ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------
PHÙNG THỊ MAI
TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ
VĂN HÓA VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
PHÙNG THỊ MAI
TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ
VĂN HÓA VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Nghĩa
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tìm hiểu quan điểm của Đảng về văn
hóa Việt Nam trƣớc Cách mạng Tháng Tám năm 1945” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu trong luận văn được sử dụng và chú
thích nguồn trung thực.
Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2014
Tác giả
Phùng Thị Mai
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Tr n Vi t Ngh a đã tận tâm định
hướng cho tôi ngay từ những ngày đ u thực hiện luận văn. Những góp ý, chia
sẻ, nhận xét của th y là động lực và tiền đề quan trọng giúp tôi hoàn thành
luận văn này. Đó cũng là những bài học “làm người” cho tôi trong tương lai.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã tạo điều
kiện cho tôi cả về vật chất và tinh th n. Trân trọng cảm ơn quý th y cô trong
và ngoài khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp
tôi hoàn thành khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
động viên tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Tác giả
Phùng Thị Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6
7. K t cấu của luận văn ..................................................................................... 7
Chƣơng 1. THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ KHI ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945 ........................................................................................................ 8
1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam ................................................ 8
1.2. Thực trạng văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 ................................. 15
Tiểu k t chương 1............................................................................................ 26
Chƣơng 2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN NGHỆ
VIỆT NAM .................................................................................................... 28
2.1. Quan điểm của Chủ ngh a Mác - Lênin về văn hóa ................................. 28
2.2. Quan điểm của Đảng về văn hóa ............................................................ 38
2.3. Quan điểm của Đảng về văn nghệ ....................................................... 47
Tiểu k t chương 2............................................................................................ 55
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ TUYÊN
TRUYỀN, VẬN ĐỘNG VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG MẶT TRẬN VĂN
HÓA CỨU QUỐC ......................................................................................... 57
3.1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về tuyên truyền, vận động văn hóa 57
3.2. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc .. 65
3.3. Ảnh hưởng văn hóa của Đảng tới giới văn nghệ s .................................. 70
Tiểu k t chương 3............................................................................................ 78
Chƣơng 4. MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ....... 80
4.1. Một vài nhận xét về quan điểm văn hóa của Đảng trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 ..................................................................................... 80
4.2. Một số kinh nghiệm lịch sử ..................................................................... 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 91
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 98
BẢNG KÝ HIỆU CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1 Nxb. Nhà xuất bản
2 TG Tác giả
3 TS. Ti n s
4 Tr. Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi thành lập năm 1930 đ n trước Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10/1930 đổi tên là Đảng Cộng sản
Đông Dương) đã từng bước xây dựng hệ thống quan điểm về văn hóa nhằm
định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Đảng đã bước đ u
khẳng định văn hóa là một thứ vũ khí sắc bén, một mặt trận quan trọng chống
đ quốc. Với quan điểm văn hóa đúng đắn, Đảng đã thu hút được đông đảo
trí thức, văn nghệ s tham gia phát triển văn hóa và cứu nước.
Giai đoạn 1930 - 1945, ở Việt Nam diễn ra những cuộc tranh luận về
tri t học duy vật và tri t học duy tâm, về “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay
“nghệ thuật vị nhân sinh” trên diễn đàn báo chí. Giới trí thức liên tục đưa ra
nhiều quan điểm để bảo vệ lập trường, quan điểm của mình khi n cho các
cuộc “bút chi n” trở nên “nảy lửa” hơn. Từ các khuynh hướng văn hóa khác
nhau đã hình thành nên các nhóm phái văn hóa khác nhau. Sự đa dạng về tư
tưởng, sự ra đời của các nhóm phái văn hóa góp ph n thúc đẩy sự phát triển
của văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, sự thi u thống nhất dễ gây mất đoàn k t
trong nội bộ trí thức, văn nghệ s nói riêng, qu n chúng nhân dân nói chung,
nảy sinh xu hướng ly tâm, xa rời thực tiễn dân tộc.
Trong bức tranh văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945, việc Đảng
đưa ra các quan điểm văn hóa là c n thi t. Một là thể hiện quan điểm, lập
trường của Đảng về văn hóa. Hai là qua văn hóa để tập hợp lực lượng chống
đ quốc. Do đó, trong quá trình vận động phát triển và lãnh đạo phong trào
cách mạng, Đảng đã từng bước xây dựng và đưa ra các quan điểm về văn
hóa, văn nghệ, các biện pháp vận động, tuyên truyền văn hóa và xây dựng
mặt trận văn hóa cứu quốc. Đảng cũng tích cực tham gia những tranh luận
1
về văn hóa, văn nghệ (chủ y u thông qua hoạt động văn hóa của một số trí
thức ti n bộ) để minh chứng cho sự vững vàng trong lập trường về văn hóa
theo chủ ngh a Mác - Lênin của Đảng. Những quan điểm về văn hóa của
Đảng đã có sức ảnh hưởng lớn tới đời sống văn hóa trí thức, văn nghệ s và
nhân dân khi đó.
Nhận thức sâu sắc t m quan trọng của việc làm rõ quan điểm của
Đảng về văn hóa trong giai đoạn tập hợp lực lượng, chuẩn bị đấu tranh giành
chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ đó rút ra nhiều bài
học về lý luận cũng như thực tiễn quan trọng đối với lịch sử, tôi lựa chọn đề
tài: “Tìm hiểu quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trƣớc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945” làm luận văn thạc s của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan điểm, đường lối, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hóa là một trong những nội dung được một số nhà nghiên cứu
quan tâm, phản ánh trong khá nhiều công trình.
Năm 1960, để góp ph n vào việc nghiên cứu lịch sử Đảng, Nhà xuất
bản Sự thật đã sưu t m và giới thiệu một số tài liệu trích trong các văn kiện
của Đảng và bài vi t của các đồng chí lãnh tụ về sự lãnh đạo của Đảng trên
mặt trận tư tưởng và văn hóa từ năm 1930 đ n năm 1960. Tập đ u của cuốn
sách Về sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa (1930 -
1945) đã tập hợp tương đối đ y đủ các văn kiện của Đảng và bài vi t của
những lãnh tụ thể hiện sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn
hóa giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trước mỗi ph n trích
dẫn tài liệu của từng giai đoạn, Ban Biên tập cuốn sách có một ph n khái lược
về sự lãnh đạo của Đảng, cũng chính là tóm lược nội dung cốt lõi của các văn
kiện được đề cập. Đây là một trong những tài liệu quan trọng giúp tôi dễ dàng
ti p cận những văn kiện của Đảng liên quan tới văn hóa một cách có hệ thống
2
và tổng hợp. Tuy nhiên, cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở việc sưu t m, trích
lược thu n túy, chưa đi sâu phân tích đường lối, sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Năm 1986, cuốn sách Văn hóa văn nghệ trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Mục tiêu và động lực ra mắt bạn đọc là tập hợp những bài
vi t của Tr n Độ về nhiều khía cạnh xoay quanh văn hóa mới xã hội chủ
ngh a. Trong cuốn sách, Tr n Độ đã đề cập tới một số quan điểm của Đảng
trong việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ ngh a và
nhiệm vụ của văn nghệ, đồng thời nhấn mạnh việc c n thi t phải tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Với đặc thù tập trung vào các
vấn đề liên quan tới văn hóa mới xã hội chủ ngh a, cuốn sách tuy có đề cập
tới quan điểm, sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa nhưng chỉ chủ y u phản ánh
giai đoạn sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công.
Công trình tư liệu - biên soạn Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 1 và
tập 2 (giai đoạn đ u th kỷ XX - 1945) ra mắt độc giả trong năm 2001 và
2002 là hai tập sách cung cấp cho tôi mảng tư liệu “khó ki m tìm” về những
cuộc tranh luận lớn đã diễn ra cách đây g n một th kỷ. Cuốn sách góp ph n
nhìn nhận lại văn hóa, văn nghệ th kỷ XX, đồng thời đưa ra những tìm tòi,
gợi ý mới, ti p tục hoàn thiện sự đánh giá xung quanh diễn bi n, vai trò của
các lực lượng tham gia, ý ngh a thời đại từ các vấn đề đặt ra trong các cuộc
tranh luận văn hóa, văn nghệ. Cuốn sách là một nguồn tư liệu quý giúp tôi
nghiên cứu về những cuộc tranh luận nghệ thuật “nảy lửa” ở Việt Nam trong
những năm 1920 - 1940, từ đó thấy được một ph n quan điểm của Đảng về
văn hóa thông qua tư tưởng đấu tranh của các nhà văn hóa Mác-xít, tiêu biểu
như Hải Triều.
Bên cạnh Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 1 và tập 2, để tìm hiểu kỹ
hơn về một trong những cuộc tranh luận thể hiện được lập trường, quan điểm
3
của Đảng trong văn hóa, nghệ thuật, người đọc có thể ti p cận cuốn sách
Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? của Nguyễn Ngọc
Thiện (năm 2004). Bên cạnh việc tập hợp các bài “bút chi n” của những
người tham gia tranh luận khi đó, Nguyễn Ngọc Thiện còn đưa ra một số
nhận định “đắt giá” về cuộc đụng độ này. Qua đó, người đọc hình dung được
sự sôi động trong đấu tranh về mặt văn hóa, văn nghệ ở Việt Nam trong
những năm 1935 - 1939, đồng thời thấy được những quan điểm của Đảng về
văn hóa, văn nghệ trong thời gian này. Cũng bởi chỉ tập trung tổng hợp các tư
liệu liên quan tới các cuộc tranh luận nên hai công trình trên mới chỉ phản ánh
được một ph n quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
Văn nghệ - một bộ phận quan trọng của văn hóa là khía cạnh được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Nghiên cứu về đường lối văn nghệ
của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đ n nay, Hà Xuân Trường có
công trình Đường lối văn nghệ của Đảng - Vũ khí, trí tuệ, ánh sáng (năm
1972); Hoàng Xuân Nhị có công trình Tìm hiểu đường lối văn nghệ của Đảng
và sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam hiện đại (năm 1975)…
Về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, một nội dung dành
được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu là tác phẩm Đề cương văn hóa
Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm, 50 năm… kể từ khi Đề cương văn hóa
Việt Nam ra đời, các Nhà xuất bản đã liên ti p xuất bản nhiều cuốn sách vi t về
nội dung này. Bên cạnh các sách, giáo trình chuyên khảo, nhiều bài nghiên cứu
đăng trên các tạp chí chuyên ngành cũng đề cập tới các khía cạnh khác nhau
của Đề cương văn hóa Việt Nam.
Nhóm sách và bài nghiên cứu trên trọng tâm phân tích những giá trị nổi
bật của Đề cương văn hóa Việt Nam - một trong những văn kiện quan trọng
của Đảng về văn hóa, cũng như những ảnh hưởng của Đề cương đối với các
4
giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng giúp tôi
tập trung làm rõ quan điểm của Đảng về văn hóa từ năm 1943 - 1945. Tuy
nhiên, do đặc thù nghiên cứu riêng các giá trị tiêu biểu của một tác phẩm, do
đó, các cuốn sách và bài vi t này chưa đáp ứng được yêu c u khái quát quan
điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Đường lối văn hóa, nhất là văn nghệ của Đảng đã được một số nhà
nghiên cứu dành thời gian sưu t m, khảo cứu, phân tích từ lâu, trong đó có
nhiều công trình có giá trị lớn. Mỗi cuốn sách, mỗi bài nghiên cứu là tài liệu
quý báu giúp tôi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trước đây chủ y u phản ánh quan điểm của Đảng sau khi Đề
cương văn hóa Việt Nam ra đời và quá trình xây dựng nền văn hóa mới xã
hội chủ ngh a sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Quan điểm của Đảng
về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 c n được
nghiên cứu chuyên sâu và hoàn thiện hơn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu
Trình bày và phân tích một cách có hệ thống các quan điểm của Đảng
về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Nhiệm vụ
- Trình bày thực trạng của văn hóa Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đ n Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Nêu được những quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ Việt Nam.
- Nêu được tác động của những quan điểm văn hóa của Đảng tới văn
hóa Việt Nam và cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945.
5
- Rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Để thực hiện đề tài này, tôi vận dụng cơ sở lý thuy t của chủ ngh a
Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về văn hóa.
- Các phương pháp mà tôi sử dụng để thực hiện đề tài này là: Phương
pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp lô gic, phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quan điểm Đảng về văn hóa
Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện Đảng và trong thực tiễn lãnh đạo
cách mạng Việt Nam trên mặt trận văn hóa giai đoạn 1930 - 1945.
Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài bắt đ u từ khi Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đ n thời điểm Cách mạng Tháng Tám
thành công năm 1945.
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các quan điểm và một số
chỉ đạo về văn hóa của Đảng.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ quan điểm của Đảng về văn hóa trong giai đoạn
1930 - 1945.
- Luận văn làm rõ tác động từ các quan điểm văn hóa của Đảng tới văn
hóa Việt Nam và quá trình vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945.
- Luận văn là một tài liệu tham khảo góp ph n nghiên cứu lịch sử văn
6
hóa Việt Nam nói chung, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài ph n mở đ u, k t luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Thực trạng văn hóa Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời đ n Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Chương 2: Quan điểm của Đảng về văn hóa và văn nghệ Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về tuyên truyền, vận
động văn hóa và xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc
7
Chương 4: Một vài nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.
Chƣơng 1
THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ KHI ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945
1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam
Trước khi ti p xúc với nền văn hóa Pháp, Việt Nam đã trải qua một
thời Hán hóa về văn hóa. Trong bài vi t “Ti p xúc giữa văn hóa Việt Nam
và văn hóa Pháp”, Phan Ngọc cho rằng văn hóa Trung Hoa đã đóng vai trò
ki n trúc thượng t ng, nhưng không vì vậy mà nó cấu trúc hóa lại nền văn
hóa Việt Nam.
Sang th kỷ XIX, sau khi xâm lược nước ta, bên cạnh các chính sách về
kinh t , thực dân Pháp đã ban hành nhiều chính sách về văn hóa đối với Việt
Nam. Nhìn một cách tổng quát, trước h t, để truyền bá văn hóa Pháp một
cách sâu rộng vào Việt Nam, chúng đã mưu đồ hình thành ở nước ta đội ngũ
trí thức Tây học thay th cho đội ngũ trí thức Nho học thịnh hành trước đây,
từng bước đưa trí thức Tây học trở thành bộ phận áp đảo hơn về số lượng
trong toàn bộ giới trí thức Việt Nam, có quyền lợi gắn với thực dân Pháp, từ
đó trở thành đội ngũ tay sai phục vụ đắc lực cho lợi ích của nước Pháp.
Đi liền với việc xây dựng đội ngũ trí thức Tây học, thực dân Pháp chủ
trương từng bước loại bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam,
trong đó quy t liệt nhất là làm rạn nứt và thủ tiêu nền giáo dục Nho học. Trên
thực t , khi được giao trọng trách trở thành Toàn quyền Đông Dương, các nhà
chính trị gia người Pháp đều lo ngh tới việc loại bỏ văn hóa Trung Hoa ra
khỏi xã hội Việt Nam, bởi chỉ có như th , văn hóa Pháp mới xác lập được vị
th trong đời sống xã hội Việt Nam. Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer
8
đã nhận thức sâu sắc về ảnh hưởng của nền giáo dục Trung Hoa đối với người
Việt Nam: “Những nguyên tắc làm cho gia đình vững chắc, cha mẹ được tôn
kính, chính quyền được tuân thủ đều rút ra từ các sách Hán học. Bắt đ u tập
đọc những chữ đ u tiên là họ học những nguyên tắc rường cột của luân lý đạo
Nho, họ khắc sâu vào lòng những nguyên tắc sẽ hướng dẫn họ suốt cả cuộc
đời. Chính các trường làng sẽ cung cấp cho họ nền giáo dục đó” [41, 30].
Nhận thức sâu sắc về t m ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Việt
Nam, với nguyện vọng đưa văn hóa Pháp vào Việt Nam, những nhà c m
quyền tại Đông Dương lựa chọn những cách thức khác nhau nhưng nhằm tới
mục đích cuối cùng là loại bỏ văn hóa Trung Hoa, xây dựng t m ảnh hưởng
và sự thống trị của văn hóa Pháp trong đời sống xã hội Việt Nam.
Chính phủ Pháp l n lượt ban hành các Sắc lệnh mang tính áp đặt đối
với người Việt về mặt văn hóa và có những động thái chính trị mạnh mẽ để
từng bước hạn ch sự cố k t về văn hóa của người Việt. Ngày 25/5/1881,
Chính phủ Pháp ban hành Sắc lệnh quy định: “Dân bản xứ An Nam, sinh ra
và cư ngụ ở Nam Kỳ là người Pháp, một khi người dân bản xứ đã chấp nhận
sự thống trị của người Pháp thì họ bắt buộc phải học ti ng của chúng ta và
chấp nhận những phong tục, tập quán của chúng ta, chúng ta không thể nào
ban bố tất cả những quyền lợi của một công dân cho những ai không hiểu
được nền văn minh của chúng ta” [70, tr.31]. Năm 1883, Jules Harmand cho
rằng người Pháp c n phải chia cắt lãnh thổ Việt Nam để làm tan rã sự cố k t
của nước Việt Nam, người Việt Nam nhằm tránh một cuộc nổi dậy của toàn
thể dân chúng. Trên tinh th n đó, bản Hiệp ước Harmand đã chia cắt lãnh thổ
Việt Nam thành ba kỳ với ba ch độ chính trị khác nhau: Nam Kỳ là xứ thuộc
địa, Trung Kỳ là xứ bảo hộ và Bắc Kỳ là xứ bán bảo hộ.
Đ n năm 1885, lời tuyên bố của Thủ tướng Pháp Jules Ferry: “Bổn
phận của các nòi giống thượng đẳng là phải giúp đỡ các nòi giống hạ đẳng để
9
đưa họ thoát ra khỏi sự man rợ” đã cho thấy rõ hơn chính sách “đồng hóa”
của thực dân Pháp trong cái vỏ bọc [54, 617]. Các viên toàn quyền người
Pháp đều cơ bản lựa chọn phương thức tán dương chính sách “khai hóa văn
minh” của Pháp. Chẳng hạn, toàn quyền Albert Sarraut bày tỏ: “Nước Pháp ta
là nước đã đề xướng ra cái chủ ngh a nhân quyền, lịch sử chan chứa một cái
tư tưởng công ngh a…, nước Pháp ra tay nặn cho nên một nhân loại mới…
Cái công khai hóa ấy đối với những dân tộc còn kém hèn, không thể một buổi
mà thành được, không thể bi n hóa mau cho đ n nỗi chỉ trong một thời kỳ
ngắn có thể rút lại cái bước đường dài của mấy mươi th kỷ đã xa cách các
dân tộc ấy với ta trong cuộc ti n hóa về trí thức và tinh th n”. Toàn quyền
Pièrre Pasquier nhấn mạnh đ n những thay đổi vật chất to lớn mà người Pháp
đã mang đ n cho người Việt Nam, hứa hẹn nước Pháp sẽ còn đem lại những
thay đổi vật chất to lớn hơn nữa nhằm bi n xứ sở lạc hậu này thành một xứ sở
thịnh vượng. Trong khi đó, Toàn quyền Martial Merlin coi những thành tựu
trong sự nghiệp khai hóa là sợi dây k t nối thuộc địa với mẫu quốc, mà ở đó
mẫu quốc có trách nhiệm dẫn dắt, còn thuộc địa phải có trách nhiệm phục
tùng [50, 95-102].
Để thực hiện âm mưu “đồng hóa”, thực dân Pháp còn chú trọng phát
triển ở Việt Nam các cơ quan truyền bá văn hóa, nhất là sách, báo chí, tạp chí
để vừa biện minh cho hành động xâm lược của chúng, vừa phổ bi n rộng rãi
các thành tựu văn hóa Pháp đ n người dân Việt. Ở Nam Kỳ, dưới sự trợ giúp
của Pháp, Trương V nh Ký đứng ra làm chủ bút tờ Gia Định báo, xuất bản từ
năm 1865. Trương V nh Ký còn cho in nhiều tập sách giới thiệu phong tục, tập
quán của nhân dân ta như Gia huấn ca (1882), Phép lịch sử An Nam (1883), về
văn học có Lục Vân Tiên, Phan Trần (1889). Bên cạnh đó, Trương V nh Ký
còn xuất bản một số sách hỗ trợ học ti ng Pháp, học chữ Nho và chữ Quốc ngữ
như các cuốn: Pháp - Việt từ điển (1884), Việt - Pháp từ điển (1887), Từ điển
10
địa lý An Nam (Dictionnaire Géographique Annammité), Đại Nam nhân vật bị
khảo (Dictionnaire Biographique Annammité) [40, 16-17]. Chính quyền thực
dân còn cho xuất bản Đông Dương tạp chí để truyền bá tư tưởng thân Pháp;
mặt khác bỏ thi chữ Hán, mở trường Hậu bổ, trường Thông ngôn và bắt đ u
mở các trường Pháp - Việt, trường Cao đẳng Y khoa Hà Nội [8, 38].
Chính quyền Pháp ở Đông Dương còn bảo trợ cho các hội văn hóa hoạt
động nhằm quy tụ những trí thức thượng lưu thực hiện nhiệm vụ truyền bá
văn hóa Pháp. Năm 1883, Hội Đông Dương học ra đời tại Sài Gòn. Ngày
3/7/1886, Paul Bert (Tổng trú Bắc và Trung Kỳ) đã ký Nghị định thành lập
Viện hàn lâm Bắc Kỳ bao gồm 40 nhà khoa bảng Việt Nam và 10 người
Pháp. Viện có nhiệm vụ truyền bá văn minh nước Pháp, đồng thời giúp cho
người Pháp hiểu được văn hóa Việt Nam để dễ bề cai trị.
Năm 1919, thực dân Pháp cho lập Hội Khai trí ti n đức. Hội thường tổ
chức các hoạt động văn hóa như giới thiệu các tác phẩm văn học cổ - kim,
dịch sách, in sách, làm từ điển, diễn kịch và diễn thuy t. Với ảnh hưởng của
mình, chính quyền thuộc địa đã bi n một số hội viên trong Hội trở thành tay
sai cho thực dân Pháp. Sự xuất hiện của các tổ chức này đã tạo điều kiện
khuy n khích người Pháp tăng cường ti p xúc và tìm hiểu phong tục tập quán
văn hóa Việt Nam [40, 16-17] để thực hiện âm mưu “đồng hóa”.
Ngoài ra, thực dân Pháp còn xây dựng các công trình hạ t ng cơ sở
như phố xá, nhà cửa, công sở, nhà máy, khu vui chơi, giao thông… tạo điều
kiện cho công cuộc khai thác thuộc địa, đồng thời khu ch trương sức mạnh
nền văn minh công nghiệp của nước Pháp, làm bệ đỡ cho sự tồn tại văn hóa
Pháp và chinh phục tinh th n nhân dân bản xứ. Cũng bởi th , những chính
sách và hoạt động thực tiễn của chính quyền thuộc địa đã tác động đáng kể
đ n một bộ phận trí thức Việt Nam, chủ y u là bộ phận người có quyền lợi
11
gắn bó mật thi t với ch độ thực dân.
Nhìn chung, sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã
ban hành và thực hiện nhiều chính sách nhằm “khai thác thuộc địa”. Riêng về
khía cạnh văn hóa, thực dân Pháp đã âm mưu “đồng hóa” bằng những chính
sách về văn hóa nhằm thay đổi diện mạo văn hóa và con người Việt Nam theo
xu hướng “thuộc Pháp”. Tuy nhiên, y u tố Trung Hoa tồn tại trong xã hội
Việt Nam từ lâu đời nên mặc dù có nhiều cố gắng nhưng thực dân Pháp
không thể ngay lập tức loại bỏ được những ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa. Cũng bởi th , văn hóa thống trị ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc cơ bản
vẫn mang đặc điểm chính là: Nội dung lộn xộn, phức tạp, hình thức vừa lai
Pháp, vừa lai Trung Quốc [8, 38].
Sự thay đổi mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam những năm đ u th kỷ XX
đã làm cho đội ngũ nhà Nho bị phân hóa. Một nhóm nhà Nho đã đ u hàng
thực dân Pháp, cam chịu làm tay sai để hưởng vinh hoa phú quý. Dưới ảnh
hưởng của sự gieo rắc vào đ u óc người trí thức Việt Nam tinh th n phục
Pháp, nhiều trí thức đã vào làng Tây, nói ti ng Tây, bắt chước một cách lố
lăng từ cách ăn diện đ n cuộc sống hưởng lạc và đồi trụy của Pháp. Tư tưởng
sùng ngoại này dẫn tới đ u óc tự ti dân tộc và miệt thị văn hóa dân tộc. Một
số người đã không còn bi t đ n truyền thống yêu nước, khí phách anh hùng,
tính lao động c n cù, sáng tạo, phẩm chất cao quý của dân tộc ta trong suốt
mấy nghìn năm lịch sử [74, 15]. Chẳng hạn trường hợp của Tôn Thọ Tường
ra sức cường điệu sức mạnh vật chất của phương Tây, đồng thời phân tr n ta
kém nên không thể nào địch nổi quân thù… Tôn Thọ Tường khuyên những
người kháng chi n mau đ u hàng Pháp kẻo “hối không kịp”.
Trong khi đó, một nhóm nhà Nho bảo thủ vẫn ti p tục chống đối văn
minh phương Tây và phản đối duy tân. Với những ảnh hưởng và ràng buộc
sâu sắc của học thuy t và ý thức hệ Nho giáo, nhóm nhà Nho bảo thủ tìm mọi
biện cớ để phủ nhận sức mạnh kỹ thuật của phương Tây, chống đối Ki-tô giáo
12
và phản đối lối sống phương Tây.
Tuy nhiên, có một nhóm nhà Nho cấp ti n hơn đã từng bước ti n nhận
và ti p bi n văn minh phương Tây để duy tân đất nước. Tiêu biểu là Nguyễn
Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản... với tư tưởng canh tân đất nước
trong giáo dục; Bùi Viện, Đặng Huy Trứ... với tư tưởng cải cách đất nước trong
phát triển kinh t , nhất là thương nghiệp. Một số trí thức khác lựa chọn dung
hòa văn minh Đông - Tây để thúc đẩy dân tộc mau chóng ti n bộ, tiêu biểu như
trường hợp của Trương V nh Ký. Vào những năm 1920, trong khi Nguyễn An
Ninh, Phạm Quỳnh đề cao việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc với những nội
dung thiên về chủ ngh a quốc gia, Nguyễn Văn V nh đã đưa ra vấn đề bài trừ
hủ tục, coi đó là động lực thúc đẩy sự phát triển của văn hóa và xã hội Việt
Nam. Giới trí thức Việt Nam trong nhóm nhà Nho cấp ti n bên cạnh việc tuyên
truyền cho văn minh phương Tây vẫn không quên phê phán những mặt trái của
văn minh phương Tây và giữ vững tư tưởng “chống đồng hóa”.
Xuất phát từ thái độ mong muốn canh tân đất nước, trước những chính
sách văn hóa mang tính áp đặt của thực dân Pháp, các nhà trí thức Việt Nam
đã có những hành động tích cực trong việc dung hòa mối quan hệ văn hóa
Đông - Tây, ti p nhận văn hóa Pháp để duy tân đất nước.
Từ trước năm 1914, nhiều nhà Nho cấp ti n đã sử dụng báo chí làm
phương tiện truyền bá văn minh phương Tây và cổ động duy tân trên Lục tỉnh
tân văn, Nông cổ mín đàn, Đăng cổ tùng báo. Trong thời gian Chi n tranh th
giới thứ nhất diễn ra (1914 - 1918), một số tờ báo ti p tục hoạt động mạnh
như Đông Dương tạp chí, đồng thời một số tờ báo mới ra đời như Trung Bắc
tân văn, Công thị báo, Nam Phong tạp chí. Mặc dù chịu sự kiểm soát chặt chẽ
của chính quyền Pháp ở Đông Dương với xu hướng thân Pháp nhưng những
tờ báo này vẫn có đóng góp cho việc truyền bá văn minh Pháp - văn minh của
13
một dân tộc phát triển hơn vào Việt Nam.
Đ n thời gian thực dân Pháp ti n hành cuộc khai thác thuộc địa l n thứ
hai (1919 - 1929), giới trí thức Việt Nam đã tham gia vi t bài và làm chủ bút
của hàng chục tờ báo và tạp chí mới ra đời, trong đó có những tờ báo mang
y u tố yêu nước rõ rệt như: Tờ La Cloche felée (Chuông rè) do Nguyễn An
Ninh làm chủ bút, công khai tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam, đòi
các quyền tự do dân chủ và tuyên truyền những tư tưởng ti n bộ; các tờ báo
có xu hướng cách mạng vô sản như tờ Thanh niên, Búi liềm, Công hội đỏ với
nội dung chống đ quốc và tuyên truyền chủ ngh a Mác - Lênin.
Bên cạnh việc tham gia phát triển báo chí, trí thức Việt Nam còn đi
đ u trong việc cải cách giáo dục. Nhóm nhà Nho cấp ti n ở Quảng Nam do
Phan Châu Trinh đứng đ u đã phát động phong trào Duy tân (1905 - 1908),
kêu gọi mọi người học theo phương Tây và từ bỏ hủ tục; Phan Bội Châu
khởi xướng phong trào Đông Du (1905 - 1908) với mục đích đưa thanh niên
Việt Nam sang học tập tại Nhật Bản để cứu quốc; Lương Văn Can thành lập
Trường Đông Kinh ngh a thục (năm 1907) ở Hà Nội nhằm chấn hưng nền
giáo dục nước nhà.
Như vậy, khi ti p xúc với văn hóa Pháp, thái độ chống đối văn hóa
Pháp chi m vị trí chủ đạo trong tư tưởng của t ng lớp trí thức Việt Nam.
Thái độ này bắt nguồn từ lòng yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc. Từ nhận
thức thực dân Pháp là kẻ thù của dân tộc Việt Nam, nhiều trí thức đã cố
tình phủ nhận văn minh phương Tây, đôi khi phản ứng rất gay gắt. Một số
trường hợp sợ hãi trước những thành tựu về văn hóa của một nước phát
triển, từ đó hình thành tâm lý đ u hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy
nhiên, trong xã hội Việt Nam khi đó vẫn có một bộ phận trí thức có thái độ
ti p nhận văn hóa Pháp trên nền tảng ki n thức, hiểu bi t về cả hai nền văn
hóa Đông - Tây, nhận ra những y u tố ti n bộ trong văn hóa Pháp, mong
muốn dung hòa những xung đột trong văn hóa Đông - Tây và từng bước
14
canh tân đất nước [50, 84-86].
1.2. Thực trạng văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945
Những bi n động về kinh t theo chiều hướng tiêu cực trong những năm
1929 - 1933 làm cho nền kinh t của các nước tư bản chủ ngh a, trong đó có
nước Pháp bị khủng hoảng, đình trệ. Giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút
hậu quả nặng nề của khủng hoảng lên nhân dân lao động ở chính quốc cũng
như ở các nước thuộc địa, trong đó có nhân dân Đông Dương. Việc đ u tư vốn
của tư bản Pháp ở Đông Dương h u như ngừng lại. Từ năm 1934 trở đi, tư bản
Pháp tái đ u tư trở lại, tuy nhiên tốc độ và quy mô đ u tư vào các ngành kinh t
giảm hẳn so với những năm 1920. Về chính trị, thực dân Pháp ti n hành khủng
bố một cách tàn bạo ở cả thành thị và nông thôn, nhất là từ sau khởi ngh a Yên
Bái (tháng 2/1930), đồng thời đề cao tư tưởng chống cộng.
