BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
………/.……… …../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THOA
TĂNG CƢỜNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG,
TỈNH ĐẮK NÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
ĐĂK LĂK, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
………/.……… …../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THOA
TĂNG CƢỜNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG,
TỈNH ĐẮK NÔNG
Chuyên ngành : Quản lý công
Mã số : 08 34 04 03
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ VĂN DƢƠNG
ĐẮK LẮK, NĂM 2018
ĐĂK LĂK, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thoa
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được
nhiều sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn và động viên từ quý Thầy, Cô giáo của
Học viện Hành chính Quốc gia và Phân viện khu vực Tây Nguyên. Đặc biệt,
xin trân trọng cảm ơn TS. Đỗ Văn Dương, người trực tiếp hướng dẫn khoa
học đã tận tình quan tâm, giúp đỡ và định hướng để tôi hoàn thành tốt công
trình khoa học của mình.
Xin trân trọng cảm ơn Hội đồng Đánh giá Luận văn quan tâm xem xét,
nghiên cứu và cho ý kiến góp ý về những thiếu sót để tôi kịp thời sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện đề tài khoa học.
Để tỏ lòng kính trọng và biết ơn, xin kính chúc quý Thầy, Cô, các anh
chị em học viên của lớp, các đồng nghiệp dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và
thành đạt!
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thoa
MỤC LỤC
1 Mở đầu: …………………………………………………………………
8 Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN
1.1. Khái quát, đặc điểm, hình thức hoạt động giám sát của Hội đồng 8
nhân dân huyện
1.2. Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân huyện ……………… 19
1.3. Điều kiện đảm bảo để tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng 28
nhân dân huyện
34 Tiểu kết chƣơng 1 …………………………………………………….
35 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động giám sát của Hội đồng nhân 35
dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk 50
Song, tỉnh Đắk Nông từ 2011-2016
2.3. Đánh giá hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk 77
Song, tỉnh Đắk Nôngtừ 2011-2016
86 Tiểu kết chƣơng 2 ……………………………………………………
87 Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN
ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Phương hướng tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân 87
dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân 89
dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông
102 Tiểu kết chƣơng 3 …………………………………………………….
KẾT LUẬN ……………………………………………………………. 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
: Xã hội chủ nghĩa XHCN
: Hội đồng nhân dân HĐND
: Thường trực Hội đồng nhân dân TTHĐND
: Ủy ban nhân dân UBND
: Tòa án nhân dân
TAND
: Viện kiểm sát nhân dân VKSND
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1 Tổng hợp số lượng đại biểu Trang 43
Bảng 2.2 Về trình độ đại biểu Trang 48
Bảng 2.3 Kết quả giám sát về lĩnh vực kinh tế Trang 51
Bảng 2.4 Kết quả giám sát về lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa Trang 55
Bảng 2.5 Kết quả giám sát về lĩnh vực tài nguyên&môi trường Trang 58
Bảng 2.6 Kết quả giám sát về thi hành pháp luật Trang 59
Sơ đồ 2.7 Các chức vụ lấy phiếu tín nhiệm Trang 71
Bảng 2.8 Tổng hợp thực trạng về hoạt động tổ chức đoàn giám Trang 71
sát của HĐND huyện Đắk Song từ 2011-2016
Bảng 2.9 Số liệu công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư, khiếu Trang75
nại
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân. Vì vậy, xây dựng HĐND các
cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một
yêu cầu bức xúc hiện nay,là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân.
Giám sát là một trong trong hai chức năng quan trọng của HĐND.
Thông qua hoạt động giám sát nhằm mục đích kiểm chứng lại tính đúng đắn,
phù hợp về các quy định của pháp luật đã, đang được áp dụng trong cuộc
sống và những chủ trương, biện pháp mà HĐND đã quyết nghị; phát hiện ra
những khó khăn, vướng mắc và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
để có những biện pháp, giải pháp tháo gỡ, thực hiện nhiệm vụ một cách chủ
động. Cũng thông qua hoạt động giám sát còn là cơ sở cho việc thực hiện
công tác thẩm tra và đi đến quyết định vấn đề một cách chính xác, đảm bảo
các Nghị quyết được ban hành có chiều sâu, sát thực tiễn, phù hợp với tâm tư,
nguyện vọng của cử tri. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những
yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, hoạt động giám sát của HĐND
huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông đã tiếp tục đạt được những thành tựu nhất
định, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát được nâng lên;
phương thức giám sát có nhiều đổi mới, cải tiến. Thông qua hoạt động giám
sát đã kịp thời phát hiện vi phạm, tồn tại, hạn chế, thiếu sót của các cơ quan,
đơn vị trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy
định. Kịp thời đưa ra những kiến nghị quan trọng, góp phần nâng cao hiệu
1
lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp theo luật định; đảm bảo được
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động giám sát của
HĐNDhuyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông vẫn còn một số hạn chế nhất định
như: Hoạt động giám sát chủ yếu do Thường trực, các Ban HĐND huyện thực
hiện; việc tham gia hoạt động giám sát của đại biểu, thành viên các Ban của
HĐND còn hạn chế; một số kiến nghị giám sát còn chung chung, chưa chỉ
đúng trọng tâm vấn đề; việc thực hiện kiến nghị sau giám sát chưa nghiêm
túc; công tác theo dõi thực hiện kiến nghị sau giám sát chưa được thực hiện
thường xuyên; chế tài xử lý đối với các cơ quan, đơn vị không thực hiện
nghiêm túc các kiến nghị sau giám sát chưa rõ ràng, cụ thể, chưa đủ mạnh để
các cơ quan, đơn vị nghiêm túc thực hiện các kiến nghị qua giám sát.... Hoạt
động giám sát tư pháp của HĐND còn nhiều khó khăn, hạn chế, chưa được
thực hiện nhiều và kết quả chưa cao; mới chỉ tập trung vào việc xem xét báo
cáo công tác và chất vấn đối với Chánh án Tòa án nhân dân (TAND) Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Tất cả những điều nói trên đã hạn
chế đến chất lượng và hiệu quả giám sát của HĐND cấp huyện nói riêng và
của cả tỉnh Đắk Nông nói chung. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cần phải tăng
cường hơn nữa hoạt động giám sát của HĐND, đảm bảo hoạt động giám sát
đi vào chiều sâu và có hiệu quả thực sự thông qua việc làm rõ những thiết chế
thực hiện quyền giám sát, phạm vi giám sát, đối tượng giám sát, nội dung và
phương thức giám sát, hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát.
Từ những vấn đề trên cho thấy rằng việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn
về hoạt động giám sát của HĐND nói chung, HĐND huyện nói riêng là nhu
cầu cấp thiết. Nhất là đối với việc đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động
giám sát của HĐND tại một địa bàn cụ thể như huyện Đắk Song. Chính vì
2
thế, tôi đã lựa chọn đề tài: " Tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đăk Nông" làm Luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tăng cường hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám
sát của HĐND cấp huyện nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu dưới nhiều góc dộ khác nhau. Cụ thể có một số công trình nghiên
cứu sau:
- Quyền giám sát của HĐND và kỹ năng giám sát cơ bản, TS Phạm
Ngọc Kỳ, NXB Tư pháp, Hà Nội, năm 2001, có thể khẳng định quyền giám
sát của HĐND và kỹ năng giám sát cơ bản đã được tác giả phân tích thấu đáo,
các vấn đề nêu trong tác phẩm này được xem như cẩm nang cho hoạt động
của HĐND các cấp. Tuy nhiên, để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương và thể hiện được quyền giám sát và kỹ năng giám sát cơ
bản là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ.
- Một số giải pháp nâng cáo hiệu quả hoạt động của HĐND và UBND
các cấp của Nguyễn Quốc Tuấn, tạp chí Tổ chức nhà nước số 6/2002. Tác giả
đã nêu lên được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND và UBND là tiền đề để chúng ta thực hiện Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003; tuy nhiên so với Luật Tổ chức Chính quyền địa phương
hiện nay thì công trình của tác giả còn nhiều điểm bất cập cần tiếp tục được
nghiên cứu để hoàn thiện hoạt động của chính quyền địa phương.
- Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2004-2009, của Đinh Ngọc Giang, Tạp chí Quản lý nhà nước,
số2/2005.
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Liên “Hiệu quả hoạt
động của HĐND tỉnh Lạng Sơn hiện nay” năm 2011, đây là công trình nghiên
3
cứu hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh; đã trình bày khá chi tiết và cụ
thể về chức năng, nhiệm vụ cũng như thực trạng của HĐND tỉnh, từ đó đưa ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh Lạng Sơn.
- Luận án Tiến sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Hải Long “Hoàn thiện
pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND” năm 2012, tác giả đề cập đến
nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn trong hoạt động giám sát của HĐND,
như: chủ thể giám sát, đối tượng, phạm vi, phương thức giám sát. Tuy nhiên
nghiên cứu về hoạt động giám sát chuyên đề tại một địa phương cấp huyện thì
chưa được tác giả đề cập đến.
- Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý hành chính công của tác giả
Nguyễn Hoàng Lâm “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk
Lắk” năm 2013, luận văn đã được tác giả đề cập khá chi tiết, cụ thể về hoạt
động giám sát của HĐND tỉnh Đắk Lăk; từ thực trạng tác giả đưa ra những
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, đề xuất các giải pháp để
tăng cường phối hợp giữa HĐND cấp tỉnh với Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh,
với các cấp, các ngành.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công của tác giả Trần Thị Sáu
“Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình”năm 2017.
Tác giả đã nêu cụ thể về thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Quảng Bình, qua đó đưa ra các giải pháp cụ thể để đảm bảo hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh Quảng Bình, trong đó tác giả nhấn mạnh đến vai trò của
yếu tố nhân lực.
Có thể khẳng định, các công trình, ấn phẩm khoa học nêu trên đã nghiên
cứu về hoạt động giám sát của HĐND ở nhiều cấp độ và phương diện khác
nhau. Tuy vậy, việc nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk
Song, tỉnh Đắk Nông đến thời điểm hiện nay thì chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập tới.
4
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về hoạt động giám sát của HĐND huyện
Đắk Song, tỉnh Đắk Nông từ góc độ làm chuyên ngành Quản lý công nhằm
đánh giá thực trạng hoạt động giám sát thời gian vừa qua, đưa ra những đề
xuất, giải pháp để tăng cường hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk
Song là không trùng lắp với một công trình nào nghiên cứu trước đó. Đây
cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu về hoạt động giám sát của HĐND
huyện. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của HĐND huyện
Đắk Song, tỉnh Đắk Nông. Trên cơ sở đó, Luận văn đề xuất những phương
hướng và giải pháp nhằm tăng cường hoạt động giám sát của HĐNDhuyện
Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ thêm các vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động giám sát của
HĐND cấp huyện như: nội dung, hình thức, hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND cấp huyện; Các điều kiện bảo đảm tăng cường hoạt động giám sát của
HĐND cấp huyện;
- Phân tích các yếu tố tác động đến hoạt động giám sát của HĐND huyện
Đắk Song; thực trạng hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk Song trong
thực tiễn, qua đó đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk
Song.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động giám sát của HĐND
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu lý luận về hoạt động giám
sát của HĐND cấp huyện, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát đồng thời
5
đề xuất các giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk
Song, tỉnh Đắk Nông.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu hoạt động
giám sát của HĐND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông nhiệm kỳ 2011 đến
2016.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về Nhà nước kiểu mới, HĐND, chức năng giám sát của HĐND nhằm
đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn của đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp luận của triết học Mác-Lênin, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, diễn dịch, quy nạp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn làm sáng tỏ mặt lý luận về hoạt động giám sát của HĐND
cấp huyện như: Khái niệm, đặc điểm hoạt động giám sát, các hình thức hoạt
động giám sát, các điều kiện đảm bảo hoạt động giám sát.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các khuyến nghị khoa học của luận văn có thể được vận dụng vào thực
tế hoạt động giám sát của HĐNDhuyện Đắk Song. Ngoài ra luận văn còn là
tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, cơ
sở đào tạo hành chính học, luật học.
7. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
huyện.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Đắk Song, tỉnh Đắk Nông
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.
7
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, hình thức hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân huyện
1.1.1. Khái niệm về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam, HĐND huyện là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, do Nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân ở địa phương đó.
HĐND có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương theo
quy định pháp luật. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng,
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc xây dựng, củng cố và phát triển
HĐND các cấp, đặc biệt là HĐND cấp huyện. Vì thế, HĐND cấp huyện đã
thể hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của Nhân dân, là chỗ dựa vững chắc
để Nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh.
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
Nhân dân địa phương, HĐND cấp huyện có khả năng đoàn kết tập hợp được
quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động viên được
mọi nguồn lực vật chất và tinh thần ở mỗi địa phương, góp phần vào thắng lợi
chung của sự nghiệp cách mạng. HĐND cấp huyện còn là cầu nối giữa chính
quyền Trung ương với chính quyền địa phương, vừa đảm bảo sự tập trung
thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa
đảm bảo phát huy được nội lực ở từng địa phương, cơ sở.
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân
8
dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên”[21]
Để nhận thức đúng đắn về bản chất, vai trò, nội dung và hình thức thực
hiện chức năng giám sát của HĐND huyện nói chung và chức năng giám sát
của HĐND cấp huyện nói riêng, trước hết cần làm rõ khái niệm “hoạt động
giám sát của HĐND cấp huyện”.
Trong đó, có rất nhiều định nghĩa giám sát khác nhau được đưa ra tùy
theo phạm vi rộng, hẹp của nội dung nghiên cứu cụ thể.
Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thông tin, 1998 do Nguyễn
Như Ý Chủ biên lại định nghĩa giám sát là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi
nhiệm vụ”.
Theo định nghĩa tại Từ điển Tiếng việt của nhà xuất bản Khoa học xã
hội- Hà nội 1988, thì giám sát là "Theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng
những điều quy định không?"
Theo Từ điển Luật học, giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang
tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện
pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu giám sát đi
đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ
trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh.
Theo luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Giám sát được định nghĩa:
Là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội[22]
Có thể thấy rằng thuật ngữ "giám sát" được dùng rất phổ biến trong khoa
học chính trị, pháp lý và được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng, Nhà
9
nước và các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội cũng như phổ biến ở đời
sống xã hội.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng theo một cách chung nhất,
có thể thấy giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ
chức, cộng đồng người này với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong
các lĩnh vực kinh tế-xã hội, trong thực hiện quan điểm, đường lối, nghị quyết
của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi,
nghĩa vụ của công dân, tổ chức, cá nhân... để kiến nghị phát huy ưu điểm,
thành tựu, xử lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi sai trái.
Ngày 20/11/2015, Quốc hội khoá XIII đã ban hành Luật Giám sát của
Quốc hội và HĐND nhằm cụ thể hoá hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND các cấp mà trước đó chỉ có Luật giám sát của Quốc hội. Trên cơ sở đó
hoạt động giám sát của HĐND sẽ được tiến hành thường xuyên, gắn liền với
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Giám sát của
HĐND bao gồm: Giám sát của HĐND tại kỳ họp; giám sát của TT.HĐND;
giám sát của các ban HĐND; giám sát của Tổ đại biểu HĐND, giám sát của
đại biểu HĐND.
Từ các khái niệm chung về giám sát trên, căn cứ đối tượng giám sát của
HĐND, có thể hiểu khái niệm giám sát của HĐND cấp huyện như sau:
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện là quá trình
HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ HĐND và đại biểu
HĐND cấp huyện tiến hành xem xét, theo dõi, đánh giá và kiến nghị về hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc chấp hành
Hiến pháp, luật, pháp lệnh, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các
nghị quyết của HĐND cấp huyện nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện nghiêm minh, thống nhất, tự giác ở từng địa phương.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dânhuyện
10
Xuất phát từ cách hiểu như trên thì hoạt động giám sát của HĐND huyện
có các đặc điểm như sau:
- Trước hết, giám sát là một chức năng luật định, tức là gắn với quyền
hạn và là trách nhiệm của HĐND. Chức năng được bảo đảm bởi một số hình
thức hoạt động và công cụ đặc thù, cách làm đặc thù của HĐND. Nói tới vai
trò giám sát là nói tới vị thế của HĐND với tư cách tổ chức và đại biểu
HĐND với tư cách cá nhân trong thực hiện chức trách.
- Mục đích của giám sát là nhằm bảo đảm việc thi hành các văn bản pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND ở địa phương
được nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả; giám sát để khẳng định những kết
quả đạt được, đồng thời phát hiện những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng
mắc, từ đó kiến nghị, đề xuất, quyết định các biện pháp, giải pháp thực hiện
tốt hơn.
- Chủ thể thực hiện quyền giám sát: Theo Điều 57 của Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 và Điều 26 Luật Tổ chức Chính quyền địa
phương năm 2015. Giám sát của HĐND bao gồm:
+ Giám sát của HĐND tại kỳ họp;
+ Giám sát của Thường trực HĐND;
+ Giám sát của các Ban HĐND;
+ Giám sát của Tổ đại biểu HĐND;
+ Giám sát của đại biểu HĐND.
Như vậy, chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND bao gồm:
+ HĐND;
+ Thường trực HĐND;
+ Các Ban của HĐND;
+ Các Tổ đại biểu HĐND;
+ Đại biểu HĐND.
11
Chế định pháp luật về Thường trực HĐND chỉ được quy định lần đầu
tiên trong Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Như vậy từ năm 2003,
Thường trực HĐND cấp huyện mới được coi là chủ thể có năng lực pháp lý
thực hiện quyền giám sát. Với việc quy định rõ về chủ thể giám sát đã góp
phần quan trọng nâng cao vị thế của HĐND cấp huyện trong hoạt động giám
sát.
- Đối tượng giám sát của HĐND cấp huyện: Theo Luật Tổ chức HĐND
và UBND năm 2003 trước đây và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương hiện
nay; đối tượng giám sát của HĐND cấp huyện bao gồm:
+ Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND huyện;
+ Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND các Ủy viên UBND huyện, Viện
trưởng VKSND huyện, Chánh án TAND huyện.
+ Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
và công dân ở địa phương.
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát của HĐND cấp
huyện rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước, đơn vị
vũ trang nhân dân, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân ở địa
phương.
Quy định như trên vừa thể hiện được vị trí, vai trò của HĐND cấp huyện
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa bảo đảm cho Hiến pháp,
pháp luật, các nghị quyết của HĐND huyện được tuân thủ nghiêm minh; đây
là nội dung có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho HĐND thực hiện có
hiệu quả những nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên thực tế.
1.1.3. Hình thức giám sát của Hội đồng nhân dânhuyện
Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 thì hoạt động giám sát của HĐND được đảm bảo thực hiện thông
qua hoạt động giám sát của HĐND tại các kỳ họp, hoạt động giám sát của
12
Thường trực HĐND, hoạt động giám sát của các Ban của HĐND, hoạt động
giám sát của Tổ đại biểu HĐND, hoạt động giám sát của đại biểu HĐND và
được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, cụ thể như sau:
1.1.3.1. Xem xét báo cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
Đây là hình thức trực tiếp rất quan trọng của HĐND huyện. Theo Luật
Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Luật Tổ chức Chính quyền địa
phương năm 2015; tại kỳ họp giữa năm và kỳ họp cuối năm, HĐND xem xét,
thảo luận báo cáo công tác sáu tháng đầu năm và hàng năm của UBND huyện
về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng.
Mục đích của việc xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp và các văn bản tài liệu khác được trình ra
trong kỳ họp của HĐND trong đó có cả các dự thảo nghị quyết của HĐND là
ở chỗ, đây là cơ sở để đại biểu HĐND tham gia vào việc quyết định các vấn
đề quan trọng của địa phương trên tất cả các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm
vụ của HĐND và sự thể hiện tập trung nhất của khâu này là việc đại biểu
HĐND biểu quyết thông qua nghị quyết của HĐND trong kỳ họp. Các quyết
định của HĐND được thể hiện dưới hình thức nghị quyết. Các nghị quyết này
phải căn cứ vào Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật khác của cơ quan
Nhà nước trung ương; quyết định của cấp trên và phải được quá nửa tổng số
đại biểu HĐND biểu quyết tán thành, trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu
HĐND thì phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán
thành mới có giá trị.
Việc xem xét, thảo luận các báo cáo được diễn ra theo một trình tự nhất
định: người đứng đầu các cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo, Trưởng ban
HĐND trình bày báo cáo thẩm tra; HĐND thảo luận, người đứng đầu cơ quan
bị giám sát trình bày báo cáo và có thể trình bày thêm những vấn đề có liên
13
quan mà HĐND quan tâm, HĐND ra nghị quyết về công tác của cơ quan đã
báo cáo khi xét thấy cần thiết.
Nếu trước đây, sau khi nghe người đứng đầu cơ quan trình bày báo cáo,
phần lớn đại biểu thống nhất theo báo cáo ít có ý kiến phản biện, nên các báo
cáo thường được thông qua kỳ họp một cách nhanh chóng. Nhưng hiện nay,
việc xem xét báo cáo đã có nhiều đổi mới. Sau khi người đứng đầu cơ quan
trình bày báo cáo, các đại biểu HĐND đã thảo luận, góp ý kiến khá sôi nổi, số
đại biểu tham gia đóng góp ý kiến, thảo luận, tranh luận ngày càng nhiều và
thiết thực hơn, bước đầu khắc phục được tính qua loa, đại khái, hình thức.
1.1.3.2. Xem xét trả lời chất vấn của chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện,
Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện, Chánh án Tòa án nhân dân huyện, Viện
trưởng Việm Kiểm sát nhân dân huyện
Chất vấn là hoạt động giám sát đặc biệt quan trọng, thể hiện tính quyền
lực của HĐND huyện tại địa phương. Tại kỳ họp, chất vấn là một nội dung
thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân, thông qua chất vấn, các đại
biểu HĐND thể hiện trách nhiệm của mình đối với cử tri, đồng thời qua việc
trả lời chất vấn, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan.
Quyền chất vấn của đại biểu HĐND được quy định như sau:
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân
dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan thuộc
Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân
dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan
nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến
nghị của đại biểu [19].
và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015:
14
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy viên Ủy ban nhân dân, Chánh
án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu Hội đồng
nhân dân chất vấn [21].
Việc trả lời chất vấn tại phiên họp toàn thể của HĐND được thực hiện
theo trình tự sau: người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung
mà đại biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc
phục, đại biểu HĐND có thể nêu câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn
để người bị chất vấn trả lời, sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu HĐND
không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị HĐND tiếp tục thảo
luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của HĐND hoặc
kiến nghị HĐND xem xét trách nhiệm của người bị chất vấn. HĐND ra nghị
quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét
thấy cần thiết. Như vậy, người bị chất vấn theo Luật định phải tuân thủ một
quy trình tự trả lời chất vấn. Đây là cơ sở để khắc phục tình trạng trả lời
chung chung cho qua chuyện, hoặc quanh co không đi thẳng vào vấn đề, hay
trốn tránh không trả lời câu hỏi của đại biểu. Vấn đề trách nhiệm cũng được
đặt ra khi trả lời không đúng hoặc trách nhiệm phải nêu được biện pháp khắc
phục. Một trình tự chất vấn hết sức logic được quy đinh cụ thể trong Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015:
Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, đại biểu Hội đồng nhân dân
gửi chất vấn đến Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp. Người bị
chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân tại kỳ họp đó. Trong
trường hợp cần điều tra, xác minh thì Hội đồng nhân dân có thể quyết
định cho trả lời tại kỳ họp sau của Hội đồng nhân dân hoặc cho trả lời
bằng văn bản gửi đến đại biểu đã chất vấn và Thường trực Hội đồng
15
nhân dân. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, chất vấn
của đại biểu Hội đồng nhân dân được gửi đến Thường trực Hội đồng
nhân dân cùng cấp để chuyển đến người bị chất vấn và quyết định thời
hạn trả lời chất vấn [21].
Như vậy, có thể hiểu rằng: Thực chất của hoạt động chất vấn là việc đại
biểu HĐND đưa ra các câu hỏi cho các đối tượng bị chất vấn, nội dung các
câu hỏi này thường xoay quanh các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa
phương quan tâm thuộc lĩnh vực quản lý trực tiếp hoặc có liên quan đến đối
tượng bị chất vấn.
1.1.3.3. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân
huyện khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản Quy
phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân huyện
Đây là hình thức HĐND huyện giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các
văn bản quy phạm pháp luật của UBND huyện, nếu HĐND huyện phát hiện
thấy những văn bản này trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND huyện thì
HĐND huyện sẽ xem xét, quyết định bãi bỏ văn bản đó.
Việc quy định thẩm quyền xem xét văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND như hiện nay một mặt giảm bớt được gánh nặng công việc cho Quốc
hội, mặt khác góp phần bảo đảm tính thống nhất cao của pháp luật.
Việc xem xét phải bảo đảm trình tự sau:
+ Đại diện Thường trực HĐND huyện trình văn bản quy phạm pháp luật
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên.
16
+ HĐND huyện thảo luận, trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ
quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày vấn đề có liên
quan;
HĐND huyện ra nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật trái với
Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
1.1.3.4. Thành lập đoàn giám sát chuyên đề
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, khi xét thấy
cần thiết phải xác minh, làm rõ, hoặc muốn biết một số thông tin cụ thể trong
quá trình hoạt động của các đối tượng chịu giám sát thì HĐND thành lập
Đoàn giám sát.
Khi thực hiện nhiệm vụ giám sát do HĐND cấp huyện giao, đoàn giám
sát có trách nhiệm:
+ Thông báo nội dung, kế hoạch giám sát cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát chậm nhất là bảy ngày trước ngày bắt đầu hoạt động giám
sát.
+ Mời đại diện Ban Thường trực Ủy ban MTTQVN huyện và các tổ
chức thành viên của Mặt trận và yêu cầu đại diện các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan tham gia đoàn giám sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách
nhiệm thực hiện yêu cầu này.
+ Thực hiện đúng nội dung, kế hoạch giám sát và thẩm quyền, trình tự
thủ tục giám sát; không làm cản trở các hoạt động bình thường của cơ quan,
tổ chức chịu sự giám sát.
Trong trường hợp cần thiết, đoàn giám sát yêu cầu các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để chấm dứt hành vi vi phạm,
xử lý người vi phạm nhằm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ
17
quan, tổ chức, tổ chức bị vi phạm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu
cầu, kiến nghị qua hoạt động giám sát của mình.
Để thực hiện hoạt động giám sát của mình, HĐND quyết định chương
trình giám sát hàng năm theo đề nghị của Thường trực HĐND, các Ban của
HĐND, đại biểu HĐND, Ban Thường trực UBMTTQ huyện và kiến nghị của
cử tri tại địa phương. Thường trực HĐND dự kiến chương trình giám sát của
HĐND trình HĐND xem xét, quyết định tại kỳ họp cuối năm để tổ chức thực
hiện chương trình đó vào năm sau.
1.1.3.5. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Hội
đồng nhân dân huyện bầu
Việc HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do
HĐND bầu là một là công cụ giám sát mới của HĐND. Đây là hình thức
HĐND giám sát hoạt động của các cá nhân thuộc đối tượng bị giám sát.
Thực hiện cơ chế giám sát những người có chức vụ do HĐND bầu phải
trở thành chế độ thường xuyên vì đó là cơ sở khách quan để góp phần khắc
phục tệ quan liêu, xa dân của đội ngũ cán bộ có chức, có quyền. Mục tiêu của
việc lấy phiếu tín nhệm các chức danh do HĐND bầu nhằm tạo điều kiện
thuận lợi để các đại biểu Hội đồng nhân dân thay mặt cử tri đánh giá, thể hiện
sự tín nhiệm của mình đối với người do HĐND bầu hoặc phê chuẩn trong
việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, qua đó, tăng cường trách
nhiệm của những người này trước HĐND nói riêng và cử tri trong huyện nói
chung.
Thường trực HĐND trình HĐND về việc bỏ phiếu tín nhiệm. Người
được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình trước
HĐND, HĐND thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. Trong trường hợp không
được quá nửa tổng số đại biểu HĐND tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã
18
giới thiệu để bầu người đó có trách nhiệm trình HĐND xem xét, quyết định
việc miễn nhiệm, bãi nhiệm người không được HĐND tín nhiệm.
Việc lấy phiếu tín nhiệm hàng năm tại kỳ họp HĐND rất cần có sự lãnh
đạo tập trung, xuyên suốt của cấp ủy Đảng; sự thống nhất trong tổ chức thực
hiện của HĐND, UBND. Bên cạnh đó, Uỷ ban MTTQ và các tổ chức đoàn
thể cần phải nêu cao vai trò giám sát, phản biện xã hội để cung cấp thông tin
nhiều hơn về quá trình công tác, đạo đức, lối sống của người được lấy phiếu
tín nhiệm. HĐND cần quy định chế độ các đại biểu giữ các chức vụ, quyền
hạn do HĐND bầu, định kỳ tiếp xúc cử tri tại nơi cư trú và định kỳ lấy ý kiến
đóng góp của cử tri tại cơ quan làm việc và nơi cư trú.
1.2. Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND huyện thực hiện tốt chức năng giám sát,
trước hết phải xác định rõ nội dung giám sát của cơ quan này.
1.2.1. Giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân huyện
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Thường trực
HĐND huyện thực hiện quyền giám sát đối với:
1.2.1.1. Về lĩnh vực kinh tế
- Giám sát về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng
năm trên địa bàn huyện;
- Giám sát về kết quả thực hiện chủ trương và các biện pháp về xây dựng
và phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ gia đình ở địa phương;
- Giám sát về kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện chương
trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và biện pháp phát
huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa phương, nhằm mục đích
bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy
định của pháp luật;
19
- Giám sát kết quả thực hiện việc thu và chi ngân sách của huyện đối với
chỉ tiêu được giao trong Nghị quyết về việc phê duyệt phân bổ dự toán ngân
sách Nhà nước, kế hoạch phân bổ vốn đầu tư phát triển và một số biện pháp,
cơ chế điều hành ngân sách của HĐND huyện ban hành từ đầu năm;
- Giám sát về quy trình và kết quả thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch
phát triển mạng lưới giao thông, thuỷ lợi và biện pháp bảo vệ đê điều, công
trình thuỷ lợi, bảo vệ rừng theo quy định của pháp luật trên địa bàn huyện;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại tại địa
phương.
1.2.1.2. Về lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục,
thể thao
- Về giáo dục: Giám sát kết quả việc thực hiện các chủ trương và biện
pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo tại địa phương.
- Về văn hóa, thông tin, thể dục thể thao: Giám sát kết quả việc thực hiện
các chủ trương và biện pháp phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục
thể thao trên địa bàn huyện.
- Về xã hội: Giám sát kết quả việc thực hiện các chủ trương, biện pháp
phát triển nguồn nhân lực, sử dụng lao động, giải quyết việc làm và cải thiện
điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lao động, bảo hộ lao động tại địa
phương.
- Về Y tế: Giám sát kết quả việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển
mạng lưới khám, chữa bệnh trên địa bàn huyện.
1.2.1.3. Về lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường
- Về khoa học, công nghệ: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp ứng
dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật để
phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương.
20
- Về tài nguyên và môi trường: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp
quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong
lòng đất tại địa phương theo quy định của pháp luật.
1.2.1.4. Về thực hiện nghĩa vụ quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
- Về nghĩa vụ quốc phòng: Giám sát kết quả triển khai các biện pháp
thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và quốc phòng
toàn dân nhằm bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực
lượng dự bị động viên, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu
phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa
phương.
- Về trật tự an toàn xã hội: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp
thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện.
1.2.1.5. Về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
- Về chính sách dân tộc: Giám sát kết quả triển khai các biện pháp thực
hiện chính sách dân tộc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân
trí của đồng bào các dân tộc thiểu số, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các dân tộc ở địa phương;
- Về chính sách tôn giáo: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp thực
hiện chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật;
biện pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào của công dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
1.2.1.6. Về thi hành pháp luật
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
HĐND ở địa phương;
21
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh
dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn
huyện;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của
Nhà nước; bảo hộ tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật.
1.2.1.7. Về xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính
- Giám sát việc thực hiện bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ
tịch, Uỷ viên thường trực HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên
khác của UBND, Trưởng Ban và các thành viên khác của các Ban của
HĐND, Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm đại biểu
HĐND và chấp nhận việc đại biểu HĐND xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu
theo quy định của pháp luật;
- Giám sát kết quả bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND bầu;
- Giám sát việc ban hành quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp, nghị
quyết của HĐND cấp xã đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật;
- Giám sát hoạt động của HĐND cấp xã nếu phát hiện HĐND đó làm
thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân thì ra Quyết định giải tán
HĐND cấp xã đó, trình HĐND cấp tỉnh phê chuẩn trước khi thi hành;
- Giám sát việc thực hiện các đề án thành lập mới, nhập, chia và điều
chỉnh địa giới hành chính ở địa phương theo quy định pháp luật.
Như vậy, nội dung giám sát của HĐND cấp huyện rất rộng, toàn diện,
bao quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng, củng cố chính quyền,
thực hiện pháp luật, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở địa phương.
22
1.2.2. Giám sát của Ban Pháp chế
Ban Pháp chế giám sát các nội dụng thuộc lĩnh vực thi hành pháp luật,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng chính quyền địa
phương và quản lý địa giới hành chính.
1.2.2.1. Về thực hiện nghĩa vụ quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
- Về nghĩa vụ quốc phòng: Giám sát kết quả triển khai các biện pháp
thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và quốc phòng
toàn dân nhằm bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực
lượng dự bị động viên, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu
phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa
phương.
- Về trật tự an toàn xã hội: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp
thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện.
1.2.2.2. Về thi hành pháp luật
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
HĐND ở địa phương;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh
dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn
huyện;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của
Nhà nước; bảo hộ tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật.
1.2.2.3. Về xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính
- Giám sát việc thực hiện bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ
tịch, Uỷ viên thường trực HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên
23
khác của UBND, Trưởng Ban và các thành viên khác của các Ban của
HĐND, Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm đại biểu
HĐND và chấp nhận việc đại biểu HĐND xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu
theo quy định của pháp luật;
- Giám sát kết quả bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND bầu;
- Giám sát việc ban hành quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp, nghị
quyết của HĐND cấp xã đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật;
- Giám sát hoạt động của HĐND cấp xã nếu phát hiện HĐND đó làm
thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân thì ra Quyết định giải tán
HĐND cấp xã đó, trình HĐND cấp tỉnh phê chuẩn trước khi thi hành;
- Giám sát việc thực hiện các đề án thành lập mới, nhập, chia và điều
chỉnh địa giới hành chính ở địa phương theo quy định pháp luật.
Như vậy, nội dung giám sát của HĐND cấp huyện rất rộng, toàn diện,
bao quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng, củng cố chính quyền,
thực hiện pháp luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở địa
phương.
1.2.3. Giám sát của Ban Kinh tế - Xã hội
Ban Kinh tế - Xã hội giám sát các nội dụng thuộc lĩnh vực kinh tế, ngân
sách, giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, xã hội và đời sống,
khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường, chính sách dân tộc và chính
sách tôn giáo.
1.2.3.1. Về lĩnh vực kinh tế
- Giám sát về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng
năm trên địa bàn huyện;
24
- Giám sát về kết quả thực hiện chủ trương và các biện pháp về xây dựng
và phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ gia đình ở địa phương;
- Giám sát về kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện chương
trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và biện pháp phát huy mọi tiềm
năng của các thành phần kinh tế ở địa phương, nhằm mục đích bảo đảm
quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy định của
pháp luật;
- Giám sát kết quả thực hiện việc thu và chi ngân sách của huyện đối với
chỉ tiêu được giao trong Nghị quyết về việc phê duyệt phân bổ dự toán ngân
sách Nhà nước, kế hoạch phân bổ vốn đầu tư phát triển và một số biện pháp,
cơ chế điều hành ngân sách của HĐND huyện ban hành từ đầu năm;
- Giám sát về quy trình và kết quả thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch
phát triển mạng lưới giao thông, thuỷ lợi và biện pháp bảo vệ đê điều, công
trình thuỷ lợi, bảo vệ rừng theo quy định của pháp luật trên địa bàn huyện;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại tại địa
phương.
1.2.3.2. Về lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục,
thể thao
- Về giáo dục : Giám sát kết quả việc thực hiện các chủ trương và biện
pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo tại địa phương.
- Về văn hóa, thông tin, thể dục thể thao: Giám sát kết quả việc thực hiện
các chủ trương và biện pháp phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục
thể thao trên địa bàn huyện;
+ Giám sát kết quả việc thực hiện các biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất
và điều kiện cho các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao ở địa
phương theo quy định của pháp luật;
25
- Về xã hội: Giám sát kết quả việc thực hiện các chủ trương, biện pháp
phát triển nguồn nhân lực, sử dụng lao động, giải quyết việc làm và cải thiện
điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lao động, bảo hộ lao động tại địa
phương.
- Về Y tế: Giám sát kết quả việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển
mạng lưới khám, chữa bệnh trên địa bàn huyện.
1.2.3.3. Về lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường
- Về khoa học, công nghệ: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp ứng
dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật để
phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của Nhân dân ở địa phương.
- Về tài nguyên và môi trường: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp
quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong
lòng đất tại địa phương theo quy định của pháp luật.
1.2.3.4. Về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
- Về chính sách dân tộc: Giám sát kết quả triển khai các biện pháp thực
hiện chính sách dân tộc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân
trí của đồng bào các dân tộc thiểu số, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các dân tộc ở địa phương.
- Về chính sách tôn giáo: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp thực
hiện chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật;
biện pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào của công dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Ban Kinh tế - Xã hội giám sát các nội dụng thuộc lĩnh vực kinh tế, ngân
sách, giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, xã hội và đời sống,
khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường, chính sách dân tộc và chính
sách tôn giáo.
26
Trước mỗi kỳ họp, cùng với việc chỉ đạo các ban, các tổ chuẩn bị nội
dung thảo luận, chất vấn, Thường trực HĐND huyện phân công các tổ đại
biểu HĐND tổ chức giám sát kết quả giải quyết ý kiến kiến nghị của cử tri tại
địa bàn ứng cử, coi đây là một kênh quan trọng trong thẩm định, đánh giá chất
lượng giải quyết của các cơ quan quản lý nhà nước. Căn cứ quy định của luật,
Thường trực HĐND huyện phân công tổ đại biểu tổ chức giám sát chuyên đề
việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân...
Những giải pháp trên đã tạo chuyển biến rõ rệt đối với hoạt động các tổ
đại biểu HĐND huyện, nhất là trong giám sát. Nhiều vấn đề được tổng hợp
qua các lần tiếp xúc cử tri của tổ đại biểu và qua hoạt động giám sát của mỗi
đại biểu HĐND huyện đã trở thành những vấn đề nóng trong các phiên thảo
luận, chất vấn tại kỳ họp như: Tình trạng san nền, hạ độ cao đất đồi tràn lan
tại các địa phương; việc buông lỏng quản lý, cấp phép xây dựng; buông lỏng
xử lý xe quá khổ, quá tải trên các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ; những bất cập trong
khai thác tài nguyên gây ô nhiễm môi trường; xử lý rác thải
Qua các buổi tham gia giám sát chuyên đề cùng với Thường trực HĐND
huyện và các ban của HĐND huyện, kỹ năng hoạt động của các thành viên tổ
đại biểu được rèn luyện, thể hiện tính chuyên nghiệp, các thành viên trong tổ
thấy tự tin hơn khi xây dựng kế hoạch, đề cương và tổ chức giám sát.
1.2.5. Giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân
Qua báo cáo của TTHĐND huyện và số liệu khảo sát thực tế cho thấy
chất lượng của đại biểu HĐND huyện qua các nhiệm kỳ hoạt động ngày càng
được nâng cao. Điều này cho thấy được khả năng thực hiện hoạt động giám
sát của HĐND ngày càng được nâng cao.
Đa số đại biểu HĐND huyện đã tham dự đầy đủ các kỳ họp của HĐND
huyện, đã tập trung nghiên cứu các báo cáo, đề án, tờ trình, dự thảo nghị
quyết và báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND huyện để có những thông tin
27
cần thiết để tham gia thảo luận và biểu quyết. Các đại biểu chuẩn bị những ý
kiến có chất lượng để phát biểu trong phiên thảo luận Tổ và thảo luận tại Hội
trường, chuẩn bị câu hỏi chất vấn tại kỳ họp, thể hiện rõ quan điểm của mình
về những vấn đề nhất trí hoặc không nhất trí với báo cáo, đề án, dự thảo nghị
quyết, nêu rõ quan điểm về ý kiến trả lời chất vấn của cơ quan chức năng.
Về vấn đề chất vấn, nội dung chất vấn của các đại biểu đã cụ thể rõ ràng
hơn. Thường là những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế xã hội mà cử tri
yêu cầu phải giải quyết. Các đại biểu cũng đã mạnh dạn dám nói thẳng nói
thật, không nể nang, né tránh. Vì vậy, chất lượng chất vấn của các đại biểu đã
được tăng lên góp phần nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tại kỳ họp.
1.3. Điều kiện đảm bảo để tăng cƣờng hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân huyện
1.3.1. Cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
huyện
Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật đòi hỏi trước hết phải có
Hiến pháp và một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, bởi đây là những
căn cứ vững chắc để đưa ra các đánh giá nhận xét khi tiến hành hoạt động
giám sát. Giám sát phải được tiến hành theo đúng quy định của Hiến pháp và
pháp luật, có nghĩa là: Hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện phải được
tiến hành theo những quy trình và quy định do pháp luật định. Đây là cơ sở
pháp lý đảm bảo cho hoạt động giám sát tiến hành một cách khách quan và
thống nhất, tránh được tình trạng tùy tiện trong hoạt động giám sát.
Năm 2015 Quốc hội khoá XIII đã ban hành Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND thể hiện rõ những quy định cụ thể về thủ tục, trách
nhiệm, quyền hạn.... của các đối tượng liên quan đến hoạt động giám sát,
đồng thời việc ghi nhận chức năng giám sát của HĐND trong Hiến pháp đã
thể hiện yêu cầu, nhiệm vụ và tầm quan trọng của hoạt động giám sát của
28
HĐND. Điều này đã được chứng minh trong thực tiễn phát triển của Luật tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015. Các văn bản nói trên đã cụ thể, chi
tiết hoá chức năng giám sát của HĐND nên trong thời gian vừa qua đã đem
lại nhiều kết quả đáng kể.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND thì đòi hỏi quan
trọng nhất là phải ban hành đủ các văn bản pháp luật trong lĩnh vực giám sát
cho HĐND tỉnh nói riêng và toàn bộ hoạt động của Hội đồng nhân dân nói
chung.
1.3.2. Chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng nhân dân
huyện
Việc lập chương trình, kế hoạch cho hoạt động của HĐND có một vai
trò rất quan trọng trong công tác giám sát của HĐND nói riêng và hoạt động
cua HĐND nói chung. Giúp cho HDND sắp xếp theo lịch trình, có thời hạn,
chia thành các giai đoạn, các bước thời gian thực hiện, giúp phân bổ nguồn
lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp, sự chuẩn bị, triển
khai thực hiện nhằm đạt được một mục tiêu, chỉ tiêu đã được đề ra.
Ở góc độ tập thể, việc xây dựng chương trình, kế hoạch có ý nghĩa quan
trọng. Trên thực tế, có thể không có kế hoạch nào hoàn toàn đúng, hoặc
không khả thi nhưng không hoạch định gì thì cũng không được. Chương
trình, kế hoạch là tiêu chuẩn, là thước đo kết quả so với những gì đã đề ra,
giúp cho HĐND quản lý có hệ thống hơn để có thể dự liệu được các tình
huống sắp xảy ra. Đồng thời dễ dàng kiểm tra, giám sát hiệu quả thực hiện.
Đặc biệt khi có kế hoạch chi tiết, cụ thể nó sẽ giúp tránh được những việc bị
động, đột xuất làm mất thời gian trong việc thực hiện nhiệm vụ. Nếu một
chương trình, kế hoạch được thành lập cụ thể, chi tiết và được thực hiện
nghiêm túc thì nó sẽ mang lại hiệu quả thiết thực.
29
1.3.3. Năng lực, trách nhiệm của các Đại biểu Hội đồng nhân dân
trong việc giám sát
Đại biểu HĐND khi tham gia hoạt động của HĐND bao gồm: quyết định
những vấn đề quan trọng tại địa phương được thực hiện tại kỳ họp HĐND;
giám sát trong và giữa hai kỳ họp HĐND; giữ mối liên hệ với cử tri, với Nhân
dân. Do vậy, người đại biều HĐND cần phải có năng lực, trách nhiệm để giúp
cho hoạt động của mình có hiệu quả, để đại biểu thực sự là người đại diện cho
tiếng nói và nguyện vọng của cử tri, thực hiện tốt quyền mà cử tri giao cho và
được pháp luật công nhận.
Bên cạnh đó, HĐND là cơ quan mang tính chất đại diện ở địa phương,
để thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát, đòi hỏi
HĐND phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và năng động, phải đảm bảo số
lượng đại biểu chuyên trách trong Thường trực, trong các Ban để tránh tình
trạng công việc bị ùn tắc, hoạt động mang tính hình thức, thiếu hiệu quả, đồng
thời phải đặc biệt quan tâm đến bộ phận giúp việc cho Thường trực, cho các
Ban, có như vậy mới đảm đương được công việc giám sát của HĐND huyện.
Hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND huyện phụ thuộc trước hết vào
phẩm chất, năng lực, trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của đại biểu
HĐND. Đại biểu HĐND do Nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho chí,
nguyện vọng của Nhân dân địa phương, là cầu nối quan trọng giữa chính
quyền Nhà nước với Nhân dân, vì thế họ vừa chịu trách nhiệm trước cử tri
vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Với vị trí vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, đòi hỏi người đại biểu
HĐND phải là những người có phẩm chất, năng lực, trình độ và tinh thần
trách nhiệm cao.
Tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định về tiêu
chuẩn của đại biểu HĐND:
30
1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện
công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
3. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm
công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia
các hoạt động của Hội đồng nhân dân.
4. Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được
Nhân dân tín nhiệm”[21].
Trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu thể hiện ở
trình độ chuyên môn được đào tạo, sự am hiểu chủ chương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, thể hiện ở kết quả làm nhiệm vụ. Còn trách
nhiệm đại biểu thể hiện việc tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp HĐND;
tích cực thảo luận và biểu quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri và báo cáo với
cử tri về hoạt động của mình và của HĐND.
Đối với đại biểu HĐND, pháp luật hiện hành đã giao một quyền năng
pháp lý gắn với tư cách người đại biểu để thực hiện hoạt động giám sát đó là
quyền chất vấn. Đây là hình thức giám sát khá chặt chẽ của đại biểu HĐND
đối với Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND,
thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Chánh án Toà án nhân dân,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Thể hiện được tinh thần làm
chủ, đấu tranh cao của người đại biểu nhân dân nhằm thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các Nghị quyết của HĐND. Một đại
31
biểu có năng lực, trình độ, trách nhiệm sẽ lựa chọn được những vấn đề, nội
dung cần chất vấn. Đặc biệt là lựa chọn được những vấn đề có tính bức xúc,
nổi cộm tại địa phương, đề nghị giải trình, làm rõ biện pháp xử lý mà không
nể nang, né tránh, ngại va chạm.
Với vị trí vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, đòi hỏi người đại biểu
nhân dân phải là những người có phẩm chất, năng lực, trình độ và tinh thần
trách nhiệm cao.
1.3.4. Điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân huyện
Khi nói tới hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào nói chung và hoạt động
giám sát của HĐND huyện nói riêng đòi hỏi phải tính đến kinh phí đảm bảo
cho hoạt động. Vì thế, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND huyện cần phải đầu tư kinh phí và điều kiện vật chất cho hoạt động
giám sát HĐND. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND huyện thì cần phải đầu tư kinh phí và điều kiện vật chất cho hoạt động
giám sát HĐND huyện.
HĐND cấp huyện cần có trụ sở riêng và được bố trí, sắp xếp hợp lý để
trụ sở của HĐND huyện vừa là nơi làm việc, vừa là nơi cử tri có thể trực tiếp
đến bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình đối với cơ quan dân cử. Đồng thời
cần phải đầu tư hơn nữa các trang thiết bị cần thiết để phục vụ cho hoạt động
giám sát HĐND huyện.
Đối với đại biểu chuyên trách HĐND huyện cần được trang bị phương
tiện thông tin liên lạc, tài liệu, phòng làm việc hợp lý, tương xứng với trách
nhiệm của đại biểu. Đối với các chức danh kiêm nhiệm của HĐND huyện cần
phải có chế độ đãi ngộ tương xứng, thỏa đáng để động viên, khuyến khích họ
nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình.
32
Phải tăng cường đầu tư kinh phí theo yêu cầu từng nội dung hoạt động
giám sát. Kinh phí được đầu tư thích hợp sẽ góp phần tích cực hiệu quả hoạt
động giám sát của HĐND huyện. Tuy nhiên, mức đầu tư đó phải mang tính
tối ưu, nghĩa là đủ mức cần thiết và triệt để tiết kiệm, chống lãng phí.
Như vậy, đảm bảo các điều kiện cần thiết, chế độ chính sách hợp lý là
một trong những yếu tố quan trọng góp phần mang lại chất lượng, hiệu quả
của hoạt động giám sát HĐND huyện.
33
Tiểu kết chƣơng 1
Hội đồng nhân dân huyện là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân
dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên, HĐND thực hiện hai chức năng quan trọng đó là:
chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát
đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân tại địa phương trong việc thi hành
Hiến pháp, pháp luật và Nghị quyết do HĐND ban hành. Chức năng giám sát
của HĐND vừa biểu hiện tính đại diện, tính quyền lực, quyền làm chủ của
Nhân dân, vừa thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa
phương. Hiệu quả giám sát của HĐND được thể hiện ở hiệu quả giám sát của
HĐND tại các kỳ họp; hiệu quả giám sát của Thường trực HĐND, của các
Ban HĐND, của Tổ đại HĐND và của đại biểu HĐND.
Điều kiện đảm bảo để tăng cường hoạt động giám sát của HĐND gồm sự
hoàn thiện của hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND, tổ chức
bộ máy của HĐND, năng lực bản lĩnh của đại biểu HĐND, cơ sở vật chất và
kinh phí phục vụ hoạt động của HĐND, tổ chức, đội ngũ công chức tham
mưu phục vụ; thể chế hóa những quy định của Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND; Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 thành
chế tài xử lý đối với các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát sẽ được cụ thể, rõ
ràng hơn, từ đósẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND huyện trong giai đoạn tới.
34
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
-Về địa giới hành chính: Huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông được thành
lập theo Nghị định số 30/2001/NĐ – CP, ngày 21 tháng 6 năm 2001 của
Chính phủ, trên cơ sở chia tách các xã: Đắk Mol, Thuận Hạnh, Đắk Song của
huyện Đắk Mil và các xã: Đắk N’Drung, Trường Xuân của huyện Đắk Nông
cũ để thành lập huyện Đắk Song. Diện tích tự nhiên của huyện là 80.803,77
ha, dân số là 78.717 người gồm 23 dân tộc anh em cùng chung sống. Huyện
Đắk Song là huyện biên giới nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Đắk Nông, có độ
cao trung bình trên 800 so với mặt nước biển; toàn huyện có 9 đơn vị hành
chính cấp xã, thị trấn gồm: Thị trấn Đức An, các xã: Đắk Mol, Đắk Hòa, Nam
Bình, Thuận Hạnh, Thuận Hà, Đắk N’Drung, Nâm N’Jang và Trường Xuân,
toàn huyện có 110 thôn, bon, bản, tổ dân phố [4].
Địa giới hành chính của huyện được giới hạn cụ thể như sau:
+ Phía Tây giáp huyện Đăk R’Lấp và Vương quốc Campuchia.
+ Phía Bắc giáp huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
+ Phía Đông giáp huyện Đăk Glong và huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông.
+ Phía Nam giáp thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông.
- Về đầu mới giao thông: Là cửa ngõ phía Bắc của thị xã Gia Nghĩa, có
hệ thống giao thông đường bộ khá thuận lợi; quốc lộ 14 chạy suốt từ Bắc đến
Nam của huyện, dài hơn 45km; có tỉnh lộ 6 chạy qua huyện nối Quảng Sơn
của huyện Đăk G’Long với Đăk Buk So của huyện Tuy Đức; có tỉnh lộ 2 nối
từ ngã ba Đắk Song đi Đăk Mâm của huyện Krông Nô; có đường biên giới
35
với Campuchia dài hơn 24km. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, giao
lưu giữa Nhân dân trong huyện với các địa phương khác trong tỉnh, lưu thông
hàng hóa giữa Đắk Song với các huyện, tỉnh bạn, mở ra mối thông thương
cho việc phát triển kinh tế - xã hội huyện nhà [4].
- Về điều kiện tự nhiên, khí hậu, tài nguyên: Do sự kiến tạo của địa chất
và điều kiện tự nhiên nên lượng mưa ở đây khá lớn, địa hình của Đắk Song bị
chia cắt mạnh, đồi núi liên tiếp và các thung lũng hẹp, thấp dần từ Đông sang
Tây, đa số diện tích có độ dốc từ 8-20 độ. Khí hậu hai mùa rõ rệt; mùa mưa từ
tháng 4 kéo dài đến tháng 10 trong năm, lượng mưa khá lớn, mưa nhiều vào
tháng 7, 8; mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến hết tháng 3 năm sau, khí hậu khô
hanh và lạnh, đặc biệt ở khu vực trung tâm Đắk Song trời nhiều sương mù và
gió mạnh [4].
Tuy đồi núi dốc nhưng nằm trong vùng đất đỏ bazan nên đất đai ở đây
phì nhiêu, thích hợp với cây công nghiệp và cây lấy gỗ, đặc biệt là cây hồ
tiêu, cà phê, có thể phát triển thành vùng chuyên canh. Tài nguyên thiên nhiên
ở Đắk Song khá phong phú và có giá trị, khu bảo tồn Nâm Nung với những
cánh rừng nguyên sinh có trữ lượng gỗ lớn và quý hiếm, nhiều loại thực vật
có từ thời nguyên sinh còn bảo tồn lại được và các loài cây dược liệu quý như
trầm hương, mã tiền, mật nhân. Hệ động vật rừng khá phong phú, trong đó có
một số loài hoang dã như hươu, nai, trâu, bò, lợnrừng, gấu, khỉ...Tài nguyên
khoáng sản có trữ lượng khá lớn như: mỏ đá thạch anh ở chân núi Nâm Nung,
mỏ bô xít ở Trường Xuân, mỏ nước khoáng ở Đăk Mol...
Tài nguyên ở Đắk Song nhiều về số lượng, phong phú về thể loại, khá
thuận lợi cho nhiều ngành kinh tế như khai thác khoáng sản, trồng và khai
thác rừng, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc. Thiên nhiên không chỉ
đem lại nguồn tài nguyên quý giá, đa dạng mà còn tạo nên những cảnh quan
36
kỳ thú, trở thành địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn cho du khách trong tương
lai
2.1.2. Yếu tố kinh tế - xã hội
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ III, nhiệm kỳ 2010 – 2015 và
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IV, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã xác
định cơ cấu kinh tế của huyện là: Nông lâm nghiệp – Công nghiệp – Thương
mại và dịch vụ; trong đó nông lâm nghiệp đóng vai trò quan trọng; cây Cà
phê và cây Hồ tiêu là hai cây trồng chủ lực của huyện Đắk Song; hiện nay cây
Hồ tiêu đã được Cục Sở hữu trí tuệ của Bộ Khoa học – Công nghệ cấp “Nhãn
hiệu Hồ tiêu Đắk Song”
Trong nhiệm kỳ từ 2011 đến năm 2016, huyện Đắk Song đã đạt những
thành tựu vượt bậc, cụ thể đó là:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 14%, đạt 100% chỉ tiêu Nghị
quyết.
- Tổng giá trị sản phẩm xã hội năm 2015 đạt 5.527 tỷ đồng, tăng 217%
so với năm 2010; thu nhập bình quân đầu người đạt 33 triệu đồng, tăng 7 triệu
đồng so với Nghị quyết.
- Tỷ trọng ngành nông – lâm nghiệp chiếp 69%, công nghiệp chiếm
18%, thương mại – dịch vụ và du lịch chiếm 13%.
- Giao thông: nhựa hóa đường huyện đạt 59,3%, nhựa hóa đường liên xã
đạt 52,88%, bê tông hóa đường liên thôn, bon, bản đạt 35,9%.
- Điện: 100% thôn, bon, bản có điện lưới Quốc gia và 96,95% hộ gia
đình được dùng điện đạt 101,95% so với Nghị quyết.
- Sản lượng Cà phê niên vụ 2016 đạt 54.664 tấn đạt 88,6% kế hoạch, sản
lượng Hồ tiêu đạt 16.346 tấn đạt 138, 6% kế hoạch.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 2,01%;
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 14,2%, mỗi năm giảm 2,56%.
37
- Giáo dục: có 04/42 trường đạt chuẩn Quốc gia, bằng 9,52% so với
Nghị quyết [33].
- Y tế: đạt tỷ lệ 4,8 bác sỹ/vạn dân (Nghị quyết 05 bác sỹ/ vạn dân)
- Văn hóa: có 23,6% thôn, bon, bản, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa
(nghị quyết là 65%); 76% đơn vị, cơ quan, đạt tiêu chuẩn văn hóa (nghị quyết
là 95%); 54% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa (nghị quyết là 85%); chưa
có xã, thị trấn đạt xã văn hóa (nghị quyết là 20%) [33].
- Về Quốc phòng, an ninh:
+ Tỷ lệ đảng viên trong công an viên 39/116, đạt 67,2% (nghị quyết là
trên 50%); trong dân quân, tự vệ 208/1020 đạt 20,3%; dự bị động viên 92 đạt
9,1%. 100% các xã, thị trấn có chi bộ công an, chi bộ công an [33].
+ Tuyển quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu, hoàn thành 100% chương
trình huấn luyện.
+ Tỷ lệ khám phá án đạt 83,1% (nghị quyết từ 75% trở lên); trong đó án
nghiêm trọng đạt trên 96% [33].
2.1.3. Về tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song
từ 2011 đến 2016
2.1.3.1. Cơ cấu của Thường trực Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song
- Về Thường trực HĐND: 05 thành viên, trong đó có 01 chủ tịch, 02 phó
chủ tịch và 02 ủy viên (trưởng các ban của HĐND)
+ Chuyên trách : Phó chủ tịch HĐND.
+ Kiêm nhiệm: Chủ tịch HĐND do Phó bí thư Huyện ủy kiêm nhiệmvà
uỷ viên thường trực HĐND.
+ Chức năng, quyền hạn của Chủ tịch HĐND: Chủ tịch HĐND chỉ đạo
hoạt động của Thường trực HĐND cùng cấp, thay mặt Thường trực HĐND
giữ mối liên hệ với UBND, các cơ quan nhà nước, Ban thường trực
38
UBMTTQVN, các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp, các tổ chức xã
hội khác và công dân.
+ Chức năng, quyền hạn của Phó Chủ tịch HĐND và Ủy viên Thường
trực HĐND: Phó Chủ tịch, Uỷ viên Thường trực HĐND giúp Chủ tịch
HĐND làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch. Khi Chủ tịch vắng mặt
thì Phó Chủ tịch thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch; khi Chủ tịch và
Phó Chủ tịch vắng mặt thì Uỷ viên thường trực thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Chủ tịch và Phó Chủ tịch.
- Với chức năng và quyền hạn của mình, Thường trực HĐND là bộ phận
quyết định mọi vấn đề của HĐND. Việc đảm bảo về mặt trình độ văn hóa,
chính trị giúp cho Thường trực HĐND luôn có ý kiến chỉ đạo mang tính chiến
lược giúp cho các hoạt động của HĐND diễn ra được thuận lợi, hoàn thành
các nhiệm vụ do HĐND tỉnh đề ra. Tuy nhiên thực tế cho thấy với việc
Thường trực HĐND không hoạt động chuyên trách 100% cũng khiến cho
công việc của HĐND có phần hạn chế như:
+ Về Chủ tịch HĐND: Theo Luật định Chủ tịch HĐND không nhất định
phải hoạt động chuyên trách mà có thể kiêm nhiệm thêm chức danh, nhiệm vụ
khác nhưng không được cùng lúc kiêm nhiệm chức danh của HĐND và
UBND. Trong nhiệm kỳ 2011-2016, Chủ tịch HĐND huyện Đắk Song hoạt
động chuyên trách, nhưng từ nhiệm kỳ 2016-2021 thì Chủ tịch HĐND hoạt
động kiêm nhiệm.
+ Khi Chủ tịch HĐND kiêm nhiệm cùng lúc hai chức danh Bí thư Huyện
ủy và Chủ tịch HĐND sẽ giúp đem lại vị thế cao hơn cho HĐND, đồng thời
việc định hướng các nhiệm vụ của HĐND sẽ theo sát với đường lối, chính
sách của Đảng và nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện nay HĐND có
rất ít chế tài xử phạt đối với các trường hợp sai phạm, chủ yếu là có ý kiến đề
nghị các cơ quan khác xử lý các trường hợp sai phạm phát hiện thông qua
39
giám sát. Vì vậy phần nào hạn chế tiếng nói của Chủ tịch HĐND, việc kiêm
nhiệm chức danh cao hơn sẽ giúp cho các ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch HĐND
có trọng lượng hơn đối với các cơ quan chức năng.
+ Việc kiêm nhiệm chúng ta có thể hiểu ở đây là người đã có chức danh
Phó Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch HĐND huyện, vì vậy thực tế hiện nay
Chủ tịch HĐND huyện Đắk Song chủ yếu lo công việc của khối Đảng là
chính, các công việc của HĐND giao lại cho các thành viên khác của Thường
trực HĐND. Việc không trực tiếp tham gia giải quyết công việc, mà chỉ chỉ
đạo thông qua ý kiến tham mưu sẽ khiến cho Chủ tịch HĐND không thể nắm
bắt sâu sát được nội dung công việc, nên có thể các ý kiến chỉ đạo sẽ mang
tính chất chủ quan.
+ Về Phó chủ tịch HĐND: Thực tế hiện nay tại HĐND huyện Đắk Song,
vai trò của Phó chủ tịch HĐND là vô cùng quan trọng, với vai trò hoạt động
chuyên trách và nắm giữ chức vụ lãnh đạo của HĐND, Phó chủ tịch HĐND là
người trực tiếp điều hành và giải quyết hầu hết các công việc của HĐND.
+ Phó chủ tịch HĐND là người nắm rõ và sâu sát nhất các công việc của
HĐND, các nhiệm vụ tổ chức kỳ họp, tiến hành các nội dung giám sát, quyết
định các nội dung công việc của HĐND đều do Phó Chủ tịch HĐND quán
xuyến và điều hành các đơn vị thực hiện. Đây là vị trí rất quan trọng, với vai
trò hoạt động chuyên trách nếu người giữ chức vụ Phó Chủ tịch HĐND
không quyết liệt, năng nổ trong công việc sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt
động của HĐND.
+ Hoạt động kiêm nhiệm đem lại hiệu quả cao trong công việc, tuy nhiên
với chức danh Phó Chủ tịch không có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng đối
với các công việc của HĐND mà phải thông qua ý kiến của Chủ tịch HĐND,
vì vậy đôi khi các quyết định cuối cùng vẫn bị hạn chế vì không thống nhất ý
kiến giữa các thành viên Thường trực HĐND hoặc Chủ tịch HĐND bị tác
40
động bởi các nhiều luồng thông tin và ý kiến khác nhau trước khi ra quyết
định.
+ Về Ủy viên thường trực HĐND: Với vai trò là thành viên Thường trực
HĐND có nhiệm vụ tham mưu cho Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND các công
việc của HĐND. Tuy nhiên thực trạng hiện nay tại HĐND huyện Đắk Song,
vai trò của Ủy viên thường trực khá mờ nhạt, không phát huy được nhiều
chức năng và nhiệm vụ của mình vì Ủy viên thường trực không có thẩm
quyền quyết định mà chỉ mang tính chất tham mưu, phần nào hình thành tâm
lý bất mãn, không nhiệt tình trong công việc.
2.1.3.2. Cơ cấu hai Ban của Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song
Các Ban là cơ quan tham mưu, giúp việc đắc lực cho Thường trực
HĐND huyện, phân chia phụ trách các lĩnh vực của huyện, trong nhiệm vụ
giám sát các Ban căn cứ Nghị quyết của HĐND huyện xây dựng chương trình
giám sát của Ban, có trách nhiệm báo cáo kết quả giám sát cho HĐND huyện.
Tham mưu cho Thường trực HĐND các công việc của HĐND thuộc lĩnh vực
mình phụ trách khi được HĐND hoặc Thường trực HĐND yêu cầu.
- Về thực trạng cơ cấu Ban Pháp chế
+ Có 04 thành viên, 01 Trưởng ban, 01 Phó Trưởng ban và 02 thành
viên, tất cả đều hoạt động kiêm nhiệm, cụ thể:
+ Trưởng ban: Do Trưởng Ban Tổ chức huyện ủy kiêm nhiệm
+ Phó trưởng ban: Do Ủy viên Ủy Ban kiểm tra kiêm nhiệm
+ Thành viên ban: Có 02 người gồm các chức danh Bí thư thị trấn Đức
An và Chánh Thanh tra huyện.
+ Trong giai đoan 2011 – 2016, Ban Pháp chế HĐND huyện Đắk Song
hoạt động rất hiệu quả, hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ được HĐND huyện
giao phó. Đặc biệt mặc dù tất cả đều hoạt động kiêm nhiệm nhưng các thành
viên Ban luôn sắp xếp thời gian phù hợp để hoàn thành tốt các chương trình
41
giám sát chuyên đề theo kế hoạch đề ra từ đầu năm. Tuy nhiên hoạt động
kiêm nhiệm cũng làm cho các hoạt động của Ban phần nào bị hạn chế về mặt
thời gian, không phát huy thêm được những công việc ngoài nhiệm vụ được
giao như tổ chức thêm các cuộc giám sát chuyên đề, tăng thêm thời gian kiểm
tra thường kỳ tại cơ sở phụ trách...
- Về thực trạng cơ cấu Ban Kinh tế - Xã hội
+ Có 04 thành viên, 01 Trưởng ban hoạt động kiêm nhiệm, 01 Phó
Trưởng ban hoạt động chuyên trách và 02 thành viên hoạt động kiêm nhiệm,
cụ thể:
+ Trưởng ban: Do Chánh Văn phòng huyện ủy kiêm nhiệm.
+ Thành viên ban: Có 02 người gồm các chức danh Bí thư Đoàn
TNCSHCM huyện và Bí thư xã Nam Bình.
+ Trong giai đoan 2011 – 2016 Ban Kinh tế - Xã hội HĐND huyện Đắk
Song hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ được HĐND huyện giao, tổ chức các
cuộc giám sát chuyên đề theo kế hoạch của Thường trực HĐND giao, hoàn
thiện các nhiệm vụ bắt buộc như thẩm tra các báo cáo thuộc thẩm quyền được
giao trước khi kỳ họp diễn ra theo yêu cầu đề ra.
2.1.3.3.Chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song
Giai đoạn 2011-2016 HĐND huyện Đắk Song có 33 đại biểu, từ năm
2016 cho đến nay có 37 đại biểu trong đó có 03 đại biểu bị miễn nhiệm vì lý
do chuyển công tác. Đại biểu HĐND là thành phần chủ chốt để cấu thành bộ
máy giám sát của HĐND, vì vậy chất lượng đại biểu là yếu tố rất quan trọng
đối với bộ máy giám sát của HĐND huyện. Để phân tích rõ về thực trạng chất
lượng đại biểu của HĐND, ta sẽ phân tích theo các nội dung theo bảng 2.2
như sau:
42
Bảng 2.1. Tổng hợp số lƣợng đại biểu
Số lƣợng (đại STT Đại biểu HĐND Tỷ lệ (%) biểu)
1 Tổng số đại biểu 33 100 %
2 Công chức nhà nước 32 97,05%
Không phải là công chức nhà 3 01 3,03 % nước
4 Hoạt động chuyên trách 03 9,09 %
5 Hoạt động kiêm nhiệm 30 90,90%
6 Đại biểu Nữ 9 27,27 %
7 Ngoài Đảng 01 3,03 %
8 Dân tộc ít người 04 12,12 %
- Về số lượng đại biểu là công chức nhà nước
+ Số lượng đại biểu là công chức nhà nước chiếm tỷ lệ lớn (32/33 đại
biểu, tỷ lệ 97,05%) thực tế hiện nay đa số các đại biểu công chức nhà nước
đều là những người có chức vụ của các cơ quan, đơn vị của huyện và các xã,
thị trấn trên địa bàn. Việc số đại biểu là người có chức danh ta có thể thấy:
+ Với số lượng đại biểu là những người có chức danh chiếm tỷ lệ cao sẽ
góp phần nâng cao tiếng nói của đại biểu HĐND trong tất cả các lĩnh vực. Họ
sẽ nắm rất chắc các thông tin về lĩnh vực mình phụ trách, đó là cơ sở để các
đại biểu có ý kiến tham mưu tốt hơn cho Thường trực HĐND trong việc ra
các Nghị quyết định hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện được sát với
tình thực tế của địa phương, cũng như việc lên kế hoạch cho các cuộc giám
sát phù hợp với các nội dung đang cấp thiết của huyện. Khi tổ chức các Đoàn
giám sát chuyên đề của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND việc
thành viên Đoàn giám sát là lãnh đạo của các đơn vị cũng sẽ góp phần giúp
tạo vị thế cho Đoàn giám sát và với kiến thức chuyên môn sẵn có của các lãnh
43
đạo đầu ngành sẽ là cơ sở để có được một cuộc giám sát đạt chất lương cao
góp phần ổn định tình hình xã hội của huyện.
+ Tuy nhiên với cơ cấu như trên cũng sẽ đem lại những hạn chế nhất
định. Việc đại biểu là người đứng đầu trong các lĩnh vực và địa phương (lãnh
đạo các xã, thị trấn) sẽ phần nào giới hạn khả năng tiếp cận thông tin của các
Đoàn giám sát trong trường hợp các Đoàn giám sát tiến hành giám sát tại đơn
vị của họ. Trong trường hợp cuộc giám sát diễn ra mà cả chủ thể chịu sự giám
sát và thành viên Đoàn giám sát đều là lãnh đạo thì sẽ xuất hiện tâm lý cả nể
hoặc ngại va chạm... (đặc biệt là trường hợp chủ thể chịu giám sát là đơn vị có
chức danh cao hơn trưởng Đoàn giám sát). Ngoài ra khi có ý kiến tham mưu
cho Thường trực HĐND về việc ra quyết định đối với các nội dung nhạy cảm
(như quyết định về Ngân sách) thì sẽ có các ý kiến tham mưu thiên vị về lĩnh
vực mình phụ trách.
- Về số lượng đại biểu là không phải công chức nhà nước
Số lượng đại biểu là không phải công chức nhà nước chiếm tỷ lệ rất nhỏ
(01/33 đại biểu, chiếm 3,03%) thành phần đại biểu này trùng với số đại biểu
ngoài Đảng (mục 07 bảng 2.2). Đại biểu không phải công chức nhà nước
thuộc thành phần Phật giáo. Việc này tạo điều kiện cho Thường trực HĐND
sẽ có được tất cả các ý kiến tham mưu đối với lĩnh vực tôn giáo của huyện.
Tuy nhiên với số lượng 01 đại biểu thì chưa thể đáp ứng được các yêu cầu
tham mưu ngày càng cao của Thường trực HĐND.
- Về số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách
+ Đây là thông tương đối nhỏ trong các thông số về đại biểu (03/33 đại
biểu, chiếm 9,09%), tuy nhiên đây là cũng thông số đặc biệt nhất đối với đại
biểu HĐND, 03 đại biểu hoạt động chuyên trách bao gồm các chức danh là
hai Phó Chủ tịch HĐND và Phó Trưởng ban Kinh tế - Xã hội. Đây là bộ phận
đầu não quyết định tất cả các vấn đề của HĐND của huyện Đắk Song, với số
44
lượng đại biểu chuyên trách chiếm số lượng thấp 03/33 đại biểu và đa số là
thành viên của Thường trực HĐND ta thấy:
+ Với chức năng chuyên trách sẽ giúp hai thành viên Thường trực
HĐND tập trung toàn bộ thời gian và trí tuệ vào việc định hướng và quyết
định các vấn đề của HĐND huyện. Hoạt động chuyên trách các đại biểu sẽ
không bị vướng vào tình trạng nể nang, hạn chế tâm lý ngại đụng chạm ảnh
hưởng đến quyền lợi của bản thân. Nâng cao tính khách quan khi tham gia
các cuộc giám sát, giúp các cuộc giám sát đạt hiệu quả cao, đem lại kết quả
thiết thực góp phần phát triển xã hội.
+ Số lượng đại biểu chuyên trách 03/33 hiện nay là quá thấp, không thể
đảm bảo giúp cho HĐND hoạt động hiệu quả được. Mặc dù có chức danh cao
trong HĐND huyện tuy nhiên 02 đại biểu chuyên trách là Phó chủ tịch
HĐND như hiện nay không quán xuyến hết các hoạt động của HĐND, với
chức danh lãnh đạo sẽ hạn chế trong việc trực tiếp tìm hiểu các bất cập đang
diển ra trên địa bàn huyện, cần có một đội ngũ giúp việc chuyên nghiệp để
tham mưu, cụ thể ở đây là các Ban của HĐND. Tuy nhiên chỉ có Phó trưởng
Ban Kinh tế - Xã hội là kiêm nhiệm, vì vậy thực tế cho thấy hoạt động của
HĐND nói chung và hoạt động của Thường trực HĐND nói riêng có những
hạn chế rất lớn trong việc triển khai nội dung làm việc tại các lĩnh vực của
huyện.
- Về số lượng đại biểu hoạt động kiêm nhiệm
Chiếm số lượng lớn 30/33 đại biểu chiếm 90,90% với số lượng lớn và
bao gồm cả các đại biểu công chức nhà nước cũng nằm trong số này, vì vậy
các ưu điểm và hạn chế đối với đại biểu kiêm nhiệm đem lại cũng trùng với
các đại biểu công chức nhà nước. Một số khác biệt ở đây đó là ngoài các đại
biểu công chức nhà nước ra thì còn thêm 01 đại biểu thuộc các lĩnh vực Phật
giáo vì vậy ưu điểm của đại biểu này đem lại sẽ tốt hơn đối với nhóm công
45
chức vì lĩnh vực tham mưu sẽ chuyên sâu hơn. Tuy nhiên thực tế lại cho thấy
đại biểu không phải là công chức nhà nước cơ bản chỉ mang tính hình thức,
hầu như không tham gia và các hoạt động của HĐND (chỉ tham gia các kỳ
họp) vì vậy hiệu quả đem lại không cao.
- Về số lượng đại biểu nữ
+ Với số lượng 09/33 đại biểu chiếm tỷ lệ 27,27 % đại biểu HĐND
huyện Đắk Song, đã đáp ứng được chỉ tiêu đề ra (số đại biểu nữ ít nhất phải
chiếm 30% trở lên). Với vai trò là người đại biểu HĐND các đại biểu nữ đã
phát huy được năng lực và được công nhận bằng các hình thức như giữ các vị
trí chủ chốt trong bộ máy giám sát của HĐND huyện, cụ thể: Có 01 đại biểu
nữ là Phó Chủ tịch HĐND huyện; Ban Kinh tế - Xã hội có 01 đại biểu giữ
chức vụ Phó trưởng Ban Kinh tế - Xã hội hoạt động chuyên trách.
+ Với bản chất mềm mỏng và nhiệm vụ chuyên môn được phân bố rộng
trên các lĩnh vực, ý kiến tham mưu của các đại biểu nữ luôn được Thường
trực HĐND chú trọng để cân nhắc và xem xét. Góp mặt trong Thường trực và
Ban Kinh tế - Xã hội của HĐND, các đại biểu nữ đã góp phần không nhỏ
trong các cuộc giám sát của HĐND huyện Đắk Song.
+ Tuy nhiên, vì nhiều yếu tố liên quan đến gia đình, xã hội đã khiến các
đại biểu nữ không thể phát huy hết được khả năng của bản thân trong công
việc. Việc chưa nắm giữ được các vị trí quan trọng, chủ chốt có ý kiến quyết
định vì vậy các ý kiến vẫn còn hạn chế. Tâm lý ngại va chạm vẫn thể hiện rõ
trong quá trình công tác của các đại biểu nữ, vì vậy ý kiến đưa ra thiếu kiên
quyết. Thực tế các cuộc giám sát của các Ban, đại biểu nữ là thành viên không
nhiệt tình trong việc phát biểu ý kiến, chỉ ra các sai phạm của chủ thể chịu sự
giám sát.
- Về số lượng đại biểu dân tộc ít người
46
+ Đối với tỉnh Đắk Nông nói chung và huyện Đắk Song nói riêng là địa
phương có số lượng các dân tộc thiểu số rất lớn vì vậy đại biểu là người dân
tộc ít người có một vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của
huyện. Các đại biểu dân tộc thiểu số đã phát huy vai trò của mình trong các
hoạt động của HĐND và đã có đại biểu được tin tưởng bầu vào chức danh
Phó Chủ tịch HĐND (tiêu biểu là đã có đại biểu người dân tộc Ê Đê đã giữ
chức vụ Chủ tịch HĐND trong 5 năm tương đương 01 nhiệm kỳ, giai đoạn
2011-2016).
+ Các đại biểu dân tộc thiểu số đã phát huy được vai trò của mình trong
việc tham mưu các quyết định về chính sách dân tộc trên đại bàn huyện.
Tham gia vào thành viên và Ban Kinh tế - Xã hội (01 đại biểu nam dân tộc Ê
Đê) của HĐND huyện, với vai trò là thành viên các Ban, đại biểu dân tộc
thiểu số đã góp phần quan trọng trong việc tổ chức thành công các cuộc giám
sát, đem lại hiệu quả thiết thực cho địa phương.
+ Với đặc điểm khác nhau nhiều về văn hóa, phong tục tập quán nên có
một số đại biểu khó hòa nhập, thích nghi với nhiệm vụ của người đại biểu
HĐND. Vẫn còn hạn chế nhiều về mặt trình độ nên các ý kiến tham mưu vẫn
chưa đạt hiệu quả cao, các đại biểu dân tộc ít người đa số là cán bộ cấp xã
(2/4 đại biểu) vì vậy không thể nắm bắt hết được các nội dung mang tính chất
cấp huyện nên không thể đáp ứng được nhu cầu trình độ ngày càng cao của xã
hội.
- Về số lượng đại biểu ngoài Đảng, Tôn giáo
Với số lượng 01/33 đại biểu thuộc thành phần ở trên đóng góp rất ít cho
hoạt động của HĐND. Cụ thể là 01 đại biểu đạo Phật, đại biểu này không
nắm giữ các nhiệm vụ trong Nhà nước mà chỉ làm công việc chuyên môn, vì
vậy việc tiếp xúc với các lãnh đạo của HĐND như Thường trực HĐND là rất
hạn chế (chỉ tiếp xúc chủ yếu tại các kỳ họp) nên việc đóng góp các ý kiến
47
tham mưu về các hoạt động của HĐND hầu như không có. Tuy nhiên, việc
đại biểu thuộc lĩnh vực trên tham gia vào HĐND đã thể hiện rõ tinh thần đại
biểu HĐND là người đại biểu đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân
dân. Không hạn chế các thành phần tham gia đại biểu là một điểm mạnh của
HĐND, thể hiện được sự hiện diện của Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của
huyện.
2.1.3.4. Về trình độ đại biểu
- Về trình độ Văn hóa – Chuyên môn
+ Trình độ là một yếu tố then chốt không chỉ riêng của đại biểu HĐND
mà còn đối với tất cả các lĩnh vực. Việc nâng cao trình độ về học thức và trình
độ về kinh nghiệm trong công việc là một việc làm thường xuyên của đại biểu
HĐND huyện. Theo số liệu tại bảng 2.2 số lượng đại biểu có trình độ trung
cấp – cao đẳng là 10 đại biểu chiếm 30,30 % số đại biểu, đây là một con số rất
lớn phản ánh rõ về chất lượng của đại biểu HĐND huyện Đắk Song. Việc số
lượng đại biểu có trình độ văn hóa, chuyên môn thấp cũng do nhiều nguyên
nhân trong đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Bảng 2.2. Về trình độ đại biểu
Trình độ đại biểu Hội đồng nhân dân
Văn hóa – Chuyên môn Chính trị
Trên Cử Cấp Cấp Cấp Tr. cấp – Đại Sơ Tr.
n h â n d â n
đại nhân – 1 2 3 C. đẳng học cấp cấp
C ấ p H ộ I đ ồ n g
học Cao cấp
Huyện
0 0 0 10 20 3 00 16 13 Đắk
Song
Tỷ lệ 0 0 0 30,3 60,6 9,1 00 48,5 39,4 (%)
48
+ Nguyên nhân khách quan: Số lượng đại biểu có trình độ văn hóa thấp
chủ yêu tập trung ở các đại biểu là người đồng bào dân tộc thiểu số và các đại
biểu lớn tuổi thuộc địa bàn các xã vùng sâu vùng xa. Các đại biểu này chủ yếu
là do thiếu điều kiện học tập do hoàn cảnh đem lại, việc phát triển ngày càng
nhanh của xã hội khiến cho những đại biểu đã lớn tuổi không thể đuổi kịp về
mặt trình độ văn hóa. Đồng thời việc bố trí cán bộ không đúng chuyên môn
đã được đào tạo là một thực trạng rất phổ biến hiện nay trên địa bàn huyện, vì
vậy đây cũng là một nguyên nhân chính dẫn đến trình độ chuyên môn của đại
biểu thấp chiếm tỷ lệ cao như hiện nay.
+ Nguyên nhân chủ quan: Một số đại biểu có tâm lý chủ quan, ỷ lại vào
việc đã có chức vụ, không cần thiết phải nâng cao trình độ. Chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm thực tế để làm việc, nhận thức của các đại biểu chưa đầy đủ,
phiến diện. Ý thức tự học, tự đào tạo, bồi dưỡng của đại biểu chưa cao, sớm
thỏa mãn với cái đã có, thiếu tự giác trong việc đào tạo, bồi dưỡng để vươn
lên làm chủ kiến thức và công việc của mình.
- Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn số lượng đại biểu được đào tào bài bản
qua các cơ sở, trường lớp chính quy bậc đại học 20 đại biểu và trên đại học 03
đại biểu là dấu hiệu đáng mừng đối với HĐND huyện Đắk Song. Việc kết
hợp các đại biểu trẻ được đào tạo bài bản và kinh nghiệm thực tiễn của các
đại biểu có thâm niên là yếu tố tích cực góp phần tạo ra chất lượng trong thực
thi nhiệm vụ của HĐND huyện. Hiện nay việc nâng cao trình độ văn hóa,
chuyên môn của cán bộ, công chức nói chung và đại biểu HĐND huyện nói
riêng là yếu tố bắc buộc đối với cán bộ, công chức cấp xã. Đây là chính sách
rất đang ghi nhận của Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ công
chức nhà nước.
- Về trình độ chính trị: Bên cạnh trình độ văn hóa, chuyên môn thì trình
độ chính trị là một yếu tố bắc buộc đối với cán bộ lãnh đạo nhà nước. Tuy
49
nhiên các quy định đối với đại biểu HĐND không bắc buộc phải có trình độ
chính trị được đào tạo bài bản, nhưng với số lượng lớn đại biểu là lãnh đạo
các cơ quan nhà nước kiêm nhiệm chức danh đại biểu HĐND thì mặt bằng
chung về trình độ chính trị của đại biểu rất cao với 29/33 đại biểu, chiếm
87,8% số lượng đại biểu. Việc này đem lại hiệu quả rất tích cực vì với trình
độ chính trị vững vàng các ý kiến tham mưu của đại biểu cho lãnh đạo HĐND
sẽ đi theo đúng đường lối chính sách của nhà nước, tránh được các ý kiến có
quan điểm sai lệch đi ngược lại chủ trương, đường lối.
Như vậy có thể thấy rằng, việc tăng trình độ chuyên môn, lý luận chính
trị của đại biểu nhiệm kỳ 2011 - 2016 cơ bản bảo đảm cơ cấu thành phần, chất
lượng cao hơn, bảo đảm để hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Đắk Song, tỉnh Đắk Nông từ 2011- 2016
2.2.1. Thực trạng nội dung giám sát của hội đồng nhân dân huyện
Đắk Song
2.2.1.1. Về lĩnh vực kinh tế
Giai đoạn 2011 – 2016 HĐND huyện Đắk Song đã tổ chức 04 đoàn giám
sát về các nội dung gồm: Giám sát hoạt động, việc tổ chức kinh doanh của các
hộ kinh doanh cá thể có tổ chức sản xuất, chế biến lâm sản, gia công đồ gỗ
mỹ nghệ, chế biến hàng mộc dân dụng trên địa bàn huyện; giám sát hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các Hợp tác xã trên địa bàn huyện; giám sát về việc
quản lý quy hoạch và việc quản lý, cấp phép xây dựng trên địa bàn huyện;
giám sát công tác thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới huyện Đắk Song.
Bảng 2.3. Kết quả giám sát về lĩnh vực kinh tế
Nội dung giám Các phát hiện sau giám sát Phƣơng pháp xử lý sát
50
+ Việc đăng ký kinh doanh đối + UBND huyện chỉ đạo
với ngành nghề này rất hạn các đơn vị chức năng đặc
chế. biệt là Hạt Kiểm lâm
+ Không có giấy phép xây huyện tăng cường công
dựng, xây dựng nhà xưởng tác kiểm tra các cơ sở chế
không đúng mục đích sử dụng biến lâm sản, kiểm soát Giám sát hoạt động, đất. nguồn nguyên liệu, xử lý việc tổ chức kinh + Gần như không có cam kết các cơ sở mua, bán trái doanh của các hộ bảo vệ môi trường và phương phép các sản phẩm từ lâm kinh doanh cá thể án phòng cháy chữa cháy. sản. có tổ chức sản xuất, + Hầu hết nguồn gốc nguyên + Đề nghị đóng cửa các chế biến lâm sản, liệu chế biến không rõ nguồn cơ sở không có Giấy gia công đồ gỗ mỹ gốc. phép kinh doanh, đình chỉ nghệ, chế biến hàng + Các cơ sở không có Giấy các cơ sở chưa đảm bảo mộc dân dụng trên phép kinh doanh đều không các điều kiện kinh doanh. địa bàn huyện thực hiện nghĩa vụ thuế với + Chỉ đạo các cơ quan
nhà nước. chức năng hướng dẫn các
+ Không ký hợp đồng và đóng cơ sở trên hoàn chỉnh các
bảo hiểm cho người lao động. thủ tục theo quy định của
+ Trốn tránh khi Đoàn giám pháp luật.
sát đến kiểm tra trực tiếp.
+ Hoạt động kinh doanh không + Các cấp, các ngành cần Giám sát hoạt hết các ngành nghề đã đăng ký tiếp tục bổ sung, hoàn độngsản xuất, kinh trong giấy phép kinh doanh. thiện các chính sách hỗ doanh của các Hợp + Không điều chỉnh lại tổ chức trợ cho HTX. tác xã trên địa bàn của HTX để phù hợp với Luật + Tạo điều kiện thuận lợi huyện HTX năm 2012. cho các HTX tiếp cận với
51
+ Một số HTX đã ngưng hoạt nguồn vốn ưu đãi.
động từ lâu nhưng không + Đào tạo và nâng cao
tuyên bố giải thể. năng lực quản lý cho lãnh
+ Đội ngũ Xã viên của các đạo HTX.
HTX hiện nay vẫn mang tính + Nghiên cứu, đầu tư
danh nghĩa. công nghệ sản xuất mới,
+ Vốn điều lệ của các HTX tạo ra sản phẩm có khả
còn thấp, kinh doanh không năng cạnh tranh.
hiệu quả.
+ Tự ý cơi nới lấn chiếm hành + UBND huyện chỉ đạo
lang an toàn giao thông các xã thực hiện việc cấp
+ Chồng chéo trông việc quản phép xây dựng.
lý cấp phép xây dựng trên địa + Sớm quy hoạch cụ thể
bàn các xã, thị trấn. các khu dân cư, đáp ứng
+ Tự ý xây dựng không theo nhu cầu xây dựng của Giám sát về việc quy hoạch, gây phá vỡ quy người dân. quản lý quy hoạch hoạch. + Tăng cường xử phạt và việc quản lý, cấp + Việc quy hoạch không theo hành chính đối với các phép xây dựng trên kịp nhu cầu xây dựng của trường hợp vi phạm. địa bàn huyện Đắk người dân. + Xem xét các khu vực Song + Xây sai nội dung được quy quy hoạch không phù hợp
định trong giấy phép. để có phương án chỉnh
+ Lực lượng kiểm tra mỏng, sửa phù hợp thực tế.
không quán xuyến hết các địa + Phân định rõ nhiệm vụ
bàn của huyện. của từng đơn vị trong
+ Các xã chưa quan tâm nhiều việc quản lý cấp phép xây
52
đến việc quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn huyện.
dựng trên địa bàn.
+ Một số xã chưa triển khai
cấp phép xây dựng.
+ Chính quyền các xã chưa + Kiến nghị thay đổi nội
chủ động tìm kiếm các nguồn dung một số tiêu chí để
lực ngoài nguồn ngân sách nhà phù hợp với điều kiện
nước. thực tế địa phương.
+ Việc tuyền truyền, vận động + Tăng cường nguồn vốn
người dân tham gia chưa hiệu đâu tư cho Chương trình Giám sát công tác XDNTM. quả. thực hiện Chương + Thống kê, đánh giá các tiêu + Chỉ đạo chính quyền trình Mục tiêu quốc chí chưa chính xác. các xã chủ động trong gia xây dựng nông + Việc quy hoạch NTM chưa thực hiện các nội dung thôn mới huyện kịp thời, đồng bộ. XD NTM. Đắk Song + Ban chỉ đạo cấp xã hoạt + Vận động người dân
động hiệu quả chưa cao. hiểu được trách nhiệm
trong XD NTM.
+ Đánh giá lại các tiêu chí
theo quy định mới cho
phù hợp.
2.2.1.2. Về lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục, thể
thao
* Về giáo dục
- Giai đoạn 2011 – 2016 HĐND huyện Đắk Song đã tổ chức 01 đoàn
giám sát và 01 đoàn khảo sát về nội dung gồm: Giám sát việc quản lý thu, chi
53
trong trường học và việc dạy thêm, học thêm trong và ngoài trường học trên
địa bàn huyện Đắk Song.
- Đây là lĩnh vực khá nổi bật trên địa bàn huyện Đắk Song, trong năm
học 2011 – 2012các hoạt động thu – chi của các trường học không được quản
lý chặt chẽ, việc nhà trường huy động các khoản thu lớn cho các hoạt động
không cấp thiết (như thu tiền thuê người dọn dẹp vệ sinh, chăm sóc cây cảnh,
xây dựng tượng đài...) diễn ra thường xuyên trong các năm học. Các khoảng
huy động sử dụng không đúng mục đích, không công khai, minh bạch gây
bức xúc cho phụ huynh học sinh trên địa bàn. Đây là nội dung duy nhất được
HĐND huyện tiến hành khảo sát về việc chấp hành kết luận giám sát đối với
các đơn vị chịu sự giám sát.
* Về văn hóa, thông tin, thể dục thể thao
- HĐND huyện Đắk Song đã tổ chức 01 đoàn giám sát việc triển khai
thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá trên địa
bàn huyện Đắk Song.
- Đây là chương trình giám sát rất thiết thực vì huyện Đắk Song hiện có
23 dân tộc anh em cùng sinh sống, với sự đa dạng về cơ cấu dân tộc đã tạo
nên sự phong phú và đa dạng về văn hoá. Mỗi dân tộc đều có những phong
tục, tập quán mạng đậm bản sắc riêng của mình. Tuy nhiên là một huyện miền
núi, kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó trình độ văn hoá, nhận thức và hiểu biết
pháp luật của một bộ phận nhân dân còn nhiều hạn chế, vẫn còn có những
phong tục tập quán lạc hậu, ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế và xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư.
* Về Y tế
- HĐND huyện Đắk Song đã tổ chức 01 đoàn giám sát việc triển khai
thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Trung tâm y tế huyện,
54
nhiệm vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện huyện Đắk Song và Trạm y tế các
xã, thị trấn.
- Công tác phát triển mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở đã và đang
ngày càng được quan tâm nhiều hơn, qua đó công tác khám chữa bệnh, chăm
sóc sức khỏe cộng đồng, việc triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu
Quốc gia về y tế đã được triển khai tốt và mang lại hiệu quả thiết thực. Trong
nhiệm kỳ 2011-2016, công tác khám chữa bệnh tại Bệnh viện đa khoa huyện
và trạm y tế các xã thị trấn đạt 3.712.143 lượt người với tổng kinh phí khám
chữa bệnh 123.291.202.310 đồng [33]
Hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế được quan tâm đầu tư, tăng
cường đội ngũ cán bộ y tế có chuyên môn xuống tuyến cơ sở đã đáp ứng yêu
cầu khám chữa bệnh ban đầu tại địa phương. Việc thực hiện chế độ chính
sách đối với đội ngũ cán bộ y tế bước đầu đã có những chuyển biến tích cực.
Bảng 2.4. Kết quả giám sát về lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá
Nội dung giám sát Các phát hiện sau giám sát Phƣơng pháp xử lý
+ Việc huy động tiến hành + HĐND tỉnh cần có
chưa đúng quy trình, UBND Nghị quyết chuyên đề
Giám sát việc quản huyện và các xã, thị trấn về các khoảng huy
lý thu, chi trong không tiến hành kiểm tra động ngoài Ngân sách
trường học và việc thường xuyên, quản lý vẫn Nhà nước tại các
dạy thêm, học con lỏng lẻo. trường.
thêm trong và + Các khoảng thu không cần + UBND huyện tăng
ngoài trường học thiết vẫn được huy động cường chỉ đạo kiểm
trên địa bàn huyện thường xuyên. tra, nghiêm cấm thu
Đắk Song + Sử dụng các nguồn thu sai các khoảng không cần
mục đích ban đầu. thiết, vược quá sức dân
+ UBND các xã, thị trấn trên địa bàn.
55
chưa nắm bắt được trách + Chỉ đạo các ngành
nhiệm của mình trong việc chức năng kiểm tra,
quản lý dạy thêm, học thêm. loại bỏ các cơ sở dạy
+ Mức tiền thu hai thêm trái phép.
buổi/ngày, dạy ôn tập trong
các nhà trường không thống
nhất, mức chi cho giáo viên
trực tiếp giảng dạy rất thấp,
sai quy định.
+ Các cơ sở dạy thêm ngoài
nhà trường tất cả đều không
được cấp phép.
+ Vấn đề kinh phí chưa được + Ban chỉ đạo cuộc
thực hiện thống nhất và đúng vận động cấp huyện
quy định. cần tăng cường công
+ Nhiều thôn, buôn tỷ lệ hộ tác kiểm tra, đôn đốc Giám sát việc triển nghèo còn cao hơn mức quy các xã, thị trấn thực khai thực hiện định nêu rất khó phấn đấu để hiện cuộc vận động. phong trào toàn xây dựng đạt chuẩn văn hoá. + Ban chỉ đạo cuộc dân đoàn kết xây + Một số đơn vị chưa chủ vận động các xã, thị dựng đời sống văn động hực hiện Cuộc vận trấn cần phát huy vai hoá trên địa bàn động phong trào toàn dân trò, chủ động và linh huyện Đắk Song đoàn kết xây dựng đời sống hoạt thực hiện nhiệm
văn hoá, Ban vận động được vụ, nhất là việc vận
thành lập nhưng không triển động, tuyên truyền
khai nhiệm vụ. nhân dân.
Giám sát việc triển + Việc thực hiện chế độ chi + UBND huyện chỉ
56
khai thực hiện trả tiền công khám của Trung đạo các đơn vị thực
nhiệm vụ chăm sóc tâm y tế về các trạm chậm so hiện đúng quy định
sức khỏe ban đầu với quy định. trong việc chi trả tiền
tại Trung tâm y tế + Việc bố trí đội ngũ thực công khám.
huyện, nhiệm vụ hiện nhiệm vụ khám chữa + Tăng cường đội ngũ
khám chữa bệnh bệnh chưa đúng quy định. có chuyên môn cao
tại Bệnh viện + Công tác tuyên truyền cho các trạm y tế tuyến
huyện Đắk Song trong nhân dân về chính sách xã, thị trấn.
và Trạm y tế các của Nhà nước về y tế còn + Tăng cường việc
xã, thị trấn nhiều hạn chế, dẫn đến tỷ lệ tuyên truyền vận động
người tham gia bảo hiểm còn người dân tham gia
thấp. bảo hiểm y tế.
+ Tình trạng khám chữa
bệnh, điều trị vượt tuyến
ngày càng cao.
2.2.1.3. Về lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường
- HĐND huyện Đắk Song đã thành lập 01 đoàn giám sát về công tác
quản lý, giao đất, giao rừng, cho thuê rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng trên
địa bàn huyện.
- Huyện Đắk Song là huyện có diện tích rừng lớn, vì vậy việc giám sát
nhằm nắm bắt thực trạng quản lý rừng hiện nay của các cơ quan, đơn vị ra
sao? Có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực.
Bảng 2.5. Kết quả giám sát lĩnh vực tài nguyên và môi trƣờng
Nội dung giám sát Các phát hiện sau giám sát Phƣơng pháp xử lý
Giám sát về công + Không có các chế độ dành + UBND huyện cần
tác quản lý, giao cho tổ bảo vệ, phòng chống có biện pháp hỗ trợ
đất, giao rừng, cho cháy rừng vì vậy dẫn đến tình chế độ cho tổ bảo vệ,
57
thuê rừng, bảo vệ và trạng các tổ thực hiện nhiệm phòng chống cháy
phát triển vốn rừng vụ không thường . rừng.
trên địa bàn huyện + Hiện tường phá rừng làm + Tăng cường vân
Đắk Song nương rẩy vẫn còn diễn ra động nhân dân nhằm
thường xuyên và trên diện giảm thiểu tình trạng
rộng. phá rừng làm nương
+ Chính quyền các xã quản lý rẩy.
lỏng lẻo, không nắm bắt được + Chỉ đạo chính
số diện tích rừng thực tế. quyền các xã chủ
+ Ranh giới quản lý đất rừng động rà soát số diện
của Công ty TNHH một tích rừng do địa
thành viên lâm nghiệp Đắk phương mình quản
Song và UBND các xã không lý.
rõ ràng. + UBND chỉ đạo các
đơn vị thực hiện việc
cắm mốc ranh giới
đất rừng ở từng địa
bàn cụ thể.
2.2.1.4. Về thi hành pháp luật
- Giai đoạn 2011 – 2016 HĐND huyện Đắk Song đã tổ chức 05 đoàn
giám sát về các nội dung: Thực hiện cải cách hành chính theo mô hình “một
cửa”, “một cửa liên thông” và thực hiện giờ giấc công vụ tại các xã, thị trấn
trên địa bàn huyện Đắk Song; triển khai thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố
cáo trên địa bàn huyện Đắk Song; thực hiện Quy chế dân chủ tại các cơ quan,
đơn vị, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Đắk Song; giám
sát công tác thi hành án dân sự của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk
Song và giám sát công tác xét xử của Tóa án nhân dân huyện.
58
- Các lĩnh vực chưa được giám sát, bao gồm: Thực hiện nghĩa vụ quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; thực hiện chính sách dân tộc và chính
sách tôn giáo; xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành
chính; khoa học, công nghệ.
Theo luật định nội dung giám sát của HĐND là bao gồm tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương. Với nội dung giám sát rất rộng
lớn mà lực lượng thi hành của HĐND còn rất hạn chế vì vậy trên thực tế
HĐND không thể tiến hành giám sát hết tất cả các lĩnh vực được. Khi HĐND
chọn nội dung giám sát thường căn cứ trên ý kiến đề xuất của Thường trực
HĐND, các Ban, đại biểu HĐND hoặc dựa vào dư luận xã hội. Các nội dung
giám sát của HĐND huyện Đắk Song chủ yếu xoay quanh các lĩnh vực nhạy
cảm, có dư luận xã hội không tốt, đây là một điểm nhấn đối với HĐND huyện
Đắk Song vì như vậy sẽ giúp cho các nội dung giám sát được triển khai sát
với thực tế và đem lại hiệu quả thiết thực.
Bảng 2.6. Kết quả giám sát về thi hành pháp luật
Nội dung giám sát Các phát hiện sau giám sát Phƣơng pháp xử lý
+ Việc niêm yết về trình tự, + UBND các xã, thị
Giám sát việc thực thủ tục, phí, lệ phí giải quyết trấn triển khai việc
hiện cải cách hành thủ tục hành chính thực hiện niêm yết công khai
chính theo mô hình chưa nghiêm túc. các thủ tục hành
“một cửa”, “một + Nội dung quy chế cũng chính để nhân dân
cửa liên thông” và chưa nêu rõ cơ chế phối hợp biết và thực hiện.
thực hiện giờ giấc của cán bộ làm việc tại bộ + Mở “Sổ theo dõi
công vụ tại các xã, phận “tiếp nhận và trả kết tiếp nhận và hoàn trả
thị trấn trên địa bàn quả”. hồ sơ” đối với những
huyện Đắk Song + Lĩnh vực đất đai chưa công thủ tục hành chính
khai đầy đủ thủ tục, giấy tờ, quy định thời giai
59
thời gian giải quyết, không có giải quyết như hồ sơ
sổ theo dõi tiếp nhận và trả về đất đai.
kết quả. + Đề nghị UBND
+ Hồ sơ được lưu trữ tương các xã, thị trấn xây
đối đầy đủ nhưng do cơ sở dựng lại quy chế hoạt
vật chất hạn chế, hồ sơ lưu động, quy định rõ
trữ không được tổ chức sắp quyền hạn, nghĩa vụ,
xếp khoa học. trách nhiệm của từng
cán bộ phụ trách
trong bộ phận “tiếp
nhận và trả kết quả”.
+ UBND huyện đầu
tư xây dựng nhà làm
việc bộ phận một
cửa.
+ Một số đơn vị chưa bố trí + UBND huyện chỉ
lịch tiếp công dân, chưa có đạo cơ quan Thanh
nội quy tiếp công dân theo tra huyện tổ chức tập
quy định. huấn, luật khiếu nại Giám sát việc triển + Các đơn vị chưa phân loại năm 2011, luật tố cáo khai thực hiện Luật được nội dung đơn khiếu nại, năm 2011 cho các xã, Khiếu nại, Luật Tố đơn tố cáo với các loại đơn thị trấn, các cơ quan cáo trên địa bàn thư phản ánh. đơn vị. huyện Đắk Song + Hệ thống sổ sách theo dõi + UBND huyện xây
từ khâu tiếp nhận đến kết quả dựng kế hoạch tuyên
giải quyết ở các đơn vị chưa truyền luật khiếu nại
thống nhất theo quy định. năm 2011, luật tố cáo
60
+ Đối với luật khiếu nại , tố năm 2011 đến nhân
cáo năm 2011 chưa có đơn vị dân và lãnh đạo quản
nào triển khai phổ biến, quán lý
triệt. + Tăng cường tổ
chức tập huấn và
kiểm tra về quy trình
hòa giải cơ sở theo
quy định.
+ Đề nghị thường
trực HĐND các xã,
thị trấn xây dựng kế
hoạch giám sát việc
tiếp công dân, giải
quyết đơn thư khiếu
nại, tố cáo ở địa
phương của mình.
+ Sự phối hợp trong việc Thi + Chỉ đạo cơ quan
hành án dân sự chưa kịp thời. Thi hành tham mưu
+ Việc xác minh điều kiện thi giúp cho Ban Chỉ đạo
Giám sát công tác hành án dấn sự của một số thi hành án giải quyết
thi hành án dân sự chấp hành viên còn sơ sài, dứt điểm một số vụ
của Chi cục Thi chậm xác minh nhất là đối việc nổi cộm, phức
hành án dân sự với án chủ động. tạp.
huyện Đắk Song + Một số văn bản pháp luật + Cần quan tâm đến
quy định chưa được cụ thể công tác chỉ đạo cơ
nên gặp khó khăn khi áp dụng quan chuyên môn của
vào thực tiễn. huyện trong việc phối
61
+ Người phải thi hành án có hợp với Chi cục Thi
điều kiện thi hành án nhưng hành án dân sự huyện
cố tình trồn tránh, chống đối trong thực hiện
lại việc thi hành án. nhiệm vụ.
+ Người phải thi hành án + Tham mưu cho
khiếu nại nhiều lần, gay gắt Ban Chỉ đạo thi hành
dẫn đến vụ việc kéo dài án có kế hoạch hoạt
+ Tình trạng vỡ nợ nhiều làm động cụ thể hàng
cho số lượng án tăng lên tính năm.
chất vụ việc phức tạp thêm + Tăng cường công
nên thi hành án ngày càng tác tập huấn về
quá tải và khó khăn. chuyên môn nghiệp
+ Tài sản kê biên đấu giá rất vụ cho đội ngũ chấp
khó bán. hành viên.
+ Còn hạn chế và yếu kém + Cấp kinh phí để
trong việc tham mưu cho Ban Chi cục Thi hành án
Chỉ đạo thi hành án trong một dân sự huyện Đắk
số vụ việc kéo dài hoặc mang Song xây dựng kho
tính chất phức tạp. vật chứng.
+ Trang bị công cụ
hỗ trợ cho Chấp hành
viên, cán bộ thi hành
án sử dụng trong quá
trình thực thi nhiệm
vụ, để bảo đảm an
toàn về tính mạng,
sức khỏe, tài sản cho
62
cán bộ, công chức và
tài sản của Nhà nước.
+ Nâng cao hơn nữa
điều kiện, trang thiết
bị, cơ sở vật chất, để
phục vụ cho công tác
thi hành án.
2.2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ
họp
Kỳ họp HĐND huyện có một vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi vì, thứ nhất,
kỳ họp HĐND huyện là nơi tập trung đầy đủ nhất các đại biểu đại diện cho cử
tri của cả huyện. Thứ hai, tại kỳ họp HĐND huyện thảo luận và ra nghị quyết
về các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Thứ ba, căn cứ vào các
hình thức thực hiện chức năng giám sát, HĐND huyện chủ yếu thực hiện
quyền giám sát của mình tại kỳ họp.
* Thứ nhất, về hoạt động xem xét báo cáo hoạt động của Thường trực
HĐND, các Ban của HĐND, UBND và báo cáo công tác Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân huyện.
- Báo cáo của UBND huyện: Theo các báo cáo của UBND huyện trong
giai đoạn 2011 – 2016, UBND huyện đã đánh giá một cách sát sao hoạt động
quản lý hành chính Nhà nước của UBND qua từng năm. Các báo cáo đã nêu
tương đối cụ thể và chính xác về tổ chức và hoạt động của UBND các xã, thị
trấn trong huyện, đã chỉ ra được vai trò và kết quả hoạt động chủ yếu của
UBND huyện trong từng nằm trong công tác chỉ đạo và điều hành của
UBND, báo cáo cũng đã phản ánh một cách rõ nét những điểm tích cực và
những mặt hạn chế... Tuy nhiên, các báo cáo vẫn còn có những tồn tại cần
phải khắc phục đó là báo cáo vẫn rơi vào tình trạng phản ánh tình hình, những
63
công việc cụ thể đã làm một cách chung chung mà nội dung báo cáo chưa chỉ
ra được UBND huyện đã thực hiện thẩm quyền và trách nhiệm của mình theo
qui định của pháp luật như thế nào? Ưu và khuyết điểm ra sao? Nguyên nhân
khách quan, chủ quan và trách nhiệm cụ thể của UBND. Với cách báo cáo
này, UBND huyện rất dễ dàng che dấu, bao biện cho những cá nhân có hành
vi sai phạm hoặc năng lực yếu của mình và HĐND huyện không thể nắm bắt
hết được những sai phạm, yếu kém của UBND huyện thông qua báo cáo
được.
+ Thông qua Báo cáo công tác của UBND, theo qui định tại khoản 3 -
Điều 89 Luật Tổ chức chính quyền địa phương và pháp luật hiện hành,
HĐND huyện có toàn quyền miễn nhiệm những thành viên UBND năng lực
yếu, không hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; bãi nhiệm một thành viên nào
đó (hoặc cả tập thể UBND) nếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không
còn sự tín nhiệm của HĐND huyện. Tuy nhiên, HĐND huyện chưa bao giờ
sử dụng biện pháp này. Bởi vì, nhân sự của UBND về mặt nguyên tắc do
HĐND huyện bầu nhưng những nhân sự này lại do cấp ủy giới thiệu. Do đó,
sự lãnh đạo của Đảng chi phối rất lớn đến những hoạt động của HĐND trong
đó có công tác cán bộ của HĐND huyện.
- Báo cáo công tác của Tòa án nhân dân huyện: Theo các báo cáo tổng
kết tình hình tổ chức và hoạt động của TAND huyện giai đoạn 2011 - 2016 đã
đánh giá được một cách cụ thể và toàn diện công tác giải quyết xét xử các loại
vụ án. Các báo cáo cũng đã chỉ ra được những ưu điểm, những thiếu sót trong
quá trình xử án. Tuy nhiên, trong báo cáo khi nêu về các nguyên nhân của các
bản án bị sửa, bị hủy còn chung chung và chưa xác định được là do thẩm
phán có tiêu cực hay năng lực trình độ yếu kém.
+ Trên cơ sở thảo luận và đánh giá những nội dung như vậy, HĐND
huyện có quyền ra nghị quyết kiến nghị Chánh án TAND tỉnh áp dụng các
64
biện pháp xử lý thích đáng, kể cả cách chức những thẩm phán có biểu hiện
tiêu cực, có nhiều bản án bị sửa, bị hủy. Những nghị quyết của HĐND loại
này không chỉ là sự thể hiện mạnh mẽ ý chí của cơ quan đại diện quyền lực
nhà nước của Nhân dân ở địa phương mà còn tăng cường hiệu lực giám sát
của HĐND, khắc phục tính hình thức trong hoạt động của cơ quan dân cử ở
huyện.
- Báo cáo hoạt động của HĐND huyện: Qua nghiên cứu các báo cáo về
tổng kết tình hình hoạt động của HĐND huyện nhiệm kỳ 2011 - 2016, về cơ
bản báo cáo đã tổng kết một cách khái quát tình hình tổ chức và hoạt động
của HĐND các cấp. Các báo cáo đã chỉ ra những điểm hợp lý, những tồn tại,
hạn chế của HĐND các cấp ở huyện. Nhưng báo cáo nêu vẫn còn chung
chung, chưa cụ thể, chưa chỉ ra được tình trạng chỉ giám sát tập trung vào
trước kỳ họp và giám sát đột xuất ở những lĩnh vực nào, cũng như chưa chỉ ra
được trách nhiệm của cá nhân và lãnh đạo trong việc giải quyết những công
việc của mình.
- Báo cáo thẩm tra của hai Ban:
+ Về báo cáo thẩm tra của Ban Pháp chế: Qua các báo cáo thẩm tra của
Ban Pháp chế nhiệm kỳ 2011 – 2016 về cơ bản Ban đã đánh giá được các
điểm làm được và các nội dung vẫn còn tồn tại hạn chế của VKSND, TAND
và công tác giải quyết đơn thư khiếu nại của UBND huyện. Ban cũng đã nêu
lên các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan nêu trên, nhờ việc tiến hành thẩm tra kỷ lưỡng Ban đã giúp khắc phục
được tình trạng không thống nhất số liệu của các cơ quan, đảm bảo được thời
gian chuẩn bị tài liệu phục vụ kỳ họp.
+ Về báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế - Xã hội: Công tác giám sát của
Ban tập trung vào giám sát hoạt động tại UBND huyện, các phòng, ban và tại
các xã, thị trấn Đức An trong việc thực hiện nghị quyết của HĐND huyện về
65
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; ngoài giám sát thực hiện theo chương
trình, nghị quyết HĐND huyện đã thông qua, Ban Kinh tế - xã hội còn tiến
hành giám sát theo sự chỉ đạo của Thường trực HĐND huyện, ý kiến kiến
nghị của cử tri và những vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm.
Nhìn chung, nhiệm kỳ 2011 – 2016 Ban Kinh tế - xã hội của HĐND
huyện Đắk Song đã có nhiều cố gắng trong hoạt động giám sát, chất lượng
giám sát ngày càng được nâng lên cả về chất lượng và hiệu quả, giám sát đã
đi vào chiều sâu, bao quát được các nội dung quan trọng theo chức năng,
nhiệm vụ của Ban.
Ngoài ra, trên thực tế hoạt động xem xét báo cáo hoạt động và các báo
cáo công tác tại kỳ họp còn có những tồn tại sau :
+ Thời gian dành cho hoạt động xem xét báo cáo và các báo cáo công tác
tại kỳ họp quá ít, không đủ để nghiên cứu đánh giá các báo cáo công tác. Pháp
luật hiện hành qui định HĐND họp thường lệ mỗi năm 02 kỳ, nhưng không
qui định thời gian của mỗi kỳ họp. Thời gian mỗi kỳ họp do Thường trực
HĐND dự kiến. Riêng ở huyện Đắk Song, kỳ họp HĐND huyện thường diễn
ra trong 1,5 ngày. Tuy nhiên với khoảng thời gian này, kỳ họp của HĐND
huyện phải giải quyết rất nhiều công việc, đặc biệt là hoạt động giám sát
thông qua hình thức xét báo cáo công tác vì với khoảng thời gian này các ban
và các đại biểu HĐND huyện không đủ để nghiên cứu đánh giá các báo cáo
công tác.
+ Việc cung cấp tài liệu và báo cáo cho Thường trực HĐND, các Ban
của HĐND, đại biểu HĐND như hiện nay là không đảm bảo hiệu quả giám
sát. Quy trình tổ chức thẩm tra đối với các báo cáo hoạt động và các báo cáo
công tác đã được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 92 Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 “Tài liệu kỳ họp Hội đồng nhân dân phải được
gửi đến đại biểu Hội đồng nhân dân chậm nhất là 05 ngày trước ngày khai
66
mạc kỳ họp”, tuy nhiên thực tế các tài liệu được gửi không đúng với thời hạn
quy định mà trễ hơn vì vậy không đủ thời gian để các đại biểu nghiên cứu
trước khi tham gia kỳ họp.
+ Đối với việc thẩm tra báo cáo của các Ban HĐND, thông thường các
đơn vị gửi báo cáo để các ban thẩm tra là không đúng thời gian theo quy định
nên việc thẩm tra phải tiến hành gấp rút, cộng thêm các thành viên của các
Ban HĐND hoạt động kiêm nhiệm nên việc thẩm tra không đủ chất lượng
như mong đợi.
+ Thiếu các qui định của pháp luật hướng dẫn các Ban của HĐND huyện
trong công tác thẩm tra các báo cáo, công tác cũng như nghiệp vụ thẩm tra,
nội dung và hình thức đánh giá báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND
huyện. Các Ban của HĐND huyện trong hoạt động xét báo cáo công tác giữ
một vai trò quan trọng là thẩm tra báo cáo công tác của các cơ quan theo sự
phân công của Thường trực HĐND, giúp HĐND huyện giám sát hoạt động
của các cơ quan, tổ chức cá nhân ở địa phương.
- Tóm lại, ngoài nội dung của các báo cáo thì những yếu tố sau làm ảnh
hưởng đến việc giám sát bằng xem xét báo cáo hoạt động và các báo cáo công
tác của HĐND huyện là: thời gian dành cho hoạt động xem xét báo cáo quá
ít, về việc cung cấp tài liệu và báo cáo cho Thường trực HĐND không đảm
bảo, thiếu các qui định của pháp luật hướng dẫn các Ban của
HĐND huyện trong công tác thẩm tra các báo cáo công tác cũng như nghiệp
vụ thẩm tra, nội dung và hình thức đánh giá của các báo cáo thẩm tra, thiếu
các qui định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện về đại biểu HĐND huyện, đại
biểu phần đông là cán bộ công chức và hoạt động kiêm nhiệm, số chuyên viên
giúp việc quá ít.
* Thứ hai, về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp HĐND
huyện
67
Trong giai đoan 2011– 2016 HĐND huyện Đắk Song đã tổ chức 10 kỳ
họp thường lệ, trong đó có 09 kỳ họp có phiên chất vấn và trả lời chất vấn, kỳ
họp thứ nhất xác nhận tư cách đại biểu và bầu cử chức danh của HĐND nên
không có hoạt động chất vấn. Mỗi phần chất vấn thường có 07 – 12 ý kiến
chất vấn. Các ý kiến này do các đại biểu HĐND huyện gửi đến Thường trực
HĐND huyện theo phiếu chất vấn.Thường trực HĐND huyện sẽ căn cứ vào
nội dung chất vấn để gửi đến các ban, ngành, các cơ quan nhà nước có liên
quan. Các đối tượng này sẽ chuẩn bị trả lời tại kỳ họp. Chủ toạ kỳ họp đã linh
hoạt điều hành phiên chất vấn, sau mỗi câu trả lời chất vấn, chủ toạ đều có kết
luận tóm lược những ý chính để đại biểu nắm rõ hơn và có thể chất vấn thêm.
Nếu phát hiện vấn đề nào chưa được trả lời rõ, trả lời vòng vo, chưa thấy rõ
trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được giao, các đại biểu đã đặt câu hỏi chất vấn trực tiếp để yêu cầu xác định
rõ trách nhiệm và biện pháp khắc phục. Các phiên chất vấn tại hội trường
không những được truyền thanh, mà nội dung còn được đăng báo và phát lại
trên kênh truyền hình của huyện vào các thời điểm thích hợp để cử tri toàn
huyện theo dõi.
Tuy nhiên, hoạt động chất vấn mới chỉ dừng lại ở việc chất vấn và trả
lời chất vấn bằng văn bản mà chưa có truy vấn đến cùng đối với một vấn đề
cụ thể. Các đại biểu chất vấn trực tiếp tại Hội trường hoặc đại biểu hỏi thêm
để làm rõ trách nhiệm của người trả lời chất vấn vẫn có nhưng không nhiều.
Việc chất vấn chỉ tập trung vào một số đại biểu, từ đầu nhiệm kỳ đến nay có
đại biểu chưa thực hiện quyền này lần nào. Các đại biểu thường tập trung việc
chất vấn vào thủ trưởng một số cơ quan như: phòng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, phòng Tài chính – Kế hoạch, phòng Tài nguyên và Môi
trường, UBND huyện, Thanh tra huyện.... mà chưa mở rộng sang các đối
tượng chất vấn khác. Bên cạnh những phần chất vấn và trả lời chất vấn đạt
68
yêu cầu, được cử tri lẫn đại biểu HĐND đồng tình thì hiện nay việc chất vấn
và trả lời chất vấn vẫn còn những khiếm khuyết cần khắc phục như:
+ Vẫn còn nhiều ý kiến chưa sâu sắc, chưa thực sự đúng ý nghĩa của chất
vấn. Nhiều đại biểu còn nể nang, ngại va chạm. Việc chất vấn vẫn còn tập
trung vào một số đại biểu nhất định, còn các đại biểu, nhất là các đại biểu lãnh
đạo các xã, thị trấn, lãnh đạo các phòng ban rất ít khi thực hiện chất vấn vì
tâm lý còn sợ, ngại đụng chạm đến cơ quan quản lý mình.
+ Các nội dung chất vấn chưa thực sự sâu sát mà thường chỉ hỏi để biết
hoặc không hiểu biết sâu về nội dung mình chất vấn nên khi nhận được câu
trả lời chung chung, chưa giải đáp thỏa đáng thì cũng không tiếp tục chất vấn
mà cho qua.
+ Công tác giám sát sau chất vấn cũng như cách thức tác động đến các
đối tượng bị chất vấn còn thụ động. Đối với những câu hỏi chất vấn nghiêm
túc, chỉ rõ những khuyếm khuyết lệch lạc của các cơ quan hữu quan thì vấn
đề xử lý những chuyện tiêu cực, cũng như giám sát việc thực hiện những gì
mà các đối tượng bị chất vấn hứa cũng quan trọng không kém.
Do đó, công tác giám sát của HĐND càng trở nên quan trọng hơn bởi vì
nếu việc giám sát lỏng lẻo, để xảy ra nhiều tiêu cực thì cũng đồng nghĩa với
việc tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước hữu quan, các ban ngành lơ là
việc giải quyết các ý kiến chất vấn sau kỳ họp.
* Thứ ba, hoạt động giám sát thông qua hình thức lấy phiếu tín nhiệm,
bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
- Về hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối với những chức danh do HĐND
huyện bầu vẫn chưa được áp dụng trên thực tế. Mặc dù Luật đã quy định
quyền bỏ phiếu tín nhiệm của HĐND huyện nhưng cho đến nay vẫn chưa có
một đại biểu nào bị áp dụng biện pháp pháp lý này. Thực tế đặt ra là các đại
69
biểu có quyền đi vận động kiến nghị không? Điều này pháp luật chưa quy
định.
- Về lấy phiếu tín nhiệm đối với những chức danh do HĐND huyện bầu,
ngày 21 tháng 11 năm 2012, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc lấy phiếu
tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,
năm 2014 HĐND huyện Đắk Song đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với
11 chức danh theo quy định, cụ thể tại sơ đồ 2.7
HĐND lấy phiếu tín nhiệm
các chức danh
Thường trực
Các thành viên UBND
Trưởng các Ban
HĐND
Chủ
Các Phó Chủ tịch
Chủ tịch UBND
tịch
Phó Chủ tịch HĐND
Trưởng Ban KTXH
Trưởng Ban Pháp chế
UBND
Ủy viên thường trực HĐND
Các thành viên UBND khác
HĐND
Sơ đồ 2.7. Các chức vụ đƣợc lấy phiếu tín nhiệm
Nguồn: Tác giả tự lập sơ đồ
- Kết quả lấy phiếu tín nhiệm đã phán ánh đúng thật chất về mức độ tín
nhiệm của cử tri đối với các chức danh đứng đầu của HĐND và UBND
huyện. Với hình thức bỏ phiếu kín, đây là hình thức giám sát rất tốt trong tình
hình thực tế hiện nay.
70
2.2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Đắk Song giữa hai kỳ họp giai đoạn 2011 - 2016
* Thứ nhất, về hoạt động tổ chức Đoàn giám sát.
- Trong giai đoạn 2011 – 2016 HĐND huyện Đắk Song đã thực hiện khá
tốt hình thức giám sát này, đây là hình thức giám sát chủ yếu của HĐND
huyện trong thời gian giữa hai kỳ họp. Tổng hợp số Đoàn giám sát được tổ
chức tại Bảng 2.5.
Bảng 2.8. Tổng hợp thực trạng về hoạt động tổ chức Đoàn giám sát của
HĐND huyện Đắk Songtừ 2011 - 2016
Nội dung giám sát Đối tƣợng giám sát Năm
Lĩnh vực Kinh tế
Giám sát hoạt động, việc tổ chức kinh
doanh của các hộ kinh doanh cá thể có - UBND huyện
tổ chức sản xuất, chế biến lâm sản, gia - Hạt kiểm lâm huyện 2011
công đồ gỗ mỹ nghệ, chế biến hàng - Các hộ cá thể kinh doanh
mộc dân dụng trên địa bàn huyện
Giám sát hoạt độngsản xuất, kinh - UBND huyện
doanh của các Hợp tác xã trên địa bàn - UBND các xã, thị trấn 2013
huyện - Các HTX trên địa bàn huyện
Giám sát về việc quản lý quy hoạch và - Phòng Kinh tế- Hạ tầng huyện việc quản lý, cấp phép xây dựng trên 2012 - UBND các xã, thị trấn địa bàn huyện Đắk Song
Giám sát công tác thực hiện Chương - Phòng Nông nghiệp và PTNT
trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông huyện 2014
thôn mới huyện Đắk Song - UBND các xã
Lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao
Giám sát việc quản lý thu, chi trong - Phòng Giáo dục và Đào tạo 2016
71
trường học và việc dạy thêm, học thêm huyện
trong và ngoài trường học trên địa bàn - Các trường THPT, THCS trên
huyện Đắk Song địa bàn huyện
- Các cơ sở dạy thêm trên địa
bàn
Giám sát việc triển khai thực hiện - Phòng Văn hóa – Thông tin phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng huyện 2012 đời sống văn hoá trên địa bàn huyện - UBND các xã, thị trấn Đắk Song
Giám sát việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu - Bệnh viện huyện
tại Trung tâm y tế huyện, nhiệm vụ - Trung tâm y tế huyện 2015
khám chữa bệnh tại Bệnh viện huyện - Trạm y tế các xã, thị trấn
Đắk Song và Trạm y tế các xã, thị trấn
Về lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trƣờng
Giám sát về công tác quản lý, giao đất,
giao rừng, cho thuê rừng, bảo vệ và - UBND các xã có rừng (Xã 2013 phát triển vốn rừng trên địa bàn huyện Trường Xuân và Nâm N’Jang)
Đắk Song
Về lĩnh vực thi hành pháp luật
Giám sát việc thực hiện cải cách hành
chính theo mô hình “một cửa”, “một
cửa liên thông” và thực hiện giờ giấc - UBND các xã, thị trấn 2015
công vụ tại các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện Đắk Song
Giám sát việc triển khai thực hiện Luật - Các phòng ban chuyên môn 2014 Khiếu nại, Luật Tố cáo trên địa bàn của huyện
72
huyện Đắk Song - UBND các xã, thị trấn
Giám sát việc phổ biến, tuyên truyền, - Phòng Tư pháp huyện giáo dục pháp luật đối với các đơn vị 2014 - UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Đắk Song
Giám sát công tác thi hành án dân sự - Chi cục thi hành án dân sự của Chi cục Thi hành án dân sự huyện 2016 huyện Đắk Song
Nguồn: Văn phòng HĐND và UBND huyện Đắk Song
* Thứ hai, xem xét giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của công dân
- Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân, Thường trực HĐND
nghiên cứu, xem xét, chuyển đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền và đôn đốc, theo dõi việc giải quyết. Trong trường hợp cần thiết,
Thường trực HĐND tổ chức Đoàn giám sát hoặc giao cho Ban của HĐND
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại địa phương.
- Trong thời hạn do pháp luật quy định, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân do Thường trực HĐND
chuyển đến. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định giải quyết, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thông báo cho Thường trực HĐND biết
việc giải quyết.
- Thường trực HĐND tổ chức tiếp công dân theo lịch hàng tháng. Hoạt
động này giúp Thường trực HĐND có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu nắm bắt
bản chất sự vật, góp phần đảm bảo cho công tác xử lý đơn thư khiếu nại, tố
cáo đúng trình tự, thủ tục, thấu tình, đạt lý. Đối với đơn thư gửi trực tiếp,
Thường trực HĐND nghiên cứu kỹ từng vụ việc, chỉ đạo văn phòng phân loại
và có văn bản chuyển cho cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết.
Những vụ việc phức tạp tổ chức giám sát, xem xét trực tiếp. Qua giám sát,
73
Thường trực HĐND có cơ sở giải thích cho công dân và kiến nghị những vấn
đề cần giải quyết bảo đảm đúng pháp luật.
- Như vậy, công tác tiếp dân của đại biểu HĐND huyện là một công việc
rất quan trọng. Giải quyết tốt việc này, Thường trực HĐND đã góp phần rất
lớn vào việc bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
Bảng 2.9. Số liệu công tác tiếp dân và giải quyết đơn thƣ, khiếu nại
Số
Số đơn văn Số vụ Số Số Số đủ bản việc đơn Tỷ Tỷ Tỷ Nă buổi lƣợt điều trả đƣợc tiếp lệ lệ lệ m tiếp dân kiện lời giải nhận (%) (%) (%) (Buổi) (Lƣợt) chuyển đơn quyết (Đơn) (Đơn) (Văn (Vụ)
bản)
2011 24 53 55 55 100 55 100 32 58
2012 24 67 63 61 96,8 61 100 33 54
40,7 2013 24 98 118 103 87,2 103 100 42 7
2014 24 124 122 93 76,2 93 100 72 77,4
2015 24 150 189 153 80,9 153 100 123 83,4
2016 24 168 205 182 88,7 182 100 142 78
Nguồn: Văn phòng HĐND và UBND huyện Đắk Song
74
* Thứ ba, xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp,
Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp, xem xét hoạt động giám sát của
các Ban HĐND.
Đây là hình thức HĐND giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn
bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp và Nghị quyết của HĐND cấp
dưới trực tiếp. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, tại các kỳ họp HĐND cũng
như giữa hai kỳ họp, Thường trực HĐND, các ban HĐND và từng đại biểu
HĐND phải thường xuyên thực hiện việc giám sát các văn bản thuộc thẩm
quyền của mình nhằm có những kiến nghị, đề xuất kịp thời.
Tuy nhiên, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, hoạt động xem xét văn bản qui
phạm pháp luật gần như không được tiến hành thường xuyên, thực tế hiện nay
Thường trực HĐND chưa từng bãi bỏ văn bản nào.
2.2.4. Thực trạng hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân
dân huyện Đắk Song
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Luật Tổ chức
Chính quyền địa phương năm 2015, Thường trực HĐND huyện Đắk Song đã
phối hợp chặt chẽ với Ban Thường trực UBMTTQVN huyện Đắk Song và
Thường trực HĐND các xã và thị trấn Đức An, tiến hành giám sát toàn diện
các lĩnh vực quản lý nhà nước của UBND huyện, các phòng, ban thuộc
UBND huyện Đắk Song.
Trên cơ sở chương trình giám sát của Thường trực HĐND, của các Ban
HĐND trình tại kỳ họp. HĐND cho ý kiến tại kỳ họp thảo luận chương trình
giám sát của HĐND hàng năm. Căn cứ chương trình giám sát đã được HĐND
huyện thông qua tại kỳ họp và giao cho Thường trực, các Ban của HĐND xây
dựng kế hoạch, quyết định thành lập đoàn giám sát, tiến hành giám sát tại các
cơ quan, đơn vị theo kế hoạch đã đề ra.
75
Thường trực HĐND huyện xem xét cho ý kiến về nội dung, kế hoạch
giám sát, thành phần đoàn giám sát, cơ quan cá nhân chịu sự giám sát và phân
công thành viên của mình tham gia các đoàn giám sát
2.2.5. Thực trạng hoạt động giám sát của các Ban Hội đồng nhân dân
huyện Đắk Song
Trong hoạt động giám sát, hai Ban của HND huyện có trách nhiệm giúp
HĐND huyện giám sát các hoạt động của UBND huyện, các cơ quan chuyên
môn của UBND huyện. Ban Kinh tê – Xã hội giám sát các hoạt động trên lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Ban Pháp chế giúp HĐND giám sát trên lĩnh vực thi
hành hiến pháp, thực thi pháp luật, các văn bản nhà nước cấp trên và nghị
quyết của HĐND huyện.
2.2.5.1. Ban Kinh tế - Xã hội Hội đồng nhân dân huyện
Công tác giám sát của Ban tập trung vào giám sát hoạt động tại UBND
huyện, các phòng, ban và tại các xã, thị trấn Đức An trong việc thực hiện nghị
quyết của HĐND huyện về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; ngoài giám
sát thực hiện theo chương trình, nghị quyết HĐND huyện đã thông qua, Ban
Kinh tế - xã hội còn tiến hành giám sát theo sự chỉ đạo của Thường trực
HĐND huyện, ý kiến kiến nghị của cử tri và những vấn đề mà dư luận xã hội
quan tâm.
Nhìn chung, nhiệm kỳ 2011 – 2016 Ban Kinh tế - xã hội của HĐND
huyện Đắk Song đã có nhiều cố gắng trong hoạt động giám sát, chất lượng
giám sát ngày càng được nâng lên cả về chất lượng và hiệu quả, giám sát đã
đi vào chiều sâu, bao quát được các nội dung quan trọng theo chức năng,
nhiệm vụ của Ban và các vấn đề cấp bách, quan trọng mà HĐND huyện đề ra
và được đông đảo nhân dân và cử tri trong huyện quan tâm.
2.2.5.2. Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân huyện
76
Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ giám sát thường xuyên, trong nhiệm kỳ
2011 – 2016 Ban Pháp chế tổ chức được cuộc giám sát chuyên đề, cụ thể:
giám sát việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, việc thực hiện quy ước, hương
ước thôn, bon, bản …việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Pháp lệnh
34/PL – UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; trong đó có 02 cuộc
giám sát theo chuyên đề về việc thực hiện Luật Ngân sách nhà nước.
2.2.6.Thực trạng hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân
huyện Đắk Song
Giữa hai kỳ họp của HĐND huyện, các đại biểu HĐND đã chủ động
giám sát thông qua công việc hàng ngày của người cán bộ, công chức; hoạt
động được thể hiện rõ nét ở các đại biểu chuyên trách, các đại biểu là thành
viên của 02 Ban HĐND huyện. Các đại biểu này đã tham gia tích cực trong
các đoàn giám sát, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến nội dung giám sát,
các nội dung đang còn vướng mắc được nhiều đại biểu và cử tri quan tâm,
nhiều ý kiến chất vấn tại các cuộc chất vấn, đặc biệt là các chỉ tiêu nghị quyết
về các loại thuế mà UBND tỉnh và HĐND huyện giao.
Hoạt động giám sát của của đại biểu HĐND huyện còn thể hiện rõ nét,
có chất lượng, hiệu quả qua từng vị trí công tác mà đại biểu đó đảm nhận và
các đại biểu đó giám sát về việc thực hiện và thi hành hiến pháp, thực thi pháp
luật, Nghị quyết của HĐND huyện và của cấp trên ngay tại cơ quan, địa
phương mình; thông qua sinh hoạt và cuộc sống hàng ngày của đại biểu nơi
cư trú, đại biểu HĐND đã phát hiện ra những vấn đề tồn tại, hạn chế, vướng
mắc của các cơ quan, đơn vị và của nhân dân trong việc thực hiện Nghị quyết
HĐND các cấp để có những kiến nghị kịp thời cho các cơ quan chức năng để
có những điều chỉnh, xử lý kịp thời.
2.3. Đánh giá hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk
Song từ 2011 - 2016
77
2.3.1. Ưu điểm trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
huyện Đắk Song
- Hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk Song, Thường trực HĐND
và các Ban HĐND huyện trong nhiệm kỳ 2011 – 2016 đã có nhiều đổi mới và
tiến bộ rõ rệt, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác của HĐND
huyện. Thể hiện ở các mặt sau:
- Công tác tổ chức kỳ họp được chuẩn bị chu đáo, nội dung sát thực.
Việc điều hành kỳ họp hợp lý, khoa học, phát huy được trí tuệ và trách nhiệm
của các đại biểu HĐND. Ngay tại kỳ họp đã giải quyết được nhiều vấn đề bức
xúc của địa phương. Thường trực HĐND huyện đã dành nhiều thời gian cho
việc thảo luận, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn; rút ngắn thời gian đọc
và trình bày các báo cáo. Chất lượng, hiệu quả các kỳ họp HĐND huyện ngày
càng được nâng cao.
- Nội dung giám sát chuyên đề của Thường trực HĐND huyện được
chọn lọc kỹ hơn, tập trung vào những vấn đề lớn của huyện, được đông đảo
cử tri quan tâm và ủng hộ. Các báo cáo kết quả giám sát tương đối chính xác,
đánh giá sát thực tế, đưa ra nhiều kiến nghị xác đáng, được đơn vị chịu giám
sát trực tiếp tiếp thu, có biện pháp khắc phục.
- Hoạt động giám sát thường xuyên của các Ban HĐND huyện được phát
huy tác dụng tốt. Thông qua các cuộc giám sát, các Ban đã trực tiếp tham gia
ý kiến, gợi ý những biện pháp tháo gỡ khó khăn cho địa phương, đơn vị chịu
sự giám sát, có những phát hiện chính xác và kịp thời, kiến nghị với cơ quan
có thẩm quyền có biện pháp khắc phục.
- Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND và các Ban HĐND ngày
càng đi vào thực chất, đặc biệt giám sát chuyên đề và giám sát tại kỳ họp.
Thông qua hoạt động giám sát, Thường trực HĐND và các Ban HĐND có
78
thêm cơ sở để thẩm tra, xem xét các Báo cáo, Tờ trình, giúp HĐND huyện
quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương.
- Nguyên nhân ưu điểm:
+ Nhận thức về hoạt động giám sát và vai trò giám sát của HĐND không
ngừng được quan tâm chỉ đạo, thực hiện, từ Ban Thường vụ Huyện ủy,
Thường trực HĐND, lãnh đạo UBND, các Ban HĐND, Mặt trận, đoàn thể đã
thường xuyên quan tâm, chỉ đạo, phối hợp và các cơ quan chịu sự giám sát
kịp thời tổ chức thực hiện. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Đảng,
chính quyền, Mặt trận, Đoàn thể các cấp. Nhờ đó, hoạt động giám sát của
HĐND huyện có nhiều thuận lợi hơn, hiệu quả hơn.
+ Kết quả đó có được là do cơ sở pháp lý cơ bản cho hoạt động giám sát
của HĐND huyện đã được xây dựng. Việc thực hiện nghiêm túc các quy định
của Luật đã giúp HĐND là cơ quan tiến hành giám sát và cơ quan chịu sự
giám sát thấy được trách nhiệm của mình, hình thành cơ chế tự nhiên tạo nên
hiệu quả của hoạt động giám sát. Bên cạnh đó, có tinh thần trách nhiệm trong
công tác điều hòa, phối hợp hoạt động các Ban HĐND, của Thường trực
HĐND huyện, sự tích cực hoạt động của các Ban HĐND huyện.
2.3.2. Hạn chế trong hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân huyện
Đắk Song
2.3.2.1. Hạn chế về nội dung giám sát
Theo quy định nội dung giám sát của HĐND cấp huyện trải rộng trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng... trên địa bàn
huyện. Trong nhiệm kỳ 2011 – 2016 HĐND huyện Đắk Song đã tiến hành
giám sát tất cả các nội dung thuộc phạm vi giám sát của mình bằng nhiều hình
thức như tổ chức Đoàn giám sát, giám sát trực tiếp tại kỳ họp... Mặc dù các
nội dung đều được HĐND giám sát nhưng trên thực tế việc giám sát chỉ mang
79
tính “bề nổi” của từng nội dung chứ không thể đi sâu, làm rõ cụ thể các vấn
đề còn tồn tại được.
Trong nhiệm kỳ 2011 – 2016 HĐND huyện đã tiến hành giám sát thực tế
bằng hình thức tổ chức Đoàn giám sát đối với một số nội dung thuộc các lĩnh
vực như kinh tế, giáo dục, văn hóa, y tế, tài nguyên – môi trường, thi hành
pháp luật. Tuy nhiên các nội dung được giám sát thực tế chỉ là các nội dung
nhỏ của từng lĩnh vực chứ không thể làm rõ từng lĩnh vực được. Ngoài ra vẫn
còn nhiều nội dung chưa được giám sát thực tế gồm: Thực hiện nghĩa vụ quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; thực hiện chính sách dân tộc và chính
sách tôn giáo; xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành
chính; khoa học, công nghệ.
- Nội dung giám sát còn dàn trải, một số kiến nghị còn chung chung,
chưa chỉ rõ được cơ quan đơn vị chịu trách nhiệm chính, chưa qui định cụ thể
thời gian thực hiện kiến nghị, chưa có chế tài đối với các đơn vị không
nghiêm túc thực hiện kiến nghị sau giám sát. Chưa thực sự quan tâm đến việc
kiểm tra, đôn đốc thực hiện kiến nghị sau giám sát (hoạt động này gần như bị
bỏ ngỏ, không thực hiện).
2.3.2.2. Hạn chế về bộ máy giám sát
- Cơ quan giám sát (HĐND, Thường trực HĐND và các Ban của
HĐND) chưa có sự tổng kết chuyên đề để rút kinh nghiệm công tác giám sát
vì vậy phương pháp giám sát còn nặng về việc xem xét báo cáo, tổ chức Đoàn
giám sát với thành phần chưa hợp lý gây lãng phí thời gian, công sức, kinh
phí và không phát huy được vai trò cá nhân của các thành viên trong Đoàn
giám sát.
- Nhiệm vụ, quyền hạn trao cho HĐND rất lớn, nhưng tổ chức bộ máy
chưa tương xứng, thiếu các chế tài để bảo đảm thực hiện các kiến nghị, đề
xuất.
80
- Thường trực HĐND huyện có 02 đồng chí hoạt động chuyên trách,
trong khi đó chỉ có Ban Pháp chế không có đồng chí nào chuyên trách. Thành
viên Ban ít, hoạt động 100% kiêm nhiệm, trong khi đó lại phải đảm nhiệm
khối lượng công việc quá lớn vì vậy thời gian dành cho hoạt động giám sát
không nhiều.
- Đại biểu HĐND huyện hầu hết làm việc kiêm nhiệm (chỉ có hai đồng
chí Phó chủ tịch HĐND và Phó Ban kinh tế - Xã hội là chuyên trách), vì vậy
rất bận công việc chuyên môn, thời gian dành cho hoạt động với tư cách đại
biểu HĐND không nhiều (chủ yếu là tham gia các hoạt động bắc buộc của
HĐND huyện như tham dự các kỳ họp HĐND hoặc tham gia đoàn giám sát
nếu được đề nghị).
- Vai trò cũng như hoạt động của cá nhân đại biểu HĐND trong việc
thực hiện chức năng đại biểu còn yếu. Sinh hoạt của các Tổ đại biểu không
thường xuyên (chỉ tập trung là các thời điểm bắc buộc như trước kỳ họp
HĐND cuối năm). Công tác cung cấp thông tin cho đại biểu còn hạn chế.
2.3.2.3. Hạn chế về công cụ giám sát
- Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành chưa xác lập đầy đủ
quyền lực của HĐND trong hoạt động giám sát, quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, hình thức và cách thức tổ chức hoạt động giám sát của HĐND,
Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND nhưng thẩm
quyền được xác định trong các điều Luật chỉ dừng lại ở mức HĐND được
“xem xét”, “xét thấy”, “khi cần thiết”, cao nhất là “bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do HĐND bầu”.
- Luật cũng chưa có quy định ràng buộc thời gian tối thiểu đối với đại
biểu kiêm nhiệm dành cho nhiệm vụ của HĐND, nên nhiều đại biểu chưa chủ
động tham gia giám sát, cơ chế giám sát chưa rõ ràng làm cho các đại biểu
thiếu tự tin.
81
- Hoạt động chuẩn bị cho kỳ họp đôi lúc còn chậm, chưa đảm bảo kế
hoạch ở một số khâu như chuẩn bị tài liệu phục vụ cho kỳ họp, việc thẩm tra
các báo cáo của các Ban chưa đủ thời gian cần thiết, công tác tham mưu dự
thảo các chỉ tiêu của nghị quyết không phù hợp với tình hình thực tế tại địa
phương. Các báo cáo của các cơ quan tư pháp; báo cáo kết quả thi hành án
dân sự; báo cáo tình hình an ninh trật tự ít được trình bày tại các kỳ họp.
- Đại biểu HĐND thực hiện quyền chất vấn chưa nhiều, chưa đều, chủ
yếu là tại kỳ họp khoảng 15% đến 20%, số lượng các ý kiến chất vấn giữa hai
kỳ họp rất hạn chế, có nhiều đại biểu chưa thực hiện chất vấn. Nội dung chất
vấn chưa rõ nét, phần nhiều mang tính chất “hỏi để biết”, nhiều trường hợp
chất vấn không đúng đối tượng.
- Các kết luận sau giám sát thường chung chung, thiếu kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát đâu lại vào đó.
Chính vì vậy, hiệu quả giám sát của HĐND các cấp hiện nay còn thấp.
2.3.2.4. Hạn chế về hình thức giám sát
- Hạn chế về hình thức giám sát tại kỳ họp
+ Hình thức xem xét báo cáo tại kỳ họp hiện nay không khoa học, mang
tính hình thức là chính, không có sự cải tiến. Mất quá nhiều thời gian cho việc
đọc báo cáo trong khi các tài liệu đã được gửi cho các đại biểu nghiên cứu từ
trước. Việc xem xét các báo cáo tại kỳ họp không đem lại hiệu quả cao vì nội
dung các báo cáo không thể bao quát cụ thể hết được các nội dung diển ra
trên địa bàn huyện trong thời gian 01 năm hoặc 06 tháng (nhất là báo cáo của
UBND huyện).
+ Hình thức chất vấn là hình thức đem lại hiệu quả thực tế cao nhất trong
kỳ họp HĐND, tuy nhiên hiện nay hình thức này vẫn còn nhiều hạn chế vì
nhiều nguyên nhân như tâm lý còn e ngại, yếu về năng lực, cùng lúc kiêm
nhiệm nhiều nhiệm vụ (là cán bộ chuyên môn của UBND và kiêm đại biểu
82
HĐND) nên một số đại biểu vừa đóng vai trò là người chất vấn và cũng là
người bị chất vấn.
+ Hình thức bỏ phiếu tín nhiệm hiện nay vẫn chưa được áp dụng, hình
thức này không mang tính thực tế vì vướng mắc về phân cấp quản lý cán bộ,
như: Về nhân sự các chức danh được HĐND bầu là do Đảng giới thiệu vì vậy
khi có người vi phạm kỷ luật đến mức phải miễn nhiệm thì Đảng sẽ thực hiện
chứ không cần phải đưa ra HĐND để bỏ phiếu tín nhiệm. Trên thực tế chưa
từng có đại biểu nào bị 1/3 số đại biểu hoặc UBMTTQVN huyện yêu cầu bỏ
phiếu tín nhiệm.
+ Lấy phiếu tín nhiệm là hình thức mới, đây là hình thức bỏ phiếu kín
nên đem lại hiệu quả khá thiết thực trong việc đánh giá các đại biểu, tuy nhiên
kết quả đánh giá các chức danh do HĐND bầu theo hình thức này không phản
ánh đúng bản chất của vấn đề, cụ thể: Lấy phiêu tín nhiệm cơ bản sẽ đánh giá
đúng mức độ tín nhiệm đối với các chức danh không kiêm nhiệm gồm phó
chủ tịch HĐND, ủy viên thường trực HĐND, Chủ tịch UBND, các Phó chủ
tịch UBND và các thành viên UBND không kiêm nhiệm chức danh của
HĐND; nhưng đối với chức danh Trưởng các Ban Kinh tế - Xã hội, Ban Pháp
chế và Chủ tịch HĐND thì việc đánh giá sẽ không khách quan vì khi đánh giá
các đại biểu sẽ không chỉ căn cứ trên nhiệm vụ đối với chức danh được
HĐND bầu mà sẽ kèm theo cả chức danh kiêm nhiệm (như trưởng Ban Pháp
chế là do Ban Tổ chức huyện ủy kiêm nhiệm, trưởng Ban Kinh tế - Xã hội do
Chánh văn phòng huyện ủy kiêm nhiệm).
- Hạn chế về hình thức giám sát giữa hai kỳ họp
+ Hình thức tổ chức Đoàn giám sát là hình thức giám sát đem lại hiệu
quả cao nhất của HĐND huyện Đắk Song, tuy nhiên hình thức này vẫn không
thể phát huy được hết khả năng vì bị ảnh hưởng bởi các yếu tố của giám sát
gồm nội dung, bộ máy, công cụ giám sát như: Hình thức tổ chức Đoàn giám
83
sát không thể tiến hành hết trên tất cả các lĩnh vực của nội dung giám sát; hạn
chế về số lượng, năng lực, chuyên môn của bộ máy giám sát; công cụ giám
sát không đầy đủ hoặc quá nhiều đối với từng lĩnh vực giám sát.
+ Hình thức xem xét giải quyết việc khiếu nại tố cáo của công dân hiện
nay không được chú trọng vì theo quy định HĐND không có chức năng giải
quyết khiếu nại, tố cáo mà chuyển cho các cơ quan chuyên môn xử lý, HĐND
chủ yếu đôn đốc, theo dõi quá trình giải quyết là chính. Thực tế việc theo dõi
này chưa được HĐND quan tâm đúng mức.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Hệ thống pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung nhưng chưa thực sự đồng
bộ, còn chỗ thiếu thống nhất. Các quy định về hoạt động giám sát mới chỉ
được qui định trong một chương của Luật Tổ chức chính quyền địa phương,
Quy chế hoạt động của HĐND và chưa có Luật giám sát của HĐND, chưa có
chế tài cụ thể nên chủ thể giám sát không thể xử lý đối tượng giám sát được.
Mức phụ cấp cho thành viên các Ban chưa có (chỉ Trưởng hoặc Phó
Ban có); điều này cũng ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả hoạt động giám sát.
Bộ phận giúp việc cho HĐND huyện Đắk Song không đảm bảo yêu cầu
theo quy định như không đủ số lượng về đội ngũ chuyên viên, trình độ
chuyên môn thực tế không phù hợp với tính chất công việc.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức về vai trò giám sát của Thường trực HĐND, các Ban HĐND,
Đại biểu HĐND của một số các cơ quan, tổ chức chưa cao. Việc thực hiện
các quy định về mối quan hệ giữa UBND, các cơ quan chuyên môn của
UBND với Thường trực HĐND, các Ban HĐND chưa thật tốt. Chưa tạo điều
kiện cho các Ban nắm bắt đầy đủ thông tin về hoạt động của UBND và các cơ
84
quan chuyên môn của UBND, điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng giám sát
của HĐND, các Ban của HĐND.
Công tác đôn đốc các đơn vị, các ngành và chính quyền địa phương
trong việc giải quyết đơn thư khiếu nại, khiếu nại tố cáo của công dân chưa
kịp thời.
Việc thực hiện các quy định về mối quan hệ giữa UBND huyện, các cơ
quan chuyên môn của UBND với Thường trực HĐND, các Ban HĐND chưa
thật tốt. Chưa tạo điều kiện cho các Ban nắm bắt đầy đủ thông tin về hoạt
động của UBND và các cơ quan chuyên môn của UBND, điều đó đã ảnh
hưởng đến chất lượng giám sát
85
Tiểu kết chƣơng 2
Nhiệm kỳ 2011 – 2016 hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk Song
đã có nhiều cải tiến đã đem lại hiệu quả thiết thực. Thông qua hoạt động giám
sát nói chung và giám sát UBND huyện, HĐND huyện đã nắm được thực
trạng hoạt động của các cơ quan, tổ chức hữu quan trên địa bàn huyện; qua
giám sát đã chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, tìm ra nguyên nhân, qua đó có
những kiến nghị để khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị
được giám sát; qua thực tế giám sát đánh giá về hiệu quả, tính khả thi các quy
định của các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên
và các nghị quyết của HĐND huyện trong thực tiễn,nắm bắt được những vấn
đề nổi cộm, bức xúc mà cử tri quan tâm.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong hoạt động giám sát của HĐND
trong nhiệm kỳ 2011 – 2016 và đầu nhiệm kỳ 2016 - 2021 vẫn còn một số tồn
tại hạn chế như: Hạn chế về nội dung giám sát, hạn chế về bộ máy giám sát,
hạn chế về công cụ giám sát, hạn chế về hình thức giám sát. Những hạn chế
nêu trên một phần là do hệ thống pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung nhưng
chưa thật sự đồng bộ, còn chỗ thiếu thống nhất, nhận thức về vai trò giám sát
của TT.HĐND, các Ban HĐND, đại biểu HĐND của một số cơ quan, tổ chức
chưa cao.
86
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HOẠTĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH
ĐẮK NÔNG
3.1. Phƣơng hƣớng tăng cƣờng hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông
3.1.1. Nhận thức đúng đắn về vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện
Muốn nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND trước hết chúng ta cần
phải có nhận thức đúng đắn về vai trò của hoạt động giám sát, bởi lẽ giám sát
là hoạt động khó khăn phức tạp nhưng lại có vai trò quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nước. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
hoạt động giám sát là trách nhiệm, yêu cầu cấp bách không những đối với bản
thân HĐND, đại biểu HĐND mà còn là trách nhiệm của các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức kinh tế và tổ chức xã hội. Các chủ thể và đối tượng bị giám
sát cần nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vai trò, yêu cầu của hoạt động giám
sát, phải coi giám sát của HĐND như là một động lực để phát triển, để ngăn
chặn tình trạng vi phạm pháp luật đang diễn ra tại các đơn vị chịu sự giám sát
chứ không phải nhằm tìm tòi những mặt yếu kém như nhận thức của một số
cá nhân. Trên cơ sở đó xác định, mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động giám sát.
Ngược lại, nếu thiếu sự nhận thức đúng đắn trên thì mọi nỗ lực về tăng cường
hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk Song sẽ không có ý nghĩa.
3.1.2. Hoạt động của Hội đồng nhân dân phải dựa trên quy định của
Hiến pháp, Luật và sự thật khách quan
Hoạt động giám sát của HĐND huyện phải dựa trên quy định của HIến
pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 được Quốc hội khóa
XIII thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2016. Luật Hoạt động
87
giám sát của Quốc hội và HĐND được Quốc hội khóa XIII thông qua và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016; đây là những luật mới đã được Quốc
hội thông qua và đã có hiệu lực thực hiện; do vậy có nhiều nội dung đã được
sữa đổi, cải tiến khắc phục những tồn tại, hạn chế của Luật Tổ chức HĐND
và UBND năm 2003. Vì thế Thường trực HĐND huyện cần phải xây dựng kế
hoạch tuyên truyền, phổ biến các nội dung trong các văn bản của hai đạo luật
này cho các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là đối với cán bộ. công chức tham
mưu và phục vụ hoạt động của HĐND.
Phải gắn hoạt động giám sát với cuộc sống thực tiễn; tập trung giải quyết
những vấn đề bức xúc được dư luận xã hội, cử tri và Nhân dân quan tâm; đáp
ứng lòng mong mỏi và nguyện vọng của Nhân dân để HĐND huyện Đắk
Song thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân tại địa phương, là cầu
nối giữa Nhà nước với Nhân dân. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của
HĐND phải đảm bảo tính độc lập, khách quan, công khai, minh bạch, đây là
một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của
hoạt động giám sát. Cơ cấu, thành phần và cách thức tổ chức, hoạt động của
Đoàn giám sát phải đáp ứng được yêu cầu của nội dung giám sát. Phải có sự
phối hợp chặt chẽ trong hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk Song với
các cơ quan liên quan. Việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND huyện
vừa có tính độc lập vừa có liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các cơ quan thông tấn, báo chí, do đó việc phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan này là hết sức quan trọng. Đảm bảo các điều kiện đảm bảo, hỗ trợ
cho hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk Song cần phải được tăng
cường. Trong đó, đặc biệt là các điều kiện đảm bảo về thông tin, bộ máy tham
mưu, giúp việc, cơ chế tài chính và các công cụ hỗ trợ.
3.1.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện phải diễn ra
thường xuyên, liên tục, kế hoạch và có hiệu quả
88
Khi xây dựng nghị quyết giám sát hàng năm, HĐND ngoài việc xây
dựng chương trình giám sát theo định kỳ, cần phải dự báo những vấn đề phát
sinh, nổi cộm cần giám sát đột xuất. Trên cơ sở đó Thường trực HĐND và
các Ban xây dựng chương trình giám sát của mình theo kế hoạch cụ thể của
từng kỳ họp, từng quý, từng tháng nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Bởi
vì, hiện nay đối tượng, phạm vi, nội dung giám sát của HĐND rất rộng, vì vậy
hoạt động giám sát của HĐND huyện cần phải kế hoạch cụ thể, phải được
diễn ra thường xuyên, liên tục, ngoài việc giám sát theo kế hoạch được giao
tại nghị quyết của HĐND thì có thể tổ chức giám sát đột xuất đối với các nội
dung nếu thấy cần thiết và cấp bách và phải cần phải đặt trong mối quan hệ
với hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các
cơ quan nhà nước khác và của toàn xã hội nhằm tránh sự chồng chéo về chức
năng và nhiệm vụ giữa các cơ quan này với nhau gây cản trở cho hoạt động
của chính các cơ quan có chức năng giám sát và các cơ quan bị giám sát.
3.2. Giải pháp nhằm tăng cƣờng hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông
3.2.1. Nhóm giải pháp chung
3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát
của HĐND huyện
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HĐND phải
mang tính tổng thể, thực chất, không hình thức và phải tiến hành trên các mặt
sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo đối với tổ chức của HĐND thông qua
việc giới thiệu các đảng viên ứng cử đại biểu HĐND.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo đối với các cơ quan, tổ chức khác ở địa
phương như UBND, Mặt trận Tổ quốc...
89
Ba là, giảm số lượng đại biểu HĐND là cán bộ lãnh đạo cơ quan chuyên
môn thuộc các lĩnh vực của nhà nước.
Một số giải pháp là:
- Về tổ chức của HĐND, Đảng cần cử cán bộ của mình tham gia vào tổ
chức của HĐND, đặc biệt là ở các vị trí lãnh đạo, bên cạnh đó, các vị trí lãnh
đạo của HĐND cũng cần tham gia cấp ủy Đảng ở địa phương để nắm bắt trực
tiếp nghị quyết của Đảng, đóng góp vào việc xây dựng và thực hiện nghị
quyết đó. Cụ thể là:
+ Phó Chủ tịch và Uỷ viên thường trực hoạt động chuyên trách được cơ
cấu là Uỷ viên thường vụ, huyện ủy viên để nâng cao vị trí, vai trò của
HĐND. Có như vậy, trong hoạt động giám sát với các cơ quan khác, Thường
trực HĐND mới có tiếng nói nhất định.
+ Giảm số lượng Trưởng, Phó Ban của Đảng kiêm nhiệm chức vụ
Trưởng, Phó ban của HĐND. Hiện nay, phần lớn các huyện, thành phố bố trí
Trưởng ban Đảng kiêm Trưởng ban của HĐND. Thực tế cho thấy mô hình
này ở nhiều nơi làm yếu hoạt động của HĐND do Trưởng ban Đảng không
sâu sát được công tác HĐND. Mặt khác, Thường trực HĐND cũng rất khó
điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban của HĐND do Trưởng ban của
HĐND kiêm nhiệm hầu hết là Thường vụ cấp ủy Đảng địa phương, xét về tổ
chức Đảng lại có vị thế cao hơn Phó Chủ tịch và Uỷ viên Thường trực
HĐND.
- Hạn chế sự can thiệp quá sâu vào hoạt động của HĐND, tăng cường
dân chủ, tính chủ động, sáng tạo của HĐND, Đảng không quyết định “cứng”
vấn đề mà nên định hướng hoạt động của HĐND, phát huy được trí tuệ tập
thể của người đại biểu nhân dân.
3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân huyện
90
Để thực hiện chức năng giám sát có hiệu quả trước hết cần hoàn thiện
các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND. Bởi lẽ, nếu không
có các quy định cụ thể về quyền giám sát của HĐND thì sẽ không có cơ sở
pháp lý để thực hiện chức năng giám sát của HĐND. Mặc dù hiện nay Luật tổ
chức chính quyền địa phương đã có một điều quy định về hoạt động giám sát
của HĐND các cấp (Điều 87 – Hoạt động giám sát của HĐND), song vẫn còn
sơ sài so với yêu cầu thực tiễn, chưa đủ cơ sở pháp lý để HĐND thực hiện tốt
chức năng của mình.
Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện cơ chế giám sát ở nước ta hiện nay, từ
nhận thức giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND với một phạm vi
đối tượng giám sát khá phong phú và phức tạp, cần phải xây dựng luật về
giám sát của HĐND, trong đó quy định một cách rõ ràng, đầy đủ về khái
niệm giám sát của HĐND. Nội hàm của khái niệm phải được thể hiện ở chủ
thể giám sát, đối tượng chịu sự giám sát, nội dung và phạm vi hoạt động giám
sát của HĐND. Nói chung về nội dung, luật giám sát của HĐND cần tiếp tục
hoàn thiện ở một số vấn đề sau:
* Về chủ thể giám sát:
Cần bổ sung ghi rõ thành một mục riêng trong luật, chủ thể giám sát của
HĐND là các đại biểu HĐND nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các đại biểu hoạt
động cũng như để họ phát huy tinh thần, trách nhiệm của mình. Bởi thực tế đã
chứng minh rằng đại biểu HĐND là nhân tố quan trọng nhất để nâng cao hiệu
quả giám sát của HĐND
* Về đối tượng chịu sự giám sát của HĐND
Thứ nhất, Trong luật hiện hành không quy định HĐND giám sát các Ban
của Hội đồng. Do đó, Luật giám sát của HĐND cần bổ sung thêm đối tượng
giám sát của HĐND là các Ban của HĐND, vì các Ban của HĐND cũng là cơ
quan được HĐND trao quyền và trách nhiệm nhất định trong các hoạt động
91
nhằm giúp HĐND thực hiện tốt chức năng của cơ quan đại diện. Theo đó, đối
tượng giám sát của HĐND bao gồm: Thường trực HĐND, các Ban của
HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp và các tổ chức kinh tế, xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương.
Thứ hai, cần phân cấp đối tượng chịu sự giám sát của các cấp HĐND,
khắc phục tình trạng phạm vi giám sát của HĐND huyện quá rộng như hiện
nay dẫn đến quá tải và hiệu quả giám sát sẽ không cao.
Về trách nhiệm của các thành phần trong Đoàn giám sát.
Hiện nay, thành phần của các Đoàn giám sát thường bao gồm các đại
biểu HĐND do một cơ quan của HĐND chủ trì cử ra, sự tham gia đại diện
các cơ quan nhà nước hữu quan như Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên
và một số cán bộ có chuyên môn. Từ đây, đặt ra vấn đề lý luận và thực tiễn
phải xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể thực hiện quyền giám sát và mức
độ tham gia đến đâu của các tổ chức cá nhân, để đảm bảo tính pháp lý của
hoạt động giám sát. Do vậy, trong luật giám sát của HĐND cần phải bổ sung
thêm nội dung này.
Về trách nhiệm pháp lý của các đơn vị liên quan khi không thực hiện các
kết luận giám sát.
Để tạo điều kiện cho hoạt động giám sát của HĐND có hiệu quả thiết
thực, phải có quy định về các chế tài xử lý đối với các cơ quan, ban ngành khi
không thực hiện các kiến nghị, yêu cầu của HĐND. Có như vậy mới nâng cao
được tinh thần trách nhiệm của các đơn vị và đảm bảo uy tín cho HĐND.
Qua các vấn đề nêu trên, Luật giám sát của HĐND phải được hoàn thiện
hơn, quy định cụ thể hơn trách nhiệm của chủ thể giám sát, đối tượng giám
sát, các thành viên tham gia đoàn giám sát và phản ánh kịp thời các yêu cầu
khách quan của thực tiễn, bám sát chủ trương đường lối của Đảng về phát huy
dân chủ cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Các cơ
92
quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải chú trọng yếu tố kỷ luật lập pháp đảm
bảo tính cụ thể và mức độ khái quát hợp lý của các quy phạm pháp luật nhằm
làm cho các quy định về giám sát của HĐND dễ hiểu, dễ áp dụng, rõ ràng,
minh bạch, không phải chờ đợi những văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn
hướng dẫn, giải thích. Hơn nữa, hoàn thiện Luật giám sát của HĐND phải
đồng bộ với các quy định khác của pháp luật có liên quan, trên cơ sở đó điều
chỉnh các hoạt động giám sát của HĐND một cách toàn diện, thống nhất và
thuận lợi.
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể
3.2.2.1. Tăng cường nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Đắk Song
Nội dung giám sát của HĐND huyện Đắk Song được trải rộng trên tất cả
các lĩnh vực vì vậy tác giả không có phương án tăng cường thêm về nội dung
giám sát. Mặc dù thực tế hiện nay việc giám sát tất cả các lĩnh vực thuộc nội
dung giám sát là quá tải đối với HĐND huyện, tuy nhiên không thể giảm bớt
các nội dung ít được giám sát, vì HĐND ngoài việc giám sát theo kế hoạch
được giao tại nghị quyết của HĐND thì có thể tổ chức giám sát đột xuất đối
với các nội dung nếu thấy cần thiết và cấp bách. Vì vậy để giữ tính cơ động
trong giám sát của HĐND thì không thể giảm bớt nội dung giám sát được.
3.2.2.2. Hoàn thiện bộ máy giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk
Song
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HĐND phải
mang tính tổng thể, thực chất, không hình thức và phải tiến hành trên các mặt
sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo đối với tổ chức của HĐND thông qua việc giới
thiệu các đảng viên ứng cử đại biểu HĐND.
93
- Tăng cường sự lãnh đạo đối với các cơ quan, tổ chức khác ở địa
phương như UBND, Mặt trận Tổ quốc...
- Giảm số lượng đại biểu HĐND là cán bộ lãnh đạo cơ quan chuyên môn
thuộc các lĩnh vực của nhà nước.
Một số giải pháp là:
- Về tổ chức của HĐND, Đảng cần cử cán bộ của mình tham gia vào tổ
chức của HĐND, đặc biệt là ở các vị trí lãnh đạo, bên cạnh đó, các vị trí lãnh
đạo của HĐND cũng cần tham gia cấp ủy Đảng ở địa phương để nắm bắt trực
tiếp nghị quyết của Đảng, đóng góp vào việc xây dựng và thực hiện nghị
quyết đó. Cụ thể là:
+ Phó Chủ tịch và Uỷ viên thường trực hoạt động chuyên trách được cơ
cấu là Uỷ viên thường vụ, huyện ủy viên để nâng cao vị trí, vai trò của
HĐND. Có như vậy, trong hoạt động giám sát với các cơ quan khác, Thường
trực HĐND mới có tiếng nói nhất định.
+ Giảm số lượng Trưởng, Phó Ban của Đảng kiêm nhiệm chức vụ
Trưởng, Phó ban của HĐND. Hiện nay, phần lớn các huyện, thành phố bố trí
Trưởng ban Đảng kiêm Trưởng ban của HĐND. Thực tế cho thấy mô hình
này ở nhiều nơi làm yếu hoạt động của HĐND do Trưởng ban Đảng không
sâu sát được công tác HĐND. Mặt khác, Thường trực HĐND cũng rất khó
điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban của HĐND do Trưởng ban của
HĐND kiêm nhiệm hầu hết là Thường vụ cấp ủy Đảng địa phương, xét về tổ
chức Đảng lại có vị thế cao hơn Phó Chủ tịch và Uỷ viên Thường trực
HĐND.
- Hạn chế sự can thiệp quá sâu vào hoạt động của HĐND, tăng cường
dân chủ, tính chủ động, sáng tạo của HĐND, Đảng không quyết định “cứng”
vấn đề mà nên định hướng hoạt động của HĐND, phát huy được trí tuệ tập
thể của người đại biểu nhân dân.
94
3.2.2.3. Hoàn thiện công cụ giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk
Song
- Quy định cụ thể về thời gian hoạt động và một số nhiệm vụ cơ bản mà
đại biểu HĐND huyện phải hoàn thành, có chế độ báo cáo cụ thể cho Thường
trực HĐND nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của người đại biểu nhân
dân.
- Cần thay đổi cách thức điều hành các kỳ họp của HĐND, cắt bỏ hoặc
rút ngắn thời gian đối với các nội dung không cần thiết (như đọc báo cáo),
đẩy mạnh hình thức chất vấn của đại biểu tại kỳ họp, hạn chế việc các cá nhân
được chất vấn trả lời bằng văn bản để tăng tính chủ động cho đại biểu.
3.2.2.4. Hoàn thiện hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Đắk Song
Trong thời gian vừa qua, mặc dù hoạt động giám sát của HĐND huyện
đã được tăng cường, song qua đánh giá của dư luận quần chúng, báo cáo tổng
kết hàng năm từ 2011 - 201 của HĐND huyện đều cho thấy rằng: Hiệu quả
giám sát chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước của chính
quyền địa phương. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tồn tại trên vì
HĐND huyện chưa thực hiện tốt các hình thức và phương pháp giám sát,
chưa có cơ chế rõ ràng đảm bảo HĐND huyện thực hiện tốt chức năng của
mình. Do đó, để thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát, trước hết đòi hỏi
HĐND huyện Đắk Song phải nâng cao chất lượng các hình thức và phương
pháp giám sát. Cụ thể như sau:
- Nâng cao chất lượng xem xét báo cáo.
+ Xem xét báo cáo là hoạt động giám sát quan trọng. Đây là hình thức
HĐND xem xét tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc
đánh giá các báo cáo đó. Nên trong luật cần quy định cụ thể về chế độ báo
cáo, hình thức báo cáo; đặc biệt phải quy định trách nhiệm nếu báo cáo không
95
phản ánh đúng thực trạng hoạt động của cơ quan, đơn vị đưa nhiều thông tin
sai lệch hoặc thiếu thông tin.
+ Về phía các cơ quan lập báo cáo yêu cầu thông tin trong báo cáo phải
đầy đủ, khách quan phản ánh đúng thực trạng hoạt động cũng như những vấn
đề trọng tâm cần tập trung giải quyết. Đồng thời phải nêu những kết quả đạt
được, những khó khăn yếu kém tồn tại, từ đó đề ra các biện pháp giải quyết
và những kiến nghị đề xuất việc giải quyết đó.
+ Phương pháp thực hiện hình thức giám sát này phải đảm bảo tính khép
kín. Khi nhận được báo cáo, cơ quan hay người có thẩm quyền đọc, xem xét
góp ý cho báo cáo. Đặc biệt, người được phân công thẩm tra báo cáo có thể
trao đổi với cơ quan lập báo cáo, nếu thấy cần thiết phải đi thực tế kiểm tra
những vấn đề mà báo cáo nêu chưa rõ hoặc có mâu thuẫn về thông tin với
những nguồn thu nhận thông tin khác. Cần công khai hoá nội dung của các
báo cáo xét thấy cần thiết.
+ Khi báo cáo và báo cáo thẩm tra được trình ra HĐND huyện, đại biểu
HĐND huyện cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp ý kiến xác đáng và có
thể nêu vấn đề chất vấn để các cơ quan báo cáo giải trình trước HĐND. Việc
thảo luận và thông qua báo cáo tại kỳ họp của HĐND huyện phải thể hiện
trình độ độc lập của Hội đồng bằng cách ra nghị quyết riêng về vấn đề đó
+ Các báo cáo phải được gửi trước tới đại biểu HĐND huyện theo quy
định của pháp luật và phải được đăng tải trên các phương tiện báo chí thông
tin đại chúng trước kỳ họp, để đảm bảo tính công khai, khách quan. Có như
vậy, kết luận bằng nghị quyết của HĐND huyện Đắk Song mới thực sự là kết
quả của việc sử dụng hình thức xem xét báo cáo một cách có chất lượng.
- Nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn
Chất vấn và trả lời chất vấn là hình thức giám sát quan trọng của HĐND.
Nhưng trong thực tế tại HĐND huyện Đắk Song, hoạt động chất vấn và trả lời
96
chất vấn mới chỉ mang tính chất gợi mở các vấn đề, chưa đảm bảo hiệu lực
thực sự. Người chất vấn thường chưa đủ các thông tin cần thiết còn người trả
lời chất vấn chưa đủ thoả đáng và cụ thể. Để hình thức giám sát chất vấn
mang lại hiệu quả thiết thực thì HĐND huyện và các đại biểu dân cử phải đổi
mới về nội dung và phương pháp chất vấn. Cụ thể:
+ Trong phiên họp, chủ toạ điều hành chương trình phải tạo ra không khí
dân chủ, khuyến khích, động viên đại biểu tham gia chất vấn. Đoàn Chủ tịch
cần phải lựa chọn trong số các chất vấn mà đại biểu HĐND gửi tới đoàn thư
ký, nội dung nào cử tri địa phương và nhiều đại biểu quan tâm đưa ra chất vấn
tại hội trường. Từng câu trả lời chất vấn, HĐND phải nhận xét, kết luận, giao
nhiệm vụ cụ thể cho đối tượng bị chất vấn hoàn thành trong thời gian nhất
định.
+ Về phía đại biểu chất vấn phải đặt các câu hỏi ngắn gọn, đúng đối
tượng, đúng trọng tâm vấn đề mà cử tri dư luận đang quan tâm. Tránh tình
trạng hỏi mang tính chất tìm hiểu để củng cố kiến thức. Muốn vậy, các đại
biểu phải nắm được tình hình chung về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn;
hiểu rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của người trả lời chất vấn; đồng thời phải am
hiểu các quy định pháp luật về vấn đề liên quan đến nội dung chất vấn. Ví dụ:
chất vấn về vấn đề môi trường cần phải hiểu rõ những quy định của pháp luật
(Luật Bảo vệ môi trường; các nghị định hướng dẫn; xử lý vi phạm hành chính
trong vấn đề môi trường…).
+ Việc trả lời chất vấn cũng cần có sự đổi mới theo hướng nâng cao tinh
thần trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Do thời gian tiến hành kỳ họp
HĐND không dài, quỹ thời gian dành cho chất vấn đã được ấn định trong
chương trình kỳ họp, nên việc trả lời chất vấn của các cá nhân có chức trách
phải đảm bảo:
97
+ Về mặt nguyên tắc, mọi chất vấn viết và chất vấn bằng lời nói phải trả
lời công khai tại kỳ họp của hội đồng.
+ Nội dung trả lời chất vấn phải cụ thể, ngắn gọn dễ hiểu; đi thẳng vào
bản chất của vấn đề mà đại biểu quan tâm; tránh tình trạng báo cáo thành tích,
diễn đạt vòng vo, phân tích nhiều về tình hình, nhằm đảm bảo chương trình
làm việc của Hội đồng. Đối với vấn đề cần có thời gian để điều tra, nghiên
cứu thì nhất thiết phải trả lời tại kỳ họp tiếp theo.
+ Trong chất vấn, vấn đề đặt ra hiện nay người trả lời chất vấn không chỉ
dừng lại ở việc phải trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung mà đại biểu
HĐND đã chất vấn, điều quan trọng hơn là người bị chất vấn phải xác định rõ
trách nhiệm và các biện pháp khắc phục sai phạm của mình.
Qua phân tích các nội dung trên, có thể đề ra một số biện pháp cụ thể
sau:
+ Trong cơ cấu đại biểu HĐND huyện nên tăng tỷ lệ quần chúng có năng
lực, tăng số đại biểu chuyên trách, giảm đại biểu là cán bộ quản lý lãnh đạo.
Bởi vì hiện nay số đại biểu HĐND huyện là cán bộ ở các cơ quan nhà nước,
cấp uỷ và đoàn thể đang chiếm tỷ lệ khá nhiều. Có những đại biểu vừa tư cách
là cơ quan quyền lực nhà nước vừa tư cách là người đứng đầu cơ quan hành
pháp, thậm chí tư pháp. Trong khi đó chất vấn, buộc người bị chất vấn phải
giải thích trước cơ quan quyền lực nhà nước về những khuyết điểm, tồn tại
trong hoạt động, công tác của cơ quan, cá nhân đó phụ trách; trả lời những
nguyên nhân, biện pháp khắc phục khuyết điểm đó. Rõ ràng đây là vấn đề
khách quan mà HĐND huyện Đắk Song cũng như các đại biểu Hội đồng
không thể vượt qua. Do vậy để khắc phục hạn chế này chúng ta phải chuyển
dịch cơ cấu đại biểu HĐND một cách hợp lý.
+ Cần xây dựng quy chế chất vấn: quy định cụ thể về hình thức chất vấn;
trình tự, chủ thể, đối tượng, nội dung chất vấn... về hậu quả pháp lý của chất
98
vấn; sự tham gia của cử tri, các phương tiện thông tin đại chúng vào quá trình
chất vấn; vấn đề giám sát theo dõi kết quả, trả lời chất vấn. Trong đó đặc biệt
phải thể hiện được một số nội dung:
Trong phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn nhất thiết phải tổ chức
truyền hình và phát thanh trực tiếp. Bởi thông qua kênh này, cử tri thấy được
những đại biểu nào có trách nhiệm, có chất vấn trong kỳ họp những vấn đề cử
tri kiến nghị. Đây là một trong những hình thức để cử tri giám sát, đánh giá
trách nhiệm của đại biểu.
HĐND huyện và các đại biểu phải thường xuyên theo dõi và đôn đốc
tiến độ thực hiện những cam kết của người trả lời chất vấn bằng các giải pháp
và thời gian thực hiện nhất định.
Phải xây dựng cơ chế đánh giá những biện pháp khắc phục của các cá
nhân đó bằng việc bãi nhiệm, miễn nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm.
Khi cần thiết HĐND có thể ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách
nhiệm của người bị chất vấn.
Tăng thời gian chất vấn.
- Đổi mới hình thức tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các
Đoàn giám sát chuyên đề
Hình thức tổ chức các đoàn đi giám sát tại cơ sở thời gian qua được
HĐND huyện Đắk Song sử dụng nhiều và triển khai rộng rãi ở hầu hết các địa
phương trên địa bàn và đã đạt nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên trên thực tế,
việc thực hiện hình thức giám sát này còn bất cập về chương trình giám sát,
thành viên của đoàn giám sát và phương pháp giám sát. Chính vì vậy, mặc dù
HĐND huyện đã cố gắng tổ chức được nhiều cuộc giám sát song hiệu quả vẫn
còn thấp. Để hình thức tổ chức đoàn giám sát tại địa phương đạt được mục
đích, yêu cầu đề ra phải thực hiện đồng bộ những biện pháp cơ bản sau:
99
+ Về chương trình giám sát: Khi xây dựng nghị quyết giám sát hàng
năm, HĐND huyện ngoài việc xây dựng chương trình giám sát theo định kỳ,
cần phải dự báo những vấn đề phát sinh, nổi cộm cần giám sát đột xuất. Trên
cơ sở đó Thường trực HĐND huyện và các Ban của HĐND xây dựng chương
trình giám sát của mình theo kế hoạch cụ thể của từng kỳ họp, từng quý, từng
tháng nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Bởi hiện nay đối tượng, phạm vi,
nội dung giám sát của HĐND huyện rất rộng, trong khi đó lực lượng giám sát
còn mỏng. Nếu chúng ta vẫn tổ chức giám sát tràn lan, giàn trải thì hiệu quả
chắc chắn sẽ không cao và làm ảnh hưởng đến uy tín của HĐND. Do đó có
thể tổ chức ít cuộc giám sát, nhưng cuộc giám sát nào cũng phải triệt để và
đến cùng thì tác dụng của nó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
+ Về thành viên của đoàn giám sát: Ngoài quyền hạn và kỹ năng giám
sát, thành viên của đoàn giám sát cần phải có chuyên môn về lĩnh vực được
giám sát. Để đáp ứng được yêu cầu đó, có thể thực hiện chế độ hợp đồng mời
các chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực tham gia hoạt động với đoàn giám sát.
Đồng thời phải có quy định cụ thể, để chính kiến giám sát của họ trở thành ý
chí của người đại biểu. Vì thực tế đã xảy ra tình trạng, các thành viên chuyên
môn không phải là đại biểu của Hội đồng đã đóng góp một vai trò rất lớn
trong việc xem xét, tìm hiểu giúp HĐND huyện phát hiện vấn đề chính xác và
nhanh gọn. Nhưng xuất phát từ tư cách pháp lý, cho nên ý kiến của họ không
phải lúc nào cũng được các chủ thể giám sát và đối tượng bị giám sát chấp
nhận. Để khắc phục hạn chế này, cần phải xem ý chí của các thành viên đó về
bản chất cũng là ý chí của những người dân. Với quy định như vậy, việc mời
các thành viên chuyên môn tham gia đoàn giám sát mới thật sự có ý nghĩa.
+ Về phương pháp giám sát: Tuỳ thuộc vào từng đối tượng có thể lựa
chọn hình thức, phương pháp giám sát khác nhau. Nhưng dù sử dụng phương
pháp, hình thức nào cũng phải đảm bảo tính khách quan, chính xác và triệt để.
100
Như vậy, để một cuộc giám sát có hiệu quả chúng ta phải kết hợp nhiều
yếu tố khác nhau. Tuy nhiên hiệu quả giám sát không chỉ dừng lại ở việc chỉ
ra các ưu điểm, khuyết điểm, đề ra những biện pháp khắc phục cho cơ quan
đơn vị chịu giám sát mà điều quan trọng là đơn vị đó đã khắc phục sửa sai
khuyết điểm của mình như thế nào. Tức là những kiến nghị, đề xuất của
HĐND huyện có được các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm tiếp thu, tổ chức
thực hiện trong thực tế một cách triệt để hay không. Do đó HĐND huyện Đắk
Song phải có chế độ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận của đoàn
giám sát, đồng thời pháp luật phải quy định cho HĐND có những chế tài cụ
thể đối với cơ quan đơn vị bị giám sát nếu họ không thực hiện tốt các đề xuất,
kiến nghị của Hội đồng.
101
Tiểu kết chƣơng 3
Thực hiện tốt chức năng giám sát của HĐND huyện,thì các phương
hướng cần xác định trong luận văn đó là: Nhận thức đúng đắn về vai trò hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện; Hoạt động của Hội đồng nhân
dân phải dựa trên quy định của Hiến pháp, luật và sự thật khách quan; Hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện phải diễn ra thường xuyên, liên
tục, kế hoạch và có hiệu quả. Ngoài ra để bảo đảm cho hoạt động giám sát của
HĐND đạt hiệu quả thì cần có những giải pháp nhất định như: Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện;
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
huyện; Tăng cường nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk
Song; Hoàn thiện bộ máy giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song;
Hoàn thiện công cụ giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song; Hoàn
thiện hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song.
Tóm lại, có nhiều giải pháp để tăng cường hoạt động giám sát của
HĐND huyện Đắk Song. Tuy nhiên, để cho hoạt động giám sát của HĐND
huyện Đắk Song đạt hiệu quả thì trong quá trình tiến hành cần phải có sự kết
hợp giữa các giải pháp trên, cần thực hiện các giải pháp một cách thường
xuyên và đồng bộ. Bên cạnh đó, tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân và giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri;
những vấn đề bức xúc được dư luận và cử tri quan tâm để hướng tới phát huy
tiềm năng của huyện, xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
102
KẾT LUẬN
Thực hiện công cuộc đổi mới về tổ chức và hoạt động của HĐND đã
được đề cập trong các nghị quyết của Đảng, thực tiễn hoạt động giám sát của
HĐND đã được coi trọng. Đặc biệt, sau khi Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 ra đời, bước đầu đi vào cuộc sống, hoạt động này đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Hàng năm HĐND huyện đã xây dựng chương
trình, kế hoạch giám sát cụ thể bằng việc ra nghị quyết trên cơ sở yêu cầu của
thực tiễn cuộc sống; công tác tổ chức thực hiện giám sát đã diễn ra toàn diện,
chủ động và bài bản hơn. Công tác theo dõi, đôn đốc sau giám sát đã được
chú ý, thực hiện nghiêm túc hơn, làm tăng lòng tin của nhân dân đối với cơ
quan quyền lực, góp phần nâng cao vai trò quản lý nhà nước của chính quyền
địa phương trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Vì vậy, trên thực tế rất nhiều
cá nhân, cơ quan, tổ chức đơn vị đã kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn các hoạt
động của mình phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết
của HĐND.
Tuy nhiên, dù đã có những tiến bộ nhất định, hiệu quả giám sát của
HĐND huyện Đắk Song vẫn chưa thực sự đổi mới ngang tầm với vị trí, vai
trò còn tồn tại nhiều bất cập hạn chế. Hệ thống pháp luật về giám sát chưa
hoàn thiện, một số quy định còn lỏng lẻo thiếu tính khả thi, một số vấn đề
pháp lý quan trọng còn "bỏ ngỏ"... Hiệu quả giám sát chưa cao. Đa số các
cuộc giám sát chưa đi đến triệt để, chỉ dừng lại ở việc báo cáo các kết quả ghi
nhận được bằng các kiến nghị, đề xuất; việc các cơ quan đơn vị có thực hiện
kiến nghị đề xuất đó hay không chưa được HĐND đánh giá, tổng kết. Điều
này cho thấy các hoạt động giám sát của HĐND huyện Đắk Song chưa
thường xuyên, thiếu chủ động, thiếu kiên quyết... đến nay theo đánh giá
chung vẫn còn là một hoạt động mang tính hình thức.
103
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế trong hoạt động
giám sát của HĐND huyện Đắk Song, luận văn đưa ra một số quan điểm chỉ
đạo, những giải pháp chủ yếu nhằm tập trung tăng cường hoạt động giám sát
của HĐND huyện Đắk Song; xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân. Các
giải pháp trên phải được thực hiện một cách đồng bộ để phát huy hơn nữa sức
mạnh của HĐND, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay.
104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban công tác đại biểu - Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử
(2010), Gắn bó để đại diện cho cử tri, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
2. Ban công tác đại biểu – Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử (2013),
Hội đồng nhân dân trong tổ chức bộ máy nhà nước, NXB. Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
3. Ban công tác đại biểu – Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử (2013),
Đại biểu dân cử với vai trò giám sát - Kỷ yếu Hội nghị tập huấn kỷ năng
2011 – 2012, NXB. Chính trị - Hành chính, Nà Nội.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đắk Song (2015), Lịch sử đảng bộ
huyện Đắk Song 1930-2010
5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Nhà nước và pháp luật
(2004), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
6. Hội đồng nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông (2016), Báo cáo
Tổ chức và hoạt động của HĐND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông nhiệm kỳ
2011 – 2016.
7. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2016), Nghị quyết Ban hành Quy
định một số chế độ, định mức chi đảm bảo hoạt động của Hội đồng nhân dân
các cấp tỉnh Đắk Nông.
8. Huyện ủy Đắk Song (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Đắk Song khóa IV, nhiệm kỳ 2015 – 2020.
9. Nghị quyết số 759/2014/UBTVQH13 ngày 15 tháng 5 năm 2014 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quy định chi tiết về hoạt động tiếp công dân
của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và đại
biểu HĐND.
105
10. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng, của Hội nghị
Ban chấp hành trung ương về Tổ chức Chính quyền địa phương trong đó có
Hội đồng nhân dân và đại biểu HĐND.
11. Nguyễn Đăng Dung, Võ Khánh Vinh, Hội đồng nhân dân trong hệ
thống cơ quan quyền lực Nhà nước.
12. Nguyễn Đăng Dung (2006), Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
13. Nguyễn Hải Long, (2007). Đề tài “Hoàn thiện chính quyền địa
phương trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” –
Viện nghiên cứu pháp luật, Hà Nội.
14. Nguyễn Sỹ Dũng (2004), Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và
thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nxb Tư Pháp,Hà Nội.
15. Phạm Ngọc Kỳ (2007), Quyền giám sát của HĐND và kỹ nănggiám sát
cơ bản, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
16. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại, Hà Nội.
17. Quốc hội (2011), Luật Tố cáo năm, Hà Nội.
18. Quốc hội (2012), Luật Phòng chống tham nhũng, Hà nội
19. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Hà Nội.
20. Quốc hội (2015), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu
HĐND các cấp, Hà Nội.
21. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, Hà Nội.
22. Quốc hội (2015), Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân, Hà Nội.
23. Quốc hội (2015), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà
Nội.
24. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015, Hà Nội.
106
25.Quốc hội (2012), Nghị quyết số: 35/2012/QH13 ngày 21/11/2012 việc
lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc
hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn
26. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số: 215/QĐ-TTg ngày
16/02/2011 về việc hướng dẫn cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016.
27. Tỉnh ủy Đắk Nông (2015), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Đắk Nông khóa XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020.
28. Ủy ban nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông (2011), Báo cáo
tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng
– an ninh năm 2011 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2012.
29. Ủy ban nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông (2012), Báo cáo
tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng
– an ninh năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013.
30. Ủy ban nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông (2013), Báo cáo
tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng
– an ninh năm 2013 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2014.
31. Ủy ban nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông (2015), Báo cáo
tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng
– an ninh năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2015.
32. Ủy ban nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông (2015), Báo cáo
tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng
– an ninh năm 2015 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2016.
33. Ủy ban nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông (2016), Báo cáo
tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng
– an ninh năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2017.
34. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2005), Nghị quyết số 753/2005/NQ-
107
UBTVQH11, ngày 02/4/2005 về ban hành quy chế hoạt động của HĐND.
35. Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng, Hà Nội.