VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG VĂN SÁU

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG VĂN SÁU

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành : Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số : 8 38 01 05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ Tội

phạm học và phòng ngừa tội phạm về “Phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với

các luận văn khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong Luận

văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân

tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Ngọc Hà.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Trương Văn Sáu

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN ........................................................................ 7

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ........... 7

1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ........ 9

1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ............................ 13

1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ........................ 20

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH .. 24

2.1. Khái quát tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ... 24

2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình ............................................................................................................... 38

2.3. Nhận xét, đánh giá khái quát .............................................................................. 53

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ............................................................... 60

3.1. Dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong

thời gian tới ............................................................................................................... 60

3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ................................................ 63

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

An ninh trật tự

ANTT

1

An ninh chính trị

ANCT

2

An ninh tổ quốc

ANTQ

3

Bộ luật hình sự

BLHS

4

Cơ quan điều tra

CQĐT

5

6

PBGDPL

Phổ biến giáo dục pháp luật

7

TAND

Tòa án nhân dân

8

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

9

UBND

Ủy ban nhân dân

10

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng

Thống kê hoạt động và kết xử lý tội phạm trộm cắp tài sản trên

2.1

PL

địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Số vụ và số người phạm tội trộm cắp tài sản so với số vụ và số

2.2

người phạm tội về trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ

PL

năm 2014 đến năm 2018

Chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội phạm trộm cắp tài sản

2.3

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018 (tính

PL

trên 100.000 dân)

Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo loại tội phạm trên địa

2.4

PL

bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo hình thức phạm tội

2.5

PL

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo địa bàn phạm tội trên

2.6

PL

địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo địa điểm phạm tội trên

2.7

PL

địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo thời gian phạm tội

2.8

PL

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo tài sản bị chiếm đoạt

2.9

PL

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo phương thức, thủ đoạn

2.10

phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm

PL

2018

Cơ cấu theo giới tính, độ tuổi của người phạm tội trộm cắp tài

PL

2.11

sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Mức độ tăng giảm số vụ và số đối tượng phạm tội trộm cắp tài

2.12

PL

sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Tỷ lệ tăng giảm về số vụ và số đối tượng phạm tội trộm cắp tài

2.13

sản so với số vụ và số đối tượng phạm tội về trật tự xã hội trên

PL

địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Mức độ tăng, giảm hàng năm của số người phạm tội trộm cắp tài

2.14

sản bị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến

PL

năm 2018

Mức độ tăng hàng năm của số vụ đồng phạm trộm cắp tài sản

2.15

PL

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018

Mức độ tăng hàng năm của số người tái phạm, tái phạm nguy

2.16

hiểm phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm

PL

2014 đến năm 2018

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quảng Bình là một tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ Việt Nam, nơi giao thoa

các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa hai miền Bắc Nam. Với diện tích

tự nhiên 8.051 km2, dân số khoảng 936.607 người bao gồm 01 thành phố

thuộc tỉnh và 07 huyện, thị xã trong đó có 159 phường, xã, thị trấn. Với vị trí

địa lý thuận lợi, nằm trên nhiều đầu mối giao thông quan trọng của quốc gia

và khu vực, là địa bàn có hệ thống giao thông với đầy đủ các loại hình giao

thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không. Bao gồm các

tuyến đường quốc lộ 1A, 12A, 15A, đường Hồ Chí Minh, hệ thống giao thông

đường sắt Bắc Nam, đường thủy, có cửa khẩu quốc tế Chalo, các cảng biển

Sông Gianh, cảng biển Nhật Lệ và cảng biển Hòn La rất thuận lợi cho giao

lưu trong nước và quốc tế. Đây là những điệu kiện hết sức thuận lợi cho việc

phát triển kinh tế, xã hội của Quảng Bình, bên cạnh đó cũng là điều kiện của

việc phát sinh các loại tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng.

Các luồng tư tưởng tiêu cực, các loại văn hóa phẩm đồi trụy, mang tính bạo

lực, thất nghiệp, thiếu việc làm ngày càng gia tăng làm phát sinh các tệ nạn xã

hội và tội phạm.

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng có chiều hướng gia tăng và diễn

biến phức tạp cả về số vụ lẫn số đối tượng. Các đối tượng phạm tội này rất

tinh vi trong việc che dấu hành vi phạm tội của mình nên gây rất nhiều khó

khăn cho công tác phòng ngừa và phát hiện kịp thời của chủ tài sản cũng như

các cơ quan chức năng đã gây hoang mang, lo lắng trong dư luận đời sống -

xã hội.

1

Theo số liệu thống kê trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018, trên

địa bàn tỉnh xảy ra 2.899 vụ phạm tội về trật tự xã hội, trong đó các vụ phạm

tội trộm cắp tài sản là 1442 vụ, 1.568 đối tượng, gây thiệt hại về tài sản là

40.531.5403.000 đồng, chiếm 49,7 % tổng số các vụ phạm tội về trật tự xã

hội trên địa bàn toàn tỉnh.

Trước tình hình đó, cấp ủy đảng, chính quyền phối hợp chặt chẽ với các

ban ngành, các cấp để triển khai đồng bộ các biện pháp, giải pháp phòng ngừa

tình tội phạm trộm cắp tài sản, góp phần ổn định tình hình, đảm bảo an ninh

trật tự, phục vụ quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Tuy nhiên,

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản vẫn còn diễn biến phức tạp, chiếm tỉ lệ lớn

trong cơ cấu tội phạm. Việc đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trong thời gian tới là một đòi

hỏi cấp bách, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống

tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phục vụ

đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của cả nước.

Với những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình

tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận văn

thạc sỹ của mình có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở Việt Nam cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học của các tác giả

nghiên cứu về Lý luận phòng ngừa; phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung

và phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng. Đơn cử như:

- Giáo trình “Tội phạm học” (2008) của GS.TS Võ Khánh Vinh, NXB

Công an nhân dân;

- Giáo trình “Tội phạm học” (2012) của trường Đại học Luật Hà Nội,

NXB Công an nhân dân;

- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” (2007) của

2

PGS.TS Phạm Văn Tỉnh, NXB Công an nhân dân;

- Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội

phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

- Vũ Việt Hùng (2011), Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành

quyền công tố, kiểm sát các vụ án trộm cắp tài sản. Chuyên đề khoa học,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Phùng Đặng Hoài Thanh (2015), “Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

Tỉnh Tiền Giang: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận

văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội;

- Nguyễn Việt Hùng (2014), “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả

điều tra tội trộm cắp tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự

xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Cảnh

sát nhân dân;

- Phạn Thị Bé (2014), “Tội trộm cắp tài sản tại tỉnh Quảng Nam: Tình

hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học,

Học viện khoa học xã hội;

- Nguyễn Anh Tấn (2013), “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sỹ luật

học, Học viện khoa học xã hội;

Các công trình trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được tình hình tội

trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc trên một số địa bàn nhất định, xác

định các nguyên nhân của tội phạm và từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa

tội phạm tương ứng. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị giúp tác giả

nắm rõ được những lý luận cơ bản và thực tiễn của công tác phòng ngừa tình

hình tội phạm trộm cắp tài sản. Quảng Bình với những đặc điểm riêng nên

tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng cũng có

những vấn đề khác biệt. Chính vì vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

3

cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình phải có các biện pháp mang tính

khoa học, chuyên sâu thích hợp với những đặc điểm của tình hình và nguyên

nhân của tội phạm thì mới đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa

có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng thể, có hệ thống về

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” có thể khẳng định không trùng với

bất kỳ các công trình nào đã công bố trước đây.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Góp phần bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận phòng ngừa tình

hình tội phạm nói chung; phòng ngừa tình hình tội phạm cụ thể nói riêng của

khoa học pháp lý tội phạm học.

- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong

thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích khái quát để làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình

hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

- Nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian từ năm 2014

đến năm 2018.

- Làm rõ những hạn chế, nguyên nhân của các mặt trong hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

- Đưa ra dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản và đề xuất các giải

pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên

4

địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình dưới góc độ khoa học pháp lý Tội phạm học cả trên phương diện lý luận và

thực tiễn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: địa bàn tỉnh Quảng Bình

- Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và

duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng; Pháp luật của Nhà nước về

phòng, chống tội phạm và các luận điểm chung của khoa học pháp lý Tội

phạm học.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Ngoài phương pháp luận chung, đề tài còn sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cụ thể để luận giải các vấn đề đặt ra từ đề tài như: Phương pháp hệ

thống, thống kê; phương pháp nghiên cứu hồ sơ, phương pháp tổng kết kinh

nghiệm thực tiễn, phương pháp so sánh, tổng hợp; phương pháp tọa đàm,

phương pháp chuyên gia…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và nghiên cứu

khoa học trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự. Việc nghiên cứu đề tài

là cơ sở để xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản một cách khoa học và hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu của

5

luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận tội phạm học về phòng ngừa tình

hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn đã làm rõ thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp

tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa

phù hợp với điều kiện thực tiễn tại địa phương. Vì thế kết quả nghiên cứu của

luận văn có thể giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo để vận dụng vào

việc tuyên truyền giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức cho quần chúng nhân

dân và vận dụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, đồng thời góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình phạm tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình thời gian tới.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham

khảo, luận văn được chia làm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản

Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm

6

trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp

tài sản

1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

Trong quá trình phát triển của đất nước ta hiện nay, phòng ngừa tình hình

tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng chính là một trong

những nội dung quan trọng và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội

phạm học. Nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm chính là nghiên cứu những cơ

sở, nền tảng, nguyên nhân và điều kiện hình thành tội phạm. Do vậy, công tác

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản chính là đi nghiên cứu những

nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, hình thành tội phạm trộm cắp tài sản để

từ đó đề ra những giải pháp nhằm triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện đó

góp phần làm giảm tội phạm trộm cắp tài sản.

Ở nước ta hiện nay, có rất nhều quan điểm khi đưa ra khái niệm về

phòng ngừa tội phạm.

Theo Từ điển Luật: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại

trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên

quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành”[18].

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ

thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà

nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm

hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và

dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [42, tr.154].

Theo GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm: “Phòng ngừa tội phạm là tổng hợp

7

các biện pháp có quan hệ tác động lẫn nhau, được tiến hành bởi cơ quan nhà

nước và các tổ chức xã hội nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm và hạn chế,

loại trừ những nguyên nhân sinh ra tội phạm” ” [43, tr.132].

Tất các quan điểm trên đều đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội

phạm, mỗi quan điểm đều dựa trên những cơ sở, lý luận riêng nhưng chủ yếu

theo hai xu hướng là hoạt động phòng và chống tội phạm hoặc hoạt động tác

động vào nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nhằm ngăn ngừa trước

không cho tội phạm xẩy ra.

Tổng hợp các quan điểm khoa học, cũng như những phân tích, đánh giá

của tác giả về tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, có thể đưa ra khái niệm

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản như sau: Phòng ngừa tình

hình tội phạm trộm cắp tài sản là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá

nhân bằng việc sử dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau nhằm loại bỏ

những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản,

đồng thời cải tạo, giáo dục họ thành người có ích cho xã hội góp phần bảo vệ

an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội.

1.1.2. Ý nghĩa nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

- Ý nghĩa về lý luận của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản:

Nghiên cứu về tội phạm học khẳng định, phòng ngừa tình hình tội phạm chỉ

có thể đạt được trên cơ sở đã hiểu rõ tình hình tội phạm cũng như xác định

được quy luật vận động của khách thể đó. Như vậy, việc nghiên cứu tội phạm

trộm cắp tài sản chính là chúng ta đi nghiên cứu những nguyên nhân, điều

kiện làm phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản cũng như đi nghiên cứu những

yếu tố tác động đến người có hành vi lệch chuẩn với xã hội. Chính vì vậy,

muốn phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản đạt hiệu quả phải khống chế hoặc

loại trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản và

các tệ nạn khác liên quan.

8

- Ý nghĩa về thực tiễn của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài

sản: Việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản có ý

nghĩa hết sức quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trộm

cắp tài sản. Vì nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

chính là đi tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm cũng như

những yếu tố tác động đến người thực hiện hành vi phạm tội.

Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản là một phương hướng mang tính

chiến lược lâu dài, không phải một sớm, một chiều mà có thể xóa bỏ hoặc

triệt tiêu ra khỏi xã hội, mà chỉ có thể từng bước kìm hãm và giảm đi tình

trạng tội phạm trộm cắp tài sản. Giúp cho các cơ quan chức năng phát hiện

những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản. Ngoài ra,

việc thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản còn có ý nghĩa

chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản sẽ góp phần giữ vững an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã

hội, bảo vệ tính mạng, tài sản người dân.

1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp

tài sản

1.2.1. Mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

Tùy mỗi thời kỳ, giải đoạn phát triển cụ thể của đất nước để chúng ta đặt

ra những mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm thích hợp. Trong sự

chuyển mình mạnh mẽ và tham gia hộp nhập quốc tế, đất nước ta đã có những

bước phát triển vượt bậc về mọi mặt bên cạnh đó công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm cũng được Đảng ta hết sức quan tâm. Chỉ thị số 48-CT/TW

“về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống

tội phạm trong tình hình mới” trong đó đã chỉ rõ: “trong thời gian tới công tác

phòng chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các

loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường lành mạnh phục vụ

9

có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và

bình yên của nhân dân” [7, Tr 5].

Mục đích phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản bao gồm những nội

dung sau:

- Hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện các vụ phạm tội trộm cắp tài

sản, không để nẩy sinh và phát triển loại tội phạm này.

- Ngăn chặn không để xẩy ra các hành vi phạm tội mới.

- Phòng ngừa tái phạm tội.

1.2.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động phòng ngừa tình

hình tội phạm trộm cắp tài sản được hiểu là hoạt động phòng ngừa tình hình

tội phạm này phải tuân thủ các quy định của pháp luật.

Để cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản tuân

thủ nguyên tắc pháp chế, cần thiết và nhất định phải có một hệ thống pháp

luật hoàn chỉnh, thống nhất, toàn diện để làm công cụ, vũ khí cho các cơ

quan bảo vệ pháp luật sử dụng để quản lý xã hội, để phòng chống tội phạm.

pháp luật cần được phổ biến, tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân để họ hiểu

và làm theo đúng các quy định của pháp luật.

Nguyên tắc này được tôn trọng thì quyền con người sẽ được bảo vệ, trách

nhiệm của các chủ thể phòng ngừa được tăng cường.

- Nguyên tắc dân chủ.

Nguyên tắc dân chủ là những vấn đề thuộc về quan điểm và nguyên tắc

của Chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng HCM mà Đảng và Nhà nước XHCN do

Đảng lãnh đạo phải thực hiện nhất quán trong thực tiễn mọi hoạt động của

mình, đây là một trong những đặc điểm nổi bật thể hiện bản chất của xã hội

nước ta.

10

Nguyên tắc này đòi hỏi sự tham gia tích cực và có hiệu quả của tất cả các

tầng lớp xã hội và các nhân vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói

chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng. Để nguyên tắc dân chủ đảm bảo

được thực hiện trên thực tế, cần có cơ chế hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho

các chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, đồng thời

tuyên truyền ý thức phòng chống tội trộm cắp tài sản trong toàn dân, tập huấn

chuyên môn, kỹ năng cho các tổ tự quản, các câu lạc bộ tình nguyên. Thực

hiện tốt nguyên tắc này sẽ tận dụng tốt mọi tiềm năng để làm tốt công tác

phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.

- Nguyên tắc nhân đạo.

Nguyên tắc nhân đạo là thể hiện quan điểm vì con người của nhà nước

ta, quan điểm nhân đạo, đề cao giáo dục nhân cách trong con người là chủ

yếu, đây là giá trị xã hội rất tiến bộ và được đề cao trong xã hội hiện đai.

Nguyên tắc này đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp

tài sản được xây dựng và áp dụng trong thực tiễn không có tính chất làm

nhục, đối xử tàn bạo hay hạ thấp danh dự nhân phẩm và các quyền cơ bản của

con người, mà phải hướng đến việc định hướng hành vi, lối sống cho họ theo

hướng hòa nhập với xã hội, làm những việc có ích cho xã hội. Muốn vậy,

pháp luật cần có những quy định hệ thống các biện pháp, chế tài có tính nhân

đạo cùng với áp dụng chặt chẽ, phù hợp. Khi ban hành chương trình, nội

dung, kế hoạch phải ưu tiên các biện pháp mang tính xã hội tích cực, hạn chế

các biện pháp mang tính cưỡng chế. Tuân thủ nguyên tắc này thì hoạt động

phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sẽ đạt được kết quả cao, hạn chế

những tác động tiêu cực, những tác động ảnh hưởng xấu đến người phạm tội.

- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ.

Xã hội ngày càng phát triễn với các cuộc cách mang về khoa học kỹ

thuật, kéo theo đó tội phạm với nhiều thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi

11

và hiện đại, đặc biệt là các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao… Chính vì

vậy trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tôi phạm trộm cắp tài

sản nói riêng thì việc áp dụng nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong áp dụng

các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm phải được xây dựng đồng bộ

trên cơ sở khoa học và kết hợp khai thác, ứng dụng các thành tựu của khoa

học và công nghệ trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm.

Nhà nước cần có những nghiên cứu khoa học và ứng dụng có hiệu quả các

kết quả nghiên cứu đó. Tính khoa học sẽ đảm bảo khả năng thành công, tiết

kiệm sức lực, tiền bạc và hạn chế được các rủi ro, tổn thất trong hoạt động

phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.

- Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể phòng ngừa.

Các chủ thể có khả năng và thẩm quyền khác nhau trong hoạt động

phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, do đó đòi hỏi các chủ thể có sự

phối hợp hoạt động với nhau để phát huy hiệu quả cao nhất. Cần cung cấp

thông tin, tài liệu, thiết kế nội dung các chương trình, kế hoạch, thực hiện các

biện pháp - giải pháp. Để có sự phối hợp, trước hết phải thống nhất từ một cơ

quan đầu mối, có cơ chế phối hợp được nêu rõ trong các nội dung của các

chương trình, kế hoạch. Cần nêu cao trách nhiệm cá nhân trong công tác phối

hợp từ đó tánh việc đùn đẩy, cản trở gây khó khăn, làm chậm quá trình phối

hợp. Làm tốt nguyên tắc trên, sẽ phát huy nhiều lợi thế của các chủ thể từ đố

nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn.

- Nguyên tắc cụ thể hóa trong hoạt động phòng ngừa.

Căn cứ vào tình hình cụ thể, những đặc điểm riêng có của từng địa bàn,

lĩnh vực hoạt động, điều kiện của việc phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp ài sản để xây dựng tốt nguyên tắc này. Chính vì vậy, công tác phòng ngừa

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản cần thể hiện được tính cụ thể, rõ ràng ở

từng biện pháp, ở từng giải pháp có tính khả thi cao nhất và phù hợp với điều

12

kiện đặc thù về phòng chống tội trộm cắp tài sản của mỗi mỗi địa bàn, mỗi

lĩnh vực hoạt động cụ thể. Thực hiện tốt nội dung này, ngoài vấn đề làm tốt

chương trình kế hoạch chung của nhà nước, các đơn vị ở địa phương, các ban

ngành ngành cần cần xây dựng những chương trình, kế hoạch riêng của mình

và trên cơ sở cụ thể hóa các nội dung của chương trình kế hoạch chung của

nhà nước để áp dụng phù hợp với điều kiện riêng của từng địa phương, từng

chủ thể.

1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

1.3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam

Khoản 1, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 có quy định “Đảng cộng sản Việt

Nam…là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [22].

Đảng đề ra đường lối chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc, đường lối

thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, đường lối xây dựng nền quốc

phòng toàn dân và an ninh nhân dân; Đảng là người lãnh đạo trực tiếp, tuyệt

đối về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân - những lực

lượng làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia; Đảng

còn là người chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đảng viên và nhân

dân, giúp họ có phẩm chất, năng lực, trí tuệ, bản lĩnh để có đủ điều kiện bảo

vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Đảng còn là người tổ chức,

xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản luôn là một trong những

nhân tố hết sức cơ bản, chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo

vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia từ trước cho đến hiện nay; nhất là đối

với thời kỳ nước ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công

13

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu: Dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và đưa đất nước tiến vững chắc lên

chủ nghĩa xã hội

1.3.2. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp

- Quốc hội.

Theo Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, “Quốc hội là cơ quan đại

biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,

quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối

cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Quốc hội là chủ thể phòng ngừa tình

hình tội phạm có vai trò trong việc ban hành các luật điều chỉnh hoạt động

phòng ngừa tình hình các tội phạm trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản.

Là chủ thể của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, Quốc hội tiến

hành phòng ngừa tội phạm trên các phương diện sau: Kịp thời ban hành các

đạo luật, các nghị quyết, các văn bản pháp lý làm cơ sở và tạo điều kiện cho

các cơ quan, tổ chức xã hội, công dân làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm;

Giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động đấu tranh

phòng, chống tội phạm của các cơ quan, tổ chức xã hội khác; Bằng uy tín, vai

trò của mình, các đại biểu Quốc hội góp phần to lớn vào công tác phòng ngừa

tội phạm, tuyên truyền phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành

pháp luật và tham gia quản lý nhà nước.

- Hội đồng nhân dân các cấp.

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại

diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa

phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà

14

nước cấp trên.

Chính vì vậy, Hội đồng nhân dân có vai trò quan trọng trong cpông tác

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản như: quyết định những chủ

trương, biện pháp, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng

cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước

trong đó có phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản.

