BBỘỘ GGIIÁÁOO DDỤỤCC VVÀÀ ĐĐÀÀOO TTẠẠOO
TTRRƯƯỜỜNNGG ĐĐẠẠII HHỌỌCC KKIINNHH TTẾẾ TTHHÀÀNNHH PPHHỐỐ HHỒỒ CCHHÍÍ MMIINNHH
PPHHẠẠMM VVĂĂNN AANN PPHHÁÁTT TTRRIIỂỂNN KKIINNHH TTẾẾ TTƯƯ NNHHÂÂNN TTRROONNGG QQUUÁÁ TTRRÌÌNNHH HHỘỘII NNHHẬẬPP KKIINNHH TTẾẾ QQUUỐỐCC TTẾẾ TTRRÊÊNN ĐĐỊỊAA BBÀÀNN TTỈỈNNHH TTIIỀỀNN GGIIAANNGG GGIIAAII ĐĐOOẠẠNN 22001155 –– 22002255 LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ KKIINNHH TTẾẾ TTpp.. HHồồ CChhíí MMiinnhh -- NNăămm 22001177
BBỘỘ GGIIÁÁOO DDỤỤCC VVÀÀ ĐĐÀÀOO TTẠẠOO
TTRRƯƯỜỜNNGG ĐĐẠẠII HHỌỌCC KKIINNHH TTẾẾ TTHHÀÀNNHH PPHHỐỐ HHỒỒ CCHHÍÍ MMIINNHH
PPHHẠẠMM VVĂĂNN AANN PPHHÁÁTT TTRRIIỂỂNN KKIINNHH TTẾẾ TTƯƯ NNHHÂÂNN TTRROONNGG QQUUÁÁ TTRRÌÌNNHH HHỘỘII NNHHẬẬPP KKIINNHH TTẾẾ QQUUỐỐCC TTẾẾ TTRRÊÊNN ĐĐỊỊAA BBÀÀNN TTỈỈNNHH TTIIỀỀNN GGIIAANNGG GGIIAAII ĐĐOOẠẠNN 22001155 –– 22002255
CChhuuyyêênn nnggàànnhh :: KKiinnhh ttếế CChhíínnhh ttrrịị
MMãã ssốố
:: 6600331100110022
LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ KKIINNHH TTẾẾ NNggưườờii hhưướớnngg ddẫẫnn kkhhooaa hhọọcc
TTSS.. PPHHẠẠMM TTHHĂĂNNGG TTpp.. HHồồ CChhíí MMiinnhh -- NNăămm 22001177
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, nội dung luận văn là công trình nghiên cứu độc
lập của tác giả, không sao chép công trình khác, nếu có gì sai sót, tác giả
xin chịu trách nhiệm trước pháp luật của Nhà nước.
Tác giả Luận văn
PHẠM VĂN AN
MỤC LỤC Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường 7
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế tư nhân ........................................ 7
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin về phát triển kinh tế tư
nhân ............................................................................................. 7
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế
tư nhân ...................................................................................... 11
1.1.2.1. Kinh tế tư nhân ............................................................... 11
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư
nhân ................................................................................................................ 13
1.2. Tính tất yếu, đặc điểm và vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam 16
1.2.1. Tính tất yếu ................................................................................ 16
1.2.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân Việt Nan ..................................... 17
1.2.3. Vai trò của kinh tế tư nhân ........................................................ 18
1.3. Phát triển kinh tế tư nhân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế20
1.3.1. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của hội nhập
kinh tế quốc tế đến khu vực kinh tế tư nhân ............................. 20
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế tư nhân trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ............................................ 24
1.4. Một số kinh nghiệm về phát triển kinh tế tư nhân tại một số địa
phương trong nước ............................................................................ 28
1.4.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của thành phố Hồ Chí
Minh .......................................................................................... 28
1.4.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Bình Dương ......... 30
1.4.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Long An ............... 31
1.4.4. Những kinh nghiệm rút ra từ phát triển kinh tế tư nhân trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang .................................................................. 33
1.4.5. Một số kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu phát triển kinh tế tư
nhân ở các địa phương .............................................................. 34
Kết luận chương 1 ........................................................................................................ 34
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Tiền Giang trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế .............................................................................. 35
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển kinh tế tư nhân ............................................................ 35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý của Tiền Giang với quá trình
hình thành và phát triển kinh tế tư nhân ................................... 36
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang trong mối quan hệ với
phát triển kinh tế tư nhân ......................................................... 38
2.1.3. Tăng trưởng kinh tế .................................................................. 39
2.1.4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ..................................... 44
2.1.5. Kinh tế tập thể ............................................................................ 46
2.1.6. Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp .......................... 48
2.1.7. Bán lẻ hàng hóa và các ngành dịch vụ ...................................... 49
2.1.8. Chỉ số giá tiêu dùng ................................................................... 51
2.1.9. Đầu tư xây dựng ........................................................................ 52
2.1.10. Tài chính .................................................................................. 52
2.1.11. Xuất - nhập khẩu hàng hóa ...................................................... 53
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân các khu công nghiệp và các
vấn đề đặt ra trong giai đoạn 2015- 2025 ........................................ 57
2.2.1. Khái quát tình hình phát triển công nghiệp, khu công nghiệp .. 57
2.2.2. Thách thức của mô hình phát triển công nghiệp hiện tại .......... 58
2.3. Những kết quả và hạn chế của kinh tế tư nhân tại Tiền Giang ...... 62
2.3.1. Những kết quả của kinh tế tư nhân ở Tiền Giang...................... 62
2.3.2. Nguyên nhân của những kết quả ............................................... 64
2.3.3. Những hạn chế ......................................................................... 64
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................... 66
2.3.5. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang ............................................................ 66
Kết luận chương 2 ........................................................................................................ 69
Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở
Tiền Giang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 2015 – 2025 ... 70
3.1. Dự báo tình hình phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Tiền Giang giai
đoạn 2016 – 2025 ................................................................................ 70
3.1.1. Dự báo về bối cảnh kinh tế trong nước, ngoài nước và trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang .................................................................. 70
3.1.1.1. Tình hình phát triển kinh tế trong nước .................................. 70
3.1.1.2. Tình hình phát triển kinh tế ngoài nước ................................. 72
3.1.2. Xu hướng vận động phát triển kinh tế tư nhân ở Tiền Giang .... 73
3.2. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2016- 2025 ...................... 74
3.2.1. Quan điểm phát triển ................................................................. 74
3.2.2. Mục tiêu phát triển ..................................................................... 77
3.2.3. Định hướng phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Tiền
Giang trong những năm tới ....................................................... 78
3.3. Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
tỉnh Tiền Giang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giai
đoạn 2015- 2025 ................................................................................. 82
3.3.1. Tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi để huy động
mọi nguồn lực của dân cư vào đầu tư, phát triển kinh tế tư
nhân ......................................................................................... 82
3.3.2. Tạo vốn, đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ cho khu
vực kinh tế tư nhân ................................................................. 87
3.3.3. Đổi mới chính sách đối với kinh tế tư nhân theo hướng giải
phóng năng lực sản xuất của tư nhân ...................................... 87
3.3.4. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa lớn, tham gia tích cực các hoạt động xúc tiến thương
mại .......................................................................................... 90
3.3.5. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh việc tích tụ ruộng đất ..... 90
3.3.6. Nâng cao vai trò của các hiệp hội đối với phát triển kinh tế tư
nhân ở Tiền Giang .................................................................. 92
Kết luận chương 3 ........................................................................................................ 93
Khuyến nghị và kết luận ............................................................................................. 95
1. Khuyến nghị ............................................................................................. 95
2. Kết luận .................................................................................................... 97
DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1. Bản đồ hành chính tỉnh Tiền Giang 37
39 Bảng 2. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh - GRDP
40 Bảng 3. Tốc độ tăng trưởng
Bảng 4. Tốc độ tăng trưởng kinh tế một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 42 từ năm 2011- 2015 và bình quân thời kỳ 2011- 2015
Bảng 5. Cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn - GRDP, phân theo khu vực 43 kinh tế
44 Bảng 6. Cơ cấu kinh tế năm 2010 và năm 2015
48 Bảng 7. Tốc độ phát triển giá trị sản xuất qua các năm
50 Bảng 8. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
51 Bảng 9. Chỉ số giá qua các năm
53 Bảng 10. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
54 Bảng 11. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, phân theo loại hình kinh tế
55 Bảng 12. Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh
57 Bảng 13. Giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh tế
58 Bảng 14. Đóng góp của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
61 Bảng 15. Tình hình thu hút đầu tư tại một số khu, cụm công nghiệp
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CCN Cụm công nghiệp
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
DN Doanh nghiệp
ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
EU Liên minh châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm trong nước
GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người
HTX Hợp tác xã
KTQT Kinh tế quốc tế
KTTĐPN Kinh tế trọng điểm phía nam
KCN Khu công nghiệp
KTTN Kinh tế tư nhân
NEP Chính sách kinh tế mới
TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
WTO Tổ chức thương mai thế giới
XNK Xuất nhập khẩu
XHCN Xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Bộ giáo dục và đào tạo (2003), Giáo trình kinh tế - chính trị Mác – Lênin, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2- Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-
2016), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2015.
3- C.Mác – Ph.Angghen (1984): Tuyển tập, T.VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
4- C.Mác – Ph.Angghen (1995): Toàn tập, T.4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
5- Đảng Cộng sản Việt Nam (1986): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
6- Đảng Cộng sản Việt Nam (1991): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
7- Đảng Cộng sản Việt Nam (1996): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8- Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9- Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10- Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11- Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12- Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13- Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14- Đinh Thị Thơm (2006), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới
thực trạng và những vấn đề, Sách tham khảo.
15- Hồ Chí Minh (1996): Toàn tập, t.7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16- Hồ Chí Minh (1996): Toàn tập, t.9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17- Hồ Đức Hùng, Giáo trình giảng dạy môn Quản trị marketing 2004.
18- Hồ Đức Hùng, Marketing căn bản-Nghiên cứu-Quản trị, Trường đại học
Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.
19- Hồ Trọng Viện (2007), Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học đã được nghiệm thu.
20- Luật Doanh nghiệp (29/11/2005)
21- Nguyễn Minh Phong (chủ biên - 2006), Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội,
Sách tham khảo.
22- Nguyễn Minh Tuấn (2003), Vai trò, thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế
tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu khoa học đã được
nghiệm thu.
23- Nguyễn Văn Sáng (2009), Xu hướng phat triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ đã
được nghiệm thu, .
24- Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Quốc Tế, Lương Minh Cừ (đồng chủ biên,
năm 2003), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Sách tham khảo.
25- Nguyễn Văn Thức (2004), Sở hữu lý luận và vận dụng ở Việt Nam, Nhà xuất
bản khoa học xã hội,
26- Nghiêm Xuân Đạt, Tô Xuân Dân, Vũ Trọng Lâm (2002), Phát triển và quản
lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
27- Phan Đình Quyền , TS.Phan Thăng (2000), Marketing căn bản, Nhà xuất bản
Thống kê.
28- Tôn Thất Nguyễn Thiêm (2004), Thị trường, chiến lược, cơ cấu, Nhà xuất
bản Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
29- Từ điển Triết học, Nxb. TB, M, 1975, bản dịch của Nxb ST, H, 1986.
30- Trịnh Thị Hoa Mai, Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
31- Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện thông tin khoa học xã
hội, Kinh tế tư nhân trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay .
32- Trang Website Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
33- Trang Website Cổng thông tin điện tử Chính phủ
34- Trang Website Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương
35- Trang Website Cổng thông tin điện tử Tỉnh Lonh An
36- Trang Website Cổng thông tin điện tử TP. Hồ Chí Minh
37- V.I Lênin (1978): Toàn tập, t.45, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng
ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tư nhân thời gian qua đã phát triển mạnh, rộng
khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các
nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân, tăng ngân sách Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội
của đất nước. Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiến tình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang góp vào sự phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam và trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, thì nhu cầu nâng cao khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế là rất quan trọng, đòi hỏi Việt Nam phải có nhìn nhận mới về
kinh tế tư nhân. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “
Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”, các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Hiện nay, kinh tế tư nhân ở nước ta tăng nhanh về số lượng, hoạt động trên
nhiều lĩnh vực, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm
(khoảng 90%), đóng góp ngày càng lớn vào GDP (khoảng 50% GDP) và 39% tổng
đầu tư toàn xã hội (Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm
đổi mới 1986- 2016, của Đảng Cộng sản Việt Nam), cao nhất so với các thành phần
kinh tế khác. Kinh tế tư nhân có tác dụng góp phấn tích cực khai thác có hiệu quả
mọi nguồn lực của đất nước, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, nhất là trong lĩnh vực
giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân
dân, từng bước nâng cao khả năng cạnh của nền kinh tế.
2
Tỉnh Tiền Giang thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long và nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, với diện tích 2.510,6 km2, có nhiều tuyến đường thủy,
bộ quan trọng, thuận lợi cho việc giao thương trong và ngoài nước. Thời gian qua,
cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế, thành phần kinh tế, Đảng bộ và chính
quyền Tiền Giang không ngừng nghiên cứu, đưa ra các chủ trương, giải pháp, hoàn
thiện các chính sách hỗ trợ cho kinh tế phát triển, trong đó có chính sách đối với sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, nên đã có bước phát triển mạnh mẽ. Tuy
nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, khu vực kinh tế tư nhân của tỉnh
Tiền Giang còn bộc lộ nhiều hạn chế nhất định như: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ
lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, ít đầu tư vào sản
xuất; còn có nhiều khó khăn, vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh,
về cơ chế chính sách, về môi trường pháp lý và tâm lý xã hội; nhiều đơn vị kinh tế
tư nhân chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật đối với người lao động;
không ít đơn vị vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, kinh doanh
trái phép…, đó là những rào cản cho sự phát triển kinh tế tư nhân.
Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng phát triển cũng như tác động của kinh tế tư
nhân tư nhân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đề ra những giải pháp,
phát huy mặt mạnh, hạn chế tác động tiêu cực, có cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân
tiếp tục phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội cả nước nói
chung, tỉnh Tiền Giang nói riêng là rất cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ các lý do trên tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, giai đoạn
2015- 2025” làm luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu luận văn
Vấn đề phát triển KTTN ở nước ta là một trong những vấn đề được nhiều tổ
chức và các nhà khoa học quan tâm. Qua tham khảo, tác giả nhận thấy vấn đề phát
triển kinh tế tư nhân được đề cập dưới các góc độ sau đây:
2.1. “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân- lý luận và chính
sách” của PGS, TS Hà Huy Thành do NXB- CTQG xuất bản năm 2002, tác giả đã
3
đi sâu phân tích thực trạng phát triển khu vực KTTN ở nước ta trong thời kỳ đổi
mới (theo ngành nghề và phân theo vùng lãnh thổ) và nêu lên những kết quả đạt
được, những tồn tại, yếu kém, nguyên nhân chủ yếu và khuyến nghị những chính
sách, giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển khu vực KTTN.
2.2. “Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới, thực trạng và những
vấn đề đặt ra” của Đinh Thị Thơm (chủ biên), do NXB- KHXH xuất bản năm
2005, tác phẩm chủ yếu nhấn mạnh đến quá trình tồn tại và phát triển kinh tế tư
nhân ở Việt Nam sau hai mươi năm đổi mới, phân tích những thành tựu đạt được,
những yếu kém cần khắc phục, nêu giải pháp phát triển kinh tế tư nhân.
2.3. “Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với KTTN ở nước ta hiện nay”
của GS, TS Hồ Văn Vĩnh (chủ biên), do NXB- CTQG xuất bản năm 2003, tác giả
đã phân tích thực trạng hoạt động của khu vực KTTN và vai trò quản lý của nhà
nước đối với khu vực này, từ đó đưa ra khuyến nghị phương hướng và giải pháp
tiếp tục đối mới quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN ở nước ta.
2.4. “Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập” của PGS.TS.Trịnh
Thị Hoa Mai, trong công trình nghiên cứu này tác giả đã phân tích đánh giá vai trò
của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn
với tiến trình hội nhập, đồng thời đề xuất những giải pháp phát triển KTTN Việt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2.5. “Kinh tế tư nhân trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay” của Trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện thông tin khoa học xã hội, tác phẩm
phân tích những đặc điểm của toàn cầu hóa, và chỉ ra sự biến đổi trong nhận thức về
phát triển KTTN trong giai đoạn toàn cầu hóa.
2.6. “Phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế” của tác giả Phan Hồng Giang, đăng trên tạp chí Ngân hàng số 5/2003, đã
đề cập tới vai trò và vị trí của KTTN trong nền kinh tế, tuy nhiên thách thức lớn
nhất đối với KTTN khi hội nhập KTQT là năng lực cạnh tranh kém. Trên cơ sở đó
tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm thao gỡ những khó khắn vướng mắc của khu
vực KTTN
4
2.7. “WTO thuận lợi và khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả
Nguyện Thủy Nguyên, do NXB LĐ- XH, xuất bản năm 2006, tác giả đã giới thiệu
khái quát về WTO và phân tích sự ảnh hưởng của chế độ hoạt động thương mại và
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với các nước đang phát triển, đồng thời đưa
ra những cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt nam khi gia nhập WTO.
2.8. “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Hữu Thắng, do NXB- CTQG xuất
bản năm 2009, tác giả đã khái quát về toàn cầu hóa, hội nhập KTQT cơ hội và thách
thức của toàn cầu hóa đối với các nước, thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt nam trong điều kiện hội nhập KTQT và đưa ra những quan điểm,
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam.
2.9. “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước,
của GS-TS. Nguyễn Thanh Tuyền làm chủ nhiệm, đề tài đã đề cập đến cơ sở lý luận
và thực tiễn, bản chất, vai trò và vị trí của KTTN nói chung cũng như trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng, thực trạng phát triển kinh
tế tư nhân ở nước ta. Từ đó đề xuất các chính sách đổi mới có tính hệ thống và đồng
bộ về phát triển KTTN trong cơ chế thị trường ở Việt Nam.
2.10. “Vai trò, thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh” - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, do TS.Nguyễn Minh
Tuấn làm chủ nhiệm, đề tài phân tích, đánh giá những đóng góp của KTTN vào
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh, những khó khăn, hạn chế
trong quá trình phát triển đồng thời chỉ ra giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển
kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
2.11. “Xu hướng phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” Luận án tiến sĩ năm 2009, của
Nguyễn Văn Sáng, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã
luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn của phát triển KTTN trong quá trình hội
5
nhập KTQT, phân tích thực trạng phát triển KTTN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, qua đó dự báo và đưa ra các giải pháp phát triển KTTN trong tiến trình hội
nhập KTQT trong thời gian tới.
2.12. “Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh” - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do PGS.TS.Hồ Trọng Viện chủ
nhiệm. Đề tài đề cập đến thực trạng những giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước đối với KTTN trên địa bàn thành phố HCM.
2.13. “Hội thảo khoa học, chủ đề: Các giải pháp khuyến khích và phát triển
Kinh tế tư nhân trên địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam” của Ủy ban nhân dân
TP.Hồ Chí Minh – Khoa Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh.
2.14. “Hàng loạt các bài viết: Phát triển đội ngũ doanh nhân khu vực kinh tế
tư nhân hiện nay” của Đoàn Hiền (Tạp chí Cộng sản điện tử); “Một số suy nghĩ về
việc đảng viên làm kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” của Lê Minh Phụng; “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội
nhập quốc tế” của Phạm Chi Lan v.v…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã đặt nhiều vấn đề liên quan đến
những nội dung đề tài nghiên cứu, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, hệ thống, toàn diện về phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của những nghiên cứu trong luận
văn sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn bổ ích cho việc nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở xem xét quá trình phát triển
KTTN trong điều kiện hội nhập KTQT đóng vai trò như thế nào tới kinh tế xã hội ở
tỉnh Tiền Giang, làm rõ những nội dung cơ bản lý luận về KTTN trong nền KTTT,
thực trạng phát triển KTTN trong quá trình hội nhập KTQT ở Tiền Giang từ đó đưa
ra những giải pháp phát triển KTTN trong quá trình hội nhập KTQT của tỉnh Tiền
Giang trong giai đoạn 2016 – 2025.
6
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất là, trình bày khái quát, hệ thống lý luận và thực tiễn liên quan đến
KTTN làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu.
- Thứ hai là, trên cơ sở đó tiến hành khảo sát và phân tích thực trạng phát triển
KTTN ở Tiền Giang giai đoạn 2010- 2015, rút ra những thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân và những kinh nghiệm của phát triển KTTN.
- Thứ ba là, Đưa ra dự báo, phương hướng và đề xuất giải pháp phát triển
KTTN trong quá trình hội nhập KTQT ở Tiền Giang trong những năm 2015 – 2025.
3.3. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận về KTTN trong nền
KTTT, thực trạng và giải pháp phát triển KTTN trong quá trình hội nhập KTQT
trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2015 – 2025, có tham khảo kinh nghiệm của
một số địa phương trong nước.
Thời gian nghiên cứu: Chủ yếu từ năm 2011 đến năm 2015
4. Cơ sở, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Để thực hiện những nhiệm vụ nói trên, luận văn dựa vào thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển KTTN.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp như: Trừu
tượng hóa khoa học, thống kê; lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và
diễn dịch dưới góc độ kinh tế - chính trị.
5. Ý nghĩa và kết cấu của luận văn
Về ý nghĩa: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy
và nghiên cứu về kinh tế học, kinh tế chính trị và cho việc hoạch định chính sách
phát triển KTTN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam nói chung và
Tỉnh Tiền Giang nói riêng. Đồng thời, những bài học kinh nghiệm, những giải pháp
mà luận văn nêu ra có thể góp phần thúc đẩy phát triển KTTN trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở Tiền Giang trong thời gian tới.
7
Về kết cấu: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Kinh tế tư nhân trong nền KTTT;
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Tiền Giang trong quá
trình hội nhập KTQT;
Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân
trong quá trình hội nhập KTQT ở Tiền Giang giai đoạn 2015 – 2025.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Kinh tế tư nhân (KTTN) là một trong những thành phần kinh tế cấu thành nền
kinh tế quốc dân, là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
ở thành phần kinh tế này thì chủ sở hữu hoàn toàn tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, cụ thể là: tự chủ về vốn, tự chủ về
quản lý, tự chủ về phân phối sản phẩm, tự chủ lựa chọn hình thức tổ chức, quy mô,
phương hướng sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trước pháp luật của Nhà nước.
Trong công cuộc đổi mới, Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, trong đó KTTN là một trong những thành phần phát triển khá năng
động. Tìm hiểu những vấn đề chung như quan điểm Chủ nghĩa Mác Lênin về
KTTN; tính tất yếu khách quan và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát
triển KTTN; đặc điểm, vai trò KTTN trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam, … có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn
trong phát triển kinh tế - xã hội.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin về phát triển kinh tế tư nhân
Trong quá trình nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thời kỳ tự
do cạnh tranh, Các Mác đã phát hiện ra quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
8
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mà trong quan hệ sản xuất thì quan hệ
sở hữu với các loại hình và hình thức phong phú của nó là kết quả của sự phát triển
lực lượng sản xuất, mặt khác, đến lượt nó, quan hệ sở hữu lại có tác động kích thích
hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, vì vậy cần thay đổi chế
độ tư hữu tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất khi nó đã đạt đến trình độ xã hội hóa
cao. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, kinh tế tư nhân với tư cách là
biểu hiện cụ thể của sở hữu tư nhân trong điều kiện là quan hệ sản xuất thống trị với
hai tính chất: Sở hữu tư nhân dựa vào lao động của bản thân chủ sở hữu và sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa. Thứ nhất: sở hữu tư nhân dựa vào lao động của bản thân
chủ sở hữu, tức là “sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá
nhân, sở hữu mà người ta bảo là cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc
lập của cá nhân” [2,tr.616]. Với trình độ này, những người cộng sản không cần phải
xóa bỏ, bởi chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của nền đại công
nghiệp cơ khí đã hàng ngày, hàng giờ xóa bỏ nó rồi. Mác nói: “cái mà người công
nhân chiếm hữu được bằng lao động của mình cũng chỉ đủ để tái sản xuất ra sự
sống ngày mai. Vì sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một quyền lực chi phối lao động
của người khác” [3,tr. 168]. Thứ hai: chế độ sở hữu không phải là sở hữu riêng của
một cá nhân bất kỳ mà người chủ sở hữu đó có thể chiếm đoạt kết quả lao động của
người khác. Ông nói: “chế độ sở hữu tư sản … lại là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ
nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng
giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột người kia” [2, tr. 615] vì vậy ông
khẳng định: “Điều chúng tôi muốn là xóa bỏ tính chất bi thảm của cái phương thức
chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản và chỉ
sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi” [2, tr. 618].
Đồng thời Mác cũng khẳng định; không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức
được, cũng như không thể làm cho lực lượng sản xuất tăng lên ngay lập tức đến
mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư
nhân là do quy luật khách quan trong quá trình phát triển của xã hội loài người
quyết định (không thể vượt qua sự phát triển đầy đủ của lực lượng sản xuất và sự
9
chín muồi của các điều kiện kinh tế xã hội, tức là cưỡng chế, đi ngược quy luật),
cũng như sẽ là ấu trĩ và phi lý nếu cho rằng trái đất cuối cùng sẽ bị hủy diệt, rồi từ
đó không tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào nữa, tương tự sẽ là ấu
trĩ và vu vơ nếu cho rằng xóa bỏ sở hữu tư nhân là kết quả tất yếu của sự phát triển
xã hội loài người, để rồi từ đó không cho phép chế độ sở hữu tư nhân, kinh tế tư
nhân tồn tại và phát triển.
Theo Mác, bản chất của xoá bỏ chế độ tư hữu là xóa bỏ chế độ kinh tế trong
đó một thiểu số người nắm tư liệu sản xuất dùng để bóc lột, nô dịch đa số người lao
động làm thuê. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Chủ nghĩa cộng sản không tước của
ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước
bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác” (C.Mác-
Ăngghen,1995,tr.618).
Khi nói về KTTN, V.I.Lênin cũng đã bàn nhiều đến vấn đề này, trong đó nhấn
mạnh phát triển kinh tế tư bản tư nhân. Đầu thế kỷ 20, ở nước Nga, V.I.Lênin đã
chủ trương thực hiện kinh tế mới (NEP), V.I.Lênin cho rằng, từ trình độ xuất phát
về kinh tế, kỹ thuật thấp như nước Nga phải học tập các nhà tư bản, phải làm phần
việc mà nhà tư bản cần làm là xây dựng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Theo V.I.Lênin,
ở Liên xô là một nước tiểu nông, lực lượng cơ bản là nông dân, vì vậy, mấu chốt cơ
bản nhất, cấp thiết nhất là: “phục hồi ngay những lực lượng sản xuất của kinh tế
nông dân” (V.I.Lênin,1978,tr.263). Theo Người, không nên xoá bỏ KTTN vì nó có
vai trò và tác dụng nhất định, Người viết: “tìm cách ngăn cấm, triệt để mọi sự phát
triển của sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức
là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh khỏi được khi có hàng
triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào
muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế chính sách ấy là không thể nào
thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế,
nhất định sẽ bị phá sản” (V.I.Lênin,1978,tr.267). Đương nhiên trong nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần dưới sự quản lý của chính quyền Xô Viết, kinh tế tư
10
nhân không hoàn toàn giống kinh tế tư nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng
chiếm đoạt giá trị thặng dư vẫn là bản chất của kinh tế tư bản tư nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng, trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó vai trò KTTN không kém
phần quan trọng, bởi vì nước ta xuất phát từ một nước nông nghiệp kém phát triển.
