VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG VĂN SÁU
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG VĂN SÁU
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
Chuyên ngành : Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số : 8 38 01 05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ Tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm về “Phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với
các luận văn khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong Luận
văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Ngọc Hà.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Trương Văn Sáu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN ........................................................................ 7
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ........... 7
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ........ 9
1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ............................ 13
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ........................ 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH .. 24
2.1. Khái quát tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ... 24
2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình ............................................................................................................... 38
2.3. Nhận xét, đánh giá khái quát .............................................................................. 53
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ............................................................... 60
3.1. Dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong
thời gian tới ............................................................................................................... 60
3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ................................................ 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
An ninh trật tự
ANTT
1
An ninh chính trị
ANCT
2
An ninh tổ quốc
ANTQ
3
Bộ luật hình sự
BLHS
4
Cơ quan điều tra
CQĐT
5
6
PBGDPL
Phổ biến giáo dục pháp luật
7
TAND
Tòa án nhân dân
8
TTATXH
Trật tự an toàn xã hội
9
UBND
Ủy ban nhân dân
10
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
Tên bảng
Trang
bảng
Thống kê hoạt động và kết xử lý tội phạm trộm cắp tài sản trên
2.1
PL
địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Số vụ và số người phạm tội trộm cắp tài sản so với số vụ và số
2.2
người phạm tội về trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ
PL
năm 2014 đến năm 2018
Chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội phạm trộm cắp tài sản
2.3
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018 (tính
PL
trên 100.000 dân)
Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo loại tội phạm trên địa
2.4
PL
bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo hình thức phạm tội
2.5
PL
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo địa bàn phạm tội trên
2.6
PL
địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo địa điểm phạm tội trên
2.7
PL
địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo thời gian phạm tội
2.8
PL
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo tài sản bị chiếm đoạt
2.9
PL
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo phương thức, thủ đoạn
2.10
phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm
PL
2018
Cơ cấu theo giới tính, độ tuổi của người phạm tội trộm cắp tài
PL
2.11
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Mức độ tăng giảm số vụ và số đối tượng phạm tội trộm cắp tài
2.12
PL
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Tỷ lệ tăng giảm về số vụ và số đối tượng phạm tội trộm cắp tài
2.13
sản so với số vụ và số đối tượng phạm tội về trật tự xã hội trên
PL
địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Mức độ tăng, giảm hàng năm của số người phạm tội trộm cắp tài
2.14
sản bị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến
PL
năm 2018
Mức độ tăng hàng năm của số vụ đồng phạm trộm cắp tài sản
2.15
PL
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018
Mức độ tăng hàng năm của số người tái phạm, tái phạm nguy
2.16
hiểm phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm
PL
2014 đến năm 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Bình là một tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ Việt Nam, nơi giao thoa
các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa hai miền Bắc Nam. Với diện tích
tự nhiên 8.051 km2, dân số khoảng 936.607 người bao gồm 01 thành phố
thuộc tỉnh và 07 huyện, thị xã trong đó có 159 phường, xã, thị trấn. Với vị trí
địa lý thuận lợi, nằm trên nhiều đầu mối giao thông quan trọng của quốc gia
và khu vực, là địa bàn có hệ thống giao thông với đầy đủ các loại hình giao
thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không. Bao gồm các
tuyến đường quốc lộ 1A, 12A, 15A, đường Hồ Chí Minh, hệ thống giao thông
đường sắt Bắc Nam, đường thủy, có cửa khẩu quốc tế Chalo, các cảng biển
Sông Gianh, cảng biển Nhật Lệ và cảng biển Hòn La rất thuận lợi cho giao
lưu trong nước và quốc tế. Đây là những điệu kiện hết sức thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế, xã hội của Quảng Bình, bên cạnh đó cũng là điều kiện của
việc phát sinh các loại tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng.
Các luồng tư tưởng tiêu cực, các loại văn hóa phẩm đồi trụy, mang tính bạo
lực, thất nghiệp, thiếu việc làm ngày càng gia tăng làm phát sinh các tệ nạn xã
hội và tội phạm.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng có chiều hướng gia tăng và diễn
biến phức tạp cả về số vụ lẫn số đối tượng. Các đối tượng phạm tội này rất
tinh vi trong việc che dấu hành vi phạm tội của mình nên gây rất nhiều khó
khăn cho công tác phòng ngừa và phát hiện kịp thời của chủ tài sản cũng như
các cơ quan chức năng đã gây hoang mang, lo lắng trong dư luận đời sống -
xã hội.
1
Theo số liệu thống kê trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018, trên
địa bàn tỉnh xảy ra 2.899 vụ phạm tội về trật tự xã hội, trong đó các vụ phạm
tội trộm cắp tài sản là 1442 vụ, 1.568 đối tượng, gây thiệt hại về tài sản là
40.531.5403.000 đồng, chiếm 49,7 % tổng số các vụ phạm tội về trật tự xã
hội trên địa bàn toàn tỉnh.
Trước tình hình đó, cấp ủy đảng, chính quyền phối hợp chặt chẽ với các
ban ngành, các cấp để triển khai đồng bộ các biện pháp, giải pháp phòng ngừa
tình tội phạm trộm cắp tài sản, góp phần ổn định tình hình, đảm bảo an ninh
trật tự, phục vụ quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Tuy nhiên,
tình hình tội phạm trộm cắp tài sản vẫn còn diễn biến phức tạp, chiếm tỉ lệ lớn
trong cơ cấu tội phạm. Việc đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trong thời gian tới là một đòi
hỏi cấp bách, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống
tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của cả nước.
Với những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình
tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận văn
thạc sỹ của mình có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học của các tác giả
nghiên cứu về Lý luận phòng ngừa; phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung
và phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng. Đơn cử như:
- Giáo trình “Tội phạm học” (2008) của GS.TS Võ Khánh Vinh, NXB
Công an nhân dân;
- Giáo trình “Tội phạm học” (2012) của trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB Công an nhân dân;
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” (2007) của
2
PGS.TS Phạm Văn Tỉnh, NXB Công an nhân dân;
- Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội
phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
- Vũ Việt Hùng (2011), Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát các vụ án trộm cắp tài sản. Chuyên đề khoa học,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Phùng Đặng Hoài Thanh (2015), “Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
Tỉnh Tiền Giang: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận
văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội;
- Nguyễn Việt Hùng (2014), “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả
điều tra tội trộm cắp tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Cảnh
sát nhân dân;
- Phạn Thị Bé (2014), “Tội trộm cắp tài sản tại tỉnh Quảng Nam: Tình
hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học,
Học viện khoa học xã hội;
- Nguyễn Anh Tấn (2013), “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sỹ luật
học, Học viện khoa học xã hội;
Các công trình trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được tình hình tội
trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc trên một số địa bàn nhất định, xác
định các nguyên nhân của tội phạm và từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa
tội phạm tương ứng. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị giúp tác giả
nắm rõ được những lý luận cơ bản và thực tiễn của công tác phòng ngừa tình
hình tội phạm trộm cắp tài sản. Quảng Bình với những đặc điểm riêng nên
tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng cũng có
những vấn đề khác biệt. Chính vì vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
3
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình phải có các biện pháp mang tính
khoa học, chuyên sâu thích hợp với những đặc điểm của tình hình và nguyên
nhân của tội phạm thì mới đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa
có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng thể, có hệ thống về
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” có thể khẳng định không trùng với
bất kỳ các công trình nào đã công bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung; phòng ngừa tình hình tội phạm cụ thể nói riêng của
khoa học pháp lý tội phạm học.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích khái quát để làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình
hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian từ năm 2014
đến năm 2018.
- Làm rõ những hạn chế, nguyên nhân của các mặt trong hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Đưa ra dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản và đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên
4
địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình dưới góc độ khoa học pháp lý Tội phạm học cả trên phương diện lý luận và
thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: địa bàn tỉnh Quảng Bình
- Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng; Pháp luật của Nhà nước về
phòng, chống tội phạm và các luận điểm chung của khoa học pháp lý Tội
phạm học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Ngoài phương pháp luận chung, đề tài còn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể để luận giải các vấn đề đặt ra từ đề tài như: Phương pháp hệ
thống, thống kê; phương pháp nghiên cứu hồ sơ, phương pháp tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, phương pháp so sánh, tổng hợp; phương pháp tọa đàm,
phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và nghiên cứu
khoa học trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự. Việc nghiên cứu đề tài
là cơ sở để xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản một cách khoa học và hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu của
5
luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận tội phạm học về phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã làm rõ thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp
tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa
phù hợp với điều kiện thực tiễn tại địa phương. Vì thế kết quả nghiên cứu của
luận văn có thể giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo để vận dụng vào
việc tuyên truyền giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức cho quần chúng nhân
dân và vận dụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, đồng thời góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia làm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm
6
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp
tài sản
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
Trong quá trình phát triển của đất nước ta hiện nay, phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng chính là một trong
những nội dung quan trọng và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội
phạm học. Nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm chính là nghiên cứu những cơ
sở, nền tảng, nguyên nhân và điều kiện hình thành tội phạm. Do vậy, công tác
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản chính là đi nghiên cứu những
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, hình thành tội phạm trộm cắp tài sản để
từ đó đề ra những giải pháp nhằm triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện đó
góp phần làm giảm tội phạm trộm cắp tài sản.
Ở nước ta hiện nay, có rất nhều quan điểm khi đưa ra khái niệm về
phòng ngừa tội phạm.
Theo Từ điển Luật: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại
trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên
quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành”[18].
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ
thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà
nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và
dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [42, tr.154].
Theo GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm: “Phòng ngừa tội phạm là tổng hợp
7
các biện pháp có quan hệ tác động lẫn nhau, được tiến hành bởi cơ quan nhà
nước và các tổ chức xã hội nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm và hạn chế,
loại trừ những nguyên nhân sinh ra tội phạm” ” [43, tr.132].
Tất các quan điểm trên đều đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội
phạm, mỗi quan điểm đều dựa trên những cơ sở, lý luận riêng nhưng chủ yếu
theo hai xu hướng là hoạt động phòng và chống tội phạm hoặc hoạt động tác
động vào nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nhằm ngăn ngừa trước
không cho tội phạm xẩy ra.
Tổng hợp các quan điểm khoa học, cũng như những phân tích, đánh giá
của tác giả về tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, có thể đưa ra khái niệm
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản như sau: Phòng ngừa tình
hình tội phạm trộm cắp tài sản là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân bằng việc sử dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau nhằm loại bỏ
những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản,
đồng thời cải tạo, giáo dục họ thành người có ích cho xã hội góp phần bảo vệ
an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
1.1.2. Ý nghĩa nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
- Ý nghĩa về lý luận của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản:
Nghiên cứu về tội phạm học khẳng định, phòng ngừa tình hình tội phạm chỉ
có thể đạt được trên cơ sở đã hiểu rõ tình hình tội phạm cũng như xác định
được quy luật vận động của khách thể đó. Như vậy, việc nghiên cứu tội phạm
trộm cắp tài sản chính là chúng ta đi nghiên cứu những nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản cũng như đi nghiên cứu những
yếu tố tác động đến người có hành vi lệch chuẩn với xã hội. Chính vì vậy,
muốn phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản đạt hiệu quả phải khống chế hoặc
loại trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản và
các tệ nạn khác liên quan.
8
- Ý nghĩa về thực tiễn của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản: Việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trộm
cắp tài sản. Vì nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
chính là đi tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm cũng như
những yếu tố tác động đến người thực hiện hành vi phạm tội.
Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản là một phương hướng mang tính
chiến lược lâu dài, không phải một sớm, một chiều mà có thể xóa bỏ hoặc
triệt tiêu ra khỏi xã hội, mà chỉ có thể từng bước kìm hãm và giảm đi tình
trạng tội phạm trộm cắp tài sản. Giúp cho các cơ quan chức năng phát hiện
những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản. Ngoài ra,
việc thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản còn có ý nghĩa
chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản sẽ góp phần giữ vững an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ tính mạng, tài sản người dân.
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp
tài sản
1.2.1. Mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
Tùy mỗi thời kỳ, giải đoạn phát triển cụ thể của đất nước để chúng ta đặt
ra những mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm thích hợp. Trong sự
chuyển mình mạnh mẽ và tham gia hộp nhập quốc tế, đất nước ta đã có những
bước phát triển vượt bậc về mọi mặt bên cạnh đó công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm cũng được Đảng ta hết sức quan tâm. Chỉ thị số 48-CT/TW
“về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm trong tình hình mới” trong đó đã chỉ rõ: “trong thời gian tới công tác
phòng chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các
loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường lành mạnh phục vụ
9
có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và
bình yên của nhân dân” [7, Tr 5].
Mục đích phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản bao gồm những nội
dung sau:
- Hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện các vụ phạm tội trộm cắp tài
sản, không để nẩy sinh và phát triển loại tội phạm này.
- Ngăn chặn không để xẩy ra các hành vi phạm tội mới.
- Phòng ngừa tái phạm tội.
1.2.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm trộm cắp tài sản được hiểu là hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm này phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
Để cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản tuân
thủ nguyên tắc pháp chế, cần thiết và nhất định phải có một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, thống nhất, toàn diện để làm công cụ, vũ khí cho các cơ
quan bảo vệ pháp luật sử dụng để quản lý xã hội, để phòng chống tội phạm.
pháp luật cần được phổ biến, tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân để họ hiểu
và làm theo đúng các quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này được tôn trọng thì quyền con người sẽ được bảo vệ, trách
nhiệm của các chủ thể phòng ngừa được tăng cường.
- Nguyên tắc dân chủ.
Nguyên tắc dân chủ là những vấn đề thuộc về quan điểm và nguyên tắc
của Chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng HCM mà Đảng và Nhà nước XHCN do
Đảng lãnh đạo phải thực hiện nhất quán trong thực tiễn mọi hoạt động của
mình, đây là một trong những đặc điểm nổi bật thể hiện bản chất của xã hội
nước ta.
10
Nguyên tắc này đòi hỏi sự tham gia tích cực và có hiệu quả của tất cả các
tầng lớp xã hội và các nhân vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng. Để nguyên tắc dân chủ đảm bảo
được thực hiện trên thực tế, cần có cơ chế hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho
các chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, đồng thời
tuyên truyền ý thức phòng chống tội trộm cắp tài sản trong toàn dân, tập huấn
chuyên môn, kỹ năng cho các tổ tự quản, các câu lạc bộ tình nguyên. Thực
hiện tốt nguyên tắc này sẽ tận dụng tốt mọi tiềm năng để làm tốt công tác
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.
- Nguyên tắc nhân đạo.
Nguyên tắc nhân đạo là thể hiện quan điểm vì con người của nhà nước
ta, quan điểm nhân đạo, đề cao giáo dục nhân cách trong con người là chủ
yếu, đây là giá trị xã hội rất tiến bộ và được đề cao trong xã hội hiện đai.
Nguyên tắc này đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp
tài sản được xây dựng và áp dụng trong thực tiễn không có tính chất làm
nhục, đối xử tàn bạo hay hạ thấp danh dự nhân phẩm và các quyền cơ bản của
con người, mà phải hướng đến việc định hướng hành vi, lối sống cho họ theo
hướng hòa nhập với xã hội, làm những việc có ích cho xã hội. Muốn vậy,
pháp luật cần có những quy định hệ thống các biện pháp, chế tài có tính nhân
đạo cùng với áp dụng chặt chẽ, phù hợp. Khi ban hành chương trình, nội
dung, kế hoạch phải ưu tiên các biện pháp mang tính xã hội tích cực, hạn chế
các biện pháp mang tính cưỡng chế. Tuân thủ nguyên tắc này thì hoạt động
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sẽ đạt được kết quả cao, hạn chế
những tác động tiêu cực, những tác động ảnh hưởng xấu đến người phạm tội.
- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ.
Xã hội ngày càng phát triễn với các cuộc cách mang về khoa học kỹ
thuật, kéo theo đó tội phạm với nhiều thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi
11
và hiện đại, đặc biệt là các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao… Chính vì
vậy trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tôi phạm trộm cắp tài
sản nói riêng thì việc áp dụng nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong áp dụng
các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm phải được xây dựng đồng bộ
trên cơ sở khoa học và kết hợp khai thác, ứng dụng các thành tựu của khoa
học và công nghệ trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Nhà nước cần có những nghiên cứu khoa học và ứng dụng có hiệu quả các
kết quả nghiên cứu đó. Tính khoa học sẽ đảm bảo khả năng thành công, tiết
kiệm sức lực, tiền bạc và hạn chế được các rủi ro, tổn thất trong hoạt động
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.
- Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể phòng ngừa.
Các chủ thể có khả năng và thẩm quyền khác nhau trong hoạt động
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, do đó đòi hỏi các chủ thể có sự
phối hợp hoạt động với nhau để phát huy hiệu quả cao nhất. Cần cung cấp
thông tin, tài liệu, thiết kế nội dung các chương trình, kế hoạch, thực hiện các
biện pháp - giải pháp. Để có sự phối hợp, trước hết phải thống nhất từ một cơ
quan đầu mối, có cơ chế phối hợp được nêu rõ trong các nội dung của các
chương trình, kế hoạch. Cần nêu cao trách nhiệm cá nhân trong công tác phối
hợp từ đó tánh việc đùn đẩy, cản trở gây khó khăn, làm chậm quá trình phối
hợp. Làm tốt nguyên tắc trên, sẽ phát huy nhiều lợi thế của các chủ thể từ đố
nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn.
- Nguyên tắc cụ thể hóa trong hoạt động phòng ngừa.
Căn cứ vào tình hình cụ thể, những đặc điểm riêng có của từng địa bàn,
lĩnh vực hoạt động, điều kiện của việc phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp ài sản để xây dựng tốt nguyên tắc này. Chính vì vậy, công tác phòng ngừa
tình hình tội phạm trộm cắp tài sản cần thể hiện được tính cụ thể, rõ ràng ở
từng biện pháp, ở từng giải pháp có tính khả thi cao nhất và phù hợp với điều
12
kiện đặc thù về phòng chống tội trộm cắp tài sản của mỗi mỗi địa bàn, mỗi
lĩnh vực hoạt động cụ thể. Thực hiện tốt nội dung này, ngoài vấn đề làm tốt
chương trình kế hoạch chung của nhà nước, các đơn vị ở địa phương, các ban
ngành ngành cần cần xây dựng những chương trình, kế hoạch riêng của mình
và trên cơ sở cụ thể hóa các nội dung của chương trình kế hoạch chung của
nhà nước để áp dụng phù hợp với điều kiện riêng của từng địa phương, từng
chủ thể.
1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
1.3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Khoản 1, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 có quy định “Đảng cộng sản Việt
Nam…là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [22].
Đảng đề ra đường lối chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc, đường lối
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, đường lối xây dựng nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân; Đảng là người lãnh đạo trực tiếp, tuyệt
đối về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân - những lực
lượng làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia; Đảng
còn là người chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đảng viên và nhân
dân, giúp họ có phẩm chất, năng lực, trí tuệ, bản lĩnh để có đủ điều kiện bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Đảng còn là người tổ chức,
xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia.
Vì vậy, có thể khẳng định rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản luôn là một trong những
nhân tố hết sức cơ bản, chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia từ trước cho đến hiện nay; nhất là đối
với thời kỳ nước ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công
13
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và đưa đất nước tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội
1.3.2. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
- Quốc hội.
Theo Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, “Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Quốc hội là chủ thể phòng ngừa tình
hình tội phạm có vai trò trong việc ban hành các luật điều chỉnh hoạt động
phòng ngừa tình hình các tội phạm trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản.
Là chủ thể của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, Quốc hội tiến
hành phòng ngừa tội phạm trên các phương diện sau: Kịp thời ban hành các
đạo luật, các nghị quyết, các văn bản pháp lý làm cơ sở và tạo điều kiện cho
các cơ quan, tổ chức xã hội, công dân làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm;
Giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm của các cơ quan, tổ chức xã hội khác; Bằng uy tín, vai
trò của mình, các đại biểu Quốc hội góp phần to lớn vào công tác phòng ngừa
tội phạm, tuyên truyền phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành
pháp luật và tham gia quản lý nhà nước.
- Hội đồng nhân dân các cấp.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà
14
nước cấp trên.
Chính vì vậy, Hội đồng nhân dân có vai trò quan trọng trong cpông tác
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản như: quyết định những chủ
trương, biện pháp, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng
cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước
trong đó có phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản.
Bên cạn đó, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt
động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của
Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương có liên quan đến công tác phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản.
1.3.3. Các cơ quan quản lý chung và quản lý kinh tế
- Chính phủ.
Vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản của Chỉnh phủ
thể hiện như sau: Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục trong phạm vi quốc gia, nhằm nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân, từ đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội
phạm trộm cắp tài sản; Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội,
Chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, biện pháp để củng cố và tăng
cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, trật tự an toàn xã hội; tổ
chức và thực hiện các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
trộm cắp tài sản, các vi phạm pháp luật; Lãnh đạo hoạt động phòng chống tội
phạm quốc gia (thông qua Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống tội phạm, cơ
quan chuyên môn của Bộ Tư pháp, Thanh tra nhà nước chuyên ngành); thực
hiện hoạt động phòng chống tội phạm; xây dựng các chương trình quốc gia
15
phòng chống tội phạm.
