ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢƠNG THỊ HẢI PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢƠNG THỊ HẢI PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Trịnh Bá Đĩnh
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lƣơng Thị Hải
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ văn,
phòng Quản lý và Đào tạo sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
đã tạo điều kiện cho tôi học tập.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Trịnh Bá Đĩnh, người trong
suốt thời gian qua đã tận tình giúp đỡ và động viên rất nhiều để tôi có thể
hoàn thành luận văn này.
Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã động viên,
khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lƣơng Thị Hải
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục ............................................................................................................... i
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI NIỆM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ CƠ SỞ
XÃ HỘI VĂN HÓA HÌNH THÀNH PHONG CÁCH NGUYỄN
NGỌC TƢ ....................................................................................................... 11
1.1. Lý luận về phong cách ......................................................................... 11
1.1.1. Phong cách là gì? ............................................................................ 11
1.1.2. Các bình diện của phong cách ........................................................ 12
1.2. Văn hóa Nam Bộ và quá trình hình thành phong cách Nguyễn Ngọc Tư 14
1.2.1. Vùng văn hóa Nam Bộ-một số nét đặc sắc ..................................... 14
1.2.2. Trong “đội ngũ” các nhà văn Nam Bộ ........................................... 18
1.2.3. Quan niệm văn học của Nguyễn Ngọc Tư ...................................... 27
Chƣơng 2. NHÂN VẬT “CON NGƢỜI ĐỜI THƢỜNG” VÀ CÁI
NHÌN NHÂN ÁI VỀ CON NGƢỜI CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ ............. 32
2.1. Nhân vật văn học .................................................................................. 32
2.1.1. Khái niệm nhân vật văn học ........................................................... 32
2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học ................................. 33
2.2. Nguyễn Ngọc Tư với cảm quan đời thường trong xây dựng nhân vật
văn học ........................................................................................................ 34
2.2.1. Người nghệ sĩ miệt vườn ................................................................ 34
2.2.2. Người nông dân Nam Bộ ................................................................ 39
2.2.3. Chất thơ của vẻ đẹp tâm hồn ........................................................... 47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2.4. Nhân vật với những bi kịch đời thường .......................................... 52
ii
2.3. Cái nhìn nhân ái của Nguyễn Ngọc Tư trong truyện ngắn ................. 57
2.3.1. Những khuynh hướng quan niệm về con người trong văn học
trẻ đương đại ............................................................................................. 57
2.3.2. Cái nhìn nhân ái về con người của Nguyễn Ngọc Tư .................... 59
Chƣơng 3. ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN ................ 72
VÀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ .......................................................................... 72
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ........................................................... 72
3.1.1. Khái niệm cốt truyện ....................................................................... 72
3.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư với cốt truyện - dòng tâm trạng .... 73
3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 77
3.2.1. Quan niệm về giọng điệu ................................................................ 77
3.2.2. Một giọng văn “điềm đạm mà thấu đáo” ........................................ 78
3.3. Ngôn ngữ Nam Bộ đặc trưng ............................................................... 91
3.3.1. Lối diễn đạt Nam Bộ ....................................................................... 91
3.3.2. Đặc trưng hệ thống từ vựng địa phương ......................................... 95
3.3.3. Lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước” ................................. 97
3.3.4. Sáng tạo và biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân
thành ngôn ngữ văn học ............................................................................ 99
KẾT LUẬN ................................................................................................... 104
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 107
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Phong cách nhà văn là một quá trình vận động, phát triển không
ngừng qua mỗi giai đoạn sáng tác. Nhưng mặc dù vậy, cái riêng độc đáo có
giá trị mang tính thẩm mỹ - cốt lõi phong cách, dù ở điều kiện hoàn cảnh nào
cũng ổn định, thống nhất. Bản sắc thẩm mỹ riêng ấy phải có những yếu tố
“lặp đi lặp lại” một cách có hệ thống và luôn bị chi phối bởi cái nhìn độc đáo
của nhà văn. Nó thường xuyên ở thế vận động, phát triển và chịu ảnh hưởng
của thế giới quan, môi trường xã hội và xu thế chung của thời đại, nhưng dù ở
môi trường nào, xu thế xã hội ra sao, yếu tố thường xuyên được lặp lại ấy vẫn
tồn tại cho dù chúng ngầm ẩn. Nhiệm vụ của người nghiên cứu phê bình khi
tìm hiểu một nhà văn là chỉ ra đặc sắc riêng, tức phong cách nhà văn đó.
1.2. Nguyễn Ngọc Tư - nhà văn trẻ mới xuất hiện trên văn đàn hơn
mười năm nay đã trở thành một “hiện tượng” đặc biệt, làm nóng văn đàn, trở
thành đề tài trong một số cuộc tranh luận văn chương và được bạn đọc rất chú
ý. Là một nhà văn trẻ nhưng chị là chủ nhân của của nhiều giải thưởng có uy
tín, tiêu biểu là: Giải Nhất cuộc vận động sáng tác "Văn học tuổi 20 lần II" do
Nhà xuất bản Trẻ, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ tổ
chức năm 2000 với tập truyện "Ngọn đèn không tắt"; Giải của Hội Nhà văn
Việt Nam các năm 2001, 2004, 2006; Giải Ba cuộc thi sáng tác truyện ngắn
2003-2004 của báo Văn Nghệ với truyện ngắn "Đau gì như thể…"; Giải
thưởng văn học ASEAN năm 2008; Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ
ban Toàn quốc liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Chị là một
trong "Mười gương mặt tiêu biểu năm 2003" do TW Đoàn trao tặng và là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong những Hội viên trẻ nhất của Hội nhà văn Việt Nam.
2
Liên tiếp các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư được tái bản. Bạn đọc
Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, tầng lớp khác nhau trong và ngoài nước đón
nhận nồng nhiệt. Truyện ngắn của chị được dịch ra tiếng Hàn Quốc, Tập
truyện “Cánh đồng bất tận-những truyện ngắn hay và mới nhất” trở thành
cuốn sách Best-seller (Bán chạy nhất) của văn học Việt Nam trong năm 2006.
Năm nghìn bản in lần thứ nhất bán hết trong một tuần, số lượng phát hành lên
đến 25.000 bản, số ấn bản cao nhất trong năm. Sự lay động và sức ám ảnh của
chị đã đánh thức một bộ phận không nhỏ những người đọc đang thờ ơ và quay
lưng với văn học. Với lối viết truyền thống lại bằng một giọng điệu hóm hỉnh,
tưng tửng và đặc chất Nam Bộ, tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư khẳng định được
vị trí trên văn đàn. Giáo sư Trần Hữu Dũng đã lập “Tủ sách Nguyễn Ngọc Tư”
trên trang web của ông. Phạm vi bạn đọc và ảnh hưởng của Nguyễn Ngọc Tư
ngày càng được rộng mở hơn trên các kênh phương tiện thông tin khác.
1.3. Trong bối cảnh văn chương Việt Nam đang loay hoay làm mới văn
xuôi thì Nguyễn Ngọc Tư như cô gái tỉnh lẻ vẫn giữ nguyên cái tạng chân
chất của mình. Chị thuộc kiểu nhà văn theo lối viết truyền thống, cổ điển. Văn
chị đứng ngoài khuynh hướng “hiện đại”, “cách tân”. Nhưng như một nhà
nghiên cứu từng nhận định, việc bứt phá khỏi quỹ đạo truyền thống là một nỗ
lực đáng ghi nhận, trân trọng nhưng trụ vững trên cái nền tảng của truyền thống
mà vẫn tạo được dấu ấn của mình, điều đó cũng thể hiện cái tầm của người
viết. Dấu ấn lớn nhất của Nguyễn Ngọc Tư nằm ở “quặng văn” của chị. Đó
trước hết là sự hồn hậu, nhân hậu, là cái nhìn nhân ái về con người, về cuộc đời
sau nữa là bản sắc vùng văn hóa nơi chị sinh ra, sống và viết. Nhà văn Dạ Ngân
còn cho rằng đó là cái thế mạnh, là cái mạnh nhất của Ngọc Tư, đó sẽ là cái còn
lại, dù sau này có thể Ngọc Tư sẽ viết về những vấn đề gay gắt hơn. Điều này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
làm nên sự thành công và khác biệt của văn Nguyễn Ngọc Tư.
3
Năm 2005, tác phẩm “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư đã tạo
nên làn sóng tranh luận sôi nổi trong và ngoài giới phê bình văn học. Nhiều ý
kiến trái ngược nhau, có những bài phê bình gay gắt, lại có bài ca ngợi hết lời.
Những ý kiến này đề cập đến nhiều phương diện, đặc biệt là những quan niệm
khác nhau về cuộc sống, cách nhìn nhận về con người trong sáng tác của chị.
Dù đã có khá nhiều bài phê bình khác nhau song công trình nghiên cứu một
cách hệ thống về tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là chưa nhiều. Đặc biệt, vấn
đề phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư trong truyện ngắn vẫn là một
đề tài còn chưa được xem xét thấu đáo.
1.4. Chúng tôi nhận thấy ở Nguyễn Ngọc Tư một tài năng thiên bẩm,
một khả năng vươn lên mạnh mẽ, sự tự học và trải nghiệm đáng kính nể. Chị
xứng đáng được xem là hiện tượng văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Trong
giới hạn luận văn, chúng tôi muốn thể hiện lòng yêu mến đối với một tài
năng trẻ bằng cách dành tâm trí để tìm hiểu “Phong cách truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư”.
2. Lịch sử vấn đề
Nói tới phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư đã có nhiều bài viết đề
cập đến các khía cạnh riêng lẻ, ở đây chúng tôi đề cập đến một số bài tiêu
biểu, có ít nhiều liên quan đến luận văn này. Tác giả Nguyễn Trọng Bình có
một số bài viết, chẳng hạn“Phong cách truyện ngắn Nguyễn ngọc Tư nhìn từ
phương diện quan niệm nghệ thuật về con người” đã nêu lên: qua truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư, ở đây tác giả chỉ ra một “mô hình” về con người rất độc
đáo trong cái nhìn riêng của chị. “Mô hình” ấy vừa có sự kế thừa vừa có sự
sáng tạo mang phong cách riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là “mô hình” con
người hướng thiện - kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư. Có
thể nói, kế thừa truyền thống quan niệm nghệ thuật về con người của các thế
hệ đi trước, bằng sự trải nghiệm và sáng tạo của bản thân, Nguyễn Ngọc Tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đã trình ra một “cái nhìn”, một cách “lý giải” về con người rất mới mẻ và độc
4
đáo, đem đến cho người đọc một sự thích thú, bạn đọc ngày một yêu mến
truyện ngắn của chị hơn. Đây chính là dấu ấn riêng góp phần làm nên phong
cách truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.[6.1]
Bài “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa” đưa ra nhận
định: truyện của Nguyễn Ngọc Tư có những đặc trưng văn hóa đồng bằng
sông Cửu Long! Qua những sáng tác của chị, độc giả không những được
thưởng thức câu chuyện thắm đượm tinh thần nhân văn mà còn được cung
cấp thêm những cứ liệu văn hóa về vùng quê sông nước đồng bằng sông Cửu
Long rất bổ ích. Đó là một khuynh hướng thẩm mĩ trong sáng tạo nghệ thuật
của Nguyễn Ngọc Tư - khuynh hướng mang vào tác phẩm những bản sắc và
giá trị văn hóa của dân tộc, của quê hương (cụ thể ở đây là những nét đẹp văn
hóa nơi vùng đất cực Nam của Tổ quốc).[7.1]
Hay trong “Giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”
nhà phê bình cũng cho rằng: Qua khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư,
chúng tôi nhận thấy nếu xem giọng điệu như một yếu tố nhằm thể hiện nội
dung và chủ đề của tác phẩm thì giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư là Giọng buồn nhưng không chán chường, ủ dột. Còn như
xem giọng điệu từ góc nhìn nhằm thể hiện thái độ, quan điểm của tác giả
trong quá trình trần thuật, thì giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư là giọng điềm nhiên, trầm tĩnh [5.1]. Tất cả những vấn đề
này, ở góc độ nào đó chính là những nét riêng, độc đáo góp phần tạo nên
phong cách của Nguyễn Ngọc Tư ở thể loại truyện ngắn.
Bài “Nguyễn Ngọc Tư - đặc sản miền Nam”của GS. Trần Hữu Dũng là
một bài viết rất thú vị. Ông đã xem xét truyện ngắn của chị một cách tường
tận và thấu đáo trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Trần Hữu
Dũng đặc biệt đề cao tài năng sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ của Nguyễn Ngọc
Tư, ông đánh giá đó là một cái riêng đặc sắc không thể trộn lẫn với bất kì nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
văn nào khác, như là một “đặc sản miền Nam”. Bằng tất cả sự yêu mến chân
thành, Trần Hữu Dũng cũng không quên cảnh báo những nguy cơ có thể
khiến tác giả trẻ này đi vào lối mòn trong sáng tác bên cạnh sự nhìn nhận tán
thưởng tài năng của chị [13.1]. Nói chung, các ý kiến nhấn mạnh đến bản sắc
Nam Bộ trong sáng tác của nhà văn này là khá nhiều.
Huỳnh Công Tín với bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, một nhà văn trẻ Nam
Bộ” cũng dành cho Nguyễn Ngọc Tư những lời khen tặng xứng đáng. Ông
đánh giá cao khả năng xây dựng những không gian Nam Bộ trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư và thừa nhận: “Đặc biệt vùng đất và con người trong
sáng tác của chị được dựng lại bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn
phong nhiều chất Nam Bộ của chị”. [52.1]. Huỳnh Công Tín cũng đánh giá
cao khả năng miêu tả tâm lý người và vật hết sức sắc sảo của Nguyễn Ngọc
Tư, ông cũng yêu cầu chúng ta cần có cái nhìn thông cảm hơn khi những vấn
đề quan tâm còn nhỏ nhặt và chưa có tầm bao quát. Ông cũng khẳng định cái
đáng quý cần phát huy ở chị chính là chất Nam Bộ trong sáng tác.
Bài viết của Trần Phỏng Diều với tựa đề “Thị hiếu thẩm mĩ trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”. Với cách hiểu “đi tìm thị hiếu thẩm mỹ trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhận diện văn chương chị một khía cạnh khác,
thực chất là đi tìm những hình tượng văn học trong sáng tác của tác giả. Các
hình tượng văn học này cứ trở đi trở lại và trở thành một ám ảnh khôn nguôi,
buộc người viết phải thể hiện ra tác phẩm của mình.”[11.1] Trần Phỏng Diều
đã chỉ ra thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thể hiện qua
ba hình tượng: hình tượng người nghệ sĩ, hình tượng người nông dân và hình
tượng dòng sông. Sau khi phân tích vẻ đẹp của từng hình tượng, anh cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đánh giá rất cao văn phong mộc mạc, cách viết như nói của Nguyễn Ngọc Tư.
6
Theo anh, nếu chị đánh mất đi vùng thẩm mỹ này thì đồng thời cũng làm mất
đi rất nhiều giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm của mình.
Ngoài ra, chúng tôi cũng thu thập được hai bài viết tìm hiểu một số
khía cạnh về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là bài viết “Không gian sông nước trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” của Thụy Khuê và bài viết “Thời gian huyền
thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư” của Mai
Hồng cùng được đăng trên trang web “Viet-studies”. Nhìn chung, Thụy Khuê
thống nhất ý kiến cho rằng Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được một không
gian Nam Bộ với ruộng đồng sông nước đặc sắc trong tác phẩm của mình,
góp phần to lớn vào việc phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của tác giả. Việc chỉ ra
kiểu thời gian huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” cũng là
một góc nhìn mới lạ của Mai Hồng trong việc tìm hiểu về truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay.
Điểm qua một số bài viết mang tính “học thuật” như thế để hiểu thêm
về tình hình nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay nói chung là
chưa nhiều và ít có cái nhìn hệ thống mang tính học thuật, đáp ứng việc hiểu
và giảng dạy Nguyễn Ngọc Tư trong nhà trường. Đa phần các bài viết đều
được đăng tải trên các báo, chưa có một công trình nghiên cứu chính thức
được in thành sách. Ngoài ra, hầu hết các bài viết đều trên tinh thần giới thiệu
một tập truyện của chị vừa xuất bản, hay phê bình một truyện ngắn cụ thể nào
đó. Chiếm đa số trong những tài liệu chúng tôi thu thập được là những bài
phỏng vấn Nguyễn Ngọc Tư, những bài viết kể lại những kỉ niệm hay những
lần gặp gỡ chị ở Cà Mau. Chúng tôi nhận thấy có rất ít những bài phê bình
truyện ngắn của chị trên bình diện khái quát mà đa số tập trung vào truyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngắn “Cánh đồng bất tận”. Những bài viết ấy phần lớn đều là khen chê một
7
cách cảm tính, chủ yếu là những bài báo với tư cách tranh luận trên diễn đàn
nhiều hơn là công trình nghiên cứu khoa học thật sự. Thế nhưng, chúng tôi rất
coi trọng những ý kiến đánh giá nghiêm túc và đúng đắn của các nhà văn và
nhà phê bình như Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Khắc Phê, Nguyên Ngọc, Dạ
Ngân,…những ý kiến này đã giúp chúng tôi tỉnh táo và vững vàng hơn trong
việc nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Đề tài của luận văn này là tìm hiểu phong cách nghệ thuật truyện ngắn
của một tác giả trẻ, do đó dĩ nhiên chưa thể có những công trình nghiên cứu
dày dặn và thấu đáo để người viết tham khảo. Các nguồn tư liệu chủ yếu được
thu thập trên các trang web văn học như: Viet-studies, E-văn, Vietnamnet, Văn
nghệ Sông Cửu Long…, trên các tờ báo giấy uy tín như: Văn nghệ, Tuổi Trẻ,
Thanh Niên, Người lao động, Tiền Phong, Công an nhân dân…và chúng tôi còn
tham khảo trên các diễn đàn văn học, blog cá nhân của tác giả và những nhà văn,
nhà nghiên cứu khác để có thêm tư liệu. Không thể nói tư liệu về Nguyễn Ngọc
Tư ít ỏi, nhưng trước sự đa dạng của các ý kiến cũng như các nguồn tư liệu,
chúng tôi buộc phải cân nhắc khách quan để “gạn lọc” mong để tìm ra những tư
liệu, những bài viết có giá trị nhằm phục vụ tốt cho luận văn này.
Ngoài ra đã có nhiều luận văn nghiên cứu tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư
như: Đặc điểm truyện ngắn hai cây bút nữ Phan Thị Vàng Anh và Nguyễn
Ngọc Tư (Ngô Thị Diễm Hồng); Quan niệm nghệ thuật về con người trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Phạm Thái Lê); Thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Lê Hồng Tuyến); Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy
nhìn từ phương diện văn học - văn hóa (Dương Thị Kim Thoa); Thế giới nghệ
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Nguyễn Thị Kiều Oanh)...Chúng
tôi có kế thừa một số kết quả của các luận văn này.
Chúng tôi nhận thấy chưa có một luận văn, luận án nào nghiên cứu toàn
diện phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, do vậy, chúng tôi đã tìm được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khoảng trống để thực hiện đề tài này. Các công trình nghiên cứu của những
8
người đi trước sẽ là gợi dẫn bổ ích và quý báu cho chúng tôi tiếp cận và triển
khai đề tài.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã xuất bản gồm:
1. “Ngọn đèn không tắt” (Tập truyện - NXB Trẻ - 2000)
2. “Ông ngoại” (Tập truyện thiếu nhi - NXB Trẻ - 2001)
3. “Biển người mênh mông” (Tập truyện - NXB Kim Đồng - 2003)
4. “Giao thừa” (Tập truyện - NXB Trẻ - 2003)
5. “Nước chảy mây trôi” (Tập truyện và kí - NXB Văn nghệ TP.HCM - 2004)
6. “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” (Tập truyện - NXB Văn hóa sài
gòn - 2005)
7. “Cánh đồng bất tận” (NXB Trẻ 2005)
8. “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” (NXB Trẻ - 2008)
9. “Khói trời lộng lẫy” (NXB Thời đại - 2010)
Đề tài tập trung nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư
trong truyện ngắn qua những tập truyện mang tính dấu mốc, cụ thể là các tập
truyện ngắn sau:
- “Giao thừa”, Nhà xuất bản Trẻ, 2003
- “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, NXB Văn hoá, 2005
- “Cánh đồng bất tận”, NXB Trẻ, 2005
- “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác”, NXB Trẻ, 2008
Tuy nhiên việc nghiên cứu phong cách không thể tách rời nghiên cứu
cả chặng đường sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư nên chúng tôi có sử dụng
những tác phẩm trong cả quá trình sáng tác để thấy được sự vận động trong
truyện ngắn của chị.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.2. Phạm vi nghiên cứu
9
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này trong phạm vi xác định là phương diện
nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư về tư liệu có khảo
sát thêm những tranh luận về nghệ thuật xung quanh tác phẩm của chị.
Từ phong cách nghệ thuật truyện ngắn, được biểu hiện qua thế giới
nhân vật, ngôn ngữ, nghệ thuật kể chuyện. Vì vậy, chúng tôi đi vào phong
cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư trong truyện ngắn ở ba phương diện: cơ sở
văn hóa hình thành phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư; nhân vật “con
người đời thường” và cái nhìn nhân ái về con người của Nguyễn Ngọc Tư;
đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện và sử dụng ngôn ngữ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu phối hợp sử dụng những
phương pháp sau:
4.1. Phương pháp phân tích.
Đi vào phong cách nghệ thuật của một tác giả, luận văn sử dụng
phương pháp phân tích tác phẩm để tìm ra các đặc điểm riêng có giá trị, ý
nghĩa của tác phẩm ở các cấp độ khác nhau, từ đó làm sáng tỏ những luận
điểm của luận văn.
4.2. Phương pháp tổng hợp - so sánh.
Để thấy được phong cách riêng của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng như
sự đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư cho nền văn học Việt Nam đương đại,
trong quá trình nghiên cứu người viết có tiến hành so sánh đối chiếu Nguyễn
Ngọc Tư với một số cây bút truyện ngắn khác nhất là một số nhà văn nữ cùng
thế hệ như: Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y
Ban,…ở từng vấn đề có liên quan để thấy được những nét tương đồng và dị
biệt, từ đó thấy rõ hơn đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4.3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
10
Chúng tôi đặt Nguyễn Ngọc Tư vào bối cảnh lịch sử để nghiên cứu.
Những giá trị truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được đánh giá trong mối
tương quan với thành tựu văn học đương thời sau đổi mới. Nét mới, nét độc
đáo được nhìn nhận trong thời điểm nó ra đời.
4.4. Phương pháp hệ thống.
Để hiểu được phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư trong truyện
ngắn, luận văn chú trọng tìm ra được yếu tố tạo nên tính chỉnh thể và quy luật
cấu trúc của nó. Mọi đối tượng, vấn đề khảo sát được chúng tôi đặt trong hệ
thống, trong quy luật của cấu trúc này.
5. Đóng góp của đề tài
Với đề tài “Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, luận văn sẽ
xem xét đặc sắc của sáng tác truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên mọi khía
cạnh: tư tưởng, hình tượng, nghệ thuật kể chuyện làm nổi bật tính riêng,
không trộn lẫn của lối viết Nguyễn Ngọc Tư nhằm khẳng định tư tưởng nghệ
thuật của nhà văn, từ đó xác nhận vị trí của Nguyễn Ngọc Tư trong văn học
Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XXI.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần chính: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận; phần
Nội dung được chia làm ba chương:
Chương 1: Khái niệm phong cách nghệ thuật và cơ sở xã hội văn hóa
hình thành phong cách Nguyễn Ngọc Tư.
Chương 2: Nhân vật “con người đời thường” và cái nhìn nhân ái về
con người của Nguyễn Ngọc Tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chương 3: Đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện và sử dụng ngôn ngữ.
11
Chƣơng 1
KHÁI NIỆM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
VÀ CƠ SỞ XÃ HỘI VĂN HÓA HÌNH THÀNH PHONG CÁCH
NGUYỄN NGỌC TƢ
1.1. Lý luận về phong cách
1.1.1. Phong cách là gì?
Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, với các đại biểu xuất sắc như
Platon, Aristore, khái niệm phong cách đã được nêu lên, cho đến thế kỉ XIX,
đặc biệt là thế kỉ XX, khái niệm phong cách ngày càng được quan tâm sâu
sắc. Chỉ ngay ở Liên Xô, viện sỹ M.B Khrapchenko trong cuốn Cá tính sáng
tạo của nhà văn và sự phát triển văn học đã thống kê tới gần 20 cách hiểu
khác nhau về phong cách. Ngoài ra còn phải kể đến công trình của V. V.
Vinôgrađôp, của D. X. Likhatsep các công trình của M.B Khrapchenko...
Trong lý luận văn học phương Đông cách nói Văn ư kỳ nhân (Văn tức
là người), cũng là nhằm nói đến phong cách văn học, nó tương tự như cách
nói ở phương Tây “Le style, c‟est l‟homme?”
Cụ thể, Trung Quốc, cách thời đại chúng ta gần 1.500 năm, Lưu Hiệp
trong Văn tâm điêu long đã có hai chương bàn luận rộng rãi những vấn đề liên
quan đến sáng tác văn chương và tác giả: trong 49 chương trình bày lý luận cơ
bản về sáng tác, phê bình, phần thứ 3 bao gồm 24 chương cuối, tác giả bàn về
phong cốt, tình thái...
Ở nước ta, tuy muộn màng hơn, nhưng những năm gần đây, các nhà lý
luận nghiên cứu văn học đã dành nhiều công sức tìm hiểu vấn đề phong cách.
Từ những sách công cụ như: Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần
Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi chủ biên. Các nhà lý luận, nghiên cứu văn học
nước ta cũng đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu nội hàm thuật ngữ phong cách.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ
văn học trên cơ sở thừa nhận hai phạm trù phong cách ngôn ngữ và phong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
cách nghệ thuật, đã định nghĩa: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm
mỹ, chịu sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các
phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của
một nhà văn, trong một tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học
dân tộc”. Và khẳng định: “Trong chỉnh thể “nhà văn” (hiểu theo nghĩa là các
sáng tác của một nhà văn), cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại ấy biểu hiện
tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút pháp nghệ
thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy”.
Thống nhất với quan điểm đó, các tác giả cuốn Lý luận văn học (NXB
Giáo dục,1987) xác định: “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng nghệ thuật
có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú”.
Từ những quan niệm về phong cách của các tác giả trong nước và ngoài
nước, chúng tôi cũng đưa ra một quan niệm về phong cách như sau: Phong
cách là một phạm trù thẩm mĩ, một chỉnh thể nghệ thuật, mang đậm cá tính
sáng tạo của nhà văn. Nó bao gồm những đặc điểm cả về nội dung và hình
thức, thể hiện sự độc đáo, đặc trưng mang tính thống nhất, ổn định xuyên suốt
các sáng tác của mỗi nhà văn.
Phong cách nhà văn là một quá trình vận động, phát triển không ngừng
qua mỗi giai đoạn sáng tác. Mặc dù vậy, cái riêng độc đáo mang tính thẩm mĩ -
cốt lõi phong cách, dù ở điều kiện hoàn cảnh nào cũng ổn định, thống nhất.
1.1.2. Các bình diện của phong cách
Có bốn kiểu quan niệm khác nhau về các bình diện của phong cách
nghệ thuật:
(1) Phong cách chỉ thuần túy là vấn đề kỹ thuật hay cách thức biểu đạt,
biểu hiện ở hình thức của tác phẩm.
(2) Phong cách chủ yếu và trước hết biểu hiện qua ý thức nghệ thuật,
qua cái nhìn, qua cách cảm nhận thế giới độc đáo của nhà văn (phong cách chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biểu hiện ở nội dung).
13
(3) Phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm.
(4) Phong cách biểu hiện thành những đặc điểm hình thức nhưng những
đặc điểm này có nguồn gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn, tức là hình
thức có tính nội dung.
Chúng tôi nghiêng theo quan niệm thứ (4): “Tổng thể thẩm mỹ của tất
cả các phương diện và các yếu tố của tác phẩm làm nên một sự đặc sắc nhất
định.” Phong cách không phải là một yếu tố mà là một đặc tính của hình thức
nghệ thuật, nên nó không bị định vị (chẳng hạn như các yếu tố cốt truyện hay
chi tiết nghệ thuật), nó dường như tán phát trong toàn bộ cấu trúc hình thức.
Do vậy, nguyên tắc tổ chức của phong cách được thể hiện trong mọi khúc
đoạn văn bản, mỗi “điểm” văn bản đều mang trên mình dấu ấn của toàn thể.
Nhờ đó, ta nhận ra phong cách qua các khúc đoạn riêng lẻ: người đọc thành
thạo chỉ cần đọc một đoạn văn nhỏ trong tác phẩm của một nhà văn cũng đủ
tự tin gọi tên tác giả của nó” [Bản dịch của Trịnh Bá Đĩnh, từ cuốn Bách
khoa toàn thư văn học: các khái niệm và thuật ngữ, Viện Thông tin các
khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Moskva, 2001, tr 1031]. Theo
đó, phong cách chủ yếu được nhận diện qua các yếu tố hình thức mang tính
nội dung. Tuy nhiên, phong cách không chỉ là hình thức, nó còn bắt rễ sang
bình diện nội dung.
Trong luận văn này của mình, chúng tôi tập trung vào những nguyên
tắc nghệ thuật, những kiểu lựa chọn riêng trong các yếu tố cấu trúc phong
cách (cách xử lí, thế giới hình tượng, cốt truyện và ngôn ngữ…) để gọi tên
các phương diện nội dung của phong cách (quan niệm nghệ thuật về con
người, xã hội, tư tưởng nghệ thuật ...). Chúng tôi cũng luôn ý thức làm rõ sự
gắn bó của các thành tố cấu trúc phong cách, các phương diện phong cách với
nhau và với chỉnh thể phong cách tác giả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
1.2. Văn hóa Nam Bộ và quá trình hình thành phong cách Nguyễn Ngọc Tƣ
Các nhà nghiên cứu văn học theo hướng tiểu sử học mà đại diện tiêu
biểu nhất là nhà nghiên cứu Pháp H. Taine cho rằng vùng đất với môi trường
văn hóa, địa lí, lịch sử của nó có ảnh hưởng rất lớn đến đặc tính sáng tác văn
học của nhà văn. Ở ta, Nguyễn Bách Khoa, Trần Thanh Mại và nhiều nhà
nghiên cứu khác nữa cũng vận dụng quan điểm này trong nghiên cứu văn của
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương và thu được nhiều kết quả.
Một số ý kiến có thể cực đoan song ảnh hưởng của vùng văn hóa đến phong
cách nhà văn là rõ ràng và được nhiều nhà nghiên cứu cũng như các nhà văn
xác nhận.
1.2.1. Vùng văn hóa Nam Bộ-một số nét đặc sắc
Mang đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, đồng thời cũng đa
dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác. Cho nên, không ở đâu có nhiều
từ ngữ để chỉ các loại hình và hoạt động sông nước như ở vùng này: sông,
lạch, kinh, rạch, xẻo, ngọn, rọc, tắt, mương, rãnh, ao, hồ, đìa, hào, láng, lung,
bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng, vịnh, bàu...; nước lớn,
nước ròng, nước đứng, nước nhửng, nước rông, nước rặc, nước lên, nước
xuống, nước nhảy, nước chụp, nước rút, nước nổi, nước lụt, nước lềnh, nước
cạn, nước xiết, nước xoáy, nước ngược, nước xuôi... Sông nước đã trở thành
một yếu tố cấu thành đặc trưng của văn hoá nơi đây.
