BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
-----------------------
PHOUDTILARD SENGMANY
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH SAVANNAKHET
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
-----------------------
PHOUDTILARD SENGMANY
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH SAVANNAKHET
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 83 40 403
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ VĂN NHIÊM
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn nghiên cứu về đề tài “ HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả
PHOUDTILARD SENGMANY
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.VŨ VĂN
NHIÊM, thầy đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn đến quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy và
cung cấp cho tôi những tri thức khoa học về Quản lý công.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến:
Ban lãnh đạo và chuyên viên Phòng Sau đại học - Trường Học viện Hành
chính Quốc gia tại Thành Phố Hồ Chí Minh đã tạo những điều kiện học tập tốt nhất cho chúng tôi.
Các bạn học viên lớp cao học chuyên ngành Quản lý công HC22.N6 đã
chia sẻ những khó khăn và luôn động viên tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học.
Gia đình và những người thân đã quan tâm và giúp đỡ cho tôi trong suốt
thời gian học tập.
SENGMANY PHOUDTILARD
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục những từ viết tắt trong luận văn
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài luận văn ....................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .......................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................ 6
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH............................ 8
1.1. Vị trí pháp lý và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ................ 8
1.1.1. Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh............................... 8
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh................................. 12
1.2. Mục đích, yêu cầu, chủ thể của hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh ...................................................................................... 14
1.3. Hình thức hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh …………………19
1.3.1. Hoạt động giám sát thông qua kỳ họp hội đồng nhân dân ............ 19
1.3.2. Hoạt động giám sát ngoài kỳ họp ................................................ 24
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của HĐND tỉnh. ......... 26
1.4.1. Yếu tố chính trị ........................................................................... 26
1.4.2. Yếu tố kinh tế .............................................................................. 27
1.4.3. Yếu tố văn hóa ............................................................................ 29
1.4.4. Các yếu tố khác ........................................................................... 30
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 34
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO .................................................................... 35
2.1. Giới thiệu về Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng
hòa dân chủ nhân Lào .............................................................................. 35
2.1.1. Quá trình hình thành của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet .......................................................................................... 35
2.1.2. Vị trí, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet .......................................................................................... 36
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet ........... 37
2.1.3. Tổng quan về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet .......................................................................................... 38
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet thông qua kỳ họp.................................................................. 39
2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet ngoài kỳ họp ........................................................................ 46
2.3.1. Hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh Savannakhet................. 46
2.3.2. Hoạt động của các Ban HĐND từ 2016 đến nay ......................... 54
2.3.3. Hoạt động giám sát của các đại biểu HĐND cấp tỉnh ................. 58
2.4. Đánh giá chung .................................................................................. 60
2.4.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động giám sát ....................... 60
2.4.2. Những tồn tại, hạn chế ................................................................ 61
2.4.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ................................................ 63
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 65
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH
SAVANNAKHET NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO ............................................................................................................. 67
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh ............................................................ 67
3.2. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân nói
chung và hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát nói riêng ................... 68
3.3. Hoàn thiện các hình thức giám sát để nâng cao chất lượng giám
sát của Hội đồng nhân dân ........................................................................ 71
3.4. Nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công chức của Hội đồng
nhân dân tỉnh ............................................................................................ 74
3.5. Nâng cao chất lượng tiếp công dân và xử lý, đôn đốc việc giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ................................................................. 79
3.6. Tăng cường quan hệ giữa Hội đồng nhân dân tỉnh với các cơ quan
ban ngành, đoàn thể ở địa phương ............................................................ 83
3.7. Bảo đảm điều kiện hoạt động giám sát của HĐND và các đại biểu
HĐND tỉnh ............................................................................................... 86
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................. 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 93
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
HĐND
:
Hội đồng nhân dân.
TAND
:
Tòa án nhân dân.
TTHĐND
Thường trực Hội đồng nhân dân.
:
UBND
:
Ủy ban nhân dân.
VBPL
:
Văn bản pháp luật.
:
VBQPPL
Văn bản quy phạm pháp luật.
VKSND
:
Viện Kiểm sát nhân dân.
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa.
QH
:
Quốc hội.
:
CHDCND
Cộng hòa dân chủ nhân dân.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Sau khi được giải phóng vào tháng 12 năm 1975, chính quyền nhà nước của
Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng, là một chính quyền của dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, chính quyền
nhân dân mà cụ thể là hội đồng nhân dân luôn xứng đáng là người đại biểu trung
thành của nhân dân, góp phần không nhỏ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV cho đến các kỳ Đại
hội tiếp theo đó, Lào chủ trương đổi mới nền kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, chuyển từ kinh tế nửa tự nhiên sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa nằm dưới sự quản lý của nhà
nước.
Điều 2 Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2015 quy định: Nhà
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là nhà nước dân chủ nhân dân. Tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân các bộ tộc, của tất cả
các tầng lớp xã hội với người lao động, nông dân và đội ngũ trí thức là thành phần
chính.
Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Trong bộ máy nhà nước Lào có hai cơ quan do nhân dân
trực tiếp bầu ra đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Khác với Quốc hội là cơ
quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng quyền lực nhà nước trên phạm vi
toàn quốc, Hội đồng nhân dân lại thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực
nhà nước trên phạm vi địa phương mình. Hội đồng nhân dân là cơ quan có vị trí và
vai trò rất quan trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước tại địa phương. Hội
đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Vì vậy, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có vị
trí vô cùng quan trọng; là cầu nối giữa Trung ương và địa phương trong việc thực
thi đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước tại địa phương và là nơi
trực tiếp ra các quyết định về những chủ trương chính sách lớn liên quan đến phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương
2
Vì vậy nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân theo pháp
luật hiện hành có ý nghĩa cả lý luận cũng như thực tiễn, góp phần hoàn thiện và
nâng cao hoạt động của Hội đồng nhân dân, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội đồng nhân dân. Bởi vì, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN. Mục đích đặt ra là làm cho các cơ quan nhà nước ở Trung ương
cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình theo quy định Hiến pháp và pháp luật.Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng
nhân dân vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, xây dựng Hội đồng
nhân dân các cấp, trong đó có Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để có thực quyền để đảm
đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
Thời gian qua, Thường trực và các ban Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet
nước CHDCND Lào tiếp tục có những hoạt động khá sôi nổi, có những nét nổi bật
theo hướng không ngừng cải tiến để hoạt động của cơ quan dân cử đi vào thực chất,
phát huy dân chủ, trí tuệ của đại biểu. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh đã phối
hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân, Ủy ban xây dựng Tổ quốc Lào của tỉnh và các
cơ quan chức năng trong công tác chuẩn bị nội dung kỳ họp; tổ chức tiếp xúc cử tri,
tổ chức thảo luận tổ đại biểu tại các huyện, thị xã, thành phố theo luật định. Thông
qua các buổi tiếp xúc cử tri, các đại biểu Hội đồng nhân dân đã kịp thời nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng, những vấn đề quan trọng, bức xúc mà cử tri quan tâm. Việc cung
cấp các thông tin về trả lời ý kiến cử tri, cũng như thông tin về tình hình kinh tế - xã
hội phục vụ cho hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân được chú trọng và đảm bảo;
hoạt động tại kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh cũng tiếp tục được đổi mới, Hội đồng
nhân dân tỉnh không chỉ thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội, về các báo cáo, đề
án, dự thảo nghị quyết trình tại kỳ họp, mà còn mở rộng dân chủ, công khai trong
hoạt động. Bên cạnh đó, Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban Hội đồng nhân
dân tỉnh đều tăng cường các hoạt động giám sát thường xuyên và giám sát, khảo sát chuyên đề. Đây là bước tiến quan trọng trong hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thể hiện tinh thần quyết tâm và sự đổi mới về phương pháp hoạt động của Hội
3
đồng nhân dân tỉnh ở nhiệm kỳ 2016 - 2021.Qua hoạt động giám sát đã phát hiện
những ưu điểm để phát huy, đồng thời chỉ ra những mặt tồn tại, nguyên nhân, trách
nhiệm và yêu cầu chấn chỉnh. Những kiến nghị trong các báo cáo giám sát đều xuất
phát từ thực tế nên tính thuyết phục cao và phần lớn các kiến nghị đó đã được các
cơ quan, đơn vị được giám sát tiếp thu. Chất lượng thẩm tra của các ban Hội đồng
nhân dân ngày càng được nâng lên, tính phản biện cao, cung cấp nhiều thông tin bổ
ích, giúp đại biểu có căn cứ thảo luận và quyết định những nội dung quan trọng
trong các kỳ họp. Từ đó, cho thấy hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân đã
được cử tri ghi nhận, Tỉnh ủy đánh giá cao.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet đã có những chuyển
biến rõ rệt, đóng góp tích cực vào thành công của sự nghiệp đổi mới và xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân. Tuy nhiên, theo đánh giá
của nhiều báo cáo chính thức, hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nói chung
và của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nói riêng vẫn còn biểu hiện mang tính chất hình
thức; chưa thực hiện tốt vai trò, chức năng theo quy định của các văn bản pháp luật
đề ra; hiệu lực, hiệu quả còn thấp, thậm chí trong dư luận còn một số ý kiến chưa
hiểu rõ về chức năng và quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
Trong bối cảnh hoạt động theo các quy định mới của pháp luật, đồng thời
trước yêu cầu thực tiễn đặt ra, để đáp ứng được niềm tin, sự mong đợi của cử tri
tỉnh nhà thì vấn đề tiếp tục cải tiến, đổi mới để không ngừng nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, kế thừa những kết quả và kinh nghiệm
trong các nhiệm kỳ trước là yêu cầu cấp thiết đặt ra. Vì vậy, cần tập trung cải tiến,
đổi mới trên các phương diện hoạt động của Hội đồng nhân dân mạnh hơn để đáp
ứng yêu cầu, đáp ứng kỳ vọng của đại biểu và cử tri tỉnh nhà.
