BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
---- (cid:75) ---
ĐÀO MẠNH LINH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS PHẠM VĂN NĂNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi nghiên cứu và thực
hiện. Các thông tin và số liệu được sử dụng trong luận văn được
trích dẫn đầy đủ nguồn tài liệu tại danh mục tài liệu tham khảo và
hoàn toàn trung thực.
Tác giả luận văn
ĐÀO MẠNH LINH
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTCK: Công ty chứng khoán
DN: Doanh nghiệp
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
HĐQT: Hội đồng Quản trị
NĐT: Nhà đầu tư
NĐTNN: Nhà đầu tư nước ngoài
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
OTC: Thị trường chứng khoán phi tập trung
OCC: Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán
TCTD: Tổ chức tín dụng
TTCK: Thị trường chứng khoán
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTQC: Thị trường quyền chọn
UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
VAT: Thuế giá trị gia tăng
VNIndex: Chỉ số giá cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
HNX-Index: Chỉ số giá cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Hose: Sàn giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
HNX: Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội
TTGDCK HN: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
ii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ
Hình 3.1: Giá cổ phiếu và công cụ phái sinh trong cây nhị phân một bước
Hình 3.2: Giá cổ phiếu trong cây nhị phân hai bước
Bảng 2.1: Quy mô TTCK Việt Nam qua các năm từ 2000 – 2010
Sơ đồ 3.1: Giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thí điểm
Sơ đồ 3.2: Thể hiện vai trò của tổ chức phát hành quyền chọn
Sơ đồ 3.3: Giao dịch quyền chọn cổ phiếu trên sàn tập trung
iii
MỤC LỤC
PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU ĐỂ PHÒNG
NGỪA RỦI RO TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chƣơng 1: Tổng quan về thị trƣờng tài chính phái sinh và hợp đồng quyền
chọn
Trang
1.1. Khái quát về quyền chọn. ............................................................................. 1
1.1.1. Hợp đồng quyền chọn .................................................................................. 1
1.1.2. Phân loại quyền chọn. .................................................................................. 1
1.1.2.1. Phân loại theo quyền của người mua. ....................................................... 1
1.1.2.2. Phân loại theo thời gian thực hiện. ............................................................ 2
1.1.2.3. Phân loại theo tài sản cơ sở. ...................................................................... 3
1.1.3. Các chủ thể tham gia thị trường quyền chọn. .............................................. 3
1.1.3.1. Chủ thể phát hành...................................................................................... 3
1.1.3.2. Chủ thể trung gian. .................................................................................... 4
1.1.3.3. Chủ thể đầu tư. .......................................................................................... 5
1.1.4. Các quy định về phí quyền chọn, giá giới hạn và số lượng. ........................ 5
1.1.4.1. Xác định phí quyền chọn chứng khoán. .................................................... 5
1.1.4.2. Quy định về giới hạn giá và số lượng. ...................................................... 6
1.2. Tổng quan về Thị trƣờng tài chính phái sinh. ............................................ 6
1.2.1.Giới thiệu khái quát về thị trường tài chính phái sinh. ................................. 6
1.2.2. Hình thức giao dịch của hợp đồng quyền chọn. ........................................... 7
1.2.2.1. Giao dịch quyền chọn trên thị trường tập trung. ....................................... 7
1.2.2.2. Giao dịch quyền chọn trên thị trường phi tập trung. ................................. 7
1.3. Đặc điểm của quyền chọn chứng khoán. ..................................................... 8
1.3.1. Mua quyền chọn chứng khoán là mua quyền để thực hiện hợp đồng.......... 8
1.3.2. Những tiêu chuẩn của hợp đồng quyền chọn chứng khoán. ........................ 8
iv
1.3.3. Giá của hợp đồng quyền chọn chứng khoán. ............................................... 9
1.3.4. Ảnh hưởng của việc phân chia cổ tức và cổ phiếu đến giá thực hiện .......... 10
1.4. Sự cần thiết của việc ứng dụng quyền chọn cổ phiếu trên TTCK. ........... 10
1.4.1. Gia tăng tính hiệu quả cho thị trường giao dịch hàng hoá cơ sở ................ 10
1.4.2. Tạo công cụ hạn chế rủi ro trên TTCK. ....................................................... 11
1.4.3. Đa dạng hoá cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư tài chính. ..................... 11
1.4.4. Thúc đẩy TTCK phát triển. .......................................................................... 12
1.4.5. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. ................................................................... 12
1.4.6. Lợi ích của công cụ quyền chọn so với các công cụ tài chính phái sinh
khác ........................................................................................................................ 13
1.5. Các điều kiện cơ sở để hình thành nên thị trƣờng quyền chọn cổ phiếu . 13
1.5.1. TTCK đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. ....................................... 13
1.5.2. Nhận thức của các nhà đầu tư về quyền chọn. ............................................. 14
1.5.3. Luật pháp trên thị trường quyền chọn. ......................................................... 15
1.5.4. Hàng hoá trên thị trường quyền chọn........................................................... 16
1.5.5. Nguồn nhân lực phục vụ cho thị trường quyền chọn. .................................. 17
1.5.6. Cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ phục vụ thị trường; Hệ thống thanh
tra giám sát và công bố thông tin . ......................................................................... 17
1.6. Kỹ thuật phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn ........................................... 18
1.6.1.Giao dịch quyền chọn mua .......................................................................... 18
1.6.2. Giao dịch quyền chọn bán .......................................................................... 19
1.6.3. Quyền chọn mua và cổ phiếu ...................................................................... 20
1.6.4. Quyền chọn bán và cổ phiếu ....................................................................... 21
1.6.5. Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp ............................................... 22
1.7. Kinh nghiệm phát triển một số thị trƣờng giao dịch ................................. 23
1.7.1. Thị trường giao dịch quyền chọn tại Úc. ..................................................... 23
1.7.2. Thị trường giao dịch quyền chọn tại Hàn Quốc. .......................................... 25
v
1.7.3. Thị trường giao dịch quyền chọn tại Indonesia ........................................... 28
1.7.4. Bài học rút ra khi xây dựng thị trường giao dịch quyền chọn ở VN ........... 29
Kết luận chương 1 .................................................................................................. 30
Chƣơng 2: TTCK Việt Nam và nhu cầu giao dịch quyền chọn
2.1. Tổng quan về TTCK Việt Nam ................................................................... 31
2.1.1. Biến động trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua. ................................. 31
2.1.1.1. Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn khởi đầu của TTCK................................. 31
2.1.1.2. Giai đoạn 2006: Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam .................... 32
2.1.1.4. Giai đoạn năm 2008 ................................................................................... 33
2.1.1.3. Giai đoạn 2007: Giai đoạn TTCK bùng nổ ............................................... 33
2.1.1.5. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay ................................................................ 34
2.1.2. Những rủi ro tiềm ẩn trên TTCK Việt Nam. ................................................ 37
2.1.2.1. Rủi ro thông tin bất cân xứng. ................................................................... 37
2.1.2.2. Rủi ro từ yếu tố tâm lý của nhà đầu tư. ..................................................... 38
2.1.2.3. Rủi ro từ quy định và chất lượng dịch vụ của sàn giao dịch từ các công
ty chứng khoán ....................................................................................................... 39
2.1.2.4. Rủi ro về chính sách. ................................................................................. 40
2.1.2.5. Hệ thống quản lý và giám sát thị trường chưa hiệu quả. .......................... 42
2.1.2.6. Chưa triển khai giao dịch quyền chọn cổ phiếu ........................................ 43
2.2. Thực trạng về giao dịch quyền chọn ở Việt Nam ....................................... 44
2.2.1. Quyền chọn ngoại tệ..................................................................................... 44
2.2.2. Quyền chọn tiền đồng Việt Nam .................................................................. 48
2.2.3. Quyền chọn vàng .......................................................................................... 50
2.2.4. Quyền chọn lãi suất ...................................................................................... 53
2.2.5. Bài học áp dụng cho thị trường quyền chọn cổ phiếu.................................. 54
vi
2.3. Những khó khăn thách thức khi đƣa quyền chọn cổ phiếu vào thực
tiễn Việt Nam…………………………………………………………………. 55
2.3.1. TTCK Việt Nam còn nhỏ bé, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn
trong và ngoài nước tham gia ................................................................................. 55
2.3.2. Pháp luật về chứng khoán mới ra đời, còn nhiều sơ hở, thực hiện thiếu
đồng bộ ................................................................................................................... 55
2.3.3. Hiểu biết của công chúng về TTCK và thị trường quyền chọn còn
hạn chế.................................................................................................................... 56
2.3.4. Hàng hoá cho TTCK và thị trường quyền chọn còn nghèo nàn
và đơn điệu ............................................................................................................. 56
2.3.5. Đội ngũ nhân lực phục vụ thị trường thiếu về số lượng, yếu về
chất lượng ............................................................................................................... 57
2.3.6. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn sơ khai và hệ thống thông tin trên TTCK
chậm chạp và thiếu chuẩn xác ................................................................................ 57
2.3.7. Cơ chế quản lý TTCK còn bất cập, chưa hiệu quả ...................................... 58
2.3.8. Nghiệp vụ bán khống chưa được triển khai trên TTCK .............................. 60
Kết luận chương 2 .................................................................................................. 61
Chƣơng 3: Giải pháp phát triển thị trƣờng quyền chọn cổ phiếu để phòng
ngừa rủi ro trên TTCK Việt Nam.
3.1. Quy trình xây dựng đƣa quyền chọn cổ phiếu vận hành thực tiễn . ..... 62
3.1.1. Xây dựng tiền đề cho thị trường quyền chọn cổ phiếu. ............................... 62
3.1.2. Lộ trình xây dựng thị trường quyền chọn cổ phiếu Việt Nam. .................... 63
3.1.3. Giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thí điểm. ................................................... 64
3.1.3.1. Tiêu chuẩn của cổ phiếu cơ sở để quyền chọn đươc niêm yết và hủy
niêm yết .................................................................................................................. 65
3.1.3.2. Hệ thống giao dịch quyền chọn cổ phiếu .................................................. 66
3.1.3.3. Quy trình giao dịch quyền chọn cổ phiếu ................................................. 67
vii
3.1.3.4. Quy trình thanh toán bù trừ đối với việc thực hiện quyền chọn ............... 68
3.1.4. Giai đoạn hoàn thiện và phát triển thị trường quyền chọn. .......................... 71
3.1.5. Mô hình quyền chọn cổ phiếu trên thị trường quyền chọn tập trung. .......... 72
3.1.6. Cơ chế quản lý và giám sát thị trường quyền chọn. ..................................... 73
3.2. Đề xuất giải pháp tiền đề cho việc xây dựng và phát triển ................... 73
3.2.1. Phổ biến kiến thức về quyền chọn thông qua các CTCK, các định chế . ... 73
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho thị trường quyền chọn. ............................ 74
3.2.3. Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động quyền chọn chứng khoán .............. 75
3.2.4. Xây dựng việc tổ chức và quản lý sàn giao dịch quyền chọn. .................... 77
3.2.5. Tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho thị trường quyền chọn. ..................... 79
3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho thị trường quyền chọn. .... 80
3.2.7. Xây dựng danh mục hàng hoá có chất lượng và phong phú cho . ............... 81
3.2.8. Tiếp cận công cụ quyền chọn đến các nhà đầu tư chứng khoán. ................. 81
3.2.9. Nâng cao mức độ hiệu quả của TTCK ......................................................... 83
3.2.10. Tăng cường phát triển các loại quyền chọn hiện có trên thị trường. ......... 84
Kết luận chương 3 .................................................................................................. 86
Kết luận .................................................................................................................. 87
Tài liệu tham khảo .................................................................................................. 89
viii
LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thị trường chứng khoán với tư cách là “phong vũ biểu của nền kinh tế” và là
phương thức khơi thông dòng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không những là
khơi thông nguồn vốn từ các nhà đầu tư trong nước mà còn thu hút nguồn vốn từ
các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán có vai trò cực kỳ quan trọng
trong nền kinh tế.
TTCK thúc đẩy việc tích lũy và tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
chính sách mở cửa, cải cách kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán ra nước
ngoài, điều tiết hoạt động của thị trường, khống chế sự co giãn cung cầu tiền tệ,
khống chế quy mô đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và giá trị đồng tiền….
Trong thời gian qua, TTCK Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, được
xem là thị trường chứng khoán hấp dẫn nhất năm 2006, và đã có bước phát triển
đỉnh cao vào năm 2007. Nhưng sự phát triển đó vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Lợi
nhuận càng cao, rủi ro càng lớn, nhưng điều ngược lại thì chưa hẳn đã đúng: lợi
nhuận có thể thấp, song rủi ro chưa chắc đã nhỏ đi.
Việc TTCK tăng giảm hết sức thất thường khiến việc tham gia và kinh doanh
trên TTCK gặp rất nhiều rủi ro và khó khăn, dẫn đến một số nhà đầu tư lâm vào tình
trạng thua lỗ nặng, không thể nào trụ vững trên thị trường nên ồ ạt bán tháo để bảo
toàn vốn và sớm rút ra khỏi thị trường, làm cho thị trường càng trở nên trầm trọng
hơn, dễ dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ. Có biện pháp gì để giúp nhà đầu tư bảo toàn
được vốn khi giá chứng khoán liên tục tăng giảm thất thường, có biện pháp gì giúp
cho thị trường tránh được tình trạng khủng hoảng ?.
ix
Các công cụ hạn chế rủi ro hữu hiệu nhất hiện nay được áp dụng hầu hết ở
các nước phát triển đó là các công cụ tài chính phái sinh mà chủ yếu là quyền chọn
chứng khoán, quyền chọn chứng khoán là công cụ quản trị rủi ro rất cần thiết và
hữu ích cho các nhà đầu tư. Đây là công cụ tài chính khá cao cấp và nhiều ứng dụng
và có vai trò to lớn, thiết thực đối với các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, chúng cũng tạo
ra môi trường đầu tư hấp dẫn song song với thị trường chứng khoán cơ sở, thúc đẩy
tính năng động cho thị trường tài chính và ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế quốc
gia. Việc nghiên cứu nhằm phát triển công cụ quyền chọn vào thị trường chứng
khoán là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay. Do đó tôi đã quyết định
nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài: “Phát triển thị trường quyền
chọn cổ phiếu để phòng ngửa rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam” .
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU - Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán và công cụ quyền
chọn, các chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn.
- Điểm qua tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 10 năm hoạt động
qua đó nhận diện những rủi ro trên thị trường chứng khoán hiện nay. Phân tích tình
hình triển khai các công cụ quyền chọn, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc
phát triển thị trường quyền chọn để hỗ trợ cho các nhà đầu tư chứng khoán, và
chúng ta thấy được sự cần thiết phải phát triển thị trường quyền chọn cổ phiếu.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thị trường quyền chọn cổ phiếu
hoạt động song song và hỗ trợ thị trường chứng khoán cơ sở.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các lý luận về Thị trường chứng khoán và công
cụ quyền chọn.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình hoạt động của thị trường chứng khoán
sau hơn 10 năm hoạt động và thực trạng triển khai các công cụ quyền chọn như
quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn tiền đồng, quyền chọn vàng và quyền chọn lãi suất
trên thị trường tài chính.
x
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp phân tích,
thống kê, mô tả, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp và phương pháp quan sát
thực tế, khái quát nhằm làm rõ vấn đề luận văn nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập xử lý số liệu: Số liệu thứ cấp được thống kê từ các các
Website, tạp chí… sau đó tổng hợp vào đề tài.
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Sự phát triển ổn định thị trường chứng khoán đòi hỏi quyền lợi của nhà đầu
tư phải được đặt lên hàng đầu, quyền chọn chứng khoán nhằm giảm thiểu rủi ro cho
các nhà đầu tư, đồng thời cũng tạo điều kiện cho những người vốn ít tham gia thị
trường. Vì vậy đề tài “ Phát triển thị trường quyền chọn cổ phiếu để phòng ngửa
rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam” nhằm giảm thiểu rủi ro và tránh
những biến động lớn trên thị trường chứng khoán có thể thể dẫn đến những hậu quả
xấu về mặt kinh tế và xã hội là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Phần mở đầu
Chƣơng 1: Tổng quan về thị trƣờng phái sinh và hợp đồng quyền chọn
Chƣơng 2: TTCK Việt Nam và nhu cầu giao dịch quyền chọn
Chƣơng 3: Giải pháp phát triển thị trƣờng quyền chọn cổ phiếu để phòng
ngừa rủi ro trên TTCK Việt Nam.
Phần kết luận
1
Chƣơng 1:
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG PHÁI SINH
VÀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN
1.1. Khái quát về quyền chọn.
1.1.1. Hợp đồng quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên – người mua và người
bán, trong đó người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán
một tài sản nào đó vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào một ngày
hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán quyền chọn một số tiền gọi là
phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặt tiếp tục nắm giữ tài sản
theo các điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn như vậy. Một quyền chọn
để mua tài sản gọi là quyền chọn mua. Một quyền chọn để bán tài sản gọi là quyền
chọn bán.
Các hàng hóa trong giao dịch quyền chọn có thể là cổ phiếu, chỉ số trái
phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, tiền tệ hay hợp đồng tương lai.
Mặc dù vậy chúng ta cũng đề cập đến các quyền chọn trên hợp đồng giao sau, kim
loại và ngoại tệ. Nhiều loại thỏa thuận tài chính khác chẳng hạn như hạn mức tín
dụng, bảo đảm khoản vay và bảo hiểm cũng là các hình thức khác nhau của quyền
chọn. Ngoài ra, cổ phiếu cũng là quyền chọn trên tài sản của công ty.
1.1.2. Phân loại quyền chọn.
1.1.2.1. Phân loại theo quyền của ngƣời mua.
Hợp đồng quyền chọn mua (Call options): Là một thỏa thuận giao
dịch một lượng tài sản cơ sở nhất định, trong đó người mua quyền chọn (A) sẽ trả
cho người bán quyền chọn (B) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí
quyền chọn (options premium) và A sẽ có quyền được mua nhưng không bắt buộc
phải mua một lượng tài sản cơ sở đó theo một mức giá đã được thoả thuận trước
vào một ngày hoặc một khoảng thời gian xác định trong tương lai. B nhận được tiền
từ A nên B có trách nhiệm phải bán lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện đã thỏa
thuận vào ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Châu Âu) hoặc bất kì ngày nào
trong khoảng thời gian từ ngày ký hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn
kiểu Mỹ), khi A muốn thực hiện quyền mua của mình.
2
Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng), sau khi
xem xét với mức giá giao ngay của tài sản cơ sở ở ngày này, nếu thấy có lợi cho
mình, tức giá tài sản cơ sở lớn hơn giá thực hiện, A có thể thực hiện quyền của
mình để được mua lượng tài sản cơ sở đó ở mức giá thực hiện, rồi ra thị trường bán
lại với giá cao hơn để thu một khoản lợi nhuận. Nếu thấy giá của tài sản cơ sở dưới
giá thực hiện, A có thể không cần phải thực hiện quyền mua của mình, và chịu lỗ
tiền phí quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn bán (Put options): Là một thỏa thuận giao
dịch một lượng tài sản cơ sở nhất định, theo đó người mua quyền chọn (C) sẽ trả
cho người bán quyền chọn (D) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn bán hay phí
quyền chọn và C sẽ có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ phải bán lượng tài sản
cơ sở đó theo một mức giá đã thỏa thuận trước (giá thực hiện) vào một ngày hoặc
một khoảng thời gian xác định trong tương lai. D nhận được tiền từ C, nên có nghĩa
vụ phải mua lượng tài sản cơ sở đó ở mức giá thực hiện vào ngày đáo hạn (nếu là
quyền chọn kiểu Châu Âu) hoặc bất kì ngày nào trong khoảng thời gian từ ngày ký
hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ), khi C muốn thực hiện
quyền được bán của mình.
Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng), sau khi
xem xét giá giao ngay của tài sản cơ sở trên thị trường, nếu thấy có lợi cho mình,
tức mức giá này nhỏ hơn giá thực hiện, C có thể thực hiện quyền của mình để được
bán lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện sau khi đã mua được ở ngoài thị trường
với giá thấp hơn để thu một khoảng lợi nhuận. Nếu thấy giá giao ngay cao hơn giá
thực hiện, C có thể không cần phải thực hiện quyền chọn bán của mình, và chịu lỗ
tiền phí quyền chọn.
1.1.2.2. Phân loại theo thời gian thực hiện.
Quyền chọn kiểu Châu Âu (European Options): Là quyền chọn chỉ
cho phép người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào ngày đáo hạn
của hợp đồng. Việc thanh toán thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi
việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận vào ngày đáo hạn.
3
Quyền chọn kiểu Mỹ (American Options): Là quyền chọn cho phép
người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào bất kỳ thời điểm nào
trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến hết ngày
đáo hạn của hợp đồng. Việc thanh toán sẽ thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm
việc sau khi việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận (trong thời
gian thực hiện hợp đồng).
1.1.2.3. Phân loại theo tài sản cơ sở.
Theo cách phân loại này thì có vô số loại hợp đồng quyền chọn, vì trên lý
thuyết bất kỳ một tài sản cơ sở nào cũng có thể phát sinh một quyền chọn dựa trên
nó. Do đó, có thể phân thành các nhóm chính sau:
Đối với hàng hóa: Bao gồm quyền chọn cà phê, vàng, xăng dầu, sắt, thép,
ngũ cốc, khí đốt…
Đối với dịch vụ: Gồm quyền chọn tiền taxi, tiền điện, cước viễn thông…
Đối với tài sản tài chính: Gồm quyền chọn ngoại tệ, lãi suất, cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ, hợp đồng kì hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng hoán đổi, chỉ
số chứng khoán…
Hiện nay, trên thế giới, các giao dịch quyền chọn dựa trên các tài sản tài
chính chiếm một tỉ trọng lớn, đặc biệt là quyền chọn ngoại tệ, cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ quỹ… Bên cạnh đó, do là những hàng hóa đặc biệt quan trọng nên quyền
chọn vàng và dầu cũng chiếm một tỉ trọng khá lớn.
Mặc dù các giao dịch quyền chọn phi tập trung chỉ chiếm khoảng 2% tổng
giá trị giao dịch quyền chọn trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, do thị
trường quyền chọn còn khá mới mẻ, chưa phát triển nên các giao dịch quyền chọn
phi tập trung chiếm một tỉ trọng tuyệt đối, đặc biệt là quyền chọn ngoại tệ.
1.1.3. Các chủ thể tham gia thị trƣờng quyền chọn.
1.1.3.1. Chủ thể phát hành.
Chủ thể phát hành là những chủ thể mà họ sẽ cung cấp quyền lựa chọn cho
thị trường. Chủ thế phát hành có thể là cá nhân, tổ chức và cũng có thể là các nhà
tạo lập thị trường.
4
Chủ thể phát hành còn là các nhà tạo lập thị trường, họ chịu trách nhiệm đáp
ứng nhu cầu của công chúng đối với quyền chọn. Khi một công chúng nào đó muốn
mua (bán) một quyền chọn và không có thành viên nào trong công chúng muốn bán
(mua) quyền chọn đó, nhà tạo lập thị trường sẽ thực hiện giao dịch đó. Hệ thống này
đảm bảo rằng nếu một nhà đầu tư tư nhân muốn mua một quyền chọn cụ thể, sẽ có
người sẵn sàng chào bán, và nếu một người mua quyền chọn và sau đó muốn bán nó
đi, sẽ có người sẵn sàng mua. Nhà tạo lập thị trường cung cấp cho công chúng tiện
ích về thực hiện giao dịch ngay lập tức.
1.1.3.2. Chủ thể trung gian.
Các môi giới trên sàn giao dịch (Broker): Nếu một người nào đó muốn mua
hoặc bán một quyền chọn, cá nhân người đó phải thiết lập một tài khoản tại công ty
môi giới. Công ty này phải thuê một nhà môi giới trên sàn hoặc có hợp đồng hợp
tác với hoặc là một nhà môi giới độc lập trên sàn giao dịch hoặc là nhà môi giới sàn
giao dịch của một công ty đối thủ. Nhà môi giới trên sàn thực hiện các lệnh của
những người không phải là thành viên và hoặc là nhận một mức lương thuần hoặc là
nhận hoa hồng trên mỗi lệnh thực hiện được.
Trung tâm thanh toán bù trừ - Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn (OCC):
là một công ty độc lập, đảm bảo cho việc thực hiện của người bán quyền chọn. OCC
là một trung gian thanh toán trong mỗi giao dịch. Người mua quyền chọn khi thực
hiện quyền không hướng vào người bán quyền chọn mà hướng vào Công ty thanh
toán bù trừ quyền chọn và người bán quyền chọn cũng thực hiện chi trả hoặc giao
chứng khoán cho Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn. Mỗi thành viên của OCC
được gọi là công ty thanh toán, có mở một tài khoản với OCC. Sự tham gia của
OCC đảm bảo cho quy trình thực hiện các hợp đồng Quyền chọn diễn ra thông suốt
và hạn chế rủi ro phá vỡ hợp đồng từ các bên nhờ thế mà quyền lợi của người mua
ngày càng được đảm bảo.
5
1.1.3.3. Chủ thể đầu tƣ.
Chủ thể đầu tư là những chủ thể có nhu cầu quyền chọn trên thị trường
quyền chọn. Chủ thể này tham gia thị trường quyền chọn nhằm mục đích kiếm lợi.
Thế giới tài chính bao gồm một số lượng khổng lồ các định chế ở đủ mọi qui mô, mà rất nhiều trong số này tham gia giao dịch quyền chọn. Một số các định chế này
là công ty môi giới thực hiện lệnh cho công chúng, các công ty này tìm kiếm các
quyền chọn bị định giá không đúng, giao dịch chúng và nhờ vậy tạo thêm lợi nhuận
cho công ty. Nhiều nhà đầu tư có tổ chức lớn, như quỹ hưu bổng, quỹ uỷ thác và
quỹ hỗ tương cũng giao dịch quyền chọn. Trong hầu hết các trường hợp, các nhà đầu tư dạng này ký kết quyền chọn đối với cổ phiếu trong danh mục của mình. Số
lượng các tổ chức nước ngoài giao dịch quyền chọn cũng tăng lên. Ngoài các nhà
đầu tư có tổ chức lớn, dĩ nhiên cũng có nhiều cá nhân – giàu có hoặc không giàu có
– mua bán quyền chọn.
