BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGÔ VĂN THẮNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
1
BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGÔ VĂN THẮNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ QUANG LỘC
HÀ NỘI - 2014
2
MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI 11
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội 11
1.2. Những nội dung cơ bản phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội 18
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số viện khoa học và những bài học rút ra cho Viện Khoa học Lao động và Xã hội 26
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI 36
2.1. Khái quát về Viện khoa học Lao động và Xã hội 36
2.2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện khoa học Lao động và Xã hội thời gian qua
2.3. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết 46 65
Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI 68
3.1 . Phương hướng phát triển của Viện khoa học Lao động và Xã hội và những yêu cầu đặt ra với nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2020 68
3.2. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện khoa học Lao động và Xã hội đến năm 2020
71 85
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 87 91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
3
Chữ viết đầy đủ An sinh xã hội Bảo hiểm xã hội Cán bộ công nhân viên Công nghiệp hóa Chất lượng cao Giáo sư – Tiến sĩ Hiện đại hóa Kinh tế thị trường Khoa học Khoa học công nghệ Việt Nam Khoa học xã hội Lao động – Thương binh và Xã hội Nguồn nhân lực Nhân văn quân sự Phó giáo sư Tiến sĩ khoa học Thạc sĩ Thành Phố Hồ Chí Minh Xã hội Chữ viết tắt ASXH BHXH CBCNV CNH CLC GS.TS HĐH KTTT KH KHCNVN KHXH LĐTB&XH NNL NVQS PGS TSKH THS TPHCM XH
4
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người luôn là yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất trong mọi
thời đại. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định vai trò quyết định của nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng. Trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta cũng xác định lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba khâu đột
phá chiến lược thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.
Như vậy, hiện nay nhân lực chất lượng cao đang là vấn đề quan trọng
nhất của lực lượng sản xuất hiện đại và là yếu tố quyết định sự phát triển của
các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là những lĩnh vực mà kết quả hoạt động
đóng vai trò mở đường cho toàn bộ sự phát triển xã hội như nghiên cứu khoa
học và giáo dục đào tạo. Ở các lĩnh vực khác nhau thì nguồn nhân lực chất
lượng cao có những đặc điểm nhất định. Đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa
học như tại các cơ quan, viện nghiên cứu thì nguồn nhân lực chất lượng cao
chính là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng kinh nghiệm
làm việc, có sức khỏe đảm bảo và đạo đức tốt. Đây chính là lực lượng lao
động nòng cốt chủ yếu trong phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm
phát triển kinh tế, xã hội. Bởi vậy việc đầu tư và đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho các trung tâm nghiên cứu khoa học, sáng chế công nghệ mới
đang trở thành mối quan tâm và ưu tiên đặc biệt của các quốc gia trên thế
giới.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội của Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội là cơ quan có chức năng nghiên cứu cơ bản và ứng dụng các vấn đề
3
4
thuộc về lĩnh vực lao động – thương binh và xã hội cùng với một số lĩnh vực
khác được Bộ xác định và giao phó. Đặc biệt, các công trình nghiên cứu của
Viện liên quan trực tiếp đến chính sách lao động, phát triển con người, phát
triển nguồn nhân lực của quốc gia. Với tư cách là một viện nghiên cứu khoa
học thì sự phát triển, trưởng thành và tương lai của Viện phụ thuộc trước hết ở
số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ cán bộ quản lý, các nhà khoa học,
đội ngũ nhân viên của Viện. Tóm lại điều này phụ thuộc ở sự phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao của Viện trong hiện tại và tương lai.
Từ khi được thành lập cho đến nay nguồn nhân lực chất lượng cao của
Viện đã có những bước phát triển đáng kể và trở thành tài sản và nguồn lực quý
giá nhất, quan trọng nhất của Viện. Tuy nhiên so với yêu cầu, nhiệm vụ mà
Viện đảm nhiệm thực tế nguồn nhân lực hiện có còn nhiều bất cập. Chính vì
vậy tác giả luận văn lựa chọn vấn đề: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Tình hình nghiên cứu trong nước
Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), “Phát triển nguồn nhân lực – kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”. Cuốn sách đã làm rõ cơ sở lý luận về
nguồn nhân lực và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số quốc gia
trên thế giới, từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta.
Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), “Về phát triển toàn diện con người
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trong cuốn sách này, tác giả đã làm
rõ những vấn đề lý luận về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
TS. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam”. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của nguồn lực trí
4
5
tuệ đối với sự phát triển của xã hội; đồng thời làm rõ đặc điểm, thực trạng
phát huy và xu hướng phát triển nguồn lực trí tuệ Việt Nam, từ đó khẳng định
sự cần thiết phải chăm lo phát triển và phát huy cao độ sức mạnh của nguồn
lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
GS. TS. Bùi Văn Nhơn (2008), “Quản lý nguồn nhân lực xã hội”. Giáo
trình này có mục đích cung cấp kiến thức cơ bản về nguồn nhân lực xã hội và
quản lý nguồn nhân lực xã hội, làm cơ sở phương pháp luận cho việc tham gia
hoạch định và phân tích các chính sách về nguồn nhân lực xã hội.
PGS.TS Đỗ Thị Thạch (2011), “Chiến lược phát triển nguồn nhân
lực trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng”. Trong bài báo của mình, tác giả đã
đi sâu phân tích làm rõ chiến lược phát triển NNL trong Văn kiện Đại hội
XI của Đảng ta. Đồng thời, tác giả cũng chỉ rõ những quan điểm mới trong
chiến lược phát triển NNL, từ đó làm rõ quan điểm của Đảng về những giải
pháp để phát triển NNL và NNLCLC.
PGS.TS. Nguyễn Văn Tài (2010), “Phát huy tính tích cực xã hội của đội
ngũ cán bộ nước ta hiện nay”. Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả đã đi sâu phân tích, làm rõ những cơ sở lý
luận và thực tiễn củađường lối, chính sách cán bộ của Đảng ta.
Trần Văn Tùng (2005), “Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân
lực tài năng”. Nội dung cuốn sách trình bày những kinh nghiệm trong phát
hiện, đào tạo và sử dụng tài năng khoa học - công nghệ sản xuất kinh doanh,
quản lý của Mỹ và một số quốc gia châu Âu (Đức, Pháp, Anh), châu Á
(Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia châu Á khác).
Đoàn Văn Khái (2005) công bố nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về
nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ
CNH, HĐH. Công trình này đề cập tới những quan điểm, phương hướng và một
số giải pháp mang tính vĩ mô trong phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
5
6
TS Nguyễn Hữu Dũng (2002), Phát triển NNLCLC trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Trong bài viết của mình, tác giả
đã đưa ra quan niệm về NNLCLC, sơ lược về thực trạng NNLCLC ở nước ta
hiện nay, trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy
nguồn lực này ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Tác giả Lê Văn Phục “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở một số nước trên thế giới”. Bài viết đã nêu lên kinh nghiệm về phát triển
NNLCLC ở các nước Tây Âu, Mỹ, các nước Đông Nam Á, Đông Á, từ đó
rút ra những bài học cho Việt Nam trong việc phát triển NNLCLC hiện nay.
PGS.TS Bùi Thị Ngọc Lan (2007), một số bổ sung, phát triển trong
chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu một
cách hệ thống những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về NNL
qua các kỳ Đại hội của Đảng; làm rõ cơ sở lý luận của việc phát triển NNLCLC
theo tinh thần của Đại hội X (2006).
Tác giả Nguyễn Tiến Dũng và tác giả Đỗ Văn Dạo “Vấn đề phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”. Thông qua bài viết các
tác giả đánh giá thực trạng của NNLCLC, chỉ ra những bất cập và từ đó đưa
ra các giải pháp để phát triển NNLCLC ở nước ta hiện nay.
GS.TS Nguyễn Văn Khánh, TS Hoàng Thu Hương (2010), Đào tạo
NNLCLC ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và triển vọng. Các tác giả đã đưa
ra quan niệm về NNLCLC, thực trạng NNLCLC ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, các tác giả đã chỉ ra triển vọng phát triển NNLCLC và một
số khuyến nghị để phát triển nguồn lực này phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của
đất nước.
Phạm Hoàng Lân (2010), “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại
Viện Hệ thống thông tin FPT”, Luận văn thạc sĩ kinh tế. Luận văn hệ thống
hóa các lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. Trên
6
7
cơ sở đó, luận văn đánh giá thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
của Viện FPT và đề xuất những giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong
tương lai cho đơn vị.
Bài viết của GS.TS. Hoàng Văn Châu, Hiệu trưởng trường Đại Học
Ngoại thương đăng trên Tạp chí kinh tế đối ngoại số 38/2009: “Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập kinh tế - vấn đề cấp bách sau
khủng hoảng”. Nội dung chủ yếu đề cập đến những bất cập của thị trường lao
động của nước ta. Tác giả nhận định thị trường lao động Việt Nam sẽ tiếp tục
thiếu hụt và khan hiếm nguồn nhân lực cao cấp quản lý trở lên. Sau khi cuộc
khủng hoảng tài chính qua đi, khi các doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc và
nhu cầu nhân lực có chất lượng cao tăng lên thì chắc chắn sự mất cân đối
cung - cầu trên thị trường lao động sẽ diễn ra ngày càng trầm trọng hơn nếu
như Việt Nam không có những biện pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này.
Nguyên nhân của việc này là do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị
trường lao động và chưa tiếp cận một cách hiệu quả được với các dịch vụ đào
tạo; nhiều doanh nghiệp chưa tích cực tham gia vào các chương trình đào tạo;
các sinh viên đã không được định hướng tốt trong việc chọn trường, chọn
ngành nghề theo học. Từ đó tác giả đã đề xuất 10 giải pháp phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao trong thời gian tới. các giải pháp tập trung chủ yếu
vào việc nâng cao chất lượng đào tạo .
Tác giả Lê Thị Hồng Điệp (2005), Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ
kinh tế chính trị, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị,
Đại học Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu: Góp phần làm phong phú
thêm những lý luận mới về phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri
thức thông qua những phân tích nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động
tới quá trình phát triển lực lượng này; Thực hiện việc đánh giá tương
7
8
đối toàn diện thực trạng phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri
thức giai đoạn 2001- 2007 gắn với những nội dung tiêu chí và những yếu tố
tác động đã nêu trên; Đề xuất một số giải pháp phát triển NNLCLC để hình
thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong tương lai. Những đề xuất đó góp
phần tìm ra con đường và cách thức hiệu quả để phát triển NNLCLC thực sự
trở thành lực lượng tiên phong trên hành trình hiện thực hóa nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam.
Tác giả Phan Thùy Chi (2008): Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
trong các trường đại học khối kinh tế của Việt Nam thông qua các chương
trình hợp tác quốc tế, LATS kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Đây
là nghiên cứu khá hệ thống về công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
tại các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam nhưng chỉ giới hạn trong hợp
tác quốc tế đào tạo.
Ngoài ra còn có nhiều luận văn, đề án, bài báo, báo cáo khoa học
nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
STEWART Jim, MCGOLDRICK Jim (2007), “Human resource
development”, (Phát triển nguồn nhân lực). Cuốn sách này dựa trên các ý
tưởng, nghiên cứu mới nhất và nổi tiếng để đóng góp vào cuộc tranh luận về
phát triển nguồn nhân lực. Cuốn sách nhằm mục đích bổ sung các khoảng
trống bằng các khái niệm được đề xuất. Cuốn sách này được chia thành ba
phần. Phần đầu tiên tổng quan về những quan điểm khác nhau về phát triển
nguồn nhân lực. Thứ hai đề cập đến chiến lược phát triển nguồn nhân - lực và
thứ ba là kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực thực tế
Greg G.Wang và Judy Y.Sun (2009), “Perspectives on theory clarifying
the boundaries of human resource development”, (Những quan điểm dựa trên lý
thuyết làm rõ những ranh giới của phát triển nguồn nhân lực), cụ thể tác giả đã
8
9
phân tích sự khác biệt giữa khái niệm phát triển nguồn nhân lực và phát triển vốn
nhân lực và phát triển con người ở phương diện xã hội.
Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu nào về
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại một viện khoa học trong nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Trên cơ sở đó, đề xuất
những phương hướng và giải pháp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao của Viện đến năm 2020.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội.
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực một số viện nghiên
cứu ở Việt Nam, rút ra những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho Viện
Khoa học Lao động và Xã hội.
Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, làm rõ nguyên nhân và các vấn đề
cần giải quyết.
Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao Viện khoa học Lao động và Xã hội trong thời kỳ mới
(năm 2020).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và
Xã hội.
* Phạm vi nghiên cứu
9
10
Về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu NNLCLC ở Viện Khoa học
Lao động và Xã hội, vận dụng kinh nghiệm phát triển NNLCLC ở một số
viện nghiên cứu trong nước.
Thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội từ năm 2008 đến
năm 2013.
5. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu
*Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lê nin mà trực tiếp là kinh tế chính trị Mác – Lên nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nghị quyết của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp chuyên
ngành của ngành kinh tế chính trị, gồm: Phương pháp trừu tượng hóa; phương
pháp thống kê, phân tích, điều tra xã hội học; phướng pháp hệ thống hóa, mô
hình hóa và đồ thị; phương pháp chuyên gia,….
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn đã góp phần xây dựng quan niệm về nguồn nhân lực chất
lượng cao của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Viện và làm rõ vai trò của nó với sự phát triển của Viện.
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống về thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa
học Lao động và Xã hội từ năm 2008 tới nay, đề xuất những giải pháp chủ
yếu để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện tới năm 2020.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy môn
kinh tế chính trị và sử dụng trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và
Xã hội.
10
11
7. Kết cấu của luận văn
Cấu trúc luận văn bao gồm: Phần mở đầu; 3 chương và phần kết luận;
danh mục tài liệu tham khảo; phần phụ lục.
11
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó
trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội
1.1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động
và Xã hội
Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao
động và Xã hội
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH và phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Với bối cảnh đó, yêu cầu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực là vấn đề có ý nghĩa quyết
định đảm bảo thắng lợi các nhiệm vụ trọng đại đó. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao” [11, tr.106] là một trong ba khâu đột phá
chiến lược thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hiện
nay, khi khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với hàm
lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, thì con
người càng tỏ rõ hơn bao giờ hết vai trò quyết định của mình trong nền sản
xuất xã hội, của lịch sử nhân loại. Do vậy, việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trở thành yêu cầu hàng đầu đối với mỗi tổ chức và mỗi một quốc
gia, đặc biệt là đối với các viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học công
nghệ. Vậy, hiểu như thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo quan điểm của C.Mác để có thể phát triển ngành công nghiệp do
toàn xã hội thực hiện thì cần phải có những người lao động với năng lực phát
triển toàn diện, có đủ thể lực, trí lực, kỹ năng và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu
của sản xuất. Đó cũng là những quan niệm rất đúng đắn về phương pháp luận
12
13
của C. Mác để nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện hiện
nay. Các nhà kinh tế học cũng cho rằng: NNL mà hạt nhân của nó là
lao động kỹ thuật là toàn bộ thể lực, trí lực với trình độ chuyên môn, kỹ năng
mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập cao trong tương
lai. Theo đó, có ba loại nhân lực chủ yếu quyết định sự phát triển là: người lao
động có thể lực; chuyên gia lành nghề và những người có ý tưởng sáng tạo.
[5] Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý cũng đã
đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo PGS Đàm Đức Vượng thì nhân lực chất lượng cao có thể hiểu
bao gồm đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia,
tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có trình độ
chuyên môn - kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có
đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp
khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đội ngũ các nhà quản lý các doanh
nhân trong nền kinh tế thị trường, các chuyên gia, các nhà khoa học trong các
lĩnh vực khoa học, giáo dục, đào tạo,….[45] NNLCLC không đồng nghĩa với
trình độ học vấn cao vì học vấn mới chỉ là một yếu tố cấu thành của
NNLCLC. Ngoài trình độ đào tạo NNLCLC còn phải bao hàm những yếu tố
và phẩm chất khác như: khả năng sáng tạo, kỹ năng, thói quen, kinh nghiệm
nghề nghiệp.
Còn theo GS. Chu Hảo thì “Nhân lực chất lượng cao trước hết phải
được thừa nhận trên thực tế, không phải ở dạng tiềm năng. Điều đó có nghĩa
là nó không đồng nghĩa với học vị cao. NNLCLC là những người có năng lực
thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc nhất, sáng tạo và có
đóng góp thực sự hữu ích cho công việc của xã hội” [19]
Như vậy, để có nguồn nhân lực chất lượng cao thì cần thiết là người lao
động phải có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có các phẩm chất cần thiết
13
14
được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền
với một nền khoa học công nghệ hiện đại.
Theo quan niệm của TS. Đinh Sơn Hùng, Viện nghiên cứu phát triển
TP.HCM, để đưa ra những tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao, nên
dựa trên góc độ của nhà tuyển dụng, sử dụng lao động [22]. Chính họ mới đánh giá
một cách chính xác nguồn nhân lực của họ thật sự có chất lượng cao hay không, đó
là: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng xử lý thực tế, kỹ năng giao tiếp, làm
việc nhóm; có kỷ luật, đạo đức; trình độ văn hóa và kiến thức cơ bản.
Qua phân tích các quan điểm trên, có thể nói nguồn nhân lực chất
lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có
trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể
theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học,
trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề); có kỹ năng lao động giỏi
và có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công
nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo
những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản
xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
Để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể dựa vào các tiêu chí
như: khả năng thích ứng trong thời gian nhanh nhất với môi trường lao động
và với tiến bộ khoa học công nghệ mới; tác phong kỷ luật và đạo đức trong
công việc; tính sáng tạo. Hai tiêu chí trước là điều kiện cần để đánh giá chất
lượng lao động, còn điều kiện đủ là khả năng tư duy đột phá trong công việc,
hay còn gọi là tính sáng tạo.
Khái niệm nhân lực chất lượng cao nhấn mạnh tính tổng hòa đạo đức
nghề nghiệp (nhân cách), thể lực, trình độ, ý chí, niềm đam mê và tay nghề
(độ lành nghề) như một sức sản xuất (vật chất và tinh thần).
Viện Khoa học Lao động và Xã hội là một viện nghiên cứu khoa học
được thành lập từ năm 1978. Viện được công nhận là một trong số các viện
14
15
đầu ngành có chức năng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và ứng
dụng về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. Lĩnh vực nghiên cứu
chính bao gồm: dân số, lao động, việc làm; tiền lương, tiền công; quan hệ lao
động, an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo,
phòng, chống tệ nạn xã hội, người có công; bảo vệ và chăm sóc trẻ em;); môi
trường và điều kiện lao động (an toàn, vệ sinh lao động, trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp, các tiêu chuẩn lao động); lao động nữ và bình đẳng giới.
Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang đẩy mạnh hoàn thiện các chính
sách dân số, lao động, giới, an sinh xã hội, phát triển nguồn nhân lực,….
Chính vì vậy, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của Viện ngày càng nặng nề
hơn, để có thể đóng góp nhiều hơn nữa các luận cứ khoa học phục vụ cho việc
hoạch định chiến lược, chính sách phát triển nguồn nhân lực, lao động, việc
làm và ổn định xã hội. Chính vì vậy, nhu cầu về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao – vốn là lực lượng nòng cốt để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ
của Nhà nước giao cho Viện là hết sức cần thiết. Với khối lượng công tác
nghiên cứu ngày một tăng thì nhân lực chất lượng cao của Viện cần phải được
gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Khác với những lĩnh vực khác, trong
lĩnh vực nghiên cứu khoa học của Viện thì nguồn nhân lực chất lượng cao cần
thiết phải đảm bảo những tiêu chí nhất định. Đó là người lao động phải có
năng lực chuyên môn cao (có trình độ đào tạo cao), có kinh nghiệm, có thể
lực tốt, có đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng xã hội.
Từ những vấn đề chung về NNLCLC có thể đưa ra khái niệm về NNLCLC
của Viện Khoa học Lao động và Xã hội như sau:
Đối với NNLCLC của Viện thì nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện
Khoa học Lao động và Xã hội là những người lao động được đào tạo ở trình độ
cao, có sức khỏe, bản lĩnh chính trị, có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên
môn cao, tinh thông nghiệp vụ và có kinh nghiệm tốt làm việc tại Viện Khoa học
15
16
Lao động và Xã hội, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ của Viện trong hiện tại
cũng như tương lai.
Như vậy, NNLCLC của Viện Khoa học Lao động và Xã hội là nguồn
nhân lực đáp ứng được những tiêu chí: phải được đào tạo bài bản về chuyên
môn, kỹ thuật theo yêu cầu của công việc và nhiệm vụ được giao, ngoài ra
phải có những kỹ năng, và kinh nghiệm tốt trong công việc.
Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện Khoa học Lao động và
Xã hội bao gồm 3 bộ phận:
Thứ nhất, đội ngũ lãnh đạo quản lý của Viện: Đội ngũ này bao gồm:
Viện trưởng, các Phó viện trưởng, Giám đốc trung tâm, Phó giám đốc trung
tâm và các trưởng, phó phòng ban chức năng khác. Đây là bộ phận chủ yếu
và ưu tú nhất của NNLCLC, bởi họ là những người có tri thức và trình độ học
vấn cao (chủ yếu được đào tạo trong một hệ thống giáo dục). Họ đóng vai trò
tiên phong trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và lãnh đạo, hoạch định định hướng phát triển, hoạt
động, thực hiện những mục tiêu đặt ra cho Viện. Họ là những đầu tàu dẫn dắt
Viện Khoa học Lao động và Xã hội hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu trong từng
thời kỳ và đi đến thành công. Với đặc trưng cơ bản là lao động trí óc phức
tạp, sáng tạo, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có vai trò to lớn trong việc
tham gia lãnh đạo, quản lý, điều hành Viện. Đồng thời sáng tạo ra các giá trị
mới, phát triển lý luận, xây dựng luận cứ khoa học cho các quyết sách kinh tế
- chính trị, văn hóa - xã hội…của Viện và của Nhà nước.
Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ lãnh đạo quản lý là:
- Có tầm nhìn, tư duy chiến lược, định hướng nghiên cứu.
- Có tầm nhìn quản lý, tham mưu cho Viện.
- Có năng lực tổ chức các ngành, các lĩnh vực, tổ chức lao động, tổ
chức hợp tác quốc tế.
- Thực sự là tấm gương tiêu biểu về đạo đức, lối sống, đoàn kết,…
16
17
Thứ hai, các chuyên gia, nghiên cứu viên: Đội ngũ chuyên gia, nghiên
cứu viên là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, những
người chịu trách nhiệm về lĩnh vực mình tham mưu, thực hiện công tác
nghiên cứu hay quản lý từng nhóm việc nên họ phải có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao và luôn cố gắng học tập nâng cao trình độ để đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe của nhiệm vụ. Họ không chỉ có chuyên môn nghiệp
vụ cao mà còn có sức khỏe bền bỉ, tinh thần mẫn cán, tâm lý ổn định, vững
vàng. Đây là lực lượng lao động trí tuệ trong Viện có khả năng làm chủ, sáng
tạo những tri thức và khoa học, có khả năng thích nghi nhanh chóng với sự
thay đổi của môi trường và điều kiện sống.
Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của các chuyên gia, nghiên cứu viên là:
* Có trình độ lý luận cao, có kiến thức thực tế, có khả năng nắm bắt cái mới.
* Có năng lực nghiên cứu độc lập.
* Thực sự là những chuyên gia hàng đầu, là lực lượng nòng cốt trong
nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ: Là những người lao động có trình
độ cao được đào tạo bài bản trong lĩnh vực kỹ thuật như điện, điện tử, tin học,
…, có kinh nghiệm và kỹ năng làm việc tốt phục vụ cho công tác kỹ thuật tại
Viện Khoa học Lao động và Xã hội đồng thời có hiểu biết công việc và chức
trách nhiệm vụ của mình.
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự phát triển
ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Thứ nhất, NNLCLC là lực lượng nòng cốt trong lãnh đạo, quản lý và
quyết định việc phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội trong hiện
tại và tương lai.
Lực lượng lãnh đạo, quản lý của Viện Khoa học và Lao động Xã hội là
những người có chức năng, nhiệm vụ hoạch địch chính sách phát triển của
17
18
Viện trong tương lai, là nguồn nhân lực thực hiện công tác cơ cấu và tổ chức
bộ máy làm việc của Viện nhằm hoàn thành tốt các nhiệm vụ, chức năng mà
Đảng và Nhà nước, Bộ phân công, đồng thời tìm kiếm các lĩnh vực tăng thu
nhập, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên của Viện. Để thực hiện
được chức năng quản lý này, đòi hỏi những người lãnh đạo Viện phải là
những nhà lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng, kinh nghiệm,
khả năng tổ chức, quản lý tốt. Nhìn chung là đội ngũ lãnh đạo phải là những
người lao động có chất lượng cao nhất thì mới có thể là đội ngũ đầu tầu, nhằm
phát triển Viện Khoa học Lao động và Xã hội trong tương lai. Hơn thế nữa,
đội ngũ lãnh đạo Viện là những tấm gương sáng, điển hình cho các cán bộ
CNV trong Viện noi theo để phát triển trình độ chuyên môn, học tập, nghiên
cứu, tăng hiệu quả công việc. Chính vì lẽ đó, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của Viện nhằm nâng cao chất lượng của bộ máy lãnh đạo, phục vụ
cho công tác quản lý trong tương lai là điều hết sức quan trọng và cần thiết.
Thứ hai, NNLCLC là lực lượng nòng cốt trong nghiên cứu, phát triển
Khoa học Lao động và Xã hội để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ
của Viện. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai
thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác: Giữa nguồn lực con
người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công
nghệ... có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực
được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực
với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị
cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực
khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác
dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con
người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân
18
19
của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết
định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với Viện Khoa học Lao động và Xã hội thì nhiệm vụ chính của
Viện là nghiên cứu khoa học về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội,
tham gia đào tạo, bồi duỡng cán bộ, công chức, viên chức ngành lao động,
thương binh và xã hội,… Chính vì vậy, để thực hiện những nhiệm vụ chính
của Viện thì nguồn nhân lực chất lượng cao với trình độ chuyên môn cao,
được đào tạo bài bản, có kỹ năng và kinh nghiệm tốt, tinh thần trách nhiệm
cao chính là lực lượng chủ yếu và trực tiếp thực hiện. Chính vì vậy, để đáp
ứng nhu cầu trong tương lai của Viện, việc phát triển NNLCLC là điều quan
trọng và cần thiết. NNLCLC của Viện là lực lượng chủ yếu thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng các chương trình, đề tài khoa học, các dự án
và các nhiệm vụ được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng như Nhà
nước giao. Đồng thời trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ này sẽ diễn ra
quá trình tự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ của Viện và góp phần vào việc đào
tạo, bồi dưỡng NNLCLC cho các cơ sở, các ngành của Bộ.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng trực tiếp nâng cao
chất lượng hoạt động hợp tác về nghiên cứu khoa học, gắn kết quả nghiên cứu
với hoạt động thực tiễn sản xuất kinh doanh, đào tạo, quản lý và hợp tác quốc tế.
Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang kinh tế tri thức và
hội nhập kinh tế quốc tế thì vai trò của NNLCLC càng thể hiện rõ hơn. Hiện
nay, NNLCLC cũng đã tiên phong đi đầu tham gia vào nhiều lĩnh vực khó
khăn và mang lại nhiều kết quả tích cực trong đó có lĩnh vực nghiên cứu và
chuyển giao khoa học công nghệ, lãnh đạo, quản lý. Đây được xem là yếu tố
quan trọng quyết định đối với sự tăng trưởng bền vững của Viện nói riêng và
của đất nước nói chung. Hợp tác quốc tế và chuyển giao sự tiến bộ của khoa
học công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới thì NNLCLC chính là lực lượng
19
20
có đủ trình độ chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm để tiếp nhận các kiến
thức tiên tiến.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao
động và Xã hội
1.2.1. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Với quan niệm: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển”, tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định phát
triển nguồn nhân lực, đặc biệt là NNLCLC là một trong ba khâu đột phá chiến
lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.
Phát triển hiểu theo cách đơn giản là sự chuyển biến từ trạng thái thấp
lên trạng thái cao hơn. Muốn vậy phải có sự biến đổi cả về số lượng và chất
lượng của sự vật theo hướng ngày càng hoàn thiện ở trình độ cao hơn. Quan
điểm Mácxít về sự phát triển, vận dụng vào nghiên cứu con người đã nhấn
mạnh yếu tố phát triển con người, lấy con người làm trung tâm. Lịch sử phát
triển của nhân loại suy cho cùng là lịch sử phát triển con người. Phát triển con
người vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội, vừa là phương tiện tốt
nhất để thúc đẩy sự phát triển. Có nhiều quan điểm về phát triển NNL nói
chung. Có quan điểm cho rằng phát triển NNL là sự gia tăng giá trị cho con
người, cả về vật chất lẫn tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng
nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động với những năng lực
và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của
sự phát triển kinh tế xã hội. Cũng có quan điểm cho rằng phát triển NNL là
gia tăng các giá trị về thể chất, trí tuệ, năng lực của từng cá nhân trong điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng chính là quá trình mở rộng cơ hội lựa
chọn nhằm nâng cao năng lực, trí tuệ và cuộc sống của con người, phù hợp
với nhu cầu, lợi ích mà họ mong muốn. Liên hợp quốc cho rằng, phát triển
20
21
NNL bao gồm: giáo dục- đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống. Quan niệm
này đã nhấn mạnh khía cạnh xã hội của vấn đề: NNL vừa là một yếu tố của
sản xuất, của tăng trưởng kinh tế và là mục tiêu của phát triển. Chú trọng đáp
ứng nhu cầu của NNL về văn hóa và tinh thần, mở rộng tầm hiểu biết, cập
nhật thông tin, mở rộng các mối liên hệ xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của NNL. Tóm lại, có thể cho rằng phát triển nguồn nhân lực là sự
biến đổi cả về lượng và chất, cơ cấu của nguồn nhân lực nhằm đáp ứng sự
tiến bộ về kinh tế - xã hội. Quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí
lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã
hội và sức sáng tạo của con người. Trong đó nền văn hóa, truyền thống lịch sử
dân tộc góp phần quan trọng trong việc hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của mỗi
người. Từ sự trình bày trên đây, có thể cho rằng: Phát triển NNLCLC là quá
trình biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng
cao theo hướng đi lên để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của tổ chức, phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia.
Do đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao
động và Xã hội là quá trình biến đổi toàn diện cả về số lượng, chất lượng và
cơ cấu theo hướng số lượng đáp ứng yêu cầu, chất lượng ngày càng cao và
cơ cấu phù hợp để nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng đáp ứng tốt hơn
nhiệm vụ được giao.
1.2.2. Nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện
Khoa học Lao động và Xã hội
Trước đây, quá trình sản xuất hàng loạt theo dây chuyền với sự phân
tách chi tiết chức năng lao động trí óc và lao động chân tay nên nhu cầu đối
với NNLCLC tuy rất cần thiết song chỉ ở quy mô nhỏ. Trong nền KTTT, quá
trình sản xuất được tổ chức theo mô hình linh hoạt. Mô hình tổ chức lao động
21
22
mới đòi hỏi một lực lượng lao động đại chúng trực tiếp tham gia sản xuất có
độ linh hoạt cao, có khả năng sáng tạo và đổi mới, có trình độ đào tạo cao. Vì
vậy, muốn phát triển NNLCLC để hình thành nền KTTT, trước tiên phải gia
tăng nhanh chóng số lượng lao động tri thức, lao động quản lý và lao động
quản lý dữ liệu. Lực lượng này phải chiếm tỷ trọng vượt trội trong tổng lực
lượng lao động quốc gia.
Đối với hoạt động của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, thì
NNLCLC lại đặc biệt có vai trò quan trọng vì đây vừa là bộ phận lãnh đạo lại
là lực lượng lao động chủ yếu nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà Viện được
giao phó. Chính vì vậy, phát triển NNLCLC là rất cần thiết trong giai đoạn
hiện nay của Viện. NNLCLC là lực lượng quyết định số lượng và chất lượng
các công trình nghiên cứu khoa học. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đối với
Viện là chăm lo xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ NNL đảm bảo đủ về số lượng,
cơ cấu các chuyên ngành hợp lý; có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có tinh
thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật; có năng lực chuyên môn giỏi, có phương
pháp, tác phong làm việc khoa học; thực sự tâm huyết với công việc nghiên
cứu khoa học, tích cực nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo cái mới. Quan tâm xây
dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành của các ngành nghiên cứu; đồng thời, bồi
dưỡng, mở rộng kiến thức của các chuyên ngành khác, nhằm đáp ứng tốt yêu
cầu, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học ngày càng phát triển cả diện rộng và
chiều sâu của một Viện đa ngành; chủ động, có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ các cấp, đảm bảo sự kế thừa, phát triển vững chắc, không để xảy ra
tình trạng hẫng hụt.
Cụ thể, phát triển NNLCLC của Viện được thể hiện trên các khía cạnh
sau đây:
Thứ nhất, phát triển về số lượng: Trên cơ sở chiến lược, kế hoạch,
nhiệm vụ được giao và xu hướng phát triển của Viện, cần dự báo được số
22
23
lượng nhân lực chất lượng cao cần thiết cho thực hiện công tác nghiên cứu
của Viện. Trong thời gian tới, nhiệm vụ và công việc được giao của Viện sẽ
tăng để phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ
CNH, HĐH nhằm xây dựng CNXH. Do vậy, việc tăng trưởng về số lượng
NNLCLC của Viện là rất cần thiết. Phát triển số lượng nguồn nhân lực là phát
triển về quy mô nhân lực và số lượng các loại hình nhân lực cụ thể của Viện
trong từng thời kỳ nhất định theo yêu cầu nhiệm vụ của Viện. Phát triển về số
lượng NNLCLC để có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, Viện cần
tuyển dụng, thu hút NNLCLC từ bên ngoài hay hợp tác, liên kết nghiên cứu
với các viện, cơ quan nghiên cứu khác để tranh thủ NNLCLC.
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là nâng
cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao kỹ năng, kinh nghiệm
và đạo đức nghề nghiệp cho người lao động mà trước hết là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý và các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu của Viện. Đây là
điều rất cần thiết để có thể hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ mà Viện được
giao. Nâng cao chất lượng NNLCLC được biểu hiện cụ thể như sau:
Nâng cao thể lực của nguồn nhân lực CLC. Tình trạng sức khỏe được
biểu hiện ra bên ngoài thông qua các chỉ số về thể lực, độ tuổi, giới tính, chiều
cao, cân nặng và khả năng thích nghi với môi trường làm việc. Thực hiện
chức năng, nhiệm vụ chính là nghiên cứu khoa học và giảng dạy, đào tạo
nguồn nhân lực nên sức ép về công việc đối với NNLCLC của Viện là rất lớn.
Chính vì vậy, để có thể đảm bảo hoàn thành tốt, đúng tiến độ công việc hằng
ngày, thể chất của người lao động là rất quan trọng. Sức khoẻ vừa là mục đích
của phát triển, đồng thời nó cũng là điều kiện của sự phát triển. Muốn nâng
cao sức khỏe của NNLCLC thì phải kết hợp hài hòa cả sức khỏe thể chất và
sức khỏe tinh thần.
23
24
Phát triển trí lực của NNLCLC: Trình độ chuyên môn kỹ thuật đối với
NNLCLC ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội là kiến thức tổng hợp, kiến
thức chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật, kiến thức đặc thù cần thiết để đảm
đương các chức vụ trong quản lý, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và các hoạt
động khác. Những yếu tố này có thể hiểu là hệ thống thông tin, hiểu biết và
cách thức sử dụng thông tin mà NNLCLC có được thông qua đào tạo. Như
vậy, phát triển trình độ chuyên môn kỹ thuật là nâng cao kiến thức, trình độ
học vấn, nó có ý nghĩa trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
trong công việc của NNLCLC làm việc tại Viện. Phát triển kỹ năng nghề
nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp là trình độ thành thạo tay nghề và những kinh
nghiệm được tích lũy. Đây là kết quả của quá trình đào tạo, tự đào tạo trong
thực tế hoạt động và sự rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn. Do dó, phát
triển kỹ năng nghề nghiệp đối với NNLCLC tại Viện được hình thành bằng
hai con đường: Một là, do các nhân viên làm việc tự tích lũy, hai là, Viện chủ
động tổ chức đào tạo, bồi dưỡng bằng các hình thức thích hợp như: mở lớp
bồi dưỡng, tổ chức hội thao, tổ chức rút kinh nghiệm,.v.v. Nâng cao phẩm
chất đạo đức, phát triển nhân cách là phát triển những phẩm chất chính trị,
đạo đức, tác phong, lối sống lành mạnh tính tích cực hoạt động, tinh thần
trách nhiệm công dân.
Thứ ba, xây dựng cơ cấu NNLCLC hợp lý, cơ cấu nguồn nhân lực
NNLCLC là thành phần, tỷ trọng của các thành phần nhân lực CLC bộ phận
trong tổng thể nguồn nhân lực CLC của tổ chức. Để xác định cơ cấu
NNLCLC phải căn cứ vào nhiệm vụ của tổ chức và mức độ hoàn thành của
người lao động, các điều kiện cơ sở vật chất của tổ chức,….căn cứ vào nhiệm
vụ cụ thể của Viện để tổ chức, sắp xếp nhân lực chất lượng cao một cách hợp
lý ở mỗi khâu, mỗi mảng công việc nhằm phát huy tối đa năng lực, trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm của từng nhân lực, gia tăng năng suất lao động,
hiệu quả làm việc, nghiên cứu.
24
25
1.2.3. Các tiêu chí cơ bản đánh giá sự phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Đánh giá trình độ phát triển NNLCLC cao có thể căn cứ vào các tiêu
chí cụ thể, bao gồm:
* Nhóm tiêu chí đánh giá sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:
Thứ nhất, tiêu chí phản ánh sự phát triển toàn diện cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao. Đối với sự phát triển về số
lượng và quy mô nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể đánh giá thông qua
các chỉ tiêu như:
- Mức độ tăng trưởng về số lượng nguồn nhân lực CLC
- Tốc độ tăng trưởng về số lượng nguồn nhân lực CLC
- Sự gia tăng tỷ lệ nguồn nhân lực chất lượng cao trên tổng số lực
lượng lao động
Các chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ trình độ phát triển quy mô
NNLCLC càng tốt. Đối với sự phát triển nguồn nhân lực CLC về chất lượng,
có thể đánh giá qua tổng thể các chỉ tiêu phản ảnh chất lượng nguồn nhân lực
CLC từ sức khỏe tới trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp. Các nhóm
tiêu chí này tăng qua các năm, có thể thấy rằng nguồn nhân lực chất lượng
cao của tổ chức đã phát triển hơn.
Phát triển sức khỏe nguồn nhân lực CLC: Được đánh giá thông qua:
tình trạng sức khỏe của NNLCLC, độ tuổi trung bình của NNLCLC, giới tính,
chiều cao, cân nặng của người lao động. Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về
thể chất, tình thần và xã hội chứ không phải đơn thuần là không có bệnh tật.
Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa
thể chất và tinh thần. Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khoẻ.
Bộ Y tế nước ta quy định có ba loại: Loại A: thể lực tốt, loại không có
bệnh tật gì; Loại B: trung bình; Loại C: yếu, không có khả năng lao động
25
26
Hiện nay, Bộ Y tế kết hợp với Bộ Lao động và Thương binh Xã hội căn
cứ vào 8 chỉ tiêu để đánh giá: Chỉ tiêu thể lực chung: chiều cao, cân nặng,
vòng ngực; mắt; tai mũi họng; răng hàm mặt; nội khoa; ngoại khoa; thần kinh,
tâm thần; da liễu. Căn cứ vào các chỉ tiêu trên để chia thành 6 loại: rất tốt;
tốt; khá; trung bình; kém và rất kém.
Phát triển về trình độ chuyên môn: Có thể đánh giá thông qua các tiêu
chí như chức danh khoa học, học vị của người lao động, trình độ đào tạo, nơi
đào tạo của NNLCLC, sự thành thạo tiếng Anh, tin học của đội ngũ nhân lực
CLC, mức độ thành thạo kỹ năng của đội ngũ chuyên gia; mức độ thành thạo
kỹ năng của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính,…, trong mỗi chuyên môn có
thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ hơn như đại học: bao gồm kỹ
thuật, kinh tế, ngoại ngữ,.., thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành
từng chuyên môn nhỏ hơn nữa.
Phát triển về kỹ năng: Được đánh giá thông qua các chỉ tiêu, như số
năm kinh nghiệm làm việc, số lượng công trình khoa học đã tham gia nghiên
cứu, số năm kinh nghiệm làm công tác quản lý.
Phát triển về đạo đức nghề nghiệp: Được đo lường thông qua các chỉ
tiêu định tính như sự phát triển của các phong trào, đoàn thể, hội,…, các hoạt
động gắn kết tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái trong Viện. Ngoài ra, có
thể đánh giá thông qua ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tự giác, trách nhiệm,
niềm say mê trong công việc, năng động trong công việc, ….
* Đối với sự phát triển cơ cấu NNLCLC bao gồm:
- Cơ cấu theo độ tuổi.
- Cơ cấu theo giới tính.
- Cơ cấu theo trình độ chuyên môn.
- Cơ cấu theo chức năng, nhiệm vụ.
Các cơ cấu NNLCLC này được điều chỉnh theo hướng phát triển qua
các năm. Cơ cấu NNLCLC được đánh giá là phát triển nếu cơ cấu này phù
26
27
hợp với mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ, đảm bảo huy động tối đa
nguồn nhân lực chất lượng cao vào hoạt động.