Người viết: “… đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa” (Hồ Chí Minh,1996,tr.247), và Người còn cho rằng: Trong chế độ
dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau như: Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH,
vì nó là của chung của nhân dân); Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến lên
CNXH); Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp
tác xã, tức là nửa CNXH); Tư bản tư nhân và Tư bản nhà nước.
Trong năm loại ấy, Kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và phát triển cao
hơn cả, cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo
hướng chủ nghĩa tư bản” (Hồ Chí Minh,1996,tr.247-248).
Như vậy, trong năm thành phần kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi KTTN
bao gồm: “Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp
tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội) và Tư bản tư nhân”. Đây là những thành phần
kinh tế sẽ tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm rất
rõ ràng về vị trí, vai trò của KTTN và Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng
chủ trương, chính sách phát triển KTTN góp phần phát triển kinh tế của quốc gia.
Bằng phương pháp biện chứng, duy vật về lịch sử Các Mác, Ăngghen cũng
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đã phân tích, đánh giá bản chất và vai trò quan trọng
của kinh tế tư nhân cũng như những hạn chế của nó trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội, đồng thời các ông cũng chỉ ra sự tồn tại của kinh tế tư nhân trong một giai
đoạn nhất định là tất yếu khách quan, có vị trí, vai trò quan trọng và cần thiết trong
cơ cấu nền kinh tế - xã hội.
11
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư
nhân
1.1.2.1. Kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là một phạm trù kinh tế mà trong công cuộc đổi mới Đảng
Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm. Để hiểu rõ KTTN chúng ta cần tìm hiểu về
sở hữu tư nhân trong mối quan hệ với KTTN. Vì chế độ sở hữu có ý nghĩa quyết
định đến việc hình thành các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức kinh tế xã
hội. KTTN gắn liền với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên chúng ta cần phải
làm rõ về sở hữu tư nhân.
Sở hữu là hình thức chiếm hữu của cải vật chất do lịch sử quy định, trong đó
thể hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội. Sự
phát triển của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết
định” (Từ điển Triết học,1975,1986,tr.507). Phạm trù sở hữu có ba mặt: đối tượng
sở hữu, chủ sở hữu, quan hệ sở hữu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư
nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” (ĐCSVN,2006,tr.83). Theo đó,
chế độ sở hữu quy định việc hình thành các hình thức sở hữu, các thành phần kinh
tế. Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng thực tế có ba hình thức sở hữu cơ bản,
đó là sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Như vậy, sở hữu tư nhân là
một trong những hình thức sở hữu ở nước ta, vậy sở hữu tư nhân là gì?
Sở hữu tư nhân được hiểu nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, trong bộ Luật
dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 211 quy định: “Sở hữu tư
nhân là sở hữu cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm:
sở hữu cá nhân, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân”. Sở hữu cá nhân là hình
thức sở hữu của một cá nhân cụ thể và chủ thể này có quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối tượng sở hữu của mình trong khuôn khổ luật pháp. Sở hữu tư nhân
được hiểu là quan hệ sở hữu xác nhận quyền hợp pháp của tư nhân trong việc chiếm
12
hữu, quyết định cách thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, chi phối và hưởng lợi từ
kết quả của quá trình sản xuất - kinh doanh đó. Sở hữu tư nhân trong xã hội ta là sở
hữu riêng của một người, hoặc của một gia đình do chủ hộ đại diện về tư liệu sản
xuất chứ không chỉ nói về tư liệu tiêu dùng. Sở hữu tư nhân ra đời và tồn tại trong
các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau như xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong
kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa và cho đến ngày nay thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội thì sở hữu tư nhân vẫn còn tồn tại và phát triển lâu dài.
Trên cơ sở tồn tại hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dẫn đến hình
thành thành phần KTTN trong nền kinh tế. Vậy kinh tế tư nhân là gì?
Kinh tế tư nhân là một phạm trù không mới trong nền kinh tế hàng hóa hiện
nay. KTTN gắn liền với sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa và ngược
lại còn kinh tế hàng hóa thì KTTN sẽ càng phát triển. KTTN là những đơn vị kinh
tế được tổ chức dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. KTTN hoàn toàn tự chủ
về vốn, về quản lý, phân phối, lựa chọn hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước pháp luật. Theo quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam, KTTN là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân, KTTN gồm: kinh tế các thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân.
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
viết: “Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt
động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư
nhân…” (ĐCSVN,2002,tr.55). Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
cũng đã xác định KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Như vậy,
KTTN là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm
kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh
doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân.
Theo quan điểm trên KTTN ở Việt Nam có hai loại hình sau:
- Một là, kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên
cơ sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, với qui mô nhỏ hơn các loại hình doanh nghiệp
của tư nhân, chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình, là đơn vị kinh tế tự chủ trong
13
sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của mình. Kinh tế cá
thể, tiểu chủ tồn tại độc lập dưới các hình thức: xưởng thợ gia đình, hộ kinh doanh
thương mại, dịch vụ, hộ làm kinh tế trang trại, hộ sản xuất nông nghiệp hoặc tham
gia liên doanh, liên kết với các loại hình kinh tế khác.
- Hai là, kinh tế tư bản tư nhân gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên
cơ sở tư hữu lớn về tư liệu sản xuất với qui mô lớn hơn cá thể, tiểu chủ, có thuê
mướn lao động. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp
như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty
hợp danh.
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư
nhân
Trước khi đổi mới, KTTN chưa được chính thức coi như một thành phần kinh
tế của nền kinh tế quốc dân. Nhưng từ Đại hội VI trong nhận thức, Đảng ta khẳng
định nhất quán lâu dài xây dựng, phát triển kinh tế nhiều thành phần, và đã thừa
nhận những yếu tố, bộ phận cấu thành KTTN.
* Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI xác định nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ và Văn kiện viết: “Ở
nước ta, các thành phần đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể,
cùng với các bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với các thành phần đó.
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ
công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế
tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là
công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác” (ĐCSVN,2006,tr.57-58).
* Văn kiện Đại hội VII: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh
vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước; trong đó, kinh tế cá thể tiểu
chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức
kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà
14
nước dưới nhiều hình thức” (ĐCSVN,1991,tr.69). Sau đó, trong Hội nghị lần thứ
hai, Ban chấp hành trung ương khoá VII tiếp tục khẳng định: Phát triển kinh tế hộ
cá thể, tư nhân trong nông nghiệp là một chính sách nhất quán, lâu dài trong thời kỳ
quá độ!
* Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII viết: “Kinh tế cá thể, tiểu
chủ có vị trí quan trọng lâu dài. Giúp đỡ kinh tế các thể, tiểu chủ giải quyết các khó
khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng
dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất,
từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh
nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây
dựng đất nước. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn
lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với
tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh”
(ĐCSVN,1996,tr.96).
Từ những chủ trương đúng đắn, phù hợp, KTTN càng có bước phát triển mới
góp phần phát triển kinh tế đất nước, giải phóng đáng kể lực lượng sản xuất của cả
nước, bộ mặt kinh tế - xã hội ngày càng thay da đổi thịt. Bên cạnh sự phát triển của
các thành phần kinh tế khác, KTTN cũng đóng góp vào tích lũy ngân sách nhà
nước. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
nhấn mạnh: “Kinh tế cá thể tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng
lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình
thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển
lớn hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định
hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển
thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết
với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng mối quan hệ tốt giữa
chủ doanh nghiệp và người lao động” (ĐCSVN,2001,tr.98-99). Triển khai thực hiện
15
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Ban chấp hành trung ương Đảng đã tổ chức
Hội nghị lần thứ hai, nhấn mạnh thêm: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu
dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”
(ĐCSVN,2002,tr.57).
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định phát triển
KTTN và coi nó là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân. KTTN gồm: kinh
tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đảng ta nhấn mạnh về vai trò của
KTTN như sau: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực
của nền kinh tế.” (ĐCSVN,2006,tr.83). Về mặt thực tiễn KTTN là khu vực kinh tế
năng động, hiệu quả năm 2005 chiếm 37,7% GDP của cả nước và hiện nay khu vực
này phát triển rất hiệu quả trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
khái niệm kinh tế tư nhân được sử dụng dùng để chỉ các bộ phận: kinh tế cá thể,
kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, cách sử dụng khái niệm này có sự
linh hoạt hơn, đó là kinh tế tư nhân bao hàm cả kinh tế tư bản tư nhân, tạo điều kiện
để chúng ta phát triển mở rộng các lực lượng xã hội có điều kiện tham gia phát triển
KTTN.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng tiếp tục khẳng định
nhất quán đường lối, chủ trương phát triển KTTN. Lần này, Đại hội Đảng cũng
nhận thấy, trong quá trình xây dựng và phát triển KTTN còn gặp phải những khó
khăn về vốn, khoa học công nghệ, pháp lý, v.v… cho nên Đảng và Nhà nước sẽ tiếp
tục hỗ trợ cho KTTN phát triển tốt hơn nữa trong giai đoạn phát triển tiếp sau. Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI viết: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực mạnh của nền
kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực
kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện để hình thành một
số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”
(ĐCSVN,2011,tr.209) . Theo đó, KTTN sẽ ngày càng có điều kiện phát triển cùng
16
với các thành phần kinh tế khác, KTTN được khuyến khích phát triển thành các tập
đoàn kinh tế lớn trên các lĩnh vực, các ngành, có điều kiện nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế nước nhà với các nền kinh tế thế giới.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “ kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Đây là bước
phát triển mới về vai trò của kinh tế tư nhân và cũng là một phần quan trọng trong
đổi mới thể chế kinh tế đất nước.
Như vậy, cả về mặt lý luận và chủ trương đường lối của Đảng ta là thống nhất
về phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó KTTN bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân, là một bộ phận quan trọng sẽ phát triển lâu dài trong
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã nhận
định: “trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối
dài” (ĐCSVN,1986,tr.23).
Sau khi đổi mới, chúng ta đã có những thay đổi về tư duy kinh tế một cách đầy
đủ hơn. Mặc dù, thời gian đầu còn chập chững trong việc phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, song thực tiễn đổi mới đất nước đã chứng minh đường lối đó là
đúng đắn. Các thành phần kinh tế ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình
trong cơ cấu nền kinh tế.
1.2. TÍNH TẤT YẾU, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ
NHÂN Ở VIỆT NAM
1.2.1. Tính tất yếu:
Cơ sở tất yếu khách quan cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa là
sự phân công lao động xã hội và chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong
thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay thì hai yếu tố đó vẫn tồn tại. Theo qui luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đặt ra yêu cầu
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong
17
nền kinh tế nước ta hiện nay trình độ lực lượng sản xuất còn lạc hậu, kém phát triển,
không đồng đều giữa các ngành, các vùng và trong nội bộ từng vùng cho nên hình
thành nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan, trong đó có KTTN.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nền kinh tế tồn tại đan
xen cả yếu tố cũ và yếu tố mới. Trong quá trình hình thành, phát triển sẽ xuất hiện
những thành phần kinh tế mới, bên cạnh những bộ phận, những yếu tố của thời kỳ
trước còn lại. KTTN bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân
là những bộ phận có cả trong thời kỳ trước và nảy sinh trong công cuộc đổi mới.
Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nền
KTTT nói chung và kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng đã tạo ra sự
phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam, pháp luật của Nhà nước luôn khẳng định, bảo vệ sự tồn
tại của KTTN và tạo điều kiện cho sự phát triển của nó, nên KTTN càng ngày phát
triển và có những đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, sự phát triển KTTN là xu hướng
phát triển khách quan của kinh tế thế giới và xu hướng ấy đang tác động vào các
nước. Việt Nam trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới thì KTTN là một
trong những thành phần rất quan trọng thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài góp
phấn đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
KTTN ở Việt Nam là một trong những thành phần kinh tế tồn tại khách quan,
nhưng nó sẽ tồn tại đến bao giờ? KTTN tồn tại với tư cách là hiện thực sinh động
của nền kinh tế thị trường, nó sẽ tồn tại lâu dài trong sự phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam. KTTN ở Việt Nam sẽ tồn tại đến chừng nào mà các điều kiện cho sự tồn
tại của nó là phân công lao động xã hội và chế độ sở hữu tư nhân biến mất và bản
thân nó không còn phát huy tác dụng nữa trong nền kinh tế thì tự bản thân nó sẽ dần
dần mất đi.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế tư nhân Việt Nam
Kinh tế tư nhân, mà bộ phận chủ yếu ở Việt Nam hiện nay là kinh tế cá thể,
tiểu chủ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động
18
của chính chủ thể, nên bộ phận này không bóc lột. Vì vậy cần phải có chính sách
khuyến khích, giúp đỡ cho nó phát triển và chính sự phát triển của nó là nguồn động
lực vô cùng to lớn làm cho nền kinh tế tăng trưởng. Kinh tế tư bản tư nhân ở Việt
Nam còn rất sơ khai, yếu ớt nên cần có sự hỗ trợ, hướng dẫn và tổ chức cho họ phát
triển thuận lợi đúng pháp luật. Sự phát triển của họ tạo ra một “xung động” rất cần
thiết tạo đà cho sự phát triển của cả nền kinh tế nói chung.
KTTN ở nước ta là sản phẩm của đổi mới, là kết quả của chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
KTTN hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau như vốn tích lũy sẵn có, vốn
huy động từ người thân, vốn tích lũy từ sản xuất kinh doanh, vốn vay từ nhà nước
hoặc từ sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức khác. Nguồn vốn còn hạn chế, chưa
nhiều để có cơ hội phát triển mạnh thành các doanh nghiệp lớn, hay tập đoàn KTTN
đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường.
KTTN có tốc độ phát triển nhanh nhưng còn mang tính tự phát cao và nguồn
lực còn yếu, lực lượng còn mỏng. Công nghệ sản xuất lạc hậu, chưa ứng dụng nhiều
khoa học kỹ thuật hiện đại.
KTTN còn hạn chế về trình độ tổ chức, quản lý, cũng như phát triển thương
hiệu để cạnh tranh với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài.
Sản xuất, kinh doanh còn manh mún, nhỏ lẻ chưa có kế hoạch chiến lược lâu
dài, một bộ phận chạy theo lợi ích trước mắt vi phạm pháp luật.
KTTN ở Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu của nền kinh tế thị
trường. Mặc dù KTTN còn có những hạn chế nhất định, nhưng nếu được tổ chức,
quản lý tốt nó sẽ phát huy được vai trò to lớn và rộng khắp của nó.
1.2.3. Vai trò của kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân có vai trò là cùng với các thành phần kinh tế khác góp phần
giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển sản xuất xã hội. Điều này
được thể hiện:
19
KTTN có tác dụng kích thích, cạnh tranh và thúc đẩy lực lượng lớn tham gia
vào sản xuất xã hội. Từ đó góp phần vào ổn định, phát triển kinh tế - xã hội nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
KTTN gắn liền với lợi ích cá nhân khá chặt chẽ nên tạo ra một động lực to lớn
trong lực lượng lao động xã hội, từ đó làm cho hoạt động kinh doanh diễn ra năng
động hơn, hiệu quả hơn. Nguồn lực hiện nay là vốn, tài sản của cá nhân trong nước
rất lớn, cho nên nếu tổ chức, động viên tốt sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực kích thích mọi
người dân tham gia vào quá trình sản xuất, phát huy được năng lực nội sinh của đất
nước, thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh hơn, quy mô lớn hơn, tạo tích lũy xã hội
ngày càng tăng.
Hiện nay KTTN có nhiều tầng lớp, giai cấp tham gia và có tinh thần tự tôn
dân tộc, có ý thức trách nhiệm cao với đất nước. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện
nay, vấn đề các giai cấp, tầng lớp cùng nhau nổ lực phát triển kinh tế là một trong
những nguyên nhân rất quan trọng cho xây dựng, củng cổ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc vì sự nghiệp đổi mới hiện nay của đất nước.
Sự phát triển KTTN đã tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa KTTN với các thành
phần kinh tế khác thành một nền kinh tế vững mạnh đủ sức để cạnh tranh với các
nước trên thế giới, khác tạo ra một khối thống nhất đủ điều kiện cùng nâng cao năng
lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
KTTN phát triển sẽ tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn
nhu cầu ngày càng tốt hơn cho xã hội, huy động mọi nguồn lực trong nhân dân để
thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự phát triển của KTTN sẽ tạo ra sự đa dạng, phong phú
về ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nhiều doanh nghiệp ra đời tạo ra
nhiều việc làm, góp phần cùng nhà nước giải quyết việc làm trong nhân dân. Chủ
trương của Đảng và Nhà nước là khuyến khích, khởi nghiệp (starup) càng thấy rõ
vai trò của kinh tế tư nhân.
20
1.3. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.3.1. Bản chất của hội nhập KTQT và tác động của hội nhập KTQT đến
khu vực KTTN
* Bản chất của hội nhập KTQT
Hội nhập kinh tế quốc tế là việc gắn kết nền kinh tế nước ta với các nền kinh
tế khác trên thế giới, xây dựng một nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng
thời dần dần thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả, lợi
thế hơn.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới”, đây là lần đầu tiên, Đảng ta đưa vào Văn kiện thuật
ngữ “hội nhập”, và thuật ngữ này được Đại hội lần thứ IX khẳng định: “Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đặc biệt, ngày 27/12/2001 Bộ Chính trị (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 07-
NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế, đây là văn bản quan trọng, cụ thể hóa đường
lối của Đảng về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm mở rộng thị trường, tranh
thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định
“Chủ động, tích cực hội nhập KTQT, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ;
bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và
thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã
hội”
Thực chất của hội nhập KTQT phản ánh tính chất quốc tế hóa các hoạt động
kinh tế của mỗi quốc gia ở mức độ khác nhau. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu trên các
góc độ khác nhau, có thể có cách nhìn khác nhau về hội nhập KTQT. Đứng trên góc
độ một quốc gia, hội nhập KTQT là thực hiện mở cửa nền kinh tế với khu vực và
thế giới. Đứng trên góc độ khu vực hay toàn cầu, hội nhập KTQT là việc các nước
tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau (kể cả
21
dành cho nhau ưu đãi) trong quan hệ kinh tế - thương mại nhằm khai thác tốt nhất
khả năng của nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển của mình.
Như vậy, dù nhìn nhận ở góc độ nào mọi người đều thừa nhận, hội nhập
KTQT là một xu thế tất yếu khách quan chỉ có điều nó xãy ra khi nào? Và xãy ra
như thế nào? trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, được thúc đẩy bởi các
tiến bộ mạnh mẽ của cuộc các mạng khoa học, công nghệ, đặc biệt là sự phát triển
như vũ bão của công nghệ thông tin.
Về thực tiễn, không một nước nào có lợi thế hoàn toàn về các yếu tố sản xuất,
trong khi đó các nước đều không muốn tụt hậu, vì vậy họ đều có nhu cầu khắc phục
các yếu tố bất lợi từ các lợi thế của nước ngoài để phát huy lợi thế trong nước,
nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế quốc gia – dẫn đến tất yếu phải hội nhập
KTQT. Các nước đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là
nhằm tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc khác thác tối đa nội lực,
khơi dậy các tiềm năng kinh tế, đi đôi với việc tận dụng ngoại lực nhằm thúc đẩy
hợp tác quốc tế hiệu quả. Sự kết hợp hai yếu tố này mở ra những cơ hội cho quá
trình hội nhập quốc tất của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đồng
thời hội nhập kinh tế quốc tế còn là cơ sở để hội nhập văn hóa, khoa học kỹ thuật và
hội nhập chính trị.
* Tác động của hội nhập KTQT đến khu vực KTTN
Hội nhập KTQT là một quá trình đa diện, đa chiều trong đó quan trọng nhất là
tự do hóa thương mại quốc tế về hàng hóa, dịch vụ và sự chuyển dịch các nguồn lực
trên phạm vi quốc tế. Các cam kết chính liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế
thường bao gồm: mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, xóa bỏ các loại trợ cấp bóp
méo thương mại cũng như cho phép dòng vốn và các nguồn lực được tự do di
chuyển giữa các quốc gia. Hội nhập kinh tế diễn ra trên cả ba phương diện: đa
phương, khu vực, song phương.
Hội nhập kinh tế quốc tế tác động lên gần như tất cả các lĩnh vực, khu vực của
nền kinh tế trong đó khu vực KTTN không phải ngoại lệ. Những tác động của hội
22
nhập KTQT đến khu vực KTTN Việt Nam theo hai mặt tác động tích cực và tác
động tiêu cực.
- Tác động tích cực:
+ KTTN phát huy tính năng động hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực
Trong quá trình hội nhập KTQT hàng loạt các biện pháp làm méo mó về
thương mại và đầu tư đối với kinh tế tư nhân như: thuế XNK, hạn ngạch XNK, cấm
XNK một số loại hàng hóa, trợ cấp trong nước và xuất khẩu, áp đặt giá tối thiểu và
tỷ giá hối đoái, cấm hoặc hạn chế lĩnh vực đầu tư, phân biệt đối xử giữa các thành
phần kinh tế trong đầu tư và thương mại…, sẽ bị giảm hoặc xóa bỏ. Các ngồn lực,
đặc biệt là các nguồn khan hiếm đối với Việt Nam như vốn, đất đai sẽ chuyển từ các
ngành, khu vực được bảo hộ sang các ngành, khu vực thật sự có hiệu quả, có lợi thế
cạnh tranh mà mang lại hiệu suất cao hơn và thường là các ngành, các khu vực sử
dụng nhiều lao động nên sẽ tạo nhiều việc làm hơn. Nhờ vậy với sự năng động
trong hoạt động của mình, khu vực KTTN sẽ có cơ hội tiếp cận các nguồn lực một
các công bằng hơn. Do đó, hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong từng ngành, từng
khu vực nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung sẽ tăng lên.
+ Sức ép cạnh tranh thúc đẩy KTTN cải thiện công nghệ, đổi mới phương thức
quản lý.
Khi hàng rào bảo hộ đối với sản xuất trong nước bị cắt giảm, các rào cản đối
với chu chuyển vốn bị dỡ bỏ và nhu cầu xuất khẩu một số loại hàng hóa từ Việt
Nam tăng, vốn đầu tư trong và ngoài nước sẽ đổ vào các ngành sản xuất kinh doanh
có hiệu quả hơn, cạnh tranh trong các ngành này sẽ trở nên quyết liệt hơn. Hàng loạt
các biên pháp về chi phí sản xuất, áp dụng công nghệ mới để nâng cao năng suất lao
động, cải tiến quản lý, đa dạng hóa sản phẩm sẽ được các doanh nghiệp áp dụng
nhằm tạo ra khả năng cạnh tranh tốt hơn để trụ lại trên thị trường. Một số ngành có
cơ hội mở rộng sản xuất, tăng sản lượng đầu ra sẽ đạt tới quy mô sản xuất tối ưu mà
tại đó các nguồn lực đều được tận dụng ở mức cao nhất, khiến giá thành sản phẩm
giảm xuống mức tối thiểu. Khu vực KTTN tăng năng suất lao động do tiếp cận tốt
23
hơn với kiến thức, công nghệ mới của nước ngoài, cải thiện hiệu suất sử dụng
nguồn lực, đạt tới quy mô kinh tế tối ưu.
+ Chính sách mở cửa hội nhập KTQT tạo sức ép thúc đẩy cải cách kinh tế
trong nước, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng hơn cho khu vực
KTTN
Chính sách cải cách kinh tế trong nước gắn liên với thay đổi thể chế kinh tế,
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, minh bạch sẽ là động lực mạnh mẽ
thu hút vốn đầu tư từ khu vực KTTN. Quá trình hội nhập KTQT sẽ đảm bảo các
nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường,…
- Tác động tiêu cực:
+ KTTN dễ bị tổn thương trước biến động kinh tế toàn cầu hơn so với các khu
vực khác và hội nhập KTQT đòi hỏi các nước phải phá bỏ các hàng rào bảo hộ quốc
gia, dỡ bỏ các biện pháp thuế quan, phi thuế quan cũng như các rào cản khác về
đầu tư, tài chính, kỹ thuật, thể chế,… trong đó nguy cơ lớn nhất là khủng hoảng tài
chính – tiền tệ. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 là những minh
chứng rõ nét. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra năm 2008 đã gây tác động
và ảnh hưởng hầu hết đến các nền kinh tế, không loại trừ bất kỳ nước nào. Tại Việt
Nam, các đơn vị kinh tế tư nhân chủ yếu là nhỏ và vừa với nhiều hạn chế về trình
độ khoa học, công nghệ, lao động, vốn, quy mô vốn, vì vậy tác động của những
biến đối kinh tế toàn cầu của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ gây ra hậu quả khôn nhỏ.
+ KTTN chịu sức ép cạnh tranh rất khốc liệt và có nguy cơ dễ bị phá sản hoặc
thôn tính.
Khi thị trường bên ngoài của một quốc gia ngày càng mở rộng, thì sức ép của
thị trường bên ngoài cũng ngày càng mạnh trên nhiều phương diện. Việc giảm thuế
và các hàng rào thuế quan, xóa bỏ trợ cấp và bảo hộ theo cam kết WTO,… sẽ giúp
mở cửa mạnh thị trường cả trong nước và ngoài nước, song đồng thời cũng sẽ tạo ra
áp lực canh tranh rất khốc liệt ngay trên thị trường nội địa; nguy cơ thất bại, phá sản
doanh nghiệp ngay trên sân nhà sẽ gia tăng – nhất là khu vực KTTN, vì trên 90%
doanh nghiệp dân doanh vừa và nhỏ. Do đó, các quốc gia tham gia hội nhập kinh tế
24
quốc tế nếu không có các chính sách phù hợp, cũng như các doanh nghiệp không
chủ động phấn đấu vươn lên thì nguy cơ phá sản hoặc bị thôn tính sẽ tăng lên.
+ KTTN phải đối mặt với vấn đề tranh chấp thương mại quốc tế.