Việc giao thương của vùng cũng mang đặc thù sông nước. Từ xưa, các
trung tâm giao thương lớn của vùng đều được hình thành ven bờ sông rạch,
thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá: Nông Nại Đại phố, Mỹ Tho Đại phố,
Sài Gòn, Cần Thơ... Đặc biệt ở miền Tây còn có các chợ nổi mà toàn bộ hoạt
động đều diễn ra trên sông nước. Chợ nổi Long Xuyên (An Giang) là nơi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hàng trăm ghe xuồng tụ tập để buôn bán hàng hoá nông sản như bánh canh
15
ngọt, lạt, bánh tầm, bánh bò, hủ tiếu, chè đậu đỏ, cà phê... Chợ nổi Cái
Răng (Cần Thơ) tụ họp hàng trăm ghe từ tờ mờ sáng, bán đủ loại sản phẩm
miệt vườn được treo trên một cây sào cắm trước mũi ghe gọi là "cây bẹo".
Người mua chỉ cần nhìn vào "cây bẹo" là biết ngay ghe bán thứ gì. Tương tự
là chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi Phụng Hiệp (Hậu Giang)... Là nơi
"dân thương hồ" lui tới mưu sinh, chợ nổi đã trở thành một nét sinh hoạt văn
hoá rất đặc thù của miền Tây sông nước, và được ngành du lịch khai thác như
một sản phẩm du lịch độc đáo dành cho du khách.
Chúng ta cũng nói về một thú vui tinh thần rất quen thuộc của người
dân Nam Bộ, đó là xem hát bội, sau này với những cách tân được gọi là hát
cải lương. Theo cuốn “Cá tính miền Nam” của nhà văn Sơn Nam, “nếu năm
1906 tạm được xem là khởi điểm cho phong trào nói thơ, nói truyện lần hồi
lan rộng trong giới bình dân thì đó cũng là năm khởi điểm cho phong trào đờn
ca tài tử” cải lương. Đờn ca tài tử đã sống cùng với người dân Nam Bộ hơn
một thế kỷ nay và đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh
thần của người dân vùng sông nước chín rồng. Ta biết ngay chính nhà văn Lý
Văn Sâm khi còn trẻ cũng đã từng mơ trở thành một soạn giả, ông cũng đã
viết một số vở cải lương và rất thần tượng nhà viết kịch Trần Hữu Trang. Cải
lương ngày xưa có Tình anh bán chiếu, Dạ cổ hoài lang, Đời Cô Lựu, …còn
cải lương ngày nay bên cạnh những tích vở cổ thì còn đi vào cả đời sống hàng
ngày của người dân với những vấn đề sớm hôm họ phải giải quyết. Trong bài
Nhịp sống cải lương Nam Bộ của tác giả Lê Xuân có viết như thế này: “Ở
đồng bằng sông Cửu Long, các thuyền văn hóa, xe lưu động của các đội tuyên
truyền văn hóa quận, huyện, phường, xã vẫn tới nhiều địa điểm bến sông, bãi
chợ để ca vọng cổ và diễn các vở cải lương ngắn tuyên truyền các ngày lễ lớn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hay các cuộc vận động cho một chủ trương, đường lối chính sách nào đó của
16
Đảng và Nhà nước. Chỉ cần ca hai câu vọng cổ là đã tập hợp được rất nhiều
quần chúng và sau đó các tuyên truyền viên mới vào cuộc…Tới các điểm du
lịch sinh thái ở miệt vườn hay tới các quán ca cổ ở đồng bằng sông Cửu Long
ta sẽ thấy không khí đờn ca tài tử rất sôi nổi và mùi mẫn. Về ẩm thực, món ăn
Nam Bộ đặc sắc ở chỗ nó được tạo ra, mang sắc thái riêng, hương vị ngọt
ngào riêng bởi hơi đất miệt vườn mênh mông, vị ngọt sông rạch ào ạt dâng
tràn mùa lũ, khí trời lồng lộng gió biển Tây Nam, cái uy nghi thâm u của lớp
lớp rừng già đồi núi nơi đây. Đó chính là “nguyên liệu” đầu tiên, chỉ có cho
ẩm thực vùng châu thổ này, nơi đã trở thành “đất lành chim đậu”, mưa thuận
gió hòa, ngày càng trù phú, phồn thịnh: “Ruộng đồng mặc sức chim bay/ Biển
hồ lai láng một bầy cá đua”. (Ca dao Nam Bộ).
Ẩm thực Nam Bộ (và Việt Nam) ẩn chứa sức mạnh văn hóa nặng lắm.
Nó không chỉ liên kết không gian, thời gian; truyền thống, hiện đại mà cả tâm
linh, tư tưởng con người nữa. Nói về tính cách cũng như cách đối nhân xử thế
của con người, có thể thấy điểm nổi trội nhất của người Nam Bộ là cách suy
nghĩ bộc trực, phóng khoáng; lối sống “xả láng sáng về sớm” và luôn “chơi
hết mình” vì người khác. (Thật ra về những những nét tính cách này của
người Nam Bộ, không phải người Việt Nam sống trên các vùng, miền khác
không có, nhưng ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đến những nét nổi trội và
ưu thế nhất góp phần làm nên cá tính riêng của con người ở mỗi vùng,
miền…trên lãnh thổ ta mà thôi). Bên cạnh đó, người Nam Bộ trong suy nghĩ
và lời nói cũng thể hiện một cái gì đó rất bộc trực và thẳng thắn. Nói như nhà
văn Sơn Nam đó là “tinh thần phóng khoáng thực tế, ghét những lí luận
quanh co. Cứ nói thẳng để xem chuyện đó ra sao. Muốn gì thì nói phứt nó ra.
Họ ghét những cuộc tranh luận về lí thuyết chính trị hoặc lí thuyết siêu hình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và có thành kiến cho rằng kẻ dùng quá nhiều lí luận là “lẻo mép”, gian xảo.
17
Họ thích nói chuyện vui, chuyện có đầu có đuôi, những giai thoại khôi hài.
Nói “lí luận” là “buồn ngủ”. Nói chuyện quanh co là kém thành thật” [4].
Người Nam Bộ, vì thế, trong giao tiếp ứng xử có người cho rằng họ nói
chuyện có khi “bụm miệng không kịp” vì chuyện gì cũng “huỵt tẹt” cũng
“bốp chát”, “rổn rảng”, “có sao nói vậy”… điều này đã góp phần hình thành
nên một thứ ngôn ngữ rất đặc trưng trong giao tiếp, nói năng của người Nam
Bộ. Những tính cách này của người Nam Bộ không thể nói là không có ảnh
hưởng đến văn Nguyễn Ngọc Tư. Cả về nhân vật, giọng văn, ngôn từ…trong
truyện Nguyễn Ngọc Tư dễ thấy bóng dáng “tính cách Nam Bộ”.
Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ những trang viết đầu tiên, người đọc đã cảm
nhận được đây là nhà văn có giọng điệu Nam Bộ đặc sệt. Có nhà văn đã từng
nhận xét: “Văn của Ngọc Tư mang đậm chất Nam Bộ: hồn hậu, hào sảng.
Văn hóa tiểu vùng khác nhau, thì sản sinh những chất văn khác nhau, sản sinh
ra những tác giả khác nhau. Ở Bắc Hà không sinh ra văn của Ngọc Tư được,
mà ở Nam Bộ không thể sinh ra được văn của Y Ban và Tạ Duy Anh được,
tôi nghĩ thế.”[32.1]. Điều đó có thể lý giải bằng nhiều cách, nhưng có lẽ ngoài
việc sử dụng tối đa phương ngữ Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư còn là nhà văn
quan tâm đến những vấn đề số phận, con người của vùng đất nông thôn ở
Nam Bộ. Những câu chuyện của chị kể về những số phận, con người mang
đậm chất Mũi Cà Mau, mang một hơi thở, sức sống riêng của mảnh đất địa
đầu Tổ quốc.
Đọc truyện của chị, người đọc sẽ cảm nhận được chất Nam Bộ thể hiện
khái quát ở nhiều phương diện của tác phẩm. Đầu tiên là một không gian Nam
Bộ với nhiều loại cây quen thuộc của mảnh đất này: “mắm, đước, sú, vẹt, bần,
tra, tràm, choại, quao, ô rô, dừa nước…”; với những vàm, kinh, rạch chằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chịt, mà tên gọi cũng gợi trí tò mò, tìm hiểu ở người đọc: “vàm Cỏ Xước,
18
Vàm mắm, kinh Cỏ Chác, kinh Mười Hai, kinh Thợ Rèn, Rạch Mũi, Rạch
Ráng, Rạch Ruộng, Xẻo Mê, Xẻo Rô, Lung Lớn, Gò Cây Quao…”; hay
những tên ấp, tên làng, tên chợ nhiều chất Nam Bộ: “xóm Xẻo, xóm Rạch,
xóm Kinh Cụt, xóm Miễu, chợ Ba Bảy Chín, Cái Nước, Trảng Cò, Đất Cháy,
Mút Cà Tha…”. Nhân vật trong tác phẩm của chị cũng là những con người
Nam Bộ với những cái tên hết sức bình dị, chân chất, đặt tên theo thứ tự, và
cách xưng gọi thứ kết hợp với tên: Hai, Ba, Tư, Chín, Út…; Tư Nhớ, Năm
Nhỏ, Sáu Đèo…họ mang những tâm tư, nguyện vọng cũng hết sức nhỏ bé,
đời thường. Đó là những con người sinh sống bằng những ngành nghề cũng
gắn liền với quê hương sông nước Nam Bộ, như: nghề sông nước, nghề nuôi
vịt chạy đồng, nghề theo gánh hát,… ngoài những ngành nghề truyền thống:
làm ruộng, làm rẫy, đan lát…
Như vậy, có thể nói do được sống và lớn lên trên mảnh đất Nam Bộ,
những nét tính cách trong văn hóa ứng xử cũng như ngôn ngữ của cha ông đã
ăn sâu vào tiềm thức của Nguyễn Ngọc Tư. Vì thế, khi sáng tác, những nét văn
hóa “rặt Nam Bộ” ấy đã đi vào trang viết của chị một cách tự nhiên như một
điều tất yếu không thể nào khác được. Nó cũng là một phần làm nên sức hấp
dẫn của các tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư, tính truyền thống, giản dị, hồn hậu
nhưng có bản sắc rất riêng là điều ai cũng thấy ở truyện Nguyễn Ngọc Tư.
1.2.2. Trong “đội ngũ” các nhà văn Nam Bộ
Nguyễn Ngọc Tư thuộc vào số các nhà văn Nam Bộ. Các sáng tác của
họ hấp dẫn chị, và trong môi trường văn học ấy chị cũng có vị trí riêng của
mình. Ở đây lướt qua mấy nét về đội ngũ các nhà văn Nam Bộ, các nhà văn
thuộc một vùng văn hóa, văn học là những con chim bay ra từ cùng một tổ. Ở
phần này chúng tôi đề cập đến vài nét của phong cách văn học Nam Bộ tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biểu qua Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Quang Sáng và Sơn Nam.
19
Thổ ngơi, mùi vị, cuộc sống, nếp sinh hoạt của vùng đồng bằng sông
Đồng Nai, sông Cửu Long... là đề tài, là nguồn cảm hứng dường như không
bao giờ cạn cho những trang viết của Bình Nguyên Lộc, một nhà văn Nam Bộ
tiêu biểu. Ông từng nói: "Văn tôi bắt nguồn từ những cảnh đẹp với quê hương
và xuất phát từ lòng nhớ nhung tha thiết của tôi với nó..." Tình cảm và "lòng
nhớ nhung tha thiết" mà nhà văn nhắc đến ấy còn là nguyên nhân để văn
chương ông hướng đến việc lưu giữ hình ảnh con người và những giá trị văn
hoá vùng đồng bằng Nam Bộ trong dòng chảy mải miết của thời gian.
Bình Nguyên Lộc hay viết về người nông dân nghèo gắn bó mật thiết
với mảnh đất, căn nhà lâu đời của mình. Nếu họ có lìa xa quê hương ra thành
phố, sống đời anh "công chức" hay sống bằng những nghề khác, thì trong
"căn bổn" họ cũng là người dân quê và sẵn sàng về quê như anh Thuần trong
truyện “Đất không chết”. Bà vợ ông giáo Quyền khi chuyển ra sống ở thành
phố cũng nhớ đất đến mang bệnh và cuối cùng cả nhà phải dời ra ngoại ô để
bà có đất trồng trọt, để đỡ nhớ mùi đất quê hương. Người trông coi nghĩa
trang thành phố cũng vậy. Anh ta chỉ ở lại, không bỏ về quê nữa vì tại đây
anh ta có đất để trồng bông vạn thọ, để trồng rau, để bận rộn với công việc
quen thuộc của mình (truyện “Thèm mùi đất”). Còn cha anh Sáu Nhánh
(truyện “Phân nửa con người”) dù đã tuổi cao bóng xế vẫn kiên quyết bỏ con
cháu, bỏ cuộc sống trên chiếc ghe thương hồ để lên bờ sống trên đất liền. Ông
thậm chí còn cho rằng tình nghĩa với đất còn sâu nặng hơn cả tình nghĩa vợ
chồng: "Vợ chồng chỉ ăn ở nhau ba bốn mươi năm là cùng, đất thì nó thấy
mình sinh ra lớn lên, già yếu, rồi nó lại ôm mình khi mình chết. Mình cũng
thấy nó từ lúc lững chững bước đi cho tới lúc chống gậy mà lê bước..."
Trong mối liên hệ với tự nhiên bao gồm đất đai, sông nước, ruộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vườn, cây cỏ, thời tiết nắng mưa..., Bình Nguyên Lộc luôn cho rằng đất là tình
20
yêu sâu nặng nhất của con người. Tập quán, nếp sinh hoạt ở một nước nông
nghiệp lâu đời dường như đã ăn sâu trong tiềm thức của người dân. Tư tưởng
sở hữu đất cùng với những nét tâm lý rất đặc trưng của người nông dân Nam
Bộ được nhà văn phát hiện trong những chi tiết khá thú vị như cảm giác thèm
mùi đất, nỗi khát khao được che chở, bảo vệ đất... Đất đai, cây cối thật thiêng
liêng mà gần gũi với con người. Đất quê có khi không nuôi nổi con người
nhưng con người vẫn nặng tình với đất. Lão Nghiệm, thím Bảy, thằng Ất và
những người dân xóm Gò Rái của làng Tân Định nghèo khó trong
truyện “Bám níu” giống như những con cá cố lội ngược dòng nước chỉ để
được ở lại nơi chôn nhau cắt rún. Cả một đời cơ cực nhưng lão Nghiệm cho
rằng được sống ở nơi mình sinh ra, lớn lên đã là niềm hạnh phúc: "Cái ngày
mà ông nội tui quyết định ở lại, tui mừng không biết bao nhiêu, tui chạy đi
báo tin lành với các bụi tre ở đầu xóm, với con suối cạn ở cuối thôn, và cả
ngày ấy, không có gì ăn tui cũng nghe no tới cổ vì sung sướng". Người dân
cần có đất để canh tác nhưng dù luôn mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp
hơn thì họ vẫn nghĩ đến việc sống hoà đồng với tự nhiên hơn là chinh phục,
thống trị nó. Không gian trong truyện Bình Nguyên Lộc thường được trình bày
qua góc nhìn văn hoá. Ở đó mỗi chi tiết, địa danh đều lưu dấu thời gian và nếp
sinh hoạt, tập quán của con người. Nụ cười cởi mở và thái độ xuê xoa, giản dị,
cũng là cá tính của người Nam Bộ trong nhà văn Bình Nguyên Lộc. Ông viết
nhiều, viết nhanh về tất cả những gì xảy ra và gần gũi với mình, không cầu kỳ
trau chuốt tỉ mỉ cũng không quá hời hợt hay vì ảo tưởng danh vọng.
Nói đến nhà văn Nam Bộ hiện đại không thể bỏ qua Nguyễn Quang
Sáng, hầu hết các truyện ngắn của ông đều tập trung phản ánh và khám phá về
con người. Nhưng, Nguyễn Quang Sáng có cách nhìn, cách cảm nhận của
riêng ông về con người. Đó là, ông thường nhìn nhận con người từ góc độ lịch
sử - chính trị và con người của cộng đồng. Ông luôn dừng lại với những nỗi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
đau ở mỗi con người trong cuộc chiến và trong cuộc đời. Con người trong
truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng thường rất đa dạng, và một trong những
loại nhân vật đó là hình tượng người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ hiện
lên trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng đầy hấp dẫn và cũng rất đa
dạng. Đó là những con người thông minh, bản lĩnh, gan dạ và những con
người cao đẹp với tâm hồn cao thượng, trong sáng, thuỷ chung. Đó là những
người phụ nữ luôn sống với phương châm “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Khi đất nước có ngoại xâm, họ không nghĩ rằng, mình là người chân yếu tay
mềm, mà với một ý thức trách nhiệm với quốc gia, dân tộc, họ sẵn sàng bỏ lại
sau lưng mẹ già, làng quê cùng bao người thân thuộc để dấn thân vào vòng
hiểm nguy. Có khi họ phải bị tù đày, tra tấn, có lúc họ phải hy sinh. Mỗi giọt
máu đào của họ đổ xuống cũng nhằm làm cho đất nước hồi sinh và nở hoa.
Những nét đẹp đó đã được Nguyễn Quang Sáng ghi nhận và thể hiện trong tác
phẩm. Đặc biệt hình tượng người phụ nữ Nam Bộ hiện lên trong truyện ngắn
của Nguyễn Quang Sáng với những tính cách thật đáng yêu và đáng trân
trọng. Trong khói lửa chiến tranh, họ đã thể hiện được bản lĩnh, tấm lòng đối
với đất nước, với quê hương. Họ xông pha vào lửa đạn với tất cả sự gan dạ,
bản lĩnh và hết sức thông minh. Chính điều đó đã làm nên hình tượng những
người phụ nữ Nam Bộ anh hùng. Chị Bảy trong “Người đàn bà Tháp Mười”,
bà mẹ của sáu đứa con, một mình quán xuyến mọi việc trong gia đình để
chồng yên tâm thoát ly công tác. Những lúc bom đạn, trực thăng càn quét, chị
lại nhớ đến chồng, mong chồng trở về bên chị, hòng tiếp sức với chị. Nhưng
cuối cùng, chính chị phải tự mình cầm súng để chống lại kẻ thù mỗi khi
chúng kéo đến. Chẳng những thế, chị còn cầm súng đối đầu với địch một cách
rất hào hùng. Hành động của chị cũng là góp phần bảo vệ quê hương, làng
xóm mình: “Chị Bảy thấy ba chiếc trực thăng đang quây quần bắn vùng cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ráo, xóm nhà của chị. Ba chiếc nó thay phiên nhau rà sát và mỗi lúc một siết
22
chặt. Nghĩ đến con, lòng chị như lửa cháy và mặt chị thì tái lại. Môi chị tím
bầm hai tay chị nắm chặt và run lên. Chẳng biết cách nào chị hét lên:
- Lành bắn nó!”
“- Bắn nó! Bắn nó! Bà con ơi!
Chị cầm nọc cấy đánh phập xuống bờ công sự mà nức nở:
- Trời! Chết hết con tôi rồi! Chị như mất hết bình tĩnh, chị lột khăn ném
đi, đưa tay vò đầu bức tóc, rồi bất thình lình chị quay lại Lành giật lấy cây
súng nhẩy lên công sự chạy về nhà. Chị không chạy len lỏi qua các hàng cây
như những người khác, chị chạy băng qua giữa đồng, chạy tát cả nước. Chị
vừa chạy vừa bắn, chị bắn không cần ngắm súng, chị cứ hướng về phía trực
thăng mà nổ. Bắn một phát chị lại hét lên:
- Bắn nó! Bắn nó! Bà con ơi!”
Nhìn chung, hình tượng người phụ nữ Nam Bộ trong truyện ngắn
Nguyễn Quang Sáng rất đa dạng và nhiều màu sắc. Họ là những người phụ nữ
đảm đang, chung thuỷ đồng thời cũng rất thông minh, gan dạ và đầy bản lĩnh.
Họ đã thể hiện được vẻ đẹp nhân văn cao quý của người phụ nữ Nam Bộ.
“Họ là những con người có tâm hồn trong sáng, giàu nghị lực, có những tình
cảm mạnh mẽ ứng xử trong nhiều thử thách gay cấn”.
Trong tác phẩm của mình không chỉ ca ngợi về hình tượng người phụ
nữ mà tình cảm gia đình cũng làm sáng bừng lên những trang văn của ông.
Trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” người đọc không khỏi xúc động trước
tình cảm cha con của bé Thu. Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật
khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tình cảm. Tình cha con trong Thu giữ
gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy, vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.
Khi đến ngày ông Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại
“như thể bị bỏ rơi”, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi
người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái
gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ
nhận ra sự có mặt của nó. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm
giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng. Nó không nén nổi tình
cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên “Ba…”, vừa kêu vừa chạy xô
đến nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ
ba nó, “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo
dài trên má của ba nó nữa”. Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng
gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba
gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng
gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như
muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó
bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm
nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu
đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một
nhân vật giàu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,
ngây thơ: Nhân vật bé Thu.
Cũng như những nhà văn Nam Bộ khác, Sơn Nam như một con ong
rừng chăm chỉ gom từng giọt mật để góp thêm bông hoa, mật ngọt cho văn
hóa, cho văn học Việt Nam thêm đa dạng; góp phần làm cho văn hóa, văn học
Nam Bộ một sắc thái riêng không thể nào trộn lẫn. Tập truyện “Hương rừng
Cà Mau” (tập 1) được đăng báo đầu những năm thập niên năm mươi và xuất
bản vào năm 1962. Tập truyện viết hay về đất và những con người miệt vườn
Nam Bộ. Một tập truyện mà hầu như ai cũng yêu thích, nó lôi cuốn độc giả từ
đầu đến cuối. Tác phẩm không phải là những trang lãng mạn, những câu
chuyện tình lâm li bi đát, cũng không đồ sộ nhưng đọc tác phẩm, ta cảm nhận
được thế giới riêng của vùng sông nước, cách dựng truyện đơn giản nhưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
hấp dẫn, mỗi truyện có chi tiết rất ấn tượng và thấy cả sức sống mãnh liệt của
những người đi mở đất phương Nam, cái cuộc sống nơi đất rừng “sơn lam
chướng khí” và thấy cả hào khí của tầng lớp lưu dân trên vùng đất Nam Bộ.
Nhà văn Nguyễn Trọng Tính từng nói: “Trong số những sáng tác của nhà văn
Sơn Nam thì tôi thích nhất truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau”- Đây là tập
truyện ngắn được xếp ở vị trí cao trong số những tác phẩm văn học đặc sắc
nhất của nhà văn Nam Bộ. Hồi còn nhỏ, tôi đọc tác phẩm của ông là vì mình
thích, lớn lên khi bước vào nghiệp của văn chương tôi đọc tác phẩm của Sơn
Nam như một cách học làm nghề. Tôi học ông cách viết văn, về cách ứng xử
của người viết văn Nam Bộ”.
Đọc “Hương rừng Cà Mau”, người đọc như được ông đưa về thăm
từng ấp, làng của Nam Bộ. Thiên nhiên qua sự khám phá, cảm nhận và phát
hiện trong “Hương rừng Cà Mau” đẹp, bình dị nhưng cũng gắn liền với sự
hoang dã và nhiều hiểm nguy. Nó phong phú nhưng vô cùng khắc nghiệt.
Những rừng tràm thì xanh biếc, hương tràm thoang thoảng, đầy những bất
ngờ hấp hẫn và bên dưới thì sấu, cọp, ong, muỗi, rắn, cũng phong phú đa
dạng không kém nhưng hễ mà không cẩn thận không biết cách thì có rất nhiều
chuyện không may xảy ra. Nhà văn Sơn Nam giúp cho chúng ta cảm nhận và
thấy được vùng đất mới khai phá được ưu đãi nhiều sản vật, là một nơi giàu
có và phong phú của thiên nhiên. Nó mang đặc điểm vùng miền còn hoang sơ
nhưng trù phú. Một vùng lắm kênh nhiều rạch, một vùng tràm bạt ngàn và vô
số những điều mà tưởng như rất xưa rồi vậy mà nó hiện hữu như mới xảy ra
gần đây bởi: sấu, cọp, ong, tràm, ô rô, cóc kèn, hương tràm, mật ong,...Điều
đó đã tạo nên nét đẹp của miền Nam xa xưa một thủa nhưng nó không mất đi.
Thiên nhiên dù còn khắc nghiệt, dữ tợn, hoang dã như những ngày đầu của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
công cuộc mở đất nhưng bây giờ nó vẫn giữ được nét bình dị, nên thơ bình
25
yên và mang nét đặc trưng của một vùng sông nước rất gần gũi và rất đẹp
trong tâm trí con người.
Đọc tác phẩm của ông, người đọc được tiếp xúc với những người Nam
Bộ đủ các thành phần, hạng người, nghề nghiệp: giàu sang, nghèo hèn, công
chức, trí thức, địa chủ, nông dân, thương gia,…Ông am hiểu những nghề có
tính đặc thù gắn với vùng đất như nghề : trị rắn cắn (“Cây huê xà”), bắt sấu
(“Bắt sấu rừng U Minh Hạ”, “Sông Giành Hào”), ăn ong, lấy mật (“Hương
rừng”), len trâu (“Mùa len trâu”)…Từ những con người ấy, Sơn Nam giúp ta
hiểu thêm tâm tình, tính cách và nhiều nét đặc trưng của con người Nam Bộ
một thuở.
Con người Nam Bộ hiện lên trong tác phẩm của Sơn Nam là những
người siêng năng, chất phác, hiền lành. Họ khai phá vùng đất mới bằng sức
lao động dẻo dai, bền bỉ và lòng quyết tâm cao độ. Không chỉ thế họ rất dũng
cảm đối mặt với những khó khăn và cũng rất thẳng thắn, chung thủy, tình
nghĩa không đổi (“Con bảy đưa đò”, “Hương rừng”, “Tình nghĩa giáo khoa
thư”), hồn nhiên ngây thơ như con Lài và thằng Lợi (“Cây huê xà”), chất
phác, khí khái, trọng tình nghĩa ấy giúp đỡ người khác không vụ lợi cho riêng
mình (“Bắt sấu rừng U Minh Hạ”),…trong nhiều tác phẩm khác. Đặc biệt,
điều mà tất cả chúng ta dễ nhận thấy đặc trưng cơ bản của con người Nam Bộ
lúc bấy giờ là tình yêu quê hương đất nước. Ở đó không phải là những biểu
hiện cụ thể lớn lao, sôi nổi mà ẩn sau lời nói, lời tâm sự, lời hát và qua hành
động của những con người nông dân miệt vườn mới thấy một khí khái, một
tình yêu nước sâu kín như trong tác phẩm “Đảng cánh buồm đen”, “Người
mù giăng câu”, “Ông già xay lúa”, “Hòn Cỏ Tron”,…
Con người Nam Bộ biểu hiện tình yêu quê hương đất nước của mình từ
công cuộc khai phá mở đất, biết sống hòa nhập với thiên nhiên và biết yêu
quý hàng xóm, nơi cư ngụ và cao hơn biết yêu ghét, căm thù những gì trái với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
đạo lý con người. Họ không chỉ căm ghét những hành động làm biếng
(“Đóng gông ông thầy Quýt”), ghét lừa gạt (“Tình nghĩa giáo khoa thư”),
ghét sự ganh tị (“Cây huê xà”),… nhưng cũng trân trọng yêu thương những
con người tài trí, tốt đẹp và hào hiệp với những con người biết cảm thông với
hoạn nạn của người khác, không vì bản thân mình (“Một cuộc biển dâu”,
“Bắt sấu rừng U Minh Hạ”, “Đảng cánh buồm đen”,…). Dù đó không phải
là tất cả những nét đặc trưng của con người Nam Bộ nhưng Sơn Nam đã khái
quát những nét đặc trưng cơ bản tính cách của một vùng miền mà không phải
nhà văn nào cũng có thể cảm và viết được như thế. Nhà văn đã viết lên bằng
tất cả sự trân trọng, niềm tin và yêu vào một nét đẹp của con người Nam Bộ
từ xưa đến nay không dễ gì đổi thay.
Nguyễn Ngọc Tư đã kế thừa chất văn Nam Bộ, cách nhìn Nam Bộ của
các nhà văn ấy một cách tự giác và có khi vô thức, đồng thời chị cũng có
đóng góp riêng, tiếp nối cha anh một cách xứng đáng. Trong truyệ n ngắ n củ a
nhà văn Nguyễn Ngọc Tư , việ c phả n á nh cá c nế p sinh hoạ t , ngôn ngữ , nế p
sinh hoạ t cũ ng như tạ o ra không gian miệ t vườ n sông nướ c vớ i tấ t cả nhữ ng
đặc trưng riêng như thú mê há t bộ i củ a ngườ i dân , nế p số ng giản dị, mộ c mạ c
không phả i là chủ đí ch củ a tá c giả , và có lẽ thế người viết hẳn cũng không
quá cầu kì trong khi miêu tả những chi tiết ấy - điề u nà y khá c hẳ n vớ i cá c nhà
văn viế t theo lố i miêu tả phong tụ c kiể u như S ơn Nam, Nguyễ n Tuân, nhữ ng
nhà văn coi phong tục cũng là một trong những nét chính yếu trong tác phẩm
của mình. Nguyễ n Ngọ c Tư cũ ng khá c ngay vớ i cây bú t miề n Nam lớ p trướ c
là Bình Nguyên Lộc khi phản ánh những nét văn hóa , phong tụ c trong tá c
phẩ m văn họ c . Bình Nguyên Lộc khi viết về các địa danh , các món ăn luôn
muố n tì m hiể u đế n tậ n ngọ n nguồ n sự vậ t . Nói về sông ông Lãnh chẳng hạn ,
ông giú p ngườ i đọ c biế t đượ c ngà y trướ c ngườ i tây gọ i nó là Rạch Cắc Chú ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sau lạ i có người gọi là Kinh Tàu Hủ và mấy người ghe thương hồ thì gọi là
27
rạch ông Lã nh hay là sông ông Lã nh. Rồ i cả khi viế t về quà đêm bán trên con
sông nà y vớ i đủ cá c mó n như chè đậ u , cháo cá , xu xoa mật đường , bộ t
khoai,…ông viế t : “Tuy nhiên nên nhớ rằ ng sự phồ n thị nh củ a Sà i Gò n là do
ngườ i Hoa kiề u dự ng lên , cách đây một trăm năm và Kinh Tàu Hủ là cái nôi
của sự phồn thịnh đó” . Rõ ràng , ta không bắt gặ p sự cẩ n trọ ng , tỉ mỉ trong
phương phá p phả n á nh , miêu tả , quan sá t củ a Bì nh Nguyên Lộ c trong tá c
phẩm của Nguyễn Ngọc Tư . Tuy nhiên, dù không chủ đích “khảo cứu” văn
hóa nhưng tấ t cả nhữ ng né t đó đề u đượ c biể u hiệ n rấ t đậ m đà , sinh độ ng trong
tác phẩm của chị.
1.2.3. Quan niệm văn học của Nguyễn Ngọc Tư
Ngọc Tư sinh ra ở một làng quê, nhà nằm ngay trên bờ sông, tiếng tắc
rang, tiếng tàu máy đuôi tôm rồi chợ họp trên sông ngày nào cũng nhộn nhịp.