Thứ hai, tiêu chí đánh giá kết quả qua việc hoàn thành nhiệm vụ, chức
trách của nguồn nhân lực chất lượng cao. Các tiêu chí này có thể đo lường
bằng các chỉ tiêu định lượng như mức độ hoàn thành định mức làm việc qua
các năm, mức độ, tốc độ tăng trưởng công trình nghiên cứu khoa học hoàn
thành, thời gian xử lý công việc của NNLCLC. Ngoài ra có thể kể đến các
tiêu chí khác như, năng suất lao động của đội ngũ nhân lực CLC; số đơn đăng
ký phát minh sáng chế, số sáng kiến kinh nghiệm hằng năm; số bài viết được
đăng trên các tạp chí khoa học; chỉ số h chỉ số đánh giá khả năng sáng tạo của
các nhà khoa học.
* Nhóm tiêu chí đánh giá kết quả việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực chất lượng cao
Nhóm tiêu chí này có thể kể đến các tiêu chí như: tổng mức kinh phí
cho đào tạo, bổi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao và tốc độ tăng của tổng
mức kinh phí này. Ngoài ra, có thể đánh giá thông qua tiêu chí là số lượng
nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo hằng năm,…., kết quả hợp tác –
liên kết đào tạo.
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một
số viện khoa học và những bài học rút ra cho Viện Khoa học Lao động và
Xã hội
1.3.1. Kinh nghiệm của Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt
Nam
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là một viện nghiên
cứu đa ngành đa lĩnh vực, cơ quan trực thuộc Chính phủ Việt Nam và do
Chính phủ thành lập, có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học tự nhiên và phát triển
các công nghệ theo định hướng của Chính phủ. Trụ sở chính của viện đặt tại
số 18, đường Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Viện,
27
28
thực hiện chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên và phát triển
công nghệ; cung cấp luận cứ khoa học cho công tác quản lý khoa học, công
nghệ và xây dựng chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội; đào tạo nhân lực khoa học, công nghệ có trình độ cao theo quy định của
pháp luật. Viện Hàn lâm KHCNVN có 51 đơn vị trực thuộc bao gồm: 06 đơn
vị giúp việc Chủ tịch Viện do Thủ tướng Chính phủ thành lập; 34 đơn vị sự
nghiệp nghiên cứu khoa học; 06 đơn vị sự nghiệp khác (05 đơn vị do Thủ
tướng Chính phủ thành lập và 01 đơn vị do Chủ tịch viện thành lập); 04 đơn
vị tự trang trải kinh phí và 01 doanh nghiệp Nhà nước. Trong suốt thời gian
hoạt động của mình, viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Tiêu biểu có thể kể đến như thực hiện Chiến lược nghiên cứu
và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020 bao gồm một số dự án lớn như:
các dự án Vệ tinh nhỏ Việt Nam quan sát Tài nguyên thiên nhiên, môi trường
và thiên tai (VNREDSAT-1và VNREDSAT-1B), dự án Trung tâm Vũ trụ
Việt Nam và Chương trình KHCN vũ trụ hay Đề án tổng thể về điều tra cơ
bản và quản lý tài nguyên môi trường biển, điều tra khảo sát trên Biển Đông,
hợp tác quốc tế trong điều tra khảo sát Biển Đông.
Trong sự thành công của Viện, thì nhân tố quan trọng nhất là nguồn lực
con người mà trong đó góp phần lớn công sức là nguồn nhân lực chất lượng
cao của Viện.
Tính đến tháng 12/2012, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam có tổng số trên 4000 cán bộ, viên chức, trong đó có 2649 cán bộ trong
biên chế; 43 GS, 180 PGS, 36 TSKH, 678 TS, 722 ThS và 802 cán bộ, viên
chức có trình độ đại học. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng hầu hết các cán
bộ viên chức của Viện rất tích cực, nỗ lực nghiên cứu khoa học giúp Viện
Hàn lâm KHCNVN hoàn thành nhiệm vụ. Nhìn chung, cơ cấu tổ chức của
Viện là khá ổn định, hoàn chỉnh và đồng bộ; lực lượng cán bộ có trình độ cao
28
29
khá đông và đều trên hầu hết các lĩnh vực của khoa học tự nhiên. Lực lượng
cán bộ trình độ cao luôn là thế mạnh của Viện trong thời gian qua (so với các
đơn vị nghiên cứu và triển khai cũng như các trường đại học trong cả nước).
Hình 1.1: Nhân lực chất lượng cao tại Viện Hàn lâm khoa học và công
nghệ Việt Nam
(Nguồn: Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam)
Để có thể phát triển NNLCLC, Viện đã thực hiện các biện pháp sau
đây:
Thứ nhất, viện không ngừng nâng cao thu nhập cho cán bộ, nhân viên,
góp phần giúp cán bộ nghiên cứu yên tâm công tác, tăng hiệu quả lao động và
thu hút người tài. Thực hiện, quy chế tự chủ tài chính đôi với đơn vị sự nghiệp
có thu, trong các năm qua, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam đã
không ngừng nâng cao hiệu suất làm việc của cán bộ, viên chức, thực hiện liên
kết, hợp tác quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn thu sự nghiệp. Ngoài ra, Viện còn
từng bước trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị thành viên, tăng cường
hoạt động thu, tiết kiệm chi phí nhằm có thêm phần thu nhập tăng thêm cho cán
bộ, nhân viên trong viện. Chính nhờ vào những nỗ lực của banh lãnh đạo nên
phần thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên chức trong viện ở mức khá, góp phần
đảm bảo thu nhập, đời sống cho cán bộ viên chức, làm cho họ yên tâm thực
hiện nhiệm vụ được giao, nghiên cứu khoa học. Đây là lý do chính vì sao mà
trong những năm qua, viện đã thu hút được lực lượng nhân lực chất lượng cao
phục vụ cho công tác nghiên cứu, phát triển của mình.
29
30
Thứ hai, viện luôn quan tâm tới công tác đào tạo NNLCLC. Ngoài việc
tích cực gia tăng thu nhập cho cán bộ, nhân viên, trong những năm gần đây,
Viện luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo cán bộ có trình độ cao (Tiến sỹ,
Thạc sỹ) cho các đơn vị của mình cũng như phục vụ chung cho đất nước.
Hàng năm có hàng chục tiến sỹ mới bảo vệ và đào tạo hàng trăm thạc sỹ
thuộc các chuyên môn khác nhau trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Các đơn
vị trong viện còn cử nhiều cán bộ trẻ của mình đi đào tạo tại nước ngoài nhằm
bổ sung lực lượng cán bộ trình độ cao.
Thứ ba, viện luôn tạo môi trường làm việc tốt cho cán bộ, nhân viên để
tăng hiệu suất làm việc. Là một viện nghiên cứu, nhưng viện đã xây dựng môi
trường làm việc năng động và hiệu quả, ngoài ra còn tổ chức thường xuyên
các hoạt động tập thể nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán
bộ nhân viên nói chung. Điều này đã giúp cho cán bộ, nhân viên trong Viện
có sự đoàn kết, thân ái cùng tâm lý thoải mái trong lao động. Hơn thế nữa,
ngoài thu nhập ngày càng được cải thiện, chế độ phúc lợi của viện được quan
tâm đã tạo điều kiện thu hút NNLCLC gắn bó làm việc lâu dài với Viện.
1.3.2. Kinh nghiệm của Viện nghiên cứu giáo dục – Trường Đại học
sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Viện Nghiên cứu giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh được thành lập sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam với tên
gọi là Phân viện Khoa học Giáo dục miền Nam. Năm 1976, Viện trở thành
Phân viện của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Năm 1991, theo quyết
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện trở Thành Viện Nghiên cứu Giáo dục
phía Nam trực thuộc Bộ. Đến năm 1997, Viện trở thành thành viên của Đại
học quốc gia TP.HCM và đến tháng 11/1999 Viện được sáp nhập vào Trường
Đại học Sư phạm TP.HCM. Với một đội ngũ nghiên cứu viên có trình độ cao,
Viện Nghiên cứu Giáo dục, Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh đang thực hiện nhiệm vụ được giao là nghiên cứu cơ bản, chiến lược
30
31
giáo dục và những vấn đề cụ thể cấp bách của giáo dục - đào tạo. Với trách
nhiệm to lớn của một viện nghiên cứu giáo dục duy nhất ở khu vực phía Nam,
Viện luôn là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, chiến lược
và chuyển giao công nghệ trong giáo dục ở tất cả các bậc học; tư vấn và cung
cấp các sản phẩm nghiên cứu, các chương trình bồi dưỡng chuyên môn có
chất lượng cao ở khu vực phía Nam. Từ ngày thành lập đến nay, Viện Nghiên
cứu Giáo dục đã đạt dược những thành tích đáng tự hào: Viện đã hoàn thành
hàng trăm đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp trường, tổ
chức thành công 40 cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế,….Các nghiên cứu viên
có chức danh khoa học học vị của Viện còn tham gia đào tạo sau đại học cho
các trường, viện trong cả nước.
Để có được thành công như trên, Viện xác định rõ là luôn coi nguồn
nhân lực chất lượng cao là nhân tố chính để phát triển. Hiện nay Viện có 33
cán bộ cơ hữu, 15 cán bộ kiêm nhiệm và hợp đồng. Trong đó có: 1 giáo sư, 1
phó giáo sư, 12 tiến sĩ, 1 tiến sĩ khoa học, còn lại là cán bộ nghiên cứu có
bằng thạc sĩ. Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, Viện đã thực hiện
nhiều biện pháp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng cho
NNLCLC của mình. Một trong những biện pháp đó là bằng phương thức là
hợp tác trao đổi học tập kinh nghiệm, mời các chuyên gia, các giáo sư đầu
ngành báo cáo một số chuyên đề cho các trường đại học Việt Nam, liên kết
thực hiện một số dự án, tổ chức các hội thảo và các lớp bồi dưỡng chuyên đề
cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giảng viên. Tất cả những công trình
nghiên cứu, các báo cáo trong hội thảo nội dung các chuyên đề bồi dưỡng đã
được tập hợp, phổ biến rộng rãi thường xuyên qua các ấn phẩm do Viện
Nghiên cứu Giáo dục phát hành hàng tháng, hàng quý, và cuối năm. Đây là tài
liệu cho cán bộ, nhân viên trong viện và ngoài viện học tập, nghiên cứu
31
32
1.3.3. Kinh nghiệm của Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự Bộ
Quốc phòng
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự được thành lập vào năm 1999,
đặt tại Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, là một Viện đầu ngành nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn quân sự của quân đội và quốc gia. Nhiệm vụ chủ
yếu của Viện là cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ công tác lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng
cục Chính trị về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây
dựng quân đội về mặt chính trị; tích cực chủ động tham gia đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, lý luận, chống “diễn biến hòa bình”; chủ động mở rộng quan
hệ, hợp tác nghiên cứu khoa học đào tạo với các đơn vị trong và ngoài quân
đội... Qua 15 năm xây dựng và phát triển, Viện Khoa học xã hội và nhân văn
quân sự đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng 01 Huân chương Lao
động hạng Ba, 01 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba; 01 Bằng khen của
Thủ tướng Chính phủ và nhiều phần thưởng cao quý khác. 15 năm qua, Viện
đã tổ chức nghiên cứu thành công 109 đề tài khoa học các cấp (từ cấp cơ sở
đến cấp Nhà nước), 09 chuyên đề tổng kết lý luận – thực tiễn; thực hiện 07
công trình nghiên cứu cơ bản; biên soạn và xuất bản hơn 100 đầu sách chuyên
khảo, trong đó có 2 cuốn từ điển chuyên ngành; công bố hơn 1.200 bài báo
khoa học; 25 đầu sách về đấu tranh tư tưởng, lý luận; 124 chuyên đề khoa học
cá nhân và gần 100 thông tin khoa học. Mỗi năm, Viện tổ chức nhiều hội
thảo, tọa đàm, sinh hoạt học thuật; tổ chức nhiều đợt đi nghiên cứu thực tế;
tích cực tham gia giảng dạy đại học và sau đại học; biên soạn hàng chục bộ
giáo trình, tập bài giảng cho các đối tượng học viên; tham gia hơn 100 hội
đồng khoa học, hướng dẫn hơn 300 nghiên cứu sinh, học viên cao học và cử
nhân. Góp phần quan trọng hàng đầu cho thành công của Viện thì công tác
phát triển nguồn nhân lực và phát triển NNLCLC của Viện luôn được quan
32
33
tâm đúng mức. Đến nay, 100% cán bộ nghiên cứu của Viện có trình độ đại
học trở lên; trong đó, số có chức danh phó giáo sư trên 36%, có học vị tiến sĩ
trên 72%, thạc sĩ trên 12%. Để đạt được kết quả đó là quá trình thực hiện
nhiều giải pháp một cách đồng bộ của Ban lãnh đạo Viện.
Thứ nhất, Viện đã ban hành cụ thể các quy chế hoạt động cho cán bộ,
nghiên cứu viên, tăng cường công tác quản lý, nâng cao tinh thần làm việc.
Viện đã đầu tư công sức xây dựng và ban hành hệ thống các quy chế hoạt
động khoa học, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng chỉ đạo, quản lý các hoạt
động nghiên cứu. Các quy chế được xây dựng trên cơ sở phát huy tính dân
chủ và quán triệt đầy đủ, chặt chẽ đến mọi thành viên; được tổ chức thực hiện
nghiêm túc và được bổ sung, hoàn thiện kịp thời, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
đặt ra. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng quản lý hoạt động khoa học, Viện đã
thường xuyên cập nhật, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ nội dung các văn bản,
quy định, hướng dẫn quản lý khoa học các cấp. Đồng thời, phối hợp với các
cơ quan cấp trên tổ chức tập huấn nghiệp vụ và từng bước áp dụng công nghệ
thông tin vào công tác quản lý khoa học, v.v.
Thứ hai, tổ chức bộ máy hoạt động phù hợp với trình độ chuyên môn,
nhiệm vụ của cán bộ, nghiên cứu viên. Viện chủ trương tăng cường học tập,
nghiên cứu cơ cấu, tổ chức và kinh nghiệm của các trung tâm, viện nghiên
cứu khoa học đi trước để vận dụng vào xây dựng Viện cho phù hợp. Quá trình
xây dựng cũng là quá trình Viện tiếp tục bổ sung, hoàn thiện tổ chức, biên chế
cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Đặc biệt, trên cơ sở chức năng, nhiệm
vụ chung đã được xác định trong Quyết định thành lập, Viện đã đi sâu nghiên
cứu, xây dựng chức năng, nhiệm vụ của các ban nghiên cứu một cách hợp lý.
Nhờ đó, đến nay tổ chức của Viện đã ổn định; chức năng, nhiệm vụ của các
ban được xác định rõ ràng, tạo cơ sở để đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu
theo đối tượng của từng ban.
33
34
Thứ ba, Đảng ủy, chỉ huy Viện đã thường xuyên chú trọng đến công tác
tư tưởng, động viên tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người; đồng
thời, có biện pháp thích hợp để huy động trí tuệ và kinh nghiệm của họ vào
công tác nghiên cứu khoa học. Việc giao nhiệm vụ được tính toán phù hợp
với sở trường của từng cán bộ; trong đó, chú ý bố trí đan xen các thế hệ cán
bộ, nhằm kế thừa và phát huy năng lực, trình độ của mỗi người, tạo sức mạnh
tổng hợp thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, tăng cường công tác đào tạo: Viện sắp xếp để số cán bộ chưa có
trình độ sau đại học đi đào tạo ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân
đội; trong đó có nhiều đồng chí được cử đi bồi dưỡng ngoại ngữ ở cả trong và
ngoài nước. Bên cạnh đó, Viện cũng động viên, giao nhiệm vụ cho những
đồng chí có học vị tiến sĩ phấn đấu hoàn thành các điều kiện, tiêu chuẩn để
được xét công nhận các chức danh phó giáo sư, giáo sư. Mặt khác, thông qua
công tác nghiên cứu, nhất là nghiên cứu cơ bản, với các sản phẩm là các cuốn
sách tham khảo, chuyên khảo, các đề tài, chuyên đề khoa học hoặc thông qua
sinh hoạt học thuật, viết báo và báo cáo khoa học, tham luận khoa học... mà
đội ngũ cán bộ của Viện có điều kiện tích luỹ kiến thức, phát triển lý luận
chuyên sâu, tạo cơ sở để tổ chức nghiên cứu những công trình khoa học ở tầm
cao hơn; đồng thời, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ đột xuất do trên giao, với chất
lượng cao, trong thời gian ngắn.
Thứ năm, mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác, trao đổi thông tin, kinh
nghiệm tổ chức, quản lý, triển khai các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng kết
quả nghiên cứu KHXH và NVQS với các viện nghiên cứu, các học viện, nhà
trường, các cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội, với các tổ chức nghiên
cứu khoa học khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu và bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ.
1.3.4. Bài học rút ra cho Viện Khoa học Lao động và Xã hội
34
35
Thông qua xem xét kinh nghiệm phát triển NNLCLC của một số viện
nghiên cứu trong nước có thể rút ra bài học kinh nghiệm
cho Viện Khoa học Lao động và Xã hội như sau:
Thứ nhất, phải nhận thức rõ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là
trọng tâm của quá trình phát triển đối với bất kỳ tổ chức hay quốc gia nào, đặc
biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Đưa ra được các chiến lược nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực CLC là vấn đề có ý nghĩa to lớn và cần được
chú trọng nhất. Cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tri thức và
hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới hiện nay. Trên cơ sở này, Ban
lãnh đạo Viện mới có thể xây dựng chiến lược phát triển NNLCLC và các
giải pháp thực hiện.
Thứ hai, là trong các chính sách thu hút và phát triển NNLCLC thì cần
phải quan tâm giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích kinh tế mà tập trung là
ở thu nhập và trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với đất nước với xã hội.
Bởi vì chỉ có đảm bảo cho cuộc sống thì người lao động mới yên tâm lao
động, sáng tạo và cống hiến hết mình cho sự nghiệp khoa học cả cuộc đời. Do
vậy, Viện cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả một số cơ chế,
chính sách ưu đãi, ưu tiên trong công tác đào tạo và thu hút nhân tài bằng chế
độ tiền lương, tiền thưởng, nhà công vụ, điều kiện làm việc nhằm tránh tình
trạng chảy máu chất xám.
Thứ ba, để phát triển nguồn nhân lực CLC cần chú trọng tới công tác
đào tạo NNL. Bởi vì, đạo tạo NNL mới có thể nâng cao trình độ chuyên môn,
kỹ năng cho NNL. Đặc biệt, cần quan tâm tới phương hướng hợp tác quốc tế
để học tập, trao đổi kinh nghiệm làm việc, trình độ khoa học tiên tiến với thế
giới. Chính bởi vậy, Viện cần xây dựng kế hoạch đào tạo NNL cụ thể, từ thời
gian đào tạo, nội dung, phương pháp đào tạo và nguồn kinh phí. Đồng thời,
35
36
Viện cũng cần có chính sách khuyến khích người lao động tự học tập, nâng
cao trình độ.
Thứ tư, phát triển NNLCLC cần tạo môi trường làm việc thoải mái, gắn
kết với người lao động, không những nâng cao đời sống vật chất mà còn phải
nâng cao đời sống tinh thần cho họ. Với môi trường làm việc tốt người lao
động mới có điều kiện phát huy những năng lực của bản thân, tăng hiệu quả
làm việc. Mặt khác, chăm lo đời sống tinh thần cho người lao động có thể
giúp họ giao lưu học hỏi lẫn nhau, tăng tính đoàn kết, khả năng làm việc
nhóm có hiệu quả hơn,….
Thứ năm, phát triển NNLCLC cần gắn liền với công tác tổ chức, sắp
xếp NNL phù hợp với trình độ chuyên môn, thế mạnh của từng nhân viên của
Viện nhằm đáp ứng mỗi người có thể phát huy tối đa năng lực công tác,
nghiên cứu của mình để hoàn thành tốt mọi chức năng, nhiệm vụ được giao
của Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Muốn vậy, Ban lãnh đạo Viện phải
đánh giá đúng năng lực, khả năng của từng nhân viên, trên cơ sở đó bố trí lao
động cho phù hợp. Người lao động chỉ có thể phát huy tối đa hiệu quả làm
việc nếu như họ được làm công việc phù hợp với sở thích, nguyện vọng và
đúng chuyên môn của mình.
Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm rút ra từ các viện nghiên cứu,
viện khoa học trong nước, Viện Khoa học Lao động và Xã hội có thể áp dụng
để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo cho định hướng phát
triển của mình trong tương lai.
* * *
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH và phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Với bối cảnh đó, yêu cầu
36
37
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực là vấn đề có ý nghĩa quyết
định đảm bảo thắng lợi các nhiệm vụ trọng đại đó. Đối với Viện Khoa học
Lao đồng và Xã hội thì NNLCLC đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển của Viện. Vì đây là những người lao động được đào tạo ở trình độ cao,
có sức khỏe, bản lĩnh chính trị, có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên
môn cao, tinh thông nghiệp vụ và có kinh nghiệm tốt làm việc tại Viện Khoa
học Lao động và Xã hội, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ của Viện trong hiện
tại cũng như tương lai. Chính vì vậy, để đảm bảo thực hiện tốt hơn nữa chức
năng, nhiệm vụ của Viện trong tương lai thì phát triển NNLCLC là điều hết
sức cần thiết. Đây là quá trình biến đổi toàn diện cả về số lượng, chất lượng
và cơ cấu để nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm
vụ được giao.
