ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

-------------

LÊ THẾ CƯƠNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ Ở BẮC GIANG

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60.31.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN MINH KHẢI

HÀ NỘI - 2009

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 1

2.Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 5

6. Đóng góp mới của luận văn........................................................................ 5

7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 5

Chƣơng 1 PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG KINH TẾ THỊ

TRƢỜNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN......................................................... 6

1.1. Kinh tế tập thể trong kinh tế thị trƣờng ................................................... 6

1.1.1. Sự cần thiết phát triển kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trƣờng

định hƣớng XHCN ..................................................................................... 6

1.1.2 Vai trò của kinh tế tập thể trong nền KTTT định hƣớng XHCN ....... 10

1.2 Đặc điểm của kinh tế tập thể trong kinh tế thị trƣờng ............................. 23

1.2.1 Đặc trƣng của kinh tế hợp tác, HTX................................................. 23

1.2.2 Mục tiêu và nguyên tắc của HTX ..................................................... 28

1.3 Kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể ở một số nƣớc trên thế giới và một

số tỉnh ở nƣớc ta........................................................................................... 34

1.3.1 Phát triển kinh tế HTX một số nƣớc ................................................. 34

1.3.2 Phát triển kinh tế HTX một số tỉnh ở nƣớc ta ................................... 39

Chƣơng 2 TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ Ở BẮC GIANG 43

2.1. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế tập thể ở

Bắc Giang .................................................................................................... 43

2.1.1 Những điều kiện thuận lợi ................................................................ 43

2.1.2. Những điều kiện khó khăn .............................................................. 48

2.2. Tình hình phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang từ năm 1997 đến 2007 50

ii

2.2.1. Trong lĩnh vực nông nghiệp ............................................................ 51

2.2.2 Trong lĩnh vực công nghiệp ............................................................. 63

2.2.3 Trong lĩnh vực dịch vụ ..................................................................... 71

2.3. Những thành tựu và hạn chế của phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang 80

2.3.1. Những thành tựu đạt đƣợc............................................................... 80

2.3.2. Những hạn chế, yếu kém tồn tại ...................................................... 86

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém ..................................... 89

Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN KINH TẾ

TẬP THỂ Ở BẮC GIANG ............................................................................... 94

3.1. Quan điểm đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể ở Bắc

Giang ........................................................................................................... 94

3.1.1. Củng cố kinh tế hợp tác, hợp tác xã, tiếp tục phát triển rộng rãi và đa

dạng hóa các loại hình hợp tác, hợp tác xã ................................................ 94

3.1.2. Phát triển hợp tác xã phải dựa trên nền tảng kinh tế, phát huy vai trò

tự chủ, tiềm năng to lớn, vị trí quan trọng, lâu dài của kinh tế hộ .............. 95

3.1.3. Phát triển hợp tác xã phải gắn chặt với mục tiêu công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, nhất là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn trong bối

cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ................................................................... 97

3.1.4. Hoạt động của hợp tác xã phải theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý

của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa ...................................... 98

3.1.5. Phát triển mô hình HTX theo hƣớng kinh doanh tổng hợp kết hợp với

chuyên môn hóa theo ngành, vùng địa phƣơng ....................................... 100

3.1.6. Phát triển kinh tế tập thể gắn với đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi

dƣỡng đội ngũ cán bộ, xã viên, ngƣời lao động coi đây là khâu đột phá

trong điều kiện thực tế ở Bắc Giang. ....................................................... 101

3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang trong giai

đoạn hiện nay ............................................................................................. 102

iii

3.2.1. Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, trên cơ sở đó thống nhất nhận

thức và các quan điểm phát triển kinh tế tập thể ..................................... 102

3.2.2. Tăng cƣờng sự quản lý và hỗ trợ của chính quyền đối với kinh tế tập

thể........................................................................................................... 104

3.2.3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao trình độ quản lý,

chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, xã viên, ngƣời lao động ................... 109

3.2.4. Tổng kết quá trình phát triển KTTT ở Bắc Giang, phát hiện mô hình

KTTT phù hợp với kinh tế thị trƣờng trong hoàn cảnh cụ thể ở Bắc Giang.

............................................................................................................... 112

3.2.5. Tăng cƣờng liên kết với các thành phần kinh tế khác .................... 113

KẾT LUẬN ................................................................................................... 115

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 119

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 124

iv

BCH TW

Ban chấp hành Trung ƣơng

:

:

CNTB

Chủ nghĩa tƣ bản

:

CNXH

Chủ nghĩa Xã hội

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá

:

CTCP

Công ty cổ phần

:

CTTNHH

Công ty trách nhiệm hữu hạn

:

Doanh nghiệp

DN

:

Doanh nghiệp Nhà nƣớc

DNNN

:

Doanh nghiệp tƣ nhân

DNTN

:

DNV&N

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

:

Hợp tác

HT

:

Hợp tác xã

HTX

:

Kinh tế thị trƣờng

KTTT

:

KT - XH

Kinh tế - Xã hội

:

KTQD

Kinh tế quốc dân

:

LLSX

Lực lƣợng sản xuất

LMHTX

:

Liên Minh HTX

:

NXB

Nhà xuất bản

:

PTSX

Phƣơng thức sản xuất

:

QHSX

Quan hệ sản xuất

SX, KD

:

Sản xuất, kinh doanh

:

TLSX

Tƣ liệu sản xuất

:

UBND

Uỷ ban nhân dân

:

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

BẢNG QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

v

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đảng ta xác định: “Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là vấn đề hết

sức quan trọng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội, làm cho kinh tế tập

thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó, hợp tác xã là nòng

cốt; kinh tế nhà nƣớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng

vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [19, tr.12].

Xét về mặt lý luận và thực tiễn, kinh tế tập thể là sản phẩm tất yếu của

nền sản xuất hàng hoá, sản xuất hàng hoá càng phát triển, sự cạnh tranh trong

kinh tế thị trƣờng càng gay gắt thì những ngƣời lao động riêng lẻ, các hộ cá thể,

các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu cầu phải liên kết, hợp tác với nhau,

nếu không khó có thể tồn tại và phát triển. Phát triển kinh tế tập thể là con

đƣờng để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, manh mún với sản xuất hàng

hoá lớn, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá. Chính vì vậy kinh tế

tập thể đã phát triển từ rất lâu trong lòng các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và ngày nay

tại các nƣớc phát triển, kinh tế tập thể đã phát triển rất rộng rãi.

Kinh tế tập thể không chỉ là hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất xã

hội hoá mà còn là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng; là hình thức tổ chức kinh tế

quan trọng để ngƣời lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, liên

kết với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thực hiện liên minh công

nông. Phát triển kinh tế tập thể là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị

trƣờng định hƣớng XHCN, trong đó kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nƣớc

ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Thực tế ở nƣớc ta, nhất là ở nông thôn Bắc Giang, với quá trình phát triển

kinh tế hàng hoá, nông dân ngày càng có nhu cầu phát triển các hình thức kinh

tế hợp tác từ thấp đến cao, từ các tổ hợp tác đến hợp tác xã làm dịch vụ đầu vào,

1

đầu ra, phục vụ sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình và trang trại. Đặc biệt ở

nơi có các xí nghiệp chế biến nông sản, nông dân ngày càng có nhu cầu tổ chức

hợp tác xã để tạo thuận lợi cho việc hợp đồng cung ứng nông sản cho doanh

nghiệp và tiếp thu sự hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp về vốn và kỹ thuật. Đến

nay, ngoài số hợp tác xã cũ chuyển đổi có hiệu quả, đã có hàng trăm tổ hợp tác

với nhiều tên gọi khác nhau và hàng ngàn hợp tác xã mới ra đời một cách tự

nguyện. Điều đó cho thấy nhu cầu phát triển các hình thức kinh tế hợp tác giản

đơn đã thật sự phổ biến và bức xúc, nhu cầu và điều kiện để phát triển hợp tác

xã cũng ngày càng chín muồi ở nhiều nơi. Có cơ sở để dự báo rằng cùng với đà

phát triển kinh tế hàng hoá, công nghiệp hoá đất nƣớc và hội nhập kinh tế quốc

tế, mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế thị trƣờng sẽ gay gắt hơn, nhu cầu phát

triển kinh tế tập thể ngày càng trở nên bức xúc, cấp thiết đối với những hộ gia

đình kinh doanh các thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Bắc Giang. Đây là nhu

cầu khách quan tất yếu tạo điều kiện thuận lợi và giúp kinh tế tập thể phát triển.

Trong quá trình hội nhập, cùng với các thành phần kinh tế khác thì kinh

tế tập thể ở Bắc Giang ngày càng thể hiện vai trò của mình trong nền kinh tế

quốc dân đối với các vấn đề: phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, thu nhập

cho ngƣời lao động... Đặc biệt khi nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu vào

nền kinh tế thế giới, phát triển kinh tế tập thể đáp ứng nhu cầu thực tiễn không

chỉ góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển mà còn đảm bảo định hƣớng xã

hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Nếu thoả mãn với những thành tựu của kinh tế hộ hoặc không thấy hết

những khó khăn mới, những mâu thuẫn mới, những hạn chế của kinh tế tập thể

trong bƣớc đƣờng đi lên, không kịp thời tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế tập thể

phát triển, sẽ không đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập khinh tế quốc tế thì kinh tế tập

thể sẽ không đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn, lực lƣợng sản xuất sẽ bị cản

trở, quan hệ sản xuất mới, tiến bộ sẽ không đƣợc củng cố.

2

Với lý do đó: “Phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang” đƣợc lựa chọn làm

đề tài cao học của mình.

2.Tình hình nghiên cứu

Tiếp tục củng cố, đổi mới và phát triển kinh tế tập thể là vấn đề mang

tính chiến lƣợc, lâu dài luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm. Sự

quân tâm đó thể hiện thông qua nhiều chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách, pháp

luật và sự đầu tƣ nhiều mặt cho khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã.

Luật HTX năm 2003, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Chỉ

thị số 20 / CT – TW của Ban Bí thƣ TW Đảng... tiếp tục khẳng định kinh tế tập

thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng

cốt trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.

Các công trình khoa học đƣợc công bố dƣới nhiều dạng khác nhau: Sách

chuyên khảo, đề tài nghiên cứu, bài viết trên các báo tạp chí, một số luận án có

liên quan đến đề tài, điển hình nhƣ: “Kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở Việt Nam,

thực trạng và định hƣớng phát triển” của PGS.TS Nguyễn Văn Bích, TS Chu

Tiến Quang, GS.TS Lƣu Văn Sùng; hay “ Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể

trong kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam” của TS. Chủ Văn

Lâm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006; Giáo sƣ, Tiến sĩ Đỗ Thế Tùng

"Việc thực hiện khoán 10 - những vấn đề đặt ra và giải pháp", Tạp chí Nghiên

cứu lý luận, 3/1991; Giáo sƣ Nguyễn Đình Nam "Đổi mới các hình thức hợp

tác trong nông nghiệp", Tạp chí Kinh tế và phát triển, 11/1996... Các tác giả

trên đã nghiên cứu bức tranh toàn cảnh của kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở nƣớc

ta, quá trình hình thành, phát triển qua các thời kỳ, nêu rõ những thực trạng từ

đó đề xuất những định hƣớng phát triển trong giai đoạn hiện nay.

Một số luận án có liên quan đến đề tài đã công bố nhƣ: Nguyễn Thanh

Hà (Học viện Chính trị hành chính quốc Gia Hồ Chí Minh) đi sâu nghiên cứu

“Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam”, hay “thực trạng và

giải pháp của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở Miền Bắc” của Chu Thị Lan;

“Sự hình thành và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong quá trình công

3

nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nông thôn Việt nam” của TS. Nguyễn Văn Hải,

ngoài ra còn có một số vấn đề khác đƣợc nghiên cứu nhƣ: Kinh tế hợp tác, hợp

tác xã trong công nghiệp quá trình hình thành, diễn biến, thực trạng và định

hƣớng phát triển, hoặc kinh tế hợp tác xã Việt Nam của Viện nghiên cứu phát

triển HTX.

Các công trình trên đã đƣa ra nhiều nhận định, đánh giá chung, những

định hƣớng lớn hoặc nghiên cứu HTX ở những khía cạnh nhất định, dƣới nhiều

góc độ khác nhau nhƣ kinh tế phát triển, quản lý kinh tế, kinh tế nông nghiệp

nông thôn...Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề kinh tế tập thể ở Bắc Giang thì chƣa

công trình nào đi sâu nghiên cứu.

Luận văn này kế thừa những thành quả nghiên cứu của các tác giả trên,

đồng thời thông qua thực tiễn ở Bắc Giang để tìm ra các giải pháp phát triển

kinh tế hợp tác phù hợp với đặc thù kinh tế của tỉnh.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Vận dụng lý về kinh tế tập thể trong kinh tế thị trƣờng vào khảo sát thực

tiễn hoạt động kinh tế tập thể ở Bắc giang, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản

nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang.

Một là: Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế tập thể

trong kinh tế thị trƣờng và đặc trƣng của kinh tế tập thể trong kinh tế thị trƣờng.

Hai là: Khảo sát thực trạng của kinh tế tập thể ở Bắc Giang, chủ yếu từ

khi có luật HTX

Ba là: Đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển kinh tế tập thể ở Bắc

Giang.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

Kinh tế tập thể là một thành phần kinh tế và là vấn đề rộng gồm nhiều

hình thức khác nhau nhƣ kinh tế hợp tác, HTX, doanh nghiệp và các quỹ chung

của đoàn thể. Song Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu tình hình phát triển

kinh tế HTX – hình thức đóng vai trò nòng cốt của KTTT ở Bắc Giang sau 10

4

năm tái lập tỉnh (1997-2007).

* Phạm vi nghiên cứu:

- Về không gian: Tỉnh Bắc Giang

- Về thời gian: Giai đoạn 1997-2007 (Sau 10 năm tái lập tỉnh Bắc Giang).

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế

chính trị, đặc biệt là phƣơng kết hợp logic với lịch sử, tổng hợp, phƣơng pháp

thống kê, gắn lý luận với thực tiễn và phƣơng pháp trừu tƣợng hoá khoa học.

6. Đóng góp mới của luận văn

Góp phần làm sáng tỏ hơn nữa vị trí, vai trò và hiệu quả hoạt động của

kinh tế tập thể trong kinh tế thị trƣờng ở Bắc giang trong những năm vừa qua;

góp phần nâng cao nhận thức về kinh tế tập thể trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế hiện nay.

Phân tích tƣơng đối toàn diện, cơ bản thực trạng, thành tựu, hạn chế,

nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với kinh tế tập thể ở Bắc Giang từ đó

đề xuất những định hƣớng, giải pháp tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao

hiệu quả của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết TW 5- khóa IX.

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu,

giảng dạy, góp phần hoàn thiện chính sách chỉ đạo thực tiễn để tiếp tục củng cố, đổi

mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể ở Bắc Giang.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận

văn gồm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Phát triển kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trƣờng, những

vấn đề lý luận và thực tiễn.

Chƣơng 2: Thực trạng phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang (sau 10

năm tái lập tỉnh).

Chƣơng 3: Quan điểm và các giải pháp cơ bản phát triển kinh tế tập thể

ở Bắc Gang hiện nay.

5

Chƣơng 1

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG –

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Kinh tế tập thể trong kinh tế thị trƣờng

1.1.1. Sự cần thiết phát triển kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN

Kinh tế tập thể là một thành phần kinh tế trong đó có sự liên kết tự

nguyện của ngƣời lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức

mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất kinh

doanh và đời sống. Hợp tác xã là hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh nòng

cốt của thành phần kinh tế tập thể.

Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên sức

mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt

động riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện đƣợc, hoặc thực

hiện kém hiệu quả so với hợp tác.

Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế

của con ngƣời. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung,

của lao động sản xuất và hoạt động kinh tế nói riêng của con ngƣời. Do vậy, sự

phát triển của hợp tác gắn liền và bị quy định bởi tiến trình nâng cao trình độ xã

hội hóa sản xuất và hoạt động kinh tế. Trong lao động sản xuất, hợp tác có tác

dụng làm tăng năng suất lao động. Sự phát triển các hình thức và tính chất thích

hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế.

Hợp tác lao động đƣợc thực hiện từ khi loài ngƣời xuất hiện và ngày càng

phát triển. Cùng với tiến trình phát triển xã hội, phân công lao động xã hội và

chuyên môn hóa sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó,

nhu cầu về hợp tác lao động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt

chẽ và mở rộng. Nó không bị giới hạn trong phạm vi từng đơn vị, từng ngành,

6

từng địa phƣơng, trong một nƣớc, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế.

Hợp tác có nhiều hình thức với đặc điểm, tính chất, trình độ khác nhau:

hợp tác ngẫu nhiên, nhất thời; hợp tác thƣờng xuyên, ổn định; hợp tác lao động

nhƣ Mác đã phân tích về ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tƣ bản trong

công nghiệp; hợp tác giữa các đơn vị, các ngành...

Kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp của hợp tác, phản ánh một phạm vi hợp

tác, hợp tác trong lĩnh vực kinh tế.

Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế, hợp tác tự nguyện, phối

hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của

từng thành viên với ƣu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những

vấn đề của sản xuất - kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên.

Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp thì quá trình hợp tác

mang tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau

v.v... nhằm đáp ứng nhu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết

những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện, hoặc làm

riêng rẽ không có hiệu quả nhƣ: phòng chống thiên tai, thú dữ, sâu bệnh, đào

kênh dẫn nƣớc v.v... Đặc điểm cơ bản của hợp tác kiểu này là hợp tác theo thời

vụ, việc hợp tác ngẫu nhiên, không thƣờng xuyên, chƣa tính đến giá trị ngày

công. Đây là các hình thức hợp tác ở trình độ thấp.

Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản

xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lƣợng, nhƣ dịch vụ về giống, phòng

trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi trong sản xuất nông nghiệp,

hợp tác trong việc sản xuất kinh doanh, khoa học công nghệ, thị trƣờng đầu ra

v.v... Trong điều kiện này, từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho

quá trình sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả năng đáp ứng, hoặc hiệu

quả kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Từ đó, nảy sinh nhu cầu hợp tác ở

trình độ cao hơn, đó là hợp tác thƣờng xuyên, ổn định, có tính đến giá trị ngày

7

công, giá trị dịch vụ, dẫn đến hình thành hợp tác xã.

Nhƣ vậy, trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh không phân biệt chế độ

chính trị - xã hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế, cá nhân, tập thể, chủ thể kinh tế

đều có nhu cầu hợp tác từ hình thức giản đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến

đa ngành. Lực lƣợng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng,

mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng. Do đó, tất yếu hình thành và ngày

càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn, từ kinh tế hợp

tác giản đơn nhƣ các tổ, hội nghề nghiệp; các tổ, nhóm hợp tác, đến các tổ kinh

tế hợp tác và hợp tác phát triển ở trình độ cao là hợp tác xã.

Liên minh HTX Quốc tế (International Covperative Allianve – ICA) đƣợc

thành lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vƣơng quốc Anh, đã định nghĩa

HTX nhƣ sau: “Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những ngƣời tự nguyện liên

hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội

và văn hóa qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”. Năm 1995, định

nghĩa này đƣợc hoàn thiện: “Hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự

chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của

những ngƣời sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin tƣởng vào ý

nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm

sóc ngƣời khác” [1, tr .36].

Đại hội đồng Liên Minh hợp tác xã Quốc tế lần thứ 31 tổ chức tại

Manchester (nƣớc Anh) từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 9 năm 1995 đã định

nghĩa về hợp tác xã: “Hợp tác xã là một hiệp hội tự chủ do các cá nhân tự

nguyện liên kết với nhau nhằm thoả mãn những nhu cầu và nguyện vọng chung

về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một tổ chức kinh tế cùng làm chủ chung

và kiểm tra dân chủ” [1, tr.12].

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) trong bản khuyến nghị phát triển hợp tác

xã đƣợc thông qua tại kỳ hợp thứ 90 diễn ra vào tháng 6 năm 2002 tại Geneve,

Thuỵ Sỹ đã định nghĩa: HTX là sự liên kết của những ngƣời đang gặp phải

8

những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở bình

đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX

phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng

sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh

trong tổ chức hợp tác, phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung...

Tổng kết thực tiễn đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng HTX – HTX cổ phần. Tháng 3-1996,

tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật HTX để tạo cơ sở pháp lý

cho việc tổ chức và hoạt động của HTX trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lí của Nhà nƣớc theo định

hƣớng XHCN. Những HTX đƣợc thành lập và hoạt động theo Luật này đƣợc

gọi là HTX (để phân biệt với mô hình HTX trƣớc đổi mới). Theo luật này: Hợp

tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những ngƣời lao động có nhu cầu, lợi ích chung,

tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy

sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả

hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần

phát triển kinh tế – xã hội của đất nƣớc.

Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996),

Hội nghị Trung ƣơng 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới,

phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế

tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt

động của HTX , ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông

qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung (Luật HTX năm 2003). Luật này định nghĩa:

“Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp

nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp

vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể

của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các

hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp

9

phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nƣớc” 40, tr.3].

Hợp tác xã hoạt động nhƣ một loại hình doanh nghiệp, có tƣ cách pháp

nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn

điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của

pháp luật.

1.1.2 Vai trò của kinh tế tập thể trong nền KTTT định hướng XHCN

Ngay từ khi CNTB ra đời, cùng với cuộc cách mạng kỹ thuật, sự cạnh

trang trong sản xuất, kinh doanh đƣợc hình thành và phát triển ngày càng mạnh

mẽ, quyết liệt, để tồn tại, tiêu thụ đƣợc những sản phẩm làm ra và phát triển,

những ngƣời nghèo, ngƣời kém thế lực về kinh tế đã cùng nhau hợp tác lại,

giúp đỡ, tƣơng trợ lẫn nhau sản xuất, kinh doanh, tạo ra sản phẩm tốt hơn, giá rẻ

hơn và có sức mạnh hơn để chống đỡ sự áp bức, bóc lột của giai cấp tƣ sản và

cạnh tranh trên thị trƣờng.

Ví dụ năm 1726, 28 thợ dệt Anh đã rủ nhau thành lập hội làm vải cho tốt

và bán giá trung bình trong hàng xóm, đó là một trong những HTX đầu tiên trên

thế giới. Đến năm 1928 Chính phủ Anh ban hành Luật HTX. HTX ngày càng

khẳng định đƣợc vai trò của mình và phát triển ở nhiều nƣớc trên thế giới.

Trải qua quá trình nghiên cứu, khảo nghiệm và tìm tòi, các nhà kinh điểm

của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của HTX trong việc

xây dựng chế độ kinh tế mới.

HTX ra đời là sản phẩm tất yếu của lịch sử, nó có từ trƣớc khi chủ nghĩa

Mác ra đời. Lúc đầu, khi phê phán các nhà không tƣởng, Mác - Ăngghen chƣa

thấy vai trò to lớn của HTX đối với hình thái xã hội tƣơng lai. Nhƣng, từ giữa

thập kỷ 60 của thế kỷ XIX, các ông đã dần thấy đƣợc triển vọng của chế độ hợp

tác trong xã hội tƣơng lai sau khi nghiên cứu về Hợp tác xã công nhân sau Cách

mạng dân chủ tƣ sản ở châu Âu (1848-1849).

Trƣớc xu hƣớng phát triển nhanh và triệt để của cách mạng công nghiệp

ở nƣớc Anh, các nông trại gia đình vẫn tỏ rõ sức sống và hiệu quả của nó. Từ

10

đó, Mác thấy rằng tiên đoán của mình về sự thủ tiêu kinh tế tiểu nông khi đại

công nghiệp xâm nhập vào nông nghiệp là không phù hợp. Vì thế, khi viết Quyển

III bộ “Tƣ Bản”, Mác đã rút ra kết luận: hình thức lãi nhất không phải là nông

trại công nghiệp hoá mà là nông trại gia đình không dùng lao động làm thuê.

Mặc dù khẳng định vai trò to lớn của nông trại gia đình đối với “nghề

nông hợp lý” nhƣng Mác không tuyệt đối hoá tính chất bền vững của kinh tế

tiểu nông. Ông khẳng định rằng: Đối với nghề nông hợp lý thì hoặc là phải có

bàn tay của những ngƣời tiểu nông sống bằng lao động của mình hoặc là phải

có sự kiểm soát của những ngƣời sản xuất có liên kết với nhau. Đây là cơ sở

đầu tiên về chế độ hợp tác trong học thuyết của Mác.

Khi nghiên cứu về HTX, Mác - Ăngghen đã nhận thấy phát triển kinh tế

hợp tác là xu hƣớng tất yếu của lịch sử do quá trình xã hội hoá sản xuất và lao

động đòi hỏi. Nó không chịu sự quyết định của ý thức con ngƣời. Vì vậy,

Ăngghen đã chủ trƣơng: Giai cấp vô sản phải hƣớng quyền lợi cá thể và nền

kinh tế cá thể của họ vào con đƣờng kinh tế hợp tác, không phải bằng bạo lực

mà bằng những tấm gƣơng giúp đỡ của xã hội. ông cũng khẳng định: cần để

ngƣời nông dân “có thời gian suy nghĩ với tƣ cách là ngƣời sở hữu mảnh đất

của họ”, khi giai cấp vô sản giành đƣợc chính quyền thì “Không nghĩ đến dùng

bạo lực để tƣớc đoạt tiểu nông nhƣ chúng ta buộc phải tƣớc đoạt bọn địa chủ”.

Đó chính là sự đề cao và coi trọng nguyên tắc tự nguyện trong tổ chức HTX.

Từ việc thấy rõ vai trò của chế độ hợp tác và triển vọng của nó trong hình

thái kinh tế – xã hội tƣơng lai hai ông đã dự đoán: khi chuyển sang nền kinh tế

cộng sản chủ nghĩa, chúng ta sẽ ứng dụng rộng rãi nền sản xuất hợp tác hoá.

Sau khi nghiên cứu HTX ở Anh, Nga, Bắc Mỹ, bằng tƣ duy biện chứng

của mình, Lênin đã kế thừa, bổ sung, phát triển lý luận về kinh tế hợp tác của

Mác - Ăngghen trong điều kiện mới.

Năm 1908, khi bàn về việc lựa chọn con đƣờng phát triển của nông

nghiệp Nga, Lênin đã nhận thấy: không thể phát triển theo con đƣờng kiểu Phổ

11

(các đại điền trang đƣợc duy trì và dần trở thành cơ sở kinh doanh ruộng đất

theo lối tƣ bản chủ nghĩa) vì đây là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà phải phát

triển theo kiểu “một chủ trang trại tự do trên mảnh đất tự do” không còn vết tích

của thời Trung cổ - đó là kiểu Mỹ. Lênin khẳng định tính chất đúng đắn trong

quan niệm của Cauxky: nông nghiệp không thể phát triển theo cùng một kiểu

với công nghiệp.

Mặc dù vậy, lúc đầu, Lênin cho rằng nƣớc Nga có thể quá độ trực tiếp lên

chủ nghĩa cộng sản, Nhà nƣớc trực tiếp quản lý toàn bộ quá trình sản xuất và

phân phối. Ông chỉ thừa nhận loại Hợp tác xã tiêu thụ với tƣ cách là bộ máy

duy nhất có tính chất quần chúng để phân phối có kế hoạch mà thôi. Sau nội

chiến, với sự đổi mới trong tƣ duy, Lênin đã từ bỏ quan điểm quá độ trực tiếp,

thay chính sách “Cộng sản thời chiến” bằng “chính sách kinh tế mới”. Từ đây,

Lênin đã chỉ ra phép biện chứng của quá trình phát triển: phải phát triển kinh tế

tiểu nông đồng thời thu hút họ vào công cuộc xây dựng CNXH thông qua con

đƣờng hợp tác hoá tự nguyện vì lợi ích của ngƣời nông dân, thông qua lợi ích

của họ để gắn bó với lợi ích xã hội chứ không phải con đƣờng tập thể hoá

cƣỡng bức phi kinh tế.

Trong tác phẩm “Bàn về chế độ HTX” 1923, Lênin viết: HTX là bƣớc

quá độ sang chế độ mới bằng con đƣờng đơn giản nhất, dễ tiếp thu nhất đối với

nông dân. Ông cũng đƣa ra luận điểm: HTX phải lấy hộ kinh tế nông dân làm

cơ sở và phải phù hợp với xu thế khách quan.

Khi soạn thảo cƣơng lĩnh ruộng đất lần hai, Lênin đã phân tích rõ: chúng

ta chƣa có điều kiện để chuyển nền tiểu sản xuất lên CNXH và mấu chốt của

vấn đề là phải tìm ra những đƣờng lối, thể thức trung gian cần thiết. Kinh tế hợp

tác nói chung đều là những hình thức kinh tế quá độ. Nó vừa tuân theo quy luật

của thị trƣờng và mang những quan hệ tƣ bản đồng thời nó cũng không phải là

hình thức kinh tế tự phát bị chi phối bởi nguyên tắc tƣ bản chủ nghĩa mà là hình

thức kinh tế tự nguyện của nông dân đặt trong mối quan hệ kiểm soát, hƣớng

12

dẫn của nông nghiệp XHCN. Và chỉ những HTX do ngƣời nông dân điều hành

theo sáng kiến của họ và lợi ích của HTX ấy đƣợc kiểm nghiệm trên thực tế

mới có giá trị.

Lênin không chỉ lƣu tâm tìm kiếm con đƣờng đƣa nông dân và ngƣời sản

xuất nhỏ vào HTX mà còn luôn nhấn mạnh đến nguyên tắc tự nguyện, dân chủ,

tôn trọng lợi ích HTX trong hoạt động tổ chức và quản lý HTX.

Nhà nông học nổi tiếng thế giới ngƣời Nga A.V.Trai-a-nốp đã nghiên

cứu phong trào hợp tác xã ở nhiều nƣớc trên thế giới nhƣ: Italia, Bỉ, Anh, Đức

và một số nƣớc ở Châu Mỹ La tinh. Ông đã khẳng định hợp tác xã nông nghiệp

là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, phục vụ cho nó và vì thế mà, thiếu kinh tế

hộ nông dân thì hợp tác xã sẽ không còn ý nghĩa gì cả. Ông còn cho rằng hợp

tác xã chỉ xã hội hóa một phần sản xuất và quá trình đó không phá vỡ kinh tế hộ

nông dân, nghĩa là kinh tế hộ nông dân chỉ hợp tác với nhau phần sản xuất, mà

ở đó tập thể có ƣu thế hơn từng hộ làm ăn riêng lẻ. A.V.Trai-a-nốp cũng còn đề

cập đến nguyên tắc tổ chức hợp tác xã là tự nguyện, hình thức quản lý phải dân

chủ, đề cao trách nhiệm gắn với lợi ích và phải đƣa lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Ý chí tập thể đƣợc phản ánh thông qua ban lãnh đạo. Sự tồn tại và phát triển

của hợp tác xã phụ thuộc vào cả “ý chí tập thể” và năng lực, trách nhiệm của

ban lãnh đạo. Ông cũng nhấn mạnh, sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp là

con đƣờng phức tạp và hết sức khó khăn. Bởi vì, theo ông sự hình thành hợp tác

xã nông nghiệp không chỉ nhằm giải quyết thuần túy vấn đề kinh tế, mà còn có

các vấn đề chính trị – xã hội. Nên tổ chức hợp tác xã phải tính đến đặc thù của

mỗi ngành, mỗi địa phƣơng, mỗi sản phẩm và các mối liên hệ với thị trƣờng.

Những vấn đề ấy chỉ có thể giải quyết đƣợc với sự “am hiểu hợp tác” và “sự

kiên trì hợp tác”.

Về hình thức tổ chức hợp tác xã, theo A.V.Trai-a-nốp thì các hộ nông

dân chỉ hợp tác với nhau phần sản xuất, mà ở đó làm ăn tập thể có ƣu thế hơn

làm ăn của từng hộ riêng lẻ. Ông còn nhấn mạnh rằng, hợp tác phù hợp với sản

xuất nông nghiệp là hợp tác dịch vụ sản xuất cho kinh tế hộ nông dân.

13

Quan điểm của A.V.Trai-a-nốp về hợp tác hóa kinh tế nông nghiệp

trƣớc hết phải tách rời khỏi ngƣời nông dân những dịch vụ do các hợp tác xã

cung ứng tiêu thụ. Tách rời những việc sơ chế nông sản và xây dựng những

xƣởng, trạm chế biến ngay tại cơ sở sản xuất của hệ thống hợp tác xã theo vùng

lãnh thổ. Thông qua hệ thống này, thiết lập các mối quan hệ kinh tế giữa các hộ

nông dân với các xí nghiệp công nghiệp và các đơn vị kinh doanh thƣơng mại.

Mối liên hệ đó đƣa nông sản của ngƣời nông dân làm ra đến các thị trƣờng

trong nƣớc và quốc tế.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, truyền bá, vận dụng sáng tạo lý luận của

chủ nghĩa Mác – Lênin, ngay từ rất sớm, trong tác phẩm “Đƣờng cách mệnh”

viết năm 1927 sau khi phân tích những lợi ích của HTX, Ngƣời nhấn mạnh

“Tục ngữ An Nam có những câu: “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó”

và “Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao” [34,

tr.314]. Giải thích về bản chất HTX, Ngƣời nhấn mạnh hạt nhân, trung tâm của

HTX là xã viên: xã viên hợp tác với nhau để có lợi ích thiết thực và vẫn duy trì

tính độc lập của mình; xã viên là chủ đích thực của HTX, là mục tiêu mà Hợp

tác xã phải phục vụ, HTX là phƣơng tiên để phục vụ xã viên, phải đảm bảo đem

lại lợi ích cho xã viên.

Ngƣời xác định: “HTX là hợp vốn, hợp sức với nhau. Vốn nhiều, sức

mạnh thì khó nhọc ít mà ích lợi nhiều”, Ngƣời giải thích rõ sự khác nhau giữa

hội buôn và HTX ở chỗ: “Hội buôn thì lợi riêng, HTX thì lợi chung” và “HTX

tuy là để giúp đỡ lẫn nhau, nhƣng không giống các hội từ thiện vì các hội ấy chỉ

tiêu đi mà không làm ra... HTX có tiêu đi, có làm ra, chỉ giúp những ngƣời

trong hội, nhƣng giúp một cách bình đẳng, một cách “cách mệnh” ai cũng giúp

và ai cũng bị giúp”. Xét theo thành phần kinh tế và tính chất xã hội, Ngƣời cho

rằng: “trong chế độ dân chủ mới... các HTX nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ

tiến lên chủ nghĩa xã hội. HTX là thành phần thứ hai trong năm thành phần kinh

tế ở nƣớc ta” [ 34, tr.315].

Xét hình thức sở hữu tƣ liệu sản xuất, Ngƣời cho rằng: “HTX tức là sở

14

hữu tập thể nhân dân lao động… kinh tế HTX là hình thức sở hữu của nhân dân

lao động, Nhà nƣớc đặc biệt khuyến khích, hƣớng dẫn và giúp đỡ cho nó phát

triển, Ngƣời khẳng định HTX là khâu chính thúc đẩy cải cách xã hội chủ

nghĩa”. Đặc biệt, Ngƣời cho rằng HTX có thể thành lập ở cả trong công sở, hầm

mỏ, xƣởng máy, đồn điền… và nhất là ở nông thôn với nhiều loại hình: Tín

dụng, tiêu thụ, sản xuất, mua bán… Do vậy, nói theo mục đích, Ngƣời khẳng

định: “là để cải thiện đời sống nông dân, làm cho nông dân đƣợc no ấm, mạnh

khoẻ, đƣợc học tập, làm cho dân giàu, nƣớc mạnh. Dân có giàu thì nƣớc mới

mạnh. Đó là mục đích riêng và mục đích chung của viên xây dựng hợp tác xã”

[35, tr. 537].

Đảng và Nhà nƣớc ta luôn quan tâm đến phát triển kinh tế tập thể mà

nòng cốt là HTX. Ngay từ những năm 1955-1957, Đảng và Nhà nƣớc đã chủ

trƣơng xây dựng thí điểm HTX nông nghiệp, khuyến khích, vận động nông dân

tham gia các tổ đổi công, giúp đỡ lẫn nhau phát triển sản xuất. Trên cơ sở tổng

kết, Đảng ta chủ trƣơng củng cố HTX thí điểm và đến năm 1958, phong trào

hợp tác hoá đƣợc tiến hành trên toàn Miền Bắc. Từ 1961 – 1965, đây là thời kỳ

miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, HTX đƣợc mở rộng quy mô,

phát triển sản xuất toàn diện từ bậc thấp lên bậc cao. Bƣớc vào thời kỳ 1965 –

1967, HTX tiếp tục đẩy mạnh công cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ

thuật. Sau khi miền Nam giải phóng, Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng: đối với

Miền Bắc tiếp tục cải tiến quản lý HTX, mở rộng quy mô HTX; đối với Miền

Nam, Đảng triển khai công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp theo mô hình đã thực

hiện ở Miền Bắc. Đến giai đoạn cuối thập kỷ 70, HTX lâm vào khủng hoảng

trầm trọng. Chỉ thị 100/CT – TW của Ban Bí thƣ về “khoán sản phẩm cuối cùng

đến nhóm và ngƣời lao động” đã đáp ứng đƣợc nguyện vọng, quyền lợi của

nông dân. Từ Đại hội VI (1986), cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc, kinh

tế HTX cũng đang đƣợc đổi mới, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm. Đó là

Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về “đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”

15

(4/1988), Nghị quyết TW 5 – Khoá IX của BCH TW Đảng về “Tiếp tục đổi

mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể” (3/2002)

Từ những quan điểm của những nhà kinh điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin,

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quá trình đổi mới của Đảng, chúng ta có thể thấy sự tồn tại

và phát triển của kinh tế tập thể là tất yếu khách quan, phù hợp và cần thiết trong

nền KTTT định hƣớng XHCN ở nƣớc ta, điều này thể hiện ở các mặt sau:

Thứ nhất: Kinh tế hợp tác, HTX là kết quả khách quan của phát triển

LLSX và phân công chuyên môn hoá.

