ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
CHU QUANG KHÁNH
QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
(1961-1965)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
CHU QUANG KHÁNH
QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
(1961-1965)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đình Lê
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi đƣợc thực
hiện dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS Nguyễn Đình Lê. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu của những ngƣời đi
trƣớc và có sự bổ sung thêm những tài liệu mới.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn
Chu Quang Khánh
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất
tới PGS.TS Nguyễn Đình Lê, ngƣời thầy đã gợi mở cho tôi từ những ý tƣởng
ban đầu của luận văn cũng nhƣ đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo tại Bộ môn Lịch sử Việt
Nam, Khoa Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã chỉ
bảo, động viên khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình học tập của tôi tại
đây.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn
Chu Quang Khánh
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quân giải phóng miền Nam là bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam ở
chiến trƣờng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Đƣợc xây dựng và
phát triển trên cơ sở các đội vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền của các địa
phƣơng miền Nam và lực lƣợng cán bộ, chiến sĩ, nhân viên kỹ thuật quân sự ở
miền Bắc bổ sung, tăng cƣờng từ năm 1959, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam
đặt dƣới sự lãnh đạo về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng và sự chỉ
huy thống nhất của Bộ Quốc phòng - Tổng tƣ lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam
mà trực tiếp Trung ƣơng Cục miền Nam và Ban Quân sự trực thuộc Trung ƣơng
Cục.
Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, kết hợp lực lƣợng tại chỗ với lực lƣợng bổ
sung, tăng cƣờng hậu phƣơng lớn miền Bắc vào, cùng với sự ủng hộ, giúp đỡ của
nhân dân miền Nam và sự phối hợp chiến đấu của nhân dân và lực lƣợng vũ trang
hai nƣớc bạn Lào và Cambodia, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã lớn
mạnh, trƣởng thành nhanh chóng, nhất là từ năm 1961-1965. Từ đánh tập trung
quy mô đại đội (1961), bộ đội đã tiến lên đánh tập trung quy mô tiểu đoàn (1963)
và trung đoàn (1964).
Đi sâu vào nghiên cứu quá trình xây dựng và chiến đấu của Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam trong thời gian này, có thể thấy đƣợc sự trƣởng thành của
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đồng thời tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và
làm phong phú thêm đƣờng lối chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lƣợng vũ
trang nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, tôi chọn đề tài “Quân giải
3
phóng miền Nam Việt Nam (1961-1965)” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch
sử Việt Nam, với mong muốn góp phần tìm hiểu một giai đoạn lịch sử của Quân
đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua sƣu tầm, tìm hiểu, tác giả nhận thấy, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nƣớc kết thúc, vấn đề tổng kết cuộc kháng chiến đã đƣợc đặt ra. Ban Tổng
kết chiến tranh B2 (Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ) đƣợc thành lập, đã thu thập tƣ
liệu và dựng đề cƣơng tỉ mỉ cho cuốn sách Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước trên chiến trường B2 với 5 tập, trong đó Quân giải phóng miền Nam đã đƣợc
đề cập ở một số nội dung. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị đƣợc
thành lập năm 1990, tiếp thu những kết quả sau nhiều năm nghiên cứu đã cho xuất
bản cuốn sách Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học,
dành nhiều trang với những nhận định, đánh giá sát với thực tế lịch sử đã diễn ra về
Quân giải phóng miền Nam trong giai đoạn 1961-1965. Cuốn sách Lịch sử cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tập 3 do Viện Lịch sử quân sự biên
soạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 cũng dành một số trang viết về Quân
giải phóng miền Nam những năm 1961-1965. Cuốn sách Lịch sử biên niên Xứ ủy
Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008 của
Viện Lịch sử Đảng tuy không đi sâu về Quân giải phóng miền Nam, nhƣng đã giúp
tác giả luận văn có cái nhìn khái quát về sự lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Cuốn sách Biên niên sự kiện lịch sử Bộ Tổng
tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2008 cũng giúp tác giả trong nhiều vấn đề về quân sự, chiến lƣợc của
Quân giải phóng miền Nam. Sách Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 của Quân khu VII đã cung cấp một số tƣ liệu
và nhận định khoa học về cơ quan đầu não của Quân giải phóng miền Nam trên mặt
4
trận B2 để tác giả luận văn kế thừa trong quá trình nghiên cứu.
Các cuốn sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975), thắng lợi và bài
học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994; Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tập 2
(1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995… đã miêu tả về Quân giải
phóng miền Nam trong giai đoạn 1961-1965 ở nhiều mức độ khác nhau.
Các tác phẩm của Lê Duẩn nhƣ Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự
do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970;
Thư vào Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985; Về chiến tranh nhân dân
Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993… đã chỉ rõ tính cấp thiết của việc xây dựng
và phát triển lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1960-1965.
Tác giả Trần Văn Giàu, nhà sử học Việt Nam, cán bộ lão thành cách mạng, đã
nhiều năm trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam, viết cuốn sách Miền Nam giữ
vững thành đồng, tập 2 và tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1965 và 1968.
Cuốn sách đã dành nhiều trang viết về viết về quá trình ra đời và phát triển của
Quân giải phóng miền Nam từ năm 1961-1965, nêu lên một số tƣ liệu và nhận định
có giá trị khoa học định hƣớng cho luận văn.
Hầu hết các quân khu và bộ chỉ huy quân sự các tỉnh đều đã xuất bản các
cuốn sách về lịch sử lực lƣợng vũ trang nhân dân hay cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nƣớc tại địa phƣơng. Tiêu biểu là Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu VII
(1945-2010), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010 của Quân khu VII; Quân khu
IX - 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999 của
Quân khu IX; Lược sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến
5
Tre, 1993 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre; Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh
Đồng Nai (1945-1995), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999 của Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh Đồng Nai; Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị lực lượng vũ
trang nhân dân tỉnh Bình Dương (1945-2010), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2014 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Dƣơng; Lịch sử lực lượng vũ trang Bà Rịa
- Vũng Tàu (1945-1995), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999 của Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Lịch sử cuộc kháng chiến quân dân Tiền Giang
(1940-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh
Tiền Giang; Kiến Tường - lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 2008 của Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh Long An; Lực lượng vũ trang An Giang, 30 năm kháng chiến
(1945-1975), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001 của Bộ chỉ huy quân sự
tỉnh An Giang; Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Tháp trong kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001 của Bộ chỉ
huy quân sự tỉnh Đồng Tháp… đã trình bày khá đầy đủ về Quân giải phóng miền
Nam ở từng vùng miền. Tuy nhiên, các tài liệu trên chỉ phản ánh từng mặt, trên
phạm vi khu vực, chƣa nói lên tính hệ thống, tính khái quát về Quân giải phóng
miền Nam trên toàn chiến trƣờng miền Nam từ năm 1961-1965.
Các bài báo khoa học đi sau nghiên cứu vào từng mặt, từng vấn đề của Quân
giải phóng miền Nam chủ yếu đƣợc đăng trên các tạp chí Lịch sử quân sự, Nghiên
cứu lịch sử, Lịch sử Đảng. Tiêu biểu trong số này có Nguyễn Đình Lê, Vài nét về
lực lƣợng vũ trang cách mạng Nam Bộ thời kỳ 1954-1960, Tạp chí Lịch sử quân
sự, số 4 năm 1996; Nguyễn Tƣ Đƣơng, Lực lƣợng vũ trang giáo phái miền Tây
Nam Bộ thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5 năm
2001; Trần Long, Làng rừng Cà Mau, một hiện tƣợng “Độc nhất vô nhị”, Tạp chí
Lịch sử quân sự, số 2 năm 1997; Nguyễn Đình Lê, Nghị quyết 15 với lực lƣợng vũ
trang cách mạng miền Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1 năm 1999; Nguyễn
6
Xuân Năng, Bắc Ruộng - Trận đánh mở đầu phong trào Đồng khởi ở Bình Thuận
năm 1960, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3 năm 2003, Võ Cao Lợi, Phong trào giải
phóng nông thôn ở Quảng Ngãi, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1 năm 2010; Nguyễn
Hữu Đạo, Sự ra đời của đoàn vận tải quân sự 559, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4 năm
2008; Việt Hồng, Vài nét về đấu tranh vũ trang và lực lƣợng vũ trang ở Nam Bộ
trƣớc cuộc “Đồng Khởi” 1959-1960, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 155 năm
1974…
Một số luận vặn, luận án cũng đề cập tới lực lƣợng vũ trang cách mạng miền
Nam giai đoạn 1961-1965 nhƣ Huỳnh Thị Liêm, Phong trào đấu tranh chống, phá
ấp chiến lược ở miền Đông Nam Bộ (1961-1965), luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2006. Luận án nghiên cứu về phong trào đấu tranh chống,
phá ấp chiến lƣợc ở miền Đông Nam bộ trong giai đoạn 1961-1965, qua đó cung
cấp những luận cứ khoa học cho quá trình xây dựng lực lƣợng cách mạng, phục vụ
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trần Thị Thu Hƣơng, Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá "quốc sách"
ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961-1965), luận án Tiến sĩ
khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2000. Đề tài đã phân tích tính chất gay go, quyết liệt, giằng co lâu
dài của cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lƣợc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Hệ thống, khái quát, phân tích những chủ trƣơng, biện pháp, kế hoạch và kế hoạch
chỉ đạo tổ chức thực hiện chống phá chính sách đó của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lê Đình Hùng, Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ
trang ở miền nam từ năm 1961 đến năm 1965, luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử,
7
chuyên ngành Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2009.
Luận văn nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và
chiến đấu của lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1961-1965.
Bùi Thị Trang, Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân
sự ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968, luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2014. Luận văn nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự chống đế
quốc Mỹ ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968.
Nhiều nhà nghiên cứu nƣớc ngoài viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nƣớc của nhân dân Việt Nam. William Westmoreland - ngƣời trực tiếp chỉ huy
quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam viết cuốn Tường trình của một quân nhân,
Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1988. Gabrien Kolko viết cuốn
Giải phẫu một cuộc chiến tranh do Nxb Quân đội nhân dân xuất bản năm 1989 và
1991. Trong 2 tập sách, tác giả đã lý giải về nguồn gốc của chiến tranh; sự can
thiệp của Mỹ vào Việt Nam và khẳng định một kết cục tất yếu là Mỹ sẽ thất bại ở
Việt Nam. Daniel Ellsberg viết cuốn Những bí mật của chiến tranh Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia xuất bản năm 1985. J.Pimlott viết Việt Nam - những trận đánh
quyết định, Trung tâm thông tin khoa học công nghệ môi trƣờng, Bộ Quốc phòng
phát hành năm 1997…
Nhìn chung, những công trình ở trên đã đề cập ở những góc độ và mức độ
khác nhau liên quan đến Quân giải phóng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nƣớc. Kết quả nghiên cứu và những tƣ liệu quý báu của các công trình này là
cơ sở để tác giả kế thừa, vận dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện luận văn.
8
Tuy nhiên, chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam (1961-1965) một cách hệ thống, tổng quát dƣới góc độ Lịch
sử Việt Nam.
3. Các nguồn tài liệu
Luận văn chủ yếu đƣợc xây dựng trên cơ sở các nguồn tài liệu sau đây:
- Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tác phẩm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc và Quân đội nhân dân Việt Nam
viết về cách mạng giải phóng dân tộc, về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc
(1954-1975).
- Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Viện Sử học, Viện Lịch sử Đảng và các công
trình lịch sử địa phƣơng
- Các tài liệu lƣu trữ liên quan tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc hiện
đang lƣu trữ tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Trung tâm lƣu trữ Quốc gia II tại
thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị và các
tỉnh.
- Ngoài ra, luận án cũng chú ý nghiên cứu một số sách, báo nƣớc ngoài viết
về cuộc chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam của đế quốc Mỹ có liên quan tới đề tài.
4. Mục đích, nhiệm vụ luận văn
Mục đích:
Làm rõ về những hạt nhân ban đầu, sự ra đời và quá trình xây dựng, chiến đấu
của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1961-1965). Từ đó, góp phần tìm hiểu
về lực lƣợng vũ trang và quân đội nhân dân trong điều kiện xây dựng và bảo vệ tổ
quốc hiện nay.
9
Nhiệm vụ:
Phân tích bối cảnh lịch sử, yêu cầu cấp thiết xây dựng lực lƣợng vũ trang cách
mạng miền Nam Việt Nam từ năm 1954-1960.
Phân tích, luận giải về sự ra đời, những bƣớc trƣởng thành trong xây dựng lực
lƣợng và chiến đấu của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1961-1965.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thông qua phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp logic và sự kết
hợp hai phƣơng pháp này là chủ yếu. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp
khác nhƣ phân tích, tổng hợp, so sánh… để phù hợp với từng nội dung của luận văn.
6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là về quá trình xây dựng, chiến đấu, trƣởng
thành của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1961-1965, trong đó tập
trung vào các khối chủ lực và bộ đội địa phƣơng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài nằm trong khoảng thời gian từ năm 1961 đến
năm 1965 trên không gian chiến trƣờng miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt
đƣợc mục đích nghiên cứu, tác giả có mở rộng tìm hiểu về lực lƣợng vũ trang cách
mạng của miền Nam từ năm 1954-1960 trƣớc khi Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam ra đời.
7. Đóng góp của luận văn
Bằng việc trình bày một cách có hệ thống về Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam từ 1961-1965, luận văn trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc ra đời của Quân giải
phóng miền Nam? Quân giải phóng miền Nam đã lớn mạnh về lực lƣợng và đánh
bại chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt của Mỹ, chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh cục bộ
10
nhƣ thế nào?
Tuy nhiên, do nguồn tài liệu và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chƣa thể
mở rộng, đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về các chiến lƣợc, chiến thuật của Quân giải
phóng miền Nam. Hy vọng những hạn chế và thiếu sót này đƣợc khắc phục trong
những công trình sau của tác giả.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục, luận văn
đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những đơn vị tiền thân của Quân giải phóng miền Nam (1954-
1960)
Chƣơng 2: Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, xây dựng lực lƣợng và
bƣớc đầu đánh bại chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt (1961-1963)
Chƣơng 3: Quân giải phòng miền Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ về mặt lực
11
lƣợng, đánh bại hoàn toàn chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt (1963-1965)
Chương 1
NHỮNG ĐƠN VỊ TIỀN THÂN CỦA
QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM (1954-1960)
1.1. Bối cảnh lịch sử và tính cấp thiết của việc xây dựng lực lƣợng vũ
trang cách mạng ở miền Nam
Tình hình thế giới
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, diễn
biến phức tạp, tác động nhiều mặt đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của
nhân dân Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội đã vƣợt ra khỏi phạm vi một nƣớc, trở thành hệ thống thế
giới, làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nƣớc vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây cũng là thời kỳ mà các
dân tộc bị áp bức vùng lên vì độc lập, tự do, phá vỡ và thu hẹp hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hòa
bình và tiến bộ xã hội của nhân dân lao động ở các nƣớc tƣ bản cũng phát triển
mạnh mẽ, làm cho đế quốc không thể tùy ý quyết định chiến tranh nhƣ trƣớc.
Ngoài những thuận lợi, tình hình thế giới cũng đƣa đến nhiều khó khăn đối
với cách mạng Việt Nam. Trƣớc hết, nhờ chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ vƣợt lên
về sức mạnh vật chất, kỹ thuật, trở thành một siêu cƣờng mới. Tính đến năm 1960,
tổng sản phẩm xã hội của nƣớc Mỹ đạt 510 tỷ đôla, hơn Bắc Việt Nam 325 lần,
đƣờng bộ gấp 505 lần, sắt thép 225 lần, xuất khẩu 310 lần… [4, 489]. Về quân sự,
Mỹ đang có đội quân gồm “2,5 triệu ngƣời, 104 liên đội máy bay, ném bom hạng
trung, gần 40 liên đội máy bay hạng nặng, 400 máy bay B52, 1.400 máy bay B57,
12
110 tàu ngầm…” [126, 14]. Vì vậy, trong cuộc chiến Việt Nam, Mỹ luôn sử dụng
các vũ khí hiện đại, tối tân để tăng cƣờng viện trợ cho quân đội và chính quyền Sài
Gòn.
Để trở thành bá chủ thế giới, trong cuộc “Chiến tranh lạnh”, Mỹ đã tiến hành
các chiến lƣợc toàn cầu, tiến công trực tiếp vào phong trào giải phóng dân tộc hòng
áp đặt chủ nghĩa thực dân mới đối với các nƣớc thuộc địa. Mỹ lựa chọn Việt Nam
là nơi thực hiện chiến lƣợc này, bởi theo “học thuyết domino”: “nếu Mỹ rút khỏi
cuộc xung đột ở miền Nam thì sự sụp đổ không những ở miền Nam Việt Nam mà
cả toàn bộ vùng Đông Nam Á” [130, 158].
Mặt khác, sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, một số Đảng Cộng sản ở các
nƣớc xã hội chủ nghĩa có những quan điểm khác với Đảng về con đƣờng cách
mạng Việt Nam. Họ muốn giữ nguyên trạng 2 miền Nam và Bắc, không ủng hộ
Việt Nam đẩy mạnh đấu tranh cách mạng. Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo
Trung Quốc, việc thống nhất không phải là một việc trong thời gian ngắn mà phải
là một việc “chỉ có thể dùng phƣơng châm thích hợp là trƣờng kỳ mai phục, tích
trữ lực lƣợng, liên hệ quần chúng, chờ đợi thời cơ” vì “vấn đề là phải giữ biên giới
hiện có. Phải giữ vĩ tuyến 17…”. Trung Quốc tích cực giúp đỡ công cuộc xây dựng
miền Bắc nhƣng chƣa ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam vì “Dùng lực
lƣợng vũ trang để thống nhất nƣớc nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả
năng nữa là mất cả miền Bắc” [32, 27].
Cũng nhƣ Trung Quốc, Liên Xô đã giúp Việt Nam thực hiện các kế hoạch 3
năm 1955-1957 và 1958-1960 ở miền Bắc nhƣng không ủng hộ đấu tranh vũ trang
ở miền Nam. Chủ trƣơng của Liên Xô là giữ nguyên trạng, tập trung xây dựng
miền Bắc vững mạnh để đấu tranh chính trị, giải quyết vấn đề miền Nam thông qua
con đƣờng thƣơng lƣợng hòa bình.
13
Âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn
Chỉ một ngày sau khi Hiệp định Geneva về Đông Dƣơng đƣợc ký kết, Tổng
thống Mỹ Eisenhower tuyên bố với báo chí rằng: Hoa Kỳ không tham dự vào
những quyết định trong hội nghị Geneva và không bị rằng buộc vào những quyết
định ấy. Từ đây, Mỹ thực hiện nhiều chƣơng trình, biện pháp để cản trở và phá
hoại việc thi hành Hiệp định.
Nhằm xây dựng chính quyền thực dân mới vững mạnh, Mỹ tìm mọi cách
tiêu diệt các thế lực thân Pháp, xóa bỏ hoàn toàn ảnh hƣởng của Pháp. Ngay từ
ngày 16-6-1954, Mỹ đã ép Bảo Đại đƣa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tƣớng, thành
lập một nội các mới với nhiều thành phần thân Mỹ. Tháng 10-1955, Ngô Đình
Diệm tổ chức “Trƣng cầu dân ý” phế truất Bảo Đại, đƣa mình lên làm Tổng thống.
Tháng 3-1956, dƣới sự bảo trợ của Mỹ, chính quyền Sài Gòn tổ chức tuyển cử, bầu
ra Quốc hội. Tháng 10-1956, Ngô Đình Diệm ban hành Hiến pháp của nền “Đệ
nhất cộng hòa”. Từ tháng 4/1955 - 6/1956, Mỹ - Diệm đã lần lƣợt thanh toán hết
lực lƣợng vũ trang của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và tiêu diệt
các đảng phái tay chân nhƣ Đại Việt, Quốc Dân Đảng… nhằm loại bỏ tận gốc ảnh
hƣởng của Pháp, trừ hậu họa sau này.
Để tạo chỗ dựa vững chắc cho chính quyền, tháng 8-1954, Ngô Đình Diệm
thành lập Đảng Cần lao nhân vị do em trai (Ngô Đình Nhu) đứng đầu. Đảng đƣợc
tổ chức thống nhất từ trên xuống với đảng viên là các viên chức cao cấp nhất của
chính quyền, đƣợc coi là nòng cốt của chế độ cả về phƣơng diện chính trị, tinh thần
lẫn thực lực lãnh đạo. Bên cạnh đó, từ tháng 10-1954, Ngô Đình Diệm còn tổ chức
Phong trào cách mạng quốc gia với các đơn vị thành viên nhƣ Thanh niên cộng
hòa, Phụ nữ liên đới…
Về quân sự, Mỹ tăng cƣờng cố vấn, chuyên viên kỹ thuật, sau đó lập ra Bộ
14
chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn dƣới danh nghĩa Phái đoàn MAAG. Bên cạnh đó,
Mỹ còn tổ chức lại hệ thống quân đội Viêt Nam Cộng hòa gồm các sƣ đoàn chủ
lực và trung đoàn độc lập địa phƣơng. Từ 10 sƣ đoàn, Mỹ chấn chỉnh còn 7 sƣ
đoàn, với quân số duy trì ở mức trên dƣới 150.000 ngƣời. Các cơ quan chỉ đạo
chiến lƣợc, chiến thuật, các Bộ Tƣ lệnh binh chủng hải quân, không quân cũng
từng bƣớc đƣợc kiện toàn với nhiều sĩ quan đƣợc cử đi học ở các nƣớc tƣ bản Âu -
Mỹ [133, 30]. Lính chính quy đƣợc trang bị vũ khí, quần áo và cấp hiệu Mỹ. Hệ
thống cố vấn Mỹ đặt từ Bộ Tổng tham mƣu đến các quân khu, sƣ đoàn, trung đoàn,
trƣờng huấn luyện, căn cứ quân sự, kho tàng quan trọng và tiểu đoàn giới tuyến,
chi phối mọi hoạt động của quân đội Sài Gòn [58, 258].
Về mặt hành chính, Mỹ - Diệm xây dựng một bộ máy cai trị từ Trung ƣơng
đến tận thôn, xã. Ở Trung ƣơng, ngoài Quốc hội là cơ quan lập pháp, có Tổng
thống và kèm theo đó là Phủ Tổng thống với các bộ chuyên về quốc phòng, nội vụ,
kinh tế, tƣ pháp, y tế… Bộ máy kìm kẹp cơ sở gồm có hội đồng hƣơng chính xã,
ban đại diện ấp, ủy viên cảnh sát, tổng đoàn, xã đoàn, dân vệ, tổ chức ngũ gia liên
bảo, mạng lƣới công an, do thám chìm nổi.
Chính quyền Sài Gòn đƣợc xây dựng hoàn bị đến địa phƣơng, tạo điều kiện
cho việc bắt tay vào “bình định” miền Nam Việt Nam, trọng tâm là thực hiện chính
sách “Tố cộng, diệt cộng”.
Ngô Đình Diệm đã tổ chức bộ máy chỉ đạo tố cộng rất chặt chẽ và thống
nhất từ trên xuống dƣới. Cao nhất là Hội đồng chỉ đạo chống cộng bao gồm tất cả
bộ trƣởng trong Chính phủ do Tổng thống trực tiếp làm Chủ tịch. Dƣới là Ủy ban
tố cộng Trung ƣơng với các ban thƣờng trực có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo phong
trào tố cộng. Cấp tỉnh, huyện, xã cũng có Ủy ban tố cộng.
Để chuẩn bị cho việc tố cộng, chính quyền Sài Gòn thực hiện phân loại dân,
15
chia làm 3 loại với phƣơng châm dựa vào loại C (không liên quan đến cách mạng),
đánh vào loại A (cán bộ, đảng viên và ngƣời kháng chiến cũ), làm cho loại B (gia
đình có ngƣời đi tập kết hoặc có liên quan tới kháng chiến) khiếp sợ và khuất phục.
Sau đó, bắt đầu thực hiện chiến dịch tố cộng [59, 299].
Mở màn chiến dịch tố cộng là hoạt động tuyên truyền trên tất cả các phƣơng
tiện thông tin từ truyền thanh, báo chí… nhằm nói xấu Đảng Cộng sản, tô vẽ cho
bộ mặt chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tiếp theo, kết hợp quân Sài Gòn với bộ
máy kìm kẹp cơ sở gồm bọn chỉ điểm, mật thám, công an… sục sạo vào xã, ấp,
nhận mặt từng ngƣời cách mạng. Bên cạnh những biện pháp đàn áp, tù đày, còn có
các hoạt động mua chuộc, lừa phỉnh, đánh vào tâm lý, tỉnh cảm và kinh tế, làm cho
những phần tử hay dao động ra tự thú, đầu hàng.
Ngoài ra, chính quyền Sài gòn còn sử dụng các sƣ đoàn quân đội chính quy
kết hợp với các đoàn tố cộng đánh phá các cơ sở cách mạng tại các căn cứ địa
kháng chiến cũ nhƣ chiến dịch Thoại Ngọc Hầu từ ngày 20/6/1956 - 24/2/1957 ở
đồng bằng sông Cửu Long, chiến dịch Trƣơng Tấn Bửu từ ngày 10/7/1956 -
24/2/1957 tại các tỉnh Đông Nam Bộ hay cuộc hành quân mùa Thu đánh vào miền
Tây Nam Bộ lần thứ hai từ ngày 1/10/1957 - 12/1957.
Đi đôi với tố cộng, diệt cộng, Mỹ - Diệm còn ban hành ban hành các chính
sách nhằm quản lý nông dân và nông thôn, trong đó “Cải cách điền địa” đƣợc coi
là khâu trung tâm. Dù tuyên bố là để tái lập sự công bằng về sở hữu ruộng đất, thực
hiện mục tiêu ngƣời cày có ruộng, nhƣng trên thực tế “Cải cách điền địa” chỉ đánh
vào một bộ rất nhỏ đại địa chủ và thậm chí nhiều diện tích ruộng đất trƣớc đây
đƣợc cách mạng chia cho nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp bị các
tầng lớp thống trị chiếm đoạt lại…
Từ tháng 4-1957, chính quyền Sài Gòn cho ra đời cái gọi là “Chính sách tái
16
định cƣ và cứu tế dân di cƣ”, bằng việc xây dựng các khu dinh điền. Các dinh điền
đƣợc thiết lập trên các cao nguyên hẻo lánh và xung yếu nhằm mục tiêu xây dựng
tuyến phòng thủ từ xa, từng bƣớc bao vây, cô lập cách mạng. Chính Ngô Đình
Nhu, em trai Ngô Đình Diệm, đã xác định: “Khu dinh điền là biện pháp xẻ đƣờng
đƣa dân vào chiến khu, mật khu Việt cộng, dùng dân để đẩy cộng sản ra khỏi vùng
đó và dinh điền là nơi cung cấp tin tình báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn
xâm nhập” [7, 67]. Với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, đến đầu năm 1959, trên
toàn miền Nam, Mỹ - Diệm đã dồn đƣợc 128.374 ngƣời vào 84 khu dinh điền, khai
phá 12.322ha đất canh tác [133, 40]. Phần lớn dân chúng bị dồn ép, cƣỡng bức vào
các khu dinh điền, không chịu nổi cuộc sống khắc nghiệt, bị o ép mọi bề nơi rừng
thiêng, nƣớc độc nên số hộ bỏ trốn ngày càng tăng.
Tính cấp thiết của việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneva, cách mạng Việt Nam
bƣớc sang một giai đoạn mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bắt đầu bƣớc vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó, tình hình miền Nam lại có
nhiều biến động. Trong kháng chiến chống Pháp, Nam Bộ là vùng du kích mạnh
với các căn cứ lớn ở Đồng Tháp Mƣời, U Minh, Tây Ninh… Nam Trung Bộ cũng
có vùng tự do rộng lớn tại duyên hải kéo dài từ Quảng Nam đến Phú Yên với trên
2 triệu dân cùng bộ máy chính quyền các cấp hoàn chỉnh và lực lƣợng vũ trang
đông đảo [137, 237]. Đến giai đoạn 300 ngày chuyển quân tập kết, cán bộ và chiến
sĩ chiến đấu, công tác ở miền Nam phải rời chiến trƣờng ra Bắc. Chính quyền
kháng chiến các cấp giải thể, các khu căn cứ và vùng giải phóng rộng lớn phải giao
cho đối phƣơng quản lý. Nhìn trong phạm vi cục bộ, cuộc đấu tranh chống với Mĩ -
Diệm của đồng bào, đồng chí ở lại miền Nam không còn có những ƣu thế nhƣ đã
17
từng có trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp [82, 11].
Trƣớc sự chuyển biến của tình hình, tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã ra nghị
quyết: “Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”, chỉ rõ
nhiệm vụ của cách mạng miền Nam lúc này là: “Tranh thủ hoạt động hợp pháp và
nửa hợp pháp, kết hợp công tác hợp pháp với công tác không hợp pháp. Đối với
các tổ chức quần chúng và tổ chức Đảng thì cố tranh thủ cho đƣợc tồn tại hợp pháp
và hoạt động hợp pháp. Hình thức đấu tranh kịch liệt (nhƣ khởi nghĩa và chiến
tranh du kích) cần đình chỉ ngay, những hình thức nhƣ biểu tình, đình công, bãi
khóa, bãi thị… cũng cần sử dụng một cách thận trọng và phải tiến hành trên
nguyên tắc có lý, có lợi, có mức, đừng để bọn phản động khiêu khích và tạo cơ hội
cho bọn thực dân Pháp phá hoại đình chiến và ngụy quyền khủng bố” [56, 310].
Tin tƣởng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, nhân dân miền Nam đã
chấp hành nghiêm chỉnh chủ trƣơng chỉ đạo chiến lƣợc của Đảng. Các mục tiêu và
khẩu hiệu đấu tranh cụ thể là đòi đối phƣơng phải trả tù chính trị, thực hiện hiệp
thƣơng tổng tuyển cử, thống nhất đất nƣớc nhƣ Hiệp định Geneva đã quy định.
Phong trào diễn ra sâu rộng khắp nơi, trong cả thành thị và nông thôn, vùng giải
phóng trƣớc kia lẫn vùng địch từng kiểm soát nhƣng sôi động nhất là ở các thành
phố lớn với Sài Gòn - Gia Định là trung tâm. Lực lƣợng cách mạng lúc này là lực
lƣợng chính trị, bao gồm hàng triệu ngƣời với đủ mọi thành phần, lứa tuổi, đảng
phái dân chủ… nhƣng quan trọng nhất là nông dân, công nhân và trí thức.
Tuy nhiên, thực tiễn chứng tỏ đấu tranh bằng phƣơng pháp hòa bình là
không có hiệu quả do Mỹ - Diệm ngoan cố tiến hành chia cắt đất nƣớc, trắng trợn
tuyên bố từ giữa năm 1956 là không thi hành Hiệp định Geneva, không hiệp
thƣơng với miền Bắc, không tổng tuyển cử. Trƣớc chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”,
cách mạng miền Nam gặp vô vàn khó khăn, cơ sở bị tan rã hàng loạt, cán bộ, đảng
viên bị bắt, giết, tù đày. Đến cuối năm 1957, ở Khu V, đã có 70% cấp ủy xã, 60%
huyện ủy viên, 40% tỉnh ủy viên ở các tỉnh đồng bằng đã bị bắt, bị giết, nhiều 18
huyện, xã không còn cán bộ lãnh đạo. Tại Nam Bộ, nhiều cơ sở bí mật ở Vĩnh
Long, Trà Vinh, An Xuyên, Kiến Hòa, Định Tƣờng… bị thiệt hại nặng nề. Tính
đến cuối năm 1958, trên toàn miền Nam, Mỹ - Diệm đã giết hại khoảng 68.800 cán
bộ, đảng viên, bắt giam 466.000 ngƣời và tra tấn thành thƣơng tật 680.000 ngƣời
[133, 251].
Kẻ thù đã kiên quyết sử dụng bạo lực phản cách mạng để đàn áp nhân dân
thì quần chúng không thể mãi chỉ có “tay không và lời nói” mà phải dùng bạo lực
cách mạng để chống lại. Vấn đề xây dựng lực lƣợng vũ trang và tiến hành đấu
tranh vũ trang không chỉ hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị mà còn mang
tính sống còn nhằm giữ gìn và phát triển lực lƣợng. Tuy nhiên, trong bối cảnh phức
tạp của tình hình thế giới lúc đó cùng với quá trình nhận thức cần có thời gian,
Đảng chƣa thể có sự chuyển hƣớng chỉ đạo phù hợp với tình hình thực tế. Mặc dù
vậy, do tình thế quá cấp bách, từ các hoạt động tự phát của quần chúng và sự chủ
động, sáng tạo của một số cơ sở Đảng địa phƣơng, các lực lƣợng vũ trang cách
mạng đã đƣợc xây dựng ở miền Nam dù chƣa có chủ trƣơng của Trung ƣơng.
1.2. Những đơn vị đầu tiên của lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam
(1954-1958)
Ngay từ cuối năm 1954, trong quá trình thực hiện tập kết, chuyển quân ra
Bắc, để đề phòng tình huống địch phản bội Hiệp định Geneva, Đảng đã có chủ
trƣơng để lại một số cán bộ quân sự, tiếp tục củng cố các căn cứ, tiến hành chôn
giấu vũ khí.
Tại Khu V, các địa phƣơng miền núi và căn cứ cũ để lại một số cán bộ quân
sự. Tỉnh Kon Tum có 120 cán bộ ở lại hoạt động bất hợp pháp, trong số này có 30
cán bộ quân đội, tỉnh Gia Lai có 131, trong đó 59 là cán bộ quân đội, tỉnh Đăk Lăk
19
- 110, Ninh Thuận - 100, Phú Yên - 150, Bình Định - 223… [137, 241-242].
Tại Quảng Nam, Tỉnh ủy chôn 2 tấn súng ở Quế Sơn và Trung Phƣớc, địch
phát hiện, Khu ủy lại cho thêm 70 khẩu súng khác về chôn ở Cù Lao Chàm, sau
đƣa lên miền núi chôn cất. Ở Gia Lai, có 2 hầm chứa 70 súng trƣờng, 7 tiểu liên,
60 súng ngắn và nhiều đạn dƣợc. Ở Kon Tum, có 80 súng với 4 tấn đạn. Tỉnh
Khánh Hòa cũng chọn một số vũ khi tốt để cất giấu. Riêng khu vực từ Sơn Tịnh
(Quảng Ngãi) đến Bắc Bình Định, bộ phận chôn giấu vũ khí chuyên trách đã cất
giấu nhiều súng đạn, đủ trang bị cho 2 tiểu đoàn và một số đại đội độc lập [108,
16].
Tháng 12-1954, tại Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ, Xứ ủy đã quyết định
để lại một số cán bộ quân sự và chôn giấu vũ khí phòng khi cần thiết. Thực hiện
chủ trƣơng của Xứ ủy, hầu hết các cán bộ xã đội du kích đã không đi tập kết và ở
lại địa phƣơng. Không những thế, một số cán bộ tỉnh, cán bộ huyện và 200 sĩ quan
từ cấp trung đội đến tiểu đoàn (đƣợc rút từ các tiểu đoàn 307 và 410) cũng đƣợc để
lại. Khi chuyến tàu Stavropol cập bến Sầm Sơn, Thanh Hóa, Lê Đức Thọ lại cho
nguyên 1 tiểu đoàn theo tàu trở lại miền Nam về Cà Mau, cắm chốt ở U Minh Hạ
cùng với một số cán bộ binh vận [88, 37]. Ở Khu VIII (Trung Nam Bộ), một số
cán bộ quân sự, công an cấp huyện, tỉnh theo chủ trƣơng của Trung ƣơng phải đi
tập kết nhƣng đã tình nguyện ở lại để bám dân [66, 34].
Về vũ khí, mỗi tỉnh Nam Bộ để lại trang bị đủ cho 1 đại đội, một số tỉnh ủy
viên và huyện ủy viên đƣợc để lại súng ngắn. Toàn bộ các công binh xƣởng Khu
IX và tỉnh Bạc Liêu cùng với 2.000 khẩu súng đƣợc để lại cất giấu rải rác trong
rừng U Minh. Tại Rạch Giá, chôn giấu gần 1.000 súng các loại, trang bị đủ cho 8
đại đội ở 4 tỉnh. Ở Hà Tiên, cũng giữ lại 100 khẩu súng và bí mật duy trì một lực
20
lƣợng vũ trang của tỉnh cùng một số huyện trong các khu căn cứ cũ [119,115].
Từ năm 1955, Mỹ - Diệm khủng bố lực lƣợng vũ trang giáo phái khiến tàn
quân của nó phiêu bạt khắp các vùng hẻo lánh. Một số trong lực lƣợng này kiếm
sống theo kiểu thổ phỉ, các tay anh chị xƣng hùng, xƣng bá nhiều nơi. Sự bất ổn
này đã thôi thúc đồng bào và số cán bộ ở lại chỉ đạo phong trào thực hiện các biện
pháp tự vệ mới. Khi Xứ ủy và các tỉnh ủy dời từ vùng ven đô về các căn cứ cũ, mỗi
cơ quan đều xây dựng 1 tiểu đội vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ cán bộ [84, 12].
Mặt khác, ở nông thôn, do nhu cầu chống địch bắt bớ cán bộ, cƣớp bóc tài sản
nhân dân, các đội tự vệ đƣợc thành lập ở thôn xã dƣới danh nghĩa “dân canh chống
cƣớp” với lực lƣợng chủ yếu là thanh niên yêu nƣớc, có một số là du kích, bộ đội
trƣớc đây, nay đã về làng cũ, làm ăn bình thƣờng, cùng nhân dân tham gia đấu
tranh chính trị và khi cần, lại dùng vũ khí thô sơ tự trang bị để chống lại địch.
Các tỉnh Chợ Lớn, Gia Định, Tân An, Mỹ Tho, một số cán bộ, đảng viên đã
bị lộ tập trung về các vùng Đức Hải, Đồng Tháp Mƣời, sát biên giới Việt Nam -
Cambodia để tạm lánh. Số anh em này đƣợc tổ chức thành từng tiểu đội, trung đội
để tiện sinh hoạt, tránh né địch càn, dần dần đƣợc trang bị một số lựu đạn, súng
trƣờng để chiến đấu bảo vệ lực lƣợng.
Tháng 8-1955, Liên tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ quyết định thành lập Ban xây
dựng lực lƣợng vũ trang. Sau khi đƣợc thành lập, Ban Quân sự đã tổ chức đƣợc 3
lớp huấn luyện và thành lập các khung trung đội mang tên Giải phóng quân, có chi
bộ lãnh đạo. Nhiệm vụ của các đơn vị này là làm nòng cốt hỗ trợ cho phong trào
đấu tranh chính trị, xây dựng cơ sở cách mạng, trừng trị bọn ác ôn khi có lệnh.
Phƣơng châm hoạt động là giữ bí mật với danh nghĩa tổ cán bộ binh vận. Việc kết
nạp các chiến sĩ vào Giải phóng quân đƣợc tổ chức nhƣ kết nạp đảng viên, đoàn
21
viên, thời kỳ đầu còn giữ bí mật cả với lãnh đạo cơ sở cấp xã [129, 78-79].
Giữa năm 1955, Mỹ - Diệm mở các chiến dịch tấn công tiêu diệt các lực
lƣợng Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, Xứ ủy chỉ đạo các địa phƣơng đƣa một số
cán bộ, đảng viên vào các đơn vị vũ trang giáo phái nhằm giáo dục, hƣớng dẫn họ
đấu tranh, không gây hại cho nhân dân. Trong tháng 10-1955, khi lực lƣợng giáo
phái bị quân Diệm đánh bại, Xứ ủy đã tổ chức đƣa lực lƣợng còn lại do Trung tá
Võ Văn Môn (Bảy Môn) và Thiếu tá Nguyễn Văn Lƣơng chỉ huy thoát vòng vây,
về căn cứ ở vùng Xuyên Mộc, miền Đông Nam Bộ. Cùng thời gian, đã có gần
1.000 lính Cao Đài về đồn trú ở chiến khu Dƣơng Minh Châu. Tại đây, các lực
lƣợng vũ trang giáo phái đƣợc sự giúp đỡ tận tình về hậu cần của nhân dân, một số
đơn vị đã ở lại bƣng bền xây dựng thành các đơn vị vũ trang cách mạng dƣới danh
nghĩa giáo phái ly khai tích cực hoạt động chống Diệm [129, 59].
Từ tháng 3-1956, trƣớc tình hình hầu hết các giáo phái ly khai tan rã, Xứ ủy
Nam Bộ kịp thời chỉ đạo thu hồi, cất giấu hàng ngàn súng của các đơn vị giáo phái
đồng thời rút những cán bộ, chiến sĩ trƣớc đây đƣợc cài vào lực lƣợng Cao Đài,
Hòa Hảo, Bình Xuyên về, tập hợp lại và bổ sung thêm những cán bộ du kích để
thành lập các đơn vị vũ trang mang danh nghĩa giáo phái.
Thực hiện sự chỉ đạo này, ở Sa Đéc, Huyện ủy Cao Lãnh đã tập hợp chiến sĩ,
gom súng của Hòa Hảo để lại thành lập 2 phân đội 210 và 401, sau thống nhất lại,
thành lập Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh - Hòa Hảo. Ở phía Nam sông Tiền, cũng tổ
chức xây dựng một đơn vị lấy từ cán bộ, đảng viên hoạt động bất hợp pháp, mang
tên là Tiểu đoàn Lý Thƣờng Kiệt. Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh từ 100 ngƣời ban đầu
đã nhanh chóng phát triển thành 9 đại đội với 300 đội viên..
Ở Tân An, cán bộ, chiến sĩ do Huyện ủy Mộc Hóa đƣa vào lực lƣợng Cao
Đài đã rút ra, thành lập một đơn vị gồm 6 tiểu đội, lấy danh nghĩa Tiểu đoàn Phƣớc
22
Dƣ - Cao Đài. Tháng 6-1956, Tiểu đoàn Phƣớc Dƣ về vùng kênh Bùi, xã Tân Ninh
khai hầm lấy lên 60 khẩu súng để trang bị và phát triển thành 3 trung đội, là tiền
thân của Tiểu đoàn 504 lực lƣợng vũ trang Kiến Tƣờng về sau.
Tại Đồng Tháp Mƣời, Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ cho tập hợp một số cán
bộ hồi cƣ từ Chợ Lớn về Đồng Tháp Mƣời xây dựng 3 trung đội 29, 30, 31. Vùng
rừng Sác thành lập Đại đội 12 gồm 12 chiến sĩ mới vƣợt từ Biên Hòa về. Cùng thời
gian, các cơ sở nội tuyến trong lực lƣợng Cao Đài, Bình Xuyên đƣợc rút ra, thành
lập các tiểu đoàn Quang Huy - Cao Đài và Lê Quang - Bình Xuyên. Các đơn vị
trên là tiền thân của 2 tiểu đoàn 506, 508 lực lƣợng vũ trang Long An sau này.
Sau khi lực lƣợng Bình Xuyên ở rừng Sác tan rã, Liên tỉnh ủy Trung Nam
Bộ cho rút lực lƣợng cài vào về Đồng Tháp Mƣời, bổ sung thêm cán bộ, chiến sĩ
của Tân An, Mỹ Tho, thành lập lên Tiểu đoàn 2 Bình Xuyên. Một thời gian sau,
Tiểu đoàn này giao lại cho Tỉnh ủy Sa Đéc, sáp nhập với Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh
của tỉnh, là tiền thân của Tiểu đoàn 502 lực lƣợng vũ trang Kiến Phong [66, 73-
77].
Ở Mỹ Tho, hàng chục cán bộ, đoàn viên thanh niên tạm lánh vào các lõm
căn cứ ở Tân Ninh, Nhơn Ninh, Tân Hòa, Tân Hòa, Mộc Hóa… không có súng nên
đã lấy khúc trâm bầu làm vũ khí, tổ chức lực lƣợng vũ trang hoạt động trấn áp địch
vùng kênh Nguyễn Văn Tiếp A.
Trên cơ sở có lực lƣợng vũ trang địa phƣơng, Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ
cho thành lập cơ quan chỉ huy quân sự cấp khu của các tỉnh Đồng Tháp Mƣời đóng
ở gần biên giới Campuchia, mang danh nghĩa là Bộ Tƣ lệnh lực lƣợng vũ trang
giáo phái giải phóng [129, 117-118].
Từ ngày 8 - 9/6/1956, Bộ Chính trị họp ra Nghị quyết đánh giá tình hình
cách mạng miền Nam và đề ra nhiệm vụ, phƣơng hƣớng hoạt động để xây dựng
23
lực lƣợng vũ trang. Nghị quyết nêu rõ: “Hình thức đấu tranh của Đảng trong tình
hình hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang. Nói nhƣ thế
không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ khí tự vệ trong những hoàn cảnh nhất
định”, “Cần củng cố các lực lƣợng vũ trang, bán vũ trang hiện có và xây dựng căn
cứ làm chỗ dựa đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện
căn bản để duy trì và phát triển lực lƣợng vũ trang, tổ tự vệ trong quần chúng nhằm
bảo vệ các cuộc đấu tranh giai cấp và giải thoát cán bộ khi cần thiết” [53].
Chủ trƣơng của Bộ Chính trị là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đấu tranh ở
các địa phƣơng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, do Nam Bộ và Khu V mất liên lạc với
Trung ƣơng trong một thời gian, hơn nữa đến Hội nghị Trung ƣơng Đảng ngay sau
đó vào tháng 10-1956 thì không nhắc đến đấu tranh vũ trang mà chỉ chú trọng đến
vấn đề “giữ gìn, tích trữ lực lƣợng, chống phiêu lƣu mạo hiểm” [54] nên Nghị
quyết tháng 6-1956 không đƣợc truyền đạt kịp thời tới tất cả Đảng bộ địa phƣơng.
Trong khi đó, tình hình miền Nam biến chuyển từng ngày, từng giờ, Mỹ - Diệm
càng ráo riết tố cộng thì nhân dân tiếp tục nổi dậy chống trả quyết liệt. Tháng 8-
1956, Lê Duẩn, đang là Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách Đảng bộ miền Nam, đã
soạn thảo bản “Đề cƣơng cách mạng miền Nam”. Đề cƣơng khẳng định “Nhân dân
ta ở miền Nam chỉ có một con đƣờng là vùng lên chống lại Mỹ - Diệm để cứu
nƣớc và tự cứu lấy mình. Đó là con đƣờng cách mạng, ngoài con đƣờng đó không
có con đƣờng nào khác” [129, 120].
Cuối tháng 12-1956 đến đầu tháng 1-1957, Hội nghị Xứ ủy mở rộng tại
Phnom Penh đã xác định rõ nhiệm vụ trƣớc mắt là: Đẩy mạnh hoạt động vũ trang
tuyên truyền. Đội vũ trang tuyên truyền là đội vũ trang công tác nhằm vạch mặt
địch, phát động lòng căm hờn, xây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng, khống
24
chế bọn ác ôn.
Quán triệt nghị quyết này, tại Nam Bộ, lực lƣợng vũ trang mang danh nghĩa
giáo phái đƣợc tổ chức ở nhiều nơi. Riêng thành phố Sài Gòn, các đội tự vệ tồn tại
dƣới danh nghĩa “Hội chống cƣớp giật”, “Hội phòng cháy chữa cháy”… Các xã
đều có lực lƣợng tự vệ quần chúng từ 10-20 ngƣời. Đến cuối năm 1956, Nam Bộ
đã có 37 đại đội, trung đội tự vệ vũ trang, hoạt động dƣới nhiều hình thức nhƣng
còn ở mức độ hạn chế vì sợ vi phạm đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng.
Bƣớc sang năm 1957, các đội vũ trang cách mạng dƣới danh nghĩa giáo phái
phát triển mạnh thành các đơn vị vũ trang tuyên truyền. Vĩnh Long đã có Tiểu
đoàn Trần Hƣng Đạo - Hòa Hảo (sau đổi tên là Tiểu đoàn Lý Thƣờng Kiệt). Đến
ngày 8-7-1957, theo chỉ thị của Khu ủy, bộ đội giáo phái của tỉnh phát triển thêm 3
tiểu đoàn mới mang tên Quang Trung, Phan Đình Phùng và Đinh Tiên Hoàng (thực
binh mỗi tiểu đoàn không đủ đại đội) [64, 47-48]. Tháng 10-1957, nhận lệnh của
Ban Quân sự Xứ ủy, Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng bàn giao cho tỉnh Sóc Trăng 1
trung đội làm nòng cốt để xây dựng lực lƣợng vũ trang của tỉnh đồng thời nhận bổ
sung 1 trung đội tân binh.
Tại Cần Thơ, sau khi 12 trung đội Hòa Hảo của “Liên minh các lực lƣợng
giáo phái” tan vỡ, Tỉnh ủy lập ra các tiểu đoàn Phú Lợi (30 ngƣời), Đinh Tiên
Hoàng (30 ngƣời), Ngô Sở (20 ngƣời). Vài tháng sau đó, Khu ủy chỉ thị chuyển 2
tiểu đoàn Phú Lợi và Ngô Sở về Khu, tỉnh quyết định giải tán Tiểu đoàn Đinh Tiên
Hoàng, lập ra 1 đại đội gồm 4 trung đội đủ thực binh.
Ngay từ tháng 8-1956, Tỉnh ủy Rạch Giá đã ra quyết định xây dựng 6 đại
đội ở 3 huyện Hồng Dân, Long Mỹ và Gò Quan. Vài tháng sau đó, các huyện tổ
chức đƣợc 5 đại đội, mỗi đại đội từ 80-90 ngƣời. Sau đó, tỉnh quyết định thành lập
25
1 tiểu đoàn vũ trang tập trung mang tên Ngô Sở núp dƣới danh nghĩa giáo phái
song kỳ thực chỉ có 1 ngƣời lính Hòa Hảo. Bƣớc đầu, Tiểu đoàn Ngô Sở biên chế
đủ cán bộ, song thực binh mỗi đại đội chỉ có 1 trung đội [65, 34-36].
Ở Bạc Liêu, ngay từ năm 1956, đã có 14 đại đội vũ trang bí mật dƣới danh
nghĩa Đội bảo vệ hòa bình. Tháng 10-1957, Liên tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ đƣa về
tỉnh 40 quân, thành lập Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng, xây dựng căn cứ trong các
cánh rừng chồi thuộc xã Ninh Thạnh Lợi, Vĩnh Lộc (huyện Hồng Dân), có nhiệm
vụ vũ trang tuyên truyền, diệt ác, bảo vệ Đảng, bảo vệ dân [120, 15-16].
Tại Cà Mau, tháng 4-1957, 3 đại đội vũ trang cùng 20 cán bộ kinh nghiệm
đƣợc cử về miền Đông làm nòng cốt xây dựng lực lƣợng vũ trang. Sau khi các đơn
vị rút đi, Liên tỉnh ủy miền Tây đã nhanh chóng thánh lập các đơn vị mới. Các đội
Giải phóng quân Cà Mau lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng và Tiểu
đoàn Ngô Văn Sở.
Ở miền Trung Nam Bộ, các đơn vị đã có tại vùng Đồng Tháp Mƣời nhƣ
Tiểu đoàn 504 (Kiến Tƣờng) và Tiểu đoàn 502 (Kiến Phong) đƣợc củng cố. Tại
Long An (lập tỉnh từ năm 1957 trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Tân An và Chợ Lớn),
Tỉnh ủy dựa vào các đơn vị có sẵn thành lập Tiểu đoàn 506 và Tiểu đoàn 508 với
tổng quân số 220 ngƣời, hoạt động ở phía Bắc và Nam Quốc lộ 4. Long An cũng là
tỉnh duy nhất tại Trung Nam Bộ thành lập đƣợc Đảng ủy quân sự để đi sâu vào
lãnh đạo vũ trang [25, 44-45]. Tỉnh An Giang cũng có các tiểu đoàn 510, 512 hoạt
động ở khu vực sông Tiền và Bảy Núi [133, 194-195]. Đầu năm 1957, Liên tỉnh ủy
cho tập trung cán bộ, chiến sĩ của Mỹ Tho chạy lên Đồng Tháp Mƣời để thành lập
trung đội vũ trang đƣa về tỉnh. Trung đội này lấy phiên hiệu là đơn vị 514 (tiền
thân của Tiểu đoàn 514 sau này) [86, 176].
Miền Đông Nam Bộ từ năm 1956 trở về trƣớc do Liên tỉnh ủy chủ trƣơng
26
tuyệt đối không hoạt động vũ trang để giữ gìn lực lƣợng nên không có một đơn vị
tập trung cấp tỉnh nào [66, 75]. Phải đến sau khi có Nghị quyết tháng 12-1956 của
Xứ ủy thì mới mở đƣờng cho các địa phƣơng xây dựng lực lƣợng vũ trang. Từ giữa
năm 1957, hầu hết các tỉnh ở miền Đông đã thành lập đƣợc ban quân sự. Tháng 10-
1957, Xứ ủy điều động 2 đại đội và 2 trung đội từ miền Tây và Trung Nam Bộ lên
làm nòng cốt, kết hợp với lực lƣợng tại chỗ thành lập 6 đại đội vũ trang mang số
hiệu 50, 60, 70, 80, 200, 300. Cùng thời gian, tại chiến khu D, đơn vị chủ lực đầu
tiên ở Nam Bộ chính thức đƣợc Xứ ủy phê duyệt, lúc đầu ở quy mô đại đội, sau
phát triển thành Tiểu đoàn 250. Cùng với sự ra đời của bộ đội chủ lực, tự vệ và du
kích mật cũng phát triển, mỗi xã, ấp có từ 1-2 tiểu đội. Một số tỉnh thành lập các
đơn vị vũ trang tập trung nhƣ Đại đội 250 của Biên Hòa, Đại đội 40 của Bà Rịa…
[111, 78-79]. Tháng 10-1958, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ
Tƣ lệnh miền Đông Nam Bộ (sau đổi tên là Ban Quân sự Miền), xây dựng thêm
các đơn vị đặc công C80A, C80B…
Trƣớc sự phát triển nhanh chóng của lực lƣợng vũ trang các cấp, Xứ ủy Nam
Bộ đã chỉ thị cho các địa phƣơng cần khẩn trƣơng xây dựng, mở rộng các căn cứ
địa làm chỗ đứng chân, nơi cất giấu, dự trữ vũ khí, đạn dƣợc, lƣơng thực, thực
phẩm và tổ chức huấn luyện quân sự. Ngay từ đầu năm 1957, Xứ ủy đã đƣa ra kế
hoạch xây dựng căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ, bao gồm 2 vùng căn cứ Đông
Bắc (địa bàn chiến khu D cũ) và Tây Bắc (nguyên là căn cứ Dƣơng Minh Châu).
Các công binh xƣởng ở Mã Đà (vùng Đông Bắc), Bà Chiêm (vùng Tây Bắc) đƣợc
củng cố, một số lớp đào tạo y tá, huấn luyện bộ đội biệt động, đặc công bắt đầu
đƣợc mở ra.
Đối với miền Trung và miền Tây Nam Bộ, Xứ ủy cũng tăng cƣờng cán bộ
và chỉ thị cho các tỉnh huy động nhân tài, vật lực để củng cố và mở rộng căn cứ
Đồng Tháp Mƣời và U Minh. Riêng tỉnh Cà Mau, từ giữa năm 1958, những gia
đình có ngƣời đi tập kết và quần chúng cách mạng thuộc các huyện Ngọc Hiển, Cái 27
Nƣớc, Thới Bình, Trần Văn Thời đã chủ động rời làng vào cƣ trú tại địa bàn từ
phía Nam rừng U Minh đến rừng đƣớc Ngọc Hiển, hình thành lên những “làng
rừng” đầu tiên. Đến đầu năm 1959, Cà Mau đã xây dựng đƣợc 15 “làng rừng” với
số dân trên 20.000 ngƣời [87, 29]. Đây thực sự là những làng, xã tự do đầu tiên ở
Nam Bộ đƣợc xây dựng dƣới thời Mỹ - Diệm, là những căn cứ để tích lũy cơ sở
vật chất, duy trì và phát triển lực lƣợng cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi để tổ
chức các trận tiến công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch trong quá trình kháng chiến.
Mặc dù mới ra đời, quân số ít, trang bị thô sơ, nhƣng nhƣng do biết dựa vào
dân và các vùng căn cứ kháng chiến cũ, các đơn vị vũ trang cách mạng miền Nam
đã có chỗ đứng chân khá vững chắc. Hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ
gian xuất hiện ngày càng nhiều và bắt đầu có một số trận đánh tập kích đồn bốt của
các đơn vị vũ trang tập trung cỡ nhỏ. Những tháng cuối năm 1957, nổi bật lên là 3
trận tiến công của lực lƣợng vũ trang miền Đông Nam Bộ: Cuộc tập kích đồn Minh
Thạnh (Thủ Dầu Một) ngày 10-8-1957, tiêu diệt cảnh sát và quân Sài Gòn trong thị
trấn, thu nhiều chiến lợi phẩm. Ngày 10-9-1957, Ban Quân sự Miền Đông sử dụng
Đại đội 250 đánh vào Trại Be (Biên Hòa), cơ sở khai thác gỗ của Trần Lệ Xuân
(vợ Ngô Đình Nhu), làm thiệt hại nặng 1 đại đội, thu 80 khẩu súng và 80 xe quân
sự. Đến tháng 12-1957, bộ đội miền Đông và lực lƣợng tập trung của Xứ ủy phục
kích 1 cánh quân địch càn vào căn cứ tại khu vực Lò Than (Biên Hòa), diệt gọn 1
đại đội [129, 146-147].
Bƣớc sang năm 1958, các đơn vị vũ trang ở nhiều nơi liên tục tiêu diệt địch.
Nổi bật nhất là trận đánh của lực lƣợng vũ trang ở miền Đông Nam Bộ vào quận lỵ
Dầu Tiếng, cách Sài Gòn 70km về phía Bắc, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn, diệt
200 tên và thu 200 súng. Đây là trận đánh vào quận lỵ đầu tiên trên toàn miền
28
Nam. Chiến thắng Dầu Tiếng góp phần khai thông liên lạc giữa căn cứ Đông và
Tây, tạo điều kiện để Xứ ủy Nam Bộ về đứng chân ở căn cứ miền Đông chỉ đạo
cách mạng miền Nam.
Tại Khu V, từ những năm 1955-1956, trong lúc quá trình tố cộng và diệt
cộng diễn ra quyết liệt, nhiều thanh niên không chịu để địch bắt lính đã tự động
chạy vào rừng sống bất hợp pháp, hình thành nên những trại bí mật. Mạnh nhất là
ở các huyện miền núi Tây Quảng Ngãi, Tây Bình Định, Tây Phú Yên. Để chống lại
sự lùng sục của địch, thanh niên bí mật đã cắm chông, đặt bẫy, gài mang cung để
bảo vệ nƣơng rẫy, bảo vệ căn cứ cách mạng và nhân dân. Dần dần, thanh niên tổ
chức những trận phục kích lẻ tẻ diệt thám báo, ác ôn để tiêu hao, gây hoang mang
trong hàng ngũ địch. Đó chính là những tổ chức tự vệ nhân dân đầu tiên ra đời ở
Khu V, mầm mống hình thành lực lƣợng vũ trang và hình thức đấu tranh vũ trang
sau này [89, 35].
Từ trong thực tiễn đấu tranh, các tổ tự vệ nhân dân ra đời ngày càng nhiều.
Trong các thôn xã, đã xuất hiện lực lƣợng du kích bí mật để bảo vệ cán bộ, cơ sở
và giữ khí thế cho quần chúng. Đến năm 1958, phần lớn các thôn làng ở Trà Bồng
và Tây Quảng Ngãi đã có đội tự vệ mật.
Cuối năm 1957, Ban Cán sự miền Tây và Huyện ủy Giằng (Quảng Nam)
thành lập đội vũ trang tự vệ đầu tiên của huyện gồm 10 ngƣời, hoạt động dƣới hình
thức “giặc mùa” (tục săn đầu ngƣời của đồng bào các dân tộc thiểu số tại miền núi
Nam Trung Bộ). Mỗi đội viên đƣợc trang bị 1 cây ná và 50-60 mũi tên, liên tục tập
kích, mai phục, đánh địch. Ở Quảng Ngãi, hình thành các tổ chức tự vệ dƣới danh
nghĩa “nhóm bảo vệ dân tộc”, “nhóm những ngƣời kháng chiến cũ”, “nhóm trả
đầu” ở nhiều nơi, công khai thách thức với chính quyền Ngô Đình Diệm, đi bắt
29
bọn ác ôn để trả thù cho các đồng chí bị sát hại.
Cùng thời gian, Thƣờng vụ Liên khu ủy nhận đƣợc một số gợi ý của Lê
Duẩn chỉ rõ đặc điểm của Khu V là có 3 vùng: đô thị, đồng bằng, miền núi, cần
chú trọng xây dựng căn cứ địa miền núi, chuẩn bị lực lƣợng vũ trang để tiến công
địch. Giữa năm 1958, Liên khu ủy họp hội nghị kiểm điểm tình hình phong trào
cách mạng và đề ra phƣơng hƣớng hoạt động trong thời gian trƣớc mắt, chủ trƣơng
dùng vũ trang bộ phận để phối hợp với đấu tranh chính trị, diệt bọn phản động ác
ôn. Hội nghị cũng nhấn mạnh công tác xây dựng lực lƣợng vũ trang và nửa vũ
trang ở miền núi để làm nhiệm vụ tự vệ, bảo vệ căn cứ và cán bộ.
Từ năm 1958, phong trào đấu tranh của Đảng bộ và nhân dân Liên khu V
chuyển sang một bƣớc ngoặt mới. Hoạt động vũ trang từ chỗ lẻ tẻ, tự phát đƣợc
đẩy đến mức cao hơn, phát triển toàn diện và có sự chỉ đạo cụ thể. Lực lƣợng tự vệ,
du kích ra đời và trƣởng thành nhanh chóng ở nhiều nơi, xuất hiện nhiều nhóm vũ
trang tự vệ tập trung dƣới danh nghĩa bảo vệ buôn làng. Nổi bật là các nhóm Phó
Nia, Cả Trơn, Chánh Khanh, Đinh Đáng (Quảng Ngãi).
Mùa hè 1958, Khu ủy Khu V ra nghị quyết về xây dựng căn cứ Tây Nguyên
và miền Tây các tỉnh Trung Trung Bộ, lập cơ sở sản xuất, dự trữ lƣơng thực, thực
phẩm, vũ khí đạn dƣợc, thuốc men. Thực hiện chủ trƣơng trên, các cán bộ, đảng
viên ở cả miền núi đã nhanh chóng lập ra các “rẫy cách mạng”, sản xuất lƣơng
thực, thực phẩm, từng bƣớc phát triển thành những căn cứ của Khu, tỉnh. Trong
khu căn cứ, các công binh xƣởng sản xuất, sửa chữa vũ khí đƣợc xây dựng [133,
208].
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo xây dựng lực lƣợng vũ trang, Liên khu
V cũng gặp không ít khó khăn do điều kiện thông tin liên lạc trở ngại. Chẳng hạn
nhƣ bản Đề cƣơng cách mạng miền Nam của Lê Duẩn tháng 8-1956 bƣớc đầu chỉ
30
ra con đƣờng đấu tranh giành chính quyền bằng bạo lực, nhƣng mãi đến cuối năm
1958 mới đến với Liên khu ủy và sau đó từ Liên khu ủy mới lần lƣợt truyền đạt
xuống các địa phƣơng. Vì thế, không tránh khỏi những lúng túng trong việc xây
dựng lực lƣợng vũ trang và đề ra những phƣơng thức tiến hành đấu tranh. Trong
khi ở Nam Bộ, ngay từ năm 1957, hầu hết các tỉnh đã có các đơn vị tập trung cỡ
đại đội và thậm chí cả tiểu đoàn chủ lực Miền tham gia đánh trận thì miền núi Khu
V đến cuối năm 1958, vẫn chƣa có một đơn vị vũ trang tập trung nào, hình thức
đấu tranh cũng mới chỉ dừng lại ở trừ gian diệt ác, bảo vệ cán bộ và căn cứ.
Nhƣ vậy, ngay từ lúc hình thành, lực lƣợng vũ trang ở miền Nam đã có
những hình thức, tổ chức khác nhau, thƣờng có sự thay đổi liên tục về biên chế,
quân số “danh” nhiều hơn quân số “thực” để dọa địch nên các tiểu đoàn nhƣ 502,
504, 506… nhiều khi chỉ mang quy mô đại đội, thậm chí là trung đội. Song dù có
sự khác biệt về quy mô, số lƣợng, dù phƣơng hƣớng, nhiệm vụ hoạt động có nơi,
có lúc chƣa đƣợc xác định rõ ràng… nhƣng sự tồn tại của lực lƣợng vũ trang cách
mạng ở miền Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cuộc đấu tranh của nhân dân
miền Nam trong những năm 1954-1958 cho thấy ở nơi nào cấp ủy xây dựng đƣợc
lực lƣợng vũ trang, ở đó lực lƣợng cách mạng ít bị tổn thất hơn và có điều kiện
thuận lợi hơn cho phong trào Đồng khởi sau này [83, 7].
Tuy nhiên, lực lƣợng vũ trang địa phƣơng hoạt động rất khó khăn do chƣa
tìm đƣợc giải pháp thích hợp về mối quan hệ giữa vấn đề nổ súng diệt địch với
nguyên tắc lúc đó là tránh manh động, tránh vi phạm Hiệp định ngừng bắn. Câu
hỏi “đánh” hay “tránh” địch luôn đặt ra thƣờng xuyên cho các tỉnh, hầu nhƣ nơi
nào cũng có hiện tƣợng “đào” súng lên lại “chôn” xuống hoặc kỷ luật cán bộ, đảng
viên vì đã “tự ý manh động” “leo dây vũ trang”, vi phạm đƣờng lối chung của
Đảng. Không phải bộ đội không diệt địch nhƣng xu hƣớng chung là kiềm chế,
tránh đụng độ và trong chừng mực nào đó có nghĩa là phải đóng xa cơ sở chính trị
của quần chúng, gây bất lợi về lâu dài cho chính lực lƣợng vũ trang cách mạng. 31
Đây là một trong những nguyên nhân khiến lực lƣợng vũ trang cách mạng ở miền
Nam không phát triển đƣợc nhƣ nó có thể phát triển trong những năm đầu kháng
chiến chống Mỹ. Bởi thế, bản thân lực lƣợng vũ trang cách mạng ở miền Nam lúc
đó đang rất cần có phƣơng hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc mới, thống nhất, đồng bộ trên
nhiều phƣơng diện từ quy mô, tổ chức, nhiệm vụ cụ thể đến huấn luyện, công tác,
trang bị, chiến đấu… để có thể tồn tại và phát triển trƣớc nguy cơ bị đánh bật khỏi
cơ sở và dần bị tiêu diệt [83, 8].
1.3. Bƣớc phát triển nhảy vọt của lực lƣợng vũ trang cách mạng miền
Nam sau nghị quyết 15 và phong trào Đồng khởi (1959-1960)
Bƣớc sang năm 1959, tình hình miền Nam trở nên vô cùng nóng bỏng do
Mỹ - Diệm phát xít hóa đến cao độ, tăng cƣờng đàn áp cách mạng, ra Luật 10/1959
lê máy chém khắp miền Nam giết hại ngƣời vô tội. Sự chịu đựng của nhân dân đã
đến giới hạn cuối cùng, họ đòi nợ máu phải trả bằng máu. Ở tỉnh Thủ Dầu Một, có
30 lão nông gửi thƣ lên Xứ ủy, chất vấn rằng: “Tình hình nhƣ vậy không biết Xứ
ủy có báo cáo lên Trung ƣơng, lên Bác Hồ hay không ”. Các cụ yêu cầu Xứ ủy gửi
bức thƣ đó ra cho Bác Hồ và đề nghị cho đấu tranh vũ trang trở lại, nếu không thì
không thể thắng đƣợc [73, 69].
Đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và đòi hỏi của lịch sử, tháng 1-
1959, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 15, ra nghị quyết
chỉ rõ: “Con đƣờng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”, “do quân thù quyết dìm cách mạng
trong máu lửa, do nhu cầu của phong trào cách mạng ở miền Nam, cho nên trong
một chừng mực nhất định và ở những địa bàn nhất định, đã xuất hiện những lực
lƣợng vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền để trợ lực cho đấu tranh chính trị. Đó
32
là điều cần thiết”. Xác định Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, Trung ƣơng cũng
dự kiến: “Trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam
cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trƣờng kỳ. Trong tình hình
đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là chiến tranh trƣờng kỳ
giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về ta” [57, 82-86].
Nghị quyết 15 ra đời đáp ứng đƣợc yêu cầu bức bách của cách mạng đặt ra,
đánh dấu một bƣớc chuyển hƣớng căn bản về đƣờng lối cách mạng miền Nam, mở
đƣờng cho phong trào phát triển nhảy vọt sang thời kỳ nổi dậy vũ trang, khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân. Mặc dù vậy, do tình hình lịch sử trong và
ngoài nƣớc lúc đó, nghị quyết 15 phải nhấn mạnh đấu tranh chính trị là chính, chƣa
đặt nặng vị trí, vai trò của đấu tranh vũ trang, khiến cho cấp ủy một số cơ sở nhận
thức chƣa thật đầy đủ tinh thần cơ bản của nghị quyết và ý định của Trung ƣơng,
dẫn đến vận dụng một cách máy móc hoặc lúng túng trong chỉ đạo thực hiện, làm
hạn chế kết quả hoạt động đấu tranh [136, 97-98].
Tháng 3-1959, Bộ Tổng tham mƣu đã xây dựng kế hoạch về phát triển lực
lƣợng vũ trang ở Khu V và Tây Nguyên, chủ trƣơng tổ chức 300-600 tiểu đội tự vệ
ở các làng, mỗi tỉnh 1-2 tiểu đội đặc công và tự vệ lƣu động. Đồng thời, chuẩn bị
chi viện cho miền Nam xây dựng lực lƣợng vũ trang bao gồm 600 cán bộ (lấy
ngƣời quê ở miền Nam trong các đơn vị tập kết) cấp tiểu đội đến đại đội, 40 cán bộ
cấp tiểu đoàn đến trung đoàn, 5-10 quân báo, binh vận, 14 cơ yếu, 33 thợ sửa chữa
vũ khí, một số súng tiểu liên, súng dài, súng ngắn, lựu đạn… [34, 270-271].
Để thực hiện có hiệu quả, Bộ Chính trị đã chỉ thị phải tổ chức một đoàn giao
thông quân sự đặc biệt, mở đƣờng đƣa cán bộ, tiếp tế vũ khí và hàng hóa khác vào
Nam. Ngày 19-5-1959, Đoàn 559 đƣợc thành lập. Tháng 7-1959, 500 cán bộ, chiến
sĩ từ Lữ đoàn 305 lập thành Tiểu đoàn 301, xoi đƣờng theo triền Đông của dãy
33
Trƣờng Sơn, vƣợt sông Bến Hải, đi theo vùng rừng núi phía Tây của 2 tỉnh Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế Huế mở đƣờng, rải trạm vận chuyển tiến dần xuống phái
Nam. Dựa vào đƣờng giao liên bí mật của Ủy ban Thống nhất Trung ƣơng cùng sự
giúp đỡ của Bộ Chỉ huy Liên khu V, Đoàn 559 đã mở đƣờng giao liên và tổ chức
vận chuyển đƣợc qua các khu căn cứ Tây Nguyên, miền Tây các tỉnh Trung Bộ
vào đến Cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Đƣờng vận chuyển chiến lƣợc do quân
đội thực hiện, nối liền hậu phƣơng miền Bắc với tiền tuyến miền Nam đã đƣợc
hình thành [62, 38-40].
Cùng với tuyến đƣờng dọc Trƣờng Sơn, cuối tháng 5-1959, tại bờ Nam sông
Gianh, Tiểu đoàn 603 đƣợc thành lập, gồm 107 cán bộ, chiến sĩ, thủy thủ có sức
khỏe, kinh nghiệm đi biển, biết sửa chữa và đóng thuyền bè. Để giữ bí mật, tiểu
đoàn hoạt động dƣới danh nghĩa “Tập đoàn đánh cá sông Gianh”. Đầu năm 1960,
Tiểu đoàn 603 chở 10 tấn vũ khí rời bến sông Gianh ra biển, rẽ sóng hƣớng vào
Nam Bộ. Đến địa phận vùng biển Trung Bộ, thuyền gặp bão lớn, bị chìm, vũ khí
mất, anh em thủy thủ trôi dạt vào bờ, bị địch bắt gần hết. Chuyến thuyền buồm bí
mật vƣợt biển đầu tiên không thành, Tổng Quân ủy quyết định tạm dừng vận tải
biển để rút kinh nghiệm, đồng thời đề nghị Bộ Chính trị điện cho các tỉnh miền
Nam tổ chức lực lƣợng đƣa thuyền ra Bắc nhận vũ khí để tiếp tục tổ chức tuyến
vận tải biển [117, 8-9].
Trong lúc các đƣờng vận tải quân sự trên bộ, trên biển từ miền Bắc tới phía
Nam thì từ miền Nam, các đội vũ trang cũng xoi đƣờng tiến lên phía Bắc. Giữa
năm 1959, 1 trung đội vũ trang liên tỉnh miền Đông Nam Bộ xuyên rừng, mở
đƣờng giao liên từ Phƣớc Long lên Tây Nguyên. Đầu năm 1960, các chiến sĩ lên
tới ngã ba biên giới nhƣng không bắt gặp tuyến giao liên từ Bắc vào nên đã quay
trở lại. Theo chỉ thị của Xứ ủy Nam Bộ, các đội vũ trang vẫn tăng cƣờng xây dựng
cơ sở ở các vùng Bù Gia Mập, Bù Đốp, Bù Đăng; từ chiến khu D mở tuyến đƣờng
khác qua vùng Sô Nia (lúc đó thuộc tỉnh Quảng Đức). Đến tháng 10-1960, 1 đội vũ 34
trang tuyên truyền của tỉnh Phƣớc Long đã liên lạc đƣợc với giao liên của Liên khu
ủy V tại thƣợng nguồn sông Rô Ti [132, 52-55]. Đội cũng bắt liên lạc đƣợc với
giao liên của Ban cán sự Đảng các tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Từ đây, đƣờng giao
liên, vận chuyển quân sự chiến lƣợc Bắc Nam đƣợc nối liền. Đến cuối năm 1959,
qua con đƣờng này, miền Bắc đã đƣa đƣợc 542 cán bộ, chiến sĩ cùng 1.700 súng
bộ binh, 750 dao găm, 166kg thuốc nổ… vào làm nhiệm vụ ở miền Nam [62, 40],
góp phần vào thắng lợi chung của phong trào Đồng khởi những năm 1959-1960.
Giữa năm 1959, nghị quyết Trung ƣơng 15 đƣợc phổ biến tới các tỉnh Khu
V và tiếp sau là Nam Bộ. Tuy nhiên, do tƣơng quan lực lƣợng giữa lực lƣợng cách
mạng và chính quyền Sài Gòn ở từng vùng khác nhau nên nổi dậy ở các vùng
không đều nhau. Ở những nơi liền kề với các căn cứ kháng chiến cũ, cách mạng có
điều kiện xây dựng lực lƣợng vũ trang tƣơng đối sớm và cũng là nơi địch có nhiều
sơ hở nhƣ miền Tây các tỉnh Khu V, Tây Nguyên, vùng giáp căn cứ U Minh, Đồng
Tháp Mƣời, ngay từ mùa thu năm 1959, đã nổ ra nhiều cuộc nổi dậy chống chính
quyền Diệm với sự tham gia của lực lƣợng vũ trang. Trong đó, tiêu biểu là khởi
nghĩa Trà Bồng và miền Tây tỉnh Quảng Ngãi.
Tháng 2-1958, Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Ngãi họp ở xã Trà Trung, huyện Trà
Bồng bàn về “Bản đề cƣơng cách mạng miền Nam” đã hoàn toàn nhất trí với quan
điểm: Con đƣờng cách mạng miền Nam chỉ có thể dùng bạo lực cách mạng của
quần chúng chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù. Sau đó, vấn đề xây dựng
lực lƣợng vũ trang đƣợc đẩy mạnh. Ngày 3-3-1959, tại xã Trà Thọ, đơn vị 339,
đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh và toàn Khu V ra đời gồm 43 cán bộ,
chiến sĩ (đa phần là ngƣời Cor). Ngày 19-8-1959, ở xã Sơn Lập, huyện Sơn Hà,
Tỉnh ủy Quảng Ngãi thành lập đơn vị vũ trang thứ hai phiên hiệu 89 có 36 ngƣời
35
(đông nhất là ngƣời Re và Cà Dong).
Ngày 28-9-1959, 1 tiểu đội địch đến xã Trà Phong ép buộc dân tham gia
cuộc bầu cử quốc hội, nhân dân địa phƣơng đã nổi dậy và báo động đi khắp nơi.
Các xã trong huyện Trà Bồng nhất tề hƣởng ứng, giải phóng hầu hết huyện (trừ
khu quận lỵ), thành lập chính quyền tự quản. Tiếp đó, nhân dân các huyện miền
núi kế cận nhƣ Ba Tơ, Minh Long cũng nổi dậy, hình thành lên vùng giải phóng
miền Tây Quảng Ngãi gồm 40 xã [137, 281]. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, Quảng
Ngãi thành lập thêm đơn vị vũ trang thứ ba, phiên hiệu 229 (lập ngày 2-9-1959)
gồm 32 cán bộ. Cuối năm 1959, tỉnh thành lập thêm 2 đơn vị vũ trang nữa, với
phiên hiệu V9 và V12. Đơn vị V12 gồm 30 cán bộ đại đội trƣởng, trung đội
trƣởng, tiểu đội trƣởng đặc công từ miền Bắc mới vào. Đây là đơn vị đặc công đầu
tiên của Quảng Ngãi [131, 160].
Đánh giá về cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, Võ Chí
Công, Bí thƣ Khu ủy V khẳng định: “mở đầu trang sử đấu tranh chính trị và vũ
trang song song, là đỉnh cao nhất của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân Quảng Ngãi lúc bấy giờ...” [11, 91].
Cùng thời gian với khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, ở Nam
Bộ, nắm đƣợc tinh thần nghị quyết Trung ƣơng 15, một số địa phƣơng đồng bằng
sông Cửu Long đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, gây cho địch nhiều thiệt hai.
Đêm 25, rạng ngày 26-8-1959, ở Cà Mau, Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng kết
hợp với du kích xã Khánh An, tiến công tiêu diệt đồn Vàm Cái Tàu, diệt trung đội
dân vệ và hội đồng xã, bắt sống 12 tên, thu 57 súng các loại. Đêm 23-9-1959, tại
Rạch Giá, Tiểu đoàn Ngô Văn Sở kết hợp với nội tuyến tiến công chi khu quận lỵ
Xẻo Rô, diệt 20 tên, bắt 50 tên, thu 50 súng các loại. Đây là trận tiến công vào chi
36
khu quận lỵ đầu tiên ở Tây Nam Bộ [136, 106].
Tại Kiến Phong, ngày 26-9-1959, Tiểu đoàn 502 đã tổ chức phục kích, đánh
thắng trận càn của Chiến đoàn 42 đặc nhiệm quân cộng hòa ở Giồng Thị Đam (xã
Tân Hội Cơ, huyện Hồng Ngự), diệt 74 xuồng, bắt sống 105 tên, thu 365 súng.
Buổi chiều, Tiểu đoàn 502 tiếp tục đánh bại trận càn của Tiểu đoàn 2 địch vào Gò
Quản Cung. Kết quả, trong 2 trận, lực lƣợng vũ trang loại khỏi vòng chiến đấu
Tiểu đoàn 3, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 của Chiến đoàn 42 quân đội Sài Gòn.
Trận Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung là trận đánh lớn nhất tính đến thời
điểm đó trên toàn miền Nam, gây tiếng vang lớn, có tác dụng củng cố niềm tin và
khí thế đấu tranh của nhân dân, nâng cao uy thế cách mạng, khiến cho “Tổng thống
ngụy chỉ đạo Bộ Tổng tham mƣu tiến hành điều tra cấp tốc, kiểm điểm ngay, rút
kinh nghiệm nghiêm túc” [72, 19]. Sau thắng lợi này, hoạt động vũ trang ở các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long sôi động hẳn lên, quân đội Việt Nam Cộng hòa cũng
phải thừa nhận: “Tình hình đặc biệt nghiêm trọng bởi ngoài các vụ khủng bố, ám
sát thƣờng xuyên, hoạt động vũ trang của Việt cộng gia tăng. Nhiều vụ phục kích
các toán tuần tiễu của ta và đột nhập vào các cơ sở hƣơng thôn, Việt cộng còn tấn
công cả ban ngày bằng súng máy và phóng lựu vào Châu Thành, tỉnh Kiến Tƣờng.
Rõ ràng, Việt cộng tiếp tục theo duổi chủ trƣơng tập trung và vẫn cố gắng tạo thế
chủ động với các hoạt động táo bạo nhƣ chấp nhận giao tranh… nhất là ở các tỉnh
Kiến Phong, Kiến Tƣờng, An Xuyên, Kiên Giang…” [37].
Hoạt động vũ trang không chỉ nổi lên đều khắp, liên tục ở các vùng nông
thôn, đồng bằng, rừng núi, mà còn lan đến các vùng ven đô và cả trong một số
thành phố, thị xã. Ngày 7-7-1959, lực lƣợng biệt động tiếp cận đến khu “nhà
xanh”, lao vào trụ sở MAAG, tiêu diệt 2 tên Mỹ, bắn bị thƣơng 1 tên Mỹ khác.
37
Đây là những lính Mỹ chết trận đầu tiên trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Cuối năm 1959, đầu năm 1960, tình thế cách mạng đã xuất hiện ở miền
Nam, đúng nhƣ lời Lê Duẩn đã nói: “trong nhiều vùng nông thôn rộng lớn, địch
không thể cai trị nhân dân một cách bình thƣờng đƣợc nữa; bộ máy ngụy quyền ở
cơ sở từng phần đã suy yếu và bất lực. Còn quần chúng nhân dân, đặc biệt là đông
đảo nông dân thì sục sôi cách mạng, đã kiên quyết và sẵn sàng chiến đấu sống chết
với quân thù. Đó là những điều kiện chín muồi cho phép phát động quần chúng
nhân dân nông thôn nổi dậy khởi nghĩa từng phần, đập tan khâu yếu nhất trong hệ
thống cai trị của địch” [47, 56].
Tháng 12-1959. Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ họp hội nghị, chủ trƣơng:
“Đối với các tỉnh tiếp giáp căn cứ Đồng Tháp Mƣời cần đẩy mạnh đấu tranh chính
trị, kết hợp với đấu tranh vũ trang hỗ trợ nhân dân nổi dậy, phá thế kìm kẹp của
địch, giành quyền làm chủ ở thôn ấp, mở rộng căn cứ du kích, xây dựng và bảo vệ
lực lƣợng vũ trang chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa đồng loạt” [57, 988-989]. Liên
tỉnh ủy quyết định tháng 1-1960, sẽ phát động quần chúng nổi dậy trong toàn Khu.
Trƣớc yêu cầu phát triển của lực lƣợng cách mạng miền Nam, ngày 21-1-
1960, Xứ ủy Nam Bộ kiến nghị với Trung ƣơng một số vấn đề về phƣơng châm
hoạt động trong tình hình mới. Xứ ủy nhận định rằng: do chính sách vô cùng tàn
bạo của kẻ thù, quần chúng bị đặt dƣới tình thế là phải vũ trang chống lại, nếu
không muốn đầu hàng, chịu chết. Hình thức đấu tranh chính trị kết hợp với vũ
trang tuyên truyền không còn đủ sức bảo vệ cách mạng. Quần chúng đã sử dụng
đấu tranh vũ trang để chống lại những hành động bạo lực man rợ của địch. Tình
hình ấy đang phát triển và sẽ dẫn đến hình thái du kích cục bộ. Xứ ủy kiến nghị với
Trung ƣơng Đảng về phƣơng châm đấu tranh là nâng cao thêm mức độ sử dụng
đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang kết hợp song song, đều
38
giữ vai trò chủ yếu và quyết định [129, 205].
Đầu năm 1960, Tỉnh ủy Bến Tre đã tổ chức cho nhân dân nổi dậy. Cuộc
Đồng khởi bắt đầu vào ngày 17-1-1960 tại 3 xã điểm là Định Thủy, Bình Khánh và
Phƣớc Hiệp thuộc huyện Mỏ Cày, sau đó lan ra toàn huyện Mỏ Cày và các huyện
khác trong tỉnh. Tính chung trong cả năm 1960, quân và dân Bến Tre đã chiến đấu
anh dũng, tiêu diệt, bức hàng, bức rút trên 100 đồn địch, thu 7.700 súng các loại,
giải phóng 72 xã. Lực lƣợng vũ trang đƣợc xây dựng khắp nơi, tỉnh có 2 đại đội
chủ lực với trang bị đầy đủ vũ khí là C269 và C264 (sau sáp nhập thành đại đội
mạnh C261), huyện có từ 1-2 trung đội địa phƣơng, mạng lƣới du kích đã hình
thành khắp các thôn xã [63].
Tháng 1-1960, Xứ ủy Nam Bộ quyết định tổ chức một trận đánh lớn nhằm
thúc đẩy phong trào khởi nghĩa vũ trang toàn Miền. Theo đề nghị của Ban Cán sự
miền Đông, Xứ ủy nhất trí chọn Tua Hai (Tây Ninh) làm điểm với sự tham gia của
3 đại đội bộ binh, 1 đại đội đặc công trực thuộc Ban Quân sự Miền cùng bộ đội địa
phƣơng tỉnh. Đêm 21-1-1960, trận đánh diễn ra nhanh, gọn, theo đúng kế hoạch.
Sau hơn 3 giờ nổ súng, ta tiêu diệt và làm tan rã sở chỉ huy Trung đoàn 32 cùng
các tiểu đoàn 1, 2 quân đội Sài Gòn, bắt sống 500 tên, thu 1.500 súng [130, 109].
Tua Hai là trận đánh lớn, diệt đƣợc nhiều địch, thu đƣợc vũ khí nhiều nhất
của lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam kể từ khi Hiệp định Geneva đƣợc ký
kết. Nó đánh dấu bƣớc phát triển mới cả về trình độ tổ chức, chỉ huy, hoạt động tác
chiến của lực lƣợng vũ trang miền Đông. Tua Hai nhƣ tiếng kèn hiệu lệnh cho
cuộc nổi dậy không chỉ ở Tây Ninh mà cả miền Đông Nam Bộ [2, 42].
Ở Tây Ninh, chỉ một thời gian ngắn sau chiến thắng Tua Hai, quân dân trong
tỉnh đã nhất tề đứng lên, giải phóng hoàn toàn và cơ bản 43/49 xã. Lực lƣợng vũ
39
trang phát triển nhanh chóng. Tháng 2-1960, tỉnh thành lập Tiểu đoàn 14, các
huyện có Đại đội C40 (Châu Thành), C41 (Bến Cầu), C31A (Dƣơng Minh Châu),
C2/45 (thị xã)… Đội du kích đƣợc xây dựng ở 44/49 xã [136, 118].
Tại Bà Rịa, từ sau thắng lợi lại đồn điền cao su Bình Ba (30-3-1960), đơn vị
C40 tổ chức nhiều đợt vũ trang tuyên truyền, giành quyền làm chủ trên một địa bàn
rộng lớn, khai thông hành lang chiến lƣợc từ chiến khu D qua Long Khánh về Bà
Rịa. Lực lƣợng vũ trang cũng có bƣớc phát triển mới, C40 và C45 sáp nhập thành
Đại đội 445 trực thuộc sự lãnh đạo của Tỉnh ủy. Tháng 2-1961, Đại đội 25 (C25),
bộ đội địa phƣơng huyện chính thức dƣợc thành lập. Lực lƣợng du kích các xã
cũng phát triển từ 1-2 đại đội.
Ở Thủ Dầu Một, Đồng khởi mở ra một căn cứ địa rộng lớn, tạo thế liên hoàn
nối liền 2 căn cứ chiến lƣợc là chiến khu D và chiến khu Dƣơng Minh Châu. Nhiều
đơn vị vũ trang ra đời nhƣ C61, C62, C63, C64, C64. Thủ Dầu Một trở thành
nguồn cung cấp lực lƣợng vũ trang thƣờng xuyên cho Biên Hòa, Bình Phƣớc và
Phƣớc Thành sau này [119, 157].
Biên Hòa gấp rút tăng cƣờng lực lƣợng vũ trang hỗ trợ Đồng khởi, thực hiện
“diệt một rã mƣời, vừa đánh vừa khuếch chƣơng thế lực”, giải phóng vùng chiến
khu cũ, tạo thế đứng rộng lớn cho lực lƣợng cách mạng ở Nam, Bắc sông Đồng
Nai. Lực lƣợng vũ trang tập trung của tỉnh phát triển lên cấp đại đội, C380 [111,
84].
Phong trào Đồng khởi ở nông thôn đã tác động mạnh đến Sài Gòn, Gia
Định. Từ tháng 2-1960, nhiều vùng nông thôn ở Gia Định đã nổi dậy giành quyền
làm chủ xóm, ấp. Lực lƣợng vũ trang của Khu (C13) hoạt động ở các huyện Củ
Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Duyên Hải, Thủ Đức, Dĩ An đã diệt các đồn An Hòa,
Tân Thạnh Tây, Trung Hòa, An Nhơn Tây, nhà hàng Bến Mƣơng... hỗ trợ quần
40
chúng nổi dậy. Đến cuối năm 1960, các huyện ngoại thành đều có ban quân sự và
lực lƣợng vũ trang từ tổ đến vài tiểu đội (thƣờng mang danh hiệu “tiểu đoàn”) cùng
một bộ phận phụ trách quân sự nội đô (C10).
Ở Long An, trong Đồng khởi, mũi tiến công quân sự của lực lƣợng vũ trang
luôn luôn đi trƣớc và giữ vai trò nòng cốt. Xét về mặt hình thức, Đồng khởi ở Long
An có vẻ thiên về về mặt đấu tranh quân sự, hơi nhẹ về đấu tranh chính trị nhƣng
Long An là một trong những tỉnh giải phóng đƣợc nhiều dân nhất trong năm 1960.
Tỉnh ủy đã quyết định sáp nhập 2 đơn vị 506 và 508 để thành lập một đơn vị mạnh
mang tên “đơn vị cơ động” với trên 100 đội viên và 2 trung đội.
Từ tháng 9-1959 đến tháng 12-1960, bằng lực lƣợng quân sự, chính trị và
binh vận kết hợp chặt chẽ với nhau, quân dân Kiến Phong đã diệt và làm bị thƣơng
gần 900 tên địch, bắt sống 500 tên, làm rã ngũ hàng ngàn tên khác, thu 400 súng
các loại, giải phóng l7 xã. Tiểu đoàn 502 đã có 400 quân, các vùng giải phóng mỗi
xã có 1 trung đội du kích, vùng tranh chấp 1-2 tiểu đội.
Đồng khởi ở Kiến Tƣờng bắt đâu từ ngày 28-1-1960. Sau khởi nghĩa thắng
lợi, Tỉnh ủy Kiến Tƣờng nhanh chóng lựa anh em chiến sĩ, cán bộ ngƣời Mỹ Tho
tổ chức đơn vị vũ trang đƣa về Mỹ Tho, đồng thời cho 2 trung đội của tỉnh xuống
tăng cƣờng cho Mỹ Tho.
Cuối năm 1960, Tỉnh ủy Mỹ Tho chủ trƣơng tăng cƣờng hoạt động vũ trang
để tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy làm chủ. Do đó, Tiểu đoàn 514 đƣợc thành
lập trên cơ sở trung đội vũ trang tuyên truyền tỉnh với biên chế ban đầu gồm 5 tiểu
đội. Đồng thời, các huyện cũng thành lập lực lƣợng vũ trang, từ 1-2 tiểu đội. Thị xã
cũng thành lập biệt động đội.
An Giang là một tỉnh thuộc vùng yếu. Trong lúc các tỉnh Trung Nam Bộ
thực hiện đồng khởi đợt hai thì An Giang mới làm đợt một. Tỉnh ủy đƣa một bộ
41
phận Tiểu đoàn 512 và cán bộ xuống xã ấp vận động quần chúng, vũ trang tuyên
truyền. Đến cuối năm 1960, An Giang đã mở rộng thế làm chủ ở các xã dọc biên
giới và vùng Bảy Núi. Các lực lƣợng vũ trang cùng nhân dân xây dựng cơ sở du
kích khắp nơi trong tỉnh. Theo quyết định của Liên khu ủy, An Giang đã giải thể
Tiểu đoàn 510 để sáp nhập với Tiểu đoàn 512.
Cùng với Trung Nam Bộ và Đông Nam Bộ, ở Tây Nam Bộ, từ đầu 1960,
phong trào Đồng khởi cũng diễn ra sôi nổi, đều khắp và liên tục. Lực lƣợng vũ
trang ngày càng trƣởng thành.
Tính đến tháng 12-1960, toàn tỉnh Cà Mau đã san bằng 36 đồn bằng tiến
công quân sự, 15 đồn bằng tập kích bất ngờ, thu trên 3.000 súng, giải phóng 55/65
xã, 500/550 ấp. Các tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng và Ngô Văn Sở đƣợc sáp nhập
thành Tiểu đoàn U Minh 1. Tất cả các huyện đều đã có từ 1 trung đội đến 1 đại đội
địa phƣơng. Xã, ấp thì có tiểu đội đến trung đội du kích.
Đến đầu tháng 10-1960, Rạch Giá đã diệt và bức rút 500 đồn bốt, giải phóng
15 xã, 350 ấp với hàng vạn dân. Qua phong trào đấu tranh, lực lƣợng cách mạng,
nhất là lực lƣợng vũ trang tỉnh trƣởng thành nhanh chóng. Tiểu đoàn Ngô Văn Sở
của tỉnh mang phiên hiệu mới là Tiểu đoàn U Minh 10.
Ở Cần Thơ, ngày 10-2-1960, Tỉnh ủy họp quyết định bỏ phân hiệu các đơn
vị mang tên giáo phái, thành lập đơn vị Tây Đô. Đến cuối năm 1960, Cần Thơ đã
phá 50 đồn bốt địch, bắt sống 200 lính ngụy, làm rã ngũ 900 tên, thu hàng trăm
súng, giải phóng và tranh chấp 30 xã, 300 ấp.
Tại Vĩnh Long, đêm 14-9-1960, Đồng khởi bùng lên trong toàn tỉnh. Đến
cuối năm 1960, toàn tỉnh đã giải phóng hoàn toàn 3 xã, giải phóng cơ bản 30 xã.
Tiểu đoàn Lý Thƣờng Kiệt của tỉnh ngày một lớn mạnh.
Tại Trà Vinh, ngọn lửa Đồng khởi nổi lên ở ba xã điểm là Mỹ Long, Hiệp
Mỹ, Hiệp Thành (huyện Cầu Ngang). Đến cuối năm, Trà Vinh giải phóng hoàn 42
toàn 12 xã, 14 ấp. Lực lƣợng vũ trang tỉnh, huyện và du kích xã phát triển. Đơn vị
Cửu Long đƣợc thành lập từ tháng 4-1959 [133, 310].
Đến cuối năm 1960, tỉnh Sóc Trăng đã bức hàng, bức rút 150 đồn bốt, loại ra
khỏi vòng chiến đấu 2.500 lính Sài Gòn, bắt sống 400 tên, thu gần 2.000 súng.
Mƣời sáu xã hoàn toàn giải phóng, hàng trăm ấp giành quyền làm chủ. Lực lƣợng
vũ trang ngày càng phát triển, Tiểu đoàn Đình Tiên Hoàng đƣợc Thƣờng vụ Tỉnh
ủy đổi tên thành đơn vị Phú Lợi.
Phong trào khởi nghĩa từng phần trên toàn miền Nam, nhất là chiến thắng
Tua Hai, tác động mạnh mẽ đến Khu V và vùng Cực Nam Trung Bộ. Tháng 4-
1960, Liên khu ủy V mở Hội nghị mở rộng, ra Nghị quyết chỉ rõ: “Mạnh dạn phát
động quần chúng ở căn cứ miền núi vũ trang chống địch càn quét. Đẩy mạnh xây
dựng lực lƣợng vũ trang tập trung của tỉnh, Khu, khẩn trƣơng xây dựng Tây
Nguyên thành căn cứ địa vững chắc để làm cho dựa cho đồng bằng” [133, 337].
Công việc xúc tiến xây dựng lực lƣợng vũ trang đƣợc đẩy mạnh. Liên tỉnh 3
(Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận), đã xây dựng đƣợc Đại đội 121 đặc công
và Đại đội 120 bộ binh. Đến tháng 6-1959, lực lƣợng vũ trang Ninh Thuận gồm 32
chiến sĩ, thanh niên ở từng mé núi đƣợc tổ chức vào các tổ tự vệ. Tại Bình Thuận,
ngày 2-9-1959, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh đƣợc thành lập, lấy tên
là đơn vị 2-9 gồm 30 ngƣời đƣợc biên chế thành 4 tiểu đội. Ở Khánh Hòa, cuối
năm 1959, mỗi huyện miền núi phía Tây đã có 1 trung đội, xã có 1 tiểu đội tự vệ
vũ trang. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy quyết định thành lập đơn vị vũ trang tập trung
mang phiên hiệu 548 với thành phần hầu hết là ngƣời Êđê và Rắclây [50, 55].
Tháng 10-1959, 20 cán bộ quân sự từ miền Bắc đƣợc đƣa vào đã thực sự là
nòng cốt để xây dựng lực lƣợng vũ trang ở Phú Yên. Tháng 12-1959, hơn 30 thanh
43
niên cả Kinh lẫn Thƣợng rút lên huyện Thồ Lỗ, thành lập đơn vị vũ trang đầu tiên
của tỉnh, lấy phiên hiệu là B95. Đến đầu năm 1960, đơn vị B95 phát triển lên tới 3
trung đội, các huyện cũng tổ chức các đội vũ trang công tác. Ở Quảng Nam, tháng
8-1959, đoàn cán bộ quân sự gồm 34 ngƣời đƣợc tăng cƣờng từ miền Bắc vào. Đầu
năm 1960, Ban Quân sự tỉnh đƣợc thành lập, chuyên lo xây dựng lực lƣợng vũ
trang. Lực lƣợng vũ trang tập trung của tỉnh đã có 1 đại đội đặc công, 1 đại đội,
quân báo và 6 khung đại đội. Tại Bình Định, tháng 10-1959, miền Bắc đã tăng
cƣờng 30 cán bộ quân sự làm nòng cốt lãnh đạo phong trào vũ trang toàn tỉnh.
Ngày 2-9-1960, đơn vị vũ trang tập trung của tỉnh ra đời gồm 36 cán bộ, chiến sĩ.
Các huyện Vĩnh Thạnh, An Lão cũng thành lập trung đội vũ trang [89, 114-116]. Ở
Quảng Trị, đến đầu năm 1960, lực lƣợng vũ trang miền núi có 366 ngƣời đƣợc
trang bị đầy đủ vũ khí. Tháng 6-1960, Tỉnh ủy đã thành lập đơn vũ trang tập trung
là Đại đội 55.
Ở Tây Nguyên, sau nghị quyết 15, các ban quân sự tỉnh, huyện đƣợc thành
lập, cán bộ, đảng viên đi tìm vũ khí chôn giấu sau khi ký Hiệp định Geneva để
trang bị cho du kích, thành lập các tiểu đội, trung đội vũ trang ở các buôn làng. Tại
Đăk Lăk, tháng 11-1959, đƣợc bổ sung một số cán bộ quân sự ở miền Bắc về, tỉnh
bắt đầu tuyển thanh niên ngƣời dân tộc, xây dựng trung đội tập trung đầu tiên (đơn
vị A37). Một số huyện phía Bắc cũng bắt đầu xây dựng đƣợc tiểu đội vũ trang. Ở
Gia Lai, đến đầu năm 1960, tỉnh đã xây dựng đƣợc 6 trung đội vũ trang tập trung
mang tên làng 10, làng 20, làng 30, làng 40, làng 50, làng 60 [22, 162]. Ở Lâm
Đồng và Kon Tum, cũng đều có các đơn vị trung đội vũ trang tập trung, riêng
Tuyên Đức thì mới chỉ có các đội vũ trang công tác.
Sau khi xây dựng đƣợc lực lƣợng vũ trang ở các tỉnh, tháng 7-1960, Liên
khu ủy V quyết định mở đợt đấu tranh chính trị kết hợp với quân sự trong toàn
Khu. Ở Bình Thuận, đêm 31-7-1960, đơn vị 2-9 với quân số khoảng 1 trung đội
dùng chiến thuật đặc công luồn sâu ém sẵn, bất ngờ nổ súng tấn công địch, hoàn 44
toàn làm chủ chi khu Hoài Đức và phá tan khu dinh điền Bắc Ruộng, diệt và bắt
trên 300 tên địch, thu trên 250 súng các loại, giải thoát 40 tù chính trị. Trên 5.000
đồng bào dân tộc nổi dậy kéo nhau về rừng núi. Thiếu tƣớng Tôn Thất Đính, Tƣ
lệnh quân khu của địch trong báo cáo gửi cấp trên ngày 5-9-1960 đã phải thốt lên:
“trận Tua Hai Tây Ninh và chi khu Hoài Đức - Bắc Ruộng là thất bại chua cay của
quân lực Việt Nam Cộng hòa” [99, 20]. Chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng ngày
31-7-1960 mở đầu đợt hoạt động quân sự do Liên khu ủy V phát động.
Tháng 8-1960, lực lƣợng vũ trang Liên tỉnh 3 tiến công tiêu diệt đồn Ma Ty,
Tà Lú (Bác Ái - Ninh Thuận). Hơn 3.000 đồng bào trong khu vực đã nổi dậy phá
banh khu tập trung trở về làng cũ. Tháng 9-1960, lực lƣợng vũ trang Bình Thuận
tiến công tiêu diệt các đồn Bố Lan, Gia Lê đƣa 5.000 dân về buôn rẫy cũ… Sau các
đòn tiến công quân sự và các cuộc nổi dậy phá khu tập trung của đồng bào miền
núi, vùng căn cứ địa cách mạng ở Cực Nam Trung Bộ đƣợc mở ra liên hoàn trong
23 xã với trên 30 ngàn dân thuộc sáu huyện: Anh Dũng, Bác Ái (Ninh Thuận),
Khánh Sơn, Vĩnh Sơn (Khánh Hòa), Tánh Linh, Di Linh (Bình Thuận).
Trên địa bàn Tây Nguyên, từ ngày 20 - 23/10/1960, một bộ phận đặc công
của Khu V cùng lực lƣợng vũ trang Kon Tum diệt cứ điểm Măng Đen, Măng Bút,
phục kích đánh địch trên đƣờng số 5. Nhân dân nổi dậy giải phóng một vùng rộng
lớn phía Bắc Kon Tum. Ngày 23-10-1960, lực lƣợng vũ trang tỉnh Gia Lai tiến
công tiêu diệt đồn Can Nác, sau đó đánh chiếm khu dinh điền Lệ Thanh, giải
phóng một vùng rộng lớn nối liền với vùng giải phóng Kon Tum. Ở Đăk Lăk, đêm
27-10-1960, lực lƣợng vũ trang tỉnh đánh đồn Plây Lốc, Ea Nu, Ea Thu, hỗ trợ
nhân dân vùng Đông Bắc và thị xã Buôn Ma Thuột nổi dậy giành quyền làm chủ.
Tỉnh Lâm Đồng, các đội vũ trang công tác dựa vào các bàn đạp Kdòn, Tờ La, Bờ
45
Ga, tiến lên hƣớng Blao, Di Linh, mở rộng cơ sở ở Nam Bắc đƣờng 20.
Cùng với phong trào nổi dậy của đồng bào Tây Nguyên, nhân dân vùng núi
các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ cũng tiến công vào bộ máy kìm kẹp của địch.
Đến cuối năm 1960, vùng căn cứ miền núi Quảng Nam căn bản đã đƣợc giải
phóng, gần 40.000 dân giành đƣợc quyền làm chủ. Ở Bình Định,
đƣợc đơn vị 2-9 hỗ trợ, nhân dân nổi dậy phá khu tập trung Gò Nĩ (Đất Dài), giải
phóng vùng phía Tây sông An Lão. Tháng 11-1960, lực lƣợng vũ trang Phú Yên
mở đợt hoạt động nhằm giải phóng vùng cao nguyên huyện Sơn Hòa. Đến cuối
năm 1960, miền Tây huyện Sơn Hòa căn bản đƣợc giải phóng. Vùng căn cứ đƣợc
mở rộng liên hoàn bảo đảm hành lang từ Phú Yên vào Khánh Hòa.
Thắng lợi của phong trào khởi nghĩa ở Nam Bộ và Khu V đã đánh sập một
mảng lớn hệ thống chính quyền thôn xã của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, mở
ra vùng giải phóng rộng lớn với 5,6 triệu dân ở 984 xã Nam Bộ và 379 xã Khu V.
Trong báo cáo gửi Tổng thống Mỹ Kennedy, Cục tình báo Trung ƣơng Mỹ (CIA)
đã thú nhận: “Trong sáu tháng cuối 1960, tình hình an ninh trong nƣớc vẫn tiếp tục
ngày càng xấu đi và nay đã lên tới mức nghiêm trọng... Trên một nửa toàn bộ vùng
nông thôn ở phía Nam và Tây Nam Sài Gòn cũng nhƣ một số vùng ở phía Bắc đã
nằm dƣới quyền kiểm soát rất lớn của Việt cộng” [96, 85].
Đồng khởi cũng đánh dấu bƣớc phát triển nhảy vọt của lực lƣợng vũ trang
cách mạng miền Nam. Đến cuối năm 1960, hệ thống tổ chức 3 thứ quân đƣợc hình
thành rõ nét. Về chủ lực, Liên khu V đã có 2 đại đội bộ binh và 12 đại đội đặc công
(1.000 ngƣời); Nam Bộ có Tiểu đoàn 500 (997 ngƣời) ở Liên tỉnh miền Đông, Tiểu
đoàn 261 (266 ngƣời) thuộc Liên tỉnh miền Trung, Tiểu đoàn 360 (771 ngƣời) tại
Liên tỉnh miền Tây. Đây là những đơn vị chủ lực đƣợc lựa chọn từ các đơn vị vũ
trang tập trung ở tỉnh, huyện. Về bộ đội địa phƣơng, lực lƣợng nòng cốt của chiến
tranh nhân dân trên địa bàn tỉnh, huyện, Khu V có 123 trung đội và 70 đội vũ trang
công tác gồm 5.500 ngƣời; Nam Bộ có 17 đại đội và 70 trung đội huyện với 7.000 46
ngƣời. Về tự vệ, du kích, lực lƣợng vũ trang rộng rãi ở cơ sở với nhiệm vụ bảo vệ
chính quyền ở xã ấp, phối hợp với bộ đội tập trung chiến đấu, Khu V có 3.000
ngƣời, Nam Bộ có 7.000 ngƣời tại 560 tiểu đội, 190 trung đội.
Tiểu kết:
Lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam ra đời trong bối cảnh đặc biệt.
Nhu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh sống còn giữa ta và địch buộc các “chiến sĩ 9
năm” đang bám trụ ở miền Nam phải cầm lại súng để bảo vệ cách mạng, bảo vệ
chính mình. Điều kiện đấu tranh của các đơn vị vũ trang cách mạng vừa mới thành
lập rất khắt khe: một mặt phải làm sao chống lại một cách hiệu quả kẻ thù nham
hiểm và đang thực hiện những chính sách tàn bạo nhất để đè bẹp cách mạng bằng
mọi giá; mặt khác lại phải chịu đựng muôn vàn khó khăn, gian khổ, tuyệt đối chấp
hành kỷ luật của cấp trên, không đƣợc manh động, vƣợt quá khuôn khổ Hiệp định
Geneva. Trong hoàn cảnh đó, phải nói rằng các chiến sĩ đã chiến thắng chính mình
trƣớc khi chiến thắng kẻ thù.
Mặc dù còn nhỏ bé song sự xuất hiện và hoạt động của lực lƣợng vũ trang
cách mạng tại các địa phƣơng miền Nam đã góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ lực
lƣợng cách mạng khỏi nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Tại nơi nào có lực lƣợng vũ
trang ra đời sớm và hoạt động đúng hƣớng, ở đó cách mạng ít bị tổn thất nhất và có
điều kiện đi đầu trong phong trào Đồng khởi sau này.
Ngay trong phong trào Đồng khởi, vai trò của lực lƣợng vũ trang vẫn đƣợc
thể hiện. Sở dĩ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Tây Khu V phát triển thuận lợi
bởi chính ở đó có các đội tự vệ thôn, bản làm xung kích. Ngay nhƣ Bến Tre, tuy
chƣa có đơn vị vũ trang tập trung nhƣng những thanh niên tự vệ địa phƣơng đã lấy
danh nghĩa Tiểu đoàn 502 để tăng uy thế tiêu diệt bọn dân vệ, tạo điều kiện cho
47
nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Vai trò đó càng nổi bật hơn ở những tỉnh
có lực lƣợng vũ trang mạnh. Nhƣ ở Kiến Phong, Long An, Tây Ninh, Bình
Thuận… các tiểu đoàn, đại đội của tỉnh, của khu giữ vai trò “đòn xeo”, đã nổ súng
diệt địch, phát động quần chúng nổi dậy. Bởi thế, nhìn toàn cục, tuy thời kỳ này,
lực lƣợng chính trị đóng vai trò chủ yếu nhƣng sẽ không thể làm tròn nhiệm vụ nếu
48
thiếu đòn tiến công mang tính đột kích của lực lƣợng vũ trang cách mạng.
Chương 2
QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM RA ĐỜI,
XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VÀ BƢỚC ĐẦU ĐÁNH BẠI
CHIẾN LƢỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT (1961-1963)
2.1. Sự thành lập của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam
Mỹ tiến hành chiến tranh ở miền Nam
Cuối năm 1960, ở miền Nam Việt Nam, phong trào cách mạng phát triển
mạnh, đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài,
đang có nguy cơ sụp đổ. Trƣớc tình hình đó, Mỹ phải lựa chọn một trong hai con
đƣờng: rút lui việc ủng hộ chính quyền Diệm, thực thi Hiệp định Geneva năm
1954; hoặc tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam bằng chiến tranh
để củng cố chế độ Diệm, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Nhà Trắng và Lầu
Năm Góc quyết định phải giữ vững cam kết với Ngô Đình Diệm, biến miền Nam Việt Nam - nơi “sức mạnh và uy tín của Mỹ đã đƣợc đầu tƣ rất sâu” [80,
138] thành tuyến đầu của Mỹ chống Liên Xô, Trung Quốc “bành trƣớng” xuống
Đông Nam Á. Ỷ vào sức mạnh của một siêu cƣờng và niềm tin chiến thắng, Mỹ
quyết định tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt chống nhân dân Việt Nam, coi đó là
thí nghiệm đầu tiên của cuộc chiến tranh hạn chế.
Đặc điểm của loại hình chiến tranh này là sử dụng quân đội bản xứ làm công
cụ nòng cốt với đô la, vũ khí của Mỹ và do Mỹ chỉ huy. Tại miền Nam, chiến tranh
đặc biệt đƣợc triển khai theo kế hoạch Staley - Taylor. Kế hoạch này gồm 3 giai
đoạn, trong đó giai đoạn một là mang ý nghĩa quyết định. Giai đoạn này dự kiến
trong vòng 18 tháng (kể từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962) nhằm cơ bản bình
49
định xong miền Nam bằng việc dồn dân tập trung vào 16.000 ấp chiến lƣợc để triệt
phá cơ sở cách mạng ở nông thôn; phát triển quân đội Sài Gòn gồm quân chính
quy, bảo an, dân vệ, đồng thời tăng cƣờng lực lƣợng yểm trợ Mỹ nhằm tiêu diệt
lực lƣợng vũ trang cách mạng; thiết lập hệ thống cứ điểm chốt chặn ở biên giới và
giới tuyến quân sự tạm thời, tăng cƣờng tuần tra, kiểm soát vùng biển; đẩy mạnh
các hoạt động tình báo, gián điệp, biệt kích, chiến tranh tâm lý... chống phá miền
Bắc [134, 15].
Ngày 8-2-1962, phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) đƣợc
chuyển thành Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV) do Đại tƣớng Paul Harkins
làm Tƣ lệnh. Dƣới quyền chỉ huy và điều hành của MACV, số lƣợng cố vấn và các
đơn vị yểm trợ Mỹ không ngừng tăng lên. Nếu năm 1960, lực lƣợng yểm trợ và cố
vấn Mỹ mới chỉ 1.077 tên, thì năm 1962, con số đó lên tới 10.640 tên gồm 2 bộ
phận: 2.360 cố vấn và 8.280 ngƣời thuộc lực lƣợng yểm trợ, đơn vị kỹ thuật.
Ngoài số cố vấn và các đơn vị yểm trợ chiến đấu, Mỹ còn đƣa vào miền
Nam một khối lƣợng lớn vũ khí thiết bị chiến tranh, tăng thêm viện trợ quân sự và
viện trợ kinh tế cho quân đội và chính quyền Sài Gòn. Nhiều trực thăng nguyên
vẹn và một số lớn thiết giáp nhẹ (M113) đƣợc đƣa sang chiến trƣờng miền Nam để
thí nghiệm các chiến thuật mới nhƣ “trực thăng vận”, “thiết xa vận”. Từ năm 1961-
1963, số lƣợng máy bay từ 219 chiếc các loại (có 61 trực thăng) đã tăng lên 627
chiếc (có 359 trực thăng), số lƣợng xe cơ giới từ 268 chiếc trong 4 tiểu đoàn đã lên
tới 732 chiếc tại 6 tiểu đoàn [85, 89]. Theo số liệu của hãng tin UPI, chỉ riêng số
chi cho 2 khoản quân dụng và lƣơng của chính quyền Sài Gòn đã tăng theo cƣờng
50
độ chiến tranh [105, 70]:
Bảng chi phí viện trợ vũ khí, quân dụng và lương của Mỹ cho quân đội Sài
Gòn từ năm 1961-1963 (Tính bằng triệu đô la)
Năm 1961 1962 1963
Vũ khí và đồ quân dụng 101 176 200
Lƣơng 136 206 216
Với sự tăng viện của Mỹ về đôla, về vũ khí, thiết bị chiến tranh, đội ngũ cố
vấn... quân đội Sài Gòn nhanh chóng phát triển về số lƣợng, cải tiến về biên chế, tổ
chức, hệ thống chỉ đạo, chỉ huy, đổi mới công tác huấn luyện... theo phƣơng hƣớng
nhằm đối phó có hiệu quả với chiến tranh du kích và phong trào nổi dậy. Từ 7 sƣ
đoàn bộ binh năm 1960, quân chính quy Việt Nam Cộng hòa tăng tới 9 sƣ đoàn,
một số tiểu đoàn nhảy dù, tiểu đoàn lính thủy đánh bộ với tổng số 206.000 ngƣời
(năm 1963).
Bên cạnh đó, lực lƣợng bảo an, dân vệ cũng đƣợc tăng nhanh về số lƣợng,
trang bị thêm các loại vũ khí mới, từng bƣớc thay thế các đơn vị chủ lực làm nhiệm
vụ “phòng thủ diện địa”. Đầu năm 1963, với tƣ cách là một binh chủng trong thành
phần quân đội Sài Gòn, “lực lƣợng đặc biệt” đƣợc chính thức thành lập, làm nòng
cốt trong hệ thống các đồn trại dân sự chiến đấu đƣợc thiết lập ở những vùng tranh
chấp, trên các tuyến hành lang, dọc theo đƣờng biên giới Lào và Cambodia. Hệ
thống đồn trại này, một mặt hỗ trợ cho công tác bình định, nới rộng vùng kiểm
soát; mặt khác, chống xâm nhập và tạo thế bao vây, chia cắt vùng căn cứ, các tuyến
hành lang vận chuyển chiến lƣợc, thu thập tin tức tình báo, phá rối hậu phƣơng tại
51
chỗ của cách mạng.
Để tăng cƣờng khả năng chỉ huy và tận dụng đƣợc lực lƣợng quân Sài Gòn
trong vấn đề bình định, ngay từ tháng 4-1961, hệ thống tổ chức chiến trƣờng theo
từng quân khu đƣợc chuyển thành vùng chiến thuật. Mỗi vùng chiến thuật do một
quân đoàn chủ lực đảm nhiệm với đủ thành phần quân địa phƣơng và binh chủng
yểm trợ nhƣ pháo binh, công binh, thiết giáp, biệt động, biệt kích, không quân, hải
quân, tiếp vận... Dƣới vùng chiến thuật là khu chiến thuật, tiểu khu (tỉnh), chi
khu (quận hoặc huyện). Do vị trí đặc biệt, Sài Gòn - Gia Định đƣợc tổ chức thành
Biệt khu thủ đô. Cố vấn quân sự và lực lƣợng yểm trợ Mỹ có mặt khắp các vùng
chiến thuật, khu chiến thuật, tiểu khu chiến thuật và trung tâm huấn luyện, cơ quan
điều hành tác chiến, chỉ huy, trại lực lƣợng đặc biệt, chi khu trọng yếu...
Đối với miền Bắc, Mỹ tăng cƣờng cuộc chiến tranh bí mật, tung hơn 100
toán biệt kích, gián điệp ra bằng đƣờng không, đƣờng biển hoạt động móc nối với
bọn phản động nội địa, âm mƣu phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mỹ còn dùng máy bay U2 trinh sát vùng biên giới Việt - Lào, chuẩn bị leo thang
chiến tranh [134, 21].
Nhƣ vậy, bằng chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đã đặt cách mạng miền
Nam đứng trƣớc thử thách mới, buộc nhân dân vào tình thế phải tiến hành kháng
chiến để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc. Yêu cầu cách mạng đòi hỏi
phải có sự chuyển biến trong phƣơng thức đấu tranh của Đảng sao cho phù hợp với
tình hình thực tiễn.
Chủ trương của Đảng và sự ra đời của Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam
Mỹ tiến hành chiến tranh trong bối cảnh “thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ
- Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu,
52
các hình thái du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện mở đầu cho cao
trào cách mạng ngày càng lớn” [55]. Trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc
đang lên, nhất là ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, khiến cho Mỹ phải phân tán lực
lƣợng đối phó nhiều nơi. Phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh về mọi mặt.
Tuy nhiên, qua 6 năm đấu tranh, phong trào cách mạng miền Nam phát triển
không đều; vùng đô thị và đồng bằng Khu V còn yếu; lực lƣợng vũ trang ít về số
lƣợng, thiếu về trang bị, vũ khí, kỹ thuật và còn lạc hậu so với đối phƣơng; căn cứ
địa xây dựng chƣa vững chắc, hệ thống giao thông, liên lạc Bắc Nam và giữa các
vùng còn hạn chế, gây nhiều khó khăn, trở ngại cho việc tiếp tế, cơ động, xây dựng
lực lƣợng cách mạng. Hơn nữa, đối với nhiệm vụ đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở
miền Nam, các nƣớc lớn xã hội chủ nghĩa tiếp tục có thái độ tiêu cực. Liên Xô còn
khuyên Việt Nam nên lợi dụng đề nghị của Kennedy về thƣơng lƣợng nhằm “trung
lập hóa” Việt Nam, đồng thời chỉ chấp nhận viện trợ kinh tế, hạn chế viện trợ quân
sự đối với miền Bắc [94, 18-19] và “chủ yếu vẫn là một quan sát viên trƣớc những
diễn biến ở Việt Nam” [68, 15]. Trong khi đó, Trung Quốc thì cho rằng hình thức
chiến đấu ở miền Nam nên là đánh du kích, đánh nhỏ từng đơn vị trung đội, đại
đội: “Miền Bắc có thể ủng hộ về chính trị cho miền Nam, giúp miền Nam đề ra các
chính sách nhƣng chủ yếu là bồi dƣỡng tinh thần tự lực cánh sinh cho anh em miền
Nam… Khi ăn chắc, miền Bắc có thể giúp quân sự cho miền Nam, nghĩa là khi
hoàn toàn chắc chắn không xảy ra chuyện gì, có thể cung cấp một số vũ trang mà
không cho ai biết. Nhƣng nói chung là không giúp” [32, 27].
Ngày 31-1-1961, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng bàn về “Phƣơng
hƣớng và nhiệm vụ công tác trƣớc mắt của cách mạng miền Nam”. Những năm
trƣớc Đồng khởi, phƣơng châm hoạt động là lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu,
sử dụng vũ trang tuyên truyền có mức độ để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, nay tình
hình so sánh lực lƣợng đã thay đổi, cho nên Bộ Chính trị quyết định thay đổi
phƣơng châm đấu tranh: “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời, đẩy 53
mạnh đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả
hai mặt chính trị và quân sự” [58, 158].
Do đặc điểm phong trào cách mạng miền Nam phát triển không đều, so sánh
lực lƣợng đôi bên ở mỗi vùng cũng khác nhau, cho nên phải vận dụng phƣơng
châm đấu tranh linh hoạt, phù hợp với từng vùng: Vùng rừng núi lấy đấu tranh
quân sự làm chủ yếu với nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch để mở rộng thêm căn cứ
và xây dựng lực lƣợng. Vùng đồng bằng, đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự
có thể ngang nhau, song cũng tuỳ lúc, tuỳ nơi, tuỳ tình hình cụ thể mà cân nhắc
mức độ giữa hai hình thức, mức độ tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Vùng đô thị,
lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, kết hợp cả đấu tranh hợp pháp và bất hợp
pháp.
Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị cũng xác định nhiệm vụ công tác trƣớc mắt của
miền Nam là: “tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lƣợng ta,
làm tan rã chính quyền và lực lƣợng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn,
tiến lên làm chủ vùng rừng núi, giành lại toàn bộ vùng đồng bằng, ra sức xây dựng
cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở các đô thị, tạo mọi điều kiện và nắm mọi
thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam” [57,
159].
Ngày 20-4-1961, trong thƣ gửi anh Mƣời Cúc và Xứ ủy Nam Bộ, Lê Duẩn
phân tích cụ thể: “Chiến tranh sẽ mở rộng; cuộc chiến đấu sẽ ác liệt phức tạp; đấu
tranh chính trị và vũ trang sẽ diễn ra đồng thời, nhƣng từ đây đấu tranh vũ tranh
chuyển sang đóng vai trò ngày càng quyết định”, “Trong thời kỳ này, đi đôi với
xây dựng lực lƣợng chính trị và đấu tranh chính trị, phải ra sức xây dựng lực lƣợng
vũ trang bao gồm dân quân du kích ở thôn xã, bộ đội địa phƣơng tỉnh, huyện đến
54
bộ đội chủ lực khu, Miền, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh quân sự của 3 thứ
quân để giúp sức đắc lực cho đấu tranh chính trị”. “Phải gắn liền đấu tranh với xây
dựng lực lƣợng chính trị, quân sự của ta. Đi sâu củng cố các tổ chức Đảng, đoàn,
các đội ngũ quần chúng cách mạng, tăng cƣờng giáo dục chính trị, nâng cao ý chí
chiến đấu và lòng tin vào thắng lợi cuối cùng” [48, 19-22].
Nhƣ vậy, tới đầu năm 1961, phƣơng hƣớng đấu tranh của cách mạng miền
Nam đã có sự thay đổi rõ rệt. Đấu tranh vũ trang giờ trở thành phƣơng thức song
song với đấu tranh chính trị, không còn mang tính chất tự vệ nhƣ trƣớc nữa. Điều
đó đã chấm dứt thời kỳ lúng túng trong việc sử dụng hình thức đấu tranh vũ trang
trong quần chúng. Và trên thực tế, Đảng cũng đã quyết định tiến hành kháng chiến
bằng chiến tranh cách mạng ở miền Nam.
Với tinh thần nói trên, tháng 1-1961, Tổng quân ủy ra Chỉ thị thành lập
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Chỉ thị nêu rõ: “Quân giải phóng miền Nam
Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng sáng lập và
xây dựng, giáo dục và lãnh đạo... Quân giải phóng miền Nam Việt Nam kế tục
truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của nhân dân
Việt Nam anh hùng, kế tục truyền thống vẻ vang phục vụ nhân dân của Quân đội
nhân dân Việt Nam”. Phƣơng châm xây dựng lực lƣợng là: “Khẩn trƣơng nhƣng
phải phù hợp với tình hình và khả năng thực tế và có đủ điều kiện để đối phó với
những tình huống đột biến, lấy việc xây dựng các đơn vị tập trung làm chủ yếu,
đồng thời, hết sức coi trọng việc xây dựng bộ đội địa phƣơng và dân quân, du
kích” [114]. Ngày 15-2-1961, tại chiến khu D, các lực lƣợng vũ trang cách mạng
miền Nam đã đƣợc thống nhất lại thành Quân giải phóng miền Nam. Công cụ bạo
lực cách mạng chủ yếu của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
đã ra đời.
55
2.2. Xây dựng lực lƣợng vũ trang cách mạng
Tổ chức hệ thống chỉ huy quân sự các cấp, thành lập các mặt trận và
quân khu
Ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị quyết định đổi Tổng quân ủy thành Quân ủy
Trung ƣơng và giao cho nhiệm vụ chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam. Sau khi
kiện toàn lại tổ chức, Quân ủy Trung ƣơng họp nhiều lần để bàn bạc, quyết định
những chủ trƣơng lớn, đặc biệt là công tác chi viện và tổ chức lực lƣợng ở miền
Nam. Quân ủy đã phân công cụ thể từng ngƣời phụ trách các mặt công tác: Hoàng
Văn Thái phụ trách về biên chế, tổ chức, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc để
đƣa vào miền Nam chiến đấu. Trần Văn Trà - Phó Tổng tham mƣu trƣởng và
Nguyễn Văn Vịnh - Phó trƣởng ban Thống nhất Trung ƣơng phụ trách về xây dựng
lực lƣợng, tổ chức chiến đấu ở miền Nam. Song Hào phụ trách việc lựa chọn, đào
tạo, điều động cán bộ vào Bộ Tƣ lệnh Miền, các quân khu ở miền Nam. Trần Quý
Hai phụ trách chi viện vật chất, trang bì vũ khí, xây dựng các đƣờng tiếp tế, các
căn cứ hậu cần chiến lƣợc ở miền Nam.
Cục tác chiến Bộ Tổng tham mƣu đƣợc Quân ủy Trung ƣơng giao nhiệm vụ
nghiên cứu, đề xuất, chuẩn bị những phƣơng án chi viện, tổ chức chiến đấu ở miền
Nam. Trong Cục tác chiến, có một bộ phận chuyên lo về vấn đề này gọi là tổ B.
Tháng 10-1961, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng quyết định thành lập
Trung ƣơng Cục miền Nam để phụ trách chỉ đạo công tác của Đảng ở miền
Nam. Đây là một bộ phận của Ban Chấp hành Trung ƣơng, gồm một số ủy viên
Trung ƣơng đƣợc Ban Chấp hành bầu ra và ủy nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác
Đảng ở miền Nam. Trung ƣơng Cục miền Nam đặt dƣới sự lãnh đạo của Ban Chấp
hành Trung ƣơng Đảng do Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo. Các cấp ủy quân khu
56
cũng đƣợc tăng cƣờng những cán bộ dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo phong trào.
Ngày 23-10-1961, Hội nghị Trung ƣơng Cục miền Nam mở rộng lần thứ
nhất đƣợc tổ chức tại chiến khu D. Các cán bộ chủ chốt trong đoàn Phƣơng Đông
vừa từ miền Bắc vào đã tham dự Hội nghị. Trung ƣơng Cục ra nghị quyết chuyên
đề về xây dựng và hoạt động của các lực lƣợng vũ trang miền Nam, nêu rõ: cần
đẩy mạnh đấu tranh tiêu diệt sinh lực địch, kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận
làm tan rã quân đội và chính quyền địch, phát triển và tích trữ lực lƣợng cả về số
lƣợng, chất lƣợng, đủ khả năng tiêu diệt địch ngày càng nhiều, làm thay đổi so
sánh lực lƣợng có lợi cho cách mạng và có đủ lực lƣợng vũ trang đảm bảo cho
thắng lợi cuối cùng của cuộc tổng khởi nghĩa. Phƣơng châm tác chiến trƣớc mắt là
du kích với đối tƣợng cần tiêu diệt là dân vệ, phòng vệ, bảo an, biệt kích và những
bộ phận phân tán của chủ lực địch [129, 279-280].
Về tổ chức chỉ huy quân sự các cấp, Hội nghị quyết định thành lập: Ban
Quân sự Miền (Mật danh là Ban Quân sự R) chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Trung
ƣơng Cục, đồng thời chịu sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ƣơng, Bộ Quốc phòng. Bộ
Tƣ lệnh cấp quân khu (Mật danh là Ban Quân sự T) chịu sự lãnh đạo của Khu ủy,
đồng thời chịu sự lãnh đạo của Đảng ủy và Ban Quân sự Miền. Bộ chỉ huy cấp tỉnh
đội, huyện đội (còn gọi là Ban Quân sự U và V). Xã đội (còn gọi là Y) đặt dƣới sự
lãnh đạo của cấp ủy xã.
Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy thống nhất trong tình hình các chiến
trƣờng ở miền Nam bị chia cắt phức tạp, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ƣơng
quyết định điều chỉnh lại địa giới các khu và thành lập các mặt trận. Toàn miền
Nam đƣợc chia làm 2 mặt trận mang số hiệu là B1 và B2. Mặt trận B1 Nam Trung
Bộ đƣợc thành lập đầu năm 1961, gồm các tỉnh từ Khánh Hòa đến vĩ tuyến 17,
do Bộ Tổng tƣ lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo. Mặt trận B2
Nam Bộ đƣợc thành lập đầu năm 1961, gồm các tỉnh từ Ninh Thuận đến Cà Mau,
57
do Bộ Tƣ lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ đạo tác chiến.
Cùng thời gian này, toàn Nam Bộ đƣợc chia thành 4 quân khu: Quân khu
miền Đông Nam Bộ, mật danh T1, địa bàn gồm các tỉnh: Tây Ninh, Bình Dƣơng,
Bình Long, Phƣớc Thành, Bà Rịa, Phƣớc Long, Biên Hòa, Vũng Tàu. Quân khu
miền Trung Nam bộ, mật danh T2, địa bàn gồm các tỉnh Long An, Mỹ Tho, Gò
Công, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc và Bến Tre. Quân khu miền Tây Nam Bộ,
mật danh T3, địa bàn gồm các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng
(thêm một phần tỉnh Bạc Liêu), Rạch Giá, Cà Mau (gồm một phần tỉnh Bạc Liêu)
và Hà Tiên. Quân khu Sài Gòn - Gia Định, mật danh T4.
Miền Trung (Liên khu V), chia thành 2 khu: Khu V với các tỉnh Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum,
Gia Lai; Khu VI với các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đăk Lăk,
Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng. Ngoài ra, còn có Khu X mang mật danh T10,
thành lập đầu năm 1962, địa bàn gồm các tỉnh Phƣớc Long, Lâm Đồng, Quảng
Đức, Tuyên Đức do Bộ Tƣ lệnh Miền chỉ đạo tác chiến. Tháng 10-1963, Khu X
giải thể [1, 24].
Bước đầu xây dựng hệ thống ba thứ quân
Tháng 9-1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ƣơng thông qua đề án xây
dựng lực lƣợng vũ trang miền Nam trong những năm 1961-1963 do Bộ Tổng tham
mƣu chuẩn bị. Theo đề án này, bên cạnh việc phát triển lực lƣợng tại chỗ, sẽ đƣa từ
3-4 vạn chiến sĩ đƣợc huấn luyện chính quy ở miền Bắc vào chiến trƣờng miền
Nam. Tất cả cán bộ, chiến sĩ quê ở miền Nam, hoặc đã từng chiến đấu, công tác ở
miền Nam, dù ở bất kỳ cƣơng vị công tác nào trên miền Bắc, đƣợc đăng ký, bồi
dƣỡng về chính trị, quân sự, đƣợc rèn luyện về thể lực để sẵn sàng làm nhiệm vụ ở
58
chiến trƣờng. Các xí nghiệp quốc phòng khẩn trƣơng sửa chữa súng trƣờng, tiểu
liên, súng cối và sản xuất đạn, lựu đạn... cung cấp kịp thời yêu cầu trƣớc mắt của
lực lƣợng vũ trang miền Nam.
Tại Nam Bộ, tháng 7-1961, Trung ƣơng Cục quyết định thành lập trung
đoàn chủ lực Miền mang mật danh Q761. Đến ngày 9-2-1962, Q761 (C56) chính
thức làm lễ ra mắt tại Trảng Dài (Tây Ninh) và mang tên Trung đoàn 1 bộ
binh. Đây là đơn vị cơ động cấp trung đoàn đầu tiên của Quân giải phóng miền
Nam. Tháng 6-1962, Trung đoàn 2, mật danh Q762 (hoặc C58), đƣợc thành lập từ
khung là bộ đội tập kết, làm lễ ra mắt tại chiến khu D. Ban Quân sự Miền bố trí
Trung đoàn 1 đứng chân ở khu B có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Miền, hoạt động trên
địa bàn thuộc Tây Ninh và Bắc Sài Gòn. Trung đoàn 2 ở khu A, có nhiệm vụ bảo
vệ chiến khu D, hoạt động trên địa bàn các tỉnh Đông Bắc Sài Gòn.
Tại Đông Nam Bộ, ngày 15-4-1961, tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của miền
Đông chính thức ra mắt, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 500 (sau đổi là Tiểu đoàn
800). Đến cuối năm 1963, lực lƣợng vũ trang toàn Quân khu miền Đông tổng cộng
có 4.627 chiến sĩ [111, 93].
Tháng 7-1961, sau khi tách tỉnh Thủ Biên, Đại đội tập trung của tỉnh Biên
Hòa đƣợc thành lập, lấy phiên hiệu C240. Ở Long Khánh, tỉnh cũng thành lập
trung đội vũ trang tuyên truyền với trên 50 cán bộ, chiến sĩ. Đến cuối năm 1962,
ngoài các đơn vị tập trung, các huyện và thị xã đều có 1-2 trung đội, hầu hết các
xã, đồn điền cao su đều xây dựng đƣợc ít nhất 1 bán đội du kích [20, 175-176].
