lượng khách và doanh thu du lịch thời kỳ 2000 - 2009 85

ii

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Hội

đồng Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council – WTTC) đã

công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản

xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn

thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia khác, du lịch là

một trong những ngành kinh tế hàng đầu. Du lịch đã nhanh chóng trở thành một

ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước trên thế giới.

Để phát triển du lịch thì việc khai thác tiềm năng du lịch có hiệu quả là rất

cần thiết. Thực tiễn cho thấy các nước có nền công nghiệp du lịch phát triển như

Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Thụy Sĩ… đã có nhiều thành công trong việc khai thác tiềm

năng du lịch. Đối với những nước đang phát triển, nhất là những nước còn nghèo và

nhỏ như Việt Nam thì việc khai thác tiềm năng du lịch tuy đã có cố gắng nhưng vẫn

còn nhiều hạn chế. Vì vậy, du lịch vẫn chưa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi

nhọn trong nền kinh tế quốc dân.

Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, vị thế của Lào Cai là

tiềm năng thiên phú cho du lịch. Từ Lào Cai, khách thập phương có thể du lịch sang

Trung Quốc vào sâu nội địa Việt Nam và đi các nước ASEAN. Lào Cai có nhiều

cảnh quan thiên nhiên kỳ thú cùng nhiều truyền thống văn hóa giàu bản sắc của các

dân tộc được bảo lưu phong phú đầy hấp dẫn đan xen như lễ hội xuống đồng, hội

múa xòe, hội xuân Đền Thượng tại thành phố Lào Cai…Lào Cai còn tập hợp nhiều

di tích văn hóa như quần thể hang động Mường Vi, đền Bảo Hà, khu bãi đá khắc cổ

Sapa, tòa lâu đài trên cao nguyên Bắc Hà…là những điều kiện và di vật thuận lợi để

phát triển nhiều loại hình du lịch.

Trong những năm qua, du lịch Lào Cai đã có những phát triển nhất định,

bước đầu khẳng định được tầm quan trọng của kinh tế du lịch đối với sự phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, so với tiềm năng thì những thành tựu đạt được

1

còn rất khiêm tốn. Đặc biệt trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện

nay thì việc đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch ở Lào Cai đang đặt ra cấp thiết hơn

bao giờ hết. Điều đó đặt cho du lịch Lào Cai phải đánh giá đúng thực trạng của

ngành và phải có những giải pháp đúng hướng để khai thác triệt để tiềm năng sẵn có

và xây dựng chiến lược phát triển phù hợp, nhằm góp phần thúc đẩy ngành du lịch

Lào Cai phát triển bền vững, hòa nhập với trào lưu phát triển du lịch của khu vực và

trên thế giới, thực hiện đúng vai trò của ngành du lịch trong xây dựng và phát triển

của tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào

Cai” làm đề tài luận văn cho mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, vấn đề du lịch và kinh tế du lịch đã

được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu ở các mức độ và dưới

các góc độ khác nhau. Đáng lưu ý có các công trình liên quan đến đề tài như:

Các công trình ngoài nước có:

+ Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình cùng với tập thể giáo sư và giảng viên

khoa Du lịch Đại học Hải Dương, Thanh Đảo, Trung Quốc hợp soạn với cuốn sách

Kinh tế du lịch và Du lịch học, Nxb Trẻ 2000. Đây là công trình nghiên cứu khoa

học có hệ thống về hoạt động du lịch từ thực tiễn của Trung Quốc, nêu lên nhiều

mặt tương đối phù hợp với điều kiện hoạt động du lịch Việt Nam, từ đó có thể rút ra

được những bài học để đưa du lịch Việt Nam phát triển theo đúng chủ trương đường

lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.

+ Robert Lanquar, với cuốn sách Kinh tế du lịch, người dịch Phạm Ngọc

Uyển, Bùi Ngọc Chưởng, Nxb Thế giới, Hà Nội 2002. Giới thiệu cột mốc lịch sử

của công nghiệp du lịch và đi sâu phân tích những ảnh hưởng của du lịch đến kinh

tế, những biến số kinh tế vĩ mô, những công cụ và phương tiện phân tích kinh tế học

du lịch, kinh tế học về kinh doanh du lịch và qua đó nhấn mạnh sự cần thiết phải

tiếp cận theo hệ thống hiện đại.

2

Ở trong nước có những tác giả viết về lĩnh vực du lịch và liên quan đến lĩnh

vực kinh tế du lịch như:

+ Nguyễn Hồng Giáp, với cuốn Kinh tế du lịch, Nxb Trẻ, 2002

+ GS.TS. Nguyễn Văn Đính, TS.Trần Thị Minh Hòa với cuốn Giáo trình

Kinh tế du lịch, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Nxb Lao động - Xã hội.

+ Lê Văn Thắng, Trần Anh Tuấn, Bùi Thị Thu, “Giáo trình du lịch và môi

trường”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

+ Phạm Trung Lương, Đặng Duy Lợi, Vũ Tuấn Cảnh, Nguyễn Văn Bình,

Nguyễn Ngọc Khánh, với cuốn Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà nội 2001.

Những cuốn sách nêu trên đề cập đến những vấn đề cơ bản sau:

- Trên cơ sở khái lược chung nhất những khái niệm về du lịch, sản phẩm du

lịch, cách nhìn nhận kinh tế du lịch từ nhiều góc độ khác nhau của các học giả trong

và ngoài nước để giúp cho độc giả những kiến thức khái quát, cơ bản như khái niệm

về du lịch, lịch sử hình thành, xu hướng phát triển của du lịch, ý nghĩa kinh tế - xã

hội của du lịch, các loại hình kinh doanh du lịch, hiệu quả kinh tế du lịch...Đồng

thời, các tác giả cũng đề cập đến những vấn đề có liên quan đến một số mặt hoạt

động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, lao động, cơ sở vật chất – kỹ thuật, chất

lượng dịch vụ và hiệu quả kinh tế du lịch, tổ chức và quản lý ngành du lịch ở Việt

Nam. Trên cơ sở đó đưa ra những nội dung để xác định vị trí của ngành du lịch, các

thành phần chủ yếu của sản phẩm du lịch và các đơn vị hoạt động du lịch để đi đến

những vấn đề kinh tế du lịch chính thống theo hướng nghiên cứu và quan điểm của

tác giả.

- Giới thiệu chung về tài nguyên môi trường du lịch nói chung và tài nguyên

môi trường Du lịch Việt Nam nói riêng, những tác động của hoạt động du lịch tới

tài nguyên và môi trường.

Trên nhiều tạp chí có nhiều bài viết nêu lên những thành tựu của ngành du

lịch Việt Nam, đề ra mục tiêu và nhiệm vụ của ngành du lịch. Tiêu biểu như:

3

+ Đón xuân nhìn lại 5 năm du lịch Việt Nam, Tạp chí Xây dựng Đảng, số

1+2/2004.

+ Du lịch Việt Nam thực hiện chương trình hành động quốc gia về du lịch,

Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2/2005.

+ Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Tạp chí Du lịch Việt Nam,

số 15/2009.

Các tác giả đã khái quát những mặt hoạt động, những thành tựu đã đạt được

của ngành du lịch Việt Nam trên các mặt cơ bản như: Tổng số doanh nghiệp kinh

doanh du lịch, cơ sở lưu trú, tình hình khách du lịch quốc tế và trong nước, doanh

thu du lịch…Đồng thời chỉ ra những mặt tồn tại, yếu kém trong ngành và xác định

mục tiêu, nhiệm vụ cho ngành du lịch trong thời gian tới.

Cùng với xu hướng phát triển du lịch cả nước, ở phạm vi tỉnh Lào Cai nói

riêng cũng đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch như:

+ Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai (2002),“Đề án phát triển kinh tế du lịch tỉnh

Lào Cai giai đoạn 2001-2005-2010”

+ Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai, quyết định số 660/QĐ-UB ngày 3/11/2004,

“Quy hoạch phát triển du lịch Lào Cai giai đoạn 2005-2010 và định hướng 2020”.

+ Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Lào Cai (2009),“Kế hoạch triển khai

giải pháp cấp bách thu hút khách du lịch quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa đến

Lào Cai năm 2009”.

Tuy nhiên, những đề tài trên mới chỉ nghiên cứu một khía cạnh nào đó về du

lịch và kinh tế du lịch như xác định sản phẩm du lịch chính của địa phương, phân

vùng, xác định tuyến điểm du lịch đầu tư… Chưa có công trình khoa học nào

nghiên cứu một cách có hệ thống về phát triển kinh tế du lịch cũng như phân tích

và đánh giá sâu thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai.

Do đó, đề tài được nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ bé giải

quyết vấn đề khai thác tiềm năng du lịch một cách hợp lý và có hiệu quả nhằm thúc

đẩy sự phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai.

4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

 Mục đích:

Trên cơ sở hệ thống và khái quát lại những lý luận chung về các khái niệm

du lịch, kinh tế du lịch và phát triển kinh tế du lịch, đồng thời tiếp cận dưới góc độ

kinh tế chính trị theo quan điểm, tư tưởng, lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tác

giả nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai, đề xuất

một số quan điểm, định hướng và giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng

du lịch ở Lào Cai, góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch Lào Cai phát triển trong những

năm tới.

 Nhiệm vụ:

Từ mục đích trên các nhiệm vụ cụ thể được xác định là:

+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về du lịch, kinh tế du lịch và

phát triển kinh tế du lịch.

+ Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai

trong thời gian qua, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên

nhân.

+ Đưa ra quan điểm, định hướng và đề xuất một số giải pháp có khả năng

thực thi nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai từ nay đến năm

2015 và những năm tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu thực trạng phát triển của kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai trong thời

gian qua.

 Phạm vi nghiên cứu:

+ Địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Lào Cai

+ Thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển

của kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây.

5

5. Phương pháp nghiên cứu

- Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học tạm thời gạch bỏ những yếu

tố thứ yếu để tìm hiểu bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế du lịch cũng

như nghiên cứu sự phát triển của một ngành kinh tế.

- Luận văn cũng đã sử dụng một cách có hệ thống các phương pháp cụ thể

trong quá trình nghiên cứu như: Phương pháp thống kê, lập bảng biểu, phân tích, so

sánh, tổng hợp và khảo sát thực tế…

6. Bố cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được

chia làm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về du lịch và phát triển kinh tế

du lịch.

Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai.

Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai.

6

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH

1.1. DU LỊCH VÀ CÁC LĨNH VỰC KINH DOANH TRONG DU LỊCH

1.1.1. Khái niệm về du lịch

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, du lịch được ghi nhận như một

sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Quá trình phát triển của

du lịch phản ánh tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ

giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở các hình thái kinh tế xã hội khác nhau

mà con người đã trải qua.

Thời kỳ đầu xã hội nguyên thủy con người cũng có sự di chuyển từ nơi này

tới nơi khác nhưng hoạt động di chuyển đó do những nguyên nhân như phòng tránh

thiên tai, những xung đột xảy ra trong xã hội hoặc tìm một nơi khác phù hợp hơn để

sinh sống…Trên phạm vi toàn thế giới, hoạt động đi ra ngoài với mục đích là du

lịch bắt đầu từ giai đoạn cuối xã hội Nguyên thủy và được phát triển nhanh chóng ở

thời kỳ xã hội Nô lệ…Khi ngành thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi ngành trồng trọt

và chăn nuôi, ngành thương nghiệp xuất hiện, quan hệ hàng hóa – tiền tệ hình thành

và phát triển thì du lịch lại càng phát triển hơn.

Du lịch được phát triển thêm một bước mới kể từ khi LLSX có những yếu tố

được biến đổi về chất. Biểu hiện, vào thế kỷ thứ XVII, bắt đầu diễn ra cuộc cách

mạng giao thông trên thế giới, đầu máy hơi nước được sử dụng rộng rãi trong các

ngành đường sắt, đường bộ, đường thủy, sau đó là ngành công nghiệp sản xuất ô tô.

Chỉ sau một thời gian ngắn ở Châu Âu và Châu Mỹ mạng lưới đường sắt đã được

hình thành. Trên biển, nhiều tàu thủy lớn nhỏ, đủ chủng loại, hiện đại đi lại khắp

các vịnh trên thế giới. Giao thông trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy giao lưu

mạnh mẽ của con người ở các vùng đất khác nhau làm cho du lịch trở thành hiện

tượng đại chúng và cũng từ đó bắt đầu xuất hiện hàng loạt loại hình du lịch của mọi

tầng lớp khác nhau trong xã hội.

7

Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển

với tốc độ rất nhanh, song cho đến nay khái niệm “du lịch” đã được hiểu rất khác

nhau tại các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Đúng như Giáo sư,

Tiến sỹ Berneker – một chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế giới đã nhận định:

“Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.

[7, tr.9]

Tuy chưa có một nhận thức thống nhất về khái niệm “du lịch” trên thế giới

cũng như ở Việt Nam, song trước thực tế phát triển của ngành du lịch về mặt kinh

tế, xã hội cũng như trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến

thống nhất khái niệm “du lịch” giống như một số khái niệm cơ bản khác về du lịch

là một đòi hỏi khách quan.

Để lý giải hiện tượng du lịch, năm 1811 lần đầu tiên tại Anh có định nghĩa về

du lịch như sau: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của

các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. [7, tr.15]. Ông Kuns, một người Thụy Sỹ

cho rằng: “Du lịch là hiện tượng những người ở chỗ khác, ngoài nơi ở thường

xuyên, đi đến bằng các phương tiện giao thông và sử dụng các xí nghiệp du lịch”.

[7, tr.16]. Giáo sư, Tiến sỹ Hunziker và Giáo sư, tiến sỹ Krapf là những người được

coi là đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra khái niệm như sau: “Du

lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành

trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành

cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”. [7, tr.16]

Các khái niệm nên trên đã thành công trong việc mở rộng và bao quát đầy đủ

hơn hiện tượng du lịch, đã tiến được một bước về lý thuyết trong nghiên cứu nội

dung của nó, nhưng cũng có những hạn chế như: Chưa giới hạn được đầy đủ đặc

trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và của mối quan hệ du lịch (các mối quan hệ

và hiện tượng nào thuộc loại kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa…).

Ở Việt Nam, Khoa Du lịch và Khách sạn trường Đại học Kinh tế quốc dân

Hà Nội đưa ra khái niệm: “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động

tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh

8

nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm

hiểu các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh

tế chính trị - xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp”.

[7, tr.19-20]

Trong Luật Du lịch của Việt Nam, tại điểm 1điều 4 “Du lịch” được nêu như

sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi

cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,

nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. [1, tr.9]

Trong các khái niệm trên đây (Khoa Du lịch và Khách sạn trường Đại học

Kinh tế quốc dân Hà Nội) mới đề cập đến mặt kinh tế trong hoạt động du lịch, coi

“Du lịch là một ngành kinh doanh” và nêu lên các thành phần tham gia trong các

hoạt động kinh doanh, đích cần đạt được của hoạt động kinh doanh. Trong khái

niệm “Du lịch” của Luật Du lịch mới đề cập đến hiện tượng di chuyển và mục đích

của du khách một cách khái quát chung mà chưa đề cập rõ nét trên hai mặt của du

lịch là đi du lịch và kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Như vậy, trong hai khái niệm

nêu trên chưa có sự gắn kết mặt kinh doanh du lịch (KDDL) và hoạt động thưởng

ngoạn của du khách mặc dù trong thực tế nó đồng thời diễn ra hoạt động cùng một

thời điểm của người đi du lịch và người kinh doanh du lịch.

Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: “Sản xuất, coi là trực tiếp

đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng coi là trực tiếp ăn khớp với sản xuất, cái đó

các nhà kinh tế học gọi là tiêu dùng sản xuất [17, tr.600]. Theo đó, du lịch là một

hoạt động của con người mà trong quá trình đó đồng thời diễn ra cả hai mặt: Sản

xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch, người đi du lịch là người tiêu dùng các sản

phẩm du lịch, người KDDL là người cung cấp các sản phẩm du lịch, chỉ có hoạt

động diễn ra đồng thời thì mới đảm bảo được một tua du lịch hoàn chỉnh.

Bởi thế, để đưa ra được một khái niệm của hiện tượng đó vừa mang tính khái

quát, vừa có tính lý luận và phản ánh được thực tế hoạt động của nó cần thiết phải

có sự thống nhất biện chứng giữa người cung cấp và người tiêu dùng các sản phẩm,

9

dịch vụ du lịch. Dựa theo cách tiếp cận trên, nên tách thuật ngữ du lịch thành hai

phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu như sau:

Thứ nhất, “du lịch là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời

gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức

khỏe, nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc theo

việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên

nghiệp cung ứng.” [27, tr.18]

Thứ hai, “du lịch là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu

cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian

rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe,

nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.” [27, tr.18]

Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần

tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch có đặc điểm

của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.

1.1.2. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó

 Sản phẩm du lịch

Đề cập đến bất cứ hoạt động kinh doanh nào chúng ta cũng không thể không

nhắc đến sản phẩm của hoạt động đó. Vì vậy, khi tìm hiểu các khái niệm chung về

du lịch chúng ta cũng phải tìm hiểu xem thế nào là sản phẩm du lịch và những nét

đặc trưng cơ bản của nó. Việc hiểu rõ khái niệm sản phẩm du lịch là khởi điểm của

việc nghiên cứu vấn đề kinh tế du lịch.

“ Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo

nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng

các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một

quốc gia nào đó.” [7, tr.31]

Qua khái niệm trên, có thể thấy sản phẩm du lịch là loại sản phẩm có tính

tổng hợp, ngoài sản phẩm vật chất hữu hình, tuyệt đại bộ phận là sản phẩm vô hình

thỏa mãn nhu cầu tinh thần của du khách. Sản phẩm du lịch bao gồm:

10

+ Dịch vụ du lịch là một phần của lao động sống trong ngành du lịch để phục

vụ khách như: Hướng dẫn tham quan, lưu trú, vận chuyển, chăm lo sức khỏe, vui

chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung khác…

+ Các hàng hóa trong du lịch: Là những hàng hóa thông thường, tặng phẩm,

đò lưu niệm và các đặc sản…

+ Tiện nghi du lịch: Là tổng thể các điều kiện phục vụ cho khách. Gồm: Tiện

nghi trong phòng, phương tiện thông tin liên lạc, chất lượng vận chuyển, thủ tục Hải

quan…

+ Tài nguyên du lịch: Là nhân tố hàng đầu có liên quan sức hấp dẫn với du

khách và là điều kiện cần để có hoạt động trong du lịch, gồm tài nguyên du lịch tự

nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.

 Đặc thù của sản phẩm du lịch

Với cấu thành sản phẩm rất đặc biệt như vậy, sản phẩm du lịch cũng có

những đặc điểm khác với sản phẩm vật chất hay dịch vụ khác. Nói một cách tổng

quát, sản phẩm du lịch chủ yếu có đặc điểm dưới đây:

+ Một là, tính tổng hợp: Tính tổng hợp của sản phẩm du lịch biểu hiện trước

hết ở chỗ sản phẩm du lịch là kết hợp các loại dịch vụ mà xí nghiệp dịch vụ liên

quan cung cấp nhằm thỏa mãn các nhu cầu của du khách. Nó vừa bao gồm sản

phẩm lao động vật chất, tinh thần, vừa bao gồm sản phẩm phi lao động và vật tự

nhiên. Thứ nữa tính tổng hợp của sản phẩm du lịch còn biểu hiện ở chỗ việc sản

xuất và kinh doanh sản phẩm du lịch liên quan đến rất nhiều ngành nghề và bộ

phận.

+ Hai là, tính đồng thời của việc sản xuất và tiêu thụ: Việc sản xuất và tiêu

thụ sản phẩm du lịch được thực hiện đồng thời, tại chỗ, không mang trưng bày hoặc

tiêu thụ ở nơi khác được.

+ Ba là, tính không thể dự trữ: Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm tiêu

dùng trừu tượng, không lưu kho lưu bãi được. Giống như các sản phẩm dịch vụ

khác, sản phẩm du lịch không bán được thì mất giá trị chứ không để dành trong kho

hoặc cất giữ được. Chính đặc điểm này làm cho tính thời vụ trong hoạt động kinh

11

doanh du lịch càng đậm nét. Sản phẩm du lịch thường được bán trọn gói với các

loại hình, các tuyến điểm với các tiện nghi khác nhau.

+ Bốn là, tính không thể chuyển dịch: Du khách chỉ tiến hành tiêu thụ sản

phẩm du lịch ở nơi sản xuất sản phẩm du lịch chứ không thể như sản phẩm vật chất

nói chung có thể chuyển khỏi nơi sản xuất đi tiêu thụ ở nơi khác. Hơn nữa, trong

quá trình trao đổi sản phẩm du lịch không xảy ra việc chuyển dịch quyền sở hữu sản

phẩm, du khách chỉ có quyền sử dụng tạm thời đối với sản phẩm du lịch trong thời

gian và địa điểm nhất định chứ không có quyền sở hữu sản phẩm.

Do vậy, để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn. Việc

thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng quan trọng

đối với các nhà KDDL. Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường diễn ra không đều

đặn mà chỉ tập trung vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm ở

bộ phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm của thể loại du lịch cuối tuần),

trong năm. Vì vậy, trên thực tế hoạt động KDDL thường mang tính mùa vụ. Sự dao

động (về thời gian) trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động

kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các nhà KDDL. Khắc

phục tính mùa vụ trong du lịch luôn là vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn, cũng như

về mặt lý luận trong lĩnh vực KDDL.

1.1.3. Các loại hình du lịch

Để có thể đưa ra các định hướng và chính sách phát triển đúng đắn về du

lịch, các nhà quản lý vĩ mô về du lịch cũng như các nhà quản trị doanh nghiệp du

lịch cần phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau.

Theo tác giả Trương Sỹ Quý thì loại hình du lịch có thể được định nghĩa như

sau: “Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc

điểm giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự,

hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách

phân phối, một cách tổ chức như nhau, hoặc được xếp chung theo một mức giá bán

nào đó”. [7, tr.71]

12

Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại

hình du lịch khác nhau.

* Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch

Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội

địa.

+ Du lịch quốc tế: Là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến

của khách hàng nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.

+ Du lịch nội địa: Là hình thức du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của

khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.

* Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch thì du lịch được phân

thành những loại sau:

+ Du lịch chữa bệnh: Ở loại hình này, khách du lịch do nhu cầu điều trị các

bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ. Ví dụ như chữa bệnh bằng khí khậu, bằng

nước khoáng…

+ Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: Xuất phát từ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí để phục

hồi sức khỏe. Đây là loại hình có tác động thư giãn.

+ Du lịch thể thao: Xuất phát từ sự ham mê thể thao, gồm du lịch thể thao

chủ động (khách đi du lịch để tham gia trực tiếp vào hoạt động thể thao); Du lịch

thể thao thụ động (những cuộc hành trình đi du lịch để xem các cuộc thi thể thao

quốc tế, thế vận hội…)

+ Du lịch văn hóa: Đáp ứng nhu cầu hiểu biết thích nâng cao tìm hiểu nghiên

cứu lịch sử, kiến trúc, danh lam thắng cảnh, chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, phong

tục, tập quán…của nơi đến du lịch.

+ Du lịch công vụ: Mục đích chính của loại hình du lịch này là nhằm thực

hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó.

+ Du lịch thương gia

+ Du lịch tôn giáo

* Căn cứ vào đối tượng khách du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân

thành:

13

+ Du lịch thanh, thiếu niên

+ Du lịch dành cho những người cao tuổi

+ Du lịch phụ nữ, du lịch gia đình

* Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi. Theo tiêu thức này, du lịch được

phân thành:

+ Du lịch theo đoàn: Ở loại hình này, các thành viên tham dự đi theo đoàn và

thường có chuẩn bị chương trình từ trước, trong đó đã định ra nơi sẽ đến thăm, nơi

lưu trú và ăn uống.

+ Du lịch các nhân: Cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của tổ chức

du lịch, tổ chức công đoàn hay tổ chức xã hội khác hoặc cá nhân đi du lịch tự do mà

không cần thông qua tổ chức du lịch nào.

* Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng. Theo tiêu thức này, du

lịch được phân thành:

+ Du lịch bằng xe đạp

+ Du lịch bằng xe máy

+ Du lịch bằng xe ô tô

+ Du lịch bằng tàu hỏa

+ Du lịch bằng tàu thủy

+ Du lịch bằng máy bay.

* Căn cứ vào thời gian đi du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân

thành:

+ Du lịch dài ngày

+ Du lịch ngắn ngày.

* Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch được phân thành:

+ Du lịch nghỉ núi

+ Du lịch nghỉ biển, sông, hồ

+ Du lịch thành phố

+ Du lịch đồng quê.

14

Nhìn chung các loại hình du lịch thường phối hợp chặt chẽ với nhau, do đó,

để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, tổ chức du lịch cần nghiên cứu cách

thức tổ chức các loại hình du lịch đan xen để đáp ứng nhu cầu tối đa của khách, tùy

theo sở thích của từng loại khách.

1.1.4. Các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch

Trong pháp lệnh Du lịch của Việt Nam tại Chương V, Điều 25 có quy định

về các ngành nghề kinh doanh trong du lịch như sau: “Các ngành nghề kinh doanh

du lịch gồm có:

1. Kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế;

2. Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch;

3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch;

4. Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác”.

 Kinh doanh lữ hành:

Khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành nói chung, tức là muốn đề cập đến

các hoạt động chính như: “Làm nhiệm vụ giao dịch, ký kết với các tổ chức kinh

doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du

lịch đã bán cho khách du lịch.” [7, tr.77]. Tuy nhiên, trên thực tế khi nói đến hoạt

động kinh doanh lữ hành, thường thấy tồn tại các hoạt động phổ biến sau: Thực hiện

các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay

từng phần; quảng cáo và bán các các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua

các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng

dẫn du lịch.

 Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch:

Đây là hình thức kinh doanh du lịch cần thiết đối với khách du lịch bởi nó

đáp ứng nhu cầu tối thiểu về ăn ở, chỗ ngủ nghỉ tạm thời cho du khách trong thời

gian đi du lịch. Hơn nữa, trong tiến trình phát triển của kinh tế du lịch, cùng với tài

nguyên du lịch thì việc hình thành những cơ sở lưu trú tốt mới tạo nên dáng vẻ của

một ngành KDDL. Các cơ sở lưu trú gồm: Khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ…

15

Theo quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục Du lịch ban hành ngày

29/04/1995 lĩnh vực hoạt động kinh doanh này còn được quy định là “Kinh doanh

khách sạn, nhà hàng” và được hiểu là “Làm nhiệm vụ tổ chức việc đón tiếp, phục vụ

việc lưu trú, ăn ống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch”.

 Kinh doanh vận chuyển khách du lịch:

Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển của con người từ

nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Do vậy, khi đề cập đến

hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động KDDL nói riêng không thể không đề

cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Kinh doanh vận chuyển là hoạt động

kinh doanh, nhằm giúp cho du khách dịch chuyển được từ nơi cư trú của mình điểm

du lịch cũng như là dịch chuyển tại điểm du lịch.

 Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác:

Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong lĩnh vực hoạt động

KDDL còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình

dịch vụ vui chơi, giải trí; tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn đầu tư du lịch…

1.2. KINH TẾ DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH

1.2.1. Kinh tế du lịch

1.2.1.1. Khái niệm kinh tế du lịch

Cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch là hoạt động kinh doanh du lịch.

Kinh tế du lịch (KTDL) từng bước trở thành một bộ phận hợp thành của hoạt động

kinh tế - xã hội, lấy sự phát triển của các loại hình KDDL, biến các tài nguyên du

lịch của một quốc gia, một vùng lãnh thổ thành những hàng hóa và dịch vụ du lịch

đáp ứng nhu cầu cho du khách. Càng ngày trên thế giới du lịch dần dần được xã hội

hóa, số lượng người đi du lịch ngày càng đông, xuất hiện những nhu cầu cần phải

giải quyết như: Bảo đảm chỗ ăn, chỗ ngủ cho những người tạm thời sống ngoài nơi

cư trú thường xuyên của họ. Để đáp ứng nhu cầu đó, đã xuất hiện các nghề mới

trong dân chúng ở các vùng có tài nguyên du lịch, hàng loạt các cơ sở chuyên phục

vụ du lịch như khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải khát, dịch vụ cho thuê, giặt

là, mát xa…cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ phục vụ du khách lần lượt ra đời.

16

Từng bước hình thành một ngành nghề mới là ngành KDDL và theo đó xuất hiện

một thị trường mới là thị trường du lịch. Giải thích quá trình vận động phát triển đó

của KTDL, dưới góc độ tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa ra nhiều cách lập luận.

Thụy Sỹ là nước nhận thức được sớm nhất tầm quan trọng của KTDL đối với

thu nhập kinh tế quốc dân. Năm 1883 đã có tài liệu chính thức đầu tiên được công

bố ở Zurich về ngành khách sạn và năm 1896, Guyer Frenler cho xuất bản cuốn

Góp phần vào thống kê du lịch, đồng thời những công trình khác cũng xuất hiện ở

Áo, Đức, Bỉ, Pháp…Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi du lịch phát triển mạnh mẽ

thì nó mới trở thành đối tượng nghiên cứu có hệ thống, sự kiện đó được đánh dấu

bằng việc thành lập hiệp hội Quốc tế các chuyên gia khoa học về du lịch theo sáng

kiến của hai nhà kinh tế học Thụy Sỹ là Kpaf và Hunziker – một sự kiện có ý nghĩa

về sự tiến triển của việc nghiên cứu du lịch dưới góc độ kinh tế.

Ở Việt Nam trong cuốn Kinh tế du lịch Tiến sỹ Nguyễn Hồng Giáp cho rằng:

“Toàn bộ kinh tế du lịch là một hệ thống gồm những phần nhỏ hay là tiểu hệ thống,

nguyên nó có thể chia nhỏ ra thêm nữa và những biến số độc lập với nhau cho phép

biến đầu vào (nguồn nhân lực, tư bản, nguyên liệu, khoa học kỹ thuật) thành đầu ra

(sản phẩm và dịch vụ) [8, tr.44]. Đây là cách tiếp cận KTDL dưới góc độ lý thuyết

kinh tế học hiện đại theo hướng quan tâm đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia

ở tầm vĩ mô như sản lượng quốc gia, thu nhập quốc dân, tiêu dùng các hộ gia đình,

chi tiêu quốc gia, tiết kiệm, đầu tư, thất nghiệp, việc làm, tổng cung và tổng cầu của

nền kinh tế.

Một cách tiếp cận khác, từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “Kinh tế du

lịch là một loại hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ và thường được xem

như ngành công nghiệp không khói, gồm có du lịch quốc tế và du lịch trong nước,

có chức năng nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất

nước (tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hóa, lịch sử, vv…) nhằm thu

hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ

hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch…”.[31, tr.586]

17

Định nghĩa tiếp cận theo góc độ này coi KTDL là loại hình kinh tế có tính

đặc thù, tổng hợp, đa dạng. Mọi hoạt động KDDL đều gắn bó với môi trường xã

hội, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, tự nhiên…Các loại dịch vụ, hàng hóa cung

cấp cho du khách được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các tài nguyên du

lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn với việc sử dụng các nguồn lực: vốn,

khoa học – công nghệ và nguồn lực lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc

gia nào đó. Tại nơi du khách đến du lịch, để thỏa mãn các loại nhu cầu tiêu thụ của

du khách trong quá trình hoạt động du lịch, người KDDL cung cấp những sản phẩm

đơn lẻ cho người đi du lịch có nhu cầu, bao gồm các loại chủ yếu sau đây: Nhà ở,

giao thông du lịch, cung cấp ăn uống, du ngoạn, tham quan, hạng mục vui chơi giải

trí, dịch vụ mua sắm, tuyến du lịch, sắp xếp chương trình và các dịch vụ chuyên

môn khác…

Tuy nhiên, các góc độ tiếp cận và cách định nghĩa trên chưa đề cập, hoặc là

đề cập chưa rõ nét mặt kinh tế - xã hội trong hoạt động KDDL. Mặt kinh tế - xã hội

trong KTDL trực tiếp liên quan đến yếu tố con người – Yếu tố này rất quan trọng

trong quá trình phát triển các loại hình hoạt động kinh doanh. Bởi vì, con người vừa

là chủ thể sáng tạo ra các sản phẩm du lịch nhưng đồng thời cũng là lực lượng trực

tiếp tiêu thụ các sản phẩm đó.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng quan niệm rằng: “Sản

xuất không những tạo ra vật phẩm tiêu dùng mà còn tạo ra phương thức tiêu dùng,

điều đó không những về mặt khách quan và cả về mặt chủ quan. Như vậy, sản xuất

tạo ra người tiêu dùng”[17, tr.602]. KTDL là tổng hòa các mối quan hệ giữa các

hiện tượng kinh tế với kinh tế, kinh tế với xã hội của hoạt động du lịch, hình thành

trên cơ sở phát triển sản xuất, trao đổi hàng hóa và nhu cầu về đời sống vật chất,

tinh thần của con người trong xã hội ngày càng không ngừng được nâng cao.

Ngày nay hoạt động KTDL mang tính đại chúng, tính toàn cầu và tính liên

tục, mối liên hệ kinh tế - xã hội trong quá trình đó không ngừng tănng cường, phạm

vi quan hệ kinh tế không ngừng mở rộng, mối quan hệ của nó với toàn bộ nền kinh

tế - xã hội ngày càng phát huy tác dụng và không ngừng được nâng cao. Từ những

18

cơ sở đó cho thấy, để đưa ra khái nệm về KTDL dưới góc độ kinh tế chính trị cần

phải có sự thống nhất nhận thức trên các mặt cơ bản như sau:

- KTDL góp phần phản ánh lực lượng sản xuất xã hội ở một trình độ phát

triển trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nó luôn luôn gắn liền với quá trình phát

triển của con người, thể hiện rõ nét trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của con

người ở một trình độ cao hơn thì sản xuất hàng hóa và dịch vụ đa dạng, phong phú

hơn. Do vậy, quá trình vận động phải thiết lập được một quan hệ sản xuất phù hợp,

đồng bộ tương ứng với lực lượng sản xuất về tính chất và trình độ thì mới thúc đẩy

kinh tế - xã hội loài người phát triển.