1.1.4. Các quy định về phí quyền chọn, giá giới hạn và số lƣợng.
1.1.4.1. Xác định phí quyền chọn chứng khoán.
Hiện nay, đối với quyền chọn vàng, ngoại tệ, phí quyền chọn do đơn vị phát
hành đưa ra hiện nay được xem là tương đối cao do các đơn vị này chưa tự doanh
được quyền chọn mà chỉ đóng vai trò trung gian giữa các nhà đầu tư trong nước và
đối tác nước ngoài. Các đơn vị phát hành quyền chọn vàng, ngoại tệ thường đưa ra
mức phí rất cao nhằm trang trải chi phí mua quyền chọn của đối tác nước ngoài và
đảm bảo có lợi nhuận. Điều này sẽ làm cho các nhà đầu tư hạn chế sử dụng giao
dịch quyền chọn.
Vì quyền chọn là công cụ bảo hiểm rủi ro, đứng trên giác độ là người bảo
hiểm, các đơn vị phát hành rất cần số đông khách hàng tham gia để có thể làm trung gian cân đối hay điều hòa rủi ro giữa những người ký kết hợp đồng quyền chọn với đơn vị phát hành.
Để đông đảo nhà đầu tư tham gia sử dụng giao dịch quyền chọn thì nhà đầu tư phải thấy rằng phí quyền chọn là hợp lý và có thể chấp nhận được. Do đó, đơn vị
phát hành phải xác định và đưa ra mức phí quyền chọn phù hợp. Để khuyến khích
các nhà đầu tư tham gia giao dịch quyền chọn chứng khoán thì các nhà phát hành
cần xác định và đưa mức phí giao dịch hợp lý. Đồng thời, nên quy định mức phí
giao dịch chung cho toàn bộ các giao dịch trên thị trường quyền chọn chứng khoán.
6
1.1.4.2. Quy định về giới hạn giá và số lƣợng.
Mặt trái của hoạt động giao dịch quyền chọn là hiện tượng đầu cơ. Các nhà
đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và
quyền chọn bán. Việc đầu cơ giá trên các hợp đồng quyền chọn có thể làm cho giá
cả chứng khoán biến động vượt khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của
các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Do vậy cần phải đưa ra quy định về giới hạn
giá và số lượng giao dịch quyền chọn. Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu
tư đưa ra các mức giá quá cao hoặc quá thấp, làm cho giá cả chứng khoán biến
động.
1.2. Tổng quan về Thị trƣờng tài chính phái sinh.
1.2.1. Giới thiệu khái quát về thị trƣờng tài chính phái sinh.
Thị trường tài chính phái sinh là thị trường giao dịch các công cụ hay các
loại chứng khoán phái sinh. Công cụ tài chính phái sinh là các hợp đồng tài chính
mà giá trị của nó có mối liên hệ chặt chẽ hoặc được bắt nguồn từ các công cụ tài
chính như cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất hoặc tỷ giá. Chúng được
sử dụng để phòng tránh, phân tán rủi ro, bảo vệ, tạo lợi nhuận, chống biến động giá
trị hoặc để đầu cơ thu lợi nhuận. Ngoài ra chứng khoán phái sinh là một loại tài sản
tài chính có dòng tiền trong tương lai phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài
sản tài chính khác, gọi là tài sản cơ sở. Tài sản cơ sở có thể là hàng hoá, ngoại tệ,
chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Các loại công cụ tài chính phái sinh bao
• Hợp đồng kỳ hạn (Forwards)
gồm:
• Hợp đồng hoán đổi (Swaps)
• Hợp đồng tương lai (Futures)
• Quyền chọn (Options).
Các loại hợp đồng phái sinh được phát triển và giao dịch dựa trên cơ sở phát
triển và giao dịch hàng hóa và giao dịch các công cụ tài chính trên thị trường trái
phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường ngoại hối.
7
Thị trường phái sinh ở Mỹ xuất hiện và gắn liền với sự ra đời và phát triển
của những sở giao dịch, trung tâm giao dịch lớn như Hội đồng mậu dịch Chicago
(CBOT), Sở thương mại Chicago (CME), các TTCK NYSE, NASDAQ, AMEX.
Tại Việt Nam các sản phẩm phái sinh đã xuất hiện trên thị trường cách đây 5 năm,
nhưng mới chỉ mang tính thí điểm, nhỏ bé, đơn lẻ. Mức độ phát triển của thị trường
vốn còn thấp, thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu về lợi ích cũng như tính toán lợi
nhuận từ nghiệp vụ này. Các nhà môi giới, các nhà đầu cơ còn quá ít trên thị trường
tiền tệ, TTCK để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia thị trường này. Các doanh
nghiệp Việt Nam thì bị đánh giá là ngại đổi mới, chưa quan tâm đến hoạt động quản
lý tài chính chuyên nghiệp, có tâm lý an tâm, không lo lắng đến các rủi ro tài chính
trong kinh doanh.
1.2.2. Hình thức giao dịch của hợp đồng quyền chọn.
1.2.2.1. Giao dịch quyền chọn trên thị trƣờng tập trung.
Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung: Là quyền chọn
được tiêu chuẩn hóa về quy mô, số lượng, giá thực hiện và ngày đáo hạn, được giao
dịch trên các thị trường tập trung như Chicago Board of Trade, TTCK New
York…Do đó, tính minh bạch của thị trường rất cao, thể hiện ở chỗ giá cả, số lượng
của hợp đồng giao dịch được công bố chi tiết vào cuối ngày giao dịch, làm dữ liệu
tham khảo cho các ngày giao dịch tiếp theo hoặc cho nhiều mục đích khác. Đặc
biệt, các hợp đồng quyền chọn này có thể được dễ dàng chuyển nhượng giữa các
nhà đầu tư, điều này cho thấy tính thanh khoản cao của các hợp đồng quyền chọn
được giao dịch trên các thị trường tập trung kiểu này. Trên thế giới, thị trường giao
dịch quyền chọn theo kiểu này chiếm tỉ trọng rất lớn, khoảng 98% tổng giá trị giao
dịch quyền chọn của thế giới.
1.2.2.2. Giao dịch quyền chọn trên thị trƣờng phi tập trung.
Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC): Là thỏa
thuận mua bán giữa hai bên, theo đó quyền chọn được người bán đưa ra theo thỏa
thuận với người mua nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một người mua, chúng
không được giao dịch trên các sở giao dịch tập trung. Hợp đồng thường được giao
dịch giữa các đối tác liên ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng là các cá
8
nhân, doanh nghiệp. Do các hợp đồng quyền chọn không được chuẩn hóa, chi tiết
của hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên, nên tính linh hoạt đối với các hợp đồng
này là rất cao, đáp ứng được các nhu cầu cá biệt của các khách hàng. Dù vậy, các
giao dịch quyền chọn phi tập trung kiểu này chỉ chiếm khoảng 2% giá trị giao dịch
quyền chọn trên thế giới.
1.3. Đặc điểm của quyền chọn chứng khoán.
1.3.1. Mua quyền chọn chứng khoán là mua quyền để thực hiện hợp đồng.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất và là yếu tố hấp dẫn của hợp đồng quyền chọn
so với các hợp đồng mua bán cổ phiếu khác. Một người đã mua hợp đồng quyền
chọn có quyền thực hiện hợp đồng khi thị trường biến động thuận lợi hoặc không có
nghĩa vụ thực hiện hợp đồng khi thị trường biến động bất lợi. Trong khi đó đối với
các hợp đồng mua bán cổ phiếu thông thường thì khi hợp đồng đến hạn, cả hai bên
tham gia ký kết hợp đồng buộc phải thực hiện hợp đồng.
1.3.2. Những tiêu chuẩn của hợp đồng quyền chọn chứng khoán.
Ngày nay dù giao dịch trên thị trường tập trung hay phi tập trung, hợp đồng
quyền chọn cổ phiếu tuân thủ một số tiêu chuẩn nhất định về: Số lượng, ngày đáo
hạn, giá thực hiện.
Về số lƣợng: Thông thường ở các thị trường của Mỹ, số lượng cổ
phiếu mua bán trên một hợp đồng quyền chọn là 100 cổ phiếu, ở Úc là 1.000 cổ
phiếu.
Ngày tháng đáo hạn: Một trong những điều khoản để mô tả hợp
đồng quyền chọn về cổ phiếu là tháng xảy ra ngày đáo hạn của hợp đồng. Quyền
chọn cổ phiếu có chu kỳ tháng giêng bao gồm: tháng giêng, tháng tư, tháng bảy,
tháng mười; chu kỳ tháng hai bao gồm: tháng hai, tháng năm, tháng tám, tháng
mười một; chu kỳ tháng ba bao gồm: tháng ba, tháng sáu, tháng chín, tháng mười
hai.
Ngày đáo hạn chính xác là vào lúc 22 giờ 59 phút (theo giờ của trung tâm
giao dịch) ngày thứ bảy của tuần lễ thứ ba của tháng đáo hạn. Theo thông lệ, nhà
đầu tư có thời gian đến 16 giờ 30 phút của ngày thứ sáu trước đó để chỉ thị cho nhà
môi giới thực hiện hợp đồng.
9
Giá thực hiện: Trung tâm giao dịch chọn giá thực hiện với các mức
giá mà theo đó quyền chọn có thể được phát hành. Giá thực hiện thường được đặt
cách nhau 2(1/2) USD, 5 USD, hoặc 10 USD. Quy tắc thường được các trung tâm
giao dịch áp dụng là sử dụng khoảng cách 2(1/2) USD cho giá thực hiện khi giá cổ
phiếu thấp hơn 25 USD; khoảng cách 5 USD khi giá thực hiện nằm trong khoảng 25
USD đến 200 USD; và khoảng cách 10 USD cho giá thực hiện trên 200 USD.
1.3.3. Giá của hợp đồng quyền chọn chứng khoán.
Giá của hợp đồng quyền chọn (phí quyền chọn) bao gồm giá trị thực và giá
trị thời gian.
Giá trị thực: Nếu quyền chọn là quyền chọn được giá thì quyền chọn
có giá trị thực. Giá trị thực của quyền chọn được tính như sau:
+ Đối với quyền chọn mua: Giá trị thực = MAX (S-X;0)
Trong đó: S là giá thị trường của cổ phiếu cơ sở, X là giá thực hiện trên hợp
đồng.
Khi giá thực hiện trên hợp đồng quyền chọn mua thấp hơn giá cổ phiếu trên
thị trường, lúc đó người mua hợp đồng quyền chọn sẽ có lợi nếu thực hiện hợp đồng
và ta nói hợp đồng có giá trị thực. Giá trị của hợp đồng là phần chênh lệch giữa giá
thị trường của cổ phiếu và giá thực hiện của quyền chọn (S-X). Còn trong trường
hợp giá thực hiện trên hợp đồng quyền chọn cao hơn thị giá của cổ phiếu thì giá trị
thực của quyền chọn mua bằng 0, và ta nói quyền chọn không có giá trị thực.
+ Đối với quyền chọn bán: Giá trị thực = MAX (X-S;0)
Khi giá thực hiện quyền chọn bán cao hơn giá cổ phiếu trên thị trường thì
hợp đồng quyền chọn có giá trị thực, đó chính là phần chênh lệch giữa giá thực hiện
của quyền chọn và giá thị trường của cổ phiếu (X-S). Trường hợp giá thực hiện trên
hợp đồng quyền chọn thấp hơn thị giá của cổ phiếu thì giá thực hiện của quyền chọn
bán bằng 0 hay quyền chọn không có giá trị thực.
10
1.3.4. Ảnh hƣởng của việc phân chia cổ tức và cổ phiếu đến giá thực hiện của
hợp đồng quyền chọn chứng khoán.
Việc phân chia cổ tức bằng tiền mặt chỉ ảnh hưởng đến giá thực hiện của các
quyền chọn giao dịch trên thị trường OTC. Khi một công ty chia cổ tức bằng tiền
mặt thì giá thực hiện hợp đồng quyền chọn sẽ giảm một khoảng bằng với số cổ tức
Riêng quyền chọn được giao dịch trên thị trường tập trung thì giá thực hiện
vào thời điểm không nhận cổ tức.
sẽ được điều chỉnh khi có việc chia tách cổ phiếu. Khi tất cả các điều kiện khác
không đổi, nếu một số cổ phiếu cơ sở được tách thành m cổ phiếu thì giá thực hiện
của quyền chọn dựa trên số cổ phiếu ấy sẽ giảm đi m lần.
1.4. Sự cần thiết của việc ứng dụng quyền chọn cổ phiếu trên TTCK.
1.4.1. Gia tăng tính hiệu quả cho thị trƣờng giao dịch hàng hoá cơ sở.
Với đặc điểm là giá thực hiện được cố định, quyền chọn cho phép người
tham gia có thể bảo vệ phần lợi hiện có hay hạn chế thua lỗ trong thời gian thị
trường biến động không thể dự đoán.
Đối với ngƣời mua quyền chọn: Trong trường hợp thị trường biến động
như dự đoán, hợp đồng được thực hiện thì phần thu nhập đạt được do bán tài sản cơ
sở hay chi phí phải bỏ ra để mua là cố định. Vì thế giúp người mua quyền hạn chế
rủi ro cho bản thân mình. Ngược lại, khi quyền chọn không được thực hiện, nghĩa là
biến động trên thị trường có lợi hơn cho người mua quyền so với việc thực hiện hợp
đồng, khi đó người mua quyền chỉ mất một khoản phí nhưng lại được lợi hơn khi
thực hiện mua bán trên thị trường.
Đối với ngƣời bán quyền chọn: Một khi quyền chọn được bán ra thì người
bán quyền đã có thể thu được phần lợi nhuận sẽ thu được trong tương lai. Cụ thể là
khi quyền chọn được yêu cầu thực hiện thì phần thu nhập hay chi phí bỏ ra cũng
được cố định từ trước; từ đó có thể giúp người bán có thể tính toán được lợi nhuận
của mình, ngược lại thì phần phí thu được từ hợp đồng có thể giúp người bán quyền
bù lỗ vốn do thị trường biến động bất lợi.
11
1.4.2. Tạo công cụ hạn chế rủi ro trên TTCK.
Cũng giống như hợp đồng tương lai nhưng có nhiều ưu điểm hơn hợp đồng
tương lai, quyền chọn cổ phiếu cung cấp một cơ chế hiệu quả cho phép phòng tránh
rủi ro từ những người không thích rủi ro sang những người chấp nhận rủi ro tìm
kiếm lợi nhuận, sự biến động bất thường của TTCK trong thời gian vừa qua đã
khiến cho các nhà đầu tư chịu nhiều tổn thất, đối với những nhà đầu tư không chấp
nhận quá nhiều rủi ro thì công cụ quyền chọn cho phép họ có thể chuyển bớt rủi ro
cho các nhà đầu tư chấp nhận mức rủi ro cao.
Kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ra đời
vào ngày 20-7-2000, hoạt động của TTCK trở nên sôi động và mang lại nhiều lợi
ích cho nền kinh tế, đặc biệt là quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
được tiến hành thuận lợi hơn như Vietcombank, Bảo Việt, Sabeco…. Tuy nhiên,
cho đến nay, sau hơn 10 năm thành lập, TTCK Việt Nam đã có những bước thăng
trầm, chỉ số VN-Index sau một thời gian tăng nhanh, tăng nóng đến mức đỉnh trên
1100 điểm, thị trường đã liên tục giảm khá sâu ngoài dự tính của tất cả mọi người.
Cho đến thời điểm hiện tại (tháng 8/2010), thị trường đang thể hiện xu thế đi
ngang và ngày càng đi xuống, tổng giá trị giao dịch của cả hai sàn giao dịch chứng
khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong tháng 07 và tháng 08/2010 chỉ đạt
trung bình khoảng 2.500 tỷ đồng. Do bị tác động của những khó khăn trong nước
giai đoạn quí nửa đầu năm 2010 và ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu.
Do đó, sự ra đời của thị trường quyền chọn sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư
giảm thiểu rủi ro bằng cách thực hiện các hợp đồng quyền chọn.
1.4.3. Đa dạng hoá cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tƣ tài chính.
Thị trường của các hàng hóa cơ sở thì biến động từng ngày, từng giờ. Với
chức năng cố định giá của mình, hợp đồng quyền chọn có thể được các nhà đầu cơ
Với khả năng chịu rủi ro cao, và khả năng phân tích, dự báo tốt, các nhà đầu
sử dụng cho trong việc kinh doanh chênh lệch giá của mình.
cơ có thể sử dụng công cụ quyền chọn để mua một hàng hóa cơ sở (cổ phiếu, trái
12
phiếu, chứng chỉ quỹ…) ở mức giá các cố định nào đó (thấp hơn giá cùa hàng hóa
đó ở thị trường giao ngay), rồi đem chúng ra bán lại ở thị trường giao ngay với mức
giá cao hơn theo dự đoán của mình. Hoặc ngược lại, mua hàng hóa ở thị trường giao
ngay ở mức giá thấp hơn theo dự đoán, rồi đem chúng bán lại ở một mức giá cố
định cao hơn so với thị trường giao ngay trong hợp đồng quyền chọn, giúp thu lợi
nhuận từ sự chênh lệch tỷ giá, giá cổ phiếu. Việc kinh doanh chênh lệch giá này
chứa đựng nhiều rủi ro, nhưng đây chính là lực lượng đông đảo tham gia các giao
dịch quyền chọn ở các nước, giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường quyền chọn
cũng như các thị trường tài sản cơ sở như thị trường ngoại hối và TTCK.
1.4.4. Thúc đẩy TTCK phát triển.
Thị trường quyền chọn và hợp đồng Futures cho phép các nhà đầu tư kinh
doanh đạt được một tỷ suất sinh lợi cao, chính điều này hấp dẫn mạnh các nguồn
vốn đầu tư mạo hiểm từ đó hình thành các Quỹ mạo hiểm, góp phần giúp huy động
Bên cạnh đó, việc tham gia trên thị trường không đòi hỏi một chi phí quá lớn
thêm được nhiều nguồn lực tài chính xã hội.
do đó cho phép các nhà đầu tư có thể dễ dàng tham gia hoặc rút lui ra khỏi thị
trường một cách dễ dàng. Việc tham gia trên thị trường Futures và quyền chọn sẽ
khuyến khích, thu hút được nhiều nhà sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp xuất
khẩu, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia tích cực hơn trên TTCK, thúc
đẩy TTCK ngày một phát triển và sôi động hơn với các lợi ích của công cụ chứng
khoán phái sinh.
1.4.5. Thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
TTCK Việt Nam trong thời gian qua đã thu hút được một lượng vốn đầu tư
nước ngoài rất lớn, các tài khoản của các nhà đầu tư nước ngoài liên tục tăng theo
thời gian. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng chịu ảnh hưởng bởi sự tăng giảm thất
thường của thị trường. Thị trường quyền chọn với chức năng của một công cụ
phòng ngừa rủi ro và đầu tư sẽ có tác dụng thu hút thêm một lượng vốn nhàn rỗi từ
các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư ngắn hạn, cả trực tiếp
và gián tiếp vào nền kinh tế. Nó sẽ thúc đẩy, khuyến khích tâm lý đầu tư, giúp cho
nguồn vốn được khơi thông, chảy vào những khu vực có ích.
13
1.4.6. Lợi ích của công cụ quyền chọn so với các công cụ tài chính phái sinh khác
So sánh
Forwards
Futures
Swaps
Option
- Thị trường phi tập
- Sở giao dịch
- Thị
trường phi
- Thị
trường
tập
Niêm yết và
trung (OTC)
tập trung (OTC)
trung
giao dịch
- Không được
tiêu
- Tiêu chuản hóa về giá thực
- Không được tiêu
- Tiêu chuản hóa về
chuẩn hóa về giá
hiện, giá niêm yết, số lượng,
chuẩn hóa về giá
giá thực hiện, giá
Tiêu chuẩn
thực hiện, số lượng,
ngày đáo hán
thực
hiện,
số
niêm yết, số lượng,
hóa
ngày đáo hán.
lượng, ngày đáo
ngày đáo hán
hán.
- Người mua và bán
- Người mua và người bán
- Hai bên mua bán
- Người bán có nghĩa
bắt buộc phải thực
không bất buộc phải thực
có thể thỏa thuận
vụ thực hiện hợp
hiện hợp đồng
hiện hợp đồng, chỉ thanh
song phương để
đồng khi đến hạn
Nghĩa vụ
toán phần chênh lệch
hủy hợp đồng,
- Người mua
có
của ngƣời
hoặc
chuyển
quyền không thực
mua
nhượng cho bên
hiện hợp đồng khi
thứ ba
đến hạn
- Bắt buộc do hai bên
- Mức ký quỹ do thị trường
- Ký quỹ do hai
- Không áp dụng ký
mua bán thỏa thuận
quy định, thay đổi của hợp
bên mua bán thỏa
quỹ, người mua
đồng được cộng vào
tái
thuận
phải trả một khoản
Ký quỹ
khoản ký quỹ cuối ngày
tiền gọi
là phí
quyền chọn
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro tín dụng giảm do được
-
- Rủi ro biến động
Sở giao dịch đảm bảo
của giá hảng hóa cơ
Rủi ro
sở
1.5. Các điều kiện cơ sở để hình thành nên thị trƣờng quyền chọn cổ phiếu.
1.5.1. TTCK đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Điều kiện cơ bản nhất để áp dụng quyền chọn cổ phiếu vào TTCK của một
nước là TTCK của nước đó phải phát triển, giao dịch chứng khoán trở nên sôi động
và TTCK là một kênh đầu tư thu hút vốn quan trọng và không thể thiếu đối với mọi
tầng lớp dân cư.
Một TTCK phát triển là một thị trường không có những khống chế về biên
độ giá, các loại lệnh sử dụng trong giao dịch đa dạng, phương thức giao dịch phong
phú như giao dịch thông qua điện thoại, internet…, hàng hoá trên TTCK đa dạng,
hấp dẫn và đại diện cho mọi ngành nghề của nền kinh tế. Khi TTCK trở thành
14
“phong vũ biểu” của nền kinh tế phản ánh sức khoẻ của nền kinh tế, biến động trên
thị trường là do tác động của cung cầu, lúc đó xuất hiện nhu cầu bảo hiểm và kiếm
lời dựa trên biến động không thể dự đoán của thị trường, và đó chính là điều kiện cơ
bản và quan trọng cho sự ra đời của quyền chọn cổ phiếu.
1.5.2. Nhận thức của nhà đầu tƣ về quyền chọn.
Trước khi một sản phẩm bất kỳ được tung ra thị trường thì điều cần thiết là
nhận thức của người sử dụng về sản phẩm đó, cụ thể là người sử dụng phải nhận
biết được đặc điểm và công năng của sản phẩm đó, từ đó có hướng sử dụng phù hợp
với nhu cầu cá nhân của mình. Quyền chọn cổ phiếu cũng vậy, là một sản phẩm
giao dịch trên TTCK nên muốn đưa quyền chọn vào thị trường thì nhà đầu tư ít nhất
phải hiểu biết về sản phẩm đặc biệt này. Một khi họ đã nhận thức được đặc điểm,
công dụng và lợi ích của quyền chọn, cảm thấy sản phẩm này đáp ứng được nhu cầu
cá nhân thì sẽ kích thích họ sử dụng sản phẩm mới mẻ này.
Nhận thức của nhà đầu tư về quyền chọn là rất quan trọng, quyết định thành
công hay thất bại khi đưa quyền chọn vào thị trường giao dịch. Khi một nhà đầu tư
có kiến thức nhất định về đặc điểm và lợi ích của quyền chọn cổ phiếu, người đó có
thể sử dụng nó một cách linh hoạt nhằm khai thác tốt nhất những tiềm năng sẵn có
làm lợi cho mình, từ đó làm tăng giao dịch quyền chọn trên thị trường.
Mặt khác, quyền chọn là một sản phẩm đặc biệt, nên ngoài việc nhà đầu tư
nhận thức được nó thì cả người điều hành thị trường quyền chọn, những chuyên gia
và những nhân viên tham gia giao dịch thị trường phải là những người am tường về
quyền chọn. Người điều hành thị trường và nhân viên ngành chứng khoán càng hiểu
rõ về quyền chọn, khả năng tư vấn cho khách hàng và nhận định về thị trường càng
tốt thì việc điều hành thị trường sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn nhằm đáp ứng tốt nhất
nhu cầu cho nhà đầu tư.
15
1.5.3. Luật pháp trên thị trƣờng quyền chọn.
Có thể nói TTCK chỉ có thể tồn tại và phát triển bền vững khi nó tạo được
niền tin vững chắc cho nhà đầu tư. Thị trường quyền chọn cũng vậy, chỉ có thể tồn
tại và phát triển khi nhà đầu tư cảm thấy đây là một môi trường đầu tư công bằng và
quyền lợi chính đáng của mình được luật pháp bảo vệ. Kinh nghiệm cho thấy sự sụp
đổ của thị trường quyền chọn ở Hà Lan vào những năm cuối thập niên 30 thế kỷ 17
và những thăng trầm của thị trường quyền chọn Mỹ những năm 1920 bắt nguồn từ
thực tế là luật pháp để đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư – đặc biệt là quyền lợi của
người mua quyền chưa được hình thành đầy đủ, đã dẫn đến việc những yêu cầu thực
hiện hợp đồng của người mua quyền không được đáp ứng, làm mất lòng tin của
người mua quyền đối với quyền chọn, kéo theo những cuộc khủng hoảng của người
mua quyền trên thị trường lúc đó.
Pháp luật cho thị trường quyền chọn bao gồm những quy định về giao dịch,
cơ quan quản lý của thị trường, các giới hạn, quy định về xử lý vi phạm…luật điều
chỉnh càng đầy đủ, chặt chẽ thì nhà đầu tư càng cảm thấy an tâm về quyền lợi của
mình, lúc ấy sẽ tạo động lực cho nhà đầu tư tham gia giao dịch.
Luật chứng khoán Việt Nam đã ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007 là
cơ sở pháp luật và là tiền đề khách quan cho việc xây dựng và phát triển quyền
chọn cổ phiếu ở Việt Nam.
Ngày 29/06/2006, Luật chứng khoán đã được Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua. Đây là văn bản pháp
luật cao nhất về chứng khoán và TTCK có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007.