Mọi âm thanh và nhịp đời của cuộc sống Nam Bộ dội vào văn chị. Chị cho
rằng: “Sống trong môi trường như thế thì cố tạo cho mình giọng văn rặt
những ngôn ngữ “sang trọng” mà làm gì?”. Người ta ví chị như cái cây tự
nhiên mọc giữa rừng tràm rừng đước Nam Bộ, như gái quê chân đất mộc mạc,
là đặc sản của miền Nam. Tuổi thơ của chị đã gắn liền với những dòng sông
uốn khúc, rừng đước bạt ngàn, đồng lúa mênh mông. Nhà văn Chu Lai còn
khẳng định Nguyễn Ngọc Tư là cây viết đặc biệt của miền Tây Nam Bộ, một
tài năng văn học hiếm có của Việt Nam hiện nay. Một cách viết không giống
ai, độc đáo và cuốn hút, không văn hoa bóng bẩy mà chân thực…Đọc truyện
của Nguyễn Ngọc Tư - những ai chưa một lần đặt chân tới vùng đất này đều
có thể khám phá và cảm nhận rất rõ về con người, thiên nhiên nơi đây. Với
cách viết khéo léo, luôn đan xen cho dù trong một phạm vi hẹp - cuộc sống
một gia đình… Người đọc không nhàm chán, có sức hút lạ kỳ ngay từ mạch
đầu cho tới khi câu chuyện kết thúc. Ấy là cách viết của Nguyễn Ngọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tư. Nắng gió, sông nước, đất trời, con người là những “mạch nước ngầm”
28
chảy trong con người chị từ tấm bé. Với những câu chuyện kể. Nguyễn Ngọc
Tư đã tạo ra những “cơn sốt” trên văn đàn cùng sự nổi tiếng của mình.
Nguyễn Ngọc Tư sinh ra và lớn lên tại Cà Mau, ngày còn đi học, chị đã
biểu lộ tính cách “mạnh” của mình : Chỉ chơi với đám con trai và học hết lớp
12 trung học phổ thông. Chị chưa hề qua một trường lớp viết văn chuyên
nghiệp nào, đi học môn văn chỉ đạt loại khá ( theo chị nói không phải là xuất
sắc ). Tác phẩm đầu tay - bệ phóng quan trọng cho sự nổi tiếng sau này :
Truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” giải nhất cuộc thi “Văn học Tuổi hai
mươi” năm 2000 do Báo Tuổi Trẻ và Hội Nhà Văn Thành phố tổ chức. Đất -
Nước - Con Người Cà Mau cùng ông “Trời” như một định mệnh đã gắn chặt
như máu thịt trong tâm hồn vốn nhạy cảm của chị. Những yếu tố đó, chị viết
một cách dễ dàng, viết bất cứ ở đâu bất cứ lúc nào, nó như một mạch nước
trong veo luôn chảy để chị viết một mạch không nghỉ (Nguyễn Ngọc Tư cũng
không biết tại sao?). Phải chăng là Thiên Bẩm ? Mảnh đất nơi mình sinh ra và
trưởng thành như một chất men, chất xúc tác, nghe rõ từng hơi thở, nhịp đập
của con tim…cho dù nơi ấy còn thiếu thốn vất vả, nhưng là một gia tài lớn
cho những ai biết khai thác nó. Và Nguyễn Ngọc Tư đã làm được như vậy!
Nguyễn Ngọc Tư (như chị kể) có một cuộc sống bình thường, bình dị: một gia
đình nhỏ hạnh phúc với 2 con trai và “ông xã” mà công việc hoàn toàn không
liên quan gì tới công việc viết văn của chị… Hàng ngày, dậy sớm làm thức ăn
sáng rồi đưa con đi học, ra chợ mua đồ ăn, để như chị nói : “Luôn có cá tươi
về nấu cho lũ trẻ và cả nhà ăn”. Chị thực sự ngồi viết từ 10h sáng đến 15h
hoặc 16h hàng ngày sau đó làm nghĩa vụ của một người mẹ, người vợ đảm
trong gia đình…Cuộc sống luôn tất bật, bận rộn đến với chị. Tại Thành phố
Cà Mau, không phải ai cũng nhận ra chị - một nhà văn nổi tiếng. Có lần chị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nói : “ Ngay cả những người hàng xóm nơi chị ở, có người còn không biết chị
29
là nhà văn, họ cứ nghĩ chị cũng chỉ là một phụ nữ bình thường như bao người
phụ nữ khác : Nội trợ và chăm sóc gia đình, gia đình là thế giới riêng của
chị…Nhưng đối với nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cho dù thế nào đi chăng nữa
những tác phẩm vẫn liên tiếp ra đời giữa : NẮNG - GIÓ - TÌNH ĐẤT - TÌNH
NGƯỜI của những “Cánh đồng bất tận”.
Nguyễ n Ngọ c Tư cho tớ i bây giờ vẫ n số ng và là m việ c tạ i Cà Mau .
Không ít độc giả băn khoăn điều này, tại sao suốt chừng ấy năm chỉ sống tại
một vùng đất, có thể cũng có đi đâu đó nhưng rốt cuộc vẫn lại trở về vùng đất
ấy mà Nguyễn Ngọc Tư lại có thể nuôi dưỡng cảm xúc về quê hương của
mình phong phú và bền bỉ đến như vậy. Có cảm giác mạch nguồn tình cảm
của chị với đề tài quê hương chưa bao giờ vơi cạn và mỗi lần viết về một
vùng đất cũ vớ i nhữ ng con ngườ i cũ đó ta vẫ n thấ y chị tìm được các nét mới
và thú vị. Cũng là chuyệ n đờ i số ng củ a con ngườ i vù ng miệ t vườ n thôi, nhưng
rõ ràng con người trong “Ngọ n đè n không tắ t” , “Nước chả y mây trôi” và
“Truyệ n ngắ n Nguyễ n Ngọ c Tư” khác rất nhiều so với con người trong
“Cá nh đồ ng bấ t tậ n” . Chúng ta hiểu rằ ng đây là sự đổ i mớ i đầ y ý thứ c củ a
chị. Trong cuộc trò chuyệ n vớ i phó ng viên bá o điệ n tử Vn Express.net ngà y
27/09/2005, Nguyễ n Ngọ c Tư đã nó i : “Tôi tự tin và o sự hiể u biế t về nông
thôn quê hương tôi . Bảy năm qua tôi đã viế t về nó vớ i bộ dạ ng hiề n hậ u ,
nghèo khó, đá ng thương. Bây giờ tôi lạ i đưa bạ n đọ c đế n mộ t miề n quê vớ i
nhữ ng gương mặ t khá c” . Tấ t nhiên không nhà văn nà o không khao khá t sự tự
làm mới như vậy , nhưng nế u không thậ t yêu thươn g, không thậ t gắ n bó đế n
máu thịt thì sự đổi mới dù có cố gắng tới đâu cũng sẽ nhạt . Và thật may
Nguyễ n Ngọ c Tư đã trá nh đượ c điều đó , bở i tà i năng và cũ ng bở i tì nh yêu quê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hương củ a chị .
30
Sáng tác đối với chị, như là một nhu cầu bức bách, chị viết văn như để
trả nợ ân tình, chị thổ lộ: “Còn về sáng tác thì cứ lúc nào thấy xúc động, đủ
cảm xúc, có suy nghĩ về cái mình đã trải qua, có nhu cầu phải viết, nếu không
viết chắc…tự tử mất thì Tư viết thôi.”(Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: đánh “ùm”
một tiếng mà thôi”, Báo Tuổi trẻ 04/12/2005). Với Nguyễn Ngọc Tư, cảm
xúc là khởi nguồn của sáng tạo văn chương. Chị hồn nhiên tự nhận “Tôi là
một cây bút nghĩ thế nào, viết thế ấy, nghĩ sao viết vậy” (Trả lời phỏng vấn
trên báo Tiền Phong ngày 31/10/2006). Theo Nguyễn Ngọc Tư, thành thật với
cảm xúc của mình, đó chính là cầu nối kì diệu nhất để đến với trái tim người
đọc. Bởi chính họ là người thẩm định công bằng mọi giá trị của văn chương.
Với thời gian, Nguyễn Ngọc Tư ngày càng có những “tuyên ngôn” về nghề
với một thái độ “chuyên nghiệp” hơn. Chị xác định viết văn là “một lựa chọn
khó, đầy nhọc nhằn, nặng nề, dằn vặt” (Tiền Phong, 21/01/2006). Nguyễn
Ngọc Tư bày tỏ trách nhiệm của nhà văn trong việc lựa chọn đề tài: “Tư chọn
viết những gì mà người đi trước trước không viết thôi. Với những gì người đi
trước viết rồi, nếu mình đi lại con đường ấy, hoặc mình phải tránh qua một
bên, hoặc là mình phải vượt trội hơn. Nhưng vượt trội thì khó quá, ví dụ như
để vượt qua Vũ Trọng Phụng thì thôi …đi, Tư không tự làm khó mình mà
chọn cái mình làm được”. Quan niệm nhẹ nhàng nhưng sáng rõ như thế
chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư không hề cẩu thả trong nghề nghiệp của mình. Chị
luôn ý thức về trách nhiệm người cầm bút: “Lúc đầu chỉ viết để giải tỏa cảm
xúc cho nó nhẹ người đi, nhưng sau này thấy cái nghiệp mình đeo đuổi nặng
trĩu, đầy nự nần. Viết vì mình là Nguyễn Ngọc Tư”.
Chị đã thẳng thắn bày tỏ: “Tôi không quan tâm văn mình yếu hay
mạnh, chỉ nghĩ, những trang viết này có làm mình xấu hổ không, có đi vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lòng người không, có khiến người ta nhớ không?”. Có thể những điều chị viết
31
ra thì nhẹ nhàng, mộc mạc, nhưng để thai nghén nó là cả một quá trình lao
tâm khổ tứ cho đến khi kí thác vào trang văn. Chúng tôi nghĩ “Cánh đồng bất
tận” ra đời đã trả lời cho những băn khoăn lo ngại trên. Những vấn đề nóng
bỏng, những bức bách của nông thôn Nam Bộ, những tâm tư suy nghĩ của
người nông dân đều được phản ánh một cách “trần trụi” và chân thực qua
trang viết của chị. Ngòi bút của chị cùng với những trải nghiệm cá nhân trong
cuộc sống đã ngày càng trở nên khốc liệt và nghiệt ngã hơn. Song, có bản
lĩnh, biết chấp nhận mạo hiểm cũng là một phẩm chất đáng quý và cần thiết
đối với người nghệ sĩ. Nhưng dù thay đổi chị vẫn giữ được nét rất riêng của
mình: lòng nhân ái, sự chân thực và ngôn ngữ văn hóa một vùng đất. Nhà văn
bộc bạch: “Bao giờ khi bắt tay vào viết, tôi cũng nghĩ thoáng qua tác phẩm
mới này ai sẽ khen, và biết cả một vài khuôn mặt những người chê. Lần nào
cũng nghĩ nhưng lần nào cũng viết như cảm xúc của mình, bởi trước khi viết
cho ai đó thì tôi viết cho mình”. Chị khá thận trọng khi tuyên bố mình không
cố công tìm hiểu và chiều theo thị hiếu độc giả, bởi chị không dám chắc mình
hiểu đúng độc giả muốn đọc gì, nên “đường ai nấy đi, nếu gặp nhau là tốt”,
bởi nhiều khi “Mình không thể hiểu hết bạn đọc, có khi viết xong cái truyện
mà bản thân mình thấy thích lắm nhưng bạn đọc lại chê…Với lại, Tư cũng
không có ý tìm hiểu bạn đọc của mình”. Theo chị, nhà văn và độc giả đều có
những sở thích riêng, không quá phụ thuộc vào nhau. Vì vậy mà Nguyễn
Ngọc Tư cố giữ cho mình một thái độ khách quan, một khoảng cách nhất định
với thị hiếu độc giả cũng như sự đánh giá của các nhà phê bình. Chị cũng
cảnh báo nhiều nhà phê bình có sự suy diễn khi họ rút ra những “chân lí” mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chị chưa bao giờ nghĩ tới khi cầm bút.
32
Chƣơng 2
NHÂN VẬT “CON NGƢỜI ĐỜI THƢỜNG” VÀ CÁI NHÌN
NHÂN ÁI VỀ CON NGƢỜI CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
Phong cách là sự tổng hợp những nét riêng trong sáng tác của nhà văn.
Nó bao gồm cả các yếu tố bút pháp, thi pháp, nhưng các yếu tố bút pháp này
lại gắn liền với nhãn giới (quan niệm về thế giới của nhà văn), tức là liên quan
đến các yếu tố nội dung. Đối với phong cách nhà văn trong thể loại tự sự tìm
hiểu phong cách trước hết là chỉ ra cái riêng trong xây dựng nhân vật vì nhân
vật là một yếu tố trung tâm của thể loại truyện, nhất là với các truyện viết theo
lối truyền thống (tức không phải hậu hiện đại). Truyện của Nguyễn Ngọc Tư
là loại truyện viết theo lối truyền thống như vậy.
2.1. Nhân vật văn học
2.1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Một tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật. Nhân vật là linh hồn
của tác phẩm, là trung tâm mọi sự miêu tả nghệ thuật. Nhân vật trong văn học
có thể là con người, con vật, đồ vật. Nhân vật có thể có tên hay không có tên.
Tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật vì đó là hình thức cơ bản mà qua
đó, văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Nhân vật văn học là con người cụ thể
được miêu tả trong các tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên
riêng (Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể không có tên riêng như
“thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều [41.162]. Cuốn Từ điển
Tiếng Việt cho rằng: Nhân vật là đối tượng (thường là con người) được miêu
tả thể hiện trong tác phẩm văn học nghệ thuật [69.705].
Còn theo Giáo trình lý luận văn học thì nhân vật văn học được quan
niệm rộng hơn: Đó không chỉ là con người có tên hoặc không có tên, mà có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
thể là những sự vật, loài vật khác nhau, ít nhiều mang bóng dáng tính cách
của con người, được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện
con người. Đó là nhân vật dế mèn, võ sĩ bọ ngựa, con mèo lười trong truyện
thiếu nhi của Tô Hoài; là vầng trăng, là bông hoa hồng trong thơ Hồ Chí
Minh,...Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ
là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan đến con người, được thể
hiện nổi bật trong tác phẩm [36.126].
Nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật do nhà văn sáng tạo
nên. Nhân vật văn học rất phong phú, nó có thể là loài vật, đồ vật…nhưng chủ
yếu là con người. Sự thể hiện nhân vật cũng ở những hình thức rất đa dạng.
Dù nhân vật là thế giới loài người hay loài vật nó đều có vai trò rất quan trọng
trong sáng tác của nhà văn, nó làm nên linh hồn của tác phẩm.
2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
Một tác phẩm văn học thì không thể không có nhân vật. Bởi nhân vật là
linh hồn của tác phẩm, là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực.
Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện nhận thức về con người cũng như
quy luật của cuộc sống. Một tác phẩm văn học được đánh giá là có giá trị, có
chiều sâu, có sức sống lâu bền khi tác phẩm ấy khắc họa rõ nét, chân thực và
sinh động hình tượng nhân vật. Chính vì vậy mà người đọc khó có thể quên
được hình ảnh một Xuân Tóc Đỏ, một Chí Phèo, một Lão Hạc,... Đấy là
những điển hình văn học bất hủ.
Như vậy, nhân vật văn học thể hiện cách hiểu của nhà văn về con người
theo một quan điểm nhất định, là nơi để nhà văn gửi gắm, kí thác tâm tư, ước
vọng với những vấn đề triết lý nhân sinh. Qua hệ thống nhân vật, người đọc
thấy được cách nhìn, cách thể hiện thế giới, tức phong cách nghệ thuật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhà văn. Cùng nói về con người trong xã hội hiện đại, nhà văn Phan Thị Vàng
34
Anh phơi bầy những bất ổn trong lối sống và chỉ ra những mâu thuẫn trong
cuộc đời; Nguyễn Thị Thu Huệ khai thác những mặt trái của con người trong
đời sống hiện đại phức tạp, còn Nguyễn Ngọc Tư với một phong cách riêng
đã thể hiện những quan niệm nghệ thuật về con người qua thế giới nhân vật
độc đáo của mình.
Nhân vật văn học gắn liền với quan niệm nghệ thuật về con người và
phương thức xây dựng hình tượng văn học của nhà văn. Khảo sát phong cách
nhà văn không thể nào bỏ qua quan niệm về con người và cách thức riêng xây
dựng nhân vật của nhà văn.
2.2. Nguyễn Ngọc Tƣ với cảm quan đời thƣờng trong xây dựng nhân vật
văn học
Gần như hầu hết các nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư là
những con người lao động bình thường vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Cuộc sống đời thường với những con người lao động bình thường làm nên thế
giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư, có thể gọi là một “cảm quan đời
thường” trong văn học. Nó là sự tiếp tục truyền thống của Nguyễn Quang
Sáng. Trở đi trở lại trong các tác phẩm của nhà văn là hai kiểu nhân vật nổi
bật: Người nghệ sĩ hát tuồng và người nông dân Nam Bộ.
2.2.1. Người nghệ sĩ miệt vườn
Nam Bộ là vùng đất nổi tiếng với đờn ca tài tử, với những gánh hát,
những đêm nghe đàn ca bất tận vùng “miệt vườn”, bên những quán nhỏ vùng
sông Tiền, sông Hậu. Ở đó có những người nghệ sĩ bình dân mà điêu luyện
ngón nghề, những công chúng nghệ thuật lúc nào cũng sẵn sàng tham dự “cuộc
chơi” nghệ thuật. Số phận những người nghệ sĩ bình dân là một đề tài được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiều nhà văn Nam Bộ quan tâm, xây dựng thành hình tượng nghệ thuật.
35
Ở Nguyễn Ngọc Tư qua khảo sát cho thấy, những câu những câu
chuyện nói về đề tài số phận, cuộc đời những người nghệ sĩ bình dân chiếm
8/32 truyện tức là: 25% số lượng các tác phẩm trong ba tập: “Giao thừa”;
“Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” và “Cánh đồng bất tận”. Người nghệ sĩ trong
truyện của chị thường rất yêu nghề, say mê với nghề nghiệp. Họ sẵn sàng hi
sinh mọi thứ của cuộc đời để được sống trọn với nghề, với kiếp cầm ca.
Hình tượng nhân vật Đào Hồng trong “Cuối mùa nhan sắc” là một
điển hình. Đào Hồng và những người nghệ sĩ tập hợp với nhau trong “ngôi
nhà buổi chiều” vì lòng yêu nghề, say mê nghiệp hát mà về ở với nhau. Chiều
chiều họ tập hợp lại, hát ở mảnh sân trước nhà cho những khán giả quanh
quẩn trong xóm để thỏa lòng mong nhớ sân khấu: “Sân khấu là cái hàng ba
trông ra sân rồng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng,
chỗ trống dành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm ghi ta thùng, cây nhị cũ mèm.
Không micro, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho, nghiệp đãi. Đào Phi tám
mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế mà lấy roi sãy
ngựa coi lạ hết biết”[58.88]. Ngọn lửa nhiệt tình say mê nghề nghiệp cháy
sáng, soi rọi cuộc đời họ. Nếu không có nghệ thuật, cuộc đời họ trở nên vô
nghĩa, không chí hướng. Vì vậy, họ sẵn sàng hát đến mức quên cả thân mình.
Đào Hồng dù ốm đến đâu cũng muốn được ra hát. Hát như là hơi thở, như là
cuộc sống để bà tìm thấy nghị lực, ý nghĩa cuộc đời.
Đó là những người nghệ sĩ đã từng sống vì nghề, sẵn sàng chết vì nghề.
Còn những diễn viên trẻ tuổi, nhiều khi họ cũng buộc lòng phải lựa chọn -
những tình huống, những ngã ba đường thật đau lòng. Vì sự nghiệp, vì sân
khấu, họ đành nén lòng từ bỏ mọi thứ kể cả những thứ vô cùng thiêng liêng quan
trọng với người phụ nữ như những đứa con, để được một điều giản dị nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng vô cùng thiêng liêng với người diễn viên là vai diễn-sân khấu. Cuộc đời
36
của Diệu trong “Làm má đâu có dễ” là một số phận như thế. Chị đã sẵn sàng xa
lìa núm ruột sơ sinh của mình để mong đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.
Ngay cả những người chưa được bước vào nghề cũng coi sự nghiệp ca
hát là một điều gì đó vô cùng hệ trọng và thiêng liêng. Cũng chính vì yêu
nghề, muốn dâng trọn đời mình cho gánh hát cải lương nên San trong “Bởi
yêu thương” dù rất thích cải lương, rất muốn trở thành nghệ sĩ nhưng lại
không dám đi hát. Không phải vì không biết hát, nghệ sĩ Sáu Tâm đã dạy cô
hát rồi. Cô không dám đi hát chỉ vì một lý do đơn giản - đơn giản nhưng vô
cùng hệ trọng đối với cô, đối với những người yêu nghệ thuật cải lương chân
chính. Đó là vì trước đây, San từng làm tiếp viên ở quán bia. Cô sợ khi hát, lỡ
như mình nổi tiếng, người ta nhận ra mình trước đây từng làm tiếp viên ở
quán bia thì làm hoen ố đi nền nghệ thuật cải lương nước nhà.
Hình tượng người nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường
là những người sống trọn vẹn với nghề, dù phải trả giá bằng cả cuộc đời họ
vẫn chấp nhận. Chính vì lẽ đó mà người nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư thường có số phận buồn. Xây dựng hình tượng người nghệ sĩ hát
tuồng, Nguyễn Ngọc Tư dường như muốn chia sẻ, thông cảm với cuộc đời
của người nghệ sĩ bình dân.
Trong thế giới nhân vật gồm những con người luôn khao khát yêu
thương của truyện Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta bắt gặp một hình ảnh trở đi trở
lại, đó là hình ảnh người nghệ sĩ. Qua khảo sát, nhân vật là người nghệ sĩ
trong truyện ngắn của chị chiếm tỉ lệ 9/44. Người đời thường hay có cái nhìn
thành kiến về cái nghề “xướng ca” này. Nhưng nhân vật nghệ sĩ của Nguyễn
Ngọc Tư thường được tô đậm ở phẩm chất thủy chung, giàu tình nghĩa, đã
yêu ai là yêu hết lòng, sẵn sàng hi sinh cho người mình yêu mà không mong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được đáp đền. Nét đẹp của họ thể hiện ở suy nghĩ, ở việc làm, không phô
37
trương, ít khi thể hiện bằng lời nói. Phần lớn những người nghệ sĩ trong sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư đều phải hi sinh tình cảm riêng để sống trọn với
nghề nghiệp, với kiếp cầm ca và những vai diễn trên sân khấu.
Nghề hát tuy có nhiều bạc bẽo nhưng cái tình của người nghệ sĩ thì thật
cao đẹp và đáng để chúng ta trân trọng. Con nhỏ Điệp trong “Chuyện của
Điệp” rất mê hát, ngoại của cô không cản, nhưng ngoại dạy: “Con muốn diễn
hay thì phải sống nhân ngãi trước đã. Mình sống có tình thì đóng vai nào cũng
dễ, con à”. Điệp là đứa biết suy nghĩ và có những tìm tòi nghiêm túc trong
nghề nghiệp của mình. Bằng sự chiêm nghiệm cuộc đời, nó đã chỉ dạy cho
bạn diễn cách đóng vai ác sao cho hay: diễn ác không nhất thiết phải hùng hổ,
bởi nhiều người ác ở đời có cái mặt tươi rói. Với cách nhìn đời sắc sảo, Điệp
rút ra bài học cho giới nghệ sĩ: người nghệ sĩ nên tùy vào sức của mình,
không nên đánh đổi tình thương để lấy sự nghiệp. Suy nghĩ của Điệp cho thấy
dù là người nghệ sĩ say mê nghề nghiệp nhưng vẫn luôn tỉnh táo trong khát
vọng tình yêu và hạnh phúc. Chữ “tình” là phẩm chất đặc biệt quan trọng
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
Cuộc đời của Diệu trong truyện ngắn “Làm má đâu có dễ” là một hoàn
cảnh trái ngang. Chị đã phải chấp nhận đánh đổi cả tình mẫu tử để có được sự
nghiệp ca hát rực rỡ, để đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Vai diễn Trưng Trắc
chị đã chờ đợi từ lâu, và chỉ khi được đóng những vai như vậy, chị mới nhanh
chóng trở nên nổi tiếng: “Đặt con xuống giường, chị thấy cái miệng nhỏ xíu
của nó mút mút. Rồi từ đó chị không dám nhìn thêm một lần nào nữa, sợ mãi
mãi không thể nhấc chân đi. Mà, chị thì không thể từ bỏ ước mơ của mình, trở
thành cô đào hát nổi tiếng. Làm sao từ chối vai diễn đã từng chờ đợi, nàng
Trưng Trắc oai hùng trong “Tiếng trống Mê Linh”[56]. Trong bộ ba quan hệ
với má và với con, chị không vẹn được bề nào. Đứa con gái như đòi lại món
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nợ chị đã vay của má khi chỉ tiếng “má” bình thường mà người nghệ sĩ ấy nửa
38
cuộc đời không được con mình mở miệng kêu. Rồi sau hết, chị quyết định từ
giã sân khấu, trở về nhà “làm con của má, làm má của con”. Khao khát cháy
bỏng được sống trong tình mẫu tử với nỗi đau quặn thắt khi đứa con dứt ruột
đẻ ra trông thấy chị, nó bảo: “Ủa, chế mới về hả. Hồi sáng này em nấu nước,
nghe lửa cười, biết thế nào cũng có khách, hỏng dè là chế”[56], dứt khoát
không chịu gọi chị là “má”.
Qua những trang viết về người nghệ sĩ miệt vườn, nhà văn trẻ Nguyễn
Ngọc Tư đã thể hiện một cái nhìn cảm thông, vừa sâu sắc vừa nhân hậu. Chị
đã cho người đọc thấy đằng sau những vẻ đẹp hào nhoáng, rực rỡ của ánh đèn
sân khấu không soi rọi tới được. Đó là những khao khát được sống trong tình
yêu, khao khát được làm vợ, làm mẹ, được yêu...bên cạnh niềm say mê nghệ
thuật. Nhưng có lẽ nghề nghiệp đã không cho họ có được niềm vui trọn vẹn.
Họ luôn phải chấp nhận và trả giá cho sự lựa chọn của mình.
Trong truyện Nguyễn Ngọc Tư motip người nghệ sĩ cô đơn. Phẩm chất
nổi bật của người nghệ sĩ là nhạy cảm và tha thiết với Cái Đẹp, bởi vậy, họ dễ
trở nên lạc lõng giữa đời thường. Người đời sẽ rất khó hiểu, khó đồng cảm và
khó lí giải được vì sao chàng công tử Bạc Liêu (“Cuối mùa nhan sắc”) lại từ
bỏ cuộc sống “no đủ, giàu sang, không phải làm gì, cả nhà chiều chuộng" để
đi theo một gánh hát "lụi hụi kéo màn, dựng cảnh, ăn cơm quán, ngủ sàn
diễn”. Càng thấy khó tin, thậm chí muốn lên án những người mẹ như đào
Hồng “vì mê hát (…) mà gửi con cho người ta, đến nước nó không thèm nhìn
mình nữa”, như Diệu (“Làm má đâu có dễ”) xa lìa cả đứa con còn đỏ hỏn để
được diễn vai mà chị đã chờ đợi từ lâu. Chảy trong dòng máu của những
người nghệ sĩ là khao khát được cống hiến. Nhưng đồng thời, họ cũng là
những người nhiều ảo tưởng, về thế giới, về bản thân mình. Họ đem Cái Đẹp
đến giữa cõi đời dung tục, đặt sự mơ mộng giữa những toan tính lạnh lùng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
muốn cho cuộc đời tràn đầy tiếng hát và cuộc sống thì như trên sân khấu. Và
39
họ thất bại. Những thất bại người đời thấy tất yếu, nhưng với họ thật khó mà
san sẻ. Câu mà một nhân vật nghệ sĩ của Nguyễn Ngọc Tư thường nói là :
“Tụi bây thì biết gì”.
2.2.2. Người nông dân Nam Bộ
Truyện của Nguyễn Ngọc Tư so với các nhà văn đi trước như Sơn
Nam, Hồ Biểu Chánh đa phần hướng tới những tình cảnh gia đình nghèo, đề
cập đến số phận buồn của những con người nhỏ bé, dù họ là nông dân hay
nghệ sĩ. Khảo sát bốn tập truyện: “Giao thừa”, “Cánh đồng bất tận”, “Gió lẻ
và 9 câu chuyện khác”, “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, chúng tôi thấy tỉ lệ
những truyện trực tiếp nói về cái nghèo là 28/44, những truyện còn lại người
đọc cũng dễ dàng cảm nhận được cuộc sống nghèo nàn, lạc hậu của những
người nông dân lam lũ. Các nhân vật chính trong tác phẩm là người nông dân
chiếm tỉ lệ 23/44. Nhân vật trong truyện thường là những con người dưới đáy
xã hội, cuộc sống tăm tối nghèo nàn, không tương lai. Họ là những con người
thấp cổ bé họng, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những vấn đề thời sự xã hội
đương thời. Họ phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống: làm ruộng, chăn vịt chạy
đồng, gánh nước thuê, chèo đò,...tuy nhiên vẫn không thể thoát khỏi sự nghèo
khổ. Họ không có nhà để nương thân, sống trong những căn chòi tạm bợ, lẻ
loi cô độc giữa cánh đồng, hay những căn nhà lá ọp ẹp, cũ mèm, những căn
nhà ổ chuột nơi góc cùng tăm tối một ngoại ô, hay nằm sát ngay giữa nghĩa
địa vắng vẻ, xác xơ. Đó là không gian sống của những người lao động nghèo.
Gắn bó chặt chẽ với nếp sinh hoạt của các nhân vật là những dòng
sông, những cánh đồng với nắng và gió. Chăn vịt chạy đồng là một nghề quen
thuộc của người dân miền Tây Nam Bộ. Dân gian có câu “Muốn giàu nuôi cá,
muốn khá nuôi heo, muốn nghèo nuôi vịt”, chẳng ai “muốn” nghèo, bởi chăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vịt là một nghề cơ cực và đầy rủi ro, đàn vịt hàng trăm con có thể chết vì dịch
40
cúm gia cầm bất cứ lúc nào. Biết vậy, họ vẫn phải chăn vịt, và những người
làm nghề chăn vịt chạy đồng đều có cuộc sống tạm bợ, phiêu bạt lênh đênh
trên sông nước, nay đây mai đó như ông già chăn vịt trong “Cái nhìn khắc
khoải”. Ông đã từng tham gia chiến tranh, trở về vợ đã chết vì đạn pháo. Ông
sống một mình giữa bầy vịt khiến mấy người bạn lang bạt của ông lần nào
cũng cằn nhằn: “Cha nội nầy sống thấy rầu quá trời đất, mai mốt con vị xiêm
nó chết rồi, để coi ông sống với ai”.
Cuộc mưu sinh và chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt cũng như sự
dữ dội, bất chắc của nghề chăn vịt trong “Cánh đồng bất tận” khiến người
đọc không khỏi rùng mình. Không như những người chăn vịt chạy đồng khác,
thường trở về nhà khi hết mùa lúa chín, cha con Nương vẫn phải sống lang
thang: “Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi
khi không hẳn vì cuộc sống”. Bởi mục đích người cha chọn nghề này vì muốn
lìa bỏ quê hương, để mải miết chạy theo hành trình trả thù đàn bà mà không
biết rằng ông đang hủy hoại chính cuộc đời mình và những đứa trẻ vô tội.
Hình ảnh “Họ rải vôi trên những hố chôn lớn bằng mấy khẩu đìa cộng lại. Họ
chọn những con vịt còn sống, còn giãy giụa, còn gào thét vào bao tải, buộc
miệng và quăng xuống đó” không có gì xa lạ trong thời điểm diễn ra dịch cúm
gia cầm trên cả nước. Góp thêm vào bức tranh điêu tàn đó là một cảnh tượng
đầy ám ảnh: “Sáng sau, người ta tìm được một người chăn vịt nằm sát mép
hố, mắt chong chong ngó trời không chớp, miệng sủi ra thứ nước bọt, trong
vắt như bọt cua nhưng hôi nồng nặc. Chai thuốc trừ sâu lăn lóc cạnh đó đã
cạn tới giọt cuối cùng”[58]. Bối cảnh xã hội hiện thời thấp thoáng đan xen
trong cốt truyện của chị là rất thật. Có thể nói, cuộc sống của những người
chăn vịt chạy đồng lần đầu tiên được Nguyễn Ngọc Tư phơi bày một cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trần trụi như vậy. Đó là cuộc sống của người dân quê còn đậm vẻ hoang sơ,
41
hoang dã. Con người ít được học hành, đành tự học cách sống, tự thích nghi
với cuộc đời, sống theo bản năng...ngay giữa thời hiện đại.