- KTDL ngày nay đã và đang trở thành ngành kinh tế có thu nhập cao, tốc độ

phát triển nhanh, là ngành kinh tế mũi nhọn, tổng hợp có liên quan mật thiết với

nhiều ngành kinh tế khác trong một quốc gia của nhiều nước trên thế giới. Nó huy

động được mọi yếu tố của LLSX trong quá trình phát triển. Mục đích, tính chất,

chiến lược, quy hoạch phát triển của KTDL phụ thuộc vào tính chất của quan hệ sản

xuất, thể chế chính trị, quan niệm về vai trò, vị trí ngành du lịch của mỗi quốc gia.

- KTDL góp phần tăng cường mối quan hệ giữa người với người trong quá

trình sản xuất, tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Mở rộng hướng tiếp cận của con

người với con người, con người với thiên nhiên, giúp cho con người chinh phục, cải

tạo, bảo vệ thiên nhiên có hiệu quả bền vững hơn.

- Quá trình phát triển KTDL góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần

cho con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tác động nhiều chiều, đến nhiều

lĩnh vực trong đời sống của một đất nước.

Từ những nhận thức trên, chúng ta có thể hiểu Kinh tế du lịch là một loại

hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ, nó “phản ánh bước tiến mới của lực

lượng sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của đất nước

thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức

buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch, góp phần

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế xã hội phát

19

triển. Ở các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì có mục đích, tính

chất và chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác nhau.” [22, tr.23]

1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của kinh tế du lịch

Từ thực tiễn hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức, các nước trong

lĩnh vực du lịch, các đối tượng tiêu dùng sản phẩm du lịch, dịch vụ. Kinh tế du lịch

có những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, nói đến KTDL tức là đề cập đến các hoạt động kinh doanh trong

lĩnh vực du lịch, trong đó loại hình dịch vụ là chủ yếu.

Trên cơ sở tài nguyên du lịch, chủ thể KDDL (cá nhân hoặc là tổ chức) sản

xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của khách du lịch, sản

phẩm đó có thể là vật chất hoặc phi vật chất. Sự vận hành của KTDL lấy tiền tệ làm

môi giới, thông qua hoạt động trao đổi sản phẩm du lịch giữa người đi du lịch với

người KDDL, lấy vận động mâu thuẫn giữa hai mặt cung cấp sản phẩm du lịch và

nhu cầu tiêu thụ sản phẩm du lịch làm đặc trưng chủ yếu.

Thứ hai, trong điều kiện thị trường, việc thực hiện thông suốt hoạt động

KTDL được quyết định bởi sự điều hòa nhịp nhàng giữa hai phía cung và cầu du

lịch.

Việc cung cấp sản phẩm du lịch không thể tách rời nhân tố kinh tế - kỹ thuật

và kinh tế - xã hội. Vì thế sự vận hành KTDL tất nhiên chịu ảnh hưởng và chế ước

của những điều kiện kinh tế - xã hội. Hoạt động kinh doanh du lịch có hiệu quả hay

không phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu tiêu thụ của khách. Chất lượng của một sản

phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ

cảm nhận về chất lượng của khách du lịch, chất lượng của sản phẩm du lịch được

đánh giá đều mang tính chủ quan, phụ thuộc vào nhu cầu thị hiếu, mức độ thỏa mãn

của du khách đến đâu. Bởi vì, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm du lịch là nhu cầu mang

tính đặc thù tức là những nhu cầu của du khách mà nơi họ sinh sống không thể có

được chứ không phải là những thứ cao cấp hoặc quý hiếm. Trên thị trường du lịch,

ngoài những đặc điểm như thị trường hàng hóa nói chung, hàng hóa du lịch còn có

những đặc điểm khác các hàng hóa thông thường là: Hàng hóa trao đổi giữa hai bên

20

cung và cầu không phải chỉ là vật cụ thể; đối với khách du lịch cái được là sự cảm

giác, thể nghiệm hoặc hưởng thụ. Sự trao đổi sản phẩm du lịch và tiền tệ do hai bên

cung, cầu du lịch tiến hành không làm thay đổi quyền sở hữu sản phẩm du lịch,

trong quá trình chuyển đổi cũng không xảy ra sự chuyển dịch sản phẩm, chỉ là du

khách có quyền chiếm hữu tạm thời sản phẩm du lịch tại nơi du khách đến để thực

hiện “cầu du lịch” của mình. Cùng một sản phẩm du lịch vẫn bán được nhiều lần

cho nhiều du khách khác nhau sử dụng, sản phẩm du lịch chỉ tạm thời chuyển dịch

quyền sử dụng, còn quyền sở hữu trước sau vẫn nằm trong tay người kinh doanh.

Tất cả những tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn chỉ trở thành sản phẩm

du lịch khi nó phải được con người đầu tư, tôn tạo và sử dụng để phục vụ cho hoạt

động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Đây chính là đặc điểm cơ bản của KTDL.

Thứ ba, quá trình phát triển KTDL gắn liền với quá trình vận động phát triển

của LLSX và khả năng liên kết rộng rãi của các quốc gia dân tộc.

Khi LLSX càng phát triển, trình độ nhận thức của con người luôn luôn được

nâng cao, khoa học – công nghệ được nhanh chóng áp dụng vào quá trình sản xuất,

của cải do con người tạo ra ngày càng nhiều, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu đời

sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội thì KTDL càng có môi trường hoạt động

rộng rãi, khả năng liên kết cao không chỉ đối với các ngành kinh tế khác trong tổng

thể nền kinh tế của một quốc gia và còn liên kết rộng rãi với các ngành kinh tế,

nhiều lĩnh vực khác của các nước trên thế giới nữa. Là ngành kinh tế tương đối tổng

hợp bởi hoạt động kinh doanh biểu hiện nhiều mặt trong lĩnh vực của đời sống con

người như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho nên khi được tổ chức khoa học,

điều hòa nhịp nhàng, các khâu, các bước luân chuyển hợp lý, cơ chế quản lý đồng

bộ, đa dạng về hình thức sở hữu, quan hệ sản xuất phù hợp mở đường cho LLSX

phát triển sẽ tạo ra hiệu quả hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh và góp phần

thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng cao hơn.

Thứ tư, hoạt động kinh doanh của kinh tế du lịch mang tính thời vụ là chủ

yếu.

21

Xuất phát từ đặc thù của KTDL mà thể hiện rõ nét tính thời vụ trong quá

trình hoạt động kinh doanh. Tính thời vụ trong du lịch tồn tại bởi tác động của tập

hợp nhiều nhân tố đa dạng (về bản chất và hướng ảnh hưởng). Đó là các nhân tố tự

nhiên, nhân tố kinh tế - xã hội, nhân tố tổ chức, kỹ thuật, nhân tố tâm lý…Một số

các nhân tố tác động chủ yếu đến cung du lịch, một số khác tác động chủ yếu lên

cầu du lịch, có nhân tố lại tác động lên cả cung và cầu du lịch và thông qua đó gây

lên tính thời vụ trong hoạt động KDDL. Tính thời vụ đó đã gây ra những tác động

nhất định đến hoạt động KDDL. Vì vậy, nghiên cứu tính thời vụ của du lịch luôn là

một trong những vấn đề trọng tâm của các nhà khoa học và các nhà kinh doanh

thuộc lĩnh vực này.

1.2.2. Phát triển kinh tế du lịch

1.2.2.1. Khái niệm phát triển kinh tế du lịch

Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành và phát triển từ lâu,

KTDL đã và đang được nhiều nước quan tâm đầu tư phát triển, nhưng để xây dựng

một khái niệm hoàn chỉnh về phát triển kinh tế du lịch là vấn đề khó, cần phải có

những luận cứ xác thực. Bởi vì, trong lĩnh vực phát triển của mình KTDL phụ thuộc

rất nhiều yếu tố, ngoài việc chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế nói chung, do

đặc thù của ngành nó còn có cơ chế vận hành riêng.

Trên thực tế phát triển KTDL ở nhiều nước không những đem lại lợi ích kinh

tế, mà còn cả lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh quốc gia…Ở

mỗi quốc gia, dân tộc có tính đặc thù riêng, phụ thuộc vào trình độ phát triển LLSX,

mục đích tính chất của quan hệ sản xuất và quan niệm hay cơ chế, chính sách, quy

hoạch chiến lược phát triển, chế độ chính trị, xã hội của mỗi nước, cho nên trong

nghiên cứu tất yếu sẽ có những lý giải khác nhau. Hiện nay, chưa có một khái niệm

chính thống nào về phát triển KTDL.

Vấn đề mang tính nguyên tắc xuyên suốt là để phát triển KTDL có hiệu quả,

bền vững cần phải nhận thức được mối quan hệ gắn bó giữa tài nguyên du lịch với

môi trường, xã hội, quốc phòng – an ninh trong cả quá trình. Cho nên, nghiên cứu

22

phát triển KTDL và đưa ra định nghĩa về nó phải nhìn ở nhiều góc độ khác nhau,

nhưng phải có tính tổng hợp và có hệ thống. Thể hiện những mặt cơ bản sau đây:

Thứ nhất, từ góc độ kinh tế: Muốn phát triển kinh tế bền vững cần phải khai

thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, phải ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ để

tăng năng suất lao động, tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, mở rộng quy mô và

năng lực sản xuất…Phát triển KTDL cũng phải tuân theo nguyên tắc như vậy.

Nhưng KTDL có những mặt mang tính đặc thù là khai thác các tài nguyên thiên

nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn cho nên phải luôn luôn chú trọng đến yếu tố

hợp lý, an toàn, hiệu quả. Tùy thuộc vào từng loại hình du lịch để ứng dụng các

thành tựu khoa học công nghệ phục vụ kinh doanh du lịch trên các mặt như mở rộng

các loại hình dịch vụ, quy mô, trình độ để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận…Trên cơ

sở đó mới có khả năng bù đắp những chi phí và tiếp tục mở rộng sản xuất cho giai

đoạn tiếp sau. Đối với những sản phẩm được chế tạo từ nguồn gốc tự nhiên, thì vấn

đề chủ yếu là xét xem tài nguyên du lịch tự nhiên đó có khả năng tái tạo hay không.

Nếu không thì phải tiến hành nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm có khả năng thay

thế. Muốn vậy phải cộng thêm vào giá thành sản phẩm làm từ tài tài nguyên không

tái tạo một loại chi phí khác đủ để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm thay thế.

Đối với tài nguyên đu lịch nhân văn phải có chiến lược quy hoạch, giữ gìn, đầu tư,

bảo tồn, tôn tạo, phát huy phát triển, tuyền truyền, quảng bá rộng rãi trong mọi tầng

lớp nhân dân trong nước, cho du khách nước ngoài khi đến nước ta. Dưới góc độ

này phải đảm bảo sự tăng trưởng bền vững, phát triển, hiệu quả và ổn định. Bền

vững về kinh tế trong trường hợp này là “sự phát triển ổn định và lâu dài” của

KTDL, tạo ra nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế của xã

hội và đem lại lợi ích cho cộng đồng, đặc biệt là cho người dân địa phương nơi có

tài nguyên du lịch. Khi mức sống của người dân địa phương được cải thiện nhờ du

lịch, họ sẽ có động cơ bảo vệ nguồn thu nhập này bằng cách bảo vệ tài nguyên và

môi trường, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống, tìm mọi phương cách để thu

hút du khách đến với họ. Chia sẻ lợi ích du lịch cũng là phương pháp tích cực trong

23

công cuộc xóa đói, giảm nghèo, đem lại cơ hội nâng cao mức sống cho người dân

địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế ở những vùng còn khó khăn.

Thứ hai, từ góc độ môi trường: Tuân theo quy luật phát triển chung, sự phát

triển KTDL phải giải đáp được bài toán do môi trường đặt ra. Trong bất kỳ phương

án quy hoạch phát triển nào theo hướng bền vững cũng đều phải tính toán kỹ mối

tác động qua lại giữ con người và thiên nhiên sao cho sự phát triển KTDL không

làm suy thoái hay hủy diệt môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn ô

nhiễm. Điều đó đồng nghĩa với việc giữ gìn và phát triển được tài nguyên du lịch tự

nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn, việc sử dụng các tài nguyên không vượt quá

khả năng tự phục hồi của nó, sao cho đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện tại song

không làm suy yếu khả năng tái tạo trong tương lai để đáp ứng được nhu cầu của

thế hệ mai sau.

Thứ ba, từ góc độ xã hội: Sự phát triển KTDL phải đi đôi với sự phát triển xã

hội, nghĩa là không ngừng nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả

mọi người trong suốt quá trình phát triển. Đó cũng chính là sự phát triển tự sinh do

chính xã hội ấy chủ động thực hiện, chứ không phải là một sự phát triển ngoại sinh,

sống nhờ hoàn toàn vào nguồn lực từ bên ngoài, muốn vậy phải thực hiện mục tiêu

xóa đói, giảm nghèo trong suốt quá trình phát triển, coi phát triển KTDL là công cụ

xóa đói giảm nghèo trong những lĩnh vực phù hợp. Thường xuyên xây dựng thể chế

tốt và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Đối với phát triển KTDL yếu tố này cần phải

thường xuyên coi trọng bởi vì nhu cầu hưởng thụ các loại hình sản phẩm du lịch của

con người là vô tận, du lịch được xã hội hóa thì lại càng đòi hỏi có nhiều loại hình

kinh doanh du lịch phù hợp với mọi đối tượng tiêu dùng trong xã hội. Muốn tạo ra

năng suất cao cho sản xuất thì Nhà nước cần phải thể hiện được trình độ quản lý và

điều hành, đưa ra và triển khai những chủ trương, chính sách phát triển phù hợp, có

cơ chế hoạt động thông thoáng đồng bộ, mở đường cho lực lượng sản xuất không

ngừng phát triển.

Thứ tư, từ góc độ quốc phòng – an ninh: Sự phát triển KTDL ổn định, bền

vững cần thiết phải được đặt trong sự bảo đảm của nền quốc phòng đủ mạnh. Phải

24

nhìn thấy được vai trò của quốc phòng an ninh đối với phát triển KTDL, vai trò của

quân đội và công an trong phòng, tránh các hiện tượng phá hoại do thiên tai gây ra,

cứu nạn, cứu hộ, giải quyết hậu quả của các dịch bệnh, thiên tai, hỗ trợ khách du

lịch và các nhà đầu tư du lịch, tạo tâm lý yên tâm, thoải mái thưởng ngoạn cho du

khách…Ngược lại, phát triển KTDL bền vững sẽ góp phần củng cố tăng cường nền

quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh

hơn.

Thứ năm, từ góc độ văn hóa: Quá trình khai thác, đáp ứng các nhu cầu phát

triển du lịch hiện tại không làm tổn hại, suy thoái các giá trị văn hóa truyền thống đã

có và để lại hậu quả xấu cho các thế hệ tiếp theo. Các điểm du lịch có sự kết hợp

giữa cảnh đẹp thiên nhiên và nền văn hóa truyền thống gây ấn tượng mạnh và độc

đáo có sức hấp dẫn hơn đối với du khách. Du khách muốn được xem và hưởng thụ

những giá trị văn hóa đích thực, sống động trong cuộc sống hằng ngày của người

dân. Điều này hấp dẫn hơn nhiều so với những gì tái tạo lại trong một viện bảo tàng,

một cuộc triểm lãm hoặc trình diễn. Như vây, nếu các giá trị văn hóa bị hủy hoại, bị

biến đổi hoặc chỉ còn tồn tại dưới dạng mô phỏng thì sẽ không còn khả năng hấp

dẫn du khách, sức thuyết phục và cuốn hút du khách sẽ bị giảm sút đi nhiều.

Như vậy, phát triển KTDL bền vững, ổn định, hiệu quả là một quá trình phát

triển cân đối, sự kết hợp đồng bộ giữa các mặt: Tăng trưởng kinh tế, văn hóa, xã hội

và môi trường, quốc phòng – an ninh…không được xem nhẹ mặt nào, các mặt trong

tổng thể đó luôn có mối quan hệ qua lại, gắn bó, hỗ trợ, tác động qua lại lẫn nhau,

thúc đẩy cùng nhau phát triển, hoặc có khi kìm hãm nhau, nếu sự kết hợp đó không

phù hợp, khoa học.

Từ những vấn đề lý luận và nhận thức trên có thể hiểu: “Phát triển kinh tế du

lịch là mở rộng quy mô và năng lực sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao

hiệu quả sử dụng các nguồn lực nhằm nâng cao số lượng, chất lượng hàng hóa và

dịch vụ du lịch để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, bảo vệ môi trường, thúc đẩy

phân công lao động, bảo tồn và làm phong phú thêm các giá trị văn hóa tốt đẹp của

dân tộc, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã định”. [22, tr.29]

25

1.2.2.2. Điều kiện để phát triển kinh tế du lịch

Muốn đầu tư để phát triển các loại hình KDDL có hiệu quả, cần thiết phải có

những yếu tố khách quan, chủ quan, nguồn lực nhất định mới có thể duy trì hoạt

động lâu bền và phát triển, bởi nó trực tiếp quyết định đến việc sản xuất các loại sản

phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu cho du khách của một cơ sở, một vùng hay của một

quốc gia. Bao gồm những điều kiện cơ bản như: tiềm năng du lịch; cơ sở vật chất

kỹ thuật phục vụ kinh doanh du lịch và cơ sở hạ tầng của điểm, khu du lịch; điều

kiện kinh tế; yếu tố dân cư và lao động; nhân tố quốc phòng, an ninh, chính trị, xã

hội…Biểu hiện cụ thể:

Một là, tài nguyên du lịch: được coi là điều kiện cần để phát triển du lịch.

Tài nguyên du lịch có thể do thiên nhiên tạo ra, có thể do con người tạo ra. Vì vậy,

tài nguyên du lịch được phân ra làm hai nhóm: Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài

nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch tự nhiên luôn luôn gắn liền với các

điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn luôn luôn gắn liền các điều kiện lịch

sử, văn hóa, kinh tế - xã hội…và chúng đồng thời được khai thác để đáp ứng nhu

cầu cho du khách và chủ thể KDDL.

Các thành phần tự nhiên tạo nên tài nguyên du lịch tự nhiên thường là vị trí

địa lý, địa hình (các vùng núi có phong cảnh đẹp, các hang động, các bãi biển, các

di tích tự nhiên), khí hậu (tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khỏe con người,

phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng; phục vụ cho việc triển khai các hoạt động

du lịch), thủy văn (bề mặt nước và cá bãi nông ven bờ, các điểm nước khoáng và

suối nóng), sinh vật (các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu di

tích lịch sử, văn hóa, môi trường; một số hệ sinh thái đặc biệt tiêu biểu cho từng

vùng như nhiệt đới, ôn đới, hàn đới…).

Tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên du lịch do con người sáng

tạo ra. Toàn bộ những sản phẩm có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con

người sáng tạo ra đều được coi là những sản phẩm văn hóa. Như vậy, tài nguyên du

lịch nhân văn cũng được hiểu là những tài nguyên di sản văn hóa. Tuy nhiên, không

phải sản phẩm văn hóa nào cũng đều là những tài nguyên du lịch nhân văn mà chỉ

26

những sản phẩm văn hóa có giá trị phục vụ cho du lịch thì mới được coi là tài

nguyên du lịch nhân văn. Thông qua những hoạt động du lịch dựa trên việc khai

thác các tài nguyên du lịch nhân văn, du khách có thể hiểu được những đặc trưng cơ

bản về văn hóa của dân tộc, địa phương nơi mình đến. Các tài nguyên du lịch nhân

văn có những đặc tính như: mang tính phổ biến, có tính truyền đạt nhận thức nhiều

hơn là hưởng thụ, giải trí. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các dạng sau đây:

Các di tích lịch sử văn hóa, những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và

các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng có giá trị văn hóa khác,

hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa – xã hội. Theo

đó bao gồm: Các di sản văn hóa thế giới; các di tích lịch sử văn hóa thắng cảnh cấp

quốc gia và địa phương (các di tích lịch sử; các di tích khảo cổ học, các di tích văn

hóa nghệ thuật; các danh lam thắng cảnh); các lễ hội (phần lễ, phần hội); nghề và

làng nghề thủ công truyền thống; các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học; các đối

tượng văn hóa, thể thao hay những hoạt động mang tính sự kiện; các giá trị về văn

hóa lịch sử có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một điểm, một vùng

hoặc một đất nước.

Hai là, các điều kiện về kỹ thuật:

Các điều kiện về kỹ thuật ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch

trước tiên là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KDDL và sau đó là cơ sở vật chất kỹ

thuật hạ tầng xã hội.

+ Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh du lịch

Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KDDL bao gồm toàn bộ nhà cửa và phương

tiện kỹ thuật giúp cho việc phục vụ thỏa mãn các nhu cầu của du khách như: cơ sở

lưu trú, nhà hàng, khách sạn, phương tiện giao thông vận tải, các khu nhà giải trí,

cửa hàng, công viên, đường sá, hệ thống thoát nước, mạng lưới điện trong khu vực

và cơ sở kinh doanh của du lịch. Ngoài ra, cơ sở vật chất kỹ thuật KDDL còn bao

gồm tất cả những công trình mà tổ chức du lịch xây dựng bằng vốn đầu tư của chính

mình như rạp chiếu phim, sân vận động thể thao…Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ

KDDL có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ các sản

27

phẩm du lịch. Phát huy tối đa, có hiệu quả tài nguyên du lịch quốc gia của địa

phương đến đâu, đáp ứng nhu cầu của du khách đến mức độ nào đều phụ thuộc vào

cơ sở vật chất kỹ thuật KDDL, bởi vì du khách đến thưởng thức các sản phẩm du

lịch thì trước hết họ phải có chỗ lưu trú để ăn uống, nghỉ ngơi.

+ Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội không chỉ do các tổ chức KDDL xây dựng

mà của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia cùng đầu tư xây dựng để đáp ứng nhu

cầu về đời sống, sinh hoạt, sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội. Đó là hệ thống

đường sá, sân bay, bến cảng, đường sắt, công viên, hệ thống y tế, giáo dục quốc gia,

khu vui chơi giải trí của toàn dân, mạng lưới thương nghiệp của khu dân cư, hệ

thống thông tin viễn thông, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới điện, các rạp chiếu

phim, nhà hát, viện bảo tàng…

Đối với hoạt động KDDL thì cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội là yếu tố cơ sở

nhằm khai thác mọi tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch,

thỏa mãn ngày càng tăng nhu cầu của du khách. Một bộ phận quan trọng của cơ sở

hạ tầng kỹ thuật phục vụ đắc lực nhất cho hoạt động KDDL là hệ thống giao thông

vận tải (đường không, đường bộ, đường thủy). Số lượng, chất lượng của cơ sở hạ

tầng kỹ thuật xã hội là điều kiện quan trọng để thỏa mãn nhu cầu cho du khách và

nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động KDDL. Biểu hiện cụ thể: Hệ thống thông

tin viễn thông bảo đảm cho trao đổi thông tin liên lạc nhanh chóng trong và ngoài

nước; hệ thống giáo dục đào tạo bảo đảm bổ sung nguồn nhân lực, nâng cao trình

độ dân trí, trình độ thưởng thức các sản phẩm văn hóa, ca nhạc, khoa học kỹ thuật;

hệ thống y tế bảo đảm an ninh sức khỏe cho toàn dân và du khách; hệ thống cấp

thoát nước; cung cấp điện…là những yếu tố quan trọng cần thiết để phục vụ sinh

hoạt hàng ngày cho người dân địa phương, cho cộng đồng dân cư và du khách trong

quá trình đến du lịch. Mặt khác, phát triển KTDL có hiệu quả là cơ sở để tạo ra vật

chất góp phần trực tiếp hoàn thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng cho ngành kinh tế

khác của một quốc gia.

Ba là, điều kiện về kinh tế: Đây là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến

quá trình đầu tư, tồn tại và phát triển KTDL. Xuất phát từ mối liên hệ khăng khít

28

giữa KTDL với các ngành kinh tế khác trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Theo ý

kiến của các chuyên gia kinh tế thuộc hội đồng kinh tế và xã hội của Liên Hiệp

Quốc (ECOSOC), một đất nước có thể phát trển KTDL vững chắc nếu nước đó tự

sản xuất và phân phối được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch. Khi

họ phải nhập đa số trang thiết bị, hàng hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và

để bảo đảm phục vụ khách du lịch thì hầu hết lợi nhuận (ngoại tệ) thu được do du

lịch mang lại sẽ rơi vào tay tư bản nước ngoài. Những nước có nền kinh tế phát

triển, có điều kiện sản xuất ra nhiều của cải vật chất có chất lượng đạt tiêu chuẩn

quốc tế sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển KTDL. Biểu hiện rõ nét của quá trình

phát triển kinh tế là nền sản xuất xã hội, sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm

quan trọng quyết định nhất, bởi nó làm xuất hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu du

lịch thành hiện thực. Nếu LLSX xã hội còn ở trình độ thấp kém thì không thể đề cập

đến nhu cầu du lịch hay hoạt động KTDL. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, nhu

cầu tiêu dùng các sản phẩm nói chung, trong đó có sản phẩm du lịch của nhân dân

càng lớn, việc thỏa mãn nhu cầu đó càng cao hơn. Thực tế hiện nay càng cho thấy

rõ ở những nước có kinh tế chậm phát triển, thu nhập bình quân GDP trên đầu

người thấp thì nhu cầu du lịch hạn chế. Ngược lại, ở những nước có thu nhập cao,

nền kinh tế phát triển thì du lịch của họ được xã hội hóa, loại hình đa dạng, diễn ra

dưới nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi cuối tuần, còn

xuất hiện nhu cầu nghỉ ngơi dài ngày ở vùng núi, vùng biển, vùng thôn quê vào mùa

Đông, mùa Hè, mùa Thu…của du khách.

Bốn là, yếu tố dân cư và lao động: Dân cư là nguồn gốc để tạo ra nguồn

nhân lực lao động cho xã hội, vừa là lực lượng trực tiếp tham gia quyết định phát

triển KTDL, đồng thời còn là lực lượng trực tiếp tiêu thụ sản phẩm du lịch. Dân số

của một quốc gia tăng lên, lao động tăng lên, làm chuyển dịch số lượng lao động

giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra mật độ dân số mới sẽ kéo theo

hoạt động du lịch tăng lên. Do đó, việc nắm vững số lượng dân số, đặc điểm dân cư

và lao động có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển KTDL. Cung và cầu của du lịch tùy

thuộc rất lớn vào các đặc điểm xã hội nhân khẩu, trình độ dân trí và mật độ dân cư.

29

Sự tập trung dân cư vào các thành phố, sự gia tăng dân số, tăng mật độ, tuổi thọ

trung bình hay quá trình đô thị hóa…đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan mật thiết

đến phát triển KTDL. Bởi vì, quá trình đô thị hóa đã hình thành nên những thị tứ,

thị trấn, thị xã, thành phố đa dạng, phong phú, đồng thời tạo nên lối sống riêng biệt,

lối sống thành thị, nhu cầu hưởng thụ không chỉ là vật chất mà cả về tinh thần, lối

sống hiện đại tạo điều kiện cho du lịch từng bước được xã hội hóa. Chính quá trình

đô thị hóa đã tạo ra những điều kiện sống tự nhiên bị thay đổi, môi trường, không

khí bị ô nhiễm…trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Sau những thời

gian làm việc căng thẳng người dân thành thị tìm đến những khu du lịch sinh thái,

những nơi có phong cảnh đẹp, có rừng, có biển để thư giãn, để nghỉ dưỡng tái tạo ra

sức lao động của chính ngay bản thân họ. Phát triển KTDL góp phần tạo nên cân

bằng đời sống tinh thần cho nhân dân các đô thị.

Thực tế cho thấy, ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu đại chúng và

các yếu tố tự thân chính làm gia tăng hoạt động du lịch là thời gian nhàn rỗi, thu

nhập và trình độ dân trí.

Thời gian rỗi của nhân dân đóng vai trò quan trọng trong hoạt động du lịch,

muốn có một chuyến du lịch đòi hỏi phải có thời gian nghỉ, đây là điều kiện cần

thiết cho du lịch. Nhờ có các thành tựu khoa học- công nghệ hiện đại mà ngày nay

năng suất lao động không ngừng được tăng lên, kinh tế ngày càng phát triển, mức

sống của con người ngày càng được cải thiện. Xu hướng chung của nhiều nước trên

thế giới trong đó có nước ta là giảm thời gian làm việc, tăng thời gian nghỉ ngơi,

như vậy quỹ thời gian ngoài giờ làm việc tăng lên và đây là điều kiện để người lao

động có thu nhập bố trí thời gian dành cho hoạt động du lịch.

Song hành với thời gian rỗi là thu nhập của nhân dân đóng vai trò quan

trọng, đây là yếu tố cần thiết cho tiêu thụ các sản phẩm du lịch vì con người khi

muốn đi du lịch chỉ có thời gian chưa đủ mà phải có tiền thì mới thực hiện được dự

định của mình. Khi đi du lịch và lưu trú ngoài nơi cư trú thường xuyên, du khách

bắt đầu chi tiêu trong suốt hành trình du lịch như tiền tàu xe, tiền thuê nhà ở, tiền ăn

uống, tiền mua hàng hóa, thưởng thức các dịch vụ về tinh thần như ngắm cảnh, xem

30

ca nhạc…Những nước có thu nhập bình quân đầu người cao, có nền kinh tế phát

triển như Mỹ, Bỉ, Canada, Pháp, Thụy Sỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,…hàng năm tiêu

thụ các sản phẩm du lịch với số lượng lớn kể cả trong và ngoài nước. Đối với họ,

nghỉ ngơi, giải trí, du lịch trở thành một trong những nhu cầu không thể thiếu được.

Trình độ đân trí: Sự tăng trưởng của du lịch còn phụ thuộc vào trình độ văn

hóa của nhân dân. Khi trình độ dân trí càng cao, kinh tế đầy đủ thì lòng ham hiểu

biết làm quen với các nước xa gần cũng ngày càng tăng và như vậy trong nhân dân

sẽ hình thành thói quen đi du lịch ngày càng nhiều. Hơn nữa, nếu trình độ văn hóa

chung của một đất nước cao, thì đất nước đó khi phát triển du lịch sẽ dễ đảm bảo

phục vụ khách du lịch một cách văn minh và làm hài lòng khách du lịch đến đó.

Năm là, nhân tố quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội là những điều kiện hết

sức quan trọng có tác động đến quá trình phát triển KTDL.

Trước hết cần phải khẳng định rằng: Một nền quốc phòng vững mạnh, an

ninh bảo đảm, tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội ổn định là điều kiện quan

trọng cần thiết để phát triển KTDL bền vững, hiệu quả, nó bảo đảm mở rộng các

mối quan hệ kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa và chính trị không chỉ các

vùng, các dân tộc trong nước mà còn cả khu vực và quốc tế. KTDL chỉ có thể phát

triển được khi và chỉ khi giữa các dân tộc có tình hữu nghị hiểu biết lẫn nhau, hòa

bình ổn định được thiết lập một cách thực sự, các mối quan hệ kinh tế quốc tế, sự

trao đổi du lịch quốc tế ngày càng mở rộng và phát triển. Các nước có tình hình

chính trị, quân sự ổn định như Thụy Sỹ, Thụy Điển, Áo, Hà Lan,

Singapore…thường có sự hấp dẫn rất lớn đối với du khách. Khi đến đó khách du

lịch thực sự được hưởng thụ bầu không khí chính trị hòa bình, ổn định, thân thiện,

họ cảm nhận được sự an toàn tuyệt đối về tính mạng, họ được đáp ứng một cách tối

đa các nhu cầu cần hưởng thụ các sản phẩm du lịch. Tại nơi đến, họ có thể tự do đi

lại mà không sợ những điều nguy hại có thể xảy ra đối với bản thân, hơn thế nữa,

còn cảm nhận được sự thân thiện, bình đẳng, không có sự phân biệt chủng tộc, đẳng

cấp, tôn giáo… của chủ nhà. Du khách có thể giao lưu, làm quen, hưởng thụ những

nét văn hóa mới lạ từ những người dân địa phương nơi họ đến, nhờ du lịch mà các

31

dân tộc hiểu biết nhau hơn, gần gũi, sống với nhau thân thiện hơn và tất yếu khi có

du khách càng đông thì số lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch sẽ được tiêu thụ càng

nhiều hơn. Ngược lại, KTDL không thể phát triển được nếu như mất ổn định về

chính trị, an ninh - quốc phòng không bảo đảm tốt, điều này sẽ trực tiếp hoặc gián

tiếp đe dọa sự an toàn của du khách. Ví dụ như ở những quốc gia hay có những biến

cố cách mạng, nội các chính phủ luôn luôn thay đổi, nhiều Đảng phái bất đồng quan

điểm lãnh đạo, đảo chính quân sự như Thái Lan, Pakistan…sự phát triển du lịch bị

ảnh hưởng mạnh mẽ, thậm chí các tài nguyên du lịch còn bị hủy hoại…Rất nhiều

khách du lịch Châu Âu, Châu Mỹ muốn đi du lịch đến Châu Phi, Trung Đông

nhưng chỉ vì họ sợ nạn khủng bố, các loại dịch bệnh nhiệt đới như tả, lị, dịch hạch,

sốt rét, cúm gia cầm lây nhiễm sang người…mà họ không dám đến. Mặt khác, yếu

tố an ninh an toàn cho du khách còn được xem xét theo các hướng khác như các tệ

nạn xã hội và bộ máy bảo vệ an ninh, trật tự xã hội có đủ mạnh hay không, nạn

khủng bố đe dọa đến mức nào? …

Sáu là, đường lối, chính sách phát triển KTDL. Chính sách phát triển của

chính quyền sở tại sẽ giữ vai trò quyết định đến hoạt động du lịch ở địa phương đó.

Một đất nước, một khu vực có tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, mức sống của

người dân không thấp nhưng chính quyền địa phương không hỗ trợ cho hoạt động

du lịch thì các hoạt động này cũng khó có thể phát triển được. Do vậy, đường lối,

chính sách phát triển KTDL là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế du lịch.

Đường lối, chính sách phát triển KTDL thể hiện ở việc xác định vị trí của

ngành du lịch trong tổng thể các ngành kinh tế xã hội, phương hướng, mục tiêu phát

triển KTDL và các chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể. Những vấn đề cốt lõi

đó được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu và biện pháp của các kế hoạch ngắn hạn, trung

hạn, dài hạn. Do đặc điểm và bản chất của du lịch, nó liên quan và cần có sự phối

hợp đồng bộ cuả nhiều ngành khác cho nên đường lối, chính sách phát triển KTDL

cũng phải mang tính tổng hợp, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành nhằm

mục tiêu phát triển KTDL. Những điều kiện trên tuy có mối quan hệ tương tác với

nhau, nhưng mỗi điều kiện lại có những ảnh hưởng độc lập nhất định đến sự phát

32

triển của kinh tế du lịch. Do đó, nếu thiếu một trong những điều kiện này sẽ làm

cho hoạt động du lịch trì trệ, phát triển mất cân đối, giảm sút hoặc hoàn toàn ngừng

hẳn. Tất cá các điều kiện này được đảm bảo sẽ giúp cho kinh tế du lịch phát triển

một cách mạnh mẽ và bền vững.

