ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHASITH KEOKHADY VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÔNG KHAM XẠNG, THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHASITH KEOKHADY VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÔNG KHAM XẠNG, THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN Chuyên ngành: LL& PPDH bộ môn Giáo dục chính trị Mã số: 60 14 01 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ MINH TUYÊN THÁI NGUYÊN - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Vũ Minh Tuyên trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác và thông tin trích
dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả
PHASITH KEOKHADY
i
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn, cảm ơn
sâu sắc tới thầy giáo TS. Vũ Minh Tuyên đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để
luận văn được hoàn thành.
Đồng thời, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn Ban chủ nhiệm Khoa
Giáo dục chính trị, các thầy cô giáo Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực
hiện luận văn.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, các giảng viên và
sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn đã
nhiệt tình giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi để luận văn được hoàn thành.
Cuối cùng, tác giả xin được gửi lời cảm ơn tới bạn bè, gia đình và đồng
nghiệp đã luôn động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành khóa học.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả
PHASITH KEOKHADY
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ............................................................................ vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ..................................... 3
5. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài ........................................................ 4
6. Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THUYẾT TRÌNH TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC MÔN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ ........................................................................................... 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ............................. 5
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài ...................................................... 5
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước ...................................................... 7
1.2. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong dạy học môn lý luận chính trị ................................................................... 10
1.2.1. Quan niệm về phương pháp và phương pháp dạy học ............................ 10
1.2.2. Phương pháp thuyết trình tích cực........................................................... 11
1.3. Vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong dạy học môn lý
luận chính trị ...................................................................................................... 18
1.3.1. Nội dung của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong dạy học môn Lý luận chính trị ................................................................. 18
iii
1.3.2. Nguyên tắc của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
nhằm phát huy tính tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị ................... 31
1.4. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong dạy học môn Lý luận chính trị ................................................................. 34
1.4.1. Khái quát về trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng ................... 34
1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng dạy học môn Lý luận chính
trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng ........................................... 37
Kết luận chương 1 .............................................................................................. 39
Chương 2: THỰC NGHIỆM VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
THUYẾT TRÌNH TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY MÔN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÔNG
KHAM XẠNG, THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN ..................................................... 42
2.1. Đối tượng địa bàn thực nghiệm .................................................................. 42
2.1.1. Giả thuyết thực nghiệm ........................................................................... 42
2.1.2. Mục đích thực nghiệm ............................................................................. 42
2.1.3. Phương pháp thực nghiệm ....................................................................... 43
2.1.4. Địa diểm và thời gian tiến hành thực nghiệm ......................................... 43
2.1.5. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng ...................................................... 44
2.2. Nội dung thực nghiệm ................................................................................ 44
2.2.1. Điều tra kết quả đầu vào của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ............ 44
2.2.2. Những nội dung khoa học cần thực nghiệm ............................................ 45
2.2.3. Thiết kế bài giảng thực nghiệm ............................................................... 46
2.3. Phân tích kết quả thực nghiệm ................................................................... 68
2.3.1. Thực nghiệm và những kết quả rút ra từ thực nghiệm ............................ 68
2.3.2. Những kết quả rút ra từ quá trình thực nghiệm ở trường Cao đẳng
Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn hiện nay ............................... 75
Kết luận chương 2 .............................................................................................. 77
iv
Chương 3: QUY TRÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ VIỆC
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TÍCH CỰC
TRONG DẠY HỌC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO
ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÔNG KHAM XẠNG, THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN .......... 78
3.1. Quy trình của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong
dạy học môn Lý luận chính trị ........................................................................... 78
3.1.1. Quy trình thiết kế bài giảng ..................................................................... 78
3.1.2. Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp .................................................... 81
3.1.3. Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV .............................. 90
3.2. Một số giải pháp và khuyến nghị về việc vận dụng phương pháp
thuyết trình tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao
đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn hiện nay....................... 91
3.2.1. Một số giải pháp về việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích
cực trong dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm
Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn ............................................................. 91
3.2.2. Một số khuyến nghị về việc vận dụng phương pháp thuyết trình
tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư
phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn.................................................... 97
Kết luận chương 3 .............................................................................................. 99
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 105
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
GTSD : Giá trị sử dụng
GV : Giảng viên
PPĐT : Phương pháp đàm thoại
SV : Sinh viên
SX : Sản xuất
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
TLSX : Tư liệu sản xuất
VD : Ví dụ
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả học tập môn Lý luận chính trị (phần I) trước khi thực
nghiệm ............................................................................................... 45
Bảng 2.2. Thống kê kết quả kiểm tra nội dung bài học của lớp thực
nghiệm 1 và lớp đối chứng 1 ............................................................. 71
Bảng 2.3. Thống kê kết quả kiểm tra nội dung bài học của lớp thực
nghiệm 2 và lớp đối chứng 2 ............................................................. 72
v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Kết quả kiểm tra nội dung bài học của lớp thực nghiệm 1 và
lớp đối chứng 1 ............................................................................. 71
Biểu đồ 2.2. Kết quả kiểm tra nội dung bài học của lớp thực nghiệm 2 và
lớp đối chứng 2 ............................................................................. 73
vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ khi mới thành lập (22-3-1955), Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã
luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của mình. Công tác tư tưởng luôn được Đảng và nhân dân xác định giữ
tầm quan trọng đặc biệt trong mọi thời kỳ lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trên mọi
lĩnh vực, được sự giao phó của Đảng và Chính phủ, Bộ Giáo dục và Thể thao
đã rất chú trọng tới công tác bồi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ về lập trường tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Các trường Đại học, Cao đẳng ở Lào trong
thời gian qua luôn đề cao việc nghiên cứu tư tưởng và đẩy mạnh công tác tư
tưởng, lý luận, nhằm làm sáng tỏ và luận chứng một cách khoa học những luận
điểm nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, góp phần thúc đẩy công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước bền vững.
Thời gian qua, đội ngũ giảng viên (GV) làm công tác nghiên cứu, giảng
dạy Lý luận chính trị ở các trường Đại học, Cao đẳng đã luôn bám sát các điểm
nóng của thực tiễn xã hội; đào sâu các vấn đề lý luận, thường xuyên tìm tòi,
vận dụng phương pháp, chương trình, giáo trình, nội dung giảng dạy phù hợp
với điều kiện thực tiễn, gắn với định hướng và chiến lược phát triển chung của
Đảng và Nhà nước. Việc học tập Lý luận chính trị trong các trường đại học và
cao đẳng đã có những chuyển biến tích cực: người học đã chủ động tiếp thu bài
giảng, tích cực tương tác với GV, thể hiện sáng tạo trong việc tiếp nhận và xử
lý thông tin, qua đó nâng cao trách nhiệm công dân của mình đối với sự phát
triển của đất nước.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động từ
nhiều phía, gần đây công tác giảng dạy, học tập các môn Lý luận chính trị ở các
trường Đại học, Cao đẳng có phần sa sút; chất lượng giảng dạy còn nhiều vấn
đề nổi cộm, cần làm sáng tỏ. Tính bền vững trong giảng dạy các môn khoa học
1
Mác - Lênin ở bậc Đại học, Cao đẳng đang dần bị mất đi, việc tổ chức giảng
dạy và học tập các môn Lý luận chính trị còn mang tính hình thức, làm cho
người học thiếu hứng thú, dẫn đến coi nhẹ, đánh giá không đúng tầm quan
trọng của các môn Lý luận chính trị…
Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn là
trường đào tạo SV sư phạm. Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, việc
nâng cao chất lượng đội ngũ GV, chất lượng giảng dạy, học tập Lý luận chính
trị ở nơi đây cũng cần phải đặt lên như là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm
thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội X của Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, bên cạnh việc biên soạn, thiết kế lại chương
trình; biên soạn giáo trình, giáo khoa theo hướng cơ bản, hiện đại phù hợp với
thực tiễn của đất nước; kết hợp các tri thức hàn lâm với tri thức ứng dụng, đa
dạng hóa giáo trình, sách tham khảo các môn Lý luận chính trị dùng chung cho
đào tạo các chuyên ngành, thì việc vận dụng phương pháp giảng dạy là vô cùng
quan trọng. GV không chỉ là người giỏi về kiến thức mà còn là người có
phương pháp dạy học giỏi, phải giới thiệu được những tinh túy của các môn
khoa học đến SV. GV phải làm cho các môn học đó trở nên hấp dẫn hơn, thúc
đẩy tính sáng tạo của SV.
Từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp
thuyết trình tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng
Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng việc dạy học các môn Lý luận chính trị ở trường
Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận
chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, nói riêng và trên các
trường Đại học, Cao đẳng cả nước nói chung.
2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về dạy học và dạy học các môn Lý
luận chính trị.
- Phân tích thực trạng việc nâng cao chất lượng dạy học các môn Lý luận
chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học các môn Lý
luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong
dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng,
thủ đô Viêng Chăn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vận dụng phương pháp thuyết trình tích
cực trong dạy và học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông
Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lý luận của đề tài
- Cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
- Lý luâ ̣n về da ̣y ho ̣c và dạy học các môn Lý luận chính trị. - Kế thừa các công trình nghiên cứu về đổi mới phương pháp giảng dạy
nâng cao chất lượng dạy học các môn Lý luận chính trị.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
kết hợp các phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp lịch sử, lôgic…
- Phương pháp điều tra xã hội, phương pháp khảo sát, phương pháp quan
sát, phương pháp thống kê…
3
5. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
- Đề tài hoàn thành góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn
Lý luận chính trị trên cả nước nói chung và ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông
Kham Xạng nói riêng.
- Đề tài còn làm tài liệu tham khảo cho học viên cao học, SV các ngành
quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dạy học các môn Lý luận chính trị.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
THUYẾT TRÌNH TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC
MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, các nhà nghiên cứu đã hệ thống
hoá các phương pháp dạy học được sử dụng để quá trình dạy học đạt hiệu quả
tối ưu. Mỗi phương pháp được nghiên cứu khá sâu cả về lí luận và thực tiễn với
những ưu và nhược điểm của nó.
Trong cuốn “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học”, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội (2004) của TS. Nguyễn Duy Bắc. Tác giả đã tổng quát những vấn đề
nổi bật của việc giảng dạy môn Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời
đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập môn Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học.
Trong cuốn “Dạy học kinh tế chính trị theo phương pháp tích cực”, Nxb
Đại học sư phạm Hà Nội (2009) của TS. Trần Thị Mai Phương. Tác giả đã đề
cập và khái quát những nguyên tắc cơ bản trong dạy học kinh tế chính trị và
vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy kinh tế chính trị, đồng
thời tác giả cũng chỉ rõ sự cần thiết phải đổi mới dạy học kinh tế chính trị theo
phương pháp tích cực, theo đó đòi hỏi việc dạy học kinh tế chính trị phải gắn
với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, với đường lối, chính sách, biện pháp
kinh tế của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn mới.
Trong cuốn “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy chương trình thí điểm
SGK lớp 11 môn Giáo dục công dân” của tác giả Vũ Hồng Tiến, Nxb Giáo dục
(2007), tác giả đã đưa ra yêu cầu cơ bản đối với phương pháp dạy học theo
5
hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh không có nghĩa là loại bỏ,
loại trừ, thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống, hay phải
“nhập nội” một số phương pháp dạy học xa lạ vào quá trình dạy học. Vấn đề là
ở chỗ cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của các phương pháp dạy học
hiện có như thuyết trình, giảng giải, vấn đáp… đồng thời phải học hỏi vận dụng
một số phương pháp dạy học mới một cách linh hoạt nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với điều kiện dạy
và học ở nước ta hiện nay.
Trong cuốn “Phương pháp dạy - học chủ nghĩa xã hội khoa học” của tác
giả Nguyễn Văn Cư, Nxb Đại học sư phạm (2007) đã nêu rõ: Để bài thuyết
trình có hiệu quả, cần có sự đổi mới, lấy người học làm trung tâm; hạn chế bớt
phương pháp thuyết trình thông báo, tái hiện, tăng cường phương pháp thuyết
trình theo hướng giải quyết vấn đề, thuyết trình xen kẽ vấn đáp, thảo luận hợp
lý, thuyết trình có minh họa đặc biệt gắn với công nghệ thông tin hiện đại để
bài giảng linh động hơn.
Luận văn thạc sĩ khoa học “Kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp đàm thoại trong dạy học môn Giáo dục chính trị ở trường Trung
cấp Y dược Bắc Ninh” của tác giả Lê Thị Nhung. Tác giả đã phân tích cơ sở lý
luận của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại
trong quá trình dạy học. Từ việc khảo sát, đánh giá thực trạng kết hợp phương
pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục
chính trị ở trường trung cấp y Dược Bắc Ninh, thực nghiệm, đối chứng, đề xuất
quy trình và giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm
thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị sẽ phát huy được tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn giáo
dục chính trị ở trường Trung cấp Y dược Bắc Ninh nói riêng và các trường
Trung cấp chuyên nghiệp nói chung.
6
Luận văn thạc sĩ "Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học phần công dân với việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học" môn Giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT
Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc của Nguyễn Thị Hải Yến. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học phần "Công dân với việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học" môn Giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT
Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc. Trên cơ sở đó tác giả xác lập quy trình thực hiện của
việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân ở các
trường PTTH.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đến nay, các Nghị quyết Đại hội Đảng,
các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương quan trọng và trong nội
dung của các Hội nghị công tác chính trị - tư tưởng của nhà nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào đều đánh giá cao về công tác tư tưởng, chính trị. Các Nghị
quyết như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa IV) về công tác chính trị - tư tưởng trong tình hình mới (năm
1989); Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng số 13/BCHTW (ngày
31/4/1995) về công tác chính trị - tư tưởng trong giai đoạn mới; Nghị quyết của
Bộ Chính trị Trung ương (tháng 7/1997) về những nhiệm vụ chủ yếu của công
tác tư tưởng và Nghị quyết số 60 của Bộ Chính trị Trung ương (tháng
7/2003) về phương hướng nhiệm vụ và giải pháp chung của công tác chính trị -
tư tưởng trong tình hình mới đều khẳng định công tác tư tưởng, chính trị và
giáo dục tư tưởng, chính trị cho nhân dân có một tầm quan trọng đặc biệt trong
việc phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, việc nghiên cứu và quán triệt tầm quan trọng của
công tác tư tưởng được tiến hành thường xuyên liên tục. Đặc biệt ở vào các
7
thời điểm bước ngoặt của lịch sử, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV trở lại đây, đã có nhiều hội thảo, báo cáo của các ban ngành và nhiều bài
báo được đăng trên những Tạp chí như: Xây dựng Đảng, Tuyên truyền, A Lun
May với mong muốn kế thừa và nhằm làm rõ những luận cứ trong các Nghị
quyết về đổi mới công tác giáo dục tư tưởng chính trị của Đảng.
Với định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, ở nước Lào, các môn Lý luận
chính trị có một vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Việc nghiên cứu và giảng dạy các môn học này trong thời gian qua đã được
Đảng và Nhà nước đặc biệt chú ý.
Liên quan đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn Lý luận
chính trị, ở Lào có các công trình nghiên cứu tiêu biểu theo các hướng sau:
- Về công tác tư tưởng, công tác lý luận có các công trình: Luận án tiến
sĩ của tác giả Xắc - Xa - Vắt Xuân Thếp - Phim - Ma - Son về: "Công tác tư
tưởng của Đảng Nhân dân cách mạng Lào" (Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2002); luận án của tác giả Phăn - Đuông - Chít - Vông Sa: "Công tác
lý luận của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong thời kỳ đổi mới" (Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002). Luận án “Chất lượng công tác tư tưởng
của các Đảng bộ tỉnh đồng bằng miền Trung nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào trong giai đoạn hiện nay” (2013) của Bun Đuông Cay Xỏn; Luận án Đào
tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào hiện nay của Khămphăn Vông Phachăn... Các luận văn thạc sĩ của tác
giả Bun Đuông Cay Xỏn: "Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ
tỉnh Xa Van Na Khệt Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện
nay" (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002) và tác giả Chăn - Tha -
Vông Phun - Thị - Bua Thoong: "Đổi mới công tác chính trị - tư tưởng của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay", (Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003)…
8
Các công trình trên chủ yếu đề cập đến việc đổi mới, nâng cao công tác
tư tưởng, chính trị và đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Mặc dù vậy, trong các công trình đó, đã ít
nhiều đã đề cập đến việc cần thiết phải nâng cao chất lượng giáo dục lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng và cho công dân nói chung.
- Về nâng cao chất lượng giáo dục Lý luận chính trị, giáo dục lý luận
Mác - Lênin cho học sinh, SV có các công trình tiêu biểu sau:
Luận văn Cao học “Nâng cao chất lượng giáo dục Lý luận chính trị cho
SV ở Trường Đại học Công an nhân dân Lào hiện nay”. Trong luận văn, tác giả
đã giải thích tầm quan trọng của giáo dục lý luận chính trị cho SV ở Trường Đại
học Công an Nhân dân Lào; trình bày những yếu tố tác động đến việc giáo dục
lý luận chính trị và thực trạng, nguyên nhân của thực trạng công tác giáo dục lý
luận chính trị cho SV ở trường Đại học Công an Nhân dân Lào hiện nay. Từ đó,
luận văn chỉ ra phương hướng và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục Lý luận chính trị cho SV ở Trường Đại học Công an Nhân dân Lào.
Ngoài các công trình dưới dạng luận văn, luận án, còn có nhiều bài viết đăng
trên các báo, tạp chí mà nội dung đã đề cập đến công tác giáo dục Lý luận chính trị
cũng như nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị nói chung ở Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở bước đầu
nghiên cứu chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách công phu, có hệ thống.
Những công trình khoa học nêu trên là những nội dung đa dạng và nhận
định rất sâu sắc của các tác giả khi nghiên cứu về phương pháp giảng dạy. Khi
nghiên cứu về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin các nhà
nghiên cứu đã đưa ra hệ thống lý luận về các phương pháp giảng dạy và đều
thống nhất để nâng cao chất lượng dạy học người giáo viên cần kết hợp các
phương pháp dạy học với nhau nhằm phát huy những ưu điểm và hạn chế nhược
điểm của chúng. Như vậy, từ những khía cạnh khác nhau, các tác giả đã đi sâu
nghiên cứu lý luận và thực tiễn các phương pháp trong đó có việc kết hợp
9
phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại.
Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp thuyết trình theo hướng đổi mới vào dạy
học phần kinh tế chính trị Mác - Lênin của môn Lý luận chính trị thì chưa có
công trình nào nghiên cứu. Vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài “Vận dụng phương
pháp thuyết trình tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao
đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong dạy học môn lý luận chính trị
1.2.1. Quan niệm về phương pháp và phương pháp dạy học
1.2.1.1 Khái niệm phương pháp
Trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người luôn tìm
mọi cách làm cho hoạt động của mình ngày càng có hiệu quả cao. Điều đó dẫn
đến nhu cầu về phương pháp trong cuộc sống. Phương pháp có vai trò hết sức
quan trọng trong hoạt động của con người. Con người muốn nhận thức được
đúng bản chất của sự vật, tiếp cận với sự vật, khám phá thuộc tính của sự vật để
từ đó khái quát ra lý luận về sự vật thì cần phải có phương pháp. Bê-cơn cho
rằng phương pháp là: Sợi chỉ cần thiết dẫn đường.
Đêcactơ kết luận rằng: Thiếu phương pháp thì người tài cũng có lỗi, có
phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi thường.
Trong lịch sử, khái niệm phương pháp được các học giả tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau:
Hêghen quan niệm: Phương pháp là ý thức về hình thức của sự tự vận
động nội tại của nội dung.
Các Mác cũng từng khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách
nào, với những tư liệu lao động nào. Ví dụ: Cũng là sản xuất nông nghiệp
nhưng phương pháp tra hạt hoặc kéo cày bằng sức kéo của con trâu sẽ đem lại
kết quả khác so với sử dụng máy kéo” [40, tr.116].
10
Tóm lại, tuy được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung
có thể hiểu một cách ngắn gọn: Phương pháp là cách thức, là con đường, là
phương tiện để hoạt động của con người đạt được mục đích.
1.2.1.2. Khái niệm phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá
trình dạy học. Để trả lời cho câu hỏi phương pháp dạy học là gì, có nhiều quan
điểm khác nhau:
Tác giả Hà Thế Ngữ cho rằng: “Phương pháp dạy học là những phương
thức (cách thức) mà nhờ đó thực hiện hoá nội dung công tác dạy học - giáo dục,
thực hiện mục đích, nhiệm vụ giáo dục và dạy học ở giai đoạn lịch sử phát triển
xã hội... Vì thế, không thể áp dụng máy móc hệ thống các phương pháp của
một nước nào đó vào nước ta” [7,tr.154].
Tác giả Phạm Viết Vượng ở một góc độ khác đã tiếp cận phương pháp ở
hai chủ thể trung tâm của hoạt động dạy và học. Ông cho rằng: “Phương pháp
là tổ hợp cách thức mà chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng hoạt động
nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích xác định” [38, tr.176].
Tác giả Phan Trọng Ngọ thì lại khẳng định: “Định nghĩa chung về
phương pháp là những con đường cách thức để tiến hành hoạt động dạy học”
[25, tr.145].
Mỗi nhà khoa học với góc độ tiếp cận khác nhau về phương pháp đã tìm
ra những điểm chung và riêng từ khái niệm phương pháp. Song, trong các quan
điểm riêng của các nhà khoa học chúng ta đều thấy có sự thống nhất giữa họ
rằng: Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt động của giáo viên
và người học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học.
1.2.2. Phương pháp thuyết trình tích cực
1.2.2.1. Khái niệm phương pháp thuyết trình tích cực
Thuyết trình tích cực là một phương pháp dạy học truyền thống có từ lâu
đời. Có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về phương pháp này.
11
- Tác giả Phan Trọng Ngọ cho rằng: “Phương pháp thuyết trình tích cực
là phương pháp giáo viên sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để cung cấp cho
người học hệ thống thông tin về nội dung học tập, người học tiếp thu hệ thống
thông tin từ người dạy và xử lý chúng theo chủ thể người học và yêu cầu của
người học” [25; tr.187].
- Tác giả Phùng Văn Bộ cho rằng: “Phương pháp thuyết trình là phương
pháp dạy học trong đó có giáo viên dùng lời nói sinh động, gợi cảm thuyết
phục để truyền thụ hệ thống tri thức môn học cho SV theo chủ đích nhất định.
Nhờ vậy SV tiếp thu bài giảng một cách có ý thức” [5; tr.71].
- Tác giả Đặng Văn Đức lại khẳng định: “Thuyết trình là dùng lời nói
của giáo viên để trình bày, thuyết minh, khai thác, phân tích một nội dung lý
luận nào đó nhằm mục đích truyền đạt kiến thức, thông báo hoặc thuyết lý một
nội dung khoa học nào đó” [11; tr.205].
Như vậy, từ những quan niệm trên ta có thể hiểu phương pháp thuyết
trình là phương pháp giáo viên sử dụng ngôn ngữ và hành động để truyền đạt,
thuyết minh, trình bày làm sáng tỏ một nội dung tri thức môn học nhằm giúp
cho người học hiểu và nắm được những tri thức đó.
Thuyết trình là một phương pháp dạy học đã có từ lâu đời và hiện nay vẫn
là phương pháp được sử dụng khá phổ biến trong dạy học nói chung, trong dạy
học môn Lý luận chính trị nói riêng ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào,
nhưng phương pháp thuyết trình tích cực vẫn còn hạn chế.
1.2.2.2. Một số hình thức thuyết trình sử dụng trong dạy học môn Lý luận
chính trị
- Thuyết trình theo kiểu giới thiệu, giảng giải
Dùng để giới thiệu các khái niệm, phạm trù Lý luận chính trị. Đặc điểm
của các khái niệm, phạm trù này là tương đối khó hiểu, mang tính khái quát
trừu tượng cao. Nếu GV không giảng giải, giải thích một cách cặn kẽ thì SV
khó nắm bắt, hiểu đúng bản chất của vấn đề.
12
- Thuyết trình theo kiểu kể chuyện
Kể chuyện là một hình thức chủ yếu của thuyết trình, trong đó giáo viên
dùng lời nói biểu cảm để cung cấp những thông tin mới về kinh tế - xã hội,
những câu chuyện về cuộc đời của các triết gia, nhà kinh tế nổi tiếng v.v...
Thông qua đó làm bật lên những nội dung tri thức cần truyền đạt hoặc để chứng
minh cho những kết luận của bài học.
Tuy nhiên, GV cũng cần lưu ý rằng: Trong dạy học kiến thức, hình thức kể
chuyện chiếm tỉ lệ nhỏ, thường được sử dụng để minh họa cho bài giảng. Vì vậy,
khi sử dụng thuyết trình theo kiểu kể chuyện, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, cẩn
thận, lựa chọn những câu chuyện phù hợp với nội dung kiến thức bài học. Ngôn
ngữ kể chuyện của GV cũng cần trau chuốt, sinh động hơn. Đồng thời, GV cũng
cần tránh lạm dụng hình thức này, khiến giờ dạy trở thành giờ kể chuyện thuần
túy. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tiến trình bài giảng cũng như không đảm bảo khối
lượng tri thức cần truyền đạt tới SV trong giờ dạy môn Lý luận chính trị.
- Thuyết trình mô tả, phân tích
Trong các phương pháp dạy học tích cực hiện nay, GV có thể trình chiếu
các sơ đồ, mô hình, lược đồ đối với những vấn đề rất trừu tượng của tri thức môn
học. Nó cho phép thâu tóm nhiều nội dung mà SV cảm thấy rắc rối, mông lung
thành một chuỗi hệ thống và khái quát để nắm bắt được cái cốt lõi của các khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật v.v... Tuy nhiên, nếu các sơ đồ, mô hình, lược
đồ đó không được phân tích thông qua thuyết trình thì người học khó có thể tiếp
thu. Do vậy, đòi hỏi GV phải mô tả, giải thích các hình ảnh trực quan một cách
cặn kẽ, chi tiết giúp SV nắm bắt các tri thức chứa đựng trong đó dễ dàng hơn.
- Thuyết trình theo kiểu diễn giảng
Diễn giảng là một hình thức của thuyết trình, trong đó GV truyền thụ tri
thức theo một hệ thống chặt chẽ, bao gồm một khối lượng tri thức lớn được
thực hiện trong một thời gian tương đối dài.
13
Trong giảng dạy môn Lý luận chính trị diễn giảng được người dạy sử
dụng thường xuyên ở những bài, những phần có nội dung tri thức phức tạp,
mang tính trừu tượng, khái quát hoá cao. Sau khi đưa ra chủ đề bài giảng, GV
bắt đầu trình bày thuyết minh cho chủ đề theo một hệ thống xác định. Diễn
giảng chính là sự tiếp tục phát triển nội dung đó theo kiểu vừa trình bày, vừa
thuyết minh, vừa phân tích.
Để diễn giảng thành công, GV cần phân biệt sự khác nhau giữa diễn
giảng văn học, diễn giảng lịch sử và diễn giảng tri thức môn Lý luận chính trị
Diễn giảng lịch sử là sự tái hiện lịch sử với các sự kiện, hiện tượng nối
tiếp theo dòng thời gian, không gian theo trình tự nhất định từ thời cổ đại, trung
đại, cận đại, hiện đại. Trình tự này tuyệt đối không được đảo lộn. Nhiệm vụ của
GV là phải tái hiện, làm sống lại các sự kiện lịch sử đó một cách chân thực,
chuẩn xác, phong phú và chi tiết.
