ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢƠNG THỊ HẢI PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN, NĂM 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢƠNG THỊ HẢI PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Trịnh Bá Đĩnh

THÁI NGUYÊN, NĂM 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội

dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố

trong bất cứ một công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lƣơng Thị Hải

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ văn,

phòng Quản lý và Đào tạo sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên

đã tạo điều kiện cho tôi học tập.

Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Trịnh Bá Đĩnh, người trong

suốt thời gian qua đã tận tình giúp đỡ và động viên rất nhiều để tôi có thể

hoàn thành luận văn này.

Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã động viên,

khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lƣơng Thị Hải

i

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục ............................................................................................................... i

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chƣơng 1. KHÁI NIỆM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ CƠ SỞ

XÃ HỘI VĂN HÓA HÌNH THÀNH PHONG CÁCH NGUYỄN

NGỌC TƢ ....................................................................................................... 11

1.1. Lý luận về phong cách ......................................................................... 11

1.1.1. Phong cách là gì? ............................................................................ 11

1.1.2. Các bình diện của phong cách ........................................................ 12

1.2. Văn hóa Nam Bộ và quá trình hình thành phong cách Nguyễn Ngọc Tư 14

1.2.1. Vùng văn hóa Nam Bộ-một số nét đặc sắc ..................................... 14

1.2.2. Trong “đội ngũ” các nhà văn Nam Bộ ........................................... 18

1.2.3. Quan niệm văn học của Nguyễn Ngọc Tư ...................................... 27

Chƣơng 2. NHÂN VẬT “CON NGƢỜI ĐỜI THƢỜNG” VÀ CÁI

NHÌN NHÂN ÁI VỀ CON NGƢỜI CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ ............. 32

2.1. Nhân vật văn học .................................................................................. 32

2.1.1. Khái niệm nhân vật văn học ........................................................... 32

2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học ................................. 33

2.2. Nguyễn Ngọc Tư với cảm quan đời thường trong xây dựng nhân vật

văn học ........................................................................................................ 34

2.2.1. Người nghệ sĩ miệt vườn ................................................................ 34

2.2.2. Người nông dân Nam Bộ ................................................................ 39

2.2.3. Chất thơ của vẻ đẹp tâm hồn ........................................................... 47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.2.4. Nhân vật với những bi kịch đời thường .......................................... 52

ii

2.3. Cái nhìn nhân ái của Nguyễn Ngọc Tư trong truyện ngắn ................. 57

2.3.1. Những khuynh hướng quan niệm về con người trong văn học

trẻ đương đại ............................................................................................. 57

2.3.2. Cái nhìn nhân ái về con người của Nguyễn Ngọc Tư .................... 59

Chƣơng 3. ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN ................ 72

VÀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ .......................................................................... 72

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ........................................................... 72

3.1.1. Khái niệm cốt truyện ....................................................................... 72

3.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư với cốt truyện - dòng tâm trạng .... 73

3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 77

3.2.1. Quan niệm về giọng điệu ................................................................ 77

3.2.2. Một giọng văn “điềm đạm mà thấu đáo” ........................................ 78

3.3. Ngôn ngữ Nam Bộ đặc trưng ............................................................... 91

3.3.1. Lối diễn đạt Nam Bộ ....................................................................... 91

3.3.2. Đặc trưng hệ thống từ vựng địa phương ......................................... 95

3.3.3. Lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước” ................................. 97

3.3.4. Sáng tạo và biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân

thành ngôn ngữ văn học ............................................................................ 99

KẾT LUẬN ................................................................................................... 104

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 107

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Phong cách nhà văn là một quá trình vận động, phát triển không

ngừng qua mỗi giai đoạn sáng tác. Nhưng mặc dù vậy, cái riêng độc đáo có

giá trị mang tính thẩm mỹ - cốt lõi phong cách, dù ở điều kiện hoàn cảnh nào

cũng ổn định, thống nhất. Bản sắc thẩm mỹ riêng ấy phải có những yếu tố

“lặp đi lặp lại” một cách có hệ thống và luôn bị chi phối bởi cái nhìn độc đáo

của nhà văn. Nó thường xuyên ở thế vận động, phát triển và chịu ảnh hưởng

của thế giới quan, môi trường xã hội và xu thế chung của thời đại, nhưng dù ở

môi trường nào, xu thế xã hội ra sao, yếu tố thường xuyên được lặp lại ấy vẫn

tồn tại cho dù chúng ngầm ẩn. Nhiệm vụ của người nghiên cứu phê bình khi

tìm hiểu một nhà văn là chỉ ra đặc sắc riêng, tức phong cách nhà văn đó.

1.2. Nguyễn Ngọc Tư - nhà văn trẻ mới xuất hiện trên văn đàn hơn

mười năm nay đã trở thành một “hiện tượng” đặc biệt, làm nóng văn đàn, trở

thành đề tài trong một số cuộc tranh luận văn chương và được bạn đọc rất chú

ý. Là một nhà văn trẻ nhưng chị là chủ nhân của của nhiều giải thưởng có uy

tín, tiêu biểu là: Giải Nhất cuộc vận động sáng tác "Văn học tuổi 20 lần II" do

Nhà xuất bản Trẻ, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ tổ

chức năm 2000 với tập truyện "Ngọn đèn không tắt"; Giải của Hội Nhà văn

Việt Nam các năm 2001, 2004, 2006; Giải Ba cuộc thi sáng tác truyện ngắn

2003-2004 của báo Văn Nghệ với truyện ngắn "Đau gì như thể…"; Giải

thưởng văn học ASEAN năm 2008; Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ

ban Toàn quốc liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Chị là một

trong "Mười gương mặt tiêu biểu năm 2003" do TW Đoàn trao tặng và là một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong những Hội viên trẻ nhất của Hội nhà văn Việt Nam.

2

Liên tiếp các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư được tái bản. Bạn đọc

Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, tầng lớp khác nhau trong và ngoài nước đón

nhận nồng nhiệt. Truyện ngắn của chị được dịch ra tiếng Hàn Quốc, Tập

truyện “Cánh đồng bất tận-những truyện ngắn hay và mới nhất” trở thành

cuốn sách Best-seller (Bán chạy nhất) của văn học Việt Nam trong năm 2006.

Năm nghìn bản in lần thứ nhất bán hết trong một tuần, số lượng phát hành lên

đến 25.000 bản, số ấn bản cao nhất trong năm. Sự lay động và sức ám ảnh của

chị đã đánh thức một bộ phận không nhỏ những người đọc đang thờ ơ và quay

lưng với văn học. Với lối viết truyền thống lại bằng một giọng điệu hóm hỉnh,

tưng tửng và đặc chất Nam Bộ, tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư khẳng định được

vị trí trên văn đàn. Giáo sư Trần Hữu Dũng đã lập “Tủ sách Nguyễn Ngọc Tư”

trên trang web của ông. Phạm vi bạn đọc và ảnh hưởng của Nguyễn Ngọc Tư

ngày càng được rộng mở hơn trên các kênh phương tiện thông tin khác.

1.3. Trong bối cảnh văn chương Việt Nam đang loay hoay làm mới văn

xuôi thì Nguyễn Ngọc Tư như cô gái tỉnh lẻ vẫn giữ nguyên cái tạng chân

chất của mình. Chị thuộc kiểu nhà văn theo lối viết truyền thống, cổ điển. Văn

chị đứng ngoài khuynh hướng “hiện đại”, “cách tân”. Nhưng như một nhà

nghiên cứu từng nhận định, việc bứt phá khỏi quỹ đạo truyền thống là một nỗ

lực đáng ghi nhận, trân trọng nhưng trụ vững trên cái nền tảng của truyền thống

mà vẫn tạo được dấu ấn của mình, điều đó cũng thể hiện cái tầm của người

viết. Dấu ấn lớn nhất của Nguyễn Ngọc Tư nằm ở “quặng văn” của chị. Đó

trước hết là sự hồn hậu, nhân hậu, là cái nhìn nhân ái về con người, về cuộc đời

sau nữa là bản sắc vùng văn hóa nơi chị sinh ra, sống và viết. Nhà văn Dạ Ngân

còn cho rằng đó là cái thế mạnh, là cái mạnh nhất của Ngọc Tư, đó sẽ là cái còn

lại, dù sau này có thể Ngọc Tư sẽ viết về những vấn đề gay gắt hơn. Điều này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

làm nên sự thành công và khác biệt của văn Nguyễn Ngọc Tư.

3

Năm 2005, tác phẩm “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư đã tạo

nên làn sóng tranh luận sôi nổi trong và ngoài giới phê bình văn học. Nhiều ý

kiến trái ngược nhau, có những bài phê bình gay gắt, lại có bài ca ngợi hết lời.

Những ý kiến này đề cập đến nhiều phương diện, đặc biệt là những quan niệm

khác nhau về cuộc sống, cách nhìn nhận về con người trong sáng tác của chị.

Dù đã có khá nhiều bài phê bình khác nhau song công trình nghiên cứu một

cách hệ thống về tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là chưa nhiều. Đặc biệt, vấn

đề phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư trong truyện ngắn vẫn là một

đề tài còn chưa được xem xét thấu đáo.

1.4. Chúng tôi nhận thấy ở Nguyễn Ngọc Tư một tài năng thiên bẩm,

một khả năng vươn lên mạnh mẽ, sự tự học và trải nghiệm đáng kính nể. Chị

xứng đáng được xem là hiện tượng văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Trong

giới hạn luận văn, chúng tôi muốn thể hiện lòng yêu mến đối với một tài

năng trẻ bằng cách dành tâm trí để tìm hiểu “Phong cách truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư”.

2. Lịch sử vấn đề

Nói tới phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư đã có nhiều bài viết đề

cập đến các khía cạnh riêng lẻ, ở đây chúng tôi đề cập đến một số bài tiêu

biểu, có ít nhiều liên quan đến luận văn này. Tác giả Nguyễn Trọng Bình có

một số bài viết, chẳng hạn“Phong cách truyện ngắn Nguyễn ngọc Tư nhìn từ

phương diện quan niệm nghệ thuật về con người” đã nêu lên: qua truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư, ở đây tác giả chỉ ra một “mô hình” về con người rất độc

đáo trong cái nhìn riêng của chị. “Mô hình” ấy vừa có sự kế thừa vừa có sự

sáng tạo mang phong cách riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là “mô hình” con

người hướng thiện - kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư. Có

thể nói, kế thừa truyền thống quan niệm nghệ thuật về con người của các thế

hệ đi trước, bằng sự trải nghiệm và sáng tạo của bản thân, Nguyễn Ngọc Tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã trình ra một “cái nhìn”, một cách “lý giải” về con người rất mới mẻ và độc

4

đáo, đem đến cho người đọc một sự thích thú, bạn đọc ngày một yêu mến

truyện ngắn của chị hơn. Đây chính là dấu ấn riêng góp phần làm nên phong

cách truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.[6.1]

Bài “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa” đưa ra nhận

định: truyện của Nguyễn Ngọc Tư có những đặc trưng văn hóa đồng bằng

sông Cửu Long! Qua những sáng tác của chị, độc giả không những được

thưởng thức câu chuyện thắm đượm tinh thần nhân văn mà còn được cung

cấp thêm những cứ liệu văn hóa về vùng quê sông nước đồng bằng sông Cửu

Long rất bổ ích. Đó là một khuynh hướng thẩm mĩ trong sáng tạo nghệ thuật

của Nguyễn Ngọc Tư - khuynh hướng mang vào tác phẩm những bản sắc và

giá trị văn hóa của dân tộc, của quê hương (cụ thể ở đây là những nét đẹp văn

hóa nơi vùng đất cực Nam của Tổ quốc).[7.1]

Hay trong “Giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”

nhà phê bình cũng cho rằng: Qua khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư,

chúng tôi nhận thấy nếu xem giọng điệu như một yếu tố nhằm thể hiện nội

dung và chủ đề của tác phẩm thì giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của

Nguyễn Ngọc Tư là Giọng buồn nhưng không chán chường, ủ dột. Còn như

xem giọng điệu từ góc nhìn nhằm thể hiện thái độ, quan điểm của tác giả

trong quá trình trần thuật, thì giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của

Nguyễn Ngọc Tư là giọng điềm nhiên, trầm tĩnh [5.1]. Tất cả những vấn đề

này, ở góc độ nào đó chính là những nét riêng, độc đáo góp phần tạo nên

phong cách của Nguyễn Ngọc Tư ở thể loại truyện ngắn.

Bài “Nguyễn Ngọc Tư - đặc sản miền Nam”của GS. Trần Hữu Dũng là

một bài viết rất thú vị. Ông đã xem xét truyện ngắn của chị một cách tường

tận và thấu đáo trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Trần Hữu

Dũng đặc biệt đề cao tài năng sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ của Nguyễn Ngọc

Tư, ông đánh giá đó là một cái riêng đặc sắc không thể trộn lẫn với bất kì nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

văn nào khác, như là một “đặc sản miền Nam”. Bằng tất cả sự yêu mến chân

thành, Trần Hữu Dũng cũng không quên cảnh báo những nguy cơ có thể

khiến tác giả trẻ này đi vào lối mòn trong sáng tác bên cạnh sự nhìn nhận tán

thưởng tài năng của chị [13.1]. Nói chung, các ý kiến nhấn mạnh đến bản sắc

Nam Bộ trong sáng tác của nhà văn này là khá nhiều.

Huỳnh Công Tín với bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, một nhà văn trẻ Nam

Bộ” cũng dành cho Nguyễn Ngọc Tư những lời khen tặng xứng đáng. Ông

đánh giá cao khả năng xây dựng những không gian Nam Bộ trong truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tư và thừa nhận: “Đặc biệt vùng đất và con người trong

sáng tác của chị được dựng lại bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn

phong nhiều chất Nam Bộ của chị”. [52.1]. Huỳnh Công Tín cũng đánh giá

cao khả năng miêu tả tâm lý người và vật hết sức sắc sảo của Nguyễn Ngọc

Tư, ông cũng yêu cầu chúng ta cần có cái nhìn thông cảm hơn khi những vấn

đề quan tâm còn nhỏ nhặt và chưa có tầm bao quát. Ông cũng khẳng định cái

đáng quý cần phát huy ở chị chính là chất Nam Bộ trong sáng tác.

Bài viết của Trần Phỏng Diều với tựa đề “Thị hiếu thẩm mĩ trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”. Với cách hiểu “đi tìm thị hiếu thẩm mỹ trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhận diện văn chương chị một khía cạnh khác,

thực chất là đi tìm những hình tượng văn học trong sáng tác của tác giả. Các

hình tượng văn học này cứ trở đi trở lại và trở thành một ám ảnh khôn nguôi,

buộc người viết phải thể hiện ra tác phẩm của mình.”[11.1] Trần Phỏng Diều

đã chỉ ra thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thể hiện qua

ba hình tượng: hình tượng người nghệ sĩ, hình tượng người nông dân và hình

tượng dòng sông. Sau khi phân tích vẻ đẹp của từng hình tượng, anh cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đánh giá rất cao văn phong mộc mạc, cách viết như nói của Nguyễn Ngọc Tư.

6

Theo anh, nếu chị đánh mất đi vùng thẩm mỹ này thì đồng thời cũng làm mất

đi rất nhiều giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm của mình.

Ngoài ra, chúng tôi cũng thu thập được hai bài viết tìm hiểu một số

khía cạnh về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn

của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là bài viết “Không gian sông nước trong truyện

ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” của Thụy Khuê và bài viết “Thời gian huyền

thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư” của Mai

Hồng cùng được đăng trên trang web “Viet-studies”. Nhìn chung, Thụy Khuê

thống nhất ý kiến cho rằng Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được một không

gian Nam Bộ với ruộng đồng sông nước đặc sắc trong tác phẩm của mình,

góp phần to lớn vào việc phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của tác giả. Việc chỉ ra

kiểu thời gian huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” cũng là

một góc nhìn mới lạ của Mai Hồng trong việc tìm hiểu về truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay.

Điểm qua một số bài viết mang tính “học thuật” như thế để hiểu thêm

về tình hình nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay nói chung là

chưa nhiều và ít có cái nhìn hệ thống mang tính học thuật, đáp ứng việc hiểu

và giảng dạy Nguyễn Ngọc Tư trong nhà trường. Đa phần các bài viết đều

được đăng tải trên các báo, chưa có một công trình nghiên cứu chính thức

được in thành sách. Ngoài ra, hầu hết các bài viết đều trên tinh thần giới thiệu

một tập truyện của chị vừa xuất bản, hay phê bình một truyện ngắn cụ thể nào

đó. Chiếm đa số trong những tài liệu chúng tôi thu thập được là những bài

phỏng vấn Nguyễn Ngọc Tư, những bài viết kể lại những kỉ niệm hay những

lần gặp gỡ chị ở Cà Mau. Chúng tôi nhận thấy có rất ít những bài phê bình

truyện ngắn của chị trên bình diện khái quát mà đa số tập trung vào truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngắn “Cánh đồng bất tận”. Những bài viết ấy phần lớn đều là khen chê một

7

cách cảm tính, chủ yếu là những bài báo với tư cách tranh luận trên diễn đàn

nhiều hơn là công trình nghiên cứu khoa học thật sự. Thế nhưng, chúng tôi rất

coi trọng những ý kiến đánh giá nghiêm túc và đúng đắn của các nhà văn và

nhà phê bình như Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Khắc Phê, Nguyên Ngọc, Dạ

Ngân,…những ý kiến này đã giúp chúng tôi tỉnh táo và vững vàng hơn trong

việc nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.

Đề tài của luận văn này là tìm hiểu phong cách nghệ thuật truyện ngắn

của một tác giả trẻ, do đó dĩ nhiên chưa thể có những công trình nghiên cứu

dày dặn và thấu đáo để người viết tham khảo. Các nguồn tư liệu chủ yếu được

thu thập trên các trang web văn học như: Viet-studies, E-văn, Vietnamnet, Văn

nghệ Sông Cửu Long…, trên các tờ báo giấy uy tín như: Văn nghệ, Tuổi Trẻ,

Thanh Niên, Người lao động, Tiền Phong, Công an nhân dân…và chúng tôi còn

tham khảo trên các diễn đàn văn học, blog cá nhân của tác giả và những nhà văn,

nhà nghiên cứu khác để có thêm tư liệu. Không thể nói tư liệu về Nguyễn Ngọc

Tư ít ỏi, nhưng trước sự đa dạng của các ý kiến cũng như các nguồn tư liệu,

chúng tôi buộc phải cân nhắc khách quan để “gạn lọc” mong để tìm ra những tư

liệu, những bài viết có giá trị nhằm phục vụ tốt cho luận văn này.

Ngoài ra đã có nhiều luận văn nghiên cứu tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư

như: Đặc điểm truyện ngắn hai cây bút nữ Phan Thị Vàng Anh và Nguyễn

Ngọc Tư (Ngô Thị Diễm Hồng); Quan niệm nghệ thuật về con người trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Phạm Thái Lê); Thế giới nhân vật trong truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Lê Hồng Tuyến); Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy

nhìn từ phương diện văn học - văn hóa (Dương Thị Kim Thoa); Thế giới nghệ

thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Nguyễn Thị Kiều Oanh)...Chúng

tôi có kế thừa một số kết quả của các luận văn này.

Chúng tôi nhận thấy chưa có một luận văn, luận án nào nghiên cứu toàn

diện phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, do vậy, chúng tôi đã tìm được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khoảng trống để thực hiện đề tài này. Các công trình nghiên cứu của những

8

người đi trước sẽ là gợi dẫn bổ ích và quý báu cho chúng tôi tiếp cận và triển

khai đề tài.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng

Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã xuất bản gồm:

1. “Ngọn đèn không tắt” (Tập truyện - NXB Trẻ - 2000)

2. “Ông ngoại” (Tập truyện thiếu nhi - NXB Trẻ - 2001)

3. “Biển người mênh mông” (Tập truyện - NXB Kim Đồng - 2003)

4. “Giao thừa” (Tập truyện - NXB Trẻ - 2003)

5. “Nước chảy mây trôi” (Tập truyện và kí - NXB Văn nghệ TP.HCM - 2004)

6. “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” (Tập truyện - NXB Văn hóa sài

gòn - 2005)

7. “Cánh đồng bất tận” (NXB Trẻ 2005)

8. “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” (NXB Trẻ - 2008)

9. “Khói trời lộng lẫy” (NXB Thời đại - 2010)

Đề tài tập trung nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư

trong truyện ngắn qua những tập truyện mang tính dấu mốc, cụ thể là các tập

truyện ngắn sau:

- “Giao thừa”, Nhà xuất bản Trẻ, 2003

- “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, NXB Văn hoá, 2005

- “Cánh đồng bất tận”, NXB Trẻ, 2005

- “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác”, NXB Trẻ, 2008

Tuy nhiên việc nghiên cứu phong cách không thể tách rời nghiên cứu

cả chặng đường sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư nên chúng tôi có sử dụng

những tác phẩm trong cả quá trình sáng tác để thấy được sự vận động trong

truyện ngắn của chị.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.2. Phạm vi nghiên cứu

9

Chúng tôi nghiên cứu đề tài này trong phạm vi xác định là phương diện

nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư về tư liệu có khảo

sát thêm những tranh luận về nghệ thuật xung quanh tác phẩm của chị.

Từ phong cách nghệ thuật truyện ngắn, được biểu hiện qua thế giới

nhân vật, ngôn ngữ, nghệ thuật kể chuyện. Vì vậy, chúng tôi đi vào phong

cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư trong truyện ngắn ở ba phương diện: cơ sở

văn hóa hình thành phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư; nhân vật “con

người đời thường” và cái nhìn nhân ái về con người của Nguyễn Ngọc Tư;

đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện và sử dụng ngôn ngữ.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu phối hợp sử dụng những

phương pháp sau:

4.1. Phương pháp phân tích.

Đi vào phong cách nghệ thuật của một tác giả, luận văn sử dụng

phương pháp phân tích tác phẩm để tìm ra các đặc điểm riêng có giá trị, ý

nghĩa của tác phẩm ở các cấp độ khác nhau, từ đó làm sáng tỏ những luận

điểm của luận văn.

4.2. Phương pháp tổng hợp - so sánh.

Để thấy được phong cách riêng của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng như

sự đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư cho nền văn học Việt Nam đương đại,

trong quá trình nghiên cứu người viết có tiến hành so sánh đối chiếu Nguyễn

Ngọc Tư với một số cây bút truyện ngắn khác nhất là một số nhà văn nữ cùng

thế hệ như: Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y

Ban,…ở từng vấn đề có liên quan để thấy được những nét tương đồng và dị

biệt, từ đó thấy rõ hơn đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4.3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử.

10

Chúng tôi đặt Nguyễn Ngọc Tư vào bối cảnh lịch sử để nghiên cứu.

Những giá trị truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được đánh giá trong mối

tương quan với thành tựu văn học đương thời sau đổi mới. Nét mới, nét độc

đáo được nhìn nhận trong thời điểm nó ra đời.

4.4. Phương pháp hệ thống.

Để hiểu được phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư trong truyện

ngắn, luận văn chú trọng tìm ra được yếu tố tạo nên tính chỉnh thể và quy luật

cấu trúc của nó. Mọi đối tượng, vấn đề khảo sát được chúng tôi đặt trong hệ

thống, trong quy luật của cấu trúc này.

5. Đóng góp của đề tài

Với đề tài “Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, luận văn sẽ

xem xét đặc sắc của sáng tác truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên mọi khía

cạnh: tư tưởng, hình tượng, nghệ thuật kể chuyện làm nổi bật tính riêng,

không trộn lẫn của lối viết Nguyễn Ngọc Tư nhằm khẳng định tư tưởng nghệ

thuật của nhà văn, từ đó xác nhận vị trí của Nguyễn Ngọc Tư trong văn học

Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XXI.

6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm ba phần chính: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận; phần

Nội dung được chia làm ba chương:

Chương 1: Khái niệm phong cách nghệ thuật và cơ sở xã hội văn hóa

hình thành phong cách Nguyễn Ngọc Tư.

Chương 2: Nhân vật “con người đời thường” và cái nhìn nhân ái về

con người của Nguyễn Ngọc Tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chương 3: Đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện và sử dụng ngôn ngữ.

11

Chƣơng 1

KHÁI NIỆM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT

VÀ CƠ SỞ XÃ HỘI VĂN HÓA HÌNH THÀNH PHONG CÁCH

NGUYỄN NGỌC TƢ

1.1. Lý luận về phong cách

1.1.1. Phong cách là gì?

Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, với các đại biểu xuất sắc như

Platon, Aristore, khái niệm phong cách đã được nêu lên, cho đến thế kỉ XIX,

đặc biệt là thế kỉ XX, khái niệm phong cách ngày càng được quan tâm sâu

sắc. Chỉ ngay ở Liên Xô, viện sỹ M.B Khrapchenko trong cuốn Cá tính sáng

tạo của nhà văn và sự phát triển văn học đã thống kê tới gần 20 cách hiểu

khác nhau về phong cách. Ngoài ra còn phải kể đến công trình của V. V.

Vinôgrađôp, của D. X. Likhatsep các công trình của M.B Khrapchenko...

Trong lý luận văn học phương Đông cách nói Văn ư kỳ nhân (Văn tức

là người), cũng là nhằm nói đến phong cách văn học, nó tương tự như cách

nói ở phương Tây “Le style, c‟est l‟homme?”

Cụ thể, Trung Quốc, cách thời đại chúng ta gần 1.500 năm, Lưu Hiệp

trong Văn tâm điêu long đã có hai chương bàn luận rộng rãi những vấn đề liên

quan đến sáng tác văn chương và tác giả: trong 49 chương trình bày lý luận cơ

bản về sáng tác, phê bình, phần thứ 3 bao gồm 24 chương cuối, tác giả bàn về

phong cốt, tình thái...

Ở nước ta, tuy muộn màng hơn, nhưng những năm gần đây, các nhà lý

luận nghiên cứu văn học đã dành nhiều công sức tìm hiểu vấn đề phong cách.

Từ những sách công cụ như: Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần

Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi chủ biên. Các nhà lý luận, nghiên cứu văn học

nước ta cũng đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu nội hàm thuật ngữ phong cách.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ

văn học trên cơ sở thừa nhận hai phạm trù phong cách ngôn ngữ và phong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

cách nghệ thuật, đã định nghĩa: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm

mỹ, chịu sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các

phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của

một nhà văn, trong một tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học

dân tộc”. Và khẳng định: “Trong chỉnh thể “nhà văn” (hiểu theo nghĩa là các

sáng tác của một nhà văn), cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại ấy biểu hiện

tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút pháp nghệ

thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy”.

Thống nhất với quan điểm đó, các tác giả cuốn Lý luận văn học (NXB

Giáo dục,1987) xác định: “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng nghệ thuật

có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú”.

Từ những quan niệm về phong cách của các tác giả trong nước và ngoài

nước, chúng tôi cũng đưa ra một quan niệm về phong cách như sau: Phong

cách là một phạm trù thẩm mĩ, một chỉnh thể nghệ thuật, mang đậm cá tính

sáng tạo của nhà văn. Nó bao gồm những đặc điểm cả về nội dung và hình

thức, thể hiện sự độc đáo, đặc trưng mang tính thống nhất, ổn định xuyên suốt

các sáng tác của mỗi nhà văn.

Phong cách nhà văn là một quá trình vận động, phát triển không ngừng

qua mỗi giai đoạn sáng tác. Mặc dù vậy, cái riêng độc đáo mang tính thẩm mĩ -

cốt lõi phong cách, dù ở điều kiện hoàn cảnh nào cũng ổn định, thống nhất.

1.1.2. Các bình diện của phong cách

Có bốn kiểu quan niệm khác nhau về các bình diện của phong cách

nghệ thuật:

(1) Phong cách chỉ thuần túy là vấn đề kỹ thuật hay cách thức biểu đạt,

biểu hiện ở hình thức của tác phẩm.

(2) Phong cách chủ yếu và trước hết biểu hiện qua ý thức nghệ thuật,

qua cái nhìn, qua cách cảm nhận thế giới độc đáo của nhà văn (phong cách chỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biểu hiện ở nội dung).

13

(3) Phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm.

(4) Phong cách biểu hiện thành những đặc điểm hình thức nhưng những

đặc điểm này có nguồn gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn, tức là hình

thức có tính nội dung.

Chúng tôi nghiêng theo quan niệm thứ (4): “Tổng thể thẩm mỹ của tất

cả các phương diện và các yếu tố của tác phẩm làm nên một sự đặc sắc nhất

định.” Phong cách không phải là một yếu tố mà là một đặc tính của hình thức

nghệ thuật, nên nó không bị định vị (chẳng hạn như các yếu tố cốt truyện hay

chi tiết nghệ thuật), nó dường như tán phát trong toàn bộ cấu trúc hình thức.

Do vậy, nguyên tắc tổ chức của phong cách được thể hiện trong mọi khúc

đoạn văn bản, mỗi “điểm” văn bản đều mang trên mình dấu ấn của toàn thể.

Nhờ đó, ta nhận ra phong cách qua các khúc đoạn riêng lẻ: người đọc thành

thạo chỉ cần đọc một đoạn văn nhỏ trong tác phẩm của một nhà văn cũng đủ

tự tin gọi tên tác giả của nó” [Bản dịch của Trịnh Bá Đĩnh, từ cuốn Bách

khoa toàn thư văn học: các khái niệm và thuật ngữ, Viện Thông tin các

khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Moskva, 2001, tr 1031]. Theo

đó, phong cách chủ yếu được nhận diện qua các yếu tố hình thức mang tính

nội dung. Tuy nhiên, phong cách không chỉ là hình thức, nó còn bắt rễ sang

bình diện nội dung.

Trong luận văn này của mình, chúng tôi tập trung vào những nguyên

tắc nghệ thuật, những kiểu lựa chọn riêng trong các yếu tố cấu trúc phong

cách (cách xử lí, thế giới hình tượng, cốt truyện và ngôn ngữ…) để gọi tên

các phương diện nội dung của phong cách (quan niệm nghệ thuật về con

người, xã hội, tư tưởng nghệ thuật ...). Chúng tôi cũng luôn ý thức làm rõ sự

gắn bó của các thành tố cấu trúc phong cách, các phương diện phong cách với

nhau và với chỉnh thể phong cách tác giả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

14

1.2. Văn hóa Nam Bộ và quá trình hình thành phong cách Nguyễn Ngọc Tƣ

Các nhà nghiên cứu văn học theo hướng tiểu sử học mà đại diện tiêu

biểu nhất là nhà nghiên cứu Pháp H. Taine cho rằng vùng đất với môi trường

văn hóa, địa lí, lịch sử của nó có ảnh hưởng rất lớn đến đặc tính sáng tác văn

học của nhà văn. Ở ta, Nguyễn Bách Khoa, Trần Thanh Mại và nhiều nhà

nghiên cứu khác nữa cũng vận dụng quan điểm này trong nghiên cứu văn của

Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương và thu được nhiều kết quả.

Một số ý kiến có thể cực đoan song ảnh hưởng của vùng văn hóa đến phong

cách nhà văn là rõ ràng và được nhiều nhà nghiên cứu cũng như các nhà văn

xác nhận.

1.2.1. Vùng văn hóa Nam Bộ-một số nét đặc sắc

Mang đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, đồng thời cũng đa

dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác. Cho nên, không ở đâu có nhiều

từ ngữ để chỉ các loại hình và hoạt động sông nước như ở vùng này: sông,

lạch, kinh, rạch, xẻo, ngọn, rọc, tắt, mương, rãnh, ao, hồ, đìa, hào, láng, lung,

bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng, vịnh, bàu...; nước lớn,

nước ròng, nước đứng, nước nhửng, nước rông, nước rặc, nước lên, nước

xuống, nước nhảy, nước chụp, nước rút, nước nổi, nước lụt, nước lềnh, nước

cạn, nước xiết, nước xoáy, nước ngược, nước xuôi... Sông nước đã trở thành

một yếu tố cấu thành đặc trưng của văn hoá nơi đây.