1.2.2.3. Vai trò của phát triển kinh tế du lịch đối với đời sống kinh tế - xã hội

Ở nhiều nước trên thế giới, du lịch từ lâu đã trở thành một ngành kinh tế mũi

nhọn, chiếm từ 40% đến 60% tỷ trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt, trong

sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, du lịch đã và

đang trở thành một ngành kinh tế có vai trò quan trọng đối kinh tế – xã hội của mỗi

quốc gia, mỗi địa phương. Nó là một trong những điều kiện góp phần phát triển

kinh tế, xóa đói giảm nghèo, lạc hậu, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống

cho dân cư…

- Trước hết, du lịch phát triển góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành du lịch

trong khối ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân. Du lịch mang lại thu nhập

ngày một lớn cho xã hội và tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập

quốc dân.

- Góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển: Du lịch là một ngành

kinh tế tổng hợp, các sản phẩm du lịch tạo ra không đơn thuần là của ngành du lịch

mà còn là sự kết hợp của các ngành khác. Ví dụ muốn có cơ sở lưu trú thì cần phải

có ngành xây dựng, có nguyên liệu chế biến trong kinh doanh ăn uống của nhà

hàng, khách sạn thì phải có ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp chế biến…do

đó, hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên ngành. Mặt khác, sự phát

triển kinh tế du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết

hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật ở

các ngành kinh tế khác. Như vậy, thông qua đó, các ngành kinh tế khác phát triển,

mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy hoạt động thương mại…

- Du lịch còn là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất trong nền kinh tế.

Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước nhất ở chỗ, du lịch là một

ngành “Xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, nông

33

lâm sản…theo giá bán lẻ cao hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá buôn) mà

không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế. Bên cạnh đó, nó còn là ngành

“xuất khẩu vô hình” hàng hóa du lịch. Hai hình thức xuất khẩu trên đem lại lợi

nhuận kinh tế cao hơn, do tiết kiệm được đáng kể chi phí đóng gói bao bì, bảo quản

và thuế xuất nhập khẩu, có khả năng thu hồi vốn nhanh, lãi suất cao do nhu cầu du

lịch là nhu cầu có khả năng thanh toán.

- Du lịch thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các nguồn đầu tư từ

nước ngoài thông qua các dự án xây dựng các khu du lịch tổng hợp, các khu du lịch

trọng điểm.

- Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Du

lịch là một ngành mang yếu tố đối ngoại, không chỉ đơn thuần liên quan đến yếu tố

khách quốc tế mà còn là mối liên hệ hợp tác giữa các nước, các tổ chức quốc tế

mang tính chính phủ và phi chính phủ về du lịch tác động tích cực trong việc hình

thành các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất –

nhập khẩu” ngoại tệ, góp phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế.

- Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm

nghèo. Du lịch là một ngành kinh tế góp phần tích cực giải quyết việc làm cho

người lao động. Nó thu hút một bộ phận lớn dân cư tham gia vào các dịch vụ, xây

dựng, bán sản phẩm…nên có khả năng giảm tình trạng thất nghiệp ở các địa

phương, mặt khác do đặc trưng của ngành du lịch là ngành phục vụ đòi hỏi nhiều

lao động sống, cho nên phát triển kinh tế du lịch sẽ tạo thêm nhiều việc làm mới và

tạo điều kiện tăng thu nhập cho người dân địa phương, nâng cao mức sống, từ đó

góp phần xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi.

- Phát triển KTDL góp phần kích thích cơ sở hạ tầng phát triển. Vì du lịch là

hoạt động liên ngành – liên vùng, cần phải có sự hỗ trợ lớn của các ngành khác.

Muốn KTDL phát triển và đem lại hiệu quả kinh tế cao thì cần phải có sự đầu tư tốt

về cơ sở hạ tầng như: giao thông vận tải, nhà hàng, khách sạn, các cơ sở y tế… có

chất lượng tốt, hiện đại.

34

Qua phân tích các vấn đề nêu trên, có thể khẳng định du lịch là một trong

những ngành kinh tế mang lại nhiều giá trị tích cực đối với đời sống kinh tế - xã hội

của mỗi quốc gia nói chung và của mỗi địa phương nói riêng.

1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TẠI MỘT SỐ ĐỊA

PHƢƠNG Ở NƢỚC TA.

1.3.1. Khái quát tình hình phát triển của ngành du lịch Việt Nam

Từ năm 1992, Đảng và Nhà Nước ta đã xác định du lịch là ngành kinh tế

tổng hợp, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Để đẩy mạnh sự nghiệp phát triển du lịch đạt hiệu quả cao hơn về kinh tế,

trong chỉ thị 46/BCH–CT của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, ngày

14/10/1994 đã nhấn mạnh: “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng

trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước” [3]. Trên cơ sở khẳng định lại chủ trương nhất quán

phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn đã nêu trong các văn kiện Đại

hội Đảng VII, VIII, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX xác định: “Phát triển du lịch

thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn…” [4, tr.178]. Văn kiện Đại hội Đảng

lần thứ X định hướng: “Khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động du lịch, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch”.

[5, tr.202].

Sau 32 năm hình thành và phát triển (kể từ năm 1960) qua 6 lần thử nghiệm

tách, nhập, đến Quốc hội khóa IX, nhờ xác định rõ vị trí, vai trò của du lịch trong sự

nghiệp đổi mới và tiềm năng phát triển du lịch to lớn của đất nước, nên Tổng cục

Du lịch được thành lập, là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện quản lý nhà

nước về du lịch trong phạm vi cả nước. Ở địa phương, cơ quan giúp UBND cấp tỉnh

quản lý nhà nước về du lịch là các Sở, với tên gọi khác nhau. Tổng Cục Du lịch

cùng 17 Sở Du lịch, 2 sở Du lịch - Thương mại, 1 sở Ngoại vụ - Du lịch và 44 Sở

Thương mại - Du lịch từng bước vươn lên thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước

về du lịch. Chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước dần

được thể chế hóa . Để điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động du lịch khi quy

35

mô ngày càng mở rộng, Tổng cục Du lịch đã tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh

Du lịch, phối hợp với các ngành lập pháp, huy động nguồn lực trong và ngoài nước

để xây dựng Luật Du lịch, được Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua, có hiệu

lực từ ngày 01/01/2006. Luật Doanh nghiệp, Pháp lệnh xuất, nhập cảnh, cư trú, đi

lại và các văn bản liên quan khác được rà soát, sửa đổi bổ sung; thủ tục nhập, xuất

cảnh, cư trú, đi lại, hải quan được cải tiến, đã áp dụng miễn thị thực đơn phương

hoặc song phương cho công dân Nhật Bản, Hàn Quốc, 4 nước Bắc Âu và các nước

ASEAN. Khách vào Việt Nam thuận tiện hơn; kinh doanh du lịch có hành lang

pháp lý đủ đảm bảo hoạt động thuận lợi và quản lý tốt. Chương trình hành động

quốc gia về du lịch được đề xuất, phê duyệt, cấp ngân sách và tổ chức thực hiện

hiệu quả, tạo sự chuyển biến nhiều mặt, làm cho hoạt động du lịch sôi động và

phong phú thêm, hình ảnh Du lịch Việt Nam được hình thành, củng cố và ngày một

nâng cao ở cả trong và ngoài nước.

Theo kết quả nghiên cứu tiến hành bởi Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới

(WTTC), phối hợp với Oxford Economic Forecasting (OEF), trong những năm qua

du lịch Việt Nam đã có những bước chuyển mạnh cả về chất và lượng, mở rộng hợp

tác và tích cực chủ động hội nhập với khu vực và thế giới. Vị trí và tầm ảnh hưởng

của Du lịch Việt Nam đã được nâng lên rõ rệt, Việt Nam xếp hạng 6 trên tốp 10 các nước phát triển du lịch và lữ hành tốt nhất trong thời gian từ 2007 – 2016 1.

Ngành Du lịch Việt Nam đã huy động ngày một nhiều nguồn lực để xây

dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hóa sản phẩm. Toàn

ngành và các địa phương, đặc biệt ở các địa bàn trọng điểm du lịch, đã phát huy nội

lực, huy động vốn từ nhiều nguồn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất du

lịch. Phương tiện vận chuyển hành khách phát triển đa dạng cả đường ô tô, đường

sắt, đường thủy, đường hàng không. Với cơ sở vật chất kỹ thuật như hiện nay,

ngành du lịch nước ta đảm bảo phục vụ cho hàng chục triệu lượt khách quốc tế và

nội địa, tổ chức được các sự kiện, hội nghị quốc tế lớn...

_______________________

1 Theo http://vietbao.vn/Kinh-te/Du-lich-Viet-Nam-Top-10-the-gioi/30106877/87/

36

Ngoài ra, ngành du lịch cũng tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế, xúc tiến,

quảng bá điểm đến Việt Nam. Nội dung và hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch

được cải tiến và triển khai mạnh mẽ ở cả trong và ngoài nước, góp phần nâng cao

hình ảnh du lịch Việt Nam với các sự kiện thường niên như tổ chức Festival du lịch

Việt Nam hàng năm do các tỉnh có tiềm năng du lịch lần lượt đăng cai, tham gia các

hội chợ quốc tế, đặc biệt là hợp tác với kênh BBC World News để quảng bá hình

ảnh đất nước, du lịch Việt Nam với thời lượng 30 giây, tổng cộng 429 lần phát sóng

ở hơn 200 các quốc gia và vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, Ngành cũng tổ chức các

hoạt động quảng bá du lịch đặc trưng cho từng địa phương nhằm thúc đẩy du lịch ở

đó phát triển như: Lễ hội biển ở Nha Trang, Đà Nẵng, chương trình “Du lịch về cội

nguồn” do 3 tỉnh Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ phối hợp tổ chức…Đặc biệt, lần đầu

tiên Việt Nam đăng cai thành công Diễn đàn du lịch ASEAN (ATF 2009) và Hội

chợ TRAVEX 2009, sự kiện lớn nhất trong hợp tác du lịch ASEAN đã góp phần

khẳng định vị thế du lịch Việt Nam trong khu vực, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp du lịch trong nước tìm kiếm cơ hội kinh doanh, nâng cao năng lực canh

tranh của ngành KTDL nước nhà.

Du lịch Việt Nam ngày càng đẩy mạnh mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế

song phương và đa phương, tạo điều kiện cho du lịch phát triển bền vững, nhất là

trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức WTO. Tính đến

cuối tháng 6 năm 2009, Du lịch Việt Nam đã trình Chính phủ ký hiệp định thỏa

thuận hợp tác du lịch song phương cấp Nhà nước với 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới2. Trong hợp tác đa phương, Tổng cục Du lịch đã tham gia các

chương trình của các tổ chức chuyên ngành du lịch trong và ngoài khu vực như đàm

phán mở cửa dịch vụ du lịch trong khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế (ASEAN,

APEC, WTO); tham gia các tổ chức du lịch đa phương bao gồm ASEAN, Tiểu

vùng Mekong Mở rộng (GMS), Hành lang Đông – Tây (WEC), Tổ chức du lịch thế

giới (UNWTO), Hiệp hội du lịch châu Á – TBD (PATA)…Đồng thời tranh thủ khai

2Theo http://www.vietnamtourism.gov.vn/index.php?cat=1001&itemid=6608

__________________________

37

thác các mối quan hệ hợp tác quốc tế cho phát triển du lịch như: Cộng đồng Châu

Âu hỗ trợ phát triển dự án “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”; Đề nghị

UNWTO xem xét tiếp tục hỗ trợ kỹ thuật phát triển du lịch cộng đồng tại Hồ Ba Bể

và quy hoạch phát triển du lịch tại Côn Đảo; Phối hợp với Dự án Phát triển Du lịch

Mê kông triển khai về quảng bá, xúc tiến du lịch; Chương trình hợp tác du lịch Tiểu

vùng Mêkông mở rộng (GMS) ưu tiên Việt Nam là một trong 3 nước được Ngân

hàng phát triển châu Á (ADB) cho vay vốn triển khai dự án phát triển cơ sở hạ tầng

du lịch trị giá trên 10 triệu USD.

Với những nỗ lực của ngành cũng như của toàn xã hội, du lịch Việt Nam đã

đạt được nhiều kết quả nổi bật. Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng

tăng lên đáng kể.

Bảng 1.1: Số lƣợng khách quốc tế đến Việt Nam (2006 – 5/2010)

Năm

Năm

Năm

Năm

5 tháng

Năm

2006

Năm 2007

2007

Năm 2008

2008

Năm 2009

2009

2010 so

2006

so với

(Lƣợt

so với

(Lƣợt

so với

(lƣợt

so với

với cùng

(Lƣợt

2005

ngƣời)

2006

ngƣời)

2007

ngƣời)

2008

kỳ năm

ngƣời)

(%)

(%)

(%)

(%)

2009 (%)

3.772.359

Tổng số

3.583.486

103,0

4.171.564

116,0

4.253.740

100,6

89,1

132,2

270.2430

115,7

3.261.941

120,7

3.283.237

99,5

Theo phƣơng tiện Đường không

3.025.625

92,2

127,7

Đường biển

224.081

111,8

224.389

100,1

157.198

69,9

65.934

43,5

57,0

Đường bộ

656.975

69,8

685.234

104,3

813.305

115,6

680.800

85,0

168,7

Theo mục đích

2.068.875

101,5

2.569.150

124,1

2.631.943

101,0

2..226.440

85,2

137,9

575.812

116,2

643.611

111,7

844.777

125,4

Du lịch nghỉ ngơi Đi công việc

783.139

99,8

148,0

Thăm thân nhân

560.903

110,4

603.847

107,6

509.627

84,8

517.703

101,4

103,4

377.896

86,9

354.956

93,9

267.393

76,7

245.077

91,4

101,5

Các mục đích khác

Nguồn: Tổng cục du lịch (2010)

Năm 2008 và năm 2009 là năm khó khăn đối với hoạt động du lịch thế giới

nói chung và du lịchViệt Nam nói riêng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài

chính, kinh tế thế giới cũng như những tác động tiêu cực đại dịch cúm A/H1N1.

38

Ngành du lịch Việt Nam đã chủ động triển khai nhiều giải pháp cấp bách nhằm

chặn đà suy giảm khách quốc tế và kích cầu du lịch nội địa. Tuy rằng tốc độ tăng

trưởng lượng khách quốc tế giảm, tính chung cả năm 2009 chỉ đạt 3.772.359 lượt,

giảm 10,9% so với năm 2008, song so với con số chung của khu vực châu Á - Thái

Bình Dương chỉ giảm 5%. Trong 5 tháng năm 2010, lượng khách quốc tế tăng

32,2% so với cùng kỳ năm 2009. Tổng cục Du lịch dự kiến trong năm 2010 lượng

khách nội địa đạt khoảng 28 triệu lượt khách và đón khoảng từ 4,5 đến 4,6 triệu lượt

khách quốc tế, tăng từ 18 đến 21% so với năm 2009.

Bên cạnh đó, doanh thu của ngành Du lịch Việt Nam cũng có những bước

tăng trưởng đáng kể, thu nhập xã hội từ du lịch ở hầu hết các vùng trọng điểm du

lịch đều có sự tăng trưởng qua các năm. Năm 2009, doanh thu toàn ngành tăng từ

6,5% đến 9% so với năm 2008, đạt khoảng 70.000 tỉ đồng, thu hút khoảng 8,8 tỷ

USD, chiếm 41% tổng số vốn đăng ký FDI vào Việt Nam. Hiện du lịch đóng góp

khoảng 5% GDP quốc gia. Có thể nói, việc giữ được tốc độ tăng trưởng trong điều

kiện khó khăn vừa qua của Ngành là kết quả rất đáng ghi nhận.

Bên cạnh những kết quả trên, công tác tổ chức đào tạo phát triển nguồn nhân

lực đã được chú trọng, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên một bước,

nguồn lực bên ngoài được thu hút ngày một tăng, tạo thêm nhiều việc làm cho

nguồn lao động. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, từ năm 1991 đến năm 2009,

lao động trực tiếp trong lĩnh vực du lịch tăng gần 20 lần, từ 21.000 người lên

370.000 người và lao động gián tiếp khoảng trên 700.000 người. Hơn nữa, theo dự

báo của của Tổng cục Du lịch, năm 2010 Việt Nam sẽ đón từ 4,5 triệu đến 4,6 triệu

lượt khách quốc tế và khoảng 25 triệu lượt khách nội địa. Do vậy, ngành du lịch cần

1,4 triệu lao động, trong đó khoảng 350.000 người lao động trực tiếp trong ngành,

tỷ lệ tăng bình quân mỗi năm là 8,5%.

Song song với những kết quả trên, ngành du lịch đã đóng góp tích cực tới

bảo vệ môi trường, bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học và sử dụng bền vững nguồn

tài nguyên thiên nhiên, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển du lịch theo hướng

bền vững.

39

Qua phân tích ở trên, có thể thấy hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động du

lịch ngày càng rõ nét. Trong thời gian qua, Du lịch Việt Nam đã có những khởi sắc

mới, phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, Ngành Du lịch Việt Nam vẫn còn

tồn tại một số hạn chế, cản trở sự phát triển hơn nữa của Ngành.

Các Nghị định, văn bản pháp luật chưa được triển khai sâu rộng, Luật du lịch

chưa thực sự hoàn thiện và phát huy hết tác dụng trước thực tế phức tạp nên đã đã

gây ra những hạn chế không nhỏ cho sự phát triển của ngành du lịch.

Tỷ lệ du khách quốc tế đến nước ta tham quan rồi không quay trở lại nữa

ngày càng lớn, đây cũng là một dấu hiệu đáng quan tâm giải quyết.

Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch đã được chú ý nhưng vẫn chưa

hiệu quả, gây thất thoát cho ngân sách của địa phương và Nhà Nước. Bên cạnh đó

cơ sở lưu trú chưa đáp ứng được với tốc độ phát triển của du khách quốc tế. Trình

độ của lực lượng cán bộ, đội ngũ lao động của ngành Du lịch cần phải được nâng

cao hơn nữa.

Ngoài ra, trong quá trình phát triển du lịch ở nước ta vẫn còn một số hạn chế

khác như: Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch vẫn chậm đổi mới cả về hình thức lẫn

nội dung; yếu tố môi trường, xã hội trong phát triển du lịch chưa được đảm bảo. Sự

phát triển của du lịch hiện nay vẫn chưa tương xứng với tầm vóc vốn có của nó.

Từ những hạn chế trên, đòi hỏi Chính phủ và ngành du lịch Việt Nam phải

đưa ra các biện pháp khắc phục để du lịch nước ta phát triển đúng với tiềm năng và

bước vào hàng ngũ các nước có nền du lịch hiện đại, chất lượng cao và bền vững.

1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch của một số địa phƣơng

1.3.2.1. Kinh nghiệm của thủ đô Hà Nội trong phát triển kinh tế du lịch

Hà Nội thành phố với bề dày lịch sử ngàn năm văn hiến, vị trí thủ đô của Hà

Nội có ý nghĩa đặc biệt với phát triển KTDL. Với nguồn tài nguyên tự nhiên và

nhân văn phong phú, hấp dẫn; trong đó văn hóa phi vật thể đóng góp một vai trò rất

quan trọng với nhiều loại hình đậm đà bản sắc. Du lịch Hà Nội ngày càng phát triển

và đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô.

40

Với sự quan tâm chỉ đạo và sự giúp đỡ của các cơ quan từ Trung ương đến

địa phương, ngành du lịch Hà Nội đã xây dựng cho mình những chính sách đúng

đắn và đề ra những phương hướng, mục tiêu, giải pháp kịp thời, tạo môi trường cho

du lịch Hà Nội phát triển và đổi mới phù hợp dần với điều kiện và xu hướng phát

triển của du lịch thế giới và trong nước.

Việc khai thác tiềm năng du lịch đã theo đúng định hướng đề ra trong quy

hoạch; Quản lý khai thác các tài nguyên du lịch được thực hiện nghiêm túc; Các

sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng, đáp ứng nhiều loại hình du lịch và thu hút sự

quan tâm mạnh mẽ của du khách trong nước và quốc tế. Trong những năm qua, tạp

chí Travel & Leisure – Tạp chí du lịch lữ hành hàng đầu thế giới của Mỹ liên tiếp bình chọn Hà Nội là một trong 10 thành phố du lịch tốt nhất của châu Á3.

Bên cạnh đó, ngành du lịch Hà Nội luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến

khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước hợp tác, đầu tư vào phát triển du

lịch, đồng thời tập trung vốn ngân sách đầu tư hạ tầng cơ sở và cơ sở vật chất kỹ

thuật chuyên ngành du lịch, góp phần đáng kể vào việc hoàn thiện hệ thống cơ sở

vật chất kỹ thuật của toàn ngành. Lực lượng kinh doanh du lịch Hà Nội cũng không

ngừng gia tăng ở tất cả các loại hình, đặc biệt có 2 doanh nghiệp: Công ty Du lịch

Việt Nam tại Hà Nội và Công ty liên doanh Du lịch Hồ Gươm đạt danh hiệu Topten

công ty lữ hành hàng đầu Việt Nam. Công tác xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du

lịch được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng nhằm thu hút khách, thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế. Năm 2010 là năm có nhiều sự kiện quan trọng đối với Hà Nội

nói chung và du lịch của Thủ đô nói riêng. Hội nghị cấp cao ASEAN được tổ chức

tại Hà Nội góp phần nâng cao hình ảnh vị thế của thủ đô, đặc biệt người dân cả

nước đang tưng bừng chuẩn bị chờ đón “Đại lễ kỷ niệm 1000 Thăng Long Hà Nội”,

đây sẽ là cơ hội để quảng bá và thu hút một lượng lớn khách du lịch trong nước và

3 Theo http://www.dulichviet.info/top-du-lich/10-thanh-pho-du-lich-hap-dan-nhat-chau-a.html.

_____________________________

41

quốc tế đến Hà Nội.

Ngoài ra, việc hợp tác phát triển du lịch Hà Nội được đẩy mạnh. Sở du lịch

Hà Nội đã ký thỏa thuận mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều địa phương trong cả

nước nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp không chỉ để thúc đẩy phát triển du lịch của

Hà Nội nói riêng mà còn của từng địa phương và du lịch cả nước nói chung. Bên

cạnh đó, Sở cũng tiến hành khảo sát, xúc tiến các thị trường du lịch trọng điểm như:

Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp…

Hiện nay, để thúc đẩy hơn nữa sự gia tăng khách quốc tế trong thời gian tới,

Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội cũng đã tiến hành một số giải pháp để cải

thiện về văn hóa du lịch và vệ sinh môi trường ở thủ đô tại một số khu vực như hồ

Hoàn Kiếm, khu phố cổ... tránh xảy ra tình trạng chèo kéo, lừa gạt du khách…

Như vậy, với sự nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của ngành du lịch

trong cơ cấu ngành kinh tế cùng với những sách lược có tính chất đón đầu, mở rộng

hợp tác quốc tế đã giúp Du lịch Hà Nội phát triển mạnh, hội nhập với khu vực và

quốc tế, xứng đáng là một ngành kinh tế mũi nhọn góp phần tích cực trong sự

nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

1.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Phú Phọ trong phát triển kinh tế du lịch

Phú Thọ là tỉnh có địa hình bán sơn địa, nhịp cầu nối liền giữa thủ đô Hà Nội

với các tỉnh biên giới phía Bắc. Nơi đây đã từng ra đời kinh đô đầu tiên, Nhà nước

đầu tiên, chiếc nôi của người Lạc Việt. Phú Thọ còn là trung tâm du lịch khá hấp

dẫn với khu di tích lịch sử Ðền Hùng - Trung tâm văn hoá tâm linh của cả nước,

khu nghỉ tắm nước khoáng nóng, đầm Ao Châu, khu rừng nguyên sinh Quốc gia

Xuân Sơn với hệ thống các hang động nước ngọt được ví như “Hạ Long cạn” và

nhiều di tích lịch sử danh lam thắng cảnh khá phong phú. Có thể nói, nguồn tiềm

năng nhân văn và tự nhiên là lợi thế khai thác đa dạng các loại hình du lịch văn hóa

và sinh thái hết sức độc đáo đối với Phú Thọ.

Cùng với trào lưu chung phát triển du lịch, KDDL trong cả nước, du lịch Phú

Thọ đã dần tiếp cận và chuyển mình. Bước đi đầu tiên đó là ngành Thương mại du

lịch đã xây dựng đề án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Phú Thọ đến năm 2010

42

và định hướng phát triển đến năm 2020 và được Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh phê

duyệt trở thành một trong những chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Trong đó đầu tư xây dựng các dự án phát triển các

điểm du lịch, khu du lịch, khai thác các giá trị nhân văn và tài nguyên tự nhiên, tạo

nên sự đa dạng về các sản phẩm du lịch mà du lịch văn hóa được coi là xương sống,

là điểm nhấn của tua du lịch về Phú Thọ đã được đặc biệt quan tâm.

Với quan điểm đúng đắn lấy Việt Trì làm xuất phát điểm đến với các danh

thắng, lễ hội trong tỉnh, quy hoạch Khu du lịch Văn Lang đã được xây dựng cùng

với đó là quy hoạch Khu du lịch Đầm Ao Châu - Hạ Hòa; quy hoạch Khu du lịch

nghỉ dưỡng nước khoáng nóng Thanh Thủy và đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê

duyệt. Bên cạnh đó, còn triển khai lập quy hoạch chi tiết Khu du lịch Bến Gót - Việt

Trì; Khu vui chơi giải trí tổng hợp Núi Trang - Phù Ninh; Khu du lịch Vườn quốc

gia thiên nhiên Xuân Sơn. Phối hợp với các đơn vị tư vấn, các ngành có liên quan

lập dự án khả thi, thiết kế kỹ thuật thi công, tổng dự toán công trình đầu tư xây

dựng các khu du lịch đã được quy hoạch trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt để

làm cơ sở gọi vốn đầu tư của các thành phần kinh doanh trong và ngoài nước. Nhiều

tua, tuyến du lịch, chương trình hợp tác du lịch về cội nguồn với các tỉnh lân cận

như Lào Cai, Yên Bái có nét văn hóa, tự nhiên vừa tương đồng vừa độc đáo, độc

nhất được xây dựng nối tua với tuyến điểm du lịch cả nước.

Song trùng với các hoạt động đó, ngành đã triển khai xây dựng các dự án đầu

tư cơ sở hạ tầng du lịch từ nguồn vốn Trung ương hỗ trợ và các dự án đã được Uỷ

ban nhân dân tỉnh phê duyệt; lồng ghép việc xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch với các

chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; tăng cường xúc tiến đầu tư

giới thiệu nguồn tiềm năng và các dự án đầu tư phát triển du lịch với các doanh

nghiệp, các tập đoàn đầu tư trong và ngoài nước; thực hiện ký kết hợp đồng, các

văn bản với đối tác. Làm thủ tục trình Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp phép đầu tư cho

các doanh nghiệp theo quy định. Nhờ những nỗ lực đó đến nay đã có hàng chục dự

án đầu tư vào lĩnh vực du lịch với tổng số vốn gần 4 ngàn tỷ đồng, trong đó 4 dự án

đã được cấp phép với số vốn đầu tư khoảng 470 tỷ đồng. Tại Việt Trì đã có 5 dự án

43

đầu tư vào khu du lịch Văn Lang với tổng số vốn trên 300 tỷ đồng. Tại khu du lịch

Bạch Hạc - Bến Gót có 1 dự án cấp phép đầu tư, với số vốn trên 100 tỷ đồng. Tại

Khu du lịch Núi Trang - Bãi Bằng đã cấp phép đầu tư cho Công ty liên doanh Phú

Minh, với số vốn đầu tư 4 triệu USD. Tại Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh

Thủy: Có 2 dự án trình UBND tỉnh cấp phép đầu tư, với số vốn 250 tỷ đồng; Công ty TNHH Sông Thao - Hà Nội đã được cấp phép đầu tư với số vốn 180 tỷ đồng4.

Các dự án khác đang được tích cực xúc tiến mời gọi đầu tư dưới nhiều hình thức.

Nhờ thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, từng

bước tạo được những sản phẩm du lịch đa dạng, tạo ra sự hấp dẫn, thu hút ngày

càng nhiều khách du lịch, tăng nguồn thu cho ngân sách, giải quyết một phần việc

làm và nâng cao đời sống cho nhân dân. Trong những năm gần đây số lượng khách

du lịch lưu trú trên địa bàn tỉnh có mức tăng trưởng hàng năm đạt từ 15-20%, năm

sau luôn cao hơn năm trước. Tiềm năng du lịch Phú Thọ đang được thức dậy, góp

phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị, an ninh trật tự và an toàn xã hội, giữ gìn,

phát huy truyền thống và bản sắc văn hóa trên quê hương đất Tổ.

Để nguồn tiềm năng du lịch tiếp tục được khai thác hiệu quả hơn, ngành du lịch Phú

Thọ đang có những nỗ lực mới, dành đầu tư xây dựng quy hoạch, lập dự án khả thi

xây dựng các khu du lịch tập trung theo định hướng quy hoạch tổng thể đề ra làm cơ

sở để gọi vốn đầu tư. Tham mưu với tỉnh xây dựng chính sách ưu tiên phát triển du

lịch nhằm thu hút vốn đầu tư. Lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế, xã hội

của tỉnh, thực hiện xây dựng có hiệu quả hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch trên địa bàn

tỉnh. Đào tạo, quy hoạch, sắp xếp đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác du lịch

đảm bảo các tiêu chuẩn và yêu cầu đặt ra, đáp ứng với nhiệm vụ. Thực hiện tốt công

tác quản lý Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh phát triển,

bình đẳng, theo đúng quy định pháp luật. Xây dựng chiến lược tuyên truyền quảng

bá nguồn tiềm năng, thế mạnh du lịch Phú Thọ nhằm thu hút các nhà đầu tư thuộc

mọi thành phần kinh tế.

4Theohttp://www.baophutho.org.vn/baophutho/vn/website/du-lich-le-hoi-am- thuc/1011798A387/2007/7/108E075FD84/

_________________________

44

1.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Ninh Bình trong phát triển kinh tế du lịch

Cùng với sự phát triển chung của du lịch cả nước, trong thời gian qua du

lịch Ninh Bình cũng đã có bước phát triển đáng kể. Đặc biệt, trong giai đoạn ngành

du lịch nói chung gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nhưng

ngành du lịch Tỉnh đã biết tập trung khai thác thế mạnh du lịch địa phương và đạt

được nhiều thành công đáng ghi nhận.

Lượng khách quốc tế và nội địa không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng

hàng năm của ngành đạt từ 15% - 20%, doanh thu dịch vụ du lịch từng bước được

nâng cao, góp phần tích cực vào sự phát triển của kinh tế địa phương. Năm 2009,

lượng khách đến Ninh bình đạt 2,4 triệu lượt người, tăng 26%; trong đó khách quốc

tế đạt 600.000 lượt, khách lưu trú đạt 130.000 lượt. Nếu như năm 2000, doanh thu

du lịch mới chỉ đạt 14.724 triệu đồng, năm 2006 đạt 87.995 triệu đồng tăng gấp 6

lần so với năm 2000 thì đến năm 2009 doanh thu du lịch đã tăng lên 245 tỷ đồng, tăng 51% so với năm 20085. Bên cạnh đó, du lịch Ninh Bình cũng đã góp phần tạo

thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu ngoại tệ…góp phần tích cực vào

công tác xóa đói, giảm nghèo của địa phương.

Nguyên nhân nào đã làm cho du lịch Ninh Bình có được những thành công

nổi bật trên. Có thể nói, có được những kết quả trên là do các cấp tỉnh ủy, các ban

ngành, đặc biệt là ngành Du lịch Ninh Bình đã có những bước đi chỉ đạo đúng đắn,

tiến bộ. Công tác hướng dẫn thanh tra, kiểm tra chấn chỉnh các vi phạm trong kinh

doanh du lịch được duy trì. Đơn cử như khu du lịch Tam Cốc – Bích Động, đội ngũ

làm nghề chèo đò với hàng ngàn người đã được tập trung huấn luyện phổ biến kiến

thức du lịch, tham quan học hỏi kinh nghiệm. Ban quản lý khu du lịch cũng đã cấp

giấy chứng nhận người hành nghề cho thợ chụp ảnh nhờ đó giảm hiện tượng chèo

kéo khách và phối hợp chặt chẽ với chính quyền xã để thường xuyên vệ sinh môi

trường, đảm bảo an ninh trật tự.

Bên cạnh đó, việc đầu tư mạnh cho du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng giao và

5Theohttp://www.vietnamplus.vn/Home/Nam-2009-khach-du-lich-den-Ninh-Binh-tang-dot-

bien/200912/28103.vnplus

_________________________

45

xây dựng nhiều nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí đã giúp cho Ninh Bình

không những thu hút khách đến mà còn gia tăng được lượng khách lưu trú. Hiện

nay, địa phương cũng đang kêu gọi thu hút các dự án đầu tư vào du lịch, cơ sở lưu

trú để hướng đến mục tiêu phục vụ lượng khách lớn hơn trong tương lai như

chương trình trong quần thể khu du lịch Cố đô Hoa Lư nhằm đáp ứng phục vụ Đại

lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội.

Công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, giới thiệu về quê hương và con

người Ninh Bình cũng được chú trọng. Nhiều ấn phẩm mới như phim, báo, ảnh,

sách…được đưa vào phục vụ khách.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là

đội ngũ lao động phục vụ trực triếp trong ngành du lịch như hướng dẫn viên, lễ tân,

chạy bàn và các dịch vụ hỗ trợ khác đã được ngành du lịch tỉnh chú trọng và quy

hoạch bài bản hơn.

Với những thành công kể trên, đã góp phần khẳng định vai trò quan trọng

của kinh tế du lịch đối với kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình. Du lịch Ninh Bình

dần trở thành điểm đến thu hút lớn du khách trong nước và quốc tế.