Với mong muốn nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet, trên cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh, thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh trong những năm
gần đây, tác giả lựa chọn đề tài:“Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet Công hòa đân chủ nhân dân Lào” để làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn cao học Quản lý công.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân không phải là vấn đề mới ở
Việt nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, nhưng việc
nghiên cứu thực trạng hoạt động tổ chức và đưa ra các giải pháp đổi mới hoạt động
của Hội đồng nhân dân luôn là vấn đề có tính thời sự và cấp thiết. Các công trình
nghiên cứu đều quan tâm tập trung theo một goác độ nhất định, giá trị mà các công
trình nghiên cứu đó mang lại rất cao và hướng tới sự hoàn thiện tổng thể. Còn đối
với CHDCND Lào, đây vẫn còn là vấn đề nghiên cứu chưa được rộng rãi mà chủ
yếu là các nghiên cứu chung về quản lý hành chính, trong đó có các công trình
nghiên cứu sau đây:
- Luận văn của Xải U Phun Xả Ly với đề tài “Tăng cường vai trò của Quốc
hội trong việc đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào”, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm
2004. Luận văn đã đánh giá vai trò của Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào trong việc đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Trên cơ sở đó,
luận văn đề xuất giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Quốc hội trong việc bảo
đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động.
- Vanxay Sengdavong,Tổ chức bộ máy của Văn phòng tỉnh PhongSaLy nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận văn Quản lý Hành chính công, Học viện
Hành chính Quốc gia, 2013.
- Phommalath Sengdone, Hiệu quả hoạt động của Văn phòng Ủy ban nhân
dân tỉnh Bokeo, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn Quản lý công,
Học viện Hành chính quốc gia, 2015.
Các công trình nghiên cứu của Việt Nam:
- Nguyễn Viết Bé “Nhân dân lao động thực thi quyền lực chính trị thông qua
cơ quan dân cử”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1998 . Tác giả đã phân tích
những phương thức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động, trong đó
thông qua cơ quan dân cử là Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cách cơ bản nhất.
- Tác giả Nguyễn Sỹ Dũng với cuốn “Quyền giám sát của Quốc hội: nội
dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu” nhìn nhận sự giám sát của Quốc hội đối
5
với cơ quan hành chính nhà nước từ góc độ thực tiễn. Từ đó tác giả soi lại vấn đề lý
thuyết về quyền giám sát của Quốc hội và chỉ ra một số hạn chế.
Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 6/2002.
Trương Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động các ban của Hội đồng nhân dân,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chúc và hoạt động chủa Hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nước và
pháp luật, năm 2004
Tác giả Văn Tất Thu với cuốn “Tổ chức và hoạt động của văn phòng bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ” xuất bản năm 2011 bởi Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia. Công trình đi sâu phân tích cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn
và thực trạng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của văn phòng bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ; phân tích cơ sở khoa học tổ chức bộ máy,
nguồn nhân lực của những cơ quan này, từ đó đề xuất một số giải pháp đổi mới
hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, tuyển dụng, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực
trong các văn phòng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ theo hướng
chính quy, hiện đại.
Nhìn chung những công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh của Hội
đồng nhân dân, tiếp thu những kết quả đó, luận văn nghiên cứu một cách có hệ
thống vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Mục đích của nghiên cứu của luận văn là đánh giá thực trạng hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
để tìm những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh Savannakhet .
- Nhiệm vụ:
6
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về Hội đồng nhân dân tỉnh, cơ quan cầu nối giữa
Trung ương và địa phương trong việc thực thi đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước tại địa phương.
Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh Savannakhet hiện nay, chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của
ưu điểm, hạn chế trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa nân chủ nhân dân Lào.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào từ 2013 - 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu vấn đề, đó là
các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh; phỏng vấn chuyên gia,
diễn giải và quy nạp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần hoàn thiện về phương diện lý luận về việc nâng cao chất
lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, trên cơ sở đó góp phần thể hiện rõ vai trò là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
7
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy
về nhà nước và pháp luật trong các trường đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước
về nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có 3 chương.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Vị trí pháp lý và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Trên thế giới có nhiều học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước, nhưng chủ
yếu chỉ dừng lại ở tổ chức quyền lực nhà nước ở trung ương với việc phân chia
quyền lực giữa giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoặc đề cập tới việc phân cấp,
phân quyền giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền ở địa phương.
Lý luận mang tính học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước, cụ thể là cấp tỉnh
chưa hình thành rõ ràng. Tuy nhiên, nguyên lý cơ bản nhất và xuyên suốt đó là: Hội
đồng nhân dân là cơ quan dân cử ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra để
thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề cơ bản ở địa phương.
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương có quyền quyết định
các chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng an ninh,
không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm
tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước, HĐND là cơ quan bầu ra UBND,
Thường trực HĐND và Hội thẩm tòa án nhân dân cùng cấp, HĐND giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước ở địa phương, giám sát việc tuân theo pháp luật ở
địa phương. Nghị quyết của HĐND phải được quá nửa tổng số đại biểu biểu quyết
tán thành, trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND. HĐND thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân địa phương trên địa bàn lãnh thổ, thồng thời thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên giao Quyết định của HĐND có tính chất bắt buộc
đối với mọi cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng
vũ trang và nhân dân ở địa phương.
Như vậy, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, HĐND cùng
với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, thay mặt nhân dân
sử dụng quyền lực nhà nước và gốc của chính quyền nhân dân. Khác với Quốc hội,
Quốc hội là cơ quan hay mặt toàn thể nhân dân cả nước sử dụng quyền lực nhà
nước trên phạm vi toàn quốc, HĐND sử dụng quyền lực nhà nước trong phạm vi
9
hẹp hơn, trong địa phương mình. Điều này có tính chất quyết định tới phạm vi chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND.
HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng trực tiếp với hình thức bỏ phiếu kín. HĐND
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Cơ cấu
HĐND được hợp thành từ những từ những đại biểu ưu tú đại diện cho giai cấp công
nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, các dân tộc, các thành phần xã hội trong phạm vi
địa phương. HĐND tồn tại, hoạt động trước hết vì lợi ích của nhân dân địa phương
nhưng phải phù hợp với lợi ích chung của cả nước. HĐND chịu trách nhiệm và chịu
sự giám sát của nhân dân địa phương. Một yếu tố khác thể hiện tính đại diện của
HĐND là chế độ bãi nhiệm đại biểu HĐND, đại biểu nào không còn xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân thì tùy mức độ vi phạm mà bị HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm.
Thường trức HĐND và UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm
đại biểu HĐND theo đề nghị của Ủy ban xây dựng Nhà nước cùng cấp. Trong
trường hợp HĐND bãi nhiệm đại biểu thì việc bãi nhiệm phải được hai phần ba
tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. Trường hợp củ tri bãi nhiệm đại biểu
thì tiến hành theo thể thức do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, HĐND là tổ chức chính quyền gần
gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, nắm vững
đặc điểm của địa phương, do đó có cơ sở quyết định mọi công việc sát hợp với
nguyện vọng của nhân dân địa phương. Như vậy, HĐND là một tổ chức vừa có tính
chất chính quyền lực, vừa có tính chất quần chúng, vừa là trường học quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội ở địa phương.
Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình ở từng địa phương và
trên phạm vi cả nước. Vì vậy, HĐND không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương mà còn chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên. HĐND một mặt
cần chăm lo xây dựng địa phương, đảm bảo sự phát triển về kinh tế, văn hóa xã hội
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, mặt khác
phải hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho.
10
Hiện nay, bộ máy nhà nước CHDCND Lào được tổ chức thành bốn cấp hành
chính: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp bản. Cấp trung ương là cấp vĩ
mô, tổ chức quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Cấp tỉnh, huyện, bản là cấp cụ thể
hóa các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên.
Như vậy, cấp tỉnh là cấp trung gian giữa chính quyền trung ương và chính
quyền đại phương, là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương.Nếu cấp trung ương
là cấp đề ra chủ trương, chính sách thì cấp địa phương là cấp tổ chức, thực hiện chủ
trương, chính sách. Vì vậy, với vai trò là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương,
cấp tỉnh là cấp quan trọng trong việc chuyển tải chủ trương, chính sách từ trung
ương xuống tới người dân. Quá trình chuyển tải chính sách từ trung ương đến cơ sở
, cấp tỉnh được trao cho những thẩm quyền nhất định trong việc thực hiện chức
năng quản lý trên địa bàn lãnh thổ. Xét dưới góc độ tự chủ và quyền tự quản của
nhân dân, thì cấp tỉnh là cấp có quyền tự chủ tương đối cao so với cấp huyện và cấp
bản, tác động tới hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Chính vì vậy, Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống bộ máy
nhà nước.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân
bầu ra, quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, một cấp ngay dưới cấp
trung ương. Vì vậy, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng trong
bộ máy chính quyền địa phương, quyết sách những vấn đề trực tiếp ở địa phương,
giải quyết những khó khăn vướng mắc của nhân dân và quyết định hướng phát triển
cho kinh tế - xã hội ở địa phương mình.
HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương, nhưng tính chất đại
diện của Hội đồng nhân dân khác với tính chất đại diện của Quốc hội.Quốc hội là
người đại diện cho nhân dân cả nước; còn Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện
của nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
Tính chất của Hội đồng nhân dân được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
11
- Các đại biểu HĐND do cử tri bầu ra bằng hình thức phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các cơ quan khác của chính quyền địa phương không
được thành lập theo trình tự này.
- HĐND có cơ cấu đại biểu đại diện cho các tầng lớp xã hội, các thành phần
xã hội được phân bố trên các địa bàn lãnh thổ của địa phương.
- Các đại biểu HĐND là những người tiêu biểu, ưu tú trong nhân dân, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương.
Tính chất quyền lực của HĐND được thể hiện ở một số mặt sau:
- Căn cứ vào những quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm các chức cức vụ trong tổ chức của mình như thường trực HĐND, các ban của
HĐND;
- Căn cứ vào những quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm các chức danh của Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của mình, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương;
- Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND ban hành
các nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương.
- HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương.
Tính chất đại diện và tính chất quyền lực của HĐND có quan hệ biện chứng
với nhau.Tính đại diện là tiền đề đảm bảo để HĐND trở thành cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương.HĐND mới có đủ quyền năng lực thực hiện được tính chất
đại diện cho nhân dân, thay mặt cho nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng
của địa phương.
Tuy HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng xét về vị trí pháp lý,
HĐND không giống với quốc hội, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Sự khác
biệt ở đây không chỉ ở phạm vi, cấp độ mà ở thẩm quyền. Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền làm Hiến pháp ban hành luật, sửa đổi luật; HĐND cũng là cơ quan
quyền lực nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết trong phạm vi địa phương. Như
vậy, HĐND vừa là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực,
đại diện cho nhân dân địa phương và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng
của địa phương; giám sát việc tuân thủ theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
12
chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân ở địa phương nhằm phát huy tiềm năng của
địa phương trên mọi mặt kinh tế, xã hội.
Như vậy, tính chất quyền lực của HĐND được thể hiện trên nhiều phương
diện, là cơ quan quyền lực nhà nước có quyền ban hành nghị quyết để quyết định
nhiều vấn đề quan trọng ở địa phương. Từ những vấn đề nêu trên, xét về mặt hình
thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế HĐND ở CHDCND Lào thực sự là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương. Quyền lực của
HĐND được xác định trong Hiến pháp về bản chất cũng chính là quyền lực của
Nhân dân. Vấn đề đặt ra là làm thế nào nào để HĐND thực hiện được quyền lực
của mình trên thực tiễn là mục đích hướng tới của công cuộc đổi mới và hoàn thiện
bộ máy nhà nước nói chung và HĐND các cấp nói riêng.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo Hiến pháp hiện hành và Luật tổ chức HĐND và UBND thì HĐND có
ba chức năng cơ bản sau:
a). Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng
của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
địa phương, làm tròn nghĩa vụ của nhân dân đối với cả nước
b). Bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước
cấp trên và trung ương ở địa phương
c). Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND,
UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc tuân thủ
theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
Trong số các chức năng trên, chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật là một trong những chức năng quan trọng của HĐND. Bởi trong mọi hoạt
động quản lý nhà nước và xã hội thì hoạt động giám sát là hoạt động không thể
thiếu. Nếu thiếu và yếu trong hoạt động giám sát thì rất rễ trở thành quan liêu,
không thực quyền. Ở CHDCND Lào, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông
qua Quốc hội và HĐND các cấp. Vì vậy hoạt động giám sát của Quốc hội và
13
HĐND có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống chính trị - xã hội. Quyền lực nhà nước
trực tiếp từ nhân dân nên hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp là sự
giám sát ủy quyền của nhân dân. Thông qua giám sát của Quốc hội và HĐND các
cấp, nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với hoạt động của tất cả các cơ
quan nhà nước để đảm bảo cho hoạt động đó phục vụ cho lợi ích, ý chí nguyện vọng
của nhân dân
Chức năng của HĐND là những phương diện hoạt động chủ yếu của HĐND
nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân.
Với vị trí, tính chất là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại
diện cho nhân dân, HĐND có các chức năng cụ thể sau:
1.1.2.1. Chức năng quyết định
Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương thuộc thẩm
quyền của HĐND được quy định rõ đối với từng cấp. Đối với cấp tỉnh thì HĐND có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong phạm vi địa phương như sau:
- Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
- Quyết định về phát triển giáo dục, y tế xã hội, văn hóa, thông tin, thể dục
thể thao;
- Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường.
Như vậy, nội dung chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa
phương của HĐND là rất rộng, bao gồm tất cả mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội,
văn hóa, khoa học, quốc phòng, an ninh...Điều này càng xác định rõ hơn vị trí, vai
trò và tầm quan trọng của HĐND đối với chính quyền địa phương. Mặt khác đây
cũng là những căn cứ pháp lý tạo môi trường thuận lợi để chính quyền địa phương
khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có ở địa phương nhằm nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân và cấp
trên giao cho.
1.1.2.2. Chức năng giám sát
HĐND tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện các quyết định của
HĐND trong phạm vi địa phương. Các quyết định của HĐND đều được thể hiện
dưới hình thức nghị quyết. Vì thế, chức năng này được triển khai trên các mặt công
14
tác: tuyên truyền, phổ biến nghị quyết trong nhân dân qua hoạt động của đại biểu.
Tổ đại biểu và cơ quan chức năng thuộc Ủy ban nhân dân; Thường trực HĐND chỉ
đạo, đôn đốc ủy ban nhân dân triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND, trong đó
có việc ban hành các văn bản cụ thể hóa như quyết định, chỉ thị; đề ra các biện pháp
thực hiện. HĐND giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của
các cơ quan nhà nước cùng cấp, thông qua việc xem xét các báo cáo của thường
trực HĐND, các ban của HĐND, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp, thông qua hoạt động của đại biểu HĐND trong kỳ họp và giữa
hai kỳ họp nhất là qua chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp của HĐND.
Chức năng giám sát có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng quyết định của
HĐND. Chức năng giám sát là cơ sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quyết định
trên thực tiễn, là biện pháp phát hiện kịp thời các vi phạm của mọi chủ thể trong
hoạt động tuân thủ pháp luật. Ngược lại, các quyết định về chủ trương chính sách
lớn tại địa phương là cơ sở cho hoạt động giám sát tập trung vào các vấn đề cấp
bách của địa phương.
Để đáp ứng được yêu cầu trên chúng ta cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND, trong đó phải đặc biệt chú ý đến
chức năng giám sát.Từ yêu cầu của luận văn đặt ra, vấn đề giám sát của HĐND
cần được nghiên cứu sâu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó, chúng ta có
những căn cứ để đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Savannakhet nói riêng
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
1.2. Mục đích, yêu cầu, chủ thể, nội dung của hoạt động giám sát của HĐND
cấp tỉnh
Giám sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của
Thường trực HĐND, giám sát của các ban của HĐND và giám sát của đại biểu
HĐND. Như vậy, chủ thể hoạt động giám sát bao gồm: HĐND như một tập thể các
đại biểu HĐND tại kỳ họp, Thường trực HĐND, các ban của HĐND, đại biểu
HĐND.
15
Để đánh giá được hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh, trước hết phảixác định
được trạng thái hoạt động của các đối tượng chịu giám sát khi chưa có sự theo dõi,
kiểm tra, đánh giá của HĐND. Đây là tiêu chí đầu tiên cần xem xét, bởi vì chỉ trên
cơ sở đánh giá đúng các hoạt động ban đầu của đối tượng chịu giám sát khi chưa có
HĐND giám sát thì mới có cơ sở để so sánh với hoạt động của họ sau khi HĐND đã
giám sát để đánh giá đúng kết quả thực tế do sự tác động của HĐND mang lại.
Trạng thái hoạt động của các đối tượng chịu giám sát thể hiện: trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trong tổ chức và hoạt động các cá nhân, tổ chức,
cơ quan thực hiện đúng hay không đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật, nghị
quyết của HĐND cấp tỉnh và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đã có
những đóng góp hay cản trở cho sự phát triển của địa phương. Do đó khi tiến hành
giám sát, việc thu thập nắm bắt thông tin đưa ra những nhận định chính xác về tình
trạng hoạt động của các đối tượng bị giám sát rất quan trọng. Khi tiến hành giám sát
cùng với kênh thông tin do cơ quan, tổ chức báo cáo HĐND xem xét, đánh giá xác
minh tình hình hoạt động của cơ quan đó. Các số liệu thu thập được trong giai đoạn
này là cơ sở để chúng ta so sánh với giai đoạn sau khi HĐND đã tiến hành giám sát
đưa ra các kiến nghị đề xuất buộc các chủ thế có trách nhiệm phải thực hiện. Vì vậy,
muốn biết được cuộc giám sát có mang lại hiệu quả hay không, sau khi giám sát
HĐND phải có những phương pháp kiểm tra việc thực hiện kết luận đó. Lúc này
chúng ta mới có các chỉ số để so sánh trạng thái trước khi giám sát và sau khi giám
sát.
Như vậy, để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh thì cần xác định rõ
tình trạng ban đầu của các đối tượng bị giám sát. Kết quả của việc xem xét này,
không những là cơ sở để chúng ta so sánh với trạng thái của chúng khi HĐND
chưa giám sát, mà còn là cơ sở để xem xét những vấn đề khác như năng lực giám
sát của HĐND, mức độ phù hợp của pháp luật và nghị quyết của Hội đồng với
thực tiễn... Tuy nhiên, tiêu chí này cũng cần được vận dụng ở những mức độ và
phạm vi khác nhau tùy theo mục đích của giám sát.