Luật bao gồm 11 chương 136 điều sẽ tạo cơ sở cho TTCK phát triển nhanh và ổn
định, tạo tâm lý an tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư
vào TTCK và bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; giúp cho công chúng hiểu
rõ hơn về chứng khoán, thị trường chứng khoán và có cơ sở pháp lý để công chúng
tham gia vào thị trường. Luật chứng khoán ra đời cũng sẽ giúp việc phân định rõ vai
trò của từng thị trường vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong cơ cấu thị trường
tài chính; đảm bảo và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp huy động vốn trên
16
TTCK, giảm gánh nặng trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống
ngân hàng hiện nay và góp phần tăng cường tính công khai minh bạch trong các
hoạt động kinh tế nói chung và trong cộng đồng các doanh nghiệp nói riêng.
1.5.4. Hàng hoá trên thị trƣờng quyền chọn.
Một thị trường muốn đi vào hoạt động thì điều quan trọng nhất phải có hàng
hoá phục vụ cho thị trường đó. Vì thế để thị trường quyền chọn có thể đi vào hoạt
động thì nhất thiết phải có hàng hoá cho thị trường quyền chọn.
Hàng hoá cho thị trường quyền chọn khác với hàng hoá trên thị trường thông
thường, đó là khi một quyền chọn được phát hành thì tổ chức có cổ phiếu được giao
dịch không thu được bất cứ phần tiền nào nhưng lại đòi hỏi một lượng cổ phiếu cơ
sở nhất định của chính công ty đó làm đảm bảo. Do đó việc xây dựng hàng hoá cho
thị trường quyền chọn đồng nghĩa với hai việc: đa dạng hoá và tiêu chuẩn hoá cổ
phiếu thông thường để làm cổ phiếu cơ sở cho hợp đồng quyền chọn, đồng thời phát
hành các hợp đồng quyền chọn theo những tiêu chuẩn nhất định.
Yếu tố chất lượng hàng hoá có ảnh hưởng khá lớn trong việc thu hút nhiều
người tham gia, đặc biệt trên thị trường tài chính - một thị trường chủ yếu dựa vào
lòng tin của nhà đầu tư thì yếu tố chất lượng càng phải được đảm bảo và chú trọng.
Chất lượng hàng hoá quyền chọn phụ thuộc vào chất lượng của cổ phiếu cơ sở và
uy tín của nhà phát hành quyền chọn. Số lượng cổ phiếu cơ sở phải đủ lớn để đảm
bảo thị trường phát triển ổn định và đáp ứng được những tiêu chuẩn chất lượng của
cơ quan quản lý thị trường, đồng thời phải có tính thanh khoản cao thì mới có khả
năng thu hút sự quan tâm của giới đầu tư trong hoạt động giao dịch.
Một khi hàng hoá trên TTCK và thị trường quyền chọn càng được đa dạng
về số lượng, đảm bảo về chất lượng thì tính hấp dẫn của thị trường càng cao đối với
nhà đầu tư.
17
1.5.5. Nguồn nhân lực phục vụ cho thị trƣờng quyền chọn.
Một yếu tố quan trọng cần phải có nếu muốn xây dựng và phát triển thị
trường quyền chọn là đội ngũ nhân viên hoạt động trên thị trường. Nhìn chung thị
trường quyền chọn là một thị trường phức tạp đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực với
trình độ chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm hoạt động trên TTCK thông
thường.
Đội ngũ nhân lực phục vụ tại các công ty chứng khoán sẽ là người cung cấp
kiến thức, quy trình giao dịch quyền chọn cho nhà đầu tư, tư vấn giao dịch và là
trung gian giữa nhà đầu tư và cơ quan quản lý thị trường. Vì thế năng lực chuyên
môn và kinh nghiệm của những người này là một yếu tố rất quan trọng để thu hút và
tạo lòng tin với nhà đầu tư.
Bên cạnh đó để thị trường hoạt động hiệu quả, thông suốt đòi hỏi đội ngũ
nhân viên vận hành có năng lực. Vai trò của những người này rất quan trọng vì vừa
điều hành hoạt động sao cho lợi ích của nhà đầu tư được đảm bảo ở mức tốt nhất
vừa thanh tra, giám sát các hoạt động của tất cả các thành viên tham gia giao dịch
nhằm tránh sự sụp đổ của thị trường do tác động của một yếu tố nào đó. Đội ngũ
điều hành ngày càng có kinh nghiệm, điều hành thị trường càng hiệu quả thì khả
năng phát triển của thị trường càng cao.
1.5.6. Cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ phục vụ thị trƣờng; Hệ thống thanh
tra giám sát và công bố thông tin.
Bên cạnh các yếu tố về pháp luật, hàng hoá, nguồn nhân lực, nhận thức của
nhà đầu tư thì một yếu tố nữa cần chuẩn bị chu đáo khi đưa quyền chọn vào giao
dịch, đó là điều kiện vật chất kỹ thuật - công nghệ, hệ thống thanh tra giám sát và
công bố thông tin. Điều kiện vật chất kỹ thuật càng tốt sẽ giúp cho thị trường vận
hành thuận lợi, nhà đầu tư có thể dễ dàng tham gia thị trường, đồng thời cơ quan
quản lý cũng có thể kiểm soát các giao dịch và việc tuân thủ các quy định của
những thành viên trên thị trường. Hệ thống thanh tra giám sát thị trường cũng là
một yếu tố cần thiết giúp cho việc tuân thủ những quy định trên thị trường được
thực hiện một cách nghiêm túc, hạn chế được những gian lận và vi phạm thị trường,
làm lành mạnh hoá TTCK nói chung cũng như thị trường quyền chọn nói riêng.
18
Trong khi hệ thống công bố thông tin càng hiện đại thì cơ hội nắm bắt thông tin của
thị trường càng cao, góp phần tăng tính minh bạch cho thị trường giao dịch.
Trên đây là những yếu tố cơ bản mà bất cứ một quốc gia nào muốn xây dựng
thị trường quyền chọn cũng cần phải có. Đó chính là những viên gạch tạo nền tảng
vững chắc để phát triển một thị trường quyền chọn bền vững.
1.6. Kỹ thuật phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn.
1.6.1. Giao dịch quyền chọn mua.
* Mua quyền chọn mua.
Lợi nhuận từ việc mua quyền chọn mua là :
π = Nc[Max(0, St – X) – C] với Nc>0
Xét trường hợp mà số quyền chọn mua được mua chỉ là 1 (Nc = 1). Giả định
rằng giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện vì vậy tại thời điểm
đáo hạn ta có quyền chọn kiệt giá OTM (out of the money) hoặc ngang giá ATM (at
the money). Vì quyền chọn mua đáo hạn mà không được thực hiện, lợi nhuận chính
là –C. Người mua quyền chọn gánh chịu một khoản lỗ bằng với phí quyền chọn.
Giả định rằng tại thời điểm đáo hạn quyền chọn rơi vào trạng thái cao giá
ITM (In the money). Khi đó, người mua quyền chọn sẽ thực hiện quyền chọn mua,
Mua quyền chọn mua là một chiến lược tăng giá có mức lỗ có giới hạn và có
mua cổ phiếu với giá X và bán nó với giá St, sẽ có lợi nhuận ròng là St – X – C.
mức lợi nhuận tiềm năng không giới hạn. Do đó mua quyền chọn mua là một chiến
lược đặc biệt hấp dẫn đối với những người có nguồn vốn hạn chế muốn cùng thử
thách với thị trường mà vẫn giới hạn mức lỗ của họ ở mức có thể chấp nhận được.
*Bán quyền chọn mua.
Một nhà kinh doanh quyền chọn bán một quyền chọn mua mà không đồng
thời sở hữu cổ phiếu được gọi là bán một quyền chọn mua không được phòng ngừa.
Đây là một lĩnh vực ưu tiên chỉ được thực hiện bởi một số ít là nhà kinh doanh có
đủ vốn tương ứng với rủi ro. Tuy nhiên, bán một quyền chọn mua không được
phòng ngừa có thể kết hợp được với các chiến lược khác để tạo thành một chiến
19
lược với rủi ro rất thấp. Vì vậy, cần thiết phải thiết lập các kết quả đối với việc bán
Vì Lợi nhuận của người mua và người bán trái chiều nhau nên phương trình
quyền chọn mua trước khi kết hợp nó với các chiến lược khác.
lợi nhuận của chiến lược này cũng khá quen thuộc. Lợi nhuận của người bán sẽ là :
π = Nc[Max(0, St – X) – C] với Nc<0
Giả định với một quyền chọn mua, Nc = -1. Khi đó lợi nhuận sẽ là :
π = C Nếu St≤X
π = - St + X + C Nếu St>X
Bán quyền chọn mua là một chiến lược kinh doanh giá xuống và mang lại lợi
nhuận có giới hạn chính là phí quyền chọn, nhưng mức lỗ thì vô hạn.
1.6.2. Giao dịch quyền chọn bán.
* Mua quyền chọn bán.
Mua quyền chọn bán là một chiến lược dành cho thị trường giá xuống. Mức
lỗ tiềm năng được giới hạn trong phí quyền chọn được chi trả. Lợi nhuận cũng bị
Lợi nhuận từ việc mua một quyền chọn bán được thể hiện qua phương trình
giới hạn nhưng vẫn có thể rất lớn.
π = Np[Max(0, X – St) – P] với Np>0
Xét việc mua một quyền chọn bán duy nhất, Np = 1. Nếu giá cổ phiếu khi
đáo hạn thấp hơn giá thực hiện, quyền chọn bán là cao giá ITM và sẽ được thực
hiện. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn hoặc bằng giá thực hiện, quyền chọn
bán kiệt giá OTM hoặc ngang giá ATM. Lợi nhuận là :
π = X – St – P Nếu St < X
π = - P Nếu St ≥X
Mua quyền chọn bán là một chiếc lược giảm giá có mức lỗ có giới hạn (phí
quyền chọn bán) và một mức lợi nhuận tiềm năng lớn, nhưng có giới hạn.
20
* Bán quyền chọn bán.
Phương trình lợi nhuận của người bán quyền chọn bán:
π =Np[Max(0, X – St) – P] với Np<0
Xét trường hợp đơn giản của một quyền chọn bán duy nhất, Np = -1. Lợi
nhuận của người bán là hình ảnh tương phản của lợi nhuận của người mua:
π = -X + St + P Nếu St π = P Nếu St ≥X Bán quyền chọn bán là một chiến lược kinh doanh giá lên với mức lợi nhuận có giới hạn là phí quyền chọn và một mức lỗ tiềm năng lớn nhưng cũng có giới hạn. 1.6.3. Quyền chọn mua và cổ phiếu. Một chiến lược đơn giản nhưng có rủi ro thấp là bán một quyền chọn mua tương ứng với mỗi cổ phiếu đang sở hữu. Mặc dù chiến lược này không phải là phi rủi ro, nhưng nó cũng làm giảm rủi ro của việc chỉ sở hữu cổ phiếu. Nó cũng là một trong số các chiến lược phổ biến nhất của các nhà kinh doanh quyền chọn chuyên nghiệp. Một nhà đầu tư thực chiến lược này được gọi là bán một quyền chọn mua được phòng ngừa. Với hợp đồng bán quyền chọn mua cổ phiếu, người bán phải chịu rủi ro không giới hạn, nếu kết hợp với việc sở hữu cổ phiếu, sẽ không còn rủi ro phải mua nó trên thị trường với mức giá cao. Khi quyền chọn mua được thực hiện, nhà đầu tư chỉ phải chuyển giao cổ phiếu. Đứng trên một quan điểm khác, người sở hữu cổ phiếu mà không bán quyền chọn gặp phải rủi ro đáng kể của việc giá cổ phiếu giảm xuống. Bằng cách bán một quyền chọn mua với cổ phiếu đó, nhà đầu tư đã làm giảm rủi ro giảm giá. Nếu giá cổ phiếu giảm đáng kể, khoản lỗ sẽ được bù đắp một phần bởi phí quyền chọn từ việc bán quyền chọn mua. Ta có phương trình lợi nhuận của việc mua cổ phiếu là (1.1) : π = Ns(St – So) Nếu Ns>0 Mặc khác, phương trình của động tác bán quyền chọn mua cũng được biểu diễn như
sau (1.2): π = Nc[Max(0, St – X) – C] Nếu Nc<0 Với chiến lược mua cổ phiếu và bán quyền chọn mua tương ứng, đây là
chiến lược thực hiện hai vị thế song song nên phương trình lợi nhuận của nhà đầu tư lúc này sẽ bằng tổng của hai phương trình lợi nhuận (1.1) và (1.2), ta được: π = Ns(St – So) + Nc[Max(0, St – X) – C] Với Ns>0 (mua cổ phiếu), Nc<0 (bán quyền) và Ns = -Nc. Phương trình lợi nhuận lúc này là : π = St – So- Max(0, St – X) +C Nếu quyền chọn kết thúc ở trạng thái kiệt giá OTM, khoản lỗ của cổ phiếu sẽ được giảm đi nhờ phí quyền chọn. Nếu quyền chọn kết thúc ở trạng thái cao giá ITM, nó sẽ được thực hiện và chi phí sẽ được thực hiện và cổ phiếu sẽ được chuyển giao. Điều này sẽ làm giảm lợi nhuận của cổ phiếu. 1.6.4. Quyền chọn bán và cổ phiếu. Chiến lược để nhận được sự bảo vệ trước thị trường giá xuống vẫn có thể chia lợi nhuận trong một thị trường giá lên là mua một quyền chọn bán bảo vệ nghĩa là chỉ đơn giản mua cổ phiếu và mua một quyền chọn bán. Quyền chọn bán cung cấp một mức giá tối thiểu dành cho cổ phiếu. Phương trình lợi nhuận của quyền chọn bán bảo vệ được thiết lập bằng cách cộng hai phương trình lợi nhuận của chiến lược mua cổ phiếu và chiến lược mua quyền chọn bán. Từ đó ta được: π = Ns(St – So) + Np[Max(0,X – St) – P] với Ns>0, Np>0 và Ns = Np Giả định rằng có một cổ phiếu và một quyền chọn bán, Ns = Np = 1. Nếu giá cổ phiếu cuối cùng cao hơn giá thực hiện quyền, quyền chọn bán sẽ đáo hạn ở trạng thái kiệt giá OTM. Nếu giá cổ phiếu cuối cùng vẫn thấp hơn giá thực hiện, quyền chọn bán sẽ được thực hiện. Kết quả như sau : π = St – So – P Nếu St ≥X π = St – So +X – St – P = X – So – P Nếu St Ta thấy, quyền chọn bán bảo vệ hoạt động như một hợp đồng bảo hiểm. Khi chúng ta mua bảo hiểm cho một tài sản ví dụ như nhà, chúng ta sẽ trả phí và chắc chắn rằng trong trường hợp có tổn thất, hợp đồng bảo hiểm sẽ đền bù ít nhất một phần tổn thất. Nếu như tổn thất không diễn ra trong suốt thời hạn cũa hợp đồng bảo hiểm, chúng ta đơn giản chỉ mất phí bảo hiểm. Tương tự, quyền chọn bán bảo vệ là bảo hiểm đối với cổ phiếu. Trong thị trường giá xuống, tổn thất của cổ phiếu sẽ phần nào được bù đắp bởi việc thực hiện quyền chọn. Điều này giống như nộp hồ sơ thông báo tổn thất cần đền bù trong hợp đồng bảo hiểm. Trong thị trường giá lên, bảo hiểm là không cần thiết và mức lợi nhuận do tăng giá bị giảm đi do phí quyền chọn trả trước. 1.6.5. Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp. Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp có thể được xây dựng từ các quyền chọn và cổ phiếu. Xét một quyền chọn bán lai tạp, bao gồm một vị thế dài hạn đối với các Phƣơng trình lợi nhuận: quyền chọn mua và vị thế bán khống đối với một số tương đương các cổ phiếu. π = Nc[Max(0,St-X) – C] + Ns(St – S0) với Nc>0, Nc<0 và Nc = - Ns Cho số cổ phiếu và số quyền chọn mua đều bằng 1, lợi nhuận ứng với hai phạm vi giá cổ phiếu khi đáo hạn là : π = - C – St + S0 Nếu St≤X π = St – X – C – St + S0 = S0 – X – C Nếu St>X Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện, lợi nhuận sẽ biến động ngược chiều với giá cổ phiếu khi đáo hạn. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn cao hơn giá thực hiện, lợi nhuận không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn. Đây là một kết quả lợi nhuận giống như kết quả của một quyền chọn bán, vì vậy tên Xét một quyền chọn bán lai tạp, bao gồm một vị thế dài hạn đối với các của chiến lược này là quyền chọn bán lai tạp. quyền chọn bán và vị thế mua một số tương đương các cổ phiếu. Phƣơng trình lợi nhuận: π = Nc[Max(0,St – X) – C] + Ns(St – S0) Với Nc<0, Ns>0 và Nc = - Ns Cho số cổ phiếu và số quyền chọn bán đều bằng 1, lợi nhuận ứng với hai phạm vi giá cổ phiếu khi đáo hạn là : π = C + St – S0 Nếu St≤X π = -St + X + C + St – S0 = X + C – S0 Nếu St>X Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện, lợi nhuận sẽ biến động cùng chiều với giá cổ phiếu khi đáo hạn. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn giá thực hiện, lợi nhuận sẽ không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn. Đây cũng là kết quả lợi nhuận giống như kết quả của một quyền chọn mua, do đó tên của chiến lược này là “quyền chọn mua lai tạp”. 1.7. Kinh nghiệm phát triển một số thị trƣờng giao dịch quyền chọn chứng khoán trên thế giới. Những giao dịch đầu tiên của thị trường quyền chọn trên thế giới được cho rằng đã xuất hiên từ đầu thế kỷ 18 ở Châu Âu (Giao dịch Quyền chọn hoa Tuylip ở Hà Lan). Tuy nhiên, đến đầu những năm 1900 thị trường OTC về quyền chọn mới chính thức đi vào hoạt động khi Hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn được thành lập. Tuy nhiên, mô hình ban đầu này có hai điểm yếu: Một là, không có thị trường thứ cấp, người mua quyền chọn không có quyền bán cho bên khác trước ngày đáo hạn. Hai là, không có kỹ thuật nào bảo đảm rằng người bán quyền chọn sẽ thực hiện hợp đồng ngoại trừ việc người mua phải tốn chi phí kiện tụng. 1.7.1. Thị trƣờng giao dịch quyền chọn cổ phiếu tại Úc. Úc cũng là nơi quyền chọn rất phát triển với sàn giao dịch lớn nhất là Australian stock exchange. Cách thức giao dịch: Để giao dịch nhà đầu tư phải có tài khoản giao dịch chứng khoán. Khi nhà đầu tư đến công ty chứng khoán yêu cầu mở tài khoản, giao dịch quyền chọn sẽ được cung cấp: + Phiếu đăng ký giao dịch quyền chọn (Exchange Trade Options Applications). Trên phiếu này nhà đầu tư phải điền những thông tin về cá nhân và những thông tin cần thiết khác. + Đăng ký uỷ quyền giữ thế chấp cho công ty chứng khoán nơi mở tài khoản. + Phiếu đồng ý chấp nhận quyền chọn (Options Agreement and Approval form) đảm bảo nhà đầu tư tuân thủ những quy định trong giao dịch. Người Mua Quyền
chọn Người Bán Quyền
chọn Quy trình giao dịch: Khi nhà đầu tư muốn giao dịch quyền chọn, người đó sẽ gửi phiếu lệnh quyền chọn (Options Order Form) đến nhà môi giới, sau đó lệnh này sẽ được gửi đến công ty thanh toán bù trừ hợp đồng quyền chọn (OCC) thông qua thành viên của OCC. Trên phiếu lệnh bao gồm các yếu tố như: số tài khoản khách hàng, số đăng ký của người đại diện, loại lệnh, hành động mua bán, cổ phiếu cơ sở … Căn cứ vào lệnh, OCC sẽ chọn ngẫu nhiên thành viên giao dịch có vị thế thích hợp để thực hiện lệnh cho khách hàng. Trong vòng 24 giờ kể từ khi giao dịch được thực hiện, người mua quyền chọn sẽ phải thanh toán tiền phí hợp đồng cho người bán cũng thông qua OCC. Vào ngày đáo hạn, các hợp đồng có giá trị thực từ 0,01 AUD trở lên sẽ được thực hiện nếu không có yêu cầu nào khác từ nhà đầu tư. Ngày thanh toán hợp đồng là T+3. Định kỳ nhà đầu tư cũng nhận được những tài liệu cung cấp thông tin về tài khoản bao gồm: - Bảng xác nhận hợp đồng (Confirmation Contract Note). - Bảng kê vị thế mở (Open Position Statement). - Bảng kê giao dịch hàng tháng (Monthly Transaction Stat ement). Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (KRX) là SGDCK lớn hàng thứ tư Châu Á có mức vốn hoá khoảng 950 tỉ USD với 1896 cổ phiếu được niêm yết, bao gồm 4 thị trường tương đương 4 sàn giao dịch là: Sàn giao dịch chứng khoán chính (Stock Market Division), sàn giao dịch chứng khoán KOSDAQ (KOSDAQ Market Division), sàn giao dịch trái phiếu (Bond Market) và sàn giao dịch tương lai (Futures Market Division). KRX thiết lập sàn giao dịch tương lai song song với các sàn giao dịch khác và trực tiếp có Ban chuyên vụ quản lý giao dịch các sản phẩm phái sinh. Sàn giao dịch này có nguồn gốc từ Sở giao dịch hợp đồng tương lai Hàn Quốc (KOFEX) thành lập năm 1999 trên cơ sở hợp nhất 2 bộ phận là sàn hợp đồng tương lai (thành lập năm 1996) và sàn giao dịch quyền chọn (thành lập năm 1997). Sản phẩm Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu được niêm yết đầu tiên vào ngày 28/01/2002 với tài sản cơ sở là 7 cổ phiếu và cho đến 26/09/2005 đã tăng lên 30 cổ phiếu. Tất cả những cổ phiếu này đều được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán chính. Mô hình thanh toán bù trừ: KRX thành lập một công ty con làm Trung tâm thanh toán bù trừ (KSD). KRX có một hệ thống các công ty thành viên thanh toán cung cấp dịch vụ thanh toán bù trừ cho khách hàng. Muốn trở thành thành viên thanh toán phải được sự chấp thuận của KRX và được KRX cấp giấy phép hoạt động thanh toán bù trừ. Một công ty có thể vừa là thành viên giao dịch vừa là thành viên thanh toán của KRX. Thành viên giao dịch nếu không đồng thời là thành viên thanh toán thì phải ký hợp đồng thanh toán với ít nhất một thành viên thanh toán để sử dụng dịch vụ thanh toán. Quy trình giao dịch: + Mở tài khoản: Nhà đầu tư đến các thành viên của KRX để mở tài khoản giao dịch. + Đặt lệnh: Khi đặt lệnh mua bán, nhà đầu tư phải ký quỹ theo quy định. Các thành viên thực hiện kiểm tra ký quỹ và thực hiện phong toả khoản ký quỹ trước khi thực hiện lệnh cho nhà đầu tư, sau đó chuyển lệnh mua / bán vào hệ thống giao dịch tại sàn giao dịch tương lai KRX. + Thông báo kết quả giao dịch: Theo phương thức và thời gian giao dịch đã quy định sẵn, KRX sẽ thông báo kết quả giao dịch về từng thành viên để thông báo cho nhà đầu tư. Bên cạnh hệ thống giao dịch, có nhiều hệ thống khác hỗ trợ và mỗi hệ thống đều có chức năng riêng đảm bảo cho quá trình giao dịch được an toàn và thông suốt. Cụ thể như: (1) Hệ thống giám sát: giám sát giao dịch công bằng, minh bạch; (2) Hệ thống lưu ký: đảm bảo quá trình đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ diễn ra an toàn, không gián đoạn; tính toán tỷ lệ ký quỹ và thông báo sau mỗi ngày giao dịch, đảm bảo đủ số dư tài khoản cho ngày giao dịch kế tiếp; ký quỹ và giải toả tài sản (chứng khoán) của nhà đầu tư; (3) Ngân hàng thanh toán: ký quỹ và giải toả thanh toán và dự trữ tiền; (4) Hệ thống công bố thông tin ra thị trường (5) Hệ thống thông tin chứng khoán; (6) Hệ thống an toàn: kiểm soát các vấn đề trong quá trình giao dịch, đảm bảo các hoạt động diễn ra an toàn và (7) Hệ thống sự cố: luôn luôn sẵn sàng giải quyết bất cứ sự cố nào phát sinh ra. Quy trình thanh toán bù trừ đối với việc thực hiện quyền chọn : Vào ngày đáo hạn hợp đồng quyền chọn, các hợp đồng không thực hiện sẽ bị huỷ bỏ còn các hợp đồng có giá trị thực được nhà đầu tư thực hiện quyền: + Nhà đầu tư thông báo cho công ty nơi mình mở tài khoản về việc thực hiện + Công ty này có trách nhiệm tổng hợp và gửi thông báo cho KSD. KSD quyền chọn của mình. chọn ngẫu nhiên thành viên có nhà đầu tư phát hành quyền chọn này để thực hiện thanh toán bù trừ theo nguyên tắc đã được quy định trước. Nếu thành viên có nhiều hơn một nhà đầu tư đủ tư cách thực hiện nghĩa vụ, người phát + Người phát hành quyền chọn được chỉ định phải giao hoặc nhận cổ phiếu hành được chọn theo quy định first in – first out. cơ sở hoặc tiền tuỳ vào loại hợp đồng quyền chọn được thực hiện. Trên cơ sở này, KSD và ngân hàng thanh toán sẽ chuyển giao tiền và cổ phiếu từ tài khoản thanh toán giữa các thành viên. Sau đó, thành viên có trách nhiệm chuyển giao tiền và cổ phiếu về tài khoản của nhà đầu tư. Phƣơng thức giao dịch: KRX tổ chức giao dịch chứng khoán phái sinh theo phương thức giao dịch khớp lệnh, bao gồm: khớp lệnh định kỳ xác định giá mở cửa, khớp lệnh liên tục và khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa. Phương thức này giống như phương thức giao dịch hiện đang áp dụng tại TTCK Việt Nam. Ký quỹ giao dịch: Mức ký quỹ bắt buộc đối với quyền chọn chỉ số và cổ phiếu là 15% và nhà đầu tư phải ký quỹ trước khi thực hiện giao dịch (có thể ký quỹ bằng ngoại tệ ). Quy mô hợp đồng: Đối với quyền chọn cổ phiếu thì một hợp đồng tương đương 10 cổ phiếu. Thời hạn hợp đồng: KRX chỉ áp dụng tháng đáo hạn theo vòng quay 1 chu kỳ l tháng đáo hạn vào tháng 3, tháng 6, tháng 9 và tháng 12. Kiểu thực hiện quyền: theo kiểu Châu Âu nghĩa là quyền chọn chỉ được phép thực hiện vào ngày đáo hạn hợp đồng. Ngày giao dịch cuối cùng: Cả quyền chọn cổ phiếu và chỉ số chứng khoán được quy định là vào ngày thứ năm thứ hai của tháng đáo hạn. Ngày thanh toán: T+2 kể từ ngày hợp đồng đáo hạn. Giới hạn vị thế: Đối với quyền chọn cổ phiếu phụ thuộc vào khối lượng cổ phiếu cơ sở đang lưu hành KRX đưa ra các mức mở khác nhau. Mỗi loại quyền chọn chỉ số cổ phiếu có mức mở khác nhau ví dụ như KOSPI 200 có mức mở vị thế là 7.500 hợp đồng. Thay đổi giá thực hiện và khối lƣợng quyền chọn: KRX điều chỉnh giá thực hiện khối lượng hợp đồng khi công ty niêm yết có cổ phiếu là tài sản cơ sở của hợp đồng quyền chọn thực hiện trả cổ tức bằng cổ phiếu, chia tách cổ phiếu, gộp cổ phiếu…nhưng không điều chỉnh khi công ty niêm yết trả cổ tức bằng tiền mặt. Thông tin cơ bản về một hợp đồng quyền chọn: Bao gồm Tên tài sản cơ sở Ví dụ Samsung Electronics Loại quyền chọn Mua / bán Mã quyền chọn Quy mô hợp đồng 10 cổ phiếu Thời gian giao dịch Đơn vị yết giá Biên độ dao động giá Ngày giao dịch cuối cùng Ngày thanh toán cuối cùng Phương thức thanh toán Cổ phiếu Kiểu thực hiện quyền Châu Âu 1.7.3. Thị trƣờng giao dịch quyền chọn cổ phiếu tại Indonesia. Tiêu chí lựa chọn hàng hóa cơ sở cho thị trƣờng quyền chọn: - Các cổ phiếu đã được niêm yết tại Sở Giao dịch ít nhất là 12 tháng. - Trong 12 tháng qua, các cổ phiếu phải có: + 2.000 giao dịch / tháng + Biến động trong ngày: 0,5% + Vốn hóa thị trường: Rp 500.000.000.000 + Giá cổ phiếu tối thiểu: 500 Rp Thời gian giao dịch: - Từ thứ 2 đến thứ 5 + Phiên 1: bắt đầu 10:00 – 12:00 + Phiên 2: bắt đầu 13:45 – 16:00 - Thứ 6 + Phiên 1: bắt đầu 10:00 – 11:30 + Phiên 2: bắt đầu 14:15 – 16:00 Phí giao dịch: - Thành viên giao dịch, người thực hiện một giao dịch, có nghĩa vụ phải trả tiền phí giao dịch, thanh toán bù trừ và lệ phí quyết toán lên tới 2.000 Rp mỗi quyền chọn. - Phí giao dịch tự động lên tới 2.000 Rp mỗi quyền chọn. - Phí giao dịch của một quyền chọn ít nhất là Rp 2.000.000 / tháng. - Các thành viên giao dịch phải nộp tiền ký quỹ, lên tới 0,01% tổng giá trị giao dịch. 1.7.4. Bài học rút ra khi xây dựng thị trƣờng giao dịch quyền chọn ở VN. - Xây dựng một số quy định đối với thị trường quyền chọn cổ phiếu: quy định về ký quỹ giao dịch, quy mô hợp đồng, thời hạn hợp đồng, kiểu thực hiện quyền, ngày giao dịch cuối cùng, ngày thanh toán, giới hạn vị thế, giá thực hiện để phòng ngừa các trường hợp nhà đầu cơ làm giá và lũng đoạn thị trường. - Xây dựng danh mục các hàng hóa có chất lượng và được tiêu chuẩn hóa để được niêm yết và hủy niêm yết. - Xây dựng cách thức phát hành và giao dịch quyền chọn cổ phiếu. - Xây dựng mô hình thanh toán bù trừ quyền chọn. - Xây dựng quy trình giao dịch quyền chọn: Mở tài khoản, Đặt lệnh, Thông báo kết quả giao dịch. - Xây dựng hệ thống giám sát, hệ thống lưu ký, ngân hàng thanh toán, hệ thống công bố thông tin, hệ thống thông tin chứng khoán, hệ thống an toàn để khắc phục các sự cố diến ra trong quá trình vận hành thị trường quyền chọn. Chương 1 trình bày một công cụ tài chính rất phổ biến trên thế giới ngày nay là quyền chọn cổ phiếu. Chương này trình bày phần giới thiệu về sự phát triển của thị trường quyền chọn, các khái niệm về quyền chọn và các yếu tố liên quan đến quyền chọn mà nhà đầu tư cần nắm bắt, sự cần thiết phải ứng dụng công cụ quyền chọn trong giao dịch chứng khoán, lợi ích của công cụ quyền chọn so với các công cụ tài chính phái sinh khác, kinh nghiệm phát triển một số thị trường giao dịch quyền chọn trên thế giới, quy trình vận hành và thực hiện một quyền chọn cũng như tham khảo các các chiến lược cơ bản để sử dụng quyền chọn trong việc hạn chế rủi ro của các nhà đầu tư. Đồng thời, thông qua tìm hiểu thị trường giao dịch quyền chọn, các chiến lược đầu tư cơ bản quyền chọn hiện nay, có một vấn đề cần lưu tâm là sự lưu thông của thị trường giao dịch quyền chọn và vai trò quan trọng của nhà tạo lập thị trường trong việc điều chỉnh sự cân bằng cung cầu trên thị trường quyền chọn, đây cũng là vấn đề mấu chốt để chuẩn bị và xây dựng các cơ sở tiền đề nhằm đem đến hiệu quả cao trong việc áp dụng quyền chọn vào TTCK Việt Nam. Mục tiêu của Chương 1 là cung cấp phần lý luận cơ bản để làm nền tảng cho việc nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm tổ chức sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán tại một số nước trên thế giới cũng như các tiền đề cần nghiên cứu, chuẩn bị cho áp dụng các giao dịch quyền chọn cổ phiếu vào TTCK Việt Nam trong các Chương 2 và Chương 3 tiếp theo. 2.1. Tổng quan về TTCK Việt Nam. 2.1.1. Biến động trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua. 2.1.1.1. Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn khởi đầu của TTCK. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Lần đầu tiên kể từ khi giao dịch TTCK Việt Nam đã có đợt tăng điểm ngoạn mục và đạt mức 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 chỉ sau hơn 6 tháng giao dịch, sau giai đoạn tăng nóng, TTCK Việt Nam đi vào tình trạng giảm dần và đi ngang, chỉ số VNIndex lúc thấp nhất chỉ còn 136 điểm (tháng 08/2003). Lý do chính là ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết có quy mô nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn TTCK Việt Nam bừng tỉnh xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng). Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Công ty NY 5 5 20 22 26 32 Vốn Hóa 0,28 0,34 0,48 0,39 0,64 1,21 (%GDP) Số lượng CTCK 3 8 9 11 13 14 Số Tài khoản 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316 (nguồn: tổng hợp ssc.gov.vn) Từ năm 2000 đến 2005, TTCK Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, số
lượng công ty niêm yết tăn gấp 6 lần, mức vốn hóa thị trường đạt 1,21% GDP của năm 2005, số lượng tài khoản tăng hơn 10 lần và đạt 31.316 tài khoản. 2.1.1.2. Giai đoạn 2006: Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam. Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho TTCK Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 TTCK Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Zimbabue. Năm 2006, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số VNIndex tại sàn giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (Hose) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) tăng 152,4%. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường. Các nhà đầu tư chứng khoán tham gia thị trường cũng tăng theo cấp số nhân. Ðến hết năm 2006, số tài khoản giao dịch đã đạt hơn 100.000 tài khoản, gấp 3 lần so với cuối năm 2005 và gấp 30 lần so với 6 năm trước, khi thị trường khai mở. Ðặc biệt, trong số này đã có 1.700 tài khoản của các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2006, kỷ lục mới của VNIndex được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với HNX-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số VNIndex đã có mức tăng trưởng tới 146% và HNX-Index tăng tới 170%. Đây là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng.
Tính đến phiên 29/12/2006, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã có sự
góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm
yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Còn tại Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng. Xét riêng về mức vốn hoá cổ phiếu, toàn bộ TTCK chính thức Việt Nam với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, tương đương với 13,8 tỷ
USD. (Nguồn: TTGDCK Tp. HCM và TTGDCK Hà Nội) Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường, VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm (ngày 12/03/2007), HNX-Index chạm mốc 459,36 điểm (ngày 19/03/2007). Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm, HNX- Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được mức tăng trưởng là 23,3%; HNX-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào cuối năm 2006. Năm 2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán, tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng. TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán, tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên. 2.1.1.4. Giai đoạn năm 2008. Giai đoạn này TTCK lại bắt đầu quá trình sụt giảm nghiêm trọng. Các nhà đầu tư đã không còn duy trì được sự bình tĩnh của mình và bắt đầu bán cổ phiếu ra dẫn đến VNIndex sụt giảm 37% so với mức tăng trước đây kể từ ngày 25/04/2006. Nguyên nhân chính là : - Tác động của yếu tố báo chí: tháng 4, 5/2006, có rất nhiều luồng thông tin phản ánh là giá cổ phiếu tăng nóng vượt giá trị thực của doanh nghiệp, điều này tác động đến tâm lý nhà đầu tư. - Thông tin về một số ngành nghề trước thềm WTO đã tác động đến tâm lý nhà đầu tư: tăng cường nắm cổ phiếu của một số cổ phiếu của ngành nghề có lợi thế cạnh tranh, loại bỏ một số ngành nghề gặp khó khăn, kém hấp dẫn khi Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc gia nhập WTO. Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phần Nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng TTCK có nguy cơ thừa "hàng". Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK. Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ: (1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch; (2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu; (3) NHTM được vận động ngừng giải chấp; (4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ. Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động tới tâm lý các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71 phiên VNIndex giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VNIndex giảm điểm liên tiếp từ giữa tháng 04 đến đầu tháng 06/2008. Sau 103 phiên giao dịch, VNIndex giảm mất 550,52 điểm - tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được chuyển nhượng, tương đương khoảng 482 tỷ đồng. Năm 2009 đã để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển của TTCK. Những kỷ lục mới, cột mốc quan trọng đã lần lượt được thiết lập: VNIndex đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm (ngày 24/02/2009), HNX-Index lùi về dưới mốc 100 điểm khi xuống mức thấp nhất trong lịch sử là 78,06 điểm. Tuy nhiên, bước sang tháng 3-2009, các nhà đầu tư đã lấy lại được niềm tin khi TTCK có một tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11-2008: VNIndex không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày 30-6, VNIndex đã tăng 132,67 điểm (42,03%), HNX-Index tăng 44,57 điểm Đây là một bước tiến dài của TTCK trong nước khi VNIndex đã đạt tốc độ (42,66%) so với thời điểm kết thúc năm 2008. tăng lớn thứ 8 trong tổng số 89 chỉ số chứng khoán quan trọng trên thế giới khi tăng được 46% so với thời điểm đầu năm 2009. Kỷ lục về khối lượng giao dịch tại sàn HOSE được thiết lập vào ngày 10 - 6 - 2009 với 101.774.520 cổ phiếu và chứng chỉ Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK lại tiếp tục đợt tăng giá thứ hai đầy mạnh quỹ được chuyển nhượng, con số tương tự tại HNX là 56.522.170 cổ phiếu. mẽ với nhiều kỷ lục về giá trị và khối lượng giao dịch kỷ lục được xác lập. Ngày 22-10, TTCK vươn tới đỉnh điểm là mức 624,10 điểm, ngày 23-10 được coi là "siêu thanh khoản" khi lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay cả về khối lượng và giá trị giao dịch với hơn 136 triệu đơn vị được chuyển nhượng, tương ứng giá trị giao dịch lên đến 6.414 tỷ đồng; sàn HNX đạt kỷ lục với hơn 67,23 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng cùng 3.040 tỷ đồng được giải ngân. Tính đến tháng hết tháng 11-2009, đã có 430 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được niêm yết. Tổng giá trị vốn hóa thị trường lên tới hơn 669 nghìn tỷ đồng (39 tỷ USD), tương đương 55% GDP của năm 2008. Mức vốn hóa này tăng gần gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2008. Năm 2009 cũng đánh dấu sự lên sàn của hàng loạt doanh nghiệp (DN) lớn như Eximbank, Bảo Việt, Vietcombank và Vietinbank... Sự góp mặt của các “đại gia” này đồng nghĩa với việc nguồn cung trên thị trường ngày càng đa dạng hơn. Trong đó, Vietcombank giao dịch 112,3 triệu cổ phiếu, là DN có vốn hóa lớn nhất thị trường, với trên 56.000 tỷ đồng. Giá trị vốn hoá (Tỷ đồng) Năm Tăng (%) 2000 1.046 136 (%) 2001 1.605 53 (%) 2002 2.537 58 (%) 2003 2.408 -5 (%) 2004 3.913 63 (%) 2005 7.765 98 (%) 2006 145.986 1.779 (%) 2007 364.425 150 (%) 2008 206.000 -43 (%) 2009 620.000 300 (%) Tháng 7/2010 700.000 (Nguồn: tổng hợp từ trang www.hsx.vn) TTCK Việt Nam những tháng đầu năm 2010 bước sang giai đoạn lình xình và dần đi xuống, đến tháng 07/2010 VNIndex xoay quanh ngưỡng 500 điểm và tiếp tục đi xuống vào đầu tháng 8/2010, giá trị giao dịch trung bình phiên chỉ đạt trên dưới 1000 tỷ đồng, chỉ số HNX-Index xoay quanh ngưỡng 150 điểm và vẫn trên xu thế đi xuống trong tháng 08, giá trị giao dịch sàn Hà Nội cũng chỉ đạt từ 800 đến 1.100 tỷ đồng. Tăng trưởng tín dụng thấp ở các tháng đầu năm 2010 có thể là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm mạnh trong giá trị giao dịch này. Ngoài ra, thị trường bất động sản ở khu vực phía Bắc nóng lên từ cuối quý I và đầu quý II năm nay đã tạo ra sức hút hấp dẫn đối với đồng vốn đầu tư. Ngoài ra, những lo lắng về cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu, mà khởi đầu từ Hy Lạp; những quan ngại về bong bóng bất động sản Trung Quốc; sự căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên; dấu hiệu chưa rõ ràng về sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ… Hàng loạt yếu tố trên đã tác động mạnh đến tâm lý của NĐT, khiến họ trở nên thận trọng, không dám mạnh tay tham gia thị trường, chính những điều này khiến dòng vốn đầu tư vào thị trường yếu đi làm cho thị trường chưa có sự đột biến và vẫn trong tình trạng xấu trong tháng 8/2010. Cho tới thời điểm hiện tại sàn HNX có 326 cổ phiếu được niêm yết với tổng giá trị niêm yết đạt 49.430 tỷ đồng, và sàn Hose có 258 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được niêm yết với tổng giá trị niêm yết đạt 115.112 tỷ đồng. Số lượng các tổ chức trung gian trên TTCK đã tăng từ 7 công ty chứng khoán và 1 công ty quản lý quỹ trong thời gian đầu lên 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ tính đến hôm nay (tháng 8 năm 2010). Số lượng tài khoản nhà đầu tư cũng tăng mạnh, từ 3.000 tài khoản năm 2000 lên gần 100.000 tài khoản. Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK cũng được mở rộng với danh mục đầu tư đạt gần 7 tỉ đô la Mỹ và trên 12.000 tài khoản, trong đó có trên 1.300 tài khoản là của các tổ chức nước ngoài. (nguồn bsc.com.vn) 2.1.2. Những rủi ro tiềm ẩn trên TTCK Việt Nam. 2.1.2.1. Rủi ro thông tin bất cân xứng. * Tình hình công bố thông tin của các DN niêm yết trong thời gian qua. Ngày 15/01/2010 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 09/2010/TT- hướng dẫn việc công bố thông tin trên TTCK theo Luật Chứng khoán, các thông tin ảnh hưởng đến giá chứng khoán thì phải được người đại diện theo pháp luật của công ty báo cáo trong vòng 24 giờ, đồng thời phải báo cáo UBCK nhà nước, tuy nhiên tình hình công bố thông tin của các công ty niêm yết trong thời gian qua chưa hoàn toàn Hầu hết các vi phạm thường thấy là do thiếu kinh nghiệm, cung cấp thông tin đúng như các qui định. không theo định kỳ, không công bố thông tin kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng, đưa ra những nhận định không chính xác, thiếu độ tin cậy thị trường. Một quan điểm khá phổ biến của các công ty niêm yết hiện nay là việc công bố thông tin chủ yếu nhìn nhận dưới góc độ nghĩa vụ. Những bản cáo bạch, báo cáo tài Hiện nay, tình trạng “rò rỉ” thông tin vẫn còn tồn tại dẫn đến tình trạng tư lợi chính vẫn còn thiếu sót và chưa chính xác. thông tin mà chúng ta thường gọi là “tin nội bộ”, “giao dịch nội gián” và một vài cá nhân đã sử dụng thông tin này để trục lợi cá nhân. Hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại gắn bó mật thiết, thậm chí phụ thuộc vào sự đa dạng, hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán. NĐT phải trả giá khi không nắm được các thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan đến môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán và tình hình thị Hiện nay, không ít các NĐT vẫn thiếu kỹ năng tìm kiếm và phân tích thông trường. Nắm được thông tin luôn là lợi thế kinh doanh trên TTCK. tin. Tuy nhiên, điều đáng nói hơn là các kênh cung cấp thông tin liên quan đến thị trường vẫn rất thiếu và việc công bố thông tin chưa được chú trọng đúng mức khi các đối tượng liên quan mới chỉ nhìn nhận dưới góc độ nghĩa vụ. Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến chậm hoặc bị cắt xén không đầy đủ, không chính xác về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”, hoặc đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó… đều có thể trở thành đầu mối trực tiếp gây ra các thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng khoán. Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự đánh bóng, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của các NĐT chuyên nghiệp đủ sức gây biến động thị trường hòng trục lợi. Việc CBTT của các công ty đại chúng nói chung và các công ty niêm yết nói riêng về cơ bản đã có sự tiến bộ rõ rệt, đặc biệt là đối với công ty niêm yết theo những quy định mới và sự quản lý, giám sát chặt chẽ từ các Sở song vẫn còn nhiều “bất cập” và sơ hở, sự chậm trễ trong việc công bố tạo nên những hạn chế nhất định. 2.1.2.2. Rủi ro từ yếu tố tâm lý của nhà đầu tƣ. Chỉ số VNIndex đạt đỉnh điểm ở mức 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 chỉ sau hơn 6 tháng giao dịch cho thấy phần nào tính hấp dẫn của một thị trường non trẻ tạo ra các làn sóng đầu tư đón đầu vào TTCK Việt Nam. Những nhà đầu tư tiên phong có công làm bật lên thị trường trong giai đoạn đầu hầu như là giới thạo nghề gồm những người và tổ chức trong và ngoài nước có kinh nghiệm, có tiềm lực tài chính và nhạy bén, có mục tiêu và chiến lược đầu tư rõ ràng và chủ động, có ý đồ đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, trong quá trình sưu tập danh mục cổ phiếu cho mình họ mặc nhiên tạo ra tình trạng cạnh tranh mua làm cho thị trường bắt đầu nóng lên… Như là một quy luật, thị trường sôi động và giá tăng liên tục đã nhanh chóng cuốn hút một làn sóng nhà đầu tư mới khác muốn thử thời vận trên thị trường tài chính có mức sinh lợi hấp dẫn, tham gia dễ dàng. Nhóm đầu tư này không có kiến thức và hiểu biết sâu sắc về TTCK, không chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn cùng với việc mua bán chỉ dựa vào cảm tính và theo xu hướng số đông (bầy đàn), mua nhanh chờ giá lên và bán nhanh vì sợ giá sẽ giảm (lướt sóng). Ở nhóm nhà đầu tư này, khả năng phân tích tình hình tài chính, đánh giá các chỉ số hoạt động của doanh nghiệp rất hạn chế, đưa đến hệ quả là các lệnh giao dịch của họ vô tình làm thị trường chao đảo, tuy trong thời gian ngắn cũng phần nào làm mất phương hướng của nhà đầu tư cũ và tạo tâm lý ngần ngại cho các nhà đầu tư mới muốn tham gia vào thị trường. Việc nghiên cứu, đánh giá giá trị cổ phiếu đòi hỏi những kiến thức nhất định và đầu tư đúng mức. Với khả năng hạn chế của một số nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường hàng hoá bậc cao này dẫn đến việc đầu tư ồ ạt theo xu hướng phong trào, thất bại là một kết quả hoàn toàn tất yếu. 2.1.2.3. Rủi ro từ quy định và chất lƣợng dịch vụ của sàn giao dịch từ các công ty chứng khoán. Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc phải thông qua các tổ chức trung gian, môi giới trong kinh doanh chứng khoán, nên các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải chịu những rủi ro liên quan đến các quy định, quy trình nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian này, như hình thức khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy ngang lệnh đã đặt mua, nó dễ gây tình trạng cung – cầu ảo trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo kiểu bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở các sàn, trung tâm và công ty chứng khoán. Các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn hạn chế về năng lực tài chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ. Mạng lưới công ty còn hẹp, chỉ tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn là Hà Nội và Tp.HCM nên đã hạn chế việc cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư rộng khắp trên toàn quốc. Hiện nay một số công ty chứng khoán đã tiến hành giao dịch trực tuyến thông qua mạng Internet và giao dịch không qua sàn giúp các nhà đầu tư có thể chủ động được việc mua bán của mình, tuy nhiên khi TTCK bất ngờ đảo chiều thì các lệnh của nhà đầu tư có thể được đẩy vào hệ thống một cách ồ ạt gây nên tình trạng nghẽn mạng và các lệnh của nhà đầu tư phải xếp hàng chờ đợi làm mất đi cơ hội đầu tư kiếm lời và cắt lỗ nhanh chóng, ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đầu tư của khách hàng. Giao dịch trực tuyến và giao dịch không qua sàn là một bước tiến quan trọng trong việc nâng cấp và cung ứng dịch vụ của không chỉ từ các công ty chứng khoán mà còn ở các Sở giao dịch để thị trường giao dịch ngày càng hiện đại và thuận tiện hơn. 2.1.2.4. Rủi ro về chính sách. TTCK chịu sự tác động rất mạnh bởi các chính sách kinh tế. Quyết định 1141/QĐ-NHNN về tăng dự trữ bắt buộc lên gấp đôi (từ 5% lên 10%) đã thắt chặt nguồn tiền lưu chuyển trong nền kinh tế, và đến ngày 16/01/2008 thì quyết định 187/QĐ-NHNN ra đời thay thế quyết định 1141/QĐ-NHNN, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 10% lên 11%, đặc biệt là nguồn tiền được hỗ trợ cho các doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh bị thu hẹp do tác động của chính sách thắt chặt tín dụng của hệ thống ngân hàng, do đó các doanh nghiệp rất khó tiếp cận nguồn vốn để mở rộng hoạt động, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN ngày 01/02/2008 ra đời thay thế chỉ thị 03/2007/CT-NHNN về việc các tổ chức tín dụng cho vay, chiết khấu chứng từ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng thay vì hạn mức 3% tổng dư nợ như quy định trước đó tại chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/05/2007, chính điều này làm cho nguồn tiền vào TTCK, các nhà đầu tư không thể sử dụng đòn bẩy tài chính để đẩy mạnh kinh doanh chứng khoán, do đó TTCK không tạo được lực đẩy để tăng trưởng ổn định, thị trường có những đợt điều chỉnh và giao dịch ảm đạm. Khi chỉ thị 03 được thực hiện đã làm cho các công ty chứng khoán tiến hành tất toán các khoản vay đến hạn của các nhà đầu tư, khối lượng chứng khoán bị xử lý và bán ra làm cho cung – cầu của thị trường mất cân đối trầm trọng, đè nặng lên tâm lý của các nhà đầu tư, làm cho TTCK cũng ít nhiều chịu sự tác động mạnh của sự phát triển của ngành ngân TTCK Việt Nam thêm phần ảm đạm. hàng, sự phát triển của các chỉ tiêu tín dụng ảnh hưởng tới việc sử dụng đòn bẩy tài chính của các nhà đầu tư. Năm 2010, NHNN sẽ khống chế tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế chỉ tăng khoảng 25%, trong khi đó mức tăng trưởng tín dụng của năm 2009 là 37,73%, cho nên các ngân hàng vẫn siết chặt cho vay chứng khoán nên chưa tạo được lực đỡ và sức bật cho các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ vào thị trường, ảnh hưởng rất lớn đến TTCK. Vừa qua, Bộ Tài chính ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân đưa các loại thu nhập từ đầu tư vốn, mua bán chứng khoán vào diện thu nhập chịu thuế nhằm thực hiện mục tiêu công bằng và kiểm soát thu nhập. Vẫn biết việc đánh thuế thu nhập cá nhân là hoàn toàn hợp lý, nhưng mức đánh thuế bao nhiêu để thu nhập thực tế mà NĐT nhận được bù đắp được rủi ro mà họ gặp phải là vấn đề cần phải quan tâm. Với một thị trường diễn biến không theo một quy luật nhất định, lên xuống thất thường như TTCK Việt Nam, cộng thêm một nguồn phí phải trả cho thuế thu nhập từ đầu tư chứng khoán trong thời điểm sắp tới thì việc đại chúng hóa đầu tư chứng khoán với tất cả người dân là rất khó xảy ra. Ngoài ra, có rất nhiều văn bản pháp lý về chứng khoán và TTCK được ban hành mới chưa phù hợp với sự phát triển của thị trường, và cũng chưa đồng bộ với các văn bản pháp luật thể hiện ở tính pháp lý chưa cao, chưa điều chỉnh được toàn diện hoạt động của TTCK, do đó cần phải có một văn bản pháp lý cao hơn để tạo cơ sở pháp lý cho TTCK phát triển. Ngoài ra, các NĐT còn phải chịu các rủi ro liên quan đến các chính sách của Chính phủ, như: những thay đổi trong chính sách tỷ giá, lãi