Diễn giảng tri thức môn Lý luận chính trị cũng không giống diễn giảng
văn học. Đặc trưng của văn học là nghệ thuật, hình tượng, là hư cấu cho nên
giảng văn học thường theo hướng tái hiện, liên tưởng, dùng hình tượng để so
sánh, biểu hiện nội dung. Còn những tri thức Lý luận chính trị không phải là sự
hư cấu, tưởng tượng mà là những tri thức được khái quát từ thực tiễn, mang
tính quy luật chi phối sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội. Vì vậy,
GV phải dựa trên các thao tác tư duy lôgic như tổng hợp, phân tích những luận
điểm, luận cứ, tư liệu, cứ liệu để làm sáng tỏ tri thức bài giảng.
- Thuyết trình dưới hình thức luận chiến, phê phán
Lý luận chính trị nghiên cứu và vạch ra các vấn đề liên quan trực tiếp
đến lợi ích kinh tế thiết thân của các giai cấp và mọi người trong xã hội. Cho
nên, trong mỗi luận điểm kinh tế đều bao hàm lợi ích của một giai cấp nhất
định. Mác nói: Trong địa hạt kinh tế chính trị, sự nghiên cứu tự do và khoa học
14
gặp nhiều kẻ địch hơn là trong các lĩnh vực nghiên cứu khác. Tính chất đặc biệt
của vấn đề mà khoa học kinh tế chính trị nghiên cứu, đã làm cho những tình
cảm sôi nổi nhất, hèn hạ nhất của lòng người, tất cả mọi sự điên cuồng của lợi
ích riêng xông ra chống lại nó.
Tính giai cấp, tính Đảng của kinh tế chính trị đòi hỏi quá trình giảng dạy
kinh tế chính trị luôn gắn liền với việc phê phán những quan điểm tầm thường,
phản khoa học của giai cấp tư sản. Chẳng hạn khi phân tích những phạm trù
tiền lương, lợi nhuận, địa tô các học giả tư sản không dám thừa nhận tính chất
bóc lột của xã hội tư sản. Ngay cả những đại biểu ưu tú và vĩ đại nhất của các
nhà kinh tế tư sản như A. Smits, David Ricardo cũng chỉ coi tiền lương là giá
cả của lao động và do đó nhà tư sản không bóc lột gì cả.
Vì vậy, khi giảng dạy vấn đề này giáo viên cần chỉ ra những sai lầm,
thiếu cơ sở khoa học của luận điểm trên để khẳng định rằng: Tiền lương trong
chủ nghĩa tư bản không phải và không thể là giá cả của lao động, mặc dù nó
biểu hiện như là giá trị hay giá cả của sức lao động, nó thể hiện mối quan hệ
bóc lột của tư bản đối với lao động.
1.2.2.3. Các bước thực hiện của phương pháp thuyết trình tích cực
Bước 1: Phần mở đầu
Trong giảng dạy môn Lý luận chính trị việc thực hiện phần mở đầu có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì, lượng tri thức vừa mang tính khái quát, trừu
tượng lại vừa mang tính hệ thống. Để SV nắm bắt được nội dung bài học cần
phải có sự dẫn dắt, trình bày theo một lôgíc nhất định. Bước mở đầu sẽ giúp
cho GV giới thiệu với SV kết cấu toàn bộ bài giảng từ đó thu hút SV vào bài
giảng. GV có thể mở đầu thuyết trình bằng nhiều cách như: Có thể nhắc lại
kiến thức cũ để liên kết với việc nêu tầm quan trọng của chủ đề bài giảng sắp
trình bày hoặc nêu vấn đề với những câu hỏi gây sự hứng thú cho người học. Ở
bước này, nếu GV thực hiện tốt sẽ gây được sự chú ý của người học vào bài
giảng, tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai bước tiếp theo.
15
Bước 2: Phần nội dung chính
Đây là bước trọng tâm, quan trọng nhất của bài giảng với khối lượng tri
thức lớn và thời gian thực hiện tương đối dài. Khi thực hiện phần này, những tri
thức bài giảng cần được sắp xếp, trình bày một cách lôgíc, các dẫn chứng, số
liệu minh họa phải trung thực, gắn lý luận với thực tiễn tạo ra sự thuyết phục
cho người nghe. Giảng viên cần khai thác hết kiến thức cơ bản của bài học,
phải đi từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Trong các bước thuyết trình thì
đây là bước có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của giờ giảng. Vì
vậy, GV cần phải đầu tư thời gian, chuẩn bị nội dung thật chu đáo và công phu.
Bước 3: Phần kết luận
Thao tác này nhằm mục đích tổng kết lại nội dung đã trình bày ở trên.
GV cần trình bày khái quát chủ đề, rút ra kết luận theo một hệ thống lôgic,
nhấn mạnh những nội dung cơ bản để SV ghi nhớ và vận dụng. Đồng thời, giáo
viên cũng cần gợi ý cho SV những vấn đề nhận thức để SV tiếp tục nghiên cứu
nhằm củng cố, khắc sâu và mở rộng tri thức của bài.
1.2.2.4. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thuyết trình tích cực
- Ưu điểm:
Một là, trong một thời gian nhất định, GV chủ động trình bày bài giảng
một cách lưu loát, dễ hiểu, hợp lôgíc nhận thức của người học. Từ đó có thể
chuyển tải toàn bộ nội dung tri thức bài học tới SV.
Hai là, cung cấp cho người học những thông tin cập nhật mới nhất mà
trong giáo trình, sách giáo khoa chưa có. Với sự bùng nổ thông tin, khoa học công
nghệ phát triển nhanh trong thời đại ngày nay, người GV cần phải không ngừng
trau dồi kiến thức để cung cấp cho SV những thông tin cập nhật, bổ sung mới.
Ba là, thuyết trình tạo nên sự giao tiếp gần gũi giữa GV và SV. GV có
thể thay đổi thủ pháp sư phạm, điều chỉnh tài liệu cho phù hợp với trình độ
nhận thức của SV, kết hợp khích lệ, động viên SV một cách kịp thời. Bằng sự
say mê, nhiệt tình với sự kỳ diệu của ngôn ngữ, người thầy có thể lôi cuốn kích
16
thích sự chú ý của SV vào bài học. GV dễ cảm hoá được SV, tạo cho họ niềm
tin khoa học từ những tri thức môn học, giúp họ tin vào cuộc sống, góp phần
làm chủ bản thân, làm chủ xã hội.
Bốn là, phương pháp thuyết trình vạch ra cho SV khuôn mẫu và phương
pháp nhận thức, tổng hợp cấu trúc tài liệu học tập, giúp người học phát huy
phương pháp tự học, trau dồi khả năng sử dụng ngôn ngữ.
Năm là, phương pháp thuyết trình cũng là phương pháp phù hợp với số
đông SV với điều kiện thiếu cơ sở vật chất (phòng học, tài liệu, phương tiện
dạy học).
- Hạn chế:
Trong một thời gian ngắn, số lượng SV nhiều, kiến thức lớn, GV không
có nhiều thời gian để đối thoại trực tiếp với SV. Do đó GV thu được ít ý kiến
phản hồi từ phía SV.
GV dễ sa lầy vào việc tham kiến thức mà không thấy được sự tiếp thu từ
SV. SV gần như thụ động tiếp nhận thông tin từ phía người dạy. Tính tích cực
chủ động và sáng tạo của họ không được phát huy, làm cho tư duy của họ trở
nên nghèo nàn, thụ động, giờ học trở thành buổi độc thoại của thầy, gây tâm lý
nhàm chán cho SV.
Phương pháp thuyết trình là phương pháp dạy học dùng chung cho cả
lớp, tính cá thể thấp do GV không thể quan tâm tới tất cả SV, không hiểu được
tình tình học tập cũng như mong muốn của họ trong học tập, từ đó không phân
loại được SV.
Như vậy có thể thấy phương pháp thuyết trình có những ưu và nhược điểm
nhất định. Vậy làm thế nào khi sử dụng phương pháp này đạt được hiệu quả cao
nhất đòi hỏi người GV cần phải đổi mới phương pháp thuyết trình bằng cách
kết hợp với nhiều phương pháp dạy học khác như: Phương pháp nêu vấn đề, đàm
thoại, phương pháp thảo luận nhóm... Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả đã
nghiên cứu một hướng đổi mới nhằm tích cực hoá phương pháp thuyết trình.
17
1.3. Vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong dạy học môn lý
luận chính trị
Trong quá trình vận dụng phương pháp dạy học hiện nay, cần có quan
niệm đúng đắn về dạy tốt. Muốn dạy tốt thì người thầy phải có phương pháp
dạy học phù hợp với nội dung môn học. Đối với người thầy, dạy tốt không chỉ
là trình độ nghề nghiệp mà còn là lương tâm, danh dự, trách nhiệm của nhà
giáo. Đối với người học, điều mà họ mong mỏi là có thầy dạy tốt để giúp họ
học tốt. Vì vậy, đổi mới phương pháp nói chung và phương pháp thuyết trình
nói riêng trong giai đoạn hiện nay là một tất yếu.
1.3.1. Nội dung của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong
dạy học môn Lý luận chính trị
1.3.1.1. Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề
Trong lý luận dạy học, dạy học nêu vấn đề còn được gọi là phương pháp
giải quyết vấn đề. Đây là một trong những phương pháp dạy học mới, đáp ứng
được những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của phương pháp thuyết
trình. Việc đổi mới phương pháp thuyết trình bằng cách kết hợp và sử dụng
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học là một việc làm hết sức cần thiết.
Phương pháp dạy học nêu vấn đề được các nhà khoa học trong và ngoài
nước quan niệm dưới các góc độ khác nhau.
Trên quan điểm giáo dục, I.Ia.Lecne cho rằng “Dạy học nêu vấn đề là
phương pháp dạy học trong đó học sinh tham gia một cách có hệ thống vào
quá trình giải quyết các vấn đề và các bài toán có vấn đề được xây dựng theo
nội dung tài liệu học trong chương trình”. [18; tr.5-6].
V.Ôkôn - Nhà giáo dục Ba Lan quan niệm “Dạy học nêu vấn đề là toàn
bộ các hoạt động như tổ chức tình huống có vấn đề, biểu đạt các vấn đề, chú ý
giúp đỡ cho học sinh những điều cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra cách
giải quyết đó và cuối cùng là quá trình hệ thống hóa và củng cố các kiến thức
tiếp thu được”. [37; tr.103].
18
Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng: “Dạy học nêu vấn đề là hình thức
dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt
động một cách sáng tạo, bao gồm sự kết hợp các phương pháp dạy và học có
những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Nhờ vậy nó đảm bảo cho học sinh
lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự lực
và năng lực sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan cho họ”. [3; tr.41]
Qua đây ta có thể định nghĩa về phương pháp dạy học nêu vấn đề như
sau: Phương pháp dạy học nêu vấn đề là phương pháp dạy học nhằm phát triển
năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của người học. Người học
được đặt ra trong một tình huống có vấn đề thông qua việc giải quyết vấn đề đó
giúp người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức.
Dạy học nêu vấn đề có những đặc trưng cơ bản sau:
- GV đặt ra trước SV những bài toán nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn
giữa cái đã biết và cái phải tìm.
- SV tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán nhận thức như là mâu thuẫn trong
nội tâm mình, hay nói cách khác là đặt SV vào tình huống có vấn đề trở thành
nhu cầu bức thiết muốn giải quyết bài toán nhận thức.
- Thông qua quá trình giải bài toán nhận thức, SV lĩnh hội được nội
dung, cách thức giải quyết một cách tự giác, tích cực hứng thú của sự nhận thức
sáng tạo.
Ưu điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề
Phương pháp dạy học nêu vấn đề là phương pháp dạy học dựa trên
những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng
tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của nó là tạo nên
một chuỗi những “tình huống có vấn đề”, “tình huống học tập” và điều khiển
SV giải quyết những vấn đề học tập đó. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho SV lĩnh hội
vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển năng lực tư duy sáng tạo và hình
thành cơ sở thế giới quan khoa học.
19
Có thể khái quát những ưu điểm của dạy học nên vấn đề như sau:
- Phát huy tính tích cực tự giác học tập của SV, giúp hình thành tính độc
lập, sáng tạo trong tư duy, khắc phục được tình trạng thụ động trong việc tiếp
nhận tri thức của SV.
- Phương pháp dạy học nêu vấn đề giúp SV vừa nắm được tri thức mới,
vừa nắm được phương pháp chiếm lĩnh tri thức đó, chuẩn bị được năng lực
thích ứng với đời sống xã hội, đó là phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các
vấn đề nảy sinh, đó chính là “dạy học cách học” cho người học.
- Phương pháp dạy học nêu vấn đề giúp SV vững tin vào khả năng của
bản thân trong việc giải quyết các tình huống học tập cũng như đời sống hiện
thực. Rèn luyện tác phong mạnh dạn, tự tin, tính độc lập trong học tập và sinh
hoạt tập thể, tạo ra niềm vui sướng của sự khám phá tri thức mới, đồng thời
tăng cường hiểu biết và sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm thông qua
việc hợp tác để giải quyết tình huống.
- Dạy học nêu vấn đề giúp GV thu được những thông tin phản hồi của
SV, từ đó có thể điều chỉnh hướng suy nghĩ giải quyết vấn đề của SV được
đúng hướng.
- Áp dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề là một biện pháp tốt, thực
hiện phương châm “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” hoàn
toàn phù hợp với quan điểm dạy học “lấy người học làm trung tâm”, thích hợp
cho mọi cấp học và môn học.
- Phương pháp này không yêu cầu phải sử dụng nhiều và đầy đủ các
phương tiện dạy học hiện đại, rất phù hợp cho điều kiện còn thiếu các trang thiết
bị dạy học hiện đại ở các trường Cao đẳng, Đại học của nước Lào hiện nay.
Hạn chế của phương pháp dạy học nêu vấn đề
Tuy có nhiều ưu điểm nhưng cũng giống như các phương pháp khác,
phương pháp nêu vấn đề không phải là phương pháp vạn năng và duy nhất
đúng. Phương pháp nêu vấn đề có những hạn chế nhất định đó là:
20
- Phương pháp này yêu cầu GV phải đầu tư nhiều công sức và thời gian
cho việc soạn giáo án, bởi vì xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học là
việc khó, không phải GV nào cũng làm được. GV phải đặt ra được các tình
huống có vấn đề, dự kiến các hướng giải quyết vấn đề của SV và các phương
án để điều chỉnh hướng tư duy của SV vào các phương án giải quyết vấn đề
đúng. Đòi hỏi GV phải có kinh nghiệm chuyên môn, có trình độ sâu rộng và am
hiểu những vấn đề thực tế liên quan đến bộ môn.
- Mức độ tham gia tích cực của SV phụ thuộc vào trạng thái tâm lý, phụ
thuộc vào việc GV đặt ra tình huống có vấn đề có thực sự là “có vấn đề” với
SV không.
- Nếu GV tổ chức lớp học không tốt sẽ mất nhiều thời gian vì SV sẽ tốn
nhiều thời gian để giải quyết những tình huống và rút ra tri thức cần thiết.
Tình huống có vấn đề và cách tạo tình huống có vấn đề
Tình huống có vấn đề
Trong quá trình dạy học môn Lý luận chính trị, muốn có bài thuyết trình
có sức thuyết phục, GV phải tạo ra tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề
là tình huống nảy sinh mâu thuẫn giữa một bên là chủ thể có nhu cầu giải quyết
tình huống đó với một bên là những tri thức kỹ năng và phương pháp hiện có
của chủ thể chưa đủ để giải quyết, để tạo ra cho mình có hiểu biết về nó và cách
hiểu giải quyết tình huống.
Theo M.I. Makhơnutôp cho rằng “Tình huống có vấn đề là trạng thái
tâm lý của sự khó khăn về mặt trí tuệ nảy sinh ở con người trong những tình
huống khách quan khi cần giải thích một sự kiện mới bằng tri thức đã có hoặc
bằng cách thức hoạt động đã biết trước đây mà phải tìm tri thức hoặc tìm cách
thức hoạt động mới”. [23, tr.280].
Theo A.M. Machiuskin “Một tình huống gọi là tình huống có vấn đề khi
xuất hiện sự không tương xứng, sự xung khắc giữa cái đã biết và cái đòi hỏi,
21
cách thức và những yếu tố thực hiện hành động đang đòi hỏi, hoặc khi con
người gặp phải một vài điều kiện mới mà không thể thực hiện hành động đã
biết”. [1, tr.57].
Tác giả Đặng Văn Đức - Nguyễn Thu Hằng quan niệm: Tình huống có
vấn đề hay tình huống học tập là trạng thái tâm lý xuất hiện khi con người gặp
phải tình huống khó khăn giải quyết mà bằng tri thức đã có, bằng cách thức đã
biết không thể thực hiện được mà đòi hỏi phải lĩnh hội tri thức mới và cách
thức hành động mới. Nói cách khác tình huống vấn đề hay tình huống học tập
là trạng thái tâm lý khi học sinh gặp phải mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều
chưa biết nhưng muốn biết.
Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo lại quan niệm “Tình huống có vấn đề là
trạng thái tâm lý của sự khó khăn về trí tuệ xuất hiện ở con người khi họ trong
tình huống có vấn đề mà họ phải giải quyết chứ không thể giải thích một sự
kiện mới bằng tri thức đã có trước đây và họ phải tìm cách thức hành động
mới” [4, tr.243].
Có thể nói dưới những góc độ khác nhau, tình huống có vấn đề được các
tác giả quan niệm khá phong phú, nhưng đều thống nhất ở quan niệm coi tình
huống có vấn đề là trạng thái tâm lý độc đáo nảy sinh khi con người gặp phải
chướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn trong bản thân giữa cái đã biết và
cái chưa biết, điều đó đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn bằng cách tìm tòi, sáng
tạo tích cực không phải bằng tái hiện hay bắt chước.
Các bước dạy học nêu vấn đề
Thông thường dạy học nêu vấn đề được chia làm 3 bước:
Bước 1: Tạo tình huống có vấn đề
GV sẽ đưa ra một vấn đề dưới dạng bài toán nhận thức (đưa SV vào tình
huống có vấn đề), phân tích tình huống đặt ra nhằm nhận biết được vấn đề, kích
thích SV, làm nảy sinh ở họ sự bức xúc mong muốn giải quyết vấn đề ấy.
22
Bước 2: Nghiên cứu giải quyết vấn đề
Nhiệm vụ của bước này là nghiên cứu, tìm các phương pháp khác nhau
để giải quyết vấn đề. GV sẽ chỉ ra cho SV thấy xung quanh vấn đề mà GV
vừa đưa ra có cái gì mình chưa biết, cần tập trung suy nghĩ theo hướng nào để
giải quyết vấn đề. Để tìm các phương án giải quyết, GV cần liên hệ, so sánh
với các cách giải quyết những vấn đề tương tự đã biết, cũng như tìm ra
phương án giải quyết mới. GV có thể trình bày ngắn gọn, sát thực những yêu
cầu đặt ra bằng hình thức thuyết phục hoặc câu hỏi gợi mở, dẫn dắt… Các
phương án giải quyết đã tìm ra cần được sắp xếp hệ thống hóa để xử lý ở giai
đoạn tiếp theo. Khi có khó khăn hoặc không tìm ra phương án giải quyết phù
hợp thì cần trở lại việc nhận biết vấn đề ở bước thứ nhất để kiểm tra lại việc
nhận biết và hiểu vấn đề.
Bước 3: Kết luận vấn đề
Làm sao cho SV vận dụng các kiến thức đã có để giải quyết các vấn đề
một cách độc lập, thoải mái, thảo luận, phát biểu ý kiến và đi đến kết luận vấn
đề. GV nhận xét, bổ sung để kết luận cho được hoàn chỉnh. Từ kết luận rút ra
SV tiếp tục phát hiện, đề xuất những vấn đề học tập mới.
Những hình thức kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp dạy
học nêu vấn đề, trong dạy học môn Lý luận chính trị.
Trong quá trình thực hiện bài giảng thường là GV sử dụng phương pháp
thuyết trình để thuyết minh, phân tích, gợi mở một vấn đề, một quan điểm hay
một nguyên lý, quy luật nào đó rồi đưa ra những câu hỏi hay đặt ra vấn đề có
tính chất nghịch lý, mâu thuẫn giữa những kiến thức, kinh nghiệm đã có của
SV để SV suy nghĩ giải quyết vấn đề. Hoặc GV đưa ra tình huống tạo ấn tượng,
lôi cuốn, thu hút SV, sau đó giảng giải, phân tích và đi tới kết luận về nội dung
tri thức. Phương pháp dạy học nêu vấn đề gồm những hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, hình thức trình bày nêu vấn đề. Đây là mức độ thấp nhất trong
dạy học nêu vấn đề. Trong thực hiện GV dùng lời nói, ngôn ngữ, truyền thụ nội
23
dung kiến thức trừu tượng và khái quát hóa cao. GV dường như phải thực hiện
toàn bộ các bước của phương pháp nêu vấn đề qua đó SV hiểu biết thu nhận tri
thức mới.
Thứ hai, hình thức nêu vấn đề tìm tòi bộ phận. Là hình thức được dùng
để giải quyết từng phần của bài giảng. Sau khi dùng lời nói đưa SV vào tình
huống có vấn đề GV hướng dẫn SV tìm ra phương pháp tốt nhất để SV tự giải
quyết vấn đề.
Thứ ba, nêu vấn đề toàn bộ. Đây là hình thức có mức độ cao nhất trong
phương pháp dạy học nêu vấn đề. Dưới sự dẫn dắt khéo léo của GV, SV tự
mình giải quyết toàn bộ vấn đề nêu trong bài giảng.
Như vậy, phương pháp thuyết trình tích cực có giá trị như một công cụ để
truyền tải thông tin từ người dạy đến người học, làm cho nhận thức của SV đi từ
chỗ chưa có nhu cầu tìm hiểu kiến thức đến có nhu cầu rồi gặp phải những mâu
thuẫn nội tại trong nhận thức của bản thân, sau đó thì nhận thức được vấn đề học
tập. Việc chuyển bài toán nhận thức vào nhận thức của SV, giúp người học giải
quyết mâu thuẫn trong nhận thức và tiếp thu tri thức trong bài học đòi hỏi người
dạy phải có những thủ pháp, những công cụ sư phạm hữu hiệu, tiện dụng, chủ
yếu được thực hiện bằng phương pháp thuyết trình thông qua ngôn ngữ nói.
1.3.1.2. Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại
Khái niệm về phương pháp đàm thoại
- Phương pháp đàm thoại là một trong những phương pháp dạy học tích
cực có từ thời cổ đại, được thể hiện trong tư tưởng triết học phương Đông và
phương Tây.
Điều này đã được thể hiện một cách sinh động và sâu sắc thông qua các
kinh điển của Phật giáo, Nho giáo và triết học Hy Lạp cổ đại.
Bởi vậy, phương pháp này có thể gọi là phương pháp khám phá chủ
động. Dạy học là nghệ thuật đặt câu hỏi của người dạy với người học.
Câu hỏi được sử dụng thường xuyên trong dạy học, nó xâm nhập vào tất
cả các phương pháp dạy học, với nhiều mục đích khác nhau như kiểm tra, đánh
24
giá, tổ chức nghiên cứu tài liệu mới, hoàn thiện củng cố kiến thức. Nhiều
chuyên gia giáo dục, các SV giỏi, nhiều kinh nghiệm đều cho rằng: Câu hỏi giữ
vai trò quan trọng trong dạy học, là một trong các công cụ đắc lực cho GV, đặt
câu hỏi là" một trong những cách cơ bản để GV kích thích học sinh suy nghĩ về
học tập". Tuy nhiên để đặt được những câu hỏi phù hợp, tạo cơ hội cho người
học tham gia lĩnh hội kiến thức một cách tích cực nhất, kích thích và phát triển
tư duy, đồng thời tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho người học không phải là việc đơn giản. Trong thực tế, thường những GV
nhiều kinh nghiệm sẽ làm việc này tốt hơn những GV ít kinh nghiệm, có nhiều
GV thường chỉ dừng lại ở việc sử dụng câu hỏi để tái hiện kiến thức, như vậy
chưa kích thích được SV tìm tòi suy nghĩ.
Theo lý luận dạy học bộ môn giáo dục chính trị, phương pháp đàm thoại
(vấn đáp) là phương pháp GV khéo léo đặt câu hỏi để SV trả lời nhằm gợi mở
cho SV sáng tỏ những vấn đề mới, tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái
hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích lũy được trong
cuộc sống, nhằm giúp SV củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hóa tri
thức đã tiếp thu được nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp SV tự kiểm
tra, tự đánh giá việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình dạy học.
Qua đây ta có thể định nghĩa về phương pháp dạy học đàm thoại như
sau: Đàm thoại là phương pháp được đặc trưng bởi việc trao đổi giữa GV và
người học hoặc giữa người học với nhau để cùng hoàn thiện kiến thức dưới sự
điều khiển của GV thông qua việc đặt ra những câu hỏi phù hợp với nội dung
dạy học để từ đó lĩnh hội được nội dung bài học.
Phương pháp đàm thoại (PPĐT) phát hiện là một trong những phương
pháp dạy học tích cực, SV không những lĩnh hội được nội dung tri thức một
cách tích cực mà còn học được cả phương pháp nhận thức và diễn đạt tư tưởng
bằng lời nói. Trong phương pháp dạy học này hệ thống câu hỏi có vai trò vô
cùng quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng lĩnh hội của cả lớp, do
25
đó phải hướng tư duy của người học đi theo một logic hợp lý, kích thích tính
tích cực tìm tòi, trí tò mò khoa học và cả sự ham muốn giải đáp.
Các hình thức của phương pháp đàm thoại
Trong quá trình dạy học, có nhiều cách phân loại các PPĐT tùy thuộc
vào cơ sở lựa chọn để phân loại.
- Dựa vào mục đích dạy học có thể phân ra các hình thức sau:
+ Đàm thoại gợi mở: Được sử dụng khi dạy bài mới, trong đó GV khéo
léo dùng một hệ thống câu hỏi dẫn người học đi tới những kiến thức mới.
Phương pháp này được phát triển trong thực tiễn nhà trường nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, tạo điều kiện SV phát huy được tính tích cực độc lập
nhận thức, phát triển được hứng thú học tập, khát vọng tìm tòi khoa học.
+ Đàm thoại củng cố: Được sử dụng sau khi giảng bài mới, giúp SV nắm
vững tri thức cơ bản nhất, mở rộng, đào sâu những khái niệm, phạm trù, định
nghĩa, định luật đã lĩnh hội, khắc phục được những nhận thức sai lệch mơ hồ
thiếu chính xác.
+ Đàm thoại tổng kết: Được sử dụng lúc cần giúp SV hệ thống hóa, khái
quát hóa kiến thức sau khi học một chương, một phần hay toàn bộ chương trình
môn học, phát triển kĩ năng tư duy hệ thống hóa, khái quát hóa, khắc phục tình
trạng nắm tri thức một cách rời rạc, thiếu hệ thống.
+ Đàm thoại kiểm tra: Được sử dụng trước, trong hoặc cuối tiết học,
cuối chương hay cuối chương trình, giúp SV tự kiểm tra kiến thức của mình,
giúp GV đánh giá chất lượng lĩnh hội của SV để củng cố, bổ sung kịp thời
kiến thức mới.
- Dựa vào tính chất nhận thức của SV, bao gồm các hình thức sau:
+ Đàm thoại tái hiện: GV đặt ra những câu hỏi chỉ đòi hỏi SV nhớ lại
những kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ không cần suy luận.
+ Đàm thoại giải thích - minh họa: Có mục đích làm sáng tỏ một đề tài
nào đó. GV nêu ra một hệ thống các câu hỏi kèm theo những ví dụ minh họa để
26
SV dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này vẫn còn có thể áp dụng có hiệu quả trong
một số trường hợp như khi GV biểu diễn phương tiện trực quan.