Bên cạn đó, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt

động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân,

Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của

Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ

chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa

phương có liên quan đến công tác phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản.

1.3.3. Các cơ quan quản lý chung và quản lý kinh tế

- Chính phủ.

Vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản của Chỉnh phủ

thể hiện như sau: Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, xã

hội, văn hóa, giáo dục trong phạm vi quốc gia, nhằm nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần cho nhân dân, từ đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội

phạm trộm cắp tài sản; Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội,

Chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, biện pháp để củng cố và tăng

cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, trật tự an toàn xã hội; tổ

chức và thực hiện các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm

trộm cắp tài sản, các vi phạm pháp luật; Lãnh đạo hoạt động phòng chống tội

phạm quốc gia (thông qua Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống tội phạm, cơ

quan chuyên môn của Bộ Tư pháp, Thanh tra nhà nước chuyên ngành); thực

hiện hoạt động phòng chống tội phạm; xây dựng các chương trình quốc gia

15

phòng chống tội phạm.

- Ủy ban nhân dân các cấp

Vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản của Ủy ban nhân

dân các cấp thể hiện như sau: Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh

tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, ở địa phương để nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần nhân dân, từ đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản; Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Ủy

ban nhân dân các cấp có vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài

sản cụ thể như: thiết kế nội dung chương trình, kế hoạch và lãnh đạo hoạt

động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ở địa phương của mình;

tuyên truyền, vận động, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm về đấu tranh,

phòng ngừa tội phạm tội phạm trộm cắp tài sản; chỉ đạo thanh tra, kiểm tra

việc thực hiện các quy định của pháp luật của địa phương mình quản lý.

1.3.4. Các cơ quan bảo vệ pháp luật

- Cơ quan Công an.

Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong

thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,

đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo

vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống

các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn

xã hội trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản.

Thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình và đề xuất với

Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật,

chiến lược trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản; kết hợp

chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,

16

đấu tranh phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế,

văn hóa, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh với hoạt động quốc

phòng và đối ngoại.

Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm

mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an

ninh quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ

độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an

ninh chính trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc

phòng, đối ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của

quốc gia; bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân,

quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan công an

là một trong những cơ quan tham gia chính vào việc phối hợp và xây dựng

kế hoạch tổng thể trong phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản mà

cụ thể ở đây là lực lượng CSĐTTP về TTXH ở các cấp với việc tiến hành

phòng ngừa theo hai hướng đó là phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp

vụ; là chủ thể giữ vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, tạo điều kiện

cho các chủ thể khác, nhất là quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản.

- Viện kiểm sát nhân dân.

Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, VKSND thực

hiện chức năng công tố, kiểm sát việc thực hiện theo đúng pháp luật quy định

trong hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án...Khi thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của mình, VKS sử dụng tổng thể các quyền năng pháp lý được Nhà nước

giao để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi trộm

cắp tài sản sao cho đúng người, đúng tội, không bỏ lọt, làm oan người vô tội.

Bên cạnh đó, VKS còn giám sát việc tuân thủ chấp hành pháp luật của các

17

chủ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, bất cứ chủ thể nào có

hành vi vi phạm điều có chế tài xử lý phù hợp tương xứng với hành vi đã gây

ra, tránh việc lạm quyền để vi phạm pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh,

công bằng của pháp luật đối với mọi người dân trong xã hội.

VKS còn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan khác trong

việc làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội phạm trộm cắp tài

sản, phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;

thống kê, nghiên cứu tội phạm và các vi phạm pháp luật khác để đề ra các giải

pháp phòng ngừa tình hình tội phạm tội phạm trộm cắp tài sản với các cơ quan

có thẩm quyền đạt hiệu quả cao.

- Tòa án nhân dân.

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình,

Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh

chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức

đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Tòa án nhân

danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự

trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản và giải quyết các việc khác theo quy

định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng

cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra

bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng

hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản,

quyền nhân thân. Bên cạnh đó, TAND các cấp còn thể hiện tốt vai trò cảu

mình trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao hiều quả

18

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản.

1.3.5. Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, văn hóa

và mọi thành viên xã hội

- Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, văn hóa.

Các tổ chức xã hội được Hiến pháp Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam thừa nhận như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên

của nó như Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân, Đoàn thanh

niên cộng sản, Hội phụ nữ... và các tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội

này luôn bám sát mọi hoạt động trên địa bàn dân cư. Vì vậy thông qua hoạt

động của họ công các tuyên truyền phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản

có thể thực hiện dưới nhiều hình thức: Phát tài liệu, ấn phẩm truyền thông tới

các hộ gia đình; Tổ chức cho các hộ gia đình ký cam kết không có thành viên

phạm trộm cắp tài sản; Xét duyệt Gia đình Văn hóa, Tổ dân phố Văn minh là

các gia đình, tổ dân phố không có tệ nạn xã hộ, vi hạm pháp luật; Vận động

các gia đình có con em nghiện ma túy đi cai nghiện hoặc các đối tượng đã cai

nghiện trở về tham gia các chương trình chống tái nghiện; Vận động dân cư

trên địa bàn tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ các đối tượng trộm cắp sau tù tha về

tái hòa nhập cộng đồng, tạo công việc làm ổn định.. Thông qua các Câu lạc

bộ của Hội Phụ nữ, các hội viên đươc trang bị những kiến thức, kỹ năng,

kinh nghiệm giáo dục, quản lý con em phòng, tránh tệ nạn ma túy, các tệ nạn

xã hội, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong đấu tranh, tố giác tội phạm trộm

cắp tài sản và các tội phạm khác, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.

- Công dân.

Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm. Thực

hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của mình đã được quy định cụ rhể trong Hiến pháp,

tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm.Tích cực, chủ động phát hiện

mọi hoạt động của tội phạm và thông báo cho các cơ quan chức năng. Đồng thời

19

phải phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện

tốt chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong

trào: “Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác ồng tội phạm, cảm hoá

giáo dục người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái

hoà nhập cộng đồng cho người phạm tội khi trở về địa phương. Quần chúng

nhân dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác, bảo vệ tài sản, tích cực tham gia

phòng ngừa, đấu tranh tố giác các loại tội phạm nhất là tội phạm trộm cắp tài

sản. Khi phát hiện các thông tin về các đối tượng nghi vấn trộm cắp tài sản, tiêu

thụ tài sản trộm cắp, các đối tượng có biểu hiện thường xuyên lui tới, nắm tình

hình hoặc tiếp cận nhà, tài sản của người khác… Kịp thời thông báo cho cơ quan

chức nơi gần nhất để kịp thời giải quyết.

1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

Muốn phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản có hiệu quá cần phải có

các biện pháp phòng ngừa hợp lý. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội

phạm trộm cắp tài sản rất đa dạng, phong phú tùy thuộc theo từng chủ thể,

từng lĩnh vực hoạt động và địa bàn khac nhau. Có nhiều tiêu chí để làm căn

cứ phân loại các biện pháp phòng ngừa, ví dụ như: xét vào phạm vi, mức độ

tác động của biện pháp; xét vào nội dung, tính chất của biện pháp phòng

ngừa; xét vào chủ thể chịu tác động của biện pháp phòng ngừa; xét vào địa

bàn, lĩnh vực phòng ngừa…

Đối với phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản thường áp dụng

biện pháp phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và biện pháp phòng ngừa

riêng (phòng ngừa nghiệp vụ).

- Biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tình hình tội trộm cắp tài sản là

những biện pháp phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Quá trình tiến hành

đấu tranh với tội phạm này đòi hỏi sự tham gia của các ngành, các cấp, các

tổ chức quần chúng, xã hội. Bên cạnh đó, thực tế công tác phòng ngừa tình

20

hình tội phạm trộm cắp tài sản cũng cho thấy: Sự quan tâm, tham gia của

các cấp, các ngành, các tổ chức quần chúng và xã hội chưa cao, nhận thức

của một bộ phận cho rằng trách nhiệm phòng ngừa là của lực lượng Công

an, trong đó giữ vai trò trọng yếu là lực lượng Cảnh sát hình sự... Do đó,

cần tập trung xây dựng những chính sách thúc đẩy kinh tế - xã hội phát

triển, đảm bảo an sinh xã hội, tạo các điều kiện tốt nhất để người dân có thể

chăm sóc, giáo dục và giả qyết tốt việc làm, các tệ nạn xã hội bị đẩy lùi.

Lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác để giải

quyết tình trạng thất nghiệp, trẻ em phải mưu sinh kiếm sống khi tuổi đời

còn rất nhỏ, đảm bảo cho các em có cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ

trong một môi trường phát triển lành mạnh.

Tổ chức ký kết nghị quyết liên tịch với Mặt trận Tổ quốc và các thành

viên của Mặt trận Tổ quốc như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,

Hội Liên hiệp Phụ nữ, ngành Lao động thương binh và xã hội... Trong đó, tập

trung vào gia đình, nhà trường và chính quyền cơ sở nhằm tạo mối quan hệ

chặt chẽ giữa các lực lượng của xã hội trong phòng ngừa tội phạm trộm cắp

tài sản.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, vận động

quần chúng tham gia phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản.

Thực tế cho thấy, công tác thông tin, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân

dân tham gia phòng ngừa tội phạm chưa mang lại kết quả cao và thiếu sự

đồng bộ. Có nơi, có lúc công tác tuyên truyền, vận động quần chúng chỉ mang

tính hình thức nên chưa thật sự đi sâu vào đời sống của quần chúng nhân dân,

chưa huy động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.

Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống về mọi mặt cho người dân,

xây dựng các khu vui chơi, giải trí lành mạnh góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã

21

hội, nâng cao trình độ học vấn, giáo dục ý thức cho công dân, gải quyết tốt

việc làm cho người thất nghiệp làm gảm bớt khoảng cách giàu nghèo….từ đó

làm cho tình hình tội phạm trộm cắp tài sản không còn điều kiện để tồn tại và

phát sinh trong đồi sống xã hội.

- Biện pháp phòng ngừa riêng (phòng ngừa nghiệp vụ) là những biện

pháp phòng ngừa nghiệp vụ riêng của các chủ thể nhằm tác động đến từng

người phạm tội của tội phạm trộm cắp tài sản. Thông qua công tác khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; quản lý các đối tượng hình sự, các đối

tượng có tiền án, tiền sự, những đối tượng có điều kiện, khả năng, biểu hiện

hay có dấu hiệu phạm tội trộm cắp tài sản tù đó hạn chế đi đến loại bỏ nguyên

nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trộm cắp tài sản. Mặc dù ở phạm vi

hẹp nhưng nó tác động đến tôi phạm trộm cắp tài sản một cách sâu, cụ thể. Ví

dụ, tuyên truyền pháp luật về trộm cắp tài sản và trang bị hệ thống camera

giám sát an ninh tốt sẽ có tác dụng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn dân cư; tuyên truyền cho người dân biết về âm mưu, phương

thức, thủ đoạn hoạt động sẽ giúp chò người dân tăng cường đề phòng, tránh

những sơ hở; tăng cường tuần tra, kiểm soát ở những khu vự tập trung nhiều

tại sản sẽ hạn chế khả năng gây án của các đối tượng có ý định phạm tội. Tòa

án xét xử nghiêm minh sẽ là tấm ngương có tác dụng răn đe chung cho toàn

xã hội…

Tiểu kết chương 1

Trong Chương 1 của luận văn đề cập đến những vấn đề lý luận phòng

ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản. Trong hệ thống lý luận đó là khái

niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản; mục đích,

các nguyên tắc; chủ thể; các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản.

Những vấn đề lý luận cơ bản này là cơ sở để nghiên cứu, khảo sát và

22

đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình một cách có hệ thống, khoa học từ đó mang lại những

kiến thức quý báu phục vụ có hiệu quả cho hoạt động phòng ngừa tình hình

23

tôi phạm này.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI

PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Khái quát tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình

2.1.1. Đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình

- Đặc điểm địa lý.

Quảng Bình là một tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ Việt Nam ở vị trí địa lý

17°28’07” độ vĩ Bắc, 106°15’15” độ kinh Đông, cách Thủ đô Hà Nội 488km

về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1150km về phía Nam. Quảng

Bình là nơi hẹp nhất theo chiều Đông - Tây dải đất hình chữ S của Việt Nam,

phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh với dãy Hoành Sơn làm ranh giới tự nhiên, phía

Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào với dãy Trường Sơn làm ranh giới tự nhiên, phía Đông giáp Biển Đông.

Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.065,3 km2.

Quảng Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố và 7

huyện, thị xã (bao gồm thành phố Đồng Hới, huyện Lệ Thủy, huyện Quảng

Ninh, huyện Bố Trạch, huyện Quảng Trạch, huyện Tuyên Hóa, huyện Minh

Hóa và thị xã Ba Đồn), với 159 xã/phường/thị trấn. Đặc biệt Quảng Bình có

di sản thiên nhiên thế giới đó là Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, ngoài

ra còn có Hang Sơn Đoòng được công nhận là hang động lớn nhất thế giới.

Với hệ thống hang động phong phú được tìm thấy cho đến nay, Quảng Bình

được mệnh danh là “Vương quốc hang động”. Quảng Bình có vị trí địa lý rất

thuận lợi không những cho phát triển kinh tế, xã hội mà và giao lưu văn hóa,

nghệ thuật với các địa phương trong nước và ngoài nước.

24

Với vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên nhiều đầu mối giao thông quan trọng

của quốc gia và khu vực, là địa bàn có hệ thống giao thông với đầy đủ các

loại hình giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không.

Bao gồm các tuyến đường quốc lộ 1A, quốc lộ 12A, quốc lộ 15A, đường Hồ

Chí Minh, hệ thống giao thông đường sắt Bắc Nam, đường thủy, có cửa khẩu

quốc tế Chalo, các cảng biển Sông Gianh, cảng biển Nhật Lệ và cảng biển

Hòn La rất thuận lợi cho giao lưu trong nước và quốc tế. Đây là những điệu

kiện hết sức thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng Bình.

Tuy nhiên tỉnh cũng có nhiều địa bàn miền núi, điều kiện đi lại còn khó khăn,

nhiều tuyến đường liên huyện và khu dân cư chưa được chiếu sáng gây ảnh

hưởng không nhỏ đến công tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, tuần tra

bảo vệ, tổ chức các biện pháp phòng ngừa, công tác nắm tình hình, tiếp nhận,

xử lý tin báo tố giác về tội phạm, đặc biệt là tội phạm trộm cắp tài sản có điều

kiện tồn tại, phát sinh.

- Đặc điểm dân cư.

Tính đến hết năm 2018, dân số Quảng Bình là 936.607 người, với mật độ

dân số trung bình là 109 người/km2; Trên địa bàn có 24 dân tộc anh em cùng

sinh sống nhưng chủ yếu là dân tộc Kinh tiếp đến là dân tộc Khùa, dân tộc

Mã Liềng, dân tộc Rục, dân tộc Sách, dân tộc Vân kiều, dân tộc Chứt, dân tộc

Mày, dân tộc Arem, các dân tộc còn lại mỗi dân tộc chỉ có dưới 100 người.

Dân cư phân bố không đều, 80,36% sống ở vùng nông thôn và 19,64% sống ở

vùng thành thị.

Quảng Bình có cơ cấu dân số trẻ với lực lượng lao động dồi dào với trên

421.328 người chiếm 49,28% dân số toàn tỉnh. Cơ cấu dân số trẻ là một yếu

tố hết sức thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, tuy nhiên điều này đặt

ra nhiều vấn đề cấp bách nhất là vấn đề giải quyết việc làm cho công dân

trong độ tuổi lao động, ổn định cuộc sống nếu không giải quyết tốt vấn đề nêu

25

trên thì số lượng lao động nhàn rổi đặc biệt là ở độ tuổi thanh thiếu niên

không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự nói chung và

công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm nói riêng.

- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội

Từ khi tách tỉnh đến nay, Quảng Bình từng bước gặt hái được những

thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế đã đạt

được sự chuyển dịch đúng hướng. Các vấn đề xã hội đã được tập trung giải

quyết đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần cải thiện mọi mặt đời sống xã hội.

Quy mô và tiềm lực kinh tế của tỉnh từng bước đã được mở rộng và tăng

cường; phương thức sản xuất kinh doanh và quản lý trong nền kinh tế thị

trường bước đầu đã được xác lập. Năm 2018 tỉnh đã đóng góp vào ngân sách

nhà nước 3.067 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm

22,9%; Công nghiệp – xây dựng chiếm 25,7%; Dịch vụ chiếm 51,4%; Tổng

mức đầu tư toàn tỉnh tính trong năm 2018 là 10.824 tỷ đồng.

Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường có tác

động không nhỏ đến đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, sự phân hóa

giàu nghèo diễn ra ngày càng sâu sắc, tỷ lệ hộ nghèo bình quân chiếm 14,6%.

Một bộ phận dân cư nghèo muốn nhanh chóng làm giàu, dễ dẫn đến các hoạt

động phạm tội; tỷ lệ thất nghiệp trên toàn tỉnh vẫn còn ở mức cao (chiếm

2,29%); tệ nạn xã hội kéo theo đó cũng diễn biến rất phức tạp. Số người

nghiện ma túy có chiều hướng gia tăng gây không ít khó khăn cho công tác

đảm bảo an ninh trật tự.

Sự du nhập của văn hoá phẩm đồi trụy, đặc biệt là sự phát triển chóng

mặt của hệ thống mạng Internet đã tạo nên lối sống buông thả, coi trọng lợi

ích vật chất, ngại làm việc trong khi nhu cầu sinh hoạt luôn tăng cao… ảnh

hưởng đến một bộ phận dân cư, chủ yếu là tầng lớp thanh, thiếu niên.

Ngoài ra, Quảng Bình là một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng

26

không chỉ trong nước mà còn đối với quốc tế với di sản thiên nhiên thế giới

đó là Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, ngoài ra còn có Hang Sơn Đoòng

được công nhận là hang động lớn nhất thế giới bên cạnh đó còn có nhiều hệ

thống hang động khác. Chính vì thế, cùng với những hoạt động quảng bá du

lịch ngày càng phát triển đã thu hút mạnh mẽ số lượng lớn du khách đến tham

quan, vui chơi, giải trí, đặc biệt là trong những ngày lễ, hội, tết và đây cũng

được các đối tượng xem như là “mảnh đất màu mỡ” cho các hoạt động phạm

tội, nhất là tội phạm trộm cắp tài sản.

2.1.2. Thực trạng tình hình tội phạm trộm cắp tài sản có trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình

2.1.2.1. Thực trạng về mức độ của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình

- Về tội phạm rõ.

Theo báo cáo tổng kết công tác Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình thì

tổng số vụ phạm tội trộm cắp tài sản bị xét xử từ năm 2014 đến năm 2018 là

1.442 vụ, 1.568 bị cáo, với mức thiệt hại về tài sản là hơn 40.531.540.000

đồng và nhiều tài sản có giá trị khác [Bảng 1.1 phụ lục]. Cụ thể:

Năm 2014, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 292 vụ, 315 đối tượng,

với số tài sản thiệt hại là 8.701.141.000 đồng.

Năm 2015, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 271 vụ, 293 đối tượng, với

số tài sản thiệt hại là 8.696.685.000 đồng.

Năm 2016, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 315 vụ, 349 đối tượng, với

số tài sản thiệt hại là 7.939.300.000 đồng.

Năm 2017, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 277 vụ, 301 đối tượng, với

số tài sản thiệt hại là 8.976.697.000 đồng.

Năm 2018, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản là 287 vụ, 310 đối tượng, với

số tài sản thiệt hại là 6.217.717.000 đồng.

27

Từ số liệu thống kê hoạt động và kết quả xử lý tội phạm trộm cắp tài sản

từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tuy chưa phác họa

toàn bộ bức tranh của tội phạm trộm cắp tài sản nhưng cũng góp phần quan

trọng phản ánh được tình hình phức tạp và đáng báo động của tội phạm trộm

cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong những năm qua.

So sánh tội trộm cắp tài sản trong mối tương quan với các vụ phạm tội về

trật tự xã hội nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng cho ta thấy chân dung

bức tranh về tội phạm trộm cắp tài sản được rõ ràng hơn [Bảng 1.2 phụ lục].

Từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Bình xảy ra

2.889 vụ phạm tội về trật tự xã hội. Trong trong đó số vụ trộm cắp tài sản là

1.442 vụ, chiếm tới 49,7% trong tổng số các vụ phạm tội về trật tự xã hội. Tội

phạm trộm cắp tài sản không chỉ có số vụ chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vụ

phạm tội về trật tự xã hội nói chung ở Quảng Bình mà số người phạm tội này

ở Quảng Bình cũng không hề nhỏ. Từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn

toàn tỉnh Quảng Bình có 4.409 người phạm tội, trong đó, riêng số người

phạm tội về tội trộm cắp tài sản là 1.568 người, chiếm 44,09% tổng số người

phạm tội về trật tự xã hội nói chung.

Từ năm 2014 đến năm 2018, chỉ số tội phạm trộm cắp tài sản và chỉ số

người phạm tội trộm cắp tài sản ở Quảng Bình là tương đối cao: Chỉ số tội

phạm từ năm 2014 đến năm 2018 là 32,78 và chỉ số người phạm tội của cả

giai đoạn là 35,64. Điều này cho thấy mức độ phổ biến cao của loại tội này

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong những năm gần đây [Bảng 1.3 phụ lục].

- Về tội phạm ẩn.