suất, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong CTCP của các NĐT chiến lược, các NĐTNN; chính sách xuất nhập khẩu, độc quyền hoặc các quan hệ quốc tế song phương, đa phương... Chứng khoán là một lĩnh vực mới mẻ nằm trong quá trình hoàn thiện dần, nên các quy định hiện hành còn nhiều kẻ hở mà giới đầu tư có thể tận dụng để “lách” một cách dễ dàng. Hiện nay, dù quy định pháp lý đã được hoàn thiện hơn một bước, nhưng nếu một cá nhân hay một tổ chức đều có khả năng mở nhiều tài khoản ở các công ty chứng khoán khác nhau (chỉ trừ khi họ có ý định công khai để tham gia vào Hội đồng quản trị), bởi vì làm cách này phải qua nhiều thủ tục lại phải chào mua công khai và phải 6 tháng sau mới được bán. Đây là cách lách luật hết sức sơ đẳng mà nhà quản lý không thể kết tội được. Chủ tịch HĐQT một CTCK tại Hà Nội nhận xét, do thị trường thiếu các công cụ để bán khống nên có những thời điểm bị các đại gia chứng khoán lũng đoạn, làm cho thị trường phát triển không lành mạnh. Các đặc quyền mà CTCK dành cho nhà đầu tư (NĐT) lớn đã tạo nên một sân chơi bất bình đẳng, thị trường đang bị các "cá mập" chứng khoán làm loạn khiến cho CTCK làm đúng quy định bị mất thị phần, NĐT nhỏ bị chèn ép. Trao đổi với Thanh Niên, một lãnh đạo có trách nhiệm của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) tâm sự: "Chúng tôi không phải là không biết có hiện tượng làm giá, thao túng đối với một số loại cổ phiếu và hiện tượng một số nơi có thông tin nội gián. Tuy nhiên, làm thế nào để có thể thanh tra và đưa ra kết luận một cách hợp lý và có chứng cứ theo quy định một cách rõ ràng, để xử lý, phạt tiền, công khai lên báo, đài để răn đe lại không phải là chuyện dễ dàng". Ông này phân tích, việc chứng minh một nhóm người thao túng giá cổ phiếu là cực khó bởi họ đều lấy lý do là thấy cổ phiếu đó tốt nên cứ đặt lệnh mua liên tục chứ không làm sai quy định... Một chuyên viên giám sát thị trường thuộc Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng cho rằng, về mặt hiện tượng thì có thể đưa ra nhận định là một số tài khoản đang làm giá một loại cổ phiếu nào đó nhưng về mặt chứng cứ luật pháp thì “không thể kết luận như vậy được”. (nguồn: báo Thanh Niên ngày 03/12/2009). Bên cạnh đó, rất khó để xác định đâu là hành vi mua bán bình thường và đâu là hành vi mua bán giả tạo, vi phạm luật. Việc xác định được các hành động thao túng trên thị trường rất phức tạp, ngay cả ở các nước có TTCK phát triển. Trước các hành động thao túng giá cả của giới đầu cơ, vi phạm đạo đức chứng khoán, mua bán nội gián…làm tăng nguy cơ lũng đoạn thị trường, hệ thống giám sát hoạt động của TTCK Việt Nam tuy đã được thiết lập nhưng hoạt động chưa thực hiệu quả, chưa có hệ thống chỉ tiêu giám sát. Bên cạnh đó năng lực giám sát, các chế tài cưỡng chế hành vi vi phạm còn hạn chế, các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Thanh tra, pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính… chưa quy định rõ thẩm quyền và chưa có các quy định rõ ràng về các hành vi vi phạm trong hoạt động chứng khoán. Công tác phổ biến, quán triệt các quy chế chính sách đối với hoạt động của TTCK tuy đã được tổ chức thực hiện nhưng chưa được sâu rộng nên ý thức chấp hành chưa cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý còn chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa nắm chắc nghiệp vụ nên kết quả kiểm tra còn hạn chế. 2.1.2.6. Chƣa triển khai giao dịch quyền chọn cổ phiếu. TTCK Việt Nam đã hình thành và hoạt động hơn 10 năm nay với tốc độ khá nhanh; giá tăng - giảm đột biến nhưng nghiệp vụ quyền chọn cổ phiếu chưa được triển khai. Do đó nhu cầu về quyền chọn cổ phiếu càng trở nên cấp bách. Nếu có công cụ quyền chọn này nhà đầu tư không bị hoảng loạn như tình hình cuối năm 2007 và đầu năm 2008 hiện nay vì xem như đã mua “bảo hiểm” về giá. Với công cụ quyền chọn, các nhà đầu tư có thể hạn chế sự thua lỗ và tăng khả năng gia tăng lợi nhuận. Trên thực tế, các nhà quản lý và một số công ty chứng khoán đã tìm hiểu và lặng lẽ chuẩn bị về quyền chọn cổ phiếu. Tuy nhiên, nhân lực am hiểu về lĩnh vực này hiện nay còn chưa nhiều. Khi quyền chọn cổ phiếu được triển khai cũng là cơ hội kinh doanh mới rất thú vị cho các công ty chứng khoán hay các công ty chuyên về quyền chọn vì chính nhà đầu tư cũng cần mua “bảo hiểm” để tự phòng thủ rủi ro, biến động mạnh của thị trường. Khi có công cụ quyền chọn, chắc chắn giá cổ phiếu sẽ không có những đợt “sóng thần” như hiện nay. Chính những yếu tố rủi ro trên TTCK đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến chiến lược và kết quả đầu tư của các NĐT nhỏ lẻ trên thị trường dẫn đến thị trường hoạt động không hiệu quả, những rủi ro đó ảnh hưởng rất lớn đến giá của các hàng hóa cơ sở cho nên cần một công cụ bảo hiểm tỷ giá như là công cụ quyền chọn giúp TTCK hoạt động hiệu quả hơn. 2.2. Thực trạng về giao dịch quyền chọn ở Việt Nam. 2.2.1. Quyền chọn ngoại tệ. Hiện nay, các NHTM Việt Nam thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ theo Quyết định số 1452/2004/QĐ – NHNN của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tại Quyết định này, giao dịch quyền chọn ngoại tệ chỉ bao gồm giao dịch giữa các ngoại tệ (không liên quan đến đồng Việt Nam). Đối tượng được tham gia giao dịch hối đoái bao gồm TCTD cho phép, tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân, và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, TCTD được phép duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền chọn không có giao dịch đối ứng tối đa là 10% so với vốn tự có. Cũng trong quyết định này, các TCTD được phép không được mua quyền chọn của tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân mà họ chỉ được phép bán quyền chọn cho các đối tượng này mà thôi. Giao dịch quyền chọn ngoại tệ cũng được coi là một công cụ hữu hiệu nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá. Loại nghiệp vụ này bắt đầu được triển khai thí điểm từ tháng 10/2005 tại Vietcombank, VIB, NHTMCP XNK – Eximbank, chi nhánh Ngân hàng Citibank; Tiếp đó, từ tháng 12/2005, tại các Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) Techcombank, Ngân hàng Quân đội, ACB và NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cũng được triển khai nghiệp vụ này. Hiện nay các ngoại tệ được sử dụng nhiều trong giao dịch quyền chọn là USD, EUR, GBP, JPY, AUD, CHF... Tại các NHTM, quy mô tối thiểu của giao dịch ngoại tệ là 100.000 USD hoặc tương đương. Thời hạn hợp đồng là sự thoả thuận giữa các TCTD được phép với khách hàng của mình. Sau khi Ngân hàng Nhà nước cho phép triển khai đại trà nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, nhiều doanh nhân và cá nhân đã đến Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương tại TPHCM (Vietcombank TPHCM) để tìm hiểu cách thực hiện quyền chọn ngoại tệ này. Nhưng khả năng ký kết hợp đồng là rất thấp. Còn tại NHTM Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) tình trạng quyền chọn ngoại tệ cũng tương tự như Vietcombank TPHCM. Tuy nhiên, qua một thời gian thí điểm đã có một số kết quả bước đầu: trên 50 hợp đồng quyền chọn được ký kết giữa Eximbank và doanh nghiệp, trong đó quyền chọn mua ngoại tệ chiếm 65%. Riêng đối với Ngân hàng Á Châu thì đến nay, ACB cũng thu hút khá nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ này. Tình hình trên cho thấy khách hàng dần dần làm quen với công cụ bảo hiểm ngoại tệ này nhưng mức độ sử dụng và sự hiểu biết không cao. Để thực hiện nghiệp vụ quyền chọn, bao giờ cũng cần phải có hai bên tham gia với tư cách là người phát hành quyền chọn và người mua quyền chọn. Khách hàng là người mua quyền chọn phải trả một khoản phí quyền chọn để hưởng quyền chọn. Khách hàng thanh toán phí cho ngân hàng ngay từ lúc ký hợp đồng quyền chọn ngoại tệ. Khoản phí này được các ngân hàng tính toán cho từng hợp đồng cụ thể. Trường hợp khách hàng yêu cầu ngân hàng thực hiện hợp đồng quyền chọn, ngân hàng sẽ chuyển tiền vào tài khoản của khách hàng sau khi khách hàng xuất trình đầy đủ hồ sơ chứng từ chứng minh mục đích sử dụng theo yêu cầu và đã thanh toán đầy đủ cho ngân hàng. Nếu khách hàng muốn hưởng chênh lệch giá, ngân hàng sẽ thực hiện chi trả khoản tiền chênh lệch giá dựa trên tỷ giá thời điểm ngân hàng niêm yết (áp dụng với quyền chọn ngoại tệ/ VNĐ), còn với quyền chọn ngoại tệ/ ngoại tệ thì sẽ dựa trên chênh lệch giữa giá quốc tế tại thời điểm đóng hợp đồng và giá thực hiện ghi trong hợp đồng để bù trừ giao dịch quyền chọn ngoại tệ cho khách hàng. Cái khó của Ngân hàng là ở chỗ ngân hàng là người gánh chịu rủi ro tỷ giá vì trong tương lai, nếu tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho người mua quyền chọn thì họ sẽ thực hiện hợp đồng. Nếu theo hướng không tốt cho người mua quyền chọn thì họ sẽ không thực hiện hợp đồng và chịu mất khoản phí quyền chọn. Kết quả là ngân hàng là người gánh chịu rủi ro vì phải thực hiện hợp đồng, trong khi đó, nếu giao dịch bên ngoài thì có lợi hơn. Chính vì điều này mà khi phát hành một quyền chọn, ngân hàng sẽ tìm mua một quyền chọn đối ứng từ một khách hàng khác hoặc từ một ngân hàng khác (thông thường là một ngân hàng) để phòng ngừa rủi ro cho chính mình theo mức tỷ giá và phí quyền chọn lợi thế hơn so với mức tỷ giá và phí bán quyền chọn cho khách hàng ban đầu. Mức chênh lệch tỷ giá và phí quyền chọn sẽ tạo nên thu nhập cho Ngân hàng. Bằng cách này, các ngân hàng khi tham gia quyền chọn sẽ san sẻ được rủi ro tỷ giá cho nhau, mỗi ngân hàng chịu một ít, và mức chênh lệch ròng cuối cùng sẽ là thu nhập hoặc khoản lỗ mà ngân hàng thu được ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng: Quyền chọn ngoại tệ là một công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, đứng trên giác độ là người bảo hiểm, các ngân hàng khi phát hành quyền chọn rất cần có số đông khách hàng để có thể làm trung gian cân đối hay điều hòa rủi ro giữa những người ký kết hợp đồng quyền chọn với ngân hàng. Qua 6 tháng thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn thì Eximbank mới chỉ có vài chục khách hàng và trên thực tế ngân hàng này buộc phải ký lại hợp đồng quyền chọn nhận được với các ngân hàng nước ngoài giống như dạng tái bảo hiểm. Sở dĩ phải làm như vậy vì ngân hàng có số lượng khách hàng tham gia nghiệp vụ quyền chọn quá ít và không đủ điều hòa rủi ro tỷ giá. Thêm vào đó, số lượng ngân hàng nội địa có khả năng tham gia nghiệp vụ quyền chọn còn ít nên việc tham gia quyền chọn với các ngân hàng nước ngoài là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, làm như vậy thì Eximbank sẽ không có lãi vì phí quyền chọn thu được từ khách hàng lại phải đóng ở mức tương đương cho các đối tác nước ngoài. Theo Quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN thì các ngân hàng thương mại chỉ được phép thực hiện bán quyền chọn cho các tổ chức kinh tế và cá nhân mà không được mua quyền. Điều này sẽ giúp cho các NHTM chủ động hơn trong việc tìm mua một quyền chọn đối ứng để hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, nếu ngân hàng mua quyền chọn thì ngân hàng khó có thể chủ động trong việc bán quyền chọn đối ứng, vì chưa chắn đã tìm được một khách hàng nào đó mua quyền theo đúng ý đồ của ngân hàng, dẫn đến rủi ro có thể sẽ cao. Để có quyền chọn ngoại tệ DN phải trả một mức phí cho các NHTM. Mức phí này tùy thuộc vào từng thời điểm mà xu hướng ngoại tệ có biến động mạnh hay không, thời gian thực hiện hợp đồng dài hay ngắn. Theo bảng giá công khai hiện tại của Eximbank, với thời gian hợp đồng trong vòng 1 tháng, nếu thực hiện quyền mua euro (thanh toán bằng USD) thì phí phải trả là 1,4% (ví dụ: mua 1 triệu euro mất phí 14.000 USD), còn quyền bán euro phí là 1,42% (ví dụ: bán 1 triệu euro để lấy USD, phí trả là 14.200 USD). Trong thời gian đó nếu tỉ giá biến động có lợi cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp thực hiện hợp đồng, còn nếu tỉ giá gây bất lợi thì doanh nghiệp được quyền hủy bỏ cam kết và họ đi mua, bán ngoại tệ bên ngoài cho hiệu quả hơn. Đương nhiên, tiền phí đã đóng doanh nghiệp phải chịu mất. Do chính sách tài chính quy định chưa đầy đủ nên khoản phí mất này doanh nghiệp rất khó hạch toán. Nếu bị kiểm tra doanh nghiệp sẽ được “hỏi thăm” về khoản tiền mất này nên quyền chọn ngoại tệ chưa hấp dẫn doanh nghiệp. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp hiện nay còn lúng túng không biết phải hạch toán phí quyền chọn vào đâu thì coi là hợp lệ. Bản thân các ngân hàng là người phát hành quyền chọn cũng gặp vướng mắc: Khi thu phí quyền chọn ngân hàng phải chịu khoản VAT là 10%, nhưng sau đó nếu ngân hàng tham gia tái bảo hiểm với ngân hàng nước ngoài thì không được khấu trừ khoản VAT 10% và vô hình chung đã làm cho ngân hàng bị lỗ ngay khoản VAT 10%. Về phần mình, các ngân hàng cũng thừa nhận, việc doanh nghiệp không sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro cũng có lỗi của mình, vì đã không tư vấn Đa số các ngân hàng chỉ mới dừng ở khâu đáp ứng các nhu cầu mua bán đầy đủ cho khách hàng. ngoại tệ của khách hàng chứ chưa đồng hành với doanh nghiệp bên bàn đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu. Ông Đào Hồng Châu, Phó Tổng Giám đốc Eximbank, nhận định vài năm trở lại đây tỉ giá USD so với tiền đồng khá ổn định (năm 2007 tăng chưa tới 1%) nên đa số các DN đều chọn USD làm đồng tiền thanh toán quốc tế. Được biết, tỉ trọng thanh toán bằng USD chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước, còn lại 20% là các ngoại tệ khác. Khi tỉ giá ổn định sẽ giúp DN chủ động hạch toán kinh doanh xuất nhập khẩu, vì vậy hiếm có đơn vị tìm giải pháp sử dụng quyền chọn ngoại tệ. Khi DN nhập khẩu thiết bị, vật tư trả chậm, việc thanh toán thường kéo dài nhiều năm, nhưng mua quyền chọn ngoại tệ thời gian giới hạn rất ngắn nên DN rất khó thực hiện. Cho nên công cụ quyền chọn ngoại tệ hiện tại rất hiếm DN lựa chọn. 2.2.2. Quyền chọn tiền đồng Việt Nam. Đầu năm 2005, NHNN đã bắt đầu cho phép thực hiện thí điểm quyền chọn tiền đồng ở ba ngân hàng là Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam (BIDV); ACB và NHTM cổ phần Kỹ thương (Techcombank). Đầu tháng 9, NHNN cho phép thêm hai ngân hàng được triển khai dịch vụ này là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và NHTM cổ phần Quốc tế (VIB Bank). Đây là bước đột phá mới của NHNN nhằm cung cấp thêm công cụ tài chính phái sinh cho thị trường tiền tệ mà cũng là một công cụ phòng ngừa rủi ro hiện đại cho chính bản thân đồng nội tệ Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các doanh nghiệp (DN) và cá Việt Nam. nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VND hoặc một ngoại tệ khác với tiền đồng Việt Nam thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. (Tỷ giá thực hiện được quy định là tỷ giá không được vượt quá tỷ giá kỳ hạn USD/VND cùng thời hạn hoặc tỷ giá giữa ngoại tệ khác với tiền đồng Việt nam do khách hàng và ngân hàng tự thoả thuận) Đồng tiền giao dịch là VNĐ và USD hoặc các ngoại tệ tự do chuyển đổi khác (EUR, JPY, CHF, GBP, AUD, CAD…). Đây là một bước ngoặt quan trọng trong việc đưa cơ chế hình thành tỷ giá ở nước ta theo hướng linh hoạt và uyển chuyển hơn. Đặc biệt, quyền chọn USD với VND đáp ứng nhu cầu cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu, trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán dành cho nhà xuất khẩu. Nghiệp vụ này cũng hỗ trợ tích cực cho việc xác định giá mua, bán ngoại tệ tối ưu cho khách hàng; giúp phòng ngừa rủi ro hiệu quả; đồng thời đánh giá chính xác hơn kỳ vọng của thị trường về tỷ giá thông qua cơ chế cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. Đồng thời, nó cũng là một công cụ thiết thực để đáp ứng mong mỏi của giới đầu tư và kinh doanh mà thu nhập và lợi nhuận của họ có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự bất ổn tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ. Tuy nhiên dịch vụ quyền chọn tiền đồng có đặc thù là không có vế đối ứng (ngân hàng không thể tái bảo hiểm sản phẩm của mình ở một đơn vị thứ 3, vì vậy rủi ro đối với bên bán là rất lớn). Điều này khiến các ngân hàng phải tự tính toán cân đối thu nhập, chi phí và tự bảo hiểm bằng đồng tiền nào cho phù hợp. Khảo sát mới đây của Vietcombank cho biết dịch vụ này cũng chỉ tập trung chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, quy mô hợp đồng tối thiểu đối với ngoại tệ khác là 100.000 USD hoặc tương đương là quá cao. Đây là một bất lợi khiến các cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu bảo hiểm tỷ giá cho một lượng ngoại Thực tế tỷ giá giao ngay giữa USD và VND trong thời gian qua biến động rất tệ nhỏ hơn không thể tham gia nghiệp vụ này. ít làm cho các hình thức bảo hiểm tỷ giá cho đồng Việt Nam như quyền chọn tiền đồng Việt Nam rất khó phát triển, bởi các doanh nghiệp và ngay cả giới ngân hàng phần lớn không có nhu cầu cũng như chưa quen sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trước thực trạng thị trường chẳng có gì là tiềm ẩn về rủi ro tỷ giá cả. Thị trường tiền tệ Việt Nam chưa gặp những biến động lớn cho nên các doanh nghiệp chưa quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro. Họ quan niệm rằng tỷ giá thì có Nhà nước ổn định; lãi suất thì Ngân hàng Trung ương cũng không cho biến động mạnh và vì thế họ an tâm kinh doanh mà bỏ qua các chiếc lược phòng ngừa rủi ro tiền tệ. Mức phí quyền chọn mà các NHTM đưa ra cho doanh nghiệp thời gian qua còn cao, chưa hợp lý và không mang tính khuyến khích sử dụng. Vì thế, các doanh nghiệp tính toán không có lợi nên không muốn tham gia vào nghiệp vụ này, vì tham gia thì sẽ mất một khoản tiền trước mắt (khoản phí) mà không thấy rủi ro gì đáng kể. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có người chuyên lo, tính toán và dự báo biến động của thị trường, biến động về tỷ giá, lãi suất...Chúng ta vẫn còn làm theo lối kinh doanh truyền thống là khi nào cần thì mới mua và khi nào có nhu cầu thì mới bán. Bên cạnh đó, trở ngại về sức ỳ tâm lý của giới lãnh đạo nhất là các doanh nghiệp Nhà nước trong vấn đề quản lý phòng ngừa rủi ro còn quá lớn. Nhiều doanh nghiệp cho hay họ biết sẽ gặp rủi ro nhưng do công ty chưa có chính sách sử dụng nghiệp vụ này nên họ không dám làm như vậy, chính thói quen trước nay các doanh nghiệp chưa từng sử dụng đến công cụ quyền chọn nên họ chưa nhận thức được lợi ích của việc phòng ngừa là đúng đắn và vô cùng cần thiết ngay cả khi chưa xảy ra rủi ro. Công cụ này sẽ thực sự phát huy tác dụng khi tỷ giá thị trường biến động theo hướng không có lợi; nhưng ngay cả khi thị trường đang trong xu hướng tốt, vẫn là sai lầm nếu cho rằng các khoản phí quyền chọn bỏ ra là lãng phí bởi thật khó để lường hết các rủi ro tiềm ẩn sẽ xảy ra với mức độ nghiêm trọng như thế nào trên thị trường ngoại hối trong tương lai. Và chính tính thụ động, thờ ơ của giới doanh nghiệp về vấn đề này là một trở ngại lớn cho việc phát triển quyền chọn tiền đồng Việt Nam. 2.2.3. Quyền chọn Vàng. Ở Việt Nam, vàng chiếm vị trí không kém phần quan trọng so với các nước khác trong khu vực và các quốc gia khác trên thế giới. Vàng được sử dụng làm công cụ tính toán, dự trữ và đơn vị tính cho những tài sản có giá trị lớn, chẳng hạn như vàng được xem là đơn vị tính để mua bất động sản. Trong điều kiện nhu cầu nhà ở của người dân đang ngày càng tăng, đồng thời giá vàng liên tục có những biến động mạnh và khó dự báo như hiện nay, chúng ta thấy rằng sản phẩm quyền chọn Vàng sẽ đáp ứng được nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân và mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả các ngân hàng như một công cụ giúp các khách hàng vay vốn bằng vàng nâng cao khả năng chi trả. Sử dụng sản phẩm quyền chọn Vàng, người mua bất động sản có thể đảm bảo khả năng chi trả và tránh thua lỗ trước những biến động tăng của giá vàng mà vẫn có lợi khi giá vàng xuống, còn người bán thì một mặt luôn đảm bảo lợi nhuận dự kiến khi giá vàng xuống, mặt khác sẽ có lãi nhiều hơn khi giá vàng tăng. Các ngân hàng đã đưa ra sản phẩm quyền chọn từ cuối năm 2004 như quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn tiền đồng, nhưng chưa có quyền chọn vàng. Do trong năm 2005, giá vàng liên tục biến động khiến các doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý mới thực sự quan tâm. Vì thế, các NHTM, sau khi trình và được phép của Ngân hàng Nhà nước, đã phải rất tích cực chuẩn bị cả về nhân lực, vật lực lẫn đào tạo chuyên môn…để có thể đưa ra thị trường sản phẩm quyền chọn Vàng phục vụ khách hàng. Cho tới thời điểm này, ngoài 3 NHTM nhà nước thực hiện quyền chọn bằng vàng là Vietcombank, Agribank và BIDV thì một số NHTM cổ phần đã triển khai mạnh dịch vụ quyền chọn, trong đó ACB là ngân hàng triển khai sớm nhất từ năm 2004, tiếp đến là Techcombank, VIB Bank, Sacombank... Về đối tượng giao dịch thì quyền chọn vàng được áp dụng đối với các cá nhân và các tổ chức có nhu cầu muốn bảo hiểm rủi ro sự biến động của vàng. Tuy nhiên thì khách hàng chỉ là người mua quyền chọn chứ không phải là người bán quyền chọn. Hiện nay, mỗi ngân hàng cung cấp quyền chọn vàng đều có quy định cụ thể và riêng biệt cho sản phẩm của mình chẳng hạn như quy định loại vàng giao dịch; đồng tiền giao dịch; thời gian giao dịch cũng như quy mô giao dịch tối thiểu của mỗi hợp đồng quyền chọn… Thực tế cho thấy lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng tại các Ngân hàng hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh vàng, sử dụng quyền chọn vàng để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động nhập vàng hoặc mua bán vàng của mình trên thị trường là chính nhưng có kết hợp với việc tìm kiếm cơ hội sinh lợi bằng sự am hiểu nhất định của mình về hình hình thị trường vàng thế giới và trong nước cũng như khả năng phân tích, dự đoán về biến động giá vàng tương lai. Lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng tại NHTMCP Á Châu (ACB) chủ yếu là các khách hàng cá nhân có nhu cầu phòng ngừa rủi ro biến động giá vàng cho các khoản thanh toán bằng vàng trong tương lai, nhiều nhất là phục vụ cho khoản đặt cọc vàng hoặc thanh toán vàng trong mua bán nhà đất và trả nợ vay cho nên họ chủ yếu giao dịch các quyền chọn mua và một ít quyền chọn bán có quy mô tương đối nhỏ, dưới 200 lượng, trong đó có những quyền chọn có quy mô khá nhỏ, chỉ 50 lượng cho một quyền chọn. Tuy nhiên lợi nhuận mang lại từ nghiệp vụ này tại ACB không cao vì khi ký hợp đồng với khách hàng, ACB đều phải thực hiện giao dịch đối ứng với các đối tác nước ngoài mà không duy trì trạng thái mở, do đó thu nhập nhận được chỉ là khoản chênh lệch giữa phí thu được của khách hàng và khoản phí mà ACB phải trả cho đối tác nước ngoài. Đối với NHTMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), mặc dù giao dịch quyền chọn triển khai từ đầu năm 2006 nhưng cho đến cuối năm 2007 chỉ có 2 hợp đồng quyền chọn mua được ký kết giữa khách hàng trong nước với ngân hàng, trị giá là 200 lượng vàng. Trong khi đó, nghiệp vụ kỳ hạn lại thu hút đến 65 ngàn lượng vàng với 338 hợp đồng được ký kết dù nghiệp vụ này cũng mới được ngân hàng này áp dụng và cho phép khách hàng của mình thực hiện vào đầu năm 2006. Đối với NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) sau một thời gian cung cấp đã tạm ngưng sản phẩm này từ cuối tháng 12/2005 cho đến nay vì quy mô giao dịch quyền chọn vàng tại ngân hàng này khá cao, tối thiểu 100 lượng vàng nhưng tại một số thời điểm đã lên đến 800 lượng vàng và mức phí phải trả rất cao vì khi bán nghiệp vụ này Sacombank phải mua đối ứng lại với ngân hàng nước ngoài và điều kiện của ngân hàng nước ngoài phải có từ 800 lượng vàng trở lên và mức phí được tính theo giá vàng thế giới, ở một số thời điểm lên đến 2,5%/doanh số, gần 30%/năm cho hợp đồng quyền chọn kỳ hạn 01 tháng. Dẫn đến tình trạng có rất ít khách hàng giao dịch tại ngân hàng, lợi nhuận có được không bao nhiêu so với chi phí đầu tư cho sản phẩm. Do đó, ngân hàng đã tạm thời ngưng cung cấp sản phẩm quyền chọn cho đến nay. Quyền chọn vàng được các ngân hàng triển khai thực hiện từ cuối năm 2004 cho đến nay. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đạt được gì mà thị trường mong muốn. Về phía ngân hàng thì vẫn thiếu công tác tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị chưa sâu rộng; chưa cung cấp hướng dẫn chi tiết và dễ hiểu về cho khách hàng; quy mô hợp đồng chưa phù hợp…. Còn về phía khách hàng thì gặp khó khăn trong việc hạch toán kế toán vì chưa có hướng dẫn cụ thể đối với phí quyền chọn; chưa có kinh nghiệm sử dụng; còn tâm lý e ngại khi sử dụng vì chưa chưa hiểu…. Như vậy, quyền chọn vàng vẫn còn khá mới mẻ, chưa đem lại kết quả kinh doanh như bản thân những lợi ích có được từ giao dịch này cho bản thân các ngân hàng cung cấp và ngay cả các nhà đầu tư tại thị trường Việt Nam. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EUR. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại Việt Nam được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các ngân hàng nước ngoài. Số vốn gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối đa bằng 15% vốn tự có của NHĐT&PT. Tổng số vốn gốc tối đa của tất cả các hợp đồng quyền chọn lãi suất trong thời gian thí điểm không vượt quá 50% mức vốn tự có của ngân hàng. Thời hạn hợp đồng không quá 5 năm; thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ - Dual currency Deposit; thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo. Đó là việc trao đổi các dòng tiền trong tương lai bằng các đồng tiền khác nhau. Trong các giao dịch hoán đổi chéo thường có việc hoán đổi thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể được hoán đổi vào kỳ đầu (nếu có) và kỳ cuối, hoặc nhiều kỳ trong thời gian hiệu lực của giao dịch. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này. Kiến thức hiểu biết của doanh nghiệp về quyền chọn lãi suất và phòng chống rủi ro lãi suất còn quá thấp. Phần lớn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là nguồn vay nợ từ bên ngoài, đặc biệt từ ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp có các hợp đồng tín dụng trung, dài hạn với giá trị lớn và lãi suất cố định cũng như các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thường xuyên ở vào các vị thế mở của ngoại tệ luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thị trường rất lớn như rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái. Tuy nhiên, hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam rất ít nhận thức về vấn đề này. Những hiểu biết về kỹ thuật phòng chống rủi ro lãi suất bằng các giao dịch phái sinh, đặc biệt là quyền chọn lãi suất càng khá xa lạ. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp không sẵn lòng tham gia vào các nghiệp vụ này dẫn đến khó khăn cho các trong việc phát triển các nghiệp vụ phái sinh. Điều này cũng cho thấy rằng tại các NHTM Việt Nam công tác Marketing ngân hàng với các hoạt động tuyên truyền, tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ mới còn nhiều hạn chế. 2.2.5. Bài học áp dụng cho thị trƣờng quyền chọn cổ phiếu - Cho phép các ngân hàng, công ty chứng khoán có uy tín tham gia phát hành và giao dịch trên thị trường quyền chọn, khi có nhiều tổ chức tham gia phát hành và giao dịch quyền chọn thì các tổ chức có thể chia sẻ rủi ro và lợi nhuận cho nhau, khả năng quyền chọn được giao dịch thành công sẽ cao hơn. - Xây dựng quy mô quyền chọn hợp lý để nhiều nhà đầu tư có thể tham gia, giúp cho thị trường quyền chọn sôi động hơn, nguyên tắc triển khai thị trường là phải có nhiều nhà đầu tư tham gia để có thể làm trung gian hoặc cân đối hay điều hòa rủi ro giữa những người ký kết hợp đồng quyền chọn với ngân hàng. - Xây dựng mức phí quyền chọn hợp lý, tùy thuộc vào tình hình thị trường để các nhà đầu tư và các nhà phát hành quyền chọn có thể tham gia giao dịch. - Cần có các nhà phân tích và dự báo thị trường để dự báo các rủi ro có thể gặp phải và hướng giải quyết bằng các công cụ bảo hiểm. - Đào tạo chuyên môn cho các nhà điều hành thị trường, các nhà đầu tư, xây dựng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị, hướng dẫn chi tiết và dễ hiểu cho khách hàng để mọi người có thể tham gia vào thị trường quyền chọn. Việt Nam. 2.3.1. TTCK Việt Nam còn nhỏ bé, chƣa thu hút đƣợc nhiều nhà đầu tƣ lớn trong và ngoài nƣớc tham gia. TTCK còn nhỏ bé và chưa thể nói được đó là một kênh huy động vốn dài hạn có hiệu quả cho đầu tư phát triển. Số lượng các công ty chứng khoán tham gia hoạt động trên thị trường hiện nay là hơn 100 công ty nhưng tiềm lực tài chính nhỏ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ nhân viên còn hạn chế và chưa mang tính chuyên nghiệp. Mặt khác, TTCK còn non trẻ nên công chúng đầu tư chưa có những hiểu biết về hoạt động chứng khoán cũng như không thấy hết được lợi ích của việc tham gia TTCK. Hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán mới ra đời, còn nhiều sơ hở, chưa thật đầy đủ, thực hiện thiếu đồng bộ. Chất lượng hoạt động, cung cấp dịch vụ trên TTCK chưa cao, tính minh bạch và hiệu quả còn hạn chế. Do còn khá non trẻ và chưa thực sự ổn định nên việc khống chế biên độ dao động là rất cần thiết đối với TTCK hiện nay. Nhưng cũng chính sự khống chế biên độ dao động đó cũng làm cho thị trường không phản ánh đúng cung cầu trên thị trường. Bên cạnh đó, hiện nay trên TTCK cũng chỉ có một số lệnh hạn chế. Chính những hạn chế này nên thị trường chưa thật sự thu hút mạnh mẽ dân chúng tham gia đầu tư vào thị trường. 2.3.2. Pháp luật về chứng khoán mới ra đời, còn nhiều sơ hở, thực hiện thiếu đồng bộ. Hiện nay, Luật chứng khoán đã có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn đã được ban hành nhưng các quy định quản lý về thị trường, giao dịch còn lỏng lẻo,
thể hiện nhiều bất cập và cần phải sửa đổi cho phù hợp. Do vậy, chưa thể đáp ứng
ngay yêu cầu về tính ổn định, rõ ràng và minh bạch. Kể từ khi Luật chứng khoán có
hiệu lực (01/01/2007), Các thông tư và nghị định hướng dẫn thi hành luật cũng
được ra đời, song tất cả vẫn còn rất mới mẻ để đưa luật vào cuộc sống. Hàng loạt
vấn đề còn tồn tại, từ những quy chế đơn giản như thông tin trên thị trường Uỷ ban cũng mới trong giai đoạn xây dựng quy chế. Bên cạnh đó, hàng loạt các vấn đề khác
phải tiếp tục xây dựng quy chế như giám sát hoạt động TTCK, thị trường trái phiếu chuyên biệt, vấn đề phí và lệ phí. Đặc biệt, Uỷ ban cũng đã đệ trình lên chính phủ đề án phát triển bền vững thị trường và ngăn ngừa khủng hoảng, nhằm đưa ra mọi phương án đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường. Tuy nhiên, để các quy chế
này được thực hiện cần có thời gian và sự đóng góp ý kiến rộng rãi của công chúng và các chuyên gia mới có thể đảm bảo tính khoa học cần thiết. 2.3.3. Hiểu biết của công chúng về TTCK và thị trƣờng quyền chọn còn hạn chế. Điểm yếu nhất hiện tại là hiện tượng đầu tư kể cả đầu cơ của các nhà đầu tư cá nhân theo phong trào trong khi chưa trang bị cho mình những kiến thức cần thiết.
Thị trường vẫn thiếu lực lượng nhà đầu tư chuyên nghiệp, những nhà tạo lập thị trường với những kiến thức chuyên sâu, có kinh nghiệm và am hiểu về luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán. Từ thực tế kiến thức hạn chế, nguồn vốn đầu tư mang
tính ngắn hạn, thiếu tầm nhìn dài hạn và chuyên nghiệp thì có thể dễ dàng hiểu được sự biến động phi lý của giá cổ phiếu trong thời gian qua. Hội nhập quốc tế kiểu “lướt sóng và phong trào bầy đàn” như vậy thì kết quả thất bại là tất yếu và sẽ khó phát triển TTCK bền vững được.
2.3.4. Hàng hoá cho TTCK và thị trƣờng quyền chọn còn nghèo nàn và đơn điệu. Phát triển TTCK là một trong hai nhiệm vụ cơ bản của cơ quan quản lý ngành chứng khoán nhưng không thể tách rời quá trình đổi mới và chuyển đổi nền kinh tế nước ta. Những thành tựu kinh tế đạt được trong những năm qua là kết quả của việc thi hành chính sách đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện để xây dựng TTCK ở Việt Nam – kênh quan trọng huy động vốn dài hạn cho phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện hệ thống tài chính Việt Nam, tăng thêm các khả
năng lựa chọn về tiết kiệm và đầu tư cho dân chúng. Để phát triển TTCK, điều thiết Tháng 6/2006, Quốc hội đã ban hành Luật chứng khoán với những quy định yếu là cần phát triển cung và cầu hàng hoá cho thị trường. Trong đó cung hàng hoá
thực chất liên quan tới hoạt động phát hành và niêm yết chứng khoán của các tổ
chức kinh tế trên thị trường. rất mới về công ty đại chúng và chào bán chứng khoán ra công chúng hướng theo chuẩn mực quốc tế. Những chính sách và luật pháp nêu trên đã cơ bản chấm dứt việc cổ phần hoá khép kín, hạn chế việc bao cấp vốn cho các DNNN. Từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá qua TTCK một cách minh bạch hơn và ngày càng nhiều doanh nghiệp mong muốn thông qua thị trường để huy động vốn đầu tư, phát triển vốn và tăng cường uy tín cũng như hình ảnh của doanh nghiệp mình. Hiện tại (đến tháng 08/2010) đã có 312 chứng khoán niêm yết tại HoSE, 326 tại HNX, 88 công ty đăng ký giao dịch UPCoM, và một số lượng đáng kể các công ty đang trong quá trình hoàn thiện các thủ tục đăng ký niêm yết tạo danh mục hàng hóa cơ sở đa dạng. 2.3.5. Đội ngũ nhân lực phục vụ thị trƣờng thừa về số lƣợng, yếu về chất lƣợng. Do nền kinh tế phát triển nhanh và sự ra đời của hàng loạt công ty chứng khoán khiến thị trường lao động thiếu hụt nghiêm trọng. Trong khi đó, nhiều trường đại học chưa có chương trình đào tạo chuyên biệt về chứng khoán. Kết quả là hằng năm, trong số khoảng 1000 – 2000 sinh viên tốt nghiệp có chuyên môn về chứng khoán, chỉ có chừng 15% có thể đáp ứng được yêu cầu cơ bản. TTCK phát triển nóng đã làm bùng nổ nhu cầu về nhân lực cho lĩnh vực còn khá mới mẻ này. Cho đến năm 2010, cả nước đã có hơn 105 công ty chứng khoán, 47 công ty quản lý quỹ và gần 10.000 người được cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Tuy nhiên, về chất, trong số 105 công ty chứng khoán, có một bộ phận không nhỏ các công ty ngày càng bộ lộ sự yếu kém về quản trị và năng lực kinh doanh, trong đó không loại trừ khả năng một số công ty đã mất vốn đầu tư ban đầu. 47 công ty quản lý quỹ được cấp phép cũng hoạt động không đồng đều, mà theo Ủy Ban Chứng Khoán, hiện nay, mới chỉ có 33/47 công ty đã triển khai hoạt động quản lý tài sản, trong đó mới có 14 công ty huy động được quỹ. Với số lượng hơn 105 công ty chứng khoán đối với TTCK Việt Nam là quá nhiều và dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hưởng đến sự minh bạch và giao dịch công bằng trên TTCK. chậm chạp thiếu chuẩn xác. Cơ sở hạ tầng công nghệ của TTCK Việt Nam còn quá sơ khai. Điều này gây hạn chế đối với nhà đầu tư mặc dù ai cũng hiểu thị trường còn non trẻ. Nhà đầu tư muốn các lệnh giao dịch lớn phải được xử lý nhanh và thông báo ngay kết quả. Hiện tại thì các công ty chứng khoán đã triển khai giao dịch trực tuyến và không qua sàn nhưng khi thị trường bắt đầu đảo chiều thì hệ thống nhận lệnh trên internet bị nghẽn lại làm mất đi cơ hội kinh doanh của các nhà đầu tư. Khi các giao dịch được thực hiện qua mạng mà hệ thống bảo mật chưa được chú trọng sẽ làm cho các công ty chứng khoán và nhà đầu tư thiệt hại khi các Hacker đột nhập hệ thống giao dịch và thay đổi dữ liệu. Mặt khác, một trong những mối lo ngại của các nhà đầu tư nước ngoài ở TTCK Việt Nam là thông tin chậm (các thông tin về tài chính, về cổ phiếu thưởng,…). Khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, nhà đầu tư đã chấp nhận một số rủi ro chẳng hạn như rủi ro về biến động giá lại phải chịu thêm những rủi ro về thông tin. Trên báo chí, trên các mạng lại có quá nhiều thông tin chưa thẩm định hoặc thông tin không chính thức. Không có ai bị quy trách nhiệm khi phát biểu hoặc đăng tải những thông tin sai lệch gây ảnh hưởng xấu đến nhà đầu tư. Ở các TTCK lớn, quy định về công bố thông tin rất chặt chẽ. Báo chí phải chịu trách nhiệm về những thông tin đăng tải. Những người đã phát biểu trên các phương tiện thông tin đại chúng phải chịu trách nhiệm về những điều mình nói. Đó là những cách bảo vệ cho nhà đầu tư. Để đáp ứng cho một thị trường đang phát triển nhanh, phải xây dựng được một hệ thống thông tin nhanh chóng, minh bạch và đồng thời phải nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ. Thay vì phải mất nhiều năm, việc nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ sẽ giúp thị trường Việt Nam đi tắt đón đầu, tiết kiệm được nhiều thời gian và tiền bạc. 2.3.7. Cơ chế quản lý TTCK còn bất cập, chƣa hiệu quả. Không thể phủ nhận những thành quả đạt được của TTCK sau hơn 10 năm hoạt động tạo ra một kênh huy động vốn nhanh và hiệu quả thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp. 700.000 tỉ đồng, chiếm trên 40% GDP.. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của TTCK đang đặt ra không ít thách thức đối với cơ quan quản lý. (nguồn bsc.com.vn) Hiện nay, sự liên kết các bộ, ngành trong lĩnh vực quản lý chính sách tiền tệ còn chồng chéo. UBCKNN đang xây dựng thông tư liên tịch hợp tác trao đổi thông tin giữa NHNN và Bộ tài chính. Ví dụ như việc quản lý nguồn vốn đầu tư gián tiếp trước đây bên nọ đổ cho bên kia, chưa có sự thống nhất chung dẫn đến việc quản lý nhóm đối tượng này chưa có đầu mối tập hợp. Hay như việc ban hành chính sách tiền tệ, tài chính về lãi suất ngân hàng, thuế nếu như không có sự phối hợp thông tin của các bên dẫn đến mỗi bên đơn phương ban hành chính sách theo quan điểm của ngành mình sẽ gây ra những tác động tiêu cực chung đến thị trường. Ngoài ra, chức năng quan trọng của cơ quan quản lý đó là giám sát cũng còn chưa hiệu quả. Nếu dựa vào số liệu thống kê, có thể nói thanh tra của UBCKNN thuộc vào loại nhàn nhất trong các hoạt động chung của Uỷ ban. Cho đến thời điểm hiện tại, Quyết định số 85/2010/NĐ-CP ngày 02/08/2010 về “Xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán” đã đưa ra mức phạt hành chính để răn đe các hành vi vi phạm, mức phạt thấp nhất là 5 triệu đồng và mức phạt cao nhất lên đến 500 triệu đồng, chính điều này có thể hạn chế và xử phạt các hành vi vi phạm trên thị trường chứng khoán. Vấn đề là công cụ, năng lực giám sát của Uỷ ban còn hạn chế. Các hoạt động làm giá của các nhóm đầu tư lớn chưa được phát hiện và xử lý kịp thời, các nhà đầu tư này đẩy giá chứng khoán để trục lợi mà các nhà giám sát thị trường vẫn chưa tìm ra được biện pháp ngăn chặn và xử lý. Riêng về mặt công nghệ thông tin để tra cứu các giao dịch có hành vi thao túng thị trường hầu như không làm được. Bên cạnh đó, lực lượng thanh tra của cơ quan quản lý còn quá mỏng trong khi quy mô thị trường lại phát triển quá nhanh. Mặt khác, chế tài xử phạt hiện nay còn đang điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý cũ, không còn phù hợp với thực tiễn, các chế tài chưa đủ mạnh để có sức răn đe đối với những đối tượng có hành vi vi phạm giao dịch trên thị trường. Những thách thức nêu trên là vấn đề tất yếu có tính quy luật đối với các thị trường mới nổi. Đây cũng là quá trình vừa làm vừa hoàn thiện dần. Tuy nhiên, để giảm thiểu những bất cập có thể xảy ra và xây dựng một thị trường bền vững, các nhà làm chính sách và quản lý cần tập hợp sức mạnh của các chuyên gia, nghiên cứu kinh nghiệm của các thị trường đã phát triển, vận dụng linh hoạt những vấn đề có lợi cho thị trường và xây dựng cơ chế cho những quyết định mang tính đột phá, đem lại hiệu quả cho sự phát triển của thị trường, từ đó phát huy được tính sáng tạo, trách nhiệm của những người quản lý thị trường. 2.3.8. Nghiệp vụ bán khống chƣa đƣợc triển khai trên TTCK. TTCK Việt Nam hiện nay vẫn còn chứa đựng những bất cập. Điều cốt lõi vẫn từ nhận thức của nhà đầu tư về thị trường cũng như sản phẩm chứng khoán giao dịch trên thị trường còn quá nông cạn. Hiện tượng tranh mua rồi lại tranh bán theo kiểu phong trào và bầy đàn hiện nay đã đẩy thị trường chao đảo, ở thế bế tắc càng bế tắc hơn. Mặc dù nghiệp vụ bán khống sẽ tạo thêm sự thông thoáng, sôi động hơn cho TTCK vì nó thu hút thêm nhiều nhà đầu tư cũng như tạo thêm hàng hoá cho thị trường nhưng với đặc điểm của thị trường Việt Nam như hiện nay, nghiệp vụ bán khống đã được Luật chứng khoán cho phép nhưng chưa thực sự triển khai được cũng là hợp lý với tình hình. Muốn nghiệp vụ này triển khai được thì phải cần có thời gian, trước tiên là chờ đợi sự phát triển trong nhận thức của nhà đầu tư Việt Nam về TTCK cũng như các sản phẩm đi cùng, trong đó có bán khống là một sản phẩm cao cấp và trí tuệ của thị trường mà không phải ai có tiềm lực về tài chính cũng có thể tham gia được. Sự tham gia của nhà đầu tư thiếu am hiểu về nghiệp vụ bán khống là không có lợi cho thị trường cũng như không mang lại những hiệu ứng tích cực như mong đợi cho thị trường. Qua những phân tích về thực trạng TTCK Việt Nam sau hơn 10 năm hoạt động, chúng ta đã thấy được những thăng trầm của TTCK và những khó khăn ảnh hưởng đến xu hướng của thị trường, chính điều đó đã nói lên sự cần thiết phải phát triển thị trường quyền chọn để tạo ra một công cụ hỗ trợ hữu hiệu cho các nhà đầu tư khi tham gia vào TTCK. Để tạo điều kiện đưa quyền chọn cổ phiếu vào thực tiễn Việt Nam thì có hai vấn đề cần phải giải quyết là hoàn thiện và thúc đẩy cho việc phát triển TTCK Việt Nam đồng thời hình thành những nền tảng cơ bản cần thiết cho sự ra đời của quyền chọn cổ phiếu trong tương lai. Muốn làm được điều này thì cần phải giải quyết những khó khăn thách thức đang còn tồn tại trên TTCK Việt Nam. Hiện nay Việt Nam vẫn chưa đủ điều kiện để ứng dụng quyền chọn cổ phiếu vào thị trường, nhưng việc hình thành thị trường quyền chọn là một yêu cầu tất yếu. Do đó, chúng ta cần phải thực hiện công tác chuẩn bị thật chu đáo cho sự ra đời này song song với việc phát triển TTCK. Đến khi đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng rồi và nhu cầu về quyền chọn đã phát sinh thì mới đưa quyền chọn vào áp dụng. Việc đưa quyền chọn vào thực tiễn Việt Nam nên thực hiện theo từng giai đoạn và có những bước đi phù hợp với tình hình thực tế và xu thế hội nhập với nền tài chính thế giới. 3.1. Quy trình xây dựng đƣa quyền chọn cổ phiếu vận hành thực tiễn vào TTCK Việt Nam. Thị trường quyền chọn cổ phiếu là một bộ phận của TTCK, vì thế thị trường này chỉ có thể phát triển khi TTCK phát triển và ổn định. Do đó để có thể đưa quyền chọn cổ phiếu vào vận hành trong nền kinh tế cần giải quyết hai vấn đề: (i) phải hoàn thiện và thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển trong bối cảnh hội nhập với thị trường tài chính thế giới và (ii) hình thành những điều kiện cần thiết tạo cơ sở cho sự ra đời quyền chọn cổ phiếu trong tương lai. Trên thế giới, quyền chọn đã xuất hiện từ rất lâu nhưng mãi đến năm 1973 thì thị trường quyền chọn mới chính thức được giao dịch tập trung tại Mỹ. Về mặt nguyên lý TTCK thực sự sôi động, đầu tư chứng khoán trở thành một nhu cầu tất yếu của mọi người thì thị trường quyền chọn mới có thể phát triển được. Vì thế để có thể ứng dụng quyền chọn cổ phiếu vào TTCK Việt Nam một cách suôn sẻ thì cần có một sự chuẩn bị thật chu đáo các điều kiện cần thiết cho sự ra đời của một công cụ tài chính mới này. Như đã trình bày ở chương 2, TTCK Việt Nam trong thời gian qua biến động dữ dội. Với những biến động bất thường trên TTCK như vậy, sự ra đời của quyền chọn cổ phiếu thực sự là một giải pháp tốt cho TTCK Việt nam, đồng thời đó cũng là một bước nhảy để đưa TTCK Việt Nam lên một tầm cao mới phát triển cùng TTCK khu vực. Nhìn chung các điều kiện về cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, công nghệ thông tin tích dồn được trong quá trình hơn 10 năm qua cũng có nhiều tiến bộ; nhiều công ty chứng khoán đã ra đời và đã tự mình trang bị kỹ thuật hiện đại hoặc thông qua việc liên kết hợp tác với nước ngoài để tìm hiểu và học hỏi về khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm trang bị cho sàn giao dịch của mình. Luật chứng khoán đã ra đời và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đây là cơ sở pháp lý cho TTCK cũng như thị trường quyền chọn vận hành tự giác và có giám sát. Về mặt nhân sự, đội ngũ nhân viên phục vụ cho thị trường cũng khá đầy đủ về số lượng và từng bước được cải thiện và nâng cao về chất lượng. Thông qua sự ra đời và phát triển các quyền chọn vàng, quyền chọn ngoại tệ nhà đầu tư cũng nắm khá rõ về các công cụ quyền chọn và đây là yếu tố tiền đề rất quan trọng để Có thể nói rằng Việt Nam hiện giờ đã có khá đầy đủ và chín muồi các điều kiện bắt đầu hình thành thị trường quyền chọn cổ phiếu. cần thiết để bước vào giai đoạn chuẩn bị hình thành thị trường quyền chọn cổ phiếu trên TTCK. Các giai đoạn phát triển thị trường quyền chọn cổ phiếu có thể chia thành: (i) Giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thí điểm và (ii) giai đoạn hoàn thiện và phát triển thị trường quyền chọn. 3.1.2. Lộ trình xây dựng thị trƣờng quyền chọn cổ phiếu Việt Nam. Trên cơ sở thực tế, nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn khó khăn do lạm phát tăng cao và Chính phủ đang nỗ lực tập trung ổn định kinh tế vĩ mô. Các dấu hiệu khách quan cho thấy chính sách thắt chặt tiền tệ cứu lạm phát của Chính phủ đã dần dần phát huy tác dụng và theo sự nhận định và đánh giá chung của các cấp có thẩm quyền trong và ngoài nước. Năm 2010, Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp thực hiện mục tiêu phục hồi tăng trưởng kinh tế và bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009 (tăng trưởng GDP khoảng 6,5% và chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá 7%- nguồn: vnexpress.net), tạo tiền đề tăng trưởng nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo; giữ ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, TTCK sẽ phục hồi sức khoẻ, trở lại hoạt động bình thường tiếp tục thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Và cũng căn cứ vào kế hoạch xây dựng TTCK phái sinh giai đoạn 2010-2015 trong chiến lược phát triển TTCK của Chính phủ đến năm 2015 tạo thuận lợi cho quyền chọn cổ phiếu được đưa vào giao dịch trên thị trường, xin được đề nghị lộ trình triển khai giao dịch quyền chọn cổ phiếu như sau: Giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thí điểm sẽ tập trung hoàn tất trong 2 năm 20011-2012 nhằm tạo nền tảng cho thị trường phi tập trung (OTC) giao dịch quyền chọn cổ phiếu. Giai đoạn hoàn thiện và phát triển thị trường quyền chọn cổ phiếu thực hiện trong 3 năm 2013- 2015, nhằm xây dựng xong sàn tập trung giao dịch quyền chọn cổ phiếu và từ đây có thể hội nhập vào các thị trường khu vực, thế giới. Tiến trình các bước thực hiện được trình bày cụ thể theo mục 3.1.2 và 3.1.3 dưới đây: Công tác chuẩn bị trước khi thị trường quyền chọn được hình thành có vai trò rất quan trọng cho sự điều hành thị trường thuận lợi sau này. Công tác chuẩn bị phải được thực hiện từ khâu đơn giản nhất đến khâu phức tạp nhất. Nhiệm vụ của giai đoạn này là xây dựng các nền tảng cho thị trường quyền chọn. Cần phải có sự chuẩn bị về cơ sở luật điều chỉnh thị trường, xây dựng nền tảng nhận thức cho người dân, hình thành đội ngủ cán bộ phục vụ thị trường, chuẩn bị kế hoạch cho việc tạo dựng danh mục hàng hoá cho thị trường quyền chọn, cơ sở vật chất kỹ thuật, phần mềm… Giai đoạn này đề nghị hoàn tất trong năm 2012, theo sơ đồ thực hiện dưới đây: Sơ đồ 3.1: Giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thí điểm Việc đưa giao dịch quyền chọn cổ phiếu vào thị trường phải lựa chọn thời điểm phù hợp khi mọi điều kiện đã được chuẩn bị chu đáo. Trong giai đoạn này cần hội đủ các điều kiện sau: - TTCK trở nên sội động, nhiều nhà đầu tư tham gia giao dịch trên thị trường. - Không còn sự khống chế của biên độ dao động giá. - Chỉ số chứng khoán phản ánh đúng tình trạng “sức khoẻ” của nền kinh tế . - Nhu cầu bảo hiểm rủi ro thị trường biến động cũng như nhu cầu dùng quyền chọn làm công cụ kiếm lời đã hình thành trong tư tưởng của các nhà đầu tư tài chính. - Nghiệp vụ bán khống đã được nhận thức đầy đủ và trở thành quen thuộc đối với các nhà đầu tư trên thị trường. Lúc này mới xúc tiến công việc đưa quyền chọn cổ phiếu vào giao dịch. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước bầu ra tổ chức phát hành quyền chọn, tổ chức này phải có nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định. 3.1.3.1. Tiêu chuẩn của cổ phiếu cơ sở để quyền chọn đƣơc niêm yết và hủy niêm yết. * Tiêu chuẩn của cổ phiếu cơ sở để quyền chọn đƣợc niêm yết + Tối thiểu 20.000.000 cổ phiếu đó đang lưu hành trên thị trường. + Tối thiểu 10.000 người đang nắm giữ cổ phiếu đó. + Khối lượng giao dịch trung bình trên toàn thị trường phải đạt 400.000 cổ phiếu/ngày trong vòng 12 tháng liên tục. + Thị giá cổ phiếu ít nhất phải đạt 30.000 đồng/ cổ phiếu trong 3 tháng gần nhất. + Công ty phát hành phải tuân thủ Luật chứng khoán. Nếu cổ phiếu cơ sở không còn đáp ứng những yêu cầu trên thì quyền chọn dựa trên cổ phiếu đó không được phép phát hành tiếp. Những quyền chọn hiện hành phát hành dựa trên cổ phiếu đó vẫn được thực hiện nếu có yêu cầu trong khoảng thời gian đáo hạn. Một quyền chọn bị huỷ niêm yết khi cổ phiếu cơ sở rơi vào các trường hợp sau: + Có ít hơn 18.000.000 cổ phiếu đang lưu hành. + Có ít hơn 8.000.000 người đang nắm giữ cổ phiếu đó. + Khối lượng giao dịch trung bình trên toàn thị trường trong 1 tháng gần nhất thấp hơn 300.000 cổ phiếu/ngày. + Giá cổ phiếu lúc đóng cửa thấp hơn 24.000 đồng/cổ phiếu trong vòng 6 tháng gần nhất. 3.1.3.2. Hệ thống giao dịch quyền chọn cổ phiếu. Phƣơng thức giao dịch: Giao dịch chứng khoán phái sinh theo phương thức giao dịch khớp lệnh, bao gồm: - Khớp lệnh định kỳ xác định giá mở cửa. - Khớp lệnh liên tục. - Khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa. Ký quỹ giao dịch: Mức ký quỹ bắt buộc đối với quyền chọn cổ phiếu là 15% và nhà đầu tư phải ký quỹ trước khi thực hiện giao dịch. Quy mô hợp đồng: Quy định đối với quyền chọn cổ phiếu trên thị trường tập trung là 100 cổ phiếu/hợp đồng. Thời hạn hợp đồng: Áp dụng tháng đáo hạn theo vòng quay 1 chu kỳ l tháng đáo hạn vào tháng 3, tháng 6, tháng 9 và tháng 12 hoặc tháng 1, tháng 4, tháng 7, tháng 10. Giới hạn vị thế: Một nhà đầu tư cá nhân hay tổ chức không được phép có vị thế vượt quá 5000 hợp đồng quyền chọn, để hạn chế hiện tượng đầu cơ và thao túng giá thị trường. Giới hạn thực hiện: đây là quy định nhằm giới hạn số lượng hợp đồng được giao dịch trong một khoảng thời gian cụ thể. Nhà đầu tư cá nhân và tổ chức không thể thực hiện vượt quá 5000 vị thế hợp đồng quyền chọn trong 5 ngày liên tiếp. Kiểu thực hiện quyền: Theo kiểu Châu Âu (quyền chọn chỉ được phép thực hiện vào ngày đáo hạn hợp đồng). Ngày giao dịch cuối cùng: Quy định quyền chọn cổ phiếu được quy định là vào ngày thứ năm thứ hai của tháng đáo hạn. Thông tin cơ bản về một quyền chọn cổ phiếu Tên tài sản cơ sở STB, VCB, CTG Loại quyền chọn Mua / bán Mã quyền chọn Quy mô hợp đồng 100 cổ phiếu Thời gian giao dịch Đơn vị yết giá Biên độ dao động giá 10% Ngày giao dịch cuối cùng Ngày thanh toán cuối cùng Phương thức thanh toán Cổ phiếu Kiểu thực hiện quyền Châu Âu 3.1.3.3. Quy trình giao dịch quyền chọn cổ phiếu. Trước tiên, nhà đầu tư muốn tham gia giao dịch quyền chọn cổ phiếu phải đến công ty thành viên của Trung tâm thanh toán bù trừ quyền chọn – các công ty chứng khoán để mở tài khoản. Mở tài khoản: Các nhà đầu tư đến các Công ty thành viên của SGDCK để mở tài khoản: - Phiếu đăng ký giao dịch quyền chọn - Đăng ký uỷ quyền giữ thế chấp cho công ty chứng khoán nơi mở tài khoản - Phiếu đồng ý chấp nhận quyền chọn, đảm bảo tuân thủ quy định giao dịch. Đặt lệnh: Khi đặt lệnh mua bán, nhà đầu tư phải ký quỹ theo quy định. Các thành viên thực hiện kiểm tra ký quỹ và thực hiện phong tỏa khoản ký quỹ trước khi thực hiện lệnh cho nhà đầu tư, sau đó chuyển lệnh mua / bán vào hệ thống giao dịch tại sàn giao dịch tương lai của SGDCK. Thông báo kết quả giao dịch: Theo phương thức và thời gian giao dịch đã quy định sẵn, Công ty chứng khoán thành viên sẽ thông báo kết quả giao dịch về từng thành viên để thông báo cho nhà đầu tư. Định kỳ nhà đầu tư cũng nhận được những tài liệu cung cấp thông tin về tài khoản bao gồm: - Bảng xác nhận hợp đồng. - Bảng kê vị thế mở. - Bảng kê giao dịch hàng tháng. 3.1.3.4. Quy trình thanh toán bù trừ đối với việc thực hiện quyền chọn. Mô hình thanh toán bù trừ: SGDCK thành lập một công ty con làm Trung tâm thanh toán bù trừ. SGDCK có một hệ thống các công ty thành viên thanh toán cung cấp dịch vụ thanh toán bù trừ cho khách hàng. Muốn trở thành thành viên thanh toán phải được sự chấp thuận của SGDCK và được cấp giấy phép hoạt động thanh toán bù trừ. Một công ty có thể vừa là thành viên giao dịch vừa là thành viên thanh toán của SGDCK. Thành viên giao dịch nếu không đồng thời là thành viên thanh toán thì phải ký hợp đồng thanh toán với ít nhất một thành viên thanh toán để sử dụng dịch vụ thanh toán. Vào ngày đáo hạn hợp đồng quyền chọn, các hợp đồng không thực hiện sẽ bị huỷ bỏ còn các hợp đồng có giá trị thực được nhà đầu tư thực hiện quyền: Quy trình thanh toán bù trừ đối với việc thực hiện quyền chọn : (5) (6) (2) (1) (4) (3 ) + (1) Nhà đầu tư thông báo cho công ty nơi mình mở tài khoản về việc thực hiện quyền chọn của mình. + (2) Công ty chứng khoán thành viên có trách nhiệm tổng hợp và gửi thông báo cho SGDCK. + (3) SGDCK chọn ngẫu nhiên thành viên có nhà đầu tư phát hành quyền chọn này để thực hiện thanh toán bù trừ theo nguyên tắc đã được quy định trước. Nếu thành viên có nhiều hơn một nhà đầu tư đủ tư cách thực hiện nghĩa vụ, người phát hành được chọn theo quy định first in – first out. + (4) Tổ chức phát hành quyền chọn được chỉ định phải giao hoặc nhận cổ phiếu cơ sở hoặc tiền tuỳ vào loại hợp đồng quyền chọn được thực hiện. + (5) Ngân hàng thanh toán sẽ chuyển giao tiền và cổ phiếu từ tài khoản thanh toán giữa các thành viên. + (6) Thành viên có trách nhiệm chuyển giao tiền và cổ phiếu về tài khoản của nhà đầu tư. Sơ đồ 3.2: Thể hiện vai trò của tổ chức phát hành quyền chọn + Tổ chức phát hành quyền chọn: là các công ty chứng khoán thành viên, chịu sự quản lý của UBCKNN, đảm bảo có đủ lượng cổ phiếu cơ sở để thanh toán khi hợp đồng quyền chọn được thực hiện. + Tổ chức này sẽ phải có đầy đủ nguồn nhân lực và các chuyên gia để có thể định được giá quyền chọn, đưa ra quy mô hợp đồng, giá thực hiện phù hợp với tình hình thị trường Việt Nam hiện tại. Trong giai đoạn đầu, tổ chức phát hành quyền chọn sẽ được giám sát chặt chẽ bởi UBCKNN nhằm mục đích ổn định thị trường. Tổ chức này ngoài việc phát hành quyền chọn nên thêm dịch vụ mua lại các hợp đồng quyền chọn đã bán ra khi nhà đầu tư có yêu cầu để tăng thêm tính thanh khoản cho các hợp đồng đã được phát hành. Thời gian này, tổ chức phát hành nên chú trọng phổ biến về quyền chọn là chính và chưa nên chú trọng mục tiêu lợi nhuận. Nhà đầu tư muốn mua quyền chọn của công ty phát hành thì phải thông qua công ty chứng khoán theo mô hình sau: Công ty chứng khoán chỉ đóng vai trò là trung gian giữa nhà đầu tư và công ty phát hành quyền chọn. Nhà đầu tư muốn tham gia giao dịch phải thực hiện ký quỹ để đảm bảo việc thanh toán tiền phí hợp đồng khi lệnh mua quyền được thực Giai đoạn này có thể kéo dài trong vài năm (cố gắng hoàn tất cuối 2011) cho hiện. đến khi nhà đầu tư bắt đầu quen với công cụ tài chính mới mẻ này, họ có một vài kinh nghiệm trong việc sử dụng các công cụ tài chính phái sinh, đồng thời các cơ quan quản lý cũng đúc kết được những kinh nghiệm trong việc điều hành thị trường. Trong giai đoạn này các điều kiện để phát triển thị trường như hoàn thiện TTCK, hình thành các chế tài nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các thành viên có liên quan, phổ cập kiến thức quyền chọn, tạo hàng hoá cho thị trường quyền chọn, đào tạo nguồn nhân lực… cũng cần được tiếp tục thực hiện ngày càng sâu rộng hơn. 3.1.4. Giai đoạn hoàn thiện và phát triển thị trƣờng quyền chọn. Khi đã xây dựng được một số nền tảng, đúc kết được những kinh nghiệm nhất định cho công tác quản lý và điều hành và người dân đã quen với công cụ quyền chọn cổ phiếu, chúng ta tiến hành giai đoạn hoàn thiện thị trường. Trong giai đoạn này hệ thống luật cho cho thị trường quyền chọn tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống giao dịch, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công nghệ đảm bảo cho giao dịch trên thị trường được tiến hành nhanh chóng và Bắt đầu cho phép một số tổ chức khác nhau có năng lực tham gia phát hành thuận lợi (Lộ trình 2013- 2015): quyền chọn, kể cả nhà đầu tư cá nhân. Các tổ chức này phải đáp ứng một số tiêu chuẩn về trình độ của đội ngũ nhân lực, khả năng tài chính, uy tín cũng như kinh nghiệm tham gia TTCK và được sự chấp thuận của UBCKNN. Chú trọng đưa ra các tiêu chuẩn hoạt động của các thành viên tham gia, đặc biệt
là các tổ chức phát hành quyền chọn và công ty chứng khoán, có những chế tài nghiêm khắc cho những hành động làm ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của các nhà đầu tư. Cơ quan thanh toán hợp đồng quyền chọn được hình thành và là trung gian giao
dịch giữa các bên tham gia thị trường, nghĩa là trở thành đối tác giao dịch của hai bên tham gia mua và bán quyền chọn cổ phiếu. Đây cũng là cơ hội đưa ra các quy tắc về giao dịch, ngày đến hạn của hợp đồng…Tổ chức này sẽ thực hiện
thu phí đối với thành viên tham gia tổ chức. Thành viên của tổ chức sẽ là các công ty chứng khoán đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của cơ quan quản lý quyền chọn. Giải pháp cho giai đoạn hoàn thiện và phát triển thị trường quyền chọn được đề cập trong nhóm “Giải pháp phát triển thị trường quyền chọn cổ phiếu” ở mục 3.3 dưới đây.
3.1.5. Mô hình quyền chọn cổ phiếu trên thị trƣờng quyền chọn tập trung. Trên cơ sở tham chiếu mô hình thị trường quyền chọn trên thế giới như CBOE chúng ta có thể xây dựng một mô hình giao dịch quyền chọn cổ phiếu ban đầu cho Việt Nam như sơ đồ dưới đây: SƠ ĐỒ 3.3: GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU TRÊN SÀN TẬP TRUNG Với mục tiêu là bảo vệ các nhà giao dịch và đảm bảo việc tuân thủ các quy định của luật pháp, Sàn giao dịch CBOE cũng thiết lập các bộ phận để giám sát hoạt động trên sàn giao dịch bao gồm: Bộ phận giám sát thị trƣờng: có chức năng đảm bảo tính tuân thủ luật pháp và các nguyên tắc của việc giao dịch. Bộ phận kiểm tra: có chức năng kiểm tra, thanh tra ,theo dõi các hiện tượng vi phạm về tư cách hoạt động, các giao dịch bất thường của các thành viên theo quy định của Uỷ ban chứng khoán. Các nhân viên giám sát có thể mở các cuộc thanh tra những thành viên hoặc cá nhân vi phạm căn cứ vào những nguồn thông tin đáng tin cậy. Kết luận của ban thanh tra sẽ được đệ trình đến Uỷ ban quản lý kinh doanh chứng khoán để cơ quan này ra quyết định xử lý theo các hình thức: cảnh cáo, phạt, giới hạn chức năng hoạt động hoặc thậm chí đình chỉ hoạt động của các thành viên trên sàn. 3.2. Đề xuất giải pháp tiền đề cho việc xây dựng và phát triển thị trƣờng giao dịch quyền chọn. 3.2.1. Phổ biến kiến thức về quyền chọn thông qua các CTCK, các định chế trung gian triển khai đến ngƣời dân. Các CTCK thường tiếp cận và hiểu biết hơn về công cụ quyền chọn chứng khoán so với các thành phần khác trong xã hội. Để phát triển công cụ này, các CTCK, các định chế trung gian cần thành thạo trong lĩnh vực rồi phổ biến đến các khách hàng của mình cũng như các thành phần khác trong xã hội hiểu về chúng, để họ có thể sử dụng được các công cụ này. Bởi vì, thị trường quyền chọn muốn phát triển không chỉ phát triển thị trường này vào giữa các CTCK, các định chế trung gian mà cần được phát triển đến tất cả các thành phần kinh tế, đến các NĐT. Các CTCK cần phải công khai thông tin và trung thực trong hoạt động kinh doanh công cụ phái sinh này với khách hàng, phân tích để khách hàng hiểu và tự quyết định. Nhu cầu được tư vấn của NĐT cá nhân rất cao. Nhất là thời điểm hiện nay, khi thị trường không còn cảnh mua đâu, thắng đó nên NĐT rất cần có nhiều thông tin, có người trao đổi trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Nâng cao trình độ hiểu biết của người đầu tư về công cụ quyền chọn chứng khoán. Nhận thức chưa đúng và đầy đủ về công dụng của các công cụ tài chính phái sinh trong đó có quyền chọn chứng khoán. Do các công cụ tài chính phái sinh chưa phát triển ở Việt Nam nên rất nhiều người chưa nhận thức hết công dụng của nó, từ đó, dẫn đến hiểu và sử dụng sai công dụng và sớm qui kết các công cụ tài chính phái sinh chỉ phục vụ cho đầu cơ. Thật ra, các công cụ này có thể sử dụng cho cả hai mục đích đầu cơ và phòng ngừa rủi ro. Trung tâm nghiên cứu đào tạo UBCKNN cần thiết phải mở các lớp học mẫu ngắn hạn, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về chứng khoán và công cụ tài chính phái sinh tại các Trung tâm văn hóa quận, huyện hay Nhà văn hóa thanh niên cho các đối tượng đang sinh hoạt tại đây để vừa có dịp vui chơi, giải trí vừa có dịp học tập bổ ích bởi vì nhu cầu tìm hiểu và tham gia TTCK trong công chúng là rất lớn. 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho TTCK. TTCK muốn thu hút được nhiều NĐT, trước hết phải tạo cho NĐT tâm lý được kinh doanh một cách công bằng trên thị trường. TTCK ổn định và phát triển là thị trường ít xảy ra gian lận, phạm pháp, có nguồn hàng hoá dồi dào, thông tin minh bạch và các nhà đầu tư được đối xử như nhau. Để có được điều này cần phải xây dựng TTCK trên một cơ sở có một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng hành lang pháp lý nhằm tăng cường tính minh bạch, giảm rủi ro cho thị trường và tính cấp bách của vấn đề này không cho phép kéo dài hơn nữa. Các hoạt động kiểm tra, thanh tra phát hiện vi phạm của cá nhân và doanh nghiệp phải được xử phạt thật nặng để làm gương, chắc chắn sẽ tác động tích cực đến thị trường, vì thế chúng ta cần phải ngày một kiện toàn hệ thống pháp luật hiện nay. Chẳng hạn như: Đẩy mạnh việc triển khai thực thi Luật Chứng khoán thông qua việc ban hành và triển khai các văn bản dưới luật hướng dẫn; hoàn thiện cơ chế đấu giá theo hướng ngày càng công khai và minh bạch hơn. Ban hành quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết, CTCK và công ty quản lý quỹ đầu tư. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế trên cơ sở hệ thống kế toán và kiểm toán tốt. Cải cách thủ tục hành chính, ban hành và thực thi quy trình cấp phép thành lập và hoạt động của các CTCK, công ty quản lý quỹ. Minh bạch hoạt động quản lý, giám sát thị trường của các cơ quan quản lý. Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu theo lô lớn, tăng cường hình thức phát hành thông qua đấu thầu, bảo lãnh để niêm yết trên TTCK. Chuyển đổi các trung tâm giao dịch chứng khoán từ tổ chức sự nghiệp có thu thành doanh nghiệp với hình thức pháp lý trước mắt là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tiến tới cổ phần hoá sau một thời gian hoạt động. Sửa đổi các quy định về thuế, phí, lệ phí đối với các đơn vị này tương ứng với sự thay đổi về hình thức tổ chức. Để hạn chế tình trạng giao dịch nội gián, lạm dụng thông tin từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp do khép kín quá trình cổ phần hoá, từ định giá đến xác định NĐT, cần xem xét chuyển Uỷ ban chứng khoán thành một cơ quan nhà nước độc lập, tách các sàn giao dịch chứng khoán khỏi Uỷ ban chứng khoán. Trong trường hợp các trung tâm giao dịch tách khỏi Uỷ ban chứng khoán nhưng vẫn là doanh nghiệp nhà nước thì các vấn đề tổ chức, cán bộ vẫn do bộ chủ quản quyết định. Khi đó tác dụng không như mong đợi. Giao dịch nội gián không chỉ ở các đợt IPO mà còn tại các công ty niêm yết, các công ty đại chúng, … 3.2.3. Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động quyền chọn chứng khoán. Điều quan trọng nhất để phát triển thị trường quyền chọn chứng khoán là hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Bởi giao dịch công cụ tài chính phái sinh này không thể là việc hình thành cung - cầu một cách bản năng tự nhiên của các chủ thể trong nền kinh tế. Thị trường dịch vụ tài chính – là một trong những bộ phận quan trọng bật nhất trong nền kinh tế, cần phải được phát triển lành mạnh, hoạt động có hiệu quả và trong khuôn khổ pháp luật cho phép vì lợi ích vĩ mô và toàn cục. Như vậy, môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực pháp lý cao là điều kiện cần cho sự hình thành và phát triển của thị trường quyền chọn chứng khoán. Phải nhìn nhận rằng, quyền chọn chứng khoán là một công cụ phái sinh và là công cụ phái sinh phức tạp nhất trong số các sản phẩm phái sinh hiện nay. Vì vậy để phát triển được sản phẩm này, Chính phủ và các ban ngành có liên quan cần phải chuẩn bị xây dựng một cơ sở pháp lý chặt chẽ và hợp lý. Hệ thống khung pháp lý là cơ sở quan trọng nhất quy định nguyên tắc tổ chức và hoat động của thị trường phái sinh và tạo nên những rào chắn bảo vệ sự lành mạnh của thị trường tài chính, đồng thời các văn bản pháp luật cũng là cơ sở quan trọng cho dịch vụ mới ra đời. Xây dựng được khung pháp lý mang tính thực tiễn, thống nhất và khoa học. Hệ thống văn bản pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở thực tế, căn cứ vào hoạt động của TTCK và có thể điều chỉnh được thị trường theo hướng bao quát, toàn diện và kịp thời. Từ tính chất phức tạp của các hợp đồng quyền chọn, ngoài việc ban hành mới và bộ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật để quy định nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường này, thì việc điều hành và giám sát hoạt động của thị trường cũng rất cần thiết để đảm bảo được tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh, bảo vệ được quyền lợi chính đáng của NĐT, dung hòa lợi ích của tất cả những chủ thể tham gia thị trường. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hiệu lực pháp lý cao và có tính tiên liệu sẽ là nền tảng vững chắc để mọi tác nhân có thể an tâm tham gia vào các giao dịch trên thị trường. Cần phải xây dựng những nền tảng cốt lõi và cần thiết về bộ máy điều hành TTCK và thị trường quyền chọn tương lai nhằm có thể kiểm soát và dự báo dược các tình thế trước khi đưa quyền chọn chứng khoán ra thị trường. Cần phải có các văn bản pháp luật, các quy định cho các đối tượng tham gia vào thị trường này điển hình như: người mua, người bán, người môi giới, các chứng khoán cơ sở, các công ty thanh toán bù trừ…. nhằm giúp cho TTCK hoạt động hiệu quả hơn. Hơn nữa, do tính chất phức tạp của giao dịch, khiến hoạt động của công cụ quyền chọn chứng khoán càng nhạy cảm với những hành vi gian lận, tiêu cực. Trên thị trường này có nhiều đối tượng tham gia như: NĐT, nhà đầu cơ, nhà môi giới…Mỗi người tham gia trên thị trường đều vì những mục đích, lợi ích và sự hiểu biết khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng như khả năng thu lợi trên hợp đồng quyền chọn là rất lớn. Đặc tính đó khiến cho thị trường phái sinh dễ xảy ra các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, mua bán tay trong, gây thiệt hại các NĐT, thậm chí cho các nhà môi giới – làm trung gian trong các hợp đồng quyền chọn. Bên cạnh đó, để thị trường quyền chọn chứng khoán phát huy vai trò là một trong những công cụ phòng ngừa rủi ro, tránh các hành vi tiêu cực từ mặt trái của sản phẩm phái sinh như lừa đảo, trốn thuế, làm sai lệch thông tin, thao túng TTCK… trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho hoạt động giao dịch này, Chính phủ, Bộ Tài chính, UBCK Nhà nước cần xây dựng cho được các quy định ràng buột, các yêu cầu về: Nội dung của Hợp đồng quyền chọn; Điều kiện đối với các chứng khoán cơ sở; Quy định về giới hạn giá và số lượng hợp đồng quyền chọn giao dịch để tránh tình trạng thao túng thị trường; Điều kiện về công bố thông tin, đảm bảo tính chuẩn xác và minh bạch trên thị trường…Qua đó, nhằm mở cửa thị trường cho tất cả các NĐT, các định chế trung gian triển khai các hợp đồng quyền chọn chứng khoán nhằm đãm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường. Song song với việc phát triển thị trường, Chính phủ cần nghiên cứu bổ sung các chuẩn mực kế toán phù hợp để hướng dẫn, điều chỉnh thực hiện những nghiệp vụ kế toán có liên quan và thể hiện đúng trên báo cáo tài chính. 3.2.4. Xây dựng việc tổ chức và quản lý sàn giao dịch quyền chọn. Nhằm phát triển, áp dụng được công cụ quyền chọn vào TTCK ở Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải xây dựng hình thức tổ chức và quản lý của sàn giao dịch. Cơ cấu tổ chức này bao gồm SGDCK; Các công ty môi giới (CTCK); Các cơ quan quản lý và giám sát; trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ và các đối tượng tham gia thị trường. Bên cạnh đó cũng phải xây dựng cho được các nguyên tắc hoạt động; quy trình thực hiện giao dịch; và các quy định cho từng đối tượng tham gia thị trường một cách rõ ràng. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thông qua những quy tắc, và điều lệ Sàn Giao dịch. Những quy tắc và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, việc bổ nhiệm các thành viên của sàn giao dịch. Đồng thời, UBCKNN có trách nhiệm soạn thảo điều lệ và chuẩn mực chung cho thị trường quyền chọn, từ đó, các SGDCK, trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ sẽ ban hành các quy định cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm các biểu mẫu, các quy định trong hợp đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt lệnh, ký quỹ, và thanh toán hợp đồng…. SGDCK là một tập thể chịu trách nhiệm quản lý và điều hành Sàn giao dịch và được giám sát bởi UBCKNN. Nó đáp ứng được chiến lược được đề ra của sàn giao dịch, đồng thời đặt ra được những tiêu chuẩn và thi hành những quyết định liên quan đến phát triển thị trường. Bên cạnh đó, Sở giao dịch sẽ quy định các điều kiện cho các loại cổ phiếu mà giao dịch quyền chọn được phép, trước tiên là những cổ phiếu của các công ty lớn, có tỷ suất sinh lợi cao, khối lượng giao dịch đáng kể và đạt được tính thanh khoản theo yêu cầu để duy trì việc niêm yết quyền chọn. Ngoài ra Sở giao dịch cũng quyết định CTCK nào được phép tham gia vào thị trường quyền chọn này dựa theo năng lực và uy tín của công ty đó. Các CTCK đóng vai trò là các công ty môi giới làm nhiệm vụ thực hiện các yêu cầu của NĐT. Công ty môi giới có trách nhiệm giao dịch các lệnh nhận được ở mức giá tốt nhất có thể và đặt lệnh trực tiếp hay chuyển lệnh về cho các nhân viên nhập lệnh tại Sở giao dịch để thực hiện giao dịch. Doanh thu của các CTCK là phần hoa hồng nhận được cho mỗi giao dịch thành công. Cơ quan quản lý và giám sát có trách nhiệm giám sát, hướng dẫn các hoạt động giao dịch đảm bảo đúng nguyên tắc và pháp luật, có quyền xác nhận tư cách thành viên của các CTCK thành viên, có nhiệm vụ theo dõi và phát hiện các sai phạm liên quan đến các CTCK thành viên, kiểm tra và thông báo đến Sở giao dịch những giao dịch có dấu hiệu bất thường. Đồng thời, cơ quan quản lý và giám sát sẽ kiểm tra tính chính xác của những thông tin được đưa lên thị trường thông qua các CTCK nhằm đảm bảo tính trung thực, minh bạch của thông tin cho thị trường. Cơ cấu tổ chức của cơ quan này bao gồm có các bộ phận như bộ phận điều hành thị trường; bộ phận giám sát giao dịch; bộ phận giám sát thành viên; bộ phận giám sát thông tin…với mục đích chính là quản lý và giám sát các giao dịch trên sàn nhằm bảo vệ các NĐT, đảm bảo cho thị trường phát triển đúng theo định hướng mà Nhà nước và Chính phủ đã đề ra. Trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ là nơi nhận lưu giữ các chứng khoán, nhận ký quỹ và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch quyền chọn. Các Ngân hàng thương mại đáp ứng đủ các điều kiện của UBCKNN sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và quyền chọn. Mọi giao dịch thành công trên sàn đều được thông báo đến Trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ, sau đó trung tâm sẽ tiến hành thanh toán và thực hiện hợp đồng theo nguyên tắc giao dịch của Sở giao dịch đề ra cùng với các CTCK thành viên. Vì lợi ích của các đối tác trong giao dịch, lợi ích chung của nền kinh tế những giao dịch phức tạp của thị trường phải đi đôi với khả năng quản lý của bộ máy điều hành, giám sát thị trường và hệ thống pháp luật điều chỉnh tương xứng với sự phát triển của thị trường qua từng giai đoạn. Các lệnh đặt mua, đặt bán phải xác định nhà môi giới, mã chứng khoán cơ sở, loại hợp đồng quyền chọn, thời gian đáo hạn, giá thực hiện, giá chuyển nhượng, khối lượng giao dịch và được gởi đến Sở giao dịch thông qua các CTCK. 3.2.5. Tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho thị trƣờng quyền chọn. Nhằm xây dựng hệ thống kỹ thuật cho sàn giao dịch quyền chọn thì chúng ta cần phải hoàn thiện và đồng bộ hoá việc áp dụng hạ tầng công nghệ thông tin cho TTCK. Hoàn chỉnh vai trò của trung tâm lưu ký chứng khoán nhằm tạo sự đồng bộ về kết cấu hạ tầng cho thị trường, đồng thời giảm thiểu được rủi ro và chi phí liên quan đến việc thanh toán các giao dịch. -Ứng dụng và hoàn thiện hệ thống giao dịch tự động hiện đại. -Tự động hoá hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. -Thực hiện dịch vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết. -Giảm thời gian thanh toán giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường. -Kết nối mạng diện rộng giữa hệ thống giao dịch của SGDCK Tp.HCM, sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội với các CTCK thành viên. -Xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán…Đảm bảo một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các NĐT. Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng dữ liệu thông tin đầy đủ. 3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho thị trƣờng quyền chọn. Nhân lực phục vụ thị trường luôn đóng vai trò là một yếu tố quan trọng nhất trong việc giúp cho thị trường hoạt động hiệu quả và thông suốt. Nhân lực phục vụ cho thị trường quyền chọn không chỉ có kiến thức vững vàng về TTCK và thị trường quyền chọn, các nguyên tắc hoạt động trên thị trường mà còn phải có những kỹ năng phân tích, đánh giá và dự đoán xu thế của thị trường trong tương lai, kèm theo đó là những kiến thức nhất định về kinh tế, tài chính, xã hội và luật pháp. Để có được những con người có trình độ chuyên môn cao đáp ứng được nhu cầu của thị trường quyền chọn trong tương lai có thể thực hiện các giải pháp sau: UBCKNN tổ chức các lớp học căn bản và chuyên sâu về thị trường quyền chọn cho tất cả các nhân viên trong ngành chứng khoán, mời các chuyên gia có kinh nghiệm trong và ngoài nước về dạy và huấn luyện. Có kế hoạch đào tạo đặc biệt và bài bản cho cán bộ quản lý và giám sát thị trường quyền chọn vì họ cần có kỹ năng chuyên môn vững vàng và khả năng xử lý tốt các tình huống bất thường. Tổ chức các chuyến đi thực tế ở các TTCK phát triển ngoài nước để học hỏi kinh nghiệm của bạn bè quốc tế. Các công ty chứng khoán nên chủ động đưa các nhân viên của mình tham gia các lớp học về quyền chọn, khuyến khích khả năng tự nghiên cứu của nhân viên về thị trường đầy tiềm năng này, đưa các nhân viên có năng lực đi tham khảo và học hỏi thị trường quyền chọn ở một số nước phát triển. trƣờng quyền chọn. Hàng hoá cho thị trường quyền chọn phải là hàng hoá có chất lượng cao và đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư tài chính. Những việc làm cần thiết để xây dựng hàng hoá cho thị trường quyền chọn có thể là: Xây dựng các danh mục chứng khoán làm cổ phiếu cơ sở cho các hợp đồng quyền chọn. Các cổ phiếu được lựa chọn phải là những cổ phiếu có tính thanh khoản cao, được công chúng đầu tư đánh giá tốt về tiềm năng phát triển. Các cổ phiếu cơ sở có chất lượng sẽ thu hút các nhà đầu tư tham gia thị trường quyền chọn. Về việc phát hành các hợp đồng quyền chọn: Trước mắt khi thị trường quyền chọn sơ khai mới được hình thành thì người phát hành các hợp đồng quyền chọn sẽ là một bộ phận chuyên biệt thuộc cơ quan điều hành quyền chọn hoặc các công ty chứng khoán được phép thực hiện các hoạt động tự doanh và đang nắm giữ cổ phiếu trên cơ sở đó, bởi vì việc phát hành quyền chọn đòi hỏi phải có những kiến thức chuyên môn vững vàng về chứng khoán, TTCK và thị trường quyền chọn, kèm theo đó là uy tín của người phát hành, đảm bảo hợp đồng sẽ thực hiện nếu có yêu cầu, nhằm tạo lòng tin cho giới đầu tư. Sau khi thị trường đã đi vào ổn định, nhà đầu tư quen với việc sử dụng quyền chọn thì mới cho phép các cá nhân, tổ chức tham gia phát hành quyền chọn. 3.2.8. Tiếp cận công cụ quyền chọn đến các nhà đầu tƣ chứng khoán. Hiểu biết của công chúng luôn đóng vai trò quan trọng trong việc đưa một công cụ tài chính mới vào thị trường và trường hợp ứng dụng quyền chọn cổ phiếu cũng vậy. Công chúng đầu tư không chỉ thông hiểu về TTCK nói chung mà còn phải biết quyền chọn là gì, cách thức sử dụng như thế nào, lợi ích ra sao…Vì vậy, ngoài các công tác nâng cao hiểu biết về TTCK thì việc phổ biến kiến thức về quyền chọn cũng rất cần thiết. Chúng ta có thể đưa quyền chọn tiếp cận với các nhà đầu tư thông qua các cách sau: Tổ chức các cuộc hội thảo về quyền chọn nói chung và quyền chọn cổ phiếu nói riêng. Những cuộc hội thảo này cần thiết phải tổ chức sinh động, lôi cuốn bởi đa phần trình độ của các nhà đầu tư chênh lệch nhau khá nhiều. UBCKNN có thể kết hợp với các câu lạc bộ chứng khoán của các trường đại học tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về quyền chọn nhằm trang bị kiến thức cho lớp trẻ. Sau những cuộc hội thảo như thế có thể tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về quyền chọn, các cuộc thi “quyền chọn ảo”… với quy mô từ nhỏ đến lớn. Có thể bắt đầu tổ chức các cuộc thi tại các câu lạc bộ chứng khoán, trong nội bộ ngành chứng khoán để tạo nền tảng kiến thức cơ bản và đúc kết kinh nghiệm sau đó thì mở rộng ra cho tất cả mọi người tham gia. Tại trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo chứng khoán nên có những lớp học chuyên đề về quyền chọn để những người quan tâm đến công cụ tài chính mới này có nơi mà học tập và nghiên cứu. Khi các lớp này được tổ chức thì các công ty chứng khoán nên khuyến khích nhân viên của mình đăng ký theo học. Hiện nay, những tài liệu có giá trị phục vụ cho công tác nghiên cứu và vận hành TTCK, đặc biệt là những tài liệu về thị trường quyền chọn rất ít, gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động tự nghiên cứu của những người quan tâm đến chứng khoán. Do đó, Trung tâm Đào tạo chứng khoán nên quan tâm nhiều hơn nữa trong công tác tìm nguồn tài liệu phục vụ cho nhu cầu của nhà đầu tư. UBCKNN nên chăng hỗ trợ cho Trung tâm đào tạo xây dựng một phòng ban với nhiệm vụ tìm kiếm những nguồn tài liệu nước ngoài có giá trị về TTCK và thị trường quyền chọn, tổ chức dịch thuật hay xuất bản sách chuyên về lĩnh vực chứng khoán nói chung và quyền chọn nói riêng. Trên các trang web về chứng khoán cần bổ sung thêm chuyên mục về quyền chọn với những thông tin cơ bản và đầy đủ, giải đáp thắc mắc về quyền chọn cho những ai quan tâm. Trên những chuyên mục này, ngoài việc cung cấp những kiến thức căn bản, dễ hiểu có thể minh hoạ bằng những giao dịch ở các thị trường quyền chọn lớn trên thế giới. Có những bài giảng về quyền chọn dễ hiểu, sinh động phù hợp với mặt bằng kiến thức chung của các tầng lớp dân cư khác nhau trên các chương trình phổ cập kiến thức chứng khoán trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau các chương trình phổ cập kiến thức này nên tổ chức những cuộc thi nhằm tổng kết và đánh giá hiệu quả của hoạt động này. 3.2.9. Nâng cao mức độ hiệu quả của TTCK. Trong thị trường tài chính có hai thị trường bộ phận là thị trường tiền tệ và thị trường vốn luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, mối quan hệ mấu chốt nhất là quan hệ giữa TTCK – lõi của thị trường vốn với thị trường tín dụng ngắn hạn – lõi của thị trường tiền tệ. Cần quyết tâm phát triển mọi nguồn lực của đất nước thông qua việc đa dạng sở hữu, chú trọng phát triển kinh tế tư nhân và tiến hành cổ phần hóa một cách mạnh mẽ. Bộ Tài chính cần kiên quyết hoàn thành việc tiếp tục cổ phần hóa các ngân hàng thương mại lớn của Nhà nước và các tập đoàn và Tổng công ty lớn. Bên cạnh đó, công tác phân cấp quản lý tài chính cũng sẽ được thực hiện mạnh mẽ và triệt để hơn. Các cơ quan chức năng cũng sẽ sớm hoàn thiện thể chế hoạt động của TTCK, từng bước mở rộng sự tham gia của các NĐT nước ngoài vào TTCK Việt Nam theo cam kết hội nhập, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam, trước mắt là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào thị trường vốn quốc tế. Việc đầu tư theo danh mục thông qua TTCK, thị trường vốn, đặc biệt sự tham dự của các NĐT nước ngoài luôn là những xung lực mạnh cho phát triển và tăng trưởng tại các nước đang phát triển. Dưới góc độ cơ quan quản lý thị trường, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ tiếp tục các biện pháp phát triển bền vững thị trường vốn, TTCK để tạo một môi trường an toàn, minh bạch và hiệu quả cho đầu tư và bảo vệ các NĐT. Hiện nay trên thị trường Việt Nam đã có thị trường quyền chọn tiền tệ và vàng. Hàng hóa trên thị trường này còn khá ít, số lượng ngân hàng được phép thực hiện không nhiều, trong khi nhu cầu bảo hiểm rủi ro của doanh nghiệp và người dân trong tình hình giá vàng và ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD biến động không thể lường trước được hết là rất lớn. Do đó, để có thể phát triển được thị trường quyền chọn nói chung và đúc kết kinh nghiệm cho việc hình thành thị trường quyền chọn cổ phiếu nói riêng thì cần thiết nên: Cho phép thêm nhiều ngân hàng lớn và các tổ chức có tiềm lực, uy tín được tham gia thị trường quyền chọn tiền tệ và quyền chọn vàng. Thực hiện tốt công tác marketing cho các sản phẩm mới này, tổ chức các buổi hội thảo nhằm cung cấp kiến thức về sản phẩm, tiếp thu ý kiến của khách hàng trong quá trình sử dụng sản phẩm, dần dần đưa sản phẩm quyền chọn đến với công chúng và từng bước hoàn thiện sản phẩm. Giảm quy mô hợp đồng quyền chọn vàng xuống ở mức có thể khuyến khích các nhà đầu tư nhỏ lẻ có thể tham gia. Hiện nay quy mô mỗi hợp đồng quyền chọn vàng tối thiểu là 50 lượng, một con số khá lớn so với thu nhập của công chúng Việt Nam, làm giới hạn khả năng tham gia thị trường quyền chọn vàng của khá nhiều nhà đầu tư. Để việc điều hành và thực hiện các hợp đồng được diễn ra thông suốt, đồng thời tạo lòng tin về khả năng hợp đồng sẽ được thực hiện khi có yêu cầu, đưa thị trường quyền chọn Việt Nam ngày càng gần với thị trường quyền chọn thế giới thì cần thiết nên thực hiện mô hình quyền chọn vàng và ngoại tệ trong đó cơ quan đảm bảo thanh toán cho các hợp đồng sẽ là một cơ quan trực thuộc NHNN; có nhiệm vụ vừa thanh toán các giao dịch quyền chọn vừa giám sát việc thực hiện các nguyên tắc đảm bảo an toàn cho hoạt động giao dịch quyền chọn còn mới mẻ này. Hiện nay pháp luật cho thị trường quyền chọn tiền tệ và quyền chọn vàng vẫn chưa có. Do đó, NHNN nên ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh cho các hoạt động giao dịch quyền chọn này nhằm bảo vệ lợi ích của các bên tham gia, ban đầu tạo sự ổn định cho thị trường non trẻ này và từ đó đúc kết những kinh nghiệm, bài học quý báu cho thị trường quyền chọn cổ phiếu sau này. Mô hình quyền chọn vàng và quyền chọn tiền tệ ở nước ta khi loại hình đầu tư này trở nên phổ biến và có nhiều tổ chức được phép tham gia phát hành quyền chọn có thể biểu diễn như sau: Trong đó các NHTM được phép giao dịch quyền chọn vừa là nơi khách hàng mở tài khoản giao dịch, tiếp nhận các y êu cầu mua bán quyền chọn và là trung gian giữa các công ty thanh toán quyền chọn và các bên mua bán quyền chọn. Căn cứ vào những kinh nghiệm có được sau quá trình tìm hiểu, phân tích về TTCK, cũng như những kinh nghiệm trong việc triển khai thực hiện một số quyền chọn ở nước ta hiện nay như quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn vàng ở chương 2. Trong chương này, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm phát triển, lành mạnh hóa TTCK và các giải pháp nhằm xây dựng, tạo tiền đề để phát triển công cụ quyền chọn vào TTCK hiện nay. Trong chương 3, tác giả xây dựng mô hình quyền chọn để có thể áp dụng và triển khai trong thời gian sớm nhất. Các giải pháp được đưa ra nhằm khắc phục những hạn chế, những rủi ro cho thị trường dựa vào sự phân tích rủi ro của TTCK ở chương 2. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp cho việc xây dựng cơ sở pháp lý, xây dựng việc tổ chức, quản lý, quy trình giao dịch quyền chọn, giải pháp về tuyên truyền thông tin, giải pháp để tiếp cận các kiến thức về công cụ quyền chọn đến các NĐT, giải pháp phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, cung cấp nguồn nhân lực cho sàn giao dịch quyền chọn sau này….là những giải pháp cụ thể, chi tiết với hy vọng sẽ góp phần làm nền tảng để phát triển thị trường giao dịch quyền chọn vào TTCK Việt Nam một ngày không xa. Thị trường chứng khoán chính là “phong vũ biểu của nền kinh tế”, khi TTCK phát triển bền vững và ổn định thì sẽ thu hút một lượng vốn lớn từ trong dân cư và nhà đầu tư trong nước, đồng thời cũng thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh mẽ, tạo điều kiện kích thích nền kinh tế phát triển. Nhưng những thăng trầm của TTCK sau 10 năm hoạt động đã gây ra rất nhiều rủi ro và tổn thất cho các nhà đầu tư, cho nên cần phải phát triển công cụ quyền chọn để phục vụ cho TTCK và giảm bớt rủi ro cho các nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường. Trong chương 1, tác giả đã giúp người đọc có được cái nhìn tổng quan về TTCK và những kiến thức cơ bản về quyền chọn. Đặc biệt tác giả đã đi sâu, phân tích các chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn với đặc trưng và ưu điểm của nó, phân tích sự cần thiết phải xây dựng thị trường quyền chọn. Đây chính là phần cơ sở lý luận làm nền tảng cho việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp để phát triển quyền chọn chứng khoán sau này. Ở Chương 2, tác giả trình bày khái quát về tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam từ những ngày đầu thành lập đến nay và nhận diện những rủi ro mà NĐT phải đối mặt khi tham gia thị trường. Bên cạnh đó, người viết cũng phân tích thực trạng các loại quyền chọn đang phát triển ở Việt Nam hiện nay như quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn vàng, quyền chọn tiền đồng nhằm rút ra kinh nghiệm quý báu để làm nền tảng cho sự xây dựng và phát triển quyền chọn chứng khoán trong thời gian sắp tới. Trong Chương 3, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm phát triển, lành mạnh hóa TTCK và các giải pháp nhằm xây dựng, tạo tiền đề để phát triển công cụ quyền chọn vào TTCK hiện nay. Trong chương 3, tác giả xây dựng mô hình quyền chọn để có thể áp dụng và triển khai trong thời gian sớm nhất. Các giải pháp được đưa ra nhằm khắc phục những hạn chế, những rủi ro cho thị trường dựa vào sự phân tích rủi ro của TTCK ở chương 2. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp cho việc xây dựng cơ sở pháp lý, xây dựng việc tổ chức, quản lý, quy trình giao dịch quyền chọn, giải pháp về tuyên truyền thông tin, giải pháp để tiếp cận các kiến thức về công cụ quyền chọn đến các NĐT, giải pháp phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, cung cấp nguồn nhân lực cho sàn giao dịch quyền chọn sau này….là những giải pháp cụ thể, chi tiết với hy vọng sẽ góp phần làm nền tảng để phát triển thị trường giao dịch quyền chọn vào TTCK Việt Nam một ngày không xa. Dù đã rất cố gắng, nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn, cũng như người viết còn hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức bao quát thị trường quyền chọn còn chưa cao. Vì vậy, luận văn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn thiện hơn. Song, tác giả hy vọng rằng tất cả những nội dung và vấn đề đã được trình bày trong luận văn này sẽ là một đóng góp nhỏ, hữu ích cho việc phát triển thị trường quyền chọn cổ phiếu trong tương lai; phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế cũng như góp phần giảm thiểu rủi ro cho TTCK Việt Nam trong giai đoạn tới. Từ đó, giúp nước ta có những bước tiến mạnh hơn, phát triển bền vững hơn trong công cuộc xây dựng đất nước. Tiếng Việt 1. TS. Bạch Đức Hiển (2008), Giáo trình Thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 2. TS. Bùi Lê Hà, TS. Nguyễn Văn Sơn, TS. Ngô Thị Ngọc Huyền, Ths. Nguyễn Thị Hồng Thu (2000), Giới thiệu về thị trường Future & Option, Nhà xuất bản Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh. 3. PGS.TS Bùi Kim Yến (2007), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản lao động. 4. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang (Chủ biên), PGS.TS Trần Ngọc Thơ, ThS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Hồ Quốc Tuấn (2006), Quản trị rủi ro tài chính. 5. Quyết định số 128/2007/Q.-TTg ngày 02/08/2007 của Thủ tướng Chính Phủ về việc Phê duyệt đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. 6. Huỳnh Thiên Phú: “Triển khai quyền chọn cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam” 7. Nguyễn Thị Ngọc Duyên: “Áp dụng giao dịch quyền chọn cổ phiếu vào Thị trường Chứng khoán Việt Nam” . 8. Nguyễn Thị Phương Chi: ”Phát triển công cụ Option trên thị trường chứng khoán Việt Nam”. 9. Đỗ Thị Thủy: “Một số giải pháp áp dụng quyền chọn chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam”. 1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước http://www.ssc.gov.vn 2. Bộ Tài chính http://.www.mof.gov.vn 3. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM http://.www.hsx.vn 4. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội http://.www.hnx.vn 5. Đầu tư chứng khoán http://.vir.com.vn 7. Tin nhanh Việt Nam http://.www.vnexpress.net 8. Thời báo kinh tế Việt Nam http://www.vneconomy.vn 9. Saga Việt Nam http://.www.saga.vn 10. Báo Tuổi trẻ http://www.tuoitre.com.vn 11. Báo Vietnamnet http://.vietnamnet.vn 12. Báo thanh niên http://.thanhnien.com.vn 13. Ngân hàng Vietcombank http://vietcombank.com.vn 14. Ngân hàng TMCP Á Châu http://acb.com.vn 15. Ngân hàng TMCP XNK VN http://eximbank.com.vn21
22
23
24
Nhà Môi Giới
(Công ty thành viên
của OCC)
Nhà Môi Giới
(Công ty thành viên
của OCC)
Công ty thanh toán bù
trừ hợp đồng quyền
chọn (OCC
25
1.7.2. Thị trƣờng giao dịch quyền chọn cổ phiếu tại Hàn Quốc.
26
27
Hệ thống giao dịch:
28
29
30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
31
Chƣơng 2:
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
VÀ NHU CẦU GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU
32
33
2.1.1.3. Giai đoạn 2007: Giai đoạn TTCK bùng nổ.
34
35
2.1.1.5. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay.
36
Bảng 2.1: Quy mô TTCK Việt Nam qua các năm từ 2000 – 2010
37
38
39
40
41
42
2.1.2.5. Hệ thống quản lý và giám sát thị trƣờng chƣa hiệu quả.
43
44
Nhận xét:
45
46
47
48
49
50
51
52
53
2.2.4. Quyền chọn lãi suất.
54
55
2.3. Những khó khăn thách thức khi đƣa quyền chọn cổ phiếu vào thực tiễn
56
57
2.3.6. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn sơ khai và hệ thống thông tin trên TTCK
58
59
60
61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
62
Chƣơng 3:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG QUYỀN CHỌN
CỔ PHIẾU ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRÊN
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1.1. Xây dựng tiền đề cho thị trƣờng quyền chọn cổ phiếu.
63
64
3.1.3. Giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thí điểm.
65
66
67
68
69
Tổ chức phát
hành quyền chọn
Nhà đầu tƣ
(ngƣời mua quyền
chọn)
Ngân hàng
thanh toán
Công ty chứng
khoán thành viên
Sở giao dịch
chứng khoán
70
71
72
73
3.1.6. Cơ chế quản lý và giám sát thị trƣờng quyền chọn.
74
75
76
77
78
79
80
81
3.2.7. Xây dựng danh mục hàng hoá có chất lƣợng và phong phú cho thị
82
83
84
3.2.10. Tăng cƣờng phát triển các loại quyền chọn hiện có trên thị trƣờng.
85
86
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
87
KẾT LUẬN
88
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
Các trang WEB