 Bài học kinh nghiệm cho phát triển KTDL ở tỉnh Lào Cai

Như vậy, thông qua việc đánh giá các thành tựu, hạn chế cũng như nguyên

nhân dẫn đến các hạn chế của du lịch Việt Nam và từ việc phân tích, tổng hợp khái

quát một số kết quả đạt được về phát triển kinh tế du lịch của Thủ đô Hà Nội - trung

tâm văn hóa, du lịch lớn của cả nước; Tỉnh Phú Thọ với nhiều nét tương đồng về

văn hóa và tự nhiên; Tỉnh Ninh Bình – một trong những tỉnh đã đạt được nhiều

thành công đáng kể trong giai đoạn khó khăn của ngành du lịch Việt Nam vừa qua

đã giúp cho Lào Cai có được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá từ việc quản lý,

quy hoạch, khai thác và sử dụng trong quá trình phát triển kinh tế du lịch của địa

phương như sau:

Một là, Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch phải được quan tâm chỉ đạo.

Việc quy hoạch được thực hiện một cách khoa học, thực tiễn giúp cho việc định

hướng đầu tư, qui mô đầu tư, phương thức đầu tư và hiệu quả đầu tư. Nhất thiết

phải đi từ qui hoạch tổng thể rồi đến quy hoạch chi tiết, đồng thời hướng dẫn thanh

tra, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện đúng qui hoạch đã được phê duyệt. Các ngành, các

46

cấp phối hợp chặt chẽ với ngành du lịch trong công tác QLNN về du lịch, trong đó

ngành du lịch phải đi đầu làm nòng cốt trong nghiên cứu, triển khai chiến lược, cơ

chế, chính sách phát triển du lịch và thể chế hóa thành các luật lệ, biện pháp và

chương trình cụ thể. Bên cạnh đó, thường xuyên nghiên cứu thông tin, kinh nghiệm

phát triển KTDL của các địa phương trong và ngoài nước, tổng kết thực tiễn kịp

thời để phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn về du lịch của địa phương.

Hai là, Quản lý Nhà Nước về du lịch cần tăng cường trên tất cả các lĩnh vực,

việc phối hợp QLNN về du lịch giữa ngành với cấp cơ quan và doanh nghiệp phải

thường xuyên và liên tục nhằm đảm bảo sự thống nhất, đúng hướng và nhanh nhậy

từ cấp cao nhất trong bộ máy quản lý đến các cấp thừa hành ở địa phương, tạo điều

kiện cho du lịch phát triển đúng hướng và hiệu quả hướng tới mục tiêu phát triển du

lịch bền vững.

Ba là, Xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên đầu tư và phát triển du lịch phù

hợp với điều kiện địa phương và đặc điểm tài nguyên du lịch, với xu thế phát triển

du lịch thế giới. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội và cở sở vật chất

chuyên ngành du lịch, trước hết phải đầu tư ban đầu bằng ngân sách Nhà Nước và

huy động từ nhiều nguồn khác. Chú trọng đào tạo, bối dưỡng và nâng cao trình độ

cho nguồn nhân lực du lịch và giáo dục du lịch toàn dân.

Bốn là, phải chú trọng công tác xúc tiến, quảng bá, tuyên truyền và hợp tác,

đầu tư về du lịch. Xúc tiến, quảng bá là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế du

lịch, cần được tiến hành một cách khoa học, chuyên nghiệp, sâu rộng và thường

xuyên. Tăng cường công tác tuyên truyền ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả trong nước

và quốc tế dưới nhiều hình thức đa dạng, đặc biệt tập trung ở những thị trường trọng

điểm để phát động, củng cố, mở rộng qui mô thị trường. Song song với nó, cần

phải đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế song phương và đa phương nhằm tranh thủ

tối đa sự hỗ trợ, đầu tư quốc tế về mọi mặt. Bên cạnh đó cũng không ngừng cải tiến,

nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch, tăng khả năng cạnh tranh.

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU

LỊCH Ở TỈNH LÀO CAI

47

2.1. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH LÀO CAI

2.1.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Lào Cai

Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc miền núi phía Bắc Việt Nam, vị

thế của Lào Cai là tiềm năng thiên phú cho du lịch. Với những lợi thế về điều kiện

tự nhiên cũng như đặc điểm kinh tế - xã hội riêng của mình, đã tạo cho Lào Cai có

một nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú, đan xen và kết hợp hài hòa với

nguồn tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo để phát triển kinh tế du lịch của địa

phương.

2.1.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý:

Tỉnh Lào Cai được tái lập từ tháng 10 năm 1991 trên cơ sở tách ra từ tỉnh

Hoàng Liên Sơn, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc của Việt Nam,

cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ.

Địa dư của Lào Cai được xác định ở vị trí từ 103,50 đến 104,50 kinh độ Đông và từ 21,60 đến 22,80 vĩ độ Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203

km đường biên giới, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang,

phía Nam giáp tỉnh Yên Bái và Sơn La.

Ở một vị trí đặc biệt, Lào Cai với lợi thế là cửa ngõ thông thương với Tỉnh

Vân Nam và vùng Tây Nam - Trung Quốc, Lào Cai trở thành cầu nối giữa các tỉnh

phía sau Việt Nam với các tỉnh phía Tây Nam – Trung Quốc. Từ Lào Cai du khách

có thể đi du lịch sang Trung Quốc hoặc vào sâu nội địa Việt Nam. Bên cạnh đó, Lào

Cai nằm trong trục hành lang kinh tế Đông Tây Hải Phòng – Lào Cai – Côn Minh

tạo điều kiện thuận lợi cho mở cửa giao lưu, phát triển kinh tế toàn tỉnh nói chung

và kinh tế du lịch nói riêng.

* Đặc điểm địa hình:

Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc của đất nước, thuộc địa bàn núi cao

nhất Việt Nam, địa hình bị chia cắt mạnh mẽ, điều này liên quan chặt chẽ với đặc

48

tính của các nhóm đá cấu tạo chủ chốt ở đây: Nhóm đá Granit, đá Phiến và Sa

thạch. Tuy nhiên, địa hình cũng phân hóa thành hai vùng khác nhau.

- Vùng núi cao với độ cao từ 700m trở lên, được hình thành từ những dãy

núi, khối núi lớn, trong đó có 2 dãy núi chính là Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi

chạy song song với nhau theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Điểm cao nhất là đỉnh

núi Phan Xi Păng – mái nhà của đất nước có độ cao 3.143m, Tả Giảng Phình có độ

cao 3.096m, Pu Luông (2.983m), Sa Phin (2.897m)…

- Vùng địa hình thấp chủ yếu là các thung lũng dọc sông, suối lớn và các

kiểu địa hình máng trũng có bề mặt dạng đồi, các bồn địa chân núi Hoàng Liên Sơn

như Than Uyên. Bên cạnh thung lũng lớn dọc sông và các thung lũng nhỏ hẹp bị

bao bọc bởi các sơn nguyên, dãy núi.

Địa hình núi cao chia cắt mạnh, độ dốc lớn có ảnh hưởng không nhỏ đến khả

năng sản xuất nông nghiệp, khai thác khoáng sản, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng

song đối với du lịch nó lại đưa lại những giá trị nhất định, tạo nên tiềm năng du lịch

tự nhiên như những vách núi đá, đỉnh núi hiểm trở thuận lợi cho du lịch thể thao leo

núi, chinh phục các đỉnh núi cao, những hang động, thung lũng…đáp ứng nhu cầu

tham quan, nghiên cứu của du khách. Bên cạnh đó, trên nền địa hình ấy là thảm

thực vật tự nhiên phong phú, tạo điều kiện thu hút và phát triển loại hình du lịch

sinh thái.

* Khí hậu:

Lào Cai nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong

lục địa bị chi phối bởi nhiều yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần

thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất

hiện ở dạng nhiệt độ trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá (vùng Sapa có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 0oC và có tuyết rơi).

Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa

bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng cao từ 150C đến 200C (riêng Sa Pa từ 140C đến 160C và không có tháng nào lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800 –

49

2.000mm/năm. Ở vùng thấp, nhiệt độ trung bình từ 230C đến 290C, lượng mưa bình

quân khoảng 1.400 - 1.700mm/năm.

Nhìn chung, Lào Cai có nhiều tiểu vùng khí hậu tốt, nhất là những vùng có

độ cao từ 1.000m trở lên, thời tiết mát mẻ trong mùa hè (đặc biệt là ở Sapa, Bắc

Hà), mùa đông ít lạnh hơn so với những nơi có cùng vĩ độ ở sườn Đông dãy Hoàng Liên Sơn (khoảng 20C) do vậy rất thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng, phục hồi sức

khỏe.

* Thủy văn:

Đặc điểm địa hình và khí hậu đã tạo cho Lào Cai có hệ thống sông suối khá

dày đặc và lượng nước chảy phong phú. Trên địa bàn tỉnh có hai hệ thống sông

chính chảy qua là Sông Hồng và Sông Chảy.

Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam – Trung Quốc, có chiều dài chảy qua tỉnh

là 130km. Ngoài vai trò trong phát triển kinh tế, sông Hồng còn có vai trò to lớn

trong quá trình giao lưu giữa Lào Cai với các vùng trong và ngoài nước thông qua

hệ thống giao thông đường thủy.

Sông Chảy là con sông lớn thứ hai chảy qua địa bàn tỉnh với 124km chiều

dài, từ Pha Luông – Mường Khương qua cao nguyên Bắc Hà tới Phố Ràng.

Ngoài 2 con sông lớn, trên địa bàn tỉnh còn có hàng nghìn con sông, suối lớn

nhỏ (trong đó có 107 sông, suối dài từ 10 km trở lên) cũng có giá trị cho phát triển

kinh tế - xã hội cũng như du lịch của Lào Cai như: Sông Nậm Nhi, sông ngòi

Đum…và rất nhiều con suối nhỏ như suối Mường Hoa, suối Tiên…Bên cạnh đó,

theo các tài liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước nóng có nhiệt độ khoảng 400C và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa hiện chưa được khai

thác, sử dụng, tạo tiềm năng trong phát triển loại hình du lịch nghỉ ngơi, chữa bệnh.

* Tài nguyên sinh vật:

Ở Lào Cai, theo độ cao khác nhau đã tạo nên nhiều kiểu rừng: Rừng kín với

các loại cây lá rộng xanh quanh năm và các loại dây leo, bụi rậm chằng chịt, lên cao

hơn là rừng hỗn hợp cây lá rộng, lá kim, từ độ cao 2.500m trở lên hầu như không

còn cây cối nhiều, chỉ có lác đác Trúc núi.

50

Thực vật rừng rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của thực

vật. Riêng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn đã phát hiện được 847 loài

thực vật thuộc 164 họ, 5 ngành, trong đó có 6 loại quý hiếm đối với nước ta và thế

giới là: Bách Xanh, Thiết Sam, Thông tre, Thông đỏ, Bách tùng, Dẻ tùng.

Động vật rừng Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái. Trong đó thú

có 84 loài thuộc 28 họ, 9 bộ; chim có 251 loài thuộc 41 họ, 14 bộ; bò sát co 73 loài

thuộc 12 họ…Bên cạnh đó, Lào Cai có một số loài động vật đặc hữu như Gà lôi tía

(ở độ cao 2000-3000m), Khướu đuôi đỏ, Rắn lục sừng…Đây là nguồn tiềm năng có

giá trị lớn cho phát triển du lịch nhất là du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu

khoa học.

2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai

 Đặc điểm dân cư và người lao động:

+ Dân cư, dân tộc Toàn tỉnh Lào Cai có 613.075 người với mật độ dân số là 96 người / km2.

Lào Cai là vùng đất có nhiều có nhiều dân tộc cùng chung sống hòa thuận,

với 25 nhóm ngành dân tộc. Trong đó dân tộc thiểu số chiếm 65% dân số toàn tỉnh

gồm có: Dân tộc Hmông chiếm 22,21%, tiếp đến là dân tộc Tày 15,84%, Dao

14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4% còn lại là các dân tộc đặc biệt ít người như Phù Lá,

Sán Chay, Hà Nhì, La Chí,..., dân tộc Kinh chiếm 35%,.

Mỗi dân tộc có một tập quán sinh hoạt riêng tạo nên sự phong phú đa dạng

của văn hóa Lào Cai, được thể hiện qua cấu trúc nhà ở, trang phục, nghệ thuật ca

múa nhạc, văn hóa dân gian, tín ngưỡng…Đây chính là thế mạnh và là tiềm năng to

lớn để Lào Cai phát triển du lịch dựa trên nền văn hóa đa sắc tộc.

+ Lao động:

Do kết cấu dân số trẻ nên Lào Cai có một nguồn lao động tương đối dồi dào.

Tổng số lao động là 337.803 người chiếm 55,1% dân số toàn tỉnh. Đến thời điểm

hiện nay, Lào Cai có 3.200 lao động trực tiếp trong ngành du lịch, trong đó trình độ

từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 20%. Đa số có trình độ trung, sơ cấp, chưa qua đào

tạo chuyên ngành du lịch và làm việc theo hợp đồng thời vụ.

51

Như vậy, mặc dù nguồn lao động tương đối lớn nhưng trình độ còn chưa cao.

Do vậy, trong những năm tới để phát triển kinh tế du lịch của tỉnh thì Lào Cai cần

phải tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh nói chung và

ngành du lịch nói riêng, góp phần giải quyết và tạo việc làm cho dân cư địa phương.

 Về phát triển kinh tế

Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng

bộ tỉnh lần thứ XIII phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, trong những năm qua

Đảng bộ tỉnh đã tập trung cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, có bước đi phù hợp, huy

động được sức mạnh tổng hợp toàn xã hội nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh

khá cao đạt 12%, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tăng 11% so với

năm 2008. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế Lào Cai đã chuyển dịch

theo đúng hướng, hiện nay, tỷ trọng trong GDP của nông, lâm nghiệp chiếm

34,53%, công nghiệp-xây dựng 30,36%, dịch vụ 35,11% .Những kết quả nổi bật

trên, khởi đầu cho sự tiếp nối của nhiệm kỳ mới sẽ góp phần quan trọng tạo động

lực phát triển cho nền kinh tế của tỉnh tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường

CNH – HĐH.

 Đặc điểm kết cấu hạ tầng

+ Giao thông:

Với 203 km đường biên giới với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, Lào Cai là

một trong những đầu mối giao thông quan trọng của cả nước nối liền với nước bạn

Trung Hoa. Là một tỉnh miền núi nên địa hình Lào Cai phức tạp, nhiều đồi núi cao,

chia cắt mạnh, rất khó khăn cho việc phát triển giao thông. Nhưng bằng sự nỗ lực

hết mình, ngành giao thông vận tải Lào Cai đã xây dựng được một hệ thống giao

thông thông suốt 4 mùa, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm nhiệm

được vai trò cầu nối của cả nước với vùng Tây Nam - Trung Quốc rộng lớn. Lào

Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng lưới giao thông vận tải đa dạng, bao

gồm: đường bộ, đường sắt, đường sông.

- Đường bộ: Có bốn tuyến quốc lộ chạy qua địa bàn tỉnh (4D, 4E, 279, 70)

với tổng chiều dài trên 400 km; tám tuyến tỉnh lộ với gần 300 km và gần 1.000 km

52

đường liên xã, liên thôn. Mạng lưới giao thông phân bố rộng khắp và khá đồng đều

trên địa bàn các huyện, thị đảm bảo giao thông thuận lợi. Hiện tại tuyến đường giao

thông Hà Nội – Lào Cai (quốc lộ 70) đã được cải tạo, hoàn thành, bên cạnh đó các

tuyến đường nối các khu, điểm du lịch Lào Cai – Sa Pa – Bắc Hà và một số huyện

khác cũng đã được đầu tư, nâng cấp.

Đặc biệt, việc khởi công tuyến đường cao tốc Lào Cai – Nội Bài với chiều

dài 264km, tuyến đường này sẽ kết nối Hà Nội – Hải Phòng, với đường cao tốc Côn

Minh (Trung Quốc) – Hà Khẩu (Lào Cai) tạo thành tuyến cao tốc Côn minh – Hải

Phòng, một trong những tuyến đường hợp tác phát triển trong tuyến hành lang kinh

tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng. Đây là công trình trọng điểm quốc

gia nằm trong chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông (GMS), là điều

kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh.

- Đường sắt: Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đoạn qua địa

phận Lào Cai dài 62 km được nối với đường sắt Trung Quốc, năng lực vận tải

khoảng 1 triệu tấn/năm và hàng ngàn lượt khách/ngày, đêm. Ngoài ra còn có đường

sắt nối từ Phố Lu vào mỏ Apatít Cam Đường và một nhánh từ Xuân Giao đi Nhà

máy Tuyển quặng Tằng Loỏng, với tổng chiều dài 58 km, theo thiết kế có 50 đôi

tàu/ngày đêm.

- Đường sông: Có hai tuyến sông Hồng và sông Chảy chảy dọc tỉnh, tạo

thành một hệ thống giao thông đường thuỷ liên hoàn.

- Bên cạnh đó, Chính phủ đã có chủ trương xây dựng sân bay tại Lào Cai

trong giai đoạn 2010 – 2015 tạo ra những cơ hội thuận lợi cho phát triển du lịch.

Trong lĩnh vực giao thông đối ngoại, ngành giao thông vận tải Lào Cai đã có

quan hệ chặt chẽ với ngành giao thông Vân Nam - Trung Quốc. Những năm qua,

hai bên thường xuyên trao đổi các vấn đề liên quan đến giao thông giữa hai nước

như: xây dựng các cầu qua sông biên giới hai nước, thực hiện tốt Hiệp định vận tải

đã ký kết...

+ Hệ thống điện, thông tin văn hóa:

53

Hiện nay, tỉnh đã xây dựng mạng lưới điện đảm bảo cung cấp cho nhu cầu tại

thành phố và các thị trấn với 9/9 huyện, thành phố; 164 xã, phường, thị trấn có điện

lưới quốc gia; 75% hộ dân được sử dụng điện lưới. Ngoài ra từ năm 2006, ngành

Điện lực Việt Nam đã hoàn thành đấu nối đường dây 220 KV Yên Bái – Lào Cai –

Hà Khẩu để nhập khẩu điện từ Vân Nam (Trung Quốc) với nhu cầu sản lượng

khoản 300MW, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi người dân

trong tỉnh.

Hệ thống thông tin liên lạc đã phát triển trên các huyện, thành phố, bước đầu

đã đáp ứng được yêu cầu cho phát triển du lịch

- Hạ tầng bưu chính: Tính đến 30/9/2009, có 227 điểm phục vụ, trong đó: có

25 Bưu cục, 127/144 xã có điểm bưu điện văn hoá xã; 125 đại lý bưu điện, 100%

trung tâm huyện, thành phố có báo đến trong ngày. Bán kính phục vụ bình quân

2,7km/điểm phục vụ; bình quân số dân được phục vụ là 2.143 người/điểm phục vụ

(đạt 97% chỉ tiêu đến năm 2010).

- Hạ tầng viễn thông: So với những năm trước, mạng lưới viễn thông của

tỉnh Lào Cai đã có sự phát triển vượt bậc. Hiện nay trên toàn mạng có 57 tuyến cáp

quang, 30 tuyến truyền dẫn Vi ba, 170 trạm BTS. Mật độ điện thoại bình quân đạt

62,8 máy/100 dân (gồm cả cố định và di động). Thuê bao Internet đạt trên 11.900

thuê bao trong đó thuê bao băng rộng đạt 5.672 thuê bao. Theo hướng dẫn về hệ số

quy đổi của Bộ Tthông tin và Truyền thông mật độ sử dụng Internet của tỉnh Lào

Cai đạt 10,5/100 dân.

- Việc phát triển hạ tầng CNTT tại các sở, ban, ngành đã được chú trọng đầu

tư, kết nối Internet phục vụ cho công tác quản lý, điều hành. Đến nay đã có 42/59

cơ quan nhà nước có mạng LAN; tỷ lệ máy tính kết nối Internet chiếm hơn 60%.

Hiện tại, Tỉnh đã có Cổng giao tiếp điện tử ở địa chỉ: http://w.w.w.laocai.gov.vn/ là

kênh thông tin chính thức của tỉnh Lào Cai trên môi trường mạng.

+ Dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe:

Mạng lưới y tế cơ sở không ngừng được củng cố và từng bước hoàn thiện,

54

100% số xã, phường, thị trấn có Trạm xá và cán bộ y tế. Tỷ lệ xã phường đạt chuẩn

quốc gia về y tế là 66%. Hiện nay, toàn tỉnh có 4 bệnh viện tuyến tỉnh, 8 bệnh viện

tuyến huyện và 36 phòng khám đa khoa khu vực với 2.180 giường điều trị. Bằng

nhiều nguồn vốn đầu tư các cơ sở y tế đã từng bước trang bị những thiết bị, phương

tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho việc khám, chữa bệnh. Tất cả đều phản ánh năng

lực của ngành trên đà phát triển và đã góp phần tích cực vào việc chăm sóc bảo vệ

sức khỏe cộng đồng dân cư.

+ Giáo dục và đào tạo:

Sự nghiệp giáo dục- đào tạo của tỉnh không ngừng phát triển theo hướng đa

dạng hoá về loại hình, phương thức và nguồn lực, từng bước hội nhập với xu thế

chung của nền giáo dục cả nước. Các ngành học, bậc học của tỉnh tiếp tục phát triển

nhanh về qui mô trường lớp, học sinh. Chất lượng giáo dục toàn diện ở các ngành

học, bậc học qua các năm được giữ vững và có những chuyển biến rõ rệt. Duy trì và

nâng cao tính bền vững phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, đã hoàn thành phổ cập giáo

dục trung học cơ sở vào tháng 12 năm 2007 đúng tiến độ. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi

đến trường đạt 99,4%. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Đào tạo nguồn

nhân lực được chú trọng, tỉnh có nhiều trung tâm dạy nghề ở các địa phương và ở

các ngành. Điều đó cho thấy, trong những năm qua cùng với sự phát triển kinh tế,

lĩnh vực giáo dục đào tạo cũng được quan tâm đầu tư, phát triển tạo đà công nghiệp

hóa, hiện đại hóa của tỉnh.

2.1.2. Nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh Lào Cai

2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên

Đặc điểm điều kiện tự nhiên đã tạo cho Lào Cai một tiềm năng du lịch thiên

nhiên vô cùng phong phú, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều lợi hình du lịch

như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch thể thao, leo núi…với những địa

danh nổi tiếng như Sa Pa, Bắc Hà, Phan Xi Păng, cửa khẩu quốc tế Lào Cai…

- Sa Pa là điểm du lịch nổi tiếng không chỉ của riêng Lào Cai mà còn của

Việt Nam, là một trong 21 trọng điểm du lịch của nước ta. Sa Pa nằm ở độ cao trung

bình 1.200m – 1.800m, khí hậu mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình từ 15 –

55

20oC, điều kiện khí hậu rất thích hợp cho sức khỏe của con người, thuận lợi cho

phát triển du lịch nghỉ dưỡng, tham quan. Đến Sa Pa, du khách có thể ngắm nhìn

hay leo lên đỉnh núi Phan Xi Păng – đỉnh núi cao nhất Đông Dương, tham quan

Thác Bạc – thượng nguồn chính của con suối Mường Hoa, Cầu Mây – cầu treo bắc

qua con suối Mường Hoa, leo núi Hàm Rồng thưởng thức vẻ đẹp của đủ loại phong

lan, đỗ quyên…

- Cao nguyên đá vôi Bắc Hà: Cũng giống như Sa Pa, Bắc Hà có khí hậu

quanh năm mát mẻ và là một vùng mận Tam hoa khổng lồ. Về mùa xuân, Bắc Hà

như một cao nguyên trắng của sương và hoa mận với nhiều cảnh đẹp đáng chú ý

như động Tảng Lùng Phìn, dinh Hoàng A Tưởng xây dựng cách đây gần một thế

kỷ.

- Địa hình núi đã đưa lại cho Lào Cai nhiều hang động đẹp có giá trị cho phát

triển du lịch, trong đó điển hình là động Mường Vi – còn gọi là động Thủy Tiên, là

một quần thể hang động có quy mô vào loại lớn ở miền Bắc Việt Nam. Trong động

có nhiều nhũ đá, cột đá tạo thành những hình thù ký thú, khi gõ vào có thể tạo ra

những âm thanh như tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng đàn. Quần thể hang động

Mường Vi không chỉ đẹp mà còn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian và đã

được Bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia.

Ngoài ra còn nhiều hang động khác như động Tả Phời (Cam Đường), động

Hàm Rồng (Mường Khương)…có thể đưa vào khai thác phục vụ loại hình du lịch

sinh thái, tham quan.

- Địa hình dốc, chia cắt đã tạo nên đặc điểm sông suối nhiều thác,

ghềnh…tạo nên cảnh đẹp hấp dẫn du khách tham quan, tắm mát như Thác Bạc, Huy

Ly, Phai Na…

- Nước khoáng Tăckô: Là mạch nước ngầm trong vắt, nằm ở địa phận

Mường Tiên. Nước ngọt và mát có tác dụng giải khát và chữa bệnh, rất có giá trị

trong phục vụ khách du lịch.

56

- Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên với diện tích khoảng 29.845ha, là khu

dự trữ tự nhiên lớn của Việt Nam với khoảng hơn 700 loài thực vật khác nhau. Đây

thực sự là tiềm năng to lớn cho du lịch sinh thái của Lào Cai.

- Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu cũng là một điểm du lịch thú vị mà

điểm dừng chân không thể là nơi nào khác ngoài thành phố Lào Cai.

2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn

Với những nét riêng về văn hóa - xã hội đã tạo cho Lào Cai có một nguồn tài

nguyên du lịch nhân văn độc đáo. Các tài nguyên này bao gồm những di tích lịch sử

văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, những sản phẩm thủ công, những giá trị văn hóa phi

vật thể như văn nghệ dân gian, lễ hội, ẩm thực…thể hiện bản sắc văn hóa của Lào

Cai, là lực thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế đến nghiên cứu,

tham quan, tìm hiểu.

 Di tích văn hóa – lịch sử

* Di tích lịch sử

- Đền Bảo Hà: Thờ ông Hoàng Bẩy, một anh hùng miền sơn cước đánh giặc

phương Bắc bảo vệ bản làng. Đền được xây dựng vào thế kỷ 17, được triều đình

nhà Lê phong tặng “Trấn an hiển liệt”.

- Đền Mẫu: Xây dựng từ đầu thế kỷ 18 thuộc địa phận làng Lão Nhai (nay là

thành phố Lào Cai). Đây là công trình thể hiện tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt

sống ở vùng biên cương của Tổ quốc.

- Đền Thượng: Cách đền Mẫu khoảng 300m, là một ngôi đền cổ với khuôn

viên rộng hàng chục hecta. Đền thờ Trần Hưng Đạo, biểu tượng văn hóa là nơi thờ

cha. Đền được xây từ đầu thế kỷ 19. Khách trong và ngoài nước rất thích đến vãn

cảnh chùa mỗi khi đi du lịch Lào Cai.

- Bên cạnh đó, Lào Cai còn có những di tích lịch sử mang tính cách mạng

như di tích đồn Phố Ràng, pháo đài cổ, được người Pháp khởi công xây dựng, sau

đó người Nhật mở rộng với hệ thống hầm ngầm sâu trong lòng núi, nhiều hang

ngách chằng chịt chứa những điều bí ẩn chưa được khám phá.

* Di tích khảo cổ:

57

Lào Cai là tỉnh có khá nhiều di tích khảo cổ quan trọng, trên địa bàn tỉnh đã

phát hiện được trên 17 di tích văn hóa Đông Sơn. Các di tích này tập trung ở lưu

vực sông Hồng tại các huyện Bát Xát, Cam Đường, Mường Khương, Bảo Thắng và

thành phố Lào Cai. Những di tích phát hiện phần lớn đều là mộ táng, trong đó di vật

Đồng Thau rất phong phú, mang đặc trưng của Đông Sơn miền núi, bao gồm công

cụ sản xuất (lưỡi cày, lưới cuốc, rìu, thuổng…), đồ dùng sinh hoạt (bình âu, bát

đĩa…), vũ khí (giáo, dao găm, chông…) và nhiều loại nhạc khí như chuông voi và

đặc biệt là trống đồng các loại, một hiện vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn.

Bãi đá cổ Sa Pa – di sản của người Việt cổ, là một khu di tích khảo cổ quan trọng có giá trị văn hóa lịch sử lớn. Di tích bãi đá cổ rộng khoảng 8km2, bao gồm

những tảng đá với nhiều lớp chạm khắc cổ nằm trong thung lũng Mường Hoa, rải

rác xen giữa những thửa ruộng bậc thang của đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây.

Các lớp chạm khắc trên đá bao gồm nhiều loại hình khác nhau như tranh vẽ tả thực,

hoa văn trang trí, trong đó đáng chú ý nhất là các hình vẽ người, nhà sàn và các dấu

hiệu có thể là một hình thức phôi thai của chữ viết đến nay vẫn chưa giải mã được.

Hiện nay, khu di tích này thu được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và đang đề

nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

 Lễ hội truyền thống

Trong các tài nguyên du lịch nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên có

giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Ngoài những lễ hội có tính chất chung của cả nước,

của vùng núi Tây Bắc, Lào Cai còn có những lễ hội riêng, đặc sắc. Thông qua các lễ

hội này, du khách có thể hiểu được về văn hóa và con người Lào Cai.

- Hội chơi núi mùa xuân: Đây là lễ hội của dân tộc H’Mông còn được gọi là

Gầu Tào hoặc Sán Sải (có nghĩa là đi chơi ngoài trời hoặc chơi núi). Lễ hội thường

diễn ra sau tết nguyên đán, từ mùng 3 đến mùng 5 tháng giêng tại những khu đồi

thoải gần các bản làng. Lễ hội mang màu sắc tín ngưỡng dân gian: Cầu con, cầu

mệnh, cầu may, cầu phúc. Trong lễ hội còn tổ chức nhiều trò chơi, trò thi đấu như

thi bắn nỏ, đua ngựa, múa khèn…

58

- Lễ Tết Nhảy của người Dao Đỏ: Được tổ chức vào dịp tết nguyên đán,

thường diễn ra tại các nhà trưởng họ. Nét đặc thù của lễ hội là tắm tượng tổ tiên

bằng gỗ. Trong lễ hội còn có những điệu múa thể hiện tín ngưỡng mang màu sắc

văn hóa, nghệ thuật qua đó thấy được nét sinh hoạt cộng đồng của người Dao Đỏ.

- Hội Lồng Tồng của người Tày (huyện Văn Bàn, huyện Bắc Hà): Là nét

sinh hoạt đặc sắc nhất của người Tày, được tổ chức vào mùng 5 tết hoặc 15 tết tại

khu ruộng gần bản, trung tâm lễ hội là cây còn. Lễ hội phản ánh ước nguyện được

mùa, con người khỏe mạnh, sinh nhiều con cháu. Trong lễ hội có nhiều cuộc vui

như thi ném còn, kéo co, chọi gà bằng hoa chuối, chọi châu bằng măng vầu, hát

giao duyên…

- Hội xuống đồng (dân tộc Giáy, Phù Lá), còn được gọi là hội Cầu múa, tổ

chức vào mùng 3 tết. Hội xuống đồng rất độc đáo, nó mang những nét riêng biệt,

không bị ảnh hưởng pha tạp của dân tộc nào.

- Lễ lập tịch của người Dao (Khe Mạ - Bảo Thắng): Lễ thường được tổ chức

vào dịp nông nhàn (trước hoặc sau tết nguyên đán). Đây là nghi lễ của gia đình khi

có con trai 14-15 tuổi, mời thầy đến làm lễ chính thức nhập vào dòng họ. Sau phần

nghi lễ quan trọng có múa hát rất tưng bừng, múa trống đất, múa sạp…

- Lễ hội đền làng Lão Nhai (tên gọi cũ của Lào Cai): Lễ hội tổ chức trong 3

ngày 11, 12 đến 13 tháng giêng âm lịch tại đền thờ Thánh Mẫu và khu vực bãi sông.

Ngoài ra còn rất nhiều lễ hội khác nữa như: Lễ hội cúng rừng của người

Nùng ở Mường Khương, lễ hội gặt tu tu của người Hà Nhì Đen ở Bát Xát, hội Cốm

của người Tày, lễ cơm mới và hội hoa chuối của người Xa phó ở Văn Bàn…tạo nên

nét phong phú trong tập quán sinh hoạt của đồng bào các dân tộc tỉnh Lào Cai và là

yếu tố hấp dẫn du khách tìm hiểu, nghiên cứu.

 Các tài nguyên du lịch nhân văn khác

- Lào Cai là địa phương có sản phẩm thủ công truyền thống khá nổi tiếng ở

Việt Nam. Thêu, dệt thổ cẩm là nghề thủ công truyền thống của đồng bào dân tộc như Dao, H’Mông, Thái, Hà Nhì…Du khách sẽ được chứng kiến những động tác

thao diễn tinh sảo với những hoa văn độc đáo, thông qua đó có thể tạo ra một

59

phương thức du lịch khác như nghiên cứu, quảng bá sản phẩm, tìm kiếm đối tác, ký

hợp đồng kinh doanh trong nước và quốc tế, xuất khẩu tại chỗ…

- Những phiên chợ vùng cao là những nét sinh hoạt có giá trị nhân văn, phục

vụ tốt cho hoạt động du lịch ở Lào Cai, đó là phiên “Chợ văn hóa giao duyên” ở Sa

Pa, phiên chợ Bắc Hà…

- Lào Cai không chỉ có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, văn hóa dân tộc đặc

sắc mà Lào Cai còn nổi tiếng với nhiều món ăn mang đậm hương vị của núi rừng

mà du khách đặc biệt ưa thích như cuốn sủi, khổ nhục, thắng cố, ngẩu pín…

* Đánh giá chung:

Với những nét khái quát và phân tích trên, có thể thấy rằng Lào Cai là một

tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch đa dạng, đặc sắc có khả năng khai thác để phát

triển với những sản phẩm du lịch hấp dẫn, có tính cạnh tranh cao. Hơn nữa, các tài

nguyên phân bố một cách khá tập trung, lại kết hợp được cả tiềm năng du lịch tự

nhiên và du lịch nhân văn đây là một đặc điểm thuận lợi cho việc khai thác phát

triển du lịch của Lào Cai.

Về tự nhiên, Lào Cai có tiềm năng phong phú có thể phát triển nhiều loại

hình du lịch với sản phẩm du lịch chính là du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; du lịch

mạo hiểm (leo núi, thám hiểm hang động).

Về nhân văn, Lào Cai là nơi hấp dẫn du khách đến với văn hóa dân tộc thiểu

số miền núi phía Bắc với sản phẩm du lịch chính là du lịch văn hóa, lịch sử; du lịch

cộng đồng và du lịch mua sắm hàng hóa.

Tuy nhiên, do đặc điểm về tự nhiên, do tác động của hoạt động kinh tế xã hội

trong những năm gần đây đã gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và tiềm năng

cho hoạt động du lịch, do vậy tỉnh cần có kế hoạch bảo vệ và tôn tạo tài nguyên, kể

cả tự nhiên và nhân văn nhằm đảm bảo phát triển trên quan điểm bền vững. 2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI

2.2.1. Cơ cấu tổ chức và quản lý Nhà nƣớc về du lịch

Để KTDL phát triển đúng hướng và đạt được những thành công nhất định thì

vai trò quản lý của Nhà nước vô cùng quan trọng. Quản lý Nhà nước (QLNN) về du

60

lịch thể hiện chức năng quản lý vĩ mô về du lịch, không làm chức năng chủ quản,

không làm chức năng kinh doanh thay các doanh nghiệp du lịch. Việc quản lý đó

được thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trên lĩnh vực kinh

tế du lịch. QLNN về du lịch là nhằm đưa du lịch phát triển theo định hướng chung

của tiến trình phát triển đất nước.

Với sự nhận thức đúng đắn về tiềm năng và thế mạnh để phát triển KTDL,

Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành

đi ngay vào việc xác định phương hướng, mục tiêu kinh tế - xã hội theo đặc trưng,

đặc thù riêng của tỉnh Lào Cai. Trong đó, tỉnh đã sớm nắm bắt các tài nguyên du

lịch, khảo sát, tổng hợp tài nguyên đó để đề ra chiến lược phát triển du lịch thành

ngành kinh tế mũi nhọn.

Để thực hiện vai trò QLNN về du lịch cũng như tăng cường sức mạnh và

nâng cao hiệu quả quản lý, UBND tỉnh đã chỉ đạo việc hợp nhất các bộ phận QLNN

về du lịch thành Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL). Đồng thời cũng

quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở VHTT&DL, sắp xếp các phòng

ban theo đúng chức năng, nhiệm vụ, ưu tiên bố trí đội ngũ cán bộ học đúng chuyên

ngành về công tác tại cơ quan quản lý du lịch.

Sở VHTT&DL là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, tham mưu và giúp

cho UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN về du lịch trên phạm vi quản lý của Sở

theo quy định của pháp luật.

Sở VHTT&DL chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp toàn diện của UBND tỉnh

về tổ chức, biên chế và hoạt động đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên

môn nghiệp vụ của Tổng cục Du lịch.

Đứng đầu Sở VHTT&DL là Giám đốc Sở, chịu trách nhiệm trước pháp luật

về toàn bộ mọi hoạt động của Sở về việc thực hiện nhiệm vụ được giao; chịu trách

nhiệm báo cáo trước Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, UBND tỉnh và Tổng cục Du

lịch khi được yêu cầu. Tiếp đó là Phó giám đốc và các phòng ban chuyên môn

nghiệp vụ thuộc Sở. Ngoài ra còn có các đơn vị trực thuộc Sở là Trung tâm xúc tiến

61

đầu tư – thương mại và du lịch tỉnh Lào Cai. Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu thực

tế, UBND tỉnh đã ban hành quyết định số 1899/QĐ-UBND về việc thành lập Trung

tâm thông tin du lịch Lào Cai và hệ thống 2 nhà du lịch tại Sa Pa, Bắc Hà.

Có thể nói, trong những năm qua công tác QLNN về Du lịch của tỉnh Lào

Cai đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần thúc đẩy KTDL phát triển theo

đúng hướng. UBND tỉnh đã chỉ đạo việc triển khai, hướng dẫn Luật du lịch và các

văn bản dưới Luật đến các cơ sở KDDL, các huyện, thành phố. Triển khai Nghị

định 92/2008/NĐ-CP ngày 1 tháng 2 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi

hành một số Luật Du lịch; ban hành Quyết định số 05/2008/QĐ-UBND ngày

23/1/2008 về ban hành quy chế quản lý một số hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh

Lào Cai nhằm tăng cường hơn nữa công tác QLNN về du lịch.

Bên cạnh đó, Tỉnh không ngừng tăng cường công tác quản lý cơ sở KDDL,

tiến hành thẩm định các cơ sở lưu trú, phân loại rõ hạng. Đồng thời, thường xuyên

hướng dẫn và đôn đốc các cơ sở lưu trú, phòng văn hóa thông tin các huyện, thành

phố thực hiện các quy định về việc phòng, chống dịch bệnh và đảm bảo vệ sinh an

toàn thực phẩm trong quá trình phục vụ khách. Việc quản lý giá cơ sở lưu trú đã

được thực hiện tốt với việc tổ chức ký cam kết thực hiện văn minh trong kinh doanh

cơ sở lưu trú và đăng ký giá phòng theo mùa vụ du lịch. Các cơ sở lưu trú hiện nay

hầu hết đều đạt tiêu chuẩn tối thiểu, việc đánh giá xếp hạng được thực hiện theo các

tiêu chí quy định của Tổng cục Du lịch và các văn bản quản lý của địa phương.

Tỉnh đã ban hành Quy chế quản lý lữ hành quốc tế qua cửa khẩu quốc tế Lào

Cai, Quy chế quản lý du lịch tại huyện Sa Pa, đảm bảo các hoạt động du lịch diễn ra

sôi nổi, hoạt động đúng pháp luật. Từ năm 2006 – 2009 đã tổ chức 6 phiên hội đàm

và ký kết Biên bản hợp tác với Cục du lịch tỉnh Vân Nam, Cục du lịch châu Hồng

Hà, Chính quyền nhân dân huyện Hà Khẩu – Trung Quốc nhằm tăng cường hợp tác

quản lý và phát triển du lịch giữa hai bên. Thanh tra du lịch thường trực hàng ngày

tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai nhằm tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt

động lữ hành. Trong năm 2007 – 2009 đã kiểm tra trên 50 đơn vị kinh doanh du lịch

và xử phạt vi phạm hành chính 26 triệu đồng, góp phần đưa các hoạt động lữ hành

62

tại khu vực cửa khẩu quốc tế Lào Cai nói riêng và hoạt động du lịch của tỉnh Lào

Cai nói chung dần đi vào chuyên nghiệp.

Với nhiệm vụ và quyền hạn quy định của mình theo pháp luật, Sở

VHTT&DL cũng đã thực hiện tốt vai trò chỉ đạo của mình. Sở đã xây dựng và trình

UBND tỉnh quy hoạch, kế hoạch cũng như phương hướng và nhiệm vụ để thực hiện

có hiệu quả đề án phát triển KTDL của tỉnh, từng bước mở rộng và phân cấp quản

lý các khu, tuyến, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh. Đồng thời Sở VHTT&DL xây

dựng xong Chính sách khuyến khích phát triển du lịch tỉnh Lào Cai theo trình tự

xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trình tỉnh phê duyệt.

Đặc biệt, trong năm 2009 có thể nói là một năm không ít khó khăn đối với du

lịch Lào Cai. Suy thoái kinh tế toàn cầu, giá tour tăng, dịch bệnh…ảnh hưởng

nghiêm trọng đến du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Lào Cai nói riêng. Trước

tình hình khách quốc tế giảm và khó khăn của doanh nghiệp du lịch, ngành Du lịch

Lào Cai đã xây dựng và thực hiện kế hoạch triển khai giải pháp cấp bách để thu hút

khách quốc tế và tăng trưởng du lịch nội địa tỉnh Lào Cai năm 2009. Ngành đã xác

định được các giải pháp quan trọng, cấp bách bao gồm: tăng cường xúc tiến du lịch,

xây dựng sản phẩm du lịch mới, đổi mới tổ chức các sự kiện du lịch và tăng cường

hợp tác quốc tế. Sở VHTT&DL đã phát huy vai trò chỉ đạo, điều hành chung về thị

trường du lịch, quy tụ sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch, tạo sự gắn kết giữa

các doanh nghiệp du lịch vì một mục đích xây dựng những gói sản phẩm kích cầu,

chương trình khuyến mãi và tour du lịch giảm giá nhằm thu hút du khách, kiềm chế

sự sụt giảm về lượng khách và doanh thu du lịch...Gói giải pháp được thực hiện đã

tác động mạnh đến việc hợp tác xây dựng và quảng bá sản phẩm du lịch, dịch vụ

giữa các cơ quan nhà nước và khối tư nhân, qua đó nâng cao hiệu quả kích cầu du

lịch, kịp thời góp phần tháo gỡ trước những khó khăn, thách thức với những giải

pháp mang tính chất cụ thể.

Mặc dù, việc thực hiện gói giải pháp vẫn chưa phát huy hết tác dụng và hiệu

quả do các đơn vị chưa có sự hợp tác sâu, chưa tạo đà thúc đẩy đủ mạnh cho sự

nghiệp phát triển du lịch chung. Song có thể nói rằng, với sự quan tâm chỉ đạo thực

63

hiện kịp thời và phát huy vai trò QLNN về du lịch trong thời gian qua đã tạo điều

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt

động trên lĩnh vực KTDL đồng thời góp phần tạo động lực thực sự thúc đẩy KTDL

tỉnh Lào Cai ngày càng tăng trưởng và phát triển.

2.2.2. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tƣ vào lĩnh vực du lịch

Trong những năm qua, tỉnh đã tăng cường và tập trung nguồn vốn đầu tư vào

phát triển KTDL. Việc thu hút các dự án đầu tư vào cơ sở vật chất chuyên ngành du

lịch được thực hiện tốt, đã có nhiều nhà đầu tư đến khảo sát, đăng ký đầu tư như:

Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Cao su Việt Nam, Công ty đầu tư xây dựng

Việt Nam (Secoin), Công ty du lịch Saigon Tourism, Công ty cổ phần du lịch

Hoàng Gia (Khách sạn Grand Royal)…Đồng thời thu hút được nhiều doanh nghiệp

lớn đầu tư vào lĩnh vực khách sạn, khu vui chơi giải trí, trong đó có 12 doanh

nghiệp trong và ngoài nước với tổng số vốn đầu tư là trên 800 tỷ đồng. Giai đoạn

2006 – 2010, tổng số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và vui chơi giải trí (đặc biệt là hệ

thống khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp) trong toàn tỉnh ước đạt 1.220.522 triệu đồng6.

Đặc biệt trong 3 năm qua, đã đầu tư 34,469 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách

và vốn từ hạ tầng du lịch quốc gia vào hệ thống các đường du lịch tại Sa pa, Bắc Hà

đã trở thành “vốn mồi” quan trọng để thúc đẩy đầu tư phát triển du lịch Lào Cai.

Qua đó đã thu hút được nhiều dự án du lịch trên địa bàn tỉnh như dự án đầu tư tại

Khu công nghiệp Kim Thành, Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai, Sa Pa với tổng số vốn

xấp xỉ 300 tỷ đồng đầu tư chủ yếu tại Lào Cai, Huyện Sa Pa.

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã và đang tập trung đầu tư một số điểm

du lịch có sức hút đối với du khách như Quần thể khu di tích Đền Thượng, công

viên Nhạc Sơn, và tiến hành nâng cấp một số điểm du lịch (Cát Cát, Hàm Rồng –

Sa Pa…).

Tuy nhiên, do công tác giải phóng mặt bằng phức tạp cùng một số nguyên

6 Sở VHTT&DL Lào Cai (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006 –

2010.

________________________

64

nhân từ phía các chủ đầu tư và yêu cầu trong công tác quy hoạch của tỉnh Lào Cai

nên năm 2009 có 6 dự án trong lĩnh vực khách sạn, du lịch sinh thái của các chủ đầu

tư: Công ty TNHH Thương mại Đông Á; Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn; Công ty

Cố phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại; Điện lực Miền Bắc; Ngân hàng Đầu tư

và Phát triển Việt Nam; Công ty Cổ phần Sài Gòn Sa pa; Công ty Cổ Phần Bảo

Hiểm Dầu Khí Việt Nam đã bị tạm dừng triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, môi

trường đầu tư chưa thực sự tốt đã tác động không nhỏ tới tâm lý của các chủ đầu tư

mới vào các dự án du lịch lớn trên địa bàn. Đây cũng là những trở ngại không nhỏ

trong thu hút đầu tư phát triển cơ sở vật chất chuyên ngành du lịch và thu hút khách

du lịch thu nhập cao đến với Lào Cai. Do đó, để tạo điều kiện cho KTDL phát triển

tương xứng với tiềm năng, thế mạnh du lịch của tỉnh, thì Lào Cai cần phải đề ra giải

pháp tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để tăng thu hút nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực

du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

2.2.3. Tình hình xúc tiến, quảng bá và liên kết, hợp tác du lịch

Với sự nhận thức đúng đắn về vai trò của hoạt động xúc tiến, quảng bá, liên

kết và hợp tác du lịch đối với sự phát triển của KTDL, trong những năm qua tỉnh đã

chú trọng đầu tư và thực hiện có hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư du lịch. Giai

đoạn 2006 -2010 với mức kinh phí ước đạt 12,557 tỷ đồng (chủ yếu từ nguồn xã hội hóa và các tổ chức phi chính phủ)7, góp phần không nhỏ trong việc thu hút khách du

lịch và các dự án đầu tư.

Hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch được thực hiện dưới nhiều hình thức đa

dạng như: Tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên

truyền thông qua tổ chức các sự kiện. Một loạt các ấn phẩm với nội dung phong

phú, thông tin tiện ích như sách ảnh du lịch Lào Cai, cẩm nang du lịch, bản đồ du

lịch…được phát hành, mặt khác tỉnh cũng đã ứng dụng công nghệ thông tin vào

quảng bá du lịch với ba Website riêng về du lịch và 1 Website chung với nhiều

modul về du lịch (www.vanhoalaocai.vn). Những Website này là kênh tuyên truyền

7 Sở VHTT&DL Lào Cai (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006 –

2010.

________________________

65

nhanh, hiệu quả và kịp thời về nhiều sự kiện du lịch của Lào Cai. Bên cạnh đó, liên

tục trong những năm qua, Lào Cai đã tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa du

lịch lớn, thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều du khách trong và ngoài nước.

Tiêu biểu phải kể đến là “Lễ hội Đền thượng”; “Tuần văn hóa du lịch Sapa”;

“Chương trình khám phá Fansipan”… với sự đổi mới về nội dung, hình thức phong

phú và hấp dẫn, gắn kết văn hóa truyền thống với các hoạt động văn hóa, thể thao,

thương mại và ẩm thực, qua đó thu hút được hàng chục nghìn lượt khách, phóng

viên báo chí trong và ngoài nước đến tham dự.

Đặc biệt, với vệc thành lập Trung tâm Thông tin du lịch tỉnh Lào Cai theo

quyết định số 1899/QĐ-UBND ngày 13 tháng 8 năm 2007 và hệ thống 2 nhà du lịch

tại Sa Pa, Bắc Hà, quầy thông tin ga Lào Cai đã phát huy hiệu quả (đã tư vấn du lịch

cho 44.500 lượt khách), góp phần nâng cao chất lượng công tác thông tin, tư vấn và

xúc tiến du lịch tỉnh Lào Cai, hướng công tác xúc tiến du lịch của tỉnh vào chuyên

nghiệp.

Bên cạnh đó, tỉnh còn tăng cường liên kết hợp tác phát triển du lịch với các

tổ chức trong và ngoài nước. Tỉnh đã phối hợp thành công với các tỉnh Yên Bái –

Phú Thọ theo “Chương trình Du lịch về cội nguồn”, chương trình hợp tác phát triển

du lịch khu vực Tây Bắc, mở rộng và hợp tác phát triển du lịch Lào Cai – Hà Giang.

Hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy phát triển du lịch đạt nhiều kết quả quan trọng thông

qua các hoạt động: Hội nghị hợp tác khai thác phát triển du lịch theo hành lang kinh

tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, hợp tác với vùng

Aquitaine – Cộng hòa Pháp…Trong giai đoạn 2006 - 2009, Lào Cai đã thu hút được

7 dự án đầu tư trực tiếp trong lĩnh vực du lịch với tổng số vốn 28,621 triệu USD và

1 dự án đầu tư từ nguồn viện trợ không hoàn lại với số vốn là 1.790.000 Euro.

Đặc biệt, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch đã được sự ủng hộ và tham gia

nhiệt tình của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; xã hội hóa hoạt động du lịch

ngày càng đẩy mạnh. Trong giai đoạn 2006 - 2009 đã thu hút được 28 doanh nghiệp

tài trợ cho các sự kiện du lịch của tỉnh với tổng số tiền và giá trị hiện vật tài trợ lên

tới 3,8 tỷ đồng, trong đó đã ký hợp đồng với Tổng công ty hàng không (Vietnam

66

Airline) là nhà tài trợ chính cho Chương trình Du lịch về cội nguồn với tổng số tiền

và hiện vật tài trợ là 3,3 tỷ đồng.

Qua sự phân tích trên có thể thấy, công tác xúc tiến quảng bá du lịch của tỉnh

Lào Cai đã được quan tâm và thực hiện có hiệu quả, góp phần không nhỏ trong việc

thu hút khách du lịch và các dự án đầu tư. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn gặp phải

một số khó khăn và hạn chế về kinh phí, hoạt động quảng bá xúc tiến còn thiếu tính

chuyên nghiệp và chưa có chiến lược, mới chỉ tập trung quảng bá trong nước và các

thị trường gần, chưa chú trọng quảng bá thị trường ngoài nước và những thị trường

xa theo chủ điểm, trọng điểm hoặc sản phẩm đặc thù theo nhu cầu thị trường.

2.2.4. Thực trạng nguồn lao động trong ngành du lịch

Năng lực và phẩm chất của đội ngũ lao động trong ngành du lịch có tầm

quan trọng đặc biệt đối với việc khai thác có hiệu quả cũng như bảo tồn lâu dài các

nguồn tiềm năng du lịch của đất nước, góp phần tạo ra những sản phẩm du lịch đặc

sắc, có chất lượng, hấp dẫn khách. Đội ngũ này cũng thể hiện khả năng tiếp thu kinh

nghiệm du lịch quốc tế, cũng như khả năng tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế

về du lịch. Phát triển nguồn nhân lực du lịch cũng là nhằm đảm bảo cho Du lịch Lào

Cai phát huy nội lực, nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách. Đây chính là quá trình cụ

thể hóa về nhân tố con người trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.

Du lịch phát triển đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Đến hết năm

2009 số lao động trực tiếp trong ngành du lịch là 3.200 người, lao động gián tiếp là

5.000 người. Tuy số lượng lao động của ngành tăng trưởng khá nhanh nhưng với số

lượng khách lớn như hiện tại (700.451 lượt khách) thì số lượng lao động này chưa

tương xứng. Số lượng đó chưa đủ để triển khai các hoạt động du lịch ngày một đa

dạng hóa về sản phẩm du lịch, loại hình du lịch và chất lượng các loại sản phẩm du

lịch.

Thời gian qua, công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du

lịch cũng đạt được một số kết quả khá tốt. Từ năm 2006 đến nay đã tổ chức đào tạo

cho trên 400 lao động nông thôn các nghiệp vụ về du lịch và các kỹ năng phục vụ

du lịch cộng đồng tại các xã Tả Van, Tả Phìn, Bản Hồ huyện Sa Pa (theo nguồn vốn

67

từ chương trình đào tạo nghề của tỉnh và các nguồn vốn khác). Tổ chức các lớp bồi

dưỡng nghiệp vụ du lịch cho Hiệp hội Nhà hàng – Khách sạn; các lớp tiếng Anh

giao tiếp du lịch, nghiệp vụ Lữ hành, Hướng dẫn du lịch…Trong giai đoạn 2006 –

2010, nguồn lực dành cho công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch đạt 6,824 tỷ

đồng, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh.

Bằng những hoạch định chiến lược trong quy hoạch phát triển kinh tế du lịch

bền vững của tỉnh. Nhằm chuyên môn hoá công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng

ngày càng cao của du lịch. Tỉnh đã thành lập Trường Trung cấp Văn hoá, Nghệ

thuật - Du lịch và hình thành Khoa Du lịch - Khách sạn thuộc Trường Trung cấp

Kinh tế - Kỹ thuật để từng bước nâng cao chất lượng phục vụ khách du lịch. Đồng

thời, Lào Cai cũng đã liên kết với các trường Đại học để mở các lớp đào tạo Đại học

tại chức và liên thông về chuyên ngành du lịch và phối hợp cùng Trường Đại học

Vân Nam, Học Viện Hồng Hà - Vân Nam - Trung Quốc đào tạo sau đại học, đại

học ở lĩnh vực KTDL cho 26 cán bộ (đào tạo thạc sỹ 5 cán bộ, đào tạo theo nhu cầu

xã hội 21cán bộ).

Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra nhằm đẩy mạnh và phát triển KTDL của

tỉnh, nhìn chung chất lượng lao động du lịch của Lào Cai hiện nay vẫn còn nhiều

bất cập và hạn chế thể hiện qua bảng số liệu sau:

68

Bảng 2.1. Thực trạng nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai

Đơn vị: Người

STT Chỉ tiêu 2008

1. Tổng số lao động du lịch Năm 2005 2006 2009 2007 1.400 1.750 2.100 2.600 3.200

1 420 448 312 3 513 519 414 3 552 745 480 6 742 842 570 9 1.256 960 525

2. 3. 4. 5. 6. 219 301 320 440 450

Phân theo trình độ đào tạo Trình độ trên đại học Trình độ đại học, cao đẳng Trình độ trung cấp Trình độ sơ cấp Trình độ sơ cấp (qua đào tạo tại chỗ hoặc huấn luyện nghiệp vụ ngắn hạn) Phân theo loại lao động

7. Đội ngũ quản lý của cơ quan

26 32 34 45 51

8.

388 432 676 732 850

986 180 140 238 40 1286 260 121 368 106 1390 280 141 392 163 1723 382 196 425 178 2299 410 270 568 215

9. 0 0 0 0 49

quản lý nhà nước về du lịch Lao động quản lý tại các doanh nghiệp ( cấp trưởng, phó phòng trở lên) Lao động nghiệp vụ 1 - Lễ tân 2 - Phục vụ buồng 3 - Phục vụ bàn, bar 4 – Đầu bếp 5 – Thẻ Hướng dẫn viên: Thẻ HDV quốc tế 0 0 0 0 108

0 0 0 0 56 Thẻ HDV nội địa Thẻ Thuyết minh viên

284 339 6 - Nhân viên lữ hành 7 - Nhân viên khác 165 223 201 230 200 214 258 293

Phân theo ngành nghề kinh doanh 10. Khách sạn, nhà hàng 11. Lữ hành, vận chuyển du lịch 12. Dịch vụ khác 1627 11908 680 293 1335 551 214 808 369 223 953 339

1091 429 230 Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2010)

Qua bảng số liệu trên có thể thấy, phân theo trình độ đào tạo thì số lượng lao

động du lịch có trình độ trung cấp, sơ cấp hoặc đào tạo ngắn hạn chiếm tỷ lệ chủ

yếu (khoảng 61%), còn lại là lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên. Tuy nhiên,

69

trong số đó thì số lượng lao động được đào tạo chuyên ngành du lịch rất ít, chủ yếu

là đào tạo tại chức, phần còn lại chỉ được đào tạo nghiệp vụ du lịch và cũng có

nhiều lao động chưa qua đào tạo.

Phân theo loại lao động, đội ngũ QLNN về du lịch chiếm chỉ tỷ lệ nhỏ, chỉ

gần 2% trong tổng số 3.200 lao động phục vụ trong ngành du lịch. Cán bộ QLNN

về du lịch phần lớn chưa đáp ứng được công việc hiện nay do số lượng đã qua đào

tạo chuyên ngành về du lịch hiện nay còn thiếu, trình độ ngoại ngữ yếu. Phần lớn

cán bộ đều là kiêm nhiệm và trái ngành, số cán bộ quản lý được đào tạo đúng

chuyên ngành chỉ chiếm 31,5% trong số cán bộ quản lý về du lịch. Đồng thời hệ

thống cán bộ QLNN về du lịch mới chủ yếu tập trung ở tỉnh, các huyện hầu như

chưa có, sự phân bố lao động chưa hợp lý, trái ngành trái nghề. Đây là một trong

những trở ngại lớn cho công tác điều hành, quản lý, phát triển các khu, điểm du lịch

trong tỉnh.

Lao động quản lý trong các doanh nghiệp hiện nay có khoảng 850 người,

chiếm gần 27% trong tổng số lao động. Về kiến thức quản lý, lãnh đạo của đội ngũ

này ở mức độ trung bình, tuy nhiên họ có trình độ ngoại ngữ thành thạo, giao tiếp

tốt. Lao động quản lý doanh nghiệp có nghiệp vụ chuyên môn cao chủ yếu là trình

độ đại học và cao đẳng và tập trung phần đa tại một số Công ty kinh doanh du lịch

lớn như: Công ty Du lịch Lào Cai, Công ty liên doanh khách sạn quốc tế, Công ty

cổ phần Xuất nhập khẩu…

Lao động nghiệp vụ trong các cơ sở kinh doanh chiếm chủ yếu, trong đó

trình độ từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 30%. Đa số lao động trực tiếp có trình độ

trung, sơ cấp, hoặc đào tạo ngắn hạn để phục vụ nhu cầu công việc, ở một số cơ sở

kinh doanh đội ngũ nhân viên hầu hết là người nhà, chỉ mới được đào tạo rất sơ

đẳng hoặc chưa qua đào tạo và làm việc theo hợp đồng thời vụ nên dẫn đến kinh

doanh không mang tính chuyên nghiệp. Nhân viên phục vụ được đào tạo về ngoại

ngữ hoặc có khả năng giao tiếp thành thạo ngoại ngữ với du khách còn ở mức độ

thấp. Thiếu nhân viên chuyên môn và đầu bếp có trình độ tay nghề cao. Ở tất cả các

doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đội ngũ HDV còn thiếu và hạn chế về năng lực.

70

Với số lượng 213 HDV được cấp thẻ cho đến nay chưa đáp ứng được nhu cầu hiện

tại và trong những năm tới. Mặt khác, trên thực tế, các HDV du lịch chỉ quan tâm

đến đào tạo ngoại ngữ để nâng cao khả năng đón tiếp khách nước ngoài, cho nên

còn hạn chế về khả năng hiểu biết, thiếu sự am hiểu về dân tộc, lịch sử, văn hoá và

các phong tục tập quán của các dân tộc tại địa phương. Trên địa bàn tỉnh Lào Cai

hiện nay có khoảng 2/3 số HDV đã được cấp thẻ là sử dụng ngoại ngữ tiếng Trung

Quốc, còn khoảng 1/3 là sử dụng ngoại ngữ Anh, Pháp.

Từ những khảo sát thực tế và phân tích trên có thể thấy nguồn lao động du

lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện nay còn thiếu về số lượng so với yêu cầu, còn

nhiều bất cập và hạn chế do thiếu kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ

ngoại ngữ. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển hiện tại và cũng như trong tương

lai, ngành du lịch Lào Cai cần có một chiến lược lâu dài nhằm chuẩn hoá đội ngũ

lao động, cán bộ quản lý nhà nước và trong kinh doanh. Đồng thời xây dựng lực

lượng lao động đủ mạnh để phát huy các tiềm năng thế mạnh của địa phương góp

phần đưa KTDL Lào Cai phát triển và hội nhập cùng với ngành du lịch của cả nước. 2.2.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch

Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa

sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Do vậy, hệ thống cơ sở vật

chất kỹ thuật du lịch cũng không chỉ bao gồm các yếu tố của riêng ngành du lịch mà

bao gồm cả các yếu tố của các ngành khác được huy động vào hoạt động nhằm tạo

ra sản phẩm và dịch vụ du lịch thỏa mãn nhu cầu của con người. Hệ thống cơ sở vật

chất kỹ thuật là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng, đồng thời là một điều

kiện không thể thiếu được để phát triển KTDL. Để tạo điều kiện cho KTDL phát

triển nhanh, mạnh, tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nói

chung và cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành du lịch nói riêng.

2.2.5.1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội là yếu tố cơ sở nhằm khai thác tiềm năng du

lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật của xã

hội phục vụ đắc lực nhất và có tầm quan trọng nhất đối với phát triển KTDL là hệ

71

thống giao thông vận tải. Lào Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng lưới giao

thông vận tải đa dạng, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường sông phân bố rộng

khắp và khá đồng đều trên địa bàn các huyện, thị. Hiện nay, Lào Cai cơ bản có hệ

thống giao thông nối với Hà Nội và các tỉnh miền xuôi thuận lợi. Có bốn tuyến quốc

lộ chạy qua địa bàn tỉnh (4D, 4E, 279, 70) với tổng chiều dài trên 400 km; tám

tuyến tỉnh lộ với gần 300 km và gần 1.000 km đường liên xã, liên thôn.

Hiện tại, các tuyến đường nối các khu, điểm du lịch Lào Cai – Sa Pa – Bắc

Hà và một số huyện khác cũng đã được đầu tư, nâng cấp như đường du lịch Sa Pa –

Tả Phìn, đường du lịch suối Mường Hoa (Sa Pa), đường du lịch Bản Phố (Bắc

Hà)…Những tuyến đường này bước đầu đã phát huy tác dụng đi lại thuận lợi cho

du khách và nhân dân địa phương.

Đặc biệt, việc khởi công tuyến đường cao tốc Lào Cai – Nội Bài với chiều

dài 264km, một trong những tuyến đường hợp tác phát triển trong tuyến hành lang

kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, là điều kiện thuận lợi cho việc

vận chuyển khách du lịch cũng như kết nối tour du lịch. Bên cạnh đó, Chính phủ đã

có chủ trương xây dựng sân bay tại Lào Cai trong giai đoạn 2010 – 2015 tạo ra

những cơ hội thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch.

Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đã và đang được nâng cấp,

cải tạo, chất lượng phục vụ cao hơn. Ngành đường sắt đã đầu tư 8 hãng tàu du lịch

với tổng số 15 toa giường nằm cao cấp và 21 toa giường nằm của đường sắt Việt

Nam đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch.

Bên cạnh hệ thống giao thông vận tải thì hệ thống điện, nước, thông tin liên

lạc chính là cơ sở vật chất kỹ thuật bậc hai đối với du lịch. Hiện nay đã đảm bảo cung

cấp cho nhu cầu tại thành phố và các thị trấn, tỉnh đã có cấp hệ thống nước sạch đảm

bảo phục vụ nhu cầu đời sống và dịch vụ du lịch; hệ thống thông tin liên lạc đã phát

triển trên các huyện, thành phố, bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu cho phát triển du

lịch.

Tuy nhiên, do địa hình phức tạp, cùng với đó là những khó khăn vốn có của một

tỉnh vùng cao biên giới, nhiều dân tộc nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội vẫn còn thiếu

72

đồng bộ, nhất là khu vực nông thôn, vùng cao, vùng xa. Hệ thống giao thông không

khỏi bộc lộ những hạn chế như đầu tư tốn kém, kỹ thuật xử lý phức tạp, tại một số

điểm du lịch chưa có trạm biến áp riêng, phải sử dụng chung với hệ thống điện sinh

hoạt của dân cư nên điện áp chưa đảm bảo. 2.2.5.2. Tình hình phát triển của hệ thống cơ sở kinh doanh du lịch

Hệ thống cơ sở KDDL đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra và thực

hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác các tiềm năng nhằm

thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng. Trong những năm qua tỉnh Lào Cai đã quan

tâm chỉ đạo đúng mức, bước đầu đã hình thành nên các khu điểm du lịch với hệ

thống cơ sở kinh doanh đủ điều kiện phục vụ du lịch. Việc đầu tư cơ sở vật chất

chuyên ngành phục vụ du lịch đã được quan tâm theo hướng Nhà Nước và nhân dân cùng làm8.

 Cơ sở kinh doanh lƣu trú:

Hệ thống cơ sở kinh doanh lưu trú của tỉnh Lào Cai phát triển với tốc độ

nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham

gia, không chỉ có khu vực Nhà nước mà còn cả khu vực tư nhân, hộ kinh doanh cá

thể, doanh nghiệp liên doanh…với nhiều loại hình như khách sạn, nhà nghỉ, nhà

sàn, nhà nghỉ lưu trú tại gia tại các thôn bản (homestay)…

Theo số liệu của Sở VHTT&DL Lào Cai, đến nay, toàn tỉnh có 335 cơ sở lưu

trú với 3.296 phòng, chủ yếu tập trung tại Sa Pa (khoảng 70%), thành phố Lào Cai

(khoảng 20%), còn lại Bắc Hà, Bảo Yên và Bảo Thắng. Trong đó, có 20 cơ sở lưu

trú (khách sạn) đạt chất lượng từ 2 sao đến 4 sao với trên 600 phòng. Ngoài ra còn

có 80 nhà nghỉ lưu trú tại gia ở các thôn bản phát triển du lịch cộng đồng tập trung

tại 2 huyện Sa Pa và Bắc Hà. Có thể nói, cơ sơ lưu trú đa dạng với nhiều kiểu và

chất lượng khác nhau bước đầu đáp ứng nhu cầu của từng đối tượng du khách.

8 Tất cả các số liệu về tình hình phát triển của hệ thống cơ sở KDDL của tỉnh Lào Cai trong luận văn được sử

dụng từ “Báo cáo tổng kết tình hình cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ ngành du lịch trên địa bàn tỉnh” và

“Báo cáo kết quả thực hiện đề án phát triển kinh tế Du lịch giai đoạn 2006 - 2010” của Sở VHTT&DL Lào

Cai; Cục thống kê Lào Cai (2010) và được tác giả xử lý, tổng hợp, phân tích theo mục đích nghiên cứu.

_________________________

73

Bảng 2.2. Hiện trạng cơ sở lƣu trú của Lào Cai qua các năm

Năm

TT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009

Số lƣợng cơ sở lƣu trú, trong 180 230 235 328 335 đó:

- Khách sạn 3 đến 5 sao 1 2 3 3 5 1

- Khách sạn 1 đến 2 sao 38 41 43 46 48

- Các loại cơ sở lưu trú khác 141 187 189 279 282

2.500 3.000 3.221 3.477 3.926 2 Tổng số phòng

Nguồn: Sở VHTT&DL Lào Cai (2010)

Qua thống kê có thể thấy, số lượng cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh không

ngừng gia tăng qua các năm. Năm 2000, toàn tỉnh mới chỉ có 78 cơ sở lưu trú với

907 phòng, đến 2005 con số này lên tới là 180 cơ sở (tăng gấp 2,3 lần) với 2.500

phòng (tăng gấp 2,75 lần); năm 2009 với 335 cơ sở (tăng gấp 4,3 lần so với năm

2000), 3.296 phòng (tăng gấp 3,6 lần so với năm 2000), trong đó số lượng khách

sạn đạt tiêu chuẩn từ 1 sao trở lên cũng tăng lên đáng kể cùng với nhiều loại hình cơ

sở lưu trú mới được hình thành. Bên cạnh sự gia tăng về số lượng thì chất lượng của

các cơ sở lưu trú cũng không ngừng được cải thiện, đầu tư và xây dựng mới. Đáp

ứng được yêu cầu về nghỉ ngơi cho du khách, nhờ vậy mà thời gian lưu trú của du

khách cũng dài hơn cùng với công suất sử dụng phòng gia tăng, góp phần không

nhỏ vào tăng doanh thu của các cơ sở kinh doanh lưu trú trên địa bàn tỉnh. Doanh

thu ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt, tại các bản làng có hoạt

động du lịch cộng đồng, nhiều gia đình đã chuyển sang làm dịch vụ kinh doanh lưu

trú tại gia: Bản Hồ (30 hộ), Tả Van (28 hộ), Sín Chải (4 hộ)…với mức thu bình

quân một năm từ du lịch đạt 30 triệu đồng/năm/1 hộ, góp phần xóa đói giảm nghèo

ở những khu vực trên.

74

Bảng 2.3. Kết quả kinh doanh cơ sở lƣu trú

Năm

Chỉ tiêu 2000 2005 2006 2007 2008 2009

2,0 2,5 2,9 3,0 3,0 3,0

13.100 60.771 60.956 64.845 68.387 71.816 1. Thời gian lưu trú bình quân (ngày) 2. Doanh thu lưu trú (triệu đồng)

Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)

Mặc dù tỷ trọng doanh thu lưu trú so với tổng doanh thu có xu hướng giảm,

song nhìn chung doanh thu vẫn tiếp tục tăng trưởng qua các năm. Năm 2000, doanh

thu lưu trú mới chỉ đạt 13.100 triệu đồng, thì đến năm 2005 doanh thu lưu trú đạt

60.771 triệu đồng, tăng 4,6 lần so với năm 2000; năm 2009 doanh thu lưu trú đã

tăng lên 71.816 triệu đồng tăng 18,1% so với năm 2005 và tăng 5% so với năm

2008.

Như vậy, với sự cố gắng trong công tác nâng cao chất lượng phục vụ và cơ

sở hạ tầng lưu trú, cũng như tăng cường thực hiện văn minh trong kinh doanh cơ sở

lưu trú mà hoạt động kinh doanh lưu trú đã góp phần không nhỏ vào tăng doanh thu

cho hoạt động du lịch của Tỉnh Lào Cai trong những năm qua, ngày càng khẳng

định vai trò và vị thế của KTDL đối với sự phát triển kinh tế của địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trên thì tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn

trong đầu tư và xây dựng nâng cao chất lượng cơ sở lưu trú. Ngoài các khách sạn

lớn của nước ngoài và của các doanh nghiệp lớn được đầu tư với chất lượng cao

như Khách sạn Victoria, Khách sạn quốc tế, khách sạn Châu Long…thì vẫn còn tồn

tại nhiều cơ sở lưu trú chất lượng còn yếu kém, đầu tư thiếu đồng bộ, không theo

quy chuẩn thống nhất dẫn đến chất lượng công trình không đạt tiêu chuẩn quốc tế,

công suất sử dụng phòng còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao. Bên cạnh đó, các khu

du lịch trọng điểm còn thiếu các khách sạn chất lượng cao để phục vụ khách có du

lịch có thu nhập cao. Vì vậy khách du lịch đến Lào Cai đông nhưng thời gian lưu trú

lại ngắn, mức chi tiêu không cao ảnh hưởng đến doanh thu lưu trú, đây cũng chính

là một trong những nguyên nhân làm cho mức tăng trưởng bình quân còn thấp, tỷ

75

trọng doanh thu lưu trú chưa cao, và có xu hướng giảm trong tổng doanh thu du

lịch.

 Cơ sở kinh doanh lữ hành:

Doanh nghiệp lữ hành là cầu nối giữa cung và cầu trong du lịch, là loại hình

doanh nghiệp đặc biệt không thể thiếu được đối với sự phát triển của KTDL. Cùng

với sự gia tăng về số lượng du khách đến Lào Cai, trong những năm qua hoạt động

kinh doanh lữ hành cũng không ngừng phát triển. Tính đến nay toàn tỉnh có 36

doanh nghiệp, chi nhánh hoạt động trong lĩnh vực này với sự tham gia của nhiều

thành phần kinh tế. Trong đó, có 10 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế (gồm

1 doanh nghiệp Nhà nước; 4 công ty cổ phần; 3 chi nhánh và 2 công ty trách nhiệm

hữu hạn) và 26 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa. Để phục vụ và đáp ứng

dịch vụ hướng dẫn tham quan cho du khách thì tỉnh đã cấp 54 thẻ HDV du lịch toàn

quốc (trong đó, tiếng Trung là 32; tiếng Anh 18 và ngoại ngữ khác 4); cấp và đổi lại

219 thẻ HDV du lịch địa phương. Trong thời gian tới sẽ ban hành Giấy chứng nhận

thuyết minh theo Luật du lịch để phục vụ công tác hướng dẫn, giới thiệu tiềm năng

du lịch cho khách tại các khu, tuyến, điểm du lịch của tỉnh Lào Cai.

Có thể nói, kinh doanh lữ hành tại Lào Cai là một hoạt động thu hút được

nhiều lao động du lịch trên địa bàn tỉnh và là một trong những nguồn thu quan trọng

trong tổng doanh thu du lịch.

Bảng 2.4. Kết quả kinh doanh lữ hành

Đơn vị: triệu đồng

Năm

Chỉ tiêu 2000 2005 2006 2007 2008 2009

1. Doanh thu lữ hành 8400 39.286 47.572 61.183 64.516 67.751

23 18,3 17 16,9 14,9 13 2. Tỷ trọng doanh thu lữ hành trong tổng doanh thu (%)

Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)

76

Năm 2000 doanh thu lữ hành đạt 8.400 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 23% trong

tổng doanh thu du lịch, đến năm 2005 tỷ trọng này giảm xuống còn 18,3% nhưng

doanh thu đạt 39.286 triệu đồng tăng lên gấp 4,7 lần; năm 2009 đạt 67.751 triệu

đồng tăng gấp 8,1 lần so với năm 2000 và gấp 1,72 lần so với năm 2005, tăng lên so

với năm 2008 là 5% và chiếm tỷ trọng là 13%.

Mặc dù tỷ trọng của doanh thu lữ hành trong tổng doanh thu giảm trong giai

đoạn qua do khó khăn của hoạt động du lịch nói chung, các doanh nghiệp phải thực

hiện giảm giá để thu hút khách song có thể thấy, hoạt động kinh doanh lữ hành đã

có sự tăng trưởng nhanh với mức tăng trưởng bình quân là 14,8%/năm. Như vậy, có

thể thấy, kinh doanh lữ hành là một hoạt động thu hút được nhiều thành phần kinh

tế tham gia và chiếm một tỷ trọng quan trọng trong tổng doanh thu du lịch của tỉnh

Lào Cai.

 Phƣơng tiện vận chuyển khách du lịch:

Do đặc điểm địa hình của tuyến, điểm, khu du lịch nên loại hình vận chuyển

phục vụ du khách đến du lịch Lào Cai chủ yếu bằng phương tiện ô tô và tàu hỏa.

Lực lượng vận tải phục vụ khách du lịch tiếp tục có bước phát triển, đáp ứng ngày

càng tốt hơn nhu cầu của của du khách. Toàn tỉnh hiện có 10 hợp tác xã, 13 công ty,

6 doanh nghiệp, 3 hãng taxi với trên 1.200 đầu xe các loại. Đồng thời, hiện nay có

5 cặp xe ô tô giường nằm cao cấp chạy suốt từ Lào Cai – Hà Nội và ngược lại. Bên

cạnh đó, tỉnh đã hợp tác tốt với ngành đường sắt Việt Nam trong việc đầu tư nâng

cấp và tổ chức nhiều tàu chất lượng cao với 21 toa giường nằm và 8 hãng tàu du

lịch với tổng số 15 toa giường nằm cao cấp, phần nào đáp ứng được nhu cầu của

khách du lịch đến với Lào Cai.

Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là một trong 3 ngành chính trong hoạt

động kinh doanh du lịch của tỉnh Lào Cai. Doanh thu vận chuyển khách trong

những năm gần đây đã tăng lên mạnh, hằng năm nó đóng góp một phần không nhỏ

vào tổng doanh thu du lịch trên địa bàn tỉnh.

77

Bảng 2.5. Kết quả kinh doanh vận chuyển khách du lịch

Đơn vị: triệu đồng

Năm

Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009

21.377 29.972 40.544 50.614 57.513

9,9 10,7 11,2 11,7 11 1. Doanh thu vận chuyển khách 2. Tỷ trọng doanh thu vận chuyển khách trong tổng doanh thu (%)

Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)

Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn 2005 – 2009 doanh thu vận chuyển có

mức tăng trưởng nhanh qua các năm và ngày càng tăng tỷ trọng trong tổng doanh

thu du lịch của Lào Cai. Năm 2009, tỷ trọng doanh thu giảm do ảnh hưởng của suy

thoái kinh tế toàn cầu, gây khó khăn cho hoạt động du lịch. Nhằm thu hút khách du

lịch đến Lào Cai, tỉnh đã tiến hành chương trình khuyến mại giảm giá 5 dịch vụ cơ

bản, trong đó có dịch vụ vận chuyển khách du lịch. Tuy nhiên, doanh thu vận

chuyển khách năm 2009 đạt 57.513 triệu đồng tăng gấp 13,7 lần so với năm 2000;

gấp 2,7 lần so với năm 2005 và tăng lên so với năm 2008 là 14% .

 Hệ thống cơ sở kinh doanh các dịch vụ du lịch khác:

+ Cơ sở ăn uống:

Lào Cai không chỉ có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, văn hóa dân tộc đặc

sắc mà Lào Cai còn nổi tiếng với nhiều món ăn mang đậm hương vị của núi rừng

mà du khách đặc biệt ưa thích như: Thắng cố, mì vằn thắn, rượu Sán Lùng…cùng

với nhiều loại hoa quả và rau xanh. Để đáp ứng nhu cầu thưởng thức các món ăn

đặc sản của địa phương cũng như nhu cầu ăn uống của du khách khi đến Lào Cai du

lịch, hàng loạt các cơ sở kinh doanh, phục vụ ăn uống được đầu tư, xây dựng. Các

cơ sở ăn uống trên địa bàn tỉnh phát triển tương đối phong phú, đa dạng, hiện có

hàng trăm nhà hàng chuyên doanh và các nhà hàng nằm trong khách sạn với hàng

ngàn chỗ ngồi đáp ứng nhu cầu của khách. Doanh thu ăn uống cũng đã chiếm một

78

tỷ trọng lớn so với các loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch khác vào tổng doanh thu

du lịch của tỉnh Lào Cai.

Bảng 2.6. Doanh thu ăn uống

Đơn vị: triệu đồng

Năm

Chỉ tiêu 2000 2005 2006 2007 2008 2009

8050 43.000 62.703 124.196 163.087 171.266

22 20 22,4 34,4 37,6 34 1. Doanh thu ăn uống 2. Tỷ trọng doanh thu ăn uống trong tổng doanh thu (%)

Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)

Từ bảng trên ta thấy, doanh thu ăn uống chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh

thu du lịch và đạt mức độ tăng trưởng cao, đặc biệt là giai đoạn 2006 - 2009. Năm

2000 doanh thu ăn uống mới chỉ đạt là 8050 triệu đồng thì đến năm 2009 doanh thu

hoạt động kinh doanh này đã tăng lên 171.266 triệu đồng, tăng gấp 21,27 lần so với

năm 2000. Điều đó cho thấy càng ngày càng có nhiều nhà hàng và các cơ sở tham

gia vào lĩnh vực kinh doanh này và họ đã biết sử dụng những sản phẩm của địa

phương để mang đến hương vị đặc trưng, sâu sắc tới khách.

Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống vẫn còn gặp nhiều khó

khăn, hạn chế. Thực đơn trong trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống vẫn còn

đơn điệu, vấn đề chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được quan tâm đúng

mức…Đồng thời nhân sự trong các nhà hàng còn thiếu tính chuyên nghiệp, đặc biệt

là nhân viên nấu ăn thì chiếm tỷ lệ rất ít. Nhân viên nấu ăn chưa được đào tạo một

cách cơ bản và có quy mô cho nên dẫn đến tình trạng kém chất lượng và không đủ

đáp ứng khi lượng khách đến Lào Cai tăng nhanh. Cùng với sự quá tải về sức chứa

sẽ đồng nghĩa với việc chất lượng các dịch vụ phục vụ ăn uống giảm. Qua điều tra

cho thấy tại một số khách sạn và nhà hàng lớn như: Châu Long, Victoria, VietPlaza,

Long Hoè...thu hút được đông đảo du khách tới ăn thì hầu hết đều phải thuê đầu bếp

là người nước ngoài. Ăn uống là nhu cầu thiết yếu đối với du khách nên nếu tập

79

trung khai thác tốt thì hiệu quả mang lại rất cao trong tổng doanh thu các loại hình

kinh doanh dịch vụ du lịch. Do vậy, đây cũng là vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá

trình phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai.

+ Các cơ sở thương mại:

Du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của hoạt động kinh doanh thương

mại hàng hóa. Tại các điểm khu du lịch dân cư địa phương cũng tham gia vào hoạt

động buôn bán hàng lưu niệm, các đặc sản của địa phương. Ngay cả trong khách

sạn, nhà nghỉ cũng trưng bày và bán các sản phẩm này. Mua sắm hàng hóa, đặc sản

địa phương và đồ lưu niệm là một nội dung hấp dẫn khách du lịch, nhất là những

mặt hàng thổ cẩm của Lào Cai. Hệ thống các chợ, cửa hàng, trung tâm thương mại

trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đã được quan tâm đầu tư, bước đầu đáp ứng

nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân và khách du lịch.

Bảng 2.7. Doanh thu bán hàng

Đơn vị: triệu đồng

Năm

Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009

1. Doanh thu bán hàng 5.436 7.112 9.069 11.913 12.511

2,5 2,6 2,5 2,7 2 2. Tỷ trọng doanh thu bán hàng trong tổng doanh thu (%)

Nguồn: Cục thống kê Lào Cai (2010)

Tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu du lịch song hoạt động kinh

doanh hàng hóa cũng góp phần đem lại nguồn thu cho hoạt động kinh doanh các

dịch vụ du lịch của địa phương. Năm 2009 doanh thu đạt 12.511 triệu gấp 2,3 lần

năm 2005 và tăng 5% so với năm 2008. Mặc dù doanh thu bán hàng đã tăng rõ rệt

qua các năm với mức tăng trưởng khá cao, song nhìn chung hiệu quả chưa cao. Sở

dĩ như vậy là do phần đa các cơ sở thương mại, mua bán hàng hóa chủ yếu tập trung

ở khu vực thành phố, trung tâm, các điểm bán hàng tại các khu du lịch còn bất cập,

ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông và cảnh quan du lịch, chất lượng thấp,

chưa đảm bảo an toàn để thu hút sự quan tâm của du khách. Bên cạnh đó, các sản

80

phẩm hàng hóa, đồ lưu niệm mang đặc trưng riêng của địa phương còn thiếu và

chưa đa dạng. Mặt khác, hiện tượng chèo kéo khách của những người bán hàng

rong gây tâm lý không tốt cho du khách khi tới tham quan.

+ Các cơ sở thể thao và vui chơi, giải trí:

Hệ thống cơ sở phục vụ hoạt động thể thao và vui chơi, giải trí đã được quan

tâm đầu tư xây dựng, một số cơ sở vui chơi, giải trí được hình thành như: Khu du

lịch sinh thái Thanh Kim, Hàm Rồng (Sa Pa); Hồ Na Cồ (Bắc Hà); công viên Nhạc

Sơn; dịch vụ Casino (Thành phố Lào Cai); dịch vụ tắm thuốc dân tộc…Tuy nhiên,

cơ sở thể thao và vui chơi, giải trí nhìn chung còn chưa phong phú, chưa đáp ứng

được nhu cầu của khách du lịch. Hiện nay hoạt động tiêu khiển chính của khách du

lịch chủ yếu là dựa vào cảnh quan thiên nhiên như đi bộ dạo phố, ngắm cảnh, chơi

chợ và tham quan tìm hiểu về văn hóa các dân tộc…Vì vậy, việc quy hoạch đầu tư

phát triển các cơ sở thể thao và dịch vụ vui chơi giải trí là rất cần thiết.

 Qua việc phân tích và tổng hợp tình hình phát triển của hệ thống các cơ sở

kinh doanh du lịch, có thể thấy rằng: Trong tổng số nguồn thu từ du lịch thì có thể

thấy doanh thu ăn uống ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh

thu, doanh thu lưu trú và lữ hành cũng chiếm tỷ trọng khá cao song nhìn chung vẫn

còn thấp, còn lại là doanh thu từ các hoạt động du lịch khác.

Hình 2.1. Tỷ trọng doanh thu của các lĩnh vực kinh doanh trong tổng doanh

thu du lịch năm 2009

Nguồn: Sở VHTT&DL Lào Cai (2010)

81

Do vậy, trong thời gian tới để nâng cao tỷ trọng doanh thu của các hoạt động

du lịch nói trên thì tỉnh cần phải có những giải pháp quan trọng để nâng cao hơn

nữa chất lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật du lịch và các dịch vụ phục vụ du lịch nhằm

thu hút và đẩy mạnh hơn nữa lượng khách đến Lào Cai, đặc biệt là đối tượng khách

có sức mua lớn và chi tiêu nhiều, đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngành du lịch.

2.2.6. Số lƣợng du khách và doanh thu du lịch

2.2.6.1. Tình hình tăng trưởng và đặc điểm nguồn khách

Du khách đến Lào Cai trong những năm gần đây đã tăng trưởng và phát triển

mạnh mẽ cả về số lượng và cơ cấu khách. Tốc độ tăng trưởng lượng khách bình

quân giai đoạn 2001 - 2009 đạt 14,2 %/năm.

Bảng 2.8. Khách du lịch đến Lào Cai qua các năm

Đơn vị: lượt khách

Tổng số

Khách nội địa

Khách quốc tế

Năm

Số lƣợng

Số lƣợng

Số lƣợng

Tỷ trọng (%)

265.000 331.000 380.000 480.000 510.000 560.000 632.000 667.000 700.451

So với năm trƣớc (%) 126 125 114 126 106 109 112 105 105

146.000 175.000 135.000 170.000 180.000 190.000 223.000 388.000 326.893

119.000 156.000 245.000 310.000 330.000 370.000 409.000 279.000 373.558

45 47 64 64,5 64,7 66 64,7 41,8 53,3

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

Tỷ trọng (%) 55 53 36 35,6 35,3 34 35,3 58,2 46,7 Nguồn: Sở VHTT&DL Lào Cai (2010)

 Khách quốc tế:

Qua bảng số liệu có thể thấy, lượng khách Quốc tế đến Lào Cai tăng nhanh

trong những năm gần đây. Năm 2009, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu,

dịch bệnh…gây khó khăn cho nhiều đoàn khách quốc tế, ảnh hưởng nghiêm trọng

đến du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Lào Cai nói riêng. Mặc dù lượng khách

quốc tế giảm 16% so với năm 2008, song với 326.893 lượt khách cũng là một kết

quả đang nghi nhận trước sự cố gắng nỗ lực của ngành du lịch Lào Cai cũng như

của các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh.

82

Sở dĩ, lượng khách quốc tế đến Lào Cai tăng nhanh trong những năm gần

đây là do cơ chế chính sách của Nhà nước và của tỉnh ngày càng thông thoáng hơn,

thủ tục xuất nhập cảnh được cải tiến nhanh gọn, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ

thuật trên các tuyến, điểm du lịch đã được nâng cấp đáng kể, đội ngũ lao động du

lịch được củng cố, tạo đà thúc đẩy phát triển du lịch mạnh mẽ. Mặt khác, nhờ có

cửa khẩu thông thương với Trung Quốc nên khách du lịch Trung Quốc đến Lào Cai

chiếm tỷ lệ lớn. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa đặc sắc, đa dạng, phong phú của cộng

đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lào Cai được bảo tồn đang là nguyên nhân thu

hút ngày càng nhiều du khách du lịch Châu Âu tham quan, nghiên cứu.

Từ chỗ cơ cấu khách du lịch quốc tế đến Lào Cai chủ yếu là khách Trung

Quốc, đến nay cơ cấu khách đã trở lên rất phong phú và đa dạng với trên 80 quốc

tịch khác nhau. Khách du lịch Trung Quốc đến Lào Cai chủ yếu với mục đích tham

quan, mua sắm, trong khi đó khách du lịch Châu Âu phần đông là khách đến từ các

nước như: Pháp, Đức, Anh, Thụy Điển... đến Lào Cai với mục đích chính là đến các

địa danh của tỉnh, nơi có các tài nguyên du lịch nhân văn đặc sắc như Sa Pa, Bắc

Hà, chủ yếu họ đến nghiên cứu về dân tộc học và xã hội học, tìm hiểu đời sống,

phong tục tập quán của người dân địa phương. Khách du lịch quốc tế đến Sa Pa đều

thực hiện các tua du lịch tới các bản làng người H’mông, người Dao, người Tày,

người Dáy. Những nơi khách du lịch thường tới thăm là Tả Van, Tả Phìn, Bản Hồ,

Lao Chải, Cát Cát để thưởng thức bầu không khí miền núi trong lành và tìm hiểu

văn hóa dân tộc, đời sống của đồng bào các dân tộc. Du khách nước ngoài còn thích

đi bộ xuyên rừng và thưởng ngoạn cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn của vùng rừng

núi, tham quan thác bạc, bãi đá cổ, cầu mây và tham quan phiên chợ văn hóa giao

duyên Sa Pa vào các tối thứ 7, tham quan phiên chợ văn hóa vùng cao Bắc Hà vào

ngày Chủ nhật.

Thời gian lưu trú bình quân đối với khách Châu Âu là 3-4 ngày, của khách

Trung Quốc là từ 1-2 ngày.

83

 Khách du lịch nội địa:

Khách du lịch nội địa đến Lào Cai chủ yếu từ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc

với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, tham dự các lễ hội văn hóa, du lịch công vụ...,

ngoài ra còn một bộ phận người dân Lào Cai cũng tham gia vào dòng khách du lịch

cuối tuần.

Giai đoạn 2001 – 2005, Lào Cai đạt mức tăng trưởng cao về lượng khách du

lịch nội địa. Năm 2008 - 2009 là năm du lịch Lào Cai không đạt chỉ tiêu về lượng

khách so với kế hoạch đề ra.Việc suy giảm của ngành du lịch cũng kéo theo nhiều

ngành dịch vụ khác suy giảm, dẫn tới ảnh hưởng mạnh đến kinh tế và thu ngân sách

tỉnh. Đứng trước tình trạng trên, UBND tỉnh Lào Cai đã có kế hoạch triển khai các

giải pháp cấp bách nhằm thu hút khách du lịch quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa

đến Lào Cai với 4 nhóm giải pháp chính là giải pháp về cơ chế chính sách, giải pháp

về thị trường và quảng bá du lịch, giải pháp về sản phẩm và đầu tư. Nhờ vậy, mặc

dù lượng khách quốc tế giảm chung như toàn quốc nhưng khách du lịch nội địa tăng

mạnh, vượt qua thực trạng kinh tế suy giảm, lạm phát trong nước và dịch bệnh gia

tăng, góp phần tăng trưởng mạnh du lịch nội địa tỉnh Lào Cai năm 2009 với

373.558 lượt khách tăng 33% so với cùng kỳ năm 2008 song nhìn chung mức tăng

trưởng bình quân vẫn còn thấp, đạt 5,8%.

Phần lớn khách nội địa đến Lào Cai để lên Sa Pa thưởng thức bầu không khí

trong lành mát mẻ và quay trở lại Lào Cai để xuất cảnh sang Trung Quốc tham quan

và mua sắm. Vào những ngày cuối tuần khi có phiên chợ văn hóa vùng cao ở Sa Pa

và Bắc Hà, lượng khách du lịch nội địa thường tăng cao đáng kể. Thời gian lưu trú

bình quân của khách du lịch nội địa đạt từ 1,62 - 2 ngày.

 Đánh giá chung:

Như vậy có thể thấy rằng số lượng khách đến Lào Cai qua các năm đều có

sự gia tăng. Đặc biệt là lượng khách quốc tế đến Lào Cai ngày càng tăng với nhiều

quốc tịch khác nhau. Chỉ tính hơn 2 tháng đầu năm 2010, Lào Cai đón gần 15 vạn

lượt khách, đạt trên 25% kế hoạch 2010 và tăng trên 40% so với cùng kỳ, trong đó

khách quốc tế đạt gần 60.000 lượt.

84

Qua các điều tra đã khẳng định, nguồn khách đến Lào Cai là những du khách

trẻ, đến đây để tận hưởng không khí mát mẻ, nghỉ ngơi, đi dạo và vui chơi. Tuy

nhiên, trong bối cảnh xã hội và văn hoá của Lào Cai hiện nay, cần phải khuyến

khích và tăng cường thu hút các đối tượng du khách có sức mua lớn và chi tiêu

nhiều, đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngành du lịch.

2.2.6.2. Doanh thu du lịch

Cùng với sự gia tăng về lượng khách cũng như sự tăng lên trong doanh thu

của các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch và doanh thu khác trong thời gian qua,

doanh thu du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Đóng góp của ngành du lịch vào tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, thu ngân sách

từ phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006 – 2009 bình quân đạt gần 15 tỷ

đồng/năm. Thu nhập xã hội từ du lịch của tỉnh Lào cai có mức gia tăng khá lớn,

doanh thu do du lịch mang lại được thể hiện qua hình sau:

Hình 2.2. Lƣợng khách và doanh thu từ du lịch thời kỳ 2000-2009

Nguồn: Sở VHTT&DL Lào Cai (2010)

Như vậy, có thể thấy doanh thu du lịch không ngừng gia tăng qua các năm.

Năm 2000, doanh thu chỉ đạt 36.400 triệu đồng thì đến năm 2005 con số này gia

tăng lên gấp 5,9 lần với 215.000 triệu đồng. Năm 2006 doanh thu đạt 280.000 triệu

đồng, tăng 30% so với năm 2005; năm 2007 đạt 362.000 triệu đồng tăng 29% so với

năm 2006; năm 2008 và năm 2009 do khó khăn của ngành du lịch cả nước nói

85

chung cũng như của Lào Cai nói riêng nên mức tăng trưởng tuy có thấp hơn so với

các năm trước song cũng đã đạt được thành công đáng kể, doanh thu đều đạt và

vượt kế hoạch 16,7%. Đây là một kết quả đáng ghi nhận trước sự nỗ lực của các cấp

ngành tỉnh Lào Cai và của ngành du lịch cũng như các doanh nghiệp hoạt động trên

lĩnh vực này.

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU

LỊCH TỈNH LÀO CAI TRONG THỜI GIAN QUA

2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc

Qua những số liệu thống kê nêu trên cũng như việc đánh giá phân tích thực

trạng phát triển của các hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh nói riêng và của ngành

du lịch tỉnh nói chung, có thể thấy trong những năm gần đây, KTDL của tỉnh Lào

Cai đã có những chuyển động tích cực và có bước khởi sắc:

- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý phát triển du lịch được tăng cường và

nâng cao hiệu quả. Bộ máy QLNN về du lịch từ tỉnh tới huyện, xã được kiện toàn

một bước. Các mặt QLNN về du lịch có nhiều tiến bộ, công tác hướng dẫn thanh

tra, kiểm tra chấn chỉnh các vi phạm trong KDDL được duy trì.

- Để ngành du lịch của tỉnh thực sự phát triển mạnh, nhanh và bền vững, Sở

VHTT&DL Lào Cai đã chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền quảng bá du

lịch, nối các tuyến du lịch trong và ngoài tỉnh. Hợp tác trong nước, quốc tế và khu

vực được đẩy mạnh.

- Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch cũng

đang từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là việc đào tạo nâng cao năng lực chuyên

môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, ý thức trách nhiệm cua các bộ công nhân viên

ngành du lịch cũng như nâng cao văn hóa du lịch cho nhân dân ở các địa phương

trọng điểm về du lịch.

- Vốn đầu tư cho phát triển KTDL được huy động và sử dụng hiệu quả. Giai

đoạn 2006 – 2010 ước thực hiện được 1.239.894 triệu đồng đầu tư vào vào cơ sở hạ

tầng, vui chơi giải trí, đào tạo nhân lực, xúc tiến du lịch. Điểm thành công nữa là đã

86

thu hút được rất nhiều nguồn vốn xã hội hóa và các nguồn khác ngoài nguồn ngân

sách.

- Sản phẩm du lịch ngày càng phong phú, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch

văn hóa, du lịch cộng đồng phát triển nhanh, ngày càng khẳng định hướng đi đúng

trong trong mục tiêu phát triển du lịch bền vững.

- Du lịch Lào Cai có sự phát triển về chất. Năm 2009, lượng khách du lịch

chỉ tăng 5% so với năm 2008 nhưng doanh thu du lịch tăng 18% so với năm 2008,

cơ sở vật chất phục vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng, phương tiện vận chuyển…)

ngày càng được đầu tư với chất lượng cao hơn. Phát triển KTDL đã đem lại hiệu

quả tích cực cho kinh tế xã hội của tỉnh Lào Cai.

+ Về kinh tế: Doanh thu xã hội từ phát triển KTDL ngày càng tăng nhanh,

nhờ đó ngành đã có những đóng góp không nhỏ vào ngân sách Nhà Nước. Thông

qua hoạt động du lịch, nhiều ngành nghề, dịch vụ phát triển theo góp phần làm cho

cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch đúng hướng và đóng góp quan trọng vào

tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

+ Về xã hội: Du lịch phát triển tạo ra nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp

cho người lao động và tăng đáng kể thu nhập cho người lao động. Vai trò của du

lịch trong xóa đói, giảm nghèo ngày càng rõ nét. Những bản làng có du lịch phát

triển, tỷ lệ đói nghèo giảm hẳn. Ví dụ ở làng Cát Cát năm 2000 có 30% hộ đói

nghèo, thì đến năm 2009 chỉ còn 11,6% số hộ nghèo; làng Sín Chải, năm 2000 có

tới 68% số hộ đói nghèo đến 6 tháng đầu năm 2009 chỉ còn 36,3% hộ nghèo.

Đặc biệt sự phát triển của KTDL Lào Cai trong thời gian qua đã góp phần tích

cực vào việc phục hồi, tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử, phục hồi và phát triển các

loại hình văn hóa dân gian, phong tục tập quán lễ hội.

Có được những kết quả trên là do ngành du lịch Lào Cai thường xuyên nhận

được sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh Ủy, Hội đồng Nhân dân, UBND tỉnh, tổng cục

du lịch và sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp. Bên cạnh đó, công tác quy

hoạch, quản lý quy hoạch được ngành rất quan tâm. Trong việc chỉ đạo điều hành

Sở VHTT&DL đã sâu sát cơ sở, tập trung giải quyết các khó khăn, phức tạp trong

87

hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đầu tư phát triển để tạo điều kiện cho cơ sở

tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Mặc dù có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển KTDL, nhưng trong quá

trình phát triển, du lịch Lào Cai vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập ảnh hưởng không

nhỏ đến hoạt động của ngành.

- Chất lượng cơ sở hạ tầng còn hạn chế, nhiều tuyến điểm du lịch hấp dẫn

nhưng vẫn chưa thút được khách do hệ thống đường xá đã xuống cấp hoặc chưa có

đường gây trở ngại lớn cho các hoạt động du lịch. Hệ thống cung cấp nước sạch

mới chỉ đáp ứng nhu cầu tại thành phố và trung tâm huyện lị, hầu hết tại các xã có

tiềm năng phát triển du lịch thù hệ thống cấp nước còn thiếu. Mạng lưới thông tin

hầu như mới chỉ đến trung tâm xã, chưa mở rộng đến các tuyến, điểm du lịch bản

làng nên ảnh hưởng đến chất lượng các dịch vụ du lịch.

- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành còn yếu, đặc biệt các khu du lịch trọng

điểm còn thiếu nhiều các dự án đầu tư lớn, thiếu các khách sạn chất lượng cao để

phục vụ khách du lịch có thu nhập cao. Trong toàn tỉnh mới có 20 khách sạn đạt

tiêu chuẩn từ 2 sao đến 4 sao (chiếm 5,9% trong tổng số cơ sở). Mặc dù đã mở

nhiều lớp để nâng cao nhận thức của người dân trong hoạt động phục vụ khách lưu

trú tại các làng bản, tuy nhiên hoạt động này vẫn mang tính tự phát, chưa đem lại sự

hài lòng cho du khách. Dịch vụ ăn uống tại Lào Cai đã phát triển những vẫn còn

thiếu những nhà hàng với các món ăn dân tộc độc đáo, các nhà hàng chất lượng cao

với các món ăn Âu, Á, các món ăn ẩm thực từ 3 miền: Bắc – Trung – Nam. Mặt

khác, phong cách phục vụ còn yếu, chưa chuyên nghiệp, thiếu đầu bếp có tay nghề

cao. Các dịch vụ văn hóa, thể thao như: Sân golf, sân tennis, các dịch vụ vật lý trị

liệu…còn khan hiếm. Nhiều trung tâm, cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị đã hình thành

nhưng vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún thiếu đồng bộ, mặt hàng còn đơn điệu, chưa thể

hiện được bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thần thái độ phục vụ chưa văn minh. Vì vậy

88

khách đến Lào Cai tuy đông nhưng thời gian lưu lại ngắn, mức chi tiêu không cao

ảnh hưởng đến doanh thu du lịch.