1.2.1 Mục đích, yêu cầu, và định hướng của hoạt động giám sát
Bất cứ một hành động nào của con người đều xuất phát từ tính có mục đích
16
của nó. Về điều này Ăngghen đã khẳng định: "Trong lịch sử xã hội, nhân tố hoạt
động hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hoạt động có suy nghĩ, hay có
nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại
không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn". Mục đích là kết quả
mong đợi, là cái ta mong muốn đạt được.
Trong giám sát, "mục đích giám sát là phạm vi cho việc đánh giá kết quả đã
đạt được. Bởi vì về mặt hiện thực, mục đích của giám sát là tiêu chuẩn, thước đo
trong việc đánh giá hiệu quả của nó, vì rằng mục đích bao giờ cũng xem xét việc
đạt được kết quả thực tế nhất định: việc thu nhận thông tin cần thiết về chất lượng
hoạt động của các cơ quan nhà nước, về chất lượng của các quyết định đưa ra, về
việc thi hành và chấp hành các quyết định đó, về việc tuân thủ các quy định của
pháp luật trong hoạt động của cơ quan nhà nước...".
Rõ ràng trước khi tiến hành bất cứ một hoạt động giám sát nào, HĐND phải
xác định mục đích yêu cầu và từ đó định hướng cho việc giám sát. Mục đích yêu
cầu định hướng thường được thể hiện trong nghị quyết và quyết định giám sát của
Hội đồng. Đồng thời đó cũng là căn cứ cho phép chúng ta đánh giá mức độ đạt
được hiệu quả của giám sát.
Việc xem xét trạng thái ban đầu của các đối tượng chịu giám sát theo quy
định của pháp luật, còn giúp HĐND xem xét lên kế hoạch giám sát phù hợp, đúng
với vấn đề mà dư luận cử tri đang quan tâm, vì hiện nay phạm vi giám sát của
HĐND huyện rất rộng trong khi năng lực của các đại biểu dân cử đang còn nhiều
hạnchế.
Mục đích của giám sát thể hiện ở nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau. ở cấp
độ chung: mục đích của giám sát là việc bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn, minh
bạch, liên tục của từng cơ quan nhà nước, của từng cá nhân, có chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, của bộ máy nhà nước nói chung trên cơ sở tuân thủ thường xuyên,
nghiêm chỉnh pháp luật quy định về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn củahọ.
Ở cấp độ thứ hai: tùy thuộc vào chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của từng
đối tượng bị giám sát, HĐND có những mục đích giám sát cụ thể khác nhau. Chính
vì vậy khi sử dụng căn cứ này để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND phải lưu ý:
17
nhiều khi mục đích cụ thể của giám sát không đạt được nhưng qua hoạt động giám
sát lại thuđược những kết quả cho mục đích giám sát chung. Đó là trường hợp qua
giám sát vấn đề cần làm rõ không tìm thấy, nhưng lại phát hiện được một số vấn đề
mới mà khách quan rất cần sự giám sát.
1.2.2. Chủ thể và nội dung của giám sát.
Chủ thể và nội dung của giám sát là một trong những tiêu chí quan trọng để
đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND. Về chủ thể giám sát chúng ta phải xem xét
cả hai mặt.
Thứ nhất, trình độ, kỹ năng giám sát; mức độ hiểu biết về tình hình kinh tế -
xã hội cũng như thực tiễn quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt khả năng cập
nhật các quy định pháp luật về lĩnh vực giám sát.
Thứ hai, tinh thần trách nhiệm, uy tín, bản lĩnh chính trị của người đại biểu.
Cụ thể, qua bản thân của người tiến hành giám sát phần nào cho phép chúng ta
đánh giá được cuộc giám sát có hiệu quả hay không. Nếu đại biểu HĐND là người
có trách nhiệm uy tín, có năng lực, trình độ, kỹ năng giám sát, am hiểu cả lý luận
và thực tiễn về lĩnh vực giám sát thì chắc chắn cuộc giám sát sẽ mang lại hiệu quả
cao và ngượclại.
Về nội dung giám sát, lựa chọn những vấn đề trọng tâm, bức xúc nhất để
giám sát không những có ý nghĩa đối với đối tượng giám sát mà còn tạo ra những
ảnh hưởng tích cực cho các lĩnh vực, đối tượng khác. Chẳng hạn trong lĩnh vực y tế,
môi trường, giao thông vừa qua. Điều này có nghĩa trong hoạt động giám sát không
phải chúng ta cứ tổ chức kiểm tra theo dõi thật nhiều là sẽ mang lại hiệu quả, vấn đề
là phải chọn đúng và trúng nội dung cần giám sát, đồng thời khi đã giám sát HĐND
cấp tỉnh phải tiến hành triệt để và đến cùng. Như vậy, thông qua nội dung được
chọn để giám sát và thành viên tiến hành giám sát, phần nào cho phép chúng ta
đánh giá được năng lực và hiệu quả giám sát của HĐND các cấp nói chung và
HĐND cấp tỉnh nói riêng.
Những kết quả thực tế đạt được do sự tác động của hoạt động giám sát. Để
đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh làp hải xác định được những kết
quả thực tế do sự tác động của giám sát mang lại. Đây là tiêu chí phức tạp nhất vì
18
kết quả thực tế do hoạt động giám sát của HĐND mang lại nhiều khi không những
thể hiện bằng yếu tố định lượng mà còn cả yếu tố định tính. Những biến đổi do sự
tác động giám sát của HĐND nhiều khi không chỉ phát sinh trực tiếp từ đối tượng bị
giám sát mà còn có những ảnh hưởng tích cực đến các đối tượng liên quan; nên việc
xác định những kết quả thực tế do sự tác động của giám sát đòi hỏi phải có quan
điểm toàn diện, cụ thể, đồng thời phải có những phương pháp đúng đắn để có thu
thập nhiều nguồn thông tin và tư liệu khác nhau. Những kết quả thực tế do sự tác
động giám sát của HĐND mang lại được thể hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau
như: mức độ thực hiện đúng quy định Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của HĐND
tỉnh của các cơ quan, tổ chức; trách nhiệm của những người có chức vụ quyền hạn
cũng như của cán bộ công chức nói chung... Đó là những thay đổi tích cực trong
hoạt động của các cơ quan nhà nước dưới ảnh hưởng của giám sát.
Những kết quả thực tế do sự tác động của pháp luật có thể xác định cụ thể
nhưng cũng có thể chỉ xác định được bằng các chỉ số chung phản ánh về mặt chất
lượng (mức độ). Chẳng hạn khi giám sát việc đầu tư xây dựng các công trình tại cấp
xã không chỉ nói tới số lượng các công trình đã được các xã xây dựng mà còn phải
chú ý tới cả chất lượng của của công trình. Cũng cần chú ý những biến đổi của các
đối tượng bị giám sát trong thực tế không hoàn toàn chỉ do tác động của cơ quan
dân cử ở địa phương mà còn là sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khác như cơ
quan, phòng ban liên quan cấp huyện, chỉ đạo hướng dẫn của cấp huyện, sự giám
sát của nhân dân... Do vậy chúng ta phải xác định rõ những kết quả nào do giám sát
của HĐND huyện tác động mang lại, còn những kết quả nào là do công cụ khác tác
động.
Tiêu chí để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND chỉ là những kết quả thực
tế do sự tác động của HĐND. Nếu những kết quả thực tế đạt được hoàn toàn không
có sự tác động của Hội đồng mà do sự tác động của yếu tố khác (giữa kết quả thực
tế và sự tác động không có quan hệ nhân quả) thì không thể coi đó là cơ sở để đánh
giá hiệu quả giám sát của HĐND. Nếu những kết quả tích cực đạt được do giám sát
của HĐND mang lại, phản ánh đúng mục đích, yêu cầu, định hướng đề ra khi lên kế
hoạch giám sát thì giám sát có thể được xem có hiệu quả. Mục đích, yêu cầu, định
19
hướng khi chuẩn bị giám sát và những kết quả thực tế do giám sát mang lại phải xác
định trong cùng một tiêu chuẩn, trong cùng một phạm vi, có như vậy đánh giá mới
chính xác. Khi xem xét những kết quả thực tế do giám sát của HĐND cần tính tới cả
những biến đổi tích cực và cả những biến đổi không tích cực nếu có. Chẳng hạn
việc các ban của HĐND tỉnh tổ chức các đoàn xuống giám sát tại cơ quan, các
ngành chức năng thuộc tỉnh và ở các huyện có thể đưa đến những ảnh hưởng tốt
nhưng bên cạnh đó cũng có thể gây ra tâm lý lo lắng, cản trở sự hoạt động bình
thường của cơ quan tổ chức, ảnh hưởng đến chương trình hoạt động của đối tượng
bị giám sát.