Trong xã hội nguyên thuỷ, khi con ngƣời sống trong các bầy đàn thì hoạt

động lao động của họ đã bắt đầu dựa trên cơ sở hợp tác, dù là hợp tác giản đơn

(hợp tác chƣa có sự phân công, ở đây cùng một lúc nhiều ngƣời sẽ cùng làm

một công việc nhƣ nhau).

Phân công xuất hiện là một bƣớc tiến lớn trong đời sống xã hội loài

ngƣời với hình thức nguyên sơ nhất là phân công tự nhiên. Cuộc đại phân công

lao động xã hội lần thứ nhất đã tách nghề chăn nuôi ra khỏi nghề trồng trọt.

Việc tách nghề thủ công ra khỏi nghề nông là đặc trƣng của cuộc đại phân công

xã hội lần thứ hai, từ đó dẫn đến sự hợp tác giữa nghề nông, nghề chăn nuôi và

thủ công. Sự xuất hiện tầng lớp thƣơng nhân không trực tiếp sản xuất mà chỉ

kinh doanh, trao đổi sản phẩm là nội dung của cuộc đại phân công lao động xã

hội lần thứ ba.

Khi phân công xã hội xuất hiện, buộc con ngƣời phải hợp tác với nhau.

nếu không có sự hợp tác thì mọi sự phân công sẽ trở nên vô nghĩa. Phân công

và hợp tác là hai mặt có quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình phát triển

LLSX. Phân công lao động càng sâu sắc thì quan hệ hợp tác càng chặt chẽ.

Chính quan hệ hợp tác tạo điều kiện để phát huy hiệu quả của phân công.

Phân công và hợp tác là đòi hỏi khách quan của cuộc sống kinh tế. Hợp

tác diễn ra ở các khâu, các công đoạn trong quá trình sản xuất và phát triển dẫn

đến các ngành dịch vụ có liên quan. Khi nền kinh tế còn ở trình độ phấp, sản

16

xuất hàng hoá chƣa phát triển, chủ yếu là hợp tác giản đơn. Khi chuyển sang

nền kinh tế hàng hoá, do sự phát triển của phân công lao động xã hội, do yêu

cầu của quy luật cạnh tranh nên đã phát triển đa dạng các loại hình HTX. Sở

dĩ nhƣ vậy là vì, khi chuyển sang nền KTTT thì mọi hoạt động sản xuất, kinh

doanh đều do thị trƣờng chi phối, quyết định. Để giải quyết những khó khăn

cho từng hộ gia đình (vốn, điều kiện sản xuất, thông tin thị trƣờng…) thì

càng cần thiết phải có sự hợp tác với nhau. HTX sẽ là hình thức gần gũi, phù

hợp với hoạt động kinh tế của các hộ gia đình để họ thực hiện và bảo vệ lợi

ích của mình.

Thứ hai: HTX sẽ tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hộ phát triển

Xét về lý luận và thực tiễn, kinh tế hợp tác và hợp tác xã là sản phẩm tất

yếu của nền sản xuất hàng hoá, sản xuất hàng hoá càng phát triển, sự cạnh tranh

trong kinh tế thị trƣờng càng gay gắt thì những ngƣời lao động riêng lẻ, các hộ

cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu cầu phải liên kết, hợp tác với

nhau, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển. Phát triển kinh tế hợp tác

giải quyết đƣợc mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, manh mún với sản xuất hàng hoá

lớn. Phát triển kinh tế tập thể là tất yếu, tạo điều kiện để thúc đẩy kinh tế hộ

phát triển, từng bƣớc chuyển nền sản xuất nhỏ manh mún, thủ công, hiệu quả

kinh tế thấp sang sản xuất lớn theo hƣớng hàng hoá.

Ví dụ: Việc xây dựng cơ sở hạ tầng: Đƣờng giao thông, mạng lƣới điện

năng, hệ thống thuỷ lợi, sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn theo hƣớng sản

xuất tập trung và mang tính hàng hoá, cung cấp các dịch vụ nông nghiệp:

Giống, kỹ thuật… đây là những yếu tố quan trọng để phát triển cả về mặt kinh

tế, xã hội khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Song một mình hộ cá thể

không thể có năng lực để thực hiện vì không đủ vốn, khoa học công nghệ, năng

lực quản lý…Do vậy phải sử dụng sức mạnh tập thể trên cơ sở hợp tác giữa các

chủ thể kinh tế dƣới sự lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phƣơng.

HTX dịch vụ Môi trƣờng ở Huyện Hiệp Hoà, Huyện Lục Ngạn (Bắc

17

giang) là hình thức hợp tác xã lấy lợi ích chung của cộng đồng, làm sạch cảnh

quan, môi trƣờng sinh thái, thu gom rác thải sau đó phân loại, tái chế làm phân

hữu cơ vi sinh. Đây là lĩnh vực hoạt động lấy lợi ích của cộng đồng làm mục

tiêu hoạt động chính, mục đích lợi nhuận rất ít, hầu nhƣ không có. Song để làm

đƣợc việc đó thì từng hộ gia đình, cá nhân không thể thực hiện đƣợc mà cần

phải có sự góp sức từ các hộ gia đình, xã viên để hợp tác xã này có thể tồn tại

và phát triển.

Thực tế ở Bắc giang, nhất là khu vực nông thôn, với quá trình phát triển

kinh tế hàng hoá, nông dân ngày càng có nhu cầu phát triển các hình thức kinh

tế hợp tác từ thấp đến cao, từ các tổ hợp tác đến hợp tác xã làm dịch vụ đầu vào,

đầu ra phục vụ sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình và trang trại, đặc biệt là

các sản phẩm nông nghiệp nhƣ: vải thiều, chế biến sắn, ngô, gỗ lâm sản… cung

ứng cho các doanh nghiệp, đồng thời nhận sự hỗ trợ, tiếp thu sự giúp đỡ của

doanh nghiệp về vốn và kỹ thuật; mặt khác tránh tình trạng không có các dịch

vụ đầu vào, đầu ra hoặc phải qua nhiều khâu trung gian, nảy sinh tình trạng con

buôn, ép giá, thị trƣờng không minh bạch, cạnh tranh bất bình đẳng… Do vậy

nhu cầu phát triển các hình thức kinh tế hợp tác đã thật sự phổ biến và ngày

càng bức thiết ở nhiều nơi.

Nếu không có kinh tế tập thể – các hộ sản xuất cá thể cứ tồn tại độc lập,

mạnh ai nấy làm, trong điều kiện nhƣ hiện nay ở Bắc Giang, đất đai không thể

tập trung, ngƣời nông dân vẫn sản xuất một cách tự phát, manh mún, nhỏ lẻ,

canh tác, sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống… nhƣ thế thì không thể

chuyên môn hoá, không thể tăng năng xuất, không thể có nền sản xuất hàng hoá

lớn. Mặt khác nếu không có kinh tế tập thể ngƣời nông dân sẽ thua thiệt, thƣa

thiệt về giá, về sức cạnh tranh, không phát huy đƣợc sức mạnh tập thể. Nếu có

kinh tế tập thể thì những vấn đề nêu trên đƣợc giải quyết sẽ thúc đẩy kinh tế hộ

phát triển, nhiều mô hình HTX ở một số địa phƣơng đã chứng minh điều đó.

18

Thứ ba: Phát triển kinh tế tập thể gắn với sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện

các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử

dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động với

công nghệ, phƣơng tiện và phƣơng pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao

động xã hội cao.

Nƣớc ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu.

Cái thiếu nhất của đất nƣớc ta là thiếu một lực lƣợng sản xuất phát triển, chƣa

có một cơ sở vật chất – kỹ thuật tƣơng xứng. CNH, HĐH là con đƣờng tạo ra

lực lƣợng sản xuất mới nhằm khai thác và phát huy tốt nhất các nguồn lực bên

trong và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Đặc biệt coi trọng CNH,

HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngƣ nghiệp gắn

với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản nhằm khai thác có hiệu quả tiềm

năng đa dạng của nông, lâm, ngƣ nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an ninh

lƣơng thực cho xã hội; tạo nguồn nguyên liệu có khối lƣợng lớn, chất lƣợng

cao, giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến,

phân công lao động xã hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với đô thị

hoá tại chỗ, mở mang thị trƣờng sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp; chú

trọng các vấn đề thuỷ lợi hoá, áp dụng công nghệ tiến bộ, nhất là công nghệ

sinh học, cơ giới hoá, điện khí hoá, phát triển mạnh công, thƣơng nghiệp, dịch

vụ, du lịch, tăng cƣờng xây dựng kết cấu hạ tầng.

Cũng trong điều kiện đó, Bắc Giang là một tỉnh có nền nông nghiệp chƣa

phát triển, sản xuất vẫn theo kinh nghiệm truyền thống là chính, hộ nông dân

vẫn chủ yếu sản xuất theo hƣớng tự túc, khi lƣơng thực thực phẩm có ít dƣ thừa

mới đem bán cho ngƣời khác. Thƣơng mại, dịch vụ khu vực nông thôn vẫn

mang tính tự phát, chƣa có tổ chức, mạnh ai ngƣời ấy làm. Có thực tế đó là do

quy mô về vốn, khoa học kỹ thuật, tƣ liệu sản xuất... chƣa đủ để tổ chức theo

19

hƣớng sản xuất hàng hoá, sản xuất lớn. Nếu biết cách tổ các loại hình kinh tế

hợp tác, các chủ thể kinh tế biết tập hợp sức mạnh thì sẽ phát huy đƣợc thế

mạnh về vốn, có điều kiện đầu tƣ cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển lực lƣợng

sản xuất. Đây là cơ sở chuyển biến căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất

kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là

chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động với công nghệ, phƣơng tiện và

phƣơng pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Do vậy có

thể thấy sự phát triển của kinh tế tập thể thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, gắn liền với công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Củng cố và phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã với CNH, HĐH có quan

hệ mật thiết, biện chứng với nhau; phát triển kinh tế tập thể góp phần thức đẩy

CNH, HĐH đất nƣớc nói chung và Bắc Giang nói riêng, điều đó thể hiện:

Một là: Phát triển kinh tế tập thể từng bƣớc biến đổi căn bản, toàn diện

các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội. Nếu sản

xuất cá thể mang tính riêng lẻ, manh mún, lạc hậu, tính cạnh tranh thấp, hiệu

quả kinh tế không cao thì phát triển kinh tế tập thể phát huy đƣợc thế mạnh nội

lực về vốn (đặc biệt vốn sản xuất kinh doanh, vốn nhàn rỗi trong dân, vốn

phòng ngừa rủi ro, tiết kiệm... là rất lớn), phát huy đƣợc sức mạnh, trí tuệ tập

thể, có sự quản lý, hỗ trợ của Nhà nƣớc sẽ từng bƣớc biến đổi các hoạt động

kinh tế sang sản xuất với quy mô lớn, từng bƣớc thay thế sản xuất kinh doanh

nhỏ lẻ, mạnh mún, kém hiệu quả.

Hai là: Phát triển kinh tế tập thể từng bƣớc cải biến lao động thủ công,

lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất

lao động xã hội cao. Trên cơ sở vốn đƣợc tập trung từ các nguồn lực, từ xã viên

đến các nguồn vốn bên ngoài có điều kiện để đầu tƣ công nghệ, phƣơng tiện sản

xuất, kinh doanh hiện đại, trên cơ sở đó mở rộng quy mô sản xuất, tăng cƣờng

tính cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.

Mặt khác đặc trƣng của CNH, HĐH là nền sản xuất hàng hoá phát triển

20

với tính chất xã hội hoá cao - đó chính là nhu cầu khách quan và triển vọng rộng

lớn cho kinh tế hợp tác và HTX của những ngƣời sản xuất phát triển. Xét trên

tổng thể nền kinh tế, trong quá trình CNH, HĐH, các tổ chức kinh tế tập thể là

một thị trƣờng rộng lớn cho các ngành công nghiệp sản xuất tƣ liệu sản xuất phục

vụ lĩnh vực hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đồng thời đây

cũng là thị trƣờng hàng tiêu dùng đáng kể. Ngƣợc lại, các hình thức kinh tế hợp

tác, HTX là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu tập trung quan trọng cho công

nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, ngành này

không thể hình thành và phát triển trên nền tảng của các hộ nông dân cá thể, sản

xuất manh mún, tuỳ tiện theo kiểu tự cung, tự cấp. Do vậy Hợp tác, HTX góp

phần thúc đẩy CNH, HĐH đặc biệt là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Thứ tư: Kinh tế tập thể góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất, củng cố

quan hệ sản xuất

Xét về mặt lý luận: Lực lƣợng sản xuất (LLSX) và Quan hệ sản xuất

(QHSX) có mối quan hệ tác động biện chứng với nhau, giữa LLSX và QHSX

thì QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Có nghĩa là LLSX

là yếu tố quyết định QHSX, khi LLSX biến đổi thì QHSX sớm hay muộn cũng

biến đổi theo, song QHSX lại tác động trở lại đối với LLSX theo hƣớng nếu

QHSX là phù hợp, tiến bộ sẽ thúc đẩy LLSX phát triển, ngƣợc lại nếu QHSX

không phù hợp, trì trệ, lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.

Phát triển nền KTTT định hƣớng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chiến lƣợc

của Đảng. Trong nền kinh tế này, kinh tế tập thể (mà nòng cốt là Hợp tác xã)

cùng với kinh tế Nhà nƣớc phải dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc

dân. Đây vừa là kết quả của quá trình xã hội hoá nền sản xuất, là kết quả của

quá trình phát triển LLSX trong một thời gian dài, vừa là kết quả của sự quản

lý, tác động có hiệu quả của Nhà nƣớc. Trong HTX, phần sở hữu tập thể đƣợc

hình thành phải phù với yêu cầu phát triển sản xuất và lợi ích của ngƣời lao

động. Sở hữu tập thể trong HTX không phủ nhận, xóa bỏ sở hữu tƣ nhân của

21

các thành viên và cũng không đƣợc tạo nên bằng phong trào tập thể hoá ồ ạt.

Sự tác động của cơ chế thị trƣờng tất yếu dẫn đến phân hoá giàu nghèo,

một bộ phận nhỏ giàu lên, số còn lại rơi vào thua thiệt, thậm chí phá sản. Trong

cuộc cạnh tranh nghiệt ngã này, khu vực sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế của

những hộ nông dân, tiểu thƣơng, tiểu chủ sẽ phải chịu thua thiệt, nếu để mặc họ

tự bƣơn chải. Con đƣờng giúp cho những ngƣời lao động cá thể có thể đi lên

cuộc sống ấm no, hạnh phúc là tự nguyện tập hợp lại dƣới sự hỗ trợ giúp đỡ của

Nhà nƣớc để tổ chức sản xuất, kinh doanh.

HTX ra đời cùng với thời gian, hiệu quả kinh doanh và khả năng tích luỹ

sẽ xuất hiện dần sở hữu tập thể, tạo ra sự đan xen và kết hợp nhân tố công hữu

và tƣ hữu. Con đƣờng đƣa nông dân và những ngƣời sản xuất nhỏ đi lên CNXH

nhất định phải là con đƣờng hợp tác với những bƣớc đi và hình thức phù hợp,

xuất phát từ nguyện vọng của ngƣời lao động, từ nhu cầu phát triển sản xuất,

kinh doanh, từ trình độ phát triển kinh tế, từng vùng cũng nhƣ cả nền kinh tế

dƣới sự giúp đỡ đắc lực của Nhà nƣớc. Lênin đã nhận định: Nếu chúng ta tổ

chức đƣợc toàn thể nông dân vào HTX thì chúng ta đứng vững đƣợc hai chân

trên miếng đất XHCN.

Khi LLSX chƣa phát triển, thì mức độ, nhu cầu hình thành và phát triển

HTX còn thấp, khi LLSX đã phát triển đến mức độ nhất định thì nhu cầu hợp

tác sẽ phát triển và mở rộng để các loại hình HTX xuất hiện và phát triển. Bởi

vì, khi LLSX lạc hậu, TLSX còn thô sơ, sự tác động của thị trƣờng chƣa cao,

sản xuất chủ yếu là nhằm mục đích tự cung, tự cấp, do đó chƣa có nhu cầu hợp

tác sản xuất (nếu có thì mức độ thấp và quy mô nhỏ bé), nên HTX chƣa đƣợc

hình thành. Khi LLSX đƣợc phát triển, TLSX (mà chủ yếu là tƣ liệu lao động)

đƣợc cải tiến từ công cụ thủ công, thô sơ lên cơ khí, máy móc... khả năng ứng

dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất tăng lên, thị trƣờng ngày

càng mở rộng và sự tác động của các quy luật kinh tế trong nền KTTT càng trở

nên mạnh mẽ hơn. Điều đó đặt những ngƣời sản xuất cá thể trƣớc hai con

22

đƣờng: Một là, họ sẽ bị phá sản nếu không thích ứng kịp với sự phát triển của

LLSX. Hai là, họ phải hợp tác với nhau (hợp tác ở trình độ cao sẽ xuất hiện

HTX) để khắc phục hạn chế của từng cá nhân.

Sự phát triển của LLSX, đến lƣợt nó lại tạo điều kiện đòi hỏi mức độ hợp

tác tăng lên và các hình thức hợp tác đƣợc phát triển đa dạng, phong phú.

Chẳng hạn, trƣớc đây khi LLSX chƣa phát triển, thì mức độ hợp tác chỉ nằm ở

một số khâu của quá trình kinh tế và quy mô hợp tác chỉ bó hẹp ở một số hộ sản

xuất, khi LLSX phát triển thì mức độ hợp tác trong quá trình sản xuất sẽ nhiều

hơn và quy mô hợp tác cũng mở rộng theo

Nhƣ vậy, trong nền kinh tế hàng hoá với áp lực cạnh tranh gay gắt, muốn

tồn tại và phát triển, kinh tế cá thể manh mún, nhỏ lẻ, tự phát không thể tồn tại

và phát triển trừ khi hợp tác lại với nhau sản xuất, kinh doanh theo kiểu quy mô

lớn. Đồng thời bản thân kinh tế tập thể cũng phải từng bƣớc đầu tƣ phát triển

nguồn nhân lực, tƣ liệu sản xuất, trình độ khoa học công nghệ, giảm thiểu chi

phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi LLSX phát triển thì đồng thời

cùng với quá trình ấy QHSX cũng từng bƣớc biến đổi, từng bƣớc đƣợc củng cố,

QHSX xã hội chủ nghĩa dần đƣợc hình thành theo hƣớng tiến bộ, nhân văn và

công bằng hơn.

1.2 Đặc điểm của kinh tế tập thể trong kinh tế thị trƣờng

1.2.1 Đặc trưng của kinh tế hợp tác, HTX

Tổng kết thực tiễn quá trình chuyển đổi các HTX kiểu cũ, thành lập các HTX

kiểu mới nêu lên những đặc trƣng cơ bản của mô hình HTX kiểu mới nhƣ sau:

Thứ nhất: về thành viên tham gia HTX

Khác với HTX kiểu cũ, thành viên HTX chỉ gồm các thể nhân, HTX kiểu

mới là một tổ chức kinh tế do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân

(ngƣời lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh…), cả ngƣời có ít vốn và ngƣời có

nhiều vốn có nhu cầu tự nguyện cùng nhau góp vốn hoặc có thể góp sức lập ra

23

và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình theo quy định của Luật HTX.

HTX không thủ tiêu tính tự chủ sản xuất, kinh doanh của các thành viên, mà chỉ

làm những gì mỗi thành viên riêng lẻ không làm đƣợc hoặc làm không có hiệu

quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển. Thành viên tham gia HTX vẫn là

những đơn vị kinh tế tự chủ.

Thứ hai: Về quan hệ sở hữu

Trong HTX kiểu mới, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của các thành

viên đƣợc phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của HTX) bao gồm các nguồn

vốn tính luỹ tái đầu tƣ, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động

của HTX, tài sản trƣớc đây giao lại cho tập thể sử dùng làm tài sản không chia

và các quỹ không chia. Thành viên khi tham gia HTX không phải góp TLSX,

mà điều kiện tiên quyết là phải góp vốn theo quy định của Điều lệ HTX, có thể

góp sức khi HTX có nhu cầu; xuất vốn góp không hạn chế, song đƣợc khống

chế một tỷ lệ nhất định so với tổng số vốn góp của các thành viên nhằm đảm

bảo tính chất của HTX (theo luật thì không quá 30%). Vốn góp của thành viên

đƣợc chia lãi hằng năm và đƣợc rút khi xã viên ra khỏi HTX.

Thứ ba: Về quan hệ quản lý trong HTX

Trong các HTX kiểu mới, quan hệ giữa HTX và xã viên là quan hệ bình

đẳng, thoả thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong suản xuất,

kinh doanh. Hoạt động của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động suản xuất,

kinh doanh của thành viên, mà chỉ diễn ra ở từng khâu công việc, từng công

đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng thành viên và do đó cũng tạo

điều kiện phát huy quyền làm chủ của thành viên. Thành viên tham gia quyết

định những công việc quan trong của HTX nhƣ phƣơng án sản xuất kinh danh,

phƣơng án phân phối thu nhập trong HTX...Nguyên tắc bầu cử và biểu quyết

đƣợc thực hiện bình đẳng, mỗi thành viên một phiếu bầu, không phân biệt vốn

góp ít hay nhiều.

24

Thứ tƣ: Về quan hệ phân phối

Trong các HTX kiểu mới, hình thức phân phối đƣợc thực hiện trên

nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo vốn góp, vừa

theo mức độ tham gia dịch vụ. Ngƣời lao động là xã viên, ngoài tiền công đƣợc

nhận theo số lƣợng và chất lƣợng lao động, còn đƣợc nhận lãi chia theo vốn góp

và mức độ tham gia dịch vụ, vốn góp càng lớn, mức độ tham gia dịch vụ càng

Tổng thu nhập

Nộp các khoản thuế

Nộp các khoản thuế

nhiều thì thu nhập càng cao. Có thể thấy rõ qua sơ đồ sau:

Khấu hao tài sản cố định

Bù đắp chi phí sản xuất

Bù đắp chi phí sản xuất

Chi phí vật tƣ

Quỹ tích luỹ

Trích các quỹ HTX

Trả công lao động

Quỹ công ích

Lãi phân phối

Chia ngày công xã viên

Trích lập các quỹ

Chia theo vốn góp

Bù lỗ năm trƣớc (nếu có)

Chia theo mức độ tham gia DV

Thứ năm: Về cơ chế quản lý đối với HTX

Các HTX kiểu mới đã đƣợc giải phóng khỏi sự ràng buộc cứng nhắc về

cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. HTX thực sự là một đơn vị kinh doanh

25

độc lập trong cơ chế thị trƣờng, bình đẳng trƣớc pháp luật với các DN thuộc các

thành phần kinh tế khác, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt

động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các đơn vị thuộc

mọi thành phần kinh tế khác, cũng nhƣ phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành

nghĩa vụ đối với Nhà nƣớc và trách nhiệm đối với thành viên, Nhà nƣớc ban

hành pháp luật và các chính sách khuyến khích phát triển HTX tôn trọng quyền

tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của

HTX, không còn can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của HTX.

Thứ sáu: Về quy mô và phạm vi hoạt động

Quy mô và phạm vi hoạt động của HTX không còn bị giới hạn nhƣ trƣớc.

Mỗi HTX có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, không giới

hạn địa giới hành chính. Chẳng hạn, các HTX làm dịch vụ cung cấp phân bón,

thuốc trừ sâu...về nguyên tắc, không bị bó hẹp vào đơn vị hành chính theo quy

mô thôn, xã. Ngay cả trong HTX nông nghiệp, địa bàn hoạt động cũng không

nhất thiết trùng vào địa giới hành chính.

Thứ bảy: Về hiệu quả hoạt động của HTX

Cũng nhƣ các tổ chức kinh tế khác trong nền KTTT, hoạt động của HTX

phải thích ứng với điều kiện KTTT, phải chấp nhận cạnh tranh, phải kinh doanh

nhằm thu lợi nhuận để tồn tại, phát triển và thông qua đó mà đánh giá hiệu quả

của hoạt động HTX.

Tuy nhiên, HTX còn có vai trò quan trọng trong việc xoá đói, giảm

nghèo, xây dựng công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng

đồng...Do đó, mọi hoạt động của HTX phải đƣợc đánh giá bằng hiệu quả tổng

hợp, cả về kinh tế, chính trị, xã hội, cả hiệu quả tập thể và của từng thành viên.

Thứ tám: Về mô hình HTX

Mô hình HTX kiểu mới linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc

điểm của từng vùng, từng ngành; với nhiều trình độ phát triển, từ thấp đến cao,

từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của

26

các thành viên, đến mở mang ngành nghề, vƣơn lên kinh doanh tổng hợp, từ

HTX phát triển thành liên hiệp HTX.

Không thể áp dụng dập khuôn, máy móc một kiểu tổ chức HTX đơn điệu

cho tất cả các vùng khác nhau của đất nƣớc. Theo Lênin, chế độ HTX với tƣ

cách là một hình thức CNTB nhà nƣớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH trƣớc

khi có những HTX văn minh, thì phải rất đa dạng về hình thức, phong phú về

nội dung, phải đi dần từ thấp đến cao, phải căn cứ vào trình độ phát triển của

LLSX, phải căn cứ vào đặc điểm công nghệ, trình độ quản lý trong từng ngành

nghề; phải căn cứ vào những tất yếu kinh tế khiến những hộ gia đình xã viên tự

nguyện tham gia vào HTX.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “không phải làng nào cũng phải lập

mỗi làng mỗi HTX. Cũng không phải mỗi làng phải lập cả mấy HTX. Cũng

không phải có HTX này thì không đƣợc lập HTX kia. Chẳng qua, theo hoàn

cảnh nơi nào lập đƣợc HTX nào, và có khi hai HTX – mua và bán – lập chung

cũng đƣợc. Nếu nhiều nơi đã thành lập HTX nhƣ nhau, thì HTX ấy nên liên lạc

với nhau, thế lực càng mạnh hơn” [34, tr .318].

HTX kiểu mới trong nông nghiệp bổ biên là các HTX gắn với các hộ

nông dân để cùng sản xuất, tiêu thụ, chế biến sản phẩm cuối cùng của nông

nghiệp. Khi đó, HTX sẽ đảm nhiệm một hay một số chức năng nhất định của

đầu vào hay đầu ra cho các hộ. Các HTX sẽ trở nên đa dạng về các chức năng

cũng nhƣ quy mô hoạt động của từng dịch vụ nông nghiệp. Chẳng hạn, trong

ngành trồng trọt, để tăng quy mô diện tích canh tác nhằm đảm bảo kinh doanh

có hiệu quả (điều này xảy ra trong trƣờng hợp diện tích canh tác nhỏ hẹp, kinh

doanh kém hiệu quả song hộ nông dân nào cũng muốn giữ quyền sở hữu ruộng

đất của mình, không chuyển giao cho ngƣời khác). Con đƣờng giải quyết mâu

thuẫn này là các hộ hợp tác với nhau để cùng kinh doanh trên một diện tích

canh tác lớn hơn, có hiệu quả hơn, nhƣng vẫn bảo vệ quyền sở hữu (sử dụng)

của mình về đất đai.

27

Để hiểu rõ hơn những đặc trƣng của htx kiểu mới có thể so sánh nhƣ sau:

TT Mô hình HTX kiểu cũ HTX kiểu mới Tiêu chí

1 Điều kiện ra đời Kinh tế hiện vật Kinh tế hàng hoá

2 Chỉ thể tham gia Thể nhân Thể nhân, pháp nhân

3 Mức độ tự nguyện Thấp Cao (do nhu cầu kinh tế hộ)

4 Quan hệ sở hữu Sở hữu tập thể Sở hữu tập thể và sở hữu cá

nhân đƣợc phân định rõ

5 Cơ chế quản lý - Nhà nƣớc can thiệp sâu - Nhà nƣớc ít can thiệp trực

- Lãnh đạo cấp trên, vai tiếp

trò của Ban chủ nhiệm. - Các xã viên quyết định

- Tính dân chủ hạn chế - Tính dân chủ cao

6 Quan hệ phân Theo hoạt động, mang Theo vốn, theo lao động và

phối tính bình quân theo mức độ tham gia dịch vụ

7 Địa bàn hoạt động Địa giới hành chính Không phụ thuộc địa giới

(làng, xã ) hành chính

8 Hình thức tổ chức Đơn nhất Đa dạng

9 Nội dung kinh Toàn bộ hoạt động sản Có thể chỉ ở từng khâu công

doanh xuất, kinh doanh của các việc, từng công đoạn ( chủ

thành viên yếu khâu dịch vụ)

Nhƣ vậy HTX kiểu mới là mô hình tổ chức kinh tế có tính ƣu việt và phù hợp

với điệu kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta.

1.2.2 Mục tiêu và nguyên tắc của HTX

* Mục tiêu của HTX

HTX là một tổ chức kinh tế, vì vậy mục tiêu của HTX trƣớc hết là phải

hoạt động có hiệu quả để tồn tại và phát triển đƣợc trong cơ chế thị trƣờng.

Nội dung, mức độ, cách thức tổ chức HTX về kinh tế là do hiệu quả kinh

28

tế quyết định. Ngoài mục tiêu kinh tế, HTX còn có mục tiêu xã hội. HTX không

phải là một tổ chức kinh tế thuần thuý lấy mục tiêu lợi nhuận là trên hết, mà còn

nhằm tƣơng trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã viên. Hồ Chí Minh từng nói về

mục đích của HTX: “Tuy cách làm thì có khác nhau ít nhiều, nhƣng mục đích

thì nƣớc nào cũng nhƣ nhau. Mục đích ấy thì trong lời tuyên nguôn của HTX

Anh đã nói: Cốt làm cho những ngƣời vô sản giai cấp hoá ra anh em. Anh em

thì làm giùm nhau nhờ lẫn nhau. Bỏ hết thói cạnh tranh. Làm sao cho ai trồng

cây thì đƣợc ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây” [34, tr. 313, 114],

“HTX khác hội buôn, vì hội buôn lợi riêng, HTX lợi chung” [34, tr 315 ]. Trong

điều kiện kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta, HTX là nhằm kết hợp và phát huy sức

mạnh của từng xã viên và tập thể, thông qua kết quả hoạt động của HTX mà cải

thiện đời sống xã viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo, thu ngắn khoảng cách về

phân hoá giàu nghèo, thực hiện bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội nhất là ở

nông thôn. HTX thực hiện mục tiêu xã hội trƣớc hết là trong nội bộ HTX. Mục

tiêu xã hội của HTX không xa rời lý tƣởng mà gắn chặt với cuộc sống, nâng cao

mức sống, tính cộng đồng cùng có lợi của xã viên HTX, của tầng lớp dân cƣ

kém thế lực về kinh tế trong xã hội. Hai mục đích kinh tế và xã hội là đặc trƣng

để phân biệt HTX với các tổ chức kinh tế thuần thuý khác.

Tuy thực hiện mục tiêu xã hội những HTX không phải là các tổ chức từ

thiện. Bác Hồ nói: “HTX tuy là để giúp nhau nhƣng không giống các hội từ

thiện. Vì vậy hội ấy có tiêu đi mà không làm ra và giúp đỡ bất kỳ ai nhƣng có ý

bố thí; HTX có tiêu đi, có làm ra, chỉ giúp ngƣời trong hội nhƣng giúp một cách

bình đẳng, một cách cách mệnh ai cũng giúp mà ai cũng bị giúp” [34, tr.315].

Nếu chỉ có mục tiêu xã hội thì HTX không còn là các tổ chức kinh tế nữa

và mặt khác nó cũng không thể thực hiện đƣợc mục tiêu xã hội. Nếu chỉ có mục

tiêu kinh tế thì bản chất tƣơng trợ giữa các thành viên để hƣớng tới lợi ích cũng

sẽ bị biến dạng dần và tổ chức kinh tế đó cũng không còn là HTX vì sẽ dẫn đến

cạnh tranh, chèn ép ngay trong nội bộ, giữa các thành viên, từ đó phá vỡ tổ

29

chức HTX do chính mình tự nguyện liên kết tạo ra.

* Nguyên tắc tổ chức HTX

Nguyên tắc tổ chức hoạt động của HTX là những quy định căn bản nhất

làm cơ sở, đƣờng lối chỉ đạo và nền tảng cho HTX tổ chức hoạt động và thực

hiện mục đích của mình trong thực tiễn đồng thời qua đó phân biệt HTX với

các loại hình doanh nghiệp khác.

Đại hội Liên minh HTX Quốc tế năm 1966 đã thống nhất thông qua 6

nguyên tắc tổ chức hoạt động của HTX là:

- Tự nguyên gia nhập HTX

- Quản lý dân chủ

- Lợi tức cổ phần đƣợc chi có giới hạn

- Lợi nhuận thuộc về các xã viên

- Giáo dục và nâng cao hiểu biết về HTX

- Hợp tác giữa các HTX với nhau và hợp tác quốc tế

Tiếp tục hoàn thiện nguyên tắc tổ chức của HTX, Đại hội Liên minh

HTX Quốc tế lần thứ 31 tại nƣớc Anh đã bổ sung và thông qua 7 nguyên tắc tổ

chức hành động trong thế kỷ 21 là:

- Tính tự nguyện và mở rộng đối với những ngƣời muốn trở thành

xã viên HTX.

- Xã viên tự kiểm soát một cách dân chủ.

- Xã viên tham gia vào hoạt động kinh tế

- Quyền tự chủ và độc lập

- Giáo dục, đào tạo và thông tin

- Hợp tác giữa các xã viên

- Quan tâm đến cộng đồng

Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức hoạt động của HTX do ICA đề ra, Luật

HTX đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm

2003 đã chắt lọc những nội dung quan trọng nguyên tắc tổ chức của ICA và đƣa

30

ra những nguyên tắc cơ bản sau đây:

Một là: Nguyên tắc tự nguyện

Theo nguyên tắc này việc gia nhập và xin ra HTX là hoàn toàn tự nguyện,

không có sự gò bó, ép buộc nếu nhƣ ngƣời dân không có nhu cầu xin gia nhập

hay không muốn tham gia HTX nữa. Tuy nhiên HTX là một tổ chức kinh tế, có

tƣ cách pháp nhân, đƣợc tổ chức chặt chẽ, vì vậy để tránh tình trạng phát triển

một cách tự phát, việc xin vào, xin ra HTX phải đƣợc quy định rõ ràng. Nếu tự

nguyện gia nhập HTX mà thiếu điều kiện thì HTX cũng không kết nạp.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều có thái độ hết sức thận

trọng đối với nông dân. Ăngghen đã từng chỉ ra: Hãy để ngƣời nông dân suy

nghĩ trên luống cày của họ. Ông khẳng định rằng: khi giai cấp vô sản đã giành

đƣợc chính quyền thì tuyệt đối không đƣợc tƣớc đoạt đối với tiểu nông dƣới bất

kỳ hình thức gì nhƣ buộc phải làm đối với những chủ đất lớn. Nói cánh khác,

công việc phải làm không phải là dùng quyền lực để xoá bỏ một cách thô bạo

cơ sở tồn tại của kinh tế nông hộ mà tạo ra môi trƣờng mới, điều kiện để nền

kinh tế phát triển hiệu quả hơn.

Lênin coi tự nguyện, không ép buộc đối với nông dân là một trong những

nguyên tắc quan trọng nhất của HTX. Ông đã đấu tranh quyết liệt với xu hƣớng

cƣỡng bức nông dân vào HTX. Bởi vì theo Ngƣời đó là: “một việc làm ngu

xuẩn to lớn nhất”. Tháng 3/1919 tại Đại hội VIII Đảng cộng sản Nga, trƣớc xu

hƣớng cƣỡng bức nông dân vào HTX và tập thể hoá tràn lan, Lênin đã nhấn

mạnh rằng: ở đây mà dùng bạo lực thì có nghĩa là làm nguy hai đến toàn bộ sự

nghiệp, điều cần phải làm là công tác giáo dục lâu dài và không bao giờ đƣợc

dùng mệnh lệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Đối với ngƣời chƣa vào

HTX cũng không đƣợc gò ép, coi thƣờng họ, HTX đoàn kết chặt chẽ, sản xuất

tốt, thu nhập cao, họ nhận thấy HTX là hơn hẳn thì họ tự nguyện xin vào.

Hai là: Nguyên tắc quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai

Theo nguyên tắc này, xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám

31

sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai phƣơng

hƣớng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy

định trong Điều lệ HTX.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “HTX chỉ có hội viên mới đƣợc

hƣởng lợi, hội viên mới có quyền... đã vào hội thì bất kỳ ai góp nhiều, góp ít,

vào trƣớc, vào sau, ai ai cũng bình đẳng nhƣ nhau” [34, tr 318]. Ngƣời nhấn

mạnh quản lý phải dân chủ, tài chính phải công khai, sổ sách phải minh bạch,

quản lý tốt thì HTX phát triển tốt và ngày càng củng cố; quản lý kém thì xã viên

không phấn khởi, không đoàn kết và HTX không phát triển đƣợc, vì vậy phải ra

sức cải tiến việc quản lý HTX. Từ đó yêu cầu đối với cán bộ quản lý HTX phải

thật sự dân chủ, thật công khai, một lòng, một dạ phục vụ lợi ích của xã viên và

HTX.