Bên cạnh những thông số về số vụ phạm tội cũng như số người phạm tội

trộm cắp tài sản đã được điều tra khởi tố thì vẫn còn một phần “tảng băng

chìm” chưa được làm rõ, đó chính là tội phạm ẩn của tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình. Qua trao đổi với các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy có

28

nhiều kinh nghiệm của các lực lượng nòng cốt trong công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng Bình cho thấy: Tội phạm

ẩn đối với các tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chiếm

tỷ lệ cao. Tỷ lệ tội phạm ẩn cao do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó

chủ yếu xuất phát từ người bị hại như: Tài sản bị thiệt hại không lớn nên

không trình báo, ngại tiếp xúc với cơ quan chức năng vì sợ thủ tục phiền hà,

sợ mất thời gian hoặc cho rằng cơ quan chức năng không thể tìm ra thủ

phạm... Thực trạng trên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thống kê, đánh

giá tình hình tội phạm trộm cắp tài sản xảy ra trên thực tế, ảnh hưởng đến việc

hoạch định các chiến lược, chính sách, biện pháp… đấu tranh phòng, chống

tội phạm trong tương lai. Ngoài ra còn tác động tiêu cực đến ý thức pháp luật

của nhân dân, giảm lòng tin vào cơ quan bảo vệ pháp luật và làm giảm nhiệt

tình của quần chúng trong việc tham gia phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc…

Trong 5 năm, từ năm 2014 đến năm 2018 xảy ra 1.442 vụ trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vụ án chưa được

phát hiện hoặc chưa được khởi tố, xét xử vì các lý do khác nhau như hết thời

hiệu điều tra, người thực hiện hành vi chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự

(TNHS), đã hết thời hiệu truy cứu TNHS, đối tượng phạm tội đã chết, miễn

truy cứu TNHS. Bên cạnh đó, có trường hợp người dân không trình báo…

2.1.2.2. Thực trạng về tính chất của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình

- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo loại tội phạm.

Trên cơ sở nghiên cứu ngẩu nhiên 200 bản án hình sự với 280 người

phạm tội đã được xét sử sơ thẩm từ 1.442 vụ án trôm cắp tài sản đã được xét

xử của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014

đến năm 2018 chúng ta có thể thấy: Các vụ án trộm cắp tài sản ở Quảng Bình

tập trung vào loại tội ít nghiêm trọng chiếm tỉ lệ 75,00%; sau đó là tội nghiêm

29

trọng theo chiếm tỉ lệ 17,85%, tội rất nghiêm trọng chiếm tỷ lệ 5,35% và tội

đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỉ lệ 1,78%. [Bảng 1.4 phụ lục]

- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo hình thức phạm tội.

Tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến

năm 2018 chủ yếu được thực hiện dưới hình thức phạm tội riêng lẻ, chiếm tỉ

lệ 81,21 %. Hình thức phạm tội đồng phạm chiếm tỉ lệ 18,79 % [Bảng 1.5

phụ lục]. Phần lớn các vụ án phạm tội theo hình thức riêng lẻ người phạm tội

thường trộm cắp những tài sản có giá trị tài sản thấp, nhỏ gọn, lợi dụng sở hở

trộm cắp ví dụ: Như trộm xe đạp, ví tiền, điện thoại ở phòng trọ, móc túi ở

các chợ nhỏ lẻ, khu vực công cộng…bên cạnh các trường hợp phạm tội thông

thường thì phạm tội dưới hình thức đồng phạm tuy chiếm tỉ lệ ít hơn nhưng

có dấu hiện ngày càng gia tăng về số vụ án. Các đối tượng phạm tội thường

có xu hướng hình thành các bang, ổ nhom để thực hiện hành vi phạm tội.

Việc hình thành các băng, ổ nhóm sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn trong các

khuâ như canh gác, đứng che tầm nhìn của người có tài sản, gây mất cảnh

giác hoặc chặn đường, gây cản trở lực lượng truy đuổi, tạo điều kiện trong

khâu tiêu thụ tài sản, xóa dấu vết hay đối phó với cơ quan chức năng khi bị

phát hiện điều tra.

- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo địa bàn thực hiện tội phạm.

Trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

xảy ra 1442 vụ trộm cắp tài sản tập trung chủ yếu trên các đại bàn: thành phố

Đồng Hới với 306 vụ, chiếm tỉ lệ 21,1 %, huyện Bố trạch với 247 vụ, chiếm tỉ lệ

17,4 %, thi xã Ba Đồn với 242 vụ chiếm 16,7 %, huyện Lệ Thủy với 182 vụ,

chiếm 12,6 %. Đây là những địa bàn có kinh tế, cơ sở hạ tầng phát triển, tập

trung nhiêu khu vực vui chơi, giải trí, tổ chức nhiều lễ hội…chính vì vậy các đối

tượng phạm tội trộm cắp tài sản thường hướng đến để hoạt động. Những huyện

còn lại như Quảng Ninh, Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa số vụ phạm tội

30

trộm cắp tài sản xảy ra ít hơn. [Bảng 1.6 phụ lục]

- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo địa điểm thực hiện tội phạm.

Trong số 1442 vụ trộm cắp tài sản từ năm 2014 đến năm 2018 xảy ra

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có: 553 vụ xảy ra ở nhà dân, chiếm tỷ lệ cao

nhất 38,4%; 382 vụ xảy ra ở nhà trọ, chiếm tỷ lệ 26,4%; 288 vụ xảy ra ở nơi

công cộng, chiếm tỷ lệ 20%; 112 vụ xảy ra cơ quan, trường học, chiếm tỷ lệ

7,8% và 107 vụ xảy ra ở các nơi khác, chiếm tỉ lệ 7,4% [Bảng 1.7 phụ lục].

Như vậy, địa điểm mà các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản thường

hướng tới để gây án chủ yếu xảy ra nhiều ở các khu vự nhà ở của công dân,

các khu nhà trọ đặc biệt là khu nhà trọ dành cho sinh viên, công nhân, những

nơi công cộng tập trung đông người. Những nơi này thương tập trung nhiều

tài sản có giá trị, ít người trông coi, bảo về, chủ tài sản thường đi vắng, mất

cảnh giác hoặc những khu vực tập trung đông người như những nơi công

cộng, chợ, các khu vực thường diễn ra các lễ hội, tổ chức các sự kiện. Các đối

tượng lợi dụng lúc đông người, chen lấn, xô đẩy, mất cảnh giác trong lúc

tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí để thực hiện hành vi phạm tội. Các

khu vực như cơ quan, trường học hay các nơi khác thì xảy ra ít hơn vì đây là

những địa điểm thường có nhiều người làm việc, có bảo vệ trông coi, có hệ

thống quan sát, bảo vệ nên dể bị phát hiện khi thực hiện hành vi phạm tội

hơn. Tuy nhiên, hiện nay trình trạng trộm cắp đặc biệt là ở các địa điểm du

lịch, các bãi biển tập trung nhiều du khách đặc biệt là du khách người nước

ngoài đang diễn ra nhiều hơn. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến

tình hình an ninh trật tự mà còn ảnh hưởng đến chiến lược phát triển du lịch là

ngành mũi nhọn của tỉnh, gây nên hình ảnh xấu trong mắt bạn bè trong và

ngoài nước.

- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo thời gian thực hiện tội phạm.

[Bảng 1.8 phụ lục].

31

Qua 1442 vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ

năm 2014 đến năm 2018 cho thấy: Khoảng thời gian tội trộm cắp tài sản diễn

ra nhiều nhất là từ 0h – 6h có 660 vụ, chiếm 45,7%. Đây là khoảng thời gian

vào đêm khuya khi mà mọi người đã đi ngủ, thời gian mà các lực lượng chức

năng đã nghỉ ngơi, mọi người ít đi lại và vẵng vẽ, ít đề phòng trong khâu bảo

vệ tài sản nên rất thuận lợi để các đối tượng thực hiện các hành vi phạm tội.

Tiếp đến là khoảng thời gian từ 6h – 12h có 312 vụ, chiếm 21,6% và khoảng

thời gian 12h – 18h có 282 vụ, chiếm 19,7%. Đây là khoảng thời gian mà mọi

người đi làm, học sinh, sinh viên đi học chính vì vậy thường không có người

trông coi, bảo vệ tại sản. Ở những nơi công cộng đây là khoảng thời gian tập

trung đông người để tham gia các hoạt động chính vì vậy đây cũng là khoảng

thời gian mà các đối tượng chọn để thực hiện hành vi phạm tội. Khoảng thời

gian từ 18h – 24h có 188 vụ, chiếm 13%. Đây là khoảng thời gian mà mọi

người đang sinh hoạt ở các gia đình sau một ngày làm việc, trên đường mọi

người đông đúc, công tác tuần tra khiểm soát của các cơ quan chức năng được

tăng cường, mọi người thường chú ý hơn trong khâu bảo vệ tài sản chính vì

vậy các đối tượng thường ít chọn khoảng thời gian này đề thực hiện hành vi

phạm tội.

Nghiên cứ về thời gian, địa bàn, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội có

ý nghĩa rất quan trọng trong công tác phòng ngừa tình hình của loại tội phạm

này. Giúp các cơ quan chức năng tăng cường các biện pháp như tuần tra kiểm

soát ở những khoảng thời gian, địa bàn, địa điểm mà đối tượng lợi dụng để

gây án, người dân chú ý hơn và có biện pháp thích hợp để tự bảo vệ tốt tài sản

của mình.

- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo tài sản bị chiếm đoạt.

Tài sản bị chiếm đoạt trong số 1.442 vụ trộm cắp tài sản từ năm 2014 đến

năm 2018 xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Bình thường là tiền, vàng, xe máy,

32

xe đạp điện, xe đạp, điện thoại di động, một số đồ dùng gia đinh, đồ dùng cá

nhân và một số loại tài sản có giá trị khác. Cụ thể: Tiền, vàng có 643 vụ,

chiếm 44,6%; xe máy, xe đạp điện, xe đạp có 250 vụ, chiếm 17,3%; điện

thoại di động có 242 vụ chiếm 16,8%; số đồ dùng gia đinh, đồ dùng cá nhân

có 195 vụ, chiếm 13,5%; các loại tài sản khác có 112 vụ, chiếm 7,8%[Bảng

1.9 phụ lục].

Quan đây chúng ta có thể thấy tài sản mà các đối tượng trộm cắp tài sản

thường hướng đến chủ yếu là những loại tài sản có giá trị, nhỏ gọn, dễ di

chuyển, dễ cất dấu, dễ tiêu thụ hoặc là các loại tài sản sau khi chiếm được có

thể dùng làm phương tiện nhanh chóng tẩu thoát khỏi hiện trường.

- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo công cụ, phương tiện phạm tội.

Công cụ, phương tiện được các đối tượng sử dụng để thực hiện hành vi

trộm cắp tài sản rất đa dạng tuy thuộc theo cấu trúc của từng địa điểm, từng

loại tài sản mà đối tượng sẽ chuẩn bị trướng những công cụ, phương tiện để

phạm tội. Đối tượng chủ yếu dùng chìa khóa vạn năng, vam phá khóa, tuốt nơ

vít, kìm cộng lực, và các loại vật cứng như búa, xà beng, thanh sắt… Phương

tiện sử dụng chủ yếu là xe máy, xe ô tô. Trong số 200 bản án đã được xét xử

sơ thẩm về tội trộm cắp tài sản đã được nghiên cứu có đến 136 vụ (chiếm

68,00%) có sử dụng công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Bên

cạnh đó các đối tượng khi đi gây án có mang theo công cụ là dao, lê, bình xít

hơi cay, ớt bột...để chống trá khi bị người dân hoặc cơ quan chức năng phát

hiện, truy đuổi.

- Cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm.

Trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 qua 1.442 vụ trộm cắp tài

sản được Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Quảng Bình xét sử sơ thẩm có 707 vụ

(chiếm 49,03%) các đối tượng sử dụng công cụ cạy phá để đột nhập vào nhà;

272 vụ (chiếm 18,87%) lợi dụng việc chen lấn, xô đẩy, mất trật tự ở những

33

nơi công cộng để móc túi hay trộm cắp tài sản; 294 vu (chiếm 20,38%) lợi

dụng sơ hở của chủ tài sản trong quản lý để trộm cắp tài sản; 169 vụ (chiếm

11, 72%) các đối tượng sử dụng các phương thức thủ đoạn khác%[Bảng 1.10

phụ lục].

Qua đây chúng ta có thể thấy, tội phạm trộm cắp tài sản chủ yếu được

thực hiện bằng thủ đoạn sử dụng công cụ cạy phá để đột nhập vào nhà chiếm

đoạt tài sản. Với phương thức này các đối tượng đã nghiên cứu, thăm do

trước về đặc điểm cấu trúc của các địa điểm, quy luật hoạt động của chủ nhà

sau đó chuẩn bị công cụ phương tiện chuẩn bị sẵn nhằm cạy phá để đột nhập

vào nhà để thực hện hành vi trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó, người phạm tội

còn dùng phương thức thủ đoạn như lợi dụng sơ hở trong quản lý của chủ tài

sản, hay lợi dụng chỗ tập trung đông người như chợ, bến xe, các khu vui chơi,

nơ tổ chức lễ hội, tổ chức sự kiện lợi dụng chen lấn, xô đẩy để móc túi trộm

cắp tài sản.

- Cơ cấu của tội phạm trộm cắp tài sản theo động cơ phạm tội.

Trước sự tác động tiêu cực của mặt trái nên kinh tế thị trường, sự phân

hóa giàu nghèo, thiếu việc làm, các loại hình văn hóa phầm độc hại, các tệ

nạn xã hội… đã dẫn đến một số bộ phận người không nhỏ trong xã hội có lối

sống không lành mạnh, lười lao động, thích hưởng thụ…Chính vì vậy, xuất

hiện các động cơ khác nhau trong phạm tội trộm cắp tài sản.

Trên cơ sở nghiên cứu ngẩu nhiên 200 bản án hình sự với 280 người

phạm tội đã được xét sử sơ thẩm từ 1.442 vụ án trôm cắp tài sản đã được xét

xử của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014

đến năm 2018 cho thấy đa số người phạm tội có động cơ trộm cắp tài sản để

phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân, trang trải cuộc sống có 125 người phạm

tội (chiếm 44,6%); để mua ma túy có 56 người phạm tội (chiếm 20%) đặc

biệt trong những năm gần đây tệ nạn ma túy phát triễn mạnh mẽ không chỉ ở

34

khu vực thành thị mà nó đã len lõi đến các vùng nông thôn làm cho người

nghiện ma túy đặc biệt là ở lứa tuổi thanh thiếu niên để có tiền sử dụng ma

túy buộc họ phải có các hành vi trộm cắp tài sản để lấy tiền mua ma túy, còn

lại trộm cắp tài sản để phục vụ các mục đích khác, chủ yếu là mục đích ăn

chơi hưởng thụ như để uống rượu, bia, đánh bạc, chơi game...

- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo một số đặc điểm về nhân thân của

người phạm tội

Từ 1.568 bị cáo của 1.442 vụ án trộm cắp tài sản đã được Tòa án nhân

dân các cấp của tỉnh Quảng Bình xét xử có một số đặc điểm về nhân thân

người phạm tội như sau:

+ Đặc điểm về giới tính và độ tuổi.

Trong các vụ án phạm tội xảy ra, phần lớn đối tượng bị bắt, xét xử là

nam giới chiếm đa số. Tính từ năm 2014 đến năm 2018 đã bắt, xét xử 1.454

đối tượng là nam giới chiếm 92,72%, 114 đối tượng là nữ giới chiếm 7,28%.

Nhóm người phạm tội có độ tuổi từ đủ 18 đến dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao

nhất với 895 bị cáo chiếm 57,08%. Tiếp theo là nhóm người phạm tội có độ

tuổi từ đủ 30 tuổi trở lên cũng chiếm tỷ lệ khá cao là 25,82%.. Tỷ lệ người

chưa thành niên phạm tội trộm cắp tài sản ở Quảng Bình cũng chiếm tỷ lệ

đáng kể là 17.10%[Bảng 1.11 phụ lục].

+ Đặc điểm về trình độ học vấn, nghề nghiệp.

Từ 1.568 bị cáo bị xét xử về phạm tội trộm cắp tài sản cho thấy thấy đa

số người phạm tội không có hoặc có trình độ văn hóa thấp, chiếm tới gần

70% số người phạm tội. Trong đó tỷ lệ người mù chữ chiếm 3,3%; số còn lại

có học vấn từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên cũng phạm tội trộm cắp tài sản.

Những người không có học hành hoặc có trình độ văn hóa thấp thường là

những người không có công việc ổn định hoặc không có nghề nghiệp. Trong

số 1.568 bị cáo: có 895 người phạm tội không nghề nghiệp, chiếm đa số là

35

57,07%; 673 người phạm tội có nghề nghiệp không ổn định, chiếm 42,93%;

232 người phạm tội có nghề nghiệp ổn định, chiếm 15,74%.

+ Đặc điểm về tái phạm.

Trong số 1.568 người phạm tội có 970 trường hợp phạm tội lần đầu,

chiếm tỷ lệ 61,86%, 598 người phạm tội “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”,

chiếm tỷ lệ 38,14%. Từ số liệu cho thấy số đối tượng phạm tội trộm cắp tài

sản có tiền án, tiền sự chiếm tỷ lệ thấp hơn đối tượng phạm tội lần đầu. Đây là

đặc điểm khác biệt so với các loại tội phạm khác xảy ra ở Quảng Bình. Qua

đó cho thấy, các đối tượng có tiền án, tiền sự đều có thủ đoạn hoạt động tinh

vi, xảo quyệt, có nhiều thủ đoạn để che giấu tội phạm nên rất khó phát hiện,

mặt các đối tượng này không trực tiếp thực hiện tội phạm mà thường chỉ giữ

vai trò chủ mưu, cầm đầu, lôi kéo, xúi giục các đối tượng khác thực hiện.

+ Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình

Trong số 1.568 người phạm tội trộm cắp tài sản đã bị xét xửa từ năm

2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cho thấy, rất nhiều người

phạm tội có hoàn cảnh gia đình phức tạp: có 435 người (chiếm 27,74%) sống

trong gia đình khiếm khuyết như có cha mẹ đã ly hôn hoặc đã chết; có 279

người (chiếm 17,79%) sống trong gia đình đã có người có tiền án, tiền sự và

có 241 người (chiếm 15,37%) sống trong gia đình có người mắc các tệ nạn

như ma túy, cờ bạc....

2.1.2.3. Thực trạng về diễn biến của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình

- Về mức độ của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Trong giai đoạn năm 2014 đến năm 2018 tình hình tội phạm trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ta thấy về số vụ và số đối tượng phạm tội có

sự tăng giảm thất thường không theo quy luật. Cụ thể: Năm 2014 xẩy ra 292

vụ với 315 đối tượng. Năm 2015 xẩy ra 271 vụ với 293 đối tượng, giảm so

36

với năm 2014 là 21 vụ và 22 đối tượng. Năm 2016 xẩy ra 315 vụ với 349 đối,

tăng so với năm 2015 là 44 vụ và 56 đối tượng. Năm 2017 xẩy ra 277 vụ với

301 đối tượng, giảm so với năm 2016 là 38 vụ và 48 đối tượng. Năm 2018

xẩy ra 287 vụ với 310 đối tượng, tăng so với năm 2017 là 10 vụ và 9 đối

tượng% [Bảng 2.12 phụ lục].

So sánh với mức độ của tổng số các vụ phạm tội về TTXH trong khoảng

thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 chúng ta có thể thấy, về số vụ và số đối

tượng phạm tội đều có sự tăng giảm thất thường không theo quy luật. Tuy

nhiên, số vụ và số đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản lại chiếm tỷ lệ rất cao

(tỷ lệ cao nhất) trong cơ cấu của các vụ phạm tội về TTXH. Cụ thể: Năm

2014 số vụ chiếm 46,9%, số đối tượng chiếm 31,46%. Năm 2015 số vụ chiếm

50,4%, số đối tượng chiếm 34,35%. Năm 2016 số vụ chiếm 50,9%, số đối

tượng chiếm 40,3%. Năm 2017 số vụ chiếm 47,4%, số đối tượng chiếm

34,92%. Năm 2018 số vụ chiếm 53,5%, số đối tượng chiếm 36,73% [Bảng

2.13 phụ lục].

- Về tính chất của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

Tỷ lệ người phạm tội bị xét xử tăng, giảm không theo quy luật: Theo số

liệu thống kê chính thức của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình nếu lấy năm

2014 làm gốc ta thấy rõ điều này, năm 2014 có 315 người bị xét xử đến năm

2015 có 293 người bị xét xử, giảm 6,99%. Năm 2016 có 349 người bị xét xử

tăng 10,79%. Năm 2017 có 301 người bị xét xử, giảm 4,44%. Năm 2018 có

310 người bị xét xử, giảm 1,59% [Bảng 2.14 phụ lục]. Điều này cho thấy mức

độ biến động phức tạp và không theo quy luật của loại tội phạm này.

Tỷ lệ vụ phạm tội với hình thức đồng phạm ngày càng tăng: Theo số liệu

thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018 có

271 vụ phạm tội trộm cắp tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm

và tỷ lệ số vụ phạm tội dưới hình thức đồng phạm ngày càng tăng, tăng thấp

37

nhất là năm 2015, tăng 31,4% và tăng cao nhất là năm 2018, tăng 108,5%.

Như vậy, số vụ phạm tội dưới hình thức đồng phạm có xu hướng tăng đã phản

ánh một khía cạnh của tính chất nghiêm trọng của tội phạm trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018 [Bảng 2.15 phụ lục].