Hội nhập KTQT và tham gia WTO là vào sân chơi “đồng đẳng” với bên ngoài,
có nguyên tắc, luật chơi, chứ không phải tự nó mang lại hiệu quả. Quá trình hội
nhập kinh tế với thế giới đòi hỏi KTTN Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh
khốc liệt của các doanh nghiệp từ thị trường nước ngoài. Đồng thời, hàng ngày,
hàng giờ những quan hệ thương mại được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật rất chặt
chẽ và hàng rào kỹ thuật cao của các nước phát triển. Nhãn tiền là vụ kiện phá giá
cá basa của Hoa Kỳ, phá giá tôm tại EU, phá giá dày dép tại thị trường châu Âu,…
những vụ việc điển hình này cho thấy bài học về thế bị động mà doanh nghiệp rơi
vào khi thiếu kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập; thiếu
kinh nghiệm trên thương trường, thiếu am hiểu các thông lệ, pháp luật kinh doanh
quốc tế; quản lý yếu kém, hoạt động dàn trải; tầm nhìn hạn chế, thiếu tính chiến
lược, thiếu minh bạch thông tin từ đó dẫn đến khả năng liên kết, hợp tác giữa các
doanh nghiệp trong nước với nhau lỏng lẽo chậm ứng phó với các tác động từ thị
trường bên ngoài.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của KTTN trong quá
trình hội nhập KTQT
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân, trong phạm vi
nghiên cứu, tác giả đề cập đến các nhân tố cơ bản sau:
Một là, năng lực trình độ quản lý và điều hành của các chủ cơ sở kinh tế thuộc
thành phần kinh tế tư nhân: trong quản lý kinh tế của doanh nghiệp, năng lực và
trình độ điều hành của các chủ doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với thành phần kinh tế tư
nhân ở nước ta, điều này càng thể hiện rõ nét, sinh động hơn khi họ phải hoạt động
trong cơ chế thị trường cạnh tranh nghiệt ngã, khi mà trên thực tế chúng ta thiếu cơ
bản một đội ngũ những nhà quản lý có chuyên môn nghiệp vụ mà phần lớn dựa vào
kinh nghiệm. Nếu trình độ của quản lý điều hành của các chủ doanh nghiệp còn hạn
25
chế, sẽ rất khó khăn khi gặp phải những diễn biết bất thường của nền kinh tế thế
giới, dưới tác động của toàn cầu hóa và khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua quan
hệ với đối tác nước ngoài, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn và chịu thua lỗ. Chính
vì vậy, việc nâng cao trình độ quản lý, nắm bắt sử lý thông tin, dám chịu trách
nhiệm, dám gánh rũi ro, dám mạo hiểm là yêu cầu đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần
phải có.
Hai là, môi trường pháp lý: đây là nhân tố rất quan trọng trong hành lang pháp
lý cho quá trình phát triển kinh tế tư nhân, khi môi trường pháp lý được đảm bảo sẽ
tạo ra một sân chơi bình đẳng, xóa bỏ sự phân biệt đối sử giữa các thành phần kinh
tế trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh, đảm bảo công bằng trong xử lý các
trường hợp vi phạm của doanh nghiệp, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và là động
lực thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển trong khuôn khổ của pháp luật, như
vậy: hoàn thiện hệ thống pháp luật không chỉ có lợi trong các quan hệ kinh tế, mà
còn góp phần lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Ở nước ta từ khi kinh tế tư nhân
được ghi nhận là một bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, Nhà
nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật và văn bản dưới luật, tạo cơ sở
cho kinh tế tư nhân phát triển như: Luật công ty, Luật đầu tư, Luật đất đai,… Đặc
biệt là Luật doanh nghiệp song nhìn chung hệ thống pháp luật của nước ta còn yếu,
vừa thiếu lại vừa thừa, nhiều văn bản còn chống chéo, bất cập, tạo kẽ hở cho kẻ xấu
lợi dụng, đã gây không ít khó khăn cho các đơn vị kinh tế, nhất là các đơn vị thuộc
thành phần kinh tế tư nhân. Vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo
điều kiện hơn nữa để các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tư nhân phát triển.
Ba là, trình độ phát triển của thị trường: nền kinh tế thị trường nước ta mới
hình thành ở trình độ đang phát triển: nếu xét ở quy mô thị trường cho thấy Việt
Nam là một quốc gia đông dân nhưng thu nhập bình quân đầu người thấp vì vậy
sức mua có hạn, điều này là một hạn chế về sức cầu của nền kinh tế. Kinh tế tư nhân
ở nước ta phần lớn quy mô sản xuất nhỏ, trình độ kỹ thuật lạc hậu, khó có thể cạnh
tranh được với hàng hóa của nước ngoài, đặc biệt là về mặt bằng giá cả - yếu tố có
26
thể đáp ứng được nhu cầu của đại đa số người dân lao động có thu nhập thấp; còn
nếu vươn ra thị trường thế giới thì cũng khó khăn để có thể đáp ứng được thị trường
khó tính như Châu Âu, về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng hàng hóa…. Nếu
xét các loại thị trường cũng thấy rõ, tình trạng thị trường thiếu đồng bộ, chúng ta
mới phát triển ở thị trường hàng hóa còn các thị trường khác như: thị trường sức lao
động, thị trường khoa học công nghệ, thị trường vốn, thị trường tư liệu sản xuất còn
ở tình trạng sơ khai. Vì vậy, đây cũng là một khó khăn để các đơn vị kinh tế tư nhân
tiếp cận thị trường vay vốn, đổi mới công nghệ… đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh
doanh. Vấn đề đặt ra là: cần xây dựng đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là thị
trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát
triển.
Bốn là, cơ chế chính sách và sự quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân:
muốn phát triển kinh tế nói chung, kinh tế tư nhân nói riêng, đòi hỏi cần phải có cơ
chế chính sách kinh tế của nhà nước phù hợp, nếu không thì không thể tạo ra động
lực cho sự phát triển các thành phần kinh tế. Thời kỳ trước đổi mới, do thực hiện cơ
chế quản lý hành chính mệnh lệnh, tập trung, chỉ huy từ trung ương nên hầu hết các
thành phần kinh tế ở nước ta không phát triển được, kể cả kinh tế quốc doanh được
ưu tiên phát triển. Kể từ khi đổi mới nhờ cơ chế chính sách phù hợp, thông thoáng
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bình đẳng ngang nhau trước pháp luật, đã
cho thấy tác dụng của nó đối với nền kinh tế nói chung và đối với thành phần kinh
tế tư nhân nói riêng. Thực tế cho thấy khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 tác
động đến hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhưng nhờ có cơ chế hỗ trợ kịp thời của
gói hỗ trợ lãi suất 0,4% một năm cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vay
ngắn hạn, đã phần nào giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, tố độ tăng trưởng
kinh tế của nước ta năm 2009 vẫn đạt 6,5%, trong khi nhiều nước trên thế giới tốc
độ tăng trưởng âm. Nhưng do sự quản lý của nhà nước chưa tốt nên mục tiêu của
gói hỗ trợ lãi suất chưa đến đích, đối tượng mà mục tiêu nhắm tới là doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh chỉ vay được 20% tổng số vốn hỗ trợ, còn lại 80% rơi vào tay
các đơn vị kinh doanh chứng khoán, bất động sản,…Thực tế cho thấy hiện nay, bộ
27
máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân về hiệu lực, hiệu quả còn thấp, điều
này sẽ không tạo điều kiện, môi trường thuận lợi, thậm chí còn gây ra những khó
khăn vướng mắc, cản trở trong quá trình phát triển của kinh tế tư nhân.
Năm là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế: trong xu thế toàn
cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, không
một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển được nếu tách biệt hay bị cô lập, thực
tế cho thấy toàn cầu hóa kinh tế đã đem lại cơ hội phát triển kinh tế cho đất nước,
đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam, trình độ sức sản xuất thấp kém,
kinh tế lạc hậu, thông qua mở cửa đối ngoại, tăng cường hợp tác với các nước khác,
mở rộng thương mại đối ngoại, chúng ta có thể thu hút tiền vốn và kỹ thuật tiên tiến
nước ngoài vào trong nước, đồng thời có thể học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của các nước, từ đó có khả năng thực hiện đầy đủ “ưu thế đi sau” để đẩy nhanh tốc
độ phát triển kinh tế. Bên cạnh đó toàn cầu hóa cũng đem lại nhiều rũi ro và uy
hiếp, do trình độ kỹ thuật và năng xuất lao động của chúng ta thấp, sức cạnh tranh
quốc tế không mạnh, trong quá trình toàn cầu hóa tất nhiên phải chịu nhưng đòn tác
động rất mạnh. Như vậy, bối cảnh hội nhập quốc tế đã tạo ra những vận động mới
cho sự phát triển kinh tế nước ta và là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự phát triển
của kinh tế đặc biệt là kinh tế tư nhân, tuy nhiên do vừa mới được tái lập và phát
triển, kinh tế tư nhân ở nước ta phần lớn quy mô nhỏ và vừa, trình độ công nghệ
thấp, cùng với những hạn chế trong quan hệ ngoại thương, thiếu kinh nghiệm trong
chiếm lĩnh thị trường cạnh tranh quốc tế khiến cho các chủ thể kinh tế tư nhân ở
nước ta chịu nhiều thua thiệt trong quan hệ làm ăn với đối tác nước ngoài, bị chèn
ép không chỉ ở thị trường quốc tế mà còn ngay ở thị trường trong nước. Vì vậy, để
giành được sự chủ động trong quá trình hội nhập, các cơ quan quản lý nhà nước và
bản thân chủ thể của thành phần kinh tế tư nhân phải có chiến lược và bước đi thích
hợp nhằm phát huy, khai thác thế mạnh sẳn có, tận dụng triệt để các cơ hội, đồng
thời hạn chế đến mức tối thiểu các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập nhằm
phát triển kinh tế tư nhân nói riêng và kinh tế đất nước nói chung một cách hiệu
quả.
28
Sáu là, môi trường tự nhiên cũng là một nguyên nhân gây tổn hại cho phát
triển KTTN: Các thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra cũng ngày càng tăng
theo nhiệt độ trái đất, các cơn bão lớn, hạn hán hay tình hình xâm nhập mặn làm
cho mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỷ USD để không chế thiên tai. Khí hậu càng
khắc nghiệt càng làm thâm huạt các nền kinh tế. Ngưới dân phải chịu cảnh giá cả
thực phẩm và nhiên liệu tăng cao, lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp
giảm sút đáng kể, môi trường kinh doanh cũng bị ảnh hưởng nặng nề…
Bảy là, Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến mọi khía cạnh sinh hoạt đời sống của con người. Với sự phát triển của
các khu, cụm công nghiệp và quá trình đô thị hóa như tốc độ hiện nay đã ảnh hưởng
không nhỏ đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên bị khai
thác một cách triệt để để xây dựng, làm giảm diện tích cây trồng, nguồn nước bị suy
thoái, nhiều nhà máy, xí nghiệp gây nhiễm mạnh làm ảnh hưởng đến đời sống của
người dân. Đó là chưa kể đến sự bùng nổ giao thông cơ giới, gây kẹt xe triền miên,
gây ô nhiễm không khí, tiếng ôn nghiêm trọng…
1.4. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC
1.4.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của thành phố Hồ Chí
Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn của cả nước, diện
tích 2.095,01km² chiếm 0,6% diện tích của cả nước, dân số khoảng 10 triệu người.
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu kinh tế của cả nước, chiếm trên 20% tổng sản
phẩm, đóng góp trên 30% vào ngân sách Nhà nước. Nền kinh tế của Thành phố Hồ
Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công
nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố,
khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể nói trong thời kỳ đổi mới, KTTN phát
triển khá nhanh, cụ thể, tỷ trọng của KTTN trong GDP của thành phố Hồ Chí Minh
liên tục tăng từ 45,4 năm 2011 lên 47,5% năm 2013 và 52,2% vào năm 2015. Để
29
đạt được thành tựu đó, KTTN đã có những bước phát triển quan trọng, có ý nghĩa
quyết định tăng trưởng trong thời kỳ đổi mới. Qua tìm hiểu quá trình phát triển
KTTN thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
- Thứ nhất, KTTN khá năng động, dễ thích ứng và đáp ứng tốt trước yêu cầu
phát triển kinh tế của thành phố, cả nước và khu vực trong quá trình hội nhập.
- Thứ hai, xuất hiện nhiều doanh nhân giỏi, có tinh thần dám nghĩ, dám làm,
dám chuyển đổi cách suy nghĩ trong kinh doanh, không ít doanh nhân bằng tiền của
và công sức của mình đã mạnh dạn đầu tư máy móc, đưa người ra nước ngoài tiếp
thu công nghệ sản xuất hiện đại, quản trị doanh nghiệp đến tiêu chuẩn vệ sinh thực
phẩm và mẫu mã bao bì …
- Thứ ba, một bộ phận các DNTN còn nhanh chóng tiếp cận, học hỏi và vận
dụng hết sức hiệu quả kinh nghiệm xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường của
thế giới. Bỏ qua thói quen làm ra sản phẩm tốt rồi mới thâm nhập thị trường. Ngày
nay, các doanh nghiệp đã tìm hiểu, nghiên cứu thị trường trước khi sản xuất ra hàng
hóa, từ đó sản xuất kinh doanh theo địa chỉ đã có hiệu quả thiết thực.
- Thứ tư, một bộ phận các doanh nghiệp xây dựng được đội ngũ quản trị có
trình độ chuyên môn kỹ thuật khá cao, trình độ quản trị mang tính chuyên nghiệp
nên nâng cao khả năng kinh doanh, sản xuất. Bên cạnh đó, đội ngũ nhân viên được
được lựa chọn khá linh hoạt, chế độ ưu đãi đáp ứng yêu cầu cuộc sống do đó nguồn
nhân lực khá ổn định.
- Thứ năm, với lợi thế là hoạt động độc lập nên KTTN mà cụ thể là các DNTN
dễ tiếp cận các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài đó là các nhà doanh nhân nước
ngoài nên nhanh chóng hội nhập thị trường khu vực, thế giới.
- Thứ sáu, KTTN nhanh chóng đi vào lĩnh vực dịch vụ, thương mại để đầu tư
tổ chức kinh doanh vì với trung tâm kinh tế lớn của cả nước, mức độ sử dụng dịch
vụ, tiêu thụ hàng hóa khá lớn nên đầu tư vào khu vực này khá thuận lợi.
- Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, KTTN của Thành phố Hồ Chí Minh
vẫn gặp phải những khó khăn chung của nền kinh tế Thành phố, đó là trình độ công
30
nghệ còn thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật về đường giao thông, bưu chính thông tin,
những rào cản về cơ chế, chính sách, v.v.. làm ảnh hưởng đến phát triển của KTTN.
1.4.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Bình Dương
Bình Dương là một tỉnh miền Đông Nam Bộ có diện tích khoảng 2.681,01km2,
xếp thứ 4 trong vùng Đông Nam Bộ và thứ 42 về diện tích tự nhiên của cả nước.
Bình Dương hiện nay là tỉnh có chỉ số năng lực cạnh tranh đứng đầu các tỉnh, tổng
thu nhập của tỉnh chỉ sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nếu như năm 1997
(khi tái thành lập tỉnh), Bình Dương chỉ có 06 khu công nghiệp với tổng diện tích
trên 800ha, cơ cấu kinh tế công nghiệp – dịch vụ và nông nghiệp với tỷ lệ tương
ứng là 50, 45% - 26,8% - 22,8%, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ khoảng 4.000 tỷ
đồng, thì đến cuối năm 2015, Bình Dương có 28 khu công nghiệp, 08 cụm công
nghiệp tập trung với tổng diện tích trên 10.000ha, cơ cấu kinh tế công nghiệp – dịch
vụ và nông nghiệp với tỷ lệ tương ứng là 60,8% - 36,2% - 3,0%, giá trị sản xuất
công nghiệp đạt 217.211,6 tỷ đồng. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Bình
Dương có sự đóng góp quan trọng của KTTN. Qua khảo sát quá trình phát triển
KTTN của Bình Dương, nổi lên một số kinh nghiệm quý báu đối với phát triển
KTTN, đó là:
- Bình Dương đã tạo ra môi trường đầu tư khá thuận lợi cho các DNTN, đó là
chính quyền sở tại có chủ trương hấp dẫn, khuyến khích để thu hút đầu tư từ nước
ngoài, các tỉnh bạn, chính vì vậy kinh tế Bình Dương nói chung và KTTN Bình
Dương nói riêng có điều kiện phát triển khá nhanh.
- Về cơ sở vật chất kỹ thuật của Bình Dương phát triển khá đồng bộ, do đó tạo
điều kiện phát triển các khu công nghiệp, các đô thị đồng thời tạo ra môi trường
thuận lợi trong mối quan hệ hỗ trợ, tương tác để phát triển KTTN.
- Bình Dương tạo mạng lưới giao thông phát triển khá nhanh để đấu nối các
khu kinh tế năng động như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Nguyên, đó là
điều kiện thuận lợi cho KTTN có điều kiện thuận lợi.
- Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng Bình Dương hỗ trợ khá tích cực cho KTTN
có điều kiện để vay vốn phát triển, đây là một trong những điều kiện cần thiết cho
31
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cùng với hỗ trợ về vốn, Bình Dương còn có chính
sách hỗ trợ về đất đai cho hoạt động xây dựng các dự án phát triển trang trại, nông
trại v.v..
Những kinh nghiệm trên, chúng ta thấy mặc dù Bình Dương trước đây, tốc độ
phát triển không nhanh nhưng do có những hỗ trợ nhất định của chính quyền, các tổ
chức kinh tế, cũng như điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật khá thuận lợi nên các thành
phần kinh tế và KTTN Bình Dương đã phát triển khá nhanh, theo kịp những tỉnh có
kinh tế khá phát triển từ trước như Đồng Nai.
1.4.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Long An
Long An là một tỉn nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích
đất tự nhiên 4.491,9km2, chiếm tỷ lệ 1,3% so với diện tích cả nước và 8,74% so với
diện tích ĐBSCL, có vị trí địa lý năm liền kề với thành phố Hồ Chí Minh, có chung
đường ranh giới với thành phố Hồ Chí Minh, gồm các tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ
50, là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.. Với
đặc trưng của một địa phương trong vùng ĐBSCL, mà nền tảng kinh tế dựa vào
phát triển nông nghiệp là chủ yếu, đa số lao động tập trung vào khu vực nông
nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp ban đầu chỉ có 2 nhà máy quy mô nhỏ là dệt
Long An và đường Hiệp Hòa, cùng một số cơ sở sản xuất lương thực nhỏ phục vụ
nhu cầu dân sinh, kết cấu hạ tầng cho sản xuất công nghiệp còn rất nhiều hạn chế,
nhất là về giao thông ,điện, nước… chưa đảm bảo được các điều kiện cho sản xuất
công nghiệp. Nhưng kể từ khi thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước,
nhất là quan tâm đến phát triển kinh tế tư nhân. Long An đã nổ lực vượt khó, xác
định đúng phương hướng phát triển dựa trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh là tiếp
giáp và đặc biệt là vùng giản nở công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh- một
trung tâm kinh tế, khoa học- kỹ thuật hàng đầu của Việt Nam, đã tạo điều kiện
thuận lợi giúp Long An đạt được nhiều thành quả đầy ấn tượng, góp phần quan
trọng vào việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế
của tỉnh. Theo số liệu thu thập được cho thấy: khu vực công nghiệp- xây dựng tăng
từ 21,7% năm 2000 lên 27,5% năm 2005 và 35,4% năm 2010, năm 2011 trong bảng
32
xếp hạn về chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh của Việt nam, tỉnh Long An được xếp ở vị trí
thứ 3/63 tỉnh thành trong cả nước. Những kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ của
khu vực kinh tế tư nhân. Giai đoạn 2011- 2015, tăng trưởng của ngành công nghiệp
đạt bình quân 16,1%/năm, tỷ trọng ngành công nghiệp năm 2015 chiếm 38,3%
trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tính đến cuối tháng 7/2016, toàn tỉnh có 7.324 DN
100% vốn trong nước đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký 153.395 tỷ đồng;
757 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký 5.080 triệu USD, trong
đó có 447 dự án đi vào hoạt động với vốn 2.952 triệu USD; 16/28 khu công nghiệp
đang hoạt động, với tỷ lệ lấp đầy 60,01% và 14.32 cụm công nghiệp đang hoạt
động, với tỷ lệ lấp đầy 88,37%.
Qua kết quả khảo sát, cho chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu
đối với phát triển KTTN, đó là:
- Long An đã có cơ chế thông thoáng, tạo ra môi trường đầu tư khá thuận lợi
cho các DNTN, đó là chính quyền sở tại có chủ trương thu hút đầu tư từ nước
ngoài, các tỉnh bạn, chính vì vậy kinh tế Long An nói chung và KTTN Long An nói
riêng có điều kiện phát triển khá nhanh.
- Về cơ sở vật chất kỹ thuật của Long An phát triển khá đồng bộ, do đó tạo
điều kiện phát triển các khu công nghiệp, các đô thị đồng thời tạo ra môi trường
thuận lợi trong mối quan hệ hỗ trợ, tương tác để phát triển KTTN.
- Long An quan tâm tạo mạng lưới giao thông phát triển khá phong phú để kết
nối với các tỉnh, thành tạo thành chuổi liên kết, nhất là thành phố Hồ Chí Minh, đó
là điều kiện thuận lợi cho KTTN phát triển.
- Các chính sách về thuế, về đất đai, đặc biệt là hệ thống ngân hàng Long An
hỗ trợ khá tích cực cho KTTN có điều kiện để vay vốn phát triển, đây là một trong
những điều kiện cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh…
Qua những bài học nêu trên chúng ta thấy mặc dù Long An trước đây, tốc độ
phát triển không nhanh nhưng do có những hỗ trợ nhất định của chính quyền, các tổ
chức kinh tế, cũng như điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật khá thuận lợi nên các thành
phần kinh tế và KTTN Long An đã phát triển khá nhanh.
33
1.4.4. Những kinh nghiệm rút ra từ phát triển kinh tế tư nhân trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang:
Một là, KTTN đã phát triển đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình tổ chức
sản xuất kinh doanh. Về loại hình kinh tế, KTTN trên địa bàn tỉnh Tiền Giang có
các hình thức sở hữu là: sở hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, tương ứng với thành phần
kinh tế cá thể, tiểu chủ; sở hữu tư bản tư nhân trong nước tương ứng với loại hình
DNTN trong nước; sở hữu tư nhân của người nước ngoài tương ứng với loại hình
doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài; sở hữu nhà nước, tương ứng với loại hình
kinh tế tư bản nhà nước.
Về hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, KTTN trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
có các hình thức: Kinh tế hộ nông dân tham gia các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp;
hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp cá thể; kinh tế trang trại; hộ sản xuất kinh doanh
dịch cụ cá thể; loại hình DN tư nhân; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần;
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài.
Hai là, Kinh tế tư nhân đã phát triển đa dạng về ngành nghề sản xuất kinh
doanh nhưng không đồng đều, trong đó kinh doanh thương mại dịch vụ có nhiều
chủ thể tham gia nhất, do nguồn lực của nhân dân được khơi dậy; nhu cầu tiêu dùng
trong và ngoài nước ngày càng tăng; khu vực kinh tế nhà nước được sắp xếp lại
nhường chỗ cho Kinh tế tư nhân đảm trách. Ngoài ra, còn do kinh tế tư nhân mới
được tái lập và phát triển nên các chủ thể kinh doanh thường chọn lĩnh vực thương
mại dịch vụ để đầu tư vì vốn ít, luân chuyển vốn nhanh, tỉ suất lợi nhuận/vốn cao
hơn các lĩnh vực khác; do tâm lý các nhà đầu tư lo sợ tình huống bất lợi xảy ra
muốn “đánh nhanh, thắng nhanh”. Mặt khác, chính sách khuyến khích đầu tư của
Nhà nước cho các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp chưa đủ mức kích
thích so với lĩnh vực thương mại, dịch vụ.
Ba là, các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN biến động theo hướng
xã hội hóa sản xuất trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển
đang diễn ra trên thế giới. Đây là một cơ hội lớn để Tiền Giang phát huy nội lực,
34
tranh thủ ngoại lực xây dựng và phát triển kinh tế của tỉnh. Cùng với sự phát triển
của các thành phần kinh tế khác, KTTN có thể tiếp cận những cơ hội vàng để phát
triển về chiều sâu và chiều rộng, thu hút đầu tư từ nước ngoài để tăng nguồn vốn,
phát triển về khoa học và kỹ thuật.
1.4.5. Một số kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm phát triển
kinh tế tư nhân ở các địa phương:
- Có sự chỉ đạo thống nhất và phối hợp chặt chẽ của các ban ngành nhằm thực
hiện đúng, hiệu quả các chủ trương chính sách. Giải quyết công tâm, nhanh gọn,
hiệu quả những việc nhà đầu tư và doanh nghiệp cần là phương châm hành động
thống nhất của bộ máy chính quyền từ tỉnh đến cơ sở.
- Quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN phải tuân thủ nguyên tắc quản lý
bằng pháp luật, không được can thiệp bằng mệnh lệnh, hành chính vào công việc
của doanh nghiệp. Lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía các doanh nghiệp nhằm tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc.
- Phải lựa chọn được cán bộ quản lý có phẩm chất đạo đức tốt, chuyên môn
sâu, đãi ngộ thích đáng để hạn chế tiêu cực phát sinh. Phát hiện kịp thời, xử lý triệt
để những cán bộ có hiện tượng tham ô, hối lộ mất lòng tin của nhà đầu tư.
- Chủ động trong xây dựng, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, phù hợp với quy hoạch chung của quốc gia. Chọn quy hoạch giao thông làm
tiền đề để “đường thông đến đâu nhà đầu tư và doanh nghiệp tiến theo đến đó”.
- Ưu tiên phát triển những ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao, phát triển
các tập đoàn kinh tế đủ sức giữ vững thị phần trong nước và cạnh tranh hiệu quả ở
nước ngoài trên cơ sở đa dạng hoá, linh hoạt hoá và hiện đại hoá công nghệ sản xuất
và dịch vụ cung ứng sản phẩm, hoàn thiện hơn cơ chế thị trường và tăng cường cải
thiện môi trường kinh doanh theo các cam kết, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Kinh tế tư nhân là một trong những thành phần kinh tế có ý nghĩa quan trọng
trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời hiện nay, thành
phần này được coi là một động lực phát triển quan trọng của nền kinh tế nước ta.
35
Trước sự phát triển của kinh tế tư nhân, việc tìm hiểu những vấn đề chung về kinh
tế tư nhân nhằm nâng cao nhận thức cho chúng ta là hết sức cần thiết.
Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác Lênin, trong quá trình vận động phát triển của
lực lượng sản xuất thì khi nó còn ở trình độ thấp, phát triển chưa đồng đều thì tất
yếu tồn tại KTTN. KTTN có cơ sở tồn tại từ sự tồn tại của sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì còn nhiều chế độ, hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất nên sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế, trong đó có
KTTN. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cách mạng lâu dài, cần phải sử dụng
và phát huy các thành phần kinh tế, coi như là phương tiện để đi đến xóa bỏ sở hữu
tư nhân, xóa bỏ tình trạng bóc lột, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như thực
tiễn đổi mới trên thế giới vào điều kiện cụ thể nước ta để xây dựng nền KTTT định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ đường lối đó là
hoàn toàn đúng đắn. Đồng thời, KTTN trong nền KTTT định hướng xã hội chủ
nghĩa cũng đã chiếm được vị trí nhất định trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, nhu cầu của phát triển KTTN ở Việt Nam là nhu cầu bức thiết vì nó là
động lực lớn cho phát triển kinh tế cho nên chúng ta cần nghiên cứu lý luận chung
về KTTN làm cơ sở cho những hoạch định chiến lược cho phát triển kinh tế cả
nước, các địa phương nói riêng cũng như ở Tiền Giang hiện nay.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TIỀN GIANG
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Sự hình thành và phát triển kinh tế bao giờ cũng chịu ảnh hưởng của những
yếu tố chính trị, xã hội, các điều kiện lịch sử, điều kiện tự nhiên của nó. Chính vì
36
thế tìm hiểu KTTN của tỉnh chúng ta cần tìm hiểu những điều kiện tự nhiên có tác
động đến sự hình thành và phát triển của KTTN.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý của Tiền Giang với quá trình hình
thành và phát triển kinh tế tư nhân
Tiền Giang nằm ở vị trí kết nối hai vùng kinh tế trọng điểm của quốc gia. Đó
là vùng KTTĐPN và vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL. Về phương diện địa lý, Tiền
Giang thuộc vùng ĐBSCL, nhưng trên phương diện địa kinh tế, Tiền Giang lại
thuộc vùng KTTĐPN.
