ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỖ ĐÌNH NGHĨA
PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SỸ
Người hướng dẫn: TS. Đặng Xuân Hoan
Hà nội - 2005
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
Chƣơng 1 .................................................................................................... 11
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC MỞ RỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN NGOẠI THƢƠNG ........................................................................ 11
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng kinh tế đối ngoại ............ 11
1.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước .................................................. 11
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của việc hội nhập kinh tế quốc tế ......... 15
1.2. Hoạt động ngoại thương, các yếu tố tác động và vai trò của hoạt động ngoại thương ở địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ........................... 19
1.2.1. Quan niệm về hoạt động ngoại thương ...................................... 19
1.2.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động ngoại thương ..................... 23
1.2.3.Vai trò của hoạt động ngoại thương đối với Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................................................... 25
1.3. Kinh nghiệm của các quốc gia phát triển ngoại thương trong điều kiện hội nhập ............................................................................................ 28
1.3.1. Kinh nghiệm về việc điều chỉnh các biện pháp thực hiện chính sách ngoại thương ................................................................................ 29
1.3.2. Kinh nghiệm về quản lý tỷ giá hối đoái ....................................... 31
1.3.3. Kinh nghiệm trong việc tận dụng những lợi thế so sánh để phát triển ngoại thương ................................................................................ 33
Chƣơng 2 .................................................................................................... 39
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƢƠNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................. 39
2.1. Những điều kiện phát triển ngoại thương Thành phố Hồ Chí Minh . 42
1
2.1.1. Điều kiện về vốn .......................................................................... 42
2.1.2. Nguồn nhân lực ........................................................................... 43
2.1.3. Khoa học công nghệ .................................................................... 44
2.1.4. Cơ sở hạ tầng vật chất ............................................................... 44
2.1.5. Văn hóa du lịch ............................................................................ 46
2.1.6. Thị trường ................................................................................... 48
2.2. Thực trạng hoạt động ngoại thương trên địa bàn Thành phố .......... 49
2.2.1. Các kết quả xuất nhập khẩu đạt được trong thời gian qua ........ 49
2.2.2. Thị trường xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố ................... 55
2.2.3. Các điều kiện phát triển ngoại thương trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................................ 62
2.2.4.Số doanh nghiệp .......................................................................... 64
2.2.5. Những tồn tại cần được giải quyết ............................................. 76
Chƣơng 3 .................................................................................................... 80
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƢƠNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................. 80
3.1. Một số quan điểm chỉ đạo nhằm phát triển hoạt động ngoại thương ở Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................ 80
3.1.1. Những quan điểm định hướng cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội .......................................................................................................... 80
3.1.2. Những văn bản chỉ đạo phát triển ngoại thương ở Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................................ 83
3.1.3. Những quan điểm cơ bản để xác định mục tiêu phát triển ngoại thương trong điều kiện hội nhập .......................................................... 90
3.2. Những mục tiêu phát triển ngoại thương trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................................... 91
3.2.1. Mục tiêu chung ............................................................................ 91
3.2.2. Mục tiêu cụ thể ............................................................................ 92
2
3.3. Một số giải pháp chung đối với việc phát triển hoạt động ngoại thương ở Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................... 96
3.4. Những giải pháp cụ thể về việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới ....................................... 98
3.5. Những kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của một số ngành sản xuất chủ lực trên địa bàn Thành phố .................................... 104
KẾT LUẬN ............................................................................................... 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 115
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình phát triển kinh tế thế giới ngày nay trong bối cảnh toàn cầu
hóa kinh tế đã và đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì hoạt động ngoại thương
càng trở nên quan trọng, nó có vai trò rất lớn trong sự phát triển kinh tế của
các quốc gia và khu vực. Mỗi quốc gia là một bộ phận của thế giới do đó sẽ
chịu tác động của những gì diễn ra trên thế giới, Việt Nam cũng không ngoại
lệ. Chính vì vậy việc nghiên cứu các điều kiện và khả năng trong hoạt động
ngoại thương có ý nghĩa hết sức quan trọng, từ đó sẽ rút ra được những bài
học kinh nghiệm quý giá giúp đất nước ta hội nhập một cách có hiệu quả.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước.
Hiện nay đã đóng góp trên 18% GDP cả nước, gần 30% giá trị sản xuất công
nghiệp, tổng kim ngạch xuất khẩu thành phố chiến khoảng 40% tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nước và hàng năm đóng trên 30% ngân sách quốc gia.
Trên thực tế cho đến nay thành phố Hồ Chí Minh luôn đóng góp GDP vượt xa
các tỉnh thành trong cả nước. Ngoài ra, theo quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội, thành phố Hồ Chí Minh là hạt nhân của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, một trong ba vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước.
Với vị trí là một trung tâm kinh tế, thành phố Hồ Chí Minh có nhiều tiềm
năng phát triển các ngành công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu, đó là
những ngành chủ lực như công nghiệp thực phẩm, công nghiệp chế biến, cơ
khí, hoá chất, may mặc, dệt, cao su, plastic, giày da... có đóng góp cao về giá
trị sản xuất so với toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên cho đến nay nhiều sản phẩm
công nghiệp ở thành phố còn có chất lượng thấp, giá thành cao khó cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Đơn cử ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở
thành phố Hồ Chí Minh có nhiều tiềm năng như có nhiều nhà máy chế biến
1
thực phẩm với các sản phẩm đa dạng, gần với vùng nguyên liệu là các tỉnh
sản xuất nông nghiệp thuộc đồng bằng sông Cửu Long, điều kiện cơ sở hạ
tầng cho chế biến xuất khẩu có nhiều thuận lợi hơn các tỉnh khác. Mặc dù có
tiềm năng như vậy song trong những năm qua ngành công nghiệp chế biến
đang có xu hướng giảm dần, các tiềm năng chưa được phát huy một cách
đúng mức và hiện nay đang có dấu hiệu suy giảm về năng lực cạnh tranh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đề tài “Phát triển ngoại thương ở thành phố Hồ Chí Minh trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là một đề tài mang tính cấp thiết, thời sự cả về
lý luận lẫn thực tiễn. Thông qua đề tài này, tác giả muốn có sự tìm hiểu, phân
tích kỹ các khả năng và điều kiện của Thành phố Hồ Chí Minh trong việc hội
nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc gia nhập WTO. Đồng thời, tác giả cũng hy
vọng rằng thông qua đề tài này sẽ góp phần nhất định vào việc xác lập các
luận cứ khoa học để hoạch định các chiến lược và chính sách thương mại, các
chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm phục vụ công cuộc xây dựng và phát
triển nền kinh tế đất nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế trong khu vực
và quốc tế, đặt biệt là từ tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của khối ASEAN, đã được kết nạp vào diễn đàn hợp tác Châu Á -
Thái Bình Dương (APEC) và đang chuẩn bị xúc tiến các điều kiện để gia
nhập khối WTO (Tổ chức Thương mại quốc tế). Việt Nam cũng đã và đang
ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương với các quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký vào
13.07.2000 và được quốc hội Mỹ thông qua vào tháng 12/2001. Trong bối
cảnh mở cửa và hội nhập nói trên, Việt Nam sẽ có điều kiện để mở rộng thị
trường, mở rộng sản xuất, tăng cường xúc tiến các hoạt động thương mại
2
quốc tế, tiến tới gia nhập WTO.
Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và không ít những thử
thách trong quá trình gia nhập WTO. Chúng ta phải làm sao hội nhập một
cách có hiệu quả và nhất là không bị “hòa tan” vào trong thế giới phức tạp,
đầy rẫy những cạm bẫy và thử thách đó. Hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế
thế giới của Việt Nam đã thực sự bước vào chiều sâu trên một phương diện
rộng lớn bao gồm hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân từ
hàng hóa công - nông - ngư nghiệp cho đến ngành điện tử, tin học, du lịch,
hàng không… và ở nhiều mức độ khác nhau từ đơn phương, song phương cho
đến đa phương và nhiều hình thức đa dạng khác. Tuy nhiên, quá trình hội
nhập kinh tế ở nước ta trong hơn một thập niên vừa qua đã bộc lộ nhiều yếu
kém, tồn tại cần được nhận thức rõ để khắc phục. Vấn đề then chốt ở đây là
công tác chuẩn bị cho quá trình hội nhập chưa tốt, từ đó dẫn đến việc thiếu
chủ động và chưa thực sự tích cực thể hiện qua các điểm sau:
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và giới doanh nhân
chưa thống nhất về sự cần thiết, về lợi và hại của hội nhập kinh tế quốc tế đối
với Việt Nam. Từ đó dẫn đến việc thiếu quyết tâm thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế chính vì vậy mà Đại hội IX của Đảng vào tháng 4 năm 2001 đã giải
quyết một bước quan trọng về quan điểm và chủ trương liên quan đến hội
nhập kinh tế của nước ta. Đây là cơ sở quan trọng để thống nhất nhận thức và
hành động của các tầng lớp, các giới trong tiến trình hội nhập.
- Việc nghiên cứu và đánh giá các tác động toàn diện của hội nhập kinh
tế quốc tế một cách có hệ thống đối với Việt Nam để làm cơ sở cho các quyết
sách chưa thực sự được coi trọng. Mặt khác, bộ máy và đội ngũ cán bộ thực
hiện công tác hội nhập quốc tế còn hạn chế về nhiều mặt, chưa thực sự đáp
ứng tốt nhất yêu cầu của hội nhập trong điều kiện mới.
Từ những thực tế trên, đã có nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào
việc xây dựng định hướng phát triển ngoại thương ở Thành phố Hồ Chí Minh.
3
Tuy nhiên, các đề tài trên chủ yếu nêu lên các định hướng cơ bản về nhịp độ
phát triển, cơ cấu mặt hàng và cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu mà chưa đi
sâu vào phân tích các khả năng cũng như đ iều kiện của Thành phố Hồ Chí
Minh trước những biến đổi của thế giới hiện nay. Đứng trước bối cảnh như
vậy, cần có một đề tài nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống về vấn đề
chuẩn bị các điều kiện trong hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phục vụ trước hết
là cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu trong nhà trường. Mặt khác, tác giả
muốn đi sâu vào phân tích những thuận lợi và khó khăn cũng như việc chuẩn
bị của Thành phố Hồ Chí Minh trước cơ hội lớn này nhằm tạo được thế chủ
động trong hội nhập.
Nói tóm lại, đứng trước bối cảnh trong nước và quốc tế nêu trên đã tác
động tạo nên tính cấp thiết cần phải nghiên cứu, đánh giá hoạt động ngoại
thương ở Thành phố Hồ Chí Minh nhằm làm cơ sở cho việc xác định quan
điểm, định hướng phát triển ngoại thương trên địa bàn thành phố trong thời
gian tới, đồng thời làm rõ việc Thành phố Hồ Chí Minh đã chuẩn bị như thế
nào cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích:
- Trình bày một cách rõ ràng bối cảnh quốc tế đã và đang tạo ra tính tất
yếu phải mở rộng kinh tế đối ngoại. Từ đó chỉ ra những cơ hội và thách thức
đối với hoạt động ngoại thương trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
- Phân tích và trình bày m ột cách có hệ thống các điều kiện và khả năng
của Thành phố Hồ Chí Minh trong tiến trình chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích những triển vọng của Thành phố Hồ Chí Minh trong việc
gia nhập WTO một cách thành công và hiệu quả.
* Nhiệm vụ:
4
Việc nghiên cứu nhằm đáp ứng các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong việc xúc tiến
thương mại, đẩy mạnh tốc độ phát triển ngoại thương trong điều kiện hội
nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các hàng hóa, dịch vụ, các
doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hoàn thiện các luận cứ khoa học, phân tích rõ thực trạng cũng như
việc phát huy các lợi thế của địa phương nhằm góp phần nhất định vào việc
định hướng phát triển ngoại thương ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
tới, cụ thể là đến năm 2010.
- Đưa ra một số kiến nghị để phát triển các ngành sản xuất nhằm chuẩn
bị điều kiện sẵn sàng, tạo ra thế chủ động cho hoạt động ngoại thương trên địa
bàn thành phố trước cơ hội mở rộng thị trường quốc tế khi Việt Nam đã gia
nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Các quan điểm, kinh nghiệm trong việc vận dụng các lý thuyết về khả
năng cạnh tranh, lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế cũng như chiến
lược công nghiệp hóa theo xu thế kinh tế mở hiện nay. Từ việc nhận thức rõ
về ngoại thương và cũng như tầm quan trọng và vai trò của hoạt động ngoại
thương đối với thành phố Hồ Chí Minh đã tạo nền tảng cho việc hoạch định
các mục tiêu và giải pháp cụ thể để phát triển ngoại thương trên địa bàn thành
phố trong bối cảnh hội nhập.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với
phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phân tích tổng hợp và phương pháp so
sánh nhằm làm nổi bật nội dung cần trình bày.
5
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tác giả tập trung vào nghiên cứu về những lợi thế so sánh, khả năng
cạnh tranh cũng như một số hạn chế nhất định trong các mặt hàng chủ lực ở
Thành phố Hồ Chí Minh để chứng minh làm rõ vấn đề.
Phạm vi nghiên cứu về không gian chủ yếu là địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh nhưng do tính chất và điều kiện của nền kinh tế mở nên đối với
nguồn hàng xuất khẩu sẽ được nghiên cứu mở rộng cả khu vực phía Nam và
trong sự tác động của các chính sách quản lý chung nhưng có tác động đến
Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Đóng góp của luận văn
Đề tài tập trung nghiên cứu những kinh nghiệm vận dụng các lý thuyết
thương mại quốc tế, kinh nghiệm của các nước có điều kiện tương tự như
Thành phố Hồ Chí Minh nhằm có thể áp dụng được vào tình hình thực tiễn ở
Thành phố trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thực hiện thành
công sự nghiệp CNH, HĐH. Đề tài còn tiến thêm một bước nữa là phân tích
các điều kiện, khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng chủ lực trên địa bàn
từ đó làm rõ về sự chuẩn bị của Thành phố Hồ Chí Minh cho công cuộc hội
nhập trong thời gian trước mắt.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương với 17 tiết.
Chương 1: Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng kinh tế đối ngoại
và một số kinh nghiệm của các nước về phát triển ngoại thương.
Chương 2: Những điều kiện và thực trạng của hoạt động ngoại thương
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển hoạt động
6
ngoại thương ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Chƣơng 1
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC MỞ RỘNG
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC
VỀ PHÁT TRIỂN NGOẠI THƢƠNG
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng kinh tế đối ngoại
1.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Thế giới ngày nay đang có nhiều sự thay đổi lớn cả về sự phát triển của
lực lượng sản xuất lẫn mối quan hệ quốc tế. Xu thế của thế giới từ đối đầu đã
chuyển dần sang đối thoại và hợp tác, xu thế hội nhập mở cửa ngày càng trở
nên phổ biến, mặt khác mối quan hệ quốc tế trở nên phức tạp hơn nhiều so
với các thập kỷ trước. Tất cả các vấn đề trên đều xuất phát bởi các nguyên
nhân sau đây:
- Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai xuất hiện đã làm thay
đổi tính chất của nền sản xuất. Từ chỗ dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên
là chính đã chuyển sang sử dụng các vật phẩm do con nguời chế tạo ra với
hàm lượng chất xám và trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao. Sở dĩ
như vậy là do sự phát triển kinh tế theo kiểu truyền thống theo quy luật đánh
đổi đã phải trả giá quá đắt, tài nguyên bị khai thác đến cạn kiệt kèm theo đó là
7
nạn ô nhiễm môi trường đã ảnh hưởng, đe dọa trực tiếp đến đời sống của con
người trên trái đất. Từ đó buộc các quốc gia trên thế giới phải thận trọng hơn
trong việc tính toán hiệu quả kinh tế đồng thời phải bắt tay nhau trong vấn đề
bảo vệ môi trường sống trên hành tinh của chúng ta.
- Quan hệ kinh tế quốc tế ngày nay đã trở thành vấn đề sống còn của
các quốc gia trên thế giới. Mặt khác, sự cạnh tranh khốc liệt để giành giật thị
trường đã dẫn đến việc hình thành các liên minh kinh tế khu vực và liên minh
kinh tế quốc tế. Điều này chứng tỏ rằng hoạt động thương mại quốc tế đã giữ
vai trò quan trọng không thể thiếu đối với các quốc gia, không một nước nào
có thể đứng ngoài cuộc vì dù muốn hay không đã bị ràng buộc chặt chẽ về
kinh tế, xu thế hội nhập, toàn cầu hóa về kinh tế ngày càng trở nên phổ biến.
- Hầu hết các quốc gia hiện nay đều lựa chọn chiến lược kinh tế mở,
nhất là các nước đang phát triển nhằm tranh thủ sự chuyển giao công nghệ và
nguồn vốn từ nước ngoài biến ngoại lực thành nội lực để đẩy nhanh quá trình
phát triển tích cực nền kinh tế. Đều này hết sức có ý nghĩa đối với những
nước như Việt Nam vì nó đã tạo tiền đề để quá độ về cơ sở vật chất kỹ thuật
lên một trình độ mới.
- Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nhiều nước, vai trò điều
tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước đã thể hiện ngày càng rõ nét hơn. Hiện
nay, hầu hết các quốc gia đều lựa chọn cơ cấu kinh tế mở, còn đối với các
nước đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa thì chọn chiến lược công
nghiệp hóa hướng về xuất khẩu để đẩy nhanh quá trình hội nhập.
Từ những nguyên nhân trên cho phép rút ra những nhận định sau:
- Quan hệ kinh tế quốc tế ngày nay đã có những nội dung mới. Đó là sự
chuyển giao công nghệ và các hình thức hợp tác quốc tế ngày càng trở nên đa
dạng và phong phú hơn.
- Mỗi quốc gia phải định hướng đúng về chiến lược phát triển kinh tế
8
và chiến lược về cơ cấu ngành kinh tế nhằm phát triển kinh tế xã hội theo
hướng xuất khẩu, khai thác tốt lợi thế so sánh giữa các quốc gia, tận dụng
được những lợi thế và thời cơ do xu thế quốc tế hóa mang lại.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá trình đổi mới, mở cửa kinh
tế, trong những năm gần đây hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đã phát
triển rất mạnh mẽ, có thể cụ thể một số nét cơ bản sau:
- Sau khi Liên Xô (cũ) và khối SEV tan rã, kể từ năm 1991, Việt Nam
buộc phải chuyển hướng thay đổi các thị trường truyền thống Đông Âu sang
các thị trường khu vực khác như: Đông Bắc Á, Trung Đông, Tây Âu, Bắc
Mỹ... Dưới góc độ mậu dịch thì đó là sự chuyển đổi từ thị trường đồng tiền
không có khả năng chuyển đổi sang thị trường có đồng tiền có khả năng
chuyển đổi.
- Năm 1993, chúng ta đã khai thông quan hệ với các tổ chức quốc tế
khác như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), ADP…
- Ngày 25/07/1995, gia nhập chính thức ASEAN, đồng thời gia nhập
vào khu vực mậu dịch tự do (AFTA) và cam kết thực hiện chương trình
CEPT.
- Năm 1995 Mỹ xóa bỏ cấm vận kinh tế Việt Nam, điều này đã tạo
nhiều thuận lợi hơn cho ta trong quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước khác
trên thế giới, việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ đã thúc đẩy
quan hệ mậu dịch giữa hai nước tăng nhanh. Năm 2000, hiệp định thương mại
Việt Mỹ đã được ký kết và thực hiện.
- Tháng 3 năm 1996 tham gia diễn đàn hợp tác Á- Âu ASEM với tư
cách là thành viên sáng lập, ngày 15/06/1996 gửi đơn xin gia nhập diễn đàn
hợp tác Châu Á Thái Bình Dương APEC và năm 1998 được công nhận là
9
thành viên của tổ chức này, hội nhập đầy đủ đến năm 2020.
- Tháng 12 năm 1998 gửi đơn xin gia nhập WTO, cho đến nay đã tiến
hành mười phiên đàm phám để giải thích các chính sách kinh tế Việt Nam,
tiến hành đàm phán song phương và đa phương với trên 130 nước.
Nhìn chung, đến năm 1998 chính sách ngoại thương của nước ta đã có
sự chuyển biến mạnh mẽ, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII) đã hoàn thiện
chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu và đi đôi với việc
bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước, đặt các doanh nghiệp vào môi trường
cạnh tranh nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh
của các mặt hàng Việt Nam trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế. Tuy
nhiên, những biện pháp của chính phủ triển khai thực hiện chủ trương này
chưa đồng bộ, còn nhiều kẽ làm cho tiêu cực phát sinh, việc này đã tạo không
ít những khó khăn cho các doanh nghiệp, làm hạn chế hiệu quả hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong đó cụ thể là việc quản lý về hạn ngạch, quy
định đầu mối xuất nhập khẩu không hợp lý, thủ tục quản lý còn nhiêu khê,
chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ liên quan gây nhiều phiền hà cho
các doanh nghiệp. Đặc biệt, biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam hiện tại vẫn
bị đánh giá là phức tạp, vả lại thay đổi thường xuyên làm cho các doanh
nghiệp khó định hướng xuất khẩu dài hạn từ đó dẫn đến việc bị động, chậm
trễ mất thời cơ. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục hoàn thiện chính sách
và cơ chế điều hành xuất nhập khẩu.
Trước tình hình đó, quốc hội đã thông qua nhiều văn bản dưới luật, đạo
luật tạo hành lang pháp lý cho từng bước hội nhập nền kinh tế quốc tế như:
luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật phá sản, luật đất đai…ngày 10 tháng 02
năm 1998 thủ tướng chính phủ ra quyết định 31/TTg thành lập Ủy ban quốc
gia về hợp tác kinh tế quốc tế do đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm làm chủ tịch,
có nhiệm vụ giúp Thủ tướng chỉ đạo, điều hành các bộ ban ngành địa phương
trong việc hội nhập kinh tế quốc tế
10
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của việc hội nhập kinh tế quốc tế
Trước hết, xét về quan điểm cần nhấn mạnh rằng quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và quá trình toàn cầu hóa kinh tế là hai mặt của một quá trình,
sẽ không có quá trình toàn cầu hóa nếu không có sự tham gia của các quốc
gia, toàn cầu hóa là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước
tham gia, quá trình này vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp
tác vừa có đấu tranh. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan thì hội
nhập kinh tế cũng là một tất yếu khách quan, chính quá trình toàn cầu hóa có
ảnh hưởng một cách sâu rộng đến tất cả các quốc gia trên thế giới nhất là quá
trình hội nhập kinh tế, có thể cụ thể một số vấn đề sau:
- Trước nhu cầu phát triển của các nước yêu cầu phải nắm bắt thời cơ
và có khả năng tận dụng một cách tích cực vào quá trình toàn cầu hóa, các
quốc gia trên thế giới đều có xu hướng chuyển sang nền kinh tế mở, đẩy mạnh
xu thế tận dụng các điều kiện quốc tế để phát triển. Do vậy, các nước có nền
kinh tế tự cấp, tự túc, đóng cửa khép kín cũng bắt buộc phải từng bước điều
chỉnh để mở cửa.
- Bên cạnh quan hệ song phương, đa phương đóng vai trò quan trọng đã
xuất hiện cơ cấu nhiều tầng lớp, tiểu vùng, khu vực, đại khu vực và toàn cầu
như: EU, NAFTA, APEC, ASEAN…, liên minh kinh tế và thuế quan Trung
Phi, cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi, các tổ chức lớn như WTO, WB,
G7… đã mang lại nhiều ưu đãi về thương mại cho các nước tham gia.
- Quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra một hệ thống quan hệ quốc tế đan
xen làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Tuy nhiên mỗi
nước tham gia đều có một lợi ích riêng và đôi khi đối lập nhau. Do vậy, trong
quan hệ quốc tế luôn luôn có hai chiều hướng hợp tác và cạnh tranh, có hàng
trăm dân tộc và các nước tham gia nhưng vẫn có lợi ích riêng, cụ thể như đối
với các nước tư bản phát triển : không chỉ thu được lợi nhuận mà còn khống
chế thị trường thế giới và dùng mọi thủ đoạn để lôi kéo các nước khác để có
11
lợi cho mình; còn các nước đang phát triển thì tìm kiếm nguồn lực về vốn,
khoa học công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý để phát triển kinh tế, thoát
nghèo.
Nói tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế bắt nguồn từ xu thế khách quan và
tất cả các nước trên thế giới dù là nước phát triển hay đang phát triển đều có
những lợi ích riêng và những cơ hội để phát triển khi tham gia quá trình này.
Tuy nhiên chính vì lẽ đó mà hội nhập kinh tế quốc tế vừa là thời cơ và cũng là
thách thức đối với các nước.
Thật vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem lại nhiều thời cơ cho việc
phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, điều này có ý nghĩa rất lớn đối
với nền kinh tế nước ta, có thể cụ thể hóa một số nét cơ bản sau:
- Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mở rộng các cơ hội kinh doanh và xâm
nhập thị trường thế giới. Bởi lẽ từ năm 1990 trở lại đây Việt Nam đã mất các
thị trường truyền thống như: Liên Xô(cũ), Đông Âu... Do vậy hội nhập kinh
tế sẽ giúp khắc phục tình trạng trên và tiếp cận với thị trường thương mại thế
giới.
- Trong điều kiện toàn cầu hóa, việc giảm và tiến tới bãi bỏ các hàng
rào thuế quan cản trở thương mại quốc tế đã làm cho hàng hóa và sản phẩm
của mỗi nước có thị trường quốc tế rộng lớn, từ đó kích thích sản xuất phát
triển.
- Tự do hóa thương mại đã đặt các doanh nghiệp mỗi nước trước những
cơ hội lớn và thị trường về các nguồn lực cho sản xuất kinh doanhnhư: vốn,
công nghệ, lao động... Đồng thời đặt các nước trước những sự cạnh tranh
quốc tế quyết liệt, điều này đã buộc họ phải cải tiến công nghệ, phương thức
tổ chức quản lý sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất
kinh doanh để tồn tại và phát triển.
- Khi các nước đang phát triển hội nhập kinh tế quốc tế sẽ nâng cao vị
12
thế quốc tế và tạo thế đứng vững chắc trong quan hệ quốc tế.
Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức đối với
các nước đang phát triển, cụ thể như sau:
- Các nước đang phát triển như Việt Nam có trình độ phát riển kinh tế
thấp hơn so với các nước có nền kinh tế phát triển, do vậy dễ bị thua thiệt khi
hội nhập nếu không có các phương sách hội nhập có hiệu quả. Như chúng ta
đều biết rằng hầu hết các vấn đề liên quan đến thể chế như WTO, WB, IMF...
và các luật lệ quy định liên quan đến hoạt động thương mại đều bị khống chế
bởi các nước phát triển.
- Một thách thức nữa đối với các nước đang phát triển là việc thực hiện
các nguyên tắc và chương trình hợp tác của các tổ chức thương mại quốc tế.
Do mỗi tổ chức đều có những nội dung, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động riêng
của tổ chức mình nên một nước nào muốn trở thành thành viên của các tổ
chức đó phải cam kết và chứng tỏ khả năng hoàn thành các nghĩa vụ của một
thành viên trong tổ chức. Điều này là một thử thách rất lớn đối với nước ta vì
mỗi tổ chức đều có nhiều chương trình, nghĩa vụ đòi hỏi khác nhau mà chúng
ta phải đáp ứng chẳng hạn như:
o AFTA: giảm thuế nhập khẩu chỉ còn từ 0 đến 5% và đến thời hạn
năm 2006 là hạn cuối mà chúng ta phải thực hiện, điều này có ảnh hưởng trực
tiếp đến ngân sách nhà nước.
o WTO: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, buộc phải điều chỉnh các cơ
chế, chính sách, luật lệ, thuế quan WTO phải giảm 40% trong 5 năm (Việt
Nam mới chỉ giảm 25%), xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, hạn ngạch xuất nhập
khẩu…
Tất cả các vấn đề trên đã gây một sức ép rất lớn đối với nước ta từ quốc
tế. Đó là sức ép từ cuộc cạnh tranh khốc liệt xuất phát từ tác động của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đã đưa con người vào giai đoạn kinh tế tri
thức, đặt ra nhiều yêu cầu đối với các hàng hóa tham gia thương mại quốc tế.