Hiện thực trong “Thương quá rau răm” lại phơi bày một hiện thực
buồn thảm và nghèo nàn của nông thôn Nam Bộ, đặc biệt là ở những vùng cù
lao xa tít “nằm gần cuối sông Dài” như Mút Cà Tha. Ở đây thiếu trầm trọng
những dịch vụ chăm sóc y tế tối thiểu, thiếu trầm trọng đội ngũ y bác sĩ, thiếu
thuốc men, những người tri thức trẻ về được một thời gian rồi sẽ lại ra đi.
Người cù lao rất cần và quý bác sĩ, họ níu kéo bằng tất cả tình thương nhưng
vẫn không giữ được chân người. Những đứa trẻ lớn lên, đi học thành tài rồi
thì cũng không muốn trở lại cái xứ “khỉ ho cò gáy” này nữa. Họ đã phải trả
giá cho sự nghèo khổ, cho nơi sinh sống heo hút của mình bằng chính mạng
sống của họ. Tuy nhiên, cuộc sống dù còn tăm tối vì thiếu ánh sáng văn minh
nhưng không làm vơi đi tình thương của ông già Tư Mốt với Mút Cà Tha này.
Đói nghèo thường song hành cùng nỗi buồn. Nếu thể hiện được cái
nghèo đặc sắc nhất thì đó là “Thổ Sầu”. Nhiều khi vì đói nghèo mà người ta
khinh rẻ, cười cợt, khiến con người cảm thấy nhục nhã muốn chết như cha
thằng Đậu. Ông không hiểu nổi tại sao những người khách du lịch khi đến
Thổ Sầu lại háo hức đến mức vui sướng ra mặt khi nhìn thấy những căn nhà tả
tơi, những đồ vật cũ kĩ, những lũ trẻ gầy nhom và đen đúa, cuộc sống nghèo
đến mức không thể tin nổi: “Những căn nhà cột cặm gió thổi lá mục rơi lả tả,
chiếc tivi đen trắng sài bình ắc quy làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương
vẫn còn dài mà khung hình chỉ còn chút xíu vì thiếu điện. Những cái cối xay
bột bằng đá xám. Những cái vách buồng được đan bằng sậy giập” hay “một
chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu, mấy cái đèn cóc lụn tim,
chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai, mắt tre dù đã chuốt kĩ vẫn gù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lên lông chông”[59]. Cái nghèo “đạt” đến mức gần như thời nguyên thủy của
42
Thổ Sầu lại có sức hấp dẫn khách du lịch kinh khủng vậy. Hiện thực cuộc
sống chen lẫn hiện thực tâm trạng, một màu sắc tăm tối bao trùm lên những
kiếp người nghèo khổ cả đời ngụp lặn trong vũng bùn của đời mình mà không
thể thoát ra bởi một lí do hết sức phi lí: chính cái nghèo lại trở thành “cần câu
cơm” của họ, để hấp dẫn khách du lịch. Thổ Sầu “không được phép” giàu. Để
khách được “thưởng thức” nỗi buồn khổ, sự nghèo khó của đồng loại như một
thứ đặc sản quý hiếm không thể tìm thấy ở nơi đô thị. Chung quy của cái
buồn và nhục nhã đau đớn ấy cũng chỉ vì nghèo. Điều đáng nói ở đây là
những con người đứng đầu một địa phương lại vạch ra một chiến lược kinh
doanh kì cục và bất nhẫn đối với thân phận con người, đang tâm dìm Thổ Sầu
trở lại nguyên thủy, đày đọa những con người nghèo khổ ngập chìm trong sự
thiếu thốn vật chất và sự tổn thương tinh thần. Ngọc Tư đã miêu tả cái tình
của con người Nam Bộ thật mặn mà, sâu đậm, đằng sau cái nhìn đó là nỗi đau
về một vùng đất tăm tối, nghèo nàn.
Viết về đề tài nông thôn nhưng Nguyễn Ngọc Tư không chỉ đặt người
nông dân trong “địa bàn” đồng ruộng, khi đất bị thu hẹp dần, chị còn đặt
người nông dân vào những môi trường rộng lớn hơn, xa lạ hơn: đó có thể là ở
thành phố, ở tỉnh, ở chợ,...để làm nổi bật sự lam lũ, sự thua thiệt, rủi ro của
người nhà quê so với những người thành phố. Truyện ngắn “Giao thừa” hé
mở cho chúng ta thấy cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn của những con người từ
ruộng ra phố bán dưa Tết, bán bông Tết. Công việc cực nhọc đầy may rủi, mà
nguy cơ lỗ vốn luôn chực chờ. Họ đều phải bươn chải nhọc nhằn trong cuộc
mưu sinh, họ luôn phấp phỏng với nỗi lo âu “dưa trúng mùa cả núi vầy ăn gì
cho hết”, “năm nay chắc thua rồi”[56]. Cảnh những quầy hàng bán dưa, bán
bông trên bãi đất xác xơ trống trải đối lập với những tòa nhà cao tầng lộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lẫy, ngất ngưởng khiến người nông dân lam lũ ấy vẫn lạc quan trong tình yêu
43
với cuộc đời. Niềm vui của Đậm khi có Quý ở bên giúp đỡ trong khung cảnh
sắp giao thừa gợi cho người đọc bao cảm xúc. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư
dù trong đói nghèo lam lũ nhưng biết vươn lên, khao khát hạnh phúc và tình
yêu. Họ biết tìm cho mình một lối sống, một cách để yêu thương, để tự tin
trước cuộc đời.
Truyện ngắn “Lỡ mùa” lại phản ánh một thực trạng đáng báo động ở
miền Tây Nam Bộ: do thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm của một số cán bộ
lãnh đạo trước những vấn đề bức xúc của nông dân: vấn đề ruộng đất cho dân
cày. Người dân nghèo ở Trảng Cò khổ vì không có đất canh tác do những quy
hoạch “treo”. Có ai quan tâm tới họ không? Lãnh đạo có nghe tâm tư nguyện
vọng của người dân trước khi quyết định một vấn đề liên quan đến đời sống
của họ không? Rồi đây họ sẽ sống bằng cách nào? Tuyệt nhiên không ai đề
cập đến. “Lỡ mùa” day dứt người được cũng vì lẽ đó.
Một trong những vấn đề bức xúc nhất của vùng đồng bằng sông nước
đó chính là vấn đề “dòng sông và những cây cầu” . “Qua cầu nhớ người” là
câu chuyện nóng bỏng, bức xúc khi xã Đội Đỏ - một xã anh hùng mà không
có lấy một cây cầu bắc qua sông Dài. Cái khát vọng chính đáng và hết sức
bình dị ấy của người dân chỉ được thực hiện khi Hai Nhỏ cầm cố hết đất vườn
để tự nguyện xây một cây cầu. Tại sao chỉ có một cây cầu bắc qua một khúc
sông nhỏ chưa đầy năm chục sải tay mà lại trở thành ước mơ xa vời đối với
chừng ấy con người ngay giữa thời hiện đại? Tại sao chính quyền địa phương
không giải quyết mà phải đợi chờ những người dân dám nghĩ dám làm, không
toan tính thiệt hơn như Hai Nhỏ, Năm Hiệp ra tay thì đôi bờ thương nhớ mới
được xích lại gần nhau hơn. “Qua cầu nhớ người” chính là nhớ cái ơn, cái
tình của những người nông dân nghèo mà hào hiệp, không toan tính, giàu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lòng yêu quê hương.
44
Lớn lên từ đồng ruộng quê hương, là một người con của Nam Bộ,
Nguyễn Ngọc Tư đồng cảm sâu sắc về thân phận người nông dân. Chị luôn
bộc lộ tình cảm yêu mến đối với những con người hai sương một nắng gần
gũi và thân thương với mình. Hiện thực cuộc sống nông thôn Nam Bộ được
phơi bày trong sáng tác của chị khiến người đọc không khỏi giật mình. Đôi
khi cảnh nghèo khó vẫn hiện lên qua những chi tiết rất “vô tình” khiến người
đọc dễ dàng hình dung một cuộc sống thiếu thốn về vật chất: Đó là những
“ngôi nhà lá cũ mèm” mà mỗi mùa gió chướng đều là nỗi lo vì không biết nó
sẽ sập lúc nào, “cái lồng bàn bằng tre đậy mâm cơm được lợp thêm một lớp
vải, nếu không mọt trên trần nhà rắc xuống như người ta rắc tiêu xay, mấy bộ
ván mọt gặm lởm chởm, đi trong nhà luôn phải đề phòng nước rớt, mấy cây
cột bị mối gặm lam nham, búng ngón tay nghe kêu bộp bộp...”[59]. Cái nghèo
hiện lên qua những vật dụng cũ kĩ, lạc hậu hoàn toàn xa lạ với xã hội hiện đại:
cái bình trà sứt vòi, cái lu đựng nước mưa, cái nhà tắm làm bằng lá dừa,
“chiếc ti vi đen trắng mỗi lần mở phải đập thùm thùm; vài xâu cốm gạo treo
trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên nầy, trái cây như khóm, bí
rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia; qua lối sinh hoạt kiểu ăn đong
hàng ngày: mỗi chiều về mua một ngàn mỡ nước, năm trăm bột ngọt, năm
trăm tỏi, năm trăm tiêu; qua những “gia tài” chỉ là gánh chè rong, chiếc xe
kẹo kéo, đàn vịt, chiếc ghe nhỏ...”[58]. Sự chân thực hiện lên qua những chi
tiết miêu tả cảnh sinh hoạt hàng ngày của người dân vùng Nam Bộ. Đó là
cảnh những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, hình ảnh họ mang
xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, săn đón ghe hàng bông, mua rau, và bán
lại những quày chuối chín trong vườn. Rồi những cảnh đi xem biểu diễn cải
lương trên những sân khấu tự dựng, hình ảnh chàng trai nằm trên ghe ca vọng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cổ...Hay cảnh nằm đu đưa, thò tay có thể hái xoài ăn, nghe chim hót trong
45
vườn, nghe cá quẫy dưới mương, ngắm vườn kiểng rồi ngủ thiếp lúc nào
không hay. Tỉnh dậy thì ăn cá lóc nướng trui với nước mắm me, rượu đế nếp
than, chơi đàn kìm...Đó là những chi tiết bình dị, gần gũi với lối sinh hoạt của
người dân miền Tây sông nước, góp phần hình thành nên tính cách con người
Nam Bộ nói chung.
Với một tấm lòng nhân hậu, yêu thương và đồng cảm sâu sắc, với sự
quan sát tinh tế, Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện bức tranh đời sống của những
người lao động nghèo khó trên quê hương miền Tây của chị. Họ không chỉ
nghèo khổ mà còn gặp nhiều éo le ngang trái, khiến cho cuộc sống vốn đã vất
vả lại càng thêm túng quẫn. Trong những tình cảnh éo le, ngang trái, Nguyễn
Ngọc Tư muốn để họ tự bộc lộ những tâm tư, suy nghĩ, họ tự có những cách
ứng xử...từ đó làm nổi bật tinh thần lạc quan và nghị lực vượt lên trên số
phận. Vì vậy những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư đậm màu sắc hiện thực,
nóng hổi chất đời thường như những trang kí sự chân thực, của một tấm lòng
đôn hậu, một tài năng sắc bén và một bản lĩnh cứng cỏi của người cầm bút.
“Nếu ở hình tượng người nghệ sĩ, Nguyễn Ngọc Tư đi sâu vào tìm hiểu
số phận của cuộc đời nghệ sĩ của họ thì ở hình tượng người nông dân Nam
Bộ, tác giả lại nghiêng về khắc họa tính cách nhiều hơn. Đó là những con
người hiền lành, chất phác, thật thà, nhưng tình yêu và tình người thì dạt dào
như biển nước Cà Mau”[10.1]. Hình tượng người nông dân chiếm một số
lượng khá lớn trong các tác phẩm của chị: 21/32 tác phẩm, tức là khoảng 66%
số lượng tác phẩm. Trong những năm 80, “Đất rừng Phương Nam” của Đoàn
Giỏi đã dựng lên hình tượng người nông dân Nam Bộ khỏe mạnh, chất phác
mà rất trọng tình nghĩa. Bây giờ, Nguyễn Ngọc Tư lại mang đến cho ta hình
tượng người nông dân Nam Bộ cũng lam lũ, mộc mạc, tình nghĩa nhưng nín
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhịn, giỏi chịu đựng.
46
Cũng giống như người nông dân ở khắp mọi nơi, người nông dân Nam
Bộ trong truyện Nguyễn Ngọc Tư là những người chăm chỉ, chất phác, hai
sương một nắng làm lụng kiếm sống. Họ làm đủ nghề: Nghề chèo đò (Lương
-“Bến đò xóm Miễu”); nghề chăn vịt (Ông Tư Mốt - “Cái nhìn khắc khoải”);
nghề gánh nước thuê (Tiên - “Nửa mùa”); nghề làm ruộng (Ông Ba Già -
“Lỡ Mùa”); nghề bán dưa (Đậm -“Giao Thừa”); nghề hát rong (Chú Đời -
“Đời như ý”); nghề ghe thuyền (Ông Chín - “Nhớ sông”)...
Xoay đủ cách, kiếm đủ nghề để sống, nghề nào cũng thấy vất vả, cực
nhọc: “Suốt ngày quần quật trên sông mà bộ mình khẳng khiu chỉ độc cái
quần tà lỏn dính đầy nhựa trong của thời làm sai vặt ở các trại xuồng”[56.99]
“Cô thấy mình giống cỏ ven đường, người ta đi qua đạp, đi lại đạp vẫn
ngoi lên sống, sống cỗi cằn. Những mùa lam lũ. Những mùa cực nhọc. Một
mình chống chọi”[56.69]
Mặc dù vất vả như vậy, nhưng hầu hết họ đều nghèo. Nghèo như một
căn bệnh truyền nhiễm, khắp nơi nơi, ở đâu cũng thấy trong cuộc sống của
người nông dân. Hình như, cứ nhắc đến họ là người ta nhắc đến chữ: Nghèo.
“Anh đã chèo hết thảy chín xác đò. Bến đò Đậu Đỏ qua xóm Miễu sang
đi nhượng lại qua tay bốn người chủ. Mà Lương vẫn còn nghèo. Lương khoe,
nghèo, cực nhưng vui lắm”[57.84]
“Gia đình ông Chín sống hẳn trên ghe. Cảnh của ông cũng buồn lắm.
Nhà nghèo, ra riêng, gia đình ông chỉ có hai công đất”[58.114]
Thông qua hình ảnh người nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long,
ngoài những nét riêng biệt, người đọc cũng nhận thấy những đặc điểm của
người lao động nói chung ở bất kỳ vùng miền nào. Đó là sự lam lũ, vất vả,
“hai sương một nắng” chăm chỉ, cần cù, chất phác; xoay đủ nghề để kiếm
sống và vẫn không thoát khỏi chữ “nghèo”. Nguyễn Ngọc Tư đã làm cho bức
tranh đời sống hiện thực của Đồng bằng sông Cửu Long thêm phần sinh động. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
Bằng các tác phẩm của mình, chị cũng làm cho bức tranh về nông thôn Việt
Nam hiện đại đầy đủ hơn, hình ảnh người nông dân thời nay rõ nét hơn.
2.2.3. Chất thơ của vẻ đẹp tâm hồn
2.2.3.1. Nhân vật đầy tính thiện
* Con người bộc trực, chan hòa
Con người trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư sống tình nghĩa với bà
con họ hàng, với đất đai quê hương, với tất cả những con vật gắn bó với họ
trong công việc. Họ thật giản đơn, cởi mở, mến khách, nghĩ sao nói vậy. Nhìn
chung ấn tượng về nhân vật Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đó
là những con người chan hòa, cởi mở, thân thiện và dễ gần.
Trong “Thương quá rau răm” tình cảm của ông Tư Mốt với Văn đâu
chỉ đơn giản là cầu cạnh Văn ở lại Mút Cà Tha. Cách đối xử của ông đối với
Văn cũng là cách ứng xử xã giao quen thuộc của con người miền Tây Nam
Bộ: “Gặp Văn lần đầu tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù
lao, thấy cái mặt buồn buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách,
không có gì sâu nặng bằng tình cảm người với người”[58.17]. Lấy tình người
ra đối đãi với nhau, dù người đó họ chưa hề quen biết, đó là phẩm chất của đa
số người lao động nói chung..
* Con người xả thân vì nghĩa
Chất Nam Bộ rắn rỏi, mạnh mẽ, sẵn sàng xả thân vì nghĩa của vùng
Đồng bằng sông nước cũng được thể hiện đặc sắc trong thế giới nhân vật của
chị. Dù cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, họ sẵn sàng cưu mạng những
người thất cơ lỡ vận. Người đàn ông trong “Cái nhìn khắc khoải” dù chỉ có
độc một chiếc ghe cũng không ngần ngại cho cô Út quá giang một đoạn đời
của mình. Cũng vào hoàn cảnh như thế, ông Chín trong “Đau gì như thể...”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không những cưu mang Cô Cúc lúc bụng mang dạ chửa mà khi Cúc bỏ đi,
48
ông lại tiếp tục cưu mang con gái của cô - Nga - không một lời kêu ca, phàn
nàn. Cả người cha trong “Cánh đồng bất tận” cũng chỉ vì sẵn lòng cưu mang,
cho một cô gái quá giang đi nhờ mà cuộc đời của ông hoàn toàn chuyển sang
hướng khác. Dường như đối với người Nam Bộ, cưu mang, giúp đỡ người
khác là trách nhiệm, là phép ứng xử thường nhật của con người.
Ta đã thấy trong nhiều tác phẩm văn học các nhà văn Nam Bộ những
nhân vật nam giới, những người đàn ông Nam Bộ sống rất trượng nghĩa mà
chàng Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là hình tượng lớn lao, đặc sắc
nhất. Ở Nguyễn Ngọc Tư hình tượng người phụ nữ vùng Nam Bộ được thể
hiện sắc nét, như một sự bổ sung vào thế giới nhân vật con người Nam Bộ.
Trong các truyện của Nguyễn Ngọc Tư, truyện vừa “Cánh đồng bất tận” thể
hiện người phụ nữ tập trung nhất, tính cách, số phận phức tạp nhất. Câu
chuyện: “Dòng nhớ” thật thú vị và đặc biệt. Hiếm có người phụ nữ nào như
“Má tôi”. Bà đi khắp các bến sông tìm lại người vợ cũ cho chồng mình. Nén
chặt lòng mình để người khác được vui, ngậm ngùi nhưng lại vun đắp hạnh
phúc cho người khác. Đó cũng là một trong những phẩm chất làm người ta
không thể quên con người Nam Bộ.
Nổi bật hơn cả cho tính cách Nam Bộ, đó là: sống đẹp, yêu thì yêu hết
mình, còn tin thì tin mãnh liệt. Họ sống với nhau bằng cái tình, bằng sự yêu
thương đùm bọc lẫn nhau. Họ yêu ai là yêu trọn đời, họ tin ai là tin đến quên
đường về, và mặc dù cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, họ sẵn lòng cưu
mang những người thất cơ lỡ vận. Tiêu biểu cho tính cách này, có truyện
ngắn: “Cái nhìn khắc khoải”. Nhân vật cô Út trong truyện đã yêu và đặt niềm
tin mãnh liệt vào một anh thợ gặt mà cô không hề biết gốc gác ở đâu. Nợ
nhiều quá, người ta xiết nợ, anh đành phải bỏ chị mà trốn đi. Vậy mà chị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không hề hận thù anh, chỉ trách bằng cách rất nhẹ nhàng bằng hai từ “tệ
49
thiệt”, và giận quá, chị gọi anh bằng “thằng”, “thằng đó” thì lập tức có tiếng
“xin lỗi” đi kèm. Rồi lủi thủi ra bờ sông ngồi khóc, bơ vơ nơi xứ người,
không biết phải đi về đâu. Bản tính người phụ nữ Nam Bộ là vậy, hiền lành,
vị tha và yêu hết mình. Rõ ràng, Nguyễn Ngọc Tư đã lột tả được một nét tính
cách rất khác, rất đặc trưng của người Nam Bộ, sống rất trượng nghĩa, sẵn
sàng xả thân vì nghĩa nhưng cũng rất đơn giản, mộc mạc đôi khi đến mức nhẹ
dạ, dại khờ.
* Con người với bản tính nín nhịn, chịu đựng
Không giống với những nhân vật cương trực, giàu khí phách, chống lại
áp bức của các tác phẩm văn học giai đoạn trước, Nguyễn Ngọc Tư còn phát
hiện một bản tính khác của con người Nam Bộ, đó là bản tính cam chịu đến
nhẫn nhục. Nhân vật trong truyện của chị phần lớn là những con người ít phản
kháng trước những ngang trái, bất công, nhưng có khả năng chịu đựng. Phẩm
chất của người lao động phải chăng một phần là sản phẩm của thiên nhiên,
hơi thở cuộc sống của từng vùng miền mang lại. Mỗi mảnh đất, điều kiện
khác nhau đã tạo dựng, đào tạo ra những con người có phẩm chất khác nhau.
Nếu như hình tượng người nông dân Nghệ Tĩnh của Nguyễn Minh Châu kiên
nhẫn nhưng không an phận, luôn mang khát vọng vươn lên, thì hình tượng
người nông dân của Nguyễn Ngọc Tư lại mang hởi thở, phong cách rất đặc
trưng của con người Nam Bộ: Nhân hậu, nín nhịn, giỏi chịu đựng. Người
nông dân Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư sống ở vùng đất “thiên
đường nhỏ”: Nằm võng đu đưa, thò tay ra có thể hái xoài ăn, nghe chim hót
trong vườn, nghe cá quẫy dưới mương, ngắm vườn kiểng, rồi ngủ thiếp lúc
nào không hay. Tỉnh dậy thì ăn cá lóc nường trui với nước mắm me, rượu đế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nếp than, nghe cải lương, chơi đàn kìm. Tất cả đã tạo nên tính cách con
50
người: Nhân hậu, nín nhịn, giỏi chịu đựng, tính tình đơn giản, cởi mở, mến
khách, không triết lí hoa xòe lộn xộn.
Trong gia đình Tư Nhớ trong “Đau gì như thể”, hai cha con bị đổ cho
tiếng là hại đời con riêng của vợ. Dẫu bị oan, mà hai cha con cũng chẳng biết
làm gì. Ông già chỉ biết “nổi quạu đùng đùng, thiên hạ phải để tôi sống đàng
hoàng như một con người chớ. Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại
con người không học cách hiểu nhau”[57.121]
Hay những người nông dân nghèo làng Trảng Cò, trong truyện “Lỡ
mùa”: người nông dân khổ vì không có đất canh tác do những quy hoạch treo.
Họ mất đất, nên luôn ao ước được cày bừa trên mảnh đất của chính mình mỗi
khi thấy mưa về, nhưng giờ đây cũng không được: “Trời vẫn trĩu đầy nước,
tối âm u, ông Ba thấy núi mây đen thẫm dựng lên một mảng trời phía Trảng
Cò, ông chắc lưỡi như xót xa lắm, điệu này dưới mình mưa lớn dữ, đất chắc
chìm hết rồi, đồng chỉ chắc còn loi ngoi cỏ, muốn cày, bừa cũng khó lắm đây.
Ông Ba già nghe ruột mình nôn lên, từng khúc, từng khúc, nghẹn ứ đến mức
ông không lên tiếng được”[57.38]. Công cuộc đi kiện tụng, gặp nhà chức
trách cũng chỉ là con kiến kiện củ khoai mà thôi.
Những anh chàng Hai Lúa yêu mà hổng dám ngỏ lời, những ông già
cuối đời vẫn sống cô đơn và hơn nữa là biết chấp nhận. Và khát vọng về một
tình yêu toàn vẹn, về tình yêu thương giữa con người với con người...luôn là
thông điệp, khát vọng của cuộc sống con người.
2.2.3.2. Nhân vật với tình yêu cuộc sống
Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư nhân vật của chị hay khóc: “Mãi dì
Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở ồ ồ, nhìn cảnh mọi
người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín. Cho đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khi ông Mười xuất hiện, ông bảo, “Mấy chú làm ơn dừng lại một chút” rồi
51
cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con, lau khô rồi nước
mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm
già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như
ông cũng đau lắm, xót lắm”[58.82] hay là : “Nhưng không phải buồn Phương
lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng. Rồi họ, và cả
má tôi đều bảo tôi khóc đi.”[58.71]
Nhưng thử để ý, tiếng khóc trong văn Nguyễn Ngọc Tư là vì thương
yêu, không vì oán giận. Không phải là cái khóc vì nghẹn ngào, day dứt, ủ rũ.
Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa miền Nam, và người đọc biết chỉ khoảnh
khắc thì mưa sẽ tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quyệt
nước mắt xôn vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình.
Ở một tác phẩm có kết cục đầy bạo liệt và dữ dội như “Cánh đồng bất
tận” vẫn là bản lĩnh tác giả níu cảm xúc người đọc kịp dừng lại bên bờ tuyệt
vọng. Khi mầm thiện trong trái tim nhân vật xưng “tui” ngập trong máu và
nước mắt vẫn bừng xanh niềm hy vọng sâu sắc thiêng liêng: nếu như Nương
“bị có con” sau cuộc bạo hành, thì “đứa bé không cha nhưng chắc chắn sẽ
được đến trường”, sẽ sống hạnh phúc “và được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên
tha thứ những lỗi lầm của người lớn”[58.213]. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, các
nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư cũng không nguôi khát vọng về một cuộc sống
tốt đẹp. Một niềm tin lạc quan.
Không chỉ trong cuộc sống, niềm khao khát, tha thiết hạnh phúc lứa đôi
cũng làm cho những câu chuyện tình yêu của Nguyễn Ngọc Tư trở nên hấp
dẫn cuốn hút và trong trẻo đến lạ thường. Dù bất cứ đối tượng nào, dù nhân
vật là nam hay nữ, dù có thể ngỏ lời bộc lộ tình cảm hay không thì các nhân
vật của chị đều có một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu. Trong tình yêu, họ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một phẩm chất chung đó là tin tưởng tuyệt đối vào người yêu, sẵn sàng hi
52
sinh mọi thứ cho người mình yêu và không hề đòi hỏi gì. Niềm lạc quan đó là
chất thơ ấm áp để con người thăng hoa trong cuộc sống, để người đọc thấy
thú vị như là mình đã phát hiện thấy một thứ quý giá mà không ở đâu xa, nó
đang ở rất gần bên mình mà không biết.
Họ sẵn sàng chờ đợi, một sự chờ đợi đáng thán phục: “Thêm một mùa
gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà? Chị
bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta
đánh cờ mà trong tâm “viễn ly điên đảo mông tưởng cứu cánh niết bàn”, trời
người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông”[58.36]
Chính vì vậy, những cái kết các tác phẩm của chị thường xuyên để lại
dư ba những âm hưởng miên man, khó quên trong người đọc.
2.2.4. Nhân vật với những bi kịch đời thường
Các nhân vật trong truyện đều đầy tính thiện, thế nhưng cái vũng luẩn
quẩn của đói nghèo dốt nát, lam lũ và điều kiện sống ngột ngạt dần xô đẩy
người này trở thành nạn nhân của người kia. Vì thế ở cái hậu của mỗi câu
chuyện, tính cách nhân vật thường là dở dang, lận đận.
Số phận của những người nghệ sĩ hát tuồng: Đằng sau ánh hào quang
sân khấu, cuộc đời thực của những người nghệ sĩ lại đầy nỗi ưu tư. Họ sống
hết mình với những vai diễn nhưng khi cởi bỏ mũ áo, rửa trôi lớp son phấn
trên mặt đi rồi, trở về với cuộc đời thực thì lòng họ lại se thắt, thật buồn. Họ
thường có số phận hẩm hiu, không trọn vẹn. Cuộc đời họ thường phải trải qua
nhiều sóng gió, có khi phải chạy ăn toát mồ hôi nhưng lòng yêu nghề không
vì thế mà bị san sẻ, vợi bớt.
Người thì có con nhưng không được làm mẹ, nước mắt lưng tròng khi
con gái mình dứt ruột đẻ ra lại gọi mình bằng chị và coi mình như khách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(“Làm má đâu có dễ”); người thì phải gánh chè đi bán (“Cuối mùa nhan
53
sắc”); Người phải bán vé số, người nằm liệt giường nhưng không có tiền để
mua thuốc uống (“Bởi yêu thương”). Cay đắng ám ảnh hơn nữa là cuộc theo
đuổi của San và Phương trong “Ngày đùa”. Chỉ vì những cảm xúc của vai
diễn, Phương không bao giờ dám sống thực, sống hết mình với bản thân, cuộc
đời mình: “Tôi thèm hạnh phúc nhưng không cho phép mình hạnh phúc. Một
tâm hồn đầy đủ sẽ không thể diễn được những tâm tư giằng xé. Vì nghệ thuật
tôi hi sinh cả cuộc đời mình”[56.136];
Cuộc đời nghệ sĩ của họ đã cống hiến biết bao công sức của mình cho
nền nghệ thuật sân khấu nhưng đến cuối đời lại hẩm hiu đến vậy. Cuộc đời cứ
trớ trêu vậy đấy, cuộc đời thực và cuộc đời sân khấu cứ trái ngược nhau,
không trùng khít với nhau. Nói đến điều này, cũng có nghĩa là tác giả đã đứng
về phía họ, nghiêng mình xuống với họ, chia sẻ và cảm thông. Đây chính là
tính nhân bản, nét nhân văn cao cả và cũng là nội dung tư tưởng của hệ thống
truyện về người nghệ sĩ của Nguyễn Ngọc Tư.
Đối với cuộc đời của những người nông dân, số phận của họ cũng
không có gì tươi sáng hơn. Truyện của chị đa phần dừng lại ở những tình
cảnh gia đình, đề cập đến số phận buồn của những con người nhỏ bé, những
nông dân chân chất với những ước mơ và cuộc sống hết sức bình dị đời
thường rất đáng đáng cảm thông, trân trọng, nhưng đôi khi cuộc đời nghiệt
ngã cũng không cho họ được như ý, toại nguyện.
“Nhớ sông” nói về cảnh bất hạnh của gia đình ông Chín, vợ mất sớm vì
một tai nạn bất ngờ trên sông nước, để ông phải lâm vào cảnh “gà trống nuôi
con”. Dù nghèo, nhưng ba cha con vẫn gắn bó với nhau bằng một tình thương
yêu hết sức thiêng liêng, cảm động. Đọc truyện nhiều người phải rớt nước mắt
vì cảnh gia đình ông Chín: “Gia đình ông Chín sống hẳn trên ghe. Cảnh của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ông cũng buồn lắm. Nhà nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai công đất. Năm
54
Giang ba tuổi, Giang lên sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền còn dư lại,
ông mua chiếc ghe nhỏ đi bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau linh đinh sông
nước”[58.14].
Đọc truyện của chị người đọc có băn khoăn: ở vùng đất đồng bằng này,
còn bao nhiêu gia đình đang ở vào tình cảnh như gia đình ông Chín, gia đình
của Điệp, gia đình của cha con Tư Nhớ?
Truyện “Cải ơi!” đề cập tới tình cảnh của ông già Năm Nhỏ phải chịu
tiếng oan là “giết con” khi nhỏ Cải (con của vợ ông), làm mất đôi trâu, sợ
đòn, bỏ trốn. Cuộc hành trình dài lặn lội đi tìm đứa con, với nhiều “phương
kế” của ông, của một người “cha ghẻ” (bố dượng) để mong tìm được con Cải,
có nhiều chi tiết hết sức tình người, rất xúc động. Những chi tiết này là cuộc
sống sinh hoạt đời thường, bình dị, giàu chất Nam Bộ và cũng thấm đượm
tình người.