1.3 Hình thức hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh
1.3.1. Hoạt động giám sát thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân
Trong hoạt động của bộ máy nhà nước CHDCND Lào, để kiểm soát đối với
quyền lực nhà nước, có nhiều hình thức khác nhau, trong đó giám sát, kiểm tra,
thanh tra là những hình thức cơ bản, trong đó: Giám sát dùng để chỉ hoạt động của
cơ quan quyền lực nhà nước, toà án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm bảo đảm
sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám
sát chủ yếu thực hiện ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc. Kiểm tra là khái
niệm rộng được vận dụng theo hai hướng. Một là, kiểm tra là hoạt động thường
xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới nhằm xem xét,
đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi cần thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ
thể, việc thực hiện một quyết định quản lý hành chính nhà nước nào đó. ở đây, hoạt
động kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc. Vì vậy, khi thực hiện kiểm tra, cơ
quan cấp trên, thủ trưởng cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ
luật, biện pháp bồi thường thiệt hại vật chất, hoặc áp dụng các biện pháp tác động
tích cực tới đối tượng bị kiểm tra như khen thưởng về vật chất, tinh thần. Hai là,
kiểm tra là hoạt động của các tổ chức, xã hội như kiểm tra Đảng, kiểm tra các tổ
chức xã hội đối với hành chính nhà nước.Vì vậy, kiểm tra ở phạm vi này ít mang
tính quyền lực nhà nước, mà chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính xã
hội.Thanh tra là phạm trù dùng để chỉ hoạt động của các tổ chức thanh tra nhà nước,
gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành (thanh tra bộ, thanh tra sở).Cơ
20
quan thanh tra và đối tượng bị thanh tra thường không có quan hệ trực thuộc. Tuy
nhiên, các cơ quan thanh tra do thủ trưởng các cơ quan hành chính thành lập, do vậy
nó hoạt động với tư cách là cơ quan chức năng giúp thủ trưởng cùng cấp. Vì vậy, có
thể coi hoạt động thanh tra được cơ quan cấp trên tiến hành trong quan hệ đối với
cơ quan trực thuộc. Trong quá trình thanh tra, cơ quan thanh tra có thể áp dụng các
biện pháp cưỡng chế để bảo đảm công tác thanh tra, kể cả các biện pháp trách
nhiệm kỷ luật (tạm đình chỉ công tác...) và xử lý vi phạm hành chính, nhưng không
có quyền sửa đổi, bãi bỏ quyết định của đối tượng bị thanh tra mà chỉ có quyền tạm
đình chỉ việc thi hành một số loại quyết định quản lý hành chính nhà nước nào đó,
trong những trường hợp đặc biệt cần thiết, hoặc đình chỉ hành vi hành chính trái
pháp luật. Từ những phân tích trên đây có thể nhận thấy giám sát khác với kiểm tra
và thanh tra ở chỗ:
- Giám sát khác với kiểm tra Kiểm tra là khái niệm bao hàm những thao tác
có tính xác định, tính cụ thể rõ hơn. Kiểm tra được thực hiện khi có dấu hiệu hoặc
sự việc sai phạm xảy ra là “xem xét cụ thể công việc”.Chủ thể và đối tượng kiểm tra
có thể cùng hệ thống với nhau (tự kiểm tra, cấp trên kiểm tra cấp dưới). Giám sát
khác với kiểm tra ở chỗ: giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngoài, còn kiểm tra là
hoạt động thường xuyên từ bên trong tổ chức hành pháp.
- Giám sát khác với thanh tra Thanh tra và giám sát có chỗ giống nhau là
đều có hoạt động “xem xét, đánh giá” nhưng khác nhau ở chỗ giám sát là sự “chủ
động theo dõi” còn thanh tra thường chỉ xem xét khi có dấu hiệu, sự việc vi phạm
xảy ra. Hậu quả pháp lý của giám sát chủ yếu thông qua hình thức “kiến nghị” còn
thanh tra là áp dụng những biện pháp xử lý cụ thể. Thanh tra được tiến hành bởi chủ
thể xác định, có thẩm quyền, với động có phạm vi, tính chất gần nhau, thậm chí có
biểu hiện khách quan khá giống nhau (xem xét, đánh giá) nằm trong cơ chế kiểm
soát đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau về quan hệ
pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm vi, phương pháp thực hiện và hậu quả pháp lý.
Như chúng ta thấy, thuật ngữ “giám sát” cũng được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau. Có quan niệm cho rằng giám sát là sự theo dõi, xem xét, làm đúng hoặc
sai những điều đã quy định. Quan niệm khác coi “giám sát là việc theo dõi và kiểm
21
tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không, là chức năng quan thời xưa
trông nom, coi sóc một loại công việc nhất định. Có ý kiến chỉ coi “giám sát” là một
nhóm hoặc là một tổ chức để theo dõi một việc nào đấy.
Theo từ điển Luật học: “giám sát” là sự theo dõi quan sát hoạt động mang
tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích
cực để buộc và hướng các hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ
đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả từ trước đảm bảo cho pháp luật
được tuân theo nghiêm chỉnh”
Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam, khái niệm giám sát
được giải thích: “Giám sát là việc của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội, Hội
đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”
Mặc dù cách diễn đạt có khác nhau nhưng nội dung cơ bản của việcgiám sát
là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ đề nào đó trong một công việc, lĩnh
vực cụ thể đã thực hiện đúng hay chưa những điều đã quy định; từ đó có biện pháp
điều chỉnh hoặc xử lý đối với những hành vi sai lệch, nhằm đạt được những mục
đích, hiệu quả xác định từ trước, đảm bảo cho các quy định thực hiện đúng và đầy
đủ. Theo những chỉ dẫn trên, các thuật ngữ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát đều diễn tả
những hành vi, hoạt động của những chủ thể nhất định và đồng nghĩa với thuật ngữ
giám sát. Nhưng thuật ngữ giám sát được phân biệt với các thuật ngữ kiểm tra,
thanh tra, kiểm soát nêu trên ở chỗ:
Kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là hoạt động mang tính chất nội bộ trong cùng
hệ thống cơ quan nhà nước. Ví dụ: kiểm tra, thanh tra của cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc. Giám
sát là hoạt động kiểm tra từ bên ngoài của cơ quan thuộc hệ thống cơ quan khác đối
với cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát. Chẳng hạn giám sát của cơ quan quyền lực
nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước.
22
Giám sát là một trong hai chức năng quan trọng nhất của HĐND. Tại kỳ họp,
HĐND thực hiện quyền giám sát của mình thông qua việc xem xét các báo cáo của
Thường trực HĐND, UBND, các ban HĐND tỉnh, TAND, VKSND tỉnh; thực hiện
quyền chất vấn. Khi hoạt động giám sát tại kỳ họp được thực hiện một cách nghiêm
túc và hiệu quả thì tính khả thi trong các quyết sách của HĐND rất cao. Vì vậy, có
thể nói đây vừa là kết quả của việc thực hiện nghị quyết, đồng thời cũng là cơ sở để
xây dựng các nghị quyết của HĐND.
Để hoạt động giám sát của HĐND tại kỳ họp đạt kết quả cao, cần xác định
công tác chuẩn bị kỳ họp là hết sức quan trọng. Trước hết là dự kiến thời gian; chủ
động chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp; thông báo cho các cơ quan liên quan
chuẩn bị tài liệu; phân công các ban HĐND thẩm tra các báo cáo, đề án, dự thảo
nghị quyết trình tại kỳ họp. Đây là tiền đề mang tính quyết định đến hiệu quả giám
sát tại kỳ họp nói riêng và chất lượng của kỳ họp HĐND nói chung.
Trước khi tiến hành kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh xây dựng kế hoạch
hướng dẫn các Tổ đại biểu tiếp xúc cử tri và họp Tổ đại biểu. Đối với những nội
dung liên quan đến chế độ chính sách, có ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân cần
tổ chức tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, đối tượng cử tri tham gia tiếp xúc tập trung
chủ yếu vào các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng các chính sách, đối tượng chịu tác
động trực tiếp, nhằm nhận được nhiều ý kiến của cử tri tham gia vào những nội
dung mà HĐND tỉnh sẽ xem xét, thông qua tại kỳ họp.
Tại kỳ họp, giảm thời gian trình bày các báo cáo tại hội trường, dành thời
gian cho thảo luận tại tổ, thảo luận tại hội trường, chất vấn và trả lời chất vấn. Việc
chuẩn bị kỹ đề cương gợi ý thảo luận, báo cáo thẩm tra của các ban, báo cáo tổng
hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, tổng hợp ý kiến thảo luận của các Tổ đại biểu trước
kỳ họp... nhằm cung cấp đầy đủ nhất các thông tin đến các đại biểu HĐND. Báo cáo
thẩm tra của các ban HĐND tỉnh thể hiện chính kiến của ban về những vấn đề đã
thẩm tra, góp phần định hướng cho các đại biểu HĐND thảo luận và quyết định các
nội dung được trình tại kỳ họp. Đồng thời, Thường trực HĐND tỉnh có trách nhiệm
chỉ đạo chuẩn bị kỹ nội dung, chương trình kỳ họp và trong những trường hợp cần
23
thiết có thể xin ý kiến các đại biểu để điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến thực tế
tại kỳ họp.
Trong các kỳ họp, HĐND tỉnh phải chú trọng đến hoạt động chất vấn và trả
lời chất vấn, coi đây là công cụ giám sát trực tiếp của đại biểu HĐND, nhằm tăng
cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh.
Thường trực HĐND đã chỉ đạo việc tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri qua
TXCT trước kỳ họp, các ý kiến thảo luận tại Tổ đại biểu trước kỳ họp, Thông báo
kết quả hoạt động của Mặt trận Yêu nước và các tổ chức thành viên tham gia xây
dựng chính quyền và những kiến nghị với HĐND và UBND tỉnh, Báo cáo thẩm tra
của các ban HĐND tỉnh, các kiến nghị của cử tri do Đoàn ĐBQH tỉnh chuyển đến,
tổng hợp ý kiến thảo luận ở các Tổ thảo luận tại kỳ họp và tổng hợp các ý kiến cử
tri thông qua số điện thoại thường trực tại kỳ họp nhằm lựa chọn những vấn đề bức
xúc được nhiều đại biểu và cử tri quan tâm để yêu cầu các cơ quan chức năng có
thẩm quyền trả lời chất vấn và giải trình.
