BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH Ngô Đình Khiêm
QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA TỈNH CÀ MAU TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2007
Chuyên ngành : Lịch Sử Việt Nam Mã số
: 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN CẢNH HUỆ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và
chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả
Ngô Đình Khiêm
MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Lịch sử địa phương là một bộ phận hợp thành và làm phong phú lịch sử dân tộc. Việc
nghiên cứu lịch sử địa phương sẽ góp phần tích cực vào việc bổ sung nguồn sử liệu cho việc
xây dựng lịch sử dân tộc, làm cụ thể hóa một số nội dung cơ bản của lịch sử dân tộc, làm rõ mối
quan hệ hữu cơ giữa lịch sử của từng địa phương và lịch sử của toàn dân tộc.
Hiện nay, lịch sử địa phương là một môn học ở các cấp học phổ thông nhằm thực hiện
mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng của nhà trường xã hội chủ nghĩa. Nó góp phần làm phong phú tri
thức của học sinh về quê hương, đất nước, giúp hình thành ở thế hệ trẻ tinh thần yêu nước trong
sáng, đồng thời qua đó giáo dục lòng yêu quý, gắn bó với quê hương cho học sinh, hình thành ý
thức về nghĩa vụ đối với quê hương, đất nước, nhận thức đúng đắn mối liên hệ giữa lịch sử địa
phương và lịch sử dân tộc.
Ngoài ra, lịch sử địa phương còn có tác dụng to lớn trong việc giáo dục tư tưởng đạo đức,
thẩm mỹ và ý thức lao động cho thế hệ trẻ - chủ nhân của xã hội trong tương lai - để đưa đất
nước sánh vai cùng bè bạn khắp năm châu. Bởi lẽ, nguồn gốc của lòng yêu Tổ quốc bắt nguồn
từ tình yêu quê hương, xứ sở, nơi mình đã sinh ra và trưởng thành. Mặt khác, được học lịch sử
địa phương còn làm cho thế hệ trẻ thấy rõ ý nghĩa lịch sử tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa và
công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo đang được
thực hiện và đem lại thành tựu ở khắp mọi miền đất nước từ những địa phương cụ thể. Từ đó,
mỗi người càng thêm yêu quý quê hương, đất nước, tin tưởng vào tương lai của dân tộc, quê
hương mình.
Cà Mau, một tỉnh giàu đẹp ở cực nam Tổ quốc, trải qua hơn ba trăm năm hình thành và
phát triển, với địa thế chiến lược, vai trò kinh tế và đặc thù văn hóa của mình đã làm phong phú
thêm và độc đáo hơn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như trong quá trình khẩn
hoang về phương Nam của những cư dân người Việt vào thế kỷ XVI XVII, trong quá trình
đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong quá trình cùng cả nước xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa…
Bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Nam Bộ, trong đó có Cà Mau, đã được định hướng phát triển với những nhiệm vụ, mục tiêu cụ
thể, phù hợp với thế mạnh và đặc thù của địa phương. Do đó, việc biên soạn lịch sử địa phương
tỉnh Cà Mau một cách khoa học để giáo dục lòng yêu quê hương trong thế hệ trẻ, trong cộng
đồng dân cư để động viên và cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân lao động, sáng tạo trong xây dựng và
bảo vệ đất nước là một công việc cần thiết.
Mười năm tuy ngắn ngủi đối với quá trình lịch sử của một địa phương, tuy nhiên đối với
Cà Mau, đó là thời kỳ có ý nghĩa quan trọng về sự nổ lực phát triển nội tại, về thời kỳ không
còn chế độ “xin cho” từ Trung ương, về việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, xã hội
một cách đồng bộ, về việc giải quyết những mâu thuẫn kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình
phát triển tỉnh nhà, về hội nhập quốc tế… Phải nói đây là thời kỳ mà những phẩm chất tốt đẹp
vốn có của con người Cà Mau như năng động, sáng tạo, tự lập, bản lĩnh, hào hiệp được phát
huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chắc chắn những phẩm chất đó cùng với tiềm năng về thiên
nhiên và sự lãnh đạo của các cấp Đảng, chính quyền, Cà Mau sẽ trở thành một vùng đất giàu
mạnh và phát triển.
Với ý nghĩa như vậy, chúng tôi chọn “Quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Cà
Mau từ năm 1997 đến năm 2007” làm đề tài luận văn thạc sĩ sử học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Theo chúng tôi được biết, những công trình nghiên cứu về tình hình phát triển kinh tế -
xã hội tỉnh Cà Mau còn rất ít, và cũng chỉ mới xuất hiện rải rác trong những năm gần đây, nhất
là sau khi tách tỉnh. Những công trình này cũng chỉ mới đề cập đến những vấn đề chung chung
mang tính chất báo cáo hoặc chỉ riêng lẻ một mảng nào đó về tình hình kinh tế hoặc xã hội của
tỉnh trong một thời gian ngắn mà thôi. Một công trình viết về quá trình chuyển biến kinh tế - xã
hội của tỉnh Cà Mau sau 10 năm tái lập thì hoàn toàn chưa có.
Tháng 12/2002 Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau xuất bản cuốn Cà Mau anh hùng, Tập 1,
giới thiệu về quá trình đấu tranh vũ trang của nhân dân Cà Mau trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.
Tháng 3/2006, nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
tỉnh Cà Mau và Công ty Cổ phần Thông tin Kinh tế Đối ngoại (FEI) xuất bản cuốn Cà Mau
Thế và lực mới trong thế kỷ XXI, giới thiệu sơ lược về lịch sử, địa lý và tiềm năng của tỉnh Cà
Mau, đặc biệt có đề cập đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội nhưng chỉ là những con số thống
kê về các huyện cho đến năm 2005.
Tháng 7/2000, Trung tâm Thông tin và chuyển giao tiến bộ sinh học Việt Nam xuất bản
cuốn Đồng bằng sông Cửu Long đón chào thế kỷ XXI giới thiệu ngắn gọn những thành tựu,
tiềm năng, triển vọng, các chương trình kêu gọi đầu tư và khẳng định những ưu thế về nhiều
lĩnh vực địa lý, kinh tế, văn hóa, lịch sử… của 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong đó có
Cà Mau.
Ngoài ra, vào năm 2001, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội có xuất bản cuốn Lịch
sử và địa lý Cà Mau, Tập 1 và Tập 2 do Thái Văn Long chủ biên. Nội dung giới thiệu về con
người, điều kiện tự nhiên, tiềm năng và quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân Cà Mau
trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Như vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào đề cập một cách toàn diện, hệ thống
và cụ thể về quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến năm 2007.
3. Các nguồn tài liệu nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi tham khảo và sử dụng những nguồn tài liệu chủ yếu
sau:
- Những Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng bộ tỉnh Cà Mau.
- Những kế hoạch và báo cáo tổng kết hàng quý, hàng năm của UBND tỉnh Cà Mau.
- Số liệu của Cục Thống kê tỉnh Cà Mau.
- Những công trình nghiên cứu đề cập đến các lĩnh vực của tỉnh Cà Mau.
- Các trang Web có liên quan đến các mặt kinh tế, xã hội của tỉnh Cà Mau.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: giới hạn trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
- Về thời gian: từ năm 1997 đến năm 2007.
Sở dĩ chúng tôi lấy năm 1997 làm mốc mở đầu cho công trình nghiên cứu vì đây là năm
Cà Mau được tách ra thành lập một tỉnh riêng từ tỉnh Minh Hải (gồm Bạc Liêu và Cà Mau) theo
phê chuẩn ngày 6/11/1996 trong kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, thực hiện từ ngày 1/1/1997.
Năm 2007 là mốc kết thúc của công trình nghiên cứu vì đây là năm kết thúc kế hoạch 10
năm quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau sau khi tái lập.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau từ năm
1997 đến năm 2007, chúng tôi kéo dài sự nghiên cứu của mình về trước năm 1997.
5. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của đề tài là tìm hiểu quá trình chuyển biến các mặt về kinh
tế - xã hội tỉnh Cà Mau sau mười năm tái lập từ năm 1997 đến năm 2007. Qua đó nêu được
những thành tựu, hạn chế của quá trình này, đồng thời, chỉ ra được những nguyên nhân của
những thành tựu, hạn chế đó. Từ đó kiến nghị những giải pháp, dự đoán những triển vọng của
sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau trong những năm sắp tới.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi vận dụng, quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc nhìn nhận đánh giá vấn đề, đặt các vấn đề trong mối quan
hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Là một đề tài lịch sử, nên trong việc nghiên cứu chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgic, đồng thời chú ý kết hợp với những phương pháp hỗ trợ khác như
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, đối chiếu…
7. Đóng góp của luận văn
- Trước hết, đề tài trình bày một cách có hệ thống quá trình phát triển của tình hình kinh
tế - xã hội tỉnh Cà Mau trong một giai đoạn ngắn nhưng là giai đoạn có tính chất bước ngoặt,
có ý nghĩa mở đường cho giai đoạn phát triển về sau.
- Nội dung và tư liệu của luận văn có thể sử dụng vào mục đích tham khảo cho những bài
báo cáo, những công trình tổng kết, kỷ niệm những ngày truyền thống của địa phương.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy lịch sử địa phương
trong các nhà trường phổ thông ở tỉnh Cà Mau nhằm giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào về
những truyền thống tốt đẹp của địa phương, giáo dục lòng yêu quê hương, xứ sở, ý thức bảo vệ
những truyền thống tốt đẹp, những giá trị văn hóa của quê hương.
- Đồng thời, luận văn còn có thể dùng để làm phong phú thêm nguồn tài liệu tuyên truyền
trong quần chúng, động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước
và của tỉnh nhà.
- Qua việc rút ra những bài học, những nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế,
luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh nhà trong những giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT CÀ MAU TRƯỚC NĂM
1997
1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội tỉnh Cà Mau
Cà Mau là vùng đất trẻ mới được mở mang, khai khẩn cách đây trên 300 năm.
Trước đây, vùng đất này được hình thành bởi sự bồi đắp của hai dòng hải lưu ở biển
Đông và vịnh Thái Lan đón nhận phù sa sông Cửu Long. Trải qua hàng ngàn năm lắng đọng và
bồi đắp, vùng đất Cà Mau dần hình thành. Đến trước thế kỷ XVII, đây là vùng đất sình lầy, ẩm
thấp, hoang vu với rừng thiêng, nước độc, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết.
Từ đầu thế kỷ XVII, chiến tranh Nam - Bắc triều, Đàng Trong - Đàng Ngoài giữa hai tập
đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn khiến đời sống nhân dân vô cùng cơ cực. Họ vừa phải chịu
cảnh áp bức, bóc lột, vừa nơm nớp lo sợ phu phen, lao dịch và binh lửa, ly loạn. Nhiều người
dân nghèo ở Bắc Bộ và Trung Bộ, trong đó phần lớn là nông dân và thợ thủ công phải rời bỏ
quê cha, đất tổ tiến về phương Nam tìm đường sinh sống.
Đến cuối thế kỷ XVII, một số người Hoa cũng tìm đến vùng đất này, điển hình là Mạc
Cửu - một di thần của nhà Minh bất phục triều đình Mãn Thanh, lưu trú tại Mang Khảm (Hà
Tiên) đã chiêu tập lưu dân sinh sống ở 7 xã dọc theo bờ biển đến cư trú và làm ăn sinh sống,
dựng thành một xã với tên gọi “xã” Cà Mau. Sau khi Mạc Cửu chết, con là Mạc Thiên Tứ chỉnh
đốn cơ nghiệp của cha và vâng lệnh triều đình nhà Nguyễn ra đèo Long Xuyên (ở vùng đất Cà
Mau ngày nay) chiêu tập nhân dân, thành lập tổ chức có tính chất quân sự. Ngoài ra, nhiều
người dân Khmer do nội chiến và bị xâm lược liên miên trong hai thế kỷ XV - XVI cũng phiêu
dạt đến nơi này sinh sống.
Những cư dân người Việt đầu tiên, kể cả người Khmer và người Hoa khi đến khai khẩn
vùng đất Cà Mau thường phải đối diện với một môi trường thiên nhiên vừa có nhiều thuận lợi,
vừa có rất nhiều khó khăn, nguy hiểm. Họ phải đổ nhiều mồ hôi và cả máu để khai khẩn đất
đai, xây dựng và bảo vệ xóm làng. Trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên đầy gian khổ, nguy
nan, họ đã đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó lòng hữu ái giai cấp giữa những người lao động đã
từng bước hình thành, tạo nhân tố bền vững của tình đoàn kết, của cộng đồng các dân tộc ở Cà
Mau trong các thời kỳ lịch sử.
Sau khi chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) vào năm 1867,
thực dân Pháp bắt đầu chia nhỏ các tỉnh cũ để dễ dàng cai trị. Ngày 18 tháng 12 năm 1882, tỉnh
Bạc Liêu là tỉnh thứ 21 của Nam Kỳ được thành lập.
Ngày 25/10/1955 theo sắc lệnh số 32/VN, chính quyền Sài Gòn tách quận Cà Mau ra
khỏi tỉnh Bạc Liêu rồi lấy quận Quảng Xuyên và 4 xã của quận Giá Rai để thành lập tỉnh Cà
Mau. Đến ngày 22/10/1956, chính quyền Sài Gòn ban hành Sắc lệnh số 143/VN đổi tên tỉnh Cà
Mau thành tỉnh An Xuyên. Về phía chính quyền cách mạng, ngày 27/11/1973, tỉnh Cà Mau
giao huyện Giá Rai cho tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh Bạc Liêu được tái lập. Lúc bấy giờ, Cà Mau - Bạc
Liêu là hai tỉnh theo sự phân định địa giới hành chính của chính quyền Sài Gòn.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực hiện Nghị quyết số 19/NQ - TW ngày
20/12/1975 của Bộ Chính trị về việc hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam, hai tỉnh Cà Mau (An
Xuyên) và Bạc Liêu hợp nhất thành tỉnh Minh Hải.
Ngày 6/11/1996, trong kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn việc tách tỉnh
Minh Hải ra làm hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, thực hiện từ ngày 1/1/1997.
Đến năm 2007 Cà Mau có 1 thành phố và 8 huyện, gồm 97 xã, phường, thị trấn với diện tích đất tự nhiên là 5.329 km2, đứng thứ hai so với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long,
sau tỉnh Kiên Giang. Đất đai Cà Mau màu mỡ, thích hợp với các loại cây lương thực, cây ăn
trái và nhiều loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế. Cơ cấu phân bố các loại đất khá hợp lý: đất
nông nghiệp chiếm 64,81%; đất lâm nghiệp: 23,32%; đất ở: 1,12% và đất chuyên dùng chiếm
3,63%. [19, tr.140]
Dân số tỉnh Cà Mau đến năm 2007 có 1.248.241 người. Cơ cấu dân số thành thị chiếm tỉ
trọng 20%, nông thôn 80% và ít thay đổi. Về thành phần dân tộc, chủ yếu là người Kinh, dân
tộc thiểu số gồm người Hoa, Khmer, Tày, Chăm, Nùng, Mường… và một số dân tộc khác. Mật độ dân số bình quân của tỉnh năm 2007 là 234 người/km2, thấp nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long (430 người/km2); bình quân ruộng đất trên 1 nhân khẩu, 1 lao động cao nhất vùng đồng
bằng sông Cửu Long. [19, tr.18,319]
Tổng số lao động năm 2007 có 669.876 người. Cơ cấu lao động trong độ tuổi theo ngành
nghề, chủ yếu vẫn là nông nghiệp và thủy sản. Trình độ học vấn và kỹ thuật nguồn nhân lực của
tỉnh Cà Mau tương đối thấp, chưa đạt mức bình quân cả nước. Theo số liệu điều tra ngày
01/7/2005 cho thấy trình độ lao động của tỉnh còn rất hạn chế; 73,4% mới có trình độ văn hóa
tiểu học, số lao động có trình độ trung học cơ sở chiếm 18% và trình độ trung học phổ thông
chiếm 8,6%. [35, tr.167-168].
Tuy vậy, tập quán, kinh nghiệm canh tác và kỹ năng nghề nghiệp của lao động Cà Mau
được tích lũy qua nhiều thế hệ thuộc loại khá cao so với các tỉnh khác, nhất là kỹ năng lao động
nghề trồng lúa, chăn nuôi và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, hải sản.
Dưới sự áp bức, bóc lột của thực dân và địa chủ, người dân Cà Mau, hầu hết là bần cố
nông, phải sống một cuộc sống tăm tối, dốt nát, lao động đầu tắt mặt tối mà vẫn thiếu ăn, thiếu
mặc, dù sống trên ruộng đất trù phú, màu mỡ. Cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, xã
hội nông thôn Cà Mau đã hình thành hai giai cấp đối lập chủ yếu là nông dân và địa chủ.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Cà Mau cũng là nơi có nhiều tôn giáo. Hai tôn giáo
có mặt sớm ở đây và có nhiều tín đồ là Phật giáo và Thiên Chúa giáo, các tôn giáo khác ra đời
muộn hơn, trong đó có đạo Cao Đài. Nhìn chung, tín đồ các tôn giáo phần đông đều là những
nông dân nghèo khổ và có tinh thần yêu nước, vừa lo việc đạo, vừa làm tròn phận sự công dân
đối với dân tộc, tin tưởng vào Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng về chủ tịch Hồ Chí Minh, căm
thù quân giặc xâm lược, ủng hộ và tham gia kháng chiến.
Trong sinh hoạt văn hóa, người dân Cà Mau cũng sáng tạo ra những lời ca, tiếng hát, hò,
vè ca ngợi quá trình lao động mở đất, mở nước, chống thiên tai, thú dữ và ngoại xâm… như hò
đối đáp, đọc thơ Bạc Liêu, cổ nhạc…tiêu biểu là bản Dạ cổ Hoài lang của cụ Cao Văn Lầu,
chuyện cười Bác Ba Phi…
Người Cà Mau từ trước đến nay không những cần cù, kiên nhẫn, sáng tạo trong lao động
sản xuất, dũng cảm trong chinh phục thiên nhiên mà còn kiên cường, bất khuất trong đấu tranh
chống áp bức, bóc lột, viết nên những trang sử oai hùng của dân tộc nói chung và của nhân dân
vùng đất mũi Cà Mau nói riêng.
Các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và lịch sử của Cà Mau vừa chứng minh tiềm năng,
lợi thế vừa cho thấy nhiều điểm bất lợi đối với quá trình phát triển kinh tế của địa phương.
Thực tế là cho đến nay, Cà Mau vẫn là tỉnh có tỉ lệ xã chưa có đường bộ, chưa có điện lưới
quốc gia cao nhất các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Là tỉnh cực nam Tổ quốc nên Cà Mau có
thiệt thòi là xa Trung ương, xa các trung tâm thương mại và công nghiệp lớn, lại không có sân
bay, bến cảng lớn nên có nhiều khó khăn trong giáo lưu kinh tế, văn hóa với các tỉnh, thành phố
khác. Các điều kiện xã hội cũng có những bất lợi trong phát triển kinh tế hàng hóa. Dân số, lao
động chủ yếu làm nông nghiệp, thủy sản truyền thống, chưa quen với công nghiệp, dịch vụ chất
lượng cao. Trình độ dân trí vùng sâu, vùng xa nói chung còn thấp, tập tục lạc hậu vẫn còn
nhiều, sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật còn nghèo nàn.
Tiềm năng về biển, rừng, đất ở Cà Mau rất lớn. Rừng ngập mặn có giá trị trên thế giới về
hệ sinh thái, đứng sau rừng Amazon. Biển Cà Mau về hải sản và hứa hẹn nhiều tiềm năng dầu
khí. Trong thời kỳ đổi mới, với sự kế thừa và sáng tạo không ngừng, Đảng bộ và nhân dân Cà
Mau tiếp tục viết nên những trang sử mới bằng chính những thành tích ấn tượng trong phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng.
1.2. Truyền thống cách mạng của nhân dân Cà Mau
+ Phong trào đấu tranh của nhân dân Cà Mau trước khi có Đảng.
Cùng với tiếng súng chống Pháp của nhân dân cả nước, ngay từ năm 1861 nhân dân Cà
Mau đã tự vũ trang đứng lên chống quân xâm lược. Năm 1873, nhân dân vùng đất mũi Cà Mau
đã cùng anh em ông Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự đứng lên chống Pháp, ủng hộ và tham gia
nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân...
Những cuộc đấu tranh của nhân dân Cà Mau nổ ra từ những ngày đầu Pháp xâm lược và
kéo dài liên tiếp đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã thể hiện tinh thần yêu nước, lòng căm
thù giặc sâu sắc của nhân dân Cà Mau cùng cả nước trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm
và phong kiến.
+ Sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Cà Mau.
Tháng 1/1929, Chi hội Việt Nam cách mạng thanh niên thị trấn Cà Mau được thành lập
do ông Đào Hưng Long làm bí thư.
Chi hội mở một cửa hiệu bán sách báo lấy tên là “Hồng Anh thư quán”, một quán bán
cơm và cà phê “Đồng Tâm” vừa làm cơ sở để giáo dục, vận động nhân dân yêu nước, vừa là
nơi trao đổi, hội họp của chi hội. Hoạt động của chi hội ngày càng gây được ảnh hưởng rộng rãi
trong dân nghèo ở thị trấn và nhân dân ở các xã xung quanh.
+ Sự ra đời của Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Cà Mau.
Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, tháng 1/1930, Chi bộ An Nam Cộng
sản đảng ở Cà Mau được thành lập do ông Lâm Thành Mậu làm bí thư.
Sau đó có nhiều chi bộ Đảng ra đời và hoạt động mạnh mẽ đã lãnh đạo nhân dân đấu
tranh sôi nổi. Để kịp thời lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh, ngày 26/10/1938 Tỉnh ủy
lâm thời được thành lập do đồng chí Bùi Thị Trường làm bí thư.
+ Cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai (13/12/1940).
Cùng với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai do Phan Ngọc Hiển lãnh
đạo nổ ra vào ngày 13/12/1940 và giành được thắng lợi nhanh chóng. Lực lượng khởi nghĩa đã
tiêu diệt tên xếp đảo Ôliviê, thu toàn bộ vũ khí rồi về đất liền để kịp thời cùng lực lượng khởi
nghĩa đánh chiếm Năm Căn.
Cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai cuối cùng bị dìm trong biển máu nhưng kẻ thù không thể
dập tắt được tinh thần yêu nước của nhân dân. Cũng từ đó tỉnh Cà Mau lấy ngày khởi nghĩa
Hòn Khoai 13 tháng 12 làm ngày truyền thống của địa phương. Hòn Khoai ngày nay đã trở
thành di tích lịch sử - cách mạng của cả nước, là biểu tượng tự hào về truyền thống cách mạng
vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Cà Mau.
+ Cách mạng tháng Tám 1945 ở Cà Mau.
Được tin Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện, hòa nhịp chung với cả nước, Tỉnh
ủy lâm thời Cà Mau tổ chức cuộc mít tinh lớn ở thị trấn Cà Mau để chào mừng ngày Mặt trận
Việt Minh ra đời và biểu dương lực lượng quần chúng. Cuộc mít tinh sau đó chuyển thành cuộc
biểu tình vũ trang thị uy kéo đến dinh Đốc phủ Kế, quận trưởng Cà Mau, đòi giao chính quyền
cho nhân dân. Trước thái độ kiên quyết của quần chúng cách mạng, Đốc phủ Kế phải bàn giao
chính quyền cho ủy ban dân tộc giải phóng quận Cà Mau.
Ngay sau thắng lợi ở tỉnh lỵ, nhân dân khắp vùng nông thôn trong tỉnh dưới sự lãnh đạo
của các chi bộ Đảng đã nhất tề đứng lên đập tan bộ máy chính quyền nông thôn ở xã, thành lập
chính quyền nhân dân và các đoàn thể quần chúng cách mạng.
+ Chín năm kháng chiến chống Pháp.
Thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Cà Mau
dưới sự lãnh đạo của Chính quyền cách mạng đã tiến hành cuộc kháng chiến để bảo vệ thành
quả Cách mạng tháng Tám.
Suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, Cà Mau là khu căn cứ, cung cấp nguồn sống cho
cả miền Tây Nam Bộ và liên tiếp giành được nhiều thắng lợi to lớn trên chiến trường.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, quân và dân Cà Mau đã tiêu diệt hơn 6.996 tên
địch, phá hủy và thu nhiều vũ khí. Những tấm gương hy sinh anh dũng cho công cuộc đấu tranh
cách mạng giải phóng quê hương như Phan Ngọc Hiển, Trần Văn Thời, Châu Văn Đặng,
Lương Thế Trân, Quách Văn Phẩm… đã mãi mãi làm rạng danh trang sử Cà Mau anh hùng.
+ Hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau năm 1954, Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiến hành xâm lược Việt
Nam. Cà Mau vẫn tiếp tục là căn cứ địa kiên cường của cách mạng. Nhiều đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước như Lê Duẩn, Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt đã từng được nhân dân Cà Mau che
chở, nuôi giấu. Trong những ngày đầu chống Mỹ, Cà Mau, với sự kiện 200 ngày chuẩn bị cho
ngày lên tàu tập kết ra Bắc và sự kiện xây dựng “Làng rừng” để chống lại kế hoạch gom dân,
đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm đã trở thành những sự kiện điển hình của thời kỳ này.
Sau Đồng khởi năm 1960, quân dân Cà Mau đã vùng lên đánh địch, giành nhiều thắng
lợi quan trọng. Năm 1968 quân giải phóng Cà Mau đánh vào thị xã Cà Mau và giải phóng hoàn
toàn huyện Ngọc Hiển. Năm 1972, lực lượng cách mạng tiến công đồng loạt, bao vây 200 đồn
bốt giặc buộc chúng phải đầu hàng hoặc bị tiêu diệt. Cùng với chiến dịch mùa xuân 1975, 10
giờ ngày 1/5/1975 thị xã Cà Mau hoàn toàn giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân Cà Mau đã tiến hành đánh
73.500 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 310.907 tên ngụy và nhiều tên Mỹ, bắn rơi và bắn
bị thương 1.029 máy bay, bắn chìm và phá hủy 1.365 tàu chiến, phá hủy 821 xe quân sự, thu và
phá hủy 31.000 súng trong đó có 89 khẩu pháo 105 và 155 ly. Với những chiến công đó, tỉnh có
21 cá nhân và 42 tập thể được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 507
bà mẹ Việt Nam anh hùng; trên 11.000 thương binh và 16.000 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Những tấm gương hy sinh anh dũng như Bông Văn Dĩa,
Nguyễn Việt Khái, Lý Văn Lâm, Dương Thị Cẩm Vân, Hồ Thị Kỷ, Huỳnh Phi Hùng, Hồ Trung
Thành, Đặng Tấn Triệu, Danh Thị Tươi…đã đi vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của nhân
dân Cà Mau.
1.3. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau trước năm
1997
1.3.1. Thời kỳ trước đổi mới (1976 - 1985)
Sau giải phóng (1975), Cà Mau cùng với Miền Nam và cả nước bước vào thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh rất nặng
nề:
Về kinh tế: ruộng vườn đa số bị bỏ hoang, kênh rạch khô cạn, công cụ sản xuất thô sơ,
sản xuất lúa độc canh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vô cùng thiếu thốn. Là vùng
đất giàu tài nguyên rừng ngập mặn, biển và bờ biển bao quanh nhưng 60% đất rừng bị hủy diệt
bởi chất độc hóa học, nghề khai thác biển bị phong tỏa, ngư cụ nghèo nàn. Công nghiệp, thương
mại ở những vùng thị xã, thị trấn hầu như không đáng kể, cơ sở hạ tầng yếu kém, nhất là đường
giao thông, điện, nước, trường học, bệnh viện…
Về xã hội: tồn tại nhiều tập tục lạc hậu, lối sống thực dụng, hưởng thụ, tệ nạn xã hội tràn
lan, văn hóa lai căng phản động, thất nghiệp, mù chữ là phổ biến.
Nhân dân Cà Mau vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, trấn áp bọn phản động vừa
phải phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định xã hội và xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chế độ mới.
Nhận thức đầy đủ trách nhiệm nặng nề đó, thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ Minh Hải,
cùng với Bạc Liêu, nhân dân Cà Mau đã ra sức khắc phục khó khăn, hoàn thành các mục tiêu
cơ bản của hai kế hoạch 5 năm 1976 -1980 và 1981-1985.
Các ngành sản xuất công nghiệp - xây dựng, nông - lâm nghiệp - thủy sản và các hoạt
động thương mại - dịch vụ trong tỉnh từng bước được khôi phục và phát triển theo kế hoạch.
Thu nhập của lao động sản xuất và công nhân viên chức nhà nước được nâng cao do hoạt động
sản xuất kinh doanh trong tỉnh có chuyển biến tích cực, nhất là khai thác, chế biến và xuất khẩu
thủy sản. Từ năm 1981-1985, Đảng và Nhà nước đã thực hiện cơ chế quản lý mới trong nông
nghiệp bằng chính sách khoán theo chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung ương Đảng, các Nghị
quyết về đổi mới cơ chế quản lý trong công nghiệp, thương mại, du lịch, điều chỉnh chính sách
cải tạo xã hội chủ nghĩa theo hướng thông thoáng hơn. Nhờ đó tiềm năng về đất đai, lao động,
vốn liếng, kinh nghiệm sản xuất nông, công nghiệp, thủy sản của người dân Cà Mau được khơi
dậy và bước đầu được phát huy.
Đi đôi với việc khôi phục và phát triển kinh tế, đời sống văn hóa của nhiều vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến cũng đã được nâng lên một bước. Năm 1985 nhiều xã
có tivi công cộng phục vụ bà con nông dân. Hệ thống loa truyền thanh, phát thanh nhiều huyện
đã về đến xã, ấp góp phần tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đến người dân. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng được chính quyền các
cấp quan tâm. Hệ thống các cơ sở y tế hầu hết được xây dựng mới và hoạt động có hiệu quả.
Đến năm 1985 có 40% số xã có bác sĩ. Công tác vệ sinh môi trường đã trở thành phong trào của
quần chúng nhiều xã ấp. Nhiều địa phương đã bảo đảm nước sạch sinh hoạt cho nhân dân trong
mùa khô. Một số dịch bệnh như sốt rét, sốt xuất huyết đã được ngăn chặn có hiệu quả.