Ba là: Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi

Nguyên tắc này xác định rõ HTX là tổ chức kinh tế tự chủ, tự quyết định

phƣơng hƣớng, mục tiêu HTX và chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả hoạt

động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của mình; tự quyết việc phân phối và thu

nhập trong HTX, đặc biệt HTX và xã viên cùng có lợi. Việc quan tâm đến lợi

ích của các thành viên rất quan trọng, vì đây là động lực trực tiếp thúc đẩy họ tự

nguyên tham gia vào HTX.

Lênin cũng luôn quan tâm đến việc tôn trọng lợi ích của HTX. Ngƣời căn

dặn không đƣợc xoá bỏ quyền sở hữu tƣ nhân về vật phẩm tiêu dùng và TLSX

của nông dân.

Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh mục đích, lợi ích thiết thực mà tổ chức HTX

phải đạt đƣợc. Ngƣời cho rằng “cần phải nêu cao tính hơn hẳn của HTX bằng kết

quả thiết thực là làm cho thu nhập của xã viên đƣợc tăng thêm, làm cho xã viên

sau khi vào HTX thu hoạch nhiều hơn hẳn khi ở ngoài. Nhƣ thế thì xã viên sẽ phấn

khởi, sẽ gắn bó chặt chẽ với HTX của mình. Đó là phƣơng pháp tuyên truyền

thuyết phục tốt nhất để khuyến khích nông dân vào HTX” [35, tr.530].

32

Bốn là: Nguyên tắc chia lãi đảm bảo kết hợp lợi ích của xã viên và sự

phát triển của HTX.

Đây là nguyên tắc mới đối với HTX Việt Nam, song nó là một nguyên

tắc quan trọng thể hiện tính chất khắc biệt giữa HTX với CTCP mà toàn thế

giới không nƣớc nào không đề cập đến trong luật HTX.

Nguyên tắc này nhằm xác định rõ việc phân bổ lợi nhuận trong HTX là

khuyến khích cho việc phát triển HTX và xây dựng cộng đồng mà không lấy

việc phân chia lãi theo vốn cổ phần là chủ yếu (trong khi đó CTCP lại coi trọng

việc chia lãi theo vốn cổ phần). Các HTX sau khi làm xong nghĩa vụ nộp thuế,

lãi đƣợc trích một phần vào quỹ của HTX, một phần chia theo vốn và công sức

đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch

vụ của HTX do Đại hội xã viên quyết định.

Năm là: Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng

Nguyên tắc này xác định trách nhiệm của mỗi xã viên HTX phải phát huy

tinh thần tập thể, đoàn kết, không ngừng nâng cao ý thức hợp tác với nhau trong

HTX và trong cộng đồng nhằm mục tiêu xây dựng HTX lớn mạnh. Đồng thời

nguyên tắc này cũng đòi hỏi các HTX phải hợp tác với nhau cả phạm vi trong

nƣớc và quốc tế. Có thể nói nguyên tắc này đã dung nạp hai nguyên tắc 6 và 7

của ICA.

Trên đây là 5 nguyên tắc quan trọng nhất có mối quan hệ tác động qua lại

với nhau, làm nền tảng cho các HTX thuộc các ngành kinh tế tổ chức hoạt

động. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động của HTX, nhất là trong điều kiện cụ

thể của mỗi ngành kinh tế có những đặc điểm riêng, cần vận dụng để thực hiện

bằng các nội dung phù hợp.

33

1.3 Kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể ở một số nƣớc trên thế

giới và một số tỉnh ở nƣớc ta

1.3.1 Phát triển kinh tế HTX một số nước

- Hà Lan: Hợp tác xã nông nghiệp ở đây đã có từ hơn 100 năm và nay

đã trở thành một hệ thống rộng rãi trong cả nƣớc. Trên cơ sở các nông trại, ở

nƣớc này hình thành phổ biến là các hợp tác xã chuyên ngành theo từng sản

phẩm nông nghiệp với mục đích hoàn toàn vì kinh tế. Phần đông các hộ nông

dân tham gia vào 2, 3 hoặc 4 hợp tác xã khác nhau. Các hợp tác xã đã bảo đảm

phần lớn hàng hóa nông sản cho thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu.

Hệ thống hợp tác xã ở đây có mục đích đảm bảo các dịch vụ cho các

nông trại, do đó bao gồm các loại nhƣ sau: hợp tác xã tín dụng đã bảo đảm 90%

hoạt động tài chính của các nông trại; hợp tác xã cung ứng, cung cấp 50% phân

hóa học và 50% thức ăn gia súc; hợp tác xã chế biến nông sản, nhƣ 22 hợp tác

xã chế biến sữa cung cấp 62% lƣợng sữa cho thị trƣờng; hợp tác xã tiêu thụ (rau

quả, hoa...).

Ngày nay hệ thống hợp tác xã ở Hà Lan vẫn phát triển có hiệu quả vì lợi

ích của các thành viên. Các nƣớc Châu Âu cũng hình thành hệ thống hợp tác xã

theo các nhu cầu tƣơng tự.

- Mỹ: Là một trong những nƣớc tƣ bản phát triển giàu kinh nghiệm về

hợp tác xã, ngay từ những năm hai mƣơi, theo quy định của các Bang thì hợp

tác xã có thể do các chủ nông trại thành lập để cùng hoạt động buôn bán hoặc

tiêu thụ sản phẩm của họ. Các hợp tác xã tồn tại trong sự cạnh tranh gay gắt, họ

liên kết để chống lại các nhà độc quyền ruộng đất và tƣ bản công thƣơng trên

các lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, buôn bán tƣ liệu sản xuất.

Hệ thống hợp tác xã ở Mỹ đƣợc hình thành trên cơ sở tự nguyện của

những chủ nông trại góp cổ phần và đƣợc chia làm 3 loại: hợp tác xã chuyên

đảm bảo các dịch vụ cho sản xuất, hợp tác xã cung ứng, hợp tác xã tiêu thụ.

34

Nhiều hợp tác xã đƣợc chuyên môn hóa cao theo ngành nhƣ: ngũ cốc, sữa, rau

quả, bông.

Mặc dù có sự phân công chuyên môn hóa cao giữa các hợp tác xã, nhƣng

phần lớn các hợp tác xã đều kết hợp các loại hoạt động khác nhau để nâng cao

hiệu quả và đã hình thành bốn cấp: hợp tác xã cấp cơ sở của các chủ trại, hợp tác

xã cấp khu vực, hợp tác xã cấp liên khu vực, hợp tác xã cấp toàn quốc.

Vai trò của Nhà nƣớc to lớn trong việc phát triển hợp tác xã. Năm 1914

chính phủ Mỹ thành lập Cục hợp tác xã. Cục này hoạt động bằng tài trợ của

Chính phủ liên bang và chính quyền các bang. Cục có đại diện ở tất cả các địa

phƣơng để nắm chắc các nhu cầu của nông dân. Phƣơng thức hoạt động của

Cục hợp tác xã là liên kết chặt chẽ với các nông trại, các hợp tác xã và các hiệp

hội hợp tác xã toàn quốc. Cục này còn soạn thảo ra các chƣơng trình giảng dạy

và đào tạo các nhân viên quản lý hợp tác xã.

Hợp tác xã đã có vai trò to lớn trong nền nông nghiệp hiện đại ở Mỹ.

- Nhật Bản: Phổ biến là các hợp tác xã tổng hợp, thu hút gần 100% số

nông trại tham gia.

Năm 1947 Chính phủ Nhật đã ban hành Luật hợp tác xã nông nghiệp.

Theo Luật này, các tổ chức hợp tác xã trong ngành nông nghiệp phải hoạt động

trên cơ sở tự nguyện và dân chủ.

Năm 1967 Nhật Bản thông qua chính sách cơ bản về hợp tác hóa để phát

triển nông nghiệp, phong trào hợp tác hóa toàn quốc liên kết thành một mạng

lƣới thống nhất trong các "tổ hợp nông nghiệp hợp tác". Các xã viên của hợp tác

xã chuyên ngành cũng đồng thời tham gia các hợp tác xã đa ngành. Mạng lƣới

hợp tác xã toàn quốc đƣợc hình thành ba cấp: các hợp tác xã cấp cơ sở ở xã, các

hợp tác xã cấp huyện, thành phố, các hợp tác xã ở cấp nghiệp đoàn quốc gia.

Điểm nổi bật của hợp tác xã ở Nhật Bản là các hợp tác xã cấp cơ sở địa

phƣơng cũng là hợp tác xã bậc thấp, thực hiện các chức năng đa dạng để phục

vụ cho nhu cầu toàn diện của xã viên; bên cạnh loại hình hợp tác xã bậc thấp có

35

loại hình hợp tác xã chuyên ngành và hợp tác xã đa ngành, trong đó loại hình hợp

tác xã đa ngành chiếm ƣu thế. Tổ chức hợp tác xã ở cấp quốc gia dù chuyên

ngành hay đa ngành đều có tên gọi là liên đoàn quốc gia các hợp tác xã, trong

mạng lƣới này có các liên đoàn quốc gia các hợp tác xã nông nghiệp, thị trƣờng

nông sản, mua bán vật tƣ nông nghiệp, bảo hiểm nông nghiệp, phúc lợi nông

nghiệp, chăn nuôi, sản xuất sữa, nghề làm vƣờn.

Hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản không làm nhiệm vụ chỉ đạo, quản

lý trực tiếp đất đai lao động và sản xuất của các hộ xã viên mà chỉ làm dịch vụ

cho sản xuất và sinh hoạt cho các hộ xã viên. Ngoài ra hợp tác xã còn tham gia

các hoạt động lập pháp nhƣ kiến nghị với Chính phủ có chính sách thích hợp để

phát triển kinh tế hợp tác xã của nông dân, chính sách trợ giá nông sản, giảm

thuế đối với nông dân và hợp tác xã, các chính sách để đẩy mạnh sản xuất nông

nghiệp cả nƣớc.

- Indonesia: Hiến pháp nƣớc Cộng hòa Indonesia khẳng định rằng:

"Nền kinh tế quốc dân phải đƣợc tổ chức trên nguyên tắc tƣơng trợ hợp tác".

Đây là nền tảng pháp lý cao nhất của tổ chức hợp tác xã nói chung và hợp tác

xã nông nghiệp nói riêng. Chính phủ Indonesia rất chú trọng giúp đỡ phát triển

các hợp tác xã nông nghiệp, thể hiện qua các thông tƣ của Phủ Tổng thống về

những chính sách ƣu đãi đối với hợp tác xã nông nghiệp, coi hợp tác xã nông

nghiệp là một thành phần kinh tế không thể tách rời của chƣơng trình phát triển

kinh tế toàn quốc.

Tuy nhiên cũng cần thấy rằng hợp tác xã ở Indonesia do chính quyền

chỉ đạo quá cứng nhắc làm cho hợp tác xã sinh tiêu cực và hoạt động kém hiệu

quả. (Ví dụ: tập trung sản xuất lúa gạo bán cho Nhà nƣớc theo giá quy định).

Sau khi đƣợc đổi mới (từ những năm 80), hợp tác xã nông nghiệp thực hiện các

chức năng: cung ứng vật tƣ kỹ thuật, bảo hiểm cây trồng, chế biến và buôn bán

nông sản, hoạt động tín dụng. Từ đó kết hợp với ƣu đãi về chính sách, hợp tác

xã nông nghiệp ở Indonesia đã có bƣớc phát triển nhanh và phát huy hiệu quả.

36

- Trung Quốc: Cách mạng Trung Quốc thành công năm 1949, liền sau

đó thực hiện cải cách ruộng đất, trong nông thôn phát triển các hình thức hợp

tác giản đơn: đổi công tƣơng trợ, hợp tác xã bậc thấp về sản xuất, tiêu thụ và tín

dụng. Sau đó do tƣ tƣởng tả khuynh, phong trào hợp tác hóa diễn ra rất nhanh;

từ năm 1955 - 1959 đã có 87% hộ nông dân vào hợp tác xã. Khi đã thành cao

trào phổ biến là hợp tác xã bậc cao (công xã nhân dân) thì lúc đó kinh tế tập thể

là bao trùm về mặt sản xuất, công xã tổ chức nhƣ hệ thống quân sự: đội, đại đội,

trung đoàn, công xã. Mô hình này thực hiện tập thể hóa cao độ, xóa bỏ quan hệ

hàng hóa - tiền tệ. Hậu quả là khủng hoảng trầm trọng, nông nghiệp lâm vào

tình trạng nguy khốn.

Đến năm 1978 Trung Quốc thực hiện cải cách nông nghiệp, nông thôn

mà trọng tâm là đổi mới các hình thức tổ chức kinh tế, bắt đầu từ hình thức:

"Hợp đồng trách nhiệm" có thƣởng phạt, tiếp theo nảy sinh các hình thức khoán

khác nhau trong đó có khoán hộ và đến năm 1981 hình thức khoán đƣợc áp

dụng rộng rãi. Cũng từ năm 1978 Trung Quốc giải thể các công xã, giao khoán

dài hạn cho 150 triệu hộ nông dân, tổ chức sản xuất theo hộ gia đình và hình

thành các hình thức liên kết kinh tế tự nguyện mới, các hình thức hợp tác xã

phục vụ hộ nông dân.

Hiện nay trong nông thôn Trung Quốc đã phát triển các hình thức hộ

chuyên thuộc các lĩnh vực khác nhau, ra đời các trang trại và đang hình thành các

hợp tác xã tự nguyện đúng với bản chất và nội dung kinh tế của nó.

Từ kinh nghiệm một số nước trên giới có thể rút ra một số nhận xét về

kinh tế hợp tác và các hình thức hợp tác xã như sau:

- Thứ nhất: Cơ sở hình thành và phát triển kinh tế hợp tác xã là kinh tế

hộ nông dân. Phát triển đa dạng các hình thức HTX.

- Thứ hai: Hợp tác xã đã ra đời, tồn tại, phát triển và ngày càng hoàn

thiện trong hàng trăm năm qua ở nhiều nƣớc trên thế giới đã xuất phát từ yêu

cầu sản xuất hàng hóa, từ nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống quần chúng

37

nhân dân. Hợp tác xã là hình thức tổ chức và biện pháp nhằm thúc đẩy sản xuất

phát triển, hợp tác xã là một trong trong những hình thức để xã hội hóa sản xuất.

- Thứ ba: Hợp tác xã không thể là một sự áp đặt duy ý chí từ trên xuống

mà là sự tự nguyện của ngƣời dân khi nảy sinh nhu cầu kinh tế khách quan

trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh. Phải nâng cao nhận thức và hiểu

biết của mọi ngƣời về HTX, đối với ngƣời dân ngay khi còn ngồi trên ghế trong

trƣờng phổ thông đã đƣợc học qua trƣơng trình về HTX, điều lệ HTX để họ tự

lựa chọn và quyết định.

- Thứ tƣ: Do những đặc thù của sản xuất nông nghiệp mà hợp tác xã

trong nông nghiệp, về cơ bản hầu nhƣ không có hợp tác xã sản xuất (làm ăn tập

thể) mà là các hợp tác xã làm chức năng dịch vụ phục vụ cho sản xuất, còn việc

trực tiếp sản xuất là các hộ tự chủ.

- Thứ năm: Trên thực tế đã tồn tại rất đa dạng các loại hình hợp tác xã

với những quy mô rất khác nhau, tất cả đều tùy thuộc vào trình độ phát triển của

lực lƣợng sản xuất và vào điều kiện cụ thể của từng nơi. Mỗi nông hộ có thể

tham gia nhiều hợp tác xã.

- Thứ sáu: Về cơ bản, các hợp tác xã đƣợc hình thành không phải trên

cơ sở tập thể hóa mà theo con đƣờng góp vốn và phân chia lợi ích. Nó không

đụng chạm đến quyền sở hữu của từng hộ gia đình (nông trại) nhƣng lại tạo

điều kiện tăng thêm năng lực sản xuất, lợi ích của từng hộ. Chính điều này làm

cho ngƣời nông dân dễ dàng chấp nhận tự nguyện tham gia.

-Thứ bảy: Các hợp tác xã thƣờng liên kết với nhau thành lập các Hiệp

hội ở từng địa phƣơng và ở trong cả nƣớc. Nhà nƣớc tác động, kiểm tra, kiểm

soát các hợp tác xã theo quy định chung của pháp luật. Nhà nƣớc không can

thiệp vào các hoạt động kinh doanh của các hợp tác xã. Các Liên hiệp hợp tác

xã ở cấp toàn quốc có quyền thay mặt xã viên hợp tác xã ngành mình để tham

gia với Nhà nƣớc trong việc nghiên cứu và ban hành các chính sách bảo vệ

quyền lợi của các nông trại và các hợp tác xã.

38

1.3.2 Phát triển kinh tế HTX một số tỉnh ở nước ta

Phát triển HTX ở tỉnh Vĩnh Phúc

Phong trào HTX ở tỉnh Vĩnh Phúc xuất hiện khá sớm cùng với sự phát

triển HTX của Việt Nam. Tính đến ngày 31/12/2007 trên địa bàn của tỉnh có

424 HTX, trong đó có 308 HTX nông nghiệp (chiếm 72% trong tổng số) và 116

HTX phi nông nghiệp (chiếm 28%) với tổng số vốn hoạt động trên 200 tỷ đồng

(Bình quân mỗi HTX : 500 triệu đồng).

Nếu nhƣ trƣớc đây các HTX hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông

nghiệp, làm một số khâu dịch vụ thuần túy nhƣ : dịch vụ giống cây trồng, bảo

vệ thực vật, thủy lợi, tiêu thụ…thì ngày nay, nhiều HTX đã thích nghi dần với

cơ chế thị trƣờng, đi sâu vào việc xây dựng, phát triển các loại hình HTX làm ăn

có hiệu quả, giải quyết đƣợc nhiều lao động cho địa phƣơng, góp phần xóa đói

giảm nghèo khu vực nông thôn nhƣ : HTX vận tải Hoàng Việt (Vĩnh Yên); HTX

chăn nuôi bò lai sinh sản Vân Xuân (Vĩnh Tƣờng); HTX dịch vụ nông nghiệp

Tích Sơn ( Vĩnh Yên) kết hợp với HTX nông nghiệp Vĩnh Sơn (Vĩnh Tƣờng) và

HTX nông nghiệp Nội Đồng (Mê Linh) sản xuất rau an toàn Sông Phan; HTX

dịch vụ nông nghiệp Hội Hợp (Vĩnh Yên) sản xuất ngô, lúa giống chất lƣợng

cao; HTX Hợp Hòa, Đạo Tú (Tam Dƣơng) sản xuất dƣa chuột bao tử…

Bên cạnh đó các quỹ tín dụng nhân dân phát triển rất nhanh, hiện nay

toàn tỉnh có 32 quỹ với 30.007 thành viên; tăng 16,9%; nguồn vốn hoạt động

đạt 141 tỷ đồng, tăng 14,6%; tổng dƣ nợ cho vay đạt 178 tỷ đồng, tăng 25,4%

so với năm 2003. Hầu hết các quỹ kinh doanh đều có lãi, một số quỹ có mức lãi

cao nhƣ : Quỹ TDND thị trấn Yên Lạc, Thổ Tang (Vĩnh Tƣờng), Bình Dƣơng

(Vĩnh Tƣờng), Hƣơng Canh (Bình Xuyên)…

Có thể nói kinh tế HTX của Vĩnh Phúc trong những năm qua đã góp

phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, nhiều mô hình HTX

hoạt động có hiệu quả đã giúp cho kinh tế hộ phát triển, thúc đẩy mối liên kết,

39

hợp tác giữa các cơ sở sản xuất nhỏ với nhau.

Sự phát triển kinh tế HTX ở Vĩnh Phúc có một số mặt ƣu, nhƣợc điểm

nhƣ sau :

+ Về ưu điểm :

Đa số cán bộ, Đảng viên và nhân dân đã nhận thức đúng đắn và tin tƣởng

vào chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách của Chính phủ về phát triển

HTX. Sự tác động tích cực của Nghị quyết TW5 khóa IX của BCH TW Đảng

về kinh tế tập thể, của Luật HTX, sự chỉ đạo của các cấp chính quyền.

Các HTX đã nỗ lực phân đấu vƣơn lên, nhanh chóng thích nghi với cơ

chế thị trƣờng, không ỷ lại.

Hoạt động hỗ trợ, tƣ vấn giúp đỡ phát triển do Liên minh HTX các cấp

đa dạng.

+ Về nhược điểm :

Quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết từ chỉ đạo, điều hành đến tổ chức

thực hiện đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể ở địa phƣơng

chƣa có sự đột phá.

Chất lƣợng hoạt động của các HTX còn nhiều hạn chế, yếu kém, chƣa

thực sự nhanh nhạy trong việc đáp ứng các nhu cầu đa dạng của thị trƣờng.

Vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, công nợ tồn đọng, trình độ cán

bộ quản lý chƣa cao. Sản xuất kinh doanh và quản lý đa số còn theo kinh

nghiệm là chính.

Sự hỗ trợ của các cấp ủy đảng, chính quyền và Liên minh HTX còn chậm.

Phát triển HTX ở tỉnh Bắc Cạn

Mặc dù đóng góp cho ngân sách tỉnh chƣa nhiều nhƣng phát triển kinh tế

tập thể mà nòng cốt là các HTX thời gian qua đã có những bƣớc chuyển biến

tích cực góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội ở địa phƣơng.

Hoạt động của các HTX đã thu hút đƣợc gần 1000 xã viên lao động trực tiếp và

hàng ngàn lao động gián tiếp.

40

Năm 2003, cả tỉnh mới có 27 HTX thì nay con số này đã lên tới 98 HTX

với tổng vốn điều lệ là 6,3 tỷ đồng. Trong đó có 50 HTX hoạt động trong lĩnh

vực quản lý điện nông thôn, 29 HTX tiểu thủ công nghiệp, 15 HTX sản xuất

nông, lâm nghiệp. Nhìn chung các HTX hoạt động tƣơng đối ổn định, tổ chức

các dịch vụ hỗ trợ xã viên,tập trung sản xuất, liên kết, hợp tác giữa những ngƣời

lao động và các đơn vị. Các HTX nông, lâm nghiệp đóng vai trò quan trọng

trong việc tiếp thu, hƣớng dẫn, chuyển giao công nghệ sản xuất vật nuôi, cây

trồng, một số HTX năng động còn cung cấp nƣớc sạch, nuôi trồng thủy sản, chế

biến gỗ, vệ sinh môi trƣờng, khai thác khoáng sản…

Theo đánh giá hiện nay, toàn tỉnh có 10 HTX điển hình trên các lĩnh vực

nhƣ HTX điện Ngân Sơn, HTX môi trƣờng Chợ Đồn, HTX khai thác đá Hoàng

Long…tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều lao động.

Tuy nhiên kinh tế HTX của Bắc Cạn nhìn chung còn yếu kém so với các

địa phƣơng khác; quy mô các HTX nhỏ, vốn ít, ý thức tham gia HTX của ngƣời

dân hạn chế, các mặt hàng sản xuất chƣa có năng lực cạnh tranh cao. Để thúc

đẩy phát triển mô hình HTX trên địa bàn này đòi hỏi phải có sự quan tâm hơn

nữa của các cấp chính quyền và Liên Minh HTX Việt Nam.

Phát triển HTX ở tỉnh Ninh Bình

Tính đến 31/12/2007 tỉnh Ninh Bình có 364 hợp tác xã, tăng 18,2% so

với năm 2002, với 209.661 xã viên, bình quân 567 xã viên/HTX; trong đó có

258 hợp tác xã nông nghiệp (chiếm 70,9%), 81 hợp tác xã phi nông nghiệp

(chiếm 22,2%), 25 quỹ tín dụng nhân dân (chiếm 6,9%). Có 267 hợp tác xã kiểu

cũ chuyển đổi theo Luật hợp tác xã 2003, 96 hợp tác xã thành lập mới và 1 hợp

tác xã chƣa thực hiện chuyển đổi.

Một trong những kết quả rõ nét nhất của kinh tế hợp tác xã tỉnh Ninh

Bình là hoạt động tƣơng đối tốt, tăng trƣởng nhanh, thể hiện đƣợc bản chất, vai

trò đối với xã viên và xã hội. Công tác quản lý và tổ chức các dịch vụ ở nhiều

hợp tác xã ngày càng đƣợc nâng cao về chất lƣợng và hiệu quả, không chỉ ở các

41

hợp tác xã nông nghiệp mà còn ở các loại hình hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp,

thƣơng mại…Nhiều hợp tác xã đã nắm bắt tốt các cơ hội kinh doanh trong cơ

chế thị trƣờng, tích lũy vốn, tái đầu tƣ sản xuất mở rộng, tạo việc làm và thu

nhập ổn định cho xã viên nhƣ hợp tác xã chế biến cói Đại Đồng (Kim Sơn), hợp

tác xã cơ khí Tiến Lực (thành phố Ninh Bình), hợp tác xã gốm sứ Long Thịnh

(Nho Quan).

Toàn tỉnh đã có 48 chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hợp tác xã có trình độ đại

học, cao đẳng. Cán bộ kiểm soát có 7 ngƣời có trình độ đại học, kế toán có 9

ngƣời, xã viên có 12 ngƣời. Hầu hết còn lại đều có trình độ chuyên môn đáp

ứng yêu cầu công việc.

Tuy nhiên, kinh tế hợp tác xã của tỉnh vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, hạn

chế, biểu hiện ở sự phát triển còn chậm, hoạt động không ổn định, mất cân đối

giữa các ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền. Nhiều hợp tác xã còn lúng túng, bị

động trong tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính, công nghệ

sản xuất và cạnh tranh yếu kém cần phải có sự hỗ trợ từ các cấp, các ngành và

cơ quan chủ quản.

Từ tình hình phát triển kinh tế HTX ở một số tỉnh nói trên có thể thấy:

+ Việc thay đổi quan niệm, nhìn nhận của xã hội về loại hình kinh tế

HTX theo cơ chế thị trƣờng là điều không đơn giản, không chỉ một sớm một

chiều mà phải bằng các hành động cụ thể.

+ Sức cạnh tranh của các HTX còn thấp, gặp nhiều thách thức trƣớc sự

cạnh tranh gay gắt trên các thị trƣờng trong và ngoài nƣớc, nhất là trong việc

huy động vốn, tiêu thụ sản phẩm.

+ Đa số các HTX quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ nghèo nàn, lạc hậu trình

độ quản lý kém nên ở vào thế yếu trong một sân chơi bình đẳng.

42

Chƣơng 2

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ Ở BẮC GIANG

2.1. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế

tập thể ở Bắc Giang

2.1.1 Những điều kiện thuận lợi

Việc tiếp tục đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang

có những điều kiện thuận lợi sau đây:

Một là: Bắc Giang là tỉnh gần với trung tâm kinh tế lớn, gần Thủ đô Hà

Nội, nằm cạnh vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng

Ninh), có địa giới hành chính giáp với các tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thái

Nguyên, Hải Dƣơng, Bắc Ninh...thuận tiện cho việc phát triển kinh tế – xã hội

nói chung và kinh tế tập thể nói riêng nhất là thƣơng mại, dịch vụ tạo điều kiện

cho các loại hình HTX thƣơng mại, dịch vụ phát triển.

Bắc Giang có nguồn tài nguyên phong phú, là điều kiện thuận lợi để phát

triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi và đa dạng hoá ngành nghề. Diện tích đất

nông nghiệp, lâm nghiệp, điều kiện khí hậu, tự nhiên thuận lợi cho quá trình sản

xuất theo hƣớng hàng hoá. Có nguồn lao động dồi dào. Ngƣời dân có truyền

thống lao động cần cù, có ý thức thoát nghèo, vƣơn lên làm giàu. Bắc Giang có

hệ thống đƣờng Quốc lộ 1, đƣờng sắt Bắc Nam kéo dài đến cửa khẩu Quốc tế

Tân Thanh, Hữu Nghị Quan (Lạng sơn), hệ thống đƣờng thuỷ khá thuận lợi...

Những lợi thế đó là điều kiện cho quá trình giao lƣu kinh tế, học hỏi kinh

nghiệm, khai thác hiệu quả tiềm năng trong tỉnh cũng nhƣ từ bên ngoài.

Trong những năm vừa qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh

đã đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế xã hội trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực

của đời sống kinh tế nhƣ tăng cƣờng thu hút vốn đầu tƣ, tích cực chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý, sản xuất,

43

phát triển giáo dục đào tạo... trên cơ sở đó khai thác các lợi thế về: Vị trí địa lý,

tài nguyên, khoáng sản tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển.

Hai là: Trong những năm gần đây số lƣợng doanh nghiệp ngày càng

tăng, môi trƣờng kinh tế ngày càng đƣợc cải thiện theo hƣớng cạnh tranh lành

mạnh là điều kiện để kinh tế hộ, tiểu chủ phát triển và liên kết tạo cơ sở cho

kinh tế hợp tác, HTX hình thành, phát triển.

Thu hút đầu tƣ trên địa bàn tỉnh tăng mạnh, huy động có hiệu quả các

nguồn lực cho phát triển. Tổng vốn đầu tƣ phát triển toàn xã hội năm 2006-

2007 thực hiện đạt 11.000 tỷ đồng, tăng 10% so với kế hoạch. Đã thu hút đƣợc

30 dự án đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài với vốn đăng ký đạt 216 triệu USD, nâng

tổng số dự án đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài lên 57 dự án, với số vốn đăng ký gần

266 triệu USD. Thu hút 378 dự án đầu tƣ trong nƣớc, với tổng số vốn đăng ký

hơn 18.850 tỷ đồng, tăng 2 lần so với giai đoạn 2001-2005. Đồng thời, có 17 dự

án ODA đang đƣợc triển khai thực hiện, với tổng số vốn 611 tỷ đồng; 82 dự án

sử dụng viện trợ phi chính phủ nƣớc ngoài (NGOs), với giá trị cam kết 8,7 triệu

USD. Nhiều dự án đầu tƣ trong nƣớc và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài sau thời

gian đầu tƣ đã đi vào hoạt động có hiệu quả, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tƣ

chiều sâu.

Số lƣợng doanh nghiệp tăng khá, khuyến khích các thành phần kinh tế

phát triển. Toàn tỉnh có thêm 745 doanh nghiệp, chi nhánh văn phòng đại diện

thành lập mới, nâng tổng số doanh nghiệp, chi nhánh văn phòng đại diện trên

địa bàn tỉnh lên 1.754 đơn vị với số vốn đăng ký 3.107 tỷ đồng, bình quân vốn

đạt khoảng 1,77 tỷ đồng/đơn vị (tính thêm nhà máy Nhiệt điện Sơn động là

1.755 đơn vị, tổng số vốn đăng ký 6.807 tỷ đồng, bình quân vốn đạt trên 3,83 tỷ

đồng/đơn vị) và phân bố đa dạng các loại ngành nghề. Có 65% doanh nghiệp

kinh doanh có lãi.

Ba là: Cùng với cac địa phƣơng khác, HTX ở Bắc Giang có lịch sử hình

thành từ rất sớm, tồn tại qua những bƣớc thăng trầm trong cơ chế tập trung bao

44

cấp, có điều kiện, kinh nghiệm phát triển trong quá trình đổi mới. Đây là tiền đề

thuận lợi để kinh tế tập thể phát triển trong những năm tiếp theo.

Ngay từ những năm 1954 -1960, Bắc Giang đã có gần 90% hộ nông dân

của tỉnh đi vào làm ăn tập thể. Thời kỳ này hình thức phổ biến là HTX bậc

nhấp, quy mô, ruộng đất, trâu bò...còn thuộc sở hữu từng hộ nông dân nhƣng do

HTX thống nhất quản lý. Đến 1965, toàn tỉnh đã hoàn thành hợp tác hoá bậc

thấp. Phong trào này đã làm cho nền kinh tế toàn tỉnh trở nên thuần nhất với hai

hình thức sở hữu cơ bản là toàn dân và tập thể.

Giai đoạn 1965-1975, toàn tỉnh đã thực hiện các cuộc cải tiến HTX và

xây dựng mô hình HTX bậc cao. Năm 1965, có khoảng trên 90% hộ nông dân

vào HTX (gần 80% là HTX bậc cao). Chế độ 3 quản đƣợc cải tiến, nhiều HTX

đã đẩy mạnh việc xây dựng thuỷ lợi, trang bị máy đập lúa, xát gạo, nghiền thức

ăn gia súc... Nhìn chung, cơ chế quản lý sản xuất và điều hành lao động theo kế

hoạch tập trung của các HTX thời kỳ này rất phù hợp với đặc điểm và yêu cầu

của chiến tranh nên khuyết tật của mô hình hợp tác hoá, tập thể hoá bị che lấp,

không bộc lộ rõ. Từ 1976 trở đi, Bắc Giang tiếp tục củng cố các HTX theo

hƣớng mở rộng quy mô HTX lên toàn xã, liên xã. Tuy nhiên việc mở rộng quy

mô đã không làm tăng hiệu quả hoạt động của các HTX. Giai đoạn 1986-1996:

thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan

liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế

thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc theo định hƣớng XHCN. Trong cơ chế

mới, mô hình và cách tổ chức của HTX cũ không còn phù hợp, nhiều HTX

chậm đổi mới, hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ nên đã tan rã, giải thể

hàng loạt hoặc còn tồn tại chỉ là hình thức. Tính đến 1996, số HTX đã giảm 830

đơn vị so với 10 năm trƣớc. Chỉ trong thời gian từ 1993 đến 1997 có 573 HTX

(chiếm 80% số HTX so với đầu năm 1993) đã giải thể, bàn giao cơ sở vật chất

kỹ thuật của HTX cho chính quyền xã hoặc thôn, bản quản lý.

Bên cạnh đó cũng có một số HTX có điều kiện, còn vốn quỹ, cán bộ năng

45

động, sáng tạo đã bƣớc đầu thích ứng với cơ chế mới. Hoạt động của các HTX

đã góp phần phát triển kinh tế hộ, giải quyết công ăn việc làm cho xã viên. Nhiều

Hợp tác xã đã khoán hoặc đấu thầu những tƣ liệu sản xuất và những tài sản tập

thể lâu nay sử dụng kém hiệu quả cho các hộ xã viên, đồng thời chuyển sang hoạt

động ở những khâu cần phải có sự liên kết, hợp tác mới có hiệu quả. Nhiều hộ xã

viên có đủ vốn đã nhận thầu với tƣ cách là những đơn vị kinh tế tự chủ nhƣng

vẫn gắn bó với HTX bởi những cơ sở vật chất chung đã đƣợc xây dựng nhƣ giao

thông, thuỷ lợi, điện...Sự phát triển của các hình thức trên có ý nghĩa rất lớn đối

với việc tạo ra một phƣơng thức làm ăn tiến bộ. Nó đã giải quyết đƣợc một mẫu

thuẫn trong phát triển kinh tế là việc tập thể hoá mọi tƣ liệu sản xuất của các

HTX không mang lại hiệu quả, nhƣng việc tách riêng các hộ sản xuất cũng tạo ra

tình trạng lúng túng trong sản xuất kinh doanh của các hộ. Việc tách hộ gắn ngay

với những hình thức liên kết hợp tác mới trên cơ sở tôn trọng tính tự chủ của các

hộ, gắn với cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng do nhà nƣớc đầu tƣ, đã tạo nên một

bƣớc phát triển sản xuất theo hƣớng kinh tế hàng hoá.

Bốn là: Đảng bộ và chính chính quyền không ngừng và sớm quan tâm

lãnh đạo tổ chức thực hiện đổi mới kinh tế hợp tác, HTX theo tinh thần Chỉ thị

số 68 – CT/TW của Ban Bí thƣ Trung ƣơng và Luật HTX. Ngay từ năm 1996,

Tỉnh uỷ Hà Bắc đã có Nghị quyết số 03 về phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác

xã; khi thực hiện chia tách tỉnh năm 1997, Tỉnh uỷ Bắc Giang cũng sớm có

Nghị quyết số 02 – NQ/TU về phát triển HTX đến năm 2010. Sự chỉ đạo nói

trên là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức thực hiện quá trình

chuyển đổi, đổi mới và phát triển HTX theo luật.

Năm là: Liên Minh HTX tỉnh Bắc Giang ngày càng phát huy vai trò là tổ

chức kinh tế - xã hội có chức năng đại diện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp

pháp cho HTX, tƣ vấn, cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ các HTX, tham gia xây

dựng chính sách, pháp luật về HTX, tuyên truyền, vận động, hƣớng dẫn các

hình thức kinh tế hợp tác, hợp tác xã hoạt động.

46

Luật Hợp tác xã và Điều lệ Liên minh HTX Việt Nam tại Điểm 2, Điều 3

quy định chức năng, nhiệm vụ của Liên Minh HTX. Những năm gần đây, Liên

minh HTX Bắc Giang đã thực hiện tốt chức năng ấy và đã đạt đƣợc kết quả

đáng khích lệ thể hiện trên các mặt:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động phát triển kinh tế tập thể,

phong trào kinh tế hợp tác, HTX; tích cực vận động các đơn vị tham gia là

thành viên của Liên Minh, kết quả trong 5 năm gần đây đã kết nạp 186 thành

viên, đƣa tổng số thành viên lên 350 đơn vị. Đã thực hiện đƣợc chức năng đại

diện, hỗ trợ các HTX, kịp thời phát hiện những khó khăn, vƣớng mắc, đề xuất

với chính quyền nhà nƣớc những chủ trƣơng, chính sách để giải quyết.

- Hƣớng dẫn thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh cho các HTX theo

Luật, hƣớng dẫn các thành viên hại hội xã viên, xây dựng điều lệ HTX theo quy

định tại Nghị định 77/2005/NĐ-CP ngày 9/6/2005, đánh giá, phân loại HTX

theo thông tƣ, nghị định của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hợp

tác, hợp tác xã phát triển.

