BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

-----------------------

PHOUDTILARD SENGMANY

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

TỈNH SAVANNAKHET

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

-----------------------

PHOUDTILARD SENGMANY

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

TỈNH SAVANNAKHET

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 83 40 403

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. VŨ VĂN NHIÊM

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn nghiên cứu về đề tài “ HOẠT ĐỘNG GIÁM

SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET CỘNG HÒA

DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập

của tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả

PHOUDTILARD SENGMANY

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.VŨ VĂN

NHIÊM, thầy đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học và giúp đỡ tôi hoàn thành

luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn đến quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy và

cung cấp cho tôi những tri thức khoa học về Quản lý công.

Tôi xin chân thành cảm ơn đến:

 Ban lãnh đạo và chuyên viên Phòng Sau đại học - Trường Học viện Hành

chính Quốc gia tại Thành Phố Hồ Chí Minh đã tạo những điều kiện học tập tốt nhất cho chúng tôi.

 Các bạn học viên lớp cao học chuyên ngành Quản lý công HC22.N6 đã

chia sẻ những khó khăn và luôn động viên tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học.

 Gia đình và những người thân đã quan tâm và giúp đỡ cho tôi trong suốt

thời gian học tập.

SENGMANY PHOUDTILARD

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục những từ viết tắt trong luận văn

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1.Lý do chọn đề tài luận văn ....................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ................................ 4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................ 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................... 6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .......................... 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................ 6

7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 7

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH............................ 8

1.1. Vị trí pháp lý và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ................ 8

1.1.1. Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh............................... 8

1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh................................. 12

1.2. Mục đích, yêu cầu, chủ thể của hoạt động giám sát của Hội đồng

nhân dân cấp tỉnh ...................................................................................... 14

1.3. Hình thức hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh …………………19

1.3.1. Hoạt động giám sát thông qua kỳ họp hội đồng nhân dân ............ 19

1.3.2. Hoạt động giám sát ngoài kỳ họp ................................................ 24

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của HĐND tỉnh. ......... 26

1.4.1. Yếu tố chính trị ........................................................................... 26

1.4.2. Yếu tố kinh tế .............................................................................. 27

1.4.3. Yếu tố văn hóa ............................................................................ 29

1.4.4. Các yếu tố khác ........................................................................... 30

Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 34

Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI

ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC CỘNG HÒA

DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO .................................................................... 35

2.1. Giới thiệu về Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng

hòa dân chủ nhân Lào .............................................................................. 35

2.1.1. Quá trình hình thành của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet .......................................................................................... 35

2.1.2. Vị trí, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet .......................................................................................... 36

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet ........... 37

2.1.3. Tổng quan về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet .......................................................................................... 38

2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet thông qua kỳ họp.................................................................. 39

2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet ngoài kỳ họp ........................................................................ 46

2.3.1. Hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh Savannakhet................. 46

2.3.2. Hoạt động của các Ban HĐND từ 2016 đến nay ......................... 54

2.3.3. Hoạt động giám sát của các đại biểu HĐND cấp tỉnh ................. 58

2.4. Đánh giá chung .................................................................................. 60

2.4.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động giám sát ....................... 60

2.4.2. Những tồn tại, hạn chế ................................................................ 61

2.4.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ................................................ 63

Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 65

Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT

ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

TỈNH

SAVANNAKHET NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN

LÀO ............................................................................................................. 67

3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt

động giám sát của HĐND cấp tỉnh ............................................................ 67

3.2. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân nói

chung và hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát nói riêng ................... 68

3.3. Hoàn thiện các hình thức giám sát để nâng cao chất lượng giám

sát của Hội đồng nhân dân ........................................................................ 71

3.4. Nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công chức của Hội đồng

nhân dân tỉnh ............................................................................................ 74

3.5. Nâng cao chất lượng tiếp công dân và xử lý, đôn đốc việc giải

quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ................................................................. 79

3.6. Tăng cường quan hệ giữa Hội đồng nhân dân tỉnh với các cơ quan

ban ngành, đoàn thể ở địa phương ............................................................ 83

3.7. Bảo đảm điều kiện hoạt động giám sát của HĐND và các đại biểu

HĐND tỉnh ............................................................................................... 86

Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 90

KẾT LUẬN ................................................................................................. 91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 93

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

HĐND

:

Hội đồng nhân dân.

TAND

:

Tòa án nhân dân.

TTHĐND

Thường trực Hội đồng nhân dân.

:

UBND

:

Ủy ban nhân dân.

VBPL

:

Văn bản pháp luật.

:

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật.

VKSND

:

Viện Kiểm sát nhân dân.

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa.

QH

:

Quốc hội.

:

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân.

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Sau khi được giải phóng vào tháng 12 năm 1975, chính quyền nhà nước của

Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng, là một chính quyền của dân,

do nhân dân và vì nhân dân. Qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, chính quyền

nhân dân mà cụ thể là hội đồng nhân dân luôn xứng đáng là người đại biểu trung

thành của nhân dân, góp phần không nhỏ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV cho đến các kỳ Đại

hội tiếp theo đó, Lào chủ trương đổi mới nền kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan

liêu bao cấp, chuyển từ kinh tế nửa tự nhiên sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa nằm dưới sự quản lý của nhà

nước.

Điều 2 Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2015 quy định: Nhà

nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là nhà nước dân chủ nhân dân. Tất cả quyền

lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân các bộ tộc, của tất cả

các tầng lớp xã hội với người lao động, nông dân và đội ngũ trí thức là thành phần

chính.

Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức dân chủ trực

tiếp và dân chủ đại diện. Trong bộ máy nhà nước Lào có hai cơ quan do nhân dân

trực tiếp bầu ra đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Khác với Quốc hội là cơ

quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng quyền lực nhà nước trên phạm vi

toàn quốc, Hội đồng nhân dân lại thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực

nhà nước trên phạm vi địa phương mình. Hội đồng nhân dân là cơ quan có vị trí và

vai trò rất quan trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước tại địa phương. Hội

đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và

quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Vì vậy, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có vị

trí vô cùng quan trọng; là cầu nối giữa Trung ương và địa phương trong việc thực

thi đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước tại địa phương và là nơi

trực tiếp ra các quyết định về những chủ trương chính sách lớn liên quan đến phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương

2

Vì vậy nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân theo pháp

luật hiện hành có ý nghĩa cả lý luận cũng như thực tiễn, góp phần hoàn thiện và

nâng cao hoạt động của Hội đồng nhân dân, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của

Hội đồng nhân dân. Bởi vì, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động

của bộ máy nhà nước là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN. Mục đích đặt ra là làm cho các cơ quan nhà nước ở Trung ương

cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của mình theo quy định Hiến pháp và pháp luật.Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng

nhân dân vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện

cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, xây dựng Hội đồng

nhân dân các cấp, trong đó có Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để có thực quyền để đảm

đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay.

Thời gian qua, Thường trực và các ban Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet

nước CHDCND Lào tiếp tục có những hoạt động khá sôi nổi, có những nét nổi bật

theo hướng không ngừng cải tiến để hoạt động của cơ quan dân cử đi vào thực chất,

phát huy dân chủ, trí tuệ của đại biểu. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh đã phối

hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân, Ủy ban xây dựng Tổ quốc Lào của tỉnh và các

cơ quan chức năng trong công tác chuẩn bị nội dung kỳ họp; tổ chức tiếp xúc cử tri,

tổ chức thảo luận tổ đại biểu tại các huyện, thị xã, thành phố theo luật định. Thông

qua các buổi tiếp xúc cử tri, các đại biểu Hội đồng nhân dân đã kịp thời nắm bắt tâm

tư, nguyện vọng, những vấn đề quan trọng, bức xúc mà cử tri quan tâm. Việc cung

cấp các thông tin về trả lời ý kiến cử tri, cũng như thông tin về tình hình kinh tế - xã

hội phục vụ cho hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân được chú trọng và đảm bảo;

hoạt động tại kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh cũng tiếp tục được đổi mới, Hội đồng

nhân dân tỉnh không chỉ thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội, về các báo cáo, đề

án, dự thảo nghị quyết trình tại kỳ họp, mà còn mở rộng dân chủ, công khai trong

hoạt động. Bên cạnh đó, Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban Hội đồng nhân

dân tỉnh đều tăng cường các hoạt động giám sát thường xuyên và giám sát, khảo sát chuyên đề. Đây là bước tiến quan trọng trong hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thể hiện tinh thần quyết tâm và sự đổi mới về phương pháp hoạt động của Hội

3

đồng nhân dân tỉnh ở nhiệm kỳ 2016 - 2021.Qua hoạt động giám sát đã phát hiện

những ưu điểm để phát huy, đồng thời chỉ ra những mặt tồn tại, nguyên nhân, trách

nhiệm và yêu cầu chấn chỉnh. Những kiến nghị trong các báo cáo giám sát đều xuất

phát từ thực tế nên tính thuyết phục cao và phần lớn các kiến nghị đó đã được các

cơ quan, đơn vị được giám sát tiếp thu. Chất lượng thẩm tra của các ban Hội đồng

nhân dân ngày càng được nâng lên, tính phản biện cao, cung cấp nhiều thông tin bổ

ích, giúp đại biểu có căn cứ thảo luận và quyết định những nội dung quan trọng

trong các kỳ họp. Từ đó, cho thấy hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân đã

được cử tri ghi nhận, Tỉnh ủy đánh giá cao.

Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet đã có những chuyển

biến rõ rệt, đóng góp tích cực vào thành công của sự nghiệp đổi mới và xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân. Tuy nhiên, theo đánh giá

của nhiều báo cáo chính thức, hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nói chung

và của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nói riêng vẫn còn biểu hiện mang tính chất hình

thức; chưa thực hiện tốt vai trò, chức năng theo quy định của các văn bản pháp luật

đề ra; hiệu lực, hiệu quả còn thấp, thậm chí trong dư luận còn một số ý kiến chưa

hiểu rõ về chức năng và quyền hạn của Hội đồng nhân dân.

Trong bối cảnh hoạt động theo các quy định mới của pháp luật, đồng thời

trước yêu cầu thực tiễn đặt ra, để đáp ứng được niềm tin, sự mong đợi của cử tri

tỉnh nhà thì vấn đề tiếp tục cải tiến, đổi mới để không ngừng nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, kế thừa những kết quả và kinh nghiệm

trong các nhiệm kỳ trước là yêu cầu cấp thiết đặt ra. Vì vậy, cần tập trung cải tiến,

đổi mới trên các phương diện hoạt động của Hội đồng nhân dân mạnh hơn để đáp

ứng yêu cầu, đáp ứng kỳ vọng của đại biểu và cử tri tỉnh nhà.

Với mong muốn nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet, trên cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp

tỉnh, thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh trong những năm

gần đây, tác giả lựa chọn đề tài:“Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet Công hòa đân chủ nhân dân Lào” để làm đề tài nghiên cứu cho

luận văn cao học Quản lý công.

4

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân không phải là vấn đề mới ở

Việt nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, nhưng việc

nghiên cứu thực trạng hoạt động tổ chức và đưa ra các giải pháp đổi mới hoạt động

của Hội đồng nhân dân luôn là vấn đề có tính thời sự và cấp thiết. Các công trình

nghiên cứu đều quan tâm tập trung theo một goác độ nhất định, giá trị mà các công

trình nghiên cứu đó mang lại rất cao và hướng tới sự hoàn thiện tổng thể. Còn đối

với CHDCND Lào, đây vẫn còn là vấn đề nghiên cứu chưa được rộng rãi mà chủ

yếu là các nghiên cứu chung về quản lý hành chính, trong đó có các công trình

nghiên cứu sau đây:

- Luận văn của Xải U Phun Xả Ly với đề tài “Tăng cường vai trò của Quốc

hội trong việc đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước Cộng hòa

dân chủ nhân dân Lào”, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm

2004. Luận văn đã đánh giá vai trò của Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân

Lào trong việc đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Trên cơ sở đó,

luận văn đề xuất giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Quốc hội trong việc bảo

đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động.

- Vanxay Sengdavong,Tổ chức bộ máy của Văn phòng tỉnh PhongSaLy nước

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận văn Quản lý Hành chính công, Học viện

Hành chính Quốc gia, 2013.

- Phommalath Sengdone, Hiệu quả hoạt động của Văn phòng Ủy ban nhân

dân tỉnh Bokeo, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn Quản lý công,

Học viện Hành chính quốc gia, 2015.

Các công trình nghiên cứu của Việt Nam:

- Nguyễn Viết Bé “Nhân dân lao động thực thi quyền lực chính trị thông qua

cơ quan dân cử”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1998 . Tác giả đã phân tích

những phương thức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động, trong đó

thông qua cơ quan dân cử là Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cách cơ bản nhất.

- Tác giả Nguyễn Sỹ Dũng với cuốn “Quyền giám sát của Quốc hội: nội

dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu” nhìn nhận sự giám sát của Quốc hội đối

5

với cơ quan hành chính nhà nước từ góc độ thực tiễn. Từ đó tác giả soi lại vấn đề lý

thuyết về quyền giám sát của Quốc hội và chỉ ra một số hạn chế.

Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội

đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 6/2002.

Trương Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động các ban của Hội đồng nhân dân,

Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.

Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chúc và hoạt động chủa Hội đồng nhân dân và

ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nước và

pháp luật, năm 2004

Tác giả Văn Tất Thu với cuốn “Tổ chức và hoạt động của văn phòng bộ, cơ

quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ” xuất bản năm 2011 bởi Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia. Công trình đi sâu phân tích cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn

và thực trạng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của văn phòng bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ; phân tích cơ sở khoa học tổ chức bộ máy,

nguồn nhân lực của những cơ quan này, từ đó đề xuất một số giải pháp đổi mới

hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, tuyển dụng, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực

trong các văn phòng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ theo hướng

chính quy, hiện đại.

Nhìn chung những công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh của Hội

đồng nhân dân, tiếp thu những kết quả đó, luận văn nghiên cứu một cách có hệ

thống vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích:

Mục đích của nghiên cứu của luận văn là đánh giá thực trạng hoạt động giám

sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,

để tìm những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng

nhân dân tỉnh Savannakhet .

- Nhiệm vụ:

6

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về Hội đồng nhân dân tỉnh, cơ quan cầu nối giữa

Trung ương và địa phương trong việc thực thi đường lối chính sách của Đảng, pháp

luật của nhà nước tại địa phương.

Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân

tỉnh Savannakhet hiện nay, chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của

ưu điểm, hạn chế trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet.

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng

nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động giám sát của Hội đồng nhân

dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa nân chủ nhân dân Lào.

- Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào từ 2013 - 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận:

Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật

lịch sử.

- Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu vấn đề, đó là

các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh; phỏng vấn chuyên gia,

diễn giải và quy nạp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần hoàn thiện về phương diện lý luận về việc nâng cao chất

lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa dân chủ

nhân dân Lào, trên cơ sở đó góp phần thể hiện rõ vai trò là cơ quan quyền lực Nhà

nước ở địa phương, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

7

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy

về nhà nước và pháp luật trong các trường đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước

về nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có 3 chương.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM

SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG

NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN

DÂN LÀO

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

8

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1. Vị trí pháp lý và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

1.1.1. Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Trên thế giới có nhiều học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước, nhưng chủ

yếu chỉ dừng lại ở tổ chức quyền lực nhà nước ở trung ương với việc phân chia

quyền lực giữa giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoặc đề cập tới việc phân cấp,

phân quyền giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền ở địa phương.

Lý luận mang tính học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước, cụ thể là cấp tỉnh

chưa hình thành rõ ràng. Tuy nhiên, nguyên lý cơ bản nhất và xuyên suốt đó là: Hội

đồng nhân dân là cơ quan dân cử ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra để

thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề cơ bản ở địa phương.

HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương có quyền quyết định

các chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây

dựng và phát triển địa phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng an ninh,

không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm

tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước, HĐND là cơ quan bầu ra UBND,

Thường trực HĐND và Hội thẩm tòa án nhân dân cùng cấp, HĐND giám sát hoạt

động của các cơ quan nhà nước ở địa phương, giám sát việc tuân theo pháp luật ở

địa phương. Nghị quyết của HĐND phải được quá nửa tổng số đại biểu biểu quyết

tán thành, trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND. HĐND thực hiện quyền làm

chủ của nhân dân địa phương trên địa bàn lãnh thổ, thồng thời thực hiện những

nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên giao Quyết định của HĐND có tính chất bắt buộc

đối với mọi cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng

vũ trang và nhân dân ở địa phương.

Như vậy, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, HĐND cùng

với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, thay mặt nhân dân

sử dụng quyền lực nhà nước và gốc của chính quyền nhân dân. Khác với Quốc hội,

Quốc hội là cơ quan hay mặt toàn thể nhân dân cả nước sử dụng quyền lực nhà

nước trên phạm vi toàn quốc, HĐND sử dụng quyền lực nhà nước trong phạm vi

9

hẹp hơn, trong địa phương mình. Điều này có tính chất quyết định tới phạm vi chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND.

HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra

theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng trực tiếp với hình thức bỏ phiếu kín. HĐND

đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Cơ cấu

HĐND được hợp thành từ những từ những đại biểu ưu tú đại diện cho giai cấp công

nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, các dân tộc, các thành phần xã hội trong phạm vi

địa phương. HĐND tồn tại, hoạt động trước hết vì lợi ích của nhân dân địa phương

nhưng phải phù hợp với lợi ích chung của cả nước. HĐND chịu trách nhiệm và chịu

sự giám sát của nhân dân địa phương. Một yếu tố khác thể hiện tính đại diện của

HĐND là chế độ bãi nhiệm đại biểu HĐND, đại biểu nào không còn xứng đáng với

sự tín nhiệm của nhân thì tùy mức độ vi phạm mà bị HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm.

Thường trức HĐND và UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm

đại biểu HĐND theo đề nghị của Ủy ban xây dựng Nhà nước cùng cấp. Trong

trường hợp HĐND bãi nhiệm đại biểu thì việc bãi nhiệm phải được hai phần ba

tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. Trường hợp củ tri bãi nhiệm đại biểu

thì tiến hành theo thể thức do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.

Trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, HĐND là tổ chức chính quyền gần

gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, nắm vững

đặc điểm của địa phương, do đó có cơ sở quyết định mọi công việc sát hợp với

nguyện vọng của nhân dân địa phương. Như vậy, HĐND là một tổ chức vừa có tính

chất chính quyền lực, vừa có tính chất quần chúng, vừa là trường học quản lý Nhà

nước, quản lý xã hội ở địa phương.

Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình ở từng địa phương và

trên phạm vi cả nước. Vì vậy, HĐND không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân

địa phương mà còn chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên. HĐND một mặt

cần chăm lo xây dựng địa phương, đảm bảo sự phát triển về kinh tế, văn hóa xã hội

nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, mặt khác

phải hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho.

10

Hiện nay, bộ máy nhà nước CHDCND Lào được tổ chức thành bốn cấp hành

chính: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp bản. Cấp trung ương là cấp vĩ

mô, tổ chức quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Cấp tỉnh, huyện, bản là cấp cụ thể

hóa các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của cơ quan nhà

nước cấp trên.

Như vậy, cấp tỉnh là cấp trung gian giữa chính quyền trung ương và chính

quyền đại phương, là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương.Nếu cấp trung ương

là cấp đề ra chủ trương, chính sách thì cấp địa phương là cấp tổ chức, thực hiện chủ

trương, chính sách. Vì vậy, với vai trò là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương,

cấp tỉnh là cấp quan trọng trong việc chuyển tải chủ trương, chính sách từ trung

ương xuống tới người dân. Quá trình chuyển tải chính sách từ trung ương đến cơ sở

, cấp tỉnh được trao cho những thẩm quyền nhất định trong việc thực hiện chức

năng quản lý trên địa bàn lãnh thổ. Xét dưới góc độ tự chủ và quyền tự quản của

nhân dân, thì cấp tỉnh là cấp có quyền tự chủ tương đối cao so với cấp huyện và cấp

bản, tác động tới hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Chính vì vậy, Hội

đồng nhân dân cấp tỉnh càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống bộ máy

nhà nước.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân

bầu ra, quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, một cấp ngay dưới cấp

trung ương. Vì vậy, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng trong

bộ máy chính quyền địa phương, quyết sách những vấn đề trực tiếp ở địa phương,

giải quyết những khó khăn vướng mắc của nhân dân và quyết định hướng phát triển

cho kinh tế - xã hội ở địa phương mình.

HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương, nhưng tính chất đại

diện của Hội đồng nhân dân khác với tính chất đại diện của Quốc hội.Quốc hội là

người đại diện cho nhân dân cả nước; còn Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện

của nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.

Tính chất của Hội đồng nhân dân được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:

11

- Các đại biểu HĐND do cử tri bầu ra bằng hình thức phổ thông, bình đẳng,

trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các cơ quan khác của chính quyền địa phương không

được thành lập theo trình tự này.

- HĐND có cơ cấu đại biểu đại diện cho các tầng lớp xã hội, các thành phần

xã hội được phân bố trên các địa bàn lãnh thổ của địa phương.

- Các đại biểu HĐND là những người tiêu biểu, ưu tú trong nhân dân, đại

diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương.

Tính chất quyền lực của HĐND được thể hiện ở một số mặt sau:

- Căn cứ vào những quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi

nhiệm các chức cức vụ trong tổ chức của mình như thường trực HĐND, các ban của

HĐND;

- Căn cứ vào những quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi

nhiệm các chức danh của Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của mình, cơ quan

hành chính nhà nước ở địa phương;

- Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND ban hành

các nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương.

- HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương.

Tính chất đại diện và tính chất quyền lực của HĐND có quan hệ biện chứng

với nhau.Tính đại diện là tiền đề đảm bảo để HĐND trở thành cơ quan quyền lực

nhà nước ở địa phương.HĐND mới có đủ quyền năng lực thực hiện được tính chất

đại diện cho nhân dân, thay mặt cho nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng

của địa phương.

Tuy HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng xét về vị trí pháp lý,

HĐND không giống với quốc hội, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Sự khác

biệt ở đây không chỉ ở phạm vi, cấp độ mà ở thẩm quyền. Quốc hội là cơ quan duy

nhất có quyền làm Hiến pháp ban hành luật, sửa đổi luật; HĐND cũng là cơ quan

quyền lực nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết trong phạm vi địa phương. Như

vậy, HĐND vừa là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực,

đại diện cho nhân dân địa phương và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng

của địa phương; giám sát việc tuân thủ theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ

12

chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân ở địa phương nhằm phát huy tiềm năng của

địa phương trên mọi mặt kinh tế, xã hội.

Như vậy, tính chất quyền lực của HĐND được thể hiện trên nhiều phương

diện, là cơ quan quyền lực nhà nước có quyền ban hành nghị quyết để quyết định

nhiều vấn đề quan trọng ở địa phương. Từ những vấn đề nêu trên, xét về mặt hình

thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế HĐND ở CHDCND Lào thực sự là

người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương. Quyền lực của

HĐND được xác định trong Hiến pháp về bản chất cũng chính là quyền lực của

Nhân dân. Vấn đề đặt ra là làm thế nào nào để HĐND thực hiện được quyền lực

của mình trên thực tiễn là mục đích hướng tới của công cuộc đổi mới và hoàn thiện

bộ máy nhà nước nói chung và HĐND các cấp nói riêng.

1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Theo Hiến pháp hiện hành và Luật tổ chức HĐND và UBND thì HĐND có

ba chức năng cơ bản sau:

a). Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng

của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc

phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

địa phương, làm tròn nghĩa vụ của nhân dân đối với cả nước

b). Bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước

cấp trên và trung ương ở địa phương

c). Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND,

UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc tuân thủ

theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ

trang nhân dân và của công dân ở địa phương.

Trong số các chức năng trên, chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và

pháp luật là một trong những chức năng quan trọng của HĐND. Bởi trong mọi hoạt

động quản lý nhà nước và xã hội thì hoạt động giám sát là hoạt động không thể

thiếu. Nếu thiếu và yếu trong hoạt động giám sát thì rất rễ trở thành quan liêu,

không thực quyền. Ở CHDCND Lào, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông

qua Quốc hội và HĐND các cấp. Vì vậy hoạt động giám sát của Quốc hội và

13

HĐND có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống chính trị - xã hội. Quyền lực nhà nước

trực tiếp từ nhân dân nên hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp là sự

giám sát ủy quyền của nhân dân. Thông qua giám sát của Quốc hội và HĐND các

cấp, nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với hoạt động của tất cả các cơ

quan nhà nước để đảm bảo cho hoạt động đó phục vụ cho lợi ích, ý chí nguyện vọng

của nhân dân

Chức năng của HĐND là những phương diện hoạt động chủ yếu của HĐND

nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân.

Với vị trí, tính chất là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại

diện cho nhân dân, HĐND có các chức năng cụ thể sau:

1.1.2.1. Chức năng quyết định

Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương thuộc thẩm

quyền của HĐND được quy định rõ đối với từng cấp. Đối với cấp tỉnh thì HĐND có

quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong phạm vi địa phương như sau:

- Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;

- Quyết định về phát triển giáo dục, y tế xã hội, văn hóa, thông tin, thể dục

thể thao;

- Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường.

Như vậy, nội dung chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa

phương của HĐND là rất rộng, bao gồm tất cả mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội,

văn hóa, khoa học, quốc phòng, an ninh...Điều này càng xác định rõ hơn vị trí, vai

trò và tầm quan trọng của HĐND đối với chính quyền địa phương. Mặt khác đây

cũng là những căn cứ pháp lý tạo môi trường thuận lợi để chính quyền địa phương

khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có ở địa phương nhằm nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân và cấp

trên giao cho.

1.1.2.2. Chức năng giám sát

HĐND tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện các quyết định của

HĐND trong phạm vi địa phương. Các quyết định của HĐND đều được thể hiện

dưới hình thức nghị quyết. Vì thế, chức năng này được triển khai trên các mặt công

14

tác: tuyên truyền, phổ biến nghị quyết trong nhân dân qua hoạt động của đại biểu.

Tổ đại biểu và cơ quan chức năng thuộc Ủy ban nhân dân; Thường trực HĐND chỉ

đạo, đôn đốc ủy ban nhân dân triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND, trong đó

có việc ban hành các văn bản cụ thể hóa như quyết định, chỉ thị; đề ra các biện pháp

thực hiện. HĐND giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của

các cơ quan nhà nước cùng cấp, thông qua việc xem xét các báo cáo của thường

trực HĐND, các ban của HĐND, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát

nhân dân cùng cấp, thông qua hoạt động của đại biểu HĐND trong kỳ họp và giữa

hai kỳ họp nhất là qua chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp của HĐND.

Chức năng giám sát có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng quyết định của

HĐND. Chức năng giám sát là cơ sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quyết định

trên thực tiễn, là biện pháp phát hiện kịp thời các vi phạm của mọi chủ thể trong

hoạt động tuân thủ pháp luật. Ngược lại, các quyết định về chủ trương chính sách

lớn tại địa phương là cơ sở cho hoạt động giám sát tập trung vào các vấn đề cấp

bách của địa phương.

Để đáp ứng được yêu cầu trên chúng ta cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao

chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND, trong đó phải đặc biệt chú ý đến

chức năng giám sát.Từ yêu cầu của luận văn đặt ra, vấn đề giám sát của HĐND

cần được nghiên cứu sâu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó, chúng ta có

những căn cứ để đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt

động giám sát của HĐND cấp tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Savannakhet nói riêng

trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

1.2. Mục đích, yêu cầu, chủ thể, nội dung của hoạt động giám sát của HĐND

cấp tỉnh

Giám sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của

Thường trực HĐND, giám sát của các ban của HĐND và giám sát của đại biểu

HĐND. Như vậy, chủ thể hoạt động giám sát bao gồm: HĐND như một tập thể các

đại biểu HĐND tại kỳ họp, Thường trực HĐND, các ban của HĐND, đại biểu

HĐND.

15

Để đánh giá được hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh, trước hết phảixác định

được trạng thái hoạt động của các đối tượng chịu giám sát khi chưa có sự theo dõi,

kiểm tra, đánh giá của HĐND. Đây là tiêu chí đầu tiên cần xem xét, bởi vì chỉ trên

cơ sở đánh giá đúng các hoạt động ban đầu của đối tượng chịu giám sát khi chưa có

HĐND giám sát thì mới có cơ sở để so sánh với hoạt động của họ sau khi HĐND đã

giám sát để đánh giá đúng kết quả thực tế do sự tác động của HĐND mang lại.

Trạng thái hoạt động của các đối tượng chịu giám sát thể hiện: trên cơ sở

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trong tổ chức và hoạt động các cá nhân, tổ chức,

cơ quan thực hiện đúng hay không đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật, nghị

quyết của HĐND cấp tỉnh và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đã có

những đóng góp hay cản trở cho sự phát triển của địa phương. Do đó khi tiến hành

giám sát, việc thu thập nắm bắt thông tin đưa ra những nhận định chính xác về tình

trạng hoạt động của các đối tượng bị giám sát rất quan trọng. Khi tiến hành giám sát

cùng với kênh thông tin do cơ quan, tổ chức báo cáo HĐND xem xét, đánh giá xác

minh tình hình hoạt động của cơ quan đó. Các số liệu thu thập được trong giai đoạn

này là cơ sở để chúng ta so sánh với giai đoạn sau khi HĐND đã tiến hành giám sát

đưa ra các kiến nghị đề xuất buộc các chủ thế có trách nhiệm phải thực hiện. Vì vậy,

muốn biết được cuộc giám sát có mang lại hiệu quả hay không, sau khi giám sát

HĐND phải có những phương pháp kiểm tra việc thực hiện kết luận đó. Lúc này

chúng ta mới có các chỉ số để so sánh trạng thái trước khi giám sát và sau khi giám

sát.

Như vậy, để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh thì cần xác định rõ

tình trạng ban đầu của các đối tượng bị giám sát. Kết quả của việc xem xét này,

không những là cơ sở để chúng ta so sánh với trạng thái của chúng khi HĐND

chưa giám sát, mà còn là cơ sở để xem xét những vấn đề khác như năng lực giám

sát của HĐND, mức độ phù hợp của pháp luật và nghị quyết của Hội đồng với

thực tiễn... Tuy nhiên, tiêu chí này cũng cần được vận dụng ở những mức độ và

phạm vi khác nhau tùy theo mục đích của giám sát.

1.2.1 Mục đích, yêu cầu, và định hướng của hoạt động giám sát

Bất cứ một hành động nào của con người đều xuất phát từ tính có mục đích

16

của nó. Về điều này Ăngghen đã khẳng định: "Trong lịch sử xã hội, nhân tố hoạt

động hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hoạt động có suy nghĩ, hay có

nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại

không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn". Mục đích là kết quả

mong đợi, là cái ta mong muốn đạt được.

Trong giám sát, "mục đích giám sát là phạm vi cho việc đánh giá kết quả đã

đạt được. Bởi vì về mặt hiện thực, mục đích của giám sát là tiêu chuẩn, thước đo

trong việc đánh giá hiệu quả của nó, vì rằng mục đích bao giờ cũng xem xét việc

đạt được kết quả thực tế nhất định: việc thu nhận thông tin cần thiết về chất lượng

hoạt động của các cơ quan nhà nước, về chất lượng của các quyết định đưa ra, về

việc thi hành và chấp hành các quyết định đó, về việc tuân thủ các quy định của

pháp luật trong hoạt động của cơ quan nhà nước...".

Rõ ràng trước khi tiến hành bất cứ một hoạt động giám sát nào, HĐND phải

xác định mục đích yêu cầu và từ đó định hướng cho việc giám sát. Mục đích yêu

cầu định hướng thường được thể hiện trong nghị quyết và quyết định giám sát của

Hội đồng. Đồng thời đó cũng là căn cứ cho phép chúng ta đánh giá mức độ đạt

được hiệu quả của giám sát.

Việc xem xét trạng thái ban đầu của các đối tượng chịu giám sát theo quy

định của pháp luật, còn giúp HĐND xem xét lên kế hoạch giám sát phù hợp, đúng

với vấn đề mà dư luận cử tri đang quan tâm, vì hiện nay phạm vi giám sát của

HĐND huyện rất rộng trong khi năng lực của các đại biểu dân cử đang còn nhiều

hạnchế.

Mục đích của giám sát thể hiện ở nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau. ở cấp

độ chung: mục đích của giám sát là việc bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn, minh

bạch, liên tục của từng cơ quan nhà nước, của từng cá nhân, có chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn, của bộ máy nhà nước nói chung trên cơ sở tuân thủ thường xuyên,

nghiêm chỉnh pháp luật quy định về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn củahọ.

Ở cấp độ thứ hai: tùy thuộc vào chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của từng

đối tượng bị giám sát, HĐND có những mục đích giám sát cụ thể khác nhau. Chính

vì vậy khi sử dụng căn cứ này để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND phải lưu ý:

17

nhiều khi mục đích cụ thể của giám sát không đạt được nhưng qua hoạt động giám

sát lại thuđược những kết quả cho mục đích giám sát chung. Đó là trường hợp qua

giám sát vấn đề cần làm rõ không tìm thấy, nhưng lại phát hiện được một số vấn đề

mới mà khách quan rất cần sự giám sát.

1.2.2. Chủ thể và nội dung của giám sát.

Chủ thể và nội dung của giám sát là một trong những tiêu chí quan trọng để

đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND. Về chủ thể giám sát chúng ta phải xem xét

cả hai mặt.

Thứ nhất, trình độ, kỹ năng giám sát; mức độ hiểu biết về tình hình kinh tế -

xã hội cũng như thực tiễn quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt khả năng cập

nhật các quy định pháp luật về lĩnh vực giám sát.

Thứ hai, tinh thần trách nhiệm, uy tín, bản lĩnh chính trị của người đại biểu.

Cụ thể, qua bản thân của người tiến hành giám sát phần nào cho phép chúng ta

đánh giá được cuộc giám sát có hiệu quả hay không. Nếu đại biểu HĐND là người

có trách nhiệm uy tín, có năng lực, trình độ, kỹ năng giám sát, am hiểu cả lý luận

và thực tiễn về lĩnh vực giám sát thì chắc chắn cuộc giám sát sẽ mang lại hiệu quả

cao và ngượclại.

Về nội dung giám sát, lựa chọn những vấn đề trọng tâm, bức xúc nhất để

giám sát không những có ý nghĩa đối với đối tượng giám sát mà còn tạo ra những

ảnh hưởng tích cực cho các lĩnh vực, đối tượng khác. Chẳng hạn trong lĩnh vực y tế,

môi trường, giao thông vừa qua. Điều này có nghĩa trong hoạt động giám sát không

phải chúng ta cứ tổ chức kiểm tra theo dõi thật nhiều là sẽ mang lại hiệu quả, vấn đề

là phải chọn đúng và trúng nội dung cần giám sát, đồng thời khi đã giám sát HĐND

cấp tỉnh phải tiến hành triệt để và đến cùng. Như vậy, thông qua nội dung được

chọn để giám sát và thành viên tiến hành giám sát, phần nào cho phép chúng ta

đánh giá được năng lực và hiệu quả giám sát của HĐND các cấp nói chung và

HĐND cấp tỉnh nói riêng.

Những kết quả thực tế đạt được do sự tác động của hoạt động giám sát. Để

đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh làp hải xác định được những kết

quả thực tế do sự tác động của giám sát mang lại. Đây là tiêu chí phức tạp nhất vì

18

kết quả thực tế do hoạt động giám sát của HĐND mang lại nhiều khi không những

thể hiện bằng yếu tố định lượng mà còn cả yếu tố định tính. Những biến đổi do sự

tác động giám sát của HĐND nhiều khi không chỉ phát sinh trực tiếp từ đối tượng bị

giám sát mà còn có những ảnh hưởng tích cực đến các đối tượng liên quan; nên việc

xác định những kết quả thực tế do sự tác động của giám sát đòi hỏi phải có quan

điểm toàn diện, cụ thể, đồng thời phải có những phương pháp đúng đắn để có thu

thập nhiều nguồn thông tin và tư liệu khác nhau. Những kết quả thực tế do sự tác

động giám sát của HĐND mang lại được thể hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau

như: mức độ thực hiện đúng quy định Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của HĐND

tỉnh của các cơ quan, tổ chức; trách nhiệm của những người có chức vụ quyền hạn

cũng như của cán bộ công chức nói chung... Đó là những thay đổi tích cực trong

hoạt động của các cơ quan nhà nước dưới ảnh hưởng của giám sát.

Những kết quả thực tế do sự tác động của pháp luật có thể xác định cụ thể

nhưng cũng có thể chỉ xác định được bằng các chỉ số chung phản ánh về mặt chất

lượng (mức độ). Chẳng hạn khi giám sát việc đầu tư xây dựng các công trình tại cấp

xã không chỉ nói tới số lượng các công trình đã được các xã xây dựng mà còn phải

chú ý tới cả chất lượng của của công trình. Cũng cần chú ý những biến đổi của các

đối tượng bị giám sát trong thực tế không hoàn toàn chỉ do tác động của cơ quan

dân cử ở địa phương mà còn là sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khác như cơ

quan, phòng ban liên quan cấp huyện, chỉ đạo hướng dẫn của cấp huyện, sự giám

sát của nhân dân... Do vậy chúng ta phải xác định rõ những kết quả nào do giám sát

của HĐND huyện tác động mang lại, còn những kết quả nào là do công cụ khác tác

động.

Tiêu chí để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND chỉ là những kết quả thực

tế do sự tác động của HĐND. Nếu những kết quả thực tế đạt được hoàn toàn không

có sự tác động của Hội đồng mà do sự tác động của yếu tố khác (giữa kết quả thực

tế và sự tác động không có quan hệ nhân quả) thì không thể coi đó là cơ sở để đánh

giá hiệu quả giám sát của HĐND. Nếu những kết quả tích cực đạt được do giám sát

của HĐND mang lại, phản ánh đúng mục đích, yêu cầu, định hướng đề ra khi lên kế

hoạch giám sát thì giám sát có thể được xem có hiệu quả. Mục đích, yêu cầu, định

19

hướng khi chuẩn bị giám sát và những kết quả thực tế do giám sát mang lại phải xác

định trong cùng một tiêu chuẩn, trong cùng một phạm vi, có như vậy đánh giá mới

chính xác. Khi xem xét những kết quả thực tế do giám sát của HĐND cần tính tới cả

những biến đổi tích cực và cả những biến đổi không tích cực nếu có. Chẳng hạn

việc các ban của HĐND tỉnh tổ chức các đoàn xuống giám sát tại cơ quan, các

ngành chức năng thuộc tỉnh và ở các huyện có thể đưa đến những ảnh hưởng tốt

nhưng bên cạnh đó cũng có thể gây ra tâm lý lo lắng, cản trở sự hoạt động bình

thường của cơ quan tổ chức, ảnh hưởng đến chương trình hoạt động của đối tượng

bị giám sát.

1.3 Hình thức hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh

1.3.1. Hoạt động giám sát thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân

Trong hoạt động của bộ máy nhà nước CHDCND Lào, để kiểm soát đối với

quyền lực nhà nước, có nhiều hình thức khác nhau, trong đó giám sát, kiểm tra,

thanh tra là những hình thức cơ bản, trong đó: Giám sát dùng để chỉ hoạt động của

cơ quan quyền lực nhà nước, toà án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm bảo đảm

sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám

sát chủ yếu thực hiện ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc. Kiểm tra là khái

niệm rộng được vận dụng theo hai hướng. Một là, kiểm tra là hoạt động thường

xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới nhằm xem xét,

đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi cần thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ

thể, việc thực hiện một quyết định quản lý hành chính nhà nước nào đó. ở đây, hoạt

động kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc. Vì vậy, khi thực hiện kiểm tra, cơ

quan cấp trên, thủ trưởng cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ

luật, biện pháp bồi thường thiệt hại vật chất, hoặc áp dụng các biện pháp tác động

tích cực tới đối tượng bị kiểm tra như khen thưởng về vật chất, tinh thần. Hai là,

kiểm tra là hoạt động của các tổ chức, xã hội như kiểm tra Đảng, kiểm tra các tổ

chức xã hội đối với hành chính nhà nước.Vì vậy, kiểm tra ở phạm vi này ít mang

tính quyền lực nhà nước, mà chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính xã

hội.Thanh tra là phạm trù dùng để chỉ hoạt động của các tổ chức thanh tra nhà nước,

gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành (thanh tra bộ, thanh tra sở).Cơ

20

quan thanh tra và đối tượng bị thanh tra thường không có quan hệ trực thuộc. Tuy

nhiên, các cơ quan thanh tra do thủ trưởng các cơ quan hành chính thành lập, do vậy

nó hoạt động với tư cách là cơ quan chức năng giúp thủ trưởng cùng cấp. Vì vậy, có

thể coi hoạt động thanh tra được cơ quan cấp trên tiến hành trong quan hệ đối với

cơ quan trực thuộc. Trong quá trình thanh tra, cơ quan thanh tra có thể áp dụng các

biện pháp cưỡng chế để bảo đảm công tác thanh tra, kể cả các biện pháp trách

nhiệm kỷ luật (tạm đình chỉ công tác...) và xử lý vi phạm hành chính, nhưng không

có quyền sửa đổi, bãi bỏ quyết định của đối tượng bị thanh tra mà chỉ có quyền tạm

đình chỉ việc thi hành một số loại quyết định quản lý hành chính nhà nước nào đó,

trong những trường hợp đặc biệt cần thiết, hoặc đình chỉ hành vi hành chính trái

pháp luật. Từ những phân tích trên đây có thể nhận thấy giám sát khác với kiểm tra

và thanh tra ở chỗ:

- Giám sát khác với kiểm tra Kiểm tra là khái niệm bao hàm những thao tác

có tính xác định, tính cụ thể rõ hơn. Kiểm tra được thực hiện khi có dấu hiệu hoặc

sự việc sai phạm xảy ra là “xem xét cụ thể công việc”.Chủ thể và đối tượng kiểm tra

có thể cùng hệ thống với nhau (tự kiểm tra, cấp trên kiểm tra cấp dưới). Giám sát

khác với kiểm tra ở chỗ: giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngoài, còn kiểm tra là

hoạt động thường xuyên từ bên trong tổ chức hành pháp.

- Giám sát khác với thanh tra Thanh tra và giám sát có chỗ giống nhau là

đều có hoạt động “xem xét, đánh giá” nhưng khác nhau ở chỗ giám sát là sự “chủ

động theo dõi” còn thanh tra thường chỉ xem xét khi có dấu hiệu, sự việc vi phạm

xảy ra. Hậu quả pháp lý của giám sát chủ yếu thông qua hình thức “kiến nghị” còn

thanh tra là áp dụng những biện pháp xử lý cụ thể. Thanh tra được tiến hành bởi chủ

thể xác định, có thẩm quyền, với động có phạm vi, tính chất gần nhau, thậm chí có

biểu hiện khách quan khá giống nhau (xem xét, đánh giá) nằm trong cơ chế kiểm

soát đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau về quan hệ

pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm vi, phương pháp thực hiện và hậu quả pháp lý.

Như chúng ta thấy, thuật ngữ “giám sát” cũng được hiểu theo nhiều nghĩa

khác nhau. Có quan niệm cho rằng giám sát là sự theo dõi, xem xét, làm đúng hoặc

sai những điều đã quy định. Quan niệm khác coi “giám sát là việc theo dõi và kiểm

21

tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không, là chức năng quan thời xưa

trông nom, coi sóc một loại công việc nhất định. Có ý kiến chỉ coi “giám sát” là một

nhóm hoặc là một tổ chức để theo dõi một việc nào đấy.

Theo từ điển Luật học: “giám sát” là sự theo dõi quan sát hoạt động mang

tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích

cực để buộc và hướng các hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ

đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả từ trước đảm bảo cho pháp luật

được tuân theo nghiêm chỉnh”

Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam, khái niệm giám sát

được giải thích: “Giám sát là việc của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội, Hội

đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội

theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám

sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị

quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”

Mặc dù cách diễn đạt có khác nhau nhưng nội dung cơ bản của việcgiám sát

là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ đề nào đó trong một công việc, lĩnh

vực cụ thể đã thực hiện đúng hay chưa những điều đã quy định; từ đó có biện pháp

điều chỉnh hoặc xử lý đối với những hành vi sai lệch, nhằm đạt được những mục

đích, hiệu quả xác định từ trước, đảm bảo cho các quy định thực hiện đúng và đầy

đủ. Theo những chỉ dẫn trên, các thuật ngữ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát đều diễn tả

những hành vi, hoạt động của những chủ thể nhất định và đồng nghĩa với thuật ngữ

giám sát. Nhưng thuật ngữ giám sát được phân biệt với các thuật ngữ kiểm tra,

thanh tra, kiểm soát nêu trên ở chỗ:

Kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là hoạt động mang tính chất nội bộ trong cùng

hệ thống cơ quan nhà nước. Ví dụ: kiểm tra, thanh tra của cơ quan hành chính nhà

nước cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc. Giám

sát là hoạt động kiểm tra từ bên ngoài của cơ quan thuộc hệ thống cơ quan khác đối

với cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát. Chẳng hạn giám sát của cơ quan quyền lực

nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước.

22

Giám sát là một trong hai chức năng quan trọng nhất của HĐND. Tại kỳ họp,

HĐND thực hiện quyền giám sát của mình thông qua việc xem xét các báo cáo của

Thường trực HĐND, UBND, các ban HĐND tỉnh, TAND, VKSND tỉnh; thực hiện

quyền chất vấn. Khi hoạt động giám sát tại kỳ họp được thực hiện một cách nghiêm

túc và hiệu quả thì tính khả thi trong các quyết sách của HĐND rất cao. Vì vậy, có

thể nói đây vừa là kết quả của việc thực hiện nghị quyết, đồng thời cũng là cơ sở để

xây dựng các nghị quyết của HĐND.

Để hoạt động giám sát của HĐND tại kỳ họp đạt kết quả cao, cần xác định

công tác chuẩn bị kỳ họp là hết sức quan trọng. Trước hết là dự kiến thời gian; chủ

động chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp; thông báo cho các cơ quan liên quan

chuẩn bị tài liệu; phân công các ban HĐND thẩm tra các báo cáo, đề án, dự thảo

nghị quyết trình tại kỳ họp. Đây là tiền đề mang tính quyết định đến hiệu quả giám

sát tại kỳ họp nói riêng và chất lượng của kỳ họp HĐND nói chung.

Trước khi tiến hành kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh xây dựng kế hoạch

hướng dẫn các Tổ đại biểu tiếp xúc cử tri và họp Tổ đại biểu. Đối với những nội

dung liên quan đến chế độ chính sách, có ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân cần

tổ chức tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, đối tượng cử tri tham gia tiếp xúc tập trung

chủ yếu vào các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng các chính sách, đối tượng chịu tác

động trực tiếp, nhằm nhận được nhiều ý kiến của cử tri tham gia vào những nội

dung mà HĐND tỉnh sẽ xem xét, thông qua tại kỳ họp.

Tại kỳ họp, giảm thời gian trình bày các báo cáo tại hội trường, dành thời

gian cho thảo luận tại tổ, thảo luận tại hội trường, chất vấn và trả lời chất vấn. Việc

chuẩn bị kỹ đề cương gợi ý thảo luận, báo cáo thẩm tra của các ban, báo cáo tổng

hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, tổng hợp ý kiến thảo luận của các Tổ đại biểu trước

kỳ họp... nhằm cung cấp đầy đủ nhất các thông tin đến các đại biểu HĐND. Báo cáo

thẩm tra của các ban HĐND tỉnh thể hiện chính kiến của ban về những vấn đề đã

thẩm tra, góp phần định hướng cho các đại biểu HĐND thảo luận và quyết định các

nội dung được trình tại kỳ họp. Đồng thời, Thường trực HĐND tỉnh có trách nhiệm

chỉ đạo chuẩn bị kỹ nội dung, chương trình kỳ họp và trong những trường hợp cần

23

thiết có thể xin ý kiến các đại biểu để điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến thực tế

tại kỳ họp.

Trong các kỳ họp, HĐND tỉnh phải chú trọng đến hoạt động chất vấn và trả

lời chất vấn, coi đây là công cụ giám sát trực tiếp của đại biểu HĐND, nhằm tăng

cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh.

Thường trực HĐND đã chỉ đạo việc tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri qua

TXCT trước kỳ họp, các ý kiến thảo luận tại Tổ đại biểu trước kỳ họp, Thông báo

kết quả hoạt động của Mặt trận Yêu nước và các tổ chức thành viên tham gia xây

dựng chính quyền và những kiến nghị với HĐND và UBND tỉnh, Báo cáo thẩm tra

của các ban HĐND tỉnh, các kiến nghị của cử tri do Đoàn ĐBQH tỉnh chuyển đến,

tổng hợp ý kiến thảo luận ở các Tổ thảo luận tại kỳ họp và tổng hợp các ý kiến cử

tri thông qua số điện thoại thường trực tại kỳ họp nhằm lựa chọn những vấn đề bức

xúc được nhiều đại biểu và cử tri quan tâm để yêu cầu các cơ quan chức năng có

thẩm quyền trả lời chất vấn và giải trình.

Văn bản trả lời chất vấn và giải trình được gửi đầy đủ cho các đại biểu

HĐND tỉnh trước các phiên họp chất vấn, trả lời chất vấn và giải trình. Tính bình

quân mỗi kỳ họp của HĐND tỉnh đưa ra nội dung được lựa chọn đưa ra chất vấn và

đề nghị giải trình. Mỗi kỳ họp, HĐND tỉnh thường dành từ 1,5-2 ngày cho hoạt

động thảo luận tại tổ, thảo luận tại hội trường, chất vấn, trả lời chất vấn và giải

trình.

Chủ tọa điều hành các phiên chất vấn cần linh hoạt, bảo đảm cho phiên chất

vấn, trả lời chất vấn và giải trình được thực hiện dân chủ, cởi mở, thẳng thắn với

tinh thần trách nhiệm cao của người trả lời chất vấn cũng như người đặt câu hỏi chất

vấn. Trên cơ sở những nội dung yêu cầu các cơ quan chức năng trả lời chất vấn,

Thường trực HĐND tỉnh đề nghị các Tổ đại biểu phân công đại biểu thực hiện

quyền chất vấn theo các nội dung đã lựa chọn nhằm bảo đảm tính dân chủ và nâng

cao chất lượng phiên họp.

Kết thúc phiên họp, Chủ tọa tổng kết đánh giá những ưu điểm và những hạn

chế trong hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn và giải trình; nêu những vấn đề còn

tồn tại và yêu cầu Thủ trưởng cơ quan, đơn vị có liên quan tiếp thu để sửa chữa,

24

khắc phục; giao Thường trực, các ban và đại biểu HĐND tỉnh tiếp tục theo dõi,

giám sát việc thực hiện lời hứa của các cơ quan trả lời chất vấn tại kỳ họp. Từ đầu

nhiệm kỳ đến nay, Thường trực HĐND tỉnh chỉ đạo Văn phòng Đoàn ĐBQH và

HĐND tỉnh phân công chuyên viên theo dõi việc giải quyết các nội dung mà Thủ

trưởng các cơ quan, đơn vị đã hứa thực hiện; đồng thời có văn bản đề nghị UBND

tỉnh yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan báo cáo kết quả thực hiện, để tổng hợp

báo cáo HĐND tỉnh tại kỳ họp gần nhất.

1.3.2. Hoạt động giám sát ngoài kỳ họp

Trong xã hội, nhân dân là người sáng tạo lịch sử, nhân dân là nguồn gốc của

quyền lực. Tư tưởng và chân lý đó đã được các bản Hiến pháp khẳng định: Tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình

thông qua cơ quan đại diện từ Quốc hội đến Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng

nhân dân các cấp nói chung, Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nói riêng là cơ

quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thay mặt nhân dân thực

thi quyền lực nhà nước bằng cách căn cứ vào Hiến pháp, Luật, tình hình thực tế địa

phương mà quyết định các biện pháp tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật. Nghị quyết

của Hội đồng nhân dân vừa mang tính đại diện, vừa mang tính quyền lực nhà nước,

có giá trị bắt buộc chung cho mọi cơ quan, tổ chức và công dân ở địa phương. Như

vậy, giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là

một trong những biện pháp cần thiết và không thể thiếu được nó, đóng vai trò quan

trọng trong việc bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Chỉ khi nào mọi

hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhân viên nhà nước đặt dưới sự

giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân thì khi ấy quyền lực nhà nước mới thực

sự thuộc về nhà nước. Nếu quyền lực giám sát của Hội đồng nhân dân bị xem nhẹ

hoặc bị xâm hại thì khi ấy quyền lực của nhân dân không được đảm bảo và có thể

trở thành hình thức.

Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có vai trò quan trọng

trong việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương nói

riêng và bộ máy nhà nước nói chung.

25

Lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng chỉ khi nào pháp chế xã hội chủ

nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được tuân thủ một cách triệt

để thì bộ máy nhà nước mới phát huy được sức mạnh vốn có để hoàn thành một

cách hiệu quả những chức năng và nhiệm vụ của mình trong quản lý xã hội.

Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có vai trò đặc biệt quan

trọng trong việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân vì:

Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là một trong những phương diện

đảm bảo cho mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã

hội ở địa phương được tiến hành trên cơ sở pháp luật, tuân thủ nghiêm chỉnh pháp

luật, từ đó mà Hiến pháp, pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh ở địa

phương.

- Thông qua hoạt động giám sát, các quyết định của HĐND có thê những căn

cứ khoa học vững chắc, phù hợp với yêu cầu thực tế địa phương, đảm bảo tính khả

thi của các quyết định, từ đó nâng cao cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội

đồng nhân dân trong thực tế

- Thông qua hoạt động giám sát giúp HĐND cấp tỉnh phát hiện kịp thời những

yếu kém, khiếm khuyết trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, tổ chức

kinh tế, tổ chức xã hội..ở địa phương, từ đó có biện pháp khắc phục sửa chữa nhằm

đảm bảo tính quyền lực nhà nước của HĐND

- Thông qua hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh mà góp phần làm trong

sạch bộ máy nhà nước ở địa phương làm cho chính quyền nhà nước ở địa phương

trở nên vững mạnh. Bằng hoạt động giám sát cũng đưa ra được các biện pháp, cách

thức, gợi ý… để các đối tượng chịu sự giám sát làm tốt hơn chức năng, nhiệm vụ

của mình.

Nội dung giám sát tập trung vào việc giải quyết những ý kiến, kiến nghị của

cử tri của UBND tỉnh và các cơ quan chức năng; giám sát việc khắc phục hạn chế

sau giám sát. Trong công tác giám sát, Thường trực và các ban HĐND đã điều hòa,

phối hợp chặt chẽ với các tổ đại biểu, đại biểu từ việc đi thực tế, nắm thông tin của

cử tri.

26

Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh không phải chỉ đổi mới trong việc

tổ chức thành các cuộc đi giám sát mà còn thông qua phương thức giám sát thường

xuyên của Thường trực và các ban HĐND. Đó là giám sát thông qua các hoạt động

thẩm tra các báo cáo, dự thảo tờ trình của UBND tỉnh; thẩm tra kết quả giải quyết

kiến nghị của cử tri sau các kỳ họp của UBND.

Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND và Luật Tổ chức

chính quyền địa phương, HĐND có thể giám sát thông qua việc xem xét báo cáo

công tác của các cơ quan nhà nước; xem xét quyết định của UBND cùng cấp và

nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp; tổ chức giám sát chuyên đề và lấy phiếu

tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu. Luật pháp

cũng quy định rõ thẩm quyền giám sát của đại biểu HĐND với tư cách cá nhân.

Thẩm quyền giám sát của HĐND và các đại biểu HĐND là rất lớn, có khả năng tác

động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Khi HĐND các cấp thực hiện đầy đủ và

hiệu quả nhiệm vụ này, tập trung vào các vấn đề bức xúc, dư luận quan tâm, sẽ

khẳng định vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,

nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của HĐND tỉnh

1.4.1. Yếu tố chính trị

Các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.

Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân

dân, bởi các quy định của pháp luật về giám sát là cơ sở pháp lý cho HĐND thực

hiện quyền năng của mình. Các quy định liên quan đến HĐND tạo thành khuôn khổ

trật tự cho các quan hệ của HĐND cấp tỉnh hoạt động.Các quy định đó ảnh hưởng

quan trọng đối với chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh. Quy định trực tiếp

liên quan đến HĐND cấp tỉnh có các quy định về địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức, đội

ngũ cán bộ, công chức… Quy định gián tiếp liên quan đến HĐND cấp tỉnh có các

quy định mang tính hỗ trợ như chế độ, chính sách, ưu đãi, đào tạo và bồi dưỡng đối

với cán bộ, công chức HĐND cấp tỉnh; quy định về mối quan hệ công tác giữa

HĐND cấp tỉnh với các cơ quan khác.

27

Các quy định liên quan đến HĐND cấp tỉnh không chỉ quy định trực tiếp đến

HĐND cấp tỉnh mà còn tạo điều kiện cho các hoạt động khác có liên quan. Các quy

định càng chặt chẽ, đầy đủ thì chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh

càng cao; ngược lại nếu các quy định không đầy đủ, thiếu chặt chẽ sẽ gây cản trở

cho hoạt động của HĐND cấp tỉnh, thậm chí gây mâu thuẫn.

Nếu luật không quy định cụ thể về thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn.... của

các đối tượng liên quan đến hoạt động giám sát thì việc ghi nhận chức năng giám

sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ là hình thức. Điều này đã được chứng

minh trong thực tiễn phát triển của luật tổ chức Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân

dân. Nhưng từ năm 2015 , luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã

cụ thể, chi tiết hoá chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân nên trong thời gian

vừa qua đã đem lại nhiều kết quả đáng kể.Như vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát

của Hội đồng nhân dân thì đòi hỏi quan trọng nhất là phải ban hành đủ các văn bản

pháp luật trong lĩnh vực giám sát cho HĐND nói riêng và toàn bộ hoạt động của

Hội đồng nhân dân nói chung.

Về tổ chức bộ máy hoạt động của Hội đồng nhân dân thì HĐND là cơ quan

hoạt động không thường xuyên, cùng với đặc điểm đại biểu HĐND hoạt động theo

chế độ kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của Hội đồng

nhân dân. Hơn nữa HĐND là cơ quan mang tính chất đại diện ở địa phương, về mặt

tổ chức lâu nay vẫn chưa được chú ý cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để thực hiện tốt

chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát, đòi hỏi Hội đồng nhân dân

phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và năng động. Bởi thực tế cho thấy bất kỳ

một cơ quan nào, nếu có tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên guồng máy làm việc

nhịp nhàng và mang lại hiệu quả.

1.4.2. Yếu tố kinh tế

Yếu tố kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hoạt động giám sát của

HĐND cấp tỉnh. Nếu có ngân sách, tài chính phục vụ cho công tác phát triển đội

ngũ cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, hỗ trợ công tác thực hiện nhiệm vụ,

triển khai các dự án, kế hoạch và thực hiện mục tiêu đề ra. Muốn nâng cao hiệu

quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh cần phải đầu tư chi phí và điều kiện vật

28

chất cho hoạt động giám sát. Trong quan hệ đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND

cần hiểu tính chất hai mặt của đầu tư chi phí cho hoạt động này: đầu tư chi phí cho

hoạt động giám sát của HĐND theo yêu cầu của từng nội dung hoạt động. Nếu có

đầu tư đúng mức sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND.

Chúng ta cần phải đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị cần thiết, khắc phục tình

trạng khó khăn lâu nay trong công việc giám sát là thiếu nguồn thông tin cập nhật;

đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát phải tối ưu, nghĩa là chỉ đủ mức cần thiết và

triệt để tiết kiệm, chống lãng phí. Không có nghĩa hễ cứ tăng đầu tư chi phí thì khi

đó và ở đó, công tác giám sát có hiệu quả. Ngược lại, nhiều khi chỉ với mức kinh

phí hạn hẹp, nhưng nếu tổ chức thực hiện tốt, tìm ra những hình thức phương pháp

thích hợp, cũng có thể đưa lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, do tính đặc thù của công

tác giám sát, hơn nữa ở CHDCND Lào nhiều khi dư luận xã hội cũng đóng vai trò

rất lớn trong việc chấn chỉnh các vấn đề chính trị, cho nên trong một số trường

hợp, không nên căn ke, tính toán mức chi phí bỏ ra là bao nhiêu, vấn đề chúng ta

có thực hiện chương trình giám sát đến cùng hay không. Nếu cuộc giám sát đưa lại

kết quả tốt không những góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế của địa

phương mà còn có tác dụng to lớn trong việc chấn chỉnh các vấn đề chính trị - xã

hội. Như vậy, khi nói tới hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào nói chung và giám sát

nói riêng đòi hỏi phải tính đến mức đầu tư, chi phí hợplý.

Có thể so sánh tình hình kinh tế - xã hội sau khi có hoạt động giám sát so

với trước khi có hoạt động giám sát.Để đánh giá hoạt động của cơ quan Nhà nước

nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, trước hết cần phải căn cứ vào tình hình

kinh tế - xã hội của địa phương. Đây là yếu tố cần phải xem xét, bởi tất cả các hoạt

động của cơ quan, đơn vị suy cho cùng không ngoài mục đích nhằm thúc đẩy kinh

tế - xã hội địa phương ngày càng phát triển. Đồng thời thông qua giám sát, HĐND

không những chỉ có quyền kiến nghị với UBND, với các ngành có liên quan mà có

thể kiến nghị với Trung ương về việc đưa ra những chủ trương, chính sách cho phù

hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy, muốn biết hoạt động

giám sát của HĐND có mang lại hiệu quả hay không, chúng ta phải có những biện

pháp so sánh tình hình kinh tế - xã hội của địa phương sau khi có hoạt động giám

29

sát với trước khi hoạt động có giám sát. Nếu sau chương trình giám sát hàng năm

của HĐND, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có những chuyển biến tích cực,

đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, thì điều đó cho thấy, hoạt động giám

sát của HĐND đã mang lại hiệu quả và ngược lại.Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế -

xã hội địa phương không hoàn toàn chỉ do sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố

quan trọng khác.

1.4.3. Yếu tố văn hóa

Trong hoạt động giám sát, tính kinh tế liên quan chặt chẽ với tính xã hội. Có

những cuộc giám sát nếu tính dưới góc độ kinh tế thì không mang lại lợi ích thiết

thực nhưng dưới góc độ xã hội lại mang lại hiệu quả rất lớn. Một số lĩnh vực nếu

được giám sát đến cùng và triệt để không những góp phần tích cực vào sự phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương, mà còn có tác dụng to lớn trong việc chấn

chỉnh các vấn đề chính trị - xã hội chung. Vì vậy, khi căn cứ vào tiêu chí kinh phí

để xem xét hiệu quả giám sát của HĐND, phải xem xét cả hiệu quả kinh tế và hiệu

quả xã hội của công tác giám sát.

Yếu tố văn hóa có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc

gia, cần hiểu rõ nội dung văn hóa mang tính bản chất trong hoạt động của mỗi chủ

thể và trong toàn xã hội, gắn với vai trò và chức năng của từng chủ thể, như trên đã

nói. Để hiểu rõ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển thì cần tránh cách hiểu văn

hóa thiên về giác độ cách ứng xử, quan hệ…; mà phải hiểu văn hóa là những giá trị

cốt lõi định hướng, chi phối hoạt động của các chủ thể và toàn xã hội trong mọi

lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái.Văn hóa là cơ sở để xác lập

các giá trị cốt lõi của mô hình - con đường - thể chế phát triển của một quốc gia -

dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế chính trị thực sự là của dân, do dân

và vì dân. Xác lập mục tiêu bao trùm của sự phát triển là vì con người; con người

vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị này thường được xác

định, chế định trong cương lĩnh của các Đảng cầm quyền, trong hiến pháp, pháp

luật, chiến lược phát triển của quốc gia; là cơ sở để xác lập các giá trị xã hội, lối

sống xã hội, nền đạo đức xã hội thượng tôn pháp luật, nhân văn, nhân ái, tôn trọng

quyền con người, quyền công dân và tạo nên sức mạnh trong phát triển.Đồng thời,

30

yếu tố văn hóa là cơ sở để xây dựng cơ chế liên kết - điều tiết sự phát triển thông

qua liên kết các giá trị giữa các chủ thể và trong toàn xã hội; hạn chế những tác

động tiêu cực trong quá trình phát triển.

Xét về phương diện văn hóa, thì những thắng lợi, thành công mà Đảng lãnh

đạo nhân dân ta đứng lên làm cách mạng giành chính quyền, lãnh đạo Nhà nước và

xã hội đạt được trong xây dựng và bảo vệ đất nước đều có nguyên nhân cốt lõi là

Đảng đã đưa ra được những giá trị thể hiện được ý chí, nguyện vọng, lợi ích của

nhân dân - của dân tộc, đồng thời đội ngũ cán bộ, đảng viên đã thể hiện là những

tấm gương mẫu mực trong tổ chức hiện thực hóa những giá trị đó trong cuộc sống.

Công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, xét về phương diện văn hóa, thì vấn đề đầu

tiên và cũng là cốt lõi nhất chính là xác định lại hệ giá trị phát triển, trong đó cơ

bản nhất là giá trị con người, giá trị lợi ích (hiểu theo nghĩa rộng gồn cả lợi ích vật

chất và lợi ích tinh thần), giá trị pháp lý, giá trị đạo đức của tất cả các chủ thể trong

xã hội, phù hợp với đòi hỏi khách quan của sự phát triển trong giai đoạn mới. Công

cuộc Đổi mới được bắt đầu từ thực tiễn, chính thực tiễn đã buộc Đảng, Nhà nước

và mọi chủ thể trong xã hội phải đổi mới tư duy, nhận thức, quan điểm về con

đường và mô hình phát triển, mà trọng tâm là phát triển kinh tế. Từ đổi mới tư duy,

nhận thức mới đưa đến đổi mới đường lối, quan điểm, chủ trương, cơ chế, chính

sách phát triển đất nước. Các giá trị văn hóa được Đảng và Nhà nước thể hiện

trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương, Hiến pháp, luật pháp, cơ chế, chính sách

phát triển các lĩnh vực của đất nước. Mặt khác, các giá trị con người - văn hóa - xã

hội lại được hình thành một cách khách quan (cả tích cực và tiêu cực) dưới tác

động tổng hợp của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và quá trình hội nhập quốc

tế, toàn cầu hóa. Vì vậy trong hoạt động của các tổ chức nói chung và hoạt động

giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng không thể coi nhẹ yếu tố văn hóa.

1.4.4. Các yếu tố khác

1.4.4.1. Đội ngũ cán bộ, công chức

Con người luôn là trung tâm của mọi vấn đề. Các Mác đã viết: “Con người là

tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Ở HĐND cấp tỉnh , con người chính là đội ngũ

cán bộ, công chức. Hiệu quả hoạt động của cơ quan tuỳ thuộc vào chất lượng, trình

31

độ, năng lực và đạo đức của cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức là nhân tố trung

tâm trong bộ máy hành chính nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Chúng ta hay

nhắc đến thủ tục rườm rà, nhưng thủ tục cũng là do con người đặt ra. Có thể con

người trình độ kém nên đặt ra thủ tục rườm rà, nhưng cũng có thể có trình độ và chủ

động làm ra vậy để có cơ hội nhũng nhiễu. Do đó, con người mà cụ thể là đội ngũ

cán bộ, công chức là nhân tố quyết định sự hoạt động của HĐND cấp tỉnh .

Việc bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức của HĐND cấp tỉnh là yếu tố có ý

nghĩa rất lớn đến hoạt động của HĐND cấp tỉnh. Nếu như việc bố trí, sắp xếp nhân

sự cán bộ, công chức của HĐND cấp tỉnh không khoa học, các mối quan hệ không

được xác định rõ ràng, rành mạch thì trong công việc sẽ không đem lại hiệu quả.

Tùy theo tính chất của mỗi loại công việc mà HĐND cấp tỉnh có thể lựa chọn, bố

trí, sắp xếp cán bộ, công chức khác nhau cho phù hợp với mục tiêu của mình dựa

trên cơ sở về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực hiện có.

1.4.4.2. Cơ cấu tổ chức

- Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ, nếu cơ cấu hợp lý thì hoạt động của

từng văn phòng HĐND cấp tỉnh sẽ trở nên nhịp nhàng, thuận tiện, đảm bảo cho việc

thực hiện công việc tốt hơn. Chức năng, nhiệm vụ là yếu tố cơ bản của văn phòng,

đó là điều kiện thiết yếu cho văn phòng hoạt động.

- Mục tiêu hành động của tổ chức:

+ Mục tiêu tổng quát: mục tiêu chung đưa ra là gì? Phải đạt đến mức độ nào?

Mục tiêu này phải bao quát được các mục tiêu cụ thể? Tác động, ảnh hưởng trực

tiếp, gián tiếp đến hiệu quả công việc như thế nào?

+ Mục tiêu cụ thể: các mục tiêu này phải dựa trên mục tiêu tổng quát, phải

đúng các tiêu chí cụ thể, hiện thực hoá bằng các nhiệm vụ cụ thể sát thực với các

mục tiêu khi hoạch định cho hoạt động của tổ chức.

Cơ cấu tổ chức và mục tiêu hành động của văn phòng có ảnh hưởng lớn đến

hiệu quả hoạt động của văn phòng. Tổ chức được cơ cấu hợp lý, mục tiêu hành

động rõ ràng sẽ mang lại hiệu quả công việc cao, và ngược lại.

- Nền nếp, kỷ cương, kỷ luật của văn phòng có sự tác động lớn tới hiệu quả

làm việc của cán bộ, công chức, ảnh hưởng tới tác phong làm việc của cán bộ, công

32

chức. Một văn phòng có nền nếp, kỷ luật, kỷ cương nghiêm minh sẽ là môi trường

tốt để cán bộ, công chức phấn đấu, trưởng thành, đồng thời sẽ loại bỏ tư tưởng chây

lười, vô tổ chức của một số cán bộ, công chức cá biệt.Bởi trong một môi trường nền

nếp, kỷ luật, nếu cán bộ, công chức có sự vô tổ chức sẽ tự bị đào thải.Nền nếp, kỷ

cương góp phần làm giảm tối đa các hiện tượng tiêu cực trong cơ quan.

1.4.4.3. Điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật

Cơ sở vật chất - kỹ thuật được hiểu là các kết cấu hạ tầng như nhà làm việc,

nhà tiếp dân, nhà thể thao… và các phương tiện làm việc cùng với trang thiết bị

phục vụ công việc như máy móc, công cụ hỗ trợ, văn phòng phẩm… Cơ sở vật chất

- kỹ thuật có vai trò quan trọng vì nó là công cụ làm việc của cán bộ, công chức,

ngoài ra nó còn có tác động đến yếu tố tâm lý của cán bộ, công chức, làm kích thích

niềm say mê, sáng tạo, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu suất làm việc của

cán bộ, công chức.

Công nghệ thông tin: do sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật

ngày càng nhiều, các cơ quan, đơn vị áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động

văn phòng của mình. Nếu như các công việc văn phòng chỉ được thực hiện theo

phương pháp thủ công, đơn giản thì hiệu quả hoạt động văn phòng sẽ không cao,

tiến độ thực hiện công việc chậm, kém chính xác. Chính vì vậy mà yếu tố

công nghệ thông tin cho hoạt động văn phòng có ý nghĩa lớn ảnh hưởng đến hiệu

quả hoạt động văn phòng, cần được các cơ quan, đơn vị xem xét, áp dụng kịp thời

[15, 4].

1.4.4.4. Môi trường làm việc

Môi trường làm việc là các thể chế hoặc lực lượng bên ngoài có thể tác động

tới hoạt động của tổ chức. Môi trường có nhiều cách phân loại:

- Môi trường bên trong: điều kiện làm việc, con người, tiền lương, mối quan

hệ giữa các cán bộ, công chức trong công sở… Môi trường bên ngoài: môi trường

trong nước, môi trường quốc tế.

- Môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường giáo dục…

- Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường chính trị…

33

Môi trường làm việc là yếu tố tác động mạnh đến hiệu suất làm việc của cán

bộ, công chức.

Môi trường làm việc quan trọng nhất là mối quan hệ giữa các thành viên

trong cơ quan. Trong một tổ chức nói chung, văn phòng cơ quan hành chính nhà

nước nói riêng có nhiều mối quan hệ như: mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên,

mối quan hệ giữa các nhân viên, mối quan hệ giữa các nhóm, mối quan hệ giữa

nhân viên với công dân… Nhưng tựu chung có 2 quan hệ phổ biến và cơ bản:

- Quan hệ cộng tác: là mối quan hệ cực kỳ quan trọng, có nhiều vấn đề cần

phải có sự kết hợp của các nhóm mới thực hiện tốt được nhiệm vụ.

- Quan hệ điều hành, quan hệ chỉ huy: thực hiện công việc quản lý trên

phương diện điều hành công việc có hiệu quả hay không, mang lại kết quả tốt hay

không phụ thuộc vào kỹ năng điều hành, phân công công việc, cách chỉ đạo cấp

dưới theo các mệnh lệnh khác nhau, tuỳ thuộc theo những hoàn cảnh, tính chất, mối

quan hệ trong các cơ quan khác nhau.

Mối quan hệ trong cơ quan có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng và hiệu

quả công việc. Nếu mối quan hệ tốt sẽ làm cho cán bộ, công chức có tâm lý thoải

mái, tự tin, là yếu tố tạo hưng phấn trong công tác, làm tăng hiệu suất làm việc.

Ngược lại các mối quan hệ trong cơ quan xấu sẽ làm ảnh hưởng lớn tới hiệu suất

làm việc của cán bộ, công chức. Có thực tế là không phải ở tất cả các cơ quan, các

mối quan hệ đều tốt đẹp, trong môi trường với các mối quan hệ đan xen phức tạp,

có thể là mâu thuẫn giữa cấp trên với cấp dưới hoặc giữa đồng nghiệp với nhau…

34

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, tác giả đã khái quát cơ sở lý luận chung về vị trí pháp lý,

chức năng của HĐND cấp tỉnh. HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân

dân địa phương bầu ra, là một tổ chức vừa có tính chất chính quyền lực, vừa có tính

chất quần chúng, vừa là trường học quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ở địa

phương.Vì vậy, HĐND không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương mà

còn chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên.Tính chất đại diện và tính chất

quyền lực của HĐND có quan hệ biện chứng với nhau.

Theo Hiến pháp hiện hành và Luật tổ chức HĐND thì HĐND có ba chức

năng cơ bản sau; quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy

tiềm năng của địa phương; bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các

cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương; thực hiện quyền giám sát

đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm

sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc tuân thủ theo pháp luật của các cơ quan nhà

nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở

địa phương.Trong số các chức năng trên, chức năng giám sát việc tuân theo Hiến

pháp và pháp luật là một trong những chức năng quan trọng của HĐND. Bởi trong

mọi hoạt động quản lý nhà nước và xã hội thì hoạt động giám sát là hoạt động

không thể thiếu.

Giám sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của

Thường trực HĐND, giám sát của các ban của HĐND và giám sát của đại biểu

HĐND. Như vậy, chủ thể hoạt động giám sát bao gồm: HĐND như một tập thể các

đại biểu HĐND tại kỳ họp, Thường trực HĐND, các ban của HĐND, đại biểu

HĐND.

Ngoài ra, luận văn còn nêu một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát

gồm yếu tố chính trị, yếu tố kinh tế, yếu tố văn hóa và các yếu tố khác như đội ngũ

cán bộ công chức; cơ cấu tổ chức, điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật, môi trường

làm việc…

35

Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT

CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET

NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

2.1. Giới thiệu về Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa dân

chủ nhân dân Lào

2.1.1. Quá trình hình thành của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet

HĐND tỉnh khóa I được thành lập sau kỳ họp Đại hội đại biểu nhân dân toàn

quốc vào ngày 2 tháng 12 năm 1975. Thời gian đó, HĐND cấp cao khóa I gồm có

45 đại biểu trên toàn quốc, trong đó có 1 đại biểu nữ. Đến ngày 26 tháng 3 năm

1989, cả nước tiến hành bầu cử đại biểu HĐND khóa II với tổng số đại biểu trúng

cử là 69 ngừoi, trong đó có 1 đại biểu nữ trên toàn quốc.

Sau khi hoàn thành việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa III vào ngày 20 tháng

12 năm 1992, đến đầu năm 1993, kỳ họp Quốc hội khóa III đã khai mạc chính thức

tại thủ đô Viêng Chăn. Trong kỳ họp lần này, các đại biểu đã nhất trí công nhận

việc thành lập Văn phòng Quốc hội tại các khu vực bầu cử, là nơi làm việc của Đại

biểu Quốc hội ở các địa phương. HĐND tỉnh Savannakhet được thành lập cuối năm

1993 và có tên gọi là “Văn phòng giúp việc Đại biểu Quốc hội khu vực bầu cử số

13”. Đến giai đoạn hoạt động của Quốc hội khóa IV -V (năm 1997-2002), văn

phòng trên được đổi tên tên thành “Văn phòng đại biểu Quốc hội khu vực bầu cử số

13”. Năm 2006, sau khi kết thúc công tác bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa IV, tại kỳ

họp khai mạc các đại biểu nhất trí đổi tên thành “Văn phòng quốc hội khu vực bầu

cử số 13” và đến năm 2011, sau bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa VII, đã đổi tên từ

“Văn phòng quốc hội khu vực bầu cử số 13” thành “ Văn phòng Đại biểu Quốc hội

tại khu vực bầu cử số 13”.

Sau công cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội tại khu vực và đại biểu HĐND tỉnh

ngày ngày 20 tháng 3 năm 2016, ngày 31 tháng 5 năm 2016 các đại biểu Đại hội đã

chính thức đổi tên từ “Văn phòng Đại biểu Quốc hội tại khu vực bầu cử số 13”

thành “ Hội đồng nhân dân tỉnh ” đến hiện nay.

36

2.1.2. Vị trí, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet

2.1.2.1. Vị trí, nhiệm vụ của HĐND tỉnh Savannakhet

Savannakhet là một tỉnh thuộc miền Trung của CHDCND Lào, có biên giới

tiếp giáp với Viêt Nam và Vương quốc Thái Lan. Với vị trí chiến lược quan trọng

cả về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng của cả nước nói chung và miền trung

của Lào nói riêng, tỉnh Savannakhet đang có từng bước phải triển mạnh với những

bước chuyển biến mới trong quá trình hội nhập, xứng đáng là trung tâm kinh tế -

văn hóa của các tỉnh miền trung.

Bộ máy nhà nước ở CHDCND Lào cũng giống như thiết chế của một số nhà

nước khác trên thế giới, Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó có HĐND cấp tỉnh

là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu

ra, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương

đó; HĐND tỉnh có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương theo

quy định của pháp luật. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng,

Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây dựng củng cố và phát triển HĐND

cấp tỉnh. Vì thế, HĐND đã làm được nhiều việc có lợi cho nước, cho dân, đã thể

hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững chắc để nhân

dân xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh.

- HĐND tỉnh Savannakhet với tư cách là người đại diện về quyền làm chủ

nhân dân trong tỉnh. Những người đủ năng lực, phẩm chất trong nhân dân sẽ tham

gia vào HĐND của tỉnh và thông qua các đại biểu của nhân dân, HĐND trở thành

diễn đàn để người dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội của mình.

Thực tiễn hoạt động của HĐND từ khi ra đời đến nay thực sự là tài sản và kinh

nghiệm quý giá cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do

nhân dân, vì nhândân.

- HĐND tỉnh Savannakhet là cầu nối giữa chính quyền Trung ương và cấp

trên với chính quyền tỉnh và các huyện trên địa bàn tỉnh, vừa bảo đảm sự tập trung

thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa đảm

bảo phát huy được nội lực của tỉnh. Thông qua Quốc hội và HĐND tỉnh, bằng

37

quyền dân chủ trực tiếp của mình, nhân dân thực hiện được quyền làm chủ trên

phạm vi cả nước và trước hết làm chủ ở ngay địa phương, cơ sở họ đang sinh sống.

Trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đó, Điều 77 Hiến pháp sửa đổi bổ

sung năm 2015 và Điều 9 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân năm 2015 đều xác

định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện

cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương

bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên"

[8, tr 66].

Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền rộng rãi của HĐND đảm bảo cho nó

thật sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm và toàn

quyền quyết định những vấn đề trọng đại ở địa phương trong khuôn khổ quy định

của Hiến pháp và pháp luật. HĐND tỉnh có vai trò nghiên cứu và công nhận các

văn bản pháp luật quan trọng của địa phương. Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản

của các cơ quan nhà nước cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm

thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng an ninh ở địa phương, về biện

pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp

trên giao cho[12, tr.5].

2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet

Ngày 20 tháng 3 năm 2016, cử tri tỉnh đã bỏ phiếu bầu HĐND các cấp, trong

đó có 11 đại biểu Quốc hội tại khu vực bầu cử số 13, 36 đại biểu HĐND tỉnh . Hiện

nay tổng số đại biểu là 47

- Trình độ đại biểu HĐND tỉnh Savannakhet

+ Trình độ chuyên môn: Sơ cấp 1 đại biểu, trung cấp 6 đại biểu, cao đẳng 9

đại biểu, đại học 15 đại biểu, trên đại học 5 đại biểu

+ Trình độ chính trị: sơ cấp 01 đại biểu, trung cấp 1 đại biểu, cao cấp và cử

nhân 9 đại biểu

- Về bộ máy cán bộ nhân viên của HĐND tỉnh Savannakhet có 72 người

Thường trực HĐND tỉnh có 07 người bao gồm Chủ tịch HĐND tỉnh, 2 Phó

Chủ tịch HĐND tỉnh và Ủy viên Thường trực HĐND tỉnh ( xem phụ lục 1)

38

Ban Pháp chế - An ninh và Quốc phòng có 13 thành viên ( 1Trưởng ban, 2

Phó trưởng ban và 10 thành viên) ( xem phụ lục 2)

Ban Kinh tế - Kế hoạch và Tài chính từ đầu nhiệm kỳ đến hiện nay gồm 07

thành viên ( Trưởng ban, Phó trưởng ban) ( xem phụ lục 3)

Ban Văn hóa - Xã hội và Dân tộc có 13 thành viên ( 1Trưởng ban, 2 Phó

trưởng ban và 10 thành viên) ( xem phụ lục 4)

Ngoài ra còn có bộ phận thư ký có đông số cán bộ nhân viên nhất với 26

thành viên và chia làm 4 tiểu Ban: tổng hợp - thông tin, Hành chính - Kế toán, Tổ

chức - Kiểm tra và tổ chịu trách nhiệm công việc bầu cử - đối ngoạ ( 1Trưởng ban,

2 Phó trưởng ban và 23 thành viên) ( xem phụ lục 5)

So với các nhiệm kỳ trước, chất lượng đại biểu được nâng lên cả về trình độ

và năng lực, thành viên các ban hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau rất thuận lợi

cho hoạt động giám sát. Mặc dù vậy một số các đại biểu có độ tuổi vẫn còn ở mức

khá cao.

2.1.3. Tổng quan về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet

Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tại mỗi kỳ họp và chương

trình công tác của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp, Thường trực Hội đồng nhân

dân, các Ban chủ động xây dựng chương trình công tác, trong đó có kế hoạch giám

sát, xác định nội dung chi tiết các lĩnh vực, các vấn đề trọng điểm, vấn đề bức xúc

liên quan đến chế độ, chính sách, đời sống an sinh xã hội của người dân, qua đó

chọn ra các chuyên đề khảo sát, giám sát mà xã hội đang quan tâm. Các đại biểu,

đặc biệt là các đại biểu chuyên trách nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật,

các báo cáo, thu thập thông tin thông qua tiếp xúc cử tri, cập nhật các phương tin

thông tin đại chúng về các vấn đề liên quan đến chuyên đề giám sát. Trước khi tiến

hành giám sát, Ban cần xây dựng kế hoạch giám sát thật chất lượng, đề cương đặt ra

phải sát với yêu cầu. Đồng thời, tổ chức họp Đoàn giám sát để bàn bạc, thống nhất

nội dung giám sát, các câu hỏi, các vấn đề đặt ra đối với các đơn vị được giám sát.

Tổ chức đi khảo sát thực tế, cập nhật những hình ảnh trong quá trình khảo sát và

giám sát. Sau khi giám sát xong, Ban sẽ họp Đoàn giám sát để thông qua dự thảo

39

báo cáo kết quả giám sát nhằm đưa ra những kiến nghị, đề xuất chính xác, phù hợp

trong khả năng thực hiện của các đơn vị và chuyển những kiến nghị vượt thẩm

quyền cho cấp trên. Sau đó, Ban sẽ tiếp tục theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực

hiện kiến nghị của các đơn vị và sẽ tái giám sát nếu cần thiết. Trong hoạt động giám

sát, các thành viên Ban, nhất là đại biểu chuyên trách chọn ra các vấn đề xã hội

quan tâm, các vấn đề sai sót, trì trệ trong thực hiện, chuyển các ý kiến chất vấn và

các hình ảnh ghi nhận qua giám sát gửi đến kỳ họp, để báo cáo và chất vấn những

sở, ngành, UBND giải trình thuộc trách nhiệm của mình. Từ đầu nhiệm kỳ tới nay,

có thể nói HĐND tỉnh Savannakhet đã có bước đổi mới toàn diện cả nội dung lẫn

hình thức, có sự chuyển biến, nâng cao chất lượng hoạt động rõ nét được Đảng bộ

và nhân dân rất đồng tình, tin tưởng và đánh giá cao. Trong quá trình hoạt động,

Thường trực và các Ban HĐND cũng đã thường xuyên phối hợp, trao đổi kinh

nghiệm, bổ trợ cho nhau về thông tin để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng

hoạt động thẩm tra, giám sát, đặc biệt là các ý kiến chất vấn, phản biện của các đại

biểu chuyên trách ngày càng sâu sắc hơn, chỉ ra những vấn đề hạn chế, yếu kém,

khuyết điểm cần khắc phục và được đơn vị được chất vấn tiếp thu nghiêm túc.

2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet.

2.2.1 Hoạt động giám sát tại kỳ họp

Điều 21 Luật Tổ chức HĐND năm 2015 quy định, HĐND giám sát tại kỳ

họp thông qua các hình thức sau đây:

- Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, Ủy ban nhân dân, Tòa

án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.

- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các

thành viên khác của UBND, thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện

trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân.

- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu [12, tr11]

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, HĐND đã tổ chức 9 kỳ họp, trong đó có 2 kỳ họp

bất thường và 1 kỳ họp chuyên đề. Các kỳ họp được thực hiện theo đúng quy định

của Luật tổ chức HĐND năm 2015; các đại biểu về dự đạt khoảng 94 – 96%; kỳ

họp giữa năm diễn ra từ 3-4 ngày. Kỳ họp đã làm việc thể hiện sự đổi mới, dân chủ,

40

đoàn kết; các phiên họp đều có đài truyền hình của tỉnh truyền hình trực tiếp, báo

địa phương và báo Trung ương đưa tin.

Thứ nhất, về hoạt động xem xét báo cáo

Sơ đồ 2.1: Báo cáo xem xét tại kỳ họp

Báo cáo xem xét

tại kỳ họp

Báo cáo Báo cáo của Báo cáo của

Thường trực Viện trưởng của UBND

HĐND, các ban VKSND, Chánh

HĐND

án TAND

Hoạt động xem xét báo cáo là một hình thức giám sát trực tiếp rất quan trọng

của HĐND. HĐND xem xét thảo luận báo cáo công tác của Thường trực HĐND,

các Ban của HĐND, UBND, TAND và VKSND cùng cấp tại kỳ họp cuối năm. Tại

kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến các đại biểu HĐND,

khi cần thiết HĐND có thể xem xét thảo luận. Việc xem xét, thảo luận các báo cáo

hàng năm hoặc 6 tháng tại các kỳ họp cuối năm hay giữa năm được tiến hành theo

một trình tự chặt chẽ do luật định. Trong đó có thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh

luận của đại biểu HĐND đối với các đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND

tỉnh. Theo quyết định của Chủ tịch HĐND hoặc của người điều khiển phiên họp,

báo cáo của các đối tượng giám sát được chuyển cho các Ban của HĐND thẩm tra,

nghiên cứu trước. Trên cơ sở ý kiến tham gia, thảo luận báo cáo của các thành viên,

các Ban phải chuẩn bị báo cáo thuyết trình thẩm tra trước HĐND.

Việc HĐND xem xét, thảo luận các báo cáo được diễn ra theo một trình tự

nhất định: người đứng đầu các cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo; Trưởng ban

HĐND trình bày báo cáo thẩm tra; HĐND thảo luận; người đứng đầu cơ quan bị

giám sát trình bày báo cáo và có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà

41

HĐND quan tâm: HĐND ra nghị quyết về công tác về công tác của cơ quan đã báo

cáo khi xét thấy cần thiết.

Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám phải báo cáo về công tác của

mình là một hình thức giám sát quan trọng. trên cơ sở đó, HĐND có thể kiểm soát

tình hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp

trên cũng như nghị quyết của HĐND trong thực tiễn đời sống xã hội; tăng cường

trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu UBND và các ban, ngành về công

tác của họ trước HĐND.

Tại HĐND tỉnh Savanakhet, thông thường mỗi kỳ họp có khoảng 20 - 25 báo

cáo. Do thời gian kỳ họp có hạn nên một số báo cáo không được trình bày tại kỳ

họp. có một số báo cáo dài nếu đọc toàn văn phải mất nhiều thời gian, vì vậy chủ

tọa kỳ họp cũng yêu cầu thủ trưởng các ngành đọc tóm tắt báo cáo; thời gian đọc

báo cáo chiếm khoảng 1/3 thời gian diễn ra kỳ họp. Thời gian dọc báo cao trong

các kỳ họp gần đây đã được rút ngắn mà dành nhiều thời gian cho việc thảo luận tại

các Tổ và thảo luận tại Hội trường.

Sau khi nghe báo cáo của các ngành, đại biểu HĐND sẽ về các Tổ để thảo

luận. Mỗi kỳ họp, đại biểu được chia thành 6 Tổ để thảo luận. Thành phần thảo luận

Tổ, ngoài các đại biểu ra còn có đại diện các đơn vị dự thảo luận như đại diện các

sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, Chủ tịch UBND , UBND các huyện, thành phố.

Dựa vào những giợ ý thảo luận Tổ do Thường trực UBND gửi đến, qua quá

trình hoạt động thực tiễn, qua nắm bắt thông tin trên các phương tiện thông tin đại

chúng, đồng thời qua việc thực thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, các đại

biểu và đại diện các cơ quan đơn vị được mời đã tích cức phát biểu ý kiến. Tại

phiên thảo luận Tổ, mỗi Tổ thường có từ 8 dến 13 ý kiến. việc đưa Tổ thảo luận đã

tạo điều kiện cho nhiều đại biểu được phát biểu ý kiến, tổng hợp cả 6 Tổ thảo luận

thường có 18 - 22 lượt đại biểu phát biểu ý kiến thể hiện quan điểm của mình về

những vấn đề nhất trí, không nhất trí với nội dung báo cáo của Thường trực UBND,

TAND, VKSND tỉnh về tất cả các mặt như đánh giá kết quả đã đạt được, những mặt

còn tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, phương hướng, các chỉ tiêu phấn đấu và các giải

pháp, yêu cầu bổ sung, hoàn chỉnh báo cáo cho phù hợp với tình hình thực tế, chỉ rõ

42

nguyên nhân và yêu cấu khắc phục những hạn chế, thiếu sót. Đồng thời cũng đưa ra

nhiều ý kiến về những vấn đề bức xúc, nổi cộm mà nhân dân và cử tri quan tâm, đề

nghị Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND và các ngành chức năng tiếp

thu, xem xét, giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm

bảo phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội trên địa bàn. Mỗi tổ sẽ cử ra 2 đại biệu thay mặt Tổ phát biểu tại hội trường.

Phiên thảo luận tại hội trường, chủ tỏa kỳ họp linh hoạt điều hành gợi ý cho cá đại

biểu tập trung thảo luận những vấn đề mà các Tổ cùng chú trọng, những vấn đề có

ý kiến khác nhau cả những vấn đề mà các Tổ chưa phân tích rõ. Ngoài những đại

biểu đăng ký trước còn có những đại biểu thấy vấn đề nào cần phải làm rõ thì trực

tiếp xin chủ tỏa họp phát biểu ý kiến. mỗi phiên thảo luận Hội trường có từ 7 đến 10

ý kiến phát biểu và đều được truyền hình trực triếp cho nhân dân trong tỉnh theo rõ.

Các phiên thảo luận ngày càng sôi nổi hơn, không khí dân chủ thằng thắn, các đại

biểu dã bớt e dè hơn, đặc biệt việc thảo luận không chỉ tập trung vào một số đại biểu

có chức vụ mà số đại biểu trẻ, quần chúng cũng tham gia ý kiến tại Hội trường.

Tuy nhiên, qua giám sát các báo cáo tại kỳ họp cũng thấy được trong các báo

cáo đó còn những hạn chế. Một số báo cáo số liệu chưa chính xác, chưa thống nhất

với các ngành. Ví dụ, số liệu của sở Kế hoạch và Đầu tư đưa ra không khớp với của

Tổng cục thống kê, của Tòa án nhân dân tỉnh không phù hợp với Tòa án nhân dân

khu vực phía nam. Nhiều báo cáo còn gửi không đúng thời hạn theo Luật Tổ chức

HĐND năm 2013 quy định ( chậm nhất là 3 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp).

Nhiều báo cáo viết còn sơ sài, nội dung chung chung, chưa nêu ra được ưu điểm nổi

bật, hạn chế của ngành mình, các phương hướng cũng chưa rõ với các chỉ tiêu khá

cao không phù hợp với tình hình thực tế.

43

Thứ hai, hoạt động chất vấn

Hoạt động chất vấn là một hình thức giám sát khá chặt chẽ của HĐND. Hiệu

quả giám sát của HĐND có được nâng lên hay không, HĐND có mạnh hay không

phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn.

Tại điều 83 Hiến pháp năm 2015 quy định : “Đại biểu HĐND có quyền chất

vấn Chủ tịch HĐND, chủ tịch và các thành viên khác của UBND, Chánh án TAND,

VKSND và Thủ trưởng các cơ quan thuộc UBND. Người bị chất vấn phải trả lời

trước HĐND trong thời hạn do luật quy định” [8, tr8]

Một số quy định về trình tự, thủ tục chất vấn tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp

của đại biểu HĐND:

Đối với việc đặt câu hỏi chất vấn

+ Đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi

chất vấn và gửi đến Thường trực HĐND; Thường trực HĐND chuyển nội dung chất

vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của đại biểu HĐND để báo cáo

HĐND.

+ Thường trực HĐND dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời

chất vấn và báo cáo HĐND quyết định; ngoài câu hỏi chính, có thể nêu câu hỏi bổ

sung liên quan đến nội dung đã chất vấn để người bị chất vấn trả lời.

Đối với việc trả lời chất vấn: người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ

về các nội dung mà các đai biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm

cũng như biện pháp khắc phục.

Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động chất vấn cũng như rang buộc trách

nhiệm của đối tượng bị chất vấn, luật còn quy định khi đại biểu HĐND không hài

lòng với câu trả lời của người nào đó thì có quyền yêu cầu HĐND thảo luận và xem

xét trách nhiệm đối với người đó. HĐND có thể ra nghị quyết về việc trả lời chất

vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.

Thực chất hoạt động chất vấn là việc đại biểu HĐND đưa ra các câu hỏi chất

vấn cho các đối tượng bị chất vấn, nội dung của các câu hỏi này thường xoay quanh

các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa phương quan tâm thuộc lĩnh vực quản lý

trực tiếp hoặc có liên quan đến đối tượng bị chất vấn.

44

Sơ đồ 2.2.: Đối tượng chất vấn của HĐND cấp tỉnh

Đối tượng chất vấn của

HĐND cấp tỉnh

Chủ tịch UBND, Thường Viện

Chủ tịch các thành viên trực HĐND, trưởng

HĐND

UBND, thủ trưởng

các ban

VKSND,

các cơ quan chuyên HĐND Chánh án

môn của UBND TAND

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, HĐND tỉnh Savannakhet đã tổ chức 6 kỳ họp

thường lệ, 2 kỳ họp bất thường, 1 kỳ họp chuyên đề. Trong 6 kỳ họp thường lệ có 4

có phiên chất vấn và trả lời chất vấn, kỳ họp thứ nhất xác nhận tư cách đại biểu và

bầu cử chức danh của HĐND nên không có hoạt động chất vấn. Mỗi phần chất vấn

thường có 5 -10 ý kiến chất vấn. Các ý kiến này do các đại biểu HĐND tỉnh gửi đến

Thường trực HĐND theo phiếu chất vấn trước khi diễn ra kỳ họp khoảng 25 ngày.

Thường trực HĐND tỉnh sẽ căn cứ vào nội dung chất vấn để gưở đến các sở, ban

ngành, các cơ quan nhà nước có liên quan. Các đối tượng này sẽ chuẩn bị trả lời

bằng văn bản để trình bày tại kỳ họp. Chủ tọa kỳ họp linh hoạt điều hành phiên chất

vấn, sau mỗi câu trả lời chất vấn, chủ tọa đều có kết luận tóm lược những ý chính để

đại biểu nắm rõ hơn và có thể chất vấn thêm. Nếu phát hiện vấn đề nào cưa được trả

lời rõ, chưa thấy rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn được giao, các đại biểu đặt câu hỏi chất vấn trực tiếp để yêu cầu xác định

rõ trách nhiệm và biện khắc phục. Hoạt động chất vấn của nhiệm kỳ này đã sôi nổi

hơn hiệm kỳ trước. Nội dung chất vấn đã phong phú hơn; không khí dân chủ và có

sự thẳng thắn giữa người chất vấn và đối tượng bị chất vấn. Các phiên chất vấn tại

hội trường được truyền thanh, truyền hình trực tiếp, nội dung chất vấn cũng được

45

đăng báo và phát lại trên kênh truyền hình của tỉnh vào các thời điểm thích hợp để

cử tri toàn tỉnh theo dõi.

Mặc dù vậy, hoạt động chất vấn mới chỉ dừng lại ở việc chất vấn và trả lời

chất vấn bằng văn bản mà chưa có đối chất đến cùng một vấn đề cụ thể. Các đại

biểu chất vấn trực tiếp tại Hội trường hoặc đại biểu hỏi thêm để làm rõ trách nhiệm

của người trả lời chất vấn đã có nhưng không nhiều. Việc chất vấn chỉ tập trung vào

một số đại biểu chất vấn thủ trưởng một số cơ quan như Sở Giáo dục vả Thể thao,

Sở Tài nguyên và Môi trường , Sở Kế hoạch và Đầu tư... mà chưa mở rộng sang các

đối tượng chất vấn khác. Các câu hỏi chất vấn nhiều khi chỉ mang tính chất nắm bắt

thông tin hơn là quy trách nhiệm pháp lý, chưa đi sâu vào nội dung. Các văn bản trả

lời chất vấn còn chung chung, né tránh vấn đề , chưa đi thẳng vào vấn đề và chưa

đáp ứng được mong muốn của đại biểu cũng như cử tri.

Tóm lại, chất vấn là một nội dung quan trọng trong các kỳ họp của HĐND

các cấp. Thông qua chất vấn người đại biểu dân cử thể hiện rõ năng lực và bản lĩnh

chính trị của mình. Qua thực tế cho thấy kỳ họp nào có nhiều ý kiến chất vấn của

đại biểu và trả lời chất vấn tốt thì không khí của kỳ họp dân chủ và thẳng thắn. Khi

mối quan hệ chất vấn và trả lời chất vấn được đặt đúng lúc, đúng chỗ để xem xét

giải quyết trên cơ sở khách quan, xuất phát từ lợi ích của dân thì có tác dụng trong

việc giải quyết những mâu thuẫn, tồn tại, vướng mắc góp phần quan trọng vào việc

thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địaphương.

Thứ ba, hoạt động giám sát thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối với

người giữ chức vụ do HĐND bầu

Sơ đồ 2.3: Các chức vụ do HĐND bầu

Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực, Trưởng ba, Phó trưởng ban,

thành viên các ban HĐND

Chủ tịch, Phó Chủ tịch, thành viên UBND

Thư ký kỳ họp

Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu là một hình

thức giám sát mới của HĐND được quy định trong Luật Tổ chức HĐND năm 2015.

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay chưa có đại biểu nào vi phạm kỷ luật đến mức phải bỏ

46

hiếu tín nhiệm. Có ý kiến cho rằng, bỏ phiếu tín nhiệm là hệ quả của giám sát, song

thực chất đó là cơ sở để quy kết hệ quả, tức là tiền đề để đi đến việc áp dụng các

biện pháp chế tài giám sát.

Những chủ thể có quyền nêu ra vấn dề bỏ phiếu tín nhiệm là Thường trực

HĐND, các ban HĐND, đại biểu HĐND, Ủy ban Mặt trận Yêu nước cấp tỉnh. Việc

trình HĐND xem xét bỏ phiếu tín nhiệm chỉ thuộc thẩm quyền của Thường trực

HĐND.

Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trìn bày ý kiến của mình

trước HĐND, HĐND thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. trong trường hợp không

được quá nửa tổng số đại biểu HĐND tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới tiệu

để bầu ra có trách nhiệm trình HĐND xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi

nhiệm người không được HĐND tín nhiệm.

Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Savannakhet tại kỳ họp chủ

yếu được tiến hành dưới hai hình thức là xem xét báo cáo công tác và xem xét việc

trả lời chất vấn. Trong nhiệm kỳ này, HĐND tỉnh đã có phần nào thể hiện được vai

trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, giảm bớt tính hình thức nhằm

phát huy dân chủ, góp phần nâng cao chất lượng giám sát tại kỳ họp của HĐND

tỉnh Savannakhet nước CHDCND Lào.

2.2.2 Hoạt động giám sát ngoài kỳ họp

2.2.2.1. Hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh Savannakhet

- Tổ chức Đoàn giám sát

- Xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

- Xem xét kết quả giám sát của các Ban HĐND; tổng hợp kết quả của giám sát

trình HĐND

- Xem xét việc trả lời chất vấn trong trường hợp người bị chất vấn được HĐND

cho phép trả lời bằng văn bàn gửi đến Thường trực HĐND

- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của

HĐND cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc hội,

Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật cơ quan

nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp để trình HĐND.

47

Căn cứ vào chương trình giám sát đã được HĐND thông qua, Thường trực

HĐND giao Văn phòng HĐND xây dựng kế hoạch, thành lập Đoàn giám sát, tiến

hành giám sát tại các cơ quan, đơn vị và các địa phương theo kế hoạch. Thường trực

HĐND xem xét cho ý kiến về nội dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám

sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và phân công thành viên của mình

tham gia Đoàn giám sát. Tại nhiều cuộc giám sát ở các địa phương, đơn vị Thường

trực HĐND đã trực tiếp chủ trì và có ý kiến kết luận. Qua quá trình giám sát, Đoàn

đã yêu cầu các cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản,

cung cấp thông tin có liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn đề mà

Đoàn giám sát quan tâm. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại

đến lợi ích của nhà nước, của tổ chức và cá nhân; Đoàn giám sát đã kiến nghị cơ

quan , tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi

ích của nhà nước, của tổ chức, cá nhân bị vi phạm; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá

nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi

vi phạm theo quy định của pháp luật.

Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND giữa 2 kỳ họp tập trung chủ yếu

vào tổ chức Đoàn giám sát và hoạt động xem xét việc giải quyết khiếu nại tố cáo

của công dân. Việc xem xét văn bản pháp luật của UBND cùng cấp, Nghị quyết

của HĐND cấp dưới mặc dù có tiến hành nhưng không thường xuyên.

 Về hoạt động tổ chức Đoàn giám sát

Năm 2016:

Thường trực HĐND đã xây dựng chương trình hoạt động thành quý và

tháng, cùng với việc tổ chức, điều hòa,phối hợp với các ban HĐND triển khai tổ

chức các cuộc giám sát tại các cơ quan, sở, ngành và đơn vị trong tỉnh trên các lĩnh

vực kinh tế, ngân sách, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng và chấp hành pháp

luật ở địa phương. Từ tháng 5 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016, Thường trực

HĐND đã tổ chức 14 cuộc giám sát với các ngành ở địa phương để kiểm tra, đôn

đốc thực hiện nghị quyết HĐND tỉnh. Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND

đã tập trung váo các vấn đề như: tình hình thẩm địnhthẩm định, chấp thuận đầu tư

và quản lý dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh; tình hình thực hiện chính sách ưu đãi đầu

48

tư trực tiếp nước ngoài; tình hình thực hiện một số dự án phát triển nông nghiệp;

tình hình thực hiện các dự án giao thông; tình hình dự toán ngân sách và phân bố

nghân sách.

Sau các cuộc giám sát, Thường trực HĐND tỉnh đã thực hiện việc thông báo

ý kến kết luận và kiến nghị đến các đơn vị, cơ quan liên quan về những vấn đề cần

xử lý, tháo gỡ và bàn bạc với lãnh đạo UBND tỉnh để cùng phối hợp như:

- Xử lý vi phạm về sử dụng đất của một số dự án được cấp đất

- Quy hoạch lại khu vực khai thác khoáng sản huyện Sepon

- Về thực hiện chính sách ưu đãi vào phát triển nông nghiệp đã xuất hiện một

số vấn đề cần được sửa chữa để bổ sung cho phù hợp với thực tế

- Về thực hiện chương trình về giống lúa sản xuất an toàn và gieo trồng vụ

thu đông

- Về việc tạo công ăn việc làm và nâng cao tay nghề cho người lao động

- Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe cho nhân dân

Năm 2017:

Thực hiện Nghị quyết HĐND tỉnh về chương trình giám sát năm 2017,

Thường trực HĐND tỉnh đã xây dựng kế hoạch, nội dung giám sát và quyết định

thành lập Đoàn giám sát chuyên đề về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn

ngân sách tập trung và quản lý, sử dụng đất đai. Thường trực HĐND đã tập trung

chỉ đạo hoạt động của các đoàn, coi đây là công tác trọng tâm hoạt động giám sát

của Thường trực HĐND năm 2016. Các Đoàn giám sát đã tích cực triển khai thực

hiện theo nội dung, kế hoạch giám sát với 35 cuộc làm việc với các sở, ngành của

tỉnh có liên quan đến hai lĩnh vực gồm 10 huyện, thành phố, 3 Ban quản lý dự án và

một số chủ đầu tư, đơn vị nhà thầu, doanh nghiệp, dự án giao đất, kiểm tra thực hiện

tại một số công trình xây dựng cơ bản.

Qua giám sát về công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, Đoàn giám sát

nhận thấy đa số các chủ đầu tư đã thực hiện đúng quy trình thủ tục đầu tư theo các

quy định hiện hành, thời gian thẩm định dự án đầu tư đã cắt ngắn từ 40 ngày xuống

còn 30 ngày/dự án. Các thủ tục về đấu thầu, chỉ định thầu đều được thực hiện

nghiêm túc, công tác lập kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, mở thầu, xét thầu ,

49

công bố kết quả, phê duyệt kết quả đấu thầu đều được tiến hành đúng quy định. Tuy

nhiên, chất lượng nhiều dự án còn thấp, việc lập dự án chưa chi tiết, chất lượng

thẩm định chưa cao, chất lượng công tác tư vấn, thiết kế dự toán công trình còn

thấp, có 80% số dự án với công tác thiết kế, dự toán chưa đáp ứng được theo yêu

cầu của quy định hiện hành; nhiều công trình phải thay đổi hoặc bổ sung thiết kế,

dự toán nhiều lần.

Qua hoạt động giám sát, các Đoàn giám sát đã phát hiện được những việc

làm được, chưa được để từ đó đề xuất các kiến nghị với đơn vị chịu sự giám sát tiến

hành sửa đổi cho đúng với quy định của pháp luật hiện hành.

Năm 2018

Thường trực HĐND đã tiến hành giám sát chuyên đề về kết quả giải quyết

kết luận sau thanh tra và công tác quản lý, vệ sinh an toàn thực phẩm. Đoàn đã thực

hiện 25 buổi làm việc tại các sở ngành có liên quan tại một số chợ trên địa bàn

thành phố Kayson Phomvihan và các huyện lân cận, trong đó có một số huyện giáp

biên như huyên Nong, một số cơ sở chế biến, doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực

phẩm, trang trại chăn nuôi. Đoàn giám sát về công tác vệ inh an toàn thực phẩm đã

báo cáo kết quả giám sát tại cuộc họp cuối năm. Qua giám sát, Đoàn đã đưa ra nhận

định tổng quát về tình trạng công tác vệ sinh an toàn thực phậm trên địa bàn tỉnh

như sau:

Về tổng thể, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm của tỉnh Savannakhet chưa

được thực hiện một cách nghiêm túc; tuy chưa đến mức nghiêm trọng nhưng nhiều

loại hàng hóa thực phẩm được bày bán ở chợ như rau củ quả còn tồn đọng các loại

thuốc bảo vệ thực vật, riêng đồ hải sản, thịt gia súc gia cầm đông lạnh nhập qua

đường tiểu ngạch còn chứa chất bảo quản ở mức cao, ở các loại thức ăn được nướng

chin còn sử dụng phẩm màu…gây ảnh hưởng đến sức khỏe cho người sử dụng.

Đoàn giám sát chỉ ra nguyên nhân của tình trạng mất vệ sinh an toàn thực

phẩm như hiện nay xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của vấn đề an toàn thực

phẩm, quản lý nhà nước về vấn đề này còn nhiều bất, yếu kém, việc chấp hành chưa

nghiêm do chưa có chế tài cụ thể đối với các đối tượng vi phạm. Cán bộ chuyên

50

môn ở các đội quản lý thị trường vừa thiếu, vừa yếu, kinh phí cho hoạt động vệ sinh

an toàn thực phẩm chưa được bố trí đầy đủ.

Từ đó, Đoàn giám sát đưa ra một số ý kiến đẩy mạnh hoạt động truyên

truyền về vệ sinh an toàn thực phẩm, tang cường hoạt động quản lý nhà nước về an

toàn thực pẩm, có biện pháp xử lý ngay các cơ sở vi phạm làm mất vệ sinh an toàn

thực phẩm nghiêm trọng

Ngoài ra, cuối năm 2018 nhằm thực hiện Nghị quyết HĐND, Thường trực

HĐND tỉnh đã quyết định thành lập Đoàn giám sát để thực hiện việc giám sát

chuyên đề về công tác quản lý thuế. Qua giám sát, Đoàn đã đánh giá đúng thục

trạng công tác quản lý thuế, tình hình chấp hảnh pháp luật về thuế của các đơn vị và

người nộp thuế, kết quả thu nhập ngân sách trên địa bàn tỉnh trong 3 năm 2016 –

2018. Đồng thời chỉ ra những yếu kém, hạn chế trong công tác quản lý thu thuế,

kiến nghị với ngành thuế nhiều biện pháp đảm bảo thu đúng, thu đủ các loại thuế

phát sinh, góp phần tang ngân sách trên địa bàn tỉnh.

Đoàn đã giám sát về công tác quản lý thuế trên địa bàn tỉnh qua báo cáo thuế

của 11 chi cục thuế huyện, thành phố và 31 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, giám sát

trực tiếp trên 100 hộ kinh doan cá thể tại một số huyện, thành phố, cục thuế tỉnh,

cục thuế huyện.

Qua giám sát, Đoàn nhận thấy tình trạng thất thu thuế trên địa bàn tỉnh còn

xảy ra khá phổ biến, hoạt động gian lận thương mại, kinh doanh trốn thuế diễn ra

phức tạp với hành vi thủ đoạn tinh vi hơn. Theo báo cáo của chi cục quản lý thị

trường thì trong 2 năm 2016 -2018 đã phát hiện 153 vụ kinh doanh hàng lậu. Tình

trạng nợ thuế, nợ ngân sách còn diễn ra khá phổ biến với hơn 50% doanh nghiệp

còn nợ thuế. Công tác hoàn thuế còn chậm trễ, công tác quản lý thuế còn yếu kém…

Từ đó Đoàn giám sát đã đưa ra những kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ Tài chính,

Tổng cục Thuế, HĐND tỉnh, UBND tỉnh, ngành thuế tỉnh, UBND cấp huyện, cấp

bản của các đối tượng nộp thuế, từ đó nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế trên

địa bàn tỉnh.

 Xem xét giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của công dân

Trong thời gian trước đây, hoạt động này còn nhiều hạn chế và mang tính

51

hình thức, Thường trực HĐND cấp tỉnh chủ yếu làm nhiệm vụ tiếp nhận xong và

chuyển đến các cơ quan hữu quan có trách nhiệm giải quyết, còn kết quả giải quyết

như thế nào thì hình như không biết và ít được quan tâm. Trong những năm gần

đây HĐND cấp tỉnh đã có bước cải tiến, đưa công tác này vào nề nếp. Thường trực

HĐND đã xây dựng quy chế tiếp công dân theo quy định của pháp luật, bố trí cán

bộ tiếp nhận và xử lý kịp thời đơn thư của công dân. Công dân đến khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị đều được cán bộ tiếp dân tiếp, hướng dẫn, giải thích đầy đủ, đúng

pháp luật với thái độ nhiệt tình có trách nhiệm. Đối với những nội dung khiếu nại,

tố cáo có cơ sở xem xét, tiến hành tiếp nhận đơn, hồ sơ để nghiên cứu chuyển và

đôn đốc cơ quan có thẩm quyền giải quyết, trả lời công dân theo quy định pháp

luật.

Thường trực HĐND tổ chức tiếp công dân theo lịch hàng tháng nhờ xác định

việc tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo phải gắn với hoạt động giám

sát của HĐND. Hoạt động này giúp Thường trực HĐND có điều kiện tìm hiểu,

nghiên cứu nắm bắt bản chất sự vật, góp phần đảm bảo cho công tác xử lý đơn thư

khiếu nại, tố cáo đúng trình tự, thủ tục và hợp lý. Đối với đơn thư gửi trực tiếp,

Thường trực HĐND nghiên cứu kỹ từng vụ việc, chỉ đạo văn phòng phân loại và có

văn bản gửi cho chuyển cho cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết. Qua giám

sát, Thường trực HĐND có cơ sở giải thích cho công dân và kiến nghị những vấn

đề cần giải quyết bảo đảm đúng pháp luật. Đối với đơn thư thể hiện bức xúa của

công dân đã gửi nhiều lần, nhiều cơ quan thì giao cho văn phòng lập danh sách đôn

đốc, theo dõi kết quả giải quyết của các cơ quan và tổng hợp báo cáo gửi Thường

trực

Từ năm 2016 đến nay, Thường trực HĐND đã nhận các đơn thư khiếu nại tố

cáo của công dân cụ thể như sau:

Năm 2016

Thường trực HĐND đã tiếp nhận 42 đơn thư của công dân, đã chỉ đạo văn

phòng gửi đấn các cơ quan, cá nhân liên quan và giúp Thường trực HĐND phối hợp

với các cơ quan chức năng theo dõi, đôn đốc, giải quyết. Trong số đơn thư gửi đến

52

gồm có đơn thư khiếu nại về sai phạm quản lý đất đai và ngân sách ở cấp huyện,

giải quyết các chế độ chính sách…

Năm 2017

Thường trực HĐND tỉnh đã tiếp nhận 85 đơn thư của công dân gửi đến và

giải quyết các kiến nghị của 79 lượt công dân. Đến cuối năm cơ quan có thẩm

quyền mới giải quyết được 31/75 đơn (54,3 %). Đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch

HĐND tỉnh trực tiếp tiếp công dân 5 ngày, trực tiếp giải thích, tiếp thu ý kiến và

đôn đốc việc giải quyết các kiến nghị của công dân. Thường trực HĐND tỉnh cùng

Tổ trưởng Tổ đại biểu HĐND tỉnh đã tổ chức 1 buổi làm việc trực tiếp tại UBND

thành phố Kayson Phomvihan để giải quyết đơn của 2 cử tri ở bản. Đồng thời đã rút

ra kinh nghiệm với các cơ quan chức năng của thành phố về quy trình cuộc tiếp xúc

cử tri, phương pháp điều hành buổi tiếp xúc, thành phần mời dự tiếp xúc. Thường

trực HĐND tỉnh đã trực tiếp gặp gỡ người khiếu nại để giải quyết và hướng dẫn

công dân thực hiện đúng quyền khiếu nại tố cáo theo luật định.

Năm 2018

Thường trực HĐND tỉnh đã tiếp nhận được 47 đơn thư khiếu nại, tố cáo của

công dân. Nội dung đơn công dân gửi đến hầu hết là khiếu nại, tố cáo . Trong số 47

đơn chỉ có 29 đơn đủ điều kiện chuyển. Thường trực HĐND cũng nhận được 7

công văn trả lời của các cơ quan chức năng đạt 24,1% số đơn đã chuyển. Như vậy,

từ năm 2016 đến năm 2018 các đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh đã trực

tiếp tham gia tiếp công dân, tiếp nhận các ý kiến, kiến nghị của cử tri, tuy nhiên số

buổi tiếp dân còn ít. Số đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Thường trực HĐND đã

được phân loại, nếu đủ điều kiện thì gửi cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Mức độ giải quyết và trả lời đơn thư của các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa cao,

chưa đáp ứng được nguyện vọng của cử tri trong tỉnh. Thường trực HĐND không là

cơ quan giải quyết trực tiếp các đơn thư khiếu nại, tố cáo nên cũng gặp không ít

những khó khăn. Thường trực HĐND tỉnh đã yêu cầu văn phòng bố trí chuyên viên

phù hợp, tổng hợp, theo dõi tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân gửi

đến Thường trực HĐND. Mặc dù vậy, đây là lĩnh vực vẫn còn gặp nhiều khó khăn

53

do các quy định của pháp luật chưa sâu rộng, chưa quy định rõ thẩm quyền, thiếu

các cơ chế đôn đốc, giải quyết các ý kiến và kiến nghị của nhân dân.

 Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết

của HĐND cấp dưới trực tiếp. xem xét hoạt động giám sát của các ban HĐND

Đây là hình thức HĐND giám sát tính hợp tiến, hợp pháp của các văn bản

quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp và Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực

tiếp Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, tại các kỳ họp HĐND cũng như giữa hai kỳ

họp, Thường trực HĐND, các ban HĐND và từng đại biểu HĐND phải thường

xuyên thực hiện việc giám sát các văn bản thuộc thẩm quyền của mình nhằm có

những kiến nghị, đề xuất kịp thời. Các bước để HĐND xem xét tính hợp pháp của

văn bản được quy định như sau:

Đại diện của Thường trực HĐND trình văn bản quy phạm pháp luật có dấu

hiệu trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước

cấp trên; HĐND thảo luận. Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã

ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn đề kiên

quan. Hệ quả của hoạt động này có thể có thể dẫn đến hai khả năng: HĐND ra nghị

quyết khi văn bản quy phạm pháp luật trên không trái với Hiến pháp, luật và văn bả

quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên , hoặc quyết định bãi bỏ một

phần hoặc toàn bộ văn bản đó.

Đối với hoạt động xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng

cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp, chủ yếu do Ban pháp chế - An ninh

và Quốc phòng thực hiện với sự tham gia của Thường trực HĐND. Tuy nhiên, từ

đầu nhiệm kỳ đến nay hoạt động xem xét văn bản quy phạm không được tiến hành

thường xuyên.

Để thực hiện vai trò chủ đạo, điều hòa phối hợp hoạt động của các Ban,

Thường trực HĐND tỉnh đã luôn quan tâm hoạt động giám sát của các Ban, dự các

cuộc họp của Ban, định kỳ hàng tháng tổ chức họp giao ban Thường trực HĐND

với các Ban và Văn phòng HĐND để tổ chức tốt các hoạt động giám sát, kịp thời

phát hiện các vấn đề cần thiết, kiến nghị các cơ quan Nhà nước khắc phục. Ngoài

54

ra, Thường trực HĐND còn xem xét việc trả lời chất vấn trong trường hợp người bị

chất vấn được HĐND cho phép trả lời bằng văn bản gửi đến Thường trực HĐND.

Hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp của Thường trực HĐND tập trung chủ

yếu vào hoạt động tổ chức Đoàn giám sát và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố

cáo của công dân. Các hoạt động này đều có đại diện các Ban HĐND tham gia.

2.2.2.2. Hoạt động của các Ban HĐND từ 2016 đến nay

Các Ban của HĐND là những cơ quan tham mưu giúp việc của HĐND. Căn

cứ vào Nghị quyết của HĐND tỉnh và chương trình kế hoạch hoạt động cụ thể của

HĐND, các Ban đã xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát đối với các lĩnh vực

phụ trách của mình. Về hình thức giám sát các Ban có thể tiến hành giám sát thường

xuyên theo định kỳ hoặc giám sát đột xuất các vấn đề nổi cộm bức xúc mà cử tri và

Nhân dân quan tâm.

Trong hoạt động giám sát, các ban của HĐND có nhiệm vụ giúp HĐND

giám sát hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, hoạt động

của TAND và VKSND tỉnh, giúp HĐND giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh

tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến

pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị

quyết của HĐND tỉnh.

Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND năm 2015: Ban Kinh tế - Kế hoạch

và Tài chính phụ trách lĩnh vực kinh tế, ngân sách, khoa học công nghệ, tài nguyên

và môi trường; Ban Văn hóa - xã hội và Dân tộc phụ trách lĩnh vực y tế, giáo dục,

xã hội, văn hóa, thông tin, thể thao và chính sách tôn giáo; Ban Pháp chế - An ninh

và Quốc phòng phụ trách lĩnh vực thi hành pháp luật, quốc phòng, an ninh, trật tự

an toàn xã hội, xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.

Trước kỳ họp, các Ban có nhiệm vụ thẩm tra các báo cáo, đề án, tờ trình do

HĐND hoặc Thường trực HĐND phân công. Báo cáo thẩm tra của các Ban trình tại

kỳ họp đã khắc phục dần tính hình thức, giúp HĐND nắm rõ thực chất của UBND,

các cơ quan chuyên môn của UBND, VKSND, TAND trong 6 tháng đầu năm, hoặc

cả năm; là căn cứ để HĐND tỉnh thảo luận, thông qua các nghị quyết quan trọng,

55

quyết định sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã

hội trên địa bàn tỉnh.

Đến nay, báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh về cơ bản đã đáp ứng yêu

cầu như xác nhận những kết quả mà UBND, VKSND, TAND tỉnh đã đạt được;

đồng thời thể hiện được tính phản biện, chỉ ra được những hạn chế thiếu sót, tìm ra

được nguyên nhân và có những đề xuất kiến nghị yêu cầu UBND và các cơ quan

hữu quan khắc phục. Quá trình thẩm tra đã phát hiện những khuyết điểm của đề án,

tờ trình, dự thảo nghị quyết để kịp thời chỉnh sửa ngay từ giai đoạn chuẩn bị tờ

trình, giúp HĐND thông qua các văn bản đó có chất lượng. Sự phản biện trong báo

cáo thẩm tra sẽ giúp cho đại biểu HĐND nhìn nhận, đánh giá về các báo cáo một

cách khách quan, không chỉ thấy được những kết quả mà còn thấy được những hạn

chế, những khó khăn vướng mắc trong chỉ đạo và triển khai nhiệm vụ; không chỉ

đánh giá các đề án và dự thảo nghị quyết một cách xuôi chiều, mà còn thấy được

những vấn đề trái bất cập yêu cầu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.

Những ý kiến phản biện trong báo cáo thẩm tra của các Ban được nêu ra từ tình

hình thực tế, có dẫn chứng cụ thể nên tính thuyết phục cao; kiến nghị của các Ban

thể hiện rõ tinh thần xây dựng và quy rõ trách nhiệm đối với cơ quan chức năng

nên đã tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo và đông đốc thực hiện.

Giữa 2 kỳ họp của HĐND tỉnh, các Ban của HĐND tỉnh lựa chọn những vấn

đề nổi cộm, những vấn đề bức xúc mà cử tri và nhân dân toàn tỉnh quan tâm, xây

dựng kế hoạch, thành lập Đoàn giám sát, tiến hành giám sát chuyên đề, đi sâu xem

xét đánh giá, tìm ra nguyên nhân bất cập để đề xuất giải pháp khắc phục. Để nắm

được thực chất của vấn đề trước khi giám sát ở các sở, ngành có liên quan ở tỉnh,

các Ban của HĐND tỉnh tiến hành giám sát ở một số cơ sở trực tiếp triển khai

nhiệm vụ; giám sát cả ở những nơi triển khai thực hiện nhiệm vụ mức trung bình,

yếu và khá để đảm bảo việc đánh giá được khách quan và toàn diện. Với lịch trình

giám sát này, Đoàn giám sát sẽ nắm được tình hình thực tế diễn ra ở cơ sở, sau đó

giám sát ở các huyện, thành phố và các sở, ngành của tỉnh. Do vậy ý kiến của Đoàn

giám sát có căn cứ thực tiễn tính thuyết phục cao hơn. Bên cạnh đó, những vấn đề

nảy sinh ở cơ sở thường thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện hoặc các

56

ngành chức năng, Đoàn giám sát có điều kiện trao đổi và chất vấn trực tiếp để

UBND các huyện, thành phố và các ngành chức năng làm rõ và có biện pháp khắc

phục. Kết thúc đợt giám sát, các Đoàn giám sát đều có báo cáo kết quả giám sát. Từ

đầu nhiệm kỳ đến nay (tính đến hết năm 2018) các Ban HĐND tỉnh đã thực hiện

các cuộc giám sát như sau:

Bảng 2.1. Tổng số các cuộc giám sát từ đầu nhiệm kỳ đến năm 2018 của các

Ban HĐND

Ban Pháp chế - An Ban Ban Kinh tế - Kế Ban Văn hóa - Xã hội ninh và Quốc Năm hoạch và Tài chính và Dân tộc phòng

Đã 28 lần gửi thông báo Đã tổ chức 13 cuộc giám Đã thực hiện 12

đến các ban ngành liên sát tại 4 sở, ngành, 2 cuộc giám sát tại sở,

quan về tình hình hoạt huyện thành phố và 3 ngành và UBND

động, tổ chức thực hiện đơn vị trên lĩnh vực giáo các huyện , hoạt

2016 kế hoạch của mình dục, y tế, lao động, bảo động của các cơ

Đã tổ chức 12 cuộc hiểm xã hội, văn hóa quan tư pháp cấp

giám sát tại sở, ngành thông tin huyện tại thành phố

và các đơn vị trên lĩnh Kayson và huyện

vực kinh tế, ngân sách, Champhon về công

nông nghiệp, công tác tiếp dân, giải

nghiệp, giao thông vận quyết đơn thư khiếu

tải, đầu tư xây dựng cơ nại.

bản, quản lý đất đai

Đã 8 lần tham gia hoạt Đã thực hiện 22 cuộc Đã thực hiện 24

động giám sát chung giám sát về các chủ đề: cuộc giám sát về

với Đại biểu Quốc hội kết quả công tác văn các lĩnh vực; tình

trong việc theo dõi hóa xã hội, chương trình hình và kết quả

2017 kiểm tra việc tổ chức xã hội hóa giáo dục, phát công tác cải cách

thực hiện kế hoạch phát triển và quy định rõ tiêu thủ tục hành chính,

57

triển kinh tế, kế hoạch chuẩn, quy chế hoạt công tác tiếp dân,

nhân sách,sản xuất công động của các trường bán giải quyết khiếu nại

nghiệp thành hàng hóa công , nâng cao tay nghề tố cáo của công dân

và những ảnh hưởng cho người lao động… và việc thực hiện

của nó, với tổng cộng Đã 1 lần giám sát về các kết luận sau

80 lượt người tham gia công tác di dân tái định thanh tra..

Đã thực hiện được 16 cư cho nhân dân vùng Đã 10 lần tập trung

cuộc giám sát tại các chịu ảnh hưởng từ dự án giám sát việc tổ

đơn vị và địa phương về xây dựng thủy điện chức thực hiện Hiếp

các lĩnh vực: tình hình Xenalong và dự án trồng háp, luật, văn bản

đầu tư vào lĩnh vực cây ăn quả của công ty quy phạm pháp luật

nông nghiệp, kết quả SoukHung Huong ở trong lĩnh vực chịu

công tác khuyến nông, huyện Nong trách nhiệm.

vệ sinh an toàn thực

phẩm, tình hình các

trạm thu phí đường bộ

Đã 5 lần hoạt động Thực hiện 20 giám sát Đã thực hiện 22

giám sát và thúc đẩy kế về thực hiện chế độ cuộc giám sát về tỏ

hoạch phát triển nông chính sách đối với người chức bộ máy quản

2018 thôn, xóa đói giảm nghèo, người cao tuổi, lý sử dụng biên chế

nghèo gắn liền với kế tình hình tham gia bảo trên địa bàn tỉnh,

hoạch phát triển bền hiểm y tế của người dân, vấn đề cải cách

vững và phát triển kinh về công tác khám chữa hành chính và giải

tế quy mô vừa và nhỏ. bệnh cho trẻ em dưới 6 quyết đơn thư khiếu

Các ban đã thực hiện 15 tuổi, kết quả công tác nại, tố cáo của công

cuộc giám sát về việc chăm sóc giáo dục trẻ dân, kết quả công

triển khai đề án phát em… tác thi hành án dân

triển các khu du lịch, Đã thực hiện kiểm tra sự năm 2018

chợ thương mại tại các giám sát những ảnh Đã 1 lần tham gia

58

cửa khẩu với Việt Nam hưởng đến cuộc sống hoạt động giám sát

và Thái Lan, của người dân và vấn đề chung với Thường

Đã tham gia giám sát môi trường tại nhà máy trực QH đối với

chung với Ngành Kinh sản xuất giấy dán tường việc công nhận các

tế-Khoa học và Môi ở huyện Sepon văn bản pháp luật

trường trong việc thu và việc sử dụng chất

thập số liệu và nghe báo độc hại vượt quy

cáo của các thành phần định cho phép gây

liên quan đối với việc ảnh hưởng đến môi

sử dụng chât hóa học trường, xã hội và tự

của Nhà máy sản xuất nhiên ở huyện

dung dịch Axit Champhon và

Sunphuric ở huyện huyện Songkhon

Atsaphangthong; xuống

khảo sát diện tích dự án

khu kinh tế đặc biệt

Savan- Sepon

2.2.2.3. Hoạt động giám sát của các đại biểu HĐND cấp tỉnh

Đa số đại biểu HĐND tỉnh đã tham dự đầy đủ các kỳ họp của HĐND tỉnh, đã

tập trung nghiên cứu các báo cáo, đề án, tờ trình, dự thảo nghị quyết và báo cáo

thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh để có những thông tin cần thiết để tham gia thảo

luận và biểu quyết. Các đại biểu chuẩn bị những ý kiến có chất lượng để phát biểu

trong phiên thảo luận Tổ và thảo luận tại Hội trường, chuẩn bị câu hỏi chất vấn tại

kỳ họp, thể hiện rõ quan điểm của mình về những vấn đề nhất trí hoặc không nhất

trí với báo cáo, đề án, dự thảo nghị quyết, nêu rõ quan điểm về ý kiến trả lời chất

vấn của cơ quan chức năng, đồng thời chất vấn trực tiếp khi cơ quan chức năng trả

lời chưa thỏa đáng, chưa rõ.

Một số đại biểu HĐND tỉnh không nắm được đầy đủ thông tin về tình hình của

địa phương cũng như tâm tư, nguyện vọng của nhân dân nên ít tham gia thảo luận

59

và phát biểu ý kiến, ít hoặc không thực hiện quyền chất vấn; ýkiến của một số đại

biểu chưa tập trung vào những vấn đề trọng tâm, chưa nêu được các giải pháp thiết

thực. Trả lời chất vấn còn né tránh trách nhiệm, chưa dám nhìn thẳng vào sự thật,

đổ lỗi cho khách quan nhiều hơn là nhận trách nhiệm; giải pháp khắc phục

những hạn chế, yếu kém, chưa cụ thể, thiếu định lượng do vậy khó kiểm tra, đánh

giá kết quả. Một số tổ đại biểu sinh hoạt chưa đều, nội dung còn hạn chế, chưa nắm

chắc tình hình kinh tế - xã hội và tâm tư, nguyện vọng của nhân dân địa phương nơi

ứng cử để phản ánh tại kỳ họp, chưa tham gia nhiều vào hoạt động của

các ban. Công tác giám sát chưa đều, chủ yếu do Thường trực HĐND và

các ban của HĐND tỉnh tiến hành; việc tham gia hoạt động giám sát của các đại

biểu HĐND còn hạn chế, chủ yếu mới giám sát tại kỳ họp.

Giữa hai kỳ họp của HĐND tỉnh, các đại biểu làm việc kiêm nhiệm không tham

gia thành viên các Ban HĐND, đã chủ động giám sát thông qua hoạt động thực tiễn,

thông qua quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ. Vối các đại biểu chuyên trách,

các đại biểu tham gia thành viên các Ban, hoạt động giám sát được thể hiện rõ nét

hơn. Các đại biểu này tích cực tham gia Đoàn giám sát, nghiên cứu tài liệu liên quan

đến nội dung giám sát, có nhiếu ý kiến chất vấn các cơ quan chức năng tại các buổi

giám sát, tham gia ý iến xây dựng báo cáo kết quả giám sát, báo cáo thẩm tra của

các Ban HĐND tỉnh. Ngoài ra, các đại biểu trong Thường trực HĐND, Trưởng các

Ban của HĐND còn thực hiện giám sát thông qua việc tiếp dân, xem xét việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

Hoạt động giám sát của các đại biểu còn được thể hiện rõ nét, có hiệu quả và

sát thực tiễn nhất là thông qua từng vị trí công tác mà các đại biểu giá sát việc thực

hiện Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết, của HĐND ngay ở địa phương, cơ quan

mình cư trú, công tác. Thông qua hoạt động này, các đại biểu phát hiện những vấn

đề tồn tại, hạn chế của các cơ quan, cá nhân, nhũng khó khăn vướng mắc của cử tri,

kịp thời kiến nghị với cơ quan có thẩm quyến xem xét, giải quyết.

60

2.3. Đánh giá chung

2.3.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động giám sát

Để đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Savannakhet, chúng

ta phải dựa vào tình hình hoạt động của HĐND. Trên cơ sở những mặt làm được và

chưa làm được có thể nhận biết khả năng, mức độ tác động tích cực hay hạn chế của

công việc giám sát đến sự phát triển tình hình kinh tế, chính trị xã hội của địa

phương.

Về xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát

+ Hàng năm, Thường trực và các Ban HĐND tỉnh Savannakhet đã chủ động

xây dựng kế hoạch, chương trình giám sát tại kỳ họp cuối năm cho kế hoạch năm

sau; chương trình đó được kỳ họp cuối năm của HĐND thông qua bằng nghị

quyết. Nhìn chung việc xây dựng chương trình giám sát đã được các đại biểu căn

cứ vào yêu cầu thực tiễn cuộcsống.

Về tổ chức thực hiện chương trình giám sát

+ Trên cơ sở kế hoạch công tác, Thường trực và các Ban đã phân bố các đợt

giám sát phù hợp với từng giai đoạn trong năm. Chẳng hạn: giám sát trong lĩnh

vực xây dựng cơ bản chỉ vào mùa khô, mùa xây dựng, giám sát về lĩnh vực thu

ngân sách thường vào giữa năm và cuối năm, giám sát đột xuất thường tập trung

vào các vấn đề phát sinh trong đơn thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp. Để tranh thủ

các ý kiến và tăng cường tính dân chủ trong hoạt động giám sát, khi thành lập đoàn

giám sát HĐND đã mời các thành viên trong hệ thống chính trị cùng tham gia như

Mặt trận Xây dựng đất nước, các đoàn thể và các chuyên viên từ các phòng, ban

am hiểu về các lĩnh vực cần giám sát.

+ Để các cuộc giám sát mang lại hiệu quả thiết thực cũng như đảm bảo quy

trình đã đề ra, đoàn giám sát đã chủ động xây dựng nội dung, mục đích, yêu cầu

giám sát gửi trước cho các đơn vị chịu giám sát ít nhất 7 ngày.

+ Khi kết thúc các đợt giám sát bao giờ đoàn giám sát cũng có văn bản kết

luận chính thức về nội dung giám sát, sau khi có sự thảo luận nghiêm túc, thẳng

thắn giữa các bên. Trong kết luận đã chỉ ra những ưu điểm, tồn tại cần khắc phục

và đặc biệt đã có những kiến nghị đề xuất cho các cấp, các ngành có liên quan, cần

61

tập trung tháo gỡ, xử lý những vướng mắc của đơn vị, đối tượng được giámsát.

+ Sau giám sát Thường trực và các Ban HĐND đã theo dõi đôn đốc các đơn

vị liên quan thực hiện những nội dung mà đoàn giám sát kiến nghị và có báo cáo

cụ thể việc thực hiện của các đơn vị đó trong kỳ họp HĐND cuối năm. Thực tế,

trong thời gian vừa qua, cơ bản các nội dung kiến nghị đã được các cơ quan liên

quan nghiêm túc tìm biện pháp tháo gỡ khắc phục những vấn tồn tại yếu, kém mà

các đoàn giám sát đã chỉ ra.

Việc phối hợp trong công tác giám sát

Phối hợp là một trong những nội dung rất quan trọng để giám sát đạt kết quả

tốt. Vì vậy, HĐND tỉnh Savannakhet đã chú trọng đến sự phối hợp với các cấp, các

cơ quan, ban, ngành, các chuyên gia trong hoạt động giám sát của mình, nhằm tạo

điều kiện thuận lợi về nội dung thông tin, cơ sở vật chất phục vụ cho giám sát,

cũng như giúp HĐND có cách đánh giá khoa học, khách quan, chính xác các vấn

đề giám sát.

Vì vậy, có thể thấy được rằng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh

Savannakhet trong thời gian qua, có vai trò quan trọng trong phát triển đời sống

kinh tế - xã hội ở địa phương.

- Các hình thức giám sát được tổ chức thực hiện đa dạng hơn thông qua việc

tổ chức giám sát theo chuyên đề được nhiều lĩnh vực như việc lấy phiếu tín nhiệm

hàng năm đối với các chức vụ do HĐND bầu.

- Nội dung chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp ngày càng có chất lượng

hơn, chất vấn và trả lời chất vấn đã phần nào đi vào trọng tâm phản ánh những vấn

đề bức xúc mà cử tri quan tâm.

- Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND và các Ban HĐND ngày càng

đi vào thực chất, đặc biệt giám sát chuyên đề và giám sát tại kỳ họp.

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế

- Hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND còn thiếuđồng bộ.

Luật tổ chức HĐND và UBND, và Quy chế hoạt động của HĐND cũng như một số

Nghị định của Chính phủ còn chưa thống nhất, văn bản hướng dẫn thi hành chưa

sửa đổi cho phù hợp với văn bản pháp lý cao hơn mới được ban hành.

62

- Một số quy định về nội dung, hình thức, đối tượng, chủ thể giám sát còn

chưa rõ ràng. Nhiều quy định về hình thức giám sát chưa được thực thi hoặc tính

khả thi còn thấp; hoạt động giám sát văn bản pháp luật chưa được thực hiện thường

xuyên.

- Việc xây dựng kế hoạch giám sát. Hoạt động xây dựng kế hoạch còn chậm,

nội dung giám sát một số cuộc có khi còn quá vĩ mô hoặc quá cụ thể, chưa bám sát

tình hình thực tế hoàn cảnh của địa phương, tính thời sự chưa cao.

- Việc xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND,

VKSND được thực hiện chủ yếu thông qua phiên thảo luận tại hội trường. Chính vì

vậy, dẫn đến việc bị giới hạn cả về thời gian lẫn nội dung báo cáo dẫn đến báo cáo

chưa được đi sâu vào vấn đề thường vẫn bị mang tính chất dàn trải, chung chung.

- Hoạt động xem xét VBQPPLcủa UBND tỉnh, nghị quyết HĐND cấp dưới

là hình thức giám sát quan trọng của HĐND tỉnh, đảm bảo cho việc ban hành

VBQPPL được thống nhất và chính xác. Tuy nhiên, trên thực tế tại Savannakhet,

hoạt động này mới chỉ dừng lại ở việc rà soát, kiểm tra những văn bản mà Thường

trực HĐND tỉnh nhận được và giao cho Văn phòng giúp việc thực hiện.

- Công tác phối hợp giữa Thường trực HĐND tỉnh với các BanHĐND và chính giữa

các Ban của HĐND với nhau trong hoạt động giám sát nhất là trong công tác thẩm

tra những nội dung có liên quan đến phạm vi theo dõi của nhiều Ban còn chưa chặt

chẽ và thường xuyên.

- Hoạt động chất vấn và xem xét trả lời chất vấn. Số đại biểu tham gia chất

vấn trực tiếp tại hội trường chưa nhiều, chỉ tập trung vào một số ít đại biểu hoạt

động chuyên trách.

- Một số vấn đề tiêu cực trong quản lý kinh tế, đầu tư xây dựng cơ bản gây

bức xúc trong cử tri và dư luận xã hội chưa được HĐND tỉnh kịp thời tổ chức đoàn

giám sát; chưa xem xét toàn diện, sâu sắc đối với một số báo cáo của các cơ quan

nhà nước; nhiều kiến nghị giám sát chưa cụ thể, chưa xác định rõ trách nhiệm của

các chủ thể liên quan sau giám sát. Việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các kiến nghị

sau giám sát có lúc chưa thật quyết liệt. Hoạt động giám sát công tác ban hành văn

bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh và HĐND cấp huyện chưa được tiến hành

63

thường xuyên. Do chế tài xử lý các kiến nghị giám sát chưa rõ ràng và đủ mạnh nên

chủ yếu nhắc nhở là chính, từ đó làm giảm hiệu lực giám sát của HĐND các cấp.

Một số cơ quan, đơn vị được giám sát chưa tôn trọng và chấp hành nghiêm các kiến

nghị của HĐND.

Công tác tiếp dân, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

và kiến nghị của cử tri cũng còn một số tồn tại, hạn chế, đó là:

- Công tác xử lý đơn thư hiện nay vẫn chủ yếu là chuyển đơn đến cơ quan

chức năng để giải quyết theo quy định; số vụ việc Thường trực HĐND tỉnh có văn

bản yêu cầu cơ quan chức năng xem xét, phúc tra lại không nhiều.

- Các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài đối với các cơ quan hành

chính nhà nước, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị chậm giải quyết hoặc không trả lời

các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân do HĐND chuyển đến chưa đủ mạnh,

phần nào làm giảm tính hiệu lực và hiệu quả các kiến nghị của HĐND.

- Mặt khác, việc nắm thông tin cũng như tiếp cận với hồ sơ, tài liệu liên quan

đến quá trình giải quyết vụ việc cũng gặp không ít khó khăn do công dân chỉ gửi

đơn không kèm theo tài liệu hoặc nếu có gửi kèm thì hầu hết là những tài liệu có lợi

cho đương sự nên rất khó cho việc nghiên cứu, đánh giá việc giải quyết của cơ quan

chức năng, dẫn đến nhiều vụ việc mặc dù phát hiện có sai phạm nhưng không có cơ

sở để đề nghị phúc tra hoặc tổ chức giám sát theo quy định.

Kết luận sau hoạt động giám sát: Báo cáo thẩm tra còn sơ sài, ít có ý kiến trái

chiều, phần lớn còn thể hiện quan điểm đồng tình với các nội dung giám sát, các

kiến nghị đưa ra còn chung chung, chưa chỉ rõ được cơ quan, đơn vị chịu trách

nhiệm chính, chưa quy định cụ thể thời gian thực hiện kiến nghị, chưa có chế tài đủ

mạnh đối với các đơn vị không nghiêm túc thực hiện kiến nghị sau giám sát.

2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

Thứ nhất: Các quy định của pháp luật - căn cứ pháp lý cho hoạt động giám sát

+ Hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND đã được sửađổi, bổ

sung khá nhiều nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, thiếu cụ thể, đặc biệt

thiếu hẳn những chế tài, biện pháp xử lý sau giám sát đối với các chủ thể bị giám

64

sát, ít có căn cứ pháp lý để xử lý các đối tượng giám sát không nghiêm chỉnh thực

hiện các kiến nghị sau giám sát.

+ Quy định phạm vi giám sát, hình thức giám sát quá rộng với nhiều chủ thể,

chưa phân định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi chủ thể với từng đối tượng

chịu sự giám sát cũng như sự phối hợp giữa các chủ thể giám sát dẫn tới sự chồng

chéo trong thực hiện.

+ Yêu cầu, kiến nghị của Thường trực, các Ban và của đại biểu HĐND tỉnh

ít có giá trị pháp lý bảo đảm thực hiện.

+ Các biện pháp pháp lý của HĐND tỉnh ít được thực hiện trên thực tế.

Thứ hai: Nguyên nhân từ năng lực, nhận thức và trách nhiệm thực hiện chức năng

giám sát của đại biểu HĐND

- Cơ quan thường trực của HĐND tỉnh chưa đủ lực do thiếu đại biểu chuyên

trách.

- Cơ cấu thành viên các ban HĐND đã có đổi mới cũng vẫn còn điểm chưa

hợp lý ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả của hoạt động thẩm tra.

- Về đại biểu HĐND tỉnh, việc chọn đại biểu của HĐND tỉnh còn chạy theo

cơ cấu nên trình độ, năng lực lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng không đồng

đều.

Nguyên nhân dẫn đến tính hình thức trong hoạt động giám sát của HĐNDcấp

tỉnh đó là trong hệ thống chính trị nước ta nhận thức về vị trí, vai trò của HĐND chưa

thật sự thống nhất (có quan niệm đề cao, có quan niệm hạ thấp), và dù có quan niệm

đề cao thì hiện nay vẫn chưa có cơ chế tốt nhất để thực hiện; chưa có sự phân quyền

thực sự đối với các cấp chính quyền.

65

Tiểu kết chương 2

Ở chương 2, luận văn đã nêu lên thực trạng hoạt động giám sát của HĐND

tỉnh Savannakhet, trong đó có quá trình hình thành của HĐND tỉnh; vị trí, nhiệm

vụ và cơ cấu của HĐND tỉnh Savannakhet CHDCND Lào.

HĐND tỉnh Savannakhet là cầu nối giữa chính quyền Trung ương và cấp

trên với chính quyền tỉnh và các huyện trên địa bàn tỉnh, vừa bảo đảm sự tập trung

thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa đảm

bảo phát huy được nội lực của tỉnh. HĐND tỉnh Savannakhet có 3 ban chính là:

Ban Pháp chế - An ninh và Quốc phòng có 13 thành viên; Ban Kinh tế - Kế hoạch

và Tài chính07 thành viên;Ban Văn hóa - Xã hội và Dân tộc có 13 thành viên,

ngoài ra còn có Ban thư ký

Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet

thông qua kỳ họp gồm có thực trạng về hoạt động xem xét báo cáo, hoạt động chất

vấn hoạt động giám sát thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ

chức vụ do HĐND bầu. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh

Savannakhet ngoài kỳ họp có Hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh Savannakhet;

xem xét giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của công dân ; xem xét văn bản quy phạm

pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp; xem xét

hoạt động giám sát của các ban HĐND và hoạt động giám sát của các đại biểu

HĐND cấp tỉnh

Trong thời gian trước đây, hoạt động giám sát còn nhiều hạn chế và mang

tính hình thức, Thường trực HĐND cấp tỉnh chủ yếu làm nhiệm vụ tiếp nhận xong

và chuyển đến các cơ quan hữu quan có trách nhiệm giải quyết. Những năm gần đây

HĐND cấp tỉnh đã có bước cải tiến, đưa công tác này vào nề nếp. Thường trực

HĐND đã xây dựng quy chế tiếp công dân theo quy định của pháp luật, bố trí cán

bộ tiếp nhận và xử lý kịp thời đơn thư của công dân.

Đa số đại biểu HĐND tỉnh đã tham dự đầy đủ các kỳ họp của HĐND tỉnh,

đã tập trung nghiên cứu các báo cáo, đề án, tờ trình, dự thảo nghị quyết và báo cáo

thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh để có những thông tin cần thiết để tham gia thảo

luận và biểu quyết.Việc xây dựng kế hoạch giám sát. Hoạt động xây dựng kế hoạch

66

còn chậm, nội dung giám sát một số cuộc có khi còn quá vĩ mô hoặc quá cụ thể,

chưa bám sát tình hình thực tế hoàn cảnh của địa phương, tính thời sự chưa

cao.Công tác phối hợp giữa Thường trực HĐND tỉnh với các BanHĐND và chính

giữa các Ban của HĐND với nhau trong hoạt động giám sát nhất là trong công tác

thẩm tra những nội dung có liên quan đến phạm vi theo dõi của nhiều Ban còn chưa

chặt chẽ và thường xuyên.

Ngoài ra, luận văn còn chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế

trong đó có các quy định của pháp luật - căn cứ pháp lý cho hoạt động giám sát và

nguyên nhân từ năng lực, nhận thức và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát

của đại biểu HĐND. Từ đó có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt

động giám sát của HĐND tỉnh Savannakhet sẽ được đề cập đến ở chương 3.

67

Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

TỈNH SAVANNAKHET CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động giám

sát của HĐND cấp tỉnh

Hệ thống pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động giám sát của HĐND

cấp tỉnh được hoàn thiện sẽ xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của HĐND cấp

tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Savannakhet nói riêng

Muốn đảm bảo chức năng giám sát của HĐND tỉnh Savannakhet thực hiện có hiệu

quả thì những quy định pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND phải được hoàn

thiện đầu tiên. Bởi lẽ nếu không có quy định cụ thể về quyền giám sát của HĐND,

thì sẽ không có cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng. Mặc

dù hiện nay trong Luật Tổ chức HĐND và Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã

có một chương trình quy định về chức năng giám sát của HĐND các cấp, song vẫn

còn rất chung, so với yêu cầu thực tiễn, chưa đủ cơ sở pháp lý để HĐND thực hiện

tốt chức năng của mình.

Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện cơ chế giám sát ở CHDCND Lào hiện nay,

từ nhận thức giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND với một phạm vi

đối tượng giám sát khá phong phú và phức tạp, chúng ta cần phải cụ thể hóa và áp

dụng có hiệu quả Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND.

- Trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật Tổ

chứcHĐND đã quy định một cách rõ ràng, đầy đủ về khái niệm giám sát của

HĐND. Nội hàm của khái niệm được thể hiện ở chủ thể giám sát, đối tượng chịu

giám sát, nội dung và phạm vi hoạt động giám sát của HĐND. Nói chung về nội

dung Luật giám sát của HĐND đã khá hoàn thiện ở một số vấn đề sau như:chủ thể

- Về trách nhiệm của các thành phần trong đoàn giámsát:

giám sát, đối tượng chịu giám sát

Hiện nay thành phần của các đoàn giám sát thường bao gồm các đại biểu

HĐND do một cơ quan của HĐND chủ trì cử ra, sự tham gia đại diện các cơ quan

nhà nước hữu quan, như Mặt trận xây dựng đất nước tỉnh, các tổ chức thành viên

68

và một số cán bộ có chuyên môn. Từ đây, đặt ra vấn đề lý luận và thực tiễn phải

xác định rõ trách nhiệm giám sát của các chủ thể thực hiện quyền giám sát và mức

độ tham gia đến đâu của các tổ chức, cá nhân khác, để đảm bảo tính pháp lý của

hoạt động giám sát. Do vậy trong luật giám sát của HĐND cần phải bổ sung thêm

nội dung này.

- Về trách nhiệm pháp lý của các đơn vị liên quan khi không thực hiện các

kết luận giám sát cần phải có hướng dẫn cụ thể về nội dung, mức độ xử lý như thế

nào để làm căn cứ là hết sức cần thiết. Có như vậy mới nâng cao tinh thần trách

nhiệm của các đơn vị và đảm bảo uy tín cho HĐND.

Qua các vấn đề nêu trên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải chú

trọng yếu tố kỷ luật lập pháp đảm bảo tính cụ thể và mức độ khái quát hợp lý của

các quy phạm nhằm làm cho các quy định về giám sát của HĐND dễ hiểu, dễ áp

dụng, rõ ràng, minh bạch, không phải chờ đợi những văn bản có hiệu lực pháp lý

thấp hơn hướng dẫn giảithích.

3.2. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân nói chung và

hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát nói riêng

Nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng về vai trò, vị trí của HĐND, về tầm

quan trọng của hoạt động giám sát của HĐND tỉnh, trên cơ sở đó tăng cường, đổi

mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với tổ chức và hoạt động của

HĐND. Cấp ủy đảng lãnh đạo công tác hiệp thương, lựa chọn giới thiệu những đại

biểu đủ năng lực, trình độ để thực hiện nhiệm vụ đại biểu theo luật định, đặc

biệt chú trọng việc quy hoạch, đào tạo, bố trí đại biểu có năng lực đảm nhiệm các

chức danh trưởng, phó các ban HĐND tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.

Cấp ủy đảng, lãnh đạo HĐND tỉnh thông qua việc định hướng nội dung hoạt

động trong từng thời gian cụ thể, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá

việc thực hiện của HĐND tỉnh, nhất là việc cụ thể hóa các chủ trương của cấp ủy

thành nghị quyết của HĐND cùng cấp; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm

túc các kiến nghị sau giám sát của HĐND; sử dụng kết quả giám sát của HĐND để

lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội và thực hiệncông tác cán bộ tại địa

phương.

69

Thực tiễn hoạt động của HĐND ở CHDCND Lào đã chỉ ra rằng, một trong

những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại, khuyết điểm trong tổ chức và

hoạt động của HĐND là do nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của của

HĐND các cấp, các ngành. Vì vậy, để xây dựng HĐND có được thực quyền như đã

quy định, trước hết phải nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của HĐND với chức năng

là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Đây là vấn đề đặt ra không chỉ với

HĐND và mỗi đại biểu, mà còn là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức

kinh tế và tổ chức xã hội.

Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống

chính trị phải nhận thức sâu sắc vai trò của HĐND là tổ chức quyền lực thực sự của

nhân dân địa phương dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó nâng cao nhận thức trong

việc xây dựng cơ chế thực hiện và đảm bảo quyền lực của nhân dân, đổi mới

phương thức lãnh đạo đối với HĐND các cấp.

Theo Hiến pháp 2003, bộ máy nhà nước HĐND của CHDCND Lào bao

gồm 4 cấp hành chính: ấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp bản. Trong đó cấ

tỉnh và HĐND tỉnh có một vị trí rất quan trọng, là cầu nối truyền tải chính sách từ

Trung ương xuống địa phương và ngược lại. Chính vì vậy, trong bất kỳ nhà nước

nào, cấp trực tiếp dưới cấp Trung ương cũng luôn được đề cao, coi trọng. HĐND

cấp tỉnh là cơ quan chịu trách nhiệm quyết định các vấn đề quan trọng ở địa

phương, trong đó có cả cấp tỉnh, huyện, bản. Để HĐND đưa ra được các quyết định

phù hợp với pháp luật, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của tình hình thực tế ở địa

phương thì một chức năng rất quan trọng của HĐND cần được chú trọng là chức

năng giám sát. Có giám sát tốt mới thúc đẩy, kiểm tra để nghị quyết của HĐND

được thực hiện tốt và thông qua giám sát có đề xuất kiến nghị HĐND ban hành nghị

quyết.

Giám sát của HĐND không chỉ giúp cho chức năng quyết định của HĐND

mà còn giúp cho các cơ quan hữu quan, cơ quan, tổ chức bị giám sát nhận thấy vấn

đề còn tồn tại, cần khắc phục để hoàn thành tốt công tác của mình, đồng thời phát

hiện những kinh nghiệm tốt, những hoạt động tốt để phát huy. Không nên coi giám

sát của giúp cho các cơ quan hữu quan là chỉ đi tìm cái sai c ủa các cơ quan, tổ

70

chức, cá nhân để đối tượng bị giám sát có tâm lý lo sợ, phòng và chống đối, không

có sự hợp tác. Nhìn nhận giám sát của HĐND phải với góc độ cái chung, cái được

của bộ máy, của địa phương và của chính bản thân cơ quan, tổ chức bị giám sát.

Cần đặc biệt coi trọng hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh, bởi đây là cấp

trung gian giữa Trung ương và địa phương, là cấp cao nhất ở địa phương. Hoạt

động giám sát của HĐND cấp tỉnh luôn được đánh giá có hiệu lực, hiệu quả hơn

hoạt động của HĐND cấp huyện và cấp bản. Vì vậy, có nhận thức đúng vị trí, vai

trò của HĐND cấp tỉnh trong bộ máy nhà nước cũng như chức năng giám sát của

HĐND mới có thể đưa ra các giải pháp giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động giám sát của HĐND cấp tỉnh cũng như tạo điều kiện để HĐND thực hiện

quyền giám sát của mình. Bản thân HĐND cũng phải thấy được tầm quan trọng của

hoạt động giám sát, từ đó thấy rõ trách nhiệm, tự đổi mới, tang cường hoạt động,

nâng cao hiệu lực giám sát của mình.

Để tăng cường nhận thức về HĐND, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh,

cần thực hiện một số biện pháp sau:

- Đảng có nghị quyết quán triệt tới Đảng viên các cấp, trong đó tập trung

vào cấp tỉnh về vị trí, vai trò của HĐND tỉnh và nhiệm vụ của Đảng viên nhằm nâng

cao về tổ chức và hoạt động giám sát của HĐND tỉnh. Không chỉ qua các nghị

quyết của Ban chấp hành Trung ương mà cần có thêm nghị quyết của Bộ Chính trị

và của cấp ủy Đảng các tỉnh và thủ đô Viêng Chăn..

- Chính phủ thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn hoạt động của HĐND cấp

tỉnh, có chỉ thị để các cơ quan hành chính thực hiện nghiêm túc yêu cầu cùa HĐND

trong công tác giám sát

- Thường xuyên tuyên truyền về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trên

các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương. Đây cũng là một hình thức quan

trọng để đại biểu HĐND thấy được vai trò quan trọng của mình cũng như người dân

nhận thức đúng đắn vị trí của HĐND cũng như hoạt động giám sát của HĐND.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục chỉ đạo đánh giá việc thực hiện công tác

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND các cấp nhằm đánh giá, chấn

chỉnh việc tổ chức thực hiện; tiếp tục nâng cao nhận thức của các tổ chức, cán bộ,

71

đảng viên và nhân dân ở địa phương về vị trí, vai trò của HĐND; nâng cao trách

nhiệm của đại biểu HĐND, nhất là Đảng viên là đại biểu trong thực hiện nghị quyết

của Tỉnh ủy và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người đại biểu của dân đã được

pháp luật quy định.

3.3. Hoàn thiện các hình thức giám sát để nâng cao chất lượng giám sát của

Hội đồng nhân dân

Thứ nhất, cần tiến hành đổi mới hoạt động giám sát của HĐND tỉnh.

Cải tiến công tác chuẩn bị nội dung kỳ họp, quy định rõ thời hạn các dự thảo

báo cáo, đề án, nghị quyết phải chuyển đến cho Thường trực HĐND; các ban

HĐND tiến hành thẩm tra các báo cáo với những phân tích, đánh giávà thể hiện

rõ chính kiến; những văn bản nào chậm, chưa được thẩm tra dứt khoát không trình

ra kỳ họp.

Nâng cao chất lượng thảo luận tại các phiên họp toàn thể. Tăng cường quyền

chất vấn của đại biểu, hạn chế những chất vấn mang tính kiến nghị, thông tin và sự

việc không rõ; những người bị chất vấn phải trả lời rõ ràng, cụ thể, có tính thuyết

phục, không vòng vo, né tránh.

Xác định đúng nội dung giám sát, chọn đúng việc, sử dụng các công cụ thích

hợp theo chức năng, vai trò củaHĐND; lựa chọn những vấn đề bức xúc mà đa số cử

tri quan tâm, cụ thể là những chương trình, dự án có ảnh hưởng đến quyền lợi của

nhân dân, các vấn đề liên quan đến cải cách thủ tục hành chính, việc nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Cần chuẩn bị kỹ thành phần đoàn

giám sát, thời điểm tiến hành giám sát...;dành thời gian để trực tiếp nghe ý kiến cử

tri phản ánh về những lĩnh vực đang tiến hành giám sát. Quan trọng là huy động

được tất cả đại biểu tham gia hoạt động giám sát, khắc phục tình trạng phó thác

nhiệm vụ giám sát cho một vài đại biểu được coi là “có kiến thức chuyên môn”

trong một lĩnh vực cụ thể.

Thứ hai; tăng cường phối hợp giữa hoạt động giám sát của HĐND tỉnh với

giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Yêu nước và một số cơ

quan liên quan; phối hợp giữa Thường trực với các ban HĐND và giữa các ban

72

HĐND với nhau trong quá trình thực hiện các hoạt động giám sát theo chuyên

đề nhằm đạt kết quả toàn diện.

Để giám sát được hoạt động của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp

luật, HĐND tỉnh sử dụng các biện pháp mà pháp luật quy định như xem xét báo

cáo, chất vấn, kiểm tra thực tế, giám sát qua giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo,

thành lập Đoàn giám sát.Đây là những hình thức giữ vị trí cực kỳ quan trọng trong

toàn bộ hoạt động giám sát của HĐND. Hiệu quả giám sát của HĐND phụ thuộc rất

nhiều vào các hình thức giám sát này.

Thứ ba, hoàn thiện hình thức xem xét, thẩm tra báo cáo ,Nâng cao chất lượng xem

báo cáo

Xem xét báo cáo là hoạt động giám sát quan trọng. Đây là hình thức HĐND

xem xét tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc đánh giá các

báo cáo đó. Nên trong luật cần quy định cụ thể về chế độ báo cáo, hình thức báo

cáo, đặc biệt phải quy định trách nhiệm nếu báo cáo không phản ánh đúng thực

trạng hoạt động của các cơ quan, đơn vị đưa nhiều thông tin sai lệch hoặc thiếu

thông tin. Về phía các cơ quan lập báo cáo yêu cầu thông tin trong báo cáo phải đầy

đủ, khách quan phản ánh đúng thực trạng hoạt động cũng như những vấn đề trọng

tâm cần tập trung giải quyết. Đồng thời phải nêu những kết quả đạt được, những

khó khăn yếu kém tồn tại, từ đó đề ra các biện pháp giải quyết và kiến nghị đề xuất

việc giải quyết đó Khi báo cáo và báo cáo thẩm tra được trình ra HĐND, đại biểu

HĐND cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp ý kiến xác đáng và có thể nêu vấn đề

chất vấn để các cơ quan báo cáo giải trình trước HĐND. Việc thảo luận và thông

qua báo cáo tại kỳ họp của HĐND phải thể hiện trình độ độc lập của HĐND bằng

cách ra nghị quyết riêng về vấn đề đó. Các báo cáo phải được gửi trước tới đại biểu

HĐND theo quy định của pháp luật và phải được đăng tải trên các phương tiện

thông tin đại chúng trước kỳ họp, để đảm báo tính công khai, khách quan. Có như

vậy, kết luận bằng nghị quyết của HĐND mới thực sự là kết quả của việc sử dụng

hình thức xem xét báo cáo một cách có chất lượng. Việc xem xét các báo cáo tại kỳ

họp là khâu quyết định quá trình hiện thực hóa các quan điểm, quyết sách chính trị

của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước thành ý chí của nhân dân thông qua

73

hoạt động kỳ họp HĐND. Điểm mấu chốt quan trọng của việc xem xét các báo cáo

của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp và báo cáo của Chánh án TAND, Viện

trưởng VKSND tỉnh, các đề án về chính sách địa phương, nhất thiết phải thực hiện

đúng quy trình, phải xem xét, thông qua từng văn bản một với một thời gian hợp lý,

cần thiết và điều hành khoa học, không bị ràng buộc bởi thời gian mà bỏ qua quy

trình này. Để giảm tải thời gian cho kỳ họp, cần bổ sung quy chế làm việc quy định

rõ trách nhiệm của đại biểu, Tổ đại biểu trong việc nghiên cứu trước các tài liệu,

chuẩn bị ý kiến thảo luận, chất vấn của đại biểu HĐND, các Tổ đại biểu trước khi

đến kỳ họp. Tại kỳ họp, TTHĐND tỉnh nên dành thời gian thỏa đáng cho việc thảo

luận và gợi ý, xin ý kiến đại biểu về các dự thảo nghị quyết, không vì ảnh hưởng

thời gian mà thảo luận chung chung, thiếu hơi thở cuộc sống trong nghị quyết.

Xem xét, thẩm tra báo cáo là việc HĐND cấp tỉnh nhận xét, đánh giá kết quả hoạt

động của cơ quan nhà nước trên cơ sở báo cáo bằng văn bản của các cơ quan đó gửi

tới HĐND. Đây là một hình thức cung cấp thông tin giúp HĐND cấp tỉnh nắm được

chính xác, đầy đủ và kịp thời về tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước

trong phạm vi giám sát của HĐND cấp tỉnh. Hoàn thiện hình thức thẩm tra, xem xét

báo cáo cần được thể hiện trong việc phân tích, tổng hợp thông tin, xây dựng báo

cáo thẩm tra trình kỳ họp HĐND. Cần chắt lọc lựa chọn thông tin phù hợp để xây

dựng báo cáo, để tránh dàn trải. Từ thực tế ở cơ sở vói những thông tin hai chiều,

báo cáo thẩm tra cần thể hiện rõ quan điểm, về những vấn đề nhất trí và không nhất

trí, khắc phục tình trạng chép lại những số liệu, đánh giá của cơ quan trình báo cáo;

điều rất cần trong báo cáo thẩm tra là phải lựa chọn được những vấn đề tiêu biểu,

nổi cộm, đi sâu phân tích, đánh giá tìm nguyên nhân và đề xuất được giải pháp để

giải quyết. Quá trình xây dựng báo cáo thẩm tra cần thể hiện rõ sự tôn trọng hiện

thực khách quan, thể hiện rõ bản lĩnh khách quan, không né tránh, dám đưa vào báo

cáo những vấn đề gai góc, những vấn đề bức xúc đã được xác minh qua hoạt động

giám sát.