Tại Bình Dƣơng, cuối năm 1962, đã thành lập đƣợc các đơn vị vũ trang tập
trung: Đại đội 304, Đại đội 306 (Thủ Dầu Một), Đại đội 303 (Phƣớc Thành) và các
đại đội 61 62, 63, 64 tại các huyện Bến Cát, Châu Thành, Lái Thiêu, Dầu Tiếng.
Đến cuối năm 1963, lực lƣợng vũ trang toàn tỉnh Thủ Dầu Một đã có 800 chiến sĩ
59
với 94 cán bộ [17, 167-168].
Ở Bà Rịa - Vũng Tàu, đến cuối năm 1963, bộ đội địa phƣơng huyện Châu
Thành (Đại đội 20), huyện Long Đất (Đại đội 25) và bộ đội tỉnh (C445) phát triển
rất nhanh. Biên chế tổ chức và công tác hậu cần không đáp ứng đƣợc với số lƣợng
thanh niên xin gia nhập bộ đội ngày một đông đảo [15, 223].
Tại Tây Ninh, cuối năm 1961, bộ đội tập trung gồm Tiểu đoàn 14, các đại
đội công binh, đặc công và 1 phân đội thông tin. Các huyện đều có đại đội tập trung, xã ấp thì có tiểu đội đến trung đội du kích [111, 88].
Ở Bình Long, sau khi có quyết định tách tỉnh, Trung ƣơng Cục bổ sung cho
các đơn vị vũ trang đầu tiên, mang phiên hiệu C70 (thực chất chỉ 1 trung đội) và
C75 (thực chất chỉ 1 tiểu đội). Ở Phƣớc Long, Tỉnh ủy cũng thành lập các đơn vị
C290 và C270 tƣơng đƣơng cỡ trung đội. Mỗi quận bên dƣới cũng có có 1 trung
đội vũ trang, mỗi đội công tác cũng có từ 1-2 tiểu đội vũ trang [51, 253].
Tại Sài Gòn - Gia Định, giữa năm 1961, Quân khu thành lập 1 đại đội cơ
động mạnh 160 ngƣời, lấy bí số C13 (sau đổi là K17). Tháng 3-1962, đơn vị bộ đội
tập trung Quân khu phát triển quân số lên trên 300 và biên chế thành đoàn Quyết
Thắng. Các huyện củng cố và phát triển các đội du kích liên xã, hoặc bộ đội tập
trung địa phƣơng [103, 345], mạnh nhất là tại Củ Chi. Phong trào vũ trang nội đô
từng bƣớc đƣợc gây dựng, tạo điều kiện lần lƣợt hình thành các đội biệt động 159,
65, 66, 67A, 67B, 68, 69…
Ở Khu VIII, ngày 2-1-1961, Tiểu đoàn 261 chính thức đƣợc thành lập. Đây
là đơn vị chủ lực đầu tiên của Quân khu VIII. Biên chế ban đầu của đơn vị gồm 2
đại đội bộ binh, 1 trung đội trợ chiến. Đến tháng 11-1963, Tiểu đoàn 263, đơn vị
chủ lực thứ hai của Quân khu, ra đời bao gồm thành phần là hầu hết cán bộ, chiến
60
sĩ có xuất thân từ tỉnh Bến Tre.
Tại Bến Tre, ngoài 2 đại đội đã có từ trong phong trào Đồng khởi, giữa năm
1961, Ban Quân sự tỉnh đã xây dựng 1 đại đội mới lấy phiên hiệu Đại đội 261B.
Tháng 10-1963, Đại đội 4 trợ chiến ra đời. Các huyện mạnh nhƣ Mỏ Cày, Giồng
Trôm đều có các đại đội bộ binh, các xã có từ 1-2 trung đội du kích [16, 109-110].
Ở Mỹ Tho, Tiểu đoàn 514 phát triển từ 5 tiểu đội (đầu năm 1961) lên 3 đại
đội (năm 1963) đƣợc biên chế đầy đủ mà chính hãng Thông tấn UPI của Mỹ phải
thừa nhận: “Tiểu đoàn nổi tiếng 514 chẳng hạn mà Chính phủ (Diệm) khoe rằng đã
tiêu diệt ít nhất 12 lần nay đã phát triển thành một tiểu đoàn mạnh mẽ khoảng 500
ngƣời chia làm 3 đại đội trang bị súng trƣờng và 1 đại đội súng hạng nặng…” [69,
279]. Các huyện đều thành lập trung đội địa phƣơng, xây dựng và củng cố du kích
xã, ấp [30, 267].
Đầu năm 1961, Kiến Tƣờng đã có 1 đại đội với trên 200 chiến sĩ, mỗi vùng
có từ 90-100 quân, Đến cuối năm 1962, đại đội cơ động của tỉnh đƣợc bổ sung
quân số, có 360 tay súng bao gồm trung đội pháo và các phận đội đặc công, trinh
sát, thông tin. Mỗi xã đều có trung đội du kích tập trung và nhiều du kích ấp, du
kích mật [24, 115].
Ở An Giang, đến cuối năm 1963, đƣợc sự chi viện về vũ khí của Trung
ƣơng, lực lƣợng bộ đội tỉnh phát triển mạnh. Tiểu đoàn 510 đã đƣợc biên chế thành
Đại đội 1 và Đại đội 2 cùng các đơn vị hỏa lực pháo cối, đặc công trinh sát với
quân số trên 200 ngƣời [14, 99].
Tại Kiến Phong, lực lƣợng vũ trang của tỉnh đƣợc kiện toàn lại về tổ chức.
Tỉnh nhất trí phƣơng án Tiểu đoàn 502 có 3 đại đội bộ binh: C272, C274 và
C198. Các phân đội đặc công, trinh sát, quân y, hậu cần, quân giới đƣợc củng cố
một bƣớc, ban chỉ huy tiểu đoàn vẫn nhƣ cũ. Tỉnh đổi phiên hiệu Đại đội
61
cơ động 271 thành Đại đội 209 và cho thành lập thêm Đại đội cơ động
261. Lực lƣợng vũ trang địa phƣơng phát triển khá, hầu hết các huyện đều có trung
đội, xã có tiểu đội du kích [21, 86].
Khu IX, miền Tây Nam Bộ, đầu năm 1961, thành lập 2 tiểu đoàn chủ lực là
Tiểu đoàn 306 và Tiểu đoàn 96. Đến cuối năm 1962, Khu thành lập thêm Tiểu
đoàn chủ lực 70 [113, 349].
Tại Sóc Trăng, tháng 7-1961, tỉnh thành lập đơn vị tập trung mang phiên
hiệu là Đại đội Phú Lợi 761. Đầu năm 1963, Tỉnh ủy thành lập đại đội thứ hai,
mang phiên hiệu Đại đội 74, đồng thời xây dựng các trung đội chuyên môn về
pháo binh (602), đặc công (603) và công binh (604) [29, 147].
Ở Cần Thơ, ngoài đơn vị Tây Đô, ngày 31-8-1961, Ban Quân sự tỉnh thành
lập Đại đội 318 (C31). Cuối năm 1963, tỉnh thành lập thêm Đại đội 19 và Đại đội
28 [19, 112].
Tại Trà Vinh, cuối năm 1961, các xã đã có 1-2 tiểu đội du kích, huyện có
trung đội địa phƣơng, tỉnh đã có đơn vị vũ trang tập trung mang phiên hiệu Đại đội
501. Từ năm 1962-1963, tỉnh còn thành lập thêm các đại đội 509, 511 và 517 [31,
178].
Ở Vĩnh Long, sau Đồng khởi, Ban Quân sự tỉnh quyết định phân tán lực
lƣợng của đơn vị 857 (Tiểu đoàn Lý Thƣờng Kiệt) về các địa phƣơng để xây dựng
lực lƣợng bộ đội địa phƣơng huyện và du kích xã, ấp, chỉ giữ lại 1 trung đội làm
đơn vị cơ động. Cuối năm 1963, đơn vị cơ động của tỉnh phát triển lên cấp đại đội,
nhiều huyện đã có trung đội, các xã, ấp thì có từ 1-2 tiểu đội du kích.
Đến năm 1963, Khu VI tuy đƣợc miền Bắc chi viện lực lƣợng nhiều, nhƣng
do cơ sở chính trị, vũ trang bên dƣới còn yếu, điều kiện hoạt động tập trung hạn
chế, nên Quân khu giải thể một số tiểu đoàn để lấy cán bộ, chiến sĩ đƣa xuống, xây
dựng bộ đội địa phƣơng tỉnh, huyện. Quân khu chỉ giữ 2 tiểu đoàn bộ binh 186, 62
840 (quân số hoạt động mỗi tiểu đoàn cũng chỉ có 250-300 tay súng) và 1 khung
tiểu đoàn trợ chiến [50, 83].
Đến giữa năm 1962, bộ đội tỉnh Đăk Lăk đã có 2 đại đội bộ binh và 2 trung
đội đặc công. Mỗi huyện có từ 2 tiểu đội đến 2 trung đội cùng 1.600 du kích. Ở
Tuyên Đức, cuối năm 1963, tỉnh xây dựng đƣợc đơn vị vũ trang tập trung mang
phiên hiệu Đại đội 143, biên chế thành 2 trung đội (B211, B212). Đầu năm 1962,
lực lƣợng vũ trang của tỉnh Lâm Đồng đã có 2 đại đội bộ binh, 1 trung đội công
binh, 1 trung đội trinh sát [23, 96].
Đầu năm 1961, cùng với lực lƣợng miền Bắc chi viện, 3 tỉnh đồng bằng Khu
VI đã tuyển đƣợc 600 thanh niên vào bộ đội. Bình Thuận xây dựng đƣợc 3 đại đội
bộ binh (480, 486 và 489). Ninh Thuận phát triển lực lƣợng lên thành 2 đại đội
thiếu (C610, D1). Khánh Hòa đến năm 1963 đƣợc Khu tăng cƣờng 2 đại đôi của
Tiểu đoàn 39 [50, 98]. Các huyện đồng bằng hầu hết đã xây dựng từ tiểu đội đến
trung đội. Mỗi xã đều có tổ chức đội vũ trang công tác. Các xã giải phóng và làm
chủ đều có từ 1-2 tiểu đội du kích.
Đến giữa năm 1961, Khu V có 6 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn trợ chiến, 16
đại đội, 92 trung đội và 37 tiểu đội bộ đội địa phƣơng tỉnh, huyện [237, 297]. Sau
đó, qua các tuyến vận tải chiến lƣợc, nhiều khung đơn vị đƣợc tăng cƣờng vào
chiến trƣờng Khu V. Trên cơ sở đó, trong năm 1962, Quân khu thành lập Trung
đoàn bộ binh 2, phụ trách 2 tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum; Trung đoàn bộ binh 1
kiêm tỉnh đội Quảng Nam - Đà Nẵng; Trung đoàn bộ binh 3 phụ trách Bình Định -
Phú Yên - Gia Lai. Đến cuối năm 1963, Quân khu biên chế lại các đơn vị vũ trang
tập trung thành 2 trung đoàn cơ động mạnh (1, 2) và khung Trung đoàn 3 đang
hình thành tổ chức quân sự ở phân khu Nam (Phú Yên - Khánh Hòa - Đăk Lăk).
63
Các tiểu đoàn bộ binh còn lại đều đƣợc đƣa xuống các tỉnh [45, 253].
Tháng 5-1961, Bộ Tổng tƣ lệnh đã bổ sung cho Tây Nguyên đơn vị chủ lực
đầu tiên là Tiểu đoàn 200 pháo binh. Đầu năm 1963, Quân khu V tiếp tục tăng
cƣờng cho Tây Nguyên Tiểu đoàn 407 đặc công [61, 21-22]. Đến cuối năm 1963,
vùng căn cứ mỗi xã đã có từ 1-2 trung đội du kích, huyện có đại đội hoặc trung đội
bộ binh, tỉnh có các đại đội tập trung [118, 31]. Gia Lai có 3 đại đội (1, 2, 3) [22,
172-173], Kon Tum có các đơn vị tập trung H30, H40 và 1 đại đội súng cối 60.
Ở Quảng Nam - Đà Nẵng, cuối năm 1961, lực lƣợng vũ trang của tỉnh đƣợc
củng cố, hoàn thiện bƣớc đầu bao gồm 2 tiểu đoàn bộ binh 70 và 75, 4 đại đội của
4 huyện miền núi. Cuối năm 1963, lực lƣợng tự vệ, du kích ở cả đồng bằng và
miền núi lên đến 2.450 ngƣời [27, 58].
Đến năm 1961, ngoài các đơn vị đã có từ trƣớc nhƣ 339, 89, 299, tỉnh đội
Quảng Ngãi đã thành lập thêm 3 đại đội (607, 608 và 609), 4 trung đội chuyên môn
(đặc công, trinh sát, công binh, bảo vệ cơ quan) [92, 31].
Tại Bình Định, đầu năm 1961, đơn vị 2-9 đã phát triển thành Đại đội Tây
Sơn, các huyện đều có trung đội hoặc tiểu đội vũ tranh, xã thì có 1-2 tiểu đội hoặc
đội công tác. Đến tháng 8-1963, Bộ Tƣ lệnh Khu V quyết định cho tỉnh xây dựng
tiểu đoàn tập trung mang phiên hiệu Tiểu đoàn 50 (gồm 3 đại đội bộ binh và 1 đại
đội trợ chiến) [18, 240].
Ở Phú Yên, từ năm 1961-1962, tỉnh đã xây dựng đƣợc 3 đại đội bộ binh
(220, 375 và 377) cùng 1 đại đội trợ chiến. Trên cơ sở đó, tháng 3-1963, tỉnh thành
lập Tiểu đoàn bộ binh 85 với quân số 499 ngƣời. Ngoài ra, mỗi khu vực miền núi
đều có 1 trung đội vũ trang [26, 223-224].
Năm 1963, lực lƣợng vũ trang phân khu Trị Thiên từ 1 tiểu đoàn đƣợc bổ
sung thêm 1 tiểu đoàn và một số đại đội trực thuộc, tỉnh có trung đội hoặc đại đội,
64
huyện có trung đội. Riêng du kích miền núi Quảng Trị, Thừa Thiên Huế có 2.191
ngƣời [134, 248]. Tuy nhiên, trong điều kiện tình hình quốc tế diễn biến phức tạp,
để tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc và bạn bè gần xa, đồng thời
muốn kiềm chế và thắng địch trong chiến tranh đặc biệt, Trung ƣơng không cho
chủ lực vào Trị Thiên hoạt động mà đƣa thẳng đến Khu V và Nam Bộ [28, 53].
Đến cuối năm 1961, bộ đội chủ lực thuộc các quân khu đã xây dựng đƣợc 11
tiểu đoàn, 1 trung đoàn. Bộ đội địa phƣơng tỉnh, huyện có 24.500 cán bộ chiến sĩ.
Mỗi huyện tổ chức đƣợc 1 trung đội hoặc 1 đại đội, tỉnh có từ 1-2 đại đội bộ binh
hoặc đặc công. Du kích, tự vệ có 100.000 ngƣời, trong đó 70.000 ở Nam Bộ,
30.000 ở Khu V. Đến cuối năm 1963, lực lƣợng bộ đội địa phƣơng tỉnh huyện tăng
gấp đôi so với năm 1962, tƣơng quan lực lƣợng về chủ lực giữa Quân giải phóng
và quân đội Sài Gòn đã chuyển từ 1 - 7 (năm 1961) xuống còn 1 - 5 (năm 1963).
Mặc dù vậy, sự phát triển của lực lƣợng Quân giải phóng lúc này còn khá
mất cân đối, nhất là giữa các quân khu và vùng miền: “Nam Bộ du kích mạnh
nhƣng chủ lực tập trung yếu; Khu V, Khu VI chủ lực tập trung tƣơng đối mạnh
nhƣng du kích quá yếu, có nơi chƣa có” [35, 146]. Mặt khác, tuy đã có các trung
đoàn chủ lực song hầu hết các đơn vị này đều đóng tại các hành lang chiến lƣợc để
bảo vệ các khu căn cứ, hoạt động tác chiến trong thời gian này vẫn là cấp đại đội,
tiểu đoàn là chủ yếu để phù hợp với hình thái chiến tranh du kích.
Phát triển các tuyến vận tải chiến lược, xây dựng mạng lưới hậu cần
trang bị cho quân đội
Nghị quyết tháng 1-1961 của Bộ Chính trị chỉ rõ nhiệm vụ: “Mở rộng đƣờng
hành lang vận chuyển Bắc - Nam, cả đƣờng bộ và đƣờng biển, nâng dần quy mô và
khối lƣợng tiếp tế vận chuyển phƣơng tiện vũ khí, cung cấp tài chính từ miền bắc
65
vào miền Nam” [91, 20]. Ngày 23-10-1961, Bộ Quốc Phòng quyết định phát triển
Đoàn 559 tƣơng đƣơng cấp sƣ đoàn, tăng lực lƣợng lên 4.000 ngƣời trực thuộc
Tổng cục Hậu cần.
Tuy nhiên, từ đầu năm 1961, địch đánh phá vô cùng ác liệt, nhiều khu vực
dọc đƣờng 9 bị biến thành vùng trắng, vùng trống, tuyến đƣờng phía Đông gặp vô
vàn khó khăn, có thời gian phải ngừng hoạt động, hiệu quả rất thấp. Trƣớc tình
hình đó, Trung ƣơng Đảng nhân dân cách mạng Lào nhất trí với đề nghị của Bộ
Chính trị mở tuyến đƣờng trên đất bạn, đồng thời cùng Pathet Lào mở rộng vùng
giải phóng ở Nam Lào. Từ ngày 11/4 - 3/5/1961, Quân khu IV phối hợp với bạn
mở chiến dịch Thà Khống, giải phóng một vùng đất rộng lớn dọc 2 trục đƣờng giao
thông chiến lƣợc 12 và 9 thuộc Nam Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho việc “lật cánh
đƣờng vận chuyển chiến lƣợc sang Tây Trƣờng Sơn”. Ngày 14-6-1961, Đoàn 559
chính thức bƣớc vào hoạt động trên tuyến đƣờng Tây Trƣờng Sơn [91, 21].
Trên các chiến trƣờng miền Nam, Trung ƣơng Cục điều hàng nghìn nam nữ
thanh niên lên đặt các trạm giao liên, mở đƣờng, đƣa đón cán bộ, bộ đội qua lại.
Quân khu V cũng kịp thời điều chỉnh các tuyến hành lang lên Tây Nguyên, vào
Nam Bộ. Toàn bộ lực lƣợng chuyển sang cho quân đội phụ trách, tổ chức thành các
đoàn hành lang (tƣơng đƣơng cấp tiểu đoàn). Phƣơng thức vẫn là vận tải thô sơ,
gùi, thồ là chủ yếu. Đầu năm 1962, Đoàn 559 đã có trên 1.000 chiếc xe đạp thồ,
trung bình mỗi chuyến các chiến sĩ chở 1 tạ hàng. Ngoài ra, Đoàn 559 còn sử dụng
voi, ngựa chuyển hàng ở những cung đƣờng hiểm trở hoặc lấy thuyền gỗ nhỏ
chuyển hàng từng quãng ngắn trên các con sông Bạc, Sê Băng Hiên, Sê Pôn… [128, 15].
Trong thời gian này, trên toàn tuyến chi viện Trƣờng Sơn, Đoàn 559 đã đƣa
đƣợc số lƣợng lớn ngƣời, vũ khí, đạn dƣợc… vào Khu V nhƣng chiến trƣờng Nam
66
Bộ vẫn hầu nhƣ bỏ ngỏ, phải chờ tuyến đƣờng biển [117, 9]. Không ngồi trông chờ
vũ khí do Trung ƣơng chuyển vào, từ năm 1961-1962, các tỉnh Nam Bộ, Nam
Trung Bộ đều chủ động tổ chức các đơn vị tàu, thuyền ra Bắc nhận vũ khí.
Đầu tháng 4-1962, Đoàn 759 cử 1 thuyền tiến hành trinh sát mở đƣờng từ
Bắc vào Nam. Sau khi đƣợc tin chuyến trinh sát thành công, tháng 5-1962, Quân
ủy Trung ƣơng thông qua nghị quyết mở đƣờng vận chuyển chiến lƣợc trên biển.
Ngày 16-10-1962, chuyến vận tải bằng thuyền gỗ đầu tiên đã cập bến Vàm Lũng
(Cà Mau). Tiếp đó, chỉ trong năm 1962, Đoàn 759 đã đi đƣợc 28 chuyến vào Nam
Bộ, chở 1.318 tấn vũ khí cho chiến trƣờng. Có thể nói không có một phƣơng thức
nào trong thời gian ngắn đƣa đƣợc nhiều vũ khí nhƣ vậy vào Nam Bộ [117, 10].
Cuối năm 1962, miền Tây Nam Bộ đã thành lập Đoàn 962 để phụ trách việc
tổ chức tiếp nhận vũ khí. Đoàn lập 3 bến chính: M1 (Cà Mau), M2 (Trà Vinh), M3
(Bến Tre). Miền Đông Nam Bộ thành lập Đoàn 555 (sau đổi là Đoàn 1500) xây
dựng các bến Lộc An, Thá… Trên địa bàn Nam Trung Bộ, các địa phƣơng cũng đã
thiết lập một hệ thống bến để tiếp nhận hàng từ miền Bắc vào nhƣ Vũng Rô (Phú
Yên), Lộ Giao (Bình Định), Đạm Thủy (Quảng Ngãi), Bình Đào (Quảng Nam)…
[97, 31-32].
Bên cạnh sự chi viện từ miền Bắc, hệ thống hậu cần tại chỗ tại các căn cứ
chiến lƣợc ở chiến trƣờng miền Nam cũng đƣợc hình thành nhằm đảm bảo thực
hiện theo tinh thần “Hậu cần chiến trƣờng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh,
ra sức tạo nguồn tại chỗ, đồng thời phải tiếp nhận tốt sự chi viện về sức ngƣời, sức
của từ hậu phƣơng lớn miền Bắc”.
Sau nhiều lần họp bàn, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo, chỉ
huy, tháng 9-1961, Trung ƣơng Cục quyết định dời cơ quan lãnh đạo của Trung
67
ƣơng Cục, Ban Quân sự Miền và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
(thành lập từ ngày 20-12-1960) từ khu A về khu B, đặt căn cứ tại vùng Trảng
Chiên, Xa Mát, Lò Gò, Bắc Tây Ninh, khu vực giáp với biên giới Cambodia..
Khu A đƣợc xây dựng trên đất chiến khu D thời chống Pháp, mở rộng lên
phía Bình Long, Phƣớc Long, Quảng Đức, nằm giữa Tây Nguyên và Nam Bộ.
Tháng 12-1960, Xứ ủy quyết định tổ chức căn cứ khu A, có nhiệm vụ: xây dựng
thành một căn cứ hoàn chỉnh, sản xuất nhiều lƣơng thực, chuẩn bị vật chất đón tiếp
lực lƣợng từ miền Bắc tiến vào, phát triển lực lƣợng vũ trang từ 1-2 tiểu đoàn, tổ
chức du kích bảo vệ căn cứ, bảo vệ đƣờng dây nối liền với Trƣờng Sơn và các tỉnh
lân cận… [42, 51]. Lúc đầu, khu A giao về Quân khu miền Đông quản lý, mang
phiên hiệu C.150, quân số gồm 500 cán bộ, chiến sĩ gồm lực lƣợng sản xuất và đơn
vị bảo vệ cho 1.000 nhân khẩu trong căn cứ. Từ tháng 9-1961, đƣợc bổ sung thêm
cán bộ từ miền Bắc vào, khu A mang phiên hiệu mới là U.50, quân số lên đến
3.000 ngƣời, chuyển về trực thuộc Trung ƣơng Cục, mà trực tiếp là Ban Quân sự
Miền [134, 106].
Khu B - căn cứ Dƣơng Minh Châu thời chống Pháp - đƣợc mở rộng lên
vùng Đông Bắc Tây Ninh. Khu B là vùng rừng bằng, đƣờng giao thông rất thuận
lợi, nối liền từ căn cứ của Miền đến nhiều cơ sở cách mạng nội đô Sài Gòn. Căn cứ
này còn tiếp giáp với Cambodia, trong lúc chính phủ Sihanouk đang thực hiện
chính sách ngoại giao “trung lập”, tiện móc nối với cơ sở ở Cambodia bảo đảm về
mặt hậu cần, liên lạc ra nƣớc ngoài và về miền Bắc, sau sẽ trở thành con đƣờng
quá cảnh tiếp tế vũ khí, đạn dƣợc từ hậu phƣơng lớn vào B2 và Tây Nguyên.
Tổ chức hậu cần của các quân khu cũng từng bƣớc đƣợc hình thành với việc
thành lập các phòng hậu cần và khu căn cứ trực thuộc. Quân khu miền Đông Nam
Bộ có 2 căn cứ ở Bắc sông Đồng Nai và chiến khu D. Miền Trung Nam Bộ có 5
68
căn cứ ở Đồng Tháp Mƣời, vùng 4 Kiến Tƣờng, Nam Bắc lộ 4 tỉnh Mỹ Tho, vùng
Long An và Chợ Gạo. Miền Tây Nam Bộ có 3 căn cứ ở U Minh, Đầm Dơi, Năm
Căn. Sài Gòn - Gia Định có 2 căn cứ ở An Nhơn Tây và Hố Bò. Quân khu V lập 2
kho hậu cần ở A Sầu, A Túc để tiếp nhận hàng chi viện từ miền Bắc vào. Các ban
hậu cần tại các tỉnh cũng ra đời.
Các bộ phận chuyên môn về quân giới, quân y, quân nhu cũng dần đƣợc xây
dựng. Các ban quân giới, quân y, quân nhu đƣợc thành lập trực thuộc các phòng
hậu cần của Miền và các quân khu. Về quân giới, Miền có các xƣởng Z24 (khu A),
B55 (khu B), gần 20 kho trữ vũ khí. Đông Nam Bộ thành lập đƣợc các xƣởng quân
giới ở Tây Ninh, Phƣớc Long, Bình Dƣơng. Tây Nam Bộ ngoài 2 xƣởng quân giới
Khu IX (T3) và Cà Mau (U1), các tỉnh đều có xƣởng quân giới. Khu V thành lập
các xƣởng cơ khí X10 (Quảng Nam), FX2 (Bình Định) đồng thời xây dựng các
xƣởng quân giới ở Phú Yên, Kon Tum, Đăk Lăk, Gia Lai… Vũ khí các xƣởng sản
xuất ra lúc này chủ yếu là lựu đạn, mìn, bộ phá cùng các phƣơng tiện vũ khí thô sơ
trang bị nhƣ súng kíp, súng “ngựa trời”, hầm chông… [44, 94-95].
Do chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt, số lƣợng thƣơng binh tăng vọt nên
mạng lƣới quân y của toàn Miền dần đƣợc hình thành. Với số cán bộ từ miền Bắc
đƣa vào, tại các trung đoàn chủ lực đã có bác sĩ quân y đến các đội phẫu thuật,
bệnh xá. Miền, các quân khu và các tỉnh đều đƣợc xây dựng đƣợc các bệnh xá hoặc
cơ sở khám chữa đối với thƣơng binh. Đội ngũ y, bác sỹ dần xuất hiện. Chỉ tính
riêng năm 1963, toàn Miền đã đào tạo đƣợc 239 cán bộ quân y. Tuy nhiên, do điều
kiện khó khăn, hầu hết số thuốc lúc này vẫn rất hạn chế, chủ yếu phải mua từ vùng
địch hoặc dựa vào các thảo dƣợc thiên nhiên [45, 220].
Nhìn chung, hậu cần cho các đơn vị trên toàn chiến trƣờng miền Nam từ
năm 1961-1963, nhất là Nam Bộ, vẫn chủ yếu là hậu cần tại chỗ, đáp ứng yêu cầu
69
của một cuộc chiến tranh du kích. Các tuyến đƣờng vận tải chiến lƣợc đã mang vào
hàng chục ngàn tấn vũ khí, quân nhu, quân dụng cùng hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ
song ngƣời vẫn chỉ là các khung cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn lấy từ các đơn vị
miền Nam tập kết cũ, các loại vũ khí thì Trung ƣơng yêu cầu “Để đảm bảo bí mật
khi sử dụng, các loại trang bị đều phải do các nƣớc đế quốc sản xuất hoặc sản xuất
theo kiểu Mỹ, không có nhãn hiệu” [35, 169]. Trang bị vũ khí cho Quân giải phóng
lúc này vẫn là các loại vũ khí của Âu - Mỹ do chi viện từ Bắc vào hoặc thu chiến
lợi phẩm từ địch cùng nhiều loại vũ khí thô sơ nhƣ hầm chông, súng “ngựa trời”…
Bước đầu thực hiện công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ
trang
Bám sát sự phát triển của chiến trƣờng, ngay từ cuối tháng 11-1960, Tổng
cục Chính trị đã xây dựng kế hoạch bồi dƣỡng, đào tạo cán Bộ Chính trị và chuyên
môn dự trữ cho miền Nam. Đến tháng 3-1962, trong kế hoạch công tác cán bộ đối
với miền Nam gửi lên Quân ủy Trung ƣơng, Tổng cục Chính trị xác định: “Trong
xây dựng đội ngũ cán bộ cho miền Nam, cần nắm vững nguyên tắc: Lấy chính trị
làm gốc, lấy công - nông làm nòng cốt… cần tăng cƣờng cho miền Nam những cán
bộ chỉ đạo có kinh nghiệm về hoạt động vũ trang, đồng thời có kinh nghiệm về
hoạt động công tác chính trị…” [123, 399].
Về phƣơng hƣớng, nhiệm vụ chung của công tác Đảng, công tác chính trị
trong Quân giải phóng, Tổng cục Chính trị nêu rõ: “Phải tăng cƣờng sự lãnh đạo
của Đảng ủy các cấp và tích cực tiến hành công tác chính trị để nâng cao trình độ
chính trị cho bộ đội, nâng cao giác ngộ dân tộc dân chủ, phát huy truyền thống
quyết chiến quyết thắng, bồi dƣỡng quan điểm trƣờng kỳ, gian khổ, tự lực cánh
sinh và lòng tin tƣởng nhất định thắng lợi, luôn luôn cố gắng đoàn kết và kỷ luật,
bảo đảm cho bộ đội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh khó
70
khăn, phức tạp” [123, 402].
Tháng 10-1962, Trung ƣơng Cục và Ban Quân sự Miền tổ chức Hội nghị
công tác chính trị và công tác Đảng trong Quân giải phóng miền Nam. Hội nghị
thống nhất nhận định: “Trải qua những bƣớc vấp váp lúc đầu nhƣng đƣợc bồi
dƣỡng, uốn nắn, công tác chính trị và công tác Đảng dƣới sự lãnh đạo của Đảng
dần đi vào nề nếp. Vì vậy, tuy trình độ lý luận không cao, nhận thức chƣa đầy đủ,
trong công tác thực tế, về cơ bản chúng ta đã đi đúng phƣơng hƣớng, đƣờng lối,
chính sách của Đảng, nhờ đó mà quân đội ta tuy chƣa thật vững mạnh, cũng đã thể
hiện rõ rệt là một quan đội kiểu mới của giai cấp công nhân và trong thời gian qua
đã đóng góp đƣợc một phần quan trọng vào thành tích chung của cách mạng” [123,
403].
Trên cơ sở thực tế của Quân giải phóng và yêu cầu của giai đoạn mới, Hội
nghị xác định: “Quán triệt sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội; nắm
vững đƣờng lối giai cấp trong xây dựng Đảng, xây dựng quân đội; nắm vững
nguyên tắc cơ bản của công tác chính trị, tăng cƣờng đoàn kết nội bộ, đoàn kết
quân dân, đoàn kết quốc tế, làm tan rã địch; nắm vững phƣơng pháp cơ bản là thực
hiện đƣờng lối quần chúng, tin yêu và dựa vào quần chúng, phát huy trí tuệ và khả
năng sáng tạo của quần chúng, giữ vững quan điểm “chính trị làm gốc, tƣ tƣởng
dẫn đầu” [123, 404].
Hội nghị đánh dấu cột mốc của việc tăng cƣờng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân giải phóng miền Nam. Sau
Hội nghị, bằng nhiều hình thức, các cấp ủy Đảng đã đẩy mạnh giáo dục chính trị,
tƣ tƣởng cho cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là trƣớc, trong và sau những thời điểm quan
trọng, có tính chất quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc trên địa
bàn. Tại Quân khu VII, đến tháng 12-1963, đã có 78% số cán bộ, đảng viên đƣợc
71
học tập chính trị về tình hình, nhiệm vụ cách mạng miền Nam [13, 13].
Hệ thống tổ chức Đảng trong các đơn vị cũng đƣợc xây dựng, kiện toàn theo
mỗi bƣớc phát triển của lực lƣợng vũ trang giải phóng. Trung ƣơng Cục và các cấp
ủy Đảng địa phƣơng luôn chú ý đƣa nhiều đảng viên có kinh nghiệm vào làm nòng
cốt xây dựng các đơn vị lực lƣợng vũ trang. Cuối năm 1961, số đảng viên trong các
đơn vị bộ đội tập trung chiếm 50% số lƣợng đảng viên toàn Đảng bộ miền Nam
[134, 130].
Tuy mới chỉ là những bƣớc khởi đầu, nhƣng hoạt động công tác Đảng, công
tác chính trị trong 3 thứ quân ở miền Nam đã góp phần xây dựng Quân giải phóng
ngày càng vững mạnh về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức, làm nòng cốt phát triển
chiến tranh du kích rộng khắp, làm thất bại mọi âm mƣu, thủ đoạn nham hiểm tàn
bạo của kẻ thù.
2.3. Đánh bại kế hoạch Staley - Taylor và quốc sách “Ấp chiến lƣợc”
của Mỹ - Diệm
Bƣớc vào cuộc chiến đấu, tình hình thực tế có nhiều diễn biến phức tạp.
Địch đang dần suy yếu nhƣng lực lƣợng quân sự hầu nhƣ còn nguyên vẹn và so với
cách mạng thì còn rất lớn, vẫn đang khống chế đƣợc những vùng chủ yếu ở đồng
bằng cũng nhƣ miền núi. Với sự giúp đỡ tích cực của Mỹ, quân Sài Gòn đã chuyển
từ chuẩn bị tấn công ra Bắc sang tập trung toàn bộ lực lƣợng để tiêu diệt Quân giải
phóng miền Nam. Cách mạng thì vẫn chƣa làm chủ đƣợc vùng rừng núi, trình độ
của các cơ sở còn thấp, lực lƣợng vũ trang chƣa mạnh [35, 86].
Trên cơ sở nhận định tình hình, ngày 26-6-1961, Quân ủy Trung ƣơng đã ra
Chỉ thị về đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở miền Nam, nêu rõ phƣơng hƣớng, nhiệm
vụ là “tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã quân đội và chính quyền của chúng, bồi
72
dƣỡng lực lƣợng của ta”, “Phƣơng châm tác chiến trƣớc mắt là du kích chiến, dần
dần sẽ kết hợp một cách thích hợp du kích với vận động chiến và công kiên
chiến”… [35, 61].
Mở đầu, chiến thắng nổi bật nhất của quân và dân Nam Bộ trong năm 1961
là trận đánh Phƣớc Thành. Phƣớc Thành là một địa bàn xung yếu nằm ở cửa ngõ
quan trọng của chiến khu D, căn cứ địa cách mạng của miền Đông và cả chiến
trƣờng Nam Bộ, là căn cứ khống chế và bàn đạp xuất phát hành quân của địch
đánh phá vùng chiến khu D. Trƣớc tình hình đó, đầu tháng 9-1961, Khu ủy và Bộ
Tƣ lệnh Quân khu miền Đông quyết định tấn công tiêu diệt tiểu khu quân sự Phƣớc
Thành. Lực lƣợng tham gia gồm Tiểu đoàn 500, Đại đội 260 đặc công - trinh sát,
phân đội ĐKZ 57 ly làm nhiệm vụ chủ công đánh vào tỉnh lỵ.
Sau khi nắm chắc cách bố trí lực lƣợng của địch, Ban chỉ huy chọn cách
đánh: “Bí mật tiềm nhập kết hợp với vận động tiến công”, thực hiện trong đánh ra
ngoài đánh vào. Đây là trận tiến công quy mô đầu tiên của Quân giải phóng vào
một tỉnh lỵ của địch. Kết quả, đã loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn biệt động
quân, 1 tiểu đoàn bảo an, 1 chi đội thiết giáp, 1 đại đội cảnh sát dã chiến và 1 tổng
đoàn dân vệ với 300 tên bị diệt tại chỗ, 400 tên đầu hàng [76, 49]. Bộ Quốc phòng
Mỹ phải xác nhận ý nghĩa to lớn của trận đánh này: “Trận tiến công lớn nhất đã có
tác động làm cho Sài Gòn nhốn nháo là trận họ đánh chiếm Phƣớc Thành, một tỉnh
lỵ cách Sài Gòn có 55 dặm. Việt cộng chiếm giữ thị xã này gần suốt cả ngày và
công khai chặt đầu viên tỉnh trƣởng và rút lui trƣớc khi quân đội Việt Nam tới”
[96, 93].
Ở Khu V, ngày 30-8-1961, bộ đội khu kết hợp với địa phƣơng đánh chiếm
quận lỵ Đăk Hà (Kon Tum), diệt gọn quân địch trong cứ điểm. Ngày 2-9-1961, 2
tiểu đoàn của Sƣ đoàn 22 địch từ Đăk Tô kéo xuống chiếm lại Đăk Hà. Lực lƣợng
73
đánh viện của ta đã biết vận dụng lợi thế về địa hình, tạo ra thế chia cắt đánh địch
từ nhiều hƣớng. Sau một ngày chiến đấu liên tục, Quân giải phóng diệt gần hết tiểu
đoàn đi đầu, đánh tan tiểu đoàn thứ hai, bắt hơn 100 tù binh, thu gần 1 tấn súng
đạn. Cũng thời gian này, bộ đội khu phối hợp với bộ đội tỉnh diệt cứ điềm Làng Rô
(Tây Quảng Nam), diệt và bức rút nhiều đồn ở Vĩnh Thạnh (Tây Bình Định), Ba
Tơ, Sơn Hà (Tây Quảng Ngãi). Ở Gia Lai, lực lƣợng vũ trang diệt đồn Cửu An,
Kan Năk, tập kích địch ở thị trấn An Khê và nhiều đồn khác, bắt sống 300 tên.
Tại Khu VI, lực lƣợng vũ trang các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận tiêu diệt
các cứ điểm ở Gia Bát, Láng Cốc, La Bá. Tháng 9-1961, Tiểu đoàn 120 diệt đồn
Cửu Lợi thuộc quận Cam Lâm (Ninh Thuận). Sau đó, Tiểu đoàn 120 phối hợp với
bộ đội tỉnh Khánh Hòa đánh địch ở Cấm Sơn, diệt 1 đại đội bảo an, 1 chi đội xe
bọc thép, thu toàn bộ vũ khí. Cuối năm 1961, theo sự chỉ đạo của Khu, Tiểu đoàn
120 chuyển một nửa lực lƣợng sang hoạt động ở phía Bắc Ninh Thuận để hỗ trợ
cho phong trào ở đây, diệt đồn Mỹ Tƣờng, chặn đánh thiệt hại 1 đại đội bảo an
tăng cƣờng của tiểu khu Phan Rang.
Sau một năm tiến hành chiến tranh cách mạng, trên mặt trận quân sự, Quân
giải phóng đã mở 15.525 trận tiến công, phản công lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến
đấu 28.966 tên, bắt 3.529 tên khác, thu 6.000 súng các loại. Tuy vậy, từ khởi nghĩa
vũ trang từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, năm đầu chƣa có kinh
nghiệm về tổ chức lực lƣợng, về phƣơng pháp đấu tranh 2 chân 3 mũi trên cả 3
vùng chiến lƣợc; mặt khác, lực lƣợng vũ trang, tuy có phát triển, nhƣng còn ít về
số lƣợng, yếu về trang bị vũ khí, kinh nghiệm chiến đấu. Vì vậy, trƣớc những biện
pháp và thủ đoạn chiến lƣợc mới của địch, phong trào đấu tranh của nhân dân ở
nhiều nơi còn bị động và gặp tốn thất lớn.
Kế hoạch Staley - Taylor coi việc xây dựng hệ thống ấp chiến lƣợc là xƣơng
74
sống của chiến tranh đặc biệt. Bởi thế, từ tháng 4-1962, địch nâng lên thành quốc
sách, đem thực hiện trên toàn miền Nam với phƣơng châm là: càn quét để dồn dân,
lập ấp chiến lƣợc. Chính quyền Sài Gòn hy vọng khi xây dựng xong ấp chiến lƣợc
trên toàn miền Nam thì cộng sản sẽ suy tàn, vì đã trục xuất đƣợc du kích ra khỏi
nhân dân. Mỹ - Diệm gọi năm 1962 là năm phản công, năm lập ấp chiến lƣợc.
Ngày 18-2-1962, địch huy động 9 tiểu đoàn chủ lực mở chiến dịch đánh vào
vùng U Minh Hạ (Cà Mau) để dồn 60.000 dân vào ấp chiến lƣợc, dùng bom đạn
phá nát những cánh rừng, làng mạc, ruộng đồng, cƣớp đi hàng trăm giạ lúa, hàng
chục trâu bò… Đến ngày 23-2, địch mở tiếp chiến dịch “Mặt trời mọc” gồm 8.000
quân, 50 máy bay lên thẳng và nhiều máy bay khác đánh phá cơ sở cách mạng,
truy lùng lực lƣợng vũ trang và gom dân lập ấp chiến lƣợc ở Bến Cát và một số
tỉnh miền Đông Nam Bộ. Trong gần 3 tháng, quân đội Việt Nam Cộng hòa mở
hàng trăm cuộc càn quét, đốt trên 3.000 nóc nhà, 32.000 giạ lúa, phá 15.000 mẫu
vƣờn, giết chết 48 đồng bào, bắt giam 1.337 ngƣời. Suốt trong thời gian càn quét,
bộ đội và dân quân, du kích tích cực bám sát địch, tổ chức đánh 253 trận, diệt 300
tên lính, 7 xe quân sự.
Trong khi cuộc đấu tranh của quân và dân Nam Bộ đang diễn ra quyết liệt,
thì ở Khu V, Khu ủy và Bộ Tƣ lệnh Quân khu chủ trƣơng mở đợt hoạt động đầu
năm 1962, phát động nhân dân nổi dậy bằng 3 mũi giáp công để phá kìm kẹp, phá
ấp chiến lƣợc, giải phóng nông thôn. Các lực lƣợng vũ trang giải phóng mở hàng
loạt trận tiến công tiêu diệt quận lỵ Trà Mi (Quảng Nam), Trà Bồng (Quảng Ngãi),
các cứ điểm Định Quang, Hƣơng Nhơn (Bình Định), An Lĩnh, Núi Miếu, Hòn
Ngang (Phú Yên).
Ngày 8-5-1962, quân đội Sài Gòn mở chiến dịch Hải Yến, đánh phá suốt 8
tháng liền vùng nông thôn tỉnh Phú Yên để hỗ trợ cho bọn bình định dồn dân, xây
75
dựng 270 ấp chiến lƣợc. Trong 8 tháng đó, quân và dân Phú Yên đánh địch 150
trận, tiêu diệt 1.600 tên, phá 5 đoàn xe quân sự chở quân đến ứng cứu, bắn rơi 2
máy bay, làm ảnh hƣởng lớn đến kế hoạch bình định của địch.
Để hỗ trợ cho việc mở dân ở đồng bằng, lực lƣợng vũ trang các tỉnh Ninh
Thuận, Bình Thuận liên tiếp đánh địch ở các cứ điểm Tứ Tâm, Hữu Đức (Ninh
Thuận), Đồng Kho (Bình Thuận), đồng thời phục kích diệt 4 đoàn tàu quân sự trên
đoạn đƣờng Ma Lâm - Long Thành, Ma Lâm - Mƣờng Mán, Ma Lâm - Suối Vận.
Bên cạnh những trận chống địch càn quét, dồn dân, các đội đặc công, biệt
động luồn sâu đánh vào kho tàng, cơ quan đầu não của địch ở trong các thành phố,
thị xã. Nổi bật là ngày 25-6-1962, các chiến sĩ biệt động mƣu trí, táo bạo đánh kho
xăng Tân Sơn Nhất, đốt cháy hàng triệu lít xăng, làm chấn động Sài Gòn.
Trong những tháng cuối năm 1962, quân và dân Nam Bộ liên tiếp đánh bại
các cuộc hành quân càn quét của địch. Từ ngày 15 - 30/8/1962, Mỹ - Diệm mở
chiến dịch Bình Tây gồm 8 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo, 130 xuồng chiến
đấu, 40 trực thăng… nhằm tiêu diệt du kích, chiếm lại phần đất đã mất và tiến hành
rộng khắp việc dồn dân vào các ấp chiến lƣợc. Ngày 10-10-1962, địch mở chiến
dịch Sao Mai với 6.000 quân thuộc các sƣ đoàn chủ lực 5, 7, 21, gần 100 chiếc
M113, nhiều máy bay các loại, chủ yếu càn quét vào các vùng từ Long An đến Tây
Ninh, cả lƣu vực sông Vàm Cỏ Đông, vòng cung phía Tây Nam và Tây Bắc Sài
Gòn. Ngày 20-11-1962, chính quyền Sài Gòn mở tiếp chiến dịch Thu Đông, càn
quét vào chiến khu D, nơi các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy của Miền đang ở và làm
việc. Trong chiến dịch này, có nhiều cố vấn và 200 lính Mỹ tham gia lái máy bay
chiến đấu, vận chuyển tiếp tế. Để hỗ trợ cho càn quét, trong năm 1962, Bộ Quốc
phòng Việt Nam Cộng hòa công khai tuyên bố chƣơng trình phát quang ở miền
Nam, tập trung vào các khu vực Biên Hòa - Bà Rịa - Tây Ninh (Đông Nam Bộ), U
76
Minh (Tây Nam Bộ), Tây Nguyên, rải chất độc hóa học hủy diệt từng khu rừng và
nhiều ruộng lúa, hoa màu. Quân, dân chiến khu D và những vùng chung quanh
kiên cƣờng bám trụ, vƣợt qua ác liệt, chiến đấu đánh bại các mũi tiến công của
địch, bảo vệ an toàn căn cứ.
Ở Khu V, việc mở rộng vùng giải phóng và đƣa lực lƣợng vũ trang trụ lại ở
đồng bằng là một yêu cầu bức thiết. Khu ủy và Bộ Tƣ lệnh Quân khu chủ trƣơng
mở đợt hoạt động mùa mƣa năm 1962 nhằm tiến công phá vỡ hệ thống kìm kẹp
của địch ở nông thôn đồng bằng.
Chiến thắng nổi bật trong tháng 8-1962 của Khu V là trận đánh máy bay trực
thăng đổ quân của địch tại Nà Niêu. Tiểu đoàn 90 của Quân khu sau hơn 6 giờ
chiến đấu quyết liệt, đã đánh bại cuộc hành quân bằng 30 máy bay trực thăng vận
của địch vào Nà Niêu, bắn rơi 12 máy bay lên thẳng, có bốn chiếc rơi tại chỗ. Với
thắng lợi có ý nghĩa chiến thuật này, ngày 6-9-1962, Đại tƣớng Tổng tƣ lệnh Võ
Nguyên Giáp đã điện chỉ thị cho Khu V và Nam Bộ rút kinh nghiệm phổ biến cho
lực lƣợng vũ trang các địa phƣơng vận dụng, phá cho đƣợc chiến thuật cơ động
bằng trực thăng và thiết giáp của địch [33].
Sang tháng 9, Quân khu V sử dụng 4 tiểu đoàn chủ lực cùng lực lƣợng vũ
trang địa phƣơng mở đợt tác chiến “vƣợt sông Tiên” tiến công phá vỡ hệ thống
kìm kẹp của địch ở khu vực giáp ranh 4 huyện Tiên Phƣớc, Quế Sơn, Thăng Bình,
Tam Kỳ (Quảng Nam) hỗ trợ cho nhân dân phá banh 27 ấp chiến lƣợc, làm chủ 7
xã, 13 thôn [95, 29-30].
Tại Khu VI, cuộc chiến đấu cũng diễn ra giằng co, quyết liệt. Thực hiện chủ
trƣơng của Khu đƣa bộ đội chủ lực đánh vào 1 chi khu quân sự của địch có công sự
phòng ngự vững chắc để rút kinh nghiệm, đồng thời tạo thế cho phong trào phá ấp
chiến lƣợc, ngày 4-8, lực lƣợng vũ trang tỉnh Bình Thuận đã nổ súng tiến công chi
77
khu quận lỵ Hàm Tân. Sau 15 phút chiến đấu, bộ đội đã làm chủ chi khu, diệt và
làm bị thƣơng 136 tên, bắt sống 9 tên, gọi hàng 5 tên, thu toàn bộ vũ khí, trang bị
và các máy thông tin. Tiếp theo, lực lƣợng vũ trang phục kích diệt gọn 1 đại đội
bảo an kéo đến tiếp viện, diệt gần 100 tên.
Ngày 4-10, Sƣ đoàn 23 quân Sài Gòn mở chiến dịch An Lạc đánh phá quyết
liệt các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức, Đăk Lăk nhằm phá tuyến hành lang chiến
lƣợc chạy qua Nam Tây Nguyên. Để bảo vệ nơi đứng chân, đồng thời tiêu diệt bộ
phận sinh lực địch, Quân khu VI quyết định điều Tiểu đoàn 840 từ Khánh Hòa lên
cùng Tiểu đoàn 186 làm lực lƣợng chủ yếu tiêu diệt cứ điểm Đầm Ròn, nơi địch
đặt sở chỉ huy Bộ Tƣ lệnh hành quân, sở chỉ huy Trung đoàn 45. Đêm 5-12, 4 đại
đội bộ binh, 1 đại đội đặc công và một bộ phận hỏa lực táo bạo, bất ngờ tiến công
địch bằng chiến thuật mật tập. Sau 55 phút chiến đấu, bộ đội làm chủ khu trung
tâm, đánh thiệt hại nặng sở chỉ huy hành quân, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300
tên, phá hỏng nhiều vũ khí, điện đài và các trang bị kỹ thuật. Phát huy chiến thắng,
ngày 11-12, Đại đội 2, Tiểu đoàn 186 dũng cảm quần đánh với 2 đại đội tại khu rẫy
Đăk - Trepun, diệt 40 tên, địch phải rút về phía tả ngạn sông Krông Nô, căn cứ
đƣợc bảo vệ an toàn.
Nhìn chung, đến cuối năm 1962, toàn bộ hoạt động của Mỹ - Diệm đều tập
trung để thực hiện 3 âm mƣu lớn: tấn công liên tục nhằm tiêu diệt lực lƣợng cách
mạng, tập trung dân lập ấp chiến lƣợc, bao vây, phong tỏa, chặn mọi sự trợ giúp từ
ngoài vào cho cách mạng miền Nam. Phƣơng châm chiến lƣợc của Quân giải
phóng trên chiến trƣờng là “kìm chế địch trong cuộc chiến tranh du kích và dùng
chiến tranh du kích để thắng địch” [35, 280], “tránh những cuộc tấn công đột xuất,
rầm rộ… để bộc lộ lực lƣợng và khả năng của ta sớm làm cho địch hốt hoảng, tích
cực tìm những biện pháp đối phó quyết liệt, làm cho bè lũ đế quốc và dƣ luận thế
78
giới xôn xao, chƣa có lợi cho ta” [35, 96], “chống càn quét” [35, 200] góp phần
làm phá sản bƣớc đầu kế hoạch hoạch Staley - Taylor về bình định miền Nam
trong vòng 18 tháng.
Mặc dù vậy, cuộc đấu tranh vẫn diễn ra giằng co quyết liệt. Bên cạnh những
thắng lợi, ở nhiều địa phƣơng, phong trào đấu tranh vũ trang còn yếu, lực lƣợng bị
tổn thất lớn. Trong các cuộc hành quân, quân đội Sài Gòn dƣới sự điều hành của cố
vấn Mỹ dùng trực thăng chở quân và xe thiết giáp M113 có sức cơ động nhanh, bất
ngờ mở các cuộc tiến công vào bất cứ khu vực nào. Với trực thăng vũ trang và các
loại pháo lớn, nhỏ, Mỹ có thể chi viện hỏa lực cho các đơn vị quân đội Sài Gòn
một cách kịp thời và mạnh mẽ, trong mọi điều kiện thời tiết, địa hình. Trong nhiều
trƣờng hợp, bộ đội, du kích hoàn toàn bị bất ngờ, không cách nào chống đỡ, buộc
phải phân tán nhỏ lẻ, rút lui dƣới sự quần đảo, truy đuổi gắt gao của máy bay trực
thăng trên bầu trời và xe tăng thiết giáp M113 dƣới mặt đất. Đã có không ít đơn vị
cấp đại đội, trung đội Quân giải phóng bị loại khỏi vòng chiến đấu, nhiều cán bộ,
chiến sĩ bị bắt…
Vấn đề phá ấp chiến lƣợc cũng gặp nhiều khó khăn. Khi địch mới lập ấp
chiến lƣợc, một số cán bộ đã chủ quan, cho rằng: “Địch gom phần lớn là đồng bào
nông dân đã kinh qua Đồng khởi. Địch sử dụng một số ác ôn đến bắt đồng bào phải
tổ chức bộ máy kìm kẹp gồm chồng, con, em họ, vậy cứ để cho nó làm. Làm xong,
ấp chiến lƣợc của nó sẽ nhanh chóng chuyển thành ấp chiến đấu của ta thôi”.
Nhƣng thực tế diễn ra không đúng nhƣ sự đánh giá đơn giản đó. Phƣơng pháp đánh
phá ấp chiến lƣợc bằng cách ban đêm dùng lực lƣợng nhỏ từ bên ngoài kết hợp với
lực lƣợng bên trong nổi dậy đã không đem lại kế quả, bởi vì sáng ra địch bắt những
ngƣời tham gia phá trong đem làm lại chắc chắn gấp 2, 3 lần cái đã phá và rút kinh
nghiệm bố phòng nghiêm ngặt hơn. Hoặc lực lƣợng vũ trang tấn công tiêu diệt đồn
bốt trong ấp chiến lƣợc vừa rút đi thì địch đóng đồn lại nhƣ cũ, lực lƣợng phòng
thủ đƣợc tăng cƣờng mạnh hơn. Trong khi đó, ngƣời dân trong ấp chiến lƣợc khó 79
có thể về làng cũ khi quê hƣơng đã trở thành vùng oanh kích tự do, bọn biệt động
quân, biệt kích, bảo an hàng đêm bắn phá [66, 221-222]. Mặt khác, do đòn tiến
công quân sự suy giảm, phong trào phá ấp chiến lƣợc tại nhiều nơi bị chững lại,
chùng xuống.
Các cấp lãnh đạo, chỉ huy ở chừng mực nào đó tỏ ra lo lắng và lúng túng
trong việc đề ra phƣơng hƣớng, biện pháp chỉ đạo quân và dân đối phó với những
thủ đoạn tác chiến mới của kẻ thù. Kết quả, trong 9 tháng đầu năm 1962, địch đã
gây cho cách mạng những thiệt hại nặng nề: 36.200 ngƣời hy sinh, bị thƣơng, bị
bắt, trong đó có 25.000 cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng. Vùng đồng bằng sông
Cửu Long, địch lấn chiếm 2 triệu dân, cơ sở cách mạng bị bật ra ngoài các thôn xã.
Vùng đồng bằng Khu V chỉ còn 904 thôn có cơ sở với 700 đảng viên… [136, 144].
Trƣớc tình hình trên, lực lƣợng vũ trang và nhân dân các địa phƣơng trên
toàn miền Nam khẩn trƣơng chuẩn bị về tinh thần vật chất và phƣơng pháp chống
địch càn quét, quyết tâm đánh bại các biện pháp chiến thuật dùng máy bay trực
thăng và xe bọc thép của địch.
Chiến trƣờng Khu VIII (miền Trung Nam Bộ) cũng là nơi với chiến thuật
mới và phƣơng tiện chiến tranh hiện đại, lúc đầu địch gây cho lực lƣợng cách
mạng những thiệt hại đáng kể. Nhƣng thực tế chiến đấu đã giúp cho quân và dân
Khu VIII nhận dạng rõ hơn chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, nhanh chóng tổng kết
thành kinh nghiệm để phá cho đƣợc các biện pháp chiến thuật, phƣơng tiện chiến
tranh mới của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Ngày 7-9-1962, Hội nghị Thƣờng vụ Tỉnh ủy Mỹ Tho với sự tham gia của
một số Khu ủy viên và Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục đã bàn về chuyên đề chống càn
và phá ấp chiến lƣợc. Hội nghị thảo luận sôi nổi và đi đến quyết định: “Lực lƣợng
80
vũ trang tập trung phải tấn công ra vùng ngoài, kết hợp với cơ sở bên trong phá ấp
chiến lƣợc”, “phải đứng lại đánh càn”, “không tránh né càn”, “Phải chuẩn bị sẵn
sàng trận địa công sự vững chắc, có thế xã, ấp chiến đấu và thế 3 mũi tấn công của
các lực lƣợng” [71, 29]. Đến tháng 11-1962, Thƣờng vụ Khu ủy Khu VIII triệu tập
Hội nghị cán bộ mở rộng, ra nghị quyết khẳng định: “Bộ đội tập trung dám đứng
lại, có chuẩn bị sẵn thế trận, có công sự vững chắc thì hoàn toàn có khả năng đánh
càn thắng lợi” [66, 225]. Vấn đề đặt ra ở đây là có dám đánh, có quyết tâm đánh và
chủ động chuẩn bị trận địa công sự vững chắc hay không? Trong toàn Khu, một
thế trận mới đã sẵn sàng và trong bối cảnh đó, trận Ấp Bắc diễn ra.
Ngày 2-1-1963, tại Ấp Bắc, Khu ủy Khu VIII, Tỉnh ủy Mỹ Tho điều động
Đại đội 1 Tiểu đoàn 261, Đại đội 1 Tiểu đoàn 514, 1 khẩu đội pháo cối 60 ly, trung
đội bộ đội huyện Châu Thành, khẩn trƣơng chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng
cuộc càn quét của địch. Trên cơ sở một ấp chiến đấu có hệ thống công sự, trận địa
đã đƣợc xây dựng từ trƣớc, bộ đội và du kích đã củng cố và cải tạo hoàn thiện cho
phù hợp với ý định bố trí lực lƣợng và cách đánh của mình. Đồng thời, các phƣơng
án đánh máy bay, xe bọc thép, bộ binh địch cũng đƣợc ban chỉ huy trận đánh dự
kiến, đƣa ra những biện pháp đối phó.
Về phía địch, qua mạng lƣới trinh sát, điệp báo, đã phát hiện đƣợc lực lƣợng
Quân giải phóng đang bố trí tại Ấp Bắc. Bộ Tƣ lệnh viện trợ quân sự Mỹ tại Sài
Gòn cùng Bộ Tƣ lệnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa cấp tốc vạch kế hoạch tác
chiến, điều động lực lƣợng và phƣơng tiện chiến tranh, tổ chức cuộc hành quân
quy mô lớn với 3 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu dù, 2 đại đội biệt động quân, 3 đại đội
bảo an, 3 đại đội dân vệ biệt kích, 13 xe thiết giáp M113, 13 tàu chiến trên sông, 6
máy bay khu trục B26, 15 máy bay trực thăng, 4 máy bay trinh sát L19, 7 máy bay
81
vận tải C47…
Sáng ngày 2-1-1963, địch bắt đầu tấn công vào Ấp Bắc. Trong đợt tiến công
đầu bằng đƣờng bộ và đƣờng thủy, lính Sài Gòn đƣợc cố vấn Hoa Kỳ chỉ huy,
dùng máy bay trực thăng đổ quân xuống trận địa để bao vây, tiêu diệt đối phƣơng.
Tuy nhiên, khi vừa đổ bộ, máy bay trực thăng bị bắn rơi, địch bị thiệt hại nặng
buộc phải bỏ chạy. Các đợt tiến công tiếp theo, địch huy động cả lực lƣợng dự bị
chiến lƣợc là lính dù vào trận cùng máy bay, thiết giáp M113 và hỏa lực phi pháo
bắn phá ác liệt nhƣng vẫn bị thất bại. Tối ngày 2-1-1963, các đơn vị bộ đội rút
quân khỏi Ấp Bắc về căn cứ tập kết an toàn.
Thắng lợi lớn nhất của trận Ấp Bắc là lần đầu tiên bộ đội đã trụ lại đƣợc cả
ngày để đánh nhau với một lực lƣợng địch hơn hẳn cả về quân số và hỏa lực. Quan
lực Việt Nam Cộng hòa đã áp dụng hết các bài bản chiến thuật nhƣ “trực thăng
vận”, “thiết xa vận”, “bủa lƣới phóng lao”, đủ các phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại,
dốc đến lực lƣợng tổng trù bị, hỏa lực tối đa mà vẫn không giành đƣợc thắng lợi.
Bộ đội không những thƣơng vong ít mà còn gây đƣợc cho địch thƣơng vong nặng
nề. Toàn trận, địch chết và bị thƣơng 450 tên, trong đó có 11 cố vấn Mỹ, 16 trực
thăng bị bắn rơi, bắn hỏng, 3 xe M113 bị cháy, 2 tàu bị chìm [134, 203]. Từ thất
bại ở Ấp Bắc có thể khái quát thành thế thua của địch trên toàn miền Nam: “Kể từ
Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta…” [48, 50]. Chính báo giới Hoa Kỳ cũng
phải thừa nhận: “Là một điều đau đớn nhƣng cần thiết để giảm bớt tƣ tƣởng lạc
quan do những lời tuyên bố chính thức quá lạc quan của Washington gây ra. Trƣớc
đây, ngƣời ta đã đánh giá quá cao máy bay lên thẳng, đánh giá quá thấp những
nhƣợc điểm của nó và có xu hƣớng quên rằng con ngƣời chứ không phải máy móc
là yếu tố mang lại chiến thắng” [79, 11].
Tháng 4-1963, phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” đƣợc dấy
lên khắp miền Nam. Bộ đội và du kích đƣợc huấn luyện sử dụng thành thạo các
loại vũ khí, trang bị, đƣợc phổ biến kinh nghiệm trận Ấp Bắc về cách bố trí, xây 82
dựng công sự trận địa, phƣơng pháp đánh xe tăng, xe bọc thép, máy bay lên thẳng.
Nhờ đó, phong trào cách mạng có những bƣớc phát triển mới, nhiều điển hình về
phá ấp chiến lƣợc xuất hiện ở các địa phƣơng.
Tại Nam Trung Bộ, Quân khu V đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị ở các đơn
vị vũ trang, nhằm đấu tranh với những biểu hiện tƣ tƣởng ngại tác chiến với xe bọc
thép và máy bay trực thăng vũ trang, rút kinh nghiệm thực hành phƣơng châm đấu
tranh kết hợp 2 chân 3 mũi trong chống càn quét phá ấp chiến lƣợc. Theo chủ
trƣơng của Khu ủy, bộ đội chủ lực Khu, bộ đội địa phƣơng tỉnh sẽ đƣợc huy động
trong từng đợt hoạt động phối hợp với du kích và lực lƣợng đấu tranh chính trị của
quần chúng phá ấp chiến lƣợc.
Sự kiện nổi bật nhất trong phong trào thi đua với Ấp Bắc của quân, dân Khu
V là trận đánh bại cuộc hành quân của 3 sƣ đoàn chủ lực địch vào căn cứ Măng
Xim (khu giáp ranh 3 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum), nhằm diệt cơ
quan lãnh đạo Khu V, phá căn cứ trung tâm của cách mạng miền Trung từ ngày 4 -
15/5/1963, diệt hàng trăm tên, bắn rơi gần 20 máy bay trực thăng vũ trang, phá hủy
hàng chục xe quân sự.
Trên địa bàn Tây Nguyên, tháng 6-1963, Tiểu đoàn 200 và Tiểu đoàn 407 bí
mật cơ động vào Gia Lai, mở trận tiến công trại huấn luyện biệt kích Plây Mơrông
(cách thị xã Plâycu 95km về hƣớng Tây Bắc). Do chuẩn bị các mặt chu đáo, có kế
hoạch hiệp đồng chặt chẽ giữa pháo binh và đặc công, bảo đảm tốt yếu tố bí mật,
bất ngờ, lực lƣợng vũ trang đã diệt và làm bị thƣơng 250 tên, bắt 140 tên, làm tan
rã hoàn toàn 1 tiểu đoàn biệt kích. Plây Mơrông là trận đầu tiên bộ đội tiến công
địch trong công sự vững chắc, đạt hiệu suất chiến đấu cao.
Sau trận Plây Mơrông thắng lợi, các tiểu đoàn 200 và 407 hành quân lật
83
cánh ra Bắc Kon Tum. Đêm 11-11-1963, sau đòn tập kích hỏa lực cấp tập của Tiểu
đoàn 200, các chiến sĩ đặc công Tiểu đoàn 407 nổ súng tiến công căn cứ Đăk Pét.
Bị đánh đòn bất ngờ vào ban đêm, quân địch không kịp trở tay. Toàn bộ địch đóng
trong căn cứ bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Tuy vậy, phong trào đấu tranh ở Khu V, nhất là vùng đồng bằng, còn hạn
chế, bởi vì lực lƣợng chủ lực chƣa thực hiện đƣợc những trận đánh vào sâu trong
lòng địch, chƣa bám trụ đƣợc địa bàn để hỗ trợ, thúc đẩy phong trào du kích và
nhân dân nổi dậy phá kìm, phá ấp, giành quyền làm chủ. Trong một số trận chống
càn, bộ đội chủ lực và du kích còn bị thƣơng vong khá nhiều. Qua thực tế chiến
đấu, lực lƣợng vũ trang và nhân dân từng bƣớc trƣởng thành, nhƣng sự kết hợp
giữa đấu tranh quân sự và chính trị chuyển biến còn chậm. Do vậy, việc chống
chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận trên chiến trƣờng chƣa đạt kết quả cao. Nửa
đầu năm 1963, chính quyền Sài Gòn lập thêm gần 1.000 ấp chiến lƣợc, trại tập
trung, vùng giải phóng ở đồng bằng Khu V bị thu hẹp còn 34 thôn ấp với 6.000
dân.
Học tập kinh nghiệm của Ấp Bắc, lãnh đạo và chỉ huy Khu VI bố trí lực
lƣợng trên các hƣớng dự kiến địch sẽ tiến công, tổ chức những đơn vị chuyên bắn
máy bay, xe bọc thép, kết hợp các hình thức đấu tranh để ngăn chặn, tiêu hao, tiêu
diệt sinh lực, phƣơng tiện chiến tranh của địch. Trận đánh “thi đua với Ấp Bắc” có
ý nghĩa quan trọng nhất của Khu VI trong thời gian này là việc đánh bại cuộc hành
quân của 2.500 quân chủ lực Sài Gòn có không quân, pháo binh yểm trợ ở khu căn
cứ Khánh Hòa (vùng lƣu vực sông Tô Hạp) từ tháng 6 - 7/1963. Các cơ sở cách
mạng hƣớng dẫn nhân dân dùng những vũ khí thô sơ, mang cung, bẫy đá, hầm
chông... bố trí thành nhiều tuyến bố phòng ngăn chặn, tạo điều kiện thuận lợi cho
bộ đội và du kích có thời gian cơ động lực lƣợng, lợi dụng thế hiểm hóc địa hình
miền núi, bám đánh chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch. Sau 38 ngày
84
tham chiến, địch phải lui quân, bỏ dở kế hoạch.
Là một Quân khu đã làm nên trận Ấp Bắc và trở thành tên gọi của phong
trào thi đua sôi nổi trên toàn Miền trong năm 1963, Khu VIII không ngừng phát
triển lực lƣợng, nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội và du kích, tổ
chức quần chúng, xây dựng các làng xã chiến đấu chu đáo. Trong năm 1963, Khu
ủy Khu VIII phát động hai đợt thi đua giết giặc lập công trên chiến trƣờng đồng
bằng miền Trung Nam Bộ. Trong đó, nổi bật nhất là trận Hiệp Hòa. Tỉnh ủy và
Ban Quân sự tỉnh Long An tập trung 2 đại đội đặc công, 2 đại đội bộ binh, 1 trung
đội công binh và bộ đội địa phƣơng huyện Đức Hòa tiến công trung tâm huấn
luyện biệt kích Hiệp Hòa - căn cứ án ngữ hành lang biên giới Việt Nam -
Cambodia của địch. Nhờ trinh sát, điều tra tình hình chu đáo, xây dựng quyết tâm
chiến đấu sát thực, công tác bảo đảm đƣợc chuẩn bị kỹ lƣỡng, đêm 22-11-1963,
lực lƣợng vũ trang đã làm chủ đƣợc mục tiêu, diệt 78 tên, bắt làm tù binh gần 100
tên khác, thu 500 khẩu súng các loại. Thắng lợi Hiệp Hòa là bằng chứng khẳng
định muốn phá ấp chiến lƣợc, lực lƣợng vũ trang tỉnh, huyện, thôn, ấp phải giỏi
đánh công kiên, tiêu diệt đƣợc các đồn bốt, căn cứ kiên cố mới bảo đảm chắc chắn
cho quần chúng nổi dậy và giữ đƣợc quyền làm chủ lâu dài.
Trận Hiệp Hòa thực sự là mốc mở đầu cho cao trào phá ấp chiến lƣợc ở
Long An nói riêng và Khu VIII nói chung. Các địa phƣơng còn lại ở Khu VIII
cũng bừng lên không khí cách mạng sôi nổi. Qua 2 đợt hoạt động trong năm 1963,
quân, dân Khu VIII giành đƣợc thắng lợi rất quan trọng, đánh bại một bƣớc cơ bản
quốc sách ấp chiến lƣợc của địch, đóng góp công sức và kinh nghiệm vào việc phát
triển chiến tranh nhân dân, bẻ gẫy từng bƣớc các thủ đoạn chiến thuật và biện pháp
chiến lƣợc của Mỹ trong chiến tranh đặc biệt.
Hƣởng ứng phong trào thi đua Ấp Bắc, trên địa bàn Khu IX (miền Tây Nam
Bộ), lực lƣợng vũ trang các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Rạch Giá... vừa
đẩy mạnh việc xây dựng lực lƣợng, huấn luyện bộ đội cách đánh xe tăng và máy 85
bay trực thăng, vừa tổ chức tiến công địch để rút kinh nghiệm và hỗ trợ cho nhân
dân nổi dậy gỡ đồn, phá ấp, giành quyền làm chủ.
Sự kiện nổi bật nhất trong năm của Cà Mau cũng nhƣ của Quân khu IX là
trận tiến công tiêu diệt 2 chi khu Cái Nƣớc, Đầm Dơi diễn ra vào tháng 9-1963. Là
một trong những chi khu trọng yếu của vùng IV chiến thuật, quân đội Sài Gòn đã
thiết kế Cái Nƣớc - Đầm Dơi thành những cụm cứ điểm mạnh, có hệ thống công
sự, hầm hào kiên cố, liên hoàn. Để đánh chắc thắng mục tiêu chi khu Cái Nƣớc, Bộ
Tƣ lệnh Quân khu dùng Tiểu đoàn 306 là đơn vị chủ công. Ngoài ra, tiểu đoàn còn
đƣợc phối thuộc 1 đại đội pháo, 1 trung đội trinh sát đặc công, trung đội địa
phƣơng huyện Cái Nƣớc. Tham gia tiến công chi khu Đầm Dơi, ngoài lực lƣợng
chủ công là Tiểu đoàn U Minh, còn có các đơn vị phối thuộc gồm trung đội đặc
công Cà Mau, 1 đại đội trợ chiến có bốn khẩu ĐKZ, 1 phân đội lăng xà bom và đại
đội bộ binh huyện Đầm Dơi.
Trận tiến công Đầm Dơi - Cái Nƣớc diễn ra từ ngày 9 - 10/9/1963. Kết quả,
bộ đội chủ lực Quân khu IX và bộ đội địa phƣơng Cà Mau đã tiêu diệt đƣợc 2 chi
khu, một số đồn bốt, ấp chiến lƣợc, loại khỏi vòng chiến đấu 327 tên, thu 179 khẩu
súng các loại, 23 vô tuyến điện, 2 tấn đạn, phá rã một mảng lớn ấp chiến lƣợc ở
tuyến sông Bảy Háp, dọc trục lộ Năm Căn - Cà Mau, mở ra vùng căn cứ liên hoàn
2 huyện Đầm Dơi - Cái Nƣớc. Thắng lợi này khẳng định sự trƣởng thành nhanh
chóng về mọi mặt của lực lƣợng vũ trang 3 thứ quân và sức mạnh của nhân dân
trong phong trào thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công của toàn Khu IX. Đây cũng là
trận cƣờng tập tiêu diệt đƣợc chi khu địch đầu tiên của Quân khu IX.
Tiếp đà thắng lợi, Bộ Tƣ lệnh Quân khu IX dùng Tiểu đoàn 306, Tiểu đoàn
U Minh (Cà Mau), tiểu đoàn cao xạ cùng các đơn vị địa phƣơng Cái Nƣớc, Ngọc
86
Hiển tiến công cứ điểm Chà Là, một căn cứ quân sự quan trọng của địch nằm trên
hƣớng Đông Nam cách thị xã Cà Mau chừng 30 km. Lực lƣợng địch ở đây có
khoảng 300 tên gồm 1 đại đội của Trung đoàn 32 Sƣ đoàn 21 và 1 đại đội bảo
an. Đêm 28-11-1963, các đơn vị tham gia trận đánh nổ súng tiến công diệt các lô
cốt, đồn bốt bảo vệ chung quanh căn cứ. Bị đánh bất ngờ vào giữa đêm, quân địch
hoảng loạn, chống đỡ yếu ớt. Sau 3 giờ chiến đấu, Quân giải phóng diệt hoàn toàn
cứ điểm Chà Là, loại khỏi vòng chiến đấu 270 tên, bắt 80 tên, thu nhiều vũ khí, đồ
dùng quân sự.
Chà Là là trận hạ đƣợc số lƣợng máy bay nhiều nhất từ trƣớc tới lúc này ở
đồng bằng sông Cửu Long. Thắng lợi Chà Là và thắng lợi của quân, dân miền Tây
Nam Bộ nửa cuối 1963 tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mọi mặt của lực
lƣợng và phong trào đấu tranh trong thời gian sau đó của Quân khu IX.
Tại Quân khu VII, với cách thức tổ chức lực lƣợng, sử dụng vũ khí, trang bị
hiện có và áp dụng phƣơng pháp đấu tranh thích hợp, phong trào “Thi đua Ấp Bắc
giết giặc, lập công, phá ấp chiến lƣợc” phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, giữ
vững. Trong năm 1963, quân dân miền Đông Nam Bộ loại khỏi vòng chiến đấu
hàng ngàn tên địch, hàng trăm xe tăng, thiết giáp, xe quân sự, thu nhiều vũ khí,
trang bị. Thắng lợi quân sự thực sự hỗ trợ và tạo đà cho phong trào nổi dậy đấu
tranh chính trị của quần chúng đạt kết quả, phá banh và phá rã hàng trăm ấp chiến
lƣợc, khu dồn dân. Trong nội đô, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng
phản đối Mỹ - Diệm dồn dân, bắt lính, đuổi nhà... đƣợc sự hỗ trợ có hiệu lực của
bộ đội đặc công, biệt động... trong các trận đánh vào các mục tiêu quan trọng ở
trung tâm chỉ huy, điều hành chiến tranh của địch. Những trận đánh doanh trại lính
Mỹ ở số 31 đƣờng Cao Thắng (tháng 2-1963), trận tập kích sân bay Tân Sơn Nhất
(ngày 20-3-1963) và cơ quan cố vấn quân sự Mỹ ở đƣờng Trần Hƣng Đạo (ngày
25-4-1963)... cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân, làm cho nội bộ chính quyền
87
Sài Gòn mất ổn định.
Nhờ phƣơng thức đấu tranh phù hợp, đúng đắn, sáng tạo, năm 1963, quân,
dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 7,8 vạn tên địch; bắn rơi hơn 160 máy
bay các loại; phá hủy, phá hỏng hàng trăm xe quân sự; đánh đổ 34 đoàn tàu quân
sự; bắn chìm, bắn cháy 236 tàu thuyền chiến đấu; thu 1,1 vạn vũ khí; phá banh, phá
rã 2.895 trong tổng số 6.164 ấp chiến lƣợc, giải phóng hàng nghìn thôn ấp với gần
9 triệu dân. Chƣơng trình bình định, xƣơng sống của cuộc chiến tranh đặc biệt, về
cơ bản đã bị đánh bại. Từ thực tế xây dựng lực lƣợng, tổ chức chiến đấu, lực lƣợng
vũ trang cách mạng đã trƣởng thành vƣợt bậc về số lƣợng, chất lƣợng, trang bị và
tác chiến hiệp đồng giữa 3 thứ quân, 2 lực lƣợng chính trị, quân sự.
Tiểu kết:
Bị thất bại trong hình thức truyền thống dùng viện trợ và cố vấn để thống trị
nhân dân miền Nam thông qua bộ máy cai trị độc tài mà Ngô Đình Diệm là đại
diện, đầu năm 1961, đế quốc Mỹ chuyển sang tiến hành chiến tranh đặc biệt “dùng
ngƣời Việt đánh ngƣời Việt”, tiếp tục duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.
Vì vậy, khi kẻ thù tiến hành cuộc chiến tranh xâm lƣợc thì cuộc khởi nghĩa từng
phần của nhân dân ở miền Nam cũng phát triển thành cuộc chiến tranh cách mạng,
dẫn đến sự ra đời của Quân giải phóng miền Nam.
Quán triệt tƣ tƣởng cách mạng tiến công, dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của các
cấp ủy Đảng, quân và dân miền Nam đã phát triển cuộc chiến tranh nhân dân lên
tầm cao mới. Lực lƣợng vũ trang 3 thứ quân đƣợc xây dựng, các căn cứ hậu cần,
tuyến đƣờng vận tải chiến lƣợc bƣớc đầu đƣợc hình thành.
Qua cuộc chiến đấu ác liệt, gian khổ, dai dẳng với địch, đến cuối năm 1963,
mặc dù cách đánh của Quân giải phóng mới chỉ là chiến tranh du kích nhƣng đã có
sự phát triển vƣợt bậc so với giai đoạn trƣớc, thể hiện ở: “Nếu cách đây 2 năm,
88
trong một trận càn quét, bộ đội và dân quân du kích ta chỉ tiêu hao, tiêu diệt đƣợc
30, 40 tên giặc, bắn rơi một vài máy bay địch thì ngày nay chúng ta có thể bẻ gãy
các cuộc càn quét quy mô của địch với lực lƣợng gấp 10 lần hơn ta, có thể tiêu diệt
4, 5 trăm tên giặc, hạ từ 10- 15 máy bay, phá hủy hàng loạt 7, 8 xe M113” [69,
297]; “Nếu nhƣ trƣớc kia chúng ta chỉ có thể đánh lén, rút nhanh, thì nay đã có thể
chiến đấu cả ngày dƣới hỏa lực phi pháo với hàng bao tấn sắt thép của địch” [69,
280]; “Nếu trƣớc kia chúng ta chỉ tiêu diệt một đồn từ 10-20 tên địch đóng giữ thì
ngày nay quân ta có thể san bằng hàng loạt đồn bốt kiên cố với chiến lũy hàng trăm
tên địch đóng giữ” [69, 281].
Tuy nhiên, phong trào chiến tranh du kích ở miền Nam lúc này có sự phát
triển không đồng đều giữa các khu vực. Nhìn tổng thể, hoạt động của Quân giải
phóng diễn ra sôi nổi nhất ở chiến trƣờng Nam Bộ, nhiều trận đánh lớn đã xảy ra ở
đây. Trong khi đó, Khu V, nhất là vùng đồng bằng duyên hải và Trị Thiên thì khá
89
là im ắng.
Chương 3
TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ VỀ MẶT LỰC LƢỢNG, ĐÁNH
BẠI HOÀN TOÀN CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT
(1963-1965)
3.1. Chiến tranh đặc biệt lên đến đỉnh cao và chủ trƣơng đẩy mạnh
chiến tranh cách mạng của Đảng
Ba tuần sau khi Ngô Đình Diệm bị giết (1-11-1963), ngày 22-11-1963, Tổng
thống Hoa Kỳ Kennedy bị ám sát. Sau đó, Phó Tổng thống Lydon Johnson lên làm
Tổng thống trong lúc cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đang trở nên ngày
nóng bỏng. McNamara nhận xét “đây thực sự là một mớ bòng bong cực kỳ khủng
khiếp, rõ ràng còn nguy hiểm hơn tình thế mà Kennedy kế thừa từ Eisenhower”
[98, 112] và “Việt cộng đã đạt đƣợc rất nhiều tiến bộ trong thời gian kể từ khi có
đảo chính.... Hiện nay, Việt cộng kiểm soát đƣợc những tỉ lệ dân số rất cao ở một
số tỉnh then chốt, đặc biệt là các tỉnh ở ngay phía Nam và phía Tây Sài Gòn” [96,
246-247].
Trên cƣơng vị mới, Johnson triệu tập cuộc họp với các cố vấn cấp cao về
Việt Nam, khẳng định tiếp tục theo đuổi các chính sách và những hành động mà
Mỹ đã cam kết với Nam Việt Nam “nhằm giúp đỡ nhân dân và chính phủ Nam
Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ chống lại mƣu đồ của cộng
sản đƣợc sự chỉ đạo và hậu thuẫn từ bên ngoài” [98, 112] bằng việc tiếp tục tăng
cƣờng viện trợ, huấn luyện và cố vấn cho chính quyền, quân đội Sài Gòn đẩy mạnh
chiến tranh đặc biệt.
Ngày 17-3-1964, Tổng thống Hoa Kỳ phê chuẩn bị vong lục về hành động
an ninh quốc gia số 288. Bị vong lục đánh giá lại toàn bộ tình hình sau đảo chính,
xét duyệt lại các mục tiêu của Mỹ, chỉ ra các phƣơng án hành động và cuối cùng 90
chủ trƣơng những nội dung chủ yếu: Sẵn sàng cung cấp viện trợ và hỗ trợ cho Nam
Việt Nam chừng nào còn cần thiết; ủng hộ Chính phủ Sài Gòn chống lại bất kỳ
cuộc đảo chính nào sau này; ủng hộ chƣơng trình động viên quốc gia, đƣa Nam
Việt Nam vào tình thế chiến tranh, giúp đỡ quân đội Việt Nam Cộng hòa tăng quân
số lên ít nhất 50 vạn ngƣời; giúp đỡ đào tạo đội ngũ cán bộ hành chính, dân sự
đông đảo hoạt động ở cấp tỉnh, quận và thôn ấp; cung cấp thêm máy bay, tàu chiến,
xe tăng; cho phép máy bay Mỹ tiếp tục do thám khu vực biên giới Nam Việt Nam,
cho phép và tiến hành các hoạt động trên bộ của Nam Việt Nam ở biên giới Lào
nhằm kiểm soát biên giới; chuẩn bị ngay lập tức để có thể tiến hành các hoạt động
quy mô lớn “kiểm soát biên giới” ở Lào, Campuchia và các hoạt động trả đũa
chống Bắc Việt Nam.
Nhằm biến những chủ trƣơng biện pháp nói trên thành hiện thực, lực lƣợng
yểm trợ Mỹ đƣợc tăng cƣờng từ 22.400 ngƣời (năm 1963) lên 26.200 ngƣời (năm
1964), trong đó có 10.400 cố vấn Mỹ; số lƣợng quân Sài Gòn tăng từ 417.000
ngƣời năm 1963 (với 206.000 chủ lực và 211.000 quân địa phƣơng) lên 561.000
ngƣời năm 1964 (với 267.000 quân chủ lực và 294.000 quân địa phƣơng).
Cùng với việc tăng nhanh quân số, trang bị kỹ thuật cũng đƣợc tăng cƣờng
cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng: máy bay năm 1963 mới có 627 chiếc (trong đó có
344 trực thăng) sang năm 1964 tăng lên 989 chiếc (có 392 trực thăng); xe cơ giới
tăng từ 582 chiếc năm 1963 lên 732 chiếc năm 1964; pháo từ 248 khẩu (1963) lên
415 khẩu (1964)...
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa còn điều chỉnh thế bố trí chiến lƣợc, cải tổ
hệ thống chỉ huy, rút bớt một số đồn bốt lẻ, chuyển quân chiếm đóng thành lực
lƣợng cơ động, tạo điều kiện mở các cuộc hành quân càn quét mật độ cao, phục vụ
91
chƣơng trình “bình định trọng điểm” ở các vùng quanh Sài Gòn và các tỉnh Biên
Hòa, Bình Dƣơng, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An, Định Tƣờng. Để che giấu tính
chất tàn bạo, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đổi tên ấp chiến lƣợc thành ấp tân sinh,
chƣơng trình bình định đổi thành chƣơng trình tái thiết nông thôn, cuộc chiến tranh
chống nghèo đói...
Từ cuối tháng 2-1964, Mỹ vạch kế hoạch bình định mang tên Chiến thắng,
hòng tiêu diệt toàn bộ tổ chức quân sự, chính trị, kinh tế của lực lƣợng cách mạng.
Kế hoạch đƣợc bắt đầu thực hiện từ 1-4-1964, dự định chia làm 2 bƣớc: Bƣớc
một từ ngày 1/4/1964 - 3/12/1965, bình định có trọng điểm ở các vùng chiến thuật
theo thứ tự ƣu tiên I, II, III bằng những cuộc hành quân đánh phá liên tục kết hợp
với gom dân lập ấp tân sinh. Bƣớc hai, bắt đầu từ năm 1966, tiến công vào các
vùng căn cứ, tiêu diệt các đơn vị chủ lực Quân giải phóng, phá hủy các cơ sở quân
sự.
Đối với miền Bắc, Mỹ tiếp tục bổ sung để tiến tới hoàn chỉnh “chƣơng trình
quân sự không công khai chống Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, trong đó
quan trọng nhất là Kế hoạch tác chiến 34A. Kế hoạch này bao gồm các chuyến bay
do thám bằng máy bay U2 và bắt cóc công dân Bắc Việt Nam để khai thác tin tức
tình báo, thả dù hoặc tung các đội biệt kích từ biển vào phá hoại, gây chiến tranh
tâm lý...
Trong khi đó, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp. Thập niên
1960 là thời kỳ nở rộ của khối xã hội chủ nghĩa và sự chia rẽ giữa hai cƣờng quốc
hàng đầu trong khối là Liên Xô và Trung Quốc về các vấn đề tƣ tƣởng, đƣờng lối
cách mạng phát triển ngày càng gay gắt. Cuối năm 1964, sau khi Khrushchev bị hạ
bệ, Leonid Brezhnev lên thay, quan điểm của Liên Xô đối với cuộc chiến tranh
Việt Nam đã thay đổi theo hƣớng ủng hộ đấu tranh vũ trang làm cách mạng bằng
92
bạo lực với viện trợ quân sự to lớn nhằm hàn gắn quan hệ Xô - Trung và ngăn chặn
hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Ngày 10-2-1965, Liên Xô và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp ƣớc hỗ trợ kinh tế và quân sự Việt - Xô. Từ đây sự
giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc ngày càng tăng và đóng vai trò quan
trọng trong chiến tranh Việt Nam [94, 19].
Trung Quốc, đang cạnh tranh vị trí lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa với Liên Xô, cũng không muốn vai trò kém hơn đối thủ cùng tƣ tƣởng. Hơn nữa, giai đoạn
này, Mao Trạch Đông đang bị thất thế trong cuộc đấu tranh giành quyền lực tại
Trung Nam Hải nên cũng muốn sử dụng khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Nam chống Mỹ”
để lấy lại uy tín trong nƣớc. Tháng 12-1964, Bộ trƣởng Bộ Quốc phòng Trung
Quốc thăm Hà Nội và ký Hiệp ƣớc hữu nghị hợp tác quân sự Việt - Trung, gửi cho
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa súng đạn đủ để trang bị cho 200 tiểu đoàn và đồng ý
gửi tình nguyện quân vào Bắc Việt Nam nếu quân Mỹ vƣợt qua vĩ tuyến 17.
Trƣớc những diễn biến khó lƣờng trên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng lần thứ 9 (khóa III), tháng 12-1963, trên cơ sở đánh giá toàn bộ diễn biến của
tình hình chiến trƣờng, trong nƣớc và trên thế giới, chỉ rõ phƣơng hƣớng phát triển
của cách mạng miền Nam với nhiệm vụ trƣớc mắt là: “Động viên toàn Đảng, toàn
dân vƣợt mọi khó khăn, trên cơ sở phát triển mạnh mẽ hơn nữa ý thức giác ngộ
chính trị của nhân dân, ra sức phấn đấu xây dựng lực lƣợng về mọi mặt, chính trị
và vũ trang, nhất là lực lƣợng vũ trang, làm thay đổi so sánh lực lƣợng giữa ta và
địch có lợi cho ta mau chóng hơn, tích cực xây dựng và mở rộng căn cứ, nhất là ở
những địa bàn chiến lƣợc và cơ động của quân chủ lực, tiến lên đánh tiêu diệt và
làm tan rã từng bộ phận quân địch, phá phần lớn các ấp chiến lƣợc, làm chủ phần
lớn xã thôn và rừng núi… tiến lên giành chủ động chiến lƣợc, sáng tạo ra thời cơ
93
và giành những thắng lợi quyết định”.
Trong việc thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị chỉ ra 2 nội dung chủ yếu, phải
quyết tâm đạt đó là: Làm thất bại mức độ gom dân lập ấp chiến lƣợc của địch, phá
phần lớn các ấp chiến lƣợc đã làm đƣợc, bảo đảm giành nhân tài, vật lực cho cách
mạng, làm chủ phần lớn nông thôn, rừng núi; tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã
từng bộ phận quân đội Sài Gòn, tạo điều kiện làm tan rã lực lƣợng quân sự, chỗ
dựa của Mỹ và tay sai. Trong đó, đấu tranh vũ trang dần dần giữ địa vị làm mũi
đấu tranh cơ bản và quyết định.
Điểm mới của Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 9 là chủ trƣơng xây dựng bộ đội
chủ lực, tạo ra quả đấm mạnh đủ sức đánh bại lực lƣợng nòng cốt của chiến lƣợc
chiến tranh đặc biệt là quân chính quy. Về tác chiến, đẩy mạnh cách đánh vận động
trên các địa bàn chiến lƣợc, tác chiến tập trung phải đóng vai trò mấu chốt trên
chiến trƣờng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng lần thứ 9 đã bổ sung và hoàn
chỉnh đƣờng lối cách mạng miền Nam do Hội nghị Trung ƣơng 15 (khóa II) và các
nghị quyết của Bộ Chính trị tiếp sau đó đã đề ra; cụ thể hóa những nhiệm vụ mà
cách mạng miền Nam phải tiến hành để đánh bại chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt
của Mỹ.
3.2. Phát triển mạnh mẽ về lực lƣợng, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc “đụng
đầu lịch sử”
Củng cố lại hệ thống chỉ huy các cấp, kiện toàn các mặt trận
Trƣớc tình hình cách mạng miền Nam phát triển thuận lợi, để đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh xây dựng lực lƣợng chủ lực trên chiến trƣờng miền Nam, nhất là mặt
trận B2, tháng 10-1963, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ƣơng quyết định thành lập
Quân ủy và Bộ Tƣ lệnh Miền thay thế Ban Quân sự Miền. Bộ Chỉ huy Miền đƣợc
coi là cơ quan tiền phƣơng của Quân ủy Trung ƣơng và Bộ tổng tƣ lệnh ở chiến
94
trƣờng trọng điểm B2; chịu sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ƣơng, Bộ Tổng tƣ lệnh
và sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ƣơng Cục; có trách nhiệm chỉ đạo hoạt động
quân sự trên các chiến trƣờng cũng nhƣ lực lƣợng vũ trang B2, gồm các Quân khu
VI, VII, VIII, IX và Sài Gòn - Gia Định [129, 401].
Từ đầu năm 1964, Trung tƣớng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mƣu trƣởng
Quân đội nhân dân Việt Nam, đƣợc Trung ƣơng Đảng cử vào miền Nam làm
Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục và giữ chức Tƣ lệnh các lực lƣợng vũ trang nhân dân
giải phóng miền Nam (Bộ Chỉ huy Miền). Tháng 10-1964, Đại tƣớng Nguyễn Chí
Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thƣ Quân ủy Trung ƣơng, đã lên đƣờng vào
Nam. Cùng đến chiến trƣờng đợt này, có Thiếu tƣớng Lê trọng Tấn, Thiếu tƣớng
Trần Độ và nhiều cán bộ trung, cao cấp. Vào chiến trƣờng miền Nam, Nguyễn Chí
Thanh đƣợc Bộ Chính trị giao nhiệm vụ phụ trách Trung ƣơng Cục và làm Chính
ủy Quân ủy Miền. Thiếu tƣớng Lê Trọng Tấn giữ cƣơng vị Phó Tƣ lệnh các lực
lƣợng vũ trang giải phóng miền Nam [129, 458]. Việc tăng cƣờng các cán bộ quân
sự có kinh nghiệm xây dựng bộ đội chủ lực và chỉ huy các trận đánh lớn vào cơ
quan lãnh đạo Quân giải phóng thể hiện quyết tâm của Quân ủy Trung ƣơng trong
việc đẩy mạnh chiến tranh cách mạng ở miền Nam.
Do vị trí chiến lƣợc quan trọng đối với miền Nam Việt Nam và Nam Đông
Dƣơng, tháng 9-1964, Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ƣơng tổ chức và thành
lập Bộ Tƣ lệnh dã chiến ở Tây Nguyên (B3). Mặt trận Tây Nguyên ra đời gồm địa
bàn các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk. Nhiệm vụ của Bộ Tƣ lệnh B3 là xây
dựng Tây Nguyên thành chiến trƣờng đánh tiêu diệt lớn, có quân chủ lực mạnh làm
nòng cốt thúc đẩy lực lƣợng vũ trang nhân dân trên địa bàn đánh tiêu hao, tiêu diệt
sinh lực, thu hút giam chân quân chủ lực địch, tạo điều kiện cho đồng bằng và đô
thị nổi dậy giành quyền làm chủ; phối hợp với Trị Thiên, Khu V và miền Đông
Nam Bộ tiến công địch theo sự chỉ đạo của Trung ƣơng [123, 406] (Sau này, miền
Nam còn thành lập thêm mặt trận B4 vào tháng 4-1966, gồm 2 tỉnh Quảng Trị và 95
Thừa Thiên Huế Huế, tách ra từ B1 và sau đó từ tháng 6-1966 là mặt trận B5, địa
bàn ở khu vực đƣờng 9 và Bắc Quảng Trị, tách ra từ B4 do Bộ Tổng tƣ lệnh Quân
đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo).
Đẩy mạnh xây dựng các đơn vị chủ lực và lực lượng vũ trang tập trung
Tháng 3-1964, Quân ủy Trung ƣơng họp tổng kết công tác chỉ đạo quân sự
trong 10 năm, ra nghị quyết về Tình hình và nhiệm vụ quân sự của Đảng, xác định
nhiệm vụ chiến lƣợc là: đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng, tiêu diệt và làm tan
rã lực lƣợng quân sự địch, đánh đổ chế độ thống trị của Mỹ và tay sai, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Theo phƣơng hƣớng đó, miền Bắc bắt đầu đƣa
quân vào chiến trƣờng dƣới hình thức các đơn vị đủ quân số và trang bị theo biên
chế (không phải là các “đơn vị khung” hoặc các đoàn đi lẻ nhƣ trƣớc). Các trung
đoàn bộ binh 101, 95, 18 (Sƣ đoàn 825) là những trung đoàn chủ lực cơ động đầu
tiên hành quân vào chiến trƣờng.
Từ ngày 18 - 19/7/1964, Tổng Tham mƣu trƣởng Văn Tiến Dũng làm việc
với Bộ Tƣ lệnh Quân khu IV. Tổng tham mƣu trƣởng đã giao nhiệm vụ chuẩn bị
tác chiến ở cho Sƣ đoàn 325: Nhiệm vụ của Sƣ đoàn 325 chủ yếu ở miền Nam; đối
tƣợng tác chiến sắp tới là quân đội Sài Gòn; khu vực tác chiến ở Kon Tum và Gia
Lai; phƣơng thức hoạt động là độc lập tác chiến và mở chiến dịch ở vùng rừng núi;
thời gian sẵn sàng làm nhiệm vụ từ tháng 12-1964 [36, 96].
Đây là lần đầu tiên 1 sƣ đoàn bộ binh chủ lực ở miền Bắc đƣợc thủ trƣởng
Bộ Tổng tham mƣu trực tiếp giao nhiệm vụ tác chiến ở chiến trƣờng miền Nam,
thể hiện rõ quyết tâm sử dụng bộ đội chủ lực đánh tập trung tiêu diệt sinh lực và
làm tan rã từng bộ phận quân đội địch, làm thay đổi so sánh lực lƣợng có lợi cho
96
cách mạng trên chiến trƣờng.
Chỉ tính riêng năm 1965, tuyến 559 đã bảo đảm cho gần 50.000 cán bộ,
chiến sĩ gồm 7 trung đoàn, 20 tiểu bộ binh, pháo binh, bằng số quân vào chiến
trƣờng từ năm 1959-1964. Điều đó càng tạo điều kiện cho Quân giải phóng miền
Nam xây dựng “nắm đấm chủ lực” trong thời gian này.
Tháng 6-1964, Trung đoàn bộ binh thứ ba của Miền đƣợc thành lập ở Đông
Nam Bộ với lực lƣợng chủ yếu từ miền Tây lên. Đến ngày 2-3-1965, trung đoàn
đoàn đầu tiên của Quân khu VII ra đời, mang phiên hiệu Trung đoàn 4 hay còn gọi
là Trung đoàn Đồng Nai (gồm có Tiểu đoàn bộ binh 1 nguyên là Tiểu đoàn 800
thuộc Đông Nam Bộ; Tiểu đoàn bộ binh 2 nguyên là Tiểu đoàn 265 từ Trung Nam
Bộ đƣa lên; Tiểu đoàn bộ binh 3 nguyên là Tiểu đoàn 308 bảo vệ căn cứ Đông
Nam Bộ cùng các đại đội trợ chiến ĐKZ, cối, 12 ly 8, công binh, thông tin, trinh
sát, vận tải, quân y…) [111, 93].
Tháng 7-1964, đại đội tập trung thứ ba của Thủ Dầu Một ra đời, mang phiên
hiệu Đại đội 308 với biên chế 4 trung đội và 130 chiến sĩ. Tháng 10-1964, tỉnh tiếp
tục thành lập Đại đội 4 trợ chiến gồm 3 trung đội (ĐKZ, cối, đại liên). Tháng 11-
1964, các đại đội 304, 306, 308, 4 của tỉnh sáp nhập thành Tiểu đoàn Phú Lợi với
quân số trên 400 ngƣời [17, 171]. Đến đầu năm 1965, lực lƣợng vũ trang toàn tỉnh
có 1.500 ngƣời với 216 cán bộ, 350 đảng viên [17, 176]. Cùng thời gian, lực lƣợng
vũ trang của tỉnh Phƣớc Thành phát triển thành 3 đại đội (301, 302, 303), quân số
mỗi đại đội trên 100 ngƣời [17, 174].
Bƣớc vào năm 1964, lực lƣợng vũ trang tỉnh, huyện ở Đồng Nai đƣợc tăng
cƣờng. Biên Hòa ngoài Đại đội 240 còn thành lập thêm Đại đội 245 và 2 đại đôi
công binh, đánh giao thông. Đội biệt động thị xã Biên Hòa phát triển lên hơn 50
ngƣời. Tỉnh Long Khánh ngoài đại đội tập trung còn xây dựng thêm 1 trung đội ở
97
thị xã [20, 174]. Bên cạnh đó, tại Nhơn Trạch - Cần Giờ, trên cơ sở các lực lƣợng
chi viện của Miền và Trung ƣơng, cuối năm 1964, địa phƣơng thành lập 1 đại đội
đặc công nƣớc, tiền thân của Đoàn 10 đặc công rừng Sác anh hùng sau này [116,
20].
Ở Bà Rịa - Vũng Tàu, đầu năm 1964, C440 đƣợc thành lập, quân số và vũ
khí đƣợc tách ra từ C445 và nguồn bổ sung của bộ đội huyện. Đến ngày 19-5-
1965, 2 đại đội 440 và 445 sáp nhập thành Tiểu đoàn 445, tiểu đoàn chủ lực của
tỉnh với phiên chế 4 đại đội bộ binh và 1 đại đội hỏa lực [15, 269].
Tại Bình Long, khi bƣớc vào chiến dịch Bình Giã, tỉnh chính thức thành lập
đơn vị C70 với đầy đủ 3 trung đội bộ binh và trung đội trợ chiến. Đến giữa năm
1965, ở Phƣớc Long, bên cạnh việc củng cố C270, C290, Tỉnh ủy chủ trƣơng đẩy
mạnh vận động tân binh để thành lập thêm các đại đội C271, C273 bộ binh, C14
cối, C15 đặc công trinh sát [51, 317].
Ở Sài Gòn - Gia Định, tháng 5-1964, Quân khu ủy quyết định đổi tên đoàn
K17 Quyết Thắng thành Tiểu đoàn Quyết Thắng - tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của
Khu. Tháng 6-1965, Quân khu thành lập một Đoàn biệt động, lấy mật danh là F100
với 9 đội biệt động nội đô (3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11), mỗi đội từ 15-20 ngƣời, 3 đội
đặc công biệt động ven đô. Cùng với lực lƣợng biệt động trực thuộc Quân khu, lực
lƣợng biệt động 5 cánh (phân khu) vùng ven cũng đƣợc tăng cƣờng gồm đội 65
Bình Tân, đội 66 Dĩ An, đội 67 Hóc Môn - Gò Vấp, đội 68 Nhà Bè - quận 4, đội 69
Thủ Đức. Ở ngoại thành, lực lƣợng du kích: Gò Vấp - Hóc Môn có 6 đội 53 ngƣời,
Bình Tân có 9 đội 82 ngƣời, Nhà Bè có 29 ngƣời, Thủ Đức có 4 đội 24 ngƣời [103,
418].
Tại Khu VIII, đầu năm 1965, lực lƣợng chủ lực Quân giải phóng đã có 5 tiểu
đoàn bộ binh: 261, 263, 265, 267, 269 và các tiểu đoàn, đại đội binh chủng. Từ đó,
98
Quân khu thành lập 2 trung đoàn chủ lực là Trung đoàn 205, còn gọi là "trung đoàn
Cá Gô" (trên cơ sở các tiểu đoàn 267 và 269) và Trung đoàn 1 Đồng Tháp (trên cơ
sở các tiểu đoàn 261 và 263). Sáu tỉnh trực thuộc Khu, mỗi tỉnh đều có 1 tiểu đoàn
mạnh và các đại đội, trung đội binh chủng. Xã yếu nhất có tiểu đội du kích, xã
trung bình có trung đội, xã mạnh đến đại đội [66, 354].
Ngày 24-4-1964, Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn chủ lực của tỉnh Bến Tre ra đời.
Tiểu đoàn đƣợc hình thành từ 3 đại đội bộ binh và 1 địa đội trợ chiến của tỉnh với
quân số trên 1.300 chiến sĩ [16, 127].
Ở Mỹ Tho, giữa năm 1964, Ban chỉ huy Tiểu đoàn 514 đƣợc củng cố, quân
số tiểu đoàn đƣợc bổ sung lên gần 700 ngƣời. Các huyện, thị xã đã xây dựng đƣợc
1 đại đội bộ đội địa phƣơng mạnh có từ 150-200 quân. Lực lƣợng tân binh tỉnh
thƣờng xuyên có từ 4-5 đại đội sẵn sàng bổ sung cho các đơn vị; lực lƣợng dân
quân, du kích trƣởng thành về mọi mặt với trên 10.000 ngƣời [30, 315].
Tại An Giang, tháng 3-1964, Tiểu đoàn 512 đƣợc tổ chức lại thành Tiểu
đoàn 364 với biên chế gồm 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội trợ chiến, 1 đại đội đặc
công, 1 trung đội thông tin, 1 trung đội trinh sát. Đến giữa năm 1965, toàn bộ lực
lƣợng vũ trang cấp tỉnh có 1.099 cán bộ, chiến sĩ, cấp huyện có 1.077 ngƣời [14,
122].
Ở Kiến Tƣờng, cuối năm 1964, Tiểu đoàn 504 của tỉnh đã có 2 đại đội
mạnh, quân số mỗi đại đội từ 200-400 tay súng, 1 đại đội vận tải hành lang gồm
100 chiến sĩ, 1 phân đội pháo binh nữ. Du kích xã rất mạnh, xã trung bình có 20-40
tay súng, xã mạnh có 70-80 tay súng [24, 127].
Tại Long An, tháng 5-1964, các Đại đội 1 và Đại đội 2 cơ động của tỉnh đổi
phiên hiệu thành Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2. Quân số của Tiểu đoàn 1 có 800
99
ngƣời, Tiểu đoàn 2 là 400 ngƣời. Các phân đội trực thuộc nhƣ đặc công, trinh sát,
hỏa lực cũng đƣợc tăng cƣờng quân số. Trên thực tế, lực lƣợng tập trung tỉnh Long
An lúc này tƣơng đƣơng 1 trung đoàn thiếu [25, 145].
Ở Kiến Phong, đầu năm 1965, Tiểu đoàn 502 đã tập trung các đơn vị
tiến hành củng cố tổ chức, huấn luyện tăng cƣờng kĩ thuật, chiến thuật tác chiến.
Tiểu đoàn 502 lúc này biên chế thành 4 đại đội tập trung, thƣờng gọi là C1,
C2, C3, C4. Quân số đƣợc bổ sung, đại đội trung bình có 80 ngƣời, vũ khí
do sự chi viện của miền Bắc nên tƣơng đối đủ và có hỏa lực khá mạnh [21, 117].
Ở Khu IX, cuối năm 1963, Quân khu thành lập Trung đoàn 1 (gồm các tiểu
đoàn 96 và 306) và Trung đoàn 2 (gồm Tiểu đoàn 70 và Tiểu đoàn U Minh 1 của
Cà Mau). Tháng 6-1964, theo sự chỉ đạo của Miền, Quân khu IX đƣa Trung đoàn 1
lên miền Đông thành Trung đoàn 3 chủ lực Miền. Sau đó, Quân khu xây dựng
ngay Trung đoàn 1 mới có 2 tiểu đoàn (lấy phiên hiệu Tiểu đoàn 70 và Tiểu đoàn
80), đảm bảo cho Quân khu có đủ 2 trung đoàn bộ binh [113, 355]. Từ năm 1963-
1965, các tỉnh miền Tây có trên 15.000 thanh niên đi bộ đội, đƣa lên xây dựng bộ
đội chủ lực Miền trên 5.000 quân, đôn gần 3.000 du kích lên bộ đội địa phƣơng
[113, 368].
Tháng 5-1964, tỉnh đội Trà Vinh điều các đơn vị 501 và 511 tập trung lại, tổ
chức thành Tiểu đoàn 501 gồm 3 đại đội (120, 130, 140). Ngoài ra, tỉnh tiếp tục
duy trì các Đại đội 509, Đại đội 515 bộ binh và thành lập thêm Đại đội 517 pháo
binh [31, 208-209].
Tại Cần Thơ, ngày 24-6-1964, Tiểu đoàn Tây Đô chính thức đƣợc thành lập.
Biên chế tiểu đoàn gồm 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội trợ chiến, 1 đại đội đặc công, 1
trung đội trinh sát, 1 trung đội thông tin, 1 trung đội quân y. Quân số toàn tiểu đoàn
100
có 1.330 cán bộ, chiến sĩ [19, 122].
Ở Sóc Trăng, ngày 1-7-1964, tiểu đoàn chủ lực của tỉnh đƣợc thành lập, lấy
phiên hiệu là Tiểu đoàn Phú Lợi. Biên chế tiểu đoàn có 3 đại đội bộ binh (C71,
C74, C75), 1 đại đội trợ chiến, 2 trung đội trinh sát, 1 trung đội thông tin với quân
số gần 800 ngƣời. Bên cạnh đó, tỉnh còn tiếp tục duy trì các đại đội trinh sát 602 và
603 [29, 153].
Giữa năm 1964, trên cơ sở Tiểu đoàn Lý Thƣờng Kiệt cũ, Tỉnh ủy Vĩnh
Long quyết định thành lập tiểu đoàn cơ động mang phiên hiệu Tiểu đoàn 857 với
quân số trên 500 ngƣời. Lực lƣợng vũ trang các huyện ngày càng phát triển, mỗi
huyện đã có 1 đại đội.
Ở Cà Mau, sau khi rút Tiểu đoàn U Minh 1 lên xây dựng trung đoàn của
Khu, Tỉnh ủy quyết định thành lập tiểu đoàn mới, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn U
Minh 2. Còn ở Rạch Giá, từ cuối năm 1963, Tiểu đoàn U Minh 10 đƣợc đổi phiên
hiệu thành Tiểu đoàn 207 [113, 350].
Ở Khu VI, cuối năm 1964, lực lƣợng Quân khu đƣợc miền Bắc chi viện 1
tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 130), 2 đại đội bộ binh độc lập (Đại đội 54, Đại đội
55) và 1 đại đội hỏa lực. Quân khu bổ sung Đại đội 54 cho Tiểu đoàn 186. Đến
giữa năm 1965, trên 2.000 tân binh mới từ Bắc vào, Khu VI đã có Trung đoàn
(thiếu) 346, các tiểu đoàn bộ binh độc lập (Tiểu đoàn 186 và Tiểu doàn 840) và 1
tiểu đoàn trợ chiến (Tiểu đoàn 145). Lực lƣợng tập trung tỉnh có 2 tiểu đoàn, một
số phân đội đặc công, trinh sát, công binh. Riêng du kích xã, thôn là 6.591 ngƣời
[50, 157].
Tại Lâm Đồng, cuối năm 1964, lực lƣợng vũ trang tỉnh đƣợc bổ sung thêm
quân số, biên chế thành 3 đại đội: Đại đội 210, Đại đội 48, Đại đội 724 và các phân
101
đội thông tin, trinh sát… [23, 107]. Ở Tuyên Đức, đến tháng 6-1965, lực lƣợng vũ
trang có Đại đội 810, trung đội công binh, đội K1 đặc công, 9 đội vũ trang công
tác, 2 đội biệt động 850 và 870 [23, 114].
Ở Ninh Thuận, Bình Thuận, đầu năm 1965, đã xây dựng đƣợc tiểu đoàn cơ
động đầu tiên là Tiểu đoàn 482 Bình Thuận. Ngoài ra, lực lƣợng vũ trang của Ninh
Thuận, Bình Thuận còn có 10 đại đội bộ binh, 2 đại đội trợ chiến. Lực lƣợng huyện
có 6 đại đội và 23 trung đội dân quân du kích [50, 155].
Sau khi thành lập mặt trận Tây Nguyên, tháng 9-1964, Bộ Tổng tƣ lệnh bổ
sung cho Tây Nguyên Trung đoàn bộ binh 320 với đầy đủ quân số và trang bị. Đây
là Trung đoàn chủ lực đầu tiên của Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nƣớc. Tiếp theo là 500 cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh 545 Quân khu Tây Bắc
vào sáp nhập với Tiểu đoàn 407 đặc công hình thành nên Tiểu đoàn 952. Cuối năm
1964, Trung đoàn 101 bộ binh (Sƣ đoàn 325) cũng tiến vào mặt trận. Đến đầu năm
1965, lực lƣợng chủ lực của Tây Nguyên bao gồm 2 trung đoàn bộ binh, 1 tiểu
đoàn đặc công hỗn hợp, 2 tiểu đoàn súng máy [61, 34].
Ở Gia Lai, đầu năm 1964, tỉnh thành lập Liên đại 45 (tiểu đoàn thiếu) gồm
Đại đội 3 cũ của tỉnh (anh em Ja Rai), 1 đại đội bộ binh anh em Kinh của Trung
đoàn 3 (Quân khu V) chuyển về và 1 đại đội bổ sung từ miền Bắc có trang bị hỏa
lực mạnh (ĐKZ 57 ly, cối 81 ly). Các đại đội độc lập của tỉnh và các trung đội tập
trung huyện đều đƣợc bổ sung quân số, trang bị đầy đủ [22, 192].
Tại Đăk Lăk, tháng 5-1965, Khu ủy V thành lập Tiểu đoàn 301, đơn vị cơ
động đầu tiên của tỉnh. Lực lƣợng vũ trang của tỉnh lúc này còn có 7 đại đội, 6
trung đội, đại đội đặc công, phân đội trinh sát, phân đội vũ trang A37 [115, 74].
Từ năm 1964, Trung ƣơng tăng cƣờng cho Khu V một số tiểu đoàn bộ binh,
102
phòng không. Bộ Tƣ lệnh Quân khu V tổ chức lại lực lƣợng vũ trang gồm 3 trung
đoàn, 1 tiểu đoàn độc lập, 2 tiểu đoàn đặc công và 1 tiểu đoàn phòng không. Bộ đội
địa phƣơng có 7 tiểu đoàn và 1 liên đội, du kích trên 40.000 ngƣời [137, 325].
Ở Quảng Trị, ngoài các đơn vị 55, 45, đội 10 đặc công, tháng 10-1964, tỉnh
đã xây dựng đƣợc Tiểu đoàn 808 bộ binh. Mỗi huyện đều có 1 đại đội bộ binh. Lực
lƣợng du kích phát triển mạnh khắp các xã với số lƣợng trên 2.000 ngƣời [28,
109].
Tại Quảng Nam - Đà Nẵng, sau khi chia tách tỉnh, tỉnh Quảng Đà có 4 đại
đội bộ binh Đ61, Đ62, Đ63, Đ64; tỉnh Quảng Nam có Tiểu đoàn 70 bộ binh và các
đại đội (V16 đặc công, V18 đặc công, 702 bộ binh); tổng số du kích ở đồng bằng là
8.600 ngƣời [27, 75]. Ngày 19-5-1965, tỉnh đội Quảng Đà quyết định sáp nhập các
đại đội Đ61, Đ62, Đ63, Đ64 thành Tiểu đoàn 1 bộ binh (mật danh R20). Cùng thời
gian, Đại đội 1 đặc công thành phố Đà Nẵng cũng đƣợc thành lập [27, 89].
Ở Quảng Ngãi, đến cuối năm 1963, Tỉnh ủy quyết định thành lập đơn vị tập
trung cấp tiểu đoàn mang tên Tiểu đoàn 83. Bộ đội huyện cũng đƣợc tăng cƣờng
đáng kể, mỗi huyện có từ 3-5 trung đội [92, 33].
Tại Bình Định, đầu năm 1965, Tiểu đoàn 50 chủ lực tỉnh đƣợc kiện toàn, bổ
sung thêm quân số, vũ khí. Đồng thời, ngày 19-5-1965, tỉnh đội quyết định rút 3
đại đội trực thuộc tỉnh cùng với đại đội hỏa lực Quân khu V tăng cƣờng thành lập
tiểu đoàn thứ hai mang phiên hiệu Tiểu đoàn 52. Đại đội Đ10 đặc công phát triển
thành 5 trung đội mạnh. Các huyện đồng bằng mỗi nơi xây dụng 1 đại đội tập trung
đầy đủ quân số, mỗi huyện miền núi cũng có 2 trung đội. Du kích và tự vệ bán
thoát ly toàn tỉnh có 24.919 ngƣời [18, 278-279].
Trong 6 tháng đầu năm 1965, Phú Yên có 1.169 thanh niên gia nhập Quân
giải phóng. Tỉnh bổ sung cho các đơn vị chủ lực của Quân khu 606 ngƣời, thành
103
lập lại Đại đội 3 Tiểu đoàn 85 (thay Đại đội 3 cũ vào chi viện cho tỉnh Khánh
Hòa). Các huyện Tuy Hòa 1, Tuy Hòa 2, Đồng Xuân, Sông Cầu, mỗi huyện thành
lập thêm 1 trung đội vũ trang. Lực lƣợng du kích thôn, xã tăng lên 6.963 ngƣời với
57 ban chỉ huy xã đội đƣợc trang bị gần 3.000 súng các loại [26, 241-242].
Đầu năm 1964, sau khi tách khỏi Khu VI về với Khu V, lực lƣợng vũ trang
tập trung của tỉnh Khánh Hòa lúc này có 884 ngƣời, tổ chức thành 3 đại đội bộ
binh (C1, C2, 548), 1 đại đội công binh, 1 trung đội đặc công, 1 trung đội trinh sát,
1 trung đội thông tin, 1 trung đội vận tải, 2 bệnh xá, 1 cơ quan hậu cần. Hàng ngàn
thanh niên rút lên bổ sung cho các đơn vị bộ đội, thành lập ở mỗi huyện 1 đại đội
địa phƣơng, riêng Bắc Ninh Hòa có 2 đại đội cùng 2.108 ngƣời thuộc lực lƣợng
bán vũ trang [77, 27].
Đến đầu năm 1965, lực lƣợng chủ lực trên toàn chiến trƣờng miền Nam đã
có trên 14 trung đoàn (Đông Nam Bộ - 4, Trung Nam Bộ - 2, Tây Nam Bộ - 2, Khu
VI - 1, Khu V - 3, Tây Nguyên - 2), tỷ lệ giữa chủ lực Quân giải phóng với quân
đội Sài Gòn (kể cả bảo an và lực lƣợng đặc biệt) giảm xuống còn 1 - 3 và nếu chỉ
tính riêng tỷ lệ quân chủ lực là hơn 1 - 2 [48, 55]. Từ đó, bƣớc đầu tạo nên quả
đấm mạnh, là điều kiện cho hình thức tác chiến vận động phát triển mạnh trong
giai đoạn này. Bộ đội tập trung cũng đƣợc mở rộng, hầu hết các tỉnh đều đã xây
dựng đƣợc tiểu đoàn cơ động với đầy đủ các bộ phận chuyên môn, trợ chiến nhƣ
hỏa lực, trinh sát, thông tin…
Tuy nhiên, miền Nam vẫn chƣa thực hiện theo ý định của Quân ủy Trung
ƣơng là xây dựng các đơn vị cấp sƣ đoàn. Mặt khác, chiến trƣờng giai đoạn này có
điều kiện và cần thiết xây dựng lực lƣợng lớn do sự giúp đỡ của Trung ƣơng về
ngƣời và vũ khí nhƣng các quân khu đã đƣa lên Miền cả trung đoàn và hàng ngàn
thanh niên đi thành những đoàn lẻ. Đây là thiếu sót có tính chất chỉ đạo đƣờng lối
104
chủ trƣơng. Thực tiễn chứng minh đƣa đi một, sau này Trung ƣơng phải bổ sung
gấp 5-7 lần, do đó thời cơ giành thắng lợi lớn trong năm 1965 không thực hiện
đƣợc [113, 369].
Xây dựng các đơn vị chuyên môn, kỹ thuật
Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh vận động chiến nhằm làm tan ra quân đội Sài
Gòn trên quy mô lớn, việc đẩy mạnh phát triển các đơn vị chuyên môn, kỹ thuật
trong Quân giải phóng miền Nam là hết sức cần thiết.
Về pháo binh, sau chiến thắng Tua Hai năm 1960, với số pháo cối thu đƣợc,
Ban Quân sự Miền tổ chức thành lập Đại đội 315 gồm 3 trung đội súng máy, cối,
ĐKZ. Đây là đại đội trợ chiến đầu tiên ra đời trên chiến trƣờng miền Nam [121,
42].
Đầu năm 1961, 3 khung tiểu đoàn pháo mang theo 2 khẩu ĐKZ 57 ly, 120
viên đạn từ miền Bắc vƣợt Trƣờng Sơn vào chiến khu D. Trên cơ sở đó, tháng 7-
1961, Ban pháo binh Miền đƣợc thành lập. Giữa năm 1962, trong quá trình xây
dựng trung đoàn bộ binh thứ hai, Đại đội 5 pháo binh chủ lực Miền đƣợc thành lập
có 2 khẩu ĐKZ 57 ly và một số pháo đạn tại chỗ. Từ 2 đại đội 315 và 5, cuối năm
1962, Bộ Chỉ huy Miền quyết định tổ chức thành Tiểu đoàn 45 pháo binh mang
vác với quân số lên đến 1.000 ngƣời. Một phân khoa pháo binh trong trƣờng quân
chính Miền đƣợc thành lập tại chiến khu Dƣơng Minh Châu [106, 64].
Ở Nam Trung Bộ, tháng 7-1961, Ban pháo binh trong cơ quan Bộ Tƣ lệnh
Quân khu V đƣợc thành lập. Tây Nguyên có Tiểu đoàn 200 sơn pháo 75 ly gồm
148 chiến sĩ. Ngoài ra, tỉnh Kon Tum đã có 1 đại đội súng cối 60 ly và tỉnh Gia Lai
có 1 đại đội trợ chiến.
Tại các tỉnh ven biển Khu V, các tiểu đoàn 300, 400 và 95 sơn pháo 75 ly
hành quân vào chiến trƣờng từ năm 1961 và đến năm 1962 đƣợc phối thuộc các
105
trung đoàn 1, 2, 3 hoạt động ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định [106, 65].
Từ cuối năm 1963, lực lƣợng pháo binh Miền có bƣớc nhảy vọt về số lƣợng
và chất lƣợng. Phân khoa pháo binh đã tách khỏi trƣờng quân chính thành trƣờng
huấn luyện pháo binh độc lập. Các cán bộ pháo binh lần lƣợt đƣợc đƣa về học tập
một thời gian, sau đó tỏa về các đơn vị tiếp tục chiến đấu.
Tháng 10-1963, Bộ Chỉ huy Miền ra quyết định thành lập đoàn pháo binh
chủ lực mang tên U80 (tƣơng đƣơng trung đoàn) gồm 4 tiểu đoàn (Z37, Z39, Z41,
Z35), 1 tiểu đoàn súng máy và 3 cơ quan tham mƣu, chính trị, hậu cần. Tháng 8-
1964, U80 đổi phiên hiệu thành Đoàn 563, tăng cƣờng thêm trang bị là các sơn
pháo 75 ly.
Cùng thời gian này, ở miền Tây Nam Bộ cũng đã xây dựng đƣợc 3 tiểu đoàn
pháo cối và súng máy cao xạ, hình thành nên Đoàn 480 pháo binh chủ lực gồm các
tiểu đoàn mang phiên hiệu 198, 217 và 700. Ở miền Đông Nam Bộ, Tiểu đoàn 900
pháo chủ lực cũng đƣợc thành lập. Cuối năm 1964, Bộ chỉ huy Quân khu Sài Gòn -
Gia Định xây dựng đƣợc 1 đại đội súng cối 81 ly và 60 ly.
Từ năm 1964, pháo binh chủ lực Tây Nguyên còn đƣợc bổ sung Tiểu đoàn
cối 120 ly, Tiểu đoàn 30 trọng liên 12 ly 7, Tiểu đoàn 409 sơn pháo 75 ly [106,
66]. Đến đầu năm 1965, trong tất cả các trung đoàn chủ lực trên toàn chiến trƣờng
miền Nam, đều có những đơn vị pháo binh phối thuộc biên chế [106, 85].
Về công binh, từ tháng 5-1961, trong đoàn cán bộ Phƣơng Đông từ miền
Bắc hành quân vào Nam, có 11 cán bộ công binh và 1 đại đội công binh 50 ngƣời.
Đến chiến khu D, một số cán bộ công binh đƣợc giao nhiệm vụ thành lập Ban
Công binh Miền. Các cán bộ khác thành lập ban công binh thuộc các quân khu.
Đến năm 1962, trực thuộc Ban Công binh Miền có 5 cán bộ, trƣờng huấn luyện
cán bộ sơ cấp công binh và 2 đại đội công binh (Đại đội 23 và Đại đội 24), mỗi đại
106
đội 30 ngƣời. Các quân khu VIII, IX có phân đội công binh 30 ngƣời, Quân khu VI
có tổ công binh ở cơ quan và trung đội công binh 20 ngƣời. Quân khu V thành lập
ban công binh từ tháng 7-1961, có Đại đội 16 với 86 ngƣời. Tỉnh Bình Định tổ
chức đƣợc 1 tiểu đội công binh [38, 195-196].
Đến năm 1964, lực lƣợng công binh dần hình thành từng bƣớc trên toàn
Miền. Công binh trực thuộc Bộ Chỉ huy Miền có 3 đại đội, gồm Đại đội 23 chuyên
trách xây dựng căn cứ, 2 đại đội (24, 25) là công binh chiến đấu. Các quân khu đều
đã xây dựng đƣợc đại đội hoặc tiểu đoàn công binh trực thuộc. Hầu hết các tỉnh
đều có trung đội hoặc đại đội công binh, mỗi huyện có từ 1-2 tiểu đội công binh.
Các tiểu đoàn đều có phân đội công binh, trung đoàn bộ binh thì biên chế 1 đại đội
công binh [38, 234-235]
Về thông tin liên lạc, tháng 8-1961, Ban thông tin liên lạc B2 đƣợc thành lập
trên cơ sở lực lƣợng bổ sung từ đoàn cán bộ Phƣơng Đông. Thuộc ban có đội
thông tin liên lạc B18 với đủ thành phần liên lạc vô tuyến điện, hữu tuyến điện và
thông tin vận động, trang bị 4 điện đài 15W, 1 tổng đài EE8A, 5 máy điện thoại..
Xƣởng sửa chữa máy và kho thông tin cũng đƣợc hình thành. Sau đó, trƣờng thông
tin liên lạc quân sự đƣợc thành lập. Ban cũng tiến hành phân công cán bộ để nhanh
chóng triển khai ngay hệ thống thông tin trên toàn Miền [12, 351].
Ở Quân khu V, ban thông tin liên lạc có các đơn vị trực thuộc là phân đội
thông tin liên lạc và xƣởng sửa chữa máy thông tin. Phân đội thông tin liên lạc gồm
các đội: Đội liên lạc vô tuyến điện có 4 điện đài 15W (GRC9 và 102E), 1 điện đài
15W (SCR694) và 4 máy bộ đàm BC1000; đội liên lạc hữu tuyến (còn gọi là đội
liên lạc nội cần) với 2 tổng đài 10 cửa, 12 máy điện thoại Ê83 và 6km dây dã
chiến; đội thông tin vận động [12, 359-360].
Từ cuối năm 1963, trƣớc yêu cầu mới của các chiến trƣờng, bộ đội thông tin
107
của miền Nam có sự phát triển vƣợt bậc. Tháng 9-1963, trong chuyến hàng đầu
tiên từ miền Bắc chuyển theo đƣờng biển vào Đông Nam Bộ, đã có một số lƣợng
hàng thông tin khá lớn gồm có 10 máy điện đài 15W, 160W, dây điện thoại dã
chiến, 30 máy điện thoại, 5 tổng đài 10 cửa báo, 1 tấn pin. Từ đó đến cuối năm
1964, đã có 60 tấn hàng thông tin từ miền Bắc chuyển vào Nam Bộ và Trung Bộ
bằng đƣờng biển. Số hàng trên đƣợc tăng cƣờng cho các khu, một phần đƣa vào
kho dự trữ cho bƣớc phát triển sau này [12, 352]. Thông tin B2 đã trang bị cho mỗi
tiểu đoàn chủ lực của mặt trận và các khu 1 máy vô tuyến diện 15W, 1 máy PRC10
(hoặc máy AB64), 4 máy điện thoại và 3km dây liên lạc [12, 356]. Nhiều đoàn cán
bộ chỉ huy, kỹ thuật sơ cấp, trung cấp, cao cấp của Cục Thông tin liên lạc cũng lần
lƣợt đi trên các đoàn tàu vào tăng cƣờng cho lực lƣợng thông tin liên lạc B2 tới
đích an toàn.
Tại Khu V, Liên khu ủy quyết định dành toàn bộ số điện đài đang triển khai
bao gồm 41 điện đài 15W loại GRC9 và SCR694 giao cho thông tin liên lạc của
Quân khu. Nhờ đó, Quân khu có điều kiện phát triển đội thông tin liên lạc thành
liên đội thông tin liên lạc hỗn hợp, có trạm thông tin sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy
tiền phƣơng, lập đội thông tin liên lạc cho Phân khu miền Tây (từ tháng 9-1964 trở
đi là mặt trận Tây Nguyên) và bổ sung máy thông tin cho các trung đoàn, tiểu đoàn
chủ lực độc lập, cho các tỉnh đội để lập trạm ven biển từ Quảng Ngãi đến Phú Yên
(HB15, HB16, HB17, HB18…) [12, 360-361].
Từ năm 1961, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh việc phun chất độc diệt cỏ làm trụi
lá cây, sử dụng chất cháy, chất độc CS trong các cuộc hành quân nhằm khai quang,
lập vành đai trắng… thì công tác phòng hóa cho bộ đội chiến đấu là yêu cầu bức
thiết. Trong tình hình đó, Phòng Hóa học - Nguyên tử đã chủ động đề xuất với Bộ
Quốc phòng cử một đoàn cán bộ hóa học đi chiến trƣờng với nhiệm vụ trực tiếp
nghiên cứu chất độc của đế quốc Mỹ đang sử dụng để có kế hoạch phòng hóa tốt
cho bộ đội. Tháng 3-1962, 10 cán bộ hóa học đã lên đƣờng vào Nam và đến Quảng 108
Ngãi. Một số cán bộ đƣợc giữ lại và điều về các đơn vị, địa phƣơng làm nhiệm vụ
nghiên cứu tình hình sử dụng chất hóa học của địch và xây dựng ban hóa học cho
Quân khu V [40, 62].
Tiếp theo đó, từ tháng 3/1962 - 1964, Bộ Tổng tham mƣu đã tiếp tục tăng
cƣờng cho miền Nam các đoàn cán bộ của Phòng Hóa học - Nguyên tử. Cán bộ
hóa học tăng cƣờng cho Miền tuy số lƣợng chƣa nhiều nhƣng đó là cơ sở cho việc
xây dựng lực lƣợng hóa học trong Quân giải phóng trong các giai đoạn sau [40,
66].
Về bộ đội cơ giới, đầu năm 1964, Quân ủy Trung ƣơng có chi viện cho
Trung bộ và Nam Bộ 2 đại đội cán bộ cơ giới (46A, 46B). Đến tháng 4-1964, Bộ
Quốc phòng cử thêm đoàn cán bộ cơ giới là Đoàn 613 vào thẳng chiến trƣờng
Đông Nam Bộ. Đến tháng 11-1964, Bộ Chỉ huy Miền đã tập hợp quân số của Đại
đội 46B (mới phân tán xuống các đơn vị trƣớc đó ít lâu) để thành lập Ban cơ giới
Miền, lấy phiên hiệu là B16, trực thuộc có 1 trung đội đặc công cơ giới gồm 12
ngƣời, có nhiệm vụ làm tham mƣu cho Bộ Chỉ huy Miền về chỉ đạo, chỉ huy, tổ
chức và hoạt động của bộ đội cơ giới chiến trƣờng Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ
[41, 28].
Tháng 12-1964, đoàn cán bộ tăng - thiết giáp gồm 40 ngƣời có đầy đủ cán
bộ trung đội, trƣởng xe, pháo thủ, lái xe, mang phiên hiệu C15 đƣợc miền Bắc tăng
cƣờng cho B2. Đến tháng 3-1965, Bộ Chỉ huy Miền quyết định sáp nhập C15 với
trung đội của Ban cơ giới Miền thành Đại đội cơ giới Miền, phiên hiệu là C40 [41,
30].
Sự hình thành bƣớc đầu của Ban cơ giới Miền và Đại đội cơ giới Miền lúc
này dù chƣa hề đƣợc trang bị chiếc xe tăng nào có ý nghĩ hết sức quan trọng. Ban
109
cơ giới đã nghiên cứu đặc điểm về cấu tạo và tính năng kỹ chiến thuật tăng - thiết
giáp của địch, chuẩn bị chiến trƣờng tiến tới đón nhận lực lƣợng tăng - thiết giáp
của miền Bắc vào, tổ chức thành các đơn vị chiến đấu tăng - thiết giáp của Quân
giải phóng trong các giai đoạn tiếp theo.
Mở rộng hệ thống hậu cần
Cách mạng miền Nam lớn mạnh nhanh chóng, nhu cầu chi viện chiến trƣờng
ngày càng tăng. Từ sau Hội nghị Chính trị đặc biệt (tháng 3-1964), Trung ƣơng
Đảng chủ trƣơng: Hơn bao giờ hết, hậu phƣơng phải dồn sức cho miền Nam,
chuẩn bị phƣơng thức vận tải cơ giới [91, 28]. Thực tiễn cho thấy, trên một tuyến
chi viện chiến lƣợc với chiều dài hơn 1.300km, nếu lấy gùi thồ làm phƣơng thức
vận tải chủ yếu thì nuôi không nổi nội bộ và chỉ có phát triển phƣơng thức vận tải
cơ giới thì Đoàn 559 mới thực hiện đƣợc kế hoạch vận chuyển trên giao gấp 3 lần
năm 1963 [101, 31].
Vì vậy, một mặt Đoàn 559 đƣợc điều chỉnh về mặt tổ chức, quân số phát
triển lên 7.000 ngƣời với 2 trung đoàn 70 và 71 tiếp tục làm nhiệm vụ gùi thồ [124,
207], mặt khác tiến hành khẩn trƣơng công tác mở đƣờng cơ giới. Bộ Tổng tham
mƣu chỉ thị cho Cục Công binh tổ chức khảo sát các tuyến đƣờng từ Nà Phào đến
Sê Pôn và Mƣờng Noòng đến sông Bạc. Bộ Tổng tham mƣu đã tăng cƣờng cho
Đoàn 559 Trung đoàn công binh 98 làm nhiệm vụ mở đƣờng cơ giới từ đƣờng 9
(Bản Đông) vào Mƣờng Noòng và tiếp đó vào Bạc. Sau khi đoạn đƣờng ô tô Bản
Keng - Mƣờng Noòng khôi phục xong, mở tiếp đoạn đƣờng ô tô từ Bạc nối vào
trạm gùi của Tây Nguyên, mở đƣờng đi Đăk Min qua Chà Vằn để chi viện cho các
tỉnh nam Khu V, mở đƣờng sông để vận chuyển từ Bạc đi Pắc Ca Don, kết hợp vận
chuyển bằng gùi gánh và xe đạp thồ. Cho đến cuối năm 1964, bộ đội trên tuyến
110
559 cùng các đơn vị vũ trang, thanh niên xung phong đã xây dựng đƣợc tuyến
hành lang vận tải gồm nhiều trục đƣờng gùi thồ và 1 trục đƣờng cơ giới ở Tây
Trƣờng Sơn [91, 29].
Cùng với việc mở tuyến chi viện đƣờng bộ, Quân ủy Trung ƣơng đã tăng
cƣờng các các biện pháp chỉ đạo tuyến vận chi viện trên biển. Ngày 29-1-1964, Bộ
Quốc phòng quyết định thay đổi phiên hiệu của Đoàn 759 thành Đoàn 125 hải
quân. Đƣợc giao phụ trách trực tiếp Đoàn 125, Bộ Tƣ lệnh Hải quân đã tập trung
lực lƣợng, phƣơng tiện nhanh chóng kiện toàn các cơ sở hậu cần - kỹ thuật; trang
bị cho đại đội vận tải 5 tàu vỏ sắt trọng tải mỗi chiếc 50 tấn và nhiều thủy thủ hầu
hết là đảng viên, đoàn viên thanh niên ƣu tú [124, 208].
Bƣớc sang năm 1965, toàn bộ hệ thống giao thông vận tải từ miền Bắc vào
các chiến trƣờng đều đƣợc chấn chỉnh. Ngày 3-4-1965, Thƣờng trực Quân ủy
Trung ƣơng ra nghị quyết tăng cƣờng nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tƣ lệnh 559:
Tuyến 559 phải khẩn cấp mở thêm các trục đƣờng cho các chiến trƣờng miền Nam
và Hạ Lào, đồng thời có nhiệm vụ đánh địch, mở rộng và giữ vững hành lang, vận
chuyển hàng chiến lƣợc và dẫn khách vào chiến trƣờng. Đoàn có 3 lực lƣợng chính
là: lực lƣợng mở đƣờng mới, giữ gìn và sửa chữa đƣờng cũ; lực lƣợng vận chuyển
và giữ kho; lực lƣợng bảo vệ. Quyết định này đánh dấu bƣớc phát triển mới của
Đoàn 559 từ vận tải thô sơ chuyển sang vận tải cơ giới; từ quy mô cấp sƣ đoàn lên
quy mô quân khu với những nhiệm vụ chiến lƣợc to lớn, vô cùng khó khăn, phức
tạp trên một địa bàn rất sâu và rộng. Năm 1965, biên chế của Đoàn 559 là 24.400
ngƣời với 7.600 thanh niên xung và 1.500 công nhân [91, 32]. Kết thúc năm 1965,
nhờ đổi mới toàn diện các mặt hoạt động nên khối lƣợng hàng vào chiến trƣờng
qua tuyến 559 gần bằng khối lƣợng vận chuyển trong 5 năm từ 1959-1964.
Trong khi đó, Đoàn 125 ngày càng vững mạnh và đạt nhiều thành tích. Chỉ
111
tính từ tháng 1/1964 - 2/1965, Đoàn 125 huy động 20 chiếc tàu cả vỏ sắt và vỏ gỗ,
tổ chức 88 chuyến đi tiếp tế cho chiến trƣờng với nhiều chuyến đƣa các cán bộ cao
cấp, trung cấp của Đảng và quân đội vào miền Nam. Số vũ khí, trang bị mà đơn vị
vận chuyển trong thời gian này đạt gần 4 nghìn tấn.
Ngày 1-2-1965, tàu 143 có trọng tải 100 tấn nhận lệnh vào Nam. Đêm 15-2-
1965, tàu cập bến Vũng Rô (Phú Yên). Sau khi phần lớn số hàng đƣợc chuyển vào
hang núi, thì trời vừa sáng, không còn đủ thời gian đƣa tàu vƣợt qua tuyến kiểm
soát của địch để ra khơi. Tàu phải đậu lại trong vịnh và đƣợc ngụy trang kỹ. Trƣa
hôm đó, máy bay trinh sát địch phát hiện chiếc tàu. Lập tức máy bay kéo đến ném
bom, bắn phá. Cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra đến chiều tối. Do tƣơng quan lực
lƣợng quá chênh lệch, các chiến sĩ phải rút khỏi vùng chiến sự để bảo toàn lực
lƣợng. Ngày 14-3-1965, Mỹ vạch kế hoạch chiến dịch phong toả mang tên Market
Time (Thời gian thị trƣờng) nhằm rào chặt con đƣờng trên biển. Trƣớc tình hình
địch phong toả gắt gao, theo chỉ thị của Quân ủy Trung ƣơng, hải quân không thể
tiếp tục vận chuyển theo phƣơng thức cũ mà phải tổ chức nắm lại tình hình, tìm
phƣơng thức vận chuyển đi bằng hàng hải thiên văn - một phƣơng thức vận chuyển
mới, bảo đảm đƣợc bí mật, an toàn hơn [39, 161].
Đƣợc sự tiếp sức của miền Bắc, Trung ƣơng Cục và Bộ Chỉ huy Miền gấp
rút điều chỉnh thêm một bƣớc về tổ chức và hoạt động hậu cần phục vụ chủ trƣơng
mở rộng quy mô tác chiến tập trung của bộ đội. Tháng 3-1964, trƣờng Hậu cần
Miền đƣợc thành lập. Đây là cơ sở đầu tiên tại Nam Bộ đào tạo cán bộ hậu cần
theo hƣớng chính quy, hiện đại và tƣơng đối dài hạn.
Ngày 10-12-1964, Bộ Chỉ huy Miền quyết định chuyển Phòng Hậu cần
thành Cục Hậu cần Miền. Cục Hậu cần Miền tổ chức 8 phòng: Tham mƣu, Chính
trị, Quân nhu, Quân y, Quân giới, Tài vụ, Tiếp liệu và Vận tải. Căn cứ khu A (Biên
112
Hòa) chuyển thành Đoàn hậu cần 81; khu B (Tây Ninh) chuyển thành Đoàn hậu
cần 82, khu C (Bến Cát) chuyển thành Đoàn hậu cần 83. Ngoài ra, Cục Hậu cần
Miền còn trực tiếp chỉ đạo mọi mặt công tác của Ban tiếp liệu ngoại, các đơn vị
vận tải, xƣởng sản xuất vũ khí… trên nƣớc bạn.
Cũng trong tháng 12, dựa trên cơ sở các tổ phái viên quân lƣơng và cửa
khẩu, hậu cần Quân khu V tổ chức thành các phân sở hậu cần: Phân sở 1 ở Kon
Tum, Phân sở 2 ở Quảng Nam, Phân sở 3 ở Quảng Ngãi, Phân sở 4 ở Bình Định -
Gia Lai, Phân sở 5 ở Tây Quảng Ngãi - Quảng Nam [124, 213-214].
Việc thành lập Cục Hậu cần Miền, các đoàn hậu cần 81, 82, 83 ở Nam Bộ và
các phân sở hậu cần ở Khu V đánh dấu bƣớc trƣởng thành mới của hậu cần trên
các chiến trƣờng. Các đoàn hậu cần đƣợc tổ chức đồng bộ các ngành nghiệp vụ, có
trách nhiệm liên hệ chặt chẽ với các địa phƣơng, tạo nguồn bảo đảm sẵn sàng phục
vụ cho các đơn vị chủ lực hoạt động. Đây là một hình thức tổ chức phù hợp với
chiến trƣờng dễ bị địch chia cắt. Việc bảo đảm theo khu vực phát huy tác dụng
tốt(năm 1964, toàn chiến trƣờng miền Nam đã sản xuất đƣợc 4.980 tấn gạo, 346
tấn thực phẩm (thịt, cá), 7 tấn bông băng, 247 tấn vũ khí, đạn dƣợc) [9, 598-599].
Tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị trong các đơn vị vũ trang
giải phóng
Trƣớc tình hình phát triển của phong trào cách mạng miền Nam, sự lớn
mạnh của lực lƣợng vũ trang ngày càng giữ vai trò trực tiếp quyết định thắng lợi
của cuộc chiến tranh giải phóng, Trung ƣơng Cục đã ra nghị quyết quy định chế độ
Đảng ủy trong Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Nghị quyết nêu rõ: Quân
giải phóng và các lực lƣợng vũ trang tự vệ nhân dân ở miền Nam Việt Nam là công
cụ của Đảng để tiến hành đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Do
đó, các cấp ủy Đảng từ đơn vị cơ sở đến Trung ƣơng Cục đều có trách nhiệm lãnh
113
đạo về mọi mặt đối với các lực lƣợng vũ trang và bán vũ trang thuộc phạm vi phụ
trách của mình, có quyền sử dụng các lực lƣợng đó phục vụ nhiệm vụ chính trị
chung [129, 410].
Trung ƣơng Cục quy định hệ thống tổ chức Đảng trong lực lƣợng vũ trang
cách mạng miền Nam nhƣ sau: Toàn miền Nam có Đảng ủy Quân sự Miền, các
khu có Đảng ủy quân sự khu, các tỉnh, huyện đều tổ chức các ban cán sự. Các đại
đội, trung đội độc lập tổ chức chi ủy. tiểu đoàn, trung đoàn tổ chức Đảng ủy tiểu
đoàn, Đảng ủy trung đoàn. Các cơ quan, trƣờng học, công xƣởng, bệnh viện, ngành
chuyên môn… tổ chức chi ủy, liên chi, Đảng ủy khi cần thiết. Hệ thống tổ chức
Đảng trong Quân giải phóng miền Nam theo ngành dọc, mỗi cấp chịu trách nhiệm
trƣớc cấp trên và trực tiếp lãnh đạo cấp dƣới [13, 11].
Xây dựng Đảng trong các lực lƣợng vũ trang giải phóng miền Nam đƣợc
đẩy mạnh trên nhiều nội dung, nhƣng tập trung trên 2 nội dung chính là về chính
trị, tƣ tƣởng và tổ chức.
Về chính trị, tƣ tƣởng, Trung ƣơng Cục, Quân ủy Miền và các cấp ủy Đảng
đã lãnh đạo thực hiện tốt công tác xây dựng cho các lực lƣợng vũ trang giải phóng
lý tƣởng cách mạng, tinh thần quyết tâm chiến đấu và chiến thắng trong mọi hoàn
cảnh, vƣợt lên trên mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Trong đó, Cục
chính trị Miền, phòng chính trị các quân khu và hệ thống cán bộ chính ủy, chính trị
viên ở các đơn vị là nòng cốt tiến hành công tác chính trị, tƣ tƣởng.
Tại Khu V, ngày 30-11-1964, Quân khu ủy V đã ra nghị quyết về công tác
giáo dục chính trị, lãnh đạo tƣ tƣởng trong lực lƣợng vũ trang, tiếp tục quán triệt
đƣờng lối cách mạng miền Nam của Trung ƣơng Đảng, thực hiện “4 xây, 4 chống”
(Xây dựng tinh thần dũng cảm ngoan cƣờng, liên tục tấn công địch, chống hoài
nghi, tiêu cực, sợ địch; xây dựng tính tổ chức, kỷ luật, chống tự do tùy tiện, nhất là
114
trong chấp hành mệnh lệnh, kế hoạch hiệp đồng; xây dựng tác phong khẩn trƣơng,
tranh thủ thời cơ, chống do dự, dừng lại, lề mề, chậm chạp; xây dựng quan điểm
quần chúng, chống quan liêu, quân phiệt, lãng phí, tham ô, xa rời quần chúng)
[107, 377-378]. Tháng 3-1965, Quân khu ủy V ra nghị quyết về công tác tƣ tƣởng,
yêu cầu các lực lƣợng vũ trang Quân khu quán triệt các quan điểm mà nghị quyết
Trung ƣơng Cục đã đề ra là quan điểm lâu dài, gian khổ, tự lực cánh sinh; quan
điểm bạo lực cách mạng; quan điểm cách mạng không ngừng; quan điểm quần
chúng cơ bản nhằm nâng cao quan điểm, lập trƣờng sống chết vì Đảng, vì cách
mạng [13, 14].
Công tác chính trị, tƣ tƣởng đã quán triệt đƣờng lối, nhiệm vụ, phƣơng pháp
cách mạng, xây dựng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lƣợc. Các tổ chức Đảng
trong Quân giải phóng luôn nắm vững đƣờng lối chính trị, đƣờng lối quân sự của
Đảng, quán triệt phƣơng hƣớng, mục tiêu, phƣơng châm, phƣơng thức của cuộc
chiến tranh cách mạng trong từng thời kỳ, coi đó là nhiệm vụ trung tâm để xây
dựng quyết tâm chiến lƣợc, quyết tâm chiến đấu cho lực lƣợng vũ trang. Hầu hết
các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng
Cục miền Nam, Quân ủy Trung ƣơng, Quân ủy Miền đều đƣợc quán triệt trong cán
bộ, đảng viên. Những lời kêu gọi của Bác Hồ, bài viết quan trọng của các lãnh đạo
cao cấp cũng đƣợc phổ biến sâu rộng trong cán bộ, chiến sĩ.
Đồng thời, công tác chính trị, tƣ tƣởng luôn không ngừng đấu tranh khắc
phục những khuynh hƣớng lệch lạc nhƣ do dự, rụt rè, quá coi trọng chiến tranh du
kích và nổi dậy, nôn nóng chủ quan, cục bộ địa phƣơng, ngại ác liệt hy sinh, mơ hồ
về lập trƣờng, mất cảnh giác… Cuộc đấu tranh tƣ tƣởng để xác lập và củng cố
những quan điểm đúng đắn, khắc phục tƣ tƣởng sai lầm diễn ra thƣờng xuyên, liên
115
tục trong mỗi giai đoạn kháng chiến.
Về tổ chức, Trung ƣơng Cục và Quân ủy Miền xây dựng và củng cố hệ
thống Đảng trong các lực lƣợng vũ trang giải phóng, chú ý tăng cƣờng tỉ lệ đảng
viên và số lƣợng chi bộ Đảng trong bộ đội, đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng đối với các lực lƣợng vũ trang.
Xác định phát triển đảng viên đông đảo là tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Quân giải phóng, Trung ƣơng Cục và Quân ủy Miền luôn chú ý tăng
cƣờng tỉ lệ đảng viên trong lực lƣợng vũ trang. Tỉ lệ đảng viên trong bộ đội tập
trung tại chiến trƣờng B2 tăng từ 27% (1961-1962) lên 35% (1965). Cuối năm
1963, Đảng bộ Quân khu VII có 1.632 đảng viên với 2 Đảng bộ cơ sở, 2 Đảng bộ
bộ phận và 20 chi bộ. Cuối năm 1964, tỷ lệ đảng viên trong lƣc lƣợng vũ trang
Quân khu VII là 38,7% [110, 219]. Ở Quân khu V, đến tháng 3-1965, có 13.899
đảng viên trong lực lƣợng vũ trang, tỉ lệ lãnh đạo chiếm 29,8% [5].
Tại Khu VIII, Khu ủy chủ trƣơng đƣa số đảng viên trung kiên ƣu tiên cho
lực lƣợng vũ trang, đồng thời tăng cƣờng phát triển Đảng ở cơ sở. Tỉ lệ lãnh đạo
cấp đại đội chủ lực cũng nhƣ bộ đội địa phƣơng đạt 30-45%. Từ cuối năm 1963,
cuộc vận động xây dựng chi bộ 3 tốt (chính trị, tƣ tƣởng tốt, hoàn thành nhiệm vụ
tốt và xây dựng nội bộ tốt) đƣợc triển khai trong các đơn vị.
Tại Quân khu IX, thời kỳ 1961-1965, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên
đƣợc coi là nhiệm vụ trọng tâm, tăng cƣờng phát triển đảng viên đi đôi với đảm
bảo chất lƣợng. Năm 1960, toàn Quân khu IX có 3.000 đảng viên, đến năm 1964
tăng lên 5.268 đảng viên với tỉ lệ lãnh đạo trong bộ đội chủ lực là 31,2%, bộ đội
địa phƣơng là 30,9%. Đối với chi bộ dân quân du kích, yêu cầu đặt ra là phải bám
dân, bám đất, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống, phá ấp chiến lƣợc, xây dựng
xã, ấp chiến đấu. Về chất lƣợng, số chi bộ mạnh chiếm 50,8% [112, 249-250].
116
3.3. Đánh bại hoàn toàn chiến tranh đặc biêt
Cuối năm 1963, lợi dụng tình hình địch đang khủng hoảng nghiêm trọng,
giới tƣớng lĩnh quân sự làm đảo chính lật đổ lẫn nhau, quân đội Sài Gòn hoạt động
cầm chừng, Quân giải phóng miền Nam đẩy mạnh tiến công, đánh bại các cuộc
hành quân càn quét, phá ấp chiến lƣợc, làm chuyển biến cục diện chiến trƣờng.
Tại miền Đông Nam Bộ, ngày 31-12-1963, địch mở cuộc càn lớn mang
tên Đại phong 35 đánh vào vùng căn cứ Bời Lời (Tây Ninh), Bến Cát (Thủ Dầu
Một), nơi đứng chân của Trung đoàn 2 chủ lực Miền (Q762). Sau 3 giờ chiến đấu,
Trung đoàn 2 (thiếu 1 tiểu đoàn) diệt Tiểu đoàn Cọp đen khét tiếng hung ác, bắt
sống 57 tên, thu trên 100 súng. Đây là trận đầu tiên bộ đội chủ lực Miền tiêu diệt
gọn 1 tiểu đoàn, mở đầu thời kỳ đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn địch trên chiến trƣờng
miền Đông.
Trên hƣớng Tây Ninh, Củ Chi, ngày 6-2-1964, Trung đoàn 1 (Q761) đƣợc
tăng cƣờng 1 đại đội đặc công và 1 đại đội súng máy 12,7 ly, tiến công đồn Bến
Cầu (Tây Ninh), loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, bắn rơi 20 máy bay.
Ở Trung Nam Bộ, tháng 1-1964, địch sử dụng 4 chiến đoàn thủy quân lục
chiến, 60 máy bay, 14 tàu chiến, 19 giang thuyền, 26 xe M113, 12 khẩu pháo 105
ly và 155 ly mở cuộc hành quân mang tên Sóng thần 5 đánh vào vùng ven biển
Thạnh Phú (tỉnh Bến Tre). Kiên quyết chặn đánh lực lƣợng tiến công của địch,
Tiểu đoàn 263 chủ lực Quân khu phối hợp với 1 đại đội bộ đội địa phƣơng Bến
Tre, 1 trung đội bộ đội huyện Thạnh Phú và 2 trung đội bảo vệ căn cứ Khu tổ chức
chống càn. Sau 17 ngày giằng co quyết liệt, ngày 5-2-1964, quân đội Sài Gòn buộc
phải rút lui với thiệt hại là 1.240 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu, nhiều máy bay bị
bắn rơi. Thắng lợi này tạo thêm niềm tin cho quân dân Bến Tre cũng nhƣ quân dân
đồng bằng sông Cửu Long vào khả năng đánh bại các cuộc hành quân lớn của
117
địch.
Trên hƣớng Mỹ Tho, Kiến Tƣờng, từ tháng 4-1964, chủ lực Quân khu VIII
cùng bộ đội tỉnh cũng liên tục tiến công địch. Đêm 20-7-1964, Tiểu đoàn 261, 2
đại đội hỏa lực, 1 đại đội đặc nhiệm của Quân khu, bộ đội địa phƣơng huyện Cái
Bè và du kích các xã Nam đƣờng số 4 hợp đồng chặt chẽ, đánh chiếm chi khu Cái
Bè, diệt tại chỗ trên 100 tên địch, phá hỏng 2 khẩu pháo 105 ly, thu nhiều đạn
dƣợc, vũ khí, quân trang, quân dụng.
Tại miền Tây Nam Bộ, tháng 4-1964, lực lƣợng vũ trang Quân khu mở đợt
tiến công chi khu quân sự Vĩnh Thuận. Đây là một chi khu nằm sát rừng U Minh
do 300 lính bảo an canh giữ, bên cạnh là 1 trung đội pháo với 2 khẩu 105 ly. Tham
gia trận đánh có Trung đoàn 96, các tiểu đoàn 306 và 309 cùng các lực lƣợng địa
phƣơng. Sau 30 phút chiến đấu, 1 tiểu đoàn địch bị diệt, 2 tiểu đoàn nhảy dù bị
đánh thiệt hại, 2 khẩu pháo bị phá hỏng…. Chiến thắng Vĩnh Thuận giáng cho
quân đội Việt Nam Cộng hòa một đòn đau, mở ra khả năng đánh tiêu diệt chi khu,
đánh quân viện, phá ấp chiến lƣợc, mở rộng vùng giải phóng.
Trên địa bàn Khu V, ngày 9-2-1964, Quân giải phóng tập kích quận lỵ Ba
Lòng ở Quảng Trị, “một quân lỵ có căn cứ quân sự với nhiều công sự kiên cố,
vững chắc nhất trong toàn tỉnh, đƣợc bố trí bằng các lực lƣợng canh giữ, hỗ trợ
vòng trong, vòng ngoài dày đặc” [6, 139], tiêu diệt lực lƣợng địch và làm chủ quận
lỵ. Đây là lần đầu tiên ở Trị Thiên, Quân giải phóng tập kích quận lỵ và giành
thắng lợi.
Từ ngày 23/4 - 22/5/1964, lực lƣợng vũ trang Quân khu V đánh bại cuộc
hành quân càn quét của 10 tiểu đoàn địch vào căn cứ Đỗ Xá (Quảng Ngãi). Tháng
7-1964, toàn Quân khu mở đợt hoạt động Hè Thu. Ngày 1-7-1964, trên đƣờng số
118
19 (Gia Lai), Tiểu đoàn 303 và Tiểu đoàn 200 pháo cối thuộc lực lƣợng vũ trang
Tây Nguyên, tiến công trung tâm huấn luyện biệt kích Plây Cơrong (Kon Tum),
tiêu diệt 4 đại đội biệt kích, 9 cố vấn Mỹ, thu 200 súng các loại.
Ở vùng đồng bằng, ngày 9-8-1964, Tiểu đoàn 90, Trung đoàn 1 chủ lực
Quân khu phối hợp với bộ đội địa phƣơng Tam Kỳ (Quảng Nam) tiến công ấp
chiến lƣợc Kỳ Sanh và đánh quân viện, diệt 1 đại đội địch, tiêu hao nặng 1 tiểu
đoàn, phá hủy 10 xe cơ giới.
Kết hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, lực lƣợng đặc công và biệt
động tổ chức nhiều trận đánh sâu vào sào huyệt, tiêu diệt sinh lực cao cấp của
chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa nhƣ trận tập kích sân bay Tân Sơn
Nhất (ngày 18-1-1964), phá hủy 60 máy bay; đánh mìn rạp Kinh Đô (ngày 16-2-
1964) làm chết và bị thƣơng 150 lĩnh Mỹ; trận đánh tàu Card trọng tải 15.000 tấn,
chở 19 máy bay lên thẳng cập cảng Sài Gòn (ngày 2-5-1964), giết chết 15 tên
Mỹ…
Tại Nam Bộ, với sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực, các lực lƣợng vũ trang địa
phƣơng, nhân dân nổi dậy phá tan từng mảng hệ thống ấp chiến lƣợc, giành quyền
làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau. Long An là một trong những trọng điểm trong
kế hoạch bình định của chính quyền Sài Gòn. Thể hiện quyết tâm của Tỉnh ủy,
Tiểu đoàn 1 chủ lực tỉnh bẻ gẫy nhiều cuộc càn lớn của địch, hỗ trợ cho quần
chúng nổi dậy phá ấp chiến lƣợc, mở rộng vùng giải phóng, trong đó nổi bật nhất
là trận chống càn ngày 8-4-1964 ở xã Thạnh Lợi, huyện Thủ Thừa, loại khỏi vòng
chiến đấu hơn 200 tên, bắn rơi 6 máy bay.
Trên địa bàn Thủ Dầu Một, tháng 4-1964, Đại đội 303 Phƣớc Thành kết hợp
với bộ đội địa phƣơng Phú Giáo, Tân Uyên và du kích tiến công tiêu diệt bốt Tân
Bình, Nhà Đỏ, giải phóng hoàn toàn xã Tân Bình. Ở Phƣớc Long, Tiểu đoàn 240
119
tiến công chi khu Bù Đăng, tiêu diệt toàn bộ quân địch tại đây và san bằng đồn bốt.
Ở Bà Rịa - Long Khánh, từ tháng 3-1964, phong trào phá ấp chiến lƣợc phát
triển mạnh. Lực lƣợng vũ trang giải phóng Bình Lộc, Bảo Chánh, Bảo Vinh, Suối
Cát, mở rộng vùng giải phóng ra vùng lộ 2, Châu Thành, Long Đất. Tại tỉnh Biên
Hòa, các đại đội 240, 245 và đại đội công binh tiến công diệt đồn Đại An, đồn Cá
Trê... tạo đà cho phong trào chống địch gom dân, lập ấp chiến lƣợc phát triển.
Tại Cần Thơ, bộ đội tỉnh cùng bộ đội huyện Phụng Hiệp diệt 4 đồn, phá
banh hệ thống ấp chiến lƣợc ở vùng giáp ranh ba huyện Châu Thành, Phụng Hiệp,
Kế Sách. Trên địa bàn Sóc Trăng, Tiểu đoàn Phú Lợi hỗ trợ quần chúng nổi dậy
phá dứt điểm 93 ấp chiến lƣợc, phá banh 91 ấp, giải phóng 12 xã với 136.000
dân. Tỉnh Trà Vinh phá dứt điểm 298 ấp chiến lƣợc, phá banh 186 ấp, gỡ 198 đồn,
giải phóng trên 130.000 dân. Cà Mau và Bạc Liêu giải phóng hầu hết các ấp chiến
lƣợc, chỉ còn 14 ấp vùng sâu trong tổng số 405 ấp do địch kiểm soát.
Thắng lợi của quân và dân trên khắp chiến trƣờng miền Nam trong nửa đầu
1964 làm thất bại một bƣớc kế hoạch Johnson - McNamara. Chƣơng trình bình
định 12 tỉnh đề ra lúc đầu không thực hiện đƣợc, buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn
phải rút chỉ tiêu xuống còn 4 tỉnh để cuối cùng, trên thực tế chỉ còn bình định đƣợc
mấy quận thuộc các tỉnh ven Sài Gòn nhƣ Biên Hòa, Hậu Nghĩa, Long An.
Trƣớc tình hình đó, Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng đã nhận định âm mƣu và
khả năng sắp tới của Mỹ có thể sẽ là đẩy mạnh những cố gắng cuối cùng trong
khuôn khổ của cuộc chiến tranh đặc biệt bằng cách tăng thêm phƣơng tiện chiến
tranh, nhất là không quân; tăng thêm nhân viên quân sự cho đến cả một số đơn vị
chiến đấu có giới hạn của Mỹ hoặc của một vài nƣớc chƣ hầu nào đó vào miền
Nam để chiếm đóng một số vị trí chiến lƣợc, tăng thêm lực lƣợng của quân đội tay
sai đẩy mạnh các hoạt động càn quét, nhất là tăng cƣờng các hoạt động của máy
120
bay, đại bác và chiến xa ác liệt hơn để cố hòng ngăn chặn những thắng lợi lớn sắp
tới của nhân dân miền Nam… Từ những nhận định trên đây, Bộ Chính trị chủ
trƣơng: “Trên cơ sở nắm vững quan điểm trƣờng kỳ, cần động viên toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân tập trung mọi khả năng, lực lƣợng để giành một bƣớc thắng
lợi quyết định trong một vài năm tới”.
Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ƣơng và Bộ Quốc phòng chuẩn bị một
kế hoạch chiến lƣợc, trong đó dự kiến đầy đủ sự phát triển của tình hình, nhanh
chóng tăng cƣờng xây dựng lực lƣợng vũ trang bảo đảm thực hiện các trận đánh
tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực địch, tạo ra và tranh thủ thời
cơ đánh bại quân đội Việt Nam Cộng hòa trƣớc khi Mỹ vào.
Chấp hành chủ trƣơng của Bộ Chính trị, ngày 11-10-1964, Quân ủy Trung
ƣơng chỉ thị cho các chiến trƣờng mở đợt hoạt động quân sự trên toàn miền Nam
nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân đội Sài Gòn, kết hợp tiêu hao rộng rãi,
thúc đẩy thêm sự tan rã của chính quyền địch, đẩy mạnh phá ấp chiến lƣợc, phá thế
kìm kẹp, giành thêm nhiều nhân tài, vật lực, mở rộng vùng giải phóng.
Tháng 11-1964, Quân ủy Trung ƣơng xác định 11 nguyên tắc chỉ đạo tác
chiến của lực lƣợng vũ trang nhân dân: “Tích cực tiêu diệt sinh lực địch, giữ gìn và
bồi dƣỡng lực lƣợng ta. Đánh chắc thắng, đánh có tổ chức, có chuẩn bị, đánh thắng
trận đầu. Phối hợp chặt chẽ hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phƣơng và dân quân tự vệ. Tập trung lực lƣợng, tiêu diệt từng bộ phận quân địch.
Tiến công kiên quyết, liên tục; phòng ngự tích cực, kiên cƣờng. Bố trí binh lực có
trọng điểm, nắm lực lƣợng dự bị mạnh. Độc lập tác chiến, chủ động phối hợp hiệp
đồng chặt chẽ. Phát huy sở trƣờng đánh gần, đánh đêm, đánh liên tục. Kết hợp chặt
chẽ chính trị với quân sự, tác chiến với binh vận. Phát huy ƣu thế chính trị, tinh
thần chiến đấu kiên cƣờng, chiến thắng quân địch có ƣu thế trang bị kỹ thuật. Tích
121
cực chủ động, cơ động linh hoạt, mƣu trí sáng tạo, bí mật bất ngờ” [123, 410].
Công tác Đảng, công tác chính trị trong các đơn vị Quân giải phóng Miền
Nam đã tiến hành giáo dục, quán triệt những tƣ tƣởng chỉ đạo tác chiến của Quân
ủy Trung ƣơng thấm nhuần và thể hiện trong hành động của bộ đội, nhất là với cán
bộ, đảng viên.
Căn cứ vào các nghị quyết của Trung ƣơng Đảng, Bộ Chính trị và chỉ thị của
Quân ủy Trung ƣơng, các chiến trƣờng Nam Bộ, Khu V xúc tiến làm kế hoạch tác
chiến Thu Đông năm 1964 nhằm đánh bại quân đội Việt Nam Cộng hòa, đồng thời
phát triển và củng cố thế trận chiến tranh nhân dân. Theo phƣơng hƣớng đó, cuối
tháng 10-1964, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Miền vạch kế hoạch mùa khô 1964-1965
cho toàn chiến trƣờng B2 với nội dung là tập trung phần lớn lực lƣợng chủ lực
Miền phối hợp với lực lƣợng vũ trang địa phƣơng mở chiến dịch tiến công tại miền
Đông Nam Bộ nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực địch, hỗ trợ nhân dân phá ấp
chiến lƣợc, mở rộng vùng giải phóng, củng cố, nối liền các căn cứ Nam - Bắc
đƣờng số 2, bảo vệ các bến tiếp nhận hàng bằng đƣờng biển, rèn luyện và nâng cao
trình độ tác chiến tập trung của bộ đội.
Địa bàn tác chiến gồm các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa, Bình Thuận, trải rộng trên diện tích gần 500km2. Hƣớng chủ yếu của chiến dịch đƣợc xác định
là Bà Rịa - Long Khánh; 2 hƣớng phối hợp là Nhơn Trạch, Long Thành (Biên Hòa)
và Hoài Đức, Tánh Linh (Bình Thuận). Lực lƣợng tham gia chiến dịch có 2 trung
đoàn bộ binh (Q761, Q762), Đoàn 80 pháo binh Miền, 2 tiểu đoàn (500 và 800)
chủ lực của Quân khu miền Đông, Tiểu đoàn 186 của Quân khu VI cùng bộ đội địa
phƣơng tỉnh (Đại đội 445 của Bà Rịa), huyện, du kích các xã trên địa bàn chiến
dịch, ƣớc tính khoảng 7.000 quân. Đây là lần đầu tiên, Quân ủy và Bộ Chỉ huy
Miền tập trung một lực lƣợng tƣơng đối lớn mở chiến dịch dài ngày trên một địa
122
bàn rộng.
Ở Khu V, Đảng ủy và Bộ Tƣ lệnh Quân khu vạch kế hoạch tác chiến chiến
dịch trên hai hƣớng là Bắc Bình Định, Nam Quảng Ngãi và một hƣớng trên trục
đƣờng số 14 Tây Nguyên. Trọng điểm chiến dịch đƣợc chọn là Bắc Bình Định
(khu vực An Lão, Đèo Nhông).
Đêm 31-10-1964, lực lƣợng pháo binh Miền (Đoàn 80) pháo kích sân bay
Biên Hòa. Đây là một căn cứ không quân lớn của địch, thƣờng xuyên có từ 300-
400 máy bay các loại các kho chứa bom đạn, xăng dầu và xƣởng sửa chữa… Trận
đánh diễn ra nhanh chóng, 130 quả đạn rơi đúng mục tiêu, phá hủy, phá hỏng 59
máy bay các loại, 193 tên lính bị diệt, 2 kho đạn lớn, 1 kho xăng, 1 đài quan sát và
18 căn trại bị thiêu hủy. Đây là trận tác chiến độc lập đầu tiên của bộ đội pháo binh
trên chiến trƣờng miền Nam, thể hiện sự trƣởng thành vƣợt bậc của lực lƣợng pháo
binh Miền.
Cuối tháng 11, đầu tháng 12, các đơn vị tham gia chiến dịch Bình Giã chia
thành nhiều hƣớng bí mật tiến về vào vị trí tập kết và triển khai đội hình xuất phát
tiến công. Ngày 2-12-1964, chiến dịch Bình Giã mở màn bằng trận tiến công ấp
chiến lƣợc Bình Giã của Đại đội 445 bộ đội địa phƣơng Bà Rịa nhƣng không thành
công. Đêm 7-12, Quân giải phóng đánh lại ấp Bình Giã và pháo kích chi khu quân
sự Đất Đỏ. Quân Sài Gòn buộc phải mở cuộc hành quân Bình Tuy 38 nhằm diệt và
đẩy lực lƣợng Quân giải phóng ra khỏi khu vực tác chiến. Cuộc chiến đấu diễn ra
vô cùng ác liệt và kéo dài đến ngày 3-1-1965 mới kết thúc. Trong thời gian đó, lực
lƣợng vũ trang cách mạng kết hợp các chiến thuật phục kích, bao vây, tiến công
vào các cánh quân của lực lƣợng biệt động, lính thủy đánh bộ Việt Nam Cộng hòa
ở phía Tây lộ 2, Nam Bình Giã, Hoài Đức…
Hơn một tháng chiến đấu, lực lƣợng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã tiêu
123
diệt 2 tiểu đoàn chủ lực (Tiểu đoàn 33 biệt động quân và Tiểu đoàn 4 thủy quân lục
chiến), Chi đoàn 3 M113 (thuộc Thiết đoàn 1) và 2 đoàn xe cơ giới; đánh thiệt hại
nặng 3 tiểu đoàn biệt động quân (30, 35, 38 ), 7 đại đội bảo an; làm tan rã hầu hết
dân vệ trong khu vực. Tổng số địch bị diệt trong chiến dịch lên tới 1.755 tên, bị bắt
193 tên, 45 xe bị phá hủy, phá hỏng, 56 máy bay các loại bị bắn rơi. Nhiều ấp
chiến lƣợc ở ven đƣờng số 2, số 15 thuộc các huyện Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn
Trạch bị phá tan. Huyện Hoài Đức đƣợc giải phóng, vùng căn cứ Hát Dịch đƣợc
củng cố, mở rộng nối liền chiến khu D với căn cứ Bình Thuận [136, 157].
Chiến thắng Bình Giã báo hiệu sự phá sản của chiến lƣợc chiến tranh đặc
biệt là không tránh khỏi, góp phần làm thay đổi tƣơng quan lực lƣợng và thế chiến
lƣợc trên chiến trƣờng. Bộ Quốc phòng Mỹ phải thú nhận: “Mối thất vọng của
Washington đối với tình hình quân sự càng tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một
cú thất bại trông thấy trong trận đánh ác liệt ở Bình Giã.... Mọi bằng chứng chỉ rõ
tình hình sụp đổ cuối cùng của Chính phủ Việt Nam là có thể xảy ra và rõ ràng là
có khả năng Việt cộng củng cố một cách thắng lợi quyền lực của họ” [96,
25]. Ngoài ra, chiến thắng Bình Giã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng bộ đội
chủ lực thành quả đấm mạnh đủ sức làm nòng cốt đánh bại cuộc chiến tranh đặc
biệt của Mỹ. Cũng từ đây, Trung đoàn 1 (Q761) đƣợc vinh dự mang tên Trung
đoàn Bình Giã.
Phối hợp với Bình Giã, trên các khu vực thuộc B2, các lực lƣợng vũ trang
đều đẩy mạnh hoạt động, tranh thủ thời cơ tiến công tiêu diệt địch. Từ ngày 30 -
31/12/1964, Đại đội 304 Thủ Dầu Một phục kích diệt gọn 1 đại đội biệt kích tại
Đồng Sổ; bộ đội địa phƣơng Long Khánh đánh lật 1 đoàn xe lửa địch. Lực lƣợng
vũ trang Quân khu VI đánh quận lỵ Thiện Giáo, diệt 1 đại đội, thu 113 súng. Quân
khu VIII diệt chi khu Ba Dừa. Quân khu IX đánh quận lỵ Long Mỹ, loại khỏi vòng
124
chiến đấu 300 tên, thu 350 súng...
Đầu tháng 12-1964, cùng với tiếng súng Bình Giã ở Đông Nam Bộ, Khu V
cũng triển khai chiến dịch Thu Đông, tiến công chi khu quân sự An Lão. Từ lâu,
chính quyền Sài Gòn xây dựng An Lão thành chi khu quân sự mạnh với 3 cứ điểm
và 8 ấp chiến lƣợc hợp thành thế liên hoàn yểm trợ chặt chẽ. Lực lƣợng quân đội
Việt Nam Cộng hòa bố trí ở đây có khoảng 900 tên gồm 3 đại đội bảo an và 12
trung đội dân vệ, 1 trung đội lính cộng hòa, 1 trung đội súng cối.
Bộ Tƣ lệnh Quân khu V đã quyết định sử dụng Trung đoàn 2 chủ lực, Tiểu
đoàn 409 đặc công, cùng lực lƣợng vũ trang địa phƣơng tỉnh Bình Định và 2 huyện
An Lão, Hoài Nhơn tiến công chi khu quân sự An Lão. Trận đánh diễn ra từ ngày 6
- 8/12/1964. Toàn bộ lực lƣợng địch đóng ở An Lão bị loại khỏi vòng chiến đấu,
Quân giải phóng diệt gần 300 tên, 1 chi đội M113, làm tan rã 2 đại đội bảo an, 12
trung đội dân vệ, bắn rơi 1 máy bay, thu 300 súng các loại, phá tan hệ thống ấp
chiến lƣợc quanh quận lỵ An Lão, giải phóng 11.000 dân.
Với chiến thắng An Lão, lần đầu tiên bộ đội chủ lực Quân khu V áp dụng
thành công chiến thuật vây điểm diệt viện, đánh địch đổ bộ đƣờng không, mở ra
khả năng đánh tiêu diệt chủ lực địch, phá vỡ từng khu vực phòng thủ của quân đội
Sài Gòn [127, 26].
Các chiến thắng An Lão và Bình Giã đánh dấu bƣớc phát triển mới của cuộc
chiến tranh cách mạng ở miền Nam, trong đó khối chủ lực cơ động của Quân giải
phóng lớn mạnh vƣợt bậc, trình độ tác chiến tập trung đƣợc nâng cao, tạo ra một
bƣớc ngoặt của hình thái đấu tranh vũ trang của cuộc chiến tranh giải phóng. Cùng
với chủ lực cơ động, lực lƣợng tinh nhuệ và các binh chủng khác cũng trƣởng
thành trong đánh hậu cứ địch. Quyền chủ động chiến lƣợc của cách mạng đƣợc
125
củng cố và phát huy mạnh mẽ trên khắp ba vùng chiến lƣợc.
Bƣớc sang năm 1965, Bộ Tƣ lệnh Quân khu V quyết định mở tiếp đợt hoạt
Đông Xuân năm 1965 trên ba hƣớng là Bình Định và Đông Gia Lai; Tây Gia Lai
và Bắc Kon Tum; trung Quảng Nam.
Trên hƣớng Bình Định và Đông Gia Lai, ngày 7-2-1965, bộ đội đặc công nổ
súng tiến công sân bay Cù Hanh, trại lính Mỹ Holloway ở Plâycu và một đơn vị
của Trung đoàn 2 chủ lực Quân khu V đánh cứ điểm ở Dƣơng Liễu (Bình Định).
Sau 30 phút chiến đấu, đặc công đã diệt 8 tên Mỹ và làm bị thƣơng gần 100 tên
khác, phá hủy, phá hỏng 20 máy bay cùng nhiều thiết bị, khí tài và phƣơng tiện
chiến tranh hiện đại.
Trong lúc đặc công đánh sân bay và trại lính Mỹ, trong suốt ngày 7-2-1965,
chính quyền Sài Gòn cho máy bay trinh sát và 1 đại đội bảo an thăm dò hai bên
đƣờng số 1, đoạn từ Phù Mỹ đi Quy Nhơn để đƣa quân tăng viện hòng chiếm lại
Dƣơng Liễu, giải toả Quốc lộ số 1. Ngày 8-2, địch điều 2 tiểu đoàn bộ binh và 1
chi đoàn xe thiết giáp ra Dƣơng Liễu. Quân giải phóng bố trí sẵn trận địa phục kích
ở khu vực đèo Nhông, bất ngờ nổ súng khiến cho đội hình địch rối loạn, nhiều tên
bỏ cả xe M113 chạy thoát thân. Toàn bộ 2 tiểu đoàn bộ binh với khoảng 650 tên bị
diệt gần hết. Cả chi đoàn xe M113 gồm 10 chiếc nằm la liệt trên trận địa. Đây là
trận vận động phục kích lớn nhất của bộ đội chủ lực Khu V lúc bấy giờ, đánh dấu
bƣớc trƣởng thành về cách đánh của lực lƣợng vũ trang Quân khu, đồng thời càng
chứng tỏ quân chủ lực Sài Gòn đang trên đà xuống dốc.
Trên hƣớng Tây Gia Lai, Bắc Kon Tum, đêm 7-2, Tiểu đoàn 407 đặc công,
Tiểu đoàn 334 của Trung đoàn 320 đánh chiếm một loạt đồn bảo an ở phía Tây thị
xã Plâycu, diệt 100 tên. Trung đoàn 101 diệt cứ điểm Đăk Giao, pháo kích căn cứ
Đăk Pét. Quân Sài Gòn ở cứ điểm Đăk Vân, Đăk Tả hốt hoảng bỏ đồn tháo chạy.
126
Đƣợc sự hỗ trợ của bộ đội và du kích, nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lƣợc ở phía
Bắc quận lỵ Đăk Tô. Địch vội vã đƣa Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 42 lên chiếm lại
Đăk Giao. Vừa đến Đăk Long, lực lƣợng này đã bị Trung đoàn 101 chặn đánh, diệt
1 đại đội. Thừa thắng, bộ đội đánh luôn đồn Đăk Long, bao vây đồn Đăk Xút, cắt
đứt đƣờng số 14 đoạn Đăk Tô đi Đăk Siêng. Trƣớc nguy cơ tuyến phòng thủ Bắc
Kon Tum bị phá vỡ, địch điều 2 trung đoàn (40 và 42), Tiểu đoàn 21 biệt động mở
cuộc hành quân 129 phản kích chiếm lại các vị trí đã mất. Cuộc chiến đấu kéo dài
đến ngày 30-3-1965, Trung đoàn 101 tiêu diệt gần hết Tiểu đoàn 21 biệt động
quân, 1 đại đội của Trung đoàn 42, bắn rơi 3 máy bay.
Ở hƣớng Quảng Nam, đêm 6 rạng ngày 7-2-1965, Trung đoàn 1 tiến công cứ
điểm Việt An. Sau 2 giờ chiến đấu, Quân giải phóng làm chủ trận địa. Quận lỵ Quế
Sơn, Thăng Bình bị uy hiếp. Tình thế bắt buộc Sƣ đoàn 2 địch phải tổ chức 5 cuộc
phản kích trên đƣờng số 16. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, Trung đoàn 1
cùng lực lƣợng địa phƣơng đã đánh bại các cuộc phản kích, loại khỏi vòng chiến
đấu 1.000 tên, bắn cháy 8 xe M113…
Trên địa bàn Khu VI, Quân khu xác định hƣớng trọng điểm của đợt hoạt
Đông Xuân năm 1965 là Tánh Linh, Hoài Đức (tỉnh Bình Thuận). Ngày 17-1-
1965, Tiểu đoàn 186 chủ lực Quân khu tổ chức phục kích diệt gọn 1 đại đội bảo an
và 3 trung đội dân vệ từ Hoài Đức hành quân lên Mêpu. Ở Tánh Linh, đầu tháng 2-
1965, bộ đội chủ lực Quân khu diệt cứ điểm Lồ Ô. Đến cuối tháng 3-1965, Khu VI
đã giải phóng hơn 7 vạn dân….
Ngày 8-3-1965, Mỹ đƣa 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ vào Đà Nẵng. Đây là
những đơn vị chiến đấu Mỹ đầu tiên đƣợc đƣa đến miền Nam. Cuộc chiến tranh
đặc biệt của Mỹ đến đây trên thực tế đã có những nhân tố của một cuộc chiến tranh
cục bộ. Trƣớc tình hình đó, từ ngày 25 - 27/3/1965, Ban Chấp hành Trung ƣơng
127
Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 và ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách
trƣớc mắt của cách mạng, chủ trƣơng: “Tích cực kiềm chế và thắng địch trong
cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập
trung lực lƣợng của cả nƣớc giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời
gian tƣơng đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc
chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra” [60, 109].
Sau Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 11, ngày 27-4-1965, Quân ủy Trung ƣơng
và Bộ Tổng tƣ lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ thị cho các chiến trƣờng đẩy
mạnh tác chiến của bộ đội chủ lực, mở những đợt hoạt động và chiến dịch cùng
một lúc trên nhiều hƣớng, kết hợp tiến công quân sự với khởi nghĩa của quần
chúng ở từng khu vực để chuẩn bị điều kiện đối phó và quyết thắng trƣớc khi địch
mở rộng tiến hành chiến tranh cục bộ.
Tại miền Nam, Trung ƣơng Cục chủ trƣơng: tiếp tục tạo thế, tạo lực, đẩy
mạnh tiến công trên các mặt trận, các địa bàn, làm phá sản kế hoạch bình định có
trọng điểm, đánh quỵ quân chủ lực Sài Gòn, góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến
lƣợc chiến tranh đặc biệt, tạo thế chủ động chiến trƣờng, sẵn sàng trong tƣ thế đánh
Mỹ nếu Washington liều lĩnh gây ra cuộc chiến tranh cục bộ.
Thực hiện chủ trƣơng đó, Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở tiếp đợt hoạt
động Hè Thu 1965, trọng điểm là chiến dịch tiến công Đồng Xoài. Địa bàn chiến dịch trải rộng gần 1.000 km2 bao gồm các tỉnh Phƣớc Long, Bình Long (hƣớng
chính), Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa (hƣớng phối hợp).
Sau chiến dịch Bình Giã, đây là lần thứ hai Quân giải phóng sử dụng một lực
lƣợng tƣơng đối lớn gồm 4 trung đoàn, 2 tiểu đoàn và một số đơn vị đặc công, hỏa
lực phối hợp với lực lƣợng địa phƣơng mở chiến dịch trên một khu vực rộng.
Mở màn chiến dịch, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2 chủ lực Miền đánh
128
chiếm phần lớn thị xã Phƣớc Long và chi khu quân sự Phƣớc Bình (11-5-1965).
Tiếp đó, từ ngày 9 - 12/6/1965, Quân giải phóng tiến hành đợt hai chiến dịch, tiến
công chi khu quân sự Đồng xoài, đánh tan các cánh quân giải cứu. Trung tuần
tháng 7-1965, các đơn vị chủ lực bƣớc vào đợt ba, tiến công địch ở Bàu Bàng,
đánh chiếm Bù Đốp, buộc địch rút khỏi Bù Gia Mập.
Ngày 22-7-1965, chiến dịch Đồng Xoài kết thúc thắng lợi. Quân giải phóng
đã loại khỏi vòng chiến đấu 4 tiểu đoàn, 24 đại đội, 6 chi đội xe cơ giới, 4 phân đội
kỹ thuật với tổng số 4.459 tên, có 73 cố vấn Mỹ; thu 1.652 súng các loại, phá hủy
60 xe quân sự, 34 máy bay, 6 đầu máy và 12 toa xe lửa. Bên cạnh những kết quả
đó, thắng lợi của chiến dịch còn có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu sự trƣởng thành
về trình độ tác chiến, nhất là về đánh tiêu diệt của lực lƣợng vũ trang giải phóng,
về tổ chức chỉ huy, bảo đảm hậu cần cho một chiến dịch lớn, dài ngày. Chiến thắng
này buộc chính quyền Sài Gòn “phải từ bỏ chút quyền kiểm soát ít ỏi còn lại ở
những vùng nông thôn phía ngoài đồng bằng sông Cửu Long”, “quân chủ lực địch
có chiều hƣớng co lại, né tránh đụng độ với chủ lực ta” [136, 161]. Sau chiến dịch,
Trung đoàn 2 chủ lực Miền đƣợc vinh dự mang tên Trung đoàn Đồng Xoài.
Phối hợp với Đồng Xoài, trên chiến trƣờng Khu V, Khu ủy và Bộ Tƣ lệnh
Quân khu chủ trƣơng tập trung chủ lực, mở đợt hoạt động hè trên ba hƣớng: Bắc
Quảng Ngãi, Nam Tây Nguyên và Tây Gia Lai, Bắc Kon Tum.
Trên hƣớng Bắc Quảng Ngãi, trọng điểm của đợt hoạt động ở đồng bằng. Từ
ngày 29-5-1965, lực lƣợng vũ trang mở chiến dịch Ba Gia (còn gọi là chiến dịch
Tây Sơn Tịnh). Địa bàn chiến dịch gồm 3 huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tƣ Nghĩa và
thị xã Quảng Ngãi, trong đó Ba Gia là điểm quyết chiến then chốt.
Cứ điểm Ba Gia (Gò Cao) nằm án ngữ phía Tây huyện Sơn Tịnh, cùng với
cứ điểm Hà Thành (huyện Sơn Hà) và Trà Bồng tạo thành khu tam giác phòng ngự
129
phía Tây tỉnh Quảng Ngãi. Đóng giữ cứ điểm này là Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 51
quân đội Việt Nam Cộng hòa. Bên cạnh lực lƣợng ở Ba Gia, địch còn bố trí Tiểu
đoàn 2 đứng chân tại thị xã Quảng Ngãi, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 51) đứng chân ở
Châu Ổ (Bình Sơn), 2 tiểu đoàn biệt động 37 và 39 sẵn sàng ứng cứu bất cứ lúc
nào.
Lực lƣợng Quân giải phóng tham gia chiến dịch có Trung đoàn 1 bộ binh
(chủ lực Quân khu V) với 3 tiểu đoàn 40, 60, 90 đƣợc tăng cƣờng 1 tiểu đoàn trợ
chiến, tiểu đoàn 45 độc lập. Tiểu đoàn 83 bộ đội địa phƣơng tỉnh Bình Định cùng 2
đại đội địa phƣơng huyện và dân quân, du kích đảm nhiệm hƣớng thứ yếu.
Ròng rã đấu liên tục, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, bộ đội
tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn địch, trong đó có 1 chiến đoàn, bẻ gãy
cuộc hành quân lớn nhằm giải toả Ba Gia. Đây là lần đầu tiên trên chiến trƣờng
Khu V, 1 trung đoàn chủ lực Quân giải phóng đánh bại 1 chiến đoàn hỗn hợp tinh
nhuệ của quân đội Sài Gòn (916 tên bị diệt, có 4 cố vấn Mỹ, 65 tên bị bắt, thu 200
súng các loại). Chiến thắng Ba Gia thể hiện sự lớn mạnh vƣợt bậc, tài nghệ đánh
tiêu diệt của khối chủ lực Quân giải phóng. Về trận Ba Gia, tài liệu mật Bộ Quốc
phòng Mỹ thú nhận: “Cuối tháng 5 (1965), ở tỉnh Quảng Ngãi thuộc Bắc phần Nam
Việt, 1 tiểu đoàn quân cộng hòa bị đánh bại ở gần Ba Gia, phía Tây Quảng Ngãi.
Lực lƣợng cứu viện cũng bị phục kích... Trận này kéo dài trong mấy ngày kết thúc
bằng sự thất bại hoàn toàn của quân đội Việt Nam Cộng hòa, 2 tiểu đoàn bị tiêu
diệt hoàn toàn. Đây là một tin khẩn cấp hoặc ít nhất cũng khẩn cấp đối với một số
sĩ quan cao cấp Mỹ đƣợc chứng kiến trận đó” [96, 88].
Trên hƣớng Nam Tây Nguyên, 3 trung đoàn chủ lực 2, 10 và 12 vừa vào
chiến trƣờng cũng hoạt động tích cực. Đêm 25-5-1965, lực lƣợng vũ trang diệt cứ
điểm Ama Hrok. Đầu tháng 6, một bộ phận Trung đoàn 12 tập kích diệt cứ điểm
130
Ea Nu, đánh quân viện, cắt đứt đoạn đƣờng số 7 từ Mlá đi Ea Nu. Bộ phận còn lại
của trung đoàn đánh địch trên đƣờng số 19, cắt đứt đoạn từ Măng Giang đi An
Khê. Đƣờng số 19, số 7, số 21 đều bị cắt đứt trong cùng một thời gian, làm gián
đoạn việc tiếp tế của địch cho Tây Nguyên. Đêm 7-6, bộ đội lại tiêu diệt cứ điểm
Hoành Châm, bao vây quận lỵ Thuần Mẫn, uy hiếp Quốc lộ số 14 đoạn từ Plâycu
đi Buôn Ma Thuộc. Bị tấn công trên nhiều hƣớng, địch phải cầu cứu viện binh.
Ngày 30-6, 1 chiến đoàn đặc nhiệm từ Cheo Reo kéo lên cứu viện. Quân giải
phóng bố trí trận địa phục kích cách Cheo Reo khoảng 10 km, diệt Tiểu đoàn nhảy
dù số 1, đánh thiệt hại nặng sở chỉ huy chiến đoàn và 2 tiểu đoàn còn lại. Quân tiếp
viện bị diệt, địch ở Thuần Mẫn hoảng sợ bỏ quận lỵ tháo chạy. Đồng bào các dân
tộc nổi dậy phá ấp chiến lƣợc, giải phóng một số buôn hai bên đƣờng số 14 từ ngã
ba Mỹ Trạch đến Buôn Hồ.
Hƣớng Gia Lai, đêm 31-5, Tiểu đoàn 952 tiến công tiêu diệt quận lỵ Lệ
Thanh, kéo địch ra đƣờng số 19 Tây, tạo điều kiện cho Trung đoàn 320 đánh trận
vận động phục kích, loại khỏi vòng chiến đấu Tiểu đoàn bảo an 320. Sau đó, Trung
đoàn 320 bao vây trại lực lƣợng đặc biệt Đức Cơ, buộc địch đến cứu viện và bị
phục kích diệt 40 xe. Bộ đội địa phƣơng tỉnh, huyện hỗ trợ cho du kích và nhân
dân nổi dậy phá hệ thống ấp chiến lƣợc từ Thanh An đến Đức Cơ.
Tại Bắc Kon Tum, đêm 25-6-1965, Trung đoàn 101 diệt cứ điểm Pôcô, đánh
chiếm trại lực lƣợng đặc biệt Tumơrông, pháo kích quận lỵ Đăk Tô. Bộ đội địa
phƣơng Kon Tum cùng du kích diệt các chốt bảo an, dân vệ từ Đăk Tô đến Đăk
Pét, giải phóng các ấp chiến lƣợc dọc đƣờng số 14.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Trung đoàn 1, sau một thời gian phân tán
hoạt động, đƣợc lệnh trở lại chiến trƣờng cũ tiến công Ba Gia. Lúc này, căn cứ Ba
Gia do Tiểu đoàn 1 lính cộng hòa đóng giữ và 1 trung đội pháo 105 ly. Ngày 5-7-
131
1965, Tiểu đoàn 40 và Tiểu đoàn 45 bất ngờ nổ súng tiến công cứ điểm. Kết quả
trận đánh, tiểu đoàn địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, Quân giải phóng thu toàn bộ
vũ khí, đạn dƣợc và quân trang, quân dụng. Đây là trận tiến công địch trong công
sự vững chắc đạt hiệu quả cao của chủ lực Quân khu V.
Ở Quảng Nam, lực lƣợng vũ trang tỉnh tiêu diệt sở chỉ huy dã chiến Sƣ đoàn
2 tại trung tâm thị xã Tam Kỳ, đánh địch trên đoạn đƣờng từ cầu An Tân ra cầu
Ông Bộ, diệt hàng trăm tên với nhiều cố vấn Mỹ. Trong ngày 6-7-1965, Tiểu đoàn
70 phục kích, diệt Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 4, Sƣ đoàn 2) ở Mộc Bài.
Ở Quảng Đà, ngày 28-5, Tiểu đoàn 1 bộ đội địa phƣơng tiến công tiêu diệt 2
đại đội bảo an, 7 trung đội dân vệ ở Duy Xuyên. Đêm 30-6, đặc công đánh sân bay
Đà Nẵng, phá hủy, phá hỏng 57 chiếc máy bay. Tại Phú Yên, bộ đội địa phƣơng
đánh địch ở thị xã Tuy Hòa, và bọn bảo an, dân vệ ở núi Sầm, Hòa Vĩnh, Phú
Lâm... diệt 4 tổng đoàn dân vệ và 1 trung đội bảo an.
Đêm 26-7, lực lƣợng vũ trang tỉnh Khánh Hòa đánh sân bay Nha Trang,
trƣờng sĩ quan hải quân và quận lỵ Diên Khánh, phá hủy 21 máy bay, diệt một số
học viên sĩ quan hải quân.
Ở Lâm Đồng, lực lƣợng vũ trang địa phƣơng bao vây, tiến công trại biệt
kích Tân Rai buộc lực lƣợng đặc biệt Mỹ trong trại phải rút chạy. Ngày 27-6-1965,
bộ đội tỉnh lại tiến công tiêu diệt cứ điểm B’Sar, đánh sập các cầu Đậm Mrế, Đạc
Oai hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá các ấp chiến lƣợc hai bên đƣờng số 20, đƣờng
số 14, buộc địch phải co về thị xã Bảo Lộc, Di Linh. Vùng giải phóng Cực Nam
Trung Bộ mở thông với Tánh Linh, Hoài Đức, Hàm Thuận...
Tại Bình Thuận, ngày 17-5-1965, bộ đội bất ngờ nổ súng, chiếm trụ sở chính
quyền Sài Gòn ở Phú Long. Ngày 22-5, quân đội Việt Nam Cộng hòa đƣa thêm 1
132
tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 1 tiểu đoàn biệt động đến phản kích. Sau 4 giờ chiến
đấu, bộ đội bẻ gẫy các đợt xung phong của địch, giết và làm bị thƣơng 150 tên.
Kết thúc đợt hoạt động Hè năm 1965, quân và dân Khu V, Khu VI tiêu diệt
một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá vỡ, uy hiếp nhiều khu vực phòng ngự,
phá hàng trăm ấp chiến lƣợc, đƣa tổng số ấp chiến lƣợc phá đƣợc trong toàn khu
lên 2.100 ấp (trong tổng số 2.800 ấp địch đã lập) với 2,5 triệu dân, vùng giải phóng
đƣợc mở rộng.
Cuộc tiến công Hè Thu năm 1965, đỉnh cao là các chiến dịch Ba Gia, Đồng
Xoài đã làm thất bại hoàn toàn kế hoạch Johnson - McNamara. Trong cuộc tiến
công này, đòn tiến công của chủ lực Quân giải phóng kết hợp với hoạt động quân
sự rộng khắp của lực lƣợng vũ trang địa phƣơng đã đánh bại quân Sài Gòn, lực
lƣợng nòng cốt, chỗ dựa chủ yếu của Mỹ để tiến hành chiến lƣợc chiến tranh đặc
biệt, làm thất bại chƣơng trình bình định nông thôn, đẩy chính quyền Sài Gòn càng
lún sâu hơn vào cuộc khủng hoảng chính trị. Tuy vậy, đội quân chủ lực Sài Gòn đã
thua, có những trận bị tiêu diệt từng chiến đoàn, tinh thần, ý chí sa sút nhƣng vẫn
còn số lƣợng còn khá đông, chƣa tan rã về tổ chức, trong khi đó Mỹ dốc sức viện
trợ làm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa hồi phục, đồng thời đƣa một bộ phận
quân Mỹ vào miền Nam từng bƣớc trực tiếp tiến hành chiến tranh. Cuộc chiến đấu
của quân, dân miền Nam còn phải kéo dài, ngày càng ác liệt.
Tiểu kết:
Từ sau Hội nghị Trung ƣơng 9 (tháng 12-1963), Quân giải phóng miền Nam
đã có sự phát triển vƣợt bậc. Đó không chỉ là đội quân du kích nữa mà đã từng
bƣớc phát triển thành đội quân chủ lực, chính quy với các binh chủng chuyên môn,
kỹ thuật. Sự phát triển về lực lƣợng này còn đƣợc thể hiện ở khắp vùng miền. Tất
133
cả các quân khu V, VI, VII, VIII, IX và mặt trận Tây Nguyên đều đã xây dựng
đƣợc các đơn vị chủ lực mạnh, bộ đội địa phƣơng, dân quân du kích đông đảo cùng
với một số bộ phận chuyên môn, kỹ thuật.
Cùng với sự thay đổi về hình thức xây dựng lực lƣợng, nhiệm vụ tác chiến
cụ thể của Quân giải phóng cũng thay đổi, từ chỗ là kết hợp với đấu tranh chính trị
tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch sang là lực lƣợng chủ yếu tiêu diệt và làm tan rã
quân đội Sài Gòn. Trên cơ sở đó, hình thức, quy mô, cách tác chiến cũng có sự
phát triển vƣợt bậc. Các trận đánh đã không còn là những trận tập kích nhỏ lẻ mà
đã là những chiến dịch dài ngày, đánh vận động trên một địa bàn rộng, có sự phối
hợp của lực lƣợng vũ trang nhiều tỉnh với sự tham gia của nhiều trung đoàn, tiểu
đoàn và bắt đầu có sự hiệp đồng binh chủng của các đơn vị bộ binh, pháo binh,
134
thông tin, công binh…
KẾT LUẬN
Sự ra đời của lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam là một tất yếu lịch sử
khi những chiến sĩ 9 năm xƣa cùng quần chúng nhân dân trƣởng thành trong phong
trào chính trị buộc phải cầm vũ khí đứng lên chống lại một kẻ thù không từ một thủ
đoạn nào để dìm phong trào cách mạng miền Nam trong bể máu. Chứa chất căm
thù với quân thù tàn bạo, nhân dân đã lập các đội tự vệ, dân canh mà bảo vệ mình,
bảo vệ cán bộ. Sau đó, từ vũ trang tự vệ tiến lên vũ trang tuyên truyền để trừ gian
diệt ác, cảnh cáo, trừng trị những tên đầu sỏ, cởi mở kìm kẹp cho phong trào cách
mạng phát triển dù chƣa hề có chủ trƣơng của Trung ƣơng. Lực lƣợng vũ trang
cách mạng miền Nam thời kỳ 1954-1960 tuy còn nhỏ bé nhƣng đó chính là nhân tố
sống còn đối với cách mạng miền Nam.
Từ năm 1961, do Mỹ tiến hành chiến tranh ở miền Nam đã khiến phong trào
nổi dậy khởi nghĩa của nhân dân miền Nam phát triển thành chiến tranh cách
mạng. Trung ƣơng Đảng cũng có sự điều chỉnh đƣờng lối lịch sử, nâng đấu tranh
vũ trang lên thành hình thức đấu tranh cơ bản. Để làm đƣợc điều đó, các lực lƣợng
vũ trang cách mạng miền Nam đã đƣợc thống lại thành Quân giải phóng miền Nam
Việt Nam với hệ thống tổ chức quy củ từ Trung ƣơng đến địa phƣơng.
Những năm 1961-1963, do chủ trƣơng kìm chế thắng địch trong chiến tranh
đặc biệt, Quân giải phóng miền Nam tuy đã xây dựng đƣợc những đơn vị chủ lực
đầu tiên nhƣng về cơ bản vẫn mang tính chất là đội quân du kích, tác chiến đến cấp
đại đội, trung đội. Lực lƣợng vũ trang hầu nhƣ chỉ tập kích những đồn, bốt nhỏ lẻ,
đánh những trận trên quy mô từng huyện, từng xã, hạn chế các hoạt động lớn do
tránh gây “tiếng vang” trong tình hình quốc tế phức tạp lúc bấy giờ. Bởi thế, đội
quân cách mạng còn nhỏ bé, thiếu kinh nghiệm, bị hạn chế về nhiều mặt không
135
tránh khỏi những vấp váp, khó khăn ban đầu trƣớc kẻ thù lớn mạnh. Tuy nhiên, với
bản chất cách mạng cùng sự sáng tạo, tìm tòi, Quân giải phóng đã vƣợt lên trên
mọi thử thách đó, dần trƣởng thành và đánh bại hoàn toàn kế hoạch Staley - Taylor
bình định miền Nam trong 18 tháng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn với chiến
công tiêu biểu là trận Ấp Bắc lịch sử.
Đến năm 1964, hình thái chiến tranh đã thay đổi. Mỹ đã bƣớc đầu mở rộng
chiến tranh ra miền Bắc, chuẩn bị đƣa binh lính tham chiến trực tiếp ở miền Nam.
Trung ƣơng Đảng cũng chủ trƣơng đẩy mạnh phát triển Quân giải phóng lên chính
quy, hiện đại nhằm làm tan rã hoàn toàn quân đội Sài Gòn, cố gắng giành chiến
thắng nhanh nhất trong thời gian tƣơng đối ngắn. Bởi thế, từ cuối năm 1964 đến
đầu năm 1965 có thể đƣợc coi là giai đoạn bản lề của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, Quân giải phóng miền Nam từng bƣớc
đƣợc xây dựng, phát triển trên quy mô lớn. Trong đó, bộ phận chủ lực đƣợc chú
trọng, hình thành nên những “nắm đấm mạnh” ở Miền và các quân khu. Các lực
lƣợng chuyên môn, kỹ thuật cũng đƣợc phát triển nhanh chóng. Trên cơ sở đó,
hình thức tác chiến trên chiến trƣờng cũng có sự thay đổi với sự xuất hiện của các
chiến dịch quy mô lớn, dài ngày, có sự tham gia của nhiều trung đoàn, tiểu đoàn
cùng các đơn vị binh chủng chuyên môn trên một phạm vi rộng lớn, đánh tiêu diệt,
tiêu hao từng bộ phận quan trọng sinh lực địch nhƣ Bình Giã, Đồng Xoài, Ba
Gia… làm phá sản hoàn toàn chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Thắng lợi trong giai đoạn này chứng minh sự chỉ đạo chiến lƣợc của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh là chính xác. Đảng đề ra đƣờng lối, phƣơng pháp cách mạng
sáng tạo, xử lý các tình huống trong chiến tranh kịp thời, nhạy bén; chuẩn bị lực
lƣợng chủ động, tích cực. Mặt khác, thắng lợi đó còn xuất phát từ bản chất cách
mạng của Quân giải phóng miền Nam vì đó là một bộ phận không thể tách rời của
136
Quân đội nhân dân Việt Nam. Bởi thế, từ giữa năm 1965, khi Mỹ thực hiện chiến
lƣợc chiến tranh cục bộ để cứu vãn chính quyền Sài Gòn, những đơn vị bộ đội
miền Bắc hành quân vào miền Nam theo quy mô lớn thì không hề có sự xung đột
giữa “Việt Cộng” với “quân Bắc Việt” mà chỉ có sự hòa nhập nhanh chóng, là các
bộ phận của “bộ đội cụ Hồ” phát triển thế trận chiến tranh nhân dân đều khắp trên
cả 3 vùng chiến lƣợc, sẵn sàng về tƣ tƣởng, tổ chức và quyết tâm bƣớc vào cuộc đọ
137
sức trực tiếp với quân Mỹ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phùng Đình Ấm (2002), Khu X, căn cứ cách mạng thời kháng chiến chống
Mỹ, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 2), Tr. 22-25.
2. Kiều Xuân Bá, Nguyễn Thị Thủy (2000), Vị trí, ý nghĩa lịch sử của trận
Tua Hai và Đồng khởi ở Tây Ninh, Tạp chí Lich sử Đảng, (số 1), Tr. 38-43.
3. Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa,
(https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_l%E1%BB%B1c_Vi%E1%BB%87t_
Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a), ngày 15-7-2011.
4. Báo Ấp Bắc, Một số hình ảnh về Chiến thắng Ấp Bắc ngày 2-1-1963,
(http://baoapbac.vn/chinh-tri/201501/ky-niem-52-nam-chien-thang-ap-bac-2-1-
1963-2-1-2015-mot-so-hinh-anh-ve-chien-thang-ap-bac-575223/), ngày 1-1-2015.
5. Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Khu V từ năm
1954-1975, Tƣ liệu lƣu trữ tại Cục Lƣu trữ, Văn phòng Trung ƣơng Đảng.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Quảng Trị, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Ban Tổng kết chiến tranh B2 (1979), Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ
(B2), Tài liệu lƣu tại Viện Lịch sử quân sự.
8. Ban Tổng kết chiến tranh B2 (1984), Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách
138
mạng Việt Nam (1945-1975), thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
11. Phạm Thanh Biền (1975), Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng
Ngãi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
12. Binh chủng thông tin liên lạc (2005), Lịch sử bộ đội thông tin liên lạc
1945-2005, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
13. Nguyễn Bình (2012), Trung ƣơng Cục và Quân ủy Miền lãnh đạo công tác
xây dựng Đảng trong lực lƣợng vũ trang giải phóng miền Nam những năm 1961-
1968, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 7), Tr. 8-14.
14. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang (2001), Lực lượng vũ trang An Giang,
30 năm kháng chiến (1945-1975), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
15. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1999), Lịch sử lực lượng vũ
trang Bà Rịa - Vũng Tàu (1945-1995), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
16. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre (1993), Lược sử cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
17. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Dƣơng (2014), Lịch sử công tác Đảng, công
tác chính trị lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Dương (1945-2010), Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
18. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (1992), Bình Định, lịch sử chiến tranh
nhân dân 30 năm (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
19. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Cần Thơ (2002), Lực lượng vũ trang Cần Thơ 30
139
năm kháng chiến (1945-1975), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
20. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai (1999), Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh
Đồng Nai (1945-1995), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
21. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp (2001), Lịch sử lực lượng vũ trang
tỉnh Đồng Tháp trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), tập 2, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
22. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Gia Lai (1993), Gia Lai - 30 năm chiến tranh giải
phóng (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
23. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng (2014), Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh
Lâm Đồng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
24. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Long An (2008), Kiến Tường - lịch sử kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
25. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Long An (1994), Long An - Lịch sử kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
26. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên (1993), Phú Yên, 30 năm chiến tranh
giải phóng (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
27. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1988), Quảng Nam - Đà
Nẵng, 30 năm chiến đấu và chiến thắng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
28. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị (1998), Quảng Trị, lịch sử kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
29. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Sóc Trăng (1993), Lược sử 30 năm kháng chiến
của lực lượng vũ trang tỉnh Sóc Trăng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
30. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang (2008), Lịch sử cuộc kháng chiến
140
quân dân Tiền Giang (1940-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
31. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Trà Vinh (1998), Lực lượng vũ trang nhân dân
Trà Vinh 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
32. Bộ Ngoại giao Việt Nam (1979), Sự thật mối quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc 30 năm nay, Hà Nội.
33. Bộ Quốc phòng, Điện số 68/6 ngày 6-9-1962 của Bộ Quốc phòng gửi
Quân khu V, Nam Bộ, lƣu trữ tại kho lƣu trữ Bộ Quốc phòng.
34. Bộ Tổng tham mƣu Quân đội nhân dân Việt Nam (2008), Biên niên sự kiện
lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), tập
1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Bộ Tổng tham mƣu Quân đội nhân dân Việt Nam (2008), Biên niên sự kiện
lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), tập
2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Bộ Tổng tham mƣu Quân đội nhân dân Việt Nam (2008), Biên niên sự kiện
lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), tập
3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Bộ Tổng tham mƣu quân đội Sài Gòn, Tóm tắt tình hình Quân khu V
trong tháng 12-1959, tài liệu lƣu trữ tại Viện Lịch sử quân sự.
38. Bộ Tƣ lệnh công binh (2006), Lịch sử công binh Việt Nam (1945-2005),
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
39. Bộ Tƣ lệnh Hải quân (1985), Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
40. Bộ Tƣ lệnh hóa học (2008), Lịch sử Bộ đội hóa học (1958-2008), Nxb
141
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
41. Bộ Tƣ lệnh Quân khu VII (2005), Lịch sử bộ đội tăng - thiết giáp Quân
giải phóng miền Nam và Quân khu VII, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
42. Nguyễn Thới Bƣng (2004), Chiến khu D, chiếc nôi ra đời của Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 12), Tr. 49-53.
43. Hồng Chuyên, Sự kiện Vũng Rô, bước ngoặt của đường Hồ Chí Minh trên
Biển Đông (Bài 2), (http://infonet.vn/su-kien-vung-ro-buoc-ngoat-cua-duong-ho-
chi-minh-tren-bien-dong-bai-2-post74704.info127), ngày 28-4-2013.
44. Cục Quân giới (1995), Lịch sử Quân giới Việt Nam (1954-1975), Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
45. Cục Quân y (1998), Lịch sử Quân y Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
46. Bùi Anh Diên, Di tích chiến thắng lịch sử Tua Hai ở Tây Ninh - Nam Bộ,
(http://www.tanitour.com.vn/Cac-diem-Tham-quan-du-lich-tieu-bieu-trong-tinh-
tay-ninh/Di-tich-chien-thang-Tua-hai/n225cn213.aspx), ngày 4-4-2011.
47. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ
nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
48. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
49. Lê Duẩn (1993), Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
50. Trần Dƣơng (chủ biên) (2002), Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Sơn Đài (chủ biên) (2002), Lịch sử Bình Phước kháng chiến (1945-
142
1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Đài Truyền hình Vĩnh Long, Tiêu diệt chi khu quân sự Đồng Xoài,
(http://radiovietnam.vn/ArticleMobile/theo-dong-su-kien/2015/06/tieu-diet-chi-
khu-quan-su-dong-xoai/), ngày 29-6-2015.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 6-1956, tài liệu lƣu trữ tại Viện Lịch sử Đảng.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 10-1956, tài liệu lƣu trữ tại Viện Lịch sử Đảng.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng ngày 31-1-1961, lƣu trữ tại Viện Lịch sử quân sự.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 25, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đảng ủy Quân đoàn 3 (2009), Lịch sử Đảng bộ mặt trận Tây Nguyên
Quân đoàn 3 (1964-2009), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
62. Nguyễn Hữu Đạo (2008), Sự ra đời của đoàn vận tải quân sự 559, Tạp chí
143
Lịch sử Đảng, (số 4), Tr. 37-41.
63. Nguyễn Thị Định, Phong trào đồng khởi của Bến Tre năm 1960 (Bài nói
chuyện tại Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, ngày 6-9-1974), tài liệu đánh
máy lƣu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu H3/6/10-12.
64. Nguyễn Tƣ Đƣơng (2001), Lực lƣợng vũ trang giáo phái miền Tây Nam
Bộ thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 5), Tr. 47-51.
65. Nguyễn Tƣ Đƣơng (2001), Lực lƣợng vũ trang giáo phái miền Tây Nam
Bộ thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 6), Tr. 33-38.
66. Nguyễn Minh Đƣờng (chủ biên) (2001), Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng
chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Daniel Ellsberg (1985), Những bí mật của chiến tranh Việt Nam, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
68. Ilya V.Gaiduk (1998), Liên Bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
69. Trần Văn Giàu (1965), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 2, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
70. Trần Văn Giàu (1968), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 3, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
71. Nguyễn Thanh Hà (1991), Cuộc hành trình gian khổ đi tới chiến thắng Ấp
Bắc, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 1), Tr. 28-33.
72. Lê Đức Hòa (2004), Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung, trận thắng mở đầu
phong trào Đồng khởi ở Trung Nam Bộ cuối năm 1959, Tạp chí Lịch sử quân sự,
(số 10), Tr. 17-20.
73. Hội đồng Biên soạn lịch sử miền Đông Nam Bộ (1993), Miền Đông Nam
144
Bộ kháng chiến (1945-1975), tập 3, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
74. Việt Hồng (1974), Vài nét về đấu tranh vũ trang và lực lƣợng vũ trang ở
Nam Bộ trƣớc cuộc “Đồng Khởi” 1959-1960, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (số
155), Tr. 39-55.
75. Lê Đình Hùng (2009), Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang và đấu
tranh vũ trang ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1965, luận văn Thạc sĩ khoa học
lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
76. Nguyễn Văn Hùng (2005), Chiến thắng Phƣớc Thành, bƣớc phát triển về
trình độ chỉ huy, tham mƣu tổ chức và chiến đấu của lực lƣợng vũ trang Quân khu
VII, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 12), Tr. 47-51.
77. Hồ Hải Hƣng (2013), Đấu tranh chống chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt”
của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ở Khánh Hòa (1961-1965), Tạp chí Lịch sử quân
sự, (số 6), Tr. 25-29.
78. Trần Thị Thu Hƣơng (2000), Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá
"quốc sách" ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961-1965), luận
án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
79. Hồ Khang (2003), Trận đánh báo hiệu, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 1),
Tr. 9-13.
80. Gabrien Kolko (1989), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
81. Bùi Yên Lãng, Thắng lợi lẫy lừng trong nhiệm vụ bất khả thi,
(http://www.thuviendongnai.gov.vn/sanbaybh/default.aspx?Source=&Category=&
145
ItemID=9&Mode=1), ngày 26-1-2014.
82. Nguyễn Đình Lê (2010), Lịch sử Việt Nam 1954-1975, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
83. Nguyễn Đình Lê (1999), Nghị quyết 15 với lực lƣợng vũ trang cách mạng
miền Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 1), Tr. 5-9.
84. Nguyễn Đình Lê (1996), Vài nét về lực lƣợng vũ trang cách mạng Nam
Bộ thời kỳ 1954-1960, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 4), Tr. 74-79.
85. Huỳnh Thị Liêm (2006), Phong trào đấu tranh chống, phá ấp chiến lược
ở miền Đông Nam Bộ (1961-1965), luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Việt Nam, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí
Minh.
86. Lê Hồng Lĩnh (2006), Cuộc đồng khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam
1959-1960, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
87. Trần Ngọc Long (1997), Làng rừng Cà Mau, một hiện tƣợng “Độc nhất
vô nhị”, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 2), Tr. 24-29.
88. Trần Ngọc Long (2000), Quá trình xây dựng và phát triển của căn cứ địa
kháng chiến ở U Minh Hạ (1954-1960), luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Việt Nam, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
89. Trần Quốc Long (1995), Đảng lãnh đạo khởi nghĩa ở miền Tây các tỉnh
đồng bằng Khu V (1959-1960), luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
146
Hà Nội.
90. Chu Lộc, Phƣơng Thảo, Kỷ niệm 54 năm Đồng Khởi Bến Tre,
(http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Theo-dong-lich-su/2014/01/3A923D24/),
ngày 14-1-2014.
91. Đoàn Thị Lợi (2004), Đường Hồ Chí Minh, con đường Hồ Chí Minh
huyền thoại, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
92. Võ Cao Lợi (2010), Phong trào giải phóng nông thôn ở Quảng Ngãi, Tạp
chí Lịch sử quân sự, (số 1), Tr. 30-34.
93. Đào Hồng Minh, Chào mừng 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam,(http://hoianheritage.net/vi/trao-doi-chuyen-nganh/trong-nuoc/Chao-mung-
ky-niem-85-nam-ngay-thanh-lap-Dang-cong-san-Viet-Nam-3-2-1930-3-2-2015-
379/), ngày 3-2-2015.
94. Phạm Quang Minh (2009), Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975), Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 1), Tr. 17-21.
95. Ngô Văn Minh (2012), Chiến dịch vƣợt sông Tiên giải phóng Sơn - Cẩm -
Hà (Tiên Phƣớc, Quảng Nam) năm 1962, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 10), Tr. 28-
32.
96. Bộ Quốc phòng Mỹ (1971), Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tập 1, Việt
Nam thông tấn xã xuất bản.
97. Trần Hồ Nam (2003), Vài nét về nhận và tiếp nhận vũ khí bằng đƣờng
biển (1961-1965), Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 4), Tr. 30-34.
98. R.S.Mc Namara (1995), Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài
học về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Nguyễn Xuân Năng (2003), Bắc Ruộng - Trận đánh mở đầu phong trào
147
Đồng khởi ở Bình Thuận năm 1960, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 3), Tr. 18-22.
100. Hƣơng Ngân, Linh hoạt tổ chức các trận địa phục kích trong đánh địch,
(http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/khoa-hoc-nghe-thuat-quan-su/linh-hoat-
to-chuc-tran-dia-phuc-kich-danh-dich/339746.html), ngày 4-1-2015.
101. Đồng Sĩ Nguyên (2001), Đường xuyên Trường Sơn, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
102. Douglas Pike (1970), Viet Cong: Organization and Technique of the
National Liberation Front of South Vietnam, dẫn theo Bách khoa toàn thƣ mở
Wikipedia,(https://en.wikipedia.org/wiki/Viet_Cong_and_PAVN_strategy,_organi
zation_and_structure#cite_note-Harrison-85), ngày 11-5-2009.
103. Trần Hải Phụng, Lƣu Phƣơng Thanh (chủ biên) (1994), Lịch sử Sài Gòn
- Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
104. J.Pimlott (1997), Việt Nam - những trận đánh quyết định, Trung tâm
thông tin khoa học công nghệ môi trƣờng, Bộ Quốc phòng phát hành.
105. Peter A. Pole (1986), Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon,
Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
106. Quân đội nhân dân Việt Nam (1986), Pháo binh Quân đội nhân dân Việt
Nam, những chặng đường chiến đấu, tập 2, Bộ Tƣ lệnh pháo binh xuất bản, Hà
Nội.
107. Quân khu V (2000), Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị lực lượng
vũ trang Quân khu V (1945-2000), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
108. Quân khu V (1989), Liên khu V: 30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb
148
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
109. Quân khu VII (2004) Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
110. Quân khu VII (2010), Lịch sử Đảng bộ Quân khu VII (1945-2005), Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
111. Quân khu VII (2010), Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu VII (1945-
2010), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
112. Quân khu IX (2009), Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị trong lực
lượng vũ trang Quân khu IX (1945-2005), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
113. Quân khu IX (1999), Quân khu IX - 30 năm kháng chiến (1945-1975),
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
114. Quân ủy Trung ƣơng, Chỉ thị về việc thành lập Quân giải phóng miền
Nam Việt Nam, tài liệu lƣu tại Viện Lịch sử quân sự.
115. Nguyễn Xuân Sinh (2015), Căn cứ địa Nam Tây Nguyên trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử
Việt Nam, Đại học sƣ phạm Huế, Thừa Thiên Huế Huế.
116. Hồ Sĩ Thành (2007), Nhơn Trạch - Cần Giờ, cái nôi đặc công rừng Sác
trong kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 1), Tr. 20-24.
117. Bùi Tiến Thành (2011), Từ Đoàn 759 đến Đoàn 125, bƣớc phát triển cả
về lƣợng và chất của lực lƣợng vận tải đƣờng Hồ Chí Minh trên biển, Tạp chí Lịch
sử quân sự, (số 10), Tr. 7-11.
118. Hoàng Minh Thảo (chủ biên) (1980), Lực lượng vũ trang Tây Nguyên
149
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
119. Võ Thị Thanh Thảo (1999), Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách
mạng tại miền Nam từ năm 1954-1960, luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
120. Trần Thuận (2005), Đấu tranh vũ trang ở Bạc Liêu, Tạp chí Lịch sử quân
sự, (số 7), Tr. 14-18.
121. Đặng Việt Thủy (chủ biên) (2009), Hỏi đáp về các binh chủng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
122. Thƣ viện lịch sử, Chiến thắng Ba Gia (29/5/1965 - 31/5/1965),
(http://thuvienlichsu.com/su-kien/chien-thang-ba-gia-384), ngày 30-5-2014.
123. Tổng cục Chính trị (2002), Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị
trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
124. Tổng cục Hậu cần (1999), Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam,
tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
125. Bùi Thị Trang (2014), Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh quân sự ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968, luận văn Thạc sĩ khoa
học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
126. Nguyễn Xuân Tú (2003), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965-1975, Nxb Lao động, Hà Nội.
127. Trần Quốc Tuấn, Trƣơng Tú (2014), Chiến thắng An Lão, 50 năm nhìn
lại, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 9), Tr. 24-28.
128. Nguyễn Duy Tƣờng (2000), Vận tải thô sơ trên đƣờng Trƣờng Sơn thời
150
kỳ 1959-1964, Tạp chí Lịch sử quân sự, (số 4), Tr. 14-18.
129. Viện Lịch sử Đảng (2008), Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung
ương Cục miền Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Viện Lịch sử Đảng (1995), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. Viện Lịch sử quân sự (1995), 50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam
(1944-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
132. Viện Lịch sử quân sự (2010), Lịch sử đường Hồ Chí Minh từ Nam Tây
Nguyên đến miền Đông Nam Bộ (1959-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
133. Viện Lịch sử quân sự (1995), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
tập 2 (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
134. Viện Lịch sử quân sự (1997), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975,) tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Viện Lịch sử quân sự (1994), Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
136. Viện Lịch sử quân sự (2005), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
137. Viện Sử học (1992), Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), Nxb Sự
thật, Hà Nội.
138. Vietnamplus, Những bức ảnh quý giá về Đại thắng mùa Xuân 1975,
(http://quocoai.hanoi.gov.vn/di-tich-lich-su-van-hoa/news/), ngày 15-4-2015.
139. William Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Nxb
151
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
PHỤ LỤC
Học tập nghị quyết 15 tại miền núi Quảng Nam - Đà Nẵng vào tháng 6-
152
1959 [138]
Lực lượng du kích xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri anh dũng chiến đấu chống
kẻ thù trong những ngày đầu Đồng khởi ở Bến Tre (1960) [90]
153
Tượng đài chiến thắng Tua Hai [46]
154
Các vùng chiến thuật của quân đội Việt Nam Cộng hòa (3)
Các quân khu và mặt trận của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam
155
(102)
Cơ cấu tổ chức, chỉ huy và việc phân chia các mặt trận của lực lượng
156
cách mạng miền Nam theo góc nhìn của Washington (102)
157
Sơ đồ tổ chức Ban Quân sự Miền từ năm 1961-1962 (109, 97)
158
Sơ đồ tổ chức Bộ chỉ huy Miền từ năm 1963-1964 (109, 161)
STT Tên (Bí danh) Giai đoạn
1 Trần Văn Quang (Bảy Tiến) 1961-1963
2 Trần Văn Trà (Tƣ Chi) 1963-1967
3 1967-1973 Hoàng Văn Thái (Mƣời Khang)
4 Trần Văn Trà (Tƣ Chi) 1973-1975
Các tư lệnh của Quân giải phóng miền Nam
STT Tên (Bí danh) Giai đoạn
1 Phạm Thái Bƣờng (Ba Bƣờng) 1961-1962
2 Trần Nam Trung (Hai Hậu) 1962-1964
3 Nguyễn Chí Thanh (Sáu Di) 1964-1967
4 Phạm Hùng (Hai Hùng) 1967-1975
159
Các chính ủy của Quân giải phóng miền Nam
STT Tên (Bí danh) Giai đoạn
1 Lê Đức Anh (Sáu Nam) 1965-1969
1969-1970 2 Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà) 1974-1975
3 Hoàng Cầm (Năm Thạch) 1970-1974
Các tham mưu trưởng của Quân giải phóng miền Nam
STT Tên (Bí danh) Chức vụ
1 Nguyễn Thị Định (Ba Định) Phó tƣ lệnh Miền (1965-1975)
2 Nguyễn Hữu Xuyến Phó tƣ lệnh Miền (1965-1974)
3 Lê Trọng Tấn (Ba Long) Phó tƣ lệnh Miền (1965-1971)
4 Trần Độ (Chín Vinh) Phó chính ủy Miền (1965-1974)
160
Một số chỉ huy cao cấp khác của Quân giải phóng miền Nam
161
Hải trình đường Hồ Chí Minh trên biển [43]
Vận tải thô sơ trên đường Trường Sơn [138]
162
Sơ đồ diễn biến trận Ấp Bắc [4]
Chiến sĩ Tiểu đoàn 514 Mỹ Tho đánh trận Ấp Bắc [4]
Cảnh đổ nát của Sân bay Biên Hòa sau trận tập kích ngày 31-10-1964
163
[81]
Máy bay Mỹ bị bắn rơi trong trận Bình Giã [100]
164
Sơ đồ chiến dịch Ba Gia [122]
Trung đoàn 2 chủ lực Miền sau chiến thắng Đồng Xoài được vinh dự
165
mang tên “Trung đoàn Đồng Xoài” [52]