Với vị trí địa lý hiện tại, cách thành phố Hồ Chí Minh 72km và cách thành phố
Cần Thơ 100km, có thể thấy một số lợi thế của Tiền Giang so với các tỉnh còn lại
trong vùng nhờ hai trục giao thông thủy bộ chính. Một là trục giao thông huyết
mạch Bắc – Nam (Quốc lộ 1 + Kênh Chợ Gạo) và trục giao thông đường thủy theo
hướng Đông – Tây (Sông Tiền). Đây là những trục giao thông quan trọng cho phép
vận chuyển hàng hóa với khối lượng lớn của cả vùng Nam Bộ cũng như của các
quốc gia thuộc Tiểu vùng sông Mekong.
Ngoài ra, Tiền Giang còn nằm trên các trục giao thông - kinh tế quan trọng
như quốc lộ 1A, quốc lộ 50, quốc lộ 60, quốc lộ 30, đường cao tốc thành phố Hồ
Chí Minh - Trung Lương (Mỹ Tho) - Cần Thơ, trong đó đoạn đến Trung Lương đã
đưa vào hoạt động và đoạn từ Trung Lương đến Mỹ Thuận đang triển khai xây
dựng nối TP Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam Bộ với các tỉnh ĐBSCL, tạo cho Tiền
Giang vị thế cửa ngõ của các tỉnh miền Tây về thành phố Hồ Chí Minh và vùng
KTTĐPN. Mặt khác, Tiền Giang còn có 32 km bờ biển và hệ thống các sông Tiền,
sông Vàm Cỏ Tây, sông Soài Rạp, kênh Chợ Gạo (đang triển khai nạo vét mở
rộng)...nối liền các tỉnh ĐBSCL với thành phố Hồ Chí Minh và là cửa ngõ ra biển
Đông của các tỉnh ven sông Tiền và Campuchia.
Tiền Giang nằm trải dài trên bờ Bắc sông Tiền với chiều dài trên 120 km. Về
ranh giới hành chính: phía Đông giáp biển Đông; phía Tây giáp tỉnh Đồng Tháp;
phía Nam giáp tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long; phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Long An
và TP Hồ Chí Minh.
37
Bảng 1: Bản đồ hành chính tỉnh Tiền Giang
Tiền Giang có địa hình bằng phẳng, toàn vùng không có độ dốc rõ ràng, tuy
nhiên có những khu vực có tiểu địa hình thấp trũng hay gò cao hơn so với địa hình
chung không đáng kể. Đất đai của tỉnh phần lớn là nhóm đất phù sa trung tính, ít
chua dọc sông Tiền chiếm khoảng 53% diện tích toàn tỉnh, thuận lợi nguồn nước
ngọt, từ lâu đã được đưa vào khai thác sử dụng, hình thành vùng lúa năng suất cao
và vườn cây ăn trái chuyên canh của tỉnh; còn lại 19,4% là nhóm đất phèn và 14,6%
là nhóm đất phù sa nhiễm mặn. Khu vực giáp biển Đông thuộc huyện Gò Công
Đông với bờ biển dài 32 km nằm kẹp giữa các cửa sông lớn là Xoài Rạp và cửa
Tiểu, cửa Đại thuộc hệ thống sông Tiền. Ngoài ra, Tiền Giang còn là tỉnh có nhiều
trữ lượng về khoáng sản, các khoáng sản chủ yếu là than bùn, sét, trữ lượng cát trên
sông, và trữ lượng nước ngầm... Mạng lưới sông, rạch chằng chịt, bờ biển dài thuận
lợi cho việc giao lưu trao đổi hàng hoá với các khu vực lân cận đồng thời là môi
trường cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản.
Khí hậu Tiền Giang mang tính chất nội chí tuyến - cận xích đạo và khí hậu
nhiệt đới gió mùa nên nhiệt độ bình quân cao và nóng quanh năm, với 2 mùa rõ
rệch là mùa mưa và mùa khô.
38
Diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 2.509,3km2, chiếm khoảng 6% diện tích
ĐBSCL; 8,1% diện tích vùng KTTĐPN; 0,7% diện tích cả nước; Năm 2015: dân số
trung bình là 1.726.000 người; mật độ dân số là 688 người/km2 .
Tiền Giang có 11 đơn vị hành chính (01 thành phố, 02 thị xã và 08 huyện),
bao gồm: TP Mỹ Tho; Thị xã Gò Công; Thị xã Cai Lậy; huyện Cái Bè, Cai Lậy,
Châu Thành, Tân Phước, Chợ Gạo, Gò Công Tây, Gò Công Đông và Tân Phú
Đông; với 173 đơn vị hành chính cấp xã (7 thị trấn, 166 xã, phường). Trong đó,
Thành phố Mỹ Tho là đô thị loại 1 - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của
tỉnh, đồng thời là hợp điểm giao lưu kinh tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, du lịch lâu
đời của các tỉnh trong vùng ĐBSCL.
Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi của Tiền Giang có nhiều lợi thế cho phát
triển kinh tế - xã hội: thứ nhất, hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến
đường huyết mạch quốc gia đi qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 50, quốc lộ 60, quốc lộ
30, đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương (Mỹ Tho) - Cần Thơ,
sông Tiền, sông Roài Rạp, sông Chợ Gạo và bờ biển dài trên 32 km cùng với mạng
lưới sông, rạch chằng chịt đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong
vùng cũng như giao thương với cả nước và quốc tế; thứ hai, đất đai của tỉnh phần
lớn là nhóm đất phù sa trung tính, ít chua, thuận lợi nguồn nước ngọt, khai thác sử
dụng, hình thành vùng lúa năng suất cao và vườn cây ăn trái chuyên canh của tỉnh.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang trong mối quan hệ với
phát triển kinh tế tư nhân
Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Tiền Giang thì đến cuối năm 2016 toàn
tỉnh có 08 khu Công nghiệp và 15 cụm Công nghiệp, trên 99 Hợp tác xã và trên 453
trang trại phân bổ rộng khắp trong tất cả các huyện, thị, thành của tỉnh và hệ thống y
tế, giáo dục ngày càng phát mạnh, có 231 trường Mần non, 388 trường phổ thông,
06 trường Trung học chuyên nghiệp, trên 15 trường dạy nghề, 02 trường Cao đẳng,
01 trường Đại học và trên 217 cơ sở khám chữa bệnh. Công tác xóa đói giảm
nghèo, an sinh xã hội cũng được các cấp chính quyền trong tỉnh đặt biệt quan tâm,
tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm là 1,43%. Hơn nữa, Tiền Giang còn được
39
mệnh danh là “vương quốc trái cây” với nhiều loại cây ăn trái nổi tiếng như Vú sữa
Vĩnh Kim, Sơ ri Gò Công, Bưởi long Cổ cò, Xoài cát Hòa lộc, Sầu riêng, Chôm
chôm Ngũ Hiệp, Dứa Tân Phước, Mãn cầu xiêm Tân Phú Đông… cùng với nhiều di
tích lịch sử như Rạch Gầm- Xoài Mút, Ấp Bắc, Giồng Dứa, lũy Pháo Đài; di tích
văn hóa Óc Eo, Gò Thành; nhiều lăng mộ, đền chùa như lăng Trương Định, lăng
Hoàng Gia, lăng Tứ Kiệt, chùa Vĩnh Tràng, chùa Bửu Lâm, chùa Sắc Tứ, Thiền
Viện Trúc Lâm và nhiều điểm du lịch sinh thái như cù lao Thới Sơn, Ngũ Hiệp, Trại
rắn Đồng Tâm, chợ nổi Cái Bè, làng nghề truyền thống và khu sinh thái Đồng Tháp
Mười, Biển Gò Công… tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội và du lịch. Đặc
biệt là cho kinh tế tư nhân Tiền Giang phát triển..
Trong những năm qua, kinh tế Tiền Giang đã có những chuyển biến tích cực,
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn mức trung bình của cả nước, thu nhập bình quân
đầu người năm 2015 đạt 46,3 triệu đồng/người/năm, tương đương 2.145
USD/người. Đặc biệt, thời kỳ 2011 – 2015 tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)
tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 11%/năm, cao hơn thời kỳ 2006 – 2010 là
0,1%. Tổng sản phẩm bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 46,3 triệu
đồng/người/năm, gấp 2,2 lần so với năm 2010, nếu quy theo USD thì năm 2015 đạt
2.145 USD/người. Thể hiện qua các lĩnh vực:
2.1.3. Tăng trưởng kinh tế: Bảng 2: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh – GRDP
Thời kỳ 2011- 2015 (Theo giá so sánh 1994 – năm trước = 100)
2011 2012 2013 2014 2015
GRDP Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ 10,2 6,3 13,5 11,4 11,2 5,4 16,8 11,4 11,1 5,5 16,5 11,7 Đơn vị tính: % Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2011 - 2015 11,0 5,7 16,1 11,5 11,4 5,5 16,7 11,4
11,1 6,0 16,8 11,5 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Tiền Giang năm 2015
40
Trong 11% tăng trưởng nền kinh tế của tỉnh thì khu vực công nghiệp và xây
dựng đóng góp nhiều nhất 4,8%, kế đến là khu vực dịch vụ 4,4% và khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản 1,8%. So với thời kỳ 2006 – 2010 mức đóng góp của khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm, khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
tăng (thời kỳ 2006 – 2010 mức đóng góp của các khu vực lần lượt là : 4,4%; 4,3%;
2,3%). Góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, không ngừng cải thiện đời sống
của người dân. Thu nhập bình quân đầu người tăng khá nhanh, bình quân
17,1%/năm từ 21 triệu đồng năm 2010 tăng lên 46,3 triệu đồng/người vào năm
2015, mức đóng góp của từng khu vực kinh tế như trên phù hợp với định hướng
phát triển kinh tế của tỉnh là tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm
tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế ở các khu vực
qua các năm không thay đổi lớn nên ảnh hưởng có tính đột phá đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế được biểu diễn qua biểu đồ sau:
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng
41
Tốc độ tăng trưởng của từng khu vực như sau:
- Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản:
Tốc độ tăng bình quân hàng năm của cả thời kỳ đạt 5,7%/năm (Nghị quyết đặt
mục tiêu là 4,3%), trong đó nông nghiệp tăng 6%, thủy sản tăng 5,1%/năm. Trong
sản xuất nông nghiệp nông dân đã ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào trong
sản xuất nên năng suất cây trồng vật nuôi đều tăng. Vấn đề đáng quan tâm trong
lĩnh vực nông nghiệp là lệ thuộc tự nhiên giá bán sản phẩm đầu ra lên xuống thất
thường, có những thời điểm khó tiêu thụ sản phẩm, nông dân không định hướng
trong sản xuất. Do các ngành hữu quan không đánh giá sát qui luật để định hướng
sản xuất cây gì, con gì cho ổn định bền vững và tuyên truyền sâu rộng trong nhân
dân để tránh trường hợp nông dân nuôi, trồng tự phát chạy theo thị trường. Sản xuất
thủy sản trong 5 năm qua cũng gặp không ít khó khăn, điều kiện thời tiết không
thuận lợi, dịch bệnh tôm, nghêu thường xuyên xảy ra, năm 2011 diện tích nuôi tôm
bị thiệt hại 912,38 ha; năm 2015 diện tích nuôi nghêu bị chết 1.580 ha.
- Khu vực công nghiệp và xây dựng:
Tăng trưởng bình quân đạt 16,1%/năm, riêng công nghiệp tăng 19,1%/năm.
Công nghiệp là một trong những ngành có tốc độ tăng cao nhất trong 5 năm qua, số
lượng doanh nghiệp đi vào hoạt động năm sau cao hơn năm trước, nhiều nhất là
năm 2011 tăng 81 doanh nghiệp so năm 2010. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn
tỉnh chủ yếu là công nghiệp gia công sơ chế, sản xuất chỉ tập trung một số ngành
như xay xát, may, chế biến thủy sản. Tuy giá trị gia tăng không cao nhưng đã giải
quyết được một lượng lớn lao động trên địa bàn tỉnh; công nghiệp chế tạo còn rất ít.
Ngành xây dựng tăng trưởng thấp, bình quân 5 năm chỉ tăng 4,8%/năm, riêng năm
2011 giảm 8,7% so năm 2010. Do tác động của lạm phát năm 2011, thực hiện mục
tiêu kiềm chế lạm phát nên vốn đầu tư từ ngân sách rất hạn chế; lãi suất ngân hàng
cao, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khó khăn doanh nghiệp ngại đầu tư mở rộng sản
xuất.
42
- Khu vực dịch vụ:
Các ngành trong khu vực này đều tăng nhưng chưa có đột phá và chưa đạt kế
hoạch đề ra, tăng bình quân cả thời kỳ là 11,5%/năm (Nghị quyết đặt ra là 12,5% -
13,3%). Sở dĩ tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm chưa cao là do Tiền Giang
nói riêng, cả nước nói chung chịu sự tác động suy giảm kinh tế toàn cầu đã ảnh
hưởng không tốt đến xuất khẩu, thu hút đầu tư, khách du lịch… Mặt khác, các hoạt
động dịch vụ vui chơi giải trí trên địa bàn chưa có dịch vụ mới, lạ so với khu vực,
chưa thu hút được du khách. Tuy chưa đạt mục tiêu Nghị quyết nhưng với tốc dộ
tăng bình quân 11,5%/năm là sự nỗ lực rất lớn của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh đã hình
thành các trung tâm thương mại, siêu thị, khách sạn, nhà hàng, các khu du lịch…
So sánh tốc độ tăng trưởng của Tiền Giang so với một số tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long:
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng kinh tế một số tỉnh ĐBSCL từ năm 2011 – 2015 và bình quân thời kỳ 2011 – 2015 (Theo giá so sánh 1994) Đơn vị tính: %
2011 2012 2013 2014 2015
Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2011 - 2015 111,0 107,3 112,5 109,5 113,1 108,6 110,4 109,4 112,1 Tiền Giang Bến Tre Trà Vinh Đống Tháp Hậu Giang An Giang Kiên Giang Sóc Trăng Bạc Liêu 111,1 106,5 110,4 109,8 114,1 108,4 111,8 108,1 112,6 111,1 106,2 110,5 108,6 112,3 108,1 109,4 109,4 112,0 111,4 107,4 112,5 108,1 112,5 108,6 109,2 116,6 112,0 111,2 107,7 111,2 107,6 112,5 107,9 109,5 103,4 112,0
110,2 108,4 113,0 113,6 114,1 110,2 111,9 109,9 112,0 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Tiền Giang năm 2015 Qua số liệu cho ta thấy, nhịp độ tăng trưởng của Tiền Giang từ 2011 đến 2015,
so với một số tỉnh ĐBSCL thì Tiền Giang đều tăng qua các năm. Từ năm 2011, lạm
phát tăng cao, ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới; đến giữa năm 2014 tình
hình bất ổn ở Biển Đông ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất nhập khẩu mặt hàng nông
sản của tỉnh nhưng kinh tế vẫn giữ được tăng trưởng ổn định trong suốt thời kỳ và
43
năm sau cao hơn năm trước, đó là nhờ chính sách kinh tế linh hoạt của nhà điều
hành cũng như ổn định chính trị và cam kết đảm bảo cho nhà đầu tư đã tác động ảnh
hưởng đến ổn định kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2011 – 2015 nằm
trong nhóm tăng khá so với các tỉnh.
Về cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch theo đúng định hướng nhưng còn chậm cơ cấu
các khu vực xấp xỉ với mục tiêu Nghị quyết đề ra. Năm 2015, khu vực nông lâm
nghiệp và thủy sản giảm 7,4% so năm 2010, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
4,9% so năm 2010 và khu vực dịch vụ tăng 2,5% so năm 2010.
Bảng 5: Cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn – GRDP
Phân theo khu vực kinh tế
Đơn vị tính: %
2010 2015 Chỉ tiêu Nghị quyết đến năm 2015
GRDP 100,0 100,0 100,0
Nông, lâm nghiệp và thủy sản 44,2 36,8 35,0 – 36,6
Công nghiệp và xây dựng 28,1 33,0 31,2 – 32,6
Dịch vụ 27,7 30,2 32,2 – 32,4
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Tiền Giang năm 2015
Năm năm qua kinh tế của tỉnh phát triển khá đồng đều giữa các khu vực, trong
đó khu vực công nghiệp và xây dựng phát triển cao, giá trị gia tăng năm 2010 đạt
3.709 tỷ đồng (giá so sánh 1994) đến năm 2015 đạt 7.810 tỷ đồng, tăng 1,1 lần. Cơ
cấu kinh tế qua các năm cho thấy giữa các khu vực gần như giữ thăng bằng, công
nghiệp dịch vụ phát triển khá nhưng không nhanh hơn nông nghiệp. Với cơ cấu như
hiện tại, kinh tế của tỉnh vẫn là kinh tế nông nghiệp.
44
Bảng 6: Cơ cấu kinh tế năm 2010 và năm 2015
2.1.4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản:
Tiền Giang là tỉnh nông nghiệp, dân số khu vực nông thôn chiếm hơn 85%
dân số; giá trị sản xuất ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng 28% giá trị sản xuất của
toàn ngành kinh tế, trong đó ngành trồng trọt chiếm 20,7%. Theo kết quả tổng điều
tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản năm 2011 toàn tỉnh có 236.925 hộ nông
nghiệp và thủy sản chiếm 61,7% hộ nông thôn hàng năm sản xuất trên 1,3 triệu tấn
lương thực cho nền kinh tế tỉnh, trong đó hơn 45% cho xuất khẩu và góp phần bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia.
Chăn nuôi hàng năm đều phát triển, tỉnh hiện có đàn heo lớn nhất khu vực với
595.678 con, huyện Cái Bè có tổng đàn chiếm tỷ trọng 20,7% tổng đàn; đàn gia cầm
gần 7,4 triệu con các loại, nhiều nhất ở huyện Chợ Gạo chiếm 23,32% tổng đàn và
nuôi theo mô hình trang trại là chủ yếu, hàng năm cung cấp cho thị trường khoảng
150 ngàn tấn thịt.
Thủy sản là ngành mũi nhọn của tỉnh được phát triển theo hai hướng nuôi
trồng và khai thác, tổng sản lượng thủy sản hàng năm khoàng 228 ngàn tấn, trong
đó sản lượng nuôi trồng khoảng 137 ngàn tấn chiếm 59,9% tổng sản lượng. Hiện
nay ngành thủy sản cũng còn nhiều bất cập: khai thác biển chịu ảnh hưởng thiên tai,
ngư trường khai thác không ổn định và ngày càng phải ra khơi xa hơn trong khi tàu
45
thuyền phần lớn không đạt chuẩn nên chi phí đầu tư của ngư dân khá lớn, năm 2011
tàu đánh bắt xa bờ có công suất bình quân đạt 143,7 CV có thể ra khơi đến năm
2015 ngư dân trang bị tàu có công suất bình quân tăng khoảng 1,6 lần năm 2011
mới yên tâm ra khơi; giá xăng, dầu tăng bất thường… Về nuôi trồng do ảnh hưởng
suy giảm kinh tế làm cho sức mua giảm, sự gắn kết giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp và doanh nghiệp với người nuôi chưa chặt chẽ, qui mô sản xuất nhỏ lẻ theo
mô hình cũ không phù hợp, sự cạnh tranh không lành mạnh mua bán phá giá, phát
triển vượt tầm kiểm soát của các ngành chức năng,… trong kết nối cung – cầu còn
bộc lộ yếu kém kéo dài sản phẩm sản xuất đôi khi quá yêu cầu, điệp khúc được mùa
mất giá, chi phí đầu vào tăng, bị tư thương ép giá, người nuôi luôn chịu thiệt, thể
hiện rõ nét nhất là mô hình nuôi cá tra của tỉnh
Thành quả trên lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản của tỉnh Tiền Giang về mặt sản
lượng những năm qua phát triển vững chắc trong mọi điều kiện môi trường sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm hết sức khó khăn mà vẫn giữ vững và phát triển đã góp phần
làm thay đổi bộ mặt nông thôn, cải thiện đời sống nông dân, xóa đói giảm nghèo từ
10,96% năm 2010 giảm 8,03% năm 2012 và dự kiến năm 2015 giảm còn 4,16%
góp phần quan trọng để xây dựng nông thôn mới…Song thu nhập của người nông
dân không được cải thiện bao nhiêu, khó khăn mọi bề khoảng cách thu nhập giữa
thành thị và nông thôn càng dãn ra. Chúng ta nói nhiều đến “liên kết 4 nhà” nhưng
trên thực tế thì mối liên kết giữa sản xuất - chế biến - xuất khẩu còn nhiều yếu kém.
Nhìn tổng thể, nó đang bị cắt ra nhiều đoạn mà thiệt thòi nhiều nhất thuộc về nông
dân, nông dân chưa có lợi ích thật sự về thành quả của mình…Vấn đề hiện nay là
làm thế nào để nông dân có lợi nhuận thật sự từ 30% trở lên và mức lời hợp lý cho
các ngành nghề nông nghiệp khác để nông dân có thể sống, làm giàu được bằng
nghề nông. Tỉnh ta đã nhận ra hạn chế về sản xuất – thu nhập và đời sống nông
thôn, nông dân đã có chủ trương: “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp” khởi đầu bằng
chương trình kinh tế của tỉnh phát triển kinh tế vườn, chăn nuôi, thủy sản… Kết quả
trong thời gian qua đã có chuyển dịch trong nội ngành nông nghiệp, cơ cấu ngành
nghề của hộ lao động nông thôn đã thay đổi. Theo kết quả điều tra chuyển dịch cơ
46
cấu ngành nghề của các xã nông thôn mới năm 2014 so năm 2013 hộ nông nghiệp
giảm 0,9%, hộ lâm nghiệp giảm 16,3%, ngược lại hộ công nghiệp tăng 8,9%, hộ
thương mại tăng 8,3%, hộ thủy sản tăng 2,4%, hộ vận tải tăng 1%, hộ dịch vụ khác
tăng 1,6% và hộ kinh doanh các ngành nghề còn lại tăng 4,6%. Tuy nhiên thị trường
lúa gạo thế giới đã và đang cạnh tranh khốc liệt, nhất là thách thức các quốc gia mới
nổi như Myanma, Campuchia và chính sách tự túc lương thực của các nước dùng
gạo nên sắp tới sản xuất lúa tiếp tục khó khăn. Về xuất khẩu bình quân mỗi năm
xuất khoảng 246 ngàn tấn gạo các loại nhưng trong số gạo này của Tiền Giang là số
rất ít, hơn nữa mặt được của xuất khẩu chỉ đem về ngoại tệ, giải quyết tồn đọng lúa
trong dân nhưng tỷ suất lợi nhuận rất thấp thậm chí lỗ do giá xuất liên tục giảm, giá
gạo xuất bình quân năm 2014 là 452,1USD/tấn gạo thường và 612USD/tấn gạo
thơm, quy đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ thì 1 kg gạo thường xuất
9.590 đồng/kg trong khi giá gạo nội địa thấp nhất như gạo 50404 khoảng
10.000đồng/kg trở lên… nên việc tái cơ cấu lại các vụ lúa trong năm là hết sức cần
thiết, mạnh dạn chuyển sang trồng màu với nhiều chủng loại; đồng thời tỉnh cũng
nên tổ chức đánh giá về cơ cấu giống lúa trong thời gian qua. Về tiêu thụ sản phẩm,
với số lượng vừ phải nên khai thác thị trường trong nước là chủ yếu. Riêng cây lâu
năm, cây ăn quả hiện phát triển tự phát, tràn lan, man mún theo thị trường không
đúng quy hoạch nguy cơ khủng hoảng thừa, giá thấp đưa đến thua lỗ là rất lớn như
thanh long, ca cao, mít, vú sữa… tỉnh nên kiểm tra, tổng kết, đánh giá thực trạng để
có định hướng phù hợp.
2.1.5. Kinh tế tập thể:
Kinh tế tập thể luôn được tỉnh rất quan tâm để phát triển lĩnh vực có nhiều
tiềm năng này. Năm 2015, có một Liên Minh HTX nông nghiệp và 99 HTX gồm:
43 HTX nông nghiệp, 14 HTX tiểu thủ công nghiệp, 9 HTX thương mại dịch vụ, 4
HTX xây dựng, 11 HTX vận tải, 16 quỹ tín dụng nhân dân và 2 HTX thủy sản.
Nhiều HTX, tổ hợp tác hoạt động có tăng về doanh thu, lợi nhuận mang lại lợi ích
thiết thực cho xã viên, tạo việc làm thường xuyên và thu nhập cho người lao động,
góp phần cùng chính quyền, địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, các
47
công trình phúc lợi và tham gia thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội và xây
dựng nông thôn mới…Tuy nhiên, khu vực kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế, yếu
kém nhất là lĩnh vực nông - thủy sản nhiều HTX đang rơi vào cảnh “sống dở, chết
dở” do sản xuất, kinh doanh không hiệu quả. Nguyên nhân do nguồn lực yếu, thiếu
định hướng sản xuất, kinh doanh, làm theo phong trào. Mặt khác, loại hình kinh tế
này chưa được quan tâm đúng mức của các ngành và địa phương. Trong tỉnh có
HTX ngưng hoạt động nhưng địa phương chưa muốn giải thể mà muốn giữ lại để
củng cố như HTX Lò rèn Vĩnh Kim 5 năm qua HTX này chỉ có 55 ha, 100 xã viên
áp dụng GlobalGap nhưng hiện tại HTX không có điều kiện bảo quản sản phẩm lâu
ngày, hàng hóa không xuất khẩu được xã viên “tự bơi” tìm đường tiêu thụ nên
không còn mặn mà với mô hình hợp tác. HTX Mỹ Thành chuyên sản xuất lúa hợp
tác với công ty ADC lúc đầu sản xuất rất hiệu quả, được chứng nhận GlobalGap
nhưng sau khi công ty ADC không tiếp tục bao iêu sản phẩm do không tiêu thụ
được HTX trở nên bế tắc. Do đầu ra sản phẩm của xã viên bấp bênh dần dần họ
không còn tuân thủ theo đầy đủ quy trình. Chính vì thế, để có hàng hóa bảo đảm
chất lượng, đạt các chỉ tiêu an toàn thực phẩm, rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước,
các nhà khoa học, doanh nghiệp và sự hợp tác tích cực của nông dân. Trong mối
liên kết “4 nhà” thì nhà doanh nghiệp là bên có quan hệ lỏng lẻo nhất, để phát huy
mô hình này Nhà nước cần có biện pháp với nhà doanh nghiệp thực hiện đúng cam
kết để nông dân yên tâm sản xuất.