+ Đàm thoại tìm tòi, phát hiện: GV tổ chức cuộc trao đổi ý kiến, kể cả
tranh luận giữa GV và cả lớp, có khi giữa GV với SV, thông qua đó SV nắm
được tri thức mới. Hệ thống câu hỏi của GV phải mang tính chất nêu vấn đề để
buộc SV luôn phải cố gắng phát huy trí tuệ, tự lực tìm lời giải đáp cho phù hợp.
Hệ thống câu hỏi - lời giải đáp mang tính chất nêu vấn đề, tạo nên nội dung
giáo dục chủ yếu của bài học, là nguồn kiến thức và là mẫu mực của cách giải
quyết một vấn đề nhận thức. Nhờ vậy thông qua phương pháp này, SV không
những nắm vững được cả nội dung giáo dục mà còn học được cả phương pháp
nhận thức và cách diễn đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ nói.
Trong phương pháp này hệ thống câu hỏi của GV giữ vai trò chỉ đạo chỉ
có tính chất quyết định đối với chất lượng lĩnh hội của cả lớp. Hệ thống câu hỏi
của GV vừa là kim chỉ nam, vừa là bánh lái hướng tư duy của SV đi theo một
logic hợp lý, nó kích thích tính tìm tòi, trí tò mò khoa học và sự ham muốn giải
đáp của SV.
Vì thế khi kết thúc đàm thoại, SV có vẻ như tự lực tìm ra chân lí và chính
khía cạnh này đã tạo cho SV niềm vui sướng của nhận thức, một tình cảm rất
tốt đẹp cần phát triển ở SV. Đến tiết cuối của quá trình đàm thoại, GV cần khéo
léo kết luận vấn đề dựa vào ngôn ngữ, ý kiến và chính nhận xét của SV, tất
nhiên có thêm bớt những ý kiến chính xác và cấu tạo lại kết luận cho chặt chẽ
xúc tích và hợp lý. Làm như vậy, SV càng hứng thú và tự tin vì thấy kết luận
của GV vừa nêu rõ ràng có sự đóng góp quan trọng của chính mình.
Ưu điểm của phương pháp đàm thoại
- Khắc phục được điểm yếu của phương pháp thuyết trình nhờ có sự
tương tác nhiều hơn nữa giữa GV và SV, đồng thời khắc phục được lối truyền
thụ một chiều của phương pháp thuyết trình truyền thống.
- Kích thích được tư duy năng động, sáng tạo của SV nhờ quá trình tự
lực tìm ra bản chất vấn đề dưới sự gợi ý, hướng dẫn của GV.
27
- GV dễ dàng đánh giá được năng lực nhận thức và mức độ tiếp thu tri
thức của SV nhờ thông tin phản hồi thu được trong suốt quá trình dạy học. Đó
cùng là cơ sở thực tiễn để GV điều chỉnh phương pháp dạy học của mình sao
cho phù hợp và hiệu quả hơn.
- Rèn luyện cho SV nhiều thao tác tư duy logic như: Phân tích, tổng hợp,
khái quát, chứng minh, diễn giảng.
Hạn chế của phương pháp đàm thoại.
- Phụ thuộc vào năng lực và thái độ hợp tác của SV.
- Nảy sinh nhiều tình huống ngẫu nhiên trong quá trình đàm thoại dễ gây
chệch hướng so với chủ đề ban đầu.
- Giờ học dễ trở thành giờ trao đổi của GV và một vài SV tích cực. Đa số
SV còn lại trong lớp sẽ đóng vai trò chỉ là người tham dự.
- Khi thiết kế bài dạy học, GV mất nhiều thời gian và công sức để thiết
kế các câu hỏi, nhất là trong vấn đáp tìm tòi, phát hiện và chuẩn bị các gợi ý.
Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp đàm thoại
Thứ nhất, GV nên chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi để dẫn dắt SV giải
quyết vấn đề. Câu hỏi cần được sắp xếp theo một hệ thống xác định hợp lý giúp
SV theo dõi, lĩnh hội đầy đủ tri thức mới. Khi chuyển từ câu hỏi này sang câu
hỏi khác phải có sự chuyển ý, tạo sự liên hệ giữa chúng để kiến thức không bị
cắt rời.
- Thứ hai, câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác cả về nội dung và từ
ngữ phù hợp với SV.
- Thứ ba, câu hỏi phải phù hợp với nội dung bài giảng, gần gũi với thực
tế hay những nội dung kiến thức mà SV đã tích lũy được.
- Thứ tư, câu hỏi phải phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý, thực tế xã hội
(tình hình, phong tục tập quán, tôn giáo của địa phương).
- Thứ năm, nên có câu hỏi mang tính phân loại, để kiểm tra khả năng lĩnh
hội vấn đề của SV.
28
- Thứ sáu, cần hết sức tránh những câu hỏi mà để SV trả lời không cần
suy nghĩ. Đối với câu hỏi mà SV chỉ cần trả lời "có" hoặc " không", không nên
quan niệm một cách đơn giản rằng đó là những câu hỏi đơn giản SV dễ trả lời.
Đôi khi để trả lời được " có" hoặc "không", SV đã phải vận dụng không ít kiến
thức đã tích lũy được.
Các bước thực hiện của phương pháp đàm thoại
- Trước giờ học
Bước một: Xác định mục tiêu bài học và đối tượng dạy học, xác định các
đơn vị kiến thức kỹ năng cơ bản trong bài học và tìm cách diễn đạt các nội
dung này dưới dạng câu hỏi gợi ý, dẫn dắt SV.
Bước hai: Dự kiến các câu hỏi, hình thức hỏi, thời điểm đặt câu hỏi, trình
tự các câu hỏi, câu hỏi trước phải làm nền cho các câu hỏi tiếp sau, hoặc định
hướng suy nghĩ để SV giải quyết các vấn đề. Dự kiến nội dung các câu trả lời
của SV, trong đó dự kiến những "lỗ hổng" về mặt kiến thức cũng như những
khó khăn, sai lầm phổ biến mà SV thường mắc phải. Dự kiến các câu nhận xét
hoặc trả lời của GV đối với SV.
Bước ba: Dự kiến những câu hỏi phụ để tùy tình hình từng đối tượng cụ
thể mà tiếp tục gợi ý, dẫn dắt SV.
- Trong giờ học
GV sử dụng câu hỏi dự kiến phù hợp với trình độ nhận thức của từng
loại đối tượng, trong tiến trình giảng dạy chú ý thu thập thông tin phản hồi từ
phía SV.
- Sau giờ học
Giảng viên chú ý rút kinh nghiệm, bổ xung về tính rõ ràng, chính xác và
trật tự logic của hệ thống câu hỏi đã được sử dụng trong giờ dạy.
Sự kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại
Ở một số nội dung trong bài học nếu GV chỉ áp dụng phương pháp nêu
vấn đề trong quá trình giảng thì do vốn hiểu biết của SV còn rất hạn chế mà
29
kiến thức bộ môn lại trừu tượng nên nhiều khi GV phát vấn SV không trả lời
được, xảy ra tình trạng thầy hỏi xong lại tự trả lời dẫn đến giờ học tẻ nhạt. Việc
vận dụng phương pháp đàm thoại thì việc truyền thụ và lĩnh hội tri thức mới
của GV và SV thông qua hệ thống câu trả lời những yêu cầu, gợi ý do GV nêu
ra. Trên cơ sở những tri thức đã được lĩnh hội SV lại nêu lên những câu hỏi để
GV giải đáp những vấn đề còn vướng mắc. Từ đó làm cho các giờ học sôi nổi
hơn, kích thích được sự ham mê, hứng thú học tập, phát huy được tính chủ
động, tích cực của SV trong giờ học. Khi kết hợp phương pháp này với phương
pháp thuyết trình cần lưu ý khi đặt câu hỏi đàm thoại phải có mục đích rõ ràng,
tránh những câu hỏi đặt ra tùy tiện không nhằm vào mục đích cụ thể nào, cần
tránh những câu hỏi tối nghĩa, phức tạp hoặc những câu hỏi có thể hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau.
Trong đàm thoại có những dạng câu hỏi khác nhau. Có thể phân loại
dạng câu hỏi dựa trên một số cơ sở sau đây.
- Dựa vào mục đích dạy học: Câu hỏi định hướng, câu hỏi gợi mở.
- Dựa vào nội dung bài học: Câu hỏi đơn giản, câu hỏi phức tạp.
- Dựa vào chức năng: Câu hỏi phân tích tổng hợp, câu hỏi so sánh -
đối chiếu.
- Dựa vào mức độ tính chất nhận thức của SV: Câu hỏi tái hiện, câu hỏi
giải thích - minh họa, câu hỏi phát hiện.
- Theo mức độ năng lực nhận thức: Câu hỏi yêu cầu thấp, câu hỏi yêu
cầu cao.
Việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại trong
dạy học sẽ loại bỏ được yếu tố độc thoại trong thuyết trình, quan hệ hai chiều
tạo ra sự giao cảm sẽ phát huy được tính cộng hưởng giữa GV và SV. Thông
qua đó giúp cho họ tự tin, mạnh dạn trong việc trao đổi kiến thức với GV, tạo
nên sự gần gũi giữa GV và SV. Dưới sự dẫn dắt của GV, SV sẽ được hình
thành và phát huy được năng lực tư duy năng động, sáng tạo của mình.
30
1.3.2. Nguyên tắc của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
nhằm phát huy tính tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị
Việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề,
phương pháp đàm thoại để dạy học môn Lý luận chính trị là một trong những
cách thực hiện giảng dạy còn hạn chế của các GV nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào hiện nay. Để đảm bảo sự kết hợp này là đúng đắn và đem lại kết
quả tốt cho hoạt động dạy - học, người GV cần nắm vững và đảm bảo các
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ mục tiêu và trọng tâm của bài giảng. Đây là
yêu cầu bắt buộc chung đối với bất kỳ GV nào trong quá trình chuẩn bị giáo án
và cả trong khi tiến hành giảng dạy. Từ đó xác định phương pháp, sử dụng
phương tiện dạy học cho hiệu quả. Trong các Trường Đại học và Cao đẳng của
Lào, thông qua chức năng, nhiệm vụ và nội dung của môn Lý luận chính trị thì
mục tiêu dạy học phải được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn, phải quán
triệt mục tiêu chung của bậc học. Đảm bảo nguyên tắc này giúp GV luôn thực
hiện đúng và đầy đủ yêu cầu của môn học.
Thứ hai, phải đảm bảo tính hệ thống logic chặt chẽ và tính khoa học của
tri thức môn học. Hoạt động dạy và học là hai thành tố cơ bản nằm trong cấu
trúc hệ thống của quá trình dạy học. Mỗi hoạt động tồn tại với tư cách là một hệ
thống bao gồm các yếu tố cấu thành nên chúng. Tính hệ thống được thể hiện ở
các bước, các khâu phải được liên kết với nhau theo một trình tự logic xác định,
đảm bảo yếu tố trước là tiền đề điều kiện, nền tảng cho việc giải quyết các yếu
tố sau. Thước đo thành công của mỗi bài giảng chính là mức độ hứng thú, khả
năng lĩnh hội tri thức và khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn cuộc sống của
SV. Để làm được điều này, trước tiên, GV phải đảm bảo tính khoa học, hệ
thống logic của bài giảng môn Lý luận chính trị là một hệ thống tri thức mang
tính khoa học sâu sắc, có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì vậy GV phải
đảm bảo tính hệ thống logic của bài giảng.
31
Thứ ba, phải biết tạo ra tình huống có vấn đề để kích thích tính chủ
động, tính sáng tạo của SV. Trong dạy học, không có phương pháp nào là vạn
năng mà mỗi phương pháp đều có ưu điểm và hạn chế nhất định của nó. Bởi
vậy điều quan trọng là trong quá trình vận dụng chúng, GV phải có phương án
phát huy, khai thác tối đa những ưu điểm và làm giảm đến mức thấp nhất hạn
chế của nó. Việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp dạy học
nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại là giải pháp tốt nhất để khắc phục những
điểm yếu của phương pháp này. Nghĩa là ưu điểm của phương pháp này bổ
sung cho những hạn chế của phương pháp kia và ngược lại. Vì vậy, việc kết
hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương
pháp đàm thoại sẽ tạo ra những tình huống có vấn đề, giúp SV nâng cao năng
lực tư duy, chủ động xây dựng tri thức mới và vận dụng tri thức vào giải quyết
và đáp ứng được những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Thứ tư, phải đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức. Trong quá trình dạy học,
khi lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, việc nâng
cao dần mức độ khó khăn trong học tập tương ứng với giới hạn cao nhất của
vùng phát triển trí tuệ gần nhất nhằm tạo nên sự căng thẳng về mặt trí lực, thể
lực một cách phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá biệt chính là bản
chất của nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học. Nói cách khác, nguyên tắc
vừa sức trong dạy học được quan niệm là quá trình dạy học phù hợp với trình
độ tiếp thu tri thức mới của SV, kích thích, thúc đẩy và đi trước sự phát triển
trí tuệ của SV.
Vừa sức trong dạy học không thể hiểu đơn giản là sức học đến đâu thì
dạy đến đó mà bao giờ dạy học cũng đề ra những nhiệm vụ khó khăn mà dưới
sự chỉ đạo của GV thì SV bằng sự nỗ lực của mình có thể khắc phục được. Cần
lưu ý rằng mức độ khó khăn trong học tập của SV khác với sự quá tải về mặt trí
lực và thể lực, bởi sự quá tải đó sẽ làm yếu đi sự nỗ lực ý chí, làm cho SV sớm
bị mệt mỏi trong học tập, khả năng học tập sẽ không cao.
32
Vì vậy, trong quá trình truyền đạt GV phải xây dựng tình huống có vấn
đề phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, khả năng nhận thức của SV. Từ đó, tạo
động lực thúc đẩy SV suy nghĩ, tìm tòi, giải quyết vấn đề và vận dụng trong
hoạt động thực tiễn.
Tầm quan trọng của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong dạy học môn Lý luận chính trị
Thực tiễn giáo dục nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào cho thấy,
trước kia, phương pháp thuyết trình truyền thống có nhiều ưu điểm, khắc phục
được tình trạng khan hiếm tài liệu, giáo trình trong giảng dạy, người học chỉ
cần tới lớp đã lĩnh hội đầy đủ thông tin do GV cung cấp. Tuy nhiên, trong giai
đoạn hiện nay, nếu lạm dụng phương pháp này sẽ đẩy người học vào thế thụ
động, ngồi chờ, ỷ lại, làm cho người học thiếu tự tin khi gặp phải những vấn đề
cần phải giải quyết liên quan đến chuyên môn và cuộc sống của họ.
Để khắc phục hạn chế trên, một trong những giải pháp cơ bản tác động
trực tiếp quá trình giáo dục - đào tạo, đòi hỏi người GV phải đổi mới phương
pháp dạy - học, sử dụng các phương pháp dạy - học tích cực, hoặc kết hợp các
phương pháp trong dạy học. Một trong những phương pháp dạy - học mang lại
hiệu quả cao đó là kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn
đề, phương pháp đàm thoại trong giảng dạy môn Lý luận chính trị.
Nêu vấn đề trong giảng dạy môn Lý luận chính trị là rất cần thiết trong
hoạt động giảng dạy của GV hiện nay. Bởi lẽ, rất nhiều SV có tâm lý cho rằng
đây là một môn học khô khan, khó hiểu, ít có giá trị thực tiễn, không liên quan
đến chuyên môn của họ.
Phương pháp thuyết trình với đặc điểm truyền thụ tri thức một chiều đã
tạo nên những hạn chế trong giảng dạy, khi được kết hợp với đàm thoại, tính
chất độc thoại được hạn chế, thay vào đó là mối quan hệ tương tác tích cực giữa
GV và SV. Do sự kết nối thông tin qua lại giữa thầy và trò được thiết lập mà
không khí lớp học được thay đổi tích cực, trò có điều kiện để bộc lộ phát triển ý
33
tưởng và kỹ năng vận dụng tri thức, được rèn luyện kỹ năng trình bày và tự tin
hơn trong học tập. Thầy có được thông tin phản hồi, điều chỉnh được kịp thời
tài liệu và các thao tác sư phạm, đánh giá chính xác và đầy đủ hơn về trò, chính
vì vậy mà hiệu quả thuyết trình được nâng lên, khắc phục được hạn chế của
phương pháp này.
Như vậy, trên cơ sở phân tích ưu điểm, hạn chế của phương pháp thuyết
trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại cùng với đặc thù môn
Lý luận chính trị tôi nhận thấy rằng: Việc kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại là vô cùng quan trọng và cần
thiết trong bối cảnh hiện nay bởi mỗi phương pháp đều có ưu điểm, hạn chế
riêng, việc kết hợp đúng đắn không chỉ hạn chế nhược điểm của mỗi phương
pháp mà còn bổ sung cho nhau, tạo hiệu quả cao trong dạy - học.
1.4. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong dạy học môn Lý luận chính trị
1.4.1. Khái quát về trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng
Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng là trường Cao đẳng công
lập và là một trong những trường Cao đẳng Sư phạm trong 10 trường thuộc về
Bộ Giáo dục và Thể thao dưới sự giám sát của Sở Giáo dục và phối hợp các
Phòng, Ban có liên quan của Bộ Giáo dục và Thể thao. Trường Cao đẳng Sư
phạm Đông Kham Xạng nằm ở làng Đông Kham Xạng, huyện Hat Xay Phong,
thủ đô Viêng Chăn, Cộng hòa Dân chủ Nhân Lào. Trường Cao đẳng Sư phạm
Đông Kham Xạng ra đời và trưởng thành trải qua những giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Trong năm 1960, bắt đầu thành lập trường Cao đẳng Sư
phạm Trung cấp ở Ta Phô Rang, năm 1964 được chuyển đến Đông Đok, tên
trường Cao đẳng Sư phạm Trung cấp trở thành Sở Giáo dục. Đến năm 1974
đổi tên trường từ Sở Giáo dục trở thành Cao đẳng Sư phạm Viêng Chăn mà
Ông Lượng là giám đốc và Ông In Peang KHIUEVONGPHACHAN là phó
giám đốc. Trường đào tạo gồm có 2 ngành: Khoa học xã hội và Khoa học
tự nhiên.
34
Giai đoạn 2: Năm 1974 (trước giải phóng) trường đã thay đổi tên là
Trung cấp Sư phạm số 4 gồm 2 ngành: Khoa học xã hội và Khoa học tự nhiên.
Giai đoạn 3: Năm 1980 trường được trao cho Sở Giáo dục thủ đô Viêng
Chăn và được chuyển đi Nam Hum bắt đầu năm thứ nhất; còn năm 2, 3 vẫn học
tại Đông Đok. Đến năm 1981 trường lại di chuyển SV năm thứ nhất từ Nam
Hum trở về học tại trường Sư phạm Trung cấp số 4 (Đông Đok), bởi vì môi
trường và kinh tế không thuận lợi. Đối với Sư phạm mầm nom đã bắt đầu từ
năm 1981 - 1990 tại Đông Đok có hệ thống 8 + 3 Trung cấp với 5 lớp học do
Ông Bounpheng MOUNPHOXAY là giám đốc. Năm 1991 - 1997, trường Sư
phạm mầm non Trung cấp do Ông Phu Vong Chan tha Vong là giám đốc. Năm
1985 - 1990, trường được chuyển đi lập tại Chúa Phai được học kỳ 1; đến học
kỳ 2 được chuyển trở lại ở trường Trung học phổ thông Phôn Than và được đặt
tên trường Sư phạm Trung cấp thủ đô Viêng Chăn.
Giai đoạn 4: Năm 1991 trường được chuyển về tại làng Đông Kham
Xạng, huyện Hat Xay Phong, thủ đô Viêng Chăn. Năm 1997 trường lại được Sở
Giáo dục thủ đô trao cho Bộ Giáo dục và Thể thao quản lý. Năm 1998 trường Sư
phạm mầm non Trung cấp Đông Đok được di chuyển ghép với trường Sư phạm
Đông Kham Xạng (tên vẫn là trường Sư phạm Đông Kham Xạng).
Giai đoạn 5: Năm 2010, Bộ Giáo dục và Thể thao ra quyết định số
1548/Giáo dục - Sư phạm, ngày 02 tháng 07 năm 2010. Trường được nâng cấp
từ trường Sư phạm Đông Kham Xạng trở thành trường Cao đẳng Sư phạm
Đông Kham Xạng cho đến hiện nay.
Hiện nay, trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng có cơ sở vật chất
tương đối khang trang, bao gồm có 10 văn phòng như:
1. Văn phòng kết quả - đánh giá.
2. Văn phòng sự phát triển giáo viên.
3. Văn phòng quản lý và tài chính.
4. Văn phòng tổ chức - Cán bộ.
35
5. Văn phòng học vụ.
6. Văn phòng khoa học tự nhiên.
7. Văn phòng khoa học xã hội.
8. Văn phòng sư phạm mầm non - tiểu học.
9. Văn phòng ngoại ngữ.
10. Văn phòng quản lý sình viên
Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng có hệ thống tổ chức lãnh
đạo trường bao gồm 4 đồng chí:
1. Vila SENGSAVANG là Giám đốc.
2. Somphone CHANTHAMALEE - Phó giám đốc.
3. Bounleuth SINGLATTANA - Phó giám đốc.
4. Syphone VANNALAT - Phó giám đốc.
Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng có đội ngũ cán bộ, GV đông
về số lượng (102 cán bộ GV và công chức), tương đối đồng đều về chất lượng đào
tạo (Thạc sỹ: 18 người, Đại học: 65 người, Cao đẳng: 19 người) và số SV bao
gồm 1.879 SV (nữ là 1.631 SV và nam là 248 SV) trong năm 2016 - 2017.
Trường bao gồm có 3 cấp học: Trung cấp, Cao đẳng và Đại học. Phân
chia ra làm 3 loại như: Sư phạm mầm non (gồm 4 ngành), Sư phạm tiểu học
(gồm 4 ngành) và Sư phạm Trung học phổ thông (gồm 3 ngành). Trong đó, bao
gồm có 11 ngành học như:
1. Sư phạm Mầm non; hệ thống 9+3 là Trung cấp.
2. Sư phạm Mầm non; hệ thống 11+1+2 là Cao đẳng.
3. Sư phạm Mầm non; hệ thống 12+2 là Cao đẳng.
4. Sư phạm Mầm non; hệ thống 12+4 là Đại học.
5. Sư phạm Tiểu học; hệ thống 9+3 là Trung cấp.
6. Sư phạm Tiểu học; hệ thống 11+1+2 là Cao đẳng.
7. Sư phạm Tiểu học; hệ thống.12+2 là Cao đẳng.
8. Sư phạm Tiểu học; hệ thống 12+4 là Đại học.
36
9. Sư phạm khoa học (Sinh học); hệ thống 12+4 là Đại học.
10. Sư phạm Ngoại ngữ; hệ thống 12+4 là Đại học.
11. Sư phạm Ngữ văn; hệ thống 12+4 là Đại học.
Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng có diện tích là 18 ha
(trong đó 8 ha đất xây dựng và 10 ha đất nông nghiệp).
- Phía Bắc giáp với ngõ 15
- Phía Nam giáp với ngõ 18
- Phía Tây giáp với đồng nội
- Phía Đông giáp với đường bê tông làng Đông Kham Xạng
1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng dạy học môn Lý luận chính trị ở
trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng
1.4.2.1. Xuất phát từ các hạn chế đã và đang xuất hiện của đất nước
Sau nhiều năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tưu to lớn
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, tư
tưởng. Song, mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế đã tác động tiêu cực đến đời sống làm mai một văn hóa truyền
thống, các giá trị đạo đức bị thay đổi, xuống cấp trầm trọng; đặc biệt, sự phai
nhạt lý tưởng, niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản, vào Nhà nước ngày
một lớn dần. Điều đáng nói là một bộ phận thế hệ trẻ, tầng lớp SV đang học tập
trong các trường đại học, cao đẳng đã và đang có một số biểu hiện tiêu cực suy
thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, sống không hoài bão, ước mơ, không có
chí tiến thủ, thiếu bản lĩnh, thờ ơ, mơ hồ về chính trị…
Bên cạnh đó, trong những năm qua, trước những biến động phức tạp của
thế giới, CNXH đang gặp phải những thách thức, khó khăn; các thế lực thù
địch, phản động với đủ mọi thủ đoạn, âm mưu thâm độc tiếp tục thực hiện âm
mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị của đất nước.
37
Từ thực tiễn trên cho thấy, công tác giáo dục Lý luận chính trị trong xã
hội nói chung và trong các trường đại học, cao đẳng nói riêng trở nên cấp thiết
hơn bao giờ hết. Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng có nhiệm vụ
đào tạo SV thành những thầy giáo, cô giáo không chỉ giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ mà trước hết phải có phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức cách
mạng, có lập trường giai cấp rõ ràng, gắn bó với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
CNXH bền vững. Chính vì vậy, giáo dục Lý luận chính trị đã trở thành một bộ
phận quan trọng, không thể thiếu trong nhà trường hiện nay.
Như vậy, giáo dục Lý luận chính trị góp phần hình thành thế giới quan,
nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và phương pháp luận khoa học cho SV,
giúp họ có những công cụ nhận thức và hoạt động trong thực tiễn, có thái độ
đúng đắn đối với hiện thực. Ngoài ra, giáo dục Lý luận chính trị còn góp phần
định hướng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, lối sống cho SV. Hướng người
học vào thực hiện các mục tiêu nhà giáo đề ra như; có phẩm chất, lập trường tư
tưởng, chính trị rõ ràng; trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, phấn đấu vì sự
nghiệp xây dựng CNXH, có ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức đoàn kết, có hoài bão
và tin tưởng vào đường lối đổi mới của đất nước, tránh xa các thói hư, tật xấu.
1.4.2.2. Xuất phát từ thực trạng công tác dạy và học môn Lý luận chính trị
trong trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng
Với định hướng XHCN, trong các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc gần đây
Đảng Nhân dân Lào đều khẳng định và kiên định lập trường lấy Chủ nghĩa Mác
- Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của
cách mạng. Chính luận điểm này đã nói lên vai trò quan trọng việc học tập Lý
luận chính trị của mọi công dân trong đó có học sinh, SV.
Bởi lẽ, học tập Lý luận chính trị là một nội dung cơ bản nhằm trang bị
cho SV tri thức cơ bản, có hệ thống về lý luận Mác-Lênin, đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước. Từ đó, giúp cho SV có khả năng
nhận thức và tham gia cải tạo thế giới bằng việc hình thành tư duy khoa học,
38
thái độ tích cực trong hoạt động thực tiễn, có kỹ năng vận dụng những tri thức
lý luận vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, việc dạy và học các môn khoa học Mác
- Lênin ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng còn có những hạn chế,
bất cập như:
Chương trình, nội dung giáo dục Lý luận chính trị trong nhà trường chậm
đổi mới, chưa theo kịp trình độ phát triển và yêu cầu xã hội. Việc giảng dạy Lý
luận chính trị chưa cập nhật kịp thời những thành tựu mới nhất của kinh tế - xã
hội. Đặc biệt là về phương pháp giáo dục Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng
Sư phạm Đông Kham Xạng trong thời gian qua còn nặng về giáo điều, sách vở;
lý luận không gắn liền với thực tiễn; truyền tải lý luận một cách khô khan, thụ
động, một chiều, không phát huy được khả năng suy nghĩ độc lập, khoa học và
sáng tạo của SV; trình độ của một số GV giảng dạy Lý luận chính trị còn hạn
chế; các phương tiện hỗ trợ giảng dạy còn nghèo nàn, khâu đánh giá kết quả
học tập chưa khoa học.
Số lượng, chất lượng đội ngũ GV, những người làm công tác giáo dục và
về phương tiện, cơ sở vật chất cho đào tạo còn sơ sài, lạc hậu.
Một bộ phận SV không có hứng thú học tập, nghiên cứu các môn Lý
luận chính trị.
Từ thực tế trên đòi hỏi cần phải đổi mới phương pháp giáo dục lý luận
chính trị nói chung, và việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực vào
giảng dạy môn Lý luận chính ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng,
thủ đô Viêng Chăn nói riêng.
Kết luận chương 1
Qua nghiên cứu lý luận về việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích
cực, tôi nhận thấy vai trò to lớn của việc kết hợp các phương pháp trong giảng
dạy nói chung và đối với giảng dạy môn Lý luận chính trị nói riêng là hết sức
cần thiết nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập cho SV Trường Cao
đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn.
39
Trong chương này tôi đã trình bày cơ sở lý luận của việc vận dụng
phương pháp thuyết trình tích cực trong quá trình dạy học, đưa ra quan niệm,
vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại trong giảng dạy môn Lý luận
chính trị cho SV Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng
Chăn. Đồng thời tôi cũng tiến hành phân tích thực trạng việc vận dụng phương
pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy đối với đội ngũ GV bộ môn Lý luận
chính trị của trường mà tôi đang công tác.
Dựa trên kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài tôi rút
ra một số nhận định sau:
Một là, phần lớn GV giảng dạy bộ môn Lý luận chính trị tại Trường Cao
đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn chưa thực sự nhận thức
đúng đắn về bản chất, tầm quan trọng của việc vận phương pháp thuyết trình
tích cực.
Hai là, việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy
môn Lý luận chính trị đã được triển khai nhưng chưa được quan tâm, đầu tư
đầy đủ nên hiệu quả dạy học còn hạn chế, chất lượng học tập của SV chưa cao.
Ba là, việc vận dụng phương pháp dạy học trên còn gặp một số khó khăn
nhất định như: Chưa có quy trình khoa học nhằm hướng dẫn GV áp dụng vào
thực tiễn giảng dạy, số lượng SV trong giảng đường quá đông. Bên cạnh đó
một số SV phần vì bỡ ngỡ chưa quen môi trường học tập, phần vì một số nội
dung kiến thức của môn trừu tượng, khó hiểu nên chưa thực sự chủ động trong
quá trình học tập. Do đó ảnh hưởng đến sự vận dụng việc kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, đàm thoại.
Bốn là, để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy nói chung và việc
vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy môn Lý luận chính
trị nói riêng theo tôi phải khắc phục một cách đồng bộ, toàn diện những nguyên
nhân chủ quan và khách quan làm ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả của
quá trình truyền thụ tri thức đến SV.
40
Từ thực trạng và những nguyên nhân trên, tôi nhận thấy cần phải nghiên
cứu và đề xuất các phương pháp, biện pháp và thao tác sư phạm hợp lý, có cơ
sở khoa học trong việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực nhằm nâng
cao chất lượng giảng dạy môn Lý luận chính trị cho SV Trường Cao đẳng Sư
phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn nói riêng và các môn Lý luận
chính trị nói chung. Trên cơ sở đó tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm tại
Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn để chứng
minh giả thuyết khoa học của đề tài.
41
Chương 2
THỰC NGHIỆM VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
THUYẾT TRÌNH TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY MÔN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÔNG KHAM XẠNG,
THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN
2.1. Đối tượng địa bàn thực nghiệm
2.1.1. Giả thuyết thực nghiệm
Vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực sẽ phát huy tính tích cực
của GV trong giảng dạy môn Lý luận chính trị nói chung và chương I: Những
vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN nói riêng, phát huy tính tích
cực sáng tạo, chủ động của SV và đạt được kết quả cao hơn trong quá trình dạy
học so với việc dạy học bằng phương pháp truyền thống.
2.1.2. Mục đích thực nghiệm
Mục đích thực nghiệm để kiểm chứng cho tính khả thi và hiệu quả của
việc vận dụng phương pháp thuyết trình, chúng tôi tiến hành thực nghiệm đối
chứng (thực nghiệm sư phạm). Với mục đích kiểm tra giả thuyết, đối tượng
thực nghiệm được chia thành hai nhóm: Nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng. Hai nhóm này có số lượng SV và trình độ ngang nhau.
Để tiến hành thực nghiệm tôi đã trực tiếp giảng dạy cho hai nhóm lớp
cùng một nội dung bài học. Trong đó, nhóm thực nghiệm sẽ giảng dạy theo
hướng kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, phương
pháp đàm thoại còn nhóm đối chứng sẽ dạy theo phương pháp truyền thống.
Nhằm đảm bảo tính sát thực của nội dung thực nghiệm, chúng tôi tiến
hành kiểm tra nhận thức và trưng cầu ý kiến cả nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng. Số liệu thống kê được xử lý một cách khách quan làm so sánh giữa thực
nghiệm và đối chứng, qua đó khẳng định tính chân thực của giả thuyết thực
nghiệm. Kết quả thu được sẽ là cơ sở để khẳng định tính hiệu quả của việc vận
42
dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy môn Lý luận chính trị
ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn.
2.1.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm trong đề tài này là kiểu thực nghiệm đối
chứng. Để kiểm tra giả thuyết thực nghiệm, các đối tượng thực nghiệm được
chia thành hai nhóm: Nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Hai nhóm được
chọn ngẫu nhiên có số lượng SV và trình độ phát triển ngang nhau.
Về số lượng có thể tìm hiểu qua việc so sánh sĩ số các lớp. Về trình độ có
thể căn cứ vào kết quả khảo sát chất lượng học tập môn Lý luận chính trị.
Nhóm thực nghiệm bị tác động bởi những biến số độc lập để xem xét diễn biến
có đúng với giả thiết ban đầu hay không. Nhóm đối chứng cho diễn biến xảy ra
hoàn toàn tự nhiên, không làm thay đổi bất cứ điều gì khác thường, đó là cơ sở
so sánh những kết quả thay đổi của nhóm thực nghiệm. Nhờ sự khác biệt của
hai nhóm ta có thể khẳng định hay phủ định giả thuyết thực nghiệm.
2.1.4. Địa diểm và thời gian tiến hành thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại trường Cao đẳng Sư phạm
Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn. Vì những lý do sau:
Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn có
chức năng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ
sở. Đề tài luận văn hướng vào vận dụng phương pháp dạy học theo hướng tích
cực, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cho hoạt động dạy và học môn Lý
luận Chính trị nói riêng và các môn học khác nói chung tại Trường Cao đẳng
Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn.
Thực nghiệm sư phạm vận dụng vào Chương I: Những vấn đề cơ bản
của phương thức sản xuất TBCN (môn Lý luận chính trị) nên thời gian thực
nghiệm được tiến hành tại lớp THCS 12+2(A), THCS 12+2(B), Mầm non
12+2(A), Mầm non 12+2(B) vào năm học 2016- 2017.
43
2.1.5. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng
Sinh viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng
Chăn là những người đã tốt nghiệp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông
được tuyển lựa vào trường để đào tạo thành thầy giáo, cô giáo không chỉ giỏi
về chuyên môn, nghiệp vụ mà trước hết phải có phẩm chất chính trị, tư tưởng
đạo đức cách mạng, có lập trường giai cấp rõ ràng, gắn bó với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ CNXH bền vững. Vì vậy trong quá trình đào tạo không nên đưa
SV vào những khuôn mẫu có sẵn mà phải phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của người học, phải rèn luyện cho họ phương pháp tự nghiên cứu, phương
pháp giải quyết vấn đề, phương pháp tự học suốt đời.
Đối tượng thực nghiệm là SV lớp Mầm non 12+2 (A), Mầm non 12+2(B)
năm học 2016- 2017 của Trường Cao đẳng sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô
Viêng Chăn, gồm 2 lớp thực nghiệm (thực nghiệm 1 và thực nghiệm 2) và 2 lớp
đối chứng THCS 12+2(A), THCS 12+2 (B) (đối chứng 1 và đối chứng 2).
Các lớp đối chứng Tổng số học viên
THCS 12+2(A) 67
THCS 12+2 (B) 70
Các lớp thực nghiệm
Mầm non 12+2 (A) 65
Mầm non 12+2(B) 60
Nhìn vào bảng ta thấy các lớp đối chứng, các lớp thực nghiệm sĩ số SV
không có sự tương đương. Hai lớp đối chứng tôi tiến hành dạy theo phương
pháp thuyết trình. Ở hai lớp thực nghiệm tôi tiến hành việc kết hợp phương
pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại.
2.2. Nội dung thực nghiệm
2.2.1. Điều tra kết quả đầu vào của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Để đánh giá khách quan kết quả của việc kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại trong giảng dạy
44
môn Lý luận chính trị chúng tôi tiến hành khảo sát kết quả học tập trước khi
tiến hành thực nghiệm đối với lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Kết quả khảo
sát được thể hiện ở bảng 2.1.
Bảng 2.1. Kết quả học tập môn Lý luận chính trị (phần I)
trước khi thực nghiệm
Giỏi Khá TB Số Lớp Tên lớp lượng SL % SL % SL %
Mầm non 12+2 65 8 12.3 18 27.7 39 60 (A) Thực Mầm non 12+2 nghiệm 60 7 11.7 13 21.7 40 66.6 (B)
Tổng số 125 15 12 31 24.8 79 63.2
THCS 12+2 (A) 67 6 9.0 18 26.9 43 64.1
Đối THCS 12+2 70 7 10 17 24.3 46 65.7 chứng (B)
Tổng số 137 13 9.5 25 18.2 89 72.3
Tôi tiến hành chuẩn bị đề cương bài giảng cho bài thực nghiệm bằng
việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, phương
pháp đàm thoại. Sau khi nghiên cứu và xem xét đặc điểm tri thức Chương I:
Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN (môn Lý luận chính trị )
cũng như nghiên cứu bản chất của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại tôi thấy việc kết hợp này sau
khi vận dụng sẽ đạt được hiệu quả cao.
2.2.2. Những nội dung khoa học cần thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thiết kế giáo án sử dụng kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại và dạy học theo
giáo án đã soạn. Vận dụng việc kết hợp phương pháp thuyết trình và phương
pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại trong giảng dạy Chương I: Những
45
vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN là kết hợp các phương pháp
dạy học tích cực như phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại. Tuy
nhiên, trong mỗi bài giảng nội dung tri thức phong phú nên chúng tôi sẽ lựa
chọn các đơn vị kiến thức trong từng mục, từng phần để kết hợp các phương
pháp khác nhau cho phù hợp.
Nội dung kiến thức của chương trình rất rộng. Trong phạm vi đề tài này
chúng tôi chỉ lựa chọn một số đơn vị kiến thức để sử dụng kết hợp phương
pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề, đàm thoại trong dạy học
Chương I: Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN môn Lý luận
chính trị. Sau đây là kiến thức mà chúng tôi đã thống nhất lựa chọn:
Bài 1: Sản xuất hàng hóa
Bài học trên đây là những đơn vị kiến thức cơ bản, chứa đựng nhiều nội
dung kết hợp phương pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề, phương
pháp đàm thoại. Đồng thời những đơn vị kiến thức đó đang giải quyết những
vấn đề cấp thiết mà thực tiễn kinh tế - xã hội đang đặt ra.
2.2.3. Thiết kế bài giảng thực nghiệm
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHƯƠNG THỨC SẢN
XUẤT TBCN
I. Sản xuất hàng hóa
II. Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa
III. Sản xuất giá trị thặng dư - Quy luật kinh tế cơ bản của CNTB
IV. Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
V. Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền
I. Mục tiêu
1. Kiến thức
Giúp SV nắm được: Khái niệm hàng hóa, sản xuất hàng hóa, điều kiện ra
đời của sản xuất hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa để từ đó thấy rõ tính
chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và lượng giá trị của hàng hóa.
46
2. Kỹ năng
Biết vận dụng cơ sở lý luận của bài học vào xem xét, đánh giá các hiện
tượng, các quá trình kinh tế của nền sản xuất hàng hóa ở trong nước nói chung
và trên địa phương nói riêng.
3. Thái độ
Giúp cho SV có thái độ: Coi trọng đúng mức vai trò của hàng hóa, tiền
tệ, sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay theo định hướng XHCN.
II. Tài liệu
- Giáo trình: [1]. Sách giáo khoa môn chính trị đối với giáo dục đại học
Phomma KAHKIK (2003)
- Tài liệu tham khảo:
1. Sách giáo khoa chính trị, giáo viên tiểu học 1 (2009)
2. Sách giáo khoa môn Kinh tế, giáo viên 2 hệ thống 11+3 (1996)
3. Sách giáo khoa môn khoa học chính trị 2 giáo viên hệ thống 8+3
năm (1998)
4 Sách giáo khoa môn khoa học chính trị 1 giáo viên, hệ thống 8+3 (1998)
III. Phương pháp dạy học
Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề.
IV. Phương tiện dạy học
Phấn, bảng. máy chiếu.
V. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức, kiểm tra sĩ số
2. Hoạt động dạy học
- Đặt vấn đề: Kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu
thành chủ nghĩa Mác- Lênin. Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những
quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế chi phối sự ra
đời, phát triển của phương thức sản xuất TBCN.
47
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào, sự tồn tại của kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Nếu như trước
đây, cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp đã tạo cho người ta tâm lý trông
chờ, ỷ lại vào nhà nước, thì ngày nay cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi chủ thể kinh
tế phải thực sự tích cực, năng động, tính toán sát thực đến hiệu quả kinh tế.
Hay nói cách khác, để thích ứng với cuộc sống kinh tế thị trường, mỗi
người cần hiểu rõ bản chất của các yếu tố cấu thành kinh tế thị trường. Nghĩa là
phải nắm được bản chất của những vấn đề cơ bản như: Hàng hóa, tiền tệ, sản
xuất hàng hóa.
Những vấn đề trên sẽ được làm sáng tỏ trong quá trình chúng ta nghiên
cứu bài: "Sản xuất hàng hóa"
GV sử dụng phương pháp trình bày nêu vấn đề
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội có hai hình thức kinh tế
rõ rệt là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Vậy thế nào là kinh tế tự nhiên?
Đặc trưng cơ bản của nó là gì? Kinh tế hàng hóa là gì? Ra đời dựa trên những
điều kiện nào?
1. Hàng hóa
a. Khái niệm
GV: Kết hợp thuyết trình với đàm thoại
Nhà ông A sản xuất muối một phần để ăn, phần còn lại để đổi lấy gạo,
rau và đem bán ra thị trường, hoặc rau được trồng để cải thiện bữa ăn trong gia
đình có phải là hàng hóa không? Vì sao?
Vậy một sản phẩm trở thành hàng hóa khi nào?
SV: Trả lời
GV: Hàng hóa là một vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.
Từ khái niệm trên ta có thể rút ra mấy điểm chung về hàng hóa như sau:
- Là sản phẩm của lao động: Bất cứ thứ gì không do lao động làm ra,
cho dù có lợi ích đến đâu cũng không phải là hàng hóa.
48
VD: Oxy trong không khí, nước ở dưới suối, cát, sỏi ở bờ sông, mặc dù
rất có ích đối với cuộc sống con người nhưng không do lao động làm ra, nên
chúng không phải là hàng hóa.
- Thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người (được tiêu dùng và có ích):
Một vật do lao động làm ra, cùng kết tinh một lượng lao động hao phí nhất định
của người làm ra nó, nhưng nó không thõa mãn nhu cầu cho người khác, cho xã
hội, nên vật đó cũng không phải là hàng hóa.
- Thông qua trao đổi, mua bán: Không qua trao đổi, mua bán không phải
là hàng hóa.
VD: Thóc, gạo do người nông dân làm ra để tiêu dùng thì không phải là
hàng hóa, nó chỉ trở thành hàng hóa khi người nông dân đem ra chợ bán.
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Oxy, cacbonic trong không khí,
nước ở dưới suối ta lấy lên để dùng có phải là hàng hóa không? Còn bình oxy
dùng trong bệnh viện, trong các nhà máy, nước khoáng đóng trong chai ta mua
có phải là hàng hóa không?
SV: Trả lời
GV kết luận: Như vậy, để một vật phẩm trở thành hàng hóa thì nó phải
thỏa mãn 3 điều kiện trên.
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Các em hãy lấy một vài ví dụ về
hàng hóa?
SV:Trả lời
GV sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp nêu vấn đề: Hàng hóa có
nhiều loại, có những hàng hóa tồn tại dưới hình thái cụ thể nhưng có những
hàng hóa không có hình dáng cụ thể, nên hàng hóa được chia thành 2 loại:
Hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình. Vậy, thế nào là hàng hóa hữu hình,
hàng hóa vô hình?
SV: Trả lời
GV:
49
- Hàng hóa hữu hình: Là sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất như
nông nghiêp, công nghiệp, con người có thể cầm nắm, nhìn thấy được.
VD: Máy vi tính, sắt, thép v..v
- Hàng hóa vô hình: Là sản phẩm của ngành dịch vụ (sự phục vụ); không
có hình thái cụ thể, không nhìn thấy, sờ thấy nhưng con người vẫn cảm nhận
được khi tiêu dùng nó.
VD: Giao thông vận tải, sự phục vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ...
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Chúng ta đã hiểu được khái niệm
thế nào là hàng hóa. Vậy khi chúng ta đi nghe một buổi hòa nhạc thì buổi hòa
nhạc đó có đủ điều kiện để trở thành hàng hóa hay không?
SV: Suy nghĩ và trả lời.
GV chuyển ý: Ở bài học trước chúng ta đã nghiên cứu các yếu tố, quá
trình và vai trò của nền sản xuất xã hội. Vậy trong lịch sử phát triển của nền sản
xuất xã hội đã từng tồn tại những hình thức kinh tế nào?
SV: Trả lời
GV kết hợp thuyết trình với đàm thoại: Chúng ta vừa cùng nhau nghiên
cứu thế nào là hàng hóa, vậy thế nào là sản xuất hàng hóa? Cho VD?
SV: Trả lời
VD: Con gà nuôi để thịt không phải là hàng hóa quá trình nuôi gà
để thịt là sản xuất tự cấp, tự túc.
Con gà nuôi để bán là hàng hóa quá trình nuôi gà để bán chính là
sản xuất hàng hóa.
GV: Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm
làm ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp
sản xuất ra nó mà để đáp ứng nhu cầu của người khác, thông qua việc trao đổi
mua bán.
GV kết hợp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề: Vậy thì sản xuất
hàng hóa khác với sản xuất tự cấp, tự túc như thế nào? Hiện nay kinh tế tự
nhiên ở nước ta còn tồn tại nữa không?
50
SV: Trả lời
GV: Sản xuất hàng hóa là sản xuất cho người khác, sản xuất tự cấp, tự
túc là sản xuất cho bản thân mình. Một thực tế ở nước ta hiện nay vẫn còn kiểu
kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp.
GV sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp nêu vấn đề: Kinh tế hàng
hóa là hình thức kinh tế phát triển cao hơn so với kinh tế tự nhiên. Việc chuyển
từ nền sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa là một quá trình lịch sử tự
nhiên lâu dài và chỉ có thể thực hiện khi có đủ những điều kiện cần thiết. Vậy
điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa là gì?
SV: Trả lời
b. Hai điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
GV thuyết trình kết hợp với đàm thoại: Sản xuất hàng hóa dựa trên 2
điều kiện
Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội
Các em hiểu như thế nào về phân công lao động xã hội ?
SV: Trả lời
GV: Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân
chia lao động xã hội vào những ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
VD: Người thợ may chuyên sản xuất ra các sản phẩm may mặc như quần
áo. Người thợ mộc chuyên sản xuất ra các sản phẩm gỗ như: Bàn, ghế,…
Người nông dân chuyên sản xuất các sản phẩm như lương thực, thực phẩm.
VD: Trong kinh tế hộ gia đình nông dân" chồng cày, vợ cấy, con trâu đi
bừa", trong một xưởng may: Có một bộ phận chuyên cắt, vắt sổ, ráp khuy, là,
đóng gói, kiểm tra sản phẩm. Phân công lao động tư nhân là cơ sở của phân
công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu vì:
51
+ Phân công lao động xã hội làm cho mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất
một hoặc vài thứ sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ
phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, họ cần đến sản phẩm của nhau nên họ
phải trao đổi hàng hóa với nhau.
+ Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất làm cho năng
suất lao động được tăng lên, sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều và trao
đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.
Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa.
Phân công lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi hàng hóa
càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Thứ hai, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản
xuất độc lập.
GV sử dụng phương pháp thuyết trình: Có 3 nguyên nhân dẫn đến sự
tách biệt này.
+ Do quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX: Đã làm cho người sản xuất
tách biệt và đứng độc lập với nhau cả trong sản xuất và tiêu dùng.
+ Do chế độ tư hữu về TLSX quy định.
+ Do có sự tách biệt quyền sở hữu với quyền sử dụng.
Nhờ có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế đã làm cho những người
sản xuất biết lựa chọn sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào,
tức là họ có quyền tự quyết định về vốn, khoa học kỹ thuật, đồng thời họ có
quyền chi phối đối với sản phẩm làm ra sẽ được bán ở đâu hay được tiêu dùng
ở thị trường nào.
Trên đây là 2 điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong
2 điều kiện đó thì sản xuất hàng hóa không thể xuất hiện.
GV: Kết luận
Phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ thuộc vào
nhau, còn chế độ tư hữu về TLSX lại làm cho họ độc lập với nhau. Đó là một
52
mâu thuẫn. Sản xuất và trao đổi hàng hóa ra đời như là một tất yếu khách quan
để giải quyết mâu thuẫn đó.
GV sử dụng phương pháp nêu vấn đề: Theo các em hiện nay ở nước ta
có đủ các điều kiện để kinh tế hàng hóa tồn tại hay không? Vì sao?
SV: Trả lời
c. Những ưu thế của sản xuất hàng hóa
GV kết hợp phương pháp thuyết trình với đàm thoại: So với sản xuất tự
cấp, tự túc, sản xuất hàng hóa có những ưu thế gì? Cơ chế kinh tế nào thích ứng
với sản xuất hàng hóa?
SV: Trả lời
GV
Thứ nhất, SX hàng hóa khai thác được các lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ
thuật tốt hơn so với sản xuất tự nhiên.
SX hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và lại thúc đẩy
sự phân công lao động xã hội phát triển, chuyên môn hóa sản xuất, tạo điều
kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất, tạo điều kiện
cải tiến công cụ, nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng phạm vi sản xuất, thúc
đẩy SX phát triển. Khi SX và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia thì
nó còn khai thác lợi thế giữa các quốc gia với nhau.
Thứ hai, sản xuất hàng hóa có quy mô lớn và trình độ sản xuất cao hơn
sản xuất tự nhiên.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô, tính chất tổ chức sản xuất không
bị giới hạn chật hẹp mà nó được mở rộng xã hội hóa ngày càng cao dựa trên cơ
sở ngày càng tăng nhu cầu và nguồn lực xã hội. Điều đó tạo điều kiện ứng dụng
những thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba, trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của các quy luật kinh
tế buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tính toán, cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
53
Thứ tư, sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống vật chất, văn hóa,
tinh thần được nâng cao, phong phú đa dạng.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế kể trên, sản xuất hàng hóa ngày càng
phát triển cũng chứa đựng mâu thuẫn của nó.
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Các em hãy nêu một số mặt trái
của nền sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay?
SV: Trả lời
GV: Phân hóa người SX thành giàu nghèo, nguy cơ khủng hoảng kinh
tế, phá hoại môi trường sinh thái, vệ sinh an toàn thực phẩm, hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lượng...
Vì vậy muốn phát triển một cách bền vững thì bên cạnh việc chú trọng
phát huy những mặt mạnh của nền sản xuất hàng hóa, thúc đẩy sản xuất phát
triển, chúng ta cần phải lưu ý khắc phục những mặt tiêu cực trên.
GV sử dụng phương pháp nêu vấn đề: Thành tựu kinh tế của các nước phát
triển trên thế giới ngày nay có phải do sản xuất hàng hóa đem lại hay không?
SV: Suy nghĩ và trả lời
GV chuyển ý: Như đã nói ở trên, hàng hóa tồn tại dưới nhiều hình thức,
tuy nhiên, dù là hàng hóa hữu hình hay vô hình thì chúng đều mang những
thuộc tính cơ bản của hàng hóa. Theo Mác, hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị
sử dụng và giá trị.
2. Thuộc tính của hàng hóa
GV sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp nêu vấn đề: Hàng hóa có
2 thuộc tính
a. Giá trị sử dụng( GTSD)
Là công dụng của hàng hóa đó và nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người.
VD: Nhu cầu cho tiêu dùng như: Lương thực thực phẩm, nhu cầu cho
SX như: Máy móc, thiết bị.
54
Theo các em để bán được hàng hóa, những người SX phải làm gì?
SV: Trả lời
GV: GTSD được phát hiện dần trong quá trình phát triển của khoa học
kỹ thuật và lực lượng sản xuất nói chung.
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Hãy lấy VD về các hàng hóa có
nhiều giá trị sử dụng?
SV: Trả lời
GV lấy VD: Như than đá trước đây chỉ dùng làm chất đốt, về sau được
dùng làm nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp hóa chất.
Hoặc chiếc máy tính xách tay ngày nay vừa giúp con người soạn thảo
văn bản, trao đổi công việc, thiết kế đồ họa, lại vừa có chức năng giải trí, được
ví như một thế giới thu nhỏ đối với mỗi người sử dụng.
GV sử dụng phương pháp thuyết trình
- Giá trị sử dụng của hàng hóa không phải cho người sản xuất trực tiếp
mà cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán=> GTSD của hàng
hóa là giá trị xã hội. Đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm
đến nhu cầu xã hội để xác định được xã hội cần sản phẩm gì và cần gì từ sản
phẩm mà nhà sản xuất làm ra, nhằm đáp ứng nhu cầu tốt nhất của xã hội.
- Là phạm trù vĩnh viễn và là vật mang giá trị trao đổi.
GTSD của hàng hóa gắn liền với vật thể là hàng hóa và do thuộc tính tự
nhiên của nó quy định nên nó tồn tại vĩnh viễn cùng với sự tồn tại của sản
phẩm hàng hóa, không phụ thuộc vào bất cứ hình thái xã hội nào.
VD: Bất cứ xã hội nào, xã hội phong kiến, xã hội tư bản hay CNXH thì
giá trị sử dụng cơ bản của gạo bao giờ cũng dùng để ăn, quần áo là để mặc...
Mác viết: Giá trị sử dụng cấu thành nội dung vật chất của cải, chẳng kể
hình thái xã hội đó như thế nào.
Tuy nhiên, một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có GTSD.
Song không phải bất cứ vật gì có GTSD cũng được coi là hàng hóa.
55
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Em hãy kể tên những vật phẩm
có giá trị sử dụng, rất cần thiết cho cuộc sống con người mà lại không phải
là hàng hóa?
SV: Trả lời
GV chuyển ý: Mục đích của SX hàng hóa đối với người SX là để bán,
thu về lợi nhuận, tiếp tục SX. Còn người mua chỉ quan tâm tới việc thỏa mãn
cao nhất GTSD. Để bán được hàng, người SX phải không ngừng nâng cao
GTSD cho người mua. Do đó, GTSD là vật mang giá trị trao đổi. Bên cạnh giá
trị sử dụng, một hàng hóa còn có thuộc tính nữa là giá trị.
b. Giá trị của hàng hóa
Để tìm hiểu giá trị của hàng hóa, chúng ta bắt đầu tìm hiểu từ giá trị
trao đổi.
GV kết hợp phương pháp thuyết trình với đàm thoại: Giá trị hàng hóa là
lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Biểu hiện của giá trị hàng hóa là giá trị trao đổi.