- Hoạt động tƣ vấn và hỗ trợ cho các thành viên trong hoạt động sản xuất

kinh doanh, dịch vụ đƣợc Liên minh nỗ lực khai thác các nguồn lực thông qua

các chƣơng trình, dự án... nhằm hỗ trợ thành viên trong nhiều lĩnh vực, góp

phần quan trọng nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Về công tác đào tạo: Trên cơ sở nắm chắc số lƣợng, lĩnh vực hoạt động

của HTX, đối tƣợng cần đào tạo, tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ,

trong 5 năm qua, Liên minh đã tổ chức tập huấn cho 1.579 học viên là chủ

nhiệm, kế toán trƣởng, trƣởng kiểm soát, thành viên ban quản trị (bình quân tập

huấn cho 316 học viên/năm).

Về công tác hỗ trợ đầu tƣ nâng cao năng lực hoạt động: Từ 2004, Liên

minh đƣợc giao quản lý 30% nguồn vốn khuyến công và đã triển khai có hiệu

quả, với số vốn 1.920 triệu đồng, đầu tƣ 100 dự án (trong đó có 64 dự án với

1279 triệu đồng mua máy móc thiết bị, tăng năng lực sản xuất và 36 dự án với

47

614 triệu đồng giúp các đơn vị đào tạo nghề, khôi phục làng nghề truyền thống.

Hỗ trợ tín dụng, hoạt động thông tin, xúc tiến thƣơng mại cho các HTX. Trong

5 năm qua, Liên minh đã giúp thành viên đƣợc vay vốn với tổng số tiền gần 8 tỷ

đồng, giải quyết việc làm cho 500 lao động.

2.1.2. Những điều kiện khó khăn

Mặc dù có những tiềm năng, thuận lợi, song Bắc Giang cũng gặp không

ít khó khăn, thách thức tác động đến quá trình đổi mới, phát triển và nâng cao

hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể, thể hiện:

Thứ nhất: cơ sở vật chất kỹ thuật của các HTX còn thấp kém, lao động

thủ công là phổ biến, năng xuất, chất lƣợng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh

còn thấp, giá thành sản phẩm cao, sức cạnh tranh còn yếu, kinh tế hàng hoá phát

triển chƣa đồng đều, việc gia nhập thị trƣờng trong và ngoài nƣớc gặp nhiều

khó khăn, ngành nghề truyền thống chƣa đƣợc khai thác, sử dụng; nghề nông

vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn nên giá trị hàng hoá sản xuất ra chƣa cao.

Thư hai: Kinh tế tập thể đòi hỏi dùng chung tƣ liệu sản xuất (chứ không

nhất thiết phải sở hữu tập thể) song ruộng đất lại chia manh mún, công cụ sản

xuất lạc hậu nên khó khăn trong tổ chức hợp tác. Với ruộng đất nhỏ lẻ khó tổ

chức sản xuất theo hƣớng hàng hoá, trong khi đó sản xuất hàng hoá là điều kiện

để phát triển kinh tế HTX.

Thư ba: Kinh tế tập thể đòi hỏi phải có chỉ huy, quản lý, kiểm soát, kế

toán nhƣng trình độ dân trí thấp, khó lựa chọn cán bộ, mà con ngƣời là nhân tố

quyết định nhiều mặt đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của HTX.

Thứ tư: Kinh tế tập thể đòi hỏi các dịch vụ nhƣng hoạt động dịch vụ kém

nhƣ giao thông vận tải, tín dụng, thƣơng mại...mặt khác có sự cạnh tranh gay

gắt từ các chủ thể kinh tế, thành phần kinh tế khác.

Thư năm: Tuy có nhiều cố gắng trong hoạt động nhằm thực hiện Luật

HTX, các Nghị quyết chỉ thị của Đảng và Nhà nƣớc để đẩy mạnh phát triển

48

kinh tế tập thể và đã đạt đƣợc những kết quả bƣớc đầu song trong quá trình hoạt

động, Liên minh HTX tỉnh còn gặp những khó khăn nhƣ sau:

Kinh tế tập thể HTX trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập

trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trƣờng đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với

công tác quản lý nhà nƣớc, những hệ thống tổ chức quản lý HTX chƣa đƣợc

củng cố, hoàn thiện để phối hợp với Liên minh HTX hoạt động.Theo luật thì

HTX ra đời thực sự từ nhu cầu, tự tổ chức ra cơ quan đại diện và bảo vệ lợi ích

hợp pháp của mình, song hiện nay ở Bắc Giang chỉ có trên 40% số HTX là

thành viên của Liên Minh HTX tỉnh.

Các cơ chế chính sách hỗ trợ khu vực kinh tế hợp tác, HTX tuy đã đƣợc

ban hành nhƣng thiếu đồng bộ, một số chính sách thiếu tính khả thi, lại không

đƣợc các cấp các ngành triển khai một cách có hiệu quả, không nghiêm túc,

không có kiểm tra đôn đốc, ví dụ nhƣ: chính sách thuỷ nông, đất đai, đào tạo

cán bộ, thực hiện bảo hiểm xã hội cho xã viên, ngƣời lao động...

Hệ thống công cụ hỗ trợ của Liên minh HTX tỉnh còn thiếu và chƣa đáp

ứng đƣợc nhu cầu của các thành viên, nhất là các hoạt động về tiêu thụ sản

phẩm, đầu ra cho sản phẩm, nguồn vốn vay, các đơn vị thành viên đa số đều

thiếu vốn, nhƣng hầu hết các HTX này đều không đủ điều kiện về thế chấp theo

luật định.

Bộ máy quản lý kinh tế HTX còn chồng chéo giữa sở kế hoạch đầu tƣ,

sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Liên minh HTX tỉnh, thực tế này xảy

ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Thừa bởi: Đồng thời cùng cấp có 3 cơ quan

quản lý, thiếu bởi cả ba cơ quan trên lực lƣợng mỏng, không đủ năng lực để

quản lý, hỗ trợ để kinh tế HTX phát triển. Trong khi đó Liên minh HTX là cơ

quan chính thì số ngƣời ít, chỉ có 9 cán bộ, chuyên viên biên chế, điều kiện cơ

sở vật chất tuy đƣợc quan tâm nhƣng còn thiếu thốn.

49

2.2. Tình hình phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang từ năm 1997

đến 2007

Tính đến thời điểm Luật HTX có hiệu lực, đồng thời điểm tách tỉnh Hà

Bắc thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, trên địa bàn Bắc Giang có 206 HTX

và xí nghiệp tập thể trên sáu lĩnh vực: 143 HTX nông nghiệp, 15 HTX và 23 xí

nghiệp tập thể cổ phần công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, 4 HTX giao thông

vận tải, 11 HTX xây dựng, 2 HTX thƣơng mại, 8 quỹ tín dụng nhân dân. Kết

quả chuyển đổi, thành lập mới sau 2 năm, tức năm 1999 toàn tỉnh đã có 146

HTX và quỹ tín dụng nhân dân hoạt động theo luật trên các lĩnh vực kinh tế

(107 chuyển đổi, 39 thành lập mới) [31, tr.2].

Đến 2004 con số này là 259 HTX (153 HTX chuyển đổi, 106 HTX thành

lập mới), trong đó có 106 HTX dịch vụ nông nghiệp, 48 HTX công nghiệp -

tiểu thủ công nghiệp, 14 HTX xây dựng, 11 HTX tiêu thụ điện năng, 11 HTX

giao thông vận tải, 9 quỹ tín dụng nhân dân và 6 loại hình HTX tổng hợp khác.

Lĩnh vực nông - lâm chiếm đa số (61,7%), sau đến Công nghiệp - tiểu thủ công

nghiêp (18,%). Về địa bàn phát triển tập trung ở thị xã và các huyện trung du

(TP. Bắc giang, Việt Yên, Lạng Giang...).

Từ sau khi có Luật HTX năm 2003 và sau Nghị Quyết TW5- khoá IX về

củng cố, đổi mới và phát triển kinh tế tập thể số lƣợng tổ hợp tác, HTX tăng lên

cả về số lƣợng và chất lƣợng cũng nhƣ quy mô và phạm vi hoạt động. Đến 11

năm 2007, toàn tỉnh Bắc Giang 742 HTX, tăng 483 HTX so với năm 2003, bình

quân tăng 100 HTX/năm và 01 liên hiệp HTX trong lĩnh vực công nghiệp xây

dựng. Có 4.770 tổ hợp tác các loại (trong đó có 1565 tổ hợp tác nông, lâm

nghiệp, 428 tổ hợp tác thuỷ sản, 1.410 tổ liên gia vay vốn, 798 tổ hợp tác dịch

vụ - thƣơng mại, 278 tổ hợp tác tiểu thủ công nghiệp và 291 chi hội nghề

nghiệp khác.

50

Bảng 2.1: Số lƣợng và cơ cấu HTX tỉnh Bắc Giang

1997

1999

2004

2007

Tốc độ

Loại HTX

phát

Số

Số

Số

Số

triển

lƣợng

cấu

lƣợng

cấu

lƣợng

cấu

lƣợng

cấu

BQ (%)

(HTX)

(%)

(HTX)

(%)

(HTX)

(%)

(HTX)

(%)

1. Theo ngành nghề

Tổng số

100,0

146

100,0

183

259

100,0

742

100,0

116,8

HTX nông nghiệp, LN, TS

78,1

143

77

52,7

106

40,9

223

105,06

30,1

15

37

25,3

8,2

65

22,4

86

121,41

11,6

HTX CN, TTCN

2

4

4,1

1,1

37

20,1

6

112,98

51,8

HTX thơng mại dịch vụ

11

12

8,2

6,0

14

5,4

7

95,10

0,9

HTX Xây dựng

4

6

4,1

2,2

11

4,2

7

106,42

0,9

HTX Giao thông vận tải

8

8

5,5

4,4

9

3,5

20

110,72

2,7

Quỹ tín dụng nhân dân

0

2

1,4

0,0

8

1,2

378

50,9

179,04

HTX Dich vu điện

0

0

3

1,2

7

109,87

0,9

HTX Môi trưêng

0

0

0

0

0

6

2,3

8

103,25

1,1

HTX khác

2. Theo hình thức thành lập

183

100,0

146

100,0

259

100,0

742

100,0

116.8

Tổng số

142

77,6

107

73,3

153

59,1

635

85,6

118,1

+ Chuyển đổi từ HTX cũ

41

22,4

39

26,7

106

40,9

107

14,4

111,2

+ Thành lập mới

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của LM HTX Bắc Giang qua các năm

Để phân tích làm rõ thực trạng hoạt động của các HTX trên địa bàn tỉnh

Bắc Giang, trên cơ sở đó thấy đƣợc thành tựu và hạn chế có nhiều hƣớng tiếp

cận khác nhau, sau đây xin phân tích những HTX trong các lĩnh vực sau:

2.2.1. Trong lĩnh vực nông nghiệp

Tổ chức hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp

Hiện toàn tỉnh có 223 HTX (trong đó có 191 HTX nông, lâm nghiệp và 32

HTX thuỷ sản) với tổng số vốn 68 tỷ đồng, gần 80 nghìn hộ xã viên tham gia,

trong đó có 107 HTX thành lập mới tập trung ở các địa phƣơng: T.P Bắc Giang

(15 HTX), Lạng Giang (12 HTX), Việt yên (10 HTX) và các huyện khác. HTX

mới đƣợc thành lập xuất phát từ nhu cầu thực tiễn hoạt động sản xuất kinh

doanh, khi kinh tế hàng hoá phát triển, cạnh tranh ngày càng quyết liệt, các hộ

51

kinh tế cá thể đã liên kết để tăng hiệu quả hoạt động, giảm thiểu khâu trung gian.

Đây là tín hiệu tốt, thể hiện xu thế tất yếu của kinh tế tập thể phát triển.

- Trong những HTX mới thành lập nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, tự

chịu trách nhiệm và cùng có lợi của các thành viên đƣợc đảm bảo.

- Mục tiêu lợi nhuận là động lực trực tiếp, đồng thời làm tốt việc giải

quyết các vấn đề xã hội có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của hợp

tác xã.

-Lựa chọn đƣợc đội ngũ cán bộ đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn hoạt

động. Các điều kiện về vốn, mặt bằng sản xuất, lao động, khoa học kỹ thuật

đƣợc bảo đảm chủ động, đáp ứng đầy đủ, kịp thời hơn yêu cầu sản xuất, kinh

doanh. Hiệu quả trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cao hơn.

Thực tế trong nông nghiệp ở Bắc Giang hiên nay không còn tồn tại HTX

nông nghiệp nhƣ trƣớc đây mà hình thành 03 loại hình HTX dịch vụ nông

nghiệp: cụ thể:

Loại HTX dịch vụ nôngnghiệp nhiều xã viên góp vốn mới

Loại HTX dịch vụ nông nghiệp nhiều xã viên không góp vốn mới

Loại HTX dịch vụ nông nghiệp ít xã viên góp vốn mới

Trong 3 loại hình HTX, loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp ít xã viên

góp vốn mới cho thấy có nhiều ƣu điểm hơn. Chức năng và nhiệm vụ của HTX

thay đổi, từ trực tiếp điều hành sản xuất và sản xuất ra các sản phẩm nông

nghiệp sang cung ứng các dịch vụ phục vụ sản xuất cho các hộ nông dân. Các

HTX chuyển đổi đã đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của hợp tác là: tự nguyện,

dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi. Tự hoạch toán và tự chịu trách nhiệm về hoạt

động của mình, song HTX nông nghiệp vẫn đảm bảo phát huy sức mạnh của

cộng đồng và tinh thần tƣơng thân, tƣơng ái trong nông thôn. HTX tuy không

nắm quyền sử dụng ruộng đất, nhƣng nắm hệ thống dịch vụ quan trọng nhất,

nhƣ là dịch vụ cung cấp nƣớc tƣới tiêu, thông qua đó Nhà nƣớc áp dụng chính

sách thuỷ lợi phí…

52

Số lượng và cơ cấu HTX nông nghiệp

Tính đến cuối năm 2007, toàn tỉnh có 223 HTX nông nghiệp (chiếm 30,1%

tổng số HTX), trong đó có 184 HTX dịch vụ nông nghiệp (82,51%), 32 HTX thuỷ

sản (14,3%), 4 HTX lâm nghiệp (1,7%), 3HTX chăn nuôi (1,3%). Trong 223 HTX

nông nghiệp đƣợc chuyển đổi và thành lập mới, có 117 HTX có quy mô toàn xã (

chiếm 53%), 115 HTX quy mô thôn và liên thôn (chiếm 47%).

Bảng 2.2: Số lƣợng và cơ cấu các loại hình HTX nông nghiệp

2005

2006

2007

Tốc độ

phát

Số lợng

Cơ cấu

Số lợng

Cơ cấu

Số lợng

Cơ cấu

TT

Chỉ tiêu

triển BQ

(HTX)

%

(HTX)

%

(HTX)

%

(%)

1 HTX dịch vụ nông nghiệp

179

86,06

184

84,40

184

82,51

101,39

2

HTX thuỷ sản

26

12,50

28

12,84

32

14,35

110,94

3

HTX chăn nuôi

1

0,48

2

0,92

3

1,35

173,21

4 HTX L nghiệp

2

0,96

4

1,83

4

1,79

141,42

Tổng số

208

100,00

218

100,00

223

100,00

Nguồn: Báo cáo Liên minh HTX tỉnh Bắc Giang qua các năm

Các điều kiện nguồn lực của các hợp tác xã nông nghiệp 2007

Tổng số hợp tác xã nông nghiệp điều tra năm 2007 là 20 hợp tác xã;

trong đó có 10 hợp tác xã nông nghiệp, 1 hợp tác xã thủy sản, 5 hợp tác xã chăn

nuôi, 4 hợp tác xã hoạt động trong các lĩnh vực khác.

Kết quả điều tra cho thấy số xã viên bình quân trong 1 hợp tác xã dịch vụ

nông nghiệp là lớn nhất (527 xã viên/1HTX).

Số lƣợng lao động bình quân trong 1 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp

cũng là nhiều nhất (542 ngƣời/1 HTX).

Tổng vốn điều lệ của 20 hợp tác xã nông nghiệp điều tra là 8440 triệu

đồng, bình quân 1 hợp tác xã là 422 triệu đồng; trong đó vốn điều lệ bình quân

trong 1 hợp tác xã chăn nuôi là cao nhất (426, 8 triệu đồng/1 HTX)

53

Bảng 2.3: Các điều kiện nguồn lực của các HTX nông nghiệp điều tra 2007

Tiêu thức

ĐVT

HTX

HTX

HTX yếu,

Tổng

BQ 1

khá, giỏi

trung bình

kém

số

HTX

1. HTX DVNN

3

4

3

10

a, Tổng số xã viên

XV

1.456

1.956

1.862

5.274

527

b, Tổng số lao động

Ngƣời

1.621

2.268

1.533

5.422

542

c, Diện tích đất SXKD

Ha

150

201

146,8

497,8

49,8

d, Tổng vốn điều lệ

Tr.đ

1.466

1.688

1.052

4.206

420,6

-

e, Tổng vốn KD

1.901

2.135

304

4.340

434

2. HTX thuỷ sản

0

1

0

1

a, Tổng số xã viên

XV

0

18

18

0

18

b, Tổng số lao động

Ngƣời

0

32

32

0

32

c, Diện tích đất SXKD

Ha

0

46,8

46,8

0

46,8

d, Tổng vốn điều lệ

Tr.đ

0

418

418

0

418

-

e, Tổng vốn KD

0

535

535

0

535

3. HTX chăn nuôi

2

2

1

5

a, Tổng số xã viên

XV

796

803

397

386

1.985

b, Tổng số lao động

Ngƣời

878

882

439

434

2.194

c, Diện tích đất SXKD

Ha

108

105,8

52,9

50,9

264,7

d, Tổng vốn điều lệ

Tr.đ

944

829

426,8

361

2.134

-

e, Tổng vốn KD

1.068

1.023

523,4

526

2.617

4. Các HTX khác

1

2

1

4

a, Tổng số xã viên

XV

255

506

252

249

1.010

b, Tổng số lao động

Ngƣời

329

656

327

324

1.309

c, Diện tích đất SXKD

Ha

48

94,8

46,9

44,8

187,6

d, Tổng vốn điều lệ

Tr.đ

505

857

420,5

320

1.682

e, Tổng vốn KD

-

538

1.017

446

229

1.785

Nguồn : Số liệu điều tra của tác giả

Tổng vốn kinh doanh của 20 hợp tác xã nông nghiệp điều tra là 9277

triệu đồng, bình quân 1 hợp tác xã là 463,8 triệu đồng; trong đó cao nhất là hợp

tác xã thuỷ sản (bình quân 535 triệu đồng/1 HTX), thấp nhất là hợp tác xã dịch

vụ nông nghiệp (bình quân 434 triệu đồng/1 HTX).

54

Về trình độ cán bộ quản lý

Trình độ cán bộ quản lý, cán bộ điều hành của các hợp tác xã nông

nghiệp điều tra nhƣ sau :

Bảng 2.4: Trình độ CBQL, CBĐH của các HTX NN điều tra, 2007

Số lƣợng CBQL, CBĐH có trình độ (ngƣời)

Loại hình KD

Số HTX

ĐH, CĐ Trung cấp

Sơ cấp Chƣa đào tạo

điều tra

+ HTX dịch vụ NN

10

0

21

4

3

+ HTX thuỷ sản

1

1

1

0

1

+ HTX chăn nuôi

5

2

8

2

3

+ Các loại hình khác

4

0

8

3

6

Cộng

20

3

36

8

13

Nguồn : Số liệu điều tra của tác giả

Trong tổng số 60 cán bộ quản lý, cán bộ điều hành của các hợp tác xã

nông nghiệp điều tra thì chỉ có 2 ngƣời có trình độ đại học, cao đẳng (chiếm

5%), số lƣợng đông nhất là hợp tác xã chăn nuôi (2 ngƣời), ít nhất là hợp tác xã

dịch vụ nông nghiệp (không có cán bộ nào có trình độ đại học, cao đẳng); 36

ngƣời có trình độ trung cấp (chiếm 60%), 8 ngƣời có trình độ sơ cấp (chiếm

13,3%), 13 ngƣời chƣa đào tạo.

So với loại hình hợp tác khác và các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn

thì trình độ cán bộ quản lý, điều hành của các hợp tác xã nông nghiệp là ở mức

tƣơng đối thấp.

Các loại hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ

Trong số 20 hợp tác xã nông nghiệp điều tra đã thực hiện rất nhiều hoạt

động sản xuất, kinh doanh dịch vụ trong lĩnh vực nông nghiệp theo nhƣ bảng sau :

Trong các hoạt động dịch vụ mà các hợp tác xã thực hiện thì dịch vụ thủy

lợi nội đồng có số hợp tác xã thực hiện nhiều nhất (9 HTX), dịch vụ làm đất có

số HTX thực hiện ít nhất (4 HTX); hoạt động nuôi trồng thủy sản chỉ có 1

HTX, chăn nuôi 5 HTX và 4 HTX thực hiện các hoạt động khác.

55

Bảng 2.5 Các hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX điều tra 2007

Số HTX thực hiện

Xếp loại HTX

Tên hoạt động

(HTX)

Khá, giỏi (%)

Trung bình (%)

Yếu, kém (%)

1. Dịch vụ NN

a, Thuỷ lợi

44,44

44,44

11,12

9

b, Giống

57,14

28,57

14,29

7

c, Bảo vệ thực vật

33,33

33,33

33,34

6

d, Cung ứng vật tƣ

37,5

37,5

25

8

e, Khuyến nông

33,33

55,55

11,12

9

g, Làm đất

25

50

25

4

2. Nuôi trồng thuỷ sản

0

100

0

1

3. Chăn nuôi

40

40

20

5

4. Khác

25

50

25

4

Nguồn : Số liệu điều tra của tác giả

Kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX nông nghiệp

Kết quả sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp điều tra thể

hiện ở các chỉ tiêu trong bảng dƣới đây :

Bảng 2.6 Kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX điều tra 2007

Doanh thu

Chi phí

Lợi nhuận

Tên hoạt động

Số HTX

Số lƣợng

BQ 1

Số lƣợng

BQ 1

Số lƣợng

BQ 1

thực hiện

(Tr.đ)

HTX

(Tr.đ)

HTX

(Tr.đ)

HTX

(HTX)

(Tr.đ)

(Tr.đ)

(Tr.đ)

1. Dịch vụ

a, Thuỷ lợi

377

41,9

55

6,1

432

48

9

b, Giống

249

35,6

27

3,8

276

39,4

7

c, Bảo vệ thực vật

162

27

26

4,3

188

31,3

6

d, Cung ứng vật tƣ

261

32,6

32

4

293

36,6

8

e, Khuyến nông

85

9,4

20

2,2

105

11,6

9

g, Làm đất

76

19

19

4,7

95

23,7

4

Cộng

121

179

17,9

1.389

138,9

1.210

2. Nuôi trồng thuỷ sản

93

93

10

10

103

103

1

3. Chăn nuôi

729

145,8

111

22,2

840

168

5

4. Khác

527

131,7

72

18

599

149,7

4

372

18,6

146,5

Tổng cộng

2.931

2.559

127,9

Nguồn : Số liệu điều tra của tác giả

56

Tổng doanh thu của 20 hợp tác xã nông nghiệp điều tra năm 2007 là

2.931 triệu đồng, bình quân mỗi hợp tác xã đạt 146,5 triệu đồng; trong đó

doanh thu từ các hoạt động dịch vụ đạt 1.389 triệu đồng, từ các hoạt động nuôi

trồng thuỷ sản, chăn nuôi, hoạt động khác đạt 1.542 triệu đồng. Doanh thu bình

quân 1 hợp tác xã chăn nuôi là cao nhất (đạt 168 triệu đồng/1 HTX), trong các

hoạt động dịch vụ thì doanh thu bình quân 1 hợp tác xã thực hiện hoạt động

dịch vụ tƣới tiêu, thuỷ lợi nội đồng là cao nhất (48 triệu đồng/1 HTX), thấp nhất

là dịch vụ khuyến nông (11,6 triệu đồng/1 HTX).

Tổng chi phí bình quân 1 hợp tác xã chăn nuôi là cao nhất (145,8 triệu

đồng/1 HTX), chi phí bình quân thấp nhất là hoạt động dịch vụ khuyến nông

(9,4 triệu đồng/1 HTX).

Tổng lợi nhuận của 20 hợp tác xã đạt đƣợc là 372 triệu đồng, bình quân 1

hợp tác xã đạt 18,6 triệu đồng; trong đó hoạt động chăn nuôi cũng đạt cao nhất

(bình quân 22 triệu đồng/1 HTX), thấp nhất vẫn là hoạt động khuyến nông (chỉ

đạt bình quân 2,2 triệu đồng/1 HTX)

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu bình quân 1 hợp tác xã nông nghiệp

điều tra là 12,3%. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân 1 hợp tác xã

nông nghiệp điều tra là 4%.

Nhƣ vậy có thể thấy kết quả hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp

nói trên còn rất hạn chế so với các loại hình doanh nghiệp khác.

Tình hình thu nhập của cán bộ, xã viên trong các hợp tác xã nông

nghiệp điều tra như sau :

57

Bảng 2.7 Thu nhập của cán bộ, xã viên trong các HTX nông nghiệp điều

tra 2007

Chỉ tiêu

Ngành nghề kinh doanh

ĐVT

DVNN

Thuỷ sản

Chăn nuôi

Khác

1.Số HTX điều tra

HTX

10

1

5

4

2.Thu nhập BQ xã viên/năm

Tr.đ

a, HTX khá, giỏi

-

12

13,2

14,4

10,8

b, HTX trung bình

-

9,6

10,2

12,6

8,4

c, HTX yếu, kém

-

2,4

4,8

5,4

3,6

3.Thu nhập BQ CBQL/năm

Tr.đ

a, HTX khá, giỏi

-

16,8

18

19,2

15,6

b, HTX trung bình

-

14,4

15

16,2

13,8

c, HTX yếu, kém

-

4,8

6

6

3,6

4.Đóng góp xã hội BQ 1 HTX/năm

Tr.đ

a, HTX khá, giỏi

-

6,12

8,23

10,58

7,39

b, HTX trung bình

-

4,27

6,01

8,34

6,02

c, HTX yếu, kém

-

2,17

2,99

3,2

2,18

5.Tổng lãi trả theo vốn góp BQ 1HTX/năm

Tr.đ

a, HTX khá, giỏi

-

36,22

45,01

47,88

41,34

b, HTX trung bình

-

21,98

34,27

38,66

35,01

c, HTX yếu, kém

-

12,11

15,22

13,78

14,26

Nguồn : Số liệu điều tra của tác giả

Thu nhập bình quân hàng năm của xã viên và cán bộ quản lý đều tăng

nhƣng có sự khác biệt giữa các ngành nghề kinh doanh, cao nhất là ở hợp tác xã

chăn nuôi (bình quân 1 hợp tác xã loại khá giỏi đạt 14,4 triệu đồng/xã

viên/năm), thấp nhất là hợp tác xã khác (bình quân 1 hợp tác xã loại khá giỏi

đạt 10,8 triệu đồng/xã viên/năm); tuy nhiên còn rất khiêm tốn so với các loại

hình hợp tác xã khác và các doanh nghiệp khác; cần phải có biện pháp nâng cao

hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã này, có nhƣ vậy mới

khuyến khích đƣợc ngƣời ta tham gia hợp tác xã. Nộp ngân sách bình quân 1

hợp tác xã năm 2007 là 2,91 triệu đồng, tỷ lệ tăng trong giai đoạn 2005-2007 là

28,52%; đóng góp xã hội cũng tăng bình quân 1 hợp tác xã từ 4,91 triệu đồng

năm 2005 lên 8,06 triệu đồng năm 2007. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh

58

tăng từ 3,63% năm 2005 lên 5,65% năm 2007, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn

của các hợp tác xã tăng lên; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng tăng từ 9,99%

năm 2005 lên 10,36% năm 2007.

Bình quân mỗi hợp tác xã trả lãi vốn góp hàng năm là 2,01 triệu đồng,

con số ít ỏi này chỉ mang tính động viên tinh thần chứ chƣa phát huy tác dụng

lợi ích kinh tế để kích thích các xã viên cống hiến công sức cho hợp tác xã; bên

cạnh đó còn rất nhiều hợp tác xã không chia lãi cổ phần mà chỉ có quà cáp vào

những ngày lễ, tết khoảng 100.000 đồng/xã viên.

Đánh giá của xã viên và các đối tượng hưởng lợi khác về chất lượng

các hoạt động dịch vụ của các hợp tác xã nông nghiệp điều tra

Qua kết quả nghiên cứu điều tra, trong số 60 hộ xã viên đƣợc phỏng vấn,

hầu hết đều mong muốn đƣợc các hợp tác xã cung cấp đầy đủ các dịch vụ thiết

yếu với chất lƣợng tốt, giá cả phải chăng. Trong đó dịch vụ tƣới tiêu, thuỷ lợi

nội đồng đƣợc đánh giá cao nhất (66,7% số hộ đánh giá tốt); tiếp đến là dịch vụ

làm đất, dịch vụ giống, dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ cung ứng vật tƣ, phân

bón. Các dịch vụ này có tác động rõ ràng, trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh

doanh của các hợp tác xã và đƣợc đánh giá tƣơng đối tốt; tuy nhiên dịch vụ

khuyến nông chỉ đƣợc đánh giá ở mức độ trung bình và yếu kém, sở dĩ nhƣ vậy

là do công tác tổ chức thực hiện các hoạt động khuyến nông của các hợp tác xã

còn chƣa hợp lý, sự đầu tƣ cho hoạt động này chƣa cao.

59

Bảng 2.9 Đánh giá của xã viên về các hoạt động dịch vụ của HTX

Đánh giá của xã viên

Tốt

Trung bình

Yếu

TT

Tên dịch vụ

Tỷ lệ

Số ý

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số ý

Số ý

kiến

%

kiến

%

kiến

%

1

Tƣới tiêu, thuỷ lợi nội đồng

40

66,7

15

25

5

8,3

2

Giống cây trồng, vật nuôi

28

46,7

17

28,3

15

25

3

Bảo vệ thực vật

27

45

21

35

12

20

4

Cung ứng vật tƣ, phân bón

20

33,3

22

36,7

18

30

5

Khuyến nông

19

31,7

24

40

17

28,3

6

Làm đất

33

55

18

30

9

15

Nguồn : Số liệu điều tra của tác giả

Xem xét khả năng cạnh tranh một loại dịch vụ cụ thể đó là dịch vụ cung

ứng vật tƣ, phân bón của các hợp tác xã nông nghiệp điều tra (có 8 hợp tác xã

thực hiện) so với các doanh nghiệp tƣ nhân trên địa bàn ta có bảng số liệu :

Bảng 2.10: Đánh giá của các đối tƣợng hƣởng lợi từ dịch vụ cung ứng vật

tƣ, phân bón của HTX NN điều tra về khả năng cạnh tranh so với loại hình

doanh nghiệp tƣ nhân

Đánh giá của ngƣời hƣởng lợi

Tốt hơn

Kém hơn

Tƣơng

TT

Khả năng

đƣơng

Số ý

Tỷ lệ

Số ý

Tỷ lệ

Số ý

Tỷ lệ

kiến

%

kiến

%

kiến

%

1

Về uy tín của nhãn hiệu sản phẩm

19

39,6

22

45,8

7

14,6

2

Về giá cả

31

64,6

11

22,9

6

12,5

3

Về hệ thống phân phối tiện lợi

25

52,1

18

37,5

5

10,4

4

Về chất lƣợng sản phẩm

20

41,7

25

52,1

3

6,2

5

Về mở rộng thị trƣờng

16

33,3

21

43,7

11

22,9

Nguồn : Số liệu điều tra của tác giả

60

Theo kết quả điều tra 24 hộ xã viên trong 8 hợp tác xã dịch vụ cung ứng

vật tƣ phân bón và 24 ngƣời ngoài hợp tác xã cho thấy: Khả năng cạnh tranh

lớn nhất của các hợp tác xã là về giá cả hàng hoá, dịch vụ (64,6% đánh giá tốt

hơn các doanh nghiệp khác), tiếp theo là về hệ thống phân phối tiện lợi (52,1%

đánh giá tốt hơn), về chất lƣợng sản phẩm, uy tín nhãn hiệu chỉ ở mức trung

bình, khả năng mở rộng thị trƣờng là kém nhất (33,3% đánh giá tốt hơn)

Những ưu điểm của HTX Nông nghiệp

+ Số lƣợng xã viên tham gia hợp tác xã là tƣơng đối lớn; bình quân mỗi

hợp tác xã năm 2007 là 299 ngƣời.

+ Số lƣợng lao động của mỗi hợp tác xã cũng tƣơng đối lớn so với các

loại hình HTX khác; bình quân năm 2007 là 103 ngƣời/HTX. Đây là lợi thế cho

các HTX khai thác đƣợc nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ.

+ Các hợp tác xã đƣợc sự quan tâm của các cấp chính quyền trong việc

phát triển các ngành nghề, hƣởng lợi ích trong việc áp dụng các chính sách

+ HTX đã mở rộng xu hƣớng hợp tác, liên doanh, liên kết trong khu vực

khuyến nông, khuyến công, khuyến ngƣ...

và có những bƣớc phát triển mới đem lại những kết quả đáng khích lệ. Sự liên

kết đƣợc thực hiện dƣới nhiều hình thức đa dạng nhƣ: liên kết giữa các HTX

cùng ngành nghề, không cùng ngành nghề; liên kết giữa HTX với các công ty

tƣ nhân, doanh nghiệp nhà nƣớc nhƣ: Công ty lân đạm Hà Bắc, công ty supe

phốt phát Lâm Thao, Công ty gang thep Thái Nguyên, Xi măng Hải Phòng, Các

công ty khai thác công trình thuỷ lợi, các công ty cung ứng vật tƣ, giống vật

nuôi, cây trồng…đảm bảo vai trò cung ứng cho ngƣời dân.

Điển hình nhƣ HTX nông nghiệp An Hà (Lạng Giang) tổ chức điều hành

3 dịch vụ chính là: Thuỷ nông, quản lý tiêu thụ điện, bảo vệ thực vật và chuyển

giao kỹ thuật, hoạt động năm 2007 đã có một số kết quả cụ thể:

+ Dịch vụ thuỷ nông: 75% diện tích đất canh tác là nƣớc tự chảy, HTX có

tổ thuỷ nông gồm 5 ngƣời, có nhiệm vụ quản lý hệ thống thuỷ nông và điều tiết

61

nƣớc đến các khu đồng, dịch vụ này có số tích luỹ năm 2007 là 29,3 triệu đồng.

+ Dịch vụ quản lý và tiêu thụ điện: Tổ quản lý điện của HTX có 20

ngƣời, có nhiệm vụ quản lý và bán điện đến hộ xã viên với giá điện sinh hoạt

năm 2007 từ 600 - 850đ/kwh. Thu nhập từ dịch vụ này là 86,1 triệu đồng.

Ngoài thanh toán tiền công, đầu tƣ sửa chữa, nâng cấp hệ thống điện, còn tích

luỹ đƣợc gần 20 triệu đồng.

+ Năm 2007, HTX đã cung ứng 3.400kg thóc giống lúa các loại, hơn

1300kg ngô lai cho xã viên và xây dựng vùng sản xuất giống lúa tại chỗ.

+ Ngoài ra HTX còn liên kết với những cơ sở nghiên cứu khoa học công

nghệ, trung tâm khuyến nông huyện để sản xuất các loại giống mới phục vụ sản

xuất, mở ra triển vọng sản xuất giống tại chỗ cung cấp cho nhu cầu trong và

ngoài tỉnh. HTX đã mở 3 lớp tập huấn khuyến nông cho 251 lƣợt ngƣời tham

gia trong năm.

Một số khó khăn của HTX nông nghiệp :

+ Vốn kinh doanh còn thấp so với các loại hình khác. Khả năng thu hút,

huy động vốn đầu tƣ mở rộng sản xuất kinh doanh cũng chƣa cao.

+ Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ quản lý, điều hành còn

chƣa cao, trình độ ngƣời lao động chƣa qua đào tạo còn lớn; phần lớn cán bộ

quản lý còn lại chỉ ở trình độ trung cấp, sơ cấp, còn lao động xã viên gần nhƣ

chƣa qua đào tạo.

+ Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của xã viên có nguy cơ bị thu hẹp

do tốc độ đô thị hoá trên địa bàn tăng nhanh. Năm 2007 bình quân 1 HTX có

67,65 ha đất sản xuất nông nghiệp, so với năm 2005 (là 75,27ha/HTX) thì giảm

7,62 ha/HTX. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc mở rộng quy mô sản xuất

nông nghiệp, đặc biệt với các mô hình hợp tác xã cần sử dụng nhiều đất để sản

xuất nhƣ HTX sản xuất rau sạch, HTX chăn nuôi...

+Các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp: tạo đầu ra,

chế biến, bảo quản nông sản thực phẩm, bao tiêu sản phẩm cho ngƣời nông dân

62

đang là vấn đề hết sức bức thiết cho sản xuất nông nghiệp hầu nhƣ không có

HTX nào đảm nhận. Đó là việc chế biến, bảo quản nông sản, thực phẩm đòi hỏi

vốn đầu tƣ, máy móc thiết bị lớn, công nghệ hiện đại, đi cùng với đó là nhân lực

phải có trình độ tƣơng ứng; còn với bao tiêu sản thì khu vực kinh tế tƣ nhân

năng động hơn và cạnh tranh mạnh mẽ hơn.