Giáo dục và đào tạo có nhiều tiến bộ rõ rệt: hệ thống giáo dục phổ thông, dạy nghề và
đào tạo bồi dưỡng cán bộ phát triển cả về số lượng và cơ cấu trường lớp, ngành nghề. Tỉ lệ học
sinh bỏ học, lưu ban giảm dần; tỉ lệ học sinh giỏi, đạt giải khu vực và cấp quốc gia tăng dần.
Công tác xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học được thực hiện đạt kết quả khá. Tình trạng thiếu
giáo viên, thiếu trường lớp đã được khắc phục từng bước.
Đời sống nhân dân được cải thiện. Số hộ giàu và khá tăng nhanh, số hộ nghèo giảm dần.
Một số xã, ấp vùng sâu đã xóa được diện hộ nghèo gay gắt. Những nhu cầu cơ bản của nhân
dân như: ăn, mặc, nhà ở, đi lại, học tập…được cải thiện rõ nét. Việc thực hiện các chính sách
đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công được các cấp, các ngành quan tâm và đầu
tư thỏa đáng.
Tuy có những phát triển về các mặt như đã nói ở trên, thời kỳ 1976 -1985 vẫn còn tồn tại
một số nhược điểm, hạn chế sau:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh vừa chậm vừa không ổn định, bình quân 5
năm (1976 - 1985) tổng sản phẩm của tỉnh (GDP) tăng 19,4%, nhưng 5 năm (1981-1985) chỉ
tăng 8,66%. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông - lâm nghiệp - thủy sản chiếm 67,84% trong cơ cấu
kinh tế, còn công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ chiếm tỉ trọng nhỏ và tăng rất
chậm. [36, tr.48]
Thu ngân sách toàn tỉnh năm 1980 đạt 64,64 triệu đồng, chỉ bằng 3,06% GDP; năm 1985
đạt 202 triệu đồng bằng 5,88% GDP do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu chi ngân sách. Do
nguồn thu quá ít nên cơ cấu chi ngân sách chủ yếu là chi thường xuyên (chiếm 86% năm 1980
và 80% năm 1985), chi cho đầu tư phát triển rất thấp (năm 1980 chiếm 13,8% và năm 1985
chiếm 19,58%) trong tổng chi ngân sách. [10, tr.26]
Hoạt động ngân hàng cũng chỉ tập trung phục vụ nông nghiệp còn các ngành công
nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ không được quan tâm đúng mức. Đó là một trong những
nguyên nhân làm chậm tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp - xây dựng và thương mại -
dịch vụ trong 10 năm sau giải phóng.
Sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản là ngành kinh tế chiếm tỉ trọng lớn nhất trong GDP
của tỉnh nhưng trong 10 năm đầu sau giải phóng phát triển chậm, không đều và không ổn định.
Trồng trọt tuy có tiềm năng lớn nhưng chưa khai thác hợp lý cả đất lúa và đất màu. Sản xuất lúa
mùa theo phương thức quảng canh là phổ biến nên năng suất thấp và tăng chậm. Sản xuất màu,
cây công nghiệp, rau quả giảm sút liên tục, chậm hình thành các vùng tập trung có tỉ suất nông
sản hàng hóa cao theo qui hoạch và đầu tư. Chăn nuôi chưa được coi trọng, còn phân tán nhỏ lẻ
theo tập quán cũ, kĩ thuật chăn thả tự nhiên là chủ yếu.
Thủy sản là thế mạnh của Cà Mau nhưng phát triển không đều và không đồng bộ. Số
lượng, công suất tàu vốn đã ít lại khai thác chưa hợp lý nên sản lượng thủy hải sản đánh bắt
tăng chậm. Nuôi trồng thủy hải sản vẫn mang nặng tính tự phát, nhất là tình trạng lấn đất lúa,
đất rừng đước để nuôi tôm quảng canh, năng suất thấp. Nuôi cá đồng phát triển chậm và không
đều trong khi tiềm năng mặt nước còn rất lớn. Các công trình thủy lợi mới ít về số lượng lại
chậm đưa vào phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, tình trạng chặt phá rừng bừa bãi diễn ra khá phổ
biến nên diện tích rừng đước ngày một giảm dần. Công tác quản lý, chăm sóc khoanh nuôi và
bảo vệ rừng phòng hộ, rừng kinh tế còn nhiều bất cập.
Sản xuất công nghiệp quy mô quá nhỏ, sản phẩm ít về số lượng, đơn điệu về chủng loại,
kém về chất lượng nên chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh. Sản phẩm xuất khẩu
chủ yếu là thủy sản đông lạnh không qua chế biến mà khối lượng lại không nhiều. Sản xuất
hàng tiêu dùng và xuất khẩu chưa tương xứng với khả năng của địa phương, nhất là công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Đến năm 1985 toàn tỉnh chỉ có 21 sản phẩm công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp với sản lượng sản xuất rất khiêm tốn: 1.000 tấn tôm đông lạnh, 2 triệu
lít nước mắm, 197.000 tấn gạo xay xát, 6.867 tấn đường mật, 23 triệu viên thuốc các loại,
149.000 mét vải, 709.000 viên gạch nung, 230.000 nông cụ cầm tay, trên 10.000 tàu, thuyền
đóng mới và sửa chữa. [13, tr.34]
Hoạt động giao thông - vận tải là mặt chủ yếu của tỉnh trong đầu tư xây dựng nhưng
chậm khắc phục. Trong quy hoạch và chỉ đạo thiếu sự phân cấp, phân công giữa tỉnh, huyện,
xã, thị trấn nên tiến độ xây dựng và nâng cấp đường bộ chậm và không đều, nhất là đường nông
thôn. Trong quản lý và bảo vệ chưa có sự phối kết hợp giữa giao thông và thủy lợi nên hiệu quả
thấp. Việc khai thác, sử dụng các phương tiện vận tải hàng hóa chưa hợp lý, coi trọng thành
phần quốc doanh và hợp tác xã mà xem nhẹ các thành phần kinh tế tư nhân nên chưa phát huy
hết mọi tiềm lực to lớn trong nhân dân.
Hoạt động thương mại - dịch vụ của tỉnh thời gian này có nhiều khuyết, nhược điểm.
Thương nghiệp chưa gắn liền với yêu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân, hàng hóa và dịch
vụ phát triển chậm, tự phát, đơn điệu, chất lượng thấp. Hoạt động của các ngành và đơn vị kinh
doanh thương mại, du lịch, dịch vụ chưa có sự gắn bó liên kết với nhau nên phát triển không
lành mạnh. Tình trạng tranh mua, tranh bán chạy theo chênh lệch giá để trục lợi, trốn thuế rất
phổ biến. Công tác quản lý xuất nhập khẩu chưa tốt dẫn đến các cơn sốt về hàng hóa, về giá cả
trên thị trường nhất là lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu của người dân. Thị
trường, giá cả có biến động lớn nhưng công tác tổ chức quản lý thị trường còn bị buông lỏng.
Tình trạng này đã dẫn đến đời sống nhân dân đã khó khăn càng khó khăn hơn.
Trong các vấn đề xã hội, tồn tại lớn nhất là những hoạt động văn hóa, giáo dục, đào tạo, y
tế, thông tin, tuyên truyền còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc khôi phục và phát
triển kinh tế sau chiến tranh. Trong giáo dục, tình trạng thiếu thầy, thiếu lớp, thiếu đồ dùng dạy
học còn phổ biến. Hệ thống trường mẫu giáo chưa hình thành, hệ thống trường bổ túc văn hóa
còn yếu kém, chưa duy trì thường xuyên nên tỉ lệ người mù chữ còn cao. Hoạt động văn hóa
chưa đều; vùng sâu, vùng xa còn thiếu phim ảnh, báo chí. Sản phẩm văn hóa còn nghèo nàn, tệ
nạn mê tín dị đoan, tập tục lạc hậu, tệ cờ bạc, nghiện rượu bê tha còn phổ biến. Hoạt động của
hệ thống y tế còn nhiều bất cập, tinh thần, ý thức phục vụ của một bộ phận cán bộ y tế còn chưa
tốt. Đời sống của nhân dân nói chung, của người nông dân nói riêng còn rất thấp và tăng chậm.
Lao động thừa, việc làm thiếu, thu nhập thấp vẫn là phổ biến cả khu vực thành thị và nông thôn
nhưng chưa có giải pháp tích cực có hiệu quả. An ninh chính trị, trật tự xã hội tuy có tiến bộ
song vẫn còn có nhiều hạn chế. Tình hình vượt biên, chiến tranh tâm lý, phao tin đồn nhảm
chưa được ngăn chặn kịp thời. Các mặt tiêu cực trong quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh,
huyện, xã, xí nghiệp chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
Những khuyết điểm và hạn chế trên đây trong lĩnh vực xã hội bắt nguồn từ nhiều phía:
kinh tế thuần nông, tăng trưởng chậm, đời sống nhân dân còn có nhiều khó khăn, cơ chế chính
sách và luật pháp chưa đồng bộ; tổ chức chỉ đạo và quản lý điều hành của bộ máy Đảng, Chính
quyền các cấp chưa chặt chẽ, chưa sâu sát quần chúng. Suy cho cùng, đó là những khuyết,
nhược điểm khó tránh khỏi của một địa phương nghèo, cơ sở hạ tầng thấp kém, xa các trung
tâm thương mại và dịch vụ lớn, lại chịu tác động tiêu cực của cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu và bao cấp nặng nề trong một thời gian dài. Đó cũng là những bài học không thành
công cần tổng kết để rút kinh nghiệm và tìm giải pháp thích hợp cho Cà Mau nói riêng và cho
cả nước nói chung trong những năm tiếp theo.
1.3.2. Thời kỳ 10 năm đổi mới (1986 -1996)
Quán triệt đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện của Đảng, trong 2 kế hoạch 5 năm
1986 -1990 và 1991-1995, Đảng bộ và nhân dân Cà Mau đã tập trung nguồn lực để khai thác
mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương để phát
triển kinh tế toàn diện với tốc độ tăng trưởng cao, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước.
Tổng sản phẩm của tỉnh (GDP) từ năm 1986 đến năm 1996 tăng bình quân 5,68%. Nét
đặc biệt trong 10 năm này là cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực, xóa dần tính
thuần nông, tăng tỉ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng trong GDP của tỉnh từ 7,38% năm
1985 lên 10,83% năm 1990 và 16,96% năm 1995; tỉ trọng khu vực thương mại - dịch vụ cũng
tăng dần từ 12,1% lên 13,32% và 15,05% trong thời gian trên. Tỉ trọng khu vực nông - lâm
nghiệp - thủy sản giảm xuống còn 65,9% năm 1995 so với 80,52% năm 1985 nhưng vẫn đạt tốc
độ tăng trưởng giá trị sản xuất trên 3,74%/năm. [13, tr.40]
Kinh tế tăng trưởng đã góp phần tăng thu ngân sách của tỉnh. Tỉ lệ thu ngân sách trên
GDP tuy còn thấp so với yêu cầu nhưng đã có tiến bộ hơn so với các thời kỳ trước đổi mới và
cơ bản đáp ứng được các yêu cầu chi ngân sách của địa phương. Tổng thu ngân sách Nhà nước
năm 1995 đạt 334,79 tỉ đồng tăng 2,92 lần năm 1990 và bằng gần 2 lần năm 1991. [11, tr.13].
Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, tăng trưởng với nhịp độ khá cao.
Sản xuất lúa là thế mạnh của tỉnh tiếp tục phát triển theo hướng ổn định, đồng thời đẩy mạnh
thâm canh tăng năng suất để tăng sản lượng và chất lượng lúa gạo phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh
đó một bộ phận không nhỏ diện tích lúa mùa đã được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản, nhất
là nuôi tôm để có lợi hơn.
Một nét mới nữa của Cà Mau là không đặt mục tiêu tăng sản lượng lúa lên hàng đầu như
các tỉnh khác của đồng bằng sông Cửu Long và sản lượng lúa giảm dần liên tục từ năm 1991
đến năm 1995. Tuy vậy, lương thực bình quân nhân khẩu của tỉnh vẫn đạt trên 514 kg/năm
trong đó lúa trên 511 kg, vẫn bảo đảm an ninh lương thực trên địa bàn trong mọi tình huống,
đồng thời chuyển một phần đất lúa năng suất thấp sang trồng các cây công nghiệp, cây ăn trái
hoặc nuôi trồng thủy sản có lợi hơn. Nhờ đó tính độc canh lúa mùa của tỉnh tồn tại từ trước giải
phóng đã được hạn chế. Mô hình sản xuất lúa - cá, lúa - rau - màu đã được mở ra trên vùng đất
vốn phèn mặn, trước đây chỉ độc canh lúa mùa năng suất thấp. Đó không chỉ là thành tựu về
mặt kinh tế mà còn là bài học về sử dụng tài nguyên đất sao cho hiệu quả trong cơ chế thị
trường.
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi tuy phát triển chưa đều nhưng bước đầu đã có tăng trưởng.
Năm 1996 đàn lợn đạt 241.634 ngàn con, tăng 42,99% so với năm 1985, bình quân mỗi năm
tăng gần 4,05%, sản lượng xuất chuồng đạt trên 14,9 ngàn tấn, tăng 1,9 ngàn tấn trong cùng
thời gian trên. Đàn gia cầm đạt gần 2 triệu con. [12, tr.47]
Sản xuất lâm nghiệp phát triển theo hướng tăng cường trồng mới và chăm sóc, bảo vệ
rừng, nuôi rừng và giảm khai thác lâm sản. Diện tích rừng trồng tập trung 5 năm 1991-1995 đạt
69.840 ha, tăng 52.067 ha (tăng 292 %) so với thời kỳ 1986-1990. Diện tích rừng và đất rừng
được chăm sóc, bảo vệ tốt hơn, tình trạng đốt phá rừng làm ruộng, rẫy, chuyển nuôi tôm được
hạn chế. Việc giao khoán đất rừng cho hộ nông dân gắn với kinh doanh tổng hợp nghề rừng
theo hướng lâm - ngư - nông kết hợp đã đạt được những kết quả bước đầu.
Sản xuất thủy sản phát triển toàn diện cả về nuôi trồng và đánh bắt, tạo ra nhiều sản
phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân của giá trị sản
xuất ngành thủy sản giai đoạn 1991-1995 đạt 8,4%, cao nhất trong khu vực nông lâm nghiệp -
thủy sản và vượt xa giai đoạn trước đó (tăng 2,75%). Cơ cấu sản xuất thủy sản đã có bước
chuyển tích cực từ khai thác sang nuôi trồng. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng từ 31,7 ngàn
tấn năm 1991 lên 46,6 ngàn tấn năm 1995. Cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi chuyển mạnh từ cá
sang tôm để phù hợp với yêu cầu thị trường xuất khẩu thủy sản đang mở rộng.
Sản xuất công nghiệp có tiến bộ trên một số mặt. Năm 1995 toàn tỉnh có 9.734 cơ sở sản
xuất công nghiệp, thu hút 23.674 lao động trong đó khu vực kinh tế cá thể có 8.289 lao động,
chủ yếu làm việc trong các ngành công nghiệp chế biến. [11, tr.84]
Với tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân hàng năm 13,62% giai đoạn 1991-1995, công
nghiệp Cà Mau đã có bước tiến bộ về một số mặt hàng sản phẩm công nghiệp chế biến nông
sản, thủy sản và hàng tiêu dùng thiết yếu như nông cụ cầm tay, sửa chữa tàu thuyền. Cơ cấu giá
trị sản xuất công nghiệp bước đầu đã chuyển dịch theo hướng đa thành phần, trong đó kinh tế
Nhà nước chiếm tỉ trọng cao nhất và giữ vai trò chủ đạo.
Các hoạt động đầu tư - xây dựng đã thực hiện chuyển dịch từ đầu tư theo nguồn vốn ngân
sách Nhà nước sang đầu tư bằng vốn tín dụng, liên doanh liên kết, vốn vay trong nước và nước
ngoài. Cơ cấu đầu tư đã chuyển dần từ kinh tế sang các lĩnh vực khác (văn hóa, giáo dục, y tế,
khoa học, chỉnh trang đô thị…). Một số công trình kinh tế trọng điểm của địa phương được đầu
tư xây dựng mới và nâng cấp, trong đó nổi bật là điện lưới quốc gia về 3 huyện vùng sâu: Trần
Văn Thời, Thới Bình và U Minh, các trọng điểm kinh tế ven thị xã Cà Mau, ven biển và gần
50% cụm trung tâm xã, thị trấn. Nhiều công trình giao thông, thủy lợi, văn hóa, nhà ở đô thị…
được xây dựng, nâng cấp góp phần tăng năng lực sản xuất và lưu thông hàng hóa các vùng
trong tỉnh, cải thiện bộ mặt thành thị lẫn nông thôn.
Các hoạt động dịch vụ thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân được khôi phục
và phát triển. Đáng chú ý là hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa phát triển với tốc độ
nhanh, đáp ứng mọi yêu cầu đi lại của nhân dân và lưu thông hàng hóa của các thành phần kinh
tế. Dịch vụ bưu chính viễn thông có bước phát triển vượt bậc so với các thời kỳ trước. Lần đầu
tiên Cà Mau được lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, hòa mạng thông tin viễn thông quốc tế, rút ngắn
khoảng cách vùng Đất Mũi xa xôi với cả nước và quốc tế. Dịch vụ phát hành báo chí cũng
được cải thiện, phương thức phục vụ tốt hơn.
Dịch vụ - thương mại có bước phát triển mới. Hệ thống siêu thị được hình thành và đi
vào hoạt động, hệ thống chợ nông thôn được mở rộng đã tạo nhiều thuận lợi trong tiêu thụ nông
sản. Các lực lượng thương nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển và không
ngừng mở rộng phạm vi hoạt động từ bán buôn đến bán lẻ, đã góp phần tích cực vào quá trình
lưu thông hàng hóa giữa các vùng trong tỉnh và ngoài tỉnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch
vụ năm 1995 đạt 1.608,6 tỉ đồng, tăng 2,58 lần năm 1991 và tăng 32,8 lần những năm đầu đổi
mới. Cơ cấu bán lẻ đã chuyển từ Nhà nước và tập thể là chủ yếu sang đa thành phần, cá thể là
chủ yếu. Tỉ trọng của khu vực cá thể tăng từ 27,33% năm 1986 lên 81,15% năm 1995.
Thị trường trong nước được khai thông, thị trường nước ngoài được hình thành và phát
triển. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh từ 17,34 triệu USD năm 1986 lên 19,92 triệu USD năm
1990 và tăng vọt lên 95,08 triệu USD năm 1995. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh là
thủy sản tăng nhanh, trong đó chủ yếu là tôm đông từ 2.170 tấn năm 1986 lên 3.300 tấn năm
1990 và 13,773 tấn năm 1995. Mặt hàng gạo năm cao nhất là 1992 đạt 17.000 tấn, tăng 10.330
tấn so với năm 1989. Với sự tăng nhanh của mặt hàng thủy sản xuất khẩu, Cà Mau đã trở thành
một trong số ít tỉnh có sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản lớn nhất cả nước trong thời
kỳ này. Năm 1995, cả nước đạt kim ngạch xuất khẩu thủy sản 621,4 triệu USD, trong đó Cà
Mau chiếm 15%, riêng sản lượng tôm đông lạnh Cà Mau chiếm trên 30% (13,7/44,8 ngàn tấn).
Thế mạnh của tỉnh bước đầu được khai thác hợp lý, góp phần tích cực đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. [13, tr.47-49]
Hoạt động du lịch cũng được phục hồi và phát triển. Số khách du lịch đến Cà Mau năm
1995 đạt 67.118 lượt người, tăng 69,13% so với năm 1991 trong đó có 2.124 khách nước ngoài
tăng 22,75 lần. [11, tr. 108]
Tuy vẫn còn khó khăn về cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông thủy, bộ, hàng không…nhưng
thế mạnh của Cà Mau là du lịch sinh thái, du lịch miệt vườn đã bước đầu được khai thác với
hình thức và sản phẩm tương đối đa dạng.
Về các vấn đề xã hội, cùng với phát triển kinh tế, trong 10 năm đầu sau đổi mới, Cà Mau
cũng đạt được nhiều tiến bộ về các mặt ổn định xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Đạt được những thành tựu trên trước hết là nhờ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ và
các tầng lớp nhân dân, nhờ sự nỗ lực phấn đấu của các cấp các ngành, nhờ kết quả tổng hợp của
đường lối đổi mới đúng đắn, vận dụng cụ thể hóa phù hợp với điều kiện của tỉnh, được nhân
dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện với tinh thần đầy sáng tạo, bên cạnh đó còn nhờ kế thừa
và phát huy những thành quả, kinh nghiệm của những năm trước, đồng thời nhờ có sự chỉ đạo
và giúp đỡ có hiệu quả của Trung ương.
Bên cạnh những kết quả và tiến bộ về các mặt như đã trình bày ở trên, tình hình kinh tế -
xã hội Cà Mau trong 10 năm 1ừ 1986 đến 1996 cũng còn nhiều tồn tại và bất cập.
+ Về kinh tế.
Thứ nhất, kinh tế của tỉnh vẫn chưa thoát khỏi tình trạng thuần nông, tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, không đều. Tốc độ tăng GDP của tỉnh bình quân thời kỳ
1986-1990 chỉ đạt 4,48%, thời kỳ 1991-1995 tuy có cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 6,88%. Kết
quả này không đạt mục tiêu đề ra và thấp hơn tốc độ tăng GDP của cả nước (8,2%).
Thứ hai, sản xuất nông nghiệp của tỉnh vẫn nặng độc canh lúa và sản xuất chưa gắn với
công nghiệp chế biến trong khi tiềm năng về phát triển công nghiệp và dịch vụ của tỉnh là rất
lớn. Cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển dịch chậm, tự phát và không đều. Một số cây công
nghiệp, cây ăn trái như dừa, mía, chuối, khóm…có sản lượng khá lớn nhưng chưa tìm được thị
trường tiêu thụ ổn định nên tăng, giảm thất thường và không có cây nào, vùng nào chủ lực, sản
xuất tập trung thâm canh cao. Chăn nuôi tăng chậm và không đều, trong đó từ 1992 đến 1995,
đàn heo, đàn gia cầm giảm liên tục dù tiềm năng còn rất lớn. Vì vậy cơ cấu sản xuất nông
nghiệp vẫn mất cân đối nghiêm trọng, tỉ trọng chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp vừa
nhỏ lại giảm dần.
Thủy sản tuy tăng trưởng nhanh nhưng chưa bền vững. Việc chuyển đất lúa, lấn đất bãi
bồi ven biển, đất rừng sang nuôi tôm diễn ra phổ biến ở các huyện nhưng vẫn mang nặng tính
tự phát, chưa được quản lý, hướng dẫn của các cấp, các ngành dẫn đến nguy cơ mất cân bằng
sinh thái là rất lớn. Hoạt động khai thác thủy sản xa bờ phát triển chậm do cơ sở tàu thuyền và
ngư cụ phục vụ khai thác còn nhiều hạn chế.
Trong lâm nghiệp, tình trạng đốt phá rừng phòng hộ, rừng kinh tế để làm rẫy, làm ruộng,
nuôi tôm vẫn diễn ra nhưng chưa được ngăn chặn. Việc giao đất, giao rừng cho dân quản lý,
bảo vệ còn chậm, tài nguyên rừng và đất rừng tiếp tục suy giảm với tốc độ nhanh, trong khi đó
tốc độ trồng rừng lại rất chậm và không được quan tâm đúng mức.
Thứ ba, công nghiệp và xây dựng tuy có tiến bộ về một số mặt nhưng nhìn chung khu
vực này phát triển không tương xứng với yêu cầu và khả năng của địa phương. Trong 10 năm
đổi mới, số lượng cơ sở và lao động trong công nghiệp không tăng. Năng lực máy móc thiết bị
và công nhân lành nghề trong công nghiệp và xây dựng vừa thiếu, không đồng bộ lại lạc hậu
nhưng chậm đổi mới. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở các huyện chưa được tổ chức lại
và hướng dẫn sản xuất theo qui hoạch và thị trường. Công tác kiến trúc chưa được quan tâm, kể
cả kiến trúc công sở, nhà ở đô thị, nông thôn vùng sông nước, vùng đất mới bồi ven biển. Thực
tiễn còn cho thấy việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một tỉnh thuần nông còn lúng
túng, nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; công tác qui hoạch và đầu
tư cho công nghiệp, xây dựng còn chưa tương xứng.
Thứ tư, khu vực thương mại - dịch vụ tăng trưởng chậm và không đều giữa các vùng, các
huyện trong tỉnh. Sau 10 năm đổi mới, tỉ trọng khu vực thương mại - dịch vụ trong GDP của
tỉnh chỉ tăng 2,62%. Thương mại, du lịch, khách sạn - nhà hàng, các dịch vụ vận tải, kho bãi, tài
chính - ngân hàng, giáo dục - đào tạo, quản lý Nhà nước, tư vấn - xây dựng, bảo hiểm…đều
chưa phát triển phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hóa gắn với xuất khẩu thủy sản với qui mô
hàng trăm triệu USD/năm. Hệ thống chợ nông thôn yếu và chưa phù hợp với yêu cầu trao đổi
hàng hóa, vật tư của nhân dân. Công tác thu mua, tiêu thụ nông, lâm, thủy sản và cung ứng vật
tư, hàng hóa cả khu vực nông thôn, thành thị đều phụ thuộc vào mạng lưới thương lái, tư nhân,
cá thể, vai trò của Nhà nước còn mờ nhạt.
+ Về văn hóa - xã hội.
Công tác giáo dục, đào tạo: chất lượng dạy và học chưa cao, chương trình bổ túc văn hóa
và phổ cập tiểu học thực hiện chưa đều. Giáo dục phổ thông tuy có tiến bộ nhưng cơ sở trường
lớp vẫn còn nhiều yếu kém, số lớp học ca 3 vẫn còn, số điểm trường cây lá tạm bợ ở các xã
vùng sâu, vùng xa vẫn chưa xóa hết. Chất lượng giáo viên chưa đều và trình độ chưa theo kịp
yêu cầu. Nguyên nhân chính là do công tác đào tạo giáo viên của tỉnh chưa đồng bộ với sự tăng
trưởng của học sinh và trường lớp; cơ sở vật chất cho dạy và học còn thiếu và không đồng bộ;
sự phối hợp giữa nhà trường với chính quyền địa phương chưa chặt chẽ. Tỉ lệ trẻ em thất học tại
các vùng nông thôn và từ các địa phương khác đến còn nhiều.
Công tác văn hóa - thông tin: văn nghệ, phát thanh, truyền hình còn đơn điệu về nội dung
và phương pháp nên chưa có sức hấp dẫn đối với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi. Ở một số vùng
nông thôn, vùng kinh tế mới đời sống văn hóa còn thấp nhưng lại chậm được tăng cường. Công
tác giáo dục truyền thống cách mạng, bảo tồn di tích kháng chiến của các vùng căn cứ trong
tỉnh chưa được quan tâm đúng mức. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, ấp, khóm văn hóa,
nếp sống văn minh phát triển chậm và không đều. Công tác quản lý Nhà nước về văn hóa,
thông tin, văn nghệ còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, thiếu nội dung và hình thức thích hợp nên chưa
ngăn chặn có hiệu quả mọi tàn dư của các loại văn hóa phẩm độc hại trong thanh, thiếu niên,
nhất là vùng đô thị. Tệ nạn xã hội nhất là số đề, hụi, rượu chè, hủ tục chưa giảm, ngược lại có
phần gia tăng, gây không ít khó khăn đối với quá trình bảo vệ trật tự trị an xã hội.
Trong công tác y tế, thể dục, thể thao: việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ban đầu cho
nhân dân có tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Trình độ và phương tiện khám chữa bệnh của
tuyến y tế cơ sở và một số trung tâm y tế huyện còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu
của nhân dân. Việc thu viện phí và khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế còn nhiều tồn tại nhưng
chậm khắc phục. Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn cao, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng
kinh tế mới. Phong trào thể dục thể thao quần chúng chưa mạnh, chưa trở thành phong trào và
chưa có cơ chế khuyến khích phù hợp.
Đời sống của nhân dân tuy bước đầu đã được cải thiện nhưng chưa đều. Bên cạnh số hộ
giàu và khá tăng lên nhanh, vẫn còn một bộ phận không nhỏ số hộ nghèo gay gắt nhất là ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế mới. Hiện tượng tích tụ
ruộng đất không lành mạnh, số hộ nông dân không có đất hoặc có ít đất sản xuất phát sinh và có
xu hướng tăng nhanh nhưng các ngành, các cấp vẫn lúng túng trong khâu xử lý. Số lao động
thiếu việc làm dẫn đến thu nhập thấp còn nhiều nhưng chưa có giải pháp phù hợp. Tỉ lệ tăng tự
nhiên của dân số vẫn ở mức cao (tăng trên 21% /năm) nhưng công tác dân số và kế hoạch hóa
gia đình chưa được các cấp chính quyền huyện, xã quan tâm đúng mức.
Những tồn tại và hạn chế về kinh tế - xã hội của Cà Mau trong 10 năm đầu thực hiện
đường lối đổi mới tuy còn nhiều và đa dạng nhưng đó là những khó khăn khó tránh khỏi trong
quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Những
mặt tồn tại còn đồng thời là những kinh nghiệm cần được tổng kết để rút ra bài học bổ ích về tổ
chức, quản lý cho các ngành, các cấp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của địa
phương.
Tóm lại, tuy đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong 10 năm đổi mới nhưng Cà
Mau còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong những năm tới. Trong thời gian tiếp
theo, Cà Mau sẽ tập trung thực hiện quyết liệt một số giải pháp có tính chiến lược để bứt phá đi
lên, huy động một cách cao nhất các nguồn lực, phát huy tối đa nhân tố con người, đảm bảo nền
kinh tế phát triển theo hướng ổn định và bền vững hơn.
Chương 2: QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN KINH TẾ CỦA
TỈNH CÀ MAU TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2007
2.1. Nông nghiệp
Đối với Cà Mau, nông nghiệp là ngành kinh tế giữ vị trí quan trọng của tỉnh. Nó vừa làm
nhiệm vụ cung cấp lương thực và thực phẩm cho nhu cầu nội địa, đồng thời còn cung cấp
nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu. Trong cơ cấu tổng sản phẩm
GDP của tỉnh những năm gần đây, nông nghiệp luôn chiếm tỉ trọng đáng kể. Có thể nói, Cà
Mau có rất nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, tuy vậy, để khai thác được những tiềm
năng ấy thì ở bất cứ một loại đất nào, người dân Cà Mau cũng đều phải dày công cải tạo.