Tỷ lệ người phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”

ngày càng tăng: Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

từ năm 2014 đến năm 2018 có 531 người phạm tội thuộc trường hợp “tái

phạm, tái phạm nguy hiểm và tỷ lệ phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm, tái

phạm nguy hiểm ngày càng tăng, tăng thấp nhất là năm 2015, tăng 16,9% và

tăng cao nhất là năm 2018, tăng 68,8%. Như vậy, cũng giống với số vụ phạm

tội dưới hình thức đồng phạm thì tỷ lệ người phạm tội thuộc trường hợp “tái

phạm, tái phạm nguy hiểm” có xu hướng tăng đã phản ánh một khía cạnh của

tính chất nghiêm trọng của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bản tỉnh Quảng

Bình từ năm 2014 đến năm 2018 [Bảng 2.16 phụ lục].

2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình

2.2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

Tỉnh Quảng Bình trong những năm qua từ thực tiễn cho thấy về phòng

ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản đã đươc nhận thức một cách nghiêm

túc, có trọng tâm, trọng điểm và gắn với tình hình cụ thể của địa phương.

Nòng cốt là lực lượng Công an phối hợp chặt chẽ với, Viện kiểm sát, Tòa

án, Ủy ban MTTQ Việt Nam, các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến phường, xã

đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, triển khai nhiều hoạt động và các

giải pháp nhằm ngăn chặn loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh. Từ năm 2014

đến năm 2018 đã xây dựng mới nhiều mô hình điểm về xã, phường, khu dân

cư không có tệ nạn, không có tội phạm. Ủy ban Mặt trận các cấp đã phối hợp

38

xây dựng được 28 loại mô hình về đảm bảo an ninh trật tự (ANTT) ở cơ sở,

trong đó nhiều mô hình phát huy tốt hiệu quả, góp phần giải quyết những vấn

đề bức xúc về ANTT trên địa bàn. Nổi bật là mô hình “Tổ liên gia tự quản”,

“Dòng họ tự quản”, “Dòng họ kiểu mẫu”, “Đoạn đường xanh, sạch, đẹp, an

toàn văn hóa” ở thành phố Đồng Hới và các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch;

“Xứ, họ đạo bình yên, gia đình hòa thuận” ở các huyện Bố Trạch, Tuyên Hóa;

“Tổ xung kích tự quản về ANTT”, “Câu lạc bộ phòng, chống tội phạm qua

đường dây nóng”, “Câu lạc bộ Pháp luật” ở các huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy

và thị xã Ba Đồn;”Đường biên an toàn, an ninh hữu nghị”, “Bản tự quản về

ANTT”, “Ba giữ” ở các xã vùng biên của các huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa,

Bố Trạch, Quảng Ninh và Lệ Thủy...

Bên cạnh đó, Ủy ban Mặt trận các cấp tiếp tục củng cố, kiện toàn 522

“Nhóm nòng cốt” tuyên truyền pháp luật tại khu dân cư; xây dựng, duy trì

được 236 “Điểm sáng chấp hành pháp luật tại cộng đồng dân cư”; xây dựng,

duy trì và nhân rộng 41 mô hình về phòng, chống tội phạm, ma túy, mại dâm,

HIV/AIDS. Mặt khác, Hội Nông dân tỉnh xây dựng được 64 câu lạc bộ nông

dân phòng, chống tội phạm, 68 câu lạc bộ nông dân với pháp luật, 1.228 tổ tự

quản có gần 122.000 hộ nông dân tham gia...; Hội Phụ nữ phối hợp với Bộ

đội Biên phòng vận động 641 tổ phụ nữ với 18.387 hộ gia đình đăng ký tham

gia phong trào “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc bảo vệ

thôn, bản khu vực biên giới”; Đoàn Thanh niên thành lập 98 câu lạc bộ pháp

luật, phòng, chống tội phạm, ma túy, tệ nạn xã hội với 1.938 hội viên, 726 đội

thanh niên xung kích với trên 5.000 đội viên... Đặc biệt, tại các địa phương có

6.131 tổ quần chúng bảo vệ ANTT đang hoạt động có hiệu quả, góp phần xây

dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, đảm bảo ANTT từ cơ sở.

Qua đó cho chúng ta thấy, nhận thức về tầm quan trọng của cônt tác

39

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

trong những năm qua ngày càng tăng lên đã góp phần kìm hãm sự phát triển

của loại tội phạm này.

Tuy nhiên, công tác phòng ngừa trog thời gian qua cũng còn một số hạn

chế như: Tội phạm trộm cắp tài sản vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất, diễn biến phức

tạp, số vụ án chưa được khám phá, xử lý kịp thời, gây ảnh hưởng xấu tới

niềm tin của nhân dân và ảnh hưởng đến tình hình chính trị ở địa phương, các

cơ quan tiến hành tố tụng mà chủ yếu là lực lượng Công an chưa làm tốt công

tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng hình sự, chưa thu hút được nhiều sự

tham gia của toàn thể nhân dân vào công tác tố giác và phòng ngừa tình hình

tội trộm cắp tài sản.

Công tác nghiệp vụ ngày càng được nâng cao nhưng do thiếu về số

lượng, không đồng đều về chất lượng, sự phân bố không đồng điều giữa các

địa bàn trong tỉnh nên ít nhiều ảnh hưởng đến công tác phòng ngừa tình hình

tội phạm trộm cắp tài sản, đặc biệt việc sử dụng mạng lưới CTVBM chưa

đảm bảo, hiệu quả cao. Nhận thức và trình độ của một số cán bộ tiến hành

hoạt động phòng ngừa, một số cơ quan tổ chức chưa đầy đủ, chưa theo kịp với

sự phát triển chung của xã hội, chưa vận động được các tầng lớp trong xã hội

tích cực tham gia nên hoạt động này còn có những hạn chế nhất định.

Bên cạnh đó, các đối tượng phạm tội ngày càng sử dụng những thủ đoạn

hết sức tinh vi để đối phó, qua mặt người dân, cơ quan chức năng, nhiều đối

tượng hoạt động lưu động, liên huyện, tỉnh gây khó khăn cho lực lượng theo

dõi, truy bắt. Công cụ, phương tiện sử dụng trong công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm chưa nhiều, chất lượng chưa cao. Đây là một trong những khó

khăn, vướng mắc cần phải khắc phục để công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm trộm cắp tài sản trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn.

Một khi các Cơ quan, Ban, Ngành và toàn bộ người dân của tỉnh Quảng

40

Bình nhận thức được tầm quan trọng, vào cuộc với một quyết tâm cao; các

biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, điều tra, xử lý tội

phạm được tiến hành đồng bộ thì chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng công tác

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trong thời gian tới sẽ đạt được

những thành quả mới, to lớn hơn nữa.

2.2.2. Thực trạng nhận thức về chỉ đạo phòng ngừa tình hình tội phạm

trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

Nhận thức rõ tầm quan trọng của phòng ngừa tình hình tội phạm nói

chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng đây là một nhiệm vụ mang tầm

chiến lược góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội, phát triển ổn định nền kinh

tế. Để làm tốt mục tiêu trên, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Bình đã quan

tâm lãnh đạo chỉ đạo công tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng. Trong những năm qua, sự chỉ

đạo của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Bình được thể hiện qua các nội

dung sau:

- Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã ban hành nhiều Chỉ thị, Quyết định,

Chương trình, Kế hoạch liên quan trực tiếp đến công tác phòng ngừa tình

hình tội phạm trộm cắp tài sản, trong đó đáng chú ý là:

+ Chỉ thị số 32CT/ĐU ngày 24/5/2015 của Ban Thường vụ tỉnh ủy

Quảng Bình về “Xây xựng gia đình trong thời kỳ mới”;

+ Chỉ thị số 4432CT/ĐU ngày 11/10/2016 của Ban Thường vụ tỉnh ủy

Quảng Bình về “Tiếp tục tăng cường hiệu quả công tác hỗ trợ gia đình có

hoàn cảnh đặc biệt, học sinh nghèo vượt khó trên địa bàn tỉnh”;

+ Kế hoạch số 15/KH-UBNDT ngày 09/3/2017 của Ủy ban Nhân dân

tỉnh Quảng Bình về “Quản lý, giúp đở và phòng ngừa người được tha tù về tái

hòa nhập cộng đồng”;

+ Chương trình hành động “Xóa đói, giảm nghèo tại các khu vự miền

41

núi, vùng xa xôi hẽo lánh” từ năm 2015 đến 2020”.

- Chỉ đạo lực lượng Công an các cấp là lực lượng nòng cốt, theo chức

năng, nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan ban ngành có liên quan tiến hành

các biện pháp, thực hiện các nội dung cụ thể trong phòng ngừa tội phạm trộm

cắp tài sản trên địa bàn như: Xấy dựng các chốt, trạm, tổ bảo vệ ANTT; điểm

sang văn hóa; câu lạc bộ phòng chống tội phạm; ký kết các văn bản cam kết

về gia đình văn hóa, thôn xóm không có trộm cắp…

- Khuyến khích, động viên kịp thời những người lầm lỡ, các đội tượng

nghiện ma túy, những đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản được tha tù về,

những đối tượng có tiền án, tiền sự về trộm cắp tài sản. Hỗ trợ tạo công ăn

việc làm, tăng cường giáo dục về tư tưởng, phẩm chất chính trị, nâng cao

đời sống về tinh thần, giáo dục về văn hóa cho những người có trình độ

văn hóa thấp.

2.2.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội

phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

2.2.3.1. Thực trạng thực hiện các biện pháp kinh tế - xã hội

Quảng Bình đã từng bước gặt hái được những thành tựu trong quá trình

phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng ổn định, các chỉ tiêu chủ yếu

đều đạt và vượt kế hoạch do Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. Cơ cấu kinh tế đã đạt

được sự chuyển dịch đúng hướng. Các vấn đề xã hội đã được tập trung giải

quyết đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần cải thiện mọi mặt đời sống xã hội.

Các vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh từng bước được quy hoạch, đầu tư

phát triển đặc biệt là dự án cảng Hòn La và khu công nghiệp Hòn La. Các

thành phần kinh tế đã và đang phát triển, đóng góp quan trọng vào sự phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Quy mô và tiềm lực kinh tế của tỉnh từng bước đã được mở rộng và tăng

cường; phương thức sản xuất kinh doanh và quản lý trong nền kinh tế thị

42

trường bước đầu đã được xác lập. Quảng Bình là tỉnh nằm trong vùng kinh tế

trọng điểm của khu vực Bắc miền Trung. Năm 2017 tỉnh đã đóng góp vào

ngân sách nhà nước 3.067 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp và thủy

sản chiếm 22,9%; Công nghiệp – xây dựng chiếm 25,7%; Dịch vụ chiếm

51,4%; Tổng mức đầu tư toàn tỉnh tính trong năm 2017 là 10.824 tỷ đồng.

Tuy vậy, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động xấu đến đời

sống, kinh tế-xã hội của tỉnh. Cụ thể, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày

càng sâu sắc, tỷ lệ hộ nghèo bình quân chiếm 14,6 %. Từ mặt trái của kinh tế

thị trường hình thành lối sống hưởng thụ, xa hoa. Một bộ phận dân cư nghèo

muốn nhanh chóng làm giàu, dễ dẫn đến các hoạt động phạm tội; tỷ lệ thất

nghiệp trên toàn tỉnh vẫn còn ở mức cao (chiếm 2,29 %); tệ nạn xã hội kéo

theo đó cũng diễn biến rất phức tạp. Số người nghiện ma túy có chiều hướng

gia tăng gây không ít khó khăn cho công tác đảm bảo an ninh trật tự.

Sự du nhập của văn hoá phẩm đồi trụy, đặc biệt là sự phát triển chóng

mặt của hệ thống mạng Internet đã tạo nên lối sống buông thả, coi trọng lợi

ích vật chất, ngại làm việc trong khi nhu cầu sinh hoạt luôn tăng cao… ảnh

hưởng đến một bộ phận dân cư, chủ yếu là tầng lớp thanh, thiếu niên.

Tình trạng không có việc làm là nguyên nhân và điều kiện chính của tình

hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn vẫn chưa có giải pháp mang tính nổi bật.

Tình trạng này làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.

Ngoài ra, Quảng Bình là một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng

không chỉ trong nước mà còn đối với quốc tế. Chính vì thế, cùng với những

hoạt động quảng bá du lịch ngày càng phát triển đã thu hút mạnh mẽ số lượng

lớn du khách đến tham quan, vui chơi, giải trí, đặc biệt là trong những ngày

lễ, hội, tết, dịp hè và đây cũng được các đối tượng xem như là “mảnh đất màu

mỡ” cho các hoạt động phạm tội, nhất là tội phạm trộm cắp tài sản.

2.2.3.2. Thực trạng thực hiện các biện pháp văn hóa - giáo dục

43

- Thực trạng áp dụng các biện pháp văn hóa.

Với quan điểm phát triển văn hóa tỉnh Quảng Bình cố gắng phát huy mọi

nguồn lực trong xã hội để phát triển văn hoá mang tính dân tộc, khoa học và

nhân dân, góp phần nâng cao trình độ dân trí, phát triển chất lượng nguồn

nhân lực, cải thiện đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân và góp phần hội

nhập kinh tế quốc tế. Phát triển văn hoá theo hướng bảo tồn và phát huy các

giá trị văn hoá dân tộc, tích cực trong việc gìn giữ, bảo vệ môi trường tự nhiên

và xã hội, đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, khắc phục về tình trạng chênh lệch

về mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân ở các vùng, miền, khu vực trong

toàn tỉnh, gắn liền với bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.

Trong hoặt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản phải

từng bước hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam

nói chung, Quảng Bình nói riêng với các đức tính tốt đẹp: yêu nước, tự hào

dân tộc, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng

môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, phù hợp với sự phát triển kinh tế -

xã hội của tỉnh, phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng. Hình thành cơ bản

các nền nếp, các giá trị văn hóa trong hệ thống chính trị, trong cơ quan, đơn

vị, doanh nghiệp, gia đình và cộng đồng; hạn chế đến mức thấp nhất các biểu

hiện thiếu văn hóa, thiếu ý thức pháp luật, thiếu ý thức tôn trọng và bảo vệ tài

sản của mình và của mọi người trong đời sống xã hội.

Quán triệt tinh thần trên, từ năm 2014 đến năm 2018 các cấp ủy Đảng và

chính quyền nhân đânh tỉnh đã quản lý, tổ chức tốt các dịch vụ văn hóa trên

địa bàn đúng quy định của pháp luật, bảo đảm trong sạch, lành mạnh. Ngăn

chặn và đẩy lùi văn hóa phẩm độc hại và sự xuống cấp về đạo đức xã hội.

Nâng cao đời sống văn hoá, rút ngắn dần sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá

giữa các vùng trong tỉnh, cơ bản đáp ứng được những nhu cầu của người dân

về hưởng thụ văn hoá, thưởng thức nghệ thuật, xây dựng nếp sống văn hoá,

44

gia đình văn hoá, xây dựng làng, thôn, bản, tổ dân phố văn hoá, đẩy lùi các hủ

tục và các mặt tiêu cực khác. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá

nhằm tạo điều kiện toàn dân được tham gia sáng tạo và hưởng thụ thành quả

văn hoá ở mức độ ngày càng cao.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về văn hóa của tỉnh Quảng Bình,

văn hóa vẫn còn bộc lộ những hạn chế của nó, chưa tương xứng với tiềm

năng phát triển kinh tế, chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao đời sống tinh

thần cho người dân trong tỉnh. Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của

một bộ phận không nhỏ của thanh thiếu niên, người dân vẫn còn, tình trạng

hôn nhân gia đình đỗ vỡ cao, bạo lực gia đình gia tăng, phong trào tổ chức

toàn dân đoàn kết xây dựng gia đình văn hóa, thôn, xóm văn hóa chưa đồng

bộ, còn mang tính hình thức; công tác bảo tồn, tái tạo và phát huy giá trị văn

hóa chưa bền vững, lâu dài. Các tệ nạn xã hội, tội phạm hình sự nói chung và

tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng vẫn diễn biến phức tạp, nhiều băng, ổ

nhóm hoạt động liên tỉnh được hình thành, hoạt động với thủ đoạn ngày càng

tinh vi, manh động và liều lĩnh, chính vì vậy đã gây mất ANTT trên địa bàn

cần phải sớm có biện pháp đấu tranh, triệt phá.

- Thực trạng áp dụng các biện pháp giáo dục.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác giáo dục, đào

tạo, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVI, nhiệm kỳ

2015 - 2020 đã xác định mục tiêu: “Thực hiện có hiệu quả chủ trương đổi mới

căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với phát triển nguồn nhân lực chất

lượng cao. Đẩy mạnh xã hội hóa để thu hút nguồn lực đầu tư mạng lưới

trường lớp, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học. Nâng cao chất lượng đào

tạo của Trường đại học Quảng Bình, Trường cao đẳng nghề và các trường

trung cấp chuyên nghiệp” với nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là: Nâng cao chất

lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo, dạy nghề và phát triển nguồn nhân lực. Có

45

được những kết quả trên là do công tác kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh, khắc

phục những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động giảng dạy của các cấp ủy

đảng, chính quyền địa phương của tỉnh Quảng Bình một cách thường xuyên,

liên tục.

Tuy nhiên, bên cạnh thành quả đạt được ngành giáo dục tỉnh Quảng Bình

vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất đinh như: Chất lượng đội ngủ giảng dạy

pháp luật ở các trường chưa đạt yêu cầu. Các chương trình tuyên truyền

phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản từ cơ quan đoàn thể chưa có những

chương trình hướng tới các đối tượng có nguy cơ phạm tội cao như người

sống trong gia đình hoặc khu vực có nhiều người phạm tội, người có tiền án

tiền sự, người có nhân thân xấu… Cơ sở dạy nghề đang hoạt động trên địa

bàn tỉnh chưa đáp ứng nhu cầu đào tạo nghề ngày càng tăng của thị trường lao

động tỉnh. Chất lượng giáo dục chưa đồng điều ở các cấp học, ngành học và

một số địa phương. Hệ thống cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu đào

tạo nhất là bậc đại học. Năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp một số

giáo viên, cán bộ quản lý chưa cao, không thay đổi phương pháp dạy học tích

cực đáp ứng trong tình hình mới, các phương tiện dạy học còn hạn chế, chế

độ đãi ngộ cho giáo viên còn thấp.

2.2.3.3. Thực trạng thực hiện biện pháp về quản lý trật tự xã hội

Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình trong những năm qua đã xây dựng các Nghị

quyết chuyên đề, chương trình, kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo công tác an

ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội. Thường xuyên chỉ đạo các cơ quan ban

ngành, các tổ chức chính trị xã hội trong đó nồng cốt là lực lượng Công an

các đơn vị địa phương phải phối hợp chặt chẽ với các ngành, đoàn thể và các

khu phố tập trung làm tốt công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội

phạm trộm cắp tài sản nói riêng bằng các giải pháp như: tuyên truyền trên loa,

đài, truyền hình, tuyên truyền lồng ghép trong các cuộc họp, hội nghị v.v... về

46

các phương thức thủ đoạn hoạt động và các biện pháp phòng ngừa đối với tội

phạm trộm cắp tài sản và các loại tội phạm khác. Vì vậy, đã góp phần kiềm

chế, kéo giảm tội phạm trộm cắp tài sản và các loại tệ nạn trên địa bàn tỉnh;

tình hình ANCT - TTATXH trên địa bàn cơ bản ổn định và giữ vững, tệ nạn

xã hội và các hàn vi vi phạm pháp luật cơ bản được kìm hãm. Tuy nhiên, tỷ lệ

tội phạm hoạt động theo các băng, ổ nhóm liên tỉnh, liên huyện với những thủ

đoạn manh động, tinh vi, xảo quyệt xảy ra ngày càng nhiều, người phạm tội

lầu đầu chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt có sự trẻ hóa ngày càng tăng.

Lực lượng Công an là đơn vị chủ công trong công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm trộm cắp tài sản, phối kết hợp với các lực lượng trong và

ngoài ngành Công an không ngừng tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện,

xử lý các đối tượng, các băng nhóm phạm tội. Các lực lượng khác tùy theo

chức năng nhiệm vụ mà tiến hành các biện pháp đảm bảo giữ vững ANTT

trên địa bàn. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng biện pháp quản lý

trật tự xã hội:

- Quản lý tốt người có nguy cơ phạm tội cao: tăng cường kiểm danh,

kiểm diện, quản lý nghiệp vụ, goi hỏi, giáo dục răn đe tốt các đối tượng có

tiền án, tiền sự, hạn chế các đối tượng này tái phạm hoặc phạm tôi mới.

Từ năm 2014 đến năm 2018, lực lượng này đã thật sự chủ động thực hiện

các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả như giúp đỡ được 320 người hoàn

lương, tái hòa nhập cộng đồng, giới thiệu 95 chị em có việc làm ổn định, cung

cấp nhiều nguồn thông tin tố giác tội phạm có gí trị cho lực lượng Công an.

Xây dựng nhiều sân chơi lành mạnh cho thanh thiếu niên, tham gia giải

quyết việc làm cho người sau cai nghiện, thanh thiếu niên cơ nhỡ cũng như

người mới chấp hành xong bản án về địa phương chưa có việc làm ổn định.