13
Ví dụ như hàng hóa đòi hỏi phải có chất lượng và hàm lượng chất xám cao,
đối tượng thương mại quốc tế được mở rộng bao gồm cả sản phẩm hữu hình
truyền thống và sản phẩm phần mềm của kinh tế tri thức. Điều này đã làm cho
lợi thế so sánh, cơ chế kinh tế phải không ngừng thay đổi thì mới có thể đáp
ứng tốt nhu cầu của thị trường thế giới. Không những thế mà ngay cả phương
thức tiến hành thương mại quốc tế cũng thay đổi, thương mại điện tử ra đời và
phát triển nhanh đã làm thay đổi tư duy kinh tế, chiến lược tiếp thị và phương
thức kinh doanh phải thay đổi sâu sắc. Đây là một thử thách quá lớn đối với
nước ta khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, phần lớn sản
phẩm xuất khẩu đều là sản phẩm sơ chế có hàm lượng chất xám rất ít, do vậy
các sản phẩm này không được ổn định về nhu cầu, giá cả hay bị dao động.
- Một thách thức rất lớn nữa đối với các nước đang phát triển là sức ép
về kinh tế của các công ty xuyên quốc gia có vai trò rất lớn đối với quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập. Trong đó Mỹ, Nhật và các nước G7 có nhiều công
ty xuyên quốc gia trên thế giới.
Nói tóm lại, các nước đang phát triển phải hội nhập kinh tế quốc tế vì
đó là xu thế khách quan nên không nước nào có thể đứng ngoài được. Điều
này là không bàn cãi thế nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao giành
được nhiều lợi ích và hạn chế các tác hại, rủi ro? Để làm được việc này cần
thực hiện bốn vấn đề sao đây:
+ Các nước đang phát triển phải tăng cường liên kết với nhau để đấu
tranh đòi thiết lập một trật tự thế giới công bằng hơn.
+ Mỗi nước phải giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, nếu chần
chừ sẽ mất thời cơ.
+ Vừa phải thích nghi với tập quán và các quy tắc quốc tế vừa phải giữ
14
vững độc lập, chủ quyền của quốc gia, hội nhập chứ không “hòa tan”.
+ Mỗi nước phải có chiến lược xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế để tranh thủ các nguồn lực quốc tế, phát
huy có hiệu quả các lợi thế so sánh của quốc gia.
1.2. Hoạt động ngoại thƣơng, các yếu tố tác động và vai trò của
hoạt động ngoại thƣơng ở địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
1.2.1. Quan niệm về hoạt động ngoại thương
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng
hóa, dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia.
Ngoại thương là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại, có liên quan
và tác động mạnh đến sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế nhờ vào quy
mô và chuyên môn hóa trong phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so
sánh của các quốc gia. Ngoại thương thường được nghiên cứu dưới ba góc độ
sau:
- Đứng trên quan điểm và lợi ích toàn cầu để tìm ra những quy luật, xu
hướng và vấn đề mang tính chất chung của thế giới.
- Đứng trên lợi ích và quan điểm của mỗi quốc gia để xem xét hoạt
động mậu dịch của quốc gia đó so với phần còn lại của thế giới.
- Đứng trên quan điểm và lợi ích của các doanh nghiệp để xác định
phương án kinh doanh quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình.
Theo nghĩa phổ biến thì ngoại thương là phạm trù kinh tế phản ánh
quan hệ hàng- tiền giữa các quốc gia với nhau. Theo quan điểm của Hội nghị
liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), ngoại thương được
hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm mọi hoạt động kinh doanh trên thị trường
quốc tế từ thương mại hữu hình (hàng hóa gồm cả hàng sơ chế và hàng hóa có
hàm lượng công nghệ cao) đến thương mại vô hình (liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ như phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả,
15
thương hiệu…) và bao gồm cả dịch vụ (như tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu
chính viễn thông, du lịch, y tế, giáo dục…). Nội dung của ngoại thương bao
gồm hoạt động xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, khoa học kỹ thuật
giữa nước này với nước khác, hoặc trong phạm vi một quốc gia (với các cá
nhân hay doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ quốc gia đó).
Trong điều kiện hiện nay, khái niệm trong nước và nước ngoài phải được quy
ước rất chặt chẽ vì trong thực tiễn xuất hiện những hình thức ngoại thương
như: xuất khẩu tại chỗ, xuất nhập khẩu quá cảnh... Trong đó, xuất khẩu là
hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động ngoại thương ở các nước nói
chung và nước ta nói riêng. Đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
phát triển như nước ta ngoại thương có tác dụng rất lớn như:
- Góp phần làm tăng của cải và sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia.
- Là động lực của tăng trưởng kinh tế quốc dân.
- Điều tiết nền kinh tế “tình trạng thừa, thiếu” của mỗi nước.
- Nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước.
- Tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động trong nước.
Mấy thập kỷ gần đây, dưới tác động của cách mạng khoa học công
nghệ cùng với xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đã làm cho hoạt động
ngoại thương có những đặc điểm mới sau:
- Tốc độ tăng trưởng ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng của tổng sản phẩm quốc dân.
- Tốc độ tăng trưởng ngoại thương của hàng hóa vô hình có xu hướng
tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng ngoại thương của hàng hóa hữu hình do có
sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế giữa những ngành sản xuất vật chất và dịch
vụ trong mỗi quốc gia.
- Cơ cấu mặt hàng có sự biến đổi quan trọng, thành phẩm công nghiệp
chế biến chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với sản phẩm sơ chế, tỷ trọng nhiên
16
liệu và sản phẩm máy móc tăng rất nhanh so với các loại hàng hóa khác.
- Phạm vi, phương thức và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế
diễn ra rất đa dạng, không chỉ về mặt chất lượng, giá cả mà còn về điều kiện
giao hàng, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau khi bán hàng.
Phạm vi thị trường ngày một mở rộng không chỉ hàng hóa, dịch vụ thông
thường mà còn mở rộng sang lĩnh vực tài chính, tiền tệ và các lĩnh vực này
ngày càng đóng vai trò qua trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
- Chu kỳ “sống” của từng loại sản phẩm ngày ngày rút ngắn lại. Các
hàng hóa có hàm lượng khoa học công nghệ cao có sức cạnh tranh lớn hơn so
với các hàng hóa truyền thống.
Quá trình phát triển thương mại quốc tế đòi hỏi phải tự do hóa thương
mại đồng thời phải thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lý. Để biến ngoại
thương thành đòn bẩy phát triển kinh tế quốc dâncần phải sử dụng thành thạo
các lợi thế so sánh, nguyên tắc lợi ích tương đối. Thuyết lợi thế so sánh cho
rằng, các nước có năng suất lao động khác nhau, thông qua trao đổi hàng hóa
trên thị trường đều có thể thực hiện tiết kiệm lao động xã hội với những mức
độ khác nhau, đem lại lợi ích về kinh tế cho cả hai bên tham gia quá trình trao
đổi. Tức là các nước có thể thông qua sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm
mình có ưu thế tương đối để nhập khẩu những sản phẩm mình kém ưu thế
hơn. Lợi ích tương đối gắn liền với lợi ích so sánh, sự phân công lao động
quốc tế phát triển dẫn đến những sản phẩm tổng hợp quốc tế. Những sản
phẩm này tập trung lợi thế so sánh của nhiều nước khiến cho lợi ích của mỗi
nước tham gia đều trở thành tương đối.
Tuy nhiên, lợi thế so sánh cũng không phải là không thay đổi vì có khả
năng những người đi sau sẽ đuổi kịp và vượt lên do tác động của quy luật phát
triển không đồng đều về kỹ thuật. Các nước thuộc thế giới thứ ba trong khi sử
dụng lợi thế so sánh không ngừng học tập, sáng tạo lợi thế so sánh mới và
17
không ngừng khắc phục thế yếu kém của mình.
Đối với nước ta, trong điều kiện hiện nay để đẩy mạnh hoạt động ngoại
thương cần hướng vào giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, cần tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
Nhu cầu phát triển sản xất và đời sống nhân dân trong kinh tế mở đòi hỏi phải
tăng nhập khẩu, do vậy tăng kim ngạch xuất khẩu là một yêu cầu mang tính
bức xúc của nước ta.
Thứ hai là về nhập khẩu, chính sách mặt hàng nhập khẩu phải tập trung
vào việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phục vụ chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời
thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất hiệu quả ở trong nước.
Thứ ba là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại
tự do và chính sách bảo hộ thương mại. chính sách thương mại tự do có nghĩa
là chính phủ không can thiệp bằng biện pháp hành chính đối với ngoại
thương, cho phép hàng hóa cạnh tranh tự do trên thị trường trong nước và
nước ngoài, không thực hiện đặc quyền và ưu đãi đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu của nước mình, không có sự kỳ thị đối với hàng hóa nước ngoài. Còn
chính sách bảo hộ thương mại có nghĩa là chính phủ thông qua các biện pháp
thuế quan và phi thuế quan như hạn chế số lượng nhập khẩu, chế độ quản lý
ngoại tệ để hạn chế hàng hóa nước ngoài xâm nhập, phát triển và mở rộng
hàng hóa xuất khẩu nhằm bảo vệ ngành nghề và bảo vệ thị trường nội địa.
Nhà nước cần phải kết hợp cả hai chính sách trên để sao cho vừa bảo vệ và
phát triển kinh tế, bảo vệ thị trường trong nước, vừa thúc đẩy tự do thương
mại, khai thác có hiệu quả thị trường thế giới.
Thứ tư là việc hình thành tỷ giá hối đoái một cách chủ động và hợp lý.
Tỷ giá hối đoái là tỷ giá giữa đồng tiền nước ta so với đồng tiền của nước
ngoài. Tỷ giá hối đoái là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng trong
18
việc trao đổi kinh tế đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến đối với xuất, nhập khẩu.
Do vậy, việc xây dựng một tỷ giá hối đoái thống nhất, sát với thị trường tiền
tệ là rất cần thiết cho mỗi nước.
1.2.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động ngoại thương
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương, tuy nhiên
thực tế cho thấy các yếu tố có tác động đến hoạt động ngoại thương trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh cụ thể là:
- Hoạt động giáo dục đào tạo: yếu tố này đóng vai trò then chốt trong
việc tạo ra lợi thế cạnh tranh. Kinh nghiệm cho thấy những quốc gia có sự đầu
tư mạnh vào giáo dục như: Đức, Nhật, Hàn Quốc.. đã có lợi thế trong nhiều
ngành công nghiệp. Việc đạt được lợi thế cạnh tranh này ngày càng tinh vi
hơn và có khả năng cạnh tranh trong những ngành công nghiệp mới đòi hỏi
phải có nguồn nhân lực với kỹ năng và trình độ ngày càng cao. Không chỉ đạt
được năng suất lao động cao mà đòi hỏi phải có những nhà quản lý và nhân
viên đạt các tiêu chuẩn ngày càng cao để duy trì khả năng cạnh tranh hiện tại.
- Khoa học công nghệ: công nghệ được cải thiện sẽ giúp nâng cao hiệu
quả, cải thiện chất lượng sản phẩm, tăng năng suất và thâm nhập vào những
ngành công nghiệp hiện đại. Khuyến khích những cải tiến về khoa học công
nghệ từ lâu đã là một vai trò quan trọng của bất cứ một chính phủ của quốc
gia nào, hoạt động nghiên cứu và phát triển không thể chỉ để cho các công ty
thực hiện, bởi vì lợi ích từ hoạt động này đối với từng ngành công nghiệp hay
toàn bộ nền kinh tế quốc dân vượt xa lợi ích mang lại cho từng công ty nhờ
vào hiệu ứng lan tỏa của công nghệ. Tiến bộ về khoa học công nghệ làm tăng
tốc độ hiện đại hóa trong bản thân ngành công nghiệp và cả những ngành liên
quan.
- Cơ sở hạ tầng: lợi thế cạnh tranh của một ngành công nghiệp hay một
sản phẩm cũng phụ thuộc nhiều vào cơ sở hạ tầng hiện đại và ngày càng được
cải thiện, nhất là ngành vận tải, bưu chính viễn thông... Cả doanh nghiệp và
19
chính phủ đều có vai trò trong việc tạo ra và nâng cấp cơ sở hạ tầng, trong đó
Chính phủ là then chốt cho đầu tư vì cần nhiều vốn và thời gian thu hồi vốn
tương đối lâu.
- Nguồn vốn đầu tư và tín dụng: việc nâng cao khả năng cạnh tranh
trong mỗi ngành đòi hỏi một nguồn vốn sẵn có đồi dào, có chi phí thấp và
được phân bổ một cách hữu hiệu cho các hoạt động đầu tư có năng suất cao
nhất thông qua hệ thống ngân hàng và các thị trường vốn khác. Chi phí vốn
thấp không những khuyến khích các khoản đầu tư quy mô lớn cần thiết cho
việc cải thiện năng suất mà còn hỗ trợ cho các dự án đầu tư lâu dài thông qua
việc giảm suất chiết khấu theo thời gian.
- Thông tin: số lượng và chất lượng của thông tin trong một nước ngaỳ
càng có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại quốc tế. Thông tin là một
phương tiện cần thiết để tạo ra tính nhạy bén cho mỗi nhà sản xuất, kinh
doanh. Thông tin về thị trường, công nghệ hay sự cạnh tranh...Chính những
thông tin này sẽ làm nổi bật nhu cầu và cơ hội mới cũng như bộc lộ những
nguy cơ đe dọa tiềm ẩn, Chính phủ giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp
thông tin mang tính dự báo và phổ biến một cách nhanh chóng đến các doanh
nghiệp.
- Chính sách thương mại: việc trợ giá nguyên vật liệu, trợ cấp vốn, trợ
cấp xuất khẩu, hỗ trợ nghiên cứu là những biện pháp chủ yếu phổ biến mà hầu
như quốc gia nào cũng áp dụng. Tuy nhiên, các hình thức trợ cấp trực tiếp
thường klhông hiệu quả vì vậy ngày nay các biện pháp khuyến khích về thuế
và trợ cấp gián tiếp trong các lĩnh vực giáo dục, các viện nghiên cứu, cơ sở hạ
tầng tỏ ra có hiệu quả hơn. Ngoài ra, chính sách về thương mại của các chính
phủ còn thể hiện qua việc giúp các doanh nghiệp nước mình xâm nhập vào
những thị trường mà sản phẩm của mình có lợi thế so sánh. Các chính sách
này chủ yếu chú trọng việc mở rộng thị trường và loại trừ những thông lệ
20
không công bằng trong thương mại chứ không bảo hộ các doanh nghiệp trong
nước vì làm như thế có thể khiến các doanh nghiệp ỷ lại không nỗ lực vươn
lên, làm chậm quá trình đổi mới trong ngành.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên, đối với Chính phủ mỗi nước còn thể
hiện vai trò tác động của mình thông qua việc ban hành các văn bản luật, thiết
lập các tiêu chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, an toàn,
vệ sinh môi trường…để tạo cơ chế thông thoáng, đồng thời buộc các doanh
nghiệp phải nỗ lực hết mình trong việc đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến quy
trình sản xuất, nâng cao năng lực quản lý nhằm đáp ứng được các tiêu chuẩn
đã đề ra.
1.2.3. Vai trò của hoạt động ngoại thương đối với Thành phố Hồ Chí
Minh
Về vai trò của hoạt động ngoại thương có nhiều quan điểm khác nhau,
đối với quan điểm của trường phái tự do thì ngoại thương được đánh giá rất
cao vì nó giúp cho các quốc gia có được những hàng hóa mà nước đó không
sản xuất được. Ngoài ra, hoạt động ngoại thương còn có các vai trò quan
trọng khác như: phân bổ có hiệu quả các nguồn lực sản xuất của thế giới, làm
thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi cho mỗi quốc gia, tăng thu hút vốn
đầu tư và góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Còn vai trò của ngoại
thương theo quan điểm của trường phái dân tộc chủ nghĩa thì ngoại thương là
hành vi rất nguy hiểm vì nó làm cho an ninh của mỗi quốc gia không được
đảm bảo, tác động đến cả những giá trị văn hóa của quốc gia thậm chí có
người cho rằng ngoại thương là hình thức chủ nghĩa đế quốc văn hóa cần phải
được kiểm soát nghiêm ngặt. Đối với họ, ngoại thương được xem như nguồn
gốc tạo nên sự căng thẳng về chính trị và đòn bẫy kinh tế. Nói tóm lại, ngoại
thương mang lại lợi ích cho nhiều quốc gia, tuy nhiên mức độ lợi ích sẽ khác
nhau tùy theo từng nước và nhóm nước. Các nước phát triển thường thu được
nhiều lợi ích từ ngoại thương do họ có trình độ công nghệ và tổ chức quản lý
21
sản xuất cao, có khả năng cạnh tranh cao trên cả bốn cấp độ là Nhà nước,
ngành, doanh nghiệp và sản phẩm. Đối với các nước chậm phát triển, ngoại
thương chỉ mang lại lợi ích thật sự khi các nước có chiến lược phát triển kinh
tế đúng đắn trong từng giai đoạn.
Vai trò của hoạt động ngoại thương là một trong những động lực chính
thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế nhanh chóng hơn, nhất là đối với các
quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Vai trò quan trọng đó của ngoại
thương được thể hiện qua các nhiệm vụ cơ bản như: phát huy lợi thế so sánh
của nền kinh tế thông qua xuất nhập khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ và tích lũy
vốn cho nhu cầu đầu tư, chiuyển giao công nghệ hiện đại để nâng cao trình độ
sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng thị trường
tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình phân công lao động quốc tế. Một
khi giải quyết tốt các nhiệm vụ như trên thì hiệu quả kinh tế xã hội của ngoại
thương sẽ vô cùng lớn lao mà trực tiếp nhất là sự tăng trưởng nhanh GDP.
Ngoại thương có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Thành
phố Hồ Chí Minh, cụ thể là vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn
thành phố. Về vai trò xuất khẩu có thể cụ thể một số vai trò quan trọng như
sau:
Xuất khẩu tạo nguồn vốn quan trọng để thỏa mãn nhu cầu nhập
khẩu và tích lũy sản xuất phục vụ đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Thông thường, nhập khẩu dựa vào ba nguồn ngoại tệ chính
là từ xuất khẩu, vốn vay và viện trợ. Trong thực tế xuất khẩu là phương tiện
còn nhập khẩu là mục đích, xuất khẩu để nhập khẩu các thiết bị công nghệ
hiện đại nhằm đẩy mạnh sản xuất và phát triển kinh tế.
Xuất khẩu được xem là yếu tố quan trọng để kích thích tăng
trưởng kinh tế thành phố, đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng sản xuất
kinh doanh, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho hoạt động xuất khẩu và
22
kết quả là GDP thành phố sẽ tăng nhanh.
+ Xuất khẩu có vai trò kích thích việc đổi mới trang thiết bị và khoa
học công nghệ sản xuất do những đòi hỏi khắt khe của thị trường thế giới và
yêu cầu cạnh tranh, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới
trang thiết bị, dây chuyền sản xuất, tìm cách hợp lý hóa sản xuất, tăng năng
suất lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Đối với thành phố Hồ Chí Minh, xuất khẩu có tác động mạnh đến cơ
cấu kinh tế của toàn nền kinh tế, nó có tác dụng làm thay đổi cơ cấu kinh tế
ngành của thành phố theo hướng phát huy tối đa các lợi thế so sánh của nơi
đây so với cả nước và quốc tế nhằm tính cạnh tranh của các hàng hóa có lợi
thế của thành phố.
+ Xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập và mức
sống của người dân nơi đây, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo nhiều việc
làm, giảm thất nghiệp, nâng cao thu nhập của người lao động. Thực tế trong
thời gian qua, hoạt động này đã chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong GDP của
Thành phố.
+ Xuất khẩu còn làm tăng cường mối quan hệ của thành phố Hồ Chí
Minh với các nước, các địa phương khác trong khu vực và quốc tế.
Riêng về hoạt động nhập khẩu chiếm giữ một vai trò hết sức quan
trọng, có tác động trực tiếp đến sản xuất vì chúng ta phải nhập khẩu nhiều
máy móc, thiết bị công nghệ, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất và qua đó hoạt
động nhập khẩu có tác động mạnh mẽ đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế của thành phố. Nhập khẩu quyết định quá trình đổi mới trang
thiết bị và công nghệ sản xuất vì hàng ngoại nhập sẽ gây một áp lực rất lớn
đối với các doanh nghiệp nội địa. Mặt khác, nhập khẩu còn góp phần cải thiện
đời sống nhân dân và trình độ dân trí nhất là việc nhập khẩu các hàng tiêu
dùng và văn hóa phẩm.
Chính vì những vai trò quan trọng như trên mà Đại hội Đảng lần thứ IX
23
đã khẳng định: phải chú ý nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, vì nó
góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo công ăn việc làm, thu
hút ngoại tệ; cần phải chú ý chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng
cao giá trị của sản phẩm chế biến và sản phẩm có hàm lượng khoa học công
nghệ cao đồng thời thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Về nhập khẩu, cần phải chú
trọng tới nhập khẩu thiết bị và nguyên liệu phục vụ sản xuất, nhất là công
nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại hợp lý, tiến tới cân bằng kim
ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng và đa dạng hóa thị trường và phương thức
kinh doanh, sao cho ngoại thương phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế
nước nhà.
1.3. Kinh nghiệm của các quốc gia phát triển ngoại thƣơng trong
điều kiện hội nhập
Sống trong một xã hội mà xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu
rộng mà quốc gia nào không hội nhập vào kinh tế thế giới là đi ngược trào
lưu. Là một người dân đang đứng trước thời điểm lịch sử này, mỗi ngày
chứng kiến biết bao sự thay đổi lớn lao chắc hẳn ai cũng không khỏi lo ngại
về ngành nghề tương lai, chúng ta phải làm gì để không bị thời đại bỏ rơi? Đó
là một thử thách rất lớn mà chính người Trung Quốc đã từng trãi nghiệm.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có rất nhiều điểm
tương đồng. Do vậy việc học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc trong hội nhập
kinh tế quốc tế là một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Việc Trung Quốc đã gia nhập được WTO là một khẳng định quá trình cải
cách mở cửa của họ đã được tăng tốc và Trung Quốc sẽ hội nhập hoàn toàn
vào nền kinh tế thế giới. Thế nhưng, mọi việc không đơn giản bởi vì khi gia
nhập tổ chức thương mại thế giới đã đặt người dân Trung Quốc trước vô vàn
những khó khăn, những cơ hội kinh doanh tuột khỏi tầm tay, những làn sóng
văn hóa phương Tây tràn ngập... Tất cả những việc đó có thể làm thay đổi lối
sống, hành vi và quan điểm của mỗi con người. Vì vậy họ phải đối mặt với
24
những cơ hội và thách thức mới. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc, đặc
biệt là những thử thách, khó khăn cũng như cách giải quyết của họ là những
kinh nghiệm quý báu cho cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng trong tiến trình hội nhập.
Bên cạnh đó, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế,
một số nước và khu vực như Hàn Quốc, Singapore, Đài loan, HongKong,
Thailand… đã sử dụng cơ cấu kinh tế mở một cách hiệu quả, giúp họ thực
hiện thành công quá trình CNH, HĐH, trở thành những “con rồng” của Châu
Á. Vậy đâu là giải pháp cho họ? Làm thế nào họ tận dụng được những cơ hội
do tiến trình hội nhập mang lại ? Để trả lời được câu hỏi này cần đi vào phân
tích những yếu tố trong và ngoài nước, những kinh nghiệm vận dụng của các
nước trong việc phát triển ngoại thương nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và
thúc đẩy việc xuất khẩu của họ. Có rất nhiều kinh nghiệm, giải pháp để phát
triển ngoại thương nhưng trong đó chỉ có một số là phù hợp với đặc điểm của
thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy trong phần này chúng ta sẽ tập trung
vào ba kinh nghiệm có khả năng vận dụng thành công vào việc thúc đẩy hoạt
động ngoại thương trên địa bàn thành phố phát triển mạnh hơn vào thời gian
tới đó chính là:
+ Kinh nghiệm về việc điều chỉnh các biện pháp thực hiện chính sách
ngoại thương.
+ Kinh nghiệm về quản lý tỷ giá hối đoái.
+ Kinh nghiệm trong việc tận dụng những lợi thế so sánh để phát triển
ngoại thương.
1.3.1. Kinh nghiệm về việc điều chỉnh các biện pháp thực hiện chính
sách ngoại thương
Kinh nghiệm của các nước trong vấn đề này chủ yếu bao gồm chính
25
sách về thuế quan và các biện pháp phi thuế quan.
Thứ nhất, chính sách thuế quan của các quốc gia chủ yếu là nhằm bảo
hộ mậu dịch trong nước trước nguy cơ cạnh tranh của nước ngoài. Tại các
nước Đông Nam Á chính sách này thường được áp dụng đối với các nhóm
hàng: nông sản, công nghiệp nhẹ, kỹ thuật cao và một số mặt hàng khuyến
dụng. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các nước cho thấy việc duy trì dài hạn các
biện pháp này sẽ làm cho sức cạnh tranh của các mặt hàng này ngày càng
giảm đi trên thị trường thế giới, các doanh nghiệp mất dần sự linh hoạt, nhạy
bén, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng thấp. Điều này sẽ
dẫn đến nguy cơ phá sản trên cấp độ quốc gia đối với những mặt hàng được
bảo hộ và nhất là sẽ gặp trở ngại rất lớn khi gia nhập WTO hay các khu vực
mậu dịch tự do do phải giảm hàng rào thuế quan. Chính vì vậy mà đa số các
nước đều có xu hướng giảm dần hàng rào thuế quan cùng với sự phát triển
tương ứng của các ngành công nghiệp nội địa. Có thể khẳng định rằng giảm
hàng rào thuế quan là con đường đúng đắn để các nước đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới. Mặt khác, đa số các quốc gia đang
phát triển trước đây như Thailand, Philippine thuế nhập khẩu là nguồn thu chủ
yếu của ngân sách nên việc nới lỏng hàng rào thuế quan đòi hỏi các quốc gia
phải có những bước đi thận trọng trong việc giảm hàng rào thuế quan để đảm
bảo hiệu quả tăng trưởng và bù đắp các khoản thiệt hại cho ngân sách.
Thứ hai là các biện pháp phi thuế quan, các quốc gia thường áp dụng
như: quota, trợ cấp xuất khẩu, trợ giá… Nhìn chung là cần thiết trong giai
đoạn đầu phát triển. Nhưng việc áp dụng này vô hình dung đã tạo ra lợi nhuận
siêu ngạch, đặc quyền đặc lợi cho một số doanh nghiệp. Chính điều này đã tạo
ra tiêu cực, các doanh nghiệp không tập trung tăng năng suất lao động, cải
tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm để khẳng định thương hiệu của
mình trên thị trường mà chỉ chú trọng vào việc vận động xin quota. Đây
không chỉ là bài học của Brasil mà là chính bài học thực tế của nước ta. Kinh
26
nghiệm cho thấy quốc gia nào muốn duy trì sự tăng trưởng xuất khẩu ổn định
dài hạn ở mức cao thì phải nghiên cứu điều chỉnh giảm các biện pháp phi thuế
quan và chuyển dần sang biện pháp thuế quan. Trong đó, thuế quan trên hàng
xuất khẩu được loại bỏ còn thuế quan trên hàng nhập khẩu sẽ giảm dần.