- Ủy ban nhân dân các cấp
Vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản của Ủy ban nhân
dân các cấp thể hiện như sau: Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, ở địa phương để nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần nhân dân, từ đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản; Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Ủy
ban nhân dân các cấp có vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản cụ thể như: thiết kế nội dung chương trình, kế hoạch và lãnh đạo hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ở địa phương của mình;
tuyên truyền, vận động, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm về đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm tội phạm trộm cắp tài sản; chỉ đạo thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện các quy định của pháp luật của địa phương mình quản lý.
1.3.4. Các cơ quan bảo vệ pháp luật
- Cơ quan Công an.
Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo
vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống
các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản.
Thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình và đề xuất với
Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật,
chiến lược trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản; kết hợp
chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,
16
đấu tranh phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh với hoạt động quốc
phòng và đối ngoại.
Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm
mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an
ninh quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an
ninh chính trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc
phòng, đối ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của
quốc gia; bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan công an
là một trong những cơ quan tham gia chính vào việc phối hợp và xây dựng
kế hoạch tổng thể trong phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản mà
cụ thể ở đây là lực lượng CSĐTTP về TTXH ở các cấp với việc tiến hành
phòng ngừa theo hai hướng đó là phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp
vụ; là chủ thể giữ vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, tạo điều kiện
cho các chủ thể khác, nhất là quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản.
- Viện kiểm sát nhân dân.
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, VKSND thực
hiện chức năng công tố, kiểm sát việc thực hiện theo đúng pháp luật quy định
trong hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án...Khi thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình, VKS sử dụng tổng thể các quyền năng pháp lý được Nhà nước
giao để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi trộm
cắp tài sản sao cho đúng người, đúng tội, không bỏ lọt, làm oan người vô tội.
Bên cạnh đó, VKS còn giám sát việc tuân thủ chấp hành pháp luật của các
17
chủ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, bất cứ chủ thể nào có
hành vi vi phạm điều có chế tài xử lý phù hợp tương xứng với hành vi đã gây
ra, tránh việc lạm quyền để vi phạm pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh,
công bằng của pháp luật đối với mọi người dân trong xã hội.
VKS còn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan khác trong
việc làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội phạm trộm cắp tài
sản, phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
thống kê, nghiên cứu tội phạm và các vi phạm pháp luật khác để đề ra các giải
pháp phòng ngừa tình hình tội phạm tội phạm trộm cắp tài sản với các cơ quan
có thẩm quyền đạt hiệu quả cao.
- Tòa án nhân dân.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình,
Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức
đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Tòa án nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự
trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản và giải quyết các việc khác theo quy
định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra
bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng
hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản,
quyền nhân thân. Bên cạnh đó, TAND các cấp còn thể hiện tốt vai trò cảu
mình trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao hiều quả
18
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản.
1.3.5. Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, văn hóa
và mọi thành viên xã hội
- Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, văn hóa.
Các tổ chức xã hội được Hiến pháp Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thừa nhận như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên
của nó như Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân, Đoàn thanh
niên cộng sản, Hội phụ nữ... và các tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội
này luôn bám sát mọi hoạt động trên địa bàn dân cư. Vì vậy thông qua hoạt
động của họ công các tuyên truyền phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản
có thể thực hiện dưới nhiều hình thức: Phát tài liệu, ấn phẩm truyền thông tới
các hộ gia đình; Tổ chức cho các hộ gia đình ký cam kết không có thành viên
phạm trộm cắp tài sản; Xét duyệt Gia đình Văn hóa, Tổ dân phố Văn minh là
các gia đình, tổ dân phố không có tệ nạn xã hộ, vi hạm pháp luật; Vận động
các gia đình có con em nghiện ma túy đi cai nghiện hoặc các đối tượng đã cai
nghiện trở về tham gia các chương trình chống tái nghiện; Vận động dân cư
trên địa bàn tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ các đối tượng trộm cắp sau tù tha về
tái hòa nhập cộng đồng, tạo công việc làm ổn định.. Thông qua các Câu lạc
bộ của Hội Phụ nữ, các hội viên đươc trang bị những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm giáo dục, quản lý con em phòng, tránh tệ nạn ma túy, các tệ nạn
xã hội, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong đấu tranh, tố giác tội phạm trộm
cắp tài sản và các tội phạm khác, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
- Công dân.
Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm. Thực
hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của mình đã được quy định cụ rhể trong Hiến pháp,
tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm.Tích cực, chủ động phát hiện
mọi hoạt động của tội phạm và thông báo cho các cơ quan chức năng. Đồng thời
19
phải phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện
tốt chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong
trào: “Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác ồng tội phạm, cảm hoá
giáo dục người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái
hoà nhập cộng đồng cho người phạm tội khi trở về địa phương. Quần chúng
nhân dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác, bảo vệ tài sản, tích cực tham gia
phòng ngừa, đấu tranh tố giác các loại tội phạm nhất là tội phạm trộm cắp tài
sản. Khi phát hiện các thông tin về các đối tượng nghi vấn trộm cắp tài sản, tiêu
thụ tài sản trộm cắp, các đối tượng có biểu hiện thường xuyên lui tới, nắm tình
hình hoặc tiếp cận nhà, tài sản của người khác… Kịp thời thông báo cho cơ quan
chức nơi gần nhất để kịp thời giải quyết.
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
Muốn phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản có hiệu quá cần phải có
các biện pháp phòng ngừa hợp lý. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
phạm trộm cắp tài sản rất đa dạng, phong phú tùy thuộc theo từng chủ thể,
từng lĩnh vực hoạt động và địa bàn khac nhau. Có nhiều tiêu chí để làm căn
cứ phân loại các biện pháp phòng ngừa, ví dụ như: xét vào phạm vi, mức độ
tác động của biện pháp; xét vào nội dung, tính chất của biện pháp phòng
ngừa; xét vào chủ thể chịu tác động của biện pháp phòng ngừa; xét vào địa
bàn, lĩnh vực phòng ngừa…
Đối với phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản thường áp dụng
biện pháp phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và biện pháp phòng ngừa
riêng (phòng ngừa nghiệp vụ).
- Biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tình hình tội trộm cắp tài sản là
những biện pháp phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Quá trình tiến hành
đấu tranh với tội phạm này đòi hỏi sự tham gia của các ngành, các cấp, các
tổ chức quần chúng, xã hội. Bên cạnh đó, thực tế công tác phòng ngừa tình
20
hình tội phạm trộm cắp tài sản cũng cho thấy: Sự quan tâm, tham gia của
các cấp, các ngành, các tổ chức quần chúng và xã hội chưa cao, nhận thức
của một bộ phận cho rằng trách nhiệm phòng ngừa là của lực lượng Công
an, trong đó giữ vai trò trọng yếu là lực lượng Cảnh sát hình sự... Do đó,
cần tập trung xây dựng những chính sách thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển, đảm bảo an sinh xã hội, tạo các điều kiện tốt nhất để người dân có thể
chăm sóc, giáo dục và giả qyết tốt việc làm, các tệ nạn xã hội bị đẩy lùi.
Lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác để giải
quyết tình trạng thất nghiệp, trẻ em phải mưu sinh kiếm sống khi tuổi đời
còn rất nhỏ, đảm bảo cho các em có cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ
trong một môi trường phát triển lành mạnh.
Tổ chức ký kết nghị quyết liên tịch với Mặt trận Tổ quốc và các thành
viên của Mặt trận Tổ quốc như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội Liên hiệp Phụ nữ, ngành Lao động thương binh và xã hội... Trong đó, tập
trung vào gia đình, nhà trường và chính quyền cơ sở nhằm tạo mối quan hệ
chặt chẽ giữa các lực lượng của xã hội trong phòng ngừa tội phạm trộm cắp
tài sản.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, vận động
quần chúng tham gia phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản.
Thực tế cho thấy, công tác thông tin, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân
dân tham gia phòng ngừa tội phạm chưa mang lại kết quả cao và thiếu sự
đồng bộ. Có nơi, có lúc công tác tuyên truyền, vận động quần chúng chỉ mang
tính hình thức nên chưa thật sự đi sâu vào đời sống của quần chúng nhân dân,
chưa huy động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống về mọi mặt cho người dân,
xây dựng các khu vui chơi, giải trí lành mạnh góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã
21
hội, nâng cao trình độ học vấn, giáo dục ý thức cho công dân, gải quyết tốt
việc làm cho người thất nghiệp làm gảm bớt khoảng cách giàu nghèo….từ đó
làm cho tình hình tội phạm trộm cắp tài sản không còn điều kiện để tồn tại và
phát sinh trong đồi sống xã hội.
- Biện pháp phòng ngừa riêng (phòng ngừa nghiệp vụ) là những biện
pháp phòng ngừa nghiệp vụ riêng của các chủ thể nhằm tác động đến từng
người phạm tội của tội phạm trộm cắp tài sản. Thông qua công tác khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; quản lý các đối tượng hình sự, các đối
tượng có tiền án, tiền sự, những đối tượng có điều kiện, khả năng, biểu hiện
hay có dấu hiệu phạm tội trộm cắp tài sản tù đó hạn chế đi đến loại bỏ nguyên
nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trộm cắp tài sản. Mặc dù ở phạm vi
hẹp nhưng nó tác động đến tôi phạm trộm cắp tài sản một cách sâu, cụ thể. Ví
dụ, tuyên truyền pháp luật về trộm cắp tài sản và trang bị hệ thống camera
giám sát an ninh tốt sẽ có tác dụng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn dân cư; tuyên truyền cho người dân biết về âm mưu, phương
thức, thủ đoạn hoạt động sẽ giúp chò người dân tăng cường đề phòng, tránh
những sơ hở; tăng cường tuần tra, kiểm soát ở những khu vự tập trung nhiều
tại sản sẽ hạn chế khả năng gây án của các đối tượng có ý định phạm tội. Tòa
án xét xử nghiêm minh sẽ là tấm ngương có tác dụng răn đe chung cho toàn
xã hội…
Tiểu kết chương 1
Trong Chương 1 của luận văn đề cập đến những vấn đề lý luận phòng
ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản. Trong hệ thống lý luận đó là khái
niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản; mục đích,
các nguyên tắc; chủ thể; các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản.
Những vấn đề lý luận cơ bản này là cơ sở để nghiên cứu, khảo sát và
22
đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình một cách có hệ thống, khoa học từ đó mang lại những
kiến thức quý báu phục vụ có hiệu quả cho hoạt động phòng ngừa tình hình
23
tôi phạm này.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Khái quát tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình
2.1.1. Đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình
- Đặc điểm địa lý.
Quảng Bình là một tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ Việt Nam ở vị trí địa lý
17°28’07” độ vĩ Bắc, 106°15’15” độ kinh Đông, cách Thủ đô Hà Nội 488km
về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1150km về phía Nam. Quảng
Bình là nơi hẹp nhất theo chiều Đông - Tây dải đất hình chữ S của Việt Nam,
phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh với dãy Hoành Sơn làm ranh giới tự nhiên, phía
Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào với dãy Trường Sơn làm ranh giới tự nhiên, phía Đông giáp Biển Đông.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.065,3 km2.
Quảng Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố và 7
huyện, thị xã (bao gồm thành phố Đồng Hới, huyện Lệ Thủy, huyện Quảng
Ninh, huyện Bố Trạch, huyện Quảng Trạch, huyện Tuyên Hóa, huyện Minh
Hóa và thị xã Ba Đồn), với 159 xã/phường/thị trấn. Đặc biệt Quảng Bình có
di sản thiên nhiên thế giới đó là Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, ngoài
ra còn có Hang Sơn Đoòng được công nhận là hang động lớn nhất thế giới.
Với hệ thống hang động phong phú được tìm thấy cho đến nay, Quảng Bình
được mệnh danh là “Vương quốc hang động”. Quảng Bình có vị trí địa lý rất
thuận lợi không những cho phát triển kinh tế, xã hội mà và giao lưu văn hóa,
nghệ thuật với các địa phương trong nước và ngoài nước.
24
Với vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên nhiều đầu mối giao thông quan trọng
của quốc gia và khu vực, là địa bàn có hệ thống giao thông với đầy đủ các
loại hình giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không.
Bao gồm các tuyến đường quốc lộ 1A, quốc lộ 12A, quốc lộ 15A, đường Hồ
Chí Minh, hệ thống giao thông đường sắt Bắc Nam, đường thủy, có cửa khẩu
quốc tế Chalo, các cảng biển Sông Gianh, cảng biển Nhật Lệ và cảng biển
Hòn La rất thuận lợi cho giao lưu trong nước và quốc tế. Đây là những điệu
kiện hết sức thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng Bình.
Tuy nhiên tỉnh cũng có nhiều địa bàn miền núi, điều kiện đi lại còn khó khăn,
nhiều tuyến đường liên huyện và khu dân cư chưa được chiếu sáng gây ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, tuần tra
bảo vệ, tổ chức các biện pháp phòng ngừa, công tác nắm tình hình, tiếp nhận,
xử lý tin báo tố giác về tội phạm, đặc biệt là tội phạm trộm cắp tài sản có điều
kiện tồn tại, phát sinh.
- Đặc điểm dân cư.
Tính đến hết năm 2018, dân số Quảng Bình là 936.607 người, với mật độ
dân số trung bình là 109 người/km2; Trên địa bàn có 24 dân tộc anh em cùng
sinh sống nhưng chủ yếu là dân tộc Kinh tiếp đến là dân tộc Khùa, dân tộc
Mã Liềng, dân tộc Rục, dân tộc Sách, dân tộc Vân kiều, dân tộc Chứt, dân tộc
Mày, dân tộc Arem, các dân tộc còn lại mỗi dân tộc chỉ có dưới 100 người.
Dân cư phân bố không đều, 80,36% sống ở vùng nông thôn và 19,64% sống ở
vùng thành thị.
Quảng Bình có cơ cấu dân số trẻ với lực lượng lao động dồi dào với trên
421.328 người chiếm 49,28% dân số toàn tỉnh. Cơ cấu dân số trẻ là một yếu
tố hết sức thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, tuy nhiên điều này đặt
ra nhiều vấn đề cấp bách nhất là vấn đề giải quyết việc làm cho công dân
trong độ tuổi lao động, ổn định cuộc sống nếu không giải quyết tốt vấn đề nêu
25
trên thì số lượng lao động nhàn rổi đặc biệt là ở độ tuổi thanh thiếu niên
không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự nói chung và
công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm nói riêng.
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
Từ khi tách tỉnh đến nay, Quảng Bình từng bước gặt hái được những
thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế đã đạt
được sự chuyển dịch đúng hướng. Các vấn đề xã hội đã được tập trung giải
quyết đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần cải thiện mọi mặt đời sống xã hội.
Quy mô và tiềm lực kinh tế của tỉnh từng bước đã được mở rộng và tăng
cường; phương thức sản xuất kinh doanh và quản lý trong nền kinh tế thị
trường bước đầu đã được xác lập. Năm 2018 tỉnh đã đóng góp vào ngân sách
nhà nước 3.067 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm
22,9%; Công nghiệp – xây dựng chiếm 25,7%; Dịch vụ chiếm 51,4%; Tổng
mức đầu tư toàn tỉnh tính trong năm 2018 là 10.824 tỷ đồng.
Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường có tác
động không nhỏ đến đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, sự phân hóa
giàu nghèo diễn ra ngày càng sâu sắc, tỷ lệ hộ nghèo bình quân chiếm 14,6%.
Một bộ phận dân cư nghèo muốn nhanh chóng làm giàu, dễ dẫn đến các hoạt
động phạm tội; tỷ lệ thất nghiệp trên toàn tỉnh vẫn còn ở mức cao (chiếm
2,29%); tệ nạn xã hội kéo theo đó cũng diễn biến rất phức tạp. Số người
nghiện ma túy có chiều hướng gia tăng gây không ít khó khăn cho công tác
đảm bảo an ninh trật tự.
Sự du nhập của văn hoá phẩm đồi trụy, đặc biệt là sự phát triển chóng
mặt của hệ thống mạng Internet đã tạo nên lối sống buông thả, coi trọng lợi
ích vật chất, ngại làm việc trong khi nhu cầu sinh hoạt luôn tăng cao… ảnh
hưởng đến một bộ phận dân cư, chủ yếu là tầng lớp thanh, thiếu niên.
Ngoài ra, Quảng Bình là một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng
26
không chỉ trong nước mà còn đối với quốc tế với di sản thiên nhiên thế giới
đó là Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, ngoài ra còn có Hang Sơn Đoòng
được công nhận là hang động lớn nhất thế giới bên cạnh đó còn có nhiều hệ
thống hang động khác. Chính vì thế, cùng với những hoạt động quảng bá du
lịch ngày càng phát triển đã thu hút mạnh mẽ số lượng lớn du khách đến tham
quan, vui chơi, giải trí, đặc biệt là trong những ngày lễ, hội, tết và đây cũng
được các đối tượng xem như là “mảnh đất màu mỡ” cho các hoạt động phạm
tội, nhất là tội phạm trộm cắp tài sản.
2.1.2. Thực trạng tình hình tội phạm trộm cắp tài sản có trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình
2.1.2.1. Thực trạng về mức độ của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình
- Về tội phạm rõ.
Theo báo cáo tổng kết công tác Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình thì
tổng số vụ phạm tội trộm cắp tài sản bị xét xử từ năm 2014 đến năm 2018 là
1.442 vụ, 1.568 bị cáo, với mức thiệt hại về tài sản là hơn 40.531.540.000
đồng và nhiều tài sản có giá trị khác [Bảng 1.1 phụ lục]. Cụ thể:
Năm 2014, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 292 vụ, 315 đối tượng,
với số tài sản thiệt hại là 8.701.141.000 đồng.
Năm 2015, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 271 vụ, 293 đối tượng, với
số tài sản thiệt hại là 8.696.685.000 đồng.
Năm 2016, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 315 vụ, 349 đối tượng, với
số tài sản thiệt hại là 7.939.300.000 đồng.
Năm 2017, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 277 vụ, 301 đối tượng, với
số tài sản thiệt hại là 8.976.697.000 đồng.
Năm 2018, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 287 vụ, 310 đối tượng, với
số tài sản thiệt hại là 6.217.717.000 đồng.
27
Từ số liệu thống kê hoạt động và kết quả xử lý tội phạm trộm cắp tài sản
từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tuy chưa phác họa
toàn bộ bức tranh của tội phạm trộm cắp tài sản nhưng cũng góp phần quan
trọng phản ánh được tình hình phức tạp và đáng báo động của tội phạm trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong những năm qua.
So sánh tội trộm cắp tài sản trong mối tương quan với các vụ phạm tội về
trật tự xã hội nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng cho ta thấy chân dung
bức tranh về tội phạm trộm cắp tài sản được rõ ràng hơn [Bảng 1.2 phụ lục].
Từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Bình xảy ra
2.889 vụ phạm tội về trật tự xã hội. Trong trong đó số vụ trộm cắp tài sản là
1.442 vụ, chiếm tới 49,7% trong tổng số các vụ phạm tội về trật tự xã hội. Tội
phạm trộm cắp tài sản không chỉ có số vụ chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vụ
phạm tội về trật tự xã hội nói chung ở Quảng Bình mà số người phạm tội này
ở Quảng Bình cũng không hề nhỏ. Từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn
toàn tỉnh Quảng Bình có 4.409 người phạm tội, trong đó, riêng số người
phạm tội về tội trộm cắp tài sản là 1.568 người, chiếm 44,09% tổng số người
phạm tội về trật tự xã hội nói chung.
Từ năm 2014 đến năm 2018, chỉ số tội phạm trộm cắp tài sản và chỉ số
người phạm tội trộm cắp tài sản ở Quảng Bình là tương đối cao: Chỉ số tội
phạm từ năm 2014 đến năm 2018 là 32,78 và chỉ số người phạm tội của cả
giai đoạn là 35,64. Điều này cho thấy mức độ phổ biến cao của loại tội này
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong những năm gần đây [Bảng 1.3 phụ lục].
- Về tội phạm ẩn.
Bên cạnh những thông số về số vụ phạm tội cũng như số người phạm tội
trộm cắp tài sản đã được điều tra khởi tố thì vẫn còn một phần “tảng băng
chìm” chưa được làm rõ, đó chính là tội phạm ẩn của tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình. Qua trao đổi với các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy có
28
nhiều kinh nghiệm của các lực lượng nòng cốt trong công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng Bình cho thấy: Tội phạm
ẩn đối với các tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chiếm
tỷ lệ cao. Tỷ lệ tội phạm ẩn cao do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó
chủ yếu xuất phát từ người bị hại như: Tài sản bị thiệt hại không lớn nên
không trình báo, ngại tiếp xúc với cơ quan chức năng vì sợ thủ tục phiền hà,
sợ mất thời gian hoặc cho rằng cơ quan chức năng không thể tìm ra thủ
phạm... Thực trạng trên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thống kê, đánh
giá tình hình tội phạm trộm cắp tài sản xảy ra trên thực tế, ảnh hưởng đến việc
hoạch định các chiến lược, chính sách, biện pháp… đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong tương lai. Ngoài ra còn tác động tiêu cực đến ý thức pháp luật
của nhân dân, giảm lòng tin vào cơ quan bảo vệ pháp luật và làm giảm nhiệt
tình của quần chúng trong việc tham gia phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc…
Trong 5 năm, từ năm 2014 đến năm 2018 xảy ra 1.442 vụ trộm cắp tài
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vụ án chưa được
phát hiện hoặc chưa được khởi tố, xét xử vì các lý do khác nhau như hết thời
hiệu điều tra, người thực hiện hành vi chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự
(TNHS), đã hết thời hiệu truy cứu TNHS, đối tượng phạm tội đã chết, miễn
truy cứu TNHS. Bên cạnh đó, có trường hợp người dân không trình báo…
2.1.2.2. Thực trạng về tính chất của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình
- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo loại tội phạm.