Thứ tư, hoàn thiện hình thức chất vấn.

Chất vấn là một hình thức giám sát quan trọng của HĐND, là hình thức biểu hiện

của quyền lực nhà nước. Thông qua hoạt động chất vấn, cơ quan dân cử thực hiện

74

sự kiểm tra, giám sát đối với cá nhân hoặc cơ quan nhà nước. Về hình thức hoạt

động chất vấn có thể hiểu đơn giản là hỏi và trả lời. Về bản chất là sự truy cứu trách

nhiệm pháp lý đối với người bị chất vấn. Tuy nhiên, hiện nay phiên chất vấn chưa

đạt được điều đó. Các câu hỏi chất vấn ít, kém chất lượng, mang tính hỏi để biết.

Cần phải có nhiều câu hỏi có chất lượng; cần thực hiện đầy đủ các hình thức tổ chức

cho đại biểu tiếp xúa cử tri theo quy định của luậ, theo chuyên đề… để đại biểu có

nhiều thời gian nắm bắt thông tin, nắm được tâm tư nguyện vọng của cử tri và đưa

ra câu hỏi chính xác. HĐND cũng cần bố trí cho đại biểu tham gia các Đoàn giám

sát của các Ban và Thường trực HĐND để đại biểu có điều kiện nắm rõ tình hình

của địa phương thông qua hoạt động giám sát.

3.4. Nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công chức của Hội đồng nhân dân

tỉnh

Nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy giúp việc cho Hội đồng nhân dân

Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh là cơ quan trực tiếp tham mưu và tổ chức

phục vụ hoạt động cho TTHĐND, các ban của HĐND và các đại biểu Hội đồng

nhân dân tỉnh. Cần phải nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy tổ chức các

phòng, Ban. Cụ thể: thường xuyên kiện toàn bộ máy tổ chức theo hướng tinh gọn,

hiệu lực, hiệu quả; trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ công chức ngày

càng được nâng cao; có nhiều chính sách để thu hút người tài; có kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng hàng năm; tạo mọi điều kiện tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị....để cán

bộ công chức làm việc; quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của cán

bộ công chức để họ yên tâm làm việc và cống hiến lâu dài cho sự phát triển của tổ

chức. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của các phòng Ban này có ảnh hưởng rất

lớn đến năng lực, hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh. Vì vậy, những chuyên viên

giúp việc cho HĐND tỉnh phải có chuyên môn sâu. Đặc biệt cần có đủ độ nhạy bén

về chính trị, kịp thời phát hiện, đề xuất lựa chọn những vấn đề phù hợp tham mưu

cho HĐND thực hiện chức năng giám sát. Về lý luận cũng như yêu cầu thực tiễn đặt

ra, các chuyên viên của HĐND phải có năng lực, trình độ không những chỉ tham

mưu cho HĐND nên giám sát những vấn đề gì, giám sát như thế nào, chứ không

phải chỉ là một cán bộ đơn thuần làm theo sự chỉ đạo của cấp trên như hiện nay.

75

Công tác tham mưu, tổng hợp: cần nâng cao chất lượng và trình độ chuyên môn của

cán bộ, chuyên viên Văn phòng, có kiến thức chuyên sâu về từng lĩnh vực, giỏi một

việc, biết nhiều việc; nắm vững các quy định của pháp luật về chức năng, thẩm

quyền của HĐND cấp tỉnh, đồng thời có khả năng tổng hợp thông tin tốt. Cần xây

dựng quy trình tham mưu, phục vụ cho từng công việc như quy trình tiếp xúc cử tri,

quy trình giám sát; Quy trình tổ chức phục vụ kỳ họp…để đảm bảo những nguyên

tắc, trình tự, thủ tục, đồng thời thống nhất trong công tác tham mưu, tổng hợp, giúp

lãnh đạo HĐND tỉnh trong công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của HĐND tỉnh.

Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động văn phòng giúp cho công

tác tổng hợp, cập nhật thường xuyên và hiệu quả. Ngoài ra, để đáp ứng được yêu

cầu trên, chúng ta phải có chính sách, chế độ phù hợp thu hút các cán bộ, công chức

giỏi của mọi lĩnh vực về giúp việc cho HĐND, có kế hoạch củng cố bộ phận trực

tiếp giúp việc cho các ban của HĐND. Trước hết yêu cầu chuyên viên giúp việc cho

các ban phải có chuyên môn về lĩnh vực ban đó phụ trách; đồng thời phải có một tỷ

lệ thích hợp số chuyên viên chuyên trách là người đã làm việc ở các lĩnh vực đó

trong thực tế. Trong điều kiện hiện nay, khi số đại biểu HĐND là thành viên các

Ban làm việc chuyên trách ít, thì đội ngũ cán bộ, chuyên viên của Văn phòng giúp

việc các Ban là rất quan trọng, góp phần đảm bảo hiệu quả hoạt động của Ban. Do

đó cần lựa chọn, bố trí chuyên viên đủ năng lực của Văn phòng tham mưu, giúp

việc chuyên trách cho các Ban (nên mỗi ban từ 3 đến 5 chuyên viên). Cần phân

công rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, đảm bảo mỗi công việc cụ thể của Ban đều

có chuyên viên phụ trách, theo dõi thực hiện. Cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao

trình độ chuyên môn, năng lực tham mưu của đội ngũ cán bộ, chuyên viên, động

viên, khen thưởng kịp thời.

Đối với cán bộ vừa tuyển dụng cần có kế hoạch đưa đi thực tế ở cơ sở, đồng

thời nên bố trí họ tham gia các buổi hội thảo, hội nghị nhằm bồi dưỡng kiến thức,

kinh nghiệm chuyên môn giám sát. Có như vậy bộ phận giúp việc của HĐND tỉnh

mới đủ khả năng phục vụ HĐND thực hiện tốt chức năng giám sát.

Ngoài ra, cần đáp ứng đầy đủ trang thiết bị thiết bị làm việc, phương tiện

phục vụ hoạt động của các Ban. Có quy định cụ thể về kinh phí cho hoạt động

76

chuyên môn của Ban như kinh phí nghiên cứu phục vụ công tác thẩm tra, giám sát,

thuê chuyên gia tham gia các hoạt động của Ban để nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động HĐND,

Thường trực, các Ban, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND.

Đồng bộ trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức. Đồng thời, động viên, khuyến khích đội ngũ công chức giữ ngạch cán sự và

tương đương và những công chức có trình độ cao đẳng, trung cấp học tập, bồi

dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công tác.

Để đạt mục tiêu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của

HĐND tỉnh có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính

trị, có năng lực chuyên môn, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân,

đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ đáp ứng sự nghiệp phát triển của tỉnh và

đất nước. Tập trung thực hiện nhiệm vụ đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất

lượng đội ngũ; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ; đổi

mới công tác tuyển dụng công chức, viên chức; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Đặc biệt phải xác định công tác đánh giá, nhận

xét cán bộ, công chức, viên chức là vấn đề quan trọng, đánh giá đúng sẽ sử dụng

đúng cán bộ. Các cơ quan, đơn vị phải lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao

làm thước đo chính để đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ, công chức, viên

chức; khắc phục tình trạng đánh giá cán bộ, công chức, viên chức một cách chung

chung, cảm tính, chủ quan, lẫn lộn giữa điều kiện với tiêu chuẩn, coi bằng cấp, học

vị cao hơn phẩm chất, năng lực. Xây dựng quy chế buộc thôi việc, bãi miễn đối với

cán bộ, công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy

tín với nhân dân. Tổ chức tốt việc lấy phiếu tín nhiệm giữa nhiệm kỳ theo quy định

của Bộ Chính trị. Những cán bộ đạt phiếu tín nhiệm thấp có thể xem xét điều động

sang vị trí công tác khác. Đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,

tổ chức, đơn vị trong việc phân loại đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, hàng

năm theo nguyên tắc: Cấp trên đánh giá cấp dưới, người đứng đầu đánh giá những

người thuộc quyền quản lý, cấp trên thực tiếp đánh giá người đứng đầu.

77

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 10-NQ/TW (khóa IX) trong

những năm tới, Văn phòng sẽ triển khai, cụ thể hóa đồng bộ hệ thống các quan

điểm, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết vào nhiệm vụ công tác hàng năm,

trong đó tập trung vào việc: Tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ nhân viên; quan tâm, tạo điều kiện

cho cán bộ nhân viên được học tập nâng cao trình độ, tham gia các khóa bồi dưỡng,

nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng; thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với

người lao động; phối hợp với tổ chức Công đoàn chăm lo nâng cao đời sống văn

hóa tinh thần cho cán bộ nhân viên.

Để nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp của các

phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

trong thời gian tới cần hướng vào một số vấn đề trọng tâm sau đây:

Thứ nhất: Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ công chức

của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động

đào tạo, bồi dưỡng. Từ việc nhận thức đúng đắn sẽ là cơ sở xây dựng chương trình,

kế hoạch cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng tại địa phương.

Có thể nói, ý thức của công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân

tỉnh, của các nhà quản lý trong việc học tập, cập nhật kiến thức, nâng cao kỹ năng

phục vụ trong công việc đang là yếu tố cản trở rất lớn đối với quá trình đào tạo, bồi

dưỡng hiện nay. Nhận thức của một số cán bộ, công chức hiện nay đang tồn tại

những cách nhìn không đúng về việc tham gia các khóa về đào tạo, bồi dưỡng,

chẳng hạn như xem đó chỉ là hoạt động bắt buộc theo quy định của nhà nước hay tư

tưởng học vì bằng cấp, chức vụ chứ không phải vì chính nhu cầu công việc của cán

bộ, công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh.

Do đó, cần nhận thức đúng về vai trò quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng.

vì tự thân nhà quản lý, đội ngũ cán bộ, công chức hiểu và làm sẽ tác dụng hơn là bị

ép buộc từ các quy định của nhà nước hay các yếu tố khác tác động từ bên ngoài

khác. Nhận thức đúng đắn và có động lực từ bên trong sẽ thúc đẩy cán bộ, công

chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh nỗ lực học tập, phấn đấu trước hết

78

vì bản thân mình, từ đó góp phần vào việc thực hiện tốt hơn công việc và nhiệm vụ

được giao.

Thứ hai: Rà soát lại tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức của các phòng ban Hội

đồng nhân dân tỉnh về số lượng, chất lượng theo từng nhóm chức danh, gắn với vị

trí công việc hiện tại của họ để xác định rõ những mặt hạn chế và yếu kém. Cần dựa

vào các tiêu chí nói trên để đào tạo, bồi dưỡng nhằm chuẩn hóa sử dụng lâu dài, hay

bổ sung, thay thế; chú trọng đến cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số, cán bộ,

công chức là nữ.

Trên cơ sở đó, cần tập trung hoàn thành mục tiêu nâng số lượng 80% cán bộ

chuyên trách và 90% công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh trên địa

bàn tỉnh đạt trình độ cao đẳng; Phấn đấu có 75% cán bộ chuyên trách đạt chuẩn

trung cấp lý luận chính trị và 60% công chức của các phòng ban Hội đồng nhân

dân tỉnh đạt sơ cấp chính trị trở lên.

Thứ ba: Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các phòng ban Hội

đồng nhân dân tỉnh là nhằm trang bị, củng cố và nâng cao kiến thức, năng lực thực

tiễn, điều hành và thực thi công vụ. Do đó, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phải kết

hợp trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng và nghiệp vụ tại cơ sở. Tập trung đào

tạo, bồi dưỡng kỹ năng công tác, ưu tiên các kỹ năng cán bộ, công chức còn yếu

như giao tiếp, tiếp dân, tham mưu, đề xuất giải quyết công việc, soạn thảo văn bản,

hòa giải.

Thứ tư: Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của địa phương cần gắn liền với xem xét

phân loại nhu cầu đào tạo của cán bộ, công chức của các phòng ban Hội đồng nhân

dân tỉnh. Xem xét nhu cầu nào là quan trọng, là cần thiết và trước mắt, nhu cầu nào

cần đào tạo ngay, nhu cầu nào có thể lùi lại. Đồng thời, cần có cơ chế đặc biệt tiếp

tục khuyến khích cán bộ, công chức không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng. Có thể

học dưới nhiều hình thức khác nhau như: Học tập trung, học ngoài giờ; học tại

chức, từ xa, liên thông…Đây là biện pháp giải quyết nhu cầu đào tạo đỡ tốn chi phí

nhất.

Thứ năm: Chú trọng đặc biệt vào chương trình và khâu biên soạn tài liệu đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh.

79

Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần được đổi mới theo hướng thiết thực,

sát với đối tượng và mục tiêu đào tạo. Hướng tới sửa đổi, bổ sung vào các chương

trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phù hợp theo từng chức danh, vị trí việc

làm.

Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần xác định đến tính đặc thù của của cán

bộ, công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh để có kiến thức bổ trợ, tài

liệu cần được xây dựng phù hợp, gắn lý luận với thực tiễn, chú ý rèn luyện những

kỹ năng cần thiết nhất phục vụ cho công việc của cán bộ, công chức.

Thứ sáu: Cần đánh giá tổng quát khách quan và minh bạch chất lượng cán bộ,

công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh sau đào tạo, bồi dưỡng đồng

thời nâng cao hiệu quả quản lý cán bộ, công chức chính sau đào tạo, bồi dưỡng từ

đó có những điều chỉnh kịp thời với hoạt động này tại địa phương.

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết IX (khóa X) trong những năm

tới, HĐND tỉnh để triển khai, cụ thể hóa đồng bộ hệ thống các quan điểm, nhiệm vụ

và giải pháp để đưa Nghị quyết vào nhiệm vụ công tác hàng năm, trong đó tập trung

vào việc: Tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước tới toàn thể cán bộ, công chức của HĐND tỉnh; quan tâm, tạo điều

kiện cho cán bộ, công chức được học tập nâng cao trình độ, tham gia các khóa bồi

dưỡng, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng; thực hiện tốt các chế độ, chính sách

đối với cán bộ, công chức; phối hợp với tổ chức Công đoàn chăm lo nâng cao đời

sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, công chức.

3.5. Nâng cao chất lượng tiếp công dân và xử lý, đôn đốc việc giải quyết đơn

thư khiếu nại, tố cáo

Hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của HĐND và đại

biểu HĐND đóng vai trò rất quan trọng trong việc gắn chặt mối quan hệ giữa nhân

dân với cơ quan Nhà nước nói chung và với HĐND, đại biểu HĐND nói riêng.

Thông qua việc tiếp công dân HĐND nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, những ý

kiến, kiến nghị của nhân dân, trên cơ sở đó HĐND xem xét, yêu cầu cơ quan có

thẩm quyền giải quyết và trả lời công dân. Làm tốt vấn đề này góp phần nâng cao

hiệu quả hoạt động của HĐND, đồng thời thể hiện rõ vai trò của HĐND là cơ quan

80

quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân

địa phương.

Việc tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo cũng như việc theo dõi, đôn

đốc việc giải quyết cần được Thường trực HĐND tỉnh thể chế hóa thành quy định

về Quy trình tiếp nhận, trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri và kiến nghị sau giám sát

của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, trong đó quy định cụ thể một số nội

dung quan trọng như thời hạn và trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân, cơ quan có

thẩm quyền trong việc trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri cũng như trách nhiệm

giám sát của Thường trực HĐND, các Ban HĐND, các đại biểu HĐND đối với việc

giải quyết các kiến nghị này…, từ đó rút ngắn thời gian giải quyết, đáp ứng ngày

càng tốt hơn yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của công dân.

Các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được chuyển đến Thường trực

HĐND và trực tiếp nhận từ công dân, Thường trực HĐND chỉ đạo Ban Pháp chế

HĐND tỉnh bố trí cán bộ, chuyên viên vào sổ theo dõi, phân loại, chuyển đến các cơ

quan có thẩm quyền và theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết đơn thư theo

đúng quy định. Đối với những vụ việc phức tạp, Thường trực HĐND tỉnh cử cán bộ

trực tiếp đến cơ sở để xác minh, làm rõ và thu thập thêm tài liệu, chứng cứ có nội

dung liên quan, để trên cơ sở đó kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân.

Công tác giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân là

vấn đề mà Thường trực HĐND, các Ban HĐND và các đại biểu HĐND luôn quan

tâm thực hiện tốt, có sự kết hợp giữa các hình thức giám sát.

Hàng năm, TTHĐND cần đưa nội dung giám sát việc thi hành pháp luật về

khiếu nại, tố cáo vào chương trình giám sát thường xuyên, đặc biệt chú trọng giám

sát trực tiếp một số vụ việc nổi cộm, tồn đọng, kéo dài thông qua đơn thư khiếu nại,

tố cáo của công dân. Nội dung các cuộc giám sát phải được chuẩn bị chu đáo từ

việc tham mưu xây dựng, ban hành kế hoạch giám sát, thu thập thông tin, tài liệu,

chuẩn bị hồ sơ vụ việc đầy đủ. Phương thức giám sát phải từng bước đổi mới để

chất lượng giám sát ngày càng được nâng lên và có hiệu quả; hoạt động giám sát

ngày càng đi vào thực chất, phản ánh đúng thực tiễn, chỉ ra những sai sót, hạn chế

81

của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, được các cơ quan tiếp

thu, khắc phục.

Ngoài ra, Thường trực HĐND tỉnh thực hiện việc giám sát thông qua xem

xét các báo cáo của UBND tỉnh trình tại kỳ họp HĐND:

- Các báo cáo kết quả công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại tố

cáo là báo cáo định kỳ tại các kỳ họp HĐND tỉnh, được Ban của HĐND tỉnh thẩm tra

trước khi trình HĐND.

- Tại các kỳ họp HĐND, Thường trực HĐND có báo cáo kết quả giám sát

việc giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri tại kỳ họp trước; nhưng nhiệm kỳ tới,

Thường trực HĐND tỉnh nên yêu cầu UBND tỉnh báo cáo tổng hợp kết quả giải

quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri tại kỳ họp trước và phân công Ban của HĐND

tỉnh thẩm tra; đồng thời phân công các ngành, các địa phương trả lời các ý kiến,

kiến nghị của cử tri thông qua các buổi tiếp xúc cử tri ngay trong các phiên họp.

Trong các kỳ họp của HĐND tỉnh, phiên chất vấn và trả lời chất vấn được

Thường trực HĐND tỉnh nên thiết lập đường dây nóng, cử cán bộ theo dõi, tiếp

nhận để chuyển trực tiếp ý kiến kiến nghị, phản ánh của cử tri với chủ tọa kỳ họp.

Chủ tọa kỳ họp sẽ xem xét, phân loại các ý kiến và giao trực tiếp cho các cơ quan,

địa phương có thẩm quyền trả lời ngay tại phiên họp hoặc trả lời bằng văn bản. Việc

trả lời ý kiến, kiến nghị qua đường dây nóng và ý kiến các đại biểu trong phiên chất

vấn tại kỳ họp HĐND tỉnh sẽ thu hút sự quan tâm của đông đảo cử tri trong tỉnh,

mang lại những kết quả thiết thực, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cấp chính

quyền từ tỉnh đến cơ sở.

- Cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực giải quyết

khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, xác định

rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; quyền và trách

nhiệm của Thường trực HĐND, các Ban HĐND trong công tác tiếp công dân, đôn

đốc, kiểm tra, xem xét, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Có

chính sách động viên khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích tốt

trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại,

82

tố cáo của công dân; kiên quyết xử lý những cán bộ công chức có hành vi né tránh,

đùn đẩy trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.

- Tăng cường công tác tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng, kinh

nghiệm về công tác tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và giám sát việc giải quyết khiếu nại,

tố cáo của công dân cho đại biểu HĐND và cán bộ công chức trực tiếp làm công tác

tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của cơ quan HĐND tỉnh.

Hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của HĐND và đại

biểu HĐND được quy định tại các văn bản pháp luật, trong đó đã quy định cụ thể

nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND

trong việc tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của HĐND và đại biểu

HĐND trong đó đã đề cao vai trò của Thường trực HĐND, đại biểu HĐND tỉnh từ

khâu tiếp công dân, đến tiếp nhận đơn, xử lý, chuyển đơn, đôn đốc, giám sát việc

giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến HĐND tỉnh.

Trên cơ sở quy định của pháp luật, để hoạt động tiếp công dân ngày càng đi

vào nền nếp, mang lại hiệu quả thiết thực, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Thường trực

HĐND tỉnh phải kịp thời phối hợp với Đoàn ĐBQH tỉnh, UBND tỉnh, Ủy ban Mặt

trận xây dựng đất nước tỉnh ban hành Quy chế phối hợp trong hoạt động của HĐND

tỉnh, trong đó có nội dung phối hợp trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư

khiếu nại, tố cáo của HĐND và đại biểu HĐND tỉnh; Thường trực HĐND tỉnh đã

chỉ đạo Văn phòng HĐND tỉnh tham mưu, giúp Thường trực HĐND tỉnh tiếp công

dân tại Trụ sở tiếp công dân của tỉnh; tiếp nhận, xử lý kiến nghị, đơn thư khiếu nại,

tố cáo của công dân gửi đến HĐND tỉnh; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo và kiến nghị của công dân gửi đến HĐND tỉnh. Cụ thể:

- Thường trực HĐND tỉnh không tổ chức tiếp công dân riêng, mà nên phối hợp với

lãnh đạo UBND tỉnh và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tổ chức tiếp công dân tại Trụ

sở tiếp công dân của tỉnh. Sau buổi tiếp công dân UBND tỉnh đều có văn bản thông

báo tới Thường trực HĐND tỉnh về kết quả tiếp công dân, nội dung khiếu nại, tố

cáo của công dân và giao trách nhiệm cho các cơ quan chức năng xem xét giải

quyết.Một số đại biểu HĐND tỉnh có thể tiếp công dân tại cơ quan, đơn vị công tác.

83

- Thường trực HĐND tỉnh phải thường xuyên chỉ đạo công tác tiếp nhận, phân loại,

chuyển đơn, theo dõi, đôn đốc các cơ quan, tổ chức giải quyết và trả lời công

dân. Giữa hai kỳ họp, Ban Pháp chế HĐND tỉnh thành lập đoàn giám sát chuyên đề

về khiếu nại tố cáo đối với những nơi nảy sinh các vấn đề bức xúc về khiếu nại tố

cáo. Qua giám sát chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, tồn tại và đưa

ra các kiến nghị, giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Sau giám sát đôn đốc các cơ quan chức năng thực hiện nghiêm chỉnh các kiến nghị

của đoàn giám sát.

Trước kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh chỉ đạo Ban Pháp chế - An ninh và

Quốc phòng HĐND tỉnh thẩm tra các báo cáo của UBND tỉnh, Viện kiểm sát nhân

dân, Toà án nhân dân cấp tỉnh về công tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo

của công dân. Tại kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh đã chọn các nội dung bức xúc

trình HĐND tỉnh xem xét và chất vấn những vấn đề bức xúc hoặc những vụ việc cụ

thể mà cử tri quan tâm.

3.6. Tăng cường quan hệ giữa Hội đồng nhân dân tỉnh với các cơ quan ban

ngành, đoàn thể ở địa phương

Tăng cường mối quan hệ giữa HĐND với UBND, Ủy ban Mặt trận Xây

dựng đất nước và các đoàn thể nhân dân cùng cấp; xây dựng và tổ chức triển khai

thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Thường trực HĐND, UBND, Đoàn đại

biểu Quốc hội và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Xây dựng đất nước tỉnh. Theo

đó, mỗi cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của mình, đồng thời thực hiện đầy đủ những nội dung phối hợp với các cơ

quan khác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp

công dân, chuẩn bị nội dung kỳ họp HĐND, giám sát, xây dựng pháp luật, xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân trên địa bàn tỉnh.

Tăng cường hơn nữa sự phối hợp hoạt động giám sát giữa Đoàn đại biểu

Quốc hội với HĐND và các cơ quan, đoàn thể ở địa phương. Tích cực tham gia các

Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các uỷ ban của Quốc hội đến giám

sát tại địa phương và việc tham gia hoạt động giám sát, trong việc tiếp xúc với cử tri

sẽ tạo điều kiện cho các đại biểu HDND để trao đổi thông tin về kiến thức pháp

84

luật, về tình hình chấp hành pháp luật nói chung, cũng như trao đổi về kinh nghiệm

trong hoạt động nhằm góp phần nâng cao chất lượng giám sát của HĐND. Thời

gian qua HĐND tỉnh Savannakhet đã chú ý đến vấn đề này, song cần phải tăng

cường hơn nữa. Cụ thể: Thứ nhất, tăng cường phối hợp với Mặt trận xây dựng đất

nước tỉnh và các tổ chức thành viên. Chẳng hạn như: mời Mặt trận xây dựng đất

nước tỉnh tham gia hoạt động giám sát cùng với các Ban để tăng thêm giá trị chức

năng tư vấn của các Ban đó. Từ đó nội dung giám sát có thể không phải đưa ra kỳ

họp HĐND nhưng vẫn được các cơ quan nghiêm chỉnh chấp hành. Thứ hai, tăng

cường phối hợp với các cơ quan ban ngành liên quan nhằm cung cấp thêm thông tin

cho giám sát. Ví dụ, Thường trực HĐND và các Ban của HĐND phải tham gia đầy

đủ các cuộc họp của UBND; yêu cầu các sở, ban, ngành nhất là cơ quan Tư pháp,

các cơ quan chuyên môn như sở Kế hoạch đầu tư, sở Tài chính, Ngân hàng nhà

nước, Kho bạc nhà nước... phải cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động hàng quý, hàng

tháng cho HĐND. Có như vậy, cùng với nguồn thông tin khác HĐND mới có đủ

căn cứ xác định các đối tượng và nội dung cần tập trung giám sát. Thứ ba, tăng

cường phối hợp với các đơn vị được giám sát để tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật

chất cũng như các nội dung, hiện trường phục vụ giám sát. Thứ tư, tăng cường phối

hợp với các chuyên gia về lĩnh vực được giám sát sẽ giúp cho HĐND nhìn nhận

đánh giá một cách khách quan chính xác các vấn đề giám sát. Thứ năm, tăng cường

phối hợp với các đoàn giám sát của Quốc hội. Khi có Đoàn đại biểu Quốc hội

xuống địa phương giám sát, Thường trực, các Ban của HĐND có thể kết hợp thực

hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, vừa tránh được chồng chéo, vừa tranh thủ được

trí tuệ của các đại biểu Quốc hội trong việc tháo gỡ những vướng mắc cho địa

phương, đồng thời giảm bớt việc gây phiền hà cho các đơn vị bị giám sát. Như vậy,

xuất phát từ chế độ làm việc, HĐND không thể sử dụng mệnh lệnh hành chính như

UBND hay các biện pháp cưỡng chế của ngành Tư pháp mà chỉ có thể đưa ra các

kiến nghị, đề xuất mang tính chất tư vấn.

Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh là một khâu quan trọng trong cơ chế

giám sát nhằm đảm bảo và tăng cường pháp chế giữ vững trật tự xã hội và pháp

luật của Nhà nước. Cơ chế đó bao gồm một hệ thống các yếu tố tác động qua lại

85

với nhau từ giám sát tối cao của Quốc hội, HĐND, giám sát của Mặt trận Tổ quốc

và các thành viên của nó, giám sát của nhân dân, đến hoạt động kiểm sát của Viện

kiểm sát, thanh tra của các cơ quan ban ngành. Mỗi chủ thể có một nhiệm vụ giám

sát khác nhau nhưng tất cả đều có chung mục đích bảo đảm tăng cường pháp chế,

giữ vững trật tự xã hội pháp luật nhà nước. Do vậy, HĐND huyện cần chú trọng

đến sự phối hợp với các chủ thể giám sát khác, với các cấp, các ngành cũng như

các chuyên gia để tránh sự chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác

giám sát.

Thời gian qua HĐND tỉnh Savannakhet đã chú ý đến vấn đề này, song

chúng ta cần phải tăng cường hơn nữa. Cụ thể:

Thứ nhất, tăng cường phối hợp với Mặt trận xây dựng đất nước huyện và

các tổ chức thành viên. Chẳng hạn như: mời Mặt trận xây dựng đất nước tham gia

hoạt động giám sát cùng với các ban để tăng thêm giá trị chức năng tư vấn của các

ban đó. Bởi vì khi thực hiện nhiệm vụ của mình các ban không có thẩm quyền độc

lập đưa ra các quyết định giám sát nên sự phối hợp tham gia của Mặt trận xây dựng

đất nước sẽ tăng thêm sức mạnh tư vấn trong các kết luận giám sát làm cho đối

tượng bị giám sát thấy rõ hơn hành vi của mình. Từ đó nội dung giám sát có thể

không phải đưa ra kỳ họp HĐND nhưng vẫn được các cơ quan nghiêm chỉnh chấp

hành.

Thứ hai, tăng cường phối hợp với các cơ quan ban ngành liên quan nhằm

cung cấp thêm thông tin cho giám sát. Chẳng hạn như TT HĐND phải tham gia

đầy đủ các cuộc họp của định kỳ của UBND; yêu cầu các phòng, ban, ngành nhất

là cơ quan Tư pháp, các cơ quan chuyên môn tổng hợp như kinh tế - hạ tầng, tài

chính, thuế, kho bạc... phải cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động hàng quý, hàng

tháng cho Hội đồng. Có như vậy, cùng với nguồn thông tin khác như do nhân dân

phản ánh, qua phương tiện thông tin đại chúng... HĐND mới có đủ căn cứ xác định

các đối tượng và nội dung cần tập trung giám sát.

Thứ ba, tăng cường phối hợp với các đơn vị được giám sát để tạo điều kiện

thuận lợi về cơ sở vật chất cũng như các nội dung, hiện trường phục vụ giám sát.

Khi báo cáo yêu cầu các đơn vị phải quán triệt quan điểm khách quan, trình bày

86

đúng thực trạng hoạt động của cơ quan đơn vị mình. Muốn làm tốt điều đó trước

hết phải thay đổi cách đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước theo hướng đi

nào thực chất hiệu quả của công việc, hạn chế bệnh hình thức đã tồn tại từ lâu. Mặt

khác trong quá trình phối hợp, HĐND phải chỉ rõ cho các đơn vị thấy rằng: giám

sát là để ngăn chặn tồn tại, giúp nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ, đó là động lực để

phát triển chứ không phải tìm tòi gây cản trở cho nhau.

Thứ tư, tăng cường phối hợp với các chuyên gia về lĩnh vực được giám sát

sẽ giúp cho HĐND nhìn nhận đánh giá một cách khách quan, chính xác các vấn đề

giám sát.

Thứ năm, tăng cường phối hợp với các đoàn giám sát của Quốc hội. Khi có

đoàn giám sát của Quốc hội xuống địa phương giám sát, Thường trực và các Ban

của HĐND tỉnh có thể kết hợp thực hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, vừa tránh

được chồng chéo, vừa tranh thủ được trí tuệ của các đại biểu tỉnh trong việc tháo

gỡ vướng mắc cho địa phương, đồng thời giảm bớt việc gây phiền hà cho các đơn

vị chịu giám sát.

Tóm lại, xuất phát từ chế độ làm việc HĐND, không thể sử dụng mệnh lệnh

hành chính như UBND hay các biện pháp cưỡng chế như ngành Tư pháp mà chỉ có

thể đưa ra các kiến nghị đề xuất mang tính chất vấn. Do vậy để nâng cao hiệu quả

giám sát thì giải pháp tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan ban

ngành và các tổ chức đoàn thể, trong hoạt động giám sát là việc làm hết sức cần

thiết.

Do vậy để nâng cao hiệu quả giám sát thì giải pháp tăng cường mối quan hệ

phối hợp với các cơ quan ban ngành và các tổ chức đoàn thể trong hoạt động giám

sát là việc làm hết sức cần thiết.

3.7. Bảo đảm điều kiện hoạt động giám sát của HĐND và các đại biểu HĐND

tỉnh

Tăng số lượng biên chế cho Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh đủ mạnh

và tạo điều kiện nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ, công chức trong việc thực

hiện nhiệm vụ tham mưu, phục vụ; đồng thời bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật

87

chất, trang thiết bị làm việc, kinh phí hoạt động, phương tiện đi lại phục vụ tốt các

hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát của HĐND tỉnh nói riêng.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hướng

dẫn hoạt động của HĐND; tổ chức các lớp bồi dưỡng, các hội thảo, hội nghị để

nâng cao kỹ năng, trao đổi kinh nghiệm hoạt động của đại biểu HĐND. Hội

đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tăng cường mối quan hệ phối hợp hoạt

động với HĐND tỉnh, nhất là trong lĩnh vực giám sát.

Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ sử dụng kinh phí của

HĐND các cấp phù hợp với hoạt động đặc thù của HĐND như tổ chức kỳ họp, hoạt

động giám sát và tiếp xúc cử tri; hướng dẫn thực hiện chế độ kiêm nhiệm đối với

các chức danh trong HĐND không phải là cấp trưởng ban, chế độ khen thưởng đối

với các tổ chức và đại biểu HĐND.

Ngoài ra, một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả giám sát chưa cao

là do thiếu điều kiện vật chất và phương tiện thông tin cho các đại biểu. Trong điều

kiện xã hội ngày nay, nhu cầu cung cấp thông tin là rất cần thiết. Hơn nữa các đại

biểu HĐND cấp tỉnh, các cơ quan của HĐND muốn thực hiện tốt chức năng của

mình thì nhu cầu được đảm bảo về thông tin là một yêu cầu lớn càng phải được hỗ

trợ một cách đầy đủ nhất. Thông tin cần phải được cập nhật sâu, rộng, trong mọi

lĩnh vực giám sát. Để làm tốt nội dung trên cần phải tăng cường công tác thông tin,

lưu trữ và công tác tư liệu, đảm bảo đầy đủ về nội dung thuộc mọi lĩnh vực giám sát

của HĐND. Đồng thời việc cung cấp thông tin phải phù hợp với kế hoạch giám sát,

tránh tình trạng gần đến khi HĐND cấp tỉnh họp hoặc trong kỳ họp mới gửi tài liệu

cho đại biểu, vì vậy không đủ thời gian để đại biểu nghiên cứu, phân tích tài liệu đối

chiếu thông tin một cách kỹ lưỡng. Để tăng nguồn thông tin trong thời gian chuẩn bị

và diễn ra kỳ họp HĐND các cấp nên thành lập một số đường dây điện thoại để tiếp

nhận thông tin do cử tri phản ánh. Với biện pháp này HĐND sẽ nắm được bức xúc

của cử tri, kịp thời giải quyết, tránh hiện tượng xảy ra điểm nóng làm ảnh hưởng

đến ổn định an ninh, chính trị của địa phương.

Nên ứng dụng khoa học, công nghệ cho HĐND như thành lập các trang

website của HĐND, tiếp tục biên tập phát hành bản tin của HĐND mỗi quý một

88

cuốn. Đó sẽ là địa chỉ tin cậy để các đại biểu HĐND, cử tri và mọi người dân

nghiên cứu tham gia trao đổi, góp ý kiến cho HĐND hoạt động hiệu quả hơn. Về

điều kiện vật chất, đặc biệt là ở vùng xa đi lại khó khăn, Nhà nước cần có chính

sách đảm bảo cho HĐND thực hiện tốt chức năng của mình. Cần quan tâm hơn nữa

đến chế độ đãi ngộ, khen thưởng, quan tâm đến chế độ tiền tàu xe đi lại, phụ cấp

sinh hoạt phí cho đại biểu một cách hợp lý. Cùng với hoàn thiện quy định pháp luật

liên quan đến các điều kiện bổ trợ cho hoạt động của đại biểu HĐND cần thực hiện

kịp thời, đầy đủ chế độ, chính sách cho các đại biểu. Ngoài chế độ sinh hoạt phí cần

cung cấp kinh phí cho các đại biểu phục vụ hoạt động thu thập thông tin, tham vấn ý

kiến của các chuyên gia; chí phí công tác phí trong thời gian làm nhiệm vụ của

HĐND. Trang bị hệ thống kỹ thuật để phục vụ các kỳ họp, thay thế hình thức biểu

quyết giơ tay truyền thống bằng hình thức biểu quyết bấm nút điện tử, bảo đảm cho

các đại biểu độc lập khi biểu quyết các vấn đề. Do phần lớn các đại biểu HĐND

hoạt động kiêm nhiệm nên không thể nắm bắt hết mọi lĩnh vực, mọi vấn đề. Do đó,

việc thiết lập một cơ quan tham mưu, phục vụ chuyên nghiệp cho hoạt động của

HĐND là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của

HĐND. Để đạt được điều này cần thiết sắp xếp, kiện toàn lại tổ chức cơ quan giúp

việc cho hoạt động của HĐND bảo đảm hoạt động tham mưu có chiều sâu và kịp

thời. Hiện nay các chuyên viên Văn phòng HĐND chủ yếu tự học hỏi, làm việc theo

kinh nghiệm. Do đó, để nâng cao chất lượng tham mưu cần có chương trình, kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ tham mưu, phục vụ cho hoạt động

của HĐND.

Tóm lại, các giải pháp nói trên đều rất cần thiết, mỗi giải pháp có một vai trò

riêng, khó có thể đánh giá giải pháp nào quan trọng nhất. Tuy nhiên, chúng chỉ đem

lại hiệu quả thiết thực nếu được tiến hành một cách đồng bộ, hợp lý và kiên quyết,

trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác

nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND hiện nay. Tuy nhiên, đối với tỉnh

Savannakhet nói riêng, giải pháp có tác động lớn nhất đó là nâng cao năng lực của

các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh, cụ thể là giải pháp nâng

cao năng lực của đại biểu HĐND, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của

89

thường trực HĐND, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của các Ban HĐND và

nâng cao chất lượng hoạt động cho tổ đại biểu và tổ chức giám sát của tổ đại biểu

HĐND tỉnh.

90

Tiểu kết chương 3

Nhà nước CHDCND Lào luôn quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt

động của HĐND các cấp nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng, trong đó có chức

năng giám sát. Hoạt động giám sát là một trong những chức năng quan trọng của

HĐND. Sự hình thành quyền giám sát của HĐND bắt nguồn từ sự vận dụng sáng

tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và

hoạt động của cơ quan chính quyền địa phương. Nhìn lại hoạt động giám sát của

HĐND các cấp nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng trong thời gian qua có thể

thấy, hoạt động giám sát của HĐND đã góp phần tích cực vào việc giải quyết các

kiến nghị của cử tri, các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; các vụ việc tiêu

cực, các vi phạm về quản lý trong các lĩnh vực khác nhau ở địa phương và những

vấn đề liên quan đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Hoạt động giám sát đã từng bước được cải tiến và đổi mới đạt hiệu quả cao. Thông

qua hoạt động giám sát những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân được giải

quyết kịp thời, giúp các cơ quan hữu quan tháo dỡ khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm

vụ được giao. Dù đã có những tiến bộ rõ rệt, nhưng hiệu quả giám sát của HĐND

cấp tỉnh vẫn chưa thực sự xứng với vai trò, vị trí của HĐND, vẫn còn nhiều bất cập

hạn chế. Hệ thống pháp luật về giám sát, một số quy định còn thiếu tính khả thi, còn

nhiều bỏ ngỏ…cho nên, nhiều địa phương hoạt động giám sát mới chỉ ở mức chung

chung, thiếu chủ động, kiên quyết, còn nặng tính hình thức. Do đó, phải kết hợp

một cách đồng bộ các giải pháp trên, để phát huy hơn nữa sức mạnh của HĐND,

góp phần xây dựng bộ máy Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng

yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở CHDCND Lào giai

đoạn hiện nay.

91

KẾT LUẬN

Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế như hiện nay thì vấn

đề nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả giám sát của HĐND lại càng trở nên cấp

bách hơn nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng nhà nước

trong sạch, vững mạnh. Giám sát là một trong những chức năng chủ yếu của

HĐND. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp

tỉnh là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự đổi mới một cách toàn diện, từ luật

pháp đến nhận thức của các cá nhân, tổ chức. Từ đổi mới nhận thức mới có đổi mới

về mặt ban hành pháp luật, bố trí đại biểu HĐND và đại biểu HĐND chuyên trách,

tạo điều kiện để HĐND thực hiện tốt chức năng giám sát của mình. Bên cạnh đó, đề

ra những giải pháp lâu dài và những giải pháp mang tính trước mắt để từng bước

nâng cao chất lượng giám sát của HĐND cấp tỉnh, từ đó nâng cao chất lượng hoạt

động giám sát của HĐND nói chung.

Thực tiễn cho thấy, trong nhiệm kỳ vừa qua HĐND tỉnh Savannakhet đã bám

sát các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cùng

sự nỗ lực phấn đấu của các đại biểu HĐND tỉnh, TTHĐND, các Ban của HĐND, bộ

máy giúp việc cho hoạt động của HĐND, sự phối hợp tốt với các cơ quan, đơn vị, tổ

chức có liên quan trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong

hoạt động của HĐND tỉnh nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Kết quả giám

sát của HĐND đã có tác dụng tích cực trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc tại

địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động giám sát vẫn còn tồn tại một số hạn

chế nhất định làm cho HĐND chưa thực sự phát huy vai trò là cơ quan quyền lực

Nhà nước ở địa phương. Do đó, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động giám sát

của HĐND cấp tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Savannakhet nói riêng là một trong

những nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý

nhà nước của bộ máy chính quyền địa phương. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu

khoa học “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước

CHDCND Lào” đã phần nào chỉ ra một số ưu điểm, hạn chế bất cập trong hoạt

động giám sát của HĐND tỉnh trong thời gian qua, đồng thời, mạnh dạn đưa ra một

số giải pháp, kiến nghị, đề xuất để hoạt động giám sát thực sự có hiệu quả, HĐND

92

thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, quyền lực và nguyện vọng của nhân dân trên

địa bàn tỉnh. Từ đó, củng cố niềm tin, thu hút sự quan tâm, theo dõi và tích cực

tham gia của nhân dân vào hoạt động giám sát của HĐND, góp phần làm cho hoạt

động giám sát của HĐND tỉnh ngày càng có chất lượng hơn, đảm bảo việc thực

hiện Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND ngày càng tốt hơn. Có như vậy

mới thực sự tạo ra cơ chế hữu hiệu bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân, một

tiền đề cơ bản để thực hiện dân chủ hóa toàn bộ bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn

cách mạng hiện nay. Giám sát của HĐND là hoạt động có mục đích, thường xuyên,

liên tục của HĐND nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra, phát hiện, uốn nắn việc tuân

theo pháp luật, thực hiện các nghị quyết của HĐND của TTHĐND, UBND, TAND,

VKSND cùng cấp; của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ

trang nhân dân và của công dân ở địa phương theo quy định của pháp luật. Đề tài đã

xây dựng hệ thống mục tiêu, phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực và hiệu

quả hoạt động giám sát của HĐND trong thời gian tới. Trong đó dựa trên lý thuyết

hệ thống, đề tài đã nêu lên giải pháp quan trọng hàng đầu là đổi mới và tăng cường

sự lãnh đạo của đảng đối với HĐND, nhằm nâng cao nhận thức của hệ thống chính

trị về vai trò vị trí và tầm quan trọng của HĐND trong việc bảo đảm thực thi quyền

lực của nhân dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,

vì dân. Từ đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của đảng để đổi mới tổ chức, cán bộ

và phương thức hoạt động của HĐND. Thực hiện đồng bộ được các giải pháp cụ thể

trên, kết hợp với nghiên cứu sâu và có định hướng lâu dài sẽ giúp phát huy được ưu

điểm của hoạt động giám sát của HĐND và khắc phục những nhược điểm của nó sẽ

góp phần vào việc xây dựng bộ máy Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Trên cơ sở những nghiên cứu về hoạt động của HĐND để đưa ra các yêu cầu

và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của HĐND có ý nghĩa

rất quan trọng trong việc ứng dụng Luận văn vào hoạt động thực tiễn.

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Lào

1. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IV, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.

2. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ V, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.

3. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.

4. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.

5. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.

6. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.

7. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.

8. Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2003; sửa đổi, bổ sung năm

2015.

9. Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luật tổ chức Quốc hội năm

2003 sửa đổi, bổ sung năm 2015.

10. Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luật tổ chức Tòa án nhân dân

tối cao năm 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2015.

11. Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luật tổ chức Chính quyền địa

phương năm 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2015.

12. Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luật tổ chức Hội đồng nhân

dân tỉnh, 2015

13. Văn phòng Trung ương Đảng (2002), Việc áp dụng công nghệ thông tin vào

phát triển công tác văn phòng, Viêng Chăn.

14. Văn phòng Chính phủ (1996), Tiêu chuẩn về cán bộ, công chức Văn phòng

tỉnh, thành và huyện, Viêng Chăn.

94

15. Ban Kinh tế, Kế hoạch và Đầu tư HĐND tỉnh Savannakhet, Báo cáo tổng kết

các năm 2016, 2017 và 2018

16. Ban Pháp chế - An ninh và Quốc phòngHĐND tỉnh Savannakhet, Báo cáo tổng

kết các năm 2016, 2017 và 2018

17. Ban Văn hóa - Xã hội và Dân tộc HĐND tỉnh Savannakhet, Báo cáo tổng kết

các năm 2016, 2017 và 2018

Tài liệu tiếng Việt

18. Nguyễn Viết Bé (1998), Nhân dân lao động thực thi quyền lực chính trị thông

qua cơ quan dân cử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. BuaPhan VoRaChit (2007), Hoàn thiện bộ máy tổ chức và nâng cao hiệu quả

hoạt động của văn phòng tỉnh Phong Sa Ly, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,

Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia.

20. Nguyễn Đăng Dung (1992), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

21. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Giáo trình hành chính văn phòng trong

cơ quan nhà nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Hà

Nội.

23. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Hiến pháp và luật Tổ chức nhà nước,

Hà Nội.

24. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Thanh tra, giải quyết khiếu nại hành

chính, Hà Nội.

25. Phạm Ngọc Kỳ (1995), Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Luận án tiến sỹ,

Viện Nhà nước và pháp luật.

26. Trần Thị Thanh Mai (2001), Đổi mới tổ chức bộ máy Quốc hội nước Cộng hòa

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh.

27. Đồng Thị Thanh Phương, Nguyễn Thị Ngọc An (2008), Giáo trình

Quản trị Hành chính Văn phòng, Nxb Thống kê, Hà Nội.

95

28. Lê Minh Quân (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát

triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Lưu Kiếm Thanh (2009), Nghiệp vụ hành chính văn phòng, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

30. Nguyễn Hữu Thân (2004), Quản trị hành chánh văn phòng, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

31. Nguyễn Quốc Thắng (2001), Hoàn thiện quy trình xem xét, quyết định các vấn

đề quan trọng của đất nước trong hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh.

32. Văn Tất Thu (2011), Tổ chức và hoạt động của văn phòng bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Phạm Thị Tình (1998), Chức năng lập pháp của Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học luật Hà Nội.

34. Vanxay Sengdavong (2013), Tổ chức bộ mày của Văn phòng tỉnh PhongSaLy

nước CHDCND Lào, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính công, Học viện

Hành chính Quốc gia

35. Văn phòng Quốc hội - Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (2011), “Báo cáo

nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của Văn phòng Quốc hội”,Dự án tăng

cường năng lực của các cơ quan dân cử ở Việt Nam.

36. Viện Nghiên cứu lập pháp (2013), Hoạt động giám sát của Quốc hội, Nxb Lao

động, Hà Nội.

37. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Nhà xuất

bản Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng.

38. http://na.gov.la/

PL1

Phụ lục 1

Danh sách Ủy viên Thường trực HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018

Giới

Ngày tháng

Ghi

STT

Tên và họ

Chức vụ

tính

năm sinh

chú

Nam

1 KhamPhoi PHANTHACHONE

01.05.1956

Chủ tịch

Nam

2 KhamPhanh KHOUNSAVAT

03.01.1965

Phó Chủ tịch

Nam

3

PhuThon KEOPHOUVONG

01.07.1961

Phó Chủ tịch

Nam

4 VanhKham INTHISAK

01.01.1950

Ủy viên

BounTem XUANGSAYAVONG Nam

08.06.1950

Ủy viên

5

Nam

SangVan VONGVILAY

31.08.1964

Ủy viên

6

Nam

7 KhamDy SOUVANHNASAN

12.10.1965

Ủy viên

PL2

Phụ lục 2

Danh sách Cán bộ nhân viên Ban Pháp chế - An ninh và Quốc phòng

thuộc HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018

Ngày

Ghi

STT

Tên và họ

Giới tính

tháng

Chức vụ

chú

năm sinh

Nam

SangVan VONGVILAY

1

Trưởng Ban

Nam

SomPhone SOUTTHISOMBAT

2

Phó Truởng Ban

Nữ

KhamPheng VILAYTHONG

3

Phó Truởng Ban

TIỂU BAN PHÁP CHẾ

Nữ

LatDaVon KEOBOUTTRAVONG

4

Trưởng Tiểu Ban

Nữ

Seng Thong CHANHNITA

5

Phó Truởng Tiểu

Ban

Nữ

6 MomBounHak

XUANGSAYAVONG

Nam

7

ChamBo LATSABANDIT

Nam

8 YomMa PHENGKHAMMA

TIỂU BAN AN NINH – QUỐC PHÒNG

Nam

9

Trưởng Tiểu Ban

SiMon

SINGKONGCHANTHAVONG

Nam

Phó Truởng Tiểu

10 SoukSomPhon

Ban

KHAMPASEUTXAIYA

Nữ

11 NongSy OUNSAPHONG

Nữ

12 KhanThiChone XAISAAT

PL3

Phụ lục 3

Danh sách Cán bộ nhân viên Ban Văn hóa - Xã hội và Dân tộc

thuộc HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018

Ngày

Giới

tháng

STT

Tên và họ

Chức vụ

Ghi chú

tính

năm sinh

1 BounTem XUANGSAYAVONG Nam

Trưởng Ban

Truởng

Phó

2 KhamPhet KEOPHITHOUN

Nam

Ban

Truởng

Phó

3 ChanhSaMonSONPHONGPHAN Nam

Ban

TIỂU BAN VĂN HÓA – XÃ HỘI

4

PhoneSaVanh

Nam

Trưởng

Tiểu

Ban

XOUMPHONPHAKDY

5

SengMaNy PHOUDTILARD

Nam

Phó

Trưởng

Tiểu Ban

6

Sone SOULICHANH

Nam

7 Mee SOMMIXAI

Nam

8

PangKham LATXAVONG

Nam

TIỂU BAN DÂN TỘC

9 MiXai XAIYAVONG

Nam

Trưởng

Tiểu

Ban

Phó

Trưởng

10 BounTa SITTHISAK

Nữ

Tiểu Ban

11 SengThip KEOCHAIDY

Nữ

12 KhounMa MANISI

Nữ

13 LamPhone KHAMMIPHONE

Nữ

PL4

Phụ lục 4

Danh sách Cán bộ nhân viên Ban Kinh tế - Kế hoạch và Tài chính

thuộc HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018

STT

Tên và họ

Giới

Ngày

Chức vụ

Ghi

chú

tính

tháng năm

sinh

1

KhamDy SOUVANHNASAN

Nam

Trưởng Ban

2

SomXai KHAMYAIMANI

Nam

Phó Truởng Ban

3

KeoViengXai CHANHSAMAI Nữ

Phó Truởng Ban

TIỂU BAN KINH TẾ

4

MonPhet SOUPHANHTHONG Nam

Trưởng Tiểu Ban

5

ChanSaMone VONGXAISO

Nam

Phó Trưởng Tiểu Ban

6

ThipPhaPhon INSIXIENGMAI Nữ

Phó Trưởng Tiểu Ban

7

BeBi SISOMBAT

Nữ

8

KhamBay INTHISENG

Nữ

9

Peter MATNIVONG

Nam

10

KhatThaSon LATTANAVONG Nam

TIỂU BAN KẾ HOẠCH – TÀI CHÍNH

Trưởng Tiểu Ban

11

KeoViLai KHOTSOMBAT

Nữ

Phó Trưởng Tiểu Ban

12 MounMa PASOMSI

Nam

13

PhoutPanYa KHOTSOMBAT

Nữ

14

PhimSouDa HUNGHUANG

Nữ

15

ViPhaDa PHAXAISI

Nữ

PL5

Phụ lục 5

Danh sách Cán bộ nhân viên Ban Thư ký thuộc

Ghi

HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018

STT

Tên và họ

Giới

Ngày

Chức vụ

chú

tính

tháng năm

sinh

VanhKham INTHISAK

Nam

1

Trưởng Ban

ThongSai INTHISENG

Nam

2

Phó Truởng Ban

PhouThone

Nam

3

Phó Truởng Ban

PHOUTTHAKHANTI

TIỂU BAN TỔNG HỢP – THÔNG TIN

BouaLom INTHITHAVONG

Nam

Trưởng Tiểu Ban

4

KhamMuen KHANTHAVONG Nam

5

Phó Trưởng Tiểu Ban

ThaNouSit SINGMAVONG

Nam

6

Phó TrưởngTiểu Ban

ChoLaChone

Nữ

7

SENGMANICHANH

ViengXai PHOMAVANH

Nam

8

KhounSanVanh MEKSAVANH Nữ

9

TIỂU BAN HÀNH CHÍNH VÀ KẾ HOẠCH

SiYa PHINMAVONG

Nữ

11

Trưởng Tiểu Ban

AnouSak XAIYAVONGSA

Nam

12

Phó Trưởng Tiểu Ban

SengOuThai MATTHAVONG

Nam

13

NaKhonePheng SIDALAVILAI Nam

14

VatSaNa

Nữ

15

CHANTHAVONGXAI

SoukSaMai INSIXIENGMAI

Nữ

16

SomPaSit MIXAIBOUA

Nam

17

SomDet MEKSAVANH

Nữ

18

PhetSaDa KEODUANGDY

Nữ

19

OlaPhan SOUKHOUMALAI

Nữ

20

PL6

TIỂU BAN TỔ CHỨC VÀ KIỂM TRA

KhanThong KHOMTHILAT

Nam

Trưởng Tiểu Ban

22

ThongDy PHOMMASENG

Nam

Phó Tr Tiểu Ban

23

KhamLa XANOULAT

Nam

24

BanThaHat BOUTCHAMPA

Nam

25

TỔ CHỊU TRÁCH NHIỆM CÔNG VIỆC BẦU CỬ VÀ ĐỐI NGOẠI

VanNaPhone VONGVICHIT

Nam

Tổ trưởng

26

Nữ

Phó Tổ trưuởng

SomPhoneSouk

27

VILAYPHOUMI

28

SomSaVanh THOULACHAN

Nữ