Ngoài ra, một vấn đề hết sức quan trọng là việc xây dựng khu vực kinh
tế quốc doanh với một mức độ nhất định nhằm tạo cơ sở cho việc thực hiện
quyền kiểm soát của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc doanh. Kinh nghiệm
các nước cho thấy để thực hiện tốt việc kiểm soát của Nhà nước đối với nền
kinh tế thông qua thành phần kinh tế quốc doanh cần tập trung vào một số
trọng điểm mang tính chiến lược, không nên dàn rãi hoạt động trong tất cả các
ngành, các lĩnh vực. Theo Indonesia cần chấn chỉnh, rà soát và giảm bớt các
doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả nhằm khắc phục nhược điểm, nâng cao
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
1.3.2. Kinh nghiệm về quản lý tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái có tác động lên giá cả của hầu hết giá cả của các sản
phẩm có trên thị trường nhất là thị trường xuất nhập khẩu. Vì vậy tỷ giá hối
đoái có thể xem là một loại giá có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thương
mại quốc tế. Nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng sẽ bị
ảnh hưởng xấu nếu đánh giá quá cao giá trị đồng nội tệ. Cụ thể là:
+ Nếu các điều kiện khác không đổi mà chính sách tỷ giá duy trì giá trị
đồng nội tệ quá cao sẽ làm cho doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp
xuất khẩu giảm đi tương đối so với kinh doanh nội địa. Điều này sẽ trực tiếp
kìm hãm hoạt động xuất khẩu và nhanh chóng dẫn đến tình trạng thiếu ngoại
tệ trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Muốn khắc phục tình trạng này, cần phải
phá giá đồng nội tệ ở mức độ hợp lý để làm tăng lợi nhuận cho các đơn vị sản
xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
+ Mặt khác, chính sách tỷ giá quy định giá trị đồng nội tệ cao thì cùng
một loại hàng hóa nhưng có chi phí nhập khẩu thấp hơn tương đối so với sản
27
xuất nội địa, dẫn đến kết quả là kinh doanh hàng nhập khẩu sẽ có lợi hơn hàng
nội địa. Điều này sẽ kích thích nhập khẩu, gây khó khăn, trở ngại lớn cho nền
sản xuất trong nước. Mặc dù chính sách bảo hộ mậu dịch có khả năng làm
giảm cách biệt giữa giá cả hàng nhập khẩu và nội địa nhưng về lâu dài biện
pháp này sẽ dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực kinh tế quốc gia kém hiệu
quả, năng lực cạnh tranh của hàng nội địa ngày càng suy giảm.
Kinh nghiệm của các nước NICs là duy trì chính sách tỷ giá ổn định ở
mức cân bằng hợp lý sau nhiều lần giảm giá trị đồng nội tệ. Đài Loan là một
ví dụ điển hình về việc điều chỉnh hoạt động ngoại thương bằng tỷ giá hối
đoái, Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu trong giai đoạn đầu quá trình tăng trưởng
của nước này là: gạo, đường, dứa và một vài loại nông sản khác với giá trị
không đáng kể. Trong những năm đầu thập niên 50, gạo và đường chiếm 80%
kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan. Thế nhưng việc xuất khẩu đường rất khó
mở rộng vì phải tuân thủ hiệp định quốc tế đa phương ấn định thị phần cho
mỗi quốc gia xuất khẩu đường, còn gạo thì chỉ xuất khẩu cho Nhật với hạn
ngạch và giá cả cũng được cố định theo hiệp định song phương ký kết hàng
năm giữa hai chính phủ. Chính vì vậy mà hai sản phẩm này có độ co dãn của
nhu cầu xuất khẩu bằng không ứng với tỷ giá hối đoái. Điều đó khiến cho các
nhà kinh tế của Đài Loan lúc bấy giờ cho rằng biện pháp phá giá đồng tiền chỉ
làm xấu đi điều kiện thương mại, tăng giá nội địa của hàng nhập khẩu và làm
tăng thêm tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế Đài Loan cho ra
đời hàng nghìn sản phẩm khác sử dụng nguồn lao động rẻ trong nước và sẵn
sàng xuất khẩu cho các nước kham hiếm lao động. Những sản phẩm mới này
có độ co dãn nhu cầu lớn hơn giá cả và buộc Chính phủ nước này phải áp
dụng chính sách giảm giá đồng tiền của họ để mở đường cho việc khuếch
trương xuất khẩu. Chính nhờ giải pháp đúng đắn này đã làm cho xuất khẩu
của Đài Loan tăng rất nhanh, đến năm 1980 xuất khẩu tăng hơn 200 lần so với
28
năm 1954.
Qua kinh nghiệm trên của Đài Loan và lý luận về tác động của chính
sách tỷ giá hối đoái đối với việc tăng trưởng kinh tế, chúng ta có thể khẳng
định rằng nếu Chính phủ áp dụng cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái duy trì đồng
nội tệ thường xuyên cao hơn giá trị thực của nó thì tất yếu sẽ dẫn đến thâm
hụt tài khoản vãng lai. Sự thâm hụt này thường được bù đắp bằng nguồn vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài, và một khi nguồn này giảm sút thì nguy cơ
khủng hoảng nền kinh tế của quốc gia sẽ bọc lộ rõ nét. Như vậy, điều quan
trọng khi áp dụng chiến lược kinh tế phát triển hướng xuất khẩu là Chính phủ
phải chú trọng điều chỉnh tỷ giá hối đoái đúng những lúc cần thiết sao cho giá
trị đồng nội tệ không quá cao so với các ngoại tệ mạnh, nếu không làm như
vậy thì những chính sách định hướng phát triển xuất khẩu sẽ bị phá sản ngay
từ lúc đầu.
1.3.3. Kinh nghiệm trong việc tận dụng những lợi thế so sánh để
phát triển ngoại thương
Thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế thay đổi khá nhanh chóng từ
những năm 80 trở lại đây, tỷ trọng xuất khẩu so với GDP của thế giới tư mức
10% năm 1965 đã tăng lên 20% năm 1990, riêng tỷ lệ này ở Đông Á- Thái
Bình Dương là 8% và 31%. Tìm hiểu về nguyên nhân của sự thay đổi trên, có
một nhân tố hết sức quan trọng đó là sự tiến bộ về khoa học công nghệ đã làm
giảm giá thành sản phẩm và các chi phí vận chuyển, thông tin liên lạc…đã tạo
điều kiện phát triển xuất khẩu của các nước.
Tình hình thế giới trong giai đoạn 1965 - 1990 tỷ trọng xuất khẩu sản
phẩm có hàm lượng tài nguyên cao giảm đi 1,6 lần (từ 31.2% năm 1965 giảm
xuống còn 18,8% năm 1990), ngược lại, tỷ trọng xuất khẩu hàng thâm dụng
kỹ thuật tăng 1,8 lần (từ 7,2% tăng lên 12,7%). Đối với các nước NICs trong
cùng kỳ, tỷ trọng hàng xuất khẩu có hàm lượng tài nguyên cao giảm đi 2,6 lần
và tỷ trọng hàng thâm dụng kỹ thuật tăng lên 5,5 lần, điều này thể hiện sự
29
phát triển năng động hơn so với các nước khác trong khu vực. Trong khi đó
nhóm các nước đang phát triển cũng theo xu thế nêu trên với mức giảm tỷ
trọng hàng thâm dụng tài tài nguyên giảm đi 3 lần và tỷ trọng hàng thâm dụng
kỹ thuật tăng lên 5,6 lần. Điều đáng chú ý ở đây là tỷ trọng xuất khẩu nhóm
hàng thâm dụng lao động của thế giới trong thời gian đó hầu như không đổi,
các nước đang phát triển tăng 2 lần trong khi các nước NICs giảm đi 1,6 lần
(từ 46,5% năm 1965 giảm còn 29,8% năm 1990), đây là một biểu hiện tốt
trong xuất khẩu của các nước NICs.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn về tình hình phát huy lợi thế so
sánh của các nước NICs Châu Á để từ đó rút ra các kinh nghiệm phát triển
gần gũi hơn với điều kiện Việt Nam.
Đài Loan là một hòn đảo nhỏ có diện tích khoảng 36.000km2 (chỉ bằng
1/9 diện tích Việt Nam), nằm cách lục địa Trung Quốc 150km. Diện tích đất
canh tác của Đài Loan chỉ chiếm khoảng 25% diện tích, còn lại là rừng núi,
tài nguyên không đáng kể, không đáp ứng đủ nhu cầu của nội địa, nông
nghiệp chủ yếu dựa trên lúa nước, năm 1945 lạm phát lên đến 600%. Trước
tình hình đó, Đài Loan đã có những chính sách kinh tế hết sức mềm dẻo và
khôn ngoan. Lúc đầu họ thực hiện cuộc “Cách mạng xanh” bằng chủ trương
cải cách ruộng đất nhằm tạo tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều
này có ý nghĩa là một mặt tăng năng suất lao động trong nông nghiệp để có
điều kiện tích lũy vốn cho công nghiệp hóa; mặt khác tạo điều kiện giải phóng
lao động trong nông nghiệp để chuyển sang ngành, lĩnh vực khác thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình này đã đẩy mạnh xuất khẩu các mặt
hàng nông nghiệp, đầu tiên là những sản phẩm cơ bản nhưng sử dụng diện
tích đất canh tác lớn như: gạo, đường, dần dần chuyển sang những sản phẩm
mới sử dụng nhiều lao động nhưng nhu cầu về diện tích rất ít và có thể tận
dụng được những địa thế không thuận lợi cho nông nghiệp như: Nấm, măng
tây, lươn xuất cho Nhật, ốc sên xuất cho Pháp... Trong công nghiệp, những
30
sản phẩm được ưu tiên phát triển trong thời kỳ đầu là hàng dệt, quần áo may
sẵn, giày dép, đồ chơi và các sản phẩm công nghiệp nhẹ khác phù hợp với
điều kiện sử dụng ít vốn mà thu hút nhiều lao động; kế tiếp là đầu tư chế biến
nông sản để phát huy mạnh mẽ hơn hiệu quả của ngành nông nghiệp, đến khi
có đầy đủ điều kiện về vốn thì họ tập trung vào các ngành công ngiệp tinh xảo
có kỹ thuật cao... Có thề nói rằng Đài Loan thiên về phát triển các xí nghiệp
quy mô vừa và nhỏ nhưng kỹ thuật công nghệ khá tốt và có độ linh hoạt cao
trong vấn đề thích nghi với thị trường.
Singapre có diện tích khoảng 625km2 dân số 2,7 triệu người với hơn
300.000 người nước ngoài sinh sống thờng xuyên, 77% người Hoa, 15%
người Mã Lai; là một nước nghèo tài nguyên, phải nhập khẩu nước ngọt từ
năm 1965, không có nông nghiệp và công nghiệp đủ lớn để khởi động cho
tăng trưởng, nền kinh tế chỉ nhờ vào ngàng dịch vụ. Thế nhưng sau 30 năm
bằng một chiến lược tăng trưởng nhanh và bền vững, nước này đã trở thành
một quốc gia, một thành phố sạch nhất thế giới và giàu có, một rừng cao ốc
hiện đại, một cảng biển lớn bậc nhất thế giới với khoảng 600 con tàu lớn
trong vịnh, một trung tâm công nghệ cao cấp về điện tử, lọc dầu, đóng tàu,
chế tạo máy; một trung tâm tài chính lớn nhất Đông Nam Á; một trung tâm
tích cực truyyền bá khoa học và công nghệ hiện đại của khu vực và là một
trung tâm dịch vụ thế giới. Trên hết, đây là một trung tâm tái xuất khẩu khổng
lồ. Vậy đâu là những bí quyết cho sự thành công của đất nước này? Đó chính
là nhờ họ đã biết chọn cơ hội để phát triển khi Mỹ chọn đất nước này làm vị
trí trọng yếu vào năm 1965. Đây là quốc gia điển hình về lợi thế về địa hình,
biết tận dụng những nguồn lực về vốn ở bên ngoài và có một chính phủ mạnh.
Tương tự như Singapore, Hongkong là một thương cảng để mặc doanh nhân tự làm, với diện tích khoảng 1052km2 , dân số gần 6 triệu người, dân
thành thị chiếm 93%, cực kỳ hiếm tài nguyên còn khí hậu thì không thuận lợi.
Nước này đã thực hiện một chiến lược phát triển kinh tế và công nghiệp hóa
31
bắt đầu từ công nghiệp nhẹ, kể cả chấp nhận loại hình công nghệ thấp, miễn
sao có tăng trưởng kinh tế, chính vì vậy mà nước này trở thành một trung tâm
lớn của thế giới về quần áo may sẵn và xuất khẩu sản phẩm may mặc, truing
tâm số một của thế giới về xuất khẩu đồ chơi trẻ em và đồng hồ; riêng về dịch
vụ, người ta gọi Hongkong là “thiên đường của khách mua hàng” vì khách du
lịch đến đây chi tiêu cho khách sạn 30% còn chi tiêu mua hàng đến 55%. Mặt
khác Hongkong ngày càng phát huy vai trò của một trung tâm tài chính quốc
tế, không chỉ khai thác thị trường vốn phục vụ phát triển công nghiệp nội địa
mà còn có ảnh hưởng đối với cả khu vực Đông Á. Trung Quốc đã thu hồi
Hongkong vào năm 1997 nhưng vẫn giữ nguyên trạng thể chế kinh tế - chính
trị của vùng lãnh thổ này nhằm tiếp tục lợi dụng vai trò trung tâm tài chính
tầm cỡ quốc tế của nó làm chỗ dựa quan trọng cho công cuộc phát triển kinh
tế - xã hội toàn Trung Quốc.
Tóm lại, có thể nói rằng các nước trên đều có đặc điểm giống nhau là
rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên, có xuất phát điểm thấp hơn nhiều nước
khác trên thế giới khi bước vào thời điểm bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa,
nhưng sau 30 năm tăng trưởng cao, nhựng nước này đã trở thành những “con
rồng” của Châu Á. Các nước này đạt được những kết quả nêu trên là vì họ có
chiến lược phát triển kinh tế và công ngiệp hóa đúng đắn, Đó là chiến lược
CNH, HĐH theo hướng mở cửa hội nhập, họ biết phát huy những lợi thế so
sánh của mình về các nguồn lực nhất là lao động, đồng thời không ngừng tạo
ra các nguồn lực để phát triển, trong đó ngoại thương có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự thành công của quá trình CNH, HĐH ở các quốc gia này.
Ngoài ra, trong các nguyên nhân ngoài việc tuân thủ các quy luật phát triển
chung, kinh nghiệm của các nước đi sau còn có một kinh nghiệm quan trọng
khác nữa đó là nhờ thu hút được nguồn vốn đầu tư của nước ngoài dồi dào
hơn, cùng với việc tiếp nhận kỹ thuật hiện đại và phương pháp quản lý tiên
tiến của các nước công nghiệp phát triển, về vấn đề này có những điểm cần
32
chú ý sau:
o Thứ nhất là phải tạo mọi điều kiện để nước ngoài đầu tư vào những
ngành mà các nhà sản xuất trong nước không đủ sức do đòi hỏi lượng vốn đầu
tư lớn và kỹ thuật cao, điều này sẽ tạo điều kiện để phát triển những ngành
công nghiệp hướng xuất khẩu, tạo lợi thế cạnh tranh trên cả những mặt hàng
thâm dụng lao động và mặt hàng tinh xảo có hàm lượng kỹ thuật cao.
o Thứ hai là không đầu tư một cách dàn trãi mà chỉ đầu tư tập trung
vào một số ngành công nghiệp mũi nhọn hướng đến xuất khẩu nhằm tạo điều
kiện để các ngành này được đầu tư đúng mức và nhanh chóng phát triển nắm
được lợi thế trong cạnh tranh trên thị trường thế giới.
o Ngoài ra, chính phủ cần phải khuyến khích hợp tác với các thương
hiệu danh tiếng hàng đầu thế giới, đầu tiên chỉ mang tính gia công lắp ráp để
phục vụ nhu cầu trong nước, sau đó là xuất khẩu sang các nước lân cận.
Tóm lại, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một
tiến trình hiện hữu và khách quan, có tác động ngày càng quyết định đến sự
phát triển của hầu hết các quốc gia. Việt Nam từ khi tiến hành công cuộc đổi
mới và mở cửa, nền kinh tế đã có tốc độ tăng trưởng khá cao, đánh dấu một
bước ngoặt rất quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế hiện đại của mình.
Với mức tăng trưởng kinh tế đó đã tạo điều kiện để cải thiện đáng kể mức
sống của nhân dân, góp phần vào sự phát triển năng động của khu vực, mở ra
khả năng thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con
đường rút ngắn. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới trong việc lựa
chọn mô hình, chiến lược phát triển kinh tế là hết sức cần thiết cho chúng ta
trong giai đoạn hiện nay. Muốn phát triển bền vững và ổn định cần phải kết
hợp chính sách phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu với sản xuất thay thế
nhập khẩu, đồng thời tiến hành cải cách hành chính để nâng cao năng lực
quản lý kinh tế vĩ mô của bộ máy nhà nước.
Những kinh nghiệm về phát triển ngoại thương trong điều kiện hội
33
nhập của các nước công nghiệp mới và một số các quốc gia Đông Nam Á
khác có giá trị rất tốt cho Việt Nam và nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, có
điều kiện tương đồng với Singapore, HongKong... Trong đó có những vấn đề
nổi bật như:
- Trong thời kỳ đầu các nước thường áp dụng chính sách bảo hộ mậu
dịch với những mức độ khác nhau tùy theo điều kiện cụ thể của từng quốc
gia. Sau đó nới lỏng giới hạn của các biện pháp thuế quan, đồng thời giảm
dần hàng rào thuế quan cho phù hợp với quan điểm phát triển của các tổ chức
thương mại quốc tế và khu vực tự do mậu dịch mà nước mình tham gia.
- Áp dụng tỷ giá hối đoái, Chính phủ phải thương xuyên điều chỉnh tỷ
giá hối đoái sao cho giá trị đồng nội tệ không quá cao so với đồng ngoại tệ
mạnh nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
- Thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ việc sử
dụng hàng thâm dụng lao động, hàm lượng tài nguyên cao trong giai đoạn đầu
34
sang các mặt hàng thâm dụng vốn và kỹ thuật, chủ yếu là hàng công nghiệp.
Chƣơng 2
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG
NGOẠI THƢƠNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 0,6% diện tích và 6,6 % dân số so với
cả nước, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là trung tâm kinh tế
của cả nước, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Cụ thể như sau:
Số Dân (người) 6.117.251
Lao động (triệu người - 2003) 2.407,7
Số việc làm mới 80.000
Tỉ lệ thất nghiệp 6,13%
Tăng trưởng GDP
GDP (tỉ đồng, giá 1994) 79.121
11,6%
Tăng trưởng
Tổng giá trị công nghiệp (tỉ đồng, giá 1994) 102.063
15,1%
Tổng giá trị nông nghiệp (tỉ đồng, giá 1994) 2.418,1
Tổng vốn đầu tư phát triển (tỉ đồng) 42.996
Tổng thu ngân sách nhà nước (tỉ dồng) 48.970
Tổng chi ngân sách địa phương (tỉ dồng) 15.869
Xuất khẩu (triệu USD) 9.816
Nhập khẩu (triệu USD) 5.645
Vốn FDI (triệu USD) 755,1
Số du khách nước ngoài 1.580.000
Doanh thu du lịch (tỉ đồng) 10.812
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hoạt động kinh tế năng động nhất, đi
đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nếu như năm 1998 tốc độ
35
tăng GDP của thành phố là 9,2% thỡ đến năm 2002 tăng lên 10,2%. Phát triển
kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao đó tạo ra mức đóng góp GDP lớn cho cả
nước. Tỷ trọng GDP của thành phố chiếm 1/3 GDP của cả nước.
Có thể nói thành phố là hạt nhân trong vùng Kinh tế trọng điểm phía
Nam (KTTĐPN) và trung tâm đối với vùng Nam Bộ. Với mức đóng góp GDP
là 66,1% trong vựng (KTTĐPN) và đạt mức 30% trong tổng GDP của cả khu
vực Nam Bộ.
Kinh tế thành phố có sự chuyển dịch mạnh mẽ, năm 1997 giá trị sản
xuất của thành phố đạt 65,2% của vùng (KTTĐPN), về công nghiệp chiếm
58,7% giá trị sản lượng công nghiệp vùng. Thành phố là trung tâm của vùng
về công nghiệp dịch vụ. Giá trị sản lượng công nghiệp thành phố năm 2000 là
76,66 ngàn tỷ đồng, gấp 2, 2 lần Bà Rịa - Vũng Tàu, 3,7 lần Hà Nội và 4 lần
Đồng Nai. Kinh tế quốc doanh vẫn giữ vị trí chi phối, đóng góp 45% GDP.
Dịch vụ thương mại chiến tỷ lệ cao trong cơ cấu GDP.
Thành phố là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất cả nước, kể
từ khi Luật đầu tư được ban hành. Số dự án đầu tư vào thành phố chiếm
khoảng 1/3 tổng số dự án đầu tư nước ngoài trên cả nước. Nếu như trong giai
đoạn 1988 - 1998 thành phố có 786 dự án với tổng vốn đầu tư là 9.540,7 triệu
USD thỡ cả nước có 2453 dự án với tổng số vốn là 38.856,8 triệu USD.
Thành phố luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu ngân sách của
nhà nước, mặc dù gặp nhiều khó khăn song thu ngân sách của vẫn không
ngừng tăng. Thời kỳ 1986 - 1990, thu ngân sách thành phố chiếm 26,4% tổng
thu ngân sách của cả nước, đến năm 1999 chiếm 36,46%.
Về mặt thương mại, dịch vụ, thành phố là trung tâm xuất nhập khẩu lớn
nhất nước ta. Kim ngạch xuất nhập khẩu của thành phố ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Thành phố có hệ
thống chợ và siêu thị khá lớn. Trong tương lai, thành phố sẽ xây dựng một số
36
chợ mới thuận tiện và hiện đại phù hợp với quy hoạch phát triển đô thị.
Hoạt động du lịch của thành phố phát triển mạnh, chưa bao giờ thành
phố Hồ Chí Minh đón nhiều du khách như năm 2002, với lượng khách quốc
tế lên đến 1.433.000 người, tăng 20% so với năm 2001. Kể từ năm 1990,
doanh thu du lịch của thành phố luôn chiếm từ 28% đến 35% doanh thu du
lịch cả nước. éể phỏt triển du lịch, ngành du lịch thành phố đó đề ra cỏc giải
phỏp phỏt triển du lịch giai đoạn 2001 - 2005.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt
Nam, thành phố dẫn đầu cả nước về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ
tài chính - tín dụng. Doanh thu của hệ thống ngân hàng thành phố chiếm
khoảng 1/3 tổng doanh thu toàn quốc
Trong tương lai thành phố phát triển cỏc ngành kinh tế chủ lực, là địa
phương đầu tiên tập trung phát triển các ngành cơ khí gia dụng, sản xuất
phương tiện vận tải, chế tạo máy, các ngành công nghệ cao… vẫn là đầu mối
xuất nhập khẩu, du lịch của cả nước với hệ thống cảng biển phát triển. Việc
hỡnh thành cỏc hệ thống giao thụng như đường Xuyên Á, đường Đông Tây…
sẽ tạo điều kiện cho kinh tế thành phố tăng trưởng mạnh mẽ.
Sau khi nhà nước thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, hoạt động
ngoại thương trên địa bàn thành phố diễn ra rất sôi động, tuy vậy vẫn còn
nhiều mặt phải tiếp tục hoàn thiện. Chính vì lẽ đó mà trong chương này tôi tập
trung nghiên cứu những điều kiện cụ thể, những nét đặc thù và lợi thế so sánh
của thành phố mà các nơi khác không thể nào có được, từ đó có cách đánh giá
toàn diện về thực trạng hoạt động ngoại thương của thành phố nhằm nắm rõ
các xu thế phát triển mang tính quy luật của nền kinh tế thành phố từ đó rút ra
các bài học kinh nghiệm cần thiết làm cơ sở cho việc định hướng phát triển
37
ngoại thương của Thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện hội nhập
2.1. Những điều kiện phát triển ngoại thƣơng Thành phố Hồ Chí
Minh
Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 2.093,7km2 phía Đông giáp Bình
Dương và Đồng Nai, phía Tây giáp Long An, phía Nam giáp biển Đông và
phía Bắc giáp Tây Ninh. Với một địa hình kinh kế có nhiều ưu thế hơn hẳn so
với nhiều địa phương khác tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngoại
thương nơi đây, có thể cụ thể những ưu thế như sau:
2.1.1. Điều kiện về vốn
Thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế rất lớn về tài chính, không kể đến
những tồn tại do cơ chế chung, ngành ngân hàng ở thành phố đang dẫn đầu cả
nước về số cơ sở, doanh số và quan hệ tài chính tín dụng trong cũng như
ngoài nước. Tính đến nay trên toàn thành phố có khoảng 30 đơn vị và chi
nhánh ngân hàng quốc doanh, 23 đơn vị chi nhánh ngân hàng thương mại cổ
phần, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 30 chi nhánh ngân hàng 100%
vốn nước ngoài, hơn 2 công ty tài chính liên doanh với nước ngoài và 3 công
ty tài chính cổ phần cùng tham gia hoạt động trong lĩnh vực tài chính tín
dụng. Doanh thu của các ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
thường chiếm hơn 30% so với tổng doanh thu về hoạt động ngân hàng toàn
quốc. Với lực lượng ngân hàng đông đảo như vậy, thành phố trở thành trung
tâm tài chính lớn nhất cả nước, có nhiều hình thức huy động vốn rất đa dạng
đã đóng góp tích cực về nguồn vốn đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh.
Riêng thị trường chứng khoán một khi thực sự phát huy hiệu quả thì vai trò
trung tâm tài chính của thành phố sẽ càng mạnh hơn, phục vụ thiết thực hơn
cho công cuộc công nghiệp hóa hướng xuất khẩu của thành phố và cả nước,
và xa hơn nữa là vai trò của nó trong hoạt động tài chính quốc tế.
Mặt khác, Thành phố là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất
38
cả nước, kể từ khi Luật đầu tư được ban hành. Số dự án đầu tư vào thành phố
chiếm khoảng 1/3 tổng số dự án đầu tư nước ngoài trong cả nước. Nếu như
trong giai đoạn 1988 - 1998 thành phố có 786 dự án với tổng vốn đầu tư là
9.540,7 triệu USD thì cả nước có 2453 dự án với tổng số vốn đầu tư 38.856,8
triệu USD.
Thành phố luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu ngân sách của
cả nước, mặc dầu gặp nhiều khó khăn song thu ngân sách vẫn không ngừng
tăng. Thời kỳ 1986 - 1990, thu ngân sách thành phố chiếm 26,4% tổng thu
ngân sách của cả nước, đến năm 1999 chiếm 36, 46 %.
2.1.2. Nguồn nhân lực
Tỷ lệ dân cư trong độ tuổi đi học biết chữ cao hơn cả Singapore và
Trung Quốc đã nói lên trình độ dân trí và chất lượng lao động trên địa bàn
thành phố. Lực lượng lao động nơi đây có khoảng trên 2,88 triệu người,
chiếm 56,5% dân số thành phố (chưa kể hàng chục ngàn lao động từ nhiều địa
phương khác và người nước ngoài đến làm việc thường xuyên tại đây. Chất
lượng lao động ở thành phố Hồ Chí Minh cao hơn nhiều so với mức trung
bình cuả cả nước do công tác đào tạo khá tốt, đa số quen tác phong lao động
công nghiệp và dịch vụ, còn lao động nông nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ
(khoảng 12% số người có việc làm) và đang được quy hoạch để tận dụng việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tận dụng nguồn lao động nông nhàn. Nguồn lao
động nơi đây hoàn toàn có thể đáp ứng tốt cho yêu cầu đẩy mạnh phát triển
kinh tế kể cả những ngành công nghiệp kỹ thuật cao của thành phố trong thời
gian tới. Hơn nữa, nếu so sánh nguồn nhân lực này với các nước Đông Nan Á
thì lực lượng lao động ở đây không thua kém gì về trình độ kỹ thuật và kỹ
năng lao động nhưng giá nhân công lại rẻ hơn nhiều. Đây là lợi thế không nhỏ
góp phần làm tăng sức thu hút vốn đầu tư nước ngoài đổ vào thành phố. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số mặt yếu như: trình độ công nghệ lạc
hậu còn phổ biến, lao động kỹ thuật chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các ngành
39
sản xuất, quy mô ngành vận tải biển còn nhỏ, dịch vụ bảo hiểm hàng hải và
dịch vụ ngân hàng chưa được sự tín nhiệm cao của khách hàng nước ngoài,
cước phí liên lạc viễn thông còn cao so với các nước trong khu vực… Những
điểm yếu này đã và đang được khắc phục một cách tích cực để tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động ngoại thương trên địa bàn thành phố. Nguồn nhân lực
ở thành phố không chỉ đủ đáp ứng cho nhu cầu của các ngành sản xuất trong
nước và còn đáp ứng cả nhu cầu của một số nước phát triển trong khu vực
như Singapore, Malaysia, Hàn Quốc... Hàng năm việc xuất khẩu lao động này
đã đem lại một nguồn ngoại tệ không nhỏ và góp phần nâng cao hơn nữa trình
độ của đội ngũ lao động nơi đây.