- Công tác quản lý địa bàn, khu vực trọng điểm về phạm tội trộm cắp tài

sản: Tỉnh Quảng Bình là địa bàn có những đặc điểm địa lý, kinh tế, dân cư mà

47

các đối tượng tội phạm trộm cắp tài sản thường lợi dụng để hoạt động và ẩn

náu nên hoạt động phòng ngừa tội trộm cắp tài sản luôn được coi trọng, nhất

là công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân nâng cao cảnh giác,

tự bảo về tài sản, tích cực phòng ngừa tội phạm là mặt công tác then chốt,

trọng yếu. Nhiều biện pháp ngòng ngừa được tổ chức thực hiện và mang lại

hiệu quả cao như: Xây dựng mô hình tự quản, tổ tự về, tổ xung kích, câc lạc

bộ, các nhóm, điểm sáng tổ chức tuần tra 24/24 giờ, trực gác ở những khu dân

cư, các điểm, tuyến giao thông trọng điểm phức tạp; Thông báo phương thức

thủ đoạn, địa bàn của các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

tỉnh, tổ chức họp dân báo cáo về tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, thông

báo những điểm “nóng” về tình hình tội trộm cắp tài sản và những biểu hiện

của đối tượng nghi vấn thự hiện hành vi trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản để

quần chúng nhân dân nắm bắt được chủ động phát hiện tội phạm.

- Công tác quản lý cơ sở, ngành nghề kinh doanh có điều kiện: đây có thể

là nơi tiêu thụ tài sản phạm tội mà có cả các đối tượng trộm cắp tài sản. Các

cơ sở kinh doanh này phần nhiều là các cơ sở cầm đồ, mua bán điện thoại, xe

máy cũ.

Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có 1.627 cơ sở ngành, nghề

đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT, trong đó có 405 cơ sở kinh doanh

lưu trú, 256 cơ sở kinh doanh karaoke, 357 cơ sở dịch vụ cầm đồ, 18 cơ sở

xoa bóp (Massage), 74 cơ sở in, 466 cơ sở kinh doanh khí dầu mỏ hóa lỏng,

07 cơ sở sản xuất con dấu, 42 cơ sở kinh doanh có sử dụng vật liệu nổ công

nghiệp (VLNCN), 02 công ty dịch vụ bảo vệ. Trong những năm qua, các hoạt

động lợi dụng cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT để thực hiện

hành vi vi phạm pháp luật diễn biến phức tạp, như: Thuê khách sạn, nhà nghỉ

để hoạt động mại dâm, tổ chức đánh bạc, sử dụng trái phép chất ma túy; đặc

biệt một số đối tượng lợi dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ cầm đồ để tiêu

48

thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Trong năm 2018, lực lượng Cảnh

sát QLHC về TTXH Công an tỉnh Quảng Bình đã tiến hành kiểm tra trên

1.000 cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT; nhắc nhở, chấn chỉnh

hàng trăm thiếu sót, vi phạm, phát hiện lập biên bản xử phạt vi phạm hành

chính 27 trường hợp với số tiền 71.250.000 đồng.

Diễn biến hoạt động của tội phạm liên quan đến các cơ sở đầu tư kinh

doanh có điều kiện về ANTT trên địa bàn tỉnh với nhiều phương thức, thủ

đoạn mới đòi hỏi lực lượng Công an phối hợp với các lực lượng khác tăng

cường triển khai thực hiện nghiêm công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt

động kinh doanh của các cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT …

Qua đó, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ngành,

nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT, góp phần phòng ngừa, ngăn

chặn các loại tệ nạn xã hội và tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn.

- Công tác quản lý nhân hộ khẩu, chứng minh nhân dân.

Tính đến nay, tỉnh Quảng Bình với lực lượng nòng cốt là Công an kết

hợp với các cơ quan chức năg khác đã Tổ chức trên hang trăn cuộc kiểm tra,

hướng dẫn công tác QLHC về TTXH tại các địa phương cũng như các cơ sở

thuộc phạm vi quản lý, qua đó kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các tồn

tại, thiếu sót trong thực hiện các quy định của pháp luật. Cấp 10.000 con dấu

cơ quan, doanh nghiệp, hơn 300.000 chứng minh nhân dân. Từ năm 2015, đã

tích cực tham mưu, chỉ đạo và quyết liệt trong tổ chức triển khai cấp căn cước

công dân, thay thế cấp chứng minh nhân dân trong toàn tỉnh, đưa Quảng Bình

trở thành một trong 16 tỉnh, thành cả nước thực hiện công tác này. Đến nay

mặc dù còn nhiều khó khăn trong đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ nhưng cấp

căn cước công dân đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. Toàn tỉnh tiếp nhận

129.153 hồ sơ cấp căn cước công dân; truyền dữ liệu đến Cục C72: 117.711

hồ sơ cấp căn cước công dân; trả: 113.556 thẻ căn cước công dân; bước đầu tổ

49

chức cấp căn cước công dân lưu động tại một số địa bàn vùng sâu, vùng xa,

vùng biên giới. Trong năm 2018, qua kiểm tra các cơ sở kinh doanh lưu trú,

lực lượng công an đã phát hiện và xử lý 96 cơ sở vi phạm không thông báo

khách lưu trú, xử phạt gần 150 triệu đồng đối với các cơ sở này.

Để đảm bảo an ninh trật tự, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các loại

tội phạm, nhất là tội phạm trộm cắp tài sản. Trong thời gian tới, Công an tỉnh

tiếp tục tham mưu cho UBND huy động cả hệ thống chính trị, các tầng lớp

nhân dân trong công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, làm tốt công tác bảo

đảm ANTT và công tác đăng ký, quản lý tạm vắng, tạm trú; quản lý các cơ sở

kinh doanh có điều kiện, tăng cường công tác nắm tình hình, địa bàn khu dân

cư, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm qua đó góp phần giữ

vững lòng tin trong nhân dân.

2.2.3.4. Thực trạng thực hiện biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật,

giáo dục ý thức cảnh giác cho quần chúng nhân dân, vận động quần chúng

nhân dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

Trong thời gian qua, cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan, ban ngành,

đoàn thể đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp đẩy mạnh thực hiện công

tác phổ biến giáo dục pháp luật và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Đội

ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ tỉnh đến

cơ sở từng bước được cũng cố, kiện toàn, cơ bản đảm bảo số lượng và nâng

cao chất lượng.

Thường xuyên thông báo, phổ biến kịp thời những thủ đoạn gây án mới

cho quần chúng nhân dân về tình hình an ninh trật tự, tình hình tội phạm,

những sơ hở của người dân, loại tài sản, thời gian, công cự, phương tiện gây

án thường dùng để nhân dân phát hiện những đối tượng nghi vấn để cảnh giác

và thông báo cho cơ quan chức năng.

50

Vận động quần chúng nhân dân nâng cao ý thức tố giác tội phạm, loại trừ

tư tưởng“trung bình chủ nghĩa, tích cực phối hợp với lực lượng Công an đấu

tranh phòng, chống tội phạm. Khi bị kẻ gian trộm cắp tài sản cần phải bảo vệ

và giữ nguyên hiện trường, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng điều tra đến

khám nghiệm hiện trường. Vận động quần chúng nhân dân thực hiện Chương

trình quốc gia phòng chống tội phạm, trong đó có tội trộm cắp tài sản theo

tinh thần của Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm. Tuyên

truyền nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của các

tầng lớp nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng, kết hợp vận động

trực tiếp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hướng trọng tâm

thực hiện ở cơ sở và khu dân cư; Đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia

phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm gắn với xây dựng gia đình văn hóa,

khu dân cư văn hóa.

Kết quả từ năm 2014 đến năm 2018, toàn tỉnh đã tổ chức gần 13.000 hội

nghị, tập huấn cho hơn 900.000 lượt người; biên soạn và phát hành 26.000

sách bỏ túi tìm hiểu một số quy định về pháp luật để cấp phát cho Nhân dân

trên địa bàn; tổ chức sản xuất và phát sóng hơn 1.800 tin, bài, phóng sự,

phỏng vấn, giao lưu, tọa đàm. Bên cạnh đó, hệ thống loa truyền thanh cơ sở

đã phát sóng 7.941 chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật trên Đài Truyền

thanh xã, phường; in hàng ngàn pa nô, áp phích, băng rôn khẩu hiệu tuyên

truyền về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực hiện 12 Chuyên mục Pháp

luật và Đời sống…

Bên cạnh đó, việc thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá chuẩn tiếp cận

pháp luật của người dân tại cơ sở, xây dựng và hương ước, quy ước cũng

được quan tâm triển khai có hiệu quả. Ngoài ra, việc xây dựng, quản lý, khai

thác tủ sách pháp luật cũng được chú trọng và phát huy hiệu quả trong phục

vụ nhu cầu nghiên cứu tìm hiểu pháp luật cho cán bộ và Nhân dân trên địa

51

bàn tỉnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật đang bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm chủ yếu đó là: Nhận thức,

ý thức trách nhiệm và sự phối hợp của một số cơ quan, ban ngành, đoàn thể,

địa phương về công tác phổ biến giáo dục pháp luật chưa thực sự đầy đủ và

chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này; việc huy

động nguồn lực cho công tác PBGDPL chưa được tiến hành một cách đồng

bộ và rộng khắp

2.2.3.5. Thực trạng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trộm cắp tài sản

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, từ năm

2014 đến năm 2018 đã điều tra, truy tố và xét xử 1.442 vụ án trộm cắp tài

sản, với 1.474 đối tượng. Cơ quan Công an tỉnh Quảng Bình đã làm đúng

theo quy định của Luật tổ chức điều tra vụ án hình sự, quá trình điều tra lấy

lời khai các bị can đúng theo trình tự pháp lý, không có trường hợp nào

mớm cung, dùng nhục hình, tất cả các đối tượng điều thừa nhận hành vi

phạm tội của mình.

Cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Quảng Bình với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo

pháp luật. Trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm, VKSND có vai trò rất

quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản đảm bảo các vụ án được khởi tố điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,

đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc giải quyết án vẫn còn một số khó khăn,

vướng mắc xuất phát từ quy định của các văn bản quy phạm pháp luật,

hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các Công văn hướng dẫn

của Tòa án nhân dân tối cao chưa thống nhất liên quan đến việc định lượng,

hành hung để tẩu thoát hay phạm tội nhiều lần… từ đó dẫn đến nhiều khó

khắn làm ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống đối với loại tội

52

phạm này ở các địa phương.

Tòa án nhân dân các cấp đã tiến hành xét xử các vụ án trọm cắp tài sản

một cánh nghiêm minh, chính xác, đúng người đúng tội. Bên cạnh đó, đã tăng

cường giáo dục pháp luật đến những đối tượng phạm tội và những người dân

xung quanh. Từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử

lưu động 174 vụ án với 211 đối tượng phạm tội trộm cắp tái sản, từ đó đã góp

phần giáo dục, răn đe đối với toàn thể quần chúng nhân dân, nâng cao hiệu

quả trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh.

2.3. Nhận xét, đánh giá khái quát

2.3.1. Kết quả đạt được

- Được sự quan tâm, chỉ đạo của Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp,

công tác lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt, tập trung và thống nhất giữa cấp dưới

với cấp trên, cùng sự nỗ lực của Nhân dân công tác phòng ngừa tình hình tội

phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong những năm qua đã

đạt được nhũng thành tích đáng kể. Nhận thức của người dân được nâng cao,

các cơ quan chức năng có sự tăng cường phối kết hợp trong tổ chức các hoạt

động phòng ngừa đã mang lại những hiệu quả nhất định trong thời gian qua.

- Đã cơ bản thực hiện theo các kế hoạch của công tác tuyên truyền phổ

biến pháp luật, giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật cho quần chúng nhân

dân tham gia tích cực vào công tác phòng ngừa, phát hiện tội phạm trộm cắp

tài sản, nâng cao ý thức cảnh giác bảo vệ tài sản; kết hợp chặt chẽ với các

đoàn thể, tổ chức trên địa bàn toàn tỉnh trong việc giáo dục, tuyên truyền quần

chúng về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đấu tranh, phòng chống tội

phạm, đặc biệt là tội phạm trộm cắp tài sản.

- Trong quá trình phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, nòng

cốt là lực lượng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Bình đã sử dụng đồng

53

bộ nhiều biện pháp nghiệp vụ của Ngành, nhất là đã làm tốt các hoạt động

nghiệp vụ như: Công tác điều tra cơ bản, công tác sưu tra, xác mình hiềm

nghi, xây dựng và sử dụng cộng tác viên bí mật, đấu tranh chuyên án, tổ chức

tốt công tác nắm tình hình địa bàn, đối tượng, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm;

tăng cường công tac kiểm tra, tuần tra các khu vực, địa bàn phức tạp, đông

người, các điểm nóng dễ phát sinh tội phạm, tệ nạn…kịp thời ngăn chặn và

xử lý cương quyết các trường hợp vi phạm xẩy ra.... Chính việc thực hiện

đồng bộ đã tạo nên tính thống nhất, liên tục giúp cho công tác phòng ngừa

tình hình tội phạm này đạt kết quả cao.

- Công tác điều tra khám phá các vụ án nhanh chóng kịp thời, đã điều tra

ra nhiều vụ án nghiêm trọng góp phần ổn định tình hình ANTT trên địa bàn.

Hoạt động này có tác động tích cực, trực tiếp nâng cao ý thức phòng ngừa tội

phạm trộm cắp tài sản của quần chúng nhân dân, của chính quyền địa phương

từ đó đẩy mạnh phong trào tấn công tội phạm, khơi dậy ý thức tự giác tham

gia phát hiện, tố giác tội phạm, hợp tác với cơ quan chức năng của quần chúng

nhân dân trong phòng ngừa đấu tranh trấn áp tội phạm này.

2.3.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

2.3.2.1. Tồn tại, hạn chế

Bên cạnh kết quả đạt được như trên, qua nghiên cứu cho thấy công tác

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, cụ thể như sau:

- Về công tác lãnh đạo, chỉ huy phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp

tài sản ở một số đơn vị, địa phương chưa sâu sát, chưa thường xuyên quan

tâm, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở các mặt công tác của cán bộ, chiến sĩ đơn vị

mình phụ trách nên hiệu quả đạt được chưa cao.

- Công tác vận động, tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng tham gia

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản còn mang tính hình thức,

54

chậm đổi mới về nội dung, phương pháp, chưa có tác động trong việc thay đổi

ý thức cảnh giác của người dân trong việc bảo vệ tài sản cá nhân, tài sản cơ

quan, tổ chức. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân chưa thật sự

chú trọng.

- Hoạt động phòng ngừa xã hội còn những hạn chế, thiếu sót chưa được

khắc phục: Tệ nạn xã hội diễn biến rất phức tạp, sự phân hóa giao nghèo, tỉ lệ

lao động thiếu việc làm vẫn còn cao, các biện pháp kinh tế xã hội tỉnh chưa

giải quyết triệt để vấn đề cung ứng lao động vào đào tạo nghề trên địa bàn

làm tồn tại tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu nguồn lao động có tay

nghề. Tình trạng suy thoái về đạo đức, chất lượng giáo dục còn nhiều hạn chế

đặc biệt là chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy pháp luật ở các trường

chưa đạt yêu cầu.

- Công tác tham mưu hướng dẫn vẫn chưa thật sự đi vào chiều sâu; trong

tổ chức thực hiện, nhiều kiến nghị đề xuất còn chung chung, tính thuyết phục

chưa cao, một số văn bản đã được ban hành nhưng còn những thiếu sót, chưa

bám sát yêu cầu, tính chất của công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm trộm

cắp tài sản; chưa phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, của các tổ

chức tự quản, của dòng họ… trong phòng ngừa tội phạm.

- Công tác nghiệp vụ của lực lượng Công an mặc dù đã có sự chuyển

biến tích cực, nhất là sau khi Bộ ban hành Chỉ thị số 02 và các Thông tư mới

về công tác nghiệp vụ cơ bản, song thực tế còn một số hạn chế, thiếu sót:

+ Công tác điều tra cơ bản chưa được tiến hành thường xuyên, rộng

khắp, chỉ tập trung vào một số tuyến, địa bàn, hệ loại đối tượng có tính chất

nổi cộm, phức tạp. Vẫn còn tình trạng mở hồ sơ nhưng chậm cập nhật tình

hình, hoặc có cập nhật, điều tra bổ sung nhưng chưa tập trung phân tích, tổng

hợp để xây dựng, đề xuất các kế hoạch phòng chống tội phạm có hiệu quả.

+ Công tác sưu tra chưa thật sự phát huy hết tác dụng trong công tác

55

phòng ngừa và hiệu quả mang lại chưa như mong muốn. Cụ thể: Vẫn còn tình

trạng “hồ sơ chết” chưa thể hiện hoạt động của đối tượng dẫn đến công tác

quản lý kém hiệu quả. Một số cán bộ chưa nắm vững đối tượng trong diện,

đặc biệt là đối tượng sưu tra lưu động, các địa phương khác đến.

+ Số hiềm nghi được xác lập hàng năm còn ít so với tình hình thực tế.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra công tác này chưa được tiến hành

thường xuyên; hồ sơ công tác xác mình hiềm nghi một số nơi còn chưa đầy

đủ nên cũng tác động làm hạn chế hiệu quả của công tác phòng ngừa, ngăn

chặn đối với tội phạm này.

+ Số lượng đặc tình, cơ sở bí mật còn ít, chưa đủ sức quán xuyến địa

bàn, nhất là các địa bàn phức tạp về tình hình tội phạm trộm cắp tài sản.

- Quan hệ phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong thời gian qua

cũng bộc lộ hạn chế, còn nặng tính hình thức, chủ yếu là thông tin, báo cáo,

chưa thật sự phối hợp hành động, nhất là trong phát hiện, trao đổi thông tin

nghiệp vụ về hoạt động của đối tượng tội phạm trộm cắp tài sản lưu động,

liên địa bàn, tụ tập thành băng nhóm để gây án và lẩn trốn.

2.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

- Công tác quản lý các doanh nghiệp, các nhà hàng, khách sạn, các khu

nhà trọ, nhà nghỉ, các tiệm cầm đồ, quản lý người nghiện ma túy, cờ bạc

trên địa bàn vẫn còn nhiều thiếu sót dẫn đến thực trạng là chính những nơi

này xuất phát từ nhu cầu ăn chơi trác táng làm phát sinh tội phạm trộm cắp

tài sản.

- Trong công tác tuyên truyền vận động những kiến thức về phòng,

chống loại tội phạm này chưa căn cứ trình độ nhận thức của từng đối tượng cụ

thể. Việc tuyên truyền chưa gắn với địa bàn và chưa đúng thời điểm, chỉ

mang tính hình thức, chưa đi sâu vào nội dung, Các hình thức tuyên truyền

chưa cuốn hút làm tác động trực tiếp đến nhận thức của người dân, chưa có sự

56

đánh giá sơ kết, tổng kết và chưa có sự thống kê số liệu cụ thể về hiệu quả mà

các biện pháp tuyên truyền mang lại.

- Các địa phương chưa phân công công việc hợp lý giữa các lực lượng

chuyên trách. Trong quá trình công tác chủ yếu tập trung dồn hết cho lực

lượng Công an nên cạnh đó tập trung chủ yếu vào điều tra khám phá án, chạy

theo vụ việc, chưa tập trung nhiều vào công tác phòng ngừa nên hiệu quả

mang lại chưa cao.

- Lực lượng Cảnh sát ĐTTP về TTXH trên địa bàn còn mỏng, nhất là cấp

huyện, trình độ năng lực không đồng đều, trong khi đó các vụ án tội phạm

trộm cắp tài sản xảy ra nhiều cần phải tập trung giải quyết nên chưa thể đáp

ứng yêu cầu quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, tạo sơ hở để đối tượng phạm

tội trộm cắp tài sản lợi dụng hoạt động.

- Việc tiến hành một số công tác nghiệp vụ cơ bản như: Điều tra cơ bản,

sưu tra, xác mình hiềm nghi… kinh phí bố trí đang còn thấp, trong khi điều

kiện kinh tế của cán bộ trinh sát của các đơn vị nghiệp vụ còn nhiều khó khăn

đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý làm việc của cán bộ, chiến sĩ và chất

lượng các mặt công tác.

- Các phương tiện nghiệp vụ trang bị cho các lực lượng chuyên trách

chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác phòng ngừa tình hình tội phạm này.

Các loại phương tiện trang bị cho lực lượng này vừa thiếu, kém chất lượng lại

vừa lạc hậu, đặc biệt, các phương tiện giao thông, phương tiện thông tin liên

lạc hầu như cán bộ, chiến sĩ phải sử dụng những phương tiện cá nhân. Các

loại vũ khí, công cụ hỗ trợ còn thiếu chưa đẩy mạnh ứng dụng công nghệ

thông tin, khoa học kỹ thuật vào trong công tác phòng ngừa tội phạm nói

chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng.

- Chất lượng các mặt công tác nghiệp vụ chưa cao. Điều đó thể hiện qua

việc tiến hành các mặt công tác như công tác sưu tra, xác mình hiềm nghi,

57

xây dựng và sử dụng cộng tác viên bí mật, đấu tranh chuyên án còn nặng tính

hình thức đối phó, chưa thực hiện đúng quy trình nên chưa phục vụ tích cực

cho hoạt động phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản.

- Phần lớn là đối tượng lưu manh, côn đồ hung hãn, có tiền án, tiền sự

nên trong hoạt động chúng thường sử dụng thủ đoạn hết sức manh động, liều

lĩnh để gây án và che giấu tội phạm hết sức tinh vi. Nhiều đối tượng còn biết

khai thác, lợi dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật để gây án, tránh sự

phát hiện của cơ quan chức năng, gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động

phòng ngừa tội phạm.

- Sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc của các đơn vị nghiệp vụ cấp

trên đối với hoạt động phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản đôi khi chưa kịp

thời dẫn đến tình trạng: Thực hiện công tác nghiệp vụ chưa đúng quy trình, dễ

xảy ra sai sót. Đôi khi vì chạy theo thành tích mà các đơn vị nghiệp vụ báo

cáo không đúng tình hình thực tế. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến

hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản mà còn làm ảnh hưởng đến công

tác dự báo tình hình và chỉ đạo, đề ra các chiến lược tổng thể trong phòng

ngừa, đấu tranh chống tội phạm.