- Việc đầu tư khai thác vào các tài nguyên tự nhiên và nhân văn còn nhiều hạn

chế và chưa tướng xứng. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu, nghèo nàn, nhất là việc

khai thác các thế mạnh về văn hóa, dân tộc, các lễ hội và tiềm năng thiên nhiên.

- Nguồn nhân lực du lịch Lào Cai còn thiếu và yếu, nhân lực quản lý du lịch.

Lao động trực tiếp có trên 60% chưa qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành du lịch

nên năng lực, kỹ năng nghề và chất lượng phục vụ thấp.

- Kinh phí dành cho xúc tiến, quảng bá du lịch còn ít; công tác quảng bá du

lịch đã được quan tâm đẩy mạnh nhưng chưa có chiến lược, thiếu tính chuyên

nghiệp, mới chủ yếu tập trung quảng bá trong nước và những thị trường gần, chưa

chú trọng quảng bá các thị trường ngoài nước và những thị trường xa theo chủ

điểm, trọng điểm hoặc sản phẩm đặc thù theo nhu cầu thị trường.

- Mặc dù tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế chính sách khuyến khích, thu hút đầu

tư nhưng hiệu quả chưa cao, chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư bằng các dự án du

lịch lớn và chất lượng. Các dự án lớn hầu như vẫn tập trung tại địa bàn huyện Sa Pa,

thành phố Lào Cai, chưa thu hút được các dự án lớn đầu tư vào Bắc Hà và các khu,

tuyến điểm du lịch khác.

- Một số hiện tượng tồn tại từ nhiều năm nhưng vẫn chưa giải quyết triệt để

như tình trạng chèo kéo khách của một số cơ sở lưu trú, nhà hàng và những người

bán hàng rong.

- Việc quy hoạch một số công trình phục vụ như chợ ẩm thực, các điểm bán

hàng tại các khu, tuyến, điểm du lịch còn bất cập, lấn chiếm hành lang giao thông

để kinh doanh dịch vụ làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông, mỹ quan điểm

du lịch và văn minh trong KDDL. Một số tuyến điểm du lịch cộng đồng đã mất dần

cảnh quan thiên nhiên do tốc độ đô thị hóa, hoặc đầu tư các công trình thủy điện,

đường giao thông.

89

Nhìn chung, hiệu quả kinh tế - xã hội của KTDL còn chưa tương xứng với

tiềm năng và lợi thế và yêu cầu phát triển du lịch của tỉnh. Sở dĩ phát triển kinh tế

du lịch của tỉnh Lào Cai còn tồn tại những hạn chế nêu trên là do một số nguyên

nhân cơ bản sau:

* Nguyên nhân khách quan:

- Xuất phát điểm nền kinh tế Lào Cai và ngành du lịch địa phương thấp, các

yếu tố thị trường chưa hình thành đầy đủ. Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động

du lịch kéo theo những đòi hỏi cấp bách về tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh

vực còn nhiều chỗ bất cập (cơ chế quản lý, chế tài xử phạt, cơ chế hợp tác và hội

nhập quốc tế…)

- Do ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu trong những

năm qua đã làm suy giảm lượng khách quốc tế đến Việt Nam, trong đó có tỉnh Lào

Cai.

* Nguyên nhân chủ quan:

- Cán bộ và cơ quan quản lý du lịch ở các huyện, thành phố còn yếu và thiếu,

lúng túng trong triển khai các nhiệm vụ chuyên môn liên quan đến tham mưu triển

khai Đề án phát triển KTDL của tỉnh và công tác QLNN về du lịch.

- Thiếu vốn trong quá trình đầu tư và công tác quy hoạch, giải phóng mặt

bằng gặp khó khăn nên một số dự án du lịch triển khai chậm. Chưa hình thành được

nguồn lực đầu tư cho công tác xúc tiến du lịch và đào tạo nhân lực du lịch hàng

năm.

- Sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực du lịch còn hạn chế,

vì vậy môi trường du lịch vẫn còn tình trạng chèo kéo khách, bán hàng rong của

người dân tộc vẫn chưa có giải pháp xử lý.

- Lực lượng lao động trong ngành trình độ học vấn và hiểu biết còn chưa cao. Ý

thức của dân cư sống tại các điểm du lịch vẫn còn thấp.

- Sự phát triển của một số ngành công nghiệp (thủy điện, khai thác mỏ…) đã

làm mất cảnh quan tự nhiên tại nhiều, tuyến điểm du lịch.

90

- Công tác xây dựng và cụ thể các dự án trong đề án còn mang nặng tính hình

thức do đó chưa thu hút được các nguồn vốn từ chương trình mục tiêu và ngân sách

tỉnh.

Trên đây là những hạn chế, khó khăn vướng mắc trong quá trình phát triển

KTDL của tỉnh Lào Cai. Do đó, để KTDL phát triển nhanh hơn nữa, tương xứng

với tiềm năng của tỉnh, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng KTDL trong thời

gian qua, có thể đưa ra những quan điểm, định hướng và giải pháp khắc phục những

hạn chế và phát huy những lợi thế để đưa KTDL của tỉnh phát triển nhanh, mạnh,

bền vững trong thời gian tới.

91

CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

KINH TẾ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI

3.1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở TỈNH LÀO CAI

3.1.1. Bối cảnh kinh tế mới

* Bối cảnh quốc tế:

Nền kinh tế thế giới đang bước vào thời kỳ phát triển mới, xu hướng phát

triển kinh tế tri thức đang diễn ra mạnh mẽ. Khoa học, công nghệ đang trở thành

LLSX trực tiếp có vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế và trong thời gian tới

sẽ có những bước đột phá mới. Toàn cầu hóa, khu vực hóa là một xu thế khách

quan, ngày càng có nhiều nước tham gia, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là một

xu thế lớn phản ánh nguyện vọng và đòi hỏi của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trong

bối cảnh đó nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới phát triển nhanh với xu thế

chuyển dần sang khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông

Nam Á, trong đó có Việt Nam là điểm mới đang được nhiều thị trường khách du

lịch quốc tế quan tâm tìm hiểu. Đây là cơ hội tốt tạo đà cho thị trường du lịch Việt

Nam nói chung và thị trường du lịch Lào Cai nói riêng phát triển.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế mới trên, cạnh tranh du lịch trong khu vực

và thế giới ngày càng gay gắt, sẽ được đẩy lên ở mức cao trong điều kiện toàn cầu

hóa, khu vực hóa. Trong khi đó khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam còn rất

hạn chế. Trong phát triển du lịch toàn cầu và của Việt Nam cũng cần phải tính đến

những biến động khó lường của khủng hoảng tài chính, năng lượng, thiên tai, dịch

bệnh, của chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, chạy đua vũ

trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố…đã làm suy giảm lượng khách du lịch,

du khách cắt giảm chi tiêu…là những thách thức đặt ra cho phát triển KTDL trong

thời gian tới.

* Bối cảnh trong nước:

Trong những năm qua sự nghiệp đổi mới đất nước đã đạt những thành tựu

quan trọng. Tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được

92

tăng cường; quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở

rộng và thu nhiều kết quả tốt. Hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là đường giao thông,

cầu, cảng, sân bay, điện, nước, bưu chính viễn thông…được tăng cường. Các ngành

kinh tế, trong đó có ngành dịch vụ đều có bước phát triển mới, tích cực, cơ cấu kinh

tế đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hóa và từng bước hiện

đại hóa.

Bên cạnh đó, văn hóa xã hội của đất nước có những tiến bộ, đời sống nhân

tiếp tục được cải thiện. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng

lên. Khoa học, công nghệ có chuyển biến, phục vụ ngày càng nhiều hơn cho sản

xuất, phát triển các ngành kinh tế và đời sống.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang trở thành điểm đến

an toàn và thân thiện của du khách quốc tế, của các loại hình du lịch hội nghị, tổ

chức sự kiện của khu vực và thế giới. Đồng thời sau khi nước ta trở thành thành

viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), du lịch Việt Nam cũng

đang đứng trước những cơ hội và thách thức của lộ trình hội nhập thị trường du lịch

vào thị trường du lịch khu vực và thế giới, đồng thời đây cũng là những cơ hội và

thách thức đối với phát triển KTDL của tỉnh Lào Cai.

Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước đã tạo điều

kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch phát triển. Du lịch được xác

định là một ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nói chung và các doanh

nghiệp kinh doanh du lịch nói riêng sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị trường, nhờ đó

các sản phẩm du lịch ngày càng phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, các doanh

nghiệp muốn giữ và phát triển thêm thị trường thì phải nghiên cứu và phát triển các

sản phẩm mới cho phù hợp với nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của du khách,

đây cũng là động lực kích thích các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của

mình trên thị trường khu vực trong nước và quốc tế. Hơn nữa, gia nhập WTO ngành

du lịch Việt Nam sẽ phải đối diện với một môi trường kinh doanh mới, các doanh

nghiệp trong nước không còn được sự bảo hộ của Nhà nước, cho nên để tồn tại và

93

phát triển được buộc các doanh nghiệp phải tự thân vươn lên. Do đó, hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp sẽ năng động hơn, hiệu quả hơn.

Ngoài ra, lượng khách trong và ngoài nước đến Việt Nam nói chung và Lào

Cai nói riêng sẽ gia tăng lên, hoạt động đầu tư cho du lịch cũng sôi động hơn với

nhiều dự án xây dựng các khu du lịch tổng hợp, nhà hàng, khách sạn cao cấp, xây

dựng cơ sở hạ tầng được thực hiện. Nâng cao công tác tuyên truyền và kiến thức về

hội nhập kinh tế quốc tế, các thỏa thuận song phương, đa phương liên quan đến lĩnh

vực du lịch cho các doanh nghiệp, cán bộ quản lý và người lao động.

Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi nêu trên, thì bối cảnh kinh tế mới cũng

đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho phát triển KTDL. Sức cạnh tranh của ngành

du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch tỉnh Lào Cai nói riêng còn yếu. Do

vậy, khi hội nhập kinh tế quốc tế ngành du lịch sẽ phải đối mặt với sự canh tranh

ngày càng gay gắt trong khu vực và thế giới. Mặt khác, môi trường phát triển du

lịch trong nước còn nhiều khó khăn, hoạt động du lịch còn chủ yếu dựa vào khai

thác tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ

còn nhiều bất cập. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn nhiều yếu kém;

vốn đầu tư rất thiếu lại đầu tư chưa đồng bộ, kém hiệu quả là một thách thức không

nhỏ đối với sự phát triển du lịch; hệ thống các chính sách, quy định về du lịch thiếu

nhiều, môi trường quản lý chưa vững chắc, chưa thể hiện tính đồng nhất với luật du

lịch của các quốc gia phát triển về du lịch, trong khi đó các nước Châu Á khác như:

Xingapore, Philippin, Malaixia, Indonexia,…đang liên tục, đưa ra các đợt quảng bá,

tiếp thị rầm rộ nhằm thu hút khách du lịch.

Như vậy, có thể thấy rằng, du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Lào Cai

nói riêng đang có nhiều thuận lợi cũng như cơ hội phát triển song cũng phải đối mặt

với không ít trở ngại. Những trở ngại, thách thức này đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ Bộ

VHTT&DL, từ phía các Bộ, ngành hữu quan, từ các địa phương và các doanh

nghiệp KDDL. Đó chính là những động lực quan trọng thúc đẩy KTDL nước ta và

kinh tế du lịch của Lào Cai ngày càng phát triển.

94

3.1.2. Quan điểm và định hƣớng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai

3.1.2.1. Quan điểm phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai trong thời gian tới

Để du lịch Lào Cai phát triển nhanh, mạnh và bền vững, hoà nhập cùng với

xu hướng phát triển chung của du lịch Việt Nam, ngành du lịch Lào Cai cần nắm

vững các quan điểm sau:

Phát triển du lịch cần quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng

và Nhà nước, nhất là nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, IX, X của Đảng và Nghị quyết

Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XIII. Đó là phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế

mũi nhọn; tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh về du lịch của tỉnh, tạo bước

phát triển mới về kinh tế du lịch trong những năm tới.

Phát triển du lịch với vai trò là một ngành kinh tế mũi nhọn là hướng tích cực

để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành khác phát triển, góp

phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Phát triển du lịch phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của

tỉnh và phải được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với phát triển du lịch liên vùng của

cả nước.

Phát triển du lịch phải dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành,

sự tham gia tích cực, năng động của tất cả các thành phần kinh tế và toàn xã hội.

Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho sự phát triển.

Phát triển du lịch phải gắn với sự bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn

xã hội; vừa tạo được môi trường an toàn, thân thiện cho du khách, vừa giữ được sự

ổn định và yên bình cho cuộc sống của nhân dân trong vùng du lịch.

Phát triển du lịch gắn với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp

ứng nhu cầu của sự phát triển, đồng thời với việc lập kế hoạch đào tạo và đào tạo lại

những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ; vốn hiểu biết về

lịch sử, văn hoá, về tự nhiên, xã hội; kỹ năng giao tiếp, ứng xử... cho đội ngũ cán bộ

quản lý, nhân viên phục vụ, hướng dẫn viên và lực lượng lao động làm việc trong

ngành du lịch, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của cơ quan QLNN về du

lịch các cấp, của các doanh nghiệp và tổ chức tham gia hoạt động du lịch.

95

Phát triển du lịch phải mang tính bền vững gắn với việc bảo vệ môi trường

sinh thái và môi trường xã hội. Phát triển vừa thoả mãn những nhu cầu hiện tại mà

không làm tổn hại đến sự phát triển của các thế hệ tương lai.

3.1.2.2. Định hướng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai

Trên cơ sở những quan điểm cơ bản trên và thực trạng phát triển KTDL của

tỉnh trong thời gian qua, Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII đã đưa ra định hướng

tổng quát như sau: “Trong những năm tới cần tập trung khai thác tiềm năng thế

mạnh phong phú về cảnh quan thiên nhiên, về văn hóa lịch sử, về điều kiện giao

thông thuận lơi, những cơ sở vật chất đã được đầu tư xây dựng tạo bước phát triển

mới về du lịch. Phấn đấu sau năm 2010 đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi

nhọn, nâng giá trị gia tăng của ngành du lịch chiếm trên 12% trong cơ cầu GDP của

tỉnh” [33].

Từ định hướng tổng quát nêu trên, phát triển KTDL được cụ thể hóa theo

những hướng cơ bản sau:

 Về định hướng thị trường và phát triển sản phẩm:

+ Về thị trường:

Củng cố và mở rộng khai thác có hiệu quả những thị trường du lịch quốc tế

trọng điểm, song song với việc phát triển thị trường nội địa phù hợp với những điều

kiện cụ thể của tỉnh Lào Cai.

Các thị trường quốc tế trọng điểm như Trung Quốc, chiếm tới gần 70% thị

phần khách quốc tế đến Lào Cai; thị trường Châu Âu chủ yếu là Pháp, Đức, Anh,

Thụy Điển và thị trường Bắc Mỹ (phần đa là Mỹ và Canada) là những thị trường có

nhiều triển vọng đối với du lịch Lào Cai. Đây cũng là thị trường có khả năng thanh

toán và có nhu cầu về chất lượng dịch vụ cao. Vì vậy cần phải có kế hoạch cụ thể

khai thác để thúc đẩy tăng trưởng du khách quốc tế đến Lào Cai trong thời gian tới.

Thị trường khách nội địa: Khách nội địa đến Lào Cai rất đa dạng thuộc nhiều

lứa tuổi, nhiều thành phần nghề nghiệp khác nhau có thể đi lẻ hoặc đi theo đoàn

song chủ yếu đến từ các thị trường gần, từ Hà Nội và các tỉnh lân cận phía Bắc. Vì

96

vậy cần phải chú trọng kích cầu du lịch nội địa, đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng

bá thu hút nguồn khách nội địa ở những thị trường xa.

+ Định hướng về phát triển sản phẩm:

Trên cơ sở định hướng thị trường chính xác và điều chỉnh linh hoạt để xây

dựng những sản phẩm du lịch độc đáo mang sắc thái riêng của Lào Cai, đủ sức cạnh

tranh với các tỉnh lân cận và cả nước, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển các sản

phẩm du lịch sinh thái gắn với bảo vệ môi trường, du lịch văn hóa lịch sử, du lịch

cộng đồng, gắn văn hóa dân tộc với phát triển du lịch. Đồng thời đa dạng hóa sản

phẩm du lịch với các sản phẩm phù hợp với từng vùng, tuyến, điểm và khu du lịch

để thỏa mãn nhu cầu đa dạng, ngày càng tăng của các đối tượng khách, nâng cao

hiệu quả hoạt động của kinh tế du lịch.

 Định hướng phát triển các vùng du lịch:

Lào Cai được phân chia và định hướng phát triển thành 3 vùng du lịch, trong

đó mỗi vùng có những sản phẩm và tiềm năng du lịch riêng để phát triển và thu hút

khách du lịch.

+ Vùng 1: Gồm thành phố Lào Cai và huyện Sa Pa, Bát Xát. Trong đó, xây

dựng Sa Pa thành đô thị du lịch gắn với sản phẩm du lịch thế mạnh như du lịch nghỉ

dưỡng; du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái có yếu tố mạo hiểm... được phát triển

theo hướng có kiểm soát sức tải, nâng cao chất lượng. Thành phố Lào Cai là điểm

đầu tư trọng tâm hướng tới thị trường khách thương mại, phát triển mạnh loại hình

du lịch mua sắm, du lịch gắn với hội nghị, hội thảo, hội chợ và khảo sát thị trường.

Bát Xát phát triển các loại hình du lịch văn hóa – sinh thái nhỏ, nhằm giảm tải và

phân phối lượng khách từ Sa Pa và Lào Cai.

+ Vùng 2: Gồm Bắc Hà – Si Ma Cai - Mường Khương. Bắc Hà là điểm đầu

tư trọng tâm. Mường Khương và Si Ma Cai là các điểm đến vệ tinh trong các tour

du lịch kết nối tam giác du lịch Bắc Hà – Si Ma Cai - Mường Khương với Hà Giang

và Châu Văn Sơn – Trung Quốc. Vùng này có địa hình núi cao, cảnh quan đẹp, khí

hậu trong lành mát mẻ quanh năm. Cùng với các tài nguyên du lịch nhân văn tập

trung, đặc sắc của các dân tộc, rất hấp dẫn với khách du lịch trong nước và quốc tế.

97

Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng: Du lịch sinh thái, du lịch thể thao, giải

trí, du lịch văn hóa, lịch sử.

+ Vùng 3: Phía Tây Nam tập trung các huyện Bảo Thắng, Bảo Yên và Văn

Bàn. Đây là vùng gắn với Quốc lộ 70 và Cao tốc Lào Cai – Hà Nội, do vậy tạo điều

kiện phát triển mạnh các trạm dừng chân du lịch gắn với mua sắm và bán các sản

phẩm du lịch lưu niệm, quà tặng; hình thành các điểm mua sắm du lịch cho các

tuyến du lịch Hà Nội – Lào Cai; Trung Quốc – Việt Nam và các tuyến du lịch của

các tỉnh Lai Châu (qua Than Uyên), Yên Bái và Hà Giang.

 Định hướng về đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất phục vụ du lịch

Đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch, thu hút sự tham

gia của khu vực tư nhân vào đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.

Ưu tiên đầu tư cho những công trình, dự án có khả năng nâng cao năng lực và chất

lượng cung ứng du lịch.

 Định hướng về phát triển nguồn nhân lực du lịch

Xây dựng nguồn nhân lực quản lý và lao động trực tiếp trong ngành du lịch

đáp ứng yêu cầu ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó chú trọng đào tạo (bao gồm cả hệ

thống đào tạo) để nâng cao năng lực; đảm bảo chất lượng, kỹ năng nghề và nghiệp

vụ du lịch, mang tính chuyên nghiệp, góp phần nâng cấp chất lượng dịch vụ du lịch.

 Định hướng về quảng bá, xúc tiến đầu tư du lịch

Tiếp tục đẩy mạnh công tác quảng bá, xúc tiến du lịch bằng nhiều nội dung,

hình thức có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu, đảm bảo thiết thực hiệu quả.

Huy động mọi nguồn lực để ưu tiên xúc tiến du lịch đối với thị trường khách du lịch

nội địa tại các đô thị phía Nam, khách Trung Quốc và khách quốc tịch nước thứ 3 từ

Côn Minh – Trung Quốc và Luongprabang – Lào đến Lào Cai.

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU

LỊCH TỈNH LÀO CAI

98

Để du lịch Lào Cai hướng tới mục tiêu trở thành một trong những trung tâm

du lịch lớn của miền Bắc và của cả nước, góp phần xây dựng Lào Cai ngày càng

giàu mạnh, tỉnh Lào Cai cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

3.2.1. Tăng cƣờng hiệu lực quản lý Nhà nƣớc về du lịch

Với đặc điểm là ngành kinh tế mang tính tổng hợp cao nên hiệu quả hoạt

động của ngành du lịch liên quan đến nhiều ngành khác trong mối quan hệ tương

hỗ, mà chủ yếu là tổ chức quản lý và cơ chế chính sách. Để đạt được mục tiêu đề ra,

công tác tổ chức, QLNN về du lịch cần được kiện toàn, đổi mới; cơ chế chính sách

về du lịch cần từng bước bổ sung, sửa đổi theo hướng hình thành khung pháp luật

đồng bộ, liên ngành tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho kinh tế du lịch phát

triển. Do vậy, vai trò QLNN về du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Để tăng cường hiệu lực QLNN về du lịch trên địa bàn, tỉnh Lào Cai cần hoàn

thiện và kiện toàn bộ máy tổ chức theo một số hướng sau:

- Kiện toàn, củng cố và tăng cường năng lực cho cơ quan QLNN về du lịch

từ cấp tỉnh, huyện, và một số xã trọng điểm du lịch. Quy định tổ chức bộ máy

QLNN về du lịch phải gắn liền với yêu cầu thực tiễn của tình hình phát triển hoạt

động du lịch trên địa bàn tỉnh. Bộ máy tổ chức phải được tiêu chuẩn hóa về cán bộ

và nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành.

- Thành lập đội liên ngành quản lý khách du lịch tại địa bàn du lịch trọng

điểm. Thống nhất cơ chế quản lý hoạt động lữ hành quốc tế tại cửa khẩu Lào Cai –

Hà Khẩu. Tiếp tục xây dựng và chuyên nghiệp hóa các nhà du lịch và từng bước

xây dựng hệ thống nhà văn hóa du lịch thôn bản theo quy hoạch du lịch. Quan tâm

hình thành và củng cố hoạt động của các hiệp hội khách sạn, lữ hành trên địa bàn

theo hướng hoạt động hiệu quả, thiết thực. Thực hiện phương án cổ phần hóa,

chuyển đổi hình thức các Doanh nghiệp du lịch 100% vốn Nhà nước để kinh doanh

hiệu quả hơn.

- Thực thi chính sách khuyến khích phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Lào

Cai, có các quy định cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển du lịch theo hướng mô hình

liên kết chặt chẽ giữa cơ quan QLNN về du lịch, các doanh nghiệp, nhà tư vấn và

99

người dân, nhằm huy động mọi nguồn lực tham gia đầu tư và xây dựng phát triển

kinh tế du lịch.

- Sở du lịch cần phải thực hiện đầy đủ chức năng của mình là tiến hành tổ

chức quản lý vĩ mô đối với toàn bộ hoạt động du lịch và KDDL thuộc mọi tổ chức

và mọi thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố thay vì chỉ quản lý vĩ mô đối với

những doanh nghiệp Nhà nước do UBND tỉnh quản lý như trước đây.

+ Cụ thể hóa và tổ chức chỉ đạo thực hiện “Đề án phát triển du lịch tỉnh Lào

Cai giai đoạn 2011 – 2015” đã được UBND tỉnh phê duyệt, phù hợp với tình hình

thực tế của địa phương, có những đề xuất, kiến nghị để UBND tỉnh điều chỉnh kịp

thời trước những biến đổi của môi trường kinh doanh thực tế của địa phương, nhất

là trong bối cảnh hiện nay, kinh tế xã hội có nhiều thay đổi như dịch bệnh bùng

phát, giá cả leo thang, lạm phát…

+ Tổ chức hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy

phạm pháp luật, các quy chế, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật, quy trình, quy

phạm trong hoạt động du lịch. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và thông

tin về du lịch.

+ Trên cơ sở các quy định của Luật Du lịch, Sở cần bổ sung cụ thể hóa cho

phù hợp với tình hình hoạt động du lịch của địa phương và thường xuyên thanh tra,

rà soát lại quá trình cấp giấy phép, giấy chứng nhận trong từng lĩnh vực của hoạt

động du lịch theo đúng luật định. Việc kiểm tra, thanh tra cần được tiến hành

thường xuyên, đi sâu vào thực chất chứ không mang nặng tính hình thức, thường

chỉ tiến hành mạnh tay vào chiến dịch. Cần tổ chức đội thanh tra liên ngành, phối

hợp với các ngành công an, tài chính và chính quyền cơ sở trong việc giữ gìn kỷ

cương trong hoạt động du lịch và KDDL.

Việc quản lý chặt chẽ và sâu sát của các cấp, ban ngành QLNN về du lịch sẽ

tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp

thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trên lĩnh vực kinh tế du lịch.

100

3.2.2. Giải pháp về đầu tƣ phát triển kinh tế du lịch

Nguồn vốn đầu tư là cơ sở để xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ

thuật du lịch. Trên cơ sở quy hoạch cụ thể cần xác lập những cơ chế, chính sách phù

hợp khuyến khích cả đầu tư nước ngoài và trong nước, cả khu vực Nhà nước và tư

nhân cũng như danh mục các dự án ưu tiên đầu tư phát triển du lịch. Để đẩy mạnh

hoạt động đầu tư vào phát triển KTDL trên địa bàn tỉnh Lào Cai, nhằm đạt được

hiệu quả cao ngành Du lịch Lào Cai cần phải thực hiện tốt các vấn đề cơ bản sau:

- Phối hợp với các huyện, các tuyến, điểm, khu du lịch tiến hành đánh giá

công tác đầu tư phát triển KTDL. Bên cạnh đó, cùng với các ngành liên quan rà soát

đánh giá và đề xuất cơ chế, chính sách đầu tư du lịch.

- Đầu tư vào những điểm có khả năng phát triển du lịch cao, quy mô lớn và

có khả năng mở rộng trong tương lai nhằm tránh sự phát triển nhỏ lẻ, không hiệu

quả. Xác định đầu tư phải theo mức độ ưu tiên cho các điểm giàu tiềm năng, cơ sở

hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu cần có và theo yêu cầu xây dựng sản phẩm du

lịch chủ đạo của ngành. Ưu tiên đầu tư vào những công trình, dự án có khả nâng cao

năng lực và chất lượng cung ứng du lịch. Ngoài ra tiếp tục tăng cường thu hút đầu

tư các dự án du lịch lớn tại Sa Pa, thành phố Lào Cai, đặc biệt là Bắc Hà theo nguồn

vốn từ các doanh nghiệp và các nguồn vốn khác để nâng cao chất lượng các khu vui

chơi, giải trí và dịch vụ du lịch.

- Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất – kỹ thuật phục

vụ du lịch, trước mắt phải quan tâm đến hệ thống đường xá, điện, nước, thông tin

liên lạc, y tế và các dịch vụ công nhằm kích thích đầu tư từ bên ngoài và tạo tâm lý

ổn định cho doanh nghiệp cũng như du khách. Có chính sách khuyến khích đặc biệt

đối với các dịch vụ còn thiếu và yếu như cơ sở lưu trú cao cấp từ 3 sao trở lên, nhà

hàng sang trọng, khu vui chơi giải trí đa năng…Trên cơ sở các trọng điểm đầu tư đã

được Tỉnh ủy, UBND tỉnh xác định rõ, ngành du lịch xây dựng các phương án cụ

thể quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xây dựng tại các khu, điểm du

lịch như sau:

101

+ Đầu tư phát triển cụm du lịch Thành phố Lào Cai và phụ cận: Khu vực này

cần được đầu tư thành một cụm du lịch liên hoàn với tầm cỡ quốc gia và quốc tế.

Kết hợp giữa cải tạo và xây dựng mới các cơ sở vật chất phục vụ nghỉ ngơi, vui

chơi giải trí…, đảm bảo các yêu cầu về quản lý quy hoạch đô thị, quản lý về kiến

trúc, không phá vỡ cảnh quan và môi trường.

+ Đầu tư phát triển cụm du lịch tổng hợp Sa Pa và Bắc Hà: Đầu tư tập trung

không dàn trải, ưu tiên đầu tư cho kết cấu hạ tầng, hệ thống xử lý môi trường và tôn

tạo cảnh quan, di tích văn hóa, lịch sử.

- Để khuyến khích các thành phần tham gia đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật,

khai thác tài nguyên du lịch, phát triển các loại hình du lịch còn thiếu và yếu của

tỉnh Lào Cai, tỉnh cần phải tiến hành tổ chức, giới thiệu quy mô tại các hội nghị, hội

chợ và đăng tải liên tục trên các phương tiện thông tin để mọi đối tượng trong và

ngoài nước dễ truy cập, nắm bắt. Đồng thời UBND tỉnh cần ban hành các chính

sách để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư. Cụ

thể:

+ Cần có chính sách ưu tiên, miễn giảm thuế đất, ưu đãi vài năm chưa thu

thuế thu nhập, miễn giảm thuế khai thác sử dụng tài nguyên phục vụ phát triển du

lịch. Ưu tiên bố trí mặt bằng cho thuê đất, thủ tục thuê đất đối với các doanh nghiệp

đầu tư xây dựng các khu, tuyến, điểm du lịch, cơ sở lưu trú, khu nghỉ dưỡng. Có

chính sách ưu đãi về điện, cấp nước, nguyên vật liệu phục vụ cho các công trình, dự

án đầu tư du lịch có các giải pháp cụ thể trong vấn đề giảm thiểu và giải quyết ô

nhiễm môi trường, bảo tồn hệ sinh thái của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh

trong khu du lịch.

+ Để huy động được các nguồn vốn giải quyết nhu cầu đầu tư cho cơ sở hạ

tầng, kỹ thuật phuc vụ du lịch cần có cơ chế chính sách thu hút vốn đầu tư. Khuyến

khích các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho

các nhà đầu tư vay vốn nhằm triển khai các dự án du lịch trên địa bàn tỉnh với lãi

suất ưu đãi, thủ tục nhanh gọn. Tích cực khai thác nguồn vốn từ chương trình đầu tư

hạ tầng du lịch của Tổng cục Du lịch để xây dựng hạ tầng các khu, điểm du lịch

102

trọng điểm, ưu tiên thực hiện các dự án đầu tư. Đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa

nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch, tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư cả

trong và ngoài nước. Để thực hiện xã hội hóa nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch

cần chú trọng tiến hành theo hướng:

Đối với vốn đầu tư hạ tầng, vốn quy hoạch và hỗ trợ phát triển du lịch, chủ

yếu huy động từ nguồn ngân sách của Nhà nước. Khai thác nguồn vốn đầu tư hạ

tầng du lịch và lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương để đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng đến các khu, điểm du

lịch. Có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư tự bỏ vốn xây dựng hạ tầng đầu mối

đến các khu du lịch, sau đó tỉnh hoàn trả vốn đầu tư từ phần ngân sách Nhà nước

thu được của hoạt động kinh doanh du lịch về sau hoặc nguồn thu từ đấu giá quyền

sử dụng đất. Bố trí nguồn lực từ chính sách khuyến khích phát triển du lịch để mở

các lớp đào tạo cho cán bộ quản lý, lao động và đào tạo du lịch cộng đồng. Tranh

thủ nguồn kinh phí từ chương trình hành động quốc gia về du lịch, nguồn vốn đào

tạo du lịch từ các tổ chức phi chính phủ để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến quảng bá,

phát triển nguồn nhân lực du lịch.

Tập trung hỗ trợ đầu tư, khai thác và phát triển sản phẩm du lịch thành hệ

thống sản phẩm, loại hình du lịch đặc trưng, có chất lượng cao dựa trên thế mạnh

đặc thù của tài nguyên du lịch địa phương. Khuyến khích và ưu tiên đầu tư xây

dựng sản phẩm phù hợp với nhu cầu du khách và sản phẩm khách có khả năng chi

trả từ mức khá trở lên. Khai thác mạnh các sản phẩm du lịch gắn với các trọng điểm

du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch để nâng cao tính cạnh tranh đối với các điểm

đến trong nước và khu vực Châu Á. Đối với vốn đầu tư xây dựng các sản phẩm du

lịch do các nhà đầu tư thực hiện sẽ huy động vốn tự có, vốn vay, vốn liên doanh,

liên kết của các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước.

3.2.3. Tăng cƣờng công tác đào tạo và bồi dƣỡng nguồn nhân lực du lịch

Năng lực và phẩm chất của đội ngũ lao động trong ngành du lịch có tầm

quan trọng đặc biệt đối với việc khai thác có hiệu quả cũng như bảo tồn lâu dài các

nguồn tiềm năng du lịch của đất nước, góp phần tạo ra những sản phẩm du lịch đặc

103

sắc, có chất lượng, hấp dẫn khách. Đội ngũ này cũng thể hiện khả năng tiếp thu kinh

nghiệm du lịch quốc tế, cũng như khả năng tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế

về du lịch. Phát triển nguồn nhân lực du lịch cũng là nhằm bảo đảm cho Du lịch Lào

Cai phát huy nội lực, nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách. Đây chính là quá trình cụ

thể hoá yêu cầu về nhân tố con người trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.

Thực tế cho thấy chất lượng lao động du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện

nay còn nhiều bất cập và hạn chế do thiếu kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và

trình độ ngoại ngữ. So với tốc độ phát triển hiện nay và trong tương lai thì đội ngũ

lao động trong lĩnh vực du lịch cần phải được huấn luyện và đào tạo lại thông qua

các cơ sở đào tạo có quy mô và chất lượng đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu hiện tại.

Điều đó cho thấy du lịch Lào Cai cần có một chiến lược lâu dài nhằm chuẩn hoá đội

ngũ lao động và cán bộ QLNN và trong kinh doanh. Đồng thời xây dựng lực lượng

lao động đủ về số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu để phát huy các

tiềm năng thế mạnh của địa phương góp phần đưa du lịch Lào Cai trở thành ngành

kinh tế mũi nhọn, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập cùng với ngành

du lịch của cả nước. Vì vậy, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cần

tiến hành đồng bộ các biện pháp cơ bản sau:

- Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch đến

năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Từ chiến lược đó có thể lên được những kế

hoạch ngắn hạn, dài hạn đào tạo nhân lực theo định hướng phát triển ngành. Nội

dung chủ yếu của kế hoạch này bao gồm đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực hiện có kết hợp với đào tạo mới để đáp ứng yêu cầu trước

mắt và chuẩn bị cho lâu dài.