Văn bản trả lời chất vấn và giải trình được gửi đầy đủ cho các đại biểu
HĐND tỉnh trước các phiên họp chất vấn, trả lời chất vấn và giải trình. Tính bình
quân mỗi kỳ họp của HĐND tỉnh đưa ra nội dung được lựa chọn đưa ra chất vấn và
đề nghị giải trình. Mỗi kỳ họp, HĐND tỉnh thường dành từ 1,5-2 ngày cho hoạt
động thảo luận tại tổ, thảo luận tại hội trường, chất vấn, trả lời chất vấn và giải
trình.
Chủ tọa điều hành các phiên chất vấn cần linh hoạt, bảo đảm cho phiên chất
vấn, trả lời chất vấn và giải trình được thực hiện dân chủ, cởi mở, thẳng thắn với
tinh thần trách nhiệm cao của người trả lời chất vấn cũng như người đặt câu hỏi chất
vấn. Trên cơ sở những nội dung yêu cầu các cơ quan chức năng trả lời chất vấn,
Thường trực HĐND tỉnh đề nghị các Tổ đại biểu phân công đại biểu thực hiện
quyền chất vấn theo các nội dung đã lựa chọn nhằm bảo đảm tính dân chủ và nâng
cao chất lượng phiên họp.
Kết thúc phiên họp, Chủ tọa tổng kết đánh giá những ưu điểm và những hạn
chế trong hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn và giải trình; nêu những vấn đề còn
tồn tại và yêu cầu Thủ trưởng cơ quan, đơn vị có liên quan tiếp thu để sửa chữa,
24
khắc phục; giao Thường trực, các ban và đại biểu HĐND tỉnh tiếp tục theo dõi,
giám sát việc thực hiện lời hứa của các cơ quan trả lời chất vấn tại kỳ họp. Từ đầu
nhiệm kỳ đến nay, Thường trực HĐND tỉnh chỉ đạo Văn phòng Đoàn ĐBQH và
HĐND tỉnh phân công chuyên viên theo dõi việc giải quyết các nội dung mà Thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị đã hứa thực hiện; đồng thời có văn bản đề nghị UBND
tỉnh yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan báo cáo kết quả thực hiện, để tổng hợp
báo cáo HĐND tỉnh tại kỳ họp gần nhất.
1.3.2. Hoạt động giám sát ngoài kỳ họp
Trong xã hội, nhân dân là người sáng tạo lịch sử, nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực. Tư tưởng và chân lý đó đã được các bản Hiến pháp khẳng định: Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình
thông qua cơ quan đại diện từ Quốc hội đến Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng
nhân dân các cấp nói chung, Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nói riêng là cơ
quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thay mặt nhân dân thực
thi quyền lực nhà nước bằng cách căn cứ vào Hiến pháp, Luật, tình hình thực tế địa
phương mà quyết định các biện pháp tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật. Nghị quyết
của Hội đồng nhân dân vừa mang tính đại diện, vừa mang tính quyền lực nhà nước,
có giá trị bắt buộc chung cho mọi cơ quan, tổ chức và công dân ở địa phương. Như
vậy, giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là
một trong những biện pháp cần thiết và không thể thiếu được nó, đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Chỉ khi nào mọi
hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhân viên nhà nước đặt dưới sự
giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân thì khi ấy quyền lực nhà nước mới thực
sự thuộc về nhà nước. Nếu quyền lực giám sát của Hội đồng nhân dân bị xem nhẹ
hoặc bị xâm hại thì khi ấy quyền lực của nhân dân không được đảm bảo và có thể
trở thành hình thức.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có vai trò quan trọng
trong việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương nói
riêng và bộ máy nhà nước nói chung.
25
Lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng chỉ khi nào pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được tuân thủ một cách triệt
để thì bộ máy nhà nước mới phát huy được sức mạnh vốn có để hoàn thành một
cách hiệu quả những chức năng và nhiệm vụ của mình trong quản lý xã hội.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân vì:
Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là một trong những phương diện
đảm bảo cho mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội ở địa phương được tiến hành trên cơ sở pháp luật, tuân thủ nghiêm chỉnh pháp
luật, từ đó mà Hiến pháp, pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh ở địa
phương.
- Thông qua hoạt động giám sát, các quyết định của HĐND có thê những căn
cứ khoa học vững chắc, phù hợp với yêu cầu thực tế địa phương, đảm bảo tính khả
thi của các quyết định, từ đó nâng cao cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân trong thực tế
- Thông qua hoạt động giám sát giúp HĐND cấp tỉnh phát hiện kịp thời những
yếu kém, khiếm khuyết trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội..ở địa phương, từ đó có biện pháp khắc phục sửa chữa nhằm
đảm bảo tính quyền lực nhà nước của HĐND
- Thông qua hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh mà góp phần làm trong
sạch bộ máy nhà nước ở địa phương làm cho chính quyền nhà nước ở địa phương
trở nên vững mạnh. Bằng hoạt động giám sát cũng đưa ra được các biện pháp, cách
thức, gợi ý… để các đối tượng chịu sự giám sát làm tốt hơn chức năng, nhiệm vụ
của mình.
Nội dung giám sát tập trung vào việc giải quyết những ý kiến, kiến nghị của
cử tri của UBND tỉnh và các cơ quan chức năng; giám sát việc khắc phục hạn chế
sau giám sát. Trong công tác giám sát, Thường trực và các ban HĐND đã điều hòa,
phối hợp chặt chẽ với các tổ đại biểu, đại biểu từ việc đi thực tế, nắm thông tin của
cử tri.
26
Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh không phải chỉ đổi mới trong việc
tổ chức thành các cuộc đi giám sát mà còn thông qua phương thức giám sát thường
xuyên của Thường trực và các ban HĐND. Đó là giám sát thông qua các hoạt động
thẩm tra các báo cáo, dự thảo tờ trình của UBND tỉnh; thẩm tra kết quả giải quyết
kiến nghị của cử tri sau các kỳ họp của UBND.
Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND và Luật Tổ chức
chính quyền địa phương, HĐND có thể giám sát thông qua việc xem xét báo cáo
công tác của các cơ quan nhà nước; xem xét quyết định của UBND cùng cấp và
nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp; tổ chức giám sát chuyên đề và lấy phiếu
tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu. Luật pháp
cũng quy định rõ thẩm quyền giám sát của đại biểu HĐND với tư cách cá nhân.
Thẩm quyền giám sát của HĐND và các đại biểu HĐND là rất lớn, có khả năng tác
động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Khi HĐND các cấp thực hiện đầy đủ và
hiệu quả nhiệm vụ này, tập trung vào các vấn đề bức xúc, dư luận quan tâm, sẽ
khẳng định vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
1.4.1. Yếu tố chính trị
Các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân
dân, bởi các quy định của pháp luật về giám sát là cơ sở pháp lý cho HĐND thực
hiện quyền năng của mình. Các quy định liên quan đến HĐND tạo thành khuôn khổ
trật tự cho các quan hệ của HĐND cấp tỉnh hoạt động.Các quy định đó ảnh hưởng
quan trọng đối với chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh. Quy định trực tiếp
liên quan đến HĐND cấp tỉnh có các quy định về địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức, đội
ngũ cán bộ, công chức… Quy định gián tiếp liên quan đến HĐND cấp tỉnh có các
quy định mang tính hỗ trợ như chế độ, chính sách, ưu đãi, đào tạo và bồi dưỡng đối
với cán bộ, công chức HĐND cấp tỉnh; quy định về mối quan hệ công tác giữa
HĐND cấp tỉnh với các cơ quan khác.
27
Các quy định liên quan đến HĐND cấp tỉnh không chỉ quy định trực tiếp đến
HĐND cấp tỉnh mà còn tạo điều kiện cho các hoạt động khác có liên quan. Các quy
định càng chặt chẽ, đầy đủ thì chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh
càng cao; ngược lại nếu các quy định không đầy đủ, thiếu chặt chẽ sẽ gây cản trở
cho hoạt động của HĐND cấp tỉnh, thậm chí gây mâu thuẫn.
Nếu luật không quy định cụ thể về thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn.... của
các đối tượng liên quan đến hoạt động giám sát thì việc ghi nhận chức năng giám
sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ là hình thức. Điều này đã được chứng
minh trong thực tiễn phát triển của luật tổ chức Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân
dân. Nhưng từ năm 2015 , luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã
cụ thể, chi tiết hoá chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân nên trong thời gian
vừa qua đã đem lại nhiều kết quả đáng kể.Như vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát
của Hội đồng nhân dân thì đòi hỏi quan trọng nhất là phải ban hành đủ các văn bản
pháp luật trong lĩnh vực giám sát cho HĐND nói riêng và toàn bộ hoạt động của
Hội đồng nhân dân nói chung.
Về tổ chức bộ máy hoạt động của Hội đồng nhân dân thì HĐND là cơ quan
hoạt động không thường xuyên, cùng với đặc điểm đại biểu HĐND hoạt động theo
chế độ kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của Hội đồng
nhân dân. Hơn nữa HĐND là cơ quan mang tính chất đại diện ở địa phương, về mặt
tổ chức lâu nay vẫn chưa được chú ý cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để thực hiện tốt
chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát, đòi hỏi Hội đồng nhân dân
phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và năng động. Bởi thực tế cho thấy bất kỳ
một cơ quan nào, nếu có tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên guồng máy làm việc
nhịp nhàng và mang lại hiệu quả.