Việc giao thương của vùng cũng mang đặc thù sông nước. Từ xưa, các

trung tâm giao thương lớn của vùng đều được hình thành ven bờ sông rạch,

thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá: Nông Nại Đại phố, Mỹ Tho Đại phố,

Sài Gòn, Cần Thơ... Đặc biệt ở miền Tây còn có các chợ nổi mà toàn bộ hoạt

động đều diễn ra trên sông nước. Chợ nổi Long Xuyên (An Giang) là nơi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hàng trăm ghe xuồng tụ tập để buôn bán hàng hoá nông sản như bánh canh

15

ngọt, lạt, bánh tầm, bánh bò, hủ tiếu, chè đậu đỏ, cà phê... Chợ nổi Cái

Răng (Cần Thơ) tụ họp hàng trăm ghe từ tờ mờ sáng, bán đủ loại sản phẩm

miệt vườn được treo trên một cây sào cắm trước mũi ghe gọi là "cây bẹo".

Người mua chỉ cần nhìn vào "cây bẹo" là biết ngay ghe bán thứ gì. Tương tự

là chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi Phụng Hiệp (Hậu Giang)... Là nơi

"dân thương hồ" lui tới mưu sinh, chợ nổi đã trở thành một nét sinh hoạt văn

hoá rất đặc thù của miền Tây sông nước, và được ngành du lịch khai thác như

một sản phẩm du lịch độc đáo dành cho du khách.

Chúng ta cũng nói về một thú vui tinh thần rất quen thuộc của người

dân Nam Bộ, đó là xem hát bội, sau này với những cách tân được gọi là hát

cải lương. Theo cuốn “Cá tính miền Nam” của nhà văn Sơn Nam, “nếu năm

1906 tạm được xem là khởi điểm cho phong trào nói thơ, nói truyện lần hồi

lan rộng trong giới bình dân thì đó cũng là năm khởi điểm cho phong trào đờn

ca tài tử” cải lương. Đờn ca tài tử đã sống cùng với người dân Nam Bộ hơn

một thế kỷ nay và đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh

thần của người dân vùng sông nước chín rồng. Ta biết ngay chính nhà văn Lý

Văn Sâm khi còn trẻ cũng đã từng mơ trở thành một soạn giả, ông cũng đã

viết một số vở cải lương và rất thần tượng nhà viết kịch Trần Hữu Trang. Cải

lương ngày xưa có Tình anh bán chiếu, Dạ cổ hoài lang, Đời Cô Lựu, …còn

cải lương ngày nay bên cạnh những tích vở cổ thì còn đi vào cả đời sống hàng

ngày của người dân với những vấn đề sớm hôm họ phải giải quyết. Trong bài

Nhịp sống cải lương Nam Bộ của tác giả Lê Xuân có viết như thế này: “Ở

đồng bằng sông Cửu Long, các thuyền văn hóa, xe lưu động của các đội tuyên

truyền văn hóa quận, huyện, phường, xã vẫn tới nhiều địa điểm bến sông, bãi

chợ để ca vọng cổ và diễn các vở cải lương ngắn tuyên truyền các ngày lễ lớn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hay các cuộc vận động cho một chủ trương, đường lối chính sách nào đó của

16

Đảng và Nhà nước. Chỉ cần ca hai câu vọng cổ là đã tập hợp được rất nhiều

quần chúng và sau đó các tuyên truyền viên mới vào cuộc…Tới các điểm du

lịch sinh thái ở miệt vườn hay tới các quán ca cổ ở đồng bằng sông Cửu Long

ta sẽ thấy không khí đờn ca tài tử rất sôi nổi và mùi mẫn. Về ẩm thực, món ăn

Nam Bộ đặc sắc ở chỗ nó được tạo ra, mang sắc thái riêng, hương vị ngọt

ngào riêng bởi hơi đất miệt vườn mênh mông, vị ngọt sông rạch ào ạt dâng

tràn mùa lũ, khí trời lồng lộng gió biển Tây Nam, cái uy nghi thâm u của lớp

lớp rừng già đồi núi nơi đây. Đó chính là “nguyên liệu” đầu tiên, chỉ có cho

ẩm thực vùng châu thổ này, nơi đã trở thành “đất lành chim đậu”, mưa thuận

gió hòa, ngày càng trù phú, phồn thịnh: “Ruộng đồng mặc sức chim bay/ Biển

hồ lai láng một bầy cá đua”. (Ca dao Nam Bộ).

Ẩm thực Nam Bộ (và Việt Nam) ẩn chứa sức mạnh văn hóa nặng lắm.

Nó không chỉ liên kết không gian, thời gian; truyền thống, hiện đại mà cả tâm

linh, tư tưởng con người nữa. Nói về tính cách cũng như cách đối nhân xử thế

của con người, có thể thấy điểm nổi trội nhất của người Nam Bộ là cách suy

nghĩ bộc trực, phóng khoáng; lối sống “xả láng sáng về sớm” và luôn “chơi

hết mình” vì người khác. (Thật ra về những những nét tính cách này của

người Nam Bộ, không phải người Việt Nam sống trên các vùng, miền khác

không có, nhưng ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đến những nét nổi trội và

ưu thế nhất góp phần làm nên cá tính riêng của con người ở mỗi vùng,

miền…trên lãnh thổ ta mà thôi). Bên cạnh đó, người Nam Bộ trong suy nghĩ

và lời nói cũng thể hiện một cái gì đó rất bộc trực và thẳng thắn. Nói như nhà

văn Sơn Nam đó là “tinh thần phóng khoáng thực tế, ghét những lí luận

quanh co. Cứ nói thẳng để xem chuyện đó ra sao. Muốn gì thì nói phứt nó ra.

Họ ghét những cuộc tranh luận về lí thuyết chính trị hoặc lí thuyết siêu hình,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và có thành kiến cho rằng kẻ dùng quá nhiều lí luận là “lẻo mép”, gian xảo.

17

Họ thích nói chuyện vui, chuyện có đầu có đuôi, những giai thoại khôi hài.

Nói “lí luận” là “buồn ngủ”. Nói chuyện quanh co là kém thành thật” [4].

Người Nam Bộ, vì thế, trong giao tiếp ứng xử có người cho rằng họ nói

chuyện có khi “bụm miệng không kịp” vì chuyện gì cũng “huỵt tẹt” cũng

“bốp chát”, “rổn rảng”, “có sao nói vậy”… điều này đã góp phần hình thành

nên một thứ ngôn ngữ rất đặc trưng trong giao tiếp, nói năng của người Nam

Bộ. Những tính cách này của người Nam Bộ không thể nói là không có ảnh

hưởng đến văn Nguyễn Ngọc Tư. Cả về nhân vật, giọng văn, ngôn từ…trong

truyện Nguyễn Ngọc Tư dễ thấy bóng dáng “tính cách Nam Bộ”.

Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ những trang viết đầu tiên, người đọc đã cảm

nhận được đây là nhà văn có giọng điệu Nam Bộ đặc sệt. Có nhà văn đã từng

nhận xét: “Văn của Ngọc Tư mang đậm chất Nam Bộ: hồn hậu, hào sảng.

Văn hóa tiểu vùng khác nhau, thì sản sinh những chất văn khác nhau, sản sinh

ra những tác giả khác nhau. Ở Bắc Hà không sinh ra văn của Ngọc Tư được,

mà ở Nam Bộ không thể sinh ra được văn của Y Ban và Tạ Duy Anh được,

tôi nghĩ thế.”[32.1]. Điều đó có thể lý giải bằng nhiều cách, nhưng có lẽ ngoài

việc sử dụng tối đa phương ngữ Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư còn là nhà văn

quan tâm đến những vấn đề số phận, con người của vùng đất nông thôn ở

Nam Bộ. Những câu chuyện của chị kể về những số phận, con người mang

đậm chất Mũi Cà Mau, mang một hơi thở, sức sống riêng của mảnh đất địa

đầu Tổ quốc.

Đọc truyện của chị, người đọc sẽ cảm nhận được chất Nam Bộ thể hiện

khái quát ở nhiều phương diện của tác phẩm. Đầu tiên là một không gian Nam

Bộ với nhiều loại cây quen thuộc của mảnh đất này: “mắm, đước, sú, vẹt, bần,

tra, tràm, choại, quao, ô rô, dừa nước…”; với những vàm, kinh, rạch chằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chịt, mà tên gọi cũng gợi trí tò mò, tìm hiểu ở người đọc: “vàm Cỏ Xước,

18

Vàm mắm, kinh Cỏ Chác, kinh Mười Hai, kinh Thợ Rèn, Rạch Mũi, Rạch

Ráng, Rạch Ruộng, Xẻo Mê, Xẻo Rô, Lung Lớn, Gò Cây Quao…”; hay

những tên ấp, tên làng, tên chợ nhiều chất Nam Bộ: “xóm Xẻo, xóm Rạch,

xóm Kinh Cụt, xóm Miễu, chợ Ba Bảy Chín, Cái Nước, Trảng Cò, Đất Cháy,

Mút Cà Tha…”. Nhân vật trong tác phẩm của chị cũng là những con người

Nam Bộ với những cái tên hết sức bình dị, chân chất, đặt tên theo thứ tự, và

cách xưng gọi thứ kết hợp với tên: Hai, Ba, Tư, Chín, Út…; Tư Nhớ, Năm

Nhỏ, Sáu Đèo…họ mang những tâm tư, nguyện vọng cũng hết sức nhỏ bé,

đời thường. Đó là những con người sinh sống bằng những ngành nghề cũng

gắn liền với quê hương sông nước Nam Bộ, như: nghề sông nước, nghề nuôi

vịt chạy đồng, nghề theo gánh hát,… ngoài những ngành nghề truyền thống:

làm ruộng, làm rẫy, đan lát…

Như vậy, có thể nói do được sống và lớn lên trên mảnh đất Nam Bộ,

những nét tính cách trong văn hóa ứng xử cũng như ngôn ngữ của cha ông đã

ăn sâu vào tiềm thức của Nguyễn Ngọc Tư. Vì thế, khi sáng tác, những nét văn

hóa “rặt Nam Bộ” ấy đã đi vào trang viết của chị một cách tự nhiên như một

điều tất yếu không thể nào khác được. Nó cũng là một phần làm nên sức hấp

dẫn của các tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư, tính truyền thống, giản dị, hồn hậu

nhưng có bản sắc rất riêng là điều ai cũng thấy ở truyện Nguyễn Ngọc Tư.

1.2.2. Trong “đội ngũ” các nhà văn Nam Bộ

Nguyễn Ngọc Tư thuộc vào số các nhà văn Nam Bộ. Các sáng tác của

họ hấp dẫn chị, và trong môi trường văn học ấy chị cũng có vị trí riêng của

mình. Ở đây lướt qua mấy nét về đội ngũ các nhà văn Nam Bộ, các nhà văn

thuộc một vùng văn hóa, văn học là những con chim bay ra từ cùng một tổ. Ở

phần này chúng tôi đề cập đến vài nét của phong cách văn học Nam Bộ tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biểu qua Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Quang Sáng và Sơn Nam.

19

Thổ ngơi, mùi vị, cuộc sống, nếp sinh hoạt của vùng đồng bằng sông

Đồng Nai, sông Cửu Long... là đề tài, là nguồn cảm hứng dường như không

bao giờ cạn cho những trang viết của Bình Nguyên Lộc, một nhà văn Nam Bộ

tiêu biểu. Ông từng nói: "Văn tôi bắt nguồn từ những cảnh đẹp với quê hương

và xuất phát từ lòng nhớ nhung tha thiết của tôi với nó..." Tình cảm và "lòng

nhớ nhung tha thiết" mà nhà văn nhắc đến ấy còn là nguyên nhân để văn

chương ông hướng đến việc lưu giữ hình ảnh con người và những giá trị văn

hoá vùng đồng bằng Nam Bộ trong dòng chảy mải miết của thời gian.

Bình Nguyên Lộc hay viết về người nông dân nghèo gắn bó mật thiết

với mảnh đất, căn nhà lâu đời của mình. Nếu họ có lìa xa quê hương ra thành

phố, sống đời anh "công chức" hay sống bằng những nghề khác, thì trong

"căn bổn" họ cũng là người dân quê và sẵn sàng về quê như anh Thuần trong

truyện “Đất không chết”. Bà vợ ông giáo Quyền khi chuyển ra sống ở thành

phố cũng nhớ đất đến mang bệnh và cuối cùng cả nhà phải dời ra ngoại ô để

bà có đất trồng trọt, để đỡ nhớ mùi đất quê hương. Người trông coi nghĩa

trang thành phố cũng vậy. Anh ta chỉ ở lại, không bỏ về quê nữa vì tại đây

anh ta có đất để trồng bông vạn thọ, để trồng rau, để bận rộn với công việc

quen thuộc của mình (truyện “Thèm mùi đất”). Còn cha anh Sáu Nhánh

(truyện “Phân nửa con người”) dù đã tuổi cao bóng xế vẫn kiên quyết bỏ con

cháu, bỏ cuộc sống trên chiếc ghe thương hồ để lên bờ sống trên đất liền. Ông

thậm chí còn cho rằng tình nghĩa với đất còn sâu nặng hơn cả tình nghĩa vợ

chồng: "Vợ chồng chỉ ăn ở nhau ba bốn mươi năm là cùng, đất thì nó thấy

mình sinh ra lớn lên, già yếu, rồi nó lại ôm mình khi mình chết. Mình cũng

thấy nó từ lúc lững chững bước đi cho tới lúc chống gậy mà lê bước..."

Trong mối liên hệ với tự nhiên bao gồm đất đai, sông nước, ruộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vườn, cây cỏ, thời tiết nắng mưa..., Bình Nguyên Lộc luôn cho rằng đất là tình

20

yêu sâu nặng nhất của con người. Tập quán, nếp sinh hoạt ở một nước nông

nghiệp lâu đời dường như đã ăn sâu trong tiềm thức của người dân. Tư tưởng

sở hữu đất cùng với những nét tâm lý rất đặc trưng của người nông dân Nam

Bộ được nhà văn phát hiện trong những chi tiết khá thú vị như cảm giác thèm

mùi đất, nỗi khát khao được che chở, bảo vệ đất... Đất đai, cây cối thật thiêng

liêng mà gần gũi với con người. Đất quê có khi không nuôi nổi con người

nhưng con người vẫn nặng tình với đất. Lão Nghiệm, thím Bảy, thằng Ất và

những người dân xóm Gò Rái của làng Tân Định nghèo khó trong

truyện “Bám níu” giống như những con cá cố lội ngược dòng nước chỉ để

được ở lại nơi chôn nhau cắt rún. Cả một đời cơ cực nhưng lão Nghiệm cho

rằng được sống ở nơi mình sinh ra, lớn lên đã là niềm hạnh phúc: "Cái ngày

mà ông nội tui quyết định ở lại, tui mừng không biết bao nhiêu, tui chạy đi

báo tin lành với các bụi tre ở đầu xóm, với con suối cạn ở cuối thôn, và cả

ngày ấy, không có gì ăn tui cũng nghe no tới cổ vì sung sướng". Người dân

cần có đất để canh tác nhưng dù luôn mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp

hơn thì họ vẫn nghĩ đến việc sống hoà đồng với tự nhiên hơn là chinh phục,

thống trị nó. Không gian trong truyện Bình Nguyên Lộc thường được trình bày

qua góc nhìn văn hoá. Ở đó mỗi chi tiết, địa danh đều lưu dấu thời gian và nếp

sinh hoạt, tập quán của con người. Nụ cười cởi mở và thái độ xuê xoa, giản dị,

cũng là cá tính của người Nam Bộ trong nhà văn Bình Nguyên Lộc. Ông viết

nhiều, viết nhanh về tất cả những gì xảy ra và gần gũi với mình, không cầu kỳ

trau chuốt tỉ mỉ cũng không quá hời hợt hay vì ảo tưởng danh vọng.

Nói đến nhà văn Nam Bộ hiện đại không thể bỏ qua Nguyễn Quang

Sáng, hầu hết các truyện ngắn của ông đều tập trung phản ánh và khám phá về

con người. Nhưng, Nguyễn Quang Sáng có cách nhìn, cách cảm nhận của

riêng ông về con người. Đó là, ông thường nhìn nhận con người từ góc độ lịch

sử - chính trị và con người của cộng đồng. Ông luôn dừng lại với những nỗi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

21

đau ở mỗi con người trong cuộc chiến và trong cuộc đời. Con người trong

truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng thường rất đa dạng, và một trong những

loại nhân vật đó là hình tượng người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ hiện

lên trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng đầy hấp dẫn và cũng rất đa

dạng. Đó là những con người thông minh, bản lĩnh, gan dạ và những con

người cao đẹp với tâm hồn cao thượng, trong sáng, thuỷ chung. Đó là những

người phụ nữ luôn sống với phương châm “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.

Khi đất nước có ngoại xâm, họ không nghĩ rằng, mình là người chân yếu tay

mềm, mà với một ý thức trách nhiệm với quốc gia, dân tộc, họ sẵn sàng bỏ lại

sau lưng mẹ già, làng quê cùng bao người thân thuộc để dấn thân vào vòng

hiểm nguy. Có khi họ phải bị tù đày, tra tấn, có lúc họ phải hy sinh. Mỗi giọt

máu đào của họ đổ xuống cũng nhằm làm cho đất nước hồi sinh và nở hoa.

Những nét đẹp đó đã được Nguyễn Quang Sáng ghi nhận và thể hiện trong tác

phẩm. Đặc biệt hình tượng người phụ nữ Nam Bộ hiện lên trong truyện ngắn

của Nguyễn Quang Sáng với những tính cách thật đáng yêu và đáng trân

trọng. Trong khói lửa chiến tranh, họ đã thể hiện được bản lĩnh, tấm lòng đối

với đất nước, với quê hương. Họ xông pha vào lửa đạn với tất cả sự gan dạ,

bản lĩnh và hết sức thông minh. Chính điều đó đã làm nên hình tượng những

người phụ nữ Nam Bộ anh hùng. Chị Bảy trong “Người đàn bà Tháp Mười”,

bà mẹ của sáu đứa con, một mình quán xuyến mọi việc trong gia đình để

chồng yên tâm thoát ly công tác. Những lúc bom đạn, trực thăng càn quét, chị

lại nhớ đến chồng, mong chồng trở về bên chị, hòng tiếp sức với chị. Nhưng

cuối cùng, chính chị phải tự mình cầm súng để chống lại kẻ thù mỗi khi

chúng kéo đến. Chẳng những thế, chị còn cầm súng đối đầu với địch một cách

rất hào hùng. Hành động của chị cũng là góp phần bảo vệ quê hương, làng

xóm mình: “Chị Bảy thấy ba chiếc trực thăng đang quây quần bắn vùng cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ráo, xóm nhà của chị. Ba chiếc nó thay phiên nhau rà sát và mỗi lúc một siết

22

chặt. Nghĩ đến con, lòng chị như lửa cháy và mặt chị thì tái lại. Môi chị tím

bầm hai tay chị nắm chặt và run lên. Chẳng biết cách nào chị hét lên:

- Lành bắn nó!”

“- Bắn nó! Bắn nó! Bà con ơi!

Chị cầm nọc cấy đánh phập xuống bờ công sự mà nức nở:

- Trời! Chết hết con tôi rồi! Chị như mất hết bình tĩnh, chị lột khăn ném

đi, đưa tay vò đầu bức tóc, rồi bất thình lình chị quay lại Lành giật lấy cây

súng nhẩy lên công sự chạy về nhà. Chị không chạy len lỏi qua các hàng cây

như những người khác, chị chạy băng qua giữa đồng, chạy tát cả nước. Chị

vừa chạy vừa bắn, chị bắn không cần ngắm súng, chị cứ hướng về phía trực

thăng mà nổ. Bắn một phát chị lại hét lên:

- Bắn nó! Bắn nó! Bà con ơi!”

Nhìn chung, hình tượng người phụ nữ Nam Bộ trong truyện ngắn

Nguyễn Quang Sáng rất đa dạng và nhiều màu sắc. Họ là những người phụ nữ

đảm đang, chung thuỷ đồng thời cũng rất thông minh, gan dạ và đầy bản lĩnh.

Họ đã thể hiện được vẻ đẹp nhân văn cao quý của người phụ nữ Nam Bộ.

“Họ là những con người có tâm hồn trong sáng, giàu nghị lực, có những tình

cảm mạnh mẽ ứng xử trong nhiều thử thách gay cấn”.

Trong tác phẩm của mình không chỉ ca ngợi về hình tượng người phụ

nữ mà tình cảm gia đình cũng làm sáng bừng lên những trang văn của ông.

Trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” người đọc không khỏi xúc động trước

tình cảm cha con của bé Thu. Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật

khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tình cảm. Tình cha con trong Thu giữ

gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy, vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.

Khi đến ngày ông Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại

“như thể bị bỏ rơi”, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi

người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

23

gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái

gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ

nhận ra sự có mặt của nó. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm

giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng. Nó không nén nổi tình

cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên “Ba…”, vừa kêu vừa chạy xô

đến nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ

ba nó, “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo

dài trên má của ba nó nữa”. Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng

gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba

gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng

gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như

muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó

bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm

nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu

đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một

nhân vật giàu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,

ngây thơ: Nhân vật bé Thu.

Cũng như những nhà văn Nam Bộ khác, Sơn Nam như một con ong

rừng chăm chỉ gom từng giọt mật để góp thêm bông hoa, mật ngọt cho văn

hóa, cho văn học Việt Nam thêm đa dạng; góp phần làm cho văn hóa, văn học

Nam Bộ một sắc thái riêng không thể nào trộn lẫn. Tập truyện “Hương rừng

Cà Mau” (tập 1) được đăng báo đầu những năm thập niên năm mươi và xuất

bản vào năm 1962. Tập truyện viết hay về đất và những con người miệt vườn

Nam Bộ. Một tập truyện mà hầu như ai cũng yêu thích, nó lôi cuốn độc giả từ

đầu đến cuối. Tác phẩm không phải là những trang lãng mạn, những câu

chuyện tình lâm li bi đát, cũng không đồ sộ nhưng đọc tác phẩm, ta cảm nhận

được thế giới riêng của vùng sông nước, cách dựng truyện đơn giản nhưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

24

hấp dẫn, mỗi truyện có chi tiết rất ấn tượng và thấy cả sức sống mãnh liệt của

những người đi mở đất phương Nam, cái cuộc sống nơi đất rừng “sơn lam

chướng khí” và thấy cả hào khí của tầng lớp lưu dân trên vùng đất Nam Bộ.

Nhà văn Nguyễn Trọng Tính từng nói: “Trong số những sáng tác của nhà văn

Sơn Nam thì tôi thích nhất truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau”- Đây là tập

truyện ngắn được xếp ở vị trí cao trong số những tác phẩm văn học đặc sắc

nhất của nhà văn Nam Bộ. Hồi còn nhỏ, tôi đọc tác phẩm của ông là vì mình

thích, lớn lên khi bước vào nghiệp của văn chương tôi đọc tác phẩm của Sơn

Nam như một cách học làm nghề. Tôi học ông cách viết văn, về cách ứng xử

của người viết văn Nam Bộ”.

Đọc “Hương rừng Cà Mau”, người đọc như được ông đưa về thăm

từng ấp, làng của Nam Bộ. Thiên nhiên qua sự khám phá, cảm nhận và phát

hiện trong “Hương rừng Cà Mau” đẹp, bình dị nhưng cũng gắn liền với sự

hoang dã và nhiều hiểm nguy. Nó phong phú nhưng vô cùng khắc nghiệt.

Những rừng tràm thì xanh biếc, hương tràm thoang thoảng, đầy những bất

ngờ hấp hẫn và bên dưới thì sấu, cọp, ong, muỗi, rắn, cũng phong phú đa

dạng không kém nhưng hễ mà không cẩn thận không biết cách thì có rất nhiều

chuyện không may xảy ra. Nhà văn Sơn Nam giúp cho chúng ta cảm nhận và

thấy được vùng đất mới khai phá được ưu đãi nhiều sản vật, là một nơi giàu

có và phong phú của thiên nhiên. Nó mang đặc điểm vùng miền còn hoang sơ

nhưng trù phú. Một vùng lắm kênh nhiều rạch, một vùng tràm bạt ngàn và vô

số những điều mà tưởng như rất xưa rồi vậy mà nó hiện hữu như mới xảy ra

gần đây bởi: sấu, cọp, ong, tràm, ô rô, cóc kèn, hương tràm, mật ong,...Điều

đó đã tạo nên nét đẹp của miền Nam xa xưa một thủa nhưng nó không mất đi.

Thiên nhiên dù còn khắc nghiệt, dữ tợn, hoang dã như những ngày đầu của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

công cuộc mở đất nhưng bây giờ nó vẫn giữ được nét bình dị, nên thơ bình

25

yên và mang nét đặc trưng của một vùng sông nước rất gần gũi và rất đẹp

trong tâm trí con người.

Đọc tác phẩm của ông, người đọc được tiếp xúc với những người Nam

Bộ đủ các thành phần, hạng người, nghề nghiệp: giàu sang, nghèo hèn, công

chức, trí thức, địa chủ, nông dân, thương gia,…Ông am hiểu những nghề có

tính đặc thù gắn với vùng đất như nghề : trị rắn cắn (“Cây huê xà”), bắt sấu

(“Bắt sấu rừng U Minh Hạ”, “Sông Giành Hào”), ăn ong, lấy mật (“Hương

rừng”), len trâu (“Mùa len trâu”)…Từ những con người ấy, Sơn Nam giúp ta

hiểu thêm tâm tình, tính cách và nhiều nét đặc trưng của con người Nam Bộ

một thuở.

Con người Nam Bộ hiện lên trong tác phẩm của Sơn Nam là những

người siêng năng, chất phác, hiền lành. Họ khai phá vùng đất mới bằng sức

lao động dẻo dai, bền bỉ và lòng quyết tâm cao độ. Không chỉ thế họ rất dũng

cảm đối mặt với những khó khăn và cũng rất thẳng thắn, chung thủy, tình

nghĩa không đổi (“Con bảy đưa đò”, “Hương rừng”, “Tình nghĩa giáo khoa

thư”), hồn nhiên ngây thơ như con Lài và thằng Lợi (“Cây huê xà”), chất

phác, khí khái, trọng tình nghĩa ấy giúp đỡ người khác không vụ lợi cho riêng

mình (“Bắt sấu rừng U Minh Hạ”),…trong nhiều tác phẩm khác. Đặc biệt,

điều mà tất cả chúng ta dễ nhận thấy đặc trưng cơ bản của con người Nam Bộ

lúc bấy giờ là tình yêu quê hương đất nước. Ở đó không phải là những biểu

hiện cụ thể lớn lao, sôi nổi mà ẩn sau lời nói, lời tâm sự, lời hát và qua hành

động của những con người nông dân miệt vườn mới thấy một khí khái, một

tình yêu nước sâu kín như trong tác phẩm “Đảng cánh buồm đen”, “Người

mù giăng câu”, “Ông già xay lúa”, “Hòn Cỏ Tron”,…

Con người Nam Bộ biểu hiện tình yêu quê hương đất nước của mình từ

công cuộc khai phá mở đất, biết sống hòa nhập với thiên nhiên và biết yêu

quý hàng xóm, nơi cư ngụ và cao hơn biết yêu ghét, căm thù những gì trái với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

26

đạo lý con người. Họ không chỉ căm ghét những hành động làm biếng

(“Đóng gông ông thầy Quýt”), ghét lừa gạt (“Tình nghĩa giáo khoa thư”),

ghét sự ganh tị (“Cây huê xà”),… nhưng cũng trân trọng yêu thương những

con người tài trí, tốt đẹp và hào hiệp với những con người biết cảm thông với

hoạn nạn của người khác, không vì bản thân mình (“Một cuộc biển dâu”,

“Bắt sấu rừng U Minh Hạ”, “Đảng cánh buồm đen”,…). Dù đó không phải

là tất cả những nét đặc trưng của con người Nam Bộ nhưng Sơn Nam đã khái

quát những nét đặc trưng cơ bản tính cách của một vùng miền mà không phải

nhà văn nào cũng có thể cảm và viết được như thế. Nhà văn đã viết lên bằng

tất cả sự trân trọng, niềm tin và yêu vào một nét đẹp của con người Nam Bộ

từ xưa đến nay không dễ gì đổi thay.

Nguyễn Ngọc Tư đã kế thừa chất văn Nam Bộ, cách nhìn Nam Bộ của

các nhà văn ấy một cách tự giác và có khi vô thức, đồng thời chị cũng có

đóng góp riêng, tiếp nối cha anh một cách xứng đáng. Trong truyệ n ngắ n củ a

nhà văn Nguyễn Ngọc Tư , việ c phả n á nh cá c nế p sinh hoạ t , ngôn ngữ , nế p

sinh hoạ t cũ ng như tạ o ra không gian miệ t vườ n sông nướ c vớ i tấ t cả nhữ ng

đặc trưng riêng như thú mê há t bộ i củ a ngườ i dân , nế p số ng giản dị, mộ c mạ c

không phả i là chủ đí ch củ a tá c giả , và có lẽ thế người viết hẳn cũng không

quá cầu kì trong khi miêu tả những chi tiết ấy - điề u nà y khá c hẳ n vớ i cá c nhà

văn viế t theo lố i miêu tả phong tụ c kiể u như S ơn Nam, Nguyễ n Tuân, nhữ ng

nhà văn coi phong tục cũng là một trong những nét chính yếu trong tác phẩm

của mình. Nguyễ n Ngọ c Tư cũ ng khá c ngay vớ i cây bú t miề n Nam lớ p trướ c

là Bình Nguyên Lộc khi phản ánh những nét văn hóa , phong tụ c trong tá c

phẩ m văn họ c . Bình Nguyên Lộc khi viết về các địa danh , các món ăn luôn

muố n tì m hiể u đế n tậ n ngọ n nguồ n sự vậ t . Nói về sông ông Lãnh chẳng hạn ,

ông giú p ngườ i đọ c biế t đượ c ngà y trướ c ngườ i tây gọ i nó là Rạch Cắc Chú ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sau lạ i có người gọi là Kinh Tàu Hủ và mấy người ghe thương hồ thì gọi là

27

rạch ông Lã nh hay là sông ông Lã nh. Rồ i cả khi viế t về quà đêm bán trên con

sông nà y vớ i đủ cá c mó n như chè đậ u , cháo cá , xu xoa mật đường , bộ t

khoai,…ông viế t : “Tuy nhiên nên nhớ rằ ng sự phồ n thị nh củ a Sà i Gò n là do

ngườ i Hoa kiề u dự ng lên , cách đây một trăm năm và Kinh Tàu Hủ là cái nôi

của sự phồn thịnh đó” . Rõ ràng , ta không bắt gặ p sự cẩ n trọ ng , tỉ mỉ trong

phương phá p phả n á nh , miêu tả , quan sá t củ a Bì nh Nguyên Lộ c trong tá c

phẩm của Nguyễn Ngọc Tư . Tuy nhiên, dù không chủ đích “khảo cứu” văn

hóa nhưng tấ t cả nhữ ng né t đó đề u đượ c biể u hiệ n rấ t đậ m đà , sinh độ ng trong

tác phẩm của chị.

1.2.3. Quan niệm văn học của Nguyễn Ngọc Tư

Ngọc Tư sinh ra ở một làng quê, nhà nằm ngay trên bờ sông, tiếng tắc

rang, tiếng tàu máy đuôi tôm rồi chợ họp trên sông ngày nào cũng nhộn nhịp.