- Hạn chế trong phối hợp giữa lực lượng Công an các cấp và với các chủ

thể khác trong phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản: Thiếu cơ chế phối hợp

hoặc cơ chế không rõ ràng, cụ thể; chưa ý thức được yêu cầu xã hội hóa và

xác định rõ đấu tranh phòng chống tội phạm là nghĩa vụ, quyền lợi và trách

nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức xã hội và mọi công dân. Chính vì vậy,

chưa huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp

nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tham gia, hưởng ứng.

- Sự phối hợp giữa các đơn vị có liên quan đến công tác phòng ngừa tội

phạm trộm cắp tài sản chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, chưa đồng

bộ, thống nhất nên chưa mang lại kết quả cao nhất, vẫn còn những kẽ hở để

58

đối tượng lợi dụng gây án được.

- Sự thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế - xã hội, của sự di dân từ

nơi khác đến; sự phức tạp của những vấn đề về tội phạm và tệ nạn xã hội trên

địa bàn tỉnh ảnh hưởng đến hoạt động phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2 tác giả đã tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản sau:

- Tác giả cũng khái quát được tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình, trong đó nêu lên được một số yếu tố tác động đến

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản như: Đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế - xã

hội; đánh giá được thực trạng về tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình.

- Đánh giá được thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài

sản qua các nội dung như: Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội

phạm trộm cắp tài sản; thực trạng về việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản của chính quyền, các ban, ngành, tổ chức

xã hội và nhân dân tỉnh Quảng Bình về các mặt như: Kinh tế - xã hội; Văn

hóa - giáo dục; Tuyên truyền phổ biến pháp luật; Quản lý trật tự xã hội và quá

trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án trộm cắp tài sản của Cơ quan CSĐT,

VKSND, TAND.

- Từ thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản tác giả đã

đánh giá được những kết quả đạt được; những tồn tại, khó khắn; nguyên nhân

của những tồn tại, khó khăn đây chính là cơ sở, tiền đề cho việc tác giả đưa ra

những dự báo và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu qủa công tác phòng

ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng trên

59

địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình trong thời gian tới

3.1.1. Cơ sở của dự báo

Qua nghiên cứu, khảo sát thực tế, trực tiếp trao đổi với các đồng chí lãnh

đạo, chỉ huy các lực lượng nòng cốt trong công tác phòng ngừa tình hình tội

phạm trộm cắp tài sản, tác giả nhận thấy trong thời gian tới những vấn đề sau

đây sẽ tác động đến công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình:

- Xuất phát từ vị trí địa lý của địa bàn tỉnh Quảng Bình nằm trong vùng

kinh tế trọng điểm miền Trung, một điểm đến của di sản thiên nhiên thế giới,

một địa điểm du lịch cho các du khách trong và ngoài nước, là đầu mối giao

thông quan trọng gắn liền các tỉnh miền Bắc với miền Nam. Ngoài ra, địa

hình đa dạng, hẹp về chiều ngang lại có đường bờ biển dài. Có thể nói, Quảng

Bình là điểm giao lưu giữa các vùng, miền và là một địa bàn thuận lợi để các

đối tượng phạm tội lựa chọn ẩn náu, hoạt động.

- Mặt trái kinh tế thị trường cũng đặt ra cho tỉnh Quảng Bình nhiều vấn

đề xã hội bức xúc, hiện tượng di dân tự do từ các tỉnh, thành phố khác vào

Quảng Bình lao động trong các khu công nghiệp chiếm tỉ lệ cao. Tình trạng

thất nghiệp, không có việc làm, đời sống thiếu thốn dẫn đến sa ngã, dễ đi vào

con đường phạm tội, trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản.

- Tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, tình trạng thất học đặc

biệt là sự phát triển và diễn biến phức tạp của các loại tệ nạn xã hội như cờ

60

bạc, mại dâm, nghiện ma túy cũng như lối sống thực dụng, buông thả của một

bộ phận thanh, thiếu niên hiện nay, đó cũng sẽ là một trong những nguyên

nhân cơ bản làm phát sinh, phát triển của các loại tội phạm hình sự đặc biệt là

loại tội phạm trộm cắp tài sản.

- Tài sản có giá trị của người dân ngày một nhiều, chủ tài sản chủ quan,

mất cảnh giác, không có biện pháp để bảo vệ tài sản một cách hiệu quả. Đây

sẽ là nguyên nhân, điều kiện cho loại tội phạm này hoạt động. Bên cạnh đó,

quá trình đô thị hóa nhanh chóng sẽ hình thành các khu dân cư tập trung

nhiều gia đình khá giả, có mức sống cao, tập trung nhiều tài sản có giá trị.

Đây là điều kiện làm gia tăng tội phạm trộm cắp tài sản.

- Với lợi thế về du lịch, hàng năm số lượng khách du tịch từ khắp nơi về

đây thăm quan, du lịch, khám phá, đây cũng là một trong những điều kiện

thuận lợi cho tội phạm tội phạm trộm cắp tài sản lợi dụng để gây án.

- Tội phạm trộm cắp tài sản là tội phạm nguy hiểm và gây nên nhiều bức

xúc, lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần tập trung đấu tranh, song với

lực lượng mỏng, trình độ năng lực không đồng đều, các phương tiện trang bị

còn thiếu, lạc hậu, kinh phí hạn chế... nên trong thời gian tới công tác phòng

ngừa đối với loại tội phạm này sẽ gặp rất nhiều khó khăn và hiệu quả đạt

được sẽ không cao.

- Ngoài ra, thực tế 5 năm qua cho thấy, mặc dù các cơ quan chức năng đã

có rất nhiều cố gắng trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp

tài sản nhưng hiệu quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế chưa như mong muốn,

tỉ lệ điều tra khám phá còn thấp. Mức án dành cho đối tượng phạm tội trộm

cắp tài sản nói chung còn thấp chưa có tác động mạnh đến đối tượng đang có ý

định hoặc tiếp tục phạm tội.

3.1.2. Nội dung dự báo

Qua nghiên cứu, phân tích về tình hình hoạt động hiện nay của tội phạm

61

trộm cắp tài sản, cùng với các chính sách phát triển kinh tế xã hội của tỉnh

Quảng Bình cũng như những nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tội phạm, có

thể nhận định trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, tình hình hoạt

động của các loại tội phạm hình sự nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói

riêng sẽ còn diễn biến phức tạp thể hiện ở các mặt sau đây:

- Hoạt động của các loại tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình vẫn tiếp tục gia tăng, mức độ nguy hiểm của loại tội này ngày

càng cao.

- Các phương thức, thủ đoạn hoạt động của loại tội phạm này sẽ ngày

càng đa dạng, phức tạp, tinh vi hơn, có xu hướng cấu kết, móc nối hình thành

các băng, nhóm chuyên tổ chức trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản. Những băng

nhóm này sẽ tiến đến hoạt động liên tỉnh, liên quan đến nhiều địa bàn khác

nhau. Do đó loại tội phạm này ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới vẫn tiếp

tục diễn biến phức tạp.

- Về địa bàn mà đối tượng thực hiện tội phạm sẽ vẫn tập trung ở địa bàn

dân cư đông đúc, các khu vực tập trung nhiều khách du lịch, nơi tập trung

nhiều tài sản nhưng công tác bảo vệ còn nhiều sơ hở như khu dân cư lao

động, khu công nghiệp, khu chế xuất, các nhà ga, bến xe, trường học, cơ quan

nhà nước, bệnh viện, các trung tâm thương mại và tập trung vào các thời điểm

ít người đi lại trên đường hoặc tại các địa bàn giáp ranh với tỉnh Hà Tĩnh,

Quảng Trị… Ngoài ra, các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội tại các địa

bàn miền núi, xa trung tâm, người dân sơ hở, mất cảnh giác trong bảo vệ tài

sản, lực lượng chức năng thiếu và mõng.

- Về đối tượng phạm tội sẽ phức tạp hơn tập trung là những thanh niên

chưa có việc làm, nghề nghiệp không ổn định và số đối tượng côn đồ hung

hãn, có nhân thân xấu, lười lao động, kém tu dưỡng, tham gia các tệ nạn xã

hội không chịu sự quản lý giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và chính

62

quyền địa phương ở độ tuổi từ 18 - 30. Ngoài các đối tượng lưu manh chuyên

nghiệp, có tiền án, tiền sự tại địa phương thì số đối tượng hoạt động lưu động

từ các tỉnh khác đến như: Hà Tĩnh, Quảng trị, Thừa Thiên Huế… sau khi gây

án trốn về địa phương đễ lẩn trốn, tiếp tục gây án và các đối tượng nghiện ma

túy, nghiện cờ bạc, cá độ bóng đá phạm tội này có chiều hướng gia tăng.

- Về tài sản các đối tượng phạm tội thường hướng đến vẫn là những loại

tài sản nhỏ gọn, có giá trị như: Tiền, vàng, kim đá quý, các loại thiết bị cá

nhân như điện thoại di động, máy tính xách tay, xe máy và một số trang thiết

bị, vật dụng khác. Trong đó xe máy là tài sản bị mất có chiều hướng gia tăng

trong những năm gần đây nhất là các loại xe đời mới có giá trị cao như xe SH,

Exciter, Air Blade…

Từ những dự báo trên có thể nhận thấy rằng: Trong những năm tới trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình, tội phạm trộm cắp tài sản vẫn tiếp tục diễn biến

phức tạp, là đối tượng cần tập trung đấu tranh đã xác định trong công tác bảo

vệ ANTT trên địa bàn. Bên cạnh đó, công tác phòng ngừa đối với loại tội

phạm này cũng hết sức khó khăn. Vì vậy, Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp,

các cơ quan chức năng trong thời gian tới cần tập trung lực lượng, phương

tiện, các biện pháp phòng ngừa, đổi mới việc áp dụng các biện pháp nghiệp

vụ, nhất là phải chấn chỉnh và không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý

chí tiến công trong công tác phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với loại tội phạm

này, góp phần ổn định tình hình ANTT trên địa bàn tỉnh.

3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

3.2.1. Nâng cao nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp

tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

Công tác phòng ngừu tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp

tài sản nói riêng là sự chung tay của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến

63

địa phương, của tất cả các ban, ngành, đoàn thể, của toàn thể nhân dân chứ

không riêng ai. Tuy nhiên, hiện nay, một số ban, ngành đoàn thể xem đó là

nhiệm vụ của lực lượng Công an, thờ ơ với công tác phòng ngừa tội phạm nói

chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng hoặc đùn đẩy trách nhiệm, thực

hiện cho có lệ. Một bộ phận quần chúng nhân dân không mạnh dạng tố giác

tội phạm, xem đó không phải trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Một số cán bộ

làm trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án

còn có hành vi bao che, là sai lệch hồ sơ… cho tội phạm, làm cho công tác

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản có phần ảnh hưởng, hiệu quả

không như mong muốn. Chính vì vậy, một trong những nội dung quan trọng

trong công tác phòng ngừa tội phạm ma túy là tăng cường nhận thức về công

tác phòng ngừa tình hình tội phạm đối với các chủ thể phòng ngừa.

Thường xuyên chỉ đạo lực lượng Công an phối hợp chặt chẽ với các

ngành, đoàn thể và nhân dân tập trung làm tốt công tác phòng chống tội phạm

trộm cắp tài sản, tệ nạn xã hội bằng các giải pháp như tuyên truyền trên loa

đài, tuyên truyền lồng ghép trong các cuộc họp, hội nghị về các phương thức

thủ đoạn hoạt động và các biện pháp phòng ngừa đối với các loại tội phạm,

trong đó có tội phạm trộm cắp tài sản. Kịp thời phối hợp xử lý, giải quyết các

vụ việc phức tạp, trọng án, các băng nhóm tội phạm.

Cần phát huy hơn nữa “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân cư, Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ và phòng chống tội

phạm”; Quan tâm đến công tác tôn giáo - dân tộc, đảm bảo quyền tự do tín

ngưỡng của nhân dân và tạo điều kiện cho đồng bào có đạo tham gia sinh hoạt

tôn giáo đúng pháp luật.

Cần phát huy hơn nữa vai trò của quần chúng nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản. Muốn vậy phải làm cho dân tin

tưởng vào Chính quyền, vào Đảng, vào lực lượng Công an, biết lắng nghe

64

ý kiến của dân, giúp dân phát triển kinh tế, xã hội, không hách dịch, quan

liêu với dân...Có như vậy, người dân mới hưởng ứng lời kêu gọi, các cuộc

phát động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng

những cơ sở tốt trong dân, khen thưởng kịp lúc những người dân mạnh

dạng, tố giác chính xác tội phạm, tạo ra môi trường sống lành mạnh không

có tội phạm trên địa bàn, góp phần giữ vững ANTT tại địa phương.

3.2.2. Nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng ngừa tình hình tội

phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

3.2.2.1. Về biện pháp kinh tế - xã hội

- Tập trung thu hút và phát triển mạnh các ngành công nghiệp, thực

phẩm, công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp, nông thôn, du lịch... đặc biệt

có những chính sách mở để thu hút đầu tự, phát triển các khu du lịch thiên

nhiên, du lịch tâm linh nhằm phát huy tốt nhất thế mạnh sẵn có của tỉnh.

- Giải quyết việc làm cho người lao động.

Phát triển đi đôi với giải quyết công ăn việc làm, giảm dần tỷ lệ thất

nghiệp, thu nhập thấp, nhất là số người trong độ tuổi lao động.

3.2.2.2. Về biện pháp văn hóa – giáo dục

- Về văn hóa.

Đảng bộ và chính quyền tỉnh cần đề ra và triển khai nhiều chương trình,

đề án xây dựng và phát triển văn hóa tích hợp với từng giai đoạn phát triển.

Qua đó, tập trung được nguồn lực tinh thần và vật chất cần thiết để thực hiện

thắng lợi các chương trình, đề án này.

Phải luôn coi trọng vấn đề xây dựng và phát triển toàn diện con người,

xem đây là mục tiêu hàng đầu, là khâu then chốt trong xây dựng và phát triển

văn hóa của tỉnh.

Nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân bằng cách đầu tư

nhiêu sân chơi lành mạnh, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể

65

dục thể thao cho nhân dân tích cực tham gia. Đầu tư thích đáng nhiều sản

phẩm văn hóa có giá trị tư tưởng, nghệ thuật, có nội dung nêu cao tinh thần

yêu nươc, lòng tự hào dân tộc. Quan tâm gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, học tập những luồng văn hóa, tư tưởng tiến

bộ của nhân loại... từ đó hạn chế các hành vị phạm tội.

Vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa làm cơ sở xây dựng, phát

triển khối đại đoàn kết dân tộc. Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho

người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, thu hẹp mức chênh lệch về

hưởng thụ văn hóa với khu vực đồng bằng, ven biển.

- Về giáo dục

Để thực hiện tốt vấn đề này, trong thời gian tới chính quyền và nhân dân

tỉnh cần thực hiện tốt những vấn đề sau:

Tiếp tục hoàn thiện xây dựng các trường chuẩn quốc gia, mở rộng quỹ

đất xây dựng về giáo dục, trang bị các trang thiết bị dạy và học đảm bảo ở các

cấp, đổi mới phương pháp dạy - học, tăng cường năng lực chuyên môn cho

giáo viên đứng lớp, tăng cường công tác giáo dục về đạo đức, lối sống, các

hành vi vi phạm pháp luật về giao thông, hình sự, ma túy...ở các cấp học.

Tăng cường kinh phí cho giáo dục nhiều hơn nữa bên cạnh đó cần phải tiến

hành xã hội hóa giáo dục ở các cấp, hiện nay chỉ ở cấp mầm non, tiểu học, còn

trung học cơ sở, phổ thông và đại học chưa thực hiện hoặc có nhưng ít.

Ban Tuyên giáo, chính quyền các cấp cần phối hợp nhà trườn, gia đình

để tuyên truyền, động viên các em đến trường, đặc biệt những gia đình có

hoàn cảnh khó khăn, ở vũng núi, vùng sâu. Có những chế độ đãi ngộ đối với

các gia đình chính sách, hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn. Như vậy, sẽ góp

phần hạn chế đối tượng xấu lôi kéo các em vào con đường phạm tội.

Cần đa dạng hóa các hình thức giáo dục trong đó chú trọng giáo dục

nghề cho bộ phận thanh thiếu niên, nhất là thanh thiếu niên hư, những người

66

sau cai nghiện, những người không có công ăn việc làm, những người lầm lỡ,

người có tiền án tiền sự về các tội xâm phạm sở hữu. Đây là một trong những

giải pháp phòng ngừa có hiệu quả tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh.

Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong

khâu giáo dục: Gia đình là tế bào của xã hội, đây là yếu tố quan trọng trong

quá trình hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó, cần có sự phối

kết hợp giữa nhà trường gia đình và xã hội trong việc quản lý, giáo dục học

sinh. Nhà trường cần quan tâm, phối hợp chặt chẽ với gia đình để tìm hiểu

tâm lý, tình cảm của từng học sinh. Cần phải đổi mới phương pháp dạy và học

vừa dạy kiến thức văn hóa vừa dạy về kỹ năng sống.

3.2.2.3. Về tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục ý thức cảnh giác,

vận động quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tội phạm

trộm cắp tài sản

- Trước hết, phải áp dụng các hình thức, biện pháp, nội dung tuyên

truyền phù hợp để thay đổi nhận thức, tâm lý, thói quen… đã ăn sâu vào tiềm

thức của người dân. Ví dụ, nhận thức cho rằng mất tài sản là do “xui xẻo”,

“của đi thay người” hoặc thói quen “khoe của”, mang theo nhiều tài sản quý

giá, đắt tiền khi tham gia các hoạt động nơi công cộng... Tuyên truyền để

người dân nhận thức được chúng ta hoàn toàn có thể bảo vệ tài sản của cá

nhân, của gia đình, đề phòng đối tượng chiếm đoạt. Đồng thời tuyên truyền để

người dân tố giác tội phạm, trình báo cơ quan Công an khi bị đối tượng chiếm

đoạt tài sản phục vụ thống kê tội phạm, điều tra khám phá tội phạm…

- Phát huy những mặt tích cực đã đạt được đồng thời khắc phục những

hạn chế, tồn tại, ít hiệu quả trong công tác tuyên truyền thời gian qua như:

Việc tiến hành tuyên truyền chưa thường xuyên, chưa coi trọng đúng mức,

nội dung còn đơn điệu, hình thức chưa thật sự đổi mới, phương pháp chưa

gắn với đối tượng và đặc điểm địa bàn, khu dân cư. Lực lượng Công an cấp

67

huyện chưa thể hiện vai trò chủ công, chưa tranh thủ sự phối hợp, giúp đỡ của

các chủ thể có liên quan trong công tác tuyên truyền.

- Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào: Phương thức, thủ đoạn hoạt

động của tội phạm; những sơ hở, mất cảnh giác của người dân dễ bị đối tượng

hoạt động phạm tội. Cảnh báo những địa bàn, khu vực thường xảy ra tội

phạm; cảnh báo những đối tượng, thành phần xã hội có nguy cơ thực hiện

hành vi phạm tội để người dân có ý thức đề phòng; trách nhiệm của các cơ

quan nhà nước, tổ chức xã hội, gia đình và mọi công dân trong phòng chống

tội phạm, hướng dẫn quần chúng nhân dân cách thức bảo vệ tài sản của cá

nhân, gia đình, cơ quan, xí nghiệp cũng như thay đổi các thói quen trong cuộc

sống, sinh hoạt; tác hại của các loại văn hoá phẩm phản động, đồi trụy, kích

động bạo lực, lối sống gấp để nhân dân tự mình hoặc phối hợp với các cơ

quan chức năng phát hiện, thu hồi và xử lý ngăn ngừa các tác động xấu đến tư

tưởng, lối sống và hành động, nhất là đối với thanh, thiếu niên; những gương

người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến xuất sắc trong công tác phòng

ngừa, ngăn chặn tội phạm trộm cắp tài sản.

- Về phương pháp tuyên truyền: Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới phương

pháp tuyên truyền, mục đích làm sao các thông tin liên quan đến hoạt động tội

phạm trộm cắp tài sản được truyền tải đến người dân, nhất là người dân ít có

điều kiện tiếp cận thông tin, có nhiều hạn chế, khiếm khuyết trong bảo vệ tài

sản. Theo tác giả, ngoài các phương pháp tuyên truyền trước đây, cần chú

trọng vào một số cách làm cụ thể:

+ “Cảnh báo” những khu vực, địa điểm thường xuyên xảy ra các vụ trộm

cắp tài sản: Lắp đặt các bảng (Ví dụ: “Khu vực này thường xuyên xảy ra các

vụ vụ trộm cắp tài sản, người dân cần đề phòng!); phát thanh nội dung cảnh

báo các vụ vụ trộm cắp tài sản tại khu vực chợ, trung tâm thương mại, khu

vực đông dân cư, các điểm dừng đèn đỏ trên các tuyến đường gần với các địa

68

điểm du lịch, bãi biển (Ví dụ: Hiện nay có một số đối tượng trộm cắp tài sản

đang hoạt động tại các khu vực… người dân cần cảnh giác, đề phòng!).

+ Nghiên cứu mở thêm chuyên mục “Câu chuyện cảnh giác” để phát

sóng trên đài phát thanh, truyền hình. Nội dung cụ thể: Các vụ án đã xảy ra

liên quan đến tội phạm trộm cắp tài sản để người dân có ý thức phòng tránh,

đồng thời nêu gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt về tinh thần

cảnh giác, tích cực đấu tranh chống tội phạm.