Trên cơ sở nghiên cứu ngẩu nhiên 200 bản án hình sự với 280 người
phạm tội đã được xét sử sơ thẩm từ 1.442 vụ án trôm cắp tài sản đã được xét
xử của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014
đến năm 2018 chúng ta có thể thấy: Các vụ án trộm cắp tài sản ở Quảng Bình
tập trung vào loại tội ít nghiêm trọng chiếm tỉ lệ 75,00%; sau đó là tội nghiêm
29
trọng theo chiếm tỉ lệ 17,85%, tội rất nghiêm trọng chiếm tỷ lệ 5,35% và tội
đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỉ lệ 1,78%. [Bảng 1.4 phụ lục]
- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo hình thức phạm tội.
Tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến
năm 2018 chủ yếu được thực hiện dưới hình thức phạm tội riêng lẻ, chiếm tỉ
lệ 81,21 %. Hình thức phạm tội đồng phạm chiếm tỉ lệ 18,79 % [Bảng 1.5
phụ lục]. Phần lớn các vụ án phạm tội theo hình thức riêng lẻ người phạm tội
thường trộm cắp những tài sản có giá trị tài sản thấp, nhỏ gọn, lợi dụng sở hở
trộm cắp ví dụ: Như trộm xe đạp, ví tiền, điện thoại ở phòng trọ, móc túi ở
các chợ nhỏ lẻ, khu vực công cộng…bên cạnh các trường hợp phạm tội thông
thường thì phạm tội dưới hình thức đồng phạm tuy chiếm tỉ lệ ít hơn nhưng
có dấu hiện ngày càng gia tăng về số vụ án. Các đối tượng phạm tội thường
có xu hướng hình thành các bang, ổ nhom để thực hiện hành vi phạm tội.
Việc hình thành các băng, ổ nhóm sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn trong các
khuâ như canh gác, đứng che tầm nhìn của người có tài sản, gây mất cảnh
giác hoặc chặn đường, gây cản trở lực lượng truy đuổi, tạo điều kiện trong
khâu tiêu thụ tài sản, xóa dấu vết hay đối phó với cơ quan chức năng khi bị
phát hiện điều tra.
- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo địa bàn thực hiện tội phạm.
Trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
xảy ra 1442 vụ trộm cắp tài sản tập trung chủ yếu trên các đại bàn: thành phố
Đồng Hới với 306 vụ, chiếm tỉ lệ 21,1 %, huyện Bố trạch với 247 vụ, chiếm tỉ lệ
17,4 %, thi xã Ba Đồn với 242 vụ chiếm 16,7 %, huyện Lệ Thủy với 182 vụ,
chiếm 12,6 %. Đây là những địa bàn có kinh tế, cơ sở hạ tầng phát triển, tập
trung nhiêu khu vực vui chơi, giải trí, tổ chức nhiều lễ hội…chính vì vậy các đối
tượng phạm tội trộm cắp tài sản thường hướng đến để hoạt động. Những huyện
còn lại như Quảng Ninh, Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa số vụ phạm tội
30
trộm cắp tài sản xảy ra ít hơn. [Bảng 1.6 phụ lục]
- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo địa điểm thực hiện tội phạm.
Trong số 1442 vụ trộm cắp tài sản từ năm 2014 đến năm 2018 xảy ra
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có: 553 vụ xảy ra ở nhà dân, chiếm tỷ lệ cao
nhất 38,4%; 382 vụ xảy ra ở nhà trọ, chiếm tỷ lệ 26,4%; 288 vụ xảy ra ở nơi
công cộng, chiếm tỷ lệ 20%; 112 vụ xảy ra cơ quan, trường học, chiếm tỷ lệ
7,8% và 107 vụ xảy ra ở các nơi khác, chiếm tỉ lệ 7,4% [Bảng 1.7 phụ lục].
Như vậy, địa điểm mà các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản thường
hướng tới để gây án chủ yếu xảy ra nhiều ở các khu vự nhà ở của công dân,
các khu nhà trọ đặc biệt là khu nhà trọ dành cho sinh viên, công nhân, những
nơi công cộng tập trung đông người. Những nơi này thương tập trung nhiều
tài sản có giá trị, ít người trông coi, bảo về, chủ tài sản thường đi vắng, mất
cảnh giác hoặc những khu vực tập trung đông người như những nơi công
cộng, chợ, các khu vực thường diễn ra các lễ hội, tổ chức các sự kiện. Các đối
tượng lợi dụng lúc đông người, chen lấn, xô đẩy, mất cảnh giác trong lúc
tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí để thực hiện hành vi phạm tội. Các
khu vực như cơ quan, trường học hay các nơi khác thì xảy ra ít hơn vì đây là
những địa điểm thường có nhiều người làm việc, có bảo vệ trông coi, có hệ
thống quan sát, bảo vệ nên dể bị phát hiện khi thực hiện hành vi phạm tội
hơn. Tuy nhiên, hiện nay trình trạng trộm cắp đặc biệt là ở các địa điểm du
lịch, các bãi biển tập trung nhiều du khách đặc biệt là du khách người nước
ngoài đang diễn ra nhiều hơn. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến
tình hình an ninh trật tự mà còn ảnh hưởng đến chiến lược phát triển du lịch là
ngành mũi nhọn của tỉnh, gây nên hình ảnh xấu trong mắt bạn bè trong và
ngoài nước.
- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo thời gian thực hiện tội phạm.
[Bảng 1.8 phụ lục].
31
Qua 1442 vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ
năm 2014 đến năm 2018 cho thấy: Khoảng thời gian tội trộm cắp tài sản diễn
ra nhiều nhất là từ 0h – 6h có 660 vụ, chiếm 45,7%. Đây là khoảng thời gian
vào đêm khuya khi mà mọi người đã đi ngủ, thời gian mà các lực lượng chức
năng đã nghỉ ngơi, mọi người ít đi lại và vẵng vẽ, ít đề phòng trong khâu bảo
vệ tài sản nên rất thuận lợi để các đối tượng thực hiện các hành vi phạm tội.
Tiếp đến là khoảng thời gian từ 6h – 12h có 312 vụ, chiếm 21,6% và khoảng
thời gian 12h – 18h có 282 vụ, chiếm 19,7%. Đây là khoảng thời gian mà mọi
người đi làm, học sinh, sinh viên đi học chính vì vậy thường không có người
trông coi, bảo vệ tại sản. Ở những nơi công cộng đây là khoảng thời gian tập
trung đông người để tham gia các hoạt động chính vì vậy đây cũng là khoảng
thời gian mà các đối tượng chọn để thực hiện hành vi phạm tội. Khoảng thời
gian từ 18h – 24h có 188 vụ, chiếm 13%. Đây là khoảng thời gian mà mọi
người đang sinh hoạt ở các gia đình sau một ngày làm việc, trên đường mọi
người đông đúc, công tác tuần tra khiểm soát của các cơ quan chức năng được
tăng cường, mọi người thường chú ý hơn trong khâu bảo vệ tài sản chính vì
vậy các đối tượng thường ít chọn khoảng thời gian này đề thực hiện hành vi
phạm tội.
Nghiên cứ về thời gian, địa bàn, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội có
ý nghĩa rất quan trọng trong công tác phòng ngừa tình hình của loại tội phạm
này. Giúp các cơ quan chức năng tăng cường các biện pháp như tuần tra kiểm
soát ở những khoảng thời gian, địa bàn, địa điểm mà đối tượng lợi dụng để
gây án, người dân chú ý hơn và có biện pháp thích hợp để tự bảo vệ tốt tài sản
của mình.
- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo tài sản bị chiếm đoạt.
Tài sản bị chiếm đoạt trong số 1.442 vụ trộm cắp tài sản từ năm 2014 đến
năm 2018 xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Bình thường là tiền, vàng, xe máy,
32
xe đạp điện, xe đạp, điện thoại di động, một số đồ dùng gia đinh, đồ dùng cá
nhân và một số loại tài sản có giá trị khác. Cụ thể: Tiền, vàng có 643 vụ,
chiếm 44,6%; xe máy, xe đạp điện, xe đạp có 250 vụ, chiếm 17,3%; điện
thoại di động có 242 vụ chiếm 16,8%; số đồ dùng gia đinh, đồ dùng cá nhân
có 195 vụ, chiếm 13,5%; các loại tài sản khác có 112 vụ, chiếm 7,8%[Bảng
1.9 phụ lục].
Quan đây chúng ta có thể thấy tài sản mà các đối tượng trộm cắp tài sản
thường hướng đến chủ yếu là những loại tài sản có giá trị, nhỏ gọn, dễ di
chuyển, dễ cất dấu, dễ tiêu thụ hoặc là các loại tài sản sau khi chiếm được có
thể dùng làm phương tiện nhanh chóng tẩu thoát khỏi hiện trường.
- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo công cụ, phương tiện phạm tội.
Công cụ, phương tiện được các đối tượng sử dụng để thực hiện hành vi
trộm cắp tài sản rất đa dạng tuy thuộc theo cấu trúc của từng địa điểm, từng
loại tài sản mà đối tượng sẽ chuẩn bị trướng những công cụ, phương tiện để
phạm tội. Đối tượng chủ yếu dùng chìa khóa vạn năng, vam phá khóa, tuốt nơ
vít, kìm cộng lực, và các loại vật cứng như búa, xà beng, thanh sắt… Phương
tiện sử dụng chủ yếu là xe máy, xe ô tô. Trong số 200 bản án đã được xét xử
sơ thẩm về tội trộm cắp tài sản đã được nghiên cứu có đến 136 vụ (chiếm
68,00%) có sử dụng công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Bên
cạnh đó các đối tượng khi đi gây án có mang theo công cụ là dao, lê, bình xít
hơi cay, ớt bột...để chống trá khi bị người dân hoặc cơ quan chức năng phát
hiện, truy đuổi.
- Cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm.
Trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 qua 1.442 vụ trộm cắp tài
sản được Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Quảng Bình xét sử sơ thẩm có 707 vụ
(chiếm 49,03%) các đối tượng sử dụng công cụ cạy phá để đột nhập vào nhà;
272 vụ (chiếm 18,87%) lợi dụng việc chen lấn, xô đẩy, mất trật tự ở những
33
nơi công cộng để móc túi hay trộm cắp tài sản; 294 vu (chiếm 20,38%) lợi
dụng sơ hở của chủ tài sản trong quản lý để trộm cắp tài sản; 169 vụ (chiếm
11, 72%) các đối tượng sử dụng các phương thức thủ đoạn khác%[Bảng 1.10
phụ lục].
Qua đây chúng ta có thể thấy, tội phạm trộm cắp tài sản chủ yếu được
thực hiện bằng thủ đoạn sử dụng công cụ cạy phá để đột nhập vào nhà chiếm
đoạt tài sản. Với phương thức này các đối tượng đã nghiên cứu, thăm do
trước về đặc điểm cấu trúc của các địa điểm, quy luật hoạt động của chủ nhà
sau đó chuẩn bị công cụ phương tiện chuẩn bị sẵn nhằm cạy phá để đột nhập
vào nhà để thực hện hành vi trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó, người phạm tội
còn dùng phương thức thủ đoạn như lợi dụng sơ hở trong quản lý của chủ tài
sản, hay lợi dụng chỗ tập trung đông người như chợ, bến xe, các khu vui chơi,
nơ tổ chức lễ hội, tổ chức sự kiện lợi dụng chen lấn, xô đẩy để móc túi trộm
cắp tài sản.
- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo động cơ phạm tội.
Trước sự tác động tiêu cực của mặt trái nên kinh tế thị trường, sự phân
hóa giàu nghèo, thiếu việc làm, các loại hình văn hóa phầm độc hại, các tệ
nạn xã hội… đã dẫn đến một số bộ phận người không nhỏ trong xã hội có lối
sống không lành mạnh, lười lao động, thích hưởng thụ…Chính vì vậy, xuất
hiện các động cơ khác nhau trong phạm tội trộm cắp tài sản.
Trên cơ sở nghiên cứu ngẩu nhiên 200 bản án hình sự với 280 người
phạm tội đã được xét sử sơ thẩm từ 1.442 vụ án trôm cắp tài sản đã được xét
xử của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014
đến năm 2018 cho thấy đa số người phạm tội có động cơ trộm cắp tài sản để
phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân, trang trải cuộc sống có 125 người phạm
tội (chiếm 44,6%); để mua ma túy có 56 người phạm tội (chiếm 20%) đặc
biệt trong những năm gần đây tệ nạn ma túy phát triễn mạnh mẽ không chỉ ở
34
khu vực thành thị mà nó đã len lõi đến các vùng nông thôn làm cho người
nghiện ma túy đặc biệt là ở lứa tuổi thanh thiếu niên để có tiền sử dụng ma
túy buộc họ phải có các hành vi trộm cắp tài sản để lấy tiền mua ma túy, còn
lại trộm cắp tài sản để phục vụ các mục đích khác, chủ yếu là mục đích ăn
chơi hưởng thụ như để uống rượu, bia, đánh bạc, chơi game...
- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo một số đặc điểm về nhân thân của
người phạm tội
Từ 1.568 bị cáo của 1.442 vụ án trộm cắp tài sản đã được Tòa án nhân
dân các cấp của tỉnh Quảng Bình xét xử có một số đặc điểm về nhân thân
người phạm tội như sau:
+ Đặc điểm về giới tính và độ tuổi.
Trong các vụ án phạm tội xảy ra, phần lớn đối tượng bị bắt, xét xử là
nam giới chiếm đa số. Tính từ năm 2014 đến năm 2018 đã bắt, xét xử 1.454
đối tượng là nam giới chiếm 92,72%, 114 đối tượng là nữ giới chiếm 7,28%.
Nhóm người phạm tội có độ tuổi từ đủ 18 đến dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao
nhất với 895 bị cáo chiếm 57,08%. Tiếp theo là nhóm người phạm tội có độ
tuổi từ đủ 30 tuổi trở lên cũng chiếm tỷ lệ khá cao là 25,82%.. Tỷ lệ người
chưa thành niên phạm tội trộm cắp tài sản ở Quảng Bình cũng chiếm tỷ lệ
đáng kể là 17.10%[Bảng 1.11 phụ lục].
+ Đặc điểm về trình độ học vấn, nghề nghiệp.
Từ 1.568 bị cáo bị xét xử về phạm tội trộm cắp tài sản cho thấy thấy đa
số người phạm tội không có hoặc có trình độ văn hóa thấp, chiếm tới gần
70% số người phạm tội. Trong đó tỷ lệ người mù chữ chiếm 3,3%; số còn lại
có học vấn từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên cũng phạm tội trộm cắp tài sản.
Những người không có học hành hoặc có trình độ văn hóa thấp thường là
những người không có công việc ổn định hoặc không có nghề nghiệp. Trong
số 1.568 bị cáo: có 895 người phạm tội không nghề nghiệp, chiếm đa số là
35
57,07%; 673 người phạm tội có nghề nghiệp không ổn định, chiếm 42,93%;
232 người phạm tội có nghề nghiệp ổn định, chiếm 15,74%.
+ Đặc điểm về tái phạm.
Trong số 1.568 người phạm tội có 970 trường hợp phạm tội lần đầu,
chiếm tỷ lệ 61,86%, 598 người phạm tội “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”,
chiếm tỷ lệ 38,14%. Từ số liệu cho thấy số đối tượng phạm tội trộm cắp tài
sản có tiền án, tiền sự chiếm tỷ lệ thấp hơn đối tượng phạm tội lần đầu. Đây là
đặc điểm khác biệt so với các loại tội phạm khác xảy ra ở Quảng Bình. Qua
đó cho thấy, các đối tượng có tiền án, tiền sự đều có thủ đoạn hoạt động tinh
vi, xảo quyệt, có nhiều thủ đoạn để che giấu tội phạm nên rất khó phát hiện,
mặt các đối tượng này không trực tiếp thực hiện tội phạm mà thường chỉ giữ
vai trò chủ mưu, cầm đầu, lôi kéo, xúi giục các đối tượng khác thực hiện.
+ Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình
Trong số 1.568 người phạm tội trộm cắp tài sản đã bị xét xửa từ năm
2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cho thấy, rất nhiều người
phạm tội có hoàn cảnh gia đình phức tạp: có 435 người (chiếm 27,74%) sống
trong gia đình khiếm khuyết như có cha mẹ đã ly hôn hoặc đã chết; có 279
người (chiếm 17,79%) sống trong gia đình đã có người có tiền án, tiền sự và
có 241 người (chiếm 15,37%) sống trong gia đình có người mắc các tệ nạn
như ma túy, cờ bạc....
2.1.2.3. Thực trạng về diễn biến của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình
- Về mức độ của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Trong giai đoạn năm 2014 đến năm 2018 tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ta thấy về số vụ và số đối tượng phạm tội có
sự tăng giảm thất thường không theo quy luật. Cụ thể: Năm 2014 xẩy ra 292
vụ với 315 đối tượng. Năm 2015 xẩy ra 271 vụ với 293 đối tượng, giảm so
36
với năm 2014 là 21 vụ và 22 đối tượng. Năm 2016 xẩy ra 315 vụ với 349 đối,
tăng so với năm 2015 là 44 vụ và 56 đối tượng. Năm 2017 xẩy ra 277 vụ với
301 đối tượng, giảm so với năm 2016 là 38 vụ và 48 đối tượng. Năm 2018
xẩy ra 287 vụ với 310 đối tượng, tăng so với năm 2017 là 10 vụ và 9 đối
tượng% [Bảng 2.12 phụ lục].
So sánh với mức độ của tổng số các vụ phạm tội về TTXH trong khoảng
thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 chúng ta có thể thấy, về số vụ và số đối
tượng phạm tội đều có sự tăng giảm thất thường không theo quy luật. Tuy
nhiên, số vụ và số đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản lại chiếm tỷ lệ rất cao
(tỷ lệ cao nhất) trong cơ cấu của các vụ phạm tội về TTXH. Cụ thể: Năm
2014 số vụ chiếm 46,9%, số đối tượng chiếm 31,46%. Năm 2015 số vụ chiếm
50,4%, số đối tượng chiếm 34,35%. Năm 2016 số vụ chiếm 50,9%, số đối
tượng chiếm 40,3%. Năm 2017 số vụ chiếm 47,4%, số đối tượng chiếm
34,92%. Năm 2018 số vụ chiếm 53,5%, số đối tượng chiếm 36,73% [Bảng
2.13 phụ lục].
- Về tính chất của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Tỷ lệ người phạm tội bị xét xử tăng, giảm không theo quy luật: Theo số
liệu thống kê chính thức của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình nếu lấy năm
2014 làm gốc ta thấy rõ điều này, năm 2014 có 315 người bị xét xử đến năm
2015 có 293 người bị xét xử, giảm 6,99%. Năm 2016 có 349 người bị xét xử
tăng 10,79%. Năm 2017 có 301 người bị xét xử, giảm 4,44%. Năm 2018 có
310 người bị xét xử, giảm 1,59% [Bảng 2.14 phụ lục]. Điều này cho thấy mức
độ biến động phức tạp và không theo quy luật của loại tội phạm này.
Tỷ lệ vụ phạm tội với hình thức đồng phạm ngày càng tăng: Theo số liệu
thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018 có
271 vụ phạm tội trộm cắp tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm
và tỷ lệ số vụ phạm tội dưới hình thức đồng phạm ngày càng tăng, tăng thấp
37
nhất là năm 2015, tăng 31,4% và tăng cao nhất là năm 2018, tăng 108,5%.
Như vậy, số vụ phạm tội dưới hình thức đồng phạm có xu hướng tăng đã phản
ánh một khía cạnh của tính chất nghiêm trọng của tội phạm trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018 [Bảng 2.15 phụ lục].
Tỷ lệ người phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”
ngày càng tăng: Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
từ năm 2014 đến năm 2018 có 531 người phạm tội thuộc trường hợp “tái
phạm, tái phạm nguy hiểm và tỷ lệ phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm, tái
phạm nguy hiểm ngày càng tăng, tăng thấp nhất là năm 2015, tăng 16,9% và
tăng cao nhất là năm 2018, tăng 68,8%. Như vậy, cũng giống với số vụ phạm
tội dưới hình thức đồng phạm thì tỷ lệ người phạm tội thuộc trường hợp “tái
phạm, tái phạm nguy hiểm” có xu hướng tăng đã phản ánh một khía cạnh của
tính chất nghiêm trọng của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bản tỉnh Quảng
Bình từ năm 2014 đến năm 2018 [Bảng 2.16 phụ lục].
2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Tỉnh Quảng Bình trong những năm qua từ thực tiễn cho thấy về phòng
ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản đã đươc nhận thức một cách nghiêm
túc, có trọng tâm, trọng điểm và gắn với tình hình cụ thể của địa phương.
Nòng cốt là lực lượng Công an phối hợp chặt chẽ với, Viện kiểm sát, Tòa
án, Ủy ban MTTQ Việt Nam, các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến phường, xã
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, triển khai nhiều hoạt động và các
giải pháp nhằm ngăn chặn loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh. Từ năm 2014
đến năm 2018 đã xây dựng mới nhiều mô hình điểm về xã, phường, khu dân
cư không có tệ nạn, không có tội phạm. Ủy ban Mặt trận các cấp đã phối hợp
38
xây dựng được 28 loại mô hình về đảm bảo an ninh trật tự (ANTT) ở cơ sở,
trong đó nhiều mô hình phát huy tốt hiệu quả, góp phần giải quyết những vấn
đề bức xúc về ANTT trên địa bàn. Nổi bật là mô hình “Tổ liên gia tự quản”,
“Dòng họ tự quản”, “Dòng họ kiểu mẫu”, “Đoạn đường xanh, sạch, đẹp, an
toàn văn hóa” ở thành phố Đồng Hới và các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch;
“Xứ, họ đạo bình yên, gia đình hòa thuận” ở các huyện Bố Trạch, Tuyên Hóa;
“Tổ xung kích tự quản về ANTT”, “Câu lạc bộ phòng, chống tội phạm qua
đường dây nóng”, “Câu lạc bộ Pháp luật” ở các huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy
và thị xã Ba Đồn;”Đường biên an toàn, an ninh hữu nghị”, “Bản tự quản về
ANTT”, “Ba giữ” ở các xã vùng biên của các huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa,
Bố Trạch, Quảng Ninh và Lệ Thủy...
Bên cạnh đó, Ủy ban Mặt trận các cấp tiếp tục củng cố, kiện toàn 522
“Nhóm nòng cốt” tuyên truyền pháp luật tại khu dân cư; xây dựng, duy trì
được 236 “Điểm sáng chấp hành pháp luật tại cộng đồng dân cư”; xây dựng,
duy trì và nhân rộng 41 mô hình về phòng, chống tội phạm, ma túy, mại dâm,
HIV/AIDS. Mặt khác, Hội Nông dân tỉnh xây dựng được 64 câu lạc bộ nông
dân phòng, chống tội phạm, 68 câu lạc bộ nông dân với pháp luật, 1.228 tổ tự
quản có gần 122.000 hộ nông dân tham gia...; Hội Phụ nữ phối hợp với Bộ
đội Biên phòng vận động 641 tổ phụ nữ với 18.387 hộ gia đình đăng ký tham
gia phong trào “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc bảo vệ
thôn, bản khu vực biên giới”; Đoàn Thanh niên thành lập 98 câu lạc bộ pháp
luật, phòng, chống tội phạm, ma túy, tệ nạn xã hội với 1.938 hội viên, 726 đội
thanh niên xung kích với trên 5.000 đội viên... Đặc biệt, tại các địa phương có
6.131 tổ quần chúng bảo vệ ANTT đang hoạt động có hiệu quả, góp phần xây
dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, đảm bảo ANTT từ cơ sở.
Qua đó cho chúng ta thấy, nhận thức về tầm quan trọng của cônt tác
39
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
trong những năm qua ngày càng tăng lên đã góp phần kìm hãm sự phát triển
của loại tội phạm này.
Tuy nhiên, công tác phòng ngừa trog thời gian qua cũng còn một số hạn
chế như: Tội phạm trộm cắp tài sản vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất, diễn biến phức
tạp, số vụ án chưa được khám phá, xử lý kịp thời, gây ảnh hưởng xấu tới
niềm tin của nhân dân và ảnh hưởng đến tình hình chính trị ở địa phương, các
cơ quan tiến hành tố tụng mà chủ yếu là lực lượng Công an chưa làm tốt công
tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng hình sự, chưa thu hút được nhiều sự
tham gia của toàn thể nhân dân vào công tác tố giác và phòng ngừa tình hình
tội trộm cắp tài sản.
Công tác nghiệp vụ ngày càng được nâng cao nhưng do thiếu về số
lượng, không đồng đều về chất lượng, sự phân bố không đồng điều giữa các
địa bàn trong tỉnh nên ít nhiều ảnh hưởng đến công tác phòng ngừa tình hình
tội phạm trộm cắp tài sản, đặc biệt việc sử dụng mạng lưới CTVBM chưa
đảm bảo, hiệu quả cao. Nhận thức và trình độ của một số cán bộ tiến hành
hoạt động phòng ngừa, một số cơ quan tổ chức chưa đầy đủ, chưa theo kịp với
sự phát triển chung của xã hội, chưa vận động được các tầng lớp trong xã hội
tích cực tham gia nên hoạt động này còn có những hạn chế nhất định.
Bên cạnh đó, các đối tượng phạm tội ngày càng sử dụng những thủ đoạn
hết sức tinh vi để đối phó, qua mặt người dân, cơ quan chức năng, nhiều đối
tượng hoạt động lưu động, liên huyện, tỉnh gây khó khăn cho lực lượng theo
dõi, truy bắt. Công cụ, phương tiện sử dụng trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm chưa nhiều, chất lượng chưa cao. Đây là một trong những khó
khăn, vướng mắc cần phải khắc phục để công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm trộm cắp tài sản trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn.
Một khi các Cơ quan, Ban, Ngành và toàn bộ người dân của tỉnh Quảng
40
Bình nhận thức được tầm quan trọng, vào cuộc với một quyết tâm cao; các
biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, điều tra, xử lý tội
phạm được tiến hành đồng bộ thì chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng công tác
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trong thời gian tới sẽ đạt được
những thành quả mới, to lớn hơn nữa.
2.2.2. Thực trạng nhận thức về chỉ đạo phòng ngừa tình hình tội phạm
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Nhận thức rõ tầm quan trọng của phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng đây là một nhiệm vụ mang tầm
chiến lược góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội, phát triển ổn định nền kinh
tế. Để làm tốt mục tiêu trên, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Bình đã quan
tâm lãnh đạo chỉ đạo công tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và
tình hình tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng. Trong những năm qua, sự chỉ
đạo của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Bình được thể hiện qua các nội
dung sau:
- Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã ban hành nhiều Chỉ thị, Quyết định,
Chương trình, Kế hoạch liên quan trực tiếp đến công tác phòng ngừa tình
hình tội phạm trộm cắp tài sản, trong đó đáng chú ý là:
+ Chỉ thị số 32CT/ĐU ngày 24/5/2015 của Ban Thường vụ tỉnh ủy
Quảng Bình về “Xây xựng gia đình trong thời kỳ mới”;
+ Chỉ thị số 4432CT/ĐU ngày 11/10/2016 của Ban Thường vụ tỉnh ủy
Quảng Bình về “Tiếp tục tăng cường hiệu quả công tác hỗ trợ gia đình có
hoàn cảnh đặc biệt, học sinh nghèo vượt khó trên địa bàn tỉnh”;
+ Kế hoạch số 15/KH-UBNDT ngày 09/3/2017 của Ủy ban Nhân dân
tỉnh Quảng Bình về “Quản lý, giúp đở và phòng ngừa người được tha tù về tái
hòa nhập cộng đồng”;
+ Chương trình hành động “Xóa đói, giảm nghèo tại các khu vự miền
41
núi, vùng xa xôi hẽo lánh” từ năm 2015 đến 2020”.
- Chỉ đạo lực lượng Công an các cấp là lực lượng nòng cốt, theo chức
năng, nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan ban ngành có liên quan tiến hành
các biện pháp, thực hiện các nội dung cụ thể trong phòng ngừa tội phạm trộm
cắp tài sản trên địa bàn như: Xấy dựng các chốt, trạm, tổ bảo vệ ANTT; điểm
sang văn hóa; câu lạc bộ phòng chống tội phạm; ký kết các văn bản cam kết
về gia đình văn hóa, thôn xóm không có trộm cắp…
- Khuyến khích, động viên kịp thời những người lầm lỡ, các đội tượng
nghiện ma túy, những đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản được tha tù về,
những đối tượng có tiền án, tiền sự về trộm cắp tài sản. Hỗ trợ tạo công ăn
việc làm, tăng cường giáo dục về tư tưởng, phẩm chất chính trị, nâng cao
đời sống về tinh thần, giáo dục về văn hóa cho những người có trình độ
văn hóa thấp.
2.2.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
2.2.3.1. Thực trạng thực hiện các biện pháp kinh tế - xã hội
Quảng Bình đã từng bước gặt hái được những thành tựu trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng ổn định, các chỉ tiêu chủ yếu
đều đạt và vượt kế hoạch do Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. Cơ cấu kinh tế đã đạt
được sự chuyển dịch đúng hướng. Các vấn đề xã hội đã được tập trung giải
quyết đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần cải thiện mọi mặt đời sống xã hội.
Các vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh từng bước được quy hoạch, đầu tư
phát triển đặc biệt là dự án cảng Hòn La và khu công nghiệp Hòn La. Các
thành phần kinh tế đã và đang phát triển, đóng góp quan trọng vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Quy mô và tiềm lực kinh tế của tỉnh từng bước đã được mở rộng và tăng
cường; phương thức sản xuất kinh doanh và quản lý trong nền kinh tế thị
42
trường bước đầu đã được xác lập. Quảng Bình là tỉnh nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm của khu vực Bắc miền Trung. Năm 2017 tỉnh đã đóng góp vào
ngân sách nhà nước 3.067 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp và thủy
sản chiếm 22,9%; Công nghiệp – xây dựng chiếm 25,7%; Dịch vụ chiếm
51,4%; Tổng mức đầu tư toàn tỉnh tính trong năm 2017 là 10.824 tỷ đồng.
Tuy vậy, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động xấu đến đời
sống, kinh tế-xã hội của tỉnh. Cụ thể, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày
càng sâu sắc, tỷ lệ hộ nghèo bình quân chiếm 14,6 %. Từ mặt trái của kinh tế
thị trường hình thành lối sống hưởng thụ, xa hoa. Một bộ phận dân cư nghèo
muốn nhanh chóng làm giàu, dễ dẫn đến các hoạt động phạm tội; tỷ lệ thất
nghiệp trên toàn tỉnh vẫn còn ở mức cao (chiếm 2,29 %); tệ nạn xã hội kéo
theo đó cũng diễn biến rất phức tạp. Số người nghiện ma túy có chiều hướng
gia tăng gây không ít khó khăn cho công tác đảm bảo an ninh trật tự.
Sự du nhập của văn hoá phẩm đồi trụy, đặc biệt là sự phát triển chóng
mặt của hệ thống mạng Internet đã tạo nên lối sống buông thả, coi trọng lợi
ích vật chất, ngại làm việc trong khi nhu cầu sinh hoạt luôn tăng cao… ảnh
hưởng đến một bộ phận dân cư, chủ yếu là tầng lớp thanh, thiếu niên.
Tình trạng không có việc làm là nguyên nhân và điều kiện chính của tình
hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn vẫn chưa có giải pháp mang tính nổi bật.
Tình trạng này làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Ngoài ra, Quảng Bình là một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng
không chỉ trong nước mà còn đối với quốc tế. Chính vì thế, cùng với những
hoạt động quảng bá du lịch ngày càng phát triển đã thu hút mạnh mẽ số lượng
lớn du khách đến tham quan, vui chơi, giải trí, đặc biệt là trong những ngày
lễ, hội, tết, dịp hè và đây cũng được các đối tượng xem như là “mảnh đất màu
mỡ” cho các hoạt động phạm tội, nhất là tội phạm trộm cắp tài sản.
2.2.3.2. Thực trạng thực hiện các biện pháp văn hóa - giáo dục
43
- Thực trạng áp dụng các biện pháp văn hóa.
Với quan điểm phát triển văn hóa tỉnh Quảng Bình cố gắng phát huy mọi
nguồn lực trong xã hội để phát triển văn hoá mang tính dân tộc, khoa học và
nhân dân, góp phần nâng cao trình độ dân trí, phát triển chất lượng nguồn
nhân lực, cải thiện đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân và góp phần hội
nhập kinh tế quốc tế. Phát triển văn hoá theo hướng bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hoá dân tộc, tích cực trong việc gìn giữ, bảo vệ môi trường tự nhiên
và xã hội, đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, khắc phục về tình trạng chênh lệch
về mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân ở các vùng, miền, khu vực trong
toàn tỉnh, gắn liền với bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.
Trong hoặt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản phải
từng bước hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam
nói chung, Quảng Bình nói riêng với các đức tính tốt đẹp: yêu nước, tự hào
dân tộc, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, phù hợp với sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh, phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng. Hình thành cơ bản
các nền nếp, các giá trị văn hóa trong hệ thống chính trị, trong cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp, gia đình và cộng đồng; hạn chế đến mức thấp nhất các biểu
hiện thiếu văn hóa, thiếu ý thức pháp luật, thiếu ý thức tôn trọng và bảo vệ tài
sản của mình và của mọi người trong đời sống xã hội.
Quán triệt tinh thần trên, từ năm 2014 đến năm 2018 các cấp ủy Đảng và
chính quyền nhân đânh tỉnh đã quản lý, tổ chức tốt các dịch vụ văn hóa trên
địa bàn đúng quy định của pháp luật, bảo đảm trong sạch, lành mạnh. Ngăn
chặn và đẩy lùi văn hóa phẩm độc hại và sự xuống cấp về đạo đức xã hội.
Nâng cao đời sống văn hoá, rút ngắn dần sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá
giữa các vùng trong tỉnh, cơ bản đáp ứng được những nhu cầu của người dân
về hưởng thụ văn hoá, thưởng thức nghệ thuật, xây dựng nếp sống văn hoá,
44
gia đình văn hoá, xây dựng làng, thôn, bản, tổ dân phố văn hoá, đẩy lùi các hủ
tục và các mặt tiêu cực khác. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá
nhằm tạo điều kiện toàn dân được tham gia sáng tạo và hưởng thụ thành quả
văn hoá ở mức độ ngày càng cao.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về văn hóa của tỉnh Quảng Bình,
văn hóa vẫn còn bộc lộ những hạn chế của nó, chưa tương xứng với tiềm
năng phát triển kinh tế, chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao đời sống tinh
thần cho người dân trong tỉnh. Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ của thanh thiếu niên, người dân vẫn còn, tình trạng
hôn nhân gia đình đỗ vỡ cao, bạo lực gia đình gia tăng, phong trào tổ chức
toàn dân đoàn kết xây dựng gia đình văn hóa, thôn, xóm văn hóa chưa đồng
bộ, còn mang tính hình thức; công tác bảo tồn, tái tạo và phát huy giá trị văn
hóa chưa bền vững, lâu dài. Các tệ nạn xã hội, tội phạm hình sự nói chung và
tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng vẫn diễn biến phức tạp, nhiều băng, ổ
nhóm hoạt động liên tỉnh được hình thành, hoạt động với thủ đoạn ngày càng
tinh vi, manh động và liều lĩnh, chính vì vậy đã gây mất ANTT trên địa bàn
cần phải sớm có biện pháp đấu tranh, triệt phá.
- Thực trạng áp dụng các biện pháp giáo dục.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác giáo dục, đào
tạo, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVI, nhiệm kỳ
2015 - 2020 đã xác định mục tiêu: “Thực hiện có hiệu quả chủ trương đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Đẩy mạnh xã hội hóa để thu hút nguồn lực đầu tư mạng lưới
trường lớp, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học. Nâng cao chất lượng đào
tạo của Trường đại học Quảng Bình, Trường cao đẳng nghề và các trường
trung cấp chuyên nghiệp” với nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là: Nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo, dạy nghề và phát triển nguồn nhân lực. Có
45
được những kết quả trên là do công tác kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh, khắc
phục những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động giảng dạy của các cấp ủy
đảng, chính quyền địa phương của tỉnh Quảng Bình một cách thường xuyên,
liên tục.
Tuy nhiên, bên cạnh thành quả đạt được ngành giáo dục tỉnh Quảng Bình
vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất đinh như: Chất lượng đội ngủ giảng dạy
pháp luật ở các trường chưa đạt yêu cầu. Các chương trình tuyên truyền
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản từ cơ quan đoàn thể chưa có những
chương trình hướng tới các đối tượng có nguy cơ phạm tội cao như người
sống trong gia đình hoặc khu vực có nhiều người phạm tội, người có tiền án
tiền sự, người có nhân thân xấu… Cơ sở dạy nghề đang hoạt động trên địa
bàn tỉnh chưa đáp ứng nhu cầu đào tạo nghề ngày càng tăng của thị trường lao
động tỉnh. Chất lượng giáo dục chưa đồng điều ở các cấp học, ngành học và
một số địa phương. Hệ thống cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu đào
tạo nhất là bậc đại học. Năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp một số
giáo viên, cán bộ quản lý chưa cao, không thay đổi phương pháp dạy học tích
cực đáp ứng trong tình hình mới, các phương tiện dạy học còn hạn chế, chế
độ đãi ngộ cho giáo viên còn thấp.
2.2.3.3. Thực trạng thực hiện biện pháp về quản lý trật tự xã hội
Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình trong những năm qua đã xây dựng các Nghị
quyết chuyên đề, chương trình, kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo công tác an
ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội. Thường xuyên chỉ đạo các cơ quan ban
ngành, các tổ chức chính trị xã hội trong đó nồng cốt là lực lượng Công an
các đơn vị địa phương phải phối hợp chặt chẽ với các ngành, đoàn thể và các
khu phố tập trung làm tốt công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội
phạm trộm cắp tài sản nói riêng bằng các giải pháp như: tuyên truyền trên loa,
đài, truyền hình, tuyên truyền lồng ghép trong các cuộc họp, hội nghị v.v... về
46
các phương thức thủ đoạn hoạt động và các biện pháp phòng ngừa đối với tội
phạm trộm cắp tài sản và các loại tội phạm khác. Vì vậy, đã góp phần kiềm
chế, kéo giảm tội phạm trộm cắp tài sản và các loại tệ nạn trên địa bàn tỉnh;
tình hình ANCT - TTATXH trên địa bàn cơ bản ổn định và giữ vững, tệ nạn
xã hội và các hàn vi vi phạm pháp luật cơ bản được kìm hãm. Tuy nhiên, tỷ lệ
tội phạm hoạt động theo các băng, ổ nhóm liên tỉnh, liên huyện với những thủ
đoạn manh động, tinh vi, xảo quyệt xảy ra ngày càng nhiều, người phạm tội
lầu đầu chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt có sự trẻ hóa ngày càng tăng.
Lực lượng Công an là đơn vị chủ công trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm trộm cắp tài sản, phối kết hợp với các lực lượng trong và
ngoài ngành Công an không ngừng tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện,
xử lý các đối tượng, các băng nhóm phạm tội. Các lực lượng khác tùy theo
chức năng nhiệm vụ mà tiến hành các biện pháp đảm bảo giữ vững ANTT
trên địa bàn. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng biện pháp quản lý
trật tự xã hội:
- Quản lý tốt người có nguy cơ phạm tội cao: tăng cường kiểm danh,
kiểm diện, quản lý nghiệp vụ, goi hỏi, giáo dục răn đe tốt các đối tượng có
tiền án, tiền sự, hạn chế các đối tượng này tái phạm hoặc phạm tôi mới.
Từ năm 2014 đến năm 2018, lực lượng này đã thật sự chủ động thực hiện
các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả như giúp đỡ được 320 người hoàn
lương, tái hòa nhập cộng đồng, giới thiệu 95 chị em có việc làm ổn định, cung
cấp nhiều nguồn thông tin tố giác tội phạm có gí trị cho lực lượng Công an.
Xây dựng nhiều sân chơi lành mạnh cho thanh thiếu niên, tham gia giải
quyết việc làm cho người sau cai nghiện, thanh thiếu niên cơ nhỡ cũng như
người mới chấp hành xong bản án về địa phương chưa có việc làm ổn định.
- Công tác quản lý địa bàn, khu vực trọng điểm về phạm tội trộm cắp tài
sản: Tỉnh Quảng Bình là địa bàn có những đặc điểm địa lý, kinh tế, dân cư mà
47
các đối tượng tội phạm trộm cắp tài sản thường lợi dụng để hoạt động và ẩn
náu nên hoạt động phòng ngừa tội trộm cắp tài sản luôn được coi trọng, nhất
là công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân nâng cao cảnh giác,
tự bảo về tài sản, tích cực phòng ngừa tội phạm là mặt công tác then chốt,
trọng yếu. Nhiều biện pháp ngòng ngừa được tổ chức thực hiện và mang lại
hiệu quả cao như: Xây dựng mô hình tự quản, tổ tự về, tổ xung kích, câc lạc
bộ, các nhóm, điểm sáng tổ chức tuần tra 24/24 giờ, trực gác ở những khu dân
cư, các điểm, tuyến giao thông trọng điểm phức tạp; Thông báo phương thức
thủ đoạn, địa bàn của các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh, tổ chức họp dân báo cáo về tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, thông
báo những điểm “nóng” về tình hình tội trộm cắp tài sản và những biểu hiện
của đối tượng nghi vấn thự hiện hành vi trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản để
quần chúng nhân dân nắm bắt được chủ động phát hiện tội phạm.
- Công tác quản lý cơ sở, ngành nghề kinh doanh có điều kiện: đây có thể
là nơi tiêu thụ tài sản phạm tội mà có cả các đối tượng trộm cắp tài sản. Các
cơ sở kinh doanh này phần nhiều là các cơ sở cầm đồ, mua bán điện thoại, xe
máy cũ.
Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có 1.627 cơ sở ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT, trong đó có 405 cơ sở kinh doanh
lưu trú, 256 cơ sở kinh doanh karaoke, 357 cơ sở dịch vụ cầm đồ, 18 cơ sở
xoa bóp (Massage), 74 cơ sở in, 466 cơ sở kinh doanh khí dầu mỏ hóa lỏng,
07 cơ sở sản xuất con dấu, 42 cơ sở kinh doanh có sử dụng vật liệu nổ công
nghiệp (VLNCN), 02 công ty dịch vụ bảo vệ. Trong những năm qua, các hoạt
động lợi dụng cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT để thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật diễn biến phức tạp, như: Thuê khách sạn, nhà nghỉ
để hoạt động mại dâm, tổ chức đánh bạc, sử dụng trái phép chất ma túy; đặc
biệt một số đối tượng lợi dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ cầm đồ để tiêu
48
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Trong năm 2018, lực lượng Cảnh
sát QLHC về TTXH Công an tỉnh Quảng Bình đã tiến hành kiểm tra trên
1.000 cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT; nhắc nhở, chấn chỉnh
hàng trăm thiếu sót, vi phạm, phát hiện lập biên bản xử phạt vi phạm hành
chính 27 trường hợp với số tiền 71.250.000 đồng.
Diễn biến hoạt động của tội phạm liên quan đến các cơ sở đầu tư kinh
doanh có điều kiện về ANTT trên địa bàn tỉnh với nhiều phương thức, thủ
đoạn mới đòi hỏi lực lượng Công an phối hợp với các lực lượng khác tăng
cường triển khai thực hiện nghiêm công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt
động kinh doanh của các cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT …
Qua đó, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ngành,
nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT, góp phần phòng ngừa, ngăn
chặn các loại tệ nạn xã hội và tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn.
- Công tác quản lý nhân hộ khẩu, chứng minh nhân dân.
Tính đến nay, tỉnh Quảng Bình với lực lượng nòng cốt là Công an kết
hợp với các cơ quan chức năg khác đã Tổ chức trên hang trăn cuộc kiểm tra,
hướng dẫn công tác QLHC về TTXH tại các địa phương cũng như các cơ sở
thuộc phạm vi quản lý, qua đó kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các tồn
tại, thiếu sót trong thực hiện các quy định của pháp luật. Cấp 10.000 con dấu
cơ quan, doanh nghiệp, hơn 300.000 chứng minh nhân dân. Từ năm 2015, đã
tích cực tham mưu, chỉ đạo và quyết liệt trong tổ chức triển khai cấp căn cước
công dân, thay thế cấp chứng minh nhân dân trong toàn tỉnh, đưa Quảng Bình
trở thành một trong 16 tỉnh, thành cả nước thực hiện công tác này. Đến nay
mặc dù còn nhiều khó khăn trong đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ nhưng cấp
căn cước công dân đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. Toàn tỉnh tiếp nhận
129.153 hồ sơ cấp căn cước công dân; truyền dữ liệu đến Cục C72: 117.711
hồ sơ cấp căn cước công dân; trả: 113.556 thẻ căn cước công dân; bước đầu tổ
49
chức cấp căn cước công dân lưu động tại một số địa bàn vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới. Trong năm 2018, qua kiểm tra các cơ sở kinh doanh lưu trú,
lực lượng công an đã phát hiện và xử lý 96 cơ sở vi phạm không thông báo
khách lưu trú, xử phạt gần 150 triệu đồng đối với các cơ sở này.
Để đảm bảo an ninh trật tự, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các loại
tội phạm, nhất là tội phạm trộm cắp tài sản. Trong thời gian tới, Công an tỉnh
tiếp tục tham mưu cho UBND huy động cả hệ thống chính trị, các tầng lớp
nhân dân trong công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, làm tốt công tác bảo
đảm ANTT và công tác đăng ký, quản lý tạm vắng, tạm trú; quản lý các cơ sở
kinh doanh có điều kiện, tăng cường công tác nắm tình hình, địa bàn khu dân
cư, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm qua đó góp phần giữ
vững lòng tin trong nhân dân.
2.2.3.4. Thực trạng thực hiện biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
giáo dục ý thức cảnh giác cho quần chúng nhân dân, vận động quần chúng
nhân dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Trong thời gian qua, cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan, ban ngành,
đoàn thể đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp đẩy mạnh thực hiện công
tác phổ biến giáo dục pháp luật và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Đội
ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ tỉnh đến
cơ sở từng bước được cũng cố, kiện toàn, cơ bản đảm bảo số lượng và nâng
cao chất lượng.
Thường xuyên thông báo, phổ biến kịp thời những thủ đoạn gây án mới
cho quần chúng nhân dân về tình hình an ninh trật tự, tình hình tội phạm,
những sơ hở của người dân, loại tài sản, thời gian, công cự, phương tiện gây
án thường dùng để nhân dân phát hiện những đối tượng nghi vấn để cảnh giác
và thông báo cho cơ quan chức năng.
50
Vận động quần chúng nhân dân nâng cao ý thức tố giác tội phạm, loại trừ
tư tưởng“trung bình chủ nghĩa, tích cực phối hợp với lực lượng Công an đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Khi bị kẻ gian trộm cắp tài sản cần phải bảo vệ
và giữ nguyên hiện trường, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng điều tra đến
khám nghiệm hiện trường. Vận động quần chúng nhân dân thực hiện Chương
trình quốc gia phòng chống tội phạm, trong đó có tội trộm cắp tài sản theo
tinh thần của Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm. Tuyên
truyền nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của các
tầng lớp nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng, kết hợp vận động
trực tiếp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hướng trọng tâm
thực hiện ở cơ sở và khu dân cư; Đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia
phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm gắn với xây dựng gia đình văn hóa,
khu dân cư văn hóa.
Kết quả từ năm 2014 đến năm 2018, toàn tỉnh đã tổ chức gần 13.000 hội
nghị, tập huấn cho hơn 900.000 lượt người; biên soạn và phát hành 26.000
sách bỏ túi tìm hiểu một số quy định về pháp luật để cấp phát cho Nhân dân
trên địa bàn; tổ chức sản xuất và phát sóng hơn 1.800 tin, bài, phóng sự,
phỏng vấn, giao lưu, tọa đàm. Bên cạnh đó, hệ thống loa truyền thanh cơ sở
đã phát sóng 7.941 chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật trên Đài Truyền
thanh xã, phường; in hàng ngàn pa nô, áp phích, băng rôn khẩu hiệu tuyên
truyền về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực hiện 12 Chuyên mục Pháp
luật và Đời sống…
Bên cạnh đó, việc thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá chuẩn tiếp cận
pháp luật của người dân tại cơ sở, xây dựng và hương ước, quy ước cũng
được quan tâm triển khai có hiệu quả. Ngoài ra, việc xây dựng, quản lý, khai
thác tủ sách pháp luật cũng được chú trọng và phát huy hiệu quả trong phục
vụ nhu cầu nghiên cứu tìm hiểu pháp luật cho cán bộ và Nhân dân trên địa
51
bàn tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật đang bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm chủ yếu đó là: Nhận thức,
ý thức trách nhiệm và sự phối hợp của một số cơ quan, ban ngành, đoàn thể,
địa phương về công tác phổ biến giáo dục pháp luật chưa thực sự đầy đủ và
chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này; việc huy
động nguồn lực cho công tác PBGDPL chưa được tiến hành một cách đồng
bộ và rộng khắp
2.2.3.5. Thực trạng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trộm cắp tài sản
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, từ năm
2014 đến năm 2018 đã điều tra, truy tố và xét xử 1.442 vụ án trộm cắp tài
sản, với 1.474 đối tượng. Cơ quan Công an tỉnh Quảng Bình đã làm đúng
theo quy định của Luật tổ chức điều tra vụ án hình sự, quá trình điều tra lấy
lời khai các bị can đúng theo trình tự pháp lý, không có trường hợp nào
mớm cung, dùng nhục hình, tất cả các đối tượng điều thừa nhận hành vi
phạm tội của mình.
Cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Bình với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm, VKSND có vai trò rất
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản đảm bảo các vụ án được khởi tố điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc giải quyết án vẫn còn một số khó khăn,
vướng mắc xuất phát từ quy định của các văn bản quy phạm pháp luật,
hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các Công văn hướng dẫn
của Tòa án nhân dân tối cao chưa thống nhất liên quan đến việc định lượng,
hành hung để tẩu thoát hay phạm tội nhiều lần… từ đó dẫn đến nhiều khó
khắn làm ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống đối với loại tội
52
phạm này ở các địa phương.
Tòa án nhân dân các cấp đã tiến hành xét xử các vụ án trọm cắp tài sản
một cánh nghiêm minh, chính xác, đúng người đúng tội. Bên cạnh đó, đã tăng
cường giáo dục pháp luật đến những đối tượng phạm tội và những người dân
xung quanh. Từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử
lưu động 174 vụ án với 211 đối tượng phạm tội trộm cắp tái sản, từ đó đã góp
phần giáo dục, răn đe đối với toàn thể quần chúng nhân dân, nâng cao hiệu
quả trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa
bàn tỉnh.
2.3. Nhận xét, đánh giá khái quát
2.3.1. Kết quả đạt được
- Được sự quan tâm, chỉ đạo của Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp,
công tác lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt, tập trung và thống nhất giữa cấp dưới
với cấp trên, cùng sự nỗ lực của Nhân dân công tác phòng ngừa tình hình tội
phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong những năm qua đã
đạt được nhũng thành tích đáng kể. Nhận thức của người dân được nâng cao,
các cơ quan chức năng có sự tăng cường phối kết hợp trong tổ chức các hoạt
động phòng ngừa đã mang lại những hiệu quả nhất định trong thời gian qua.
- Đã cơ bản thực hiện theo các kế hoạch của công tác tuyên truyền phổ
biến pháp luật, giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật cho quần chúng nhân
dân tham gia tích cực vào công tác phòng ngừa, phát hiện tội phạm trộm cắp
tài sản, nâng cao ý thức cảnh giác bảo vệ tài sản; kết hợp chặt chẽ với các
đoàn thể, tổ chức trên địa bàn toàn tỉnh trong việc giáo dục, tuyên truyền quần
chúng về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đấu tranh, phòng chống tội
phạm, đặc biệt là tội phạm trộm cắp tài sản.
- Trong quá trình phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, nòng
cốt là lực lượng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Bình đã sử dụng đồng
53
bộ nhiều biện pháp nghiệp vụ của Ngành, nhất là đã làm tốt các hoạt động
nghiệp vụ như: Công tác điều tra cơ bản, công tác sưu tra, xác mình hiềm
nghi, xây dựng và sử dụng cộng tác viên bí mật, đấu tranh chuyên án, tổ chức
tốt công tác nắm tình hình địa bàn, đối tượng, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm;
tăng cường công tac kiểm tra, tuần tra các khu vực, địa bàn phức tạp, đông
người, các điểm nóng dễ phát sinh tội phạm, tệ nạn…kịp thời ngăn chặn và
xử lý cương quyết các trường hợp vi phạm xẩy ra.... Chính việc thực hiện
đồng bộ đã tạo nên tính thống nhất, liên tục giúp cho công tác phòng ngừa
tình hình tội phạm này đạt kết quả cao.
- Công tác điều tra khám phá các vụ án nhanh chóng kịp thời, đã điều tra
ra nhiều vụ án nghiêm trọng góp phần ổn định tình hình ANTT trên địa bàn.
Hoạt động này có tác động tích cực, trực tiếp nâng cao ý thức phòng ngừa tội
phạm trộm cắp tài sản của quần chúng nhân dân, của chính quyền địa phương
từ đó đẩy mạnh phong trào tấn công tội phạm, khơi dậy ý thức tự giác tham
gia phát hiện, tố giác tội phạm, hợp tác với cơ quan chức năng của quần chúng
nhân dân trong phòng ngừa đấu tranh trấn áp tội phạm này.
2.3.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
2.3.2.1. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh kết quả đạt được như trên, qua nghiên cứu cho thấy công tác
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, cụ thể như sau:
- Về công tác lãnh đạo, chỉ huy phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp
tài sản ở một số đơn vị, địa phương chưa sâu sát, chưa thường xuyên quan
tâm, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở các mặt công tác của cán bộ, chiến sĩ đơn vị
mình phụ trách nên hiệu quả đạt được chưa cao.
- Công tác vận động, tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng tham gia
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản còn mang tính hình thức,
54
chậm đổi mới về nội dung, phương pháp, chưa có tác động trong việc thay đổi
ý thức cảnh giác của người dân trong việc bảo vệ tài sản cá nhân, tài sản cơ
quan, tổ chức. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân chưa thật sự
chú trọng.
- Hoạt động phòng ngừa xã hội còn những hạn chế, thiếu sót chưa được
khắc phục: Tệ nạn xã hội diễn biến rất phức tạp, sự phân hóa giao nghèo, tỉ lệ
lao động thiếu việc làm vẫn còn cao, các biện pháp kinh tế xã hội tỉnh chưa
giải quyết triệt để vấn đề cung ứng lao động vào đào tạo nghề trên địa bàn
làm tồn tại tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu nguồn lao động có tay
nghề. Tình trạng suy thoái về đạo đức, chất lượng giáo dục còn nhiều hạn chế
đặc biệt là chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy pháp luật ở các trường
chưa đạt yêu cầu.
- Công tác tham mưu hướng dẫn vẫn chưa thật sự đi vào chiều sâu; trong
tổ chức thực hiện, nhiều kiến nghị đề xuất còn chung chung, tính thuyết phục
chưa cao, một số văn bản đã được ban hành nhưng còn những thiếu sót, chưa
bám sát yêu cầu, tính chất của công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm trộm
cắp tài sản; chưa phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, của các tổ
chức tự quản, của dòng họ… trong phòng ngừa tội phạm.
- Công tác nghiệp vụ của lực lượng Công an mặc dù đã có sự chuyển
biến tích cực, nhất là sau khi Bộ ban hành Chỉ thị số 02 và các Thông tư mới
về công tác nghiệp vụ cơ bản, song thực tế còn một số hạn chế, thiếu sót:
+ Công tác điều tra cơ bản chưa được tiến hành thường xuyên, rộng
khắp, chỉ tập trung vào một số tuyến, địa bàn, hệ loại đối tượng có tính chất
nổi cộm, phức tạp. Vẫn còn tình trạng mở hồ sơ nhưng chậm cập nhật tình
hình, hoặc có cập nhật, điều tra bổ sung nhưng chưa tập trung phân tích, tổng
hợp để xây dựng, đề xuất các kế hoạch phòng chống tội phạm có hiệu quả.
+ Công tác sưu tra chưa thật sự phát huy hết tác dụng trong công tác
55
phòng ngừa và hiệu quả mang lại chưa như mong muốn. Cụ thể: Vẫn còn tình
trạng “hồ sơ chết” chưa thể hiện hoạt động của đối tượng dẫn đến công tác
quản lý kém hiệu quả. Một số cán bộ chưa nắm vững đối tượng trong diện,
đặc biệt là đối tượng sưu tra lưu động, các địa phương khác đến.
+ Số hiềm nghi được xác lập hàng năm còn ít so với tình hình thực tế.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra công tác này chưa được tiến hành
thường xuyên; hồ sơ công tác xác mình hiềm nghi một số nơi còn chưa đầy
đủ nên cũng tác động làm hạn chế hiệu quả của công tác phòng ngừa, ngăn
chặn đối với tội phạm này.
+ Số lượng đặc tình, cơ sở bí mật còn ít, chưa đủ sức quán xuyến địa
bàn, nhất là các địa bàn phức tạp về tình hình tội phạm trộm cắp tài sản.
- Quan hệ phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong thời gian qua
cũng bộc lộ hạn chế, còn nặng tính hình thức, chủ yếu là thông tin, báo cáo,
chưa thật sự phối hợp hành động, nhất là trong phát hiện, trao đổi thông tin
nghiệp vụ về hoạt động của đối tượng tội phạm trộm cắp tài sản lưu động,
liên địa bàn, tụ tập thành băng nhóm để gây án và lẩn trốn.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Công tác quản lý các doanh nghiệp, các nhà hàng, khách sạn, các khu
nhà trọ, nhà nghỉ, các tiệm cầm đồ, quản lý người nghiện ma túy, cờ bạc
trên địa bàn vẫn còn nhiều thiếu sót dẫn đến thực trạng là chính những nơi
này xuất phát từ nhu cầu ăn chơi trác táng làm phát sinh tội phạm trộm cắp
tài sản.
- Trong công tác tuyên truyền vận động những kiến thức về phòng,
chống loại tội phạm này chưa căn cứ trình độ nhận thức của từng đối tượng cụ
thể. Việc tuyên truyền chưa gắn với địa bàn và chưa đúng thời điểm, chỉ
mang tính hình thức, chưa đi sâu vào nội dung, Các hình thức tuyên truyền
chưa cuốn hút làm tác động trực tiếp đến nhận thức của người dân, chưa có sự
56
đánh giá sơ kết, tổng kết và chưa có sự thống kê số liệu cụ thể về hiệu quả mà
các biện pháp tuyên truyền mang lại.
- Các địa phương chưa phân công công việc hợp lý giữa các lực lượng
chuyên trách. Trong quá trình công tác chủ yếu tập trung dồn hết cho lực
lượng Công an nên cạnh đó tập trung chủ yếu vào điều tra khám phá án, chạy
theo vụ việc, chưa tập trung nhiều vào công tác phòng ngừa nên hiệu quả
mang lại chưa cao.
- Lực lượng Cảnh sát ĐTTP về TTXH trên địa bàn còn mỏng, nhất là cấp
huyện, trình độ năng lực không đồng đều, trong khi đó các vụ án tội phạm
trộm cắp tài sản xảy ra nhiều cần phải tập trung giải quyết nên chưa thể đáp
ứng yêu cầu quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, tạo sơ hở để đối tượng phạm
tội trộm cắp tài sản lợi dụng hoạt động.
- Việc tiến hành một số công tác nghiệp vụ cơ bản như: Điều tra cơ bản,
sưu tra, xác mình hiềm nghi… kinh phí bố trí đang còn thấp, trong khi điều
kiện kinh tế của cán bộ trinh sát của các đơn vị nghiệp vụ còn nhiều khó khăn
đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý làm việc của cán bộ, chiến sĩ và chất
lượng các mặt công tác.
- Các phương tiện nghiệp vụ trang bị cho các lực lượng chuyên trách
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác phòng ngừa tình hình tội phạm này.
Các loại phương tiện trang bị cho lực lượng này vừa thiếu, kém chất lượng lại
vừa lạc hậu, đặc biệt, các phương tiện giao thông, phương tiện thông tin liên
lạc hầu như cán bộ, chiến sĩ phải sử dụng những phương tiện cá nhân. Các
loại vũ khí, công cụ hỗ trợ còn thiếu chưa đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, khoa học kỹ thuật vào trong công tác phòng ngừa tội phạm nói
chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng.
- Chất lượng các mặt công tác nghiệp vụ chưa cao. Điều đó thể hiện qua
việc tiến hành các mặt công tác như công tác sưu tra, xác mình hiềm nghi,
57
xây dựng và sử dụng cộng tác viên bí mật, đấu tranh chuyên án còn nặng tính
hình thức đối phó, chưa thực hiện đúng quy trình nên chưa phục vụ tích cực
cho hoạt động phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản.
- Phần lớn là đối tượng lưu manh, côn đồ hung hãn, có tiền án, tiền sự
nên trong hoạt động chúng thường sử dụng thủ đoạn hết sức manh động, liều
lĩnh để gây án và che giấu tội phạm hết sức tinh vi. Nhiều đối tượng còn biết
khai thác, lợi dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật để gây án, tránh sự
phát hiện của cơ quan chức năng, gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động
phòng ngừa tội phạm.
- Sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc của các đơn vị nghiệp vụ cấp
trên đối với hoạt động phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản đôi khi chưa kịp
thời dẫn đến tình trạng: Thực hiện công tác nghiệp vụ chưa đúng quy trình, dễ
xảy ra sai sót. Đôi khi vì chạy theo thành tích mà các đơn vị nghiệp vụ báo
cáo không đúng tình hình thực tế. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến
hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản mà còn làm ảnh hưởng đến công
tác dự báo tình hình và chỉ đạo, đề ra các chiến lược tổng thể trong phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
- Hạn chế trong phối hợp giữa lực lượng Công an các cấp và với các chủ
thể khác trong phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản: Thiếu cơ chế phối hợp
hoặc cơ chế không rõ ràng, cụ thể; chưa ý thức được yêu cầu xã hội hóa và
xác định rõ đấu tranh phòng chống tội phạm là nghĩa vụ, quyền lợi và trách
nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức xã hội và mọi công dân. Chính vì vậy,
chưa huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp
nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tham gia, hưởng ứng.
- Sự phối hợp giữa các đơn vị có liên quan đến công tác phòng ngừa tội
phạm trộm cắp tài sản chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, chưa đồng
bộ, thống nhất nên chưa mang lại kết quả cao nhất, vẫn còn những kẽ hở để
58
đối tượng lợi dụng gây án được.
- Sự thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế - xã hội, của sự di dân từ
nơi khác đến; sự phức tạp của những vấn đề về tội phạm và tệ nạn xã hội trên
địa bàn tỉnh ảnh hưởng đến hoạt động phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 tác giả đã tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản sau:
- Tác giả cũng khái quát được tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình, trong đó nêu lên được một số yếu tố tác động đến
tình hình tội phạm trộm cắp tài sản như: Đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế - xã
hội; đánh giá được thực trạng về tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình.
- Đánh giá được thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản qua các nội dung như: Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội
phạm trộm cắp tài sản; thực trạng về việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa
tình hình tội phạm trộm cắp tài sản của chính quyền, các ban, ngành, tổ chức
xã hội và nhân dân tỉnh Quảng Bình về các mặt như: Kinh tế - xã hội; Văn
hóa - giáo dục; Tuyên truyền phổ biến pháp luật; Quản lý trật tự xã hội và quá
trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án trộm cắp tài sản của Cơ quan CSĐT,
VKSND, TAND.
- Từ thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản tác giả đã
đánh giá được những kết quả đạt được; những tồn tại, khó khắn; nguyên nhân
của những tồn tại, khó khăn đây chính là cơ sở, tiền đề cho việc tác giả đưa ra
những dự báo và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu qủa công tác phòng
ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng trên
59
địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình trong thời gian tới
3.1.1. Cơ sở của dự báo
Qua nghiên cứu, khảo sát thực tế, trực tiếp trao đổi với các đồng chí lãnh
đạo, chỉ huy các lực lượng nòng cốt trong công tác phòng ngừa tình hình tội
phạm trộm cắp tài sản, tác giả nhận thấy trong thời gian tới những vấn đề sau
đây sẽ tác động đến công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình:
- Xuất phát từ vị trí địa lý của địa bàn tỉnh Quảng Bình nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung, một điểm đến của di sản thiên nhiên thế giới,
một địa điểm du lịch cho các du khách trong và ngoài nước, là đầu mối giao
thông quan trọng gắn liền các tỉnh miền Bắc với miền Nam. Ngoài ra, địa
hình đa dạng, hẹp về chiều ngang lại có đường bờ biển dài. Có thể nói, Quảng
Bình là điểm giao lưu giữa các vùng, miền và là một địa bàn thuận lợi để các
đối tượng phạm tội lựa chọn ẩn náu, hoạt động.
- Mặt trái kinh tế thị trường cũng đặt ra cho tỉnh Quảng Bình nhiều vấn
đề xã hội bức xúc, hiện tượng di dân tự do từ các tỉnh, thành phố khác vào
Quảng Bình lao động trong các khu công nghiệp chiếm tỉ lệ cao. Tình trạng
thất nghiệp, không có việc làm, đời sống thiếu thốn dẫn đến sa ngã, dễ đi vào
con đường phạm tội, trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản.
- Tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, tình trạng thất học đặc
biệt là sự phát triển và diễn biến phức tạp của các loại tệ nạn xã hội như cờ
60
bạc, mại dâm, nghiện ma túy cũng như lối sống thực dụng, buông thả của một
bộ phận thanh, thiếu niên hiện nay, đó cũng sẽ là một trong những nguyên
nhân cơ bản làm phát sinh, phát triển của các loại tội phạm hình sự đặc biệt là
loại tội phạm trộm cắp tài sản.
- Tài sản có giá trị của người dân ngày một nhiều, chủ tài sản chủ quan,
mất cảnh giác, không có biện pháp để bảo vệ tài sản một cách hiệu quả. Đây
sẽ là nguyên nhân, điều kiện cho loại tội phạm này hoạt động. Bên cạnh đó,
quá trình đô thị hóa nhanh chóng sẽ hình thành các khu dân cư tập trung
nhiều gia đình khá giả, có mức sống cao, tập trung nhiều tài sản có giá trị.
Đây là điều kiện làm gia tăng tội phạm trộm cắp tài sản.
- Với lợi thế về du lịch, hàng năm số lượng khách du tịch từ khắp nơi về
đây thăm quan, du lịch, khám phá, đây cũng là một trong những điều kiện
thuận lợi cho tội phạm tội phạm trộm cắp tài sản lợi dụng để gây án.
- Tội phạm trộm cắp tài sản là tội phạm nguy hiểm và gây nên nhiều bức
xúc, lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần tập trung đấu tranh, song với
lực lượng mỏng, trình độ năng lực không đồng đều, các phương tiện trang bị
còn thiếu, lạc hậu, kinh phí hạn chế... nên trong thời gian tới công tác phòng
ngừa đối với loại tội phạm này sẽ gặp rất nhiều khó khăn và hiệu quả đạt
được sẽ không cao.
- Ngoài ra, thực tế 5 năm qua cho thấy, mặc dù các cơ quan chức năng đã
có rất nhiều cố gắng trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp
tài sản nhưng hiệu quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế chưa như mong muốn,
tỉ lệ điều tra khám phá còn thấp. Mức án dành cho đối tượng phạm tội trộm
cắp tài sản nói chung còn thấp chưa có tác động mạnh đến đối tượng đang có ý
định hoặc tiếp tục phạm tội.
3.1.2. Nội dung dự báo
Qua nghiên cứu, phân tích về tình hình hoạt động hiện nay của tội phạm
61
trộm cắp tài sản, cùng với các chính sách phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
Quảng Bình cũng như những nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tội phạm, có
thể nhận định trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, tình hình hoạt
động của các loại tội phạm hình sự nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói
riêng sẽ còn diễn biến phức tạp thể hiện ở các mặt sau đây:
- Hoạt động của các loại tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình vẫn tiếp tục gia tăng, mức độ nguy hiểm của loại tội này ngày
càng cao.
- Các phương thức, thủ đoạn hoạt động của loại tội phạm này sẽ ngày
càng đa dạng, phức tạp, tinh vi hơn, có xu hướng cấu kết, móc nối hình thành
các băng, nhóm chuyên tổ chức trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản. Những băng
nhóm này sẽ tiến đến hoạt động liên tỉnh, liên quan đến nhiều địa bàn khác
nhau. Do đó loại tội phạm này ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới vẫn tiếp
tục diễn biến phức tạp.
- Về địa bàn mà đối tượng thực hiện tội phạm sẽ vẫn tập trung ở địa bàn
dân cư đông đúc, các khu vực tập trung nhiều khách du lịch, nơi tập trung
nhiều tài sản nhưng công tác bảo vệ còn nhiều sơ hở như khu dân cư lao
động, khu công nghiệp, khu chế xuất, các nhà ga, bến xe, trường học, cơ quan
nhà nước, bệnh viện, các trung tâm thương mại và tập trung vào các thời điểm
ít người đi lại trên đường hoặc tại các địa bàn giáp ranh với tỉnh Hà Tĩnh,
Quảng Trị… Ngoài ra, các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội tại các địa
bàn miền núi, xa trung tâm, người dân sơ hở, mất cảnh giác trong bảo vệ tài
sản, lực lượng chức năng thiếu và mõng.
- Về đối tượng phạm tội sẽ phức tạp hơn tập trung là những thanh niên
chưa có việc làm, nghề nghiệp không ổn định và số đối tượng côn đồ hung
hãn, có nhân thân xấu, lười lao động, kém tu dưỡng, tham gia các tệ nạn xã
hội không chịu sự quản lý giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và chính
62
quyền địa phương ở độ tuổi từ 18 - 30. Ngoài các đối tượng lưu manh chuyên
nghiệp, có tiền án, tiền sự tại địa phương thì số đối tượng hoạt động lưu động
từ các tỉnh khác đến như: Hà Tĩnh, Quảng trị, Thừa Thiên Huế… sau khi gây
án trốn về địa phương đễ lẩn trốn, tiếp tục gây án và các đối tượng nghiện ma
túy, nghiện cờ bạc, cá độ bóng đá phạm tội này có chiều hướng gia tăng.
- Về tài sản các đối tượng phạm tội thường hướng đến vẫn là những loại
tài sản nhỏ gọn, có giá trị như: Tiền, vàng, kim đá quý, các loại thiết bị cá
nhân như điện thoại di động, máy tính xách tay, xe máy và một số trang thiết
bị, vật dụng khác. Trong đó xe máy là tài sản bị mất có chiều hướng gia tăng
trong những năm gần đây nhất là các loại xe đời mới có giá trị cao như xe SH,
Exciter, Air Blade…
Từ những dự báo trên có thể nhận thấy rằng: Trong những năm tới trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình, tội phạm trộm cắp tài sản vẫn tiếp tục diễn biến
phức tạp, là đối tượng cần tập trung đấu tranh đã xác định trong công tác bảo
vệ ANTT trên địa bàn. Bên cạnh đó, công tác phòng ngừa đối với loại tội
phạm này cũng hết sức khó khăn. Vì vậy, Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp,
các cơ quan chức năng trong thời gian tới cần tập trung lực lượng, phương
tiện, các biện pháp phòng ngừa, đổi mới việc áp dụng các biện pháp nghiệp
vụ, nhất là phải chấn chỉnh và không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý
chí tiến công trong công tác phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với loại tội phạm
này, góp phần ổn định tình hình ANTT trên địa bàn tỉnh.
3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
3.2.1. Nâng cao nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp
tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Công tác phòng ngừu tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp
tài sản nói riêng là sự chung tay của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến
63
địa phương, của tất cả các ban, ngành, đoàn thể, của toàn thể nhân dân chứ
không riêng ai. Tuy nhiên, hiện nay, một số ban, ngành đoàn thể xem đó là
nhiệm vụ của lực lượng Công an, thờ ơ với công tác phòng ngừa tội phạm nói
chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng hoặc đùn đẩy trách nhiệm, thực
hiện cho có lệ. Một bộ phận quần chúng nhân dân không mạnh dạng tố giác
tội phạm, xem đó không phải trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Một số cán bộ
làm trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án
còn có hành vi bao che, là sai lệch hồ sơ… cho tội phạm, làm cho công tác
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản có phần ảnh hưởng, hiệu quả
không như mong muốn. Chính vì vậy, một trong những nội dung quan trọng
trong công tác phòng ngừa tội phạm ma túy là tăng cường nhận thức về công
tác phòng ngừa tình hình tội phạm đối với các chủ thể phòng ngừa.
Thường xuyên chỉ đạo lực lượng Công an phối hợp chặt chẽ với các
ngành, đoàn thể và nhân dân tập trung làm tốt công tác phòng chống tội phạm
trộm cắp tài sản, tệ nạn xã hội bằng các giải pháp như tuyên truyền trên loa
đài, tuyên truyền lồng ghép trong các cuộc họp, hội nghị về các phương thức
thủ đoạn hoạt động và các biện pháp phòng ngừa đối với các loại tội phạm,
trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản. Kịp thời phối hợp xử lý, giải quyết các
vụ việc phức tạp, trọng án, các băng nhóm tội phạm.
Cần phát huy hơn nữa “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư, Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ và phòng chống tội
phạm”; Quan tâm đến công tác tôn giáo - dân tộc, đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân và tạo điều kiện cho đồng bào có đạo tham gia sinh hoạt
tôn giáo đúng pháp luật.
Cần phát huy hơn nữa vai trò của quần chúng nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản. Muốn vậy phải làm cho dân tin
tưởng vào Chính quyền, vào Đảng, vào lực lượng Công an, biết lắng nghe
64
ý kiến của dân, giúp dân phát triển kinh tế, xã hội, không hách dịch, quan
liêu với dân...Có như vậy, người dân mới hưởng ứng lời kêu gọi, các cuộc
phát động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng
những cơ sở tốt trong dân, khen thưởng kịp lúc những người dân mạnh
dạng, tố giác chính xác tội phạm, tạo ra môi trường sống lành mạnh không
có tội phạm trên địa bàn, góp phần giữ vững ANTT tại địa phương.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
3.2.2.1. Về biện pháp kinh tế - xã hội
- Tập trung thu hút và phát triển mạnh các ngành công nghiệp, thực
phẩm, công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp, nông thôn, du lịch... đặc biệt
có những chính sách mở để thu hút đầu tự, phát triển các khu du lịch thiên
nhiên, du lịch tâm linh nhằm phát huy tốt nhất thế mạnh sẵn có của tỉnh.
- Giải quyết việc làm cho người lao động.
Phát triển đi đôi với giải quyết công ăn việc làm, giảm dần tỷ lệ thất
nghiệp, thu nhập thấp, nhất là số người trong độ tuổi lao động.
3.2.2.2. Về biện pháp văn hóa – giáo dục
- Về văn hóa.
Đảng bộ và chính quyền tỉnh cần đề ra và triển khai nhiều chương trình,
đề án xây dựng và phát triển văn hóa tích hợp với từng giai đoạn phát triển.
Qua đó, tập trung được nguồn lực tinh thần và vật chất cần thiết để thực hiện
thắng lợi các chương trình, đề án này.
Phải luôn coi trọng vấn đề xây dựng và phát triển toàn diện con người,
xem đây là mục tiêu hàng đầu, là khâu then chốt trong xây dựng và phát triển
văn hóa của tỉnh.
Nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân bằng cách đầu tư
nhiêu sân chơi lành mạnh, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể
65
dục thể thao cho nhân dân tích cực tham gia. Đầu tư thích đáng nhiều sản
phẩm văn hóa có giá trị tư tưởng, nghệ thuật, có nội dung nêu cao tinh thần
yêu nươc, lòng tự hào dân tộc. Quan tâm gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, học tập những luồng văn hóa, tư tưởng tiến
bộ của nhân loại... từ đó hạn chế các hành vị phạm tội.
Vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa làm cơ sở xây dựng, phát
triển khối đại đoàn kết dân tộc. Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho
người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, thu hẹp mức chênh lệch về
hưởng thụ văn hóa với khu vực đồng bằng, ven biển.
- Về giáo dục
Để thực hiện tốt vấn đề này, trong thời gian tới chính quyền và nhân dân
tỉnh cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Tiếp tục hoàn thiện xây dựng các trường chuẩn quốc gia, mở rộng quỹ
đất xây dựng về giáo dục, trang bị các trang thiết bị dạy và học đảm bảo ở các
cấp, đổi mới phương pháp dạy - học, tăng cường năng lực chuyên môn cho
giáo viên đứng lớp, tăng cường công tác giáo dục về đạo đức, lối sống, các
hành vi vi phạm pháp luật về giao thông, hình sự, ma túy...ở các cấp học.
Tăng cường kinh phí cho giáo dục nhiều hơn nữa bên cạnh đó cần phải tiến
hành xã hội hóa giáo dục ở các cấp, hiện nay chỉ ở cấp mầm non, tiểu học, còn
trung học cơ sở, phổ thông và đại học chưa thực hiện hoặc có nhưng ít.
Ban Tuyên giáo, chính quyền các cấp cần phối hợp nhà trườn, gia đình
để tuyên truyền, động viên các em đến trường, đặc biệt những gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, ở vũng núi, vùng sâu. Có những chế độ đãi ngộ đối với
các gia đình chính sách, hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn. Như vậy, sẽ góp
phần hạn chế đối tượng xấu lôi kéo các em vào con đường phạm tội.
Cần đa dạng hóa các hình thức giáo dục trong đó chú trọng giáo dục
nghề cho bộ phận thanh thiếu niên, nhất là thanh thiếu niên hư, những người
66
sau cai nghiện, những người không có công ăn việc làm, những người lầm lỡ,
người có tiền án tiền sự về các tội xâm phạm sở hữu. Đây là một trong những
giải pháp phòng ngừa có hiệu quả tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh.
Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong
khâu giáo dục: Gia đình là tế bào của xã hội, đây là yếu tố quan trọng trong
quá trình hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó, cần có sự phối
kết hợp giữa nhà trường gia đình và xã hội trong việc quản lý, giáo dục học
sinh. Nhà trường cần quan tâm, phối hợp chặt chẽ với gia đình để tìm hiểu
tâm lý, tình cảm của từng học sinh. Cần phải đổi mới phương pháp dạy và học
vừa dạy kiến thức văn hóa vừa dạy về kỹ năng sống.
3.2.2.3. Về tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục ý thức cảnh giác,
vận động quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tội phạm
trộm cắp tài sản
- Trước hết, phải áp dụng các hình thức, biện pháp, nội dung tuyên
truyền phù hợp để thay đổi nhận thức, tâm lý, thói quen… đã ăn sâu vào tiềm
thức của người dân. Ví dụ, nhận thức cho rằng mất tài sản là do “xui xẻo”,
“của đi thay người” hoặc thói quen “khoe của”, mang theo nhiều tài sản quý
giá, đắt tiền khi tham gia các hoạt động nơi công cộng... Tuyên truyền để
người dân nhận thức được chúng ta hoàn toàn có thể bảo vệ tài sản của cá
nhân, của gia đình, đề phòng đối tượng chiếm đoạt. Đồng thời tuyên truyền để
người dân tố giác tội phạm, trình báo cơ quan Công an khi bị đối tượng chiếm
đoạt tài sản phục vụ thống kê tội phạm, điều tra khám phá tội phạm…
- Phát huy những mặt tích cực đã đạt được đồng thời khắc phục những
hạn chế, tồn tại, ít hiệu quả trong công tác tuyên truyền thời gian qua như:
Việc tiến hành tuyên truyền chưa thường xuyên, chưa coi trọng đúng mức,
nội dung còn đơn điệu, hình thức chưa thật sự đổi mới, phương pháp chưa
gắn với đối tượng và đặc điểm địa bàn, khu dân cư. Lực lượng Công an cấp
67
huyện chưa thể hiện vai trò chủ công, chưa tranh thủ sự phối hợp, giúp đỡ của
các chủ thể có liên quan trong công tác tuyên truyền.
- Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào: Phương thức, thủ đoạn hoạt
động của tội phạm; những sơ hở, mất cảnh giác của người dân dễ bị đối tượng
hoạt động phạm tội. Cảnh báo những địa bàn, khu vực thường xảy ra tội
phạm; cảnh báo những đối tượng, thành phần xã hội có nguy cơ thực hiện
hành vi phạm tội để người dân có ý thức đề phòng; trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, gia đình và mọi công dân trong phòng chống
tội phạm, hướng dẫn quần chúng nhân dân cách thức bảo vệ tài sản của cá
nhân, gia đình, cơ quan, xí nghiệp cũng như thay đổi các thói quen trong cuộc
sống, sinh hoạt; tác hại của các loại văn hoá phẩm phản động, đồi trụy, kích
động bạo lực, lối sống gấp để nhân dân tự mình hoặc phối hợp với các cơ
quan chức năng phát hiện, thu hồi và xử lý ngăn ngừa các tác động xấu đến tư
tưởng, lối sống và hành động, nhất là đối với thanh, thiếu niên; những gương
người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến xuất sắc trong công tác phòng
ngừa, ngăn chặn tội phạm trộm cắp tài sản.
- Về phương pháp tuyên truyền: Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới phương
pháp tuyên truyền, mục đích làm sao các thông tin liên quan đến hoạt động tội
phạm trộm cắp tài sản được truyền tải đến người dân, nhất là người dân ít có
điều kiện tiếp cận thông tin, có nhiều hạn chế, khiếm khuyết trong bảo vệ tài
sản. Theo tác giả, ngoài các phương pháp tuyên truyền trước đây, cần chú
trọng vào một số cách làm cụ thể:
+ “Cảnh báo” những khu vực, địa điểm thường xuyên xảy ra các vụ trộm
cắp tài sản: Lắp đặt các bảng (Ví dụ: “Khu vực này thường xuyên xảy ra các
vụ vụ trộm cắp tài sản, người dân cần đề phòng!); phát thanh nội dung cảnh
báo các vụ vụ trộm cắp tài sản tại khu vực chợ, trung tâm thương mại, khu
vực đông dân cư, các điểm dừng đèn đỏ trên các tuyến đường gần với các địa
68
điểm du lịch, bãi biển (Ví dụ: Hiện nay có một số đối tượng trộm cắp tài sản
đang hoạt động tại các khu vực… người dân cần cảnh giác, đề phòng!).
+ Nghiên cứu mở thêm chuyên mục “Câu chuyện cảnh giác” để phát
sóng trên đài phát thanh, truyền hình. Nội dung cụ thể: Các vụ án đã xảy ra
liên quan đến tội phạm trộm cắp tài sản để người dân có ý thức phòng tránh,
đồng thời nêu gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt về tinh thần
cảnh giác, tích cực đấu tranh chống tội phạm.
Khi làm tốt công tác tuyên truyền, người dân sẽ nâng cao ý thức, nhận
thức trong phòng ngừa tội phạm, tự quản lý, bảo vệ tài sản của cá nhân, của
gia đình. Sẽ đạt hiệu quả hơn nếu người dân vận động những người xung
quanh cùng tham gia phòng ngừa, tố giác tội phạm một cách rộng khắp. Để
vận động quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tội phạm
trộm cắp tài sản có hiệu quả, theo tác giả cần tập trung vào các nội dung cụ
thể sau:
- Cần tổng kết việc xây dựng và triển khai thực hiện các mô hình và
phong trào tự quản trong phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản tại địa
phương như: Mô hình “Tổ dân cư tự quản”, “Khu phố an toàn về an ninh trật
tự”, “Đoạn đường an toàn về an ninh trật tự”…Qua tổng kết xác định hiệu
quả đạt được, những hạn chế, tồn tại cần khắc phục, những vấn đề phát sinh
cần tập trung nghiên cứu, giải quyết trong thời gian đó. Tiếp tục nhân rộng
các mô hình thực tế hoạt động có hiệu quả, đề xuất khen thưởng cá nhân, tập
thể có nhiều thành tích trong phong trào toàn dân phòng ngừa, tố giác tội
phạm để động viên, khuyến khích họ nhiệt tình tham gia.
- Cần tiếp tục phát huy vai trò của trụ cột: Gia đình - nhà trường - xã hội
trong phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản. Vận động, hướng dẫn cha mẹ,
những người có trách nhiệm chính trong gia đình hướng dẫn con em của họ ý
thức bảo vệ tài sản, nhất là con cái trong độ tuổi cắp sách đến trường. Phối
69
hợp với nhà trường tham gia quản lý tốt giờ giấc của học sinh, ngăn chặn các
yếu tố tiêu cực từ môi trường xã hội bên ngoài tác động vào các em, nhất là
các em dễ bị dụ dỗ, lôi kéo đi vào con đường phạm tội. Bên cạnh đó mỗi gia
đình hãy nâng cao ý thức phòng ngừa tội phạm, vận động bà con trong xóm,
khu vực kinh doanh buôn bán áp dụng các biện pháp để quản lý tốt tài sản của
cá nhân, gia đình. Để tạo ra phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm
cắp tài sản một cách rộng khắp, lực lượng Công an cần phải phát huy tốt vai
trò tham mưu, hướng dẫn của mình, nhất là phải phối hợp chặt chẽ với cơ
quan, ban ngành đoàn thể xã hội tại địa phương vận động tổ chức nhân dân
thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở
khu dân cư”, xây dựng các phong trào “Thôn xóm, bản làng văn hoá.., “Khu
công nhân an toàn không có tội phạm”; thực hiện nếp sống văn minh, gia đình
văn hoá “Gia đình 6 chuẩn mực”, “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu trung
hiếu” nhằm xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, kiên quyết đấu tranh lên
án và từng bước xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực ngay ở trong mỗi gia đình,
mỗi cộng đồng dân cư, góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm
trộm cắp tài sản nói riêng.
- Phát động quần chúng nhân dân phát hiện, tố giác tội phạm, đảm bảo
mọi hành vi phạm tội phải được ngăn chặn, xử lý một cách kịp thời. Qua đó
làm giảm tỷ lệ ẩn của tội phạm, tạo điều kiện an toàn để người dân tham gia
sản xuất, kinh doanh. Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân
dân trong việc quản lý, giám sát chặt chẽ và giáo dục, cảm hóa đối tượng tù
tha ở địa phương. Đa số các đối tượng phạm tội phạm trộm cắp tài sản đều
không có nghề nghiệp ổn định nên nếu giám sát chặt chẽ, quản lý tốt các đối
tượng không có nghề nghiệp, có biểu hiện hoạt động gây án, các đối tượng tù
tha này thường xuyên có hoạt động nghi vấn gây án để sớm phát hiện và kịp
70
thời ngăn chặn những hành vi phạm tội.
3.2.2.4. Về biện pháp quản lý trật tự xã hội
- Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, quản lý người có tiền án, tiền sự,
người có nhân thân xấu và người mắc các tề nạn xã hội cần được nâng cao và
đổi mới. Chính quyền địa phương phải thường xuyên theo dõi, lập hồ sơ đối
với những đối tượng đã có tiền án, tiền sự, đối tượng lang thang, không nghề
nghiệp, có biểu hiện nghi vấn liên quan tới hoạt động tội phạm. Đặc biệt là
những đối tượng vừa mãn hạn tù, đã bị kết án về các tội xâm phạm sở hữu,
người mắc các tề nạn xã hội như nghiện ma túy, cờ bạc.... bên cạnh đó cần tạo
điều kiện cao nhất cho họ tái hòa nhập cộng đồng, phòng ngừa họ tái phạm.
- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý địa bàn, khu vực trọng điểm về
phạm tội trộm cắp tài sản. Cần tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tuần
tra, kiểm soát ở những địa bàn trọng điểm, phức tạp về ANTT, những khu
vực tập trung nhiều loại tài sản nhưng lại ít có người canh gác. Tăng cương
tuần tra vào những khoảng thời gian dể xảy ra trộm cắp tài sản như vào ban
đêm, thời gian người dân đi làm vắng nhà; lắp đặt thêm hệ thống đèn chiếu
sáng tại những nơi khuất, vắng người.
- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý cơ sở, ngành nghề kinh doanh có
điều kiện: Các dịch vụ cầm đồ, của hàng mua bán điện thoại, xe máy củ là
những nơi mà các đội tượng phạm tội trộm cắp tài sản thường lợi dụng hoặc
móc nối để tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.
- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, đăng ký quản lý cư trú, tăng cường
kiểm tra hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng, trong đó tập trung vào những địa bàn
trọng điểm, phức tạp về ANTT, nhất là các cơ sở cho thuê trọ bình dân, cho
71
thuê lưu trú tại địa bàn giáp danh phức tạp.
3.2.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm
trộm cắp tài sản
- Đối với cơ quan Công an.
Tiến hành rà soát biên chế, tổ chức toàn tỉnh để có cơ sở bố trí lại cho
phù hợp dựa vào điều kiện địa bàn, thực trạng hoạt động phòng, chống tội
phạm trong thời gian qua, chú ý ưu tiên lực lượng cho Công an cấp huyện,
thành phố. Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ về mọi mặt cho lực lượng Công an.
Duy trì các hoạt động tuần tra trên các tuyến, địa bàn trọng điểm phức
tạp về ANTT, địa bàn giáp ranh; triển khai thực hiện hiệu quả các biện pháp
phòng, chống tội phạm, trong đó tập trung cao công tác nắm tình hình, rà soát
địa bàn liên quan đến hoạt động tội phạm trộm cắp tài sản… nhằm phát hiện,
đấu tranh kịp thời các đường dây ổ nhóm, đối tượng hoạt động tội phạm trộm
cắp tài sản.
Nâng cao hiệu quả công tác nghiệp vụ như: Cần duy trì thực hiện thường
xuyên, liên tục công tác điều tra cơ bản địa bàn, khu vực trọng điểm, tuyến,
hệ loại đối tượng để thu thập đầy đủ thông tin, số liệu, tài liệu phục vụ công
tác phòng ngừa tình hình tội phạm; Bố trí đủ lực lượng, tiến hành sưu tra
đúng, đủ, xác định rõ những đối tượng có khả năng phạm tội để phòng ngừa.
Quá trình sưu tra phải thường xuyên, liên tục, hồ sơ cá nhân đối tượng sưu
tra, hồ sơ chuyên đề công tác sưu tra theo hệ đối tượng trộm cắp tài sản phải
được cập nhật thường xuyên; Nâng cao tỷ lệ xác lập hiềm nghi liên quan đến
tội phạm trộm cắp tài sản từ công tác sưu tra, giảm tỷ lệ số hiềm nghi xác lập
nằm ngoài diện sưu tra. Có như vậy mới đảm bảo tính chủ động trong phòng
ngừa tội phạm; Xây dựng, bố trí đủ số lượng đặc tình, cơ sở bí mật để quán
xuyến toàn bộ địa bàn chú ý các khu vực, địa bàn, tuyến trọng điểm có khả
72
năng xảy ra các vụ trộm cắp tài sản như: Khu vực đông dân cư; các khu công
nghiệp, khu du lịch, địa bàn giáp ranh, khu vực có nhiều bãi đỗ xe, kho
hàng...
Bên cạnh đó, giao Công an tỉnh tập trung thực hiện hiệu quả đợt cao
điểm tấn công trấn áp tội phạm. Nâng cao mối quan hệ phối hợp với các chủ
thể khác có liên quan trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp
tài sản. Cần tham mưu ban hành quy chế phối hợp, trong quy chế phải xác
định cụ thể trách nhiệm, nhiệm vụ của từng lực lượng; những trường hợp các
lực lượng cần phải thông báo cho nhau ngay để tổ chức triển khai các hoạt
động phối hợp. Quy định rõ chế tài xử lý nghiêm đối với những cá nhân, đơn
vị không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với nội dung quy định của
Quy chế. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động
phối hợp giữa chủ thể tham gia.
Lực lượng Công an tỉnh cần thực hiện tốt vai trò của mình hơn nữa trong
quá trình đấu tranh phá án, tăng cường khám phá các vụ án chưa rõ, cần bắt
quả tang đối tượng cùng tang vật, có đầy đủ chứng cứ rõ ràng, thu giữ tang
vật phải đảm bảo từ đó góp phần làm giảm tỉ lệ tội phạm ẩn, đảm bảo ANTT
trên địa bàn.
Bộ Công an, Công an tỉnh, chính quyền tỉnh Quảng Bình cần phải chủ
động đầu tư mới và trang bị thêm các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật
nghiệp vụ hiện đại nhằm phục vụ có hiệu quả trong công tác phòng ngừa tội
phạm như: Máy định vị, ống nhòm hồng ngoại, các loại camera, máy ảnh kỹ
thuật số..
- Đối với Viện kiểm sát nhân dân.
Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình
hình tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng VKSND cần tăng cường bổ sung
thêm về cả số lượng và chất lượng cán bộ để có đủ khả năng hoàn thành tốt
73
nhiệm vụ đã đặt ra. Bên cạnh đó, VKSND cần thực hiện tốt vai trò của mình
hơn nữa trong việc giám sát cơ quan điều tra trong quá trình điều tra, thực
hiện quyền truy tố đối tượng trước pháp luật. Các trường hợp chứng cứ không
đảm bảo VKS không được phê chuẩn, các trường hợp nhận thấy có dấu hiệu
của bức cung, mớm cung, nhục hình...VKS cần phải biết để kiến nghị cơ quan
có thẩm quyền điều tra, tránh oan sai; các trường hợp cần mở rộng điều tra
VKS cần mạnh dạng trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung làm rõ
vụ án, đối tượng. Quá trình phê chuẩn các lệnh bắt đối tượng, gia hạn phải
đảm bảo đúng quy định, tránh các trường hợp cả nể, thân quen, bắt trước phê
chuẩn sau.
Tăng cường công tác bồi dưỡng về nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo để
nâng cao trình độ điều tra tội phạm, giám sát chặt chẽ từ khi khởi tố vụ án.
Tăng cường mối quan hệ phối hợp với các chủ thể khác đặc biệt là cơ quan
Công an, Tòa án nhân dân trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản.
- Đối với Tòa án nhân dân.
TAND cần tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động xét xử
lưu động đối với các vụ án về trộm cắp tài sản. Công tác này cần được thực hiện
thường xuyên, rộng rãi trên tất cả các địa phương trong toàn tỉnh trong đó chú trọng
những địa bàn, khu vực phức tạp về ANTT, các địa bàn, khu vực thường xuyên xẩy
ra các vụ trộm cắp tài sản, có nhiều tệ nạn xã hội nhằm tuyền truyền, giáo dục ý
thức cho người dân và răn đe các đối tượng đang có ý định thực hiện hành vi phạm
tội. Việc xét xử các vụ án cần đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để xảy ra tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác
bồi dưỡng về nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo để nâng cao trình độ xét xử các vụ án
trộm cắp tài. Tăng cường mối quan hệ phối hợp với các chủ thể khác đặc biệt là cơ
quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân trong công tác phòng ngừa tình hình tội
74
phạm trộm cắp tài sản.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018, nguyên
nhân của tội phạm ở chương 2, trong chương 3 tác giả đã đưa ra những nội
dung cơ bản như: Dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình trong thời gian tới gồm có cơ sở dự báo và nội dung dự báo. Từ
những nguyên nhân cũng như dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, tác
giả đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa
tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời
75
gian tới.
KẾT LUẬN
Phòng ngừa tình hình tội phạm vai trò đặc biệt trong quá trình bảo về
tình hình ANTT, là vấn đề cần được nhận thức và có sự quan tâm của toàn
Đảng, toàn dân và toàn xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị và đảm
bảo trật tự an toàn xã hội cảu đất nước tra trong tinhg hình hiện nay.
Với ý nghĩa đó, hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng luôn được cấp ủy Đảng, chính quyền
và nhân dân toàn tỉnh quan tâm. Thực tế cho thấy, trong 05 năm qua, dù đã có
nhiều cố gắng nhưng hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chưa đạt được kết quả như mong
muốn, nguyên nhân, điều kiện hoạt động của tội phạm chưa được phát hiện,
khắc phục, xóa bỏ một cách cơ bản, tội phạm vẫn còn xảy ra nhiều nhưng kết
quả điều tra khám phá hàng năm chưa cao. Do đó, việc nghiên cứu một cách
toàn diện thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nhằm đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm trên
cơ sở kết quả đạt được, phát hiện những sơ hở thiếu sót cũng như những
vướng mắc và nguyên nhân của nó là hết sức cần thiết.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ thực
trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình. Đồng thời, qua phân tích tình hình hoạt động của tội phạm
này từ năm 2014 đến năm 2018, những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm,
những ưu điểm và tồn tại hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm của chính quyền các cấp và nhân dân tỉnh Quảng Bình, luận văn đã đưa
ra một số giải pháp góp phần kiềm chế sự phát triển và làm giảm dần tội
phạm, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
76
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
Trên đây là kết quả mà luận văn đạt được trong quá trình nghiên cứu, hy
vọng rằng những nội dung giải pháp trên sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi
cho chính quyền các câp và nhân dân tỉnh Quảng Bình áp dụng triển khai thực
hiện có hiệu quả trong quá trình tổ chức phòng ngừa tình hình tội phạm tộm
77
cắp tài sản trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương - Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ/TW,
ngày 02/01/2002 về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới.
2. Ban chỉ đạo 138 của Chính phủ (1999), Kế hoạch số 01/BCĐ 138/CP, ngày
10/12/1998 của Chính phủ và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.
3. Ban chỉ đạo 138 của Chính phủ (2012), Kế hoạch số 271/KH - BCĐ 138/CP
ngày 20/11/2012 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống
tội phạm giai đoạn 2012 - 2015.
4. Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm, Đề án II Xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tội phạm; tăng cường tuyên truyền
giáo dục pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo vệ an ninh trật tự.
5.
Phạn Thị Bé (2014), “Tội trộm cắp tài sản tại tỉnh Quảng Nam: Tình hình,
nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện
khoa học xã hội.
6. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
7. Bộ chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới.
8. Bộ Công an (1999), Kế hoạch số 358/KH-BCA ngày 12/4/1999 thực hiện Nghị
quyết 09/CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ.
9. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng cường công
tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
10. Chính phủ (2011), Nghị định 80/2011/NĐ-CP Quy định Các biện pháp bảo
đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù.
11. Công an tỉnh Quảng Bình (2014 – 2018), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm về TTXH các năm 2014 – 2018.
12. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (2010-2015), Văn kiện Đại hội nhiệm kỳ 2010-2015.
13. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (2016-2020), Văn kiện Đại hội nhiệm kỳ 2016-2020.
14. Nguyễn Minh Đoan, Lê Hồng Hạnh, Lê Minh Tâm (2010), Giáo trình Lý luận
và pháp luật, NXB CAND, Hà Nội
15. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết 01/2006/NQ-
HĐTP ngày 12/5/2006 của hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
Hình sự năm 1999.
16. Lê Minh Hùng (2011), Tội trộm cắp tài sản trện địa bàn tỉnh Bình Phước: tình
hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống, Luận văn thạc sỹ luật học, Học
Viện Khoa Học Xã Hội - Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Nguyễn Việt Hùng (2014) “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều
tra tội trộm cắp tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã
hội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Cảnh
sát nhân dân.
18. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa Hà Nội (1999), Từ điển luật học, Hà Nội.
19. Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm,
Tập II, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam (được sửa đổi, bổ
sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam, Nxb Lao
động, Hà Nội.
22. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
23. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
24. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.
25. Nguyễn Anh Tấn, thực hiện (2013) “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sỹ
luật học, Học viện khoa học xã hội.
26. Trần Văn Thắng (2012), Tội trộm cắp tài sản trện địa bàn tỉnh Bình Dương:
tình hình, nguyên nhân và gỉải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát nhân
dân, Luận văn thạc sỹ luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội.
27. Phạm Văn Tỉnh (2008), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở
nước ta hiện nay - Mô hình lý luận, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số
6/2008).
28. Phạm Văn Tỉnh (2009), Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, (số 4/2009).
29. Phạm văn Tỉnh (2013), Bài giảng tội phạm học, khoa Luật, Học viện Khoa
học Xã hội.
30. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình (2014-2018), Bản án của các vụ án trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (2001), Giáo trình Tổ chức hoạt động
phòng ngừa, phát hiện và điều tra tội phạm cụ thể thuộc chức năng của Cảnh
sát hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
34. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2010), Tập bài giảng Tội phạm học.
35. Trịnh Tiến Việt (2008), Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm
học, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, (số 24).
36. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh, Trần Văn Độ, Trần Đình Nhã, Nguyễn Ngọc
Hòa, Đặng Quang Phương, Ngô Ngọc Thủy, Phạm Văn Tỉnh (1994), Tội
phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
37. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, (2014-2018), Báo cáo tình hình Kinh tế -
xã hội tỉnh Quảng Bình năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018.
38. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, (2014-2018), Thống kê tội phạm
hình sự từ năm 2014 đến năm 2018.
39. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, (2011-2015), Báo cáo tổng kết công
tác năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018.
40. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2005, Tội phạm học Việt Nam –Một
số vần đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Đại học Huế - Trung tâm
đào tạo từ xa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42.
Võ Khánh Vinh, Phạm Hồng Hải, Đào Trí Úc, Nguyễn Mạnh Kháng, Phạm
Văn Tỉnh (2000), Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
PHỤC LỤC
Bảng 2.1
THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG VÀ KẾT XỬ LÝ TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018
Năm
Phạm tội về TTXH
Trộm cắp tài sản
Số vụ
Số vụ
Số đối
Số đối
Thiệt hại
tượng
tượng
(Tr.đ)
1001
315
8.701.141
292
622
2014
853
293
8.696.685
271
538
2015
845
349
7.939.3
315
618
2016
862
301
8.976.697
277
585
2017
844
310
6.217.717
287
536
2018
Tổng
2899
4.409
1.442
1.568
40.531.540
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.2
SỐ VỤ VÀ SỐ NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN SO VỚI SỐ VỤ
VÀ SỐ NGƯỜI PHẠM TỘI VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018
Tội trộm cắp tài
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Phạm tội về TTXH
sản
Giai đoạn
phần
phần
2014 -
trăm
trăm
Số đối
Số vụ
Số vụ
Số đối tượng
2018
giữa
giữa
tượng
(1)
(3)
(4)
(1) và (3)
(2) và (4)
(2)
Tổng
1.442 1.568
2.899
4.409
49,7%
44,09%
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.3
CHỈ SỐ TỘI PHẠM VÀ CHỈ SỐ NGƯỜI PHẠM TỘI PHẠM TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM
2018 (TÍNH TRÊN 100.000 DÂN)
Số người
Chỉ số tội phạm
Chỉ số người
Năm
Số vụ
phạm tội Số dân
tính trên 100.000
phạm tội tính
dân
trên 100.000 dân
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)=2*100.000/4
(6)=3*100.000/4
2014
292
315
868.174
33,63
36,28
2015
271
293
872.925
31,04
33,56
2016
315
349
877.702
35,89
39,76
2017
277
301
881.302
31,43
34,15
2018
287
310
936.607
30,64
33,10
TB
288
313
878.342
32,78
35,64
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.4
CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LOẠI TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018
Tội ít nghiêm
Tội nghiêm
Tội rất
Tội đặc biệt
Tổng
trọng
trọng
nghiêm trọng
nghiêm trọng
280 bị cáo
210
50
15
5
100%
75,00%
17,85%
5,35%
1,78%
Nguồn: 200 bản án hình sự sơ thẩm về tội trộm cắp tài sản
Bảng 2.5
CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO HÌNH THỨC
PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN
NĂM 2018
Số vụ trộm cắp tài
Số vụ có đồng phạm Số vụ phạm tội riêng lẻ
Năm
sản
35
2014
292
257
46
2015
271
225
58
2016
315
257
59
2017
277
218
73
2018
287
214
271
Tổng
1.442
1.171
18,79 %
Tỉ lệ (%)
100 %
81,21%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.6
CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO ĐỊA BÀN PHẠM
TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018
Tỷ lệ
Địa bàn
Số vụ
182
Huyện Lệ Thủy
12,6%
106
Huyện Quảng Ninh
7,3%
306
TP Đồng Hới
21,2%
247
Huyện Bố Trạch
17,4%
242
Thị xã Ba Đồn
16,7%
140
Huyện Quảng Trạch
9,7%
112
Huyện Tuyên Hóa
7,7%
107
Huyện Minh Hóa
7,4%
Tổng
1.442
100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.7
CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO ĐỊA ĐIỂM PHẠM
TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018
Nơi phạm tội
Số vụ
Tỷ lệ %
Nhà dân
553
38,4%
Nhà trọ
382
26,4%
Cơ quan, Trường học
112
7,8 %
Nơi công cộng
288
20 %
Nơi khác
107
7,4%
Tổng
1.442
100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.8
CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO THỜI GIAN
PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN
NĂM 2018
Khoảng thời gian phạm tội
Số vụ
Tỷ lệ
0h – 6h
660
45,7%
6h – 12h
312
21,6%
12h – 18h
282
19,7%
18h – 24h
188
13%
Tổng số
1.442
100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.9
CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO TÀI SẢN BỊ
CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN
NĂM 2018
Tài sản bị chiếm đoạt
Số vụ
Tỷ lệ %
Tiền, vàng
643
44,6%
Xe máy, xe đạp điện, xe đạp
250
17,3%
Điện thoại
242
16,8%
Đồ dùng gia đình, đồ dùng cá nhân
195
13,5%
Tài sản khác
112
7,8%
Tổng
1.442
100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.10
CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO PHƯƠNG THỨC,
THỦ ĐOẠN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM
2014 ĐẾN NĂM 2018
Phương thức, thủ đoạn phạm tội
Số vụ
Tỷ lệ %
Sử dụng công cụ cạy phá để đột nhập vào
707
49,03%
nhà
Lợi dụng sơ hở của chủ tài sản trong quản
272
18,87%
lý
Lợi dụng việc chen lấn, xô đẩy, mất trật tự
294
20,38%
ở nơi công cộng để móc túi
Phương thức, thủ đoạn khác
169
11,72%
Tổng
1.442
100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.11
CƠ CẤU THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM
CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN
NĂM 2018
Giới tính
Độ tuổi
Từ đủ 18 đến dưới
Từ đủ 30 tuổi trở
Nam
Nữ
Dưới 18 tuổi
30 tuổi
lên
1.454
114
268
895
405
92,72%
7,27%
17,10%
57,08%
25,82%
Tổng: 1.474 bị can = 100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.12
MỨC ĐỘ TĂNG GIẢM SỐ VỤ VÀ SỐ ĐỐI TƯỢNG PHẠM TỘI TRỘM
CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN
NĂM 2018
Tăng (+), giam (-)
Năm
Số vụ
Số đối tượng
Số vụ
Đối
tượng
2014
292
=
=
315
2015
271
-22
-21
293
2016
315
+56
+44
349
2017
277
-48
-38
301
2018
287
+9
+10
310
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.13
TỶ LỆ TĂNG GIẢM VỀ SỐ VỤ VÀ SỐ ĐỐI TƯỢNG PHẠM TỘI TRỘM
CẮP TÀI SẢN SO VỚI SỐ VỤ VÀ SỐ ĐỐI TƯỢNG PHẠM TỘI VỀ TRẬT
TỰ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN
NĂM 2018
Năm
Số vụ
Số đối
Số vụ
Số đối
Tỷ lệ (%)
phạm
tượng
phạm tội
tương
Số vụ
Số đối
tội về
phạm tội
TCTS
phạm tội
(3)với(1)
tượng
TTXH
về TTXH
(3)
TCTS
(4)với(2)
(1)
(2)
(4)
622
1001
292
315
46,9
31,46 %
2014
538
853
271
293
50,4
34,35 %
2015
618
845
315
349
50,9
40,3 %
2016
585
862
277
301
47,4
34,92%
2017
536
844
287
310
53,5
36,73 %
2018
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.14
MỨC ĐỘ TĂNG, GIẢM HÀNG NĂM CỦA SỐ NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM
CẮP TÀI SẢN BỊ KHỞI TỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM
2014 - 2018
Người bị xét xử
Tỷ lệ %
Năm
315
100%
2014
293
93,01% (giảm 6,99%)
2015
349
110,79% (tăng 10,79%)
2016
301
95,56% (giảm 4,44%)
2017
310
98,41% (giảm 1,59%)
2018
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.15
MỨC ĐỘ TĂNG HÀNG NĂM CỦA SỐ VỤ ĐỒNG PHẠM TRỘM CẮP TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018
Số vụ đồng phạm
Tỷ lệ %
Năm
35
100%
2014
46
131,4%
2015
58
165,7%
2016
59
168,5%
2017
73
208,5%
2018
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.16
MỨC ĐỘ TĂNG HÀNG NĂM CỦA SỐ NGƯỜI TÁI PHẠM, TÁI PHẠM
NGUY HIỂM PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018
Năm
Số người tái phạm, tái phạm
Tỷ lệ %
nguy hiểm
77
100%
2014
90
116,9%
2015
109
141,6%
2016
125
162,3%
2017
130
168,8%
2018
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Kính gửi: Các đồng chí là cán bộ, chiến sỹ trực tiếp tham gia hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình.
Để thực hiện tốt luận văn tốt nghiệp Cao học với đề tài “Phòng ngừa
tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên tỉnh Quảng Bình”, là những cán bộ
có kinh nghiệm trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm xin đồng chí vui
lòng nêu ý kiến của mình bằng cách đánh dấu “X” vào ô tương ứng hoặc viết ý
kiến của mình theo các câu hỏi sau:
Tôi chân thành cảm ơn về sự cộng tác và giúp đỡ của các đồng chí!
Câu 1. Đồng chí có nhận định gì về tội phạm trộm cắp tài sản trên địa
bàn đồng chí công tác từ năm 2014 đến nay?
a) Về tính chất, mức độ nguy hiểm:
+ Đặc biệt nguy hiểm
:
+ Rất nguy hiểm
:
+ Nguy hiểm
:
+ Ít nguy hiểm
:
b)Về diễn biến số vụ phạm tội:
+ Có xu hướng tăng lên
:
+ Có xu hướng giảm xuống:
+ Tăng giảm không theo
quy luật :
+ Không tăng, không giảm:
Câu 2. Thời gian gây án chủ yếu của các đối tượng phạm tội trộm cắp
tài sản trên địa bàn đồng chí công tác?
a) Từ 6h đến 12h
:
b) Từ 12h đến 18h
:
c) Từ 18h đến 24h
:
d) Từ 0h đến 6h
:
Câu 3. Độ tuổi trung bình của đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản
chiếm tỷ lệ cao nhất là bao nhiêu?
a) Dưới 18 tuổi
:
b) Từ đủ 18 đến 30 tuổi :
c) Trên 30 tuổi
:
Câu 4. Địa điểm hoạt động, gây án chủ yếu của đối tượng phạm tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn đồng chí công tác?
Địa điểm gây án: - Cơ quan, trường học
:
- Trong nhà dân
:
- Nơi công cộng
:
- Địa điểm khác
:
Câu 5. Đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn
đồng chí đang công tác chủ yếu là:
a) Đối tượng là người địa phương, nắm rõ địa bàn hoạt động
:
b) Đối tượng ngoại tỉnh hoặc vùng giáp ranh
:
c) Các đối tượng nằm trong diện quản lý (sưu tra) của lực lượng trinh sát. :
d) Ý kiến khác:
……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………..
Câu 6. Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản hiện nay trên địa bàn đồng chí công tác?
a) Nguyên nhân từ phía người phạm tội:
- Tham lam, ích kỷ, động cơ vụ lợi cá nhân mong muốn chiếm đoạt tài
:
sản
- Lang thang, thất nghiệp
:
- Nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện game online
:
- Mong muốn làm giàu bất chính
:
- Ý kiến khác:
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
b) Nguyên nhân từ bản thân người bị hại:
- Lơ là, mất cảnh giác trong bảo vệ tài sản của mình
:
- Ý kiến khác:
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
c) Nguyên nhân từ môi trường xã hội:
- Mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình độ thị hóa
:
- Sơ hở, thiếu sót của cơ quan quản lý nhà nước
:
- Việc xử lý tội phạm chưa nghiêm, chưa đủ sức ngăn ngừa
:
- Ý kiến khác:
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Câu 7. Theo đồng chí, lực lượng làm công tác phòng ngừa tình hình
tội phạm hình sự nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản riêng ở đơn vị đồng
chí hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu chưa?
a) Về số lượng:
- Đủ
:
- Thiếu
:
- Rất thiếu
:
b) Về năng lực:
- Tốt
:
- Khá tốt
:
- Trung bình
:
- Chưa tốt
:
Câu 8. Điều kiện về cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện, kinh phí ở đơn
vị đồng chí đã đáp ứng yêu cầu phòng ngừa đối với tội phạm trộm cắp tài
sản chưa?
- Đáp ứng
:
- Chưa đáp ứng
:
- Chưa đáp ứng điều kiện cụ thể nào?
……………………………………………………………………………
……………………………..……………………………………………………
…………………………………
Câu 9. Theo đồng chí, việc điều tra, xử lý đối tượng phạm tội trộm cắp
tài sản tại địa phương đồng chí công tác như thế nào?
a) Nghiêm minh, đủ sức răn đe, ngăn ngừa
:
b) Chưa nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa
:
c) Ý kiến khác
……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………..………………………………………………………
………………………………
Câu 10. Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản
trong thời gian tới, theo đồng chí, lực lượng Cảnh sát hình sự cần thực hiện
tốt những giải pháp nào sau đây?
a) Tăng cường các biện pháp phòng ngừa xã hội
- Phối hợp giáo dục cá biệt những người có điều kiện, hoàn cảnh phạm
tội để họ từ bỏ ý định phạm tội
:
- Tổ chức cho QCND phát hiện các biểu hiện nghi vấn của các đối tượng
để ngăn chặn kịp thời
:
- Phối hợp với Ban, Ngành giải quyết tình trạng thanh niên thất nghiệp,
nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nhận thức cho QCND
:
- Phối hợp xây dựng các mô hình tự quản, các phong trào tự quản trong
đấu tranh phòng chống tội phạm (tiếng mỏ an ninh, nghiệp đoàn xe ôm, hiệp sĩ
đường phố…)
:
- Phối hợp cơ quan truyền thông tuyên truyền ý thức cảnh giác tội phạm,
ý thức quản lý, bảo vệ tài sản cũng như phương thức, thủ đoạn hoạt động của
TPTCTS có tính chất chiếm đoạt
:
- Ý kiến khác:
………………………………………………………………………………
……………………..……………………………………………………………
…………
b)Tăng cường các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ
- Điều tra cơ bản, nắm chắc tình hình
:
- Làm tốt công tác sưu tra, quản lý đối tượng, đặc biệt là số đối tượng
trong diện nghi vấn hoạt động phạm tội
:
-Tăng cường công tác xác lập và xác minh hiềm nghi :
-Tập trung xây dựng và sử dụng có hiệu quả cộng tác viên bí mật nhằm
theo dõi, giám sát kịp thời đối tượng
:
- Ý kiến khác:
………………………………………………………………………………
……………………..……………………………………………………………
…………….……………………………………………………………….
c) Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát phát hiện đối tượng và đấu tranh
triệt xóa các băng, nhóm
- Phối hợp tuẩn tra, kiểm soát ở các tuyến, địa bàn trọng điểm, phức tạp
tập trung nhiều nguồn hàng, tài sản lớn, đối tượng phạm tội thường xuyên lui
tới
:
- Phối hợp xác minh truy bắt kịp thời các đối tượng trong diện truy
:
nã
- Kịp thời đấu tranh triệt xóa các băng, nhóm TPTCTS có tính chất chiếm
đoạt
:
- Ý kiến khác:
………………………………………………………………………………
……………………..……………………………………………………………
…………….……………………………………………………………….
d) Giải pháp về tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất, trang bị phương tiện
- Giải pháp về tổ chức lực lượng:
+ Tăng biên chế cho lực lượng trinh sát Đội CSĐTTP về TTXH Công an
cấp huyện
:
+ Tăng biên chế cho lực lượng trinh sát thuộc Phòng CSĐTTP về TTXH
Công an tỉnh
:
+ Thành lập các tổ chức đấu tranh PCTP trộm cắp tài sản dưới hình thức
các đơn vị đặc nhiệm, có vũ trang để trấn áp kịp thời tội phạm ở CA cấp huyện
và PC45 CA tỉnh. (Ví dụ tổ, đội hình sự đặc nhiệm…)
:
+ Phối hợp với các cơ sở đào tạo trong CAND tổ chức các lớp đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trình độ cho lực lượng trinh sát
:
- Ý kiến khác:
………………………………………………………………………………
……………………..……………………………………………………………
…………….……………………………………………………………….
- Giải pháp về cơ sở vật chất, trang bị phương tiện:
+ Tăng cường máy định vị, máy chụp ảnh bí mật …để lực lượng trinh sát
hoàn thành nhiệm vụ
:
+ Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong phòng ngừa tội phạm
:
- Ý kiến khác:
………………………………………………………………………………
……………………..……………………………………………………………
…………….……………………………………………………………….
Theo các đồng chí, trong các giải pháp trên, giải pháp nào là cơ bản và
mang tính đột phá, có khả năng áp dụng mang lại hiệu quả?
………………………………………………………………………………
……………………..……………………………………………………………
…………….……………………………………………………………….
CÁN BỘ CHIẾN SỸ THUỘC LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT HÌNH SỰ
PHÒNG PC45 VÀ CÔNG AN CÁC HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Khảo sát 149 cán bộ chiến sỹ thuộc lực lượng Cảnh sát hình sự Phòng
PC45 và Công an các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
- Tổng số phiếu phát ra: 149 phiếu; tổng số phiếu thu vào: 149 phiếu.
Câu 1. Đồng chí có nhận định gì về tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn
đồng chí công tác từ năm 2014 đến nay?
a) Về tính chất, mức độ nguy hiểm:
8
5.4%
- Đặc biệt nguy hiểm
78
52.4%
- Rất nguy hiểm
53
35.5%
- Nguy hiểm
10
6.7%
- Ít nguy hiểm
b)Về diễn biến số vụ phạm tội:
14
9.4%
- Có xu hướng tăng lên
7
4.7%
- Có xu hướng giảm xuống
121
81.2%
- Tăng giảm không theo quy luật
7
4.7%
- Không tăng, không giảm
Câu 2. Thời gian gây án chủ yếu của các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn đồng chí công tác?
44
29,53%
a) Từ 6h đến 12h
26
17.45%
b) Từ 12h đến 18h
12
8.05%
c) Từ 18h đến 24h
67
44.97%
d) Từ 0h đến 6h
Câu 3. Độ tuổi trung bình của đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ
cao nhất là bao nhiêu?
a) Dưới 18 tuổi
10
6.7%
b) Từ đủ 18 đến 30 tuổi
118
79.2%
c) Trên 30 tuổi
21
14.1%
Câu 4. Địa điểm hoạt động, gây án chủ yếu của đối tượng phạm tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn đồng chí công tác?
- Trong nhà dân
124
83.3%
- Nơi công cộng
10
6.7%
8
5.5%
- Cơ quan, trường
7
4.5%
- Địa điểm khác
Câu 5. Đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn đồng chí đang
công tác chủ yếu là:
a) Đối tượng là người địa phương, nắm rõ địa bàn hoạt
133
46.00%
động
b) Đối tượng ngoại tỉnh hoặc vùng giáp ranh
49
17.00%
c) Các đối tượng nằm trong diện quản lý (sưu tra) của
70
24.20%
lực lượng trinh sát
d) Ý kiến khác
37
12.80%
Câu 6. Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trộm cắp tài sản hiện nay
trên địa bàn đồng chí công tác?
a) Nguyên nhân từ phía người phạm tội:
- Tham lam, ích kỷ, động cơ vụ lợi cá nhân mong
85
21.52%
muốn chiếm đoạt tài sản
- Lang thang, thất nghiệp
100
25.32%
- Nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện game online
112
28.35%
- Mong muốn làm giàu bất chính
71
17.98%
- Ý kiến khác
27
6.83%
b) Nguyên nhân từ bản thân người bị hại
- Lơ là, mất cảnh giác trong bảo vệ tài sản của mình
145
80.1%
- Ý kiến khác
36
19.9%
c) Nguyên nhân từ môi trường xã hội
- Mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình độ
99
47.14%
thị hóa
- Sơ hở, thiếu sót của cơ quan quản lý nhà nước
46
21.90
- Việc xử lý tội phạm chưa nghiêm, chưa đủ sức ngăn
42
20%
ngừa
- Ý kiến khác
23
10.96%
Câu 7. Theo đồng chí, lực lượng làm công tác phòng ngừa tình hình tội phạm
hình sự nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản riêng ở đơn vị đồng chí hiện nay đã
đáp ứng được yêu cầu chưa?
a) Về số lượng:
- Đủ
15
7,14%
- Thiếu
99
66,44%
- Rất thiếu
35
28,06%
b) Về năng lực:
- Tốt
18
12,08%
- Khá tốt
94
63,09%
- Trung bình
26
17,45%
- Chưa tốt
11
7,38%
Câu 8. Điều kiện về cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện, kinh phí ở đơn vị đồng
chí đã đáp ứng yêu cầu phòng ngừa đối với tội phạm trộm cắp tài sản chưa?
- Đáp ứng
21
14,09%
- Chưa đáp ứng
128
85,91%
- Chưa đáp ứng điều kiện cụ thể nào?
Câu 9. Theo đồng chí, việc điều tra, xử lý đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản tại
địa phương đồng chí công tác như thế nào?
a) Nghiêm minh, đủ sức răn đe, ngăn ngừa
65
43,63%
b) Chưa nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa
76
51,00%
c) Ý kiến khác
8
5,37%
Câu 10. Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản trong thời
gian tới, theo đồng chí, lực lượng Cảnh sát hình sự cần thực hiện tốt những giải
pháp nào sau đây?
a) Tăng cường các biện pháp phòng ngừa xã hội
- Phối hợp giáo dục cá biệt những người có điều kiện, hoàn
109
15.24%
cảnh phạm tội để họ từ bỏ ý định phạm tội
- Tổ chức cho QCND phát hiện các biểu hiện nghi vấn của
112
15.66%
các đối tượng để ngăn chặn kịp thời
- Phối hợp với Ban, Ngành giải quyết tình trạng thanh niên
thất nghiệp, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nhận thức
124
17.34%
cho QCND
- Phối hợp xây dựng các mô hình tự quản, các phong trào tự
quản trong đấu tranh phòng chống tội phạm (tiếng mỏ an
121
16.92%
ninh, nghiệp đoàn xe ôm, hiệp sĩ đường phố…)
- Phối hợp cơ quan truyền thông tuyên truyền ý thức cảnh
giác tội phạm, ý thức quản lý, bảo vệ tài sản cũng như
145
20.27%
phương thức, thủ đoạn hoạt động của TPTCTS có tính chất
chiếm đoạt
- Ý kiến khác:
104
14.54%
b)Tăng cường các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ
- Điều tra cơ bản, nắm chắc tình hình
121
19.42%
- Làm tốt công tác sưu tra, quản lý đối tượng, đặc biệt là số
109
17.49%
đối tượng trong diện nghi vấn hoạt động phạm tội
-Tăng cường công tác xác lập và xác minh hiềm nghi
125
20.06%
-Tập trung xây dựng và sử dụng có hiệu quả cộng tác viên bí
141
22.63%
mật nhằm theo dõi, giám sát kịp thời đối tượng
- Ý kiến khác
127
20.38%
c) Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát phát hiện đối tượng và đấu tranh
triệt xóa các băng, nhóm TPTCTS có tính chất chiếm đoạt.
- Phối hợp tuẩn tra, kiểm soát ở các tuyến, địa bàn trọng điểm,
phức tạp tập trung nhiều nguồn hàng, tài sản lớn, đối tượng PT
149
29.51%
thường xuyên lui tới
- Phối hợp xác minh truy bắt kịp thời các đối tượng trong diện
98
19.41%
truy nã
- Kịp thời đấu tranh triệt xóa các băng, nhóm TPTCTS có tính
114
22.57%
chất chiếm đoạt
- Ý kiến khác
144
28.51%
d) Giải pháp về tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất, trang bị phương tiện
- Giải pháp về tổ chức lực lượng:
+ Tăng biên chế cho lực lượng trinh sát Đội CSĐTTP về
127
28.10%
TTXH Công an cấp huyện
+ Tăng biên chế cho lực lượng trinh sát thuộc Phòng CSĐTTP
41
9.07%
về TTXH Công an tỉnh
+ Thành lập các tổ chức đấu tranh TPTCTS dưới hình thức các
đơn vị đặc nhiệm, có vũ trang để trấn áp kịp thời tội phạm ở
85
18.81%
CA cấp huyện và PC45 CA tỉnh. (Ví dụ tổ, đội hình sự đặc
nhiệm…)
+ Phối hợp với các cơ sở đào tạo trong CAND tổ chức các lớp
98
21.68%
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho lực lượng trinh sát
101
22.34%
+ Ý kiến khác
- Giải pháp về cơ sở vật chất, trang bị phương tiện:
+ Tăng cường máy định vị, máy chụp ảnh bí mật… để lực
139
35.46%
lượng trinh sát hoàn thành nhiệm vụ
+ Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong phòng ngừa
138
35.20%
tội phạm
+ Ý kiến khác
115
29.34%