VD: 1 túi xách = 25 kg gạo. Vậy giá trị trao đổi là gì?
SV: Trả lời
GV: Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, hay tỉ lệ trao đổi giữa
các giá trị sử dụng khác nhau.
VD: 1m vải = 5 kg gạo
Để trao đổi được với nhau, trước hết chúng phải có GTSD khác nhau
(vải là để may quần áo, gạo là để làm thức ăn). Đồng thời, giữa chúng lại có
thể trao đổi được với nhau vì giữa chúng tồn tại điểm chung đều là sản phẩm
của lao động, đều được kết tinh bởi lao động. Nhờ đó chúng có thể trao đổi
với nhau.
c. Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa
GV sử dụng phương pháp thuyết trình: Hai thuộc tính của hàng hóa vừa
thống nhất vừa mâu thuẫn.
56
- Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một
hàng hóa, một vật phẩm phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới là hàng hóa.
Nếu thiếu một trong hai thuộc tính trên thì vật phẩm không là hàng hóa.
VD: Một chiếc áo sản xuất nhưng bị lỗi (là sản phẩm của lao động),
không sử dụng được nên không được đem trao đổi mua bán, vì vậy nó không
có giá trị, không phải là hàng hóa.
- Mặt mâu thuẫn:
+ Thứ nhất, với tư cách là GTSD các hàng hóa không đồng nhất về chất.
Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị các hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều
là kết tinh của lao động.
VD: 1m vải = 5 kg gạo (hai sản phẩm này trao đổi được với nhau do đều
kết tinh 5 h lao động).
+Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và GTSD tách rời nhau về mặt
không gian và thời gian: Giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông,
còn GTSD được thực hiện sau trong quá trình tiêu dùng.
GV kết luận: Giá trị sử dụng và giá trị là 2 mặt vừa đối lập vừa thống
nhất trong một hàng hóa. Trong sản xuất hàng hóa vừa phải coi trọng giá trị
sử dụng, nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa phải dựa trên giá trị sản phẩm
mà hạch toán kinh doanh, xác định giá cả.
3.Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
a. Lao động cụ thể
GV sử dụng phương pháp thuyết trình: Là lao động có ích dưới một hình
thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
VD: Người thợ may tạo ra quần áo, người thợ mộc tạo ra bàn ghế.
- Đặc điểm của lao động cụ thể
Thứ nhất, mỗi lao động cụ thể có mục đích, công cụ, đối tượng, phương
pháp và kết quả riêng.
57
Chính những cái riêng là cơ sở để phân biệt các loại lao động cụ thể
khác nhau.
VD: Lao động của người thợ mộc
Đối tượng: Gỗ
Mục đích: Tạo ra bàn, ghế.
Công cụ: Cưa, đục, bào…
Phương pháp: Thiết kế mẫu, cưa, bào…
Kết quả: Bàn, ghế.
Thứ hai, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Bất cứ giá trị sử dụng nào, nếu không phải do thiên nhiên trực tiếp tạo ra
thì đều là sản phẩm của lao động cụ thể nào đó tạo ra.
VD: Lao động của người thợ may tạo ra quần áo cho con người mặc, bảo
vệ sức khỏe và thể hiện phong cách. Còn lao động của người nhạc sĩ tạo ra các
nhạc phẩm giúp con người giải trí, thư giãn.
Thứ ba, lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn.
Trong bất cứ hình thái kinh tế nào cũng cần có lao động cụ thể để tạo ra
sản phẩm nuôi sống con người. Nên lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn.
b. Lao động trừu tượng
GV sử dụng phương pháp thuyết trình: Lao động trừu tượng là lao động
của người sản xuất hàng hóa khi gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay đó
chính là sự tiêu phí sức lao động nói chung (bắp thịt, thần kinh) của người sản
xuất hàng hóa.
VD: Nếu gạt bỏ hình thức cụ thể của người thợ mộc, thợ may đi với tư
cách là người sản xuất hàng hóa thì họ giống nhau ở chỗ đều phải hao phí sức
lao động.
- Đặc điểm của lao động trừu tượng
Thứ nhất, lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội trừu tượng của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
58
Tuy nhiên không phải bất cứ sự tiêu phí sức lực nào của người lao động
cũng là lao động trừu tượng, mà chỉ có sự hao phí thần kinh, bắp thịt của người
sản xuất hàng hóa mới được coi là lao động trừu tượng. Vì sản xuất hàng hóa là
sản xuất để trao đổi mua bán, nên không thể căn cứ vào lao động cụ thể được
mà phải quy mọi lao động cụ thể về cùng một lao động đồng nhất - lao động
trừu tượng.
Thứ hai, lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử.
Lao động trừu tượng gắn với sản xuất hàng hóa (sản xuất hàng hóa là
phạm trù lịch sử) nên bao giờ còn sản xuất hàng hóa thì còn lao động trừu
tượng và ngược lại.
* Lưu ý: Không phải lao động của loài người nói chung có tính chất hai
mặt mà chỉ có lao động sản xuất hàng hóa mới có tính chất hai mặt (lao động
cụ thể và lao động trừu tượng).
c. Mối quan hệ giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng
GV sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp đàm thoại: Em hiểu như
thế nào khi nói rằng: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng vừa thống nhất
vừa mâu thuẫn với nhau?
SV: Trả lời
GV: Mặt thống nhất: Chúng là 2 mặt của cùng một lao động sản xuất
hàng hóa (vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng).
Mặt mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng
là biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội, giữa giá
trị sử dụng và giá trị hàng hóa.
4. Lượng giá trị của hàng hóa
a. Thời gian lao động xã hội cần thiết
Trước hết lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng số lượng thời gian
để sản xuất ra hàng hóa như: Phút, giờ, ngày, tháng, quý, năm.
GV kết hợp thuyết trình với nêu vấn đề: Theo em lượng giá trị hàng hóa
được xác định như thế nào?
59
SV: Trả lời
GV: Trong xã hội có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hóa
nhưng do điều kiện sản xuất, trình độ kỹ thuật, quản lý, tay nghề khác nhau nên
hao phí lao động không giống nhau.
VD: Cùng là thợ mộc nhưng người thứ nhất đóng một cái bàn phải hao
phí mất 10h lao động, trong khi đó người thứ hai chỉ mất 8h lao động.
Trong trao đổi người ta không căn cứ vào hao phí thời gian lao động cá
biệt. Vì nếu căn cứ vào thời gian lao động cá biệt thì người nào có điều kiện sản
xuất không tốt, tay nghề kém, sức khỏe yếu sẽ phải chi phí lao động nhiều hơn
mà phải căn cứ vào lượng lao động trung bình của xã hội hay thời gian lao
động cần thiết.
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Các em cho biết thời gian lao động
cá biệt là gì?
SV: Trả lời
GV: Là thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa của từng
người được gọi là thời gian lao động cá biệt.
VD: Người A sản xuất đôi giày mất 2h, vậy 2h là thời gian lao động cá
biệt của người A.
Lượng giá trị hàng hóa không phải được tính bằng thời gian lao động
cá biệt mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng
hóa đó.
GV kết hợp phương pháp thuyết trình với đàm thoại: Thông qua sách
giáo trình, em nào cho biết thời gian lao động xã hội cần thiết là gì?
SV: Trả lời câu hỏi
GV: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động đòi hỏi để
sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó, trong điều kiện sản xuất bình thường
của xã hội, với một trình độ lao động trung bình và một cường độ lao động
trung bình của xã hội.
60
- Giải thích các cụm từ.
+ Điều kiện sản xuất: Tức là trình độ của công cụ sản xuất, môi trường...
+ Trình độ thành thạo: Kỹ thuật của người lao động.
+ Cường độ lao động: Nhịp độ khẩn trương để sản xuất ra một đơn vị
sản phẩm.
GV sử dụng phương pháp nêu vấn đề: Nếu tôi sản xuất ra một sản phẩm
hàng hóa càng hết nhiều thời gian tức là hao phí sức lao động bỏ ra càng nhiều
thì giá trị của tôi càng lớn. Suy luận này đúng hay sai?
SV: Thảo luận
GV nhận xét: Sai vì nếu suy luận như vậy thì người lao động nào càng
vụng về, lười biếng thì giá trị hàng hóa của anh càng lớn.
Mác nói: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá
trị của giá trị sử dụng ấy."
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Em hãy kể tên một số hàng hóa
được sản xuất ở địa phương, những hàng hóa nào thời gian lao động cá biệt
lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết và ngược lại? Hãy đưa ra giải
pháp khắc phục?
SV: Suy nghĩ và trả lời
GV kết hợp thuyết trình với nêu vấn đề: Để sản xuất có lãi và dành ưu
thế trong cạnh tranh người SX phải làm gì?
SV: Thảo luận
GV: Người sản xuất phải tìm mọi cách giảm giá trị cá biệt của hàng hóa
xuống ít nhất là bằng và càng thấp hơn giá trị xã hội của giá trị hàng hóa càng
tốt.Thực hiện các biện pháp như: Nâng cao trình độ chuyên môn, áp dụng khoa
học công nghệ hiện đại, quảng bá sản phẩm thương hiệu.
VD: Sản xuất điện thoại ngày càng nhiều chức năng, mẫu mã đa dạng,
giá thành rẻ…
61
b. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị một đơn vị hàng hóa
GV thuyết trình kết hợp với đàm thoại: Tất cả nhân tố nào ảnh hưởng tới
thời gian lao động xã hội cần thiết thì đều ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hóa.
- Thứ nhất: Năng suất lao động.
Là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao động
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Vậy năng suất lao động phụ thuộc vào những yếu tố nào?
SV: Trả lời
GV: Năng suất lao động phụ thuộc vào những yếu tố sau:
+ Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người lao động.
+ Mức độ phát triển của khoa học công nghệ và sự ứng dụng những
thành tựu đó vào sản xuất.
+ Trình độ tổ chức quản lý.
+ Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
- Thứ hai: Cường độ lao động.
Là mức độ khẩn trương lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy
mức độ nặng nhọc hay căng thẳng của người lao động.
GV sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp đàm thoại: Cường độ lao
động tăng lên có nghĩa là hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian tăng
lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của người lao động tăng
lên, làm cho số lượng hàng hóa được sản xuất ra cũng tăng lên, vì tăng cường
độ lao động thực chất cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
Cường độ lao động phụ thuộc vào những yếu tố nào?
SV: Trả lời
GV: Diễn giảng
+ Trình độ tổ chức quản lý.
+ Quy mô và hiệu suất của TLSX.
+ Thể chất, tinh thần của người lao động.
62
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá
trị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động được chia thành lao động
giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn: Là lao động mà bất kỳ một người lao động bình
thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
VD: Lao động bốc vác, rửa xe...
Lao động phức tạp: Là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện
thành chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được
VD: Lao động của giáo viên, bác sĩ...
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn. Xét về mặt lượng giá trị thì lao động phức tạp là bội số của lao
động giản đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều
được quy thành lao động giản đơn trung bình.
GV sử dụng phương pháp nêu vấn đề: Vậy nền kinh tế hàng hóa ở nước
ta có gì khác với nền kinh tế TBCN?
SV: Thảo luận
GV chuyển ý, sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp nêu vấn đề: Giá
trị của hàng hóa do lượng lao động hao phí tạo ra, tuy nhiên, giá trị không tự
nhiên bộc lộ ra mà thể hiện thông qua giá trị trao đổi trong quá trình mua bán.
Trong quá trình đó, giá trị của hàng hóa được biểu hiện dưới những hình thái
khác nhau. Nghiên cứu quá trình phát triển các hình thái biểu hiện của giá trị sẽ
thấy cuối cùng giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định.
Vậy tiền là gì? Tại sao tiền lại đo được giá trị của hàng hóa? chúng ta chuyển
sang nghiên cứu phần II.
II.Tiền tệ, chức năng của tiền tệ
GV sử dụng phương pháp nêu vấn đề: Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi
chúng ta đều cần có tiền để mua sắm những thứ cần thiết cho mình. Vậy tiền tệ
là gì? Khi nào tiền xuất hiện, nó có vai trò như thế nào trong sự phát triển của
đời sống kinh tế xã hội?
63
1. Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Nước ta xuất khẩu các mặt hàng
nhằm thu được gì?
Thời nguyên thủy con người đã trao đổi hàng hóa bằng tiền chưa?
Theo các em từ khi xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa tiền đã xuất
hiện chưa?
SV: Suy nghĩ và trả lời.
GV sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp nêu vấn đề: Tiền ra đời là
kết quả quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa trong lịch
sử. Tiền tệ là hình thái giá trị cao nhất của trao đổi hàng hóa. Vậy hình thái giá
trị là gì?
Hình thái giá trị là hình thức biểu hiện giá trị của hàng hóa này bằng
giá trị sử dụng của hàng hóa khác trong những giai đoạn phát triển khác nhau
của sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa.
VD: 1 vuông vải = 5 đấu thóc
Trong quá trình trao đổi đó, đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung
như: rìu, đồng, vàng...Việc xuất hiện nhiều hàng hóa đóng vai trò làm vật
ngang giá chung làm cho việc trao đổi hàng hóa giữa các vùng với nhau gặp
khó khăn. Chính vì vậy đòi hỏi phải có một hàng hóa tách ra đóng vai trò làm
vật ngang giá chung thống nhất, lúc đó hình thái tiền xuất hiện.
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Hình thái tiền xuất hiện khi nào?
SV: Trả lời
GV: Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển.
Dần dần vật ngang giá chung được thống nhất ở vàng - tiền ra đời.
GV sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp với đàm thoại: Tại sao
vàng lại đóng vai trò tiền tệ?
SV: Trả lời
64
GV: Thứ nhất, bản thân vàng có đủ thuộc tính của một hàng hóa. Giá trị
sử dụng của vàng là dùng làm đồ trang sức, giá trị của vàng cũng được đo bằng
lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó.
Thứ hai, vàng có đặc điểm thích hợp với vai trò tiền tệ như: Ít bị tác động
bởi các chất khác, dễ dát mỏng, chia nhỏ, dễ bảo quản và có giá trị lớn để đo
các giá trị hàng hóa khác.
Như vậy tiền tệ ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản
xuất và trao đổi hàng hóa, đồng thời là quá trình phát triển chung của các hình
thái giá trị.
GV: Sử dụng phương pháp nêu vấn đề: Bản chất của tiền là gì?
SV: Trả lời
GV: Tiền là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cố
định cho tất cả các hàng hóa. Là thể hiện chung của giá trị. Biểu hiện quan hệ
xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa. Giá trị hàng hóa thể hiện bằng
tiền gọi là giá cả của hàng hóa đó.
GV chuyển ý: Bản chất của tiền tệ còn được thể hiện qua các chức năng
của nó.
2. Chức năng của tiền tệ
GV sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp với đàm thoại: Theo các
em tiền tệ có những chức năng nào?
SV: Trả lời
GV:
- Thước đo giá trị.
VD: SX 1 m vải hao phí lao động là 10h (giá trị của nó là 10h). giá của
1h lao động = 1000 kip. Vậy giá của 1m vải= 10000 kip.
+Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác.
+ Giá trị của hàng hóa khi được xác định bằng một lượng tiền nhất định
gọi là giá cả.
65
VD: 1 chiếc điện thoại có giá = 1,5 triệu k.
Giá cả của hàng hóa chịu ảnh hưởng của 3 yếu tố: Giá trị hàng hóa, giá
trị của đồng tiền, quan hệ cung - cầu.
GV: Em hãy cho VD minh họa khi tiền thực hiện chức năng này?
SV: Trả lời
- Phương tiện lưu thông
GV kết hợp phương pháp thuyết trình với đàm thoại
+ Thực hiện chức năng này, tiền tệ đóng vai trò môi giới, trung gian
trong trao đổi hàng hóa
+ Điều kiện phải có tiền mặt, trao đổi theo công thức H-T-H.
Em hãy lấy VD minh họa để thể hiện chức năng này?
SV: Trả lời
GV lấyVD về tiền mặt: Ở nước ta, tiền giấy do ngân hàng nhà nước phát
hành, quy định không mang nhiều giá trị thực.(minh họa: Đồng tiền mệnh giá
50.000k và 10.000k có giá trị trao đổi hoàn toàn khác nhau song chúng có chất
liệu giống nhau và hao phí lao động xã hội cần thiết để in ấn như nhau.)
Hoặc tiền điện tử: Khoa học công nghệ ngày càng phát triển, để thuận
tiện trong giao dịch, tiền điện tử ra đời (gồm thẻ thanh toán do các ngân hàng
phát hành, thẻ tín dụng...)
+Tác dụng: Làm cho quá trình lưu thông mua - bán thuận tiện hơn.
+ Hạn chế: Làm cho việc mua - bán tách rời nhau cả về không gian, về
thời gian, do đó bao hàm khả năng khủng hoảng kinh tế.
- Phương tiện cất trữ.
GV sử dụng phương pháp thuyết trình: Khi hiệu quả sản xuất kinh doanh
thấp, tiền được rút khỏi lưu thông dưới dạng cất trữ. Để thực hiện chức năng
cất trữ phải là tiền vàng, tiền bạc hoặc tiền giấy mạnh, ổn định về sức mua.
VD: Sản xuất phát triển, lượng hàng hóa phong phú thì tiền cất trữ được
rút ra để lưu thông.
66
Sản xuất giảm, lượng hàng hóa ít đi thì một phần tiền được rút ra khỏi
lưu thông đi vào cất trữ.
+ Tác dụng: Tích lũy sức mua cho nhu cầu chi dùng trong tương lai;
khắc phục hạn chế so với việc cất trữ của cải bằng hiện vật: dễ hỏng, khó cất
giấu; là phương tiện cất trữ an toàn, có tính thanh khoản cao.
- Phương tiện thanh toán.
Tiền được dùng để chi trả sau khi mua - bán, giao dịch như trả nợ, trả
tiền mua chịu hàng hóa, nộp thuế.
GV sử dụng phương pháp đàm thoại: Các em hãy lấy VD để minh họa
cho chức năng này?
SV: Trả lời
GV lấy VD: Nhà sản xuất sau khi sản xuất xong lô hàng thứ nhất chưa
thể bán hết song ông ta cần phải tiếp tục quy trình tái sản xuất, cần phải có
nguyên vật liệu mà chưa có tiền để mua. Do đó nhà sản xuất phải mua chịu
nguyên vật liệu, trả tiền lương cho công nhân và trả tiền sau.
- Tiền tệ thế giới.
GV sử dụng phương pháp thuyết trình
+ Trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài phạm vi một quốc gia.
+ Có tác dụng đẩy nhanh lưu thông, trao đổi hàng hóa giữa các nước.
+ Điều kiện: Phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là
phương tiện thanh toán quốc tế.
Mỗi nước có đơn vị tiền tệ khác nhau. Khi tiến hành mua bán, trao đổi
hàng hóa giữa các nước phải quy đổi đơn vị tiền tệ cho phù hợp dựa trên một tỷ
lệ nhất định gọi là tỷ giá hối đoái.
+ Tỷ giá hối đoái là giá cả đồng tiền nước này được thanh toán bằng
tiền của nước khác.
VD: 50.000 kip = 137.500 VND
8.030 kip = 1 USD
67
GV kết hợp phương pháp thuyết trình với nêu vấn đề: Đồng tiền Kip của
nước Lào đã thực hiện các chức năng của tiền tệ như thế nào?
SV: Thảo luận.
GV: Một số chức năng như phương tiện trung gian trong trao đổi, chức
năng phương tiện thanh toán, phương tiện lưu thông, đồng tiền Lào đã thực
hiện được nhiệm vụ của mình. Song, với chức năng thước đo giá trị, dường như
đồng tiền Lào chưa hoàn thành tốt chức năng đó.
Ý nghĩa: Năm chức năng của tiền tệ có quan hệ mật thiết với nhau, cùng
làm rõ bản chất của tiền. Sự phát triển các chức năng của tiền tệ phản ánh sự
phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nắm được nguồn gốc, bản chất,
chức năng của tiền tệ cho ta thấy tiền tệ là thể hiện chung của giá trị xã hội do
đó tiền rất quý.
VI. Kết luận bài
- Hàng hóa là sự thống nhất của 2 thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Đó
là sự thống nhất của hai mặt đối lập mà thiếu một trong 2 thuộc tính đó thì sản
phẩm không thể trở thành hàng hóa.
- Khi nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển năng động, khoa học kỹ
thuật ngày càng có nhiều thành tựu đòi hỏi mỗi người cần phải có trách nhiệm
tham gia sản xuất, tăng năng suất lao động, áp dụng khoa học công nghệ hiện
đại, nâng cao chất lượng sản phẩm, có giá trị sử dụng cao và giá cả ngày càng
thấp hơn, đáp ứng ngày càng cao hơn nhu cầu của người tiêu dùng, làm giàu
cho đất nước.
2.3. Phân tích kết quả thực nghiệm
2.3.1. Thực nghiệm và những kết quả rút ra từ thực nghiệm
2.3.1.1. Các bước tiến hành thực nghiệm
Sau khi khảo sát lớp đối chứng, lớp thực nghiệm và soạn giáo án thực
nghiệm bài:
Bài 1: Sản xuất hàng hóa
68
Tôi tiến hành thực nghiệm theo các bước sau:
Bước 1: Dạy thực nghiệm tại lớp thực nghiệm
Bước 2: Tổ chức họp trao đổi rút kinh nghiệm với đồng nghiệp
Bước 3: Cho SV làm bài kiểm tra và phát phiếu trưng cầu ý kiến SV
Bước 4: Chấm bài kiểm tra của khối lớp đối chứng và khối lớp thực nghiệm
Bước 5: Xử lý kết quả kiểm tra để rút ra kết luận
2.3.1.2. Phân tích kết quả thực nghiệm
Những đánh giá chủ yếu của đồng nghiệp
Khi giờ dạy ở lớp đối chứng và lớp thực nghiệm được tiến hành xong,
chúng tôi đã tổ chức trao đổi với các GV đi dự giờ, các thầy cô trong tổ bộ
môn, các thầy cô lãnh đạo khoa cùng đi dự giờ về giờ dạy thực nghiệm. Có rất
nhiều ý kiến của đồng nghiệp được đưa ra trao đổi. Phần lớn các ý kiến mà
đồng nghiệp đưa ra đều rất khách quan và thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của
mình trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học. Qua trao đổi về các bài
thực nghiệm, với những ý kiến đóng góp, trao đổi chân thành về các bài thực
nghiệm của đồng nghiệp đã giúp chúng tôi có thêm cơ sở thực tiễn về khả năng
vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại trong dạy
học môn Lý luận chính trị mà chúng tôi đã đưa ra. Sau khi phân tích và tiếp thu
ý kiến của các thầy cô về bài dạy thực nghiệm tôi nhận thấy đa số các ý kiến
đều có chung những điểm cơ bản sau đây:
- Về phương pháp dạy học; giờ dạy thực nghiệm đã thể hiện rõ phương
pháp, cách dạy khác hẳn so với giờ dạy học bình thường của khối lớp đối
chứng. Giờ dạy ở khối lớp đối chứng vẫn theo lối dạy học cũ, thầy thuyết trình
là chính. Giờ dạy ở khối lớp thực nghiệm đã chú ý phát huy được vai trò của
người học, chú ý đến hoạt động tìm tòi của SV trong giải quyết và lĩnh hội tri
thức của bài học, SV chủ động hơn, hoạt động chính trong giờ học là SV.
- Về nội dung bài dạy; GV đã đưa ra được các nội dung dạy học dưới
dạng các câu hỏi, các vấn đề cho SV nghiên cứu. Các câu hỏi vấn đề mà GV
69
đưa ra vừa logic, hấp dẫn vừa đảm bảo những nội dung kiến thức cơ bản và
kiến thức nâng cao. Vì thế, bài học trở nên sôi động, có khả năng thu hút, lôi
cuốn SV vào bài học và khai thác được nhiều khía cạnh của kiến thức cơ bản.
Tạo điều kiện cho SV nắm chắc những kiến thức cơ bản, tránh được cách hiểu
mơ hồ, hình thức. Đây là cơ sở để giúp SV tự tìm tòi, khám phá và mở rộng
kiến thức trong quá trình học tập của mình.
- Về khả năng hứng thú của SV; dạy học ở giờ thực nghiệm thì SV phải
làm việc nhiều hơn, nhưng lại thích thú với kiểu học tập này, SV có dịp thảo
luận ý kiến của mình với tập thể, làm cho giờ học sôi nổi hẳn lên. Qua giờ học
thực nghiệm cho thấy đa số SV có sự tập trung chú ý thể hiện ở việc theo dõi
chăm chú bài học, tập trung suy nghĩ tìm tòi, phân tích, xử lý các tình huống có
vấn đề mà GV đưa ra để chiếm lĩnh nội dung bài học. Do đó, số lượng SV tham
gia phát biểu xây dựng bài tăng lên rõ rệt, số SV làm việc riêng trong giờ học
mặc dù vẫn còn nhưng được hạn chế một cách đáng kể, đa phần SV đều tập
trung chú ý vào tiến trình bài học. Đặc biệt thời gian duy trì trạng thái tích cực
hoạt động học tập của SV tương đối dài trong giờ học.
Kết quả kiểm tra và những kết luận rút ra
- Kết quả thực nghiệm lần 1
Ở thực nghiệm lần 1 tôi lấy lớp THCS12+2 (B) làm lớp thực nghiệm 1,
lớp THCS12+2 (A) làm lớp đối chứng 1.
Để đánh giá khả năng nắm bắt kiến thức của SV, chúng tôi sử dụng
bài kiểm tra 30 phút ngay sau khi giờ học được tiến hành xong ở cả hai lớp
đối chứng và lớp thực nghiệm. Bài kiểm tra chúng tôi đưa ra dưới hình thức
kiểm tra trắc nghiệm và tự luận. Nội dung của bài kiểm tra chúng tôi để ở
phần phục lục.
Kết quả điểm kiểm tra nội dung bài học ở lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng được chúng tôi tính ra tỷ lệ phần trăm (%) và được phản ánh ở bảng sau:
70
Bảng 2.2. Thống kê kết quả kiểm tra nội dung bài học
của lớp thực nghiệm 1 và lớp đối chứng 1
Giỏi Khá TB Lớp Tên lớp Sĩ số SL % SL % SL %
MN12+2 (A) 65 10 15.4 23 35.4 32 49.2 Thực nghiệm
Đối chứng 67 7 10.4 19 28.4 41 61.2 THCS12+2 (A)
Dựa vào số liệu ở bảng trên tôi minh họa kết quả kiểm tra của SV lớp
trên bằng kết quả sau:
70
61.2
60
49.2
50
35.4
40
Thực nghiệm
28.4
Đối chứng
30
15.4
20
10.4
10
0
Khá
Trung bình
Giỏi
Biểu đồ 2.1. Kết quả kiểm tra nội dung bài học của lớp thực nghiệm 1
và lớp đối chứng 1
Nhận xét: Tổng hợp số liệu kiểm tra và biểu đồ minh họa của SV lớp
thực nghiệm 1 và lớp đối chứng 1, cho thấy có sự khác biệt về điểm số ở các
mức độ (giỏi, khá, trung bình) ở cả hai lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Lớp
thực nghiệm 1 có tỷ lệ SV đạt điểm cao hơn lớp đối chứng 1. Cụ thể:
- Điểm giỏi của lớp thực nghiệm 1 chiếm 15.4% cao hơn điểm giỏi của
lớp đối chứng 1 chiếm 10.4%, cao hơn 5.0%
71
- Điểm khá của lớp thực nghiệm 1 chiếm 35.4% cao hơn điểm khá của
lớp đối chứng 1 chiếm 28.4%, cao hơn 7.0%
- Điểm trung bình của lớp thực nghiệm 1: 49.2% thấp hơn điểm trung bình của lớp đối chứng 1 chiếm 61.2%, thấp hơn 12.0%.