Mọi âm thanh và nhịp đời của cuộc sống Nam Bộ dội vào văn chị. Chị cho

rằng: “Sống trong môi trường như thế thì cố tạo cho mình giọng văn rặt

những ngôn ngữ “sang trọng” mà làm gì?”. Người ta ví chị như cái cây tự

nhiên mọc giữa rừng tràm rừng đước Nam Bộ, như gái quê chân đất mộc mạc,

là đặc sản của miền Nam. Tuổi thơ của chị đã gắn liền với những dòng sông

uốn khúc, rừng đước bạt ngàn, đồng lúa mênh mông. Nhà văn Chu Lai còn

khẳng định Nguyễn Ngọc Tư là cây viết đặc biệt của miền Tây Nam Bộ, một

tài năng văn học hiếm có của Việt Nam hiện nay. Một cách viết không giống

ai, độc đáo và cuốn hút, không văn hoa bóng bẩy mà chân thực…Đọc truyện

của Nguyễn Ngọc Tư - những ai chưa một lần đặt chân tới vùng đất này đều

có thể khám phá và cảm nhận rất rõ về con người, thiên nhiên nơi đây. Với

cách viết khéo léo, luôn đan xen cho dù trong một phạm vi hẹp - cuộc sống

một gia đình… Người đọc không nhàm chán, có sức hút lạ kỳ ngay từ mạch

đầu cho tới khi câu chuyện kết thúc. Ấy là cách viết của Nguyễn Ngọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tư. Nắng gió, sông nước, đất trời, con người là những “mạch nước ngầm”

28

chảy trong con người chị từ tấm bé. Với những câu chuyện kể. Nguyễn Ngọc

Tư đã tạo ra những “cơn sốt” trên văn đàn cùng sự nổi tiếng của mình.

Nguyễn Ngọc Tư sinh ra và lớn lên tại Cà Mau, ngày còn đi học, chị đã

biểu lộ tính cách “mạnh” của mình : Chỉ chơi với đám con trai và học hết lớp

12 trung học phổ thông. Chị chưa hề qua một trường lớp viết văn chuyên

nghiệp nào, đi học môn văn chỉ đạt loại khá ( theo chị nói không phải là xuất

sắc ). Tác phẩm đầu tay - bệ phóng quan trọng cho sự nổi tiếng sau này :

Truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” giải nhất cuộc thi “Văn học Tuổi hai

mươi” năm 2000 do Báo Tuổi Trẻ và Hội Nhà Văn Thành phố tổ chức. Đất -

Nước - Con Người Cà Mau cùng ông “Trời” như một định mệnh đã gắn chặt

như máu thịt trong tâm hồn vốn nhạy cảm của chị. Những yếu tố đó, chị viết

một cách dễ dàng, viết bất cứ ở đâu bất cứ lúc nào, nó như một mạch nước

trong veo luôn chảy để chị viết một mạch không nghỉ (Nguyễn Ngọc Tư cũng

không biết tại sao?). Phải chăng là Thiên Bẩm ? Mảnh đất nơi mình sinh ra và

trưởng thành như một chất men, chất xúc tác, nghe rõ từng hơi thở, nhịp đập

của con tim…cho dù nơi ấy còn thiếu thốn vất vả, nhưng là một gia tài lớn

cho những ai biết khai thác nó. Và Nguyễn Ngọc Tư đã làm được như vậy!

Nguyễn Ngọc Tư (như chị kể) có một cuộc sống bình thường, bình dị: một gia

đình nhỏ hạnh phúc với 2 con trai và “ông xã” mà công việc hoàn toàn không

liên quan gì tới công việc viết văn của chị… Hàng ngày, dậy sớm làm thức ăn

sáng rồi đưa con đi học, ra chợ mua đồ ăn, để như chị nói : “Luôn có cá tươi

về nấu cho lũ trẻ và cả nhà ăn”. Chị thực sự ngồi viết từ 10h sáng đến 15h

hoặc 16h hàng ngày sau đó làm nghĩa vụ của một người mẹ, người vợ đảm

trong gia đình…Cuộc sống luôn tất bật, bận rộn đến với chị. Tại Thành phố

Cà Mau, không phải ai cũng nhận ra chị - một nhà văn nổi tiếng. Có lần chị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nói : “ Ngay cả những người hàng xóm nơi chị ở, có người còn không biết chị

29

là nhà văn, họ cứ nghĩ chị cũng chỉ là một phụ nữ bình thường như bao người

phụ nữ khác : Nội trợ và chăm sóc gia đình, gia đình là thế giới riêng của

chị…Nhưng đối với nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cho dù thế nào đi chăng nữa

những tác phẩm vẫn liên tiếp ra đời giữa : NẮNG - GIÓ - TÌNH ĐẤT - TÌNH

NGƯỜI của những “Cánh đồng bất tận”.

Nguyễ n Ngọ c Tư cho tớ i bây giờ vẫ n số ng và là m việ c tạ i Cà Mau .

Không ít độc giả băn khoăn điều này, tại sao suốt chừng ấy năm chỉ sống tại

một vùng đất, có thể cũng có đi đâu đó nhưng rốt cuộc vẫn lại trở về vùng đất

ấy mà Nguyễn Ngọc Tư lại có thể nuôi dưỡng cảm xúc về quê hương của

mình phong phú và bền bỉ đến như vậy. Có cảm giác mạch nguồn tình cảm

của chị với đề tài quê hương chưa bao giờ vơi cạn và mỗi lần viết về một

vùng đất cũ vớ i nhữ ng con ngườ i cũ đó ta vẫ n thấ y chị tìm được các nét mới

và thú vị. Cũng là chuyệ n đờ i số ng củ a con ngườ i vù ng miệ t vườ n thôi, nhưng

rõ ràng con người trong “Ngọ n đè n không tắ t” , “Nước chả y mây trôi” và

“Truyệ n ngắ n Nguyễ n Ngọ c Tư” khác rất nhiều so với con người trong

“Cá nh đồ ng bấ t tậ n” . Chúng ta hiểu rằ ng đây là sự đổ i mớ i đầ y ý thứ c củ a

chị. Trong cuộc trò chuyệ n vớ i phó ng viên bá o điệ n tử Vn Express.net ngà y

27/09/2005, Nguyễ n Ngọ c Tư đã nó i : “Tôi tự tin và o sự hiể u biế t về nông

thôn quê hương tôi . Bảy năm qua tôi đã viế t về nó vớ i bộ dạ ng hiề n hậ u ,

nghèo khó, đá ng thương. Bây giờ tôi lạ i đưa bạ n đọ c đế n mộ t miề n quê vớ i

nhữ ng gương mặ t khá c” . Tấ t nhiên không nhà văn nà o không khao khá t sự tự

làm mới như vậy , nhưng nế u không thậ t yêu thươn g, không thậ t gắ n bó đế n

máu thịt thì sự đổi mới dù có cố gắng tới đâu cũng sẽ nhạt . Và thật may

Nguyễ n Ngọ c Tư đã trá nh đượ c điều đó , bở i tà i năng và cũ ng bở i tì nh yêu quê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hương củ a chị .

30

Sáng tác đối với chị, như là một nhu cầu bức bách, chị viết văn như để

trả nợ ân tình, chị thổ lộ: “Còn về sáng tác thì cứ lúc nào thấy xúc động, đủ

cảm xúc, có suy nghĩ về cái mình đã trải qua, có nhu cầu phải viết, nếu không

viết chắc…tự tử mất thì Tư viết thôi.”(Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: đánh “ùm”

một tiếng mà thôi”, Báo Tuổi trẻ 04/12/2005). Với Nguyễn Ngọc Tư, cảm

xúc là khởi nguồn của sáng tạo văn chương. Chị hồn nhiên tự nhận “Tôi là

một cây bút nghĩ thế nào, viết thế ấy, nghĩ sao viết vậy” (Trả lời phỏng vấn

trên báo Tiền Phong ngày 31/10/2006). Theo Nguyễn Ngọc Tư, thành thật với

cảm xúc của mình, đó chính là cầu nối kì diệu nhất để đến với trái tim người

đọc. Bởi chính họ là người thẩm định công bằng mọi giá trị của văn chương.

Với thời gian, Nguyễn Ngọc Tư ngày càng có những “tuyên ngôn” về nghề

với một thái độ “chuyên nghiệp” hơn. Chị xác định viết văn là “một lựa chọn

khó, đầy nhọc nhằn, nặng nề, dằn vặt” (Tiền Phong, 21/01/2006). Nguyễn

Ngọc Tư bày tỏ trách nhiệm của nhà văn trong việc lựa chọn đề tài: “Tư chọn

viết những gì mà người đi trước trước không viết thôi. Với những gì người đi

trước viết rồi, nếu mình đi lại con đường ấy, hoặc mình phải tránh qua một

bên, hoặc là mình phải vượt trội hơn. Nhưng vượt trội thì khó quá, ví dụ như

để vượt qua Vũ Trọng Phụng thì thôi …đi, Tư không tự làm khó mình mà

chọn cái mình làm được”. Quan niệm nhẹ nhàng nhưng sáng rõ như thế

chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư không hề cẩu thả trong nghề nghiệp của mình. Chị

luôn ý thức về trách nhiệm người cầm bút: “Lúc đầu chỉ viết để giải tỏa cảm

xúc cho nó nhẹ người đi, nhưng sau này thấy cái nghiệp mình đeo đuổi nặng

trĩu, đầy nự nần. Viết vì mình là Nguyễn Ngọc Tư”.

Chị đã thẳng thắn bày tỏ: “Tôi không quan tâm văn mình yếu hay

mạnh, chỉ nghĩ, những trang viết này có làm mình xấu hổ không, có đi vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lòng người không, có khiến người ta nhớ không?”. Có thể những điều chị viết

31

ra thì nhẹ nhàng, mộc mạc, nhưng để thai nghén nó là cả một quá trình lao

tâm khổ tứ cho đến khi kí thác vào trang văn. Chúng tôi nghĩ “Cánh đồng bất

tận” ra đời đã trả lời cho những băn khoăn lo ngại trên. Những vấn đề nóng

bỏng, những bức bách của nông thôn Nam Bộ, những tâm tư suy nghĩ của

người nông dân đều được phản ánh một cách “trần trụi” và chân thực qua

trang viết của chị. Ngòi bút của chị cùng với những trải nghiệm cá nhân trong

cuộc sống đã ngày càng trở nên khốc liệt và nghiệt ngã hơn. Song, có bản

lĩnh, biết chấp nhận mạo hiểm cũng là một phẩm chất đáng quý và cần thiết

đối với người nghệ sĩ. Nhưng dù thay đổi chị vẫn giữ được nét rất riêng của

mình: lòng nhân ái, sự chân thực và ngôn ngữ văn hóa một vùng đất. Nhà văn

bộc bạch: “Bao giờ khi bắt tay vào viết, tôi cũng nghĩ thoáng qua tác phẩm

mới này ai sẽ khen, và biết cả một vài khuôn mặt những người chê. Lần nào

cũng nghĩ nhưng lần nào cũng viết như cảm xúc của mình, bởi trước khi viết

cho ai đó thì tôi viết cho mình”. Chị khá thận trọng khi tuyên bố mình không

cố công tìm hiểu và chiều theo thị hiếu độc giả, bởi chị không dám chắc mình

hiểu đúng độc giả muốn đọc gì, nên “đường ai nấy đi, nếu gặp nhau là tốt”,

bởi nhiều khi “Mình không thể hiểu hết bạn đọc, có khi viết xong cái truyện

mà bản thân mình thấy thích lắm nhưng bạn đọc lại chê…Với lại, Tư cũng

không có ý tìm hiểu bạn đọc của mình”. Theo chị, nhà văn và độc giả đều có

những sở thích riêng, không quá phụ thuộc vào nhau. Vì vậy mà Nguyễn

Ngọc Tư cố giữ cho mình một thái độ khách quan, một khoảng cách nhất định

với thị hiếu độc giả cũng như sự đánh giá của các nhà phê bình. Chị cũng

cảnh báo nhiều nhà phê bình có sự suy diễn khi họ rút ra những “chân lí” mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chị chưa bao giờ nghĩ tới khi cầm bút.

32

Chƣơng 2

NHÂN VẬT “CON NGƢỜI ĐỜI THƢỜNG” VÀ CÁI NHÌN

NHÂN ÁI VỀ CON NGƢỜI CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ

Phong cách là sự tổng hợp những nét riêng trong sáng tác của nhà văn.

Nó bao gồm cả các yếu tố bút pháp, thi pháp, nhưng các yếu tố bút pháp này

lại gắn liền với nhãn giới (quan niệm về thế giới của nhà văn), tức là liên quan

đến các yếu tố nội dung. Đối với phong cách nhà văn trong thể loại tự sự tìm

hiểu phong cách trước hết là chỉ ra cái riêng trong xây dựng nhân vật vì nhân

vật là một yếu tố trung tâm của thể loại truyện, nhất là với các truyện viết theo

lối truyền thống (tức không phải hậu hiện đại). Truyện của Nguyễn Ngọc Tư

là loại truyện viết theo lối truyền thống như vậy.

2.1. Nhân vật văn học

2.1.1. Khái niệm nhân vật văn học

Một tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật. Nhân vật là linh hồn

của tác phẩm, là trung tâm mọi sự miêu tả nghệ thuật. Nhân vật trong văn học

có thể là con người, con vật, đồ vật. Nhân vật có thể có tên hay không có tên.

Tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật vì đó là hình thức cơ bản mà qua

đó, văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Nhân vật văn học là con người cụ thể

được miêu tả trong các tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên

riêng (Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể không có tên riêng như

“thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều [41.162]. Cuốn Từ điển

Tiếng Việt cho rằng: Nhân vật là đối tượng (thường là con người) được miêu

tả thể hiện trong tác phẩm văn học nghệ thuật [69.705].

Còn theo Giáo trình lý luận văn học thì nhân vật văn học được quan

niệm rộng hơn: Đó không chỉ là con người có tên hoặc không có tên, mà có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

33

thể là những sự vật, loài vật khác nhau, ít nhiều mang bóng dáng tính cách

của con người, được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện

con người. Đó là nhân vật dế mèn, võ sĩ bọ ngựa, con mèo lười trong truyện

thiếu nhi của Tô Hoài; là vầng trăng, là bông hoa hồng trong thơ Hồ Chí

Minh,...Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ

là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan đến con người, được thể

hiện nổi bật trong tác phẩm [36.126].

Nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật do nhà văn sáng tạo

nên. Nhân vật văn học rất phong phú, nó có thể là loài vật, đồ vật…nhưng chủ

yếu là con người. Sự thể hiện nhân vật cũng ở những hình thức rất đa dạng.

Dù nhân vật là thế giới loài người hay loài vật nó đều có vai trò rất quan trọng

trong sáng tác của nhà văn, nó làm nên linh hồn của tác phẩm.

2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học

Một tác phẩm văn học thì không thể không có nhân vật. Bởi nhân vật là

linh hồn của tác phẩm, là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực.

Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện nhận thức về con người cũng như

quy luật của cuộc sống. Một tác phẩm văn học được đánh giá là có giá trị, có

chiều sâu, có sức sống lâu bền khi tác phẩm ấy khắc họa rõ nét, chân thực và

sinh động hình tượng nhân vật. Chính vì vậy mà người đọc khó có thể quên

được hình ảnh một Xuân Tóc Đỏ, một Chí Phèo, một Lão Hạc,... Đấy là

những điển hình văn học bất hủ.

Như vậy, nhân vật văn học thể hiện cách hiểu của nhà văn về con người

theo một quan điểm nhất định, là nơi để nhà văn gửi gắm, kí thác tâm tư, ước

vọng với những vấn đề triết lý nhân sinh. Qua hệ thống nhân vật, người đọc

thấy được cách nhìn, cách thể hiện thế giới, tức phong cách nghệ thuật của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhà văn. Cùng nói về con người trong xã hội hiện đại, nhà văn Phan Thị Vàng

34

Anh phơi bầy những bất ổn trong lối sống và chỉ ra những mâu thuẫn trong

cuộc đời; Nguyễn Thị Thu Huệ khai thác những mặt trái của con người trong

đời sống hiện đại phức tạp, còn Nguyễn Ngọc Tư với một phong cách riêng

đã thể hiện những quan niệm nghệ thuật về con người qua thế giới nhân vật

độc đáo của mình.

Nhân vật văn học gắn liền với quan niệm nghệ thuật về con người và

phương thức xây dựng hình tượng văn học của nhà văn. Khảo sát phong cách

nhà văn không thể nào bỏ qua quan niệm về con người và cách thức riêng xây

dựng nhân vật của nhà văn.

2.2. Nguyễn Ngọc Tƣ với cảm quan đời thƣờng trong xây dựng nhân vật

văn học

Gần như hầu hết các nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư là

những con người lao động bình thường vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Cuộc sống đời thường với những con người lao động bình thường làm nên thế

giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư, có thể gọi là một “cảm quan đời

thường” trong văn học. Nó là sự tiếp tục truyền thống của Nguyễn Quang

Sáng. Trở đi trở lại trong các tác phẩm của nhà văn là hai kiểu nhân vật nổi

bật: Người nghệ sĩ hát tuồng và người nông dân Nam Bộ.

2.2.1. Người nghệ sĩ miệt vườn

Nam Bộ là vùng đất nổi tiếng với đờn ca tài tử, với những gánh hát,

những đêm nghe đàn ca bất tận vùng “miệt vườn”, bên những quán nhỏ vùng

sông Tiền, sông Hậu. Ở đó có những người nghệ sĩ bình dân mà điêu luyện

ngón nghề, những công chúng nghệ thuật lúc nào cũng sẵn sàng tham dự “cuộc

chơi” nghệ thuật. Số phận những người nghệ sĩ bình dân là một đề tài được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiều nhà văn Nam Bộ quan tâm, xây dựng thành hình tượng nghệ thuật.

35

Ở Nguyễn Ngọc Tư qua khảo sát cho thấy, những câu những câu

chuyện nói về đề tài số phận, cuộc đời những người nghệ sĩ bình dân chiếm

8/32 truyện tức là: 25% số lượng các tác phẩm trong ba tập: “Giao thừa”;

“Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” và “Cánh đồng bất tận”. Người nghệ sĩ trong

truyện của chị thường rất yêu nghề, say mê với nghề nghiệp. Họ sẵn sàng hi

sinh mọi thứ của cuộc đời để được sống trọn với nghề, với kiếp cầm ca.

Hình tượng nhân vật Đào Hồng trong “Cuối mùa nhan sắc” là một

điển hình. Đào Hồng và những người nghệ sĩ tập hợp với nhau trong “ngôi

nhà buổi chiều” vì lòng yêu nghề, say mê nghiệp hát mà về ở với nhau. Chiều

chiều họ tập hợp lại, hát ở mảnh sân trước nhà cho những khán giả quanh

quẩn trong xóm để thỏa lòng mong nhớ sân khấu: “Sân khấu là cái hàng ba

trông ra sân rồng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng,

chỗ trống dành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm ghi ta thùng, cây nhị cũ mèm.

Không micro, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho, nghiệp đãi. Đào Phi tám

mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế mà lấy roi sãy

ngựa coi lạ hết biết”[58.88]. Ngọn lửa nhiệt tình say mê nghề nghiệp cháy

sáng, soi rọi cuộc đời họ. Nếu không có nghệ thuật, cuộc đời họ trở nên vô

nghĩa, không chí hướng. Vì vậy, họ sẵn sàng hát đến mức quên cả thân mình.

Đào Hồng dù ốm đến đâu cũng muốn được ra hát. Hát như là hơi thở, như là

cuộc sống để bà tìm thấy nghị lực, ý nghĩa cuộc đời.

Đó là những người nghệ sĩ đã từng sống vì nghề, sẵn sàng chết vì nghề.

Còn những diễn viên trẻ tuổi, nhiều khi họ cũng buộc lòng phải lựa chọn -

những tình huống, những ngã ba đường thật đau lòng. Vì sự nghiệp, vì sân

khấu, họ đành nén lòng từ bỏ mọi thứ kể cả những thứ vô cùng thiêng liêng quan

trọng với người phụ nữ như những đứa con, để được một điều giản dị nhưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng vô cùng thiêng liêng với người diễn viên là vai diễn-sân khấu. Cuộc đời

36

của Diệu trong “Làm má đâu có dễ” là một số phận như thế. Chị đã sẵn sàng xa

lìa núm ruột sơ sinh của mình để mong đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.

Ngay cả những người chưa được bước vào nghề cũng coi sự nghiệp ca

hát là một điều gì đó vô cùng hệ trọng và thiêng liêng. Cũng chính vì yêu

nghề, muốn dâng trọn đời mình cho gánh hát cải lương nên San trong “Bởi

yêu thương” dù rất thích cải lương, rất muốn trở thành nghệ sĩ nhưng lại

không dám đi hát. Không phải vì không biết hát, nghệ sĩ Sáu Tâm đã dạy cô

hát rồi. Cô không dám đi hát chỉ vì một lý do đơn giản - đơn giản nhưng vô

cùng hệ trọng đối với cô, đối với những người yêu nghệ thuật cải lương chân

chính. Đó là vì trước đây, San từng làm tiếp viên ở quán bia. Cô sợ khi hát, lỡ

như mình nổi tiếng, người ta nhận ra mình trước đây từng làm tiếp viên ở

quán bia thì làm hoen ố đi nền nghệ thuật cải lương nước nhà.

Hình tượng người nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường

là những người sống trọn vẹn với nghề, dù phải trả giá bằng cả cuộc đời họ

vẫn chấp nhận. Chính vì lẽ đó mà người nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tư thường có số phận buồn. Xây dựng hình tượng người nghệ sĩ hát

tuồng, Nguyễn Ngọc Tư dường như muốn chia sẻ, thông cảm với cuộc đời

của người nghệ sĩ bình dân.

Trong thế giới nhân vật gồm những con người luôn khao khát yêu

thương của truyện Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta bắt gặp một hình ảnh trở đi trở

lại, đó là hình ảnh người nghệ sĩ. Qua khảo sát, nhân vật là người nghệ sĩ

trong truyện ngắn của chị chiếm tỉ lệ 9/44. Người đời thường hay có cái nhìn

thành kiến về cái nghề “xướng ca” này. Nhưng nhân vật nghệ sĩ của Nguyễn

Ngọc Tư thường được tô đậm ở phẩm chất thủy chung, giàu tình nghĩa, đã

yêu ai là yêu hết lòng, sẵn sàng hi sinh cho người mình yêu mà không mong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

được đáp đền. Nét đẹp của họ thể hiện ở suy nghĩ, ở việc làm, không phô

37

trương, ít khi thể hiện bằng lời nói. Phần lớn những người nghệ sĩ trong sáng

tác của Nguyễn Ngọc Tư đều phải hi sinh tình cảm riêng để sống trọn với

nghề nghiệp, với kiếp cầm ca và những vai diễn trên sân khấu.

Nghề hát tuy có nhiều bạc bẽo nhưng cái tình của người nghệ sĩ thì thật

cao đẹp và đáng để chúng ta trân trọng. Con nhỏ Điệp trong “Chuyện của

Điệp” rất mê hát, ngoại của cô không cản, nhưng ngoại dạy: “Con muốn diễn

hay thì phải sống nhân ngãi trước đã. Mình sống có tình thì đóng vai nào cũng

dễ, con à”. Điệp là đứa biết suy nghĩ và có những tìm tòi nghiêm túc trong

nghề nghiệp của mình. Bằng sự chiêm nghiệm cuộc đời, nó đã chỉ dạy cho

bạn diễn cách đóng vai ác sao cho hay: diễn ác không nhất thiết phải hùng hổ,

bởi nhiều người ác ở đời có cái mặt tươi rói. Với cách nhìn đời sắc sảo, Điệp

rút ra bài học cho giới nghệ sĩ: người nghệ sĩ nên tùy vào sức của mình,

không nên đánh đổi tình thương để lấy sự nghiệp. Suy nghĩ của Điệp cho thấy

dù là người nghệ sĩ say mê nghề nghiệp nhưng vẫn luôn tỉnh táo trong khát

vọng tình yêu và hạnh phúc. Chữ “tình” là phẩm chất đặc biệt quan trọng

trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

Cuộc đời của Diệu trong truyện ngắn “Làm má đâu có dễ” là một hoàn

cảnh trái ngang. Chị đã phải chấp nhận đánh đổi cả tình mẫu tử để có được sự

nghiệp ca hát rực rỡ, để đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Vai diễn Trưng Trắc

chị đã chờ đợi từ lâu, và chỉ khi được đóng những vai như vậy, chị mới nhanh

chóng trở nên nổi tiếng: “Đặt con xuống giường, chị thấy cái miệng nhỏ xíu

của nó mút mút. Rồi từ đó chị không dám nhìn thêm một lần nào nữa, sợ mãi

mãi không thể nhấc chân đi. Mà, chị thì không thể từ bỏ ước mơ của mình, trở

thành cô đào hát nổi tiếng. Làm sao từ chối vai diễn đã từng chờ đợi, nàng

Trưng Trắc oai hùng trong “Tiếng trống Mê Linh”[56]. Trong bộ ba quan hệ

với má và với con, chị không vẹn được bề nào. Đứa con gái như đòi lại món

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nợ chị đã vay của má khi chỉ tiếng “má” bình thường mà người nghệ sĩ ấy nửa

38

cuộc đời không được con mình mở miệng kêu. Rồi sau hết, chị quyết định từ

giã sân khấu, trở về nhà “làm con của má, làm má của con”. Khao khát cháy

bỏng được sống trong tình mẫu tử với nỗi đau quặn thắt khi đứa con dứt ruột

đẻ ra trông thấy chị, nó bảo: “Ủa, chế mới về hả. Hồi sáng này em nấu nước,

nghe lửa cười, biết thế nào cũng có khách, hỏng dè là chế”[56], dứt khoát

không chịu gọi chị là “má”.

Qua những trang viết về người nghệ sĩ miệt vườn, nhà văn trẻ Nguyễn

Ngọc Tư đã thể hiện một cái nhìn cảm thông, vừa sâu sắc vừa nhân hậu. Chị

đã cho người đọc thấy đằng sau những vẻ đẹp hào nhoáng, rực rỡ của ánh đèn

sân khấu không soi rọi tới được. Đó là những khao khát được sống trong tình

yêu, khao khát được làm vợ, làm mẹ, được yêu...bên cạnh niềm say mê nghệ

thuật. Nhưng có lẽ nghề nghiệp đã không cho họ có được niềm vui trọn vẹn.

Họ luôn phải chấp nhận và trả giá cho sự lựa chọn của mình.

Trong truyện Nguyễn Ngọc Tư motip người nghệ sĩ cô đơn. Phẩm chất

nổi bật của người nghệ sĩ là nhạy cảm và tha thiết với Cái Đẹp, bởi vậy, họ dễ

trở nên lạc lõng giữa đời thường. Người đời sẽ rất khó hiểu, khó đồng cảm và

khó lí giải được vì sao chàng công tử Bạc Liêu (“Cuối mùa nhan sắc”) lại từ

bỏ cuộc sống “no đủ, giàu sang, không phải làm gì, cả nhà chiều chuộng" để

đi theo một gánh hát "lụi hụi kéo màn, dựng cảnh, ăn cơm quán, ngủ sàn

diễn”. Càng thấy khó tin, thậm chí muốn lên án những người mẹ như đào

Hồng “vì mê hát (…) mà gửi con cho người ta, đến nước nó không thèm nhìn

mình nữa”, như Diệu (“Làm má đâu có dễ”) xa lìa cả đứa con còn đỏ hỏn để

được diễn vai mà chị đã chờ đợi từ lâu. Chảy trong dòng máu của những

người nghệ sĩ là khao khát được cống hiến. Nhưng đồng thời, họ cũng là

những người nhiều ảo tưởng, về thế giới, về bản thân mình. Họ đem Cái Đẹp

đến giữa cõi đời dung tục, đặt sự mơ mộng giữa những toan tính lạnh lùng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

muốn cho cuộc đời tràn đầy tiếng hát và cuộc sống thì như trên sân khấu. Và

39

họ thất bại. Những thất bại người đời thấy tất yếu, nhưng với họ thật khó mà

san sẻ. Câu mà một nhân vật nghệ sĩ của Nguyễn Ngọc Tư thường nói là :

“Tụi bây thì biết gì”.

2.2.2. Người nông dân Nam Bộ

Truyện của Nguyễn Ngọc Tư so với các nhà văn đi trước như Sơn

Nam, Hồ Biểu Chánh đa phần hướng tới những tình cảnh gia đình nghèo, đề

cập đến số phận buồn của những con người nhỏ bé, dù họ là nông dân hay

nghệ sĩ. Khảo sát bốn tập truyện: “Giao thừa”, “Cánh đồng bất tận”, “Gió lẻ

và 9 câu chuyện khác”, “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, chúng tôi thấy tỉ lệ

những truyện trực tiếp nói về cái nghèo là 28/44, những truyện còn lại người

đọc cũng dễ dàng cảm nhận được cuộc sống nghèo nàn, lạc hậu của những

người nông dân lam lũ. Các nhân vật chính trong tác phẩm là người nông dân

chiếm tỉ lệ 23/44. Nhân vật trong truyện thường là những con người dưới đáy

xã hội, cuộc sống tăm tối nghèo nàn, không tương lai. Họ là những con người

thấp cổ bé họng, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những vấn đề thời sự xã hội

đương thời. Họ phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống: làm ruộng, chăn vịt chạy

đồng, gánh nước thuê, chèo đò,...tuy nhiên vẫn không thể thoát khỏi sự nghèo

khổ. Họ không có nhà để nương thân, sống trong những căn chòi tạm bợ, lẻ

loi cô độc giữa cánh đồng, hay những căn nhà lá ọp ẹp, cũ mèm, những căn

nhà ổ chuột nơi góc cùng tăm tối một ngoại ô, hay nằm sát ngay giữa nghĩa

địa vắng vẻ, xác xơ. Đó là không gian sống của những người lao động nghèo.

Gắn bó chặt chẽ với nếp sinh hoạt của các nhân vật là những dòng

sông, những cánh đồng với nắng và gió. Chăn vịt chạy đồng là một nghề quen

thuộc của người dân miền Tây Nam Bộ. Dân gian có câu “Muốn giàu nuôi cá,

muốn khá nuôi heo, muốn nghèo nuôi vịt”, chẳng ai “muốn” nghèo, bởi chăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vịt là một nghề cơ cực và đầy rủi ro, đàn vịt hàng trăm con có thể chết vì dịch

40

cúm gia cầm bất cứ lúc nào. Biết vậy, họ vẫn phải chăn vịt, và những người

làm nghề chăn vịt chạy đồng đều có cuộc sống tạm bợ, phiêu bạt lênh đênh

trên sông nước, nay đây mai đó như ông già chăn vịt trong “Cái nhìn khắc

khoải”. Ông đã từng tham gia chiến tranh, trở về vợ đã chết vì đạn pháo. Ông

sống một mình giữa bầy vịt khiến mấy người bạn lang bạt của ông lần nào

cũng cằn nhằn: “Cha nội nầy sống thấy rầu quá trời đất, mai mốt con vị xiêm

nó chết rồi, để coi ông sống với ai”.

Cuộc mưu sinh và chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt cũng như sự

dữ dội, bất chắc của nghề chăn vịt trong “Cánh đồng bất tận” khiến người

đọc không khỏi rùng mình. Không như những người chăn vịt chạy đồng khác,

thường trở về nhà khi hết mùa lúa chín, cha con Nương vẫn phải sống lang

thang: “Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi

khi không hẳn vì cuộc sống”. Bởi mục đích người cha chọn nghề này vì muốn

lìa bỏ quê hương, để mải miết chạy theo hành trình trả thù đàn bà mà không

biết rằng ông đang hủy hoại chính cuộc đời mình và những đứa trẻ vô tội.

Hình ảnh “Họ rải vôi trên những hố chôn lớn bằng mấy khẩu đìa cộng lại. Họ

chọn những con vịt còn sống, còn giãy giụa, còn gào thét vào bao tải, buộc

miệng và quăng xuống đó” không có gì xa lạ trong thời điểm diễn ra dịch cúm

gia cầm trên cả nước. Góp thêm vào bức tranh điêu tàn đó là một cảnh tượng

đầy ám ảnh: “Sáng sau, người ta tìm được một người chăn vịt nằm sát mép

hố, mắt chong chong ngó trời không chớp, miệng sủi ra thứ nước bọt, trong

vắt như bọt cua nhưng hôi nồng nặc. Chai thuốc trừ sâu lăn lóc cạnh đó đã

cạn tới giọt cuối cùng”[58]. Bối cảnh xã hội hiện thời thấp thoáng đan xen

trong cốt truyện của chị là rất thật. Có thể nói, cuộc sống của những người

chăn vịt chạy đồng lần đầu tiên được Nguyễn Ngọc Tư phơi bày một cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trần trụi như vậy. Đó là cuộc sống của người dân quê còn đậm vẻ hoang sơ,

41

hoang dã. Con người ít được học hành, đành tự học cách sống, tự thích nghi

với cuộc đời, sống theo bản năng...ngay giữa thời hiện đại.