Trong điều kiện kinh t , chính trị mới, chính quyền thực dân ở Đông
Dương ti p tục thi hành các chính sách về văn hóa dưới vỏ bọc “khai hóa văn
minh” nhằm tăng cường ảnh hưởng của văn hóa Pháp ở thuộc địa, nhất là về
giáo dục để tranh thủ lôi kéo các t ng lớp thượng lưu, nhất là trí thức. Về cơ
bản, đ n những năm 1930 - 1935, nền văn hóa Việt Nam vẫn mang đặc trưng
của văn hóa thuộc địa, có sự pha trộn giữa y u tố của văn hóa bản địa, văn
hóa Trung Hoa và văn hóa Pháp.
Cũng trong những năm đ u thập niên 1930, bộ phận trí thức Tây học
nước nhà ít bàn đ n vấn đề nên hay không nên ti p nhận văn minh phương
Tây, bởi h u h t trong số họ đã chấp nhận u hóa. Sự ti p bi n văn minh
phương Tây đã diễn ra trên mọi l nh vực của đời sống văn hóa, xã hội. Sau
thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, luồng tư tưởng tư sản đã khi n nhiều
người trước đây tin vào con đường cách mạng tư sản bị mất phương hướng,
một số tán dương chủ thuy t “Pháp - Việt đề huề”, một số khác lại trở nên
tiêu cực, chống phá cách mạng giải phóng dân tộc. Thất bại của khởi ngh a
Yên Bái đ u năm 1930 đã chấm dứt vai trò của ý thức hệ tư sản đối với nhiệm
15
vụ giải phóng dân tộc.
Trong khi đó, tư tưởng vô sản dựa trên lý luận của chủ ngh a Mác -
Lênin d n d n chi m ưu th . Đặc biệt, đ u năm 1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, khác với các tổ chức chính trị đương thời đã thu hút sự chú ý
của đông đảo các giai t ng trong xã hội vào cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp. Sự lan tỏa của luồng tư tưởng vô sản không chỉ tạo
nên một Xô vi t Nghệ T nh sôi nổi, mạnh mẽ trong những năm 1930 -
1931 mà còn xác lập vị th mới cho y u tố Mác-xít trong bức tranh văn hóa
Việt Nam.
Sau khi các Xô vi t Nghệ T nh bị dìm trong biển máu, phong trào đấu
tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam gặp nhiều khó khăn do bị tổn thất
nhiều cả về lực lượng và tổ chức, phương thức hoạt động cũng không còn
thích hợp nữa. Thực dân Pháp triệt để thi hành chính sách khủng bố trắng đối
với những người yêu nước, bắt giam các cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng
sản Đông Dương, đưa đi tù đày ở Hỏa Lò, Kon Tum, Côn Đảo, Lao Bảo, Sơn
La… Đồng thời, thực dân Pháp ti p tục đưa ra những cải cách dân chủ dù rất
hạn ch để củng cố nền thống trị ở Đông Dương. Chúng ra sức sử dụng các
hình thức tổ chức tư tưởng và văn hóa để củng cố nền thống trị. Ngoài những
sắc lệnh, luật lệ thời kỳ 1930 vẫn giữ nguyên hiệu lực, giai cấp thống trị đặt
thêm những luật lệ khắt khe, thi hành ch độ kiểm duyệt gắt gao, tìm cách rút
giấy phép hoặc tịch thu báo chí cách mạng. Thống sứ, thống đốc, khâm sứ có
những nghị định cấm lưu hành, tàng trữ sách báo ti n bộ và cách mạng trong
vùng cai trị của chúng.
Từ năm 1932, thực dân Pháp tổ chức cải tổ giáo dục sơ học, cấp học
bổng cho người bản xứ, xuất bản các sách báo lãng mạn, sách th n tiên, sách
bói toán… nhằm ti p tục thu hút và lôi kéo một bộ phận trong t ng lớp
16
thượng lưu và tiểu tư sản.
Lâm Mậu Quang đã nhận định về thời kỳ này như sau: “Tình th kinh
t , xã hội nằm vào thời kỳ khủng hoảng nguy ngập, ch độ tư bản g n đổ nát,
qu n chúng ta bị thất nghiệp đói rét, lại sắp bị nạn đ quốc chi n tranh…, các
nhà văn phải góp sức vào công việc cứu chữa sự nguy cơ ấy của xã hội, chứ
không thể ngồi yên trên đám mây xanh chót vót ở ngang trời mà ngâm nga và
bảo quản chúng, ngâm nga theo mấy câu thơ mơ mộng như hồi thái bình, no
ấm được đâu” [72, 35-37].
Bối cảnh kinh t , chính trị có nhiều thay đổi đã khi n xã hội Việt Nam
xuất hiện những xu hướng mới trên các l nh vực văn hóa, văn nghệ và tư
tưởng. Trong các chỉnh thể thì trào lưu văn học có ý ngh a bao quát hơn cả.
Phương hướng của nó sẽ có tính chất quy t định đối với các chỉnh thể khác
[39, 88-89]. Trào lưu Thơ Mới, văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê
phán là những dòng văn học ra đời và tồn tại song song trong những năm
1932 - 1935. Đó là những ti ng nói của đội ngũ trí thức tiểu tư sản trước tình
th mới của đất nước.
Giai cấp tư sản dân tộc không dám đấu tranh bằng chính trị và quân sự
chống đ quốc nữa bèn chuyển sang đấu tranh bằng văn hóa chống phong
ki n quan liêu (các báo Phong hóa, Ngày nay, tủ sách Tự lực văn đoàn). Chủ
ngh a lãng mạn trong văn học, nghệ thuật đi đôi với phong trào “vui vẻ, trẻ
trung” có tính chất trụy lạc của thanh niên, trí thức, tư sản thành thị. Phong
trào Thơ Mới đã đánh dấu sự chuyển đổi mang tính cách mạng trong văn học
- một bộ phận quan trọng của văn hóa khi khẳng định vai trò của cá nhân, của
“cái Tôi” trước đây vốn chưa có chỗ đứng trong xã hội phong ki n. Những
đại diện cho phong trào Thơ Mới có Th Lữ, Xuân Diệu...; đại diện cho văn
học lãng mạn là Tự lực văn đoàn và đại diện cho văn học hiện thực có
17
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…
Trên thực t , thực dân Pháp khuy n khích những khuynh hướng tư sản,
cốt đánh lạc hướng qu n chúng, nhất là thanh niên. Chúng cho mở nhiều tiệm
hút và tiệm nhảy ở các thành thị; cho xuất bản các sách ki m hiệp, th n bí;
chấp hưng đạo Phật; ra nhiều sách công giáo chuyên môn “chửi” cộng sản;
phát triển phong trào hướng đạo để nắm lấy thanh niên [7, 54-56].
Đánh giá riêng về những đóng góp, cách tân của Tự lực văn đoàn, nhà
thơ Tú Mỡ có nhiều nhận xét sâu sắc, song có chỗ chưa chính xác và thỏa
đáng: “Đường lối dân tộc, khoa học, đại chúng mà Đảng Cộng sản Việt Nam
nêu lên trong Đề cương văn hóa, Tự lực văn đoàn đã thực hành từ trước”.
Quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” từng trên giấy trắng mực đen, đoàn
không nêu trong tôn chỉ, nhưng trong thực t anh em đã hành động theo quan
điểm đó. Có nhiều điểm “đồng” với đường lối văn học của Đảng Cộng sản
Việt Nam, như vậy, Tự lực văn đoàn đáng lẽ rất có thể đi với Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nhưng đáng ti c giữa đường đứt gánh” [49]. Dù sao, hoạt động
của nhóm Tự lực văn đoàn cũng góp ph n đẩy phong trào văn nghệ Việt Nam
ti n lên một bước.
Tuy nhiên, đứng ở một góc nhìn khác, chủ trương của Tự lực văn đoàn
được nhận định là “không những không ti n bộ mà còn phản ti n bộ. Nó
không có công mà có tội với nhân dân. Sau thất bại của cách mạng tư sản,
nhân dân càng bị áp bức và mê muội, Tự lực văn đoàn tung ra khẩu hiệu “yêu
đời”, “vui vẻ, trẻ trung” và gắn nhãn “cải cách” để lôi kéo thanh niên tiểu tư
sản đang hoang mang trước thời cục. Văn, thơ, tiểu thuy t của nó đưa thanh
niên vào con đường lãng mạn, buông thả tự do cá nhân, thoát ly đấu tranh,
trốn tránh thực t . Báo chí của nó không dám động đ n nền tảng của đ quốc
và phong ki n, chẳng qua chỉ bóng gió nêu một vài nhược điểm của chúng và
cạnh khóe một số quan lại. Lối trào phúng nhởn nhơ của nó không hề làm lay
18
chuyển chút nào cái uy th của bọn áp bức, bóc lột nhân dân mà trái lại đã
phục vụ bọn này. Những uất hận của nhân dân súc tích lại đã một ph n lạc
hướng không chuyển thành hành động đấu tranh mà chỉ thoát ra những ti ng
cười kiểu Phong hóa. Thêm nữa, Ngày nay và Phong hóa đã nói xấu nông
dân ở hai nhân vật Lý Toét, Xã Xệ và do đó đã hướng cho nhân dân quên khả
năng cách mạng của nông dân để chỉ mù quáng tin theo luận điệu cải cách của
nhóm Tự lực…” [63, 154-155].
Bên cạnh các trào lưu trong văn học, một dòng báo chí xuất bản công
khai, hợp pháp ti p tục phát triển về số lượng đã trở thành một vũ khí đấu
tranh cách mạng của nhiều đảng viên cộng sản trên mặt trận văn hóa, văn
nghệ. Tuy dòng báo chí công khai, hợp pháp vẫn chịu sự áp đặt của chính
quyền thuộc địa, ti ng nói của những người có tinh th n dân tộc, theo quan
điểm cách mạng vẫn bị chính quyền thực dân kiểm soát song dòng báo chí
này đã phản ánh được thực thể xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, giúp cho một bộ
phận trong nhân dân giải quy t được những vướng mắc trong tâm trạng, có
khả năng ti p thu những giá trị tinh th n cao đẹp của nhân loại. Trong khi đó,
dòng báo chí xuất bản không công khai hợp pháp vẫn song song tồn tại, k t
hợp với báo chí công khai, hợp pháp tạo thành một mặt trận báo chí cách
mạng, chuẩn bị cho sự ra đời nền văn hóa mới Việt Nam.
Từ năm 1935 trở đi, ở Đông Dương, cuộc khủng hoảng kinh t phục hồi
chậm. Các công ty độc quyền của tư bản Pháp ra sức bành trướng th lực, làm
phá sản hàng loạt các chủ tư bản nhỏ người Pháp và người Việt. Tuy vậy, do
chính phủ ở chính quốc đã ngả theo xu hướng “cánh tả” nên chính phủ thuộc địa
không thể thi hành chính sách khủng bố trắng tàn bạo như trước. Các t ng lớp
nhân dân và cả một số bộ phận trong giới thượng lưu đều mong muốn có những
thay đổi c n thi t trong đời sống kinh t , xã hội, nhất là khi nghe tin chính phủ
Pháp sẽ cử ban điều tra của Nghị viện Pháp sang Đông Dương, nhiều người ở
19
thuộc địa tỏ ý trông chờ hy vọng vào những cải cách dân chủ.
Trước chuyển bi n chung của tình hình, phong trào qu n chúng dâng
lên mạnh mẽ, ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày một lan rộng.
Thực dân Pháp từ chỗ đối phó thận trọng đã dung túng cho những ph n tử
phản động thuộc địa, công khai đàn áp phong trào, đồng thời tìm cách lôi kéo,
chia rẽ phong trào, xoa dịu qu n chúng. Chính phủ Pháp buộc phải cho ban
hành tại thuộc địa một số quyền tự do, dân chủ hạn ch .
Từ năm 1937, theo chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về
việc tận dụng các khả năng công khai hợp pháp, Mặt trận Dân chủ Đông
Dương và các tổ chức đoàn thể qu n chúng của Mặt trận như Đoàn Thanh
niên dân chủ, Hội cứu t bình dân, Công hội, Nông hội ra đời. Ở các thành thị
và nông thôn phát triển các tổ chức hội qu n chúng như ái hữu, tương t , thể
thao, âm nhạc, kịch, chèo, hội cấy, hội gặt… Để tập hợp các lực lượng khác,
Mặt trận Dân chủ Đông Dương thông qua các nhóm cộng sản công khai
(nhóm Tin Tức, Ngày Nay ở Bắc Kỳ, Dân Chúng ở Nam Kỳ, một bộ phận
trong viện dân biểu ở Trung Kỳ) đã liên minh với các chi nhánh Đảng Xã hội
Pháp, Đảng Lập hi n, Viện Dân biểu lập tổ chức cơ sở của mặt trận.
Với việc tập hợp nhiều thành ph n xã hội, Mặt trận Dân chủ Đông
Dương có vai trò mới trong cuộc đấu tranh, nhất là trong đấu tranh nghị
trường. Những cuộc b u cử Viện dân biểu Trung Kỳ, Viện dân biểu Bắc Kỳ,
Hội đồng thành phố Hà Nội, Đại hội đồng kinh t - tài chính Đông Dương
trong 2 năm 1937 - 1938 đã l n đ u tiên gây sự chú ý lớn trong các t ng lớp
dân chúng hữu quan bởi sự tham gia của Mặt trận Dân chủ. Trong cao trào
dân chủ những năm 1936 - 1939, đời sống tư tưởng, văn hóa của dân tộc cũng
có nhiều thay đổi, phản ánh sự chuyển bi n của đời sống kinh t , xã hội thuộc
địa những năm trước chi n tranh.
Trong bối cảnh kinh t , xã hội như vậy, ngay từ năm 1935, Đảng đã
20
lãnh đạo một cuộc tranh đấu về nghệ thuật chống lại quan điểm tư sản lạc hậu
- quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” - lúc đó về mặt khách quan đã ru ngủ
qu n chúng. Những năm 1936 - 1939, khi có Mặt trận Bình dân thành lập ở
Pháp, Mặt trận Dân chủ thành lập ở Đông Dương, Đảng Cộng sản Việt Nam
lợi dụng hình thức đấu tranh công khai, phát hành rộng rãi sách báo ti n bộ,
gây tranh luận náo nhiệt về tư tưởng, về quan điểm (bút chi n giữa hai phái
duy tâm và duy vật, giữa “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân
sinh”). Cuộc tranh luận đề cập nhiều đ n vấn đề lý luận, quan điểm (văn nghệ
và chính trị, chức năng của văn nghệ, tính giai cấp, tính văn nghệ, quan hệ
giữa nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong sáng tác, tự do trong sáng tác),
đồng thời cũng bàn về các tác giả Đông - Tây, kim - cổ. Đây là một cuộc
tranh luận về quan điểm nghệ thuật lớn nhất, diễn ra trên báo chí công khai ở
nước ta trong thời kỳ 1935 - 1939, có quy mô rộng rãi, t m vóc đặc biệt và ý
ngh a vô cùng sâu sắc.
Lợi dụng các hình thức hoạt động công khai, cuộc tranh luận về nghệ
thuật có dịp mở rộng hơn. Đồng thời, các hoạt động khác về văn hóa, nhất là
báo chí của Đảng và việc xuất bản sách Mác-xít thời gian này được phát triển
chưa từng thấy. Cuốn Vấn đề dân cày của hai đồng chí Qua Ninh (Trường
Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) được xuất bản không những có tác
dụng đối với cách mạng nói chung mà còn có tác dụng đặc biệt với văn nghệ
(có tác dụng tích cực đối với những nhà văn hiện thực phê phán). Bên cạnh
các cuốn sách được xuất bản, báo chí cách mạng như một dòng chảy lớn của
nền văn hóa Việt Nam. Thời kỳ 1936 - 1939 có tới vài ba chục tờ báo cách
mạng ra bằng chữ Pháp hoặc chữ Việt. Trong số đó có những tờ như Notre
Voix (Tiếng nói của chúng ta) có thể được xem như “cương l nh chung” của
các tờ báo cộng sản trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ.
Cùng với báo chí cách mạng, nhiều nhà văn ti n bộ vi t những tác
21
phẩm có giá trị như Tắt đèn, Việc làng của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của
Nguyễn Công Hoan… trong dòng văn học hiện thực phê phán. Tr n Minh
Tước có bài vi t ca ngợi tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố. Tác giả Như
Phong đề cao tiểu thuy t phục vụ nhân dân lao động, chống lại các biểu hiện
của chủ ngh a lãng mạn tiêu cực trong nhóm Tự lực văn đoàn và một số nghệ
s khác.
Cũng từ năm 1938, thơ Tố Hữu bắt đ u chinh phục trái tim qu n chúng.
Trên báo Mới lúc bấy giờ đăng khá nhiều bài thơ của Tố Hữu và bài giới thiệu
Tố Hữu - nhà thơ của tương lai. Những bài thơ của Tố Hữu: Tháp đổ, Dửng
dưng, Tiếng sáo ly quê… mang ý đồ rõ rệt chống lại chủ ngh a lãng mạn tiêu
cực trong thơ, chống lại khuynh hướng tách nghệ thuật ra khỏi đời sống của
nhân dân lao động.
Cũng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, một phong trào văn nghệ dân chủ, văn nghệ nhân dân phát
triển mạnh. L n đ u tiên, qu n chúng nhân dân Việt Nam được công khai sinh
hoạt chính trị một ph n nào. L n đ u tiên, văn học, âm nhạc, hội họa cách
mạng và ti n bộ lợi dụng khả năng hợp pháp, chi m l nh những vị trí mới để
phục vụ qu n chúng nhân dân [7, 54-56].
Cuối năm 1937, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát động phong
trào truyền bá quốc ngữ nhằm giúp nhân dân lao động thoát nạn mù chữ. Có
thể thấy, sự nghiệp lớn nhất của Đảng trong thời kỳ ấy là gây dựng và duy trì
Hội truyền bá chữ Quốc ngữ. Nhiều người ủng hộ tiền, giấy, bút, mực, cho
mượn nhà làm địa điểm lớp học. Thanh niên, học sinh đảm nhiệm dạy học và
vận động người đi học. Công nhân, nông dân và những người lao động hăng
hái đi học.
Bên cạnh văn hóa cách mạng có tính chất dân tộc và dân chủ, lúc đó có
phong trào văn hóa cải cách gồm hai khuynh hướng: Khuynh hướng ti n bộ
22
của nhân dân lợi dụng khả năng hợp pháp mà thực hành cải cách dân chủ và
khuynh hướng phản động của thực dân Pháp và tay sai dùng chính sách cải
lương hòng lừa phỉnh, mua chuộc qu n chúng.
Nhận định về thời kỳ này, đồng chí Trường Chinh vi t: “L n đ u tiên ở
nước ta văn chương Mác-xít được phổ bi n rộng rãi trong nhân dân qua
những tờ báo của Đảng và của Mặt trận Dân chủ, qua những tập sách có khi
là của những người cộng sản hợp tác với những người có tư tưởng yêu nước,
dân chủ khác xuất bản” [8, 125].
Năm 1939, Chi n tranh Th giới l n thứ hai bùng nổ. Từ đây, th giới
ti n bộ và cách mạng bắt đ u thời kỳ mới, tiêu diệt chủ ngh a phát-xít, mở
rộng trận địa cách mạng. Từ châu u, chi n tranh lan nhanh sang các châu lục
khác. Năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Sau đó, Nhật và Pháp
câu k t với nhau cùng thống trị và bóc lột nhân dân ba nước Đông Dương.
Những khó khăn về kinh t và căng thẳng về chính trị đã gia tăng mâu
thuẫn dân tộc và giai cấp xã hội ở Việt Nam. Tình hình đó đã làm phân hóa
giới trí thức Việt Nam. Một bộ phận trí thức muốn thoát khỏi cuộc sống khổ
đau hiện tại bằng cách ẩn mình trong “tháp ngà văn chương, nghệ thuật lãng
mạn”. Một bộ phận trí thức khác thông qua các tác phẩm văn học, nghệ thuật
để phê phán xã hội đương thời. Dù đã rất nỗ lực nhưng trí thức Tây học vẫn
không thể xây dựng được một nền văn hóa độc lập dựa trên cơ sở về “dung
hòa”, “dung hóa” và “dung hợp” 2 nền văn minh Đông - Tây, bởi thực dân
Pháp không muốn trí thức Việt Nam đi quá giới hạn mà chúng cho phép.
Từ năm 1940, văn hóa Việt Nam lại chịu ảnh hưởng một ph n nào của
văn hóa Nhật. Trình độ khoa học, kỹ thuật nước ta thấp kém, kinh t nước ta
căn bản là kinh t phong ki n và nửa phong ki n, còn rất nhiều tàn tích cổ
xưa, về chính trị, nước ta khi là nửa thuộc địa, khi là thuộc địa; … cho nên
tinh hoa của dân tộc bị kìm hãm và văn hóa nước nhà chưa phát huy được đ y
23
đủ bản sắc của mình [7, 35-37].
Tháp ngà văn chương từng bước sụp đổ. Sự trói buộc của thực dân
Pháp làm cho nhiều trí thức Việt Nam hiểu ra rằng, chỉ có độc lập dân tộc
thực sự mới có thể xây dựng một nền văn hóa độc lập, do đó, phải đấu tranh
để giành lại độc lập dân tộc. Nhưng đấu tranh bằng con đường nào lại là một
vấn đề lớn và nan giải, nhất là khi ý thức hệ tư sản đã bất lực trước nhiệm vụ
giải phóng dân tộc.
Tình hình chính trị và tư tưởng trong xã hội ở thời kỳ này rất phức tạp.
Một mặt, do ảnh hưởng của phong trào Mặt trận dân chủ, trong giới trí thức,
những văn nghệ s , học sinh muốn ti n bộ, muốn tìm hiểu những cái mới,
nhưng họ lại bị che giấu (vì ch độ kiểm duyệt h t sức khắt khe), bị đàn áp.
Mặt khác, những khuynh hướng về văn hóa lúc đó tương đối hỗn độn: Nhóm
Thanh Nghị có tư tưởng dân tộc, nhưng mang tính chất cải lương tư sản;
nhóm Tri tân đề cao dân tộc trong văn hóa, nhưng mang tính chất bảo thủ, chỉ
chú ý tìm tòi, nghiên cứu những áng văn cổ, bia cổ… Nhóm Tân Việt xuất
bản các sách nghiên cứu về Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo đ n Nít-sơ, Anh-
xtanh, Căng, Đề-các… Nhóm Hàn Thuyên gồm những tay Tờ-rốt-xkít nhận
tiền của cả thực dân Pháp và phát xít Nhật đề ra “tân văn hóa”, xuất bản sách,
nghiên cứu về lịch sử loài người, lịch sử th giới, nghiên cứu về lịch sử Việt
Nam, về văn học Việt Nam… ôm đồm thành một mớ hỗn độn, ph n lớn dịch
từ sách nước ngoài, từ các từ điển bách khoa… Sách của Hàn Thuyên vẫn tồn
tại, trình bày tư tưởng xã hội dài dòng và duy vật máy móc, có ph n xuyên tạc
học thuy t Mác đã được in ra và thực dân Pháp lợi dụng đặng ch bớt sức
mạnh tuyên truyền về chủ ngh a yêu nước, chủ ngh a dân chủ của Việt Minh.
Nhóm Xuân Thu nhã tập có khuynh hướng dân tộc, nhưng xa rời qu n chúng
ở chỗ nghệ thuật c u kỳ, tắc tị và ở khuynh hướng thoát ly của nó.
Tình hình chi n tranh, họa phát xít, sự đàn áp của đ quốc, tình trạng
24
đói khổ gây nên một tâm trạng mệt mỏi, u uất, chán chường, bi quan… Các
khuynh hướng nghệ thuật tiêu cực, lẩn trốn trước đây trong giai đoạn này trở
nên th n bí, điên loạn, trụy lạc, hoài cổ… Nhóm Tự lực văn đoàn lúc này “ôm
chân” phát xít Nhật.
Trong bối cảnh văn hóa có nhiều phức tạp, bên cạnh nền văn nghệ
hợp pháp, văn học bí mật của cách mạng Việt Nam vẫn phát triển mạnh
mẽ. Tại nhà tù Quảng Tây (Trung Quốc), Hồ Chí Minh vi t Nhật ký trong
tù. Người đòi hỏi “trong thơ nên có thép”. Với bài Là thi sĩ, Sóng Hồng
(Trường Chinh) đã phê phán thái độ ủy mị của nhiều nhà thơ lúc đó, kêu
gọi các nhà thơ “dùng cán bút làm đòn xoay ch độ” và dùng thơ làm “bom
đạn phá cường quyền”.
Thời gian này, văn hóa Việt Nam chứng ki n sự phát triển mạnh mẽ
trong bóng tối và chi u rọi ánh sáng ra ngoài của một nền văn học cách mạng
có tính chất dân tộc và dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận
Việt Minh. Bên cạnh những sách xuất bản bí mật có cả một “rừng” báo chí
bất hợp pháp lưu hành khắp đất nước: Giải phóng, Cứu quốc, Cờ giải phóng,
Tạp chí Cộng sản, Việt Nam độc lập (Việt-lập), Hồn nước, Bãi Sậy, Đuổi giặc
nước, Bẻ xiềng sắt, Gái ra trận, Tiền phong, Kèn gọi lính, Lao động, Hiệp
lực, Mê-linh, Kháng địch, Khởi nghĩa, Quyết thắng, Độc lập, Nước Nam mới,
Quân giải phóng…
Trong nhà tù, anh chị em chính trị phạm cũng tìm cách ra báo. Báo của
anh chị em chính trị phạm xuất bản trong nhà tù vào hồi này cũng đáng chú ý.
Chẳng hạn như các tờ Suối reo (ở Sơn La) và Giòng sông Công (ở Bá Vân)…
[7, 54-56]. Loại báo chí này tuy không nhiều bằng thời kỳ trước nhưng về
chất lượng, nội dung bài vi t, hình thức trình bày đ n “tuổi thọ” của một số tờ
báo thì tốt và lâu dài hơn. Điều đó chứng tỏ cơ sở vững chắc cho một nền báo
chí cách mạng. Các tờ Việt Nam độc lập, Cờ giải phóng, Cứu quốc phản ánh
25
trung thực, sinh động hoạt động báo chí và tư tưởng văn hóa mới của Đảng,
Mặt trận Việt Minh từ Trung ương đ n các địa phương. Báo chí cách mạng
không những khẳng định từng bước đi vững chắc trong quá trình hình thành
nền báo chí cách mạng Việt Nam mà còn góp sức vào việc khẳng định những
y u tố văn hóa, văn nghệ mới thông qua việc đăng tải nhiều bài thơ, ca dao,
các thể loại văn học như tùy bút, phóng sự [56, 85].
Đ u năm 1943, Đảng Cộng sản Việt Nam quy t định thành lập “tổ văn
hóa cứu quốc” mà hạt nhân của nó là một số văn sỹ trí thức cách mạng tuyên
truyền chủ ngh a Mác và lôi kéo học sinh, sinh viên. Cũng trong năm, Đảng
Cộng sản Việt Nam phát biểu Đề cương văn hóa Việt Nam, xây dựng và phát
triển Hội Văn hóa cứu quốc. Các báo của Mặt trận Việt Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam phê bình nghiêm khắc những khuynh hướng sai l m,
phản động của văn nghệ hợp pháp…
Tiểu kết chƣơng 1:
1. Sự hiện diện của văn hóa Pháp ở Việt Nam trước năm 1930 đã tạo
nên một bức tranh văn hóa Việt Nam bao gồm cả 3 y u tố: Văn hóa bản địa,
văn hóa Trung Hoa và văn hóa Pháp. Trên nền tảng sự phân hóa trong tư
tưởng, thái độ của t ng lớp trí thức trước những chính sách về văn hóa của
thực dân Pháp, một bộ phận trí thức cấp ti n đã d n đưa nền văn hóa Việt
Nam chuyển mình và mang những sắc thái mới trong giai đoạn 1930 - 1945.
2. Giai đoạn 1930 - 1935, trong khi vai trò của ý thức hệ tư sản đối với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã sụp đổ thì văn hóa tư sản, với khẩu hiệu “vui
vẻ, trẻ trung” lại đang trong thời kỳ đỉnh cao. Thực trạng này đòi hỏi Đảng
Cộng sản Việt Nam c n quan tâm định hướng sự phát triển của văn hóa, tư
tưởng ở Việt Nam nhằm tới mục đích lớn nhất là giải phóng dân tộc.
3. Giai đoạn 1935 - 1939, những cuộc đấu tranh về tư tưởng, văn hóa
diễn ra quy t liệt hơn. Những người cộng sản đã giương cao ngọn cờ của chủ
26
ngh a Mác - Lênin, đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận văn hóa,
chống lại tư tưởng phong ki n và tư sản. Từ năm 1939, đời sống tư tưởng, văn
hóa của dân tộc cũng có nhiều thay đổi, phản ánh sự chuyển bi n của đời
sống kinh t , xã hội thuộc địa những năm trước khi Chi n tranh th giới thứ
hai nổ ra. Điểm nổi bật trong bức tranh văn hóa Việt Nam giai đoạn 1939 -
1945 là sự thắng th tư tưởng văn hóa vô sản trong các cuộc tranh luận về văn
hóa, văn nghệ, ngược lại là sự “lụi tàn” của tư tưởng văn hóa tư sản. Quá trình
vươn lên mạnh mẽ của tư tưởng văn hóa vô sản đã góp ph n hình thành dòng
báo chí cách mạng ti n bộ, một nền văn học cách mạng dồi dào sức sống và
những tổ chức tuyên truyền văn hóa Mác-xít. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước xây dựng các quan điểm về văn
27
hóa Việt Nam phù hợp với từng bối cảnh kinh t , xã hội.
Chƣơng 2
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA VÀ
VĂN NGHỆ VIỆT NAM
2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa
Trong khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài
người, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành
hai loại hình hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh th n”.
Do đó, trên cơ sở định ngh a văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
th n do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá
trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ
lịch sử nhất định, văn hóa được hiểu bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa
tinh th n. Trong đó, văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được
thể hiện và k t tinh trong sản phẩm vật chất; văn hóa tinh th n là tổng thể các
tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh th n và hoạt
động tinh th n của con người. Nói tới văn hóa là nói tới con người, bởi vậy,
văn hóa có mặt trong mọt hoạt động của đời sống con người.
Một trong những phát ki n lớn của C.Mác và Ph.Ăng-ghen là tính giai
cấp của văn hóa. Văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính
giai cấp. Sự phát triển của văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định về cơ sở
kinh t , chính trị của một ch độ xã hội nhất định. Điều kiện sinh hoạt vật chất
của mỗi xã hội và mỗi giai cấp là khác nhau, đặc biệt là của giai cấp thống trị,
là y u tố quy t định hình thành các nền văn hóa khác nhau. Do đó, nền văn
hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành
và phát triển trên cơ sở kinh t , chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý
thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quy t định
28
hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa. Văn hóa
luôn có tính thừa k . Sự k thừa trong văn hóa luôn mang tính chất giai cấp và
được biểu hiện ở nền văn hóa của mỗi thời kỳ lịch sử trên cơ sở kinh t , chính
trị của nó. Chính quan điểm về tính giai cấp của C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã
“xua tan đám hỏa mù trong văn hóa, văn nghệ và bi n văn hóa, văn nghệ
thành vũ khí đấu tranh của giai cấp công nhân” [75, 73].
Theo quan điểm của C.Mác, một nền kinh t lành mạnh được xây dựng
trên những nguyên tắc công bằng, thật sự vì đời sống của người lao động sẽ là
điều kiện để xây dựng một nền văn hóa tinh th n lành mạnh và ngược lại, một
nền kinh t được xây dựng trên cơ sở bất bình đẳng của ch độ tư hữu với sự
phân hóa sâu sắc thì sẽ không có được nền văn hóa lành mạnh. N u kinh t
là cơ sở vật chất của nền văn hóa thì chính trị là y u tố quy định khuynh
hướng phát triển của nền văn hóa, tạo nền nội dung cho ý thức hệ của văn
hóa. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử
đều in dấu ấn trong lịch sử phát triển của văn hóa và tạo ra nền văn hóa của
xã hội đó.
Đ n thời Lênin, đi đôi với việc đưa ra học thuy t Đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản đã k thừa tinh hoa trong quan điểm C.Mác và Ph.Ăng-ghen
về văn hóa, đồng thời nêu lên vấn đề tính Đảng trong văn hóa. Đây là một
cống hi n lớn của Lênin vào mỹ học Mác-xít [75, 73].
Nguyên tắc tính Đảng trong văn học - một bộ phận quan trọng của văn
hóa đã được Lênin thể hiện trong bài vi t “Tổ chức Đảng và văn học có tính
Đảng”. Không phải ngẫu nhiên mà l n đ u tiên nêu lên nguyên tắc tính Đảng,
Lênin tập trung bàn về chỉnh thể này nhiều hơn cả. Ý ngh a cốt lõi trong luận
điểm của Lênin là ở chỗ nền văn học có tính Đảng là nền văn học phải trở
thành một bộ phận hữu cơ trong sự nghiệp của Đảng, do Đảng lãnh đạo
không những về mặt tư tưởng mà cả về mặt tổ chức: “Văn học phải trở thành
29
văn học có tính Đảng. Đối lập với những tập tục của giai cấp vô sản, đối lập
với sách báo có tính chất kinh doanh, buôn bán của giai cấp tư sản, đối lập với
chủ ngh a hám danh vị và chủ ngh a cá nhân, chủ ngh a vô chính phủ theo lối
ông tướng và cái tệ chạy theo lợi lộc về mặt văn học của giai cấp tư sản - giai
cấp vô sản xã hội chủ ngh a phải đề ra nguyên tắc văn học có tính Đảng, phát
triển nguyên tắc đó và thể hiện nguyên tắc đó dưới hình thức càng hoàn bị và
càng trọn vẹn chừng nào hay chừng ấy… Sự nghiệp văn học phải bi n thành
một bộ phận trong sự nghiệp chung của giai cấp vô sản…” [39, 88-89].
Lênin cũng đã bắt đ u đề cập đ n tính Đảng của người nghệ s về mặt
tư tưởng, cũng như về mặt tổ chức, mặc dù chưa thật tỷ mỷ: “Đả đảo những
nhà văn không có tính Đảng. Đả đảo những nhà văn siêu nhân… Đảng là một
đoàn thể tự nguyện, n u như nó không tẩy sạch khỏi bản thân nó những đảng
viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng thì nó không tránh khỏi tan rã, tiền
tan rã về tư tưởng, sau tan rã về vật chất. Lênin còn có chủ trương nhà văn
phải có quan hệ gắn bó và chịu trách nhiệm trước tổ chức Đảng: “Các nhà văn
nhất định phải tham gia tổ chức Đảng”. Lênin đặt vấn đề tự do sáng tác trên
những bình diện khác nhau: “Tự do không những theo cái ngh a thoát khỏi sự
áp bức của cảnh sát, mà còn tự do với ý ngh a thoát khỏi chủ ngh a hám danh
vị…”. Tự do chân chính và tự do chủ ngh a (cá nhân, vô chính phủ) là hai
việc khác nhau. Tính Đảng hoàn toàn thống nhất với tự do chân chính, nhưng
hoàn toàn đối lập với tự do chủ ngh a…
Lênin muốn nhấn mạnh tính Đảng cộng sản trong văn học là vô cùng
gắn bó với tính giai cấp vô sản. Cái trước chính là biểu hiện ch độ của cái
sau… Trong thực tiễn phong trào văn học vô sản th giới cũng không phải
không có hiện tượng nền văn học mang danh “tính Đảng cộng sản” nhưng lại
rất xa lạ với tư tưởng giai cấp công nhân. Nền văn học có tính Đảng mà
Người đề xuất phải nhằm phục vụ cho quyền lợi của đại đa số nhân dân lao
30
động và nâng cao sự giác ngộ của nhân dân về mọi mặt, không những về
chính trị mà còn về văn hóa thẩm mỹ… Đó sẽ là văn học tự do vì rằng nó sẽ
không phải là để phục vụ các bà ăn uống phè phỡn, không phải là để phục vụ
mấy vạn người lớp trên béo phị đ n phát chán, phát khổ ra, mà là để phục vụ
hàng triệu và hàng chục triệu nhân dân lao động tức là tinh hoa, lực lượng
tương lai của đất nước”.
Bên cạnh đó, Lênin cũng nhấn mạnh nền văn học có tính Đảng phải
phản ánh chân thật hiện thực đấu tranh cách mạng: “Đó sẽ là văn học tự do,
nó dùng kinh nghiệm và công tác sinh động của giai cấp vô sản xã hội chủ
ngh a để làm giàu những thành tựu cao nhất của tư tưởng cách mạng của nhân
loại. Nó xây dựng tác dụng qua lại thường xuyên giữa kinh nghiệm quá khứ
và kinh nghiệm hiện nay”.
Với Lênin, một nền văn học có tính Đảng phải được vũ trang bằng tư
tưởng của giai cấp công nhân, phải phục vụ tuyệt đại đa số nhân dân lao động,
bồi dưỡng họ. Và cuối cùng, một nền văn học có tính Đảng không phải chỉ là
thể hiện tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng ở dạng quan niệm, một
cách tư biện, cũng không phải phản ánh nguyện vọng của qu n chúng một
cách ảo tưởng, mà phải k t hợp chặt chẽ với việc phản ánh chân thật cuộc
sống. Tính Đảng, do đó là thống nhất với tính giai cấp, tính nhân dân và tính
chân thật. Nhưng là một sự thống nhất biện chứng [39, 90].
Lênin đề cập tới việc xây dựng một nền văn hóa có nội dung tư tưởng
mới, một nền văn hóa có ý ngh a mới và chưa từng thấy trong đời sống nhân
dân. N u không nhìn thấy nội dung mới, xã hội chủ ngh a có tính chất nhân
dân của văn hóa Xô-vi t thì sẽ không hiểu được đặc điểm lịch sử của nó là
nền văn hóa của ch độ mới…
Sau khi giành được thắng lợi hồi tháng Mười, Đảng đã đề ra nhiệm vụ
làm cho nhân dân thực t trở thành chủ nhân của mọi của cải văn hóa, dân
31
chủ hóa văn hóa, giúp đỡ cho hàng triệu qu n chúng lao động hấp thụ được
thành tích của văn hóa, lợi dụng mọi thành tích của khoa học và văn hóa để
xây dựng xã hội mới, xã hội chủ ngh a. Đảng đã có thể bắt tay vào giải quy t
nhiệm vụ ấy một cách mạnh dạn, kiên quy t theo tinh th n cách mạng và
trong phạm vi cả nước bởi vì ngay trước Cách mạng Tháng Mười, chủ ngh a
Mác - Lênin đã đề ra những nguyên tắc hoạt động quan trọng nhất về mặt
văn hóa.
Trong các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen đều xác định thái độ
của chủ ngh a cộng sản khoa học đối với văn hóa quá khứ và đều vạch ra
nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa mới, dân chủ, gắn liền với cuộc sống và
đấu tranh của nhân dân lao động. Lênin đã phát triển tư tưởng của C.Mác về
xây dựng một nền văn hóa mới xã hội chủ ngh a. Lênin đã phê phán một cách
sâu sắc và khoa học quan niệm duy tâm của giai cấp tư sản cho rằng có một
nền văn hóa dân tộc tựa hồ như thống nhất và đứng trên các giai cấp. Đồng
thời, Lênin đưa ra nguyên lý về hai dòng văn hóa trong nền văn hóa của mỗi
xã hội: Văn hóa nhân dân dân chủ và văn hóa của các giai cấp bóc lột. Lênin
chỉ rõ, trong mỗi nền văn hóa dân tộc đều có nhân tố của văn hóa dân chủ và
xã hội chủ ngh a, mặc dù những nhân tố ấy chưa phát triển [57, 3-4].
Đánh đuổi địa chủ và tư bản - đó là tiền đề quan trọng nhất của văn
minh. Nhưng n u cách mạng là tiền đề mạnh mẽ của sự phát triển văn hóa thì
sự phát triển của văn hóa lại trở thành lực lượng mạnh mẽ nhất thúc đẩy xã
hội mới, xã hội chủ ngh a ti n lên… Văn hóa xã hội chủ ngh a là sự phát triển
hợp với quy luật của kho tàng trí thức mà loài người sáng tạo ra trong suốt
thời kỳ phát triển của mình. Lênin nói: “Chủ ngh a Mác sở d được toàn th
giới công nhận là hệ thống tư tưởng của giai cấp vô sản cách mạng, chính là
vì chủ ngh a Mác hoàn toàn không vứt bỏ những thành quả quý giá nhất của
các thời đại trước, mà trái lại, chủ ngh a Mác hấp thu và ch bi n mọi cái quý
giá mà tư tưởng loài người và văn hóa nhân loại tích lũy được trong hơn
32
2.000 năm phát triển”.
Lênin chống lại quan điểm của giai cấp tư sản tự do về tính k thừa lịch
sử, quan điểm ấy coi văn hóa của một nước nào đó là một dòng suối duy nhất
hòa lẫn văn hóa dân chủ và văn hóa của giai cấp bóc lột… Chủ ngh a Mác
không điều hòa với những quan điểm duy tâm về văn hóa và nghệ thuật, nó
bóc tr n mưu mô tách rời lịch sử văn hóa, khoa học, nghệ thuật khỏi xã hội,
khỏi các cuộc đấu tranh xã hội. Nhưng chủ ngh a Mác cũng đấu tranh không
điều hòa với thái độ thô sơ, t m thường đối với vấn đề phức tạp và t nhị về
mối liên hệ giữa sinh hoạt tinh th n và hoạt động của các giai cấp xã hội…
Trong cuộc đấu tranh với chủ ngh a duy tâm và chủ ngh a duy vật t m
thường, Lênin đã nêu gương về thái độ trân trọng, thái độ săn sóc đối với cái
truyền thống văn hóa và thái độ bảo vệ nó chống sự xâm phạm của kẻ thù
phản động của văn hóa… Lênin cũng h t sức chú ý và h t sức trìu m n những
hiện tượng văn hóa mới. Người đánh giá rất cao nghệ thuật hiện thực chủ
ngh a trung thành với đời sống [57, 10-17].
Về xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a, chủ ngh a Mác - Lênin cho
rằng từ hai tiền đề: Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành
được chính quyền và ch độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ y u được
thi t lập sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của nền văn hóa xã hội chủ ngh a. Đây
là nền văn hóa của xã hội mới c n được hình thành trong tương lai.
Nền văn hóa xã hội chủ ngh a là nền văn hóa có ba đặc trưng cơ bản.
Thứ nhất, nền văn hóa có hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội
dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quy t định phương hướng phát triển của nền
văn hóa xã hội chủ ngh a, sau khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp c m
quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh th n của xã hội.
Thứ hai, nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc,
33
từng bước loại bỏ tư tưởng “văn hóa thượng lưu”, đưa giai cấp công nhân,
đông đảo nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa, k thừa những giá trị văn hóa truyền thống và ti p thu tinh hoa
văn hóa nhân loại.
Thứ ba, nền văn hóa không hình thành và phát triển một cách tự phát
mà được hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua tổ chức Đảng Cộng sản, có sự quản lý của Nhà
nước xã hội chủ ngh a. Các đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ ngh a vừa
thể hiện tính giai cấp, vừa bao hàm tính Đảng sâu sắc.
Chủ ngh a Mác - Lênin cũng nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hóa xã
hội chủ ngh a mang tính tất y u bởi tồn tại xã hội quy t định ý thức xã hội,
phương thức sản xuất vật chất quy t định phương thức sản xuất tinh th n, do
đó, khi phương thức sản xuất tư bản chủ ngh a bị xóa bỏ, phương thức sản
xuất mới xã hội chủ ngh a ra đời thì việc xây dựng nền văn hóa mới xã hội
chủ ngh a cũng đồng thời diễn ra nhằm thay đổi bản chất của ý thức xã hội,
xác lập quyền lực kinh t và quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
Việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a là tất y u trong quá trình
cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh th n của ch độ cũ để lại nhằm giải
phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ
lạc hậu. Mặt khác, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a còn là một yêu c u
c n thi t trong việc đưa qu n chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng
tạo và hưởng thụ văn hóa tinh th n. Đó là một nhiệm vụ cơ bản, phức tạp, lâu
dài của quá trình xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ ngh a. Về thực chất,
đây cũng chính là cuộc đấu tranh giai cấp trên l nh vực văn hóa, đấu tranh giữa
hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản trong quá trình phát triển.
Việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a là tất y u trong quá trình
34
nâng cao trình độ văn hóa cho qu n chúng nhân dân lao động. Đây là điều
kiện c n thi t để đông đảo nhân dân lao động chi n thắng nghèo nàn lạc hậu,
nâng cao trình độ và nhu c u văn hóa của qu n chúng.
Việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a là một tất y u khách quan
vì văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ ngh a
xã hội. Nền văn hóa mới xã hội chủ ngh a tạo nên những tiền đề quan trọng
nâng cao phẩm chất, năng lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho qu n chúng
nhân dân lao động, tạo cơ sở nâng cao năng suất lao động. Văn hóa xã hội chủ
ngh a với nền tảng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành điều kiện
tinh th n của quá trình xây dựng chủ ngh a xã hội và là động lực, mục tiêu
của chủ ngh a xã hội.
Từ việc xây dựng nhận thức sâu sắc về tính tất y u và những đặc trưng
của nền văn hóa xã hội chủ ngh a, chủ ngh a Mác - Lênin chỉ ra những nội
dung cơ bản của quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a.
Thứ nhất, c n phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức
của xã hội mới. Theo Lênin, “Chủ ngh a xã hội sinh động, sáng tạo là sự
nghiệp của bản thân qu n chúng nhân dân”. Qu n chúng nhân dân càng được
chuẩn bị tốt về tinh th n, trí lực, tư tưởng… càng có ảnh hưởng tích cực đ n
ti n trình xây dựng chủ ngh a xã hội. Trí tuệ khoa học và cách mạng là y u tố
quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ ngh a xã hội.
Thứ hai, xây dựng con người phát triển toàn diện. Con người là sản
phẩm của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra lịch
sử. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy trong mọi thời đại, sự hình thành và phát
triển của con người luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội.
Khi giai cấp nông dân trở thành giai cấp c m quyền, việc xây dựng con người
đáp ứng nhu c u của sự nghiệp xây dựng chủ ngh a xã hội trở thành một yêu
35
c u tất y u.
Thứ ba, xây dựng lối sống xã hội chủ ngh a. Lối sống xã hội chủ ngh a
được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản: Ch độ công hữu về
tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo; nguyên tắc
phân phối theo lao động; quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; hệ tư tưởng
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh th n của xã hội; xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng dân tộc, giới tính,
thể hiện công bằng, mở rộng dân chủ…
Thứ tư, xây dựng gia đình văn hóa. Gia đình là một giá trị văn hóa của
xã hội. Văn hóa gia đình luôn gắn bó tương tác với văn hóa cộng đồng dân
tộc, giai cấp và t ng lớp xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định của mỗi
quốc gia dân tộc nhất định. Gia đình văn hóa được hiểu là gia đình ti n bộ,
đánh dấu bước phát triển của hình thức gia đình trong lịch sử nhân loại. Xây
dựng gia đình văn hóa đem lại lợi ích cho cá nhân và xã hội.
Chủ ngh a Mác - Lênin cũng khẳng định, để thực hiện được những nội
dung chính y u của nền văn hóa xã hội chủ ngh a c n phải thực hiện các
phương thức cơ bản.
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai
cấp công nhân trong đời sống tinh th n của xã hội. Trong quá trình xây dựng
chủ ngh a xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp c m quyền, phải
bằng mọi phương pháp thông qua đội ngũ những nhà tư tưởng và các thi t ch
tư tưởng để tác động, chi phối các quan hệ tư tưởng nhằm giữ vững, tăng
cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng trong đời sống tinh th n xã hội. Xây
dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a là hoạt động có mục đích của giai cấp
công nhân thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà
nước xã hội chủ ngh a, nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ
36
ngh a, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong xã hội. Do đó, đây là phương thức cơ bản để giữ vững đặc trưng,
bản chất của nền văn hóa đó.
Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ ngh a đối với hoạt động văn hóa. Sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý Nhà nước xã hội chủ ngh a đối với
mọi hoạt động văn hóa là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quy t
định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a. Phương thức
này được coi là sự đảm bảo về chính trị, tư tưởng để nền văn hóa xây dựng
trên nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đi đúng quỹ đạo và mục
tiêu xác định. Theo các nhà kinh điển của chủ ngh a Mác - Lê nin, thực chất
đây là sự tăng cường chuyên chính vô sản trong hoạt động văn hóa. Thi t lập
chuyên chính vô sản thì mới có tiền đề chính trị cho việc xây dựng nền văn
hóa vô sản. Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân xây dựng nền văn hóa bằng
cương l nh, đường lối, chính sách văn hóa của mình và sự lãnh đạo của Đảng
phải được thể ch hóa trong hi n pháp, pháp luật, chính sách. Nhà nước thực
hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản.
Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ ngh a phải theo phương thức
k t hợp giữa việc thừa k những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với ti p
thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại. Nền văn hóa xã hội
chủ ngh a không hình thành từ hư vô, trái lại nó được hình thành trên cơ sở k
thừa những giá trị văn hóa của dân tộc. Văn hóa dân tộc là nền móng và trên
cơ sở đó ti p thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Lênin từng nói: “Văn hóa vô sản
là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những ki n thức mà loài người tích
lũy được, đó là con đường “đang và sẽ ti p tục đưa tới văn hóa vô sản, cũng
37
như chính trị, kinh t học do C.Mác hoàn chỉnh lại”.
Thứ tư, tổ chức và lôi quấn qu n chúng nhân dân vào các hoạt động và
sáng tạo văn hóa. Trong ti n trình cách mạng xã hội chủ ngh a, trong sự
nghiệp xây dựng chủ ngh a xã hội, nhân dân lao động đã trở thành chủ thể
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tính chủ động,
sáng tạo của qu n chúng, Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ ngh a c n
phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi quấn đông đảo nhân dân tham gia vào
các hoạt động và sáng tạo văn hóa [69].
2.2. Quan điểm của Đảng về văn hóa
Quan điểm của Đảng về “văn hóa” chính thức được xây dựng sau khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930) và trong quá trình vận động, phát
triển của Đảng. Tuy nhiên, trước thời điểm này, tiền đề cho những quan điểm
của Đảng về “văn hóa” đã manh nha hình thành, sớm nhất và điển hình nhất là
thông qua những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) về văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc
nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Nơi đây không chỉ có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị
của thực dân phong ki n mà còn là vùng đất giàu truyền thống văn hóa và
khoa bảng. Trong con người Hồ Chí Minh, ngay từ thuở nhỏ, đã được ti p
cận những ki n thức cả Nho học và Tây học thông qua người cha (ông
Nguyễn Sinh Sắc) và những người th y giáo đ u tiên trong các trường học ở
Vinh, ở Hu . Hoàn cảnh xã hội, sự giáo dục của gia đình, nhà trường đã ảnh
hưởng sâu sắc đ n Người ngay từ thời niên thi u.
Tinh th n yêu nước, thương dân cộng thêm sự nhạy bén về chính trị đã
thôi thúc Người suy ngh và hành động để tìm ra con đường cứu dân, cứu
nước. Năm 1911, Người xuất ngoại với đích đ n là phương Tây và mong
38
muốn tìm hiểu văn minh phương Tây. Người đã đ n nước Pháp và nhiều nước
châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ khác, vừa lao động ki m sống, vừa học
tập, vừa hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuy t cách mạng. Cũng
trong thời gian ở nước ngoài, Hồ Chí Minh có điều kiện ti p xúc với nhiều
nền văn hóa, văn minh trên th giới. Từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917, nhất là sau khi được ti p cận với chủ ngh a Mác - Lê
nin, Hồ Chí Minh đã có bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách
mạng, từ người yêu nước đ n người cộng sản.
Trong những năm 1923 - 1924, khi hoạt động ở Liên Xô, Người đã đưa
ra nhận định về sự khác biệt cơ bản giữa xã hội phương Tây và xã hội phương
Đông trong nhiều bài tham luận tại các đại hội và hội nghị quốc t quan trọng.
Theo Người, sự khác biệt đó không chỉ liên quan đ n cách mạng vô sản th
giới mà còn liên quan đ n những vấn đề văn hóa. Quan điểm của Hồ Chí
Minh về văn hóa cũng d n được hình thành và hoàn thiện trong quá trình
Người hoạt động cách mạng ở nước ngoài.
Bằng những trải nghiệm thực t , những thấu hiểu về văn hóa, văn minh
của phương Đông và phương Tây, trên cơ sở k thừa lý luận của chủ ngh a
Mác - Lênin về văn hóa và nền tảng ki n thức về học thuy t Nho giáo của
Khổng Tử, Chủ ngh a Tam dân, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc văn hóa là
một ph n không thể thi u trong cách mạng giải phóng dân tộc. Nhận định này
khác hẳn với suy ngh của nhiều trí thức tư sản, do chịu sự chi phối về ý thức
hệ tư sản và điều kiện lịch sử mà cho rằng vấn đề hiện đại hóa ở Việt Nam sẽ
không đi đ n đâu n u Việt Nam vẫn là thuộc địa của thực dân Pháp và độc lập
dân tộc sẽ mang lại độc lập về văn hóa. Bản thân Hồ Chí Minh cũng là người
có sự k t hợp hài hòa giữa 2 y u tố Đông - Tây, thể hiện trong lối tư duy cũng
như trong hoạt động thực tiễn. Người vừa nói thông thạo ti ng Pháp, ti ng
Anh, vi t báo, tham luận, kịch, văn thơ bằng chữ Pháp thu n thục, song vẫn
39
làm thơ bằng chữ Hán và bàn luận sâu sắc về Khổng giáo.
Kể từ khi Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản làm vũ
khí giải phóng dân tộc và truyền bá chủ ngh a Mác - Lênin vào Việt Nam, ở
nước ta bắt đ u hình thành một khuynh hướng văn hóa mới - văn hóa Mác-
xít. Tuy nhiên, điều đáng trân trọng nhất mà Hồ Chú Minh đã làm được chính
là bổ sung, phát triển và nâng t m chủ ngh a Mác - Lê nin. Người ý thức sâu
sắc việc c n “xem xét lại chủ ngh a Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đông” [44, 510]. Người k thừa và ti p bi n một
cách sáng tạo lý luận của chủ ngh a Mác - Lênin về văn hóa, do đó, “việc ti p
thu văn hóa phát triển vào nước ta không phải là đoạn tuyệt với văn hóa cổ
truyền, hai nền văn hóa đó không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau cùng
phát triển, dẫn tới sự hình thành thêm một số đạo đức mới phù hợp với những
điều kiện mới của lịch sử dân tộc” [36, 239-240]. Cũng bởi th , văn hóa Mác-
xít ngày càng ảnh hưởng sâu rộng đ n t ng lớp trí thức trong nước và lớn
mạnh cùng quá trình vận động đấu tranh giải phóng dân tộc.
Không phải đợi tới khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, những y u tố
của văn hóa Mác-xít mới xuất hiện ở Việt Nam. Quá trình Nguyễn Ái Quốc
truyền bá Chủ ngh a Mác-Lênin vào Việt Nam cùng những sách, báo, tham
luận của Người trong thời gian từ năm 1920 - 1929 đã từng bước đưa những
y u tố ban đ u của văn hóa Mác-xít vào Việt Nam.
Trong Tham luận tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Xã hội
Pháp tại Tuar diễn ra từ ngày 25 đ n ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc đã lên
án chủ ngh a thực dân Pháp, vạch tr n âm mưu nô dịch về văn hóa của thực
dân Pháp để giành thắng lợi cho chủ ngh a Mác - Lênin và văn hóa Mác-xít:
“...Chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị
hành hạ và đ u độc một cách rùng rợn. Để nói thêm, tôi xin nhấn mạnh vào
ti ng “đ u độc” đó, đ u độc bằng thuốc phiện, bằng rượu...” “...Nhà tù nhiều
hơn trường học, luôn luôn mở rộng cửa và đông đúc đ n kinh người... Chúng
40
tôi không được hưởng quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, cũng không
được hưởng quyền tự do hội họp và tự do lập hội. Chúng tôi không được quyền
đi ra khỏi nước hoặc du lịch ở nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu
dốt đen tối nhất vì chúng tôi không có quyền tự do giáo dục...”. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh (năm 1926), Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Tụi tư bản và đ
quốc chủ ngh a lấy tôn giáo và văn hóa làm cho dân ngu, lấy pháp luật buộc
dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm
cho dân nghe đ n hai chữ cách mạng thì sợ rùng mình” [14, 36].
Tháng 8/1928, trong Tham luận của đại biểu Đông Dương ở Đại hội
Quốc tế cộng sản lần thứ VI, Nguyễn Ái Quốc ti p tục lên án những mưu đồ
về văn hóa của thực dân Pháp đang thực hiện ở Đông Dương: “... Mọi người
đều bi t rằng để đặt ách thống trị của chúng, bọn cá mập thực dân đã phá hoại
tất cả các phong tục, tập quán và nền văn minh của dân tộc bị xâm chi m, mọi
người đều bi t rằng muốn bi n một dân tộc thành nô lệ thì phải làm cho dân
tộc đó càng ít văn hóa chừng nào càng tốt chừng ấy, phải ban cho dân tộc đó
một nền giáo dục theo chiều nằm chứ không phải theo “chiều đứng”, như viên
toàn quyền Méc-lanh đã từng nói, phải cấm dân tộc đó ra nước ngoài để “tự
khai hóa”, phải ngăn cản không cho dân tộc ấy sang chính quốc để bổ sung
cho những điều mà “sứ mạng khai hóa” đã mang lại cho họ (“con đường sang
nước Pháp là con đường chống nước Pháp”, viên thống sứ Nam kỳ Cô-nhắc
đã nói như vậy)” [79, 12-13].
Sau một thời gian ti p nhận chủ ngh a Mác - Lênin thông qua nhiều
nguồn tài liệu, năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với việc lấy
chủ ngh a Mác - Lênin làm nền tảng và xác định “cuộc cách mạng Đông
Dương sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền”, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã bước đ u đưa ra một số chủ trương về văn hóa trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản Đông Dương: “Tự do xem sách báo/ Tự do mở trường, tự
41
do học hành/ Tự do làm báo, làm sách” [79, 29].
Cũng c n phải nói thêm rằng, mặc d u trong hoàn cảnh khắc nghiệt và
nô dịch của ch độ thực dân Pháp, ph n lớn hoạt động phải bí mật, Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn luôn quan tâm đ n l nh vực văn hóa. Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn có một quan điểm phân định rõ ràng và dứt khoát về hai nội
dung văn hóa Pháp và chủ ngh a thực dân phản động. Vẫn có một nền văn
hóa Pháp đích thực, một nền văn hóa say mê tự do, nhân bản và Đảng Cộng
sản Việt Nam đã k t nạp những đảng viên ưu tú của mình h u h t là sản phẩm
của nền giáo dục Pháp. Nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng là những nhà trí
thức, am hiểu văn hóa, văn nghệ, ngay từ những ngày đ u hoạt động của mình
đã có ý thức sử dụng văn nghệ, báo chí, coi đó là vũ khí sắc bén cho cuộc đấu
tranh cách mạng. Một số đồng chí tiền bối của Đảng vì mục đích cách mạng
đã sử dụng các hình thức văn học, nghệ thuật, các phương tiện có thể truyền
bá, động viên qu n chúng làm cách mạng, không bao giờ ngh rằng mình sẽ là
nhà thơ, nhà văn, nhà văn hóa. Ở những bài vi t của các đồng chí ấy khó phân
biệt được đâu là văn nghệ, đâu là báo chí, tuyên truyền. Chỉ có cách mạng. Và
chính cách mạng đã tạo cho các đồng chí đó trở thành những nhà văn lớn,
những nhà thơ lớn của giai cấp, của dân tộc [72, 35-37].
Với yêu c u canh tân và hiện đại hóa đời sống văn hóa, tinh th n và các
loại hình văn học, nghệ thuật - vốn là hệ quả của một cuộc giao lưu, vừa tự
nguyện, vừa bắt buộc với th giới phương Tây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định yêu c u đưa văn học - nghệ thuật vào con đường cứu nước, mà muôn
thể phải hướng văn chương vào đại chúng, bi n văn chương thành vũ khí đấu
tranh cách mạng là yêu c u số một và là nhiệm vụ lớn xuyên suốt th kỷ XX.
Thời điểm đánh dấu sự ra đời một định ngh a chính thức của Hồ Chí
Minh về văn hóa là năm 1942. Trang cuối bản thảo Nhật ký trong tù, dưới tiêu
đề Mục đọc sách, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhận định về ý ngh a của văn hóa:
42
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ vi t, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa”. Từ nhận thức ấy, Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về văn hóa: “Văn hóa
là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu c u đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn” [45, 431].
Có thể nói, đây là một cách ti p cận văn hóa từ ý ngh a khái quát, đặc
trưng nhất của nó, một định ngh a cô đọng và có ý ngh a về văn hóa… Quan
niệm này xuất phát từ cách ti p cận Mác-xít, rất g n gũi với nhận thức hiện
đại, khi coi văn hóa không chỉ đơn thu n là đời sống tinh th n của con người
- xã hội (theo cách phân khúc rời rạc), mà từ trong bản chất của mình, nó
chính là linh hồn, là hệ th n kinh của một xã hội, là sức mạnh trường tồn của
cả dân tộc, là sức sống vươn lên của thời đại [64]. Lê Xuân Kiêu trong bài
vi t Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa, suy nghĩ về nhiệm vụ xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay cũng cho rằng
định ngh a của Hồ Chí Minh về văn hóa là một đóng góp của Người trên
phương diện lý luận văn hóa khi Người đã ti p cận văn hóa từ hai góc độ
tâm lý học và xã hội học.
Từ nhận thức khái quát về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một
cách cụ thể về nội dung, yêu c u xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người vi t
ti p: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc: 1. Xây dựng tâm lý,
tinh th n độc lập, tự cường; 2. Xây dựng luân lý: Bi t hy sinh mình, làm lợi
cho qu n chúng; 3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đ n phúc
lợi của nhân dân trong xã hội; 4. Xây dựng chính trị: Dân quyền; 5. Xây
43
dựng kinh t [46, 431 - 432].
Hồ Chí Minh đã đưa ra cấu trúc của một nền văn hóa dân tộc, bao gồm
năm thành tố, tạo thành một hệ thống và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Việc chỉ ra những điểm lớn trên chứng tỏ rằng, khi phân định nội hàm khái
niệm văn hóa, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ rằng xây dựng nền văn hóa dân
tộc phải đặt trong mối quan hệ qua lại với các mặt khác của đời sống dân tộc
như: “Tâm lý”, “luân lý”, “xã hội”, “chính trị”, “kinh t ”. Xây dựng văn hóa
phải gắn liền với từng bình diện ấy, làm cho văn hóa trở thành phẩm chất tốt
đẹp, đặc trưng riêng có và ý ngh a tích cực của những l nh vực đời sống đó.
Ra đời trong một bối cảnh đặc biệt, khi đang là tù nhân trong nhà tù
Tưởng Giới Thạch, định ngh a của Hồ Chí Minh về văn hóa cơ bản nhằm che
mắt quân Tưởng Giới Thạch để chúng không nghi ngờ Người là cộng sản,
song trong định ngh a này đã thể hiện sự hiểu bi t sâu sắc của Hồ Chí Minh
về văn hóa và t m nhìn chi n lược trong việc xác định vai trò, vị trí và những
tiêu chí cơ bản nhằm định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam, tạo cơ sở
cho sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam tương lai.
Năm 1943, với sự ra đời của Đề cương văn hóa Việt Nam, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm về “văn hóa” Việt Nam: “Văn hóa bao
gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Đảng khẳng định: “Mặt trận văn hóa
là một trong ba mặt trận (kinh t , chính trị, văn hóa), ở đó người cộng sản
phải hoạt động/ Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm
cách mạng văn hóa nữa/ Có lãnh đạo được phong trào văn hoá, Đảng mới ảnh
hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”.
Với việc xác định tính chất văn hóa Việt Nam mang tính chất thuộc địa,
về nội dung là tiền tư bản, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan niệm của
người cộng sản về vấn đề cách mạng văn hóa: “Phải hoàn thành cách mạng
văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội/ Cách mạng văn hóa muốn
44
hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo/ Cách mạng văn
hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng
văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách văn
hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau)…
Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là
văn hóa xã hội chủ ngh a… Tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam là nền
văn hóa mới Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo chủ trương
chưa phải là văn hóa xã hội chủ ngh a hay văn hóa Xô-vi t (như văn hóa Liên
Xô chẳng hạn). Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân
tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung. Chính vì th nó cách mạng nhất
và ti n bộ nhất ở Đông Dương trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, quan hệ giữa
văn hóa và kinh t , chính trị: Nền tảng kinh t của một xã hội và ch độ kinh
t dựng trên nền tảng ấy quy t định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ t ng cơ
sở quy t định thượng t ng ki n trúc) [79, 182-187].
Đảng đã xác định 3 nguyên tắc của văn hóa Việt Nam: Dân tộc hóa,
khoa học hóa, đại chúng hóa.
Dân tộc hóa: Là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khi n cho
văn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Dân tộc hóa là làm cho văn hóa trực ti p
phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có đ y lòng tự hào,
dũng cảm đứng lên nhận trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt
Nam. Đây là nguyên tắc hàng đ u, vô cùng quan trọng. Văn hóa bao giờ cũng
gắn với một dân tộc nhất định. Chính tính dân tộc tạo nên bản sắc dân tộc của
một nền văn hóa. Tính dân tộc không chỉ nằm ở bản thân nền văn hóa mà còn
là cơ sở, điều kiện phát huy sức mạnh của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ của đ quốc.
Khoa học hóa: Là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh
45
chóng thoát khỏi sự kìm hãm ấy nhằm phát triển về mọi mặt trên cơ sở khoa
học. Nó lấy chủ ngh a Mác - Lênin làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi người
suy ngh và hoạt động. Nó gạt ra khỏi đ u óc con người các loại thành ki n,
hủ bại, mê tín, dị đoan.
Đại chúng hóa: Ở nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong ki n như
nước ta hồi đó, đông đảo nhân dân, nhất là công nhân, nông dân bị mù chữ,
không có điều kiện ti p thu tinh hoa văn hóa của dân tộc và của loài người.
Văn học, âm nhạc, hội họa… và các thể loại văn hóa khác không phục vụ
nhân dân mà chỉ cốt phục vụ cho giai cấp thống trị. Nói chung, qu n chúng
lao động bị gạt ra ngoài đời sống văn hóa. Văn hóa mới phải là văn hóa của
nhân dân, phục vụ cho nhân dân, làm cho mọi người bi t đọc, bi t vi t, có
học, bi t thưởng thức và tham gia sáng tạo nghệ thuật và d n d n chi m l nh
các giá trị tinh th n mà dân tộc và loài người tạo ra.
Một nền văn hóa dân tộc mà không có tính khoa học và tính nhân dân
thì rất có thể vì quyền lợi ích kỷ và hẹp hòi của dân tộc mình mà đi ngược lại
bước đường ti n hóa của lịch sử, cố níu lấy những cái cổ truyền đã lỗi thời
của dân tộc mình mà không đặc biệt chú ý đ n những nguyện vọng thi t tha
của công, nông là số đông người c n cù và yêu nước nhất trong dân tộc.
Văn hóa có tính khoa học mà không mang tính dân tộc và tính nhân
dân thì rất có thể phục vụ cho kẻ địch, đem tài năng của mình phục vụ lợi ích
của bọn thống trị, phản lại quyền lợi của nhân dân, phản lại độc lập dân tộc và
hòa bình th giới.
Đề cương văn hóa Việt Nam và các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về văn hóa từ năm 1939 trở đi là sự ti p tục phát huy và hoàn
chỉnh các quan điểm Mác-xít về văn hóa mà những người cộng sản đã đấu
tranh và khẳng định trong cuộc tranh luận văn hóa, văn nghệ giai đoạn 1935
- 1939. Văn kiện này đã đề xướng phương châm dân tộc với nội dung đúng
46
đắn, ti n bộ có tác dụng định hướng và uốn nắn lại những nhận thức sai l m
của các tổ chức văn hóa, văn nghệ đương thời như nhóm Thanh Nghị, gồm
những trí thức có tư tưởng dân tộc nhưng lại mang tính chất cải lương tư
sản. Nhóm Tri tân đề cao tinh th n dân tộc trong việc nghiên cứu, khảo cứu
văn hóa cổ nhưng lại có khuynh hướng bảo thủ… Nền văn nghệ cách mạng
Việt Nam đã từng bước phát triển, thu được những thành tựu xứng đáng để
trở thành nền văn nghệ hiện đại, tiên ti n, đậm đà bản sắc dân tộc, dồi dào ý
ngh a nhân văn.
2.3. Quan điểm của Đảng về văn nghệ
Những cuộc tranh luận về quốc học, về văn chương đã xuất hiện ở Việt
Nam từ những năm 1920 kéo dài cho đ n những năm 1940. Trong đó sớm
nhất là hai cuộc tranh luận về quốc học và Truyện Kiều. Cuộc tranh luận
Truyện Kiều không chỉ là trao đổi văn chương xung quanh một tác phẩm văn
học mà còn là cuộc tranh luận về nhiều vấn đề xã hội khác, nhất là từ khi
Phạm Quỳnh tham gia vào cuộc đấu trí với những ý tưởng khác thường: “Một
nước không thể không có quốc hoa. Truyện Kiều là quốc hoa của ta. Một
nước không thể không có quốc túy. Truyện Kiều là quốc túy của ta. Một nước
không thể không có quốc hồn. Truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều
là cái văn tự của riêng Việt Nam ta đã trước bạ với non sông đất nước này.
Truyện Kiều còn, ti ng ta còn, ti ng ta còn nước ta còn có gì mà lo, có gì mà
sợ, có điều chi nữa mà ngờ” [68].
Cảm nhận thấy những tư tưởng sai lệch của Phạm Quỳnh, trong bài
Luận về chánh học cùng tà thuy t, Ngô Đức K đã phê phán thẳng thắn khuynh
hướng lệch lạc này: “Th mà ngày nay đứa văn s giả dối ta biểu dương Truyện
Kiều lên để khai khai hóa cho quốc dân, đem Truyện Kiều làm sách Quốc văn
giáo khoa, làm sách sư phạm giảng ngh a… Cứ xem luận trạng ấy thì nước
Việt Nam ngày nay gọi tên là Kim Vân Kiều quốc, nòi giống Việt Nam ta gọi
47
là đại Kim Vân Kiều tộc cũng đúng lắm chứ không sai”.
Bên cạnh cuộc tranh luận về Truyện Kiều, trong cuộc tranh luận về quốc
học, quốc văn, Ngô Đức K đã có một cái nhìn sáng tỏ khi hiểu rõ chuyện văn
chương chưa phải là vấn đề cơ bản và mối quan tâm chính của nhân dân là tình
trạng mất nước “Đúng nền quốc văn chẳng qua là cái mộng tưởng của đôi ba nhà học giả mà chưa phải là tâm lý chung của quốc dân” [68].
Song song với hai cuộc tranh luận trên, để những y u tố của văn hóa
Mác-xít đi vào đời sống văn hóa Việt Nam, phục vụ cho cuộc cách mạng tư
sản dân quyền, Đảng đã lãnh đạo các đảng viên ưu tú ti n hành các cuộc tranh
đấu về văn hóa, văn nghệ. Đ u tiên, trong những năm 1931 - 1933, ở Việt
Nam đã diễn ra cuộc tranh luận của một số cán bộ của Đảng trong các nhà tù
Hỏa Lò, Côn Đảo chống “chủ ngh a Tam dân cũ” của Việt Nam Quốc dân
Đảng và chống chủ ngh a “chủng tộc sinh tồn”.
Trong khoảng những năm 1933 - 1934, ở Việt Nam xuất hiện một số
cuộc tranh luận giữa hệ tư tưởng vô sản và tư sản, đánh dấu cho sự khởi đ u
của quá trình tranh đấu đi tới thắng lợi của một khuynh hướng văn hóa duy
nhất. Cuộc đấu tranh này là sự đụng độ của hai quan điểm duy tâm - duy vật
trên báo chí công khai. Bề ngoài đó là cuộc tranh luận về học thuật, nhưng
thực chất đó là một cuộc đấu tranh của ý thức hệ vô sản chống tư tưởng nô lệ,
đ u hàng của giai cấp địa chủ, tư sản. Chính các cuộc đấu tranh giữa các xu
hướng khác nhau trên l nh vực văn hóa, tư tưởng trên đây đã góp ph n đắc lực
vào sự phân hóa xã hội về tư tưởng. Một bộ phận khá đông những người tư
sản, tiểu tư sản trí thức sau đó đã đứng về phía nhân dân lao động, đấu tranh
cho quyền lợi dân tộc Việt Nam.
Tr n Hữu Độ nhận xét: “Từ trước đ n nay, không phải trong đám thanh
niên trí thức, không có ai truyền bá cái tri t học mới. Sự thật đã chứng cho ta
bi t rằng ngày nay chủ ngh a duy vật đã thịnh hành ở xứ này rồi. Những cuộc
48
bút chi n giữa nhà duy vật Hải Triều với các ông Phan Khôi và Thi u Sơn,
những cuộc tranh luận về nghệ thuật giữa hai phái thanh niên duy tâm và duy vật tức là bằng chứng tiên xác cho phong trào duy vật…” [68].
Những bài vi t trong cuộc tranh luận của Hải Triều đã góp ph n nhất
định vào cuộc đấu tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam chống lại những tư
tưởng duy tâm phản động. Tuy nhiên, vì bị hạn ch bởi điều kiện nhận thức
lúc đó, bởi khuôn khổ của một tờ báo công khai nên đồng chí Hải Triều và
một số đồng chí khác chưa vạch tr n được h t thực chất tư tưởng nô lệ, chịu
khuất phục trước sức mạnh của đ quốc Pháp, đổ lỗi cho các dân tộc lạc hậu
như dân tộc Việt Nam đã gây ra kinh t khủng hoảng và chi n tranh.
Bên cạnh cuộc tranh luận về duy vật và duy tâm, từ năm 1935, Đảng đã
lãnh đạo một cuộc tranh đấu về nghệ thuật chống lại quan điểm “nghệ thuật vị
nghệ thuật”. Ban đ u chỉ có Thi u Sơn và Hải Triều. Sau đó, lực lượng tham
gia bút chi n tập hợp thành hai phái: Một bên do Hoài Thanh dẫn đ u và bên
kia “chi n tuy n hợp nhất” có Hải Triều cùng các chi n hữu. Về phía Hoài
Thanh có Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Phan Văn Dật, Lan Khai (vi t trên
Tràng An, Tiến hóa, Hà Nội báo…). Về phía Hải Triều có Hải Thanh, Hồ
Xanh, Lâm Mậu Quang (vi t trên báo Trung Kỳ, Sông Hương, Đông Phương,
Tin văn, Tiến bộ, Hồn Trẻ).
Thi u Sơn mở màn, khơi mào tranh luận với bài Hai cái quan niệm về
văn học. Mở đ u là Thi u Sơn rồi ti p đ n là Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều,
Lưu Trọng Lư, Lan Khai… do dừng lại ở chủ ngh a duy tâm chủ quan và tư
biện, thoát ly thực tại đã dẫm chân vào v t cũ của những quan điểm nghệ
thuật tư sản lỗi thời hình thành ở Tây Âu th kỷ trước [67, 17].
Giữa năm 1935, nhân Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan ra mắt độc
giả, Hải Triều qua bài Nhân xem quyển “Kép Tư Bền”, Nguyễn Công Hoan,
nhà văn có nhiều hy vọng (Tiểu thuy t thứ bảy, số 60, 20/7/1935) đã khen
49
những thành tựu về nội dung và nghệ thuật vi t truyện của Nguyễn Công
Hoan. Hải Triều đánh giá Nguyễn Công Hoan đã vi t về những cảnh đời tối
tăm của vô sản trước sự bóc lột của tư bản, hướng ngòi bút vào những người,
những việc ở quanh mình, dựng nên những truyện với những điều quan sát
thú vị mặc dù cốt truyện không có gì.
Trong bài vi t “Kép Tư Bền” một tác ph m thuộc về cái triều lưu nghệ
thuật vị nhân sinh ở nước ta (Tiểu thuy t thứ bảy, số 62, 8/1935), một l n nữa
Hải Triều đề xuất một vấn đề lý luận nhân thành công của Kép Tư Bền - đó là
khuynh hướng văn học gắn bó chặt chẽ với cuộc sống hiện thực của xã hội,
miêu tả con người lao động với những vấn đề thi t thân đối với vận mệnh của
họ bằng bút pháp trung thành với hiện thực, tôn trọng tính khách quan của sự
thực [67, 41-42].
Từ tháng 8/1935 đ n ngày mùng 6/8/1936, với sự xuất hiện tác phẩm
“Văn chương là văn chương” của Hoài Thanh, cuộc bút chi n hào hứng và sôi
nổi, lôi cuốn hàng chục cây bút lý luận - phê bình. Các bài được đăng h u
khắp các báo ở Trung, Nam, Bắc như: Tràng An, Trung Kỳ, Văn học tuần san,
Tiểu thuyết thứ bảy, Tin văn, Hà Nội báo, Tiến bộ, Hồn trẻ… Hải Triều xuất
phát từ lập trường duy vật Mác-xít khẳng định mối liên hệ giữa cuộc sống xã
hội và văn học, trong đó văn học chịu sự quy định trực ti p, khách quan của
cuộc sống. Sau này, khi nhìn lại cuộc tranh luận, Hoài Thanh cho rằng “đằng
sau sự va chạm về quan điểm nghệ thuật và khơi nguồn cho sự va chạm ấy là
sự va chạm giữa hai thái độ trước cuộc đời, hai thái độ về chính trị” [67, 50].
Phái “nghệ thuật vị nhân sinh” tìm thấy vị trí của nhà văn trong sự gắn
bó với cuộc sống, với giai cấp và thời đại mình, đứng về phía người lao động
bị áp bức, bóc lột, đấu tranh cho lẽ phải và ti n bộ xã hội. Nhà văn chân chính
là người nhập th , nhập cuộc, chứ không thể thoát ly cuộc đời, bi n văn
chương thành trò tiêu khiển “phát dương cái đẹp”… Nhà văn chân chính c n
50
đứng về phía người bình dân và giai cấp vô sản, trở thành nhà văn bình dân,
nhà văn vô sản. Nhà văn đó không chỉ bi t “thành thật mô tả” mà c n “hiểu lẽ
tất y u phải cổ động và phấn đấu”, sử dụng nghệ thuật như “là một cái lợi khí
tranh đấu”, đi tiên phong trong sự giác ngộ và đánh thức qu n chúng giải
quy t bài toán đố “làm sao cho tuyệt tự sự áp bức và bóc lột?”.
Tác phẩm nghệ thuật theo phái “nghệ thuật vị nhân sinh” không thể chỉ
là những bông hoa cho một nhóm người nhàn rỗi, no đủ say sưa thưởng thức
quên mọi sự trên đời, mà cao hơn nó được sánh với vũ khí lợi hại như gươm
và súng, đấu tranh cho mi ng cơm, manh áo của dân cày, thợ thuyền, trí thức
lao động (tức là những t ng lớp người trong đám bình dân); nhà văn không
chỉ nên bằng lòng với tư cách là nghệ s phát dương cái đẹp, mà phải trở
thành chi n sỹ đấu tranh phát dương “tư tưởng, tình cảm, ý chí và quyền lợi”
của người lao động - người sáng tạo ra lịch sử và thúc đẩy ti n bộ xã hội.
Phái “nghệ thuật vị nhân sinh” cổ động cho nền nghệ thuật phụng sự
cho giai cấp bình dân, theo xu hướng “tả thực chủ ngh a”, “tả thực xã hội”.
Đó là một nền văn học vô sản, văn học cách mạng. Một bên phơi bày “những
cảnh khốn cùng”, “những cái xấu xa”, “núp dưới bức màn giả dối”, thể hiện
“nỗi bất bình” và nâng cao tinh th n tranh đấu của bình dân, dọn cho bình dân
một con đường đi tìm hạnh phúc nơi cõi đời thực t [67, 61].
Từ cuối năm 1936 kéo sang năm 1937, cuộc tranh luận lắng xuống.
Tuy nhiên vẫn có một bài toán c n giải quy t là làm như th nào để gây dựng
nền văn hóa Việt Nam? Phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” cho rằng: Gây dựng
trên cơ sở bảo vệ, gìn giữ những cái đã có tốt đẹp, cái riêng, đặc thù với lòng
tự tôn dân tộc, bảo tồn đừng để mất những của quý. Các ông (những người
theo phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” - TG) xem nhẹ mặt giao lưu, ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các nền văn hóa, có ph n khư khư bảo thủ, tự mãn khi coi tất cả
những gì của ta là hay, là đẹp mà không thấy trong di sản và truyền thống dân
51
tộc để lại có cả những cái lỗi thời, không phù hợp với cuộc sống hiện tại, với
trào lưu của ti n bộ nhân loại và văn minh hiện đại. Quan niệm của các ông
rất g n gũi với chủ trương phục cổ của nhóm Tri Tân sau này. Mặt khác, khi
chỉ đề cao sự đóng góp của dân tộc vào nhân loại ở cái riêng của nó, cái độc
đáo và đặc thù mang tính chủng tộc, nòi giống, mà các dân tộc khác không có,
các ông lại không nhận ra rằng giữa các dân tộc còn có những cái chung do
tồn tại và phát triển trong những điều kiện tương tự - chúng có thể cộng
hưởng, bồi đắp, lấp vào những chỗ còn trống của nhau, hợp thành cái mang
giá trị chung của cộng đồng th giới xét theo “chiều ngang” của từng thời đại
hay “chiều dọc” của lịch sử nhiều thời kỳ [67, 68].
Phái “nghệ thuật vị nhân sinh” đã có cái nhìn ti p cận chân lý hơn. Hải
Triều nồng nhiệt vi t những bài ca ngợi sự nghiệp văn chương của các tác giả
nước ngoài như M.Gorki, R.Roland, H.Bacbuytx… Qua sự nghiệp của các
văn hào, Hải Triều khẳng định sự thống nhất giữa tính giai cấp (vô sản) với
tính dân tộc và tính nhân loại của văn hóa, văn học phải gắn bó với cuộc sống,
phục vụ cho quyền lợi của giai cấp bi t thuận theo ti n hóa chung của xã hội,
của dân tộc và sự phát triển đi lên của lịch sử loài người.
Bùi Công Trừng, qua hai bài vi t lý lẽ sắc bén và uyển chuyển đã trình
bày một quan điểm Mác-xít về xây dựng nền văn hóa dân tộc mà các mặt bảo
tồn và ti p nhận, cái riêng và cái chung, cái cá biệt và cái phổ quát, dân tộc,
quốc gia và nhân loại, quốc t … được xem xét trong tương quan biện chứng
duy vật… Bùi Công Trừng xác định gây dựng nền văn hóa dân tộc phải trên
cơ sở đúng đắn trong quan điểm về k thừa, ti p thu các nguồn ảnh hưởng,
phát triển và làm mới.
Theo Bùi Công Trừng gây dựng một nền văn hóa “đặc biệt hoàn toàn
Việt Nam” “không hoàn toàn giống một dân tộc nào tức là chỉ thấy cái riêng,
cái khác, cái không tương đồng của ta với người… là một điều không thể có,
không thể làm được”. ng cho rằng ảnh hưởng giữa các nền văn hóa là một
52
sự thật, là một quy luật, không thể từ chối hoặc trốn tránh. Vấn đề là ở chỗ
ti p nhận quy luật khách quan đó một cách chủ động và có lợi nhất; “không
nên cho những sự ảnh hưởng đó là một việc thôn tính về mặt tinh th n” mà
nên phát huy phương diện “những ảnh hưởng ấy đã giúp một ph n lớn trong
công việc cấu tạo và phát triển nền văn hóa Việt Nam”.
Theo Bùi Công Trừng, chúng ta nên “vui vẻ nhận lấy” và “bi t khai
thác” những tinh hoa, những cái hay, cái tốt của văn hóa Đông Tây đưa lại “để
đem vào lò máy đúc của tinh th n, vừa lọc lại, nung nấu lại, theo màu sắc và
sinh khí để làm một nhóm nuôi sống dân tộc Việt Nam trên con đường ti n
hóa”. Thái độ ti p thu có chọn lọc, không bài ngoại, xem cái vốn không phải
của mình thành một nguồn mới bổ sung, làm giàu thêm cái mình đã có - mà
ngày nay (thời kỳ những năm 1930 - TG) chúng ta gọi là lấy ngoài phục vụ
trong - cùng với nâng cao bồi đắp những cái hay, cái đẹp của truyền thống dân
tộc theo tinh th n “gạt đục khơi trong”, “lấy xưa phục vụ nay” - đó là cái nhìn
biện chứng giữa k thừa và phát triển, truyền thống và cách tân. Và nền văn
hóa dân tộc phong phú, tinh mỹ ấy sẽ được “góp vào gia tài chung của nhân
loại”, vượt ra khỏi phạm vi địa phương quốc gia, hòa nhập vào “tính chất quốc
t liên đới” trong hiện tại và tương lai. Sự nhìn nhận vấn đề dân tộc của văn
hóa theo quan điểm giai cấp, đưa dân tộc hòa nhập vào nhân loại mà vẫn không
mất đi cái bản sắc của mình - cái nhìn ấy là rạch ròi và dứt khoát [67, 69-70].
Đ n tháng 6/1939 với bài lược dịch của Lưu Trọng Lư về “Cái khi u
văn chương của Karl Marx” (rút từ sách Karl Marx, Engels: Về văn học và
nghệ thuật của Jean Freville) mới xem như là k t thúc cuộc tranh luận.
Dưới ảnh hưởng tư tưởng về văn hóa của Đảng, “chi n tuy n hợp
nhất” do Hải Triều dẫn đ u chính là những đảng viên, những người được
giác ngộ chủ ngh a Mác - Lênin, lực lượng ngày càng đông đảo hơn. Chi n
tuy n này đã lấy tư tưởng duy vật Mác-xít về tri t học và lịch sử xã hội làm
gốc, chủ trương nuôi trồng và chăm sóc cái cây nghệ thuật trên mảnh đất
tươi tốt của hiện thực mà hoa quả của nó là dành cho những người lao
53
động, bình dân. Các nhà Mác-xít đề cao một nền văn chương tả thực xã
hội, xem trọng phương diện chủ y u để đánh giá tác phẩm nghệ thuật thuộc
về tư tưởng ti n bộ và nội dung phản ánh; nó trở thành vũ khí sắc bén như
gươm dao trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột giành lấy độc lập, tự
do cho đông đảo nhân dân.
Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng “nghệ thuật vị nhân sinh” hay
“nghệ thuật vị nghệ thuật” không thu n túy là một cuộc tranh luận về học
thuật mà sâu xa hơn có căn nguyên ở cơ sở giai cấp và những khuynh hướng
chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà người đứng đ u khuynh hướng “nghệ
thuật vị nhân sinh” lại là một nhà văn vô sản, một nhà lý luận Mác-xít. Lúc
này, quan điểm lý luận Việt Nam cách mạng chủ trương văn hóa phải phê
phán tội ác của thực dân, phong ki n, phải phơi bày những tệ nạn tràn lan
trong xã hội.
Tròn 5 năm sau, trên tạp chí Văn mới số 36 và 37 ra ngày 25/6/1944,
đăng trọn vẹn công trình Văn học khái luận của Đặng Thai Mai. Công trình
này trình bày một cách tương đối có hệ thống (mà do sự kiểm duyệt của thực
dân, tác giả phải vi t một cách khéo léo) những quan điểm văn nghệ cơ bản
theo lập trường Mác-xít. Đặng Thai Mai đã đề cập tới cuộc tranh luận nghệ
thuật trước đó mà ông gọi là “một cuộc bút chi n khá ồn ào” (cuộc tranh luận
“nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” - TG) song với “ngày
nay đã thành câu chuyện cũ”.
Năm 1944, trên báo chí hợp pháp của Đảng, khi trình bày các nguyên
tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới, Đảng đã đánh giá xu hướng “nghệ
thuật vị nghệ thuật” thuộc loại “những quái thai của văn nghệ phản qu n
chúng, bột phát dưới ch độ thực dân, phát xít”. Trường Chinh, với tư cách là
một trong những người lãnh đạo chủ chốt của Đảng cộng sản, đã xem những
cuộc tranh luận đó là quá trình đấu tranh tư tưởng giữa quan điểm nghệ thuật
54
cách mạng vô sản với quan điểm nghệ thuật tư sản lỗi thời mà thắng lợi được
ghi nhận thuộc về phái “nghệ thuật vị nhân sinh”, do các đảng viên cộng sản
đứng đ u là Hải Triều thực hiện. Đồng chí Trường Chinh vi t: “Công lao của
đồng chí Hải Triều đáng cho chúng ta ghi nhớ. Cố nhiên, với trình độ ngày
nay, n u ta xem lại những bài ấy có thể ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ
và hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chi n có
những bài như của đồng chí Hải Triều là xuất sắc. Những bài đó trên một mức
độ nhất định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ
thuật. Quan điểm của chủ ngh a Mác - Lênin đã thắng các quan điểm phản động.
Tiểu kết chƣơng 2:
1. L nh hội, k thừa những tinh hoa của chủ ngh a Mác - Lênin về văn
hóa, ngay từ những năm 1920 - 1930, Hồ Chí Minh đã nhận thức và chỉ ra
những âm mưu về văn hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Đây chính là tiền
đề quan trọng để sau khi thành lập (năm 1930), Đảng Cộng sản Việt Nam
từng bước xây dựng hệ thống quan điểm về văn hóa.
2. Từ năm 1930 - 1942, Đảng đã trải qua một giai đoạn chuẩn bị cho sự
hình thành hệ thống quan điểm về văn hóa. Ở giai đoạn này, Đảng chưa đưa
ra được một quan điểm rõ ràng về văn hóa. Tuy nhiên, Đảng luôn định hướng
sự phát triển của văn hóa Việt Nam phù hợp với con đường giải phóng dân
tộc mà Đảng đã vạch ra. Do đó, giữa nhiều y u tố phức tạp, đan xen giữa các
luồng tư tưởng cũ - mới, bảo thủ - ti n bộ, văn hóa Mác-xít vẫn từng bước
khẳng định vị trí, vai trò trong bức tranh văn hóa Việt Nam.
3. Riêng trong l nh vực văn nghệ, quan điểm văn hóa của Đảng đã được
thể hiện thông qua thực tiễn hoạt động của các nhà văn hóa Mác-xít. Trong
cuộc tranh luận giữa “nghệ thuật vị nhân sinh” và “nghệ thuật vị nghệ thuật”
(1935 - 1939), quan điểm của Hải Triều và “chi n tuy n hợp nhất” cũng chính
là quan điểm về văn hóa, văn nghệ của Đảng. Lý lẽ của những người theo
55
khuynh hướng vô sản đã tỏ ra có sức thuy t phục, phù hợp với diễn ti n khách
quan của thực t xã hội và đời sống văn hóa, bắt nhịp với xu th ti n hóa của
thời cuộc, đón bắt những triển vọng cho sự phát triển đúng hướng của nền văn
nghệ dân tộc, hiện đại. Cái được lớn nhất của cuộc tranh luận là hai bên từ
chỗ đối lập nhau, d n d n đã xích lại g n nhau, bồi đắp những chỗ thi u hụt
và bất cập, phi n diện của lối tư duy dẫn tới cực đoan, mà ti n sát đ n một sự
hài hòa trong quan điểm về văn hóa Việt Nam.
4. Sau khi hội tụ đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, Đảng đã đưa ra Đề
cương văn hóa Việt Nam. Đề cương đã thể hiện sâu sắc sự k thừa tư tưởng
về văn hóa của chủ ngh a Mác - Lênin. Đây thực chất là một “cương l nh”
chi n đấu mang sâu sắc tính Đảng, đúc k t những kinh nghiệm của Đảng
trong lãnh đạo về văn hóa trên những chặng đường cách mạng. Đảng đã từ
chỗ giữ vai trò quan trọng trong lãnh đạo mặt trận chính trị, kinh t , quân sự
56
vươn tới nắm bắt và khẳng định vai trò, vị trí trên mặt trận văn hóa, tư tưởng.
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ TUYÊN TRUYỀN,
VẬN ĐỘNG VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG MẶT TRẬN
VĂN HÓA CỨU QUỐC
3.1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về tuyên truyền, vận động
văn hóa
Để từng bước đưa văn hóa Mác-xít thâm nhập và thẩm thấu vào xã hội
Việt Nam, tạo lập ý thức hệ vô sản trong các giai t ng, đồng thời hạn ch ý
thức hệ tư sản trong giới trí thức, ngay từ thời gian đ u thành lập, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định vai trò quan trọng của việc tích cực vận động,
tuyên truyền đường lối cách mạng vô sản, vạch tr n thủ đoạn lừa gạt của
khuynh hướng quốc gia cải lương, phê phán tư tưởng tiểu tư sản trong đấu
tranh cách mạng.
Giới trí thức là lực lượng tiên phong trong việc ti p thu và vận dụng
các tư tưởng mới trong xã hội. Xuất phát từ đặc thù của bộ phận này, trong
chính sách văn hóa của thực dân Pháp, đối tượng mà chúng mong muốn
hướng t m ảnh hưởng đ n đ u tiên và nhiều nhất là trí thức. Do đó, đối với
công tác văn hóa, trí thức là bộ phận được Đảng đặc biệt quan tâm vận động,
tuyên truyền.
Từ năm 1930 trở đi, thực dân Pháp ti p tục tăng cường phát triển hệ
thống giáo dục nô dịch nhằm phục vụ cho mục đích cai trị của mình, đồng
thời tìm mọi cách ngăn chặn trí thức ti p xúc với văn hóa th giới. Trước tình
hình đó, Đảng đã chủ trương lôi kéo, vận động, tập hợp trí thức vào cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã nêu:
Đảng phải “h t sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông…để lôi kéo họ
57
về phe vô sản giai cấp”. Cương l nh còn khẳng định “phải đưa những người ở
các t ng lớp khác, trí thức, tiểu tư sản,… vào tổ chức phản đ ” [15, 3]. Chủ
trương này đã giúp định hướng tư tưởng cho một bộ phận không nhỏ trí thức,
thanh niên, học sinh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và phát triển
văn hóa Việt Nam theo khuynh hướng vô sản. Một số trí thức trở thành những
người đ u tiên ti p thu tư tưởng văn hóa vô sản, bi n tư tưởng thành hành
động đấu tranh cách mạng, đóng góp tích cực vào phong trào cách mạng giai
đoạn 1930 - 1931.
Tuy nhiên, sau khi cao trào Xô Vi t Nghệ T nh bị thất bại, phong trào
cách mạng lắng xuống, trong khi thực dân Pháp lại lan truyền những y u tố
của văn hóa tư sản khi n cho không ít trí thức Việt Nam, trong đó có cả
những cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản bị rơi vào tình trạng bi quan, dao
động. Trước tình hình đó, Đảng đã chủ trương phải đấu tranh quy t liệt với
chủ ngh a cải lương, chống tư tưởng dao động trong đội ngũ trí thức, nhất là
tư tưởng đ u hàng trong cán bộ, đảng viên, đồng thời nêu cao tinh th n chi n
đấu anh dũng, bất khuất.
Trong thời kỳ 1932 - 1939, phong trào cách mạng d n phục hồi và phát
triển. Trí thức yêu nước hăng hái tham gia đấu tranh bên cạnh các phong trào
đấu tranh của công nhân. Một bộ phận trí thức đã tham gia các tổ chức qu n
chúng cách mạng bí mật như: Công hội, Thanh niên, Phụ nữ và tổ chức công
khai khác như Hội đọc sách... Ngày càng có nhiều trí thức, học sinh, sinh viên
có tư tưởng ti n bộ, được giác ngộ lý tưởng cách mạng, trở thành đảng viên
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số trí thức được giác ngộ cách mạng, trở
thành những nhà văn hóa Mác-xít, đấu tranh quy t liệt với tư tưởng văn hóa
tư sản. Bởi vậy, mặc dù không có một văn kiện chính thức đề cập tới vấn đề
tuyên truyền, vận động trí thức, học sinh, sinh viên tham gia vào các cuộc đấu
tranh về văn hóa, văn nghệ nhưng trên thực t , Đảng đã bước đ u xây dựng
58
được đội ngũ trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước và ti n bộ. Thông qua
ti ng nói của bộ phận này, Đảng đã thể hiện được quan điểm, lập trường về
văn hóa của tổ chức.
Từ năm 1940 trở đi, mâu thuẫn giữa phát xít Nhật - Pháp với toàn thể
nhân dân ta ngày càng trở nên sâu sắc và d n tạo ra sự phân hóa rõ rệt trong
các t ng lớp trí thức Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của Đảng, một số trí thức đã
đi theo ti ng gọi của Đảng, tham gia hoạt động cách mạng. Một số ít đứng
hẳn về phía bọn xâm lược, làm tay sai cho chúng. Đứng giữa hai bộ phận trên
đây là đông đảo trí thức không cam tâm hợp tác với Nhật - Pháp, nhưng do sự
hạn ch của th giới quan đã lâm vào tình trạng hoang mang, do dự, bi quan,
hoài nghi… Bởi th , Đảng phải tìm mọi cách “thức tỉnh” và hướng họ vào
con đường đấu tranh cách mạng.
Đảng cũng xác định văn nghệ s là một bộ phận phải được tuyên
truyền, vận động về mặt văn hóa. Văn nghệ s mặc dù không chi m số đông
trong xã hội nhưng lại góp ph n định hình nên bộ mặt văn hóa của Việt Nam.
Các khuynh hướng sáng tác, các trào lưu văn học, nghệ thuật mà các văn nghệ
s theo đuổi cùng những sáng tác của họ chi phối không nhỏ tới các giai t ng
trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, trong giai đoạn 1932 -1935, trào lưu Thơ
mới và những sáng tác của Tự lực văn đoàn đã ảnh hưởng tới tư tưởng của
một bộ phận giai t ng trong xã hội, sâu sắc nhất là trí thức, thanh niên, học
sinh... Khẩu hiệu “vui vẻ, trẻ trung” khi n nhiều thanh niên, trí thức chìm đắm
trong sự hưởng lạc, quên đi nhiệm vụ cứu nước trong thời cuộc đất nước đang
bị xâm lược. “Cái Tôi” cá nhân không hòa mình trong tập thể sẽ gây nguy hại
cho phong trào cách mạng chung khi mà sức mạnh đại đoàn k t chính là một
trong những y u tố quy t định tới vận mệnh dân tộc.
Do đó, việc tuyên truyền, vận động văn nghệ s có một định hướng
sáng tác đúng đắn và dùng văn hóa để đấu tranh cách mạng là h t sức cấp
59
bách. Một bộ phận văn nghệ s đã từng bước nhận thức được sự ti n bộ của
trào lưu văn học hiện thực, hướng ngòi bút phê phán và vạch tr n những tội
ác của thực dân, phản ánh nỗi khổ của qu n chúng nhân dân. Đảng c n vận
động, tuyên truyền để bộ phận này giữ vững lập trường sáng tác, góp ph n
vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Để nền văn hóa Việt Nam phát triển theo khuynh hướng vô sản, bên
cạnh việc chú trọng tuyên truyền, vận động t ng lớp trí thức, bộ phận văn
nghệ s , Đảng còn c n chú trọng công tác tuyên truyền, vận động sâu rộng
trong qu n chúng nhân dân, trong đó đông đảo nhất là nông dân lao động.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã nêu: “Đảng phải thu phục
cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo” [15,
3]. Việc tập hợp được đông đảo nhân dân lao động là một trong những y u tố
quy t định thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Nhằm đưa cuộc cách mạng đi tới thắng lợi, Đảng c n vận động được
nhân dân lao động tham gia đấu tranh trên tất cả các l nh vực chính trị, kinh
t , văn hóa - xã hội. Trên thực t , nhân dân lao động Việt Nam trong giai
đoạn 1930 - 1945, do ảnh hưởng của bối cảnh đất nước khi đó, trình độ học
vấn, trình độ nhận thức còn nhiều hạn ch . Thực dân Pháp bằng những chính
sách văn hóa “tinh vi” hoàn toàn có thể ru ngủ qu n chúng, khi n nhân dân
lao động mất đi nhuệ khí đấu tranh cách mạng. Bởi vậy, Đảng quan tâm tới
việc tuyên truyền, vận động về văn hóa cho giai cấp này nhằm giúp qu n
chúng có nhận thức đúng đắn, phân biệt được giữa trào lưu văn hóa, tư tưởng
ti n bộ và bảo thủ, “mị dân”. Đảng đã từng bước tuyên truyền, vận động về
văn hóa trong đông đảo qu n chúng nhân dân lao động chủ y u thông qua sự
tuyên truyền của đội ngũ trí thức, các cán bộ, đảng viên của Đảng và gián ti p
thông qua các sáng tác ti n bộ của một bộ phận văn nghệ s .
Bên cạnh việc nhận thức về đối tượng tuyên truyền, vận động văn hóa
60
trong giai đoạn 1930 - 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam còn xác định các
phương thức cơ bản để đạt hiệu quả trong quá trình tuyên truyền, vận động
văn hóa ở Việt Nam.
Phương thức tuyên truyền, vận động đ u tiên được Đảng nhận định
là sách, báo và tạp chí. Tuy nhiên, ngay từ năm 1930, Đảng đã đưa ra một
số hạn ch , khuy t điểm của sách, báo ở Việt Nam khi đó: Đối với sách
“không có một số ít sách vở để huấn luyện đảng viên và qu n chúng vô
sản. Những tài liệu trọng y u (như các bản nghị quy t của Quốc t Cộng
sản, Quốc t Thanh niên, Quốc t Công hội đỏ, chương trình của Quốc t
Cộng sản...) chưa dịch ra ti ng Việt để lưu hành trong Đảng; đối với báo
“đều do một số rất ít đồng chí làm ra, ph n đông đảng viên hoàn toàn
không tham gia vào việc vi t báo... Các báo xuất bản rất bất thường. Nhiều
khi 2, 3 tháng không xuất bản số nào cả... Trong các báo, việc giải thích
các khẩu hiệu chính và con đường chính trị của Đảng không chuyên c n và
rõ rệt, nhiều khi lại giải thích sai l m” [79, 50-51].
Do đó, Đảng chủ trương: “Các Đảng bộ phải khôi phục các cơ quan ấn
loát báo chí, sách tuyên truyền và nhiều tài liệu khác của Đảng với mục đích
nâng cao trình độ nghiên cứu của đảng viên, làm cho đường lối chính trị của
Đảng quen thuộc với qu n chúng và nâng cao trình độ cho qu n chúng... Các
Đảng bộ phải hợp tác với các người lãnh đạo tổ chức qu n chúng để xuất bản
báo chí, các Đảng bộ và nhất là các chi bộ có nhiệm vụ nghiên cứu kỹ lưỡng
chương trình hành động, các cuộc cách mạng báo chí, còn tài liệu khác của
Đảng, các tổ chức phải lập ra bản lưu chuyển và để ý tới các điều kiện cụ thể
của địa phương và trình độ đảng viên của mình, phải gắn công tác huấn luyện
lý luận với công tác thực t của cuộc vận động” [79, 76-77]. Trong nội bộ,
Đảng còn chủ trương phát hành một tạp chí bí mật để giải thích những vấn đề
mà các sách báo công khai không thể bàn đ n được. Trong giai đoạn thành
61
lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đ Đông Dương, Đảng khẳng định điểm
mấu chốt của công tác tuyên truyền, cổ động của mặt trận lúc này là ra một tờ
báo làm cơ quan chung của mặt trận Đảng.
Phương thức thứ hai được Đảng khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị
Trung ương, ngày 6, 7, 8 tháng 10 năm 1940: “Sự tuyên truyền của Đảng
trong một thời gian chỉ nhờ ở sách vở, báo chí công khai, còn sự tuyên truyền
bằng miệng rất ít chú ý. Bây giờ sách vở công khai không có thì phải ra sách
báo bí mật, dùng truyền đơn, biểu ngữ, tranh vẽ, thi ca và tổ chức những đội
quân tuyên truyền bằng miệng. Tuyên truyền miệng có sự lợi ích là dễ hiểu rõ
qu n chúng, dễ đưa qu n chúng vào tổ chức” [79, 138-143].
Để đạt hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền, vận động văn hóa,
Đảng chủ trương thông qua các hình thức mặt trận. Trong Chính cương vắn
tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Đảng đã khẳng định sự c n thi t
phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất để tập hợp, đoàn k t các giai
t ng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân, phát huy truyền thống
yêu nước, sức mạnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Án
nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930 đã nêu rõ sự cấp thi t phải thành lập
Mặt trận Thống nhất phản đ . Đ n ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đ đồng
minh - hình thức đ u tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đ n giai đoạn cách mạng 1936, sự ra đời của Mặt trận dân
tộc phản đ Đông Dương, từ năm 1941 là Mặt trận Việt Minh chính là
những môi trường thuận lợi cho Đảng thực hiện tuyên truyền, vận động
nhân dân về văn hóa.
Với Đề cương văn hóa Việt Nam, Đảng đã đưa ra cách thức vận động
62
để xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới: Tổ chức các nhà văn tranh đấu giành
quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ s … Từ đó, Đảng đã động
viên được anh chị em trí thức nước nhà đoàn k t với toàn dân trên cơ sở liên
minh công nông và dưới sự lãnh đạo của Đảng; gắn trí thức với công nhân,
nông dân, làm cho Mặt trận Việt Minh thêm vững mạnh và rộng rãi, nhất là ở
các thành thị, nơi tập trung công nhân và trí thức.
Không chỉ xác định được đối tượng và phương thức tuyên truyền, vận
động văn hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1930 - 1945 đã từng
bước đưa ra những nội dung tuyên truyền, vận động về văn hóa phù hợp với
từng hoàn cảnh lịch sử. Trước h t, Đảng luôn chú trọng tới việc tuyên truyền
chủ ngh a Mác - Lênin nói chung và quan điểm của chủ ngh a Mác - Lê nin
về văn hóa nói riêng tới cán bộ, đảng viên, xác định lập trường giai cấp công
nhân cho đảng viên trên mọi công tác. Đảng đã chủ trương đấu tranh ngay
trong hàng ngũ cách mạng, để đảm bảo sự trong sáng và thu n túy của chủ
ngh a Mác - Lênin, trong đó có những tư tưởng của chủ ngh a Mác - Lê nin
về văn hóa.
Tư tưởng dao động trước những bi n động thời cuộc trong hàng ngũ trí
thức, trong đó có cả cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xuất
hiện từ những năm 1930 - 1931. Đ n năm 1935, tư tưởng này vẫn còn tồn tại
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Do đó, trong Nghị quy t của Đại hội
lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (từ ngày 27 đ n 31/3/1935),
Đảng chỉ rõ: “... Đảng muốn được lòng tin yêu rộng rãi của qu n chúng thì
không thể không Bôn-sê-vích hóa”. “Đảng chủ trương mở rộng sự phê bình
Bôn-sê-vích trong các cấp để nghiên cứu những điểm tốt nhất đem thực hiện
và tìm những điểm xấu để tránh. Ngoài ra, phong trào tự phê bình Bôn-sê-
vích phải là một phong trào thường trực, mỗi cơ quan trên phải chỉ thị rõ ràng
cho cơ quan dưới trực ti p để thực hiện. Nhất thi t phải cho qu n chúng tham
63
gia vào sự phê bình đó…” [18, 89-90].
Đối với sách, báo, tạp chí, Đảng chủ trương c n phải “giải thích chính
sách của Đảng, nghiên cứu tình hình kinh t , chính trị, xã hội của Đông
Dương và các địa phương để hiểu rõ những nguyện vọng, nhu c u và yêu
sách cụ thể của qu n chúng. Báo chí Đảng phải rút ra các bài học từ các cuộc
đấu tranh trước đây ở Đông Dương và trên th giới và truyền bá các thắng lợi
của cuộc ki n thi t xã hội chủ ngh a ở Liên Xô và phong trào cách mạng ở
Trung Quốc, kêu gọi qu n chúng bảo vệ cách mạng Trung Quốc, th giới và
Liên Xô chống chi n tranh, phê bình thiên hướng sai lệch trong Đảng, lột mặt
nạ bọn quốc gia cải lương, bọn xã hội dân chủ, bọn Tờ-rốt-xkít, bọn phát-xít,
bọn đảng viên Quốc dân Đảng... Bên cạnh đó, mỗi tờ báo phải có tính chất vô
sản, dùng một giọng văn không kiêu kỳ và dùng lời lẽ thông dụng của qu n
chúng. Đảng phải khuy n khích mỗi Đảng bộ xuất bản một tờ báo, các báo ở
xí nghiệp và ở cơ sở có nhiệm vụ thảo luận các vấn đề thích hợp nhất với địa
phương mình.
Từ khi phát xít Nhật xâm lược nước ta, Đảng đã xác định một trong
những nội dung quan trọng trong công tác tuyên truyền, vận động văn hóa ở
Việt Nam chính là kiên quy t chống lại chính sách văn hóa của phát xít Nhật -
Pháp. Cả phát xít Nhật và Pháp đều có k hoạch lôi kéo trí thức, văn nghệ s
nước ta. Chúng sử dụng mọi phương tiện văn hóa phục vụ cho ch độ thống
trị của chúng. Một số trí thức Việt Nam không chịu nhục mất nước và khao
khát tự do. Thông qua tuyên truyền, vận động, Đảng chỉ cho trí thức, văn
nghệ s nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam thấy đâu là lối thoát. Muốn
giải phóng trí thức phải giải phóng toàn thể dân tộc khỏi ách phát xít Nhật -
Pháp, giành lại độc lập, tự do. Đảng vạch rõ nhiệm vụ của giới trí thức, văn
nghệ s nước nhà là tham gia cách mạng dân tộc dân chủ, đặc biệt là tham gia
64
cách mạng văn hóa.
3.2. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng mặt trận văn
hóa cứu quốc
Để giải quy t nhiệm vụ giải phóng dân tộc, trong giai đoạn từ năm
1936 trở đi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương huy động mọi lực lượng
tham gia cứu nước. Muốn th phải đoàn k t toàn dân, đoàn k t tất cả những
người ta có thể đoàn k t, tranh thủ tất cả những người ta có thể tranh thủ. Từ
chủ trương này, trên l nh vực văn hóa, Đảng tập hợp tất cả những giai cấp,
t ng lớp trong xã hội, trong đó lực lượng hoạt động mạnh mẽ nhất là trí thức,
văn nghệ s tạo thành một mặt trận văn hóa.
Từ sau năm 1941, sau khi thành lập, Mặt trận Việt Minh đã tập hợp
được đông đảo công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đ n tư sản dân tộc và
một số tiểu địa chủ đứng dưới ngọn cờ cứu nước của Đảng để đánh đổ phát
xít Pháp - Nhật trên tất cả các l nh vực: Chính trị, kinh t , văn hóa - xã hội.
Và từ năm 1943, khi Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định mặt trận văn hóa cứu quốc chính là một trong ba mặt trận
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam: Mặt trận chính trị, mặt
trận kinh t , mặt trận văn hóa.
L nh vực đấu tranh chính của mặt trận văn hóa cứu quốc chủ y u xoay
quanh các vấn đề về văn hóa, văn nghệ ở Việt Nam. Những thành quả đạt
được trong đấu tranh văn hóa sẽ tạo tiền đề cho sự thắng th của dân tộc ta
trong đấu tranh chính trị và kinh t với thực dân, phát-xít. Nói cách khác, mục
đích cuối cùng trong các cuộc đấu tranh về văn hóa được Đảng xác định
chính là giải phóng dân tộc. Khi đã giải phóng dân tộc, văn hóa cũng được
giải phóng, từ đó mở đường cho Việt Nam phát triển một cách tự chủ, theo
hướng ti n bộ.
Để xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
65
chủ trương thành lập các tổ chức văn hóa từ những năm 1936 - 1939. Tháng
9/1936, nhiều lớp dạy chữ quốc ngữ đã được học sinh, sinh viên, trí thức tổ
chức ở Hà Nội. Trên các tờ báo thường có những bài chống nạn thất học. Để
xúc ti n việc thành lập Hội truyền bá chữ quốc ngữ, một số nhân s trí thức và
một số đảng viên cộng sản đã họp nhau lại để bàn định công việc. Theo Hồi
ký của Tr n Huy Liệu, cuộc họp đ u tiên được tổ chức ở nhà ông Phan Thanh
- Giáo sư trường Thăng Long lúc bấy giờ, có sự tham gia của một số trí thức
công nhân và nhân s như Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp,
Tr n Huy Liệu, Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ.
Tháng 8/1938, Hội truyền bá chữ quốc ngữ chính thức được thành lập.
Mục đích của Hội là dạy cho đồng bào Việt Nam bi t đọc, bi t vi t ti ng của
mình để dễ học được những điều thường thức c n dùng cho sinh hoạt hàng
ngày. Đây là mục đích quan trọng cấp thi t hơn, c n phải làm ngay. Để định
hướng phương thức công tác của Hội sao cho phù hợp với điều kiện chính trị
- xã hội của đất nước hồi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Đối với
cuộc vận động chống nạn mù chữ phải giao thiệp rộng rãi với các nhà trí
thức,… đề nghị lập ra chi nhánh của Hội truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động hội
viên, mượn đình chùa, trường học để tổ chức các lớp dạy học và diễn thuy t”.
Qua đó, vai trò của trí thức trong phong trào này được thể hiện rõ nét hơn.
Chính lực lượng này đã góp ph n quan trọng trong sự nghiệp nâng cao dân
trí, tuyên truyền tư tưởng ti n bộ tới qu n chúng nhân dân.
Về hoạt động của Hội, nhiều lớp học đã được mở ở ngoại thành Hà
Nội, Hà Đông và sau đó được mở rộng ra các tỉnh khác như Hải Phòng,
Quảng Ninh, Nghệ An… thu hút được đông đảo sinh viên, trí thức tham gia.
Chỉ tính riêng trong một tu n ở Hà Nội, tháng 8/1941 đã có trên 200 trí thức
ghi tên vào ban dạy học của hội với 22 địa điểm học chỉ trong thành phố.
Trong những năm 1942 - 1943, Hội đã tổ chức những cuộc nói chuyện về các
66
danh y, các cuộc thi câu đối nôm, diễn thuy t, trưng bày, soạn sách vở… mở
thư viện tại khu Tương Mai (Hà Nội) để các hội viên cũng như học sinh có
nơi tham khảo sách báo. Năm 1944, Hội truyền bá chữ quốc ngữ được thành
lập ở cả Nam Kỳ, Ai Lao, Cao Miên. Năm 1945, ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ đều có
chi nhánh của hội. Số học viên thoát nạn mù chữ nhờ hoạt động của hội lên 5
vạn, nhiều nhất ở Hà Nội là 3 vạn. Thông qua phong trào này, nhiều giáo viên
và thanh niên đã bi t liên lạc với tổ chức thanh niên và cứu quốc trở thành cán
bộ của qu n chúng, của Mặt trận Việt Minh, hoạt động hội để tuyên truyền
cho Việt Minh [27, 33-34].
Như vậy, Hội truyền bá chữ quốc ngữ được thành lập công khai là một
thành tựu lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ có sự chỉ đạo của Đảng mà
ngay từ đ u, Hội hoạt động đã có mục đích, tôn chỉ rõ ràng. Cũng chính thông
qua phong trào có tính chất văn hóa này, Hội truyền bá chữ quốc ngữ đã có
những đóng góp to lớn không chỉ trong thời kỳ vận động dân chủ mà còn phát
huy vai trò tập hợp và tổ chức qu n chúng trong thời kỳ Mặt trận Việt Minh
ti n tới giành chính quyền.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của việc lãnh đạo trên mặt trận văn hóa
cứu quốc, Đảng chủ trương phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa,
đặng gây ra một phong trào văn hóa ti n bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn
hóa phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Hu ...
phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức
công khai hay bán công khai đặng đoàn k t các nhà văn hóa và tri thức (ví dụ
có thể tổ chức những “nhóm văn hóa tiền phòng” , “nhóm nghiên cứu chủ
ngh a Mác”, “nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam”...).
Sau khi Mặt trận Việt Minh ra đời (năm 1941), các đoàn thể qu n
chúng của Đảng đều lấy tên là cứu quốc. Chỉ duy có ngành văn hóa là chưa có
tổ chức riêng. Đảng đã quy t định thành lập một tổ chức riêng cho ngành văn
hóa. Tuy nhiên, trong thời gian đ u chưa bi t lấy tên như th nào cho phù hợp
67
với tính đặc thù của ngành văn hóa, Đảng đã trưng c u ý ki n của anh em trí
thức, văn nghệ s . Đảng chủ trương tập hợp những người làm công tác văn
hóa vào một tổ chức để họ nắm được đường lối văn hóa của Đảng, không để
kéo dài tình trạng dao động trước những luận điệu “mị dân” của lực lượng
phản động.
Dựa trên tinh th n Đề cương văn hóa Việt Nam, tháng 4/1943, Hội Văn
hóa cứu quốc được thành lập và đi vào hoạt động bên cạnh các tổ chức cứu
quốc khác của Mặt trận Việt Minh. Cuộc họp đ u tiên được tổ chức ở nhà anh
Ngô Lê Động, 11 phố Hàng Đường. Dự cuộc họp có các đồng chí: Học Phi,
Ngô Lê Động, Như Phong, Vũ Quốc Uy. Sau khi thống nhất về tôn chỉ, mục
đích, một câu hỏi được đặt ra: Đối tượng của hội là những ai? Có ý ki n cho
là tất cả những người làm nghề trí óc như nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà
khoa học... Một số ý ki n cho rằng đối tượng chỉ là riêng văn nghệ s vì phạm
trù văn hóa rất rộng, n u k t nạp cả những nhà giáo, những người làm khoa
học thì đó là cả một mặt trận, không còn riêng của một hội nữa. Mãi đ n Đại
hội văn hóa kháng chi n toàn quốc l n thứ nhất họp tháng 6/1945 ở Việt Bắc,
vấn đề này mới được giải quy t với quy t định chia Hội Văn hóa cứu quốc
thành 3 bộ phận: Hội Văn nghệ, Hội Khoa học và Liên đoàn giáo dục.
Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập với kỳ vọng nêu lên những
nguyên tắc hướng dẫn quá trình sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, đề xuất những
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của các nhà văn hóa Việt Nam. Hai nhiệm vụ
chính đặt ra cho Hội là: Gạt bỏ những tiêu cực văn hóa phong ki n lạc hậu
trong văn hóa Việt Nam, tuy nhiên loại bỏ không phải là xóa sạch những y u
tố văn hóa Việt Nam mà là phát huy những y u tố văn hóa truyền thống tích
cực, sử dụng vào mục đích giữ nước, chỉ loại bỏ những y u tố tiêu cực; đánh
đổ sự kiềm kẹp và nạn đ u độc văn hóa thực dân của Pháp, nhưng cũng phải
68
bi t thu nhận những y u tố ti n bộ. Cụ thể trước mắt là soi sáng các t ng lớp
trí thức, văn nghệ s và qu n chúng nhân dân, bắt tay vào xây dựng văn hóa
mới phục vụ công cuộc giải phóng.
Hội Văn hóa cứu quốc vừa ra đời đã thu hút được một số văn nghệ s
tham gia, lớp đ u tiên gia nhập có Học Phi, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài,
Nguyễn Đình Thi, Thép Mới… Quản lý hoạt động hội là một Ban Chấp hành,
đứng đ u là một chủ tịch (người đ u tiên là Học Phi). Hội trực ti p nhận sự
chỉ đạo của Đảng thông qua những cán bộ được Đảng cử xuống như Lê
Quang Đạo, Tr n Độ, Vũ Quốc Uy, Tr n Quốc Hưng...
Tạp chí Tiên phong của Hội là một cơ quan truyền bá đường lối văn
hóa của Đảng. Tiên phong là tạp chí g n như duy nhất về văn nghệ ra đời từ
rất sớm, có sự lãnh đạo trực ti p của Đảng ngay từ đ u. Cơ quan này dự tính
xuất bản bí mật từ lúc trước khởi ngh a tháng Tám năm 1945, nhưng mãi đ n
tháng 11/1945, số 1 của tạp chí Tiên phong mới ra mắt bạn đọc. Vì th , ở
ngay trang đ u của số 1 có ghi hai chữ “Tái bản”. Đây là tờ bán nguyệt san
tập hợp được trong Ban Biên tập nhiều tên tuổi tiêu biểu của văn học thời đó:
Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng, Tô
Hoài, Nam Cao, Như Phong, Tr n Huy Liệu, Hải Triều... Tạp chí đã cho
đăng nhiều bài vi t về Đề cương văn hóa Việt Nam, về việc vận dụng và thực
hiện Đề cương, về xây dựng đời sống mới... [54, 16-20].
Thông qua các bài đăng trên tạp chí này và một số tờ báo, tạp chí ti n
bộ khác, thành viên của Hội đã tranh luận với những xu hướng văn hóa phản
động thân Nhật hoặc Pháp (như Nam Phong tạp chí, Hội Khai trí ti n đức…).
Mặc dù chỉ tồn tại trong hơn một năm với 24 số, cho đ n ngày toàn quốc
kháng chi n, Tiên phong đã làm tròn mục tiêu đề ra là cơ quan vận động văn
hóa mới, phổ bi n những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa, văn nghệ -
thể hiện rõ ở ba nội dung: Dân tộc, khoa học, đại chúng nêu trong Đề cương
69
văn hóa Việt Nam l n đ u tiên giới thiệu trên Tiên phong số 1.
Những hoạt động thường xuyên và tích cực của Hội Văn hóa cứu quốc
đã đưa những chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa mới nhanh chóng
đi sâu vào đời sống qu n chúng nhân dân. Tuy nhiên, trong thời gian đ u hoạt
động, Hội không phát triển rộng rãi để nhiều trí thức, văn nghệ s được tham
gia với lý do hoạt động bí mật. Do đó, một số văn nghệ s như Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố cũng chưa được k t nạp, trong khi vào thời gian này, đây
là những tên tuổi đang nổi ti ng với những tác phẩm hiện thực sâu sắc như
“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan.
3.3. Ảnh hƣởng văn hóa của Đảng tới giới văn nghệ sĩ
Những cuộc tranh luận về văn hóa, văn nghệ kéo dài từ những năm
1920 đ n những năm 1940 của th kỷ XX, sự ra đời của các tổ chức văn hóa
và sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, tư tưởng trước Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 đã bước đ u có tác động đ n tư tưởng của giới trí thức, văn nghệ s
Việt Nam thời đó. Bên cạnh một bộ phận trí thức, văn nghệ s đã trở thành
đảng viên và đấu tranh sôi nổi cho quan điểm Mác-xít về văn hóa, ở Việt
Nam khi đó còn có một bộ phận trí thức, văn nghệ s vẫn còn mang tâm trạng
bi thương, chán nản, b tắc về cuộc sống đương đại.
Để thấy được những chuyển bi n trong tư tưởng của một bộ phận trí
thức, văn nghệ s thời gian này dưới tác động của thời cuộc, nhất là ảnh
hưởng của quan điểm về văn hóa của Đảng, tôi tìm đọc những băn khuăn, trăn
trở, những lời tự nhận xét, tự bộc bạch của bộ phận này trên tạp chí Tiên
phong và các bài vi t đăng tạp chí Văn nghệ giai đoạn 1948 - 1955.
Loạt bài của Nguyễn Đình Lạp với nhan đề “Những nỗi băn khuăn của
tư tưởng và nghệ thuật” đã bước đ u phản ánh và tái hiện những bước đường
tư tưởng của một số trí thức, văn nghệ s Việt Nam dưới tác động của thời
70
cuộc và quan điểm của Đảng về văn hóa.
“Năm 1939, cứ mỗi buổi chiều vào giờ ánh đèn điện lênh láng trên mặt
nhựa đường Hà Nội, thì một gã thanh niên (Lưu Trọng Lư - TG) lại bắt đ u ra
phố, lủi thủi bước dưới bóng hàng hiên... Và mỗi khi qua một cột đèn, đôi gò
má hắn nổi bật, bóng và ướt đẫm nước mưa. Hắn đứng dừng, cặp mắt mỏi mệt
và s u muộn rồi ngâm thơ một mình”. Đây là hình ảnh của Lưu Trọng Lư khi
mải mi t đi tìm nhân loại “trong mình, qua mình, bởi mình, vì mình” khi chưa
được ti p cận với những quan điểm của Đảng về văn hóa.
Dưới ánh sáng của Đảng, con người đó đã hoàn toàn thay đổi. Trong
quan niệm của nhà thi s “cá nhân không là gì h t. Đoàn thể là tất cả. Đoàn
thể chi phối, phân phát, quy t định. Tôi (Lưu Trọng Lư - TG) có cảm giác là
duy trì cuộc sống riêng biệt là không được nữa. Chỉ có cuộc sống chung là
đáng duy trì thôi… Bây giờ tôi tìm đoàn thể, tìm mình trong đoàn thể…
Trong khi tư tưởng thay đổi trước cuộc sống v đại đương lên thì cuộc sống
bên trong, tâm hồn mình cũng bi n đổi. Từ cái thắc mắc, nó trở nên ổn định…
Bây giờ tôi có thể nói tôi là một người khác rồi. Mặc d u đôi khi còn vương
vấn một đôi chút d vãng… Nói theo lối Nguyễn Tuân: Bóng dáng cố nhân
vẫn còn…Quan niệm văn chương của tôi như bi n đổi hẳn từ trong căn bản.
Tôi thích sự thực, sự thi t thực. Và hơn h t là sự thành thực…” [58, 860-861].
Trong bài vi t “Văn hóa với thời đại” của Thời Nhân, thơ Tố Hữu và
những bước đường tư tưởng của nhà thơ này đã được thể hiện sinh động:
“Đọc thơ Tố Hữu, ta định tìm một người cách mạng thì ta đã gặp một người,
hay đúng hơn, một người luôn luôn cố gắng, luôn luôn mình chi n đấu với
mình để trở nên một người cách mạng.
Xuất thân trong một gia đình trung sản, lớn lên theo học trường Pháp -
Việt đ n bậc trung học, Tố Hữu rất có thể sống cuộc sống bình yên và vô vị
của bao nhiêu thanh niên khác cùng một lớp. Nhất là Tố Hữu lại nặng mang
71
trong mình tâm lý của lớp người ấy trong giai đoạn vừa qua… Những điểm
cốt y u trong tâm lý lớp thanh niên đó, là cô đơn. Cuộc sống xã hội và chính
trị bị b tắc trong những ngày Pháp thuộc và ảnh hưởng văn hóa phương Tây
đã khi n họ thu mình trong biên giới cái tôi. Sống trong cái tôi chật hẹp. Họ
thấy lẻ loi và bơ vơ. Một niềm cô đơn đau đớn, bàng bạc trong thi ca hồi bấy
giờ và đây đó vẫn còn rớt lại trong thơ Tố Hữu…
Nhưng con người ấy đã đi vào con đường cách mạng và trên con đường
cách mạng người đã không ngừng tranh đấu. Tranh đấu ngoài tù, tranh đấu
trong tù, đời Tố Hữu, cứ nhìn bề ngoài tưởng không một l n nào đuối sức.
Tuy nhiên, Tố Hữu luôn phải thúc giục mình ti n bước và vẫn có những khi
trí muốn một đường mà lòng đi một nẻo, tình và lý chưa hoàn toàn ăn nhịp
với nhau” [58, 909-912].
Trên tạp chí Văn nghệ những năm 1951 - 1952, Nguyễn Đình Thi đã
vi t về Nam Cao và bước đường tư tưởng của nhà văn này. Có thể thấy, Nam
Cao là một trong những nhà văn sớm có tư tưởng phản kháng mãnh liệt trước
kẻ thù và dùng văn chương để phơi bày thực trạng xã hội: “Nam Cao bắt đ u
bước hẳn vào nghề văn, khoảng 1940, giữa lúc phát xít Nhật đã đặt chân lên
Đông Dương, phát xít Pháp Pê-tanh càng bóp nghẹt đất nước Việt Nam vào
một khoảng đêm dài đẫm máu…
Nam Cao đã không chịu khuất với cái ch độ ngạt thở ấy. Nhà văn
mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn, nhiều khi rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt, mà
kỳ thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt… Anh nguyền rủa cái
văn chương thi vị hóa cái khổ của bọn nhà văn tư sản “cúi mình xuống dân
chúng”. Trong nền tiểu thuy t hiện thực đang tìm đường và đang chi n đấu
với các xu hướng phản động bấy giờ, thiên truyện Chí Phèo của Nam Cao đã
nói những cái khổ cùng cực của thôn quê dưới ách cường hào ở trước mắt với
quan lại và thực dân ở phía sau. Cuối năm 1944, Nam Cao vi t xong Sống
72
mòn. Tập tiểu thuy t ấy “quẳng đi, ném lại”, không lọt qua được lưới kiểm
duyệt để xuất bản, tuy rằng soi từng chữ không có chỗ nào bắt bẻ được. Sống
mòn tả cuộc sống thiểu não, quẩn quanh, nhỏ nhen của mấy người trí thức tiểu
tư sản nghèo, một cuộc sống mù xám cứ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục ra”
không có lối thoát. Cách mạng đã chìa tay đón lấy tia hy vọng thắc mắc của
Nam Cao và chỉ rõ cho anh thấy tương lai.
Chi n tranh trở nên ác liệt, xã hội Việt Nam lay chuyển. Đời sống càng
cùng khốn đ n kinh khủng. Nhưng giữa cảnh tưởng như tuyệt vọng ấy, Nam
Cao đã đọc Đề cương văn hóa Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam và vào
hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, học chương trình huấn luyện Việt
Minh. Giữa cảnh ch t chóc ghê gớm chưa từng thấy, anh trông rõ sự sống
đang dào lên như vũ bão. Và không phải một mình anh trông thấy. Cả nhân
dân Việt Nam đã trông thấy ánh sáng… Nam Cao đã bừng thấy sức mạnh của
nhân dân và trong đường sống của dân tộc đã tìm thấy đường sống của mình.
Cuộc đấu tranh gay gắt và rộng lớn đẩy anh đi lên, mở đường cho anh hành
động. L n đ u tiên, Nam Cao thấy đời sống có ý ngh a và hiểu rõ mình phải
làm gì” [62, 262-268].
Trong bài vi t “Đọc “Thơ ca kháng chi n” của Tú Mỡ”, Xuân Diệu đã
bước đ u nhìn nhận về những bước đường tư tưởng của Tú Mỡ từ những năm
trước Cách mạng: “Dưới ch độ áp bức của thực dân Pháp, ngòi bút của anh
đã lọt qua lưới gắt gao của kiểm duyệt, hàng tu n một, lấy cái cười làm vũ
khí, đưa những cái ngang tai, chướng mắt cho mọi người nhìn rõ để mà oán
ghét. Trong các loại văn chương “công khai” thời ấy (trước Cách mạng Tháng
Tám - TG), ngòi bút của Tú Mỡ không a dua với phong trào lãng mạn tiểu tư
sản, mà tách ra một lối riêng, g n gũi với bình dân và có hình thức dân tộc.
Ngòi bút ấy đã được cách mạng và kháng chi n giải phóng cho và giáo
dục thêm nhiều… Qu n chúng nhân dân đã trả lại cho Tú Mỡ cũng như cho
73
tất cả các nhà văn Việt Nam, cái ngang nhiên, cái đường đường chính chính
đứng trước kẻ thù, trao súng đạn và trao sức lực cho ta, bảo bắn thẳng vào
quân giặc” [62,325-332].
Trên tạp chí Văn nghệ năm 1953, trong bài vi t “Nhìn rõ sai l m”,
Nguyễn Tuân đã trình bày những sai l m trong tư tưởng cũ của mình trước
Cách mạng Tháng Tám và tư tưởng mới đúng đắn và phù hợp với thời cuộc
hơn dưới ảnh hưởng của ánh sáng cách mạng: “Tôi là con một ông tú tài chữ
Hán khoa thi cuối cùng. Tôi chịu ảnh hưởng nặng của tư tưởng phong ki n
suy tàn do cha tôi truyền cho… Tất cả những cái thèm khát cá nhân của tôi về
ăn chơi giang hồ, tôi đưa h t cả vào truyện và tùy bút của tôi… Trong “Vang
bóng một thời”, tôi đã đứng về phía bọn phong ki n ăn bám bóc lột, thống trị
nông dân lao động mà đưa ra một cái nhân sinh quan phản ti n bộ của bọn
quan lại địa chủ tiêu dao hưởng lạc bất lực trước nhiệm vụ lịch sử…
Qua từng tác phẩm, hoặc lẩn vào kẽ giòng hoặc lộ liễu hiện lên trên
từng chữ, từng câu văn, chỗ nào cũng lòi ra cái khía cạnh của tư tưởng hưởng
lạc, trang nào cũng toát ra cái nhân sinh quan thối nát của một người bạc
nhược trốn thực t , sợ sống, sợ trách nhiệm, của một người lấy nghệ thuật dối
mình và trí trá với người đọc. Nguy hiểm hơn nữa là những cái vi t ra đó
ph n lớn đã làm lợi được cho bọn thù địch của dân tộc, cụ thể là thực dân
Pháp và phong ki n địa chủ tay sai của nó… Nhờ ánh sáng chủ ngh a Mác -
Lênin của Đảng mở mắt cho thấy rõ ý ngh a và phương hướng của nghệ thuật
chân chính” [63, 145-152].
Trong bài vi t “Nhìn thẳng về tương lai”, Nguyễn Xuân Sanh đã
nghiêm túc nhìn nhận những sai l m của mình trong quan niệm về văn học và
văn nghệ trước cách mạng, đồng thời nói lên những thay đổi trong quan điểm
về văn hóa và văn nghệ của mình sau khi ti p cận được quan điểm về văn hóa
của Đảng. “Trước Cách mạng, quan niệm về thơ của tôi kín mít, không sáng
sủa vì không có chỗ đứng dứt khoát mà nhìn. Quan niệm thơ đó không có lợi
74
chút nào cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ. Nó còn phản bội
cuộc đấu tranh đó. Nó đưa một số người, tuy ít ỏi, vào chỗ trốn tránh thực t ,
không dám ngẩng đ u nhìn thẳng vào thực t , một số thanh niên trí thức, học
sinh, sinh viên, một số sách báo đáng nhẽ phải lao mình vào cuộc chi n đấu
của dân tộc thì đi ngâm nga, tìm hiểu, tranh luận về một lối thơ và quan niệm
thơ kín mít, xa qu n chúng.
Đảng dạy tôi căm ghét tột độ kẻ thù của cách mạng là đ quốc và
phong ki n địa chủ. Dưới ánh sáng của Đảng, tôi cũng dứt khoát coi hệ thống
tư tưởng nghệ thuật cũ của tôi là phản động từ căn bản lập trường… Đảng chỉ
cho tôi thất lực lượng to lớn của nông dân… Chỗ đứng dứt khoát của tôi là ở
phía nông dân lao động. Đảng đã giải phóng cho tôi ra khỏi nhà tù của những
tư tưởng đen tối” [63, 166-168].
Xuân Diệu, trong tiểu luận phê bình văn học “Những bước đường tư
tưởng của tôi” đã tự bộc bạch về quá trình hình thành một quan điểm về văn
học, nghệ thuật đúng đắn. “Dưới những ảnh hưởng gia đình, xã hội và văn
hóa như vậy, những bước đường tư tưởng của tôi trước Cách mạng là những
bước sờ soạng, lưu lạc, thương đau. Tôi chưa hội ý với các bạn thơ Th Lữ,
Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Ch Lan Viên, Nguyễn Bính… nhưng có lẽ, ở
đây, tôi cũng nói, bằng những khía cạnh của tôi, cái tình trạng chung đau khổ
tinh th n của các anh, khi lạc đường qu n chúng, khi chưa tìm thấy ánh sáng
của Đảng.
Văn hóa cũ với phương pháp tư tưởng “siêu hình” (métaphysique) của
nó, dắt tâm trí tôi, từ khi nhỏ đ n lúc lớn, vào một con đường rút vào trôn ốc
thật là tắc tị! Tự ngh mình là một kẻ tài tình, một “tài nhân” bi t yêu cái đẹp,
quý cái hay, trọng cái phải và lại còn tạo ra cái hay, cái đẹp là đằng khác, tôi -
và hàng vạn học sinh, nghệ s , trí thức khác - tự đặt cái tôi như một thực tại
75
bất di bất dịch, tự đề cao cái bản ngã, coi nó là tuyệt đối.
Đ n khi ách Nhật thuộc quàng thêm vào cổ, tư tưởng tôi càng ngày
càng bi. Tôi cố bám lấy lập trường tiểu tư sản, đứng giữa của tôi: Một mặt
không hề chịu đi thi tri huyện làm quan, ghét sự buôn bán, sự “làm giàu”,
lánh xa bọn ăn trên ngồi trốc của xã hội, phản đối những người làm thơ trụy
lạc, vi t văn ca tụng thuốc phiện, đòi hỏi sự lành mạnh, sự sáng sủa trong văn
học; một mặt không bi t, không dám đi với qu n chúng c n lao, nghèo khổ;
tôi đứng giữa, giữ một thứ “trong sạch” tiêu cực, của những kẻ “tài tình là lụy
muôn đời”. Trong khi qu n chúng càng ở dưới ách Pháp - Nhật càng cùng
khổ và đã bắt đ u ch t đói thì người trí thức, người nghệ s ở tôi sa l y tr m
trọng vào cả một hệ thống tư tưởng cũ như vậy, nó là một tạp-pí-lù tư tưởng
của phong ki n, tư sản và tiểu tư sản.
Cách mạng Việt Nam mang tới cái mà văn học tư sản Pháp không có
nổi, là sự hành động… hành động cách mạng, hành động cùng với qu n
chúng, hành động có mục đích và hiệu quả. Những ngày Cách mạng Tháng
Tám, tôi cùng bao nghệ s , trí thức khác say sưa mỗi người một việc, ngày
đêm công tác. Hoạt động, công tác cách mạng đã giải quy t sự hoan mang
vô bổ của trí tuệ tôi, nhúng trí tuệ tôi trở lại trong cái ý ngh a cơ bản của sự
lao động” [10].
Họa sỹ Tô Ngọc Vân trong bài vi t “Tâm sự một người bị đ u độc” đã
bộc bạch về những b tắc trước thời cuộc của mình trước Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 được phản ánh qua nhân vật trong tranh và niềm tin tưởng khi
được ti p cận với ánh sáng của Đảng. “Nhân vật chính trong sáng tác trước
Cách mạng của tôi là người thi u nữ Hà Nội, thuộc vào loại ăn không ngồi
rồi, coi cuộc sống là một cuộc hưởng lạc dài… Nhân vật này đ n với tôi d n
d n đi vào ý thức, xúc cảm trong nghệ thuật và cả cuộc đời, từ lúc tôi ở nhà
trường thuộc Pháp; đ n những năm 1940 - 1943 thì nó hiện lên tranh tôi với
76
hoàn toàn bản chất của nó. Khẩu hiệu “nghệ thuật là hưởng lạc” được bổ túc
bằng khẩu hiệu “nghệ thuật không làm chính trị” - không làm chính trị, trốn
đấu tranh để yên ổn hưởng lạc - những khẩu hiệu thâm độc đó đã chỉ đạo cuộc
đời nghệ s và sáng tác của tôi... Đảng đã cho tôi thấy rõ cách mạng và kháng
chi n tuy đã giải phóng thể chất của tôi ra khỏi vòng kiểm soát của giặc,
nhưng tư tưởng tôi vẫn bị chúng nó c m tù… Đảng đã cho tôi thấy rõ bản
chất tử thù của tư tưởng tư sản đ quốc” [63, 169-170].
Nguyễn Văn Tỵ trong bài vi t “Chìm đắm trong nô lệ mà vẫn tưởng là
được tự do” cũng nhận ra những điều trong tư tưởng của mình trước Cách
mạng có hại cho nhân dân: “Trước Cách mạng Tháng Tám, tôi cho là luân lý,
chính trị, xã hội đều không quan thi t gì đ n tôi… Thực ra, tôi chỉ phục vụ
nghệ thuật của giai cấp bóc lột, “tự do” của bọn thống trị, xa rời qu n chúng,
phản lại quyền lợi của qu n chúng… Tất cả những sai l m trên đều do văn
hóa của bọn tư sản u châu đã thâm nhập vào nghệ thuật hội họa của tôi.
Nhờ ánh sáng của Cách mạng, của tư tưởng vô sản, nhờ sự giáo dục
của Đảng tiền phong, tôi mới nhận rõ được “con người của mình”, nghệ thuật
của mình dưới ch độ nô lệ của đ quốc… Tôi nhìn thấy xuất phát điểm của
nghệ thuật hội họa mới: Hội họa phải lấy mục đích phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân làm nền tảng cũng như nghệ thuật nói chung phải góp ph n vào
sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xây dựng con người mới, con người có tự do
và hạnh phúc thực sự” [63, 171-172].
Thông qua dòng tâm sự, chia sẻ của các nhà văn, nhà thơ, các họa s
Việt Nam về những diễn bi n tư tưởng trong quá trình giác ngộ lý tưởng cách
mạng, một đặc điểm chung ở h u h t các nhà văn thời kỳ trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là tư tưởng đề cao “cái Tôi” cá nhân với những sáng
tác lãng mạn, xa rời qu n chúng. Không chỉ vậy, một bộ phận không nhỏ các
văn nghệ s trong giai đoạn khi những tư tưởng tư sản “lụi tàn” đã tỏ ra b tắc,
77
bi quan, không tìm được con đường đi cho cuộc sống và sáng tác của mình.
Có thể thấy, đa số các nhà văn hiện thực trong giai đoạn 1936 - 1939
thường ít bày tỏ quan điểm sáng tác của mình… Các nhà văn hiện thực ở thời
kỳ 1939 - 1945 đã ở vào hoàn cảnh phải bộc lộ rõ thái độ, quan điểm và ý
thức trách nhiệm của mình trong sáng tác. Sau khi ra đời, Đề cương văn hóa
văn hóa đã tạo nên những đổi thay quan trọng trong nhận thức và sáng tác của
một số văn nghệ s . Đề cương đã chỉ ra những tư tưởng chi n lược, góp ph n
đưa tới sự thay đổi sâu sắc trong giới văn nghệ s , trước h t là ở quan điểm
sáng tác. Đề cương giúp cho văn nghệ s hình thành được những quan điểm,
nhận thức ti n bộ như trong Đời thừa, Giăng sáng của Nam Cao, Hai d ng
sữa của Nguyên Hồng. Điều mới mẻ trong quan điểm sáng tác của các nhà
văn hiện thực phê phán lúc này đã khẳng định rất rõ vị trí, t m quan trọng của
qu n chúng lao động. Tô Hoài vi t: “Tấy cả mọi hoạt động đều chỉ có một
mục đích là làm sao cho cách mạng thắng lợi. Chúng tôi đã thảo luận về văn
học cách mạng, vi t báo bí mật, vi t truyện công khai có ý thức ti n bộ”. Ti p
nhận ánh sáng tư tưởng của Đảng, các nhà văn hiện thực đã nói đ n tương lai
một cách tin cậy và tha thi t. Các nhà văn hiện thực phê phán thường để cho
các nhân vật nói lên niềm tin vào lúc cuộc sống khó khăn và ít hy vọng nhất.
Những chặng đường văn học đã xuất hiện những kiểu nhà văn khác nhau.
Những nhà thơ kiểu mới ấy chỉ khoảng 10 năm sau đã sớm từ bỏ chức năng
“là thi s ngh a là ru với gió” và trong thực t của nền thơ ca cách mạng đã
xuất hiện kiểu nhà thơ cách mạng “nhà thơ cũng phải bi t xung phong”.
Tiểu kết chƣơng 3:
1. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn chú trọng đ n công tác tuyên truyền, vận động văn hóa. Đảng đã
xác định tuyên truyền các quan điểm, chủ trương, đường lối văn hóa của
Đảng tới đông đảo qu n chúng nhân dân là một trong những nhiệm vụ chi n
78
lược của Đảng, nhất là trong thời kỳ 1939 - 1945. T ng lớp trí thức, bộ phận
văn nghệ s , trong đó nhiều người là cán bộ, đảng viên của Đảng chính là
những người ti p cận sớm nhất với tư tưởng văn hóa của Đảng, từ đó tuyên
truyền tới nhân dân, vận động nhân dân tham gia xây dựng nền văn hóa, văn
nghệ Việt Nam mới, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
2. Trong quá trình xây dựng các trận tuy n đấu tranh cách mạng,
Đảng chú trọng xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc, nhất là từ giai đoạn
1941 - 1945. Mặt trận văn hóa cứu quốc ngày càng mở rộng về phạm vi hoạt
động, quy mô đấu tranh, lực lượng tham gia, trở thành một trong những mặt
trật đấu tranh thời kỳ đ u của Đảng bên cạnh mặt trận chính trị và mặt trận
kinh t . Ba mặt trận này có mối quan hệ hữu cơ qua lại với nhau. Những
thành công trên mặt trận văn hóa sẽ là nền tảng tạo nên những thắng lợi về
chính trị và kinh t .
3. Những quan điểm văn hóa của Đảng thấm sâu, lan tỏa vào các t ng
lớp nhân dân, đặc biệt là văn nghệ s . Nhiều văn nghệ sỹ đã tích cực tham gia
các hội đoàn văn hóa do Đảng thành lập, đóng góp tích cực vào sự nghiệp
phát triển văn hóa và giải phóng dân tộc. Điều này đã góp ph n minh chứng
cho những quan điểm đúng đắn của Đảng về văn hóa, văn nghệ, về tuyên
79
truyền, vận động văn hóa và thành lập mặt trận văn hóa cứu quốc.
Chƣơng 4
MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
4.1. Một vài nhận xét về quan điểm văn hóa của Đảng trƣớc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945
Đứng trên lập trường quan điểm duy vật biện chứng của chủ ngh a Mác
- Lênin, vận dụng vào thực tiễn lịch sử Việt Nam trong từng bối cảnh cụ thể
đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành được những quan điểm đúng
đắn về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Một số thành tựu:
Thứ nhất, Đảng đã đưa ra định nghĩa về “văn hóa” và xác định những
nguyên tắc cơ bản trong xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới.
Định ngh a “văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật” trong
Đề cương văn hóa Việt Nam đã biểu hiện cách nhìn nhận của Đảng về “văn
hóa” có nhiều nét tương đồng với định ngh a của UNESCO cho rằng: “Văn
hóa nên được xem là một tập hợp các đặc trưng nổi bật về tinh th n, vật chất,
tri thức và tình cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và ngoài
văn học và nghệ thuật nó còn bao gồm lối sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”. Đặt trong mối tương quan so sánh
với một số định ngh a về “văn hóa” trong nước vào thời điểm những năm
1940 - 1945, khái niệm về “văn hóa” trong Đề cương văn hóa Việt Nam có sự
ti p thu ảnh hưởng quan điểm của Hồ Chí Minh về “văn hóa” (năm 1942) và
có những điểm giống với khái niệm về “văn hóa” của Đào Duy Anh trong
Văn hóa sử cương, sau này là trong Văn hóa là gì.
Đi sâu tìm hiểu từng nội dung cụ thể của Đề cương văn hóa Việt Nam,
chúng ta nhận thấy Đảng đã k thừa quan điểm của chủ ngh a Mác - Lênin về
văn hóa như tính giai cấp, tính Đảng. Nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa
80
mới xã hội chủ ngh a theo tinh th n chủ ngh a Mác - Lênin đã được Đảng nêu
rõ trong Đề cương văn hóa Việt Nam. Ba nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại
chúng trong xây dựng nền văn hóa mới là sự k thừa có chọn lọc những tư
tưởng cốt lõi của chủ ngh a Mác - Lênin.
Trong các cuộc tranh luận văn nghệ sôi nổi những năm 1930, quan
điểm của Đảng, trực ti p là ti ng nói của các nhà văn hóa Mác - xít đã thể
hiện được tinh th n của chủ ngh a Mác - Lênin về văn nghệ. Những tư tưởng
của Lênin về tính Đảng trong nền văn học, về sự tự do chân chính trong sáng
tác, về sự phục vụ cho quyền lợi đa số nhân dân lao động của văn học cách
mạng đã được thể hiện trong những bài vi t của những người theo khuynh
hướng văn hóa Mác-xít trên báo chí Việt Nam những năm 1930. Lênin khẳng
định nền văn học có tính Đảng phải được vũ trang bằng tư tưởng của giai cấp
công nhân, phải phục vụ tuyệt đại đa số nhân dân lao động và bồi dưỡng họ…
quan trọng nhất là phản ánh chân thật cuộc sống. Những sáng tác trong văn
học Việt Nam thời gian này thuộc dòng văn học hiện thực phê phán cùng
những nhận định xác đáng của Hải Triều và những người cùng “chi n tuy n
hợp nhất” với ông đã minh chứng cho quá trình hình thành và phát triển của
một nền văn học có sự ảnh hưởng sâu sắc của chủ ngh a Mác - Lênin.
Bên cạnh đó, quan điểm của Đảng về tuyên truyền và vận động văn hóa
cũng hình thành từ sự ti p thu và phát huy những tinh hoa của chủ ngh a Mác
- Lênin. Quan điểm chú trọng tuyên truyền, vận động văn hóa của Đảng thông
qua việc tập hợp lực lượng trong mặt trận và đẩy mạnh tuyên truyền thông
qua các cơ quan ngôn luận được hình thành trên cơ sở một trong bốn phương
thức cơ bản để xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ ngh a của chủ ngh a
Mác - Lênin.
Thứ hai, quan điểm về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945
đã phản ánh sự đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc định hình
81
và phát triển từng bước nền văn hóa Mác-xít.
Từ khi thành lập năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bước đ u có
những nhận định về đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, quan tâm tới các
vấn đề văn hóa. Trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 cũng như trong thời
kỳ thoái trào cách mạng 1932 - 1935, Đảng Cộng sản Việt Nam một mặt đã
lãnh đạo đấu tranh với âm mưu vừa khủng bố, vừa “cải cách” của thực dân
Pháp, với luận điệu “Pháp Việt đề huề” của bọn quốc gia cải lương, mặt khác
phải khắc phục tư tưởng tiểu tư sản trong đấu tranh, tư tưởng bi quan, dao
động… để đưa phong trào ti n lên.
Trước nguy cơ phát xít, những năm 1936 - 1939, Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo thành lập Mặt trận dân chủ ở Đông Dương nhằm ch a mũi nhọn
đấu tranh chống phát xít. Chính trong lúc này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo một mặt chống tư tưởng “tả khuynh” cô độc, hẹp hòi trở ngại cho
việc thành lập Mặt trận, mặt khác chống tư tưởng “hữu khuynh” thỏa hiệp có
tính chất điều hòa giai cấp. Đảng nhắc nhở đảng viên không được vì nhiệm vụ
trước mắt mà lãng quên mục đích lâu dài. Cũng chính trong thời gian này,
Đảng Cộng sản Việt Nam kiên quy t đấu tranh chống bọn Tờ-rốt-kít phá hoại
chia rẽ phong trào.
Đ n khi thời cơ chín muồi cho một cuộc Tổng khởi ngh a giành chính
quyền trong toàn quốc, Đảng đấu tranh chống luận điệu lừa phỉnh của Nhật,
Pháp và bọn tay sai thân Pháp, thân Nhật, đề cao cảnh giác chống bọn Tờ-rốt-
kít để nắm vững quyền lãnh đạo cách mạng, gấp rút chuẩn bị tổng khởi ngh a.
Có thể thấy, quan điểm của Đảng về văn hóa có sự vận động theo thời gian và
bối cảnh lịch sử cụ thể theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn và điểm mốc
đánh dấu sự chuyển bi n chính là Đề cương văn hóa Việt Nam.
Thứ ba, quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đã góp phần hình thành những yếu tố của nền văn hóa
mới trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, từng
82
bước xóa bỏ tàn dư của văn hóa phong kiến thực dân lạc hậu và phản tiến bộ.
Quá trình vận động của lịch sử Việt Nam đã chứng ki n sự ti p xúc
giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Pháp và những ảnh hưởng của nền văn
hóa thực dân đối với người Việt trong suốt một thời gian dài. Đã có một giai
đoạn lịch sử, những nhà yêu nước của Việt Nam xác định con đường giải
phóng dân tộc theo ý thức hệ tư sản. Tuy nhiên, với sự thất bại của khởi ngh a
Yên Bái (đ u năm 1930), ý thức hệ tư sản đã chấm dứt vai trò đối với nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, trong khi đó, con đường cứu nước theo tư tưởng vô sản
đã d n chi m ưu th , nhất là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Bằng sự
k thừa quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa trước năm 1930, Đảng đã
từng bước hình thành quan điểm về một nền văn hóa mới, hạn ch tàn dư của
văn hóa thực dân phong ki n.
Những y u tố của nền văn hóa Mác-xít d n được hình thành qua từng
bước phát triển của lịch sử văn hóa dân tộc gắn với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Đánh dấu cho sự hình thành của nền văn hóa Mác-xít là sự ra đời của
những tác phẩm hiện thực phê phán, của dòng báo chí cách mạng, của các tổ
chức văn hóa cứu quốc… Nhưng quan trọng hơn cả là sự xuất hiện của hệ tư
tưởng văn hóa vô sản. Tất cả những điều đó đã hình thành nên những y u tố
mới của văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, định
hướng phát triển cho văn hóa Việt Nam trong những chặng đường ti p theo.
Thứ tư, quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đã bước đầu định hướng cho trí thức, văn nghệ sĩ Việt
Nam trên những bước đường tư tưởng của họ.
Ngay từ những năm 1930, để những y u tố của văn hóa Mác-xít trong
xã hội Việt Nam đi vào đời sống văn hóa Việt Nam nhằm phục vụ cho cuộc
cách mạng tư sản dân quyền, Đảng đã lãnh đạo các đảng viên ưu tú ti n hành
các cuộc tranh đấu về văn hóa, văn nghệ. Chính các cuộc đấu tranh giữa các
83
xu hướng khác nhau trên l nh vực văn hóa, tư tưởng đã góp ph n đắc lực vào
sự phân hóa xã hội về tư tưởng, chính trị. Một bộ phận khá đông những người
tư sản, tiểu tư sản trí thức sau đó đã đứng về phía nhân dân lao động, đấu
tranh cho quyền lợi dân tộc Việt Nam. Và một bộ phận những thanh niên, trí
thức yêu nước đã từng bước được giác ngộ chủ ngh a Mác - Lênin, trở thành
những đảng viên ưu tú của Đảng.
Trong những chặng đường ti p theo, góp ph n vào thành công của
những tác phẩm hiện thực phê phán, của dòng báo chí cách mạng, của các tổ
chức văn hóa cứu quốc… phải kể tới những đóng góp của những trí thức yêu
nước. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, một bộ phận trí thức, văn nghệ s vẫn còn
mang tâm trạng bi thương, chán nản, b tắc về cuộc sống đương đại. Chính
quan điểm của Đảng về văn hóa đã giúp những trí thức, văn nghệ s đang lâm
vào tình trạng b tắc có được những chuyển bi n tích cực trong tư tưởng, từng
Một số hạn ch
bước chuyển bi n thành hành động cách mạng trong giai đoạn sau năm 1945.
Bên cạnh những thành tựu, quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam
trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn tồn tại một số hạn ch nhất định.
Thứ nhất, trong thời gian đầu mới thành lập, mặc dù đã đảm nhận sứ
mệnh lãnh đạo phong trào cách mạng nhưng Đảng mới chỉ kh ng định vị thế
trong lãnh đạo chính trị, quân sự, chưa kh ng định được đầy đủ vai tr , vị trí
trong đấu tranh văn hóa.
Do những chi phối của hoàn cảnh khách quan, khi mới thành lập, Đảng
chưa đánh giá và đề cập nhiều tới vấn đề văn hóa trong các văn kiện và thực
tiễn lãnh đạo phong trào cách mạng. Những quan điểm của Đảng được thể
hiện một cách rải rác, không tập trung trong một số văn kiện về một số khía
cạnh của văn hóa, chủ y u liên quan tới công tác tuyên truyền, vận động văn
hóa. Quan điểm của Đảng về văn hóa chỉ biểu hiện chủ y u thông qua tư
84
tưởng và hoạt động của những nhà văn hóa Mác-xít. Mãi đ n năm 1943, Đề
cương văn hóa Việt Nam mới được coi là một văn bản tương đối đ y đủ và
hoàn thiện thể hiện quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam.
Thứ hai, trong các cuộc tranh luận về văn hóa, văn nghệ, tính dân tộc
chưa được đề cập một cách sâu sắc và đầy đủ.
Trong thực tiễn cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ, Đảng có
nêu ra vấn đề độc lập dân tộc nhưng không được giải thích cụ thể và không
nói rõ lập trường của Đảng về vấn đề đó. Trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại
hội toàn quốc l n thứ hai của Đảng, Hồ Chủ tịch nhận định: “Phong trào Mặt
trận dân chủ lúc đó khá mạnh mẽ, rộng khắp; nhân dân đấu tranh công khai.
Đó là ưu điểm. Nhưng khuyết điểm là: Đảng lãnh đạo không thật sát, cho nên
nhiều nơi cán bộ phạm phải bệnh hẹp h i, bệnh công khai, say sưa vì thắng
lợi bộ phận mà xao lãng việc củng cố tổ chức bí mật của Đảng. Đảng không
giải thích rõ lập trường của mình về vấn đề độc lập dân tộc” [48, 353-354].
Đó là nguyên nhân chính của thi u sót không đề cập đ n vấn đề tính dân tộc
của văn hóa, văn nghệ trong cuộc tranh luận kéo dài đ n cuối năm 1938.
Thi u sót trong chính sách trên đã được Đảng Cộng sản Việt Nam kịp thời
uốn nắn lại. Hội nghị l n thứ VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng
11/1939 đã nhấn mạnh vấn đề giải phóng dân tộc, chủ trương thành lập mặt
trận dân tộc thống nhất phản đ , coi đó là nhiệm vụ hàng đ u của cách mạng
Đông Dương [72, 35-37].
Thứ ba, trong quá trình xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc, ở giai
đoạn đầu, các tổ chức hội đoàn của mặt trận chưa phát triển rộng rãi để thu
hút đông đảo trí thức và quần chúng nhân dân tham gia vào mặt trận.
Những hoạt động thường xuyên và tích cực của các hội đoàn văn hóa,
trong đó nổi bật nhất là hoạt động của Hội Văn hóa cứu quốc đã đưa những
chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa mới nhanh chóng đi sâu vào đời
sống nhân dân. Tuy nhiên, trong thời gian đ u hoạt động, các tổ chức hội
85
đoàn không chú trọng phát triển rộng rãi để nhiều trí thức, văn nghệ s được
tham gia. Do quá cẩn thận nên đã trở nên “hẹp hòi” khi n cho nhiều trí thức,
văn nghệ sỹ không có điều kiện tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ cứu
quốc trong các tổ chức hội đoàn. Điều này đã ph n nào ảnh hưởng tới công
tác đấu tranh trên mặt trận văn hóa trong giai đoạn trước Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
4.2. Một số kinh nghiệm lịch sử
Những quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn xây dựng nền văn hóa, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Chủ ngh a Mác - Lênin về văn hóa là gốc rễ “nguồn cội” của đường lối
văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam và nền văn hóa mới - văn
hóa xã hội chủ ngh a. Đảng đã vận dụng nhu n nhuyễn, sáng tạo vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Để vận dụng chủ ngh a Mác
- Lênin một cách sáng tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam c n chống bệnh giáo
điều, chủ ngh a kinh nghiệm. Nguồn gốc của chủ ngh a kinh nghiệm là trình
độ lý luận thấp và hiểu bi t thực tiễn không sâu. Còn nguồn gốc của chủ
ngh a giáo điều là nắm lý luận một cách sách vở và rập khuôn kinh nghiệm
nước ngoài, không chú ý đ y đủ đ n đặc điểm dân tộc. Trong việc vận dụng
các kinh nghiệm của nước ngoài vào Việt Nam c n phải xem xét kỹ lưỡng,
thay đổi cho phù hợp với điều kiện và tình hình nước ta, tránh áp dụng rập
khuôn, máy móc.
Thứ hai, nhìn nhận và đánh giá đầy đủ về vai tr của văn hóa trong
sự phát triển của cách mạng và đất nước và chú trọng tới công tác tuyên
truyền, vận động văn hóa trong quần chúng.
Văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với chính trị và kinh
t . Để cách mạng đi tới thắng lợi, Đảng c n nhận thức đúng đắn và đ y đủ về
86
vai trò và vị trí của văn hóa, ảnh hưởng to lớn của văn hóa tới các l nh vực
khác. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, những thành tựu trong đấu
tranh văn hóa sẽ góp ph n quy t định tới thắng lợi của đấu tranh chính trị và
quân sự. Thực tiễn cách mạng đã cho thấy Đảng ngày càng nhận thức rõ ràng
và đ y đủ hơn về vị trí, vai trò của văn hóa. Trong quan điểm về văn hóa,
Đảng luôn c n chú trọng tới một nội dung cốt y u là phải xây dựng một nền
văn hóa của toàn dân, phục vụ nhân dân lao động. Đảng c n tránh sự xa rời
qu n chúng và đảm bảo các nguyên tắc cơ bản khi xây dựng nền văn hóa mới
ở Việt Nam: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Để làm được điều đó, Đảng c n
chú trọng tới công tác tuyên truyền vận động qu n chúng giúp nhân dân hiểu
về t m quan trọng của văn hóa trong vận động giải phóng dân tộc nói riêng và
phát triển đất nước nói chung.
Thực t đã cho thấy những quan điểm của Đảng về văn hóa được
những người cộng sản, các nhà tư tưởng, văn hóa Việt Nam đón nhận, bổ
sung, phát triển, làm phong phú và sâu sắc thêm từ đời sống thực tiễn sinh
động của cách mạng Việt Nam. Và chính quan điểm của Đảng về văn hóa đã
trở thành động lực tinh th n to lớn, có tác dụng thức tỉnh và lôi cuốn các t ng
lớp nhân dân tham gia vào cuộc vận động giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn
hiện nay, nhất là từ khi Việt Nam hội nhập với th giới, những bài học kinh
nghiệm trên vẫn giữ nguyên giá trị, góp ph n xây dựng nền văn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc.
Thứ ba, quan tâm sâu sắc để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của bộ
phận trí thức, văn nghệ sĩ trong quá trình định hướng sáng tác, tránh g
ép, cứng nhắc.
Trí thức, văn nghệ s chính là bộ phận ti p thu những tư tưởng văn hóa
mới sớm nhất. Tư tưởng của trí thức, những sáng tác của văn nghệ sỹ lại có
một t m ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tư tưởng của qu n chúng nhân
dân. Cũng c n nhận thức rõ rằng, ngay cả khi trí thức, văn nghệ s đã được
87
giác ngộ cách mạng, tham gia hoạt động cách mạng thì đôi lúc vẫn còn một
ph n những ảnh hưởng của văn hóa tư sản còn rơi rớt lại. Do đó, Đảng c n
quan tâm tới tâm tư, nguyện vọng của trí thức, văn nghệ s để đưa ra một định
hướng đúng đắn cho họ trong quá trình sáng tác. Đảng c n giúp trí thức, văn
nghệ s thoát khỏi những b tắc trong đời sống tư tưởng và sáng tác, nhận
thức được xu hướng đúng đắn, từ đó có những tác phẩm phục vụ đắc lực cho
sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, Đảng cũng c n tôn trọng sự tự do chân
chính trong tư tưởng, sáng tác của văn nghệ s , mềm dẻo trong đường lối chỉ
đạo, tránh gò ép gây nên sự bất mãn trong trí thức, văn nghệ s . Khi Đảng làm
tốt được điều này, trí thức, văn nghệ s sẽ là bộ phận đóng vai trò tích cực và
hăng hái nhất trong việc truyền bá tư tưởng văn hóa Việt Nam mới tới đông
đảo qu n chúng nhân dân.
Thứ tư, thông qua thực tiễn đời sống văn hóa để kiểm nghiệm, hoàn
thiện quan điểm, đường lối.
Để có quan điểm về văn hóa đúng đắn, sáng tạo, Đảng phải tuân theo
các quy luật khách quan. Chủ quan, duy ý chí là nguồn gốc của nhiều sai l m,
dẫn tới nhiều tác hại trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Vấn đề đặt ra
làm th nào để nhận thức được đúng quy luật khách quan - nhất là tìm ra được
nội dung và cơ ch tác động của quy luật trong điều kiện cụ thể của cách
mạng nước ta. Ở đây, không thể chỉ cǎn cứ vào nguyên lý có sẵn của học
thuy t Mác - Lênin để đề ra đường lối, chính sách mà còn phải căn cứ vào
quá trình bi n lý luận và đường lối thành hành động, từ đó tổng k t lại thực
tiễn, Đảng mới nhận thức và vận dụng được quy luật một cách đúng đắn.
Thực tiễn lịch sử còn cho thấy, n u Đảng mắc sai l m trong việc đưa ra quan
điểm, định ra chủ trương, chính sách, lại quan liêu, xa rời thực tiễn, thì sai
88
l m có thể kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng.
KẾT LUẬN
1. Trong thời kỳ 1930 - 1945, tình hình văn hóa Việt Nam rất phức tạp,
đan xen giữa các y u tố văn hóa cũ (phong ki n) - mới (thực dân, tư bản), bảo
thủ, lạc hậu - ti n bộ, hiện đại. Xã hội Việt Nam xuất hiện nhiều khuynh
hướng, nhóm phái văn hóa khác nhau... cùng tồn tại. Do đó, văn hóa Việt
Nam c n có sự định hướng để phát triển phù hợp với quy luật khách quan của
cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi được thành lập năm 1930 đã
anh dũng và bền bỉ đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và giai cấp trên các
mặt trận: Chính trị, kinh t , văn hóa, tư tưởng… Trong suốt quá trình đấu
tranh cách mạng, dựa trên quan điểm duy vật biện chứng của chủ ngh a Mác-
Lênin, Đảng đã từng bước nhận thức về vai trò của đấu tranh văn hóa đối với
nhiệm vụ đấu tranh chính trị, kinh t trước mắt và lâu dài. Song, trong giai
đoạn đ u (trước năm 1936), Đảng chưa tập trung đi sâu lãnh đạo, chỉ đạo về
văn hóa mà chỉ chú trọng tới đấu tranh chính trị, trong đó nổi lên vai trò của
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp... Bởi th , hiệu quả đấu
tranh chưa cao, chưa thu hút được đông đảo trí thức, văn nghệ s tham gia
cách mạng.
3. Thực tiễn đấu tranh cách mạng trong thời kỳ 1936 - 1939 cho thấy
Đảng c n quan tâm tới đấu tranh văn hóa. Quan điểm của Đảng về văn hóa
không chỉ được phản ánh trong các văn kiện mà còn được biểu hiện một cách
cụ thể, sinh động trong thực tiễn hoạt động trên diễn đàn báo chí của các nhà
yêu nước Mác-xít. Lợi dụng thực dân Pháp nới rộng quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, Đảng đã đưa vấn đề văn hóa lên diễn đàn văn hóa. Sự thắng th
trên diễn đàn báo chí cũng chứng tỏ sức mạnh văn hóa của Đảng, gây được sự
89
chú ý của dư luận.
4. Trong giai đoạn 1939 - 1945, Đảng đã xác định rõ văn hóa là một
mặt trận đấu tranh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc. Trước nguy cơ
văn hóa nước nhà bị thực dân phong ki n và phát xít trói buộc, trấn áp, vì vận
mệnh văn hóa nước nhà, Đảng thấy rõ c n phải thức tỉnh và động viên giới trí
thức nói riêng, đông đảo nhân dân lao động nói chung tham gia mặt trận văn
hóa cứu quốc, từng bước xây dựng mặt trận (qua báo chí, các tổ chức, hội
đoàn văn hóa) để đấu tranh chống lại những âm mưu văn hóa ngu dân và nô
dịch của phát-xít, thực dân, đánh bại những khuynh hướng văn hóa sai l m để
giành lại độc lập dân tộc và ti n lên xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới.
Quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử khác
nhau cũng có sự khác nhau nhất định theo hướng ngày càng hoàn thiện và rõ
ràng hơn. Quan điểm của Đảng về văn hóa có tác động không nhỏ tới thực
trạng văn hóa Việt Nam nói chung và đời sống tư tưởng của giới trí thức, văn
nghệ s nói riêng, nhất là trong giai đoạn từ năm 1939 trở đi, Đảng đã tập hợp
được giới trí thức, văn nghệ s đi theo cách mạng.
5. Sau một quá trình vận động (1930 - 1943), đường lối văn hóa của
Đảng đã được xác lập cụ thể trong Đề cương văn hóa Việt Nam. Đề cương là
một vũ khí tư tưởng sắc bén của các chi n sỹ Việt Nam trên mặt trận văn hóa.
Đường lối văn hóa của Đảng có một tác dụng tích cực lớn lao đối với quá
trình phát triển lịch sử của cách mạng Việt Nam, góp ph n làm nên thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cho đ n hôm nay, những quan điểm
của Đảng về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn có ý ngh a
về lý luận và thực tiễn. Những thành tựu, hạn ch và bài học được rút ra là các
kinh nghiệm lịch sử quý báu trong quá trình xây dựng một nền văn hóa đậm
90
đà bản sắc dân tộc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000): Sơ thảo lược sử công tác
tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam 1930 - 2000, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
2. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2005): Lịch sử biên niên công
tác tư tưởng văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1 (1925 - 1954), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000): Một số văn kiện của
Đảng về công tác tư tưởng, văn hóa, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đặng Việt Bích (2006): Tìm hiểu văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
6. Trường Chinh (1948): Kháng chiến nhất định thắng lợi (in l n thứ
2), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
7. Trường Chinh (1974): Chủ nghĩa Mác và Văn hóa Việt Nam (in l n
thứ hai), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
8. Trường Chinh (1976): Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam, Tập 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
9. Trường Chinh (2006): Về Văn hóa văn nghệ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
10. Xuân Diệu (1953): Những bước đường tư tưởng của tôi, Nxb. Văn
hóa, Cục Xuất bản, Bộ Văn hóa, Hà Nội.
11. Đinh Xuân Dũng - Nguyễn An (2005): Hồ Chí Minh với văn hóa -
văn nghệ, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
12. Đỗ Duy (1999): Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc của nền văn
91
hóa nghệ thuật mới ở Việt Nam, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 5(179), tr.3 - 6.
13. Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Đình Thi (1945): Một nền văn hóa
mới, In l n thứ hai tại Nhà in Lê Văn Tân, 136, phố Hàng Bông, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1,
1924 - 1930, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2,
1930, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3,
1931, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 4,
1932 - 1934, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5,
1935, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6,
1936 - 1939, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7,
1940 - 1945, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Quang Đạm, Phương Lựu, Trường Lưu, Nguyễn Khắc Phi, Tr n Lê
Sáng, Lương Duy Thứ (1983): Chủ nghĩa Mao và văn hóa - văn nghệ Trung
Quốc, Viện Văn hóa, Bộ Văn hóa.
22. Tr n Độ (1986): Văn hóa văn nghệ trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Mục tiêu và động lực, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
23. Phạm Duy Đức (2011): Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
dangcongsan.Việt Nam, ngày 28/12/2011.
24. Hà Minh Đức (1997): Một thời đại trong thi ca: Về phong trào thơ
92
mới 1932-1945, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
25. Hà Huy Giáp (1978): Hồ Chủ Tịch với một vài vấn đề văn hóa văn
nghệ, In l n thứ 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
26. Võ Nguyên Giáp (1997): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Thu Hải, Chủ trương của Đảng về vận động, tập hợp tầng
lớp trí thức thời kỳ 1930 - 1954, Luận văn thạc s , Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
28. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2006): Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
29. Lê Như Hoa (1997): Trường Chinh với tác ph m “Chủ nghĩa Mác
và văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2, tr.58 - 59.
30. Đỗ Quang Hưng, Tr n Vi t Ngh a (2013): Tính hiện đại và sự chuyển
biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Tô Hoài (1992): Cát bụi chân ai, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
32. Tr n Hoàn (1994): Hải Triều (1908 - 1954), người con ưu tú của
Đảng, nhà văn hóa Mác- xít xuất sắc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9, tr.5 - 6.
33. Mai Hương (1994): Tính tiên phong Mác-xít của nhà báo Hải
Triều, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9, tr.12 - 17.
34. Tố Hữu (1972): Về văn học và nghệ thuật, Văn phòng Bộ Văn hóa,
Hà Nội.
35. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1996): Tư tưởng Hồ Chí Minh
với bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 5, tr.14 - 16.
36. Đinh Xuân Lâm (2005): Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng
Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên, 2000): Đại cương Lịch sử Việt Nam,
93
Tập II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
38. Khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn(2013): Cuộc tranh luận “vị nghệ thuật” hay “vị nhân sinh” thời kỳ 1935
- 1939, Hà Nội.
39. Phương Lựu (1979): Học tập tư tưởng văn nghệ V.I.Lênin,
Nxb.Văn học, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Khánh (2004): Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời
thuộc địa (1858 - 1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Kiêm (1979): Lịch sử Việt Nam 1990 - 1918, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
42. Đặng Thai Mai (1969):Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ
XX, Nxb. Văn học, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 1 (1919 - 1924), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), tập 2 (1924 - 1930) Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), tập 3 (1930 - 1945), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 4 (1945 - 1946), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (1960): Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
49. Tú Mỡ (1989): Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn
học, Tháng 1/1989.
50. Tr n Vi t Ngh a (2012): Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh
94
phương Tây thời Pháp thuộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên, 2001): Tiến trình lịch sử Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
52. Phan Ngọc: Tiếp xúc văn hóa Việt Nam và Pháp,
http://phebinhvanhoc.com.Việt Nam, tháng 5/2013.
53. Hoàng Xuân Nhị: Tìm hiểu đường lối văn nghệ của Đảng và sự
phát triển của văn học cách mạng Việt Nam hiện đại, Nxb Văn học, 1975.
54. Nguyễn Thị Như: Trí thức Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Luận văn thạc s , Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
55. Philippe Devillers (2006): Người Pháp và người An Nam bạn hay
thù, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
56. Bùi Đình Phong (1994): Hồ Chí Minh với nền văn hóa mới Việt
Nam trước năm 1954, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr. 85.
57. Ri-u-xi-cốp (1957): Lênin và văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb. Sự
thật, Hà Nội.
58. Sưu tập trọn bộ Tiên Phong 1945 - 1946 (1996), Nxb. Hội Nhà văn,
Hà Nội.
59. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (1998), tập 1 (1948), Nxb. Hội Nhà
văn, Hà Nội.
60. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (1999), tập 2 (1949), Nxb. Hội Nhà
văn, Hà Nội.
61. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (2000), tập 3 (1950), Nxb. Hội Nhà
văn, Hà Nội.
62. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (2003), tập 4 (1951) và tập 5 (1952),
Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
63. Sưu tập Văn nghệ 1948 - 1954 (2005), tập 6 (1953), Nxb. Hội Nhà
95
văn, Hà Nội.
64. Tạ Ngọc Tấn (2011): Vấn đề văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển đất nước, http://www.tapchicongsan.org.Việt Nam, ngày
25/10/2011.
65. Hoài Thanh, Hoài Chân (1998): Phong trào Thơ mới, Nxb. Văn
học, Hà Nội.
66. Hoài Thanh, Hoài Chân (2008): Thi nhân Việt Nam: 1932 - 1941,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
67. Nguyễn Ngọc Thiện (2004): Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ
thuật vị nhân sinh?, Viện Văn học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Nguyễn Ngọc Thiện (2002): Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 2,
Nxb. Lao động, Hà Nội.
69. Nguyễn Vi t Thông (Chủ biên, 2011): Giáo trình những nguyên lý cơ
bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
70. Huỳnh Văn Tòng (2000): Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm
1945, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
71. Bùi Ngọc Trác (Chủ biên, 1996): Tổng tập văn học Việt Nam, Tập
34, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
72. Hà Xuân Trường (1977): Đường lối văn nghệ của Đảng, vũ khí ánh
sáng, trí tuệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
73. Hà Xuân Trường (1977): Đấu tranh chống ảnh hưởng văn hóa và
nghệ thuật tư sản, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 1, tr.13 - 17.
74. Hà Xuân Trường (1982): Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2, tr.3 - 8.
75. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1985): Bốn
96
mươi năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
76. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1995): Năm
mươi năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
77. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Văn học
(1995): Cách mạng - kháng chiến và đời sống văn học 1945 - 1954, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
78. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2004): Đề cương
văn hóa Việt Nam - Chặng đường 60 năm, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
79. Về sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa (1930 -
1945) (1960), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
80. Hoàng Vinh (1997): Trường Chinh - Nhà lý luận mác xít lỗi lạc của
Đảng, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2, tr.53 - 54, 77.
81. Tr n Quốc Vượng (Chủ biên, 2008): Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.
97
Giáo dục, Hà Nội.
PHỤ LỤC
I. NHỮNG BÀI VIẾT TRONG CÁC CUỘC TRANH LUẬN
NHỮNG NĂM 1930 - 1939
1. Ông Phan Khôi không phải là một học giả duy vật
Xem những câu nói của ông này:
“Hễ tinh th n đã đ n một cái trình độ kia thì vật chất cũng đ n một cái
trình độ kia. Tinh th n còn ở một cái trình độ này thì vật chất cũng còn ở một
cái trình độ này. Theo lẽ ấy thì vật chất Đông phương sở d kém Tây phương
là tại tinh th n cũng kém Tây phương”. Đó là một cái chứng cứ rõ ràng ông
cho tinh th n đi trước mà vật chất theo sau. Tinh th n “ở” thì vật chất “ở” tinh
th n “đ n” thì vật chất “đ n”. Như th tinh th n là cái nguyên động lực, vật
chất là cái thụ động lực. Rồi ông dẫn một cái thí dụ: sự sáng ch một cái ô-tô.
ng nói: “Phải duy trước h t đã có cái tinh th n vật lộn với cái sức tự nhiên,
lại còn muốn cho cả ngừi ta và loài vật đều khỏi vất vả nên mới sáng ch ra
được cái xe ô-tô ấy” . Th là theo ý ông, sáng ch cái ô-tô là vì “cái tinh th n
vật lộn với cái tự nhiên” nó “trước h t đã”, còn vì muốn cho “khỏi vất vả”
ngh a là cái tất y u của sự sinh hoạt vật chất (necessite de l’exis tence
materielle) ông để lại sau, chính vì lẽ đó nên ông mới cân nhắc sự y u đuối
tinh th n của người Đông phương. “Suy cái tinh th n ấy ra, người Đông
phương chỉ tạo được cái xe tay”. Th là ông nhận cái tinh th n cái động lực
căn bản cho sự sáng tạo. Cứ theo cái phương pháp duy tâm ấy, ông k t luận
bài của ông: “Chúng ta phải thành thực nhận mình thua kém về vật chất là
bởi thua kém về tinh th n”. Ngh a là tinh th n làm chủ thể cho vật chất. Tinh
th n mà kém thời vật chất cũng kém theo. Hãy trở quay lại đoạn trên: “tinh
98
th n đ n một trình độ này thì vật chất cũng đ n một trình độ này”.
Cứ do những lời của ông Phan mà tôi trích và giải thích cho rõ ràng
thêm thời chúng ta thấy rằng, về mặt tri t học, ông Phan đứng hẳn về phía chủ
quan duy tâm luận (idealism subjectif). Ngh a là thuộc về phái chủ trương
trước h t phải định cái nguyên lý của tinh th n đã, rồi do đó mà suy ra bản
thể của vũ trụ) .
ng Phan đã dùng cái luận duy tâm ấy để làm phương pháp giải thích
bài của ông. Tôi quả quy t nói: ông Phan dùng một phương pháp sai l m. Tôi
lại dám chắc ông Phan, n u cứ giữ cái chủ quan duy tâm luận ấy để biện các
vấn đề về tri t học, xã hội, kinh t , chính trị...v.v. đều phải sai l m tất cả.
ng Phan lấy tinh th n làm căn bản, vật chất làm phụ thuộc. Tôi xin
nói trái lại vật chất căn bản, tinh th n là phụ thuộc. Không nói đâu xa, cứ xét
tinh th n là do bộ óc mà phát ra, bộ óc là một cái hình thể vật chất.
N u ta đổi cái bộ óc ấy đi, thì tinh th n cũng đổi theo. Xem như một
người đương có một cái tinh th n bình t nh là vì cái bộ óc đương bình t nh,
n u cũng người ấy, ta cho uống một vài cốc rượu mạnh, cái th n kinh hệ (bộ
óc) bị đốt nóng lên, tất cái tinh th n người ấy cũng hóa ra kỳ quái điên cuồng.
Th là vật chất đổi, tất tinh th n cũng đổi theo.
Hãy ti n lên một bước nữa. ng Phan muốn có một cái ý tưởng (tinh
th n) về ngọn đèn điện, thì hoặc ông Phan từng thấy ngọn đèn điện ấy rồi, hay
từng nghe ai đấy kể chuyện lại cho họ đã thấy, hay là có những điều kiện vật
chất sắp đặt d n d n cho ông hiểu có thể có ngọn đèn điện. Nói tóm lại phải
có những điều kiện thực tại vật chất nó phản chi u vào trong não ông, ông
mới nảy sinh ra những cái ý tưởng về ngọn đèn điện ấy. N u tuyệt không, thời
tôi đố ông làm sao mà có được một cái ý tưởng gì về “cái ngọn đèn châm
thuốc không cháy, chúc đ u xuống đất mà cứ đỏ”.
Cho nên tinh th n tư tưởng chỉ là cái phản ánh của vật chất (reflet de la
99
matière) mà phát sinh ra.
Tôi không phải khinh rẻ cái giá trị của tinh th n, tôi vẫn nhận rằng sau
khi vật chất phản chi u vào não cân mà sinh ra tư tưởng, tư tưởng ấy lại ảnh
hưởng vào vật chất mà thay đổi cái tình trạng của vật chất ấy đi. ng Phan có
từng bi t ngọn đèn điện (tôi giản dị bớt lý luận cho dễ hiểu) mới có cái ý
tưởng đèn điện thắp thuốc không cháy, ông bèn suy diễn, thắp thuốc không
cháy thì cái màn năm g n đèn cũng không cháy, do đó ông mới dùng đèn
điện vừa để ăn cơm, lại có khi đặt abat-jour vào đèn để g n màn nằm đọc sách
cho khỏe.
Th là vật chất ảnh hưởng vào não sinh ra tư tưởng, tư tưởng lại ảnh
hưởng vào vật chất mà đổi các nguyên trạng của vật chất đi. Cái dây quan hệ
của vật chất và tinh th n là th .
Bây giờ chúng ta đủ khí giới rồi, chúng ta hãy quay lại mà cự với cái
phương pháp duy trì của ông Phan chơi.
Ông Phan nói: “hễ tinh th n đ n một cái trình độ kia thì thì vật chất
cũng đ n một trình độ kia”. Không phải th , chính là: hễ vật chất đ n một cái
trình độ kia, thì tinh th n theo đó mà cũng đ n một cái trình độ kia. ng cho:
“tinh th n Đông phương kém, nên vật chất Đông phương cũng kém”. Không
phải th , chính vật chất Đông phương kém nên tinh th n Đông phương cũng
kém theo. ng cho sự sáng ch cái xe ô-tô của người Tây phương là bởi có
cái tinh th n vật lộn với tự nhiên “trước h t đã” rồi mới đ n tránh sự vất vả
sau. Không phải th , tôi nói quy t rằng: Sự sáng ch cái ô-tô là chính cho sự
đỡ sự “vất vả” trước đã, nói cho đúng hơn là vì gặp một nền kinh t sinh sản
nhiều, c n phải tiêu thụ gấp, nên c n sáng ch cái ô-tô để đi cho tiện cho mau.
Còn cái tinh th n vật lộn chỉ là một vấn đề phụ thuộc. ng nói: “người Trung
Quốc, Việt Nam ,…v.v. vì tinh th n kém nên chỉ sáng tạo được cái xe tay”.
Không phải th , tôi nói rằng: người Trung Quốc, Việt Nam, ..v.v. sáng ch cái
100
xe tay là do cái ảnh hưởng của một nền kinh t bán phong ki n (semi- feudal),
sinh sản ít, tiêu thụ ít, tất giao thông cũng ít. Như vậy c n gì mà đi cho mau,
bước cho lanh, cứ lơn tơn ngồi trên cái xe tay cũng đã “tiện” lắm rồi.
(Báo Đông Phương ngày 20 tháng 10 năm 1933).
2. Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh
……………………..
Người đời xưa hồi bộ lạc đương thịnh hành, quân chủ đương bền, chắc
nghệ thuật tất nhiên xu hướng về mặt ca tụng những sự nghiệp anh hung hào
kiệt, khuy n khích những việc thiện, bài trừ những việc ác. Nhà nghệ s bao
giờ cũng tự đặt mình vào hạng “tiên giác” đem bao nhiêu tài ba để thức tỉnh
loài người. Bao nhiêu sử sách tranh vẽ , chạm trổ đều diễn tả những công
việc oanh oanh liệt liệt của những vị anh hùng hào kiệt tự xưa. Nghệ thuật
hồi ấy rõ ràng là để phục vụ cho dân sinh. Những tác phẩm như I-li-át, Ô-xi-
đê ở Tây phương, những sách Tam quốc diễn ngh a ở Trung Quốc, 48 vị anh
hùng ở Nhật đều là những chứng cớ hiển nhiên của cái trào lưu “nghệ thuật
vị dân sinh” của thời đại ấy.