Từ kết quả trên cho phép ta khẳng định ở lần thực nghiệm 1 giờ dạy thực
nghiệm có ưu thế hơn so với giờ dạy đối chứng. Sau khi có tác động thực
nghiệm đã mang lại hiệu quả nhất định. Chất lượng học tập của SV lớp thực
nghiệm 1 cao hơn lớp đối chứng 1. Điều đó chứng tỏ lớp thực nghiệm 1 có tác
động thực nghiệm sư phạm là có hiệu quả. Tuy nhiên, kết quả này vẫn chưa
thực sự vượt trội. Có thể nói nguyên nhân chính là do trong quá trình dạy học
bằng phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại GV chưa thực sự làm
chủ được nội dung giáo án, SV chưa thích nghi với những yêu cầu của phương
pháp dạy học này.
- Kết quả thực nghiệm lần 2
Trên cơ sở thực nghiệm lần 1 tôi đã khắc phục những thiếu sót về làm
chủ được nội dung giáo án và rút ra những bài học cho thực nghiệm lần 2. Thực
nghiệm lần 2 này tôi tiến hành theo cách tương tự như ở lần 1. Tôi lấy lớp Mầm
Nom12+2(B) làm thực nghiệm 2, lớp THCS 12+2(B) làm đối chứng 2. Kết quả
thực nghiệm lần 2 tôi cũng cho SV làm bài kiểm tra 30 phút. Bài kiểm tra đưa
ra gồm 2 phần trắc nghiệm và tự luận.
Kết quả điểm kiểm tra của lớp thực nghiệm 2 và lớp đối chứng 2 được
phản ánh ở bảng sau:
Bảng 2.3. Thống kê kết quả kiểm tra nội dung bài học
của lớp thực nghiệm 2 và lớp đối chứng 2
Giỏi Khá TB Lớp Tên lớp Sĩ số SL % SL % SL %
60 11 18.3 23 38.3 26 43.4 Mầm Non 12+2 (B)
THCS 12+2 (B) 70 8 11.4 19 27.1 43 61.5 Thực nghiệm Đối chứng
72
Dựa vào bảng số liệu tôi minh họa kết quả kiểm tra của SV lớp trên bằng
biểu đồ sau:
70
61.5
60
50
43.4
38.3
40
Thực nghiệm
27.1
Đối chứng
30
18.3
20
11.4
10
0
Khá
Trung bình
Giỏi
Biểu đồ 2.2. Kết quả kiểm tra nội dung bài học của lớp thực nghiệm 2
và lớp đối chứng 2
Nhận xét: Tổng hợp số liệu điểm kiểm tra và biểu đồ minh họa của SV
lớp thực nghiệm 2 và lớp đối chứng 2, cho thấy sự khác biệt hơn hẳn về điểm
số ở các mức độ: trung bình, khá, giỏi ở các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Lớp thực nghiệm 2 có tỷ lệ SV đạt điểm cao hơn lớp đối chứng 2. Cụ thể:
- Điểm trung bình của lớp thực nghiệm 2 (43.4%) thấp hơn điểm trung
bình của lớp đối chứng 2 (61.5%), thấp hơn 18.1%.
- Điểm khá của lớp thực nghiệm 2 (38.3%) cao hơn điểm khá của lớp đối
chứng 2 (27.1%), cao hơn 11.2%.
- Điểm giỏi của lớp thực nghiệm 2 (18.3%) cao hơn điểm giỏi của lớp
đối chứng 2 (11.4%), cao hơn 6.9%.
Từ kết quả giờ thực nghiệm 2, cho tôi khẳng định tính hiệu quả của quá
trình thực nghiệm là khá ổn định. Chất lượng học tập của SV lớp thực nghiệm 2
cao hơn lớp đối chứng 2. Điều này chứng tỏ hai lớp thực nghiệm có tác động sư
73
phạm là có hiệu quả. Rõ ràng việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề, phương
pháp đàm thoại vào quá trình dạy học đã góp phần nâng cao chất lượng trong
dạy học môn Lý luận chính trị.
Sau khi dạy thực nghiệm, tôi tiến hành trao đổi và thu thập ý kiến của SV
và GV đối với giờ học vận dụng phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm
thoại. Tôi rút ra một số kết luận sau:
Những kết luận rút ra sau thực nghiệm
Mức độ hứng thú học tập của SV
- Ở khối lớp đối chứng; hầu hết SV đều tỏ ra bình thường với giờ học,
thậm chí có nhiều người tỏ ra không thích giờ học này, lý do mà họ đưa ra chủ
yếu là do đây là môn học khó hiểu và không liên quan đến chuyên ngành của
họ. Giờ học vẫn diễn ra đều đều với không khí buồn, 65% SV đều tỏ ra không
hứng thú với giờ học theo phương pháp truyền thống.
- Ở khối lớp thực nghiệm; hầu hết các SV khi được điều tra sau giờ học
thích thú với giờ học theo phương pháp này. Qua giờ học như thế, mọi người
được trực tiếp tham gia vào các hoạt động trong giờ học, được tự mình tham
gia vào hoạt động học tập, với bầu không khí lớp học sôi nổi, có cơ hội được
bộc lộ những suy nghĩ của mình, có cơ hội trao đổi với GV. Cho nên, giờ học
đạt hiệu quả, SV có hứng thú học tập hơn so với giờ học khác.
Mức độ hoạt động tích cực của SV
- Ở lớp đối chứng chúng tôi thấy; mức độ hoạt động tích cực của SV
trong giờ học hầu như không được thể hiện, đa số SV ngồi trên lớp chỉ nghe
GV giảng và ghi chép. Việc trả lời câu hỏi của SV trong giờ học cũng rất
gượng ép, chủ yếu họ chỉ trả lời khi GV chỉ định. Như vậy, ở lớp đối chứng
chúng tôi nhận thấy thầy cứ giảng, cứ đặt câu hỏi để rồi lại tự mình trả lời
những câu hỏi do mình đặt ra. Thế nên, việc phát huy tính tích cực của SV
trong giờ học là hầu như không được chú ý nhiều. Do đó, không tạo ra được
tính tích cực, sáng tạo trong học tập của SV.
74
- Ở lớp thực nghiệm tôi thấy; hầu hết SV trong hoạt động học tập của
mình đã có hoạt động tích cực, sôi nổi hơn SV ở lớp đối chứng. Ở lớp thực
nghiệm sau khi GV đưa ra các câu hỏi, nêu vấn đề phần lớn SV đều tự giác, tập
trung chú ý, suy nghĩ, trao đổi, tích cực xung phong phát biểu ý kiến. Vì vậy,
họ đã trở thành những chủ thể năng động và thể hiện mình trong quá trình học
tập. Như vậy, trong giờ học có vận dụng phương pháp nêu vấn đề, phương
pháp đàm thoại đã tạo ra được tính tích cực, sáng tạo của SV.
Mức độ tập trung chú ý của SV trong giờ học
- Ở lớp đối chứng; số SV chú ý học tập một cách có chủ đích không
nhiều và phần lớn SV ít thể hiện sự tập trung chú ý đối với tiến trình giờ học,
nhiều SV có thái độ thờ ơ với các hoạt động trong giờ học, ít tham gia xây
dựng bài. Mặt khác, mối quan hệ tương tác giữa thầy và trò thiếu chặt chẽ, chỉ
đơn thuần mang tính chất; thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò ghi chép theo.
Trong giờ học có biểu hiện nói chuyện, làm việc riêng… còn nhiều. Số SV tập
trung ghi chép, phát biểu không nhiều.
- Ở khối lớp thực nghiệm: Mặc dù vẫn còn hiện tượng SV nói và làm
việc riêng nhưng đa số SV có sự tập trung chú ý cao thể hiện việc chăm chú
theo dõi bài học, tập trung suy nghĩ, tìm tòi, phân tích, xử lý các tình huống có
vấn đề mà GV đưa ra để chiếm lĩnh nội dung bài học. Trong giờ học với sự
cộng sự chặt chẽ giữa người dạy và người học nên SV ý thức được khá cao đối
với quá trình học tập của mình, tích cực tham gia giải quyết vấn đề, tích cực
tranh luận và nêu ý kiến thắc mắc.
2.3.2. Những kết quả rút ra từ quá trình thực nghiệm ở trường Cao đẳng Sư
phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn hiện nay
Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các kết quả thu được từ quá trình thực
nghiệm phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại trong dạy học phần
“Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN”, kết hợp với các biện
pháp điều tra khác như; phiếu điều tra ý kiến của SV, trao đổi với đồng nghiệp,
chúng tôi rút ra những kết luận sau:
75
Thứ nhất, với trình độ ban đầu của hai lớp đối chứng và lớp thực nghiệm
là tương đương nhau, nhưng sau khi tiến hành thực nghiệm chúng tôi nhận thấy
tỷ lệ % điểm khá, giỏi ở lớp thực nghiệm đều cao hơn lớp đối chứng, tỷ lệ %
điểm trung bình của khối lớp thực nghiệm thấp hơn lớp đối chứng.
Thứ hai, kết quả giờ học thực nghiệm cũng cho thấy, SV ở lớp thực
nghiệm vừa nắm chắc, hiểu sâu sắc và đạt kết quả về mặt tri thức, kỹ năng, vừa
say mê, hứng thú, năng động hơn trong suốt quá trình học tập.
Thứ ba, vận dụng phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại trong
quá trình dạy học được diễn ra theo một quy trình khoa học và hợp lý. Quy trình
này đã phát huy được tính tích cực của người học. Quy trình này cũng được các
đồng nghiệp góp ý, khẳng định tính khoa học, tính thực tiễn và có khả năng được
áp dụng phổ biến trong Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng.
Thứ tư, cùng với quá trình thực nghiệm diễn ra theo kế hoạch ban đầu,
nhằm tìm hiểu và khai thác sâu hơn việc nắm bắt cũng như vận dụng kiến thức
đã học vào thực tiễn cuộc sống, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra kiến thức của
SV thông qua việc trả lời câu hỏi trên lớp và câu hỏi tự luận dưới dạng đề mở.
Kết quả cho thấy:
- Lớp đối chứng: 65% SV đều tỏ ra lúng túng không trả lời được hoặc
nếu có thì rất khó khăn trước những câu hỏi mang tính suy luận nhằm khắc sâu
kiến thức. Phần lớn họ chỉ trả lời được những câu hỏi có tính chất học thuộc, tái
hiện. Điều làm chúng tôi thấy ngay cả những câu hỏi suy luận đơn giản SV
cũng còn rất lúng túng, họ cũng nhanh quên kiến thức trước những câu hỏi
mang tính chất tái hiện. Nói cách khác SV dễ dàng quên những kiến thức mang
tính chất học thuộc sau khi làm bài và lúng túng trước những câu hỏi suy luận.
- Lớp thực nghiệm: 60% SV đều trả lời được những câu hỏi mang tính
chất suy luận. SV luôn chủ động trong quá trình trả lời câu hỏi và có nhu cầu
thực tiễn cuộc sống, 40% SV có cách thức trả lời câu hỏi mang tính chất suy
luận sáng tạo, thể hiện sự hiểu bài, nắm vững kiến thức và có sự liên hệ thực tế.
76
Điều đáng lưu ý ở đây là SV lớp thực nghiệm có cách diễn đạt tự tin, rõ ràng,
thể hiện chính kiến của bản thân và thực sự hứng thú với nội dung bài học.
Kết quả trên đây một lần nữa giúp chúng ta khẳng định tính hiệu quả của
việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại so với phương
pháp truyền thống mà SV được học từ trước đến nay.
Kết luận chương 2
Xuất phát từ giả thuyết thực nghiệm mà đề tài đưa ra, dựa trên cơ sở lý
luận và thực tiễn nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm sư
phạm. Những nội dung cơ bản cần phải làm rõ là: vận dụng phương pháp
thuyết trình nhằm phát huy được tính tích cực của SV so với phương pháp
thuyết trình truyền thống.
Trong quá trình thực nghiệm chúng tôi đã đổi mới phương pháp thuyết
trình bằng cách kết hợp với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm
thoại trong dạy học môn Lý luận chính trị tại trường Cao đẳng Sư phạm
Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn năm học (2016 - 2017) đã mang lại
những kết quả nhất định. Sau khi thực hiện đầy đủ các bước thực nghiệm và
phân tích kết quả thực nghiệm cho thấy kết quả học tập của khối lớp thực
nghiệm cao hơn khối lớp đối chứng. Mặt khác trong giờ học thực nghiệm SV
đã nắm vững kiến thức, có kỹ năng, thái độ đúng đắn và có hứng thú học tập
cao hơn giờ học ở lớp đối chứng.
Như thế, việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong quá trình
dạy học đã có tác dụng rõ rệt, đã phát huy được tính tích cực của người học và
góp phần nâng cao chất lượng kết quả học tập bộ môn Lý luận chính trị ở
trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn. Qua đây,
chúng ta có thể khẳng định được tính khả thi của việc vận dụng kết hợp phương
pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại vào quá
trình dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham
Xạng, thủ đô Viêng Chăn.
77
Chương 3 QUY TRÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÔNG KHAM XẠNG, THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN
3.1. Quy trình của việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong
dạy học môn Lý luận chính trị
3.1.1. Quy trình thiết kế bài giảng
Khái niệm quy trình: Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng (Nguyễn
Như Ý): “Quy trình là các bước, trình tự tuân theo khi tiến hành công việc
nào đó” [16, tr.626]
Theo tác giả Nguyễn Thị Hồng: “ Quy trình được hiểu là trình tự các
bước được sắp xếp có tổ chức và có mục đích liên tiếp nhau nhằm thực hiện
hoàn chỉnh một nhiệm vụ cụ thể. Bước là đơn vị hoạt động ứng với mục tiêu,
và là đơn vị nhỏ nhất cấu thành quy trình” [18, tr.63].
Trên cơ sở những khái niệm trên, chúng tôi cho rằng: Quy trình kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại
là trình tự các bước, các giai đoạn được sắp xếp có tổ chức và có mục đích liên
tiếp nhau nhằm giúp người học tích cực, chủ động giải quyết các tình huống, các
câu hỏi có vấn đề mà người dạy đặt ra để rồi từ đó khái quát, kết luận vấn đề.
- Một số điều kiện cần thiết để tiến hành thiết kế và thực hiện bài giảng
thuyết trình theo hướng kết hợp với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp
đàm thoại.
Trước khi thực hiện dạy thực nghiệm cần tiến hành bồi dưỡng nhận thức
cho cả GV và SV. Cần nêu rõ mục đích, yêu cầu thực nghiệm, cũng như phân
tích rõ sự khác nhau giữa phương pháp dạy học thuyền thống với phương pháp
dạy học mới đã được cải tiến.
+ Đối với đội ngũ GV
Đối với phương pháp thuyết trình thuần túy, GV có nhiệm vụ truyền đạt,
thông báo cho SV hết những tri thức đã quy định trong chương trình và giáo
78
trình. Trong khi soạn giảng, GV đặc biệt chú ý tới việc hình thành cho SV một
cách tuần tự những khái niệm, phạm trù mang nặng tính lý thuyết. Trong quá
trình giảng dạy, GV chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình, diễn giảng.
Nhiệm vụ của GV trình bày hết nội dung bài giảng còn nhiệm vụ của SV là ghi
cho đầy đủ, tránh sót nội dung bài giảng của thầy.
Đối với cách dạy theo hướng kết hợp được tiến hành theo các bước sau:
GV sau khi kết thúc bài giảng phải hướng dẫn cho SV chuẩn bị bài cho giờ học
sau. SV về nhà tự học, tự nghiên cứu giáo trình và tài liệu tham khảo. Giảng
viên nêu ra những vấn đề trọng tâm của bài học, dẫn dắt và gợi mở cho học
viên khai thác và tìm hiểu sâu sắc những vấn đề đó. Trong quá trình giảng, GV
có vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển việc thảo luận, tranh luận
của SV. Do vậy, vấn đề đầu tiên là GV phải gây được hứng thú học tập cho SV
bằng nghệ thuật sư phạm của mình, khéo léo kích thích dẫn dắt SV vào tình
huống có vấn đề, hướng dẫn SV đọc sách giáo khoa, giáo trình để thu lượm tri
thức, biết phân tích tài liệu, khái quát hóa hệ thống tri thức.
Trong quá trình thảo luận giải quyết vấn đề, tranh luận GV tạo cơ hội
thuận lợi để SV trình bày quan điểm, suy nghĩ của mình, đồng thời biết đánh
giá những quan điểm sai lầm. SV còn phải biết bổ sung những kiến thức mới
cho mình trong khi giải quyết vấn đề.
Kết thúc việc giải quyết vấn đề, trên cở sở vốn hiểu biết của SV và
những kết luận xác đáng của tập thể lớp cùng với sự gia công sư phạm, bổ sung
kiến thức của GV, từ đó GV và SV cùng xây dựng thành nội dung bài học.
+ Đối với SV
Việc đầu tiên là phải giúp cho SV nhận thức rõ vai trò của phương pháp
dạy học mới đã được cải tiến và tính thiết thực của phương pháp mới đối với
bản thân SV. SV phải chủ động chuyển từ cách học chăm chú ghi chép, ôn thi
theo sách, vở ghi sang cách học tự mình tìm kiếm tri thức, tự nghiên cứu sách
và tài liệu dưới sự hướng dẫn của GV, thời gian dành cho việc tự học sẽ nhiều
hơn, chuẩn bị bài ở nhà kỹ lưỡng hơn.
79
Để thực hiện giảng dạy theo phương pháp mới, yêu cầu SV phải tự tìm
tài liệu, sau đó yêu cầu họ về tự đọc, tự nghiên cứu tri thức theo hệ thống
những vấn đề trọng tâm mà GV cung cấp trước. Thiết kế bài dạy học là bản
thiết kế các hoạt động của GV và SV theo trình tự thời gian, tiến trình của bài
học trên cơ sở nội dung và các phương tiện dạy học nhằm đạt được mục tiêu
của bài học.
- Quy trình thiết kế bài giảng thực nghiệm
Quy trình thiết kế bài giảng còn được gọi là soạn giáo án, nhằm thể hiện
rõ các hoạt động dạy và học theo những mục tiêu cụ thể của môn học. Quy
trình thiết kế bài giảng kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu
vấn đề, đàm thoại gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu của bài giảng
- Về kiến thức; xác định những kiến thức trọng tâm cơ bản mà SV cần
phải hiểu và nhận thức sau khi học bài đó.
- Về kỹ năng, kỹ xảo; chỉ rõ mức độ rèn luyện, phát triển tư duy, khả
năng vận dụng những tri thức đã học vào đời sống thực tiễn.
- Về giáo dục tư tưởng, đạo đức; nhấn mạnh vào các yếu tố góp phần
hình thành thế giới quan, nhân sinh quan Mác - Lênin và những phẩm chất về
niềm tin, hành vi, đạo đức cần đạt được.
Bước 2: Chuẩn bị nội dung bài giảng
- Nghiên cứu kỹ sách giáo trình. GV cần tìm hiểu sâu nội dung của giáo
trình, sử dụng nó một cách sáng tạo. Xác định nội dung những vấn đề học tập,
trọng tâm của từng bài và những vấn đề có thể vận dụng phù hợp với mục tiêu
đào tạo của nhà trường, liên hệ với đời sống thực tiễn.
- Nghiên cứu những tài liệu chuyên môn mới nhất có liên quan đến bài
giảng để làm phong phú và hiện đại hóa bài giảng.
- Nghiên cứu những tài liệu tham khảo về hướng dẫn giảng dạy, lý luận
dạy học bộ môn và tìm hiểu những kinh nghiệm dạy học của đồng nghiệp để
bổ trợ cho phương pháp giảng dạy của mình.
80
- Phân chia tài liệu giảng dạy thành những đơn vị kiến thức phù hợp với
từng vấn đề, từng mục của bài giảng. Những đơn vị kiến thức này sẽ là nền
tảng và chất liệu cơ bản để xây dựng cấu trúc bài giảng, xây dựng tình huống
có vấn đề. Bố cục bài giảng có thể theo đúng kết cấu của giáo trình, hoặc có thể
thay đổi ở mức độ nhất định nhưng phải đảm bảo nội dung của bài giảng với
tính hệ thống khoa học, logic chặt chẽ trong mối liên hệ của sự phát triển.
Bước 3: Lựa chọn hình thức thuyết trình và kiểu dạy học nêu vấn đề,
đàm thoại, phương tiện dạy học
Khi thiết kế bài dạy theo hướng vận dụng phương pháp thuyết trình tích
cực bằng việc kết hợp với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại.
nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của người học, vấn đề quan trọng đối
với người GV là phải lựa chọn được phương pháp dạy học thích hợp và sử
dụng uyển chuyển các phương pháp dạy học để đạt hiệu quả cao nhất, thực chất
là trả lời câu hỏi “Dạy như thế nào?”. Tùy nội dung từng phần mà GV lựa chọn
cho phù hợp để đạt được nhiệm vụ dạy học. Để lựa chọn hình thức kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại
GV cần chú ý tới đặc điểm sau:
- Đối tượng; số lượng SV và trình độ nhận thức.
- Mục tiêu học tập; nhằm phát triển kỹ năng, khả năng tư duy…
- Quỹ thời gian; nhiều hay ít.
- Nội dung từng bài, từng phần.
- Điều kiện học tập; tài liệu, phương tiện, phòng học,…
Bước 4: Thiết kế giáo án
3.1.2. Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp
3.1.2.1. Quy trình thực hiện các hoạt động dạy học
Trên cơ sở lý luận của việc đổi mới phương pháp thuyết trình bằng việc
kết hợp với phương pháp nêu vấn đề, đàm thoại cùng với quá trình thực
nghiệm, tôi rút ra hoạt động dạy học trên lớp thông qua các bước cơ bản sau:
81
Bước 1: Tổ chức lớp. Tổ chức lớp là công việc phải chú ý trong cả tiết
học nhằm thu hút sự chú ý học tập của SV ngay vào tiết học. Có nhiều biện
pháp khác nhau để tổ chức lớp như: yêu cầu SV đứng dậy khi GV vào lớp, hỏi
han tình hình SV, kiểm tra sĩ số,…
Bước 2: Kiểm tra bài cũ và chuẩn bị bài mới. Hoạt động kiểm tra bài cũ
và chuẩn bị bài mới là hoạt động thường xuyên trong giảng dạy. Mục đích của
hoạt động này là kiểm tra việc nắm bắt thông tin của SV ở bài học trước, rèn
luyện cho SV kỹ năng tự giác, cần cù, siêng năng trong hoạt động học tập. Qua
kiểm tra bài cũ và chuẩn bị bài mới, GV không chỉ giáo dục, rèn luyện cho SV
kỹ năng tự nghiên cứu thông qua đó còn theo dõi sự chuyên cần của SV trong
việc học bài cũ, vừa thấy được sự tích cực trong bài mới. Để hoạt động này
đem lại hiệu quả cao, GV không những thực hiện ở phần đầu của bài giảng mà
phải diễn ra liên tục, đan xen suốt các hoạt động dạy học.
Bước 3: Giới thiệu bài mới. Giới thiệu bài mới hay còn gọi là đặt vấn đề
thu hút SV vào bài mới, là khâu tuy nhỏ nhưng không thể bỏ qua bởi vì nó có
vai trò quan trọng thu hút sự chú ý của SV. Khâu này thành công sẽ là màn mở
đầu ấn tượng đối với SV trong suốt tiến trình dạy học. Tùy thuộc vào chủ để
bài giảng, khả năng, kinh nghiệm của từng GV mà hoạt động giới thiệu bài mới
được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Thông thường GV giới thiệu bài
mới thông qua tình huống có vấn đề, các câu hỏi trực quan với những câu hỏi
nhận thức hoặc cũng có thể là một câu chuyện thời sự nóng hổi liên quan đến
bài giảng. Mục đích của hoạt động này nhằm định hướng tư duy, tập trung, lôi
cuốn sự chú ý của SV vào chủ để bài giảng, khơi dạy khả năng, óc tìm tòi, sáng
tạo và mong muốn khám phá, lĩnh hội tri thức mới.
Bước 4: Dạy bài mới. Thực chất của hoạt động dạy bài mới là GV dẫn
dắt SV tiến hành giải quyết những nội dung của nhiệm vụ học tập đề ra. Đây là
khâu quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của bài giảng.
82
Bởi vì trong hoạt động này một khối lượng tri thức lớn của bài giảng được GV
truyền đạt đến SV. Đó là tri thức cơ bản trọng tâm của bài.
Sau khi các hoạt động trên đã được hình thành thì khâu dạy bài mới là
quá trình cụ thể hóa, hiện thực hóa triển khai trực tiếp hoạt động dạy học. Khâu
này đòi hỏi sự vào cuộc thực sự của GV và sự tham gia tích cực của SV.
Bước 5: Tiến hành củng cố, luyện tập và dặn dò SV. Đây là bước cuối
cùng nhưng vô cùng quan trọng khi kết thúc mỗi bài giảng. Toàn bộ nội dung,
kiến thức của bài được khái quát lại thành một hệ thống, các đơn vị kiến thức
được kết nối logic với nhau.
Trước khi kết thúc bài giảng, GV thường nhận xét, đánh giá giờ học và
hướng dẫn SV làm bài tập về nhà.
3.1.2.2. Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp bằng việc kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề
Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp bằng phương pháp trình bày nêu
vấn đề
Bước chuẩn bị
- Xem xét, nghiên cứu trình độ nhận thức của SV.
- Nghiên cứu kỹ các thông tin trong vấn đề, lựa chọn cách thuyết trình
đặt vấn đề ngắn gọn, dễ hiểu.
- Chuẩn bị những câu hỏi gợi mở, nghi vấn, tạo mâu thuẫn ngay trong
chính vấn đề nghiên cứu sẽ được trình bày.
- Đưa ra mục tiêu bài dạy thật cụ thể.
Bước thực hiện
- Giới thiệu tình huống; cung cấp thông tin về tình huống qua trình bày
bằng thuyết trình.
- Diễn đạt, dẫn dắt vấn đề bằng chính những câu hỏi gợi mở, nghi vấn,
lôi cuốn sự chú ý của SV.
83
- Đoạn cuối tình huống không bình luận, không phân tích để thúc đẩy SV
suy nghĩ giải quyết vấn đề.
- Đưa ra mục tiêu mà SV sẽ đạt được sau khi nghiên cứu giải quyết tình
huống có vấn đề, từ đó sẽ lĩnh hội tri thức mới.
Như vậy, việc thực hiện bài giảng bằng phương pháp nêu vấn đề toàn
phần nên được GV sử dụng trong phần; giới thiệu bài mới hay phần luyện tập,
củng cố kiến thức nhằm gây sự chú ý, lôi cuốn SV vào tình huống có vấn đề, từ
đó tạo ra động lực thúc đẩy SV suy nghĩ giải quyết vấn đề.
Ví dụ, khi diễn đạt theo phương thức thuyết trình thông thường, chúng ta
có thể nói: "Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội có hai hình thức tổ
chức kinh tế rõ rệt là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Kinh tế tự nhiên là
hình thức sản xuất..., kinh tế hàng hóa là hình thức sản xuất ra hàng hóa để
bán...". Có thể chuyển thành hình thức trình bày nêu vấn đề: "Trong lịch sử
phát triển của nền sản xuất xã hội có hai hình thức kinh tế rõ rệt là kinh tế tự
nhiên và kinh tế hàng hóa. Vậy thế nào là kinh tế tự nhiên? Đặc trưng cơ bản
của nó là gì? Kinh tế tự nhiên là hình thức sản xuất... Kinh tế hàng hóa là gì?
Nó ra đời dựa trên những điều kiện nào?
Kiểu dạy học trình bày nêu vấn đề được sử dụng với những bài giảng
nhập môn, bài giảng khó, những vấn đề phức tạp mà người học chưa tự lực giải
quyết được.
Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp bằng phương pháp nêu vấn đề
một phần
Bước chuẩn bị
- GV chuẩn bị hệ thống câu hỏi và gợi ý để hướng SV nghiên cứu, giải
quyết vấn đề đúng hướng.
- Nghiên cứu kỹ các thông tin trong tình huống, lựa chọn để đưa vào các
bài tập, hoàn thành các bước riêng biệt của giải quyết vấn đề.
84
- Lập kế hoạch, thời gian tiến hành cho việc tìm hiểu tình huống thảo
luận, trình bày và kết luận của GV.
- Ghi lại dự đoán của GV về tình huống có thể xảy ra.
Bước thực hiện
- GV giới thiệu tình huống có vấn đề một phần, cung cấp thông tin về
tình huống có vấn đề bằng cách viết lên bảng phụ, trình bày thuyết trình trước
lớp hoặc phát tài liệu.
- GV tiến hành cho SV làm việc cá nhân hay làm việc theo nhóm để giải
quyết vấn đề.
+ GV gọi học SV trả lời câu hỏi giải quyết vấn đề.
+ GV cho cả lớp suy nghĩ, đóng góp ý kiến.
+ GV kết luận và có thể cho SV ghi tóm tắt nội dung quan trọng.
Đây là kiểu nêu vấn đề phát huy được tính tự giác, tích cực, sáng tạo của
SV, nội dung đảm bảo phù hợp với trình độ nhận thức của SV. GV nêu vấn đề
còn SV tích cực, chủ động giải quyết vấn đề đó.
VD: Với bài “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế
tri thức”. Trong mục "I, Cơ sở vật chất - kỹ thuật, tính tất yếu và tác dụng của
công nghiệp hóa" bao gồm hai mục nhỏ" 1) Cơ sở vật chất - kỹ thuật; 2) Tính
tất yếu và tác dụng của công nghiệp hóa" có thể chỉ nên tập trung việc sử dụng
phương pháp nêu vấn đề vào mục 2. Bởi vì sau khi SV đã nắm được khái niệm,
những yếu tố cấu thành, đặc trưng, vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi
chế độ xã hội... SV sẽ hiểu được việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH là một quy luật kinh tế mang tính phổ biến. Trên cơ sở những kiến thức,
phương pháp khai thác vấn đề vừa được trang bị và bằng kiến thức đã tích lũy
được từ thực tiễn, với sự hướng dẫn thông qua các câu hỏi của GV, SV có thể
tự lực giải quyết được vấn đề "Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa ở
nước ta" bởi vì, những gì nói về tính tất yếu khách quan của việc xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, cũng đồng thời có giá trị để nói về tính tất
85
yếu khách quan của công nghiệp hóa ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Mặt khác, GV tiếp tục dẫn dắt SV tìm hiểu những tác dụng của công nghiệp
hóa ở nước ta bằng những câu hỏi nêu vấn đề: Tại sao, bằng cách nào... Từ
những tri thức đã khám phá được SV có thể đi đến kết luận về tính yếu của nó.
Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp bằng phương pháp nêu vấn đề
toàn phần
Trong quy trình này, bước chuẩn bị và bước thực hiện tương tự như quy
trình thực hiện bài giảng nêu vấn đề một phần. Điều khác biệt là GV đưa ra hệ
thống câu hỏi chính, câu hỏi phụ, gợi mở, để dẫn dắt SV độc lập giải quyết vấn
đề và rút ra kết luận.
Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp bằng phương pháp nêu vấn đề có
tính giả thuyết
Bước chuẩn bị
- Đưa ra các mục tiêu cần đạt, nghiên cứu lựa chọn các giả thuyết, quan
điểm có tính chất mâu thuẫn với các vấn đề đang nghiên cứu.
- Xem xét trình độ, kỹ năng của SV và chuẩn bị hệ thống các câu hỏi sau
mỗi giả thuyết, quan điểm nhằm giúp SV tìm tòi đúng hướng.
- Lập kế hoạch cho tiến trình lên lớp, thời gian biểu, thảo luận hoặc lựa
chọn phương pháp dạy học kết hợp.
Bước thực hiện
Để thực hiện có hiệu quả kiểu dạy học nêu vấn đề có tính giả thuyết, một
mặt GV phải có kiến thức chắc, sâu, rộng. Mặt khác, GV phải tạo được môi
trường học tập tích cực cho SV.
- Giới thiệu tình huống hay xác định vấn đề nghiên cứu, đó là các giả
thuyết và hướng SV vào các giả thuyết, giúp họ ý thức được mâu thuẫn nhận
thức và có nhu cầu giải quyết.
- Cho SV trao đổi, bàn bạc theo nhóm, gọi SV trình bày ý kiến. GV tóm
tắt ý chính lên bảng cho SV trao đổi.
86
- GV đưa ra nhận xét, kết luận giải quyết vấn đề.
Trong kiểu dạy học nêu vấn đề có tính giả thuyết, GV sử dụng một số giả
thuyết hoặc một số quan điểm có tính chất mâu thuẫn với vấn đề đang nghiên
cứu để xây dựng tình huống có vấn đề.
VD. Tôi đã sử dụng kiểu dạy học nêu vấn đề có tính giả thuyết khi đưa ra
các quan niệm khác nhau về tư bản:
+ Tư bản là tiền.
+ Tư bản là các yếu tố sản xuất.
+ Tư bản là quan hệ sản xuất cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Quan niệm nào đúng, hoặc sai, vì sao?
- Hoặc khi nói về vai trò và chức năng kinh tế của nhà nước có nhiều
quan điểm cho rằng:
+ Nhà nước là "người gác đêm" cho chế độ sở hữu mà nó đại diện.
+ Nhà nước như "trọng tài bóng đá"; không can thiệp vào hoạt động của
các chủ thể kinh tế.
+ Nhà nước can thiệp trực tiếp vào mọi vấn đề kinh tế - xã hội, kể cả tổ
chức sản xuất kinh doanh.
+ Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật và các chính
sách, công cụ kinh tế vĩ mô.
Quan điểm nào đúng, hoặc sai, vì sao?
3.1.2.3. Quy trình thực hiện dạy học trên lớp theo hướng kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp đàm thoại
Bước chuẩn bị
- GV đưa ra các mục tiêu cần đạt.
- Nghiên cứu, lựa chọn các giả thuyết, các vấn đề mâu thuẫn với nội
dung bài học.
- Xem xét trình độ, kỹ năng kĩ xảo của SV.
- Chuẩn bị hệ thống tiến trình lên lớp, thời gian tìm hiểu, thảo luận hoặc
lựa chọn phương án dạy học kết hợp.
87
- Ghi lại những dự đoán khó khăn có thể xảy ra về các giả thuyết đó hoặc
những tình huống xảy ra trong quá khứ của giả thuyết.
- Chuẩn bị các phương tiện dạy học như máy chiếu, bảng phụ, giấy.
- Chuẩn bị tinh thần vì có khả năng sẽ có một bộ phận SV không sẵn
sàng tham gia các hoạt động trên lớp.
Bước thực hiện
Để thực hiện có hiệu quả kiểu dạy học đàm thoại có tính giả thuyết một
mặt GV phải có kiến thức chắc, sâu, rộng, mặt khác phải tạo được môi trường
học tập tích cực cho SV. Sau khi đã hoàn thành bước chuẩn bị, GV thực hiện
các thao tác:
Giới thiệu nội dung cần nghiên cứu
- Đối với GV: GV phải là người tổ chức, dẫn dắt và hướng người học tiến
hành các hoạt động nhận thức và chiếm lĩnh những tri thức cần thiết nhất.
GV nêu ra tình huống có vấn đề nghiên cứu là các giả thuyết và hướng
SV vào các giả thuyết, thông qua hệ thống câu hỏi giúp người học ý thức được
mâu thuẫn nhận thức và có nhu cầu giải quyết.
Cho SV phát biểu về những thắc mắc của mình xung quanh các câu hỏi
mà họ đã ý thức được và cần phải giải quyết những mâu thuẫn đó.
GV tổ chức cho SV làm việc độc lập hoặc theo nhóm. Căn cứ vào nhóm
tri thức đã có được để lựa chọn và giải quyết mâu thuẫn.
GV có thể đưa thêm những câu hỏi nhằm mở rộng thêm các giả thuyết
đó, nếu được áp dụng trong thực tiễn thì sẽ như thế nào? Đồng thời, dẫn dắt
người học vào các nhận định về các giả thuyết đó nhằm hướng người học đi
đến kết luận cuối cùng.
GV kết thúc cuộc thảo luận và đưa ra những tóm tắt kết luận của mình về
tình huống của giả thuyết, quan điểm bao gồm những thông tin, yếu tố, những
vấn đề cơ bản và quan trọng nhất. Sau đó dẫn dắt SV chuyển tiếp ý kiến sang
các nội dung khác của bài học.
88
- Đối với SV: Chủ động tiếp nhận và khẳng định kiến thức, kỹ năng, thái
độ của mình, qua đó cung cấp những thông tin về nhu cầu, năng lực nhận thức,
sự hiểu biết của mình cho người dạy. Thể hiện sự tương tác giữa người dạy và
người học, đồng thời giúp người dạy kịp thời điều chỉnh, lựa chọn phương pháp
dạy sao cho phù hợp.
Bước 1: SV chia nhóm, tiếp nhận các câu hỏi mà GV đưa ra và tự suy
nghĩ để trả lời.
SV chủ động hình thành các nhóm học tập theo sự phân chia của GV và
nhận câu hỏi mà GV cho mỗi nhóm.
SV chủ động tiến hành nghiên cứu cá nhân, tìm tòi, xác định trọng tâm
kiến thức, lập dàn ý trả lời.
Bước 2: Hợp tác với nhau cùng bàn nhằm trao đổi, lắng nghe, bổ sung và
sửa chữa sản phẩm mà bản thân đã tự nghiên cứu.
Bước 3: Hợp tác với SV cùng nhóm.
Sau khi SV tạo được kết quả học tập bằng sự kết hợp nghiên cứu cá
nhân, trao đổi theo cặp thì ở bước này SV sẽ tham gia hợp tác với SV của nhóm
mình. Ở bước này SV cần:
Trình bày kết quả nghiên cứu, trao đổi của SV theo cặp.
Đưa ra ý kiến nhận xét đánh giá, nhận xét.
Khai thác, bổ sung để hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu của nhóm.
SV phát biểu ý kiến kết luận của cá nhân và nhóm mình.
Nghe, điều chỉnh và tổng hợp bài học.
Sửa chữa những sai sót hoặc bổ sung bài học mà tập thể lớp đã thống
nhất, xây dựng.
Bước 5: Hợp tác với GV và tự kiểm tra
- Sau khi SV giải quyết được vấn đề đặt ra, GV cần tổ chức cho lớp thảo
luận nhanh và đánh giá cách giải quyết mà SV đã thực hiện. Có thể GV và cùng
đánh giá và có ý kiến bổ sung của GV khi kết thúc.
89
SV phải hiểu được cách giải quyết vấn đề một cách rõ ràng, tường tận.
SV sẽ có niềm vui của sự tự mình khám phá, phát hiện. Quá trình hệ thống hóa
và củng cố các kiến thức và kỹ năng cần đạt được rất quan trọng, giúp SV
chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, có hệ thống và khoa học.
3.1.3. Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV
Kiểm tra đánh giá là khâu không thể thiếu trong quá trình dạy học nói
chung và dạy môn Lý luận chính trị nói riêng, có vai trò quan trọng thúc đẩy
hoạt động dạy - học, có ý nghĩa to lớn đối với GV và SV.
Theo quan điểm của dạy học hiện đại, để đánh giá kết quả học tập của
SV, không chỉ dùng ở cuối bài giảng mà phải dùng thường xuyên, liên tục
trong suốt quá trình dạy học, việc làm này không những giúp GV nắm bắt
nhanh chóng trình độ và khả năng nhận thức của SV mà còn có tác dụng giúp
GV kiểm tra tính chuyên cần của SV. Hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả
phải đảm bảo tính công khai, khách quan, nhằm kích thích tính tự giác của
người học, tạo cho họ động lực và ý chí phấn đấu.
Qua giảng dạy thực nghiệm và tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, tôi xin
đề xuất quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV như sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu kiểm tra
Khi soạn bài kiểm tra, GV cần sử dụng nhiều loại câu hỏi để đạt được
mục tiêu giáo dục khác nhau, GV cần giải thích cho SV hiểu nguyên nhân kiểm
tra, công khai hình thức kiểm tra và mục đích kiểm tra để SV bớt căng thẳng, lo
lắng. Nội dung kiểm tra phải bám sát nội dung học, từng mục, từng bài. Hệ
thống câu hỏi kiểm tra phải phù hợp với đối tượng và thể hiện sự phân hóa,
đảm bảo 70% câu hỏi đo được ở mức độ đạt chuẩn, 30% đạt ở mức độ nâng
cao đòi hỏi tư duy và năng lực thực hành.
Bước 2: Xây dựng đáp án để đánh giá kết quả kiểm tra của SV
Để đánh giá kết quả kiểm tra của SV một cách khách quan, công bằng thì
GV phải xây dựng khung đáp án của bài kiểm tra và công khai đáp án này để
90
các GV tổ bộ môn tiện theo dõi. Đáp án bài kiểm tra cần chi tiết, chia nhỏ các
tiêu chí đánh giá, hạn chế sự ảnh hưởng chủ quan.
Bước 3: Tổ chức kiểm tra tuân thủ đúng quy chế, trung thực
Bước 4: Chấm bài theo đúng quy định, xác định tiêu chí chấm bài cụ thế,
tránh tối đa ảnh hưởng của người chấm để đảm bảo tính khách quan khi chấm.
Bước 5: Tập hợp kết quả, phân tích số liệu, rút kinh nghiệm sau kiểm tra.
Việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng phát triển trí thông
minh, sáng tạo của SV, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ năng
đã học vào thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của người học trước
những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.
Tóm lại, một bài kiểm tra cần đạt các yêu cầu sau:
- Nội dung kiểm tra là những kiến thức, kỹ năng cơ bản, trọng tâm của
bài, có ý nghĩa thiết thực đối với người học.
- Chú trọng cả kiến thức, kỹ năng, thái độ. Trong kiến thức có cả câu hỏi
sự kiện, kiểm tra trí nhớ và câu hỏi suy luận.
- Độ khó của bài kiểm tra phù hợp với chuẩn đánh giá của môn học, nội
dung bài phù hợp với thời lượng quy định.
- Có sự phân hóa SV, tạo cơ hội để họ bộc lộ sự sáng tạo của mình.
3.2. Một số giải pháp và khuyến nghị về việc vận dụng phương pháp thuyết
trình tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư
phạm Đông Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn hiện nay
3.2.1. Một số giải pháp về việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông
Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn
Vận dụng phương pháp dạy học nói chung cũng như đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại nói riêng là một việc làm hết sức khó khăn,
đòi hỏi phải được thực hiện trong một quá trình lâu dài và đồng bộ ở tất cả các
91
cấp học, bậc học, môn học. Nó phải được xem như một trách nhiệm cụ thể của
toàn thể GV, SV, cán bộ quản lý và cán bộ phục vụ giáo dục ở trường chứ
không phải là việc riêng của những người GV đứng lớp. Trong đó, GV và cán
bộ quản lý giáo dục là những nhân tố quan trọng nhất.
Đối với đội ngũ giảng viên
Muốn vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy môn
Lý luận chính trị thành công, đạt hiệu quả cao đòi hỏi ở người GV phải có
những điều kiện nhất định. Các điều kiện đó là:
Trước hết, GV phải được đào tạo chu đáo, đúng chuyên môn.
Người GV giảng dạy môn học này phải có trình độ chuyên môn sâu về
các lĩnh vực liên quan đến môn dạy, phải có sự hiểu biết nhất định ở các lĩnh
vực liên ngành như: Chính trị học, lịch sử Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh…
Không những thế, GV phải biết tin học, ngoại ngữ, phục vụ cho quá trình tìm
kiếm tài liệu tham khảo và hoạt động nghiên cứu khoa học. Bên cạnh việc
thường xuyên làm giàu tri thức chuyên môn, GV phải nắm vững lý luận dạy
học, các phương pháp dạy học và có khả năng khái quát thực tiễn, đưa thực tiễn
vào bổ sung cho bài giảng.
Thứ hai, GV phải nắm chắc nội dung từng bài giảng.
Mỗi bài học đều chứa đựng nội dung kiến thức đặc thù, đòi hỏi phải có
phương pháp tác động riêng. Vì vậy, muốn bài học đạt hiệu quả cao thì GV
phải nắm chắc các đơn vị kiến thức. Chỉ khi nắm chắc kiến thức rồi, GV mới có
thể xây dựng ý tưởng về sự tương tác sư phạm. Lựa chọn phương pháp và thiết
kế các hoạt động dạy và học cho phù hợp. Điều đó như sự định hướng để hoạt
động dạy học tuân theo những quy luật, trình tự.
Thứ ba, GV phải nắm bắt được bản chất của từng phương pháp và
phương tiện trong kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn
đề, đàm thoại.
92
Việc nắm chắc bản chất của từng phương pháp thể hiện kỹ năng của GV
trong giảng dạy. Trước tiên, GV phải nắm được bản chất, đặc điểm, ưu điểm và
nhược điểm của từng đơn vị kiến thức của môn học. Từ đó, GV sẽ chủ động
trong việc lựa chọn phương pháp gắn với mỗi đơn vị kiến thức khác nhau. Bên
cạnh đó, GV phải biết sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại,
hiểu ra cấu tạo, chức năng và nguyên lý hoạt động của nó. Hơn nữa, GV còn
biết chế tạo ra những đồ dùng dạy học, các phương tiện dạy học phù hợp.
Thứ tư, GV phải nắm chắc tất cả các quy trình trong việc kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, đàm thoại tuân thủ và
áp dụng các quy trình đó vào bài giảng.
Các quy trình là sự đúc rút, tổng kết từ thực tiễn dạy học. Vì vậy, nó là
sự định hướng, dẫn đường để hoạt động dạy học đi đúng quy luật, trình tự.
Hiểu ra về nội dung các quy trình và áp dụng vào bài giảng là thể hiện sự tôn
trọng quy luật dạy học, tôn trọng đối tượng học viên cũng như phản ánh năng
lực sư phạm của GV giúp bài học thành công.
Thứ năm, GV phải có tâm huyết với nghề.
Muốn kết hợp phương pháp thuyết trình tích cực với phương pháp nêu
vấn đề, phương pháp đàm thoại thành công và mang tính khả thi, đòi hỏi tâm
huyết rất lớn của GV, sự trăn trở và tinh thần tiên phong vượt qua mọi rào cản
để thực hiện việc kết hợp các phương pháp này. Sự tiên phong của GV không
phải lúc nào cũng nhận được sự đồng tình của tất cả các GV. Vì vậy, để chứng
minh tính đúng đắn của việc kết hợp phương pháp thuyết trình tích cực với
phương pháp nêu vấn đề, đàm thoại GV phải thực hiện hóa trong thực tiễn
giảng dạy, bằng kết quả và phiếu ủng hộ của SV, phải luôn có ý thức tự giác áp
dụng kết hợp các phương pháp đối với từng đơn vị kiến thức. Đặc biệt, GV là
người tiên phong trong việc phổ biến vận dụng kết hợp đến tất cả các GV khác.
Để thực hiện được tất cả các điều kiện trên, đòi hỏi GV phải thực sự trở
thành nhà sư phạm tài ba. Người GV phải thực sự yêu nghề, luôn trăn trở, tự
93
giác học tập, sáng tạo nâng cao trình độ, luôn học hỏi, tìm tòi, đổi mới phương
pháp và nỗ lực hết mình vì sự nghiệp đào tạo. Trong khi đó, các yếu tố quyết
định đến chất lượng dạy học môn Lý luận chính trị hiện nay vẫn đang là vấn đề
nan giải.
Theo quan niệm dạy học hiện đại, quá trình dạy học là sự tương tác giữa
hai chủ thể: chủ thể dạy (GV) và chủ thể học (SV). Với tư cách giữ vai trò chủ
động, tích cực trong việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức dưới sự hướng dẫn của GV,
vai trò của SV là rất quan trọng trong quá trình giảng dạy, là một trong những
nhân tố quyết định đến sự thành công trong bài giảng.
Đối với sinh viên
Trong việc đổi mớí phương pháp thuyết trình trong quá trình giảng dạy,
bên cạnh sự chuẩn bị công phu của GV thì thái độ tự giác, tích cực, chủ động
của SV là yếu tố không thể thiếu được, điều đó được thể hiện trong những điều
kiện sau:
Thứ nhất, SV phải có động cơ học tập đúng đắn.
Khi thực hiện bất cứ hoạt động gì cũng phải xây dựng được động cơ
hành động, hoạt động của SV cũng không nằm ngoài quy luật đó. SV phải tự
giác, tích cực, chủ động trong học tập, không những thế còn phải học một cách
say sưa, sáng tạo với tinh thần cầu thị thực sự. Học để lĩnh hội tri thức, học để
mở mang hiểu biết, học để làm chứ không phải học để đối phó với thi cử.
Thứ hai, xây dựng cho SV tính tổ chức, tính kỷ luật, tính tự giác và tính
khoa học trong học tập.
Quá trình học tập muốn đạt hiệu quả cao đòi hỏi SV phải có tính tự giác
trong học tập. Để có được điều đó, bên cạnh việc xây dựng động cơ học tập
đúng đắn thì SV cũng phải tuân thủ những kỷ luật mà GV đưa ra. Bởi vì, ngay
từ đầu không phải SV nào cũng xác định được động cơ học tập đúng đắn, chỉ
khi họ buộc phải thực hiện theo những nguyên tắc mà GV đưa ra thì họ mới
dần có thói quen tham gia quá trình học tập một cách tích cực. Tính tổ chức, kỷ
94
luật và khoa học trong học tập của SV thể hiện ý thức chuyên cần, tích cực
tham gia xây dựng bài và chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp, phân bố thời
gian, xây dựng kế hoạch và phương pháp học tập khoa học, hợp lý, tập trung
chú ý, hăng hái tham gia tranh luận tập thể và hoàn thành tốt những nhiệm vụ
mà GV giao cho đồng thời có thái độ nghiêm túc và trung thực trong thi cử.
Thứ ba, SV cần xây dựng phương pháp học tập phù hợp sát với điều kiện
của bản thân.
Vận dụng kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề,
phương pháp đàm thoại không chỉ đòi hỏi GV thay đổi phương pháp mà còn đặt
ra yêu cầu mới, phương pháp học tập mới cho SV. Thay vì học tập một cách thụ
động, trông chờ vào việc cung cấp tri thức có sẵn từ GV hay lối học chay, học tủ,
học vẹt như trước kia thì nay SV sẽ phải học tập tích cực hơn, độc lập hơn, tự
mình khám phá tri thức dưới sự điều khiển, dẫn dắt của GV. Kết quả đó sẽ là
động lực giúp SV tiếp tục đi vào kho tàng tri thức, khám phá những bí mật của
nhân loại, từ đó tìm ra phương pháp phù hợp để giải quyết vấn đề.
Thứ tư, SV phải có một trình độ nhận thức nhất định.
Việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề,
phương pháp đàm thoại không chỉ yêu cầu GV có trình độ chuyên môn mà còn
đòi hỏi SV phải có trình độ nhận thức nhất định. Nếu trình độ của SV quá yếu
thì dù muốn cũng không thể vận dụng việc kết hợp phương pháp trong giảng
dạy vì SV không có khả năng phát hiện, tiếp nhận mâu thuẫn trong bài toán
nhận thức để có thể chuyển hóa thành tình huống có vấn đề kích thích SV tự
giải quyết thì không thể áp dụng phương pháp nêu vấn đề.
Thứ năm, rèn luyện cho SV ý thức tự học tập, tự nghiên cứu.
Thời gian học tập trên lớp rất ít nên nên việc tự học ở nhà và học ở mọi
nơi đều là điều kiện để SV tự nâng cao trình độ. Không những thế, SV còn phải
chuẩn bị bài cũ và đọc giáo trình trước khi đến lớp để có những hiểu biết nhất
định về nội dung bài giảng mà GV sẽ trình bày. Đây cũng là cơ sở giúp SV liên
95
hệ tri thức cũ với tri thức mới, đồng thời SV cũng phải rèn luyện kỹ năng kiểm
tra, đánh giá tính đúng đắn của thông tin.
Thực hiện điều kiện này vừa giúp SV nâng cao ý thức tự giác trong học
tập, vừa phát triển khả năng tự học, tự nghiên cứu. GV phải có những tác động
tích cực để khuyến khích tinh thần tự giác, chủ động, sáng tạo và thái độ say
mê nghiên cứu khoa học của SV, dần dần rèn luyện cho SV thấy việc không
ngừng bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, thu nạp nhiều kiến thức mới là
nhiệm vụ, là động lực trực tiếp sẽ vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn của
bản thân sau này mang lại hiệu quả công tác cao.
Đối với các cấp quản lý
Vận dụng phương pháp dạy học nói chung, kết hợp phương pháp thuyết
trình tích cực với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại nói riêng
được thực hiện như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào các cấp lãnh đạo, quản lí
của nhà trường, các phòng ban, các khoa, các tổ bộ môn.
Để việc kết hợp đạt chất lượng cao đòi hỏi các cấp quản lí cần tiến hành
một số công việc cần thiết sau:
- Xây dựng kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực,
tổ chức thực hiện kế hoạch, tổng kết rút kinh nghiệm và mở rộng ứng dụng. Đi
cùng với kế hoạch kết hợp phương pháp dạy học của từng môn học là kế hoạch
chung cho từng bộ phận chức năng, các đoàn thể, phối hợp phát huy mọi nguồn
lực để thực hiện tốt kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học. Việc kết hợp cần
tiến hành từng bước và cần có sự kiểm tra, giám sát để kịp thời nắm bắt tình
hình, nhận diện và phân tích những thuận lợi, khó khăn, phát hiện những sai
sót, lệch lạc để có giải pháp khắc phục.
- Rà soát lại nội dung môn học, giảm bớt kiến thức nhồi nhét, tạo điều
kiện cho thầy và trò tổ chức những hoạt động học tập tích cực; giảm bớt những
thông tin buộc SV phải thừa nhận, những kết luận áp đặt và ghi nhớ máy móc;
96
giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường những câu hỏi phát triển trí thông
minh, tăng cường các gợi ý để SV tự nghiên cứu phát triển bài học.
- Sử dụng đội ngũ chuyên gia nghiên cứu thấu đáo về phương pháp dạy
học tích cực, sau đó tổ chức tập huấn phổ biến rộng rãi nhằm đảm bảo tính
thống nhất trong quá trình tổ chức dạy học.
- Đảm bảo các điều kiện vật chất như; tài liệu dạy học; thời gian tự học
của SV; quy mô lớp vừa phải; từng bước trang bị phương tiện dạy học hiện đại.
- Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp với việc đổi mới phương pháp dạy
học ở trường mình. Vì vậy, Giám đốc cần khuyến khích, ủng hộ, hướng dẫn,
giúp đỡ GV vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, thích hợp với môn
học, phù hợp với điều kiện dạy và học của đất nước.
Tóm lại, để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung
cũng như kết hợp phương pháp thuyết trình tích cực với phương pháp nêu vấn
đề, phương pháp đàm thoại trong dạy học môn Lý luận chính trị ở các Trường
Đại học và Cao đẳng nói chung, Trường Cao đẳng sư phạm Đông Kham Xạng
nói riêng đòi hỏi phải có sự đồng thuận, tích cực của cả thầy, trò và các cấp
quản lý. Trong lao động tập thể, với không khí thân mật, ấm cúng, tin cậy và
tôn trọng lẫn nhau giữa thầy và trò, giữa GV đứng lớp và các cấp quản lý, lãnh
đạo nhà trường thì việc đổi mới phương pháp dạy học nói riêng, sự nghiệp đổi
mới giáo dục nói chung mới đạt kết quả tốt đẹp.