Từ thực trạng trên, việc phát triển kinh tế tập thể tỉnh trong thời gian tới nên
chọn bước đi, mô hình, ngành sản xuất – kinh doanh và qui mô cho phù hợp, đồng
thời quyết tâm giải thể những HTX sản xuất – kinh doanh không hiệu quả kéo dài,
củng cố các HTX kinh doanh có lời cho xã viên ủng hộ và phát triển với số lượng
vừa đủ để quản lý, đầu tư hỗ trợ phát triển không cần thiết phát triển theo số lượng.
Hiện nay người dân rất băn khoăn nên hay không nên tham gia vào hợp tác hóa vốn
có dấu ấn không mấy tốt đẹp trước đây và kết quả hoạt động hiện nay.
48
2.1.6. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp:
Công nghiệp tỉnh Tiền Giang chiếm tỷ trọng khoảng 43,5% giá trị sản xuất
của nền kinh tế đang trên đường phát triển. Tuy chịu ảnh hưởng khủng hoảng kinh
tế thế giới số doanh nghiệp thành lập mới, ngừng hoạt động, giải thể… diễn ra
thường xuyên, nhưng lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đều tăng qua các
năm đã khắc phục được tình trạng khó khăn và có dấu hiệu phục hồi. Giá trị sản
xuất tăng trưởng bình quân hàng năm 20,9%, trong đó kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài có mức tăng bình quân hàng năm cao nhất là 32,2% chiếm 31,5% tổng số,
kinh tế tư nhân có mức tăng bình quân 18,3% chiếm tỷ trọng lớn nhất là 58,6% tổng
số, kinh tế nhà nước địa phương tăng 16,5%; riêng kinh tế nhà nước Trung ương
giảm 8,4%/năm và chiếm tỷ trọng không đáng kể; công nghiệp của tỉnh chủ yếu là
công nghiệp gia công sơ chế chiếm tỷ trọng hơn 98,5% tổng số.
Bảng 7: Tốc độ phát triển giá trị sản xuất qua các năm
49
Nhìn chung, nhịp độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhưng cũng
còn mang nhiều yếu tố không ổn định do chỉ tập trung vào những ngành như chế
biến thủy sản, thức ăn chăn nuôi, quy mô công nghiệp của tỉnh còn nhỏ, máy móc
còn lạc hậu, giá thành còn cao, chất lượng và hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu và
lệ thuộc vào giá nguyên liệu đầu vào, giá tiêu thụ đầu ra.
2.1.7. Bán lẻ hàng hóa và hoạt động dịch vụ:
Thị trường hàng hóa dồi dào, nguồn cung hàng hóa trên thị trường luôn được
đảm bảo, mạng lưới chợ nông thôn, chợ đầu mối nhất là các chợ của xã nông thôn
mới được nâng cấp, sắp xếp lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán và thúc
đẩy giao lưu hàng hóa, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của địa phương, nhịp độ tăng
trưởng bình quân 2010 – 2015 tăng trưởng 18,9%/năm. Khó khăn đối với các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa đã giảm do sức ép về chi phí tài chính không
còn lớn, lượng hàng tồn kho không còn cao, một phần do các doanh nghiệp đã chủ
động thu hẹp sản xuất. Tuy nhiên do mức độ phục hồi kinh tế chậm, thu nhập của
người dân chưa được cải thiện đáng kể nên mức tiêu thụ hàng hóa trên thị trường
cũng chưa tăng nhiều; tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ xã hội năm 2012 so cùng
kỳ tăng 19,7%, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 11,5% tương ứng năm 2013 tăng 15% và
7,9%; năm 2014 tăng 14,2% và 9,7% và năm 2015 tăng 15,6% và 10,1%.
50
Bảng 8: Tổng mức bán lẽ hàng hóa và dịch vụ
Ngành du lịch gặp khó khăn do sắp xếp cổ phần hóa nhưng dần ổn định, nhịp
độ phát triển doanh thu du lịch lữ hành hàng năm tăng 15,3% do chủ trương xã hội
hóa đã thu hút nhiều doanh nghiệp, tư nhân đầu tư vào lĩnh vực khách sạn, nhà
hàng, điểm khai thác du lịch với nhiều hình thức phong phú. Hiện có 7 điểm du lịch
cơ bản thu hút khách du lịch như ở thành phố Mỹ Tho có chùa Vĩnh Tràng, khu du
lịch Thới Sơn, huyện Tân Phước có Đồng Tháp Mười, huyện Châu Thành có trại
rắn Đồng Tâm, huyện Cái Bè có nhà cổ Đông Hòa Hiệp và chợ nổi Cái Bè, huyện
Gò Công Đông có khu du lịch biển Tân Thành…các cơ sở phục vụ du khách trong
đó có 7 khách sạn đạt tiêu chuẩn một sao và 6 khách sạn đạt tiêu chuẩn hai sao. Số
lượt khách du ịch tăng bình quân hàng năm là 10,2%, trong đó khách du lịch quốc
tế tăng 11,6%. Đã hạn chế được tình trạng tranh giành khách. Tuy nhiên ngành du
lịch Tiền Giang chưa phát triển theo chiều rộng, chưa phát triển được các dịch vụ
phục vụ du khách có chất lượng cao, cơ sở vật chất phục vụ du lịch có đầu tư đáng
kể nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác quảng bá, tiếp thị du lịch còn hạn
chế, các tuyến, điểm dịch vụ du lịch chưa thật sự hấp dẫn.
51
2.1.8. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hàng hóa và dịch vụ qua các năm có nhiều biến
động. Ngay từ những tháng đầu năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng tháng sau luôn tăng
cao hơn tháng trước, đặc biệt là tháng 4/2011 tăng 4,37% so tháng 3/2011, CPI năm
2011 tăng 19,6% bình quân tháng tăng 1,47%.
Bảng 9: Chỉ số giá qua các năm
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11/CP với nhiều nhóm giải pháp nhằm kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền
vững, cùng với cả nước, tỉnh đã triển khai thực hiện quyết liệt các nhóm giải pháp
và chủ động kềm chế, phòng ngừa lạm phát, khôi phục và phát triển sản xuất kinh
doanh, sau đó tốc độ tăng chậm lại. CPI năm 2012 tăng 3,53%, năn 2013 tăng
7,18%, năm 2014 tăng 2,64%. Nguồn cung cấp hàng hóa dồi dào, nhưng nhu cầu và
52
sức mua còn yếu; tác động có sức lan tỏa lớn nhất đến CPI là sự biến động của mặt
hàng xăng, dầu, y tế, giáo dục… tăng nhanh nhưng giảm chậm so với thời gian biến
động giá xăng, dầu thế giới và tăng cao nhưng giảm thấp.
2.1.9. Đầu tư, xây dựng:
Tổng số vốn huy động đầu tư toàn xã hội đạt 96,1 ngàn tỷ đồng, trong đó năm
2015 ước tính đạt 24,4 ngàn tỷ đồng, bình quân mỗi năm thực hiện 19.299 tỷ đồng,
chiếm tỷ lệ trên 31,5% GDP đạt 81,4% mục tiêu Nghị quyết đề ra. Vốn đầu tư từ
khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng 14,2% tổng số vốn đầu tư toàn tỉnh, trong
đó vốn ngân sách nhà nước chiếm 9,6% đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, phúc lợi công cộng xã hội quan trọng. Vốn khu vực ngoài nhà nước chiếm
65,5% trong đó vốn của dân cư chiếm 34,4%. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
chiếm 20,3%, năm 2015 kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 45 dự án tăng
26% so thời kỳ trước, tổng vốn đang ký 1,1 tỷ USD tăng 105% đầu tư phát triển chủ
yếu trong lĩnh vực công nghiệp.
2.1.10. Tài chính
Tổng thu ngân sách từ kinh tế địa phương thời kỳ 2011 – 2015 đạt 20.227 tỷ
đồng, tốc độ tăng bình quân 10,6%/năm; trong đó thu từ thuế xuất nhập khẩu tăng
cao nhất, đạt tốc độ bình quân 49,6%/năm, thu từ xổ số kiến thiết đạt mức
13%/năm. Năm 2012 là năm có tốc độ tăng thu thấp nhất trong các năm (2,7%), do
lạm phát tăng cao, thực hiện Nghị định số 13/NQ-CP của Chính phủ tỉnh rà soát cho
phép doanh nghiệp chậm nộp và giảm một số khoản thuế để kích thích sản xuất,
giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp nên tốc độ thu có chậm lại. Các khoản thu có
tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách của tỉnh gồm: thu từ doanh nghiệp và cá thể
sản xuất kinh doanh chiếm 44,6%, thu từ xổ số kiến thiết 20,1%, thu từ thuế xuất
nhập khẩu chiếm 8,3%... Tỷ lệ huy động ngân sách/GRDP trong 5 năm qua có xu
hướng giảm dần, năm 2010 chiếm 8,7% đến năm 2015 còn 6,3%/GRDP (mục tiêu
6%/GRDP).
Tổng chi cân đối ngân sách (chưa tính từ nguồn thu xổ số kiến thiết) thời kỳ
2011 – 2015 đạt 32.592 tỷ đồng; trong đó chi thường xuyên 22.468 tỷ đồng, chiếm
53
68,9% trong tổng chi; chi đầu tư phát triển 6.260 tỷ đồng, chiếm 19,2%. Với tổng
thu ngân sách như trên, Tiền Giang thu ngân sách không đủ chi, hàng năm phải
nhận trợ cấp từ trung ương, năm 2013 nhận từ trung ương 6.271 tỷ đồng, năm 2015
dự kiến 2.802 tỷ đồng.
2.1.11. Xuất – nhập khẩu hàng hóa:
Hoạt động xuất khẩu ổn định và phát triển, nhịp độ tăng bình quân hàng năm
về kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh là 26,1% (Nghị quyết nhiệm kỳ
từ 16% - 18%)
Bảng 10: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
Qua biểu đồ ta thấy kim ngạch tăng qua các năm, tuy nhiên các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của tỉnh cũng gặp khó khăn nhất định như: gạo có xu hướng giảm do
cạnh tranh, hàng thủy sản đông lạnh có mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn cá tra phi lê với
độ ổn định chưa cao do ảnh hưởng về nguồn nguyên liệu và nhiều doanh nghiệp
cùng sản xuất một mặt hàng; nguồn nguyên liệu các mặt hàng rau quả của nông dân
54
sản xuất mang tính tự phát do đó chất lượng và giá cả không ổn định; hàng dệt may
gặp khó khăn về nguồn nguyên phụ liệu nhà cung cấp gây sức ép đòi tăng giá…
hiệu quả đem lại của hàng hóa xuất khẩu chưa cao làm cho người sản xuất chịu
thiệt. Ngoài tăng sản lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh, phải kể đến
tăng số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, năm 2011 có 65 doanh nghiệp,
năm 2012 tăng thêm 17 doanh nghiệp, trong đó có 11 doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
So với các tỉnh ĐBSCL, Tiền Giang có vị trí rất quan trọng là cửa ngõ nối liền
thành phố Hồ Chí Minh rất thuận lợi cho việc giao thương, buôn bán trong vùng và
liên vùng. Tốc độ xuất khẩu tăng bình quân hàng năm trong thời kỳ 2011 – 2015
dẫn đầu các tỉnh, kế đến là Hậu Giang tăng bình quân 22,8%/năm, Bến Tre tăng
22,6%/năm, Long An tăng 22,5%/năm trong đó tỷ lệ xuất trực tiếp chiếm từ 80% -
90%, phần còn lại là xuất ủy thác.
Bảng 11: Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh phân theo loại hình kinh tế (Giá so sánh 1994)
Đơn vị tính: Triệu đồng
2.315.774
2.540.141
2.764.144
3.096.067
3.403.285
2011 2012 2013 2014 2015 2016
11.506.645
12.725.645
13.951.894 15.404.979 17.047.431 37.228.393
611.015
860.432
1.143.485
1.363.428
1.667.220
5.563.751
6.997.350
Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài Nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
55
Bảng 12: Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (Giá so sánh 1994) Đơn vị tính: Triệu đồng
2011 2012 2013 2014 2015 2016
113,7 109,7 108,8 112,0 109,9 118,7
108,2 110,6 109,6 110,4 110,7 119,67
Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài Nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
130,5 140,6 132,9 119,2 122,3 132,2
Cùng với phát triển kinh tế, những vấn đề bức xúc của xã hội cũng được tỉnh
Tiền Giang giải quyết có hiệu quả, thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ và định hướng
xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, giải quyết việc làm cho
người lao động luôn được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở đẩy
mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở rộng đào tạo, dạy nghề, thực hiện các
chương trình kinh tế lòng ghép, mặc dù do tác động của khủng hoản kinh tế toàn
cầu, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, phải thu hẹp
sản xuất, làm cho lực lượng lao động thất nghiệp trong tỉnh tăng cao 1,68% vào
năm 2013 (tăng 13,4% so năm 2012), nhưng với sự quyết tâm của tỉnh đến năm
2014 tỷ lệ này giảm xuống còn 1,3% (so năm 2013) và trong 5 năm 2011- 2015,
Tiền Giang đã giải quyết việc làm cho trên 24.000 lao động/năm, nhờ đó đời sống
nhân dân trên địa bàn từng bước được cải thiện và nâng cao, phần nào đáp ứng được
yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương.
Công tác giảm nghèo cũng được chú trọng, bằng nhiều giải pháp Tiền Giang
đã kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2015 còn 4,16% (Nghị quyết đặt ra là 4,5% -
5%). Xã đạt tiêu chuẩn quốc gia về nông thôn mới là 10 xã, đạt tỷ lệ 100% so với
Nghị quyết đề ra.
Giáo dục và đào tạo ổn định và tiếp tục phát triển về quy mô, chất lượng giáo
dục và hiệu quả đào tạo ở các ngành học, bậc học, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia
mức 1 tăng lên hàng năm, đến nay có đến 17 trường mẫu giáo mầm non đạt chuẩn
56
quốc gia, đạt 9,1% so với tổng số trường; tương ứng tiểu học có 100 trường đạt
44,2%; Trung học cơ sở có 19 trường đạt 15,1%; Phổ thông trung học có 4 trường
đạt 11,1%... Kỷ cương, nề nếp, môi trường sư phạm đa số trường được giữ vững và
tiến bộ, công tác quản lý giáo dục đổi mới từ cơ sở đến tỉnh. Mạng lưới trường lớp,
cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa. Tỷ
lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học hàng năm khoảng 95,9% đến 97,9%, đặc
biệt có trường Trung học phổ thông chuyên Tiền Giang, Chợ Gạo, Phú Thạnh và
trường Ngô Văn Nhạc nhiều năm liền có 100% học sinh đậu tốt nghiệp. Năm học
2014 – 2015 là năm đầu tiên đổi mới hình thức thi tốt nghiệp gắn với xét tuyển đại
học, sau khi phúc khảo có 94,9% học sinh tốt nghiệp. Việc đào tạo phổ thông hiện
nay còn rập khuôn liên tục không ổn định giáo trình, chính sách, bình quân giữa các
trường, các tầng lớp học sinh, khuyến khích các học sinh giỏi, học sinh nghèo chưa
rõ nét làm cho học sinh nghèo khó khăn để học cao. Tỉnh nên nghiên cứu đề xuất
xây dựng điểm trường công thực sự tuyển học sinh giỏi khi đậu vào không phải
đóng học phí, nhà nước lo để thu hút được nguồn nhân lực.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân được quan tâm ngày càng
tốt hơn, đặc biệt là đối với đối tượng chính sách và người nghèo. Đã phối hợp chặt
chẽ giữa các ngành, các cấp phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn các dịch bệnh nguy
hiểm như cúm A/H1N1, cúm A/H5N1, sốt xuất huyết, tay chân miệng…Hệ thống y
tế có bước phát triển cả về bộ máy và cơ sở vật chất. Theo tiêu chí mới của Bộ Y tế,
hiện tại có 60,1% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; 100% xã, phường,
thị trấn có trạm y tế, có 100% xã, phường, thị trấn có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản và có
một số chỉ tiêu tăng lên so năm 2010 như: số giường bệnh trên một vạn dân là 26,5
giường (năm 2010 có 19,1 giường); số bác sĩ trên một vạn dân là 5,0 người (năm
2010 là 4,8 bác sĩ)… Thực hiện đạt chỉ tiêu các chương trình, mục tiêu thanh toán
một số bệnh xã hội và bệnh dịch nguy hiểm. Thực hiện tốt việc tiêm chủng mở
rộng, tỷ lệ miễn dịch cơ bản trẻ em dưới 1 tuổi đạt trên 98,3%, giảm tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 11,1% (năm 2010 là 15,6%). Thực hiện tốt chính sách
dân số, kế hoạch hóa gia đình, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực
57
dân số gắn với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia
đình…
Tóm lại, những điều kiện về tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội nêu trên của
tỉnh Tiền Giang đã có những ảnh hưởng nhất định đến phát triển kinh tế tư nhân của
Tiền Giang.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIAI ĐOẠN 2015 –
2025
2.2.1. Khái quát tình hình phát triển công nghiệp, khu công nghiệp
Trong giai đoạn vừa qua, công nghiệp Tiền Giang có những chuyển biến tích
cực về tốc độ tăng trưởng. Bình quân giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2010 –
2015 tăng 20,9%/năm, năm 2010 đạt giá trị 32.814,0 tỷ đồng và năm 2015 đạt giá
trị 54.129,4 tỷ đồng.
Bảng 13: Giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh tế
2013 2014 2015 2016
131.966,5 157.746,2 188.136,9 211.213,9 Giá trị sản xuất công nghiệp (tỷ đồng)
Kinh tế quốc doanh 9.064,1 10.800,6 12.766,4 13.816,1
Kinh tế ngoài quốc doanh 101.776,8 119.497,0 139.450,1 153.213,4
Doanh nghiệp FDI 21.125,5 27.448,4 35.920,3 44.184,4
Công nghiệp tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đây có
thể là thế mạnh và tạo ra sự phát triển công nghiệp bền vững nếu tỉnh có hướng đi
đúng đắn. Tuy nhiên, nếu không có những doanh nghiệp lớn làm đầu tàu thì công
nghiệp Tiền Giang khó có thể lớn mạnh và tạo động lực cho các doanh nghiệp tư
nhân, cơ sở sản xuất nhỏ trở thành lớn mạnh. Việc không thu hút được nhiều nhà
đầu tư nước ngoài cho thấy môi trường kinh doanh của Tiền Giang chưa thật sự tốt.
Chính vì vậy, đóng góp vào giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI vẫn khá
khiêm tốn.
58
Bước đầu, công nghiệp và khu công nghiệp Tiền Giang đã và đang giải quyết
một số vấn đề như tạo công ăn việc làm, tăng gía trị sản xuất công nghiệp và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Thu hút vốn FDI, thúc đẩy xuất
khẩu và đóng góp ngân sách cho tỉnh ngày càng gia tăng.
Bảng 14: Đóng góp của các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp
6.759,70
10.214,00
11.899,00
14.109,00
38.946,04
50.941,24
ĐVT 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Tỷ đồng
464,10
667,00
769,00
915,79
1.544,59
1.938,82
Các chỉ tiêu Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 94)
6.190,30
6.252,00
6.151,00
6.311,06
10.064,69
13.278,55
Doanh thu FDI Triệu USD
387,90
506,00
533,00
1.021,56
1.428,80
1.808,79
Doanh thu Trong nước
148,83
297,00
320,00
855,13
778,47
985,30
Xuất khẩu
21,53
20,40
22,89
38,31
59,26
79,98
116,38
129,00
134,00
223,26
253,86
302,41
Nhập khẩu
27.000,00
35.500,00
45.100,00
60.450,00
85.484,00
90.305,00
Thuế FDI Thuế Trong nước Tỷ đồng Triệu USD Triệu USD Triệu USD Tỷ đồng
Lao động Người
2.2.2. Thách thức của mô hình phát triển công nghiệp hiện tại
Phát triển công nghiệp và quy hoạch công nghiệp vẫn ở tầm nhìn ngắn hạn,
chỉ giải quyết được những mục tiêu ngắn hạn trước mắt.
Qui hoạch công nghiệp và khu công nghiệp hiện tại của Tiền Giang thiếu hệ
thống và khá lộn xộn. Quy hoạch công nghiệp thiếu đồng bộ từ cấp tỉnh tới cấp
huyện, chưa tạo thành tuyến công nghiệp theo lộ trình, ngành nghề và lĩnh vực
59
trọng điểm theo từng giai đoạn cụ thể. Chủ yếu quy hoạch theo mô hình rải đều các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp tại mỗi huyện, theo lối mòn phát triển công
nghiệp của các tỉnh trước đây (khu công nghiệp bao quanh đô thị). Kinh nghiệm
phát triển công nghiệp tại các tỉnh phía Nam như Bình Dương, Đồng Nai đã cho
thấy những ảnh hưởng tác động tiêu cực tới đời sống xã hội và môi trường từ việc
phát triển công nghiệp tràn lan. Sự thiếu định hướng, chọn lọc những doanh nghiệp
sản xuất có tính liên kết chặt chẽ theo kiểu tuyến, cụm công nghiệp cũng như lựa
chọn những ngành có giá trị gia tăng cao từ 1- 2 thập kỷ trước đây mà chỉ chú trọng
tới thu hút doanh nghiệp nhằm lấp đầy các khu công nghiệp đã làm cho những tỉnh
này trở thành những địa phương có lượng lao động phổ thông nhập cư hơn cả lao
động địa phương và không có những ngành sản xuất mang tính chủ đạo và trọng
điểm (có thương hiệu trên thị trường quốc tế), những ngành sản xuất đơn lẻ và thiếu
tính hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
Bản qui hoạch khu công nghiệp và cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tỉnh
Tiền Giang đến năm 2020 sẽ có tới 10 khu công nghiệp và 36 cụm công nghiệp rải
đều ở tất cả các huyện, thị, thành phố của tỉnh theo mô hình công nghiệp ở khắp
mọi nơi, mọi ngành nghề và lĩnh vực. Đây có thể là một bài toán chưa chính xác
trong việc định hướng phát triển công nghiệp khi tính tới những yếu tố cơ bản của
phát triển như: tính hiệu quả theo qui mô, sự hội tụ, tập trung của các doanh nghiệp
sản xuất nhằm tạo ra các tuyến công nghiệp hoàn thiện. Ở khía cạnh khác, việc rải
đều, phân chia các khu, cụm công nghiệp nhằm công nghiệp hóa ở mọi nơi, mọi ngõ
ngách sẽ càng làm cho nguồn vốn đầu tư hạ tầng bị phân mảnh trong khi nguồn vốn
thu hút cho đầu tư hạ tầng của tỉnh thiếu sẽ càng làm cho hạ tầng phục vụ phát triển
công nghiệp thiếu đồng bộ.
Quan trọng hơn, việc qui hoạch quá nhiều cụm, khu công nghiệp sẽ gây ra
những tác động không nhỏ tới vấn đề môi trường, hệ sinh thái vốn được thiên nhiên
ưu đãi. Những cụm công nghiệp với chức năng gom các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất với đa ngành nghề, chủng loại trong khi khả năng kiểm soát về môi trường yếu
kém sẽ là gánh nặng trong tương lai. Nếu qui hoạch công nghiệp không cân nhắc và
60
thận trọng, với giá trị gia tăng của các ngành nghề thấp như hiện nay, giá trị sản
xuất công nghiệp tạo ra có thể không đủ bù đắp cho những thiệt hại do tác động tới
môi trường tự nhiên và môi trường sống trong tương lai.
Chất lượng việc làm thấp, chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động giản đơn,
tay nghề thấp.
Với cơ cấu ngành công nghiệp của tỉnh chủ yếu là những ngành nghề lao động
như: dệt may, chế biến thủy sản, lương thực…nên nhu cầu về lao động không đòi
hỏi lao động có kỹ năng. Chính vì vậy, Tiền Giang chưa thu hút được lao động có
trình độ đến làm việc, thậm chí là lao động của Tiền Giang sau khi được đào tạo (tại
Tiền Giang, Hồ Chí Minh) không làm việc ở Tiền Giang mà có thể ở lại thành phố
Hồ Chí Minh hoặc tỉnh thành khác làm việc. Tình trạng chảy máu chất xám sẽ gây
ra mất mát cho cả hai phía đó là không tận dụng được nhân tài cũng như người lao
động buộc phải di cư.
Doanh nghiệp được thu hút là các doanh nghiệp qui mô nhỏ, chưa thu hút
được những doanh nghiệp, tập đoàn có quy mô lớn và trình độ công nghệ cao. Điều
này chứng tỏ môi trường đầu tư tại Tiền Giang chưa thực sự hấp dẫn đối với nhà
đầu tư lớn, tầm cỡ.
Theo số liệu của Ban quản lý Khu công nghiệp cho thấy 4 khu, cụm công
nghiệp đã đi vào hoạt động lớn nhất ở Tiền Giang cho thấy số lượng và qui mô các
nhà đầu tư vào đây vẫn nhỏ bé. Cụ thể, năm 2010 tổng số dự án thu hút đầu tư chỉ là
27 doanh nghiệp FDI và 43 dự án trong nước. Số vốn bình quân các doanh nghiệp
FDI thu hút đầu tư chỉ là 12,7 triệu USD/dự án và các dự án trong nước chỉ là 35,76
tỷ đồng/dự án, thì đến năm 2015 tổng số dự án thu hút đầu tư là 62 doanh nghiệp
FDI và 77 dự án trong nước với tổng số vốn đầu tư là 3.983,56 tỷ đồng và 1.376,87
triệu USD. Bình quân số vốn các doanh nghiệp FDI thu hút đầu tư là 26,997 triệu
USD/dự án và các dự án trong nước là 153,21 tỷ đồng/dự án. Nhìn chung, trên địa
bàn tỉnh chưa thu hút được những doanh nghiệp sản xuất có qui mô và tầm cỡ quốc
tế. Việc thu hút các doanh nghiệp đầu tàu sẽ là cần thiết trong bối cảnh hiện nay
không chỉ giúp Tiền Giang về giá trị sản xuất công nghiệp mà nó còn thúc đẩy sự
61
phát triển của những doanh nghiệp vừa và nhỏ của địa phương và lôi kéo những
doanh nghiệp FDI khác vào đầu tư.
Bảng 15: Tình hình thu hút đầu tư tại một số khu, cụm công nghiệp
Năm 2015 Năm 2010
Số dự án Số dự án Vốn đăng ký đầu tư Vốn đăng ký đầu tư
FDI FDI Trong nước Trong nước(tỷ đồng) FDI (triệu USD) Tron g nước FDI (triệu USD) Trong nước (tỷ đồng)
22 1,5 11 208,2 25,05 2 1 12 Cụm CN Trung An
8 190,25 8 20 KCN Mỹ Tho 1234,89 136,67 19 1.666, 37
0 70,89 23 0 750,52 7 0
6 11 271,6 133,89 20 141,6 436,6 11 KCN Long Giang KCN Tân Hương
27 1537,49 342,95 36 53 1.402,45 Tổng số 43 2016,1 7
35,76 12,70 56,0 26,46 Bình quân 1 dự án
Nguồn: Ban quản lý các KCN
Ưu đãi đầu tư chủ yếu nhằm thu hút doanh nghiệp nhằm lấp đầy KCN, chưa
tạo ra những khu công nghiệp có công nghệ và giá trị gia tăng cao, chưa tính tới mật
độ lao động tập trung và những hạ tầng đi kèm.