Chương 2
37
38
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG
CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
2.1. Khái quát về Viện Khoa học Lao động và Xã hội
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Viện Khoa học Lao động và Xã hội
* Sự ra đời và phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Viện Khoa học Lao động và Xã hội có tên tiếng Anh là Institute of
Labour Science and Social Affairs, viết tắt là ILSSA. Viện có trụ sở tại số 2
Đinh Lễ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Viện Khoa học lao động và xã hội được thành
lập ngày 14.4.1978 theo Quyết định số 79 CP của Hội đồng Chính phủ với tên
là Viện Khoa học Lao động. Đến năm 1987 thì Viện được đổi tên thành Viện
Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội và đến năm 2002 thì được đổi tên
thành Viện Khoa học Lao động và Xã hội.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội là Viện đầu ngành có nhiệm vụ
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng cung cấp luận cứ phục vụ xây
dựng chính sách, chiến lược thuộc lĩnh vực lao động, người có công và xã
hội.
Chặng đường 35 năm xây dựng nỗ lực, Viện đã từng bước khẳng định được
vị thế trong hệ thống các viện nghiên cứu khoa học xã hội ở nước ta. Các
công trình nghiên cứu và kết quả nghiên cứu của Viện ngày càng gắn nhiều
hơn với nhiệm vụ quản lý nhà nước của ngành, cung cấp những luận cứ khoa
học cho việc hoạch định và thực hiện chính sách lao động, người có công và
xã hội trong các thời kỳ.
Chức năng: Chức năng và nhiệm vụ của Viện Khoa học Lao động và
Xã hội được quy định theo Quyết định số 453/QĐ-LĐTBXH của Bộ Lao
động và Thương binh Xã hội ngày 14 tháng 3 năm 2013. Viện Khoa học Lao
động và Xã hội là đơn vị nghiên cứu khoa học thuộc Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội có chức năng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và
38
39
nghiên cứu ứng dụng phục vụ quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Việc làm, dạy
nghề, lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, người có công,
bảo trợ xã hội, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới, phòng, chống tệ nạn
xã hội (sau đây gọi chung là lĩnh vực lao động, người có công và xã hội); quản
lý hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ.
Nhiệm vụ của Viện được qui định là: Nghiên cứu khoa học về lĩnh vực
Lao động - Thương binh và Xã hội, bao gồm: Dự báo xu hướng phát triển và
định hướng chiến lược về lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội. Phát triển
nguồn lao động; di dân, dịch chuyển lao động; đào tạo nghề nhằm đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm và đáp ứng thị trường lao động.
Việc làm, thất nghiệp; chuyển dịch cơ cấu lao động; thị trường lao
động; tác động của toàn cầu hóa…
Tiền lương, tiền công, thu nhập; tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân;
định mức lao động; năng suất lao động xã hội.
Lao động nữ; các khía cạnh xã hội và vấn đề giới của lao động nữ và
lao động đặc thù.
Ưu đãi người có công; xóa đói giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; bảo trợ xã
hội; tệ nạn xã hội.
Tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành; đào tạo trình độ sau đại
học thuộc chuyên ngành Kinh tế lao động (Thạc sỹ, Tiến sỹ) theo quy định
của pháp luật.
Điều tra cơ bản phục vụ nghiên cứu Khoa học về Lao động và Xã hội; thu
thập và phổ biến thông tin khoa học, kết quả các công trình nghiên cứu.
Tư vấn và tham gia thẩm định, đánh giá các chương trình, dự án, chính
sách, công trình nghiên cứu thuộc Bộ quản lý.
Mở rộng hợp tác với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu trong nước và
nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ về Lao động - Thương
39
40
binh và Xã hội, theo quy định của pháp luật, của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội.
Quản lý tổ chức, cán bộ, công chức; tài chính, tài sản được giao theo
quy định của pháp luật và của Bộ.
2.1.2. Hệ thống tổ chức
Tổ chức bộ máy của Viện bao gồm:
- Viện trưởng: Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội có trách
nhiệm ban hành và tổ chức thực hiện quy chế làm việc và quan hệ công tác
của Viện; quy định chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trực thuộc; phân
công, sắp xếp viên chức, người lao động trong Viện để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao.
- Các phó viện trưởng là người giúp việc cho viện trưởng trong công
tác tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện.
- Phòng Tổ chức- Hành chính- Tài vụ: thực hiện tổ chức, thi đua, khen
thưởng, kỷ luật, nâng lương, đào tạo đề bạt; nhân sự và lao động,….
- Phòng Kế hoạch - Tổng hợp - Đối ngoại: chịu trách nhiệm xây dựng
kế hoạch hoạt động, nghiên cứu khoa học cho Viện, khai thác, đấu thầu để tài
dự án thuộc tổ chức Quốc tế
- Phòng Nghiên cứu Quan hệ lao động: Phòng nghiên cứu và hợp tác
với các tổ chức khác theo yêu cầu của Viện trong các lĩnh vực bảo hiểm và
lao đồng, tiền lương.
- Phòng nghiên cứu chính sách ưu đãi và xã hội: Phòng có chức năng
và nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề mảng xã hội bao gồm
- Trung tâm nghiên cứu dân số, lao động, việc làm
- Trung tâm nghiên cứu lao động nữ và bình đẳng giới
- Trung tâm nghiên cứu môi trường và điều kiện lao động
Viện có Hội đồng Khoa học tư vấn cho Viện trưởng về công tác nghiên
cứu khoa học
40
41
Sơ đồ 2.1.: Cơ cấu tổ chức của Viện khoa học Lao động và Xã hội
(Nguồn: Phòng tổ chức hành chính của Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
* Tình hình nhân lực của Viện Khoa học Lao động và Xã hội.
Tính đến ngày 31/12/2013 Viện Khoa học Lao động và Xã hội có 96
người trong đó cán bộ nghiên cứu viên là 78 người, cán bộ hỗ trợ là 18 người.
Cơ cấu tuổi: về cơ cấu tuổi Viện hiện nay: Dưới 30 chiếm 32.81%;
Từ 30 - 40 chiếm 28.13%; Từ 40 - 50 chiếm 25%; Từ 51- 60 chiếm 14.06%.
Độ tuổi trung bình của các nguồn nhân lực hiện nay là 35. Hiện nay Viện
đang có sự mất cân đối về cơ cấu tuổi trong đội ngũ cán bộ nghiên cứu. Chỉ
có 4 nghiên cứu viên từ 55 tuổi trở lên, 15 nghiên cứu viên từ 45-54 tuổi, 14
nghiên cứu viên từ 35-44 tuổi, còn lại là 35 nghiên cứu viên dưới 35 tuổi.
Như vậy Viện đang thiếu những nghiên cứu viên trong độ tuổi đủ sức có
những nghiên cứu cấp Nhà nước và cấp Bộ.
Cơ cấu giới của lao động trong Viện: Hiện nay Viện có 38 nhân viên
nam và 58 nhân viên nữ
Cơ cấu chia theo trình độ học vấn:
41
42
Hình 2.1: Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn
Nguồn: Phòng tổ chức hành chính của Viện Khoa học LĐ & XH
Trong tổng số lao động của Viện hiện nay thì chiếm tỷ trọng lớn là lao
động có trình độ đại học là 50 người với 52%. Tiếp theo là lao động có trình
độ thạc sỹ là 38 người, chiếm tỷ trọng là 40%, còn lao động có trình độ cao là
Tiến sỹ chỉ có 4 người, chiếm tỷ trọng nhỏ là 4%. Như vậy vấn đề đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao số lượng, chất lượng và tỷ trọng của nguồn lao động
CLC mà trọng điểm là có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Viện
là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài.
2.1.3. Một số hoạt động và kết quả tiêu biểu
Giai đoạn 1978-1986: Thời kỳ này, các nghiên cứu tập trung vào nghiên
cứu cơ bản và ứng dụng thuộc lĩnh vực ngành quản lý trong điều kiện kế hoạch
hoá tập trung, bao gồm nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và
nghiên cứu phục vụ quản lý vi mô, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Giai đoạn 1986-1996: Những năm 1986-1996 đánh dấu bước ngoặt
trong hoạt động nghiên cứu của Viện gắn với công cuộc đổi mới đất nước, đổi
mới tư duy phù hợp với quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập
trung sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước. Các đề tài khoa học cấp nhà nước về đổi
42
43
mới chính sách tiền lương và đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH)
phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã góp phần tích cực vào
đề án trình Chính phủ về cải cách tiền lương và BHXH (1993); ….
Giai đoạn 1997-2007: Nét nổi bật của thời kỳ này là Viện đã chủ trì
hoặc tham gia vào: Cung cấp các căn cứ phụ vụ Hô ̣i nghị Trung ương, Đại hô ̣i
Đảng toàn quốc (lần thứ IX, X): nghiên cứu “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội”; chính sách lao động trong khu vực kinh tế tư nhân; tổng
kết các vấn đề lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới trong lĩnh vực lao động và
xã hội phục vụ mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập, phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Xây dựng các chiến lược và đề án lớn của ngành: Chiến lược và chương trình
việc làm và xóa đói giảm nghèo các thời kỳ 1998-2000, 2001-2005 và 2006-
2010; Cung cấp các bằng chứng khoa học cho việc bổ sung, sửa đổi luật pháp,
cơ chế chính sách lĩnh vực lao đô ̣ng, Thương binh và Xã hô ̣i: Bô ̣ Luật Lao
động, Luật Bảo hiểm Xã hội, Luâ ̣t Dạy nghề,…;
Giai đoạn 2008 đến nay: Nhiê ̣m vụ trọng tâm của nghiên cứu trong
thời kỳ này là phục vụ triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X và XI, Viện đã tham gia xây dựng Đề án” Một số vấn đề về chính sách xã
hội giai đoạn 2012-2020 (Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012) của Ban
chấp hành TW Đảng; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 15-NQ/TW (Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày1/11/2012).
Viện đã đấu thầu thành công 04 đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về các
vấn đề mới phát sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và
hô ̣i nhâ ̣p quốc tế thuô ̣c lĩnh vực lao đô ̣ng, người có công và xã hô ̣i
Viện cũng chủ trì nhiều nghiên cứu phục vụ công tác rà soát và điều
chỉnh luật pháp, chính sách thuộc lĩnh vực lao đô ̣ng, người có công và Xã hô ̣i
Viện chủ động làm đầu mối chủ trì và phối hợp với các cơ quan trong
nước và quốc tế khởi thảo một số chương trình nghiên cứu trong lĩnh vực
43
44
ASXH (mức sống tối thiểu cho mọi người dân); Nghiên cứu phục vụ viê ̣c
triển khai các chính sách chăm sóc, bảo vê ̣ trẻ em..
Trong hợp tác quốc tế, Viê ̣n đã phát triển quan hệ hợp tác chặt chẽ và
lâu dài với các tổ chức quốc tế như: WB, ADB, UNDP, UNICEF, ILO, UN
Women, DANIDA (Đan Mạch), Cơ quan hợp tác và phát triển Tây Ban Nha,
GIZ, HSF, Viện FES, EVAPLAN (Cộng hoà Liên Bang Đức), Đại học
Monash(Úc), Đại học Nihon (Nhật Bản), Tổ chức Manpower (Hoa Kỳ)….
(Xem phụ lục 1)
2.2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội thời gian qua
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong phát triển NNLCLC ở Viện
Khoa học Lao động và Xã hội từ khi thành lập cho tới nay và nguyên nhân
Những thành tựu, kết quả đạt được:
Thứ nhất, kể từ khi thành lập cho tới nay, số lượng NNLCLC của Viện
Khoa học Lao động và Xã hội đã không ngừng tăng. Gia tăng số lượng nguồn
nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã tạo điều
kiện ngày càng đáp ứng tốt hơn, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học và các nhiệm vụ khác mà Viện được giao.
Khi mới thành lập vào năm 1978, Viện mới chỉ có tổng số cán bộ nghiên
cứu là 10 người, thì sau 10 năm đi vào hoạt động, năm 1988, số lượng cán bộ
nghiên cứu đã tăng mạnh lên 62 người, tương ứng tỷ lệ tăng trưởng là 520%.
Điều này là hợp lý vì năm 1988, khi Việt Nam bắt đầu đổi mới nền kinh tế, thì
việc phát triển lao động và nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu. Nguồn
nhân lực chất lượng cao của Viện trong giai đoạn này tăng mạnh để đáp ứng nhu
cầu nghiên cứu, chuyển dịch lao động và các vấn đề tiền lương trong thời kỳ đổi
mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ
của nghiên cứu bao gồm các cơ sở lý luận, phương pháp luận mới, đồng thời giải
44
45
quyết những vấn đề bức xúc trong quá trình chuyển đổi (giải quyết lao động dôi
dư trong sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, vấn đề việc làm cho lao động
Xã hội, cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội…)
Hình 2.2: Tình hình biến động số lượng cán bộ, nghiên cứu viên từ khi
thành lập cho tới nay của Viện Khoa học Lao động và Xã hội
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 35 năm phát triển của Viện KH LĐ & XH)
Trong giai đoan từ 1988 tới năm 1998, thì nguồn nhân lực chất lượng
cao của Viện không có sự thay đổi đáng kể. Tính tới hết năm 1998 thì số
lượng cán bộ, nghiên cứu viên của Viện tăng lên là 65 người, tỷ lệ tăng
trưởng so với cuối năm 1988 chỉ ở mức 5%.
Giai đoạn 1999 – 2008, nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện đã
tăng mạnh mẽ hơn giai đoạn trước. Tính đến cuối năm 2008, tổng số cán bộ,
nghiên cứu viên của Viện là 75 người, tăng trưởng 15% so với giai đoạn
trước. Việc tăng trưởng số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện
trong thời gian này là hợp lý. Vì sau khi đạt tiến hành cải cách, mở cửa nền
kinh tế, đất nước tiếp tục đạt được nhiều thành tựu kinh tế và xã hội quan
trọng. Tuy nhiên, nhiều vấn đề xã hội được đă ̣t ra, cần giải quyết cả về lý
45
46
thuyết lẫn thực tiễn. Với số lượng cán bộ, nghiên cứu viên không ngừng gia
tăng trong những năm này đã tạo điều kiện để Viện Khoa học Lao động và Xã
hội hoàn thành tốt nhiệm vụ nghiên cứu mà Nhà nước giao.
Giai đoạn từ sau 2008 cho tới nay, số lượng nguồn nhân lực chất lượng
cao của Viện đã tăng mạnh hơn. Chỉ sau 5 năm, số lượng lao động nghiên cứu
khoa học của Viện đã tăng lên mức 92 người. Mới chỉ 5 năm, tỷ lệ tăng
trưởng số lượng cán bộ nghiên cứu của Viện đã đạt 23% (cao hơn so với giai
đoạn 10 năm trước nhiều). Số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao tăng nên
số lượng công trình nghiên cứu khoa học mà Viện hoàn thành trong giai đoạn
này cũng tăng nhanh. Viện đã đấu thầu thành công 04 đề tài nghiên cứu cấp
nhà nước về các vấn đề mới phát sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường và hô ̣i nhâ ̣p quốc tế thuô ̣c lĩnh vực lao đô ̣ng, người có công và Xã
hô ̣i. Đồng thời, hội nhập quốc tế sâu rộng, nên Viện đã tăng cường hoạt động
hợp tác nghiên cứu với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. Để gia tăng
số lượng cán bộ, nghiên cứu viên đáp ứng nhu cầu của Viện Khoa học Lao
động và Xã hội, thì công tác lập kế hoạch nhân lực cho Viện được quan tâm
lớn. Viện đã xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực tổng thể 5 năm 1
lần. Đối với nguồn cán bộ thiếu, Viện có thể bổ sung bằng nguồn nhân lực
điều chuyển từ các cơ quan trong Bộ sang, hoặc có thể tuyển dụng công khai
và minh bạch để lựa chọn những người lao động có trình độ cao.
Thứ hai, chất lượng NNLCLC của Viện ngày càng tăng. Để đảm bảo
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, trong các năm qua, ngoài việc
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về số lượng thì Viện Khoa học Lao
động và Xã hội đã không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của
mình. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Nâng cao thể lực của NNLCLC:
Về độ tuổi lao động: (Xem phụ lục 2)
46
47
Hình 2.3: Độ tuổi trung bình của cán bộ, nghiên cứu viên
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Qua biểu đồ ta thấy độ tuổi lao động của nguồn nhân lực đã giảm qua
các năm. Đây là xu hướng chung của các tổ chức Nhà nước. Như vậy Viện đã
không ngừng trẻ hóa nguồn nhân lực. Trong các năm từ 2008 cho tới nay ta
đều có thể nhận thấy độ tuổi trẻ là dưới 30 tuổi và từ 30 – 40 tuổi là nhóm
tuổi có tỷ trọng cao nhất. Độ tuổi từ 40 – 50 tuổi và trên 50 tuổi thường chiếm
tỷ trọng nhỏ hơn, đặc biệt là nhóm tuổi trên 50 có xu hướng giảm qua các
năm. Năm 2008, nhóm cán bộ, nghiên cứu viên có độ tuổi trên 50 là 18 thì tới
năm 2013, nhóm độ tuổi này giảm chỉ còn 13 người. Chính nhờ vào việc trẻ
hóa cán bộ của Viện mà độ tuổi lao động trung bình của Viện qua các năm
đều có xu hướng giảm. Năm 2008, độ tuổi trung bình của cán bộ, nghiên cứu
viên là 37,2 thì tới năm 2013, độ tuổi trung bình này giảm xuống còn 35. Có
thể nhận thấy, sức khỏe của NNLCLC của Viện khá tốt, đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ, chức năng được giao.
Chỉ tiêu khác về sức khỏe nguồn nhân lực: Sức khỏe là yếu tố quan
trọng để người lao động có thể hoàn thành công việc với chất lượng và năng
suất cao. Trong thời kỳ hội nhập ngày nay sức ép của công việc ngày càng lớn
đòi hỏi càng phải có sức khỏe tốt. Mặt khác, công tác nghiên cứu khoa học là
47
48
công việc khó khăn và chịu nhiều áp lực nên cán bộ nghiên cứu càng phải
nâng cao sức khỏe để hoàn thành công tác. Chính vì vậy, trong quá trình lao
động và phát triển của Viện, phúc lợi Xã hội của Viện luôn được quan tâm và
phát triển mạnh mẽ, do đó đời sống của CNV được nâng cao, kéo theo đó là
tình hình sức khỏe của người lao động cũng không ngừng tăng lên. (Xem phụ
lục 3). Có thể nhận thấy, từ năm 2008 cho tới nay, mặc dù tổng số ngày nghỉ
ốm của cán bộ, nghiên cứu viên trong Viện Khoa học Lao động và Xã hội
biến động không đều qua các năm nhưng số ngày nghỉ ốm trung bình của
người lao động lại có xu hướng giảm. Đây là dấu hiệu tốt cho thấy sức khỏe
của NNLCLC của Viện ngày càng tăng. Cụ thể năm 2008, số ngày nghỉ ốm
trung bình của một người lao động là 2,91 ngày/ năm thì tới năm 2013, số
ngày nghỉ ốm trung bình của người lao động là 2,19 ngày.
Nâng cao trình độ chuyên môn của NNLCLC:
Hình 2.4: Trình độ chuyên môn của cán bộ, nghiên cứu viên
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Có thể nhận thấy, trình độ chuyên môn của cán bộ, nghiên cứu viên
trong Viện Lao động và xã hội các năm qua không ngừng được nâng cao.
48
49
Điều này thể hiện rất rõ bởi sự tăng lên của NNL có trình độ chuyên môn trên
đại học một các rõ rệt. Nếu như ban đầu, khi Viện mới đi vào hoạt động, số
lượng nghiên cứu viên còn hạn chế, chỉ có 10 nhân viên với trình độ đại học,
thì trải qua các thời kỳ, số lượng nghiên cứu viên tăng lên cùng với trình độ
chuyên môn ngày càng tăng. Năm 1988, số lượng nghiên cứu viên và cán bộ
có trình độ đại học là 59 và có 3 nghiên cứu viên, cán bộ có trình độ trên đại
học. Tới năm 1998, số lượng nghiên cứu viên và cán bộ có trình độ trên đại
học đã tăng lên là 10 người, và NNL có trình độ đại học là 55. Năm 2008,
NNL có trình độ trên đại học đã tăng lên con số là 22 người và NNL có trình
độ đại học là 53. Tính tới thời điểm hiện tại, số lượng nhân lực có trình độ
trên đại học đã tăng lên con số 42 người và NNL có trình độ đại học là 50
người. Trong đó, Viện có một Phó giáo sư là PGS.TS Thái Bá Ngọc – Phó
viện trưởng, 4 tiến sỹ và 38 thạc sỹ.