Hiện thực trong “Thương quá rau răm” lại phơi bày một hiện thực

buồn thảm và nghèo nàn của nông thôn Nam Bộ, đặc biệt là ở những vùng cù

lao xa tít “nằm gần cuối sông Dài” như Mút Cà Tha. Ở đây thiếu trầm trọng

những dịch vụ chăm sóc y tế tối thiểu, thiếu trầm trọng đội ngũ y bác sĩ, thiếu

thuốc men, những người tri thức trẻ về được một thời gian rồi sẽ lại ra đi.

Người cù lao rất cần và quý bác sĩ, họ níu kéo bằng tất cả tình thương nhưng

vẫn không giữ được chân người. Những đứa trẻ lớn lên, đi học thành tài rồi

thì cũng không muốn trở lại cái xứ “khỉ ho cò gáy” này nữa. Họ đã phải trả

giá cho sự nghèo khổ, cho nơi sinh sống heo hút của mình bằng chính mạng

sống của họ. Tuy nhiên, cuộc sống dù còn tăm tối vì thiếu ánh sáng văn minh

nhưng không làm vơi đi tình thương của ông già Tư Mốt với Mút Cà Tha này.

Đói nghèo thường song hành cùng nỗi buồn. Nếu thể hiện được cái

nghèo đặc sắc nhất thì đó là “Thổ Sầu”. Nhiều khi vì đói nghèo mà người ta

khinh rẻ, cười cợt, khiến con người cảm thấy nhục nhã muốn chết như cha

thằng Đậu. Ông không hiểu nổi tại sao những người khách du lịch khi đến

Thổ Sầu lại háo hức đến mức vui sướng ra mặt khi nhìn thấy những căn nhà tả

tơi, những đồ vật cũ kĩ, những lũ trẻ gầy nhom và đen đúa, cuộc sống nghèo

đến mức không thể tin nổi: “Những căn nhà cột cặm gió thổi lá mục rơi lả tả,

chiếc tivi đen trắng sài bình ắc quy làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương

vẫn còn dài mà khung hình chỉ còn chút xíu vì thiếu điện. Những cái cối xay

bột bằng đá xám. Những cái vách buồng được đan bằng sậy giập” hay “một

chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu, mấy cái đèn cóc lụn tim,

chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai, mắt tre dù đã chuốt kĩ vẫn gù

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lên lông chông”[59]. Cái nghèo “đạt” đến mức gần như thời nguyên thủy của

42

Thổ Sầu lại có sức hấp dẫn khách du lịch kinh khủng vậy. Hiện thực cuộc

sống chen lẫn hiện thực tâm trạng, một màu sắc tăm tối bao trùm lên những

kiếp người nghèo khổ cả đời ngụp lặn trong vũng bùn của đời mình mà không

thể thoát ra bởi một lí do hết sức phi lí: chính cái nghèo lại trở thành “cần câu

cơm” của họ, để hấp dẫn khách du lịch. Thổ Sầu “không được phép” giàu. Để

khách được “thưởng thức” nỗi buồn khổ, sự nghèo khó của đồng loại như một

thứ đặc sản quý hiếm không thể tìm thấy ở nơi đô thị. Chung quy của cái

buồn và nhục nhã đau đớn ấy cũng chỉ vì nghèo. Điều đáng nói ở đây là

những con người đứng đầu một địa phương lại vạch ra một chiến lược kinh

doanh kì cục và bất nhẫn đối với thân phận con người, đang tâm dìm Thổ Sầu

trở lại nguyên thủy, đày đọa những con người nghèo khổ ngập chìm trong sự

thiếu thốn vật chất và sự tổn thương tinh thần. Ngọc Tư đã miêu tả cái tình

của con người Nam Bộ thật mặn mà, sâu đậm, đằng sau cái nhìn đó là nỗi đau

về một vùng đất tăm tối, nghèo nàn.

Viết về đề tài nông thôn nhưng Nguyễn Ngọc Tư không chỉ đặt người

nông dân trong “địa bàn” đồng ruộng, khi đất bị thu hẹp dần, chị còn đặt

người nông dân vào những môi trường rộng lớn hơn, xa lạ hơn: đó có thể là ở

thành phố, ở tỉnh, ở chợ,...để làm nổi bật sự lam lũ, sự thua thiệt, rủi ro của

người nhà quê so với những người thành phố. Truyện ngắn “Giao thừa” hé

mở cho chúng ta thấy cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn của những con người từ

ruộng ra phố bán dưa Tết, bán bông Tết. Công việc cực nhọc đầy may rủi, mà

nguy cơ lỗ vốn luôn chực chờ. Họ đều phải bươn chải nhọc nhằn trong cuộc

mưu sinh, họ luôn phấp phỏng với nỗi lo âu “dưa trúng mùa cả núi vầy ăn gì

cho hết”, “năm nay chắc thua rồi”[56]. Cảnh những quầy hàng bán dưa, bán

bông trên bãi đất xác xơ trống trải đối lập với những tòa nhà cao tầng lộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lẫy, ngất ngưởng khiến người nông dân lam lũ ấy vẫn lạc quan trong tình yêu

43

với cuộc đời. Niềm vui của Đậm khi có Quý ở bên giúp đỡ trong khung cảnh

sắp giao thừa gợi cho người đọc bao cảm xúc. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư

dù trong đói nghèo lam lũ nhưng biết vươn lên, khao khát hạnh phúc và tình

yêu. Họ biết tìm cho mình một lối sống, một cách để yêu thương, để tự tin

trước cuộc đời.

Truyện ngắn “Lỡ mùa” lại phản ánh một thực trạng đáng báo động ở

miền Tây Nam Bộ: do thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm của một số cán bộ

lãnh đạo trước những vấn đề bức xúc của nông dân: vấn đề ruộng đất cho dân

cày. Người dân nghèo ở Trảng Cò khổ vì không có đất canh tác do những quy

hoạch “treo”. Có ai quan tâm tới họ không? Lãnh đạo có nghe tâm tư nguyện

vọng của người dân trước khi quyết định một vấn đề liên quan đến đời sống

của họ không? Rồi đây họ sẽ sống bằng cách nào? Tuyệt nhiên không ai đề

cập đến. “Lỡ mùa” day dứt người được cũng vì lẽ đó.

Một trong những vấn đề bức xúc nhất của vùng đồng bằng sông nước

đó chính là vấn đề “dòng sông và những cây cầu” . “Qua cầu nhớ người” là

câu chuyện nóng bỏng, bức xúc khi xã Đội Đỏ - một xã anh hùng mà không

có lấy một cây cầu bắc qua sông Dài. Cái khát vọng chính đáng và hết sức

bình dị ấy của người dân chỉ được thực hiện khi Hai Nhỏ cầm cố hết đất vườn

để tự nguyện xây một cây cầu. Tại sao chỉ có một cây cầu bắc qua một khúc

sông nhỏ chưa đầy năm chục sải tay mà lại trở thành ước mơ xa vời đối với

chừng ấy con người ngay giữa thời hiện đại? Tại sao chính quyền địa phương

không giải quyết mà phải đợi chờ những người dân dám nghĩ dám làm, không

toan tính thiệt hơn như Hai Nhỏ, Năm Hiệp ra tay thì đôi bờ thương nhớ mới

được xích lại gần nhau hơn. “Qua cầu nhớ người” chính là nhớ cái ơn, cái

tình của những người nông dân nghèo mà hào hiệp, không toan tính, giàu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lòng yêu quê hương.

44

Lớn lên từ đồng ruộng quê hương, là một người con của Nam Bộ,

Nguyễn Ngọc Tư đồng cảm sâu sắc về thân phận người nông dân. Chị luôn

bộc lộ tình cảm yêu mến đối với những con người hai sương một nắng gần

gũi và thân thương với mình. Hiện thực cuộc sống nông thôn Nam Bộ được

phơi bày trong sáng tác của chị khiến người đọc không khỏi giật mình. Đôi

khi cảnh nghèo khó vẫn hiện lên qua những chi tiết rất “vô tình” khiến người

đọc dễ dàng hình dung một cuộc sống thiếu thốn về vật chất: Đó là những

“ngôi nhà lá cũ mèm” mà mỗi mùa gió chướng đều là nỗi lo vì không biết nó

sẽ sập lúc nào, “cái lồng bàn bằng tre đậy mâm cơm được lợp thêm một lớp

vải, nếu không mọt trên trần nhà rắc xuống như người ta rắc tiêu xay, mấy bộ

ván mọt gặm lởm chởm, đi trong nhà luôn phải đề phòng nước rớt, mấy cây

cột bị mối gặm lam nham, búng ngón tay nghe kêu bộp bộp...”[59]. Cái nghèo

hiện lên qua những vật dụng cũ kĩ, lạc hậu hoàn toàn xa lạ với xã hội hiện đại:

cái bình trà sứt vòi, cái lu đựng nước mưa, cái nhà tắm làm bằng lá dừa,

“chiếc ti vi đen trắng mỗi lần mở phải đập thùm thùm; vài xâu cốm gạo treo

trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên nầy, trái cây như khóm, bí

rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia; qua lối sinh hoạt kiểu ăn đong

hàng ngày: mỗi chiều về mua một ngàn mỡ nước, năm trăm bột ngọt, năm

trăm tỏi, năm trăm tiêu; qua những “gia tài” chỉ là gánh chè rong, chiếc xe

kẹo kéo, đàn vịt, chiếc ghe nhỏ...”[58]. Sự chân thực hiện lên qua những chi

tiết miêu tả cảnh sinh hoạt hàng ngày của người dân vùng Nam Bộ. Đó là

cảnh những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, hình ảnh họ mang

xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, săn đón ghe hàng bông, mua rau, và bán

lại những quày chuối chín trong vườn. Rồi những cảnh đi xem biểu diễn cải

lương trên những sân khấu tự dựng, hình ảnh chàng trai nằm trên ghe ca vọng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cổ...Hay cảnh nằm đu đưa, thò tay có thể hái xoài ăn, nghe chim hót trong

45

vườn, nghe cá quẫy dưới mương, ngắm vườn kiểng rồi ngủ thiếp lúc nào

không hay. Tỉnh dậy thì ăn cá lóc nướng trui với nước mắm me, rượu đế nếp

than, chơi đàn kìm...Đó là những chi tiết bình dị, gần gũi với lối sinh hoạt của

người dân miền Tây sông nước, góp phần hình thành nên tính cách con người

Nam Bộ nói chung.

Với một tấm lòng nhân hậu, yêu thương và đồng cảm sâu sắc, với sự

quan sát tinh tế, Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện bức tranh đời sống của những

người lao động nghèo khó trên quê hương miền Tây của chị. Họ không chỉ

nghèo khổ mà còn gặp nhiều éo le ngang trái, khiến cho cuộc sống vốn đã vất

vả lại càng thêm túng quẫn. Trong những tình cảnh éo le, ngang trái, Nguyễn

Ngọc Tư muốn để họ tự bộc lộ những tâm tư, suy nghĩ, họ tự có những cách

ứng xử...từ đó làm nổi bật tinh thần lạc quan và nghị lực vượt lên trên số

phận. Vì vậy những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư đậm màu sắc hiện thực,

nóng hổi chất đời thường như những trang kí sự chân thực, của một tấm lòng

đôn hậu, một tài năng sắc bén và một bản lĩnh cứng cỏi của người cầm bút.

“Nếu ở hình tượng người nghệ sĩ, Nguyễn Ngọc Tư đi sâu vào tìm hiểu

số phận của cuộc đời nghệ sĩ của họ thì ở hình tượng người nông dân Nam

Bộ, tác giả lại nghiêng về khắc họa tính cách nhiều hơn. Đó là những con

người hiền lành, chất phác, thật thà, nhưng tình yêu và tình người thì dạt dào

như biển nước Cà Mau”[10.1]. Hình tượng người nông dân chiếm một số

lượng khá lớn trong các tác phẩm của chị: 21/32 tác phẩm, tức là khoảng 66%

số lượng tác phẩm. Trong những năm 80, “Đất rừng Phương Nam” của Đoàn

Giỏi đã dựng lên hình tượng người nông dân Nam Bộ khỏe mạnh, chất phác

mà rất trọng tình nghĩa. Bây giờ, Nguyễn Ngọc Tư lại mang đến cho ta hình

tượng người nông dân Nam Bộ cũng lam lũ, mộc mạc, tình nghĩa nhưng nín

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhịn, giỏi chịu đựng.

46

Cũng giống như người nông dân ở khắp mọi nơi, người nông dân Nam

Bộ trong truyện Nguyễn Ngọc Tư là những người chăm chỉ, chất phác, hai

sương một nắng làm lụng kiếm sống. Họ làm đủ nghề: Nghề chèo đò (Lương

-“Bến đò xóm Miễu”); nghề chăn vịt (Ông Tư Mốt - “Cái nhìn khắc khoải”);

nghề gánh nước thuê (Tiên - “Nửa mùa”); nghề làm ruộng (Ông Ba Già -

“Lỡ Mùa”); nghề bán dưa (Đậm -“Giao Thừa”); nghề hát rong (Chú Đời -

“Đời như ý”); nghề ghe thuyền (Ông Chín - “Nhớ sông”)...

Xoay đủ cách, kiếm đủ nghề để sống, nghề nào cũng thấy vất vả, cực

nhọc: “Suốt ngày quần quật trên sông mà bộ mình khẳng khiu chỉ độc cái

quần tà lỏn dính đầy nhựa trong của thời làm sai vặt ở các trại xuồng”[56.99]

“Cô thấy mình giống cỏ ven đường, người ta đi qua đạp, đi lại đạp vẫn

ngoi lên sống, sống cỗi cằn. Những mùa lam lũ. Những mùa cực nhọc. Một

mình chống chọi”[56.69]

Mặc dù vất vả như vậy, nhưng hầu hết họ đều nghèo. Nghèo như một

căn bệnh truyền nhiễm, khắp nơi nơi, ở đâu cũng thấy trong cuộc sống của

người nông dân. Hình như, cứ nhắc đến họ là người ta nhắc đến chữ: Nghèo.

“Anh đã chèo hết thảy chín xác đò. Bến đò Đậu Đỏ qua xóm Miễu sang

đi nhượng lại qua tay bốn người chủ. Mà Lương vẫn còn nghèo. Lương khoe,

nghèo, cực nhưng vui lắm”[57.84]

“Gia đình ông Chín sống hẳn trên ghe. Cảnh của ông cũng buồn lắm.

Nhà nghèo, ra riêng, gia đình ông chỉ có hai công đất”[58.114]

Thông qua hình ảnh người nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long,

ngoài những nét riêng biệt, người đọc cũng nhận thấy những đặc điểm của

người lao động nói chung ở bất kỳ vùng miền nào. Đó là sự lam lũ, vất vả,

“hai sương một nắng” chăm chỉ, cần cù, chất phác; xoay đủ nghề để kiếm

sống và vẫn không thoát khỏi chữ “nghèo”. Nguyễn Ngọc Tư đã làm cho bức

tranh đời sống hiện thực của Đồng bằng sông Cửu Long thêm phần sinh động. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

47

Bằng các tác phẩm của mình, chị cũng làm cho bức tranh về nông thôn Việt

Nam hiện đại đầy đủ hơn, hình ảnh người nông dân thời nay rõ nét hơn.

2.2.3. Chất thơ của vẻ đẹp tâm hồn

2.2.3.1. Nhân vật đầy tính thiện

* Con người bộc trực, chan hòa

Con người trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư sống tình nghĩa với bà

con họ hàng, với đất đai quê hương, với tất cả những con vật gắn bó với họ

trong công việc. Họ thật giản đơn, cởi mở, mến khách, nghĩ sao nói vậy. Nhìn

chung ấn tượng về nhân vật Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đó

là những con người chan hòa, cởi mở, thân thiện và dễ gần.

Trong “Thương quá rau răm” tình cảm của ông Tư Mốt với Văn đâu

chỉ đơn giản là cầu cạnh Văn ở lại Mút Cà Tha. Cách đối xử của ông đối với

Văn cũng là cách ứng xử xã giao quen thuộc của con người miền Tây Nam

Bộ: “Gặp Văn lần đầu tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù

lao, thấy cái mặt buồn buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách,

không có gì sâu nặng bằng tình cảm người với người”[58.17]. Lấy tình người

ra đối đãi với nhau, dù người đó họ chưa hề quen biết, đó là phẩm chất của đa

số người lao động nói chung..

* Con người xả thân vì nghĩa

Chất Nam Bộ rắn rỏi, mạnh mẽ, sẵn sàng xả thân vì nghĩa của vùng

Đồng bằng sông nước cũng được thể hiện đặc sắc trong thế giới nhân vật của

chị. Dù cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, họ sẵn sàng cưu mạng những

người thất cơ lỡ vận. Người đàn ông trong “Cái nhìn khắc khoải” dù chỉ có

độc một chiếc ghe cũng không ngần ngại cho cô Út quá giang một đoạn đời

của mình. Cũng vào hoàn cảnh như thế, ông Chín trong “Đau gì như thể...”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không những cưu mang Cô Cúc lúc bụng mang dạ chửa mà khi Cúc bỏ đi,

48

ông lại tiếp tục cưu mang con gái của cô - Nga - không một lời kêu ca, phàn

nàn. Cả người cha trong “Cánh đồng bất tận” cũng chỉ vì sẵn lòng cưu mang,

cho một cô gái quá giang đi nhờ mà cuộc đời của ông hoàn toàn chuyển sang

hướng khác. Dường như đối với người Nam Bộ, cưu mang, giúp đỡ người

khác là trách nhiệm, là phép ứng xử thường nhật của con người.

Ta đã thấy trong nhiều tác phẩm văn học các nhà văn Nam Bộ những

nhân vật nam giới, những người đàn ông Nam Bộ sống rất trượng nghĩa mà

chàng Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là hình tượng lớn lao, đặc sắc

nhất. Ở Nguyễn Ngọc Tư hình tượng người phụ nữ vùng Nam Bộ được thể

hiện sắc nét, như một sự bổ sung vào thế giới nhân vật con người Nam Bộ.

Trong các truyện của Nguyễn Ngọc Tư, truyện vừa “Cánh đồng bất tận” thể

hiện người phụ nữ tập trung nhất, tính cách, số phận phức tạp nhất. Câu

chuyện: “Dòng nhớ” thật thú vị và đặc biệt. Hiếm có người phụ nữ nào như

“Má tôi”. Bà đi khắp các bến sông tìm lại người vợ cũ cho chồng mình. Nén

chặt lòng mình để người khác được vui, ngậm ngùi nhưng lại vun đắp hạnh

phúc cho người khác. Đó cũng là một trong những phẩm chất làm người ta

không thể quên con người Nam Bộ.

Nổi bật hơn cả cho tính cách Nam Bộ, đó là: sống đẹp, yêu thì yêu hết

mình, còn tin thì tin mãnh liệt. Họ sống với nhau bằng cái tình, bằng sự yêu

thương đùm bọc lẫn nhau. Họ yêu ai là yêu trọn đời, họ tin ai là tin đến quên

đường về, và mặc dù cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, họ sẵn lòng cưu

mang những người thất cơ lỡ vận. Tiêu biểu cho tính cách này, có truyện

ngắn: “Cái nhìn khắc khoải”. Nhân vật cô Út trong truyện đã yêu và đặt niềm

tin mãnh liệt vào một anh thợ gặt mà cô không hề biết gốc gác ở đâu. Nợ

nhiều quá, người ta xiết nợ, anh đành phải bỏ chị mà trốn đi. Vậy mà chị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không hề hận thù anh, chỉ trách bằng cách rất nhẹ nhàng bằng hai từ “tệ

49

thiệt”, và giận quá, chị gọi anh bằng “thằng”, “thằng đó” thì lập tức có tiếng

“xin lỗi” đi kèm. Rồi lủi thủi ra bờ sông ngồi khóc, bơ vơ nơi xứ người,

không biết phải đi về đâu. Bản tính người phụ nữ Nam Bộ là vậy, hiền lành,

vị tha và yêu hết mình. Rõ ràng, Nguyễn Ngọc Tư đã lột tả được một nét tính

cách rất khác, rất đặc trưng của người Nam Bộ, sống rất trượng nghĩa, sẵn

sàng xả thân vì nghĩa nhưng cũng rất đơn giản, mộc mạc đôi khi đến mức nhẹ

dạ, dại khờ.

* Con người với bản tính nín nhịn, chịu đựng

Không giống với những nhân vật cương trực, giàu khí phách, chống lại

áp bức của các tác phẩm văn học giai đoạn trước, Nguyễn Ngọc Tư còn phát

hiện một bản tính khác của con người Nam Bộ, đó là bản tính cam chịu đến

nhẫn nhục. Nhân vật trong truyện của chị phần lớn là những con người ít phản

kháng trước những ngang trái, bất công, nhưng có khả năng chịu đựng. Phẩm

chất của người lao động phải chăng một phần là sản phẩm của thiên nhiên,

hơi thở cuộc sống của từng vùng miền mang lại. Mỗi mảnh đất, điều kiện

khác nhau đã tạo dựng, đào tạo ra những con người có phẩm chất khác nhau.

Nếu như hình tượng người nông dân Nghệ Tĩnh của Nguyễn Minh Châu kiên

nhẫn nhưng không an phận, luôn mang khát vọng vươn lên, thì hình tượng

người nông dân của Nguyễn Ngọc Tư lại mang hởi thở, phong cách rất đặc

trưng của con người Nam Bộ: Nhân hậu, nín nhịn, giỏi chịu đựng. Người

nông dân Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư sống ở vùng đất “thiên

đường nhỏ”: Nằm võng đu đưa, thò tay ra có thể hái xoài ăn, nghe chim hót

trong vườn, nghe cá quẫy dưới mương, ngắm vườn kiểng, rồi ngủ thiếp lúc

nào không hay. Tỉnh dậy thì ăn cá lóc nường trui với nước mắm me, rượu đế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nếp than, nghe cải lương, chơi đàn kìm. Tất cả đã tạo nên tính cách con

50

người: Nhân hậu, nín nhịn, giỏi chịu đựng, tính tình đơn giản, cởi mở, mến

khách, không triết lí hoa xòe lộn xộn.

Trong gia đình Tư Nhớ trong “Đau gì như thể”, hai cha con bị đổ cho

tiếng là hại đời con riêng của vợ. Dẫu bị oan, mà hai cha con cũng chẳng biết

làm gì. Ông già chỉ biết “nổi quạu đùng đùng, thiên hạ phải để tôi sống đàng

hoàng như một con người chớ. Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại

con người không học cách hiểu nhau”[57.121]

Hay những người nông dân nghèo làng Trảng Cò, trong truyện “Lỡ

mùa”: người nông dân khổ vì không có đất canh tác do những quy hoạch treo.

Họ mất đất, nên luôn ao ước được cày bừa trên mảnh đất của chính mình mỗi

khi thấy mưa về, nhưng giờ đây cũng không được: “Trời vẫn trĩu đầy nước,

tối âm u, ông Ba thấy núi mây đen thẫm dựng lên một mảng trời phía Trảng

Cò, ông chắc lưỡi như xót xa lắm, điệu này dưới mình mưa lớn dữ, đất chắc

chìm hết rồi, đồng chỉ chắc còn loi ngoi cỏ, muốn cày, bừa cũng khó lắm đây.

Ông Ba già nghe ruột mình nôn lên, từng khúc, từng khúc, nghẹn ứ đến mức

ông không lên tiếng được”[57.38]. Công cuộc đi kiện tụng, gặp nhà chức

trách cũng chỉ là con kiến kiện củ khoai mà thôi.

Những anh chàng Hai Lúa yêu mà hổng dám ngỏ lời, những ông già

cuối đời vẫn sống cô đơn và hơn nữa là biết chấp nhận. Và khát vọng về một

tình yêu toàn vẹn, về tình yêu thương giữa con người với con người...luôn là

thông điệp, khát vọng của cuộc sống con người.

2.2.3.2. Nhân vật với tình yêu cuộc sống

Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư nhân vật của chị hay khóc: “Mãi dì

Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở ồ ồ, nhìn cảnh mọi

người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín. Cho đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khi ông Mười xuất hiện, ông bảo, “Mấy chú làm ơn dừng lại một chút” rồi

51

cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con, lau khô rồi nước

mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm

già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như

ông cũng đau lắm, xót lắm”[58.82] hay là : “Nhưng không phải buồn Phương

lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng. Rồi họ, và cả

má tôi đều bảo tôi khóc đi.”[58.71]

Nhưng thử để ý, tiếng khóc trong văn Nguyễn Ngọc Tư là vì thương

yêu, không vì oán giận. Không phải là cái khóc vì nghẹn ngào, day dứt, ủ rũ.

Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa miền Nam, và người đọc biết chỉ khoảnh

khắc thì mưa sẽ tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quyệt

nước mắt xôn vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình.

Ở một tác phẩm có kết cục đầy bạo liệt và dữ dội như “Cánh đồng bất

tận” vẫn là bản lĩnh tác giả níu cảm xúc người đọc kịp dừng lại bên bờ tuyệt

vọng. Khi mầm thiện trong trái tim nhân vật xưng “tui” ngập trong máu và

nước mắt vẫn bừng xanh niềm hy vọng sâu sắc thiêng liêng: nếu như Nương

“bị có con” sau cuộc bạo hành, thì “đứa bé không cha nhưng chắc chắn sẽ

được đến trường”, sẽ sống hạnh phúc “và được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên

tha thứ những lỗi lầm của người lớn”[58.213]. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, các

nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư cũng không nguôi khát vọng về một cuộc sống

tốt đẹp. Một niềm tin lạc quan.

Không chỉ trong cuộc sống, niềm khao khát, tha thiết hạnh phúc lứa đôi

cũng làm cho những câu chuyện tình yêu của Nguyễn Ngọc Tư trở nên hấp

dẫn cuốn hút và trong trẻo đến lạ thường. Dù bất cứ đối tượng nào, dù nhân

vật là nam hay nữ, dù có thể ngỏ lời bộc lộ tình cảm hay không thì các nhân

vật của chị đều có một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu. Trong tình yêu, họ có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một phẩm chất chung đó là tin tưởng tuyệt đối vào người yêu, sẵn sàng hi

52

sinh mọi thứ cho người mình yêu và không hề đòi hỏi gì. Niềm lạc quan đó là

chất thơ ấm áp để con người thăng hoa trong cuộc sống, để người đọc thấy

thú vị như là mình đã phát hiện thấy một thứ quý giá mà không ở đâu xa, nó

đang ở rất gần bên mình mà không biết.

Họ sẵn sàng chờ đợi, một sự chờ đợi đáng thán phục: “Thêm một mùa

gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà? Chị

bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta

đánh cờ mà trong tâm “viễn ly điên đảo mông tưởng cứu cánh niết bàn”, trời

người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông”[58.36]

Chính vì vậy, những cái kết các tác phẩm của chị thường xuyên để lại

dư ba những âm hưởng miên man, khó quên trong người đọc.

2.2.4. Nhân vật với những bi kịch đời thường

Các nhân vật trong truyện đều đầy tính thiện, thế nhưng cái vũng luẩn

quẩn của đói nghèo dốt nát, lam lũ và điều kiện sống ngột ngạt dần xô đẩy

người này trở thành nạn nhân của người kia. Vì thế ở cái hậu của mỗi câu

chuyện, tính cách nhân vật thường là dở dang, lận đận.

Số phận của những người nghệ sĩ hát tuồng: Đằng sau ánh hào quang

sân khấu, cuộc đời thực của những người nghệ sĩ lại đầy nỗi ưu tư. Họ sống

hết mình với những vai diễn nhưng khi cởi bỏ mũ áo, rửa trôi lớp son phấn

trên mặt đi rồi, trở về với cuộc đời thực thì lòng họ lại se thắt, thật buồn. Họ

thường có số phận hẩm hiu, không trọn vẹn. Cuộc đời họ thường phải trải qua

nhiều sóng gió, có khi phải chạy ăn toát mồ hôi nhưng lòng yêu nghề không

vì thế mà bị san sẻ, vợi bớt.

Người thì có con nhưng không được làm mẹ, nước mắt lưng tròng khi

con gái mình dứt ruột đẻ ra lại gọi mình bằng chị và coi mình như khách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(“Làm má đâu có dễ”); người thì phải gánh chè đi bán (“Cuối mùa nhan

53

sắc”); Người phải bán vé số, người nằm liệt giường nhưng không có tiền để

mua thuốc uống (“Bởi yêu thương”). Cay đắng ám ảnh hơn nữa là cuộc theo

đuổi của San và Phương trong “Ngày đùa”. Chỉ vì những cảm xúc của vai

diễn, Phương không bao giờ dám sống thực, sống hết mình với bản thân, cuộc

đời mình: “Tôi thèm hạnh phúc nhưng không cho phép mình hạnh phúc. Một

tâm hồn đầy đủ sẽ không thể diễn được những tâm tư giằng xé. Vì nghệ thuật

tôi hi sinh cả cuộc đời mình”[56.136];

Cuộc đời nghệ sĩ của họ đã cống hiến biết bao công sức của mình cho

nền nghệ thuật sân khấu nhưng đến cuối đời lại hẩm hiu đến vậy. Cuộc đời cứ

trớ trêu vậy đấy, cuộc đời thực và cuộc đời sân khấu cứ trái ngược nhau,

không trùng khít với nhau. Nói đến điều này, cũng có nghĩa là tác giả đã đứng

về phía họ, nghiêng mình xuống với họ, chia sẻ và cảm thông. Đây chính là

tính nhân bản, nét nhân văn cao cả và cũng là nội dung tư tưởng của hệ thống

truyện về người nghệ sĩ của Nguyễn Ngọc Tư.

Đối với cuộc đời của những người nông dân, số phận của họ cũng

không có gì tươi sáng hơn. Truyện của chị đa phần dừng lại ở những tình

cảnh gia đình, đề cập đến số phận buồn của những con người nhỏ bé, những

nông dân chân chất với những ước mơ và cuộc sống hết sức bình dị đời

thường rất đáng đáng cảm thông, trân trọng, nhưng đôi khi cuộc đời nghiệt

ngã cũng không cho họ được như ý, toại nguyện.

“Nhớ sông” nói về cảnh bất hạnh của gia đình ông Chín, vợ mất sớm vì

một tai nạn bất ngờ trên sông nước, để ông phải lâm vào cảnh “gà trống nuôi

con”. Dù nghèo, nhưng ba cha con vẫn gắn bó với nhau bằng một tình thương

yêu hết sức thiêng liêng, cảm động. Đọc truyện nhiều người phải rớt nước mắt

vì cảnh gia đình ông Chín: “Gia đình ông Chín sống hẳn trên ghe. Cảnh của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ông cũng buồn lắm. Nhà nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai công đất. Năm

54

Giang ba tuổi, Giang lên sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền còn dư lại,

ông mua chiếc ghe nhỏ đi bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau linh đinh sông

nước”[58.14].

Đọc truyện của chị người đọc có băn khoăn: ở vùng đất đồng bằng này,

còn bao nhiêu gia đình đang ở vào tình cảnh như gia đình ông Chín, gia đình

của Điệp, gia đình của cha con Tư Nhớ?

Truyện “Cải ơi!” đề cập tới tình cảnh của ông già Năm Nhỏ phải chịu

tiếng oan là “giết con” khi nhỏ Cải (con của vợ ông), làm mất đôi trâu, sợ

đòn, bỏ trốn. Cuộc hành trình dài lặn lội đi tìm đứa con, với nhiều “phương

kế” của ông, của một người “cha ghẻ” (bố dượng) để mong tìm được con Cải,

có nhiều chi tiết hết sức tình người, rất xúc động. Những chi tiết này là cuộc

sống sinh hoạt đời thường, bình dị, giàu chất Nam Bộ và cũng thấm đượm

tình người.