Trước cuộc cách mạng năm 1789 ở Pháp, trong nghệ thuật giới Pháp
lại phát sinh ra một cái thể thức mới gọi là “Style rococo” . “Style rococo” là
cái phản ảnh của ch độ phong ki n ở Pháp đã bắt đ u trụy lạc. Nhà nghệ
thuật l n l n xa qu n chúng nên không đem nghệ thuật mà diễn tả được tâm
hồn, ý chí của số đông người, không dùng nghệ thuật mà dẫn đạo hay giáo
hóa qu n chúng nữa.
Họ mượn nghệ thuật để ca ngợi những sự xa hoa, đài các dâm dục. Cái
nghệ thuật ấy, d u không nói ra, ai cũng thấy rõ là thứ nghệ thuật vị nghệ
thuật mà thôi.
Cuộc cách mạng 1789 nổi lên. Trong nghệ thuật giới tự nhiên nổi lên
vô số nghệ s mới ra đời. Tự mình lãnh lấy cái trách nhiệm tiền khu cho
101
phong trào, mượn nghệ thuật làm lợi khí để khuy n khích qu n chúng vào
con đường mới, bao nhiêu tác phẩm của Von-te, Mông-tét-ski-ơ, Đi-đơ-rô,
Đa-vít đều tiêm nhiễm những tư tưởng đem nghệ thuật mà phụng sự cho dân
sinh. Nhà nghệ s lại kiêm luôn một tay chi n sỹ giỏi.
Rồi qua th kỷ XX sự phát triển của ch độ tư bản đã đ n đoạn cuối
cùng. Nghệ thuật cũng cùng chịu ảnh hưởng ấy nên mất hẳn cái tính chất vị
dân sinh. Không bi t bao nhiêu là xu hướng mới ra đời, nào Impres-
sionnisme, néo-impressionnisme, cubism (Phải ấn tượng, phải ấn tượng mới,
phải lập thể) ..v.v
Những cái “isme” cứ kéo dây nhau xuất hiện ra, rồi lại kéo dây nhau
mà ch t, không cái nào thành hình cái nào. Nghệ thuật l n l n xu hướng về
mặt huyền bí huyễn hoặc ...v.v. Nhà nghệ thuật chẳng những không khai sáng
qu n chúng, trở lại mê hoặc qu n chúng. Nhà nghệ thuật hóa ra một người
thù của qu n chúng. ng Lê-ông Tôn-stôi cho là bọn “forbans de l’art” (bọn
đạo tặc trong nghệ thuật) thật đáng khi p.
Trên cái nền nghệ thuật phản dân sinh, phản ti n hóa ấy ngày nay
chúng ta đã thấy dúm lên những nền nghệ thuật mới tự lãnh lấy cái trách
nhiệm diễn tả tình cảm tư tưởng của qu n chúng và đề cao sự sinh hoạt của
xã hội về tất cả mọi phương diện vật chất và tinh th n. Những kiện tướng
trong phái nghệ s mới như Gooc-ki ở Nga, Rô-manh Rô-lanh ở Pháp, Ớp-tơn
Sanh-cơ-le ở Mỹ đề được qu n chúng hoan nghênh một cách đặc biệt.
ng Thi u Sơn xem th cũng để thấy cái thuy t nghệ thuật vị nghệ
thuật phát sinh trong những hồi đồi bại của xã hội loài người. Còn những hồi
ti n bộ thì bao giờ người ta cũng chủ trương lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho
dân sinh.
ng Thi u Sơn lại thấy rằng những nghệ s nào tán thành thuy t nghệ
thuật vị nghệ thuật đều đi trái hẳn với con đường ti n hóa của nhân loại.
102
…………………..
Nhà nghệ s duy tâm bao giờ giải thích đ n nghệ thuật thời cho là
những sản phẩm th n bí, m u nhiệm của tình cảm của đấng thiêng liêng. Vì
th nên họ cho nghệ thuật có tính cách siêu phàm, huyện diệu, không quan hệ
đ n xã hội, không dính dáng đ n dân sinh. Họ cao hơi lớn ti ng đề xuất cái
thuy t nghệ thuật thu n túy (l’art pur) nghệ thu n th n tiên (l’art olympien)
hay nghệ thuật vị nghệ thuật (l’art pour l’art). Trong đám nghệ s ấy, không
nói chúng ta cũng bi t, ông Thi u Sơn là một học trò dở dang, vì ông ấy
muốn bênh vực cho nó mà bênh vực không ra trò.
Trái với phái nghệ s duy tâm, chúng tôi bao giờ cũng chủ trương
“nghệ thuật là một cái sản vật của sự sinh hoạt xã hội” (“l’art est un produit
de la vie sociale”) những trạng thái sinh hoạt giữa xã hội phản chi u vào tâm
trí người ta, sinh vui, sinh buồn, sinh giận, sinh ti c, sinh thương, sinh chán,
sinh thảm. Nghệ thuật sắp đặt những tình cảm ấy cho có hệ thống rồi diễn ra
thành những hình ảnh thi t thực hoặc bằng lời nói bằng câu văn, bằng âm
điệu, bằng vận động (như nhảy múa) hoặc bằng nhiều cách khác có hình thức
rõ ràng như ki n trúc, đắp tượng..v.v.
Cho nên người ta thường nói: Nghệ thuật là một phương pháp xã hội
hóa tình cảm (un moyen de socialization du sentiment), ông Tôn- stôi trong
cuốn sách Nghệ thuật là gì? (Qu’est ce que l’art) giải thích “Nghệ thuật là cái
phương pháp truyền nhiễm về tình cảm” (un moyen de contagion emotive).
Nghệ thuật xã hội hóa tình cảm của loài người lại đêm cái tình cẩm ấy
mà truyền nhiễm lại cho loài người, như th là cái phát nguyên của nghệ
thuật là ở trong xã hội mà cái cứu cánh của nó cũng trong xã hội.
……………..
(Báo Đời Mới, ngày 24 tháng 3 năm 1935 và Báo Ánh Sáng, ngày 4
103
tháng 5 năm 1935).
3. Không thể có nền văn hóa muôn đời không thay đổi
……………….
Theo như ý muốn của ông, là hãy gây dựng một nền văn hóa không
Đông không Tây, không kim, không cổ, một nền văn hóa cho muôn đời.
Thưa ông, cái ý muốn đó xem ra rộng rãi tốt đẹp lắm sao ! Nhưng căn
cứ vào lịch sử mà xét thì thật xưa nay trên th giới chưa từng có một nền văn
hóa nào như th . Các văn nhân nghệ s xưa nay thường mơ hồ tưởng tác
phẩm của mình sẽ để lại muôn đời, sẽ còn mới mãi mãi. Sẽ để lại về sau thì
cũng có mà sẽ mới mãi mãi thì quy t không. Pơ-la-tông xưa kia đâu ngờ văn
hóa Hy Lạp theo sự trụy lạc của ch độ nô lệ mà điêu tàn.
Khổng phu tử lúc đương thời nào có tưởng lý thuy t của Ngài cũng có
ngày hủ hóa. Về th kỷ XVIII, lúc tư bản chủ ngh a đương phát đạt, cá tri t
học văn nhân đều tưởng chân lý tư sản là chân lý chung cho tất cả muôn đời.
Nhưng chúng ta không trách các tiền nhân của chúng ta đâu. Chúng ta chỉ
nên nhìn nhận rằng t m con mắt của các ngài không vượt xa khỏi thời đại. Vì
vậy mà tôi phải xin trái ý ông để nói: Không thể có thứ văn chương nghệ
thuật muôn đời không thay đổi.
…………………..
N u chúng ta nhận lòng người bao giờ cũng như bao giờ thì làm gì
có những sự thay đổi về tư tưởng, về tôn giáo, về lễ nghi. N u chúng ta
nhận có cái tâm lý con người không thay đổi theo sự bi n hóa và bi n cải
của sinh sản trong xã hội thì sao chúng ta lại thấy có những bi n thiên nối
ti p xảy ra trong lịch sử: nào ch độ cộng sản nguyên thủy, ch độ nô lệ,
ch độ phong ki n, ch độ tư bản, ch độ xã hội chủ ngh a, những ch độ
xã hội có thượng t ng ki n trúc đơn giản hay phiền phức vô cùng. N u
chúng ta nhận một thứ nghệ thuật văn chương muôn đời không đổi thì
không khác gì chúng ta nhận nghệ thuật văn chương tách ra ngoài luật ti n
104
hóa chung của vũ trụ loài người.
Không, nghệ thuật văn chương là sản vật của con người của thời đại,
thì nó phải theo sự bi n cải của con người mà bi n cải. Và nghệ thuật văn
chương cũng giúp một ph n trong công cuộc bi n cải của con người nữa.
…………….
Huy-gô tiên sinh năm 1831 đề tựa cuốn Lá thu đã thấy trong xã hội
châu u có cái gì mục nát mà nuối ti c những ngày oanh liệt của ông cha
mình trong ngày Phục hưng. Từ bấy đ n nay, cách trên một trăm năm, sự thối
nát ấy đã đ n cực điểm. Bao nhiêu dơ bẩn của ch độ tư bản trong thời đại
cuối cùng của nó đã bày ra. Người ta đã đang tay phá máy móc, đốt lúa, đốt
sữa, người ta nỡ đốt sách vở, đốt phá các biện bác cổ, các trường học, người
ta ném bom vào đám đàn bà trẻ con không gớm tay. Người ta thờ phụng
chi n tranh như một vị th n và coi nó là nguồn gốc của văn minh, văn học.
Người ta nâng cao cái cớ chủng tộc để đàn áp các dân tộc và gi t hại
đồng bào. Ch độ thuộc địa lan tràn không những khắp Á Mỹ Phi Úc châu,
mà nó đã lan d n tận châu u. Dân Áo dân Tiệp có ti ng là dân văn minh
cũng bị sát nhập vào đoàn dân thuộc địa. Dân Trung Quốc vì cái tội ngang
đ u cứng cổ không chịu ách nô lệ mà bị người ta tàn sát thảm thương. Nước
Ý, nước Đức, nước Nhật, nước Y-pha-nho đã trở nên những nhà tù khổng lồ
của cả dân tộc ấy. u châu và cả th giới đang bị cái nguy cơ quay trở về thời
Trung cổ. Những văn minh xây đắp mấy mươi đời nay đang bị hăm dọa dày
đạp bởi b y rợ phát xít dã man.
Trong hoàn cảnh ấy chúng ta nhắn đ n tên Ma-ki-a-ven và Lê-ô-na đơ
Vanh-xi của thời đại Phục hưng, nhắc đ n Rút-xô Đi-đơ-rô, Von-te của th
kỷ XVIII, nhắc đ n Lê-nin, Rô-lăng, Gooc-ki, Bác-buýt-xơ của th kỷ XX, là
chúng ta muốn đẩy bánh xe lịch sử thẳng lên con đường ti n bộ. Chỉ có con
đường ti n bộ là con đường sống của cả dân tộc mà thôi. Nó cũng là con
105
đường của nghệ s văn nhân nữa.
Hiểu những ngh a vụ cấp bức của thời đại, hiểu những sự đòi hỏi của
cuộc đời mới, hiểu cái trách nhiệm của người c m bút trong ngày này là nặng
nề, và hiểu rằng muốn cho chính đáng, nhà văn phải phụng sự đa số, lời nói
ấy của ông quý hóa lắm thay, tôi xin ghi rõ vào đây.
(Bàn qua về nghệ thuật, Báo Tao Đàn, số 6, năm 1939).
II. ĐỀ CƢƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
1. Đề cƣơng văn hóa Việt Nam năm 1943
Cách đặt vấn đề
1. Phạm vi đặt vấn đề: Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ
thuật.
2. Quan hệ giữa văn hóa và kinh t , chính trị: nền tảng kinh t của một
xã hội và ch độ kinh t dựa trên nền tảng ấy quy t định toàn bộ văn hóa của
xã hội kia (hạ t ng cơ sở quy t định thượng t ng ki n trúc).
3. Thái độ Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa:
a. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh t , chính trị, văn
hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động.
b. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng
văn hóa nữa.
c. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư
luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.
Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam
Các giai đoạn trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
a. Thời kỳ Quang Trung trở về trước: văn hóa Việt Nam có tính chất
nửa phong ki n, nửa nô lệ, phụ thuộc vào văn hóa Trung Quốc.
b. Thời kỳ Quang Trung đ n khi đ quốc Pháp xâm chi m: văn hóa
106
phong ki n có xu hướng tiểu tư sản.
c. Thời kỳ từ khi Pháp sang xâm chi m đ n nay: văn hóa nửa phong
ki n, nửa tư sản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa (chú ý phân biệt mấy
giai đoạn trong thời kỳ này).
Tính chất văn hóa Việt Nam hiện đại: Văn hóa Việt Nam hiện nay về
hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiểu tư sản.
Chi n đấu và xu trào văn hóa hiện nay: Ảnh hưởng của văn hóa phát xít
làm cho tính chất phong ki n , nô dịch trong văn hóa Việt Nam mạnh lên,
nhưng đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hóa tân dân chủ, xu trào văn hóa
mới của Việt Nam đang cố vượt qua trở lực để nảy nở (văn nghệ bất hợp
pháp).
Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp
- Những thủ đoạn phát xít trói buộc văn hóa và gi t ch t văn hóa Việt
Nam
a. Chính sách của Pháp:
+ Đàn áp các nhà văn hóa cách mạng dân chủ chống phát-xít;
+ Ra tài liệu, tổ chức các cơ quan và đoàn thể văn hóa để nhồi sọ;
+ Kiểm duyệt rất ngặt những tài liệu văn hóa;
+ Mua chuộc và hăm dọa các nhà văn hóa;
+ Mật thi t liên lạc với tôn giáo để truyền bá văn hóa trung cổ, văn hóa
ngu dân...;
+ Tuyên truyền chủ ngh a đ u hàng và chủ ngh a ái quốc mù quáng và
hẹp hòi (chauvinisme);
+ Làm ra vẻ săn sóc đ n trí dục, thể dục và đức dục cho dân.
b. Chính sách văn hóa của Nhật:
107
+ Tuyên truyền chủ ngh a Đại Đông Á;
+ Gây ra một quan niệm cho người Nhật là cứu tinh của giống da vàng
và văn hóa Nhật Bản chi u dọi những tia sáng văn minh ti n bộ cho các giống
nòi Đại Đông Á…;
+ Tìm h t cách phô trương và giới thiệu văn hóa Nhật Bản (triển lãm,
diễn thuy t, đặt phòng du lịch, viện văn hóa, trao đổi du học sinh, mời nghệ s
Đông Dương sang thăm nước Nhật, mở báo chí tuyên truyền, tổ chức ca kịch
chi u bóng…);
+ Đàn áp các nhà văn chống Nhật và mua chuộc những nhà văn có tài.
- Tiền đồ văn hóa Việt Nam, hai ức thuy t:
+ Nền văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa) thắng thì văn
hóa dân tộc Việt Nam nghèo nàn thấp kém.
+ Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân tộc giải phóng thắng
lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ th giới.
Hai ức thuy t , cái nào sẽ trở nên thực sự? Căn cứ vào điều kiện kinh t , chính
trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quy t sẽ làm cho ức
thuy t thứ hai trở nên thực sự.
Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam
- Quan niệm của người cộng sản về vấn đề cách mạng văn hóa:
a. Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoán thành được cuộc cải
tạo xã hội.
b. Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông
Dương lãnh đạo.
c. Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị
thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những
phong trào cải cách văn hóa đề ra bây giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách
108
mạng triệt để mai sau).
- Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện
sẽ là văn hóa xa hội chủ ngh a.
- Cách mạng văn hóa Việt Nam và cách và cách mạng dân tộc giải
phóng:
a. Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải
phóng mới có điều kiện phát triển.
b. Cách mạng dân tộc giải phóng Việt Nam chỉ có thể trong trường hợp
may mắn nhất đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân
tộc hoàn toàn độc lập dựng nên một nền văn hóa mới.
c. Phải ti n lên thực hiện cách mạng xã hội ở Đông Dương, xây dựng
một nền văn hóa xã hội ở khắp Đông Dương.
- Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong
giai đoạn này:
a. Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa phong ki n
cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).
b. Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa
phản lại đông đảo qu n chúng hoặc xa đông đảo qu n chúng).
c. Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa
học, phản ti n bộ).
Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu
hướng văn hóa bảo thủ, chi t trung, lập dị, bi quan, th n bí, duy tâm... Nhưng
đồng thời cũng chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn Tờ-rốt-kít.
Tính chất của nền văn hóa nước Việt Nam
Văn hóa Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo chủ
trương phải là văn hóa xã hội chủ ngh a hay văn hóa Xô-vi t (như văn hóa
109
Liên Xô chẳng hạn).
Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc và tân
dân chủ về nội dung. Chính vì th , nó cách mạng nhất và ti n bộ nhất ở Đông
Dương trong giai đoạn này.
Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa Mác-xít Đông Dương và nhất
là những nhà văn hóa Mác-xít Việt Nam
- Mục đích trước mắt:
+ Chống lại văn hóa phát xít phong ki n, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu
dân và phỉnh dân;
+ Phát huy văn hóa tân dân chủ Đông Dương.
- Công việc phải làm:
a. Tranh đấu về học thuy t, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai
l m của tri t học u, Á, có ít nhiều ảnh hưởng tại hại ở ta: tri t học Khổng,
Mạnh, Đề-các-tơ (Descartes), Béc-sơn (bergson), Căng (Kant), Nít-sơn
(Nietsche)... làm cho thuy t duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.
b. Tranh đấu về tông phái văn nghệ (chống chủ ngh a cổ điển, chủ
ngh a lãng mạn, chủ ngh a tự nhiên, chủ ngh a tượng trưng...) làm cho xu
hướng tả thực xã hội chủ ngh a thắng.
c. Tranh đấu về ti ng nói, chữ vi t:
+ Thống nhất và làm gi u thêm ti ng nói;
+ Ấn định mẹo văn ta;
+ Cải cách chữ quốc ngữ...
- Cách vận động:
a. Lợi dụng tất cả khả năng công khai và bán công khai để:
+ Tuyên truyền và xuất bản;
+Tổ chức các nhà văn;
+ Tranh đấu giành quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ s ...;
110
+ Chống nạn mù chữ...
b. Phối hợp mật thi t phương pháp bí mật và công khai, thống nhất mọi
hoạt động văn hóa ti n bộ dưới quyền lãnh đạo của Đảng vô sản mác-xít.
(Tiền phong số 1, ngày 10 tháng 1 năm 1945).
2. Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Vniệt Nam lúc này
G n đây các sách báo công khai đã năng đả động đ n vấn đề văn hóa
Việt Nam. Nhà Hàn Thuyên xuất bản loại sách “Tân văn hóa” và tạp chí “Văn
mới nghị luận” để cổ động phong trào văn hóa một cách hăm hở, nhiệt tình.
Ti ng tân văn hóa đã g n thành “mốt”. Nhưng một điều đáng chú ý là ít ai để
ý đ n phương châm vận động tân văn hóa Việt Nam hiện nay phải như th
nào. Bởi vậy, mặt trận văn hóa còn lộn xộn, các chi n sỹ tân văn hóa đánh
chưa nhằm đích. Việc tìm ra những nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa
Việt Nam lúc này h t sức c n. Những nguyên tắc ấy không ở đâu xa, ở ngay
tình trạng văn hóa nước Việt Nam hiện tại. Xét văn hóa Việt Nam lúc này, ta
thất ba hiện tượng bao gồm ba căn bệnh lớn của văn hóa dân tộc:
1. Nước ta là một nước thuộc địa, dưới quyền thống trị của đ quốc
Pháp, văn hóa Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng tai hại làm cho nó hóa thành
nô dịch và bị chia rẽ phát triển không đều, thi u hẳn tinh th n độc lập tự do và
dân tộc thống nhất. Trước kia người ta nhắm mắt theo Trung Quốc bao nhiêu,
thì ngày nay người ta nhắm mắt theo tây bấy nhiêu. G n đây một bọn nhà văn
hóa còn lăm le theo đít Nhật nữa là khác. Bao nhiêu tinh hoa của nền văn hóa
vốn có của đất nước, người ta không thèm tìm tòi, vun bón và phát triển, lại
lấy việc u hóa Nhật hóa làm vinh, n u không theo cổ một cách mê muội.
Một nước mà nền kinh t đã phụ thuộc vào người và mất chủ quyền chính trị
thì khỏi sao văn hóa nhiễm tính chất nô dịch và phụ thuộc. Văn chương li m
gót gi y, văn chương “ không đau mà rèn” , văn chương bò sát đất, đ y rẫy
111
trong nước. Văn nghệ hợp pháp h u h t bội phản tinh th n dân tộc độc lập.
Hình thức văn nghệ h t theo lối Tống nho câu lệ, cổ kính lại học đòi lối Pháp
một cách lố lăng. Ki n trúc, hội họa, âm nhạc, y phục... có xu hướng Pháp
hóa hay Nhật hóa đ n nỗi có khi mất cả bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Một
phong trào “lai hóa” lan tràn trong ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật cũng như
trong phong tục và tư tưởng. Bên cạnh tính cách nô dịch hay “ lai hóa” ấy, ta
thấy tính cách không thống nhất, một trở ngại lớn cho sự phát triển văn hóa
dân tộc. Kỹ nghệ không phát đạt, đường giao thông không được mở mang.
Trình độ văn hóa cũng như trình độ sinh hoạt các vùng trong nước sai biệt
nhau nhiều quá. Nước lại bị chủ ngh a đ quốc cắt làm ba mảnh có tổ chức
chính trị và chương trình giáo dục hơi khác nhau. Đó là những điều kiện tai
hại làm cho văn hóa VN thi u tính cách dân tộc thống nhất.
2. Nước ta lại là một nước nông nghiệp. Chủ ngh a đ quốc giữ độc
quyền kỹ nghệ và kìm hãm kỹ nghệ bản xứ. Không mấy ai để ý đ n khoa học,
vì không hy vọng được tự do mở mang bất cứ một ngành kinh t hay kỹ thuật
gì ? Hễ ai tự phát minh được một cái gì kỳ diệu thì giặc Pháp đe dọa hay tìm
cách ám hại ngay. Nhà trường của giặc Pháp chỉ dạy một mớ ý niệm khoa học
phổ thông và không được thực nghiệm, cốt bi n thanh niên tri thức ta thành
bọn đày tớ cho chúng sai bảo. Óc khoa học của đồng bào ta vì th rất mỏng
manh, kém cỏi. Trình độ khoa học kém cỏi ấy ảnh hưởng không tốt đ n các
ngành văn học , nghệ thuật. Những sản phẩm văn hóa của thời phong ki n
VN để lại ph n nhiều đ y tính cách duy tâm, th n bí, phản khoa học. Việc
tuyên truyền cổ động của văn hóa Nhật với tạp chí “ Tân Á” và loại sách “
Nip-pon văn hóa” của nó, cũng như việc nhồi sọ của nhà trường và Bộ Thông
tin tuyên truyền của Pháp lại nuôi thêm tính cách mê tín và th n bí ấy. Những
công trình văn hóa theo Tây ph n nhiều chỉ có cái vỏ khoa học. Vài ví dụ đủ
chứng thực điều ấy. Một cái nhà theo ki n trúc mới không gồm đủ được ba
tính cách đẹp, tiện và bền. Trái lại, nó lố lăng, phiền phức, có khi không hợp
112
với khí hậu và màu sắc của đất nước. Câu văn ph n nhiều còn túi bụi những
chữ “ t m gửi” hay trái văn pháp, kém xác thực, thi u sáng sủa và không được
khúc tri t.
3. Trong một nước còn nhiều tàn tích phong ki n mà lại là thuộc địa
như nước ta, quyền kinh t và chính trị trong tay bọn đ quốc và một số rất ít
người bản xứ, thì đông đảo qu n chúng, nhất là thợ thuyền, dân cày bị khinh
miệt là lẽ tất nhiên. Ở nước ta, bệnh mù chữ tr m trọng không kém gì bệnh
đói. Người ta vi t, vẽ, đàn, hát , xây, nặn cốt để cho bọn quyền quý thưởng
thức đã chứ ! Mà chỉ bọn họ mới đủ tiền tài và trí tuệ thưởng thức những sản
phẩm văn hóa cao quý trong ch độ này. Hơn nữa, người ta vi t, vẽ, đàn, hát,
xây, nặn để ru qu n chúng, làm cho qu n chúng tin theo bọn quyền quý, hoặc
mê tín ở họa phúc, mong đợi ở Trời, Phật. Trong xã hội Việt Nam hiện nay,
con cái t ng lớp c n lao ít người có đủ tài: mà những người tài xuất thân ở đại
chúng, bênh vực đại chúng lại bị đàn áp, hắt hủi. Chính vì những lẽ ấy mà văn
hóa Việt Nam hiện nay h t sức xa đại chúng. Tính chất phản đại chúng trong
văn hóa hợp pháp nước ta rõ rệt vô cùng. Xu hướng “nghệ thuật vị nghệ
thuật” , xu hướng “siêu tả chân”, xu hướng “lập dị” hay “nghệ thuật tắc tị”
của nhóm “ Xuân thu nhã tập” g n đây đều là những quái thai của văn nghệ
phản đại chúng, bột phát dưới quyền thống trị của chủ ngh a phát-xít. Tình
trạng trái ngược bộc lộ: Đại chúng mang sức sống vật chất của xã hội, vì đại
chúng gồm những người sinh sản nuôi đời; các nhà văn hóa mang theo sức
sống về tinh th n của xã hội đáng lẽ phải phụng sự đại chúng, cái vú sữa của
xã hội, mật thi t với đại chúng, nhưng đằng này lại phản đại chúng, xa đại
chúng. Văn hóa không bắt rễ thẳng ở đại chúng. K t quả văn hóa cằn cỗi héo
hon…
Tóm lại, văn hóa Việt Nam hiện nay - hay nói cho đúng, văn hóa hợp
pháp Việt Nam hiện nay - mang ba nhược điểm, ba căn bệnh lớn: phản dân
tộc, phản khoa học, phản đại chúng. Ngay đ n văn hóa bất hợp pháp Việt
113
Nam cũng chưa hoàn toàn thoát khỏi được những nhược điểm nói trên. Bổn
phận các nhà văn hóa cấp ti n Việt Nam, bất cứ ở giai cấp nào là phải kíp lập
một mặt trận chống ba căn bệnh của văn hóa Việt Nam hiện tại. Cuộc vận
động tân văn hóa Việt Nam lúc này phải theo ba nguyên tắc, ba khẩu hiệu:
- Dân tộc hóa,
- Khoa học hóa,
- Đại chúng hóa.
Phàm cái gì chống lại tinh th n dân tộc, độc lập và thống nhất, phải
thẳng cánh đập tan.
Phàm cái gì trái khoa học, phản ti n bộ phải kiên quy t bài trừ.
Phàm cái gì phản đại chúng, xa đại chúng, phải nhất luật san phẳng.
Ba nguyên tắc trên đây là các cái khâu của một sợ dây chuyền. Nó có
tính cách liên hoàn. Không thể hoàn thành nhiệm vụ vận động tân văn hóa
Việt Nam n u ta bỏ sót một nguyên tắc nào trong ba nguyên tắc ấy. Cũng
không thể chỉ theo một nguyên tắc nọ mà đồng thời chống lại những nguyên
tắc kia. Không nhận rõ điều đo thì nhất định không làm tròn được nhiệm vụ
xây dựng tân văn hóa cho dân tộc mà có khi mắc bẫy văn hóa của đ quốc
hoặc bị chúng lợi dụng nữa là khác.
Các nhà văn nghệ trong nhóm “Tri tân” (phong trào ki n) thiên trọng
về khẩu hiệu dân tộc hóa nhưng lại không nệ cổ và không đ m xỉa đ n hai
khẩu hiệu khoa học hóa và đại chúng hóa, nên đã bị công kích là thủ cựu, là
gàn. Những nhà văn trong nhóm Thanh Nghị (tư sản) thực hành ba khẩu hiệu
trên kia không được đ y đủ, vì họ không nhận rõ được thời bệnh của văn hóa
Việt Nam, cũng không thể đóng nổi vai trò lãnh đạo tân văn hóa và nhất định
nguồn văn của họ sẽ cạn n u họ không tự sớm bồi bổ văn hóa vô sản. Nhóm
tân văn hóa Hàn Thuyên (tiểu tư sản) tự nhận là thuận khoa học, nhưng đã
phản duy vật biện chứng, tức là phản khoa học. Họ chẳng đem thuy t duy vật
t m thường, duy vật máy móc, thay cho thuy t duy vật biện chứng nào đó
114
sao? Họ không đội lốt duy vật biện chứng để xuyên tạc thuy t duy vật biện
chứng của Mác đó sao? Họ tự nhận không dám bênh vực quyền lợi văn hóa
cốt y u của đại chúng. Chúng tôi muốn nói: họ không đủ tư cách và năng lực
chống - dù chỉ chống một cách gián ti p và kín đáo - những thủ đoạn tuyên
truyền của viện văn hóa Nhật hay nhà xuất bản A-l ch-xăng-đơ-rốt
(Alexandre de Rhodes ). Họ coi thường khẩu hiệu dân tộc hóa đ n nỗi dám
gắn chiêu bài: “ duy vật sử quan” để ch bi n lịch sử dân tộc Việt Nam và do
đó họ bôi nhọ thuy t duy vật sử quan (Coi cuốn Hai Bà Trưng khởi ngh a của
Nguyễn T Mỹ, Hàn Thuyên xuất bản 1944). Đáng lẽ phải tập trung mọi lực
lượng văn hóa VN thành một mặt trận đặng chống lại văn hóa ngu dân, văn
hóa thái bộ và trung cổ của bọn phát-xít, chống thủ đoạn xâm lấn nguy hiểm
của văn hóa Nhật, thì họ lại chia rẽ mặt trận văn hóa của dân tộc ta và bởi th
học đã vô tình hay cố ý làm lợi cho lũ giặc nước. Thật th , tại sao họ lại ch a
ngọn lửa đấu tranh văn hóa vào các nhà văn hóa dân tộc (Tri Tân, Thanh
Nghị) trong khi quyền lợi sinh tử của dân tộc bắt phải liên minh thân thiện với
các nhà văn hóa ấy đặng ch a ngọn lửa đấu tranh văn hóa vào phát xít Nhật-
Pháp? Cái chiêu bài “ tân văn hóa” của nhà Hàn Thuyên ở đây một số Tờ-rốt-
kít đang hoành hành - chẳng đáng ngờ lắm sao?
Ba khẩu hiệu vận động tân văn hóa trên kia phải ghi trên lá cờ khẩu
hiệu của một lớp nhà văn hóa tiền phong, trung thành, kiên nhẫn, tích cực và
khôn khéo. Các nhà văn hóa ấy phải lấy sức mạnh trong đại chúng, lấy tinh
th n trong dân tộc, và dùng duy vật biện chứng làm kim chỉ nam . Con đường
của họ phải là con đường tả thực xã hội, duy nhất, đúng và ti n bộ. Nhưng
nhà văn ấy phải tranh đấu trên tất cả các mặt trận văn học, ngôn ngữ, phong
tục, tín ngưỡng... Hành động của họ phải bao quát cả hình thức tranh đấu hợp
pháp và bất hợp pháp. Nó không thể xa lìa được cuộc vận động cách mạng
dân tộc giải phóng của dân tộc ta lúc này.
115
(Tiền phong, số 2, ra ngày 11 tháng chạp năm 1945) .