Phát triển NNL CLC về kỹ năng và kinh nghiệm (Xem phụ lục 4): Ngoài
ra, có thể nhận thấy, trình độ ngoại ngữ và trình độ tin học của NNL CLC
trong Viện trong những năm qua được cải thiện. Viện đảm bảo 100% cán bộ,
nghiên cứu viên phải có trình độ tin học tối thiểu là bằng B tin học văn phòng
vì trong thời đại công nghệ thông tin phát triển cao thì máy tính là công cụ
hữu ích trong công tác quản lý và công tác nghiên cứu khoa học. Một số cán bộ
trong Viện có trình độ đại học chuyên về công nghệ thông tin để đảm bảo duy
trì hệ thống máy tính, phần mềm quản lý của Viện được thông suốt. Hơn thế
nữa, ngoại ngữ cũng là một yêu cầu cấp thiết đối với NNL khi mà hội nhập và
hợp tác nghiên cứu khoa học với các quốc gia khác và tổ chức quốc tế ngày
càng sâu rộng hơn. 100% cán bộ và nghiên cứu viên của Viện có trình độ tiếng
Anh từ bằng B trở lên đã đáp ứng được phần nào yêu cầu của công việc. Hơn
thế nữa, số lượng cán bộ có trình độ ngoại ngữ từ đại học trở lên trong những
49
50
năm gần đây có xu hướng gia tăng. Kỹ năng lao động của NNL trong Viện
trong những năm qua còn không ngừng được cải thiện thông qua một loạt các
dự án hợp tác nghiên cứu với nước ngoài. Mặt khác, với độ tuổi lao động trung
bình là 35 thì lao động trong Viện có khả năng tiếp cận với khoa học, công
nghệ và phát triển kỹ năng làm việc một cách thuận lợi. Các dự án nghiên cứu
khoa học của Viện cũng là các sản phẩm khoa học được thực hiện bởi những
nhóm nghiên cứu viên. Điều này chứng tỏ, kỹ năng làm việc nhóm của NNL
trong Viện luôn được chú trọng và bồi dưỡng, phát triển.
Phát triển đạo đức nghề nghiệp cho NNLCLC: Trong những năm qua,
phẩm chất đạo đức của NNLCLC trong Viện luôn được gìn giữ và phát huy.
Các cán bộ, nghiên cứu viên đều là những người làm công tác khoa học
nghiêm túc, chấp hành tốt quy định làm việc của Viện, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nhân lực tại Viện chưa ghi nhận trường
hợp nào mắc sai phạm trong làm việc và đời sống, không vi phạm pháp luật,
…. Môi trường làm việc trong Viện Khoa học Lao động và Xã hội là thân
thiện và đoàn kết. Thông qua các hoạt động của tổ chức Công đoàn, Đoàn
thanh niên, Đảng bộ đã góp phần kết nối những người lao động trong tổ chức.
Mặt khác, công tác phát triển Đảng tại Viện đã được quan tâm đúng mức.
Tính đến nay, Đảng bộ của Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã có đội ngũ
Đảng viên lên tới 20 ngưởi.
Thứ ba, cơ cấu NNLCLC của Viện có chuyển biến tích cực và phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ của Viện. Cùng với sự phát triển về quy mô, số
lượng và chất lượng NNL chất lượng cao thì cơ cấu NNL CLC của Viện
Khoa học Lao động và Xã hội trong các năm qua cũng có sự biến động theo
chiều hướng tích cực.
Cơ cấu về tuổi (Xem phụ lục 5): Có thể nhận thấy trong các năm qua
mặc dù có sự chuyển dịch cơ cấu lao động không quá rõ nét nhưng cơ cấu lao
50
51
động của Viện theo độ tuổi có sự chuyển dịch theo hướng trẻ hóa. Điều này
được thể hiện cụ thể ở nhóm tuổi dưới 30 tuổi có xu hướng tăng dần qua các
năm. Năm 2008, nhóm này có tỷ trọng là 30,7% thì tới năm 2013 nhóm này
có tỷ trọng là 32,9%. Mặt khác, độ tuổi trên 50 có xu hướng giảm rõ rệt, từ
24% trong năm 2008 xuống còn 14% trong năm 2013. Cơ cấu NNL theo độ
tuổi theo hướng trẻ hóa sẽ nâng cao sức khỏe chung của NNL và tăng khả
năng nắm bắt tri thức mới trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Cơ cấu về giới:
Hình 2.5: Cơ cấu NNL theo giới tính
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Hiện nay, trong số 92 cán bộ, nghiên cứu viên của Viện Khoa học Lao
động và Xã hội thì chiếm tỷ trọng đa số là nữ giới. Cụ thể là lao động nữ là 56
người, chiếm tỷ trọng 61%, còn lại là nam giới chiếm tỷ trọng 39%. Có thể
nhận thấy, cơ cấu lao động của Viện là tương đối hợp lý, tỷ lệ giữa nam giới
và nữ giới không có sự chênh lệch quá lớn.
Cơ cấu theo trình độ chuyên môn (Xem phụ lục 6): Cơ cấu NNL theo
trình độ chuyên môn của Viện trong những năm qua đã có sự chuyển biến
51
52
tích cực rõ rệt. Có thể nhận thấy trình độ chuyên môn của NNL trong Viện đã
được nâng cao dần qua các năm. Điều này được thể hiện thông qua sự biến
động về tỷ trọng NNL có trình độ trên đại học. Năm 1978, khi Viện mới đi
vào hoạt động thì vẫn chưa có cán bộ nào có trình độ trên đại học, tới năm
1988, số cán bộ có trình độ trên đại học mới chỉ đạt 5% thì tới năm 2013, số
cán bộ có trình độ trên đại học đã đạt tới 46%. Các cán bộ, nghiên cứu viên
đều được đào tạo chuyên môn phù hợp với lĩnh vực làm việc, ví dụ như ngành
quản lý kinh tế, ngành kinh tế chính trị, ngành quản lý lao động,… của các
trường Học viện Hành chính, Học viện chính trị, Kinh tế quốc dân, Đại học
Lao động và Xã hội,….. Đặc biệt, có cán bộ còn được cử đi học tập, nghiên
cứu sinh tại nước ngoài.
Cơ cấu theo chức năng:
Hình 2.6: Cơ cấu NNL theo chức năng
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Hiện nay, cơ cấu NNL theo chức năng của Viện tương đối hợp lý. Trong số
92 nhân lực tại thời điểm hiện tại, thì chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu là nghiên cứu
viên với 85% tổng số NNL. Điều này tạo điều kiện cho Viện có thể hoàn thành tốt
chức năng, nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, cán bộ hỗ trợ cũng đóng góp phần quan
52
53
trọng cho sự hoạt động và phát triển của Viện. Số cán bộ hỗ trợ là 16 người,
chiếm tỷ trọng là 15%. Cán bộ hỗ trợ này làm việc trong lĩnh vực tin học, kế toán
tài chính, tổ chức cán bộ, hành chính,…..
Nguyên nhân của những thành công:
Một là, Viện đã quan tâm thích đáng đến thu hút, sử dụng, và đào tạo,
bồi dưỡng NNLCLC. Viện đã xác định rõ nhu cầu đào tạo NNLCLC theo sự
phát triển của nhiệm vụ, và đã có kế hoạch tuyển dụng và tổ chức tuyển dụng
đúng quy trình: Viện đã xây dựng kế hoạch tuyển dụng mỗi khi có nhu cầu
xác định rõ vị trí cần tuyển dụng; Số lượng; Yêu cầu chuyên môn. Căn cứ vào
kế hoạch nhiệm vụ được giao cụ thể hằng năm, Viện lập báo cáo nguồn nhân
lực và xác định rõ nhu cầu tuyển dụng trong năm. Quy trình tuyển dụng của
Viện cũng được thực hiện đúng và đầy đủ. Các nhân viên được tuyển qua các
hình thức như thi sơ tuyển, tuyển dụng bằng phỏng vấn. Khi được vào làm có
thể là làm hợp đồng và sẽ trở thành nhân viên chính thức qua các đợt thi công
chức được tổ chức khoảng 3 - 4 năm một lần. Quá trình tuyển dụng nhân lực
của Viện được thực hiện theo các bước sau: Lập kế hoạch tuyển dụng. Sau đó
xin tuyển dụng từ cơ quan cấp trên, thông báo tuyển dụng đăng báo, mạng và
biên soạn tài liệu. Tiếp theo là quyết định thành lập Hội đồng Thi tuyển, ban
ra đề thi, coi thi, chấm thi. Viện tổ chức công tác chấm thi và tổng hợp kết
quả. Sau đó, Hội đồng Thi tuyển sẽ trình cấp trên có thẩm quyền phê duyệt và
Viện tổ chức ký hợp đồng làm việc lần đầu với thí sinh trúng tuyển. Viện đã
bố trí, sắp xếp NNLCLC đúng người, đúng việc. Việc định hướng, bố trí luân
chuyển, thăng chức hay đề bạt cán bộ của Viện đều theo các quy định của
Nhà nước cũng như yêu cầu của Viện. Cụ thể là theo quy định 27/2003/QĐ
TTg, ngày 19/2/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ tổ chức lãnh
53
54
đạo. Quá trình này sẽ được xem xét kỹ lưỡng, có kế hoạch cụ thể để có thể
đáp ứng được nhu cầu cũng như đánh giá đúng năng lực khi lựa chọn.
Quá trình thăng chức hay đề bạt một cán bộ nào đó được thông qua Ban
Lãnh đạo của Viện xem xét cả về phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn
xem có phù hợp hay không. Khi có những quyết định bố trí, thăng chức hay
đề bạt cán bộ thì cần có những biện pháp quy hoạch cán bộ hợp lý và có thể
sẽ đào tạo cả chức danh lãnh đạo Viện, Trưởng, phó phòng, giám đốc và phó
giám đốc cho một người dự kiến sẽ bố trí. Khi đó việc sắp xếp công tác, bố trí
đề bạt cán bộ sẽ không bị lệ thuộc và không xảy ra tình trạng gò bó, hẫng hụt.
Viện cũng đã chú trọng tới công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển NNLCLC.
Hàng năm Viện đều thực hiện đào tạo cán bộ, như cử đi đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ
trong và ngoài nước. Cử các cán bộ tham gia các buổi thảo luận hợp tác với
nước ngoài để nâng cao năng lực của cán bộ trong Viện. Mỗi năm đều có các
báo cáo, kiến nghị để thu thập nhu cầu đào tạo, xác định các nhu cầu đào tạo,
xây dựng các kế hoạch đào tạo cụ thể. Quá trình đào tạo và phát triển nhân
lực được trình lên Ban Lãnh đạo Viện xem xét và ký. Tuy nhiên chủ trương
của Viện là song song với việc đào tạo cán bộ thì cũng cần ưu tiên tuyển chọn
các cán bộ giỏi, có phẩm chất đạo đức chính trị tốt từ nơi khác chuyển về. Viện
cũng đã liên hệ với Trường Cán bộ quản lý Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn để tổ chức đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao năng lực quản lý cho các cán
bộ trong Viện. Như vậy các cán bộ trong Viện được đào tạo cả về chuyên môn
nghiệp vụ và chuyên môn quản lý.
Hai là, Viện đã có nhiều cố gắng trong bảo đảm và nâng cao thu nhập,
quan tâm tới đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho cán bộ công nhân viên.
Viện đã có biện pháp tăng thu nhập qua chính sách tiền lương. Những cán bộ
công nhân viên thuộc biên chế và hợp đồng lao động không xác định thời hạn
được trả lương theo Nghị định 204 của Chính phủ. Còn các cán bộ và nhân
viên khác trả lương theo chế độ hợp đồng lao động. Hiện nay, ngoài phần
54
55
lương trả theo qui định của Nhà nước đối với các cán bộ của viện thì cùng với
đó các dự án cũng đem lại một phần thu nhập cho cán bộ của Viện, các khoản
kinh phí nghiên cứu dự án hoặc các khoản tài trợ thực hiện dự án không được
đưa và nguồn chi của Viện. Các khoản này được chi trả dưới dạng phúc lợi
không nằm trong quĩ lương.
đvt: nghìn đồng
Hình 2.7: Thu nhập bình quân tháng của người lao động
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Viện đã xây dựng cho mình một chính sách tiền lương phù hợp với
điều kiện sản xuất kinh doanh của Viện và phù hợp với sự đóng góp của
người lao động. Tiền lương được tính theo công thức sau: Tiền lương = Mức
lương tối thiếu x (1+ Hệ số thu nhập tăng thêm). Trong thời gian tập sự,
người tập sự được hưởng 85% mức lương bậc 1 của ngạch tuyển dụng; trường
hợp người tập sự có trình độ thạc sỹ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì được
hưởng 85% mức lương bậc 2 của ngạch tuyển dụng; trường hợp người tập sự
có trình độ tiến sỹ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì được hưởng 85% mức
lương bậc 3 của ngạch tuyển dụng. Các khoản phụ cấp được hưởng theo quy
định của pháp luật. Ngoài lương cơ bản thì Viện cũng áp dụng thêm các loại
55
56
phụ cấp cho cán bộ công nhân viên trong Viện như phụ cấp chức vụ, phụ cấp
trách nhiệm, phụ cấp lưu động, phụ cấp độc hại, phụ cấp thâm niên… cộng
vào lương hàng tháng cho cán bộ, công nhân viên của Viện. Ngoài lương,
Viện còn tính khoản thu nhập tăng thêm cho cán bộ công nhân viên trong
Viện. Khoản thu nhập tăng thêm này được tính trên cơ sở số dư kinh phí còn
lại sau khi đã trừ các khoản chi phí hợp lý, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách
nhà nước và trích lập các quỹ theo quy định, Viện trưởng quyết định tổng
mức thu nhập tăng thêm trong năm nhưng tối đa không quá 3 lần quỹ lương
cấp bậc, chức vụ trong năm do nhà nước quy định.
Trong những năm qua, Viện đã không ngừng đẩy mạnh thi đua, tham
gia công tác nghiên cứu khoa học. Số lượng các công trình nghiên cứu của
Viện hoàn thành với chất lượng tốt không ngừng tăng qua các năm. Điều này
đã tạo điều kiện để Viện có thể gia tăng thu nhập cho người lao động.
Viện đã quan tâm đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội,...Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và
kinh phí công đoàn là một chính sách trợ cấp, hỗ trợ cho cán bộ công nhân
viên đang công tác tại Viện có thêm tinh thần làm việc hiệu quả hơn. Viện
đều thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách này.
Viện đã quan tâm nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần cho
cán bộ CNV. Hằng năm Ban lãnh đạo của Viện đều quan tâm tới đời sống vật
chất và tinh thần cho người lao động. Tổ chức Công đoàn của Viện hàng năm
đều tổ chức tham quan cho cán bộ nhân viên vào dịp hè, ví dụ như năm 2012 tổ
chức tham quan tại Trung Quốc, năm 2011 tổ chức tham quan, nghỉ mát tại Cửa
Lò,…. Các dịp tết Trung thu, ngày Quốc tế thiếu nhi,…, Viện đều tổ chức buổi
liên hoan cho các cháu,…. cán bộ, nhân viên hay thân nhân ốm đau thì Công
đoàn của Viện đều tổ chức thăm hỏi,…. điều này vừa chăm lo đời sống tinh
thần, vừa gắn kết những người lao động trong Viện được tốt hơn. Chú trọng tới
56
57
phát triển thể lực của cán bộ nhân viên, hàng năm Viện đều tổ chức khám sức
khoẻ cho người lao động tại Bệnh viện Tràng An.
Môi trường làm việc của cán bộ CNV được cải thiện. Viện đã tạo điều
kiện môi trường làm việc cho cán bộ công nhân viên của Viện tốt nhất. Trong
các năm qua, lãnh đạo Viện đã không ngừng mua sắm, trang bị thêm máy
móc, thiết bị như máy tính, máy in, máy photo, điều hòa,… nhằm cải thiện
điều kiện làm việc cho cán bộ, nhân viên.
Công tác khen thưởng, nghỉ dưỡng, thi đua được Viện tiến hành hợp lý.
Viện cũng quan tâm khen thưởng, khuyến khích cán bộ công nhân viên tham
gia các công tác, đoàn, Đảng v.v...
Ba là, phát huy tốt vai trò các phòng ban, đơn vị tham mưu và quản lý
của Viện trong nâng cao chất lượng NNLCLC.
Phòng Tổ chức, hành chính đã thực hiện tốt chức năng tham mưu và
quản lý NNL. Phòng đã tham mưu cho Ban lãnh đạo về quản lý lao động,
tiền lương,… góp phần phát triển NNLCLC của Viện. Bộ phận nhân lực của
Phòng Tổ chức, Hành chính với 6 Cán bộ, công nhân viên, trong đó có 1 thạc
sỹ, 3 Đại học, 02 Trung học được tổ chức thành 03 tổ chuyên môn nghiệp vụ:
Tổ chức, lao động tiền lương; Phòng hành chính; Phòng Quản trị và lái xe.
Phòng Tổ chức, hành chính đã tham mưu, giúp lãnh đạo Viện trong các lĩnh
vực quản lý về tổ chức cán bộ, lao động tiền lương, hành chính quản trị, tài
sản và các chính sách xã hội khác có liên quan khác trong toàn cơ quan. Trên
cơ sở đó đã góp phần đảm bảo tốt cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho lao
động. Đồng thời, Viện không ngừng hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền
thưởng và các chế độ đãi ngộ đối với người lao động. Phòng Tổ chức, hành
chính đã thực hiện tốt công tác khuyến khích người lao động nâng cao ý thức,
đạo đức nghề nghiệp: Đó là việc phòng tổ chức hành chính trực tiếp theo dõi,
đôn đốc và khuyến khích các nhân viên trực tiếp làm việc tại Viện: đi làm
57
58
đúng, đủ giờ, làm việc năng động, nhiệt tình, khuyến khích sáng tạo trong
công việc. Ghi nhận những cố gắng và thành tích của cán bộ công nhân
viên để làm cơ sở khen thưởng và khen thưởng kịp thời những cán bộ công
nhân viên có thành tích tốt. Theo dõi, đôn đốc kiểm tra trên phương diện
hoạt động theo dự án, công việc này được chủ nhiệm dự án trực tiếp giao
cho bộ phận chuyên trách đôn đốc, theo dõi và khuyến khích các cán bộ
công nhân viên thực hiện kịp thời hạn và đúng tiến độ. Ghi chép theo dõi
ngày công, sự đóng góp để tiện cho việc khen thưởng. Tự đôn đốc, theo dõi
và khuyến khích Viện luôn luôn khuyến khích và yêu cầu các cán bộ CNV
phải tự theo dõi đôn đốc bản thân tự kiểm điểm và rút kinh nghiệm. Hàng
tuần các CBCNV phải trực tiếp nộp báo cáo cho cấp trên.
Đảng ủy Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã phát huy vai trò quan
trọng trong việc định hướng nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức của
CBCNV. Trong các năm qua, công tác phát triển Đảng đã được Viện tích cực
quan tâm và đạt được nhiều thành tựu. Các CBCNV đều phấn đấu để được
đứng trong hàng ngũ của Đảng. Người Đảng viên là tấm gương về bản lĩnh
chính trị, đạo đức, năng lực. Đảng ủy Viện đã tăng cường bồi dưỡng các kỹ
năng tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện và ý chí phấn đấu cho đảng viên để họ
biết cách thức tự điều chỉnh, tự kiểm điểm lại bản thân, sửa mình cho phù hợp
với những tiêu chí, yêu cầu đòi hỏi khách quan của tình hình, nhiệm vụ mới.
Luôn bám sát thực tiễn đời sống xã hội và thông qua các hoạt động thực tiễn
sinh động, để giáo dục tinh thần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện cho đảng
viên trẻ phù hợp với lĩnh vực, công việc, chức trách, nhiệm vụ của từng đảng
viên.
2.2.2. Những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Viện khoa học Lao động và Xã hội
Những hạn chế
58
59
Thứ nhất, số lượng NNLCLC tăng chậm nên chưa đáp ứng được cho
nhu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện.
Hình 2.8: Tình hình cán bộ nghiên cứu và đề tài nghiên cứu
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Mặc dù số lượng cán bộ, nghiên cứu viên của Viện có sự tăng trưởng
qua các năm nhưng tốc độ tăng trưởng còn chậm, số lượng biến động không
nhiều. Tăng trưởng về số lượng cán bộ nghiên cứu luôn thấp hơn mức gia
tăng về nhiệm vụ, công tác nghiên cứu của Viện. Cụ thể, số lượng cán bộ
nghiên cứu năm 1998 so với năm 1988 chỉ tăng thêm 3 cán bộ, tăng gấp 1,04
lần thì số lượng đề tài nghiên cứu tăng gấp 1,6 lần. Tương tự như vậy, năm
2008 so với 1998, số lượng cán bộ nghiên cứu chỉ tăng gấp 1,2 lần thì số
lượng đề tài đã tăng gấp 2,5 lần. Năm 2013 so với năm 2008, số lượng cán bộ
nghiên cứu chỉ tăng gấp 1,2 lần còn số lượng đề tài tăng gấp 1,8 lần. Do vậy,
số lượng cán bộ, nghiên cứu viên vẫn chưa thể đáp ứng đủ cho nhu cầu
nghiên cứu khoa học, thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Viện.