Khi làm tốt công tác tuyên truyền, người dân sẽ nâng cao ý thức, nhận

thức trong phòng ngừa tội phạm, tự quản lý, bảo vệ tài sản của cá nhân, của

gia đình. Sẽ đạt hiệu quả hơn nếu người dân vận động những người xung

quanh cùng tham gia phòng ngừa, tố giác tội phạm một cách rộng khắp. Để

vận động quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tội phạm

trộm cắp tài sản có hiệu quả, theo tác giả cần tập trung vào các nội dung cụ

thể sau:

- Cần tổng kết việc xây dựng và triển khai thực hiện các mô hình và

phong trào tự quản trong phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản tại địa

phương như: Mô hình “Tổ dân cư tự quản”, “Khu phố an toàn về an ninh trật

tự”, “Đoạn đường an toàn về an ninh trật tự”…Qua tổng kết xác định hiệu

quả đạt được, những hạn chế, tồn tại cần khắc phục, những vấn đề phát sinh

cần tập trung nghiên cứu, giải quyết trong thời gian đó. Tiếp tục nhân rộng

các mô hình thực tế hoạt động có hiệu quả, đề xuất khen thưởng cá nhân, tập

thể có nhiều thành tích trong phong trào toàn dân phòng ngừa, tố giác tội

phạm để động viên, khuyến khích họ nhiệt tình tham gia.

- Cần tiếp tục phát huy vai trò của trụ cột: Gia đình - nhà trường - xã hội

trong phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản. Vận động, hướng dẫn cha mẹ,

những người có trách nhiệm chính trong gia đình hướng dẫn con em của họ ý

thức bảo vệ tài sản, nhất là con cái trong độ tuổi cắp sách đến trường. Phối

69

hợp với nhà trường tham gia quản lý tốt giờ giấc của học sinh, ngăn chặn các

yếu tố tiêu cực từ môi trường xã hội bên ngoài tác động vào các em, nhất là

các em dễ bị dụ dỗ, lôi kéo đi vào con đường phạm tội. Bên cạnh đó mỗi gia

đình hãy nâng cao ý thức phòng ngừa tội phạm, vận động bà con trong xóm,

khu vực kinh doanh buôn bán áp dụng các biện pháp để quản lý tốt tài sản của

cá nhân, gia đình. Để tạo ra phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm

cắp tài sản một cách rộng khắp, lực lượng Công an cần phải phát huy tốt vai

trò tham mưu, hướng dẫn của mình, nhất là phải phối hợp chặt chẽ với cơ

quan, ban ngành đoàn thể xã hội tại địa phương vận động tổ chức nhân dân

thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở

khu dân cư”, xây dựng các phong trào “Thôn xóm, bản làng văn hoá.., “Khu

công nhân an toàn không có tội phạm”; thực hiện nếp sống văn minh, gia đình

văn hoá “Gia đình 6 chuẩn mực”, “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu trung

hiếu” nhằm xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, kiên quyết đấu tranh lên

án và từng bước xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực ngay ở trong mỗi gia đình,

mỗi cộng đồng dân cư, góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm

trộm cắp tài sản nói riêng.

- Phát động quần chúng nhân dân phát hiện, tố giác tội phạm, đảm bảo

mọi hành vi phạm tội phải được ngăn chặn, xử lý một cách kịp thời. Qua đó

làm giảm tỷ lệ ẩn của tội phạm, tạo điều kiện an toàn để người dân tham gia

sản xuất, kinh doanh. Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân

dân trong việc quản lý, giám sát chặt chẽ và giáo dục, cảm hóa đối tượng tù

tha ở địa phương. Đa số các đối tượng phạm tội phạm trộm cắp tài sản đều

không có nghề nghiệp ổn định nên nếu giám sát chặt chẽ, quản lý tốt các đối

tượng không có nghề nghiệp, có biểu hiện hoạt động gây án, các đối tượng tù

tha này thường xuyên có hoạt động nghi vấn gây án để sớm phát hiện và kịp

70

thời ngăn chặn những hành vi phạm tội.

3.2.2.4. Về biện pháp quản lý trật tự xã hội

- Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, quản lý người có tiền án, tiền sự,

người có nhân thân xấu và người mắc các tề nạn xã hội cần được nâng cao và

đổi mới. Chính quyền địa phương phải thường xuyên theo dõi, lập hồ sơ đối

với những đối tượng đã có tiền án, tiền sự, đối tượng lang thang, không nghề

nghiệp, có biểu hiện nghi vấn liên quan tới hoạt động tội phạm. Đặc biệt là

những đối tượng vừa mãn hạn tù, đã bị kết án về các tội xâm phạm sở hữu,

người mắc các tề nạn xã hội như nghiện ma túy, cờ bạc.... bên cạnh đó cần tạo

điều kiện cao nhất cho họ tái hòa nhập cộng đồng, phòng ngừa họ tái phạm.

- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý địa bàn, khu vực trọng điểm về

phạm tội trộm cắp tài sản. Cần tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tuần

tra, kiểm soát ở những địa bàn trọng điểm, phức tạp về ANTT, những khu

vực tập trung nhiều loại tài sản nhưng lại ít có người canh gác. Tăng cương

tuần tra vào những khoảng thời gian dể xảy ra trộm cắp tài sản như vào ban

đêm, thời gian người dân đi làm vắng nhà; lắp đặt thêm hệ thống đèn chiếu

sáng tại những nơi khuất, vắng người.

- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý cơ sở, ngành nghề kinh doanh có

điều kiện: Các dịch vụ cầm đồ, của hàng mua bán điện thoại, xe máy củ là

những nơi mà các đội tượng phạm tội trộm cắp tài sản thường lợi dụng hoặc

móc nối để tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.

- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, đăng ký quản lý cư trú, tăng cường

kiểm tra hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng, trong đó tập trung vào những địa bàn

trọng điểm, phức tạp về ANTT, nhất là các cơ sở cho thuê trọ bình dân, cho

71

thuê lưu trú tại địa bàn giáp danh phức tạp.

3.2.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm

trộm cắp tài sản

- Đối với cơ quan Công an.

Tiến hành rà soát biên chế, tổ chức toàn tỉnh để có cơ sở bố trí lại cho

phù hợp dựa vào điều kiện địa bàn, thực trạng hoạt động phòng, chống tội

phạm trong thời gian qua, chú ý ưu tiên lực lượng cho Công an cấp huyện,

thành phố. Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình

độ về mọi mặt cho lực lượng Công an.

Duy trì các hoạt động tuần tra trên các tuyến, địa bàn trọng điểm phức

tạp về ANTT, địa bàn giáp ranh; triển khai thực hiện hiệu quả các biện pháp

phòng, chống tội phạm, trong đó tập trung cao công tác nắm tình hình, rà soát

địa bàn liên quan đến hoạt động tội phạm trộm cắp tài sản… nhằm phát hiện,

đấu tranh kịp thời các đường dây ổ nhóm, đối tượng hoạt động tội phạm trộm

cắp tài sản.

Nâng cao hiệu quả công tác nghiệp vụ như: Cần duy trì thực hiện thường

xuyên, liên tục công tác điều tra cơ bản địa bàn, khu vực trọng điểm, tuyến,

hệ loại đối tượng để thu thập đầy đủ thông tin, số liệu, tài liệu phục vụ công

tác phòng ngừa tình hình tội phạm; Bố trí đủ lực lượng, tiến hành sưu tra

đúng, đủ, xác định rõ những đối tượng có khả năng phạm tội để phòng ngừa.

Quá trình sưu tra phải thường xuyên, liên tục, hồ sơ cá nhân đối tượng sưu

tra, hồ sơ chuyên đề công tác sưu tra theo hệ đối tượng trộm cắp tài sản phải

được cập nhật thường xuyên; Nâng cao tỷ lệ xác lập hiềm nghi liên quan đến

tội phạm trộm cắp tài sản từ công tác sưu tra, giảm tỷ lệ số hiềm nghi xác lập

nằm ngoài diện sưu tra. Có như vậy mới đảm bảo tính chủ động trong phòng

ngừa tội phạm; Xây dựng, bố trí đủ số lượng đặc tình, cơ sở bí mật để quán

xuyến toàn bộ địa bàn chú ý các khu vực, địa bàn, tuyến trọng điểm có khả

72

năng xảy ra các vụ trộm cắp tài sản như: Khu vực đông dân cư; các khu công

nghiệp, khu du lịch, địa bàn giáp ranh, khu vực có nhiều bãi đỗ xe, kho

hàng...

Bên cạnh đó, giao Công an tỉnh tập trung thực hiện hiệu quả đợt cao

điểm tấn công trấn áp tội phạm. Nâng cao mối quan hệ phối hợp với các chủ

thể khác có liên quan trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp

tài sản. Cần tham mưu ban hành quy chế phối hợp, trong quy chế phải xác

định cụ thể trách nhiệm, nhiệm vụ của từng lực lượng; những trường hợp các

lực lượng cần phải thông báo cho nhau ngay để tổ chức triển khai các hoạt

động phối hợp. Quy định rõ chế tài xử lý nghiêm đối với những cá nhân, đơn

vị không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với nội dung quy định của

Quy chế. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động

phối hợp giữa chủ thể tham gia.

Lực lượng Công an tỉnh cần thực hiện tốt vai trò của mình hơn nữa trong

quá trình đấu tranh phá án, tăng cường khám phá các vụ án chưa rõ, cần bắt

quả tang đối tượng cùng tang vật, có đầy đủ chứng cứ rõ ràng, thu giữ tang

vật phải đảm bảo từ đó góp phần làm giảm tỉ lệ tội phạm ẩn, đảm bảo ANTT

trên địa bàn.

Bộ Công an, Công an tỉnh, chính quyền tỉnh Quảng Bình cần phải chủ

động đầu tư mới và trang bị thêm các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật

nghiệp vụ hiện đại nhằm phục vụ có hiệu quả trong công tác phòng ngừa tội

phạm như: Máy định vị, ống nhòm hồng ngoại, các loại camera, máy ảnh kỹ

thuật số..

- Đối với Viện kiểm sát nhân dân.

Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình

hình tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng VKSND cần tăng cường bổ sung

thêm về cả số lượng và chất lượng cán bộ để có đủ khả năng hoàn thành tốt

73

nhiệm vụ đã đặt ra. Bên cạnh đó, VKSND cần thực hiện tốt vai trò của mình

hơn nữa trong việc giám sát cơ quan điều tra trong quá trình điều tra, thực

hiện quyền truy tố đối tượng trước pháp luật. Các trường hợp chứng cứ không

đảm bảo VKS không được phê chuẩn, các trường hợp nhận thấy có dấu hiệu

của bức cung, mớm cung, nhục hình...VKS cần phải biết để kiến nghị cơ quan

có thẩm quyền điều tra, tránh oan sai; các trường hợp cần mở rộng điều tra

VKS cần mạnh dạng trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung làm rõ

vụ án, đối tượng. Quá trình phê chuẩn các lệnh bắt đối tượng, gia hạn phải

đảm bảo đúng quy định, tránh các trường hợp cả nể, thân quen, bắt trước phê

chuẩn sau.

Tăng cường công tác bồi dưỡng về nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo để

nâng cao trình độ điều tra tội phạm, giám sát chặt chẽ từ khi khởi tố vụ án.

Tăng cường mối quan hệ phối hợp với các chủ thể khác đặc biệt là cơ quan

Công an, Tòa án nhân dân trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản.

- Đối với Tòa án nhân dân.

TAND cần tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động xét xử

lưu động đối với các vụ án về trộm cắp tài sản. Công tác này cần được thực hiện

thường xuyên, rộng rãi trên tất cả các địa phương trong toàn tỉnh trong đó chú trọng

những địa bàn, khu vực phức tạp về ANTT, các địa bàn, khu vực thường xuyên xẩy

ra các vụ trộm cắp tài sản, có nhiều tệ nạn xã hội nhằm tuyền truyền, giáo dục ý

thức cho người dân và răn đe các đối tượng đang có ý định thực hiện hành vi phạm

tội. Việc xét xử các vụ án cần đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không

để xảy ra tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác

bồi dưỡng về nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo để nâng cao trình độ xét xử các vụ án

trộm cắp tài. Tăng cường mối quan hệ phối hợp với các chủ thể khác đặc biệt là cơ

quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân trong công tác phòng ngừa tình hình tội

74

phạm trộm cắp tài sản.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2014 đến năm 2018, nguyên

nhân của tội phạm ở chương 2, trong chương 3 tác giả đã đưa ra những nội

dung cơ bản như: Dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình trong thời gian tới gồm có cơ sở dự báo và nội dung dự báo. Từ

những nguyên nhân cũng như dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, tác

giả đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời

75

gian tới.

KẾT LUẬN

Phòng ngừa tình hình tội phạm vai trò đặc biệt trong quá trình bảo về

tình hình ANTT, là vấn đề cần được nhận thức và có sự quan tâm của toàn

Đảng, toàn dân và toàn xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị và đảm

bảo trật tự an toàn xã hội cảu đất nước tra trong tinhg hình hiện nay.

Với ý nghĩa đó, hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng luôn được cấp ủy Đảng, chính quyền

và nhân dân toàn tỉnh quan tâm. Thực tế cho thấy, trong 05 năm qua, dù đã có

nhiều cố gắng nhưng hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chưa đạt được kết quả như mong

muốn, nguyên nhân, điều kiện hoạt động của tội phạm chưa được phát hiện,

khắc phục, xóa bỏ một cách cơ bản, tội phạm vẫn còn xảy ra nhiều nhưng kết

quả điều tra khám phá hàng năm chưa cao. Do đó, việc nghiên cứu một cách

toàn diện thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nhằm đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm trên

cơ sở kết quả đạt được, phát hiện những sơ hở thiếu sót cũng như những

vướng mắc và nguyên nhân của nó là hết sức cần thiết.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ thực

trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình. Đồng thời, qua phân tích tình hình hoạt động của tội phạm

này từ năm 2014 đến năm 2018, những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm,

những ưu điểm và tồn tại hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm của chính quyền các cấp và nhân dân tỉnh Quảng Bình, luận văn đã đưa

ra một số giải pháp góp phần kiềm chế sự phát triển và làm giảm dần tội

phạm, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

76

trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.

Trên đây là kết quả mà luận văn đạt được trong quá trình nghiên cứu, hy

vọng rằng những nội dung giải pháp trên sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi

cho chính quyền các câp và nhân dân tỉnh Quảng Bình áp dụng triển khai thực

hiện có hiệu quả trong quá trình tổ chức phòng ngừa tình hình tội phạm tộm

77

cắp tài sản trong thời gian tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương - Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ/TW,

ngày 02/01/2002 về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới.

2. Ban chỉ đạo 138 của Chính phủ (1999), Kế hoạch số 01/BCĐ 138/CP, ngày

10/12/1998 của Chính phủ và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.

3. Ban chỉ đạo 138 của Chính phủ (2012), Kế hoạch số 271/KH - BCĐ 138/CP

ngày 20/11/2012 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống

tội phạm giai đoạn 2012 - 2015.

4. Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm, Đề án II Xây dựng

và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tội phạm; tăng cường tuyên truyền

giáo dục pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo vệ an ninh trật tự.

5.

Phạn Thị Bé (2014), “Tội trộm cắp tài sản tại tỉnh Quảng Nam: Tình hình,

nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện

khoa học xã hội.

6. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020.

7. Bộ chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình

mới.

8. Bộ Công an (1999), Kế hoạch số 358/KH-BCA ngày 12/4/1999 thực hiện Nghị

quyết 09/CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ.

9. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng cường công

tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

10. Chính phủ (2011), Nghị định 80/2011/NĐ-CP Quy định Các biện pháp bảo

đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù.

11. Công an tỉnh Quảng Bình (2014 – 2018), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm về TTXH các năm 2014 – 2018.

12. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (2010-2015), Văn kiện Đại hội nhiệm kỳ 2010-2015.

13. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (2016-2020), Văn kiện Đại hội nhiệm kỳ 2016-2020.

14. Nguyễn Minh Đoan, Lê Hồng Hạnh, Lê Minh Tâm (2010), Giáo trình Lý luận

và pháp luật, NXB CAND, Hà Nội

15. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết 01/2006/NQ-

HĐTP ngày 12/5/2006 của hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật

Hình sự năm 1999.

16. Lê Minh Hùng (2011), Tội trộm cắp tài sản trện địa bàn tỉnh Bình Phước: tình

hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống, Luận văn thạc sỹ luật học, Học

Viện Khoa Học Xã Hội - Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Nguyễn Việt Hùng (2014) “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều

tra tội trộm cắp tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã

hội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Cảnh

sát nhân dân.

18. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa Hà Nội (1999), Từ điển luật học, Hà Nội.

19. Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm,

Tập II, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam (được sửa đổi, bổ

sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam, Nxb Lao

động, Hà Nội.

22. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

23. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.

24. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.

25. Nguyễn Anh Tấn, thực hiện (2013) “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sỹ

luật học, Học viện khoa học xã hội.

26. Trần Văn Thắng (2012), Tội trộm cắp tài sản trện địa bàn tỉnh Bình Dương:

tình hình, nguyên nhân và gỉải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát nhân

dân, Luận văn thạc sỹ luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội.

27. Phạm Văn Tỉnh (2008), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở

nước ta hiện nay - Mô hình lý luận, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số

6/2008).

28. Phạm Văn Tỉnh (2009), Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm, Tạp

chí Nhà nước và Pháp luật, (số 4/2009).

29. Phạm văn Tỉnh (2013), Bài giảng tội phạm học, khoa Luật, Học viện Khoa

học Xã hội.

30. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình (2014-2018), Bản án của các vụ án trộm

cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

32. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (2001), Giáo trình Tổ chức hoạt động

phòng ngừa, phát hiện và điều tra tội phạm cụ thể thuộc chức năng của Cảnh

sát hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

34. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2010), Tập bài giảng Tội phạm học.

35. Trịnh Tiến Việt (2008), Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm

học, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, (số 24).

36. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh, Trần Văn Độ, Trần Đình Nhã, Nguyễn Ngọc

Hòa, Đặng Quang Phương, Ngô Ngọc Thủy, Phạm Văn Tỉnh (1994), Tội

phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

37. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, (2014-2018), Báo cáo tình hình Kinh tế -

xã hội tỉnh Quảng Bình năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018.

38. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, (2014-2018), Thống kê tội phạm

hình sự từ năm 2014 đến năm 2018.

39. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, (2011-2015), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018.

40. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2005, Tội phạm học Việt Nam –Một

số vần đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Đại học Huế - Trung tâm

đào tạo từ xa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42.