+Sự phát triển của HTX nông, lâm, thuỷ sản vẫn tồn tại nhiều hạn chế

cần đƣợc tháo gỡ, giải quyết đó là: các HTX chƣa có sự chuyển biến rõ rệt về

nội dung và hiệu quả hoạt động, hầu hết các HTX vẫn tổ chức các dịch vụ theo

phƣơng thức cũ mà chƣa chú trọng các khâu dịch vụ mang tính sản xuất kinh

doanh, dịch vụ đáp ứng thiết thực cho xã viên nhƣ dịch vụ về vốn, chế biến, tiêu

thụ sản phẩm... Do vậy doanh thu còn nhỏ, lãi ít, thu nhập của cán bộ quản lý

thấp, chƣa thu hút đƣợc cán bộ có năng lực tham gia quản lý điều hành.

+ Số HTX nông nghiệp, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả chiếm tỷ lệ

chƣa cao. Theo khảo sát của Liên minh HTX Tỉnh Bắc Giang kết quả phân loại

hiện có 30.4% HTX hoạt động khá, 55% HTX hoạt động trung bình, 14.6%

HTX yếu kém, trong đó số HTX trung bình hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn

rất thấp; chƣa thể tạo ra năng lực vốn tự có để mở rộng sản xuất, kinh doanh

phục vụ trực tiếp cho các xã viên HTX, chƣa kể đến phục vụ cho các khách

hàng ngoài xã viên. Chƣa thể đầu tƣ cải tiến các trang thiết bị tiên tiến để thực

hiện cơ giới hoá các khâu cày, bừa. Khâu dịch vụ này ít HTX có thể đảm nhiệm

đƣợc, phần lớn do các tƣ nhân thực hiện là chính.

+ Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, tình

trạng có thể mất mùa do thời tiết, sâu bệnh phá hoại luôn dình đập, nên có tính

rủi ro cao, trong khi đó HTX không thể hỗ trợ cho các xã viện khi rủi ro xảy ra.

2.2.2 Trong lĩnh vực công nghiệp

Toàn tỉnh có 93 HTX công nghiệp, tiểu - thủ công ngiệp và xây dựng

(chiếm 12.5% tổng số HTX). Các HTX lĩnh vực này tập trung ở thành phố Bắc

63

Giang, một số thị trấn, trung tâm kinh tế của huyện.

Cơ cấu và số lượng HTX

Bảng 2.11: Số lƣợng HTX trong lĩnh vực công nghiệp

1997

1999

2004

2007

Tốc độ

phát

Số

Cơ cấu

Số

Số

Số

Loại HTX

triển

lƣợng

(%)

lƣợng

cấu

luợng

cấu

lƣợng

cấu

BQ (%)

(HTX)

(HTX)

(%)

(HTX)

(%)

(HTX)

(%)

HTX TTCN

12

46,2

31

63,3

54

70,1

72

77,4

122,03

HTX Công nghiệp

3

11,5

6

12,2

9

11,7

14

15,1

118,67

HTX Xây dựng

11

42,3

12

24,5

14

18,2

7

7,5

95,10

Tổng cộng

26

100,00

49 100,00

77 100,00

93 100,00

115,21

Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX Tỉnh Bắc Giang qua các năm

Qua bảng 2.11 có thể thấy tốc độ phát triển bình quân trong những năm

qua của HTX công nghiệp – xây dựng là 115,21%; nhƣ vậy so với HTX nông

nghiệp, thì hợp tác xã công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tuy có phát

triển nhƣng tăng chậm.

Trong cơ cấu HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng thì HTX

tiểu thủ công nghiệp chiếm 77,4%, tốc độ phát triển bình quân trong những năm

qua là 122,03%, đồng thời cũng là loại hình HTX có tốc độ phát triển cao nhất

trong số những HTX hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng.

HTX công nghiệp chiếm 15,1% so với tổng số HTX hoạt động trong lĩnh

vực này, trong giai đoạn 2004-2007, có tốc độ phát triển về số lƣợng nhanh hơn

những năm trƣớc đây.

Đối với HTX xây dựng từ 1997 đến 1999 tăng thêm đƣợc 1 HTX; 1999

đến 2004 tăng thêm đƣợc 2 HTX; 2004 -2007 giảm 7 HTX. Nhƣ vậy HTX xây

dựng là loại hình HTX có xu hƣớng giảm đi trong những năm lại đây; tốc độ

phát triển bình quân 95,1%, chiếm 7,5% trong tổng số HTX hoạt động trong

lĩnh vực này. Điều này thể hiện, trong những năm qua, mặc dù có dự phát triển

về xây dựng hạ tầng, đô thị hoá, song yêu cầu vốn lớn, HTX xây dựng ít có khả

năng đầu tƣ, do vậy chủ yếu thực hiện việc thi công, xây lắp khu vực nông

64

thôn; nhƣ đƣờng giao thông liên thôn, cứng hoá kênh mƣơng, xây dựng nhà

thấp tầng trong dân, khai thác vật liệu xây dựng; đồng thời các doanh nghiệp, tƣ

nhân cạnh tranh nhiều.

Về các điều kiện nguồn lực của các hợp tác xã

Bảng 2.12: Các nguồn lực của HTX điều tra

HTX

HTX

HTX

Tổng

Tiêu thức

ĐVT

khá,

trung

yếu,

BQ 1 HTX

cộng

giỏi

bình

kém

1. HTX TTCN

2

1

4

1

a, Tổng số xã viên

XV

28

10

61

15,25

23

b, Tổng số lao động

Ngƣời

34

30

82

20,5

18

c, Diện tích đất SXKD

Ha

7

2,5

14

3,5

4,5

d, Tổng vốn điều lệ

Tr.đ

875

269

1524

381,00

380

e, Tổng vốn KD

-

1094

545

2296

574,00

657

2. HTX Công nghiệp

1

1

3

1

a, Tổng số xã viên

XV

20

9

40

13,33

11

b, Tổng số lao động

Ngời

71

36

165

55,00

58

c, Diện tích đất SXKD

Ha

4

1,2

7,4

2,47

2,2

d, Tổng vốn điều lệ

Tr.đ

450

2750

916,67

1700

600

e, Tổng vốn KD

-

1235

6595

2198,33

3800

1560

3. HTX Xây dựng

1

1

3

1

a, Tổng số xã viên

XV

12

14

43

14,33

17

b, Tổng số lao động

Ngời

20

25

64

21,33

19

c, Diện tích đất SXKD

Ha

2

3

8

2,67

3

d, Tổng vốn điều lệ

Tr.đ

380

240

1110

370,00

490

e, Tổng vốn KD

-

732

670

2357

785,67

955

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả

Theo kết quả điều tra ta thấy số xã viên bình quân trong 1 hợp tác xã là ít

hơn nhiều so với hợp tác xã nông nghiệp (trung bình 1 HX là 15 xã viên). Số

lao động trong HTX trung bình 32 ngƣời.

Diện tích đất sản xuất kinh doanh bình quân 1 HTX nhiều nhất là ở loại

hình hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp (3,5 ha/1 HTX), ít nhất là ở loại hình HTX

công nghiệp (2,4 ha/1 HTX)

65

Tổng vốn điều lệ bình quân/hợp tác xã thấp nhất là ở HTX tiểu thủ công

nghiệp (bình quân 381 triệu đồng/1 HTX). Tổng vốn kinh doanh bình quân/1

hợp tác xã cũng tƣơng tự. Tổng vốn kinh doanh trong HTX sản xuất công

nghiệp là cao nhất.

Nhƣ vậy đổi với hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp khả

năng huy động vốn đầu tƣ sản xuất kinh doanh còn hạn chế rất nhiều so với khu

vực kinh tế khác đặc biệt là các doanh nghiệp tƣ nhân, công ty cổ phần; từ đó

dẫn đến vấn đề đầu tƣ mang tính chiều sâu nhƣ công nghệ, máy móc thiết bị

cũng bị hạn chế.

Về trình độ cán bộ quản lý - điều hành của các hợp tác xã

Bảng 2.13: Trình độ cán bộ quản lý - điều hành của các HTX công nghiệp

điều tra, 2007

HTX điều tra

Số lƣợng CBQL, CBĐH có trình độ (ngƣời)

(HTX)

ĐH, CĐ

Trung cấp

Sơ cấp

Chƣa đào tạo

HTX TTCN

0

4

4

5

HTX Công nghiệp

1

5

3

2

HTX Xây dựng

1

2

4

3

Tổng cộng

2

11

11

10

Nguồn : Số liệu điều tra của tác giả

Trong tổng số HTX điều tra cán bộ quản lý điều hành có trình độ đại học,

cao đẳng chỉ có 2 ngƣời (chiếm 5,9 %), trung cấp chiếm 11 ngƣời (chiếm

32,4%), đƣợc đào tạo sơ cấp là 11 ngƣời (chiếm 32,4%), cán bộ chƣa qua đào

tạo là 10 ngƣời (chiếm 29,4%), trong đó trình độ cán bộ quản lý, điều hành có

trình độ thấp nhất tập trung ở HTX tiểu thủ công nghiệp chƣa có trình độ đại

học, cao đẳng, đồng thời chƣa qua đào tạo cũng là cao nhất. Có thể thấy trình

độ cán bộ quản lý, cán bộ điều hành của các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh

vực công nghiệp cũng còn ở mức thấp.

66

Về kết quả sản xuất kinh doanh

Bảng 2.14: Kết quả kinh doanh của các HTX điều tra

Số HTX

Doanh thu

Chi phí

Lợi nhuận

thực

Số lợng

BQ 1

Số lợng

BQ 1

Số lợng

BQ 1 HTX

Tên hoạt động

hiện

(Tr.đ)

HTX

(Tr.đ)

HTX

(Tr.đ)

(Tr.đ)

(HTX)

(Tr.đ)

(Tr.đ)

HTX TTCN

4

2116

529

1876

469

240

80,00

HTX Công nghiệp

3

8124

2708

6928

1732

1196

398,67

HTX Xây dựng

3

4299

1433

3662

915,5

637

212,33

1156

12466

1038

2073

230,33

Tổng cộng

10

14539

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả

Tổng doanh thu của 10 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp – xây dựng điều

tra năm 2007 là 14539 triệu đồng, trong đó doanh thu của HTX công nghiệp

chiếm tỷ lệ cao nhất là 8124 triệu đồng (chiếm 55,8%), doanh thu thấp nhất là

HTX tiểu thủ công nghiệp là 2116 triệu đồng (chiếm 14,5%).

Tổng chi phí của HTX hoạt động trong lĩnh vực này là 12466 triệu đồng

trong đó chi phí nhiều nhất là HTX công nghiệp với 6928 triệu đồng, chi phí ít

nhất là HTX tiểu thủ công nghiệp 469 triệu đồng

Tổng lợi nhuận của 10 HTX tiểu thủ công nghiệp là 2073 triệu đồng,

trong đó, lợi nhuận thấp nhất là HTX tiểu thủ công công nghiệp, bình quân 80

triệu đồng, HTX có lợi nhuận cao nhất là HTX công nghiệp, bình quân là 399

triệu đồng.

Tình hình thu nhập của cán bộ, xã viên và đóng góp xã hội của các

HTX như sau :

67

Bảng 2.15: Thu nhập của cán bộ, xã viên trong các HTX

Ngành nghề kinh doanh

Chỉ tiêu

HTX

HTX

HTX

ĐVT

TTCN

Công

Xây

nghiệp

dựng

1.Số HTX điều tra

4

3

3

HTX

2.Thu nhập BQ xã viên/năm

Tr.đ

a, HTX khá, giỏi

18

20,4

21,6

-

b, HTX trung bình

13,2

14,44

17,4

-

c, HTX yếu, kém

10,8

9,6

13,8

-

3.Thu nhập BQ CBQL/năm

Tr.đ

a, HTX khá, giỏi

30

28,8

26,4

-

b, HTX trung bình

21,6

22,8

23,4

-

c, HTX yếu, kém

16,2

13,8

15,6

-

4.Đóng góp xã hội BQ 1 HTX/năm

Tr.đ

a, HTX khá, giỏi

16

13

14

-

b, HTX trung bình

12

9

10

-

c, HTX yếu, kém

8

7

6

-

5.Tổng lãi trả theo vốn góp BQ 1HTX/năm

Tr.đ

a, HTX khá, giỏi

42

43

45

-

b, HTX trung bình

38,02

41,17

38,96

-

c, HTX yếu, kém

28

22

17

-

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả

Thu nhập bình quân của xã viên có sự chênh lệch trong các loại hợp tác xã

khá giỏi, trung bình, yếu kém; theo ngành nghề kinh doanh thì mức thu nhập

của xã viên trong hợp tác xã vận tải là cao nhất (bình quân loại khá giỏi là 21,6

triệu đồng/xã viên/năm), thấp nhất là hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp (bình

quân loại khá giỏi là 18 triệu đồng/xã viên/năm); tuy nhiên với thu nhập của cán

bộ quản lý và đóng góp xã hội thì theo chiều hƣớng ngƣợc lại (cao nhất là hợp

tác xã tiểu thủ công nghiệp, thấp nhất là hợp tác xã giao thông vận tải).

Đánh giá của xã viên và các đối tượng hưởng lợi khác về khả năng

cạnh tranh của hoạt động dịch vụ của các hợp tác xã

Kết quả điều tra xã viên tại hợp tác xã và ngƣời ngoài hợp tác xã cho

68

thấy: khả năng cạnh tranh lớn nhất của các HTX tiểu thủ công nghiệp là giá cả

hàng hoá (66,7% số ngƣời đƣợc hỏi đánh giá tốt hơn), tiếp đến là chất lƣợng

sản phẩm, uy tín nhãn hiệu, khả năng mở rộng thị trƣờng là kém nhất; điều này

đòi hỏi các hợp tác xã cần phải năng động hơn nữa trong hoạt động thị trƣờng,

áp dụng nhiều hơn hoạt động Marketing để quảng bá sản phẩm hàng hoá, thu

hút khách hàng.

Bảng 2.16: Đánh giá của các đối tƣợng hƣởng lợi từ dịch vụ

Đánh giá của ngƣời hƣởng lợi (%)

TT

Khả năng

Tƣơng

Tốt hơn

Kém hơn

đƣơng

1

Về uy tín của nhãn hiệu sản phẩm

33,3

50

16,7

2

Về giá cả

66,7

16,7

16,7

3

Về hệ thống phân phối tiện lợi

33,3

33,3

33,3

4

Về chất lƣợng sản phẩm

50

33,3

16,7

5

Về mở rộng thị trƣờng

16,7

33,3

50

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả

* Ưu điểm của HTX hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp

Các HTX về xây dựng hầu hết cũng đƣợc tổ chức lại gọn nhẹ, chỉ duy trì

bộ máy quản lý, cán bộ kỹ thuật, xã viên tham gia tổ chức theo từng tổ, đội

chuyên môn, vào thời điểm xây dựng nhiều thì huy động, thuê mƣớn lao động

thời vụ; các HTX xây dựng đã tập trung huy động vốn đầu tƣ máy móc trang

thiết bị, tham gia đấu thầu các công trình quy mô vừa và nhỏ, gắn với việc triển

khai các chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng. Điển hình nhƣ:

Cơ khí Lạng Giang, Cơ khí 10, HTX Thành Công, tái chế nhựa Hoàng yến,

+ Sử dụng lao động địa phƣơng, do đó có thể giúp giải quyết việc làm

tốt, đặc biệt tận dụng đƣợc lao động nông nhàn, nhất là các HTX tiểu thủ công

nghiệp, nhƣ HTX Thủ công Mỹ nghệ Mỹ Độ, HTX mây tre đan Tăng Tiến…

+ Việc áp dụng khoa học công nghệ tiến bộ vào sản xuất kinh doanh giúp

tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.

69

+ Dễ thu hút xã viên gia nhập hợp tác xã nếu gia tăng đƣợc lợi ích kinh tế

cho xã viên

Bên cạnh đó còn có cơ hội:

+ Chính sách ƣu đãi của Nhà nƣớc nhƣ miễn thuế thu nhập doanh nghiệp

+ Sự mở cửa nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện

cho việc tiếp cận, chuyển giao công nghệ mới, thu hút đầu tƣ từ bên ngoài, học

hỏi kinh nghiệm…

Điểm hình nhƣ hợp tác xã mây tre đan Tăng Tiến (Việt yên) thành lập

tháng 5/2001, với số xã viên ban đầu là 16 ngƣời, vốn góp ban đầu là 64 triệu

đồng. Đến 2007 vốn cổ phần đạt đạt 430 triệu đồng với 54 xã viên; giá trị

doanh thu năm 2007 đạt 960 triệu đồng. Mô hình sản xuất không tập trung, quá

trình sản xuất phân tán ở các hộ gia đình. HTX là ngƣời trung gian đứng ra tìm

kiếm hợp đồng và phân bổ số lƣợng sản phẩm theo hợp đồng tuỳ theo điều kiện

và khả năng của từng hộ gia đình, sau đó HTX thu mua và tiêu thụ. Ngoài hợp

đồng các HTX có thể tiêu thụ ngoài thị trƣờng bán lẻ. Với hình thức này, HTX

Tăng Tiến đã phát huy đƣợc vài trò của làng nghề, giải quyết công ăn việc làm

cho ngƣời dân, với kiểu tổ chức không tập trung theo gia đình có thể tận dụng

đƣợc tối đa thời gian lao động, nhất là những lúc nông nhàn.

Những khó khăn nổi bật của HTX trong lĩnh vực công nghiệp

+ Diện tích đất sản xuất kinh doanh nhỏ hẹp do quỹ đất hạn chế gây khó

khăn cho việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.

+ Thu nhập bình quân đầu ngƣời của xã viên và cán bộ quản lý còn thấp

hơn nhiều loại hình doanh nghiệp tƣ nhân, cổ phần khác cho nên khả năng thu

hút lao động tay nghề cao vào làm việc ở khu vực này còn hạn chế.

+ Việc tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo mô hình các

hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp trong các làng nghề có thể gây ra các vấn đề xã

hội nhƣ ô nhiễm môi trƣờng...

+Trình độ của cán bộ quản lý, điều hành ở mức chƣa cao; ngƣời lao động

70

chƣa qua đào tạo; từ hạn chế này dẫn tới việc đổi mới, tiếp nhận khoa học, công

nghệ, đổi mới phƣơng thức hoạt động kinh doanh của HTX còn lúng túng.

+ Thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm còn hạn hẹp.

+ Sự hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi các hợp tác xã muốn kinh doanh ra

bên ngoài thì phải đáp ứng các yếu cầu khó tính nhất của các thị trƣờng.

+ Sự cạnh tranh trên thị trƣờng ngày càng gay gắt đòi hỏi các hợp tác xã

phải nâng cao trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ

đội ngũ cán bộ quản lý, ngƣời lao động lành nghề, cạnh tranh về giá cả, về chất

lƣợng sản phẩm và dịch vụ

+ Tƣ tƣởng hoài nghi về khả năng phát triển của các hợp tác xã trong

cộng đồng.

Các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng quy mô vẫn

còn nhỏ, chủ yếu xây dựng kết cấu hạ tầng ở địa phƣơng, chƣa vƣơn mạnh ra

các thị trƣờng ngoài tỉnh, hạn chế về vốn, công nghệ, lao động kỹ thuật nên sức

cạnh tranh còn chƣa mạnh so với các thành phần kinh tế khác.

2.2.3 Trong lĩnh vực dịch vụ

Số lượng và cơ cấu HTX dịch vụ - thương mại

Tính đến 2007, toàn tỉnh có 426 HTX dịch vụ - thƣơng mại (chiếm

57,3% tổng số HTX trong toàn tỉnh), hoạt động trên các lĩnh vực gồm thƣơng

mại, giao thông vận tải, tín dụng nhân dân, dịch vụ điện, môi trƣờng; so với

HTX nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, HTX trong lĩnh vực dịch vụ có tốc độ

phát triển nhanh hơn về số lƣợng, tốc độ phát triển bình quân của cả giai đoạn

đạt 120,34%.

71

Bảng 2.17 : Số lƣợng và cơ cấu HTX dịch vụ thƣơng mại

1997

1999

2004

2007

Tốc độ

phát

Loại HTX

Số

Số

Số

Số

triển

lƣợng

cấu

lƣợng

cấu

lƣợng

cấu

lƣợng

cấu

BQ (%)

(HTX)

(%)

(HTX)

(%)

(HTX)

(%)

(HTX)

(%)

HTX thƣơng mại

2

14,3

4

20,0

37

50,0

6

1,4

112,98

HTX Giao thông vận tải

4

28,6

6

30,0

11

14,9

7

1,6

106,42

Quỹ tín dụng nhân dân

8

57,1

8

40,0

9

12,2

20

4,7

110,72

HTX Dich vu điện

0

0,0

2

10,0

8

10,8

378

88,7

179,04

HTX Môi trƣờng

0

0,0

0

0,0

3

4,1

7

1,6

109,87

HTX khác

0

0,0

0

0,0

6

8,1

8

1,9

103,25

Tổng cộng

14 100,00

20 100.0

74 100.00

426 100,00

120,34

Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Bắc Giang qua các năm

Qua bảng số liệu có thể thấy: HTX có số lƣợng nhiều nhất, và tốc độ tăng

nhanh nhất là HTX dịch vụ điện với 378 HTX (chiếm 88,7%). Có hiện tƣợng

này bởi hàng loạt HTX dịch vụ điện đƣợc thành lập theo kế hoạch số 48/KH-

UBND ngày 25/2/2004 của UBND tỉnh Bắc Giang, các HTX tiêu thụ điện ra

đời đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý, kinh doanh của ngành

điện, bằng nguồn vốn tự có và huy động hộ xã viên, nhân dân địa phƣơng, HTX

đã khắc phục kịp thời các sự cố nhỏ về điện, xây dựng đƣờng điện mới cho các

khu dân cƣ, ổn định giá điện theo giá trần quy định của tỉnh.

HTX có số lƣợng ít nhất và tốc độ phát triển bình quân thấp nhất là HTX

Giao thông vận tải và HTX Môi trƣờng, mỗi loại hình có 7 HTX. Số lƣợng loại

hình HTX này còn ít bởi: thứ nhất đối với HTX giao thông vận tải để hoạt động

đƣợc trong lĩnh vực này thì vốn đầu tƣ cho phƣơng tiện giao thông là tƣơng đối

lớn, trong khi đó tƣ nhân, doanh nghiệp vận tải tạo ra môi trƣờng cạnh tranh ác

liệt. Thứ hai đối với HTX môi trƣờng thì Bắc giang là một trong những tỉnh có

HTX môi trƣờng đầu tiên, chủ yếu hoạt động mang tính chất xã hội, thu gom

rác trong dân cƣ, thu phí hằng tháng.

72

Tình hình hoạt động kinh doanh của các HTX dịch vụ

- Hợp tác xã Giao thông vận tải

Toàn tỉnh hiện có 07 HTX hoạt động trong lĩnh vực giao thông vận tải,

trong đó có 04 HTX vận tải bộ, 01 HTX vận tải thuỷ và 02 HTX vận tải thuỷ

bộ, có 375 xã viên tham gia. Số lƣợng, chất lƣợng dịch vụ của các HTX vận tải

hàng năm đã đƣợc tăng lên, hiện nay số phƣơng tiện vận tải của các HTX trên

lĩnh vực này gồn 145 xe (83 ôtô khách, 62 ôtô tải), 12 tầu thuyền vận tải và các

loại phƣơng tiện khác. Mặc dù từ 2003 đến nay do việc phải thu hồi và ngừng

hoạt động các phƣơng tiện cũ, quá hạn sử dụng, song nhìn chung hoạt động của

các HTX vẫn giữ vững, góp phần đáng kể vào việc đáp ứng nhu cầu vận chuyển

hàng hoá, đi lại của nhân dân. Kinh doanh vận tải hành khách đạt 830 nghìn

lƣợt ngƣời; khối lƣợng vận tải hàng hoá đƣờng bộ đạt 555.000 tấn; khối lƣợng

vận tải hàng hoá đƣờng thuỷ đạt 21.600 tấn. Năng lực vận tải của các HTX dần

dần đƣợc nâng cao thông qua việc huy động vốn, tài sản, phƣơng tiện của xã

viên, đổi mới phƣơng thức tổ chức quản lý phù hợp với yêu cầu phát triển kinh

doanh vận tải trong nền kinh tế thị trƣờng. Đóng góp một phần vào việc đáp

ứng nhu cầu của ngành vận tải trong nhân dân.

Điển hình nhƣ HTX dịch vụ vận tải Bố Hạ (Yên Thế) khi mới thành lập

chỉ có 14 xã viên, số vốn góp bằng phƣơng tiện ô tô, xe công nông trị giá 1,26

tỷ đồng. Đến nay đã kết nạp đƣợc 82 xã viên, 67 ôtô các loại, số vốn góp bằng

tiền mặt và tài sản lên đến gần 15 tỷ đồng, giải quyết công ăn, việc làm cho

hàng trăm xã viên. Hay HTX vận tải Bắc Giang đƣợc thủ tƣớng Chính phủ tặng

bằng khen, đóng góp cho ngân sách ngày càng tăng (năm 2003 nộp 350 triệu

đồng, năm 2007 nộp 590 triệu đồng).

Mặc dù vậy, hiện nay các HTX cũng còn gặp rất nhiều khó khăn nhƣ giá

nhiên liệu thƣờng xuyên thay đổi, biến động, nhiều phƣơng tiện của các thành

phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh trên nhiều tuyến, áp dụng nhiều loại giá

khác nhau. Xã viên tham gia HTX chƣa thực sự phối hợp chặt chẽ và hoạt động

73

thống nhất, mới chú trọng đến mục tiêu doanh thu và lợi nhuận, chƣa quan tâm

nhiều đến mục đích lâu dài; chất lƣợng dịch vụ vận tải còn hạn chế.

- Quỹ tín dụng nhân dân

Trên địa bàn hiện có 20 quỹ tín dụng nhân dân (tăng 11 quỹ so với năm

2003) với hơn 14 nghìn thành viên. Số lƣợng, quy mô và chất lƣợng hoạt động

của các quỹ đã tăng lên rõ rệt cả về doanh thu, lợi nhuận và thu nhập bình quân

của các thành viên. “Tính đến hết năm 2007, tổng nguồn vốn huy động đạt

183.975 triệu đồng (tăng 156.300 triệu đồng so với năm 2003), trong đó vốn

điều lệ 55.562 triệu đồng, vốn huy động 125.917 triệu đồng. Số lƣợng thành

viên vay vốn 5.389 lƣợt [31, tr.25].

Các quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn hiện nay chỉ thực hiện hai hoạt

động dịch vụ chính là vay và cho vay. Lĩnh vực cho vay đầu tƣ chủ yếu: nông,

lâm, tiểu thủ công nghiệp, xuất khẩu lao động...thông qua hoạt động, các quỹ

tín dụng nhân dân đã góp phần giữ vững và phát triển các ngành nghề truyền

thống ở địa phƣơng, hạn chế và đẩy lùi tình trạng cho vay nặng lãi, tạo thêm

nhiều việc làm mới cho thành viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo và thúc đẩy

kinh tế của địa phƣơng phát triển. Một số quỹ tín dụng nhân dân có số dƣ nợ và

mức lãi cao nhƣ Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Lục ngạn, Việt Ngọc, Quý Sơn,

Tân Dĩnh...

Tuy nhiên, hoạt động của quỹ tín dụng có những hạn chế, đó là: khả năng

huy động vốn của các quỹ tín dụng nhân dân chƣa đáp ứng nhu cầu vay vốn của

các thành viên, tỷ trọng nguồn vốn huy động tại chỗ đạt khoảng 65-70% so với

tổng nguồn vốn hoạt động. Phần lớn cán bộ quản lý quỹ trình độ chuyên môn

còn thấp; chƣa mở rộng, liên kết đƣợc giữa các quỹ tín dụng và các tổ chức

kinh doanh tiền tệ để đáp ứng nhu cầu của nhân dân.

Quỹ tín dụng thị trấn Trũ – Lục Ngạn đƣợc thành lập 7/1987 với số xã

viên ban đầu là 114 ngƣời, đóng góp cổ phần với mức 50.000 đồng, quỹ đƣợc

hoạt động theo pháp lệnh ngân hàng HTX tín dụng và công ty tài chính. Đến

74

tháng 12/1992, quỹ đã kết nạp đƣợc 245 xã viên, huy động đƣợc 24,6 triệu

đồng vốn xã viên, tiền gửi dân cƣ là 138,2 triệu đồng; dƣ nợ cho vay xã viên là

170 triệu đồng, lãi ròng 10,5 triệu đồng, lợi tức cổ phần đƣợc chi là 3,5%/tháng.

Sau khi chuyển đổi sang Quỹ tín dụng nhân dân, đến tháng 11/1999, quỹ đã có

435 thành viên, vốn điều lệ 196 triệu đồng, tiền gửi dân cƣ đạt 3379 triệu đồng,

cho vay trong địa phƣơng là 3463 triệu đồng, chênh lệch thu chi nghiệp vụ là

185,5 triệu đồng. Đến 2007 vốn của quỹ tăng lên 10 tỷ, số xã viên là 650 ngƣời,

vốn hoạt động là 7 tỷ.

- Hợp tác xã dịch vụ điện năng

Đây là lĩnh vực có số lƣợng HTX mới thành lập tăng cao nhất, hiện nay

có 378 HTX, trong đó có 188 HTX quy mô toàn xã, còn lại là các HTX quy mô

thôn và liên thôn. Tổ chức bán điện cho 335.035 hộ (chiếm 85% tổng số hộ

trong toàn tỉnh).

Đƣợc thành lập theo kế hoạch số 48/KH-UBND tỉnh từ năm 2004, các

HTX tiêu thụ điện ra đời đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý, kinh

doanh của ngành điện, bằng nguồn vốn tự có và huy động hộ xã viên, nhân dân

địa phƣơng, HTX đã khắc phục kịp thời các sự cố nhỏ về điện , xây dựng đƣờng

điện mới cho các khu dân cƣ, ổn định giá điện theo giá trần quy định của tỉnh.

Tuy nhiên hiện có nhiều HTX dịch vụ tiêu thụ điện hoạt động kém hiệu

quả và mang tính hình thức. Các HTX mới thành lập trong thời gian ngắn nên

chƣa đƣợc chính quyền, các quỹ hỗ trợ, tổ chức tín dụng quan tâm cho vay vốn,

do đó không có năng lực tài chính để đầu tƣ cơ sở vật chất, các HTX mới chỉ

tập trung khai thác lƣới điện sẵn có đƣợc xây dựng từ trƣớc mà chƣa quan tâm

đến việc cải tạo, nâng cấp lƣới điện, giá có nơi vẫn còn cao, chất lƣợng điện

thấp. Trong tƣơng lai loại hình HTX này sẽ không tồn tại khi thực hiện chủ

trƣơng của nhà nƣớc, ngành điện sẽ bán điện đến tận hộ gia đình.

- Hợp tác xã vệ sinh môi trường

Toàn tỉnh hiện có 07 HTX vệ sinh môi trƣờng, đây là hợp tác xã trƣớc

75

đây không có mà chỉ mới đƣợc thành lập từ 2002 trở lại đây, thu hút 330 lao

động thƣờng xuyên. Các HTX này đã góp phần tích cực trong công tác vệ sinh

môi trƣờng trên địa bàn dân cƣ ở các thị trấn, thị tứ, mỗi năm thu gom, xử lý

hàng chục ngàn tấn rác thải các loại. Trên thực tế mô hình HTX vệ sinh môi

trƣờng ngày càng phát huy tác dụng, hoạt động mang lại hiệu quả xã hội thiết

thực, đƣợc nhân dân ủng hộ; một số nơi chính quyền đã tạo điều kiện giúp đỡ,

hỗ trợ một phần kinh phí đầu tƣ công cụ lao động.

Bắc Giang là một trong những tỉnh đầu tiên có HTX vệ sinh môi trƣờng.

HTX vệ sinh môi trƣờng là một mô hình mới, trong khi nhận thức, tập quán,

nếp sống của đa số nhân dân về công tác vệ sinh môi trƣờng còn chƣa đầy đủ,

chƣa thấy đƣợc tầm quan trọng của lĩnh vực này. Do vậy bƣớc đầu mới thành

lập, các HTX còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc vận động, thu nộp phí và

cân đối tài chính để tiếp tục hoạt động và phát triển. Đa số HTX phải mở rộng

thêm các dịch vụ khác nhƣ: kinh doanh cây cảnh, chế biến phế liệu, quản lý

chợ... để bù đắp, trang trải và tăng thu nhập cho xã viên, ngƣời lao động.

Hợp tác xã vệ sinh môi trƣờng Hiệp Hoà - Mô hình hợp tác xã vệ sinh

môi trƣờng đầu tiên: Đƣợc thành lập ngày 29/4/1998 với 15 xã viên và 10 lao

động, với vốn cổ phần đóng góp là 30 triệu đồng. Ngành nghề kinh doanh ở 4

lĩnh vực: cung cấp nƣớc sạch, vệ sinh môi trƣờng, công viên cây xanh và hoạt

động vui chơi giải trí. Tuy nhiên khi đi vào hoạt động thì phần nƣớc sạch chính

quyền huyện không thông qua và giao cho đơn vị khác làm. Hiện nay với 35 lao

động, HTX hoạt động thu gom phế thải, vệ sinh đƣờng phố, trồng và chăm sóc

cây xanh đƣờng phố, công viên, xử lý phế thải dân dụng và công ngiệp, tổ chức

tang lễ, dịch vụ cải táng, sang cát, thu nhập bình quân từ 1,3 đến 1,6 triệu

đồng/ngƣời/tháng. HTX hoạt động có ý nghĩa xã hội lớn, giải quyết công ăn

việc làm, thu nhập cho lao động địa phƣơng. Với hoạt động của mình, HTX đã

đƣợc tặng thƣởng nhiều Bằng khen của Thủ tƣớng Chính phủ, Liên minh HTX

Việt Nam, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trƣờng, UBND tỉnh...

76

Về trình độ cán bộ quản lý - điều hành của các hợp tác xã dịch vụ điều tra

Bảng 2.18 Trình độ cán bộ quản lý - điều hành của các HTX dịch vụ điều tra

Số lợng CBQL, CBĐH có trình độ (ng-

Số HTX

ời)

TT

Ngành nghề KD

điều tra

ĐH,

Trung

Cha đào

(HTX)

Sơ cấp

cấp

tạo

HTX TM

1

4

1

1

2

1

HTX GTVT

1

8

1

0

2

2

0

5

2

3

2

3 HTX dịch vụ điện

1

2

5

1

2

4 HTX Môi trƣờng

2

5

1

5

0

0

Quỹ tín dụng nhân dân

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả

Có thể thấy trình độ cán bộ quản lý, cán bộ điều hành của các hợp tác xã

dịch vụ không ngừng đƣợc nâng cao trong các năm gần đây, bình quân 1 HTX

có 1 ngƣời có trình độ đại học, 2 ngƣời có trình độ trung cấp, số ngƣời có trình

độ sơ cấp, chƣa đạo tạo giảm đi. Tỷ lệ bình quân cán bộ quản lý, điều hành có

trình độ, bằng cấp cao nhất là ở hợp tác xã giao thông vận tải.

Về kết quả sản xuất kinh doanh

Bảng 2.19 : Kết quả kinh doanh của các HTX điều tra

Số

Doanh thu

Chi phí

Lợi nhuận

HTX

TT

Tên hoạt động

thực

BQ 1

Số

BQ 1

Số

BQ 1

Số lƣợng

hiện

HTX

lƣợng

HTX

lƣợng

HTX

(Tr.đ)

(HTX)

(Tr.đ)

(Tr.đ)

(Tr.đ)

(Tr.đ)

(Tr.đ)

1 HTX Thơng mại

2

13484

6742

12500

6250

984

492

2 Vận tải

2

15830

7915

14979

7489,5

851

425,5

3 HTX dịch vụ điện

2

4236

2118

3925

1962,5

311

155,5

4 HTX Môi trờng

2

899

449,5

837.57

418,79

61,43

30,715

2

5 Quỹ tín dụng nhân dân

6877

3438,5

6162

3081

715

357.5

Tổng cộng

10

41326

4132,6

38403,6

3840,4

2922,43

292,24

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả

77

Tổng doanh thu của 10 hợp tác xã dịch vụ điều tra năm 2007 là 41326

triệu đồng, bình quân mỗi HTX là 4132,6 triệu đồng, trong đó HTX có doanh

thu nhiều nhất là HTX Vận tải 15830 triệu đồng (bình quân 7915 triệu

đồng/HTX). HTX có doanh thu ít nhất là HTX Môi trƣờng 899 triệu đồng (chủ

yếu là thu lệ của hộ, rác tái chế phân hữu cơ).

Tổng chi phí của 10 HTX hoạt động trong lĩnh vực này là 38403,6 triệu

đồng, bằng 92,92%% tổng doanh thu. HTX có chi phí cao nhất là HTX giao

thông vận tải với 14979 triệu đồng (39%) chi phí của 10 HTX, HTX có chi phí

thấp nhất là HTX môi trƣờng 838,57 triệu đồng.

Lợi nhuận của các HTX nói trên là 2922,43 triệu đồng. Tỷ suất lợi

nhận/doanh thu đạt 7,07%. HTX, trong đó HTX có lợi nhuận cao nhất là HTX

dịch vụ, thƣơng mại 492 triệu đồng, HTX có lợi nhuận thấp nhất là HTX dịch

vụ môi trƣờng.