Số phận của những người phụ nữ được nhà văn đặc biệt quan tâm. Ở
từng câu chuyện, từng số phận họ có những kết cục không giống nhau nhưng
tất cả đều không lối thoát và bế tắc. Đặc biệt trong “Cánh đồng bất tận” nỗi
khổ, số phận người phụ nữ còn được đề cập đến ở những tình huống éo le: Từ
người đàn bà đánh ghen đến người đàn bà thân thuộc trong gia đình - mẹ - tới
những người đàn bà khác mà “tui” gặp trên những con sông cạn nước, trên
những cánh đồng khô nẻ cho tận những người đàn bà bị Cha gạ gẫm, bịt lối
quay về. Tất cả đều là mang đến những nỗi buồn đứt ruột. Rồi Nương và Điền
lại là nạn nhân của cha mẹ, phải sống vạ vật với đầy tàn tích trong tâm hồn.
Phải chăng sự báo ứng rơi vào hai đứa trẻ trong trắng đáng thương: Điền tự
hủy hoại bản năng đàn ông của mình, vô vọng chạy theo người đàn bà bị sỉ
nhục; còn Nương bị đám trai làng hãm hiếp ngay trước mặt người cha tội lỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đang đổ nghiến xuống bùn. Không lên gân bạo liệt, không tăm tối bi quan,
55
những đoạn văn đầy tình tiết trắc ẩn như thủ thỉ dịu dàng mà đẩy dần số phận
từng nhân vật tới tận cùng bi thảm.
Và kết thúc các câu chuyện bao giờ cũng dở dang và ngổn ngang các
câu hỏi: “Nhưng mà chờ tới chừng nào lận? Ai mà biết. Mùa này gió bấc hiu
hiu lại về” (“Hiu hiu gió bấc”); “Không một ai nghĩ mù cũng biết thương
nhớ, biết đợi chờ trong nỗi tuyệt vọng rằng người đó, mùa mưa này liệu có
mỏi chân mà trở lại không?”(“Nửa mùa”); “Có đáng không những năm tháng
dài vằng vặc? Những tâm hồn thương tổn? Và kia, một mái đầu bạc phơ xơ
xác? Có đáng không? Trời ơi có đáng không?”(“Đau gì như thể”). Rất nhiều
câu hỏi như xoáy sâu vào lòng người đọc khiến họ phải tự vấn như chính họ
đang sống cùng nhân vật, thôi thúc họ phải suy ngẫm. Có điều lạ, là hình như
ở mỗi câu chuyện, khái niệm “ở hiền gặp lành” là một cái gì đó quá mơ hồ,
quá xa vời. Nhưng nó không làm người ta thấy mệt mỏi, thấy buồn bã và bi
quan. Bởi vì, có một dòng sông chảy yêu thương len lỏi khắp các câu chuyện,
kéo dài theo những cánh đồng. Dòng chảy yêu thương đó lớn dần lên và trở
thành chủ đạo khi sau tất cả những bất hạnh mà một con người có thể gánh
chịu trong cuộc đời, người ta vẫn không thôi nghĩ tới những điều tốt đẹp.
Nhưng có một nỗi cô độc khác, lớn hơn, không chỉ với những người
nghệ sĩ, đó là nỗi cô đơn giữa “Biển người mênh mông”. Sống giữa những
người thân yêu, sống với người mình hết lòng mà vẫn cô đơn. Đây là nỗi đau
lớn của kiếp người.. Ông Mười (“Mối tình năm cũ”) “cả đời, chỉ mong người
nhà hiểu mình chứ trông gì người thiên hạ”. Ông Tư Nhớ (“Đau gì như
thể…”) đau đớn bởi “Tiếng kêu nghe thấu tới trời, sao đồng loại con người
không học cách hiểu nhau”. Ông già Chín Vũ (“Cuối mùa nhan sắc”) thì than
“Mình sống làm gì tới từng này tuổi mà không hiểu được nhau, Hồng ơi là
Hồng”. Không hiểu được nhau, không hiểu đúng về nhau, bởi vậy mà khó
chia sẻ được nỗi niềm của nhau. Không ai có thể xẻ chia cùng Xuyến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
(“Duyên phận so le”), cùng Hậu (“Một trái tim khô”), cùng Út Nhỏ (“Nhà
cổ”)… bởi những nỗi niềm trong họ đâu dễ nói ra. Mà khi nói ra, biết đâu, lại
làm tổn thương cho ai đó. Vậy là họ âm thầm chịu đựng, âm thầm chấp nhận
sự cô đơn. Cô đơn là điều kiện thử thách phẩm chất làm người của họ.
Có lúc, truyện của Nguyễn Ngọc Tư còn sắp xếp những thân phận cô
đơn bên cạnh nhau. Nhưng không phải như thế giới nhân vật của Phạm Thị
Hoài, cô đơn kiểu người sống cạnh nhau mà “như cây mọc bên tường”, đối
thoại mà như độc thoại, con người cạn dần khả năng yêu thương. Nhân vật
của Ngọc Tư cô đơn bởi mỗi người ẩn chứa một số phận, sở hữu một tâm tư,
mang nặng một trắc ẩn. Họ yêu thương và thông cảm cho nhau. Nhưng không
thể xẻ chia. Mà xẻ chia cũng không hết. Đó là những người sống nơi cuối trời
heo hút (“Duyên phận so le”), tất thảy đều “thèm người”, đều thấy mình
“giống khỉ”, mỗi mùa gió chướng, “cả bọn lặng lẽ ngồi, nghe gió thốc qua
lòng, rúm ró nỗi cô đơn”. Hay như ba cha con trong “Cánh đồng bất tận”.
Ăn ở cùng nhau trên thuyền, lênh đênh cùng nhau trên những cánh đồng,
dòng sông. Nhưng mỗi cá nhân họ là một thế giới. Họ hiểu những nỗi niềm
của nhau, nhưng không thể san vợi cho nhau. Nương hiểu tình yêu người cha
dành cho mẹ, hiểu sự hận thù ông trút lên những người đàn bà khác, hiểu
những ẩn ức tình dục mà Điền phải chịu. Nhưng bất lực. Họ nhìn nỗi cô đơn
giày xéo tâm hồn nhau. Thì ra, nỗi cô đơn của họ không chỉ là sự cô độc do
hoàn cảnh sống đem lại. Bởi vậy mà nỗi đau lớn hơn rất nhiều.
Chúng ta bắt gặp trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư những nhân vật
suốt đời đi tìm, một hành trình vô vọng và đơn độc. Ông Sáu (“Biển người
mênh mông”) “đã đi tìm gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận,
lội gần rã cặp giò rồi mà vẫn chưa thấy”. Ông Năm Nhỏ (“Cải ơi!”) tìm suốt
mười hai năm chưa thấy con. Chúng ta bị ám ảnh bởi một ông già trước mỗi
buổi diễn, mượn micro nói mấy câu : “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con…”.
Tiếng gọi “Cải ơi!” của ông mắc lại trong người đọc, như món nợ lòng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
Cô đơn luôn là nỗi đau, là bi kịch tinh thần lớn nhất của con người,
nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cảm nhận rất rõ niềm cô đơn mà không
thấy sự bi quan tuyệt vọng. Nhân vật của chị tự ý thức về sự cô đơn. Họ chấp
nhận bởi họ tìm thấy trong nỗi đau ấy một lẽ sống. Và, từ trong nỗi đau ấy, họ
vươn lên, làm người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động
lực của cái Đẹp, cái Thiện.
2.3. Cái nhìn nhân ái của Nguyễn Ngọc Tƣ trong truyện ngắn
2.3.1. Những khuynh hướng quan niệm về con người trong văn học trẻ
đương đại
Văn xuôi Việt Nam bắt đầu từ thời kì đổi mới đã từ chối cách nhìn xuôi
chiều về con người. Thay vì cách nhìn đơn giản, rạch ròi là cách nhìn đa
chiều, phức hợp. Không còn kiểu nhân vật nhất phiến, trắng đen rõ ràng.
Quan niệm con người kiểu sử thi chuyển sang con người đời tư, cá nhân và
được nhà văn mổ xẻ giải thiêng không thương tiếc. Bộ mặt văn học Việt Nam
đến Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài thì mới thực sự đổi mới. Có thể nói
quan niệm nghệ thuật bước sang cực khác. Truyện ngắn và văn xuôi nói
chung có xu hướng nghiêng nhiều về cảm hứng khai thác, khám phá mặt trái
đời sống.
Quan niệm đưa con người trong văn học trở về gần gũi và áp sát hiện
thực trở thành khuynh hướng tất yếu của văn học thời kỳ đổi mới. Con người
cá nhân được miêu tả, mổ xẻ. Nhà văn bộc lộ cái nhìn sâu sắc và chân thực
hơn về con người. Nhiều giá trị mới được thiết lập. Nhiều giá trị cũ bị phai
nhạt đi hoặc bị phế bỏ hẳn. Con người được nhìn nhận với những tiêu chí,
chuẩn mực khác, về đạo đức không tròn trịa và mẫu mực theo quan điểm
thông thường. Dường như trong cuộc sống hiện đại, con người hiện lên với
nhiều mặt trong đó có cả những thói xấu: loạn luân, vô luân, hỗn láo, độc ác,
trơ trẽn, chây lì, hèn nhát, ích kỷ, thực dụng,...Tất thảy những thói xấu của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
con người được văn học phơi bày, không lảng tránh. Văn học đã khẳng định
58
lại những giá trị làm người bằng cách giúp người đọc nhận diện, cảm nhận rõ
ràng cái xấu để tránh. Làm cho con người ghê sợ trước cái ác cũng là đích
hướng thiện của văn học bên cạnh sự biểu dương, ca tụng mà văn học thời kì
trước đã làm rất tốt.
Sau sự phục sinh của cái tôi cá nhân trong văn học đổi mới, văn học
nhất là ở những nhà văn trẻ đi vào khám phá con người trong khynh hướng
hưởng thụ vật chất, hưởng thụ tình dục, bù đắp những năm tháng dài hy sinh
nhu cầu và quyền lợi cá nhân. Những vấn đề vụn vặt, riêng tư được “trình
diễn thoải mái trong văn học”. Theo quan sát bước đầu, chúng tôi thấy văn
học trẻ (với nội hàm là tác phẩm của những tác giả mới, trẻ tuổi. Các tác giả
tiêu biểu mà chúng tôi có thể kể đến là: Đỗ Hoàng Diệu, Phan Thị Vàng Anh,
Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban,… ) ở họ trong quan niệm về
con người nổi lên ba khuynh hướng sau:
+ Con người nổi loạn.
+ Con người bản năng tính dục.
+ Con người “vụn vặt”.
Ba khuynh hướng trong con người trên đây, có tinh thần chung, thống
nhất chi phối là tinh thần giải phóng. Đã xuất hiện nhân vật nổi loạn trong văn
học. Nổi loạn để quẫy cựa thoát khỏi những thiết chế xã hội. Quan niệm về
con người của Nguyễn Ngọc Tư khá khác biệt so với ba xu hướng trên nổi
loạn để trốn khỏi ràng buộc, bổn phận; nổi loạn để thoát khỏi chính mình.
Ta thử so sánh Đỗ Hoàng Diệu với Nguyễn Ngọc Tư qua một số trường
hợp sau: truyện “Vu Quy” của Đỗ Hoàng Diệu có bối cảnh gần với “Huệ lấy
chồng” của Nguyễn Ngọc Tư. Cả hai tác phẩm đều kể về tâm trạng của cô gái
đêm trước ngày về nhà chồng. Cũng là hồi tưởng về mối tình đã qua nhưng
hướng khai thác của hai nhà văn hoàn toàn khác. “Huệ” của Nguyễn Ngọc Tư
trong sáng, chân chất kiểu thôn quê. Kỉ niệm chỉ xem là phim Hồng Kông, nói
bóng gió năm câu ba điều. Biểu lộ tình yêu thì là “Thi ở đằng sau, kế dãy ghế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
Huệ ngồi, hít đầm đìa hương tóc cô bạn gái, mỉm cười. Ra về, Thi thả chầm
chậm theo tới chỗ quẹo vô nhà Huệ, Thi mới níu tay Huệ lại (...) tay Huệ ấp
vào giữa tay Thi líu ríu”. Kỉ niệm chỉ có vậy. Mà nặng tình. Cái tình của cô
gái trước ngày đi lấy chồng cũng bộn bề, giản dị và chân chất. Huệ trải ra
những cảm xúc trong trẻo, bình dị. Nhân vật của Đỗ Hoàng Diệu thì được
khai thác ở một kênh khác hẳn. “Tôi” hồi tưởng về những mối tình đã qua
nhưng đậm dục tính, những cảm xúc về tình dục, về xác thịt. Đầu tiên là cảm
xúc “Bồng bềnh mê man tròng trành giữa cõi nồng nàn thân xác” cùng ông
nhà văn. Rồi đến “cú thọc sâu” của “người đàn ông đượm rát mùi phù sa sông
Hồng” cắt trọn tuổi thơ biến “tôi” thành “người đàn bà mười sáu tuổi”. Tiếp
đó là hồi ức về người đàn ông Tàu có “thân hình rắn chắc như một củ sâm”..
Có những trang viết, chị say sưa miêu tả khoái cảm bằng những từ ngữ nồng
nàn giàu hình ảnh.
So sánh hai tác phẩm cụ thể như thế, chúng tôi muốn nhấn mạnh sự
khác biệt trong phong cách của hai nhà văn cùng thời, hai nhà văn tiêu biểu
cho hai khuynh hướng quan niệm. Ở đây, không có sự đánh giá, chỉ là sự so
sánh để thấy nét khác biệt.
Như vậy, có thể thấy truyện ngắn trẻ Việt Nam đang quẫy cựa, tìm tòi
hướng đi với nhiều quan niệm khác nhau về con người, thậm trí trái ngược.
Điều đó phản ánh những biến chuyển tất yếu hòa nhịp cùng điều kiện kinh tế
và bối cảnh văn học.
2.3.2. Cái nhìn nhân ái về con người của Nguyễn Ngọc Tư
2.3.2.1. Quan niệm về số phận con người
Nhân vật văn học khi được nhà văn khai sinh trong tác phẩm của mình
đã mang theo một số phận. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, từ người nghệ sĩ
nghèo đến người nông dân chân lấm tay bùn, thường là những nhân vật có số
phận bất hạnh. Hướng tới số phận con người bất hạnh với cái nhìn nhân ái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không phải là nét mới. Văn học dân gian từng bênh vực và luôn có khát vọng
60
đổi đời cho những số phận bất hạnh. Đó cũng là vẻ đẹp truyền thống của văn
học viết Việt Nam qua “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”.
Nguyễn Ngọc Tư thường đặt con người vào trong hoàn cảnh éo le,
ngang trái. Hoàn cảnh éo le là một trong những điều kiện để con người bộc lộ
rõ nét cá tính, phẩm chất, nhân cách,...Trong tập “Cánh đồng bất tận” của chị
có 14/14 truyện nhân vật có hoàn cảnh đặc biệt, ngang trái.
Hoàn cảnh của Hậu (“Một trái tim khô”) làm bao người đọc đau đớn,
xúc động. Hậu bị đâm lén. Nhưng bất hạnh ở chỗ Hậu lại bị thương chứ
không chết. Hậu biết được ai đã thuê người đâm mình. Không chết mà quá
bằng chết. “Chết ngay ở cua Bún Bò, ngay sau khi thằng cha giết mướn run
rẩy bảo: Đừng oán tôi nghen, có oán hận thì oán chồng bà”[58.149]. Và Hậu
sống bằng “một trái tim khô”, thấy đời “lạnh lẽo, tan hoang như đồng sau
bão”, thấy mình “quên thật rồi, điên thật rồi” thấy lòng “dửng dừng dưng, tỉnh
bơ ba khía”, kể cả lúc hay tin chồng lấy vợ. Khi nỗi đau quá ngưỡng của sự
chịu đựng thì dường như người ta không còn thấy đau nữa. “Có lần đi chợ gặp
Thường, Hậu ung dung chào, hỏi. Xong đứng nấn ná ở đấy trông tim nó lồm
cồm ngồi dậy nhói chơi, nhưng không ăn thua, nó lặng như tờ”[58.149]. Hậu
không trả thù, không tố cáo. Nhưng chưa hết, cuộc đời còn nhiều nỗi oái oăm
khi những người đàn ông thích Hậu đều phải tin chị mà “chắc lưỡi, than, đẹp
vậy mà điên, uổng thật”. Chỉ Nhâm ở lại. Nhâm sống lầm lũi trên đời với một
nỗi ám ảnh, một món nợ tội lỗi. “Tôi đã có lần điên vì tiền, lúc đó, con gái tôi
đau nặng lắm”. Nhưng chỉ mình Hậu biết Nhâm là người đàn ông đâm mình ở
cua Bún Bò. Bởi vậy mà dù rất mến Nhâm, Hậu cũng không thể...Hậu sợ
“đêm động phòng, Nhâm sẽ phát hiện Hậu có một cái thẹo lớn trên vai. Thể
nào Nhâm cũng hỏi tại sao, mà Hậu không nghĩ ra được câu chuyện gì để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nói”[58.153]. Đó là sự trớ trêu, ngang trái tột độ. Cuộc đời vốn vậy. Những éo
61
le trong trang sách cũng muôn hình vạn trạng như trong cuộc đời. Nó chờ ta
trên mỗi chặng đường đời mà không báo trước. Trong những chông gai thử
thách ấy, mỗi người sẽ có những ứng xử, cách giải quyết và khắc phục khác
nhau. Và chúng ta sẽ nhận ra nhân cách, bản chất, quan niệm sống của họ.
Như trong hoàn cảnh éo le, con người trong trang sách của Nguyễn
Ngọc Tư âm thầm chịu đựng, sợ làm tổn thương người khác để vẫn giữ mãi
trong mình một bí mật. Đó là Hậu (“Một trái tim khô”), đó là Xuyến (“Duyên
phận so le”). Xuyến ở vào hoàn cảnh “mười bảy tuổi có yêu một người, yêu
đến nỗi bỏ cha bỏ mẹ theo tình. Mười tám tuổi thằng nọ phụ phàng bỏ cù bơ
cù bất giữa chợ. Lúc ấy đã không còn đường về nhà nữa”[58.135]. Xuyến trở
thành tiếp viên của của một nhà hàng ở khu du lịch mũi So Le. Nơi đó, có
người thương Xuyến, đến độ đập đàn rồi ra đi. Lại có người tự nguyện vì
Xuyến mà “ở lại đàn cho cô hát”. Nhưng Xuyến không thể sánh bước cùng ai.
Bởi tình yêu lớn nhất và duy nhất cô đã dành cho bé Bi - đứa con cô lén để
chỗ gốc cây điệp già trong sân nhà vợ chồng ông giám đốc hiếm muộn. Sự éo
le trong tình cảnh bị phụ tình được Nguyễn Ngọc Tư nhìn ở một góc độ khác.
Nỗi đau “vô địch cấp huyện” của Xuyến không biểu hiện ở lòng căm thù với
người tình, những dè bỉu ghẻ lạnh của người đời. Sự trớ trêu nằm ở tình mẫu
tử. “Xuyến xin làm bồi bàn cho một quán ăn trong thị xã, để được ghi lại,
chầm chậm trên một khúc đường gần đó, nhìn Bi bò lủm củm trong
nhà”[58.143]. Rồi Xuyến ra mũi So Le làm tiếp viên, cũng không ngoài mục
đích được gần con. Đã có lúc Xuyến “thấy Bi chơi lon ton một mình ngoài
sân, không kìm được, Xuyến xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần sững lại,
kêu lên hai tiếng trời ơi, mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy...Xuyến
đưa Bị quay lại”[58.143]. Nỗi đau ấy, Xuyến giấu chặt trong lòng. Bế bé Bi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trên tay Xuyến còn không dám xiết chặt, không dám áp mặt mình lên đôi má
62
phúng phính lông tơ, vì sợ mình sẽ khóc mất. Hóa ra hoàn cảnh éo le của
Xuyến không chỉ ở bề ngoài ai cũng thấy được, mà cùng thống nhất bình chọn
danh hiệu “người có cuộc đời buồn nhất” ở So Le.
Đọc Nguyễn Ngọc Tư chúng ta bị ám ảnh, suy tư bởi những thân phận,
kiếp đời éo le. Những người nghệ sĩ thì sống hết mình với vai diễn nhưng khi
cởi bỏ lớp mũ áo, rửa lớp phấn son, họ trở về với cuộc đời nghiệt ngã. Hầu
hết tình yêu sân khấu, yêu nghề tha thiết của họ đều bị những trớ trêu của
cuộc đời thực làm nên bi kịch. Những người nông dân thì cơ cực, nghèo khó,
với những mơ ước tưởng chừng như rất bình dị cũng không bao giờ đạt được.
Nhưng điều kì lạ là chúng ta không cảm thấy sự bi quan hay bóng tối trùm lên
trang sách. Miêu tả những số phận bất hạnh, những hoàn cảnh éo le, ngang
trái, tác giả không nhằm đưa người đọc lạc bước vào sự bi đát của cuộc đời.
Từ trong hoàn cảnh éo le, con người ở văn Nguyễn Ngọc Tư đã bộc lộ sâu sắc
quan niệm sống, cách hành xử và phẩm chất của mình. Đó cũng là yếu tố để
chúng ta nhận diện quan niệm của nhà văn này: Trước những ngang trái của
số phận, chỉ có tình yêu thương, lòng nhân ái mới giúp ta tìm ra lối thoát, lối
thoát tinh thần. “Không có lối thoát nào cho con người khép lòng mình vào
trong nghèo đói, dốt nát và hận thù. Lối thoát chính là khi người ta mở lòng
tha thứ cho cuộc đời vốn nhiều phản trắc”[55.2]. Con người trong truyện của
chị đã chọn những giải pháp như thế để sống trong những éo le ngang trái mà
cuộc đời xô đẩy họ.
2.3.2.2. Quan niệm về hạnh phúc con người
Cũng như nhiều cây bút nữ khác, ở Nguyễn Ngọc Tư có quan niệm
hạnh phúc. Trước hết, đó là những khát khao bản năng. Không chỉ là bản
năng yêu mà là bản năng sống tự nhiên nói chung. Một đứa trẻ không ý thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
về tình yêu với đất, nhưng cuộc sống lênh đênh trên thuyền khiến nó “chạy
63
cuống chạy cuồng vui như điên trên đất”[58.114] và “Dường như chúng tôi
nhớ, nhớ cồn cào. Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi trên cái vuông sân mọc
đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái, và ăn được, ăn rất ngon”
[58.187]. Đó là những khát khao rất tự nhiên, bản năng.
Nguyễn Ngọc Tư thường xoáy sâu vào những kháo khát nhỏ nhoi, bản
năng như thế. Chi tiết không lên gân, tô đậm. Giọng kể điềm tĩnh và chậm
rãi...nhưng có sức lay động đến người đọc. Đôi khi, nó khiến ta giật mình
nghĩ rằng những gì mình đang có quý giá biết bao.
Một gia đình có cha mẹ, có con cái là niềm khao khát của những mảnh
đời bất hạnh, của những số phận hẩm hiu. Hình ảnh tổ ấm gia đình trở đi trở
lại trong khá nhiều tác phẩm của chị như: “Một trái tim khô”, “Hiu hiu gió
bấc”, “Bến đò xóm Miễu”, “Mối tình năm cũ”, “Cánh đồng bất tận”, “Đời
như ý”,...Gia đình trở thành cái đích đến của hạnh phúc. Thế mới biết trong
quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, gia đình quan trọng đến chừng nào trong
cuộc sống hiện đại đang có xu hướng vị kỉ và tôn thờ chủ nghĩa độc thân.
Điều đó thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học đương thời, hoặc có nói đến
gia đình thì cũng phản ánh sự mong manh dễ đổ vỡ và những xung đột mâu
thuẫn của gia đình hiện đại. Ở đây, ta bắt gặp hướng đi khác, quan niệm khác,
đó là hướng về những giá trị truyền thống, bền vững. Coi trọng gia đình là
tâm thức cốt lõi của văn hóa phương Đông.
Đọc truyện của chị ta còn bắt gặp những nhân vật phụ nữ khao khát
được làm mẹ. Đó là những tình cảm bản năng mãnh liệt của con người. Hoàn
cảnh bị phụ tình của Xuyến (“Duyên phận so le”) không được chị khai thác
theo hướng hận tình, cay cú, hoặc thèm khát xác thịt, hoặc khao khát yêu
thương...điều mà Ngọc Tư làm nên nét riêng, bất ngờ trong tác phẩm chính là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tình mẫu tử. Đến tận cuối truyện, người đọc mới lí giải được vì sao Xuyến
64
bám trụ mãi ở mảnh đất này, vì sao Xuyến từ chối tình cảm, cơ hội xây dựng
gia đình với những người mà chị yêu thương. Bản năng người mẹ chị phối
mọi hành động của chị. Người đọc có cảm giác Xuyến cứ loay hoay bên con,
và không thể làm gì được khác. Tình cảm với bé Bi chiếm hết tâm trí chị. Và
trước tình cảm ấy thì mọi thứ, mọi tình cảm khác đều nhỏ. Cứ thế, bằng giọng
văn kể chuyện, kiểu rủ rỉ rù rì như người kể chuyện cổ tích, Nguyễn Ngọc Tư
đã dẫn dắt người đọc nhập cuộc, hiểu, thông cảm, chia sẻ với nhân vật của chị.
Hạnh phúc theo quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư còn là sự hi sinh vì
người khác: “Trong quan niệm của nhiều người, văn chương luôn có mối
quan hệ mật thiết với đạo nghĩa. Quan niệm “văn dĩ tải đạo”có lẽ vẫn còn in
sâu trong tâm thức không chỉ ở người sáng tác mà còn cả ở người đọc mặc dù
nội hàm “đạo” mỗi thời một khác (...) Nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Ngọc
Tư, có thể nói, vẫn nằm trong mô típ con người đạo nghĩa vốn được xem là
một nét đặc trưng trong tính cách con người Nam Bộ và đã được các nhà văn
Nam Bộ từ Hồ Biểu Chánh đến Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Trần Kim
Trắc...thể hiện thành công. Đạo nghĩa, đạo nghĩa đối với các nhân vật của
Nguyễn Ngọc Tư, là một cái gì đó rất tự nhiên, nằm trong tình cảm của con
người. Nó là yếu tố quan trọng nhất chi phối cách hành xử của con
người”[18.3]. Biểu hiện cao nhất của đạo nghĩa trong thế giới nhân vật của
chị chính là việc gạt đi sự vị kỉ để cho người khác, hi sinh vì người khác. Đó
là lẽ sống, là quan niệm về hạnh phúc làm người. Quan niệm ấy không mới
nhưng nó là nét đặc thù nổi bật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư.
Hi sinh vì người khác nghĩa là nhận phần thiệt thòi về mình. Để sống
được như thế không phải dễ. Hai người phụ nữ trong “Dòng nhớ” đều phải
khổ vì một người đàn ông. Một người cùng ông “dắt díu nhau bỏ nhà đi, sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kiếp thương hồ, trải qua bao nhiêu cơ cực”, rồi bị bỏ chơ vơ giữa dòng. Một
65
người “năm này qua năm khác sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng,
ban đêm chung giường” nhưng phải chịu cảnh chồng “hồn thì vẫn hướng về
những dòng sông miên man chảy”. Cả hai nỗi khổ ấy không thể so đo đâu khổ
hơn. Cả hai đều không có lỗi. Bởi vậy họ có quyền oán trách, ca thán, lên án
hoặc hằn học. Nhưng rốt cục, họ lại cùng thấy rằng: “Mà, đàn ông chịu cực
khổ nhiều lắm rồi, đừng lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm”. Đó
không phải là những lời rao giảng. Đó không phải là những phát ngôn nhà văn
nhét vào miệng nhân vật. Người đọc cảm nhận rõ ràng sự chân thật trong
không gian chân tình trên chiếc ghe nhỏ đơn sơ vào một đêm đầy gió. Hi sinh
vì người khác còn là nhận ra nỗi thống khổ của họ để thông cảm, để xóa đi
thù hằn, ghen tuông. Không có sự độ lượng, không nghĩ cho người khác,
không có thói quen sống vì người khác, khó có thể nhận ra điều ấy, khó có thể
có được những suy nghĩ như thế. Sống nhân nghĩa, cho mà không nghĩ đến
nhận, nén lại nỗi đau của riêng mình, dành tình yêu thương cho người...Đó là
nguyên tắc sống rất tự nhiên chảy trong dòng máu họ. Có thể nói cuộc gặp gỡ
và trò chuyện của hai người đàn bà trên chiếc ghe đơn sơ tối hôm ấy là một
trong những trang văn hay nhất viết về lòng nhân ái, sự vị tha độ lượng của
con người. Hai người đàn bà với hai thân phận, hai hoàn cảnh, hai nỗi khổ.
Gặp nhau và đồng điệu. Sau cuộc gặp gỡ, cả hai đều nhức nhối câu hỏi lớn
của mọi thời đại: “Đàn bà mình sao khổ vậy?”. Vậy mà không oán thán ai, chỉ
nặng trĩu nỗi lòng vì người khác.
Trong mọi sự hi sinh thì hi sinh tình yêu có lẽ là điều khó khăn nhất. Ở
một số nhà văn nữ cùng thời nói về tình yêu là nói về giải phóng tình dục, ở
Nguyễn Ngọc Tư tình yêu gắn liền với sự hi sinh. Người ta có thể nhường
cơm sẻ áo, nhưng anh Phi, anh Hết thì có vẻ rất khó tin. Anh Phi (“Con sáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sang sông”) yêu út Thà đã mấy năm nhưng vẫn lần nữa mãi chưa cưới.
66
Không phải vì anh chưa muốn lấy vợ. Cũng không phải vì út Thà không ưng
anh. Tình yêu của họ vừa có tình bạn, vừa có tình anh em. Việc họ lấy nhau là
lẽ đương nhiên, là sự thật không phải bàn cãi. Vậy mà đùng một cái, út Thà đi
lấy chồng. Ai gặp tình cảnh vậy mà không đau. Nỗi đau “day dứt tháng năm,
nó dai dăng dẳng. Người yêu đi lấy chồng mà, biết bao người tự tử”. Phi cũng
đau buồn lắm, nhưng là nỗi buồn biết trước, là nỗi đau sắp đặt sẵn, ý thức
được, chủ động hứng chịu. Người đọc không khỏi ngỡ ngàng khi biết rằng
không phải út Thà bội tình mà chính Phi chèo thuyền đi tìm hiểu gia đình họ
hàng nhà “người ta” rồi về bàn với út Thà nên nhận lời....Cũng như với nhân
vật anh Hết (“Hiu hiu gió bấc”), có thể có người đặt câu hỏi, liệu nhà văn có
lên gân quá không, liệu có phải họ nhu nhược, không bảo vệ được tình yêu
của mình, hay tình yêu ấy chưa đử sức nặng? Đọc cho đến dòng cuối cùng
của truyện, chúng ta sẽ thấy họ, những nhân vật nông dân chân chất ấy, mộc
mạc mà giàu tình cảm. Và cách hành xử, sự hi sinh của họ như một lẽ tự
nhiên, tất yếu. Phi không thể vì mình mà không lo cho hai em còn ăn học.
Dường như, trong ánh mắt nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư, con người
sinh ra rất cần tình yêu thương, sự độ lượng vị tha, sự cảm thông và hi sinh vì
người khác. Nếu không, tâm hồn sẽ trở nên què quặt.
2.3.2.3. Quan niệm về phẩm giá con người
Con người luôn thể hiện những giá trị nhân bản vốn có của nó.
Nhiều cây bút đang cố gắng làm mới các phương thức tự sự bằng việc
thể nghiệm nhiều kĩ thuật, thủ pháp, thì như một nhà nghiên cứu từng nhận
xét, “Nguyễn Ngọc Tư dường như đứng ngoài xu hướng này. Chị không gây
hứng thú cho người đọc bằng tổ chức lời văn phức tạp, bằng các thủ pháp tự
sự mới lạ. Văn Nguyễn Ngọc Tư hấp dẫn người đọc là ở sự quan tâm miêu tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là đời thường với những con người nhỏ bé đang vật lộn với cái đời thường ấy.