1.4.2. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh. Nếu có ngân sách, tài chính phục vụ cho công tác phát triển đội
ngũ cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, hỗ trợ công tác thực hiện nhiệm vụ,
triển khai các dự án, kế hoạch và thực hiện mục tiêu đề ra. Muốn nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh cần phải đầu tư chi phí và điều kiện vật
28
chất cho hoạt động giám sát. Trong quan hệ đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND
cần hiểu tính chất hai mặt của đầu tư chi phí cho hoạt động này: đầu tư chi phí cho
hoạt động giám sát của HĐND theo yêu cầu của từng nội dung hoạt động. Nếu có
đầu tư đúng mức sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND.
Chúng ta cần phải đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị cần thiết, khắc phục tình
trạng khó khăn lâu nay trong công việc giám sát là thiếu nguồn thông tin cập nhật;
đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát phải tối ưu, nghĩa là chỉ đủ mức cần thiết và
triệt để tiết kiệm, chống lãng phí. Không có nghĩa hễ cứ tăng đầu tư chi phí thì khi
đó và ở đó, công tác giám sát có hiệu quả. Ngược lại, nhiều khi chỉ với mức kinh
phí hạn hẹp, nhưng nếu tổ chức thực hiện tốt, tìm ra những hình thức phương pháp
thích hợp, cũng có thể đưa lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, do tính đặc thù của công
tác giám sát, hơn nữa ở CHDCND Lào nhiều khi dư luận xã hội cũng đóng vai trò
rất lớn trong việc chấn chỉnh các vấn đề chính trị, cho nên trong một số trường
hợp, không nên căn ke, tính toán mức chi phí bỏ ra là bao nhiêu, vấn đề chúng ta
có thực hiện chương trình giám sát đến cùng hay không. Nếu cuộc giám sát đưa lại
kết quả tốt không những góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế của địa
phương mà còn có tác dụng to lớn trong việc chấn chỉnh các vấn đề chính trị - xã
hội. Như vậy, khi nói tới hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào nói chung và giám sát
nói riêng đòi hỏi phải tính đến mức đầu tư, chi phí hợplý.
Có thể so sánh tình hình kinh tế - xã hội sau khi có hoạt động giám sát so
với trước khi có hoạt động giám sát.Để đánh giá hoạt động của cơ quan Nhà nước
nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, trước hết cần phải căn cứ vào tình hình
kinh tế - xã hội của địa phương. Đây là yếu tố cần phải xem xét, bởi tất cả các hoạt
động của cơ quan, đơn vị suy cho cùng không ngoài mục đích nhằm thúc đẩy kinh
tế - xã hội địa phương ngày càng phát triển. Đồng thời thông qua giám sát, HĐND
không những chỉ có quyền kiến nghị với UBND, với các ngành có liên quan mà có
thể kiến nghị với Trung ương về việc đưa ra những chủ trương, chính sách cho phù
hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy, muốn biết hoạt động
giám sát của HĐND có mang lại hiệu quả hay không, chúng ta phải có những biện
pháp so sánh tình hình kinh tế - xã hội của địa phương sau khi có hoạt động giám
29
sát với trước khi hoạt động có giám sát. Nếu sau chương trình giám sát hàng năm
của HĐND, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có những chuyển biến tích cực,
đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, thì điều đó cho thấy, hoạt động giám
sát của HĐND đã mang lại hiệu quả và ngược lại.Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế -
xã hội địa phương không hoàn toàn chỉ do sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố
quan trọng khác.
1.4.3. Yếu tố văn hóa
Trong hoạt động giám sát, tính kinh tế liên quan chặt chẽ với tính xã hội. Có
những cuộc giám sát nếu tính dưới góc độ kinh tế thì không mang lại lợi ích thiết
thực nhưng dưới góc độ xã hội lại mang lại hiệu quả rất lớn. Một số lĩnh vực nếu
được giám sát đến cùng và triệt để không những góp phần tích cực vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, mà còn có tác dụng to lớn trong việc chấn
chỉnh các vấn đề chính trị - xã hội chung. Vì vậy, khi căn cứ vào tiêu chí kinh phí
để xem xét hiệu quả giám sát của HĐND, phải xem xét cả hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xã hội của công tác giám sát.
Yếu tố văn hóa có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc
gia, cần hiểu rõ nội dung văn hóa mang tính bản chất trong hoạt động của mỗi chủ
thể và trong toàn xã hội, gắn với vai trò và chức năng của từng chủ thể, như trên đã
nói. Để hiểu rõ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển thì cần tránh cách hiểu văn
hóa thiên về giác độ cách ứng xử, quan hệ…; mà phải hiểu văn hóa là những giá trị
cốt lõi định hướng, chi phối hoạt động của các chủ thể và toàn xã hội trong mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái.Văn hóa là cơ sở để xác lập
các giá trị cốt lõi của mô hình - con đường - thể chế phát triển của một quốc gia -
dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế chính trị thực sự là của dân, do dân
và vì dân. Xác lập mục tiêu bao trùm của sự phát triển là vì con người; con người
vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị này thường được xác
định, chế định trong cương lĩnh của các Đảng cầm quyền, trong hiến pháp, pháp
luật, chiến lược phát triển của quốc gia; là cơ sở để xác lập các giá trị xã hội, lối
sống xã hội, nền đạo đức xã hội thượng tôn pháp luật, nhân văn, nhân ái, tôn trọng
quyền con người, quyền công dân và tạo nên sức mạnh trong phát triển.Đồng thời,
30
yếu tố văn hóa là cơ sở để xây dựng cơ chế liên kết - điều tiết sự phát triển thông
qua liên kết các giá trị giữa các chủ thể và trong toàn xã hội; hạn chế những tác
động tiêu cực trong quá trình phát triển.
Xét về phương diện văn hóa, thì những thắng lợi, thành công mà Đảng lãnh
đạo nhân dân ta đứng lên làm cách mạng giành chính quyền, lãnh đạo Nhà nước và
xã hội đạt được trong xây dựng và bảo vệ đất nước đều có nguyên nhân cốt lõi là
Đảng đã đưa ra được những giá trị thể hiện được ý chí, nguyện vọng, lợi ích của
nhân dân - của dân tộc, đồng thời đội ngũ cán bộ, đảng viên đã thể hiện là những
tấm gương mẫu mực trong tổ chức hiện thực hóa những giá trị đó trong cuộc sống.
Công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, xét về phương diện văn hóa, thì vấn đề đầu
tiên và cũng là cốt lõi nhất chính là xác định lại hệ giá trị phát triển, trong đó cơ
bản nhất là giá trị con người, giá trị lợi ích (hiểu theo nghĩa rộng gồn cả lợi ích vật
chất và lợi ích tinh thần), giá trị pháp lý, giá trị đạo đức của tất cả các chủ thể trong
xã hội, phù hợp với đòi hỏi khách quan của sự phát triển trong giai đoạn mới. Công
cuộc Đổi mới được bắt đầu từ thực tiễn, chính thực tiễn đã buộc Đảng, Nhà nước
và mọi chủ thể trong xã hội phải đổi mới tư duy, nhận thức, quan điểm về con
đường và mô hình phát triển, mà trọng tâm là phát triển kinh tế. Từ đổi mới tư duy,
nhận thức mới đưa đến đổi mới đường lối, quan điểm, chủ trương, cơ chế, chính
sách phát triển đất nước. Các giá trị văn hóa được Đảng và Nhà nước thể hiện
trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương, Hiến pháp, luật pháp, cơ chế, chính sách
phát triển các lĩnh vực của đất nước. Mặt khác, các giá trị con người - văn hóa - xã
hội lại được hình thành một cách khách quan (cả tích cực và tiêu cực) dưới tác
động tổng hợp của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và quá trình hội nhập quốc
tế, toàn cầu hóa. Vì vậy trong hoạt động của các tổ chức nói chung và hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng không thể coi nhẹ yếu tố văn hóa.
1.4.4. Các yếu tố khác
1.4.4.1. Đội ngũ cán bộ, công chức
Con người luôn là trung tâm của mọi vấn đề. Các Mác đã viết: “Con người là
tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Ở HĐND cấp tỉnh , con người chính là đội ngũ
cán bộ, công chức. Hiệu quả hoạt động của cơ quan tuỳ thuộc vào chất lượng, trình
31
độ, năng lực và đạo đức của cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức là nhân tố trung
tâm trong bộ máy hành chính nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Chúng ta hay
nhắc đến thủ tục rườm rà, nhưng thủ tục cũng là do con người đặt ra. Có thể con
người trình độ kém nên đặt ra thủ tục rườm rà, nhưng cũng có thể có trình độ và chủ
động làm ra vậy để có cơ hội nhũng nhiễu. Do đó, con người mà cụ thể là đội ngũ
cán bộ, công chức là nhân tố quyết định sự hoạt động của HĐND cấp tỉnh .
Việc bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức của HĐND cấp tỉnh là yếu tố có ý
nghĩa rất lớn đến hoạt động của HĐND cấp tỉnh. Nếu như việc bố trí, sắp xếp nhân
sự cán bộ, công chức của HĐND cấp tỉnh không khoa học, các mối quan hệ không
được xác định rõ ràng, rành mạch thì trong công việc sẽ không đem lại hiệu quả.
Tùy theo tính chất của mỗi loại công việc mà HĐND cấp tỉnh có thể lựa chọn, bố
trí, sắp xếp cán bộ, công chức khác nhau cho phù hợp với mục tiêu của mình dựa
trên cơ sở về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực hiện có.
1.4.4.2. Cơ cấu tổ chức
- Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ, nếu cơ cấu hợp lý thì hoạt động của
từng văn phòng HĐND cấp tỉnh sẽ trở nên nhịp nhàng, thuận tiện, đảm bảo cho việc
thực hiện công việc tốt hơn. Chức năng, nhiệm vụ là yếu tố cơ bản của văn phòng,
đó là điều kiện thiết yếu cho văn phòng hoạt động.
- Mục tiêu hành động của tổ chức:
+ Mục tiêu tổng quát: mục tiêu chung đưa ra là gì? Phải đạt đến mức độ nào?
Mục tiêu này phải bao quát được các mục tiêu cụ thể? Tác động, ảnh hưởng trực
tiếp, gián tiếp đến hiệu quả công việc như thế nào?
+ Mục tiêu cụ thể: các mục tiêu này phải dựa trên mục tiêu tổng quát, phải
đúng các tiêu chí cụ thể, hiện thực hoá bằng các nhiệm vụ cụ thể sát thực với các
mục tiêu khi hoạch định cho hoạt động của tổ chức.
Cơ cấu tổ chức và mục tiêu hành động của văn phòng có ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả hoạt động của văn phòng. Tổ chức được cơ cấu hợp lý, mục tiêu hành
động rõ ràng sẽ mang lại hiệu quả công việc cao, và ngược lại.
- Nền nếp, kỷ cương, kỷ luật của văn phòng có sự tác động lớn tới hiệu quả
làm việc của cán bộ, công chức, ảnh hưởng tới tác phong làm việc của cán bộ, công
32
chức. Một văn phòng có nền nếp, kỷ luật, kỷ cương nghiêm minh sẽ là môi trường
tốt để cán bộ, công chức phấn đấu, trưởng thành, đồng thời sẽ loại bỏ tư tưởng chây
lười, vô tổ chức của một số cán bộ, công chức cá biệt.Bởi trong một môi trường nền
nếp, kỷ luật, nếu cán bộ, công chức có sự vô tổ chức sẽ tự bị đào thải.Nền nếp, kỷ
cương góp phần làm giảm tối đa các hiện tượng tiêu cực trong cơ quan.
1.4.4.3. Điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật
Cơ sở vật chất - kỹ thuật được hiểu là các kết cấu hạ tầng như nhà làm việc,
nhà tiếp dân, nhà thể thao… và các phương tiện làm việc cùng với trang thiết bị
phục vụ công việc như máy móc, công cụ hỗ trợ, văn phòng phẩm… Cơ sở vật chất
- kỹ thuật có vai trò quan trọng vì nó là công cụ làm việc của cán bộ, công chức,
ngoài ra nó còn có tác động đến yếu tố tâm lý của cán bộ, công chức, làm kích thích
niềm say mê, sáng tạo, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu suất làm việc của
cán bộ, công chức.
Công nghệ thông tin: do sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật
ngày càng nhiều, các cơ quan, đơn vị áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
văn phòng của mình. Nếu như các công việc văn phòng chỉ được thực hiện theo
phương pháp thủ công, đơn giản thì hiệu quả hoạt động văn phòng sẽ không cao,
tiến độ thực hiện công việc chậm, kém chính xác. Chính vì vậy mà yếu tố
công nghệ thông tin cho hoạt động văn phòng có ý nghĩa lớn ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động văn phòng, cần được các cơ quan, đơn vị xem xét, áp dụng kịp thời
[15, 4].
1.4.4.4. Môi trường làm việc
Môi trường làm việc là các thể chế hoặc lực lượng bên ngoài có thể tác động
tới hoạt động của tổ chức. Môi trường có nhiều cách phân loại:
- Môi trường bên trong: điều kiện làm việc, con người, tiền lương, mối quan
hệ giữa các cán bộ, công chức trong công sở… Môi trường bên ngoài: môi trường
trong nước, môi trường quốc tế.
- Môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường giáo dục…
- Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường chính trị…
33
Môi trường làm việc là yếu tố tác động mạnh đến hiệu suất làm việc của cán
bộ, công chức.
Môi trường làm việc quan trọng nhất là mối quan hệ giữa các thành viên
trong cơ quan. Trong một tổ chức nói chung, văn phòng cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng có nhiều mối quan hệ như: mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên,
mối quan hệ giữa các nhân viên, mối quan hệ giữa các nhóm, mối quan hệ giữa
nhân viên với công dân… Nhưng tựu chung có 2 quan hệ phổ biến và cơ bản:
- Quan hệ cộng tác: là mối quan hệ cực kỳ quan trọng, có nhiều vấn đề cần
phải có sự kết hợp của các nhóm mới thực hiện tốt được nhiệm vụ.
- Quan hệ điều hành, quan hệ chỉ huy: thực hiện công việc quản lý trên
phương diện điều hành công việc có hiệu quả hay không, mang lại kết quả tốt hay
không phụ thuộc vào kỹ năng điều hành, phân công công việc, cách chỉ đạo cấp
dưới theo các mệnh lệnh khác nhau, tuỳ thuộc theo những hoàn cảnh, tính chất, mối
quan hệ trong các cơ quan khác nhau.
Mối quan hệ trong cơ quan có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng và hiệu
quả công việc. Nếu mối quan hệ tốt sẽ làm cho cán bộ, công chức có tâm lý thoải
mái, tự tin, là yếu tố tạo hưng phấn trong công tác, làm tăng hiệu suất làm việc.
Ngược lại các mối quan hệ trong cơ quan xấu sẽ làm ảnh hưởng lớn tới hiệu suất
làm việc của cán bộ, công chức. Có thực tế là không phải ở tất cả các cơ quan, các
mối quan hệ đều tốt đẹp, trong môi trường với các mối quan hệ đan xen phức tạp,
có thể là mâu thuẫn giữa cấp trên với cấp dưới hoặc giữa đồng nghiệp với nhau…
34
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, tác giả đã khái quát cơ sở lý luận chung về vị trí pháp lý,
chức năng của HĐND cấp tỉnh. HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân
dân địa phương bầu ra, là một tổ chức vừa có tính chất chính quyền lực, vừa có tính
chất quần chúng, vừa là trường học quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ở địa
phương.Vì vậy, HĐND không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương mà
còn chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên.Tính chất đại diện và tính chất
quyền lực của HĐND có quan hệ biện chứng với nhau.
Theo Hiến pháp hiện hành và Luật tổ chức HĐND thì HĐND có ba chức
năng cơ bản sau; quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy
tiềm năng của địa phương; bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các
cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương; thực hiện quyền giám sát
đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc tuân thủ theo pháp luật của các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở
địa phương.Trong số các chức năng trên, chức năng giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật là một trong những chức năng quan trọng của HĐND. Bởi trong
mọi hoạt động quản lý nhà nước và xã hội thì hoạt động giám sát là hoạt động
không thể thiếu.
Giám sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của
Thường trực HĐND, giám sát của các ban của HĐND và giám sát của đại biểu
HĐND. Như vậy, chủ thể hoạt động giám sát bao gồm: HĐND như một tập thể các
đại biểu HĐND tại kỳ họp, Thường trực HĐND, các ban của HĐND, đại biểu
HĐND.
Ngoài ra, luận văn còn nêu một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát
gồm yếu tố chính trị, yếu tố kinh tế, yếu tố văn hóa và các yếu tố khác như đội ngũ
cán bộ công chức; cơ cấu tổ chức, điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật, môi trường
làm việc…
35
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH SAVANNAKHET
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. Giới thiệu về Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào
2.1.1. Quá trình hình thành của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet
HĐND tỉnh khóa I được thành lập sau kỳ họp Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc vào ngày 2 tháng 12 năm 1975. Thời gian đó, HĐND cấp cao khóa I gồm có
45 đại biểu trên toàn quốc, trong đó có 1 đại biểu nữ. Đến ngày 26 tháng 3 năm
1989, cả nước tiến hành bầu cử đại biểu HĐND khóa II với tổng số đại biểu trúng
cử là 69 ngừoi, trong đó có 1 đại biểu nữ trên toàn quốc.
Sau khi hoàn thành việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa III vào ngày 20 tháng
12 năm 1992, đến đầu năm 1993, kỳ họp Quốc hội khóa III đã khai mạc chính thức
tại thủ đô Viêng Chăn. Trong kỳ họp lần này, các đại biểu đã nhất trí công nhận
việc thành lập Văn phòng Quốc hội tại các khu vực bầu cử, là nơi làm việc của Đại
biểu Quốc hội ở các địa phương. HĐND tỉnh Savannakhet được thành lập cuối năm
1993 và có tên gọi là “Văn phòng giúp việc Đại biểu Quốc hội khu vực bầu cử số
13”. Đến giai đoạn hoạt động của Quốc hội khóa IV -V (năm 1997-2002), văn
phòng trên được đổi tên tên thành “Văn phòng đại biểu Quốc hội khu vực bầu cử số
13”. Năm 2006, sau khi kết thúc công tác bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa IV, tại kỳ
họp khai mạc các đại biểu nhất trí đổi tên thành “Văn phòng quốc hội khu vực bầu
cử số 13” và đến năm 2011, sau bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa VII, đã đổi tên từ
“Văn phòng quốc hội khu vực bầu cử số 13” thành “ Văn phòng Đại biểu Quốc hội
tại khu vực bầu cử số 13”.
Sau công cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội tại khu vực và đại biểu HĐND tỉnh
ngày ngày 20 tháng 3 năm 2016, ngày 31 tháng 5 năm 2016 các đại biểu Đại hội đã
chính thức đổi tên từ “Văn phòng Đại biểu Quốc hội tại khu vực bầu cử số 13”
thành “ Hội đồng nhân dân tỉnh ” đến hiện nay.
36
2.1.2. Vị trí, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet
2.1.2.1. Vị trí, nhiệm vụ của HĐND tỉnh Savannakhet
Savannakhet là một tