BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
… ………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGÔ THỊ PHƯƠNG LAN
CHẤT LƯỢNG VIÊN CHỨC
TẠI KHỐI CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ
TRỰC THUỘC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ......................./.........................
BỘ NỘI VỤ ........ /.........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGÔ THỊ PHƯƠNG LAN
CHẤT LƯỢNG VIÊN CHỨC
TẠI KHỐI CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ
TRỰC THUỘC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ HÀ
HÀ NỘI – NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các
số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và đảm
bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả Ngô Thị Phương Lan
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... 1 DANH MỤC CÁC BIỂU VÀ HÌNH ............................................................. 2
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG VIÊN CHỨC TẠI CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ..................................................... 15
1.1. Các khái niệm liên quan ........................................................................ 15
1.1.1. Khái niệm viên chức và viên chức tại các tổ chức khoa học và công nghệ ................................................................................................................. 15 1.1.1.1. Khái niệm viên chức ................................................................... 15
1.1.1.2. Khái niệm viên chức tại các tổ chức khoa học và công nghệ .... 19 1.1.1.3. Khái niệm tổ chức khoa học và công nghệ ................................ 22
1.1.2. Khái niệm chất lượng viên chức tại các tổ chức khoa học và công nghệ ................................................................................................................. 25 1.1.2.1. Khái niệm chất lượng ................................................................. 25
1.1.2.2. Khái niệm chất lượng viên chức ................................................ 26
1.1.2.3. Khái niệm chất lượng viên chức tại các tổ chức khoa học và công nghệ ................................................................................................ 27
1.1.3. Đặc điểm, vai trò của viên chức trong các tổ chức khoa học và công nghệ ................................................................................................................. 28 1.1.3.1. Đặc điểm của viên chức trong các tổ chức khoa học và công nghệ ......................................................................................................... 28
1.1.3.2. Vai trò viên chức trong các tổ chức khoa học và công nghệ ..... 29
1.2. Các yếu tố cấu thành nên chất lượng viên chức .................................. 30
1.2.1. Trình độ chuyên môn ........................................................................... 31
1.2.2. Yếu tố về tinh thần, thái độ .................................................................. 31
1.2.3. Yếu tố về thể lực ................................................................................... 31 1.3. Các tiêu chí đánh giá chất lượng viên chức khoa học và công nghệ . 32
1.3.1. Tiêu chí chung chất lượng viên chức khoa học và công nghệ .......... 32
1.3.2. Tiêu chí cụ thể về chất lượng viên chức khoa học và công nghệ ...... 32
1.4. Các yếu tố tác động đến chất lượng viên chức khoa học và công nghệ ......................................................................................................................... 37
1.4.1. Thể chế quản lý viên chức ................................................................... 37
1.4.2. Tổ chức sử dụng và quản lý viên chức ............................................... 38
1.4.3. Chế độ, chính sách đãi ngộ viên chức ................................................ 38
1.4.4. Người lãnh đạo, quản lý trong tổ chức ............................................... 39
1.4.5. Các điều kiện bảo đảm hoạt động của viên chức ............................... 39
1.4.6. Ý thức rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ, năng lực của viên chức ................................................................................................................. 41 Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VIÊN CHỨC TẠI KHỐI CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ TRỰC THUỘC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2021 .................. 43
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Khối các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ............................ 43
2.1.1. Giới thiệu về các Viện thuộc Khối các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam .......................................... 43 2.1.1.1. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (IWEP) ................................. 45 2.1.1.2. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ..................................... 45
2.1.1.3. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (INAS) ........................................ 45
2.1.1.4. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ (VIAS) ............................................. 46
2.1.1.5. Viện Nghiên cứu Trung Quốc (ICS) ........................................... 46
2.1.1.6. Viện Nghiên cứu Châu Âu (IES) ................................................ 46
2.1.1.7. Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông (IAMES) ................ 47 2.1.1.8. Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (VIISAS) ...................... 47
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Khối các Viện Nghiên cứu Quốc tế thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam............................................................. 47
2.1.3. Số lượng và cơ cấu đội ngũ viên chức các Viện tại Khối Nghiên cứu quốc tế thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ............................. 51 2.1.3.1. Về số lượng ................................................................................. 51
2.1.3.2. Về cơ cấu viên chức ................................................................... 53
2.2. Thực trạng chất lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ................................ 55
2.2.1. Phát triển về kiến thức chuyên môn.................................................... 55
2.2.2. Việc tuyển chọn/thu hút những nhân lực phù hợp về cơ cấu và trình độ ..................................................................................................................... 59
2.2.3. Nâng cao và hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp ................................... 60
2.2.4. Rèn luyện ý thức trách nhiệm, thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu ......................................................................................................................... 63
2.2.5. Về thể lực .............................................................................................. 65 2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ......................................................................................................................... 66
2.3.1. Những nhân tố bên ngoài .................................................................... 66
2.3.2. Những nhân tố bên trong .................................................................... 68 2.4. Đánh giá chung ....................................................................................... 70
2.4.1. Ưu điểm ................................................................................................. 70
2.4.2. Một số hạn chế và nguyên nhân.......................................................... 72 Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 80
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIÊN CHỨC TẠI KHỐI CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ TRỰC THUỘC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI ........................................................................................... 81 3.1. Định hướng và chiến lược nâng cao chất lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu quốc tế ............................................................................... 81
3.1.1. Dự báo xu hướng nâng cao chất lượng viên chức, cơ hội và thách thức đối với các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................................................................................................... 81
3.1.2. Định hướng nâng cao chất lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ............................. 84 3.2. Một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng viên chức KH&CN của các Viện thuộc Khối NCQT. ................................................. 86
3.2.1. Giải pháp về thu hút và giữ chân người tài............................................ 87
3.2.2. Giải pháp về đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho Nghiên cứu viên trẻ ........................................................................................ 87
3.2.3. Giải pháp về công tác sử dụng, đánh giá và bổ nhiệm vị trí cho các viên chức trong các Viện nghiên cứu thuộc Khối quốc tế ........................... 89
3.2.4. Giải pháp xây dựng văn hoá cơ quan nghiên cứu đoàn kết và giúp đỡ nhau phát triển ............................................................................................... 91
3.2.5. Giải pháp về việc đãi ngộ, khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với viên chức trong các Viện thuộc Khối nghiên cứu quốc tế ..................... 92 3.3. Một số kiến nghị ..................................................................................... 93
3.3.1. Kiến nghị với chính phủ, bộ ban ngành trung ương ......................... 93
3.3.2. Kiến nghị đối với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ............. 96 Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 97 KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CMCN 4.0 Cách mạng Công nghiệp 4.0 :
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá :
GS Giáo sư :
HL KHXH Hàn lâm Khoa học xã hội :
HNQT : Hội nhập quốc tế
KH&CN Khoa học và công nghệ :
NCQT : Nghiên cứu Quốc tế
NC&TK : Nghiên cứu và triển khai
NNL : Nguồn nhân lực
Nxb : Nhà xuất bản
PGS Phó Giáo sư :
ThS Thạc sĩ :
TS Tiến sĩ :
UBKTTƯ : Ủy ban Kiểm tra trung ương
VASS : (Vietnam Academy of Social Sciences)
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2
DANH MỤC CÁC BIỂU VÀ HÌNH
Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam ……44
Hình 2.2. Sơ đồ tổ chức các Viện thuộc Khối các Viện Nghiên cứu Quốc
tế …………………………………………………………………………….48
Biểu 2.1: Số lượng viên chức Khối các Viện nghiên cứu quốc tế năm 2016
và năm 2021 ....................................................................................................52
Biểu 2.2: Cơ cấu viên chức phân theo giới tính của Khối các Viện nghiên
cứu quốc tế năm 2016 và năm 2021 .................................................................54
Biểu 2.3: Cơ cấu viên chức theo độ tuổi của Khối các Viện nghiên cứu
quốc tế năm 2016 và năm 2021........................................................................55
Biểu 2.4: Cơ cấu viên chức phân theo trình độ của Khối các Viện nghiên
cứu quốc tế năm 2016 và năm 2021 .................................................................56
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đang bước sang thời kỳ phát triển
mới, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu có tính đột
phá về khoa học công nghệ, nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trong xu thế
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nguồn nhân lực (NNL), nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định đối với
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đặc biệt trong nghiên cứu khoa
học, yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao là yêu cầu bức thiết.
Đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm bởi đây là nhân tố
then chốt góp phần thực hiện thành công chương trình cải cách nền hành chính
nhà nước, ổn định hệ thống chính trị và chất lượng bộ máy nhà nước. Ngày 15
tháng 7 năm 2021, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2030 mà trọng tâm cải cách của Chương trình
là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực,
phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển của đất nước, Đề án cũng
xác định rõ mục tiêu: “Dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân”.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (VASS) là cơ quan nghiên cứu
khoa học trực thuộc Chính phủ, có chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học
xã hội và nhân văn, cung cấp các luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong
việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển nhanh và bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực
hiện tư vấn về chính sách phát triển; đào tạo sau đại học về khoa học xã hội;
tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội của cả nước. Trong những năm
4
qua, VASS đã từng bước xây dựng được lực lượng nghiên cứu khoa học xã hội
đáp ứng tốt các đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống cũng như phục vụ phát triển
kinh tế xã hội của đất nước. Hiện nay, VASS gồm 42 Viện và các Ban chức
năng. Các viện được xếp thành các nhóm: Khối các viện nghiên cứu khoa học
xã hội, Khối các viện nghiên cứu khoa học nhân văn, Khối các viện nghiên cứu
quốc tế, Khối nghiên cứu Vùng và các đơn vị khác.
Trong đó, Khối các Viện nghiên cứu quốc tế (NCQT) gồm 08 Viện chuyên
ngành:
1. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (IWEP);
2. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS);
3. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (INEAS);
4. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ (IAS);
5. Viện Nghiên cứu Trung Quốc (ICS);
6. Viện Nghiên cứu Châu Âu (IES);
7. Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông (IAMES);
8. Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (IIWSAS).
Tuy vậy, trước yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an
ninh, quốc phòng của đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển
như vũ bão của KH&CN, nhất là Cách mạng Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) và
chuyển đổi số (CĐS), nguồn nhân lực của VASS nói chung và của Khối các
Viện NCQT nói riêng đang dần bộc lộ những bất cập nhất định, đặc biệt về chất
lượng. Do đó, rất cần phải đánh giá lại đội ngũ này một cách căn bản, xác định
được những điểm mạnh cùng những hạn chế về chất lượng, và chỉ rõ những
nguyên nhân của chúng để giúp chính phủ nói chung, VASS và các Viện thuộc
Khối các Viện NCQT nói riêng có được sự quy hoạch và phát triển nguồn nhân
5
lực, xây dựng lực lượng viên chức tại Khối quốc tế (thuộc VASS) đủ về số
lượng, có chất lượng phù hợp (về trình độ chuyên môn, có sức khỏe, vững vàng
về chính trị, có phẩm chất và đạo đức công vụ tốt) để có thể hoàn thành được
nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao, phục vụ tốt nhu cầu phát triển
của VASS và từng Viện chuyên ngành. Với những lý do trên, học viên đã chọn
chủ đề:“Chất lượng viên chức tại khối các Viện Nghiên cứu quốc tế trực thuộc
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chất lượng nguồn nhân lực nói chung, chất lượng đội ngũ viên chức nói
riêng, từ lâu, đã luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu, nhà quản lý. Một số công trình nghiên cứu cụ thể và tiêu biểu liên quan có
thể kể đến như sau:
- Về các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, các tác giả Đỗ Minh Cương
(2001) và Mai Trọng Nhuận (2005) trong các nghiên cứu của mình đã đưa ra
những gợi ý về cơ chế, chính sách. Vài nghiên cứu khác cũng đã đưa ra một số
lưu ý trong phát triển nguồn nhân lực trong các cơ quan chính quyền nhà nước.
[10, tr.102] [28, tr.104].
- Văn Đình Tấn (2004), Nguồn nhân lực trong công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta, Tạp chí Khoa học, Đại học Đà Nẵng. [36, tr.104]
- Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2004), trên cơ sở nghiên cứu
các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí người cán bộ cách mạng, cũng
như yêu cầu đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; tìm hiểu những bài
học kinh nghiệm về việc tuyển chọn và sử dụng nhân tài trong suốt quá trình
6
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, cũng như kinh nghiệm xây dựng
nền công vụ chính quy hiện đại của đất nước trong khu vực và trên thế giới, đã
xác định các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. [31, tr.104]
- Các tác giả Lê Minh Thông, Nguyễn Danh Châu (2009) trong cuốn sách
Kinh nghiệm công tác nhân sự của một số nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, đã phân tích, giới thiệu những vấn đề về bộ máy quản lí công chức, tuyển
chọn, chế độ và luân chuyển công chức, vấn đề đào tạo và bồi dưỡng công chức,
kiểm tra và đánh giá công chức, chế độ và chính sách đối với công chức ở Nhật
Bản, Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Đức và Trung Quốc. [39, tr.105]
- Cuốn sách do Nguyễn Ngọc Phú (2010, chủ biên) đã tập hợp rất nhiều
nghiên cứu của các tác giả khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong
đó, các tác giả đã khẳng định: Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định việc sử
dụng các nguồn lực khác như nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, thành
tựu khoa học công nghệ; đồng thời, nêu những đặc trưng cơ bản của Nguồn
nhân lực chất lượng cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. [29, tr.104];
- Đỗ Phú Hải (2014) cho rằng Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa
học ở Việt Nam hiện còn nhiều bất cập (từ việc đào tạo, tuyển dụng, sử dụng,
đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ); điều đó làm cản trở phát triển những
nhà khoa học đầu ngành, những tập thể khoa học mạnh, và ngăn cản việc đạt
được mục tiêu đưa Việt Nam thành nước có nền khoa học và công nghệ
(KH&CN) đạt trình độ phát triển của nhóm nước dẫn đầu ASEAN. [17, tr.102];
- Vũ Bá Thể (2015) đã nêu lên thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta trong
những năm qua đã làm rõ thực trạng số lượng và chất lượng nguồn nhân lực
hiện nay, trong đó tập trung phân tích những ưu điểm, hạn chế và xu hướng
7
phát triển của nguồn nhân lực trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta; đồng thời rút ra những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân. Từ
đó, có những định hướng và những giải pháp phát huy nguồn lực con người để
phục vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong thời gian tới. [38, tr.105]
- Các nghiên cứu của Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh (12/2016) và Võ
Thị Kim Loan (2015) đều tập trung phân tích thực trạng nguồn nhân lực, chủ
yếu là nguồn nhân lực chất lượng cao, các giải pháp phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao thông qua các cơ sở đào tạo; Đổi mới chương trình đào tạo tại
các trường đào tạo nghề, cao đẳng, đại học; Mạnh dạn thu hút nguồn nhân lực
chất lượng cao trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về tham gia công
tác giảng dạy cho các trường Cao đẳng, đại học, làm việc trong lĩnh vực công
nghệ cao, bằng chính sách trải thảm đỏ như: trả lương cao, ưu đãi chỗ ở, ưu đãi
về thuế ... [11, tr.102] [21, tr.103]
- Trần Kim Anh (2017), Chất lượng đội ngũ viên chức tại Cục Văn thư và
Lưu trữ nhà nước, Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc
gia. Luận văn đã phân tích thực trạng, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và đưa
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức tại Cục Văn thư và Lưu
trữ nhà nước. [1, tr.101]
- Đỗ Thị Châm (2018), Chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ
tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Quản lý
công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội. Luận văn đánh giá thực trạng và
định hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN tại Viện Hàn lâm
KHCNVN. [9, tr.102]
- Về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, Hoàng Minh Lợi (2018),
trong cuốn Chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Nhật Bản
và Hàn Quốc, gợi ý cho Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, cho rằng, phát triển
8
nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực cho sự phát triển của các cơ quan,
doanh nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu chính sách sử dụng nguồn nhân lực chất
lượng cao cũng như thực trạng nguồn nhân lưc này ở Hàn Quốc và Nhật Bản,
cuốn sách đã đưa ra những gợi ý, đề xuất chính sách, giải pháp đối với phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. [22, tr.103]
- Nguyễn Thị Lê (2019), Nâng cao chất lượng hoạt động đánh giá viên
chức theo vị trí việc làm ở đơn vị sự nghiệp công lập, Học viện Hành chính
Quốc gia; tr.37-41, https://opac.vass.gov.vn/record=b1588787. [23, tr.103]
- Tạ Quang Ngọc (2022), Nâng cao hiệu quả đánh giá, xếp loại chất lượng
viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập, Học viện Hành chính Quốc gia; tr.20-
24, https://opac.vass.gov.vn/record=b1588787. [25, tr.103]
Tóm lại, có thể thấy hiện nay, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về
vấn đề này đa dạng về số lượng và phong phú về chất lượng. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu về chất lượng viên chức tại các cơ quan nghiên cứu khoa
học thì khá ít và công trình nghiên cứu về chất lượng viên chức tại Khối các
Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu, chỉ ra hiện trạng chất lượng viên chức,
cơ chế ảnh hưởng và những giải pháp gợi ý để nâng cao chất lượng viên chức
tại Khối các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt
Nam. Do đó, nghiên cứu về chủ đề này vẫn còn “khoảng trống”
2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Các công trình nghiên cứu về chất lượng, phát triển và quản trị nguồn nhân
lực ở nước ngoài cũng rất phong phú cả về nội dung và số lượng. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu về chất lượng viên chức trong các tổ chức nghiên
cứu khoa học của Việt Nam thì rất ít, đặc biệt các công trình nghiên cứu về chất
lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu quốc tế thuộc Viện Hàn lâm
9
Khoa học xã hội Việt Nam thì đến nay chưa có. Các công trình nghiên cứu nước
ngoài liên quan đến Luận văn chủ yếu là các công trình đề cập đến lý luận trong
quản trị nguồn nhân lực.
- Jay W. Lorsch và Thomas J. Tierne (2002) đã đề xuất các giải pháp kinh
tế và 18 động lực để thu hút và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao trong
doanh nghiệp. Trọng tâm nghiên cứu của cuốn sách là đề cập đến các đòn bẩy
và động lực để kết nối người lao động với doanh nghiệp để nguồn nhân lực chất
lượng cao cam kết cống hiến cho doanh nghiệp. [61, tr.108]
- Về quản trị nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số hóa, Leonard Nadler
(1984) cho rằng, tác động của kỷ nguyên số rất rõ nét đối với vấn đề quản trị
nguồn nhân lực, theo đó nguồn nhân lực trong các lĩnh vực như nghiên cứu
khoa học, kỹ thuật số, công nghệ sinh học,… sẽ là các ngành thu hút nhiều nhân
tài. Mặt khác, thời đại số hóa cũng sẽ tác động trực tiếp đến nguồn cung – cầu
lao động của các quốc gia, đòi hỏi các quốc gia cần có những sự điều chỉnh
chính sách để tầm vĩ mô về nguồn nhân lực để đáp ứng được sự điều chỉnh có
tính chiến lược ở các quốc gia. [62, tr.108]
- Về so sánh quản trị nguồn nhân lực Việt Nam với các quốc gia khác,
Malcolm Warner (2013), đã đề cập đến những nhân tố tác động đến vấn đề
quản trị nguồn nhân lực ở cả Việt Nam và Trung Quốc như yếu tố lịch sử, văn
hóa, chính trị, kinh tế, vấn đề nhân khẩu học, qua đó đưa ra những sự khác biệt
trong mô hình quản trị nhân lực giữa hai nước. Tác giả cũng cho rằng, trong
bối cảnh hiện nay, cả hai nước đều đang nỗ lực phát triển nguồn nhân lực có
trình độ cao, và đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Trong khi Việt Nam
đề ra các Chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong theo từng giai đoạn, thì
Trung Quốc cũng đưa ra các Cương yếu quy hoạch nhân tài và cả mô hình quản
trị của hai nước đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng khác biệt. [63, tr.108]
10
Những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước trên đã có những đóng
góp về mặt lý luận cũng như thực tiễn đối với đề tài. Tuy nhiên, có thể thấy
rằng đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu trực diện về chất lượng viên chức
tại Khối các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam. Do đó, vấn đề chất lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu
quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam vẫn còn “khoảng
trống” lớn nhất mà Luận văn với chủ đề trên có nhiệm vụ khắc phục.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng chất lượng viên chức tại Khối các Viện
NCQT trực thuộc VASS, xác định những điểm mạnh cũng như những hạn chế
về chất lượng của đội ngũ này và các nguyên nhân chủ yếu của chúng, từ đó đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu để nâng cao chất lượng đội ngũ viên
chức tại Khối các Viện nghiên cứu này trong tương lai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn thực hiện những nhiệm
vụ nghiên cứu cơ bản sau:
Một là, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng viên chức
trong các tổ chức khoa học công nghệ;
Hai là, phân tích thực trạng chất lượng viên chức tại Khối các Viện NCQT
trực thuộc VASS, chỉ ra những điểm mạnh cũng như những hạn chế về chất
lượng của đội ngũ này và các nguyên nhân chủ yếu;
Ba là, nêu rõ những định hướng, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cơ
bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng viên chức tại Khối các Viện NQQT
trong tương lai.
11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng viên chức tại Khối các
Viện NCQT trực thuộc VASS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung vào các nội dung liên quan đến chất
lượng viên chức (thể lực, trí lực và tâm lực) tại Khối các Viện NCQT trực thuộc
VASS.
- Về không gian: Tại 08 Viện Khối Nghiên cứu quốc tế trực thuộc VASS.
- Về thời gian: Luận văn đánh giá thực trạng chất lượng viên chức giai
đoạn năm 2016 - 2021 và đề xuất giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng
viên chức tại Khối các Viện NCQT trực thuộc VASS giai đoạn tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
văn sẽ phân tích và đánh giá chất lượng viên chức của Khối các Viện NCQT
trực thuộc VASS vừa như là một phạm trù nguồn nhân lực nói chung, vừa như
là phạm trù nguồn nhân lực cụ thể của một cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội
và nhân văn trực thuộc VASS, đặc biệt là viên chức nghiên cứu khoa học thuộc
các Viện nghiên cứu quốc tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp luận cơ bản trên sẽ được vận dụng ở một số phương
pháp nghiên cứu định tính cụ thể của môn kinh tế hoc, nhân lực học và quản lý
công cụ thể như sau:
12
- Phương pháp thu thập tư liệu, phân tích, hệ thống hóa, và tổng quan tài
liệu khi thực hiện phần Mở đầu (trong đó có Mục Tình hình nghiên cứu, Đối
tượng và Phạm vi nghiên cứu), và Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản liên
quan đến chủ đề của Luận văn;
- Phương pháp thu thập tư liệu, số liệu và thông tin cụ thể, phương pháp
phân tích tại bàn, phương pháp so sánh, và phương pháp tổng hợp sẽ được vận
dụng chủ yếu và cụ thể ở Chương 2 để trình bày, phân tích và đánh giá khách
quan thực trạng viên chức và chất lượng viên chức nghiên cứu khoa học tại
khối các Viện NCQT trực thuộc VASS thời gian qua, để chỉ ra được những kết
quả, những hạn chế về chất lượng của đội ngũ viên chức này cùng các nguyên
nhân chủ yếu của chúng.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu phân tích các nguồn số liệu, tư liệu sẵn
có về thực trạng chất lượng viên chức tại Viện Hàn lâm KHXHVN.
- Phương pháp so sánh dùng để so sánh về tình hình chất lượng viên chức
từng thời điểm, từng năm để có sự tổng hợp và đưa ra các giải pháp tốt nhất
nhằm nâng cao chất lượng viên chức.
- Phương pháp tổng kết, kế thừa, và khái quát sẽ được thực hiện chủ yếu
ở Chương 3 để nêu ra những định hướng và mục tiêu, cũng như đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng viên chức tại Khối các
Viện NCQT trực thuộc VASS trong tương lai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng viên
chức tại tổ chức khoa học nghiên cứu các vấn đề xã hội và nhân văn, cụ thể là
tại Khối các Viện NCQT trực thuộc VASS.
13
- Thông qua phân tích và đánh giá thực trạng cải thiện chất lượng và chất
lượng viên chức tại Khối các Viện NCQT trực thuộc VASS thời gian qua, Luận
văn đã khái quát được những ưu điểm, hạn chế và một số nguyên nhân chủ yếu
của chúng;
- Luận văn đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu và có tính khả thi, cũng
như một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng viên chức KH&CN
tại Khối các Viện NCQT trực thuộc VASS trong tương lai.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên, trực diện về chất lượng viên
chức tại Khối các Viện NCQT trực thuộc VASS.
- Kết quả nghiên cứu khách quan và khoa học của luận văn về chất lượng
viên chức tại Khối các Viện NCQT trực thuộc VASS cùng các giải pháp được
Luận văn đề xuất hi vọng có thể là căn cứ khoa học hữu ích để các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý nhân sự của VASS, trong đó có Khối các Viện
NCQT trực thuộc VASS cũng như những người quan tâm tham khảo khi đề
cập đến các vấn đề nhân lực nghiên cứu khoa học tại VASS nói chung và tại
Khối các Viện NCQT nói riêng để nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân lực
này trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục các
Biểu và Hình, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba
chương như sau:
Chương 1: Lý luận về chất lượng viên chức tại các tổ chức khoa học và
công nghệ.
Chương 2: Thực trạng chất lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu
14
quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2016-
2021.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng viên chức tại
Khối các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam thời gian tới.
15
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG VIÊN CHỨC TẠI CÁC TỔ CHỨC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm viên chức và viên chức tại các tổ chức khoa học và
công nghệ
1.1.1.1. Khái niệm viên chức
Viên chức, theo Điều 2 Luật Viên chức năm 2010 quy định: “Viên chức
là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị
sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [35, tr.104].