Như đã nói ở chương 1, Cà Mau có một nguồn nhân lực nông nghiệp dồi dào, lại có
truyền thống về sản xuất nông nghiệp, có nhiều kinh nghiệm trồng lúa, màu, cây công nghiệp
và trong chăn nuôi, thủy sản. Cũng như nông dân Nam Bộ, người nông dân Cà Mau sớm tiếp
xúc với nền sản xuất hàng hóa, sáng tạo và năng động trong sản xuất, trong chuyển đổi cơ cấu
vật nuôi và cây trồng. Những kinh nghiệm quý báu ấy kết hợp với công nghệ mới, lại được
khuyến khích phát triển bằng những chính sách phù hợp là nguồn lực thúc đẩy nền nông nghiệp
của tỉnh phát triển.
Ngày 2/11/1997 cơn bão số 5 đổ bộ vào Cà Mau gây thiệt hại nặng nề về người và của,
ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Song Đảng bộ và quân
dân Cà Mau với tinh thần tự lực, tự cường, cùng với sự chỉ đạo, chi viện kịp thời của Đảng,
Chính phủ, các tỉnh thành, với tấm lòng tương thân tương ái của đồng bào trong và ngoài nước,
các tổ chức quốc tế, đã khắc phục cơ bản những thiệt hại của cơn bão, nhanh chóng ổn định đời
sống và phục hồi sản xuất, kinh doanh.
Do ảnh hưởng của bão số 5, năng suất lúa bình quân chỉ đạt 2,92 tấn/ha giảm 16,33%;
tổng sản lượng lương thực năm 1997 chỉ đạt 640.000 tấn bằng 83% kế hoạch.
Tuy vậy, diện tích canh tác năm 1997 vẫn lên đến 176.000 ha, tăng 3,8% so với năm
1996; việc mở rộng diện tích sản xuất đã bước đầu kết hợp với chuyển đổi cơ cấu mùa vụ. Các
trà lúa hè thu, cao sản, lấp vụ đều tăng. Đặc biệt vụ lúa đông - xuân 1996 - 1997 đạt năng suất 4
tấn/ha đã tạo điều kiện cho tỉnh tăng nhanh diện tích vụ lúa đông - xuân 1997 - 1998 đạt gần
10.000 ha, tăng gần 4 lần so với vụ trước. Ngoài ra việc cải tạo vườn tạp, trồng màu, nuôi cá
đồng được chú ý phát triển làm tăng thu nhập đáng kể cho nhiều hộ nông dân.
Sản xuất nông nghiệp tuy có những tiến bộ đáng kể nhưng chưa thật sự ổn định, nhất là
trong tình hình có những diễn biến phức tạp của khí hậu, thời tiết. Điều kiện mở rộng sản xuất
nông nghiệp chưa vững chắc, thiếu đồng bộ do phải phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên; những
điều kiện cần thiết về thủy lợi, bảo vệ thực vật… còn hạn chế. Một số nông sản thực phẩm có
khối lượng lớn như dừa, chuối, cá chưa có thị trường tiêu thụ ổn định. Xuất phát từ tình hình
đó, biện pháp chỉ đạo chủ yếu của tỉnh là tập trung đẩy mạnh công tác thủy lợi, thủy nông nội
đồng nhằm mục tiêu cải tạo đất phèn mặn và kéo dài thời gian ngọt hóa, bảo đảm cho phát triển
sản xuất lương thực và cây con hệ ngọt, tạo ra sự chuyển dịch nhanh về cơ cấu mùa vụ sản xuất
lúa. Một số công trình vùng ngọt hóa Quản Lộ - Phụng Hiệp và việc đầu tư khai thác đất hoang
hóa, đất sản xuất không ổn định đã bước đầu phát huy. Trong năm 1998, chỉ tính riêng việc xây
dựng hệ thống thủy lợi, thủy nông nội đồng, đắp đập ngăn mặn, bồi đắp hệ thống đê sông, nạo
vét và đào mới một số kênh thủy lợi đã huy động gần một triệu ngày công lao động, cùng với thi công cơ giới đã đào đắp được gần 5 triệu m3 đất, tổng kinh phí đầu tư trên 20 tỉ đồng, sang
năm 1999 là 63 tỉ đồng và năm 2000 là 76,5 tỉ đồng. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã chủ động qui
hoạch tiểu vùng ngoài chương trình dự án bán đảo Cà Mau, đến năm 1999 tổng diện tích gieo
trồng tăng 12%, sản lượng lương thực tăng 12,5% so với năm 1997. Riêng lúa đông - xuân tăng
2 lần về diện tích; các cây trồng khác như rau màu, cây công nghiệp, cây ăn trái phát triển
nhanh đã hạn chế được đất hoang hóa và đem lại cho người nông dân một nguồn lợi đáng kể.
Trồng trọt phát triển không những đáp ứng nhu cầu lương thực cho nhân dân trong tỉnh và xuất
khẩu mà còn dành một phần cho chăn nuôi, tạo điều kiện phát triển toàn diện ngành nông
nghiệp.
Sang năm 2000 thời tiết có những diễn biến bất thường đã gây không ít khó khăn cho sản
xuất. Ủy ban nhân dân tỉnh đã có nhiều chủ trương, giải pháp chỉ đạo khắc phục khó khăn tập
trung sức phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện.
Sau khi có chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi sản xuất theo Chỉ thị số
09/CT/TU (ngày 7/7/2000) của Tỉnh ủy Cà Mau khóa XII về việc điều chỉnh sản xuất từ nông -
ngư - lâm sang ngư - nông - lâm, đặc biệt là chủ trương chuyển đổi một số diện tích trồng lúa
sang nuôi tôm làm cho bức tranh nông nghiệp Cà Mau trở nên đa dạng hơn. Thời gian đầu mới
chuyển đổi, việc nuôi tôm cũng gặp không ít khó khăn như chưa hoàn chỉnh xây dựng hệ thống
thủy lợi, con giống không bảo đảm chất lượng, tổ chức sản xuất không phù hợp, môi trường
nước bị ô nhiễm, nông dân chưa nắm bắt về kỹ thuật…nhưng sau đó đã ngày càng ổn định hơn,
mức thu nhập của các hộ nuôi tôm đều cao so với trồng lúa, thậm chí có nhiều hộ đạt rất cao và
điều đáng nói là từ nay, người nông dân Cà Mau đã có sự thay đổi lớn trong nhận thức, nhất là
ý thức phấn đấu vươn lên trong lao động sản xuất, trong tổ chức cuộc sống gia đình. Nhiều hộ
nông dân đã tự bỏ tiền ra đi nhiều nơi trong và ngoài tỉnh, thậm chí cả nước ngoài để học tập
kinh nghiệm, nghiên cứu cách thức làm ăn về vận dụng cho gia đình và địa phương mình.
Sau khi điều chỉnh quy hoạch chuyển dịch cơ cấu sản xuất, diện tích canh tác trồng lúa
chỉ còn 156.000 ha. Để vẫn bảo đảm sản lượng lúa trên một diện tích bị thu hẹp, tỉnh đã tích
cực chỉ đạo sản xuất nông nghiệp toàn diện như khẩn trương cho xây dựng một số công trình
thủy lợi có tính bức xúc, chuẩn bị vật tư nông nghiệp, chủ động tìm cung cấp 365 tấn giống lúa
nhóm A và nhóm B, xây dựng 5 mô hình khuyến nông, khuyến lâm, đồng thời mở 453 lớp tập
huấn chuyển giao kỹ thuật trồng trọt - chăn nuôi ở các huyện đã giúp cho nhiều hộ nông dân tận
dụng khai thác tối đa khả năng canh tác trên đồng ruộng.
Do làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, cung ứng vật tư phục vụ sản xuất nên diện
tích gieo trồng các trà lúa đều đạt và vượt kế hoạch. Việc sản xuất một vụ lúa luân canh trên đất
nuôi tôm được nông dân hưởng ứng. Tuy thời tiết có ảnh hưởng làm gần 20.000 ha lúa gieo cấy
trên đất nuôi tôm bị chết nhưng sản lượng thu hoạch lúa vẫn tăng. Năm 2006 diện tích gieo
trồng lúa tăng 5,4%, sản lượng thu hoạch tăng 11,7%. Năm 2007, diện tích gieo trồng lúa tăng
6,67% so với năm 2006. Ngoài ra diện tích trồng rau màu, cây ăn trái cũng tăng khá, năm 2007,
diện tích trồng rau màu đã lên tới 3.500 ha, nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả, đem lại thu
nhập cao cho nhiều hộ nông dân. [64],[65]
Có thể thấy trong lĩnh vực trồng trọt thì lúa là cây trồng chính ở Cà Mau, chiếm tỷ trọng
cao cả về diện tích, sản lượng và giá trị sản phẩm trong trồng trọt. Diện tích canh tác lúa thường
chiếm 96% tổng diện tích cây trồng hàng năm của tỉnh.
Từ năm 2001, do tiếp tục chuyển đổi một số diện tích sang nuôi tôm nên diện tích trồng
lúa giảm nhanh. Từ giảm về diện tích dẫn đến giảm về sản lượng. Bình quân quân lương thực
theo đầu người của tỉnh năm 2005 thấp nhất trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và thấp
hơn so với mức bình quân chung của cả nước. Nếu những năm trước đây, việc trồng lúa ở Cà
Mau cũng là một ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu thì hiện nay việc trồng lúa chủ yếu chỉ
nhằm đáp ứng nhu cầu nội địa.
Bảng 2.1: Diện tích trồng lúa
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: ha
Năm 1997 1998 Tổng số 220.844 223.078 Lúa đông xuân 2.151 9.044 Lúa hè thu 40.429 54.981 Lúa mùa 178.264 159.053
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 243.812 248.241 131.571 130.563 107.009 131.659 109.640 115.409 123.111 21.914 15.034 8.412 6.217 850 750 430 400 61.608 86.158 32.931 37.304 34.117 35.773 36.175 36.147 36.042 160.290 147.049 90.227 87.042 72.042 95.136 73.035 78.862 87.069
Bên cạnh đó rau đậu thực phẩm cũng phát triển khá nhanh, từng bước đáp ứng phần lớn
nhu cầu của cả tỉnh. Các khu vực sản xuất tập trung rau màu thực phẩm đang hình thành và
phát triển với qui mô ngày càng lớn ở các huyện Năm Căn, Cái Nước, Trần Văn Thời, U Minh,
ngoại ô thành phố Cà Mau…Diện tích trồng rau đậu thực phẩm các loại ngày càng tăng, không
những đủ để cung cấp trong tỉnh mà còn có thể xuất sang các tỉnh bạn.
Hiện tại, nhu cầu thực phẩm của nhân dân ngày càng cao, đặc biệt là rau màu thực phẩm
sạch. Thị xã Cà Mau đã được nâng cấp lên thành phố, mặt khác, khi hoàn chỉnh khu công
nghiệp Khí - Điện - Đạm, nhu cầu rau sạch chắc chắn sẽ tăng thêm nhiều, vùng ngoại ô thành
phố và những vùng phụ cận sẽ là nơi cung cấp nguồn thực phẩm tươi sống cho thành phố, vì
thế việc quy hoạch phát triển “vành đai xanh” cho địa bàn này là rất cần thiết. Bên cạnh đó,
những thị trấn, thị tứ, những điểm quần cư, những đô thị vệ tinh cũng đang có quy hoạch để đáp
ứng nhu cầu này.
Cây công nghiệp chủ yếu ở Cà Mau là cây mía. Trong những năm gần đây, diện tích
trồng mía tăng nhanh để đáp ứng nguyên liệu cho nhà máy đường Thới Bình. Năm 2005 có
3.422 ha, tăng lên 3.620 ha năm 2006. Đến năm 2007, mặc dù gặp nhiều khó khăn do khí hậu,
thời tiết…, nhưng diện tích trồng mía vẫn giữ được trên 2.898 ha, sản lượng 185.869 tấn, năng
suất trên 75 tấn/ha, giá thu mua cao hơn nên người trồng mía đã có lãi khá hơn trước đây.
[19],[20]
Tuy nhiên, do thiếu nước ngọt cho nên mía thường được trồng vào mùa mưa, rất khó
khăn trong vấn đề rải vụ. Mặt khác, hiện nay giá mía rất bấp bênh; nhà máy đường Thới Bình là
nơi bao tiêu cho người nông dân trồng mía nhưng lại đang trên đà phá sản nên người nông dân
chẳng còn thiết tha với việc trồng cây mía. Cũng do vậy mà nhiều hộ nông dân đã phá mía để
lấy đất nuôi tôm trên vùng đất quy hoạch vùng ngọt hóa bán đảo Cà Mau, thực trạng này đã dẫn
đến nguy cơ thiếu hụt nguồn nguyên liệu mía truyền thống và phá vỡ hệ sinh thái ngọt là điều
không thể tránh khỏi. Thiết nghĩ, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi cần phải phù hợp
với từng tiểu vùng sản xuất, duy trì và phát triển ổn định vùng nguyên liệu mía truyền thống,
đầu tư sản xuất vùng nguyên liệu mía tập trung và đưa phương pháp thâm canh vào sản xuất để
tăng năng suất, sản lượng mía nguyên liệu. Chỉ có như vậy mới tránh được cái vòng luẩn quẩn
chưa có lối thoát của cây mía Cà Mau như thời gian qua.
Dừa là cây lâu năm chủ yếu của Cà Mau. Trong những năm gần đây do thiếu thị trường,
sâu bệnh, hiệu quả không cao, mặt khác do nhiều nông dân đã chuyển sang nuôi tôm nên diện
tích trồng dừa không ổn định và có xu thế giảm.
Cây ăn trái trên đất Cà Mau chủ yếu là chuối, khóm. Diện tích trồng chuối thời điểm cao
nhất đạt 8.000 ha vào năm 2001, đến năm 2005 giảm còn 4.500 ha. Sản phẩm chuối chủ yếu
tiêu thụ nội địa, còn cây khóm thì cũng giảm rất nhanh trong thời gian gần đây, từ 320 ha năm
1995, hiện nay giảm xuống còn 70 ha. Nguyên nhân chính là do giá cả và thị trường tiêu thụ
không ổn định làm cho hiệu quả sản xuất không cao. Ngoài dừa và chuối, Cà Mau còn có một
số cây ăn trái khác đang tăng diện tích như xoài, cam, mận, bưởi…
Bảng 2.2: Diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau”
1. Diện tích (ha) - Đay, Cói - Mía - Dừa 2. Sản lượng (tấn) - Đay, Cói - Mía - Dừa 1997 399 4.689 26.559 1.325 160.643 13.791 2001 30 5.327 18.868 845 337.424 12392 2005 111 3.422 9.585 372 215.656 24.975 2007 171 2.898 7.989 557 185.869 24.825
Chăn nuôi gia súc và gia cầm cũng có tiến bộ trên một số mặt. Trong chăn nuôi, với
phương châm phải chú trọng chuyển đổi cơ cấu giống để tăng trọng lượng của đàn giống và khả
năng tiêu thụ nên đàn heo luôn ở mức 210.000 con trở lên; đàn gia cầm ở mức từ 2 triệu đến 2,5
triệu con. Năm 1999, đàn heo tăng 15,2%, đàn gia cầm tăng 17%, cơ cấu giống nuôi cũng đa
dạng hơn nên đã cho sản lượng thịt tăng khá. Công tác phòng chống thiên tai, dịch bệnh được
quan tâm chỉ đạo nên giảm đáng kể mức độ thiệt hại xảy ra. [56, tr. 4]
Tổng đàn heo năm 2005 đạt 246.000 con, tăng 8,21% so với năm 2004 và tăng 30,93%
so với năm 2001. Năm 2007, đàn heo chỉ còn 220.000 con, số lượng đàn gia cầm đến năm 2005
chỉ còn khoảng 650.000 con, giảm 22% so với năm 2004 và năm 2006 chỉ đạt 90% kế hoạch
thêm vào đó tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm lại diễn biến phức tạp, gây thiệt hại
nặng cho ngành chăn nuôi và làm giảm đáng kể đàn gia súc, gia cầm.Tỉnh đã tập trung chỉ đạo
quyết liệt về công tác phòng, chống dịch cúm gia cầm, kiểm soát việc vận chuyển, giết mổ đối
với gia súc, gia cầm và đại dịch cúm A (H5N1) ở người, tỉnh đã chi ngân sách trên 5,1 tỉ đồng
để thực hiện kế hoạch tiêm phòng vắc-xin cúm gia cầm và chiến dịch vệ sinh, tiêu độc khử
trùng để không xảy ra dịch bệnh trên phạm vi toàn tỉnh. Nhờ vậy, đến cuối năm 2007, đàn gia
cầm đã đạt tới 897.219 con. [13],[62],[63],[64]
Bảng 2.3: Số lượng gia súc và gia cầm
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: nghìn con
Năm 1997 2001 2005 2007 Gia súc 209.643 188.827 247.123 212.966 Gia cầm 1.951.000 1.487.041 647.060 897.219
Ngoài ra, trong chăn nuôi, kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại cũng được chú ý đầu
tư, luôn áp dụng những tiến bộ khoa học để nâng cao sản lượng các giống gia súc, gia cầm có
chất lượng tốt như gà Tam Hoàng, đàn bò ở huyện Thới Bình….Chăn nuôi phát triển đã góp
phần cung cấp nguồn thực phẩm tại chỗ, giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng trong nhân dân và
tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu, tăng thu nhập GDP cho tỉnh.
Tuy có phát triển khá nhưng nhìn chung chăn nuôi ở Cà Mau mang nặng tính tự phát, cổ
truyền; thiếu đầu tư chiều sâu và các biện pháp hỗ trợ về kỹ thuật, giống và thị trường tiêu thụ.
Hình thức tổ chức chăn nuôi trong tỉnh chủ yếu ở dạng cá thể, gia đình. Hầu hết phát triển chăn
nuôi với quy mô nhỏ, phân tán. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác dẫn đến sự không ổn
định và giảm sút cả về giá trị sản xuất, về số lượng cá thể của đàn gia súc, gia cầm, giảm sút cả
về tỷ trọng trong ngành nông nghiệp trong thời gian qua là do dịch bệnh thường xuyên xuất
hiện trong tỉnh hoặc trong vùng, mặt khác còn do đầu ra của chăn nuôi chưa ổn định, giá thức
ăn chăn nuôi tăng, hiệu quả kinh tế của chăn nuôi còn thấp.
Có thể thấy trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp của Cà Mau đã có những
biến động đáng kể cả về diện tích, năng suất, sản lượng. Diện tích canh tác nông nghiệp của
tỉnh biến động do nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân chính vẫn là sự tranh chấp giữa mặn
và ngọt. Từ đó giá trị sản xuất cũng biến động.
Một nét nổi bật của Cà Mau trong những năm gần đây là cơ cấu nông nghiệp đã có sự
thay đổi. Thay đổi trong cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị chăn nuôi và
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị sản xuất trồng trọt. Song có điều đáng lưu ý là giá trị sản xuất
và giá trị sản lượng của chăn nuôi và dịch vụ gia tăng không đáng kể, trong khi giá trị sản xuất
và giá trị sản lượng trồng trọt lại giảm khá nhanh.
Đồng thời với sự thay đổi về tỷ trọng cơ cấu, nông nghiệp Cà Mau còn đang có sự
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, bước đầu phát triển mô hình sản xuất đa canh. Những
nơi sản xuất nông nghiệp ổn định đã và đang hình thành những vùng chuyên canh, bước đầu
phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với quy mô lớn.
Những kết quả trên cho thấy, nông nghiệp Cà Mau có những bước phát triển khả quan,
nhưng chưa thể nói quá trình phát triển này là bền vững. Bởi trên thực tế, sau chuyển đổi cơ cấu
sản xuất cây trồng, vật nuôi diễn ra với tốc độ nhanh đã làm thay đổi mạnh cả phương thức sử
dụng tài nguyên tự nhiên, đất, nước, sinh học trên quy mô lớn, có nguy cơ phá vỡ cân bằng sinh
thái. Mặt khác, cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã chuyển dịch theo hướng đa dạng
hóa và định hướng thị trường nên có không ít thách thức đòi hỏi ngành nông nghiệp cần có sự
phát triển bền vững.
Mục tiêu xuyên suốt và chủ yếu của ngành nông nghiệp Cà Mau trong những năm tới là
tiếp tục đẩy mạnh phát triển một cách toàn diện và bền vững, nâng cao hiệu quả sử dụng tài
nguyên đất, nước trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ , tăng năng suất, chất lượng
sản phẩm và hạ giá thành; từng bước tăng dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu ngư -
nông - lâm nghiệp. Đồng thời tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp, tiếp tục
đầu tư cơ sở vật chất, nhất là về thủy lợi, cơ sở giống, cơ sở chế biến… để tăng tính bền vững,
hiệu quả sản xuất, từ đó tăng tích lũy, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nông thôn mà
trước mắt là nhằm tạo thêm công ăn việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người nông dân
như nội dung báo cáo chính trị Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XII nêu rõ:
“Chuyển mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển nông nghiệp hàng
hóa theo hướng thâm canh, luân canh, đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với lợi thế của từng vùng,
tiểu vùng, đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất
lượng, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế
biến, thị trường, coi trọng phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn. Tăng cường công tác
phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai”. [28, tr.51]
2.2. Thủy sản
Thủy sản là ngành kinh tế quan trọng nhất của tỉnh Cà Mau. Trong thời gian từ 1997 đến
2007, ngành thủy sản đã phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực: nuôi trồng, khai thác biển, chế
biến và xuất khẩu.
Cà Mau có bờ biển dài 254 km, chiếm 7,8% chiều dài bờ biển cả nước, trong đó có 107
km bờ biển Đông, 147 km bờ biển Tây. Vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam do tỉnh Cà Mau quản lý có diện tích rộng khoảng 71.000 km2. Thềm lục
địa vùng biển Cà Mau là vùng biển cạn, thoai thoải và trải dài ra ngoài khơi. Gần mũi Cà Mau
có vùng bãi cạn lớn.
Trong qui hoạch phát triển kinh tế biển của cả nước, biển Cà Mau thuộc trọng tâm của
vùng biển Mũi Dinh - Cà Mau và vùng biển Cà Mau - Hà Tiên. Từ đó cho thấy ngư trường Cà
Mau là rất rộng lớn, bao gồm biển phía Đông và phía Tây, rất thuận lợi cho nghề khai thác biển
hoạt động cả năm. Cà Mau còn có đoàn tàu đánh cá tập trung nhiều ở cửa biển Sông Đốc, Cái
Đôi Vàm, Khánh Hội, Rạch Gốc. Đây là một thuận lợi trong lĩnh vực khai thác kinh tế biển,
tham gia thị trường với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia
và quốc tế.
Vùng biển Cà Mau còn có một số cụm đảo gần bờ như cụm đảo Hòn Khoai, đảo Hòn
Chuối, Hòn Đá Bạc có vị trí chiến lược quan trọng, là cầu nối để khai thác kinh tế biển và là
điểm tựa tiền tiêu bảo vệ Tổ quốc.
Vùng biển Cà Mau còn là nguồn tài nguyên hải sản lớn, là một trong bốn ngư trường
trọng điểm của cả nước, có trữ lượng lớn và đa dạng các loài hải sản, nhiều loại có giá trị kinh
tế cao như tôm, mực, ghẹ, cá hồng, cá sạo, cá thu, cá chim, cá mú…Ngoài ra, vùng mặt nước
ven biển còn có khả năng nuôi các loại thủy sản như nghêu, sò huyết, nuôi tôm nước mặn có
giá trị xuất khẩu cao.
Cũng như với các ngành kinh tế khác, cơn bão số 5 đã gây thiệt hại nặng đối với ngành
thủy sản Cà Mau: có 892 tàu đánh cá bị chìm hoặc hư hỏng; gần 2000 miệng đáy hàng khơi,
đáy sông bị bão cuốn mất. Một mất mát lớn là gần 2000 ngư dân có tay nghề bị chết, bị mất tích
để lại nhiều khó khăn trước mắt cũng như lâu dài trong lĩnh vực khai thác đánh bắt thủy sản của
tỉnh. [55, tr.3]
Sau bão số 5, Trung ương đầu tư nguồn vốn ưu đãi cho Cà Mau khôi phục và phát triển
nghề thủy sản với số vốn trên 450 tỉ đồng trong chương trình khắc phục bão và đánh cá xa bờ.
Với nguồn vốn đó, toàn tỉnh đã đóng mới 406 tàu, nâng cấp và sửa chữa 487 tàu, nâng tổng số
tàu trong tỉnh lên 4.000 chiếc với tổng công suất khoảng 180.000 CV. [56, tr.5]
Kết quả của những nỗ lực trên là năm 1997, tổng sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thủy
sản đạt 131.000 tấn, trong đó tôm 36.000 tấn; chế biến tôm đông 17.478 tấn; giá trị hàng thủy
sản xuất khẩu hơn 100 triệu USD. [55, tr.3]
Từ năm 1998 tỉnh tiến hành thực hiện đầu tư các dự án nâng cấp dây chuyền công nghệ
tinh chế hàng xuất khẩu nhằm giảm việc xuất khẩu sản phẩm thô đi đôi với tăng cường công tác
quản lý chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tỉnh cũng đã thành lập Hội chế biến và xuất khẩu thủy sản trên cơ sở liên kết các nhà máy để
có lợi hơn về giá thu mua nguyên liệu, giá bán. Ngoài ra đã cơ bản hoàn thành một số cơ sở hạ
tầng dịch vụ nghề cá như hệ thống cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh bão cho tàu cá; đầu tư
thêm một số tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, tàu kiểm ngư, hoàn thành dự án trực canh thông tin
cứu nạn tại xã Đất Mũi giúp ngư dân nắm bắt được những tin tức kịp thời về thời tiết, tìm kiếm
cứu hộ, cứu nạn… Nhờ vậy năm 1999 sản lượng chế biến tăng 29,8%, giá trị xuất khẩu tăng
20%, hàng thủy sản xuất khẩu của Cà Mau đã bước chân vào được thị trường châu Âu và châu
Mỹ. [57, tr.3]
Bên cạnh đó, công tác quản lý, phổ biến kỹ thuật nuôi thâm canh gắn với bảo vệ nguồn
lợi thủy sản và môi trường cũng được tăng cường, nhất là nguồn lợi cá đồng và đưa tôm giống
vào tỉnh. Bước đầu trong tỉnh đã sản xuất được tôm sú giống, tự cân đối được khoảng 50% nhu
cầu về giống cho người nuôi trồng, đồng thời mở ra một ngành nghề mới, tạo việc làm cho
hàng ngàn lao động.
Sang năm 2000, ngành thủy sản Cà Mau có những bước phát triển nhảy vọt. Sản lượng
khai thác biển và nuôi trồng đạt 205.000 tấn, tăng 17% so với năm trước. Nuôi trồng thủy sản ở
Cà Mau chủ yếu là nuôi tôm sinh thái với con tôm sú là chủ lực theo các mô hình: nuôi dưới tán
rừng ngập mặn, nuôi trong ao vườn, nuôi kết hợp trồng một vụ lúa, nuôi công nghiệp và bán
công nghiệp. Năng suất nuôi tôm bình quân chung toàn tỉnh khoảng 320 kg/ha; đối với nuôi
công nghiệp đạt 3 - 4 tấn/ha.
Ngoài ra, để hỗ trợ cho ngành thủy sản, các ngân hàng đã cho 16.090 hộ sản xuất vay với
số vốn hơn 209 tỉ đồng. Từ khi có vốn, nắm bắt được kỹ thuật, người nông dân hăng hái chuyển
đổi hầu hết diện tích nuôi tôm quảng canh sang quảng canh cải tiến và bán thâm canh, nuôi tôm
hợp sinh thái kết hợp với trồng rừng và bảo vệ môi trường. Một số diện tích nuôi tôm công
nghiệp ở Lâm ngư trường Kiến Vàng huyện Ngọc Hiển, Hưng Mỹ huyện Cái Nước, Tạ An
Khương huyện Đầm Dơi… cho năng suất khá cao, làm cho một bộ phận nông dân giàu lên
nhanh chóng. Bên cạnh đó, để tiến tới tự túc được con giống, tỉnh đã phát triển thêm nhiều trại
tôm giống, sản xuất khoảng 1,5 tỉ con và di nhập 2 tỉ con. Cũng nhờ được sự đầu tư kịp thời
theo chương trình đánh bắt xa bờ và chương trình khắc phục bão số 5 nên năng lực đánh bắt
của các đội tàu đang từng bước được khôi phục và phát huy hiệu quả.
Do nguồn nguyên liệu khá dồi dào, dây chuyền công nghệ được cải tiến nên ở cả 18 nhà
máy, xí nghiệp chế biến đều phát triển khá. Các mặt hàng chế biến cũng rất đa dạng về chủng
loại, mẫu mã nên tăng được sức cạnh tranh và lợi nhuận của sản phẩm. Năm 2000, giá trị xuất
khẩu hàng thủy sản là 240 triệu USD, đạt 153% kế hoạch, tăng 98 triệu USD so với năm 1999.
[58, tr.4]
Mặc dù đang trong thời kỳ tăng trưởng nhưng bước sang năm 2001, ngành thủy sản Cà
Mau bắt đầu phát sinh một số khó khăn mới, đó là: việc chuyển đổi sản xuất diễn ra quá nhanh
trong khi chưa chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất gây nên tình trạng lúng túng đối
với người nuôi trồng. Thêm vào đó, do chi phí cao, giá bán sản phẩm thấp nên đã có một số tàu
ngưng hoạt động. Giá xuất khẩu thủy sản giảm, dẫn đến giá tôm nguyên liệu giảm theo, giá
trung bình giảm khoảng 40% so với năm trước. Đợt giảm giá vào trung tuần tháng 3/2001 các
doanh nghiệp bị thiệt hại trên 75 tỉ đồng, đợt thứ hai sau sự kiện 11/9 ở Mỹ, các doanh nghiệp
thiệt hại hơn 30 tỉ đồng do Mỹ giảm nhập nên thị trường Nhật Bản giảm giá, các nước như Ấn
Độ, Thái Lan hạ giá để cạnh tranh. [59, tr.2]
Sau hai năm thực hiện phương án điều chỉnh quy hoạch sản xuất ngư - nông - lâm
nghiệp, toàn tỉnh đã chuyển đổi trên 120.000 ha đất trồng lúa sang nuôi tôm, nuôi tôm kết hợp
trồng một vụ lúa và 10.000 ha đất vườn chuyển sang mô hình tôm - vườn, nâng diện tích nuôi
trồng thủy sản toàn tỉnh lên 244.000 ha. Sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 97.000 tấn, tăng
30% so với thời điểm trước chuyển dịch năm 2000. Một điều đáng chú ý là qua sản xuất, kỹ
thuật và kinh nghiệm của nông dân từng bước được nâng lên, người dân năng động, nhạy cảm
hơn với việc nắm bắt thông tin, giá cả để kinh doanh theo thực tế thị trường. Một số nơi nông
dân còn nuôi cá bống tượng, nuôi cua và thủy sản khác đã đem lại hiệu quả kinh tế khá, thu
nhập trên một đơn vị diện tích nuôi tôm cao gấp từ 3 đến 5 lần trồng lúa. [60, tr.2]
Việc sản xuất lúa trên đất nuôi tôm tuy chỉ mới bước đầu thực hiện nhưng đã mang lại
kết quả khả quan. Tuy nhiên cũng cần phải thấy quá trình chuyển dịch diễn ra nhanh nên các
yếu tố cơ bản phục vụ sản xuất như thủy lợi, cây, con giống, vốn đầu tư, kỹ thuật và nhất là
khâu tổ chức lại sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, gây nên tình trạng tôm chết hàng
loạt dẫn đến nợ tồn đọng khá nhiều trong hộ nông dân. Tình trạng độc canh con tôm còn khá
phổ biến, các sản phẩm truyền thống như cá đồng, gia cầm, đàn heo giảm; chưa kết hợp được
sản xuất đa cây, đa con trên diện tích sử dụng đất, hạn chế thu nhập dẫn đến hoàn vốn đầu tư
chậm, nợ ngân hàng kéo dài, ít tích lũy. Bên cạnh một bộ phận nông dân có thu nhập khá từ
nuôi tôm đang giàu lên, một bộ phận khác đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống.
Để phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn trong lĩnh vực thủy sản, tỉnh đã
chú ý phát triển dịch vụ hậu cần thủy sản và tăng cường sản xuất tôm giống. Bước đầu đã tạo
được mô hình sản xuất theo hướng luân canh giữa nuôi tôm và các loại cây trồng, vật nuôi khác
như nuôi cá bống tượng, nuôi cua và thủy sản khác đã đem lại hiệu quả kinh tế khá, làm tăng
thu nhập trên một đơn vị diện tích cao hơn so với chuyên tôm. Cho đến cuối năm 2002 toàn
tỉnh đã có 200 cơ sở kinh doanh thức ăn, thuốc thú y thủy sản; 750 cơ sở mua bán tôm nguyên
liệu; 25 tàu hậu cần dịch vụ khai thác biển; 108 cơ sở sản xuất nước đá với công suất 900.000
tấn/năm; 6 cơ sở sửa chữa đóng tàu thuyền; đang xây dựng cảng cá Hòn Khoai và đã có dự án
xây dựng cảng cá Sông Đốc. [60, tr.3]
Tình hình khai thác sông, biển cũng có nhiều thuận lợi. Một số nghề như lưới vây, câu
mực, cào tầng giữa đạt hiệu quả khá. Giá cả thị trường tiêu thụ sản phẩm biển tăng do các nhà
máy chế biến bột cá kinh doanh có hiệu quả, tăng công suất hoạt động. Cảng cá Cà Mau đã đi
vào hoạt động, các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đánh bắt xa bờ.
Sang năm 2004, tỉnh tập trung chỉ đạo tăng cường đẩy mạnh nuôi tôm quảng canh, nuôi
tôm sinh thái kết hợp mô hình nuôi tôm đan xen với nuôi các loài thủy sản khác và cấy một vụ
lúa trên đất nuôi tôm nhằm đa dạng hóa các sản phẩm, tạo cân bằng môi trường sinh thái cho
phát triển bền vững. Ngoài ra còn tăng cường đầu tư và hỗ trợ cho các trại nuôi ương tôm
giống, cá giống nước ngọt và giống cây trồng, vật nuôi khác cho vùng chuyển đổi sản xuất; Xây
dựng và phê duyệt các quy hoạch, các dự án thủy lợi của 12/18 tiểu vùng Nam Cà Mau; quy
hoạch sản xuất vùng Bắc Cà Mau với diện tích 154.400 ha; quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản
và nuôi tôm công nghiệp đến năm 2010; ban hành qui định kiểm dịch giống sạch bệnh…Nhờ
vậy sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng 19,6%, riêng tôm nuôi đạt 81.000 tấn, tăng 30%. [62,
tr.2]
Bên cạnh đó, việc khai thác biển cũng được quan tâm đáng kể. Các ngân hàng hỗ trợ cho
ngư dân vay vốn mua ngư lưới cụ, nhiên liệu để đánh bắt xa bờ, đồng thời tỉnh chỉ đạo thực
hiện chủ trương chuyển đổi ngành nghề khai thác đối với 1.010 phương tiện nhỏ ven bờ (chiếm
30%) để bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Năm 2005, tổng sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tuy có tăng 7,82% so với
năm 2004 nhưng nhìn chung tình hình khai thác biển gặp nhiều khó khăn, sản lượng khai thác
thủy sản nói chung và cá nói riêng tăng chậm và có xu hướng giảm dần. Nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trên là do chương trình đánh bắt thủy sản xa bờ đạt hiệu quả thấp so với mục tiêu đề
ra, giá xăng dầu tăng nên chi phí nhiều, nợ tồn đọng kéo dài làm cho các ngân hàng khó giải
ngân những dự án tiếp theo, dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ ngư dân khai thác, đánh bắt và
tiêu thụ sản phẩm quy mô còn nhỏ, tổ chức chưa đồng bộ, phạm vi hoạt động chưa bao quát hết
mọi yêu cầu của ngư dân, mặt khác do tình trạng khai thác gần bờ theo phương thức khai thác
trắng, làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản, gây ô nhiễm môi trường nước ven biển nên giá trị của
mỗi chuyến đi biển thường đạt hiệu quả thấp, có khi bị thua lỗ. Ngoài ra do công tác quy hoạch
và kế hoạch chưa theo kịp yêu cầu của thực tế sản xuất và phong trào chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh, xu hướng buông lỏng trong công tác quy hoạch, kế hoạch , đầu tư, quản lý của các
cấp có thẩm quyền vẫn còn tồn tại, dẫn đến tính tự phát trong sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, không
theo quy hoạch vẫn còn phổ biến.
Bảng 2.4: Sản lượng cá biển khai thác
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: tấn
2001 2005 2007 1997
51.335 90.087 105.259 98.081 Sản lượng
Đến năm 2005, toàn tỉnh có trên 900 trại sản xuất kinh doanh tôm giống, sản lượng tôm
giống sản xuất trong tỉnh ước đạt 4,6 tỉ con, vẫn chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu giống nuôi.
Ngoài ra tình hình tôm nuôi ở một số nơi tiếp tục gặp nhiều khó khăn, hiện tượng tôm chết vẫn
thường xảy ra, năng suất tôm nuôi tự nhiên vẫn còn thấp. Một số đầm tôm nuôi công nghiệp tuy
đã cho thu hoạch với năng suất khá nhưng khả năng mở rộng diện tích còn gặp nhiều khó khăn
do vốn đầu tư cao, tỉ lệ rủi ro lớn.
Tuy vậy việc chế biến hàng thủy sản xuất khẩu vẫn tăng 12% so với năm trước. Một số
nhà máy đã đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ tiên tiến nên đã sản xuất được trên 30.000
tấn hàng thủy sản có giá trị để bán thẳng vào các siêu thị ở nước ngoài, giảm được tỉ trọng sản
xuất sản phẩm thô. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản ước đạt 509 triệu USD, tăng 12,61% so
với năm 2004. [63, tr.3]
Đến cuối năm 2006, sau 10 năm tách tỉnh, ngành kinh tế thủy sản Cà Mau có thể nói là
phát triển tương đối khá cả về nuôi trồng, khai thác biển, chế biến và xuất khẩu. Tổng sản lượng
thủy sản tăng 5,6%, chế biến tăng 4,6%, giá trị xuất khẩu tăng 13,4%, trong đó có nhiều loại
thủy sản có giá trị cao, góp phần tăng doanh thu toàn ngành thủy sản. Đáng kể là việc nuôi
trồng thủy sản vẫn phát triển tương đối thuận lợi, nông dân mở rộng nhiều diện tích nuôi tôm
luân canh và nuôi kết hợp với các loài thủy sản khác, cho thu nhập ổn định hơn, sản lượng thu
hoạch tăng 13,7%. [64, tr.2]
Bảng 2.5: Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: ha
1997 2001 2005 2007
154.036 254.191 278.241 290.749 Diện tích
Từ việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh tăng rất
nhanh, đến nay Cà Mau đã trở thành một tỉnh có diện tích nuôi thủy sản lớn nhất cả nước. Kinh
tế thủy sản tiếp tục khẳng định là thế mạnh của tỉnh, phát triển toàn diện trên 4 lĩnh vực: khai
thác biển, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu. Tổng sản lượng khai thác thủy sản năm 2006 đạt
277.500 tấn, tăng 2,24 lần so với 10 năm trước, trong đó sản lượng tôm tăng 2,63 lần. Cuối năm
2007, sản lượng thủy sản đạt 300.000 tấn, trong đó tôm chiếm 106.200 tấn. Ngoài ra, nhờ có
nguồn nguyên liệu khá nên thu hút được nhiều vốn đầu tư xây dựng nhà máy chế biến hàng
thủy sản, hiện tại đã có 24 nhà máy. Năm 2006 chế biến được trên 80.000 tấn thành phẩm, tăng
4,5 lần so với năm 1996. Nổi bật là kim ngạch xuất khẩu của tỉnh qua 10 năm được 3,3 tỉ USD,
trong đó xuất khẩu thủy sản năm 2006 đạt 580 triệu USD, tăng 6,4 lần so với năm 1996 và đến
năm 2007 là 610 triệu USD. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao chiếm gần 50%, giảm
dần tỉ trọng sản phẩm sơ chế, thương hiệu hàng thủy sản xuất khẩu của tỉnh Cà Mau đã có mặt
ở nhiều thị trường lớn trên thế giới như Nhật Bản, Bắc Mỹ, EU, Úc…Tại Hội chợ thủy sản
Brussels - Bỉ năm 2007, Cà Mau có trên 10 doanh nghiệp thuộc ngành thủy sản tham gia. Trong
3 ngày hội chợ, các Công ty của Cà Mau như Camimex, Quốc Việt, Seaprimexco, Minh Phú,
Phú Cường, FFC… đã gặp gỡ, tiếp xúc với trên 400 doanh nghiệp đối tác. [64],[65]
Hiện tại, Cà Mau đang hình thành vùng kinh tế ven biển và biển gồm huyện U Minh,
Trần Văn Thời, Năm Căn, Ngọc Hiển, Phú Tân, Đầm Dơi và các cụm đảo đầu tư nuôi trồng,
khai thác đánh bắt thủy sản, phấn đấu sản lượng thủy, hải sản chiếm từ 80% đến 85% tổng sản
lượng thủy hải sản hàng năm của tỉnh. Theo đó, Cà Mau xác định nuôi trồng thủy sản nước lợ,
nước mặn tại các vùng ven biển với các mô hình chuyên canh, nuôi kết hợp trồng rừng, nuôi
trên mặt nước ven biển và ven các cụm đảo, trong đó chú trọng phát triển nuôi các loài thủy sản
có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra còn tổ chức khai thác hợp lý trên ngư trường gắn với bảo vệ môi
trường và nguồn lợi thủy sản trên cơ sở quy hoạch chuyển đổi ngành nghề cho ngư dân, giảm
các ngành nghề có nguy cơ sát hại nguồn lợi thủy sản, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ
hiện đại để phát triển đánh bắt xa bờ song song với việc hình thành những trung tâm nghề cá
lớn gắn với xây dựng các cụm, khu công nghiệp chế biến, xây dựng thương hiệu thủy sản Cà
Mau.
Những thành quả đạt được của ngành thủy sản đã tạo tiền đề để Cà Mau tiếp tục tiến
nhanh trong những năm tới với sức sống mới. Trong một chuyến về thăm và làm việc tại Cà
Mau, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã khẳng định: “Cà Mau với thế mạnh là đánh bắt và nuôi
trồng thủy sản cùng với lợi thế là tỉnh có diện tích nuôi tôm, một ngư trường đánh bắt thủy sản
vào bậc nhất nước,…Cà Mau xứng đáng được Trung ương đầu tư trọng điểm nuôi trồng, đánh
bắt cá và chế biến thủy sản”. Sự nhìn nhận và quyết tâm trên sẽ mở ra một tương lai phát triển
mới của thủy sản Cà Mau và càng được khẳng định khi trên địa bàn những dự án lớn như Khu
công nghiệp khí - điện - đạm, Âu thuyền Tắc Thủ, Cảng Năm Căn… đã được đầu tư xây dựng
và đưa vào hoạt động.
Bên cạnh vận hội mới, cũng cần nhận thấy thủy sản Cà Mau đang phải đối mặt với những
thách thức không nhỏ. Tuy đã đạt được một số thành tựu khả quan, nhưng nhìn chung, kinh tế
biển Cà mau phát triển còn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, chủ yếu mới chỉ là phát
triển về khai thác biển và nuôi trồng thủy sản. Đáng chú ý là sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
những mặt hàng thủy sản Cà Mau ngày càng chịu nhiều sự kiểm soát gắt gao từ việc chống bán
phá giá đến kiểm tra chất lượng…Cùng với đó, thị trường nhiên liệu thế giới và trong nước biến
động phức tạp theo hướng tăng nhanh khiến lợi nhuận của người sản xuất thấp. Giá dầu tăng,
lãi suất ngân hàng cao sẽ là gánh nặng to lớn trong cả ba lĩnh vực chế biến, đánh bắt lẫn nuôi
trồng. Vấn đề giảm thiểu chi phí là vô cùng khó khăn trong khi kết cấu hạ tầng của Cà Mau còn
thấp kém, nhất là ở các huyện có thế mạnh nuôi trồng, khiến chi phí đi lại, vận chuyển lớn.
Ngoài ra, sản xuất thủy sản của Cà Mau còn mang nặng yếu tố tự phát làm cho việc quản lý
không được chặt chẽ. Đến thời điểm này, việc liên kết “4 nhà” ở Cà Mau chưa thật sự là động
lực kích thích kinh tế thủy sản phát triển. Được ví như là “vương quốc tôm cá” của vùng đồng
bằng sông Cửu Long và cả nước, nhưng Cà Mau hầu như chưa có hộ nuôi trồng thủy sản nào
ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm của mình cho doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu và
cũng hầu như chưa có một doanh nghiệp nào mạnh dạn bao tiêu sản phẩm, đầu tư cho người
nuôi tôm, cá xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho chính mình để chủ động chế biến xuất
khẩu.
Những thách thức trên, không thể một doanh nghiệp, ngành thủy sản hay tỉnh Cà Mau có
thể giải quyết được mà phải có sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều cấp, nhiều ngành, thực hiện
nhiều giải pháp trước mắt và lâu dài.
Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt đối với ngành thủy sản Cà Mau là phải ổn định sản xuất
trong đánh bắt, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu đồng thời chú ý đầu tư phương tiện đánh bắt
xa bờ kết hợp với khai thác và tái tạo nguồn lợi thủy sản ven bờ, hướng mạnh nuôi trồng sang
thâm canh, đa canh tăng năng suất, đẩy mạnh chế biến xuất khẩu theo hướng chú trọng chất
lượng. Đó là những hướng đi có tính then chốt để thúc đẩy ngành thủy sản Cà Mau phát triển
nhanh hơn.
Khi đã xây dựng một kế hoạch cụ thể, với những bước đi và giải pháp hữu hiệu, dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ và Chính quyền các cấp, sự năng động sáng tạo của nhân dân, Cà Mau sẽ
tạo ra cơ hội vàng cho những nhà đầu tư trong và ngoài nước trong ngành công nghiệp nuôi
trồng, đánh bắt và chế biến thủy hải sản. Chắc chắn thủy sản Cà Mau sẽ khắc phục được những
rào cản và phát huy được hết những thế mạnh để vươn lên và mục tiêu kinh tế biển sẽ đạt tỉ
trọng từ 55 - 60% GDP toàn tỉnh vào năm 2010 và 65 - 70% vào năm 2020, đưa đời sống kinh
tế, văn hóa người dân ngày càng lên cao sẽ là một hiện thực.
2.3. Lâm nghiệp
Rừng Cà Mau là loại rừng ngập nước gồm rừng ngập mặn được phân bố ven biển và tập
trung nhiều ở huyện Ngọc Hiển, rừng ngập lợ chủ yếu nằm sâu trong nội địa thuộc các huyện U
Minh, Trần Văn Thời, Thới Bình. Hệ sinh thái rừng Cà Mau có nhiều loại động thực vật quí
hiếm, năng suất sinh học cao, có tầm quan trọng bảo tồn thiên nhiên, có giá trị nghiên cứu khoa
học và có ý nghĩa cân bằng môi trường sinh thái cho sự phát triển bền vững của cả khu vực.
Tỉnh Cà Mau qui hoạch diện tích đất lâm nghiệp 168.000 ha. Theo kết quả điều tra năm
2004, diện tích đất có rừng gồm 97.187 ha, chiếm 18,65% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Đến
ngày 31/12/2006, tổng diện tích rừng Cà Mau có 96.342 ha, trong đó rừng sản xuất có 54.174
ha; rừng phòng hộ: 24.288 ha và rừng đặc dụng có 17.880 ha. Ngoài ra trên cụm đảo Hòn
Khoai, Hòn Chuối còn 583 ha rừng có khả năng nuôi trồng và khai thác tốt. [18, tr.86]
Hệ sinh thái rừng ngập mặn hiện nay có diện tích 62.000 ha, chiếm 2/3 rừng ngập mặn
của vùng đồng bằng sông Cửu Long, có vai trò phát triển nuôi trồng thủy sản và cân bằng sinh
thái ven biển, bảo tồn tính đa dạng sinh học vùng rừng ngập mặn ven biển. Ở rừng ngập mặn có
64 loài thực vật, thành phần ưu thế là cây đước, vẹt, mắm, dá. Về động vật hiện có 12 loài thú,
12 loài bò sát, 8 loài ếch nhái, 67 loài chim, 25 loài tôm, 258 loài cá nước mặn. Hiện có nhiều
loài chim tập trung ở nhiều sân chim lớn như sân chim Đầm Dơi, sân chim Cái Nước, sân chim
thành phố Cà Mau…. [68]
Hệ sinh thái rừng tràm chiếm diện tích 34.600 ha, có vai trò quan trọng là vùng đệm để
ổn định đất, thủy văn, nuôi tôm cá nước ngọt, ong, trăn, nai, heo rừng…và có tác dụng điều hòa
khí hậu, bảo tồn tính đa dạng sinh học vùng rừng ngập nội địa. Rừng ngập lợ cây tràm chiếm
ưu thế tuyệt đối, dưới tán rừng còn có nhiều loại dây leo và cây nhỏ khác; các loài động vật như
nai, heo rừng, khỉ, chồn…các loài bò sát như trăn, rắn, rùa, trút…; có 60 loài cá nước ngọt và
nước lợ. Đặc biệt ong mật rừng tràm nhiều và hằng năm cho khai thác một sản lượng lớn.
Tuy vậy, hiện tại Cà Mau chỉ sử dụng được 12 - 15% gỗ chính phẩm, chủ yếu để sản xuất
sản phẩm gia dụng, xây dựng. Nếu đầu tư vốn nhiều hơn, biết khai thác hợp lý, biết áp dụng
tiến bộ khoa học - công nghệ để tận dụng hết 85 - 88% thứ phẩm còn lại thì giá trị gỗ của địa
phương sẽ được tăng lên, đời sống nhân dân nghề trồng rừng sẽ được cải thiện đáng kể. Mặt
khác sẽ củng cố được ý thức tự giác của nhân dân về bảo vệ và phát triển rừng.
Ngay sau khi tách tỉnh, quán triệt Chỉ thị 286 và 287 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh đã
tập trung chỉ đạo quyết liệt đối với việc bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng bằng cách tiếp tục
tổ chức việc giao đất, giao rừng cho dân, đồng thời triển khai kế hoạch di dời các hộ cư trú trái
phép ra khỏi rừng, qui hoạch lại các cụm dân cư mới. Do vậy, các vụ vi phạm chặt phá cây
rừng đã ngày càng giảm nhiều.
Năm đầu tiên Cà Mau tách ra từ Minh Hải cũng là năm cơn bão số 5 ảnh hưởng nặng nề
đến toàn bộ diện tích rừng và cây xanh trồng phân tán, nhất là ở khu vực rừng đước, rừng tràm
lớn tuổi. Rừng phòng hộ Biển Đông bị thiệt hại nặng, làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái
và khả năng phục hồi rừng của Cà Mau sau này. Mặt khác, sau cơn bão lượng mưa lại ít, mực
nước thấp hơn nhiều so với các năm trước nên vấn đề phòng cháy rừng tràm đang đặt ra nhiệm
vụ cực kỳ quan trọng đối với toàn tỉnh trong các tháng mùa khô.
Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng công tác trồng rừng vẫn tiến triển tốt đẹp. Năm 1997 toàn
tỉnh đã trồng được 7.700 ha rừng, đạt 110% kế hoạch; trồng được 31 triệu cây phân tán; các
chương trình 327, 773 và các dự án về khôi phục phát triển rừng cũng được triển khai thực hiện
kịp thời. [55, tr.2]
Nhằm mục tiêu bảo tồn thiên nhiên và cân bằng môi trường sinh thái cho sự phát triển
bền vững của cả khu vực, tỉnh tập trung chỉ đạo phát triển lâm nghiệp theo qui hoạch, theo dự
án đã được phê duyệt đầu tư, đặc biệt chủ trương tách sản xuất lúa ra khỏi diện tích đất có rừng
tràm và thực hiện giao đất khoán rừng. Bên cạnh đó, tỉnh còn chú ý công tác trồng rừng mới
gắn liền với bảo vệ vốn rừng, giữ gìn cho được hệ sinh thái đa dạng của rừng ngập mặn và ngập
lợ, nhất là rừng phòng hộ. Ngoài ra, công tác phòng chống cháy rừng, bảo vệ rừng và phủ lại
diện tích đất rừng, di dời dân di cư tự do ra khỏi rừng theo chỉ thị 286, 287 của Thủ tướng
Chính phủ vẫn được tiến hành một cách quyết liệt. Tình trạng chặt phá, vi phạm luật bảo vệ
rừng tuy vẫn còn nhưng số vụ và mức độ thiệt hại đã giảm nhiều. Đến cuối năm 1998 đã di dời
được gần 1.000 hộ và về cơ bản rừng Cà Mau đang được khôi phục và phát triển. Đã khoanh
nuôi tái sinh được 5.300 ha, nâng diện tích đất có rừng lên 99.000 ha, con số này đến năm 2000
là 103.000 ha. Tỉ lệ che phủ đến năm 2001 đạt 20,6%. [56],[58],[59]
Ngoài việc trồng rừng theo kế hoạch của địa phương, tỉnh còn chú trọng chỉ đạo thực
hiện dự án trồng rừng trong chương trình 5 triệu ha rừng của Chính phủ, trồng cây phân tán
trong nhân dân, lập dự án trồng cây chắn sóng ven sông…Bên cạnh đó, việc khai thác có kế
hoạch cũng được chú ý: năm 2000 tỉnh chủ trương cho tỉa thưa rừng 755 ha, khai thác chọn 344 ha đối với rừng kinh tế, thu được 22.377 m3 gỗ, 19.124 ste củi, doanh thu 10,75 tỉ đồng. Năm 2002 là 7.478 ha; khai thác được 55.000 m3 gỗ, 70.200 ste củi, doanh thu qua tiêu thụ lâm sản
29,6 tỉ đồng và qua năm 2003 là gần 34 tỉ đồng. Nhiều hộ nhận khoán rừng, đất rừng có thu
nhập khá (theo tỉ lệ 7/3 hoặc 8/2); trong khu vực trồng tràm, các hộ dân chủ động trồng tràm kết
hợp với nuôi cá đã tạo ra một nguồn thu nhập đáng kể. [57],[59],[60]
Mùa khô năm 2001- 2002 ở Cà Mau xảy ra 66 vụ cháy rừng lớn nhỏ, tổng diện tích thiệt
hại là 5.319 ha, trong đó diện tích có rừng là 4,423 ha. [57, tr.4] Đây là những vụ cháy nghiêm
trọng, gây ra nhiều thiệt hại to lớn. Ủy ban nhân dân tỉnh đã kiểm điểm trách nhiệm trước
Chính phủ, đồng thời chỉ đạo khẩn trương khôi phục những diện tích rừng bị cháy.
Để thực hiện chủ trương của tỉnh, các lâm trường thực hiện đào mới 209 km và sên vét
162 km kênh mương trong lâm phần, đào kênh bao khuôn hộ để xây dựng mô hình sản xuất
lâm - nông - ngư kết hợp; duy tu, sửa chữa và mua sắm trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác
phòng cháy, chữa cháy rừng. Ngoài việc trồng rừng tập trung, một số Lâm ngư trường đã trồng
cây trên bờ đê với tổng chiều dài 182 km; đào đất kê liếp để trồng rừng tràm thâm canh được
3.860 ha.
Công tác quản lý, bảo vệ rừng được tăng cường, song tình hình vi phạm vẫn còn xảy ra
ở nhiều nơi, nhất là tình trạng đào phá đất rừng. Ngoài ra thực hiện chủ trương của Chính phủ
và để thuận lợi trong lưu thông lâm sản, tỉnh còn ban hành Quyết định bãi bỏ các trạm kiểm
soát lâm sản ở khâu lưu thông trên địa bàn tỉnh, chuyển việc kiểm tra, kiểm soát lâm sản về
quản lý tại cơ sở, tại chân rừng song song với việc tăng cường công tác giám sát việc trồng
rừng và tính toán lại phương án khai thác, tỉa thưa rừng cho hợp lý để ngăn ngừa tiêu cực, lãng
phí.
Bên cạnh những giải pháp trên, tỉnh đã thông qua các Bộ, ngành Trung ương xây dựng
nhiều dự án như: Dự án xây dựng và bảo vệ khu bảo tồn thiên nhiên Vồ Dơi giai đoạn 2002 -
2005 với qui mô diện tích 3.688 ha, tổng vốn ngân sách đầu tư 11.989 tỉ đồng; Dự án khôi
phục, xây dựng và bảo vệ rừng sản xuất U Minh Hạ tỉnh Cà Mau giai đoạn 2002 - 2010 với qui
mô diện tích 52.054 ha, tổng vốn đầu tư 834 tỉ đồng. [59],[64]
Riêng đối với dự án khôi phục, xây dựng và bảo vệ rừng sản xuất U Minh Hạ, ngoài việc
thống nhất kế hoạch khôi phục rừng sau cháy, đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương trong lâm
phần và định hướng trồng rừng thâm canh, dự kiến tỉnh sẽ kiến nghị bộ, ngành Trung ương đầu
tư xây dựng nhà máy chế biến gỗ để đảm bảo đầu ra cho vùng nguyên liệu.
Ngày 21/12/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã ký biên bản ghi nhớ với đại diện cơ
quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) về nghiên cứu thiết kế cơ bản Dự án Phát triển cộng
đồng U Minh Hạ với các hạng mục chủ yếu như lên liếp trồng rừng, xây dựng hệ thống kênh,
cầu, đường giao thông, các trạm theo dõi cháy và chòi canh lửa, các trường tiểu học, mua sắm
thiết bị đào kênh, thiết bị phòng chống cháy rừng, thiết bị chế biến gỗ và một số trang thiết bị y
tế.
Để thực hiện dự án, chính phủ Nhật Bản sẽ tài trợ cho Cà Mau khoảng 137 tỉ đồng Việt
Nam, trong đó vốn đối ứng của tỉnh khoảng 14,6 tỉ đồng. Dự kiến đến tháng 3/2008, JICA sẽ
chính thức trao công hàm của chính phủ Nhật Bản về việc phê duyệt dự án, trên cơ sở đó sẽ
triển khai thiết kế chi tiết các hạng mục của dự án.
Ngoài ra, tập đoàn Công nghiệp giấy LEE&MAN của Hồng Kông - là một trong những
tập đoàn lớn ở châu Á - đã đến Cà Mau để khảo sát, thăm dò trữ lượng gỗ tràm, tiến tới ký hợp
đồng bao tiêu nguyên liệu gỗ tràm phục vụ cho các nhà máy giấy tại Khu công nghiệp Hậu
Giang. Sắp tới, nếu được tỉnh Cà Mau chấp thuận, tập đoàn này sẽ hợp tác với các Công ty Lâm
nghiệp của tỉnh trồng tràm thâm canh để đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ lâu dài cho các
nhà máy. Được biết tập đoàn LEE&MAN hiện đang tiến hành thủ tục đầu tư xây dựng 4 nhà
máy giấy tại khu công nghiệp Hậu Giang với số vốn dự kiến là 1,2 tỉ USD, theo kế hoạch năm
2008 sẽ chính thức đưa 2 nhà máy vào hoạt động. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức Quốc tế như Hà
Lan, Đan Mạch cũng đã và đang hỗ trợ, đầu tư phát triển rừng ven biển Cà Mau.
Sang năm 2004, việc khôi phục và bảo vệ rừng càng được quan tâm chỉ đạo. Chủ trương
của tỉnh là tiếp tục thực hiện phương án đổi mới quản lý rừng và đất lâm nghiệp; cho phép khai
thác và tỉa thưa đối với rừng kinh tế. Nhờ vậy đời sống nhân dân trong khu vực lâm phần đã
được cải thiện. Mô hình lên liếp trồng rừng tràm thâm canh cho thấy rừng phát triển nhanh và
hạn chế được nạn cháy rừng. Năm 2004 không xảy ra vụ cháy rừng nào lớn, số vụ vi phạm luật
bảo vệ rừng giảm 22%, công tác tái định cư cho các hộ dân trong khu vực rừng phòng hộ càng
được quan tâm thực hiện.
Bảng 2.6: Giá trị sản xuất lâm nghiệp theo giá hiện hành
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: triệu đồng
1997 2001 2005 2007
16.195 7.613 18.613 13.998
228.014 217.707 185.611 161.238
1.728 2.210 -Trồng và nuôi rừng -Khai thác gỗ và lâm sản -Dịch vụ lâm sản
Đi đôi với những công tác trên, việc tuyên truyền, phổ biến Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng cũng được tiến hành thường xuyên, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của người dân về
công tác bảo vệ rừng. Tuy vậy, trong năm 2005 vẫn có tới 1.238 vụ vi phạm được phát hiện và
xử lý, nhưng đã giảm 18,2% về số vụ so với năm 2004. Về công tác phòng, chống cháy rừng,
mặc dù đã chủ động ngay từ đầu mùa khô, nhưng do nắng hạn kéo dài nên đã xảy ra tới 25 vụ
cháy rừng làm thiệt hại 77 ha. Mùa khô năm 2007 trên lâm phần rừng tràm chỉ xảy ra 9 vụ
cháy, làm thiệt hại 18 ha rừng. [62],[65]
Rõ ràng rừng có vai trò rất quan trọng đối với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh
quốc phòng đối với tỉnh Cà Mau. Ngoài cung cấp vật liệu xây dựng, chất đốt và các sản vật quý
báu cho nhu cầu xã hội, nó còn cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm xuất khẩu cà các ngành công nghiệp khác. Tài nguyên rừng còn tham gia vào việc giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động, góp phần ổn định dân cư, ngoài ra rừng còn có tác
dụng ngăn chặn gió bão, chống xói lỡ ven biển, ven sông, điều hòa khí hậu, lấn biển…Với ý
nghĩa đó, cần nắm vững và thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển lâm nghiệp của
Đảng và Nhà nước một cách triệt để trên cơ sở vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa
phương, tạo điều kiện cho ngành lâm nghiệp phát triển bền vững, phát huy tính chủ động trong
quản lý bảo vệ rừng, tạo niềm tin và động lực thực sự đối với đơn vị sản xuất và người làm
nghề rừng, coi công tác giao đất, khoán rừng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong chiến lược tổ
chức lại rừng gắn với tổ chức sản xuất để thực hiện ba mục tiêu: ổn định tình hình rừng, ổn định
sản xuất, ổn định đời sống nhân dân vùng rừng.
Được sự chỉ đạo sâu sát của Trung ương cùng với sự nỗ lực của nhân dân và các cấp
chính quyền, kinh tế rừng Cà Mau đang mở ra hướng phát triển thuận lợi, tin chắc rằng khái
niệm “rừng vàng, biển bạc” ở Cà Mau sẽ trở thành hiện thực không xa.
2.4. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Tuy Cà Mau không có thế mạnh về công nghiệp nhưng trong 10 năm qua, công nghiệp
của tỉnh vẫn phát triển toàn diện và tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng dần theo
thời gian, năm sau cao hơn năm trước, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước.
Đặc điểm của công nghiệp Cà Mau là phát triển toàn diện, gắn với các hoạt động chế
biến sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và xuất khẩu. Cơ cấu sản xuất công nghiệp chuyển dịch
theo hướng đa ngành, đa thành phần và khu vực kinh tế. Nét nổi bật trong tăng trưởng sản xuất
công nghiệp của Cà Mau 10 năm qua là khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh đạt tốc độ cao.
Khu vực công nghiệp có vốn FDI chiếm tỉ trọng nhỏ nhưng tăng trưởng khá, đạt bình quân từ
18 đến 19,46%/năm. Công nghiệp khu vực Nhà nước biến động ngược chiều, thời kỳ 1996 -
2000 tăng bình quân 20,35%; thời kỳ 2001- 2005 giảm bình quân 0,37%/năm do thực hiện chủ
trương cổ phần hóa.
Là tỉnh có thế mạnh tuyệt đối về nuôi trồng và đánh bắt thủy sản nên hoạt động chủ yếu
của công nghiệp Cà Mau là chế biến thủy hải sản xuất khẩu. Năm 2005, giá trị sản xuất công
nghiệp chế biến thủy hải sản Cà Mau đạt 6.627 tỉ đồng, chiếm 96,9% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp của tỉnh, gấp 4 lần năm 1996 và bằng 2,36 lần năm 2000. Năm 2007, giá trị sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 21% so với năm 2006; trong đó khu vực kinh tế nhà
nước giảm 8%; khu vực kinh tế tư nhân tăng 26,41%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 7,74%. [13, tr.65-66],[65, tr.3]
Có được kết quả trên là do sản lượng thủy sản sản xuất và nhu cầu thị trường xuất khẩu,
nhất là tôm tăng nhanh, máy móc thiết bị và công nghệ chế biến thủy sản được tăng cường qua
các dự án đầu tư của Nhà nước và doanh nghiệp. Tính chung 10 năm qua, ngành công nghiệp
chế biến thủy sản được đầu tư 450 tỉ đồng để đổi mới công nghệ, trong đó lắp đặt thêm 18 băng
chuyền IQF, nâng công suất đông IQF từ 4.000 tấn đông lên 24.000 tấn đông/năm. Công suất
chế biến thủy sản năm 2007 của các nhà máy đạt 300.000 tấn, tăng khoảng 12 lần năm 1996.
Một nguyên nhân quan trọng khác là do đường lối đổi mới và hội nhập của Đảng và các chính
sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước đã tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu thủy
sản sang các nước và khu vực có nhiều tiềm năng như châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản…
Không chỉ tăng trưởng cao, công nghiệp Cà Mau 10 năm qua còn có xu hướng chuyển
dịch cơ cấu sản xuất theo hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần kinh tế. Bên cạnh các
ngành công nghiệp, các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống như chế biến thủy sản, lương
thực, làm đồ gỗ, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền… Những năm gần đây còn có thêm một số
ngành mới như sửa chữa thiết bị văn phòng, máy tính, radio, thu hình và thiết bị truyền thông,
sản xuất thiết bị điện, sản xuất và phân phối điện. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp các năm
sau đều cao hơn năm trước: năm 2006 là 13.786 tỉ đồng; năm 2007 là 17.334 tỉ đồng. [19,
tr.197]
Trong nội bộ ngành công nghiệp chế biến thủy sản bước đầu cũng đã có chuyển đổi cơ
cấu theo hướng đa dạng hóa và nâng cao chất lượng để phù hợp với nhu cầu thị trường nhập
khẩu khó tính. Bên cạnh sản phẩm chính là tôm đông lạnh và cá đông, những năm gần đây đã
có thêm một số sản phẩm thủy sản khác qua chế biến chất lượng cao hơn. Năm 2005, chỉ riêng
xuất khẩu hàng thủy sản đạt 509.954 ngàn USD bao gồm 58.000 tấn tôm đông (bằng 2,26 lần
so với năm 2000), 2.000 tấn cá đông và thủy sản khác qua chế biến theo yêu cầu thị trường khó
tính châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản…, năm 2006 là 579.463 ngàn USD và năm 2007 là 594.812
ngàn USD. [13],[18],[19]
Một đặc điểm đáng chú ý nữa của công nghiệp Cà Mau là cơ cấu theo thành phần và khu
vực kinh tế trong công nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành
phần. Tỉ trọng khu vực kinh tế nhà nước giảm dần từ 73,2% năm 1996 xuống 52,1% năm 2000
và 18% năm 2005; tỉ trọng khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh từ 16,8% lên 47,9% năm 2000
và 82% năm 2005. Đặc biệt thành phần kinh tế hỗn hợp chủ yếu là hình thức Công ty cổ phần
tăng rất nhanh từ số 0 năm 1996 lên 18% năm 2001 và 74,9% năm 2005. Chỉ riêng năm 2007
có 427 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn đăng ký 4.953 tỉ đồng, nâng tổng số hiện có
2.567 doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn của tỉnh với tổng vốn đăng ký trên 9.000 tỉ
đồng.[65, tr.4]
Cơ cấu lao động công nghiệp cũng chuyển dịch theo hướng tăng số lượng và tỉ trọng lao
động công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và đồ uống, giảm số lượng và tỉ trọng lao
động công nghiệp khai thác.
Sau chế biến thủy sản, từ năm 2001 trở đi, có một số ngành công nghiệp chế biến khác
tăng trưởng nhanh như sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản, sản xuất các sản phẩm cao su và
plastic, các sản phẩm chất khoáng phi kim loại.
Giá trị sản xuất của sản phẩm gỗ và lâm sản tăng từ 9,8 tỉ đồng năm 2001 và đến năm
2005 đạt 36,9 tỉ đồng, bằng gần 4 lần năm 2001; năm 2007 là 38.386 tỉ đồng. Tương tự như
vậy, sản phẩm cao su và plastic từ 2,9 tỉ đồng lên 10,3 tỉ đồng; sản phẩm chất khoáng phi kim
loại từ 301 triệu đồng lên 1.006 triệu đồng. [13],[19]. Tuy giá trị và tỷ trọng nhỏ nhưng sự tăng
trưởng lại nhanh và khá ổn định liên tục trong nhiều năm, đây là những tín hiệu mới cần được
quan tâm trong cơ chế và chính sách đầu tư ngành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp của Cà
Mau trong những năm tới. Bên cạnh đó khu vực công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của tỉnh còn chiếm tỷ trọng nhỏ (chủ yếu tập trung vào chế biến bột cá xuất khẩu)
nhưng đã mở ra khả năng phát triển trong tương lai.
10 năm qua, tỉnh đã tập trung quy hoạch, đầu tư để phát triển các khu công nghiệp tại
thành phố Cà Mau, thị trấn Năm Căn, một số cụm công nghiệp trọng điểm ven biển như Sông
Đốc, Khánh An, Khánh Hội…Đầu tư vốn và công nghệ phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp khu vực nông thôn, phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
Hàng loạt điểm cơ khí nông nghiệp, đóng và sửa chữa tàu thuyền, sản xuất bột cá thức ăn gia
súc, sản xuất vật liệu xây dựng…được hình thành và mở rộng.
Khu công nghiệp Khánh An nằm tiếp giáp với khu công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau,
có qui mô diện tích 360 ha và 100 ha các khu dịch vụ kèm theo như các ngành công nghiệp chế
biến thủy sản, nông sản, sản xuất thức ăn gia súc, thức ăn nuôi tôm, sản xuất vật liệu xây dựng
để phục vụ khu công nghiệp.
Khu công nghiệp Phường 1 thành phố Cà Mau có diện tích 83,5 ha, hướng bố trí các cơ
sở công nghiệp chế biến thủy sản, nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa và đóng mới
tàu thuyền.
Khu công nghiệp Phường 8 thành phố Cà Mau có diện tích khoảng 200 ha, hướng bố trí
các ngành công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, công nghiệp may mặc, cơ khí và lắp ráp
điện tử.
Khu công nghiệp Năm Căn thuộc huyện Năm Căn có diện tích khoảng 200 ha, hướng bố
trí các ngành chế biến thủy sản, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, cơ khí, sản xuất ngư cụ, các
loại sản phẩm trước và sau đánh bắt thủy sản.
Khu công nghiệp Sông Đốc thuộc huyện Trần Văn Thời có diện tích 50 ha, hướng bố trí
các ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, các phương tiện giao thông thủy, chế
tạo máy công cụ, cơ khí, điện tử, chế biến thủy sản, thức ăn gia súc và các ngành dịch vụ đánh
bắt thủy sản.
Do đặc điểm là tỉnh thuần nông nên các cơ sở công nghiệp nông thôn mới hình thành đều
có qui mô vừa và nhỏ, phù hợp với khả năng vốn, công nghệ và thị trường tiêu thụ là nông dân,
ngư dân. Phát triển công nghiệp nông thôn còn tạo ra môi trường để thu hút lao động dư thừa từ
nông nghiệp, giải quyết việc làm cho một bộ phận nông dân nghèo không có hoặc có quá ít đất
nông nghiệp vốn khá nhiều tại địa phương.
Tuy có những thành tựu nhất định nhưng vị trí của ngành công nghiệp Cà Mau còn rất
khiêm tốn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, chủ yếu là chế biến nông sản và thủy sản ngoài quốc
doanh. Vị trí này không tương xứng với tiềm năng to lớn và thế mạnh của tỉnh về năng lực sản
xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, nhất là sản lượng chế biến xuất khẩu. Tỷ trọng công
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm thường chiếm tỷ lệ cao trong tổng giá trị sản xuất công
nghiệp của tỉnh, trong đó chủ yếu là chế biến thủy sản xuất khẩu dưới dạng đông lạnh khô.
Điều đáng quan tâm là trong các ngành sản phẩm công nghiệp còn vắng bóng nhiều ngành công
nghệ cao, chế biên tinh, cơ khí chính xác; các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp tuy có phục hồi và
phát triển để phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại địa phương như nông cụ cầm tay, đồ gỗ gia dụng,
đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, may mặc… nhưng quy mô còn rất nhỏ, công cụ thủ công nửa
cơ khí là chủ yếu. Cũng cần thấy rằng thời gian qua những tiến bộ trong công nghiệp chế biến
thủy sản còn quá chậm, sản phẩm tôm cá vẫn tiếp tục xuất khẩu dạng thô nên giá trị thấp, sức
cạnh tranh kém. Do chưa có nhiều sản phẩm thủy sản tinh chế nên giá trị xuất khẩu tuy có tăng
hàng năm nhưng hiệu quả không cao.
Mặc dù công nghiệp Cà Mau còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP nhưng điều đáng ghi
nhận là trong 10 năm qua đã phát triển đúng hướng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng
bộ lần thứ XI (12/1997): “Định hướng phát triển công nghiệp trong những năm tới là gắn việc
đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn với phát triển công
nghiệp chế biến, trọng tâm là chế biến thủy, hải sản, nông sản, thực phẩm (như chế biến tôm
phải tinh chế, gạo phải chất lượng cao…), nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, tạo ra giá trị
xuất khẩu ngày càng cao. Phát triển mới một số cơ sở công nghiệp đáp ứng nhu cầu sản xuất,
đời sống, tăng tích lũy, tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ…”.[27, tr.12]
2.5. Thương mại - Du lịch
Tốc độ tăng trưởng thương mại Cà Mau trong 10 năm qua tương đương tốc độ tăng
chung của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ của
tỉnh đạt 38.068 tỉ đồng, bình quân mỗi năm đạt 3.807 tỉ đồng. Thị trường hàng hóa và dịch vụ
trong tỉnh phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Sản phẩm hàng hóa đa dạng, chất lượng và cơ cấu
hàng hóa phong phú, lưu thông tự do, kể cả các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Hệ thống chợ nông thôn được mở rộng. Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp
và thủy sản năm 2001, toàn tỉnh có 38 xã có chợ, chiếm tỉ lệ 57,58% tổng số xã, cao hơn Long
An (49,38%) và thấp hơn mức trung bình của đồng bằng sông Cửu Long (71,39%). Hàng hóa
tiêu dùng thiết yếu đã đến tận vùng sâu, vùng xa, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trong mọi
điều kiện. Sự tham gia của các thành phần và khu vực kinh tế trong tỉnh khá sôi nổi. Thương
mại nhà nước chiếm tỉ trọng 11,35%; thương mại ngoài nhà nước chiếm 88,63% và phát triển
rộng khắp với tốc độ nhanh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và các dịch vụ xã hội của khu vực
ngoài nhà nước thời kỳ 2001- 2005 đạt 24.515 tỉ đồng, tốc độ tăng bình quân đạt 23,70%, riêng
năm 2005 đạt 6.665 tỉ đồng, chiếm trên 88,63% tổng mức và tăng 1,89 lần năm 2000; năm
2006 là 9.261 tỉ đồng và năm 2007 là 11.365 tỉ đồng.[13],[18],[19]
Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng những năm qua đã có sự chuyển
dịch theo hướng đa thành phần, trong đó kinh tế tư nhân và cá thể là chủ yếu. Giá cả nhiều mặt
hàng tuy có tăng nhưng nhìn chung vẫn được quản lý chặt chẽ theo chủ trương bình ổn giá. Đến
năm 2007, tổng mức lưu chuyển hàng hóa trên thị trường đạt 24.000 tỉ đồng, trong đó tổng mức
bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội chiếm 11.330 tỉ đồng, tăng 22,4% so với năm 2006. [20, tr.4]
Theo công bố của Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam, cho đến tháng 6/2006,
Cà Mau có chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) đứng thứ 57/64 tỉnh, thành phố trong cả nước và
đứng thứ 12/13 tỉnh, thành khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đây quả là một điều bất lợi cho
Cà Mau trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là mời gọi thu hút đầu tư phát triển kinh
tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, đến nay sau một năm thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, môi
trường đầu tư và kinh doanh ở Cà Mau đã từng bước được cải thiện.
Với quyết tâm tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tỉnh Cà Mau đã ban hành nhiều chính
sách ưu đãi, thông thoáng để mời gọi, thu hút đầu tư trong và ngoài nước; thực hiện cơ chế một
cửa; những quy trình, hồ sơ giấy tờ được công khai hướng dẫn rõ ràng. Năm 2005, Cà Mau có
2.340 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký 8.300 tỉ đồng. Trong đó, 350 doanh nghiệp được
thành lập theo Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp có tổng vốn đăng ký trên 4.500 tỉ đồng. Đến
năm 2007 tình hình đầu tư phát triển có nhiều chuyển biến tích cực, tổng vốn đầu tư toàn xã hội
khoảng 12.254 tỉ đồng, tăng 59,92% so với năm 2006. [18, tr.1]
Do tỉnh đã tập trung chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính, kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư nên chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh đã được
cải thiện đáng kể, từ thứ hạng 57/64 tỉnh, thành phố vào năm 2006 đã tăng lên thứ hạng 29/64
vào năm 2007. Đây là một kết quả quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho địa
phương, tạo đà thuận lợi trong việc mời gọi, thu hút đầu tư hiện nay và những năm tiếp sau.
Bên cạnh đó, tỉnh Cà Mau cũng tích cực sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước một
cách đồng bộ, đúng lộ trình. Đến năm 2007 đã cổ phần hóa 17 doanh nghiệp và 2 bộ phận
doanh nghiệp; hoàn thành việc sắp xếp 8 Công ty lâm nghiệp và 5 Ban quản lý rừng phòng hộ;
hoàn thành việc cổ phần hóa Công ty thương nghiệp Cà Mau, tiếp tục thực hiện cổ phần hóa 3
doanh nghiệp khác là Công ty Phát triển nhà Minh Hải, Công ty Dịch vụ Thương mại và nhà
máy đường Thới Bình. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi chuyển đổi
hình thức sở hữu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa nhanh hơn,
tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tăng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp và đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước.
Trên lĩnh vực xúc tiến thương mại và đầu tư, Cà Mau đã giới thiệu, cung cấp kịp thời
những thông tin về điều kiện, môi trường đầu tư, cơ chế chính sách cho nhà đầu tư dưới nhiều
hình thức như: tiếp xúc trực tiếp, văn bản, thư điện tử, mạng Internet…; hướng dẫn thủ tục đăng
ký kinh doanh, cấp giấy chứng nhận đầu tư và hướng dẫn cho một số nhà đầu tư ngoài tỉnh
tham quan, khảo sát thực tế để tính toán khả năng đầu tư vào Cà Mau. Ngoài ra, tỉnh còn tổ
chức các lớp tập huấn, trang bị kiến thức về thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với đào
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cung ứng lao động có kỹ thuật, có tay nghề cao cho
các doanh nghiệp; cung cấp thông tin về thị trường trong và ngoài nước cho doanh nghiệp để
nắm bắt kịp thời tình hình nhằm chủ động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Trong năm 2007,
UBND tỉnh đã phê duyệt 14 đề tài, dự án khoa học công nghệ cấp tỉnh; triển khai 4 dự án ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật quy mô lớn, tiếp tục triển khai việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
ISO 9001 - 2000 trong lĩnh vực hành chính công. Ngoài ra, công tác thông tin sỡ hữu trí tuệ,
bảo hộ nhãn mác hàng hóa cũng được quan tâm triển khai thực hiện.
Hiện nay, Cà Mau đang triển khai dự án xây dựng hạ tầng khu công nghiệp Khánh An,
khu tiểu thủ công nghiệp An Xuyên để di dời các nhà máy, xí nghiệp đang gây ô nhiễm trong
nội ô thành phố Cà Mau, đồng thời đáp ứng nhu cầu về mặt bằng cho nhà đầu tư. Đã có 7 đối
tác đăng ký đầu tư dự án với diện tích trên 55 ha và một nhà đầu tư đăng ký đầu tư hệ thống xử
lý nước thải.
Đến năm 2007, về công tác quy hoạch, tỉnh đã xây dựng hoàn thành Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau giai đoạn đến năm 2020, hiện đang trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh đó, UBND tỉnh còn chỉ đạo tiếp tục rà soát để xây dựng và điều
chỉnh một số quy hoạch ngành, lĩnh vực cho phù hợp với thực tế và quy hoạch tổng thể của
tỉnh.
Bảng 2.7: Giá trị hàng hóa xuất khẩu
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: nghìn USD
1997 2001 2005 2007
- - - -
- - - -
Hàng hóa - Công nghiệp nặng và khoáng sản - Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp - Nông sản - Lâm sản - Thủy sản 7.202 - 129.456 7.966 - 243.896 10.948 - 509.954 6.041 - 594.756
Để đẩy nhanh quá trình phát triển thương mại, ngoài việc tăng cường công tác xúc tiến
thương mại, đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác kinh doanh, quảng bá sản phẩm, xây
dựng thương hiệu, cung cấp thông tin pháp luật, thị trường…, tỉnh còn sẽ tổ chức các cuộc hội
thảo, hội chợ, diễn đàn xúc tiến thương mại, đầu tư theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu; xây
dựng mục tiêu, đánh giá và xác định thị trường trọng điểm để lựa chọn, tham gia hội chợ ở
nước ngoài; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và
phát triển nguồn nhân lực trong tỉnh trên cơ sở hoàn thiện hệ thống đào tạo dạy nghề. Đa dạng
hóa ngành nghề đào tạo kết hợp giữa đào tạo ngắn hạn, truyền nghề, dạy nghề với giải quyết
việc làm, mở rộng thông tin thị trường lao động. Ngoài ra, tỉnh cũng sẽ thực hiện công khai
minh bạch các văn bản, chính sách liên quan đến doanh nghiệp gắn với việc thường xuyên gặp
gỡ, đối thoại giữa doanh nghiệp với lãnh đạo tỉnh và các ngành chức năng nhằm trao đổi thông
tin, giải quyết những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp; từng bước thay đổi phương pháp
xây dựng kế hoạch trên cơ sở có sự tham gia của doanh nghiệp vào quá trình lập kế hoạch, xây
dựng chính sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương; xây dựng phương án
thanh tra công vụ, tăng cường công tác giám sát những bộ phận, cán bộ liên quan đến việc thực
thi chính sách, thủ tục, xử lý những vấn đề liên quan đến doanh nghiệp, cải thiện thái độ ứng xử
của cơ quan công quyền đối với doanh nghiệp nhằm chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính.
Tỉnh còn tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, tạo quỹ đất
sạch đáp ứng nhu cầu mặt bằng sản xuất của doanh nghiệp và mời gọi thu hút đầu tư; đề nghị
Trung ương sớm triển khai và hoàn thành các công trình đầu tư trên địa bàn của tỉnh như tuyến
đường Quản Lộ - Phụng Hiệp, tuyến hành lang ven biển phía Nam, đường Hồ Chí Minh…
nhằm tạo điều kiện thuận lợi về giao thông, vận tải để thu hút các nhà đầu tư.
Về du lịch, trong 10 năm qua, du lịch Cà Mau đã có nhiều khởi sắc.
Cà Mau là một bán đảo có hình mũi tàu rẽ sóng, có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên khá
đặc biệt: ba mặt giáp biển với chiều dài 250 km. Đứng ở chót mũi Cà Mau, cạnh cột mốc hành
chính quốc gia ở cực Nam - là nơi duy nhất trên đất liền của Tổ quốc ngắm nhìn được mặt trời
mọc trên biển Đông và lặn xuống biển Tây.
Quanh mũi Cà Mau là vùng biển cạn lắng đọng phù sa, mỗi năm vươn thêm ra biển gần 100 mét. Tiến ra xa hơn nữa là ngư trường rộng lớn với hơn 100.000 km2 thuộc đặc quyền kinh
tế của Việt Nam. Dưới lòng đại dương có nhiều tài nguyên dầu khí. Hệ thống sông rạch Cà
Mau chằng chịt với tổng chiều dài hơn 7.000 km rất thuận tiện cho khách du lịch có thể đi đến
được mọi nơi trong tỉnh bằng phương tiện thủy.
Địa hình Cà Mau thấp và khá bằng phẳng nhưng hình thành 3 vùng có đặc điểm tự nhiên
và tiềm năng kinh tế, du lịch khá đặc trưng:
Vùng trung tâm bao gồm thành phố Cà Mau và vùng ven các huyện Cái Nước, U Minh,
Thới Bình, Trần Văn Thời. Ở đây độ mặn ít, là vùng lúa - cá đồng, phát triển kinh tế công -
nông - thương nghiệp tổng hợp. Rừng tràm U Minh Hạ có bông tràm nở quanh năm nên có
nhiều sản vật là mật ong rừng, một nguồn dược liệu quý đồng thời là một đặc sản của Cà Mau
hấp dẫn khách du lịch. Trong rừng còn có nhiều loài động vật bò sát đặc trưng như trăn, rắn, kỳ
đà, trút… Rừng nguyên sinh Vồ Dơi còn nhiều nai, heo rừng, khỉ…
Đông Nam Cà Mau là vùng đất thấp, nhiễm mặn, chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều,
rất thích hợp cho nuôi trồng thủy sản. Ở đây có rừng ngập mặn - rừng đước Năm Căn - nổi
tiếng, có diện tích lớn thứ hai thế giới sau rừng Amazon. Khu vực này có nhiều đầm, phá, thiên
nhiên còn còn đậm nét hoang sơ, kỳ thú như đầm Bà Tường, phá Tam Giang. Ven biển có
nhiều cửa sông lớn rất kỳ vĩ như cửa Ông Trang, Ông Đốc, Bồ Đề, Bảy Háp, sông Cửa Lớn,
sông Tam Giang…ven biển Cà Mau là vùng đất bồi lắng đọng phù sa nhưng lại xen kẽ các bãi
cát, xen kẽ vùng nước trong, du khách có thể ngắm biển, tắm biển ở bãi Khai Long, bãi Giá
Lồng Đèn, hòn Đá Bạc, Hòn Khoai…
Hệ thống biển - đảo của Cà Mau gồm các cụm đảo nổi tiếng như Hòn Khoai, Hòn Chuối,
Hòn Đá Bạc… các cụm đảo này có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc gia vùng
trời, vùng biển và ven bờ biển của Tổ quốc, vừa còn là các thắng cảnh nguyên thủy hấp dẫn
cũng như các di tích lịch sử, có tiềm năng to lớn trong phát triển du lịch sinh thái biển - đảo ở
Cà Mau.
Ngoài ra, Cà Mau còn có 6 di tích lịch sử - văn hóa là Hòn Khoai, Hồng Anh Thư quán,
Đình Tân Hưng, Bến Vàm Lũng, đường Hồ Chí Minh trên biển, Chứng tích tội ác Mỹ - Ngụy
Bình Hưng - Hải Yến; kiến trúc nghệ thuật chùa Phật Tổ cùng với hệ thống hơn 100 đình, chùa,
nhà thờ, thánh thất của người Việt, Hoa, Khmer cũng là những địa chỉ của nhiều khách du lịch
khi đến Cà Mau.
Tuy là tỉnh vùng xa, giao thông không thuận lợi, cơ sở vật chất của ngành du lịch còn
nghèo nhưng trong 10 năm qua hoạt động du lịch Cà Mau đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Trung bình hàng tuần, doanh thu du lịch Cà Mau đạt trên 2 tỉ đồng, gấp đôi so với cách đây 5
năm. Chất lượng hoạt động du lịch có tiến bộ nên số ngày lưu trú của khách du lịch nước ngoài
tăng lên từ 1,2 ngày năm 1996 lên 1,4 ngày năm 2001 và 1,6 ngày năm 2005. [13,
tr.79]
Bảng 2.8: Số khách đến du lịch
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau”
+Số khách đến (người) -Người Việt Nam -Người nước ngoài +Số khách lưu trú -Người Việt Nam -Người nước ngoài +Số ngày khách lưu trú (ngày) -Người Việt Nam -Người nước ngoài 1997 54.084 3.582 51.146 2.707 66.085 3.200 2001 126.479 4.500 100.890 3.909 138.434 6.632 2005 510.322 5.300 446.244 5.129 444.196 8.174 2007 521.000 11.000 521.000 11.000 688.500 16.500
Một số khu, cụm du lịch sinh thái có nhiều tiềm năng như vùng Đất Mũi, Lâm ngư
trường 184, Lâm ngư trường Sông Trẹm, Hòn Đá Bạc… được qui hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng
và bước đầu khai thác. Sắp tới đây là Vườn Quốc gia U Minh Hạ, Công viên văn hóa Cà Mau,
Khu công nghiệp khí - điện - đạm…. Những địa điểm du lịch này sau khi đi vào hoạt động sẽ
tạo nên một diện mạo đặc trưng cho ngành du lịch Cà Mau nói riêng và của đồng bằng sông
Cửu Long nói riêng.
Hiện tại, Cà Mau đang chủ trương tạo môi trường thông thoáng nhằm thu hút có hiệu quả
các nguồn vốn, khuyến khích đầu tư phát triển các loại hình du lịch sinh thái, tổ chức những
tuor du lịch dài ngày, ngắn ngày gắn với tham quan Khu công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau,
nối tuyến đến các khu du lịch ở Đất Mũi, Hòn Khoai và một số điểm, khu du lịch khác trên địa
bàn.
Để Vườn Quốc gia U Minh Hạ trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, Sở Ngoại vụ -
Du lịch Cà Mau cho biết sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi gắn với thực hiện những chính sách ưu
đãi của tỉnh nhằm mời gọi, đón tiếp các nhà đầu tư. Trước mắt tỉnh sẽ xây dựng hoàn chỉnh đề
cương quy hoạch chi tiết dự án phát triển du lịch sinh thái Vườn Quốc gia U Minh Hạ 329 ha
thuộc phân khu dịch vụ hành chính 755 ha và triển khai thực hiện trong năm 2007. Những loại
hình mời gọi đầu tư bao gồm các dịch vụ vui chơi, giải trí, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vườn
động vật hoang dã và ẩm thực…Dự kiến nguồn vốn đầu tư hạ tầng khoảng 6 triệu USD. Hiện
tại đã có một số đối tác đăng ký đầu tư khai thác du lịch ở đây như Công ty Việt - Úc, Quang
Tiền…
Song song đó, tỉnh Cà Mau còn đầu tư dự án phát triển du lịch Công viên Văn hóa Cà
Mau cách trung tâm thành phố Cà Mau 2 km và Khu Công nghiệp khí - điện - đạm hơn 10 km,
với diện tích 32 ha, tổng vốn ước tính hơn 5 triệu USD. Hiện tại Công viên Văn hóa Cà Mau
rộng hơn 18 ha gồm nhiều công trình đã được xây dựng như tượng đài, vườn hoa, cây cảnh,
cụm kiến trúc mô phỏng nơi ở và làm việc của Bác Hồ ở thủ đô Hà Nội; phỏng tác đảo Hòn
Khoai…. Đặc biệt vườn chim tự nhiên trong khuôn viên khoảng 3 ha với đàn chim đa dạng,
phong phú về chủng loài lên đến hàng chục ngàn con. Ngoài ra, công viên còn nuôi dưỡng
nhiều thú rừng gồm: gấu, hổ, voi, beo, đà điểu…Dự án phát triển du lịch này hiện đang xây
dựng kế hoạch điều chỉnh mở rộng để trình cấp có thẩm quyền của tỉnh phê duyệt, dự kiến hoàn
thành cuối năm 2006 và triển khai thực hiện vào năm 2007. [67]
Một điều hết sức thuận tiện và thú vị là Cà Mau ở vào vị trí được coi là khá trung tâm
của vùng Đông Nam Á, trong vòng tròn bán kính 1.500 km, thì hầu như sẽ gặp các nước như
Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Myanmar, Indonesia, Philippines…là một vùng đang trỗi
dậy để phát triển và đây cũng là vùng có nhiều sinh cảnh tự nhiên cũng như nền văn hóa khá đa
dạng và sinh động của vùng Đông Nam Á. Nếu mở rộng được các khả năng giao lưu qua du
lịch sinh thái một cách mạnh mẽ, Cà Mau sẽ có nhiều khả năng phát triển kinh tế xã hội qua
con đường phát triển du lịch và hội nhập. Muốn vậy, cần khai thác lợi thế vị trí trong giao lưu
hội nhập quốc tế đường hàng không, giao thông vận tải biển, du lịch biển hải đảo và các cảng
biển trong hội nhập kinh tế và văn hóa trong khu vực.
Cà Mau là tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch - đặc biệt là du lịch sinh thái với
hai mảng rừng đước và rừng tràm lớn nhất nước, đồng thời có một mỏm đất tận cùng Tây Nam
của đất nước, nơi lấn biển hàng trăm mét mỗi năm. Đó là Mũi Cà Mau thiêng liêng của Tổ quốc
mà bất cứ người Việt Nam nào cũng mơ ước được một lần đặt chân đến. Thế nhưng trong
những năm qua, ngành du lịch Cà Mau vẫn chưa khai thác triệt để thế mạnh của mình do sự
phát triển chung chưa đồng bộ. Cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém, cung cách phục vụ còn
nghiệp dư, chưa hấp dẫn để thu hút du khách.
Từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp sau, kinh tế xã hội Cà Mau sẽ chuyển hướng
tăng dần tỉ trọng công nghiệp trong hoạch định chiến lược phát triển của mình. Ngành “công
nghiệp không khói”- du lịch - được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của
tỉnh Cà Mau, bởi du lịch đã và đang có bước phát triển vượt bậc, lượng khách du lịch tăng
trưởng bình quân 11,5%/năm, doanh thu từ du lịch tăng 15%/năm, góp phần tăng nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho lực lượng lao động địa phương. Do
vậy, cùng với việc xây dựng cơ sở vật chất, cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
cho ngành du lịch với mục tiêu: có đội ngũ cán bộ làm du lịch thật sự có năng lực, đáp ứng nhu
cầu phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó cũng cần nhanh chóng ứng dụng
công nghệ thông tin hiện đại, đặt văn phòng xúc tiến du lịch tại các thị trường trọng điểm, tranh
thủ sự hỗ trợ của quốc tế để quảng bá du lịch. Cụ thể là thực hiện các chương trình thông tin
tuyên truyền, quảng bá theo chuyên đề, kết hợp những sự kiện thể thao, văn hóa, lễ hội lớn trên
phạm vi toàn quốc và tham gia hội chợ triển lãm, hội thảo du lịch trong nước và quốc tế để giới
thiệu rộng rãi tiềm năng du lịch của tỉnh Cà Mau đồng thời chú trọng xây dựng chiến lược thị
trường, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch phục vụ du khách.
So với tiềm năng và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, những kết quả đạt được
tuy còn hạn chế, nhưng so với các thời kỳ trước đó, du lịch Cà Mau đã có bước tiến khá dài và
đang hứa hẹn nhiều triển vọng. Tương lai không xa Cà Mau sẽ là một điểm đến lý tưởng đối
với khách du lịch trong và ngoài nước.
2.6. Giao thông vận tải
Trong 10 năm qua, cùng với sự tăng trưởng chung của các ngành kinh tế khác, giao
thông vận tải Cà Mau cũng phát triển đáng kể. Dịch vụ vận tải hàng hóa và vận chuyển hành
khách tiếp tục phát triển khá toàn diện cả về số lượng và chất lượng phục vụ
Về cơ cấu theo thành phần kinh tế, hoạt động vận tải hàng hóa của tỉnh có xu hướng
chuyển mạnh từ nhà nước sang ngoài nhà nước gồm tư nhân và cá thể. Tỉ trọng khối lượng vận
tải hàng hóa ngoài nhà nước từ 92,5% năm 1996 lên 97,4% năm 2000 và 100% từ năm 2005.
Một xu hướng chuyển đổi khác rất đáng quan tâm là tỉ trọng hàng hóa vận tải đường thủy tăng
từ 64,3% năm 1996 lên 79,5% năm 2000 và trên 80% năm 2005 trên cơ sở khai thác thế mạnh
đường thủy của các huyện trong tỉnh và giữa Cà Mau với các tỉnh khác trong vùng. Chất lượng
vận tải hàng hóa được cải thiện do hệ thống đường bộ được nâng cấp, đường thủy được cải tạo,
nạo vét, luồng lạch được khai thông, các phương tiện vận tải thủy, bộ được đóng mới, mua mới
hoặc cải tiến. Đến năm 2007, so với năm 1997 số lượng ô tô vận tải hàng hóa tăng gần 3 lần,
tàu chở hàng tăng 23 lần, tàu ghe dưới 100 tấn tăng hàng chục lần. Công suất các phương tiện
vận tải thủy, bộ đều tăng nhanh nhằm tăng sức cạnh tranh giữa các chủ phương tiện. Đến năm
2007, tổng số khối lượng hàng hóa vận chuyển là 701 nghìn tấn. Sự khởi sắc của vận tải hàng
hóa đã góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển, hàng hóa lưu thông thuận tiện, tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng hàng hóa gắn với thị trường trong và ngoài nước.
Bên cạnh vận tải hàng hoá, vận chuyển hành khách 10 năm qua cũng tiếp tục phát triển
nhanh với 261.352 ngàn lượt người, tăng bình quân 13,8%/năm. Cơ cấu hành khách vận chuyển
đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng vận tải đường bộ, đồng thời giảm vận chuyển
hành khách bằng đường thủy. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu vận chuyển hành khách theo thành
phần kinh tế trong 10 năm qua cũng tương tự như vận tải hàng hóa. Tỉ trọng hành khách vận
chuyển bằng các phương tiện vận tải ngoài nhà nước tăng nhanh từ 97% năm 1996 lên 99,5%
năm 2005.
Bảng 2.9: Khối lượng hành khách vận chuyển
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: nghìn người
Đường bộ
Đường sông Đường biển Đường hàng không 1997 12.519 11.334 - - 2001 17.122 10.588 - - 2005 21.080 13.654 - 22 2007 18.544 19.674 - 25
Cùng với sự tăng nhanh về số lượng, chất lượng vận chuyển hành khách cũng được cải
thiện, đáp ứng khá tốt nhu cầu đi lại của nhân dân, kể cả các huyện, xã vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào các dân tộc.
Ngoài ra, đến nay sân bay Cà Mau đã đi vào hoạt động đang là một động lực, một đầu
mối quan trọng để Cà Mau cất cánh. Sau ba năm đưa vào sử dụng, đường bay Cà Mau - Thành
phố Hồ Chí Minh và ngược lại đã phát huy tác dụng, bước đầu kích thích kinh tế - xã hội tỉnh
nhà phát triển. Cảng hàng không Cà Mau đang dần khẳng định được vị thế của mình, không
còn là nỗi hoài nghi của nhiều người như trước đây. Từ 4 chuyến bay mỗi tháng, tăng lên 9
chuyến mỗi tháng và đến nay ngày nào cũng có chuyến.
Những kết quả đạt được trong những năm qua của Cảng hàng không Cà Mau cho thấy
sân bay Cà Mau đang được phát triển một cách mạnh mẽ. Do rút ngắn được khoảng cách thời
gian, nhiều doanh nghiệp Cà Mau đã có điều kiện giao thương, hợp tác với các doanh nghiệp
trong nước thuận tiện hơn, qua đó càng thu hút các nhà đầu tư đến với Cà Mau nhiều hơn.
Khoảng cách giữa các vùng trọng điểm kinh tế cả nước với Cà Mau cũng được nhích lại gần
hơn. Điều đáng mừng là lượng khách quốc tế đến Cà Mau ngày một tăng lên.
Phương thức xã hội hóa ngành vận tải hành khách và hàng hóa với sự tham gia của tất cả
các thành phần và khu vực kinh tế đã được thể hiện khá rõ nét ở Cà Mau, phù hợp với chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, đồng thời khai thác được tiềm
năng và thế mạnh về năng lực vận tải của địa phương, nhất là vận tải đường thủy. Hoạt động
vận tải đã đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của công cuộc phát triển kinh tế và đi lại của
người dân.
Từ một hệ thống giao thông phụ thuộc vào sông nước là chủ yếu, ngành giao thông - vận
tải Cà Mau đang từng bước được mở rộng, phát triển thêm mạng lưới đường bộ và đường hàng
không. Những kết quả đạt được tuy chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương nhưng đã thể hiện sự nỗ lực rất lớn của các cấp, các ngành và nhân dân địa
phương. Trong những năm tới, với sự quan tâm của Trung ương, sự quyết tâm của tỉnh và sự
hợp tác đầu tư trong, ngoài nước, mạng lưới giao thông - vận tải Cà Mau sẽ phát triển nhanh
hơn, đồng bộ hơn, tạo dựng một “đường băng” cho Cà Mau cất cánh.
Như vậy, trong 10 năm (1997-2007), kinh tế Cà Mau đã có nhiều chuyển biến quan
trọng, tích cực theo hướng ngày càng toàn diện, tỷ trọng công nghiệp-dịch vụ ngày càng cao và
tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm trong cơ cấu GDP của tỉnh. Thành tựu đó rất đáng tự hào,
tạo thế và lực cho Cà Mau trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.
Có được những thành tựu trên trước hết là do tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của
nhân dân Cà Mau đã được đánh thức lại tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất kinh
doanh theo cơ chế mới. Nhiều mô hình sản xuất kinh doanh giỏi trong các lĩnh vực đã được
phát hiện, tổng kết và nhân rộng. Mặt khác đội ngũ cán bộ công chức trong tỉnh đã trưởng thành
qua thực tiễn, lại được đào tạo lại, bồi dưỡng những kiến thức mới về quản lý kinh tế theo
hướng thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một nhân tố quyết định sự thành công
của quá trình phát triển tỉnh nhà.
Một nguyên nhân khác nữa là nhờ những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước, của vùng đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra các tiền đề vật chất, khơi dậy những động
lực tinh thần, tạo thêm niềm tin cho cán bộ và quân dân trong tỉnh Cà Mau về đường lối đổi
mới và hội nhập của Đảng. Nhờ đó năng lực sản xuất của nhiều ngành trong tỉnh đã được tăng
cường sau 10 năm tách tỉnh.
Để phát triển, tỉnh đã chú ý đã được xây dựng mới và nâng cấp kết cấu hạ tầng đảm bảo
các yêu cầu cơ bản của phát triển kinh tế và xã hội trong thời kỳ mới. Một số công trình xây
dựng mới do Trung ương đầu tư trên địa bàn của tỉnh sẽ đi vào hoạt động và mang lại những
hiệu quả to lớn trong những năm tới.
Từ tư duy thông thoáng và những chính sách đổi mới của Nhà nước trung ương và địa
phương, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế ngoài quốc doanh đã
mạnh dạn đầu tư vốn, lao động và khoa học công nghệ để hiện đại hóa máy móc, thiết bị phục
vụ sản xuất và kinh doanh dịch vụ, góp phần tăng năng lực sản xuất của tỉnh. Cũng từ đó thị
trường hàng hóa và dịch vụ được mở rộng, quan hệ hợp tác và đầu tư giữa Cà Mau với các địa
phương trong nước và nước ngoài được tăng cường (nhất là thị trường xuất khẩu thủy sản). Đó
là điều kiện quan trọng để phát huy thế mạnh của tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội trong giai
đoạn mới.
Kết quả có ý nghĩa nhất là trong 10 năm qua đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện,
an ninh chính trị tiếp tục ổn định từ đó làm tăng lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với Chính
quyền các cấp, tin vào sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Mặc dù có những thành tựu nhất định nhưng cũng cần thấy rõ sau 10 năm tách tỉnh, Cà
Mau vẫn là một tỉnh có cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, tỉ trọng công nghiệp - xây dựng và thương
mại - dịch vụ còn quá nhỏ lại tăng chậm trong khi đó tỉ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản lại
lớn và giảm chậm. Tình trạng lao động dư thừa trong nông nghiệp và thủy sản còn lớn nhưng
khả năng tạo việc làm mới của tỉnh lại hạn chế. Năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật
nuôi còn thấp so với các tỉnh trong vùng, kể cả lúa và thủy sản nuôi trồng.
Thế mạnh thủy sản tuy đã được khai thác bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng tính bền
vững chưa cao. Với lợi thế của tỉnh lớn nhất nước về chế biến và xuất khẩu thủy sản nhưng chỉ
có 1 dự án FDI (Sing Việt sản xuất bột cá) là điều chưa hợp lý. Kinh nghiệm các tỉnh cả nước
từ Bắc chí Nam cho thấy muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nhất thiết phải có nhiều dự án FDI. Vấn đề này là rất cần thiết đối với Cà Mau.
Thiếu vốn là khó khăn chung của các doanh nghiệp, các chủ trang trại, các hộ gia đình
nông dân, ngư dân nhưng chưa có nhiều giải pháp hữu hiệu. Sản phẩm hàng hóa dịch vụ chưa
cao, tiềm năng du lịch chưa được đầu tư, khai thác hợp lý nên kết quả còn thấp. Hệ quả là sức
cạnh tranh về các mặt của Cà Mau so với các vùng khác trong nước còn rất hạn chế.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn thấp, nhất là giao
thông đường bộ so với yêu cầu và khả năng của địa phương. Không có nguồn vật liệu tại chỗ
nên xây dựng cơ bản gặp nhiều khó khăn. Nhu cầu đầu tư lớn trong khi nguồn vốn ngân sách
hạn hẹp, vốn trong dân và doanh nghiệp không nhiều. Cà Mau vẫn là tỉnh nghèo, trình độ dân
trí thấp, đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn. Trình độ, năng lực của cán bộ các ngành,
các cấp trong bộ máy Nhà nước chưa đều và nói chung còn hạn chế về nhiều mặt nhưng khả
năng bồi dưỡng, đào tạo lại còn hạn chế do khó khăn về kinh phí và xa các trung tâm đào tạo
của Trung ương. Những hạn chế này chắc chắn sẽ ảnh hưởng không ít đối với quá trình phát
triển kinh tế, xã hội của Cà Mau trong thời gian tới nếu không kịp thời giải quyết.
Chương 3: QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN VỀ VĂN HÓA – XÃ HỘI
3.1. Về văn hóa và giáo dục - đào tạo
3.1.1. Về văn hóa
Sau khi được tái lập, hoạt động văn hóa được các ngành, các cấp quan tâm đầu tư xây
dựng. Cơ sở vật chất và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa, tổ chức biểu diễn phù hợp với điều
kiện của địa phương, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Đến năm 2007, toàn tỉnh có 4 trung tâm
văn hóa tỉnh, 4 trung tâm văn hóa huyện, 3 đơn vị nghệ thuật, 1 rạp chiếu phim, 10 thư viện và
hàng trăm điểm bưu điện văn hóa xã. Số buổi biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhân dân trong tỉnh
tăng từ 620 buổi năm 1995 lên 651 buổi năm 2000 và 1.500 buổi năm 2005. Từ năm 2006, do
phương tiện nghe nhìn trong dân chúng tăng nhiều nên số buổi biểu diễn chỉ còn 232 buổi. Tuy
vậy, với việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, văn nghệ, những năm gần đây, ngành
văn hóa thông tin đã phối hợp với các cấp chính quyền tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nhất là
các lễ hội truyền thống, các trò chơi dân gian được khôi phục thông qua các hội thi, hội diễn
văn nghệ được tổ chức ở nhiều địa phương, thu hút được nhiều đối tượng tham gia. Số lượt
người đến đọc sách tại các thư viện cũng tăng nhanh từ 91 ngàn lượt năm 2000 lên 200 ngàn
lượt năm 2007.
Chất lượng các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thư viện cũng ngày càng tăng, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu đời sống văn hóa của dân chúng. Các sản phẩm của văn hóa truyền thống vùng
sông nước như đờn ca tài tử, cải lương Nam Bộ… cũng được khai thác, cải biên, kết hợp với
nghệ thuật hiện đại, phù hợp với yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của các đối tượng, các lứa
tuổi, các khu vực dân cư từ thành thị đến nông thôn. Bản sắc văn hóa dân tộc được duy trì và
phát triển, nhất là ở vùng nông thôn.
Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, ấp, khóm văn hóa phát triển
mạnh và đem lại kết quả khả quan. Số ấp, tổ dân phố và gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa cũng
ngày càng tăng. Năm 2005 có 30% số xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn văn hóa, tăng gần 6
lần so với năm 2000. Đến năm 2007 toàn tỉnh có 85% số hộ gia đình, 77% khóm, ấp, 35% xã,
phường, thị trấn đạt chuẩn văn hóa. [65, tr.4]
Kết quả đưa lại từ cuộc vận động xây dựng cuộc sống văn hóa ở khu dân cư đã làm cho
bộ mặt nông thôn và thành thị Cà Mau có nhiều chuyển biến rõ nét thông qua các phong trào
giúp nhau làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo; phong trào đã khơi dậy và thắt chặt khối đoàn kết
tình làng nghĩa xóm, đồng thời phát huy dân chủ, nâng cao dân trí, không những giữ vững được
an ninh trật tự ở địa bàn dân cư mà còn củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở.
Ngoài ra, hoạt động thư viện, các điểm bưu điện văn hóa xã với những nội dung phong
phú đã cung cấp thông tin về khuyến nông, khuyến ngư, thông tin thị trường nông sản hàng
hóa, nhất là thị trường, giá cả tôm cá…phục vụ bà con nông dân, ngư dân tiếp cận thị trường.
Số lượng sách báo trong các thư viện tăng nhanh, từ 91.500 cuốn năm 1997 lên 510.440 cuốn
năm 2003 và 1.100.000 cuốn năm 2007 nên đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người đọc.
[14],[18],[19]
Hoạt động văn hóa thông tin, báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình đã có tác dụng
tích cực trong việc tuyên truyền, phổ biến kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các sự kiện chính trị quan trọng, ngoài ra công tác quản lý nhà nước trên
lĩnh vực văn hóa, văn nghệ cũng được tăng cường, hạn chế được những luồng văn hoá không
lành mạnh đang ngày càng có xu hướng gia tăng trên địa bàn tỉnh.
Nói đến Cà Mau không thể không nói đến những lễ hội cổ truyền của vùng đất này. Sau
10 năm tách tỉnh, các lễ hội này càng được tổ chức có qui cũ hơn, mang đậm nét sinh hoạt tâm
linh đặc sắc của vùng sông nước Cà Mau.
Vào Rằm tháng Giêng (Rằm Thượng nguyên), mọi người lũ lượt kéo về chùa Phật Tổ để
hái lộc đầu năm, làm việc thiện. Lễ Rằm tháng Giêng là lễ của người Kinh nhưng cũng có đông
đảo bà con đồng bào Hoa, Khmer đến hành lễ. Bà con về chùa để cầu mong mọi sự tốt lành,
phát đạt cho bản thân và gia đình. Ngoài ra, đây cũng còn là dịp để cho những nam thanh, nữ
tú hẹn hò một cuộc du xuân vào đầu năm mới.
Đối với người Khmer thì lễ hội Cholchnam Thmây là lễ hội lớn nhất. Đây là lễ hội đón
năm mới của bà con đồng bào Khmer được tổ chức vào các ngày 13, 14 và 15 tháng 4 Dương
lịch. Vào lễ mừng năm mới, bà con tề tựu đông đủ trên chính điện. Mọi người đều thành kính
hướng về Phật Tổ mong cầu được phước lành, sống yên ổn với vụ mùa năm tới bội thu.
Tháng Ba Âm lịch, người Hoa ở Cà Mau có ngày vía Bà Thiên Hậu. Đây là lễ hội có từ
lâu đời của người Hoa ở Cà Mau. Lễ hội vía Bà được tổ chức hằng năm vào ngày sinh của Bà -
ngày 23 tháng 3. Ở đâu có sông nước, có cửa biển là ở đó có miếu Bà Thiên Hậu. Vì vậy, dịp
vía Bà còn được xem là lễ hội của những người đi biển. Vào ngày vía, đồng bào người Hoa tổ
chức lễ hội rất chu đáo: tế heo sống nguyên con; tổ chức hát Quảng….Vào dịp này, bà con
người Việt cũng tề tựu về chùa Bà để cầu tài lộc.
Lễ hội chùa Bà ở Cà Mau không chỉ là ước vọng tâm linh của con người về hạnh phúc,
may mắn, mà còn mang đậm màu sắc dân gian, huyền thoại. Ngoài ra, đây còn là một lễ hội
mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện tình đoàn kết tương thân, tương ái của hai dân tộc Hoa -
Việt trong khối đoàn kết đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Ngoài các lễ hội trên, ở Cà Mau hàng năm còn có lễ hội Nghinh Ông vào ngày Rằm
tháng Hai. Lễ hội Nghinh Ông nói lên niềm khát khao một mùa cá thắng lợi.
Bên cạnh đó, hoạt động thể dục, thể thao cũng có nhiều tiến bộ. Trong thời gian qua,
ngành thể dục thể thao đã phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục đẩy mạnh công tác giáo dục thể
chất cho học sinh, sinh viên trong nhà trường, thường xuyên tổ chức phong trào tập luyện và thi
đấu các môn thể thao. Giáo dục thể chất nội khóa được thực hiện có nề nếp ở 120 điểm trường,
đạt 100% điểm tham gia; giáo dục thể chất ngoại khóa có 102 điểm trường tham gia hoạt động
đạt 85%. Phong trào tập luyện thể thao thành tích cao được duy trì và phát triển khá ổn định.
Thành tích thi đấu của các môn thể thao ngày càng tăng trong các năm gần đây: từ 35 huy
chương các loại năm 2000 lên 92 huy chương năm 2004, tăng 57 huy chương so với năm 2000.
Đội bóng nhi đồng Cà Mau được tập luyện, thi đấu thường xuyên và đã đạt được tiến bộ rõ nét,
những năm gần đây được xếp vào loại khá của cả nước. Phong trào tập luyện thể dục - thể thao
quần chúng trong các cơ quan cấp tỉnh, huyện, các đơn vị lực lượng vũ trang phát triển mạnh và
duy trì thường xuyên. Hiện nay toàn tỉnh có 680 câu lạc bộ thể dục thể thao; có 16% gia đình
đạt chuẩn gia đình thể thao, 22% dân số luyện tập thể dục thể thao thường xuyên. [23, tr.88]
3.1.2. Công tác giáo dục - đào tạo
Trong 10 năm qua, công tác giáo dục, đào tạo Cà Mau có nhiều tiến bộ vượt bậc so với
các thời kỳ trước.
Năm học 1996 -1997 là năm học đầu tiên sau khi tách tỉnh, ngành giáo dục - đào tạo Cà
Mau có những chuyển biến đáng kể. Số lượng học sing các cấp học, ngành học đều tăng, mạng
lưới trường lớp được sắp xếp phù hợp hơn với cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân mới và địa
bàn dân cư của từng địa phương. Chất lượng học tập các cấp học ổn định và có chiều hướng đi
lên. Tỉ lệ tốt nghiệp tiểu học đạt 91,53%; trung học cơ sở 65,9%; phổ thông trung học 83,12%;
bổ túc văn hóa cơ sở 43,8%; bổ túc văn hóa trung học 60,3%; tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học
giảm hơn các năm trước, cũng trong năm học này có 47 học sinh đạt giải học sinh giỏi vòng
quốc gia. Trong dịp tổng kết năm học 1996 -1997 toàn quốc, ngành giáo dục - đào tạo Cà Mau
đã được Bộ Giáo dục - đào tạo khen thưởng 6 chỉ tiêu công tác và được Chủ tịch nước tặng
thưởng Huân chương độc lập hạng ba. [52, tr.10]
Từ đó trở đi, đặc biệt là từ năm học 1992-1993, giáo dục Cà Mau đã chặn đứng được sự
xuống cấp và giảm sút; quy mô, chất lượng giáo dục, nền nếp kỷ cương học đường được phục
hồi và tiếp theo là hai năm học 1994-1995; 1995-1996 các ngành học, bậc học đều phát triển
vượt bậc. Từ năm 2005, bình quân 4 người dân có 1 người đi học, so với 30 năm trước (1975),
số trường học các cấp tăng gấp 4 lần, bình quân mỗi xã có ít nhất 3 trường tiểu học, 1 trường
trung học cơ sở, số học sinh tăng gấp 3 lần, trong đó học sinh trung học cơ sở tăng trên 10 lần,
học sinh trung học phổ thông tăng trên 20 lần. Tỉ lệ huy động trẻ em 6 tuổi vào học lớp 1 đạt
97,5%, trong đó có 62,25% qua lớp mẫu giáo; trẻ em trong độ tuổi 6 - 14 tuổi đi học đạt 98,7%,
tốt nghiệp tiểu học tiếp tục vào học lớp 6, đạt 94,93%, tốt nghiệp trung học cơ sở tiếp tục vào
học lớp 10 đạt 85,34%. Tỉ lệ học sinh bỏ học hàng năm được ngăn chặn và giảm dần.
Chương trình phổ cập tiểu học có nhiều chuyển biến tích cực. Đến năm 2007, toàn tỉnh
có 100% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xóa nạn mù chữ; 98%
xã, phường, thị trấn và 6/9 huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Hiện
nay có 98,20% số người trong độ tuổi biết đọc, biết viết, cao hơn mức trung bình của cả nước.
Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất lượng giáo dục phổ thông cũng có nhiều tiến bộ
đáng ghi nhận. Tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên
nghiệp có xu hướng tăng dần. Công tác chăm sóc nuôi dạy trẻ tại các trường mầm non ngày
càng tốt hơn, hàng năm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng trong các trường mầm non giảm từ 2 - 3%.
Đồ dùng dạy học của các trường được trang bị tốt hơn. Cơ sở trường lớp khang trang hơn các
năm trước. Năm học 2005 - 2006, toàn tỉnh có 21% số phòng học được kiên cố hóa, phòng học
bán kiên cố chiếm tỉ lệ 71,4%, chỉ còn 7,6% trường học cây lá tạm. [34, tr. 374-375]
Trong công tác đào tạo, hình thức liên kết mở các lớp đào tạo từ trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề đến cao đẳng, đại học được thực hiện và phát huy tác dụng tích cực đối với
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức có tay nghề cao cho địa phương. Nhờ đó, số lượng cán bộ
các ngành, các cấp trong tỉnh được đào tạo chính quy và tại chức ngày càng tăng, đáp ứng được
yêu cầu bức xúc về nhân lực của tỉnh trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Phải thấy rõ chủ trương đổi mới đã tạo cho giáo dục Cà Mau một luồng sinh khí mới và
kết quả rõ nét nhất là qua 10 năm tách tỉnh. Hệ thống trường trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm dạy nghề, phổ thông dân tộc nội trú được
thành lập sau khi tỉnh được tái lập đang hoạt động có hiệu quả. Hiện có trên 3.000 sinh viên,
học sinh trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học do hệ thống các trường này
hoặc liên kết với các trường đại học trong cả nước đào tạo. Mục tiêu xóa dứt điểm phòng học 3
ca và cây lá tạm đã được thực hiện xong, đồng thời đang đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện
chương trình kiên cố hóa trường, lớp học của Chính phủ, nâng tổng số phòng học lên 5.700
phòng, trong số đó phòng học kiên cố, bán kiên cố chiếm trên 90%. Hiện có 100% trường mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông có đồ dùng dạy học thiết yếu, đảm bảo thiết
bị tối thiểu dạy học chương trình thay sách giáo khoa mới; có 212/441 trường có thư viện, trong
đó có trên 30 trường có thư viện đạt chuẩn quốc gia, 100% trường trung học phổ thông, trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng và 20% trường trung học cơ sở được trang bị và kết nối Internet.
Bên cạnh đó, ngân sách địa phương chi cho giáo dục cũng tăng hàng năm, bình quân chiếm từ
22 đến 25% trong tổng chi ngân sách của địa phương.
Một nét nổi bật trong giáo dục Cà Mau là phong trào xã hội hóa giáo dục đã và đang thu
hút được sự quan tâm của toàn xã hội. Thời gian qua Cà Mau đã huy động được sự tham gia
ngày càng tích cực của nhân dân, của phụ huynh học sinh, của các tổ chức kinh tế xã hội, của
các ban ngành, đoàn thể, hội, mặt trận các cấp trong phong trào hiến đất, phong trào đóng góp
tiền bạc, hiện vật, công sức xây dựng trường học. Bên cạnh đó, phong trào khuyến học, khuyến
tài cũng đã hỗ trợ, cấp hàng ngàn học bổng cho học sinh nghèo học giỏi, vượt khó, học sinh
vùng đồng bào dân tộc, học sinh vùng sâu, vùng xa…
Về đội ngũ giáo viên, hầu hết giáo viên các cấp đều đạt chuẩn tối thiểu; có trên 1.000
giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đạt trình độ đại học (tỉ lệ 10%), trên 100 cán bộ,
giáo viên, giảng viên có trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ và chứng chỉ bồi dưỡng sau đại học. Các hoạt
động dạy và học được các cấp quản lý giáo dục, trường học trong tỉnh thường xuyên quan tâm,
chỉ đạo tốt; phong trào thi đua dạy tốt - học tốt được duy trì; việc đổi mới phương pháp giáo
dục theo xu hướng hiện đại đã được hưởng ứng tích cực, nhiều giáo viên đã đạt các danh hiệu
giáo viên dạy giỏi cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện, thành phố, cấp trường; 16 nhà giáo được
tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được đánh giá tương đối trung
thực và từng bước được nâng lên khá vững chắc. Nhiều học sinh đạt giải học sinh giỏi các bộ
môn văn hóa và năng khiếu ở các cấp từ tỉnh đến quốc gia; kết quả hai mặt giáo dục về học lực
và hạnh kiểm của học sinh khá ổn định. Khoảng cách về điều kiện hưởng thụ giáo dục và chất
lượng hiệu quả đào tạo đã được rút ngắn dần qua từng năm học giữa nông thôn và thành thị.
Trình độ dân trí của nhân dân đã được nâng lên một bước đáng kể, nhiều thế hệ học sinh được
đào tạo, rèn luyện trong 30 năm qua nay đã trưởng thành và đang phát huy hiệu quả, giữ nhiều
cương vị và nhiệm vụ quan trọng từ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Sở, ngành cấp tỉnh đến các
cấp huyện, thành phố, xã, phường…
Có thể nói trong những năm qua, sự đóng góp của giáo dục Cà Mau trong sự nghiệp
trồng người là rất lớn. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan thì giáo dục Cà Mau vẫn còn
nhiều vấn đề yếu kém, bất cập trước yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và địa phương. Điều đáng quan tâm và trăn trở nhất là chất lượng và
chất lượng thực của giáo dục còn nhiều yếu kém; giữa giáo dục thành thị và nông thôn vẫn còn
khoảng cách quá xa; kết quả phổ cập giáo dục trung học cơ sở chưa thực sự ổn định và chắc
chắn; việc xây dựng xã hội học tập, học tập cho mọi người còn nhiều khó khăn; số trường đạt
chuẩn quốc gia chưa nhiều, đến cuối năm 2007 toàn tỉnh mới chỉ có 17 trường được công nhận
đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ giáo viên tiểu học dư thừa, trong khi đó giáo viên mầm non, trung
học vẫn còn thiếu, nhất là giáo viên các bộ môn năng khiếu; sự mất cân đối giữa đào tạo và sử
dụng, kết quả đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng được quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của tỉnh nhà.
Trong lộ trình phát triển thời gian tới, vấn đề đặt ra đối với giáo dục Cà Mau là làm thế
nào để khắc phục những nhược điểm và thiếu sót trên để giáo dục Cà Mau có khả năng sánh vai
và hòa nhập vào sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả
nước.
Với những thuận lợi cơ bản của truyền thống và kinh nghiệm, của điều kiện kinh tế xã
hội, với sự quan tâm chỉ đạo đầy trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, có thể tin tưởng những
thành tựu và chuyển biến mới của ngành giáo dục Cà Mau trong thời gian qua sẽ là nhân tố
quan trọng, tạo tiền đề, tạo thế và lực cho những bước đi vững chắc tiếp theo. Chắc chắn giáo
dục Cà Mau sẽ tiếp tục phát triển, sẽ đáp ứng tốt yêu cầu xây dựng tỉnh nhà ngày càng văn
minh, giàu đẹp, vững tin bước vào quá trình kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu.
3.2. Về xã hội
3.2.1. Công tác y tế
Mặc dù có địa hình sông nước chằng chịt nhưng trong 10 năm qua mạng lưới y tế cơ sở
Cà Mau ngày càng được củng cố và mở rộng. Số cơ sở y tế tăng từ 80 cơ sở năm 1995 lên 91
năm 2000 và 96 năm 2005. Năm 2006 toàn tỉnh có 117 cơ sở y tế, năm 2007 có 128 cơ sở. Năm
2005, toàn tỉnh có 2.278 giường bệnh, tăng 899 giường so với năm 1995, năm 2007 có 2.125
giường bệnh; số bác sĩ, dược sĩ có trình độ đại học là 645 người, tăng 342 người so với năm
2005. [13],[17],[19]
Công tác khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, nhất là bà mẹ,
trẻ sơ sinh cũng có nhiều tiến bộ. Số lượt người được khám bệnh tại các cơ sở y tế năm 2005
đạt 3.404 ngàn lượt/người, bằng 2,8 lần năm 1995 và tăng 14% so năm 2000. Số lượt người
được chữa bệnh cũng tăng 2,1 lần và 19,8% so năm 2000. Công tác phòng chống dịch bệnh và
các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai rộng khắp từ thành thị đến nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Năm 2007, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi
được tiêm chủng đạt 95% cao hơn năm 2000 (87,73%). Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi
giảm từ 31,3% năm 2000 xuống 22% năm 2005, nhanh hơn tốc độ chung của cả nước (tỉ lệ
chung cả nước 31,9% năm 1995, 26,6% năm 2001 xuống 25% năm 2005), 100% xã có trạm y
tế. [13, tr.86-87]
Hoạt động bảo trợ xã hội, đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc gia đình chính sách, người già yếu
cô đơn, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS, chất độc màu da cam, nạn nhân chiến tranh…
cũng được Chính quyền, các đoàn thể quần chúng, các doanh nghiệp và nhân dân quan tâm
thực hiện và đạt kết quả tốt.
Từ những kết quả khả quan trên, ngành y tế Cà Mau chủ trương phấn đấu đến năm 2010
sẽ đạt những chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ trẻ em sơ sinh có trọng lượng dưới 2.500 g giảm xuống dưới 3%.
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 18%.
Chiều cao trung bình của thanh niên đạt từ l,65 m trở lên.
Có 4,5 bác sĩ và 0,7 dược sỹ đại học/10.000 dân.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,14%
Tuổi thọ trung bình của người dân là 71 tuổi.
3.2.2. Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình
Sau 10 năm tách tỉnh, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Việc giảm tỷ lệ sinh của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số
đã được thực hiện theo các mục tiêu đề ra. Dân số Cà Mau năm 2006 là 1.234.896 người, tăng
15,4% so với năm 1995, bình quân mỗi năm tăng 1,65% và tăng 7,03% so với năm 2000, bình
quân mỗi năm tăng 1,32%, xấp xỉ mức trung bình của cả nước và đạt kế hoạch của tỉnh đề ra.
Trong khi đó, tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số cũng đã giảm từ 19,9‰ năm 1996 xuống 18,66‰
năm 2000; 14,8‰ năm 2005 và 13,6‰ năm 2007. Trong 10 năm qua, công tác dân số và kế
hoạch hóa gia đình có nhiều chuyển biến tích cực góp phần giảm tỉ lệ sinh của phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ từ 25,71‰ năm 1996 xuống 22,67‰ năm 2000 và 19,39‰ năm 2005, năm 2007 là
0,5‰. Tốc độ giảm sinh bình quân đạt 0,6‰/năm, giảm nhiều hơn so với tốc độ giảm chung
của cả nước 0,4‰/năm trong thời gian 10 năm trên. Do đó số con trung bình của phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ giảm từ 2,4 con năm 2000 xuống 2,2 con năm 2007, bình quân mỗi năm giảm
0,04 con/phụ nữ. Năm 2007, tỉ lệ cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản thực hiện các biện pháp
tránh thai đạt 71,73%. [19]
Đối với một tỉnh có tỉ lệ dân số nông thôn, lao động nông nghiệp và thủy sản là chủ yếu,
có nhiều xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, trình độ dân trí còn thấp
như Cà Mau nhưng đạt được những kết quả về công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình như
trên là một điều rất đáng khích lệ. Trong những năm tới công tác này sẽ ngày càng tiến bộ, góp
phần ổn định tình hình dân số để có điều kiện phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi
cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2.3. Vấn đề lao động việc làm và đời sống của nhân dân
Đây là một trong những công tác được tỉnh đặc biệt quan tâm và giải quyết bằng nhiều
chính sách và giải pháp tích cực.
Thực hiện Quyết định 385/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức điều tra lao động
việc làm năm 1997, số người thiếu việc làm ở Cà Mau chiếm tỷ lệ khá lớn: 29,11%, điều đó
cho thấy vấn đề giải quyết việc làm vẫn là vấn đề trọng tâm cấp bách và lâu dài đối với các cấp,
các ngành và toàn xã hội.
Ý thức được vấn đề trên, năm 1997 tỉnh đã giải quyết việc làm cho 10.850 lao động, xét
duyệt 174 dự án với vốn vay 4,941 tỉ đồng cho 5.404 lao động được vay vốn trong chương trình
giải quyết việc làm. Từ đó chương trình giải quyết việc làm, việc cho vay vốn xóa đói giảm
nghèo được lồng ghép với nhiều chương trình dự án một cách đồng bộ, hướng dẫn cụ thể và
đầu tư khá tốt.
Từ năm 2002, tỉnh chủ trương thành lập trường Công nhân kỹ thuật, đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất cho 6 Trung tâm dạy nghề cấp huyện; tăng cường liên kết mở các lớp dạy nghề và
kèm cặp nghề, truyền nghề, chuyển giao phổ biến kinh nghiệm sản xuất cho người lao động;
năm 2002 đã có 12.257 lượt người được cấp chứng chỉ nghề. Sang năm 2003, tổng các nguồn
vốn đầu tư cho chương trình xóa đói giảm nghèo tăng lên trên 100 tỉ đồng, tăng vốn đầu tư cho
các dự án thuộc chương trình 135 ở các xã nghèo; tín chấp để hộ nghèo vay vốn sản xuất; khám
chữa bệnh miễn phí và thực hiện các chính sách xã hội để giúp đỡ hộ nghèo. Ngoài ra tỉnh còn
liên kết mở các lớp dạy nghề và kèm cặp nghề cho 12.390 lượt người; tạo việc làm cho 19.450
lao động.
Số lượng lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh năm 2005 có
614.000 người, tăng 36,4% so với năm 1996, tốc độ tăng bình quân trên 3%/năm. Đến năm
2007 công tác giải quyết việc làm đạt kết quả khá cao. Trong năm đã giải quyết việc làm cho
hơn 27.500 lao động, trong đó đưa đi lao động làm việc ngoài nước 80 người, đi làm việc ngoài
tỉnh 15.000 người. Ngoài ra, các ngành, các cấp địa phương còn dạy nghề cho 17.500 lao động,
tăng 6,65% so với năm 2006. Một ý nghĩa quan trọng là chương trình xóa đói giảm nghèo đã
huy động được nhiều nguồn lực tham gia. Các địa phương trong tỉnh đã xây dựng được 3.550
căn nhà cho người nghèo thuộc Chương trình 134 và 1.944 căn nhà “Đại đoàn kết”; vận động
Quỹ đền ơn đáp nghĩa được 8,46 tỉ đồng, xây dựng 455 căn, sửa chữa 100 căn nhà tình nghĩa.
[55,59,63,65]
Cũng đến năm 2007, tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 669.876
người. Mặc dù số lao động tăng nhanh, trong khi ngành nghề phi nông nghiệp tăng chậm nhưng
trong 10 năm qua, các ngành, các cấp trong tỉnh đã có nhiều cố gắng tạo thêm việc làm mới
ngoài nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, nhất là bộ
phận nông dân không có hoặc có ít đất sản xuất. Chỉ riêng trong năm 2007 đã tạo việc làm cho
27.500 người, dạy nghề cho 17.500 người. Nhờ đó, cơ cấu lao động đã chuyển đổi theo hướng
tăng tỉ trọng lao động dịch vụ từ 8,64% năm 2000 lên 12,62% năm 2005, cũng trong thời gian
đó, tỉ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 86,9% xuống còn 83,1%. Thu nhập bình quân đầu
người năm 2004 đạt 514.000 đồng/tháng, tăng 30% so với năm 2002, cao hơn mức trung bình
của cả nước (484,4 ngàn đồng) cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long (471 ngàn đồng),
trong đó Bạc Liêu: 468 ngàn đồng; Sóc Trăng: 395,14 ngàn đồng; Hậu Giang: 448,9 ngàn
đồng; Kiên Giang: 513,4 ngàn đồng; Bến Tre: 418,2 ngàn đồng; Vĩnh Long: 423,1 ngàn đồng;
Tiền Giang: 478,2 ngàn đồng; Đồng Tháp: 473,9 ngàn đồng và Long An 499,7 ngàn đồng, chỉ
thấp hơn Cần Thơ: 523,9 ngàn đồng; An Giang: 518,1 ngàn đồng và vùng Đông Nam bộ: 820,8
ngàn đồng.
Như vậy, về thu nhập bình quân đầu người, Cà Mau không chỉ tăng nhanh mà còn đạt
mức cao thứ ba của vùng đồng bằng sông Cửu Long sau Cần Thơ và Long An. Điều đó thể hiện
rõ trong chi tiêu bình quân của hộ năm 2001 là 278 ngàn đồng/người/tháng; năm 2003 là 285,7
ngàn; năm 2005 là 412,68 ngàn; năm 2006 là 464,14 ngàn. Mức chi tiêu này xấp xỉ mức chi
tiêu của vùng đồng bằng sông Cửu Long năm 2004 là 376,1 ngàn đồng/người/tháng và thấp
hơn mức trung bình của cả nước năm 2004 là 396,8 ngàn đồng/người/tháng.
Đến ngày 01/4/2005 đã có 79,8% số hộ có tivi, 39% hộ có radio-casset, 17% hộ có điện
thoại, 1,86% hộ có máy vi tính, 17% hộ có xe gắn máy, 47,67% hộ có phương tiện thủy gia
dụng phục vụ đi lại. Tỷ lệ số hộ sử dụng điện đến năm 2007 đạt 87%. Số máy điện thoại trên
100 người dân tăng từ 2,55 máy năm 2000 lên 9,13 máy năm 2005 và đến năm 2007 là 38 máy.
Điều kiện nhà ở của nhân dân đã được cải thiện, 13,68% số hộ có nhà kiên cố; 52,26% số
hộ có nhà bán kiên cố và 34,05% số hộ có nhà tạm hoặc nhà khác. Diện tích nhà ở bình quân 1 khẩu là 14,89 m2 so với 13,18m2 của Bạc Liêu; 13,43m2 của Sóc Trăng và 14m2 của vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Tình hình sử dụng nước sinh hoạt của hộ đã có chuyển biến tích cực:
98% số hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh cho ăn uống và 96,4% cho sinh hoạt, thấp nhất là
huyện U Minh cũng đạt 92% và 88,8% với 2 tỉ lệ trên. Có thể nói đó là một tiến bộ rất đáng ghi
nhận, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa.
Cà Mau có 4.817 hộ người dân tộc Khmer, đời sống của họ cũng có nhiều đổi mới. Năm
2005, số hộ dân tộc Khmer dùng điện đạt 66%, dùng nước sạch trong ăn uống đạt 93%, có tivi
đạt 56%, có xuồng, vỏ máy đi lại 26%. Đến năm 2007, tỉ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm xuống còn
6,3% (chuẩn cũ), đạt mục tiêu đề ra và thấp hơn Bạc Liêu: 6,46%; Sóc Trăng: 12,14%; Trà
Vinh: 13,52%. [13],[19]
Bảng 3.1: Đời sống xã hội qua các năm
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: %
1.Nhà ở -Kiên cố -Bán kiên cố -Nhà tạm 2.Hộ dùng nước sạch -Trong sinh hoạt -Trong ăn uống 3.Hộ sử dụng điện 1995 12,00 32,50 55,50 72,24 83,00 34,38 2000 4,16 18,22 75,51 75,70 85,30 38,00 2005 8,42 36,80 53,33 96,39 98,36 80,82
Bảng 3.2: Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành bưu chính-viễn thông
“Nguồn: Cục Thống kê Cà Mau” Đơn vị tính: cái
1.Mạng lưới bưu điện: -Số bưu cục trung tâm -Số bưu cục huyện 2.Số máy điện thoại: -Cố định -Di động 1997 1 6 - - 2001 1 6 29.361 13.745 2005 1 8 67.835 59.454 2007 1 8 92.332 358.800
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng thành thị, nông thôn cũng được nâng cấp và xây dựng mới,
đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại. Đến nay
toàn tỉnh đã có 33/81 xã (41%) có đường ô tô đến trung tâm cụm xã, thị trấn so với khoảng
40% năm 1994 và 30% năm 2001. Ngày 14/4/1999, thị xã Cà Mau đã được Nhà nước nâng cấp
lên thành phố. Từ đó, hệ thống cơ sở hạ tầng đã được xây dựng và nâng cấp khá khang trang,
ngày càng có dáng dấp của một thành phố biển cực Nam của Tổ quốc Việt Nam, đang từng
bước hiện đại trên con đường công nghiệp hóa và hội nhập.
3.2.4 . An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Công tác trật tự trị an được tăng cường thường xuyên đã góp phần giữ vững an ninh -
chính trị, trật tự an toàn xã hội phục vụ tích cực có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố an ninh quốc phòng
trong các chương trình, dự án kinh tế - kỹ thuật được các ngành, các địa phương quan tâm thực
hiện nghiêm túc và đạt kết quả rất khả quan. Nhờ vậy, tiềm lực quốc phòng của địa phương
được củng cố, tăng cường về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển,
hải đảo, thềm lục địa vùng Đất Mũi địa đầu của Tổ quốc. Thế trận quốc phòng toàn dân ngày
càng gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân,, nhất là trong xây dựng và hoạt động của
các khu vực phòng thủ biên giới, hải đảo, ngoài biển khơi, bờ biển vùng Đất Mũi. Việc xây
dựng và củng cố lực lượng vũ trang, nhất là thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự đối với thanh
niên trong độ tuổi được triển khai đúng pháp luật, đạt kế hoạch hàng năm. Công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã có nhiều chuyển biến tích cực với nhiều nội dung và
hình thức thích hợp, hiệu quả. Hoạt động hòa giải ở cơ sở xã, ấp, khóm, tổ dân phố…được tổ
chức và thực hiện khá tốt đã góp phần ổn định xã hội, đảm bảo an ninh trật tự trên từng địa bàn
dân cư, giảm bớt đơn thư khiếu kiện vượt cấp, tồn đọng kéo dài.
Hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật các cấp có nhiều chuyển biến tích cực.
Phong trào toàn dân sống và làm việc theo pháp luật được thực hiện rộng rãi và đạt kết quả khá
tốt. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp được tăng cường đã góp phần nâng
cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện chặt chẽ, đúng pháp luật, một
mặt không bỏ sót tội phạm, mặt khác hạn chế được oan sai. Công tác thi hành án, phạt tù được
quản lý chặt chẽ và thi hành nghiêm túc, thi hành án dân sự đạt kết quả khá tốt.
Công tác quản lý Nhà nước về thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo của công
dân có nhiều chuyển biến tích cực. Qua thanh tra của các ngành, các cấp trong tỉnh đã phát hiện
và xử lý nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm, nhất là trong các lĩnh vực đất đai, xây dựng, tài
chính, thuế…Công tác tiếp dân, đối thoại trực tiếp với công dân được duy trì và đổi mới theo
hướng thuận lợi, hiệu quả, tránh được tình trạng phô trương, hình thức. Lãnh đạo cấp ủy, Chính
quyền các cấp, các ngành đã thực hiện khá tốt công tác phòng và chống tham nhũng, cải cách
thủ tục hành chính theo đúng chức năng và trách nhiệm. Nhờ đó bộ máy hành chính của các cấp
từ tỉnh đến huyện, xã, phường, ấp, tổ dân phố hoạt động có hiệu quả hơn trước, góp phần tích
cực vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn tỉnh, củng cố lòng
tin của nhân dân đối với chính quyền.
Tuy vẫn còn tồn tại một số yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhưng khách quan
nhìn lại chặng đường sau 10 năm tái lập, Đảng bộ và quân dân tỉnh Cà Mau đã đoàn kết một
lòng, vượt qua nhiều khó khăn thách thức, tranh thủ thời cơ và lợi thế, nỗ lực phấn đấu lao động
sáng tạo và đã giành được những thắng lợi tương đối toàn diện về các mặt kinh tế, xã hội, nâng
tầm vóc của tỉnh nhà lên một tầm cao mới. Trên cơ sở dự báo kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm
2006 - 2010 và bối cảnh chung, tầm nhìn đến năm 2020 của cả nước, của vùng đồng bằng sông
Cửu Long, có thể dự báo được triển vọng đến năm 2020, Cà Mau sẽ trở thành một tỉnh công
nghiệp đa ngành. Cơ sở của dự báo này xuất phát từ học thuyết kinh tế học hiện đại về sự tăng
tốc của kinh tế biển đang được chứng minh ở nhiều nước trên thế giới. Theo các nhà kinh tế thế
giới, xu hướng phát triển kinh tế của các nước trong các thập niên tới của thế kỷ XXI sẽ là tập
trung khai thác lợi thế và tiềm năng của biển và bờ biển để làm giàu do các nguồn tài nguyên
thiên nhiên trên đất liền đã và đang đi tới cạn kiệt nhanh chóng trong khi dân số vẫn tăng
nhanh, nhất là các nước đang phát triển. Do đó muốn làm giàu loài người phải hướng tới biển
và bờ biển.
Việt Nam nói chung và Cà Mau nói riêng có được cả hai loại tiềm năng đó nên khả năng
tiến nhanh hơn các tỉnh không có biển và bờ biển là rất lớn. Do vậy, nếu năm 2020, Việt Nam
về cơ bản trở thành nước công nghiệp, thì vị trí của Cà Mau trong bản đồ kinh tế của Việt Nam
cũng khác xa hiện nay. Dự báo với tiềm năng về thủy sản chưa được khai thác, kể cả đánh bắt
và nuôi trồng, đến năm 2020, Cà Mau sẽ trở thành trung tâm nuôi trồng, khai thác và chế biến
thủy sản lớn nhất Việt Nam. Một con số thực tế đáng tin cậy là đến cuối năm 2006, giá trị xuất
khẩu của Cà Mau đạt 582.934 triệu đồng, cao nhất 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Sang
năm 2007, kim ngạch xuất khẩu tăng 4,67% so với năm 2006. [18],[65]
Cùng với khu công nghiệp liên hợp khí - điện - đạm với sự phát triển đa ngành công
nghiệp và dịch vụ, du lịch, thu hút hàng chục ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn lao động. Thành
phố Cà Mau và các thị trấn sẽ được xây dựng thành các trung tâm công nghiệp chế biến thủy
sản chất lượng cao phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Du lịch - dịch vụ sẽ hỗ trợ các
ngành công nghiệp mới, đa ngành. Và khi đó Cà Mau về cơ bản sẽ là tỉnh công nghiệp - dịch vụ
- nông nghiệp bao gồm cả thủy sản. Dự báo cơ cấu GDP năm 2020 của tỉnh sẽ là: công nghiệp -
xây dựng: 50%; thủy sản - nông - lâm nghiệp: 25% và thương mại - dịch vụ: 25%.
Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững môi trường hòa bình thông qua việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO và thực hiện
các cam kết quốc tế, các hiệp định đa phương và song phương với các thị trường lớn, nhất là
APEC, ASEAN, EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Trung Đông… sẽ tạo
thêm nhiều thuận lợi cho cả nước nói chung và Cà Mau nói riêng hội nhập sâu hơn, nhanh hơn;
thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư… mở rộng hơn. Đó là thời cơ mới, thuận lợi mới, đồng
thời mở ra một triển vọng mới cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Cà Mau. Sự kiện này
chắc chắn sẽ đem lại những lợi thế cho hoạt động xuất khẩu thủy sản, nông sản hàng hóa, nhất
là gạo, trái cây của vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng như của tỉnh Cà Mau trong quá trình
hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Nhận xét chung
Trong 10 năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, của vùng đồng bằng sông Cửu
Long, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau đã có những bước phát triển khá nhanh. GDP
tăng trưởng bình quân hằng năm thường đạt 2 con số. Bên cạnh đó, diện mạo vùng nông thôn
cũng có nhiều thay đổi, chất lượng cuộc sống của người dân không ngừng được cải thiện.
+ Về kinh tế.
Nhìn chung, sau 10 năm tách tỉnh, kinh tế Cà Mau phát triển khá nhanh, đạt tốc độ tăng
trưởng cao liên tục, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực.
Năm 2007, năm cuối cùng sau 10 năm tái lập, tổng sản phẩm của tỉnh đạt 15.825 tỉ đồng,
thu nhập bình quân đầu người đạt 785 USD. Từ 1997 đến 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân hàng năm đạt 11,24%. Đến năm 2007, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. So với năm 2006, tỷ trọng ngư - nông - lâm nghiệp giảm từ
48,18% xuống còn 45,57%, công nghiệp - xây dựng tăng từ 28,88% lên 31,08%, dịch vụ tăng
từ 22,94% lên 23,35%. [65, tr. 1]
Thủy sản tăng trưởng nhanh, phát huy tốt vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn. Sản lượng
thủy sản trong 10 năm qua thường vượt chỉ tiêu đề ra. Năng suất tôm nuôi tăng bình quân hàng
năm 9,4%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 17,7%, kim ngạch xuất khẩu
thủy sản đứng đầu khu vực đồng bằng sông Cửu Long, chiếm 20% giá trị kim ngạch xuất khẩu
thủy sản của cả nước
Từ việc điều chỉnh quy hoạch sản xuất, chuyển một số vùng trồng lúa năng suất thấp,
kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản kết hợp với trồng một vụ lúa đã khẳng định đây là
hướng đi đúng, hợp lòng dân, phát huy được tiềm năng, lợi thế của tỉnh, tạo động lực thúc đẩy
kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển; giá trị tạo ra trên đơn vị diện tích đất sản xuất tăng gấp đôi
so với trước khi chuyển dịch.
Trong nông nghiệp, điều đáng chú ý là năng suất, chất lượng ngày càng được nâng lên,
hiệu quả cao hơn giai đoạn trước; một số loại hình dịch vụ nông nghiệp bước đầu được hình
thành. Công tác khuyến nông, chương trình giống nông nghiệp được quan tâm đúng mức; công
tác thú y được tăng cường làm cho sản xuất nông nghiệp ngày càng ổn định, giảm yếu tố phụ
thuộc vào thiên nhiên.
Các nguồn tài nguyên như đất, nước, khoáng sản, rừng, biển, nguồn lợi thủy sản…được
khai thác, sử dụng và quản lý chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn. Môi trường sản xuất, môi trường
sinh thái được toàn xã hội quan tâm và ngày càng đi vào quỹ đạo sản xuất bền vững.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển nhanh; công tác quy hoạch, đầu tư phát
triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có nhiều tiến bộ.
Trong 10 năm (1997-2007), tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm
18,7%. Công nghiệp chế biến thủy sản được tăng cường đầu tư, từng bước đổi mới công nghệ,
nâng cao công suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Một số ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp khác cũng phát triển, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn. Mạng lưới điện phát triển nhanh, nhất là ở địa bàn nông thôn đã
làm thay đổi bộ mặt nông thôn Cà Mau bao đời chịu cảnh tăm tối.
Trong công tác xúc tiến đầu tư, tỉnh đã vận dụng, ban hành nhiều chính sách ưu đãi để
thu hút đầu tư. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 24% GDP, tăng bình quân hàng năm 14%.
Cơ cấu nguồn vốn đầu tư có sự thay đổi theo hướng tăng nguồn vốn tín dụng và nguồn vốn
trong nhân dân.
Sau 10 năm tách tỉnh, Cà Mau đã đầu tư xây dựng một số tuyến đường giao thông bộ
trọng điểm; đầu tư phát triển lưới điện và hệ thống trạm biến áp; xây dựng mới và cải tạo một
số công trình thủy lợi mang tính huyết mạch. Hệ thống này đã cùng với phong trào nhân dân
đầu tư làm thủy lợi, thủy nông nội đồng đã đáp ứng một phần nhu cầu thủy lợi cho nuôi trồng
thủy sản, sản xuất nông nghiệp và phục vụ phòng chống cháy rừng.
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa - xã hội, thể dục,
thể thao cũng chú trọng đầu tư đáng kể, một số công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Bộ mặt đô thị, nhất là thành phố Cà Mau và một số thị trấn cũng từng bước đầu tư xây
dựng, tạo một dáng vóc của một vùng đất công nghiệp trong tương lai.
Ngoài ra một số công trình lớn được Trung ương đầu tư trên địa bàn tỉnh như sân bay Cà
Mau; Quốc lộ 63 (Cà Mau - Kiên Giang); Quốc lộ 1A (đoạn Cà Mau - Năm Căn); Âu thuyền
Tắc Thủ; Dự án tổ hợp khí - điện - đạm Cà Mau…đã và đang tiếp tục thi công xây dựng, một số
công trình đã hoàn thành, phát huy tác dụng tốt.
Tài chính - tín dụng, thương mại - dịch vụ có bước phát triển. Từ năm 1997 đến năm
2007 việc thu ngân sách thường vượt dự toán, giảm dần mức bổ sung từ ngân sách Trung ương.
Tổng chi ngân sách tăng bình quân hàng năm đạt 17,5%; chi đầu tư phát triển chiếm 33,8%.
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cơ bản đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
Để mở rộng việc trao đổi hàng hóa, mạng lưới chợ đã được chú ý quy hoạch và đầu tư
xây dựng. Công tác xúc tiến thương mại, khảo sát nghiên cứu thị trường được quan tâm; thị
trường xuất khẩu được mở rộng. Sản phẩm xuất khẩu ngày càng đa dạng, chất lượng và sức
cạnh tranh ngày càng tăng.
Các loại hình dịch vụ như du lịch, bưu chính - viễn thông, vận tải, tài chính, tư vấn, bảo
hiểm, dịch vụ kỹ thuật…đều phát triển khá nhanh, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời
sống dân cư.
Các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng, góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đáng chú ý là tiến hành tốt việc chuyển đổi hình thức sở hữu
phần lớn doanh nghiệp Nhà nước theo đề án được chính phủ phê duyệt. Hầu hết các doanh
nghiệp sau cổ phần hóa đều hoạt động có hiệu quả, lợi ích của cổ đông và người lao động được
đảm bảo.
Mặt khác yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã được các cấp, các ngành, các doanh nghiệp
nhận thức đầy đủ hơn. Hiệu quả hoạt động đối ngoại từng bước được nâng lên, nhất là các hoạt
động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, góp phần quan trọng thúc đẩy sản
xuất trong tỉnh phát triển.
Tuy có những kết quả vượt bậc trên nhưng nhìn chung, kinh tế Cà Mau trong 10 năm qua
vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém:
Kinh tế tăng trưởng cao nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa thật vững
chắc; kết cấu hạ tầng phát triển chậm, nhất là giao thông, thủy lợi. Sản xuất ngư - nông - lâm
nghiệp còn phụ thuộc vào tự nhiên, yếu tố rủi ro cao. Hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp. Công tác quy hoạch và quản lý, thực hiện quy hoạch còn nhiều yếu kém. Phát
triển kinh tế nhiều nơi chưa tuân thủ quy hoạch, kế hoạch, chưa gắn chặt với bảo vệ môi trường
sinh thái, quản lý, khai thác và bảo vệ các nguồn tài nguyên.
Một hạn chế, yếu kém nữa là việc huy động, thu hút các nguồn vốn đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn còn quá ít. Một số công trình đầu tư không đồng bộ; tiến độ
thực hiện nhiều công trình không đạt kế hoạch; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp. Mặt khác
công tác quản lý đầu tư, xây dựng cơ bản còn yếu kém, sơ hở, gây thất thoát, lãng phí, tiêu cực,
việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý chưa kịp thời.
Ngoài ra hiệu quả hoạt động của một số doanh nghiệp nhà nước không cao, tình trạng
thua lỗ kéo dài, chậm khắc phục. Kinh tế tập thể phát triển chậm, hiệu quả thấp; kinh tế tư nhân
phát triển nhanh nhưng chưa đồng đều trong các ngành, các lĩnh vực và còn nhiều mặt yếu kém.
Quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp trên một số lĩnh vực còn lỏng lẻo.
+ Về văn hóa - xã hội.
Trước hết, trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ đã có những bước
phát triển khá. Chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác
phổ cập giáo dục và xã hội hóa giáo dục đạt kết quả cao và ngày càng được mở rộng. Bên cạnh
đó công tác khuyến học cũng được chú trọng, phát huy hiệu quả khá tốt. Cơ sở vật chất kỹ thuật
dạy và học được tăng cường; quy mô và mạng lưới trường học được đầu tư mở rộng. Chất
lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng cao.
Việc ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin
trong các hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý được chú trọng, đạt hiệu quả cao. Các hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng, giúp doanh nghiệp cải thiện
điều kiện và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
Hoạt động văn hóa - xã hội cũng có tiến bộ trên nhiều mặt. Công tác quản lý nhà nước
trên lĩnh vực văn hóa - thông tin được tăng cường và phát triển đúng hướng, đáp ứng nhu cầu
nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được cải thiện.
Phong trào toàn dân tham gia thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe có bước phát triển, ý thức
rèn luyện sức khỏe trong quần chúng nhân dân ngày được nâng cao.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân thực hiện đạt kết quả khá tốt; cơ sở vật chất, trang
thiết bị y tế được đầu tư nâng cấp, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố. Nhiều dịch bệnh và bệnh
nguy hiểm đã được khống chế, ngăn chặn.
Một trong những thành tựu đáng được ghi nhận nữa là công tác đào tạo nghề và giải
quyết việc làm đã có những chuyển biến đáng kể. Trong 10 năm qua, tỉ lệ lao động qua đào tạo,
bồi dưỡng, dạy nghề, truyền nghề được nâng lên, đạt trên 20%. Bên cạnh đó, chính sách dân
tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội khác cũng được thực hiện khá tốt. Ngoài ra tỉnh còn thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn
xã hội tham gia chương trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương…
tạo một cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng cao cho mọi tầng lớp nhân dân.
Bên cạnh những thành tựu trên, trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Cà Mau vẫn còn tồn tại
một số hạn chế. Đó là chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo nhìn chung chưa đồng đều, ngành
nghề đào tạo còn ít, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; trình độ dân trí còn thấp nên dẫn
đến nhiều khó khăn trong việc huy động toàn dân thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hoá.
Mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
Khmer còn thấp. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở một số nơi còn
mang tính hình thức, chất lượng chưa cao. Các cơ sở văn hóa chưa được quan tâm, đầu tư đúng
mức. Đội ngũ nhà báo, văn nghệ sĩ còn thiếu, một bộ phận khác do trình độ, năng lực còn hạn
chế nên chất lượng hoạt động chưa đạt yêu cầu.
Công tác quản lý nhà nước về y - dược còn nhiều sơ hở, cơ sở vật chất khám chữa bệnh
chưa đáp ứng nhu cầu của đại đa số nhân dân, mặt khác ý thức phòng bệnh của nhân dân chưa
tốt. Trình độ chuyên môn của một số cán bộ y tế còn yếu, thái độ phục vụ, ý thức trách nhiệm
và đạo đức của một bộ phận thầy thuốc chưa cao.
Bên cạnh số hộ giàu ngày càng nhiều thì cũng còn một bộ phận nhân dân đời sống còn
gặp nhiều khó khăn. Số hộ nghèo và cận nghèo còn lớn, nguy cơ tái nghèo cao. Mức sống của
nhân dân ở vùng sâu, vùng xa so với vùng đô thị còn chênh lệch khá xa.
Điều đáng nói đầu tiên là trong khi muốn vươn lên để trở thành một tỉnh công nghiệp
nhưng việc đầu tư cho khoa học công nghệ chưa tương xứng với vai trò nền tảng và động lực
của sự phát triển. Việc quản lý, xử lý, ngăn chặn ô nhiễm môi trường tuy có tiến bộ nhưng chưa
đầu tư tương xứng và chưa huy động được sự tham gia đông đảo của các ngành, các cấp và
nhân dân nên hiệu quả còn thấp.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở có nơì còn mang nặng tính hình thức nên hiệu
quả chưa cao. Văn hóa phẩm độc hại chưa được ngăn chặn triệt để nên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến lối sống của một bộ phận thanh niên. Phong trào hoạt động thể dục - thể thao quần
chúng phát triển chưa mạnh, chưa đồng đều, đại đa số người dân ở vùng nông thôn chưa có
điều kiện để tiếp xúc với phong trào này. Báo chí có lúc chưa kịp thời phản ánh tình hình, định
hướng thông tin, hướng dẫn dư luận đối với một số sự kiện thời sự ở địa phương.
Mặc dù đã có một thời kỳ tương đối dài xác lập cơ chế thị trường nhưng cơ cấu lao động,
ngành nghề chưa có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao, lực
lượng lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề còn quá ít. Bên cạnh đó, áp lực tăng dân số cơ
học, giải quyết việc làm, các tệ nạn xã hội vẫn còn là những vấn đề lớn và bức xúc.
2. Một số kiến nghị
Để đẩy nhanh quá trình phát triển các mặt kinh tế, xã hội của tỉnh nhà, chúng tôi xin nêu
lên một số kiến nghị sau đây:
Cần nhanh chóng rà soát, hoàn chỉnh qui hoạch phát triển các ngành kinh tế, các vùng và
tiểu vùng phù hợp với yêu cầu và điều kiện của địa phương. Riêng đối với ngành kinh tế mũi
nhọn thủy sản, cần qui hoạch rõ các vùng nuôi tôm, nuôi cá, nuôi thủy sản giống theo phương
pháp công nghiệp là chủ yếu, các vùng dịch vụ thủy sản đánh bắt. Các vùng ổn định sản xuất
lúa chất lượng cao, vùng chuyên canh mía, cây ăn trái, chăn nuôi, vùng cần chuyển đổi đất lúa
sang nuôi trồng thủy sản, nuôi thủy sản kết hợp trồng rừng cũng cần qui hoạch lại.
Cần chú ý đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để làm việc này, một mặt tỉnh tự bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo lại
đội ngũ công chức hiện có của địa phương, đào tạo cán bộ trẻ có năng lực, đào tạo công nhân
lành nghề, mặt khác cần có cơ chế, chính sách thu hút chất xám của các chuyên gia, các nhà
khoa học trong nước, Việt kiều về làm việc lâu dài.
Bên cạnh sự nỗ lực chủ quan của địa phương, cần tranh thủ sự quan tâm và hỗ trợ của
Trung ương về các mặt như vốn đầu tư xây dựng; nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
nhất là đường bộ; đào tạo nguồn nhân lực; bổ sung các chương trình, dự án về giao thông nông
thôn; xóa đói giảm nghèo; phát triển rừng phòng hộ; thông tin thị trường thủy sản, nông sản;
hiện đại hóa các nhà máy chế biến thủy sản, nông sản xuất khẩu…
Đối với công tác giáo dục – đào tạo, cần chú ý xây dựng, mở rộng hệ thống mạng lưới,
loại hình trường lớp các cấp và đa dạng; trường mẫu giáo, trường chuyên, trường khuyết tật,
trường dân tộc nội trú, trường bán công, dân lập, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm
học tập cộng đồng, trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân mới để củng cố, tăng cường, từng bước khẳng định vị trí và phát huy tác dụng. Cơ
cấu, hệ thống mạng lưới trường lớp cần được quy hoạch, sắp xếp ngày càng hợp lý hơn, đáp
ứng và phục vụ thiết thực hơn yêu cầu học tập của nhân dân và phát triển kinh tế xã hội trong
cơ chế hội nhập.
Về công tác chăm sóc sức khỏe, cần quán triệt quan điểm chung là tất cả nhân dân đều
được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu và các dịch vụ y tế của xã hội. Mở rộng
tiêm chủng cho trẻ em đủ 8 - 10 loại vác xin đạt tỷ lệ trên 95%. Tiếp tục củng cố tuyến y tế cơ
sở, có chính sách ưu đãi đối với y, bác sĩ ở tuyến xã. Duy trì và phát huy kết quả chương trình
dân số và kế hoạch hóa gia đình, triển khai rộng khắp công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Đối với công tác xã hội, cần mở rộng các ngành nghề tăng thu nhập, thực hiện tốt các
chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo và các vấn đề xã hội bức xúc. Phấn đấu
giải quyết nhiều việc làm mới, bình quân hàng năm tạo việc làm cho khoảng 18 - 20 ngàn lao
động thông qua chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển lao động nông thôn sang làm dịch vụ, nghề thủ công....
Trong lĩnh vực phát triển khoa học công nghệ cần tiếp tục chương trình nghiên cứu điều
kiện tự nhiên, tài nguyên trên địa bàn tỉnh. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển
thủy sản, nông và lâm nghiệp: tập trung nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, thử nghiệm và
nhân rộng các giống mới về thủy sản, cây trồng, vật nuôi theo hướng năng suất cao, chất lượng
tốt, đảm bảo tiêu chuẩn ngày càng cao cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Cần tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò quan trọng của
môi trường. Tuyên truyền sâu rộng tới mỗi công dân chấp hành nghiêm chỉnh Luật bảo vệ môi
trường, dần dần trở thành thói quen tốt về bảo vệ môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, Huế.
2. Báo Đất Mũi, Cà Mau.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Cà Mau (2004), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Cà Mau, Tập 1, Nxb
Mũi Cà Mau.
4. Trần Thái Bình (2001), Tìm hiểu lịch sử Việt Nam, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
5. Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy Cà Mau (1996), Chiến thắng Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Nxb
Mũi Cà Mau.
6. Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy Minh Hải (1995), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Minh Hải (1930 1975),
Nxb Mũi Cà Mau.
7. Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy Minh Hải (1995), Một thời đáng nhớ, Nxb Mũi Cà Mau.
8. Ban Chủ nhiệm Hội thảo Khoa học Lịch sử (1993), Làng rừng, Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy
xuất bản.
9. Ban chỉ đạo và Ban biên tập truyền thống Tây Nam Bộ (2000), Tây Nam Bộ 30 năm kháng
chiến (1945 1975).
10. Chi cục Thống Kê Minh Hải (1981), Số liệu thống kê 5 năm 1976 - 1980.
11. Cục Thống Kê Minh Hải (1996), Niên giám thống kê 1995.
12. Công ty cổ phần Thông tin kinh tế đối ngoại (2006), Cà Mau thế và lực mới trong thế kỷ
XXI, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
13. Cục Thống Kê Cà Mau (2006), Cà Mau 30 năm xây dựng và phát triển 1976-2005, Nxb
Thống Kê, Tp. HCM.
14. Cục Thống Kê Cà Mau (2002), Niên giám thống kê 2001.
15. Cục Thống Kê Cà Mau (2003), Niên giám thống kê 2002.
16. Cục Thống Kê Cà Mau (2004), Niên giám thống kê 2004.
17. Cục Thống Kê Cà Mau (2005), Niên giám thống kê 2005.
18. Cục Thống Kê Cà Mau (2006), Niên giám thống kê 2006.
19. Cục Thống Kê Cà Mau (2007), Niên giám thống kê 2007.
20. Cục Thống kê tỉnh Cà Mau, Số liệu kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau 1991 - 1996.
21. Cục Thống kê tỉnh Cà Mau, Số liệu kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau 1996 - 2000.
22. Cục Thống kê tỉnh Cà Mau, Số liệu kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau 2000 - 2005.
23. Cục Thống kê tỉnh Cà Mau, Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Cà Mau đến 2010.
24. Lê Duẩn (2005), Thư vào Nam, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Duy (1997), Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội.
26. Nguyễn Tiến Dỵ (chủ biên), (2006), Kinh tế Xã hội Việt Nam các tỉnh, thành phố, quận
huyện Năm 2010, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
27. Đảng bộ tỉnh Cà Mau (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XI,
Cà Mau.
28. Đảng bộ tỉnh Cà Mau (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XII,
Cà Mau.
29. Đảng bộ tỉnh Cà Mau (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XIII,
Cà Mau.
30. Đặng Thành Học (1994), Rừng vàng biển bạc, Nxb Mũi Cà Mau.
31. Nguyễn Học (1994), Bán đảo Cà Mau Đất và rừng, Nxb Mũi Cà Mau.
32. Hồng Hạnh (2000), Dấu xưa Nam Bộ, Nxb Văn Nghệ, Hà Nội.
33. Phan Khánh (2001), Đồng bằng sông Cửu Long Lịch sử và lũ lụt, Nxb TP Hồ Chí Minh
34. Thái Văn Long (2007), Lịch sử địa phương Cà Mau, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
35. Thái Văn Long (2007), Địa lý địa phương Cà Mau, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
36. Lê Văn Luận-Sơn Hải-Thái Văn Long (1995), Địa lý Minh Hải, Nxb Mũi Cà Mau
37. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
38. Huỳnh Minh (2002), Bạc Liêu xưa, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
39. Sơn Nam (2003), Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
40. Sơn Nam (1998), Danh thắng Miền Nam, Nxb Tổng Hợp Đồng Tháp.
41. Phan Thanh Nhàn (1993), Rừng U Minh, dấu ấn và cảm thức. Hội Văn nghệ Kiên Giang.
42. Bửu Ngôn (2004), Du lịch ba miền Đất Phương Nam, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
43. Nhiều tác giả ( 1986), Minh Hải 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Nxb
Mũi Cà Mau.
44. Nhiều tác giả (1994), Minh Hải hôm qua và ngày nay, Nxb Mũi Cà Mau.
45. Nhiều tác giả (1984), Minh Hải nhìn đến năm 1990, Nxb Mũi Cà Mau.
46. Nhiều tác giả (1992), Từ dạ cổ hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau.
47. Nhiều tác giả (2002), Nam Bộ đất và người, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
48. Thành ủy Cà Mau (2000), Lịch sử Đảng bộ thành phố Cà Mau. Nxb Mũi Cà Mau.
49. Tỉnh ủy Cà Mau Bộ Tư lệnh Quân khu 9 (2006), Bảo đảm giao thông vận tải, nét đặc sắc
của chiến tranh nhân dân ở đồng bằng sông Cửu Long trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954 - 1975), Nxb Phương Đông.
50. Tỉnh ủy Minh Hải (1995), Minh Hải 20 năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc (30/4/1975 -
30/4/1995), Nxb Mũi Cà Mau.
51. Phạm Thạnh Trị (1996), Minh Hải đổi mới và phát triển, Nxb Mũi Cà Mau.
52. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
53. Trung tâm Thông tin và chuyển giáo tiến bộ sinh học Việt Nam (2000), Đồng bằng sông
Cửu Long đón chào thế kỷ XXI, Nxb Văn Nghệ, TP Hồ Chí Minh.
54. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2003), Cà Mau anh hùng, Tập 1, Nxb Mũi Cà Mau.
55. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (1997), Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
1997 và phương hướng, nhiệm vụ năm 1998.
56. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (1998), Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
1998 và phương hướng, nhiệm vụ năm 1999.
57. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (1999), Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
1999 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2000.
58. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2000), Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
2000 và phương hướng, nhiệm vụ năm2001.
59. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2001), Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
2001 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2002.
60. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2002), Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
2002 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2003.
61. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2003), Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
2003 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2004.
62. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2004), Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005.
63. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2005), Tình hình thực hiện nghị quyết của HĐND Tỉnh về
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2005.
64. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2006), Tình hình thực hiện nghị quyết của HĐND Tỉnh về
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2007.
65. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2007), Tình hình thực hiện nghị quyết của HĐND Tỉnh về
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2007 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2008.
66. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (2007), Kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành năm 2007 và một
số giải pháp chủ yếu để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008.
67. Ủy ban nhân dân Tỉnh Cà Mau (1999), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Cà Mau trong thời kỳ 1998 - 2010.
68. www.camau.gov.com.vn
PHỤ LỤC
1. GDP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI 1975 - 2007
“Nguồn: Cục Thống Kê Cà Mau”. Đơn vị tính: triệu đồng
GDP (giá thực tế) GDP bình quân đầu người Năm
226,2 1975 0,000421
1.517,6 1980 0,002188
3.446,3 1985 0,004314
41.346,9 1986 0,050188
1.049.441 1990 1,140549
1.273.609 1991 1,347897
1.592.469 1992 1,644015
2.012.528 1993 2,030678
2.665.456 1994 2,609414
3.441.205 1995 3,263250
3.558342 1996 3,266670
4.007784 1997 3,709833
4.706.941 1998 4,271845
5.107.021 1999 4,547092
5.963.307 2000 5,210836
6.604.699 2001 5,684542
7.631.719 2002 6,501582
8.871.163 2003 7,464607
9.980.057 2004 8,281408
2005 9,217225 11.262.444
2006 12.664.375 10,255418
2007 15.648.602 12,672000
2. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1976-2007 (Giá cố
định 1989, 1994).
“Nguồn: Cục Thống Kê Cà Mau”. Đơn vị tính: triệu đồng
Chia ra Năm Tổng số Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản
1976 621.616 504.609 7.700 109.307
1980 697.936 579.411 5.085 113.440
1985 964.342 753.000 8.585 202.757
1990 1.335.926 1.135.900 16.565 183.461
1992 3.249.386 1.465.677 83.520 1.700.189
1993 3.763.462 1.480.597 77.340 2.205.525
1994 3.635.894 1.376.733 98.560 2.160.601
1995 3.865.379 1.409.225 99.786 2.356.368
1996 3.991.083 1.495.718 114.706 2.380.659
1997 4.011.482 1.353.153 185.371 2.472.958
1998 4.346.548 1.656.484 159.717 2.530.347
1999 4.908.509 1.994.799 147.263 2.766.447
2000 5.688.880 2.005.389 137.208 3.546.283
2001 5.780.044 1.118.389 127.639 4.534.016
2002 5.893.017 1.099.097 131.079 4.662.841
2003 6.008.788 963.825 116.024 4.928.939
2004 6.573.715 1.006.179 119.713 5.447.823
2005 7.192.662 1.017.947 126.978 6.047.737
2006 7.848.737 1.031.000 113.178 6.704.553
2007 8.314.493 1.048.695 110.594 7.155.204
3. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP THEO GIÁ HIỆN HÀNH PHÂN THEO NGÀNH CÔNG NGHIỆP “Nguồn: Cục Thống Kê Cà Mau”. Đơn vị tính: triệu đồng
2001 2006 2007 2003
2005 5.771.633 9.627.328 12.359.240 13.786.431 17.334.682 Tổng số
nghiệp
67
-
4.468 3.968
6.861
5.748.440 9.607.892 12.221.922 13.598.015 13.598.015
5.613.459 9.447.541 12.014.960 13.400.110 16.522.336
1.Công khai thác 2.Công nghiệp chế biến -Sản xuất chế biến thực phẩm -Sản xuất đồ uống - - 16.214 16.875 16.875
trang 5.146 8.578 11.707 14.447 14.996
sản xuất 250 200 434 840 904
sản xuất 16.163 20.424 38.582 36.271 38.386
12.790 13.583 12.914 1.066 1.146
5.800 9.640 18.824 20.509 21.575
- - 1.413 2.102
43.975 14.555 14.802 19.163 19.156
90.605
4.626 14.254 6.193 1.426 1.995
345 1.029 1.053 1.160 1.297
26.216 49.527 32.235 27.369 29.695
548 1.045 1.346 1.505 1.565
-Sản xuất phục -Sản phẩm bằng da -Sản phẩm lâm sản -Sản xuất giấy và các sản phẩm bằng giấy -In và sao bản ghi -Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế -Sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất thuốc, -Sản xuất hóa dược và dược liệu -Sản sản xuất phẩm cao su và plastic -Sản xuất các sản chất từ phẩm khoáng phi kim loại khác -Sản xuất kim loại -Sản sản xuất phẩm bằng kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) -Sản xuất thiết bị điện -Sản xuất, sửa 569 1.057
12.948 8.168 26.293 30.393 33.609
6.174 19.348 16.159 14.879 15.474
sản 8.224 8.843 9.241
23.126 19.436 132.850 184.448 480.393
- - 107.338 163.235 458.396
23.126 19.436 25.512 21.213 21.997 chữa xe cộ có động cơ sữa xuất, -Sản chữa phương tiện vận tải khác -Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế -Sản xuất phẩm tái chế 3.Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước -Sản xuất, phân phối điện, ga, khí đốt, hơi nước và nước đá -Sản xuất và phân phối nước
4. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT XÂY DỰNG THEO GIÁ HIỆN HÀNH
“Nguồn:Cục Thống Kê Cà Mau”. Đơn vị tính: triệu đồng
2001 2003 2005 2006 2007
Tổng số 800.285 629.501 843.422 940.086 1.132.029
800.285 629.501 843.422 940.086 1.132.029 1.Phân theo thành
phần kinh tế
800.285 629.501 843.422 940.086 1.132.029 Khu vực kinh tế trong
nước
+ Nhà nước 143.239 163.304 144.562 161.786 159.241
-Trung ương quản lý 2.648 - 15.954 13.786 49.960
-Địa phương quản lý 140.591 163.304 128.608 148.000 109.281
+ Tập thể - 3.595 12.672 32.590 6.631
+ Cá thể và tiểu chủ 318.746 355.255 401.241 364.129 491.138
+ Tư bản tư nhân 338.300 107.377 248.947 381.581 475.019
800.285 629.501 843.422 940.086 1.085.359 2.Phân theo hoạt
động xây dựng
+ Xây dựng 785.132 601.897 806.438 898.862
-Trung ương quản lý 2.648 - - -
-Địa phương quản lý 782.484 601.897 806.438 898.862
+ Lắp đặt trang thiết bị 15.153 27.604 36.984 41.224
-Trung ương quản lý - - - -
-Địa phương quản lý 15.153 27.604 36.984 41.224
5. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT THƯƠNG MẠI, DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG THEO GIÁ HIỆN HÀNH “Nguồn: Cục Thống Kê Cà Mau”. Đơn vị tính: triệu đồng
2001 2003 2005 2006
Tổng số 1.045.818 1.636.882 2.088.060 2.420.665
I. Phân theo thành phần kinh 1.045.818 1.636.882 2.088.060 2.420.665 tế
A. Khu vực kinh tế trong 1.045.818 1.636.882 2.088.060 2.420.665 nước
+Nhà nước 126.528 127.864 98.514 114.206
-Trung ương quản lý 15.104 10.546 15.937 18.015
-Địa phương quản lý 111.424 117.318 82.577 96.191
+Tập thể 200 280 255 295
+Cá thể và tiểu chủ 716.146 1.264.832 1.577.299 1.714.342
+Tư bản tư nhân 202.944 243.906 411.992 477.617
B. Khu vực kinh tế có vốn - - - - đầu tư nước ngoài
II. Phân theo ngành 1.054.818 1.636.882 2.088.060 2.420.665
+Thương mại 807.836 1.108.572 1.390.232 1.571.551
-Trung ương quản lý 15.104 10.546 15.937 18.015
-Địa phương quản lý 792.732 1.098.026 1.374.295 1.553.536
+Du lịch 1.294 2.800 2.500 2.750
-Trung ương quản lý - - - -
-Địa phương quản lý 1.294 2.800 2.500 2.750
+Khách sạn, Nhà hàng 236.058 525.510 695.328 864.364
- - - - -Trung ương quản lý
-Địa phương quản lý 236.058 525.510 695.328 864.364
6. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT VẬN TẢI VÀ BƯU ĐIỆN THEO GIÁ HIỆN HÀNH “Nguồn: Cục Thống Kê Cà Mau”. Đơn vị tính: triệu đồng 2006 2001 2003 2005
Tổng số 301.067 398.216 672.375 1.133.044
I. Phân theo thành phần kinh 301.367 398.216 672.375 1.133.044 tế
1. Khu vực kinh tế trong nước 301.367 398.216 672.375 1.133.044
+Nhà nước 112.775 164.019 222.417 248.011
-Trung ương quản lý 101.401 155.388 215.519 241.375
-Địa phương quản lý 11.374 8.631 6.898 6.636
+Tập thể 43.295 186 1.601 259
+Cá thể và tiểu chủ 144.715 224.150 426.537 857.858
+Tư bản tư nhân 282 9.861 21.820 26.916
2. Khu vực kinh tế có vốn đầu - - - - tư nước ngoài
II. Phân theo ngành vận tải 301.067 398.216 672.375 1.133.044
1.Vận tải 199.666 242.828 456.856 891.669
+Đường bộ, đường ống 72.881 90.148 201.016 455.803
-Đường ô tô 72.881 90.148 201.016 455.803
-Đường bộ khác - - - -
+Đường thủy 126.785 152.680 255.840 435.866
-Đường biển - - - -
-Đường sông 126.785 152.680 255.840 435.886
+Hàng không - - … …
2. Bưu chính và viễn thông 101.401 155.388 215.519 241.375
Cả nước ổng số
Long An Tiền Giang Bến Tre Trà Vinh
2001 481.295.000 77.316.255 6.599.394 7.325.315 5.860.512 4.516.640 4.590.190 5.463.350
10.069.233
Cần Thơ
2003 613.443.000 102.185.731 8.205.632 9.389.327 7.134.525 5.642.002 5.618.772 6.993.927 13.190.175 10.850.545 9.408.615 4.090.336 7.123.000 5.667.712 8.871.163
2005 839.211.000 143.540.323 11.641.000 12.872.154 9.940.822 8.200.452 8.216.385 9.973.000 18.647.750 16.238.036 14.277.746 5.269.349 9.265.625 7.784.113 11.213.891
7.912.693 6.376.295 2.850.869 5.364.000 3.783.065 6.604.699
2006 973.791.000 167.658.450 13.916.654 14.729.383 11.322.948 9.592.517 9.590.496 12.056.000 21.071.076 18.708.477 17.974.325 5.918.322 10.695.100 9.418.777 12.664.375
7. TỔNG SẢN PHẨM (GDP) CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG “Nguồn: Cục Thống Kê Cà Mau”. Đơn vị tính: triệu đồng Số TT T 1 2 3 4 5 Vĩnh Long 6 Đồng Tháp 7 An Giang 8 Kiên Giang 9 10 Hậu Giang Sóc Trăng 11 Bạc Liêu 12 Cà Mau 13 8. TRỊ GIÁ XUẤT KHẨU CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Cả nước ổng số
2001 15.029.200 1.449.599 160.824 68.897 39.998 27.010 56.264 81.850
Long An Tiền Giang Bến Tre Trà Vinh Vĩnh Long Đồng Tháp An Giang
118.777
2003 20.149.300 2.091.575 244.489 88.148 55.204 37.599 81.726 111.161 182.318 130.218 251.218 124.411 277.066 95.991 412.026
2005 32.441.900 2.975.562 367.170 167.460 95.085 46.384 157.246 167.403 340.304 215.606 376.082 117.231 290.391 114.200 520.902
107.707 166.825 77.187 218.952 73.446 251.862
Cần Thơ Hậu Giang Sóc Trăng Bạc Liêu Cà Mau
2006 39.605.000 3.508.233 465.489 216.699 122.588 48.798 170.593 239.858 380.000 240.680 444.603 110.000 334.000 147.000 582.934
“Nguồn: Cục Thống Kê Cà Mau”. Đơn vị tính: triệu đồng Số TT T 1 2 3 4 5 6 7 8 Kiên Giang 9 10 11 12 13
9. HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT “Nguồn: Cục Thống Kê Cà Mau”. 2001 2003 2005 2006
Hoạt động văn hóa
4 4 5 4
7 7 4 4
- - - -
-Số trung tâm văn hóa tỉnh, thành phố -Số trung tâm văn hóa quận, huyện và thị xã -Số trung tâm văn hóa khu vực -Số đơn vị nghệ thuật 3 3 2 3
+ Chuyên nghiệp 2 2 2 3
+ Không chuyên nghiệp 1 1 - -
-Số buổi biểu diễn 821 1.200 278 232
-Số đơn vị chiếu phim 1 1 1 1
-Số rạp chiếu phim 1 1 1 1
-Số buổi chiếu phim 245 392 224 204
Thư viện
-Số thư viện 8 8 10 10
-Số sách có trong thư viện 90.000 510.000 406.780 402.443
9.985 10.025 -Số thẻ bạn đọc 1.824 2.193
… … 3.994 4.010 + Nam
… … 5.991 6.015 + Nữ
-Số lượt người đọc 91.202 152.200 162.784 174.209
… … 56.974 60.973 + Nam
… … 105.810 113.236 + Nữ
RÖØNG TRAØM
NUOÂI TOÂM COÂNG NGHIEÄP
SAÂN CHIM CAØ MAU
MUÕI CAØ MAU
LEÃ HOÄI NGHINH OÂNG
LEÃ HOÄI CHOLCHNAM THMAÂY
HOØN ÑAÙ BAÏC
CHÔÏ NOÅI CAØ MAU
CHEÁ BIEÁN THUÛY SAÛN
CAÛNG CAÙ CAØ MAU
NHAØ MAÙY KHÍ ÑIEÄN ÑAÏM CAØ MAU