2.1.3. Khoa học công nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm khoa học- kỹ thuật lớn của
đất nước. Tại đây quy tụ nhiều trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu
lớn của cả nước. Liên hiệp các Hội khoa học- kỹ thuật Thành phố Hồ Chí
Minh bao gồm 27 hội khoa học thuộc các chuyên ngành tự nhiên, kỹ thuật,
kinh tế xã hội. Hiện nay, trên địa bàn thành phố có : 65 Viện và Phân viện
khoa học- kỹ thuật, 36 trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học, 22 trường
Đại học và Cao đẳng (chưa kể các trường dân lập mới thành lập gần đây), 26
trường trung học chuyên nghiệp, 14 trường đào tạo công nhân kỹ thuật và
hàng trăm cơ sở dạy nghề, 26 trạm trại liên hiệp khoa học và ứng dụng khoa
học- kỹ thuật... Thêm vào đó, Thành phố Hồ Chí Minh có đội ngũ cán bộ
khoa học kỹ thuật đông đảo được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau và có đủ
trình độ để tiếp cận các vấn đề khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới. Với
thực tế về đội ngũ trường đào tạo và nhân lực như trên chắc chắn sẽ đóng góp
tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hướng xuất khẩu, nhất là những mặt
hàng có yếu tố thâm dụng kỹ thuật cao.
2.1.4. Cơ sở hạ tầng vật chất
Do điều kiện tự nhiên và lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh có một lợi
40
thế rất lớn về giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Thành phố được xây
dựng nối liền giữa hai miền Tây Nam Bộ với Đông Nam Bộ, miền Trung,
miền Bắc, có hệ thống giao thông ngày càng phát triển cả đường bộ, đường
thủy, đường sắt và hàng không. Chính vì vậy nơi đây là đầu mối giao lưu
quốc tế và khu vực, có đường bộ qua Campuchia, có sân bay quốc tế Tân Sơn
Nhất, cảng Sài Gòn với tổng diện tích gần 90 ha với hơn 30 cầu cảng trên 7
bến cảng có thể đảm nhận 60 - 70% khối lượng vận chuyển quốc tế về hành
khách và hàng hóa hàng năm của cả nước. Ngoài ra hệ thống giao thông
Thành phố Hồ Chí Minh đi các địa phương khác trong nước và giao lưu quốc
tế đang được Chính phủ hết sức quan tâm đầu tư. Trong đó nổi bật là dự án
mở rộng cảng Sài Gòn nối vài cảng nước sâu Thị Vải (Bà Rịa- Vũng Tàu) và
tham gia hệ thống song hành đường bộ - đường sắt Xuyên Á đi ngang qua
Thành phố Hồ Chí Minh sẽ được thực hiện trong tương lai gần đây càng tạo
điều kiện tăng năng lực và đa dạng hóa phương thức vận chuyển quốc tế của
thành phố.
Bên cạnh đó, hệ thống kho tàng, bến bãi và lực lượng vận tải của Thành
phố Hồ Chí Minh cũng được xây dựng lớn mạnh hơn các địa phương khác.
Hệ thống này mang tính chất phát triển vừa đa dạng vừa chuyên sâu, vừa đáp
ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố vừa mang tính trung chuyển liên vùng. Tính đến năm 2003, hệ thống cảng Sài Gòn có 100.000m2 kho và 325.000m2 bãi chứa hàng, đội tàu biển của thành phố có 54 chiếc với
tổng trọng tải 218.531 DWT, tải trọng trung bình 4.047DWT/chiếc chỉ số này
gấp 3,4 lần chỉ tiêu bình quân của cả nước. Bên cạnh đó ngành cầu đường,
sửa chữa, đóng mới các loại phương tiện vận tải được phát triển nhanh chóng
trong những năm gần đây đã ngày càng bổ sung hoàn thiện thêm lợi thế về
mặt gia thông vận tải của thành phố.
Cùng với sự phát triển của hệ thống giao thông, hệ thống thông tin liên
lạc nhất là viễn thông của thành phố trong những năm qua phát triển mạnh mẽ
41
cả về số lượng lẫn chất lượng. Hiện nay các phương tiện thông tin liên lạc ở
thành phố đã được đổi mới khá hiện đại và nâng cao khả năng liên lạc quốc tế
tương đương với các nước khác trong khu vực. Thành phố Hồ Chí Minh còn
là một trong hai cổng đường truyền Internet của cả nước, tạo điều kiện tốt cho
việc phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
trong thời gian tới.
Ngoài ra, Thành phố Hồ Chí Minh còn là một trung tâm công nghiệp
lớn của cả nước. Sức mạnh chủ yếu của thành phố là lĩnh vực công nghiệp,
đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, giày da
xuất khẩu...đã phát triển rất mạnh. Đồng thời, các ngành kỹ thuật cao đi tiên
phong trong quá trình công nghiệp hướng xuất khẩu của nước ta như ôtô, kim
khí điện máy, nhựa, chế biến thực phẩm cũng được tập trung ở đây và đang
được phát triển tốt nhờ thu hút vốn đầu tư, công nghệ nước ngoài.
2.1.5. Văn hóa du lịch
Thành phố Hồ Chí Minh còn là một trung tâm văn hóa và du lịch của
cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố trẻ trung và hiện đại mới 300
năm tuổi, song trong lũng thành phố đó chứa đựng biết bao giá trị văn hoá
nhân văn - văn hoá lịch sử được kết tinh và thăng hoa từ sự giao lưu của nhiều
nền văn hoá khác nhau trên nền tảng văn hoá mang đậm bản sắc Việt Nam .
Đặc điểm văn hoá Sài Gũn xưa và Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay là sự thể
hiện khá độc đáo bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong bối cảnh lịch sử -
không gian của khu vực phương Nam Tổ quốc ta. Có thể nói, Sài Gũn -
Thành phố Hồ Chớ Minh là nơi hội tụ nhiều dũng chảy văn hoá trong quỏ
trỡnh lịch sử hỡnh thành và phỏt triển, cú nền văn hoá mang dấu ấn của người
Việt Nam, Hoa, Chăm, Khơ me, Ấn… Rồi Sài Gũn trở thành một trong
những trung tõm của cả nước đón nhận những ảnh hưởng của văn hoá Pháp,
Mỹ qua các giai đoạn thăng trầm của đất nước. Đó là những như: bến Nhà
Rồng, Bưu điện, Nhà Hát lớn, đền Quốc Tổ, trụ sở Uỷ ban nhân dân thành
phố, dinh Thống Nhất, chợ Bến Thành…, hệ thống các ngôi chùa cổ như:
42
chựa Giỏc Lõm, chùa bà Thiên hậu, Tổ Đỡnh Giỏc Viờn…; cỏc nhà thờ cổ
như: Nhà thờ Đức Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Thủ Đức…; là sự đa dạng
về tôn giáo, tín ngưỡng với hàng chục lễ hội văn hoá hàng năm đó tạo nờn
tớnh thống nhất trong đa dạng văn hóa của mảnh đất phương Nam này.Trên
từng con đường, góc phố, địa danh của thành phố đề gắn liền với những danh
nhân văn hoá - lịch sử, những chiến công của một thành phố anh hùng. Thành
phố có nhiều danh lam thắng cảnh rất đẹp, địa danh - di tích lịch sử - văn hoá
nổi tiếng như: Thảo Cầm Viên, Đầm Sen, Suối Tiên, Hồ Kỳ Hoà, Bảo tàng
Lịch sử, Bảo tàng Cách mạng, địa đạo Củ Chi, đền tưởng niệm Bến Dược Củ
Chi, chiến khu An Phú Đông, 18 thôn Vườn Trầu, Hóc Môn Bà Điểm, Láng
Le Bàu Cũ, vườn thơm Bưng Sáu, “Căn cứ nổi” rừng Sác, khu du lịch sinh
thái Cần Giờ với nhiều hệ sinh thái có nhiều chủng loại động thực vật…
Trẻ trung và hiện đại, nhưng Sài Gũn - Thành phố Hồ Chớ Minh cũn là
nơi phổ biến chữ quốc ngữ đầu tiên, là nơi ra báo đầu tiên của cả nước. Sự ra
đời và phát triển phong phú của sách, báo, trường đào tạo chuyờn ngành, của
đội ngũ trí thức và văn nghệ sĩ, của các hoạt động và giao lưu văn hoá, văn
học, nghệ thuật… đó tạo cho thành phố này từ lâu là một thành phố có ảnh
hưởng lớn về văn hóa.
Do có vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu ôn hoà, quanh năm hai mùa mưa
nắng, cùng với lịch sử trên 300 năm đấu tranh quật khởi kiên cường chống
ngoại xâm đó từng cú tiếng vang trờn thế giới, và nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc, thành phố Hồ Chí Minh đó trở thành trung tõm du lịch của cả nước.
Thành phố Hồ Chớ Minh hấp dẫn du khỏch khụng chỉ vỡ cú nhiều
danh lam thắng cảnh, di tớch lịch sử văn hoá, công trỡnh kiến trỳc cổ mà cũn
thu hỳt du khỏch bởi văn hoá ẩm thực mang đậm nét Nam bộ, là cửa ngừ của
Đất phương Nam. Ngay tại trung tâm thành phố, từ bến Bạch Đằng, du khách
có thể xuống thuyền xuôi theo sông Sài Gũn để hướng về những làng nghề
truyền thống, vườn cây ăn trái, vườn cây kiểng, chợ nổi trên sông hay khu du
lịch sinh thái Cần Giờ - khu du lịch được UNESCO công nhận là "Khu dự trữ
43
sinh quyển rừng ngập mặn" đầu tiên của Việt Nam… Thành phố cũn là cửa
ngừ đưa du khách đến với những địa danh nổi tiếng của cả khu vực phía Nam
như: vùng nước nóng thiên nhiờn Bỡnh Chõu, rừng nguyờn sinh Nam Cỏt
Tiờn, vựng biển Mũi Nộ, vựng ven biển Hà Tiờn, Đà Lạt, đồng bằng sụng
Cửu Long.
Kể từ năm 2000 trở lại đây, doanh thu du lịch của thành phố luôn
chiếm từ 28% - 35% doanh thu du lịch của cả nước. Từ khi có chính sách mở
cửa, số khỏch du lịch, nhất là khách quốc tế đến thành phố Hồ Chí Minh đó
tăng với tốc độ cao, từ chỗ có 180.000 khách quốc tế vào năm 1990, đến nay
đó cú hàng triệu khỏch quốc tế mỗi năm, chiếm trên 50%- 70% lượng khách
quốc tế vào Việt Nam. Sự tăng trưởng nhanh của khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam và vào thành phố Hồ Chí Minh là kết quả của chính sách mở cửa và
hội nhập thế giới, sự cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ du khách, sự khuyến khích đầu tư nước ngoài mà thành phố Hồ Chí
Minh luôn là địa phương đi đầu trong cả nước trong sự nghiệp đổi mới trong
lĩnh vực đời sống xó hội.
Như vậy, ưu thế về văn hóa và du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu tại chỗ, thông qua khối lượng
lớn khách du lịch hàng năm được thu hút đến dây và đồng thời tạo nhiều cơ
hội để thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, với ưu thế về văn hóa như vậy rất
thuận lợi để hình thành và phát triển tư duy của từng người dân trong quá
trình hội nhập quốc tế.
2.1.6. Thị trường
Do có vị trí giao thông thuận tiện và là đầu mối giao thông của khu vực
và quốc tế nên Thành phố Hồ Chí Minh thường tiếp nhận hàng hóa từ các nơi
chuyển về, chủ yếu là lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
thành phố và phục vụ việc xuất khẩu ra nước ngoài. Ngược lại, hàng công
nghệ thực phẩm tiêu dùng và vật tư phục vụ sản xuất được cung ứng đi các
nơi khác trong khu vực, nhất là đồng bằng sông Cửu Long. Có thể nói rằng
44
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm dịch vụ thương mại lớn nhất khu vực
phía Nam vì đây là đầu mối của các hoạt động môi giới, đại lý, nơi nhận ủy
thác xuất nhập khẩu, giao nhận hàng hóa. Hoạt động dịch vụ của thành phố
đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khi
nhu cầu xuất khẩu lương thực thực phẩm và nhập khẩu máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu cho vùng ngày càng gia tăng.
Mặt khác, nếu xét về sức mua của thị trường thành phố thì với hơn 6,1
triệu dân thường trú có thu nhập bình quân đầu người khoảng 927 USD (riêng
nội thành trên 1000 USD) và từ 1 đến 1,2 triệu khách vãng lai thường xuyên
là một trung tâm tiêu thụ hàng hóa dịch vụ lớn bậc nhất trong cả nước. Ngoài
ra, trên địa bàn thành phố hiện có khoảng 1.318 văn phòng đại diện nước
ngoài thuộc 46 quốc gia trên thế giới bao gồm cả lĩnh vực thương mại, dịch
vụ tư vấn, dược phẩm, vận tải biển, xây dựng, ngân hàng… Với số lượng văn
phòng đại diện nước ngoài nhiều như vậy Thành phố Hồ Chí Minh có ưu thế
lớn về quan hệ kinh tế đối ngoại mà không một tỉnh thành nào khác có thể so
sánh được.
Nói tóm lại, với những lợi thế so sánh trên cho thấy Thành phố Hồ Chí
Minh hội đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động ngoại thương
trong điều kiện hội nhập hiện nay. Nếu so sánh những lợi thế này với các
nước như Singapore, Malysia, Đài Loan thì Thành phố có rất nhiều điểm
tương đồng. Đó chính là cơ hội để thành phố có thể vận dụng các mô hình,
giải pháp mà các quốc gia, khu vực trên đã thực hiện thành công quá trình
CNH,HĐH đất nước. Thế nhưng thành phố đã chuẩn bị và tận dụng được
những lợi thế trên đến đâu để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương trong thời
gian vừa qua? đó là một vấn đề mà phần sau tác giả muốn đề cập đến.
2.2. Thực trạng hoạt động ngoại thƣơng trên địa bàn Thành phố
2.2.1. Các kết quả xuất nhập khẩu đạt được trong thời gian qua
Những đổi mới về chính sách ngoại thương của Nhà nước theo hướng
khuyến khích xuất khẩu đã có tác động tích cực đối vớ i hoạt động ngoại
45
thương trên địa bàn thành phố, nhất là sau khi Việt Nam khai thông quan hệ
với các tổ chức kinh tế như Quỹ tiền quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), ASEAN, Khu vực mậu dịch tự do (AFTA)... Do vậy tình hình xuất
nhập khẩu trên địa bàn thành phố từ giai đoạn 1994 đến năm 2004 có thể cụ
thể hóa qua các mặt sau:
Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển tốt trong thời gian vừa qua với
nhịp độ tăng trưởng khá nhanh, trong xuất khẩu đã phát huy được các lợi thế
của Thành phố Hồ Chí Minh. Trong xuất khẩu hàng hóa chủ yếu là các mặt
hàng sử dụng nhiều lao động và hàm lượng tài nguyên cao, nhập khẩu chủ
yếu là tư liệu sản xuất để đầu tư chế biến hàng xuất khẩu, tạo điều kiện nâng
cao dần tỷ trọng hàng tinh chế. Đồng thời, Thành phố cũng tạo điều kiện
thuận lợi đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài để sớm phát triển một ngành sản
xuất hiện đại, tham gia sản xuất các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, góp
phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thực hiện công nghiệp hóa theo kiểu
rút ngắn
Bảng 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn Thành phố
giai đoạn từ 1994 -2004
NĂM
TỔNG KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU
KIM NGẠCH NHẬP KHẨU
Đơn vị tính: triệu USD
1994 3981,1 1799,9 2181,2
1995 5504,8 2597,7 2907,1
1996 7680,0 3828,2 3851,8
1997 7925,1 3829,8 4095,3
1998 7502,2 3757,4 3744,8
1999 8060,8 4645,8 3415,0
2000 8927,6 5282,2 3645,4
2001 8720,6 5041,0 3679,6
46
2002 9449,4 5424,0 4025,4
2003 12119,1 7349,0 4770,1
2004 15461,0 9816,0 5645,0
47
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
BIỂU ĐỒ TỔNG KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU
Trong giai đoạn từ năm 1994- 2004 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
trên địa bàn thành phố tăng rất mạnh 3,9 lần với nhịp độ tăng trung bình hàng
BIỂU ĐỒ CÂN ĐỐI XUẤT NHẬP KHẨU
năm 20% năm và đã đạt mức tuyệt đối là 15461 triệu USD trong năm 2004
Tình hình cân đối xuất nhập khẩu giai đoạn từ 1994- 1997 nhập siêu
nhưng từ giai đoạn 1998-2004 đã xuất siêu với mức độ ngày càng tăng dần.
Đây là một biểu hiện rất tích cực của ngoại thương thành phố, do trong giai
đoạn 1994 - 1997 phải nhập nhiều máy móc và tư liệu sản xuất để tăng năng
48
suất lao động nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nội địa nhưng tỷ lệ
nhập siêu có xu hướng giảm dần và kết quả là trong giai đoạn sau thành phố
BIỂU ĐỒ XUẤT KHẨU
đã có tỷ lệ xuất siêu.
Kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 1994- 2004 tăng 5,5 lần đạt số
liệu tăng tuyệt đối là 9816 triệu USD, nếu ước tính kim ngạch xuất khẩu trên
bình quân đầu người thành phố (6.117.251 người) khoảng 1604 USD. Còn
kim ngạch nhập khẩu tăng 2,5 lần đạt tăng mức 5645 triệu USD vào năm
2004, tương ứng với kết quả đó thì kim ngạch nhập khẩu bình quân tính trên
đầu người của thành phố vào khoảng 923 USD.
Tuy nhiên nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của thành phố
trong hai năm 1997 và 1998 chúng ta dễ dàng nhận thấy là có sự giảm sút khá
mạnh. Thế nhưng nếu so sánh về cả một quá trình từ năm 1994 chúng ta thấy
rằng đây không phải là một bước thụt lùi nghiêm trọng, bởi vì do ảnh hưởng
cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á vào năm 1997 và mặt khác hai năm
1995 và 1996 có sự tăng trưởng đột biến nhờ có sự tính thêm dầu thô và gạo
vào kim ngạch. Còn từ năm 2000 đến nay tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã ổn
định và đạt mức cao.
Đó chính là bức tranh tổng thể của tình hình xuất nhập khẩu trên địa
49
bàn thành phố trong những năm qua. Sở dĩ đạt được những bước tăng tr ưởng
khả quan trên là nhờ vào nhiều yếu tố khác nhau thuộc về lợi thế của thành
phố so với các địa phương khác. Về điều kiện khách quan là do Thành phố
Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn có nhiều điều kiện để thúc đẩy hoạt
động ngoại thương như; hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật phát triển
hơn các địa phương khác, có đội ngũ lao động hùng hậu, hội đủ điều kiện để
phát triển nền sản xuất hiện đại, là nơi quy tụ nhiều thành phần kinh tế từ
trung ương đến địa phương, trong nước và nước ngoài cùng tham gia phát
triển sản xuất. Mặt khác, cần phải kể đến những biện pháp cải cách hành
chánh cơ bản đã được Chính phủ áp dụng trong quá trình hội nhập như nới
lỏng hàng rào thuế quan, điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu, tự do hóa về
tài chính, thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích
các thành phần kinh tế khác nhất là tư nhân phát triển. Bên cạnh đó chính
quyền thành phố đã có nhiều biện pháp thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát
triển như cải cách các thủ tục hải quan, cấp giấy phép, ban hành nhiều văn
bản luật và dưới luật… Tất cả những yếu tố đó đã có tác động rõ rệt đối với
hoạt động ngoại thương trên địa bàn thành phố. Đồng thời cũng còn một
nguyên nhân nữa là do mức tăng trưởng xuất khẩu cao là do so sánh với điểm
xuất phát thấp. Chính vì vậy, tuy nhìn vào tỷ lệ tăng theo sơ đồ trên mà không
xét đến bối cảnh cụ thể thì không thể nào nhìn nhận và đánh giá một cách
chính xác và khách quan được. Bởi vì tình hình phát triển ngoại thương của
thành phố trong điều kiện hội nhập vẫn còn nhiều điểm yếu cần phải khắc
phục trong thời gian tới. để có thế nhận thức rõ về vấn đề này chúng ta cần đi
sâu vào phân tích cụ thể về thị trường xuất nhập khẩu và tình hình sản xuất
50
kinh doanh xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố.
2.2.2. Thị trường xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố
Bảng 2. Tốc độ phát triển kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Thành phố
(Năm trước = 100) Đơn vị tính: %
Năm
1995
2000
2001
2002
Tổng số
144,3
137,8
94,0
106,0
1. Phõn theo cấp quản lý
- Trung ương
174,0
147,6
91,3
105,8
- Địa phương
127,5
103,5
99,9
94,8
- Đầu tư nước ngoài
217,9
135,0
100,2
114,8
2. Phõn theo nhúm hàng
(không kể đầu tư nước ngoài )
- Nụng sản
105,8
82,5
91,2
146,5
- Hải sản
93,4
110,4
100,1
93,1
- Lõm sản
66,6
127,1
90,0
106,8
- Hàng cụng nghiệp
165,4
146,5
92,4
101,8
3. Phân theo nước (không kể
đầu tư nước ngoài)
- Lào
129,4
67,8
61,7
64,1
- Campuchia
46,5
152,5
176,6
41,6
- Hồng Kụng
93,2
96,2
86,8
105,2
- Singapore
132,4
146,2
90,7
83,5
- Phỏp
131,4
80,0
104,5
72,6
- Nhật
146,8
135,8
80,6
95,5
- Đài Loan - Thỏi Lan
128,6 132,4
102,9 87,4
71,0 97,5
79,0 99,2
- Inđônêsia
682
27,9
164,8
656,0
- Hàn Quốc
97,3
99,3
86,7
102,2
- Nga
135,2
71,8
91,5
59,1
- Mỹ
121,3
111,0
90,9
115,3
- Nước khác
168,4
149,9
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Căn cứ vào bảng trên cho phép rút ra các nhận định cụ thể sau về thực
51
trạng cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu trên địa bàn thành phố:
Thứ nhất là về mặt hàng nông sản xuất khẩu, đây là mặt hàng có mức
tăng trưởng không đều qua các năm chủ yếu là do các nguyên nhân sau:
Thành phố Hồ Chí Minh không có lợi thế về mặt hàng này mà chủ
yếu chỉ nhờ vào vai trò trung tâm kinh tế, có điều kiện thuận lợi về giao thông
nên phần lớn nông sản trong vùng phía nam đều được xuất khẩu qua đây.
Nhiều doanh nghiệp đã tham gia việc huy động nông sản để xuất khẩu nhưng
đa số chưa chủ động được về nguồn hàng do chưa có tác động trực tiếp vào
việc cung ứng nông sản của các tỉnh, chưa có sự liên kết và đầu tư một cách
đúng mức vào khu vực sản xuất nông nghiệp nơi đây, thậm chí đến lúc cần
thiết phải mua hàng trôi nổi trên thị trường để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Thêm vào đó là tình trạng yếu kém về kỹ thuật chế biến hàng xuất
khẩu, chất lượng nông sản không cao, chủ yếu xuất thô hoặc chỉ qua sơ chế
nên giá cả không cao, các doanh nghiệp lại không đủ vốn để dự trữ nên để
xảy ra tình trạng rớt giá vào mùa thu hoạch rộ. Mặt khác thị trường xuất khẩu
nông sản không ổn định thể hiện qua tốc độ tăng của cơ cấu thị trường xuất
khẩu của các nước, nhất là khối thị trường mang tính truyền thống của Việt
Nam như Nga, Đông Âu…đã thị thu hẹp chủ yếu còn duy trì ở mức độ để trả
nợ hay xuất khẩu nhỏ lẻ qua các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Thứ hai là về mặt hàng hải sản xuất khẩu, nếu tính theo cả nước thì
đây là mặt hàng chủ lực quan trọng thứ năm sau hàng dệt may, dầu thô, gạo
và giày dép. Tuy nhiên, mặt hàng này ở Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động
tham gia xuất khẩu với quy mô nhỏ, nhịp độ tăng không đáng kể . Sở dĩ có
tình hình trên là do tương tự như nông sản, Thành phố Hồ Chí Minh ít trực
tiếp khai thác mà chủ yếu mua lại từ các tỉnh bạn, rất bị động. Hàng hải
sảnxuất khẩu chủ yếu của Thành phố Hồ Chí Minh là hàng sơ chế đông lạnh,
tuy tỷ lệ hàng chế biến có tăng nhưng chưa đáng kể. Bên cạnh đó giá hải sản
các năm qua có xu hướng giảm rõ rệt đã ảnh hưởng lớn đến tình hình xuất
52
khẩu không chỉ của thành phố mà còn ảnh hưởng cả đến xuất khẩu hải sản
của cả nước. Về thị trường xuất khẩu chủ yếu của thành phố là thị trường
Nhật Bản và EU, riêng thị trường Nhật Bản chủ yếu tái xuất khẩu mặt hàng
thủy sản của Việt Nam qua các thị trường quan trọng ở nước thứ ba mà chúng
ta chưa tiếp cận được.
Đối với mặt hàng lâm sản, trong thời gian qua đã có những bước tiến
đáng kể về tốc độ tăng xuất khẩu. Tuy nhiên, do hạn chế về chính sách bảo vệ
rừng, hạn chế xuất khẩu gỗ tròn nên quy mô xuất khẩu có tăng nhưng vẫn còn
nhỏ bé so với các mặt hàng khác. Mặt khác, chính sách hạn chế khai thác gỗ
tròn trên của Chính phủ nên việc xuất khẩu lâm sản đã có hướng chuyển biến
tốt, hướng hoạt động xuất khẩu trên địa bàn thành phố tập trung vào chế tác
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, trang trí nội thất cao cấp từ các loại gỗ trồng
đã qua xử lý kỹ thuật, đây có thể nói là một hướng đi đúng đắn thể hiện sự
linh hoạt và phù hợp với xu thế mới của thời đại. Chính điều này đã giúp kim
ngạch xuất khẩu năm 2002 tăng gần gấp đôi so với năm 1995.
Đối với nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu, đây là nhóm hàng chủ lực
của Thành phố. Hiện nay, nền công nghiệp Thành phố đang từng bước hình
thành các ngành hàng mũi nhọn hướng về xuất khẩu như: dệt may, da giày,
chế biến thực phẩm, chế tạo hàng gia dụng và cả một số ngành kỹ thuật cao
như: điện tử, lắp ráp ôtô, xe máy các loại... Tuy nhiên, có thể nói rằng hàng
công nghiệp chưa chiếm ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu hàng xuất khẩu của
Thành phố.
Về thị trường xuất khẩu, đã và đang được mở rộng về không gian và
chủng loại mặt hàng xuất khẩu từ các thị trường truyền thống thuộc khối thị
trường Nga, Đông Âu, Nhật... sang các thị trường lân cận như Lào,
Campuchia, Thailand, Hongkong, Đài Loan... cho đến các thị trường khối
ASEAN và Đông Bắc Á, EU, Mỹ... Trong đó, tuy thị trường Mỹ thành phố
53
mới tiếp cận trong thời gian gần đây nhưng đã có một tốc độ phát triển cao
còn thị trường Nhật Bản, Nga, Pháp đang có xu hướng giảm dần, điều này
hoàn toàn phù hợp với xu hướng mở rộng thị trường xuất khẩu của thành phố.
Mặt khác, xét về cơ cấu phân cấp quản lý xuất khẩu chúng ta thấy rằng
đối tượng có vốn đầu tư nước ngoài đang có tỷ lệ xuất khẩu ngày càng gia
tăng, trong khi đó nhóm địa phương đang có xu hướng giảm. Còn nếu xét về
cơ cấu hàng hóa xuất khẩu không phân biệt đầu tư nước ngoài thì chỉ có mặt
hàng nông sản xuất khẩu có xu hướng ngày càng tăng. Nhìn chung tính ổn
dịnh trong vấn đề phát triển xuất khẩu chưa được đảm bảo, còn thiếu tính đa
dạng phong phú trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu dường như chưa phát
huy hết thực lực tiềm năng của thành phố, nhất là các mặt hàng có yếu tố
thâm dụng kỹ thuật còn chiếm một tỷ lệ quá nhỏ trong cơ cấu các mặt hàng
xuất khẩu để rõ hơn về vấn đề này, chúng ta sẽ xem lại các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu của thành phố trong thời gian trên như sau trong bảng cơ cấu
các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của thành phố:
Bảng 3. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Thành phố Hồ Chí Minh
ĐVT
1995
2000
2001
2002
Tấn
746.497
749.395
906.837 1.373.974
- Gạo
46.035
61.085
74.455
- Cao su
"
- Đậu phộng
42.629
8.747
4.105
5.676
"
4.791
8.461
12.029
17.660
- Tiờu
"
54.121
70.896
97.957
83.764
- Cafờ
"
23.794
17.526
5.342
4.892
- Rau quả
"
- Thịt đông lạnh
1.815
-
2.992
175
"
- Hải sản đông lạnh
22.723
32.472
30.617
27.959
"
- Hàng giày dộp
1000USD
...
236.292
232.940 193.380
54
- Hàng mỹ nghệ
1.361
14.104
25.100
24.047
"
- Hàng may mặc
301.464
656.842
553.240 634.334
"
- Hàng dệt kim
23.442
7.334
2.771
2.183
"
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Điều này cho thấy ưu thế của các mặt hàng có yếu tố thâm dụng về lao
động và tài nguyên luôn chiếm ưu thế tuyệt đối so với các ngành có yếu tố
thâm dụng kỹ thuật. Tuy gạo dẫn đầu trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu
nhưng đối với hai nhóm mặt hàng nông sản và thủy sản đều có tốc độ tăng rất
chậm, nguyên nhân chính là do Thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế nhờ vị trí
trung tâm giao dịch thương mại chứ không có lợi thế về sản xuất, mà chỉ mua
lại từ các vùng lân cận, lại thiếu vốn dự trữ nên rất bị động về nguồn hàng,
bên cạnh đó do kỹ thuật sản xuất, chế biến, đóng gói còn kém, chất lượng sản
phẩm không cao điều này đã có tác động xấu đến giá cả xuất khẩu, trong thời
gian qua có xu hướng giảm dần làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu trên
địa bàn thành phố trong thời quan qua. Đối với nhóm hàng công nghiệp, đã
được thành phố xác định là nhóm xuất khẩu chủ lực, đang từng bước được
hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn như: dệt, may mặc, chế biến thực
phẩm, công nghiệp điện tử, lắp ráp ôtô…Tuy nhiên các mặt hàng này chưa
chiếm được ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
Với thực trạng như vậy, có thể nói rằng lợi thế cạnh tranh của các mặt
hàng xuất khẩu trên địa bàn thành phố chưa cao. Do vậy cần phải có chiến
lược và các giải pháp thúc đẩy việc nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các
mặt hàng xuất khẩu, phải xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một
trung tâm xuất khẩu hàng công nghiệp mũi nhọn, cải thiện môi trường đầu tư
và kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của thương hiệu sản phẩm, tăng
55
cường xúc tiến các hoạt động ngoại thương, chuẩn bị điềi kiện sẵn sàng để
nắm bắt các cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO. Còn riêng về tình hình nhập
56
khẩu trên địa bàn thành phố, chúng ta hãy quan sát bảng tổng hợp dưới đây:
Bảng 4. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Thành phố Hồ Chí Minh
ĐVT
1995
2000
2001
2002
- Sợi
Tấn
24.776
42.286
33.794
26.585
- Nhựa
"
113.539
130.621
104.133
111.813
- Xi măng
"
192.267
6.140
14.287
5.421
- Phõn bún
"
473.214
82.769
58.132
41.894
- Thuốc trừ sõu
"
24.393
4.927
6.083
6.154
- Nhiờn liệu
"
1.537.185 2.116.259 2.128.003 1.023.421
- Bột mỡ
"
44.740
10516
23.972
18.805
- Vải
1000 m
5.649
853
856
- Xe mỏy
Chiếc
142.195
28217
3668
1000
Tấn
- Sắt thộp cỏc loại
114.257
363982
756.377
807.968
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Điều này cho thấy ưu thế của các mặt hàng tư liệu sản xuất trong nhập
khẩu, chiếm tuyệt đại bộ phận trong cơ cấu hàng nhập khẩu. Đó là một biểu
hiện mang tính quy luật trong phát triển sản xuất trên địa bàn thành phố, ưu
tiên nhập khẩu các mặt hàng phục vụ sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về tư
liệu sản xuất để phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Nhưng chúng ta thấy rằng xu thế mức nhập hóa đang giảm dần, đó chính là do
chúng ta đã biết chủ động tình nguồn hàng nội chất lượng tương đương có thể
thay thế hàng ngoại nhập, góp phần giảm giá thành sản phẩm, nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thương trường quốc tế, thực hiện
tốt định hướng hàng xuất khẩu thay thế dần hàng nhập khẩu trong kim ngạch
xuất nhập khẩu. Tuy nhiên kim ngạch nhập khẩu nêu trên chỉ tính phần nhập
khẩu chính ngạch chưa kể đến các tiểu ngạch và tình trạng hàng tiêu dùng bị
nhập lậu từ Trung Quốc, Thailand vào thành phố bằng nhiều con đường khác
nhau. Chỉ tính riêng Trung Quốc, hàng nhập lậu và hàng tiểu ngạch tràn vào
57
thị trường Việt Nam chiếm tỷ lệ gần bằng 30% khối lượng hàng hóa chính
ngạch, đây là một con số đáng báo động cho việc nhập khẩu hàng hóa ở nước
ta nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Có thể nói rằng đa số chất
lượng các hàng nhập lậu không tốt hơn hàng nội địa nhưng giá cả rất rẻ đã tạo
nên sức ép cạnh tranh lớn cho hàng nội địa, điều này gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố.
Để có thể phân tích sâu hơn nhằm tìm ra các giải pháp phù hợp để phát
triển ngoại thương, chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu những điều kiện mang tính
chất đột phá quyết nhằm tìm cách tháo gỡ các vướng mắc, tạo điều kiện thúc
đẩy hoạt động ngoại thương lên một tầm cao mới.
2.2.3. Các điều kiện phát triển ngoại thương trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển ngoại thương trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng trong phần này tác giả chỉ đề cập ba vấn
đề cơ bản sau cần phải tập trung giải quyết:
- Tình hình phát triển các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố
- Đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp và khả năng tiếp cận thị
trường xuất khẩu của các doanh nghiệp
- Cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ nhất là về tình hình phát triển các doanh nghiệp, số doanh nghiệp
ngoài Nhà nước đang hoạt động tính đến 31 tháng 12 năm 2000 là 7.844 đơn
vị chiếm 59,2% số đơn vị lập danh sách. Trong đó số đơn vị có nộp phiếu
điều tra 7.387 phiếu, chiếm 94,2% số đơn vị đang hoạt động. Số đơn vị không
báo cáo là 457 đơn vị, chiếm 5,8%. Cỏc quận, huyện cú số doanh nghiệp
ngoài quốc doanh đang hoạt động nhiều nhất là: Quận 1 có 1.208 đơn vị, số
phiếu thu được 1.154 đơn vị chiếm 95,5%; Tõn Bỡnh cú 1.097 đơn vị, số
58
phiếu thu được 1.097 chiếm 100%; Quận 3 có 623 đơn vị, số phiếu thu được
587 chiếm 94,2%; Bỡnh Thạnh cú 623 đơn vị, số phiếu thu được 546 chiếm
87,6%. Quận có số đơn vị không thu được phiếu điều tra nhiều nhất là Quận
5, có 159 đơn vị không nộp phiếu chiếm 21,7% số đơn vị đang hoạt động. Số
doanh nghiệp đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản: 341 đơn vị chiếm 2,6%.
Số doanh nghiệp có giấy phép thành lập nhưng chưa triển khai: 391 đơn vị
chiếm 3%. Số doanh nghiệp ngưng hoạt động: 675 đơn vị chiếm 5,1%. Số
doanh nghiệp giải thể và chờ giải thể: 1.234 đơn vị chiếm 9,3%. Số doanh
nghiệp khụng tỡm được địa chỉ: 1.614 đơn vị chiếm 12,2%. Tỡnh trạng khỏc:
1.141 đơn vị chiếm 8,6%. Số đơn vị mới thành lập quí 1 năm 2001 là 2.437
đơn vị. Số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động 593 đơn
vị. Trong đó có nộp phiếu điều tra 557 đơn vị chiếm 93,9% số đơn vị đang
hoạt động. Trong tổng số 900 doanh nghiệp được lập danh sách đến
31/12/2002 cú 9,3% số đơn vị đang xây dựng cơ bản, 2,6% chưa triển khai
giấy phép, 4% số đơn vị ngưng hoạt động, 3% số đơn vị đang giải thể, 11,7%
số đơn vị không tỡm được địa chỉ và tỡnh trạng khỏc chiếm 3,3%. Số doanh
nghiệp Nhà nước (khụng kể cỏc doanh nghiệp thuộc bộ An ninh quốc phũng
quản lý) đang hoạt động có nộp phiếu 678 đơn vị, chiếm 98,5% số đơn vị
đang hoạt động. Các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh phát
triển trên tất cả các ngành kinh tế. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập
tăng dần qua các năm, đặc biệt từ sau khi Luật doanh nghiệp ra đời ngày càng
tăng lên rừ nột. Tớnh đến 31 tháng 12 năm 2002, số doanh nghiệp thực tế có
hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là 8.622 đơn vị, chia ra số
doanh nghiệp nhà nước là 678 đơn vị, doanh nghiệp ngoài nhà nước là 7.387
59
đơn vị và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 557 đơn vị.
Bảng 5. Phân loại doanh nghiệp
Chia ra
Ngoài Nhà
Có vốn đầu tư
Tổng số
Nhànước
nước
nước ngoài
Số doanh nghiệp
8.622
678
7.387
557
1. Nụng, lõm nghiệp và thủy sản
42
21
18
3
2. Cụng nghiệp
2.071
285
1.421
365
3. Xõy dựng
554
101
436
17
4. Dịch vụ
5.955
271
5.512
172
Cơ cấu doanh nghiệp (%)
100,0
100,0
100,0
100,0
0,5
3,1
0,3
0,5
1. Nụng, lõm nghiệp và thủy sản
2. Cụng nghiệp
24,0
42,0
19,2
65,5
3. Xõy dựng
6,4
14,9
5,9
3,1
4. Dịch vụ
69,1
40,0
74,6
30,9
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Xét theo ngành kinh tế cho thấy hoạt động kinh tế chủ yếu của thành
phố tập trung ở các ngành công nghiệp, thương nghiệp và các hoạt động dịch
vụ. Ngành công nghiệp có 2.071 đơn vị, chiếm 24,03%; ngành xây dựng 554
đơn vị, chiếm 6,43%; các ngành hoạt động dịch vụ có 5.955 đơn vị chiếm
69,1%, trong đó ngành thương nghiệp 4.302 đơn vị, chiếm 49,90%; Khách
sạn và nhà hàng 574 đơn vị, chiếm 6,66%; vận tải, kho bói và thụng tin liờn
lạc 377 đơn vị, chiếm 4,37%; hoạt động kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
539 đơn vị, chiếm 6,25. Xét từng thành phần kinh tế thỡ số đơn vị nhà nước
hoạt động ngành công nghiệp chiếm 42,03%; hoạt động dịch vụ chiếm 40,0%
trong tổng số doanh nghiệp nhà nước. Các đơn vị có vốn nước ngoài hoạt
động ngành công nghiệp chiếm đến 65.53%, hoạt động dịch vụ chiếm 30,9%
trong tổng số doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Trong khi đó tỷ lệ của hai
60
ngành công nghiệp và hoạt động dịch vụ đối với các doanh nghiệp ngoài Nhà
nước gần như đảo lại: tỷ lệ đơn vị hoạt động dịch vụ chiếm đến 74,6% và số
đơn vị hoạt động trong ngành công nghiệp chiếm có 19,2%.
Bảng 6. Số lƣợng doanh nghiệp nhà nƣớc
Chia ra
Tổng số Hợp DN tư Cty Cty Cổ
tỏc xó nhân TNHH phần
7.387 231 2.902 4.140 114 Tổng số
Phõn theo ngành
Trong đó:
Cụng nghiệp chế biến 1.409 76 337 974 22
Xõy dựng 436 2 30 393 11
Thương nghiệp 4.144 66 1.951 2.078 49
Khỏch sạn và nhà hàng 535 - 428 105 2
Vận tải, kho bói và thụng tin liờn 306 83 18 204 1 lạc
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Loại hỡnh công ty TNHH là loại hỡnh được phát triển mạnh sau khi có
luật doanh nghiệp ra đời, chiếm tới 56% tổng số doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, doanh nghiệp tư nhân chiếm 39,3% và doanh nghiệp cổ phần chỉ
chiếm 1,5%.Số doanh nghiệp ngoài Nhà nước hoạt động tập trung ở ngành
thương mại (56,1%), đây cũng là tính tất yếu phát triển của khu vực này bởi
đây là ngành vốn đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh và dễ chuyển đổi hướng kinh
doanh nếu như có những điều kiện bất lợi ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh
nghiệp. éặc biệt ở loại hỡnh doanh nghiệp tư nhân, ngành thương mại chiếm
tới 67,2% trong khi đó ở loại hỡnh cụng ty cổ phần và hợp tỏc xó tỷ lệ này
61
thấp hơn nhiều (43% với loại hỡnh tư nhân và 28,6% với loại hỡnh HTX). Số
doanh nghiệp thuộc ngành cụng nghiệp chế biến là 1.409 đơn vị, là ngành có
đơn vị hoạt động nhiều sau ngành thương mại nhưng cũng chỉ chiếm tỷ trọng
19,1% trong tổng doanh nghiệp ngoài Nhà nước (bằng 34% số doanh nghiệp
của ngành thương mại).Trong đó loại hỡnh cụng ty TNHH chiếm 2/3 số
doanh nghiệp.
Ngành khách sạn nhà hàng có 535 đơn vị hoạt động chiếm 7,24%;
trong đó hoạt động chủ yếu ở loại hỡnh doanh nghiệp tư nhân (428 đơn vị.)
Số lượng doanh nghiệp phân bổ không đồng đều trên địa bàn, xu hướng tập
trung nhiều vào các quận (chiếm 91,6%) do điều kiện cơ sở hạ tầng ở các
quận hầu như đó được hoàn thiện tốt và thuận tiện hơn trong công tác giao
dịch. éiều đó càng thể hiện rừ hơn khi số doanh nghiệp quận 1 là 1.154 doanh
nghiệp, chiếm 15,60%; quận Tõn Bỡnh 1.097 doanh nghiệp, chiếm 14,85%;
quận 3 là 587 doanh nghiệp, chiếm 7,9%. éến 31-12-2002, Thành phố Hồ Chớ
Minh cú 2 khu chế xuất và 10 khu công nghiệp. Số đơn vị hoạt động trong
khu vực này đó tớnh chung vào số doanh nghiệp nờu trờn.
Thứ hai là tình hình về đội ngũ lao động trên địa bàn thành phố. Đây là
một trong những ưu thế rất lớn của thành phố Hồ Chí Minh, trong thực tế
những năm vừa qua tình hình lao động trên địa bàn thành phố phát triển ra sao
và về cơ cấu có gì thay đổi. Trong phần trình bày này, tác giả có mở rộng
thêm về đội ngũ lao động gắn liền với lao động chất xám, đó chính là đội ngũ
các nhà doanh nghiệp. Số lao động thực tế có làm việc tại các doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố là 802.218 người: lao động trong các doanh nghiệp
Nhà nước là 344.132 người, chiếm 42,9%; trong các doanh nghiệp ngoài Nhà
nước là 288.679 người, chiếm 36% và trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài là 169.407 người, chiếm 21,1%. Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà
nước và đầu tư nước ngoài là nhân tố tích cực tạo việc làm cho người lao
động (số lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc 2 khu vực này
62
chiếm tới 57,1% tổng số lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn).Tính
bỡnh quõn một doanh nghiệp cú 93 lao động, tuy nhiên lao động bỡnh quõn
một doanh nghiệp theo cỏc thành phần kinh tế và cỏc loại hỡnh cú sự chờnh
lệch lớn, cụ thể như sau:
Bảng 7. Lao động trong các doanh nghiệp
Số doanh nghiệp Lao động (người)
Lao động bình quân một doanh nghiệp (người)
Tổng số 8.622 802.218 93
1. Doanh nghiệp Nhà nƣớc 678 344.132 508
282 196.237 Trung ương 696
241 95.992 Thành phố 398
63 23.188 Quận huyện 368
92 28.715 DNNN đó cổ phần 312
2. Doanh nghiệp ngoài Nhà 7.387 288.679 39
nƣớc
231 33.155 Hợp tỏc xó 144
Doanh nghiệp tư nhân 2.902 32.564 11
Cụng ty trỏch nhiệm hữu hạn 4.140 209.538 51
Cụng ty cổ phần 114 13.422 118
3. Doanh nghiệp cú vốn éTNN 557 169.407 304
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Xét về qui mô lao động, bỡnh quõn một doanh nghiệp Nhà nước trung
ương có qui mô 696 lao động. Kế đó là các doanh nghiệp Nhà nước thành phố
398 lao động; doanh nghiệp Nhà nước quận, huyện 368 lao động và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 304 lao động. Số lao động bỡnh quõn làm
việc trong 1 doanh nghiệp ngoài Nhà nước là 39 người chỉ bằng 7,7% mức
63
bỡnh quõn của doanh nghiệp Nhà nước, đặt biệt là doanh nghiệp tư nhân số
lao động được sử dụng bỡnh quõn chỉ ở mức 11 người/doanh nghiệp. Còn về
cơ cấu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh theo ngành kinh tế cũng bọc lộ khá
nhiều điểm cần quan tâm bởi vì cơ cấu này có ảnh sẽ phản ánh tốc độ, quy mô
cũng như sự phát triển của các ngành sản xuất trên địa bàn thành phố trong
thời gian vừa qua
Bảng 8. Lao động của các doanh nghiệp phân theo ngành kinh tế
Chia ra
Có vốn đầu Nhà Ngoài Tổng số tư nước nước Nhà nước ngoài
Tổng số lao động (ngƣời) 802.218 344.132 288.679 169.407
3.707 3.288 216 203
1. Nụng, lõm nghiệp và thủy sản
2. Cụng nghiệp 502.328 186.756 164.543 151.029
3. Xõy dựng 81.330 52.806 27.484 1.040
4. Cỏc ngành dịch vụ 214.853 101.282 96.436 17.135
Cơ cấu lao động (%) 100,00 100,00 100,00 100,00
1. Nụng, lõm nghiệp và thủy 0,46 0,96 0,07 0,12
sản
2. Cụng nghiệp 62,62 54,27 57,00 89,15
3. Xõy dựng 10,14 15,34 9,52 0,61
4. Dịch vụ 26,78 29,43 33,41 10,12
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh Lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp của thành phố
là 502.328 người, chiếm 62,62% trong tổng số lao động của các doanh nghiệp
luôn chiếm tỷ lệ áp đảo so với các lĩnh vực khác trong cơ cấu kinh tế; riờng
ngành cụng nghiệp chế biến là 60,3% (483.670 người: khu vực nhà nước
64
chiếm 35%, khu vực ngoài Nhà nước 33,9% và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài 31,1%). Lao động hoạt động dịch vụ chiếm 26,78%, lao động ngành
xây dựng chiếm 10,14% và lao động trong các doanh nghiệp nông, lâm, thủy
sản chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 0,46%.Trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, số
lao động làm việc trong ngành công nghiệp chiếm 89,15%; khu vực nội địa số
lao động trong ngành này chỉ chiếm 55,45%.
Bảng 9. Quy mô lao động của doanh nghiệp
Đơn vị tính: %
Chia ra
Tổng số Nhà nước Ngoài Nhà nước Có vốn đầutư nước ngoài
Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0
+ Dưới 10 người 52,8 0,0 61,2 5,0
+ Từ 10 - 49 người 24,6 11,4 25,7 26,4
+ Từ 50 - 199 người 13,4 37,2 9,5 35,9
+ Từ 200 - 499 người 5,3 25,8 2,4 19,6
+ Từ 500 - 999 người 2,2 12,8 0,7 9,5
+ Từ 1000 4999 người 1,6 12,4 0,5 3,1
+ Từ 5000 người trở lên 0,1 0,4 0,0 0,5
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Số doanh nghiệp có qui mô lao động từ 500 người trở lên là 333 doanh
nghiệp, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (3,9%): Khu vực Nhà nước 193 doanh nghiệp,
khu vực ngoài Nhà nước 86 doanh nghiệp và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài 73 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp có qui mô lao động lớn tập trung ở 3
ngành chính là công nghiệp (211 doanh nghiệp), xây dựng (41 doanh nghiệp)
và ngành vận tải bưu điện (31 doanh nghiệp). Có 4.553 doanh nghiệp sử dụng
65
dưới 10 lao động, chiếm tới 52,8% tổng số doanh nghiệp, tập trung ở khu vực
ngoài Nhà nước (4.521 doanh nghiệp, chiếm 61,2% trong tổng số doanh
nghiệp ngoài Nhà nước). Trong thực tế số doanh nghiệp có qui mô lao động
nhỏ hoạt động tập trung hoạt động ở ngành thương mại và ngành kinh doanh
tài sản và dịch vụ tư vấn: toàn ngành thương mại theo kết quả điều tra có
4.302 doanh nghiệp hoạt động thỡ cú tới 3.249 doanh nghiệp cú qui mụ lao
động dưới 10 người (chiếm 75,5%); ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư
vấn (325/539 doanh nghiệp, bằng 60,3% số doanh nghiệp của ngành này).
Tính chung số doanh nghiệp có qui mô lao động dưới 50 người chiếm tới
77,4% (6.674 doanh nghiệp); khu vực Nhà nước là 11,4%, khu vực ngoài Nhà
nước 86,9% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 31,4%. Số doanh nghiệp
của khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoạt dộng tập
trung ở doanh nghiệp có qui mô từ 50 người tới 499 lao động. Bỡnh quõn 1
doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động, trong năm tạo ra 2 triệu đồng lợi
nhuận và đóng góp cho ngân sách Nhà nước 131 triệu đồng; 1 doanh nghiệp
sử dụng từ 200-499 lao động tạo ra 1.870 triệu đồng lợi nhuận, đóng góp cho
ngân sách Nhà nước 4.804 triệu đồng. 1 doanh nghiệp sử dụng từ 5000 lao
động trở lên là 39.363 triệu đồng lợi nhuận, đóng góp cho ngân sách Nhà
nước 48.616 triệu đồng.
Bảng 10. Tỷ lệ cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên
Tỷ lệ
Cao
éại
Thạc
Tiến
chung
đẳng
học
sĩ
sĩ
Tỷ lệ cỏn bộ KHKT trờn tổng Lé
11,23
1,77
9,29
0,14
0,04
Tỷ lệ cỏn bộ KHKT trong:
-Doanh nghiệp nhà nước
12,38
1,54
10,63
0,18
0,04
-Doanh nghiệp ngoài nhà nước
11,04
2,16
8,75
0,10
0,03
-Doanh nghiệp cú vốn éTNN
9,20
1,54
7,50
0,13
0,03
66
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Bảng trên cho thấy về lực lượng cỏn bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp
tớnh từ trỡnh độ cao đẳng trở lên có 90.086 người, chiếm 11,23% trong tổng
số lao động của doanh nghiệp. Trong đó có trỡnh độ cao đẳng là 14.160
người, chiếm 15,7%; trỡnh độ đại học 75.510 ngừời, chiếm 82,7%; thạc sỹ
1.133 người, chiếm 1,26% và tiến sỹ 283 người, chiếm 0,31%. Tớnh bỡnh
quõn cỏn bộ khoa học kỹ thuật trong toàn bộ lao động của các doanh nghiệp
thỡ trong 10.000 lao động đang làm việc thỡ cú 1.123 người có trỡnh độ từ
cao đẳng trở lên: trong đó có 177 người là cú trỡnh độ cao đẳng, 929 người có
trỡnh độ đại học, 14 người có trỡnh độ cao học và 4 người có trỡnh độ tiến sỹ.
éõy là tỷ lệ khỏ cao so với mặt bằng chung của cỏc tỉnh thành phố khỏc trong
toàn quốc, là một lợi thế so sánh mà ít địa phương nào có thể có được. Tỷ lệ
cán bộ khoa học kỹ thuật ở các doanh nghiệp Nhà nước là 12,38% cao hơn so
với doanh nghiệp ngoài Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và thể hiện rừ rệt nhất ở tỷ lệ lao động có trỡnh độ từ đại học trở lên. Xét theo
ngành thỡ ngành tài chính tín dụng có tỷ lệ cán bộ, khoa học kỹ thuật trong
tổng số lao động của ngành là 73,6%, như vậy cứ 100 người làm việc trong
ngành tài chính, tín dụng thỡ cú khoảng 74 người có trỡnh độ từ cao đẳng trở
lên. Tiếp theo đó là ngành y tế và hoạt động cứu trợ xó hội 68,5%, ngành hoạt
động và công nghệ 45,5%, ngành giáo dục và đào tạo 42,4%... Ngành cụng
nghiệp chế biến và xõy dựng là hai ngành cú tỷ lệ cỏn bộ khoa học, kỹ thuật
thấp nhất: ngành cụng nghiệp chế biến 6,5%, ngành xõy dựng 11,4%. éiều
nầy cũng phù hợp với đặc điểm hoạt động của các ngành. Một lợi thế nũa của
tnguồn nhân lực là đội ngũ giám đốc cỏc doanh nghiệp. Trong số 8.622 giám
đốc của các doanh nghiệp có 67,6% là giám đốc nam và 32,4% giám đốc nữ;
tỷ lệ giám đốc là nữ tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 5,7%, ở
khu vực Nhà nước là 9,7% trong khi đó tại khu vực ngoài Nhà nước tỷ lệ tới
36,5% (trong đó doanh nghiệp tư nhân là 50,9%). Tỷ lệ giám đốc là nữ của
67
ngành thương nghiệp chiếm tới 61,3% tổng số giám đốc nữ của toàn thành
phố và chiếm 39,8% số giám đốc của ngành thương nghiệp, nhưng ngành
khách sạn nhà hàng lại là ngành có tỷ lệ giám đốc là nữ cao nhất trong các
ngành (53%). Số giám đốc có tuổi đời dưới 30 tuổi là 824 người, chiếm 9,6%,
tập trung ở khu vực ngoài Nhà nước (811 người). Tuổi đời của các giám đốc
tập trung trong độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi: 29,8% giám đốc trong nhóm tuổi từ
30 đến 40 tuổi, 38,7% giám đốc trong nhóm tuổi từ 40 đến 50 tuổi. Giám đốc
có độ tuổi từ 60 chiếm 5,5% song cũng chỉ tập trung ở khu vực ngoài Nhà
nước là chính vỡ đối với khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (đối với người Việt Nam) độ tuổi này đó được hưởng chế độ nghỉ theo
chế độ của Nhà nước.
Bảng 11. Trình độ giám đốc doanh nghiệp
Trong đó
Tổng số
Tiến sĩ Thạc sĩ éại học Cao đẳng
Tỷ lệ chung (%) 100,0 1,1 1,6 47,7 4,8
Doanh nghiệp nhà nước 100,0 2,8 4,4 82,2 1,6
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 100,0 0,8 1,0 42,3 5,2
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Xột về trỡnh độ có 55,2% giám đốc có trỡnh độ từ cao đẳng trở lên,
trong đó 47,7% giám đốc có trỡnh độ đại học. 91% giám đốc các doanh
nghiệp nhà nước có trỡnh độ từ cao đẳng trở lên, trong đó 82,2% cú trỡnh độ
đại học. 90% giám đốc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có trỡnh
độ từ cao đẳng trở lên, trong đó 76,8% cú trỡnh độ đại học. Trong khi đó chỉ
có 49% giám đốc các doanh nghiệp ngoài nhà nước có trỡnh độ từ cao đẳng
trở lên, trong đó 42,3% cú trỡnh độ đại học. Tỷ lệ giám đốc có trỡnh độ khác
chiếm 41,9% tổng số, riêng khu vực ngoài Nhà nước chiếm tới 47,5%, đặc
biệt ở loại hỡnh doanh nghiệp tư nhân tỷ lệ này là 71% và hợp tỏc xó là
68
64,1%. Tỷ lệ giám đốc có trỡnh độ từ đại học trở lên ở ngành thương mại và
khách sạn nhà hàng có tỷ lệ thấp nhất trong các ngành kinh tế (thương mại:
41%, khỏch sạn nhà hàng: 30%). 94% giám đốc các doanh nghiệp ngành tài
chính tín dụng và 100% giám đốc các doanh nghiệp ngành giáo dục đào tạo,
nông lâm nghiệp, sản xuất phân phối điện nước khí đốt đều có trỡnh độ từ đại
học trở lên. Chính những điều kiện thuận lợi này là một nguồn đội ngũ lao
động chất xám cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành sản
xuất trên địa bàn thành phố.
Thêm một vấn đề nữa có ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của
đội nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố đó là tình hình về thu nhập.
Bảng 12. Thu nhập bình quân của mỗi lao động/tháng
éơn vị tính: ngàn đồng
Thu nhập bỡnh quõn
người/tháng
Bỡnh quõn chung 1.321
Doanh nghiệp nhà nước 1.471
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 883
Trong đó:
Doanh nghiệp tư nhân 692
Cty TNHH 891
Cty cổ phần 1.130
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.760
Trong đó: 100% vốn nước ngoài 1.430
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài 2.961
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Thu nhập bỡnh quõn hàng thỏng trong năm 2000 của người lao động
69
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất 1.760 ngàn
đồng/người, tiếp đó là doanh nghiệp nhà nước 1.471 ngàn đồng/người và sau
cùng là doanh nghiệp ngoài nhà nước 883 ngàn đồng/người. Lao động trong
các doanh nghiệp tư nhân có thu nhập thấp nhất so với các loại hỡnh doanh
nghiệp khỏc.
Bảng 13. Thu nhập bình quân của lao động của các ngành/tháng
éơn vị tính: ngàn đồng
Doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp ngoài Nhà nước Doanh nghiệp cú vốn éTNN
1.471 883 1.760 Tổng số
Phõn theo ngành kinh tế
1.045 955 1.656 Nụng nghiệp và lõm nghiệp
981 565 886 Thủy sản
928 1.073 - Cụng nghiệp khai thỏc mỏ
1.504 760 1.437 Cụng nghiệp chế biến
2.235 - 2.884 SX và phân phối điện, khí đốt và
nước
1.131 877 2.539 Xõy dựng
1.225 1.152 2.345 Thương nghiệp .
1.514 539 3.124 Khỏch sạn và nhà hàng
1.876 1.916 1.042 1.871 3.929 11.666 Vận tải, kho bói và thụng tin liờn lạc Tài chớnh, tớn dụng
853 Hoạt động khoa học và công nghệ
1.252 4.697 Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 1.634
855 6.983 Giáo dục và đào tạo
649 4.118 Y tế và hoạt động cứu trợ xó hội
2.720 Hoạt động, văn hóa thể thao 1.402 1.088
70
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Trong khối doanh nghiệp nhà nước, lao động ở các ngành sản xuất và
phân phối điện và nước, ngành hoạt động phục vụ cỏ nhõn và cụng cộng,
ngành tài chớnh tớn dụng, ngành vận tải, kho bói và thụng tin liờn lạc cú thu
nhập bỡnh quõn từ 1,8 triệu đồng/tháng trở lên; các ngành nông, lâm nghiệp,
thủy sản và công nghiệp khai thác mỏ có thu nhập thấp nhất.
Trong khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp
ngoài nhà nước thỡ ngành tài chớnh tớn dụng cú thu nhập cao nhất và ngành
thủy sản vẫn là ngành cú thu nhập thấp nhất. Tuy nhiờn tổng mức thu nhập
chung của khu vực cú vốn đầu tư nước ngoài có bao gồm mức thu nhập của
người nước ngoài đang làm việc tại doanh nghiệp (trong những doanh nghiệp
thuộc khu vực này, thu nhập người nước ngoài bỡnh quõn cú mức cao hơn
người bản xứ hơn 10 lần) nên khó mà so sánh thu nhập của người Việt Nam
làm việc ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp khác
thuộc khu vực nội địa.
Thứ ba là cơ chế quản lý xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố. Từ khi
có Nghị định 64/HĐBT ngày 10/06/1989 về chế độ và tổ chức quản lý hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, Nghị định 114/HĐBT ngày 07/4/1992 về
chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu theo hướng
tự do hóa và nghị định 57/1998/NĐ- CB ngày 31/7/1998 quy định chi tiết về
thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công, đại lý, cơ
chế quản lý xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố có nhiều thay đổi theo
hướng tích cực hơn. Cụ thể như sau:
- Về thuế quan, Việt Nam chỉ áp dụng thuế chủ yếu trên mặt hàng nhập
khẩu, còn hàng xuất khẩu có thuế suất không đáng kể. Cơ chế qủn lý xuất
nhập khẩu đã trở nên cởi mở hơn .
- Việc phân bổ Quota xuất khẩu cũng có nhiều thay đổi: đối với hàng
71
dệt may đang được chuyển từng phần sang đấu thầu, còn đối với hàng gạo thì
Chính phủ cấp hạn ngạch qua uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố và cho phép
cả ngoài quốc doanh tham gia xuất khẩu.
- Thủ tục quản lý xuất nhập khẩu đã được đơn giản hóa, Hải quan thành
phố Hồ Chí Minh không ngừng cải tiến thủ tục quản lý để rút ngắn thời hạn
thông quan hàng hóa.
Nhìn chung, từ năm 1998 chính sách ngoại thương và cơ chế xuất nhập
khẩu của nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Nghị quyết Trung ương 4
(khóa VIII) đã hoàn thiện thêm một bước chủ trương xây dựng nền kinh tế
hướng về xuất khẩu đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương
trên địa bàn thành phố.
Dựa vào sự phân tích cụ thể các điều kiện cơ bản để phát triển ngoại
thương trong điều kiện hội nhập ở Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy một
bức tranh tổng thể về tình hình xuất nhập khẩu đáng khả quan trên địa bàn
thành phố, có những nét nổi bật và phần nào đạ được tận dụng hợp lý các lợi
thế. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh đó cũng có một số hạn chế cần
khắc phục, cụ thể như thế nào xin được trình bày ở phần sau
2.2.4. Những tồn tại cần được giải quyết
Nói về những tồn tại cần phải giải quyết trong thời gian tới, cần phải
phân tích cả những yếu tố cản trở việc phát triển hoạt động ngoại thương trên
địa bàn vốn dĩ thuộc về yếu tố nội sinh bên trong của bản thân các doanh
nghiệp và cả những yếu tố bên ngoài tạo điều kiện về môi trường kinh doanh.
Thứ nhất là yếu tố nội sinh của bản thân các doanh nghiệp đang có
những trở ngại sau:
- Mặc dù cơ chế bao cấp không còn nữa nhưng yếu tố bao cấp trong các
doanh nghiệp nhà nước vẫn còn tồn tại. Đây là một trở ngại lớn cho việc nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Những mặc hàng công nghiệp trọng
72
yếu phục vụ xuất khẩu như ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, gạo, đa
phần là do doanh nghiệp Nhà nước đảm nhiệm với những ưu đãi nhất định về
nguồn vốn, nguyên liệu, thuê đất. Chính nhờ sự bao cấp đó mà chi phí đầu
vào của các doanh nghiệp này rất thấp so với chi phí trung bình của các doanh
nghiệp khác. Do vậy, nếu tính đúng và đủ giá thì khả năng cạnh tranh sẽ giảm
đi rõ rệt.
- Quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ từ quy mô về vốn, lao động là một
yếu tố nữa ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Thêm vào đó là trình độ lao
động của các doanh nghiệp chưa cao, mức thu nhập của người lao động thấp
làm ảnh hưởng đến việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất
làm giảm khả năng cạnh tranh.
- Điều kiện về mở rộng thị trường ngoài nước còn nhiều hạn chế, sự
cản trở trong tiếp cận thị trường từ doanh nghiệp về mạng lưới phân phối và
kiến thức tiếp thị cũng như chất lượng và khả năng định giá sản phẩm. Mặt
khác, các doanh nghiệp còn rất thụ động trong việc mở rộng thị trường, đa số
ngồi chờ đối tác đến tìm, không chủ động tham gia các hội chợ quốc tế để học
hỏi và tăng cường việc quảng bá thương hiệu vì ngại đầu tư và thật sự là các
doang nghiệp chưa phát huy hết công sức hoạt động.
Thứ hai là yếu tố bên ngoài, đó là những cản trở về môi trường kinh
doanh còn nhiều hạn chế thể hiện qua các trở ngại về chính sách vĩ mô, khả
năng tiếp cận của các doanh nghiệp đầu tư vào tài chính, nguyên vật liệu, kỹ
thuật công nghệ, nguồn nhân lực, điều kiện về cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp
cận đầu ra của sản phẩm, cụ thể như sau:
- Trở ngại về tài chính: nguồn tài chính trong nước không đủ, thủ tục
vay ngân hàng còn mang tính hành chính, quan liêu.
- Thiếu một chính sách kinh tế nhất quán, thủ tục vẫn còn nhiêu khê
thậm chí còn tồn tại quan liêu, thuế khóa nặng lại rắc rối trong biểu tính thuế,
73
nhất là biểu thuế hàng nhập khẩu không sát với thị trường. Để đối phó lại tình
hình trên, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã dùng thủ đoạn hối lộ nhân viên hải
quan để khai thuế giảm hoặc chuyển giá để trốn thuế một cách hợp pháp bằng
cách thỏa thuận ngầm với nhà xuất khẩu nước ngoài.
- Quyền sở hữu quy định chưa rõ tràng, chưa liên thông với pháp luật
thế giới. Còn chậm trong việc ban hành luật cạnh tranh, thể chế quản lý hành
chánh chậm đổi mới, chính sách đối với khoa học công nghệ.
- Nguồn nguyên liệu chưa ổn định, trang thiết bị thay thế còn thiếu, cơ
sở hạ tầng về điện, nước, đường sá chưa thật tốt, khả năng xâm nhập thị
trường thế giới còn nhiều yếu kém từ thiếu thông tin cho đến mạng lưới tiếp
thị để xâm nhập thị trường chưa phù hợp.
- Chính sách về khoa học công nghệ và cơ chế quản lý các khoa học
công nghệ chưa phù hợp, từ đó dẫn đến hiệu quả và tiềm lực khoa học công
nghệ chưa được phát huy, chưa xây dựng được thị trường khoa học công
nghệ. Đó chính là lý do làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các mặt hàng
xuất khẩu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay trong 30 mặt hàng
xuất khẩu chưa thấy có sự hiện diện của các mặt hàng công nghệ cao hay có
hàm lượng thâm dụng kỹ thuật cao.
Tóm lại, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế - xã hội của cả
nước có nhiều điểm thuận lợi về kinh tế hơn hẳn các địa phương khác như có
nền thương mại và dịch vụ lớn mạnh nhất cả nước, có hệ thống cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và kinh tế khá phát triển và nguồn nhân lực có chất lượng cao hơn
các khu vực khác trong cả nước. Chính vì có môi trường thuận lợi nên hoạt
động ngoại thương trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển khá
mạnh và tương đối phù hợp với quy luật phát triển thương mại quốc tế theo
chiến lược công nghiệp hóa hướng xuất khẩu. Nhờ chính sách tự do hóa
thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài nên chất lượng và kỹ thuật trong
74
sản xuất hàng xuất khẩu ngày càng được cải tiến. Bên cạnh đó bộ máy chính
quyền thành phố cũng đã vượt qua nhiều thử thách và ngày càng được củng
cố hoàn thiện dần, đã và đang từng ngày được củng cố và hoàn thiện, năng
lực tổ chức sản xuất kinh doanh đã được tăng lên đáng kể. Tuy nhiên trong
hoạt động ngoại thương trên địa bàn thành phố trong thời gian vừa qua vẫn
còn nhiều điểm yếu như: trình độ trong kỹ thuật sản xuất hàng xuất khẩu có
tiến bộ nhưng chưa đáng kể, chưa đạt yêu cầu cần thiết, chất lượng hàng xuất
khẩu được nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt của thị
trường các nước phát triển, khả năng tiếp cận thị trường thế giới còn hạn chế,
cơ chế quản lý của chính quyền vẫn còn tồn tại nhiều bất cập lại thiếu đồng bộ
và mang tính đối phó tình thế hơn là tính chiến lược, thiếu sự phối hợp giữa
các cấp trong quản lý. Những yếu tố trên đã ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao
khả năng cạnh tranh và gây nhiều trở ngại cho hoạt động ngoại thương trên
75
địa bàn Thành phố.
Chƣơng 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƢƠNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Một số quan điểm chỉ đạo nhằm phát triển hoạt động ngoại
thƣơng ở Thành phố Hồ Chí Minh
3.1.1. Những quan điểm định hướng cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội
Duy trỡ tốc độ tăng trưởng của thành phố cao hơn tốc độ tăng trưởng
bỡnh quõn chung của cả nước và phát triển một cách toàn diện, cân đối và
bền vững về kinh tế, văn hóa, xó hội. Tốc độ tăng trưởng GDP Thành phố Hồ
Chí Minh bỡnh quõn thời kỳ 2000-2010 phấn đấu đạt 12%/năm. Riêng giai
đoạn 2001-2005 đạt bỡnh quõn 11,0%/năm và giai đoạn 2005 - 2010 đạt bỡnh
quõn 13,0%/năm. Tương ứng với 2 giai đoạn trên, tăng trưởng của khu vực I
là 2,0% và 1,7%/năm; khu vực II: 13,0% và 12,7%/năm; khu vực III: 9,6% và
13,5%/năm, GDP bỡnh quõn đầu người tăng từ 1.350 USD năm 2000 lên
1.980 USD năm 2005 và 3.100 USD năm 2010.
Phỏt triển kinh tế - xó hội trờn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh gắn
liền với tổng thể phỏt triển kinh tế - xó hội khu vực kinh tế trọng điểm phía
Nam và cả nước; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ
trọng khu vực dịch vụ; phát triển kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu. Từ tỷ
trọng 53,7% trong cơ cấu, khu vực dịch vụ Thành phố Hồ Chí Minh phấn đấu
đạt tỷ trọng khoảng 50,5% năm 2005 và 51,7% năm 2010; khu vực công
nghiệp và xây dựng thay đổi tương ứng 44,1% năm 2000, đạt 48,1% (2005)
và 47,5% (2010); khu vực nông lâm ngư nghiệp dự kiến sẽ giảm liên tục từ
2,2% năm 2000 xuống cũn 1,4% năm 2005 và 0,8% năm 2010. Hiện đại hóa
các ngành dịch vụ, đặc biệt là các loại dịch vụ cao cấp phục vụ sự chuyển
76
dịch cơ cấu kinh tế và công nghiệp hóa ngang tầm với yêu cầu phát triển kinh
tế - xó hội của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. Hỡnh thành
một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp lý, liờn kết hỗ trợ lẫn nhau, bao gồm
kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trũ chủ
đạo.
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng và hiệu quả của
từng ngành và toàn bộ nền kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong tiến
trỡnh hội nhập, chiếm lĩnh thị trường trong nước, mở rộng thị trường xuất
khẩu. Tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các ngành
công nghiệp hiện có, từng bước phát triển các công nghiệp mũi nhọn, hoàn
chỉnh cỏc khu công nghiệp tập trung. Phỏt triển cỏc ngành, cỏc lónh vực dịch
vụ then chốt như thương mại, xuất nhập khẩu, tài chính - ngân hàng, bảo
hiểm, du lịch, vận tải, thông tin viễn thông, khoa học công nghệ, giáo dục đào
tạo; hỡnh thành một trung tõm kinh tế - tài chỏnh khu vực Đông Nam Á; phấn
đấu duy trỡ tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu bỡnh quõn năm giai
đoạn 2000-2005 là 22%/năm và giai đoạn 2006 - 2010 là 20%/năm, tốc độ
tăng tổng kim ngạch nhập khẩu bỡnh quõn năm giai đoạn 2000 - 2005 là
17%/năm và giai đoạn 2006 - 2010 là 15%/năm. Phát triển nông nghiệp theo
hướng phù hợp với đặc điểm đô thị sinh thái.
Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo đảm dân sinh, nâng cao chất
lượng cuộc sống, công bằng xó hội. Chuẩn bị tốt nguồn nhõn lực; lựa chọn
phỏt triển cỏc cụng nghệ “mũi nhọn”, đồng thời mở rộng nghiên cứu ứng
dụng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; tạo nhiều việc làm. Phấn đấu không cũn
hộ đói, giảm số hộ nghèo dưới 8% tổng số hộ, giảm khoảng cách về mức sống
giữa hộ dân cư giàu nhất và hộ nghèo nhất từ trên 10 lần hiện nay xuống cũn
5 - 6 lần vào năm 2010; xây dựng môi trường văn hóa - xó hội lành mạnh,
tiờn tiến, mang đậm bản sắc và truyền thống dân tộc; cải thiện môi trường
77
rộng thoáng, sạch và xanh. Việc cung cấp nhà ở với giá phù hợp cho các tầng
lớp dân cư khác nhau trong khu vực nội thành nhằm cải thiện cuộc sống của
những người nghèo.
Hạn chế tăng dân số và phân bố lại hợp lý dõn cư trong vùng và trên
địa bàn thành phố, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm học vấn,
nghề nghiệp, đạo đức và thể chất, coi trọng phát triển khoa học và công nghệ,
văn hóa - nghệ thuật, y tế, giáo dục, thể dục thể thao tương xứng với một
trung tõm của khu vực, khắc phục cỏc tiờu cực và tệ nạn xó hội, phõn húa
giàu nghốo.
Phát triển đồng bộ và đi trước một bước hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế
- xó hội, hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là giao thông đô thị. Song song với việc
chỉnh trang, cải tạo, nâng cấp khu vực đô thị cũ, phát triển nhanh các khu vực
đô thị mới, đô thị hóa vùng nông thôn nhằm hạn chế mật độ dân cư tập trung
quá mức ở các khu vực trung tâm; gia tăng mật độ cây xanh, khắc phục ô
nhiễm, cải thiện môi trường sinh thái, tiến tới xây dựng một đô thị văn minh
hiện đại. Về lâu dài, thành phố là đầu mối lớn về giao thông đường sắt ở khu
vực phía Nam, nối với đồng bằng sông Cửu Long, Nam Tây Nguyên và với
đường sắt xuyên Á. Kiên quyết dần từng bước thay đổi cơ cấu các loại
phương tiện giao thông hoạt động trên địa bàn Thành phố. Tập trung giải
quyết vấn đề giao thông công cộng và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông.
Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phát triển một hệ thống giao thông công cộng (xe
Bus) tiện nghi và giá cả vừa phải trong khu vực nội thành, cũng như phát triển
dọc theo trục hành lang nối ra bên ngoài.
Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, nâng cao năng lực điều hành
quản lý nhà nước ở các cấp chính quyền thành phố; nghiên cứu đề xuất, điều
chỉnh, bổ sung những vấn đề thuộc cơ chế, chính sách và luật pháp để tạo
78
động lực mới, động viên sức dân tham gia xây dựng thành phố.
Phỏt triển kinh tế, kết hợp với giữ vững an ninh chớnh trị, trật tự cụng
cộng, an toàn xó hội, đóng góp tích cực cho công tác bảo đảm an ninh - quốc
phũng khu vực phớa Nam và đất nước.
3.1.2. Những văn bản chỉ đạo phát triển ngoại thương ở Thành phố
Hồ Chí Minh
Trong bài bài phát biểu của đồng chí Phan Văn Khải Ủy viên Thường
vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại
Đại hội lần thứ VII Đảng bộ Thành phố Hồ Chớ Minh đã chỉ đạo về định
hướng phát triển kinh tế trên địa bàn thành phố với một số điểm cần thiết cho
hoạt động ngoại thương như sau:
Trong công nghiệp, Thành phố đó xỏc định những nhóm sản phẩm chủ
yếu đang chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản lượng công nghiệp, thu hút nhiều
lao động (chế biến lương thực, thực phẩm; sản phẩm hoá chất, cao su, plastic;
dệt, may, da; sản phẩm cơ khí và kim loại). Điều quan trọng trong thời kỳ tới
là những nhóm sản phẩm này ở thành phố phải có bước tiến vượt trội về trỡnh
độ chế biến sâu với công nghệ cao để có sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước và thế giới, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Không coi nhẹ nhóm hàng
thủ công mỹ nghệ, nhất là hàng xuất khẩu đang có; tiềm năng phát triển ở cả
nội, ngoại thành. Thúc đẩy ngành xây dựng tăng trưởng nhanh hơn công
nghiệp.
Bên cạnh các ngành công nghiệp có tính truyền thống, cần tập trung
sức đột phá một lĩnh vực mới là phát triển công nghiệp công nghệ thông tin,
công nghệ phần mềm thành một ngành kinh tế mũi nhọn đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. So với mức bỡnh quõn trong cả nước, Thành phố có
mức trang bị điện thoại gấp 3 ,5 lần, trang bị máy tính gấp 8 lần, tỷ lệ người
sử dụng intemet gấp 7 lần; những yếu tố đó cùng với truyền thống năng động,
79
sáng tạo vốn có của con người Thành phố, nhất là tầng lớp trẻ, vừa tạo khả
năng vừa đặt trách nhiệm cho Thành phố phải đi tiên phong trong việc thực
hiện chỉ thị của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin, nghị quyết của Chính phủ về phát triển công nghệ phần mềm, khai
thác triệt để các mạng thông tin quốc gia và quốc tế (internet). Đó là một giải
pháp chiến lược cho phép tăng nhanh năng lực tiếp thu, phát triển và ứng
dụng tri thức mới để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao, góp phần nâng
cao năng lực và trỡnh độ quản lý nhà nước, quản lý kinh doanh, hiện đại hoá
và xó hội hoỏ nhanh giỏo dục và đào tạo, mở rộng dân chủ, công khai trong
đời sống xó hội; nhờ đó thu hẹp nhanh khoảng cách về trỡnh độ phát triển so
với các nước xung quanh, tránh được thua thiệt trong hội nhập kinh tế quốc
tế. a(trỡnh đó thúc đẩy và đũi hỏi phải đổi mới phong cách sống và làm việc
của mọi người, trước hết là những nhà lónh đạo và quản lý, những nhà kinh
doanh, nhà nghiờn cứu. Chớnh phủ hết sức hỗ trợ thành phố xây dựng trung
tâm công nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ phần mềm, thực hiện
chương trỡnh đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia, kỹ thuật viên, đồng thời có
chính sách tạo thuận lợi và giảm chi phí cho việc kết nối mạng thông tin quốc
gia, quốc tế. Các ngành dịch vụ của Thành phố phục vụ nhu cầu sản xuất và
đời sống không chỉ cho thành phố mà cho cả vùng và có phần cho cả nước.
Đây là lĩnh vực đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế (trên 50%),
nhiều ngành dịch vụ không đũi hỏi suất đầu tư cao, có nhiều loại hỡnh hoạt
động thích hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa, có tiềm năng phát triển nhanh.
Mặt khác, quan hệ liên kết, hợp tác kinh tế của Thành phố với các tỉnh trong
địa bàn trọng điểm và cả khu vực phía Nam cũng như với Cam-pu-chia và
một số nước, chủ yếu là thụng qua vai trũ trung tõm của Thành phố trờn một
số lĩnh vực dịch vụ. Tụi rất tỏn thành sự xỏc định cơ cấu kinh tế chủ yếu của
Thành phố là thương mại - dịch vụ - công nghiệp song thấy rằng các lĩnh vực
dịch vụ chưa được quan tâm đầy đủ và cũn nhiều tiềm nă.ng chưa được khai
80
thác.
Thành phố phải phát huy với hiệu quả cao hơn vai trũ của một trung
tõm thương mại kể cả xuất, nhập khẩu với sự kết hợp những ưu thế vượt trội
trong lưu thông hàng hoá bán buôn và bán lẻ nhờ vị trí của một đầu mối giao
thông đường bộ, đường sắt., đường sông, đường biển, đường hàng không, một
trung tâm thông tin, liên lạc, một địa bàn du lịch có sức hấp dẫn, kết nối với
nhiều địa điểm du lịch khác. Cuộc cạnh tranh trên mặt trận lưu thông hàng
hoá sẽ tiếp tục diễn ra quyết liệt trên thị trường Thành phố. Là nơi khởi xướng
phong trào khuyến khích và tôn vinh hàng Việt Nam chất lượng cao, Thành
phố cần kết hợp sự ủng hộ hàng trong nước với việc tổ chức tốt hoạt động xúc
tiến thương mại, ngăn chặn cho được hàng lậu, hàng giả để đẩy mạnh sản xuất
và tiêu thụ hàng Việt Nam.
Thị trường tài chính, bảo hiểm, chứng khoán, bất động sản phải có
bước phát triển mới, đáp ứng được nhu cầu chu chuyển vốn trong vùng và cả
nước, thu hút nguồn vốn nước ngoài. Các dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao
như dịch vụ khoa học công nghệ, các dịch vụ tư vấn đầu tư, thương mại, pháp
lý..., cỏc dịch vụ giỏo dục, y tế nhất là đào tạo bậc cao và y tế chuyên sâu, các
hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao phải thực hiện tốt vai trũ hàng đầu
trong khu vực. Những dịch vụ phục vụ đời sống của dân cư và khách vóng lai
cũng cú điều kiện phát triển và nâng cao chất lượng, tạo nhiều vỉệc làm.
Nông nghiệp và nông thôn ngoại thành tuy chiếm tỷ trọng không lớn
trong GDP, nhưng là một vành đai xanh vừa đáp ứng nhu cầu của thành phố
về sản phẩm tươi sống, (không chỉ thực phẩm mà cả hoa, cây cảnh), về
nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm, vừa bảo vệ môi trường sinh thái,
đồng thời là địa bàn phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và các
khu công nghiệp. Trên cơ sở bố trí hợp lý đất nông nghiệp và đất chuyên
dùng, đất bảo tồn sinh thái, sản xuất nông nghiệp của Thành phố phải chuyển
dịch cơ cấu nhằm đạt mức cao về giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích.
81
Ngoại thành phải dựa vào thế mạnh của Thành phố để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, đi nhanh vào công nghệ cao từ
việc áp dụng giống mới, những kỹ thuật tiên tiến trong nuôi, trồng, thu hoạch,
bảo quản, đến công nghệ chế biến, tạo ra sản phẩm đáp ứng đưọc nhu cầu đa
dạng và đũi hỏi cao về chất lượng của nhân dân Thành phố và xuất khẩu.
Nhân dân ngoại thành đó từng chịu đựng hy sinh, mất mát to lớn trong chiến
tranh rất xứng đáng được sự hỗ trợ ưu ái của cả Thành phố để phát triển sản
xuất và xây dựng cuộc sống mới, thu hẹp khoảng cách về thu nhập cũng như
về mức sống vật chất và văn hoá so với mức bỡnh quõn ở nội thị.
Quỏ trỡnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với sự thay đổi vể chất
trong cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ trọng lao động dịch vụ và
công nghiệp, nhất là những ngành công nghệ cao, chế biến sâu. Điều đó đũi
hỏi phải tạo được chuyển biến căn bản trong công tác giáo dục-đào tạo theo
hướng nâng cao chất lượng thông qua việc đổi mới chương trỡnh và phương
pháp dạy, học; hợp lý húa cơ cấu đào tạo theo ngành nghề và trỡnh độ, phát
triển mạnh các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề phù hợp với nhu
cầu trong vùng và đẩy mạnh xuất khẩu lao động; áp dụng ngày càng rộng rói
phương thức học tập qua mạng thông tin điện tử đưa thành phố Hổ Chí Minh
đi hàng đầu trong sự hỡnh thành một xó hội học tập suốt đời. Cùng với sự kết
hợp có hiệu quả các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ
và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, các cơ quan quản lý, Thành phố phải tạo
mụi trường và điều kiện thuận lợi cho người đó được đào tạo có việc làm,
tiềm năng của đội ngũ trí thức sẵn có được phát huy mạnh mẽ, tăng thêm sức
hút nhân tài trong nước và quốc tế. Với sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng nêu trên, Thành phố sẽ phát huy cao hơn vai trũ trung tõm
lớn về thương mại, dịch vụ, công nghiệp, khoa học, văn hoá đối với cả nước
và tăng cường được vai trũ hạt nhõn của vựng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Chính phủ ủng hộ việc hỡnh thành cơ chế phối hợp giữa Thành phố và các
82
tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm trong quy hoạch phát triển, bảo đảm tính
thống nhất trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xó hội, nhằm nõng
cao hiệu quả đầu tư, phát huy tối đa lợi thế của vùng.
Về nguồn vốn nhà nước, ngoài phần thu ngân sách dành cho đầu tư
phát triển, Thành phố cũn cú quỹ đất, quỹ nhà (kể cả kho, trụ sở , nhà ở) do
nhà nước quản lý và tài sản của doanh nghiệp nhà nước chưa được khai thác,
sử dụng tốt thậm chí có chỗ bị bỏ quên. Tỡnh trạng lóng phớ, mất mỏt vốn và
tài sản của nhà nước đang diễn ra rất nghiêm trọng; hiệu quả đầu tư, chất
lượng công trỡnh cũn thấp. Một giải phỏp hữu hiệu để tăng nguồn vốn đầu tư
là phát triển sâu rộng phong trào thí đua cần kiệm gắn với quy chế ràng buộc
trách nhiệm thực hành tiết kiệm, đặc biệt là trong khu vực nhà nước.
Quan trọng hơn nữa là phát huy nguồn lực vật chất và trí tuệ của các
doanh nghiệp và nhân dân. Đối với doanh nghiệp nhà nước những kết quả đạt
được trong việc sắp xếp lại, cổ phần hoá, đổi mới quản lý cho thấy rừ hướng
đi và khả năng đẩy mạnh hơn nữa tiến trỡnh đổi mới và nâng cao hiệu quả,
tăng tích luỹ đầu tư, bảo đảm vai trũ chủ đạo của kinh tế nhà nước. Nơi cũn
nhiều tiềm năng cả về nguồn vốn và sức lao động, tạo thêm nhíều việc làm
trong xó hội là khu vực kinh tế dõn doanh mà chỳng ta cú thể và cần phải
khuyến khích phát triển mạnh trong những lĩnh vực pháp luật không cấm, kể
cả một số lĩnh vực dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường,
giao thông đô thị và dịch vụ trong cơ quan nhà nước. Kết quả bước đầu trong
việc thực hiện Luật doanh nghiệp cho thấy, nếu những vướng mắc, trở lực về
thể chế được kiên quyết tháo gỡ, đi đôi với những chính sách, biện phảp thiết
thực hỗ trợ cho sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời khai
thông, phát triển thị trường vốn thỡ chắc chắn sẽ tạo được một bước phát triển
vượt bậc của khu vực kinh tế dân doanh. Thêm vào đó, lợi thế của thành phố
về thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, thu hút chất xám và khả năng đầu
tư kinh doanh của người Việt ở nước ngoài cũn nhiều tiềm năng có thể phát
83
huy.
Về chính sách, có những chính sách tác động trực tiếp đến việc phát
triển ngoại thương như sau:
Năm 1997, luật đầu tư nước ngoài ra đời thực sự tạo nên sự kích thích
đối với việc gia tăng hoạt động thương mại giữa Việt Nam với thế giới trong
đó có cả Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời cũng vào năm này luật đất đai ra
đời cho phép các tư nhân được quyền sử dụng đất nông nghiệp phân bổ, việc
này có ý nghĩa rất lớn trong việc khuyến khích sản xuất nông nghiệp tạo điều
kiện cho đẩy mạnh việc xuất khẩu nông sản.
Năm 1998, Nghị định về quản lý ngoại hối ban hành theo nghị định này
việc nắm giữ ngoại hối được tự do hóa một bước, cho phép mở tài khoản
bằng ngoại tệ, cho phép chuyển và thanh toáncho hàng nhập khẩu và trả nợ
nước ngoài. Điều này làm cho hoạt động ngoại thương năng động hơn, cùng
với nghị định này là việc cho phép ngân hàng hai cấp hoạt động đã làm cho
hoạt động ngoại thương được minh bạch và thuận lợi hơn.
Luật thuế xuất khẩu ra đời quy định biểu thuế quan, tạo một thể chế
quan trọng cho hoạt động ngoại thương. Các hạn chế bị giảm bớt, nới lỏng,
tạo điều kiện thành lập các doanh nghiệp nước ngoài, các tổ chức, công ty
thuộc mọi thành phần kinh tế bắt đầu than gia tích cực vào hoạt động ngoại
thương.
Đặc biệt vào năm 1989, Nhà nước đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với hầu hết
các mặt hàng xuất khẩu. Theo đó hạn ngạch chỉ áp dụng cho 10 mặt hàng xuất
khẩu và 14 mặt hàng nhập khẩu, sau đó giảm dầm. Đối với mặt hàng xuất
khẩu chịu thuế đã giảm từ 120 xuống còn 30 mặt hàng. Ngoài ra, Chính phủ
còn cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sang các ku vực có ngoại
tệ mạnh, hủy bỏ yêu cầu trước đây là xuất khẩu sang các nước trong Hội đồng
tương trợ kinh tế trước khi thực hiện các giao dịch khác. Hệ thống tỷ giá hối
84
đoái cũng được chính phủ thống nhất, bớt đi các phần rủi ro trong hoạt động
thương mại quốc tế. Chính những điều này đã tạo một động lực kinh tế tốt để
các nhà doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu có hiệu quả. Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế lúc này được ban hành đã cho phép các pháp nhân được quyền chủ
động đứng ra ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế.
Sang năm 1990, Chính phủ đã có hàng loạt các thay đổi về hệ thống
pháp luật và chính sách kinh tế thương mại Việt Nam, tiến hành sửa đổi hoàn
thiện luật đầu tư, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu và thuế lợi tức đã được
áp dụng vào thương mại. Hệ thống luật doanh nghiệp và công ty đã tạo lập
được những cơ sở pháp lý và các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách
nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp cổ phần được phép hoạt động một cách
chính thức trong nền kinh tế, tạo một sự chuyển biến mạnh mẽ có lợi cho hoạt
động ngoại thương.
Năm 1991,Việt Nam thông qua quy định về việc thành lập các khu chế
xuất, một hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài để kích thích xuất khẩu mà
theo kinh nghiệm các nước đi trước trong khu vực đã đạt được một số thành
tựu nhất định. Đặc biệt đây là lần đầu tiên các công ty tư nhân được trực tiếp
tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, năm 1992, luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam lại được tiếp tục sửa đổi lần 2 để giảm việc phân
biệt đối xử giữa các công ty liên doanh vớicông ty 100% vốn nước ngoài theo
hình thức đầu tư mới là xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT) trong các
dự án cơ sở hạ tầng. Điều này tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo tiền đề
cho sản xuất trong nước phát triển. Cũng trong năm này hiệp định về ưu đãi
được ký kết giữa Việt Nam và EU đã cung cấp các hạn ngạch cho hàng dệt và
quần áo may sẵn của Việt Nam vào Châu Âu và cũng nhận được một số ưu
đãi về thuế cho một số mặt hàng xuất khẩu từ EU, đây là một thị trường rộng
lớn.
Năm 1994, Việt Nam mở rộng thị trường ngoại hối liên ngân hàng, xúc
85
tiến và đẩy mạnh việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, ban hành luật
khuyến khích đầu tư trong nước, khơi dậy một nuồn lực quan trọng để phát
triển kinh tế. Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, AFTA. Sang năm 1997,
luật đầu tư nước ngoài mới được hoàn thiện và có hiệu lực đã dần có một
khung pháp lý cần thiết cho việc phát triển kinh tế thị trường hướng xuất
khẩu.
Năm 1998 - 1999 Việt Nam có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho
hoạt động ngoại thương và đến năm 2000 Việt Nam đã đánh dấu một mốc son
trong quá trình cải cách thể chế chính sách và thể chế thương mại theo hướng
tự do hóa và hội nhập. Trước hết là sự kiện tiến tới ký kết hiệp định thương
mại Việt - Mỹ và kế đến là quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp đã đạt
được nhiều kết quả và thị trường chứng khoán ra đời, đánh dấu những nỗ lực
lớn của Chính phủ trong việc hình thành một cách đồng bộ các thị trường và
khơi dậy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước.
Những cơ chế và chính sách trên đã có nhiều tác động tích cực đối với
việc xúc tiến thương mại trên địa bàn thành phố và là cơ sở để định hướng
cho việc phát triển ngoại thương trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2010.
3.1.3. Những quan điểm cơ bản để xác định mục tiêu phát triển
ngoại thương trong điều kiện hội nhập
Trước khi đi vào mục tiêu, chúng ta cần thống nhất những quan điểm
sau khi đặt ra các mục tiêu về phát triển ngoại thương trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh trong điều kiện hội nhập như sau:
- Việc hoạch định các mục tiêu định hướng phát triển ngoại thương
thành phố Hồ Chí Minh phải đồng bộ với những mục tiêu kinh tế - xã hội của
địa bàn thành phố để tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình hội nhập của quốc tế.
- Việc định hướng các mục tiêu phải phù hợp với những định hướng
phát triển ngoại thương mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Định hướng ngoại
86
thương trên địa bàn thành phố không chỉ tập trung phát huy các lợi thế so
sánh của thành phố mà còn phải kết hợp hài hòa với việc phát huy lợi thế so
sánh của các địa phương khác trong vùng. Hay nói cách khác là việc định
hướng trên không chỉ căn cứ vào điều kiện đặc thù của địa bàn thành phố mà
phải căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của cả khu vực phía Nam.
- Để có thể thực hiện thành công các mục tiêu đề ra cần phải có một
giải pháp linh hoạt tuỳ theo từng giai đoạn và thời kỳ, cần phải kết hợp hài
hòa giữa sản xuất hàng xuất khẩu với sản xuất thay thế hàng nhập khẩu nhằm
phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển sản xuất hướng về xuất khẩu qua
từng giai đoạn của chiến lược.
- Cần chú ý sự phối hợp giữa các cấp quản lý trong hoạt động xuấtt
nhập khẩu nhằm đơn giản hóa các thủ tục và nâng cao hiệu quả trong quản lý.
Nhà nước phải hoàn thiện dần hệ thống luật lệ, tạo môi trường pháp lý ngày
càng thuận lợi hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp.
3.2. Những mục tiêu phát triển ngoại thƣơng trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Mục tiêu chung
Nhằm đảm bảo tính đồng bộ cho việc đề ra các mục tiêu phát triển
ngoại thương trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện hội nhập,
chúng ta cần phải quán triệt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn thành phố từ nay đến năm 2010 như sau:
- Mức kim ngạch xuất khẩu của thành phố đạt 42.400 triệu USD bằng
34,4% dự báo kim ngạch xuất khẩu của cả nước và kim ngạch nhập khẩu là
26.000 triệu USD bằng 21,7% dự báo kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
- Quy mô và nhịp độ phát triển hàng công nghiệp trên địa bàn thành
phố chiếm 95% trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
- Tăng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường thế giới nhưng giao
dịch tuyệt đối trong thị trường Châu Á và nhịp độ tăng chậm hơn thị trường
87
Châu Âu, Bắc Mỹ, tiến tới giảm thị phần trong thị trường các nước trong khu
vực Châu Á trong cơ cấu thị trường xuất khẩu. Mức tăng GDP tăng 1,6 lần,
kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người năm 2010 đạt 5.864 USD/năm, theo
mục tiêu này thì mức tăng GDP trên địa bàn thành phố cao gấp 2,5 đến 2,8
lần so vớ cả nước.
Để đạt được những mục tiêu mang tính chất định lượng trên cần phải
có giải pháp cụ thể trong từng khía cạnh, từng mặt của nền sản xúât trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian sắp tới và nhất là cần phải có
một quyết tâm thống nhất trong việc thực hiện.
3.2.2. Mục tiêu cụ thể
Bảng 14. Dự báo các mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh đến năm 2010
Đơn vị tớnh: triệu USD
1995 2000 2005 2010
1. Kim ngạch xuất khẩu
- Phương án 1 (tối thiểu với
tốc độ 22% năm giai đoạn 2.525 6.825 16.983 42.259 1996 - 2000 và 20%/năm
giai đoạn 2001 - 2010)
- Phương án 2 (tối đa với
tốc độ tăng 25% năm cho 2.525 7.706 23.516 71.765
cả 2 giai đoạn)
2. Kim ngạch nhập khẩu:
- Phương án 1 (tối thiểu với
tốc độ tăng 24% năm trước 2.486 7.288 17.686 42.919 năm 2000 và 19% sau năm
88
2000)
- Phương án 2 (tối đa tốc
độ tăng 30% trước năm 2.486 9.230 22.967 57.149 2000 và 20% sau năm
2000).
89
Nguồn: Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 15. Thị trƣờng xuất nhập khẩu trong thời gian tới
Thị trƣờng
Mặt hàng
Phƣơng thức
chiến lƣợc
Xuất khẩu
Nhập khẩu
tiếp cận và mở rộng
- Mỏy múc lẻ, dụng cụ phụ tựng - Nguyờn liệu - Nhiờn liệu
- Tham gia phân công lao động quốc tế trong hiệp hội. - Trực tiếp.
ASEAN
- Sản phẩm CN (điện tử, viễn thông) - Nụng sản phẩm - CN nhẹ - Mỏy múc thiết bị lẻ
- Mỏy múc thiết bị - Cụng nghệ - Hàng tiờu dựng cao cấp
NHẬT
- Sản phẩm may mặc. - TTCN - Thủy hải sản - Dầu thụ - Nụng sản phẩm
- Trực tiếp - Sản phẩm có chất lượng cao - Mở rộng chế độ thuế quan ưu đói phổ cập (GSP)
- Trực tiếp - Chính phủ hỗ trợ theo chế độ GSP hoặc MFN
- Mỏy múc thiết bị - Hàng tiờu dựng cao cấp - Cụng nghệ
EU
- Sản phẩm may mặc - Da giày - TTCN - Thủy hải sản - Nụng sản phẩm
SNG VÀ ĐÔNG ÂU
- Trực tiếp - Khụi phục sự hợp tỏc hai bờn cựng cú lợi - Cải thiện điều kiện thanh toán quốc tế - GSP hoặc MFN - Sản phẩm chất lượng cao
HOA KỲ VÀ CANADA
- Nguyờn nhiờn vật liệu - Phõn bún - Sắt, thộp - Bụng, sợi - Mỏy múc nguyờn vật liệu cao cấp - Cụng nghệ - Hàng tiờu dựng cao cấp - Nguyờn vật liệu
- Trực tiếp - Thụng qua E.U
CHÂU PHI VÀ TRUNG CẬN ĐÔNG
- Thực phẩm chế biến - Điện tử , viễn thông - TTCN - May mặc - Giày da - Gạo (đi nước khác) - Nông sản tươi và chế biến - May mặc, giày da - TTCN - Gạo - Hàng tiờu dựng - TTCN - Dụng cụ phụ tùng điện tử
90
Nguồn: Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 16. Mục tiêu phát triển xuất khẩu trên địa bản Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010
Đơn vị tính: %
Năm
Tổng số Nụng sản chế biến Thủy hải sản Lõm sản Hàng CN - TTCN 2000 100,0 27,5 14,0 3,5 55,0 2010 100,0 24,5 12,5 3,0 60,0
Nguồn: Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh
Năm 2000
91
Năm 2010
3.3. Một số giải pháp chung đối với việc phát triển hoạt động
ngoại thƣơng ở Thành phố Hồ Chí Minh
Thứ nhất là phát triển sản xuất để tạo nguồn hàng xúât khẩu, trong thời
gian tới phải tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp, tăng tỷ trọng xuất
khẩu hàng tinh chế, giảm tỷ trọng xuất khẩu hàng thô và sơ chế, tăng tính ổn
định và chủ động trong việc tổ chức cung ứng hàng xuất khẩu, tăng khả năng
cạnh tranh cả về chất lượng lẫn giá cả các sản phẩm trên thị trường thế giới,
cụ thể phải thực hiện các giải pháp sau:
- Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, nên tổ chức theo mô
hình công ty mẹ, công ty con để giảm bớt các đầu mối, các chi phí trung gian
không thật sự cần thiết góp phần giảm chi phí đầu vào. Thực hiện cơ cấu, sắp
xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, nếu thực hiện cổ phần hóa thì phải đánh
giá đúng giá trị thực tài sản của công ty, đánh giá đúng thực lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp.
- Hoàn thiện các công tác tiếp thị, xây dựng hệ thống quản lý chất
lượng, thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm phù hợp với thị trường trong nước
và quốc tế.các doanh nghiệp cần phải tổ chức các hiệp hội của ngành để kịp
thời nắm bắt thông tin thị trường đẩy mạnh công tác quảng cáo tiếp thị trong
nước lẫn nước ngoài bằng nhiều cách như tham gia hội chợ quốc tế, xây dựng
các trang web để giới thiệu công ty và sản phẩm nhằm nâng cao uy tín và hình
tượng công ty. Đồng thời, nên giảm các chi phí hội họp, tiền hoa hồng để tập
trung vốn cho việc thay đổi mẫu mã, xâm nhập thị trường quốc tế. Các doanh
nghiệp cần phải chủ động nắm bắt các tiêu chuẩn quốc tế trong quản lý và sản
xuất nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra của các thị trường quốc tế khó tính, đòi hỏi
cao về chất lượng.
- Cần có kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường việc
92
đổi mới công nghệ góp phần nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của quốc tế, nâng cao sức ép cạnh tranh với các
mặt hàng khác trên thế giới.
Thứ hai là đẩy mạnh việc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, khi
giải quyết tốt được vấn đề này thì mới đảm bảo được tính ổn định và vững
chắc cho thị trường nội địa trong cuộc chạy đua với các mặt hàng nhập khẩu
khi Việt Nam gia nhập WTO. Thành phố Hồ Chí Minh có mãi lực rất lớn, nhu
cầu tiêu dùng của dân cư ngày càng tăng do vậy cần phải khuyến khích phát
triển các mặt hàng tiêu dùng cao cấp thay thế hàng nhập khẩu. Đồng thời nên
có cơ chế điều tiết kinh tế bằng các công cụ vĩ mô như các chế độ ưu đãi cho
các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu hàng nội thay thế hàng ngoại nhập, ưu
tiên mua ngoại tệ của ngân hàng trong việc cân đối thu chi của doanh nhiệp.
Thứ ba là mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tổ chức lại thị trường nội
địa thích ứng tốt với điều kiện hội nhập và tự do hóa thương mại, nhất là đẩy
mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại từ việc phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan chức năng xúc tiến thương mại như Bộ thương mại, Sở thương mại,
Cục xúc tiến thương mại cho đến việc thành lập các trung tâm thông tin thị
trường, tăng cường ký kết các hiệp định thương mại, hợp đồng trao đổi hàng
hóa giữa các Chính phủ.
Thứ tư là phải cải tiến cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, đây là giải pháp
đặc biệt quan trọng. Yêu cầu đặt ra đối với cơ chế quản lý là phải đồng bộ,
hợp lý và liên thông với quốc tế. Việc trước tiên là phải sắp xếp lại bộ máy
quản lý kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường công tác đào
tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, kể cả cán bộ làm công tác quản lý
Nhà nước và đội ngũ quản trị doanh nghiệp. Cính phủ cần cải tiến cơ chế
quản lý xuất nhập khẩu, đơn giản hóa các thủ tục quản lý xuất nhập khẩu,
93
điều chỉnh thuế quan choo phù hợp và kể cả các biện pháp phi thuế quan.
Cuối cùng là các giải pháp bổ trợ khác như: phát triển dịch vụ bảo
hiểm, khuyến khích các đơn vị đầu tư hệ thống kho bãi, phát triển và đa dạng
hóa các loại hình vận tải, đầu tư nâng cao các dịch vụ hoàn tất sản phẩm xuất
nhập khẩu ngay tại cảng, chú ý phát triển và hiện đại hóa khả năng tiếp nhận
an toàn các tàu biển có tải trọng lớn, mở rộng và nâng cao năng lực hoạt động
của hệ thống cảng, khuyến khích phát triển các dịch vụ có liên quan khác như:
viễnthông và thông tin liên lạc, hệ thống kiểm toán và giám định hàng hóa.
Nhóm giải pháp này nhằm củng cố cơ sở hạ tầng và phát triển các dịch vụ bổ
trợ nhằm phục vụ công tác khuếch trương xuất nhập khẩu, góp phần nâng cao
hiệu quả của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế - xã hội nói chung trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3.4. Những giải pháp cụ thể về việc mở rộng thị trƣờng xuất nhập
khẩu của Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới
Một trong những vấn đề quan trọng để phát triển ngoại thương chính là
phải thiết lập các mối quan hệ giao dịch và phải có biện pháp tiếp cận đối với
thị trường thế giới. Việc này không chỉ đòi hỏi về năng lực của các doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố mà đòi hỏi phải có sự can thiệp của Chính phủ
trong vấn đề thiết lập mối quan hệ và tiếp cận các đối tác lớn, có thể cụ thể
những cách tiếp cận đối với các thị trường thế giới và khu vực như sau :
THỊ TRƢỜNG ASEAN:
Xuất khẩu: gạo, nông sản, thực phẩm chế biến, sản phẩm công
nghiệp nhẹ, hóa mỹ phẩm, dược phẩm, hàng tiểu thủ công nghiệp, hàng điện
tử gia dụng, ôtô xe máy, sản phẩm tin học.
Nhập khẩu: nguyên liệu chế biến thực phẩm, vật tư và nguyên liệu
dùng trong công nghiệp nhẹ, chất bán dẫn, vật tư nông nghiệp.
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các
94
doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện đúng Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung (CEPT) và các quy định khác của AFTA, APEC. Đối
với doanh nghiệp cần phải tăng cường buôn chuyến trong phạm vi khu vực,
mua bán với khối lượng nhỏ, giao hàng nhanh bằng máy bay và các phương
tiện khác. Đồng thời, cần phải thiết lập văn phòng đại diện, chi nhánh ở các
địa điểm trung tâm để thực hiện giao dịch trực tiếp với khách hàng, không cần
phải qua khâu trung gian và tiến tới đầu tư trực tiếp qua các khu vực này.
THỊ TRƢỜNG NHẬT BẢN:
Xuất khẩu: gạo, hải sản tươi sống, đông lạnh và chế biến bao gồm
chế biến nông sản, thực phẩm, rau quả, trái cây tươi và đóng hộp, hàng may
mặc, dệt kim, giày dép, hàng mỹ nghệ, đồ chơi, hàng mỹ nghệ, xe hơi.
Nhập khẩu: công nghệ, máy móc công cụ, thiết bị toàn bộ cho công
nghiệp chế biến, thiết bị chính xác, nguyên vật liệu hàng tiêu dùng cao cấp.
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ khai thông các quan hệ thương
mại trên nguyên tắc hoạt động của tổ chức APEC (Việt Nam và Nhật đều là
thành viên chính htức của tổ chức kinh tế này) để hỗ trợ hoạt động cho các
doanh nghiệp. Mặt khác phải mua công nghệ chế biến thực phẩm và cử cán
bộ kỹ thuật sang Nhật để học tập, năm vững kỹ thuật chế biến thực phẩm phù
hợp với các tiêu chuẩn về chất lượng mà thị trường này đòi hỏi. Trong phân
phối hàng hóa cần tăng cường hợp tác với các công ty bán lẻ của Nhật để
cung cấp hàng đến tận tay người tiêu dùng. Riêng về sản phẩm điện tử và ôtô,
khuyến khích các nhà đầu tư Nhật tái nhập các sản phẩm này với giá cả cạnh
tranh cao (do chúng ta có nhiều lợi thế so sánh) để phân phối tại Nhật và nước
thứ ba.
THỊ TRƢỜNG CÁC NƢỚC NICs VÀ ĐÔNG BẮC Á:
Xuất khẩu: gạo, thủy sản, nông sản, thực phẩm chế biến, trái cây
95
tươi và đóng hộp, hàng may mặc dày dép và thủ công mỹ nghệ.
Nhập khẩu: nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, máy móc công
cụ, máy móc công trình, vật liệu xây dựng phụ tùng xe hơi, linh kiện điện tử.
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ triển khai các nguyên tắc giao
dịch của tổ chức APEC. Đặt văn phòng đại diện và chi nhánh ở HongKong để
trực tiếp giao dịch loại trừ mua bán qua khâu trung gian. Thông qua hoạt động
liên doanh với Đài Loan, Hàn Quốc, HongKong để tái xuất hàng hóa trở lại
đối với các nước này và xuất đi Mỹ, EU.
THỊ TRƢỜNG NGA VÀ ĐÔNG ÂU
Xuất khẩu: gạo, lương thực thực phẩm chế biến, thịt gia súc, rau
quả đóng hộp, hàng may mặc, dệt kim, giày dép, hàng tiêu dùng, công nghiệp
nhẹ, hóa mỹ phẩm, hàng tiểu thủ công nghiệp, hàng điện tử gia dụng, xe máy,
ôtô, sản phẩm công nghệ thông tin.
Nhập khẩu: thiết bị cho công nghiệp nặng, nguyên vật liệu, phân
hóa học, sắt thép, bông sợi và bột mì.
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ đảm bảo khai thông về phương
thức thanh toán nợ cũ và xác lập cơ chế thanh toán an toàn cho các quan hệ
mậu dịch mới để các doanh nghiệp nâng cao quy mô gia dịch. Khuyến khích
các công ty của người Việt Nam ở Đông Âu tích cực mở rộng quan hệ giao
dịch và lôi kéo các doanh nghiệp trpng nước đầu tư trực tiếp tại các nước này,
trên thực tế đã có nhiều doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh đầu tư trực tiếp tại
Nga. Mặt khác cần chủ động mở các chi nhánh sản xuất kinh doanh ở vùng
Viễn Đông để đẩy mạnh xuất khẩu lương thực thực phẩm chế biến và hàng
tiêu dùng sang khu vực này.
THỊ TRƢỜNG TÂY ÂU (EU)
Xuất khẩu: gạo, thủy sản, nông sản, thực phẩm chế biến, thủy sản
96
tươi sống, đông lạnh và chế biến trái cây tươi, đóng hộp, hàng may mặc, dệt
kim, giày dép, hàng mỹ nghệ và trang trí nội thất bằng gỗ cao cấp, đồ chơi,
hàng lưu niệm, hàng điện tử, phụ tùng cơ khí, linh kiện máy tính.
Nhập khẩu: công nghệ, máy móc công cụ, thiết bị chính xác, thiết
bị toàn bộ cho công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, nguyên vật liệu, bột mì,
hàng tiêu dùng cao cấp, dược phẩm, vật liệu xây dựng.
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ tăng cường các mối quan hệ
song phương Việt Nam - EU , đàm phán mở rộng chế độ ưu đãi thuế quan cho
nhiều mặt hàng xuất khẩu khác của Việt Nam ngoài hàng may mặc và thủy
sản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường
EU. Về phía các doanh nghiệp thiết lập hệ thống văn phòng đại diện và chi
nhánh rộng khắp các nước Tây Âu để giao dịch trực tiếp. Thông qua các công
ty Việt kiều ở Pháp để liên kết với những công ty bán lẻ tại chỗ và mở rộng
buôn bán với các nước khác trong khu vực đồng thời khuyến khích các nhà
đầu tư Tây Âu tái nhập xe hơi và hàng điện tử tương tự như thị trường Nhật
Bản.
THỊ TRƢỜNG MỸ VÀ BẮC M Ỹ
Xuất khẩu: gạo, thủy sản, nông sản, thực phẩm chế biến, trái cây
tươi, thủy hải sản chế biến, gia vị và thực phẩm truyền thống Việt Nam, hàng
may mặc, dệt kim, giày dép, hàng lưu niệm, linh kiện và sản phẩm điện tử
hoàn chỉnh.
Nhập khẩu: công nghệ, máy móc công cụ, thiết bị toàn bộ cho công
nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, xe máy công trình, thiết bị chính xác,
nguyên vật liệu, bột mì, hàng tiêu dùng cao cấp, dược phẩm, vật liệu xây
dựng, máy vi tính và các sản phẩm phầm mềm ứng dụng .
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ ttriển khai các giao dịch theo
nguyên tắc của tổ chức APEC và Hiệp định thương mại song phương Việt-
97
Mỹ đáp ứng các yêu cầu để được hưởng quy chế tối huệ quốc, tạo điều kiện
cho hàng Việt Nam có sức cạnh tranh cao tại thị rường Mỹ. Đặt văn phòng
đại diện và chi nhánh ở Mỹ, Canada để liên kết với các công ty bán lẻ trong
khu vực và hướng đến khả năng đầu tư trực tiếp chế biến thực phẩm tại Mỹ và
Canada. Kêu gọi cộng đồng người Việt tích cực đầu tư vốn và kỹ thuật về
nước làm hạt nhân thu hút ngày càng nhiều công ty lớn đến đầu tư để tái xuất
hàng hóa về khu vực Bắc Mỹ. Đặc biệt đẩy mạnh việc xuất khẩu các hàng hóa
98
có yếu tố thâm dụng kỹ thuật cao vào thị trường này.