Thứ hai, chất lượng NNLCLC của Viện đã được cải thiện nhưng kết
quả còn chưa cao. Độ tuổi trung bình của NNLCLC giảm chậm. Độ tuổi lao
động của nguồn nhân lực đã giảm nhưng tốc độ giảm còn chậm chạp. Đây là
59
60
xu hướng chung của các tổ chức Nhà nước. Viện đã không ngừng trẻ hóa
nguồn nhân lực. Tuy nhiên trẻ hóa nguồn nhân lực của Viện phải diễn ra
trong thời gian dài do đặc điểm công việc của ngành. Trình độ chuyên môn
của NNLCLC của Viện đã được cải thiện nhưng tốc độ còn chậm, trong khi
trình độ ngoại ngữ, tin học của NNLCLC còn hạn chế. Chuyên môn của
nguồn nhân lực trong Viện tăng lên một cách đáng kể tuy nhiên sự tăng đó
còn chậm và chưa có bước đột phá mạnh mẽ, đó là do Viện chưa có được
nguồn ngân sách đủ lớn để tăng cường đào tạo chuyên môn cho cán bộ CNV.
Và cũng do trang thiết bị của Viện chưa được trang bị một cách hiện đại, làm
hạn chế chuyên môn của người lao động. Đó là điều dễ hiểu bởi lẽ nâng cao
trình độ của NLL là một quá trình lâu dài và liên tục, bất cứ tổ chức nào cũng
không thể nóng vội mà phải tiến hành từ từ từng bước. So sánh với các cơ
quan nghiên cứu khoa học khác thì tỷ lệ NNLCLC có trình độ tiến sỹ và chức
danh PGS, GS của Viện còn ở mức thấp. Lực lượng cán bộ chuyên môn đầu
ngành và cán bộ quán lý của Viện đang còn thiếu. Hơn thế nữa, trình độ ngoại
ngữ và trình độ tin học của cán bộ, nhân viên mặc dù được cải thiện nhưng
nhìn chung còn khá thấp. Số lượng cán bộ có khả năng nghe nói, đọc viết
ngoại ngữ tốt rất ít. Đây cũng là thực tế chung tại các Viện nghiên cứu hiện
nay.
Thứ ba, mặc dù cơ cấu NNLCLC của Viện có sự dịch chuyển theo
hướng tích cực nhưng vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Cơ cấu theo trình độ lao
động của Viện hiện nay còn thiếu cán bộ nghiên cứu cấp cao. Với cơ cấu trình
độ học vấn trên thì hiện này Viện có 1 cán bộ đã làm chủ nhiệm đề tài cấp
Nhà nước, các đề án lớn; 3 cán bộ làm chủ nhiệm các dự án nghiên cứu tầm
trung; 8 cán bộ đã làm chủ nhiệm đề tài cấp Bộ; 11 cán bộ làm thư ký, trợ lý,
điều phối các đề tài dự án của Viện; 22 cán bộ đã tham gia viết báo cáo
nhánh, báo cáo tổng hợp đề tài dự án; 9 cán bộ hiện mới đảm nhiệm các công
việc điều tra khảo sát.
60
61
Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay đội ngũ cán bộ của Viện vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu của Viện, số cán bộ nghiên cứu cấp cao
chưa đủ đáp ứng. Hiện nay một số cán bộ vẫn phải kiêm nhiệm các chức năng
khác nhau. Cơ cấu theo độ tuổi hiện nay đang dần trẻ hóa nên thiếu những cán
bộ nghiên cứu có kỹ năng và kinh nghiệm làm việc lâu năm, trong khi đó cơ
cấu theo giới tính đang có sự mất cân bằng nhất định.
Hiện nay, Viện thiếu những nghiên cứu viên trong độ tuổi đủ khả năng
có những công trình nghiên cứu cấp Nhà nước và cấp Bộ. Nguyên nhân là do,
mặc dù lao động đang được trẻ hóa nhưng chính với những nghiên cứu viên
mà độ tuổi còn trẻ thì lại thiếu kinh nghiệm làm việc, kỹ năng lao động và tốn
kém nhiều thời gian đào tạo và tự đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn.
Theo giới tính thì hiện nay giữa NNL nam và nữ có sự chênh lệch đáng
kể theo tỷ lệ 39% và 61%. Như vậy, để tạo được một tập thể năng động, hài
hòa, luôn phát triển đồng đều thì Viện nên tăng tỷ lệ lao động nam.
Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, hiện nay, nhân viên đảm nhận công tác quản trị NNL của
Viện còn thiếu và trình độ chuyên môn chưa cao. Phòng tổ chức, hành chính
chỉ có 2 người chuyên trách về công việc quản trị nhân lực. Như vậy so với
tổng số cán bộ công nhân viên trong Viện 92 cán bộ thì số cán bộ chuyên
trách về quản trị nhân lực này là còn khá mỏng và chưa đảm bảo về chức
năng quản trị nhân lực. Năng lực của cán bộ chuyên trách về quản trị nhân lực
còn chưa cao. Hai cán bộ chuyên trách về công tác này thì chỉ có một cán bộ
có trình độ đại học.
Thứ hai, Viện chưa xác định chính xác nhu cầu NNLCLC cho từng
năm do đó gây tốn kém chi phí và đồng thời cho khâu tuyển dụng, đào tạo
mới. Mức độ chính xác của kết quả xác định nhu cầu nhân lực chỉ cao khi các
cơ sở, căn cứ tương đối đầy đủ và chính xác. Việc xác định nhu cầu nhân lực
61
62
CLC hàng năm của Viện không được thực hiện một cách nghiêm túc và có kế
hoạch cụ thể. Do đó kết quả chưa cao. Việc tăng thêm lao động chỉ dựa vào
cảm tính, không được tính toán theo định mức, không căn cứ vào các mục
tiêu và nhu cầu nhân lực, không quy định rõ ràng khi tuyển dụng. Điều này
dẫn đến rất nhiều người vào làm chỉ ở lại một thời gian ngắn rồi lại chuyển đi
nơi khác, làm cho mất công sức và thời gian cho việc tuyển sau.
Thứ ba, công tác tuyển dụng NNLCLC của Viện vẫn chưa thực sự thu
hút được người tài bên ngoài Viện. Quá trình tuyển dụng của Viện vẫn còn rất
nhiều hạn chế, thông tin tuyển dụng vẫn chưa được đăng tuyển một cách rộng
rãi. Chính vì vậy vẫn chưa thu hút được nhiều người giỏi về làm việc cho
Viện. Khi tiến hành tuyển dụng vẫn còn nặng về ưu tiên đến các mối quen
thân trong cơ quan. Do đó những người có trình độ ở ngoài ít có điều kiện, cơ
hội có thể làm việc trong Viện để phát huy khả năng của mình.
Thứ tư, công tác hỗ trợ đào tạo NNLCLC đã được quan tâm nhưng khi
thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Việc hỗ trợ đào tạo nâng cao chưa phân biệt
cho từng loại nhân lực, mức độ hỗ trợ chưa đủ lớn, kém hấp dẫn; chưa đánh
giá và kiểm soát được chất lượng, chưa khuyến khích đủ lớn trường hợp đạt
chất lượng cao. Kinh phí cho đào tạo cán bộ, công nhân viên ở Viện vẫn còn
hạn chế làm cho kết quả đào tạo chưa cao. Nhiều cán bộ muốn học lên cao
nhưng kinh phí hỗ trợ cho họ để học tập lại quá ít, không tạo được động lực
cho cán bộ công nhân viên. Các chính sách quản trị nhân lực của Viện vẫn
chưa tạo được động lực cho cán bộ nhân viên trong Viện có thể tự học tập,
nâng cao năng suất trong công việc, không có động lực để tích cực làm việc.
Một số biện pháp quản trị nhân lực chưa được áp dụng một cách hiệu quả
vào công tác thực tế. Điều này làm cho giữa việc triển khai và thực hiện
không đồng bộ với nhau, dẫn tới công việc không hiệu quả trong chuyên môn.
62
63
Thứ năm, cơ chế đánh giá hiệu quả lao động chưa thỏa đáng và thu
nhập và đời sống vật chất của cán bộ, công nhân viên, cơ sở vật chất của Viện
chưa được đảm bảo tốt. Chế độ, chính sách đãi ngộ chưa xét đến nhu cầu ưu
tiên thoả mãn của từng loại nhân lực, mức độ phân biệt chưa đủ lớn. Việc
đánh giá thành tích chưa xét nhiều đến tính chất của các hoạt động tham gia,
đóng góp. Khi đánh giá năng lực của các cán bộ, nhân viên trong Viện chưa
xét đến nhiều yếu tố như mức độ phức tạp của công việc mà chủ yếu mới
dừng lại ở mức độ hoàn thành công việc. Lực lượng cán bộ, công nhân viên
của Viện tuy đông nhưng chưa đủ mạnh. Cơ cấu chưa đồng bộ cho nên lực
lượng lao động tuy nhiều nhưng chưa mạnh, vẫn còn tình trạng vừa thừa vừa
thiếu. Bộ máy lãnh đạo thì vẫn còn yếu về kiến thức quản lý, lực lượng công
nhân viên thì nhiều nhưng vẫn còn thiếu công nhân viên có trình độ cao. Thu
nhập của cán bộ, nghiên cứu viên của Viện hàng năm đều tăng nhưng trên
thực tế mức thu nhập này còn tương đối thấp và không đồng đều. Với những
người trẻ tuổi thì thu nhập tương đối thấp. Chính vì vậy, còn chưa thực sự thu
hút những lao động có trình độ cao làm việc lâu năm cho Viện.
Một số trang thiết bị máy móc, đồ dùng phục vụ cho công tác nghiên
cứu, thí nghiệm đã bị cũ hỏng, không thể phát huy được hết tác dụng của nó.
Điều này cũng gây khó khăn cho công việc, ảnh hưởng tới năng suất công
việc và chất lượng nhân lực của Viện.
2.3. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Thứ nhất, Mâu thuẫn, mất cân đối giữa phát triển số lượng, chất lượng
và cơ cấu của bản thân nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao
động và Xã hội. Đối với bất kỳ một tổ chức nào thì nguồn nhân lực đặc biệt là
NNL chất lượng cao đóng vai trò quan trọng nhất đối với sự tồn tại và phát
triển của tổ chức đó. Đặc biệt là đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, vốn
là lĩnh vực đầy khó khăn và vất vả thì NNLCLC có vai trò đặc biệt quan
trọng. Đảng ta đã chỉ rõ, trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
63
64
nước, con người là nguồn lực quan trọng nhất. Đối với Viện Khoa học lao
động và xã hội thì lực lượng lao động thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính
của Viện là đội ngũ cán bộ, nghiên cứu viên. Bộ phận này là những nhân lực
có trình độ học vấn cao, từ đại học trở lên. Trong những năm gần đây, khi nền
kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu nghiên cứu, phát triển nguồn nhân lực
cho phát triển kinh tế, xã hội ngày càng gia tăng. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu
về nghiên cứu, số lượng NNLCLC của Viện phải ngày một gia tăng. Mặt
khác, chất lượng của NNL phải ngày một tăng cao, với cơ cấu NNL được tổ
chức một cách hợp lý nhất.
Thứ hai, Mâu thuẫn giữa sự phát triển về số lượng, chất lượng và cơ
cấu NNLCLC với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ ngày càng tăng của Viện Khoa
học Lao động và Xã hội. Trong thời kỳ mới, chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học của Viện Khoa học Lao động và Xã hội ngày càng nặng nề hơn. Để
đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ của Nhà nước giao thì NNLCLC của Viện
đóng vai trò then chốt. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo đại học nhiều năm nay
đã quá rõ: yếu kém và bùng nhùng. Những năm qua, số lượng, chất lượng của
NNLCLC tại Viện đã có sự gia tăng, cơ cấu NNLCLC cũng có sự chuyển
biến tích cực nhưng mức độ biến động còn chậm. Do đó, khó có thể đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của Viện trong thời kỳ mới. Mặt khác, lượng cung
NNL chất lượng cao trong toàn nền kinh tế không quá dồi dào. Lượng cung ít
nhưng nhu cầu lại quá lớn, NNLCLC thường có nhu cầu làm việc tại các môi
trường tốt, thu nhập cao như các tập đoàn tế lớn, các DN nước ngoài,… trong
khi đó, thu nhập tại Viện chưa được cao, khó có thể thu hút được nhân tài.
Thứ ba, Mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế và thực hiện nhiệm vụ của đội
ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội.
Đối với đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, nhất là cán bộ nghiên cứu và
quản lý cần liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài thực hiện đào tạo nghề
trình độ cao theo tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng cơ chế lựa chọn và gửi các
64
65
sinh viên xuất sắc để đào tạo sau đại học theo các chương trình thích hợp tại
các trường đại học. Tuy nhiên, nguồn kinh phí cho đào tạo cán bộ lại không
quá lớn. Quỹ lương cho người lao động của Viện hàng năm có tăng lên nhưng
vẫn không phải quá cao so với thu nhập tại các cơ quan, tập đoàn kinh tế lớn
hay doanh nghiệp nước ngoài. Người lao động, để có thể yên tâm công tác,
hoàn thành nhiệm vụ thì đời sống bản thân và gia đình phải được đảm bảo tốt,
tức là thu nhập phải cao và có khả năng thăng tiến. Do vậy, để thúc đẩy
NNLCLC làm việc, nghiên cứu, Viện cần không ngừng gia tăng thu nhập cho
người lao động.
*
* *
Viện Khoa học Lao động và Xã hội thuộc Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội được thành lập từ năm 1978, được công nhận là một trong số các
Viện đầu ngành có chức năng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và
ứng dụng về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. Đóng góp vào những
thành công của Viện đã đạt được ngày hôm nay thì vai trò của nguồn nhân lực
CLC của Viện là rất to lớn. Viện đã nhận thức được những vai trò quan trọng
của phát triển NNLCLC, do đó đã có nhiều chính sách phát triển NNL. Trong
những năm qua, NNLCLC của Viện không ngừng được nâng lên cả về số
lượng và chất lượng. Cơ cấu lao động của Viện theo trình độ, độ tuổi và giới
tính cũng ngày được cải thiện. Tuy nhiên, tốc độ tăng số lượng lao động CLC
của Viện còn chậm, tỷ trọng lao động có trình độ chuyên môn cao còn thấp so
với các cơ quan khác tương đương,….. Chính vì vậy, đề xuất những giải pháp
phát triển NNLCLC cho Viện trong thời gian tới là hết sức cần thiết và cấp
bách.
65
66
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
3.1. Phương hướng phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội
và những yêu cầu đặt ra với nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2020
3.1.1. Phương hướng phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã
hội đến năm 2020
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đặt ra nhiệm vụ từ nay đến 2020 là
tập trung “Hướng hoạt động khoa học - công nghệ phục vụ đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế tri thức...”, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới hoạt động
nghiên cứu khoa học của Viện nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả nghiên
cứu trong tình hình mới. Bên cạnh đó, phương hướng của Viện đến năm 2020
là trở thành Viện nghiên cứu hàng đầu về khoa học xã hội, có tiềm lực nghiên
cứu đủ mạnh, có khả năng giải đáp kịp thời các vấn đề lý luận và thực tiễn
thuộc lĩnh vực lao động, người có công và xã hội.
Nhiệm vụ chủ yếu của Viện trong thời gian tới bao gồm:
Một là, thực hiện nhiệm vụ chính trị của Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội.Tiếp tục đảm nhiệm tốt vai trò phản biện khoa học trong hoạch định
chính sách về lao động, người có công và xã hội; tăng cường quan hệ hợp tác
với các đơn vị trong Bộ trong quá trình hoạch định chính sách.
66
67
Hai là, thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học về lao động, an sinh xã
hội,… theo chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm góp phần phát triển kinh tế,
xã hội.
Lĩnh vực lao động, việc làm: tập trung nghiên cứu về việc làm xanh
trong lĩnh vực lao động xã hội; nghiên cứu phát triển việc làm bền vững, đẩy
mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo bền vững.
Lĩnh vực tiền lương, tiền công, quan hệ lao động: tập trung nghiên cứu
về mối quan hệ giữa tiền lương và năng suất lao động; trả lương theo vị trí việc
làm, nghiên cứu mức sống trung bình, mức sống tối thiểu và phân vùng mức
sống tối thiểu; quan hệ lao động; quy chế trả lương của các doanh nghiệp.
Lĩnh vực môi trường và điều kiện lao động: đẩy mạnh nghiên cứu và
triển khai kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của Ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội; Nghiên cứu và hợp tác nghiên cứu thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia về an toàn vệ sinh lao động và đánh giá xác
định nghề nặng nhọc, độc hại; Mở rộng và thúc đẩy các nghiên cứu về trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp theo hướng hội nhập vào ASEAN.
Lao động nữ và bình đẳng giới: tập trung nghiên cứu lồng ghép giới và
bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm và an sinh xã hội; nghiên cứu
lồng ghép bình đẳng giới trong pháp luật và chính sách hướng tới việc làm bền
vững tại Việt Nam; lồng ghép giới vào ASXH và xây dựng bộ chỉ số theo dõi
đánh giá việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong chính sách ASXH.
Lĩnh vực an sinh xã hội: nhiệm vụ trọng tâm là triển khai Nghị quyết số
15/NQ - TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương về một số vấn đề
về chính sách xã hội và Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 01/11/2012 của Chính
phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 15/NQ-TW. Các
nghiên cứu tập trung vào: Cơ sở khoa học xây dựng sàn ASXH của Việt Nam,
nghiên cứu đổi mới cơ chế thực hiện ASXH; đảm bảo cho mọi người dân mức
67
68
tối thiểu về thu nhập; tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
cho người dân, đặc biệt là người nghèo, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu
số, nơi dặc biệt khó khăn; tăng cường hợp tác nghiên cứu quốc tế.
Lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội: tăng cường phối hợp nghiên cứu với
các đơn vị trong và ngoài Bộ có liên quan nhằm đánh giá thực trạng, xu hướng
tệ nạn xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đề xuất xây dựng các chính
sách quản lý tệ nạn xã hội theo tư duy mới, theo cách tiếp cận mới đảm bảo tính
hiệu quả, khả thi trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Ba là, hoàn thành dự án an sinh xã hội đến năm 2020: Dự án “Dự báo
quy mô đối tượng trợ giúp xã hội đến 2020” hợp tác với GTZ. Nghiên cứu
này giúp cho việc xác định quy mô và nhu cầu trợ giúp của các nhóm đối
tượng xã hội, có thể phục vụ cho việc xây dựng đề án phát triển hệ thống an
sinh xã hội đến năm 2020.
Bốn là, tăng cường liên kết, hợp tác nghiên cứu với các cơ quan khác.
Tiếp tục phát huy thành tích đã đạt được trong 35 năm qua, đồng thời tiếp tục
phối hợp và hợp tác có hiệu quả của các đơn vị trong và ngoài Bộ, hợp tác
quốc tế và công tác tích cực của các nhà quản lý, chuyên gia trong và ngoài
nước, Viện Khoa học Lao động và Xã hội phấn đấu sẽ ngày càng phát triển,
xứng đáng là Viện nghiên cứu khoa học đầu ngành thuộc lĩnh vực lao động và
xã hội trong thời kỳ mới.
3.1.2. Những yêu cầu đặt ra với nguồn nhân lực chất lượng cao về số
lượng, chất lượng, cơ cấu
Viện Khoa học Lao động và Xã hội xác định: Nguồn nhân lực chất
lượng cao không phải là tập hợp những người có học vị cao mà là những
người giỏi về chuyên môn, có tính kỷ luật và ý thức chính trị cao trong từng
công việc mà họ đảm nhiệm. Nguồn nhân lực là yếu tố nòng cốt tạo nên thành
68
69
công và sự phát triển của Viện. Trong giai đoạn 2015 – 2020 yêu cầu đặt ra
với nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện như sau:
Về số lượng: Nâng số lượng cán bộ công nhân viên chức lên 150 người
để phục vụ công tác nghiên cứu và các nhiệm vụ khác được Bộ giao.
Về chất lượng: Các cán bộ được đào tạo bài bản, đúng chuyên ngành để
đáp ứng cơ bản được yêu cầu công việc, phải đáp ứng được yêu cầu và kỹ
năng làm việc ở Viện. NNLCLC cần phải đảm bảo được cả kỹ năng công việc
và kỹ năng mềm. Kỹ năng công việc bao gồm: Kỹ thuật cụ thể liên quan đến
công việc, áp dụng công nghệ thông tin và ngoại ngữ. Kỹ năng mềm bao
gồm: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng
tư duy sáng tạo và quyết đoán, kỹ năng giải quyết vấn đề và làm việc độc lập,
kỹ năng quản lý thời gian và thông tin. Ngoài ra, NNLCLC cũng phải là NNL
có đạo đức làm việc tốt.
Về cơ cấu nguồn nhân lực gồm có:
- Cơ cấu về độ tuổi: Gia tăng tỷ trọng NNLCLC với độ tuổi từ 25 – 60
- Cơ cấu về trình độ: Đảm bảo NNLCLC với 100% được đào tạo qua
đại học, nâng số lượng NNL trên đại học lên chiếm ít nhất 30% để phục vụ
nghiên cứu chuyên sâu.
3.2. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện
Khoa học Lao động và Xã hội đến năm 2020
Phải khẳng định rằng trong xu thế phát triển không ngừng như hiện nay
thì nguồn nhân lực nói chung và NNLCLC nói riêng sẽ là vấn đề quan tâm
hàng đầu của những nhà quản lý, có thể khẳng định rằng nguồn nhân lực chất
lượng cao là tài sản quý nhất của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và của quốc
gia.
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao
động và Xã hội, tác giả xin đưa ra một số giải pháp sau:
69
70
3.2.1. Đổi mới công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực CLC của Viện
Công tác tuyển dụng NNLCLC của Viện sẽ tác động trực tiếp tới sự gia
tăng về số lượng cũng như chất lượng NNLCLC. Với chế độ tuyển dụng hợp lý
sẽ giúp Viện lựa chọn đúng NNL có CLC đáp ứng cho nhu cầu thực hiện chức
năng, nhiệm vụ trong từng thời kỳ. Trong khi đó, cơ chế, chính sách bồi dưỡng
NNLCLC của Viện sẽ tác động trực tiếp tới chuyển biến về chất lượng NNL.
Quá trình này cần phải được thực hiện kỹ càng từ khâu xác định nhu cầu cần
tuyển, tiến hành tuyển dụng và cả việc tiếp nhận nhân viên khi được tuyển dụng
vào làm việc ở Viện.
Để thực hiện giải pháp này, các biện pháp cụ thể Viện Khoa học Lao
động và Xã hội cần được thực hiện bao gồm:
* Đổi mới và hoàn thiện công tác tuyển dụng, thu hút nhân tài:
Nguồn tuyển dụng của Viện hiện nay còn rất hạn chế. Nguồn tuyển
dụng hạn chế làm cho các ứng viên không nhiều và chắc chắn việc tuyển
dụng chất lượng của các ứng viên sẽ bị ảnh hưởng vì thế đòi hỏi Viện phải có
những biện pháp mở rộng nguồn tuyển dụng có được số lượng các ứng viên
đầy đủ để có chất lượng cao khi tuyển dụng. Vì vậy mỗi đợt tuyển dụng, Viện
khoa học Lao động và Xã hội nên gửi thông báo, công văn đến các ban ngành,
các sở liên quan và các trường đào tạo liên quan đến chuyên ngành nghiên
cứu như Đại học Lao động và Xã hội… Ngoài ra quảng bá các thông tin lên
các trang web và truyền thông nhằm phổ biến rộng rãi thông tin tuyển dụng
của Viện. Thu hút nguồn nhân lực hiện có bằng những chính sách phù hợp,
bồi dưỡng, giữ gìn và nâng cao chất lượng nhằm tránh làm thất thoát chất
xám; thu hút từ các địa phương khác.
Thứ nhất, xác định đúng nhu cầu tuyển dụng: Nhu cầu về số lượng:
Căn cứ định mức lao động, định hướng quy mô phát triển và định biên lao
động hàng năm. Giám đốc các đơn vị báo cáo số lượng cần tuyển dụng và vị
70
71
trí cần tuyển dụng về Ban Tổ chức cán bộ. Ban Tổ chức Cán bộ xem xét cân
đối nhu cầu tuyển dụng để có kế hoạch tuyển dụng và điều chuyển.
Nhu cầu về chất lượng: Căn cứ bản mô tả công việc của từng vị trí cần
tuyển dụng.
Thứ hai, lập kế hoạch tuyển dụng: Căn cứ nhu cầu của từng vị trí tuyển
dụng, Ban Tổ chức Cán bộ đưa ra các điều kiện sàng lọc ứng viên, tỷ lệ sàng
lọc được đưa ra dựa trên các yếu tố: cung - cầu thị trường lao động, chất
lượng của nguồn lao động, mức độ phức tạp của công việc, kinh nghiệm trong
công tác tuyển dụng đã đúc rút được trong quá trình tuyển dụng trước. Sau
khi xác định được tỷ lệ sàng lọc, Ban Tổ chức Cán bộ cần tiến hành xác định
các nguồn tuyển dụng, thời gian và phương pháp tuyển dụng.
Thứ ba, tổ chức thực hiện kế hoạch tuyển dụng. Tìm người xin việc
thông qua các nguồn bên trong và bên ngoài tổ chức. Thành lập tổ ra đề thi, tổ
chấm thi. Sàng lọc sơ bộ thông qua tiếp xúc, phỏng vấn sơ bộ, đánh giá hồ sơ
ứng viên đạt hay chưa đạt. Sau đó tổ chức thi tuyển để sàng lọc lần 2 và cuối
cùng là phỏng vấn tuyển chọn. Trong quá trình tuyển dụng luôn luôn có sự
công bằng, khách quan để có thể tuyển dụng được nhân viên thực sự có năng
lực đảm nhiệm công việc.
* Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CLC.
Đào tạo CBCNV mới làm việc: Các nhân viên mới tuyển dụng vào làm
việc sẽ được kèm cặp của một cán bộ có thâm niên về kinh nghiệm được phân
công trong Viện. Phương pháp này giúp cho nhân viên có được sự chuyên sâu
về công việc, hiểu rõ công việc của Viện. Tuy nhiên có được sự hiểu sâu chứ
chưa hiểu rộng về công việc liên quan. Vì vậy Viện nên thành lập một nhóm
đào tạo, nhóm này được lấy từ các phòng, ban trong Viện, họ có chuyên môn
và trình độ cao cùng kèm cặp và chỉ dẫn cho nhân viên mới vào. Điều này
làm cho nhân viên mới vào học hỏi được nhiều điều hơn và am hiểu sâu rộng
hơn về công việc
71
72
Đào tạo lại các CBCNV cũ: Trong đào tạo lại nguồn nhân lực của Viện
phải sử dụng nhiều hình thức và chú ý đến hiệu quả của các hình thức như:
gửi đi học, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới, tổ chức trao đổi kinh nghiệm,
tham quan, v.v.. nhưng đặc biệt phải đề cao sự tự học, tự tích lũy kiến thức
của từng con người trong bộ máy của Viện. Cần tạo điều kiện thuận lợi về
mặt thời gian cho các cá nhân đang học tại các lớp tập trung dài hạn. Với
những cá nhân do Viện cử đi học kể cả trong nước và ngoài nước thì kinh phí
học sẽ do Viện cung cấp đồng thời người lao động vẫn được hưởng lương như
đi làm. Như vậy thì họ sẽ có động lực để tập trung vào học tập nâng cao trình
độ. Còn với những cá nhân tự túc đi học để nâng cao trình độ thì họ sẽ phải tự
túc toàn bộ kinh phí. Tuy nhiên, Viện sẽ tạo điều kiện cho họ có thời gian để
học tập miễn là họ vẫn hoàn thành công việc được giao. Từ kinh nghiệm thực
tế Viện tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, mở nhiều khóa đào tạo nâng cao chất
lượng hơn để đào tạo CBCNV. Để có thể làm được điều đó đầu tiên Viện phải
thu hút được nguồn kinh phí đủ lớn để có thể đào tạo một cách mạnh mẽ và
dứt khoát, bên cạnh đó việc đánh giá và kiểm tra trình độ chuyên môn của
CBCNV phải thực hiện một cách nghiêm túc và công khai để tạo động lực
cho việc tự đào tạo của Viện. Mặt khác, việc sử dụng lao động sau đào tạo
chưa thực sự được quan tâm đúng mức và đạt hiệu quả cao. Viện cũng chưa
có biện pháp hữu hiệu để đánh giá chất lượng sau đào tạo cũng như các biện
pháp gắn trách nhiệm của người lao động đối với chất lượng sau đào tạo do
các mục tiêu của nhiều chương trình đào tạo còn mang tính chung chung, mơ
hồ.
Mục tiêu của việc bồi dưỡng và đào tạo nhân lực của Viện là cần xác
định đảm bảo đủ số lượng, chất lượng đồng bộ. Còn đối với cán bộ lao động
quản lý thì cần nâng cao cả trình độ quản lý và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ để có thể đáp ứng được với yêu cầu ngày càng cao của công việc. Đối với
nghiên cứu viên thì cần chú trọng tới nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ
năng làm việc. Lập kế hoạch đào tạo cần phải cụ thể hơn nữa về: Đối tượng
72
73
đào tạo; Hình thức đào tạo; Các giải pháp thực hiện. Khi kế hoạch này được
vạch ra rõ ràng thì khi thực hiện mới tránh được lúng túng, khó khăn. Đối với
các chức danh cần đến trình độ chuyên môn cao thì gửi đi đào tạo kịp thời về
chuyên môn, ngoại ngữ theo các hình thức học tại chức, học tập trung, học
trong nước và nước ngoài. Một số cán bộ quản lý của Viện về cơ bản còn
chưa học qua lớp đào tạo quản lý nghiệp vụ. Do đó trong thời gian tới cần cử
một số cán bộ này đi học các lớp quản lý nghiệp vụ để nâng cao năng lực
quản lý của mình.
Đào tạo không chỉ về chuyên môn mà cần nâng cao cả trình độ ngoại
ngữ cho cán bộ công nhân viên trong Viện. Công bố công khai tiêu chuẩn,
lĩnh vực đào tạo và mức hỗ trợ kinh phí để người lao động có động lực đề học
tập. Với những người không nằm trong danh sách được cử đi đào tạo, nếu tự
thu xếp đi học nâng cao trình độ thì Viện cũng cần có những ưu tiên và phải
định hướng về chuyên ngành đào tạo cho phù hợp với chiến lược phát triển
của Viện. Cần ưu tiên cho những cán bộ trẻ, có năng lực được tham gia đào
tạo, nghiên cứu, hợp tác với các dự án ở nước ngoài để họ có cơ hội tiếp xúc,
tham quan, làm việc học hỏi những quy trình, cách thức làm việc, nghiên cứu
ở nước ngoài.
3.2.2. Tổ chức NNLCLC của Viện một cách khoa học có hiệu quả cao
NNLCLC chỉ có thể phát huy hết khả năng và hiệu quả nghiên cứu, lao
động nếu như được bố trí làm việc tại các vị trí phù hợp với chuyên môn mà
mình có lợi thế. Chính vì vậy, để có thể phát huy tối đa khả năng làm việc của
NNLCLC thì công tác tổ chức NNL cần phải thực hiện khoa học và hiệu quả.
Các biện pháp cụ thể bao gồm:
Thứ nhất, hoàn thiện công tác phân bổ và sử dụng lao động. Sử dụng
nguồn lao động hiệu quả trong tổ chức là rất quan trọng, vì người lao động là
nhân tố tiên quyết, không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Yếu
73
74
tố nguồn lao động chất lượng cao là chưa đủ mà phải xét đến yếu tố bố trí và
sắp xếp lao động vào từng công việc cụ thể.
Bố trí lao động khoa học và hợp lý: Trước tiên là tổ chức các hoạt động
định hướng cho lao động nhằm giúp cho lao động làm quen với Viện và bắt đầu
công việc với hiệu suất tốt nhất. Bố trí lao động cần có độ co giãn phù hợp với
từng vị trí công việc được mô tả trong Bản mô tả công việc, vì trong thực tế
thường không có được sự phù hợp hoàn toàn giữa năng lực của người lao
động và yêu cầu công việc. Rà soát, khắc phục tình trạng chồng chéo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số bộ phận, cá nhân người lao động. Xác
định rõ quy trình phối hợp trong những công việc có liên quan đến nhiều bộ
phận để tránh tình trạng mâu thuẫn, đùn đẩy trách nhiệm hoặc tranh việc lẫn
nhau. Phòng Tổ chức Cán bộ cần chủ trì, phối hợp các Phòng ban khác thực
hiện bằng cách thông qua việc tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề.
Phân chia công việc cá nhân theo quy trình:
Hình 3.1 Sơ đồ quy trình làm việc của một cá nhân
Lập kế hoạch Điều tra Nhập số liệu
Báo cáo Phân tích số liệu
Hiện nay trên thế giới, quản lý và làm việc theo quy trình là một
phương pháp làm việc mới và hiện đại đem lại hiệu quả cao và tính am hiếu
sâu rộng cho người lao động, tạo cho người lao động tâm lý thoái mái khi
thực hiện công việc. Những hạn chế của chuyên môn hóa ngày càng lộ rõ,
những hạn chế của nó là chia quá nhỏ công việc làm tăng chi phí và gây ra sự
74
75
ức chế tâm lý khi làm việc của lao động.Vì vậy Viện nên chuyển đổi sang
phương thức làm việc theo quy trình, 1 cá nhân sẽ đảm nhận một quá trình.
Quá trình làm việc của người lao động được thể hiện theo sơ đồ 3.1.
Đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông: Đây chính là công cụ quan
trọng để giúp cán bộ, nhân viên thấu hiểu mục tiêu, chủ trương, chính sách
của tổ chức, đặc biệt là của Đảng và Nhà nước ta, từ đó có sự thống nhất về tư
tưởng và cùng hành động một cách đúng đắn, mang lai hiệu quả cao. Truyền
thông hiệu quả sẽ giúp cán bộ, nhân viên tránh mơ hồ về thông tin, hiểu sai
lệch về thông tin, tạo cơ hội cho việc đôi mách làm mất đoàn kết nội bộ, phá
vỡ môi trường làm việc, sự đoàn kết thống nhất trong tập thể, tạo nên bức
tường vững chắc bảo vệ tổ chức, bảo vệ chế độ trước những phần tử xấu phá
hoại. Truyền thông hiệu quả cũng là việc chia sẻ thông tin cho nhân viên làm
cho họ cảm thấy được tôn trọng hơn, quan trọng trong tổ chức, từ đó thúc đẩy
tinh thần làm việc, sự quyết tâm trong công việc và làm cho ngọn lửa trong
mỗi con người bùng cháy mạnh hơn.
Những biện pháp dưới đây nhằm mục đích tạo được hệ thống truyền
thông tốt:
Tất cả các thông tin liên quan cần được phổ biến tới người lao động một
cách nhanh nhất, đầy đủ và rõ ràng thông qua hình thức giao ban hàng tuần,
mạng thông tin nội bộ, tổ chức nói chuyện chuyên đề, các buổi họp tổng kết,
gặp gỡ trực tiếp Văn phòng Đảng, Đoàn cần chủ trì, phối hợp với Phòng Tổ
chức Cán bộ và các phòng có liên quan phát hành tờ tin nội bộ hàng tháng, để
thông báo, phổ biến, giải thích những nội dung có liên quan đến người lao
động và sự hoạt động của Viện.
Tạo môi trường và các phương thức thoải mái cho người lao động tham
gia thảo luận, phát biểu ý kiến thông qua việc sớm thiết lập mạng thông tin
nội bộ, lập hòm thư góp ý và lập các diễn đàn sinh hoạt định kỳ (giao cho
75
76
Đoàn thanh niên thực hiện).
Thiết lập nơi giải đáp thắc mắc và thông báo trước khi tin đồn lan truyền.
Viện cần bố trí một phòng làm việc chuyên để tiếp và giải đáp thắc mắc vào
một ngày nhất định trong tuần, các cán bộ quản lý chủ động phán đoán, tổ
chức cung cấp thông tin, giải thích trước khi tin đồn lan truyền gây ảnh hưởng
đến tư tưởng người lao động. Lãnh đạo Viện và thủ trưởng các phòng, ban, tổ
công tác cần quan tâm tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người lao động; tạo
điều kiện để họ có cơ hội gặp gỡ, bày tỏ ý kiến. Một biện pháp rất khoa học,
cho phép nắm được tâm trạng của số đông người lao động là phát phiếu khảo
sát đến từng người. . Ngoài ra, lãnh đạo Viện sẽ không phải chịu nhiều áp lực
trực tiếp trong việc đáp ứng ngay các đề nghị của nhân viên (thể hiện trên
phiếu khảo sát).
Thứ hai, tạo môi trường làm việc văn hóa, đoàn kết, thân ái trong Viện.
Tạo một môi trường làm việc văn hóa tốt, văn minh tạo niềm tự hào cho các
nhân viên, rằng họ là một thành viên của Viện, tạo mong muốn gắn bó lâu dài
với Viện
Ban quản lý, điều hành cần chú ý thực hiện các nội dung như sau:
Người lãnh đạo cần có tác phong lịch sự, hoà nhã, tôn trọng và tin cậy nhân
viên; chú ý đến hiệu quả công việc là chính. Nắm vững tâm tư, nguyện vọng,
hoàn cảnh từng người trong Viện, bằng nhiều hình thức và biện pháp để mọi
người tự giác bày tỏ ý kiến của mình và các hoạt động của Viện.
Khuyến khích tinh thần hợp tác, đối xử thân thiết, thoải mái, thẳng thắn,
tôn trọng lẫn nhau trong tập thể người lao động. Khuyến khích người lao
động bộc lộ bản thân, thể hiện chính kiến ngay trong công việc hoặc thông
qua các câu lạc bộ, diễn đàn. Tạo cơ hội cho người lao động phát triển các
mối quan hệ, được chấp nhận và đánh giá cao bởi đồng nghiệp.
Khuyến khích tinh thần sáng tạo, xây dựng văn hoá không trách phạt. Thực
hiện chế độ dân chủ trong tham gia vào các chủ trương, biện pháp xây dựng thực
76
77
hiện các nhiệm vụ. Cung cấp đầy đủ chính xác mọi thông tin đến cán bộ, nhân
viên trong Viện để họ có điều kiện tham gia vào các hoạt động của Viện thông
qua các hình thức giao ban, thông báo, sinh hoạt các tổ chức….
Thứ ba, nâng cao chất lượng trang thiết bị, khoa học công nghệ của
Viện và điều kiện làm việc cho NNLCLC. Viện cần nâng cấp trang thiết bị
làm việc. Một số trang thiết bị tại Viện đã lâu năm, so với máy móc hiện đại
hiện nay thì tính năng kém, khả năng thích ứng phần mềm kém, đã hao mòn,
chạy chậm và không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Vì vậy Viện cần đẩy
mạnh hơn nữa việc mua sắm trang thiêt bị để đảm bảo cho CBCNV có được
điều kiện vật chất làm việc tốt nhất, có hiệu quả nhất. Về khoa học công nghệ:
Viện nên kết hợp 2 việc: Mua phần mềm và việc đào tạo chuyên môn theo
phần mềm một cách hợp lý, bởi lẽ có một phần mềm tốt mà không có người
thành thạo sẽ làm lãng phí những tính năng của phần mềm và lãng phí tiền của.
Viện cần cải thiện điều kiện làm việc. Chú trọng cải thiện các điều kiện
ánh sáng, phòng làm việc, các trang bị cho cá nhân từng người như bàn ghế,
tủ sách, các loại văn phòng phẩm phục vụ cho yêu cầu và tính chất công việc
để họ làm việc có hiệu quả.
3.2.3. Chăm lo việc cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, văn hóa
tinh thần cho NNLCLC của Viện
Để NNLCLC của Viện có thể an tâm công tác, gia tăng hiệu quả làm
việc thì trước tiên thu nhập từ lao động của họ phải đảm bảo đời sống vật
chất, văn hóa tinh thần cho bản thân và gia đình. Đây chính là động lực làm
việc của người lao động nói chung. Do vậy, đây chính là giải pháp quan trọng
để thúc đẩy NNLCLC không ngừng nâng cao chất lượng, gia tăng hiệu quả
làm việc và gắn bó lâu dài với Viện.
Các biện pháp cụ thể bao gồm:
* Hoàn thiện cơ chế đánh giá kết quả chính xác công bằng với người
lao động
77
78
Đánh giá thực hiện công việc là một trong những nội dung cơ bản của tạo
động lực đối với người lao động, làm cơ sở để phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, giữ chân các nhân tài, nó phản ánh kết quả thực hiện công việc của
người lao động, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác tiền lương, thưởng,... Để đảm
bảo tính chính xác, công bằng giữa những người lao động đòi hỏi hệ thống đánh
giá phải được thiết kế một cách khoa học, các tiêu thức đánh giá phải đầy đủ, cụ
thể, phương pháp đánh giá hợp lý. Viện khoa học Lao động và xã hội cần đánh
giá khen thưởng công bằng nguồn nhân lực nhằm mục đích:
Tạo sự nhất quán, công bằng và góp phần khuyến khích tập thể, cá
nhân tăng tính chủ động, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động. Tránh tình
trạng đánh giá theo cảm tính.
Là công cụ để Lãnh đạo đánh giá giám sát tốt hơn việc triển khai thực
hiện nhiệm vụ đối với người lao động
Phù hợp với cơ cấu, bộ máy quản lý, chức năng nhiệm vụ của các Khối,
Ban theo hướng phân rõ vai trò trách nhiệm trong điều hành hoạt động của Viện.