Võ Khánh Vinh, Phạm Hồng Hải, Đào Trí Úc, Nguyễn Mạnh Kháng, Phạm

Văn Tỉnh (2000), Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

PHỤC LỤC

Bảng 2.1

THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG VÀ KẾT XỬ LÝ TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI

SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018

Năm

Phạm tội về TTXH

Trộm cắp tài sản

Số vụ

Số vụ

Số đối

Số đối

Thiệt hại

tượng

tượng

(Tr.đ)

1001

315

8.701.141

292

622

2014

853

293

8.696.685

271

538

2015

845

349

7.939.3

315

618

2016

862

301

8.976.697

277

585

2017

844

310

6.217.717

287

536

2018

Tổng

2899

4.409

1.442

1.568

40.531.540

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.2

SỐ VỤ VÀ SỐ NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN SO VỚI SỐ VỤ

VÀ SỐ NGƯỜI PHẠM TỘI VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018

Tội trộm cắp tài

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Phạm tội về TTXH

sản

Giai đoạn

phần

phần

2014 -

trăm

trăm

Số đối

Số vụ

Số vụ

Số đối tượng

2018

giữa

giữa

tượng

(1)

(3)

(4)

(1) và (3)

(2) và (4)

(2)

Tổng

1.442 1.568

2.899

4.409

49,7%

44,09%

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.3

CHỈ SỐ TỘI PHẠM VÀ CHỈ SỐ NGƯỜI PHẠM TỘI PHẠM TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM

2018 (TÍNH TRÊN 100.000 DÂN)

Số người

Chỉ số tội phạm

Chỉ số người

Năm

Số vụ

phạm tội Số dân

tính trên 100.000

phạm tội tính

dân

trên 100.000 dân

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)=2*100.000/4

(6)=3*100.000/4

2014

292

315

868.174

33,63

36,28

2015

271

293

872.925

31,04

33,56

2016

315

349

877.702

35,89

39,76

2017

277

301

881.302

31,43

34,15

2018

287

310

936.607

30,64

33,10

TB

288

313

878.342

32,78

35,64

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.4

CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LOẠI TỘI PHẠM

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018

Tội ít nghiêm

Tội nghiêm

Tội rất

Tội đặc biệt

Tổng

trọng

trọng

nghiêm trọng

nghiêm trọng

280 bị cáo

210

50

15

5

100%

75,00%

17,85%

5,35%

1,78%

Nguồn: 200 bản án hình sự sơ thẩm về tội trộm cắp tài sản

Bảng 2.5

CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO HÌNH THỨC

PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN

NĂM 2018

Số vụ trộm cắp tài

Số vụ có đồng phạm Số vụ phạm tội riêng lẻ

Năm

sản

35

2014

292

257

46

2015

271

225

58

2016

315

257

59

2017

277

218

73

2018

287

214

271

Tổng

1.442

1.171

18,79 %

Tỉ lệ (%)

100 %

81,21%

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.6

CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO ĐỊA BÀN PHẠM

TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018

Tỷ lệ

Địa bàn

Số vụ

182

Huyện Lệ Thủy

12,6%

106

Huyện Quảng Ninh

7,3%

306

TP Đồng Hới

21,2%

247

Huyện Bố Trạch

17,4%

242

Thị xã Ba Đồn

16,7%

140

Huyện Quảng Trạch

9,7%

112

Huyện Tuyên Hóa

7,7%

107

Huyện Minh Hóa

7,4%

Tổng

1.442

100%

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.7

CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO ĐỊA ĐIỂM PHẠM

TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018

Nơi phạm tội

Số vụ

Tỷ lệ %

Nhà dân

553

38,4%

Nhà trọ

382

26,4%

Cơ quan, Trường học

112

7,8 %

Nơi công cộng

288

20 %

Nơi khác

107

7,4%

Tổng

1.442

100%

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.8

CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO THỜI GIAN

PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN

NĂM 2018

Khoảng thời gian phạm tội

Số vụ

Tỷ lệ

0h – 6h

660

45,7%

6h – 12h

312

21,6%

12h – 18h

282

19,7%

18h – 24h

188

13%

Tổng số

1.442

100%

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.9

CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO TÀI SẢN BỊ

CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN

NĂM 2018

Tài sản bị chiếm đoạt

Số vụ

Tỷ lệ %

Tiền, vàng

643

44,6%

Xe máy, xe đạp điện, xe đạp

250

17,3%

Điện thoại

242

16,8%

Đồ dùng gia đình, đồ dùng cá nhân

195

13,5%

Tài sản khác

112

7,8%

Tổng

1.442

100%

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.10

CƠ CẤU CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO PHƯƠNG THỨC,

THỦ ĐOẠN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM

2014 ĐẾN NĂM 2018

Phương thức, thủ đoạn phạm tội

Số vụ

Tỷ lệ %

Sử dụng công cụ cạy phá để đột nhập vào

707

49,03%

nhà

Lợi dụng sơ hở của chủ tài sản trong quản

272

18,87%

Lợi dụng việc chen lấn, xô đẩy, mất trật tự

294

20,38%

ở nơi công cộng để móc túi

Phương thức, thủ đoạn khác

169

11,72%

Tổng

1.442

100%

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.11

CƠ CẤU THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM

CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN

NĂM 2018

Giới tính

Độ tuổi

Từ đủ 18 đến dưới

Từ đủ 30 tuổi trở

Nam

Nữ

Dưới 18 tuổi

30 tuổi

lên

1.454

114

268

895

405

92,72%

7,27%

17,10%

57,08%

25,82%

Tổng: 1.474 bị can = 100%

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.12

MỨC ĐỘ TĂNG GIẢM SỐ VỤ VÀ SỐ ĐỐI TƯỢNG PHẠM TỘI TRỘM

CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN

NĂM 2018

Tăng (+), giam (-)

Năm

Số vụ

Số đối tượng

Số vụ

Đối

tượng

2014

292

=

=

315

2015

271

-22

-21

293

2016

315

+56

+44

349

2017

277

-48

-38

301

2018

287

+9

+10

310

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.13

TỶ LỆ TĂNG GIẢM VỀ SỐ VỤ VÀ SỐ ĐỐI TƯỢNG PHẠM TỘI TRỘM

CẮP TÀI SẢN SO VỚI SỐ VỤ VÀ SỐ ĐỐI TƯỢNG PHẠM TỘI VỀ TRẬT

TỰ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN

NĂM 2018

Năm

Số vụ

Số đối

Số vụ

Số đối

Tỷ lệ (%)

phạm

tượng

phạm tội

tương

Số vụ

Số đối

tội về

phạm tội

TCTS

phạm tội

(3)với(1)

tượng

TTXH

về TTXH

(3)

TCTS

(4)với(2)

(1)

(2)

(4)

622

1001

292

315

46,9

31,46 %

2014

538

853

271

293

50,4

34,35 %

2015

618

845

315

349

50,9

40,3 %

2016

585

862

277

301

47,4

34,92%

2017

536

844

287

310

53,5

36,73 %

2018

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.14

MỨC ĐỘ TĂNG, GIẢM HÀNG NĂM CỦA SỐ NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM

CẮP TÀI SẢN BỊ KHỞI TỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM

2014 - 2018

Người bị xét xử

Tỷ lệ %

Năm

315

100%

2014

293

93,01% (giảm 6,99%)

2015

349

110,79% (tăng 10,79%)

2016

301

95,56% (giảm 4,44%)

2017

310

98,41% (giảm 1,59%)

2018

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.15

MỨC ĐỘ TĂNG HÀNG NĂM CỦA SỐ VỤ ĐỒNG PHẠM TRỘM CẮP TÀI

SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018

Số vụ đồng phạm

Tỷ lệ %

Năm

35

100%

2014

46

131,4%

2015

58

165,7%

2016

59

168,5%

2017

73

208,5%

2018

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.16

MỨC ĐỘ TĂNG HÀNG NĂM CỦA SỐ NGƯỜI TÁI PHẠM, TÁI PHẠM

NGUY HIỂM PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG

BÌNH TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018

Năm

Số người tái phạm, tái phạm

Tỷ lệ %

nguy hiểm

77

100%

2014

90

116,9%

2015

109

141,6%

2016

125

162,3%

2017

130

168,8%

2018

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Kính gửi: Các đồng chí là cán bộ, chiến sỹ trực tiếp tham gia hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình.

Để thực hiện tốt luận văn tốt nghiệp Cao học với đề tài “Phòng ngừa

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên tỉnh Quảng Bình”, là những cán bộ

có kinh nghiệm trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm xin đồng chí vui

lòng nêu ý kiến của mình bằng cách đánh dấu “X” vào ô tương ứng hoặc viết ý

kiến của mình theo các câu hỏi sau:

Tôi chân thành cảm ơn về sự cộng tác và giúp đỡ của các đồng chí!

Câu 1. Đồng chí có nhận định gì về tội phạm trộm cắp tài sản trên địa

bàn đồng chí công tác từ năm 2014 đến nay?

a) Về tính chất, mức độ nguy hiểm:

+ Đặc biệt nguy hiểm

:

+ Rất nguy hiểm

:

+ Nguy hiểm

:

+ Ít nguy hiểm

:

b)Về diễn biến số vụ phạm tội:

+ Có xu hướng tăng lên

:

+ Có xu hướng giảm xuống:

+ Tăng giảm không theo

quy luật :

+ Không tăng, không giảm: 

Câu 2. Thời gian gây án chủ yếu của các đối tượng phạm tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn đồng chí công tác?

a) Từ 6h đến 12h

:

b) Từ 12h đến 18h

:

c) Từ 18h đến 24h

:

d) Từ 0h đến 6h

:

Câu 3. Độ tuổi trung bình của đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản

chiếm tỷ lệ cao nhất là bao nhiêu?

a) Dưới 18 tuổi

:

b) Từ đủ 18 đến 30 tuổi :

c) Trên 30 tuổi

:

Câu 4. Địa điểm hoạt động, gây án chủ yếu của đối tượng phạm tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn đồng chí công tác?

Địa điểm gây án: - Cơ quan, trường học

:

- Trong nhà dân

:

- Nơi công cộng

:

- Địa điểm khác

:

Câu 5. Đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn

đồng chí đang công tác chủ yếu là:

a) Đối tượng là người địa phương, nắm rõ địa bàn hoạt động

:

b) Đối tượng ngoại tỉnh hoặc vùng giáp ranh

:

c) Các đối tượng nằm trong diện quản lý (sưu tra) của lực lượng trinh sát. :

d) Ý kiến khác:

……………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………..

Câu 6. Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trộm cắp tài

sản hiện nay trên địa bàn đồng chí công tác?

a) Nguyên nhân từ phía người phạm tội:

- Tham lam, ích kỷ, động cơ vụ lợi cá nhân mong muốn chiếm đoạt tài

:

sản

- Lang thang, thất nghiệp

:

- Nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện game online

:

- Mong muốn làm giàu bất chính

:

- Ý kiến khác:

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

b) Nguyên nhân từ bản thân người bị hại:

- Lơ là, mất cảnh giác trong bảo vệ tài sản của mình

:

- Ý kiến khác:

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

c) Nguyên nhân từ môi trường xã hội:

- Mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình độ thị hóa

:

- Sơ hở, thiếu sót của cơ quan quản lý nhà nước

:

- Việc xử lý tội phạm chưa nghiêm, chưa đủ sức ngăn ngừa

:

- Ý kiến khác:

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

Câu 7. Theo đồng chí, lực lượng làm công tác phòng ngừa tình hình

tội phạm hình sự nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản riêng ở đơn vị đồng

chí hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu chưa?

a) Về số lượng:

- Đủ

:

- Thiếu

:

- Rất thiếu

:

b) Về năng lực:

- Tốt

:

- Khá tốt

:

- Trung bình

:

- Chưa tốt

:

Câu 8. Điều kiện về cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện, kinh phí ở đơn

vị đồng chí đã đáp ứng yêu cầu phòng ngừa đối với tội phạm trộm cắp tài

sản chưa?

- Đáp ứng

:

- Chưa đáp ứng

:

- Chưa đáp ứng điều kiện cụ thể nào?

……………………………………………………………………………

……………………………..……………………………………………………

…………………………………

Câu 9. Theo đồng chí, việc điều tra, xử lý đối tượng phạm tội trộm cắp

tài sản tại địa phương đồng chí công tác như thế nào?

a) Nghiêm minh, đủ sức răn đe, ngăn ngừa

:

b) Chưa nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa

:

c) Ý kiến khác

……………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………..………………………………………………………

………………………………

Câu 10. Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản

trong thời gian tới, theo đồng chí, lực lượng Cảnh sát hình sự cần thực hiện

tốt những giải pháp nào sau đây?

a) Tăng cường các biện pháp phòng ngừa xã hội

- Phối hợp giáo dục cá biệt những người có điều kiện, hoàn cảnh phạm

tội để họ từ bỏ ý định phạm tội

:

- Tổ chức cho QCND phát hiện các biểu hiện nghi vấn của các đối tượng

để ngăn chặn kịp thời

:

- Phối hợp với Ban, Ngành giải quyết tình trạng thanh niên thất nghiệp,

nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nhận thức cho QCND

:

- Phối hợp xây dựng các mô hình tự quản, các phong trào tự quản trong

đấu tranh phòng chống tội phạm (tiếng mỏ an ninh, nghiệp đoàn xe ôm, hiệp sĩ

đường phố…)

:

- Phối hợp cơ quan truyền thông tuyên truyền ý thức cảnh giác tội phạm,

ý thức quản lý, bảo vệ tài sản cũng như phương thức, thủ đoạn hoạt động của

TPTCTS có tính chất chiếm đoạt

:

- Ý kiến khác:

………………………………………………………………………………

……………………..……………………………………………………………

…………

b)Tăng cường các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ

- Điều tra cơ bản, nắm chắc tình hình

:

- Làm tốt công tác sưu tra, quản lý đối tượng, đặc biệt là số đối tượng

trong diện nghi vấn hoạt động phạm tội

:

-Tăng cường công tác xác lập và xác minh hiềm nghi :

-Tập trung xây dựng và sử dụng có hiệu quả cộng tác viên bí mật nhằm

theo dõi, giám sát kịp thời đối tượng

:

- Ý kiến khác:

………………………………………………………………………………

……………………..……………………………………………………………

…………….……………………………………………………………….

c) Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát phát hiện đối tượng và đấu tranh

triệt xóa các băng, nhóm

- Phối hợp tuẩn tra, kiểm soát ở các tuyến, địa bàn trọng điểm, phức tạp

tập trung nhiều nguồn hàng, tài sản lớn, đối tượng phạm tội thường xuyên lui

tới

:

- Phối hợp xác minh truy bắt kịp thời các đối tượng trong diện truy

:

- Kịp thời đấu tranh triệt xóa các băng, nhóm TPTCTS có tính chất chiếm

đoạt

:

- Ý kiến khác:

………………………………………………………………………………

……………………..……………………………………………………………

…………….……………………………………………………………….

d) Giải pháp về tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất, trang bị phương tiện

- Giải pháp về tổ chức lực lượng:

+ Tăng biên chế cho lực lượng trinh sát Đội CSĐTTP về TTXH Công an

cấp huyện

:

+ Tăng biên chế cho lực lượng trinh sát thuộc Phòng CSĐTTP về TTXH

Công an tỉnh

:

+ Thành lập các tổ chức đấu tranh PCTP trộm cắp tài sản dưới hình thức

các đơn vị đặc nhiệm, có vũ trang để trấn áp kịp thời tội phạm ở CA cấp huyện

và PC45 CA tỉnh. (Ví dụ tổ, đội hình sự đặc nhiệm…)

:

+ Phối hợp với các cơ sở đào tạo trong CAND tổ chức các lớp đào tạo,

bồi dưỡng nâng cao trình độ cho lực lượng trinh sát

:

- Ý kiến khác:

………………………………………………………………………………

……………………..……………………………………………………………

…………….……………………………………………………………….

- Giải pháp về cơ sở vật chất, trang bị phương tiện:

+ Tăng cường máy định vị, máy chụp ảnh bí mật …để lực lượng trinh sát

hoàn thành nhiệm vụ

:

+ Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong phòng ngừa tội phạm

:

- Ý kiến khác:

………………………………………………………………………………

……………………..……………………………………………………………

…………….……………………………………………………………….

Theo các đồng chí, trong các giải pháp trên, giải pháp nào là cơ bản và

mang tính đột phá, có khả năng áp dụng mang lại hiệu quả?

………………………………………………………………………………

……………………..……………………………………………………………

…………….……………………………………………………………….

CÁN BỘ CHIẾN SỸ THUỘC LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT HÌNH SỰ

PHÒNG PC45 VÀ CÔNG AN CÁC HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH

- Khảo sát 149 cán bộ chiến sỹ thuộc lực lượng Cảnh sát hình sự Phòng

PC45 và Công an các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

- Tổng số phiếu phát ra: 149 phiếu; tổng số phiếu thu vào: 149 phiếu.

Câu 1. Đồng chí có nhận định gì về tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn

đồng chí công tác từ năm 2014 đến nay?

a) Về tính chất, mức độ nguy hiểm:

8

5.4%

- Đặc biệt nguy hiểm

78

52.4%

- Rất nguy hiểm

53

35.5%

- Nguy hiểm

10

6.7%

- Ít nguy hiểm

b)Về diễn biến số vụ phạm tội:

14

9.4%

- Có xu hướng tăng lên

7

4.7%

- Có xu hướng giảm xuống

121

81.2%

- Tăng giảm không theo quy luật

7

4.7%

- Không tăng, không giảm

Câu 2. Thời gian gây án chủ yếu của các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn đồng chí công tác?

44

29,53%

a) Từ 6h đến 12h

26

17.45%

b) Từ 12h đến 18h

12

8.05%

c) Từ 18h đến 24h

67

44.97%

d) Từ 0h đến 6h

Câu 3. Độ tuổi trung bình của đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ

cao nhất là bao nhiêu?

a) Dưới 18 tuổi

10

6.7%

b) Từ đủ 18 đến 30 tuổi

118

79.2%

c) Trên 30 tuổi

21

14.1%

Câu 4. Địa điểm hoạt động, gây án chủ yếu của đối tượng phạm tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn đồng chí công tác?

- Trong nhà dân

124

83.3%

- Nơi công cộng

10

6.7%

8

5.5%

- Cơ quan, trường

7

4.5%

- Địa điểm khác

Câu 5. Đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn đồng chí đang

công tác chủ yếu là:

a) Đối tượng là người địa phương, nắm rõ địa bàn hoạt

133

46.00%

động

b) Đối tượng ngoại tỉnh hoặc vùng giáp ranh

49

17.00%

c) Các đối tượng nằm trong diện quản lý (sưu tra) của

70

24.20%

lực lượng trinh sát

d) Ý kiến khác

37

12.80%

Câu 6. Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trộm cắp tài sản hiện nay

trên địa bàn đồng chí công tác?

a) Nguyên nhân từ phía người phạm tội:

- Tham lam, ích kỷ, động cơ vụ lợi cá nhân mong

85

21.52%

muốn chiếm đoạt tài sản

- Lang thang, thất nghiệp

100

25.32%

- Nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện game online

112

28.35%

- Mong muốn làm giàu bất chính

71

17.98%

- Ý kiến khác

27

6.83%

b) Nguyên nhân từ bản thân người bị hại

- Lơ là, mất cảnh giác trong bảo vệ tài sản của mình

145

80.1%

- Ý kiến khác

36

19.9%

c) Nguyên nhân từ môi trường xã hội

- Mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình độ

99

47.14%

thị hóa

- Sơ hở, thiếu sót của cơ quan quản lý nhà nước

46

21.90

- Việc xử lý tội phạm chưa nghiêm, chưa đủ sức ngăn

42

20%

ngừa

- Ý kiến khác

23

10.96%

Câu 7. Theo đồng chí, lực lượng làm công tác phòng ngừa tình hình tội phạm

hình sự nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản riêng ở đơn vị đồng chí hiện nay đã

đáp ứng được yêu cầu chưa?

a) Về số lượng:

- Đủ

15

7,14%

- Thiếu

99

66,44%

- Rất thiếu

35

28,06%

b) Về năng lực:

- Tốt

18

12,08%

- Khá tốt

94

63,09%

- Trung bình

26

17,45%

- Chưa tốt

11

7,38%

Câu 8. Điều kiện về cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện, kinh phí ở đơn vị đồng

chí đã đáp ứng yêu cầu phòng ngừa đối với tội phạm trộm cắp tài sản chưa?

- Đáp ứng

21

14,09%

- Chưa đáp ứng

128

85,91%

- Chưa đáp ứng điều kiện cụ thể nào?

Câu 9. Theo đồng chí, việc điều tra, xử lý đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản tại

địa phương đồng chí công tác như thế nào?

a) Nghiêm minh, đủ sức răn đe, ngăn ngừa

65

43,63%

b) Chưa nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa

76

51,00%

c) Ý kiến khác

8

5,37%

Câu 10. Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản trong thời

gian tới, theo đồng chí, lực lượng Cảnh sát hình sự cần thực hiện tốt những giải

pháp nào sau đây?

a) Tăng cường các biện pháp phòng ngừa xã hội

- Phối hợp giáo dục cá biệt những người có điều kiện, hoàn

109

15.24%

cảnh phạm tội để họ từ bỏ ý định phạm tội

- Tổ chức cho QCND phát hiện các biểu hiện nghi vấn của

112

15.66%

các đối tượng để ngăn chặn kịp thời

- Phối hợp với Ban, Ngành giải quyết tình trạng thanh niên

thất nghiệp, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nhận thức

124

17.34%

cho QCND

- Phối hợp xây dựng các mô hình tự quản, các phong trào tự

quản trong đấu tranh phòng chống tội phạm (tiếng mỏ an

121

16.92%

ninh, nghiệp đoàn xe ôm, hiệp sĩ đường phố…)

- Phối hợp cơ quan truyền thông tuyên truyền ý thức cảnh

giác tội phạm, ý thức quản lý, bảo vệ tài sản cũng như

145

20.27%

phương thức, thủ đoạn hoạt động của TPTCTS có tính chất

chiếm đoạt

- Ý kiến khác:

104

14.54%

b)Tăng cường các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ

- Điều tra cơ bản, nắm chắc tình hình

121

19.42%

- Làm tốt công tác sưu tra, quản lý đối tượng, đặc biệt là số

109

17.49%

đối tượng trong diện nghi vấn hoạt động phạm tội

-Tăng cường công tác xác lập và xác minh hiềm nghi

125

20.06%

-Tập trung xây dựng và sử dụng có hiệu quả cộng tác viên bí

141

22.63%

mật nhằm theo dõi, giám sát kịp thời đối tượng

- Ý kiến khác

127

20.38%

c) Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát phát hiện đối tượng và đấu tranh

triệt xóa các băng, nhóm TPTCTS có tính chất chiếm đoạt.

- Phối hợp tuẩn tra, kiểm soát ở các tuyến, địa bàn trọng điểm,

phức tạp tập trung nhiều nguồn hàng, tài sản lớn, đối tượng PT

149

29.51%

thường xuyên lui tới

- Phối hợp xác minh truy bắt kịp thời các đối tượng trong diện

98

19.41%

truy nã

- Kịp thời đấu tranh triệt xóa các băng, nhóm TPTCTS có tính

114

22.57%

chất chiếm đoạt

- Ý kiến khác

144

28.51%

d) Giải pháp về tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất, trang bị phương tiện

- Giải pháp về tổ chức lực lượng:

+ Tăng biên chế cho lực lượng trinh sát Đội CSĐTTP về

127

28.10%

TTXH Công an cấp huyện

+ Tăng biên chế cho lực lượng trinh sát thuộc Phòng CSĐTTP

41

9.07%

về TTXH Công an tỉnh

+ Thành lập các tổ chức đấu tranh TPTCTS dưới hình thức các

đơn vị đặc nhiệm, có vũ trang để trấn áp kịp thời tội phạm ở

85

18.81%

CA cấp huyện và PC45 CA tỉnh. (Ví dụ tổ, đội hình sự đặc

nhiệm…)

+ Phối hợp với các cơ sở đào tạo trong CAND tổ chức các lớp

98

21.68%

đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho lực lượng trinh sát

101

22.34%

+ Ý kiến khác

- Giải pháp về cơ sở vật chất, trang bị phương tiện:

+ Tăng cường máy định vị, máy chụp ảnh bí mật… để lực

139

35.46%

lượng trinh sát hoàn thành nhiệm vụ

+ Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong phòng ngừa

138

35.20%

tội phạm

+ Ý kiến khác

115

29.34%

Theo các đồng chí, trong các giải pháp trên, giải pháp nào là cơ bản và mang

tính đột phá, có khả năng áp dụng mang lại hiệu quả?