Số phận của những người phụ nữ được nhà văn đặc biệt quan tâm. Ở

từng câu chuyện, từng số phận họ có những kết cục không giống nhau nhưng

tất cả đều không lối thoát và bế tắc. Đặc biệt trong “Cánh đồng bất tận” nỗi

khổ, số phận người phụ nữ còn được đề cập đến ở những tình huống éo le: Từ

người đàn bà đánh ghen đến người đàn bà thân thuộc trong gia đình - mẹ - tới

những người đàn bà khác mà “tui” gặp trên những con sông cạn nước, trên

những cánh đồng khô nẻ cho tận những người đàn bà bị Cha gạ gẫm, bịt lối

quay về. Tất cả đều là mang đến những nỗi buồn đứt ruột. Rồi Nương và Điền

lại là nạn nhân của cha mẹ, phải sống vạ vật với đầy tàn tích trong tâm hồn.

Phải chăng sự báo ứng rơi vào hai đứa trẻ trong trắng đáng thương: Điền tự

hủy hoại bản năng đàn ông của mình, vô vọng chạy theo người đàn bà bị sỉ

nhục; còn Nương bị đám trai làng hãm hiếp ngay trước mặt người cha tội lỗi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đang đổ nghiến xuống bùn. Không lên gân bạo liệt, không tăm tối bi quan,

55

những đoạn văn đầy tình tiết trắc ẩn như thủ thỉ dịu dàng mà đẩy dần số phận

từng nhân vật tới tận cùng bi thảm.

Và kết thúc các câu chuyện bao giờ cũng dở dang và ngổn ngang các

câu hỏi: “Nhưng mà chờ tới chừng nào lận? Ai mà biết. Mùa này gió bấc hiu

hiu lại về” (“Hiu hiu gió bấc”); “Không một ai nghĩ mù cũng biết thương

nhớ, biết đợi chờ trong nỗi tuyệt vọng rằng người đó, mùa mưa này liệu có

mỏi chân mà trở lại không?”(“Nửa mùa”); “Có đáng không những năm tháng

dài vằng vặc? Những tâm hồn thương tổn? Và kia, một mái đầu bạc phơ xơ

xác? Có đáng không? Trời ơi có đáng không?”(“Đau gì như thể”). Rất nhiều

câu hỏi như xoáy sâu vào lòng người đọc khiến họ phải tự vấn như chính họ

đang sống cùng nhân vật, thôi thúc họ phải suy ngẫm. Có điều lạ, là hình như

ở mỗi câu chuyện, khái niệm “ở hiền gặp lành” là một cái gì đó quá mơ hồ,

quá xa vời. Nhưng nó không làm người ta thấy mệt mỏi, thấy buồn bã và bi

quan. Bởi vì, có một dòng sông chảy yêu thương len lỏi khắp các câu chuyện,

kéo dài theo những cánh đồng. Dòng chảy yêu thương đó lớn dần lên và trở

thành chủ đạo khi sau tất cả những bất hạnh mà một con người có thể gánh

chịu trong cuộc đời, người ta vẫn không thôi nghĩ tới những điều tốt đẹp.

Nhưng có một nỗi cô độc khác, lớn hơn, không chỉ với những người

nghệ sĩ, đó là nỗi cô đơn giữa “Biển người mênh mông”. Sống giữa những

người thân yêu, sống với người mình hết lòng mà vẫn cô đơn. Đây là nỗi đau

lớn của kiếp người.. Ông Mười (“Mối tình năm cũ”) “cả đời, chỉ mong người

nhà hiểu mình chứ trông gì người thiên hạ”. Ông Tư Nhớ (“Đau gì như

thể…”) đau đớn bởi “Tiếng kêu nghe thấu tới trời, sao đồng loại con người

không học cách hiểu nhau”. Ông già Chín Vũ (“Cuối mùa nhan sắc”) thì than

“Mình sống làm gì tới từng này tuổi mà không hiểu được nhau, Hồng ơi là

Hồng”. Không hiểu được nhau, không hiểu đúng về nhau, bởi vậy mà khó

chia sẻ được nỗi niềm của nhau. Không ai có thể xẻ chia cùng Xuyến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

56

(“Duyên phận so le”), cùng Hậu (“Một trái tim khô”), cùng Út Nhỏ (“Nhà

cổ”)… bởi những nỗi niềm trong họ đâu dễ nói ra. Mà khi nói ra, biết đâu, lại

làm tổn thương cho ai đó. Vậy là họ âm thầm chịu đựng, âm thầm chấp nhận

sự cô đơn. Cô đơn là điều kiện thử thách phẩm chất làm người của họ.

Có lúc, truyện của Nguyễn Ngọc Tư còn sắp xếp những thân phận cô

đơn bên cạnh nhau. Nhưng không phải như thế giới nhân vật của Phạm Thị

Hoài, cô đơn kiểu người sống cạnh nhau mà “như cây mọc bên tường”, đối

thoại mà như độc thoại, con người cạn dần khả năng yêu thương. Nhân vật

của Ngọc Tư cô đơn bởi mỗi người ẩn chứa một số phận, sở hữu một tâm tư,

mang nặng một trắc ẩn. Họ yêu thương và thông cảm cho nhau. Nhưng không

thể xẻ chia. Mà xẻ chia cũng không hết. Đó là những người sống nơi cuối trời

heo hút (“Duyên phận so le”), tất thảy đều “thèm người”, đều thấy mình

“giống khỉ”, mỗi mùa gió chướng, “cả bọn lặng lẽ ngồi, nghe gió thốc qua

lòng, rúm ró nỗi cô đơn”. Hay như ba cha con trong “Cánh đồng bất tận”.

Ăn ở cùng nhau trên thuyền, lênh đênh cùng nhau trên những cánh đồng,

dòng sông. Nhưng mỗi cá nhân họ là một thế giới. Họ hiểu những nỗi niềm

của nhau, nhưng không thể san vợi cho nhau. Nương hiểu tình yêu người cha

dành cho mẹ, hiểu sự hận thù ông trút lên những người đàn bà khác, hiểu

những ẩn ức tình dục mà Điền phải chịu. Nhưng bất lực. Họ nhìn nỗi cô đơn

giày xéo tâm hồn nhau. Thì ra, nỗi cô đơn của họ không chỉ là sự cô độc do

hoàn cảnh sống đem lại. Bởi vậy mà nỗi đau lớn hơn rất nhiều.

Chúng ta bắt gặp trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư những nhân vật

suốt đời đi tìm, một hành trình vô vọng và đơn độc. Ông Sáu (“Biển người

mênh mông”) “đã đi tìm gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận,

lội gần rã cặp giò rồi mà vẫn chưa thấy”. Ông Năm Nhỏ (“Cải ơi!”) tìm suốt

mười hai năm chưa thấy con. Chúng ta bị ám ảnh bởi một ông già trước mỗi

buổi diễn, mượn micro nói mấy câu : “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con…”.

Tiếng gọi “Cải ơi!” của ông mắc lại trong người đọc, như món nợ lòng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

57

Cô đơn luôn là nỗi đau, là bi kịch tinh thần lớn nhất của con người,

nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cảm nhận rất rõ niềm cô đơn mà không

thấy sự bi quan tuyệt vọng. Nhân vật của chị tự ý thức về sự cô đơn. Họ chấp

nhận bởi họ tìm thấy trong nỗi đau ấy một lẽ sống. Và, từ trong nỗi đau ấy, họ

vươn lên, làm người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động

lực của cái Đẹp, cái Thiện.

2.3. Cái nhìn nhân ái của Nguyễn Ngọc Tƣ trong truyện ngắn

2.3.1. Những khuynh hướng quan niệm về con người trong văn học trẻ

đương đại

Văn xuôi Việt Nam bắt đầu từ thời kì đổi mới đã từ chối cách nhìn xuôi

chiều về con người. Thay vì cách nhìn đơn giản, rạch ròi là cách nhìn đa

chiều, phức hợp. Không còn kiểu nhân vật nhất phiến, trắng đen rõ ràng.

Quan niệm con người kiểu sử thi chuyển sang con người đời tư, cá nhân và

được nhà văn mổ xẻ giải thiêng không thương tiếc. Bộ mặt văn học Việt Nam

đến Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài thì mới thực sự đổi mới. Có thể nói

quan niệm nghệ thuật bước sang cực khác. Truyện ngắn và văn xuôi nói

chung có xu hướng nghiêng nhiều về cảm hứng khai thác, khám phá mặt trái

đời sống.

Quan niệm đưa con người trong văn học trở về gần gũi và áp sát hiện

thực trở thành khuynh hướng tất yếu của văn học thời kỳ đổi mới. Con người

cá nhân được miêu tả, mổ xẻ. Nhà văn bộc lộ cái nhìn sâu sắc và chân thực

hơn về con người. Nhiều giá trị mới được thiết lập. Nhiều giá trị cũ bị phai

nhạt đi hoặc bị phế bỏ hẳn. Con người được nhìn nhận với những tiêu chí,

chuẩn mực khác, về đạo đức không tròn trịa và mẫu mực theo quan điểm

thông thường. Dường như trong cuộc sống hiện đại, con người hiện lên với

nhiều mặt trong đó có cả những thói xấu: loạn luân, vô luân, hỗn láo, độc ác,

trơ trẽn, chây lì, hèn nhát, ích kỷ, thực dụng,...Tất thảy những thói xấu của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

con người được văn học phơi bày, không lảng tránh. Văn học đã khẳng định

58

lại những giá trị làm người bằng cách giúp người đọc nhận diện, cảm nhận rõ

ràng cái xấu để tránh. Làm cho con người ghê sợ trước cái ác cũng là đích

hướng thiện của văn học bên cạnh sự biểu dương, ca tụng mà văn học thời kì

trước đã làm rất tốt.

Sau sự phục sinh của cái tôi cá nhân trong văn học đổi mới, văn học

nhất là ở những nhà văn trẻ đi vào khám phá con người trong khynh hướng

hưởng thụ vật chất, hưởng thụ tình dục, bù đắp những năm tháng dài hy sinh

nhu cầu và quyền lợi cá nhân. Những vấn đề vụn vặt, riêng tư được “trình

diễn thoải mái trong văn học”. Theo quan sát bước đầu, chúng tôi thấy văn

học trẻ (với nội hàm là tác phẩm của những tác giả mới, trẻ tuổi. Các tác giả

tiêu biểu mà chúng tôi có thể kể đến là: Đỗ Hoàng Diệu, Phan Thị Vàng Anh,

Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban,… ) ở họ trong quan niệm về

con người nổi lên ba khuynh hướng sau:

+ Con người nổi loạn.

+ Con người bản năng tính dục.

+ Con người “vụn vặt”.

Ba khuynh hướng trong con người trên đây, có tinh thần chung, thống

nhất chi phối là tinh thần giải phóng. Đã xuất hiện nhân vật nổi loạn trong văn

học. Nổi loạn để quẫy cựa thoát khỏi những thiết chế xã hội. Quan niệm về

con người của Nguyễn Ngọc Tư khá khác biệt so với ba xu hướng trên nổi

loạn để trốn khỏi ràng buộc, bổn phận; nổi loạn để thoát khỏi chính mình.

Ta thử so sánh Đỗ Hoàng Diệu với Nguyễn Ngọc Tư qua một số trường

hợp sau: truyện “Vu Quy” của Đỗ Hoàng Diệu có bối cảnh gần với “Huệ lấy

chồng” của Nguyễn Ngọc Tư. Cả hai tác phẩm đều kể về tâm trạng của cô gái

đêm trước ngày về nhà chồng. Cũng là hồi tưởng về mối tình đã qua nhưng

hướng khai thác của hai nhà văn hoàn toàn khác. “Huệ” của Nguyễn Ngọc Tư

trong sáng, chân chất kiểu thôn quê. Kỉ niệm chỉ xem là phim Hồng Kông, nói

bóng gió năm câu ba điều. Biểu lộ tình yêu thì là “Thi ở đằng sau, kế dãy ghế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

59

Huệ ngồi, hít đầm đìa hương tóc cô bạn gái, mỉm cười. Ra về, Thi thả chầm

chậm theo tới chỗ quẹo vô nhà Huệ, Thi mới níu tay Huệ lại (...) tay Huệ ấp

vào giữa tay Thi líu ríu”. Kỉ niệm chỉ có vậy. Mà nặng tình. Cái tình của cô

gái trước ngày đi lấy chồng cũng bộn bề, giản dị và chân chất. Huệ trải ra

những cảm xúc trong trẻo, bình dị. Nhân vật của Đỗ Hoàng Diệu thì được

khai thác ở một kênh khác hẳn. “Tôi” hồi tưởng về những mối tình đã qua

nhưng đậm dục tính, những cảm xúc về tình dục, về xác thịt. Đầu tiên là cảm

xúc “Bồng bềnh mê man tròng trành giữa cõi nồng nàn thân xác” cùng ông

nhà văn. Rồi đến “cú thọc sâu” của “người đàn ông đượm rát mùi phù sa sông

Hồng” cắt trọn tuổi thơ biến “tôi” thành “người đàn bà mười sáu tuổi”. Tiếp

đó là hồi ức về người đàn ông Tàu có “thân hình rắn chắc như một củ sâm”..

Có những trang viết, chị say sưa miêu tả khoái cảm bằng những từ ngữ nồng

nàn giàu hình ảnh.

So sánh hai tác phẩm cụ thể như thế, chúng tôi muốn nhấn mạnh sự

khác biệt trong phong cách của hai nhà văn cùng thời, hai nhà văn tiêu biểu

cho hai khuynh hướng quan niệm. Ở đây, không có sự đánh giá, chỉ là sự so

sánh để thấy nét khác biệt.

Như vậy, có thể thấy truyện ngắn trẻ Việt Nam đang quẫy cựa, tìm tòi

hướng đi với nhiều quan niệm khác nhau về con người, thậm trí trái ngược.

Điều đó phản ánh những biến chuyển tất yếu hòa nhịp cùng điều kiện kinh tế

và bối cảnh văn học.

2.3.2. Cái nhìn nhân ái về con người của Nguyễn Ngọc Tư

2.3.2.1. Quan niệm về số phận con người

Nhân vật văn học khi được nhà văn khai sinh trong tác phẩm của mình

đã mang theo một số phận. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, từ người nghệ sĩ

nghèo đến người nông dân chân lấm tay bùn, thường là những nhân vật có số

phận bất hạnh. Hướng tới số phận con người bất hạnh với cái nhìn nhân ái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không phải là nét mới. Văn học dân gian từng bênh vực và luôn có khát vọng

60

đổi đời cho những số phận bất hạnh. Đó cũng là vẻ đẹp truyền thống của văn

học viết Việt Nam qua “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”.

Nguyễn Ngọc Tư thường đặt con người vào trong hoàn cảnh éo le,

ngang trái. Hoàn cảnh éo le là một trong những điều kiện để con người bộc lộ

rõ nét cá tính, phẩm chất, nhân cách,...Trong tập “Cánh đồng bất tận” của chị

có 14/14 truyện nhân vật có hoàn cảnh đặc biệt, ngang trái.

Hoàn cảnh của Hậu (“Một trái tim khô”) làm bao người đọc đau đớn,

xúc động. Hậu bị đâm lén. Nhưng bất hạnh ở chỗ Hậu lại bị thương chứ

không chết. Hậu biết được ai đã thuê người đâm mình. Không chết mà quá

bằng chết. “Chết ngay ở cua Bún Bò, ngay sau khi thằng cha giết mướn run

rẩy bảo: Đừng oán tôi nghen, có oán hận thì oán chồng bà”[58.149]. Và Hậu

sống bằng “một trái tim khô”, thấy đời “lạnh lẽo, tan hoang như đồng sau

bão”, thấy mình “quên thật rồi, điên thật rồi” thấy lòng “dửng dừng dưng, tỉnh

bơ ba khía”, kể cả lúc hay tin chồng lấy vợ. Khi nỗi đau quá ngưỡng của sự

chịu đựng thì dường như người ta không còn thấy đau nữa. “Có lần đi chợ gặp

Thường, Hậu ung dung chào, hỏi. Xong đứng nấn ná ở đấy trông tim nó lồm

cồm ngồi dậy nhói chơi, nhưng không ăn thua, nó lặng như tờ”[58.149]. Hậu

không trả thù, không tố cáo. Nhưng chưa hết, cuộc đời còn nhiều nỗi oái oăm

khi những người đàn ông thích Hậu đều phải tin chị mà “chắc lưỡi, than, đẹp

vậy mà điên, uổng thật”. Chỉ Nhâm ở lại. Nhâm sống lầm lũi trên đời với một

nỗi ám ảnh, một món nợ tội lỗi. “Tôi đã có lần điên vì tiền, lúc đó, con gái tôi

đau nặng lắm”. Nhưng chỉ mình Hậu biết Nhâm là người đàn ông đâm mình ở

cua Bún Bò. Bởi vậy mà dù rất mến Nhâm, Hậu cũng không thể...Hậu sợ

“đêm động phòng, Nhâm sẽ phát hiện Hậu có một cái thẹo lớn trên vai. Thể

nào Nhâm cũng hỏi tại sao, mà Hậu không nghĩ ra được câu chuyện gì để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nói”[58.153]. Đó là sự trớ trêu, ngang trái tột độ. Cuộc đời vốn vậy. Những éo

61

le trong trang sách cũng muôn hình vạn trạng như trong cuộc đời. Nó chờ ta

trên mỗi chặng đường đời mà không báo trước. Trong những chông gai thử

thách ấy, mỗi người sẽ có những ứng xử, cách giải quyết và khắc phục khác

nhau. Và chúng ta sẽ nhận ra nhân cách, bản chất, quan niệm sống của họ.

Như trong hoàn cảnh éo le, con người trong trang sách của Nguyễn

Ngọc Tư âm thầm chịu đựng, sợ làm tổn thương người khác để vẫn giữ mãi

trong mình một bí mật. Đó là Hậu (“Một trái tim khô”), đó là Xuyến (“Duyên

phận so le”). Xuyến ở vào hoàn cảnh “mười bảy tuổi có yêu một người, yêu

đến nỗi bỏ cha bỏ mẹ theo tình. Mười tám tuổi thằng nọ phụ phàng bỏ cù bơ

cù bất giữa chợ. Lúc ấy đã không còn đường về nhà nữa”[58.135]. Xuyến trở

thành tiếp viên của của một nhà hàng ở khu du lịch mũi So Le. Nơi đó, có

người thương Xuyến, đến độ đập đàn rồi ra đi. Lại có người tự nguyện vì

Xuyến mà “ở lại đàn cho cô hát”. Nhưng Xuyến không thể sánh bước cùng ai.

Bởi tình yêu lớn nhất và duy nhất cô đã dành cho bé Bi - đứa con cô lén để

chỗ gốc cây điệp già trong sân nhà vợ chồng ông giám đốc hiếm muộn. Sự éo

le trong tình cảnh bị phụ tình được Nguyễn Ngọc Tư nhìn ở một góc độ khác.

Nỗi đau “vô địch cấp huyện” của Xuyến không biểu hiện ở lòng căm thù với

người tình, những dè bỉu ghẻ lạnh của người đời. Sự trớ trêu nằm ở tình mẫu

tử. “Xuyến xin làm bồi bàn cho một quán ăn trong thị xã, để được ghi lại,

chầm chậm trên một khúc đường gần đó, nhìn Bi bò lủm củm trong

nhà”[58.143]. Rồi Xuyến ra mũi So Le làm tiếp viên, cũng không ngoài mục

đích được gần con. Đã có lúc Xuyến “thấy Bi chơi lon ton một mình ngoài

sân, không kìm được, Xuyến xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần sững lại,

kêu lên hai tiếng trời ơi, mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy...Xuyến

đưa Bị quay lại”[58.143]. Nỗi đau ấy, Xuyến giấu chặt trong lòng. Bế bé Bi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trên tay Xuyến còn không dám xiết chặt, không dám áp mặt mình lên đôi má

62

phúng phính lông tơ, vì sợ mình sẽ khóc mất. Hóa ra hoàn cảnh éo le của

Xuyến không chỉ ở bề ngoài ai cũng thấy được, mà cùng thống nhất bình chọn

danh hiệu “người có cuộc đời buồn nhất” ở So Le.

Đọc Nguyễn Ngọc Tư chúng ta bị ám ảnh, suy tư bởi những thân phận,

kiếp đời éo le. Những người nghệ sĩ thì sống hết mình với vai diễn nhưng khi

cởi bỏ lớp mũ áo, rửa lớp phấn son, họ trở về với cuộc đời nghiệt ngã. Hầu

hết tình yêu sân khấu, yêu nghề tha thiết của họ đều bị những trớ trêu của

cuộc đời thực làm nên bi kịch. Những người nông dân thì cơ cực, nghèo khó,

với những mơ ước tưởng chừng như rất bình dị cũng không bao giờ đạt được.

Nhưng điều kì lạ là chúng ta không cảm thấy sự bi quan hay bóng tối trùm lên

trang sách. Miêu tả những số phận bất hạnh, những hoàn cảnh éo le, ngang

trái, tác giả không nhằm đưa người đọc lạc bước vào sự bi đát của cuộc đời.

Từ trong hoàn cảnh éo le, con người ở văn Nguyễn Ngọc Tư đã bộc lộ sâu sắc

quan niệm sống, cách hành xử và phẩm chất của mình. Đó cũng là yếu tố để

chúng ta nhận diện quan niệm của nhà văn này: Trước những ngang trái của

số phận, chỉ có tình yêu thương, lòng nhân ái mới giúp ta tìm ra lối thoát, lối

thoát tinh thần. “Không có lối thoát nào cho con người khép lòng mình vào

trong nghèo đói, dốt nát và hận thù. Lối thoát chính là khi người ta mở lòng

tha thứ cho cuộc đời vốn nhiều phản trắc”[55.2]. Con người trong truyện của

chị đã chọn những giải pháp như thế để sống trong những éo le ngang trái mà

cuộc đời xô đẩy họ.

2.3.2.2. Quan niệm về hạnh phúc con người

Cũng như nhiều cây bút nữ khác, ở Nguyễn Ngọc Tư có quan niệm

hạnh phúc. Trước hết, đó là những khát khao bản năng. Không chỉ là bản

năng yêu mà là bản năng sống tự nhiên nói chung. Một đứa trẻ không ý thức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

về tình yêu với đất, nhưng cuộc sống lênh đênh trên thuyền khiến nó “chạy

63

cuống chạy cuồng vui như điên trên đất”[58.114] và “Dường như chúng tôi

nhớ, nhớ cồn cào. Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi trên cái vuông sân mọc

đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái, và ăn được, ăn rất ngon”

[58.187]. Đó là những khát khao rất tự nhiên, bản năng.

Nguyễn Ngọc Tư thường xoáy sâu vào những kháo khát nhỏ nhoi, bản

năng như thế. Chi tiết không lên gân, tô đậm. Giọng kể điềm tĩnh và chậm

rãi...nhưng có sức lay động đến người đọc. Đôi khi, nó khiến ta giật mình

nghĩ rằng những gì mình đang có quý giá biết bao.

Một gia đình có cha mẹ, có con cái là niềm khao khát của những mảnh

đời bất hạnh, của những số phận hẩm hiu. Hình ảnh tổ ấm gia đình trở đi trở

lại trong khá nhiều tác phẩm của chị như: “Một trái tim khô”, “Hiu hiu gió

bấc”, “Bến đò xóm Miễu”, “Mối tình năm cũ”, “Cánh đồng bất tận”, “Đời

như ý”,...Gia đình trở thành cái đích đến của hạnh phúc. Thế mới biết trong

quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, gia đình quan trọng đến chừng nào trong

cuộc sống hiện đại đang có xu hướng vị kỉ và tôn thờ chủ nghĩa độc thân.

Điều đó thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học đương thời, hoặc có nói đến

gia đình thì cũng phản ánh sự mong manh dễ đổ vỡ và những xung đột mâu

thuẫn của gia đình hiện đại. Ở đây, ta bắt gặp hướng đi khác, quan niệm khác,

đó là hướng về những giá trị truyền thống, bền vững. Coi trọng gia đình là

tâm thức cốt lõi của văn hóa phương Đông.

Đọc truyện của chị ta còn bắt gặp những nhân vật phụ nữ khao khát

được làm mẹ. Đó là những tình cảm bản năng mãnh liệt của con người. Hoàn

cảnh bị phụ tình của Xuyến (“Duyên phận so le”) không được chị khai thác

theo hướng hận tình, cay cú, hoặc thèm khát xác thịt, hoặc khao khát yêu

thương...điều mà Ngọc Tư làm nên nét riêng, bất ngờ trong tác phẩm chính là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tình mẫu tử. Đến tận cuối truyện, người đọc mới lí giải được vì sao Xuyến

64

bám trụ mãi ở mảnh đất này, vì sao Xuyến từ chối tình cảm, cơ hội xây dựng

gia đình với những người mà chị yêu thương. Bản năng người mẹ chị phối

mọi hành động của chị. Người đọc có cảm giác Xuyến cứ loay hoay bên con,

và không thể làm gì được khác. Tình cảm với bé Bi chiếm hết tâm trí chị. Và

trước tình cảm ấy thì mọi thứ, mọi tình cảm khác đều nhỏ. Cứ thế, bằng giọng

văn kể chuyện, kiểu rủ rỉ rù rì như người kể chuyện cổ tích, Nguyễn Ngọc Tư

đã dẫn dắt người đọc nhập cuộc, hiểu, thông cảm, chia sẻ với nhân vật của chị.

Hạnh phúc theo quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư còn là sự hi sinh vì

người khác: “Trong quan niệm của nhiều người, văn chương luôn có mối

quan hệ mật thiết với đạo nghĩa. Quan niệm “văn dĩ tải đạo”có lẽ vẫn còn in

sâu trong tâm thức không chỉ ở người sáng tác mà còn cả ở người đọc mặc dù

nội hàm “đạo” mỗi thời một khác (...) Nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Ngọc

Tư, có thể nói, vẫn nằm trong mô típ con người đạo nghĩa vốn được xem là

một nét đặc trưng trong tính cách con người Nam Bộ và đã được các nhà văn

Nam Bộ từ Hồ Biểu Chánh đến Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Trần Kim

Trắc...thể hiện thành công. Đạo nghĩa, đạo nghĩa đối với các nhân vật của

Nguyễn Ngọc Tư, là một cái gì đó rất tự nhiên, nằm trong tình cảm của con

người. Nó là yếu tố quan trọng nhất chi phối cách hành xử của con

người”[18.3]. Biểu hiện cao nhất của đạo nghĩa trong thế giới nhân vật của

chị chính là việc gạt đi sự vị kỉ để cho người khác, hi sinh vì người khác. Đó

là lẽ sống, là quan niệm về hạnh phúc làm người. Quan niệm ấy không mới

nhưng nó là nét đặc thù nổi bật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư.

Hi sinh vì người khác nghĩa là nhận phần thiệt thòi về mình. Để sống

được như thế không phải dễ. Hai người phụ nữ trong “Dòng nhớ” đều phải

khổ vì một người đàn ông. Một người cùng ông “dắt díu nhau bỏ nhà đi, sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kiếp thương hồ, trải qua bao nhiêu cơ cực”, rồi bị bỏ chơ vơ giữa dòng. Một

65

người “năm này qua năm khác sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng,

ban đêm chung giường” nhưng phải chịu cảnh chồng “hồn thì vẫn hướng về

những dòng sông miên man chảy”. Cả hai nỗi khổ ấy không thể so đo đâu khổ

hơn. Cả hai đều không có lỗi. Bởi vậy họ có quyền oán trách, ca thán, lên án

hoặc hằn học. Nhưng rốt cục, họ lại cùng thấy rằng: “Mà, đàn ông chịu cực

khổ nhiều lắm rồi, đừng lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm”. Đó

không phải là những lời rao giảng. Đó không phải là những phát ngôn nhà văn

nhét vào miệng nhân vật. Người đọc cảm nhận rõ ràng sự chân thật trong

không gian chân tình trên chiếc ghe nhỏ đơn sơ vào một đêm đầy gió. Hi sinh

vì người khác còn là nhận ra nỗi thống khổ của họ để thông cảm, để xóa đi

thù hằn, ghen tuông. Không có sự độ lượng, không nghĩ cho người khác,

không có thói quen sống vì người khác, khó có thể nhận ra điều ấy, khó có thể

có được những suy nghĩ như thế. Sống nhân nghĩa, cho mà không nghĩ đến

nhận, nén lại nỗi đau của riêng mình, dành tình yêu thương cho người...Đó là

nguyên tắc sống rất tự nhiên chảy trong dòng máu họ. Có thể nói cuộc gặp gỡ

và trò chuyện của hai người đàn bà trên chiếc ghe đơn sơ tối hôm ấy là một

trong những trang văn hay nhất viết về lòng nhân ái, sự vị tha độ lượng của

con người. Hai người đàn bà với hai thân phận, hai hoàn cảnh, hai nỗi khổ.

Gặp nhau và đồng điệu. Sau cuộc gặp gỡ, cả hai đều nhức nhối câu hỏi lớn

của mọi thời đại: “Đàn bà mình sao khổ vậy?”. Vậy mà không oán thán ai, chỉ

nặng trĩu nỗi lòng vì người khác.

Trong mọi sự hi sinh thì hi sinh tình yêu có lẽ là điều khó khăn nhất. Ở

một số nhà văn nữ cùng thời nói về tình yêu là nói về giải phóng tình dục, ở

Nguyễn Ngọc Tư tình yêu gắn liền với sự hi sinh. Người ta có thể nhường

cơm sẻ áo, nhưng anh Phi, anh Hết thì có vẻ rất khó tin. Anh Phi (“Con sáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sang sông”) yêu út Thà đã mấy năm nhưng vẫn lần nữa mãi chưa cưới.

66

Không phải vì anh chưa muốn lấy vợ. Cũng không phải vì út Thà không ưng

anh. Tình yêu của họ vừa có tình bạn, vừa có tình anh em. Việc họ lấy nhau là

lẽ đương nhiên, là sự thật không phải bàn cãi. Vậy mà đùng một cái, út Thà đi

lấy chồng. Ai gặp tình cảnh vậy mà không đau. Nỗi đau “day dứt tháng năm,

nó dai dăng dẳng. Người yêu đi lấy chồng mà, biết bao người tự tử”. Phi cũng

đau buồn lắm, nhưng là nỗi buồn biết trước, là nỗi đau sắp đặt sẵn, ý thức

được, chủ động hứng chịu. Người đọc không khỏi ngỡ ngàng khi biết rằng

không phải út Thà bội tình mà chính Phi chèo thuyền đi tìm hiểu gia đình họ

hàng nhà “người ta” rồi về bàn với út Thà nên nhận lời....Cũng như với nhân

vật anh Hết (“Hiu hiu gió bấc”), có thể có người đặt câu hỏi, liệu nhà văn có

lên gân quá không, liệu có phải họ nhu nhược, không bảo vệ được tình yêu

của mình, hay tình yêu ấy chưa đử sức nặng? Đọc cho đến dòng cuối cùng

của truyện, chúng ta sẽ thấy họ, những nhân vật nông dân chân chất ấy, mộc

mạc mà giàu tình cảm. Và cách hành xử, sự hi sinh của họ như một lẽ tự

nhiên, tất yếu. Phi không thể vì mình mà không lo cho hai em còn ăn học.

Dường như, trong ánh mắt nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư, con người

sinh ra rất cần tình yêu thương, sự độ lượng vị tha, sự cảm thông và hi sinh vì

người khác. Nếu không, tâm hồn sẽ trở nên què quặt.

2.3.2.3. Quan niệm về phẩm giá con người

Con người luôn thể hiện những giá trị nhân bản vốn có của nó.

Nhiều cây bút đang cố gắng làm mới các phương thức tự sự bằng việc

thể nghiệm nhiều kĩ thuật, thủ pháp, thì như một nhà nghiên cứu từng nhận

xét, “Nguyễn Ngọc Tư dường như đứng ngoài xu hướng này. Chị không gây

hứng thú cho người đọc bằng tổ chức lời văn phức tạp, bằng các thủ pháp tự

sự mới lạ. Văn Nguyễn Ngọc Tư hấp dẫn người đọc là ở sự quan tâm miêu tả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là đời thường với những con người nhỏ bé đang vật lộn với cái đời thường ấy.