Các cụm, khu công nghiệp hiện tại chưa có sự tính toán giữa công nghiệp và
phát triển đô thị, hạ tầng phục vụ các khu công nghiệp chưa đồng bộ, chủ yếu phát
triển theo hướng tự cung tự cấp ở qui mô cấp huyện, tỉnh mà chưa tính tới cấp độ
liên tỉnh và qui mô vùng.
Những ngành nghề thu hút chủ yếu tập trung vào công nghiệp chế biến thủy
sản và thức ăn gia súc (2 mặt hàng thủy sản chế biến và thức ăn chăn nuôi đã chiếm
72,5% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh). Với những lợi thế sẵn có như hiện
nay thì đây có thể là phù hợp nhưng liệu những lợi thế này có dần mất đi do nguồn
62
cung có thể bị suy giảm trước những tác động của biến đổi khí hậu và vấn đề môi
trường.
Với những ngành nghề công nghiệp chủ yếu sử dụng lao động để dệt may, chế
biến thủy sản… nhưng cho tới thời điểm hiện tại, tất cả các khu, cụm công nghiệp
của Tiền Giang đã đi vào hoạt động đều chưa có các công trình hạ tầng phục vụ đời
sống phúc lợi, xã hội cho người lao động. Điều này không chỉ tác động ảnh hưởng
tới các vấn đề xã hội của tỉnh mà nó còn làm ảnh hưởng tới môi trường đầu tư của
tỉnh. Ví dụ, khu công nghiệp Long Giang và Tân Hương chưa đủ cơ sở hạ tầng (nhà
trẻ, nhà trọ cho công nhân…) nên khó tuyển dụng (hầu hết lao động phổ thông).
Trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu trong chuỗi sản phẩm thế giới luôn tìm kiếm cơ hội giảm
thiểu chi phí trong đó có chi phí vận tải. Tuy nhiên, bên cạnh việc giảm thiểu chi
phí còn có những yếu tố khác quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như
chất lượng, độ tin cậy. Do đó, những dịch vụ đảm bảo thời gian quá cảnh đủ ngắn,
thời gian giao hàng đúng hẹn, các dịch vụ bảo quản lạnh an toàn và tin cậy hay các
hệ thông dịch vụ cấp giấy chứng nhận chất lượng thuận tiện nhằm giảm thiểu cơ hội
thất thoát hàng hóa là những dịch vụ quan trọng đối với doanh nghiệp.
Việt Nam gia nhập WTO đã làm gia tăng khả năng và cơ hội tiếp cận thị
trường thế giới cho các doanh nghiệp trong nước. Điều này cho thấy có khả năng
tăng thêm tỷ trọng thương mại trong GDP giúp cho thu nhập bình quân đầu người
có thể tăng thêm.
2.3. NHỮNG KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI
TIỀN GIANG
2.3.1. Những kết quả của kinh tế tư nhân ở Tiền Giang
Nhìn chung, KTTN Tiền Giang phát triển khá nhanh trong công cuộc đổi mới
đất nước, đã góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế của toàn tỉnh. Từ quá trình
hình thành và phát triển của KTTN trong các giai đoạn lịch sử, chúng ta có thể thấy
KTTN Tiền Giang đạt được những kết quả cơ bản sau đây:
63
- KTTN của tỉnh Tiền Giang ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình
trong nền kinh tế chung của tỉnh nhà, đó là KTTN là một bộ phận cấu thành nền
kinh tế Tiền Giang, có mức đóng góp lũy tiến trong các giai đoạn công cuộc đổi
mới. Trong các thành phần kinh tế của Tiền Giang, Kinh tế tư nhân có tốc độ tăng
trưởng khá cao, chỉ tăng sau kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng kinh tế tư
nhân trong tổng GRDP của tỉnh tăng từ 15,2% (2010) tăng lên 17,4% (2015) và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 4,1% lên 9,8%1.
- KTTN cùng với các thành phần kinh tế khác của tỉnh Tiền Giang phát triển
khá nhanh trong công cuộc đổi mới của tỉnh, cũng như KTTN của tỉnh Tiền Giang
cùng với KTTN của các địa phương tạo ra sự vận động, phát triển khá nhanh và
phát triển ổn định KTTN Việt Nam. Trong giai đoạn 2010-2015, Tiền Giang là một
trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng khá cao trong vùng đồng bằng
sông Cửu Long (đứng thứ 2/13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL).
- KTTN tỉnh Tiền Giang với tư cách là một bộ phận vận hành trong nền kinh
tế của tỉnh, nên tham gia vào trao đổi lưu thông hàng hóa, dịch vụ, cung cấp và trao
đổi nguồn nhân lực giữa các thành phần kinh tế. Từ đó làm cho kinh tế của tỉnh
Tiền Giang phát triển sinh động hơn, đa dạng hơn. Năm 2015, doanh nghiệp khu
vực tư nhân (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần)
chiếm đến 94,9% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh, hoạt động
trong tất cả các ngành, nghề trên địa bàn tỉnh như: công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại – dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp….
So với các thành phần kinh tế khác trong tỉnh, thì thành phần kinh tế tư nhân
phát triền khá năng động, rộng khắp trong toàn tỉnh, với nhiều loại hình đa dạng,
phong phú, đóng góp trên 1/3 cho ngân sách của tỉnh, góp phần quan trọng vào quá
trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, trong quá trình hội nhập kinh tế
1 Niên giám thống kê tiền Giang năm 2015
quốc tế.
64
2.3.2. Nguyên nhân đạt được kết quả:
Đạt được những kết quả nêu trên, có những nguyên nhân cơ bản sau:
- Tiền Giang đã thực hiện nhất quán các chủ trương, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế tư nhân, đã đề ra những phương hướng,
quyết sách phù hợp, kịp thời với yêu cầu thực tế bảo đảm cho kinh tế tư nhân có
điều kiện phát triển.
- Tiền Giang có kinh tế phát triển khá lâu trong lịch sử, đặc biệt là phát triển
nông nghiệp với thành phần kinh tế tư nhân vốn đã tồn tại trước giải phóng nên khi
gặp chủ trương phù hợp thì sự phát triển KTTN sẽ bùng phát nhanh hơn các địa
phương khác.
- Với những lợi thế về tự nhiên, địa lý, dân cư nên KTTN có điều kiện để phát
triển cùng với các thành phần kinh tế khác, mặt khác do sự tác động tích cực của
các thành phần kinh tế đã làm cho KTTN Tiền Giang hòa nhịp phát triển.
- Vai trò quản lý nhà nước của các ngành, các cấp trong tỉnh ngày càng được
nâng cao về hiệu lực và hiệu quả, nhất là công tác cải cách thủ tục hành chính trong
cấp phép kinh doanh cho các doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ chức năng đã đổi mới tư
duy nâng cao năng lực chỉ đạo thực tiễn và thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với các
doanh nghiệp, để tháo gỡ kịp thời những khó khăn, tạo cơ hội và thuận lợi trong
kinh doanh của khu vực KTTN.
- Phần lớn các doanh nghiệp đồng cảm, chia sẽ những khó khăn của địa
phương và nhận thức được quan điểm coi KTTN là khu vực kinh tế năng động, nên
phát huy được hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.3.3. Những hạn chế:
- Kinh tế tư nhân ở Tiền Giang tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp, trang
trại và chủ yếu tập trung trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp.
Thiếu quy hoạch, thiếu tính định hướng cho phát triển, chủ yếu phát triển tự phát,
vốn đầu tư thấp, lao động ít, trình độ công nghệ lạc hâu. Chưa nhận thức đầy đủ về
kinh tế thị trường, chưa chủ động đầu tư đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ
65
quản lý, không có chiến lược đầu tư sản xuất kinh doanh trung hạn và dài hạn, do
vậy giá thành sản xuất cao, sức cạnh tranh yếu và hiệu quả kinh tế thấp.
- Khả năng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp tư nhân đã bị hạn chế bởi
thực lực yếu về vốn tự có, trong khi đó thủ tục vay vốn rườm rà, lãi suất cao, không
phù hợp với chu kỳ thu hồi vốn, khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp tới các ưu
đãi về thuế trong đầu tư đổi mới công nghệ bị hạn chế rất nhiều.
- Việc phát triển các khu công nghiệp trong thời gian qua tuy đã được quy
hoạch và khuyến khích những doanh nghiệp ngoài quốc doanh (không tính các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài….) hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình đầu tư vào các khu công nghiệp, do hạn chế về vốn thuê mặt bằng để đầu
tư nhà, xưởng…. Doanh nghiệp trong nước không có khả năng thuê đất với giá
tương đương với các doanh nghiệp nước ngoài trong các khu công nghiệp tập trung.
Do đó, có xu hướng đầu tư phân tán ngoài khu công nghiệp, thậm chí trong khu dân
cư, làm trở ngại rất nhiều đến việc phát triển theo quy hoạch và ảnh hưởng đến môi
trường sinh thái.
- Công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân nhìn chung chưa chặt chẽ,
việc phối hợp kiếm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của loại kinh tế
này chưa được thực hiện tốt, do đó còn nảy sinh tình trạng doanh nghiệp không thực
hiện chế độ báo cáo hoặc tự tiện di dời địa điểm kinh doanh, thay đổi ngành nghề
kinh doanh mà không khai báo kịp thời cho cơ quan chức năng, làm thất thu thuế.
Một số doanh nghiệp khi đăng ký ngành nghề sản xuất kinh doanh những không
tiến hành sản xuất kinh doanh theo đăng ký mà chủ yếu buôn bán hóa đơn thuế giá
trị gia tăng để rút tiền từ ngân sách nhà nước, gây ra những hiện tượng tiêu cực
trong nền kinh tế.
- Trang trại phát triển nhanh nhưng thiếu quy hoạch và định hướng phát triển
lâu dài. Hầu hết các trang trại hình thành một cách tự phát và không có kế hoạch sản
xuất kinh doanh lâu dài, ổn định. Trang trại nhỏ chỉ chú trọng phát triển theo chiều
rộng mà chưa phát triển theo chiều sâu, quản lý trang trại chưa tốt, còn ở trình độ
thấp, giản đơn.
66
- Sản phẩm của trang trại chủ yếu là sản phẩm thô sơ, chưa qua chế biến nên
tiêu thụ khó khăn, giá thấp, bị ép giá, bị những người đầu cơ thao túng giá cả nên dễ
bị thua lỗ. Việc bao tiêu sản phẩm đầu ra cũng như đầu vào của kinh tế trang trại
vẫn còn bỏ ngỏ cho thị trường tự do, chưa có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước nên
tạo ra tình trạng “nhà ai lo nhà nấy”.
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế:
- Kinh tế tư nhân Tiền Giang cũng như kinh tế tư nhân cả nước nói chung vừa
mới hình thành và phát triển, đang phải mày mò, tìm tòi các giải pháp, nên còn
nhiều khó khăn hạn chế.
- Trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân không chủ động được các khâu đầu
vào, đầu ra, nguồn vốn, v.v..
- Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, xuất hiện nhiều yếu tố tiêu
cực của các doanh nghiệp tư nhân như trốn thuế, hàng lậu, hàng kém chất lượng,
hàng giả, v.v, làm giảm uy tín của người tiêu dùng đối với khu vực này.
- Cơ chế chính sách chậm được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với đòi hỏi của
sản xuất, luật pháp còn lúng túng trong giải quyết các mối quan hệ kinh tế của
doanh nghiệp tư nhân với phát triển sản xuất, kinh doanh, mối quan hệ với các
thành phần kinh tế khác.
2.3.5. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang:
Tiền Giang là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam vừa có cơ hội để
phát triển, đồng thời vừa có trách nhiệm là một trong những đầu tàu thúc đẩy kinh
tế cả nước phát triển cùng. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết được những khó khăn,
hạn chế mà KTTN tỉnh Tiền Giang đang gặp phải. Xuất phát từ thực trạng, kết quả
và hạn chế thực tế của khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, có những vấn
đề đặt ra cần giải quyết như sau:
- Thứ nhất là, Tiền Giang hiện đang thiếu trầm trọng lao động được đào tạo có
trình độ cao để tham gia thành lập các DNTN có công nghệ tiên tiến. Trình độ của
lực lượng lao động trong nông nghiệp, nông thôn cũng rất thấp. Trong giai đoạn hội
67
nhập, hạn chế này sẽ trở thành một thách thức lớn trong việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của các DNTN đối với các doanh nghiệp trong tỉnh.
Trong nền kinh tế hiện đại, tầm quan trọng của lợi thế cạnh tranh truyền thống
như tài nguyên thiên nhiên, chi phí lao động rẻ, mặc dù vẫn rất quan trọng trong giai
đoạn trước mắt nhưng đang có chiều hướng giảm dần, thay vào đó là tri thức, công
nghệ và kỹ năng lao động giỏi trở thành yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh
tranh trên thị trường. Vì thế, KTTN Tiền Giang giai đoạn hiện nay gặp phải khó
khăn về nguồn nhân lực chất lượng cao là trở ngại lớn cần vượt qua thì mới có cơ
hội phát triển tốt được.
- Thứ hai là, tỷ lệ vốn huy động vào đầu tư phát triển KTTN còn thấp so với
mức chung của các thành phần kinh tế khác của tỉnh. Do đó, vấn đề đầu tư phát
triển về khoa học công nghệ, kỹ thuật, cũng như việc mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh hết sức khó khăn. Vốn đầu tư cho KTTN chủ yếu là từ nguồn vốn của kinh tế
hộ gia đình tích lũy được trong sản xuất kinh doanh, mặt khác huy động từ vốn vay
ngân hàng, bạn bè, anh em trong gia đình nên vốn không lớn.
- Thứ ba là, năng lực cạnh tranh của KTTN còn yếu, hiệu quả quản lý sản xuất
– kinh doanh, khả năng nắm bắt thông tin và tiếp cận thị trường trong và ngoài nước
còn hạn chế, tư duy đổi mới kinh tế chưa theo kịp và bắt nhịp với tiến bộ khoa học –
công nghệ và yêu cầu phát triển kinh tế của địa phương và cả nước. Tiến trình hội
nhập gia nhập WTO đã bắt đầu tác động đến một số DNTN, buộc họ phải đối mặt
với sự cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên thách thức này cũng là
cơ hội để buộc các DNTN phải ra sức vươn lên bằng cạnh tranh sản phẩm.
- Thứ tư là, một số yếu tố cản trở sự phát triển của KTTN vẫn chưa được khắc
phục, đó là:
+ Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đang dẫn tới sự quá tải về môi
trường và các vấn đề xã hội, đồng thời tạo ra sự chênh lệch lớn về mức sống giữa
nông thôn và thành thị, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững trong những
năm tới.
68
+ Khu vực dịch vụ chưa phát triển theo kịp sự phát triển của công nghiệp và cả
nông nghiệp. Tiền Giang hiện đang rất thiếu những dịch vụ đáp ứng yêu cầu phát
triển của một tỉnh có nhiều khu công nghiệp như dịch vụ cho thuê nhà ở, dịch vụ tư
vấn, y tế, giáo dục, trông giữ trẻ, vui chơi giải trí cho chuyên gia và người lao động
trong các khu công nghiệp.
+ Trong khi dân cư đô thị gia tăng nhanh chóng, hệ thống kết cấu hạ tầng đô
thị lại chưa được đầu tư phát triển tương xứng, đồng thời hệ thống hạ tầng hiện hữu
bị xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là hệ thống thoát nước và nhà ở xuống cấp ảnh
hưởng đến cuộc sống người dân. Các trung tâm đô thị, khu công nghiệp chịu áp lực
quá tải về dân số, ô nhiễm môi trường công nghiệp.
+ Tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, nhất là tệ nạn nghiện hút, ma túy, cờ
bạc, mại dâm, v… nhiều tác động khác của cơ chế thị trường đang đặt ra những
thách thức mới cho phát triển kinh tế nói chung và KTTN của tỉnh Tiền Giang nói
riêng.
- Thứ năm là, những bất cập trong mối quan hệ vùng, mối quan hệ giữa kinh tế
địa phương và cả nước làm giảm hiệu quả phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và
KTTN nói riêng:
+ Một số chính sách kinh tế vùng nói chung cũng như KTTN của vùng chưa
được xác định rõ, nhất là cơ chế có tính đòn bẩy, tạo điều kiện cho các địa phương
trong vùng phát triển đồng bộ.
+ Sự liên kết kinh tế của Tiền Giang với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
miền Tây Nam bộ đã được chú ý, nhưng hiện nay còn thiếu một cơ chế chỉ huy,
quản lý, điều hành, phối hợp thực hiện thống nhất giữa các địa phương trong vùng
kinh tế trọng điểm, thiếu các chương trình phối hợp trong phạm vi toàn vùng nên
việc phát triển kinh tế nói chung và KTTN nói riêng còn gặp những khó khăn.
Tóm lại, nhìn tổng thể, KTTN ở Tiền Giang có nhiều cơ hội, nhiều yếu tố
thuận lợi cho sự phát triển KTTN của tỉnh. Trong quá trình phát triển kinh tế khi
Việt Nam hội nhập sâu và rộng hơn nữa vào nền kinh tế thế giới, Tiền Giang còn có
nhiều yếu tố thuận lợi cho KTTN tiếp cận nền kinh tế thế giới vì Tiền Giang có
69
nhiều doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay, nền kinh tế Tiền Giang
phát triển cao hơn so với mặt bằng chung cả nước, có cơ sở công nghiệp khá hiện
đại, có nền nông nghiệp hàng hóa chuyên canh năng suất cao, có số lượng lớn dân
cư đã quen với tác phong sản xuất công nghiệp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Ở chương này luận văn đã trình bày một số nội dung chính:
Sự hình thành và phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Tiền Giang bao giờ cũng
chịu ảnh hưởng của những yếu tố chính trị, xã hội, các điều kiện lịch sử, điều kiện
tự nhiên của tỉnh. Tiền Giang là tỉnh thuộc vùng ĐBSCL, nhưng trên phương diện
địa kinh tế, Tiền Giang lại thuộc vùng KTTĐPN. Phía Đông giáp biển Đông; phía
Tây giáp tỉnh Đồng Tháp; phía Nam giáp tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long; phía Bắc và
Đông Bắc giáp tỉnh Long An và thành phố Hồ Chí Minh.
Với vị trí địa lý thuận lợi như vậy nên Tiền Giang có nhiều lợi thế cho phát
triển kinh tế - xã hội. Tiền Giang là một trong những tỉnh có chỉ số phát triển kinh tế
đứng hàng thứ hai trong khu vực ĐBSCL (sau TP Cần Thơ).
Từ những kết quả, hạn chế, nguyên nhân nêu trên, kinh tế tư nhân Tiền Giang
còn có những thuận lợi để phát triển như về lợi thế vị trí địa kinh tế, lợi thế về tài
nguyên, điều kiện khí hậu …; những thuận lợi về mặt xã hội như cư dân Tiền Giang
được hình thành từ nhiều nguồn, đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn của
lãnh đạo Đảng, chính quyền. Bên cạnh đó, Tiền Giang còn gặp những khó khăn và
thách thức trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Tiền Giang, đó là: Tiền
Giang hiện đang thiếu trầm trọng lao động được đào tạo có trình độ cao để tham gia
thành lập các doanh nghiệp tư nhân có công nghệ tiên tiến; tỷ lệ vốn huy động vào
đầu tư phát triển kinh tế tư nhân còn thấp ……
Việc khai thác những thuận lợi và khắc phục những khó khăn và thách thức
nói trên để phát triển kinh tế tư nhân từ nay đến năm 2025 đòi hỏi Đảng bộ, chính
quyền, doanh nghiệp và mỗi người dân Tiền Giang phải tập trung trí tuệ nhằm đề ra
chủ trương, đường lối đúng đắn, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi
trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân ngày càng phát triển bền vững.
70
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH TIỀN GIANG TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
Giai đoạn từ nay đến năm 2025 là giai đoạn có nhiều yếu tố cả tích cực và tiêu
cực tác động ảnh hưởng đến quá trình phát triển của kinh tế cả nước nói chung và
của tỉnh Tiền Giang nói riêng. Kinh tế tư nhân của tỉnh Tiền Giang cũng sẽ chịu
những ảnh hưởng các tác động chung của kinh tế thế giới kinh tế trong nước cũng
như những ảnh hưởng khác. Chính những ảnh hưởng ấy mà trong những năm tới,
KTTN có xu hướng vận động biến đổi khác so với trước đây.
Để đề xuất được những giải pháp khả thi nhằm phát triển KTTN từ nay đến
năm 2025, cần có những dự báo tình hình phát triển KTTN trong những năm tiếp
theo. Trên cơ sở những dự báo ấy, chúng ta có những giải pháp phù hợp, thiết thực
và hiệu quả thúc đẩy KTTN phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TỈNH
TIÊN GIANG GIAI ĐOẠN 2016 - 2025
3.1.1. Dự báo về tình hình phát triển kinh tế trong nước, ngoài nước và
trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
3.1.1.1. Tình hình phát triển kinh tế trong nước
Trong quá trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự nỗ lực phấn đấu vược bậc, năng động của toàn dân, cộng đồng doanh
nghiệp, sự quản lý và điều hành của Nhà nước, chúng ta đã tranh thủ được nhiều
thời cơ thuận lợi, tranh thủ được nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời tận dụng được
thành tựu về khoa học công nghệ của lợi thế các nước đi sau, vượt qua nhiều khó
khăn thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài
chính kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan
trọng. Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nghèo, kém phát
triển và bước vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình, lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất có những bước phát triển mới, kinh tế tăng trưởng
71
nhanh, trong vòng 10 năm trở lại đây đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 7,26%/năm.
Năm 2015 tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế đạt 4192,9 nghìn tỷ đồng,
bình quân 45717USD/người/năm (niên giám thống kê 2015- Tổng Cục Thống kê).
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện dần. Các lĩnh vực văn
hóa, xã hội đạt được những thành tựu trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần
của người dân được nâng cao từng bước. Việt Nam là quốc gia được thế giới thừa
nhận là đất nước có chế độ chính trị - xã hội ổn định, sẽ là tiền đề thuận lợi để hấp
dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với công tác đối ngoại, quá trình hội nhập
quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn
định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.
Về tình hình của Tỉnh Tiền Giang, với vị thế nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, sẽ là điều kiện thuận lợi cho
phát triển kinh tế. Đồng thời với những kết quả trong những năm qua và những kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo, điều hành của Đảng bộ, đặc biệt là trong giai đoạn
khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu; sự ổn định về chính trị xã hội; mở rộng
quan hệ đối ngoại trong và ngoài nước; là những tiền đề quan trọng cho sự phát
triển nhanh và bền vững trong thời gian tới. Tuy nhiên, tỉnh cũng đối mặt với những
khó khăn và thách thức lớn đó là: dịch bệnh và biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn
biến phức tạp; hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hệ thống giao thông,
dịch vụ kho bãi, cảng mang tính chất vùng; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, áp
lực tăng dân số cơ học cao, thiếu đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia giỏi đầu
ngành, cán bộ khoa học kỹ thuật, quản trị doanh nghiệp; tình hình khiếu kiện về đất
đai, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, tình hình đình công, lãn công trong các khu
công nghiệp vẫn là những vấn đề ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của tỉnh
nói chung cũng như ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển KTTN nói riêng.
Những năm qua, KTTN của tỉnh Tiền Giang phát triển đạt được những kết quả
ban đầu làm tiền đề cho sự phát triển KTTN những năm tới. Cụ thể là mức đóng
góp vào tích lũy của ngân sách khá lớn 830.000 triệu đồng vào năm 2015. Với kết
72
quả đạt được, KTTN tỉnh Tiền Giang đã có vị trí thứ ba trong khu vực và đứng thứ
hai trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam về chỉ số phát triển tổng sản phẩm trên
địa bàn-GRDP (giá so sánh 2010). Từ những kết quả, kinh nghiệm đạt được, cũng
như đà phát triển của KTTN trong thời gian qua đã tạo ra tiền đề cho sự phát triển
những năm tiếp sau.
3.1.1.2. Tình hình phát triển kinh tế ngoài nước.
Nước ta bước vào thời kỳ đổi mới trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có
những biến đổi phức tạp, khó lường, nhất là việc Tổng thống Mỹ Donald Trump
tuyên bố rút khỏi TPP, khủng hoảng nợ công ở châu Âu…. Trong thập niên tới, xu
thế hòa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo nhưng các xung đột sắc tộc,
tôn giáo, tranh giành về tài nguyên và lãnh thổ vẫn còn xảy ra, nạn khủng bố và tội
phạm xuyên quốc gia vẫn có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu như
nghèo đói, bệnh dịch và biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên… buộc các quốc
gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bước vào thời kỳ hợp tác mới
theo hiến chương ASEAN và xây dựng cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an
ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp tục phát triển đi vào
chiều sâu. ASEAN đang ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong một cấu trúc
khu vực đang định hình nhưng cũng phải đối phó với thách thức mới.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang
hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ
quyền biển đảo, tài nguyên.
Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô và mức độ biểu hiện, với
những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen phức tạp, các
công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn, quá trình quốc tế hóa sản xuất và
phân công lao động đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự phụ
thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở nên
73
phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó tri thức và con người có tri thức
ngày càng trở thành nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.
Sau khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai
đoạn phát triển mới, bởi nó sẽ làm thay đổi tương quan sức mạnh của nền kinh tế và
cục diện thế giới mới với những liên kết mới. Vị thế của châu Á trong nền kinh tế
thế giới đang tăng lên; sự phát triển mạnh mẽ của một số nước khu vực trong điều
kiện hội nhập Đông Á và việc thực hiện hiệp định mậu dịch tự do ngày càng sâu
rộng, mở ra thị trường rộng lớn cho các doanh nghiệp tư nhân nhưng cũng tạo ra sự
cạnh tranh quyết liệt. Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và điều chỉnh thể chế tài
chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học công
nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Mặt khác, khủng hoảng còn để
lại hậu quả nặng nề, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy và đang trở thành rào cản đối với
thương mại quốc tế. Kinh tế thế giới tuy đã bắt đầu hồi phục nhưng còn nhiều khó
khăn, bất ổn, sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là các nước lớn sẽ có tác
động đến nước ta.