Theo Nguyễn Tuấn Anh (2016), viên chức là cán bộ, nhân viên được tuyển
dụng vào làm việc tại một vị trí việc làm phù hợp ở một đơn vị sự nghiệp công
lập do quỹ lương của đơn vị đài thọ trên cơ sở pháp luật quy định. [2, tr.101].
Như vậy, từ các định nghĩa trên có thể thấy rằng, một người là viên chức,
nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, người đó là công dân Việt Nam, là tất cả những người mang
quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa tất cả những người mang quốc tịch nước
ngoài hoặc không quốc tịch không thể trở thành viên chức.
Thứ hai, phải được tuyển dụng theo vị trí việc làm, tức là nói về chế độ
tuyển dụng viên chức (Theo Điều 7 Luật Viên chức 2010, “vị trí việc làm được
hiểu là công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ
quản lý tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên
chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị
sự nghiệp công lập”. [35, tr.104]
16
Như vậy, nói đến vị trí việc làm tức là một vị trí hoặc một chỗ làm việc
trong một cơ quan, tổ chức, đơn vị mà tại đó người cán bộ, công chức, viên
chức thực hiện một công việc hoặc một nhóm các công việc có tính ổn định,
lâu dài, thường xuyên, lặp đi lặp lại, có tên gọi cụ thể theo chức danh, chức vụ
hoặc theo tính chất công việc và được gắn liền với quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức đó. Ví dụ, vị trí giảng dạy trong các trường
đại học, cao đẳng; vị trí điều dưỡng, bác sĩ trong các bệnh viện, cơ sở khám
chữa bệnh,...
Thứ ba, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập. Đơn vị sự nghiệp công lập
là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước, nhằm giúp các cơ quan, tổ
chức chủ quản thực hiện một chức năng hay một nhiệm vụ cụ thể. Ví dụ, trường
học là nơi tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục
tiêu, chương trình giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; Bệnh viện là
nơi tiếp nhận, khám, cấp cứu, chữa bệnh và phục hồi chức năng cho bệnh nhân
theo các quy định của Bộ Y tế ban hành; Viện nghiên cứu là nơi các nhà khoa
học thực hiện chức năng nghiên cứu, tìm hiểu, đưa ra những phân tích, đánh
giá và dự đoán đối với các ngành, lĩnh vực thuộc chức năng của Viện nghiên
cứu.
Đơn vị sự nghiệp công lập gồm có Đơn vị sự nghiệp được giao quyền tự
chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (gọi
là, đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ), và Đơn vị sự nghiệp
công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài
chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (gọi là, đơn vị sự nghiệp công lập chưa được
giao quyền tự chủ). Các đơn vị sự nghiệp công lập này gồm có: Đơn vị sự
nghiệp công lập do Chính phủ thành lập (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
17
Nam, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam,
Đài Tiếng nói Việt Nam,...); Đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản
Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Tạp chí Cộng sản, ...);
Đơn vị sự nghiệp công lập của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Báo
Tuổi trẻ, Báo Tiền phong, ...).
Thứ tư, chế độ lao động. Viên chức làm việc theo chế độ Hợp đồng làm
việc và hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật. Hợp đồng làm việc là cơ sở pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ
của bên tuyển dụng và người làm việc. Đơn vị tuyển dụng và người làm việc
thỏa thuận với nhau về vị trí việc làm, tiền lương, chế độ đãi ngộ, quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên, ...
Lương của Viên chức được nhận từ quỹ của Đơn vị sự nghiệp công lập
nơi họ làm việc chứ không phải từ ngân sách Nhà nước. Do vậy, tiền lương mà
viên chức nhận được phụ thuộc vào sự thỏa thuận trong hợp đồng làm việc
được ký kết giữa Viên chức và đơn vị tuyển dụng, Nhà nước hầu như không
can thiệp vào vấn đề này. Viên chức theo chế độ hợp đồng làm việc và hưởng
lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp, tương xứng với vị
trí việc làm, chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý và kết quả thực hiện công
việc hoặc nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, viên chức được đơn phương chấm dứt
hợp đồng làm việc trong các trường hợp: Không được bố trí theo đúng công
việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã
thỏa thuận trong hợp đồng làm việc; không được trả lương đầy đủ hoặc không
được trả lương đúng thời hạn theo hợp đồng làm việc; không đủ sức khỏe hoặc
không đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện hợp đồng làm việc; được bầu làm
nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị -
xã hội hoặc được cấp có thẩm quyền điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ được
18
quy định là công chức theo quy định của pháp luật; viên chức nữ có thai phải
nghỉ việc theo chỉ định của cơ quan y tế có thẩm quyền.
Đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc
với viên chức trong các trường hợp sau: viên chức có hai năm liên tiếp bị phân
loại đánh giá ở mức độ không hoàn thành nhiệm vụ; viên chức bị ốm đau đã
điều trị 12 tháng liên tục (đối với hợp đồng làm việc không xác định thời hạn)
hoặc sáu tháng liên tục (đối với hợp đồng làm việc xác định thời hạn) mà khả
năng làm việc chưa hồi phục; khi đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt động
hoặc thu hẹp quy mô do những lý do bất khả kháng ...
Thứ năm, về thời gian làm việc. Thời gian làm việc của viên chức được
tính kể từ khi được tuyển dụng, Hợp đồng làm việc có hiệu lực cho đến khi
chấm dứt hợp đồng làm việc hoặc đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ Luật
lao động.
Theo quy định của pháp luật, viên chức được chia thành các loại sau đây:
Một là, theo vị trí việc làm, viên chức gồm:
- Viên chức quản lý: là những người được bổ nhiệm giữ chức vụ quản lý
có thời hạn, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện một hoặc một số
công việc trong đơn vị sự nghiệp công lập nhưng không phải là công chức và
được hưởng phụ cấp chức vụ quản lý.
- Viên chức không giữ chức vụ quản lý là những người chỉ thực hiện
chuyên môn nghiệp vụ theo chức danh nghề nghiệp trong đơn vị sự nghiệp
công lập.
Hai là, theo chức danh nghề nghiệp, viên chức được phân loại trong từng
lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp với các cấp độ từ cao xuống thấp như sau: Viên
chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng I; Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp
19
hạng II; Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng III; Viên chức giữ chức
danh nghề nghiệp hạng IV.
1.1.1.2. Khái niệm viên chức tại các tổ chức khoa học và công nghệ
Trong các công trình nghiên cứu khoa học, sách báo, ấn phẩm về khoa học
và công nghệ đã công bố, viên chức tại các tổ chức khoa học và công nghệ (từ
đây gọi là “viên chức khoa học và công nghệ”) có thể được hiểu theo nhiều
cách khác nhau.
- Theo nghĩa rộng, viên chức khoa học và công nghệ bao gồm những người
đáp ứng được một trong những điều kiện sau đây: (1) đã tốt nghiệp đại học và
cao đẳng và làm việc trong một ngành khoa học và công nghệ; (2) đã tốt nghiệp
đại học và cao đẳng, nhưng không làm việc trong một ngành khoa học và công
nghệ nào; (3) chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng làm một công việc
trong một lĩnh vực khoa học và công nghệ đòi hỏi trình độ tương đương. Như
vậy, có thể thấy rằng khái niệm này dường như quá rộng để thể hiện nguồn viên
chức hoạt động khoa học và công nghệ của một quốc gia, và do đó, rất khó cho
việc thống kê, phân tích viên chức khoa học và công nghệ. Để khắc phục khó
khăn này, hầu hết các nước thường sử dụng khái niệm nhân lực nghiên cứu phát
triển - R&D (Research and Development), để thể hiện lực lượng lao động khoa
học và công nghệ của mình.
Theo cuốn Cẩm nang FRASCATI - Hướng dẫn thống kê nghiên cứu phát
triển của Tổ chức OECD, nhân lực nghiên cứu phát triển bao gồm những người
trực tiếp tham gia vào hoạt động nghiên cứu phát triển hoặc trực tiếp hỗ trợ
hoạt động nghiên cứu phát triển. Nhân lực nghiên cứu phát triển được chia
thành ba nhóm: [64, tr.108]
Nhóm 1: Các nhà nghiên cứu khoa học (nhà nghiên cứu/nhà khoa học/kỹ
sư nghiên cứu): đây là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp có trình độ cao
20
đẳng/đại học, thạc sĩ và tiến sĩ hoặc không có văn bằng chính thức, song họ vẫn
thường xuyên làm các công việc tương đương như nhà nghiên cứu/nhà khoa
học, tham gia vào quá trình tạo ra tri thức, sản phẩm và quy trình mới, tạo ra
phương pháp và hệ thống mới.
Nhóm 2: Nhân viên kỹ thuật và tương đương: bao gồm những người thực
hiện các công việc đòi hỏi phải có kinh nghiệm và hiểu biết kỹ thuật trong
những lĩnh vực khoa học và công nghệ. Họ tham gia vào nghiên cứu phát triển
bằng việc thực hiện những nhiệm vụ khoa học và kỹ thuật có áp dụng những
khái niệm và phương pháp vận hành dưới sự giám sát của các nhà nghiên cứu
khoa học nhóm 1 ở trên.
Nhóm 3: Nhân viên phụ trợ trực tiếp nghiên cứu phát triển: bao gồm những
người có hoặc không có kỹ năng, nhân viên hành chính văn phòng tham gia
vào các dự án nghiên cứu phát triển. Trong nhóm này bao gồm cả những người
làm việc liên quan đến nhân sự, tài chính và hành chính trực tiếp phục vụ công
việc nghiên cứu phát triển của các tổ chức nghiên cứu phát triển.
Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)
cũng đưa ra khái niệm liên quan đến nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ là: “Tổng số nhân lực có trình độ” và “Số nhân lực có trình độ hiện đang
công tác”. Theo UNESCO, nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
không đơn giản là phép tính cộng tổng đầu người, mà bên cạnh việc đếm đầu
người cần phải tính đến yếu tố khác như: quy đổi tương đương thời gian làm
việc đầy đủ (Full-Time Equivalent, FTE) và các đặc trưng của họ.
Các quan niệm về nhân lực khoa học công nghệ nêu trên của OECD và
UNESCO đã được nhiều quốc gia áp dụng. Các nước thuộc khối OECD như
Thái Lan, Trung Quốc và Nhật Bản,… đều chú trọng vào nhân lực nghiên cứu
phát triển theo các tiêu chí cụ thể như: đếm đầu người (headcount), FTE.
21
Ở Việt Nam, hệ thống số liệu nhân lực khoa học và công nghệ hiện nay
mới chỉ là sự phản ánh “tổng số nhân lực có trình độ” của một quốc gia. Theo
quan niệm phổ biến thì nhân lực khoa học và công nghệ ở nước ta gồm 05 thành
phần chủ yếu sau đây:
(1) Viên chức làm công tác nghiên cứu khoa học (giữ các chức danh khoa
học như trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu
viên cao cấp), làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập (học viện, viện
nghiên cứu, trường đại học,…);
(2) Viên chức giữ các chức danh công nghệ (kỹ thuật viên, kỹ sư, kỹ sư
chính, kỹ sư cao cấp) làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, các doanh
nghiệp khoa học và công nghệ;
(3) Cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ ở cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện (như Phó Thủ tướng Chính phủ
phụ trách lĩnh vực khoa học và công nghệ, Bộ trưởng và các Thứ trưởng Bộ
Khoa học và công nghệ, Thứ trưởng các bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách lĩnh
vực khoa học và công nghệ; Vụ trưởng và tương đương ở các bộ, cơ quan ngang
bộ phụ trách công tác khoa học và công nghệ; Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh,
cấp huyện phụ trách lĩnh vực khoa học và công nghệ; công chức làm việc trong
Sở Khoa học và công nghệ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; công
chức lãnh đạo Phòng Kinh tế thuộc UBND cấp huyện, người đứng đầu, cấp phó
của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ, Liên hiệp hội
khoa học và kỹ thuật cấp Trung ương, cấp tỉnh…, kể cả quản lý doanh nghiệp
khoa học và công nghệ), có tham gia hoặc chỉ đạo công việc nghiên cứu phục
vụ việc hoạch định các quyết sách, quyết định quan trọng về khoa học và công
nghệ trong thẩm quyền của mình.
(4) Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài
22
làm việc trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
(5) Các cá nhân thuộc mọi tầng lớp xã hội yêu thích khoa học kỹ thuật, có
sáng kiến cải tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống.
Tuy vậy, nếu hiểu theo quan niệm “nhân lực khoa học công nghệ trong
biên chế nhà nước” thì đội ngũ này chỉ bao gồm các nhóm 1, 2 và 3 nêu trên.
Trong đó, nhóm 1 và 2 được gọi chung là viên chức khoa học và công nghệ
(theo quy định tại Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BKHCN-BNV ngày
01/10/2014 của Bộ Nội vụ và Bộ Khoa học và Công nghệ quy định mã số và
tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành khoa học và công
nghệ); nhóm 3 được gọi chung là công chức lãnh đạo, quản lý khoa học và công
nghệ (hoặc nhân lực quản lý khoa học và công nghệ). [4, tr.101]
Như vậy, theo quan điểm của Tổ chức UNESCO, viên chức khoa học công
nghệ là tổng số nhân lực có trình độ hoặc số nhân lực có trình độ hiện đang
công tác hoặc trực tiếp tham gia vào các hoạt động khoa học và kỹ thuật trong
một tổ chức hoặc đơn vị, và được trả lương theo quy định cho các dịch vụ của
họ. Nhóm này gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhóm nhân
viên hỗ trợ.
1.1.1.3. Khái niệm tổ chức khoa học và công nghệ
Khái niệm
Theo Điều 3 Luật khoa học và công nghệ năm 2013, Tổ chức khoa học và
công nghệ là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ, được
thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật. [34, tr.104]
Trong đó: Tổ chức khoa học và công nghệ công lập là tổ chức khoa học
và công nghệ do cơ quan có thẩm quyền quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và
23
g Khoản 1 Điều 12 Luật khoa học và công nghệ và do tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, thành lập và đầu tư.Quyền và nghĩa vụ của tổ chức khoa học
công nghệ
Theo Điều 13, 14 của Luật Khoa học công nghệ 2013:
+ Quyền của tổ chức khoa học và công nghệ
1. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động khoa học và công nghệ
trong lĩnh vực đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Tổ chức khoa
học và công nghệ công lập được Nhà nước giao biên chế.
2. Đăng ký tham gia tuyển chọn hoặc được giao trực tiếp thực hiện nhiệm
vụ khoa học và công nghệ; ký kết hợp đồng khoa học và công nghệ; đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ.
3. Thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp hoặc doanh
nghiệp khoa học và công nghệ trực thuộc, văn phòng đại diện, chi nhánh trong
nước và ở nước ngoài để hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của
Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
4. Hợp tác, liên doanh, nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân; góp vốn bằng
tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để hoạt động khoa học và công nghệ và
hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
5. Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả
hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ
và chuyển giao công nghệ.
6. Công bố kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của
Luật báo chí, Luật xuất bản và quy định khác của pháp luật.
24
7. Tư vấn, đề xuất ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ của Nhà nước
với cơ quan có thẩm quyền.
8. Tham gia hoạt động hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.
9. Được chuyển đổi một phần hoặc toàn bộ thành doanh nghiệp khoa học
và công nghệ theo quy định của pháp luật.
+ Nghĩa vụ của tổ chức khoa học và công nghệ
1. Đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ; thực hiện hoạt động khoa
học và công nghệ theo đúng lĩnh vực đã được quy định trong giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động.
2. Thực hiện hợp đồng khoa học và công nghệ đã ký kết, nhiệm vụ khoa
học và công nghệ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giao.
3. Thực hiện dân chủ, bình đẳng, công khai trong việc sử dụng kinh phí
và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
4. Bảo đảm kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản thường
xuyên theo chức năng của mình; sử dụng kinh phí đầu tư cho khoa học và công
nghệ đúng pháp luật.
5. Đăng ký, lưu giữ và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
6. Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về khoa học và công nghệ.
7. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân hoạt động khoa học và công nghệ trong tổ chức mình; giữ bí mật nhà nước
về khoa học và công nghệ.
25
1.1.2. Khái niệm chất lượng viên chức tại các tổ chức khoa học và công
nghệ
1.1.2.1. Khái niệm chất lượng
Chất lượng là một khái niệm còn gây nhiều tranh cãi bởi có rất nhiều quan
điểm khác nhau tùy từng lĩnh vực khác nhau mà có những cách hiểu khác nhau.
Chất lượng có thể được hiểu là sự phán xét về một thực thể nào đó hoặc là kết
quả từ sự so sánh giữa kỳ vọng của cá nhân và thực tế. Có thể hiểu chất lượng
là một khía cạnh khách quan hay tính năng của một vật hay sự kiện.
“Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu” (theo Juran - Giáo sư người Mỹ).
“Chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay đặc tính nhất định” (theo
Giáo sư Crosby).
“Chất lượng là sự thỏa mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất” (theo
Ishikawa - Giáo sư người Nhật).
Theo tiêu chuẩn của Trung Quốc G/T 6583-1994 đã định nghĩa chất lượng
là “Phản ánh đặc tính tổng hòa của yêu cầu tiềm ẩn và những yêu cầu đã được
xác định rõ ràng”. Những yêu cầu đã được xác định rõ ràng là tiêu chuẩn, quy
phạm, bản vẽ, văn kiện kỹ thuật đều được quy định thông qua hợp đồng và do
bên cung cấp đảm bảo thực hiện.
Theo SEAMEO 2003, chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu. Sự phù hợp
với mục tiêu có thể bao gồm việc đáp ứng hay vượt qua các chuẩn mực đã được
đặt ra. Sự phù hợp với mục tiêu cũng đề cập đến những yêu cầu về sự hoàn
thiện của đầu ra và hiệu quả đầu tư.
Tiêu chuẩn ISO 9001-2000 đưa ra: “Chất lượng là mức độ mà một tập hợp
các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu”.
Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 5814:1994: Chất lượng là tập hợp các đặc
26
tính của một thực thể (đối tượng), đó là khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã
nêu ra hoặc tiềm ẩn. Các thực thể này được hiểu là các sản phẩm theo nghĩa
rộng: Một hoạt động, một tổ chức hay một cá nhân. Các sản phẩm này đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng thông qua các đặc tính của mình; đặc tính đó
có thể thể hiện bằng phần cứng - giá trị hình thái vật chất và phần mềm - giá trị
tinh thần.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị
của một con người, một sự vật, sự việc hay chất lượng là cái tạo nên bản chất
của một con người, một sự vật làm cho sự vật này khác sự vật kia, phân biệt
với số lượng. Nói cách khác, chất lượng là hệ thống những yếu tố đặc trưng cơ
bản để hình thành giá trị, tính chất tốt đẹp của từng con người, từng sự vật. [57,
tr.106]
Từ những quan điểm về chất lượng nêu trên có thể rút ra chất lượng là các
đặc tính, đặc trưng của sản phẩm (dịch vụ); là các tiêu chuẩn, chuẩn mực, thông
số kỹ thuật; đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu của người sử dụng.
1.1.2.2. Khái niệm chất lượng viên chức
Chất lượng viên chức không hoàn toàn giống với chất lượng của các loại
hàng hóa, dịch vụ, bởi con người là một thực thể phức tạp. Hơn nữa, mỗi cá
nhân viên chức không thể tồn tại biệt lập mà phải được đặt trong mối quan hệ
với cả tập thể. Chất lượng viên chức là: “tập hợp tất cả những đặc điểm, thuộc
tính của từng viên chức phù hợp với cơ cấu, đáp ứng được yêu cầu theo nhiệm
vụ và chức năng của cơ quan, đơn vị, đồng thời là tổng hợp những mối quan
hệ giữa các cá nhân viên chức với nhau; sự phối kết hợp hoạt động trong thực
thi nhiệm vụ chung nhằm đáp ứng yêu cầu, mục tiêu chung một thời điểm nhất
định của địa phương”. Nói đến chất lượng viên chức được biểu hiện cụ thể
thông qua tình trạng sức khỏe để làm việc; tiếp đến là chất lượng lao động, khả
27
năng triển khai, hoàn thành nhiệm vụ được giao; thái độ, tinh thần phục vụ nhân
dân trong thực thi công việc; trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo
đức, chính trị; khả năng thích ứng với điều kiện cải cách hành chính đang diễn
ra ngày càng sâu rộng như hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn hội nhập
quốc tế... Ngoài ra, chất lượng viên chức còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa
viên chức với nhau: sự phối kết hợp trong công tác, triển khai nhằm hoàn thành
nhiệm vụ; giúp đỡ, ủng hộ nhau trong cả quá trình lao động.
1.1.2.3. Khái niệm chất lượng viên chức tại các tổ chức khoa học và công
nghệ
Mặc dù khái niệm chất lượng viên chức KH&CN là vấn đề vẫn chưa có
sự thống nhất hoàn toàn, hiện nay, có ba quan điểm chính như sau:
Thứ nhất, chất lượng viên chức KH&CN được đánh giá bằng “đầu vào”
nghĩa là được đào tạo chuyên môn, bằng cấp, học hàm, học vị, các kỹ năng, kỹ
xảo, kinh nghiệm và năng lực giải quyết công việc.
Thứ hai, chất lượng viên chức KH&CN được đánh giá bằng “đầu ra” nghĩa
là thông qua đánh giá năng suất, chất lượng, hiệu quả, mức độ sáng tạo, tính
thích nghi, tính năng động và linh hoạt, phẩm chất đạo đức, các kỹ năng sử
dụng các công cụ hỗ trợ trong hoạt động nghề nghiệp.
Thứ ba, chất lượng viên chức được đánh giá bằng “giá trị gia tăng”, nghĩa
là được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ đi giá trị của “đầu vào” thông qua
các chỉ tiêu tỉ lệ hoàn trả trong khoa học, giáo dục, tiền lương - thu nhập, điều
kiện và làm việc.
28
1.1.3. Đặc điểm, vai trò của viên chức trong các tổ chức khoa học và
công nghệ
1.1.3.1. Đặc điểm của viên chức trong các tổ chức khoa học và công nghệ
- Viên chức trong các tổ chức KHCN được đào tạo theo nhiều chuyên
ngành khác nhau như: Kinh tế, Kinh tế chính trị, Quản trị kinh doanh, Tài
chính, Khoa học quản lý, hành chính, luật học, quản trị văn phòng, kế toán,
văn thư, lưu trữ, ngoại giao, ngoại ngữ, v.v….
Theo Điều 17 của Luật Viên chức quy định nghĩa vụ của viên chức trong
hoạt động nghề nghiệp gồm:
- Thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được giao bảo đảm yêu cầu về thời
gian và chất lượng (Chú ý đến tính chuyên nghiệp theo nghề được đào tạo).
- Phối hợp tốt với đồng nghiệp trong thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ.
- Chấp hành sự phân công công tác của người có thẩm quyền.
- Thường xuyên học tập nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn, nghiệp
vụ.
Để hoạt động có hiệu quả, trong cơ cấu tổ chức của các tổ chức KHCN,
tùy thuộc phân loại và xếp hạng tổ chức đơn vị sự nghiệp công lập, thường có
các ban (phòng) tổ chức cán bộ, kế hoạch, tài chính, văn phòng, hợp tác quốc
tế,...
- Viên chức tại các tổ chức KHCN đảm nhận các vị trí việc làm theo các
chức danh nghề nghiệp khác nhau như: Nghiên cứu viên, Biên tập viên, Chuyên
viên, Kế toán viên, v.v…
- Viên chức trong các tổ chức KHCN rất đa dạng về chức danh nghề
nghiệp. Đó không chỉ là những người được bổ nhiệm các chức danh như:
Chuyên viên, kế toán viên, lưu trữ viên v.v…, mà còn là các nghiên cứu viên,
29
giảng viên ... được điều động, bố trí đảm nhiệm các vị trí việc làm trong các
đơn vị quản lý hoặc tham mưu.
- Viên chức trong các tổ chức KHCN làm việc tại các Phòng chuyên môn
nghiên cứu, các Tạp chí, Văn phòng, các Ban chức năng, các phòng quản lý
tổng hợp tại các đơn vị trực thuộc v.v...
- Viên chức trong các tổ chức KHCN thực hiện các nhiệm vụ thuộc các lĩnh
vực khác nhau nhưng chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, do vậy chịu
sự hướng dẫn về chuyên môn của Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ, ngành
khác nhau.
1.1.3.2. Vai trò viên chức trong các tổ chức khoa học và công nghệ
- Vai trò tham mưu: Là những người trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ
chuyên môn (nghiên cứu KHCN) trong các tổ chức KHCN viên chức có vai trò
rất quan trọng trong công tác tham mưu, giúp việc ban lãnh đạo đơn vị điều
phối các hoạt động về KHCN. Số lượng viên chức nghiên cứu khoa học thường
chiếm khoảng ¾ tổng số viên chức trong các tổ chức KHCN; viên chức hành
chính chiếm khoảng ¼ tổng số viên chức trong các tổ chức KHCN. Đội ngũ
viên chức với những nhiệm vụ nhất định trong việc tham mưu giúp lãnh đạo
đơn vị KHCN có được những hoạch định chính xác trong việc thực hiện các đề
tài nghiên cứu khoa học; các dự án hợp tác, liên kết với các đối tác trong và
ngoài nước. Do đó, họ phải có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí việc làm,
có khả năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá hiệu quả công
việc được giao. Theo tính chất công việc, đây chính là những người tham mưu,
giúp việc cho bộ máy lãnh đạo, quản lý; theo phạm vi quản lý thì đây là những
viên chức thực hiện, phục vụ hoặc quản lý theo chức năng trong các đơn vị vị
KHCN.
- Vai trò phục vụ: Viên chức tại các tổ chức khoa học và công nghệ thực
30
hiện các nhiệm vụ chuyên môn, thực hiện các nhiệm vụ khoa học và phục vụ
bảo đảm cho các tổ chức KHCN hoạt động thông suốt và hiệu quả;
- Đội ngũ viên chức tại các phòng, ban chức năng trong các tổ chức khoa
học và công nghệ thực hiện nhiệm vụ tham mưu giúp ban lãnh đạo tổ chức,
điều hành việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quản lý đội ngũ viên chức,
người lao động thuộc quyền cũng như sử dụng hiệu quả các tài sản công, phục
vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức KHCN. Do vậy, họ
được xem như là bộ phận "quản gia” hoặc "tổng quản” thời xưa. Nhiệm vụ của
viên chức hành chính là bảo đảm cho tất cả các hoạt động trong tổ chức khoa
học, công nghệ phải được sắp xếp và chuẩn bị đúng nơi, đúng chỗ, đạt yêu cầu
khi sử dụng.
- Vai trò nâng cao chất lượng: Viên chức góp phần không nhỏ trong việc
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và tạo nên chất lượng chung cho các tổ
chức KHCN. Đội ngũ viên chức với những nhiệm vụ nhất định trong việc tham
mưu giúp những người lãnh đạo, quản lý tổ chức KHCN có những hoạch định
chính xác do đó, họ phải có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí việc làm, có
khả năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá hiệu quả công
việc được giao. Theo tính chất công việc, đây chính là người tham mưu, giúp
việc bộ máy lãnh đạo, quản lý; theo phạm vi quản lý thì đây là những viên chức
quản lý hoặc phục vụ theo chức năng trong các tổ chức KHCN.
1.2. Các yếu tố cấu thành nên chất lượng viên chức
Chất lượng viên chức KH&CN là tập hợp các yếu tố cấu thành phản ánh
chất lượng cá nhân mỗi viên chức qua ba tiêu chí: Thể lực, trình độ chuyên
môn, tinh thần và thái độ nhưng với mức độ vượt trội hơn các loại nhân lực
khác. Cụ thể là:
31
1.2.1. Trình độ chuyên môn
Đây là yếu tố thể hiện nhận thức, tư duy, là những thuộc tính về trí tuệ
giúp con người nắm được tri thức. Trình độ chuyên môn không phải ngẫu nhiên
có mà được hình thành và phát triển thông qua giáo dục, đào tạo và kinh nghiệm
tích lũy trong quá trình làm việc. Trình độ chuyên môn của mỗi viên chức được
phân tích, nghiên cứu qua các yếu tố sau:
- Trình độ văn hóa: Năng lực về tri thức và kỹ năng liên quan đến tự
nhiên, xã hội được cung ưng qua hệ thống giáo dục, qua bài học thực tiễn,…
- Trình độ chuyên môn: Khả năng thực hành về chuyên môn nào đó có
biểu hiện trình độ được đào tạo ở các cấp bậc. Đây là một tiêu chí rất quan trọn
để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
- Trình độ kỹ thuật: Được thể hiện qua số lao động được đào tạo và lao
động phổ thông, số người có bằng kỹ thuật,…
1.2.2. Yếu tố về tinh thần, thái độ
Yếu tố này phản ánh nhân cách, thẩm mỹ, quan điểm sống, … của viên
chức. Tinh thần, thái độ của viên chức được đánh giá dựa trên các yếu tố: Ý
thức kỷ luật, tính tự giác, tác phong làm việc, khả năng giao tiếp, cách ứng
xử … Tất cả những phẩm chất này nằm trong phạm trù đạo đức của con người,
đóng vai trò quan trọng quyết định sự tăng trưởng bền vững của đơn vị, tổ
chức.
1.2.3. Yếu tố về thể lực
Điều này được thể hiện ở sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của người lao
động. Nhân lực được đánh giá thể lực tốt có những đặc điểm như nhanh nhẹn,
tháo vác, bền chắc, dẻo dai. Phân loại tình trạng sức khỏe gồm 3 loại: Nếu tỷ lệ
sức khỏe nhân sự có loại I (Khỏe) chiếm tỉ trọng lớn và tăng qua các năm và tỷ
32
lệ sức khỏe loại II (Trung bình) và III (Yếu) thấp, có xu hướng giảm thì có thể
khẳng định nhân lực của đơn vị đó có chất lượng thể lực tốt. Ngoài việc phân
loại sức khỏe, chỉ số BMI cũng khá quan trọng để xác định được tình trạng
nhân sự. Cuối cùng là độ tuổi người lao động. Ở mỗi độ tuổi, tình trạng sức
khỏe cũng khác nhau gây ảnh hưởng đến chất lượng và năng suất công việc.
1.3. Các tiêu chí đánh giá chất lượng viên chức khoa học và công nghệ
1.3.1. Tiêu chí chung chất lượng viên chức khoa học và công nghệ
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3, Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày
13/8/2020 của Chính phủ về đánh giá, xếp loại chất lượng công chức, viên chức
thay thế Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ quy định
về đánh giá và phân loại đối với cán bộ, công chức, viên chức, đó là:
- Chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước;
- Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc;
- Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ;
- Tiến độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ;
- Tinh thần trách nhiệm và phối hợp thực hiện nhiệm vụ;
- Ý thức tổ chức kỷ luật;
- Thái độ phục vụ nhân dân.
1.3.2. Tiêu chí cụ thể về chất lượng viên chức khoa học và công nghệ
Chất lượng viên chức là một tiêu chí toàn diện để xem xét quá trình làm
việc, trình độ năng lực, phương pháp, kỹ năng cũng như phẩm chất đạo đức,
văn hóa ứng xử của người đó. Từ đó mới có thể xác định được kế hoạch phát
triển đội ngũ viên chức của cơ quan, tổ chức đó. Tuy nhiên, trên thực tế việc
33
đánh giá viên chức hàng năm còn mang tính hình thức, chung chung, chưa thật
sự có hiệu quả. Vì vậy, để đánh giá viên chức có hiệu quả cần dựa vào một số
tiêu chí đánh giá cụ thể như sau:
+ Tiêu chí về trình độ của viên chức
Trình độ của viên chức là mức độ đạt được về bằng cấp và mức thành thạo
ở lĩnh vực quản lý nhà nước. Căn cứ vào đặc thù hoạt động và phạm vi lĩnh vực
công tác, viên chức cần có những trình độ sau:
- Trình độ chuyên môn là mức độ đạt được về một chuyên môn, một ngành
nghề nào đó. Đây là những kiến thức trực tiếp phục vụ cho công việc chuyên
môn của công chức, bởi họ là những người thực hiện thường xuyên công vụ
trong cơ quan hành chính nhà nước.
- Trình độ lý luận chính trị là mức độ đạt được trong hệ thống những kiến
thức lý luận về lĩnh vực chính trị. Hệ thống kiến thức này trang bị và củng cố
lập trường giai cấp, lập trường quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó
giúp cho mỗi viên chức có quan điểm và lập trường đúng đắn trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Trình độ quản lý nhà nước là mức độ đạt được trong hệ thống tri thức về
lĩnh vực quản lý nhà nước, bao gồm các kiến thức về hệ thống nhà nước, pháp
luật, nguyên tắc, công cụ quản lý nhà nước. Hệ thống kiến thức này giúp cho
viên chức hiểu rõ quyền hạn, nghĩa vụ của mình là gì và thực hiện như thế nào,
hiểu được sự vận hành của hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và cơ
sở nói riêng, từ đó thực thi công việc đúng pháp luật và có hiệu quả.
- Trình độ tin học, ngoại ngữ là mức độ đạt được về những kiến thức,
những kỹ năng trong lĩnh vực tin học, ngoại ngữ. Hiện nay, trong thời đại công
nghệ thông tin, hội nhập, và toàn cầu hóa, việc trang bị kiến thức về tin học và
ngoại ngữ đối với viên chức càng trở nên cần thiết, bởi mọi công việc từ việc
34
quản lý hồ sơ, văn bản đến giải quyết công việc đều thông qua hệ thống máy vi
tính và mạng internet.
+ Tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và uy tín trong công
tác
- Về phẩm chất chính trị. Đây là yếu tố đầu tiên, là điều kiện đối với mỗi
người viên chức. Phẩm chất chính trị của viên chức được biểu hiện trước hết là
sự tin tưởng tuyệt đối đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH. Đó là con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, kiên
quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng, tuân thủ chính sách và pháp luật
của Nhà nước, không dao động trước những khó khăn thử thách. Đồng thời,
phẩm chất chính trị của viên chức còn biểu hiện thông qua việc họ có làm việc
với tinh thần trách nhiệm, hiệu quả hay không; có tinh thần độc lập, sáng tạo,
không thụ động, ỷ lại trong công tác hay không, có ý chí cầu tiến, ham học hỏi
hay không, thái độ tận tụy phục vụ, tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân.
- Về phẩm chất đạo đức, lối sống. Phẩm chất này rất quan trọng đối với
viên chức. Người viên chức muốn xác lập được uy tín của mình trước nhân dân,
trước hết đó phải là người viên chức có phẩm chất đạo đức tốt. Luôn luôn gương
mẫu, có lối sống lành mạnh, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, không tham
nhũng, vụ lợi cá nhân, sinh hoạt bê tha, có tinh thần chống tham nhũng, tận tụy
phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan hệ mật thiết với quần chúng nhân
dân, sâu sát với công việc, không quan liêu cửa quyền, gây phiền hà cho dân,
tác phong làm việc khoa học, dân chủ, nói đi đôi với làm, làm nhiều hơn nói.
Có tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc; biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của
đồng nghiệp và những người xung quanh.
- Về uy tín trong công tác. Uy tín là sự tín nhiệm và mến phục của mọi
người. Uy tín là sự phản ánh phẩm chất và năng lực của một cá nhân, do đó tất
35
yếu nó phải do phẩm chất và năng lực quyết định. Tức là người viên chức phải
có chuyên môn giỏi, quan hệ gần gũi, hòa nhã với mọi người; luôn lo sự nghiệp
chung nhưng vẫn không quên trách nhiệm, tình cảm của mình với người thân
trong gia đình. Người cán bộ có uy tín thì những người dưới quyền không chỉ
phục tùng mà quan trọng hơn là họ tự giác phục tùng với niềm tin mãnh liệt.
Người có uy tín còn là người biết lắng nghe, kể cả những lời nói trái;
không tự ái, sĩ diện, thành kiến. Người có uy tín là người có bản lĩnh, dũng cảm,
kiên cường, bảo vệ người ngay thẳng, trung thực, đấu tranh với những hành vi
sai trái, những biểu hiện cơ hội, thực dụng, không nịnh ai và cũng không thích
ai nịnh mình.
Như vậy, uy tín là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố thuộc về sự nỗ lực
chủ quan của một người trên cả hai mặt phẩm chất và năng lực, trong đó nổi
bật nhất, quan trọng nhất là những yếu tố sau đây: (i) Sự gương mẫu, gương
mẫu đến mực thước về các mặt, trước hết là về mặt phẩm chất đạo đức, có lối
sống trong sạch, tận tụy, khiêm tốn, “mình vì mọi người”; sự thấu cảm và chia
sẻ. (ii) Có học thức cao, năng lực lãnh đạo và quản lý giỏi; tầm hiểu biết sâu
rộng, bao gồm cả nhãn quan chính trị, trình độ nhận thức và vốn sống; sự đổi
mới và khả năng thích nghi; khát vọng và hoài bão. (iii) Có tinh thần trách
nhiệm, có năng lực tổ chức, thể hiện ở chỗ hoàn thành xuất sắc chức vụ mà
mình đảm trách (iv) Nắm vững kỹ năng lãnh đạo, ứng xử có văn hóa; có quan
hệ đúng đắn, trước hết là với những người cùng cộng tác hoặc có quan hệ trực
tiếp với mình; biết tự kiểm soát, tự kiềm chế. Tóm lại, một người viên chức có
uy tín phải hội đủ cả ba yếu tố: Tâm, Tầm, Tài.
+ Tiêu chí về hiệu quả thực hiện công việc được giao. Tiêu chí này thể
hiện cụ thể ở các khía cạnh sau:
36
- Kỹ năng giải quyết công việc
Kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng viên
chức khi thực thi nhiệm vụ, căn cứ vào kết quả mà các kỹ năng hướng đến thì
kỹ năng nghề nghiệp đối với viên chức có thể chia thành các nhóm sau:
Nhóm kỹ năng liên quan đến đề xuất, ban hành, thực hiện và kiểm tra các
chính sách, các quyết định quản lý như kỹ năng thu thập, tổng hợp, phân tích
và đánh giá thông tin; kỹ năng triển khai quyết định quản lý; kỹ năng phối hợp;
kỹ năng đánh giá dư luận.
Nhóm kỹ năng quan hệ, giao tiếp như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng
lắng nghe, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng tiếp dân.
Nhóm kỹ năng tác nghiệp cá nhân như kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng bố
trí lịch công tác, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thuyết trình.
- Chất lượng dịch vụ công được cung cấp, hiệu quả thực thi công vụ
Chất lượng dịch vụ công là kết quả hoạt động, hiệu quả quản lý, phục vụ
đạt được và được biểu hiện đối với xã hội thông qua sự hài lòng của người dân,
niềm tin của người dân đối với Nhà nước, được xác định thông qua tính kinh
tế, hiệu lực, hiệu quả.
Viên chức là chủ thể thực thi công vụ, hoạt động công vụ được tiến hành
theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được nhà nước giao và tuân theo pháp
luật. Kết quả thực hiện nhiệm vụ là tiêu chí đánh giá đầu ra của quá trình thực
thi hoạt động quản lý nhà nước, là tiêu chí cơ bản phản ánh năng lực thực thi
hoạt động quản lý nhà nước của viên chức. Kết quả thực hiện nhiệm vụ của
viên chức bao gồm kết quả thực hiện nhiệm vụ riêng của cá nhân, kết quả thực
hiện nhiệm vụ chung của tập thể.
37
+ Tiêu chí về thể lực
Thể lực biểu hiện ở các chỉ tiêu về sức khỏe trên phương diện y tế như:
Chiều cao, cân nặng, chỉ số huyết áp, chỉ số đường huyết; nồng độ cholesterol
trong máu, nồng độ triglycerid, chỉ số hormone do tuyến yên tiết ra, chỉ số khối
cơ thể - BMI, chỉ số protein phản ứng C (CPR) có trong máu,... Trong số các
tiêu chí trên có những tiêu chí có thể áp dụng được trong đánh giá chất lượng
sức khỏe của viên chức như: Làm việc không thấy mệt nhọc, trí nhớ bền bỉ, vẻ
mặt vui tươi, hành động nhanh nhẹn. Có thể có nhiều các dấu hiệu khác để nhận
biết về sức khỏe cá nhân con người như: Sắc mặt hồng hào; tiếng nói to, rõ
ràng; không bị mất ngủ thường xuyên, đau đầu, trầm cảm, rối loạn tiêu hóa, suy
giảm trí nhớ....
Thể lực là nền tảng tảng để phát triển trí tuệ. Đây là tiêu chí quan trọng để
đánh giá chất lượng của viên chức. Trong yêu cầu tuyển dụng đây không chỉ là
tiêu chuẩn bắt buộc mà còn là yếu tố để duy trì để bảo đảm cho việc thực hiện
công việc với yêu cầu ngày càng cao.
1.4. Các yếu tố tác động đến chất lượng viên chức khoa học và công
nghệ
Chất lượng viên chức được xem xét một cách toàn diện từ trình độ chuyên
môn, kỹ năng nghiệp vụ, năng lực xử lý công việc và tình huống, phương pháp
làm việc, đạo đức, phẩm chất, văn hoá ứng xử, và sức khỏe vật chất và tinh
thần. Các phẩm chất chất lượng đó sẽ chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp bới
các yếu tố chủ yếu sau:
1.4.1. Thể chế quản lý viên chức
Thể chế quản lý viên chức là những đường lối, chủ trương của Đảng (về
kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống,…) và pháp luật của Nhà nước được áp
dụng để định hướng sống, làm việc và quản lý viên chức, những đường lối,
38
pháp luật, quy định, và quy chế này buộc mọi người, trong đó có các viên chức
phải tuân thủ và nghiêm chỉnh thực hiện. Có thể nói, đây là chuẩn mực chi phối
mọi hành vi sống, làm việc, cống hiến và tận hưởng cuộc sống của mọi người,
mọi vên chức.
1.4.2. Tổ chức sử dụng và quản lý viên chức
Công tác tổ chức sử dụng và quản lý viên chức là yếu tố rất quan trọng
ảnh hưởng trực tiếp và đáng kể đến chất lượng đội ngũ viên chức. Nếu tổ chức
tuyển, bố trí đúng người, giao đúng việc, bồi dưỡng và phát triển nhân lực chuẩn
mực, đánh giá khách quan và công tâm, khen thưởng và xử phạt khách quan,
minh bạch và đãi ngộ thỏa đáng, tạo được môi trường làm việc thuận lợi sẽ tạo
được động lực để viên chức yên tâm làm việc, phát triển nghề nghiệp, cống
hiến, và sẽ đạt năng suất lao động và hiệu quả công việc sẽ cao. Nếu không,
người lao động sẽ chán nản, bi quan, mất động lực phấn đấu, thậm chí vi phạm
kỷ luật và bỏ việc, bỏ cơ quan đi nơi khác.
1.4.3. Chế độ, chính sách đãi ngộ viên chức
Chế độ đãi ngộ viên chức bao gồm cả về vật chất và động viên về tinh
thần là yếu tố cực kỳ quan trọng, thậm chí quyết định, đến việc nâng cao ý thức
và tinh thần phấn đấu, làm việc của viên chức. Để có được một đội ngũ viên
chức có chất lượng tốt và phù hợp, cần đảm bảo các khía cạnh sau:
Một là, chính sách và chế độ tiền lương phù hợp với từng vùng, ngành và
nghề với thang bậc lương hợp lý, bảo đảm công bằng giữa các ngành, nghề và
lĩnh vực do Nhà nước quy định sẽ là căn cứ pháp lý để các tổ chức và người
lao động lấy làm tiêu chí để trả lương công bằng, hợp lý và hợp pháp khuyến
khích người lao động và viên chức yên tâm công tác, phát triển sự nghiệp và
cống hiến.
Hai là, chính sách và cơ chế thu hút, trọng dụng, và đãi ngộ người có tài
39
năng được Nhà nước cho phép, được các tổ chức vận dụng công khai, minh
bạch và hợp lý sẽ thu hút, giữ chân và tạo được động lực cho không chỉ người
có tài mà cả mọi người lao động hăng say phát triển và tự phát triển để nâng
cao năng lực của mình và hoàn thiện bản thân.
Bốn là, thi hành chế độ khen thưởng và xử phạt công khai, công bằng,
minh bạch và khách quan trên cơ sở đánh giá năng lực, phẩm chất, hiệu quả
công tác và thành tích cống hiến của mỗi cá nhân viên chức và người lao động.
Điều đó sẽ tạo được niềm tin rằng năng lực, thành tích của mình sẽ được thừa
nhận, được đánh giá khách quan, được coi trọng và đãi ngộ xứng đáng. Từ đó
họ có thêm động lực và tinh thần để trau dồi trình độ, trách nhiệm với công việc
và nỗ lực để hoàn thành công việc một cách hiệu quả.
1.4.4. Người lãnh đạo, quản lý trong tổ chức
Đối với mỗi tổ chức, đơn vị, phong cách và phương pháp lãnh đạo, quản
lý của người lãnh đạo, quản lý có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực của đơn vị. Vì vậy, nếu lãnh đạo, quản lý đơn vị cần
nhận thức rõ được vị trí, vai trò của nguồn lực viên chức, nhất là viên chức có
chất lượng cao và có những chính sách, biện pháp cụ thể, thiết thực và phù hợp
để sử dụng, đánh giá, đãi ngộ và quản lý, thì tổ chức sẽ nhận được rất nhiều lợi
ích từ nguồn nhân lực mang lại. Phong cách và phương pháp lãnh đạo, quản lý
của người sử dụng lao động, viên chức, nhất là viên chức KH&CN khoa học,
phù hợp sẽ tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, đoàn kết trong đơn vị, khuyến
khích người lao động, viên chức phấn khởi, tích cực học tập, không ngừng nâng
cao năng lực bản thân.
1.4.5. Các điều kiện bảo đảm hoạt động của viên chức
Hoạt động của viên chức và chất lượng của họ cũng bị tác động bởi những
điều kiện sau:
40
Một là, họ cần phải được bảo đảm về kinh tế. Viên chức đi làm hay tham
gia các hoạt động khác trước hết vì sinh kế, tức vì mục đích thu nhập, nên nếu
thu nhập không đảm bảo để họ đủ sống, tức đủ để tái sản xuất sức lao động giản
đơn, thì họ sẽ không chú tâm đến việc nâng cao và tự nâng cao chất lượng nhân
lực, không toàn tâm toàn ý gắn bó với tổ chức, hay không nô lực hoàn thành
công việc một cách đúng hạn và hiệu quả. Cho nên, Nhà nước và người sử dụng
lao động cần có các chính sách phù hợp để đảm bảo cho người lao động nói
chung và viên chức nói riêng có tiền lương và thu nhập công bằng, hợp lý từ
công việc của họ.
Hai là, được bảo đảm về chính trị. Sự ổn định an ninh, chính trị xã hội nói
chung và sự ổn định tổ chức của mỗi cơ quan nơi mà viên chức làm việc nói
riêng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho mọi viên chức yên tâm phát huy
năng lực bản thân, yên tâm làm việc và cống hiến cho đơn vị và đất nước.
Ba là, được bảo đảm về pháp lý. Nếu đất nước có một hệ thống pháp luật
đầy đủ, khách quan, minh bạch và được thực hiện nghiêm minh và một cơ quan
có các nội quy, quy chế rõ rang, minh bạch và được xây dựng trên cơ sở có tính
đến quyền và lợi ích hợp pháp, hợp lý của người lao động sẽ có tác dụng tốt
khiến người yên tâm làm nghề, cống hiến, phát triển và tự phát triển chuyên
môn. Vì họ thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình được pháp luật bảo vệ,
năng lực và kết quả làm việc của họ được tổ chức thừa nhận, được đánh giá
đúng đắn và được đãi ngộ thỏa đáng.
Bốn là, được bảo đảm về điều kiện và môi trường làm việc. Môi trường
làm việc đảm bảo (cơ sở vật chất, cung cách quản lý khoa học, văn hóa ứng xử
trong cơ quan thân thiện, mọi người lao động đều được quan tâm chú ý phát
triển và được đãi ngộ thỏa đáng,…) theo các quy định cũng như sự giám sát
của Nhà nước luôn tạo thuận lợi (cả về vật chất lẫn tinh thần) cho người lao
41
động hăng say làm việc, phấn đấu hoàn thiện bản thân và cống hiến.
Từ những điều kiện bảo đảm của Nhà nước, viên chức luôn tuân thủ quy
trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng
xử đồng thời chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền.
1.4.6. Ý thức rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ, năng lực của viên
chức
Đây là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng viên chức nói chung và
viên chức khoa học và công nghệ nói riêng. Bởi vì không một nhiệm vụ, một
công việc nào có thể giải quyết hay hoàn thành được, nếu bản thân người lao
động không ý thức và tự ý thức được về nhiệm vụ, trách nhiệm, vai trò, nghĩa
vụ và quyền lợi của mình. Do đó, hệ thống chính trị nói chung, trước hết là tổ
chức nơi viên chức, người lao động làm việc, cần có nhiều biện pháp phù hợp
để giúp họ ý thức và tự ý thức được công việc mình đang làm, nơi mình đang
làm việc, phẩm chất và năng lực bản thân, để từ đó tích cực rèn luyện và tự rèn
luyện nâng cao trình độ, sức khỏe, đạo đức nghề nghiệp cho bản thân, góp phần
vào thành tích chung của cơ quan và đất nước.
Tiểu kết Chương 1
Qua nghiên cứu về cơ sở lý luận về chất lượng viên chức khoa học và công
nghệ, có thể thấy:
Viên chức là lực lượng lao động được tuyển dụng vào làm việc tại đơn vị
sự nghiệp công lập để thực hiện hoạt động nghề nghiệp mang những đặc trưng
cụ thể: Làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập, là những người trực tiếp thực
hiện các nhiệm vụ chuyên môn như giảng dạy, nghiên cứu khoa học, thông tin,
truyền thông, huấn luyện hoặc thi đấu thể thao, làm các công việc có tính chất
nghiệp vụ hành chính như: Công tác tổ chức cán bộ, văn phòng, tổng hợp, kế
42
toán - tài chính và các bộ phận khác.
Chất lượng viên chức KHCN là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và
năng lực công tác, thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ đối với tổ chức. Chất
lượng viên chức là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm sự phát triển
của các tổ chức khoa học và công nghệ
43
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VIÊN CHỨC TẠI KHỐI CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ TRỰC THUỘC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2021
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Khối các Viện nghiên cứu
quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2.1.1. Giới thiệu về các Viện thuộc Khối các Viện nghiên cứu quốc tế
trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện HLKHXH Việt Nam) -
tên giao dịch quốc tế là Vietnam Academy of Social Sciences (VASS) - có tiền
thân từ Ban nghiên cứu Lịch sử - Địa lý - Văn học (gọi tắt là Ban nghiên cứu
Sử - Địa - Văn) được thành lập ngày 02 tháng 12 năm 1953, trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp. [8, tr.101]
VASS là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng nghiên cứu những vấn
đề cơ bản về khoa học xã hội; cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà
nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo từng thời kỳ; thực hiện tư
vấn chính sách phát triển; đào tạo sau đại học về khoa học xã hội và nhân văn;
tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn của cả nước.
VASS hiện gồm 42 Viện nghiên cứu chuyên ngành và các Ban chức năng,
trong đó Khối các Viện NCQT gồm 08 Viện nghiên cứu chuyên ngành (Xem
Hình 2.1).
44
Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
45
2.1.1.1. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (IWEP)
Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (Viện KT&CTTG) được biết đến lần
đầu với tên gọi là Viện Kinh tế Thế giới, thành lập theo quyết định số 96/HĐBT
ngày 9/9/1983 của Hội đồng Bộ trưởng. Đến năm 1993, Viện được tái khẳng
định lại theo Nghị định số 23/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ. Từ năm 2004,
Viện được đổi tên thành Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, có tên giao dịch
quốc tế là Institute of World Economics and Politics (IWEP). [41, tr.105]
Viện KT&CTTG đã và đang xây dựng và kiện toàn bộ máy tổ chức trên
cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo Nghị định số
99/2017/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về quy định chức năng, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của VASS.
2.1.1.2. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS)
Năm 1973, ngay trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang
diễn ra hết sức ác liệt, được sự cho phép của Chính phủ, Uỷ ban Khoa học Xã
hội Việt Nam đã ký quyết định thành lập Ban Đông Nam Á. Mười năm sau,
theo đề nghị của Ủy ban Khoa Xã hội Việt Nam, ngày 09 tháng 09 năm 1983,
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ký Nghị định số 96/HĐBT thành lập Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á và ngày 22 tháng 5 năm 1993 Chính phủ đã có Nghị
định số 23/CP để khẳng định lại. [47, tr.106]
2.1.1.3. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (INAS)
Viện Nghiên cứu Ðông Bắc Á (Viện NC ĐBÁ) được thành lập theo Quyết
định số 466/TTg ngày 13-9-1993 của Thủ tướng Chính phủ, với tiền thân là
Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản thuộc Trung tâm KHXH và NV quốc gia. [46,
tr.106]
46
2.1.1.4. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ (VIAS)
Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, với tiền thân là Trung tâm Nghiên cứu Bắc
Mỹ thuộc Trung tâm KHXH&NVQG, được thành lập theo quyết định số
466/TTg ngày 13 tháng 9 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2004,
Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đồng
thời cho phép đổi tên Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ thành Viện Nghiên cứu
Châu Mỹ. [44, tr.105]
2.1.1.5. Viện Nghiên cứu Trung Quốc (ICS)
Viện Nghiên cứu Trung Quốc được thành lập theo Quyết định số 406/TTg
ngày 13/9/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Trải qua gần 30 năm hình thành và
phát triển, Viện Nghiên cứu Trung Quốc đã trưởng thành vững mạnh và có
những đóng góp thực sự cho nền khoa học xã hội và phát triển đất nước thông
qua các đề tài NCKH cấp nhà nước, cấp bộ và cơ sở cũng như đề tài hợp tác
quốc tế, các sách báo và tạp chí trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực khác
nhau về Trung Quốc và quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. [48, tr.106]
2.1.1.6. Viện Nghiên cứu Châu Âu (IES)
Tiền thân của Viện Nghiên cứu Châu Âu ngày nay là Trung tâm Nghiên
cứu SNG và Đông Âu đã được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyết định
số 466/TTg ngày 13/9/1993 thuộc Trung tâm KHXH&NVQG. Ngày 05 tháng
3 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 56/1998/QĐ-
TTg đổi tên Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu thành Trung tâm Nghiên
cứu Châu Âu. Năm 2005, Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu được đổi tên thành
Viện Nghiên cứu Châu Âu theo Quyết định số 987/QĐ-KHXH ngày 14 tháng
6 năm 2005 của Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Năm 2021, VASS
đã ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt
47
động của Viện Nghiên cứu Châu Âu theo Quyết đinh số 1203/QĐ-KHXH ngày
08 tháng 9 năm 2021 thay thế các Quyết định số 119/QĐ-KHXH ngày 30 tháng
01 năm 2018 của Chủ tịch Viện HL KHXH Việt Nam về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu Châu Âu
và Quyết định số 382/QĐ-KHXH ngày 21 tháng 3 năm 2019 của Chủ tịch Viện
HL KHXH Việt Nam ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên
cứu Châu Âu. [43, tr.105]
2.1.1.7. Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông (IAMES)
Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông (IAMES) là tổ chức nghiên
cứu được thành lập theo Nghị định số 26/NĐ–CP ngày 15 tháng 01 năm 2004
của Chính phủ Việt Nam. IAMES là một Viện mới của Viện HL KHXH và là
tổ chức nghiên cứu duy nhất của Việt Nam tập trung vào các vấn đề Châu Phi
và Trung Đông. Từ ngày thành lập, IAMES đã có những nỗ lực đáng kể trong
nghiên cứu và đổi mới nhằm nâng cao hiểu biết của dân chúng về các nước
Châu Phi và Trung Đông. [45, tr.105]
2.1.1.8. Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (VIISAS)
Ngày 5 tháng 7 năm 2011, Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam đã ký
quyết định số 1063/ QĐ-TTg về việc thành lập Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây
Nam Á, trực thuộc VASS. Ngay từ ngày thành lập, Viện Nghiên cứu Ấn Độ và
Tây Nam Á đã nỗ lực xây dựng và kiện toàn bộ máy tổ chức trên cơ sở chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo Nghị định số 109/2012/NĐ-
CP ngày 26/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về quy định chức năng, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của VASS. [42, tr.105]
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Khối các Viện Nghiên cứu Quốc tế thuộc Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
48
Hình 2.2. Sơ đồ tổ chức các Viện thuộc Khối các Viện Nghiên cứu Quốc tế
Khối các Viện nghiên cứu quốc tế
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á
Viện Nghiên cứu châu Âu
Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung
Viện Nghiên cứu châu Mỹ
Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
Viện Nghiên cứu Trung Quốc
Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á
- Lãnh đạo Viện - Hội đồng khoa học - Tạp chí - Khối chức năng: + Phòng Hành chính Tổng hợp + Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế - Khối nghiên cứu: + P. NC Lịch sử - Văn hóa và Chính trị + P.NC Kinh tế và Phát triển + P. NC Quan hệ quốc tế và Hội nhập
- Lãnh đạo Viện - Hội đồng khoa học - Tạp chí - Khối chức năng: + Phòng Hành chính Tổng hợp - Khối nghiên cứu: + P. NC Kinh tế - Xã hội châu Mỹ + P.NC Chính trị - Quan hệ quốc tế châu Mỹ + P. NC Lịch sử và văn hóa châu Mỹ + Trung tâm Nghiên cứu Mỹ Latinh
- Lãnh đạo Viện - Hội đồng khoa học - Tạp chí - Khối chức năng: + Phòng Hành chính Tổng hợp + Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế - Khối nghiên cứu: + P. NC Các vấn đề phát triển toàn cầu + P.NC Thương mại và Đầu tư quốc tế + P. NC Chính trị và An ninh quốc tế + P. NC Kinh tế quốc tế
- Lãnh đạo Viện - Hội đồng khoa học - Tạp chí - Khối chức năng: + Phòng Hành chính Tổng hợp + Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế - Khối nghiên cứu: + P. NC Các vấn đề phát triển toàn cầu + P.NC Thương mại và đầu tư quốc tế + P. NC Chính trị và An ninh quốc tế + P. Hợp tác phát triển
- Lãnh đạo Viện - Hội đồng khoa học - Tạp chí - Khối chức năng: + Phòng Hành chính Tổng hợp + Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế - Khối nghiên cứu: + TT. Nghiên cứu Nhật Bản + TT. Nghiên cứu Hàn Quốc, Triều Tiên + TT. Nghiên cứu Mông Cổ và vùng lãnh thổ Đài Loan + TT. NC những vấn đề chung của khu vực Đông Bắc Á
- Lãnh đạo Viện - Hội đồng khoa học - Tạp chí - Khối chức năng: + Phòng Hành chính Tổng hợp + Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế - Khối nghiên cứu: + P. NC Kinh tế và Chính trị Trung Quốc + P.NC Văn hoá – Lịch sử Trung Quốc + P. NC Đối ngoại Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung + Trung tâm Biển Đông
- Lãnh đạo Viện - Hội đồng khoa học - Tạp chí - Khối chức năng: + Phòng Hành chính Tổng hợp + Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế - Khối nghiên cứu: + TT. Nghiên cứu Nga và SNG + TT. Nghiên cứu EU + P. NC Chính trị - xã hội châu Âu + P. NC Kinh tế, Môi trường và Phát triển bền vững châu Âu
- Lãnh đạo Viện - Hội đồng khoa học - Tạp chí - Khối chức năng: + Phòng Hành chính Tổng hợp + Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế - Khối nghiên cứu: + P. NC Chính trị và quan hệ quốc tế + P.NC Kinh tế - xã hội + P. NC Lịch sử và văn hóa + P. NC Các nước hải đảo + P. NC Thái Lan và Myanmar + P. NC Lào và Campuchia
49
Nhìn chung, cơ cấu, tổ chức của các Viện chuyên ngành thuộc VASS,
trong đó có các Viện thuộc Khối NCQT, đều giống nhau, đều có Lãnh đạo
Viện, Hội đồng khoa học, Tạp chí, Khối chức năng và Khối nghiên cứu. Trong
đó:
Lãnh đạo Viện nghiên cứu chuyên ngành
Đại diện cho Viện trong quan hệ với các tổ chức, cá nhân; lãnh đạo, quản
lý, điều hành toàn bộ các hoạt động của Viện theo chức năng, nhiệm vụ được
giao theo quy định của pháp luật và của VASS.
a) Tổ chức xây dựng Đề án, kế hoạch công tác ngắn hạn, dài hạn và kiểm
tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện sau khi được phê duyệt; xây dựng các văn
bản quản lý, các tiêu chuẩn nghiệp vụ, định mức lao động theo chức danh nghề
nghiệp; dự thảo Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và
hoạt động của Viện trình Chủ tịch Viện HL KHXH Việt Nam.
b) Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; tuyển dụng, quản lý, điều động,
luân chuyển, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đội ngũ viên chức và người lao
động của Viện theo quy định của pháp luật và phân cấp của Viện HL KHXH.
c) Chủ tài khoản đơn vị dự toán cấp III; bảo đảm việc quản lý tài sản, cơ
sở vật chất phục vụ hoạt động nghiên cứu và sử dụng nguồn kinh phí được phân
bổ của đơn vị theo đúng quy định của Nhà nước và của Viện HL KHXH. Xây
dựng các biện pháp, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thực hiện công khai
tài chính theo quy định của pháp luật.
d) Phối hợp với tổ chức Đảng và tổ chức đoàn thể (Công đoàn, Đoàn thanh
niên, Hội Cựu chiến binh, phụ nữ) thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng
cho viên chức và người lao động. Tổ chức các phong trào thi đua trong đơn vị
nhằm động viên viên chức và người lao động thực hiện có hiệu quả và chất
lượng các nhiệm vụ được giao.
50
đ) Hoàn thành tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học tương ứng với chức danh
khoa học, chức danh nghề nghiệp.
e) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch Viện HL
KHXH Việt Nam.
Các phòng ban
Mỗi Viện được chia làm hai khối rõ rệt về chức năng, nhiệm vụ: Khối
chuyên môn và khối chức năng, nghiệp vụ.
+ Về khối chuyên môn, ngoài những phòng chuyên môn, thực hiện chức
năng nghiên cứu cơ bản là chủ yếu, các Viện cũng đã thiết lập các Nhóm nghiên
cứu liên ngành, phản ứng nhanh (Task Force) nhằm trả lời nhanh những vấn đề
nghiên cứu đặt ra hoặc những sự kiện mới xuất hiện ở trên thế giới hoặc khu
vực thuộc chức năng nghiên cứu của từng Viện, để báo cáo lãnh đạo Viện HL
KHXH phục vụ cho công tác tư vấn chính sách cho Đảng và Nhà nước.
+ Về khối chức năng, nghiệp vụ gồm Phòng hành chính, Tổng hợp, Phòng
Đối ngoại và Hợp tác quốc tế, Thư viện, chủ yếu làm công tác phục vụ nghiên
cứu.
Tạp chí
Tạp chí các Viện đã được Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước công nhận
chất lượng và tính xét điểm (với số điểm tối đa từ 0,5 – 1,0 điểm) cho 4
ngành/liên ngành khoa học gồm: Ngành Kinh tế; Liên ngành Sử học – Khảo cổ
học – Dân tộc học; Liên ngành Triết học – Xã hội học – Chính trị học; Liên
ngành Văn hóa – Nghệ thuật – Thể thao.
Tạp chí được tổ chức và hoạt động theo Giấy phép hoạt động Báo chí,
Luật Báo chí, các văn bản pháp quy khác về báo chí và Quy chế Tổ chức và
hoạt động của các Tạp chí thuộc VASS.
51
Tạp chí có 01 Tổng biên tập và một 01 Phó Tổng biên tập. Tổng biên tập, Phó
Tổng biên tập do Chủ tịch Viện HL KHXH Việt Nam bổ nhiệm, miễn nhiệm trên
cơ sở tham khảo ý kiến của Vụ báo chí, xuất bản (Ban Tuyên Giáo trung ương và
Bộ Thông tin và truyền thông). Tổng biên tập chịu trách nhiệm trước pháp luật và
trước Chủ tịch Viện HL KHXH Việt Nam về mọi mặt hoạt động của Tạp chí.
Hội đồng khoa học
Hội đồng khoa học có chức năng tư vấn cho Viện trưởng. Các thành viên
Hội đồng khoa học của các Viện do Viện trưởng quyết định, sau khi có ý kiến
chấp thuận của Chủ tịch Viện HL KHXH Việt Nam.
Hội đồng khoa học hoạt động theo Quy chế về tổ chức và hoạt động do
Chủ tịch Viện HL KHXH Việt Nam ban hành.
2.1.3. Số lượng và cơ cấu đội ngũ viên chức các Viện tại Khối Nghiên
cứu quốc tế thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2.1.3.1. Về số lượng
Tính đến tháng 12/2021, Khối các Viện NCQT gồm 08 Viện Nghiên cứu
chuyên ngành và có tổng cộng 300 viên chức với 294 biên chế, trong đó có 20
GS và PGS, 98 TS, 142 ThS, và 34 Cử nhân. Nhìn chung, số lượng của hầu hết
các Viện nghiên cứu chuyên ngành trên đều có xu hướng giảm sút rõ rệt, trừ
hai Viện mới thành lập là Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á và Viện
Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông. [49, tr.106] [50, tr.106] [51, tr.106] [52,
tr.106] [53, tr.106] [54, tr.106] [55, tr.106] [56, tr.106]
Cho đến năm 2016, nguồn nhân lực của các Viện đều tăng mạnh, đều đặn
và đạt mức cao nhất, trong đó, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới có 55 viên
chức. Tuy vậy, đến năm 2021, số lượng nguồn nhân lực của các Viện giảm
mạnh do những lý do như đến độ tuổi nghỉ hưu, thay đổi việc làm của viên chức
trong Viện. Số lượng nguồn nhân lực lần lượt giảm ở tất cả 06 Viện được thành
52
lập từ lâu, như Viện KT&CTTG, Viện NC ĐNÁ, Viện NC ĐBÁ, Viện NC
Trung Quốc, Viện Nghiên cứu châu Mỹ và Viện NC Châu Âu. Trong đó, có
một số Viện giảm sâu, như Viện KT&CTTG chỉ còn có 38 viên chức (chỉ bằng
69,1% so với năm 2016). Trong cùng thời gian, Viện NC ĐNÁ chỉ còn 43 viên
chức so với 52 (giảm còn 82,7%); Viện NC ĐBÁ còn 43/46 viên chức (giảm
còn 93,5%); Viện NC châu Âu chỉ còn 37/43 viên chức (giảm còn 86,0%); Viện
NC Trung Quôc còn 45/49 viên chức (giảm còn 91,8%; và Viện NC Châu Mỹ
còn 35/38 viên chức (giảm còn 92,2%). Riêng 02 Viện, là Viện NC ẤĐ&TNÁ
và Viện NC CP&TĐ, số viên chức có tăng (Cụ thể, tương ứng là 26 viên chức
năm 2021 so với 24 viên chức năm 2016, tăng 8,3% và 31 viên chức năm 2021
so với 27 viên chức năm 2016, tăng 14,8%). Đây là những Viện mới thành lập
từ năm 2011, nên số lượng viên chức còn tăng, mặc dù không nhiều (Xem Biểu
2.1). [49, tr.106] [50, tr.106] [51, tr.106] [52, tr.106] [53, tr.106] [54, tr.106]
[55, tr.106] [56, tr.106]
Biểu 2.1: Số lượng viên chức Khối các Viện nghiên cứu quốc tế năm 2016 và
2021 (Đơn vị: Người)
Số lượng viên chức của các Viện Khối nghiên cứu quốc tế năm 2016 và 2021
60
50
40
30
20
10
0
Viện KT&CTTG Viện NC Châu
Âu
Viện NC Châu Mỹ
Viện NC Ấn Độ và Tây Nam Á
Viện NC Trung Quốc
Viện NC Đông Nam Á
Viện NC Đông Bắc Á
Viện NC Châu Phi và Trung Đông
2016
2021
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ số liệu do các Phòng Hành chính tổng hợp 08
Viện NCQT cung cấp.
53
2.1.3.2. Về cơ cấu viên chức
- Cơ cấu viên chức theo giới tính.
Năm 2016, trong tổng số viên chức Khối các Viện NCQT, có 201 viên
chức Nữ, chiếm 62,2% so với viên chức Nam, chiếm 37,8% (122 người); tuy
vậy, đến năm 2021, tỉ lệ viên chức Nữ đã lên tới 65% (mặc dù số lượng giảm
còn 195 người) trong khi tỉ lệ viên chức Nam giảm còn 35% (và giảm 17 người
còn 105 người). Đặc biệt, mặc dù Nữ chiếm số đông, song đa số trong số họ
đều trong độ tuổi từ 30 đến 50, tuyệt đại đa số đã hoàn thành nghĩa vụ thai sản.
Đó là yếu tố tạo nên sự ổn định tương đối về chất lượng hoạt động của đội ngũ
viên chức KH&CN của các Viện này trong những năm gần đây, do không bị
ảnh hưởng bởi độ tuổi sinh đẻ và các chính sách về thai sản đối với các viên
chức nữ (Xem Biểu 2.2.). [49, tr.106] [50, tr.106] [51, tr.106] [52, tr.106] [53,
tr.106] [54, tr.106] [55, tr.106] [56, tr.106]
Mặc dù các Nữ viên chức đã, đang và sẽ đóng góp ngày càng bình đẳng và
quan trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Viện HL KHXH và
Khối các Viện NCQT, song với tỉ lệ khoảng 1 Nam/2 Nữ như trên là hơi lệch. Sự
chênh lệch giữa hai giới (và thiên về Nữ) như vậy ít nhiều cũng đã ảnh hưởng đến
hoạt động của các Viện, bởi các yếu tố chủ quan (sức khoẻ, năng lực, trình độ
quản lý,…) và yếu tố khách quan (tuổi sinh sản, thiên chức của phụ nữ,…), đặc
biệt ở những đơn vị mà đặc thù công việc phải thường xuyên đi điền dã ở vùng,
miền có địa hình phức tạp, khó khăn. Vì vậy, đó là vấn đề mà Viện Hàn lâm phải
tính đến khi quy hoạch, và có chính sách, cơ chế phù hợp và hiệu quả để khắc
phục tình trạng đó trong thời gian tới.
54
Biểu 2.2: Cơ cấu viên chức phân theo giới tính của Khối các Viện
nghiên cứu quốc tế năm 2016 và 2021 (Đơn vị: người)
Số lượng viên chức của các Viện Khối nghiên cứu quốc tế, 2016- 2021
60
50
40
30
20
10
0
Viện KT&CTTG
Viện NC Châu Âu
Viện NC Châu Mỹ
Viện NC Trung Quốc
Viện NC Đông Nam Á
Viện NC Đông Bắc Á
Viện NC Ấn Độ và Tây Nam Á
Viện NC Châu Phi và Trung Đông
2016
2021
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ số liệu do các Phòng Hành chính tổng hợp 08 Viện NCQT cung cấp
- Cơ cấu viên chức theo độ tuổi
Các số liệu thống kê cho thấy, ở VASS nói chung và Khối các Viện NCQT
nói riêng, số lượng viên chức ở độ tuổi dưới 30 ở mức trung bình (khoảng
19,0%), độ tuổi từ 30 đến 50 là chủ yếu (khoảng 72%, trong đó, độ tuổi từ 40-50
chiếm 50%), độ tuổi từ 50 đến 60 ở mức thấp (chừng 9,0%). Với cơ cấu như
vậy, nhu cầu về số lượng người thay thế là một vấn đề cần phải quan tâm khi số
lượng cán bộ trẻ để bổ sung không nhiều trong khi viên chức nữ chiếm số đông,
số cán bộ gần đến tuổi nghỉ hưu lại đang ngày càng tăng (Xem Biểu 2.3).
55
Biểu 2.3: Cơ cấu viên chức theo độ tuổi của Khối các Viện nghiên cứu
quốc tế năm 2016 và 2021 (Đơn vị: người)
Cơ cấu viên chức theo độ tuổi
60
50
40
30
20
10
0
2016 2021 2016 2021 2016 2021 2016 2021 2016 2021 2016 2021 2016 2021 2016 2021
Viện KT&CTTG
Viện NC Châu Âu
Viện NC Châu Mỹ
Viện NC Trung Quốc
Viện NC Đông Nam Á
Viện NC Đông Bắc Á
Viện NC Ấn Độ và Tây Nam Á
Viện NC Châu Phi và Trung Đông
Dưới 30
30-50
50-60
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ số liệu do các Phòng Hành chính tổng hợp 08
Viện NCQT cung cấp.
2.2. Thực trạng chất lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu
quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2.2.1. Phát triển về kiến thức chuyên môn
Về trình độ chuyên môn:
56
Biểu 2.4: Cơ cấu viên chức phân theo trình độ chuyên môn của Khối các
Viện nghiên cứu quốc tế năm 2016 và 2021 (Đơn vị: Người)
Cơ cấu viên chức phân theo trình độ
2021
Á
2016
C N n ệ i V
2021
Á
2016
C N n ệ i V
c ắ B g n ô Đ m a N g n ô Đ
2021
c ố u Q
g n u r T
2016
C N n ệ i V
2021
g n ô Đ
2016
C N n ệ i V
g n u r T à v
i h P u â h C
à v
2021
Á
2016
C N n ệ i V
m a N y â T
ộ Đ n Ấ
2021
2016
C N n ệ i V
ỹ M u â h C
2021
2016
u  u â h C
C N n ệ i V
2021
G
n ệ i V
2016
T T C & T K
0
10
20
30
40
50
60
> PGS
TS
ThS
Cử nhân
Khác
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ số liệu do các Phòng Hành chính tổng hợp 08
Viện NCQT cung cấp
Theo Biểu đồ 2.4, có thể thấy, tỷ lệ viên chức có trình độ từ đại học trở
lên từ 78,33% với 253 người năm 2016 đã lên tới 86,67% với 260 người năm
2021. Tức tăng cả về số tuyệt đối (7 người) lẫn tương đối (8,34 điểm phần
trăm), nhưng đáng tiếc là số lượng tăng quá ít (không theo kịp với nhu cầu nhân
lực, nhất là nhân lực nghiên cứu của các Viện, và chỉ tăng ở hai Viện mới thành
lập, là Viện NC Châu Phi và Trung Đông và Viện NC Ấn Độ và Tây Nam Á,
57
còn ở các Viện lâu năm và có uy tín lại giảm, thậm chí giảm sâu như ở Viện
KT&CTTG). Trong khi tỉ lệ viên chức có trình độ cao đẳng và các trình độ
khác chỉ chiếm khoảng 13,0-21,0%, tức khá thấp, và tập trung trong số viên
chức làm công tác nghiệp vụ và phục vụ nghiên cứu. 100% viên chức trực tiếp
nghiên cứu đều có trình độ tối thiểu là đại học (chiếm từ 80% đến 90% tổng số
viên chức của Khối các Viện NCQT). Có thể nói, cơ cấu trình độ chuyên môn
như vậy, về đại thể, là phù hợp và tối ưu để có thể đáp ứng được các yêu cầu
ngày càng cao về nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu của VASS nói chung và
của Khối các Viện NCQT nói riêng.
Tuyệt đại đa số (chừng 90 - 95%) viên chức trực tiếp làm nghiên cứu khoa
học đều được đào tạo hoặc từ các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn,
hoặc các chuyên ngành nghiên cứu quốc tế ở các cơ sở đào tạo trong và ngoài
nước.
Phát triển về kiến thức chuyên môn cho cán bộ là hoạt động được Lãnh
đạo các Viện thuộc Khối quốc tế hết sức quan tâm và đôn đốc thường xuyên.
Các hoạt động chủ yếu bao gồm: tuyển chọn đặc cách những người có trình độ
chuyên môn cao như tiến sĩ, thạc sĩ và cử nhân bằng giỏi; cử đi đào tạo cao học
và nghiên cứu sinh ở trong và ngoài nước; đào tạo tại Viện thông qua công việc.
Việc bồi dưỡng để nâng cao và phát triển kiến thức chuyên môn cho viên
chức là hoạt động được Lãnh đạo các Viện thuộc Khối NCQT thường xuyên
quan tâm và nỗ lực thực hiện.
- Đối với các cán bộ trẻ, được các Viện tìm cách bố trí vào những phòng,
ban, những lĩnh vực nghiên cứu còn thiếu người và có nhu cầu, có tính đến
nguyện vọng cá nhân viên chức. Trong 1-2 năm đầu họ được giao cho các cán
bộ lâu năm, có kinh nghiệm (thường là trưởng phòng trực tiếp) hướng dẫn dìu
dắt. Dần dần họ được giao các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở (cấp Viện),
hoặc được mời tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, thậm chí cấp
58
Nhà nước (do các Viện chủ trì) để rèn luyện, nâng cao (trình độ, hiểu biết và
kỹ năng nghiên cứu) và có thêm thu nhập. Đồng thời, họ được cử/được khuyến
khích tham gia các hoạt động tập thể quần chúng (Đoàn Thanh niên, Công
đoàn,…) để rèn luyện ý thức tập thể và trách nhiệm xã hội; Họ cũng được cử
đi học các lớp về phương pháp nghiên cứu khoa học (do VASS mở hoặc các
Tổ chức Quốc tế như WB, UNDP,… tài trợ), các lớp Trung cấp Lý luận chính
trị và các lớp về Quản lý hành chính nhà nước dành cho các chuyên viên và
nghiên cứu viên,… Đồng thời, lãnh đạo các Viện (trong đó có cả VASS) và các
nhà nghiên cứu có kinh nghiệm và uy tín trực tiếp tìm hoặc khuyến khích các
cán bộ nghiên cứu trẻ tìm kiếm các học bổng/các chương trình đào tạo hay bổ
túc kiến thức để đi học nâng cao trình độ (Thạc sĩ, Tiến sĩ) ở trong và ngoài
nước. Cụ thể, như Viện KT&CTTG thường xuyên có khoảng 2 cán bộ trẻ
nghiên cứu và học tập dài hạn ở nước ngoài hàng năm.
Đối với những cán bộ khó/không có điều kiện đi nước ngoài học thường
được ưu tiên/chọn những chương trình đào tạo/những lớp học có uy tín/hoặc
liên kết với nước ngoài ở trong nước, như Chương trình Cao học Việt Nam -
Hà Lan, Chương trình cao học Việt-Bỉ (tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân),
Học viện Ngoại giao, Trường Đại học Ngoại thương, Trường Đại học
KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội)... Phần lớn số cán bộ loại này thường rơi vào
khối chức năng/phục vụ nghiên cứu.
Về hoạt động đào tạo tại các Viện thuộc Khối nghiên cứu quốc tế:
Đây là việc mà lãnh đạo các Viện đặc biệt chú trọng. Từ những ngày đầu
thành lập, lãnh đạo các Viện đã ý thức và chủ trương tăng cường phát triển kiến
thức chuyên môn thông qua công việc là hình thức thực tiễn và hiệu quả cao
nhất. Các nghiên cứu viên trẻ được tham gia, làm chủ nhiệm các đề tài cấp cơ
sở; tham gia vào các đề tài cấp bộ và viết các báo cáo, tạp chí, tham luận… và
được các nghiên cứu viên có kinh nghiệm kèm cặp và chỉ bảo. Hình thức mà
59
lãnh đạo Viện ưu tiên là (i) thiết kế các đề tài cấp cơ sở gồm 2 thành viên, người
có kinh nghiệm hơn làm chủ nhiệm, người ít kinh nghiệm làm thành viên; (ii)
thiết kế đề tài có 02 người làm đồng chủ nhiệm trong đó có một người kinh
nghiệm và một người ít kinh nghiệm. Việc thực hiện cách tổ chức này đảm bảo
được chất lượng của đề tài nghiên cứu và đồng thời đào tạo cán bộ trẻ. Thông
qua cách làm việc nhóm như vậy, các cán bộ nghiên cứu trẻ sẽ học tập được
kinh nghiệm một cách nhanh nhất. Học nhanh chóng tự thực hiện tốt được công
việc nghiên cứu của mình và có thể làm chủ nhiệm được các đề tài nghiên cứu.
Tuy nhiên, số lượng cán bộ nghiên cứu của các Viện mới thành lập có
nhiều kinh nghiệm là khá khiêm tốn nên công tác này mới chỉ mạnh lên những
năm gần đây góp phần cho sự tiến bộ mạnh mẽ của các cán bộ trẻ trong Viện
về kiến thức chuyên môn.
Việc đánh giá, nghiệm thu các đề tài trong Viện đã được tiến hành rất
nghiêm túc và đi vào thực chất cũng góp phần đào tạo kiến thức chuyên môn
cho các nghiên cứu viên trẻ. Thông qua các nhận xét, góp ý thẳng thắn, các
nghiên cứu viên trẻ ngày càng hoàn thiện cho mình về kiến thức chuyên môn
trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
2.2.2. Việc tuyển chọn/thu hút những nhân lực phù hợp về cơ cấu và
trình độ
Trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay, để đáp ứng yêu cầu ngày càng
tăng và đa dạng của các hoạt động nghiên cứu, để duy trì, bổ sung và nâng cao
chất lượng viên chức KH&CN, trên cơ sở chiến lược phát triển và nhiệm vụ
chính trị được giao, cũng như căn cứ vào quy hoạch và kế hoạch nhân sự được
VASS phê duyệt, Lãnh đạo các Viện trong Khối NCQT đã tìm cách tuyển mới
hoặc thu hút thêm các cán bộ tốt nghiệp loại giỏi hoặc xuất sắc, nhưng chuyên
gia có kinh nghiệm, có chất lượng cao, hoặc có trình độ từ tiến sĩ trở lên về
công tác bằng các chế độ đãi ngộ thích hợp (như sớm được giao đề tài, hoặc
60
được đề bạt vào các chức vụ quản lý,…). Các kênh tuyển dụng chủ yếu là quảng
cáo tại các trụ sở làm việc của các Viện và thông qua giới thiệu, tiến cử các mối
quen biết trong và ngoài viện.
2.2.3. Nâng cao và hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp
Nâng cao trình độ ngoại ngữ: Để có thể làm việc (nghiên cứu) tốt tại
các Viện thuộc Khối NCQT, bắt buộc các viên chức KH&CN phải đạt trình độ
ngoại ngữ tương đối cao, trước hết, để có thể tiếp cận được các tài liệu nghiên
cứu quốc tế (chủ yếu là tiếng Anh) và sau nữa để tham gia các hoạt động trao
đổi, giao lưu, hợp tác quốc tế. Bởi vậy, ngay từ giai đoạn tuyển dụng, các Viện
đã ưu tiên cho những ứng viên có trình độ (bằng cấp, chứng chỉ ngoại ngữ đạt
chuẩn, hoặc đã được đào tạo dài hạn bằng tiếng Anh ở nước ngoài). Mặt khác,
trong quá trình làm việc, các cán bộ trẻ, đặc biệt là các nghiên cứu viên, được
khuyến khích tham gia các khóa học bồi dưỡng/nâng cao trình độ ngoại ngữ
(tiếng Anh) do VASS tổ chức cũng như học thêm bằng cử nhân ngoại ngữ
(tiếng Anh). Bên cạnh đó, việc khuyến khích cũng như cử các cán bộ nghiên
cứu trẻ của các Viện đi du học trong những năm qua cũng là một cách để nâng
cao trình độ ngoại ngữ khá hiệu quả. Theo thống kê, chừng 70% viên chức trẻ
trực tiếp làm công tác nghiên cứu có trình độ tiếng Anh tốt (xét về các kỹ năng
giao tiếp (nghe, nói), dịch xuôi, dịch ngược văn bản), do hầu hết các viên chức
này được đào tạo ở nước ngoài (bằng tiếng Anh)/hoặc có chứng chỉ
Toefl/Toeic/IELTS tối thiểu 550/5.5 điểm. Ngoài tiếng Anh, một số chuyên
viên còn biết thêm một số ngoại ngữ hoặc ngôn ngữ đặc thù khác, như tiếng
Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Trung, Hàn Quốc, Lào, tiếng Thái,
Hindu, Ả Rập,… [14, tr.102].
Đồng thời, trong Khối các Viện NCQT, có các Viện nghiên cứu khu vực,
ngoài ngoại ngữ chính là tiếng Anh, các cán bộ nghiên cứu trẻ còn được khuyến
khích học thêm các ngoại ngữ và các ngôn ngữ đặc thù khác như: Tiếng Hindu
61
(Ấn Độ), tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Thái Lan, tiếng
Lào, tiếng Cămpuchia, tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, các ngôn ngữ Ả rập,…
Đặc biệt về rèn luyện ngoại ngữ, Lãnh đạo các Viện đã giao cho Chi đoàn
thanh niên định ký hàng tháng một lần tổ chức tọa đàm khoa học trình bày bằng
tiếng Anh. Ở đó tất cả các phát biểu đều bằng tiếng Anh. Qua những hoạt động
như vậy, khả năng sử dụng tiếng Anh của các cán bộ nghiên cứu đã cải thiện
và họ tự tin hơn trong sử dụng ngoại ngữ.
Về cơ bản, tất cả các cán bộ nghiên cứu của Viện đều sử dụng được ngoại
ngữ tiếng Anh ở mức độ khác nhau, trong đó đa số là thành thạo.
Về trình độ tin học
Mặc dù là các Viện nghiên cứu quốc tế, lẽ ra các nghiên cứu viên phải
có các chuyến công tác dài ngày/hoặc thường xuyên có các chuyến nghiên cứu,
khảo sát (study-tour) ngắn ngày ở nước ngoài như các nhà nghiên cứu của các
quốc gia khác, song do đặc thù Việt Nam (chủ yếu là do kinh phí quá hạn hẹp),
nên cơ hội nghiên cứu (cả ngắn lẫn dài hạn) ở nước ngoài không nhiều, nếu
không muốn nói là không có, nên các nghiên cứu viên của các Viện này chủ
yếu làm việc tại bàn thông qua máy tính kết nối Internet. Điều đó đòi hỏi các
cán bộ không những thông thạo máy tính mà còn phải có kỹ năng kết nối và xử
lý thông tin trên mạng. Để làm được điều đó, các Viện đã trang bị khá đầy đủ
hệ thống máy in, máy tính kết nối Internet, mở lớp đào tạo về công nghệ thông
tin (thường ngắn hạn), động viên và khuyến khích các cán bộ học và tự học để
hoàn thiện các kỹ năng về công nghệ thông tin, sử dụng tốt các chương trình
tin học văn phòng thông dụng như excel, word, powerpoint … để phục vụ trực
tiếp cho công tác nghiên cứu và các nghiệp vụ chuyên môn. Viên chức cũng đã
được lãnh đạo đốc thúc tự học hỏi để có thể sử dụng thành thạo các công cụ,
phương pháp nghiên cứu mới giúp nâng cao hiệu quả thực hiện các công tác
chuyên môn, nghiệp vụ.
62
Cụ thể, tại bộ phận văn phòng cũng như các Phòng Quản lý tổng hợp của
các đơn vị trực thuộc, các viên chức đều có trình độ và khả năng ứng dụng công
nghệ thông tin để đáp ứng tốt yêu cầu công việc (xử lý thông tin, chế bản), còn
các viên chức trực tiếp làm công tác nghiên cứu khoa học, ngoài trình độ CNTT
ở mức khá, còn biết xử lý tốt việc truy cập mạng để có thể tìm kiếm và xử lý
thông tin trong và ngoài nước cần thiết. Và đó là thực tế phổ biến của các viên
chức KHCN Khối các Viện NCQT thuộc VASS hiện nay.
Chuẩn hóa các phương pháp nghiên cứu phù hợp
Vì phương pháp nghiên cứu đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong công
tác nghiên cứu khoa học, nhất là các chuyên ngành quốc tế học, nên chuẩn hóa
các phương pháp nghiên cứu phù hợp lâu nay luôn là mối quan tâm của VASS
nói chung và Khối các viện NCQT nói riêng để nâng cao chất lượng viên chức
KH&CN. Để làm được điều đó, các cán bộ nghiên cứu trẻ của các Viện thường
phải tham dự một khóa học bắt buộc (có cấp chứng chỉ) về Phương pháp nghiên
cứu khoa học xã hội liên ngành do VASS tổ chức. Đây là lớp Phương pháp
nghiên cứu liên ngành đặc thù của VASS nhằm đào tạo phương pháp nghiên
cứu cho các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Lớp học kéo dài liên
tục 3 tháng bao gồm cả học lý thuyết và đi thực địa. Đồng thời, mỗi Viện hoặc
phối hợp cả Khối NCQT hàng năm đều tổ chức chừng 2-3 buổi để các cán bộ
nghiên cứu lâu năm, có uy tín (thường là các GS., PGS) từ cả trong và ngoài
Viện HL KHXH phổ biến, truyền đạt và trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu
chuyên ngành mà họ đã tích lũy được cho tất cả các viên chức nghiên cứu trong
Khối. Ngoài ra, một biện pháp đào tạo chuyên môn và hoàn thiện phương pháp
nghiên cứu hữu hiệu nhất là các cán bộ nghiên cứu, ngay từ đầu, đều được
khuyến khích/cử tham gia các đề tài, dự án nghiên cứu và hội thảo khoa học do
các tổ chức/cá nhân trong và ngoài Viện chủ trì. Đó chính là phương pháp đào
tạo tại chỗ.
63
Về kỹ năng thuyết trình, trình bày nghiên cứu
Kỹ năng này được được đào tạo thông qua công việc và tham gia các buổi
tọa đàm hội thảo khoa học của các Viện. Các cán bộ trẻ trong Viện đều ít nhất
được tham gia hoặc làm chủ nhiệm một đề tài cấp cơ sở hàng năm để phát triển
và phải bảo vệ trước hội đồng khoa học của Viện. Đồng thời, lãnh đạo Viện đã chỉ
đạo cho đoàn thanh niên tổ chức các buổi tọa đàm khoa học thường kỳ và cho các
cán bộ trẻ thay phiên nhau làm chủ tọa của buổi tọa đàm đó. Việc luận phiên chủ
tọa tại các tọa đàm là cách rất hiệu quả rèn luyện kỹ năng trình bày và chủ trì các
sự kiện. Ngoài ra, các hội thảo khảo khoa học trong và ngoài Viện cũng là nơi phát
triển kỹ năng thuyết trình, trình bày nghiên cứu cho các cán bộ trong Viện.
2.2.4. Rèn luyện ý thức trách nhiệm, thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu
Với đặc thù là cơ quan nghiên cứu, nên trong việc quản lý nhân sự, các
Viện trong Khối NCQT không quá siết chặt về giờ giấc hành chính, mà chủ yếu
siết chặt kỷ luật thông qua tiến độ, kết quả công việc và chất lượng sản phẩm
hoàn thành. Để tạo dựng được ý thức trách nhiệm, thái độ nghiêm túc trong
công tác nghiên cứu, đặc biệt đối với các nghiên cứu viên trẻ, các lãnh đạo của
các Viện này đã cố gắng tạo lập một môi trường nghiên cứu đề cao trách nhiệm,
đạo đức công vụ trong việc đảm bảo tiến độ và chất lượng kết quả công việc
nghiên cứu được giao.
Cụ thể, về các đề tài nghiên cứu khoa học, trong các báo cáo tổng kết
công tác hàng năm của VASS cũng như các Viện nghiên cứu Khối quốc tế từ
năm 2016 đến năm 2021, cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau (cả khách quan
lẫn chủ quan), tỉ lệ hoàn thành cũng không giống nhau giữa các Viện và có sự
dao động giữa các năm. Nhìn chung, (trừ những trường hợp đặc biệt và bất khả
kháng, như chủ nhiệm đề tài chuyển công tác khỏi VASS hoặc bị mất trong
thời gian thực hiện đề tài) gần như 100% các đề tài đều hoàn thành, tuy vậy, tỉ
lệ đề tài hoàn thành đúng tiến độ chỉ đạt khoảng 75-78%, còn lại thường chậm
64
từ 3 tháng đến 6 tháng, thậm chí 01 năm. Trong đó, về xếp loại đề tài hoàn
thành, đối với các đề tài cấp Bộ (do VASS tài trợ), nói chung, loại xuất sắc đạt
khoảng 12-13%, loại khá đạt 65-66%, và loại trung bình đạt 19-22% [14, tr.102]
[40, tr.105] . Mặc dù chưa được như mong muốn của Đảng và Nhà nước cũng
như sự kỳ vọng của nhân dân, song những thành tựu khoa học của VASS đã
góp phần quan trọng vào việc tư vấn và giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, xã hội
cơ bản của đất nước, vào việc xây dựng các chiến lược, chính sách và luật lệ
phát triển đất nước trong nhiều năm qua, và được Đảng và nhà nước đánh giá
cao và được nhân dân ghi nhận.
Bồi dưỡng và nâng cao trình độ lý luận chính trị
Hàng năm, Khối các Viện NCQT đều rà soát và cử viên chức đủ điều
kiện tham gia các lớp Trung cấp, Cao cấp lý luận chính trị hoặc Lớp quản lý
hành chính Nhà nước dành cho chuyên viên chính nhằm bổ sung, phát triển
nguồn nhân lực có trình độ chính trị và quản lý nhà nước trong cơ quan theo
yêu cầu của VASS. Nhờ đó, đa số các viên chức trong khối đã tham gia và hoàn
thành các lớp bồi dưỡng này. Ngoài các lớp do VASS tổ chức hoặc cử đi học,
một số cán bộ trong các Viện này còn tự đăng ký và tự nộp học phí tham gia
các lớp do các cơ sở có chức năng đào tạo để nâng cao trình độ lý luận chính
trị và quản lý nhà nước của mình.
Thái độ, phẩm chất, đạo đức
Xác định ngoài trình độ chuyên môn vững chắc, việc có một đội ngũ viên
chức KH&CN có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sáng,
lành mạnh, tâm huyết với nghề, có trách nhiệm trong công việc, có tinh thần
đoàn kết và giúp đỡ nhau trong công việc và cuộc sống là một trong những điều
kiện quyết định để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao. Chính vì thế, trong
những năm qua, về cơ bản lãnh đạo cũng như hệ thống chính trị của VASS nói
chung cũng như Khối các Viện NCQT nói riêng luôn cố gắng thực hiện tinh
65
thần thượng tôn pháp luật, giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức tác
phong cho toàn thể các viên chức của mình, tìm mọi hình thức để nuôi dưỡng
và duy trì lòng say mê đối với công việc, tình đoàn kết với đồng nghiệp và gắn
bó với cơ quan.
Thường xuyên tổ chức phong trào thi đua động viên mọi viên chức trong
cơ quan tích cực học tập, nghiên cứu, hoàn thành kết quả công việc đúng tiến
độ, đảm bảo chất lượng sản phẩm được giao. Việc hoàn thành đúng tiến độ và
có chất lượng cao được coi là một tiêu chuẩn cứng khi đánh giá viên chức vào
cuối năm và xét trao tặng các danh hiệu thi đua hàng năm, nên mọi người đều
có ý thức và cố gắng hoàn thành.
2.2.5. Về thể lực
Sức khỏe hay thể lực luôn là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh
giá chất lượng NNL. Để nâng cao sức khỏe cho đội ngũ viên chức, hàng năm
được sự cho phép của Lãnh đạo Viện Hàn lâm, Văn phòng Viện Hàn lâm đều
tổ chức khám sức khỏe định kỳ 01 đợt cho nam, 02 đợt cho nữ viên chức và
người lao động tại các đơn vị trực thuộc VASS. Kết quả khám sức khỏe đều
được Phòng Y tế (VASS) thông báo trực tiếp cho từng cán bộ nếu có vấn đề
cần lưu ý về sức khỏe. Viên chức và người lao động nếu có dấu hiệu sức khỏe
chưa tốt đều được các Bác sĩ kê đơn và điều trị tại chỗ giúp các viên chức tiết
kiệm thời gian và theo dõi lâu dài, còn nếu vượt quá khả năng của Phòng y tế,
thì sẽ được giới thiệu đến điều trị tại các bệnh viện chuyên khoa có uy tín.
Đồng thời, để nâng cao thể lực cho đội ngũ viên chức, người lao động,
hàng năm Công đoàn VASS thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Công đoàn
cơ sở hoặc đoàn thanh niên, tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ,
thể dục thể thao, tổ chức các buổi tập huấn, chuyến đi tìm hiểu thực tế, hoặc đi
điều dưỡng, phổ biến kiến thức về sức khỏe, về gia đình, nuôi dạy con cái, …
để giúp cho đội ngũ viên chức, người lao động nâng cao sức khỏe về mặt thể
66
chất và lành mạnh về tinh thần, tạo động lực cho đội ngũ viên chức, người lao
động gắn bó với cơ quan và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, dưới sự giám sát và tư vấn của Công đoàn, các viên chức tại
VASS nói chung và Khối các Viện NCQT nói riêng thường được làm việc và
sinh hoạt trong những điều kiện ngày càng đảm bảo về cơ sở vật chất như ánh
sáng, nhiệt độ, bàn ghế, thiết bị rèn luyện thể dục, thể thao...
2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng viên chức tại Khối các
Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam
2.3.1. Những nhân tố bên ngoài
Nhân tố cơ chế chính sách: Chính sách phát triển, nâng cao chất lượng
viên chức tại các tổ chức khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện còn nhiều
bất cập (từ việc đào tạo, tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công
nghệ); điều đó làm cản trở phát triển những nhà khoa học đầu ngành, những tập
thể khoa học mạnh, và ngăn cản việc đạt được mục tiêu đưa Việt Nam thành
nước có nền khoa học và công nghệ (KH&CN) đạt trình độ phát triển của nhóm
nước dẫn đầu ASEAN. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã dành nhiều
quan tâm hơn đến tâm quan trọng của khoa học công nghệ nói chung và việc
phát triển nguồn nhân lực cho nghiên cứu khoa học nói riêng. Đã có nhiều cuộc
đối thoại cũng như chính sách đưa ra để phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao cho nghiên cứu khoa học.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cũng ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao tuy hạn chế về số chỉ tiêu biên chế về cho các Viện
cũng tác động đến chất lượng viên chức tại Khối các Viện nghiên cứu quốc tế
trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
67
Nhân tố kinh tế, xã hội: Trong những năm đổi mới và cải cách kinh tế
đất nước, nền kinh tế đã phát triển đều đặn ở mức khá cao, đời sống của người
dân đã được cải thiện nhiều, tuy nhiên, mức độ quan tâm đến khoa học công
nghệ vẫn chưa có nhiều cải thiện kể cả vấn đề đầu tư cho khoa học công nghệ
cũng như sự quan tâm của xã hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập nước có mức thu nhập trung bình,
những tài trợ quốc tế cũng giảm sút, các dự án nghiên cứu với sự tài trợ của bên
ngoài đã giảm nhiều so với trước.
Nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ: Cách mạng công nghiệp 4.0 đang
có ảnh hưởng đến các tiêu chuẩn của các ngành nghề khác nhau nói chung và
tại ra các tiêu chuẩn mới cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Điều này tạo ra
nhiều ảnh hưởng tới phát triển nguồn nhân lực của Viện để phù hợp với yêu
cầu, bối cảnh mới. Công tác đào tạo của Viện phải hướng đến tính quốc tế hóa,
cập nhật các công cụ nghiên cứu mới, hướng đào tạo ra bên ngoài, chuẩn hóa
các tiêu chuẩn trong nghiên cứu theo quốc tế. Các nội dung nghiên cứu cũng
phải thay đổi để bắt kịp sự xoay chuyển nhanh chóng của thế giới và khu vực
trong cách mạng 4.0. Các kỹ năng chuyên môn nghiên cứu cũng sẽ thay đổi
theo hướng ứng dụng công nghệ vào để tăng độ chính xác và giảm thiểu thời
gian thực hiện hướng đến tính ứng dụng thực tiễn nhiều hơn.
Nhân tố thị trường lao động: Kinh tế Việt Nam đang phát triển dẫn đến
một thị trường lao động đầy tiềm năng và đãi ngộ cao cho những người giỏi đã
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng viên chức tại các Viện. Việc thu hút nguồn
nhân lực chất lượng cao hiện tại là rất khó với mức đãi ngộ và môi trường làm
việc trong Viện nghiên cứu hiện nay chứ chưa nói đến việc giữ chân người giỏi.
Trên thực tế, tại các Viện thuộc khối quốc tế đã có nhiều trường hợp các
cán bộ trẻ tài năng vào làm việc rồi lại ra bên ngoài làm với mức đãi ngộ cao
hơn hoặc sau khi được đào tạo ở nước ngoài về lại không tiếp tục ở lại Viện
công tác.
68
2.3.2. Những nhân tố bên trong
Vai trò cá nhân của người lãnh đạo:
Lãnh đạo là một Viện trưởng, hết sức quan tâm, tâm huyết với vấn đề
chất lượng viên chức đặc biệt là cán bộ nghiên cứu. Viện trưởng luôn đặt ra yêu
cầu rất cao về chuyên môn, năng suất và kỹ năng trong công tác nghiên cứu
khoa học. Các cán bộ trẻ thường xuyên được khuyến khích nâng cao khả năng
ngoại ngữ để tham gia các khóa đạo tạo ở nước ngoài. Viện trưởng cũng luôn
tìm kiếm, chia sẻ thông tin các khóa đào tạo các học bổng và đốc thúc các cán
bộ trẻ phải tìm cách tham gia, nâng cao năng lực chuyên môn và tư duy nghiên
cứu.
Lãnh đạo luôn đặt công tác đào tạo thông qua công việc lên hàng đầu.
Đoàn thanh niên đươc giao nhiệm vụ tổ chức tọa đàm khoa học để các cán bộ
trẻ thường xuyên và thay phiên nhau trình bày cũng như làm chủ tọa làm
quen với công tác trình bày nghiên cứu. Lãnh đạo Viện luôn đôn đốc công
tác đào tạo tự đào tạo và đào tạo trong công việc, nhiệt tình chỉ dẫn cho anh
em trong viện.
Bên cạnh đó, Viện trưởng cũng là tấm gương về ý thức trách nhiệm và
thái độ tích cực trong nghiên cứu. Các công trình của nghiên cứu của Viện đều
được yêu cầu đảm bảo tiến độ và chất lượng cao, nói không với tiêu cực trong
nghiên cứu.
Do cá nhân người lao động trong tổ chức:
Các cán bộ trẻ trong Viện hầu hết cũng ý thức được tầm quan trọng của
việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong Viện nên đã tích cực tham gia
các lớp đào tạo chuyên môn trong và ngoài nước trong những năm qua
Chính sách đãi ngộ sau đào tạo của các Viện thuộc Khối các Viện nghiên
cứu quốc tế khá tốt. Khi các cán bộ đầy đủ năng lực và tham gia các khóa đào
tạo đáp ứng được yêu cầu bổ nhiệm của vị trí đều được Lãnh đạo các Viện quan
69
tâm cất nhắc. Việc đánh giá cơ hội công việc và thăng tiến của bản thân thông
qua đào tạo đều được tăng lên.
Tuy nhiên, các cán bộ nghiên cứu trong các Viện nói chung, đặc biệt là
các nghiên cứu viên trẻ có thu nhập thấp, chưa thực sự đáp ứng được cuộc sống
cá nhân. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự tập trung phát triển nghề nghiệp
cũng như nhu cầu tự đào tạo của bản thân các cán bộ.
Chiến lược phát triển, đặc trưng và văn hóa của tổ chức:
Do chiến lược phát triển của các Viện thuộc Khối các Viện nghiên cứu
quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam để trở thành một trung tâm
hàng đầu nghiên cứu cơ bản về nền kinh tế, chính trị của thế giới và các khu
vực. Do đó, cần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học của Viện cả về
số lượng và chất lượng, xây dựng đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, các nhà
khoa học kế cận có triển vọng, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ khoa học
quan trọng, tham gia có hiệu quả vào hợp tác và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên do
phân bổ về chỉ tiêu tuyển dụng từ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam khá
nhỏ giọt qua các năm, nên số lượng tuyển dụng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
của cơ quan.
Chính sách tuyển dụng của các Viện thuộc Khối các Viện nghiên cứu
quốc tế và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói chung là ưu tiên nguồn
nhân lực có chất lượng cao. Lãnh đạo Viện luôn tìm kiếm, mời các nhà nghiên
cứu chuyên gia có kinh nghiệm và năng lực cao hoặc các cán bộ trẻ tài năng về
làm việc cho Viện.
Là các đơn vị nghiên cứu khoa học công lập trực thuộc Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, kinh phí phân bổ cho hoạt động của các Viện khá
thấp so với mặt bằng chung. Các hoạt động đào tạo thường không tự chủ mà
phụ thuộc vào các lớp do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.
70
2.4. Đánh giá chung
2.4.1. Ưu điểm
Về trình độ chuyên môn, trong những năm qua, nguồn nhân lực chất lượng
cao của Viện không ngừng gia tăng. Trước hết, số lượng Tiến sĩ và Thạc sĩ trẻ
cũng tăng đều hàng năm, thể hiện tính tích cực về mặt đào tạo và tự đào tạo của
đội ngũ này. Mặc dù gần đây có một số viên chức KH&CN trẻ được phong
PGS, đó là một tín hiệu tốt, song không nhiều và không bù lại được với số GS.,
PGS lâu năm, có chất lượng và kinh nghiệm giảm dần do những viên chức này
đã đến tuổi nghỉ chế độ, hoặc chuyển công tác đi nơi khác. Trong khi đó, số
viên chức có trình độ cử nhân và các trình độ khác thay đổi không nhiều qua
từng năm.
Về sự phù hợp giữa công việc và chuyên môn đào tạo. Vì VASS là Viện
nghiên cứu khoa học đầu ngành nên viên chức tại Khối các Viện NCQT được
tuyển vào các Viện đa số có năng lực nghiên cứu và làm việc đúng chuyên
ngành được đào tạo trong Khối các Viện NCQT. Đây là điều khác hẳn so với
khoảng 30 năm trước và cũng là thuận lợi cho các Viện nghiên cứu chuyên
ngành khi sử dụng và phân bổ nhân lực vào các vị trí việc làm.
Về trình độ tin học. Do nhận thức đúng về công nghệ thông tin trong thời
đại kinh tế tri thức, thời đại của CMCN 4.0, đặc biệt về vai trò của tin học đối
với công việc nghiên cứu tại bàn của các viên chức khoa học công nghệ, chuyên
ngành quốc tế học, nên hiện nay tại Khối các Viện NCQT, hầu hết viên chức
đều có khả năng sử dụng thông thạo máy tính và biết ứng dụng CNTT phục vụ
cho công tác chuyên môn của mình. Tuỳ theo lĩnh vực công việc (trực tiếp làm
nghiên cứu khoa học hay gián tiếp phục vụ công tác nghiên cứu), các viên chức
đều có trình độ tin học phù hợp.
Về trình độ ngoại ngữ. Có thể nói, so với mặt bằng chung của VASS, trình
71
độ ngoại ngữ của các viên chức Khối các Viện NCQT được đánh giá khá cao.
Với trình độ tiếng Anh như vậy, không ít các viên chức trẻ trực tiếp nghiên cứu
của Khối các Viện NCQT đã có thể chủ động tham gia các buổi hội thảo, hội
nghị quốc tế, và trao đổi trực tiếp với các nhà khoa học quốc tế đến làm việc tại
Viện Hàn lâm.
Về đạo đức nghề nghiệp
Mặc dù đời sống viên chức nói chung hiện nay còn nhiều khó khăn, tiền
lương và thu nhập thực tế còn hạn chế, nhưng phần lớn đội ngũ viên chức tại
Khối các Viện NCQT vẫn giữ được phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt,
luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Luôn có tác
phong và lề lối làm việc nghiêm túc, chuẩn mực, có ý thức và luôn có tinh thần
trách nhiệm đối với công việc, không có các hành vi tiêu cực quá nghiêm trọng
trong quá trình thực thi nhiệm vụ, phấn đấu thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
chuyên môn của đơn vị. Luôn nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật về nhiệm vụ và quyền hạn, thực hiện đúng quy định của Luật
viên chức về quyền và nghĩa vụ của viên chức, những việc viên chức không
được làm. Từ đó chấp hành tốt sự phân công công tác, xây dựng tốt mối quan
hệ phối hợp công tác với viên chức trong toàn Khối các Viện nghiên cứu quốc
tế. Với tinh thần trách nhiệm, tác phong làm việc nghiêm túc, nhanh nhẹn, luôn
chủ động, sáng tạo, thường xuyên bám sát cơ sở để thực hiện nhiệm vụ được
giao. Đội ngũ viên chức các Viện này luôn có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ đồng
nghiệp, có tinh thần tự giác, thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống các hành vi
lãng phí, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực khác. Luôn thực hiện tốt nếp sống
văn hóa nơi công sở; giao tiếp lịch thiệp.
Về thể lực của viên chức
Có thể nói, về thể lực, đội ngũ viên chức KH&CN của VASS nói chung
và của Khối các Viện NCQT nói riêng về cơ bản đủ sức khỏe để làm việc, rất
72
ít trường hợp nghỉ ốm dài ngày, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng công việc.
Điều đó, trước hết, là do các cá nhân viên chức biết tự chăm lo cho cuộc sống
và sức khỏe của bản thân. Thứ hai, một phần do lãnh đạo các đơn vị và Văn
phòng VASS (cụ thể là Phòng Y tế) hàng năm đều định kỳ tổ chức khám sức
khỏe tổng quát cho toàn thể viên chức tại các đơn vị trực thuộc, từ đó kịp thời
phát hiện những vấn đề sức khỏe của viên chức để có biện pháp tư vấn và điều
trị cho các viên chức và người lao động. Và thứ ba, phần lớn các viên chức của
Khối các Viện NCQT đều trong độ tuổi 30-50 là độ tuổi còn khá sung sức, ít
bệnh tật, cũng góp phần vào việc duy trì thể lực tốt cho đội ngũ này. [30, tr.104]
Với những ưu điểm cơ bản như vậy về chất lượng viên chức KH&CN,
nên trong nhưng năm vừa qua, VASS nói chung và các Viện thuộc Khối NCQT
đã hoàn thành khá tốt nhiệm vụ chính trị được giao là nghiên cứu cơ bản về
KHXH&NV (hoàn thành hàng chục Chương trình đề tài NCKH cấp Nhà Nước,
hàng trăm đề tài NCKH cấp Bộ và hàng ngàn đề tài cấp cơ sở, và hợp tác quốc
tế, đào tạo và góp phần đào tạo hàng trăm tiến sĩ và hàng ngàn thạc sĩ nhiều
chuyên ngành trên khắp cả nước), làm tốt công tác cung cấp những cơ sở lý
luận cho Đảng và Nhà nước để hoạch định đường lối, chiến lược và chính sách
xây dựng và phát triển đất nước, cũng như là một địa chỉ tư vấn chính sách đáng
tin cậy cho hàng trăm tổ chức, doanh nghiệp và địa phương, xứng đáng là một
trung tâm nghiên cứu khoa học cơ bản về KHXH&NV của đất nước.
2.4.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
* Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực trạng phát triển và chất lượng đội
ngũ viên chức KH&CN của Khối các Viện NCQT (thuộc VASS) vẫn còn tồn
tại một số hạn chế. Cụ thể như sau:
- Đội ngũ viên chức, nhất là viên chức trực tiếp làm công tác nghiên cứu
73
khoa học ngày càng giảm. Tỉ lệ các nhà khoa học giỏi, nhà khoa học đầu ngành;
các cán bộ trẻ có trình độ cao; tỷ lệ cán bộ có đủ năng lực chủ trì đề tài nghiên
cứu cấp quốc gia và có uy tín để đồng chủ trì các dự án nghiên cứu quốc tế còn
thấp. Ví dụ, Viện KT&CTTG, hiện chỉ còn 38 viên chức so với 55 viên chức
vào năm 2016 (và càng thấp hơn, nếu so với nhu cầu quy hoạch là 100 viên
chức (vào năm 2020). Hiện Viện chỉ còn 08 Tiến sĩ và 02 PGS so với 15 Tiến
sĩ và 09 PGS vào năm 2007, và 12 TS và 05 PGS vào năm 2016. Có nguy cơ
sẽ không còn PGS nào, nếu 02 PGS này về hưu từ cuối năm 2023, đầu năm
2024 [49, tr.106]. Đáng tiếc, đó là tình trạng không chỉ của riêng Viện
KT&CTTG, mà là tình trạng chung của VASS và các Viện khác thuộc Khối
NCQT, trừ 02 Viện mới thành lập (như Viện NC ẤĐ&TNA và Viện NC
CP&TĐ). Việc thiếu các nhà khoa học giỏi, nhà khoa học đầu ngành làm đầu
tàu dẫn dắt, định hướng hoạt động nghiên cứu - triển khai được xem là một
trong những điểm yếu lớn nhất của Khối các Viện NCQT nói riêng và VASS
nói chung hiện nay.
- Sự hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm của đội ngũ viên chức
KH&CN của Khối các Viện NCQT còn yếu, sự hợp tác, gắn kết giữa các nhà
khoa học chưa cao, khó hình thành được các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm
nghiên cứu liên ngành của Khối các Viện NCQT hoạt động theo định hướng
lâu dài và bền vững. Điều này thể hiện ở tỉ lệ tham gia chéo giữa các viên chức
KH&CN trong nghiên cứu của các Viện còn quá thấp. Hậu quả là nội dung các
nhiệm vụ KH&CN của Viện bị phân tán, chia cắt, thậm chí chồng chéo, chất
lượng và tiến độ thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quan trọng, quy mô lớn bị
ảnh hưởng.
- Vẫn còn có sự lệch pha ở mức độ nhất định giữa chuyên môn đào tạo
và vị trí việc làm được phân công, giữa sở thích và nguyện vọng của cá nhân
với nhu cầu công việc của cơ quan; Nhiều viên chức nghiên cứu KH&CN phải
74
làm hoặc kiêm nhiệm thêm các công việc ngoài nghiên cứu như hành chính,
thư viện hay đối ngoại,… dẫn đến hiệu quả công việc (cả nghiên cứu khoa học
lẫn phục vụ nghiên cứu) chưa được như mong muốn.
- Kỹ năng nghiệp vụ của viên chức chưa thật sự đáp ứng tốt yêu cầu của
vị trí việc làm; khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của viên chức vẫn còn
hạn chế. Trong nhiều trường hợp, các chứng chỉ tin học, thậm chí cả chứng chỉ
ngoại ngữ lẫn phương pháp nghiên cứu đối với đôi ba trường hợp, chỉ để đảm
bảo/hay hợp thức hóa công tác tuyển dụng và đánh giá viên chức, còn hiệu quả
thực chất để áp dụng cho công việc hàng ngày chưa cao. Chẳng hạn, việc thành
thạo trình độ ngoại ngữ (chủ yếu tiếng Anh) mới chỉ tập trung chủ yếu ở các
viên chức quản lý, viên chức trẻ trực tiếp nghiên cứu, còn đối với viên chức
hành chính, nghiệp vụ, còn khả năng nghe, nói, đọc, viết của nhóm viên chức
này còn hạn chế.
Mặc dù các kỹ năng phổ thông của đa số viên chức của VASS cũng như
của các Viện thuộc Khối NCQT đã đáp ứng được yêu cầu của vị trí việc làm,
song một số kỹ năng khác, như phân tích vấn đề và giải quyết vấn đề, lập kế
hoạch công tác, kỹ năng tham mưu còn hạn chế,… nên cũng ảnh hưởng tiêu
cực ít nhiều đến hiệu quả công việc.
- Về thể lực, mặc dù chưa hoàn toàn chính xác và đầy đủ, song kết quả
thăm khám sức khỏe tổng quát định kỳ của Văn phòng VASS nhiều năm qua
cũng cho thấy: Viên chức của VASS nói chung và các Viện Khối NCQT nói
riêng cũng thường mắc các căn bệnh phổ biến của lứa tuổi, giới tính và nghề
nghiệp. Trước hết, tỉ lệ béo phì, mỡ máu đã khá cao ở lớp trẻ (từ 30-40 tuổi),
số người mắc bệnh tiểu đường, cao huyết áp, tim mạch, cơ, xương khớp là phổ
biến ở những người từ 45 trở lên, còn những bệnh về mắt (cận, viễn, rối loạn
và đục thủy tinh thể) là hiện tượng phổ biến ở mọi lứa tuổi, nhất là nam giới.
Còn phụ nữ thường gặp các căn bệnh về sinh sản, phụ khoa (u xơ tử cung hay
75
u vú), và nam giới thường là tuyến tiền liệt, tuyến thượng thận. Thậm chí, mặc
dù đã được thăm khám thường xuyên, song hàng năm vẫn có viên chức bị ung
thư giai đoạn muộn và có nguy cơ cao. [30, tr.104]
Hậu quả của nhưng hạn chế về chất lượng viên chức KH&CN của VASS
nói chung và các Viện thuộc Khối NCQT nói riêng là các sản phẩm nghiên cứu
(đề tài, dự án, sách báo, tạp chí) của các Viện này trong mấy năm gần đây, tuy
nhiều về số lượng, nhưng vẫn còn ít những công trình có giá trị cao về lý và
luận thực tiễn. Mặc dù có đội ngũ viên chức khoa học hùng hậu, là nơi quy tụ
nhiều nhân lực có trình độ chuyên môn cao (GS, PGS, TS.), nhưng trên thực tế
tại 08 đơn vị thuộc Khối các Viện NCQT chưa có nhiều công trình, sản phẩm
nghiên cứu khoa học nổi bật, mang tính đột phá ở tầm khu vực và thế giới. Số
công trình khoa học được công bố quốc tế còn rất khiêm tốn, nhiều đề tài (cấp
bộ, cơ sở, thậm chí cấp Nhà nước) còn chậm tiến độ và chất lượng không cao.
* Những nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế
Những hạn chế về chất lượng viên chức KH&CN của Khối các Viện
NCQT thuộc VASS ở trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân chính như sau:
- Những nguyên nhân khách quan.
+ Đầu tư cho khoa học (nhất là KHXH&NV) của nhà nước còn chưa đúng
mức để tạo bước đột phá, thậm chí duy trì sự phát triển bình thường trong lĩnh
vực phát triển khoa học. Chưa có cơ chế thích hợp để thu hút đầu tư cho
KHXH&NV từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước. Đồng thời, việc phân bổ
kinh phí nghiên cứu khoa học (cho các cơ sở, các chương trình, đề tài nghiên
cứu và cho các cá nhân) còn rất bất hợp lý, thiếu chuẩn mực khách quan và
khoa học, còn thiên về cơ chế xin cho hay cào bằng (đặc biệt đối với các đề tài
cấp cơ sở), gây lãng phí vốn và không hiệu quả.
76
+ Về cơ bản thu nhập cho viên chức KH&CN, nhất là các viên chức trong
lĩnh vực KHXH&NV, còn thấp chưa tương xứng với khả năng và đáp ứng nhu
cầu thực tế công tác và đời sống. Dẫn đến việc người trẻ có triển vọng thường
không muốn về công tác tại VASS, nhất là các Viện thuộc Khối NCQT, hoặc
xin chuyển việc để tìm đến môi trường làm việc tốt hơn, có thu nhập cao hơn
để phát huy được năng lực của mình. Ví dụ, ở Viện KT&CTTG, có năm, tỉ lệ
giữa ứng viên so với chỉ tiêu được tuyển, chỉ đạt 0,4-0,5, rất thấp, nhưng cũng
không tuyển được người nào, do chất lượng ứng viên quá thấp. Vì vậy, việc
phát triển đội ngũ viên chức khoa học của VASS nói chung và các Viện thuộc
Khối NCQT vẫn gặp khó khăn nhất là đối với công tác tuyển dụng, thu hút và
giữ nhân tài.
+ Mặc dù VASS và các Viện thuộc Khối NCQT đã hết sức cố gắng, song
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học, nhất là khoa học cơ bản, trong đó
có KHXH&NV, còn nhiều hạn chế: Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, kinh phí đầu
tư cho đào tạo, bồi dưỡng còn thấp. Chương trình đào tạo vẫn còn hình thức,
chưa sát với thực tế và yêu cầu của hội nhập quốc tế. Nhiều lớp (nhất là các lớp
ngắn hạn, nâng cao) mở ra nhiều khi chỉ để cho Có, chưa đánh giá và đo lường
được hiệu quả thực chất.
+ Công tác quy hoạch, kế hoạch trong bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân
lực, cũng như các chính sách thu hút và phát triển đội ngũ viên chức còn chịu
nhiều ràng buộc bởi các quy định chung về tổ chức cán bộ của nhà nước, khiến
các tổ chức nghiên cứu khoa học không thể có đột phá trong vấn đề này để có
thể tuyển, thu hút, đào tạo và phát triển được NNL giỏi và chất lượng cao về
làm việc, dù muốn.
+ Ở phương diện vĩ mô nói chung, tình trạng hành chính hóa các hoạt động
KHCN và các cơ quan đang là một rào cản rất lớn đối với việc phát huy vai trò
của NNL khoa học công nghệ, kìm hãm sự phát triển KHCN và hội nhập quốc
77
tế của đất nước cũng như tại Khối các Viện NCQT. Việc hành chính hóa các
hoạt động KHCN được thể hiện ở các khâu, các bộ phận như: quy định về thang
bảng lương, chế độ nâng bậc lương, các quy định về trang thiết bị, vật tư, điều
kiện làm việc, các thủ tục hành chính, thi tuyển, nâng bậc, thăng tiến,... các thủ
tục đối với các đề tài nghiên cứu cũng rất nặng nề về thủ tục hành chính. Công
tác quản lý hành chính và các thủ tục hành chính cồng kềnh, nhiêu khê như hiện
nay đã gây cản trở rất lớn cho hoạt động KHCN và hội nhập quốc tế.
- Về các nguyên nhân chủ quan:
+ Mấy năm gần đây, VASS nói chung và các Viện thuộc Khối NCQT
chưa thực sự có chiến lược tuyển dụng, quy hoạch và sử dụng đội ngũ viên
chức KH&CN bài bản và dài hơi, thiếu sự hợp tác với các cơ sở đào tạo có uy
tín ở trong và ngoài nước, nên dẫn đến việc tuyển dụng mang tính ngắn hạn,
được chăng hay chớ. Hậu quả là thiếu các đội ngũ kế cận phù hợp cho lớp cán
bộ có trình độ cao đến tuổi về hưu.
Mặc dù cũng có những chính sách ưu đãi để thu hút, đãi ngộ, sử dụng
viên chức, nhưng những ưu đãi này chưa đủ mạnh, chưa tạo động lực, chưa
phát huy hiệu quả năng lực sáng tạo và đóng góp của đội ngũ nghiên cứu khoa
học, nhất là người có trình độ cao, tài năng trẻ.
+ Quản lý công tác chuyên môn và tổ chức đánh giá viên chức diễn ra
hàng năm nhưng chưa thật sự hiệu quả, đôi khi, đôi chỗ còn mang tính hình
thức, cào bằng và thiếu khách quan, nên không đúng thực chất, đã làm giảm
tính hiệu quả trong việc sử dụng nhân lực của các Viện.
Những biện pháp khuyến khích, khen thưởng hay xử phạt cán bộ vẫn
theo lối cũ, vẫn bị trói buộc bởi các quy định hành chính của Nhà nước, chủ
yếu dựa vào biện pháp “tuyên dương danh hiệu”, “nâng lương trước hạn” hay
“đề bạt”, song các biện pháp này rất hạn chế, không có nhiều kích thích. Vì,
78
thứ nhất, là “chức vụ” thì ít và thậm chí nhiều khi “quy hoạch một đằng, thực
hiện một nẻo” gây mất lòng tin của các cán bộ; thứ hai, là biện pháp “nâng
lương trước hạn” lại càng hạn chế vì bị giới hạn bởi quy định/chỉ tiêu của nhà
nước, và số lần và mức chênh lệch cho mỗi bậc lương lại quá nhỏ, nên ít người,
nhất là cán bộ lâu năm, mặn mà.
+ Khả năng tuyển dụng NNL trẻ, cũng như thu hút các cán bộ nghiên
cứu lâu năm có trình độ cao (như TS, GS., PGS) vào làm việc và gắn bó với
VASS rất thấp. Lý do là, những kích thích như thu nhập (tiền lương và các
khoản thu nhập ngoài lương) và việc làm (đề tài, dự án) của VASS và Khối các
Viện NCQT rất thấp và hạn hẹp, nếu không muốn nói là gần như không có.
Tình trạng thu nhập thấp, lương và các nguồn thu nhập không đảm bảo
cuộc sống cộng với đề tài được phân bổ không đều đã không tạo được động lực
làm việc thực sự và gắn bó với VASS. Đặc biệt đối với các viên chức khoa học
trẻ, thu nhập không đủ đảm bảo cho cuộc sống, đã khiến cho một bộ phận viên
chức này (cả trực tiếp nghiên cứu lẫn gián tiếp phục vụ nghiên cứu) chán nản,
không muốn phấn đấu nâng cao trình độ và tiếp tục làm việc tại VASS mà tìm
cách chuyển ra ngoài tới các trường đại học, các doanh nghiệp, hoặc thậm chí
bỏ việc về tự kinh doanh. Một bộ phận không nhỏ viên chức còn tiếp tục ở lại
thì thiếu tập trung, chưa quan tâm nhiều đến công việc của Viện, “chân ngoài
dài hơn chân trong”, dẫn đến năng suất, chất lượng của các sản phẩm khoa học
của cá nhân và đơn vị không cao.
+ Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ được làm
thường xuyên nhưng chưa thực sự có hệ thống, chưa có quy hoạch cụ thể dẫn
đến thừa chuyên môn này nhưng lại thiếu chuyên môn khác. Việc cử các cán
bộ đi học tập nâng cao trình độ ở nước ngoài cũng không thường xuyên và có
kế hoạch mà “được chăng hay chớ”, tùy thuộc phần lớn vào khả năng kết nối
của các lãnh đạo, cơ hội tài trợ của phía đối tác và năng lực tìm kiếm của mỗi
79
viên chức KH&CN. Việc theo học các khóa đào tạo tiến sĩ hay thạc sĩ trong
nước cũng không được các cán bộ trẻ mặn mà, do họ chỉ được cơ quan cử đi,
mà không được hưởng bất kỳ một khuyến khích nào về vật chất (như hỗ trợ về
học phí, miễn giảm thời gian làm việc tại cơ quan) hay tinh thần (được tính
điểm ưu tiên để đạt các loại danh hiệu thi đua hàng năm). Hậu quả là tỉ lệ viên
chức KH&CN có trình độ cao (Thạc sĩ, Tiến sĩ) của VASS nói chung và Khối
các Viện NCQT nói riêng ngày càng giảm hoặc tăng chậm.
+ Viên chức tại các Phòng chức năng có nhiều viên chức từ phòng nghiên
cứu chuyển về, do vậy về kinh nghiệm quản lý cũng như thực hiện nghiệp vụ
hành chính còn nhiều hạn chế. Mặc dù họ luôn năng động, nhiệt tình, có trình
độ chuyên môn cao, song trong công tác quản lý cũng như thực hiện các công
việc hành chính còn nhiều lúng túng. Cụ thể trong quá trình xử lý các nghiệp
vụ hành chính, kỹ năng soạn thảo văn bản, giải quyết công việc tham mưu, giúp
việc Lãnh đạo Viện, Lãnh đạo đơn vị còn gặp khó khăn nhất định, hiệu quả
công việc chưa cao.
+ Công tác thi đua, chăm sóc sức khỏe cán bộ công nhân viên, các hoạt
động văn hóa, thể thao, phổ cập kiến thức phổ thông,… mặc dù được chính
quyền và các tổ chức quần chúng cố gắng tổ chức, song vẫn chưa thường xuyên,
nặng về hình thức, nhiều khi không sát với nhu cầu của cán bộ viên chức, còn
thiếu thực chất, nên hiệu quả mang lại không cao.
+ Cuối cùng, khoảng 5-7 năm gần đây lãnh đạo các Viện chuyên ngành
của VASS nói chung, trong đó có Khối các Viện NCQT, bị luân chuyển, điều
chuyển chéo liên tục, thậm chí không theo một chuẩn mực nào, đã góp phần
làm cho công tác nghiên cứu, công tác tổ chức cán bộ và phát triển NNL của
VASS và Khối các Viện NCQT không ổn định, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý
của phần đông viên chức của VASS. Trong khi đó, hệ thống chính trị và các cơ
quan chức năng của VASS chưa thực sự công tâm, khách quan và toàn tâm toàn
80
ý vì việc chung của VASS nên còn xuê xoa đối với các khuyết điểm và yếu
kém của Lãnh đạo và thường vụ VASS, quyền lợi của đảng viên, công đoàn và
viên chức của VASS chưa được chú ý và bảo vệ thích đáng. Tình trạng đó càng
làm trầm trọng thêm sự bất ổn, thái độ chán nản và tinh thần phấn đấu, làm việc
của các viên chức KH&CN của VASS và Khối các Viện NCQT thời gian qua.
Điều này đã được UBKT TƯ chỉ ra trong các Kết luận kỷ luật Ban lãnh đạo,
Ban Thường vụ và một số cá nhân thuộc VASS trong Kỳ họp lần thứ 20 vào
các ngày 23-26 tháng 9/2022 vừa qua [26, tr.104].
Tiểu kết Chương 2
Trong những năm qua, mặc dù được Đảng và Nhà nước quan tâm, VASS
và các Viện thuộc Khối NCQT có nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng viên
chức KH&CN của mình trong khả năng có thể. Những nỗ lực đó đã mang lại
nhưng thành quả nhất định trong việc cải thiện chất lượng viên chức, góp phần
vào việc hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước
giao phó. Tuy nhiên, việc cải thiện chất lượng viên chức của các Viện này và
bộc lộ một số tồn tại như số lượng viên chức không những không tăng, mà còn
có chiều hướng giảm ở nhiều Viện; chất lượng viên chức ở một chừng mực nào
đó có tăng, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trên cả 3 phương diện
trí lực, thể lực và tâm lực. Sự bất cập hay những hạn chế đó về chất lượng viên
chức KH&CN của các Viện thuộc Khối NCQT là do cả các nguyên nhân khách
quan (về nhận thức, về chính sách, chế độ đãi ngộ và đầu tư của Nhà nước đối
với viên chức KH&CN) lẫn chủ quan (từ khâu kế hoạch hóa nguồn nhân lực,
tuyển mộ, thu hút, bố trí và phân công công việc, bồi dưỡng, đào tạo và phát
triển nhân lực, đánh giá và đãi ngộ đối với đội ngũ viên chức,…) của VASS và
các Viện này.
81
CHƯƠNG 3:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIÊN
CHỨC TẠI KHỐI CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ TRỰC THUỘC
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
3.1. Định hướng và chiến lược nâng cao chất lượng viên chức tại Khối
các Viện nghiên cứu quốc tế
3.1.1. Dự báo xu hướng nâng cao chất lượng viên chức, cơ hội và thách
thức đối với các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH
Việt Nam
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình hội nhập
quốc tế sâu rộng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề đối với phát triển nhân lực
nghiên cứu khoa học của nước ta. Trí tuệ ảo, kỷ nguyên số và sự phát triển bùng
nổ khoa học liên ngành, đa ngành, xuyên ngành sẽ không chỉ mang lại cơ hội
mà còn đặt ra những thách thức rất lớn đối với yêu cầu xây dựng và phát triển
nhân lực khoa học có thể đáp ứng với yêu cầu giai đoạn mới.
Quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, đặt ra yêu cầu nhân lực nghiên cứu
khoa học phải có những kỹ năng mang tính toàn cầu, cập nhật và theo kịp xu
thế mới trong nghiên cứu quốc tế. Bên cạnh đó, đặt ra rất nhiều vấn đề, trong
đó có cả những thuận lợi, cơ hội cũng như khó khăn và thách thức đối với nhân
lực khoa học và công nghệ của Việt Nam; đòi hỏi phải có lộ trình chuẩn bị kiến
thức, kỹ năng và thái độ cũng như tâm lý sẵn sàng thích nghi với yêu cầu hội
nhập mang tính toàn cầu.
Sự chênh lệch về thu nhập, điều kiện làm việc giữa các Viện nghiên cứu
và khối kinh tế bên ngoài dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc thu hút nguồn
nhân lực chất lượng cao và có thể xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám” nhân
lực. Điều đó đặt ra yêu cầu mang tính chiến lược trong xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực nhân lực không chỉ ở Viện nói riêng mà còn là của Chính phủ,
82
bộ ban ngành nói chung nhằm thu hút, lôi kéo và kết nối một cách có hiệu quả
sự tham gia, đóng góp của nguồn nhân lực khoa học có chất lương cao tham
gia đóng góp hiệu quả vào công tác tư vẫn chính sách phát triển kinh tế - xã
hội.
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao, tâm huyết,
trung thực, tận tụy phải được xác định là khâu “đột phá” để phát triển đất nước
trong điều kiện tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư và
quá trình hội nhập quốc tế mang tính toàn cầu.
Từ mục tiêu định hướng, chiến lược phát triển lâu dài VASS, Khối các
Viện NCQT đã xác định, định hướng trong những năm tới là: Xây dựng và phát
triển đội ngũ viên chức của cơ quan thành đội ngũ CBCNV vững mạnh, lấy chỉ
tiêu hiệu quả công việc làm thước đo cho mọi hoạt động, lấy sự đảm bảo uy tín,
chất lượng là sự sống còn cho sự phát triển bền vững. Không ngừng xây dựng
đội ngũ viên chức có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, phát triển toàn diện.
Chấp nhận cơ chế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, phát huy thế mạnh, tận
dụng mọi nguồn lực để nâng cao hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao
uy tín của Viện.
Một là, phát triển 08 Viện thuộc Khối các Viện NCQT trở thành một trung
tâm nghiên cứu quốc tế hàng đầu về nghiên cứu cơ bản, tham mưu chính sách
cũng như đào tạo các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, có những đóng góp
thực sự quan trọng trong việc cung cấp căn cứ khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; có uy
tín cao trong nước và quốc tế; có vị thế, vai trò quan trọng trong sự nghiệp tiếp
tục đổi mới toàn diện đất nước.
Hai là, xây dựng và phát triển đội ngũ viên chức của các Viện cả về số
lượng và chất lượng, chú trọng đào tạo lực lượng chuyên gia và cán bộ kế cận,
thu hút các nhà khoa học có trình độ cao nhằm phát triển đội ngũ viên chức
83
hùng hậu cả số lượng và chất lượng, đủ sức giải quyết những vấn đề lý luận và
thực tiễn đặt ra, đồng thời hướng tới việc sáng tạo những công trình nghiên cứu
đạt chuẩn quốc gia, khu vực và thế giới.
Ba là, công bố những công trình nghiên cứu trọng điểm có giá trị cao để
khẳng định vai trò, uy tín và ảnh hưởng của các Viện thuộc Khối các Viện
NCQT đối với đời sống khoa học nước nhà, được sử dụng vào các hoạt động
lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
góp phần phát triển kho tàng trí tuệ của KHXH&NV Việt Nam.
Bốn là, đổi mới toàn diện công tác quản lý khoa học từ khâu đề xuất nghiên
cứu đến lựa chọn, thẩm định, đánh giá, nghiệm thu theo hướng chú trọng đến
chất lượng và hiệu quả, ưu tiên các đề tài có giá trị khoa học và tính ứng dụng
cao. Đa dạng hóa các nguồn lực phát triển khoa học xã hội và nhân văn thông
qua việc tăng cường hợp tác, liên kết nghiên cứu với các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp trong và ngoài nước; đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện
cho các đơn vị đẩy mạnh việc huy động các nguồn lực, nhất là các nguồn lực
tài chính phục vụ nghiên cứu đào tạo theo quy định của pháp luật.
Năm là, ưu tiên phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao; có chiến
lược cụ thể và đề xuất với Nhà nước cơ chế đãi ngộ thích hợp nhằm thu hút
nhân tài, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia và lãnh đạo quản lý các cấp.
Chú trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong từng lĩnh vực và đội
ngũ các nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, có năng lực nghiên cứu và
đề xuất các giải pháp kiến nghị về các vấn đề liên quan trực tiếp đến quốc kế
dân sinh, những vấn đề ở tầm chiến lược, vĩ mô và dài hạn của đất nước.
Sáu là, việc nâng cao chất lượng viên chức tại Khối các Viện NCQT luôn
phải đạt được việc cân đối giữa nâng cao chất lượng với tuyển dụng nhân sự,
từ đó mới đảm bảo bố trí đúng nhân lực tránh tình trạng tràn lan dẫn đến không
hiệu quả. Bên cạnh đó, các Viện thuộc Khối các Viện NCQT vẫn phải thực hiện
84
đúng lộ trình tinh giản biên chế mà Nhà nước đã đề ra; Bảo đảm nâng cao chất
lượng viên chức với Đề án xác định vị trí việc làm, từ đó bố trí và sử dụng viên
chức hợp lý để họ phát huy tối đa năng lực, trình độ và phẩm chất của mình
nhằm phục vụ thực hiện thắng lợi mục tiêu chung của VASS trở thành một
Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội hàng đầu của cả nước với tiềm lực
KHCN đạt trình độ tiên tiến tại Khu vực Đông Nam Á.
3.1.2. Định hướng nâng cao chất lượng viên chức tại Khối các Viện
nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Trong chiến lược phát triển và tầm nhìn 2030 của các Viện, cơ cấu tổ chức
của các Viện sẽ tiếp tục được kiện toàn với số lượng nhân sự được chú trọng
đầu tư để nâng cao về chất lượng và không tăng nhiều về số lượng, đảm bảo
gọn nhẹ, hiệu quả với các mục tiêu:
Một là, kiện toàn sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Khối các Viện NCQT
theo hướng tinh gọn, hiệu quả; tiến hành điều chỉnh nhằm đảm bảo sự cân đối,
hợp lý giữa số lượng viên chức nghiên cứu với số lượng viên chức hỗ trợ, phục
vụ; nghiên cứu, vận dụng chế độ, chính sách đối với viên chức.
Hai là, xây dựng kế hoạch bổ sung nguồn nhân lực đào tạo, đào tạo lại và
nâng cao nhằm bồi dưỡng và làm phong phú thêm những tri thức và năng lực mới
cho đội ngũ viên chức, giúp họ có đủ khả năng thích ứng trước những đòi hỏi
mới của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng của Việt Nam ở những thập niên tới.
Ba là, tiếp tục chuẩn hóa hoạt động đào tạo, phối hợp với các Bộ, ngành và
các cơ sở đào tạo xây dựng các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn, góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực về KHXH trong cả nước.
Bốn là, đẩy mạnh đổi mới, thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy tự chủ và
sáng tạo trong các hoạt động nghiên cứu, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các
85
nhà nghiên cứu khoa học phát huy và cống hiến khả năng, trí tuệ và nhiệt huyết,
đồng thời nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản lý các hoạt động nghiên
cứu khoa học.
Xuất phát từ những mục tiêu và định hướng phát triển của Khối các Viện
NCQT trong những năm tới, tác giả đề xuất một số quan điểm phát triển viên
chức như sau:
- Phát triển đội ngũ viên chức phải dựa trên và phục vụ cho chiến lược phát
triển của VASS. Nhân lực nghiên cứu khoa học là lực lượng nòng cốt, là nội lực
quan trọng để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của 08 Viện thuộc Khối
các Viện NCQT. Chính vì vậy, việc xây dựng, đào tạo phát triển NNL có chất
lượng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển của VASS trong bối cảnh hội nhập
hiện nay có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định sự phát triển của Viện.
- Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phát triển NNL của VASS cần hướng tới
việc hình thành đội ngũ nhân lực đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, có năng lực
tự học, tự đào tạo, có khả năng sáng tạo, thích nghi và hội nhập để giải quyết
những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Phát triển nguồn nhân lực là một quá trình liên tục được thực hiện đồng
bộ từ khâu tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo và sử dụng. Phát triển nhân lực của
Khối các Viện NCQT phải luôn được quan tâm thực hiện ngay từ khi họ bắt đầu
tham gia vào làm việc trong các Viện và cả trong suốt thời gian làm việc. Nâng
cao chất lượng NNL có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức, biện pháp
sát thực. Phải được tiến hành ngay từ khâu tuyển dụng với những hình thức thi
tuyển nghiêm túc theo quy trình thống nhất trên cơ sở tiêu chuẩn hợp lý. Tiếp
theo đó là cả quá trình đào tạo và tự đào tạo trong suốt quá trình làm việc, để
tiếp tục trang bị những kỹ năng, những kiến thức mới; đồng thời làm tốt việc sắp
xếp, sử dụng đúng và có hiệu quả đội ngũ viên chức khoa học.
86
- Khối các Viện NCQT cần chú trọng vào đầu tư khoa học và công nghệ;
trong thời đại CMCN 4.0, cần tập trung đầu tư đầy đủ trang thiết bị, phương
tiện làm việc nhằm đáp ứng được nhu cầu về tăng trưởng đội ngũ viên chức
phục vụ công việc được giao.
- Để nâng cao chất lượng viên chức, VASS và các Viện thuộc Khối NCQT
cần tập trung đổi mới cơ chế quản lý để phù hợp với cơ cấu, số lượng người
làm việc. Luôn song hành giữa việc nâng cao chất lượng và đề án xác định vị
trí việc làm để bố trí nhân sự được hài hòa và hợp lý.
- Để thu hút và trọng dụng các viên chức, đặc biệt là viên chức KH&CN,
cần phải có một chiến lược, kế hoạch và chính sách đánh giá, đào tạo, phát triển
đồng bộ và liên quan chặt chẽ lẫn nhau.
3.2. Một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng viên
chức KH&CN của các Viện thuộc Khối NCQT.
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức, nhất là viên chức trực
tiếp nghiên cứu khoa học là yếu tố sống còn của VASS nói chung và các Viện
thuộc Khối NCQT hiện nay nói riêng, vì đó là tài sản, là nguồn lực to lớn và quý
giá nhất của bất kỳ một tổ chức nào, không riêng gì của các Viện thuộc VASS.
Từ những ưu điểm, hạn chế về chất lượng và của các hoạt động nâng cao
chất lượng đội ngũ viên chức KHCN của VASS, của các Viện thuộc Khối NCQT
cũng như các nguyên nhân chủ yếu của chúng thời gian qua, và trên cơ sở định
hướng, mục tiêu và quan điểm phát triển của các tổ chức này trong điều kiện
CMCN 4.0 và HNQT sâu rộng tới đây, có thể thấy rằng, các tổ chức này cần khẩn
trương tiến hành những giải pháp chủ yếu sau đây để khắc phục những hạn chế và
phát huy những điểm mạnh về chất lượng của đội ngũ viên chức KHCN của mình.
87
3.2.1. Giải pháp về thu hút và giữ chân người tài
Để việc phát triển đội ngũ viên chức đặc biệt là viên chức nghiên cứu có
trình độ cao đạt được hiệu quả cao nhất. Viện cần xây dựng bản mô tả tiêu
chuẩn công việc và từ đó định hướng các điều kiện, tiêu chuẩn tối thiểu mà một
nhà nghiên cứu khoa học cần có. Đồng thời, áp dụng các phương pháp dự báo
hiện đại và xây dựng các kế hoạch dài hạn về nguồn nhân lực.
Từ thực tế của các Viện nghiên cứu nói chung hiện nay, đội ngũ cán bộ
trẻ có trình độ cao, được đào tạo bài bản lại không muốn làm công tác nghiên
cứu, lý do chủ yếu là do thu nhập thấp, các điều kiện nghiên cứu của các viện
nghiên cứu còn hạn chế hơn nhiều so với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ, đặc biệt thấp hơn nhiều so với đồng nghiệp trong khu vực và thế giới. Do
đó, phải có thêm các đề tài, dự án tạo thêm thu nhập và chính sách đãi ngộ thỏa
đáng mới giữ chân được nguồn chất xám trẻ này.
Viện cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách đãi ngộ đội ngũ
cán bộ có trình độ cao (có bằng giỏi trong nước hoặc tốt nghiệp ở nước ngoài),
tạo động lực bằng vật chất và tinh thần theo hướng đãi ngộ hợp lý đối với từng
đối tượng, đặc biệt đội ngũ cán bộ có trình độ cao đáp ứng được yêu cầu thực
tế về chuẩn hóa quốc tế trong việc nghiên cứu và có thể tham gia nhiều sân
chơi, diễn đàn quốc tế về nghiên cứu. Viện cũng cần tiếp tục tạo dựng và phát
triển môi trường làm việc văn hóa lành mạnh từ xây dựng niềm tin, các chuẩn
mực về hành vi ứng xử trong nghiên cứu, trong kinh doanh. Đặc biệt tạo dựng
niềm say mê và khát vọng sáng tạo khoa học của đội ngũ cán bộ này.
3.2.2. Giải pháp về đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn
cho Nghiên cứu viên trẻ
Trong công tác phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nghiên cứu viên trẻ
thì công tác đào tạo, bồi dưỡng là hết sức quan trọng, nó tạo cơ hội cho mỗi cán
bộ trẻ tự vươn lên hoàn thiện bản thân và giúp cho Viện có được một đội ngũ
đảm bảo chất lượng, số lượng, hợp lý cơ cấu. Ngày nay trong điều kiện khoa
88
học, công nghệ- thông tin đang phát triển mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra cho mỗi cán
bộ nghiên cứu trẻ là cần phải thường xuyên tự hoàn thiện tri thức và kĩ năng
nghề nghiệp cho bản thân, không ngừng mở rộng và nâng cao trình độ nghiên
cứu, ngoại ngữ, tin học để thích ứng với yêu cầu ngày càng khó khăn của đề tài
nghiên cứu, để thích ứng hơn với nền kinh tế thị trường và xu thế của thời đại.
Các Viện cần phải đặc biệt coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ nghiên cứu viên trẻ. Các giải pháp để nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực cho các Viện thuộc Khối nghiên cứu quốc tế bao gồm:
- Khảo sát, tổng hợp tình hình và phân loại nhu cầu đào tạo bồi dưỡng để
có thể xây dựng một kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực chất lượng
về chuyên môn, nghiệp vụ, cách thức nghiên cứu đề tài hợp lý nhất.
- Công khai hóa về quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ đến từng
Phòng chức năng và cán bộ nghiên cứu làm cho mỗi người nhận thức được
nhiệm vụ bồi dưỡng không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt coi đó là nghĩa vụ
và quyền lợi của mỗi người.
- Tổ chức lại công tác đào tạo, yêu cầu đào tạo thông qua công việc, bồi
dưỡng đội ngũ theo chức năng theo từng phòng trong Viện. Các nghiên cứu
viên có kinh nghiệm cần được giao chỉ tiêu củ thể kèm cặp và đào tạo các
nghiên cứu viên trẻ theo thời gian và khối lượng công việc (tối ưu nhất là 1 kèm
1). Việc đào tạo này cần được tính là một chỉ tiêu trong đánh giá hoàn thành
công việc của các nghiên cứu viên lâu năm.
- Cử cán bộ tham gia các lớp học bồi dưỡng, chuyên môn nghiệp vụ do
Bộ, ngành tổ chức tham dự hội thảo khoa học trong và ngoài Viện, hoặc đi đào
tạo sau đại học trong và ngoài Viện cần được theo dõi sát sao hơn. Việc lựa
chọn cán bộ nghiên cứu đi đào tạo, bồi dưỡng cần tiến hành xem xét kỹ lưỡng,
việc lựa chọn hình thức tổ chức, địa điểm, phương thức đào tạo, khả năng điều
kiện thực tế của Viện, của bản thân cán bộ phù hợp với yêu cầu đào tạo, bồi
dưỡng phát triển đội ngũ.
89
- Ngoài các khóa đào tạo do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ
chức, Viện cần chủ động hơn trong việc mở các buổi tập huấn nhỏ để đào tạo, cập
nhật về tin học, đổi mới phương pháp tiếp cận nghiên cứu khoa học, sử dụng công
nghệ trang thiết bị hiện đại trong quá trình làm việc và nghiên cứu.
- Thường xuyên tổ chức hội thảo, tọa đàm về nghiên cứu để mỗi cán bộ
nghiên cứu khoa học có thể trao đổi, rút kinh nghiệm, đổi mới phương pháp
nghiên cứu. Chủ tọa của các buổi tọa đàm khoa học cần được luân phiên cho
các nghiên cứu viên trẻ để phát triển các kĩ năng thuyết trình, trình bày khoa
học, và ưu tiên trình bày bằng tiếng Anh.
- Khuyến khích tạo điều kiện về thời gian, kinh phí cho cán bộ trẻ tự học,
tự bồi dưỡng về chuyên môn, nghiên cứu và các kiến thức bổ trợ khác.
Hơn nữa, công tác đào tạo chuyên môn phải được đặt ngang tầm công tác
giáo dục, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, ý thức công dân, trách nhiệm viên
chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ và ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện cho
đội ngũ cán bộ này. Do đó, Lãnh đạo Viện cần chủ động xây dựng nội dung
chương trình đào tạo, bồi dưỡng không chỉ về chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn
phải quan tâm thường xuyên đến công tác giáo dục về chính trị tư tưởng, phẩm
chất đạo đức, ý thức trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao.
3.2.3. Giải pháp về công tác sử dụng, đánh giá và bổ nhiệm vị trí cho
các viên chức trong các Viện nghiên cứu thuộc Khối quốc tế
Các viên chức trong các Viện, tùy vào năng lực, cần được phân thành các
nhóm khác nhau về chuyên môn, về đối ngoại, về tổ chức hội thảo tọa đàm…
Trong các hoạt động của cơ quan, các nhóm sẽ được tham gia và chịu trách
nhiệm hoàn toàn trong công việc. Thông qua đó, sự phối hợp và gắn kết của
các viên chức trong Viện tăng lên. Các viên chức trẻ sẽ được tham gia nhiều
hơn và học hỏi những người có kinh nghiệm trong công việc.
Bên cạnh đó, công tác sử dụng, phối hợp và bổ nhiệm vị trí cần dựa trên
sự đánh giá thường xuyên đội ngũ viên chức trong Viện qua từng năm (đặc biệt
90
là khối nghiên cứu). Việc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, làm cơ sở, tiền
đề cho lãnh đạo Viện đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu công việc qua kết quả
thực hiện và ngược lại, các cán bộ Viện tự đánh giá mình so với yêu cầu, tại vị
trí đang làm việc, so sánh với các đồng nghiệp để từ đó có kế hoạch điều chỉnh
và phát triển cho bản thân. Cần tập trung vào những việc sau để việc nhận xét,
đánh giá chính xác:
- Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá, định kỳ nhận xét viên chức và cần
cập nhật thường xuyên; xây dựng bản mô tả công việc đối với từng vị trí công
tác để xây dựng từng chỉ tiêu đánh giá cụ thể, phù hợp. Hầu hết các Viện tuy
đã xây dựng được bộ chỉ tiêu đánh giá, chấm điểm cho các cán bộ Nghiên cứu
khá chi tiết nhưng vẫn thiếu cập nhật thường xuyên để bắt kịp tình hình mới.
Bên cạnh đó, khối các cán bộ chức năng vẫn chưa có đánh giá cụ thể về hiệu
quả làm việc.
- Nhận xét, đánh giá viên chức không chỉ căn cứ vào lời nói, mà cần ở việc
làm, sự cống hiến của họ. Do đó, cần có cơ chế năng động để điều chỉnh thích
hợp.
- Việc nhận xét, đánh giá đội ngũ viên chức phải công tâm, khách quan;
phát huy dân chủ để nắm bắt thông tin đầy đủ, nhiều chiều về đội ngũ này và
bảo đảm các yêu cầu của việc đánh giá (phù hợp, tin cậy, thực tiễn, ...).
Tập trung vào những viên chức có khả năng lãnh đạo, trình độ chuyên
môn tốt và tâm huyết với nghề, đạt được nhiều thành tích trong công tác làm
nguồn quy hoạch của Viện. Các quy định, hướng dẫn về công tác quy hoạch
cần được công khai cũng như phổ biến kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của
Viện đến từng viên chức giúp họ nhận thức được yêu cầu phát triển và bổ nhiệm
để có ý thức hơn trong công tác đào tạo. Khi viên chức trong Viện nhận thức
được điều đó sẽ khích thích tinh thần phát triển bản thân để được giao những
trọng trách cao hơn.
91
3.2.4. Giải pháp xây dựng văn hoá cơ quan nghiên cứu đoàn kết và giúp
đỡ nhau phát triển
Thực tế cho thấy, với những cơ quan có môi trường văn hóa làm việc tốt,
mọi viên chức luôn luôn được khuyến khích đưa ra sáng kiến, ý tưởng của mình
… thì họ trở nên năng động, sáng tạo hơn và cũng gắn bó với sợ nghiệp nghiên
cứu khoa học hơn. Bên cạnh đó, được làm việc trong một môi trường văn hóa
tốt, các thành viên chia sẻ các giá trị lợi ích giống nhau, chắc chắn họ sẽ hợp
tác trên tinh thần đoàn kết, nhất trí và làm việc trong sự tương trợ lẫn nhau. Khi
xảy ra những mâu thuẫn, họ dễ dàng xử lý theo cách phù hợp và ôn hòa nhất.
Giảm được xung đột, tinh thần làm việc của mọi người sẽ được nâng cao, tập
trung được thời gian, nguồn lực hướng tới các sản phẩm khoa học có chất lượng
và mang tính thực tiễn cao. Để xây dựng được một văn hóa cơ quan nghiên cứu
như vậy, các Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt
Nam cần:
- Xây dựng mối quan hệ đồng nghiệp vui vẻ, đoàn kết, gắn bó; luôn có ý
chí vươn lên trong công việc để thể hiện mình với gia đình và xã hội. Lãnh đạo
Viện cần chỉ đạo hạn chế việc mang chuyện cá nhân vào trong công việc quá
nhiều; thiếu tính trung thực trong nghiên cứu, cạnh tranh không lành mạnh, nói
không đi đôi với làm; thiếu sự đột phá để thể hiện sức sáng tạo cá nhân.
- Lãnh đạo Viện là người đặt nền móng xây dựng văn hóa cơ quan, và
cũng là người chịu trách nhiệm cuối cùng, quan trọng nhất. Vì vậy, lãnh đạo
phải là tấm gương xây dựng văn hóa cơ quan, phải đưa ra những quyết định
hợp lý trong việc xây dựng hệ thống giá trị văn hóa, và phải là người đi đầu
trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra, để làm động lực gắn kết các thành viên
trong Viện.
- Vai trò của từng viên chức trong Viện cũng rất quan trọng.Văn hóa Viện
phải do tập thể tạo dựng nên, người lãnh đạo đóng vai trò đầu tàu trong xây
dựng văn hóa tổ chức, nhưng quá trình này chỉ có thể thành công với sự đóng
92
góp tích cực của mọi thành viên trong Viện. Để thu hút mọi người quan tâm
đến văn hóa cơ quan, Viện có thể mở các tọa đàm, đối thoại về văn hóa trong
cơ quan, thường xuyên trưng cầu dân ý về môi trường làm việc của Viện và lấy
ý kiến để xây dựng. Cần phổ biến văn hóa này đến cho các cán bộ mới vào để
thấm nhuần từ đầu văn hóa này.
3.2.5. Giải pháp về việc đãi ngộ, khuyến khích về vật chất và tinh thần
đối với viên chức trong các Viện thuộc Khối nghiên cứu quốc tế
Đời sống vật chất là cơ sở, là tiền đề để đảm bảo cho người cán bộ nghiên
cứu nhất là các nghiên cứu viên trẻ sống và làm việc. Mốn phát triển sự nghiệp
nghiên cứu khoa học thì tiền đề là phải đảm bảo được cuộc sống cho người làm
nghiên cứu. Quan tâm đến nhu cầu, yêu cầu hợp pháp về vật chất, tinh thần của
họ để đáp ứng tốt nhất trong điều kiện cho phép.
Khi đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ nghiên cứu khoa học tốt
hên, họ sẽ có thêm động lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, sáng tạo và cải
tiến trong nghiên cứu khoa học. Đồng thời, họ sẽ hăng hái tham gia học tập, bồi
dưỡng nâng cao trình độ hướng tới phát triển bản thân và tránh xa các tiêu cực.
Để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ nghiên cứu các
Viện cần phải:
- Tích cực tạo thêm việc làm thông qua các dự án và đề tài để tăng thu
nhập chính đáng giúp các cán bộ, nhân viên trong Viện thực sự an tâm công tác
và dành thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu đề tài. Ngoài các đề tài cấp nhà
nước, cấp bộ, cấp cơ sở theo chỉ tiêu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam. Viện cần tích cực trong việc đăng ký chủ nhiệm các đề tài quỹ bên ngoài
cả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, Viện cần hướng tới các sản phẩm có tính
cạnh tranh để có thể tham gia các dự án và các công việc nghiên cứu thuê ngoài
khác.
- Tạo sự đoàn kết, gắn bó, chia sẻ, thân thiện trong Viện. Khích lệ, động
viên kịp thời về vật chất lẫn tinh thần cho cán bộ NCKH có cống hiến cho sự
93
nghiệp NCKH nhất là các đề tài, công trình quốc tế. Quan tâm đến công tác
phát triển về vị trí công việc cho các cán bộ.
- Lãnh đạo Viện cần cố gắng hơn nữa trong việc lắng nghe và thấu hiểu
tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị của các cán bộ để linh hoạt trong các
công tác chỉ đạo động viên kịp thời, giúp họ thoải mái về tinh thần có niềm tin
vào cơ quan và lãnh đạo và yên tâm công tác.
- Tạo điều kiện thuận lợi, động viên khích lệ cán bộ trong công việc cũng
như đời sống. Ban lãnh đạo Viện cần quan tâm hơn tới đời sống tinh thần của
cán bộ thông qua việc tổ chức và khuyến khích tham gia các hoạt động thể thao,
văn nghệ của Viện Hàn lâm tổ chức. Thông qua các hoạt động này, mọi người
sẽ tăng cường thêm tình đoàn kết và thấu hiểu nhau hơn.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ, Bộ ban ngành Trung ương
Để tạo bước đột phá trong việc phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu
khoa học đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới, đòi hỏi Chính
phủ, Bộ Khoa học công nghệ và các ban ngành liên quan phải thực hiện đồng
bộ, có hệ thống các giải pháp mang tính toàn diện từ tạo nguồn, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng, trọng dụng nhân lực đặc thù, cụ thể như sau:
Một là, nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy cho đội ngũ cán bộ làm công
tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, phải coi lao động khoa học và
công nghệ là một loại hình lao động đặc thù và do vậy cần có tư duy phù hợp
khi xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách đối với nhân lực khoa học và
công nghệ.
Hai là, có chiến lược và tầm nhìn dài hạn về công tác tạo nguồn cán bộ
nghiên cứu khoa học, xây dựng và triển khai thực hiện bài bản, khoa học quy
hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực để khắc phục tình trạng thiếu hụt
nguồn nhân lực chất lượng cao; định hướng xem xét tạo nguồn từ cấp bậc phổ
thông, đào tạo đại học và sau đại học theo các ngành, lĩnh vực được xác định
94
gắn với chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội. Việc xác định chiến lược đào tạo, tạo nguồn cán bộ nghiên cứu khoa
học phải gắn liền với yêu cầu đẩy mạnh hoạt động đổi mới sáng tạo, yêu cầu của
cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng đến các
ngành, lĩnh vực mang tính xuyên ngành, công nghệ sinh học, công nghệ kỹ thuật
số, tự động hóa và đào tạo kỹ năng mang tính toàn cầu.
Quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực nghiên cứu khoa học phải gắn
kết chặt chẽ với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và
thực hiện mối quan hệ ổn định, liên kết giữa doanh nghiệp với nhà khoa học để
nâng cao tính ứng dụng của các sản phẩm nghiên cứu.
Ba là, đẩy mạnh phát triển nhân lực khoa học bao gồm việc đào tạo, đào
tạo lại gắn liền với sử dụng và trọng dụng nhân tài; có chính sách để nuôi dưỡng
tài năng đối với cán bộ khoa học trẻ, tạo nguồn tiến tới hình thành những nhà
khoa học đầu ngành, tổng công trình sư tâm huyết và gắn bó lâu dài với sự
nghiệp nghiên cứu khoa học, có đủ năng lực chỉ đạo giải quyết những vấn đề
khoa học trọng yếu của đất nước.
Chú trọng giải pháp đưa cán bộ nghiên cứu trẻ đi thực tập, làm việc tại
các tổ chức quốc tế, viện nghiên cứu, trường đại học của nước ngoài; tăng
cường hoạt động giao lưu, trao đổi học thuật quốc tế song phương và đa
phương; đồng thời xây dựng mạng lưới hợp tác nghiên cứu với các nhà khoa
học nước ngoài và mở rộng các chương trình đào tạo ở nước ngoài để cán bộ
khoa học được cọ xát môi trường học thuật quốc tế và được đào tạo trong hoạt
động nghiên cứu và phát triển quốc tế. Ban hành cơ chế mang tính bắt buộc về
việc đào tạo lại đối với nhân lực khoa học và công nghệ tùy theo từng lĩnh vực
cụ thể.
Bốn là, hoàn thiện theo hướng đồng bộ và toàn diện chính sách đối với
nhân lực nghiên cứu khoa học, nhất là nhân lực chất lượng cao, trong đó bao
gồm chính sách tiền lương, thu nhập; các hoạt động tôn vinh, ghi nhận đối với
95
đóng góp, cống hiến của trí thức khoa học; môi trường sống và làm việc thuận
lợi cho cá nhân nhà khoa học và gia đình họ; hạ tầng nghiên cứu tiên tiến, văn
hóa học thuật lành mạnh. Đổi mới cơ chế, phương thức trả lương, thù lao cho
các nhà khoa học theo thông lệ của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế
giới.
Năm là, tăng cường việc quản lý, đón đầu, khai thác và sử dụng nguồn
nhân lực khoa học từ các lưu học sinh, nghiên cứu sinh giỏi, nhà khoa học là
người Việt Nam ở nước ngoài. Song song với đó là đầu tư tới ngưỡng để xây
dựng một số cơ sở nghiên cứu có môi trường, điều kiện làm việc chuyên nghiệp,
theo thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc thù của hoạt động sáng tạo khoa học và
công nghệ để thu hút và giữ chân được các nhà khoa học giỏi ở trong nước và
thu hút các nhà khoa học từ nước ngoài đến làm việc. Thực tiễn cho thấy, môi
trường học thuật và điều kiện nghiên cứu chuyên nghiệp là nhân tố có ý nghĩa
quyết định để thu hút và giữ chân các nhà khoa học giỏi. Do vậy, cần tăng
cường các hoạt động hợp tác trao đổi học thuật, giao lưu khoa học quốc tế để
cập nhật, nâng cao trình độ của đội ngũ nhân lực khoa học trong nước.
Sáu là, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động có hiệu quả các nguồn lực đầu tư
ngoài ngân sách nhà nước, nhất là từ doanh nghiệp cho hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển nguồn nhân lực khoa học. Tăng cường huy động đầu tư ngoài
ngân sách để phát triển tiềm lực, đặc biệt là cơ sở vật chất, kỹ thuật của các tổ
chức khoa học, góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho nhân lực nghiên cứu
khoa học.
Hội nhập quốc tế toàn diện với xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học trên thế giới đã và đang đặt nước ta vào nguy cơ tụt hậu
ngày càng xa. Hơn lúc nào hết chúng ta càng phải thực hiện một cách thực chất
các giải pháp mang tính đồng bộ, toàn diện để phát triển nhân lực khoa học như
các nghị quyết, văn kiện của Đảng đã khẳng định, đầu tư cho phát triển nhân
lực khoa học là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước; Đảng và Nhà nước có
96
trách nhiệm và chính sách phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng
tạo của đội ngũ cán bộ khoa học, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
3.3.2. Kiến nghị đối với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Mục tiêu phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là trở
thành cơ quan nghiên cứu, đào tạo về khoa học xã hội và nhân văn ngang tầm
quốc tế, góp phần định hướng sự phát triển nền khoa học xã hội và nhân văn
của đất nước, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao là yếu tố tiên quyết. Cụ thể:
Một là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao cho đất nước và
các viện nghiên cứu chuyên ngành; phát huy vai trò và trách nhiệm của các viện
chuyên ngành trong công tác đào tạo; xây dựng chiến lược đào tạo và phát triển
Học viện Khoa học xã hội giai đoạn 2020 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030
dựa theo chuẩn mực khu vực và thế giới.
Hai là, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn
giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến 2030 có năng lực chuyên môn cao, có
cơ cấu hợp lý, có sự tiếp nối giữa các thế hệ. Xây dựng cơ chế hợp lý và có giải
pháp đột phá trong việc thu hút nhân tài, các chuyên gia đầu ngành trong nước
và Việt kiều về công tác tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam- tạo điều
kiện cho cán bộ trẻ tham gia nghiên cứu khoa học; thí điểm xây dựng nhà ở tập
thể với giá ưu đãi; đẩy mạnh việc đưa cán bộ đi học tập, nghiên cứu, trao đổi
khoa học, làm việc có thời hạn tại các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học
có uy tín ở nước ngoài để học hỏi, tiếp thu tri thức, cách tiếp cận và phương
pháp nghiên cứu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đạt trình độ khu vực và quốc tế.
97
Ba là, hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh đủ năng lực nghiên cứu,
giải đáp những vấn đề của thực tiễn đặt ra, có khả năng giao lưu, đối thoại với
các nhà khoa học xã hội và nhân văn quốc tế; đồng thời góp phần đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao cho cả nước. Chú trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia
khoa học đầu ngành trong từng lĩnh vực và đội ngũ các nhà khoa học làm công
tác quản lý có trình độ chuyên môn cao, có năng lực nghiên cứu và đề xuất các
giải pháp, kiến nghị về các vấn đề liên quan trực tiếp tới quốc kế dân sinh,
những vấn đề ở tầm chiến lược, vĩ mô và dài hạn của đất nước.
Bốn là, tiếp tục củng cố, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, hành chính và nghiệp
vụ khác đáp ứng yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong
từng giai đoạn phát triển.
Tiểu kết Chương 3
Trên cơ sở những ưu điểm và hạn chế về chất lượng viên chức KH&CN,
ưu và nhược điểm của công tác nâng cao chất lượng viên chức KH&CN của
các Viện thuộc Khối NCQT (VASS) thời gian qua, cùng các nguyên nhân chủ
yếu của chúng, xuất phát từ định hướng, mục tiêu và quan điểm phát triển
KHXH&NV và về chất lượng viên chức KH&CN của các Viện này thời gian
tới, Luận văn đã đề xuất một số nhóm giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng viên chức tại Khối các Viện NCQT trực thuộc VASS. Các
giải pháp và kiến nghị đó liên quan đến vấn đề cải thiện công tác tổ chức và
quản trị nguồn nhân lực của VASS, đến nhận thức về vai trò và vị trí của viên
chức KH&CN, về quyền tự chủ của Viện HL KHXH và các Viện thuộc Khối
NCQT về chi tiêu, về tuyển dụng, thu hút và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao,
về đánh giá, đào tạo, phát triển, và đãi ngộ viên chức KH&CN. Mục đích nhằm
xây dựng và phát triển một đội ngũ viên chức KH&CN thuộc VASS, cụ thể là
các Viện thuộc Khối NCQT đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và tinh về chất
98
lượng để có thể hoàn thành tốt công tác nghiên cứu cơ bản về KHXH&NV, tư
vấn chính sách cho Đảng và chính phủ về lĩnh vực này, và đáp ứng được những
đòi hỏi mới của CNH, HĐH, và HNQT trong thời gian tới.
99
KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng chất lượng
viên chức KH&CN tại Khối các Viện NCQT thuộc VASS giai đoạn 2016 -
2021, luận văn có thể rút ra một số kết luận chính sau:
- Luận văn đã hệ thống hoá một cách chọn lọc một số vấn đề lý luận cơ
bản về chất lượng viên chức KH&CN; xác định nội dung phát triển nhân lực
KH&CN; xác định và phân tích các tiêu chí và yêu cầu nâng cao chất lượng
viên chức trong các tổ chức khoa học và công nghệ công lập ở Việt Nam.
- Trên cơ sở thu thập và thống kê các tư liệu và số liệu thực tế về lược sử
xây dựng và phát triển của các Viện tại Khối NCQT thuộc VASS, đặc biệt các
vấn đề liên quan đến thực trạng viên chức KH&CN (số lượng, cơ cấu và chất
lượng) của các Viện này, giai đoạn 2016-2021, Luận văn đã tiến hành trình bày,
phân tích, đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ viên chức KH&CN và chất
lượng viên chức KH&CN của các Viện này cho đến nay, chỉ ra những ưu điểm
và hạn chế về chất lượng của đội ngũ này, đồng thời tìm ra nguyên nhân (khách
quan và chủ quan) của những hạn chế.
- Trên cơ sở đó, cộng với định hướng, mục tiêu và quan điểm phát triển
nói chung và phát triển đội ngũ viên chức KH&CN nói riêng của VASS và các
Viện NCQT, luận văn đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng viên chức KH&CN của VASS, nhất là của các Viện
NCQT, trong bối cảnh CMCN 4.0 và HNQT thời gian tới.
- Cuối cùng, luận văn đã khẳng định rằng, đội ngũ viên chức KH&CN có
chất lượng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
đất nước trong giai đoạn hiện nay. Để có được một đội ngũ viên chức KH&CN
có chất lượng, Đảng và Nhà Nước cũng như các cơ quan KH&CN phải quan
tâm tới việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực thể chất và tinh thần của
100
đội ngũ này từ khâu tuyển dụng, bố trí, đãi ngộ, đánh giá, bồi dưỡng, đào tạo
và phát triển. Đồng thời, ngoài những vấn đề liên quan đến chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ, còn cần phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của
đội ngũ viên chức này, khuyến khích họ gắn bó với công việc, trung thành với
nơi mà họ làm việc, từ đó họ sẽ tận tâm, tận lực cống hiến cho cơ quan, tìm mọi
cách để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Đó là điều mà VASS,
trong đó có các Viện thuộc Khối NCQT đã và đang cần tiếp tục chú ý.
Với những kết quả như vậy, luận văn với chủ đề trên đã hoàn thành được
các nhiệm vụ đặt ra trong nghiên cứu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận
văn thạc sĩ Quản lý công, những nội dung phân tích, kiến giải và những giải
pháp, kiến nghi mà học viên đề xuất trong luận văn chắc chắn chưa thể bao quát
hết tất cả vấn đề về chất lượng viên chức KH&CN tại các Viện NCQT thuộc
VASS. Đồng thời, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và đồng nghiệp để tác giả
có thể làm sâu sắc hơn hiểu biết của tác giả sau này.
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Trần Kim Anh (2017), Chất lượng đội ngũ viên chức tại Cục Văn thư và
Lưu trữ nhà nước, Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính
Quốc gia.
2. Nguyễn Tuấn Anh (2016), Công chức viên chức khu vực công tại các nước
Đông Nam Á và bài học cho Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học
xã hội;
3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2003), Khoa học và công nghệ Việt Nam, Nxb.
Lao động, Hà Nội.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ - Bộ Nội vụ (2014), Thông tư 24/2014/TTLT-
BKHCN-BNV ngày 01 tháng 10 năm 2014 Quy định mã số và tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ.
5. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Tổng cục dạy nghề (2014), Nhu cầu
phát triển nguồn nhân lực và cơ hội việc làm, Nxb. Dân trí, Hà Nội.
6. Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh (2011), “Giáo trình kinh tế nguồn nhân
lực”, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
7. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2014, Nghị định số
08/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và công nghệ.
8. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2017, Nghị định số
99/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng 08 năm 2017 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam.
102
9. Đỗ Thị Châm (2018), Chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ tại
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Quản
lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
10. Đỗ Minh Cương (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia;
11. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người ở
Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
12. Đại học Quốc gia TP. HCM (2016), Hội thảo “Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực hội nhập quốc tế: Thực trạng và giải pháp”.
13. Vũ Cao Đàm (2009), Tuyển tập các công trình đã công bố, Tập II: Nghiên
cứu chính sách và chiến lược, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
14. Đảng bộ Viện Hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam, 2020, Báo cáo chính trị
trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Viện Hàn lâm lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-
2025; Dự thảo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ Viện Hàn lâm lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-2025, tổ chức tại
Hà Nội ngày 25-26.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ,
https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/nghi-quyet-
hoi-nghi-trung-uong-6-khoa-xi-ve-phat-trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-
47562, cập nhật ngày thứ Tư, 07/11.
16. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam (2022), Báo cáo tại Đại hội đại biểu Đoàn Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam lần thứ XX, nhiệm kỳ 2022-2027 tại Hà Nội, ngày 12-
13/8/2022;
17. Đỗ Phú Hải (2014), “Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam;
103
18. Đinh Việt Hòa (2009), “Phát triển nguồn vốn nhân lực – Chiến lược tối ưu của
nhà lãnh đạo”, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và kinh
doanh.
19. Hồ Sỹ Hùng (2005), “Nhận diện doanh nghiệp khoa học và công nghệ”.
20. Nguyễn Thu Hương (2005), “Phát triển nguồn nhân lực và đào tạo công
chức trong nền công vụ ở một số nước ASEAN”, Viện Khoa học Tổ chức
Nhà nước.
21. Võ Thị Kim Loan (2015), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án Tiến
sĩ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
22. Hoàng Minh Lợi (2018), trong cuốn Chính sách phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Nhật Bản và Hàn Quốc, gợi ý cho Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội.
23. Nguyễn Thị Lê (2019), Nâng cao chất lượng hoạt động đánh giá viên chức
theo vị trí việc làm ở đơn vị sự nghiệp công lập, Học viện Hành chính Quốc
gia; tr.37-41, https://opac.vass.gov.vn/record=b1588787.
24. Trần Văn Ngợi (2014), Thực trạng nhân lực khoa học công nghệ trong các
cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay, xem tại:
http://isos.gov.vn/Thongtinchitiet/tabid/84/ArticleId/1493/language/vi-
VN/Th-c-tr-ng-nhan-l-c-khoa-h-c-cong-ngh-trong-cac-c-quan-nha-n-c-Vi-
t-Nam-hi-n-nay.aspx.
25. Tạ Quang Ngọc (2022), Nâng cao hiệu quả đánh giá, xếp loại chất lượng
viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập, Học viện Hành chính Quốc gia;
tr.20-24, https://opac.vass.gov.vn/record=b1588787.
104
26. Nhân dân (2022), https://nhandan.vn/ky-luat-ban-thuong-vu-dang-uy-
vien-han-lam-khoa-hoc-xa-hoi-viet-nam-va-mot-so-tap-the-ca-nhan-
post716910.html, cập nhật ngày thứ hai, 26/09/2022.
27. Bùi Văn Nhơn (2006), Giáo trình Quản lý và Phát triển nguồn nhân lực
xã hội, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội.
28. Mai Trọng Nhuận, “Đổi mới Giáo dục đại học ở Singapore” (2005),
http://vietbao.vn;
29. Nguyễn Ngọc Phú (2010, Chủ biên), Thực trạng nguồn nhân lực, nhân tài
của đất nước hiện nay. Những vấn đề đặt ra và giải pháp.
30. Phòng Y tế, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Báo cáo hàng năm
về sức khỏe viên chưc và người lao động của Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam, năm 2016 và năm 2021, tác giả tự tổng hợp và phân tích.
31. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền (2004), “Hệ
thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới”, Nxb.
Chính trị Quốc gia.
32. Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2004), Xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia.
33. Nguyễn Ngọc Quân, Nguyễn Vân Điềm (2014), “Giáo trình Quản trị nhân
lực”, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân.
34. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Khoa
học và công nghệ năm 2013.
35. Quốc hội nước Cộng hoà xã Việt Nam (2010), Luật Viên chức năm 2010.
36. Văn Đình Tấn (2004), Nguồn nhân lực trong công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta, Tạp chí Khoa học, Đại học Đà Nẵng
105
37. Nguyễn Hữu Thắng (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Nxb. Chính
trị Quốc gia.
38. Vũ Bá Thể (2015), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện
đại hóa: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb. Lao động và Xã
hội.
39. Lê Minh Thông, Nguyễn Danh Châu (2009), Kinh nghiệm công tác nhân
sự của một số nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
40. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 2022, Báo cáo Tổng kết công
tác năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2022 của Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam, ngày 09/01.
41. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (2020), “Quyết định về việc quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Kinh tế và
Chính trị thế giới”.
42. Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (2021), “Quyết định về việc quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên
cứu Ấn Độ và Tây Nam Á”.
43. Viện Nghiên cứu Châu Âu (2021), “Quyết định về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu Châu
Âu”.
44. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ (2021), “Quyết định về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu Châu
Mỹ”.
45. Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông (2021), “Quyết định về việc
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện
Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông”.
106
46. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (2021), “Quyết định về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu Đông
Bắc Á”.
47. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2021), “Quyết định về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu Đông
Nam Á”.
48. Viện Nghiên cứu Trung Quốc (2021), “Quyết định về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu Trung
Quốc”.
49. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (2016, 2021), “Báo cáo tổng kết hoạt
động năm 2016 và năm 2021”.
50. Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (2016, 2021), “Báo cáo tổng kết
hoạt động năm 2016 và 2021”.
51. Viện Nghiên cứu Châu Âu (2016, 2021), “Báo cáo tổng kết hoạt động năm
2016 và 2021”.
52. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ (2016, 2021), “Báo cáo tổng kết hoạt động
năm 2016 và 2021”.
53. Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông (2016, 2021), “Báo cáo tổng
kết hoạt động năm 2016 và 2021”.
54. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (2016, 2021), “Báo cáo tổng kết hoạt động
năm 2016 và 2021”.
55. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2016, 2021), “Báo cáo tổng kết hoạt động
năm 2016 và 2021”.
56. Viện Nghiên cứu Trung Quốc (2016, 2021), “Báo cáo tổng kết hoạt động
năm 2016 và 2021”.
57. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
107
58. Quang Vũ-Thanh Hương, 2016, Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc khi đến thăm và làm việc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam,
ngày 27/12/2016.
108
Tài liệu Tiếng Anh
59. Amanda E. Green (2010), Managing Human Resources in a Decentralized
Context, The International Bank for Reconstruction and Development, The
World Bank.
60. Hal G. Gueutal, Dianca L. Stone (2005), Human Resource Management
in the Digital Age, Pfeiffer;
61. Jay W. Lorsch và Thomas J. Tierne (2002), Aligning the Stars: Organizing
Professionals to Win, Harvard Business School Press;
62. Leonard Nadler (1984), Handbook of Human Resource Development,
John & Sons Inc, 2nd edition, England.
63. Malcolm Warner (2013), Comparing Human Resource Management in
China and Vietnam: An Overview, Working Paper Series, Forthcoming in
Human Systems Management;
64. OECD (2002), Cẩm nang FRASCATI - Hướng dẫn thống kê nghiên cứu
phát triển.
65. OECD (1975), Cẩm nang về đo lường nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế, Paris.