67

[18.2] Từ trong nỗi đau vật lộn làm người, chị đã giúp các nhân vật của mình

nhận ra giá trị làm người - giá trị nhân bản.

Ẩn sâu vẻ bề ngoài nhếch nhác, nghèo đói, quê mùa của những người

nông dân là tấm lòng chân thật. Hành trình văn chương của chị là hành trình

tìm kiếm cái Đẹp. Cái Chân, cái Thiện là hạt nhân trong nhân cách các nhân

vật của chị. Hướng tới người lao động, người dân nghèo để phát hiện những

ánh sáng trong tâm hồn họ là thế mạnh trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.

Bởi vậy mà khi miêu tả, nhà văn luôn chú ý tới con người bên trong, rất ít

những câu văn miêu tả ngoại hình. Chân dung nhân vật của chị hiện lên qua

tấm lòng, tình cảm, cách ứng xử của họ. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, phần

lớn là con người trượng nghĩa nên rất trọng tình người. Dường như đó là tiêu

chí cốt yếu đánh giá hành vi con người.

Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư còn coi trọng tình người hơn cả tình

yêu. Điều đó có thể phi lý với người này nhưng lại là phương châm hành

động, là triết lý sống của người khác. Anh Hết (“Hiu hiu gió bấc”) là nhân

vật như thế. Anh giả vờ đổ đốn để chị Hoài đi lấy chồng. Hôm cưới, anh ngồi

chơi cờ với lũ trẻ mà nước mắt rỏ xuống bàn cờ. Tại sao anh lại đến nông nỗi

ấy? Bởi vì anh nghèo. Bởi vì anh nợ sữa người ta. Mà với anh, “nợ sữa là món

nợ lớn nhất”. Không có “món nợ” ấy, (có thể) không có anh trên đời. Những

thân phận bé nhỏ, nghèo khổ được Nguyễn Ngọc Tư tập trung khai thác đã

thấy và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách con người. Không đi theo

khuynh hướng văn học nhìn cuộc sống, con người với cái nhìn khinh bạc mai

mỉa, với thái độ lạnh lùng tàn nhẫn, Nguyễn Ngọc Tư trân trọng và nâng niu

giá trị làm người. “Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đang tác động

vào văn học hiện nay, thay vì kêu lên thượng đế đã chết, người ta tuyên bố

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

con người đã chết [18.4]. Dưới ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy

68

con người vẫn lấp lánh vẻ đẹp muôn thủa, đó là giá trị đích thực của CON

NGƯỜI. Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định giá trị ấy bằng giọng văn không có

gì là mới. Chọn hướng đi này là bản lĩnh của nhà văn. Trụ chân lại trên cái

nền tảng truyền thống, tạo được những dấu ấn mới, đó là thành công lớn của

nhà văn trẻ này.

Bên cạnh cái nhìn phân tích lạnh lùng về con người (Phạm Thị Hoài, Y

Ban, Võ Thị Hảo, Đỗ Hoàng Diệu,...) trong sáng tác văn học đương đại còn

cái nhìn nhân ái về con người ở những cây bút nữ trẻ như Phan Thị Vàng

Anh, Đỗ Bích Thúy...và tất nhiên là cả Nguyễn Ngọc Tư. Và ở xu hướng thứ

hai này Nguyễn Ngọc Tư cũng khác biệt với những người khác.

* * *

Khác với nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy tập trung

miêu tả về những người phụ nữ vùng cao. Trong tín ngưỡng của các dân tộc

thiểu số, người phụ nữ có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên trên thực tế đời

sống hiện đại, người phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi lại phải gánh chịu rất

nhiều thiệt thòi, gian khổ và đây chính là đối tượng được quan tâm nhiều hơn

cả khi các nhà văn viết về các dân tộc này. Đó là hình ảnh người phụ nữ suốt

đời chịu thương chịu khó. Trong tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, những nhân vật

để lại nhiều ám ảnh nhất chính là những người phụ nữ ở mọi lứa tuổi. Có

những em bé gái như Mỷ suốt ngày phải lo dắt dê đi gửi trên núi vì sợ bố bán

đi mua thuốc phiện (“Bóng của cây sồi”), những bé gái như May lọt lòng đã

không được biết tới tình yêu thương của mẹ đẻ (“Tiếng đàn môi sau bờ rào

đá”), những người phụ nữ bị chồng bội bạc như Mai (“Cạnh bếp có cái muôi

gỗ”), những người phụ nữ phải chịu bao đắng cay vì nghèo khó như Vi

(“Giống như cái cối nước”), …Nhưng sau bao khó khăn, vất vả, những người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phụ nữ miền núi luôn thể hiện là những người chịu thương, chịu khó, cam

69

chịu mọi thiệt thòi để vun vén cho cuộc sống gia đình. Hình ảnh người phụ nữ

chịu nhiều thiệt thòi, bất công xã hội và nhiều mất mát, đau khổ trong tình

yêu. Với Cột đá treo người và Sải cánh trên cao, trong những ngày còn chế

độ quan lang, thổ ty trên vùng đất Tây Bắc, những thân phận phụ nữ chịu

nhiều đau khổ như Chía, như Mai có lẽ không hiếm. Cha mẹ Chía vì vay nợ

lý trưởng không trả nổi, tiền vay cứ lãi mẹ đẻ lãi con nhân lên, cho tới lúc lý

trưởng bảo cho Chía tới làm người ở để xóa nợ thì Chía chính thức trở thành

thân phận tôi đòi. Còn với Mai thì nỗi khổ lại khác, chồng theo người phụ nữ

khác, con vì đói, vì thiếu muối mà chết, cuộc đời của Mai tưởng như đã đi vào

ngõ cụt nếu như không gặp được Sinh. Nhưng rồi cuộc chiến với giặc đã cướp

đi sinh mạng của Mai khi chưa kịp một lần được hưởng niềm hạnh phúc hồi

sinh của cách mạng.

Có thể thấy với người phụ nữ vùng cao, những chuỗi ngày được coi là

hạnh phúc nhất của đời họ thường quá ngắn ngủi. Hẳn đó chỉ là những tháng

ngày mới bước vào tuổi cập kê, biết ửng hồng đôi má khi bắt gặp một ánh mắt

nhìn như đã thiêu đốt trong buổi chợ, biết cất cao giọng hát đáp lời một tiếng

hát nồng nàn, tình tứ phía đám trai bên kia. Còn khi đã lấy chồng, đã có con

thì tất cả những mộng mơ đó mau chóng trở thành quá khứ, và đúng như Đỗ

Bích Thúy đã viết, “bởi cuộc đời thì dài, âu lo thì lớn, khát vọng thì xa nên cái

khoảnh khắc ấy mới là quý giá và ý nghĩa biết nhường nào”.

Bên cạnh đó là hình ảnh người phụ nữ bao dung, nhân hậu, thủy chung.

Dường như khi viết truyện, cây bút trẻ Đỗ Bích Thúy luôn muốn dành những

gì ưu ái nhất, trân trọng nhất cho những người phụ nữ vùng cao, bởi với chị,

họ luôn là biểu tượng của cái đẹp thuần hậu, nhuần nhụy và đậm chất bao

dung. Lúc nào ta cũng thấy người phụ nữ hiện lên cao cả, nhân hậu cho dù bị

đẩy vào bất cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Mẹ già trong “Tiếng đàn môi sau

bờ rào đá” là một minh chứng điển hình cho điều đó. Lấy chồng, không có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

70

con, chồng đưa về nhà một người phụ nữ khác, dù không bằng lòng thì người

mẹ già ấy vẫn chăm chút hai đứa con kia của chồng bằng tình thương rất mực

của một người chưa từng một ngày làm mẹ.

So với thế giới nhân vật Nguyễn Ngọc Tư, thế giới nhân vật trong sáng

tác của Phan Thị Vàng Anh về cơ bản rất khác nhau, nó thể hiện những vùng

thẩm mĩ riêng của mỗi người. Nhân vật trong truyện của Phan Thị Vàng Anh

là thế giới của những con người thị thành nhiều trải nghiệm. Họ phần đông có

học, đóng nhiều vai xã hội khác nhau. Ngược lại, Nguyễn Ngọc Tư lại đưa

người đọc đến với thế giới của những người lao động nghèo, vùng sông nước

Nam Bộ. Sự khác biệt căn bản này bị chi phối bởi chính yếu tố đề tài, cảm

hứng, cốt truyện và đó là “gu thẩm mĩ” của mỗi người. Và chính những nét

không tương đồng này đã làm nên sự phong phú đa dạng, sáng tạo riêng biệt

của những cây bút trẻ trong nền văn học Việt Nam đương đại. Thế giới nhân

vật trong trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh hầu hết là những con người

cá tính và sắc sảo. Họ là học sinh, sinh viên hay những công chức đã đi làm.

Tất cả đều trẻ trung trong cách nghĩ, hiện đại trong lối sống. Họ đại diện cho

những con người của ngày hôm nay mang đầy dấu ấn của đời sống mới, cơ

chế mới. Ấn tượng đầu tiên về thế giới nhân vật trong truyện Phan Thị Vàng

Anh, đó là những con người trẻ tuổi nhưng luôn sắc sảo trong cách nghĩ. Rất

nhiều truyện của Phan Thị Vàng Anh viết về giới trẻ, về học sinh, sinh viên

nhưng sao khó tìm thấy ở những con người ấy nét hồn nhiên trong sáng ngây

thơ. Nhân vật của Vàng Anh luôn già trước tuổi, luôn nhìn đời bằng ánh mắt

của một người biết không thiếu một chuyện trên đời.

Nhân vật “tôi” trong “Khi người ta trẻ” là một người có học, hiểu biết,

sống lý trí và thật am hiểu sự đời. “Tôi” là người hiểu được con người “đầy

mâu thuẫn” của cô Xuyên, nhận ra sự ủy mị, èo uột vô trách nhiệm của cô,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một người làm “khối kẻ điên tiết”. Đứng ngoài quan sát, “tôi” còn nhận ra cái

71

vô nghĩa của những tình cảm đơn phương, sự u mê, ngu muội của kẻ lao theo

tình yêu một cách điên rồ mù quáng. Và vẫn con người trẻ tuổi ấy vừa phải

chịu đựng nỗi đau mất người thân vừa phải cay đắng rút ra những bài học

cuộc đời. Phan Thị Vàng Anh thường đặt nhân vật của mình trong bộn bề

những trái ngang để qua đó làm bật lên cá tính và bản lĩnh.

Nhìn vào nhân vật của Phan Thị Vàng Anh người ta thấy được bước đi

của thời gian, sự biến đổi của môi trường xã hội trong hơn một thập kỉ. Đây là

điểm mà truyện ngắn của chị có nhiều ưu thế hơn so với Nguyễn Ngọc Tư.

Đương nhiên Vàng Anh viết sớm hơn, khi tác phẩm của chị bước vào độ chín

thì Nguyễn Ngọc Tư mới bắt đầu. Sự già dặn hơn về tuổi đời và chững chạc

hơn về tuổi nghề khiến văn Vàng Anh sắc hơn, súc tích hơn. Tính chuyên

nghiệp của một cây bút truyện ngắn được nhận ra ngay từ những trang viết

đầu tay của chị. Đó có thể là ảnh hưởng từ người cha trí tuệ tài năng, đam mê

nghệ thuật, từ đời sống gia đình mà ngay từ khi còn nhỏ chị đã được khuyến

khích đến với văn chương, cũng có khi đó là kết quả của bao năm đèn sách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

với vốn tri thức sách vở uyên bác mà chị miệt mài theo đuổi.

72

Chƣơng 3

ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN

VÀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện

3.1.1. Khái niệm cốt truyện

Như ta đã biết, cốt truyện là: “Hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức

theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản quan

trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và

kịch”[39.85]. Trong đó cốt truyện của truyện ngắn “thường diễn ra trong một

thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một

điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người.”[39.304]. Và hiểu một cách đơn

giản như kinh nghiệm của Nguyễn Quang Sáng “truyện ngắn phải có

“chuyện” tức phải kể cho người khác nghe được”, cái được kể ở đây chính là

cốt truyện.

Cốt truyện có hai tính chất cơ bản. Một là tính liên tục hữu hạn trong

trật tự thời gian, sự kiện này đặt sau sự kiện trước và cứ thế cho đến kết thúc.

Hai là các sự kiện trong chuỗi có mối quan hệ nhân quả hoặc quan hệ bộc lộ ý

nghĩa. Các sự kiện trong đời sống có vô vàn mối quan hệ và không biết đâu là

mở đầu, đâu là kết thúc. Hai tính chất nêu trên là thuộc tính nghệ thuật làm

cho cốt truyện văn học tách ra khỏi mối quan hệ chằng chịt trong cuộc đời để

tập trung thể hiện ý nghĩa nào đó mà nhà văn muốn thể hiện.[38.56].

Cốt truyện thực hiện các chức năng rất quan trọng trong tác phẩm: Một

là nó gắn kết các sự kiện thành một chuỗi và tạo thành lịch sử của một nhân

vật; hai là bộc lộ các xung đột, mâu thuẫn của con người (xã hội, tâm lý, đạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đức,…), ba là tạo ra một ý nghĩa về nhân sinh. Nắm bắt đúng chuỗi các sự

73

kiện là bước khởi đầu để hiểu nhân vật, hiểu bức tranh đời sống và hiểu ý

nghĩa của tác phẩm.

Cốt truyện có chức năng thứ tư, rất quan trọng là gây hấp dẫn. Nhiều

tác phẩm thuộc loại phiêu lưu, võ hiệp, tình ái, truyện cười…nhờ cốt truyện

có nhiều biến cố ngẫu nhiên, bất ngờ mà có sức hấp dẫn mạnh đối với người

đọc [38.57].

3.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư với cốt truyện - dòng tâm trạng

Những tác phẩm được đánh giá cao của Nguyễn Ngọc Tư đều được chị

xây dựng cốt truyện theo hình thức này. Có những cốt truyện được tạo dựng

lên hoàn toàn trên cơ sở miêu tả những dòng tâm trạng, diễn biến tâm lý nhân

vật (“Cánh đồng bất tận”, “Một chuyện hẹn hò”), khi đó sự kiện thường xuất

hiện với tư cách là nguyên nhân, là nguồn gốc của những cảm xúc tâm trạng

suy nghĩ của nhân vật. Và nhân vật bộc lộ thái độ, tình cảm, chủ yếu qua nét

mặt, lời nói, đặc biệt qua những dòng độc thoại. Như vậy, nhân vật của chị

cũng không có những hành động dứt khoát để làm nên những thay đổi bên

ngoài, những đổi thay có tính chất bước ngoặt trong cuộc đời. Sự hành động

cũng không phải diễn ra ở bên ngoài mà chủ yếu ở bên trong, trong thế giới

nội tâm. Đồng thời trong quá trình phát triển của sự kiện cái thay đổi chủ yếu

là trạng thái tâm lý nhân vật.

Hình thức xây dựng cốt truyện này được thể hiện rõ nhất trong tác phẩm

gây được nhiều dư luận và cũng là tác phẩm được trao giải thưởng hội nhà

văn Việt Nam năm 2006 - “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư.

Truyện được mở ra bằng không gian cánh đồng khô hạn với những cây lúa

chết non, cong như những tàn nhang chưa rụng, dòng sông váng phèn ngưng

đọng gợi vẻ thê lương. Tất cả được nhìn và cảm qua con mắt của Nương nên

càng gợi vẻ bất an hoang dại. Từ những lời tả có tính chất gợi mở làm tiền đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho cảm xúc ấy, một loạt những suy nghĩ, những dòng hồi tưởng được trải ra.

74

Câu chuyện về người đàn bà đang nằm trên ghe sau cuộc đánh ghen tơi tả, ý

nghĩ về thái độ của người cha với những việc đã diễn ra. Cứ như thế những

dòng suy nghĩ đã dẫn dắt để cốt truyện được hình thành. Chính vì vậy cốt

truyện của Nguyễn Ngọc Tư không nhiều sự kiện, nó thường là những sự kiện

có tác dụng khơi gợi tâm trạng (việc cứu người đàn bà bất hạnh, sự ra đi của

nhân vật má tôi, cuộc gặp gỡ của cha tôi với những người đàn bà bị chồng bỏ,

sự ra đi của Điền…). Và qua đó cả một thế giới tâm trạng của nhân vật

Nương với biết bao biến đổi. Đó là thế giới của nỗi buồn, của những mất mát,

của ám ảnh, của tuyệt vọng đau thương.

Đọc truyện Nguyễn Ngọc Tư người ta có cảm giác yếu tố cơ bản của cốt

truyện không còn là hệ thống các sự kiện bên ngoài tạo nên hình thức vận

động của truyện. Truyện của chị đôi khi giống như một sự ghi lại, chép lại

những gì đang diễn ra hàng ngày trong thế giới nội tâm nhân vật. Và vì vậy

cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường được “nới lỏng”, “giãn

ra” chứ không chặt chẽ tập trung như cốt truyện của truyện ngắn và tiểu

thuyết truyền thống. Ta bắt gặp trong nhiều truyện của chị những yếu tố kể là

rất ít mà yếu tố tả là nhiều, những cái cốt giản đơn có thể tóm tắt trong một

câu. Câu chuyện về người cha tìm con, câu chuyện về tình yêu không thành

của một đôi trai gái, chuyện về một ngôi nhà cỏ mà ở đó có hai anh em cùng

yêu thương một người con gái, chuyện về một người đàn ông cô độc khao

khát tình cảm yêu thương, chuyện về một mối tình đơn phương, chuyện về

một người vợ bị chồng phụ bạc. Và cái làm cho câu chuyện được “nới lỏng”

được “giãn ra” nhưng vẫn hấp dẫn lôi cuốn chính bởi những dòng nội tâm,

những cảm xúc suy nghĩ day dứt của nhân vật được tái hiện trong tác phẩm.

Bên cạnh đó yếu tố không gian, môi trường thiên nhiên, môi trường sinh hoạt

của con người cũng góp phần làm tăng yếu tố tả trong cốt truyện. Và như vậy,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khác với Phan Thị Vàng Anh truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường ít lời

75

kể, mà phần nhiều là lời tả. Điều này đã làm cho truyện của chị gần với tiểu

thuyết hiện đại hơn. Sự “giãn nở” trong truyện Nguyễn Ngọc Tư tạo ra yếu tố

phi cốt truyện, nhưng chính điều đó đã làm cho truyện ngắn của chị có một

không khí rất riêng. Đọc truyện Nguyễn Ngọc Tư người đọc nhiều khi được

phiêu lưu cùng với thế giới tâm trạng của nhân vật. Nhà văn thường để cho

nhân vật dừng lại để giãi bày, bộc lộ những suy ngẫm, cảm xúc của mình và

vì vậy truyện của chị rất giàu cảm xúc. Nó đôi khi là những câu chuyện được

kể lại qua hồi ức, qua những kỉ niệm, qua những dòng tâm tư tuôn chảy miên

man. Như thế, cái để người đọc khám phá trong truyện Nguyễn Ngọc Tư

không phải là sự kiện mà là những dòng tâm trạng, là chiều sâu không cùng

trong thế giới tâm hồn mỗi con người. Đến với truyện của chị người đọc dễ

dàng biết được nhân vật đang nghĩ gì, đang trong tâm trạng như thế nào, buồn

hay vui, đau khổ hay sung sướng. Và nhờ vậy thế giới nhân vật trong truyện

của chị luôn tạo được cảm giác gần gũi với bạn đọc. Cũng nhờ vào yếu tố

giãn nở cốt truyện qua những dòng tâm trạng mà người đọc luôn được khám

phá những vẻ đẹp khác nhau trong đời sống tâm hồn nhân vật khi đọc truyện

Nguyễn Ngọc Tư.

Cũng chính nhờ luôn đan xen dòng cảm xúc, tâm trạng vào giữa những

sự việc, sự kiện, tính giãn nở trong cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư còn tạo ra

một lối kể chuyện rất linh hoạt. Những câu chuyện thường không kể theo

trình tự thời gian, không theo trật tự tuyến tính. Truyện của chị thường được

kể theo dòng tâm trạng nên chuyện hiện tại được đan xem với quá khứ, tương

lai. Trong “Cánh đồng bất tận” câu chuyện được bắt đầu bằng thời gian trong

hiện tại, việc Điền và Nương cứu người đàn bà bị đánh ghen, tiếp đến là quá

khứ xa, những kí ức về người mẹ, quá khứ gần, lần lạc đường giữa cánh đồng

của hai chị em. Cứ như vậy hiện tại, quá khứ thay đổi luân phiên, khiến cốt

truyện hấp dẫn hơn, không nhàm chán. Còn rất nhiều những truyện ngắn khác

của Nguyễn Ngọc Tư mang cốt truyện bên trong (“Cải ơi”, “Biển người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

76

mênh mông”, “Cuối mùa nhan sắc”, “Cái nhìn khắc khoải”, “Dòng nhớ”,

“Duyên phận so le”, “Nước chảy mây trôi”, “Một chuyện hẹn hò”…) . Với

cốt truyện tâm lí này nhà văn luôn tạo cho người đọc cảm giác về sự gần gũi

quen thuộc của từng sự kiện. Những câu chuyện chị kể như vừa xảy ra ở đâu

đây quanh ta, thế giới nhân vật của chị ta như đã từng đôi ba lần gặp trong

đời. Nói một cách khác, không cầu kì dụng công trong việc tạo dựng cốt

truyện, nhưng truyện Nguyễn Ngọc Tư luôn gợi cảm giác gần gũi, chân thực

đời thường.

Bên cạnh việc tạo ra một lối trần thuật linh hoạt, kiểu cốt truyện “giãn

nở” và “nới lỏng” còn giúp Ngọc Tư đi vào miêu tả không gian, môi trường

thiên nhiên đời sống sinh hoạt của con người. Điều đó khiến cho truyện ngắn

của chị gần hơn với tiểu thuyết và truyện của chị luôn toát lên một phong vị

rất riêng, mang đậm tính địa phương, yếu tố vùng miền. Đó là những câu

chuyện về con người và mảnh đất phương Nam. Trong truyện của Nguyễn

Ngọc Tư nhiều khi phương thức miêu tả lấn át cả phương thức tự sự. Bởi vậy

sức ám ảnh trong truyện của chị không phải là sự kiện, mà là những bức tranh

thiên nhiên hay miêu tả khung cảnh sinh hoạt của con người. Chính yếu tố đó

đã mở ra trong những trang văn của Ngọc Tư một không gian Phương Nam

ngập tràn nắng gió, với những dòng sông thao thiết chảy, vắt ngang qua

những cánh đồng mở rộng cuối chân trời. Cảnh sinh hoạt của những gia đình

lênh đênh trên sông nước (“Nhớ sông”, “Dòng nhớ”), cảnh chèo đò đi chợ

nổi, chợ bán rau trái dậy động cả một khúc sông, cảnh những người đàn bà

ngồi giặt giũ dưới bến sông, mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ

(“Cánh đồng bất tận”), săn đón ghe hàng, mua bông, mua rau và bán lại

những buồng chuối chín trong vườn. Tất cả những cái đó đều mang đậm nét

đặc thù của một vùng đất, nó tạo nên “màu sắc địa phương” trong các tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phẩm của Nguyễn Ngọc Tư.

77

Bên cạnh đó một điểm hấp dẫn nữa trong cốt truyện của Nguyễn Ngọc

Tư. Nhân vật của chị thường được đặt trên một hành trình chuyển dịch

thường xuyên, đó là những cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu, không có điểm dừng

(“Sầu trên đỉnh Puvan”). Theo bước chân nhân vật, những vùng đất mới

được mở ra, những cảnh đời con người mới được khám phá (“Của ngày đã

mất”). Và như vậy, cốt truyện của chị không ngừng được làm giàu bằng

những yếu tố hấp dẫn đến một cách bất ngờ tự nhiên không sắp đặt. Với đặc

điểm này cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư có vẻ như không tập trung, không

chặt chẽ nhưng ngược lại “cốt truyện phiêu lưu” này đã mang đến cho những

trang văn của Ngọc Tư một sự lôi cuốn lạ lùng.

Nói tóm lại, cốt truyện trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường

không chia thành phần, sự kiện nhiều khi được trải ra không phân biệt chính

phụ. Hơn nữa, truyện của chị lại được làm đầy bởi những yếu tố “phi cốt

truyện” đó là những dòng tâm trạng, những dòng độc thoại nội tâm, những

bức tranh thiên nhiên miêu tả cảnh sinh hoạt của con người. Điều này làm cho

cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư khác với cốt truyện trong truyện ngắn Phan

Thị Vàng Anh và khác với cốt truyện trong truyện ngắn truyền thống. Nó thể

hiện những cố gắng tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật của chị để tìm cho mình

một chỗ đứng trong làng văn chương.

3.2. Giọng điệu

3.2.1. Quan niệm về giọng điệu

Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là yếu tố

hàng đầu tạo nên phong cách riêng của mỗi nhà văn, tạo nên sự khác nhau

giữa các nhà văn và sức hấp dẫn của tác phẩm. Giọng điệu là yếu tố đặc trưng

của hình tượng tác giả. Giọng điệu của tác phẩm ở mức độ nào đó phụ thuộc

vào đặc điểm miêu tả cũng như cách cảm nhận về chúng. Chỉ những nhà văn

thực sự có tài năng mới có giọng điệu riêng. “Đó chính là đặc điểm chủ yếu

của một tài năng sống độc đáo” (M.B. Khrapchenco) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

78

Cơ sở của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Biểu hiện của

giọng điệu rất đa dạng. Ứng với mỗi trạng thái tâm lý của con người là một

sắc thái giọng khác nhau. Trong “Thi pháp truyện Kiều”, Giáo sư Trần Đình

Sử cho rằng: Giọng điệu được thể hiện ở tiếng nói, điểm nhìn của chủ thể, ở

quan hệ của chủ thể tác giả với cái được miêu tả…Mỗi giai đoạn văn học có

giọng điệu riêng. Văn học Trung đại có giọng “Ngôn chí”, thơ trữ tình điệu

ngâm. Văn học Cách mạng lại có giọng điệu khẳng định, tự tin, rưng rưng về

cái cao cả, anh hùng. Văn học sau chiến tranh lại là giọng điệu vừa phê phán

vừa chua chát, thậm chí cay nghiệt. Còn văn học hiện nay, giọng điệu cơ bản

là gì? Có lẽ vẫn là sự tiếp nối giọng điệu sau 1975, nhưng đi sâu vào giọng

điệu giễu nhại, hoặc từng trải, triết lí.

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư luôn có cảm hứng suy nghĩ, trăn trở

về con người, về tình yêu, mối quan hệ giữa con người với con người. Nó

được nhìn bằng một tâm hồn đậm phong cách Nam Bộ “nghĩ sao nói vậy”,

không màu mè chau chuốt và đậm chất nữ tính. Giọng điệu của Nguyễn Ngọc

Tư là một giọng điệu rất riêng, ám ảnh dễ nhớ, chỉ cần đọc một lần cũng có

thể nhớ được giọng văn của chị. Đó là giọng văn thủ thỉ, tưng tửng nhưng đầy

ám ảnh. Dường như nhà văn không có ý định gửi thông điệp mà cũng chẳng

triết lí gì về cuộc sống. Mọi thứ cứ tự phơi bày, lên tiếng thật phóng khoáng,

bộc trực. Giọng văn này không bộc lộ trực tiếp mà đan xen pha tạp với nhiều

giọng điệu khác như: Giọng điệu Nam Bộ đặc trưng hay giọng văn trong sáng

giàu nhạc điệu.

3.2.2. Một giọng văn “điềm đạm mà thấu đáo”

3.2.2.1. Giọng buồn “mênh mang, sâu rứt”

Có thể nói, ngay từ tập truyện đầu tay là “Ngọn đèn không tắt”, người

đọc đã nhận ra cái giọng buồn này của chị. Chị buồn cho ông Hai Tương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(“Ngọn đèn không tắt”) - ông già năm nào cũng đi kể chuyện lịch sử địa

79

phương vì sợ thế hệ sau này không còn ai nhớ về các anh hùng đã ngã xuống vì

quê hương xứ sở nhưng khi ông mất chẳng người nào nhớ; đồng thời chị cũng

buồn vì sự hời hợt của những người “có trách nhiệm” về việc làm qua loa và

hình thức của họ nhân dịp kỷ niệm ngày khởi nghĩa hàng năm của xã nhà.

Hay trong “Nỗi buồn rất lạ” người đọc cũng bắt gặp cái giọng buồn

tênh của Nguyễn Ngọc Tư khi phải chứng kiến lối sống hờ hững, “dửng dưng

và tạnh quẽ với cuộc đời”… của lớp thanh niên trai trẻ trước những bất trắc

của người khác:“Thôi buồn quá. Tôi thấy mình thà chết còn sướng hơn, chứ

còn trai trẻ mà sống làm chi dửng dưng, tạnh quẽ với cuộc đời như thế này.”

Có thể thấy, xuyên suốt tập truyện này là giọng buồn “mênh mang, sâu

rứt” như vậy. Và càng về sau cái giọng buồn “mênh mang, sâu rứt” ấy càng lan

tỏa khắp các tập truyện khác của chị. Buồn vì cái nghèo vẫn không chịu buông

tha những người nông dân quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” :

“Nhà tôi xiêu vẹo đã lâu. Nhánh khế de trên nóc nhà có bữa rụng

xuống mâm cơm của chúng tôi mấy trái chín rục. Vẻ hiu hắt , cũ kỹ của ngôi

nhà thường cuốn hút khách dừng chân, ghé vào. Tía tôi tạt vào họ một bộ mặt

lạnh tanh, te te bỏ ra vườn, cây gậy dấm dứ trên tay như chực phang vào ai

đó. Tôi cũng khó chịu khi người ta hãi hùng níu vai nhau coi tôi lột da chuột

dưới cầu ao. Tôi thấy hình ảnh mình - một thằng con trai tàn bạo, man rợ

trong mắt họ. Tôi ngọ ngoạy, giãy giụa một cách tuyệt vọng. Bởi suốt một

mùa nắng đó, hai tía con tôi chỉ sống nhờ vào tiền bán chuột đồng nên tôi

không làm sao cải thiện được hình ảnh của mình”. (Thổ sầu)

Và buồn vì những mặt trái của đô thị hóa nông thôn làm nảy sinh nhiều

vấn nạn tiêu cực, lối sống thực dụng của con người:

“Hôm ấy Văn không trả lời, hôm sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn

ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua

80

một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để nói cháu về vì má cháu

đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một tí, rồi lên xe đi luôn

cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết người ta nói dối, dù

trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi.” (Thương quá rau răm)

“Nhưng đời đám nhân viên phục vụ bỗng buồn hiu. Khách đến, khách

say, tán tỉnh, hôn hít họ rồi về (thì ca hay, phục vụ chu đáo, nên khách thưởng

chơi vậy mà). Người ở lại chua chát nghĩ, điệu này rồi sẽ khó lấy chồng, đáng

ra đôi má này đôi tay này phải để cho người mình thương iu ấp. Có ai yêu

mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho người ta hôn

hít (và cả đáp lại người ta, nếu có yêu cầu). Bà con ở đây cười cợt, dè bỉu đã

đành, tệ như mấy anh chàng thợ xây nhà thuỷ tạ ốm tong teo, đen nhẻm vậy

mà không thèm chọc ghẹo một lời. Không biết đã đành, thấu hiểu, yêu thương

như Khởi một bữa còn đập đàn bỏ Xuyến mà đi.” (Duyên phận so le)

Như vậy, buồn trước hết chính là giọng điệu, là âm hưởng chung chi

phối cả hệ thống truyện ngắn của chị góp phần làm nên một “cái nhìn khắc

khoải” về thân phận con người, về những nỗi đau, những dâu bể trong cuộc

đời người dân thôn quê vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, nếu

quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy buồn “mênh mang sâu rứt” chỉ là một khía cạnh

trong cái âm hưởng và giọng điệu chung của toàn bộ hệ thống truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư. Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy con

người tuy phải hứng chịu nhiều bất hạnh, oan trái nhưng trong từng lời nói và

trong sâu thẳm suy nghĩ của họ vẫn luôn ánh lên một niềm tin: những khó

khăn, vất vả cùng những đau khổ nhất định rồi sẽ qua đi. Người đọc không

khó để nhận ra âm hưởng này trong rất nhiều truyện như:

“Bến đò xóm Miễu thay đổi chủ. Lương vẫn mải miết chèo qua chèo

lại, càn lên dòng chảy, sóng nước mà đi. Bông ngồi trên bến thu tiền. Nó vuốt

phẳng phiu những tờ bạc lẻ cũ mèm vào từng ô của chiếc hộp Lương đóng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngày xưa. Người lạ qua bến nhìn Bông xinh đẹp tươi hồng rồi đọ với vẻ mặt

81

già háp của Lương mà tiếc hùi hụi, tiếc đôi đũa mốc gác lên mâm son, tiếc

bông lài thơm mà cắm nhầm bãi cứt trâu…Người xóm Miễu cự, nói Lương

mới thấy thương, mới thiệt thòi, đã cưu mang đứa con gái đã lỡ lầm còn tàn

tật. Chớ biết làm sao, lỡ thương quá chừng rồi.” (Bến đò xóm Miễu).

“Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến,

Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh

và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi

lầm của người lớn.” (Cánh đồng bất tận)

Nói cách khác, một cách đầy đủ hơn, giọng điệu trong truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư tuy là buồn nhưng không chán chường. Vấn đề này nói

như Trần Hữu Dũng là: “Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng

than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt

ngang nhưng rất đủ của một người trẻ bỗng nhiên phát giác bất hạnh của

cuộc đời, mà vẫn hi vọng”.

Có thể nói, trước những dâu bể thăng trầm của cuộc đời, con người

không thể không buồn nhưng quan trọng hơn trước những dâu bể thăng trầm

ấy, con người ta biết chấp nhận nó để có thể sống tốt hơn, để hiểu mình và

hiểu đời hơn… Giọng buồn nhưng không chán chường trong truyện ngắn

của Nguyễn Ngọc Tư đã góp phần thể hiện cái nhìn của tác giả về những con

người luôn hiểu và ý thức được vị trí và thân phận mình trong cuộc đời.

Những truyện ngắn như: “Ngày đã qua”, “Ngày đùa”, “Cánh đồng bất tận”,

“Gió lẻ”, “Núi lở”, “Sầu trên đỉnh Puvan”… là những trường hợp tiêu biểu

cho vấn đề này.

Tóm lại, trong cái nhìn về hiện thực cuộc sống, Nguyễn Ngọc Tư

thường hướng cái nhìn xót xa và thông cảm đến những phận người không

may trong cuộc đời. Điều này đã tạo nên một giọng buồn trong truyện ngắn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của chị. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ xót xa và thông cảm, chị còn

82

tin yêu và luôn mong mỏi cho những phận người không may ấy có được cuộc

sống hạnh phúc dù là những hạnh phúc bình dị và nhỏ nhoi nhất để bù đắp

cho sự độ lượng, vị tha và nghĩa khí của họ trong cuộc sống. Đây cũng chính

là cái nhìn mang đầy tính nhân văn của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư.

3.2.2.2. Giọng điềm nhiên, trầm tĩnh

Trước hết, có thể thấy giọng điềm nhiên, trầm tĩnh trong truyện ngắn

của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện qua nhịp điệu kể chuyện rất từ tốn,

chậm rãi của nhân vật người kể chuyện. Mở đầu truyện ngắn “Cải ơi”, người

đọc bắt gặp nhịp kể chậm rãi, từ tốn của người kể dù đang thuật lại tình cảnh

khó khăn bi đát của các nhân vật - một nhịp kể thể hiện sự tỉnh táo và điềm

nhiên của tác giả trong quá trình phản ánh sự khốn khó của con người trong

cuộc sống:

Vì vậy mà Trần Hưng mới dắt mọi người ra Gò Cây Quao để quay

cảnh kết, anh còn chu đáo rước cả thằng Thảo về. Đất đồng mùa nầy đã cày,

bờ mẫu chơ vơ những bụi cỏ ống, bụi rạ bị đốt cháy nham nhở, Một đoàn

người lặc lè đi dưới cái nắng tháng ba như chó le lưỡi. Ông Mười ngồi lại

dưới xuồng, đốt thuốc, đăm đăm ngó khói lên trời. (Mối tình năm cũ)

Tương tự vậy, trong “Gió lẻ”, người đọc lại bắt gặp sự chậm rãi và từ

tốn quen thuộc của người kể thuật lại cái chết của mẹ nhân vật Mỹ Ái:

“Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho

con chó Lu Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em,

hỏi mẹ, từng từ khít như máu rỉ qua kẻ răng, “cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái

thứ này?”. Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ

sau cha tìm thấy mẹ treo mình đung đưa trên xà nhà. Lưỡi trả lại cho cuộc

đời, bởi người ta không chấp nhận sự vô dụng của nó, nói mà chẳng ai nghe.

Một điểm quan trọng nữa giúp nhận ra giọng điệu điềm nhiên, trầm

tĩnh của Nguyễn Ngọc Tư là lối kể chuyện bình thản, “có sao nói vậy người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

83

ơi” có phần dửng dưng của chị. Những lúc như vậy, người đọc bắt gặp nhân

vật người kể chuyện có khi đứng ngoài xưng “tôi”, có khi nhập vào nhân vật

chính để kể lại những sự việc xảy ra một cách rất thản nhiên đôi khi có phần

dửng dưng, lạnh lùng nhưng thực chất trong lòng rất đau đớn, xót xa,... Trong

truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư vấn đề này thể hiện rõ nhất là ở những câu

văn mà tác giả cố tình (để cho nhân vật kể chuyện trong quá trình trần thuật)

mở ngoặc đơn để “giải thích”, “chú thích” thêm một vấn đề gì đó. Hoặc

không thì “nói thêm vào”, “nói cho rõ hơn” trong lúc trần thuật. Ví dụ như:

- “Ông lấy trời đất, thần phật, rắn rít và cả kiếp sau (mặc dù cũng

chưa biết nó ra làm sao) ra thề nhưng bà không tin, giận chẳng nhìn, chớ

thèm cười nói.” (Cải ơi)

- “Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm

thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ nầy sao lại không thể đi chung) ”.

(Dòng nhớ)

-“Giỏi giắn, tươi tắn đến nỗi không ai tin Hậu còn bệnh (bác sĩ nhiều

khi còn không dám tin) nhưng mãi Hậu vẫn chưa nhận ra chồng.” (Một trái

tim khô)

Chúng tôi thử làm một thống kê nhỏ về những “dấu ngoặc đơn” trong

ngôn ngữ trần thuật ở tập truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư

và thu về kết quả như sau:

Số lần xuất hiện STT Tên truyện ngắn dấu ngoặc đơn

1 Cải ơi 5

2 Thương quá rau răm 11

3 Hiu hiu gió bấc 0

4 Huệ lấy chồng 1

5 Cái nhìn khắc khoải 3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6 Nhà cổ 3

84

7 Mối tình năm cũ 5

8 Biển người mênh mông 1

Cuối mùa nhan sắc 9 3

10 Nhớ sông 0

11 Dòng nhớ 0

12 Duyên phận so le 16

13 Một trái tim khô 8

14 Cánh đồng bất tận 59

[4.1]

Có thể nói, đây là nét sáng tạo trong cách trần thuật của Nguyễn Ngọc

Tư, góp phần làm nên giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh rất độc đáo của chị.

Chính sự xuất hiện của những dấu ngoặc đơn làm nhiệm vụ “giải thích, chú

thích thêm” hay “nói cho rõ hơn” một vấn đề nào đó đã làm cho câu chuyện mà

Nguyễn Ngọc Tư kể với người đọc thêm phần khách quan và sinh động hơn.

Bên cạnh lối kể chuyện với nhịp điệu chậm rãi, từ tốn; lối trần thuật

bình thản đôi khi lạnh lùng; người đọc còn nhận ra giọng điệu điềm nhiên,

trầm tĩnh của Nguyễn Ngọc Tư ở sự cân nhắc trong việc sử dụng ngôn từ

mềm mại và đầy “nữ tính”. Đây là một điểm rất khác của Nguyễn Ngọc Tư

so với khá nhiều những nhà văn lớp trước như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng

Phụng, Nam Cao trước 1945, hay Nguyễn Huy Thiệp những năm tám mươi

của thế kỷ XX. Cũng là hợp lý thôi vì Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn nữ vì thế,

so với các nhà văn vừa kể, ngôn ngữ và giọng điệu của Nguyễn Ngọc Tư

mềm mỏng và nhẹ nhàng hơn; Nguyễn Ngọc Tư không chửi rủa, không mạt

sát, không văng tục, không thóa mạ, không tỏ ra cay cú… khi đề cập đến

những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống. Chúng ta thấy rõ vấn đề này ở những

những truyện ngắn trong tập “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” cùng một số

truyện như: “Ngọn đèn không tắt”, “Cánh đồng bất tận”, “Lỡ mùa”, “Đau gì

như thể”,… Đây là những truyện ngắn mà Nguyễn Ngọc Tư muốn góp tiếng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

85

nói phê phán những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống nhưng giọng điệu của chị

vẫn rất nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Nguyễn Ngọc Tư tuy có bất bình, có không hài

lòng về những điều bất công, giả dối của con người trong cuộc sống nhưng

chị không lên giọng quát tháo, không văng tục như chúng ta thường thấy ở

Nguyễn Huy Thiệp. Ở Nguyễn Huy Thiệp khi không hài lòng một vấn đề gì là

ngay lập tức giọng điệu của ông thay đổi một cách rất quyết liệt, mạnh mẽ

nhiều khi mất bình tĩnh và trở nên cực đoan.

Không giống như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư thường chọn

cách nói nhẹ nhàng và ít khi phát biểu hay bày tỏ thái độ bằng những ngôn từ

gân guốc, đầy góc cạnh thậm chí có lúc rất bạo liệt. Đây là ngôn từ nhẹ

nhàng, mềm mại của Nguyễn Ngọc Tư thuật về tình cảnh đáng thương của

Nương - cô gái mới lớn bị những “người có trách nhiệm” của địa phương hãm

hiếp trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”:

“Bọn chúng hơi khó chịu trước một đứa con gái yếu ớt và câm lặng. Sự

hưng phấn giảm đi ít nhiều, đến nỗi, chúng tỏ ra đờ đẫn, nghi hoặc khi bóc

trần tôi ra. Sao đúng lúc vầy nè, tôi buồn nẫu nê, tôi vừa le lói nhìn thấy con

đường dẫn đến cuộc sống bình thường, tôi vừa nghĩ, trên con đường đó, sẽ

gặp người con trai nào đó để thương yêu…Nhưng cố không để cảm giác đau

tiếc làm mình lịm vào chết, tôi cười cợt, “Chúng mày có lột bỏ có trăm có

ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng chẳng bao giờ thấu đến tận tao”.

Ý nghĩ đó làm tôi bớt nhói cho nông nỗi nầy.”

Còn đây là cách Nguyễn Ngọc Tư kể lại cảnh ông Tám Nhơn Đạo hãm

hiếp cô bé Mỹ Ái trong truyện ngắn “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” - một

giọng kể thản nhiên được trình bày qua lối văn nhẹ nhàng nhưng lột tả trọn

vẹn nỗi nỗi đau, thất vọng của tác giả trước sự đểu giả của con người trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cuộc sống:

86

“Lâu ngày em không còn giật mình vì tiếng người nữa. Nên cái bữa

ông Tám Nhơn Đạo ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt

xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật

mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước

tiểu… Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường

lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó.”

Có thể thấy, tuy không dùng những lời lẽ đao to búa lớn, không quát

tháo, không thóa mạ… nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái nhìn phê

phán của Nguyễn Ngọc Tư trước những vấn đề tiêu cực của cuộc sống. Đồng

thời cũng cảm nhận được nỗi xót xa và thương cảm, đau đớn của nhà văn

dành cho số phận không may trong cuộc đời. Đây là thành công của Nguyễn

Ngọc Tư trong việc sử dụng ngôn ngữ mềm dẻo, nhẹ nhàng, đầy nữ tính để

tạo nên một giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh nhằm lột tả bản chất của những

sự việc mà chị phản ánh. Vấn đề này, nói như nhà văn Dạ Ngân là Nguyễn

Ngọc Tư có giọng “điềm đạm mà thấu đáo”. Hay Kiệt Tấn trong “Sông nước

Hậu Giang và Nguyễn Ngọc Tư” thì Nguyễn Ngọc Tư có giọng văn “…thành

thật hiền hòa, không xốc táp ngang ngược; không có những kiểu nói om sòm

mà rỗng tuếch. ”

3.2.2.3. Giọng tâm tình, tưng tửng, hóm hỉnh nhưng thấm thía

Chúng ta biết rằng, trong mỗi tác phẩm, chủ thể phát ngôn thường xuất

hiện trong ba tư thế chính: Hoặc trực tiếp, hoặc thông qua nhân vật chính

hoặc ẩn sau cách miêu tả và tái hiện những sự vật bên ngoài nhà văn. Song dù

ở tư thế nào, hình bóng tác giả vẫn in vào tác phẩm và cùng với nó là giọng

điệu và cái nhìn của nhà văn. Với Nguyễn Ngọc Tư, chị là nhà văn có cái nhìn

của người dân quen nói chuyện đời sống dân quê, đồng thời cũng là người có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cái nhìn nghệ thuật nhiều chiều, thẳng thắn, mà thấu đáo trước những góc

87

khuất, mặt trái của sự thay đổi làng quê trong thời buổi kinh tế thị trường.

Nên, Nguyễn Ngọc Tư chọn cho mình một giọng điệu rất riêng, rất nữ tính mà

không kém phần ấn tượng. Đó là giọng điệu tâm tình, tưng tửng, hóm hỉnh

nhưng thấm thía. Trong khi hầu hết các nhà văn trẻ cố mài rũa để có được

giọng văn chững chạc, có phần mỉa mai, có phần triết lí cay nghiệt trước cuộc

đời thì Nguyễn Ngọc Tư lại chọn cho mình một giọng văn khá truyền thống

nhưng cũng rất ám ảnh người đọc.

Ở mỗi trang văn của mình, Nguyễn Ngọc Tư hiện ra là con người nhẹ

nhàng kín đáo mà không kém phần sâu sắc, ráo riết. Chị không viết bằng lời

chua chát, đao to búa lớn mà bằng lời thủ thỉ, tâm tình cứ lôi cuốn người đọc

không hay biết. Một lối kể chuyện rất nhẹ nhàng thấm thía mà lại rất có

duyên. Thủ thỉ, tâm tình nên trước các sự kiện, các hiện tượng tiêu cực cũng

được miêu tả với thái độ điềm tĩnh nhẹ nhàng:

“Kẹt quá chú ơi, bữa nay chủ tịch phải dự triển khai gì đó, chú hẹn cuối

giờ chiều. Chủ tịch dặn mấy chú vô Ủy ban ngồi nghỉ đỡ.

Và Ba Già, trưởng đoàn Trảng Cò, ông già có khuôn mặt khắc khổ, nhăn

nhó nhất, mạnh giỏi nhất, ăn nói có vẻ trơn tru bỗng dưng hức lên khóc ngon

lành:“Vậy là đất Trảng Cò trễ thêm một mùa nữa rồi mấy chú ơi.”[57.39]

Sự phẫn uất, căm ghét được dồn nén ở bên trong câu chuyện, ẩn dưới

thái độ thờ ơ, dửng dưng. Nữ văn sĩ Nam Bộ này kể về nhân vật, về sự kiện

với thái độ lãnh đạm, dửng dưng nhưng người đọc vẫn cảm nhận được ở đây

thái độ căm ghét phẫn uất của tác giả. Chính vì thế, các nhân vật của chị

thường không có bộ mặt mà chỉ có ấn tượng của tâm trạng. Trữ tình, thủ thỉ

nhưng không kém phần ráo riết, sắc sảo. Hình ảnh một người đàn bà “làm đĩ”

đã thương lượng, chấp nhận “đi đêm” với hai gã cán bộ để cứu bầy vịt thiếu

ăn, gia tài của ba cha con du mục trong “Cánh đồng bất tận” đã cho thấy bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lĩnh của chị. Ở đoạn này, Nguyễn Ngọc Tư viết rất khéo. Viết, như một lời kể

88

lại một cách bình thường, chẳng lên gân dạy trò đạo đức, cũng chẳng kêu gào

kết án những ai. Vậy mà lối viết bình thường ấy lôi kéo một cách lạ thường,

làm sáng lên hai mặt của đồng tiền. Một, cái thối tha, của những kẻ lúc nào

miệng cũng gắn liền: chủ trương, chính sách triệt để, thi đua, sự cố,…nhưng

khi cần “đi đêm” thì tất cả quẳng vào sọt rác. Hai, cái nghĩa cử đẹp, cái đạo

của phường làm đĩ. Đạo ở đây là đạo làm người. Làm một người tử tế hay

sống một đời lương thiện, thời nay, thật khó.

Đi sâu vào đề tài nông thôn, một đề tài truyền thống khá quen thuộc,

giống như người ta thâm canh trên mảnh đất mà thiên hạ đã khai thác đến

mòn xơ xác phải là người tự tin tìm thấy cho mình một lối đi mới hoặc

rất…hồn nhiên. Đúng là hồn nhiên - ta thấy truyện của Nguyễn Ngọc Tư rất

nhiều giọng tưng tửng (Tiếng miền Nam gọi là nói “khơi khơi”), cứ như

người ta viết trong một cuộc trò chuyện thoải mái với bạn bè, câu chữ rất

nhiều khẩu ngữ đến mức tự nhiên. Không chỉ có câu chữ, ngay cả lối ngắt

câu, xuống dòng rất phóng túng cũng tạo ra một dòng chảy thật sinh động:

“Những mùa lam lũ. Những mùa cực nhọc. Một mình chống chọi” [58.60]

“Nhìn thái độ anh chị vậy, tôi tính điệu nầy chắc mình cũng phải buồn

một chút. Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn vì chiều nay,

“Nhân Phủ” đã sụp đổ trong lòng.

Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi”[58.71]

Một chút ngang tàng, một chút bụi bặm, một chút giễu cợt, một chút

khinh khi…Tất cả tạo thành một giọng điệu tự nhiên, tưng tửng.

Đằng sau cái vỏ tưng tửng, cợt đùa chẳng mấy nghiêm túc, nghiêm

trọng, những tình ý phía sau con chữ vẫn đau đáu một nỗi gì ngược lại, như là

nỗi ưu tư, phiền toái và phiền muộn luôn là một phần trong bản chất cuộc

sống. Suồng sã với nó, coi thường nó chẳng qua là để có thể sống chung với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nó nữa thôi. Giọng văn đó, cứ êm êm nhưng lắng sâu rất ám ảnh. Nó bắt

89

người đọc phải ngẫm nghĩ. Mới đọc qua, nó không có nước mắt nhưng hình

như lại có một mạch chảy ngầm ở trong. Đó là giọng văn vừa tưng tửng vừa

thấm thía: “Phi đã gặp biết bao gương mặt, cùng cười đùa với họ, hát cho họ

nghe, cùng chạm ly uống đến say…nhưng không ai nhắc Phi cắt tóc đi, đàn

ông đàn ang ai để tóc dài” [58.111].

Có điều lạ, những dòng văn đầy ám ảnh, chạm khắc đến thẫm thía ấy,

nếu nhiều quá, dễ làm cho người ta nhàm chán. Nhưng trong thế giới nghệ

thuật Nguyễn Ngọc Tư, nó lại mê hoặc, cuốn hút con người không gì lí giải

mà là những lời nói thốt nhiên, lửng lơ của một người trẻ tuổi đầy ước mơ.

Nó bột phát khám phá, nó là con mắt nhìn lần đầu thấy bất hạnh, thấy ngang

trái mà vẫn bừng lên hi vọng, nên dù có bồng bột nó cũng vẫn rất hấp dẫn con

người. Có người nào đó đã nói: “Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là

tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ,

đứt ngang, nhưng rất đủ, của một người trẻ bỗng nhiên phát giác những bất

hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng”[12.1].

Tuy nhiên, thế giới truyện của Nguyễn Ngọc Tư buồn nhưng không quá

bi lụy, ám ảnh nhưng không quá nặng nề. Bởi nhà văn biết gia giảm cần thiết

những chi tiết hóm hỉnh, tươi mới. Nó làm cho mọi nỗi đau trở nên vợi bớt,

thanh thản hơn. Lời bày tỏ tình cảm của anh Nhâm trong “Một trái tim khô”

mới có lí và thú vị làm sao:

“Có đám trẻ lội bùn xủm đi qua hát rằng: “Ước gì mình đừng cách ngăn,

ước gì nhà mình chung vách…anh khoét tường…hú hí với em”. Hậu lắc đầu,

con nít nhà ai mới có tí tuổi đầu mà quỷ quoái. Nhâm cười, sẵn nói luôn, tôi

tháo vách thiệt à, cô Hậu”[58.152].

Trên cái nền chung của giọng điệu cảm thương, xót xa cho số phận của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người phụ nữ bị phụ bạc, bỏ rơi, cảnh hai người cùng nhau ra sức tát nước

90

ngập của Hậu và Nhâm thật dí dỏm. Nó làm cho không khí tác phẩm vợi bớt,

nhẹ nhàng.

“Chuyện vui điện ảnh” kể về nhân vật chú Sa cũng là tình huống dở

khóc, dở cười. Khi chú chưa đóng phim, cả xóm ai cũng yêu quý chú. Hôm

trình chiếu bộ phim cả xóm nấu cơm sớm chờ xem phim chú Sa đóng. Phim

bạo liệt, trần trụi, chú lại đóng vai phản diện, cả xóm “lặng lẽ ra về”. Thế là từ

đó, mọi người không ai bảo ai, không còn quý chú như trước nữa. Tình huống

lẫn lộn giữa đời thực và phim ảnh rất thuyết phục, rất hóm hỉnh mà cũng thật

sâu cay.

Rồi đó cả những chi tiết khôi hài đến tức cười: “Ngày dì út Thu Lý tròn

bốn mươi bảy tuổi, dì từ giã thêm một lượt ba chiếc răng. Buồn quá trời đất,

dì lại chùa Phấn, than với Sư Huệ bây giờ không biết làm sao giáp mặt anh Tư

Nhớ, răng còn trống hơ trống hốc vầy…Bà Sư già nghe xong niệm phật mà

không nén được cười. Bây giờ gần hai mươi năm rồi, tóc đã trắng những sợi

già, chuyện tình đó vẫn chưa tới đâu”[57.40]. Người ta yêu nhau không màng

đến thời gian, tuổi tác. Yêu nhau đến khi “đầu bạc răng long”, đúng cả nghĩa

đen với nghĩa bóng. Dường như sự hóm hỉnh, khôi hài là những gia vị cần

thiết, đúng chỗ làm đa dạng hương vị cho bữa ăn tinh thần thịnh soạn mà

Nguyễn Ngọc Tư đã bày ra cho bạn đọc. Hóm hỉnh, khôi hài làm cho người ta

thêm nhớ, thêm yêu một nhà văn có giọng điệu đặc biệt.

Trong các tác phẩm của những nhà văn nữ gần đây như: Dương Thu

Hương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh… bao giờ cũng có giọng

chế giễu, châm chọc, đả phá hoặc phẫn uất. Bằng những giọng điệu đó nhà

văn muốn chỉ ra những bất công, rung những tiếng chuông cảnh tỉnh, cảnh

báo hoặc đem đến tiếng nói đòi quyền sống cho con người. Còn ở Nguyễn

Ngọc Tư, với giọng điệu trữ tình bình thản, hóm hỉnh nhưng thấm thía, nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

văn lại nêu lên nỗi khổ của con người, nêu lên thuyết nhân quả, báo ứng trong

91

cuộc sống hoặc là sự đồng cảm, xót thương chia sẻ. Với chị, niềm thương cảm

luôn lớn hơn sự phẫn uất, căm giận. Bao trùm trong cái giọng điệu trữ tình,

bình thản mà thấm thía nên truyện của chị ít có nhân vật phản diện đáng lên

án. Giọng điệu trữ tình tưng tửng mà thấm thía là giọng trời phú cho nhà văn

trẻ này.

Và như thế, với chất liệu nội dung quen thuộc, chính giọng điệu, cách

diễn đạt của nhà văn đã tạo nên cho truyện của chị một “bầu khí quyển” sống

thích hợp, đủ sức gây ấn tượng và tồn tại trong lòng người đọc. Một lần nữa

ta thấy trong sáng tạo nghệ thuật, “nói cái gì” có khi không quan trọng bằng

“nói như thế nào” - Một chân lí không mới nhưng chưa bao giờ cũ.

3.3. Ngôn ngữ Nam Bộ đặc trƣng

3.3.1. Lối diễn đạt Nam Bộ

Vùng đất và con người Nam Bộ trong các sáng tác của chị được dựng lại

bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ:

“Ngôn từ trong tất cả truyện ngắn của chị, từ ngôn ngữ dẫn truyện đến ngôn

ngữ nhân vật, nhất là ngôn ngữ nhân vật, đều khá thuần chất Nam Bộ”[50.1].

Số lượng từ ngữ Nam Bộ được dùng trong tác phẩm của chị dày đặc và sử

dụng khá thích hợp. Đặc điểm này tạo nên ở truyện của chị vừa là không khí

Nam Bộ đặc trưng, vừa là một văn phong riêng mà nhiều người cảm thấy yêu

thích. Văn phong chất Nam Bộ thể hiện thấy rõ qua tương quan giữa từ “toàn

quốc” và từ “địa phương”:

Từ ngữ Nam Tỉ lệ phần

Tên tác phẩm Tập truyện Bộ/ từ ngữ phổ trăm

thông (Xấp xỉ) (Xấp xỉ)

Cải ơi “Cánh đồng bất tận” 117/2859 4.09

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thương quá rau răm “ 118/2882 4.09

92

“ Hiu hiu gió bấc 131/2767 4.73

“ Huệ lấy chồng 87/2921 2.98

“ Cái nhìn khắc khoải 96/3293 2.91

“ Nhà cổ 109/2568 4.24

“ Mối tình năm cũ 102/2818 3.62

Biển người mênh mông “ 122/3355 2.74

“ Nhớ sông 135/2457 5.49

“ Dòng nhớ 279/3348 6.54

“ Duyên phận so le 116/1392 4.31

“ Một trái tim khô 52/2328 2.23

“ Cánh đồng bất tận 350/1681 0.21

Bởi yêu thương “Giao thừa” 126/2700 4.77

Chuyện vui điện ảnh “ 93/2590 0.34

“ Đời như ý 115/2555 4.50

“ Giao thừa 45/1760 2.55

“ Làm má đâu có dễ 63/1850 3.40

“ Làm mẹ 119/2466 4.83

“ Lương 116/2402 4.83

“ Dòng xuôi mải miết 73/2551 2.86

“ Một mối tình 183/3287 5.56

“ Ngày đã qua 155/3429 4.52

“ Ngày đùa 36/2160 1.66

“ Người năm cũ 126/3334 3.80

Lỡ mùa 73/2686 2.07

Chiều vắng 55/2740 2.03 “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” “

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

45/3022 1.49 Chuyện của Điệp “

93

Nửa mùa “ 49/3240 1.51

Ngổn ngang “ 19/1968 1

Đau gì như thể… “ 57/3894 1.5

Nước chảy mây trôi “ 28/2958 0.95

Như vậy, từ ngữ, phương ngữ Nam Bộ chiếm một tỉ lệ lớn, khá quan

trọng trong văn phong của chị. Đó là những từ ngữ chỉ địa hình, sản vật gắn

với một vùng sông nước: “áo bà ba, bà chằn, bình bát, bông, bông súng, bông

trang, cà ràng, cải lương, cây còng, cây tra, chàng tắm, chợ nổi, cò cò, dây

thun, dừa nước, đất nẻ, đậu hũ, đậu phộng, đèn chong, đờn…” [51.1].

Đó là những từ chỉ hoạt động, sinh hoạt: “bắn đạn, biên thư, biểu, búng

thun, chào sân, coi kiếng, cự, day, dùa, đá banh, đánh lộn, đơm nút, giăng

mùng, lặn đất, lục, mằn nắn, nhậu nhẹt, thiến heo, thường, tợp, vô…”[51.1].

Đó là những từ chỉ trạng thái, tính chất: “bằn bặt, bịnh, buồn hui, cà

chớn, chảnh, đong đưa, giả bộ, lai rai, lãng xẹt, lanh, lẫm lẫm, lỉnh lảng, long

chong, lông bông, lừ từ, im re, ngộ, nhẹ hều, ốm, quớt, rã gánh, rớt nhịp,

sương sương, tạnh hột, tém tẻ, tệ hệ, thong dong, tròn dình, trớt he, trùng

trình, xà quần, xỉn, xửng vửng…”. Đó là những cách gọi mang sắc thái Nam

Bộ: “bây, má, tía, qua, chế ,ý…”. Đó là những từ biến âm và biến âm có rút

gọn: “bi nhiêu, hông, hổng dè, hy sanh, kinh, mươi mốt, Tết nhứt, thiệt, thí

mồ…; ảnh, ban nẩy, bển, chỉ, con mẻ, cổ, hổng, ổng…”[51.1].

Đó là cách diễn đạt kiểu Nam Bộ: “bảnh thiệt, cà lơ phất phơ, cá chốt rỉa,

chành miệng, chợ ba bảy chín, coi giò coi cẳng, đã thiệt, đánh lô tô, điệu này,

đưa chốt qua sông, mát trời ông địa, mắc mớ, mần chi, miệng cá sặc, mùi

rụng rún, mừng húm, quá giang, thử coi, vá chằng vá đụp…”[51.1].

Đó là những tình thái từ có màu sắc Nam Bộ: “hen, nghen, vậy ta, khỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khô…”[51.1].

94

Không những thế, từ ngữ phương ngữ Nam Bộ được chị đưa vào sử dụng

rất đa dạng, cả trong ngôn ngữ người kể chuyện, trong lời trần thuật và đặc

biệt là trong ngôn ngữ nhân vật. Nó làm cho câu chuyện trở nên hiện thực,

sinh động và gần gũi hơn, tạo được một giọng điệu Nam Bộ rất riêng. Nhìn từ

phương diện nghệ thuật, chị đã sử dụng ngôn từ của phương ngữ Nam Bộ khá

thành công trong sáng tác của mình. Điều này góp phần làm nên một văn

phong cách riêng ở chị. Tất nhiên, có thể có người không đồng tình với những

nhận định này và cho rằng, trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều

từ địa phương thì sẽ gây trở ngại cho người đọc, hạn chế độc giả. Thậm trí có

nhà nghiên cứu còn cho rằng, việc sử dụng từ ngữ Nam Bộ bị coi là: “Lạm

dụng từ ngữ địa phương”, hay: “Nguyễn Ngọc Tư còn thiếu sự lao động nghệ

thuật nghiêm túc, kĩ lưỡng đối với câu chữ”[48.134]. Nhưng, để có được

những sáng tác phản ánh sinh động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng

được chất liệu ngôn từ của thực tại cần phản ánh. Khi được hỏi, chị có dụng ý

gì khi sử dụng nhiều những ngôn từ Nam Bộ trong văn của mình chị đã trả

lời: “Tôi sinh ra ở một vùng quê, nhà tôi nằm ngay trên bờ sông, ngày nào

tiếng tắc rang, tiếng tàu máy đuôi tôm rồi chợ họp trên sông cũng nhộn nhịp.

Tôi đã từng phải hái rau cho bà, cho mẹ đem ra chợ bán. Sống trong môi

trường như thế thì cố tạo cho mình giọng văn rặt những ngôn ngữ “sang

trọng” mà làm gì? Tôi không cố ý sử dụng nhiều những phương ngữ, từ địa

phương. Tôi viết như vậy vì chỉ có ngôn ngữ ấy mới giúp tôi lột tả hết được

cái tình của người dân quê.”[55.1]. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý

phái hay độc sáng mà đó là một từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống chung

quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn: nghe và nhớ.

95

Song, nhìn kỹ, sự hấp dẫn của truyện Nguyễn Ngọc Tư không chỉ ở kho

từ vựng miền Nam dồi dào, mà còn ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa và đúng

chỗ vào những câu chuyện thật “miền Nam” - Một miền Nam không điêu tàn

vì bom đạn mà điêu tàn ở những vết thương trong đời người, một miền Nam

với đời sống vật chất và tinh thần đã xuất hiện những tình cảm, suy nghĩ mới;

có cả sự rạn nứt trong những mối quan hệ hết sức khốc liệt chứ không phải

lúc nào cũng đẹp, buồn và hiền như xưa nữa.

3.3.2. Đặc trưng hệ thống từ vựng địa phương

Có thể nói ấn tượng đầu tiên và dễ thấy nhất trong ngôn ngữ truyện

ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chính là khả năng khai thác và vận dụng nhuần

nhị và có hiệu quả vốn hệ thống từ địa phương Nam bộ để phản ánh và làm

bật nổi những nét văn hóa về vùng đất và con người vùng sông nước miền

Tây Nam bộ. Vấn đề này cũng có khá nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu

và bạn đọc xa gần đã đề cập. Trần Hữu Dũng trong bài viết “Nguyễn Ngọc

Tư, đặc sản miền Nam”, cho rằng: “Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng

đã tạo được một chỗ đứng khu biệt cho mình… Cái đầu tiên làm người đọc

choáng váng (một cách thích thú) là phƣơng ngữ miền Nam trong truyện của

Nguyễn Ngọc Tư” [12,1]. Hay Nguyễn Văn trong “Giao thừa của Nguyễn

Ngọc Tư”, cũng cho rằng: “Nguyễn Ngọc Tư có một lối viết văn tự nhiên,

không màu mè, không gượng ép, không làm dáng như những người hay quen

thói khoe chữ theo khuynh hướng gọi là “hiện đại” để tỏ ra mình “tinh tế”.

Văn của Nguyễn Ngọc Tư dùng phƣơng ngữ Nam Bộ tối đa”. Những nhận

xét trên là không sai nhưng phần nhiều vẫn còn rất chung chung, vì thế chúng

tôi thấy cần phải nói cho rõ hơn như sau:

Trước hết, người đọc không khó để bắt gặp trong truyện ngắn của

Nguyễn Ngọc Tư một hệ thống từ địa phương thể hiện cách xưng hô khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giao tiếp rất đặc trưng của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tùy

96

vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có những

lớp từ riêng biệt.

Dễ thấy nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là lớp từ chỉ cách

gọi tên người trong quá trình giao tiếp rất đặc trưng của người miền Tây Nam

Bộ theo kiểu gọi tên theo thứ tự sinh ra trong gia đình như: “Anh Hai”, “Anh

Năm”, “Ông Tư”, “Thiếm Sáu”… Hoặc không thì gọi kèm tên thật với thứ tự

sinh như: Hai Nhớ, Tư Bụng, Tư Đờ, Chín Vũ, Út Vũ, Út Thà,…

Trong xưng hô với người trong gia đình, Nguyễn Ngọc Tư rất thường

hay sử dụng lớp từ: “má”, “tía”, “chế”,“má sắp nhỏ”, “má con tao”,“má

nó”, “ba thằng …”, “ba nó”, “bà nó”, “mầy”, “tao”, “bây”, “tụi bây”, “tụi

nó” “mấy đứa nhỏ”, “sắp nhỏ”,…

- “Tao thương Thầy quá. Nhớ Thầy quá. Tao thèm gặp Thầy, gặp anh

em.” (Ngọn đèn không tắt)

- “Thằng Tứ Hải, đem mấy đứa nhỏ qua ngủ với má con tao nì. Để

không ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp tụi nó lắm nghen.” (Nhà cổ)

Nói về việc sử dụng từ địa phương trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc

Tư không thể không đề cập đến hệ thống từ thể sắc thái biểu cảm của người

nói đặt ở cuối những câu cảm hay câu nghi vấn. Đây cũng là lớp từ rất đặc

trưng trong ngôn ngữ giao tiếp của người miền Tây Nam bộ như: “á”, “à”,

“hen”, “hôn”, “phải hôn”, “vậy”, “nghe”, “nghen”, “vậy nghen”,“chớ”,

“chớ bộ, “mà”, “lận”, “quá chừng”, “quá trời”, “vậy à”, “vậy cà”, „bộ”,

“hả”, “ha”…

- “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen” (Cải ơi)

- “Cho bỏ tội mê cờ, nghen ” (Hiu hiu gió bấc)

- “Con Huệ nó dứt tình lẹ quá ha, dứt cái “rụp” (Huệ lấy chồng)

- “Tối nay lại chỗ tao nghe cải lương, nghe bây” (Cuối mùa nhan sắc)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- “Mấy cưng thương chị thiệt hả? Tội chưa…!??” (Cánh đồng bất tận)

97

- “Tôi tháo vách thiệt à, cô Hậu” (Một trái tim khô)

- “Mấy đứa con nít khen dì giống cô Tấm trong truyện cổ tích quá

trời”! (Chiều vắng)

Ngoài ra, đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc dễ dàng

nhận ra một hệ thống từ biến âm thể hiện rõ đặc trưng ngôn ngữ của người

dân vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long so với người dân ở các vùng

miền khác như: ổng (ông ấy), bả (bà ấy), ảnh (anh ấy), chỉ (chị ấy), biểu

(bảo), bịnh (bệnh), sanh (sinh), gởi (gửi), kinh (kênh), ác nhơn (ác nhân),…

Bước đầu chúng tôi cũng thống kê được khoảng trên dưới 40 biến âm trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư như thế. Hệ thống từ biến âm này được lặp lại

khá thường xuyên trong ý thức sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư góp

phần làm cho ngôn ngữ truyện ngắn của chị “thuần chất Nam Bộ”.

3.3.3. Lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước”

Bên cạnh hệ thống từ địa phương được sử dụng với tần số dày đặt,

chúng tôi còn nhận thấy ở truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư một hệ thống từ thể

hiện rất rõ đặc trưng địa hình và văn hóa của vùng Đồng bằng sông Cửu

Long như: kinh, rạch, vàm, xẻo, chợ nổi, ghe, xuồng, vỏ lãi, nước rong, nước

kém, vịt chạy đồng, khô cá chạch, mắm, sú, đước, ô rô, dừa nước, cóc kèn,… .

Chúng tôi tạm gọi đây là những lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước”

trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Qua khảo sát, chúng tôi tạm thống

kê và phân thành ba lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước” như sau:

lớp từ chỉ địa danh và phương tiện đi lại, lớp từ chỉ địa hình, lớp từ chỉ đồ

vật, sản vật và văn hóa tinh thần.

STT

STT

STT

Lớp từ chỉ địa hình

Lớp từ chỉ địa danh và phƣơng tiện đi lại

Lớp từ chỉ đồ vật, sản vật và văn hóa tinh thần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1 Sông Dài 1 Sông 1 Rừng mắm

98

Cù lao Mút Cà Tha

Kinh 2 Ô môi 2 2

Rạch 3 Sú 3 Mũi So Le 3

Ruộng 4 Vẹt Cánh đồng 4 4

Rẫy 5 Đước Kinh Mười Hai 5 5

Cánh đồng 6 Cóc kèn Xóm Xẻo Mê 6 6

Cù Lao 7 Ô rô Xóm Kinh Cụt 7 7

Xóm Rạch Ruộng

Xẻo 8 Lục bình Xóm Rạch 8 8

Bãi bồi 9 Bần 9 9

Nhánh sông 10 Tràm 10 Xóm Chẹt 10

Vịnh 11 Quao 11 Xóm Gò Mả 11

Vàm 12 Cây còng 12 Rạch Ráng 12

Rốn nước 13 Cây tra 13 Rạch Ô môi 13

Gò 14 Bình bát 14 Gò Cây Quao 14

Hòn 15 Bông súng 15 Kinh Cỏ Chát 15

Bờ 16 Đủng đỉnh 16 Sông Cái Lớn 16

Đập 17 Mồng gà 17 Chợ nổi Cà Mau 17

Lung 18 Trâm bầu 18 Chợ Ba Bảy Chín 18

Bàu 19 Bìm bịp 19 Vịnh Dừa 19

Đầm 20 Bông súng 20 Bàu Sen 20

Ao 21 Kho quẹt 21 Vườn Xóm Lung 21

22 22 Sông Gành Hào Bờ mẫu 22 Mắm kho

23 23 Bến đò xóm Miễu Liếp 23 Cá sặc/khô cá sặc rằn

24 24 Rạch Giồng Mương 24 Cá rô

25 25 Đập Sậy Mũi 25 Cá chốt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

26 26 Lung Dừa Giồng 26 Tép đất

99

27 Đập Bàu Mốt 27 Khô cá chạch

28 Đất Cháy 28 Dừa nước

29 Ghe 29 Vọng cổ/cải lương

30 Xuồng 30 Gánh hát

31 Sào 31 Đèn hột vịt

32 Đò 32 Đèn chong

33 Máy đuôi tôm 33 Áo bà ba

34 Vỏ lãi 34 Mẻ ung

35 Xà lan 35 Cà ràng

36 Tam bản 36 Vịt chạy đồng

[8.1].

Bảng thống kê bước đầu những lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông

nước” vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

Có thể nói, với việc thường xuyên sử dụng những lớp từ “gợi ấn tượng

về văn hóa sông nước” ở trên đã góp phần làm cho bức tranh hiện thực đời

sống và con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thêm phần chân thật

và sống động; giúp người đọc hiểu hơn về những đặc trưng về địa hình sông

ngòi, kênh rạch chằng chịt - ở góc độ nào đó còn là nét văn hóa rất đặc trưng

và độc đáo của vùng đồng bằng sông Cửu Long so với các vùng miền khác

của cả nước.

3.3.4. Sáng tạo và biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân

thành ngôn ngữ văn học

Bên cạnh việc sử dụng nhuần nhị hiệu quả vốn từ địa phương và lớp từ

mang ấn tượng văn hóa sông nước, một điều cũng rất ấn tượng và độc đáo

trong ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cho thấy khả năng vận dụng

một cách sáng tạo nhằm biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thành ngôn ngữ văn học rất độc đáo.

100

Vấn đề này, theo chúng tôi, trước hết cần phải nói rằng, ngôn ngữ trong

truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (từ ngôn ngữ người trần thuật đến ngôn

ngữ của nhân vật) phần nhiều là “ngôn ngữ” của người dân sinh sống ở thôn

quê, ruộng vườn chứ không phải là “ngôn ngữ” của người dân sinh sống ở

thành thị. Có thể thấy, đa phần đối tượng mà Nguyễn Ngọc Tư phản ánh trong

truyện ngắn của mình đều là những người dân sống ở thôn quê. Chính vì thế,

khi đi vào tìm hiểu ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chúng

tôi nhận thấy, cách diễn đạt, cách hành văn của chị nhiều khi nôm na, mộc

mạc, hóm hỉnh nên cũng rất dễ đọc, dễ hiểu và dễ cảm. Đây cũng là một bằng

chứng khẳng định sự ảnh hưởng của môi trường và văn hóa vùng đất Nam Bộ

đến nhận thức cũng như tư duy nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư. Dưới đây là

một vài trường hợp tiêu biểu mà chúng tôi đã khảo sát:

Để diễn tả nỗi buồn, Nguyễn Ngọc Tư có những cách nói rất “bình

dân” như: “buồn ác chiến”; (…Nhờ giữa hai bài hát có mục nhắn tìm con

buồn ác chiến - “Cải ơi”); “buồn vô địch cấp huyện” (Mấy chuyện này may

mà Xuyến giấu trong lòng, phải kể ra là buồn vô địch cấp huyện chứ sá gì

cái mũi So Le nhỏ nhoi này - “Duyên phận So Le”); “buồn như sắp đâm đầu

xuống sông mà chết” (Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn

như sắp đâm đầu xuống sông mà chết - “Cái nhìn khắc khoải”), buồn chao

chát trong lòng (Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng…-“ Một

mối tình”)…

Để tả cảnh hành động bỏ chạy của ai đó, Nguyễn Ngọc Tư có những cách

nói lạ như: “chạy xịt khói”, “chạy xà quần” , “chạy xấc bấc xang bang”, …

- “Thàn bùi ngùi, người ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui

thiếu có chữ h, lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa ế ngoi ngóp nằm nghe

mưa dầm, nhiều bữa đứng soát vé bị đám du đãng địa phương rượt chạy xịt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khói. (Cải ơi)

101

Một nét độc đáo nữa cho thấy khả năng sáng tạo nhằm biến ngôn

ngữ “đời thƣờng” của ngƣời bình dân thành ngôn ngữ văn trong truyện

ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là chị rất hay sử dụng cấu trúc so sánh: “A như

B” trong quá trình hành văn của mình.

Đây là cách nói “vừa quen vừa lạ” rất sinh động và ngộ nghĩnh của nữ

nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Điều này cho thấy ở chị một một ý thức lao

động nghệ thuật rất nghiêm túc và có trách nhiệm. Không khó để chúng ta bắt

gặp hàng loạt cách nói so sánh này trong truyện của chị như:“chị ốm, mỏng

như cốm dẹp”; “một giọng nói mềm như lá lụa non”; “ý nghĩ ấy đầy như

nước tròm trèm lên mặt đập”; “tuồng thì giễu nhau ong óng như gà kêu

đẻ”; “ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám”; “tán cây

còng bị tỉa nhánh chỏng chơ như bàn tay cụt”; “cái giọng rao chè như hát,

từ đôi môi đã héo queo cất lên, cong vút, ngọt ngào mà nghe mịn màng

từng âm từng chữ”; “ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới

cứa lui trong lòng”; “giọng chú ngày càng khàn, nghe khen khét như nồi

cơm quá lửa”; “chiếc áo người vợ hiền hay vậy mà hát lụm cụm như chiếc

áo bà già”,“tóc đã rụng để lại cái trán rộng như sân bay Trà Nóc”.

Có thể nói, chính thói quen sử dụng từ ngữ như trên làm cho ngôn ngữ

trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư gần với ngôn ngữ hàng ngày của

người dân nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, điều này góp phần tạo

nên một văn phong trong sáng, giản dị, không cầu kì và có phần nào đó nôm

na, mộc mạc, chân chất nhưng vẫn tạo được một hiệu quả cảm xúc và thẩm

mỹ rất cao; giúp người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Ngọc Tư với những cây

bút đương thời với chị. Chúng ta cùng đọc một vài đoạn dưới đây của Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngọc Tư để thấy rõ hơn vấn đề này:

102

“Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng, nó theo người ta rồi. Biết nó hư thân vậy,

má thà sanh cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời này má

không coi nó là con má nữa. Rồi má hỉ mũi cái rột: “con coi kỹ, có phải cái

nhà thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được”. (Một mối tình )

Hay: “Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái

lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần

ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mắm già ngày xưa ông trồng để giữ đất khỏi

lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc

trắng của mình”. (Dòng nhớ)

Tóm lại, qua tìm hiểu ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư,

chúng tôi nhận thấy có những vấn đề như sau:

Thứ nhất, điểm nổi bật và gây ấn tượng trước hết trong ngôn ngữ

truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là ý thức khai thác và sử dụng hiệu quả vốn

từ địa phương Nam Bộ cũng như lớp từ ngữ gợi ấn tượng về “văn hóa sông

nước” mang đậm chất Nam Bộ.

Thứ hai, bên cạnh việc khai thác tối đa và sử dụng hiệu quả vốn từ địa

phương Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư còn cho thấy khả năng vận dụng sáng tạo

lời ăn tiếng nói hàng ngày (giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm) của người

dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long một cách rất độc đáo. Có thể nói, tất cả

những điều trên góp phần tạo nên giọng văn bình dị, chân chất, mộc mạc; một

lối diễn đạt và hành văn trong sáng, không cầu kì nhưng duyên dáng, đậm đà

và thật đáng yêu. Nói như nhà văn Nguyễn Quang Sáng khi ông nhận xét về

ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, là: “Thoại trong văn Tư không

hề bị lai, rặt Nam Bộ mà người ta đọc vẫn hiểu và cảm thấu trọn vẹn. Cái lớn

nhất mà Tư làm được ở chỗ cổ có công nâng ngôn ngữ bình dân của người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

miền Tây thành ngôn ngữ văn học”.

103

Cuối cùng, nếu nói ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu tư duy của con

người thì ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện rõ tư

duy nghệ thuật của chị về cách tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn văn

hóa. Nói một cách cụ thể hơn, qua cách sử dụng ngôn ngữ trong truyện ngắn

của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ truyện ngắn của chị thể

hiện rất rõ những phẩm chất về văn hóa, xã hội và con người vùng Đồng

bằng sông Cửu Long một cách cụ thể và sinh động. Đặc điểm này ở góc độ

nào đó cũng có thể xem như “cảm hứng về nguồn” rất mãnh liệt trong cái

nhìn và tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn văn hóa - một phong cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

riêng độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư.

104

KẾT LUẬN

1. Phong cách tác giả là một phạm trù cơ bản có ý nghĩa đặc biệt của

văn học. Với các tác giả có những đóng góp không nhỏ cho sự lớn mạnh của

một nền văn học, nghiên cứu phong cách là một việc làm cần thiết và khoa

học để khám phá quy luật văn chương đương thời, tôn vinh vẻ đẹp văn

chương của họ. Khi tìm hiểu phong cách cần chú ý đến cái nhất quán, tạo nên

bản sắc sáng tạo độc đáo riêng mà người đọc không thể nhầm lẫn với bất kì

một nhà văn nào khác. Qua khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp một số

phương diện đặc sắc văn chương Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi đã chỉ ra rằng

Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có phong cách khá độc đáo. Một phong cách mà

tác giả đã lặng lẽ, bền bỉ, thủy chung, nhiều lúc âm thầm để kiến tạo nên qua

những tìm tòi nghệ thuật của mình trên vùng đất mà mình sống và sáng tạo.

2. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư thể hiện trên một hệ thống

gồm nhiều yếu tố thống nhất nằm trong một chỉnh thể hữu cơ. Yếu tố chi phối

cả hệ thống trở thành hạt nhân phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư là

bản sắc vùng văn hóa Nam Bộ với những nét đặc sắc. Trước hết, đó là những

nét đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, cũng đa dạng nhất so với tất

cả các vùng miền khác. Văn hóa sông nước cùng với tính cách cũng như cách

đối nhân xử thế của con người Nam Bộ là hiện thực riêng của sáng tác

Nguyễn Ngọc Tư so với các nhà văn cùng thế hệ. Nguyễn Ngọc Tư cảm nhận

con người trong dạng thức nhân bản đời thường. Trong quá trình sáng tác,

Nguyễn Ngọc Tư không lý tưởng hóa con người. Nguyễn Ngọc Tư cảm nhận

rằng trong mỗi con người, ai cũng có những phẩm chất, những thói tật, những

cái tốt, những cái xấu và đương nhiên phẩm chất phải là cơ bản làm nền tảng

đạo đức bền vững. Theo Nguyễn Ngọc Tư, con người bao giờ cũng gắn với

một gia đình, một quê hương, một nghề nghiệp. Ở đó, họ có những mối quan

hệ, có niềm vui và nỗi buồn, có niềm hạnh phúc và nỗi khổ đau. Xuất phát từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

105

cảm quan nhân bản đời thường về con người, Nguyễn Ngọc Tư ít tìm đến

những triết lý nhân sinh sâu sắc, mà từ cảm quan ấy, chị gửi niềm tin vào

phẩm chất, vào sức sống bền bỉ dẻo dai của con người trong mọi hoàn cảnh.

Nhà văn cảm nhận hiện thực cuộc sống tính đời thường phức tạp của nó.

Cuộc sống “đời thường phức tạp ấy” có cả hạnh phúc lẫn bi kịch, thương mến

lẫn khổ đau, ngọt ngào lẫn chua xót…Đó là nét khác biệt của văn chương

Nguyễn Ngọc Tư với các nhà văn Nam Bộ khác.

3. Phù hợp với cảm quan về con người, thế giới nhân vật trong sáng tác

của Nguyễn Ngọc Tư có những đặc điểm riêng: Đó là chủ nghĩa đời thường

trong xây dựng nhân vật văn học của Nguyễn Ngọc Tư với những người nghệ

sĩ miệt vườn. Nam Bộ là vùng đất nổi tiếng với những gánh hát, những đêm

nghe đàn ca bất tận vùng “miệt vườn”, bên những quán nhỏ vùng sông Tiền,

sông Hậu. Ở đó có những người nghệ sĩ bình dân mà điêu luyện ngón nghề,

những công chúng nghệ thuật lúc nào cũng sẵn sàng tham dự “cuộc chơi”

nghệ thuật. Số phận những nghệ sĩ bình dân là một đề tài được nhiều nhà văn

Nam Bộ quan tâm, xây dựng thành hình tượng nghệ thuật. Cùng với đó là

hình tượng người nông dân Nam Bộ lam lũ, vất vả, “hai sương một nắng”

chăm chỉ, cần cù, chất phác; xoay đủ nghề để kiếm sống và vẫn không thoát

khỏi chữ “nghèo”. Nguyễn Ngọc Tư đã làm cho bức tranh đời sống hiện thực

của Đồng bằng sông Cửu Long thêm phần sinh động. Chất thơ trong vẻ đẹp

tâm hồn là nét riêng không thể trộn lẫn của Nguyễn Ngọc Tư. Chi phối thế

giới nhân vật là quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư với

cái nhìn nhân ái.

4. Nguyễn Ngọc Tư bày tỏ lòng mình trước cuộc sống sinh hoạt muôn

màu muôn vẻ bằng một phương tiện thẩm mĩ đặc thù - lối kể chuyện riêng,

giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ văn xuôi đặc sắc. Giọng điệu nghệ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chủ đạo của Nguyễn Ngọc Tư là giọng buồn nhưng không chán chường,

106

giọng điềm nhiên trầm tĩnh, giọng điệu tâm tình, tưng tửng, hóm hỉnh nhưng

thấm thía và giọng điệu Nam Bộ đặc trưng. Giọng điệu chủ đạo này góp phần

quan trọng nhận diện “gương mặt” văn chương Nguyễn Ngọc Tư. Ngôn ngữ

văn chương Nguyễn Ngọc Tư mang một vẻ đẹp giản dị mộc mạc. Qua khảo

sát, thống kê, phân tích, tổng hợp chúng tôi thấy hệ thống ngôn ngữ Nguyễn

Ngọc Tư rất dung dị, tự nhiên, đậm tính địa phương Nam Bộ. Biểu hiện rõ

nhất trên ba phương diện: hệ thống từ địa phương Nam Bộ, lớp từ ấn tượng

về “văn hóa sông nước”, sáng tạo và biến ngôn ngữ “đời thường” của người

bình dân thành ngôn ngữ văn học.

5. Cũng như nhiều nhà văn khác, bên cạnh những thành công thì

Nguyễn Ngọc Tư vẫn còn một số có thể gọi là “nhược điểm” trong nghệ thuật

viết truyện: người đọc bắt đầu cảm thấy “nhàn nhạt” và ít nhiều lặp lại trong

hệ thống đề tài mà chị chọn lựa. Tuy nhiên, Nguyễn Ngọc Tư từ khi xuất hiện

cho đến nay, vẫn được đánh giá là nhà văn trẻ đương đại, có sức viết khỏe và

có khả năng sáng tạo dồi dào, mạnh mẽ, một nhà văn luôn làm chủ ngòi bút

của mình. Cùng với khả năng tự học, tự tìm tòi, sáng tạo, chúng ta hoàn toàn

tin tưởng chị sẽ tiến xa trên con đường nghệ thuật và gặt hái được nhiều thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

công hơn nữa.

107

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thị Vàng Anh. Khi người ta trẻ, NXB Hội nhà văn 1993.

2. Bakhtin. Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hóa Thông tin và Thể thao,

Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội 1992.

3. Y Ban. Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, NXB Thanh Niên 2005.

4. Nguyễn Trọng Bình. Giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn

Ngọc Tư, www.viet-studies.info ngày 13/09/2010.

5. Nguyễn Trọng Bình. Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ

phương diện quan niệm nghệ thuật về con người, www.viet-studies.info.

6. Nguyễn Trọng Bình. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa,

www.viet-studies.info.

7. Nguyễn Trọng Bình. Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ

phương diện nội dung tự sự, www.viet-studies.info ngày 26/09/2010.

8. Nguyễn Trọng Bình. Đặc trưng ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,

www.viet-studies.info ngày 23/09/2010.

9. Nguyễn Minh Châu. Tuyển tập Nguyễn Minh Châu, NXB Giáo dục, Hà Nội.

10. Trần Phỏng Diều. Thị hiếu thẩm mĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,

Tạp chí VNQĐ ra ngày 14/06/2006.

11. Trần Thị Dung. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư qua

tập truyện Cánh đồng bất tận, www.viet-studies.info ngày 25/05/2010.

12. Trần Hữu Dũng. Nguyễn Ngọc Tư - đặc sản miền Nam, Báo Diễn đàn,

tháng 02/2005.

13. Nguyễn Đăng Điệp. Văn trẻ có gì mới, Báo Văn Nghệ, số 41, ngày

08/10/2006.

14. Nguyễn Thị Hoa. Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

truyện “Cánh đồng bất tận”, trên trang cogaiviet.blogs, ngày 06/03/2011.

108

15. Nguyễn Thị Thu Huệ. 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, NXB Hội nhà

văn, 2004.

16. Lê Thanh Huyền. Phong cách nghệ thuật R. Tagore trong truyện ngắn,

Luận án tiến sĩ 20/03/2012.

17. Nguyễn Thị Thu Huyền. Phong cách văn xuôi Đỗ Chu, Luận văn thạc sĩ, 2010.

18. Trần Ngọc Hiếu. Hiện tượng tác giả “best-seller” trong văn học Việt

Nam: trường hợp Nguyễn Ngọc Tư, Tạp chí nghiên cứu văn học.

http://www.hieu.edu.vn.

19. Lê Thị Hường. Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay,

Tạp chí văn học, số 2 năm 1994.

20. Ngô Thị Diễm Hồng. Đặc điểm truyện ngắn hai cây bút nữ Phan Thị

Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, 2009.

21. Mai Hồng. Thời gian huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”

của Nguyễn Ngọc Tư, Talawas ngày 18/07/2007.

22. Thụy Khuê. Không gian sông nước trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,

www.viet-studies.info tháng 11/2006.

23. Huỳnh Kim. Nguyễn Ngọc Tư, chuyện mới nghe qua, Báo DOANH

NHÂN SÀI GÒN, XUÂN BÍNH TUẤT 2006.

24. Chu Lai. Đối thoại với Cánh đồng bất tận, Báo tuổi Trẻ, ngày 12/04/2004.

25. Phạm Thị Thái Lê. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện

Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, 2007.

26. Vưu Nghị Lực. Có một vũng lầy bất tận, Báo Tuổi Trẻ, ngày 09/04/2006.

27. Nguyễn Đăng Mạnh. Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,

NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2000.

28. M. B. Khrapchenko. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn

học, NXB Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội, 1978.

29. Tôn Thảo Miên. Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách, Tạp chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiên cứu văn học, số 5 năm 2006.

109

30. Sơn Nam. Lịch sử khẩn hoang miền Nam, NXB Trẻ, 2004.

31. Dạ Ngân. May mà có Nguyễn Ngọc Tư, http://www.tuoitreonline.com.vn ,

ngày 06/04/2006.

32. Dạ Ngân. Nguyễn Ngọc Tư điềm đạm và thấu đáo.

http://www.tuoitreonline.com.vn, ngày 12/04/2004.

33. Đỗ Hồng Ngọc. Tiếng thở dài của Cánh đồng bất tận,

http://www.tuoitreonline.com.vn, ngày 30/11/2005.

34. Phạm Xuân Nguyên. Cánh đồng bất tận dữ dội và nhân tình, Báo tuổi trẻ, 2006.

35. Phạm Xuân Nguyên. Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí văn học

số 2/1994.

36. Phạm Xuân Nguyên. Khi cánh đồng mở ra, Ngày 15/04/2004.

37. Vương Trí Nhàn (Tuyển chọn). Sổ tay người viết truyện ngắn, NXB Văn

nghệ TP. Hồ Chí Minh, Sài Gòn, 2000.

38. Nhiều tác giả. Giáo trình lý luận văn học tập 2, NXB ĐHSP, 2007.

39. Nhiều tác giả. Lý luận văn học tập 1, NXB Giáo dục, 1986.

40. Nhiều tác giả. Lý luận văn học tập 2, NXB Giáo dục, 1987.

41. Nhiều tác giả. Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2007.

42. Mai Thị Nhung. Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, NXB Giáo dục, 2006.

43. Poxpelop. Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.

44. Kiệt Tấn. Sông nước Hậu Giang và Nguyễn Ngọc Tư, www.viet-studies.info.

45. Nguyễn Thanh. Quá tay với Cánh đồng bất tận, Báo Tuổi Trẻ, ngày

11/04/2006.

46. Bùi Việt Thắng. Truyện ngắn hôm nay, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 1

năm 2004.

47. Bùi Việt Thắng. Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, NXB

ĐHQG, Hà Nội, năm 2000.

48. Bùi Việt Thắng. Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, Tạp chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nghiên cứu văn học số 7 năm 2006.

110

49. Đỗ Bích Thúy. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, NXB Công an nhân dân, 2005.

50. Đỗ Lai Thúy. Sự đỏng đảnh của phương pháp, NXB văn hóa Thông tin,

Tạp chí văn hóa - nghệ thuật, Hà nội, 2004.

51. Huỳnh Công Tín. Nguyễn Ngọc Tư - Nhà văn trẻ Nam Bộ, VN-ĐBSCL-

15/04/2006.

52. Lê Ngọc Trà. Không thể coi là bình thường, Thời báo kinh tế Sài Gòn,

ngày 13/04/2006.

53. Lê Thị Dục Tú. Quan niệm về con người trong tiểu thuyết “Tự lực văn

đoàn”, NXB Thanh niên, Hà Nội, 1996.

54. Lê Hồng Tuyến. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,

Luận văn thạc sĩ, ĐHSPTN 2011.

55. Nguyễn Ngọc Tư. Bài trả lời phỏng vấn của Nguyễn Ngọc Tư, ngày

23/05/2005

56. Nguyễn Ngọc Tư. Giao thừa, Nhà xuất bản Trẻ, 2003.

57. Nguyễn Ngọc Tư. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hoá, 2005.

58. Nguyễn Ngọc Tư. Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005.

59. Nguyễn Ngọc Tư. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2008.

60. Nguyễn Ngọc Tư. Khói trời lộng lẫy, NXB Thời đại, 2010.

61. Nguyễn Ngọc Tư. Tôi viết trong nỗi im lặng, Báo văn nghệ trẻ số 45 năm 2005.

62. Nguyễn Ngọc Tư - Lê Thiếu Nhơn. Sống chậm thời @,NXB Thanh niên 2006.

63. Dương Thị Kim Thoa. Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy nhìn từ phương

diện văn học - văn hóa, Luận văn thạc sĩ, 2008.

64. Nguyễn Ngọc Tư. Tạp văn. NXB Trẻ, 2006.

65. Anh Vân. Phạm Thanh Khương sẵn sàng đối thoại với Nguyễn Ngọc Tư,

Thứ 4 ngày 28/06/2006.

66. Hoàng Nguyên Vũ. Dư luận về “Cánh đồng bất tận” và “Dòng sông tật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nguyền”, ngày 27/06/2006.

111

67. Nguyễn Thị Kiều Oanh. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ. ĐHSPHN, 2006.

68. Nguyễn Thị Kim Ửng. Phong cách nghệ thuật Huy Cận qua Lửa thiêng,

Luận văn thạc sĩ, 2011.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

69. Viện ngôn ngữ học. Từ điển Tiếng Việt, NXBGD (1992).