3.1.2. Xu hướng vận động phát triển kinh tế tư nhân Tiền Giang
Theo xu thế phát triển chung cũng như căn cứ vào những quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Trung ương và địa phương. Kinh tế tỉnh
Tiền Giang nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng sẽ phát triển chủ yếu theo xu
hướng sau:
Thứ nhất, KTTN sẽ phát triển với tốc độ nhanh hơn so với trước đây. Hiện
nay, mức tăng trưởng kinh tế của tỉnh tăng cao, sự tích lũy vốn của hộ cá thể, của
DNTN ngày càng gia tăng cho nên sẽ tăng số lượng các doanh nghiệp tư nhân, cũng
như trang trại, nông trại, hợp tác xã, KTTN sẽ phát triển theo hướng thâm canh,
chuyên canh, chú trọng sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao dựa trên lợi thế so
sánh của địa phương…. Đồng thời, trong những năm tới với những chủ trương
chính sách cởi mở của Đảng và Nhà nước, những chủ trương, chính sách phù hợp
của Đảng bộ chính quyền tỉnh Tiền Giang sẽ thúc đẩy KTTN phát triển nhanh hơn.
74
Thứ hai, KTTN sẽ tăng quy mô, mở rộng sản xuất hình thành những doanh
nghiệp lớn, những tập đoàn KTTN. Hiện nay, tỉnh Tiền Giang có nhiều DNTN phát
triển khá mạnh, với quy mô lớn cả về vốn, về số lượng sản phẩm, doanh thu, lực
lượng lao động. Mặt khác, sau khủng hoảng kinh tế, để tăng sức cạnh tranh với thị
trường trong nước, thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp nhỏ muốn tồn tại,
phát triển đã có xu hướng liên doanh, liên kết mở rộng quy mô, tăng vốn đầu tư, thu
hút thêm lực lượng lao động, xây dựng chiến lược kinh doanh mới nhằm tồn tại và
phát triển bền vững.
Thứ ba, KTTN của tỉnh Tiền Giang sẽ tham gia hội nhập kinh tế thế giới mạnh
hơn nữa trong những năm tới. Tiền Giang có nhiều khu, cụm công nghiệp, gần
thành phố Hồ Chí Minh, Long An – là vùng kinh tế năng động nên thu hút với
nhiều nước tham gia đầu tư. Sự tác động ấy, cũng như nhu cầu phát triển thị trường
nên dù muốn hay không các DNTN sẽ tìm hướng đầu tư, tìm thị trường ngoài nước.
Thứ tư, KTTN sẽ có xu hướng phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn. Các lĩnh vực dịch vụ du lịch, du lịch sinh thái trên cù lao sông Tiền, du lịch
sinh thái biển, sinh thái miệt vườn, sông nước, vùng Đồng Tháp Mười, công nghiệp
cơ khí. Dịch vụ cảng,đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, v.v.. Với tình hình phát triển
kinh tế khá năng động hiện nay thì những lĩnh vực như dịch vụ du lịch ngày càng
phát triển. Trong khi lĩnh vực sản xuất sản phẩm hàng hóa dễ bị thua lỗ, khó tìm
kiếm thị trường, cũng như mức đầu tư vốn khá lớn thì lĩnh vực dịch vụ lại không
cần nhiều vốn, xác suất thua lỗ, rủi ro ít hơn, thường không phụ thuộc nhiều vào thị
trường mà phụ thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
3.2. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế tư nhân trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang từ năm 2015 đến năm 2025
3.2.1. Quan điểm phát triển
Thứ nhất, kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân cùng với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước trở thành cơ sở của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
75
Kinh tế tư nhân của tỉnh phát triển theo đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, phù hợp với nhu cầu tất yếu khách quan và nguyện vọng của
nhân dân, vì mục tiêu độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế tư nhân phát triển lâu dài, quan hệ bình đẳng
trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân cùng với các thành phần kinh tế khác đóng
góp vào phát triển kinh tế của tỉnh và của cả nước. Kinh tế tư nhân liên kết, liên
doanh ngày càng sâu rộng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế của
tỉnh Tiền Giang nói riêng, kinh tế cả nước nói chung, kinh tế tư nhân có mức đóng
góp khá nhanh, có khả năng huy động các nguồn lực trong nhân dân nên nó thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy phát triển KTTN là xu hướng đúng đắn và hiệu
quả nhất, để khai thác tối đa mọi nguồn lực to lớn trong xã hội cho phát triển kinh
tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo ổn định chính trị và trật
tự an toàn xã hội.
Thứ ba, Coi sự thành đạt của KTTN là sự thành công chung của cả nền kinh tế.
Vì vậy phải hỗ trợ và tạo mọi thuận lợi cho kinh tế tư nhân đầu tư, kinh doanh, đặc
biệt là kinh doanh trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội: đường xà, cầu cống, công
trình thủy lợi…, đồng thời hình thành các tập đoàn Kinh tế tư nhân và tư nhân góp
vốn vào kinh tế nhà nước.
Nhà nước định hướng kinh tế tư nhân theo chiến lược, quy hoạch phát triển
chung của nền kinh tế; thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân và quyền sở hữu
tài sản, tạo điều kiện về kết cấu hạ tầng, môi trường pháp lý và chính sách ổn định,
nhất quán, thông thoáng, nghiêm minh, bình đẳng, phù hợp với nhiều trình độ,
không phân biệt thành phần kinh tế. Hệ thống luật pháp, các chính sách và các ưu
đãi, hỗ trợ của Nhà nước phải bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc thụ
hưởng các ưu đãi hoặc hỗ trợ đầu tư cần thiết. Những chính sách này phải thích hợp
với trình độ chung của nền kinh tế, chú trọng tạo điều kiện, hỗ trợ phát triển đối với
76
doanh nghiệp vừa, nhỏ. Trong giai đoạn hiện nay, nhằm hỗ trợ cho kinh tế tư nhân
phát triển nhà nước ta cũng như tỉnh Tiền Giang tạo điều kiện thuận lợi về pháp lý,
hỗ trợ vốn cho kinh tế tư nhân hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó,
khuyến khích động viên nhân dân tham gia góp vốn vào kinh tế nhà nước cùng nhau
sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế.
Thứ tư, phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở các ngành, các lĩnh vực
kinh tế theo quy hoạch, theo quy định pháp luật, đặc biệt là các ngành kinh tế tư
nhân có lợi thế, đồng thời có khả năng thích ứng và biến đổi khí hậu, hạn chế rủi
ro….
Hiện nay nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng
của đất nước và trong nhân dân cho nên Tiền Giang cần phát triển mạnh mẽ hơn nữa
các loại hình kinh tế tư nhân trong tất cả các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ, xây dựng; phát triển trong các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, văn hóa, v.v..
theo quy định của pháp luật. Tạo điều kiện đẩy nhanh việc tích tụ ruộng đất…
Thứ năm, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo
của Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân là một bộ phận của nền kinh tế, trong thành phần này không
thể thiếu sự lãnh đạo của Đảng, các hoạt động của đoàn thể, sự quản lý của nhà
nước, chính quyền nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi
của người lao động nên cần xây dựng hệ thống chính trị trong khu vực kinh tế tư
nhân.
Trước tình hình hiện nay với yêu cầu tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với toàn xã hội, Tiền Giang luôn quán triệt chủ trương này bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân, phát triển tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực
này. Đồng thời xây dựng, phát triển các tổ chức đoàn thể như công đoàn, Đoàn
thanh niên, Hội thanh niên, Hội phụ nữ, Các hiệp hội doanh nghiệp và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng của
người lao động, của doanh nghiệp.
77
3.2.2. Mục tiêu phát triển KTTN
Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ X diễn ra từ ngày 19 - 21 tháng
10 năm 2015, xác định mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế của tỉnh từ năm 2015
đến 2020 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảngbộ, tăng cường đoàn
kết, phát huy dân chủ, năng động, sáng tạo; huy động mọi nguồn lực, khai thác tốt
các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng kết
cấu hạ tầng đồng bộ; cải thiện môi trường thu hút đầu tư, phát triển các ngành, lĩnh
vực, địa bàn trọng điểm gắn với tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của các ngành, các thành phần kinh
tế. Phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới; chủ động ứng phó biến đổi khí
hậu.Bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, mở rộng các
hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng
chống tham nhũng, lãng phí; đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Phấn đấu đến năm 2020 Tiền Giang là tỉnh phát triển bền vững trong vùng đồng
bằng sông Cửu Long.
Đứng trước thực trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí
chưa được ngăn chặn và đẩy lủi triệt để như hiện nay, cũng như công tác cải cách
hành chính chưa có hiệu quả và các vấn đề của xã hội như tình hình vi phạm, tôi
phạm, tình trạng ô nhiễm môi trường, khoảng cách giàu nghèo ngày càng dãn ra…
là những lực cản cho sự phát triển kinh tế nói chung, đến mục tiêu phát triển kinh tế
tỉnh Tiền Giang nói riêng. Để dạt được mục tiêu tổng quát trên, đòi hỏi Đảng bộ và
chính quyền tỉnh Tiền Giang phải kiên quyết, kiên trì và sáng tạo tìm ra những khâu
đột phá và có những giải pháp thiết thực, khả thi, cụ thể trong kế hoạch ngắn hạn và
dài hạn cả về công tác xây dựng Đảng, công tác phát triển kinh tế và vấn đề an sinh
xã hội… Tập trung thế mạnh kinh tế đặc thù của từng vùng trong tỉnh theo cụm liên
kết huyện, thành phó, thị xã để phát huy tiềm năng kinh tế và nguồn nhân lực sẳn
có, tạo thành sức mạnh nội sinh cho sự phát triển.
78
* Mục tiêu cụ thể
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ X cũng đề ra một số chỉ
tiêu phát triển chủ yếu như:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP – giá so sánh năm 2010) bình quân 8,5-
9,5%/năm
- Số lượng doanh nghiệp tăng 8%/năm.
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình quân đạt 15,5-17,5%/năm, đến
năm 2020 khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên 60% giá trị sản xuất công nghiệp toàn
tỉnh.
- Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế tư nhân tăng bình
quân 13,3%/năm trong giai đoạn 2015-2020.
- Số việc làm được tạo thêm bởi khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian tới là
20.000 lao động/năm…
Đây là một số chỉ tiêu phát triển chủ yếu trong điều kiện bình thường. Nếu
tỉnh có kế hoạch cụ thể trong điều hành thực hiện các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài
hợp lý và tập trung huy động mọi nguồn lực nhằm khai thác tốt các tiềm năng, thế
mạnh; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, xây dựng kết cấu hạ tầng
đồng bộ; cải thiện hơn nữa môi trường thu hút đầu tư - kinh doanh; phát triển các
ngành, lĩnh vực gắn với tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
chất lượng hiệu quả sức cạnh tranh của các ngành, các thành phần kinh tế…thì khả
năng sẽ đạt cao hơn.
3.2.3 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Tiền Giang trong
những năm tới
- Định hướng chung:
Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân
79
là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh
tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”
Với định hướng trên, thời gian tới để phát huy hơn nữa vai trò của KTTN, Nhà
nước cần tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ
quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, tuân thủ các nguyên tắc và thông lệ
quốc tế, đặc biệt là các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; Đổi mới phương thức quản
lý kinh tế của Nhà nước theo hướng tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp được tự do
kinh doanh theo pháp luật, bình đẳng, cùng có lợi, nhất là trên những định hướng ưu
tiên của Nhà nước, kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế - chính trị - xã hội và môi
trường; Nghiên cứu đề ra các chính sách hỗ trợ, trong đó tập trung giải quyết các
khó khăn của khu vực KTTN về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh, vốn, năng
lực khoa học công nghệ và về thị trường…Đồng thời, Nhà nước cũng cần có những
chương trình giáo dục đào tạo khoa học và công nghệ, cũng như có chế độ khen
thưởng thích đáng kịp thời để động viên khuyến khích, tôn vinh và nhân rộng các
điển hình của hoạt động KTTN trong nền kinh tế thị trường. Giáo dục lòng yêu
nước tự hào dân tộc và bản lĩnh kinh doanh cho các doanh nhân trong KTTN..
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính quốc gia, đặc biệt
coi trọng cải cách hành chính, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước trong việc quản
lý KTTN, nâng cao trình độ nắm và thi hành pháp luật của đội ngũ công chức quản
lý nhà nước có liên quan trực tiếp đối với KTTN, đảm bảo cho các cơ quan quản lý
nhà nước từ Trung ương đến cơ sở thực sự là chỗ dựa vững chắc và là người hướng
dẫn hỗ trợ, kiểm tra, kiểm soát thân thiện đối với KTTN. Nhà nước cần xây dựng,
triển khai các công cụ quản lý và hỗ trợ mới đối với khu vực KTTN, chuyển từ mục
đích quản chặt doanh nghiệp sang hỗ trợ doanh nghiệp bằng định hướng chính sách,
thông tin thị trường và những khuyến khích tài chính, cũng như tinh thần theo
ngành, sản phẩm, địa bàn, chứ không theo từng doanh nghiệp, dự án cụ thể hoặc
tính chất sở hữu.
Nhà nước cần có dự báo ngắn hạn và dài hạn về xu hướng thị trường trong,
ngoài nước và những tác động ảnh hưởng đến phát triển KTTN. Đồng thời xây
80
dựng hệ thống lý lịch tư pháp công dân, hệ thống thông tin doanh nghiệp, hệ thống
đăng ký thế chấp, cầm cố tài sản… được nối mạng nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất
– kinh doanh, cũng như quản lý Nhà nước và phòng tránh, giảm thiểu các rủi ro tín
dụng, kinh doanh, các hành vi vi phạm sở hữu thương hiệu, sở hữu trí tuệ, sở hữu
công nghiệp và các vi phạm bản quyền, a ninh, trật tự an toàn văn minh thương mại
và thị trường khác. Xây dựng hệ thống thông tin, phân tích và dự báo các xu hướng
thị trường, cung cấp thông tin và các dịch vụ về pháp lý thương mại thị trường, các
thông lệ và tiêu chuẩn xuất khẩu quốc tế, hỗ trợ xây dựng thương hiệu và đăng ký
thương hiệu cho doanh nghiệp tư nhân. Coi trọng kiểm soát, phát hiện và xử lý
nghiêm minh hiện tượng gian lận thương mại, kinh doanh trái phép, sản xuất hàng
giả, trốn lậu thuế, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và sự cạnh tranh lành mạnh của
lĩnh vực KTTN.
Nhà nước cần tạo điều kiện để các địa phương, cơ quan trong nước cần tăng
cường liên kết, thúc đẩy sự hợp tác kinh tế giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, phát triển kinh doanh và
đầu tư ra nước ngoài, coi trọng xây dựng và phát triển hành lang pháp lý trong nước
và quốc tế nhằm mở đường và định hướng cho các doanh nhân và doanh nghiệp đầu
tư ra nước ngoài an toàn và thuận lợi. Các đại sứ quán, lãnh sự quán và phòng
thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động tại quốc gia,
vùng lãnh thổ do mình phụ trách. Các ngân hàng thướng mại cần có những chi
nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, ưu tiên đặt tại các trung tâm lớn có cộng
đồng đông đảo doanh nhân, DN Việt Nam hoặc ở những trung tâm thị trường tài
chính quốc tế lớn để trực tiếp cung cấp các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo
lãnh cần thiết cho hoạt động đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài.
Ngoài ra, Chính phủ cần quan tâm tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc định kỳ
và không định kỳ với doanh nhân. DN Việt Nam – các đại sứ quán, lãnh sự quán,
thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài và trên lãnh thổ Việt Nam và ở các nước –
thị trường tiềm năng hay nơi có đông đảo cộng đồng doanh nhân, DN Việt Nam
đang hoạt động… để nắm bắt và xử lý nhanh, kịp thời, chính xác, hiệu quả hơn các
81
nhu cầu, vấn đề bức xúc đặt ra trong quá trình hoạt động đầu tư ra nước ngoài của
doanh nhân, DN Việt Nam; Khuyến khích phát triển các dịch vụ hỗ trợ tư pháp,
nhất là về đăng ký và xử lý tranh chấp thương hiệu, tư vấn kế toán, thuế, thủ tục
xuất – nhập khẩu…
Mối quan hệ giữa các doanh nhân, chủ sở hữu lao động, DN với Chính phủ
và với người lao động xã hội cần được củng cố. Hiệu lực của bộ máy tư pháp trong
việc xử lý các vi phạm và tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động của khu
vực KTTN cần đề cao sự nghiêm minh và tăng cường lòng tin của dân chúng,
doanh nhân và DN vào luật pháp và chính quyền nhà nước các cấp…
Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của KTTN, sẽ xuất hiện khả năng
ngày càng nhiều hơn hiện tượng phá sản, giải thể, chia tách và sáp nhập, mua bán
chuyển nhượng các DN, các cổ phần, cổ phiếu DN, thậm chí là hiện tượng độc
quyền KTTN của các DN, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, xã hội của địa phương
và đất nước. Bên cạnh đó, các tranh chấp kinh tế, thương mại, lao động và các dạng
tội phạm khác trực tiếp phát sinh từ quá trình sản xuất, kinh doanh của DN cũng sẽ
gia tăng với mức độ nhiều hơn và phước tạp hơn. Điều này đòi hỏi những giải pháp
phòng ngừa và xử lý nhanh, hiệu lực, hiệu quả và mang tính bao quát của nền hành
chính nhà nước. Do vậy, Nhà nước cũng cần phát triển hệ thống an sinh xã hội, hệ
thống phòng ngừa rủi ro, cảnh báo sớm các nguy cơ và giải quyết kịp thời các chấn
động kinh tế, xã hội do quá trình thúc đẩy phát triển KTTN và hội nhập kinh tế quốc
tế gây ra.
- Định hướng của tỉnh Tiền Giang
Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Tiền Giang và thực tiễn phát
triển KTTN trên địa bàn tỉnh trong thời quan qua, định hướng phát triển kinh tế tư
nhân trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong thời gian tới là:
- Cải thiện môi trường đầu tư theo hướng minh bạch, dân chủ hóa để động
viên, giải phóng các nguồn lực, nhân dân tin tưởng, hăng hái đầu tư phát triển
KTTN, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải quyết việc làm và đời sống cho
82
người lao động. Đổi mới và nâng cao năng lực công tác quản lý nhà nước đối với
KTTN phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng số lượng DN mới thành lập, mở rộng và phát triển các DN hiện có. Đối
mới công nghệ sản xuất và quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và
quốc tế. Hình thành một số DN có năng lực cạnh tranh cao, hình thành các tập đoàn
KTTN, tạo điều kiện để các tập đoàn này tham gia vào các chương trình trọng điểm
của tỉnh.
- Tạo điều kiện thuận lợi, tăng cường cơ sở vật chất cho khu vực KTTN, có
chính sách giải quyết tốt các vấn đề về đất đai, mặt bằng, nhà xưởng, tiền vốn, tiêu
thụ sản phẩm, đào tạo nhân lực, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tham gia
hội nhập kinh tế khu vực KTTN tham gia vào những dịch vụ có giá trị gia tăng cao
(tài chính, ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm, tư vấn…), tăng cường tham gia vào các
hoạt động công ích, các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao… Mở rộng hoạt
động đầu tư ra các tỉnh thành khác trong cả nước và từng bước đầu tư ra nước ngoài
của KTTN.
Đây là những định hướng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn sản xuất trong nước
và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, những định hướng trên đòi hỏi phải được triển khai
cụ thể, sáng tạo thông qua hệ thống các giải pháp phù hợp với đặc điểm riêng của
Tiền Giang nhằm thúc đẩy phát triển KTTN ở Tiền Giang thành công trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.3. Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.3.1. Tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi để huy động mọi
nguồn lực của dân cư vào đầu tư, phát triển KTTN
* Môi trường pháp lý:
Đổi mới sự quản lý của Nhà nước đối với KTTN: Đổi mới quan niệm về quản
lý Nhà nước đối với KTTN, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật
trong quản lý KTTN, kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước đối với khu vực KTTN,
thực hiện thường xuyên việc giao lưu đối thoại giữa cơ quan Nhà nước, các ngành
83
liên quan với các doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN, để tháo gỡ những vướng
mắt của doanh nghiệp, đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước và các cơ
quan chức năng, tiếp tục đấu tranh nhằm đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực của KTTN.
Các Bộ ngành trung ương cần xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động của
KTTN, trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với KTTN, ban hành đầy
đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật liên quan đến hoạt động kinh doanh
và đầu tư của DN, giải quyết kịp thời những vướng mắc, kiến nghị của địa phương
trong quá trình thực thi Luật và các Nghị định của Chính phủ đã ban hành như: Luật
Doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật thuế, Luật đầu tư, Luật cạnh tranh, và các cam kết
của Việt Nam khi gia nhập WTO, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát
triển DN nhỏ và vừa…Xúc tiến xây dựng và hoàn thiện các luật về kinh doanh cá
thể trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ các loại, luật
kinh tế hộ nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp… các DN trong khu vực KTTN
phải được thể hiện trong tất cả các quan hệ quản lý từ việc đăng ký kinh doanh, tổ
chức điều hành của các hộ tư nhân đến việc nộp thuế, xuất khẩu, nhập khẩu, thanh
kiểm tra, kiểm toán… Việc xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng, đầy đủ, quy định rõ
những việc mà tư nhân được làm, không được làm, đồng thời quy định rõ trách
nhiệm của cơ quan quản lý ngành và lãnh thổ đối với việc tôn trọng quyền và trách
nhiệm của cơ sở KTTN, trách nhiệm đền bù những thiệt hại của DNTN do cơ quan
quản lý gây ra.
Các sở ban ngành của địa phương cần nghiêm túc triển khai thực hiện, đẩy
mạnh việc tuyên truyền, phổ biến đường lối chính sách pháp luật của nhà nước liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, có thể chế để kiểm soát các văn
bản dưới luật do các Bộ và địa phương ban hành. Có biện pháp động viên, khen
thưởng kịp thời các cơ sở kinh tế, doanh nhân hoạt động có hiệu quả, chấp hành tốt
pháp luật, có đóng góp tích cực cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa
phương; đồng thời kiên quyết xử lý những hành động làm trái pháp luật, gây cản trở
cho hoạt động kinh doanh của KTTN, cũng như những hành vi trái pháp luật của
chủ doanh nghiệp tư nhân.
84
* Môi trường kinh tế vĩ mô
- Về phía Trung ương
+ Cần hoàn thiện môi trường kinh tế vĩ mô, bảo đảm cho KTTN phát triển ổn
định và bền vững: Tiếp tục ổn định môi trường chính trị - xã hội trong nước, để thu
hút các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn làm ăn; tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sản
xuất kinh doanh, thông qua quan hệ ngoại giao, hay hợp tác quốc tế để tìm đầu ra
cho sản phẩm…; tiếp tục bổ sung, sửa đổi hoàn thiện hệ thống chính sách của Nhà
nước, góp phần thúc đẩy KTTN phát triển; thừa nhận sự tồn tại lâu dài, bảo hộ sở
hữu và lợi ích hợp pháp của KTTN, thực sự bình đẳng giữa KTTN và các loại hình
kinh tế khác; khuyến khích tích tụ và tập trung sản xuất, nâng cao năng lực cạnh
tranh của sàn phẩm, có chính sách giảm hoặc miễn thuế thu nhập cho phần lợi
nhuận dùng vào tích lũy, cần đẩy mạnh và đổi mới hoạt động của các Ngân hàng
thương mại để có thể huy động hết số tư bản tích lũy mà chưa sử dụng , để phục vụ
cho nhu cầu tái đầu tư của các DN khác; khuyến khích các DN liên kết với nhau
dưới những hình thức thích hợp để tăng quy mô sản xuất và quy mô tích lũy; tạo cơ
chế chính sách để các DNTN có thể tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư một cách
thuận lợi, khuyến khích các DNTN liên kết với các DN nhà nước dưới hình thức
công ty mẹ, công ty con…, các hộ cá thể làm vệ tinh cho các DN dưới hình thức các
đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc đảm nhận một khâu trong quá trình sản
xuất kinh doanh của DN.
+ Đối với vấn đề phát triển khoa học công nghệ: Từng bước xây dựng và hình
thành thị trường các DN sản xuất và kinh doanh thiết bị công nghệ, hình thành khu
vực thương mại công nghệ tập trung về một số lĩnh vực kinh doanh trọng yếu, cần
quy định về thời gian, hiệu lực phải thay đổi công nghệ, có chính sách miễn thuế
cho phần lợi nhuận mà DN dùng để tái đầu tư cho công nghệ, máy móc thiết bị,
giảm thuế đối với việc nhập khẩu thiết bị công nghệ mới phục vụ cho nhu cầu đổi
mới, cải tiến của các DN.
85
- Về chính quyền tỉnh Tiền Giang
+ Cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” và mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” trong giải quyết công
việc liên quan đến đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của DNTN, góp phần
thu hút đầu tư vào địa bàn tỉnh.
+ Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến và trợ giúp phát triển DN, các sở ngành và
chính quyền địa phương các cấp chủ động nắm bắt, giải quyết kịp thời các khó khăn
vướng mắc cản trở đến đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong
phạm vi thuộc thẩm quyền, hàng năm cần tổ chức các Hội nghị biểu dương các hộ,
DN kinh doanh tốt, thông qua tổ chức đối thoại trực tiếp với DN theo từng vấn đề,
nhằm kịp thời cùng DN tháo gỡ những khó khăn trong kinh doanh.
+ Chính quyền tỉnh cần chủ động thay mặt các cơ sở KTTN giải quyết các
vướng mắc không rõ ràng về văn bản pháp luật. Những vấn đề thuộc thẩm quyền
quản lý của mình thì tập trung chỉ đạo đội ngũ cán bộ chuyên môn phối hợp với các
DN tìm ra giải pháp cho những điều chưa thực sự rõ ràng về môi trường pháp lý,
khi các văn bản pháp luật còn mập mờ, có thể hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau,
điều mà rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay, chưa thể khắc phục triệt để trong thời
gian ngắn. Đối với những vấn đề ngoài sự quản lý chung của địa phương, lãnh đạo
tỉnh và các phòng chức năng chuyên môn cần có đề nghị với các cơ quan cấp trên
sớm có phương án giải quyết thấu đáo cho các doanh nghiệp đến đầu tư tại địa
phương.
+ Hỗ trợ cho các cơ sở KTTN có thể tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư chính
thống: cần năng động, thường xuyên quan tâm, cập nhật thông tin, tiếp cận với các
nguồn vốn hỗ trợ, đầu tư từ Trung ương, từ các quỹ đầu tư phát triển của các tổ
chức trong và ngoài nước. Nắm các thông tin về thủ tục từ đó sẽ hướng dẫn các cơ
sở KTTN trên địa bàn có thể tiếp cận với các nguồng vốn này. Thành lập tổ thẩm
định các dự án khả thi trực thuộc phòng tài chính – Kế hoạch tỉnh, có chức năng
nhiệm vụ sàn lọc các dự án khả thi, có lợi cho địa phương nhưng thiếu vốn. Từ đó
sẽ có chương trình làm với Ngân hàng cùng phối hợp với hộ, doanh nghiệp tìm ra
86
giải pháp tốt nhất để huy động vốn cho hộ, doanh nghiệp phát triển. Cấn có sự thay
đổi trong tư tưởng cũng như cách thức hoạt động của các ngân hàng kể cả trong và
ngoài quốc doanh. Kiên quyết xóa bỏ tình trạng đối xử không bình đẳng trong vay
vốn giữa khu vực tư nhân với khu vực Nhà nước. Các Ngân hàng phải thật sự coi
khu vực tư nhân là khách hàng, gắn lợi ích của Ngân hàng với lợi ích của doanh
nghiệp, cần tích cực tháo gỡ khó khăn, nâng cao khả năng vay vốn doanh nghiệp,
thảo bỏ những thủ tục vau rườm rà, tích cực mở rộng những tài sản thế chấp trong
khi vay vốn của DN.