67
[18.2] Từ trong nỗi đau vật lộn làm người, chị đã giúp các nhân vật của mình
nhận ra giá trị làm người - giá trị nhân bản.
Ẩn sâu vẻ bề ngoài nhếch nhác, nghèo đói, quê mùa của những người
nông dân là tấm lòng chân thật. Hành trình văn chương của chị là hành trình
tìm kiếm cái Đẹp. Cái Chân, cái Thiện là hạt nhân trong nhân cách các nhân
vật của chị. Hướng tới người lao động, người dân nghèo để phát hiện những
ánh sáng trong tâm hồn họ là thế mạnh trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Bởi vậy mà khi miêu tả, nhà văn luôn chú ý tới con người bên trong, rất ít
những câu văn miêu tả ngoại hình. Chân dung nhân vật của chị hiện lên qua
tấm lòng, tình cảm, cách ứng xử của họ. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, phần
lớn là con người trượng nghĩa nên rất trọng tình người. Dường như đó là tiêu
chí cốt yếu đánh giá hành vi con người.
Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư còn coi trọng tình người hơn cả tình
yêu. Điều đó có thể phi lý với người này nhưng lại là phương châm hành
động, là triết lý sống của người khác. Anh Hết (“Hiu hiu gió bấc”) là nhân
vật như thế. Anh giả vờ đổ đốn để chị Hoài đi lấy chồng. Hôm cưới, anh ngồi
chơi cờ với lũ trẻ mà nước mắt rỏ xuống bàn cờ. Tại sao anh lại đến nông nỗi
ấy? Bởi vì anh nghèo. Bởi vì anh nợ sữa người ta. Mà với anh, “nợ sữa là món
nợ lớn nhất”. Không có “món nợ” ấy, (có thể) không có anh trên đời. Những
thân phận bé nhỏ, nghèo khổ được Nguyễn Ngọc Tư tập trung khai thác đã
thấy và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách con người. Không đi theo
khuynh hướng văn học nhìn cuộc sống, con người với cái nhìn khinh bạc mai
mỉa, với thái độ lạnh lùng tàn nhẫn, Nguyễn Ngọc Tư trân trọng và nâng niu
giá trị làm người. “Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đang tác động
vào văn học hiện nay, thay vì kêu lên thượng đế đã chết, người ta tuyên bố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
con người đã chết [18.4]. Dưới ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy
68
con người vẫn lấp lánh vẻ đẹp muôn thủa, đó là giá trị đích thực của CON
NGƯỜI. Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định giá trị ấy bằng giọng văn không có
gì là mới. Chọn hướng đi này là bản lĩnh của nhà văn. Trụ chân lại trên cái
nền tảng truyền thống, tạo được những dấu ấn mới, đó là thành công lớn của
nhà văn trẻ này.
Bên cạnh cái nhìn phân tích lạnh lùng về con người (Phạm Thị Hoài, Y
Ban, Võ Thị Hảo, Đỗ Hoàng Diệu,...) trong sáng tác văn học đương đại còn
cái nhìn nhân ái về con người ở những cây bút nữ trẻ như Phan Thị Vàng
Anh, Đỗ Bích Thúy...và tất nhiên là cả Nguyễn Ngọc Tư. Và ở xu hướng thứ
hai này Nguyễn Ngọc Tư cũng khác biệt với những người khác.
* * *
Khác với nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy tập trung
miêu tả về những người phụ nữ vùng cao. Trong tín ngưỡng của các dân tộc
thiểu số, người phụ nữ có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên trên thực tế đời
sống hiện đại, người phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi lại phải gánh chịu rất
nhiều thiệt thòi, gian khổ và đây chính là đối tượng được quan tâm nhiều hơn
cả khi các nhà văn viết về các dân tộc này. Đó là hình ảnh người phụ nữ suốt
đời chịu thương chịu khó. Trong tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, những nhân vật
để lại nhiều ám ảnh nhất chính là những người phụ nữ ở mọi lứa tuổi. Có
những em bé gái như Mỷ suốt ngày phải lo dắt dê đi gửi trên núi vì sợ bố bán
đi mua thuốc phiện (“Bóng của cây sồi”), những bé gái như May lọt lòng đã
không được biết tới tình yêu thương của mẹ đẻ (“Tiếng đàn môi sau bờ rào
đá”), những người phụ nữ bị chồng bội bạc như Mai (“Cạnh bếp có cái muôi
gỗ”), những người phụ nữ phải chịu bao đắng cay vì nghèo khó như Vi
(“Giống như cái cối nước”), …Nhưng sau bao khó khăn, vất vả, những người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phụ nữ miền núi luôn thể hiện là những người chịu thương, chịu khó, cam
69
chịu mọi thiệt thòi để vun vén cho cuộc sống gia đình. Hình ảnh người phụ nữ
chịu nhiều thiệt thòi, bất công xã hội và nhiều mất mát, đau khổ trong tình
yêu. Với Cột đá treo người và Sải cánh trên cao, trong những ngày còn chế
độ quan lang, thổ ty trên vùng đất Tây Bắc, những thân phận phụ nữ chịu
nhiều đau khổ như Chía, như Mai có lẽ không hiếm. Cha mẹ Chía vì vay nợ
lý trưởng không trả nổi, tiền vay cứ lãi mẹ đẻ lãi con nhân lên, cho tới lúc lý
trưởng bảo cho Chía tới làm người ở để xóa nợ thì Chía chính thức trở thành
thân phận tôi đòi. Còn với Mai thì nỗi khổ lại khác, chồng theo người phụ nữ
khác, con vì đói, vì thiếu muối mà chết, cuộc đời của Mai tưởng như đã đi vào
ngõ cụt nếu như không gặp được Sinh. Nhưng rồi cuộc chiến với giặc đã cướp
đi sinh mạng của Mai khi chưa kịp một lần được hưởng niềm hạnh phúc hồi
sinh của cách mạng.
Có thể thấy với người phụ nữ vùng cao, những chuỗi ngày được coi là
hạnh phúc nhất của đời họ thường quá ngắn ngủi. Hẳn đó chỉ là những tháng
ngày mới bước vào tuổi cập kê, biết ửng hồng đôi má khi bắt gặp một ánh mắt
nhìn như đã thiêu đốt trong buổi chợ, biết cất cao giọng hát đáp lời một tiếng
hát nồng nàn, tình tứ phía đám trai bên kia. Còn khi đã lấy chồng, đã có con
thì tất cả những mộng mơ đó mau chóng trở thành quá khứ, và đúng như Đỗ
Bích Thúy đã viết, “bởi cuộc đời thì dài, âu lo thì lớn, khát vọng thì xa nên cái
khoảnh khắc ấy mới là quý giá và ý nghĩa biết nhường nào”.
Bên cạnh đó là hình ảnh người phụ nữ bao dung, nhân hậu, thủy chung.
Dường như khi viết truyện, cây bút trẻ Đỗ Bích Thúy luôn muốn dành những
gì ưu ái nhất, trân trọng nhất cho những người phụ nữ vùng cao, bởi với chị,
họ luôn là biểu tượng của cái đẹp thuần hậu, nhuần nhụy và đậm chất bao
dung. Lúc nào ta cũng thấy người phụ nữ hiện lên cao cả, nhân hậu cho dù bị
đẩy vào bất cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Mẹ già trong “Tiếng đàn môi sau
bờ rào đá” là một minh chứng điển hình cho điều đó. Lấy chồng, không có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
con, chồng đưa về nhà một người phụ nữ khác, dù không bằng lòng thì người
mẹ già ấy vẫn chăm chút hai đứa con kia của chồng bằng tình thương rất mực
của một người chưa từng một ngày làm mẹ.
So với thế giới nhân vật Nguyễn Ngọc Tư, thế giới nhân vật trong sáng
tác của Phan Thị Vàng Anh về cơ bản rất khác nhau, nó thể hiện những vùng
thẩm mĩ riêng của mỗi người. Nhân vật trong truyện của Phan Thị Vàng Anh
là thế giới của những con người thị thành nhiều trải nghiệm. Họ phần đông có
học, đóng nhiều vai xã hội khác nhau. Ngược lại, Nguyễn Ngọc Tư lại đưa
người đọc đến với thế giới của những người lao động nghèo, vùng sông nước
Nam Bộ. Sự khác biệt căn bản này bị chi phối bởi chính yếu tố đề tài, cảm
hứng, cốt truyện và đó là “gu thẩm mĩ” của mỗi người. Và chính những nét
không tương đồng này đã làm nên sự phong phú đa dạng, sáng tạo riêng biệt
của những cây bút trẻ trong nền văn học Việt Nam đương đại. Thế giới nhân
vật trong trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh hầu hết là những con người
cá tính và sắc sảo. Họ là học sinh, sinh viên hay những công chức đã đi làm.
Tất cả đều trẻ trung trong cách nghĩ, hiện đại trong lối sống. Họ đại diện cho
những con người của ngày hôm nay mang đầy dấu ấn của đời sống mới, cơ
chế mới. Ấn tượng đầu tiên về thế giới nhân vật trong truyện Phan Thị Vàng
Anh, đó là những con người trẻ tuổi nhưng luôn sắc sảo trong cách nghĩ. Rất
nhiều truyện của Phan Thị Vàng Anh viết về giới trẻ, về học sinh, sinh viên
nhưng sao khó tìm thấy ở những con người ấy nét hồn nhiên trong sáng ngây
thơ. Nhân vật của Vàng Anh luôn già trước tuổi, luôn nhìn đời bằng ánh mắt
của một người biết không thiếu một chuyện trên đời.
Nhân vật “tôi” trong “Khi người ta trẻ” là một người có học, hiểu biết,
sống lý trí và thật am hiểu sự đời. “Tôi” là người hiểu được con người “đầy
mâu thuẫn” của cô Xuyên, nhận ra sự ủy mị, èo uột vô trách nhiệm của cô,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một người làm “khối kẻ điên tiết”. Đứng ngoài quan sát, “tôi” còn nhận ra cái
71
vô nghĩa của những tình cảm đơn phương, sự u mê, ngu muội của kẻ lao theo
tình yêu một cách điên rồ mù quáng. Và vẫn con người trẻ tuổi ấy vừa phải
chịu đựng nỗi đau mất người thân vừa phải cay đắng rút ra những bài học
cuộc đời. Phan Thị Vàng Anh thường đặt nhân vật của mình trong bộn bề
những trái ngang để qua đó làm bật lên cá tính và bản lĩnh.
Nhìn vào nhân vật của Phan Thị Vàng Anh người ta thấy được bước đi
của thời gian, sự biến đổi của môi trường xã hội trong hơn một thập kỉ. Đây là
điểm mà truyện ngắn của chị có nhiều ưu thế hơn so với Nguyễn Ngọc Tư.
Đương nhiên Vàng Anh viết sớm hơn, khi tác phẩm của chị bước vào độ chín
thì Nguyễn Ngọc Tư mới bắt đầu. Sự già dặn hơn về tuổi đời và chững chạc
hơn về tuổi nghề khiến văn Vàng Anh sắc hơn, súc tích hơn. Tính chuyên
nghiệp của một cây bút truyện ngắn được nhận ra ngay từ những trang viết
đầu tay của chị. Đó có thể là ảnh hưởng từ người cha trí tuệ tài năng, đam mê
nghệ thuật, từ đời sống gia đình mà ngay từ khi còn nhỏ chị đã được khuyến
khích đến với văn chương, cũng có khi đó là kết quả của bao năm đèn sách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với vốn tri thức sách vở uyên bác mà chị miệt mài theo đuổi.
72
Chƣơng 3
ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN
VÀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
3.1.1. Khái niệm cốt truyện
Như ta đã biết, cốt truyện là: “Hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức
theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản quan
trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và
kịch”[39.85]. Trong đó cốt truyện của truyện ngắn “thường diễn ra trong một
thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một
điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người.”[39.304]. Và hiểu một cách đơn
giản như kinh nghiệm của Nguyễn Quang Sáng “truyện ngắn phải có
“chuyện” tức phải kể cho người khác nghe được”, cái được kể ở đây chính là
cốt truyện.
Cốt truyện có hai tính chất cơ bản. Một là tính liên tục hữu hạn trong
trật tự thời gian, sự kiện này đặt sau sự kiện trước và cứ thế cho đến kết thúc.
Hai là các sự kiện trong chuỗi có mối quan hệ nhân quả hoặc quan hệ bộc lộ ý
nghĩa. Các sự kiện trong đời sống có vô vàn mối quan hệ và không biết đâu là
mở đầu, đâu là kết thúc. Hai tính chất nêu trên là thuộc tính nghệ thuật làm
cho cốt truyện văn học tách ra khỏi mối quan hệ chằng chịt trong cuộc đời để
tập trung thể hiện ý nghĩa nào đó mà nhà văn muốn thể hiện.[38.56].
Cốt truyện thực hiện các chức năng rất quan trọng trong tác phẩm: Một
là nó gắn kết các sự kiện thành một chuỗi và tạo thành lịch sử của một nhân
vật; hai là bộc lộ các xung đột, mâu thuẫn của con người (xã hội, tâm lý, đạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đức,…), ba là tạo ra một ý nghĩa về nhân sinh. Nắm bắt đúng chuỗi các sự
73
kiện là bước khởi đầu để hiểu nhân vật, hiểu bức tranh đời sống và hiểu ý
nghĩa của tác phẩm.
Cốt truyện có chức năng thứ tư, rất quan trọng là gây hấp dẫn. Nhiều
tác phẩm thuộc loại phiêu lưu, võ hiệp, tình ái, truyện cười…nhờ cốt truyện
có nhiều biến cố ngẫu nhiên, bất ngờ mà có sức hấp dẫn mạnh đối với người
đọc [38.57].
3.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư với cốt truyện - dòng tâm trạng
Những tác phẩm được đánh giá cao của Nguyễn Ngọc Tư đều được chị
xây dựng cốt truyện theo hình thức này. Có những cốt truyện được tạo dựng
lên hoàn toàn trên cơ sở miêu tả những dòng tâm trạng, diễn biến tâm lý nhân
vật (“Cánh đồng bất tận”, “Một chuyện hẹn hò”), khi đó sự kiện thường xuất
hiện với tư cách là nguyên nhân, là nguồn gốc của những cảm xúc tâm trạng
suy nghĩ của nhân vật. Và nhân vật bộc lộ thái độ, tình cảm, chủ yếu qua nét
mặt, lời nói, đặc biệt qua những dòng độc thoại. Như vậy, nhân vật của chị
cũng không có những hành động dứt khoát để làm nên những thay đổi bên
ngoài, những đổi thay có tính chất bước ngoặt trong cuộc đời. Sự hành động
cũng không phải diễn ra ở bên ngoài mà chủ yếu ở bên trong, trong thế giới
nội tâm. Đồng thời trong quá trình phát triển của sự kiện cái thay đổi chủ yếu
là trạng thái tâm lý nhân vật.
Hình thức xây dựng cốt truyện này được thể hiện rõ nhất trong tác phẩm
gây được nhiều dư luận và cũng là tác phẩm được trao giải thưởng hội nhà
văn Việt Nam năm 2006 - “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
Truyện được mở ra bằng không gian cánh đồng khô hạn với những cây lúa
chết non, cong như những tàn nhang chưa rụng, dòng sông váng phèn ngưng
đọng gợi vẻ thê lương. Tất cả được nhìn và cảm qua con mắt của Nương nên
càng gợi vẻ bất an hoang dại. Từ những lời tả có tính chất gợi mở làm tiền đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cho cảm xúc ấy, một loạt những suy nghĩ, những dòng hồi tưởng được trải ra.
74
Câu chuyện về người đàn bà đang nằm trên ghe sau cuộc đánh ghen tơi tả, ý
nghĩ về thái độ của người cha với những việc đã diễn ra. Cứ như thế những
dòng suy nghĩ đã dẫn dắt để cốt truyện được hình thành. Chính vì vậy cốt
truyện của Nguyễn Ngọc Tư không nhiều sự kiện, nó thường là những sự kiện
có tác dụng khơi gợi tâm trạng (việc cứu người đàn bà bất hạnh, sự ra đi của
nhân vật má tôi, cuộc gặp gỡ của cha tôi với những người đàn bà bị chồng bỏ,
sự ra đi của Điền…). Và qua đó cả một thế giới tâm trạng của nhân vật
Nương với biết bao biến đổi. Đó là thế giới của nỗi buồn, của những mất mát,
của ám ảnh, của tuyệt vọng đau thương.
Đọc truyện Nguyễn Ngọc Tư người ta có cảm giác yếu tố cơ bản của cốt
truyện không còn là hệ thống các sự kiện bên ngoài tạo nên hình thức vận
động của truyện. Truyện của chị đôi khi giống như một sự ghi lại, chép lại
những gì đang diễn ra hàng ngày trong thế giới nội tâm nhân vật. Và vì vậy
cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường được “nới lỏng”, “giãn
ra” chứ không chặt chẽ tập trung như cốt truyện của truyện ngắn và tiểu
thuyết truyền thống. Ta bắt gặp trong nhiều truyện của chị những yếu tố kể là
rất ít mà yếu tố tả là nhiều, những cái cốt giản đơn có thể tóm tắt trong một
câu. Câu chuyện về người cha tìm con, câu chuyện về tình yêu không thành
của một đôi trai gái, chuyện về một ngôi nhà cỏ mà ở đó có hai anh em cùng
yêu thương một người con gái, chuyện về một người đàn ông cô độc khao
khát tình cảm yêu thương, chuyện về một mối tình đơn phương, chuyện về
một người vợ bị chồng phụ bạc. Và cái làm cho câu chuyện được “nới lỏng”
được “giãn ra” nhưng vẫn hấp dẫn lôi cuốn chính bởi những dòng nội tâm,
những cảm xúc suy nghĩ day dứt của nhân vật được tái hiện trong tác phẩm.
Bên cạnh đó yếu tố không gian, môi trường thiên nhiên, môi trường sinh hoạt
của con người cũng góp phần làm tăng yếu tố tả trong cốt truyện. Và như vậy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khác với Phan Thị Vàng Anh truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường ít lời
75
kể, mà phần nhiều là lời tả. Điều này đã làm cho truyện của chị gần với tiểu
thuyết hiện đại hơn. Sự “giãn nở” trong truyện Nguyễn Ngọc Tư tạo ra yếu tố
phi cốt truyện, nhưng chính điều đó đã làm cho truyện ngắn của chị có một
không khí rất riêng. Đọc truyện Nguyễn Ngọc Tư người đọc nhiều khi được
phiêu lưu cùng với thế giới tâm trạng của nhân vật. Nhà văn thường để cho
nhân vật dừng lại để giãi bày, bộc lộ những suy ngẫm, cảm xúc của mình và
vì vậy truyện của chị rất giàu cảm xúc. Nó đôi khi là những câu chuyện được
kể lại qua hồi ức, qua những kỉ niệm, qua những dòng tâm tư tuôn chảy miên
man. Như thế, cái để người đọc khám phá trong truyện Nguyễn Ngọc Tư
không phải là sự kiện mà là những dòng tâm trạng, là chiều sâu không cùng
trong thế giới tâm hồn mỗi con người. Đến với truyện của chị người đọc dễ
dàng biết được nhân vật đang nghĩ gì, đang trong tâm trạng như thế nào, buồn
hay vui, đau khổ hay sung sướng. Và nhờ vậy thế giới nhân vật trong truyện
của chị luôn tạo được cảm giác gần gũi với bạn đọc. Cũng nhờ vào yếu tố
giãn nở cốt truyện qua những dòng tâm trạng mà người đọc luôn được khám
phá những vẻ đẹp khác nhau trong đời sống tâm hồn nhân vật khi đọc truyện
Nguyễn Ngọc Tư.
Cũng chính nhờ luôn đan xen dòng cảm xúc, tâm trạng vào giữa những
sự việc, sự kiện, tính giãn nở trong cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư còn tạo ra
một lối kể chuyện rất linh hoạt. Những câu chuyện thường không kể theo
trình tự thời gian, không theo trật tự tuyến tính. Truyện của chị thường được
kể theo dòng tâm trạng nên chuyện hiện tại được đan xem với quá khứ, tương
lai. Trong “Cánh đồng bất tận” câu chuyện được bắt đầu bằng thời gian trong
hiện tại, việc Điền và Nương cứu người đàn bà bị đánh ghen, tiếp đến là quá
khứ xa, những kí ức về người mẹ, quá khứ gần, lần lạc đường giữa cánh đồng
của hai chị em. Cứ như vậy hiện tại, quá khứ thay đổi luân phiên, khiến cốt
truyện hấp dẫn hơn, không nhàm chán. Còn rất nhiều những truyện ngắn khác
của Nguyễn Ngọc Tư mang cốt truyện bên trong (“Cải ơi”, “Biển người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
mênh mông”, “Cuối mùa nhan sắc”, “Cái nhìn khắc khoải”, “Dòng nhớ”,
“Duyên phận so le”, “Nước chảy mây trôi”, “Một chuyện hẹn hò”…) . Với
cốt truyện tâm lí này nhà văn luôn tạo cho người đọc cảm giác về sự gần gũi
quen thuộc của từng sự kiện. Những câu chuyện chị kể như vừa xảy ra ở đâu
đây quanh ta, thế giới nhân vật của chị ta như đã từng đôi ba lần gặp trong
đời. Nói một cách khác, không cầu kì dụng công trong việc tạo dựng cốt
truyện, nhưng truyện Nguyễn Ngọc Tư luôn gợi cảm giác gần gũi, chân thực
đời thường.
Bên cạnh việc tạo ra một lối trần thuật linh hoạt, kiểu cốt truyện “giãn
nở” và “nới lỏng” còn giúp Ngọc Tư đi vào miêu tả không gian, môi trường
thiên nhiên đời sống sinh hoạt của con người. Điều đó khiến cho truyện ngắn
của chị gần hơn với tiểu thuyết và truyện của chị luôn toát lên một phong vị
rất riêng, mang đậm tính địa phương, yếu tố vùng miền. Đó là những câu
chuyện về con người và mảnh đất phương Nam. Trong truyện của Nguyễn
Ngọc Tư nhiều khi phương thức miêu tả lấn át cả phương thức tự sự. Bởi vậy
sức ám ảnh trong truyện của chị không phải là sự kiện, mà là những bức tranh
thiên nhiên hay miêu tả khung cảnh sinh hoạt của con người. Chính yếu tố đó
đã mở ra trong những trang văn của Ngọc Tư một không gian Phương Nam
ngập tràn nắng gió, với những dòng sông thao thiết chảy, vắt ngang qua
những cánh đồng mở rộng cuối chân trời. Cảnh sinh hoạt của những gia đình
lênh đênh trên sông nước (“Nhớ sông”, “Dòng nhớ”), cảnh chèo đò đi chợ
nổi, chợ bán rau trái dậy động cả một khúc sông, cảnh những người đàn bà
ngồi giặt giũ dưới bến sông, mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ
(“Cánh đồng bất tận”), săn đón ghe hàng, mua bông, mua rau và bán lại
những buồng chuối chín trong vườn. Tất cả những cái đó đều mang đậm nét
đặc thù của một vùng đất, nó tạo nên “màu sắc địa phương” trong các tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phẩm của Nguyễn Ngọc Tư.
77
Bên cạnh đó một điểm hấp dẫn nữa trong cốt truyện của Nguyễn Ngọc
Tư. Nhân vật của chị thường được đặt trên một hành trình chuyển dịch
thường xuyên, đó là những cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu, không có điểm dừng
(“Sầu trên đỉnh Puvan”). Theo bước chân nhân vật, những vùng đất mới
được mở ra, những cảnh đời con người mới được khám phá (“Của ngày đã
mất”). Và như vậy, cốt truyện của chị không ngừng được làm giàu bằng
những yếu tố hấp dẫn đến một cách bất ngờ tự nhiên không sắp đặt. Với đặc
điểm này cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư có vẻ như không tập trung, không
chặt chẽ nhưng ngược lại “cốt truyện phiêu lưu” này đã mang đến cho những
trang văn của Ngọc Tư một sự lôi cuốn lạ lùng.
Nói tóm lại, cốt truyện trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường
không chia thành phần, sự kiện nhiều khi được trải ra không phân biệt chính
phụ. Hơn nữa, truyện của chị lại được làm đầy bởi những yếu tố “phi cốt
truyện” đó là những dòng tâm trạng, những dòng độc thoại nội tâm, những
bức tranh thiên nhiên miêu tả cảnh sinh hoạt của con người. Điều này làm cho
cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư khác với cốt truyện trong truyện ngắn Phan
Thị Vàng Anh và khác với cốt truyện trong truyện ngắn truyền thống. Nó thể
hiện những cố gắng tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật của chị để tìm cho mình
một chỗ đứng trong làng văn chương.
3.2. Giọng điệu
3.2.1. Quan niệm về giọng điệu
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là yếu tố
hàng đầu tạo nên phong cách riêng của mỗi nhà văn, tạo nên sự khác nhau
giữa các nhà văn và sức hấp dẫn của tác phẩm. Giọng điệu là yếu tố đặc trưng
của hình tượng tác giả. Giọng điệu của tác phẩm ở mức độ nào đó phụ thuộc
vào đặc điểm miêu tả cũng như cách cảm nhận về chúng. Chỉ những nhà văn
thực sự có tài năng mới có giọng điệu riêng. “Đó chính là đặc điểm chủ yếu
của một tài năng sống độc đáo” (M.B. Khrapchenco) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
Cơ sở của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Biểu hiện của
giọng điệu rất đa dạng. Ứng với mỗi trạng thái tâm lý của con người là một
sắc thái giọng khác nhau. Trong “Thi pháp truyện Kiều”, Giáo sư Trần Đình
Sử cho rằng: Giọng điệu được thể hiện ở tiếng nói, điểm nhìn của chủ thể, ở
quan hệ của chủ thể tác giả với cái được miêu tả…Mỗi giai đoạn văn học có
giọng điệu riêng. Văn học Trung đại có giọng “Ngôn chí”, thơ trữ tình điệu
ngâm. Văn học Cách mạng lại có giọng điệu khẳng định, tự tin, rưng rưng về
cái cao cả, anh hùng. Văn học sau chiến tranh lại là giọng điệu vừa phê phán
vừa chua chát, thậm chí cay nghiệt. Còn văn học hiện nay, giọng điệu cơ bản
là gì? Có lẽ vẫn là sự tiếp nối giọng điệu sau 1975, nhưng đi sâu vào giọng
điệu giễu nhại, hoặc từng trải, triết lí.
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư luôn có cảm hứng suy nghĩ, trăn trở
về con người, về tình yêu, mối quan hệ giữa con người với con người. Nó
được nhìn bằng một tâm hồn đậm phong cách Nam Bộ “nghĩ sao nói vậy”,
không màu mè chau chuốt và đậm chất nữ tính. Giọng điệu của Nguyễn Ngọc
Tư là một giọng điệu rất riêng, ám ảnh dễ nhớ, chỉ cần đọc một lần cũng có
thể nhớ được giọng văn của chị. Đó là giọng văn thủ thỉ, tưng tửng nhưng đầy
ám ảnh. Dường như nhà văn không có ý định gửi thông điệp mà cũng chẳng
triết lí gì về cuộc sống. Mọi thứ cứ tự phơi bày, lên tiếng thật phóng khoáng,
bộc trực. Giọng văn này không bộc lộ trực tiếp mà đan xen pha tạp với nhiều
giọng điệu khác như: Giọng điệu Nam Bộ đặc trưng hay giọng văn trong sáng
giàu nhạc điệu.
3.2.2. Một giọng văn “điềm đạm mà thấu đáo”
3.2.2.1. Giọng buồn “mênh mang, sâu rứt”
Có thể nói, ngay từ tập truyện đầu tay là “Ngọn đèn không tắt”, người
đọc đã nhận ra cái giọng buồn này của chị. Chị buồn cho ông Hai Tương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(“Ngọn đèn không tắt”) - ông già năm nào cũng đi kể chuyện lịch sử địa
79
phương vì sợ thế hệ sau này không còn ai nhớ về các anh hùng đã ngã xuống vì
quê hương xứ sở nhưng khi ông mất chẳng người nào nhớ; đồng thời chị cũng
buồn vì sự hời hợt của những người “có trách nhiệm” về việc làm qua loa và
hình thức của họ nhân dịp kỷ niệm ngày khởi nghĩa hàng năm của xã nhà.
Hay trong “Nỗi buồn rất lạ” người đọc cũng bắt gặp cái giọng buồn
tênh của Nguyễn Ngọc Tư khi phải chứng kiến lối sống hờ hững, “dửng dưng
và tạnh quẽ với cuộc đời”… của lớp thanh niên trai trẻ trước những bất trắc
của người khác:“Thôi buồn quá. Tôi thấy mình thà chết còn sướng hơn, chứ
còn trai trẻ mà sống làm chi dửng dưng, tạnh quẽ với cuộc đời như thế này.”
Có thể thấy, xuyên suốt tập truyện này là giọng buồn “mênh mang, sâu
rứt” như vậy. Và càng về sau cái giọng buồn “mênh mang, sâu rứt” ấy càng lan
tỏa khắp các tập truyện khác của chị. Buồn vì cái nghèo vẫn không chịu buông
tha những người nông dân quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” :
“Nhà tôi xiêu vẹo đã lâu. Nhánh khế de trên nóc nhà có bữa rụng
xuống mâm cơm của chúng tôi mấy trái chín rục. Vẻ hiu hắt , cũ kỹ của ngôi
nhà thường cuốn hút khách dừng chân, ghé vào. Tía tôi tạt vào họ một bộ mặt
lạnh tanh, te te bỏ ra vườn, cây gậy dấm dứ trên tay như chực phang vào ai
đó. Tôi cũng khó chịu khi người ta hãi hùng níu vai nhau coi tôi lột da chuột
dưới cầu ao. Tôi thấy hình ảnh mình - một thằng con trai tàn bạo, man rợ
trong mắt họ. Tôi ngọ ngoạy, giãy giụa một cách tuyệt vọng. Bởi suốt một
mùa nắng đó, hai tía con tôi chỉ sống nhờ vào tiền bán chuột đồng nên tôi
không làm sao cải thiện được hình ảnh của mình”. (Thổ sầu)
Và buồn vì những mặt trái của đô thị hóa nông thôn làm nảy sinh nhiều
vấn nạn tiêu cực, lối sống thực dụng của con người:
“Hôm ấy Văn không trả lời, hôm sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn
ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua
80
một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để nói cháu về vì má cháu
đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một tí, rồi lên xe đi luôn
cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết người ta nói dối, dù
trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi.” (Thương quá rau răm)
“Nhưng đời đám nhân viên phục vụ bỗng buồn hiu. Khách đến, khách
say, tán tỉnh, hôn hít họ rồi về (thì ca hay, phục vụ chu đáo, nên khách thưởng
chơi vậy mà). Người ở lại chua chát nghĩ, điệu này rồi sẽ khó lấy chồng, đáng
ra đôi má này đôi tay này phải để cho người mình thương iu ấp. Có ai yêu
mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho người ta hôn
hít (và cả đáp lại người ta, nếu có yêu cầu). Bà con ở đây cười cợt, dè bỉu đã
đành, tệ như mấy anh chàng thợ xây nhà thuỷ tạ ốm tong teo, đen nhẻm vậy
mà không thèm chọc ghẹo một lời. Không biết đã đành, thấu hiểu, yêu thương
như Khởi một bữa còn đập đàn bỏ Xuyến mà đi.” (Duyên phận so le)
Như vậy, buồn trước hết chính là giọng điệu, là âm hưởng chung chi
phối cả hệ thống truyện ngắn của chị góp phần làm nên một “cái nhìn khắc
khoải” về thân phận con người, về những nỗi đau, những dâu bể trong cuộc
đời người dân thôn quê vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, nếu
quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy buồn “mênh mang sâu rứt” chỉ là một khía cạnh
trong cái âm hưởng và giọng điệu chung của toàn bộ hệ thống truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư. Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy con
người tuy phải hứng chịu nhiều bất hạnh, oan trái nhưng trong từng lời nói và
trong sâu thẳm suy nghĩ của họ vẫn luôn ánh lên một niềm tin: những khó
khăn, vất vả cùng những đau khổ nhất định rồi sẽ qua đi. Người đọc không
khó để nhận ra âm hưởng này trong rất nhiều truyện như:
“Bến đò xóm Miễu thay đổi chủ. Lương vẫn mải miết chèo qua chèo
lại, càn lên dòng chảy, sóng nước mà đi. Bông ngồi trên bến thu tiền. Nó vuốt
phẳng phiu những tờ bạc lẻ cũ mèm vào từng ô của chiếc hộp Lương đóng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày xưa. Người lạ qua bến nhìn Bông xinh đẹp tươi hồng rồi đọ với vẻ mặt
81
già háp của Lương mà tiếc hùi hụi, tiếc đôi đũa mốc gác lên mâm son, tiếc
bông lài thơm mà cắm nhầm bãi cứt trâu…Người xóm Miễu cự, nói Lương
mới thấy thương, mới thiệt thòi, đã cưu mang đứa con gái đã lỡ lầm còn tàn
tật. Chớ biết làm sao, lỡ thương quá chừng rồi.” (Bến đò xóm Miễu).
“Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến,
Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh
và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi
lầm của người lớn.” (Cánh đồng bất tận)
Nói cách khác, một cách đầy đủ hơn, giọng điệu trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư tuy là buồn nhưng không chán chường. Vấn đề này nói
như Trần Hữu Dũng là: “Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng
than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt
ngang nhưng rất đủ của một người trẻ bỗng nhiên phát giác bất hạnh của
cuộc đời, mà vẫn hi vọng”.
Có thể nói, trước những dâu bể thăng trầm của cuộc đời, con người
không thể không buồn nhưng quan trọng hơn trước những dâu bể thăng trầm
ấy, con người ta biết chấp nhận nó để có thể sống tốt hơn, để hiểu mình và
hiểu đời hơn… Giọng buồn nhưng không chán chường trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư đã góp phần thể hiện cái nhìn của tác giả về những con
người luôn hiểu và ý thức được vị trí và thân phận mình trong cuộc đời.
Những truyện ngắn như: “Ngày đã qua”, “Ngày đùa”, “Cánh đồng bất tận”,
“Gió lẻ”, “Núi lở”, “Sầu trên đỉnh Puvan”… là những trường hợp tiêu biểu
cho vấn đề này.
Tóm lại, trong cái nhìn về hiện thực cuộc sống, Nguyễn Ngọc Tư
thường hướng cái nhìn xót xa và thông cảm đến những phận người không
may trong cuộc đời. Điều này đã tạo nên một giọng buồn trong truyện ngắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của chị. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ xót xa và thông cảm, chị còn
82
tin yêu và luôn mong mỏi cho những phận người không may ấy có được cuộc
sống hạnh phúc dù là những hạnh phúc bình dị và nhỏ nhoi nhất để bù đắp
cho sự độ lượng, vị tha và nghĩa khí của họ trong cuộc sống. Đây cũng chính
là cái nhìn mang đầy tính nhân văn của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
3.2.2.2. Giọng điềm nhiên, trầm tĩnh
Trước hết, có thể thấy giọng điềm nhiên, trầm tĩnh trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện qua nhịp điệu kể chuyện rất từ tốn,
chậm rãi của nhân vật người kể chuyện. Mở đầu truyện ngắn “Cải ơi”, người
đọc bắt gặp nhịp kể chậm rãi, từ tốn của người kể dù đang thuật lại tình cảnh
khó khăn bi đát của các nhân vật - một nhịp kể thể hiện sự tỉnh táo và điềm
nhiên của tác giả trong quá trình phản ánh sự khốn khó của con người trong
cuộc sống:
Vì vậy mà Trần Hưng mới dắt mọi người ra Gò Cây Quao để quay
cảnh kết, anh còn chu đáo rước cả thằng Thảo về. Đất đồng mùa nầy đã cày,
bờ mẫu chơ vơ những bụi cỏ ống, bụi rạ bị đốt cháy nham nhở, Một đoàn
người lặc lè đi dưới cái nắng tháng ba như chó le lưỡi. Ông Mười ngồi lại
dưới xuồng, đốt thuốc, đăm đăm ngó khói lên trời. (Mối tình năm cũ)
Tương tự vậy, trong “Gió lẻ”, người đọc lại bắt gặp sự chậm rãi và từ
tốn quen thuộc của người kể thuật lại cái chết của mẹ nhân vật Mỹ Ái:
“Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho
con chó Lu Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em,
hỏi mẹ, từng từ khít như máu rỉ qua kẻ răng, “cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái
thứ này?”. Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ
sau cha tìm thấy mẹ treo mình đung đưa trên xà nhà. Lưỡi trả lại cho cuộc
đời, bởi người ta không chấp nhận sự vô dụng của nó, nói mà chẳng ai nghe.
Một điểm quan trọng nữa giúp nhận ra giọng điệu điềm nhiên, trầm
tĩnh của Nguyễn Ngọc Tư là lối kể chuyện bình thản, “có sao nói vậy người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
ơi” có phần dửng dưng của chị. Những lúc như vậy, người đọc bắt gặp nhân
vật người kể chuyện có khi đứng ngoài xưng “tôi”, có khi nhập vào nhân vật
chính để kể lại những sự việc xảy ra một cách rất thản nhiên đôi khi có phần
dửng dưng, lạnh lùng nhưng thực chất trong lòng rất đau đớn, xót xa,... Trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư vấn đề này thể hiện rõ nhất là ở những câu
văn mà tác giả cố tình (để cho nhân vật kể chuyện trong quá trình trần thuật)
mở ngoặc đơn để “giải thích”, “chú thích” thêm một vấn đề gì đó. Hoặc
không thì “nói thêm vào”, “nói cho rõ hơn” trong lúc trần thuật. Ví dụ như:
- “Ông lấy trời đất, thần phật, rắn rít và cả kiếp sau (mặc dù cũng
chưa biết nó ra làm sao) ra thề nhưng bà không tin, giận chẳng nhìn, chớ
thèm cười nói.” (Cải ơi)
- “Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm
thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ nầy sao lại không thể đi chung) ”.
(Dòng nhớ)
-“Giỏi giắn, tươi tắn đến nỗi không ai tin Hậu còn bệnh (bác sĩ nhiều
khi còn không dám tin) nhưng mãi Hậu vẫn chưa nhận ra chồng.” (Một trái
tim khô)
Chúng tôi thử làm một thống kê nhỏ về những “dấu ngoặc đơn” trong
ngôn ngữ trần thuật ở tập truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư
và thu về kết quả như sau:
Số lần xuất hiện STT Tên truyện ngắn dấu ngoặc đơn
1 Cải ơi 5
2 Thương quá rau răm 11
3 Hiu hiu gió bấc 0
4 Huệ lấy chồng 1
5 Cái nhìn khắc khoải 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6 Nhà cổ 3
84
7 Mối tình năm cũ 5
8 Biển người mênh mông 1
Cuối mùa nhan sắc 9 3
10 Nhớ sông 0
11 Dòng nhớ 0
12 Duyên phận so le 16
13 Một trái tim khô 8
14 Cánh đồng bất tận 59
[4.1]
Có thể nói, đây là nét sáng tạo trong cách trần thuật của Nguyễn Ngọc
Tư, góp phần làm nên giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh rất độc đáo của chị.
Chính sự xuất hiện của những dấu ngoặc đơn làm nhiệm vụ “giải thích, chú
thích thêm” hay “nói cho rõ hơn” một vấn đề nào đó đã làm cho câu chuyện mà
Nguyễn Ngọc Tư kể với người đọc thêm phần khách quan và sinh động hơn.
Bên cạnh lối kể chuyện với nhịp điệu chậm rãi, từ tốn; lối trần thuật
bình thản đôi khi lạnh lùng; người đọc còn nhận ra giọng điệu điềm nhiên,
trầm tĩnh của Nguyễn Ngọc Tư ở sự cân nhắc trong việc sử dụng ngôn từ
mềm mại và đầy “nữ tính”. Đây là một điểm rất khác của Nguyễn Ngọc Tư
so với khá nhiều những nhà văn lớp trước như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao trước 1945, hay Nguyễn Huy Thiệp những năm tám mươi
của thế kỷ XX. Cũng là hợp lý thôi vì Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn nữ vì thế,
so với các nhà văn vừa kể, ngôn ngữ và giọng điệu của Nguyễn Ngọc Tư
mềm mỏng và nhẹ nhàng hơn; Nguyễn Ngọc Tư không chửi rủa, không mạt
sát, không văng tục, không thóa mạ, không tỏ ra cay cú… khi đề cập đến
những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống. Chúng ta thấy rõ vấn đề này ở những
những truyện ngắn trong tập “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” cùng một số
truyện như: “Ngọn đèn không tắt”, “Cánh đồng bất tận”, “Lỡ mùa”, “Đau gì
như thể”,… Đây là những truyện ngắn mà Nguyễn Ngọc Tư muốn góp tiếng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
nói phê phán những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống nhưng giọng điệu của chị
vẫn rất nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Nguyễn Ngọc Tư tuy có bất bình, có không hài
lòng về những điều bất công, giả dối của con người trong cuộc sống nhưng
chị không lên giọng quát tháo, không văng tục như chúng ta thường thấy ở
Nguyễn Huy Thiệp. Ở Nguyễn Huy Thiệp khi không hài lòng một vấn đề gì là
ngay lập tức giọng điệu của ông thay đổi một cách rất quyết liệt, mạnh mẽ
nhiều khi mất bình tĩnh và trở nên cực đoan.
Không giống như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư thường chọn
cách nói nhẹ nhàng và ít khi phát biểu hay bày tỏ thái độ bằng những ngôn từ
gân guốc, đầy góc cạnh thậm chí có lúc rất bạo liệt. Đây là ngôn từ nhẹ
nhàng, mềm mại của Nguyễn Ngọc Tư thuật về tình cảnh đáng thương của
Nương - cô gái mới lớn bị những “người có trách nhiệm” của địa phương hãm
hiếp trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”:
“Bọn chúng hơi khó chịu trước một đứa con gái yếu ớt và câm lặng. Sự
hưng phấn giảm đi ít nhiều, đến nỗi, chúng tỏ ra đờ đẫn, nghi hoặc khi bóc
trần tôi ra. Sao đúng lúc vầy nè, tôi buồn nẫu nê, tôi vừa le lói nhìn thấy con
đường dẫn đến cuộc sống bình thường, tôi vừa nghĩ, trên con đường đó, sẽ
gặp người con trai nào đó để thương yêu…Nhưng cố không để cảm giác đau
tiếc làm mình lịm vào chết, tôi cười cợt, “Chúng mày có lột bỏ có trăm có
ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng chẳng bao giờ thấu đến tận tao”.
Ý nghĩ đó làm tôi bớt nhói cho nông nỗi nầy.”
Còn đây là cách Nguyễn Ngọc Tư kể lại cảnh ông Tám Nhơn Đạo hãm
hiếp cô bé Mỹ Ái trong truyện ngắn “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” - một
giọng kể thản nhiên được trình bày qua lối văn nhẹ nhàng nhưng lột tả trọn
vẹn nỗi nỗi đau, thất vọng của tác giả trước sự đểu giả của con người trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuộc sống:
86
“Lâu ngày em không còn giật mình vì tiếng người nữa. Nên cái bữa
ông Tám Nhơn Đạo ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt
xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật
mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước
tiểu… Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường
lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó.”
Có thể thấy, tuy không dùng những lời lẽ đao to búa lớn, không quát
tháo, không thóa mạ… nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái nhìn phê
phán của Nguyễn Ngọc Tư trước những vấn đề tiêu cực của cuộc sống. Đồng
thời cũng cảm nhận được nỗi xót xa và thương cảm, đau đớn của nhà văn
dành cho số phận không may trong cuộc đời. Đây là thành công của Nguyễn
Ngọc Tư trong việc sử dụng ngôn ngữ mềm dẻo, nhẹ nhàng, đầy nữ tính để
tạo nên một giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh nhằm lột tả bản chất của những
sự việc mà chị phản ánh. Vấn đề này, nói như nhà văn Dạ Ngân là Nguyễn
Ngọc Tư có giọng “điềm đạm mà thấu đáo”. Hay Kiệt Tấn trong “Sông nước
Hậu Giang và Nguyễn Ngọc Tư” thì Nguyễn Ngọc Tư có giọng văn “…thành
thật hiền hòa, không xốc táp ngang ngược; không có những kiểu nói om sòm
mà rỗng tuếch. ”
3.2.2.3. Giọng tâm tình, tưng tửng, hóm hỉnh nhưng thấm thía
Chúng ta biết rằng, trong mỗi tác phẩm, chủ thể phát ngôn thường xuất
hiện trong ba tư thế chính: Hoặc trực tiếp, hoặc thông qua nhân vật chính
hoặc ẩn sau cách miêu tả và tái hiện những sự vật bên ngoài nhà văn. Song dù
ở tư thế nào, hình bóng tác giả vẫn in vào tác phẩm và cùng với nó là giọng
điệu và cái nhìn của nhà văn. Với Nguyễn Ngọc Tư, chị là nhà văn có cái nhìn
của người dân quen nói chuyện đời sống dân quê, đồng thời cũng là người có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cái nhìn nghệ thuật nhiều chiều, thẳng thắn, mà thấu đáo trước những góc
87
khuất, mặt trái của sự thay đổi làng quê trong thời buổi kinh tế thị trường.
Nên, Nguyễn Ngọc Tư chọn cho mình một giọng điệu rất riêng, rất nữ tính mà
không kém phần ấn tượng. Đó là giọng điệu tâm tình, tưng tửng, hóm hỉnh
nhưng thấm thía. Trong khi hầu hết các nhà văn trẻ cố mài rũa để có được
giọng văn chững chạc, có phần mỉa mai, có phần triết lí cay nghiệt trước cuộc
đời thì Nguyễn Ngọc Tư lại chọn cho mình một giọng văn khá truyền thống
nhưng cũng rất ám ảnh người đọc.
Ở mỗi trang văn của mình, Nguyễn Ngọc Tư hiện ra là con người nhẹ
nhàng kín đáo mà không kém phần sâu sắc, ráo riết. Chị không viết bằng lời
chua chát, đao to búa lớn mà bằng lời thủ thỉ, tâm tình cứ lôi cuốn người đọc
không hay biết. Một lối kể chuyện rất nhẹ nhàng thấm thía mà lại rất có
duyên. Thủ thỉ, tâm tình nên trước các sự kiện, các hiện tượng tiêu cực cũng
được miêu tả với thái độ điềm tĩnh nhẹ nhàng:
“Kẹt quá chú ơi, bữa nay chủ tịch phải dự triển khai gì đó, chú hẹn cuối
giờ chiều. Chủ tịch dặn mấy chú vô Ủy ban ngồi nghỉ đỡ.
Và Ba Già, trưởng đoàn Trảng Cò, ông già có khuôn mặt khắc khổ, nhăn
nhó nhất, mạnh giỏi nhất, ăn nói có vẻ trơn tru bỗng dưng hức lên khóc ngon
lành:“Vậy là đất Trảng Cò trễ thêm một mùa nữa rồi mấy chú ơi.”[57.39]
Sự phẫn uất, căm ghét được dồn nén ở bên trong câu chuyện, ẩn dưới
thái độ thờ ơ, dửng dưng. Nữ văn sĩ Nam Bộ này kể về nhân vật, về sự kiện
với thái độ lãnh đạm, dửng dưng nhưng người đọc vẫn cảm nhận được ở đây
thái độ căm ghét phẫn uất của tác giả. Chính vì thế, các nhân vật của chị
thường không có bộ mặt mà chỉ có ấn tượng của tâm trạng. Trữ tình, thủ thỉ
nhưng không kém phần ráo riết, sắc sảo. Hình ảnh một người đàn bà “làm đĩ”
đã thương lượng, chấp nhận “đi đêm” với hai gã cán bộ để cứu bầy vịt thiếu
ăn, gia tài của ba cha con du mục trong “Cánh đồng bất tận” đã cho thấy bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lĩnh của chị. Ở đoạn này, Nguyễn Ngọc Tư viết rất khéo. Viết, như một lời kể
88
lại một cách bình thường, chẳng lên gân dạy trò đạo đức, cũng chẳng kêu gào
kết án những ai. Vậy mà lối viết bình thường ấy lôi kéo một cách lạ thường,
làm sáng lên hai mặt của đồng tiền. Một, cái thối tha, của những kẻ lúc nào
miệng cũng gắn liền: chủ trương, chính sách triệt để, thi đua, sự cố,…nhưng
khi cần “đi đêm” thì tất cả quẳng vào sọt rác. Hai, cái nghĩa cử đẹp, cái đạo
của phường làm đĩ. Đạo ở đây là đạo làm người. Làm một người tử tế hay
sống một đời lương thiện, thời nay, thật khó.
Đi sâu vào đề tài nông thôn, một đề tài truyền thống khá quen thuộc,
giống như người ta thâm canh trên mảnh đất mà thiên hạ đã khai thác đến
mòn xơ xác phải là người tự tin tìm thấy cho mình một lối đi mới hoặc
rất…hồn nhiên. Đúng là hồn nhiên - ta thấy truyện của Nguyễn Ngọc Tư rất
nhiều giọng tưng tửng (Tiếng miền Nam gọi là nói “khơi khơi”), cứ như
người ta viết trong một cuộc trò chuyện thoải mái với bạn bè, câu chữ rất
nhiều khẩu ngữ đến mức tự nhiên. Không chỉ có câu chữ, ngay cả lối ngắt
câu, xuống dòng rất phóng túng cũng tạo ra một dòng chảy thật sinh động:
“Những mùa lam lũ. Những mùa cực nhọc. Một mình chống chọi” [58.60]
“Nhìn thái độ anh chị vậy, tôi tính điệu nầy chắc mình cũng phải buồn
một chút. Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn vì chiều nay,
“Nhân Phủ” đã sụp đổ trong lòng.
Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi”[58.71]
Một chút ngang tàng, một chút bụi bặm, một chút giễu cợt, một chút
khinh khi…Tất cả tạo thành một giọng điệu tự nhiên, tưng tửng.
Đằng sau cái vỏ tưng tửng, cợt đùa chẳng mấy nghiêm túc, nghiêm
trọng, những tình ý phía sau con chữ vẫn đau đáu một nỗi gì ngược lại, như là
nỗi ưu tư, phiền toái và phiền muộn luôn là một phần trong bản chất cuộc
sống. Suồng sã với nó, coi thường nó chẳng qua là để có thể sống chung với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nó nữa thôi. Giọng văn đó, cứ êm êm nhưng lắng sâu rất ám ảnh. Nó bắt
89
người đọc phải ngẫm nghĩ. Mới đọc qua, nó không có nước mắt nhưng hình
như lại có một mạch chảy ngầm ở trong. Đó là giọng văn vừa tưng tửng vừa
thấm thía: “Phi đã gặp biết bao gương mặt, cùng cười đùa với họ, hát cho họ
nghe, cùng chạm ly uống đến say…nhưng không ai nhắc Phi cắt tóc đi, đàn
ông đàn ang ai để tóc dài” [58.111].
Có điều lạ, những dòng văn đầy ám ảnh, chạm khắc đến thẫm thía ấy,
nếu nhiều quá, dễ làm cho người ta nhàm chán. Nhưng trong thế giới nghệ
thuật Nguyễn Ngọc Tư, nó lại mê hoặc, cuốn hút con người không gì lí giải
mà là những lời nói thốt nhiên, lửng lơ của một người trẻ tuổi đầy ước mơ.
Nó bột phát khám phá, nó là con mắt nhìn lần đầu thấy bất hạnh, thấy ngang
trái mà vẫn bừng lên hi vọng, nên dù có bồng bột nó cũng vẫn rất hấp dẫn con
người. Có người nào đó đã nói: “Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là
tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ,
đứt ngang, nhưng rất đủ, của một người trẻ bỗng nhiên phát giác những bất
hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng”[12.1].
Tuy nhiên, thế giới truyện của Nguyễn Ngọc Tư buồn nhưng không quá
bi lụy, ám ảnh nhưng không quá nặng nề. Bởi nhà văn biết gia giảm cần thiết
những chi tiết hóm hỉnh, tươi mới. Nó làm cho mọi nỗi đau trở nên vợi bớt,
thanh thản hơn. Lời bày tỏ tình cảm của anh Nhâm trong “Một trái tim khô”
mới có lí và thú vị làm sao:
“Có đám trẻ lội bùn xủm đi qua hát rằng: “Ước gì mình đừng cách ngăn,
ước gì nhà mình chung vách…anh khoét tường…hú hí với em”. Hậu lắc đầu,
con nít nhà ai mới có tí tuổi đầu mà quỷ quoái. Nhâm cười, sẵn nói luôn, tôi
tháo vách thiệt à, cô Hậu”[58.152].
Trên cái nền chung của giọng điệu cảm thương, xót xa cho số phận của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người phụ nữ bị phụ bạc, bỏ rơi, cảnh hai người cùng nhau ra sức tát nước
90
ngập của Hậu và Nhâm thật dí dỏm. Nó làm cho không khí tác phẩm vợi bớt,
nhẹ nhàng.
“Chuyện vui điện ảnh” kể về nhân vật chú Sa cũng là tình huống dở
khóc, dở cười. Khi chú chưa đóng phim, cả xóm ai cũng yêu quý chú. Hôm
trình chiếu bộ phim cả xóm nấu cơm sớm chờ xem phim chú Sa đóng. Phim
bạo liệt, trần trụi, chú lại đóng vai phản diện, cả xóm “lặng lẽ ra về”. Thế là từ
đó, mọi người không ai bảo ai, không còn quý chú như trước nữa. Tình huống
lẫn lộn giữa đời thực và phim ảnh rất thuyết phục, rất hóm hỉnh mà cũng thật
sâu cay.
Rồi đó cả những chi tiết khôi hài đến tức cười: “Ngày dì út Thu Lý tròn
bốn mươi bảy tuổi, dì từ giã thêm một lượt ba chiếc răng. Buồn quá trời đất,
dì lại chùa Phấn, than với Sư Huệ bây giờ không biết làm sao giáp mặt anh Tư
Nhớ, răng còn trống hơ trống hốc vầy…Bà Sư già nghe xong niệm phật mà
không nén được cười. Bây giờ gần hai mươi năm rồi, tóc đã trắng những sợi
già, chuyện tình đó vẫn chưa tới đâu”[57.40]. Người ta yêu nhau không màng
đến thời gian, tuổi tác. Yêu nhau đến khi “đầu bạc răng long”, đúng cả nghĩa
đen với nghĩa bóng. Dường như sự hóm hỉnh, khôi hài là những gia vị cần
thiết, đúng chỗ làm đa dạng hương vị cho bữa ăn tinh thần thịnh soạn mà
Nguyễn Ngọc Tư đã bày ra cho bạn đọc. Hóm hỉnh, khôi hài làm cho người ta
thêm nhớ, thêm yêu một nhà văn có giọng điệu đặc biệt.
Trong các tác phẩm của những nhà văn nữ gần đây như: Dương Thu
Hương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh… bao giờ cũng có giọng
chế giễu, châm chọc, đả phá hoặc phẫn uất. Bằng những giọng điệu đó nhà
văn muốn chỉ ra những bất công, rung những tiếng chuông cảnh tỉnh, cảnh
báo hoặc đem đến tiếng nói đòi quyền sống cho con người. Còn ở Nguyễn
Ngọc Tư, với giọng điệu trữ tình bình thản, hóm hỉnh nhưng thấm thía, nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn lại nêu lên nỗi khổ của con người, nêu lên thuyết nhân quả, báo ứng trong
91
cuộc sống hoặc là sự đồng cảm, xót thương chia sẻ. Với chị, niềm thương cảm
luôn lớn hơn sự phẫn uất, căm giận. Bao trùm trong cái giọng điệu trữ tình,
bình thản mà thấm thía nên truyện của chị ít có nhân vật phản diện đáng lên
án. Giọng điệu trữ tình tưng tửng mà thấm thía là giọng trời phú cho nhà văn
trẻ này.
Và như thế, với chất liệu nội dung quen thuộc, chính giọng điệu, cách
diễn đạt của nhà văn đã tạo nên cho truyện của chị một “bầu khí quyển” sống
thích hợp, đủ sức gây ấn tượng và tồn tại trong lòng người đọc. Một lần nữa
ta thấy trong sáng tạo nghệ thuật, “nói cái gì” có khi không quan trọng bằng
“nói như thế nào” - Một chân lí không mới nhưng chưa bao giờ cũ.
3.3. Ngôn ngữ Nam Bộ đặc trƣng
3.3.1. Lối diễn đạt Nam Bộ
Vùng đất và con người Nam Bộ trong các sáng tác của chị được dựng lại
bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ:
“Ngôn từ trong tất cả truyện ngắn của chị, từ ngôn ngữ dẫn truyện đến ngôn
ngữ nhân vật, nhất là ngôn ngữ nhân vật, đều khá thuần chất Nam Bộ”[50.1].
Số lượng từ ngữ Nam Bộ được dùng trong tác phẩm của chị dày đặc và sử
dụng khá thích hợp. Đặc điểm này tạo nên ở truyện của chị vừa là không khí
Nam Bộ đặc trưng, vừa là một văn phong riêng mà nhiều người cảm thấy yêu
thích. Văn phong chất Nam Bộ thể hiện thấy rõ qua tương quan giữa từ “toàn
quốc” và từ “địa phương”:
Từ ngữ Nam Tỉ lệ phần
Tên tác phẩm Tập truyện Bộ/ từ ngữ phổ trăm
thông (Xấp xỉ) (Xấp xỉ)
Cải ơi “Cánh đồng bất tận” 117/2859 4.09
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thương quá rau răm “ 118/2882 4.09
92
“ Hiu hiu gió bấc 131/2767 4.73
“ Huệ lấy chồng 87/2921 2.98
“ Cái nhìn khắc khoải 96/3293 2.91
“ Nhà cổ 109/2568 4.24
“ Mối tình năm cũ 102/2818 3.62
Biển người mênh mông “ 122/3355 2.74
“ Nhớ sông 135/2457 5.49
“ Dòng nhớ 279/3348 6.54
“ Duyên phận so le 116/1392 4.31
“ Một trái tim khô 52/2328 2.23
“ Cánh đồng bất tận 350/1681 0.21
Bởi yêu thương “Giao thừa” 126/2700 4.77
Chuyện vui điện ảnh “ 93/2590 0.34
“ Đời như ý 115/2555 4.50
“ Giao thừa 45/1760 2.55
“ Làm má đâu có dễ 63/1850 3.40
“ Làm mẹ 119/2466 4.83
“ Lương 116/2402 4.83
“ Dòng xuôi mải miết 73/2551 2.86
“ Một mối tình 183/3287 5.56
“ Ngày đã qua 155/3429 4.52
“ Ngày đùa 36/2160 1.66
“ Người năm cũ 126/3334 3.80
Lỡ mùa 73/2686 2.07
Chiều vắng 55/2740 2.03 “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” “
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
45/3022 1.49 Chuyện của Điệp “
93
Nửa mùa “ 49/3240 1.51
Ngổn ngang “ 19/1968 1
Đau gì như thể… “ 57/3894 1.5
Nước chảy mây trôi “ 28/2958 0.95
Như vậy, từ ngữ, phương ngữ Nam Bộ chiếm một tỉ lệ lớn, khá quan
trọng trong văn phong của chị. Đó là những từ ngữ chỉ địa hình, sản vật gắn
với một vùng sông nước: “áo bà ba, bà chằn, bình bát, bông, bông súng, bông
trang, cà ràng, cải lương, cây còng, cây tra, chàng tắm, chợ nổi, cò cò, dây
thun, dừa nước, đất nẻ, đậu hũ, đậu phộng, đèn chong, đờn…” [51.1].
Đó là những từ chỉ hoạt động, sinh hoạt: “bắn đạn, biên thư, biểu, búng
thun, chào sân, coi kiếng, cự, day, dùa, đá banh, đánh lộn, đơm nút, giăng
mùng, lặn đất, lục, mằn nắn, nhậu nhẹt, thiến heo, thường, tợp, vô…”[51.1].
Đó là những từ chỉ trạng thái, tính chất: “bằn bặt, bịnh, buồn hui, cà
chớn, chảnh, đong đưa, giả bộ, lai rai, lãng xẹt, lanh, lẫm lẫm, lỉnh lảng, long
chong, lông bông, lừ từ, im re, ngộ, nhẹ hều, ốm, quớt, rã gánh, rớt nhịp,
sương sương, tạnh hột, tém tẻ, tệ hệ, thong dong, tròn dình, trớt he, trùng
trình, xà quần, xỉn, xửng vửng…”. Đó là những cách gọi mang sắc thái Nam
Bộ: “bây, má, tía, qua, chế ,ý…”. Đó là những từ biến âm và biến âm có rút
gọn: “bi nhiêu, hông, hổng dè, hy sanh, kinh, mươi mốt, Tết nhứt, thiệt, thí
mồ…; ảnh, ban nẩy, bển, chỉ, con mẻ, cổ, hổng, ổng…”[51.1].
Đó là cách diễn đạt kiểu Nam Bộ: “bảnh thiệt, cà lơ phất phơ, cá chốt rỉa,
chành miệng, chợ ba bảy chín, coi giò coi cẳng, đã thiệt, đánh lô tô, điệu này,
đưa chốt qua sông, mát trời ông địa, mắc mớ, mần chi, miệng cá sặc, mùi
rụng rún, mừng húm, quá giang, thử coi, vá chằng vá đụp…”[51.1].
Đó là những tình thái từ có màu sắc Nam Bộ: “hen, nghen, vậy ta, khỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khô…”[51.1].
94
Không những thế, từ ngữ phương ngữ Nam Bộ được chị đưa vào sử dụng
rất đa dạng, cả trong ngôn ngữ người kể chuyện, trong lời trần thuật và đặc
biệt là trong ngôn ngữ nhân vật. Nó làm cho câu chuyện trở nên hiện thực,
sinh động và gần gũi hơn, tạo được một giọng điệu Nam Bộ rất riêng. Nhìn từ
phương diện nghệ thuật, chị đã sử dụng ngôn từ của phương ngữ Nam Bộ khá
thành công trong sáng tác của mình. Điều này góp phần làm nên một văn
phong cách riêng ở chị. Tất nhiên, có thể có người không đồng tình với những
nhận định này và cho rằng, trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều
từ địa phương thì sẽ gây trở ngại cho người đọc, hạn chế độc giả. Thậm trí có
nhà nghiên cứu còn cho rằng, việc sử dụng từ ngữ Nam Bộ bị coi là: “Lạm
dụng từ ngữ địa phương”, hay: “Nguyễn Ngọc Tư còn thiếu sự lao động nghệ
thuật nghiêm túc, kĩ lưỡng đối với câu chữ”[48.134]. Nhưng, để có được
những sáng tác phản ánh sinh động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng
được chất liệu ngôn từ của thực tại cần phản ánh. Khi được hỏi, chị có dụng ý
gì khi sử dụng nhiều những ngôn từ Nam Bộ trong văn của mình chị đã trả
lời: “Tôi sinh ra ở một vùng quê, nhà tôi nằm ngay trên bờ sông, ngày nào
tiếng tắc rang, tiếng tàu máy đuôi tôm rồi chợ họp trên sông cũng nhộn nhịp.
Tôi đã từng phải hái rau cho bà, cho mẹ đem ra chợ bán. Sống trong môi
trường như thế thì cố tạo cho mình giọng văn rặt những ngôn ngữ “sang
trọng” mà làm gì? Tôi không cố ý sử dụng nhiều những phương ngữ, từ địa
phương. Tôi viết như vậy vì chỉ có ngôn ngữ ấy mới giúp tôi lột tả hết được
cái tình của người dân quê.”[55.1]. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý
phái hay độc sáng mà đó là một từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống chung
quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn: nghe và nhớ.
95
Song, nhìn kỹ, sự hấp dẫn của truyện Nguyễn Ngọc Tư không chỉ ở kho
từ vựng miền Nam dồi dào, mà còn ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa và đúng
chỗ vào những câu chuyện thật “miền Nam” - Một miền Nam không điêu tàn
vì bom đạn mà điêu tàn ở những vết thương trong đời người, một miền Nam
với đời sống vật chất và tinh thần đã xuất hiện những tình cảm, suy nghĩ mới;
có cả sự rạn nứt trong những mối quan hệ hết sức khốc liệt chứ không phải
lúc nào cũng đẹp, buồn và hiền như xưa nữa.
3.3.2. Đặc trưng hệ thống từ vựng địa phương
Có thể nói ấn tượng đầu tiên và dễ thấy nhất trong ngôn ngữ truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chính là khả năng khai thác và vận dụng nhuần
nhị và có hiệu quả vốn hệ thống từ địa phương Nam bộ để phản ánh và làm
bật nổi những nét văn hóa về vùng đất và con người vùng sông nước miền
Tây Nam bộ. Vấn đề này cũng có khá nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu
và bạn đọc xa gần đã đề cập. Trần Hữu Dũng trong bài viết “Nguyễn Ngọc
Tư, đặc sản miền Nam”, cho rằng: “Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng
đã tạo được một chỗ đứng khu biệt cho mình… Cái đầu tiên làm người đọc
choáng váng (một cách thích thú) là phƣơng ngữ miền Nam trong truyện của
Nguyễn Ngọc Tư” [12,1]. Hay Nguyễn Văn trong “Giao thừa của Nguyễn
Ngọc Tư”, cũng cho rằng: “Nguyễn Ngọc Tư có một lối viết văn tự nhiên,
không màu mè, không gượng ép, không làm dáng như những người hay quen
thói khoe chữ theo khuynh hướng gọi là “hiện đại” để tỏ ra mình “tinh tế”.
Văn của Nguyễn Ngọc Tư dùng phƣơng ngữ Nam Bộ tối đa”. Những nhận
xét trên là không sai nhưng phần nhiều vẫn còn rất chung chung, vì thế chúng
tôi thấy cần phải nói cho rõ hơn như sau:
Trước hết, người đọc không khó để bắt gặp trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư một hệ thống từ địa phương thể hiện cách xưng hô khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giao tiếp rất đặc trưng của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tùy
96
vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có những
lớp từ riêng biệt.
Dễ thấy nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là lớp từ chỉ cách
gọi tên người trong quá trình giao tiếp rất đặc trưng của người miền Tây Nam
Bộ theo kiểu gọi tên theo thứ tự sinh ra trong gia đình như: “Anh Hai”, “Anh
Năm”, “Ông Tư”, “Thiếm Sáu”… Hoặc không thì gọi kèm tên thật với thứ tự
sinh như: Hai Nhớ, Tư Bụng, Tư Đờ, Chín Vũ, Út Vũ, Út Thà,…
Trong xưng hô với người trong gia đình, Nguyễn Ngọc Tư rất thường
hay sử dụng lớp từ: “má”, “tía”, “chế”,“má sắp nhỏ”, “má con tao”,“má
nó”, “ba thằng …”, “ba nó”, “bà nó”, “mầy”, “tao”, “bây”, “tụi bây”, “tụi
nó” “mấy đứa nhỏ”, “sắp nhỏ”,…
- “Tao thương Thầy quá. Nhớ Thầy quá. Tao thèm gặp Thầy, gặp anh
em.” (Ngọn đèn không tắt)
- “Thằng Tứ Hải, đem mấy đứa nhỏ qua ngủ với má con tao nì. Để
không ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp tụi nó lắm nghen.” (Nhà cổ)
Nói về việc sử dụng từ địa phương trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư không thể không đề cập đến hệ thống từ thể sắc thái biểu cảm của người
nói đặt ở cuối những câu cảm hay câu nghi vấn. Đây cũng là lớp từ rất đặc
trưng trong ngôn ngữ giao tiếp của người miền Tây Nam bộ như: “á”, “à”,
“hen”, “hôn”, “phải hôn”, “vậy”, “nghe”, “nghen”, “vậy nghen”,“chớ”,
“chớ bộ, “mà”, “lận”, “quá chừng”, “quá trời”, “vậy à”, “vậy cà”, „bộ”,
“hả”, “ha”…
- “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen” (Cải ơi)
- “Cho bỏ tội mê cờ, nghen ” (Hiu hiu gió bấc)
- “Con Huệ nó dứt tình lẹ quá ha, dứt cái “rụp” (Huệ lấy chồng)
- “Tối nay lại chỗ tao nghe cải lương, nghe bây” (Cuối mùa nhan sắc)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- “Mấy cưng thương chị thiệt hả? Tội chưa…!??” (Cánh đồng bất tận)
97
- “Tôi tháo vách thiệt à, cô Hậu” (Một trái tim khô)
- “Mấy đứa con nít khen dì giống cô Tấm trong truyện cổ tích quá
trời”! (Chiều vắng)
Ngoài ra, đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc dễ dàng
nhận ra một hệ thống từ biến âm thể hiện rõ đặc trưng ngôn ngữ của người
dân vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long so với người dân ở các vùng
miền khác như: ổng (ông ấy), bả (bà ấy), ảnh (anh ấy), chỉ (chị ấy), biểu
(bảo), bịnh (bệnh), sanh (sinh), gởi (gửi), kinh (kênh), ác nhơn (ác nhân),…
Bước đầu chúng tôi cũng thống kê được khoảng trên dưới 40 biến âm trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư như thế. Hệ thống từ biến âm này được lặp lại
khá thường xuyên trong ý thức sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư góp
phần làm cho ngôn ngữ truyện ngắn của chị “thuần chất Nam Bộ”.
3.3.3. Lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước”
Bên cạnh hệ thống từ địa phương được sử dụng với tần số dày đặt,
chúng tôi còn nhận thấy ở truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư một hệ thống từ thể
hiện rất rõ đặc trưng địa hình và văn hóa của vùng Đồng bằng sông Cửu
Long như: kinh, rạch, vàm, xẻo, chợ nổi, ghe, xuồng, vỏ lãi, nước rong, nước
kém, vịt chạy đồng, khô cá chạch, mắm, sú, đước, ô rô, dừa nước, cóc kèn,… .
Chúng tôi tạm gọi đây là những lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước”
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Qua khảo sát, chúng tôi tạm thống
kê và phân thành ba lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước” như sau:
lớp từ chỉ địa danh và phương tiện đi lại, lớp từ chỉ địa hình, lớp từ chỉ đồ
vật, sản vật và văn hóa tinh thần.
STT
STT
STT
Lớp từ chỉ địa hình
Lớp từ chỉ địa danh và phƣơng tiện đi lại
Lớp từ chỉ đồ vật, sản vật và văn hóa tinh thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1 Sông Dài 1 Sông 1 Rừng mắm
98
Cù lao Mút Cà Tha
Kinh 2 Ô môi 2 2
Rạch 3 Sú 3 Mũi So Le 3
Ruộng 4 Vẹt Cánh đồng 4 4
Rẫy 5 Đước Kinh Mười Hai 5 5
Cánh đồng 6 Cóc kèn Xóm Xẻo Mê 6 6
Cù Lao 7 Ô rô Xóm Kinh Cụt 7 7
Xóm Rạch Ruộng
Xẻo 8 Lục bình Xóm Rạch 8 8
Bãi bồi 9 Bần 9 9
Nhánh sông 10 Tràm 10 Xóm Chẹt 10
Vịnh 11 Quao 11 Xóm Gò Mả 11
Vàm 12 Cây còng 12 Rạch Ráng 12
Rốn nước 13 Cây tra 13 Rạch Ô môi 13
Gò 14 Bình bát 14 Gò Cây Quao 14
Hòn 15 Bông súng 15 Kinh Cỏ Chát 15
Bờ 16 Đủng đỉnh 16 Sông Cái Lớn 16
Đập 17 Mồng gà 17 Chợ nổi Cà Mau 17
Lung 18 Trâm bầu 18 Chợ Ba Bảy Chín 18
Bàu 19 Bìm bịp 19 Vịnh Dừa 19
Đầm 20 Bông súng 20 Bàu Sen 20
Ao 21 Kho quẹt 21 Vườn Xóm Lung 21
22 22 Sông Gành Hào Bờ mẫu 22 Mắm kho
23 23 Bến đò xóm Miễu Liếp 23 Cá sặc/khô cá sặc rằn
24 24 Rạch Giồng Mương 24 Cá rô
25 25 Đập Sậy Mũi 25 Cá chốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26 26 Lung Dừa Giồng 26 Tép đất
99
27 Đập Bàu Mốt 27 Khô cá chạch
28 Đất Cháy 28 Dừa nước
29 Ghe 29 Vọng cổ/cải lương
30 Xuồng 30 Gánh hát
31 Sào 31 Đèn hột vịt
32 Đò 32 Đèn chong
33 Máy đuôi tôm 33 Áo bà ba
34 Vỏ lãi 34 Mẻ ung
35 Xà lan 35 Cà ràng
36 Tam bản 36 Vịt chạy đồng
[8.1].
Bảng thống kê bước đầu những lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông
nước” vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
Có thể nói, với việc thường xuyên sử dụng những lớp từ “gợi ấn tượng
về văn hóa sông nước” ở trên đã góp phần làm cho bức tranh hiện thực đời
sống và con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thêm phần chân thật
và sống động; giúp người đọc hiểu hơn về những đặc trưng về địa hình sông
ngòi, kênh rạch chằng chịt - ở góc độ nào đó còn là nét văn hóa rất đặc trưng
và độc đáo của vùng đồng bằng sông Cửu Long so với các vùng miền khác
của cả nước.
3.3.4. Sáng tạo và biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân
thành ngôn ngữ văn học
Bên cạnh việc sử dụng nhuần nhị hiệu quả vốn từ địa phương và lớp từ
mang ấn tượng văn hóa sông nước, một điều cũng rất ấn tượng và độc đáo
trong ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cho thấy khả năng vận dụng
một cách sáng tạo nhằm biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thành ngôn ngữ văn học rất độc đáo.
100
Vấn đề này, theo chúng tôi, trước hết cần phải nói rằng, ngôn ngữ trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (từ ngôn ngữ người trần thuật đến ngôn
ngữ của nhân vật) phần nhiều là “ngôn ngữ” của người dân sinh sống ở thôn
quê, ruộng vườn chứ không phải là “ngôn ngữ” của người dân sinh sống ở
thành thị. Có thể thấy, đa phần đối tượng mà Nguyễn Ngọc Tư phản ánh trong
truyện ngắn của mình đều là những người dân sống ở thôn quê. Chính vì thế,
khi đi vào tìm hiểu ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chúng
tôi nhận thấy, cách diễn đạt, cách hành văn của chị nhiều khi nôm na, mộc
mạc, hóm hỉnh nên cũng rất dễ đọc, dễ hiểu và dễ cảm. Đây cũng là một bằng
chứng khẳng định sự ảnh hưởng của môi trường và văn hóa vùng đất Nam Bộ
đến nhận thức cũng như tư duy nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư. Dưới đây là
một vài trường hợp tiêu biểu mà chúng tôi đã khảo sát:
Để diễn tả nỗi buồn, Nguyễn Ngọc Tư có những cách nói rất “bình
dân” như: “buồn ác chiến”; (…Nhờ giữa hai bài hát có mục nhắn tìm con
buồn ác chiến - “Cải ơi”); “buồn vô địch cấp huyện” (Mấy chuyện này may
mà Xuyến giấu trong lòng, phải kể ra là buồn vô địch cấp huyện chứ sá gì
cái mũi So Le nhỏ nhoi này - “Duyên phận So Le”); “buồn như sắp đâm đầu
xuống sông mà chết” (Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn
như sắp đâm đầu xuống sông mà chết - “Cái nhìn khắc khoải”), buồn chao
chát trong lòng (Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng…-“ Một
mối tình”)…
Để tả cảnh hành động bỏ chạy của ai đó, Nguyễn Ngọc Tư có những cách
nói lạ như: “chạy xịt khói”, “chạy xà quần” , “chạy xấc bấc xang bang”, …
- “Thàn bùi ngùi, người ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui
thiếu có chữ h, lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa ế ngoi ngóp nằm nghe
mưa dầm, nhiều bữa đứng soát vé bị đám du đãng địa phương rượt chạy xịt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khói. (Cải ơi)
101
Một nét độc đáo nữa cho thấy khả năng sáng tạo nhằm biến ngôn
ngữ “đời thƣờng” của ngƣời bình dân thành ngôn ngữ văn trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là chị rất hay sử dụng cấu trúc so sánh: “A như
B” trong quá trình hành văn của mình.
Đây là cách nói “vừa quen vừa lạ” rất sinh động và ngộ nghĩnh của nữ
nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Điều này cho thấy ở chị một một ý thức lao
động nghệ thuật rất nghiêm túc và có trách nhiệm. Không khó để chúng ta bắt
gặp hàng loạt cách nói so sánh này trong truyện của chị như:“chị ốm, mỏng
như cốm dẹp”; “một giọng nói mềm như lá lụa non”; “ý nghĩ ấy đầy như
nước tròm trèm lên mặt đập”; “tuồng thì giễu nhau ong óng như gà kêu
đẻ”; “ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám”; “tán cây
còng bị tỉa nhánh chỏng chơ như bàn tay cụt”; “cái giọng rao chè như hát,
từ đôi môi đã héo queo cất lên, cong vút, ngọt ngào mà nghe mịn màng
từng âm từng chữ”; “ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới
cứa lui trong lòng”; “giọng chú ngày càng khàn, nghe khen khét như nồi
cơm quá lửa”; “chiếc áo người vợ hiền hay vậy mà hát lụm cụm như chiếc
áo bà già”,“tóc đã rụng để lại cái trán rộng như sân bay Trà Nóc”.
Có thể nói, chính thói quen sử dụng từ ngữ như trên làm cho ngôn ngữ
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư gần với ngôn ngữ hàng ngày của
người dân nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, điều này góp phần tạo
nên một văn phong trong sáng, giản dị, không cầu kì và có phần nào đó nôm
na, mộc mạc, chân chất nhưng vẫn tạo được một hiệu quả cảm xúc và thẩm
mỹ rất cao; giúp người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Ngọc Tư với những cây
bút đương thời với chị. Chúng ta cùng đọc một vài đoạn dưới đây của Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngọc Tư để thấy rõ hơn vấn đề này:
102
“Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng, nó theo người ta rồi. Biết nó hư thân vậy,
má thà sanh cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời này má
không coi nó là con má nữa. Rồi má hỉ mũi cái rột: “con coi kỹ, có phải cái
nhà thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được”. (Một mối tình )
Hay: “Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái
lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần
ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mắm già ngày xưa ông trồng để giữ đất khỏi
lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc
trắng của mình”. (Dòng nhớ)
Tóm lại, qua tìm hiểu ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư,
chúng tôi nhận thấy có những vấn đề như sau:
Thứ nhất, điểm nổi bật và gây ấn tượng trước hết trong ngôn ngữ
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là ý thức khai thác và sử dụng hiệu quả vốn
từ địa phương Nam Bộ cũng như lớp từ ngữ gợi ấn tượng về “văn hóa sông
nước” mang đậm chất Nam Bộ.
Thứ hai, bên cạnh việc khai thác tối đa và sử dụng hiệu quả vốn từ địa
phương Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư còn cho thấy khả năng vận dụng sáng tạo
lời ăn tiếng nói hàng ngày (giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm) của người
dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long một cách rất độc đáo. Có thể nói, tất cả
những điều trên góp phần tạo nên giọng văn bình dị, chân chất, mộc mạc; một
lối diễn đạt và hành văn trong sáng, không cầu kì nhưng duyên dáng, đậm đà
và thật đáng yêu. Nói như nhà văn Nguyễn Quang Sáng khi ông nhận xét về
ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, là: “Thoại trong văn Tư không
hề bị lai, rặt Nam Bộ mà người ta đọc vẫn hiểu và cảm thấu trọn vẹn. Cái lớn
nhất mà Tư làm được ở chỗ cổ có công nâng ngôn ngữ bình dân của người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
miền Tây thành ngôn ngữ văn học”.
103
Cuối cùng, nếu nói ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu tư duy của con
người thì ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện rõ tư
duy nghệ thuật của chị về cách tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn văn
hóa. Nói một cách cụ thể hơn, qua cách sử dụng ngôn ngữ trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ truyện ngắn của chị thể
hiện rất rõ những phẩm chất về văn hóa, xã hội và con người vùng Đồng
bằng sông Cửu Long một cách cụ thể và sinh động. Đặc điểm này ở góc độ
nào đó cũng có thể xem như “cảm hứng về nguồn” rất mãnh liệt trong cái
nhìn và tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn văn hóa - một phong cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
riêng độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư.
104
KẾT LUẬN
1. Phong cách tác giả là một phạm trù cơ bản có ý nghĩa đặc biệt của
văn học. Với các tác giả có những đóng góp không nhỏ cho sự lớn mạnh của
một nền văn học, nghiên cứu phong cách là một việc làm cần thiết và khoa
học để khám phá quy luật văn chương đương thời, tôn vinh vẻ đẹp văn
chương của họ. Khi tìm hiểu phong cách cần chú ý đến cái nhất quán, tạo nên
bản sắc sáng tạo độc đáo riêng mà người đọc không thể nhầm lẫn với bất kì
một nhà văn nào khác. Qua khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp một số
phương diện đặc sắc văn chương Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi đã chỉ ra rằng
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có phong cách khá độc đáo. Một phong cách mà
tác giả đã lặng lẽ, bền bỉ, thủy chung, nhiều lúc âm thầm để kiến tạo nên qua
những tìm tòi nghệ thuật của mình trên vùng đất mà mình sống và sáng tạo.
2. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư thể hiện trên một hệ thống
gồm nhiều yếu tố thống nhất nằm trong một chỉnh thể hữu cơ. Yếu tố chi phối
cả hệ thống trở thành hạt nhân phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư là
bản sắc vùng văn hóa Nam Bộ với những nét đặc sắc. Trước hết, đó là những
nét đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, cũng đa dạng nhất so với tất
cả các vùng miền khác. Văn hóa sông nước cùng với tính cách cũng như cách
đối nhân xử thế của con người Nam Bộ là hiện thực riêng của sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư so với các nhà văn cùng thế hệ. Nguyễn Ngọc Tư cảm nhận
con người trong dạng thức nhân bản đời thường. Trong quá trình sáng tác,
Nguyễn Ngọc Tư không lý tưởng hóa con người. Nguyễn Ngọc Tư cảm nhận
rằng trong mỗi con người, ai cũng có những phẩm chất, những thói tật, những
cái tốt, những cái xấu và đương nhiên phẩm chất phải là cơ bản làm nền tảng
đạo đức bền vững. Theo Nguyễn Ngọc Tư, con người bao giờ cũng gắn với
một gia đình, một quê hương, một nghề nghiệp. Ở đó, họ có những mối quan
hệ, có niềm vui và nỗi buồn, có niềm hạnh phúc và nỗi khổ đau. Xuất phát từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
105
cảm quan nhân bản đời thường về con người, Nguyễn Ngọc Tư ít tìm đến
những triết lý nhân sinh sâu sắc, mà từ cảm quan ấy, chị gửi niềm tin vào
phẩm chất, vào sức sống bền bỉ dẻo dai của con người trong mọi hoàn cảnh.
Nhà văn cảm nhận hiện thực cuộc sống tính đời thường phức tạp của nó.
Cuộc sống “đời thường phức tạp ấy” có cả hạnh phúc lẫn bi kịch, thương mến
lẫn khổ đau, ngọt ngào lẫn chua xót…Đó là nét khác biệt của văn chương
Nguyễn Ngọc Tư với các nhà văn Nam Bộ khác.
3. Phù hợp với cảm quan về con người, thế giới nhân vật trong sáng tác
của Nguyễn Ngọc Tư có những đặc điểm riêng: Đó là chủ nghĩa đời thường
trong xây dựng nhân vật văn học của Nguyễn Ngọc Tư với những người nghệ
sĩ miệt vườn. Nam Bộ là vùng đất nổi tiếng với những gánh hát, những đêm
nghe đàn ca bất tận vùng “miệt vườn”, bên những quán nhỏ vùng sông Tiền,
sông Hậu. Ở đó có những người nghệ sĩ bình dân mà điêu luyện ngón nghề,
những công chúng nghệ thuật lúc nào cũng sẵn sàng tham dự “cuộc chơi”
nghệ thuật. Số phận những nghệ sĩ bình dân là một đề tài được nhiều nhà văn
Nam Bộ quan tâm, xây dựng thành hình tượng nghệ thuật. Cùng với đó là
hình tượng người nông dân Nam Bộ lam lũ, vất vả, “hai sương một nắng”
chăm chỉ, cần cù, chất phác; xoay đủ nghề để kiếm sống và vẫn không thoát
khỏi chữ “nghèo”. Nguyễn Ngọc Tư đã làm cho bức tranh đời sống hiện thực
của Đồng bằng sông Cửu Long thêm phần sinh động. Chất thơ trong vẻ đẹp
tâm hồn là nét riêng không thể trộn lẫn của Nguyễn Ngọc Tư. Chi phối thế
giới nhân vật là quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư với
cái nhìn nhân ái.
4. Nguyễn Ngọc Tư bày tỏ lòng mình trước cuộc sống sinh hoạt muôn
màu muôn vẻ bằng một phương tiện thẩm mĩ đặc thù - lối kể chuyện riêng,
giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ văn xuôi đặc sắc. Giọng điệu nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chủ đạo của Nguyễn Ngọc Tư là giọng buồn nhưng không chán chường,
106
giọng điềm nhiên trầm tĩnh, giọng điệu tâm tình, tưng tửng, hóm hỉnh nhưng
thấm thía và giọng điệu Nam Bộ đặc trưng. Giọng điệu chủ đạo này góp phần
quan trọng nhận diện “gương mặt” văn chương Nguyễn Ngọc Tư. Ngôn ngữ
văn chương Nguyễn Ngọc Tư mang một vẻ đẹp giản dị mộc mạc. Qua khảo
sát, thống kê, phân tích, tổng hợp chúng tôi thấy hệ thống ngôn ngữ Nguyễn
Ngọc Tư rất dung dị, tự nhiên, đậm tính địa phương Nam Bộ. Biểu hiện rõ
nhất trên ba phương diện: hệ thống từ địa phương Nam Bộ, lớp từ ấn tượng
về “văn hóa sông nước”, sáng tạo và biến ngôn ngữ “đời thường” của người
bình dân thành ngôn ngữ văn học.
5. Cũng như nhiều nhà văn khác, bên cạnh những thành công thì
Nguyễn Ngọc Tư vẫn còn một số có thể gọi là “nhược điểm” trong nghệ thuật
viết truyện: người đọc bắt đầu cảm thấy “nhàn nhạt” và ít nhiều lặp lại trong
hệ thống đề tài mà chị chọn lựa. Tuy nhiên, Nguyễn Ngọc Tư từ khi xuất hiện
cho đến nay, vẫn được đánh giá là nhà văn trẻ đương đại, có sức viết khỏe và
có khả năng sáng tạo dồi dào, mạnh mẽ, một nhà văn luôn làm chủ ngòi bút
của mình. Cùng với khả năng tự học, tự tìm tòi, sáng tạo, chúng ta hoàn toàn
tin tưởng chị sẽ tiến xa trên con đường nghệ thuật và gặt hái được nhiều thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
công hơn nữa.
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thị Vàng Anh. Khi người ta trẻ, NXB Hội nhà văn 1993.
2. Bakhtin. Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hóa Thông tin và Thể thao,
Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội 1992.
3. Y Ban. Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, NXB Thanh Niên 2005.
4. Nguyễn Trọng Bình. Giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư, www.viet-studies.info ngày 13/09/2010.
5. Nguyễn Trọng Bình. Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ
phương diện quan niệm nghệ thuật về con người, www.viet-studies.info.
6. Nguyễn Trọng Bình. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa,
www.viet-studies.info.
7. Nguyễn Trọng Bình. Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ
phương diện nội dung tự sự, www.viet-studies.info ngày 26/09/2010.
8. Nguyễn Trọng Bình. Đặc trưng ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
www.viet-studies.info ngày 23/09/2010.
9. Nguyễn Minh Châu. Tuyển tập Nguyễn Minh Châu, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Trần Phỏng Diều. Thị hiếu thẩm mĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
Tạp chí VNQĐ ra ngày 14/06/2006.
11. Trần Thị Dung. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư qua
tập truyện Cánh đồng bất tận, www.viet-studies.info ngày 25/05/2010.
12. Trần Hữu Dũng. Nguyễn Ngọc Tư - đặc sản miền Nam, Báo Diễn đàn,
tháng 02/2005.
13. Nguyễn Đăng Điệp. Văn trẻ có gì mới, Báo Văn Nghệ, số 41, ngày
08/10/2006.
14. Nguyễn Thị Hoa. Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
truyện “Cánh đồng bất tận”, trên trang cogaiviet.blogs, ngày 06/03/2011.
108
15. Nguyễn Thị Thu Huệ. 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, NXB Hội nhà
văn, 2004.
16. Lê Thanh Huyền. Phong cách nghệ thuật R. Tagore trong truyện ngắn,
Luận án tiến sĩ 20/03/2012.
17. Nguyễn Thị Thu Huyền. Phong cách văn xuôi Đỗ Chu, Luận văn thạc sĩ, 2010.
18. Trần Ngọc Hiếu. Hiện tượng tác giả “best-seller” trong văn học Việt
Nam: trường hợp Nguyễn Ngọc Tư, Tạp chí nghiên cứu văn học.
http://www.hieu.edu.vn.
19. Lê Thị Hường. Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay,
Tạp chí văn học, số 2 năm 1994.
20. Ngô Thị Diễm Hồng. Đặc điểm truyện ngắn hai cây bút nữ Phan Thị
Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, 2009.
21. Mai Hồng. Thời gian huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
của Nguyễn Ngọc Tư, Talawas ngày 18/07/2007.
22. Thụy Khuê. Không gian sông nước trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
www.viet-studies.info tháng 11/2006.
23. Huỳnh Kim. Nguyễn Ngọc Tư, chuyện mới nghe qua, Báo DOANH
NHÂN SÀI GÒN, XUÂN BÍNH TUẤT 2006.
24. Chu Lai. Đối thoại với Cánh đồng bất tận, Báo tuổi Trẻ, ngày 12/04/2004.
25. Phạm Thị Thái Lê. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện
Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, 2007.
26. Vưu Nghị Lực. Có một vũng lầy bất tận, Báo Tuổi Trẻ, ngày 09/04/2006.
27. Nguyễn Đăng Mạnh. Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2000.
28. M. B. Khrapchenko. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn
học, NXB Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội, 1978.
29. Tôn Thảo Miên. Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách, Tạp chí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiên cứu văn học, số 5 năm 2006.
109
30. Sơn Nam. Lịch sử khẩn hoang miền Nam, NXB Trẻ, 2004.
31. Dạ Ngân. May mà có Nguyễn Ngọc Tư, http://www.tuoitreonline.com.vn ,
ngày 06/04/2006.
32. Dạ Ngân. Nguyễn Ngọc Tư điềm đạm và thấu đáo.
http://www.tuoitreonline.com.vn, ngày 12/04/2004.
33. Đỗ Hồng Ngọc. Tiếng thở dài của Cánh đồng bất tận,
http://www.tuoitreonline.com.vn, ngày 30/11/2005.
34. Phạm Xuân Nguyên. Cánh đồng bất tận dữ dội và nhân tình, Báo tuổi trẻ, 2006.
35. Phạm Xuân Nguyên. Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí văn học
số 2/1994.
36. Phạm Xuân Nguyên. Khi cánh đồng mở ra, Ngày 15/04/2004.
37. Vương Trí Nhàn (Tuyển chọn). Sổ tay người viết truyện ngắn, NXB Văn
nghệ TP. Hồ Chí Minh, Sài Gòn, 2000.
38. Nhiều tác giả. Giáo trình lý luận văn học tập 2, NXB ĐHSP, 2007.
39. Nhiều tác giả. Lý luận văn học tập 1, NXB Giáo dục, 1986.
40. Nhiều tác giả. Lý luận văn học tập 2, NXB Giáo dục, 1987.
41. Nhiều tác giả. Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2007.
42. Mai Thị Nhung. Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, NXB Giáo dục, 2006.
43. Poxpelop. Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
44. Kiệt Tấn. Sông nước Hậu Giang và Nguyễn Ngọc Tư, www.viet-studies.info.
45. Nguyễn Thanh. Quá tay với Cánh đồng bất tận, Báo Tuổi Trẻ, ngày
11/04/2006.
46. Bùi Việt Thắng. Truyện ngắn hôm nay, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 1
năm 2004.
47. Bùi Việt Thắng. Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, NXB
ĐHQG, Hà Nội, năm 2000.
48. Bùi Việt Thắng. Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, Tạp chí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nghiên cứu văn học số 7 năm 2006.
110
49. Đỗ Bích Thúy. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, NXB Công an nhân dân, 2005.
50. Đỗ Lai Thúy. Sự đỏng đảnh của phương pháp, NXB văn hóa Thông tin,
Tạp chí văn hóa - nghệ thuật, Hà nội, 2004.
51. Huỳnh Công Tín. Nguyễn Ngọc Tư - Nhà văn trẻ Nam Bộ, VN-ĐBSCL-
15/04/2006.
52. Lê Ngọc Trà. Không thể coi là bình thường, Thời báo kinh tế Sài Gòn,
ngày 13/04/2006.
53. Lê Thị Dục Tú. Quan niệm về con người trong tiểu thuyết “Tự lực văn
đoàn”, NXB Thanh niên, Hà Nội, 1996.
54. Lê Hồng Tuyến. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
Luận văn thạc sĩ, ĐHSPTN 2011.
55. Nguyễn Ngọc Tư. Bài trả lời phỏng vấn của Nguyễn Ngọc Tư, ngày
23/05/2005
56. Nguyễn Ngọc Tư. Giao thừa, Nhà xuất bản Trẻ, 2003.
57. Nguyễn Ngọc Tư. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hoá, 2005.
58. Nguyễn Ngọc Tư. Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005.
59. Nguyễn Ngọc Tư. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2008.
60. Nguyễn Ngọc Tư. Khói trời lộng lẫy, NXB Thời đại, 2010.
61. Nguyễn Ngọc Tư. Tôi viết trong nỗi im lặng, Báo văn nghệ trẻ số 45 năm 2005.
62. Nguyễn Ngọc Tư - Lê Thiếu Nhơn. Sống chậm thời @,NXB Thanh niên 2006.
63. Dương Thị Kim Thoa. Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy nhìn từ phương
diện văn học - văn hóa, Luận văn thạc sĩ, 2008.
64. Nguyễn Ngọc Tư. Tạp văn. NXB Trẻ, 2006.
65. Anh Vân. Phạm Thanh Khương sẵn sàng đối thoại với Nguyễn Ngọc Tư,
Thứ 4 ngày 28/06/2006.
66. Hoàng Nguyên Vũ. Dư luận về “Cánh đồng bất tận” và “Dòng sông tật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nguyền”, ngày 27/06/2006.
111
67. Nguyễn Thị Kiều Oanh. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ. ĐHSPHN, 2006.
68. Nguyễn Thị Kim Ửng. Phong cách nghệ thuật Huy Cận qua Lửa thiêng,
Luận văn thạc sĩ, 2011.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
69. Viện ngôn ngữ học. Từ điển Tiếng Việt, NXBGD (1992).