- Thực hiện đầy đủ và nghiêm túc chính sách cán bộ từ quy hoạch, tuyển

dụng, sắp xếp, sử dụng và quản lý, đến đãi ngộ…, chú trọng từng bước trẻ hóa đội

ngũ cán bộ, kết hợp ưu tiên sử dụng cán bộ có kiến thức, trình độ tay nghề, ý thức

chính trị và kinh nghiệm cao, đảm bảo tính kế thừa. Đặc biệt chú trọng đào tạo, sử

dụng và đãi ngộ tri thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, chuyên gia và nghệ nhân

hoạt động trong lĩnh vực du lịch.

104

- Từng bước xây dựng đội ngũ các nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp năng

động và sáng tạo, đủ năng lực điều hành các hoạt động KDDL theo cơ chế thị

trường và đáp ứng xu hướng phát triển của thời đại. Nâng cao trình độ nghiệp vụ

cho đội ngũ quản lý KDDL bằng cách tổ chức cho các cán bộ quản lý trong các đơn

vị kinh doanh đi học tập và trau dồi kiến thức ở nước ngoài, đồng thời xây dựng hệ

thống các tiêu chuẩn và quy định tối thiểu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ

năng lãnh đạo, kỹ năng giao tiếp, ứng xử… đối với cán bộ và các chủ cơ sở kinh

doanh dịch vụ du lịch nhằm phát triển các dịch vụ du lịch một cách hiệu quả và chất

lượng.

- Tổ chức mạng lưới các cơ sở đào tạo của Nhà nước và của ngành trên địa

bàn toàn tỉnh một cách hợp lý. Đa dạng hóa hình thức đào tạo gồm chính quy, phi

chính quy, ngắn hạn, dài hạn theo cấp độ: hướng nghiệp dạy nghề, trung cấp chuyên

nghiệp, cao đẳng, đại học…Tăng cường mở các lớp về đào tạo nghiệp vụ lễ tân,

buồng, bàn, bar, bếp, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, lao động ở doanh nghiệp theo

hình thức tại chỗ, “cầm tay chỉ việc”. Ngoài ra, Sở VHTT&DL có thể kết hợp với

các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp để mở lớp bồi dưỡng ngắn hạn, ngoài giờ

ngay tại cơ sở du lịch để đảm bảo nâng cao tay nghề của người lao động mà không

bị gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- Bên cạnh đó xây dựng chính sách và chương trình liến kết, hợp tác với các

tổ chức trong và ngoài nước. Hợp tác với tỉnh Vân Nam – Trung Quốc để đào tạo

đội ngũ cán bộ quản lý trong cơ quan nhà nước và HDV, lao động trong cơ sở

KDDL, gửi đào tạo và đào tạo gián tiếp qua chương trình khai thác khách của Công

ty du lịch được đặt tại Côn Minh – Trung Quốc. Phối hợp với một số trường và cơ

sở dạy nghề như: Trường Trung học tư thục Hoa sữa Hà Nội, Trường Cao đẳng du

lịch, Trường Trung cấp Thương mại…để giảng dạy về các nghiệp vụ nấu ăn, buồng,

bar, lễ tân và các nghiệp vụ khác, đồng thời tiến hành trao đổi sinh viên để gửi thực

tập và đào tạo.

- Đào tạo đội ngũ HDV là một vấn đề hết sức nghiêm túc hiện nay, đa số họ

đều không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của khách. Do vậy, tỉnh cần phải có kế

105

hoạch đào tạo lại, đào đạo mới đội ngũ HDV. Trước mắt cần phải bắt đầu đào tạo

và hoàn thiện cho các HDV hiện đang làm việc tại Sa Pa, Bắc Hà vì trong số họ có

nhiều hiểu biết về địa phương. Sau đó là đào tạo cho con em các dân tộc thiểu số

đang tham gia hoạt động hướng dẫn khách du lịch.

- Chỉ đạo, hướng dẫn các nhà đầu tư có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo đội ngũ

lao động là người địa phương ngay từ khi bắt đầu triển khai đầu tư dự án để bố trí

đào tạo và sử dụng khi dự án hoàn thành, đi vào khai thác.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong phát triển

nguồn nhân lực du lịch. Tăng cường công nghệ thông tin, ưu tiên đầu tư cho hoạt

động Internet để phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá, quản lý và KDDL.

- Phát triển du lịch phải dựa vào cộng đồng dân cư địa phương do đó cần

tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch. Từ đó

người dân có thể nhận thức được lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài đối với công

đồng dân cư địa phương, nhằm tăng cường ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa, văn

minh du lịch và bảo vệ môi trường cảnh quan du lịch, tài nguyên du lịch tại các khu,

điểm du lịch trên địa bàn tỉnh.

3.2.4. Đa dạng hóa, nâng cao chất lƣợng sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch

Để kinh tế du lịch thực sự phát triển cũng như các doanh nghiệp hoạt động

KDDL có hiệu quả thì việc khai thác các nguồn tài nguyên du lịch tạo thành những

sản phẩm du lịch phong phú, đa dạng cùng với các dịch vụ du lịch phù hợp, đáp ứng

được nhu cầu của du khách có vai trò vô cùng quan trọng. Do đó, ngành du lịch Lào

Cai cần phải thực hiện những giải pháp nhằm đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản

phẩm và dịch vụ du lịch như sau:

- Trên cơ sở định hướng thị trường chính xác và điều chỉnh linh hoạt để đầu

tư, khai thác và phát triển thành hệ thống sản phẩm, loại hình du lịch đặc trưng dựa

trên thế mạnh đặc thù của tài nguyên du lịch Lào Cai, đủ sức cạnh tranh với các tỉnh

lân cận và cả nước, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển các sản phẩm du lịch sinh

thái gắn với bảo vệ môi trường, du lịch văn hóa lịch sử, du lịch cộng đồng, gắn văn

106

hóa dân tộc với phát triển du lịch. Đồng thời đa dạng hóa sản phẩm du lịch với các

sản phẩm phù hợp với từng vùng, tuyến, điểm và khu du lịch để thỏa mãn nhu cầu

đa dạng, ngày càng tăng của các đối tượng khách. Đặc biệt khuyến khích đầu tư xây

dựng sản phẩm dành cho du khách có khả năng chi trả từ mức khá trở lên.

- Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch là mắt xích quan trọng trong guồng

máy hoạt động của ngành. Hiệu quả của các doanh nghiệp du lịch tác động đến hiệu

quả của ngành. Vì vậy, muốn tăng doanh thu, đạt lợi nhuận cao trong kinh doanh,

góp phần vào sự phát triển của KTDL thì các doanh nghiệp cũng phải có những giải

pháp đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm kinh doanh cũng như lĩnh vực

kinh doanh du lịch của mình. Cụ thể:

+ Đối với dịch vụ lữ hành: Xu hướng tiêu dùng sản phẩm chất lượng ngày

càng cao của khách du lịch đòi hỏi các doanh nghiệp lữ hành cần từng bước giảm

cung cấp sản phẩm du lịch cấp thấp cho khách du lịch. Để thu hút khách du lịch thì

việc tạo ra sản phẩm mới lạ, độc đáo là rất quan trọng. Các doanh nghiệp du lịch

Lào Cai cần coi trọng phát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái,

du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch mạo hiểm…là những thế mạnh

của du lịch Lào Cai.

Các doanh nghiệp lữ hành cần tích cực chủ động trong việc ký kết các hợp

đồng du lịch với các doanh nghiệp lữ hành của các địa phương trong nước và nước

ngoài, đặc biệt đối với khu vực Vân Nam, Côn Minh – Trung Quốc. Đồng thời chủ

động xây dựng các mối liên hệ giữa các doanh nghiệp với nhau thông qua việc hỗ

trợ xây dựng các dự án phát triển sản phẩm du lịch trong hệ thống tour, tuyến du

lịch…

+ Đối với dịch vụ lưu trú: Các du khách có mong muốn khác nhau về tiêu

chuẩn và loại chỗ ở. Một số đòi hỏi khách sạn tiêu chuẩn quốc tế, một số khác thì

hài lòng với chỗ ở đơn giản, đặc biệt là họ có thể tiếp xúc với cuộc sống của dân

bản địa. Vì vậy, đối với KDDL không chỉ đa dạng hóa các loại hình dịch vụ mà đối

với từng loại hình kinh doanh ấy cũng cần phải phong phú và đa dạng các sản phẩm

dịch vụ để có thể hút khách và đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách. Bên cạnh đó,

107

cần phải đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ các cơ sở lưu trú, đảm bảo tiện nghi,

hiện đại và đồng bộ, đưa công suất sử dụng phòng cao hơn, góp phần làm tăng

doanh thu và hiệu quả kinh tế của các cơ sở lưu trú. Đồng thời, có chính sách

khuyến khích đặc biệt đối với các dịch vụ còn thiếu và yếu như cơ sở lưu trú cao

cấp từ 3 sao trở lên nhằm tăng cường thu hút đối tượng khách có khả năng chi trả

cao.

+ Đối với dịch vụ ăn uống: Dịch vụ ăn uống tại Lào Cai đã phát triển tương

đối phong phú nhưng cũng còn thiếu nhiều những nhà hàng chất lượng cao, thực

đơn trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống còn đơn điệu, vấn đề chất lượng vệ

sinh an toàn thực phẩm chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, để đáp ứng được

nhu cầu của du khách và nâng cao chất lượng sản phẩm thì các doanh nghiệp du

lịch cần phải phát triển các sản phẩm mang hương vị riêng của Lào Cai và đậm đà

bản sắc dân tộc. Đồng thời xây dựng các nhà hàng với các món ăn Âu, Á, các món

ăn ẩm thực của 3 miền Bắc – Trung – Nam nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều đối

tượng khách. Thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm tại các khách sạn, nhà hàng phục

vụ ăn uống, không cho phép lưu thông và sử dụng các loại thực phẩm không đảm

bảo chất lượng. Mặt khác, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ nhân viên về phong cách

phục vụ, đáp ứng được nhu cầu của khách.

+ Đối với các dịch vụ du lịch khác: Để nâng cao chất lượng dịch vụ vận

chuyển khách đi tham quan, du lịch thì Nhà nước và các doanh nghiệp cần đầu tư

các phương tiện vận chuyển mới, hiện đại kể cả các phương tiện thô sơ như: xe trâu,

xe bò, xe ngựa khi vào tham quan các làng bản… Thường xuyên giám sát, kiểm tra

đột xuất việc phục vụ khách và có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với nhân viên.

Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu thể thao, vui chơi, giải trí và mua sắm thì Tỉnh cần

phải tiến hành quy hoạch đầu tư phát triển các cơ sở thể thao và dịch vụ vui chơi,

giải trí cả về số lượng và chất lượng. Trong thời gian tới tập trung đầu tư một số khu

trung tâm, cửa hàng thương mại lớn ở thành phố Lào Cai, Sa Pa, Bắc Hà và quan

tâm mở rộng và đầu tư xây dựng các cơ sở thương mại ở tuyến huyện, phục vụ nhu

cầu mua sắm hàng hóa, đồ lưu niệm và đặc sản địa phương của khách du lịch.

108

3.2.5. Giải pháp về thị trƣờng

Mở rộng thị trường là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển

KTDL tỉnh Lào Cai. Do vậy, tỉnh phải có kế hoạch không ngừng mở rộng và phát

triển thị trường. Củng cố và mở rộng khai thác có hiệu quả những thị trường du lịch

quốc tế trọng điểm, song song với việc phát triển thị trường nội địa phù hợp với

những điều kiện cụ thể của tỉnh Lào Cai. Cần coi trọng việc mở rộng thị trường với

sự tham gia của các doanh nghiệp KDDL, của nhiều thành phần kinh tế, bên cạnh

việc đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ du lịch để đủ sức cạnh tranh trên thị

trường. Cần tập trung vào những giải pháp sau:

- Tích cực, chủ động trao đổi thông tin và tiến hành liên kết, hợp tác giữa du

lịch Lào Cai với các tỉnh, thành phố như Vân Nam – Trung Quốc, Hà Nội, Hải

phòng, Quảng Ninh để phát triển các sản phẩm du lịch dọc tuyến hành lang kinh tế

Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, đồng thời triển khai các

thỏa thuận hợp tác du lịch với 8 tỉnh Tây Bắc nhằm đẩy mạnh phát triển KTDL theo

hướng liên vùng.

- Liên kết với các doanh nghiệp hoạt động KDDL của các tỉnh bạn để nối

tour, nối tuyến, nhằm tính độc đáo và hấp dẫn du khách, không ngừng mở rộng và

chiếm lĩnh thị trường. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì bản thân các doanh

nghiệp hoàn toàn có khả năng thiết kế và thực hiện các tour du lịch trọn gói, song

nếu có sự liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch của tỉnh lân cận sẽ tạo điều

kiện cung ứng sản phẩm với chất lượng cao nhất, chi phí thấp nhất và tạo sự thỏa

mãn của khách hàng là lớn nhất. Muốn vậy, các doanh nghiệp du lịch Lào Cai và

phụ cận cần ký kết hợp đồng thỏa thuận rõ ràng, quy định rõ quyền hạn, trách

nhiệm, lợi ích mỗi bên, đảm bảo mối quan hệ lâu dài, lợi ích bền vững.

- Củng cố, khai thác có hiệu quả thị trường khách du lịch từ Hà Nội và các

tỉnh lân cận phía Bắc; đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá thu hút nguồn khách

nội địa ở các thành phố lớn phía Nam, miền Trung; phát triển thị trường khách du

lịch quốc tế, khai thác có hiệu quả thị trường khách Trung Quốc và thị trường khách

109

quốc tịch nước thứ ba từ Trung Quốc và Lào đến Sa Pa – Lào Cai. Tập trung khai

thác đối tượng khách có thu nhập và khả năng chi trả cao.

- Bên cạnh đó tăng cường các hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế nhằm

thúc đẩy phát triển du lịch thông qua các hội nghị, hội thảo chuyên đề tại các địa

phương; hội nghị du lịch biên giới; các hội nghị về liên kết phát triển du lịch các

vùng, liên vùng...

Ngoài ra, để tạo lập và nâng cao hình ảnh du lịch Lào Cai cả trong và ngoài

nước, nhằm thu hút khách, mở rộng thị trường du lịch thì cần phải chú trọng đến

các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến phát triển du lịch của địa phương.

Trong đó tập trung vào:

- Nghiên cứu tâm lý, thị hiếu, tập quán, thói quen tiêu dùng của các đối

tượng khách để có những sản phẩm phù hợp với thị trường thông qua các hình thức

tuyên truyền, quảng cáo.

- Tăng cường quảng bá, giới thiệu về du lịch Lào Cai nói chung và các doanh

nghiệp kinh doanh du lịch nói riêng trên các phương tiện thông tin đại chúng, đài

báo, tạp chí, Internet, ấn phẩm du lịch, hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư du lịch, hội

chợ để thu hút khách. Giới thiệu các quy hoạch, danh mục dự án để kêu gọi, khuyến

khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào du lịch Lào Cai.

- Tăng cường tổ chức các sự kiện du lịch, lễ hội du lịch nhằm phát triển du

lịch gắn với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như tuần lễ du lịch Sa Pa, Lễ hội du

lịch về cội nguồn giữa ba tỉnh Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ…Tổ chức các đợt

quảng bá, giới thiệu rộng rãi các điểm du lịch mới, các tua du lịch mới.

- Tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân để hình thành môi trường xã

hội toàn dân tham gia làm du lịch. Từ đó góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn

của người dân về vị trí, vai trò của kinh tế du lịch trong tổng thể phát triển kinh tế -

xã hội của tỉnh, giúp người dân có thái độ, có cách ứng xử phù hợp.

3.2.6. Chú trọng phát triển hình thức du lịch cộng đồng thôn, bản

Du lịch cộng đồng là hình thức du lịch mà người dân mời khách đến tham

quan, tham gia các sinh hoạt cộng đồng mang tính làng bản và khách thường lưu trú

110

đêm tại nhà dân. Du khách sẽ được khám phá nơi sinh sống, tìm hiểu, tham dự các

tập tục sinh hoạt, tập quán canh tác của người dân bản địa. Đồng thời thông qua đó,

người dân có thu nhập từ việc đón khách, cho thuê đất cắm trại, chỗ nghỉ đêm, dịch

vụ ăn uống, vận chuyển…Du lịch cộng đồng phát triển sẽ góp phần quan trọng

trong xóa đói, giảm nghèo cho cộng đồng dân cư địa phương.

Đây là sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn lớn đối với du khách, nhất là khách

quốc tế. Với lợi thế là một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống trên

địa bàn, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa, nét độc đáo riêng thể hiện qua các

phong tục, tập quán, lễ hội…đã tạo cho Lào Cai có một thế mạnh để phát triển hình

thức du lịch cộng đồng. Phần đa các chương trình du lịch lữ hành quốc tế đến tỉnh

Lào Cai là nhằm mục đích tìm hiểu, khám phá các giá trị văn hóa độc đáo của cộng

đồng các dân tộc. Khách du lịch muốn tìm hiểu, khám phá về đời sống sinh hoạt,

văn hóa đích thực của người dân bản địa.

Trong những năm qua được sự giúp đỡ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế

giới (IUCN), Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV), Hiệp hội các trường Đại học vùng

Vancouver – Canada và Đại học Mở Hà Nội, loại hình này đã được phát triển khá

hiệu quả ở Sa Pa, song nhìn chung vẫn chưa tạo thành một sản phẩm du lịch thực

sự, chưa được quan tâm đầu tư nhiều. Có thể thấy rằng, lợi ích do hoạt động du lịch

này mang lại là rất lớn, do đó để loại hình du lịch cộng đồng thực sự phát triển có

hiệu quả thì các ngành chức năng phải phối hợp với các địa phương trong tỉnh khảo

sát, xây dựng tiêu chí, lựa chọn các làng, bản đạt tiêu chuẩn để quy hoạch tổ chức

hoạt động du lịch cộng đồng. Trước mắt đào tạo cho các địa phương sau: Tả Van,

Tả phìn, Thanh Phú, Nậm Cang (huyện Sa Pa); Phú Nhuận (huyện Bảo Thắng);

Long Khánh, Long Phúc, Nghĩa Đô (huyện Bảo Yên); Tung Chung Phố (Mường

Khương); Tả Van Chư, Bản Phố, Cố Ly (Bắc Hà); Mường Hum, Y Tý (Bát Xát).

Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, phát triển du lịch cộng đồng chủ yếu nhằm tập

trung đào tạo nâng cao năng lực cho cộng đồng, giảm thiểu các tác động tiêu cực từ

hoạt động du lịch để bảo tồn môi trường cảnh quan thiên nhiên, văn hóa dân tộc và

giúp người dân cải thiện nâng cao mức sống. Do vậy, để đáp ứng mục tiêu trên, cần

111

tiếp tục nâng cấp và xây dựng các tuyến du lịch tại các làng bản có tiềm năng về

cảnh quan, môi trường, văn hóa, du lịch. Đồng thời tổ chức nhiều khóa tập huấn đào

tạo du lịch cộng đồng tại các thôn, bản, làng cho các học viên là những người trực

tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động phát triển, khai thác, quản lý du lịch

cộng đồng với các kiến thức cơ bản như: Tổng quan chung về du lịch, du lịch thôn

bản; bảo tồn, khai thác các giá trị văn hóa thành sản phẩm du lịch; Kỹ năng trong

kinh doanh, phục vụ du lịch tại chỗ; trình tự đón khách; vệ sinh và an toàn vệ sinh

thực phẩm; chế biến món ăn; văn minh giao tiếp, ứng xử tình huống, kỹ năng hướng

dẫn khách tham quan và phục vụ lưu trú tại gia…nhằm nâng cao năng lực cho phát

triển du lịch cộng đồng một cách bài bản. Bên cạnh đó, địa phương cần chủ động hỗ

trợ ngân sách cho nhân dân xây dựng một số công trình cơ bản như đường bê tông

hóa, nhà văn hóa, bể chứa nước sạch, công trình vệ sinh công cộng…

3.2.7. Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trƣờng du lịch

Để đảm bảo hoạt động du lịch diễn ra thường xuyên, ngành du lịch phát triển

một cách bền vững, thì vấn đề đặt ra với các nhà quản lý du lịch là việc ngăn ngừa

và giảm thiểu đến mức thấp nhất hoặc chấm dứt hoàn toàn các tác động xấu đến tài

nguyên và môi trường du lịch trong quá trình tiến hành các hoạt động du lịch. Đặc

biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi môi trường sinh thái và văn hóa đang bị ô nhiễm

và suy thoái nghiêm trọng thì bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu phát triển du lịch

bền vững đã và đang là vấn đề mang tính cấp bách của mọi quốc gia trên thế giới,

đối với ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch Lào Cai nói riêng. Do

đó, để KTDL phát triển và đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững thì cần thực hiện

ngay một số giải pháp sau:

- Kiện toàn bộ máy QLNN về du lịch trong đó có bộ phận chuyên trách về

quản lý môi trường. Hoàn thiện những văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, tăng

cường kiểm tra, kê khai về tình trạng ô nhiễm môi trường tại các doanh nghiệp đang

hoạt động, đồng thời đánh giá những tác động đối với môi trường của những hoạt

động này, từ đó xây dựng những dự án với mục đích bảo vệ và phòng chống ô

nhiễm môi trường.

112

- Ban hành và thể chế hóa các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường

trong lĩnh vực du lịch. Từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về

quản lý tài nguyên môi trường lịch trên cơ sở triển khai Luật bảo vệ môi trường và

Pháp lệnh Du lịch. Có chính sách ưu đãi trong việc huy động vốn đầu tư đối với các

dự án đầu tư du lịch, có các giải pháp cụ thể trong vấn đề bảo vệ và tôn tạo nâng cao

chất lượng môi trường du lịch.

- Ngành du lịch Lào Cai cũng cần có chiến lược môi trường cụ thể. Các cơ

quan quản lý du lịch phải nhấn mạnh tầm quan trọng của du lịch sinh thái – công cụ

hữu hiệu của du lịch góp phần bảo vệ môi trường. Nhận thức được vai trò của du

lịch sinh thái không chỉ như một loại hình du lịch hấp dẫn, đạt hiệu quả cao về kinh

tế mà còn được xem là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ môi trường tự nhiên. Bên

cạnh đó, tăng cường thanh tra, giám sát xác định các điểm du lịch gây ô nhiễm môi

trường, hướng dẫn du khách để khuyến khích họ giúp đỡ bảo vệ môi trường, đồng

thời có những quy định quản lý chặt chẽ, xử phạt hành chính – kinh tế với những

người vi phạm những quy định gây ô nhiễm môi trường.

- Tập trung mọi nỗ lực nhằm chống xuống cấp, bảo vệ tài nguyên du lịch,

đặc biệt là các tài nguyên nhân văn có giá trị về văn hóa, lịch sử trên nguyên tắc tôn

trọng nguyên trạng và khôi phục nguyên bản các di tích. Bên cạnh đó, không gian

cũng là một phần không thể thiếu để phát triển du lịch, do vậy cần thận trọng trong

việc cấp phép xây dựng các công trình mới làm ảnh hưởng đến cảnh quan du lịch và

môi trường sinh thái, trong đó đặc biệt chú ý việc đưa chỉ tiêu về bảo vệ môi trường

trở thành điều kiện trước khi cấp phép đầu tư về du lịch.

- Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch áp dụng công nghệ thân thiện với

môi trường, giảm thiểu việc khai thác và tiêu dùng nguồn năng lượng, cũng như các

loại tài nguyên khác phục vụ cho du lịch; giảm thiểu lượng chất thải do du lịch gây

ra và cần có những quy định về thu gom và xử lý chất thải, cải thiện cảnh quan môi

trường. Bên cạnh đó, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, quản lý vệ

sinh an toàn thực phẩm trong các nhà hàng, khách sạn. Ban hành các tiêu chí đánh

giá, xếp loại nhà hàng theo Luật Du lịch và các quy định của địa phương.

113

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các kiến thức du lịch bền

vững, môi trường cho cả cộng đồng (Nhà quản lý, nhà kinh doanh, người dân,

khách du lịch) để mọi người hiểu được giá trị của những di tích lịch sử văn hóa,

danh lam thắng cảnh và những lợi ích về tinh thần, vật chất mà du lịch đã mang lại

cho họ, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng trong việc giữ gìn,

bảo vệ và phát triển các tài nguyên du lịch.

114

KẾT LUẬN

Ngày nay, với sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật, thông tin và xu thế toàn cầu

hóa kinh tế đã tạo cho nền kinh tế thế giới phát triển năng động, mạnh mẽ, thúc đẩy

nhu cầu du lịch tăng cao. Du lịch đã thực sự là hoạt động có ý nghĩa và tác động

ngày càng tăng đối với đời sống con người. Phát triển du lịch là một hướng chiến

lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước

nhằm góp phần thực hiện quá trình CNH – HĐH đất nước. Cùng với sự phát triển

của ngành Du lịch Việt Nam, trong những năm qua Du lịch Lào Cai đang từng bước

khởi sắc, thể hiện vai trò của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kinh

tế du lịch ngày càng khẳng định vị trí quan trọng, mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của

Lào Cai.

Từ việc phân tích một cách hệ thống, toàn diện thực trạng phát triển KTDL

tỉnh Lào Cai, cho thấy ngành KTDL của tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể,

đem lại hiệu quả tích cực cho kinh tế xã hội của tỉnh. Doanh thu xã hội từ phát triển

kinh tế du lịch ngày càng tăng nhanh, nhờ đó ngành đã có những đóng góp không

nhỏ vào ngân sách Nhà Nước. Thông qua hoạt động du lịch, nhiều ngành nghề, dịch

vụ phát triển theo góp phần làm cho cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch đúng

hướng. Bên cạnh đó, KTDL phát triển tạo ra nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp

cho người lao động, vai trò của du lịch trong xóa đói, giảm nghèo ngày càng rõ nét.

Đặc biệt sự phát triển của kinh tế du lịch Lào Cai trong thời gian qua đã góp phần

tích cực vào việc thu hút đầu tư, cải tạo cơ sở hạ tầng xã hội cũng như cơ sở vật chất

kỹ thuật du lịch; Công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác phát triển du lịch cũng

được chú trọng; Các hoạt động KDDL ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao của du khách.

Tuy nhiên, phát triển KTDL Lào Cai vẫn còn một số vấn đề hạn chế, bất cập

như chi tiêu của khách du lịch còn thấp; cải tạo cơ sở hạ tầng còn gặp nhiều khó

khăn; sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa tạo ra được sản phẩm du lịch mới độc

đáo; cơ sở lưu trú và hệ thống dịch vụ du lịch chưa hoàn chỉnh…Đặc biệt nguồn

nhân lực du lịch còn thiếu và hạn chế về chuyên môn, năng lực; cùng với sự phát

115

triển của du lịch thì tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn đã và đang chịu

ảnh hưởng xấu từ các hoạt động du lịch. Vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng có

những những giải pháp hữu hiệu nhằm phát triển mạnh KTDL Lào Cai trong những

năm tới.

Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn đặt ra đối với phát triển

KTDL của tỉnh trong bối cảnh mới và những quan điểm, phương hướng phát triển

của ngành du lịch Lào Cai. Luận văn đã đề xuất một hệ thống các giải pháp mang

tính tổng hợp, đồng bộ. Cần nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước về du

lịch; giải pháp về đầu tư nâng cấp và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật; mở rộng

thị trường; giải pháp để có nguồn nhân lực chất lượng cao; chú trọng phát triển hình

thức du lịch cộng đồng thôn, bản và các biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái, đảm

bảo một ngành du lịch phát triển bền vững.

Với nhận thức đúng đắn, kịp thời trong chiến lược phát triển KTDL cũng

như những nỗ lực của chính quyền và nhân dân Lào Cai trong thời gian qua, đã và

đang tạo bước đệm vững chắc để làm nên những bước chuyển lớn trong tương lai

cho ngành “công nghiệp không khói” nói riêng và kinh tế của tỉnh nói chung. Tác

giả tin rằng, kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai sẽ không ngừng phát triển để đạt được mục

tiêu trở thành trung tâm du lịch lớn của miền Bắc và của cả nước./.

116

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Du lịch, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

2. Cục thống kê Lào Cai (2010), Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Lào Cai năm 2009.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương

Đảng lần thứ 3, khóa VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Đính, Phạm Hồng Chương (2000), Quản trị kinh doanh lữ hành,

Nxb Thống kê, Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2006), Giáo trình Kinh tế du lịch, Nxb

Lao động - Xã hội, Hà Nội.

8. Nguyễn Hồng Giáp (2002), Kinh tế du lịch, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

9. Vũ Mạnh Hà, Tạ Đức Khánh (2004), Cơ sở kinh tế du lịch, Khoa du lịch học,

Trường ĐH khoa học xã hội và nhân văn.

10. Long Hà (2009), “Lào Cai làm gì để thu hút khách du lịch”, Tạp chí Du lịch

(29/699).

11. TS. Nguyễn Đình Hòa (2009), “Thử nhận diện du lịch Việt Nam”, Tạp chí Kinh

tế và Phát triển, (140), Tr. 10-15.

12. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (1998), Du lịch bền vững, Nxb ĐH Quốc gia

Hà Nội.

13. Hội nghị triển khai công tác văn hóa, thể thao và du lịch 2009, “Đưa du lịch trở

thành ngành kinh tế mũi nhọn”, Tạp chí Du lịch Việt Nam (15), Tr.3.

14. Vũ Khoan (2005), “Du lịch Việt Nam thực hiện thắng lợi chương trình hành

động Quốc gia về Du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (2), Tr. 2.

117

15. Robert Lanqua (1993), Kinh tế du lịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.

16. Phương Lâm (2006), “Những giải pháp phát triển du lịch Việt Nam hậu WTO”,

Tạp chí Du lịch Việt Nam, (8), Tr. 8-9.

17. Karl Marx – Engels (1981), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.

18. Đổng Ngọc Minh và Vương Lôi Đình (2000), Kinh tế du lịch và Du lịch học,

Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.

19. Vũ Đức Minh (1999), Tổng quan du lịch Hà Nội, Nxb Giáo dục.

20. Trần Ngọc Nam (2000), Marketing du lịch, Nxb Tổng hợp, Đồng Nai.

21. Trần Nhạn (1995), Du lịch và kinh doanh du lịch, Nxb Văn hóa thông tin.

22. Nguyễn Đình Sơn (2007), Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ và

tác động của nó tới Quốc phòng – An ninh, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học

viện Chính trị quân sự - Bộ Quốc phòng.

23. Sở văn hóa – Thể thao và du lịch Lào Cai (2010), Kết quả hoạt động du lịch

năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010.

24. Sở văn hóa – Thể thao và du lịch Lào Cai (2010), Báo cáo kết quả thực hiện đề

án phát triển kinh tế Du lịch giai đoạn 2006 -2010.

25. Sở văn hóa – Thể thao và du lịch Lào Cai (2010), Báo cáo tổng kết tình hình cơ

sở vật chất, kỹ thuật phục vụ ngành du lịch trên địa bàn tỉnh.

26. Sở văn hóa – Thể thao và du lịch Lào Cai (2009), Kế hoạch triển khai giải pháp

cấp bách thu hút khách du lịch quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa đến Lào

Cai năm 2009.

27. Lê Văn Thắng, Trần Anh Tuấn, Bùi Thị Thu (2005), Giáo trình du lịch và môi

trường, Nxb ĐHQG Hà Nội.

28. Võ Thị Thắng (2006), “Cơ hội, thách thức và giải pháp phát triển du lịch sau khi

Việt Nam chính thức ra nhập WTO”, Tạp chí Du lịch, (4), Tr 3- 30 -31.

29. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Minh Đức (2002), Giáo trình địa lý kinh tế, xã hội Việt

Nam, NXb Giáo dục, Hà Nội.

30. Tổng cục du lịch Việt Nam (2002), “Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phát triển du

lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”, Báo Nhân dân.

118

31. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập I, Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội,

tr.586.

32. Ủy ban nhân dân Tỉnh Lào Cai (2002), “Đề án phát triển kinh doanh du lịch tỉnh

Lào Cai giai đoạn 2001-2005-2010”, Quyết định số 47/QĐ-UB.

33. Ủy ban nhân dân Tỉnh Lào Cai (2006), Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ

XIII nhiệm kỳ 2005 -2010.

34. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1999), Pháp lệnh du lịch, Nxb Chính trị Quốc gia

Hà Nội.

Internet

35. http://www.baophutho.org.vn/baophutho/vn/website/du-lich-le-hoi-am-

thuc/1011798A387/2007/7/108E075FD84/

36. http://www.dulichviet.info/top-du-lich/10-thanh-pho-du-lich-hap-dan-nhat-

chau-a.html

37. http://www.vietnamtourism.gov.vn/index.php?cat=1001&itemid=6608

38. http://www.vietnamtourism.gov.vn/index.php?cat=202030&itemid=7384

39. http://vietbao.vn/Kinh-te/Ha-Noi-Mot-trong-5-thanh-pho-du-lich-tot-nhat-chau-

A/45169912/87/

40. http://www.vietnamplus.vn/Home/Nam-2009-khach-du-lich-den-Ninh-Binh-

tang-dot-bien/200912/28103.vnplus

41. http://www.ninhbinhtourism.com.vn:8080/modules.php?name=News&op=view

st&sid=1322

42. http://egov.laocai.gov.vn/gioithieuchung/dieukientunhien/Trang/634046195253

804190.aspx

43. http://egov.laocai.gov.vn/gioithieuchung/tainguyen/Trang/63404619528632419

0.aspx

44. http://egov.laocai.gov.vn/gioithieuchung/cosohatang/Trang/6340461953141841

90.aspx

45. http://www.vanhoalaocai.vn/Index.asp?Lang=&tabid=128&CategoriesID=356

&NewsID=2452

119

46. http://www.vanhoalaocai.vn/Index.asp?Lang=&tabid=128&CategoriesID=349

&NewsID=3166

47. http://www.vanhoalaocai.vn/Index.asp?Lang=&tabid=128&CategoriesID=349

&NewsID=3163

48. http://www.vanhoalaocai.vn/banin.asp?NewsId=2906

120