3.2.2. Một số khuyến nghị về việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích
cực trong dạy học môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông
Kham Xạng, thủ đô Viêng Chăn
Đối với các cấp quản lý
Bên cạnh những điều kiện chủ quan để thực hiện thành công việc vận
dụng phương pháp thuyết trình tích cực thì một trong những yếu tố không thể
thiếu đó là điều kiện khách quan liên quan đến các cấp quản lý. Nghĩa là cần xác
định rõ việc vận dụng phương pháp dạy học là một vấn đề cấp thiết, sâu rộng, tất
97
yếu trong phạm vi quản lý. Song song với việc vận dụng phương pháp dạy học
thì phải tiến hành từng bước việc thiết kế nội dung chương trình, xây dựng cơ sở
vật chất và trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ cho quá trình dạy học.
Cần quan tâm hơn nữa đời sống của cán bộ GV đặc biệt là GV có
hoàn cảnh khó khăn, tăng cường tập huấn, giao lưu trao đổi kinh nghiệm cho
GV học hỏi lẫn nhau, kịp thời động viên những cố gắng vận dụng phương
pháp dạy học.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan quản lý giáo dục, cơ quan
nghiên cứu và nhà trường cần làm tốt các việc sau:
- Nâng cao nhận thức của các cấp quản lý giáo dục về vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng của môn Lý luận chính trị và mối quan hệ chặt chẽ của môn học
này với các môn học khác trong việc giáo dục đạo đức và nhận thức cho SV.
- Xây dựng đội ngũ GV môn Lý luận chính trị:
+ Xây dựng đội ngũ GV cốt cán bộ môn.
+ Tổ chúc bồi dưỡng GV, chú ý đến các vấn đề địa phương, vấn đề thời
sự, đường lối, chính sách, pháp luật và vận dụng phương pháp dạy học, kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của SV.
+ Tạo điều kiện cho GV đi học tập nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các trường đại học,
cao đẳng trong và ngoài nước.
+ Phát huy việc tự học, tự bồi dưỡng và rèn luyện, phấn đấu thực hiện
cuộc vận động “ Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học, sáng tạo”.
- Cần nghiên cứu để thực hiện việc lồng ghép, tích hợp kiểm tra, thi và
đánh giá kết quả học tập môn Lý luận chính trị với các môn học khác và hoạt
động rèn luyện khác của SV. Để kết quả được nâng cao thì tiêu chuẩn đầu vào
của SV phải được chú trọng một cách phù hợp.
Đối với giảng viên
GV phải ý thức trách nhiệm của mình; không ngừng bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ, đổi mới tư duy trong vấn đề vận dụng phương pháp dạy học.
98
GV phải giành thời gian nghiên cứu tài liệu tham khảo, sưu tầm, thiết kế các
tình huống học tập làm cho bài giảng sinh động gắn liền với đời sống thực tiễn.
- Về vận dụng phương pháp dạy học: Cần chú ý đến việc rèn luyện kỹ
năng và giáo dục thái độ, hành vi của SV trong dạy học môn Lý luận chính trị.
Dạy học môn này phải gắn với thực tế cuộc sống, hướng dẫn SV vận dụng kiến
thức đã học để phân tích, giải quyết các tình huống, các vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn ở địa phương.
- Về vận dụng kiểm tra đánh giá: Cần giảm nhẹ yêu cầu kiểm tra tái hiện
kiến thức. Tăng cường yêu cầu SV vận dụng kiến thức theo hướng ra đề mở để
SV liên hệ, phân tích, bình luận biểu đạt chính kiến và định hướng hành vi của
mình. Cần xác lập được các quan hệ đánh giá giữa thầy và trò, giữa trò với trò,
tự đánh giá bản thân SV. Kết hợp một cách hợp lý câu hỏi tự luận và trắc
nghiệm khách quan trong kiểm tra đánh giá.
- Về thiết bị, đồ dùng dạy học: Trên cơ sở các thiết bị trong danh mục
thiết bị tối thiểu của Bộ ban hành, khuyến khích việc tự làm thiết bị, đồ dùng
dạy học của GV và SV, coi đó là một hoạt động hiệu quả để phát huy sự tham
gia tích cực của SV trong quá trình học tập.
- Về áp dụng công nghệ thông tin: Khuyến khích việc áp dụng công nghệ
thông tin trong dạy học môn Lý luận chính trị. Tuy nhiên cần khai thác đúng
chức năng của máy tính là công cụ trợ giúp GV vận dụng phương pháp và nâng
cao chất lượng, hiệu quả dạy học.
Kết luận chương 3:
Trên cơ sở tiến hành thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả quá trình
thực nghiệm việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực bằng cách kết hợp
với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại trong giảng dạy chương 1:
Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN môn Lý luận chính trị
cho SV trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng, dựa trên những nguyên
99
tắc xây dựng quy trình dạy học nói chung, chúng tôi đã xây dựng và đưa ra quy
trình, điều kiện của việc đổi mới phương pháp thuyết trình hiện nay.
Thứ nhất, trong quy trình thiết kế bài giảng chúng tôi đề xuất một số điều
kiện cần thiết để tiến hành thiết kế và thực nghiệm bài giảng thuyết trình theo
hướng kết hợp với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại. Tuy
nhiên, trong quá trình thiết kế bài giảng chúng tôi phải căn cứ vào đặc điểm
kiến thức của chương 1: Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất
TBCN, thời gian và điều kiện giảng dạy để nội dung bài giảng đảm bảo đầy đủ
các nguyên tắc dạy học.
Thứ hai, trong quy trình thực hiện bài giảng trên lớp, chúng tôi trình bày
các hoạt động giảng dạy của GV và quy trình dạy học bằng việc kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm
thoại. Sau khi tiến hành thực nghiệm sư phạm, chúng tôi đã đánh giá, nhận xét
kết quả thực nghiệm để rút ra một cách khái quát nhất quy trình dạy học bằng
việc kết hợp các phương pháp trên. Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp bằng
phương pháp thuyết trình diễn giải nêu vấn đề, phương pháp nêu vấn đề toàn
phần, và phương pháp dạy học nêu vấn đề có tính giả thuyết, thuyết trình kết
hợp với đàm thoại. Các bước chuẩn bị, các bước thực hiện của từng quy trình
đã được chúng tôi nghiên cứu, tìm tòi và tiến hành thực nghiệm để chứng minh
tính đúng đắn của đề tài.
Thứ ba, chúng tôi đã xây dựng quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của SV.
Qua giảng dạy thực nghiệm và tham khảo ý kiến đòng nghiệp, chúng tôi
đề xuất quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV như sau: Qua 5
bước cơ bản từ xác định mục tiêu đến tập hợp kết quả, phân tích số liệu, rút
kinh nghiệm sau kiểm tra.
Thứ tư, chúng tôi đã trình bày điều kiện thực hiện việc kết hợp phương
pháp thuyết trình tích cực với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại
100
trong giảng dạy chương 1: Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất
TBCN môn Lý luận chính trị. Đây là điều kiện đối với đội ngũ GV, đối với
SVvà các cấp quản lý. Trong đó GV và cán bộ quản lý giáo dục là những nhân
tố quan trọng nhất trong đổi mới phương pháp dạy học. GV phải được đào tạo
đúng chuyên môn, phải nắm chắc nội dung từng bài giảng, nắm được tất cả các
quy trình trong việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu
vấn đề, phương pháp đàm thoại. Tuân thủ và áp dụng quy trình đó vào bài
giảng, nắm được bản chất của từng phương pháp và phương tiện dạy học. Đội
ngũ cán bộ quản lý cần xây dựng kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, phân công GV đúng chuyên
ngành giảng dạy bộ môn, coi trọng và tổ chức dạy học chuyên đề.
Thứ năm, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị đối với cấp quản lý và
GV môn Lý luận chính trị. Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học phải
tiến hành từng bước việc thiết kế nội dung chương trình, xây dựng cơ sở vật
chất và trang bị thiết bị dạy học hiện đại phục vụ cho quá trình dạy học. GV
phải ý thức được trách nhiệm của mình, không ngừng bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, đổi mới tư duy trong vấn đề đổi mới phương pháp dạy học.
Như vậy, việc vận dụng phương pháp dạy học cần nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ, ủng hộ từ các cấp quản lý và Ban Giám hiệu nhà trường, GV mới
mạnh dạn sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy, còn SV
sẽ có đủ điều kiện học tập tốt hơn.
101
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương
pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy, cũng như quá trình tiến hành thực
nghiệm và xây dựng quy trình thực hiện việc đổi mới phương pháp thuyết trình
tích cực trong giảng dạy môn Lý luận chính trị cho SV trường Cao đẳng Sư
phạm Đông Kham Xạng. Chúng tôi rút ra một số vấn đề sau:
Một là, về cơ sở lý luận: Việc áp dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong dạy học được xây dựng trên cơ sở: Nội dung, chương trình môn Lý luận
chính trị, cơ sở tâm lý học và lý luận dạy học. Các cơ sở khoa học này giữ vai
trò định hướng trong việc thiết kế, xây dựng và sử dụng quy trình vận dụng
phương pháp thuyết trình tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị.
Hai là, về cơ sở thực tiễn của đề tài: Chúng tôi tiến hành điều tra thực
trạng giảng dạy môn Lý luận chính trị cho SV trường Cao đẳng Sư phạm Đông
Kham Xạng năm học 2016 - 2017, kết quả thu được cho thấy:
- Về phía GV; đa số GV trong bộ môn đã có nhận thức đúng về đặc
trưng của phương pháp thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp
đàm thoại và thái độ tích cực với những phương pháp này. Tuy nhiên, mức độ
sử dụng và tính hiệu quả trong giảng dạy chương 1: Những vấn đề cơ bản của
phương thức sản xuất TBCN môn Lý luận chính trị không thực sự khả quan,
GV còn chậm đổi mới trong giảng dạy.
Thực trạng này do nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân cơ bản là chưa
có một quy trình dạy học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của SV một
cách khoa học và hợp lý.
- Về phía SV; phần lớn SV được điều tra đều cho biết họ chưa thể hiện
được tính tích cực trong quá trình học tập của mình. SV vẫn còn tư tưởng thụ
động, trông chờ, ỷ lại vào GV. Đồng thời, những kiến thức của môn học có
nhiều tri thức trừu tượng gây khó khăn và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
học tập. Vì vậy, kết quả học tập không đạt được như mong muốn.
102
Ba là, để kiểm chứng giả thuyết thực nghiệm chúng tôi tiến hành thực
nghiệm đổi mới phương pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy chương 1:
Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN môn Lý luận chính trị ở
hai lớp thực nghiệm và đối chứng. Đồng thời chúng tôi tiến hành phân tích,
đánh giá, kết quả thu được từ thực nghiệm sư phạm. Kết quả cho thấy chất
lượng học tập của SV lớp thực nghiệm cao hơn hẳn so với lớp đối chứng, thái
độ và mức độ tham gia bài học cũng chủ động, tích cực và hứng thú hơn.
Bốn là, luận văn cũng mạnh dạn đề xuất xây dựng quy trình kết hợp
phương pháp thuyết trình tích cực với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp
đàm thoại trong giảng dạy chương 1: Những vấn đề cơ bản của phương thức
sản xuất TBCN môn Lý luận chính trị dựa trên các giai đoạn và các bước, phản
ánh đầy đủ các hoạt động dạy và học trên lớp của GV và SV. Để thực hiện hiệu
quả việc kết hợp giữa các phương pháp trên chúng tôi cũng đưa ra một số giải
pháp và khuyến nghị cần thiết đối với cán bộ quản lý, GV, SV. Trong đó vai trò
của GV và cán bộ quản lý có ý nghĩa quyết định.
Năm là, chúng tôi đánh giá vai trò của các phương pháp trong dạy học.
Trong hoạt động dạy học, tuyệt đối không có phương pháp vạn năng. Việc kết
hợp phương pháp thuyết trình tích cực với phương pháp nêu vấn đề và phương
pháp đàm thoại trong dạy học dù có tích cực đến đâu cũng không thể giữ vai trò
độc nhất trong dạy học tích cực. Vì vậy, khi vận dụng việc phương pháp thuyết
trình tích cực với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại trong giảng
dạy GV cần kết hợp linh hoạt với nhiều phương pháp dạy học tích cực khác,
không loại trừ cả phương pháp dạy học truyền thống đề nâng cao hiệu quả của
quá trình dạy học.
Tóm lại, luận văn giúp chúng ta tiếp cận lý luận dạy học tích cực, góp
phần giải quyết nhiệm vụ đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học
môn Lý luận chính trị. Cơ sở khoa học của việc vận dụng phương pháp thuyết
trình tích cực trong dạy học đặt nền móng lý luận và thực tiễn vững chắc cho
103
việc nghiên cứu và đề xuất các biện pháp dạy học bộ môn. Thực nghiệm sư
phạm giúp chúng ta khẳng định giá trị tích cực của việc kết hợp các phương
pháp đó. Quy trình và điều kiện thực hiện cung cấp con đường, những lưu ý
cần thiết để thực hiện có hiệu quả việc kết hợp các phương pháp trên.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi hy vọng rằng việc vận
dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy chương 1: Những vấn
đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN - môn Lý luận chính trị cho SV
trường Cao đẳng Sư phạm Đông Kham Xạng sẽ đóng góp không nhỏ và mục
tiêu giáo dục và đào tạo của nhà trường.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.M.Machiuskin (1972), Tình huống có vấn đề trong tư duy và trong dạy
học, Matxcova, NXB Giáo dục.
2. Lương Gia Ban (chủ biên), (2002), Góp phần nâng cao chất lượng dạy
học và đổi mới nội dung chương trình các môn khoa học Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát huy tính tích cực, tính tự lực của học sinh
trong quá trình dạy học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ giáo viên
4. Nguyễn Duy Bắc (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn dạy và học
các môn học Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học,
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Phùng Văn Bộ (chủ biên), Nguyễn Như Hải, Trần Thế Vĩnh, Hoàng Ngọc
Mai (2002), Một số vấn đề phương pháp giảng dạy và nghiên cứu triết
học, NXB. Giáo dục, Hà Nội.
6. Bộ giáo dục và đào tạo (1997), Triết học Mác-Lênin (đề cương bài giảng
dùng cho các trường Đại học, Cao đẳng từ năm 1991-1992)), NXB Giao
dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Thanh Bình (2006), Lý luận giáo dục học Việt nam, NXB Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Cư (2007), Phương pháp dạy học Chủ nghĩa xã hội khoa
học,NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. Đỗ Ngọc Đạt (2000), Bài giảng lí luận dạy học hiện đại, NXB Đại học
quốc gia HN, Hà Nội.
10. Đỗ Ngọc Đạt (2000), Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, NXB Đại học
quốc gia, Hà Nội.
11. Đặng Văn Đức, Nguyễn Thu Hằng (2004), Phương pháp dạy học địa lý
theo hướng tích cực, NXB Sư phạm, Hà Nội.
12. Giáo trình chính trị (dùng cho hệ cao đẳng nghề), (2008), NXB Lao động
- xã hội, Hà Nội.
105
13. Tô Xuân Giáp (1998), Phương tiện dạy học, NXB Giáo dục,Hà Nội, 1998.
14. Nguyễn Như Hải (2005), Đổi mới phương pháp dạy và học khái niệm triết
học (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, mã số B203-75-83).
15. Vũ Đăng Hoạt (2004), Lý luận dạy học Đại học, NXB Đại học sư phạm
Hà Nội, Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Hồng (2008), Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn Giáo dục học để phát huy tính tích cực học tập của sinh viên,
Nxb Hà Nội
17. I.F.Kharlanop (1995), Phát huy tính tích cực của học sinh thế nào, NXB
Giao dục, Hà Nội.
18. I.Ia Lecen (1997), Dạy học nêu vấn đề (Nguyễn Tất Đắc dịch), NXB Giáo
dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Xuân Kiên (2011), VN triển vọng của con rồng kinh tế, NXB
Thanh Niên, Hà nội.
20. Đặng Xuân Kỳ (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Dương Thị Liễu (2008), bài giảng kỹ năng thuyết trình, NXB Kinh tế
quốc dân, Hà nội.
22. Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Hữu Vui (Chủ Biên), (1996), Giáo trình
Triết học Mác - Lê Nin tập 3 dành cho nghiên cứu sinh và cao học, NXB
chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. M.I. Makhonutop (1972), Lý luận và dạy học thực hành nêu vấn đề, Cadan.
24. Phomma KAHKIK, sách giáo khoa môn chính trị đối với giáo dục đại học
(2003)
25. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
26. RôZentan MM và Tudin.P (Chủ biên),(1976), Từ điển triết học, NXB Sự
thật, Hà Nội
106
27. Sách giáo khoa chính trị, giáo viên tiểu học 1 (2009)
28. Sách giáo khoa môn Kinh tế, giáo viên 2 hệ thống 11+3 (1996)
29. Sách giáo khoa môn khoa học chính trị 1 giáo viên, hệ thống 8+3 (1998)
30. Sách giáo khoa môn khoa học chính trị 2 giáo viên hệ thống 8+3 năm
(1998)
31. Vũ Hồng Tiến (2007), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy chương trình sách
giáo khoa thí điểm lớp 11 môn Giáo dục công dân, NXB Đại học sư phạm
Hà Nội.
32. Thái Duy Tuyên (1999), Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại, NXB Đại học quốc gia,
Hà Nội
34. Nguyễn Văn Tráng (2007), Đổi mới phương pháp thuyết trình trong dạy
học triết học Mác-Lênin cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm tỉnh Bà
Rịa Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
35. V.I.Lênin (1963), Bút ký triết học, NXB Sự thật..
36. V.I.Lênin toàn tập,tập 29, (1981), NXB Tiến bộ, Matxocova.
37. V.Ôkôn (1976), Những cơ sở và việc dạy học nêu vấn đề, NXB Giáo dục
Hà Nội.
38. Phạm Viết Vượng (1996), Giáo dục học đại cương, NXB Đại học quốc
gia, Hà Nội
39. Phạm Viết Vượng (2008), Lý luận giáo dục, NXB Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
40. Phạm Viết Vượng (2000), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB
Đại học quốc gia, Hà Nội
A.M.Machiuskin
41. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2008), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
107
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHIẾU ĐIỀU TRA GIẢNG VIÊN
Về việc vận dụng phương pháp thuyết tích cực trong giảng dạy chương I:
Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN môn Lý luận chính trị.
Để có cơ sở thực tiễn cho việc thực hiện luận văn, nhằm góp phần nâng
cao chất lượng dạy học môn Lý luận chính trị, xin thầy, cô vui lòng trả lời các
câu hỏi dưới đây.( Với những câu hỏi có ô vuông, thầy, cô hãy đánh dấu X vào
ô vuông đó mà mình cho là đúng hoặc đồng ý).
Họ và tên............................... Chức danh, học vị.......................................
Chức vụ................................... Số năm công tác........................................
Năm tốt nghiệp.......................... Ngành......................................................
1. Trong quá trình giảng dạy, thầy cô có vận dụng phương pháp thuyết trình
tích cực không?
Thỉnh thoảng
Thường xuyên
Chưa bao giờ
2. Những loại bài nào thầy cô vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực
trong giảng dạy?
- Bài mới:
Thỉnh thoảng
Thường xuyên
Chưa bao giờ
- Ôn tập:
Thỉnh thoảng
Thường xuyên
Chưa bao giờ
3. Trong quá trình dạy học bằng việc vận dụng phương pháp thuyết trình
tích cực, mức độ sử dụng như thế nào so với phương pháp giảng dạy khác?
- Kết hợp phương pháp thuyết trình với nêu vấn đề
Thường xuyên
Đôi khi
Chưa bao giờ
- Kết hợp phương pháp thuyết trình với đàm thoại
Thường xuyên
Đôi khi
Chưa bao giờ
- Phương pháp thảo luận nhóm
Thường xuyên
Đôi khi
Chưa bao giờ
- Phương pháp động não
Thường xuyên
Đôi khi
Chưa bao giờ
- Phương pháp đóng vai
Thường xuyên
Đôi khi
Chưa bao giờ
- Phương pháp trực quan
Thường xuyên
Đôi khi
Chưa bao giờ
- Hướng dẫn học viên sử dụng tài liệu
Thường xuyên
Đôi khi
Chưa bao giờ
4. Thầy cô vận dụng vào các hình thức tổ chức dạy học nào: Cá nhân, nhóm,
tập thể hay tất cả?
Hình thức cá nhân
Hình thức nhóm
Hình thức tập thể
Kết hợp tất cả
5. Qua việc vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực trong giảng dạy
môn Lý luận chính trị, thầy cô nhận thấy điều gì ở SV?
SV tích cực học tập hơn các giờ khác
SV học bình thường như các giờ học khác
SV tỏ ra không hứng thú
Chỉ có một số SV thực sự tích cực
6. Khi thực hiện việc vận dụng phương pháp thuyết trinh tích cực trong giảng
dạy thầy cô gặp những khó khăn gì?
Thiếu thời gian
Thiếu tài liệu tham khảo
Năng lực chuyên môn
Trình độ nhận thức của SV
Sĩ số lớp quá đông
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu học tập
7. Thầy cô có kiến nghị gì khi giảng dạy môn Lý luận chính trị (chương 1:
Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN)
PHỤ LỤC 2
Bài kiểm tra đánh giá sau thực nghiệm
Thời gian: 50 phút
Phần I: Trắc nghiệm
Chọn đáp án đúng nhất
1. Hàng hóa là:
a. Sản phẩm của lao động để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
b. Sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua mua bán
c. Sản phẩm ở trên thị trường
d. Sản xuất ra để đem bán
2. Sản xuất hàng hóa tồn tại
a. Trong mọi xã hội
b. Trong chế độ nô lệ, phong kiến, TBCN
c. Trong các xã hội, có phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh
tế giữa những người sản xuất
d. Chỉ có trong CNTB
3. Sản xuất hàng hóa xuất hiện dựa trên:
a. Phân công lao động cá biệt và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
b. Phân công lao động chung và chế độ sở hữu khác nhau về TLSX
c. Phân công lao động và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất
d. Phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu hoặc những hình thức sở
hữu khác nhau về TLSX
4. Giá trị sử dụng là gì?
a. Là công dụng của vật có thể thõa mãn nhu cầu nào đó của con người
b. Là tính hữu ích của vật
c. Là thuộc tính tự nhiên của vật
d. Cả a, b, c
5. Giá trị hàng hóa được tạo ra từ đâu?
a.Từ sản xuất
b.Từ phân phối
c.Từ trao đổi
d. Cả sản xuất, phân phối và trao đổi
6. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là:
a. Lao động tư nhân và lao động xã hội
b. Lao động giản đơn và lao động phức tạp
c. Lao động cụ thể và lao động trừu tượng
d. Lao động quá khứ và lao động sống
7. Lao động cụ thể là:
a. Là phạm trù lịch sử
b.Lao động tạo ra giá trị của hàng hóa
c.Tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa
d. Biểu hiện tính chất xã hội của người sản xuất hàng hóa
8. Lao động trưù tượng là:
a. Là phạm trù riêng của CNTB
b.Là phạm trù của mọi nền kinh tế hàng hóa
c.Là phạm trù riêng của nền kinh tế thị trường
d.Là phạm trù chung của mọi nền kinh tế
9. Hai hàng hóa trao đổi được với nhau vì:
a. Chúng cùng là sản phẩm của lao động
b. Có lượng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
chúng bằng nhau
c. Có lượng hao phí vật tư kĩ thuật bằng nhau
d. Cả a và b
Phần II: Tự luận
Anh (chị) hiểu như thế nào về hàng hóa và sản xuất hàng hóa? Liên
hệ với thực trạng phát triển kinh tế hàng hóa ở địa phương?
PHỤ LỤC 3
Phiếu trưng cầu ý kiến đối với SV (Trước khi tiến hành thực nghiệm)
Để có cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu, vận dụng về việc vận dụng
phương pháp thuyết trình tích cực trong dạy học môn Lý luận chính trị (chương
I: Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN) nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy và học tập, đề nghị SV vui lòng trả lời những câu hỏi sau đây.
Mỗi câu hỏi đều có phương án trả lời, đồng ý với phương án nào SV đánh dấu
"X" vào ô vuông.
Câu 1: Theo em môn Lý luận chính trị (Chương I) là môn học như thế nào?
- Là môn học rất cần thiết
- Học cũng được, không học cũng được
Câu 2: Em có nhận xét gì về thái độ của SV trong các giờ nghe giảng môn
Lý luận chính trị (Chương I)?
- Nghiêm túc
- Bình thường
- Không nghiêm túc
Câu 3: Những giờ giảng môn Lý luận chính trị (chương I) mà GV thực hiện
trên lớp, em thấy thế nào?
- Hứng thú
- Bình thường
- Khó trả lời
Câu 4: Trong giờ học môn Lý luận chính trị (Chương I: Những vấn đề cơ
bản của phương thức sản xuất TBCN) trên lớp em thường:
- Tích cực phát biểu
- Nghe ý kiến của người khác
- Chờ thầy cô giải thích
Câu 5: Khi học môn Lý luận chính trị (Chương I: Những vấn đề cơ bản của
phương thức sản xuất TBCN), em thường học theo cách nào
- Học theo vở ghi
- Theo vở ghi và giáo trình
- Học có liên hệ với thực tế
- Trao đổi với người khác
Câu 6: Trong quá trình học môn Lý luận chính trị (Chương I:Những vấn đề cơ
bản của phương thức sản xuất TBCN), em có đọc thêm tài liệu nào không?
- Thường xuyên
- Đôi khi
- Chưa bao giờ
Câu 7: Em thích học môn Lý luận chính trị (Chương I:Những vấn đề cơ bản
của phương thức sản xuất TBCN), theo hình thức nào dưới đây?
- Giảng viên thuyết trình độc thoại
- Giảng viên thuyết trình kết hợp đàm thoại
- Giảng viên vận dụng phương pháp thuyết trình tích cực và sử dụng các
phương tiện dạy học hiện đại.
Câu 8: Phương pháp mà GV đã sử dụng để giảng dạy môn Lý luận chính trị
Minh (Chương I:Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN)
theo em:
- Hiệu quả
- Bình thường
- Không hiệu quả
Câu 9: Phương pháp giảng dạy môn Lý luận chính trị (Chương I:Những
vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN) của GV giúp em:
- Nắm được tri thức nhưng dễ quên
- Hiểu được một cách chắc chắn các nguyên lý, quy luật
- Có khả năng vận dụng các tri thức để lý giải những vấn đề thực tiễn
- Có hiểu một số quy luật nhưng không chắc chắn.
Câu 10: Học tập môn Lý luận chính trị (Chương I:Những vấn đề cơ bản của
phương thức sản xuất TBCN) giúp em:
- Nâng cao trình độ hiểu biết
- Có thêm tri thức khoa học để tư duy tốt hơn
- Nâng cao điểm tổng kết khóa học.
Câu 11: Để nâng cao chất lượng học tập môn Lý luận chính trị (Chương
I:Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN) theo em:
- GV cần làm việc nhiều hơn
- SV cần làm việc nhiều hơn
- GV hướng dẫn cho SV tự học.
Câu 12: Theo em, trong các nguyên nhân sau nguyên nhân nào ảnh hưởng
nhiều nhất đến chất lượng học tập môn Lý luận chính trị (Chương I: Những
vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN)
- Môn học khôn khan
- Năng lực học tập hạn chế
- Thiếu tài liệu, giáo trình
- GV không sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại
- Học viên chưa nhận thức đúng vai trò và ý nghĩa của môn học
- Thiếu liên hệ giữa lý luận với thực tiễn