Gắn việc đánh giá hoàn thành nhiệm vụ được giao với cơ chế phân phối thu
nhập theo các hình thức tiền lương, tiền thưởng…
Để công tác đánh giá thực hiện công việc phản ánh chính xác kết quả
thực hiện công việc của người lao động, Viện nên thực hiện đánh giá theo các
chỉ tiêu như sau:
Bảng 3.1 Các chỉ tiêu đánh giá xếp loại khen thưởng
Chỉ tiêu Điểm đánh giá Ghi chú TT
I
90 18
Thực hiện nhiệm vụ chuyên môn - Đánh giá theo khối lượng công việc - Đánh giá theo tiến độ hoàn thành 27
công việc - Đánh giá kết quả thực hiện về chất 45
lượng công việc Phát triển nghề nghiệp và các sáng kiến II 10
78
79
cải tiến trong công việc
Mỗi lần không chấp
III Tinh thần ý thức trách nhiệm hành, ý thức kém bị trừ 2
điểm, trừ tối đa 10 điểm Mỗi lần vi phạm trừ 2 IV Thực hiện nội quy lao động
điểm, trừ tối đa 10 điểm 100
Tổng Tiêu chuẩn xếp loại:
Đạt từ 90 điểm trở lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;
Đạt từ 80 điểm đến dưới 90 điểm hoàn thành tốt nhiệm vụ;
Đạt từ 60 điểm đến dưới 80 điểm hoàn thành nhiệm vụ;
Không đạt các tiêu chuẩn xếp loại trên không hoàn thành nhiệm vụ.
Quy trình đánh giá:
Bước 1: Cá nhân tự đánh giá, chấm điểm theo mức độ hoàn thành nhiệm
vụ trong kỳ theo đúng tiêu chí và đối chiếu với tiêu chuẩn xếp loại để đề xuất
mức tự xếp loại;
Bước 2: Hội đồng tại các phòng/ban (bao gồm lãnh đạo phòng/ban và
Tổ trưởng công đoàn) tổ chức họp để đánh giá theo các quy định ở trên và gửi
kết quả đánh giá về Hội đồng đơn vị;
Bước 3: Hội đồng đơn vị xem xét và trình Lãnh đạo đơn vị ký quyết
định công nhận kết quả hoàn thành nhiệm vụ của các tập thể và cá nhân trong
đơn vị.
Kết quả đánh giá (hệ số xếp loại thành tích) này sẽ được dùng để điều
chỉnh lương vị trí công tác. Kết quả đánh giá này còn là căn cứ để tính mức
tiền thưởng cho cán bộ viên chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, là
căn cứ để rà soát, xếp lại hệ số lương gia tăng cho từng người, bố trí, sắp xếp
cán bộ.
* Hoàn thiện chính sách lương, thưởng, chế độ phúc lợi, chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần cho nguồn nhân lực chất lượng cao
79
80
Để hoàn thiện chính sách lương thưởng tại Viện, phải kể đến việc hiệu
chỉnh sửa đổi biên chế, hoàn thiện các văn bản quản lý trong tổ chức lao
động, trong lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng và các chế độ chính sách, công
tác thi đua khen thưởng đã hoàn thành với khối lượng đáng kể. Các cán bộ
phụ trách quản lý lao động - tiền lương cần tiếp tục tăng cường rà soát cơ cấu tổ
chức của các đơn vị trực thuộc, hoàn thiện các quy chế, quy định về chế độ,
lương, thưởng, chính sách. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trực
thuộc nhằm kiện toàn công tác tổ chức lao động tiền lương của các đơn vị trực
thuộc theo hướng ngày càng hiệu quả và chuyên nghiệp. Để đáp ứng được điều
kiện thực tế trong lộ trình phát triển của Viện và xu thế của thị trường lao
động trong thời kỳ hội nhập ngày nay, Viện nên xây dựng cơ chế tiền lương
phù hợp với xu thế thị trường và đặc điểm nghiên cứu Khoa học của Viện đảm
bảo theo các yêu cầu sau:
Phân phối theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc của từng
người lao động gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Đơn vị hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, tạo ra nhiều lợi nhuận, quỹ tiền lương cao và ngược
lại. Người lao động đảm nhiệm công việc có mức độ phức tạp, tính trách
nhiệm cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả cao thì tiền lương cao và ngược
lại. Đảm bảo khắc phục được các hạn chế của cơ chế tiền lương hiện nay,
Đảm bảo thu nhập tháng phản ánh tương đối đầy đủ thu nhập được hưởng của
người lao động. Đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường, thu hút và giữ được
lao động giỏi, có chất lượng. Cơ chế tiền lương trở thành công cụ khích lệ mỗi
người lao động, mỗi đơn vị phấn đấu nâng cao năng suất, chất lượng công việc,
hiệu quả kinh doanh. Thúc đẩy việc bố trí và sử dụng lao động tiết kiệm, hiệu
quả trên cơ sở trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác của người lao động.
Nâng cao trách nhiệm của trưởng các đơn vị trong việc quản lý và phân
phối tiền lương đến từng người lao động. Xây dựng các chế độ phúc lợi theo
hướng đa dạng, hấp dẫn hơn và cần được thể chế thành quy định minh bạch.
80
81
Trước mắt, các chế độ nghỉ mát cần được tổ chức tập trung, không phát tiền
đến từng người; các chế độ lễ tết cần có sự phân biệt theo thành tích công tác
trong năm, tránh thực hiện bình quân như hiện tại, chú ý bổ sung hình thức
hiện vật khi phát quà tết. Để thực hiện những việc này cần có sự phối hợp
giữa các cơ quan chức năng như sau: Phòng Tổ chức Cán bộ cần chủ trì, phối
hợp với Phòng Tài chính - Kế toán xây dựng chế độ, giám sát quá trình thực
hiện và phối hợp với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở tổ chức thực hiện theo
chế độ đã ban hành.
3.2.4. Tổ chức có hiệu quả việc liên kết hợp tác trong nước và quốc tế
trong phát triển nguồn nhân lực CLC của Viện
Vì đặc trưng của Viện là nghiên cứu và thực hiện các dự án, đề án được
giao đồng thời thực hiện các dự án trên cơ sở ký kết với các đơn vị khác,
chính vì vậy có thể liên kết sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao từ đơn vị
khác kết hợp trong một số hoạt động và dự án, từ đó học hỏi các giải pháp
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao từ các cơ sở, đơn vị khác. Đồng thời
có thể điều chuyển nhân lực theo dự án hoặc theo từng thời kỳ để nâng cao
hiệu quả công việc. Hơn thế nữa, nguồn kinh phí cho phát triển NNLCLC của
Viện có hạn, trong khi nhu cầu NNLCLC ngày càng gia tăng. Do vậy, đẩy
mạnh liên kết và hợp tác sẽ giúp cho Viện tranh thủ được sự giúp đỡ về kinh
phí, nguồn nhân lực và đào tạo.
Các biện pháp cụ thể bao gồm:
Một là, đẩy mạnh liên kết đối với các trường đại học và viện nghiên
cứu thuộc lĩnh vực ở trong nước: Hiện nay có nhiều trường đào tạo lĩnh vực
thuộc ngành xã hội ở trong nước như trường Đại học Lao động xã hội, trường
Đại học văn hóa, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Kinh tế quốc
dân,.... Viện cần coi trọng quan hệ liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo
thuộc khối ngành này nhằm phát huy vai trò cầu nối của các trường trong phát
81
82
triển nguồn nhân lực Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Viện cần từng bước
triển khai hình thành mạng lưới nghiên cứu và phối hợp tổ chức tuyển dụng,
đào tạo, hợp tác nghiên cứu với các trường đại học này.
Đối với các Viện nghiên cứu cùng lĩnh vực trong nước như Viện
Hàn lâm khoa học xã hội Việt nam, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân
sự,…. Viện có thể tiến hành hợp tác với các viện này trong thực hiện các
đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi kinh
nghiệm,…..
Hai là, đẩy mạnh liên kết với các cơ quan chức năng của Bộ: Đối với
các cơ quan trong Bộ, những doanh nghiệp, tổ chức khác trong Bộ có thể hình
thành cơ chế hợp tác đào tạo, nghiên cứu, ký hợp đồng đào tạo, nghiên cứu và
chuyển giao ứng dụng khoa học với các đơn vị. Đẩy mạnh liên kết đào tạo với
các cơ quan trong Bộ như trường Đại học Lao động và Xã hội,….
Ba là, đẩy mạnh liên kết với các tổ chức quốc tế mà Viện có quan hệ: Viện
có thể gửi nhân viên đi đào tạo ở nước ngoài, đào tạo tại các cơ sở nước ngoài
mà Viện có quan hệ. Viện cũng có thể mời giảng viên, chuyên gia nước ngoài
tham gia đào tạo trong nước nhằm nâng cao trình độ của cán bộ, nghiên cứu
viên. Hợp tác liên kết nghiên cứu, hội thảo với các cơ sở hợp tác quốc tế
nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu và bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán
bộ trong Viện.
*
* *
Có thể nói Viện Khoa học Lao động và Xã hội đang nắm giữ trong tay
một nguồn nhân lực có chất lượng. Tuy nhiên về số lượng còn hạn chế và
nhiều nhân viên trẻ thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng mềm, tin học và ứng
dụng.
82
83
Chương 3 của luận văn đã dựa trên các cơ sở lý luận về phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, phân tích thực trạng nguồn nhân lực tại Viện
Khoa học Lao động và Xã hội và từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp để phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó vấn đề đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao chất lượng NNLCLC là giải pháp trung tâm, có tính chất quyết định
đến phát triển toàn diện ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội cũng như ở Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội. Bởi lẽ muốn phát triển NNLCLC thì
khâu đào tạo, bồi dưỡng phải thực sự tiên tiến, hiện đại, đặc sắc, thực hiện
nghiêm túc đảm bảo chuẩn chất lượng trong môi trường nghiên cứu khoa học
nói riêng và một số ngành khác nói chung ở nước ta hiện nay.
83
84
KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định việc thực hiện
thắng lợi mọi nhiệm vụ và toàn bộ quá trình phát triển của Viên Khoa học Lao
động và Xã hội. Bởi vậy việc xây dựng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
là vấn đề phải được thường xuyên quan tâm, phải coi đó là một nhiệm vụ rất
quan trọng của viện nói riêng và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nói
chung.
Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học
Lao động và Xã hội là sự phát triển cả số lượng, chất lượng và cơ cấu. Không
được coi nhẹ mặt nào nhưng phải xây dựng chất lượng là mục tiêu hàng đầu.
Kinh nghiệm ở một số viện khoa học trong nước đã có quá trình phát triển đi
trước để lại những bài học bổ ích trong quá trình xây dựng, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng, mà Viện Khoa học Lao động và Xã hội cần tham khảo.
Với hơn 35 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành ngày nay Viện
Khoa học Lao động và Xã hội đã có một đội ngũ nhân lực khá phong phú cả
về số lượng, chất lượng và cơ cấu có khả năng đảm bảo cho Viện hoàn thành
được các nhiệm vụ mà Bộ và Nhà nước giao. Nhờ đó, trên thực tế Viện đã đạt
được nhiều thành tựu nghiên cứu đáng khích lệ và tự hào. Tuy nhiên so với
yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp nguồn nhân lực chất lượng
cao của Viện còn có khoảng cách khá xa và còn nhiều bất cập, hạn chế, có
nhiều mâu thuẫn đặt ra cần giải quyết. Bởi vậy, việc xây dựng và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao được đặt ra rất cấp thiết.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động
và Xã hội trong những năm trước mắt phải dựa trên cơ sở các nhiệm vụ của
Bộ giao thực tế và khả năng của Viện. Để làm được việc đó, cần có một hệ
thống giải pháp mang tính đồng bộ: Đổi mới công tác tuyển dụng, đào tạo và
đào tạo lại nguồn nhân lực hiện có; tổ chức lao động một cách khoa học để
84
85
phát huy cao nhất năng lực của từng tổ chức và con người; chăm lo nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ công nhân viên kết hợp với giáo dục
nâng cao thái độ, trách nhiệm, chức trách của từng người; tổ chức có hiệu quả
việc liên kết, hợp tác với các cơ quan, Viện nghiên cứu trong và ngoài nước ,
tranh thủ sự đầu tư, giúp đỡ của Bộ và các cơ quan nhà nước…
Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học
Lao động và Xã hội là vấn đề mới mẻ và còn nhiều khó khăn. Kết quả nghiên
cứu của tác giả mới chỉ phác thảo được những nét ban đầu nên chắc chắn còn
rất nhiều hạn chế, rất mong được các thầy cô, các nhà khoa học chỉ bảo giúp
đỡ để tác giả luận văn có thể hoàn thiện và tiếp tục nghiên cứu vấn đề mà
mình đã ấp ủ đầu tư.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới: PGS.TS Vũ
Quang Lộc, các Thầy giáo, các Cô giáo trong Học viện cùng tập thể cán bộ
của Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã giúp tác giả hoàn thành luận văn.
85
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Xuân Cầu (2002), Giáo trình Phân tích lao động xã hội, Trường Đại
Học Kinh Tế Quốc Dân, Nxb Lao động Xã hội.
2. Mai Quốc Chánh - Trần Xuân Cầu (2000), Giáo trình Kinh tế lao động,
Nxb Lao động Xã hội.
3. Hoàng Văn Châu (2009), “Phát triển NNLCLC cho hội nhập kinh tế vấn đề
cấp bách sau khủng hoảng”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 3, tháng
8/2009.
4. Đăng Vũ Chư - Ngô Văn Quế (2006), Phát huy nguồn nhân lực - yếu tố
con người trong sản xuất kinh doanh, Nxb Giáo dục.
5. Đỗ Văn Dạo, Phạm Đình Triệu, “Tác động của quy luật kinh tế thị trường
đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”,
http://dubaonhanluchcmc.gov.vn/, 15/10/2011
6. Trần Kim Dung (2008), Giáo trình Kinh tế lao động của trường Đại học
Kinh tế quốc dân Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thống kê.
7. Nguyễn Hữu Dũng (2002), “Phát triển NNLCLC trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 8.
8. Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Văn Dạo (2008), “Vấn đề phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lao động và xã hội, số
329.
9. Vũ Thuỳ Dương, Hoàng Văn Hải (2008), Giáo trình Quản trị nhân lực, Đại
học Thương mại, Nxb Thống Kê.
10. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật Hà Nội.
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI , Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
86
87
12. Nguyễn Văn Đoàn (2000), Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội, Nxb
Khoa học kỹ thuật - Hà Nội.
13. Nguyễn Vân Điềm, Nguyễn Ngọc Quân (2007), Quản trị Nhân lực, Đại
học Kinh tế quốc dân, Nxb Thống kê
14. Nguyễn Văn Khánh, Hoàng Thu Hương (2010), “Đào tạo NNLCLCở
Việt Nam hiện nay: Thực trạng và triển vọng”, Tạp chí nghiên cứu con
người, số 1/2010.
15. Trần Quốc Hà (2002), Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới- Chủ
trương, thực hiện, đánh giá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
16. Vũ Văn Hà (2013): “Chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ASEAN”, Tạp chí Cộng sản.
17. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
18. Hoàng Hải (2008), “Thị trường lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật: Thực trạng & định hướng ”, Báo Lao động & xã hội, số 223.
19. Chu Hảo (2012), Nhân lực chất lượng cao không đồng nghĩa học vị cao,
http://www.cphud.danang.gov.vn/index.php, 12/2/2012
20. Trần Kim Hải (1999), Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, Luận án Tiến sỹ Kinh tế.
21. Hương Huy (2008), Quản trị nguồn nhân lực, Nxb Giao thông Vận tải,
Hà Nội.
22. Đinh Sơn Hùng (2011), TP. Hồ Chí Minh tập trung phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, Hội thảo Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao – Nhu cầu cấp bách.
23. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
87
88
24. Bùi Thị Ngọc Lan (2007), “Một số bổ sung, phát triển trong chiến
lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 14.
25. Nguyễn Văn Minh (2002), Con người, chìa khóa của thành công, Nghệ
thuật sử dụng nguồn nhân lực trong kinh doanh, Nxb Thống kê, Hà Nội.
26. Nguyễn Công Nhù (2003), Vấn đề phân phối thu nhập trong các loại
hình doanh nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng, quan điểm và giải pháp
hoàn thiện, Nxb Thống kê Hà Nội.
27. Nguyễn Đình Phan (chủ biên) (2010), Giáo trình “Quản lý chất lượng
trong các tổ chức” Nxblao động – xã hội.
28. Lê Văn Phục (2010), “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở một số nước trên thế giới”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6.
29. Nguyễn Văn Tài (2010), Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ
nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.
30. Lê Văn Tâm (2009), Quản trị chiến lược - Khoa quản trị kinh doanh-
Trường đại học kinh tế quốc dân.
31. Lê Văn Tâm, Ngô Kim Thanh (2008), Giáo trình Quản trị Nhân lực, Nxb
Thống Kê.
32. Hà Hữu Tình (2002), Vai trò của Nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn
nhân lực trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, Luận án Tiến
sỹ Kinh tế.
33. Lê Minh Thạch, Nguyễn Ngọc Quân, Nguyễn Văn Điềm, Vương Hồng
Long, Đinh thiện Đạo, Lương Văn Úc (1993), Giáo trình tổ chức lao
động khoa học 1,2 , Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
34. Đoàn Duy Thành (2003), Vai trò then chốt của DNNN trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, Nxb Chính trị Quốc gia.
88
89
35. Lê Trung Thành (2010), “Giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ
quản lý doanh nghiệp tại các DNNN”, Tạp chí kinh tế & phát triển.
36. Phạm Đức Thành (1995), Giáo trình Quản trị nhân lực của trường Đại
học Kinh tế quốc dân, NxbGiáo dục.
37. Nguyễn Hữu Thân (1996), Quản trị nhân sự, Nxb Thống kê.
38. Hà Minh Trung (2002), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong
điều kiện mới, Nxb Thống kê, Hà Nội.
39. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực – kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
40. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực
tài năng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
41. Đường Vinh Sương, (2004), “Tác động của toàn cầu hoá đến lao động,
việc làm và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế –
phát triển, số 6/2004.
42. Vũ Thị Uyên (2007), Quá trình giảng dạy môn Quản trị nhân lực, Nxb
Thống Kê, Hà Nội
43. Viện quản lý kinh tế TW (2000), Kết quả nghiên cứu về các vấn đề lao
động trong cải cách DNNN, Hà Nội, 5/2000.
44. Tổng cục thống kê, Niên giám thông kê 2003, Nxb Thống kê, 2004.
45. Đàm Đức Vượng (2008), Báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế Việt
Nam học lần thứ ba với chủ đề: Việt Nam, Hội nhập và phát triển, Thực
trạng và giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
44. Đức Vượng (2012), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
hiện nay, http://www.nhantainhanluc.com/, 18/9/2012
89
90
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tình hình các công trình nghiên cứu của Viện Khoa học Lao
động và xã hội từ 1978 - nay
Các công trình
Cấp Nhà nước Cấp Bộ Hợp tác nghiên cứu Cấp Viện Đề án 1978 – 1986 1987 - 1995 1996 - 2002 2002 – nay 5 1 35 28 155 8 43 0 9 0 2 15 11 0 0 2 24 1 0 0
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 35 năm phát triển của Viện KH LĐ & XH)
Phụ lục 2: Chỉ tiêu về độ tuổi cán bộ, nghiên cứu viên của Viện Khoa học
Lao động và Xã hội
30 – 40 40 -50
Tuổi 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Dưới 30 23 25 24 27 28 30 22 21 25 28 30 26 Trên 50 Tuổi bình quân 37.2 37 36.8 36.3 35.8 35 18 16 16 12 12 13 12 14 15 15 16 23
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Phụ lục 3: Chỉ tiêu về số ngày nghỉ ốm của cán bộ, nghiên cứu viên của
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
đvt: ngày
Năm Số ngày nghỉ ốm Số ngày nghỉ ốm trung bình
90
91
2008 2009 2010 2011 2012 2013 218 210 193 191 198 201 2.91 2.76 2.41 2.33 2.30 2.19
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Phụ lục 4: Chỉ tiêu về trình độ ngoại ngữ và tin học của cán bộ, nghiên
cứu viên của Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Tin học Ngoại ngữ Năm Đại học Khác Khác
2008 2009 2010 2011 2012 2013 1 1 1 2 Đại học 2 2 3 5 5 7 75 76 79 81 85 90 73 74 76 76 80 83
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
Phụ lục 5: Cơ cấu NNL theo độ tuổi của Viện Khoa học Lao động
và Xã hội
Dưới 30 30 - 40 40 -50 Trên 50
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 29.3% 30.7% 27.6% 32.9% 30.0% 31.2% 32.9% 34.0% 34.9% 32.6% 28.1% 32.9% 16.0% 18.4% 18.8% 18.3% 18.5% 25.0% 24.0% 21.1% 20.0% 14.8% 14.0% 14.0%
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
91
92
Phụ lục 6: Cơ cấu NNL theo trình độ chuyên môn của Viện Khoa học
Lao động và Xã hội
Chỉ tiêu 1978 1988 1998
100%
Khác Đại học Trên đại học Tổng 100% 2013 2008 13% 4% 8% 12% 82% 77% 59% 50% 5% 15% 29% 46% 100% 100% 100% 100%
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
92