+ Hỗ trợ mặt bằng sản xuất, kinh doanh cho các cơ sở KTTN: Các cấp lãnh
đạo địa phương phải đặc biệt coi trọng công tác quy hoạch sử dụng đất, cần nghiêm
túc, khẩn trương công bố quy hoạch đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt, công bố những quỹ đất chưa sử dụng để doanh nghiệp có nhu cần thuê
đăng ký thuê. Thu hồi những diện tích đất sử dụng sai mục đích hay bỏ hoang để
DN có thể thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh.
+ Hỗ trợ về thông tin: thực tế cho thấy, chất lượng thông tin thu thập được của
khu vực KTTN không cao, đặc biệt là thông tin về thị trường. Bản thân từng doanh
nghiệp lại rất khó khăn giải quyết về vấn đề này. Do vậy, để giúp khu vực này nâng
cao được chất lượng nguồn thông tin cơ quan Nhà nước ở địa phương cần thực hiện
một số giải pháp sau: Ban quản lý dự án tỉnh phối hợp với Đài phát thanh truyền
hình tỉnh có nhiệm vụ thường xuyên tìm hiểu, cập nhật thông tin mới về thị trường
trong và ngoài nước… để có các giải pháp cung cấp hỗ trợ thông tin cho các DN,
những thông tin này phải mới, chính xác, cung cấp kịp thời cho DN; xây dựng và
thường xuyên đổi mới thông tin về tình hình kinh tế chính trị, địa phương, các chủ
trương, quan điểm của lãnh đạo huyện trên trang web của tỉnh. Các cơ sở KTTN
trên địa bàn có thể được hỗ trợ miễn phí về khai thác thông tin trên trang web của
tỉnh cũng như đưa các thông tin quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của đơn vị mình.
87
3.3.2. Tạo vốn, đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ cho khu vực
kinh tế tư nhân:
Vấn đề quan trọng hiện nay của khu vực kinh tế tư nhân là thiếu vốn sản xuất
và quy mô vốn bình quân. Vì vậy việc đầu tư công nghệ và trang thiết bị hiện đại
(hầu hết là phải nhập từ nước ngoài) là rất khó khăn, trong khi muốn cạnh tranh các
doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến trang thiết bị, giảm chi phí đầu vào. Nhà
nước đã có chính sách hỗ trợ vay vốn tín dụng, nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này
gặp nhiều khó khăn, trở ngạy do giá trị thế chấp nhỏ, không có khả năng bảo lãnh
tín dụng, bên cạnh đó còn bị “khó dễ” của cán bộ ngân hàng. Do đó Nhà nước cần
có chính sách mạnh hơn nữa trong việc hổ trợ vốn cho doanh nghiệp, nhất là việc
đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp tư nhân vay vốn tại
các ngân hàng thương mại thông qua bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển Việt Nam,
nghiên cứu thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại các tỉnh, nhằm bảo lãnh tín dụng
cho doanh nghiệp tư nhân vay vốn tại các ngân hàng thương mại…
Nhà nước cũng cần đẩy mạnh triển khai các chính sách hỗ trợ cho doanh
nghiệp tư nhân ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, đầu tư đổi mới trang thiết b, nâng cao
năng lực công nghệ và chuyển giao công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
tiên tiến, bảo hộ sở hữu trí tuệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong quá trình hội nhập.
3.3.3 Đổi mới chính sách đối với kinh tế tư nhân theo hướng giải phóng
năng lực sản xuất của tư nhân
Chính sách đất đai: Chính quyền địa phương cần giải quyết nhanh chóng thủ
tục cấp đất cho các DN có nhu cầu đất để xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh nói
riêng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân DN có quy mô về vốn
lớn, cần hình thành các vùng sản xuất dành cho các tiểu thủ công nghiệp để dần dần
đưa các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp ra khỏi dân cư và tạo điều kiện cho sản
xuất cá thể phát triển. Cần có chính sách xây dựng kết cấu hạ tầng và cho thuê đất
thích hợp, miễn giảm tiền đất một số năm khi mới đầu tư, cho trả dần từng năm theo
một lãi suất ưu đãi. Đặc biệt, quan tâm đến vấn đề hạn điền, để người dân có đủ
88
điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, lập các trang trại, các hợp tác xã
với quy mô lớn…
Chính sách tài chính:
+ Đổi mới chính sách tín dụng: Đa dạng hóa thị trường vốn để khu vực KTTN
có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn vốn khác nhau để đầu tư phát triển. Tạo điều
kiện thuận lợi để KTTN có thể tiếp cận với các quỹ đầu tư phát triển, thực hiện sự
bình đẳng trong thực tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau trong việc vay vốn của Nhà nước và các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
Phải trên cơ sở đánh giá đúng đắn hiệu quả các dự án để xác định đối tượng, quy
mô cho vay, không nên phân biệt theo thành phần kinh tế. Xây dựng và mở rộng
quy mô hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân ở nông thôn, khuyến khích các tổ
chức tài chính, các doanh nghiệp, cư dân đô thị tham gia cổ phần quỹ tín dụng nông
thôn, chuyển dần thành những công ty cho vay cổ phần hoạt động ở nông thôn. Đổi
mới cơ chế cho vay, hướng chủ yếu là cho vay trung hạn và dài hạn để đầu tư phát
triển gắn liền với một lãi suất thích hợp cho từng loại đối tượng vay vốn, hình thành
tổ chức đánh giá tài sản cố định và cấp giấy chứng nhận sở hữu tài sản, để DNTN
có cơ sở pháp lý về tài sản để được thế chấpvay vốn. Có chính sách bảo hộ cho
DNTN vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài theo các dự án về mở rộng sản
xuất và đổi mới công nghệ.
+ Đổi mới chính sách thuế: Lựa chọn các loại thuế, xác định cơ cấu thuế hợp
lý, vừa bảo đảm tăng thu cho ngân sách, vừa đảm bảo tính hiệu quả và công bằng,
làm cho thuế có tác dụng phát triền nguồn thu để tăng thu. Xem xét để sớm thu hẹp
thuế khoán đang áp dụng phổ biến hiện nay, tiến tới thực hiện một phương pháp
nộp thuế VAT thống nhất. Đề nghị áp dụng mức thuế suất thống nhất giữa các đối
tượng chịu thuế VAT, xóa bỏ việc điều tiết tỷ lệ % theo ngành nghề khi hộ cá thể,
doanh nghiệp nộp VAT thấp hơn thuế doanh thu trước đây, mà chủ yếu điều tiết qua
thuế thu nhập. Tiếp tục nghiên cứu để xác định hợp lý mức thuế thu nhập phù hợp
với các đối tượng kinh doanh. Có chính sách miễn thuế cho phần thu nhập được sử
dụng để đầu tư phát triển hoặc đóng góp vào các phúc lợ xã hội của cộng đồng.
89
Trong nông nghiệp bên cạnh các loại thuế hiện hành mà nông dân đã chấp nhận cần
quy định và quản lý các hình thức “lệ phí” tràn lan, khắc phục tình trang “phụ
thu,lạm bộ” đang diển ra khá trầm trọng ở nông thôn.
-Chính sách giá cả thị trường: Trên quan điểm thị trường là một thể thống
nhất, các hộ kinh doanh, doanh nghiệp đều bình đẳng trên thương trường, cần vận
dụng các quy luật vận động của kinh tế thị trường để rà soát và sữa chữa những mặt,
những điểm bất hợp lý tạo nên sự phân biệt đối xử giữa khu vực kinh tế nhà nước
và khu vực KTTN trên thị trường, vì vậy cần có chính sách để tạo điều kiện cho khu
vực KTTN có thể tiếp cận với các loại thị trường như thị trường vốn, thị trường bất
động sản, thị trường thiết bị công nghệ thông tin, khuyến khích và tạo điều kiện cho
khu vực KTTN có thể mở rộng thị trường ra bên ngoài, bao gồm cả xuất khẩu tư
bản, xuất khẩu hàng hóa, thiết bị công nghệ, nguồn nhân lực. Trong điều kiện kinh
tế thị trường, giá cả có sự tác động của nhiều nhân tố, nhất là chịu sự tác động của
thị trường quốc tế ngoài tầm ảnh hưởng của sự quản lý nhà nước, cần xây dựng các
quỹ bảo hiểm, hỗ trợ giá cho từng ngàn hàng (nông sản, thủy sản, công nghiệp chế
biến…), điều phối kiệp thời và có hiệu quả các loại quỹ đó để hỗ trợ cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh khi có những biến động lớn về giá.
Đẩy mạnh hoạt động marketing, mở rộng thị trường, hỗ trợ để doanh nghiệp
tư nhân tìm kiếm thị trường: đối với thị trường trong nước, xây dựng chiến lược
quảng bá rộng rãi sản phẩm sản xuất trong nước nhằm hướng dẫn tiêu dùng xã hội,
thực hiện tốt cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, muốn
vậy trước mắt cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm đảm bảo quyền
lợi hợp pháp và chính đáng của người tiêu dùng, đồng thời xây dựng thương hiệu
sản phẩm đảm bảo uy tín của nhà sản xuất. Đối với thị trường nước ngoài, cần thiết
lập các kênh thông tin kinh tế thường xuyên thông qua quá trình xúc tiến đầu tư,
xúc tiến thương mại của nhà nước và địa phương, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp có nhiều cơ hội tiếp xúc trực tiếp với đối tác nước ngoài, để có cơ hội học
hỏi và lựa chọn đối tác làm ăn, lựa chọn công nghệ đầu tư phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế chung của tỉnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
90
3.3.4. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn, tham gia tích cực các hoạt động xúc tiến thương mại.
Sự phát triển của KTTN ở Tiền Giang trong thời gian qua cho thấy khu vực tư
nhân có thể tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại trên nhiều mặt: xuất nhập
khẩu, liên doanh sản xuất kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, xuất khẩu
lao động và dịch vụ, đầu tư kinh doanh ở nước ngoài. Trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, vấn đề ưu tiên hàng đầu là chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hóa
để tạo thị trường cho kinh tế nội địa, nhập khẩu vật tư, thiết bị, nguyên liệu để phục
vụ, thúc đẩy sản xuất, hiện đại hóa khu vực kinh tế tư nhân, nghiên cứu điều chỉnh
thuế suất đối với thuế suất nhập khẩu, nhất là đối với những hàng hóa có quy mô
lớn và với thiết bị, nguyên liệu nhập khẩu. Tạo điều kiện cho tư nhân có thể xuất
khẩu trực tiếp không qua trung gian. Đối với những mặt hàng quy mô sản xuất từng
hộ kinh doanh không lớn, nhưng khối lượng hàng hóa trên thị trường ngày càng
nhiều, cần tổ chức các hình thức thích hợp (hợp tác xã tiêu thụ, đại lý, mua bán liên
kết với các cơ sở xuất nhập khẩu của nhà nước) để đưa hàng hóa ra thị trường nước
ngoài. Mặt khác nhà nước cần hỗ trợ giúp KTTN tìm kiếm thị trường, cung cấp
thông tin về khả năng phát triển kinh tế đối ngoại trên từng lĩnh vực, giúp KTTN có
điều kiện tiếp cận trực tiếp với thị trường, với đối tác thông qua các hội trợ, các
cuộc viếng thăm, khảo sát thị trường, tham gia triển lãm giới thiệu mặt hàng ở
những nước có khả năng xuất khẩu hoặc đầu tư, giúp các doanh nghiệp khu vực
KTTN xây dựng và quảng bá thương hiệu ra nước ngoài, khuyến khích các hiệp hội
nghề nghiệp xây dựng các trang Web để quảng bá thương hiệu cho các đơn vị trong
hiệp hội không có điều kiện mở trang Web riêng.
3.3.5. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh việc tích tụ ruộng đất.
Kinh tế tư nhân là khu vực thu hút phần lớn lao động xã hội vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Do tính chất ngành nghề đa dạng với nhiều loại quy
mô khác nhau, khu vực này vẫn là khu vực đầy tìm năng để giải quyết việc làm cho
nhiều loại lao động với chất lượng tay nghề khác nhau. Một trong những đặc điểm
91
lớn về lao động khu vực KTTN là tuyệt đại bộ phận không qua đào tạo; nhiều
ngành nghề được hình thành theo kiểu “cha truyền con nối” hoặc đào tạo tại chỗ
qua sản xuất, lao động; bộ phận lao động phi cơ cấu khá lớn luôn lưu động từ ngành
này sang ngành khác, sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế nhà nước, sức lao động đã trở
thành hàng hóa. Các DNTN trong công nghiệp, thương mại dịch vụ cũng như các
trang trại trong nông nghiệp đều tự do mua bán, tuyển mộ lao động trên thị trường
thông qua nhiều hình thức. Thị trường sức lao động hiện nay đang thừa lao động
giản đơn, thuận lợi cho các cơ sở tư nhân tuyển chọn, nhưng lại thiếu lao động có
kỹ thuật, có trình độ tay nghề. Đây là đặc điểm nổi bật của tình hình lao động cả
nước nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng, vì vậy cần thiết phải có chiến lược
liên kết đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Cụ thể là:
-Chính quyền tỉnh cần phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh
nhà và các địa phương lân cận đáp ứng nhu cầu suất khẩu lao động theo phương
châm xã hội hóa. Tập trung đầu tư cho Trung tâm các trường dạy nghề trong tỉnh có
quy mô hợp lý đáp ứng nhu cầu đào tạo theo hướng đa ngành. Nâng cao chất lượng
và định hướng thị trường của hệ thống đào tạo; thực hiện có hiệu quả chương trình
định hướng nghề nghiệp – đào tạo gắn giải quyết việc làm, cụ thể hóa cho một số
đối tượng như bộ đội, thanh niên xung phong xuất ngũ, lao động nữ. Từng bước
nâng cao chất lượng đào tạo hệ Trung cấp Nghề và công nhân kỹ thuật để góp phần
nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo chuyên môn, đáp ứng yêu cầu tại chỗ và phục
vụ nhu cầu xuất khẩu lao động.
+Phát triển công tác khảo sát, điều tra, dự báo nhu cầu lao động trên địa bàn
tỉnh và địa phương lân cận để góp phần định hướng cho công tác đào tạo nghề, đáp
ứng nhu cầu gắn đào tạo với sử dụng lao động. Cần có cuộc khảo sát về ngành nghề
hiện có trong các DN để có chương trình đào tạo phù hợp đáp ứng yêu cầu của các
DN đầu tư trên địa bàn tỉnh. Tăng cường và khuyến khích việc dạy và học ngoại
ngữ cho lực lượng lao động nhất là những ngoại ngữ thông dụng và có nhiều quốc
gia đầu tư vào Việt Nam (tiếng Anh, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc…)
92
+ Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề, hoàn thiện
chương trình, giáo dục, quy trình đào tạo nghề từng bước quản lý và nâng cao chất
lượng hoạt động của hệ thống cơ sở đào tạo. Có chính sách phát triển định hướng
cho học sinh ở các ngành học, cấp học phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động,
chính sách mở rộng và đa dạng hóa hoạt động dạy nghề, tạo điều kiện cho mọi
người dân được học nghề, dạy nghề, truyền nghề.
+ Các DN cần chủ động liên kết vớ các trường kỹ thuật, các trường trung học
nghề để đào tạo công nhân kỹ thuật có định hướng theo ngành nghề mà các DN
đang có nhu cầu. Phối hợp với các trường Đại học kỹ thuật, Cao đẳng kỹ thuật để
đào tạo kỹ sư thực hành cung cấp cho các xí nghiệp và đáp ứng quá trình phát triển
của một số DN trên địa bàn tỉnh. Các chủ DN cần chủ động, tự giác, tích cực học
hỏi, tham gia học tập các lớp đào tạo bài bản, hoàn thiện kiến thức chuyên môn về
quản trị DN, nghiệp vụ kinh doanh…, các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ cần tham
gia tích cực các lớp tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật do tỉnh tổ chức để kịp thời nắm bắt
thông tin, nâng cao trinh độ.
Việc tích tụ ruộng đất cũng là vấn đề cần được quan tâm, do đó cần phải có
chính sách để cho các doanh nghiệp an tâm sản xuất và mở rộng ngành nghề, quy
mô kinh doanh….
3.3.6. Nâng cao vai trò của các hiệp hội đối với phát triển KTTN ở Tiền
Giang
Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Doanh nghiệp tỉnh, từng bước hình
thành các hội ngành nghề khi đủ điều kiện để các cơ sở KTTN có điều kiện liên kết,
hợp tác với nhau trong sản xuất, kinh doanh, tăng cường xúc tiến thương mại và đầu
tư trong và ngoài tỉnh, kể cả quan hệ với các công ty nước ngoài.
Các Hiệp hội DN làm tốt vai trò cầu nối giữa chính quyền với các DN thành
viên để tăng cường đối thoại, thông tin và đề xuất, kiến nghị chính quyền tỉnh tháo
gỡ các vướng mắc, khó khăn kịp thời.
Để phát huy vai trò của các hiệp hội và các tổ chức này, cần coi trọng cả việc
tiếp tục kiện toàn, thành lập thêm các hiệp hội và tổ chức mới, vừa xúc tiến đổi mới
93
cơ chế hoạt động của các tổ chức, hiệp hội theo mô hình và thông lệ hoạt động của
các tổ chức và hiệp hội tương tự ở các nước phát triển trên thế giới hoặc điều chỉnh
cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Tóm lại, trên cơ sở quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển
kinh tế, đặc biệt thông qua nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ X nhiệm kỳ 2015 –
2020 đã xác định mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh là: “huy động mọi nguồn lực,
khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ; cải thiện môi trường thu hút đầu tư, phát triển
các ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm gắn với tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của các ngành, các
thành phần kinh tế”. Để đạt được mục tiêu trên cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
như: Tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi để huy động mọi nguồn lực
của dân cư vào đầu tư, phát triển kinh tế tư nhân, trong đó đặc biệt coi trong môi
trường pháp lý, thể thế, thủ tục hành chính và môi trường kinh tế vĩ mô; đổi mới hệ
thống chính sách kinh tế vĩ mô đối với kinh tế tư nhân, nhất là chính sách tài chính,
tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai, chính sách giá cả thị trường; liên kết
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao; nâng cao vai trò của các hiệp hội đối với phát triển kinh tế tư nhân ở Tiền
Giang; tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân, tiếp tục quan tâm, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa
và nhỏ, các hộp tác xã… hoạt động có hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Với dự báo tình hình phát triển kinh tế trong nước, ngoài nước và tình hình
của tỉnh có cả thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Song tình hình phát triển
của các thành phần kinh tế nói chung, kinh tế tư nhân nói riêng sẽ theo xu hướng
chung là hòa bình và hợp tác, phát triển; quá trình toàn cầu và hội nhập ngày càng
ngày càng được đẩy mạnh. Trong nước, hệ thống thể chế, cơ chế chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện
94
nên các thành phần kinh tế có thêm cơ hội phát triển; tỉnh Tiền Giang vẫn tiếp tục
có những lợi thế cho phát triển kinh tế tư nhân. Từ nay đến năm 2025, kinh tế tư
nhân có xu hướng vận động biến đổi khá lạc quan: kinh tế tư nhân sẽ phát triển với
tốc độ nhanh hơn cả về quy mô và trình độ, sẽ hình thành những doanh nghiệp lớn,
những tập đoàn kinh tế tư nhân; kinh tế tư nhân của tỉnh Tiền Giang cũng sẽ tham
gia hội nhập kinh tế thế giới mạnh hơn ở hầu hết các lĩnh vực, nhất là du lịch, tư
vấn, hỗ trợ pháp lý, vốn, vận tải, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thông tin, v.v..
Để phát triển tốt hơn nữa thành phần kinh tế tư nhân từ nay đến năm 2025,
Tiền Giang cần có quan điểm nhất quán về phát triển kinh tế tư nhân: Kinh tế tư
nhân là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế; hỗ trợ và tạo mọi thuận lợi cho
kinh tế tư nhân đầu tư, kinh doanh, đồng thời hình thành các tập đoàn kinh tế tư
nhân và tư nhân góp vốn vào kinh tế nhà nước; phát triển mạnh các loại hình KTTN
ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch, theo quy định pháp luật; xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng trong khu vực kinh tế tư
nhân. Từ những quan điểm trên với mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của tỉnh
trình bày trong Đại hội Đảng bộ lần thứ X của tỉnh, để phát triển kinh tế tư nhân giai
đoạn 2015 – 2025, Tiền Giang cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau đây: nâng cao
nhận thức, hoàn thiện môi trường pháp lý, tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước
đối với kinh tế tư nhân; tiếp tục đổi mới, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ
trợ, khuyến khích cho kinh tế tư nhân của tỉnh Tiền Giang phát triển; tăng cường
công tác xây dựng phát triển nguồn nhân lực; thiết lập các mối quan hệ trong nước,
khu vực, quốc tế; xây dựng văn hóa kinh tế tư nhân. Ngoài ra, cần thực hiện tốt
những giải pháp bổ trợ khác cũng như những chủ trương chung của Đảng nhằm đưa
Tiền Giang phát triển và hoàn thành sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế.
95
KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
1. Khuyến nghị
Đối với Trung ương:
a) Chính sách hỗ trợ mặt bằng sản xuất cho khu vực KTTN
- Đối với các cụm công nghiệp hỗ trợ, khuyến nghị Nhà nước đứng ra đầu tư
hạ tầng cụm công nghiệp để thu hút các khu vực kinh tế tư nhân đầu tư phát triển
công nghiệp hỗ trợ và thu hồi lại từ các doanh nghiệp theo phương thức trả chậm.
- Cho tư nhân được tích tụ ruộng đất để mở rộng ngành nghề và quy mô sản
xuất kinh doanh.
- Nhà nước cần bổ sung chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi và hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư theo Nghị định 75/2011/NĐ-CP của Chính phủ đối với các dự án đầu tư hạ
tầng cụm công nghiệp dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
b) Chính sách hỗ trợ tiếp cận các nguồn vốn tín dụng
- Khuyến nghị Chính phủ cần có chính sách thích hợp để nâng cao khả năng
bảo lãnh tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân vay vốn tại các ngân hàng thương
mại.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ lãi suất bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế.
c) Chính sách hỗ trợ khoa học công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh
cho khu vực KTTN
- Khuyến nghị Chính phủ sớm thành lập Quỹ phát triển DNTN nhằm tài trợ
cho các chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNTN, hỗ trợ hoạt động đổi
mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường; đầu tư
đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; phát triển công nghiệp hỗ trợ;
nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.
- Khuyến nghị Chính phủ có chính sách tăng cường hoạt động trợ giúp nâng
cao năng lực công nghệ và trình độ kỹ thuật cho khu vực kinh tế tư nhân theo các
lĩnh vực ưu tiên phát triển trong từng giai đoạn. Cần tập trung vào một số nội dung
96
cơ bản như: hỗ trợ đổi mới thiết bị công nghệ; phát triển công nghệ mới, sản phẩm
mới; cung cấp thông tin và tư vấn về chuyển giao, tiếp nhận công nghệ; nâng cao
chất lượng sản phẩm dịch vụ thông qua việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc
tế; tạo lập môi trường phát triển trên cơ sở đầu tư xây dựng một số vườn ươm giúp
các doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp, phát triển sản phẩm mới, áp dụng các kết
quả nghiên cứu khoa học. Do đó khuyến nghị cần tăng cường nguồn kinh phí của
Quỹ Khoa học công nghệ quốc gia để thực hiện được nhiệm vụ trên.
d) Các chính sách khác
- Nhà nước cần có hệ thống chính sách đồng bộ nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp nhỏ và vừa đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ bao gồm hỗ trợ mặt bằng
sản xuất, thuế, hỗ trợ vốn, hỗ trợ đổi mới công nghệ và đào tạo nhân lực, tiếp cận
thị trường... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa liên kết
với các doanh nghiệp lớn và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- Nhà nước cần có các chính sách trọn gói đồng bộ, tạo sự chuyển biến tốt hơn
để giảm lạm phát, giảm lãi suất, tạo điều kiện môi trường kinh doanh thuận lợi các
cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa rất dễ chịu tác động của những biến động tình hình kinh tế - xã hội.
Đối với Tỉnh cần:
- Nghiên cứu xây dựng đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho kinh tế tư
nhân trên địa bàn tỉnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
- Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư, tạo lập và duy trì môi
trường kinh doanh thuận lợi: đầu tư hoàn thiện hạ tầng trong ngoài các khu cụm
công nghiệp, thực hiện cải cách thủ tục hành chính, thủ tục một cửa.
- Trong quá trình xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5
năm cần bố trí nguồn kinh phí dành riêng để trợ giúp cho khu vực kinh tế tư nhân,
tập trung vào các hoạt động chính như sau: hỗ trợ mặt bằng sản xuất, trợ giúp tiếp
cận vốn tín dụng, trợ giúp đổi mới công nghệ và kỹ thuật sản xuất, trợ giúp đào tạo
nguồn nhân lực, trợ giúp xúc tiến mở rộng thị trường và cung cấp thông tin.
97
- Quan tâm tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư, nhằm mục tiêu giới thiệu và
tranh thủ thu hút đầu tư, khai thác có hiệu quả lợi thế cũng như tiềm năng đất đai,
lao động, ngành nghề địa phương góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nâng cao năng lực phát triển các ngành kinh tế - xã hội, chuyển giao công nghệ và
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động cũng như thực hiện mục tiêu đảm
bảo an sinh xã hội và thúc đẩy xóa đoi giảm nghèo.
- Thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp để kịp thời có những giải
pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là về vốn, mặt bằng, chính sách thuế….
2. Kết luận
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ
chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN, cùng với cả nước, Tỉnh
ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã tổ chức quán triệt, xây dựng kế hoạch, tích cực chỉ
đạo thực hiện, đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả rất quan trọng,
làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội tỉnh nhà, cuộc sống nhân dân được nâng cao, của cải
vật chất ngày càng dồi dào và nguồn thu ngân sách tăng, góp phần tích cực vào tăng
trưởng kinh tế của tỉnh và cả nước, tăng thêm lòng tin của nhân dân vào chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển KTTN.
Tuy nhiên KTTN phát triển chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, ít nhiều
còn mang tính tự phát, tình trạng vi phạm pháp luật còn xảy ra nhiều, nhất là ở lĩnh
vực nhạy cảm. Trong quá trình phát triển vẫn còn vướng mắc nhiều về cơ chế, chính
sách nên gặp không ít khó khăn.
Để KTTN thực sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa, trở thành một trong các động
lực của nền kinh tế và đóng góp có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương đòi hỏi sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, sự vận động
tích cực của các đoàn thể quần chúng theo đúng đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, đồng thời cũng yêu cầu sự tích cực, chủ động vươn lên của
các DNTN, phát huy mặt mạnh, khắc phục những hạn chế yếu kém để ngày càng
lớn mạnh hơn trong thời gian tới, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước.