ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------

PHÙNG THỊ MAI

TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ

VĂN HÓA VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM NĂM 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

PHÙNG THỊ MAI

TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ

VĂN HÓA VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM NĂM 1945

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 03 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Nghĩa

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Tìm hiểu quan điểm của Đảng về văn

hóa Việt Nam trƣớc Cách mạng Tháng Tám năm 1945” là công trình

nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu trong luận văn được sử dụng và chú

thích nguồn trung thực.

Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2014

Tác giả

Phùng Thị Mai

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Tr n Vi t Ngh a đã tận tâm định

hướng cho tôi ngay từ những ngày đ u thực hiện luận văn. Những góp ý, chia

sẻ, nhận xét của th y là động lực và tiền đề quan trọng giúp tôi hoàn thành

luận văn này. Đó cũng là những bài học “làm người” cho tôi trong tương lai.

Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã tạo điều

kiện cho tôi cả về vật chất và tinh th n. Trân trọng cảm ơn quý th y cô trong

và ngoài khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp

tôi hoàn thành khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn

động viên tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.

Tác giả

Phùng Thị Mai

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6

7. K t cấu của luận văn ..................................................................................... 7

Chƣơng 1. THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ KHI ĐẢNG

CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

NĂM 1945 ........................................................................................................ 8

1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam ................................................ 8

1.2. Thực trạng văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 ................................. 15

Tiểu k t chương 1............................................................................................ 26

Chƣơng 2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN NGHỆ

VIỆT NAM .................................................................................................... 28

2.1. Quan điểm của Chủ ngh a Mác - Lênin về văn hóa ................................. 28

2.2. Quan điểm của Đảng về văn hóa ............................................................ 38

2.3. Quan điểm của Đảng về văn nghệ ....................................................... 47

Tiểu k t chương 2............................................................................................ 55

Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ TUYÊN

TRUYỀN, VẬN ĐỘNG VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG MẶT TRẬN VĂN

HÓA CỨU QUỐC ......................................................................................... 57

3.1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về tuyên truyền, vận động văn hóa 57

3.2. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc .. 65

3.3. Ảnh hưởng văn hóa của Đảng tới giới văn nghệ s .................................. 70

Tiểu k t chương 3............................................................................................ 78

Chƣơng 4. MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ....... 80

4.1. Một vài nhận xét về quan điểm văn hóa của Đảng trước Cách mạng

Tháng Tám năm 1945 ..................................................................................... 80

4.2. Một số kinh nghiệm lịch sử ..................................................................... 86

KẾT LUẬN .................................................................................................... 89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 91

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 98

BẢNG KÝ HIỆU CHỮ CÁI VIẾT TẮT

1 Nxb. Nhà xuất bản

2 TG Tác giả

3 TS. Ti n s

4 Tr. Trang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ khi thành lập năm 1930 đ n trước Cách mạng Tháng Tám năm

1945, Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10/1930 đổi tên là Đảng Cộng sản

Đông Dương) đã từng bước xây dựng hệ thống quan điểm về văn hóa nhằm

định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Đảng đã bước đ u

khẳng định văn hóa là một thứ vũ khí sắc bén, một mặt trận quan trọng chống

đ quốc. Với quan điểm văn hóa đúng đắn, Đảng đã thu hút được đông đảo

trí thức, văn nghệ s tham gia phát triển văn hóa và cứu nước.

Giai đoạn 1930 - 1945, ở Việt Nam diễn ra những cuộc tranh luận về

tri t học duy vật và tri t học duy tâm, về “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay

“nghệ thuật vị nhân sinh” trên diễn đàn báo chí. Giới trí thức liên tục đưa ra

nhiều quan điểm để bảo vệ lập trường, quan điểm của mình khi n cho các

cuộc “bút chi n” trở nên “nảy lửa” hơn. Từ các khuynh hướng văn hóa khác

nhau đã hình thành nên các nhóm phái văn hóa khác nhau. Sự đa dạng về tư

tưởng, sự ra đời của các nhóm phái văn hóa góp ph n thúc đẩy sự phát triển

của văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, sự thi u thống nhất dễ gây mất đoàn k t

trong nội bộ trí thức, văn nghệ s nói riêng, qu n chúng nhân dân nói chung,

nảy sinh xu hướng ly tâm, xa rời thực tiễn dân tộc.

Trong bức tranh văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945, việc Đảng

đưa ra các quan điểm văn hóa là c n thi t. Một là thể hiện quan điểm, lập

trường của Đảng về văn hóa. Hai là qua văn hóa để tập hợp lực lượng chống

đ quốc. Do đó, trong quá trình vận động phát triển và lãnh đạo phong trào

cách mạng, Đảng đã từng bước xây dựng và đưa ra các quan điểm về văn

hóa, văn nghệ, các biện pháp vận động, tuyên truyền văn hóa và xây dựng

mặt trận văn hóa cứu quốc. Đảng cũng tích cực tham gia những tranh luận

1

về văn hóa, văn nghệ (chủ y u thông qua hoạt động văn hóa của một số trí

thức ti n bộ) để minh chứng cho sự vững vàng trong lập trường về văn hóa

theo chủ ngh a Mác - Lênin của Đảng. Những quan điểm về văn hóa của

Đảng đã có sức ảnh hưởng lớn tới đời sống văn hóa trí thức, văn nghệ s và

nhân dân khi đó.

Nhận thức sâu sắc t m quan trọng của việc làm rõ quan điểm của

Đảng về văn hóa trong giai đoạn tập hợp lực lượng, chuẩn bị đấu tranh giành

chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ đó rút ra nhiều bài

học về lý luận cũng như thực tiễn quan trọng đối với lịch sử, tôi lựa chọn đề

tài: “Tìm hiểu quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trƣớc Cách

mạng Tháng Tám năm 1945” làm luận văn thạc s của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Quan điểm, đường lối, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam về văn hóa là một trong những nội dung được một số nhà nghiên cứu

quan tâm, phản ánh trong khá nhiều công trình.

Năm 1960, để góp ph n vào việc nghiên cứu lịch sử Đảng, Nhà xuất

bản Sự thật đã sưu t m và giới thiệu một số tài liệu trích trong các văn kiện

của Đảng và bài vi t của các đồng chí lãnh tụ về sự lãnh đạo của Đảng trên

mặt trận tư tưởng và văn hóa từ năm 1930 đ n năm 1960. Tập đ u của cuốn

sách Về sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa (1930 -

1945) đã tập hợp tương đối đ y đủ các văn kiện của Đảng và bài vi t của

những lãnh tụ thể hiện sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn

hóa giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trước mỗi ph n trích

dẫn tài liệu của từng giai đoạn, Ban Biên tập cuốn sách có một ph n khái lược

về sự lãnh đạo của Đảng, cũng chính là tóm lược nội dung cốt lõi của các văn

kiện được đề cập. Đây là một trong những tài liệu quan trọng giúp tôi dễ dàng

ti p cận những văn kiện của Đảng liên quan tới văn hóa một cách có hệ thống

2

và tổng hợp. Tuy nhiên, cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở việc sưu t m, trích

lược thu n túy, chưa đi sâu phân tích đường lối, sự lãnh đạo, chỉ đạo của

Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Năm 1986, cuốn sách Văn hóa văn nghệ trong cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam, Mục tiêu và động lực ra mắt bạn đọc là tập hợp những bài

vi t của Tr n Độ về nhiều khía cạnh xoay quanh văn hóa mới xã hội chủ

ngh a. Trong cuốn sách, Tr n Độ đã đề cập tới một số quan điểm của Đảng

trong việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ ngh a và

nhiệm vụ của văn nghệ, đồng thời nhấn mạnh việc c n thi t phải tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Với đặc thù tập trung vào các

vấn đề liên quan tới văn hóa mới xã hội chủ ngh a, cuốn sách tuy có đề cập

tới quan điểm, sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa nhưng chỉ chủ y u phản ánh

giai đoạn sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công.

Công trình tư liệu - biên soạn Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 1 và

tập 2 (giai đoạn đ u th kỷ XX - 1945) ra mắt độc giả trong năm 2001 và

2002 là hai tập sách cung cấp cho tôi mảng tư liệu “khó ki m tìm” về những

cuộc tranh luận lớn đã diễn ra cách đây g n một th kỷ. Cuốn sách góp ph n

nhìn nhận lại văn hóa, văn nghệ th kỷ XX, đồng thời đưa ra những tìm tòi,

gợi ý mới, ti p tục hoàn thiện sự đánh giá xung quanh diễn bi n, vai trò của

các lực lượng tham gia, ý ngh a thời đại từ các vấn đề đặt ra trong các cuộc

tranh luận văn hóa, văn nghệ. Cuốn sách là một nguồn tư liệu quý giúp tôi

nghiên cứu về những cuộc tranh luận nghệ thuật “nảy lửa” ở Việt Nam trong

những năm 1920 - 1940, từ đó thấy được một ph n quan điểm của Đảng về

văn hóa thông qua tư tưởng đấu tranh của các nhà văn hóa Mác-xít, tiêu biểu

như Hải Triều.

Bên cạnh Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 1 và tập 2, để tìm hiểu kỹ

hơn về một trong những cuộc tranh luận thể hiện được lập trường, quan điểm

3

của Đảng trong văn hóa, nghệ thuật, người đọc có thể ti p cận cuốn sách

Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? của Nguyễn Ngọc

Thiện (năm 2004). Bên cạnh việc tập hợp các bài “bút chi n” của những

người tham gia tranh luận khi đó, Nguyễn Ngọc Thiện còn đưa ra một số

nhận định “đắt giá” về cuộc đụng độ này. Qua đó, người đọc hình dung được

sự sôi động trong đấu tranh về mặt văn hóa, văn nghệ ở Việt Nam trong

những năm 1935 - 1939, đồng thời thấy được những quan điểm của Đảng về

văn hóa, văn nghệ trong thời gian này. Cũng bởi chỉ tập trung tổng hợp các tư

liệu liên quan tới các cuộc tranh luận nên hai công trình trên mới chỉ phản ánh

được một ph n quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng

Tháng Tám năm 1945.

Văn nghệ - một bộ phận quan trọng của văn hóa là khía cạnh được

nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Nghiên cứu về đường lối văn nghệ

của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đ n nay, Hà Xuân Trường có

công trình Đường lối văn nghệ của Đảng - Vũ khí, trí tuệ, ánh sáng (năm

1972); Hoàng Xuân Nhị có công trình Tìm hiểu đường lối văn nghệ của Đảng

và sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam hiện đại (năm 1975)…

Về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, một nội dung dành

được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu là tác phẩm Đề cương văn hóa

Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm, 50 năm… kể từ khi Đề cương văn hóa

Việt Nam ra đời, các Nhà xuất bản đã liên ti p xuất bản nhiều cuốn sách vi t về

nội dung này. Bên cạnh các sách, giáo trình chuyên khảo, nhiều bài nghiên cứu

đăng trên các tạp chí chuyên ngành cũng đề cập tới các khía cạnh khác nhau

của Đề cương văn hóa Việt Nam.

Nhóm sách và bài nghiên cứu trên trọng tâm phân tích những giá trị nổi

bật của Đề cương văn hóa Việt Nam - một trong những văn kiện quan trọng

của Đảng về văn hóa, cũng như những ảnh hưởng của Đề cương đối với các

4

giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng giúp tôi

tập trung làm rõ quan điểm của Đảng về văn hóa từ năm 1943 - 1945. Tuy

nhiên, do đặc thù nghiên cứu riêng các giá trị tiêu biểu của một tác phẩm, do

đó, các cuốn sách và bài vi t này chưa đáp ứng được yêu c u khái quát quan

điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.

Đường lối văn hóa, nhất là văn nghệ của Đảng đã được một số nhà

nghiên cứu dành thời gian sưu t m, khảo cứu, phân tích từ lâu, trong đó có

nhiều công trình có giá trị lớn. Mỗi cuốn sách, mỗi bài nghiên cứu là tài liệu

quý báu giúp tôi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, các

nghiên cứu trước đây chủ y u phản ánh quan điểm của Đảng sau khi Đề

cương văn hóa Việt Nam ra đời và quá trình xây dựng nền văn hóa mới xã

hội chủ ngh a sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Quan điểm của Đảng

về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 c n được

nghiên cứu chuyên sâu và hoàn thiện hơn.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu

Trình bày và phân tích một cách có hệ thống các quan điểm của Đảng

về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nhiệm vụ

- Trình bày thực trạng của văn hóa Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản

Việt Nam ra đời đ n Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

- Nêu được những quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ Việt Nam.

- Nêu được tác động của những quan điểm văn hóa của Đảng tới văn

hóa Việt Nam và cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam giai đoạn

1930 - 1945.

5

- Rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Để thực hiện đề tài này, tôi vận dụng cơ sở lý thuy t của chủ ngh a

Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về văn hóa.

- Các phương pháp mà tôi sử dụng để thực hiện đề tài này là: Phương

pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp lô gic, phương pháp phân tích, phương

pháp so sánh.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quan điểm Đảng về văn hóa

Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện Đảng và trong thực tiễn lãnh đạo

cách mạng Việt Nam trên mặt trận văn hóa giai đoạn 1930 - 1945.

Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài bắt đ u từ khi Đảng

cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đ n thời điểm Cách mạng Tháng Tám

thành công năm 1945.

- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các quan điểm và một số

chỉ đạo về văn hóa của Đảng.

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn làm sáng tỏ quan điểm của Đảng về văn hóa trong giai đoạn

1930 - 1945.

- Luận văn làm rõ tác động từ các quan điểm văn hóa của Đảng tới văn

hóa Việt Nam và quá trình vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam giai đoạn

1930 - 1945.

- Luận văn là một tài liệu tham khảo góp ph n nghiên cứu lịch sử văn

6

hóa Việt Nam nói chung, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài ph n mở đ u, k t luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 4 chương như sau:

Chương 1: Thực trạng văn hóa Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt

Nam ra đời đ n Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Chương 2: Quan điểm của Đảng về văn hóa và văn nghệ Việt Nam

Chương 3: Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về tuyên truyền, vận

động văn hóa và xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc

7

Chương 4: Một vài nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.

Chƣơng 1

THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ KHI ĐẢNG CỘNG SẢN

VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM NĂM 1945

1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam

Trước khi ti p xúc với nền văn hóa Pháp, Việt Nam đã trải qua một

thời Hán hóa về văn hóa. Trong bài vi t “Ti p xúc giữa văn hóa Việt Nam

và văn hóa Pháp”, Phan Ngọc cho rằng văn hóa Trung Hoa đã đóng vai trò

ki n trúc thượng t ng, nhưng không vì vậy mà nó cấu trúc hóa lại nền văn

hóa Việt Nam.

Sang th kỷ XIX, sau khi xâm lược nước ta, bên cạnh các chính sách về

kinh t , thực dân Pháp đã ban hành nhiều chính sách về văn hóa đối với Việt

Nam. Nhìn một cách tổng quát, trước h t, để truyền bá văn hóa Pháp một

cách sâu rộng vào Việt Nam, chúng đã mưu đồ hình thành ở nước ta đội ngũ

trí thức Tây học thay th cho đội ngũ trí thức Nho học thịnh hành trước đây,

từng bước đưa trí thức Tây học trở thành bộ phận áp đảo hơn về số lượng

trong toàn bộ giới trí thức Việt Nam, có quyền lợi gắn với thực dân Pháp, từ

đó trở thành đội ngũ tay sai phục vụ đắc lực cho lợi ích của nước Pháp.

Đi liền với việc xây dựng đội ngũ trí thức Tây học, thực dân Pháp chủ

trương từng bước loại bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam,

trong đó quy t liệt nhất là làm rạn nứt và thủ tiêu nền giáo dục Nho học. Trên

thực t , khi được giao trọng trách trở thành Toàn quyền Đông Dương, các nhà

chính trị gia người Pháp đều lo ngh tới việc loại bỏ văn hóa Trung Hoa ra

khỏi xã hội Việt Nam, bởi chỉ có như th , văn hóa Pháp mới xác lập được vị

th trong đời sống xã hội Việt Nam. Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer

8

đã nhận thức sâu sắc về ảnh hưởng của nền giáo dục Trung Hoa đối với người

Việt Nam: “Những nguyên tắc làm cho gia đình vững chắc, cha mẹ được tôn

kính, chính quyền được tuân thủ đều rút ra từ các sách Hán học. Bắt đ u tập

đọc những chữ đ u tiên là họ học những nguyên tắc rường cột của luân lý đạo

Nho, họ khắc sâu vào lòng những nguyên tắc sẽ hướng dẫn họ suốt cả cuộc

đời. Chính các trường làng sẽ cung cấp cho họ nền giáo dục đó” [41, 30].

Nhận thức sâu sắc về t m ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Việt

Nam, với nguyện vọng đưa văn hóa Pháp vào Việt Nam, những nhà c m

quyền tại Đông Dương lựa chọn những cách thức khác nhau nhưng nhằm tới

mục đích cuối cùng là loại bỏ văn hóa Trung Hoa, xây dựng t m ảnh hưởng

và sự thống trị của văn hóa Pháp trong đời sống xã hội Việt Nam.

Chính phủ Pháp l n lượt ban hành các Sắc lệnh mang tính áp đặt đối

với người Việt về mặt văn hóa và có những động thái chính trị mạnh mẽ để

từng bước hạn ch sự cố k t về văn hóa của người Việt. Ngày 25/5/1881,

Chính phủ Pháp ban hành Sắc lệnh quy định: “Dân bản xứ An Nam, sinh ra

và cư ngụ ở Nam Kỳ là người Pháp, một khi người dân bản xứ đã chấp nhận

sự thống trị của người Pháp thì họ bắt buộc phải học ti ng của chúng ta và

chấp nhận những phong tục, tập quán của chúng ta, chúng ta không thể nào

ban bố tất cả những quyền lợi của một công dân cho những ai không hiểu

được nền văn minh của chúng ta” [70, tr.31]. Năm 1883, Jules Harmand cho

rằng người Pháp c n phải chia cắt lãnh thổ Việt Nam để làm tan rã sự cố k t

của nước Việt Nam, người Việt Nam nhằm tránh một cuộc nổi dậy của toàn

thể dân chúng. Trên tinh th n đó, bản Hiệp ước Harmand đã chia cắt lãnh thổ

Việt Nam thành ba kỳ với ba ch độ chính trị khác nhau: Nam Kỳ là xứ thuộc

địa, Trung Kỳ là xứ bảo hộ và Bắc Kỳ là xứ bán bảo hộ.

Đ n năm 1885, lời tuyên bố của Thủ tướng Pháp Jules Ferry: “Bổn

phận của các nòi giống thượng đẳng là phải giúp đỡ các nòi giống hạ đẳng để

9

đưa họ thoát ra khỏi sự man rợ” đã cho thấy rõ hơn chính sách “đồng hóa”

của thực dân Pháp trong cái vỏ bọc [54, 617]. Các viên toàn quyền người

Pháp đều cơ bản lựa chọn phương thức tán dương chính sách “khai hóa văn

minh” của Pháp. Chẳng hạn, toàn quyền Albert Sarraut bày tỏ: “Nước Pháp ta

là nước đã đề xướng ra cái chủ ngh a nhân quyền, lịch sử chan chứa một cái

tư tưởng công ngh a…, nước Pháp ra tay nặn cho nên một nhân loại mới…

Cái công khai hóa ấy đối với những dân tộc còn kém hèn, không thể một buổi

mà thành được, không thể bi n hóa mau cho đ n nỗi chỉ trong một thời kỳ

ngắn có thể rút lại cái bước đường dài của mấy mươi th kỷ đã xa cách các

dân tộc ấy với ta trong cuộc ti n hóa về trí thức và tinh th n”. Toàn quyền

Pièrre Pasquier nhấn mạnh đ n những thay đổi vật chất to lớn mà người Pháp

đã mang đ n cho người Việt Nam, hứa hẹn nước Pháp sẽ còn đem lại những

thay đổi vật chất to lớn hơn nữa nhằm bi n xứ sở lạc hậu này thành một xứ sở

thịnh vượng. Trong khi đó, Toàn quyền Martial Merlin coi những thành tựu

trong sự nghiệp khai hóa là sợi dây k t nối thuộc địa với mẫu quốc, mà ở đó

mẫu quốc có trách nhiệm dẫn dắt, còn thuộc địa phải có trách nhiệm phục

tùng [50, 95-102].

Để thực hiện âm mưu “đồng hóa”, thực dân Pháp còn chú trọng phát

triển ở Việt Nam các cơ quan truyền bá văn hóa, nhất là sách, báo chí, tạp chí

để vừa biện minh cho hành động xâm lược của chúng, vừa phổ bi n rộng rãi

các thành tựu văn hóa Pháp đ n người dân Việt. Ở Nam Kỳ, dưới sự trợ giúp

của Pháp, Trương V nh Ký đứng ra làm chủ bút tờ Gia Định báo, xuất bản từ

năm 1865. Trương V nh Ký còn cho in nhiều tập sách giới thiệu phong tục, tập

quán của nhân dân ta như Gia huấn ca (1882), Phép lịch sử An Nam (1883), về

văn học có Lục Vân Tiên, Phan Trần (1889). Bên cạnh đó, Trương V nh Ký

còn xuất bản một số sách hỗ trợ học ti ng Pháp, học chữ Nho và chữ Quốc ngữ

như các cuốn: Pháp - Việt từ điển (1884), Việt - Pháp từ điển (1887), Từ điển

10

địa lý An Nam (Dictionnaire Géographique Annammité), Đại Nam nhân vật bị

khảo (Dictionnaire Biographique Annammité) [40, 16-17]. Chính quyền thực

dân còn cho xuất bản Đông Dương tạp chí để truyền bá tư tưởng thân Pháp;

mặt khác bỏ thi chữ Hán, mở trường Hậu bổ, trường Thông ngôn và bắt đ u

mở các trường Pháp - Việt, trường Cao đẳng Y khoa Hà Nội [8, 38].

Chính quyền Pháp ở Đông Dương còn bảo trợ cho các hội văn hóa hoạt

động nhằm quy tụ những trí thức thượng lưu thực hiện nhiệm vụ truyền bá

văn hóa Pháp. Năm 1883, Hội Đông Dương học ra đời tại Sài Gòn. Ngày

3/7/1886, Paul Bert (Tổng trú Bắc và Trung Kỳ) đã ký Nghị định thành lập

Viện hàn lâm Bắc Kỳ bao gồm 40 nhà khoa bảng Việt Nam và 10 người

Pháp. Viện có nhiệm vụ truyền bá văn minh nước Pháp, đồng thời giúp cho

người Pháp hiểu được văn hóa Việt Nam để dễ bề cai trị.

Năm 1919, thực dân Pháp cho lập Hội Khai trí ti n đức. Hội thường tổ

chức các hoạt động văn hóa như giới thiệu các tác phẩm văn học cổ - kim,

dịch sách, in sách, làm từ điển, diễn kịch và diễn thuy t. Với ảnh hưởng của

mình, chính quyền thuộc địa đã bi n một số hội viên trong Hội trở thành tay

sai cho thực dân Pháp. Sự xuất hiện của các tổ chức này đã tạo điều kiện

khuy n khích người Pháp tăng cường ti p xúc và tìm hiểu phong tục tập quán

văn hóa Việt Nam [40, 16-17] để thực hiện âm mưu “đồng hóa”.

Ngoài ra, thực dân Pháp còn xây dựng các công trình hạ t ng cơ sở

như phố xá, nhà cửa, công sở, nhà máy, khu vui chơi, giao thông… tạo điều

kiện cho công cuộc khai thác thuộc địa, đồng thời khu ch trương sức mạnh

nền văn minh công nghiệp của nước Pháp, làm bệ đỡ cho sự tồn tại văn hóa

Pháp và chinh phục tinh th n nhân dân bản xứ. Cũng bởi th , những chính

sách và hoạt động thực tiễn của chính quyền thuộc địa đã tác động đáng kể

đ n một bộ phận trí thức Việt Nam, chủ y u là bộ phận người có quyền lợi

11

gắn bó mật thi t với ch độ thực dân.

Nhìn chung, sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã

ban hành và thực hiện nhiều chính sách nhằm “khai thác thuộc địa”. Riêng về

khía cạnh văn hóa, thực dân Pháp đã âm mưu “đồng hóa” bằng những chính

sách về văn hóa nhằm thay đổi diện mạo văn hóa và con người Việt Nam theo

xu hướng “thuộc Pháp”. Tuy nhiên, y u tố Trung Hoa tồn tại trong xã hội

Việt Nam từ lâu đời nên mặc dù có nhiều cố gắng nhưng thực dân Pháp

không thể ngay lập tức loại bỏ được những ảnh hưởng của văn hóa Trung

Hoa. Cũng bởi th , văn hóa thống trị ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc cơ bản

vẫn mang đặc điểm chính là: Nội dung lộn xộn, phức tạp, hình thức vừa lai

Pháp, vừa lai Trung Quốc [8, 38].

Sự thay đổi mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam những năm đ u th kỷ XX

đã làm cho đội ngũ nhà Nho bị phân hóa. Một nhóm nhà Nho đã đ u hàng

thực dân Pháp, cam chịu làm tay sai để hưởng vinh hoa phú quý. Dưới ảnh

hưởng của sự gieo rắc vào đ u óc người trí thức Việt Nam tinh th n phục

Pháp, nhiều trí thức đã vào làng Tây, nói ti ng Tây, bắt chước một cách lố

lăng từ cách ăn diện đ n cuộc sống hưởng lạc và đồi trụy của Pháp. Tư tưởng

sùng ngoại này dẫn tới đ u óc tự ti dân tộc và miệt thị văn hóa dân tộc. Một

số người đã không còn bi t đ n truyền thống yêu nước, khí phách anh hùng,

tính lao động c n cù, sáng tạo, phẩm chất cao quý của dân tộc ta trong suốt

mấy nghìn năm lịch sử [74, 15]. Chẳng hạn trường hợp của Tôn Thọ Tường

ra sức cường điệu sức mạnh vật chất của phương Tây, đồng thời phân tr n ta

kém nên không thể nào địch nổi quân thù… Tôn Thọ Tường khuyên những

người kháng chi n mau đ u hàng Pháp kẻo “hối không kịp”.

Trong khi đó, một nhóm nhà Nho bảo thủ vẫn ti p tục chống đối văn

minh phương Tây và phản đối duy tân. Với những ảnh hưởng và ràng buộc

sâu sắc của học thuy t và ý thức hệ Nho giáo, nhóm nhà Nho bảo thủ tìm mọi

biện cớ để phủ nhận sức mạnh kỹ thuật của phương Tây, chống đối Ki-tô giáo

12

và phản đối lối sống phương Tây.

Tuy nhiên, có một nhóm nhà Nho cấp ti n hơn đã từng bước ti n nhận

và ti p bi n văn minh phương Tây để duy tân đất nước. Tiêu biểu là Nguyễn

Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản... với tư tưởng canh tân đất nước

trong giáo dục; Bùi Viện, Đặng Huy Trứ... với tư tưởng cải cách đất nước trong

phát triển kinh t , nhất là thương nghiệp. Một số trí thức khác lựa chọn dung

hòa văn minh Đông - Tây để thúc đẩy dân tộc mau chóng ti n bộ, tiêu biểu như

trường hợp của Trương V nh Ký. Vào những năm 1920, trong khi Nguyễn An

Ninh, Phạm Quỳnh đề cao việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc với những nội

dung thiên về chủ ngh a quốc gia, Nguyễn Văn V nh đã đưa ra vấn đề bài trừ

hủ tục, coi đó là động lực thúc đẩy sự phát triển của văn hóa và xã hội Việt

Nam. Giới trí thức Việt Nam trong nhóm nhà Nho cấp ti n bên cạnh việc tuyên

truyền cho văn minh phương Tây vẫn không quên phê phán những mặt trái của

văn minh phương Tây và giữ vững tư tưởng “chống đồng hóa”.

Xuất phát từ thái độ mong muốn canh tân đất nước, trước những chính

sách văn hóa mang tính áp đặt của thực dân Pháp, các nhà trí thức Việt Nam

đã có những hành động tích cực trong việc dung hòa mối quan hệ văn hóa

Đông - Tây, ti p nhận văn hóa Pháp để duy tân đất nước.

Từ trước năm 1914, nhiều nhà Nho cấp ti n đã sử dụng báo chí làm

phương tiện truyền bá văn minh phương Tây và cổ động duy tân trên Lục tỉnh

tân văn, Nông cổ mín đàn, Đăng cổ tùng báo. Trong thời gian Chi n tranh th

giới thứ nhất diễn ra (1914 - 1918), một số tờ báo ti p tục hoạt động mạnh

như Đông Dương tạp chí, đồng thời một số tờ báo mới ra đời như Trung Bắc

tân văn, Công thị báo, Nam Phong tạp chí. Mặc dù chịu sự kiểm soát chặt chẽ

của chính quyền Pháp ở Đông Dương với xu hướng thân Pháp nhưng những

tờ báo này vẫn có đóng góp cho việc truyền bá văn minh Pháp - văn minh của

13

một dân tộc phát triển hơn vào Việt Nam.

Đ n thời gian thực dân Pháp ti n hành cuộc khai thác thuộc địa l n thứ

hai (1919 - 1929), giới trí thức Việt Nam đã tham gia vi t bài và làm chủ bút

của hàng chục tờ báo và tạp chí mới ra đời, trong đó có những tờ báo mang

y u tố yêu nước rõ rệt như: Tờ La Cloche felée (Chuông rè) do Nguyễn An

Ninh làm chủ bút, công khai tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam, đòi

các quyền tự do dân chủ và tuyên truyền những tư tưởng ti n bộ; các tờ báo

có xu hướng cách mạng vô sản như tờ Thanh niên, Búi liềm, Công hội đỏ với

nội dung chống đ quốc và tuyên truyền chủ ngh a Mác - Lênin.

Bên cạnh việc tham gia phát triển báo chí, trí thức Việt Nam còn đi

đ u trong việc cải cách giáo dục. Nhóm nhà Nho cấp ti n ở Quảng Nam do

Phan Châu Trinh đứng đ u đã phát động phong trào Duy tân (1905 - 1908),

kêu gọi mọi người học theo phương Tây và từ bỏ hủ tục; Phan Bội Châu

khởi xướng phong trào Đông Du (1905 - 1908) với mục đích đưa thanh niên

Việt Nam sang học tập tại Nhật Bản để cứu quốc; Lương Văn Can thành lập

Trường Đông Kinh ngh a thục (năm 1907) ở Hà Nội nhằm chấn hưng nền

giáo dục nước nhà.

Như vậy, khi ti p xúc với văn hóa Pháp, thái độ chống đối văn hóa

Pháp chi m vị trí chủ đạo trong tư tưởng của t ng lớp trí thức Việt Nam.

Thái độ này bắt nguồn từ lòng yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc. Từ nhận

thức thực dân Pháp là kẻ thù của dân tộc Việt Nam, nhiều trí thức đã cố

tình phủ nhận văn minh phương Tây, đôi khi phản ứng rất gay gắt. Một số

trường hợp sợ hãi trước những thành tựu về văn hóa của một nước phát

triển, từ đó hình thành tâm lý đ u hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy

nhiên, trong xã hội Việt Nam khi đó vẫn có một bộ phận trí thức có thái độ

ti p nhận văn hóa Pháp trên nền tảng ki n thức, hiểu bi t về cả hai nền văn

hóa Đông - Tây, nhận ra những y u tố ti n bộ trong văn hóa Pháp, mong

muốn dung hòa những xung đột trong văn hóa Đông - Tây và từng bước

14

canh tân đất nước [50, 84-86].

1.2. Thực trạng văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945

Những bi n động về kinh t theo chiều hướng tiêu cực trong những năm

1929 - 1933 làm cho nền kinh t của các nước tư bản chủ ngh a, trong đó có

nước Pháp bị khủng hoảng, đình trệ. Giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút

hậu quả nặng nề của khủng hoảng lên nhân dân lao động ở chính quốc cũng

như ở các nước thuộc địa, trong đó có nhân dân Đông Dương. Việc đ u tư vốn

của tư bản Pháp ở Đông Dương h u như ngừng lại. Từ năm 1934 trở đi, tư bản

Pháp tái đ u tư trở lại, tuy nhiên tốc độ và quy mô đ u tư vào các ngành kinh t

giảm hẳn so với những năm 1920. Về chính trị, thực dân Pháp ti n hành khủng

bố một cách tàn bạo ở cả thành thị và nông thôn, nhất là từ sau khởi ngh a Yên

Bái (tháng 2/1930), đồng thời đề cao tư tưởng chống cộng.

Trong điều kiện kinh t , chính trị mới, chính quyền thực dân ở Đông

Dương ti p tục thi hành các chính sách về văn hóa dưới vỏ bọc “khai hóa văn

minh” nhằm tăng cường ảnh hưởng của văn hóa Pháp ở thuộc địa, nhất là về

giáo dục để tranh thủ lôi kéo các t ng lớp thượng lưu, nhất là trí thức. Về cơ

bản, đ n những năm 1930 - 1935, nền văn hóa Việt Nam vẫn mang đặc trưng

của văn hóa thuộc địa, có sự pha trộn giữa y u tố của văn hóa bản địa, văn

hóa Trung Hoa và văn hóa Pháp.

Cũng trong những năm đ u thập niên 1930, bộ phận trí thức Tây học

nước nhà ít bàn đ n vấn đề nên hay không nên ti p nhận văn minh phương

Tây, bởi h u h t trong số họ đã chấp nhận u hóa. Sự ti p bi n văn minh

phương Tây đã diễn ra trên mọi l nh vực của đời sống văn hóa, xã hội. Sau

thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, luồng tư tưởng tư sản đã khi n nhiều

người trước đây tin vào con đường cách mạng tư sản bị mất phương hướng,

một số tán dương chủ thuy t “Pháp - Việt đề huề”, một số khác lại trở nên

tiêu cực, chống phá cách mạng giải phóng dân tộc. Thất bại của khởi ngh a

Yên Bái đ u năm 1930 đã chấm dứt vai trò của ý thức hệ tư sản đối với nhiệm

15

vụ giải phóng dân tộc.

Trong khi đó, tư tưởng vô sản dựa trên lý luận của chủ ngh a Mác -

Lênin d n d n chi m ưu th . Đặc biệt, đ u năm 1930, Đảng Cộng sản Việt

Nam ra đời, khác với các tổ chức chính trị đương thời đã thu hút sự chú ý

của đông đảo các giai t ng trong xã hội vào cuộc đấu tranh giải phóng dân

tộc, giải phóng giai cấp. Sự lan tỏa của luồng tư tưởng vô sản không chỉ tạo

nên một Xô vi t Nghệ T nh sôi nổi, mạnh mẽ trong những năm 1930 -

1931 mà còn xác lập vị th mới cho y u tố Mác-xít trong bức tranh văn hóa

Việt Nam.

Sau khi các Xô vi t Nghệ T nh bị dìm trong biển máu, phong trào đấu

tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam gặp nhiều khó khăn do bị tổn thất

nhiều cả về lực lượng và tổ chức, phương thức hoạt động cũng không còn

thích hợp nữa. Thực dân Pháp triệt để thi hành chính sách khủng bố trắng đối

với những người yêu nước, bắt giam các cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng

sản Đông Dương, đưa đi tù đày ở Hỏa Lò, Kon Tum, Côn Đảo, Lao Bảo, Sơn

La… Đồng thời, thực dân Pháp ti p tục đưa ra những cải cách dân chủ dù rất

hạn ch để củng cố nền thống trị ở Đông Dương. Chúng ra sức sử dụng các

hình thức tổ chức tư tưởng và văn hóa để củng cố nền thống trị. Ngoài những

sắc lệnh, luật lệ thời kỳ 1930 vẫn giữ nguyên hiệu lực, giai cấp thống trị đặt

thêm những luật lệ khắt khe, thi hành ch độ kiểm duyệt gắt gao, tìm cách rút

giấy phép hoặc tịch thu báo chí cách mạng. Thống sứ, thống đốc, khâm sứ có

những nghị định cấm lưu hành, tàng trữ sách báo ti n bộ và cách mạng trong

vùng cai trị của chúng.

Từ năm 1932, thực dân Pháp tổ chức cải tổ giáo dục sơ học, cấp học

bổng cho người bản xứ, xuất bản các sách báo lãng mạn, sách th n tiên, sách

bói toán… nhằm ti p tục thu hút và lôi kéo một bộ phận trong t ng lớp

16

thượng lưu và tiểu tư sản.

Lâm Mậu Quang đã nhận định về thời kỳ này như sau: “Tình th kinh

t , xã hội nằm vào thời kỳ khủng hoảng nguy ngập, ch độ tư bản g n đổ nát,

qu n chúng ta bị thất nghiệp đói rét, lại sắp bị nạn đ quốc chi n tranh…, các

nhà văn phải góp sức vào công việc cứu chữa sự nguy cơ ấy của xã hội, chứ

không thể ngồi yên trên đám mây xanh chót vót ở ngang trời mà ngâm nga và

bảo quản chúng, ngâm nga theo mấy câu thơ mơ mộng như hồi thái bình, no

ấm được đâu” [72, 35-37].

Bối cảnh kinh t , chính trị có nhiều thay đổi đã khi n xã hội Việt Nam

xuất hiện những xu hướng mới trên các l nh vực văn hóa, văn nghệ và tư

tưởng. Trong các chỉnh thể thì trào lưu văn học có ý ngh a bao quát hơn cả.

Phương hướng của nó sẽ có tính chất quy t định đối với các chỉnh thể khác

[39, 88-89]. Trào lưu Thơ Mới, văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê

phán là những dòng văn học ra đời và tồn tại song song trong những năm

1932 - 1935. Đó là những ti ng nói của đội ngũ trí thức tiểu tư sản trước tình

th mới của đất nước.

Giai cấp tư sản dân tộc không dám đấu tranh bằng chính trị và quân sự

chống đ quốc nữa bèn chuyển sang đấu tranh bằng văn hóa chống phong

ki n quan liêu (các báo Phong hóa, Ngày nay, tủ sách Tự lực văn đoàn). Chủ

ngh a lãng mạn trong văn học, nghệ thuật đi đôi với phong trào “vui vẻ, trẻ

trung” có tính chất trụy lạc của thanh niên, trí thức, tư sản thành thị. Phong

trào Thơ Mới đã đánh dấu sự chuyển đổi mang tính cách mạng trong văn học

- một bộ phận quan trọng của văn hóa khi khẳng định vai trò của cá nhân, của

“cái Tôi” trước đây vốn chưa có chỗ đứng trong xã hội phong ki n. Những

đại diện cho phong trào Thơ Mới có Th Lữ, Xuân Diệu...; đại diện cho văn

học lãng mạn là Tự lực văn đoàn và đại diện cho văn học hiện thực có

17

Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…

Trên thực t , thực dân Pháp khuy n khích những khuynh hướng tư sản,

cốt đánh lạc hướng qu n chúng, nhất là thanh niên. Chúng cho mở nhiều tiệm

hút và tiệm nhảy ở các thành thị; cho xuất bản các sách ki m hiệp, th n bí;

chấp hưng đạo Phật; ra nhiều sách công giáo chuyên môn “chửi” cộng sản;

phát triển phong trào hướng đạo để nắm lấy thanh niên [7, 54-56].

Đánh giá riêng về những đóng góp, cách tân của Tự lực văn đoàn, nhà

thơ Tú Mỡ có nhiều nhận xét sâu sắc, song có chỗ chưa chính xác và thỏa

đáng: “Đường lối dân tộc, khoa học, đại chúng mà Đảng Cộng sản Việt Nam

nêu lên trong Đề cương văn hóa, Tự lực văn đoàn đã thực hành từ trước”.

Quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” từng trên giấy trắng mực đen, đoàn

không nêu trong tôn chỉ, nhưng trong thực t anh em đã hành động theo quan

điểm đó. Có nhiều điểm “đồng” với đường lối văn học của Đảng Cộng sản

Việt Nam, như vậy, Tự lực văn đoàn đáng lẽ rất có thể đi với Đảng Cộng sản

Việt Nam. Nhưng đáng ti c giữa đường đứt gánh” [49]. Dù sao, hoạt động

của nhóm Tự lực văn đoàn cũng góp ph n đẩy phong trào văn nghệ Việt Nam

ti n lên một bước.

Tuy nhiên, đứng ở một góc nhìn khác, chủ trương của Tự lực văn đoàn

được nhận định là “không những không ti n bộ mà còn phản ti n bộ. Nó

không có công mà có tội với nhân dân. Sau thất bại của cách mạng tư sản,

nhân dân càng bị áp bức và mê muội, Tự lực văn đoàn tung ra khẩu hiệu “yêu

đời”, “vui vẻ, trẻ trung” và gắn nhãn “cải cách” để lôi kéo thanh niên tiểu tư

sản đang hoang mang trước thời cục. Văn, thơ, tiểu thuy t của nó đưa thanh

niên vào con đường lãng mạn, buông thả tự do cá nhân, thoát ly đấu tranh,

trốn tránh thực t . Báo chí của nó không dám động đ n nền tảng của đ quốc

và phong ki n, chẳng qua chỉ bóng gió nêu một vài nhược điểm của chúng và

cạnh khóe một số quan lại. Lối trào phúng nhởn nhơ của nó không hề làm lay

18

chuyển chút nào cái uy th của bọn áp bức, bóc lột nhân dân mà trái lại đã

phục vụ bọn này. Những uất hận của nhân dân súc tích lại đã một ph n lạc

hướng không chuyển thành hành động đấu tranh mà chỉ thoát ra những ti ng

cười kiểu Phong hóa. Thêm nữa, Ngày nay và Phong hóa đã nói xấu nông

dân ở hai nhân vật Lý Toét, Xã Xệ và do đó đã hướng cho nhân dân quên khả

năng cách mạng của nông dân để chỉ mù quáng tin theo luận điệu cải cách của

nhóm Tự lực…” [63, 154-155].

Bên cạnh các trào lưu trong văn học, một dòng báo chí xuất bản công

khai, hợp pháp ti p tục phát triển về số lượng đã trở thành một vũ khí đấu

tranh cách mạng của nhiều đảng viên cộng sản trên mặt trận văn hóa, văn

nghệ. Tuy dòng báo chí công khai, hợp pháp vẫn chịu sự áp đặt của chính

quyền thuộc địa, ti ng nói của những người có tinh th n dân tộc, theo quan

điểm cách mạng vẫn bị chính quyền thực dân kiểm soát song dòng báo chí

này đã phản ánh được thực thể xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, giúp cho một bộ

phận trong nhân dân giải quy t được những vướng mắc trong tâm trạng, có

khả năng ti p thu những giá trị tinh th n cao đẹp của nhân loại. Trong khi đó,

dòng báo chí xuất bản không công khai hợp pháp vẫn song song tồn tại, k t

hợp với báo chí công khai, hợp pháp tạo thành một mặt trận báo chí cách

mạng, chuẩn bị cho sự ra đời nền văn hóa mới Việt Nam.

Từ năm 1935 trở đi, ở Đông Dương, cuộc khủng hoảng kinh t phục hồi

chậm. Các công ty độc quyền của tư bản Pháp ra sức bành trướng th lực, làm

phá sản hàng loạt các chủ tư bản nhỏ người Pháp và người Việt. Tuy vậy, do

chính phủ ở chính quốc đã ngả theo xu hướng “cánh tả” nên chính phủ thuộc địa

không thể thi hành chính sách khủng bố trắng tàn bạo như trước. Các t ng lớp

nhân dân và cả một số bộ phận trong giới thượng lưu đều mong muốn có những

thay đổi c n thi t trong đời sống kinh t , xã hội, nhất là khi nghe tin chính phủ

Pháp sẽ cử ban điều tra của Nghị viện Pháp sang Đông Dương, nhiều người ở

19

thuộc địa tỏ ý trông chờ hy vọng vào những cải cách dân chủ.

Trước chuyển bi n chung của tình hình, phong trào qu n chúng dâng

lên mạnh mẽ, ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày một lan rộng.

Thực dân Pháp từ chỗ đối phó thận trọng đã dung túng cho những ph n tử

phản động thuộc địa, công khai đàn áp phong trào, đồng thời tìm cách lôi kéo,

chia rẽ phong trào, xoa dịu qu n chúng. Chính phủ Pháp buộc phải cho ban

hành tại thuộc địa một số quyền tự do, dân chủ hạn ch .

Từ năm 1937, theo chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về

việc tận dụng các khả năng công khai hợp pháp, Mặt trận Dân chủ Đông

Dương và các tổ chức đoàn thể qu n chúng của Mặt trận như Đoàn Thanh

niên dân chủ, Hội cứu t bình dân, Công hội, Nông hội ra đời. Ở các thành thị

và nông thôn phát triển các tổ chức hội qu n chúng như ái hữu, tương t , thể

thao, âm nhạc, kịch, chèo, hội cấy, hội gặt… Để tập hợp các lực lượng khác,

Mặt trận Dân chủ Đông Dương thông qua các nhóm cộng sản công khai

(nhóm Tin Tức, Ngày Nay ở Bắc Kỳ, Dân Chúng ở Nam Kỳ, một bộ phận

trong viện dân biểu ở Trung Kỳ) đã liên minh với các chi nhánh Đảng Xã hội

Pháp, Đảng Lập hi n, Viện Dân biểu lập tổ chức cơ sở của mặt trận.

Với việc tập hợp nhiều thành ph n xã hội, Mặt trận Dân chủ Đông

Dương có vai trò mới trong cuộc đấu tranh, nhất là trong đấu tranh nghị

trường. Những cuộc b u cử Viện dân biểu Trung Kỳ, Viện dân biểu Bắc Kỳ,

Hội đồng thành phố Hà Nội, Đại hội đồng kinh t - tài chính Đông Dương

trong 2 năm 1937 - 1938 đã l n đ u tiên gây sự chú ý lớn trong các t ng lớp

dân chúng hữu quan bởi sự tham gia của Mặt trận Dân chủ. Trong cao trào

dân chủ những năm 1936 - 1939, đời sống tư tưởng, văn hóa của dân tộc cũng

có nhiều thay đổi, phản ánh sự chuyển bi n của đời sống kinh t , xã hội thuộc

địa những năm trước chi n tranh.

Trong bối cảnh kinh t , xã hội như vậy, ngay từ năm 1935, Đảng đã

20

lãnh đạo một cuộc tranh đấu về nghệ thuật chống lại quan điểm tư sản lạc hậu

- quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” - lúc đó về mặt khách quan đã ru ngủ

qu n chúng. Những năm 1936 - 1939, khi có Mặt trận Bình dân thành lập ở

Pháp, Mặt trận Dân chủ thành lập ở Đông Dương, Đảng Cộng sản Việt Nam

lợi dụng hình thức đấu tranh công khai, phát hành rộng rãi sách báo ti n bộ,

gây tranh luận náo nhiệt về tư tưởng, về quan điểm (bút chi n giữa hai phái

duy tâm và duy vật, giữa “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân

sinh”). Cuộc tranh luận đề cập nhiều đ n vấn đề lý luận, quan điểm (văn nghệ

và chính trị, chức năng của văn nghệ, tính giai cấp, tính văn nghệ, quan hệ

giữa nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong sáng tác, tự do trong sáng tác),

đồng thời cũng bàn về các tác giả Đông - Tây, kim - cổ. Đây là một cuộc

tranh luận về quan điểm nghệ thuật lớn nhất, diễn ra trên báo chí công khai ở

nước ta trong thời kỳ 1935 - 1939, có quy mô rộng rãi, t m vóc đặc biệt và ý

ngh a vô cùng sâu sắc.

Lợi dụng các hình thức hoạt động công khai, cuộc tranh luận về nghệ

thuật có dịp mở rộng hơn. Đồng thời, các hoạt động khác về văn hóa, nhất là

báo chí của Đảng và việc xuất bản sách Mác-xít thời gian này được phát triển

chưa từng thấy. Cuốn Vấn đề dân cày của hai đồng chí Qua Ninh (Trường

Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) được xuất bản không những có tác

dụng đối với cách mạng nói chung mà còn có tác dụng đặc biệt với văn nghệ

(có tác dụng tích cực đối với những nhà văn hiện thực phê phán). Bên cạnh

các cuốn sách được xuất bản, báo chí cách mạng như một dòng chảy lớn của

nền văn hóa Việt Nam. Thời kỳ 1936 - 1939 có tới vài ba chục tờ báo cách

mạng ra bằng chữ Pháp hoặc chữ Việt. Trong số đó có những tờ như Notre

Voix (Tiếng nói của chúng ta) có thể được xem như “cương l nh chung” của

các tờ báo cộng sản trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ.

Cùng với báo chí cách mạng, nhiều nhà văn ti n bộ vi t những tác

21

phẩm có giá trị như Tắt đèn, Việc làng của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của

Nguyễn Công Hoan… trong dòng văn học hiện thực phê phán. Tr n Minh

Tước có bài vi t ca ngợi tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố. Tác giả Như

Phong đề cao tiểu thuy t phục vụ nhân dân lao động, chống lại các biểu hiện

của chủ ngh a lãng mạn tiêu cực trong nhóm Tự lực văn đoàn và một số nghệ

s khác.

Cũng từ năm 1938, thơ Tố Hữu bắt đ u chinh phục trái tim qu n chúng.

Trên báo Mới lúc bấy giờ đăng khá nhiều bài thơ của Tố Hữu và bài giới thiệu

Tố Hữu - nhà thơ của tương lai. Những bài thơ của Tố Hữu: Tháp đổ, Dửng

dưng, Tiếng sáo ly quê… mang ý đồ rõ rệt chống lại chủ ngh a lãng mạn tiêu

cực trong thơ, chống lại khuynh hướng tách nghệ thuật ra khỏi đời sống của

nhân dân lao động.

Cũng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam, một phong trào văn nghệ dân chủ, văn nghệ nhân dân phát

triển mạnh. L n đ u tiên, qu n chúng nhân dân Việt Nam được công khai sinh

hoạt chính trị một ph n nào. L n đ u tiên, văn học, âm nhạc, hội họa cách

mạng và ti n bộ lợi dụng khả năng hợp pháp, chi m l nh những vị trí mới để

phục vụ qu n chúng nhân dân [7, 54-56].

Cuối năm 1937, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát động phong

trào truyền bá quốc ngữ nhằm giúp nhân dân lao động thoát nạn mù chữ. Có

thể thấy, sự nghiệp lớn nhất của Đảng trong thời kỳ ấy là gây dựng và duy trì

Hội truyền bá chữ Quốc ngữ. Nhiều người ủng hộ tiền, giấy, bút, mực, cho

mượn nhà làm địa điểm lớp học. Thanh niên, học sinh đảm nhiệm dạy học và

vận động người đi học. Công nhân, nông dân và những người lao động hăng

hái đi học.

Bên cạnh văn hóa cách mạng có tính chất dân tộc và dân chủ, lúc đó có

phong trào văn hóa cải cách gồm hai khuynh hướng: Khuynh hướng ti n bộ

22

của nhân dân lợi dụng khả năng hợp pháp mà thực hành cải cách dân chủ và

khuynh hướng phản động của thực dân Pháp và tay sai dùng chính sách cải

lương hòng lừa phỉnh, mua chuộc qu n chúng.

Nhận định về thời kỳ này, đồng chí Trường Chinh vi t: “L n đ u tiên ở

nước ta văn chương Mác-xít được phổ bi n rộng rãi trong nhân dân qua

những tờ báo của Đảng và của Mặt trận Dân chủ, qua những tập sách có khi

là của những người cộng sản hợp tác với những người có tư tưởng yêu nước,

dân chủ khác xuất bản” [8, 125].

Năm 1939, Chi n tranh Th giới l n thứ hai bùng nổ. Từ đây, th giới

ti n bộ và cách mạng bắt đ u thời kỳ mới, tiêu diệt chủ ngh a phát-xít, mở

rộng trận địa cách mạng. Từ châu u, chi n tranh lan nhanh sang các châu lục

khác. Năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Sau đó, Nhật và Pháp

câu k t với nhau cùng thống trị và bóc lột nhân dân ba nước Đông Dương.

Những khó khăn về kinh t và căng thẳng về chính trị đã gia tăng mâu

thuẫn dân tộc và giai cấp xã hội ở Việt Nam. Tình hình đó đã làm phân hóa

giới trí thức Việt Nam. Một bộ phận trí thức muốn thoát khỏi cuộc sống khổ

đau hiện tại bằng cách ẩn mình trong “tháp ngà văn chương, nghệ thuật lãng

mạn”. Một bộ phận trí thức khác thông qua các tác phẩm văn học, nghệ thuật

để phê phán xã hội đương thời. Dù đã rất nỗ lực nhưng trí thức Tây học vẫn

không thể xây dựng được một nền văn hóa độc lập dựa trên cơ sở về “dung

hòa”, “dung hóa” và “dung hợp” 2 nền văn minh Đông - Tây, bởi thực dân

Pháp không muốn trí thức Việt Nam đi quá giới hạn mà chúng cho phép.

Từ năm 1940, văn hóa Việt Nam lại chịu ảnh hưởng một ph n nào của

văn hóa Nhật. Trình độ khoa học, kỹ thuật nước ta thấp kém, kinh t nước ta

căn bản là kinh t phong ki n và nửa phong ki n, còn rất nhiều tàn tích cổ

xưa, về chính trị, nước ta khi là nửa thuộc địa, khi là thuộc địa; … cho nên

tinh hoa của dân tộc bị kìm hãm và văn hóa nước nhà chưa phát huy được đ y

23

đủ bản sắc của mình [7, 35-37].

Tháp ngà văn chương từng bước sụp đổ. Sự trói buộc của thực dân

Pháp làm cho nhiều trí thức Việt Nam hiểu ra rằng, chỉ có độc lập dân tộc

thực sự mới có thể xây dựng một nền văn hóa độc lập, do đó, phải đấu tranh

để giành lại độc lập dân tộc. Nhưng đấu tranh bằng con đường nào lại là một

vấn đề lớn và nan giải, nhất là khi ý thức hệ tư sản đã bất lực trước nhiệm vụ

giải phóng dân tộc.

Tình hình chính trị và tư tưởng trong xã hội ở thời kỳ này rất phức tạp.

Một mặt, do ảnh hưởng của phong trào Mặt trận dân chủ, trong giới trí thức,

những văn nghệ s , học sinh muốn ti n bộ, muốn tìm hiểu những cái mới,

nhưng họ lại bị che giấu (vì ch độ kiểm duyệt h t sức khắt khe), bị đàn áp.

Mặt khác, những khuynh hướng về văn hóa lúc đó tương đối hỗn độn: Nhóm

Thanh Nghị có tư tưởng dân tộc, nhưng mang tính chất cải lương tư sản;

nhóm Tri tân đề cao dân tộc trong văn hóa, nhưng mang tính chất bảo thủ, chỉ

chú ý tìm tòi, nghiên cứu những áng văn cổ, bia cổ… Nhóm Tân Việt xuất

bản các sách nghiên cứu về Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo đ n Nít-sơ, Anh-

xtanh, Căng, Đề-các… Nhóm Hàn Thuyên gồm những tay Tờ-rốt-xkít nhận

tiền của cả thực dân Pháp và phát xít Nhật đề ra “tân văn hóa”, xuất bản sách,

nghiên cứu về lịch sử loài người, lịch sử th giới, nghiên cứu về lịch sử Việt

Nam, về văn học Việt Nam… ôm đồm thành một mớ hỗn độn, ph n lớn dịch

từ sách nước ngoài, từ các từ điển bách khoa… Sách của Hàn Thuyên vẫn tồn

tại, trình bày tư tưởng xã hội dài dòng và duy vật máy móc, có ph n xuyên tạc

học thuy t Mác đã được in ra và thực dân Pháp lợi dụng đặng ch bớt sức

mạnh tuyên truyền về chủ ngh a yêu nước, chủ ngh a dân chủ của Việt Minh.

Nhóm Xuân Thu nhã tập có khuynh hướng dân tộc, nhưng xa rời qu n chúng

ở chỗ nghệ thuật c u kỳ, tắc tị và ở khuynh hướng thoát ly của nó.

Tình hình chi n tranh, họa phát xít, sự đàn áp của đ quốc, tình trạng

24

đói khổ gây nên một tâm trạng mệt mỏi, u uất, chán chường, bi quan… Các

khuynh hướng nghệ thuật tiêu cực, lẩn trốn trước đây trong giai đoạn này trở

nên th n bí, điên loạn, trụy lạc, hoài cổ… Nhóm Tự lực văn đoàn lúc này “ôm

chân” phát xít Nhật.

Trong bối cảnh văn hóa có nhiều phức tạp, bên cạnh nền văn nghệ

hợp pháp, văn học bí mật của cách mạng Việt Nam vẫn phát triển mạnh

mẽ. Tại nhà tù Quảng Tây (Trung Quốc), Hồ Chí Minh vi t Nhật ký trong

tù. Người đòi hỏi “trong thơ nên có thép”. Với bài Là thi sĩ, Sóng Hồng

(Trường Chinh) đã phê phán thái độ ủy mị của nhiều nhà thơ lúc đó, kêu

gọi các nhà thơ “dùng cán bút làm đòn xoay ch độ” và dùng thơ làm “bom

đạn phá cường quyền”.

Thời gian này, văn hóa Việt Nam chứng ki n sự phát triển mạnh mẽ

trong bóng tối và chi u rọi ánh sáng ra ngoài của một nền văn học cách mạng

có tính chất dân tộc và dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận

Việt Minh. Bên cạnh những sách xuất bản bí mật có cả một “rừng” báo chí

bất hợp pháp lưu hành khắp đất nước: Giải phóng, Cứu quốc, Cờ giải phóng,

Tạp chí Cộng sản, Việt Nam độc lập (Việt-lập), Hồn nước, Bãi Sậy, Đuổi giặc

nước, Bẻ xiềng sắt, Gái ra trận, Tiền phong, Kèn gọi lính, Lao động, Hiệp

lực, Mê-linh, Kháng địch, Khởi nghĩa, Quyết thắng, Độc lập, Nước Nam mới,

Quân giải phóng…

Trong nhà tù, anh chị em chính trị phạm cũng tìm cách ra báo. Báo của

anh chị em chính trị phạm xuất bản trong nhà tù vào hồi này cũng đáng chú ý.

Chẳng hạn như các tờ Suối reo (ở Sơn La) và Giòng sông Công (ở Bá Vân)…

[7, 54-56]. Loại báo chí này tuy không nhiều bằng thời kỳ trước nhưng về

chất lượng, nội dung bài vi t, hình thức trình bày đ n “tuổi thọ” của một số tờ

báo thì tốt và lâu dài hơn. Điều đó chứng tỏ cơ sở vững chắc cho một nền báo

chí cách mạng. Các tờ Việt Nam độc lập, Cờ giải phóng, Cứu quốc phản ánh

25

trung thực, sinh động hoạt động báo chí và tư tưởng văn hóa mới của Đảng,

Mặt trận Việt Minh từ Trung ương đ n các địa phương. Báo chí cách mạng

không những khẳng định từng bước đi vững chắc trong quá trình hình thành

nền báo chí cách mạng Việt Nam mà còn góp sức vào việc khẳng định những

y u tố văn hóa, văn nghệ mới thông qua việc đăng tải nhiều bài thơ, ca dao,

các thể loại văn học như tùy bút, phóng sự [56, 85].

Đ u năm 1943, Đảng Cộng sản Việt Nam quy t định thành lập “tổ văn

hóa cứu quốc” mà hạt nhân của nó là một số văn sỹ trí thức cách mạng tuyên

truyền chủ ngh a Mác và lôi kéo học sinh, sinh viên. Cũng trong năm, Đảng

Cộng sản Việt Nam phát biểu Đề cương văn hóa Việt Nam, xây dựng và phát

triển Hội Văn hóa cứu quốc. Các báo của Mặt trận Việt Minh và của Đảng

Cộng sản Việt Nam phê bình nghiêm khắc những khuynh hướng sai l m,

phản động của văn nghệ hợp pháp…

Tiểu kết chƣơng 1:

1. Sự hiện diện của văn hóa Pháp ở Việt Nam trước năm 1930 đã tạo

nên một bức tranh văn hóa Việt Nam bao gồm cả 3 y u tố: Văn hóa bản địa,

văn hóa Trung Hoa và văn hóa Pháp. Trên nền tảng sự phân hóa trong tư

tưởng, thái độ của t ng lớp trí thức trước những chính sách về văn hóa của

thực dân Pháp, một bộ phận trí thức cấp ti n đã d n đưa nền văn hóa Việt

Nam chuyển mình và mang những sắc thái mới trong giai đoạn 1930 - 1945.

2. Giai đoạn 1930 - 1935, trong khi vai trò của ý thức hệ tư sản đối với

nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã sụp đổ thì văn hóa tư sản, với khẩu hiệu “vui

vẻ, trẻ trung” lại đang trong thời kỳ đỉnh cao. Thực trạng này đòi hỏi Đảng

Cộng sản Việt Nam c n quan tâm định hướng sự phát triển của văn hóa, tư

tưởng ở Việt Nam nhằm tới mục đích lớn nhất là giải phóng dân tộc.

3. Giai đoạn 1935 - 1939, những cuộc đấu tranh về tư tưởng, văn hóa

diễn ra quy t liệt hơn. Những người cộng sản đã giương cao ngọn cờ của chủ

26

ngh a Mác - Lênin, đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận văn hóa,

chống lại tư tưởng phong ki n và tư sản. Từ năm 1939, đời sống tư tưởng, văn

hóa của dân tộc cũng có nhiều thay đổi, phản ánh sự chuyển bi n của đời

sống kinh t , xã hội thuộc địa những năm trước khi Chi n tranh th giới thứ

hai nổ ra. Điểm nổi bật trong bức tranh văn hóa Việt Nam giai đoạn 1939 -

1945 là sự thắng th tư tưởng văn hóa vô sản trong các cuộc tranh luận về văn

hóa, văn nghệ, ngược lại là sự “lụi tàn” của tư tưởng văn hóa tư sản. Quá trình

vươn lên mạnh mẽ của tư tưởng văn hóa vô sản đã góp ph n hình thành dòng

báo chí cách mạng ti n bộ, một nền văn học cách mạng dồi dào sức sống và

những tổ chức tuyên truyền văn hóa Mác-xít. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ

thể, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước xây dựng các quan điểm về văn

27

hóa Việt Nam phù hợp với từng bối cảnh kinh t , xã hội.

Chƣơng 2

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA VÀ

VĂN NGHỆ VIỆT NAM

2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa

Trong khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài

người, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành

hai loại hình hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh th n”.

Do đó, trên cơ sở định ngh a văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh

th n do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá

trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ

lịch sử nhất định, văn hóa được hiểu bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa

tinh th n. Trong đó, văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được

thể hiện và k t tinh trong sản phẩm vật chất; văn hóa tinh th n là tổng thể các

tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh th n và hoạt

động tinh th n của con người. Nói tới văn hóa là nói tới con người, bởi vậy,

văn hóa có mặt trong mọt hoạt động của đời sống con người.

Một trong những phát ki n lớn của C.Mác và Ph.Ăng-ghen là tính giai

cấp của văn hóa. Văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính

giai cấp. Sự phát triển của văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định về cơ sở

kinh t , chính trị của một ch độ xã hội nhất định. Điều kiện sinh hoạt vật chất

của mỗi xã hội và mỗi giai cấp là khác nhau, đặc biệt là của giai cấp thống trị,

là y u tố quy t định hình thành các nền văn hóa khác nhau. Do đó, nền văn

hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành

và phát triển trên cơ sở kinh t , chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý

thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quy t định

28

hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa. Văn hóa

luôn có tính thừa k . Sự k thừa trong văn hóa luôn mang tính chất giai cấp và

được biểu hiện ở nền văn hóa của mỗi thời kỳ lịch sử trên cơ sở kinh t , chính

trị của nó. Chính quan điểm về tính giai cấp của C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã

“xua tan đám hỏa mù trong văn hóa, văn nghệ và bi n văn hóa, văn nghệ

thành vũ khí đấu tranh của giai cấp công nhân” [75, 73].

Theo quan điểm của C.Mác, một nền kinh t lành mạnh được xây dựng

trên những nguyên tắc công bằng, thật sự vì đời sống của người lao động sẽ là

điều kiện để xây dựng một nền văn hóa tinh th n lành mạnh và ngược lại, một

nền kinh t được xây dựng trên cơ sở bất bình đẳng của ch độ tư hữu với sự

phân hóa sâu sắc thì sẽ không có được nền văn hóa lành mạnh. N u kinh t

là cơ sở vật chất của nền văn hóa thì chính trị là y u tố quy định khuynh

hướng phát triển của nền văn hóa, tạo nền nội dung cho ý thức hệ của văn

hóa. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử

đều in dấu ấn trong lịch sử phát triển của văn hóa và tạo ra nền văn hóa của

xã hội đó.

Đ n thời Lênin, đi đôi với việc đưa ra học thuy t Đảng kiểu mới của

giai cấp vô sản đã k thừa tinh hoa trong quan điểm C.Mác và Ph.Ăng-ghen

về văn hóa, đồng thời nêu lên vấn đề tính Đảng trong văn hóa. Đây là một

cống hi n lớn của Lênin vào mỹ học Mác-xít [75, 73].

Nguyên tắc tính Đảng trong văn học - một bộ phận quan trọng của văn

hóa đã được Lênin thể hiện trong bài vi t “Tổ chức Đảng và văn học có tính

Đảng”. Không phải ngẫu nhiên mà l n đ u tiên nêu lên nguyên tắc tính Đảng,

Lênin tập trung bàn về chỉnh thể này nhiều hơn cả. Ý ngh a cốt lõi trong luận

điểm của Lênin là ở chỗ nền văn học có tính Đảng là nền văn học phải trở

thành một bộ phận hữu cơ trong sự nghiệp của Đảng, do Đảng lãnh đạo

không những về mặt tư tưởng mà cả về mặt tổ chức: “Văn học phải trở thành

29

văn học có tính Đảng. Đối lập với những tập tục của giai cấp vô sản, đối lập

với sách báo có tính chất kinh doanh, buôn bán của giai cấp tư sản, đối lập với

chủ ngh a hám danh vị và chủ ngh a cá nhân, chủ ngh a vô chính phủ theo lối

ông tướng và cái tệ chạy theo lợi lộc về mặt văn học của giai cấp tư sản - giai

cấp vô sản xã hội chủ ngh a phải đề ra nguyên tắc văn học có tính Đảng, phát

triển nguyên tắc đó và thể hiện nguyên tắc đó dưới hình thức càng hoàn bị và

càng trọn vẹn chừng nào hay chừng ấy… Sự nghiệp văn học phải bi n thành

một bộ phận trong sự nghiệp chung của giai cấp vô sản…” [39, 88-89].

Lênin cũng đã bắt đ u đề cập đ n tính Đảng của người nghệ s về mặt

tư tưởng, cũng như về mặt tổ chức, mặc dù chưa thật tỷ mỷ: “Đả đảo những

nhà văn không có tính Đảng. Đả đảo những nhà văn siêu nhân… Đảng là một

đoàn thể tự nguyện, n u như nó không tẩy sạch khỏi bản thân nó những đảng

viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng thì nó không tránh khỏi tan rã, tiền

tan rã về tư tưởng, sau tan rã về vật chất. Lênin còn có chủ trương nhà văn

phải có quan hệ gắn bó và chịu trách nhiệm trước tổ chức Đảng: “Các nhà văn

nhất định phải tham gia tổ chức Đảng”. Lênin đặt vấn đề tự do sáng tác trên

những bình diện khác nhau: “Tự do không những theo cái ngh a thoát khỏi sự

áp bức của cảnh sát, mà còn tự do với ý ngh a thoát khỏi chủ ngh a hám danh

vị…”. Tự do chân chính và tự do chủ ngh a (cá nhân, vô chính phủ) là hai

việc khác nhau. Tính Đảng hoàn toàn thống nhất với tự do chân chính, nhưng

hoàn toàn đối lập với tự do chủ ngh a…

Lênin muốn nhấn mạnh tính Đảng cộng sản trong văn học là vô cùng

gắn bó với tính giai cấp vô sản. Cái trước chính là biểu hiện ch độ của cái

sau… Trong thực tiễn phong trào văn học vô sản th giới cũng không phải

không có hiện tượng nền văn học mang danh “tính Đảng cộng sản” nhưng lại

rất xa lạ với tư tưởng giai cấp công nhân. Nền văn học có tính Đảng mà

Người đề xuất phải nhằm phục vụ cho quyền lợi của đại đa số nhân dân lao

30

động và nâng cao sự giác ngộ của nhân dân về mọi mặt, không những về

chính trị mà còn về văn hóa thẩm mỹ… Đó sẽ là văn học tự do vì rằng nó sẽ

không phải là để phục vụ các bà ăn uống phè phỡn, không phải là để phục vụ

mấy vạn người lớp trên béo phị đ n phát chán, phát khổ ra, mà là để phục vụ

hàng triệu và hàng chục triệu nhân dân lao động tức là tinh hoa, lực lượng

tương lai của đất nước”.

Bên cạnh đó, Lênin cũng nhấn mạnh nền văn học có tính Đảng phải

phản ánh chân thật hiện thực đấu tranh cách mạng: “Đó sẽ là văn học tự do,

nó dùng kinh nghiệm và công tác sinh động của giai cấp vô sản xã hội chủ

ngh a để làm giàu những thành tựu cao nhất của tư tưởng cách mạng của nhân

loại. Nó xây dựng tác dụng qua lại thường xuyên giữa kinh nghiệm quá khứ

và kinh nghiệm hiện nay”.

Với Lênin, một nền văn học có tính Đảng phải được vũ trang bằng tư

tưởng của giai cấp công nhân, phải phục vụ tuyệt đại đa số nhân dân lao động,

bồi dưỡng họ. Và cuối cùng, một nền văn học có tính Đảng không phải chỉ là

thể hiện tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng ở dạng quan niệm, một

cách tư biện, cũng không phải phản ánh nguyện vọng của qu n chúng một

cách ảo tưởng, mà phải k t hợp chặt chẽ với việc phản ánh chân thật cuộc

sống. Tính Đảng, do đó là thống nhất với tính giai cấp, tính nhân dân và tính

chân thật. Nhưng là một sự thống nhất biện chứng [39, 90].

Lênin đề cập tới việc xây dựng một nền văn hóa có nội dung tư tưởng

mới, một nền văn hóa có ý ngh a mới và chưa từng thấy trong đời sống nhân

dân. N u không nhìn thấy nội dung mới, xã hội chủ ngh a có tính chất nhân

dân của văn hóa Xô-vi t thì sẽ không hiểu được đặc điểm lịch sử của nó là

nền văn hóa của ch độ mới…

Sau khi giành được thắng lợi hồi tháng Mười, Đảng đã đề ra nhiệm vụ

làm cho nhân dân thực t trở thành chủ nhân của mọi của cải văn hóa, dân

31

chủ hóa văn hóa, giúp đỡ cho hàng triệu qu n chúng lao động hấp thụ được

thành tích của văn hóa, lợi dụng mọi thành tích của khoa học và văn hóa để

xây dựng xã hội mới, xã hội chủ ngh a. Đảng đã có thể bắt tay vào giải quy t

nhiệm vụ ấy một cách mạnh dạn, kiên quy t theo tinh th n cách mạng và

trong phạm vi cả nước bởi vì ngay trước Cách mạng Tháng Mười, chủ ngh a

Mác - Lênin đã đề ra những nguyên tắc hoạt động quan trọng nhất về mặt

văn hóa.

Trong các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen đều xác định thái độ

của chủ ngh a cộng sản khoa học đối với văn hóa quá khứ và đều vạch ra

nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa mới, dân chủ, gắn liền với cuộc sống và

đấu tranh của nhân dân lao động. Lênin đã phát triển tư tưởng của C.Mác về

xây dựng một nền văn hóa mới xã hội chủ ngh a. Lênin đã phê phán một cách

sâu sắc và khoa học quan niệm duy tâm của giai cấp tư sản cho rằng có một

nền văn hóa dân tộc tựa hồ như thống nhất và đứng trên các giai cấp. Đồng

thời, Lênin đưa ra nguyên lý về hai dòng văn hóa trong nền văn hóa của mỗi

xã hội: Văn hóa nhân dân dân chủ và văn hóa của các giai cấp bóc lột. Lênin

chỉ rõ, trong mỗi nền văn hóa dân tộc đều có nhân tố của văn hóa dân chủ và

xã hội chủ ngh a, mặc dù những nhân tố ấy chưa phát triển [57, 3-4].

Đánh đuổi địa chủ và tư bản - đó là tiền đề quan trọng nhất của văn

minh. Nhưng n u cách mạng là tiền đề mạnh mẽ của sự phát triển văn hóa thì

sự phát triển của văn hóa lại trở thành lực lượng mạnh mẽ nhất thúc đẩy xã

hội mới, xã hội chủ ngh a ti n lên… Văn hóa xã hội chủ ngh a là sự phát triển

hợp với quy luật của kho tàng trí thức mà loài người sáng tạo ra trong suốt

thời kỳ phát triển của mình. Lênin nói: “Chủ ngh a Mác sở d được toàn th

giới công nhận là hệ thống tư tưởng của giai cấp vô sản cách mạng, chính là

vì chủ ngh a Mác hoàn toàn không vứt bỏ những thành quả quý giá nhất của

các thời đại trước, mà trái lại, chủ ngh a Mác hấp thu và ch bi n mọi cái quý

giá mà tư tưởng loài người và văn hóa nhân loại tích lũy được trong hơn

32

2.000 năm phát triển”.

Lênin chống lại quan điểm của giai cấp tư sản tự do về tính k thừa lịch

sử, quan điểm ấy coi văn hóa của một nước nào đó là một dòng suối duy nhất

hòa lẫn văn hóa dân chủ và văn hóa của giai cấp bóc lột… Chủ ngh a Mác

không điều hòa với những quan điểm duy tâm về văn hóa và nghệ thuật, nó

bóc tr n mưu mô tách rời lịch sử văn hóa, khoa học, nghệ thuật khỏi xã hội,

khỏi các cuộc đấu tranh xã hội. Nhưng chủ ngh a Mác cũng đấu tranh không

điều hòa với thái độ thô sơ, t m thường đối với vấn đề phức tạp và t nhị về

mối liên hệ giữa sinh hoạt tinh th n và hoạt động của các giai cấp xã hội…

Trong cuộc đấu tranh với chủ ngh a duy tâm và chủ ngh a duy vật t m

thường, Lênin đã nêu gương về thái độ trân trọng, thái độ săn sóc đối với cái

truyền thống văn hóa và thái độ bảo vệ nó chống sự xâm phạm của kẻ thù

phản động của văn hóa… Lênin cũng h t sức chú ý và h t sức trìu m n những

hiện tượng văn hóa mới. Người đánh giá rất cao nghệ thuật hiện thực chủ

ngh a trung thành với đời sống [57, 10-17].

Về xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a, chủ ngh a Mác - Lênin cho

rằng từ hai tiền đề: Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành

được chính quyền và ch độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ y u được

thi t lập sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của nền văn hóa xã hội chủ ngh a. Đây

là nền văn hóa của xã hội mới c n được hình thành trong tương lai.

Nền văn hóa xã hội chủ ngh a là nền văn hóa có ba đặc trưng cơ bản.

Thứ nhất, nền văn hóa có hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội

dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quy t định phương hướng phát triển của nền

văn hóa xã hội chủ ngh a, sau khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp c m

quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo trong đời

sống tinh th n của xã hội.

Thứ hai, nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc,

33

từng bước loại bỏ tư tưởng “văn hóa thượng lưu”, đưa giai cấp công nhân,

đông đảo nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng

thụ văn hóa, k thừa những giá trị văn hóa truyền thống và ti p thu tinh hoa

văn hóa nhân loại.

Thứ ba, nền văn hóa không hình thành và phát triển một cách tự phát

mà được hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của

giai cấp công nhân thông qua tổ chức Đảng Cộng sản, có sự quản lý của Nhà

nước xã hội chủ ngh a. Các đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ ngh a vừa

thể hiện tính giai cấp, vừa bao hàm tính Đảng sâu sắc.

Chủ ngh a Mác - Lênin cũng nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hóa xã

hội chủ ngh a mang tính tất y u bởi tồn tại xã hội quy t định ý thức xã hội,

phương thức sản xuất vật chất quy t định phương thức sản xuất tinh th n, do

đó, khi phương thức sản xuất tư bản chủ ngh a bị xóa bỏ, phương thức sản

xuất mới xã hội chủ ngh a ra đời thì việc xây dựng nền văn hóa mới xã hội

chủ ngh a cũng đồng thời diễn ra nhằm thay đổi bản chất của ý thức xã hội,

xác lập quyền lực kinh t và quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và

nhân dân lao động.

Việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a là tất y u trong quá trình

cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh th n của ch độ cũ để lại nhằm giải

phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ

lạc hậu. Mặt khác, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a còn là một yêu c u

c n thi t trong việc đưa qu n chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng

tạo và hưởng thụ văn hóa tinh th n. Đó là một nhiệm vụ cơ bản, phức tạp, lâu

dài của quá trình xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ ngh a. Về thực chất,

đây cũng chính là cuộc đấu tranh giai cấp trên l nh vực văn hóa, đấu tranh giữa

hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản trong quá trình phát triển.

Việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a là tất y u trong quá trình

34

nâng cao trình độ văn hóa cho qu n chúng nhân dân lao động. Đây là điều

kiện c n thi t để đông đảo nhân dân lao động chi n thắng nghèo nàn lạc hậu,

nâng cao trình độ và nhu c u văn hóa của qu n chúng.

Việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a là một tất y u khách quan

vì văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ ngh a

xã hội. Nền văn hóa mới xã hội chủ ngh a tạo nên những tiền đề quan trọng

nâng cao phẩm chất, năng lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho qu n chúng

nhân dân lao động, tạo cơ sở nâng cao năng suất lao động. Văn hóa xã hội chủ

ngh a với nền tảng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành điều kiện

tinh th n của quá trình xây dựng chủ ngh a xã hội và là động lực, mục tiêu

của chủ ngh a xã hội.

Từ việc xây dựng nhận thức sâu sắc về tính tất y u và những đặc trưng

của nền văn hóa xã hội chủ ngh a, chủ ngh a Mác - Lênin chỉ ra những nội

dung cơ bản của quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a.

Thứ nhất, c n phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức

của xã hội mới. Theo Lênin, “Chủ ngh a xã hội sinh động, sáng tạo là sự

nghiệp của bản thân qu n chúng nhân dân”. Qu n chúng nhân dân càng được

chuẩn bị tốt về tinh th n, trí lực, tư tưởng… càng có ảnh hưởng tích cực đ n

ti n trình xây dựng chủ ngh a xã hội. Trí tuệ khoa học và cách mạng là y u tố

quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ ngh a xã hội.

Thứ hai, xây dựng con người phát triển toàn diện. Con người là sản

phẩm của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra lịch

sử. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy trong mọi thời đại, sự hình thành và phát

triển của con người luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội.

Khi giai cấp nông dân trở thành giai cấp c m quyền, việc xây dựng con người

đáp ứng nhu c u của sự nghiệp xây dựng chủ ngh a xã hội trở thành một yêu

35

c u tất y u.

Thứ ba, xây dựng lối sống xã hội chủ ngh a. Lối sống xã hội chủ ngh a

được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản: Ch độ công hữu về

tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo; nguyên tắc

phân phối theo lao động; quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; hệ tư tưởng

khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân giữ vai trò chủ đạo trong đời

sống tinh th n của xã hội; xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng dân tộc, giới tính,

thể hiện công bằng, mở rộng dân chủ…

Thứ tư, xây dựng gia đình văn hóa. Gia đình là một giá trị văn hóa của

xã hội. Văn hóa gia đình luôn gắn bó tương tác với văn hóa cộng đồng dân

tộc, giai cấp và t ng lớp xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định của mỗi

quốc gia dân tộc nhất định. Gia đình văn hóa được hiểu là gia đình ti n bộ,

đánh dấu bước phát triển của hình thức gia đình trong lịch sử nhân loại. Xây

dựng gia đình văn hóa đem lại lợi ích cho cá nhân và xã hội.

Chủ ngh a Mác - Lênin cũng khẳng định, để thực hiện được những nội

dung chính y u của nền văn hóa xã hội chủ ngh a c n phải thực hiện các

phương thức cơ bản.

Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai

cấp công nhân trong đời sống tinh th n của xã hội. Trong quá trình xây dựng

chủ ngh a xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp c m quyền, phải

bằng mọi phương pháp thông qua đội ngũ những nhà tư tưởng và các thi t ch

tư tưởng để tác động, chi phối các quan hệ tư tưởng nhằm giữ vững, tăng

cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng trong đời sống tinh th n xã hội. Xây

dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a là hoạt động có mục đích của giai cấp

công nhân thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà

nước xã hội chủ ngh a, nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ

36

ngh a, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ

đạo trong xã hội. Do đó, đây là phương thức cơ bản để giữ vững đặc trưng,

bản chất của nền văn hóa đó.

Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và

vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ ngh a đối với hoạt động văn hóa. Sự

lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý Nhà nước xã hội chủ ngh a đối với

mọi hoạt động văn hóa là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quy t

định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a. Phương thức

này được coi là sự đảm bảo về chính trị, tư tưởng để nền văn hóa xây dựng

trên nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đi đúng quỹ đạo và mục

tiêu xác định. Theo các nhà kinh điển của chủ ngh a Mác - Lê nin, thực chất

đây là sự tăng cường chuyên chính vô sản trong hoạt động văn hóa. Thi t lập

chuyên chính vô sản thì mới có tiền đề chính trị cho việc xây dựng nền văn

hóa vô sản. Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân xây dựng nền văn hóa bằng

cương l nh, đường lối, chính sách văn hóa của mình và sự lãnh đạo của Đảng

phải được thể ch hóa trong hi n pháp, pháp luật, chính sách. Nhà nước thực

hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan điểm, chủ trương của

Đảng Cộng sản.

Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a phải theo phương thức

k t hợp giữa việc thừa k những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với ti p

thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại. Nền văn hóa xã hội

chủ ngh a không hình thành từ hư vô, trái lại nó được hình thành trên cơ sở k

thừa những giá trị văn hóa của dân tộc. Văn hóa dân tộc là nền móng và trên

cơ sở đó ti p thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Lênin từng nói: “Văn hóa vô sản

là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những ki n thức mà loài người tích

lũy được, đó là con đường “đang và sẽ ti p tục đưa tới văn hóa vô sản, cũng

37

như chính trị, kinh t học do C.Mác hoàn chỉnh lại”.

Thứ tư, tổ chức và lôi quấn qu n chúng nhân dân vào các hoạt động và

sáng tạo văn hóa. Trong ti n trình cách mạng xã hội chủ ngh a, trong sự

nghiệp xây dựng chủ ngh a xã hội, nhân dân lao động đã trở thành chủ thể

sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tính chủ động,

sáng tạo của qu n chúng, Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ ngh a c n

phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi quấn đông đảo nhân dân tham gia vào

các hoạt động và sáng tạo văn hóa [69].

2.2. Quan điểm của Đảng về văn hóa

Quan điểm của Đảng về “văn hóa” chính thức được xây dựng sau khi

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930) và trong quá trình vận động, phát

triển của Đảng. Tuy nhiên, trước thời điểm này, tiền đề cho những quan điểm

của Đảng về “văn hóa” đã manh nha hình thành, sớm nhất và điển hình nhất là

thông qua những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) về văn hóa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc

nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Nơi đây không chỉ có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị

của thực dân phong ki n mà còn là vùng đất giàu truyền thống văn hóa và

khoa bảng. Trong con người Hồ Chí Minh, ngay từ thuở nhỏ, đã được ti p

cận những ki n thức cả Nho học và Tây học thông qua người cha (ông

Nguyễn Sinh Sắc) và những người th y giáo đ u tiên trong các trường học ở

Vinh, ở Hu . Hoàn cảnh xã hội, sự giáo dục của gia đình, nhà trường đã ảnh

hưởng sâu sắc đ n Người ngay từ thời niên thi u.

Tinh th n yêu nước, thương dân cộng thêm sự nhạy bén về chính trị đã

thôi thúc Người suy ngh và hành động để tìm ra con đường cứu dân, cứu

nước. Năm 1911, Người xuất ngoại với đích đ n là phương Tây và mong

38

muốn tìm hiểu văn minh phương Tây. Người đã đ n nước Pháp và nhiều nước

châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ khác, vừa lao động ki m sống, vừa học

tập, vừa hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuy t cách mạng. Cũng

trong thời gian ở nước ngoài, Hồ Chí Minh có điều kiện ti p xúc với nhiều

nền văn hóa, văn minh trên th giới. Từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng

Mười Nga năm 1917, nhất là sau khi được ti p cận với chủ ngh a Mác - Lê

nin, Hồ Chí Minh đã có bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách

mạng, từ người yêu nước đ n người cộng sản.

Trong những năm 1923 - 1924, khi hoạt động ở Liên Xô, Người đã đưa

ra nhận định về sự khác biệt cơ bản giữa xã hội phương Tây và xã hội phương

Đông trong nhiều bài tham luận tại các đại hội và hội nghị quốc t quan trọng.

Theo Người, sự khác biệt đó không chỉ liên quan đ n cách mạng vô sản th

giới mà còn liên quan đ n những vấn đề văn hóa. Quan điểm của Hồ Chí

Minh về văn hóa cũng d n được hình thành và hoàn thiện trong quá trình

Người hoạt động cách mạng ở nước ngoài.

Bằng những trải nghiệm thực t , những thấu hiểu về văn hóa, văn minh

của phương Đông và phương Tây, trên cơ sở k thừa lý luận của chủ ngh a

Mác - Lênin về văn hóa và nền tảng ki n thức về học thuy t Nho giáo của

Khổng Tử, Chủ ngh a Tam dân, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc văn hóa là

một ph n không thể thi u trong cách mạng giải phóng dân tộc. Nhận định này

khác hẳn với suy ngh của nhiều trí thức tư sản, do chịu sự chi phối về ý thức

hệ tư sản và điều kiện lịch sử mà cho rằng vấn đề hiện đại hóa ở Việt Nam sẽ

không đi đ n đâu n u Việt Nam vẫn là thuộc địa của thực dân Pháp và độc lập

dân tộc sẽ mang lại độc lập về văn hóa. Bản thân Hồ Chí Minh cũng là người

có sự k t hợp hài hòa giữa 2 y u tố Đông - Tây, thể hiện trong lối tư duy cũng

như trong hoạt động thực tiễn. Người vừa nói thông thạo ti ng Pháp, ti ng

Anh, vi t báo, tham luận, kịch, văn thơ bằng chữ Pháp thu n thục, song vẫn

39

làm thơ bằng chữ Hán và bàn luận sâu sắc về Khổng giáo.

Kể từ khi Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản làm vũ

khí giải phóng dân tộc và truyền bá chủ ngh a Mác - Lênin vào Việt Nam, ở

nước ta bắt đ u hình thành một khuynh hướng văn hóa mới - văn hóa Mác-

xít. Tuy nhiên, điều đáng trân trọng nhất mà Hồ Chú Minh đã làm được chính

là bổ sung, phát triển và nâng t m chủ ngh a Mác - Lê nin. Người ý thức sâu

sắc việc c n “xem xét lại chủ ngh a Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó

bằng dân tộc học phương Đông” [44, 510]. Người k thừa và ti p bi n một

cách sáng tạo lý luận của chủ ngh a Mác - Lênin về văn hóa, do đó, “việc ti p

thu văn hóa phát triển vào nước ta không phải là đoạn tuyệt với văn hóa cổ

truyền, hai nền văn hóa đó không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau cùng

phát triển, dẫn tới sự hình thành thêm một số đạo đức mới phù hợp với những

điều kiện mới của lịch sử dân tộc” [36, 239-240]. Cũng bởi th , văn hóa Mác-

xít ngày càng ảnh hưởng sâu rộng đ n t ng lớp trí thức trong nước và lớn

mạnh cùng quá trình vận động đấu tranh giải phóng dân tộc.

Không phải đợi tới khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, những y u tố

của văn hóa Mác-xít mới xuất hiện ở Việt Nam. Quá trình Nguyễn Ái Quốc

truyền bá Chủ ngh a Mác-Lênin vào Việt Nam cùng những sách, báo, tham

luận của Người trong thời gian từ năm 1920 - 1929 đã từng bước đưa những

y u tố ban đ u của văn hóa Mác-xít vào Việt Nam.

Trong Tham luận tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Xã hội

Pháp tại Tuar diễn ra từ ngày 25 đ n ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc đã lên

án chủ ngh a thực dân Pháp, vạch tr n âm mưu nô dịch về văn hóa của thực

dân Pháp để giành thắng lợi cho chủ ngh a Mác - Lênin và văn hóa Mác-xít:

“...Chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị

hành hạ và đ u độc một cách rùng rợn. Để nói thêm, tôi xin nhấn mạnh vào

ti ng “đ u độc” đó, đ u độc bằng thuốc phiện, bằng rượu...” “...Nhà tù nhiều

hơn trường học, luôn luôn mở rộng cửa và đông đúc đ n kinh người... Chúng

40

tôi không được hưởng quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, cũng không

được hưởng quyền tự do hội họp và tự do lập hội. Chúng tôi không được quyền

đi ra khỏi nước hoặc du lịch ở nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu

dốt đen tối nhất vì chúng tôi không có quyền tự do giáo dục...”. Trong tác phẩm

Đường cách mệnh (năm 1926), Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Tụi tư bản và đ

quốc chủ ngh a lấy tôn giáo và văn hóa làm cho dân ngu, lấy pháp luật buộc

dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm

cho dân nghe đ n hai chữ cách mạng thì sợ rùng mình” [14, 36].

Tháng 8/1928, trong Tham luận của đại biểu Đông Dương ở Đại hội

Quốc tế cộng sản lần thứ VI, Nguyễn Ái Quốc ti p tục lên án những mưu đồ

về văn hóa của thực dân Pháp đang thực hiện ở Đông Dương: “... Mọi người

đều bi t rằng để đặt ách thống trị của chúng, bọn cá mập thực dân đã phá hoại

tất cả các phong tục, tập quán và nền văn minh của dân tộc bị xâm chi m, mọi

người đều bi t rằng muốn bi n một dân tộc thành nô lệ thì phải làm cho dân

tộc đó càng ít văn hóa chừng nào càng tốt chừng ấy, phải ban cho dân tộc đó

một nền giáo dục theo chiều nằm chứ không phải theo “chiều đứng”, như viên

toàn quyền Méc-lanh đã từng nói, phải cấm dân tộc đó ra nước ngoài để “tự

khai hóa”, phải ngăn cản không cho dân tộc ấy sang chính quốc để bổ sung

cho những điều mà “sứ mạng khai hóa” đã mang lại cho họ (“con đường sang

nước Pháp là con đường chống nước Pháp”, viên thống sứ Nam kỳ Cô-nhắc

đã nói như vậy)” [79, 12-13].

Sau một thời gian ti p nhận chủ ngh a Mác - Lênin thông qua nhiều

nguồn tài liệu, năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với việc lấy

chủ ngh a Mác - Lênin làm nền tảng và xác định “cuộc cách mạng Đông

Dương sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền”, Đảng Cộng sản Việt Nam

đã bước đ u đưa ra một số chủ trương về văn hóa trong Tuyên ngôn của

Đảng Cộng sản Đông Dương: “Tự do xem sách báo/ Tự do mở trường, tự

41

do học hành/ Tự do làm báo, làm sách” [79, 29].

Cũng c n phải nói thêm rằng, mặc d u trong hoàn cảnh khắc nghiệt và

nô dịch của ch độ thực dân Pháp, ph n lớn hoạt động phải bí mật, Đảng

Cộng sản Việt Nam vẫn luôn quan tâm đ n l nh vực văn hóa. Đảng Cộng sản

Việt Nam vẫn có một quan điểm phân định rõ ràng và dứt khoát về hai nội

dung văn hóa Pháp và chủ ngh a thực dân phản động. Vẫn có một nền văn

hóa Pháp đích thực, một nền văn hóa say mê tự do, nhân bản và Đảng Cộng

sản Việt Nam đã k t nạp những đảng viên ưu tú của mình h u h t là sản phẩm

của nền giáo dục Pháp. Nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng là những nhà trí

thức, am hiểu văn hóa, văn nghệ, ngay từ những ngày đ u hoạt động của mình

đã có ý thức sử dụng văn nghệ, báo chí, coi đó là vũ khí sắc bén cho cuộc đấu

tranh cách mạng. Một số đồng chí tiền bối của Đảng vì mục đích cách mạng

đã sử dụng các hình thức văn học, nghệ thuật, các phương tiện có thể truyền

bá, động viên qu n chúng làm cách mạng, không bao giờ ngh rằng mình sẽ là

nhà thơ, nhà văn, nhà văn hóa. Ở những bài vi t của các đồng chí ấy khó phân

biệt được đâu là văn nghệ, đâu là báo chí, tuyên truyền. Chỉ có cách mạng. Và

chính cách mạng đã tạo cho các đồng chí đó trở thành những nhà văn lớn,

những nhà thơ lớn của giai cấp, của dân tộc [72, 35-37].

Với yêu c u canh tân và hiện đại hóa đời sống văn hóa, tinh th n và các

loại hình văn học, nghệ thuật - vốn là hệ quả của một cuộc giao lưu, vừa tự

nguyện, vừa bắt buộc với th giới phương Tây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã

xác định yêu c u đưa văn học - nghệ thuật vào con đường cứu nước, mà muôn

thể phải hướng văn chương vào đại chúng, bi n văn chương thành vũ khí đấu

tranh cách mạng là yêu c u số một và là nhiệm vụ lớn xuyên suốt th kỷ XX.

Thời điểm đánh dấu sự ra đời một định ngh a chính thức của Hồ Chí

Minh về văn hóa là năm 1942. Trang cuối bản thảo Nhật ký trong tù, dưới tiêu

đề Mục đọc sách, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhận định về ý ngh a của văn hóa:

42

“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và

phát minh ra ngôn ngữ, chữ vi t, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn

học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các

phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn

hóa”. Từ nhận thức ấy, Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về văn hóa: “Văn hóa

là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà

loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu c u đời sống và đòi hỏi

của sự sinh tồn” [45, 431].

Có thể nói, đây là một cách ti p cận văn hóa từ ý ngh a khái quát, đặc

trưng nhất của nó, một định ngh a cô đọng và có ý ngh a về văn hóa… Quan

niệm này xuất phát từ cách ti p cận Mác-xít, rất g n gũi với nhận thức hiện

đại, khi coi văn hóa không chỉ đơn thu n là đời sống tinh th n của con người

- xã hội (theo cách phân khúc rời rạc), mà từ trong bản chất của mình, nó

chính là linh hồn, là hệ th n kinh của một xã hội, là sức mạnh trường tồn của

cả dân tộc, là sức sống vươn lên của thời đại [64]. Lê Xuân Kiêu trong bài

vi t Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa, suy nghĩ về nhiệm vụ xây

dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay cũng cho rằng

định ngh a của Hồ Chí Minh về văn hóa là một đóng góp của Người trên

phương diện lý luận văn hóa khi Người đã ti p cận văn hóa từ hai góc độ

tâm lý học và xã hội học.

Từ nhận thức khái quát về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một

cách cụ thể về nội dung, yêu c u xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người vi t

ti p: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc: 1. Xây dựng tâm lý,

tinh th n độc lập, tự cường; 2. Xây dựng luân lý: Bi t hy sinh mình, làm lợi

cho qu n chúng; 3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đ n phúc

lợi của nhân dân trong xã hội; 4. Xây dựng chính trị: Dân quyền; 5. Xây

43

dựng kinh t [46, 431 - 432].

Hồ Chí Minh đã đưa ra cấu trúc của một nền văn hóa dân tộc, bao gồm

năm thành tố, tạo thành một hệ thống và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Việc chỉ ra những điểm lớn trên chứng tỏ rằng, khi phân định nội hàm khái

niệm văn hóa, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ rằng xây dựng nền văn hóa dân

tộc phải đặt trong mối quan hệ qua lại với các mặt khác của đời sống dân tộc

như: “Tâm lý”, “luân lý”, “xã hội”, “chính trị”, “kinh t ”. Xây dựng văn hóa

phải gắn liền với từng bình diện ấy, làm cho văn hóa trở thành phẩm chất tốt

đẹp, đặc trưng riêng có và ý ngh a tích cực của những l nh vực đời sống đó.

Ra đời trong một bối cảnh đặc biệt, khi đang là tù nhân trong nhà tù

Tưởng Giới Thạch, định ngh a của Hồ Chí Minh về văn hóa cơ bản nhằm che

mắt quân Tưởng Giới Thạch để chúng không nghi ngờ Người là cộng sản,

song trong định ngh a này đã thể hiện sự hiểu bi t sâu sắc của Hồ Chí Minh

về văn hóa và t m nhìn chi n lược trong việc xác định vai trò, vị trí và những

tiêu chí cơ bản nhằm định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam, tạo cơ sở

cho sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam tương lai.

Năm 1943, với sự ra đời của Đề cương văn hóa Việt Nam, Đảng Cộng

sản Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm về “văn hóa” Việt Nam: “Văn hóa bao

gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Đảng khẳng định: “Mặt trận văn hóa

là một trong ba mặt trận (kinh t , chính trị, văn hóa), ở đó người cộng sản

phải hoạt động/ Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm

cách mạng văn hóa nữa/ Có lãnh đạo được phong trào văn hoá, Đảng mới ảnh

hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”.

Với việc xác định tính chất văn hóa Việt Nam mang tính chất thuộc địa,

về nội dung là tiền tư bản, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan niệm của

người cộng sản về vấn đề cách mạng văn hóa: “Phải hoàn thành cách mạng

văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội/ Cách mạng văn hóa muốn

44

hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo/ Cách mạng văn

hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng

văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách văn

hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau)…

Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là

văn hóa xã hội chủ ngh a… Tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam là nền

văn hóa mới Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo chủ trương

chưa phải là văn hóa xã hội chủ ngh a hay văn hóa Xô-vi t (như văn hóa Liên

Xô chẳng hạn). Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân

tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung. Chính vì th nó cách mạng nhất

và ti n bộ nhất ở Đông Dương trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, quan hệ giữa

văn hóa và kinh t , chính trị: Nền tảng kinh t của một xã hội và ch độ kinh

t dựng trên nền tảng ấy quy t định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ t ng cơ

sở quy t định thượng t ng ki n trúc) [79, 182-187].

Đảng đã xác định 3 nguyên tắc của văn hóa Việt Nam: Dân tộc hóa,

khoa học hóa, đại chúng hóa.

Dân tộc hóa: Là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khi n cho

văn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Dân tộc hóa là làm cho văn hóa trực ti p

phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có đ y lòng tự hào,

dũng cảm đứng lên nhận trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng

dân tộc, giải phóng Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt

Nam. Đây là nguyên tắc hàng đ u, vô cùng quan trọng. Văn hóa bao giờ cũng

gắn với một dân tộc nhất định. Chính tính dân tộc tạo nên bản sắc dân tộc của

một nền văn hóa. Tính dân tộc không chỉ nằm ở bản thân nền văn hóa mà còn

là cơ sở, điều kiện phát huy sức mạnh của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh

giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ của đ quốc.

Khoa học hóa: Là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh

45

chóng thoát khỏi sự kìm hãm ấy nhằm phát triển về mọi mặt trên cơ sở khoa

học. Nó lấy chủ ngh a Mác - Lênin làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi người

suy ngh và hoạt động. Nó gạt ra khỏi đ u óc con người các loại thành ki n,

hủ bại, mê tín, dị đoan.

Đại chúng hóa: Ở nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong ki n như

nước ta hồi đó, đông đảo nhân dân, nhất là công nhân, nông dân bị mù chữ,

không có điều kiện ti p thu tinh hoa văn hóa của dân tộc và của loài người.

Văn học, âm nhạc, hội họa… và các thể loại văn hóa khác không phục vụ

nhân dân mà chỉ cốt phục vụ cho giai cấp thống trị. Nói chung, qu n chúng

lao động bị gạt ra ngoài đời sống văn hóa. Văn hóa mới phải là văn hóa của

nhân dân, phục vụ cho nhân dân, làm cho mọi người bi t đọc, bi t vi t, có

học, bi t thưởng thức và tham gia sáng tạo nghệ thuật và d n d n chi m l nh

các giá trị tinh th n mà dân tộc và loài người tạo ra.

Một nền văn hóa dân tộc mà không có tính khoa học và tính nhân dân

thì rất có thể vì quyền lợi ích kỷ và hẹp hòi của dân tộc mình mà đi ngược lại

bước đường ti n hóa của lịch sử, cố níu lấy những cái cổ truyền đã lỗi thời

của dân tộc mình mà không đặc biệt chú ý đ n những nguyện vọng thi t tha

của công, nông là số đông người c n cù và yêu nước nhất trong dân tộc.

Văn hóa có tính khoa học mà không mang tính dân tộc và tính nhân

dân thì rất có thể phục vụ cho kẻ địch, đem tài năng của mình phục vụ lợi ích

của bọn thống trị, phản lại quyền lợi của nhân dân, phản lại độc lập dân tộc và

hòa bình th giới.

Đề cương văn hóa Việt Nam và các quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về văn hóa từ năm 1939 trở đi là sự ti p tục phát huy và hoàn

chỉnh các quan điểm Mác-xít về văn hóa mà những người cộng sản đã đấu

tranh và khẳng định trong cuộc tranh luận văn hóa, văn nghệ giai đoạn 1935

- 1939. Văn kiện này đã đề xướng phương châm dân tộc với nội dung đúng

46

đắn, ti n bộ có tác dụng định hướng và uốn nắn lại những nhận thức sai l m

của các tổ chức văn hóa, văn nghệ đương thời như nhóm Thanh Nghị, gồm

những trí thức có tư tưởng dân tộc nhưng lại mang tính chất cải lương tư

sản. Nhóm Tri tân đề cao tinh th n dân tộc trong việc nghiên cứu, khảo cứu

văn hóa cổ nhưng lại có khuynh hướng bảo thủ… Nền văn nghệ cách mạng

Việt Nam đã từng bước phát triển, thu được những thành tựu xứng đáng để

trở thành nền văn nghệ hiện đại, tiên ti n, đậm đà bản sắc dân tộc, dồi dào ý

ngh a nhân văn.

2.3. Quan điểm của Đảng về văn nghệ

Những cuộc tranh luận về quốc học, về văn chương đã xuất hiện ở Việt

Nam từ những năm 1920 kéo dài cho đ n những năm 1940. Trong đó sớm

nhất là hai cuộc tranh luận về quốc học và Truyện Kiều. Cuộc tranh luận

Truyện Kiều không chỉ là trao đổi văn chương xung quanh một tác phẩm văn

học mà còn là cuộc tranh luận về nhiều vấn đề xã hội khác, nhất là từ khi

Phạm Quỳnh tham gia vào cuộc đấu trí với những ý tưởng khác thường: “Một

nước không thể không có quốc hoa. Truyện Kiều là quốc hoa của ta. Một

nước không thể không có quốc túy. Truyện Kiều là quốc túy của ta. Một nước

không thể không có quốc hồn. Truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều

là cái văn tự của riêng Việt Nam ta đã trước bạ với non sông đất nước này.

Truyện Kiều còn, ti ng ta còn, ti ng ta còn nước ta còn có gì mà lo, có gì mà

sợ, có điều chi nữa mà ngờ” [68].

Cảm nhận thấy những tư tưởng sai lệch của Phạm Quỳnh, trong bài

Luận về chánh học cùng tà thuy t, Ngô Đức K đã phê phán thẳng thắn khuynh

hướng lệch lạc này: “Th mà ngày nay đứa văn s giả dối ta biểu dương Truyện

Kiều lên để khai khai hóa cho quốc dân, đem Truyện Kiều làm sách Quốc văn

giáo khoa, làm sách sư phạm giảng ngh a… Cứ xem luận trạng ấy thì nước

Việt Nam ngày nay gọi tên là Kim Vân Kiều quốc, nòi giống Việt Nam ta gọi

47

là đại Kim Vân Kiều tộc cũng đúng lắm chứ không sai”.

Bên cạnh cuộc tranh luận về Truyện Kiều, trong cuộc tranh luận về quốc

học, quốc văn, Ngô Đức K đã có một cái nhìn sáng tỏ khi hiểu rõ chuyện văn

chương chưa phải là vấn đề cơ bản và mối quan tâm chính của nhân dân là tình

trạng mất nước “Đúng nền quốc văn chẳng qua là cái mộng tưởng của đôi ba nhà học giả mà chưa phải là tâm lý chung của quốc dân” [68].

Song song với hai cuộc tranh luận trên, để những y u tố của văn hóa

Mác-xít đi vào đời sống văn hóa Việt Nam, phục vụ cho cuộc cách mạng tư

sản dân quyền, Đảng đã lãnh đạo các đảng viên ưu tú ti n hành các cuộc tranh

đấu về văn hóa, văn nghệ. Đ u tiên, trong những năm 1931 - 1933, ở Việt

Nam đã diễn ra cuộc tranh luận của một số cán bộ của Đảng trong các nhà tù

Hỏa Lò, Côn Đảo chống “chủ ngh a Tam dân cũ” của Việt Nam Quốc dân

Đảng và chống chủ ngh a “chủng tộc sinh tồn”.

Trong khoảng những năm 1933 - 1934, ở Việt Nam xuất hiện một số

cuộc tranh luận giữa hệ tư tưởng vô sản và tư sản, đánh dấu cho sự khởi đ u

của quá trình tranh đấu đi tới thắng lợi của một khuynh hướng văn hóa duy

nhất. Cuộc đấu tranh này là sự đụng độ của hai quan điểm duy tâm - duy vật

trên báo chí công khai. Bề ngoài đó là cuộc tranh luận về học thuật, nhưng

thực chất đó là một cuộc đấu tranh của ý thức hệ vô sản chống tư tưởng nô lệ,

đ u hàng của giai cấp địa chủ, tư sản. Chính các cuộc đấu tranh giữa các xu

hướng khác nhau trên l nh vực văn hóa, tư tưởng trên đây đã góp ph n đắc lực

vào sự phân hóa xã hội về tư tưởng. Một bộ phận khá đông những người tư

sản, tiểu tư sản trí thức sau đó đã đứng về phía nhân dân lao động, đấu tranh

cho quyền lợi dân tộc Việt Nam.

Tr n Hữu Độ nhận xét: “Từ trước đ n nay, không phải trong đám thanh

niên trí thức, không có ai truyền bá cái tri t học mới. Sự thật đã chứng cho ta

bi t rằng ngày nay chủ ngh a duy vật đã thịnh hành ở xứ này rồi. Những cuộc

48

bút chi n giữa nhà duy vật Hải Triều với các ông Phan Khôi và Thi u Sơn,

những cuộc tranh luận về nghệ thuật giữa hai phái thanh niên duy tâm và duy vật tức là bằng chứng tiên xác cho phong trào duy vật…” [68].

Những bài vi t trong cuộc tranh luận của Hải Triều đã góp ph n nhất

định vào cuộc đấu tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam chống lại những tư

tưởng duy tâm phản động. Tuy nhiên, vì bị hạn ch bởi điều kiện nhận thức

lúc đó, bởi khuôn khổ của một tờ báo công khai nên đồng chí Hải Triều và

một số đồng chí khác chưa vạch tr n được h t thực chất tư tưởng nô lệ, chịu

khuất phục trước sức mạnh của đ quốc Pháp, đổ lỗi cho các dân tộc lạc hậu

như dân tộc Việt Nam đã gây ra kinh t khủng hoảng và chi n tranh.

Bên cạnh cuộc tranh luận về duy vật và duy tâm, từ năm 1935, Đảng đã

lãnh đạo một cuộc tranh đấu về nghệ thuật chống lại quan điểm “nghệ thuật vị

nghệ thuật”. Ban đ u chỉ có Thi u Sơn và Hải Triều. Sau đó, lực lượng tham

gia bút chi n tập hợp thành hai phái: Một bên do Hoài Thanh dẫn đ u và bên

kia “chi n tuy n hợp nhất” có Hải Triều cùng các chi n hữu. Về phía Hoài

Thanh có Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Phan Văn Dật, Lan Khai (vi t trên

Tràng An, Tiến hóa, Hà Nội báo…). Về phía Hải Triều có Hải Thanh, Hồ

Xanh, Lâm Mậu Quang (vi t trên báo Trung Kỳ, Sông Hương, Đông Phương,

Tin văn, Tiến bộ, Hồn Trẻ).

Thi u Sơn mở màn, khơi mào tranh luận với bài Hai cái quan niệm về

văn học. Mở đ u là Thi u Sơn rồi ti p đ n là Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều,

Lưu Trọng Lư, Lan Khai… do dừng lại ở chủ ngh a duy tâm chủ quan và tư

biện, thoát ly thực tại đã dẫm chân vào v t cũ của những quan điểm nghệ

thuật tư sản lỗi thời hình thành ở Tây Âu th kỷ trước [67, 17].

Giữa năm 1935, nhân Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan ra mắt độc

giả, Hải Triều qua bài Nhân xem quyển “Kép Tư Bền”, Nguyễn Công Hoan,

nhà văn có nhiều hy vọng (Tiểu thuy t thứ bảy, số 60, 20/7/1935) đã khen

49

những thành tựu về nội dung và nghệ thuật vi t truyện của Nguyễn Công

Hoan. Hải Triều đánh giá Nguyễn Công Hoan đã vi t về những cảnh đời tối

tăm của vô sản trước sự bóc lột của tư bản, hướng ngòi bút vào những người,

những việc ở quanh mình, dựng nên những truyện với những điều quan sát

thú vị mặc dù cốt truyện không có gì.

Trong bài vi t “Kép Tư Bền” một tác ph m thuộc về cái triều lưu nghệ

thuật vị nhân sinh ở nước ta (Tiểu thuy t thứ bảy, số 62, 8/1935), một l n nữa

Hải Triều đề xuất một vấn đề lý luận nhân thành công của Kép Tư Bền - đó là

khuynh hướng văn học gắn bó chặt chẽ với cuộc sống hiện thực của xã hội,

miêu tả con người lao động với những vấn đề thi t thân đối với vận mệnh của

họ bằng bút pháp trung thành với hiện thực, tôn trọng tính khách quan của sự

thực [67, 41-42].

Từ tháng 8/1935 đ n ngày mùng 6/8/1936, với sự xuất hiện tác phẩm

“Văn chương là văn chương” của Hoài Thanh, cuộc bút chi n hào hứng và sôi

nổi, lôi cuốn hàng chục cây bút lý luận - phê bình. Các bài được đăng h u

khắp các báo ở Trung, Nam, Bắc như: Tràng An, Trung Kỳ, Văn học tuần san,

Tiểu thuyết thứ bảy, Tin văn, Hà Nội báo, Tiến bộ, Hồn trẻ… Hải Triều xuất

phát từ lập trường duy vật Mác-xít khẳng định mối liên hệ giữa cuộc sống xã

hội và văn học, trong đó văn học chịu sự quy định trực ti p, khách quan của

cuộc sống. Sau này, khi nhìn lại cuộc tranh luận, Hoài Thanh cho rằng “đằng

sau sự va chạm về quan điểm nghệ thuật và khơi nguồn cho sự va chạm ấy là

sự va chạm giữa hai thái độ trước cuộc đời, hai thái độ về chính trị” [67, 50].

Phái “nghệ thuật vị nhân sinh” tìm thấy vị trí của nhà văn trong sự gắn

bó với cuộc sống, với giai cấp và thời đại mình, đứng về phía người lao động

bị áp bức, bóc lột, đấu tranh cho lẽ phải và ti n bộ xã hội. Nhà văn chân chính

là người nhập th , nhập cuộc, chứ không thể thoát ly cuộc đời, bi n văn

chương thành trò tiêu khiển “phát dương cái đẹp”… Nhà văn chân chính c n

50

đứng về phía người bình dân và giai cấp vô sản, trở thành nhà văn bình dân,

nhà văn vô sản. Nhà văn đó không chỉ bi t “thành thật mô tả” mà c n “hiểu lẽ

tất y u phải cổ động và phấn đấu”, sử dụng nghệ thuật như “là một cái lợi khí

tranh đấu”, đi tiên phong trong sự giác ngộ và đánh thức qu n chúng giải

quy t bài toán đố “làm sao cho tuyệt tự sự áp bức và bóc lột?”.

Tác phẩm nghệ thuật theo phái “nghệ thuật vị nhân sinh” không thể chỉ

là những bông hoa cho một nhóm người nhàn rỗi, no đủ say sưa thưởng thức

quên mọi sự trên đời, mà cao hơn nó được sánh với vũ khí lợi hại như gươm

và súng, đấu tranh cho mi ng cơm, manh áo của dân cày, thợ thuyền, trí thức

lao động (tức là những t ng lớp người trong đám bình dân); nhà văn không

chỉ nên bằng lòng với tư cách là nghệ s phát dương cái đẹp, mà phải trở

thành chi n sỹ đấu tranh phát dương “tư tưởng, tình cảm, ý chí và quyền lợi”

của người lao động - người sáng tạo ra lịch sử và thúc đẩy ti n bộ xã hội.

Phái “nghệ thuật vị nhân sinh” cổ động cho nền nghệ thuật phụng sự

cho giai cấp bình dân, theo xu hướng “tả thực chủ ngh a”, “tả thực xã hội”.

Đó là một nền văn học vô sản, văn học cách mạng. Một bên phơi bày “những

cảnh khốn cùng”, “những cái xấu xa”, “núp dưới bức màn giả dối”, thể hiện

“nỗi bất bình” và nâng cao tinh th n tranh đấu của bình dân, dọn cho bình dân

một con đường đi tìm hạnh phúc nơi cõi đời thực t [67, 61].

Từ cuối năm 1936 kéo sang năm 1937, cuộc tranh luận lắng xuống.

Tuy nhiên vẫn có một bài toán c n giải quy t là làm như th nào để gây dựng

nền văn hóa Việt Nam? Phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” cho rằng: Gây dựng

trên cơ sở bảo vệ, gìn giữ những cái đã có tốt đẹp, cái riêng, đặc thù với lòng

tự tôn dân tộc, bảo tồn đừng để mất những của quý. Các ông (những người

theo phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” - TG) xem nhẹ mặt giao lưu, ảnh hưởng

lẫn nhau giữa các nền văn hóa, có ph n khư khư bảo thủ, tự mãn khi coi tất cả

những gì của ta là hay, là đẹp mà không thấy trong di sản và truyền thống dân

51

tộc để lại có cả những cái lỗi thời, không phù hợp với cuộc sống hiện tại, với

trào lưu của ti n bộ nhân loại và văn minh hiện đại. Quan niệm của các ông

rất g n gũi với chủ trương phục cổ của nhóm Tri Tân sau này. Mặt khác, khi

chỉ đề cao sự đóng góp của dân tộc vào nhân loại ở cái riêng của nó, cái độc

đáo và đặc thù mang tính chủng tộc, nòi giống, mà các dân tộc khác không có,

các ông lại không nhận ra rằng giữa các dân tộc còn có những cái chung do

tồn tại và phát triển trong những điều kiện tương tự - chúng có thể cộng

hưởng, bồi đắp, lấp vào những chỗ còn trống của nhau, hợp thành cái mang

giá trị chung của cộng đồng th giới xét theo “chiều ngang” của từng thời đại

hay “chiều dọc” của lịch sử nhiều thời kỳ [67, 68].

Phái “nghệ thuật vị nhân sinh” đã có cái nhìn ti p cận chân lý hơn. Hải

Triều nồng nhiệt vi t những bài ca ngợi sự nghiệp văn chương của các tác giả

nước ngoài như M.Gorki, R.Roland, H.Bacbuytx… Qua sự nghiệp của các

văn hào, Hải Triều khẳng định sự thống nhất giữa tính giai cấp (vô sản) với

tính dân tộc và tính nhân loại của văn hóa, văn học phải gắn bó với cuộc sống,

phục vụ cho quyền lợi của giai cấp bi t thuận theo ti n hóa chung của xã hội,

của dân tộc và sự phát triển đi lên của lịch sử loài người.

Bùi Công Trừng, qua hai bài vi t lý lẽ sắc bén và uyển chuyển đã trình

bày một quan điểm Mác-xít về xây dựng nền văn hóa dân tộc mà các mặt bảo

tồn và ti p nhận, cái riêng và cái chung, cái cá biệt và cái phổ quát, dân tộc,

quốc gia và nhân loại, quốc t … được xem xét trong tương quan biện chứng

duy vật… Bùi Công Trừng xác định gây dựng nền văn hóa dân tộc phải trên

cơ sở đúng đắn trong quan điểm về k thừa, ti p thu các nguồn ảnh hưởng,

phát triển và làm mới.

Theo Bùi Công Trừng gây dựng một nền văn hóa “đặc biệt hoàn toàn

Việt Nam” “không hoàn toàn giống một dân tộc nào tức là chỉ thấy cái riêng,

cái khác, cái không tương đồng của ta với người… là một điều không thể có,

không thể làm được”. ng cho rằng ảnh hưởng giữa các nền văn hóa là một

52

sự thật, là một quy luật, không thể từ chối hoặc trốn tránh. Vấn đề là ở chỗ

ti p nhận quy luật khách quan đó một cách chủ động và có lợi nhất; “không

nên cho những sự ảnh hưởng đó là một việc thôn tính về mặt tinh th n” mà

nên phát huy phương diện “những ảnh hưởng ấy đã giúp một ph n lớn trong

công việc cấu tạo và phát triển nền văn hóa Việt Nam”.

Theo Bùi Công Trừng, chúng ta nên “vui vẻ nhận lấy” và “bi t khai

thác” những tinh hoa, những cái hay, cái tốt của văn hóa Đông Tây đưa lại “để

đem vào lò máy đúc của tinh th n, vừa lọc lại, nung nấu lại, theo màu sắc và

sinh khí để làm một nhóm nuôi sống dân tộc Việt Nam trên con đường ti n

hóa”. Thái độ ti p thu có chọn lọc, không bài ngoại, xem cái vốn không phải

của mình thành một nguồn mới bổ sung, làm giàu thêm cái mình đã có - mà

ngày nay (thời kỳ những năm 1930 - TG) chúng ta gọi là lấy ngoài phục vụ

trong - cùng với nâng cao bồi đắp những cái hay, cái đẹp của truyền thống dân

tộc theo tinh th n “gạt đục khơi trong”, “lấy xưa phục vụ nay” - đó là cái nhìn

biện chứng giữa k thừa và phát triển, truyền thống và cách tân. Và nền văn

hóa dân tộc phong phú, tinh mỹ ấy sẽ được “góp vào gia tài chung của nhân

loại”, vượt ra khỏi phạm vi địa phương quốc gia, hòa nhập vào “tính chất quốc

t liên đới” trong hiện tại và tương lai. Sự nhìn nhận vấn đề dân tộc của văn

hóa theo quan điểm giai cấp, đưa dân tộc hòa nhập vào nhân loại mà vẫn không

mất đi cái bản sắc của mình - cái nhìn ấy là rạch ròi và dứt khoát [67, 69-70].

Đ n tháng 6/1939 với bài lược dịch của Lưu Trọng Lư về “Cái khi u

văn chương của Karl Marx” (rút từ sách Karl Marx, Engels: Về văn học và

nghệ thuật của Jean Freville) mới xem như là k t thúc cuộc tranh luận.

Dưới ảnh hưởng tư tưởng về văn hóa của Đảng, “chi n tuy n hợp

nhất” do Hải Triều dẫn đ u chính là những đảng viên, những người được

giác ngộ chủ ngh a Mác - Lênin, lực lượng ngày càng đông đảo hơn. Chi n

tuy n này đã lấy tư tưởng duy vật Mác-xít về tri t học và lịch sử xã hội làm

gốc, chủ trương nuôi trồng và chăm sóc cái cây nghệ thuật trên mảnh đất

tươi tốt của hiện thực mà hoa quả của nó là dành cho những người lao

53

động, bình dân. Các nhà Mác-xít đề cao một nền văn chương tả thực xã

hội, xem trọng phương diện chủ y u để đánh giá tác phẩm nghệ thuật thuộc

về tư tưởng ti n bộ và nội dung phản ánh; nó trở thành vũ khí sắc bén như

gươm dao trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột giành lấy độc lập, tự

do cho đông đảo nhân dân.

Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng “nghệ thuật vị nhân sinh” hay

“nghệ thuật vị nghệ thuật” không thu n túy là một cuộc tranh luận về học

thuật mà sâu xa hơn có căn nguyên ở cơ sở giai cấp và những khuynh hướng

chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà người đứng đ u khuynh hướng “nghệ

thuật vị nhân sinh” lại là một nhà văn vô sản, một nhà lý luận Mác-xít. Lúc

này, quan điểm lý luận Việt Nam cách mạng chủ trương văn hóa phải phê

phán tội ác của thực dân, phong ki n, phải phơi bày những tệ nạn tràn lan

trong xã hội.

Tròn 5 năm sau, trên tạp chí Văn mới số 36 và 37 ra ngày 25/6/1944,

đăng trọn vẹn công trình Văn học khái luận của Đặng Thai Mai. Công trình

này trình bày một cách tương đối có hệ thống (mà do sự kiểm duyệt của thực

dân, tác giả phải vi t một cách khéo léo) những quan điểm văn nghệ cơ bản

theo lập trường Mác-xít. Đặng Thai Mai đã đề cập tới cuộc tranh luận nghệ

thuật trước đó mà ông gọi là “một cuộc bút chi n khá ồn ào” (cuộc tranh luận

“nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” - TG) song với “ngày

nay đã thành câu chuyện cũ”.

Năm 1944, trên báo chí hợp pháp của Đảng, khi trình bày các nguyên

tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới, Đảng đã đánh giá xu hướng “nghệ

thuật vị nghệ thuật” thuộc loại “những quái thai của văn nghệ phản qu n

chúng, bột phát dưới ch độ thực dân, phát xít”. Trường Chinh, với tư cách là

một trong những người lãnh đạo chủ chốt của Đảng cộng sản, đã xem những

cuộc tranh luận đó là quá trình đấu tranh tư tưởng giữa quan điểm nghệ thuật

54

cách mạng vô sản với quan điểm nghệ thuật tư sản lỗi thời mà thắng lợi được

ghi nhận thuộc về phái “nghệ thuật vị nhân sinh”, do các đảng viên cộng sản

đứng đ u là Hải Triều thực hiện. Đồng chí Trường Chinh vi t: “Công lao của

đồng chí Hải Triều đáng cho chúng ta ghi nhớ. Cố nhiên, với trình độ ngày

nay, n u ta xem lại những bài ấy có thể ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ

và hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chi n có

những bài như của đồng chí Hải Triều là xuất sắc. Những bài đó trên một mức

độ nhất định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ

thuật. Quan điểm của chủ ngh a Mác - Lênin đã thắng các quan điểm phản động.

Tiểu kết chƣơng 2:

1. L nh hội, k thừa những tinh hoa của chủ ngh a Mác - Lênin về văn

hóa, ngay từ những năm 1920 - 1930, Hồ Chí Minh đã nhận thức và chỉ ra

những âm mưu về văn hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Đây chính là tiền

đề quan trọng để sau khi thành lập (năm 1930), Đảng Cộng sản Việt Nam

từng bước xây dựng hệ thống quan điểm về văn hóa.

2. Từ năm 1930 - 1942, Đảng đã trải qua một giai đoạn chuẩn bị cho sự

hình thành hệ thống quan điểm về văn hóa. Ở giai đoạn này, Đảng chưa đưa

ra được một quan điểm rõ ràng về văn hóa. Tuy nhiên, Đảng luôn định hướng

sự phát triển của văn hóa Việt Nam phù hợp với con đường giải phóng dân

tộc mà Đảng đã vạch ra. Do đó, giữa nhiều y u tố phức tạp, đan xen giữa các

luồng tư tưởng cũ - mới, bảo thủ - ti n bộ, văn hóa Mác-xít vẫn từng bước

khẳng định vị trí, vai trò trong bức tranh văn hóa Việt Nam.

3. Riêng trong l nh vực văn nghệ, quan điểm văn hóa của Đảng đã được

thể hiện thông qua thực tiễn hoạt động của các nhà văn hóa Mác-xít. Trong

cuộc tranh luận giữa “nghệ thuật vị nhân sinh” và “nghệ thuật vị nghệ thuật”

(1935 - 1939), quan điểm của Hải Triều và “chi n tuy n hợp nhất” cũng chính

là quan điểm về văn hóa, văn nghệ của Đảng. Lý lẽ của những người theo

55

khuynh hướng vô sản đã tỏ ra có sức thuy t phục, phù hợp với diễn ti n khách

quan của thực t xã hội và đời sống văn hóa, bắt nhịp với xu th ti n hóa của

thời cuộc, đón bắt những triển vọng cho sự phát triển đúng hướng của nền văn

nghệ dân tộc, hiện đại. Cái được lớn nhất của cuộc tranh luận là hai bên từ

chỗ đối lập nhau, d n d n đã xích lại g n nhau, bồi đắp những chỗ thi u hụt

và bất cập, phi n diện của lối tư duy dẫn tới cực đoan, mà ti n sát đ n một sự

hài hòa trong quan điểm về văn hóa Việt Nam.

4. Sau khi hội tụ đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, Đảng đã đưa ra Đề

cương văn hóa Việt Nam. Đề cương đã thể hiện sâu sắc sự k thừa tư tưởng

về văn hóa của chủ ngh a Mác - Lênin. Đây thực chất là một “cương l nh”

chi n đấu mang sâu sắc tính Đảng, đúc k t những kinh nghiệm của Đảng

trong lãnh đạo về văn hóa trên những chặng đường cách mạng. Đảng đã từ

chỗ giữ vai trò quan trọng trong lãnh đạo mặt trận chính trị, kinh t , quân sự

56

vươn tới nắm bắt và khẳng định vai trò, vị trí trên mặt trận văn hóa, tư tưởng.

Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ TUYÊN TRUYỀN,

VẬN ĐỘNG VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG MẶT TRẬN

VĂN HÓA CỨU QUỐC

3.1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về tuyên truyền, vận động

văn hóa

Để từng bước đưa văn hóa Mác-xít thâm nhập và thẩm thấu vào xã hội

Việt Nam, tạo lập ý thức hệ vô sản trong các giai t ng, đồng thời hạn ch ý

thức hệ tư sản trong giới trí thức, ngay từ thời gian đ u thành lập, Đảng Cộng

sản Việt Nam đã xác định vai trò quan trọng của việc tích cực vận động,

tuyên truyền đường lối cách mạng vô sản, vạch tr n thủ đoạn lừa gạt của

khuynh hướng quốc gia cải lương, phê phán tư tưởng tiểu tư sản trong đấu

tranh cách mạng.

Giới trí thức là lực lượng tiên phong trong việc ti p thu và vận dụng

các tư tưởng mới trong xã hội. Xuất phát từ đặc thù của bộ phận này, trong

chính sách văn hóa của thực dân Pháp, đối tượng mà chúng mong muốn

hướng t m ảnh hưởng đ n đ u tiên và nhiều nhất là trí thức. Do đó, đối với

công tác văn hóa, trí thức là bộ phận được Đảng đặc biệt quan tâm vận động,

tuyên truyền.

Từ năm 1930 trở đi, thực dân Pháp ti p tục tăng cường phát triển hệ

thống giáo dục nô dịch nhằm phục vụ cho mục đích cai trị của mình, đồng

thời tìm mọi cách ngăn chặn trí thức ti p xúc với văn hóa th giới. Trước tình

hình đó, Đảng đã chủ trương lôi kéo, vận động, tập hợp trí thức vào cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã nêu:

Đảng phải “h t sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông…để lôi kéo họ

57

về phe vô sản giai cấp”. Cương l nh còn khẳng định “phải đưa những người ở

các t ng lớp khác, trí thức, tiểu tư sản,… vào tổ chức phản đ ” [15, 3]. Chủ

trương này đã giúp định hướng tư tưởng cho một bộ phận không nhỏ trí thức,

thanh niên, học sinh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và phát triển

văn hóa Việt Nam theo khuynh hướng vô sản. Một số trí thức trở thành những

người đ u tiên ti p thu tư tưởng văn hóa vô sản, bi n tư tưởng thành hành

động đấu tranh cách mạng, đóng góp tích cực vào phong trào cách mạng giai

đoạn 1930 - 1931.

Tuy nhiên, sau khi cao trào Xô Vi t Nghệ T nh bị thất bại, phong trào

cách mạng lắng xuống, trong khi thực dân Pháp lại lan truyền những y u tố

của văn hóa tư sản khi n cho không ít trí thức Việt Nam, trong đó có cả

những cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản bị rơi vào tình trạng bi quan, dao

động. Trước tình hình đó, Đảng đã chủ trương phải đấu tranh quy t liệt với

chủ ngh a cải lương, chống tư tưởng dao động trong đội ngũ trí thức, nhất là

tư tưởng đ u hàng trong cán bộ, đảng viên, đồng thời nêu cao tinh th n chi n

đấu anh dũng, bất khuất.

Trong thời kỳ 1932 - 1939, phong trào cách mạng d n phục hồi và phát

triển. Trí thức yêu nước hăng hái tham gia đấu tranh bên cạnh các phong trào

đấu tranh của công nhân. Một bộ phận trí thức đã tham gia các tổ chức qu n

chúng cách mạng bí mật như: Công hội, Thanh niên, Phụ nữ và tổ chức công

khai khác như Hội đọc sách... Ngày càng có nhiều trí thức, học sinh, sinh viên

có tư tưởng ti n bộ, được giác ngộ lý tưởng cách mạng, trở thành đảng viên

của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số trí thức được giác ngộ cách mạng, trở

thành những nhà văn hóa Mác-xít, đấu tranh quy t liệt với tư tưởng văn hóa

tư sản. Bởi vậy, mặc dù không có một văn kiện chính thức đề cập tới vấn đề

tuyên truyền, vận động trí thức, học sinh, sinh viên tham gia vào các cuộc đấu

tranh về văn hóa, văn nghệ nhưng trên thực t , Đảng đã bước đ u xây dựng

58

được đội ngũ trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước và ti n bộ. Thông qua

ti ng nói của bộ phận này, Đảng đã thể hiện được quan điểm, lập trường về

văn hóa của tổ chức.

Từ năm 1940 trở đi, mâu thuẫn giữa phát xít Nhật - Pháp với toàn thể

nhân dân ta ngày càng trở nên sâu sắc và d n tạo ra sự phân hóa rõ rệt trong

các t ng lớp trí thức Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của Đảng, một số trí thức đã

đi theo ti ng gọi của Đảng, tham gia hoạt động cách mạng. Một số ít đứng

hẳn về phía bọn xâm lược, làm tay sai cho chúng. Đứng giữa hai bộ phận trên

đây là đông đảo trí thức không cam tâm hợp tác với Nhật - Pháp, nhưng do sự

hạn ch của th giới quan đã lâm vào tình trạng hoang mang, do dự, bi quan,

hoài nghi… Bởi th , Đảng phải tìm mọi cách “thức tỉnh” và hướng họ vào

con đường đấu tranh cách mạng.

Đảng cũng xác định văn nghệ s là một bộ phận phải được tuyên

truyền, vận động về mặt văn hóa. Văn nghệ s mặc dù không chi m số đông

trong xã hội nhưng lại góp ph n định hình nên bộ mặt văn hóa của Việt Nam.

Các khuynh hướng sáng tác, các trào lưu văn học, nghệ thuật mà các văn nghệ

s theo đuổi cùng những sáng tác của họ chi phối không nhỏ tới các giai t ng

trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, trong giai đoạn 1932 -1935, trào lưu Thơ

mới và những sáng tác của Tự lực văn đoàn đã ảnh hưởng tới tư tưởng của

một bộ phận giai t ng trong xã hội, sâu sắc nhất là trí thức, thanh niên, học

sinh... Khẩu hiệu “vui vẻ, trẻ trung” khi n nhiều thanh niên, trí thức chìm đắm

trong sự hưởng lạc, quên đi nhiệm vụ cứu nước trong thời cuộc đất nước đang

bị xâm lược. “Cái Tôi” cá nhân không hòa mình trong tập thể sẽ gây nguy hại

cho phong trào cách mạng chung khi mà sức mạnh đại đoàn k t chính là một

trong những y u tố quy t định tới vận mệnh dân tộc.

Do đó, việc tuyên truyền, vận động văn nghệ s có một định hướng

sáng tác đúng đắn và dùng văn hóa để đấu tranh cách mạng là h t sức cấp

59

bách. Một bộ phận văn nghệ s đã từng bước nhận thức được sự ti n bộ của

trào lưu văn học hiện thực, hướng ngòi bút phê phán và vạch tr n những tội

ác của thực dân, phản ánh nỗi khổ của qu n chúng nhân dân. Đảng c n vận

động, tuyên truyền để bộ phận này giữ vững lập trường sáng tác, góp ph n

vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Để nền văn hóa Việt Nam phát triển theo khuynh hướng vô sản, bên

cạnh việc chú trọng tuyên truyền, vận động t ng lớp trí thức, bộ phận văn

nghệ s , Đảng còn c n chú trọng công tác tuyên truyền, vận động sâu rộng

trong qu n chúng nhân dân, trong đó đông đảo nhất là nông dân lao động.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã nêu: “Đảng phải thu phục

cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo” [15,

3]. Việc tập hợp được đông đảo nhân dân lao động là một trong những y u tố

quy t định thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Nhằm đưa cuộc cách mạng đi tới thắng lợi, Đảng c n vận động được

nhân dân lao động tham gia đấu tranh trên tất cả các l nh vực chính trị, kinh

t , văn hóa - xã hội. Trên thực t , nhân dân lao động Việt Nam trong giai

đoạn 1930 - 1945, do ảnh hưởng của bối cảnh đất nước khi đó, trình độ học

vấn, trình độ nhận thức còn nhiều hạn ch . Thực dân Pháp bằng những chính

sách văn hóa “tinh vi” hoàn toàn có thể ru ngủ qu n chúng, khi n nhân dân

lao động mất đi nhuệ khí đấu tranh cách mạng. Bởi vậy, Đảng quan tâm tới

việc tuyên truyền, vận động về văn hóa cho giai cấp này nhằm giúp qu n

chúng có nhận thức đúng đắn, phân biệt được giữa trào lưu văn hóa, tư tưởng

ti n bộ và bảo thủ, “mị dân”. Đảng đã từng bước tuyên truyền, vận động về

văn hóa trong đông đảo qu n chúng nhân dân lao động chủ y u thông qua sự

tuyên truyền của đội ngũ trí thức, các cán bộ, đảng viên của Đảng và gián ti p

thông qua các sáng tác ti n bộ của một bộ phận văn nghệ s .

Bên cạnh việc nhận thức về đối tượng tuyên truyền, vận động văn hóa

60

trong giai đoạn 1930 - 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam còn xác định các

phương thức cơ bản để đạt hiệu quả trong quá trình tuyên truyền, vận động

văn hóa ở Việt Nam.

Phương thức tuyên truyền, vận động đ u tiên được Đảng nhận định

là sách, báo và tạp chí. Tuy nhiên, ngay từ năm 1930, Đảng đã đưa ra một

số hạn ch , khuy t điểm của sách, báo ở Việt Nam khi đó: Đối với sách

“không có một số ít sách vở để huấn luyện đảng viên và qu n chúng vô

sản. Những tài liệu trọng y u (như các bản nghị quy t của Quốc t Cộng

sản, Quốc t Thanh niên, Quốc t Công hội đỏ, chương trình của Quốc t

Cộng sản...) chưa dịch ra ti ng Việt để lưu hành trong Đảng; đối với báo

“đều do một số rất ít đồng chí làm ra, ph n đông đảng viên hoàn toàn

không tham gia vào việc vi t báo... Các báo xuất bản rất bất thường. Nhiều

khi 2, 3 tháng không xuất bản số nào cả... Trong các báo, việc giải thích

các khẩu hiệu chính và con đường chính trị của Đảng không chuyên c n và

rõ rệt, nhiều khi lại giải thích sai l m” [79, 50-51].

Do đó, Đảng chủ trương: “Các Đảng bộ phải khôi phục các cơ quan ấn

loát báo chí, sách tuyên truyền và nhiều tài liệu khác của Đảng với mục đích

nâng cao trình độ nghiên cứu của đảng viên, làm cho đường lối chính trị của

Đảng quen thuộc với qu n chúng và nâng cao trình độ cho qu n chúng... Các

Đảng bộ phải hợp tác với các người lãnh đạo tổ chức qu n chúng để xuất bản

báo chí, các Đảng bộ và nhất là các chi bộ có nhiệm vụ nghiên cứu kỹ lưỡng

chương trình hành động, các cuộc cách mạng báo chí, còn tài liệu khác của

Đảng, các tổ chức phải lập ra bản lưu chuyển và để ý tới các điều kiện cụ thể

của địa phương và trình độ đảng viên của mình, phải gắn công tác huấn luyện

lý luận với công tác thực t của cuộc vận động” [79, 76-77]. Trong nội bộ,

Đảng còn chủ trương phát hành một tạp chí bí mật để giải thích những vấn đề

mà các sách báo công khai không thể bàn đ n được. Trong giai đoạn thành

61

lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đ Đông Dương, Đảng khẳng định điểm

mấu chốt của công tác tuyên truyền, cổ động của mặt trận lúc này là ra một tờ

báo làm cơ quan chung của mặt trận Đảng.

Phương thức thứ hai được Đảng khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị

Trung ương, ngày 6, 7, 8 tháng 10 năm 1940: “Sự tuyên truyền của Đảng

trong một thời gian chỉ nhờ ở sách vở, báo chí công khai, còn sự tuyên truyền

bằng miệng rất ít chú ý. Bây giờ sách vở công khai không có thì phải ra sách

báo bí mật, dùng truyền đơn, biểu ngữ, tranh vẽ, thi ca và tổ chức những đội

quân tuyên truyền bằng miệng. Tuyên truyền miệng có sự lợi ích là dễ hiểu rõ

qu n chúng, dễ đưa qu n chúng vào tổ chức” [79, 138-143].

Để đạt hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền, vận động văn hóa,

Đảng chủ trương thông qua các hình thức mặt trận. Trong Chính cương vắn

tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng

sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Đảng đã khẳng định sự c n thi t

phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất để tập hợp, đoàn k t các giai

t ng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân, phát huy truyền thống

yêu nước, sức mạnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Án

nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930 đã nêu rõ sự cấp thi t phải thành lập

Mặt trận Thống nhất phản đ . Đ n ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung

ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đ đồng

minh - hình thức đ u tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh

đạo của Đảng. Đ n giai đoạn cách mạng 1936, sự ra đời của Mặt trận dân

tộc phản đ Đông Dương, từ năm 1941 là Mặt trận Việt Minh chính là

những môi trường thuận lợi cho Đảng thực hiện tuyên truyền, vận động

nhân dân về văn hóa.

Với Đề cương văn hóa Việt Nam, Đảng đã đưa ra cách thức vận động

62

để xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới: Tổ chức các nhà văn tranh đấu giành

quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ s … Từ đó, Đảng đã động

viên được anh chị em trí thức nước nhà đoàn k t với toàn dân trên cơ sở liên

minh công nông và dưới sự lãnh đạo của Đảng; gắn trí thức với công nhân,

nông dân, làm cho Mặt trận Việt Minh thêm vững mạnh và rộng rãi, nhất là ở

các thành thị, nơi tập trung công nhân và trí thức.

Không chỉ xác định được đối tượng và phương thức tuyên truyền, vận

động văn hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1930 - 1945 đã từng

bước đưa ra những nội dung tuyên truyền, vận động về văn hóa phù hợp với

từng hoàn cảnh lịch sử. Trước h t, Đảng luôn chú trọng tới việc tuyên truyền

chủ ngh a Mác - Lênin nói chung và quan điểm của chủ ngh a Mác - Lê nin

về văn hóa nói riêng tới cán bộ, đảng viên, xác định lập trường giai cấp công

nhân cho đảng viên trên mọi công tác. Đảng đã chủ trương đấu tranh ngay

trong hàng ngũ cách mạng, để đảm bảo sự trong sáng và thu n túy của chủ

ngh a Mác - Lênin, trong đó có những tư tưởng của chủ ngh a Mác - Lê nin

về văn hóa.

Tư tưởng dao động trước những bi n động thời cuộc trong hàng ngũ trí

thức, trong đó có cả cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xuất

hiện từ những năm 1930 - 1931. Đ n năm 1935, tư tưởng này vẫn còn tồn tại

trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Do đó, trong Nghị quy t của Đại hội

lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (từ ngày 27 đ n 31/3/1935),

Đảng chỉ rõ: “... Đảng muốn được lòng tin yêu rộng rãi của qu n chúng thì

không thể không Bôn-sê-vích hóa”. “Đảng chủ trương mở rộng sự phê bình

Bôn-sê-vích trong các cấp để nghiên cứu những điểm tốt nhất đem thực hiện

và tìm những điểm xấu để tránh. Ngoài ra, phong trào tự phê bình Bôn-sê-

vích phải là một phong trào thường trực, mỗi cơ quan trên phải chỉ thị rõ ràng

cho cơ quan dưới trực ti p để thực hiện. Nhất thi t phải cho qu n chúng tham

63

gia vào sự phê bình đó…” [18, 89-90].

Đối với sách, báo, tạp chí, Đảng chủ trương c n phải “giải thích chính

sách của Đảng, nghiên cứu tình hình kinh t , chính trị, xã hội của Đông

Dương và các địa phương để hiểu rõ những nguyện vọng, nhu c u và yêu

sách cụ thể của qu n chúng. Báo chí Đảng phải rút ra các bài học từ các cuộc

đấu tranh trước đây ở Đông Dương và trên th giới và truyền bá các thắng lợi

của cuộc ki n thi t xã hội chủ ngh a ở Liên Xô và phong trào cách mạng ở

Trung Quốc, kêu gọi qu n chúng bảo vệ cách mạng Trung Quốc, th giới và

Liên Xô chống chi n tranh, phê bình thiên hướng sai lệch trong Đảng, lột mặt

nạ bọn quốc gia cải lương, bọn xã hội dân chủ, bọn Tờ-rốt-xkít, bọn phát-xít,

bọn đảng viên Quốc dân Đảng... Bên cạnh đó, mỗi tờ báo phải có tính chất vô

sản, dùng một giọng văn không kiêu kỳ và dùng lời lẽ thông dụng của qu n

chúng. Đảng phải khuy n khích mỗi Đảng bộ xuất bản một tờ báo, các báo ở

xí nghiệp và ở cơ sở có nhiệm vụ thảo luận các vấn đề thích hợp nhất với địa

phương mình.

Từ khi phát xít Nhật xâm lược nước ta, Đảng đã xác định một trong

những nội dung quan trọng trong công tác tuyên truyền, vận động văn hóa ở

Việt Nam chính là kiên quy t chống lại chính sách văn hóa của phát xít Nhật -

Pháp. Cả phát xít Nhật và Pháp đều có k hoạch lôi kéo trí thức, văn nghệ s

nước ta. Chúng sử dụng mọi phương tiện văn hóa phục vụ cho ch độ thống

trị của chúng. Một số trí thức Việt Nam không chịu nhục mất nước và khao

khát tự do. Thông qua tuyên truyền, vận động, Đảng chỉ cho trí thức, văn

nghệ s nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam thấy đâu là lối thoát. Muốn

giải phóng trí thức phải giải phóng toàn thể dân tộc khỏi ách phát xít Nhật -

Pháp, giành lại độc lập, tự do. Đảng vạch rõ nhiệm vụ của giới trí thức, văn

nghệ s nước nhà là tham gia cách mạng dân tộc dân chủ, đặc biệt là tham gia

64

cách mạng văn hóa.

3.2. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng mặt trận văn

hóa cứu quốc

Để giải quy t nhiệm vụ giải phóng dân tộc, trong giai đoạn từ năm

1936 trở đi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương huy động mọi lực lượng

tham gia cứu nước. Muốn th phải đoàn k t toàn dân, đoàn k t tất cả những

người ta có thể đoàn k t, tranh thủ tất cả những người ta có thể tranh thủ. Từ

chủ trương này, trên l nh vực văn hóa, Đảng tập hợp tất cả những giai cấp,

t ng lớp trong xã hội, trong đó lực lượng hoạt động mạnh mẽ nhất là trí thức,

văn nghệ s tạo thành một mặt trận văn hóa.

Từ sau năm 1941, sau khi thành lập, Mặt trận Việt Minh đã tập hợp

được đông đảo công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đ n tư sản dân tộc và

một số tiểu địa chủ đứng dưới ngọn cờ cứu nước của Đảng để đánh đổ phát

xít Pháp - Nhật trên tất cả các l nh vực: Chính trị, kinh t , văn hóa - xã hội.

Và từ năm 1943, khi Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời, Đảng Cộng sản Việt

Nam đã xác định mặt trận văn hóa cứu quốc chính là một trong ba mặt trận

trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam: Mặt trận chính trị, mặt

trận kinh t , mặt trận văn hóa.

L nh vực đấu tranh chính của mặt trận văn hóa cứu quốc chủ y u xoay

quanh các vấn đề về văn hóa, văn nghệ ở Việt Nam. Những thành quả đạt

được trong đấu tranh văn hóa sẽ tạo tiền đề cho sự thắng th của dân tộc ta

trong đấu tranh chính trị và kinh t với thực dân, phát-xít. Nói cách khác, mục

đích cuối cùng trong các cuộc đấu tranh về văn hóa được Đảng xác định

chính là giải phóng dân tộc. Khi đã giải phóng dân tộc, văn hóa cũng được

giải phóng, từ đó mở đường cho Việt Nam phát triển một cách tự chủ, theo

hướng ti n bộ.

Để xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã

65

chủ trương thành lập các tổ chức văn hóa từ những năm 1936 - 1939. Tháng

9/1936, nhiều lớp dạy chữ quốc ngữ đã được học sinh, sinh viên, trí thức tổ

chức ở Hà Nội. Trên các tờ báo thường có những bài chống nạn thất học. Để

xúc ti n việc thành lập Hội truyền bá chữ quốc ngữ, một số nhân s trí thức và

một số đảng viên cộng sản đã họp nhau lại để bàn định công việc. Theo Hồi

ký của Tr n Huy Liệu, cuộc họp đ u tiên được tổ chức ở nhà ông Phan Thanh

- Giáo sư trường Thăng Long lúc bấy giờ, có sự tham gia của một số trí thức

công nhân và nhân s như Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp,

Tr n Huy Liệu, Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ.

Tháng 8/1938, Hội truyền bá chữ quốc ngữ chính thức được thành lập.

Mục đích của Hội là dạy cho đồng bào Việt Nam bi t đọc, bi t vi t ti ng của

mình để dễ học được những điều thường thức c n dùng cho sinh hoạt hàng

ngày. Đây là mục đích quan trọng cấp thi t hơn, c n phải làm ngay. Để định

hướng phương thức công tác của Hội sao cho phù hợp với điều kiện chính trị

- xã hội của đất nước hồi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Đối với

cuộc vận động chống nạn mù chữ phải giao thiệp rộng rãi với các nhà trí

thức,… đề nghị lập ra chi nhánh của Hội truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động hội

viên, mượn đình chùa, trường học để tổ chức các lớp dạy học và diễn thuy t”.

Qua đó, vai trò của trí thức trong phong trào này được thể hiện rõ nét hơn.

Chính lực lượng này đã góp ph n quan trọng trong sự nghiệp nâng cao dân

trí, tuyên truyền tư tưởng ti n bộ tới qu n chúng nhân dân.

Về hoạt động của Hội, nhiều lớp học đã được mở ở ngoại thành Hà

Nội, Hà Đông và sau đó được mở rộng ra các tỉnh khác như Hải Phòng,

Quảng Ninh, Nghệ An… thu hút được đông đảo sinh viên, trí thức tham gia.

Chỉ tính riêng trong một tu n ở Hà Nội, tháng 8/1941 đã có trên 200 trí thức

ghi tên vào ban dạy học của hội với 22 địa điểm học chỉ trong thành phố.

Trong những năm 1942 - 1943, Hội đã tổ chức những cuộc nói chuyện về các

66

danh y, các cuộc thi câu đối nôm, diễn thuy t, trưng bày, soạn sách vở… mở

thư viện tại khu Tương Mai (Hà Nội) để các hội viên cũng như học sinh có

nơi tham khảo sách báo. Năm 1944, Hội truyền bá chữ quốc ngữ được thành

lập ở cả Nam Kỳ, Ai Lao, Cao Miên. Năm 1945, ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ đều có

chi nhánh của hội. Số học viên thoát nạn mù chữ nhờ hoạt động của hội lên 5

vạn, nhiều nhất ở Hà Nội là 3 vạn. Thông qua phong trào này, nhiều giáo viên

và thanh niên đã bi t liên lạc với tổ chức thanh niên và cứu quốc trở thành cán

bộ của qu n chúng, của Mặt trận Việt Minh, hoạt động hội để tuyên truyền

cho Việt Minh [27, 33-34].

Như vậy, Hội truyền bá chữ quốc ngữ được thành lập công khai là một

thành tựu lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ có sự chỉ đạo của Đảng mà

ngay từ đ u, Hội hoạt động đã có mục đích, tôn chỉ rõ ràng. Cũng chính thông

qua phong trào có tính chất văn hóa này, Hội truyền bá chữ quốc ngữ đã có

những đóng góp to lớn không chỉ trong thời kỳ vận động dân chủ mà còn phát

huy vai trò tập hợp và tổ chức qu n chúng trong thời kỳ Mặt trận Việt Minh

ti n tới giành chính quyền.

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của việc lãnh đạo trên mặt trận văn hóa

cứu quốc, Đảng chủ trương phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa,

đặng gây ra một phong trào văn hóa ti n bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn

hóa phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Hu ...

phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức

công khai hay bán công khai đặng đoàn k t các nhà văn hóa và tri thức (ví dụ

có thể tổ chức những “nhóm văn hóa tiền phòng” , “nhóm nghiên cứu chủ

ngh a Mác”, “nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam”...).

Sau khi Mặt trận Việt Minh ra đời (năm 1941), các đoàn thể qu n

chúng của Đảng đều lấy tên là cứu quốc. Chỉ duy có ngành văn hóa là chưa có

tổ chức riêng. Đảng đã quy t định thành lập một tổ chức riêng cho ngành văn

hóa. Tuy nhiên, trong thời gian đ u chưa bi t lấy tên như th nào cho phù hợp

67

với tính đặc thù của ngành văn hóa, Đảng đã trưng c u ý ki n của anh em trí

thức, văn nghệ s . Đảng chủ trương tập hợp những người làm công tác văn

hóa vào một tổ chức để họ nắm được đường lối văn hóa của Đảng, không để

kéo dài tình trạng dao động trước những luận điệu “mị dân” của lực lượng

phản động.

Dựa trên tinh th n Đề cương văn hóa Việt Nam, tháng 4/1943, Hội Văn

hóa cứu quốc được thành lập và đi vào hoạt động bên cạnh các tổ chức cứu

quốc khác của Mặt trận Việt Minh. Cuộc họp đ u tiên được tổ chức ở nhà anh

Ngô Lê Động, 11 phố Hàng Đường. Dự cuộc họp có các đồng chí: Học Phi,

Ngô Lê Động, Như Phong, Vũ Quốc Uy. Sau khi thống nhất về tôn chỉ, mục

đích, một câu hỏi được đặt ra: Đối tượng của hội là những ai? Có ý ki n cho

là tất cả những người làm nghề trí óc như nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà

khoa học... Một số ý ki n cho rằng đối tượng chỉ là riêng văn nghệ s vì phạm

trù văn hóa rất rộng, n u k t nạp cả những nhà giáo, những người làm khoa

học thì đó là cả một mặt trận, không còn riêng của một hội nữa. Mãi đ n Đại

hội văn hóa kháng chi n toàn quốc l n thứ nhất họp tháng 6/1945 ở Việt Bắc,

vấn đề này mới được giải quy t với quy t định chia Hội Văn hóa cứu quốc

thành 3 bộ phận: Hội Văn nghệ, Hội Khoa học và Liên đoàn giáo dục.

Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập với kỳ vọng nêu lên những

nguyên tắc hướng dẫn quá trình sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, đề xuất những

nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của các nhà văn hóa Việt Nam. Hai nhiệm vụ

chính đặt ra cho Hội là: Gạt bỏ những tiêu cực văn hóa phong ki n lạc hậu

trong văn hóa Việt Nam, tuy nhiên loại bỏ không phải là xóa sạch những y u

tố văn hóa Việt Nam mà là phát huy những y u tố văn hóa truyền thống tích

cực, sử dụng vào mục đích giữ nước, chỉ loại bỏ những y u tố tiêu cực; đánh

đổ sự kiềm kẹp và nạn đ u độc văn hóa thực dân của Pháp, nhưng cũng phải

68

bi t thu nhận những y u tố ti n bộ. Cụ thể trước mắt là soi sáng các t ng lớp

trí thức, văn nghệ s và qu n chúng nhân dân, bắt tay vào xây dựng văn hóa

mới phục vụ công cuộc giải phóng.

Hội Văn hóa cứu quốc vừa ra đời đã thu hút được một số văn nghệ s

tham gia, lớp đ u tiên gia nhập có Học Phi, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài,

Nguyễn Đình Thi, Thép Mới… Quản lý hoạt động hội là một Ban Chấp hành,

đứng đ u là một chủ tịch (người đ u tiên là Học Phi). Hội trực ti p nhận sự

chỉ đạo của Đảng thông qua những cán bộ được Đảng cử xuống như Lê

Quang Đạo, Tr n Độ, Vũ Quốc Uy, Tr n Quốc Hưng...

Tạp chí Tiên phong của Hội là một cơ quan truyền bá đường lối văn

hóa của Đảng. Tiên phong là tạp chí g n như duy nhất về văn nghệ ra đời từ

rất sớm, có sự lãnh đạo trực ti p của Đảng ngay từ đ u. Cơ quan này dự tính

xuất bản bí mật từ lúc trước khởi ngh a tháng Tám năm 1945, nhưng mãi đ n

tháng 11/1945, số 1 của tạp chí Tiên phong mới ra mắt bạn đọc. Vì th , ở

ngay trang đ u của số 1 có ghi hai chữ “Tái bản”. Đây là tờ bán nguyệt san

tập hợp được trong Ban Biên tập nhiều tên tuổi tiêu biểu của văn học thời đó:

Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng, Tô

Hoài, Nam Cao, Như Phong, Tr n Huy Liệu, Hải Triều... Tạp chí đã cho

đăng nhiều bài vi t về Đề cương văn hóa Việt Nam, về việc vận dụng và thực

hiện Đề cương, về xây dựng đời sống mới... [54, 16-20].

Thông qua các bài đăng trên tạp chí này và một số tờ báo, tạp chí ti n

bộ khác, thành viên của Hội đã tranh luận với những xu hướng văn hóa phản

động thân Nhật hoặc Pháp (như Nam Phong tạp chí, Hội Khai trí ti n đức…).

Mặc dù chỉ tồn tại trong hơn một năm với 24 số, cho đ n ngày toàn quốc

kháng chi n, Tiên phong đã làm tròn mục tiêu đề ra là cơ quan vận động văn

hóa mới, phổ bi n những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa, văn nghệ -

thể hiện rõ ở ba nội dung: Dân tộc, khoa học, đại chúng nêu trong Đề cương

69

văn hóa Việt Nam l n đ u tiên giới thiệu trên Tiên phong số 1.

Những hoạt động thường xuyên và tích cực của Hội Văn hóa cứu quốc

đã đưa những chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa mới nhanh chóng

đi sâu vào đời sống qu n chúng nhân dân. Tuy nhiên, trong thời gian đ u hoạt

động, Hội không phát triển rộng rãi để nhiều trí thức, văn nghệ s được tham

gia với lý do hoạt động bí mật. Do đó, một số văn nghệ s như Nguyễn Công

Hoan, Ngô Tất Tố cũng chưa được k t nạp, trong khi vào thời gian này, đây

là những tên tuổi đang nổi ti ng với những tác phẩm hiện thực sâu sắc như

“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan.

3.3. Ảnh hƣởng văn hóa của Đảng tới giới văn nghệ sĩ

Những cuộc tranh luận về văn hóa, văn nghệ kéo dài từ những năm

1920 đ n những năm 1940 của th kỷ XX, sự ra đời của các tổ chức văn hóa

và sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, tư tưởng trước Cách mạng Tháng Tám

năm 1945 đã bước đ u có tác động đ n tư tưởng của giới trí thức, văn nghệ s

Việt Nam thời đó. Bên cạnh một bộ phận trí thức, văn nghệ s đã trở thành

đảng viên và đấu tranh sôi nổi cho quan điểm Mác-xít về văn hóa, ở Việt

Nam khi đó còn có một bộ phận trí thức, văn nghệ s vẫn còn mang tâm trạng

bi thương, chán nản, b tắc về cuộc sống đương đại.

Để thấy được những chuyển bi n trong tư tưởng của một bộ phận trí

thức, văn nghệ s thời gian này dưới tác động của thời cuộc, nhất là ảnh

hưởng của quan điểm về văn hóa của Đảng, tôi tìm đọc những băn khuăn, trăn

trở, những lời tự nhận xét, tự bộc bạch của bộ phận này trên tạp chí Tiên

phong và các bài vi t đăng tạp chí Văn nghệ giai đoạn 1948 - 1955.

Loạt bài của Nguyễn Đình Lạp với nhan đề “Những nỗi băn khuăn của

tư tưởng và nghệ thuật” đã bước đ u phản ánh và tái hiện những bước đường

tư tưởng của một số trí thức, văn nghệ s Việt Nam dưới tác động của thời

70

cuộc và quan điểm của Đảng về văn hóa.

“Năm 1939, cứ mỗi buổi chiều vào giờ ánh đèn điện lênh láng trên mặt

nhựa đường Hà Nội, thì một gã thanh niên (Lưu Trọng Lư - TG) lại bắt đ u ra

phố, lủi thủi bước dưới bóng hàng hiên... Và mỗi khi qua một cột đèn, đôi gò

má hắn nổi bật, bóng và ướt đẫm nước mưa. Hắn đứng dừng, cặp mắt mỏi mệt

và s u muộn rồi ngâm thơ một mình”. Đây là hình ảnh của Lưu Trọng Lư khi

mải mi t đi tìm nhân loại “trong mình, qua mình, bởi mình, vì mình” khi chưa

được ti p cận với những quan điểm của Đảng về văn hóa.

Dưới ánh sáng của Đảng, con người đó đã hoàn toàn thay đổi. Trong

quan niệm của nhà thi s “cá nhân không là gì h t. Đoàn thể là tất cả. Đoàn

thể chi phối, phân phát, quy t định. Tôi (Lưu Trọng Lư - TG) có cảm giác là

duy trì cuộc sống riêng biệt là không được nữa. Chỉ có cuộc sống chung là

đáng duy trì thôi… Bây giờ tôi tìm đoàn thể, tìm mình trong đoàn thể…

Trong khi tư tưởng thay đổi trước cuộc sống v đại đương lên thì cuộc sống

bên trong, tâm hồn mình cũng bi n đổi. Từ cái thắc mắc, nó trở nên ổn định…

Bây giờ tôi có thể nói tôi là một người khác rồi. Mặc d u đôi khi còn vương

vấn một đôi chút d vãng… Nói theo lối Nguyễn Tuân: Bóng dáng cố nhân

vẫn còn…Quan niệm văn chương của tôi như bi n đổi hẳn từ trong căn bản.

Tôi thích sự thực, sự thi t thực. Và hơn h t là sự thành thực…” [58, 860-861].

Trong bài vi t “Văn hóa với thời đại” của Thời Nhân, thơ Tố Hữu và

những bước đường tư tưởng của nhà thơ này đã được thể hiện sinh động:

“Đọc thơ Tố Hữu, ta định tìm một người cách mạng thì ta đã gặp một người,

hay đúng hơn, một người luôn luôn cố gắng, luôn luôn mình chi n đấu với

mình để trở nên một người cách mạng.

Xuất thân trong một gia đình trung sản, lớn lên theo học trường Pháp -

Việt đ n bậc trung học, Tố Hữu rất có thể sống cuộc sống bình yên và vô vị

của bao nhiêu thanh niên khác cùng một lớp. Nhất là Tố Hữu lại nặng mang

71

trong mình tâm lý của lớp người ấy trong giai đoạn vừa qua… Những điểm

cốt y u trong tâm lý lớp thanh niên đó, là cô đơn. Cuộc sống xã hội và chính

trị bị b tắc trong những ngày Pháp thuộc và ảnh hưởng văn hóa phương Tây

đã khi n họ thu mình trong biên giới cái tôi. Sống trong cái tôi chật hẹp. Họ

thấy lẻ loi và bơ vơ. Một niềm cô đơn đau đớn, bàng bạc trong thi ca hồi bấy

giờ và đây đó vẫn còn rớt lại trong thơ Tố Hữu…

Nhưng con người ấy đã đi vào con đường cách mạng và trên con đường

cách mạng người đã không ngừng tranh đấu. Tranh đấu ngoài tù, tranh đấu

trong tù, đời Tố Hữu, cứ nhìn bề ngoài tưởng không một l n nào đuối sức.

Tuy nhiên, Tố Hữu luôn phải thúc giục mình ti n bước và vẫn có những khi

trí muốn một đường mà lòng đi một nẻo, tình và lý chưa hoàn toàn ăn nhịp

với nhau” [58, 909-912].

Trên tạp chí Văn nghệ những năm 1951 - 1952, Nguyễn Đình Thi đã

vi t về Nam Cao và bước đường tư tưởng của nhà văn này. Có thể thấy, Nam

Cao là một trong những nhà văn sớm có tư tưởng phản kháng mãnh liệt trước

kẻ thù và dùng văn chương để phơi bày thực trạng xã hội: “Nam Cao bắt đ u

bước hẳn vào nghề văn, khoảng 1940, giữa lúc phát xít Nhật đã đặt chân lên

Đông Dương, phát xít Pháp Pê-tanh càng bóp nghẹt đất nước Việt Nam vào

một khoảng đêm dài đẫm máu…

Nam Cao đã không chịu khuất với cái ch độ ngạt thở ấy. Nhà văn

mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn, nhiều khi rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt, mà

kỳ thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt… Anh nguyền rủa cái

văn chương thi vị hóa cái khổ của bọn nhà văn tư sản “cúi mình xuống dân

chúng”. Trong nền tiểu thuy t hiện thực đang tìm đường và đang chi n đấu

với các xu hướng phản động bấy giờ, thiên truyện Chí Phèo của Nam Cao đã

nói những cái khổ cùng cực của thôn quê dưới ách cường hào ở trước mắt với

quan lại và thực dân ở phía sau. Cuối năm 1944, Nam Cao vi t xong Sống

72

mòn. Tập tiểu thuy t ấy “quẳng đi, ném lại”, không lọt qua được lưới kiểm

duyệt để xuất bản, tuy rằng soi từng chữ không có chỗ nào bắt bẻ được. Sống

mòn tả cuộc sống thiểu não, quẩn quanh, nhỏ nhen của mấy người trí thức tiểu

tư sản nghèo, một cuộc sống mù xám cứ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục ra”

không có lối thoát. Cách mạng đã chìa tay đón lấy tia hy vọng thắc mắc của

Nam Cao và chỉ rõ cho anh thấy tương lai.

Chi n tranh trở nên ác liệt, xã hội Việt Nam lay chuyển. Đời sống càng

cùng khốn đ n kinh khủng. Nhưng giữa cảnh tưởng như tuyệt vọng ấy, Nam

Cao đã đọc Đề cương văn hóa Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam và vào

hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, học chương trình huấn luyện Việt

Minh. Giữa cảnh ch t chóc ghê gớm chưa từng thấy, anh trông rõ sự sống

đang dào lên như vũ bão. Và không phải một mình anh trông thấy. Cả nhân

dân Việt Nam đã trông thấy ánh sáng… Nam Cao đã bừng thấy sức mạnh của

nhân dân và trong đường sống của dân tộc đã tìm thấy đường sống của mình.

Cuộc đấu tranh gay gắt và rộng lớn đẩy anh đi lên, mở đường cho anh hành

động. L n đ u tiên, Nam Cao thấy đời sống có ý ngh a và hiểu rõ mình phải

làm gì” [62, 262-268].

Trong bài vi t “Đọc “Thơ ca kháng chi n” của Tú Mỡ”, Xuân Diệu đã

bước đ u nhìn nhận về những bước đường tư tưởng của Tú Mỡ từ những năm

trước Cách mạng: “Dưới ch độ áp bức của thực dân Pháp, ngòi bút của anh

đã lọt qua lưới gắt gao của kiểm duyệt, hàng tu n một, lấy cái cười làm vũ

khí, đưa những cái ngang tai, chướng mắt cho mọi người nhìn rõ để mà oán

ghét. Trong các loại văn chương “công khai” thời ấy (trước Cách mạng Tháng

Tám - TG), ngòi bút của Tú Mỡ không a dua với phong trào lãng mạn tiểu tư

sản, mà tách ra một lối riêng, g n gũi với bình dân và có hình thức dân tộc.

Ngòi bút ấy đã được cách mạng và kháng chi n giải phóng cho và giáo

dục thêm nhiều… Qu n chúng nhân dân đã trả lại cho Tú Mỡ cũng như cho

73

tất cả các nhà văn Việt Nam, cái ngang nhiên, cái đường đường chính chính

đứng trước kẻ thù, trao súng đạn và trao sức lực cho ta, bảo bắn thẳng vào

quân giặc” [62,325-332].

Trên tạp chí Văn nghệ năm 1953, trong bài vi t “Nhìn rõ sai l m”,

Nguyễn Tuân đã trình bày những sai l m trong tư tưởng cũ của mình trước

Cách mạng Tháng Tám và tư tưởng mới đúng đắn và phù hợp với thời cuộc

hơn dưới ảnh hưởng của ánh sáng cách mạng: “Tôi là con một ông tú tài chữ

Hán khoa thi cuối cùng. Tôi chịu ảnh hưởng nặng của tư tưởng phong ki n

suy tàn do cha tôi truyền cho… Tất cả những cái thèm khát cá nhân của tôi về

ăn chơi giang hồ, tôi đưa h t cả vào truyện và tùy bút của tôi… Trong “Vang

bóng một thời”, tôi đã đứng về phía bọn phong ki n ăn bám bóc lột, thống trị

nông dân lao động mà đưa ra một cái nhân sinh quan phản ti n bộ của bọn

quan lại địa chủ tiêu dao hưởng lạc bất lực trước nhiệm vụ lịch sử…

Qua từng tác phẩm, hoặc lẩn vào kẽ giòng hoặc lộ liễu hiện lên trên

từng chữ, từng câu văn, chỗ nào cũng lòi ra cái khía cạnh của tư tưởng hưởng

lạc, trang nào cũng toát ra cái nhân sinh quan thối nát của một người bạc

nhược trốn thực t , sợ sống, sợ trách nhiệm, của một người lấy nghệ thuật dối

mình và trí trá với người đọc. Nguy hiểm hơn nữa là những cái vi t ra đó

ph n lớn đã làm lợi được cho bọn thù địch của dân tộc, cụ thể là thực dân

Pháp và phong ki n địa chủ tay sai của nó… Nhờ ánh sáng chủ ngh a Mác -

Lênin của Đảng mở mắt cho thấy rõ ý ngh a và phương hướng của nghệ thuật

chân chính” [63, 145-152].

Trong bài vi t “Nhìn thẳng về tương lai”, Nguyễn Xuân Sanh đã

nghiêm túc nhìn nhận những sai l m của mình trong quan niệm về văn học và

văn nghệ trước cách mạng, đồng thời nói lên những thay đổi trong quan điểm

về văn hóa và văn nghệ của mình sau khi ti p cận được quan điểm về văn hóa

của Đảng. “Trước Cách mạng, quan niệm về thơ của tôi kín mít, không sáng

sủa vì không có chỗ đứng dứt khoát mà nhìn. Quan niệm thơ đó không có lợi

74

chút nào cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ. Nó còn phản bội

cuộc đấu tranh đó. Nó đưa một số người, tuy ít ỏi, vào chỗ trốn tránh thực t ,

không dám ngẩng đ u nhìn thẳng vào thực t , một số thanh niên trí thức, học

sinh, sinh viên, một số sách báo đáng nhẽ phải lao mình vào cuộc chi n đấu

của dân tộc thì đi ngâm nga, tìm hiểu, tranh luận về một lối thơ và quan niệm

thơ kín mít, xa qu n chúng.

Đảng dạy tôi căm ghét tột độ kẻ thù của cách mạng là đ quốc và

phong ki n địa chủ. Dưới ánh sáng của Đảng, tôi cũng dứt khoát coi hệ thống

tư tưởng nghệ thuật cũ của tôi là phản động từ căn bản lập trường… Đảng chỉ

cho tôi thất lực lượng to lớn của nông dân… Chỗ đứng dứt khoát của tôi là ở

phía nông dân lao động. Đảng đã giải phóng cho tôi ra khỏi nhà tù của những

tư tưởng đen tối” [63, 166-168].

Xuân Diệu, trong tiểu luận phê bình văn học “Những bước đường tư

tưởng của tôi” đã tự bộc bạch về quá trình hình thành một quan điểm về văn

học, nghệ thuật đúng đắn. “Dưới những ảnh hưởng gia đình, xã hội và văn

hóa như vậy, những bước đường tư tưởng của tôi trước Cách mạng là những

bước sờ soạng, lưu lạc, thương đau. Tôi chưa hội ý với các bạn thơ Th Lữ,

Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Ch Lan Viên, Nguyễn Bính… nhưng có lẽ, ở

đây, tôi cũng nói, bằng những khía cạnh của tôi, cái tình trạng chung đau khổ

tinh th n của các anh, khi lạc đường qu n chúng, khi chưa tìm thấy ánh sáng

của Đảng.

Văn hóa cũ với phương pháp tư tưởng “siêu hình” (métaphysique) của

nó, dắt tâm trí tôi, từ khi nhỏ đ n lúc lớn, vào một con đường rút vào trôn ốc

thật là tắc tị! Tự ngh mình là một kẻ tài tình, một “tài nhân” bi t yêu cái đẹp,

quý cái hay, trọng cái phải và lại còn tạo ra cái hay, cái đẹp là đằng khác, tôi -

và hàng vạn học sinh, nghệ s , trí thức khác - tự đặt cái tôi như một thực tại

75

bất di bất dịch, tự đề cao cái bản ngã, coi nó là tuyệt đối.

Đ n khi ách Nhật thuộc quàng thêm vào cổ, tư tưởng tôi càng ngày

càng bi. Tôi cố bám lấy lập trường tiểu tư sản, đứng giữa của tôi: Một mặt

không hề chịu đi thi tri huyện làm quan, ghét sự buôn bán, sự “làm giàu”,

lánh xa bọn ăn trên ngồi trốc của xã hội, phản đối những người làm thơ trụy

lạc, vi t văn ca tụng thuốc phiện, đòi hỏi sự lành mạnh, sự sáng sủa trong văn

học; một mặt không bi t, không dám đi với qu n chúng c n lao, nghèo khổ;

tôi đứng giữa, giữ một thứ “trong sạch” tiêu cực, của những kẻ “tài tình là lụy

muôn đời”. Trong khi qu n chúng càng ở dưới ách Pháp - Nhật càng cùng

khổ và đã bắt đ u ch t đói thì người trí thức, người nghệ s ở tôi sa l y tr m

trọng vào cả một hệ thống tư tưởng cũ như vậy, nó là một tạp-pí-lù tư tưởng

của phong ki n, tư sản và tiểu tư sản.

Cách mạng Việt Nam mang tới cái mà văn học tư sản Pháp không có

nổi, là sự hành động… hành động cách mạng, hành động cùng với qu n

chúng, hành động có mục đích và hiệu quả. Những ngày Cách mạng Tháng

Tám, tôi cùng bao nghệ s , trí thức khác say sưa mỗi người một việc, ngày

đêm công tác. Hoạt động, công tác cách mạng đã giải quy t sự hoan mang

vô bổ của trí tuệ tôi, nhúng trí tuệ tôi trở lại trong cái ý ngh a cơ bản của sự

lao động” [10].

Họa sỹ Tô Ngọc Vân trong bài vi t “Tâm sự một người bị đ u độc” đã

bộc bạch về những b tắc trước thời cuộc của mình trước Cách mạng Tháng

Tám năm 1945 được phản ánh qua nhân vật trong tranh và niềm tin tưởng khi

được ti p cận với ánh sáng của Đảng. “Nhân vật chính trong sáng tác trước

Cách mạng của tôi là người thi u nữ Hà Nội, thuộc vào loại ăn không ngồi

rồi, coi cuộc sống là một cuộc hưởng lạc dài… Nhân vật này đ n với tôi d n

d n đi vào ý thức, xúc cảm trong nghệ thuật và cả cuộc đời, từ lúc tôi ở nhà

trường thuộc Pháp; đ n những năm 1940 - 1943 thì nó hiện lên tranh tôi với

76

hoàn toàn bản chất của nó. Khẩu hiệu “nghệ thuật là hưởng lạc” được bổ túc

bằng khẩu hiệu “nghệ thuật không làm chính trị” - không làm chính trị, trốn

đấu tranh để yên ổn hưởng lạc - những khẩu hiệu thâm độc đó đã chỉ đạo cuộc

đời nghệ s và sáng tác của tôi... Đảng đã cho tôi thấy rõ cách mạng và kháng

chi n tuy đã giải phóng thể chất của tôi ra khỏi vòng kiểm soát của giặc,

nhưng tư tưởng tôi vẫn bị chúng nó c m tù… Đảng đã cho tôi thấy rõ bản

chất tử thù của tư tưởng tư sản đ quốc” [63, 169-170].

Nguyễn Văn Tỵ trong bài vi t “Chìm đắm trong nô lệ mà vẫn tưởng là

được tự do” cũng nhận ra những điều trong tư tưởng của mình trước Cách

mạng có hại cho nhân dân: “Trước Cách mạng Tháng Tám, tôi cho là luân lý,

chính trị, xã hội đều không quan thi t gì đ n tôi… Thực ra, tôi chỉ phục vụ

nghệ thuật của giai cấp bóc lột, “tự do” của bọn thống trị, xa rời qu n chúng,

phản lại quyền lợi của qu n chúng… Tất cả những sai l m trên đều do văn

hóa của bọn tư sản u châu đã thâm nhập vào nghệ thuật hội họa của tôi.

Nhờ ánh sáng của Cách mạng, của tư tưởng vô sản, nhờ sự giáo dục

của Đảng tiền phong, tôi mới nhận rõ được “con người của mình”, nghệ thuật

của mình dưới ch độ nô lệ của đ quốc… Tôi nhìn thấy xuất phát điểm của

nghệ thuật hội họa mới: Hội họa phải lấy mục đích phục vụ cách mạng, phục

vụ nhân dân làm nền tảng cũng như nghệ thuật nói chung phải góp ph n vào

sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xây dựng con người mới, con người có tự do

và hạnh phúc thực sự” [63, 171-172].

Thông qua dòng tâm sự, chia sẻ của các nhà văn, nhà thơ, các họa s

Việt Nam về những diễn bi n tư tưởng trong quá trình giác ngộ lý tưởng cách

mạng, một đặc điểm chung ở h u h t các nhà văn thời kỳ trước Cách mạng

Tháng Tám năm 1945 là tư tưởng đề cao “cái Tôi” cá nhân với những sáng

tác lãng mạn, xa rời qu n chúng. Không chỉ vậy, một bộ phận không nhỏ các

văn nghệ s trong giai đoạn khi những tư tưởng tư sản “lụi tàn” đã tỏ ra b tắc,

77

bi quan, không tìm được con đường đi cho cuộc sống và sáng tác của mình.

Có thể thấy, đa số các nhà văn hiện thực trong giai đoạn 1936 - 1939

thường ít bày tỏ quan điểm sáng tác của mình… Các nhà văn hiện thực ở thời

kỳ 1939 - 1945 đã ở vào hoàn cảnh phải bộc lộ rõ thái độ, quan điểm và ý

thức trách nhiệm của mình trong sáng tác. Sau khi ra đời, Đề cương văn hóa

văn hóa đã tạo nên những đổi thay quan trọng trong nhận thức và sáng tác của

một số văn nghệ s . Đề cương đã chỉ ra những tư tưởng chi n lược, góp ph n

đưa tới sự thay đổi sâu sắc trong giới văn nghệ s , trước h t là ở quan điểm

sáng tác. Đề cương giúp cho văn nghệ s hình thành được những quan điểm,

nhận thức ti n bộ như trong Đời thừa, Giăng sáng của Nam Cao, Hai d ng

sữa của Nguyên Hồng. Điều mới mẻ trong quan điểm sáng tác của các nhà

văn hiện thực phê phán lúc này đã khẳng định rất rõ vị trí, t m quan trọng của

qu n chúng lao động. Tô Hoài vi t: “Tấy cả mọi hoạt động đều chỉ có một

mục đích là làm sao cho cách mạng thắng lợi. Chúng tôi đã thảo luận về văn

học cách mạng, vi t báo bí mật, vi t truyện công khai có ý thức ti n bộ”. Ti p

nhận ánh sáng tư tưởng của Đảng, các nhà văn hiện thực đã nói đ n tương lai

một cách tin cậy và tha thi t. Các nhà văn hiện thực phê phán thường để cho

các nhân vật nói lên niềm tin vào lúc cuộc sống khó khăn và ít hy vọng nhất.

Những chặng đường văn học đã xuất hiện những kiểu nhà văn khác nhau.

Những nhà thơ kiểu mới ấy chỉ khoảng 10 năm sau đã sớm từ bỏ chức năng

“là thi s ngh a là ru với gió” và trong thực t của nền thơ ca cách mạng đã

xuất hiện kiểu nhà thơ cách mạng “nhà thơ cũng phải bi t xung phong”.

Tiểu kết chƣơng 3:

1. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt

Nam luôn chú trọng đ n công tác tuyên truyền, vận động văn hóa. Đảng đã

xác định tuyên truyền các quan điểm, chủ trương, đường lối văn hóa của

Đảng tới đông đảo qu n chúng nhân dân là một trong những nhiệm vụ chi n

78

lược của Đảng, nhất là trong thời kỳ 1939 - 1945. T ng lớp trí thức, bộ phận

văn nghệ s , trong đó nhiều người là cán bộ, đảng viên của Đảng chính là

những người ti p cận sớm nhất với tư tưởng văn hóa của Đảng, từ đó tuyên

truyền tới nhân dân, vận động nhân dân tham gia xây dựng nền văn hóa, văn

nghệ Việt Nam mới, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2. Trong quá trình xây dựng các trận tuy n đấu tranh cách mạng,

Đảng chú trọng xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc, nhất là từ giai đoạn

1941 - 1945. Mặt trận văn hóa cứu quốc ngày càng mở rộng về phạm vi hoạt

động, quy mô đấu tranh, lực lượng tham gia, trở thành một trong những mặt

trật đấu tranh thời kỳ đ u của Đảng bên cạnh mặt trận chính trị và mặt trận

kinh t . Ba mặt trận này có mối quan hệ hữu cơ qua lại với nhau. Những

thành công trên mặt trận văn hóa sẽ là nền tảng tạo nên những thắng lợi về

chính trị và kinh t .

3. Những quan điểm văn hóa của Đảng thấm sâu, lan tỏa vào các t ng

lớp nhân dân, đặc biệt là văn nghệ s . Nhiều văn nghệ sỹ đã tích cực tham gia

các hội đoàn văn hóa do Đảng thành lập, đóng góp tích cực vào sự nghiệp

phát triển văn hóa và giải phóng dân tộc. Điều này đã góp ph n minh chứng

cho những quan điểm đúng đắn của Đảng về văn hóa, văn nghệ, về tuyên

79

truyền, vận động văn hóa và thành lập mặt trận văn hóa cứu quốc.

Chƣơng 4

MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ

4.1. Một vài nhận xét về quan điểm văn hóa của Đảng trƣớc Cách

mạng Tháng Tám năm 1945

Đứng trên lập trường quan điểm duy vật biện chứng của chủ ngh a Mác

- Lênin, vận dụng vào thực tiễn lịch sử Việt Nam trong từng bối cảnh cụ thể

đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành được những quan điểm đúng

đắn về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Một số thành tựu:

Thứ nhất, Đảng đã đưa ra định nghĩa về “văn hóa” và xác định những

nguyên tắc cơ bản trong xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới.

Định ngh a “văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật” trong

Đề cương văn hóa Việt Nam đã biểu hiện cách nhìn nhận của Đảng về “văn

hóa” có nhiều nét tương đồng với định ngh a của UNESCO cho rằng: “Văn

hóa nên được xem là một tập hợp các đặc trưng nổi bật về tinh th n, vật chất,

tri thức và tình cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và ngoài

văn học và nghệ thuật nó còn bao gồm lối sống, phương thức chung sống, hệ

thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”. Đặt trong mối tương quan so sánh

với một số định ngh a về “văn hóa” trong nước vào thời điểm những năm

1940 - 1945, khái niệm về “văn hóa” trong Đề cương văn hóa Việt Nam có sự

ti p thu ảnh hưởng quan điểm của Hồ Chí Minh về “văn hóa” (năm 1942) và

có những điểm giống với khái niệm về “văn hóa” của Đào Duy Anh trong

Văn hóa sử cương, sau này là trong Văn hóa là gì.

Đi sâu tìm hiểu từng nội dung cụ thể của Đề cương văn hóa Việt Nam,

chúng ta nhận thấy Đảng đã k thừa quan điểm của chủ ngh a Mác - Lênin về

văn hóa như tính giai cấp, tính Đảng. Nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa

80

mới xã hội chủ ngh a theo tinh th n chủ ngh a Mác - Lênin đã được Đảng nêu

rõ trong Đề cương văn hóa Việt Nam. Ba nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại

chúng trong xây dựng nền văn hóa mới là sự k thừa có chọn lọc những tư

tưởng cốt lõi của chủ ngh a Mác - Lênin.

Trong các cuộc tranh luận văn nghệ sôi nổi những năm 1930, quan

điểm của Đảng, trực ti p là ti ng nói của các nhà văn hóa Mác - xít đã thể

hiện được tinh th n của chủ ngh a Mác - Lênin về văn nghệ. Những tư tưởng

của Lênin về tính Đảng trong nền văn học, về sự tự do chân chính trong sáng

tác, về sự phục vụ cho quyền lợi đa số nhân dân lao động của văn học cách

mạng đã được thể hiện trong những bài vi t của những người theo khuynh

hướng văn hóa Mác-xít trên báo chí Việt Nam những năm 1930. Lênin khẳng

định nền văn học có tính Đảng phải được vũ trang bằng tư tưởng của giai cấp

công nhân, phải phục vụ tuyệt đại đa số nhân dân lao động và bồi dưỡng họ…

quan trọng nhất là phản ánh chân thật cuộc sống. Những sáng tác trong văn

học Việt Nam thời gian này thuộc dòng văn học hiện thực phê phán cùng

những nhận định xác đáng của Hải Triều và những người cùng “chi n tuy n

hợp nhất” với ông đã minh chứng cho quá trình hình thành và phát triển của

một nền văn học có sự ảnh hưởng sâu sắc của chủ ngh a Mác - Lênin.

Bên cạnh đó, quan điểm của Đảng về tuyên truyền và vận động văn hóa

cũng hình thành từ sự ti p thu và phát huy những tinh hoa của chủ ngh a Mác

- Lênin. Quan điểm chú trọng tuyên truyền, vận động văn hóa của Đảng thông

qua việc tập hợp lực lượng trong mặt trận và đẩy mạnh tuyên truyền thông

qua các cơ quan ngôn luận được hình thành trên cơ sở một trong bốn phương

thức cơ bản để xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ ngh a của chủ ngh a

Mác - Lênin.

Thứ hai, quan điểm về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945

đã phản ánh sự đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc định hình

81

và phát triển từng bước nền văn hóa Mác-xít.

Từ khi thành lập năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bước đ u có

những nhận định về đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, quan tâm tới các

vấn đề văn hóa. Trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 cũng như trong thời

kỳ thoái trào cách mạng 1932 - 1935, Đảng Cộng sản Việt Nam một mặt đã

lãnh đạo đấu tranh với âm mưu vừa khủng bố, vừa “cải cách” của thực dân

Pháp, với luận điệu “Pháp Việt đề huề” của bọn quốc gia cải lương, mặt khác

phải khắc phục tư tưởng tiểu tư sản trong đấu tranh, tư tưởng bi quan, dao

động… để đưa phong trào ti n lên.

Trước nguy cơ phát xít, những năm 1936 - 1939, Đảng Cộng sản Việt

Nam lãnh đạo thành lập Mặt trận dân chủ ở Đông Dương nhằm ch a mũi nhọn

đấu tranh chống phát xít. Chính trong lúc này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã

lãnh đạo một mặt chống tư tưởng “tả khuynh” cô độc, hẹp hòi trở ngại cho

việc thành lập Mặt trận, mặt khác chống tư tưởng “hữu khuynh” thỏa hiệp có

tính chất điều hòa giai cấp. Đảng nhắc nhở đảng viên không được vì nhiệm vụ

trước mắt mà lãng quên mục đích lâu dài. Cũng chính trong thời gian này,

Đảng Cộng sản Việt Nam kiên quy t đấu tranh chống bọn Tờ-rốt-kít phá hoại

chia rẽ phong trào.

Đ n khi thời cơ chín muồi cho một cuộc Tổng khởi ngh a giành chính

quyền trong toàn quốc, Đảng đấu tranh chống luận điệu lừa phỉnh của Nhật,

Pháp và bọn tay sai thân Pháp, thân Nhật, đề cao cảnh giác chống bọn Tờ-rốt-

kít để nắm vững quyền lãnh đạo cách mạng, gấp rút chuẩn bị tổng khởi ngh a.

Có thể thấy, quan điểm của Đảng về văn hóa có sự vận động theo thời gian và

bối cảnh lịch sử cụ thể theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn và điểm mốc

đánh dấu sự chuyển bi n chính là Đề cương văn hóa Việt Nam.

Thứ ba, quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng

Tháng Tám năm 1945 đã góp phần hình thành những yếu tố của nền văn hóa

mới trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, từng

82

bước xóa bỏ tàn dư của văn hóa phong kiến thực dân lạc hậu và phản tiến bộ.

Quá trình vận động của lịch sử Việt Nam đã chứng ki n sự ti p xúc

giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Pháp và những ảnh hưởng của nền văn

hóa thực dân đối với người Việt trong suốt một thời gian dài. Đã có một giai

đoạn lịch sử, những nhà yêu nước của Việt Nam xác định con đường giải

phóng dân tộc theo ý thức hệ tư sản. Tuy nhiên, với sự thất bại của khởi ngh a

Yên Bái (đ u năm 1930), ý thức hệ tư sản đã chấm dứt vai trò đối với nhiệm

vụ giải phóng dân tộc, trong khi đó, con đường cứu nước theo tư tưởng vô sản

đã d n chi m ưu th , nhất là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Bằng sự

k thừa quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa trước năm 1930, Đảng đã

từng bước hình thành quan điểm về một nền văn hóa mới, hạn ch tàn dư của

văn hóa thực dân phong ki n.

Những y u tố của nền văn hóa Mác-xít d n được hình thành qua từng

bước phát triển của lịch sử văn hóa dân tộc gắn với cuộc đấu tranh giải phóng

dân tộc. Đánh dấu cho sự hình thành của nền văn hóa Mác-xít là sự ra đời của

những tác phẩm hiện thực phê phán, của dòng báo chí cách mạng, của các tổ

chức văn hóa cứu quốc… Nhưng quan trọng hơn cả là sự xuất hiện của hệ tư

tưởng văn hóa vô sản. Tất cả những điều đó đã hình thành nên những y u tố

mới của văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, định

hướng phát triển cho văn hóa Việt Nam trong những chặng đường ti p theo.

Thứ tư, quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng

Tháng Tám năm 1945 đã bước đầu định hướng cho trí thức, văn nghệ sĩ Việt

Nam trên những bước đường tư tưởng của họ.

Ngay từ những năm 1930, để những y u tố của văn hóa Mác-xít trong

xã hội Việt Nam đi vào đời sống văn hóa Việt Nam nhằm phục vụ cho cuộc

cách mạng tư sản dân quyền, Đảng đã lãnh đạo các đảng viên ưu tú ti n hành

các cuộc tranh đấu về văn hóa, văn nghệ. Chính các cuộc đấu tranh giữa các

83

xu hướng khác nhau trên l nh vực văn hóa, tư tưởng đã góp ph n đắc lực vào

sự phân hóa xã hội về tư tưởng, chính trị. Một bộ phận khá đông những người

tư sản, tiểu tư sản trí thức sau đó đã đứng về phía nhân dân lao động, đấu

tranh cho quyền lợi dân tộc Việt Nam. Và một bộ phận những thanh niên, trí

thức yêu nước đã từng bước được giác ngộ chủ ngh a Mác - Lênin, trở thành

những đảng viên ưu tú của Đảng.

Trong những chặng đường ti p theo, góp ph n vào thành công của

những tác phẩm hiện thực phê phán, của dòng báo chí cách mạng, của các tổ

chức văn hóa cứu quốc… phải kể tới những đóng góp của những trí thức yêu

nước. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, một bộ phận trí thức, văn nghệ s vẫn còn

mang tâm trạng bi thương, chán nản, b tắc về cuộc sống đương đại. Chính

quan điểm của Đảng về văn hóa đã giúp những trí thức, văn nghệ s đang lâm

vào tình trạng b tắc có được những chuyển bi n tích cực trong tư tưởng, từng

Một số hạn ch

bước chuyển bi n thành hành động cách mạng trong giai đoạn sau năm 1945.

Bên cạnh những thành tựu, quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam

trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn tồn tại một số hạn ch nhất định.

Thứ nhất, trong thời gian đầu mới thành lập, mặc dù đã đảm nhận sứ

mệnh lãnh đạo phong trào cách mạng nhưng Đảng mới chỉ kh ng định vị thế

trong lãnh đạo chính trị, quân sự, chưa kh ng định được đầy đủ vai tr , vị trí

trong đấu tranh văn hóa.

Do những chi phối của hoàn cảnh khách quan, khi mới thành lập, Đảng

chưa đánh giá và đề cập nhiều tới vấn đề văn hóa trong các văn kiện và thực

tiễn lãnh đạo phong trào cách mạng. Những quan điểm của Đảng được thể

hiện một cách rải rác, không tập trung trong một số văn kiện về một số khía

cạnh của văn hóa, chủ y u liên quan tới công tác tuyên truyền, vận động văn

hóa. Quan điểm của Đảng về văn hóa chỉ biểu hiện chủ y u thông qua tư

84

tưởng và hoạt động của những nhà văn hóa Mác-xít. Mãi đ n năm 1943, Đề

cương văn hóa Việt Nam mới được coi là một văn bản tương đối đ y đủ và

hoàn thiện thể hiện quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam.

Thứ hai, trong các cuộc tranh luận về văn hóa, văn nghệ, tính dân tộc

chưa được đề cập một cách sâu sắc và đầy đủ.

Trong thực tiễn cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ, Đảng có

nêu ra vấn đề độc lập dân tộc nhưng không được giải thích cụ thể và không

nói rõ lập trường của Đảng về vấn đề đó. Trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại

hội toàn quốc l n thứ hai của Đảng, Hồ Chủ tịch nhận định: “Phong trào Mặt

trận dân chủ lúc đó khá mạnh mẽ, rộng khắp; nhân dân đấu tranh công khai.

Đó là ưu điểm. Nhưng khuyết điểm là: Đảng lãnh đạo không thật sát, cho nên

nhiều nơi cán bộ phạm phải bệnh hẹp h i, bệnh công khai, say sưa vì thắng

lợi bộ phận mà xao lãng việc củng cố tổ chức bí mật của Đảng. Đảng không

giải thích rõ lập trường của mình về vấn đề độc lập dân tộc” [48, 353-354].

Đó là nguyên nhân chính của thi u sót không đề cập đ n vấn đề tính dân tộc

của văn hóa, văn nghệ trong cuộc tranh luận kéo dài đ n cuối năm 1938.

Thi u sót trong chính sách trên đã được Đảng Cộng sản Việt Nam kịp thời

uốn nắn lại. Hội nghị l n thứ VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng

11/1939 đã nhấn mạnh vấn đề giải phóng dân tộc, chủ trương thành lập mặt

trận dân tộc thống nhất phản đ , coi đó là nhiệm vụ hàng đ u của cách mạng

Đông Dương [72, 35-37].

Thứ ba, trong quá trình xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc, ở giai

đoạn đầu, các tổ chức hội đoàn của mặt trận chưa phát triển rộng rãi để thu

hút đông đảo trí thức và quần chúng nhân dân tham gia vào mặt trận.

Những hoạt động thường xuyên và tích cực của các hội đoàn văn hóa,

trong đó nổi bật nhất là hoạt động của Hội Văn hóa cứu quốc đã đưa những

chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa mới nhanh chóng đi sâu vào đời

sống nhân dân. Tuy nhiên, trong thời gian đ u hoạt động, các tổ chức hội

85

đoàn không chú trọng phát triển rộng rãi để nhiều trí thức, văn nghệ s được

tham gia. Do quá cẩn thận nên đã trở nên “hẹp hòi” khi n cho nhiều trí thức,

văn nghệ sỹ không có điều kiện tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ cứu

quốc trong các tổ chức hội đoàn. Điều này đã ph n nào ảnh hưởng tới công

tác đấu tranh trên mặt trận văn hóa trong giai đoạn trước Cách mạng Tháng

Tám năm 1945.

4.2. Một số kinh nghiệm lịch sử

Những quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng

Tháng Tám năm 1945 đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu.

Thứ nhất, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào

thực tiễn xây dựng nền văn hóa, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Chủ ngh a Mác - Lênin về văn hóa là gốc rễ “nguồn cội” của đường lối

văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam và nền văn hóa mới - văn

hóa xã hội chủ ngh a. Đảng đã vận dụng nhu n nhuyễn, sáng tạo vào điều

kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Để vận dụng chủ ngh a Mác

- Lênin một cách sáng tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam c n chống bệnh giáo

điều, chủ ngh a kinh nghiệm. Nguồn gốc của chủ ngh a kinh nghiệm là trình

độ lý luận thấp và hiểu bi t thực tiễn không sâu. Còn nguồn gốc của chủ

ngh a giáo điều là nắm lý luận một cách sách vở và rập khuôn kinh nghiệm

nước ngoài, không chú ý đ y đủ đ n đặc điểm dân tộc. Trong việc vận dụng

các kinh nghiệm của nước ngoài vào Việt Nam c n phải xem xét kỹ lưỡng,

thay đổi cho phù hợp với điều kiện và tình hình nước ta, tránh áp dụng rập

khuôn, máy móc.

Thứ hai, nhìn nhận và đánh giá đầy đủ về vai tr của văn hóa trong

sự phát triển của cách mạng và đất nước và chú trọng tới công tác tuyên

truyền, vận động văn hóa trong quần chúng.

Văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với chính trị và kinh

t . Để cách mạng đi tới thắng lợi, Đảng c n nhận thức đúng đắn và đ y đủ về

86

vai trò và vị trí của văn hóa, ảnh hưởng to lớn của văn hóa tới các l nh vực

khác. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, những thành tựu trong đấu

tranh văn hóa sẽ góp ph n quy t định tới thắng lợi của đấu tranh chính trị và

quân sự. Thực tiễn cách mạng đã cho thấy Đảng ngày càng nhận thức rõ ràng

và đ y đủ hơn về vị trí, vai trò của văn hóa. Trong quan điểm về văn hóa,

Đảng luôn c n chú trọng tới một nội dung cốt y u là phải xây dựng một nền

văn hóa của toàn dân, phục vụ nhân dân lao động. Đảng c n tránh sự xa rời

qu n chúng và đảm bảo các nguyên tắc cơ bản khi xây dựng nền văn hóa mới

ở Việt Nam: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Để làm được điều đó, Đảng c n

chú trọng tới công tác tuyên truyền vận động qu n chúng giúp nhân dân hiểu

về t m quan trọng của văn hóa trong vận động giải phóng dân tộc nói riêng và

phát triển đất nước nói chung.

Thực t đã cho thấy những quan điểm của Đảng về văn hóa được

những người cộng sản, các nhà tư tưởng, văn hóa Việt Nam đón nhận, bổ

sung, phát triển, làm phong phú và sâu sắc thêm từ đời sống thực tiễn sinh

động của cách mạng Việt Nam. Và chính quan điểm của Đảng về văn hóa đã

trở thành động lực tinh th n to lớn, có tác dụng thức tỉnh và lôi cuốn các t ng

lớp nhân dân tham gia vào cuộc vận động giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn

hiện nay, nhất là từ khi Việt Nam hội nhập với th giới, những bài học kinh

nghiệm trên vẫn giữ nguyên giá trị, góp ph n xây dựng nền văn hoá đậm đà

bản sắc dân tộc.

Thứ ba, quan tâm sâu sắc để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của bộ

phận trí thức, văn nghệ sĩ trong quá trình định hướng sáng tác, tránh g

ép, cứng nhắc.

Trí thức, văn nghệ s chính là bộ phận ti p thu những tư tưởng văn hóa

mới sớm nhất. Tư tưởng của trí thức, những sáng tác của văn nghệ sỹ lại có

một t m ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tư tưởng của qu n chúng nhân

dân. Cũng c n nhận thức rõ rằng, ngay cả khi trí thức, văn nghệ s đã được

87

giác ngộ cách mạng, tham gia hoạt động cách mạng thì đôi lúc vẫn còn một

ph n những ảnh hưởng của văn hóa tư sản còn rơi rớt lại. Do đó, Đảng c n

quan tâm tới tâm tư, nguyện vọng của trí thức, văn nghệ s để đưa ra một định

hướng đúng đắn cho họ trong quá trình sáng tác. Đảng c n giúp trí thức, văn

nghệ s thoát khỏi những b tắc trong đời sống tư tưởng và sáng tác, nhận

thức được xu hướng đúng đắn, từ đó có những tác phẩm phục vụ đắc lực cho

sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, Đảng cũng c n tôn trọng sự tự do chân

chính trong tư tưởng, sáng tác của văn nghệ s , mềm dẻo trong đường lối chỉ

đạo, tránh gò ép gây nên sự bất mãn trong trí thức, văn nghệ s . Khi Đảng làm

tốt được điều này, trí thức, văn nghệ s sẽ là bộ phận đóng vai trò tích cực và

hăng hái nhất trong việc truyền bá tư tưởng văn hóa Việt Nam mới tới đông

đảo qu n chúng nhân dân.

Thứ tư, thông qua thực tiễn đời sống văn hóa để kiểm nghiệm, hoàn

thiện quan điểm, đường lối.

Để có quan điểm về văn hóa đúng đắn, sáng tạo, Đảng phải tuân theo

các quy luật khách quan. Chủ quan, duy ý chí là nguồn gốc của nhiều sai l m,

dẫn tới nhiều tác hại trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Vấn đề đặt ra

làm th nào để nhận thức được đúng quy luật khách quan - nhất là tìm ra được

nội dung và cơ ch tác động của quy luật trong điều kiện cụ thể của cách

mạng nước ta. Ở đây, không thể chỉ cǎn cứ vào nguyên lý có sẵn của học

thuy t Mác - Lênin để đề ra đường lối, chính sách mà còn phải căn cứ vào

quá trình bi n lý luận và đường lối thành hành động, từ đó tổng k t lại thực

tiễn, Đảng mới nhận thức và vận dụng được quy luật một cách đúng đắn.

Thực tiễn lịch sử còn cho thấy, n u Đảng mắc sai l m trong việc đưa ra quan

điểm, định ra chủ trương, chính sách, lại quan liêu, xa rời thực tiễn, thì sai

88

l m có thể kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng.

KẾT LUẬN

1. Trong thời kỳ 1930 - 1945, tình hình văn hóa Việt Nam rất phức tạp,

đan xen giữa các y u tố văn hóa cũ (phong ki n) - mới (thực dân, tư bản), bảo

thủ, lạc hậu - ti n bộ, hiện đại. Xã hội Việt Nam xuất hiện nhiều khuynh

hướng, nhóm phái văn hóa khác nhau... cùng tồn tại. Do đó, văn hóa Việt

Nam c n có sự định hướng để phát triển phù hợp với quy luật khách quan của

cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi được thành lập năm 1930 đã

anh dũng và bền bỉ đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và giai cấp trên các

mặt trận: Chính trị, kinh t , văn hóa, tư tưởng… Trong suốt quá trình đấu

tranh cách mạng, dựa trên quan điểm duy vật biện chứng của chủ ngh a Mác-

Lênin, Đảng đã từng bước nhận thức về vai trò của đấu tranh văn hóa đối với

nhiệm vụ đấu tranh chính trị, kinh t trước mắt và lâu dài. Song, trong giai

đoạn đ u (trước năm 1936), Đảng chưa tập trung đi sâu lãnh đạo, chỉ đạo về

văn hóa mà chỉ chú trọng tới đấu tranh chính trị, trong đó nổi lên vai trò của

đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp... Bởi th , hiệu quả đấu

tranh chưa cao, chưa thu hút được đông đảo trí thức, văn nghệ s tham gia

cách mạng.

3. Thực tiễn đấu tranh cách mạng trong thời kỳ 1936 - 1939 cho thấy

Đảng c n quan tâm tới đấu tranh văn hóa. Quan điểm của Đảng về văn hóa

không chỉ được phản ánh trong các văn kiện mà còn được biểu hiện một cách

cụ thể, sinh động trong thực tiễn hoạt động trên diễn đàn báo chí của các nhà

yêu nước Mác-xít. Lợi dụng thực dân Pháp nới rộng quyền tự do ngôn luận,

tự do báo chí, Đảng đã đưa vấn đề văn hóa lên diễn đàn văn hóa. Sự thắng th

trên diễn đàn báo chí cũng chứng tỏ sức mạnh văn hóa của Đảng, gây được sự

89

chú ý của dư luận.

4. Trong giai đoạn 1939 - 1945, Đảng đã xác định rõ văn hóa là một

mặt trận đấu tranh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc. Trước nguy cơ

văn hóa nước nhà bị thực dân phong ki n và phát xít trói buộc, trấn áp, vì vận

mệnh văn hóa nước nhà, Đảng thấy rõ c n phải thức tỉnh và động viên giới trí

thức nói riêng, đông đảo nhân dân lao động nói chung tham gia mặt trận văn

hóa cứu quốc, từng bước xây dựng mặt trận (qua báo chí, các tổ chức, hội

đoàn văn hóa) để đấu tranh chống lại những âm mưu văn hóa ngu dân và nô

dịch của phát-xít, thực dân, đánh bại những khuynh hướng văn hóa sai l m để

giành lại độc lập dân tộc và ti n lên xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới.

Quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử khác

nhau cũng có sự khác nhau nhất định theo hướng ngày càng hoàn thiện và rõ

ràng hơn. Quan điểm của Đảng về văn hóa có tác động không nhỏ tới thực

trạng văn hóa Việt Nam nói chung và đời sống tư tưởng của giới trí thức, văn

nghệ s nói riêng, nhất là trong giai đoạn từ năm 1939 trở đi, Đảng đã tập hợp

được giới trí thức, văn nghệ s đi theo cách mạng.

5. Sau một quá trình vận động (1930 - 1943), đường lối văn hóa của

Đảng đã được xác lập cụ thể trong Đề cương văn hóa Việt Nam. Đề cương là

một vũ khí tư tưởng sắc bén của các chi n sỹ Việt Nam trên mặt trận văn hóa.

Đường lối văn hóa của Đảng có một tác dụng tích cực lớn lao đối với quá

trình phát triển lịch sử của cách mạng Việt Nam, góp ph n làm nên thắng lợi

của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cho đ n hôm nay, những quan điểm

của Đảng về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn có ý ngh a

về lý luận và thực tiễn. Những thành tựu, hạn ch và bài học được rút ra là các

kinh nghiệm lịch sử quý báu trong quá trình xây dựng một nền văn hóa đậm

90

đà bản sắc dân tộc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000): Sơ thảo lược sử công tác

tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam 1930 - 2000, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

2. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2005): Lịch sử biên niên công

tác tư tưởng văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1 (1925 - 1954), Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000): Một số văn kiện của

Đảng về công tác tư tưởng, văn hóa, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình đường lối cách mạng của

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

5. Đặng Việt Bích (2006): Tìm hiểu văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

6. Trường Chinh (1948): Kháng chiến nhất định thắng lợi (in l n thứ

2), Nxb. Sự thật, Hà Nội.

7. Trường Chinh (1974): Chủ nghĩa Mác và Văn hóa Việt Nam (in l n

thứ hai), Nxb. Sự thật, Hà Nội.

8. Trường Chinh (1976): Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt

Nam, Tập 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

9. Trường Chinh (2006): Về Văn hóa văn nghệ, Nxb. Văn học, Hà Nội.

10. Xuân Diệu (1953): Những bước đường tư tưởng của tôi, Nxb. Văn

hóa, Cục Xuất bản, Bộ Văn hóa, Hà Nội.

11. Đinh Xuân Dũng - Nguyễn An (2005): Hồ Chí Minh với văn hóa -

văn nghệ, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

12. Đỗ Duy (1999): Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc của nền văn

91

hóa nghệ thuật mới ở Việt Nam, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 5(179), tr.3 - 6.

13. Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Đình Thi (1945): Một nền văn hóa

mới, In l n thứ hai tại Nhà in Lê Văn Tân, 136, phố Hàng Bông, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1,

1924 - 1930, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2,

1930, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3,

1931, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 4,

1932 - 1934, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5,

1935, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6,

1936 - 1939, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7,

1940 - 1945, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Quang Đạm, Phương Lựu, Trường Lưu, Nguyễn Khắc Phi, Tr n Lê

Sáng, Lương Duy Thứ (1983): Chủ nghĩa Mao và văn hóa - văn nghệ Trung

Quốc, Viện Văn hóa, Bộ Văn hóa.

22. Tr n Độ (1986): Văn hóa văn nghệ trong cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam, Mục tiêu và động lực, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.

23. Phạm Duy Đức (2011): Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,

dangcongsan.Việt Nam, ngày 28/12/2011.

24. Hà Minh Đức (1997): Một thời đại trong thi ca: Về phong trào thơ

92

mới 1932-1945, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

25. Hà Huy Giáp (1978): Hồ Chủ Tịch với một vài vấn đề văn hóa văn

nghệ, In l n thứ 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

26. Võ Nguyên Giáp (1997): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường

cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Nguyễn Thu Hải, Chủ trương của Đảng về vận động, tập hợp tầng

lớp trí thức thời kỳ 1930 - 1954, Luận văn thạc s , Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

28. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2006): Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

29. Lê Như Hoa (1997): Trường Chinh với tác ph m “Chủ nghĩa Mác

và văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2, tr.58 - 59.

30. Đỗ Quang Hưng, Tr n Vi t Ngh a (2013): Tính hiện đại và sự chuyển

biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Tô Hoài (1992): Cát bụi chân ai, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

32. Tr n Hoàn (1994): Hải Triều (1908 - 1954), người con ưu tú của

Đảng, nhà văn hóa Mác- xít xuất sắc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9, tr.5 - 6.

33. Mai Hương (1994): Tính tiên phong Mác-xít của nhà báo Hải

Triều, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9, tr.12 - 17.

34. Tố Hữu (1972): Về văn học và nghệ thuật, Văn phòng Bộ Văn hóa,

Hà Nội.

35. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1996): Tư tưởng Hồ Chí Minh

với bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 5, tr.14 - 16.

36. Đinh Xuân Lâm (2005): Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng

Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

37. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên, 2000): Đại cương Lịch sử Việt Nam,

93

Tập II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

38. Khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn(2013): Cuộc tranh luận “vị nghệ thuật” hay “vị nhân sinh” thời kỳ 1935

- 1939, Hà Nội.

39. Phương Lựu (1979): Học tập tư tưởng văn nghệ V.I.Lênin,

Nxb.Văn học, Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Khánh (2004): Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời

thuộc địa (1858 - 1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Kiêm (1979): Lịch sử Việt Nam 1990 - 1918, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

42. Đặng Thai Mai (1969):Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ

XX, Nxb. Văn học, Hà Nội.

43. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận,

Nxb. Văn học, Hà Nội.

44. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 1 (1919 - 1924), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

45. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), tập 2 (1924 - 1930) Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

46. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), tập 3 (1930 - 1945), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

47. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 4 (1945 - 1946), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

48. Hồ Chí Minh (1960): Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

49. Tú Mỡ (1989): Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn

học, Tháng 1/1989.

50. Tr n Vi t Ngh a (2012): Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh

94

phương Tây thời Pháp thuộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

51. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên, 2001): Tiến trình lịch sử Việt Nam,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

52. Phan Ngọc: Tiếp xúc văn hóa Việt Nam và Pháp,

http://phebinhvanhoc.com.Việt Nam, tháng 5/2013.

53. Hoàng Xuân Nhị: Tìm hiểu đường lối văn nghệ của Đảng và sự

phát triển của văn học cách mạng Việt Nam hiện đại, Nxb Văn học, 1975.

54. Nguyễn Thị Như: Trí thức Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến

chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Luận văn thạc s , Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

55. Philippe Devillers (2006): Người Pháp và người An Nam bạn hay

thù, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

56. Bùi Đình Phong (1994): Hồ Chí Minh với nền văn hóa mới Việt

Nam trước năm 1954, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr. 85.

57. Ri-u-xi-cốp (1957): Lênin và văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb. Sự

thật, Hà Nội.

58. Sưu tập trọn bộ Tiên Phong 1945 - 1946 (1996), Nxb. Hội Nhà văn,

Hà Nội.

59. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (1998), tập 1 (1948), Nxb. Hội Nhà

văn, Hà Nội.

60. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (1999), tập 2 (1949), Nxb. Hội Nhà

văn, Hà Nội.

61. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (2000), tập 3 (1950), Nxb. Hội Nhà

văn, Hà Nội.

62. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (2003), tập 4 (1951) và tập 5 (1952),

Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

63. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (2005), tập 6 (1953), Nxb. Hội Nhà

95

văn, Hà Nội.

64. Tạ Ngọc Tấn (2011): Vấn đề văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh

về phát triển đất nước, http://www.tapchicongsan.org.Việt Nam, ngày

25/10/2011.

65. Hoài Thanh, Hoài Chân (1998): Phong trào Thơ mới, Nxb. Văn

học, Hà Nội.

66. Hoài Thanh, Hoài Chân (2008): Thi nhân Việt Nam: 1932 - 1941,

Nxb. Văn học, Hà Nội.

67. Nguyễn Ngọc Thiện (2004): Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ

thuật vị nhân sinh?, Viện Văn học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

68. Nguyễn Ngọc Thiện (2002): Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 2,

Nxb. Lao động, Hà Nội.

69. Nguyễn Vi t Thông (Chủ biên, 2011): Giáo trình những nguyên lý cơ

bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

70. Huỳnh Văn Tòng (2000): Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm

1945, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

71. Bùi Ngọc Trác (Chủ biên, 1996): Tổng tập văn học Việt Nam, Tập

34, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

72. Hà Xuân Trường (1977): Đường lối văn nghệ của Đảng, vũ khí ánh

sáng, trí tuệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

73. Hà Xuân Trường (1977): Đấu tranh chống ảnh hưởng văn hóa và

nghệ thuật tư sản, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 1, tr.13 - 17.

74. Hà Xuân Trường (1982): Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, Tạp

chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2, tr.3 - 8.

75. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1985): Bốn

96

mươi năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

76. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1995): Năm

mươi năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

77. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Văn học

(1995): Cách mạng - kháng chiến và đời sống văn học 1945 - 1954, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

78. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2004): Đề cương

văn hóa Việt Nam - Chặng đường 60 năm, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

79. Về sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa (1930 -

1945) (1960), Nxb. Sự thật, Hà Nội.

80. Hoàng Vinh (1997): Trường Chinh - Nhà lý luận mác xít lỗi lạc của

Đảng, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2, tr.53 - 54, 77.

81. Tr n Quốc Vượng (Chủ biên, 2008): Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.

97

Giáo dục, Hà Nội.

PHỤ LỤC

I. NHỮNG BÀI VIẾT TRONG CÁC CUỘC TRANH LUẬN

NHỮNG NĂM 1930 - 1939

1. Ông Phan Khôi không phải là một học giả duy vật

Xem những câu nói của ông này:

“Hễ tinh th n đã đ n một cái trình độ kia thì vật chất cũng đ n một cái

trình độ kia. Tinh th n còn ở một cái trình độ này thì vật chất cũng còn ở một

cái trình độ này. Theo lẽ ấy thì vật chất Đông phương sở d kém Tây phương

là tại tinh th n cũng kém Tây phương”. Đó là một cái chứng cứ rõ ràng ông

cho tinh th n đi trước mà vật chất theo sau. Tinh th n “ở” thì vật chất “ở” tinh

th n “đ n” thì vật chất “đ n”. Như th tinh th n là cái nguyên động lực, vật

chất là cái thụ động lực. Rồi ông dẫn một cái thí dụ: sự sáng ch một cái ô-tô.

ng nói: “Phải duy trước h t đã có cái tinh th n vật lộn với cái sức tự nhiên,

lại còn muốn cho cả ngừi ta và loài vật đều khỏi vất vả nên mới sáng ch ra

được cái xe ô-tô ấy” . Th là theo ý ông, sáng ch cái ô-tô là vì “cái tinh th n

vật lộn với cái tự nhiên” nó “trước h t đã”, còn vì muốn cho “khỏi vất vả”

ngh a là cái tất y u của sự sinh hoạt vật chất (necessite de l’exis tence

materielle) ông để lại sau, chính vì lẽ đó nên ông mới cân nhắc sự y u đuối

tinh th n của người Đông phương. “Suy cái tinh th n ấy ra, người Đông

phương chỉ tạo được cái xe tay”. Th là ông nhận cái tinh th n cái động lực

căn bản cho sự sáng tạo. Cứ theo cái phương pháp duy tâm ấy, ông k t luận

bài của ông: “Chúng ta phải thành thực nhận mình thua kém về vật chất là

bởi thua kém về tinh th n”. Ngh a là tinh th n làm chủ thể cho vật chất. Tinh

th n mà kém thời vật chất cũng kém theo. Hãy trở quay lại đoạn trên: “tinh

98

th n đ n một trình độ này thì vật chất cũng đ n một trình độ này”.

Cứ do những lời của ông Phan mà tôi trích và giải thích cho rõ ràng

thêm thời chúng ta thấy rằng, về mặt tri t học, ông Phan đứng hẳn về phía chủ

quan duy tâm luận (idealism subjectif). Ngh a là thuộc về phái chủ trương

trước h t phải định cái nguyên lý của tinh th n đã, rồi do đó mà suy ra bản

thể của vũ trụ) .

ng Phan đã dùng cái luận duy tâm ấy để làm phương pháp giải thích

bài của ông. Tôi quả quy t nói: ông Phan dùng một phương pháp sai l m. Tôi

lại dám chắc ông Phan, n u cứ giữ cái chủ quan duy tâm luận ấy để biện các

vấn đề về tri t học, xã hội, kinh t , chính trị...v.v. đều phải sai l m tất cả.

ng Phan lấy tinh th n làm căn bản, vật chất làm phụ thuộc. Tôi xin

nói trái lại vật chất căn bản, tinh th n là phụ thuộc. Không nói đâu xa, cứ xét

tinh th n là do bộ óc mà phát ra, bộ óc là một cái hình thể vật chất.

N u ta đổi cái bộ óc ấy đi, thì tinh th n cũng đổi theo. Xem như một

người đương có một cái tinh th n bình t nh là vì cái bộ óc đương bình t nh,

n u cũng người ấy, ta cho uống một vài cốc rượu mạnh, cái th n kinh hệ (bộ

óc) bị đốt nóng lên, tất cái tinh th n người ấy cũng hóa ra kỳ quái điên cuồng.

Th là vật chất đổi, tất tinh th n cũng đổi theo.

Hãy ti n lên một bước nữa. ng Phan muốn có một cái ý tưởng (tinh

th n) về ngọn đèn điện, thì hoặc ông Phan từng thấy ngọn đèn điện ấy rồi, hay

từng nghe ai đấy kể chuyện lại cho họ đã thấy, hay là có những điều kiện vật

chất sắp đặt d n d n cho ông hiểu có thể có ngọn đèn điện. Nói tóm lại phải

có những điều kiện thực tại vật chất nó phản chi u vào trong não ông, ông

mới nảy sinh ra những cái ý tưởng về ngọn đèn điện ấy. N u tuyệt không, thời

tôi đố ông làm sao mà có được một cái ý tưởng gì về “cái ngọn đèn châm

thuốc không cháy, chúc đ u xuống đất mà cứ đỏ”.

Cho nên tinh th n tư tưởng chỉ là cái phản ánh của vật chất (reflet de la

99

matière) mà phát sinh ra.

Tôi không phải khinh rẻ cái giá trị của tinh th n, tôi vẫn nhận rằng sau

khi vật chất phản chi u vào não cân mà sinh ra tư tưởng, tư tưởng ấy lại ảnh

hưởng vào vật chất mà thay đổi cái tình trạng của vật chất ấy đi. ng Phan có

từng bi t ngọn đèn điện (tôi giản dị bớt lý luận cho dễ hiểu) mới có cái ý

tưởng đèn điện thắp thuốc không cháy, ông bèn suy diễn, thắp thuốc không

cháy thì cái màn năm g n đèn cũng không cháy, do đó ông mới dùng đèn

điện vừa để ăn cơm, lại có khi đặt abat-jour vào đèn để g n màn nằm đọc sách

cho khỏe.

Th là vật chất ảnh hưởng vào não sinh ra tư tưởng, tư tưởng lại ảnh

hưởng vào vật chất mà đổi các nguyên trạng của vật chất đi. Cái dây quan hệ

của vật chất và tinh th n là th .

Bây giờ chúng ta đủ khí giới rồi, chúng ta hãy quay lại mà cự với cái

phương pháp duy trì của ông Phan chơi.

Ông Phan nói: “hễ tinh th n đ n một cái trình độ kia thì thì vật chất

cũng đ n một trình độ kia”. Không phải th , chính là: hễ vật chất đ n một cái

trình độ kia, thì tinh th n theo đó mà cũng đ n một cái trình độ kia. ng cho:

“tinh th n Đông phương kém, nên vật chất Đông phương cũng kém”. Không

phải th , chính vật chất Đông phương kém nên tinh th n Đông phương cũng

kém theo. ng cho sự sáng ch cái xe ô-tô của người Tây phương là bởi có

cái tinh th n vật lộn với tự nhiên “trước h t đã” rồi mới đ n tránh sự vất vả

sau. Không phải th , tôi nói quy t rằng: Sự sáng ch cái ô-tô là chính cho sự

đỡ sự “vất vả” trước đã, nói cho đúng hơn là vì gặp một nền kinh t sinh sản

nhiều, c n phải tiêu thụ gấp, nên c n sáng ch cái ô-tô để đi cho tiện cho mau.

Còn cái tinh th n vật lộn chỉ là một vấn đề phụ thuộc. ng nói: “người Trung

Quốc, Việt Nam ,…v.v. vì tinh th n kém nên chỉ sáng tạo được cái xe tay”.

Không phải th , tôi nói rằng: người Trung Quốc, Việt Nam, ..v.v. sáng ch cái

100

xe tay là do cái ảnh hưởng của một nền kinh t bán phong ki n (semi- feudal),

sinh sản ít, tiêu thụ ít, tất giao thông cũng ít. Như vậy c n gì mà đi cho mau,

bước cho lanh, cứ lơn tơn ngồi trên cái xe tay cũng đã “tiện” lắm rồi.

(Báo Đông Phương ngày 20 tháng 10 năm 1933).

2. Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh

……………………..

Người đời xưa hồi bộ lạc đương thịnh hành, quân chủ đương bền, chắc

nghệ thuật tất nhiên xu hướng về mặt ca tụng những sự nghiệp anh hung hào

kiệt, khuy n khích những việc thiện, bài trừ những việc ác. Nhà nghệ s bao

giờ cũng tự đặt mình vào hạng “tiên giác” đem bao nhiêu tài ba để thức tỉnh

loài người. Bao nhiêu sử sách tranh vẽ , chạm trổ đều diễn tả những công

việc oanh oanh liệt liệt của những vị anh hùng hào kiệt tự xưa. Nghệ thuật

hồi ấy rõ ràng là để phục vụ cho dân sinh. Những tác phẩm như I-li-át, Ô-xi-

đê ở Tây phương, những sách Tam quốc diễn ngh a ở Trung Quốc, 48 vị anh

hùng ở Nhật đều là những chứng cớ hiển nhiên của cái trào lưu “nghệ thuật

vị dân sinh” của thời đại ấy.