THỊ TRƢỜNG TRUNG ĐÔNG VÀ CHÂU PHI
Xuất khẩu: gạo, thực phẩm chế biến, hàng tiêu dùng công nghiệp
nhẹ, dược phẩm, máy móc, công cụ, hàng điện tử, sản phẩm công nghệ thông
tin.
Nhập khẩu: nguyên vật liệu.
Biện pháp tiếp cận: tăng cường quan hệ cấp chính phủ để mở
đường cho quan hệ mậu dịch của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần đặt
các cơ sở giao dịch tại các nước Châu Phi để trực tiếp tham gia đấu thầu giành
hợp đồng cung cấp hàng hóa mang tính ổn định và lâu dài.
THỊ TRƢỜNG ÚC VÀ CHÂU ĐẠI DƢƠNG
Xuất khẩu: gạo, thủy sản, nông sản, thực phẩm chế biến, hàng may
mặc, dệt kim, giày dép, hàng mỹ nghệ và trang trí nội thất bằng gỗ cao cấp,
đồ chơi, hàng lưu niệm, hàng điện tử, phụ tùng cơ khí, linh kiện máy tính.
Nhập khẩu: lúa mì, hàng tiêu dùng cao cấp dược phẩm, vật liệu xây dựng, xe
máy công trình các phương tiện viễn thông.
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ khai thác nguyên tắc giao dịch
của tổ chức APEC. Đặt văn hòng đại diện ở Úc, New Zealand à thông qua các
công ty của Việt kiều ở đây để mở rộng giao dịch với khu vực, tiến tới đầu tư
trực tiếp khai thác và chế biến nông sản, thực phẩm nơi đây.
THỊ TRƢỜNG TRUNG QUỐC
Xuất khẩu: gạo, nông sản, thực phẩm chế biến, trái cây tươi, dược
phẩm, hóa mỹ phẩm, sản phẩm công nghệ thông tin.
Nhập khẩu: máy móc công cụ, nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến và vật liệu xây dựng.
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ khai thác nguyên tắc giao dịch
của tổ chức APEC. Đồng thời tăng cường các biện pháp thuế quan để kiểm
99
soát tình hình buôn bán tiểu ngạch, chống buôn lậu qua biên giớ i, hỗ trợ tích
cực hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu qua chính ngạch. Thông qua các nhà
đầu tư Mỹ, Nhật, Hàn Quốc để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của các liên
doanh từ TP.Hồ Chí Minh sang thị trường Trung Quốc và hướng đến đầu tư
trực tiếp nơi đây.
THỊ TRƢỜNG LÀO, CAMPUCHIA
Xuất khẩu: thực phẩm chế biến, hàng tiêu dùng, công nghiệp
nhẹ, hàng tiểu thủ công nghiệp, dược phẩm, máy móc, thiết bị, xe máy, ôtô.
Nhập khẩu: gỗ tròn, gỗ xẻ, nông, lâm, xúc sản khác cho công
nghiệp chế biến.
Biện pháp tiếp cận: Cấp chính phủ ký kết các hiệp định thương
mại và hợp tác toàn diện,đồng thời tăng cường việc kiểm soát chống buôn lậu
hàng Trung Quốc và Thailand từ các nước láng giềng này vào Việt Nam. Các
doanh nghiệp thành phố phải chủ động tham gia hoạt động tại các khu kinh tế
tự do được Chính phủ cho thiết lập dọc biên giới để đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu hàng hóa sang các nước này.
3.5. Những kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
một số ngành sản xuất chủ lực trên địa bàn Thành phố
Nhằm phát huy các lợi thế của thành phố và nâng cao năng lực cạnh
tranh của các hàng hóa trên thương trường quốc tế, thành phố đã xác định một
số mặt hàng công nghiệp chủ lực trong thời gian tới như sau:
Theo Bộ Thương mại, do cần tiếp tục tập trung điều hành xuất khẩu tốt
nhóm các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tốt gồm thuỷ sản, dệt may, giầy
dép. Bên cạnh đó, hỗ trợ cho nhóm hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao,
thuận lợi về thị trường xuất khẩu và có năng lực sản xuất như hàng linh kiện
điện tử và máy tính, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, dây cáp và cáp điện, các
100
sản phẩm từ thép, rau quả.
Đối với từng mặt hàng cụ thể, đánh giá của Bộ Thương mại cho thấy,
thuỷ sản vẫn cũn khả năng tăng xuất khẩu trong năm 2006 do tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu bỡnh quõn 5 năm qua đạt 12%, năng lực sản xuất có thể mở
rộng và thị trường xuất khẩu cũn khả năng khai thác, nhất là thị trường Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Hàng dệt may, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bỡnh quõn 5 năm qua
là 20,5%, ước tính năm 2005 chỉ tăng 5% so năm 2004 mặc dù năng lực cũn
rất lớn. Năm 2006, các doanh nghiệp Việt Nam có thể đó thớch nghi tốt hơn
với những biến cố của thị trường dệt may thế giới trong năm 2005, đồng thời
với việc trở thành thành viên WTO (dự kiến giữa năm 2006) kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng này có thể tăng trở lại.
Giầy dộp, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bỡnh quõn 5 năm qua là
15,4%. Do gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía Trung Quốc nên mặt hàng
này trong năm 2005 chỉ tăng khoảng 13% so năm 2004. Để đạt mục tiêu tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu cả nước tại 2 phương án, các chuyên gia cho rằng
cần dựa vào sự tăng trưởng của mặt hàng này.
Với tốc độ tăng bỡnh quõn khỏ cao trong 5 năm qua là 18,5%, nhưng
theo Bộ Thương mại, mặt hàng thủ cụng mỹ nghệ chưa xứng đáng với tiềm
năng xuất khẩu (xét về năng lực sản xuất và thị trường). Đây là mặt hàng cần
tập trung khai thác những lợi thế về xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất
khẩu cả nước. Nhiệm vụ đặt ra đối với xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
trong năm 2006 đạt tốc độ tăng kim ngạch 33 – 44%, tương đương 150 – 200
triệu USD. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng cần tập trung vào những giải pháp
khắc phục những hạn chế về thiết kế, mẫu mó, xỳc tiến thương mại.
Rau quả, được xác định là mặt hàng cần tiếp tục đẩy mạnh khai thác
tiềm năng xuất khẩu. Các chuyên gia cho biết, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
101
này có thể được nâng cao nếu giải quyết được đồng bộ về thị trường, an toàn
vệ sinh thực phẩm, chất lượng hàng xuất khẩu. Bảng thống kê cho thấy, tuy
tốc độ tăng bỡnh quõn trong 5 năm qua của mặt hàng này là 1,5%, nhưng ước
tính năm 2005 đạt mức tăng rất cao 35% so năm 2004. Năm 2006, nếu phấn
đấu đạt mức tăng trưởng như năm 2005 thỡ mặt hàng này đóng góp vào tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 80 – 90 triệu.
Cỏc mặt hàng cụng nghiệp chế biến gồm điện tử và linh kiện máy
tính, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, dây cáp và cáp điện có tốc độ tăng bỡnh
quõn 5 năm qua rất cao từ 12,5 - 37%, ước tính năm 2005 tăng 32 - 44%. Đây
là những mặt hàng có thể mở rộng cung do mới được đầu tư, có lợi thế về giá
cả, chất lượng và chưa bị hạn chế về thị trường. Hơn nữa, nhóm hàng này tập
trung các FDI rất lớn, là khu vực có nhiều thế mạnh về khai thác thị trường
xuất khẩu. Nhiệm vụ đặt ra trong năm 2006 đối với các mặt hàng này phải đạt
tốc độ tăng gấp 1,5 - 2 lần so tốc độ bỡnh quõn 5 năm qua, làm tăng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam khoảng 1,3 - 1,5 tỷ USD.
Riờng dầu thô và than đá, mặc dù có thuận lợi về thị trường và giá tiếp
tục đứng ở mức cao, nhưng do định hướng của Chính phủ về việc không khai
thác và lạm dụng xuất khẩu quá mức nguồn khoáng sản không thể tái tạo, nên
trong năm 2006 chỉ đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt tương đương năm
2005 (giả định giá tương đương năm 2005).
Gạo cũng là mặt hàng có tốc độ tăng bỡnh quõn 5 năm qua khá cao
(12,7%), nhưng Bộ thương mại cho biết, trong năm 2006 không thể đạt mức
tăng trưởng như những năm qua do khó có thể tăng được lượng xuất khẩu
trong khi giá không có xu hướng tăng.
Để thực hiện được việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành
chủ lực trên trong thời gian tới đối với thành phố cần phải:
- Cần phải xây dựng chiến lược kích thích các thành phần kinh tế tích
102
cực đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ kỹ thuật và tăng năng suất lao động
của lực lượng sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu nhằm nâng cao chất lượng
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cần khuyến khích các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư nhằm tăng quy mô xuất khẩu tương ứng tiềm năng
kinh tế của họ sẽ có tác động cho việc xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn thành
phố.
- Các doanh nghiệp cần phải áp dụng phương thức huy động vốn theo
chiều sâu bằng cách hợp tác với các địa phương khác đầu tư phát triển nguồn
nguyên vật liệu, xây dựng các cơ sở vệ tinh sơ chế nguyên liệu tại chỗ trước
khí cung ứng cho việc hoàn tất sản phẩm ở thành phố nhằm đảm bảo tính ổn
dịnh cho số lượng và chất lượng nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất.
- Đối với hoạt động gia công lắp ráp, cần gia tăng mức cung ứng
nguyên liệu tại chỗ bằng cách khuyến khích đầu tư sản xuất bán thành phẩm,
phụ liệu cao cấp cho các ngành dệt may, giày da, đầu tư nâng cao chế tạo các
loại linh kiện phụ tùng cho ngành điện tử, cơ khí.
- Trong việc mở rộng quan hệ quốc tế bên cạnh việc nâng cao tính chủ
động trong công tác tiếp thị để loại trừ việc xuất khẩu qua thị trường trung
gian cần phối hợp với cơ quan quản lý thị trường của Nhà nước để tăng cường
việc kiểm soát chống buôn lậu.
- Trong vấn đề quản lý của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương
cần phải bãi bỏ cơ chế xin - cho trong việc phân bổ hạn ngạch xuất nhập
khẩu, đồng thời thiết lập cơ chế điều tiết mang tính đòn bẩy như thuế, tỷ giá
hối đoái.
Đối với cấp Chính phủ, tác giả xin kiến nghị về việc cải tiến cơ chế
quản lý xuất nhập khẩu như sau:
- Đề nghị các cơ quan quản lý xuất nhập khẩu cần đơn giản hóa các thủ
tục hơn nữa và hướng dẫn cho các doanh nghiệp nắm vững các thủ tục nhằm
103
giải quyết nhanh chóng các vướng mắc, phiền hà không đáng có cho các
doanh nghiệp. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan quản lý xuất
nhập khẩu của Chính phủ tại Thành phố Hồ CHí Minh và khu vực phía Nam
với Ủy ban nhân dân hành phố và các Sở, Cục quản lý.
- Thực hiện tốt các biện pháp về thuế quan, do việc thực hiện lộ trình
cắt giảm thuế qua khi gia nhập WTO nên đã ảnh hưởng nhiều đến việc điều
chỉnh thuế suất, nhưng cần tạo sự ổn định tương đối trong biểu thuế để các
doanh nghiệp có thể yên tâm tính toán kế hoạch đầu tư.
- Về vấn đề điều chỉnh các biện pháp phi thuế quan, nên tập rung hơn
về các đầu mối xuất nhập khẩu, không nên mở rộng một cách tràn lan mà chỉ
tập trung cho các doanh nghiệp tầm cỡ, có kinh nghiệm trong việc xuất nhập
khẩu. Mặt khác, cần chấm dứt tình trạng tồn tại của cơ chế Xin - Cho trong
việc phân bổ hạn ngạch, trong việc này phải lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu
chuẩn hàng đầu chứ không nên phân bổ theo vùng lãnh thổ như trước đây.
- Thành lập các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, tăng cường hoạt động của các cơ
quan xúc tiến thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu và các
luận cứ khoa học chính xác cho việc đề ra các giải pháp tăng cường hoạt động
ngoại thương trên địa bàn thành phố.
Nói tóm lại, với vai trò là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước cùng
với những ưu thế của Thành phố Hồ Chí Minh cần phải được phát huy trong
việc đẩy mạnh hoạt động ngoại thương trên địa bàn thành phố trong thời gian
sắp tới cần phải quán triệt các quan điểm sau:
Thứ nhất là việc phát triển ngoại thương trên địa bàn thành phố phải
phù hợp với định hướng phát triển ngoại thương của cả nước và khu vực
trong điều kiện mở cửa hội nhập, cần phải phát huy lợi thế trung tâm là của
ngõ giao thương quốc tế quan trọng nhất trong vùng Nam Bộ.
Thứ hai là phải nhanh chóng đưa hàng công nghiệp chiếm ưu thế tuyệt
104
đối trong nền kinh tế, đặc biệt là những mặt hàng có yếu tố thâm dụng về kỹ
thuật. Kết hợp hài hòa giữa phát triển hàng hóa hướng xuất khẩu thay thế
hàng nhập khẩu để tạo nền tảng phát triển vững chắc.
Thứ ba là khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển
ngoại thương, trong đó chú trọng kích thích lực lượng ngoài quốc doanh và
nước ngoài phát triển tương xứng với tiềm năng của họ.
Không ngừng cải tiến và hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại thương để tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố tham gia xuất
nhập khẩu có hiệu quả. Đây có thể xem là nhóm biện pháp quan trọng hàng
đầu cần phải tinh gọn và nâng cao hiệu quả trong việc quản lý xuất nhập
khẩu. Đối với thành phố cần sắp xếp, tinh gọn bộ máy quản lý hành chánh về
kinh tế và tổ chức lại lực lượng sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, tăng
cường công tác đào tạo cán bộ phục vụ công tac quản lý. Đối với Chính phủ,
đề nghị đơn giản hóa hơn nữa thủ tục quản lý xuất nhập khẩu, điều chỉnh thuế
quan đảm bảo mức bảo hộ cần thiết đối với sản phẩm nội địa mà không mâu
thuẫn với các điều ước quốc tế , giảm các đầu mối nhập khẩu, chuyển dần từ
việc quản lý bằng hạn ngạch sang quản lý bằng các biện pháp thuế quan, kết
hợp việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo cơ chế linh hoạt và các biện pháp tài
chính thích hợp. Mặt khác cần phải tăng cường các giải pháp bổ trợ khác như:
105
dịch vụ bảo hiểm, kiểm toán, giám định hàng hóa...
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, luận văn đã giải quyết vắn đề cơ bản được xác lập từ đầu,
đó là dựa vào lý luận chung, các quan điểm, kinh nghiệm trong việc vận dụng
các lý thuyết về khả năng cạnh tranh, lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế
cũng như chiến lược công nghiệp hóa theo xu thế kinh tế mở của các quốc gia
đó điều kiện kinh tế - xã hội ban đầu giống như Việt Nam để phân tích, đánh
giá hoạt động ngoại thương trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Từ việc
nhận thức rõ về ngoại thương và cũng như tầm quan trọng và vai trò của hoạt
động ngoại thương đối với Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo nền tảng cho việc
hoạch định các mục tiêu và giải pháp cụ thể để phát triển ngoại thương trên
địa bàn thành phố trong bối cảnh hội nhập. Nhìn chung, đề tài đã cố gắng tập
trung phân tích những cơ hội thách thức đồng thời cũng là xu thế khách quan
của việc phát triển ngoại thương trong điều kiện hội nhập. Thành phố Hồ Chí
Minh cùng với những lợi thế của nó đã tận dụng được đến đâu các lợi thế so
sánh nhằm thúc đẩy hoạt động ngoại thương trên địa bàn thành phố, xứng
đáng là trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Đề tài đã đi sâu vào phân tích các
tình hình cụ thể của hoạt động ngoại thương trên địa bàn để từ đó xác định
những mặt yếu kém cần khắc phục ngay đồng thời đề xuất các biện pháp thực
hiện nhằm xúc tiến hoạt động thương mại, tăng khả năng cạnh tranh của các
mặt hàng chủ lực của thành phố. Với cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề
theo một trình tự như vậy, đề tài đã có nhiều đóng góp trong việc hoàn thiện
các luận cứ khoa học làm nền tảng lý luận cho hoạt động phát triển ngoại
thương trên địa bàn thành phố trong điều kiện hội nhập. Cụ thể là đề tài đã có
những điểm mới sau: Thứ nhất là phân tích đánh giá một cách có hệ thống về
thực trạng phát triển ngoại thương trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong
thời gian qua, thứ hai là thống nhất về các quan điểm, định hướng phát triển
106
ngoại thương và xây dựng hệ thống các giải pháp thực hiện phù hợp với yêu
cầu của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo xu thế mở,
hướng xuất khẩu đảm bảo tính khả thi trong thực hiện. Tính khả thi này được
thể hiện từ những giải pháp phù hợp dựa trên các lợi thế cụ thể và kinh
nghiệm của các quốc gia có điều kiện tương tự đã vận dụng để phát huy các
lợi thế đó và họ đã rất thành công. Tuy chúng ta không rập khuông, máy móc
các mô hình của các nước công nghiệp mới nhưng cũng có thể học hỏi các
bước đi, giải pháp thực hiện nhằm phát huy tối đa các tiềm năng kinh tế của
thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện hội nhập hiện nay. Nhất là Thành phố
cần phải tập trung hơn cho các mặt hàng công nghiệp chủ lực và nhất thiết
phải có một chiến lược phát triển công nghiệp linh hoạt, hiệu quả, cần phải
xây dựng các khu công nghiệp tương xứng với tiềm năng kinh tế của địa bàn
và cả những trung tâm công nghệ cao để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vừa
đảm bảo định hướng phát triển ngoại thương trên địa bàn thành phố, vừa đảm
bảo tính quy luật trong việc phát triển, vừa nâng cao khả năng cạnh tranh của
các sản phẩm chuẩn bị sẵn sàng trước cơ hội Việt Nam gia nhập Tổ chức
thương mại quốc tế WTO trong năm 2006.
Về những kinh nghiệm về phát triển ngoại thương trong điều kiện hội
nhập của các nước công nghiệp mới và một số các quốc gia Đông Nam Á
khác có giá trị rất tốt cho Việt Nam và nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, có
điều kiện tương đồng với Singapore, HongKong... Trong đó có những vấn đề
nổi bật như:
- Trong thời kỳ đầu các nước thường áp dụng chính sách bảo hộ mậu
dịch với những mức độ khác nhau tùy theo điều kiện cụ thể của từng quốc
gia. Sau đó nới lỏng giới hạn của các biện pháp thuế quan, đồng thời giảm
dần hàng rào thuế quan cho phù hợp với quan điểm phát triển của các tổ chức
107
thương mại quốc tế và khu vực tự do mậu dịch mà nước mình tham gia.
- Áp dụng tỷ giá hối đoái, Chính phủ phải thường xuyên điều chỉnh tỷ
giá hối đoái sao cho giá trị đồng nội tệ không quá cao so với đồng ngoại tệ
mạnh nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
- Thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ việc sử
dụng hàng hóa sử dụng nhiều lao động, có hàm lượng tài nguyên cao trong
giai đoạn đầu sang các mặt hàng có hàm lượng cao về vốn và kỹ thuật, chủ
yếu là hàng công nghiệp.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế - xã hội của cả nước có
nhiều điểm thuận lợi về kinh tế hơn hẳn các địa phương khác như có nền
thương mại và dịch vụ lớn mạnh nhất cả nước, có hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và kinh tế khá phát triển và nguồn nhân lực có chất lượng cao hơn các
khu vực khác trong cả nước. Chính vì có môi trường thuận lợi nên hoạt động
ngoại thương trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển khá mạnh và
tương đối phù hợp với quy luật phát triển thương mại quốc tế theo chiến lược
công nghiệp hóa hướng xuất khẩu. Nhờ chính sách tự do hóa thương mại và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài nên chất lượng và kỹ thuật trong sản xuất hàng
xuất khẩu ngày càng được cải tiến. Bên cạnh đó bộ máy chính quyền thành
phố cũng đã vượt qua nhiều thử thách và ngày càng được củng cố hoàn thiện
dần, đã và đang từng ngày được củng cố và hoàn thiện, năng lực tổ chức sản
xuất kinh doanh đã được tăng lên đáng kể. Tuy nhiên trong hoạt động ngoại
thương trên địa bàn thành phố trong thời gian vừa qua vẫn còn nhiều điểm
yếu như: trình độ trong kỹ thuật sản xuất hàng xuất khẩu có tiến bộ nhưng
chưa đáng kể, chưa đạt yêu cầu cần thiết, chất lượng hàng xuất khẩu được
nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt của thị trường các
nước phát triển, khả năng tiếp cận thị trường thế giới còn hạn chế, cơ chế
quản lý của chính quyền vẫn còn tồn tại nhiều bất cập lại thiếu đồng bộ và
mang tính đối phó tình thế hơn là tính chiến lược, thiếu sự phối hợp giữa các
108
cấp trong quản lý. Những yếu tố trên đã ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao khả
năng cạnh tranh và gây nhiều trở ngại cho hoạt động ngoại thương trên địa
bàn Thành phố. Xuất phát từ thực tế trên, tác giả xin có một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh như sau:
Đối với doanh nghiệp, cần phải tập trung vào việc cải tiến nâng cao
khả năng trong công tác tiếp thị, xây dựng thương hiệu, xâm nhập vào thị
trường. Các doanh nghiệp cần phải tập trung hơn vào việc áp dụng công nghệ
mới, cải tiến cách tổ chức và hợp lý hóa quá trình sản xuất, đa dạng hóa sản
phẩm, áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng sản phẩm theo tuân chuẩn
quốc tế.
Đối với cấp thành phố đề nghị sắp xếp lại để tinh gọn bộ máy quản
lý hành chính, tổ chức lại lực lượng sản xuất kinh doanh trên địa bàn Thành
phố phụ vụ hoạt động xuất nhập khẩu. Để đẩy mạnh việc phát triển ngoại
thương cần hình thành các khu chuyên môn hóa sản xuất, khu công nghệ cao
nhằm phát huy tối đa các lợi thế so sánh trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.
Đối với Chính phủ, đề nghị đơn giản hóa hơn nữa các thủ tục quản
lý xuất nhập khẩu, điều chỉnh mức thuế phù hợp và thật sự linh hoạt, chuyển
dần phương thức quản lý bằng hạn ngạch sang quản lý bằng các biện pháp
thuế quan và phi thuế quan kết hợp với việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo cơ
chê linh hoạt.
Mặc dù đề tài về cơ bản đã giải quyết được nhiệm vụ đặt ra và đã đạt
được các kết quả nghiên cứu khả quan nhưng chắc chắn không tránh khỏi
những hạn chế nhất định nhất là việc xử lý số liệu từ các nguồn khác nhau
cũng như việc phân tích và đưa ra các nhận định mang tính chủ quan. Tác giả
hy vọng rằng luận văn này sẽ cung cấp thông tin bước đầu, cơ bản cho các
109
doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách của Nhà nước, đồng thời
mong muốn sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về các sản phẩm mũi nhọn, các
doanh nghiệp tham gia hoạt động ngoại thương cũng như tác động của các
chính sách thương mại nhằm đưa ra các giải pháp cụ thể hơn, sâu sát hơn
trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương trên địa bàn Thành
110
phố Hồ Chí Minh trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
1. Mai Quế Anh - Phạm Văn Chiến - Nguyễn Ngọc Thanh (1992), Lịch sử
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Quốc Bình (01/01/1999), “Bộ thương mại với việc đẩy mạnh hoạt động
tư tưởng kinh tế, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
3.
xúc tiến thương mại”, Ngoại thương ,(01).
Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2000), Lộ trình tham gia AFTA-
4. Mai Ngọc Cường - Nguyễn Minh Hằng (1994), Lý luận và thực tiễn
chuyên đề thực trạng ngành công nghiệp chế biến.
5. Hoàng Thị Chỉnh - Nguyễn Phú Tụ - Nguyễn Hữu Lộc (1995), Giáo
thương mại quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
trình kinh tế quốc tế, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
thật Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế quốc dân, tập 2, NXB Chính trị quốc
111
gia, Hà Nội.
13. Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Khoa Kinh tế chính trị Học
14. G.Hoasheng (2002), Làm sao xuất khẩu có hiệu quả, Nguyễn Cảnh Lâm
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
15. Hệ thống chính sách thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
dịch, NXB Đà Nẵng.
16. Hệ thống chính sách thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (1997), Tập 1, Bộ Thương mại.
17. Ngô Thị Ngọc Huyền - Võ Thị Thu Thanh (9/1998), Thực trạng ngành
Việt Nam (1997), tập 2, Bộ Thương mại.
may mặc xuất khẩu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và những giải
pháp nâng cao hiệu quả, Đề tài khoa học cấp Bộ, bảo vệ tại trường Đại
18. Ngô Thị Ngọc Huyền (2000), Định hướng phát triển ngoại thương ở
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
19. Thôi Lệ Kim (2002), WTO và cuộc mưu sinh của người Trung Quốc,
Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010, NXB Thống kê, Hà Nội.
20. Kỷ yếu khoa học (2000), Nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu
Lưỡng Hà dịch, Nhà xuất bản trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Việt Nam hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, Trường Đại học
21. Đào Ngọc Lâm (03/3/1997), “Tỷ giá hối đoái - ảnh hưởng đối với hoạt
Ngoại thương.
22. Đào Ngọc Lâm (1997), “Tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng đối với xuất nhập
động xuất nhập khẩu”, Đầu tư, (18).
23. Đặng Mộng Lân - Nguyễn Như Thịnh (1994), Công nghiệp hóa- một số
khẩu”, Đầu tư, (18).
vấn đề lý luận và kinh nghiệm các nước, Trung tâm Thông tin khoa học
24. Thùy Linh (1998), “Việt Nam gia nhập APEC- thuận lợi và thách thức”,
kỹ thuật hóa chất, Hà Nội.
112
Thị trường, (332).
25. Trần Đức Minh (4/1997), Việt Nam trong tiến trình đàm phán gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tài liệu hội thảo “Việt Nam trong
tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới” do Bộ Thương mại tổ
26. Nghị định số 161/HĐBT ngày 18.10.1988 của HĐBT Ban hành điều lệ
chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Nghị định số 33/CP ngày 19.04.1994 của Chính phủ về quản lý Nhà
về quản lý ngoại hối của Việt Nam.
28. Nghị định số 89/CP ngày 15.12.1995 của Chính phủ về việc bãi bỏ thủ
nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
29. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân TP.Hồ Chí Minh khóa V, kỳ họp thứ
tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến.
7 về: ”Hiện đại hóa và phát triển công nghiệp trên địa bàn Tp. Hồ Chí
30. Adam Smith (1962), Nghiên cứu về nguyên nhân, bản chất sự giàu có
Minh các năm 1996-2000 và 2010”.
31. Võ Thanh Thu - Nguyễn Cương - Ngô Thị Ngọc Huyền (4/1994), Định
của các dân tộc, NXB Moscow.
hướng hoạt động ngoại thương Tp. Hồ Chí Minh đến năm 2005 , Đề tài
khoa học cấp bộ, bảo vệ tại Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
32. Nguyễn Anh Tuấn - Nguyễn Văn Lịch (2005), Giáo trình kinh tế đối
ngoại Việt Nam, Bộ ngoại giao, Học viện quan hệ quốc tế, NXB Chính
33. Viện nghiên cứu kinh tế (2000), Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế Thành
trị quốc gia, Hà Nội.
34. Văn Bản 1335/2003/QĐ-BTM (22/10/2003), Ban hành Danh mục hàng
phố Hồ Chi Minh trong mối liên hệ với tăng trưởng kinh tế cả nước.
hóa trọng điểm và Danh mục thị trường trọng điểm xúc tiến thương mại
113
quốc gia năm 2004.
35. Văn Bản 279/2005/QĐ-TTG (03/11/2005), về việc ban hành Quy chế
xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai
đoạn 2006-2010.
Một số website:
36. www.hochiminhcity.gov.vn
37. www.pso.hochiminhcity.gov.vn
38. www.itpc.hochiminhcity.gov.vn
114
39. www.trade.hochiminhcity.gov.vn