Tình hình thu nhập của cán bộ, xã viên và đóng góp xã hội của các

HTX như sau :

Bảng 2.20: Thu nhập của cán bộ, xã viên trong các HTX dịch vụ điều tra,

2007

Chỉ tiêu

Theo lĩnh vựckinh doanh

ĐVT

Môi

Quỹ TD

TM

GTVT

Điện

trƣờng

ND

2.Thu nhập BQ xã viên/năm

Tr.đ

14,44

17,4

11,6

7,56

21,7

3.Thu nhập BQ CBQL/năm

Tr.đ

25,8

23,4

15,4

12,56

24

4.Đóng góp xã hội BQ 1 HTX/năm

Tr.đ

9

10

9,6

3,4

14

5.Tổng lãi trả theo vốn góp BQ 1HTX/năm

Tr.đ

48,17

42,96

39,12

25,23

45

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả

Thu nhập bình quân của xã viên có sự chênh lệch trong các loại hợp tác xã

theo ngành nghề kinh doanh. Thu nhập của xã viên trong Quỹ tín dụng nhân

dân là cao nhất (21,7 triệu đồng/xã viên/năm), thấp nhất là hợp tác xã môi

trƣờng (bình quân là 7,56 triệu đồng/xã viên/năm); thu nhập của cán bộ quản lý

78

và đóng góp xã hội thì HTX thƣơng mại dịch vụ có sự cách biệt không lớn giữa

HTX GTVN, thƣơng mại, quỹ tín dụng nhân dân; ở mức thấp thuộc về HTX

dịch vụ điện và môi trƣờng.

Ưu điểm của HTX dịch vụ thương mại:

Trong quá trình phát triển, HTX dịch vụ thƣơng mại đã xuất hiện nhiều

mô hình mới, thiết thực hiệu quả nhƣ HTX dịch vụ môi trƣờng, HTX xây xựng

quản lý chợ.

HTX hoạt động trong lĩnh vực này những năm vừa qua có số lƣợng HTX

nhiều nhất, và có tốc độ gia tăng nhanh nhất trong các loại hình HTX với tổng

số 426 HTX (chiếm 57,4% tổng số HTX trên toàn tỉnh), có tốc độ phát triển

bình quân trong những năm vừa qua đạt 120,3%, nhanh hơn so với HTX hoạt

động trong lĩnh vực khác.

Các HTX dịch vụ trong thời gian qua đã góp phần đáp ứng nhu cầu sản

xuất và tiêu dùng của ngƣời dân, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao

động địa phƣơng, tăng thu nhập cho cán bộ, nhân viên HTX, thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tăng tỷ trọng dịch vụ.

Các HTX đƣợc tổ chức lại gọn nhẹ, chỉ duy trì bộ máy quản lý, mỗi

HTX trung bình có từ 3-4 cán bộ quản lý; quá trình hoạt động sản xuất kinh

doanh ngày càng tự chủ, tăng cƣờng sự hợp tác liên kết với thành phần kinh tế

khác cùng hợp tác và phát triển.

Những khó khăn của HTX dịch vụ thương mại những năm gần đây:

Số lƣợng HTX mặc dù có sự tăng nhanh, tốc độ phát triển bình quân khá

cao song chƣa mang tính bền vững, HTX dịch vụ điện đƣợc thành lập theo

quyết định của UBND tỉnh có số lƣợng tăng đột biến 3 năm gần đây lên 378

HTX (chiếm 59% tổng số HTX dịch vụ), nếu thực hiện chủ trƣơng của ngành

điện về việc bán điện đến hộ gia đình thì sẽ không tồn tại của HTX này.

Trình độ cán bộ quản lý, điều hành nhìn chung chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu

phát triển HTX trong giai đoạn mới, qua điều tra chỉ có 6% có trình độ cao đẳng,

79

đại học, bên cạnh đó còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trƣờng.

Thu nhập bình quân đầu ngƣời của xã viên và cán bộ quản lý còn thấp

hơn nhiều loại hình doanh nghiệp khác dẫn đến không giữ đƣợc cán bộ giỏi,

không có sức thu hút hấp dẫn đối với lao động có trình độ từ các thành phần

kinh tế khác.

Thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm còn hạn hẹp, sức cạnh tranh còn yếu so với

tƣ nhân.

Đối với HTX GTVN hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn nhƣ giá nhiên

liệu thƣờng xuyên thay đổi, biến động, nhiều phƣơng tiện của các thành phần

kinh tế cùng tham gia kinh doanh trên nhiều tuyến, áp dụng nhiều loại giá khác

nhau. Xã viên tham gia HTX chƣa thực sự phối hợp chặt chẽ và hoạt động

thống nhất, mới chú trọng đến mục tiêu doanh thu và lợi nhuận, chƣa quan tâm

nhiều đến mục đích lâu dài; chất lƣợng dịch vụ vận tải còn hạn chế.

Hoạt động của quỹ tín dụng có những tồn tại là: khả năng huy động vốn

của các quỹ tín dụng nhân dân chƣa đáp ứng nhu cầu vay vốn của các thành

viên, tỷ trọng nguồn vốn huy động tại chỗ đạt khoảng 65-70% so với tổng

nguồn vốn hoạt động. Phần lớn cán bộ quản lý quỹ trình độ chuyên môn còn

thấp, chƣa mở rộng, liên kết đƣợc giữa các quỹ tín dụng và các tổ chức kinh

doanh tiền tệ để đáp ứng nhu cầu của nhân dân.

Đa số HTX phải mở rộng thêm các dịch vụ khác nhƣ: kinh doanh cây

cảnh, chế biến phế liệu, quản lý chợ... để bù đắp, trang trải và tăng thu nhập cho

xã viên, ngƣời lao động

2.3. Những thành tựu và hạn chế của phát triển kinh tế tập thể ở Bắc

Giang

2.3.1. Những thành tựu đạt được

Những kết quả đạt đƣợc trong việc thực hiện Luật HTX đã mang lại sự

chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, tổ chức sản xuất kinh doanh của

80

kinh tế HTX. Sự chuyển biến đó đƣợc thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:

Thứ nhất, các HTX chuyển đổi hoặc thành lập đã thể hiện đƣợc các

nguyên tắc cơ bản của HTX theo Luật. Các HTX đã chuyển từ điều hành sản

xuất tập trung sang hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân tự chủ; bƣớc đầu

đã đảm bảo nguyên tắc thu đủ bù chi, kinh doanh có lãi hợp lý, góp phần tích

cực vào phát triển kinh tế hộ xã viên, tăng trƣởng kinh tế chung của địa phƣơng,

cộng đồng, không chỉ thuần túy thu lợi nhuận cho HTX; quyền lợi và nghĩa vụ

của xã viên và HTX đƣợc cụ thể hóa; mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền địa

phƣơng và HTX đƣợc đổi mới, phân công, phân cấp rõ ràng hơn.

Thực hiện chức năng dịch vụ, nhiều HTX đã mở rộng phạm vi hoạt động

sang sản xuất để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho xã viên, tăng tích lũy cho

kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới.

Thứ hai, ổn định tổ chức bộ máy. Sau khi chuyển đổi, các HTX đã tổ

chức lại bộ máy quản lý theo hƣớng tinh giản số lƣợng các ban gián tiếp, tăng

cƣờng về chất lƣợng đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu hoạt động dịch vụ, tạo

lập tƣ cách pháp nhân để tiến hành sản xuất - kinh doanh, kịp thời cung cấp các

dịch vụ cần thiết để sản xuất.

Vốn góp, vốn kinh doanh và cơ sở vật chất - kỹ thuật của HTX đƣợc tăng

cƣờng về số lƣợng trung bình từ 10 dến 15% và đƣợc quản lý chặt chẽ hơn.

Vốn của HTX đƣợc hình thành từ nhiều nguồn: từ các HTX cũ chuyển sang, từ

huy động vốn góp của xã viên, từ vay ngân hàng… Tuy còn rất hạn chế, song

các HTX đã có vốn ban đầu để hoạt động dịch vụ.

Thứ ba, về định hƣớng hoạt động. Tuy có sự khác nhau về tên gọi, hình

thức, quy mô và phạm vi hoạt động nhƣng tất cả các HTX đã chuyển đổi và

thành lập mới trong tỉnh đều sản xuất, kinh doanh theo hƣớng kết hợp lợi ích

tập thể với lợi ích cộng đồng, HTX hoạt động rộng khắp các lĩnh vực ngành

nghề, phù hợp với cơ chế thị trƣờng và Luật HTX.

Nhiều HTX đã bƣớc đầu xây dựng mô hình hoạt động và các phƣơng án

81

sản xuất - kinh doanh đa dạng, phù hợp với các điều kiện thực tế về trình độ và

đặc điểm sản xuất của từng ngành, từng vùng; về kết cấu hạ tầng nhƣ hệ thống

thủy nông, đƣờng xá, về máy móc, lao động, vốn… nhằm đáp ứng đƣợc nhu cầu

của các đối tƣợng khác nhau một cách tốt nhất trong điều kiện hiện có của mình.

Các HTX đã thực hiện quy chế dân chủ, công khai kinh tế nội bộ, xóa bỏ

bao cấp, thực hiện hạch toán độc lập, lấy thu từ hoạt động dịch vụ sản xuất và

kinh doanh ngành nghề để chi cho bộ máy quản lý. Các định mức kinh tế kỹ

thuật và đơn giá các khâu dịch vụ đƣợc các HTX xác định lại hợp lý hơn.

Nét mới trong hoạt động kinh doanh của nhiều HTX là vừa bảo đảm

nguyên tắc lấy thu bù chi vừa tạo nền tảng phục vụ tăng trƣởng chung của cộng

đồng chứ không chỉ kinh doanh thuần túy vì lợi nhuận của HTX. Vì vậy, sau

vài năm chuyển đổi hoặc thành lập mới theo Luật, mặc dù tỷ trọng kinh tế của

các HTX hiện còn nhỏ và không còn giữ vai trò trực tiếp tổ chức và điều hành

sản xuất tập trung mà nhiều HTX chuyển sang chức năng làm dịch vụ, nhƣng

những tác động tích cực thúc đẩy kinh tế phát triển đã chứng minh tính đúng

đắn trong định hƣớng hoạt động của các HTX.

Thứ tư, Nội dung hoạt động của các HTX đa dạng, phạm vi hoạt động

đƣợc mở rộng, chất lƣợng dịch vụ có tiến bộ. Hầu hết các HTX đã đảm nhiệm

những dịch vụ có tính cộng đồng, trực tiếp phục vụ sản xuất. Cùng với việc

cung ứng các dịch vụ, một số HTX đã mở rộng phạm vi hoạt động, kinh doanh

tổng hợp, trong đó có các hoạt động sản xuất, nhƣ sản xuất giống, ngành nghề

tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, nuôi trồng thủy sản, giao

thông vận tải, vệ sinh môi trƣờng, HTX chợ…

Hầu hết các hoạt động do HTX đảm nhiệm đã thể hiện đƣợc tính ƣu việt

của kinh tế tập thể nhƣ thủy nông, bảo vệ thực vật, khoa học kỹ thuật, giống

cho hộ xã viên, vệ sinh môi trƣờng. Kết quả khảo sát thực tế tại các HTX

chuyển đổi và thành lập mới cho thấy, phƣơng thức và giá cả dịch vụ do HTX

điều hành thuận tiện và thấp hơn dịch vụ của tƣ nhân trên cùng địa bàn.

82

Thứ năm, tỷ lệ HTX kinh doanh có lãi đã tăng dần. Một số HTX có vốn

lớn, có đội ngũ cán bộ quản lý khá, am hiểu kinh tế thị trƣờng đã mạnh dạn đầu

tƣ mở rộng phạm vi kinh doanh sang các địa phƣơng và dịch vụ khác ở nông

thôn nhƣ điện, tín dụng, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, dịch vụ tiêu thụ

nông sản, cung ứng vật tƣ, hàng hóa, xây dựng… vừa phục vụ tốt nhu cầu kinh

tế hộ vừa tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho HTX.

Thứ sáu, Thông qua hình thức cung cấp dịch vụ, các HTX thực sự đã bắt

đầu phát huy đƣợc vai trò giúp cho kinh tế hộ phát triển, nhất là các dịch vụ đầu

vào. Tuy tỷ trọng kinh tế HTX còn bé, vai trò tổ chức điều hành trực tiếp sản

xuất nông nghiệp không còn nhiều, nhƣng vai trò "hậu cần" cho kinh tế hộ lại

nổi lên khá rõ nét. Thực tế là ở địa phƣơng nào HTX phát triển thì các dịch vụ

làm đất, tƣới tiêu, bảo về thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, cung ứng vật tƣ

nông nghiệp và đặc biệt là ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp

đƣợc thực hiện có tổ chức, đồng bộ và hiệu quả cao hơn so với những nơi

không có HTX. Tính tự phát, manh mún, mạnh ai lấy làm, cạnh tranh không

lành mạnh, chi phí dịch vụ cao, chất lƣợng giống cây trồng không đảm bảo,

năng suất cây trồng, vật nuôi thấp do làm ăn cá thể tạo ra đƣợc khắc phục hoặc

hạn chế. Nhờ làm tốt dịch vụ cho kinh tế hộ nên các HTX đã góp phần quan

trọng trong phát triển nông nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy quá

trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xóa đói giảm nghèo, xây dựng

nông thôn mới theo hƣớng CNH, HĐH.

Thứ bảy, HTX góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn

và sản xuất nông nghiệp theo hƣớng tích cực. Mặc dù vị thế kinh tế còn yếu

nhƣng các HTX đã đóng góp trực tiếp cũng nhƣ gián tiếp vào tăng trƣởng

chung về kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đóng vai trò tích cực trong việc

chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi, giải quyết việc làm, tăng thu

nhập cho xã viên. HTX bƣớc đầu đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển lực lƣợng

sản xuất, áp dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất, đổi mới phƣơng thức kinh

83

doanh, củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn. Các HTX đã từng bƣớc tổ chức

cho hộ xã viên sản xuất theo quy hoạch và yêu cầu của thị trƣờng, hƣớng dẫn

hộ nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất để tăng năng suất, chất

lƣợng và giảm chi phí, từ đó tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa; qua đó

đã hạn chế đƣợc việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi một cách tự phát.

Nhiều HTX đã góp phần tích cực chỉ đạo phong trào "dồn điền, đổi thửa" để

tiện lợi cho khâu cơ giới hóa, thủy lợi hóa và chuyên canh cây trồng, vật nuôi

theo hƣớng sản xuất hàng hóa. Sản xuất nông nghiệp ở các xã có HTX hoạt

động tốt đã bƣớc đầu đƣợc chuyên môn hóa kết hợp thâm canh cao, tiện lợi cho

các khâu canh tác và tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch.

Ngoài ra, các HTX cũng đã góp phần khai thác đƣợc tiềm năng, thế mạnh

của các xã về nguồn nguyên liệu, lao động, thị trƣờng, huy động vốn nhàn rỗi

trong dân… để tăng cƣờng đầu tƣ phát triển sản xuất, dịch vụ phục vụ sản xuất

và xuất khẩu.

Thứ tám, mở rộng liên kết kinh tế giữa các thành phần kinh tế. Hầu hết các

HTX đã và đang định hình những mối liên kết kinh tế mới, chủ yếu làm cầu nối,

liên kết giữa các hộ nông dân với doanh nghiệp nhà nƣớc, Công ty cổ phần,

Công ty giống chăn nuôi, Trung tâm khuyến nông, các công ty trách nhiệm hữu

hạn, công ty tƣ nhân…), cũng nhƣ liên kết kinh tế giữa các trang trại, gia trại và

các HTX với nhau để mở rộng và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động dịch

vụ. Sau khi có Quyết định 80 của Thủ tƣớng Chính phủ về liên kết 4 nhà trong

hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho hộ nông dân, vai trò và thế mạnh của HTX càng

thể hiện rõ và bƣớc đầu đã đƣợc phát huy ở những vùng sản xuất nông sản hàng

hóa tập trung. HTX trở thành cầu nối giữa hộ nông dân sản xuất hàng hóa với các

doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu nông sản và cung ứng vật tƣ.

Thứ chín, HTX góp phần tích cực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội

ở nông thôn. Đóng góp của HTX trong lĩnh vực xã hội là rõ nét, đó là: HTX đã

phát huy đƣợc tinh thần tƣơng thân tƣơng ái trong việc giúp nhau xóa đói, giảm

84

nghèo, góp phần giải quyết vấn đề mang tính kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Góp

phần tạo thêm việc làm mới, thu hút lao động dƣ thừa ở nông thôn, nâng cao

trình độ tay nghề cho lao động nông nghiệp, thực hiện các chƣơng trình xóa

đói, giảm nghèo; xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn nhƣ điện,

đƣờng, trƣờng, trạm, nƣớc sinh hoạt, nhà trẻ, vệ sinh môi trƣờng và các công

trình phúc lợi khác. Xây dựng và phát triển các dịch vụ sinh hoạt cộng đồng,

phòng chống tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình văn hóa, thôn làng văn hóa, tăng

cƣờng đoàn kết tình làng, nghĩa xóm, phát huy dân chủ cơ sở…

Tất cả những việc làm đó của các HTX thời gian qua đã góp phần tích

cực làm đổi mới bộ mặt nông thôn Bắc Giang. Trong điều kiện còn nhiều khó

khăn về doanh thu và lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ còn nhỏ nhƣng nhiều

HTX đã phát huy vai trò của kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới.

HTX không dừng lại ở chủ trƣơng, hô hào hoặc dựa vào bao cấp của Nhà nƣớc

nhƣ trƣớc đây mà thể hiện bằng việc làm cụ thể trên cơ sở phát huy nội lực tại

chỗ của HTX và bà con xã viên. Nguồn kinh phí chủ yếu đƣợc trích từ thu nhập

của các hoạt động dịch vụ của, nguồn lao động do xã viên đóng góp tự nguyện.

Các phƣơng thức cũ "bổ đầu sào", "đầu ngƣời" nhƣ trƣớc đây đã đƣợc khắc

phục. Do vậy, ở những xã có HTX hoạt động hiệu quả, bộ mặt nông thôn đổi

mới nhanh, tình làng nghĩa xóm đậm đà và thắm thiết hơn nhiều so với làm ăn

cá thể "đèn nhà ai rạng nhà ấy".

Thứ mười, HTX góp phần củng cố chính quyền cơ sở ở nông thôn. HTX

hoạt động theo Luật đã góp phần phân định rõ ràng hơn chức năng quản lý nhà

nƣớc của chính quyền xã, thôn, với các chức năng quản lý, điều hành sản xuất -

kinh doanh của các HTX. Chính quyền cơ sở có điều kiện tập trung nhiều hơn

cho công tác quản lý nhà nƣớc trên địa bàn, đồng thời vai trò của Ban chủ

nhiệm và xã viên trong hoạt động của HTX đều đƣợc nâng cao, góp phần giữ

vững ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội nông thôn.

Tóm lại, những kết quả khởi sắc của HTX tuy mới chỉ là bƣớc đầu,

85

nhƣng đã khẳng định đƣợc vai trò và vị trí tất yếu của nó trong cơ cấu kinh tế

nhiều thành phần thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Các HTX chuyển đổi, thành

lập mới đã thể hiện đƣợc các nguyên tắc cơ bản của HTX theo Luật. Đến nay có

nhiều HTX đã vƣợt qua khó khăn, mò mẫm, trở thành những đơn vị sản xuất,

kinh doanh dịch vụ độc lập, thích ứng với cơ chế thị trƣờng và bƣớc đầu làm ăn

có hiệu quả. Nhiều HTX đã mở rộng phạm vi hoạt động sang sản xuất công

nghiệp và các dịch vụ khác để tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho xã viên,

tăng tích lũy cho kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới. Nhiều mô hình

mới, tiến bộ đã và đang xuất hiện và nhân rộng, trở thành những hạt nhân tích

cực góp phần phát triển sản xuất hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật

nuôi theo hƣớng tiến bộ.

2.3.2. Những hạn chế, yếu kém tồn tại

Bên cạnh những thành tựu là chủ yếu, sau khi chuyển đổi hoặc thành lập

theo Luật, nhiều mô hình HTX hiện nay đã bộc lộ những khó khăn và hạn chế

trong hoạt động. Dƣới đây là những biểu hiện cụ thể:

Thứ nhất, hầu hết các HTX đều thiếu vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật để

triển khai các hoạt động. Theo kết quả điều tra bình quân 1 HTX chỉ có 650-

700 triệu đồng/HTX. Song hầu hết là tài sản cố định. Với nguồn vốn lƣu động

ít, các HTX rất khó khăn trong việc mở rộng hoạt động dịch vụ với quy mô lớn,

phạm vi rộng. Vốn đã ít nhƣng nguồn vốn hình thành lại không ổn định, trong

đó vốn góp của xã viên mới rất ít về số lƣợng, lại chủ yếu là giá trị tài sản và

đầu tƣ dài hạn của HTX cũ chuyển sang. Tình trạng đó, một mặt, do họ còn

nghèo, mặt khác, do họ không muốn đóng góp thêm vì chƣa tin tƣởng vào

HTX. Tài sản lƣu động và đầu tƣ ngắn hạn đã ít lại chủ yếu là tài sản lƣu động

phải thu và khó thu. Do vậy, nhiều HTX chỉ làm trung gian giữa tƣ thƣơng hoặc

các doanh nghiệp nhà nƣớc với hộ nông dân. Trong khi đó, xã viên tham gia

HTX cốt để lấy tiếng chứ không muốn góp vốn nhƣ luật định. Qua khảo sát thì

86

mức góp vốn của xã viên rất thấp, phổ biến từ 200 nghìn đồng đến 300 nghìn

đồng. Nhiều HTX chuyển đổi quy định luôn phần tài sản của HTX cũ chia cho

xã viên là vốn điều lệ của xã viên mới, coi đó là vốn góp. Thực tế ở một số HTX

cho thấy, vốn lƣu động do xã viên đóng góp còn thấp hơn mức tối thiểu nên HTX

không có vốn hoạt động. Nguyên nhân của tình hình đó là do nhiều HTX thực

hiện chuyển đổi một cách hình thức, theo phong trào, lấy thành tích mà ít chú

trọng đến thực chất, không thực hiện góp vốn theo quy định của Luật HTX.

Thứ hai, các HTX thiếu cán bộ có năng lực quản lý và điều hành để hoạt

động thực sự có hiệu quả. Thực tế cho thấy, các HTX hoạt động tốt nhƣ HTX

An Hạ, Cơ khí Lạng Giang, HTX môi trƣờng Hiệp Hoà... trƣớc hết là những

HTX có đội ngũ cán bộ, đặc biệt là các cán bộ chủ chốt, đƣợc đào tạo cơ bản,

có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, tâm huyết với HTX. Tuy nhiên, nhìn

tổng thể, năng lực quản lý kinh tế của đội ngũ cán bộ chủ chốt của các HTX ch-

ƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lƣợng hoạt động dịch vụ

trong cơ chế thị trƣờng có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các thành phần kinh tế.

Trình độ văn hóa, KHCN và quản lý kinh tế của chủ nhiệm, kế toán, kiểm soát

HTX đều còn thấp. Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong những năm qua

Tỉnh ủy, UBND tỉnh chƣa quan tâm đúng mức đến công tác quy hoạch, đào tạo,

bồi dƣỡng cán bộ cho kinh tế tập thể, nhất là HTX . Phần lớn cán bộ của các

HTX chuyển đổi chƣa có kiến thức kinh tế thị trƣờng nhƣng chƣa đƣợc đào tạo

lại hoặc bồi dƣỡng theo chƣơng trình của Nhà nƣớc. Mô hình đào tạo cán bộ

HTX tổ chức cũng giới hạn về phạm vi, khó khăn về kinh phí, về nội dung ch-

ƣơng trình, đội ngũ giảng viên, cơ sở trƣờng lớp, hình thức đào tạo, bồi dƣỡng

đôi khi chƣa phù hợp… nên chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển HTX dịch

vụ. Trong hệ thống giáo dục quốc dân chƣa có trƣờng nào đào tạo chính thống

cán bộ quản lý HTX.

Mặt khác, ở nhiều xã việc bố trí cán bộ HTX còn mang tính áp đặt từ

phía chính quyền địa phƣơng, cùng với chế độ đãi ngộ đối với cán bộ HTX

87

không tốt nên nhiều cán bộ có năng lực quản lý sản xuất - kinh doanh tìm mọi

cách chuyển sang làm công tác khác, không khuyến khích họ học tập nâng cao

trình độ phục vụ HTX lâu dài.

Do trình độ hạn chế nên một số ban quản trị HTX rất ngại mở mang hoạt

động dịch vụ, thậm chí có HTX đem tiền vốn góp của xã viên gửi ngân hàng

lấy lãi ít ỏi. Trong khi đó, hộ xã viên có nhu cầu đƣợc hỗ trợ nhƣng HTX lại

không thể đáp ứng đƣợc nhu cầu đó, dẫn đến kinh tế hộ kém phát triển, thu

nhập thấp. Cũng bởi hạn chế về trình độ nên sau khi chuyển đổi rất nhiều HTX

lúng túng không biết hoạt động dịch vụ nhƣ thế nào cho hiệu quả. Một số HTX

tồn tại một cách hình thức, có mở ra các hoạt động dịch vụ song không hiệu

quả, thậm chí còn lỗ vốn.

Thứ ba, hiệu quả kinh tế và thu nhập của phần lớn các HTX rất thấp, sức

hấp dẫn không cao. Số HTX hoạt động có hiệu quả còn ít, không đủ vốn tích

lũy để tái đầu tƣ mở rộng và nâng cao chất lƣợng ngành nghề dịch vụ. Số HTX

sau chuyển đổi hoạt động cầm chừng, yếu kém còn khá nhiều. Đến ngày 31-12-

2007, toàn tỉnh còn 85 HTX kinh doanh bị lỗ. Sản phẩm hàng hóa và dịch vụ

của các HTX kém sức cạnh tranh nên phát triển chậm. Tỷ suất lợi nhuận so với

doanh thu của các HTX đều rất thấp (dƣới 10%). Thu nhập và đời sống của xã

viên, cán bộ HTX thấp nên sức thu hút hộ tham gia HTX chƣa cao.

Thứ tư: Quy mô HTX còn nhỏ, tài sản nghèo, kỹ thuật lạc hậu. Năm

2005 mới có 350 HTX có trụ sở làm việc (chiếm 75%); tài sản bình quân 1

HTX là 253 triệu đồng/HTX; bình quân 1 HTX chỉ có 33 lao động dịch vụ, chủ

yếu là lao động thủ công với công cụ thô sơ. Máy móc, thiết bị và công cụ của

các HTX ít và kém về chất lƣợng, chủ yếu do các HTX cũ chuyển sang nên

không phát huy đƣợc. Do vậy, khả năng phát triển các hoạt động dịch vụ cho

kinh tế hộ nông dân của các HTX là rất hạn chế. Còn xã viên thì tuy đƣợc coi là

hộ nông dân tự chủ nhƣng tƣ liệu sản xuất, vốn liếng và trình độ sản xuất yếu

kém, không thích ứng với yêu cầu của CNH, HĐH và chuyển sang sản xuất

88

hàng hóa theo cơ chế thị trƣờng.

Mặt khác với hiệu quả kinh doanh không cao, không có vốn để đầu tƣ phát

triển cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị công nghệ lạc hậu, sản xuất chủ yếu vẫn thủ

công, manh mún, quy mô nhỏ, chi phí sản xuất cao, năng lực nội tại yếu.

Thứ năm: Nhiều HTX chƣa có sự chuyển biến cơ bản về nội dung và

hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh. Số khác đƣợc thành lập nhƣng chƣa

hội tụ đủ các điều kiện cần thiết cũng không phát huy đƣợc vai trò của mình,

hoạt động cầm chừng hoặc tồn tại hình thức. Số HTX này còn nhiều. Theo kết

quả điều tra Liên minh HTX tỉnh, hiện nay cả tỉnh còn 143 HTX (19,2%) hoạt

động không hiệu quả, thực chất là tồn tại một cách hình thức.

Thứ sáu, Cơ cấu hoạt động của HTX chƣa hợp lý, phạm vi còn hẹp, chủ

yếu là những HTX mang tính công ích, bắt buộc nhƣ thủy lợi, bảo vệ thực vật,

khoa học kỹ thuật, dịch vụ thú y, dịch vụ điện; các dịch vụ khác do hộ nông dân

tự lo liệu. Một số HTX có tỷ lệ làm dịch vụ nông nghiệp rất ít mà chủ yếu làm

dịch vụ điện nông thôn, tín dụng nông thôn, vì hai dịch vụ này có lợi nhuận cao

hơn. Trong khi đó, các dịch vụ quan trọng nhất là dịch vụ đầu vào, đầu ra của

sản xuất thì nhiều HTX không đƣa vào nội dung hoạt động. Đặc biệt là dịch vụ

tiêu thụ nông sản cho hộ nông dân nói chung, hộ xã viên nói riêng - một khâu

tuy khó khăn nhƣng rất quan trọng, là động lực kinh tế cơ bản thúc đẩy sản xuất

nông nghiệp phát triển, nhƣng số lƣợng các HTX tham gia còn rất ít.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

Một là, nguyên nhân về nhận thức. Đa số nhân dân nhận thức chƣa đúng

hoặc chƣa đầy đủ về Luật HTX và vai trò của HTX đối với sự phát triển kinh tế

- xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc. Bản thân xã viên HTX

(thƣờng ở các HTX chuyển đổi) chƣa nhận thức đầy đủ hai mặt: lợi ích và trách

nhiệm cá nhân đối với bộ phận kinh tế tập thể, HTX. Họ tham gia HTX hoặc vì

tâm lý ỷ lại, quen đƣợc bao cấp, muốn đƣợc HTX hỗ trợ về mặt dịch vụ, trông

chờ sự hỗ trợ từ phía HTX và Nhà nƣớc; hoặc vì đã đóng góp tài sản cho HTX

89

cũ; hoặc vì chính quyền địa phƣơng yêu cầu (ở những nơi xây dựng HTX theo

phong trào) hoặc vì tình làng nghĩa xóm, hoặc những hệ quả của mô hình HTX

cũ trƣớc đây để lại...Vì vậy ít quan tâm đến trách nhiệm đóng góp của bản thân

cho các hoạt động của HTX.

Hai là, một số tồn tại do lịch sử để lại nhƣng chậm đƣợc khắc phục. HTX

trên địa bàn tỉnh đã đƣợc chuyển đổi hoặc thành lập mới theo Luật HTX, nhƣng

hiệu quả kinh tế thấp nên chƣa có sức hấp dẫn đối với hộ nông dân, chƣa tạo

đƣợc lòng tin với tổ chức tín dụng, ngân hàng (để có nguồn vốn đầu tƣ), thu

nhập của xã viên chƣa cao nên tính ƣu việt của kinh tế hợp tác còn hạn chế.

Nhiều HTX vẫn còn vi phạm nguyên tắc quản lý dân chủ, công khai tài

chính theo quy định của Luật và nghị quyết của đại hội xã viên. ở nhiều HTX,

một số cán bộ HTX lại lợi dụng kinh tế tập thể để mƣu lợi cá nhân làm cho kinh

tế HTX vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Căn bệnh này tƣơng đối phổ biến và kéo

dài từ những năm trƣớc đổi mới song chƣa thể xóa ngay đƣợc. Công nợ của

HTX chƣa đƣợc giải quyết dứt điểm theo Thông tƣ số 31 của Bộ Tài chính; chế

độ trả một lần cho cán bộ HTX, nhất là cán bộ bị kỷ luật từ khiển trách trở lên

trong thời kì 1996 - 1998 và cán bộ HTX chuyển sang làm công tác Đảng,

chính quyền không đƣợc tính thời gian liên tục và chƣa đƣợc thanh toán phụ

cấp cho thời gian công tác ở HTX (mỗi năm công tác đƣợc thanh toán bằng 1

tháng phụ cấp)… Các khoản nợ của HTX đã làm cản trở quá trình đổi mới và

phát triển HTX.

Sự can thiệp của cấp ủy và chính quyền cấp xã, thôn vào công việc nội

bộ và hoạt động của HTX còn phổ biến. Không ít xã chƣa nhìn nhận đúng vai

trò HTX là tổ chức kinh tế tự chủ của ngƣời lao động và hộ nông dân xã viên,

thậm chí vẫn xem HTX là tổ chức xã hội hay công cụ của chính quyền cơ sở,

quy định sự đóng góp kinh tế của HTX, can thiệp vào hoạt động sản xuất - kinh

doanh, vào việc lựa chọn cán bộ HTX, quy định lƣơng của chủ nhiệm và các

cán bộ HTX… Những can thiệp đó là trái luật nhƣng chậm đƣợc khắc phục nên

đã ảnh hƣởng đến quyền tự chủ của HTX trong sản xuất - kinh doanh, giảm

90

hiệu lực của bộ máy quản lý và hiệu quả dịch vụ của HTX.

Ba là, nguyên nhân về tổ chức chuyển đổi và thành lập mới HTX. Vai trò

của tổ chức Đảng, Nhà nƣớc và các đoàn thể ở địa phƣơng trong việc giáo dục,

tuyên truyền cho nông dân về mô hình HTX còn yếu. Do vậy, đại bộ phận nông

dân chƣa hiểu đƣợc nguyên tắc tổ chức, quản lý HTX, không nhận thức đúng

đắn quyền lợi và nghĩa vụ của mình đổi với HTX.

Việc chỉ đạo của các cấp, các ngành trong quá trình chuyển đổi HTX vừa

yếu, vừa chƣa đồng bộ. ở nhiều xã, Chủ tịch UBND xã "khoán trắng" công tác

chuyển đổi HTX cho chủ nhiệm HTX; trong khi đó, theo quy định của Chính

phủ, Chủ tịch UBND các cấp là Trƣởng ban chỉ đạo đổi mới mô hình HTX.

Việc theo dõi và điều chỉnh những sai lệch của các HTX trong và sau

chuyển đổi chƣa đƣợc đặt thành nhiệm vụ quan trọng thƣờng xuyên, cần thiết

và chƣa xác định rõ tổ chức nào có trách nhiệm trong việc này ở các huyện.

Theo Nghị định 16/CP ngày 21-2-1997, trách nhiệm thụ lý hồ sơ và cấp đăng

ký kinh doanh cho các HTX chuyển đổi và thành lập mới là phòng kế hoạch và

đầu tƣ các quận, huyện trong cả nƣớc; nhƣng việc theo dõi, phát hiện những sai

trái và xử lý kịp thời chƣa quy định rõ cơ quan, tổ chức nào chịu trách nhiệm.

Vì vậy, hiện nay việc chuyển đổi các HTX đƣợc xác định là hoàn thành khi các

HTX cũ nhận giấy Đăng ký kinh doanh, còn sau đó HTX hoạt động thế nào và

những vấn đề gì phải xử lý tiếp theo thì chƣa đƣợc đề cập.

Việc sơ kết, tổng kết để rút kinh nghiệm trong triển khai Luật HTX ở các

huyện làm chƣa đƣợc nhiều và không đồng bộ. Việc không kịp thời chỉ ra

phƣơng hƣớng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để HTX nhiều nơi tan rã

hoặc chỉ còn là hình thức đã cản trở sự phát triển HTX.

Bốn là, nguyên nhân về cơ chế, chính sách. Tuy Luật HTX đã đƣợc Quốc

hội thông qua từ năm 1996, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,

Nghị quyết Trung ƣơng 5 khóa IX đã khẳng định rõ vai trò nòng cốt của HTX,

nhƣng đến nay, nhận thức của các ngành, các cấp về vấn đề này vẫn chƣa tƣơng

xứng. Nhiều cơ chế và chính sách vĩ mô chƣa có tác dụng khuyến khích kinh tế

91

HTX phát triển, rõ nhất là các chính sách tài chính, ngân hàng, đất đai. Nhận

thức về vai trò kinh tế HTX và tính độc lập tự chủ của kinh tế hộ nông dân vẫn

chƣa thống nhất; trong đó, việc xem nhẹ vai trò của HTX trong sản xuất nông

nghiệp hàng hóa còn khá phổ biến. Do vậy, tuy là một bộ phận quan trọng của

nông nghiệp, nông thôn của tỉnh, nhƣng HTX chƣa nhận đƣợc những hỗ trợ cần

thiết, hiệu quả; thậm chí còn có sự phân biệt đối xử so với doanh nghiệp nhà

nƣớc (ví dụ: Nhà nƣớc có chính sách giao vốn ban đầu cho doanh nghiệp nhà

nƣớc, trong khi đó không có chủ trƣơng hỗ trợ vốn tối thiểu cho HTX). ở một

số xã, chính quyền chạy theo phong trào, thành lập HTX bằng sự chỉ đạo chủ

quan, do đó đã tồn tại những HTX không có sức sống.

Nhiều văn bản quản lý nhà nƣớc đối với HTX đƣợc ban hành, song

không có hoặc chậm có văn bản hƣớng dẫn nên không triển khai đƣợc, trong thực

tế nhƣ các chính sách về xử lý nợ tồn đọng đối với HTX cũ đã chuyển đổi, về thuế,

về đất đai, về chế độ tài chính trong đào tạo cán bộ HTX, về tín dụng, về bảo

hiểm… Ví dụ, Nghị định 15/CP ngày 21-2-1997 của Chính phủ về khuyến khích

phát triển HTX quy định rất nhiều ƣu đãi cho HTX so với các thành phần kinh tế

khác nhƣ ƣu đãi về thuê đất trong đó có đất làm trụ sở; tạo điều kiện cho các HTX

vay vốn ƣu đãi; chính sách đào tạo; cơ chế liên doanh, liên kết với các tổ chức và

đơn vị khác… nhƣng hầu hết các HTX không đƣợc hƣởng.

Đội ngũ cán bộ quản lý của HTX rất thiếu và yếu nhƣng Nhà nƣớc lại

chƣa quan tâm đúng mức đến việc đào tạo, bồi dƣỡng và chế độ chính sách đối

với cán bộ.

Quan hệ giữa HTX với các ngân hàng thƣơng mại vẫn còn nhiều bất hợp

lý nhƣng chậm sửa đổi, nên thiếu vốn nhƣng rất khó vay vì HTX không có tài

sản thế chấp.

Vấn đề xây dựng, bồi dƣỡng, hỗ trợ về kỹ thuật để hoàn thiện và nhân rộng

mô hình HTX chƣa đƣợc các cấp và các ngành quan tâm đúng mức; tính tự phát

trong vấn đề chuyển đổi và thành lập mới HTX còn phổ biến.

Cho đến nay, các chế độ hạch toán kinh tế, kiểm tra, kiểm soát, báo cáo

92

kế toán, thống kê… dùng trong các HTX vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu và ban

hành phù hợp với Luật HTX, do vậy việc thực hiện chúng mang tính tùy tiện, tự

phát, không đầy đủ và không thống nhất giữa các HTX.

Về Luật HTX, tuy đã có nhiều bổ sung sửa đổi song vẫn còn một số nội

dung chƣa có sức hấp dẫn đối với hộ nông dân và với các HTX đang hoạt động.

Luật HTX kể cả nội dung mới sửa đổi trong năm 2003 vẫn chậm đi vào cuộc

sống và chƣa hấp dẫn đối với hộ nông dân.

Vì vậy, để tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể, vấn

đề quan trọng nhất là tăng cƣờng vai trò của Nhà nƣớc đối với HTX cả về cơ

chế, chính sách, trong đó có vấn đề tiếp tục hoàn thiện Luật HTX và các văn

bản dƣới luật, đầu tƣ cho công tác đào tạo cán bộ, hoàn thiện bộ máy quản lý

HTX ở các cấp.

Năm là, việc sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nhân rộng điển hình

tiên tiến ra diện rộng chƣa đƣợc thực hiện một cách kịp thời, nghiêm túc. Trong

giai đoạn củng cố, đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, việc tổng kết thực tiễn,

xây dựng mô hình mới là vấn đề rất quan trọng. Song thực tiễn trên bình diện

quốc gia và tỉnh Bắc Giang quá trình này còn nhiều hạn chế. Các mô hình HTX,

tuy đã có một thời gian dài tự mày mò, tự chuyển đổi, tìm hƣớng đi cho mình

nhƣng vẫn chƣa thoát khỏi quan niệm cũ. Cách làm việc, quản lý, việc xác định,

trách nhiệm với xã viên, tâm lý trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nƣớc vẫn còn

dè dặt, đè nặng trong ý thức của xã viên. Hiệu quả kinh tế của HTX còn hạn

chế. Vì thế, có một thực trạng những HTX cũ chuyển đổi chƣa thực sự thoát

khỏi cái cũ, dấu ấn HTX kiểu cũ còn nặng nề, một bộ phận nhân dân còn bàng

quan, xa lánh với phong trào kinh tế HTX.

Quá trình chuyển đổi và phát triển HTX ở Bắc Giang trong thời gian qua đã

và đang đặt ra những vấn đề cần đƣợc giải quyết để kinh tế tập thể thực hiện tốt

vai trò của mình trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN trên địa bàn tỉnh.

93

Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ Ở BẮC GIANG

3.1. Quan điểm đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập

thể ở Bắc Giang

Xuất phát từ lý luận, thực tiễn về mô hình HTX trong tiến trình CNH,

HĐH nông nghiệp ở nƣớc ta và thực trạng sản xuất hàng hóa ở Bắc giang trong

điều kiện kinh tế thị trƣờng, hội nhập kinh tế quốc tế, cần đổi mới, phát triển và

nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể với hình thức nòng cốt là kinh tế hợp tác xã.

Khi kinh tế hợp tác, hợp tác xã phát triển cao sẽ hình thành các liên hiệp hợp tác

xã thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Để đạt đƣợc mục

tiêu đó cần thống nhất một số quan điểm cơ bản sau đây:

3.1.1. Củng cố kinh tế hợp tác, hợp tác xã, tiếp tục phát triển rộng rãi

và đa dạng hóa các loại hình hợp tác, hợp tác xã

Với những HTX chuyển đổi và thành lập mới hiện có cần củng cố, tiếp

tục phát triển rộng rãi kinh tế hợp tác dƣới nhiều hình thức, quy mô, trình độ

khác nhau trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn có điều kiện; có hợp tác một khâu,

có hợp tác nhiều khâu, có hợp tác giản đơn, có liên hiệp các HTX; có hợp tác

vừa góp vốn, vừa góp sức, hoặc chủ yếu chỉ góp vốn không góp sức; có hợp tác

sản xuất tập trung hoặc chỉ làm dịch vụ cho sản xuất của xã viên; có hợp tác

trên phạm vi địa bàn hẹp hoặc không giới hạn địa bàn hoạt động. Tiếp tục phát

triển các loại hình dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, từng bƣớc xây dựng các

hợp tác xã trong nhiều lĩnh vực theo Luật hợp tác xã. Các hình thức hợp tác

khác nhau đều đƣợc Nhà nƣớc hƣớng dẫn, giúp đỡ và có chính sách phát triển,

khi có điều kiện thì chuyển thành hợp tác xã, liên hiệp HTX.

Chế độ hợp tác bao hàm các loại hình, các trình độ tổ chức liên kết giữa

các hộ, các thành phần kinh tế từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến

94

phức tạp.

Có những loại hình đƣợc tổ chức, có tƣ cách pháp nhân, có cơ quan quản

lý, điều khiển chúng đó là hợp tác xã.

Có những loại hình hợp tác nhƣng không có tƣ cách pháp nhân, cũng

không có cơ quan chung quản lý điều khiển, mà chủ yếu do sự thỏa thuận giữa

các hộ với nhau nhằm hợp tác để thực hiện một số khâu nào đó trong sản xuất

kinh doanh.

Do đó trong thời gian tới vừa nhân rộng các mô hình đã có, đồng thời

khuyến khích, hƣớng dẫn tổ chức các loại hình mới nhƣ: HTX chế biến, bảo

quản nông sản, Bao tiêu sản phẩm, Hợp tác tạo vốn, tín dụng cho các hộ nông

dân, Hợp tác về các loại dịch vụ nhƣ cung ứng vật tƣ, tổ chức lƣu thông hàng

hoá, HTX trong lĩnh vực y tế, trƣờng học, thƣơng mại, phát triển các hình thức

hợp tác dƣới dạng nghề nghiệp nhƣ: Hội làm vƣờn, Hội nuôi tôm...

Cần lƣu ý là phong trào hợp tác hóa phải đƣợc tổ chức từ thấp đến cao,

phải thật sự dân chủ trong quản lý, nhƣng tránh dừng quá lâu ở các hình thức tổ

chức hợp tác mà phải đƣa lên hợp tác xã.

3.1.2. Phát triển hợp tác xã phải dựa trên nền tảng kinh tế, phát huy

vai trò tự chủ, tiềm năng to lớn, vị trí quan trọng, lâu dài của kinh tế hộ

Theo Luật HTX năm 2003, HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá

nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung,

tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức

mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu

quả các hoạt động sản xuất - kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.

HTX do xã viên lập ra, không phải là loại bỏ kinh tế hộ, mà xuất phát từ

nhu cầu của kinh tế hộ, các hộ tự nguyện hợp sức thành lập HTX để tạo nên sức

mạnh kinh tế lớn hơn, có hiệu quả hơn nhằm bổ sung, thay thế cho kinh tế hộ ở

95

những khâu, những việc mà từng hộ không thể làm hoặc làm không hiệu quả.

Hợp tác xã là sản phẩm của nền sản xuất hàng hóa trên nền tảng kinh tế

hộ, kinh tế hộ càng phát triển thì nhu cầu hợp tác của họ càng cao, họ càng cần

đến HTX. Ngƣợc lại, sự ra đời của các HTX lại thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát

triển hơn nữa.

Bắc Giang là tỉnh có nền sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún,

mang nặng tính tự cấp tự túc, lao động trong nông nghiệp, nông thôn dƣ thừa và

thời gian nông nhàn nhiều, sản xuất hàng hóa kém phát triển; do vậy, nhu cầu về

hợp tác kinh tế của các hộ nông dân còn thấp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các

HTX tiếp tục ra đời và phát triển, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình

chuyển sản xuất nông nghiệp, sản xuất nhỏ sang sản xuất hàng hóa, coi đó nhƣ là

một trọng tâm cần tập trung để tạo bƣớc đột phá tăng trƣởng kinh tế của tỉnh

trong thời gian tới nhƣ tinh thần của nghị quyết Tỉnh Đảng bộ lần thứ XVI đề ra.

Chuyển mạnh sản xuất sang sản xuất hàng hóa, phù hợp với nền kinh tế

thị trƣờng. Trong nông nghiệp, quy vùng sản xuất lúa chất lƣợng cao để có sản

lƣợng tập trung phục vụ xuất khẩu. Nghiên cứu chọn lọc, tiếp thu bộ giống cây,

giống con có năng suất, chất lƣợng đƣa vào sản xuất, tạo ra giá trị kinh tế cao trên

một đơn vị diện tích.

Phát triển HTX không phải là mục đích tự thân. Các HTX đƣợc thành lập

với mục đích trƣớc hết là hỗ trợ kinh tế hộ xã viên phát triển, chúng chỉ có thể

tồn tại và khi thực sự đem lại lợi ích cho họ. Do vậy, sự hình thành và định

hƣớng hoạt động của các HTX phải dựa trên sự tôn trọng tính tự chủ, phát huy

hơn nữa vai trò to lớn của kinh tế hộ xã viên. Tuy nhiên, với tƣ cách là một tổ

chức kinh tế có tƣ cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ

tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của

HTX theo quy định của pháp luật, tức là phải bảo toàn đƣợc vốn và có lãi, để

trên cơ sở đó hỗ trợ cho kinh tế hộ xã viên phát triển vì các mục tiêu xã hội,

cộng đồng khác.

96

3.1.3. Phát triển hợp tác xã phải gắn chặt với mục tiêu công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, nhất là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn trong bối

cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hóa quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến

và thị trƣờng; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng thành

tựu KHCN, trƣớc hết là công nghệ sinh học, đƣa thiết bị kỹ thuật và công nghệ

hiện đại vào các khâu sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng, sức cạnh

tranh của nông sản hàng hóa trên thị trƣờng. CNH, HĐH nông thôn là quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hƣớng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản

phẩm và lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá

trị sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trƣờng sinh thái, tổ chức lại sản

xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công

bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân

dân nông thôn.

Từ nội dung tổng quát của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cả nƣớc,

căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Bắc

Giang trong những năm tới có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

+ Chuyển mạnh sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, phù hợp

với nền kinh tế thị trƣờng. Quy vùng sản xuất lúa chất lƣợng cao để có sản

lƣợng tập trung phục vụ xuất khẩu. Nghiên cứu chọn lọc, tiếp thu bộ giống cây,

giống con có năng suất, chất lƣợng đƣa vào sản xuất, tạo ra giá trị kinh tế cao

trên một đơn vị diện tích.

+ Phát triển mạnh mẽ nghề và làng nghề chú trọng đầu tƣ chiều sâu nâng

cao chất lƣợng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trƣờng. Duy trì phát

triển các nghề mới để thu hút ngày càng nhiều lao động vào các làng nghề, tạo

điều kiện phân bố lại lao động trong nông nghiệp nông thôn giảm số hộ thuần

97

nông, tăng cƣờng công tác đào tạo nghề cho nông dân khu vực kinh tế nông

nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị Quyết Trung ƣơng 7 - Khoá IX.

+ Triển khai xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung.

Lựa chọn các ngành, các sản phẩm có thế mạnh để phát triển sản xuất. Đầu tƣ

xây dựng kết cấu hạ tầng ở các huyện, thành phố, phục vụ chế biến, tiêu thụ sản

phẩm và xuất khẩu, phát triển thêm một số cơ sản xuất công nghiệp thu hút

nhiều lao động.

+ Mở mang các dịch vụ kinh tế và kỹ thuật nhƣ chế biến, cung ứng vật

tƣ, tín dụng, tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng tiến bộ KHCN…

+ Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhƣ điện, đƣờng, trƣờng,

trạm, công trình phục vụ sản xuất chế biến, lƣu thông sản phẩm, công trình văn

hóa, tiến tới đô thị hóa nông thôn…

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa là điều kiện hình thành, phát

triển các HTX với các mô hình phù hợp, hƣớng vào thực hiện các mục tiêu và

nhiệm vụ mà CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đặt ra, đồng thời phải căn cứ

vào mức độ thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ đó trên thực tế ở từng địa bàn

cụ thể để xây dựng các mô hình HTX thích ứng.

Nền kinh tế nƣớc ta chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh

tế thế giới. Tình hình đó đặt kinh tế HTX trƣớc những thời cơ và thách thức

mới. Để đứng vững và phát triển trong bối cảnh đó, các HTX phải đƣợc chuẩn

bị về nhiều mặt, từ lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mô hình tổ chức, đội ngũ cán

bộ, khả năng về tài chính đến các mối liên kết kinh tế…

3.1.4. Hoạt động của hợp tác xã phải theo cơ chế thị trường có sự quản

lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác định, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở

nƣớc ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị

trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng XHCN, trong đó các thành

98

phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của

nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và

cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo, kinh tế

nhà nƣớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của

nền kinh tế quốc dân.

HTX là nòng cốt của thành phần kinh tế tập thể. Do vậy, hoạt động của

các HTX cũng phải dựa theo nguyên tắc thị trƣờng, phải chịu sự quản lý của

Nhà nƣớc và cùng phấn đấu vì mục tiêu XHCN của cả nền kinh tế.

Phát triển các HTX trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng có nghĩa là phải

xóa bỏ bao cấp, bảo hộ tràn lan đối với các HTX, đặt chúng vào sự cạnh tranh

bình đẳng với các thành phần và loại hình kinh tế khác của nền kinh tế. Đồng

thời với việc đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh, phát triển các HTX phải chú

trọng liên kết, hợp tác giữa các HTX với các tổ chức và doanh nghiệp thuộc

mọi thành phần kinh tế; không ngừng củng cố, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ

giữa kinh tế nhà nƣớc với HTX, trong đó, kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo,

giúp đỡ, tạo điều kiện cùng phát triển.

HTX là tổ chức kinh tế của tầng lớp dân cƣ đông đảo nhất ở nƣớc ta,

nhƣng cũng là tầng lớp dân cƣ yếu thế nhất về vốn, trình độ văn hóa, trình độ

chuyên môn…; hoạt động sản xuất - kinh doanh trong lĩnh vực dễ bị tổn thƣơng

nhất do thiên tai, dịch bệnh, thay đổi thời tiết…Đồng thời, khu vực nông

nghiệp, nông thôn luôn có tác động, ảnh hƣởng trực tiếp đến những vấn đề xã

hội quan trọng nhƣ vấn đề an ninh lƣơng thực quốc gia, vấn đề đời sống hàng

ngày của mọi tầng lớp dân cƣ… Do vậy, các HTX rất cần đƣợc Nhà nƣớc hỗ

trợ về nhiều mặt, cả về tổ chức, về KHCN và tài chính… trên cơ sở nâng cao

hiệu lực quản lý nhà nƣớc đối với khu vực kinh tế này. Nhà nƣớc cần tìm hình

thức hỗ trợ thích hợp, tránh áp đặt, tránh bao cấp tạo sự ỷ lại cho những ngƣời

lƣời lao động hoặc núp bóng dƣới danh nghĩa HTX để trục lợi.

99

3.1.5. Phát triển mô hình HTX theo hướng kinh doanh tổng hợp kết hợp

với chuyên môn hóa theo ngành, vùng địa phương

Thực tiễn phát triển các HTX ở nƣớc ta và các nƣớc trên thế giới cho

thấy, khi nền sản xuất mang tính tự cấp, tự túc thì nhu cầu hợp tác của các hộ

nông dân còn thấp, giản đơn, quy mô nhỏ và chỉ ở một vài khâu của chu trình

sản xuất, do vậy, các tổ chức hợp tác của họ thƣờng rất đơn giản, quy mô nhỏ.

Khi nền kinh tế phát triển theo hƣớng sản xuất hàng hóa thì mục tiêu tối đa hóa

lợi nhuận của ngƣời sản xuất - kinh doanh sẽ càng rõ rệt, do đó, nhu cầu hợp tác

trong sản xuất - kinh doanh của họ ngày càng cao và phong phú cả về nội dung

và hình thức, bao trùm tất cả các khâu của quy trình sản xuất từ đầu vào đến

đầu ra. Lúc này, hình thức và nội dung hoạt động của các HTX sẽ phong phú và

mở rộng hơn. Đối với Bắc Giang cần tập trung vào những mô hình sau đây:

Một là: Trong nông nghiệp: Mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp gắn với sản

xuất chăn nuôi. Đối với các huyện miền núi nhƣ Lục Ngạn, Sơn Động, Yên Thế:

phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp gắn với chế biến, tiêu thụ nông, lâm sản.

Hai là: Trong tiểu thủ công nghiệp: Mô hình tiểu thủ công nghiệp – làng nghề

truyền thống; HTX xây dựng, khai thác, kinh doanh dịch vụ vật liệu xây dựng.

Ba là: Trong dịch vụ, thƣơng mại: Mô hình HTX Môi trƣờng; Quỹ tín

dụng nhân dân sẽ phát huy hiệu quả kinh tế – xã hội trong điều kiện hiện nay.

Kinh nghiệm thực tiễn cũng cho thấy, các HTX phải đƣợc tổ chức ở

những khâu, những lĩnh vực mà HTX làm tốt hơn hộ gia đình, tốt hơn tƣ nhân,

tốt hơn DNNN. Do đó, lựa chọn ngành nào, khâu nào, ở quy mô nào, dƣới hình

thức nào để HTX làm là việc hết sức quan trọng. Việc lựa chọn đó phải đƣợc

tiến hành trên cơ sở đánh giá những ngành, mặt hàng có thế mạnh truyền thống

hoặc tiềm năng của địa phƣơng, dựa vào điều kiện sản xuất thực tế ở địa

phƣƣơng, khả năng hiện có của HTX về vốn, về tổ chức bộ máy, cán bộ kỹ

thuật và quản lý… Trong đó, cán bộ là khâu rất quan trọng, ảnh hƣởng quyết

định đến hiệu quả của HTX.

100

Hiện nay, các HTX trƣớc hết cần tập trung làm các dịch vụ đầu vào, đầu

ra phục vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh của các thành viên, từng bƣớc mở

rộng ngành nghề, sản xuất - kinh doanh tổng hợp. Mở rộng các hình thức liên

doanh, liên kết giữa các HTX với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh

tế, nhất là với doanh nghiệp nhà nƣớc. Khi các HTX phát triển đến trình độ cao

hơn thì sẽ hình thành các liên hiệp HTX.

Bắc Giang là tỉnh có hệ thống các HTX hình thành sớm, sau khi thực

hiện Chính sách khoán 10 trong nông nghiệp, các HTX của tỉnh đều chuyển

sang hoạt động dịch vụ nông nghiệp. Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX đến

nay, hầu hết HTX của tỉnh đã thực hiện chuyển đổi theo Luật. Với điều kiện

nhất định về cơ sở vật chất - kỹ thuật, vốn, quỹ, các HTX tiếp tục đổi mới nội

dung, phƣơng thức hoạt động để nâng cao số lƣợng và chất lƣợng các hoạt động

dịch vụ cho hộ nông dân, tổ chức chế biến và tiêu thụ nông sản. Tuy nhiên,

nông nghiệp, nông thôn Bắc Giang đang dƣ thừa một lực lƣợng lao động khá

lớn. Đây là một trong những nguyên nhân hạn chế nhu cầu hợp tác trong sản

xuất nông nghiệp, đặc biệt trong điều kiện sản xuất còn manh mún, mang tính

tự cung tự cấp. Do vậy, để phát triển mạnh, các HTX ở Bắc Giang phải đi vào

sản xuất - kinh doanh, dịch vụ tổng hợp, hƣớng đến phát triển các ngành nghề

phi nông nghiệp nhiều hơn nhƣ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thƣơng mại,

du lịch, tài chính… trên địa bàn nông thôn, góp phần thu hút lực lƣợng lao động

dƣ thừa từ nông nghiệp, nông thôn; làm gia tăng nhu cầu hợp tác trong sản xuất.

3.1.6. Phát triển kinh tế tập thể gắn với đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ, xã viên, người lao động coi đây là khâu đột phá trong

điều kiện thực tế ở Bắc Giang.

Thực tiễn phát triển HTX ở nƣớc ta cũng đã cho thấy các HTX hoạt động

tốt trƣớc hết là những HTX có đội ngũ cán bộ tốt, cả về năng lực và phẩm chất,

đặc biệt là các cán bộ chủ chốt. Họ phải là ngƣời có trình độ tổ chức, quản lý, am

101

hiểu về luật pháp, nguyên tắc hoạt động của HTX; nắm vững quyền lợi, nghĩa

vụ bản thân. Đồng thời, họ phải là ngƣời có phẩm chất tốt, không có tƣ tƣởng

vụ lợi cá nhân, tham ô, lợi dụng chức vụ, cửa quyền, mất dân chủ; có ý thức

cộng đồng, xây dựng tập thể, tƣơng trợ giúp đỡ lẫn nhau, có tâm huyết xây dựng

HTX lớn mạnh.

Mặt khác, HTX cũng phải chăm lo đào tạo, nâng cao trình độ văn hóa,

khoa học - kỹ thuật cho xã viên, ngƣời lao động của HTX và trình độ dân trí nói

chung, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gia tăng nhƣ hiện nay.

Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho HTX, xã viên dễ dàng nắm bắt đƣợc

những yêu cầu của thị trƣờng, ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất để nâng

cao năng suất, chất lƣợng, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trƣờng, góp

phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, tạo tiền đề phát triển các HTX. Khi

có trình độ văn hóa, chuyên môn cao, cả đội ngũ cán bộ và xã viên, cả ngƣời

lao động của HTX và ngƣời chƣa vào HTX, cả xã hội sẽ có nhận thức đúng đắn

hơn về vị trí, vai trò, chức năng của HTX, về quyền lợi và trách nhiệm của

mình đối với HTX… Do vậy, việc chăm lo đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ,

xã viên, ngƣời lao động của HTX và nâng cao trình độ dân trí nói chung có ý

nghĩa quyết định đến sự phát triển HTX ở nƣớc ta trong tiến trình CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn.

3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang

trong giai đoạn hiện nay

Trên cơ sở quan điểm nêu trên để củng cố và phát triển kinh tế tập thể ở Bắc

Giang trong thời gian tới phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó tập trung

nâng cao hơn nữa hiệu quả của bộ phận nòng cốt là kinh hợp tác xã. Dƣới dự lãnh

đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang phải thực hiện triệt để các giải pháp sau:

3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, trên cơ sở đó thống nhất

nhận thức và các quan điểm phát triển kinh tế tập thể

Phát triển HTX ở Bắc Giang trong những năm tới phải hƣớng vào đổi

102

mới mạnh mẽ nhận thức của xã hội về lợi ích, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm

vụ của các HTX trong thành phần kinh tế tập thể, vai trò, vị trí của kinh tế tập thể

trong kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN. Đổi mới nhận thức về vai trò, chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nƣớc, các tổ chức chính trị - xã hội,

đoàn thể các cấp đối với quá trình phát triển HTX; lợi ích, trách nhiệm, quyền hạn,

nghĩa vụ của ngƣời xã viên khi tham gia HTX; nâng cao nhận thức của nhân

dân về chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nƣớc

về phát triển HTX. Thực hiện yêu cầu đó, cần phải làm tốt công tác tuyên

truyền, phổ biến Luật HTX, các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc,

các văn bản dƣới luật hƣớng dẫn thi hành.

Cần sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, giải thích phù hợp với từng

loại đối tƣợng; tài liệu tuyên truyền gồm nhiều loại, với nhiều cấp độ khác

nhau. Thí dụ, tài liệu dƣới hình thức ngắn gọn, đơn giản nhƣ: Hỏi đáp về Luật

HTX, về các văn bản hƣớng dẫn thi hành... Thực hiện xã hội hóa các tài liệu,

kết quả nghiên cứu về HTX để cung cấp cho cán bộ các cấp trực tiếp chỉ đạo về

công tác này.

Thông qua công tác tuyên truyền giúp mọi ngƣời nắm đƣợc sự cần thiết

khách quan phải phát triển HTX trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; mối

quan hệ biện chứng giữa kinh tế tập thể với các thành phần kinh tế khác, những

bài học kinh nghiệm của các nƣớc trên thế giới về phát triển HTX.

Qua công tác tuyên truyền, phổ biến về Luật HTX và các văn bản hƣớng

dẫn của Nhà nƣớc, giúp mọi ngƣời phân biệt đƣợc sự khác nhau cơ bản giữa

mô hình HTX trƣớc đây và hiện nay. Mục đích, yêu cầu, tác dụng và các bƣớc

tiến hành cần thiết của quá trình chuyển đổi, xây dựng HTX . Đồng thời, góp

phần nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị

- xã hội, đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện chủ trƣơng của Đảng, pháp luật

của Nhà nƣớc đối với HTX. Tránh lặp lại những hạn chế nhƣ: chuyển đổi hình

thức, chạy theo phong trào, "hợp tác xã cả làng",... Ngƣợc lại, không thể vì

103

những sai lầm trong quá trình hợp tác hóa trƣớc đây mà kỳ thị với HTX .

Tiếp tục thực hiện chủ trƣơng chuyển đổi, xây dựng HTX theo đúng Luật

HTX. Đồng thời, phải coi trọng việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và nhân

rộng các mô hình có hiệu quả. Công việc này trƣớc hết phải do cơ sở thực hiện,

kết hợp với sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng và các cơ sở nghiên cứu.

Cùng với việc làm trên, cần chú ý tổ chức cho đại diện cán bộ HTX, xã viên đi

tham quan thực tế các mô hình HTX hoạt động có hiệu quả ở các địa phƣơng

khác để học tập, rút kinh nghiệm. Trên cơ sở theo dõi, tổng kết thực tiễn chuyển

đổi, phát triển các HTX trong tỉnh và các địa phƣơng khác, kịp thời điều chỉnh

công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện Luật HTX để đạt đƣợc hiệu quả cao.

3.2.2. Tăng cường sự quản lý và hỗ trợ của chính quyền đối với kinh tế

tập thể

3.2.2.1. Chính sách đầu tư tài chính, tín dụng đối với hợp tác xã

Vốn đầu tƣ là nhu cầu cấp thiết cho hoạt động của các HTX cũng nhƣ các

nông hộ và trang trại gia đình. HTX có hai nguồn vốn cung cấp: vốn nội bộ HTX

và nguồn vốn từ bên ngoài. Qua thực tế các HTX trong tỉnh, nguồn vốn từ nội bộ

rất nhỏ bé. Nguồn vốn bên ngoài trên địa bàn tỉnh chủ yếu dựa vào hệ thống cung

cấp tín dụng phục nông nghiệp, nông thôn, bao gồm 5 ngân hàng thƣơng mại

quốc doanh, Ngân hàng Chính sách xã hội, trong đó, Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn là đơn vị cung cấp chủ yếu (chiếm khoảng gần 90% thị phần

tín dụng). Tuy nhiên, cho đến nay hầu nhƣ các HTX trên địa bàn tỉnh đều chƣa đ-

ƣợc vay vốn trực tiếp của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh. Các nguồn vốn

khác từ các đoàn thể, quỹ hỗ trợ,… bị phân tán, đi thẳng theo các chƣơng trình

dự án đến nông hộ, trang trại gia đình, ít liên quan đến vốn HTX.

Tình trạng thiếu vốn xảy ra ở hầu hết các HTX trong tỉnh, gây khó khăn

cho các tổ chức kinh tế này hoạt động. Do vậy, thông qua chính sách đầu tƣ tài

chính, Nhà nƣớc giúp đỡ, tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông dân và các HTX

104

có vốn hoạt động.

Nhà nƣớc chỉ đạo cho các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh tạo điều

kiện thuận lợi cho HTX đƣợc vay vốn bình đẳng nhƣ các loại hình doanh

nghiệp của các thành phần kinh tế khác; các tổ chức tín dụng tăng mức cho vay

và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn đối với HTX; các HTX đƣợc thế chấp bằng

tài sản hình thành từ nguồn vốn vay để vay vốn ngân hàng, đƣợc vay vốn bằng tín

chấp và vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cho phép các HTX

đƣợc vay vốn từ các chƣơng trình, dự án quốc gia và các tổ chức phi chính phủ,

đƣợc làm chủ một số dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn để tiếp nhận và

sử dụng vốn. Đồng thời tăng cƣờng hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể

quần chúng và chính quyền cấp xã để các hộ khó khăn đƣợc vay vốn sản xuất.

Cho phép HTX đƣợc huy động vốn và cho vay nội bộ. Tăng cƣờng kiểm soát,

chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.

Nhà nƣớc cần dành một tỷ lệ thích đáng ngân sách đầu tƣ cho HTX nhƣ

đầu tƣ cho công tác đào tạo cán bộ HTX và lao động nông thôn, đổi mới công

nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn…

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, nhằm tạo điều kiện pháp lý

cho thị trƣờng tài chính ở nông thôn phát triển lành mạnh, đúng hƣớng, đáp ứng

nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ, kinh tế trang trại gia đình

và kinh doanh của các HTX.

3.2.2.2. Chính sách thuế

Mặc dù Chính phủ có chính sách khuyến khích phát triển HTX, Bộ Tài

chính đã có hƣớng dẫn về ƣu đãi thuế đối với HTX, song hoạt động của các

HTX hiện nay còn hạn hẹp. Hoạt động cung ứng vật tƣ, chế biến, tiêu thụ sản

phẩm đang là nhu cầu lớn của kinh tế hộ, song phần lớn HTX đều chƣa đáp ứng

đƣợc. Một số HTX hoạt động trong các lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn trong

điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trƣờng. Hơn nữa, hoạt động dịch vụ của

HTX không phải hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu nhằm phục vụ

105

mục tiêu phát triển kinh tế hộ xã viên. Bởi vậy, Chính phủ nên miễn thuế cho

các hoạt động dịch vụ của HTX, đặc biệt là HTX nông nghiệp gồm cung ứng

vật tƣ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm… phục vụ sản xuất và đời sống của

hộ xã viên.

3.2.2.3. Chính sách đất đai

Nhà nƣớc cần có cơ chế kiểm tra, đôn đốc các địa phƣơng khẩn trƣơng

thực hiện chính sách cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân;

thực hiện giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

cho HTX xây dựng trụ sở, làm cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, Nhà nƣớc

khuyến khích quá trình tập trung ruộng đất (trong phạm vi cho phép) cho nông

hộ và trang trại phát triển sản xuất hàng hóa; tuyên truyền, khuyến khích và

tạo điều kiện để nông dân tiếp tục dồn điền, đổi thửa, hạn chế tình trạng manh

mún ruộng đất, tạo điều kiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Cùng

với quá trình nói trên, cần đẩy mạnh việc mở mang ngành nghề để giải quyết

3.2.2.4. Chính sách khuyến nông - công - ngư nghiệp, khoa học - công nghệ

việc làm cho lao động chuyển từ nông nghiệp sang.

Việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào

sản xuất có vai trò hết sức to lớn. Đó là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình

phát triển nền kinh tế tiến lên sản xuất lớn, hiện đại. Do vậy, cần tăng cƣờng

nghiên cứu, áp dụng các thành quả mới nhất của khoa học và công nghệ, nâng

cao dân trí, đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực tại chỗ, cung cấp kịp thời các tri thức

KHCN hiện đại, các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất.

Đối với các chủ thể sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản (nông hộ,

trang trại, HTX, doanh nghiệp), cần hỗ trợ kinh phí hoặc trợ giá một phần cho

việc đầu tƣ ứng dụng tiến bộ KHCN nhƣ:

- Thực hiện chính sách ƣu đãi về thuế, lãi suất tín dụng,... không điều tiết

thuế thu nhập trong những năm đầu đối với nguồn thu do ứng dụng thành công

KHCN, giảm lãi suất tín dụng đối với nguồn vốn vay đầu tƣ cho việc ứng dụng

106

KHCN; miễn, giảm thuế cho các hoạt động ứng dụng KHCN;

- Miễn giảm một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo, bồi dƣỡng, huấn

luyện mạng lƣới cán bộ khoa học - kỹ thuật làm nhiệm vụ ứng dụng, tuyên

truyền phổ biến ứng dụng tiến bộ KHCN đến nông dân.

- Tăng cƣờng đào tạo đội ngũ cán bộ HTX, cán bộ quản lý cấp xã về kiến

thức KHCN để triển khai có hiệu quả các chƣơng trình, dự án về ứng dụng tiến

bộ KHCN vào nông nghiệp, nông thôn, nông dân; trên cơ sở đó, giúp cho HTX

thực sự trở thành cầu nối giữa cơ quan nghiên cứu khoa học với nông hộ, trang

trại nhằm nâng cao hiệu quả quá trình chuyển giao KHCN vào thực tiễn sản xuất;

- Tăng cƣờng đầu tƣ kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học

phục vụ nông nghiệp, từ khâu giống đến phƣơng pháp canh tác, sản xuất và sử

dụng phân bón, thuốc trừ sâu phù hợp yêu cầu phát triển bền vững nền nông

nghiệp sinh thái, trên cơ sở phát huy các lợi thế của nông nghiệp của tỉnh.

Sắp xếp, củng cố hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học trên địa bàn

sao cho hoạt động có hiệu quả, kết hợp với chính sách đãi ngộ thích đáng đối

với kết quả nghiên cứu khoa học đƣợc áp dụng nhằm tạo động lực thúc đẩy hoạt

động nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, cụ thể nhƣ:

- Khuyến khích áp dụng đa dạng các hình thức, biện pháp chuyển giao

tiến bộ KHCN phù hợp với dân trí và tâm lý ngƣời dân;

- Đối với các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển, chuyển

giao ứng dụng tiến bộ KHCN vào nông nghiệp, nông thôn, Nhà nƣớc cần có cơ

chế chính sách phù hợp để nâng cao trách nhiệm, khuyến khích lợi ích thỏa

đáng, thực hiện quyền sở hữu trí tuệ, quyền công bố, trao đổi, chuyển giao,

chuyển nhƣợng kết quả nghiên cứu theo quy định của pháp luật.

3.2.2.5. Chính sách thị trường

Thị trƣờng có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển nền sản xuất

lớn, hiện đại; là yếu tố cơ bản, quyết định chiến lƣợc phát triển sản xuất từng

loại nông phẩm.

107

Khi đặt vấn đề phát triển sản xuất một loại nông sản hàng hóa nào đó,

trƣớc hết, các chủ thể sản xuất phải nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trƣờng về số

lƣợng, chất lƣợng, chủng loại hàng hóa, nơi tiêu thụ... Quá trình sản xuất nông

sản hàng hóa không gắn với thị trƣờng sẽ lâm vào tình trạng sản xuất "mù

quáng", "mò mẫm" và thất bại là điều khó tránh khỏi. Đó cũng là lý do tại sao

nhiều dự án chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh và một số địa phƣơng

trong những năm qua bị thất bại. Do vậy, có thể khẳng định rằng thị trƣờng là

căn cứ để tổ chức sản xuất, là cơ sở để hình các thành quyết định đầu tƣ.

Xuất phát từ thực trạng, khả năng hoạt động của các HTX, để đảm bảo thị

trƣờng cho sản xuất nhằm thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế hàng hóa tiến lên sản

xuất lớn, hiện đại, Nhà nƣớc cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

- Các cơ quan chức năng từ tỉnh đến chính quyền cơ sở, các hiệp hội

ngành nghề cần hỗ trợ HTX xúc tiến thƣơng mại, tìm kiếm thị trƣờng, tổ chức

giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nƣớc với hình thức phù hợp; trong đó, phải

đặc biệt coi trọng việc thông tin kịp thời cho các chủ thể sản xuất nắm đƣợc:

thứ nhất, nhu cầu của thị trƣờng tiêu thụ trong và ngoài nƣớc, trƣớc hết là

những hàng hóa có khối lƣợng lớn, phục vụ nhu cầu xuất khẩu; thứ hai, tình

hình sản xuất, cạnh tranh và sự biến động giá cả trên thị trƣờng trong nƣớc và

quốc tế; thứ ba, những thông tin dự báo cần thiết về nhu cầu và xu hƣớng phát

triển nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế; thứ tư, những thông tin về

phƣơng thức, điều kiện, yêu cầu đảm bảo tính thông suốt, tính thời gian từ nơi

sản xuất đến nơi tiêu thụ… Trên cơ sở các thông tin đƣợc cung cấp, các chủ thể

sản xuất nông nghiệp có điều kiện tính toán kỹ hiệu quả kinh tế trƣớc khi quyết

định phƣơng án đầu tƣ sản xuất.

- Thực hiện rộng rãi việc ký kết hợp đồng trực tiếp giữa doanh nghiệp

chế biến và tiêu thụ nông, thủy sản với nông dân qua các HTX. Nhà nƣớc có

chế độ ƣu đãi cho các doanh nghiệp cung ứng vật tƣ phân bón, thức ăn gia súc,

hƣớng dẫn quy trình kỹ thuật và thu mua sản phẩm cho HTX theo hợp đồng dài

108

hạn đối với sản phẩm có khối lƣợng lớn.

- Khuyến khích nông dân và HTX sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở

thành cổ đông của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.