Trước cuộc cách mạng năm 1789 ở Pháp, trong nghệ thuật giới Pháp

lại phát sinh ra một cái thể thức mới gọi là “Style rococo” . “Style rococo” là

cái phản ảnh của ch độ phong ki n ở Pháp đã bắt đ u trụy lạc. Nhà nghệ

thuật l n l n xa qu n chúng nên không đem nghệ thuật mà diễn tả được tâm

hồn, ý chí của số đông người, không dùng nghệ thuật mà dẫn đạo hay giáo

hóa qu n chúng nữa.

Họ mượn nghệ thuật để ca ngợi những sự xa hoa, đài các dâm dục. Cái

nghệ thuật ấy, d u không nói ra, ai cũng thấy rõ là thứ nghệ thuật vị nghệ

thuật mà thôi.

Cuộc cách mạng 1789 nổi lên. Trong nghệ thuật giới tự nhiên nổi lên

vô số nghệ s mới ra đời. Tự mình lãnh lấy cái trách nhiệm tiền khu cho

101

phong trào, mượn nghệ thuật làm lợi khí để khuy n khích qu n chúng vào

con đường mới, bao nhiêu tác phẩm của Von-te, Mông-tét-ski-ơ, Đi-đơ-rô,

Đa-vít đều tiêm nhiễm những tư tưởng đem nghệ thuật mà phụng sự cho dân

sinh. Nhà nghệ s lại kiêm luôn một tay chi n sỹ giỏi.

Rồi qua th kỷ XX sự phát triển của ch độ tư bản đã đ n đoạn cuối

cùng. Nghệ thuật cũng cùng chịu ảnh hưởng ấy nên mất hẳn cái tính chất vị

dân sinh. Không bi t bao nhiêu là xu hướng mới ra đời, nào Impres-

sionnisme, néo-impressionnisme, cubism (Phải ấn tượng, phải ấn tượng mới,

phải lập thể) ..v.v

Những cái “isme” cứ kéo dây nhau xuất hiện ra, rồi lại kéo dây nhau

mà ch t, không cái nào thành hình cái nào. Nghệ thuật l n l n xu hướng về

mặt huyền bí huyễn hoặc ...v.v. Nhà nghệ thuật chẳng những không khai sáng

qu n chúng, trở lại mê hoặc qu n chúng. Nhà nghệ thuật hóa ra một người

thù của qu n chúng. ng Lê-ông Tôn-stôi cho là bọn “forbans de l’art” (bọn

đạo tặc trong nghệ thuật) thật đáng khi p.

Trên cái nền nghệ thuật phản dân sinh, phản ti n hóa ấy ngày nay

chúng ta đã thấy dúm lên những nền nghệ thuật mới tự lãnh lấy cái trách

nhiệm diễn tả tình cảm tư tưởng của qu n chúng và đề cao sự sinh hoạt của

xã hội về tất cả mọi phương diện vật chất và tinh th n. Những kiện tướng

trong phái nghệ s mới như Gooc-ki ở Nga, Rô-manh Rô-lanh ở Pháp, Ớp-tơn

Sanh-cơ-le ở Mỹ đề được qu n chúng hoan nghênh một cách đặc biệt.

ng Thi u Sơn xem th cũng để thấy cái thuy t nghệ thuật vị nghệ

thuật phát sinh trong những hồi đồi bại của xã hội loài người. Còn những hồi

ti n bộ thì bao giờ người ta cũng chủ trương lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho

dân sinh.

ng Thi u Sơn lại thấy rằng những nghệ s nào tán thành thuy t nghệ

thuật vị nghệ thuật đều đi trái hẳn với con đường ti n hóa của nhân loại.

102

…………………..

Nhà nghệ s duy tâm bao giờ giải thích đ n nghệ thuật thời cho là

những sản phẩm th n bí, m u nhiệm của tình cảm của đấng thiêng liêng. Vì

th nên họ cho nghệ thuật có tính cách siêu phàm, huyện diệu, không quan hệ

đ n xã hội, không dính dáng đ n dân sinh. Họ cao hơi lớn ti ng đề xuất cái

thuy t nghệ thuật thu n túy (l’art pur) nghệ thu n th n tiên (l’art olympien)

hay nghệ thuật vị nghệ thuật (l’art pour l’art). Trong đám nghệ s ấy, không

nói chúng ta cũng bi t, ông Thi u Sơn là một học trò dở dang, vì ông ấy

muốn bênh vực cho nó mà bênh vực không ra trò.

Trái với phái nghệ s duy tâm, chúng tôi bao giờ cũng chủ trương

“nghệ thuật là một cái sản vật của sự sinh hoạt xã hội” (“l’art est un produit

de la vie sociale”) những trạng thái sinh hoạt giữa xã hội phản chi u vào tâm

trí người ta, sinh vui, sinh buồn, sinh giận, sinh ti c, sinh thương, sinh chán,

sinh thảm. Nghệ thuật sắp đặt những tình cảm ấy cho có hệ thống rồi diễn ra

thành những hình ảnh thi t thực hoặc bằng lời nói bằng câu văn, bằng âm

điệu, bằng vận động (như nhảy múa) hoặc bằng nhiều cách khác có hình thức

rõ ràng như ki n trúc, đắp tượng..v.v.

Cho nên người ta thường nói: Nghệ thuật là một phương pháp xã hội

hóa tình cảm (un moyen de socialization du sentiment), ông Tôn- stôi trong

cuốn sách Nghệ thuật là gì? (Qu’est ce que l’art) giải thích “Nghệ thuật là cái

phương pháp truyền nhiễm về tình cảm” (un moyen de contagion emotive).

Nghệ thuật xã hội hóa tình cảm của loài người lại đêm cái tình cẩm ấy

mà truyền nhiễm lại cho loài người, như th là cái phát nguyên của nghệ

thuật là ở trong xã hội mà cái cứu cánh của nó cũng trong xã hội.

……………..

(Báo Đời Mới, ngày 24 tháng 3 năm 1935 và Báo Ánh Sáng, ngày 4

103

tháng 5 năm 1935).

3. Không thể có nền văn hóa muôn đời không thay đổi

……………….

Theo như ý muốn của ông, là hãy gây dựng một nền văn hóa không

Đông không Tây, không kim, không cổ, một nền văn hóa cho muôn đời.

Thưa ông, cái ý muốn đó xem ra rộng rãi tốt đẹp lắm sao ! Nhưng căn

cứ vào lịch sử mà xét thì thật xưa nay trên th giới chưa từng có một nền văn

hóa nào như th . Các văn nhân nghệ s xưa nay thường mơ hồ tưởng tác

phẩm của mình sẽ để lại muôn đời, sẽ còn mới mãi mãi. Sẽ để lại về sau thì

cũng có mà sẽ mới mãi mãi thì quy t không. Pơ-la-tông xưa kia đâu ngờ văn

hóa Hy Lạp theo sự trụy lạc của ch độ nô lệ mà điêu tàn.

Khổng phu tử lúc đương thời nào có tưởng lý thuy t của Ngài cũng có

ngày hủ hóa. Về th kỷ XVIII, lúc tư bản chủ ngh a đương phát đạt, cá tri t

học văn nhân đều tưởng chân lý tư sản là chân lý chung cho tất cả muôn đời.

Nhưng chúng ta không trách các tiền nhân của chúng ta đâu. Chúng ta chỉ

nên nhìn nhận rằng t m con mắt của các ngài không vượt xa khỏi thời đại. Vì

vậy mà tôi phải xin trái ý ông để nói: Không thể có thứ văn chương nghệ

thuật muôn đời không thay đổi.

…………………..

N u chúng ta nhận lòng người bao giờ cũng như bao giờ thì làm gì

có những sự thay đổi về tư tưởng, về tôn giáo, về lễ nghi. N u chúng ta

nhận có cái tâm lý con người không thay đổi theo sự bi n hóa và bi n cải

của sinh sản trong xã hội thì sao chúng ta lại thấy có những bi n thiên nối

ti p xảy ra trong lịch sử: nào ch độ cộng sản nguyên thủy, ch độ nô lệ,

ch độ phong ki n, ch độ tư bản, ch độ xã hội chủ ngh a, những ch độ

xã hội có thượng t ng ki n trúc đơn giản hay phiền phức vô cùng. N u

chúng ta nhận một thứ nghệ thuật văn chương muôn đời không đổi thì

không khác gì chúng ta nhận nghệ thuật văn chương tách ra ngoài luật ti n

104

hóa chung của vũ trụ loài người.

Không, nghệ thuật văn chương là sản vật của con người của thời đại,

thì nó phải theo sự bi n cải của con người mà bi n cải. Và nghệ thuật văn

chương cũng giúp một ph n trong công cuộc bi n cải của con người nữa.

…………….

Huy-gô tiên sinh năm 1831 đề tựa cuốn Lá thu đã thấy trong xã hội

châu u có cái gì mục nát mà nuối ti c những ngày oanh liệt của ông cha

mình trong ngày Phục hưng. Từ bấy đ n nay, cách trên một trăm năm, sự thối

nát ấy đã đ n cực điểm. Bao nhiêu dơ bẩn của ch độ tư bản trong thời đại

cuối cùng của nó đã bày ra. Người ta đã đang tay phá máy móc, đốt lúa, đốt

sữa, người ta nỡ đốt sách vở, đốt phá các biện bác cổ, các trường học, người

ta ném bom vào đám đàn bà trẻ con không gớm tay. Người ta thờ phụng

chi n tranh như một vị th n và coi nó là nguồn gốc của văn minh, văn học.

Người ta nâng cao cái cớ chủng tộc để đàn áp các dân tộc và gi t hại

đồng bào. Ch độ thuộc địa lan tràn không những khắp Á Mỹ Phi Úc châu,

mà nó đã lan d n tận châu u. Dân Áo dân Tiệp có ti ng là dân văn minh

cũng bị sát nhập vào đoàn dân thuộc địa. Dân Trung Quốc vì cái tội ngang

đ u cứng cổ không chịu ách nô lệ mà bị người ta tàn sát thảm thương. Nước

Ý, nước Đức, nước Nhật, nước Y-pha-nho đã trở nên những nhà tù khổng lồ

của cả dân tộc ấy. u châu và cả th giới đang bị cái nguy cơ quay trở về thời

Trung cổ. Những văn minh xây đắp mấy mươi đời nay đang bị hăm dọa dày

đạp bởi b y rợ phát xít dã man.

Trong hoàn cảnh ấy chúng ta nhắn đ n tên Ma-ki-a-ven và Lê-ô-na đơ

Vanh-xi của thời đại Phục hưng, nhắc đ n Rút-xô Đi-đơ-rô, Von-te của th

kỷ XVIII, nhắc đ n Lê-nin, Rô-lăng, Gooc-ki, Bác-buýt-xơ của th kỷ XX, là

chúng ta muốn đẩy bánh xe lịch sử thẳng lên con đường ti n bộ. Chỉ có con

đường ti n bộ là con đường sống của cả dân tộc mà thôi. Nó cũng là con

105

đường của nghệ s văn nhân nữa.

Hiểu những ngh a vụ cấp bức của thời đại, hiểu những sự đòi hỏi của

cuộc đời mới, hiểu cái trách nhiệm của người c m bút trong ngày này là nặng

nề, và hiểu rằng muốn cho chính đáng, nhà văn phải phụng sự đa số, lời nói

ấy của ông quý hóa lắm thay, tôi xin ghi rõ vào đây.

(Bàn qua về nghệ thuật, Báo Tao Đàn, số 6, năm 1939).

II. ĐỀ CƢƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM

1. Đề cƣơng văn hóa Việt Nam năm 1943

Cách đặt vấn đề

1. Phạm vi đặt vấn đề: Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ

thuật.

2. Quan hệ giữa văn hóa và kinh t , chính trị: nền tảng kinh t của một

xã hội và ch độ kinh t dựa trên nền tảng ấy quy t định toàn bộ văn hóa của

xã hội kia (hạ t ng cơ sở quy t định thượng t ng ki n trúc).

3. Thái độ Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa:

a. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh t , chính trị, văn

hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động.

b. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng

văn hóa nữa.

c. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư

luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.

Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam

Các giai đoạn trong lịch sử văn hóa Việt Nam.

a. Thời kỳ Quang Trung trở về trước: văn hóa Việt Nam có tính chất

nửa phong ki n, nửa nô lệ, phụ thuộc vào văn hóa Trung Quốc.

b. Thời kỳ Quang Trung đ n khi đ quốc Pháp xâm chi m: văn hóa

106

phong ki n có xu hướng tiểu tư sản.

c. Thời kỳ từ khi Pháp sang xâm chi m đ n nay: văn hóa nửa phong

ki n, nửa tư sản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa (chú ý phân biệt mấy

giai đoạn trong thời kỳ này).

Tính chất văn hóa Việt Nam hiện đại: Văn hóa Việt Nam hiện nay về

hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiểu tư sản.

Chi n đấu và xu trào văn hóa hiện nay: Ảnh hưởng của văn hóa phát xít

làm cho tính chất phong ki n , nô dịch trong văn hóa Việt Nam mạnh lên,

nhưng đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hóa tân dân chủ, xu trào văn hóa

mới của Việt Nam đang cố vượt qua trở lực để nảy nở (văn nghệ bất hợp

pháp).

Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp

- Những thủ đoạn phát xít trói buộc văn hóa và gi t ch t văn hóa Việt

Nam

a. Chính sách của Pháp:

+ Đàn áp các nhà văn hóa cách mạng dân chủ chống phát-xít;

+ Ra tài liệu, tổ chức các cơ quan và đoàn thể văn hóa để nhồi sọ;

+ Kiểm duyệt rất ngặt những tài liệu văn hóa;

+ Mua chuộc và hăm dọa các nhà văn hóa;

+ Mật thi t liên lạc với tôn giáo để truyền bá văn hóa trung cổ, văn hóa

ngu dân...;

+ Tuyên truyền chủ ngh a đ u hàng và chủ ngh a ái quốc mù quáng và

hẹp hòi (chauvinisme);

+ Làm ra vẻ săn sóc đ n trí dục, thể dục và đức dục cho dân.

b. Chính sách văn hóa của Nhật:

107

+ Tuyên truyền chủ ngh a Đại Đông Á;

+ Gây ra một quan niệm cho người Nhật là cứu tinh của giống da vàng

và văn hóa Nhật Bản chi u dọi những tia sáng văn minh ti n bộ cho các giống

nòi Đại Đông Á…;

+ Tìm h t cách phô trương và giới thiệu văn hóa Nhật Bản (triển lãm,

diễn thuy t, đặt phòng du lịch, viện văn hóa, trao đổi du học sinh, mời nghệ s

Đông Dương sang thăm nước Nhật, mở báo chí tuyên truyền, tổ chức ca kịch

chi u bóng…);

+ Đàn áp các nhà văn chống Nhật và mua chuộc những nhà văn có tài.

- Tiền đồ văn hóa Việt Nam, hai ức thuy t:

+ Nền văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa) thắng thì văn

hóa dân tộc Việt Nam nghèo nàn thấp kém.

+ Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân tộc giải phóng thắng

lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ th giới.

Hai ức thuy t , cái nào sẽ trở nên thực sự? Căn cứ vào điều kiện kinh t , chính

trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quy t sẽ làm cho ức

thuy t thứ hai trở nên thực sự.

Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam

- Quan niệm của người cộng sản về vấn đề cách mạng văn hóa:

a. Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoán thành được cuộc cải

tạo xã hội.

b. Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông

Dương lãnh đạo.

c. Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị

thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những

phong trào cải cách văn hóa đề ra bây giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách

108

mạng triệt để mai sau).

- Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện

sẽ là văn hóa xa hội chủ ngh a.

- Cách mạng văn hóa Việt Nam và cách và cách mạng dân tộc giải

phóng:

a. Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải

phóng mới có điều kiện phát triển.

b. Cách mạng dân tộc giải phóng Việt Nam chỉ có thể trong trường hợp

may mắn nhất đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân

tộc hoàn toàn độc lập dựng nên một nền văn hóa mới.

c. Phải ti n lên thực hiện cách mạng xã hội ở Đông Dương, xây dựng

một nền văn hóa xã hội ở khắp Đông Dương.

- Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong

giai đoạn này:

a. Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa phong ki n

cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).

b. Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa

phản lại đông đảo qu n chúng hoặc xa đông đảo qu n chúng).

c. Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa

học, phản ti n bộ).

Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu

hướng văn hóa bảo thủ, chi t trung, lập dị, bi quan, th n bí, duy tâm... Nhưng

đồng thời cũng chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn Tờ-rốt-kít.

Tính chất của nền văn hóa nước Việt Nam

Văn hóa Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo chủ

trương phải là văn hóa xã hội chủ ngh a hay văn hóa Xô-vi t (như văn hóa

109

Liên Xô chẳng hạn).

Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc và tân

dân chủ về nội dung. Chính vì th , nó cách mạng nhất và ti n bộ nhất ở Đông

Dương trong giai đoạn này.

Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa Mác-xít Đông Dương và nhất

là những nhà văn hóa Mác-xít Việt Nam

- Mục đích trước mắt:

+ Chống lại văn hóa phát xít phong ki n, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu

dân và phỉnh dân;

+ Phát huy văn hóa tân dân chủ Đông Dương.

- Công việc phải làm:

a. Tranh đấu về học thuy t, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai

l m của tri t học u, Á, có ít nhiều ảnh hưởng tại hại ở ta: tri t học Khổng,

Mạnh, Đề-các-tơ (Descartes), Béc-sơn (bergson), Căng (Kant), Nít-sơn

(Nietsche)... làm cho thuy t duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.

b. Tranh đấu về tông phái văn nghệ (chống chủ ngh a cổ điển, chủ

ngh a lãng mạn, chủ ngh a tự nhiên, chủ ngh a tượng trưng...) làm cho xu

hướng tả thực xã hội chủ ngh a thắng.

c. Tranh đấu về ti ng nói, chữ vi t:

+ Thống nhất và làm gi u thêm ti ng nói;

+ Ấn định mẹo văn ta;

+ Cải cách chữ quốc ngữ...

- Cách vận động:

a. Lợi dụng tất cả khả năng công khai và bán công khai để:

+ Tuyên truyền và xuất bản;

+Tổ chức các nhà văn;

+ Tranh đấu giành quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ s ...;

110

+ Chống nạn mù chữ...

b. Phối hợp mật thi t phương pháp bí mật và công khai, thống nhất mọi

hoạt động văn hóa ti n bộ dưới quyền lãnh đạo của Đảng vô sản mác-xít.

(Tiền phong số 1, ngày 10 tháng 1 năm 1945).

2. Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Vniệt Nam lúc này

G n đây các sách báo công khai đã năng đả động đ n vấn đề văn hóa

Việt Nam. Nhà Hàn Thuyên xuất bản loại sách “Tân văn hóa” và tạp chí “Văn

mới nghị luận” để cổ động phong trào văn hóa một cách hăm hở, nhiệt tình.

Ti ng tân văn hóa đã g n thành “mốt”. Nhưng một điều đáng chú ý là ít ai để

ý đ n phương châm vận động tân văn hóa Việt Nam hiện nay phải như th

nào. Bởi vậy, mặt trận văn hóa còn lộn xộn, các chi n sỹ tân văn hóa đánh

chưa nhằm đích. Việc tìm ra những nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa

Việt Nam lúc này h t sức c n. Những nguyên tắc ấy không ở đâu xa, ở ngay

tình trạng văn hóa nước Việt Nam hiện tại. Xét văn hóa Việt Nam lúc này, ta

thất ba hiện tượng bao gồm ba căn bệnh lớn của văn hóa dân tộc:

1. Nước ta là một nước thuộc địa, dưới quyền thống trị của đ quốc

Pháp, văn hóa Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng tai hại làm cho nó hóa thành

nô dịch và bị chia rẽ phát triển không đều, thi u hẳn tinh th n độc lập tự do và

dân tộc thống nhất. Trước kia người ta nhắm mắt theo Trung Quốc bao nhiêu,

thì ngày nay người ta nhắm mắt theo tây bấy nhiêu. G n đây một bọn nhà văn

hóa còn lăm le theo đít Nhật nữa là khác. Bao nhiêu tinh hoa của nền văn hóa

vốn có của đất nước, người ta không thèm tìm tòi, vun bón và phát triển, lại

lấy việc u hóa Nhật hóa làm vinh, n u không theo cổ một cách mê muội.

Một nước mà nền kinh t đã phụ thuộc vào người và mất chủ quyền chính trị

thì khỏi sao văn hóa nhiễm tính chất nô dịch và phụ thuộc. Văn chương li m

gót gi y, văn chương “ không đau mà rèn” , văn chương bò sát đất, đ y rẫy

111

trong nước. Văn nghệ hợp pháp h u h t bội phản tinh th n dân tộc độc lập.

Hình thức văn nghệ h t theo lối Tống nho câu lệ, cổ kính lại học đòi lối Pháp

một cách lố lăng. Ki n trúc, hội họa, âm nhạc, y phục... có xu hướng Pháp

hóa hay Nhật hóa đ n nỗi có khi mất cả bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Một

phong trào “lai hóa” lan tràn trong ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật cũng như

trong phong tục và tư tưởng. Bên cạnh tính cách nô dịch hay “ lai hóa” ấy, ta

thấy tính cách không thống nhất, một trở ngại lớn cho sự phát triển văn hóa

dân tộc. Kỹ nghệ không phát đạt, đường giao thông không được mở mang.

Trình độ văn hóa cũng như trình độ sinh hoạt các vùng trong nước sai biệt

nhau nhiều quá. Nước lại bị chủ ngh a đ quốc cắt làm ba mảnh có tổ chức

chính trị và chương trình giáo dục hơi khác nhau. Đó là những điều kiện tai

hại làm cho văn hóa VN thi u tính cách dân tộc thống nhất.

2. Nước ta lại là một nước nông nghiệp. Chủ ngh a đ quốc giữ độc

quyền kỹ nghệ và kìm hãm kỹ nghệ bản xứ. Không mấy ai để ý đ n khoa học,

vì không hy vọng được tự do mở mang bất cứ một ngành kinh t hay kỹ thuật

gì ? Hễ ai tự phát minh được một cái gì kỳ diệu thì giặc Pháp đe dọa hay tìm

cách ám hại ngay. Nhà trường của giặc Pháp chỉ dạy một mớ ý niệm khoa học

phổ thông và không được thực nghiệm, cốt bi n thanh niên tri thức ta thành

bọn đày tớ cho chúng sai bảo. Óc khoa học của đồng bào ta vì th rất mỏng

manh, kém cỏi. Trình độ khoa học kém cỏi ấy ảnh hưởng không tốt đ n các

ngành văn học , nghệ thuật. Những sản phẩm văn hóa của thời phong ki n

VN để lại ph n nhiều đ y tính cách duy tâm, th n bí, phản khoa học. Việc

tuyên truyền cổ động của văn hóa Nhật với tạp chí “ Tân Á” và loại sách “

Nip-pon văn hóa” của nó, cũng như việc nhồi sọ của nhà trường và Bộ Thông

tin tuyên truyền của Pháp lại nuôi thêm tính cách mê tín và th n bí ấy. Những

công trình văn hóa theo Tây ph n nhiều chỉ có cái vỏ khoa học. Vài ví dụ đủ

chứng thực điều ấy. Một cái nhà theo ki n trúc mới không gồm đủ được ba

tính cách đẹp, tiện và bền. Trái lại, nó lố lăng, phiền phức, có khi không hợp

112

với khí hậu và màu sắc của đất nước. Câu văn ph n nhiều còn túi bụi những

chữ “ t m gửi” hay trái văn pháp, kém xác thực, thi u sáng sủa và không được

khúc tri t.

3. Trong một nước còn nhiều tàn tích phong ki n mà lại là thuộc địa

như nước ta, quyền kinh t và chính trị trong tay bọn đ quốc và một số rất ít

người bản xứ, thì đông đảo qu n chúng, nhất là thợ thuyền, dân cày bị khinh

miệt là lẽ tất nhiên. Ở nước ta, bệnh mù chữ tr m trọng không kém gì bệnh

đói. Người ta vi t, vẽ, đàn, hát , xây, nặn cốt để cho bọn quyền quý thưởng

thức đã chứ ! Mà chỉ bọn họ mới đủ tiền tài và trí tuệ thưởng thức những sản

phẩm văn hóa cao quý trong ch độ này. Hơn nữa, người ta vi t, vẽ, đàn, hát,

xây, nặn để ru qu n chúng, làm cho qu n chúng tin theo bọn quyền quý, hoặc

mê tín ở họa phúc, mong đợi ở Trời, Phật. Trong xã hội Việt Nam hiện nay,

con cái t ng lớp c n lao ít người có đủ tài: mà những người tài xuất thân ở đại

chúng, bênh vực đại chúng lại bị đàn áp, hắt hủi. Chính vì những lẽ ấy mà văn

hóa Việt Nam hiện nay h t sức xa đại chúng. Tính chất phản đại chúng trong

văn hóa hợp pháp nước ta rõ rệt vô cùng. Xu hướng “nghệ thuật vị nghệ

thuật” , xu hướng “siêu tả chân”, xu hướng “lập dị” hay “nghệ thuật tắc tị”

của nhóm “ Xuân thu nhã tập” g n đây đều là những quái thai của văn nghệ

phản đại chúng, bột phát dưới quyền thống trị của chủ ngh a phát-xít. Tình

trạng trái ngược bộc lộ: Đại chúng mang sức sống vật chất của xã hội, vì đại

chúng gồm những người sinh sản nuôi đời; các nhà văn hóa mang theo sức

sống về tinh th n của xã hội đáng lẽ phải phụng sự đại chúng, cái vú sữa của

xã hội, mật thi t với đại chúng, nhưng đằng này lại phản đại chúng, xa đại

chúng. Văn hóa không bắt rễ thẳng ở đại chúng. K t quả văn hóa cằn cỗi héo

hon…

Tóm lại, văn hóa Việt Nam hiện nay - hay nói cho đúng, văn hóa hợp

pháp Việt Nam hiện nay - mang ba nhược điểm, ba căn bệnh lớn: phản dân

tộc, phản khoa học, phản đại chúng. Ngay đ n văn hóa bất hợp pháp Việt

113

Nam cũng chưa hoàn toàn thoát khỏi được những nhược điểm nói trên. Bổn

phận các nhà văn hóa cấp ti n Việt Nam, bất cứ ở giai cấp nào là phải kíp lập

một mặt trận chống ba căn bệnh của văn hóa Việt Nam hiện tại. Cuộc vận

động tân văn hóa Việt Nam lúc này phải theo ba nguyên tắc, ba khẩu hiệu:

- Dân tộc hóa,

- Khoa học hóa,

- Đại chúng hóa.

Phàm cái gì chống lại tinh th n dân tộc, độc lập và thống nhất, phải

thẳng cánh đập tan.

Phàm cái gì trái khoa học, phản ti n bộ phải kiên quy t bài trừ.

Phàm cái gì phản đại chúng, xa đại chúng, phải nhất luật san phẳng.

Ba nguyên tắc trên đây là các cái khâu của một sợ dây chuyền. Nó có

tính cách liên hoàn. Không thể hoàn thành nhiệm vụ vận động tân văn hóa

Việt Nam n u ta bỏ sót một nguyên tắc nào trong ba nguyên tắc ấy. Cũng

không thể chỉ theo một nguyên tắc nọ mà đồng thời chống lại những nguyên

tắc kia. Không nhận rõ điều đo thì nhất định không làm tròn được nhiệm vụ

xây dựng tân văn hóa cho dân tộc mà có khi mắc bẫy văn hóa của đ quốc

hoặc bị chúng lợi dụng nữa là khác.

Các nhà văn nghệ trong nhóm “Tri tân” (phong trào ki n) thiên trọng

về khẩu hiệu dân tộc hóa nhưng lại không nệ cổ và không đ m xỉa đ n hai

khẩu hiệu khoa học hóa và đại chúng hóa, nên đã bị công kích là thủ cựu, là

gàn. Những nhà văn trong nhóm Thanh Nghị (tư sản) thực hành ba khẩu hiệu

trên kia không được đ y đủ, vì họ không nhận rõ được thời bệnh của văn hóa

Việt Nam, cũng không thể đóng nổi vai trò lãnh đạo tân văn hóa và nhất định

nguồn văn của họ sẽ cạn n u họ không tự sớm bồi bổ văn hóa vô sản. Nhóm

tân văn hóa Hàn Thuyên (tiểu tư sản) tự nhận là thuận khoa học, nhưng đã

phản duy vật biện chứng, tức là phản khoa học. Họ chẳng đem thuy t duy vật

t m thường, duy vật máy móc, thay cho thuy t duy vật biện chứng nào đó

114

sao? Họ không đội lốt duy vật biện chứng để xuyên tạc thuy t duy vật biện

chứng của Mác đó sao? Họ tự nhận không dám bênh vực quyền lợi văn hóa

cốt y u của đại chúng. Chúng tôi muốn nói: họ không đủ tư cách và năng lực

chống - dù chỉ chống một cách gián ti p và kín đáo - những thủ đoạn tuyên

truyền của viện văn hóa Nhật hay nhà xuất bản A-l ch-xăng-đơ-rốt

(Alexandre de Rhodes ). Họ coi thường khẩu hiệu dân tộc hóa đ n nỗi dám

gắn chiêu bài: “ duy vật sử quan” để ch bi n lịch sử dân tộc Việt Nam và do

đó họ bôi nhọ thuy t duy vật sử quan (Coi cuốn Hai Bà Trưng khởi ngh a của

Nguyễn T Mỹ, Hàn Thuyên xuất bản 1944). Đáng lẽ phải tập trung mọi lực

lượng văn hóa VN thành một mặt trận đặng chống lại văn hóa ngu dân, văn

hóa thái bộ và trung cổ của bọn phát-xít, chống thủ đoạn xâm lấn nguy hiểm

của văn hóa Nhật, thì họ lại chia rẽ mặt trận văn hóa của dân tộc ta và bởi th

học đã vô tình hay cố ý làm lợi cho lũ giặc nước. Thật th , tại sao họ lại ch a

ngọn lửa đấu tranh văn hóa vào các nhà văn hóa dân tộc (Tri Tân, Thanh

Nghị) trong khi quyền lợi sinh tử của dân tộc bắt phải liên minh thân thiện với

các nhà văn hóa ấy đặng ch a ngọn lửa đấu tranh văn hóa vào phát xít Nhật-

Pháp? Cái chiêu bài “ tân văn hóa” của nhà Hàn Thuyên ở đây một số Tờ-rốt-

kít đang hoành hành - chẳng đáng ngờ lắm sao?

Ba khẩu hiệu vận động tân văn hóa trên kia phải ghi trên lá cờ khẩu

hiệu của một lớp nhà văn hóa tiền phong, trung thành, kiên nhẫn, tích cực và

khôn khéo. Các nhà văn hóa ấy phải lấy sức mạnh trong đại chúng, lấy tinh

th n trong dân tộc, và dùng duy vật biện chứng làm kim chỉ nam . Con đường

của họ phải là con đường tả thực xã hội, duy nhất, đúng và ti n bộ. Nhưng

nhà văn ấy phải tranh đấu trên tất cả các mặt trận văn học, ngôn ngữ, phong

tục, tín ngưỡng... Hành động của họ phải bao quát cả hình thức tranh đấu hợp

pháp và bất hợp pháp. Nó không thể xa lìa được cuộc vận động cách mạng

dân tộc giải phóng của dân tộc ta lúc này.

115

(Tiền phong, số 2, ra ngày 11 tháng chạp năm 1945) .