- Đầu tƣ xây dựng cơ quan nghiên cứu thị trƣờng trực thuộc Sở Công

thƣơng để nắm bắt thông tin, dự báo nhu cầu thị trƣờng nông sản trên thế giới

và trong nƣớc, làm nhiệm vụ tƣ vấn, xây dựng chiến lƣợc phát triển sản xuất

nông sản hàng hóa của tỉnh, tạo ra những nông sản chủ lực đáp ứng nhu cầu

xuất khẩu. Đồng thời, thông qua các HTX, các cơ quan này phải làm tốt nhiệm

vụ thông tin, tƣ vấn, giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế trang trại gia đình hình thành

khả năng, thói quen của ngƣời sản xuất hàng hóa.

- Phát triển mạng lƣới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu

hàng hóa, đặc biệt là phát triển đa dạng các hình thức tiêu thụ nhất là tiêu thụ

nông sản. Trƣớc hết là phát huy vai trò của HTX làm dịch vụ tiêu thụ nông sản

hàng hóa cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại.

3.2.3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản

lý, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, xã viên, người lao động

Với tầm quan trọng đó, trên cơ sở điều tra cụ thể về thực trạng của hợp

tác xã trên địa bàn Bắc giang, Liên minh HTX tỉnh Bắc Giang cần chủ động

phối hợp với Liên minh HTX Việt Nam, trƣờng Cao đẳng kinh tế kỹ thuật trung

ƣơng, Trung tâm Đào tạo, hỗ trợ phát triển HTX, Doanh nghiệp vừa và nhỏ,

Trƣờng Trung học Quản lý và Công nghệ (những trƣờng, trung tâm trên đều

của Liên minh HTX Việt Nam) để tổ chức bồi dƣỡng, đào tạo, đào tạo lại

nguồn nhân lực của HTX tỉnh hiện nay, có thể mở lớp đào tạo, bồi dƣỡng tại

địa phƣơng, hoặc tập trung tại Trung tâm đào tạo, bỗi dƣỡng 19/5 (của Liên

minh HTX Bắc Giang); xin hỗ trợ kinh phí từ ngân sách, và huy động nội lực

của các HTX. Nếu mỗi năm đào tạo trình độ nghiệp vụ cho cán bộ quản lý là

100 ngƣời cho mỗi chức danh thì trong vòng 5 năm Bắc Giang có thể cơ bản

109

nâng cao đƣợc trình độ đội ngũ cán bộ hiện nay, đồng thời mỗi năm đào tạo

nghề, bồi dƣỡng cho 500 xã viên, lao động thì 5 năm Bắc Giang có đội ngũ

tƣơng đối vững chức làm cơ sở hạt nhân ở mỗi HTX. Trên cơ sở đó chúng tôi

đề xuất kế hoạch đào tạo hàng năm nhƣ sau :

Bảng 3.1: Kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ xã viên HTX

Số

Thời gian

Kinh phí

Nội dung đào tạo

Đối tƣợng

ngƣời/năm

(tháng)

(Tr.đ)

I/. Liên minh HTX VN

Quản lý kinh tế

1. Chủ nhiệm, phó CN

Luật kinh doanh

4000

3

30.000

2. Kế toán trƣởng

Kế toán

4000

3

26.000

Phân tích HĐKD

3. Trƣởng ban KS

Nghiệp vụ kiểm soát

4000

3

20.000

4. Cán bộ nghiệp vụ

Nghiệp vụ SXKD

9000

1

15.000

5. Giảng viên

Phƣơng pháp giảng dạy

500

3

5.000

Kiến thức chuyên môn

6. Xã viên

2000

Tay nghề sản xuất

1

15.000

II/. Liên minh HTX Bắc Giang

Quản lý kinh tế

1. CN, phó CN

100

Luật kinh doanh

3

500

Kế toán

2. Kế toán trƣởng

100

Phân tích HĐKD

3

700

Nghiệp vụ kiểm soát

Tay nghề

100

3

400

3. Trƣởng ban KS

Thông tin cập nhật

200

1

200

4. Nghề truyền thống

Kỹ năng hoạt động

300

1

200

5. Các lớp bồi dƣỡng ngắn hạn

Nguồn : Tác giả

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế độc lập, đƣợc quyền tự chủ về mọi mặt hoạt

động của mình theo quy định của pháp luật, trong đó có các công tác cán bộ. Để

thực hiện tốt công tác này, HTX phải tiến hành đồng bộ các công việc sau:

Một là: quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ HTX. Trƣớc hết, phải xây

dựng quy hoạch cán bộ, lấy đó làm cơ sở thực hiện công tác cán bộ HTX trong

110

những năm tới; cần phân biệt rõ nghĩa vụ, quyền hạn của HTX với cấp ủy Đảng

và chính quyền địa phƣơng trong công tác cán bộ. Đồng thời hoàn thiện cơ chế

tuyển chọn, đào tạo, bồi dƣỡng, thu hút và sử dụng đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên,

là tổ chức kinh tế của tầng lớp dân cƣ yếu thế trong xã hội, HTX rất cần sự trợ

giúp của Đảng, Nhà nƣớc và đoàn thể các cấp về nhiều mặt, trong đó có công

tác cán bộ. Song, đó không phải là sự làm thay hay can thiệp thô bạo vào công

tác cán bộ HTX. Cấp ủy Đảng, chính quyền địa phƣơng trợ giúp HTX về công

tác cán bộ thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao dân trí nói chung và

trình độ văn hóa, nhận thức của cán bộ HTX nói riêng; hỗ trợ về tài chính và tổ

chức công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ HTX; phối hợp xây dựng quy hoạch

cán bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng…

Hai là: Công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ HTX phải đƣợc thực hiện

thƣờng xuyên, liên tục; kết hợp giữa đào tạo với bồi dƣỡng; ƣu tiên đào tạo, bồi

dƣỡng các cán bộ chủ chốt của HTX. Đa dạng hóa hình thức, lựa chọn địa điểm

đào tạo, bồi dƣỡng phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của HTX và ngƣời

học. Nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ HTX. Đặc biệt

cần tạo nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ HTX căn cứ vào tình hình

phát triển của nó. Khi HTX còn nghèo, ít vốn, Nhà nƣớc nên hỗ trợ 100% kinh

phí cho công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ HTX; khi HTX đã phát triển, vốn của

HTX đã dồi dào hơn, nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ HTX đƣợc

hình thành một phần bằng khoản đóng góp từ quỹ phát triển của HTX, phần khác

bằng nguồn kinh phí của Nhà nƣớc. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,

cần mở rộng hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ HTX.

Ba là: Cần đa dạng hoá hình thức, kế hoạch đào tạo và bồi dƣỡng. Cùng với

phƣơng thức gửi đi đào tạo tại các trƣờng lớp cần mở rộng hình thức đào tạo tại

chỗ, đặc biệt là xã viên, ngƣời lao động thông qua các chƣơng trình dự án khuyến

công, khuyến nông, khuyến lâm. Nội dung đào tạo cần phù hợp với yêu cầu hoạt

động của từng đối tƣợng.

111

Bốn là: Thực hiện đầy đủ các chế độ về lƣơng, thƣởng đảm bảo thu nhập ổn

định, đặc biệt thực hiện nghiêm túc bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện;

từ đó thu hút và giữ đƣợc cán bộ, ngƣời lao động có trình độ và năng lực.

3.2.4. Tổng kết quá trình phát triển KTTT ở Bắc Giang, phát hiện mô

hình KTTT phù hợp với kinh tế thị trường trong hoàn cảnh cụ thể ở Bắc

Giang.

Xây dựng các mô hình hợp tác xã hoạt động theo hƣớng đa dạng hoá

ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, trên cơ sở đó tổng kết các mô hình HTX nhằm

tìm ra những mô hình hoạt động mang tính phổ quát hoạt động có hiệu quả, phù

hợp với từng địa bàn cụ thể, qua đó tạo điều kiện để Nhà nƣớc có chính sách hỗ

trợ. Tuy nhiên quá trình này phải thực hiện một cách nghiêm túc, khoa học, có

quan điểm khách quan. Để thực hiện giải pháp này cần cần tập trung một số vấn

đề sau đây:

Một là: Tiến hành lựa chọn một số HTX điển hình ở các ngành nghề, lĩnh

vực hoạt động khác nhau, tiến hành tổng kết về tổ chức, phƣơng thức hoạt

động... từ đó tổ chức học tập kinh nghiệm, nhân rộng trên địa bàn theo phƣơng

châm thận trọng, sáng tạo, coi trọng chất lƣợng, hiệu quả. Để làm đƣợc việc

này, Liên minh HTX cần có sự phối hợp với các ngành, các cấp xây dựng mô

hình HTX kiểu mới, chủ động đề xuất với cấp uỷ, chính quyền có biện pháp hỗ

trợ, kết hợp tháo gỡ những vƣớng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện.

Hai là: Tiếp tục quán triệt nội dung của chủ trƣơng, đƣờng lối, pháp luật

của Đảng và Nhà nƣớc, đặc biệt là Luật HTX năm 2003, Nghị quyết TW 5 -

Khoá IX về đổi mới và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể. Trên cơ sở đó tạo

ra sự thống nhất cao trong quá trình chỉ đạo, thực hiện. Đẩy mạnh hiệu quả hoạt

động của HTX không chỉ vì mục tiêu xã hội đồng thời phải chú trọng tới hiệu

quả sản xuất, kinh doanh.

Ba là: Tiếp tục nâng cao chất lƣợng hoạt động và thúc đẩy việc hình

112

thành các tổ, nhóm hợp tác liên kết mới nhằm tạo ra những tiền đề, cơ sở vững

chắc để tiếp tục xây dựng, tổ chức và phát triển HTX trong những năm tiếp theo.

3.2.5. Tăng cường liên kết với các thành phần kinh tế khác

Kinh tế tập thể muốn đẩy mạnh phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa

dạng của nền kinh tế hiện đại thì phải tăng cƣờng liên kết kinh tế giữa các HTX

với nhau, giữa HTX với các tổ chức KHCN, giữa HTX với các doanh nghiệp

thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt là với các doanh nghiệp nhà nƣớc, phù

hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội từng vùng, trình độ phát triển ở từng lĩnh vực

sản xuất và nhu cầu hợp tác của các xã viên.

Trong điều kiện hiện nay, kinh tế nhà nƣớc vẫn giữ vai trò quan trọng có

tính quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Trong mối quan hệ này, HTX

phải đóng vai trò ngƣời đại diện, là cầu nối giữa kinh tế nhà nƣớc và kinh tế hộ.

Một mặt, HTX thực hiện việc tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nƣớc, triển khai các

chƣơng trình dự án có liên quan đến kinh tế hộ ở địa phƣơng. Mặt khác, HTX

giúp doanh nghiệp nhà nƣớc mở rộng phạm vi hoạt động phục vụ trực tiếp, có

hiệu quả đến nông dân. Do vậy, tùy điều kiện cụ thể cần phải thiết lập các mối

quan hệ liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nƣớc với HTX và nông dân,

trong đó doanh nghiệp nhà nƣớc giữ vai trò nòng cốt. Doanh nghiệp nhà nƣớc

tạo điều kiện cho HTX mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ, sản

xuất - kinh doanh nhƣ HTX làm đại lý, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm.

Thực hiện liên kết rộng rãi, ký kết hợp đồng trực tiếp giữa các doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có chế biến và tiêu thụ nông sản, thực

phẩm với ngƣời dân qua HTX, nhằm giúp xã viên mua đƣợc các yếu tố đầu vào

cho sản xuất đảm bảo chất lƣợng với giá thành thấp và bán đầu ra với giá cao,

giảm bớt khâu trung gian, nhƣ cung ứng vật tƣ, phân bón, hƣớng dẫn quy trình

kỹ thuật và thu mua sản phẩm cho HTX theo các hợp đồng dài hạn đói với

những sản phẩm có khối lƣợng lớn và có chế độ ƣu đãi đối với các doanh

113

nghiệp này. Có nhƣ vậy mới nâng cao đƣợc hiệu quả khâu lƣu thông phục vụ

cho sản xuất, đây cũng là một trong những cách phát huy nội lực để phát triển

kinh tế. Mạng lƣới cung ứng và bao tiêu về cơ bản theo mô hình liên kết giữa

công - nông - thƣơng - tín dụng - dịch vụ.

Tóm lại: Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta khẳng định, HTX hình thành

và phát triển trên nền tảng của kinh tế hộ, đi vào phát huy vai trò tự chủ, tiềm

năng to lớn, vị trí quan trọng, lâu dài của kinh tế hộ; hoạt động theo cơ chế thị

trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc theo định hƣớng XHCN; hƣớng vào thực hiện

mục tiêu CNH, HĐH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù các HTX

trên địa bàn tỉnh hoạt động còn nhiều yếu kém, nhƣng việc củng cố, phát triển và

nhân rộng mô hình HTX theo Luật HTX (2003) phải theo phƣơng châm tích cực

nhƣng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, tuân thủ các

nguyên tắc HTX, đạt hiệu quả thiết thực; từng bƣớc phát triển theo hƣớng kinh

doanh tổng hợp, kết hợp với chuyên môn hóa theo ngành, vùng; hoạt động ngày

càng gắn kết với các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế nhà nƣớc.

114

KẾT LUẬN

1. Về mặt lý luận và thực tiễn, kinh tế hợp tác, hợp tác xã là sản phẩm tất

yếu của nền sản xuất hàng hoá; sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, sự cạnh

tranh trong kinh tế thị trƣờng càng gay gắt thì những ngƣời lao động riêng lẻ,

các hộ cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng có yêu cầu phải liên kết, hợp

tác với nhau, nếu không khó có thể tồn tại. Phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã

là con đƣờng để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, manh mún với sản

xuất hàng hoá lớn, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá. Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta, một yếu tố

quan trọng để đảm bảo tính định hƣớng XHCN, thực hiện mục tiêu xây dựng xã

hội dân giàu, nƣớc mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh thì kinh tế nhà nƣớc

cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế

quốc dân. Kinh tế tập thể (hợp tác xã là nồng cốt) ra đời, tồn tại và phát triển là

tất yếu khách quan, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị

trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta.

2. So với HTX trƣớc đây, HTX trong kinh tế thị trƣờng có những đặc

trƣng riêng biệt, đó là phân định rõ sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân trứ không

tập thể hoá toàn bộ tƣ liệu sản xuất, mức độ tự nguyện cao, nhà nƣớc ít can thiệt

trực tiếp, vai trò tự chủ của HTX đƣợc phát huy cao độ, với nhiều hình thức tổ

chức đa dạng hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau. HTX hoạt động với mục

tiêu kinh tế kết hợp với mục tiêu xã hội, có nguyên tắc tổ chức là tự nguyện,

quản lý chặt chẽ, bình đẳng và công khai, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi,

kết hợp lợi ích xã viên và lợi ích HTX, trên cơ sở đó bảo đảm hợp tác xã tồn tại

và phát triển.

3. Thực tiễn phát triển kinh tế tập thể ở một số nƣớc trên thế giới và một

số địa phƣơng ở nƣớc ta đã để lại những kinh nghiệp quý báu cho quá trình phát

triển HTX ở Bắc Giang. HTX ở một số nƣớc và địa phƣơng cho thấy, cơ sở

hình thành và phát triển kinh tế hợp tác xã là kinh tế hộ nông dân; hợp tác xã ra

115

đời, tồn tại, phát triển và ngày càng hoàn thiện xuất phát từ yêu cầu sản xuất

hàng hóa, từ nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống quần chúng nhân dân.

Hợp tác xã không thể là một sự áp đặt duy ý chí từ trên xuống mà là sự tự

nguyện của ngƣời dân khi nảy sinh nhu cầu kinh tế trên cơ sở nhận thức và hiểu

biết của mọi ngƣời về HTX. Do những đặc thù của sản xuất nông nghiệp mà

hợp tác xã trong nông nghiệp thƣờng làm chức năng dịch vụ phục vụ cho sản

xuất, còn việc trực tiếp sản xuất là các hộ tự chủ. HTX đƣợc hình thành không

phải trên cơ sở tập thể hóa mà theo con đƣờng góp vốn và phân chia lợi ích.

Các hợp tác xã thƣờng liên kết với nhau thành lập các Hiệp hội ở từng địa

phƣơng và ở trong cả nƣớc.

4. Việc tiếp tục đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế tập thể ở Bắc

Giang có những điều kiện thuận lợi và khó khăn nhất định. Bắc Giang là tỉnh

gần với trung tâm kinh tế trọng điểm phía bắc, có nguồn tài nguyên phong phú,

thời gian qua doanh nghiệp ngày càng tăng lên, môi trƣờng kinh tế ngày càng

đƣợc cải thiện là điều kiện để kinh tế hộ, tiểu chủ phát triển tạo cơ sở cho HTX

hình thành, phát triển, bên cạnh đó HTX ở Bắc Giang có lịch sử hình thành từ

rất sớm, tồn tại qua những bƣớc thăng trầm trong cơ chế tập trung bao cấp, có

điều kiện, kinh nghiêm phát triển trong quá trình đổi mới. Mặc dù có những

tiềm năng, thuận lợi, song Bắc Giang cũng gặp không ít khó khăn, thách thức

tác động nhƣ cơ sở vật chất kỹ thuật của các HTX còn thấp kém, lao động thủ

công là phổ biến, năng xuất, chất lƣợng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn

thấp; kinh tế tập thể đòi hỏi dùng chung tƣ liệu sản xuất (chứ không nhất thiết

phải sở hữu tập thể) song ruộng đất lại chia manh mún...

5. Thực trạng hoạt động của kinh tế tập thể ở Bắc Giang trong thời gian

qua cho thấy kết quả đạt đƣợc của các HTX trong việc thực hiện Luật HTX đã

mang lại sự chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, tổ chức sản xuất

kinh doanh của các HTX. Các HTX chuyển đổi hoặc thành lập đã thể hiện đƣợc

các nguyên tắc cơ bản của HTX theo luật, từng bƣớc ổn định tổ chức bộ máy,

116

sản xuất, kinh doanh theo hƣớng kết hợp lợi ích tập thể với lợi ích cộng đồng,

rộng khắp các lĩnh vực ngành nghề, phù hợp với cơ chế thị trƣờng và Luật

HTX, tỷ lệ HTX kinh doanh có lãi đã tăng dần, góp phần thúc đẩy chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông thôn, mở rộng liên kết kinh tế giữa các thành phần kinh tế.

Bên cạnh những thành tựu thì hầu hết các HTX đều thiếu vốn, cơ sở vật chất -

kỹ thuật để triển khai các hoạt động, các HTX thiếu cán bộ có năng lực quản lý

và điều hành để hoạt động thực sự có hiệu quả, hiệu quả kinh tế và thu nhập của

phần lớn các HTX rất thấp, sức hấp dẫn không cao, quy mô HTX còn nhỏ, tài

sản nghèo, kỹ thuật lạc hậu, cơ cấu hoạt động của HTX chƣa hợp lý, phạm vi

còn hẹp, chủ yếu là những HTX mang tính công ích, bắt buộc nhƣ thủy lợi, bảo

vệ thực vật…

6. Thực tiễn hoạt động kinh tế tập thể ở Bắc Giang còn những hạn chế

nhất định nếu trên là do nhận thức của nhân dân còn chƣa đúng hoặc chƣa đầy đủ

về Luật HTX và vai trò của HTX đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai

đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc. Một số tồn tại do lịch sử để lại nhƣng

chậm đƣợc khắc phục. HTX trên địa bàn tỉnh đã đƣợc chuyển đổi hoặc thành lập

mới theo Luật HTX, nhƣng hiệu quả kinh tế thấp. Vai trò Nhà nƣớc trong việc hỗ

trợ HTX còn chƣa nhiều về chính sách, vốn, khoa học công nghệ, đào tạo bồi

dƣỡng cán bộ... việc sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nhân rộng điển hình

tiên tiến ra diện rộng chƣa đƣợc thực hiện một cách kịp thời, nghiêm túc.

7. Phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang cần thống nhất một số quan

điểm cơ bản cơ bản, đó là tiếp tục củng cố kinh tế hợp tác, hợp tác xã, phát triển

rộng rãi và đa dạng hóa các loại hình hợp tác, hợp tác xã, đồng thời dựa trên

nền tảng kinh tế, phát huy vai trò tự chủ, tiềm năng to lớn, vị trí quan trọng, lâu

dài của kinh tế hộ; gắn mục tiêu phát triển với công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nhất là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế. Hoạt động theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mô hình HTX theo hƣớng kinh doanh tổng

117

hợp kết hợp với chuyên môn hóa theo ngành, vùng địa phƣơng. Phát triển kinh tế

tập thể gắn với đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, xã viên,

ngƣời lao động coi đây là khâu đột phá trong điều kiện thực tế ở Bắc Giang.

8. Để tiếp tục củng cố, đổi mới và phát triển kinh tế tập thể ở Bắc Giang

cần tập trung và thực hiện đồng bộ vào các giải pháp là: tăng cƣờng công tác

tuyên truyền, trên cơ sở đó thống nhất nhận thức và các quan điểm phát triển

kinh tế tập thể; Tăng cƣờng sự quản lý và hỗ trợ của chính quyền đối với Kinh

tế tập thể trong chính sách đầu tƣ tài chính, tín dụng đối với hợp tác xã, chính

sách đất đai, chính sách khuyến nông - công - ngƣ nghiệp, khoa học - công

nghệ, chính sách thị trƣờng; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao

trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, xã viên, ngƣời lao động,

tổng kết quá trình phát triển KTTT ở Bắc Giang, phát hiện mô hình KTTT phù

hợp với kinh tế thị trƣờng trong hoàn cảnh cụ thể ở Bắc Giang, tăng cƣờng liên

kết với các thành phần kinh tế khác .

118

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Kinh tế đối ngoại VCA (1995), Đại hội Liên minh hợp tác xã quốc tế

lần thứ 31 tại Manchester - Anh, Hà Nội.

2. Ban Kinh tế đối ngoại VCA (1995), Đại hội Liên minh hợp tác xã quốc tế

lần thứ 31 tại Manchester - Anh, Hà Nội.

3. Ban Kinh tế Trung ƣơng (2005), Báo cáo tham luận của các hợp tác xã và

các huyện, Tài liệu phục vụ: Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5

(khóa IX) về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, Hà Nội,.

4. Ban Tƣ tƣởng - Văn hóa Trung ƣơng (2002), Tài liệu nghiên cứu các nghị

quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Tƣ tƣởng - Văn hóa Trung ƣơng (2005), Phát triển kinh tế tập thể,

Thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang, Lƣu Văn Sùng (2001), Kinh tế hợp

tác - hợp tác xã ở Việt Nam, thực trạng và định hướng phát triển, Nxb.

Nông nghiệp, Hà Nội.

7. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Lê Trịnh Minh Châu (5/2003), "Nghĩ về định hƣớng và giải pháp phát triển

kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong lĩnh vực thƣơng mại đến năm 2010", Tạp

chí Thương mại, tr.18-22.

9. Công báo (04/01/2004), (4).

10. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Nghị định

43/CP ngày 29/4 về ban hành Điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp, Hà

Nội.

11. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị định

16/CP ngày 21/2 về chuyển đổi, đăng ký hợp tác xã và tổ chức hoạt động

119

của Liên hiệp hợp tác xã, Hà Nội.

12. Cục Thống kê tỉnh Bắc Giang (2001), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Giang

2000, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

13. Cục Thống kê tỉnh Bắc Giang (2004), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Giang

2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

14. Cục Thống kê tỉnh Bắc Giang (2006), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Giang

2005, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

15. Cục Thống kê tỉnh Bắc Giang (2008), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Giang

2007, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

16. Hà Đăng (2004), Đi lên từ sản xuất nhỏ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban

chấp hành TW Khoá IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Nguyễn Đạt, (2002) "Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả đổi mới các hợp tác

xã nông nghiệp ở Quảng Ninh", Tư tưởng văn hóa, tr.11-14.

21. Nguyễn Thanh Hà (2000), Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh.

22. Naoto Imagawa, Chu Thị Hảo (2003), Lý luận về hợp tác xã và quá trình

phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

23. Lâm Quang Huyên (2000), Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

24. Liên minh Hợp tác xã tỉnh Bắc Giang (1999), Báo cáo tình hình kinh tế

hợp tác, hợp tác xã năm 1999.

25. Liên minh Hợp tác xã tỉnh Bắc Giang (2000), Báo cáo tình hình kinh tế

120

hợp tác, hợp tác xã năm 2000.

26. Liên minh Hợp tác xã tỉnh Bắc Giang (2001), Báo cáo tình hình kinh tế

hợp tác, hợp tác xã năm 2001.

27. Liên minh Hợp tác xã tỉnh Bắc Giang (2003), Báo cáo tình hình kinh tế

hợp tác, hợp tác xã năm 2003.

28. Liên minh Hợp tác xã tỉnh Bắc Giang (2005), Báo cáo tình hình kinh tế

hợp tác, hợp tác xã năm 2005.

29. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2005), Báo cáo của Ban Chấp hành Liên

minh Hợp tác xã Việt Nam khóa II tại Đại hội đại biểu toàn quốc Liên

minh Hợp tác xã Việt Nam lần thứ ba, Hà Nội.

30. Liên minh Hợp tác xã tỉnh Bắc Giang (2007), Báo cáo tình hình kinh tế

hợp tác, hợp tác xã năm 2007.

31. Liên minh hợp tác xã Tỉnh Bắc Giang (2008), Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ

III, phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ IV Liên Minh HTX Tỉnh Bắc Giang,

Bắc Giang.

32. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Nguyễn Huy Oánh (2005), "Tìm hiểu quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin

về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể", Thông tin những vấn đề Kinh tế chính

trị học.

37. Vũ Văn Phúc (3/2002), "Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nƣớc ta", Tạp chí

Lý luận chính trị.

38. Vũ Văn Phúc (2005), Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

39. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật hợp tác,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

121

40. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật hợp tác

xã và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Lƣơng Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (1999), Đổi mới tổ chức và quản lý

hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

42. Lƣơng Xuân Quỳ (2001), Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay -

lý luận, thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Chu Hữu Quý, Nguyễn Kế Tuấn (2001), Con đường công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp và nông thôn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Lƣu Văn Sùng (2004), Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông

nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

45. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang (2000), Hướng dẫn số

271/HD-NN về chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã,

Bắc Giang.

46. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang (2006), Báo cáo kết

quả tổng điều tra hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Bắc Giang năm 2005, Bắc

Giang.

47. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang (2006), Đề án đổi

mới công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp giai đoạn 2006 - 2010, Bắc

Giang.

48. Võ Văn Tân (2005), Kinh tế tập thể trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố

Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh.

49. Lƣu Văn Tiền (2000), Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh

Vĩnh Long, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh.

50. Tỉnh ủy Bắc Giang (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc

Giang lần thứ X VI, Bắc Giang.

122

51. Tỉnh ủy Bắc Giang (2005), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Trung

ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh

tế tập thể, Bắc Giang.

52. Tỉnh uỷ Bắc Giang (2006), Nghị quyết số 52-NQ/TU Phát triển sản xuất

nông nghiệp hàng hoá của tỉnh giai đoạn 2006-2010, Bắc Giang.

53. Tỉnh ủy Bắc Giang (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc

Giang lần thứ XVI, Bắc Giang.

54. Tỉnh uỷ Bắc Giang, (2008), Báo cáo đánh giá, kiểm điểm giữa nhiệm kỳ

Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.

55. Nguyễn Phú Trọng (2005), Đảng cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi

mới đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2000), Báo cáo kết quả thí điểm đổi mới

nội dung phương thức hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp và chuyển

đổi hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã, Bắc Giang.

57. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng (1996), Kinh nghiệm của một

số HTX tiêu biểu trong các ngành kinh tế, Hà Nội.

58. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ƣơng (2003), Kinh nghiệm hoạt

động của một số hợp tác xã sau sáu năm thực hiện Luật hợp tác xã ở Việt

Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Hoàng Việt (2002), "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác xã trong

nông nghiệp", Tạp chí Cộng sản.

60. Hồ Văn Vĩnh, Nguyễn Quốc Thái (2005), Mô hình phát triển hợp tác xã

nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

123

PHỤ LỤC

Phụ lục 1 : Số liệu thống kê về hợp tác xã ở các tỉnh năm 2007

STT

Liên minh HTX

Tổng số

Nông

T.Mại

GTV

Thủy

CN/TTC

Tín

Điện

Môi

Khác

tỉnh, TP

nghiệp

Dvụ

sản

N ,XD

dụng

nƣớc

trƣờng

T

1

An Giang

151

97

22

8

24

2

Bà Rịa–Vũng Tàu

56

12

10

11

9

3

6

5

3

Bắc Kạn

117

37

2

29

49

4

Bắc Giang

742

191

32

6

7

93

378

20

7

8

5

Bạc Liêu

92

57

5

5

12

5

8

6

Bắc Ninh

826

545

36

19

12

187

24

3

7

Bến Tre

93

31

13

6

9

20

11

3

8

Bình Định

284

187

1

20

13

36

27

9

Bình Dƣơng

101

17

15

32

26

11

10

Bình Phƣớc

74

58

3

8

3

2

11

Bình Thuận

140

56

30

6

14

14

20

12

Cà Mau

95

29

19

8

14

20

2

3

13

Cần Thơ

205

57

8

12

44

63

15

3

3

14

Cao Bằng

238

18

7

7

196

3

7

15

Đà Nẵng

106

25

36

45

16

Đắk Lăk

281

105

13

35

77

40

11

17

Đắk Nông

122

37

6

10

22

46

1

18

Điện Biên

90

39

7

4

5

23

11

1

19

Đồng Nai

187

53

12

37

18

23

26

10

8

20

Đồng Tháp

209

154

1

11

18

5

17

2

1

21

Gia Lai

162

76

5

32

43

6

22

Hà Giang

447

137

8

95

21

155

8

6

2

15

23

Hà Nam

193

162

2

6

13

8

2

24

Hà Nội

955

1587

125

73

301

97

36

25

Hà Tĩnh

490

180

39

3

6

45

188

14

13

2

26

Hải Dƣơng

792

335

11

47

21

85

215

70

4

4

27

Hải Phòng

500

189

94

36

137

8

26

3

7

28

Hậu Giang

168

104

4

3

7

50

29

Hòa Bình

354

139

1

3

25

57

124

4

1

30

Hƣng Yên

297

174

17

42

9

55

31

Khánh Hòa

124

71

11

1

16

21

3

1

32

Kiên Giang

146

98

3

2

11

9

23

33

Kon Tum

74

29

2

2

7

29

5

34

Lai Châu

117

21

8

16

4

68

35

Lạng Sơn

260

47

2

14

10

31

156

36

Lào Cai

186

37

1

7

29

98

1

11

2

124

37

Long An

66

25

1

17

5

18

38

Nam Định

473

312

1

40

14

40

41

6

1

18

39

Nghệ An

760

385

32

4

22

43

270

1

3

40

Ninh Bình

365

257

1

1

2

23

25

55

1

41

Ninh Thuận

73

32

8

4

1

6

3

18

1

42

Phú Thọ

389

110

3

7

6

35

34

190

4

43

Phú Yên

211

104

1

14

32

43

4

11

1

1

44

Quảng Bình

363

145

5

9

23

61

20

99

1

45

Quảng Nam

205

134

2

16

2

31

2

14

2

2

46

Quảng Ngãi

269

182

5

15

7

11

15

32

2

47

Quảng Ninh

241

149

8

11

16

33

1

19

4

48

Quảng Trị

351

247

8

14

8

11

32

1

3

49

Sóc Trăng

89

35

3

5

24

10

12

50

Sơn La

216

111

16

6

59

7

14

1

2

51

Tây Ninh

95

27

2

14

1

10

18

1

22

52

Thái Bình

550

322

15

28

83

101

1

53

Thái Nguyên

355

124

6

13

1

70

2

132

4

3

54

Thanh Hóa

1009

496

7

22

42

99

44

275

5

19

55

Thừa Thiên Huế

260

160

3

17

15

29

7

29

56

Tiền Giang

96

40

10

10

2

18

14

2

57

TP Hồ Chí Minh

467

44

113

165

100

17

9

19

58

Trà Vinh

116

27

7

11

9

38

16

7

1

59

Tuyên Quang

241

156

2

12

3

68

60

Vĩnh Long

70

28

1

13

4

22

2

61

Vĩnh Phúc

351

230

3

8

3

10

29

65

3

62

Yên Bái

294

111

8

5

93

16

59

2

Cộng

18.180

8.622

869

1.086

478

3.064

1.022

2.743

112

184

(Nguồn : Website: vca.org.vn - Liên Minh hợp tác xã Việt Nam)

125

Phụ lục 2 : Phiếu điều tra Hợp tác xã

I/ Thông tin về ngƣời đƣợc phỏng vấn

1. Họ và tên :

2. Năm sinh……Giới tính : Nam : □ Nữ : □

3. Chức vụ trong hợp tác xã :

4. Chức vụ ngoài hợp tác xã (nếu có ) :

5. Trình độ văn hóa :

- Tốt nghiệp phổ thông trung học : □

- Tốt nghiệp trung học cơ sở : □

- Tốt nghiệp tiểu học : □

6. Trình độ chuyên môn :

- Đại học, cao đẳng trở lên – chuyên ngành :

- Trung cấp – chuyên ngành :

- Sơ cấp – chuyên ngành :

- Chƣa qua đào tạo : □

II/ Thông tin chung về hợp tác xã

1. Tên HTX:……………………………………………………………....

2. Năm thành lập:…………………………………………………………

3. Năm chuyển đổi theo Luật hợp tác xã 1996 (đối với HTX cũ ):……….

4. Địa chỉ trụ sở :………..Quận(Huyện) :……….Tỉnh(Thành phố):…….

5. Lĩnh vực hoạt động chính của HTX :…………………………………..

6. Tổng số vốn điều lệ (Khi thành lập hoặc chuyển đổi) :………………đ

7. Tổng số vốn góp thời điểm ngày 31/12/2008 :……………………….đ

8. HTX có doanh nghiệp, công ty trực thuộc : Có : □ Không : □

9. Thông tin về Ban quản trị; Ban chủ nhiệm; Ban kiểm soát; Kế toán

126

trƣởng HTX :

Họ và tên

Chức danh

Năm

Giới

Trình độ

Chuyên

sinh

tính

văn hóa

môn

1.Ban quản trị :

-

+ Trƣởng ban quản trị

-

+ Thành viên

-

+ Thành viên

2. Ban chủ nhiệm :

-

+ Chủ nhiệm

-

+ Phó chủ nhiệm

-

+ Thành viên

3. Ban kiểm soát :

-

+ Trƣởng ban kiểm

soát

-

+ Thành viên

4. Bộ phận kế toán :

-

+ Kế toán trƣởng

-

+ Kế toán viên

III/ Th«ng tin vÒ x· viªn

Chỉ tiêu

Số lƣợng

1. Tổng số xã viên tại thời điểm thành lập hoặc chuyển đổi (ngƣời)

2. Tổng số xã viên tại thời điểm 31/12/2008 (ngƣời)

IV/ Thông tin về điều kiện hoạt động?

1. Máy móc, phƣơng tiện, thiết bị :

+ Đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh :

Đáp ứng đủ □ Chƣa đáp ứng □ Thiếu □

127

+ Trình độ :

- Tỷ lệ máy móc , phƣơng tiện, thiết bị hiện đại :…………………%

- Tỷ lệ máy móc , phƣơng tiện, thiết bị còn sử dụng đƣợc, đáp ứng yêu cầu

hiện tại :……………………………………………………...%

- Tỷ lệ máy móc , phƣơng tiện, thiết bị lạc hậu cần thay thế :…….%

2. Ƣng dụng công nghệ thông tin của hợp tác xã :

+ Hợp tác xã có sử dụng máy vi tính : Có □ Không □

+ Nếu có :

- Số lƣợng máy tính :……………….chiếc

- Có mạng nội bộ kết nối các máy : Có □ Không □

- Có Website riêng : Có □ Không □

3. Tài sản và vốn hoạt động :

Đơn vị tính : Triệu đồng

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Chỉ tiêu

Đầu

Cuối

Đầu

Cuối

Đầu

Cuối

năm

năm

năm

năm

năm

năm

1.Tài sản lƣu động và đầu tƣ

ngắn hạn

2. TSCĐ và đầu tƣ dài hạn

Tổng cộng tài sản

3.Nợ phải trả

-

-

-

4. Nguồn vốn chủ sở hữu

Tổng cộng nguồn vốn

128

V/ Hoạt động kinh tế của hợp tác xã

1. Các hoạt động đang thực hiện :

2. Kết quả hoạt động kinh tế :

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Kết quả

Tốc độ

Kết quả

Tốc độ

Kết quả

Tốc độ

đạt đƣợc

tăng

đạt đƣợc

tăng

đạt

tăng

trƣởng

trƣởng

đƣợc

trƣởng

1. Tổng doanh thu

Triệu đồng

2. Lợi nhuận sau thuế

Triệu đồng

3. Nộp ngân sách

Triệu đồng

4. Thu nhập bình quân

Triệu

của ngƣời lao động

đồng/tháng

5. Đóng góp xã hội

Triệu đồng

VI/ Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Chính phủ

1. Chủ trƣơng của Đảng về phát triển kinh tế tập thể :

+ Đồng chí có biết nội dung nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa IX) về phát

triển kinh tế tập thể :

Biết rõ □ Có biết □ Chƣa biết □

+ Đồng chí có đƣợc học tập, phổ biến về nghị quyết này hay không?

Có □ Không □

2. Về Luật hợp tác xã 2003 :

+ Đồng chí đã đọc luật HTX 2003 chƣa?

Đã đọc kỹ □ Chƣa kỹ □ Chƣa biết □

+ Đồng chí có thấy luật HTX 2003 có tác động đến hoạt động của HTX?

Tốt hơn □ Bình thƣờng □ Khó khăn hơn □

+ Đồng chí có nhận đƣợc các văn bản hƣớng dẫn thi hành luật HTX 2003

129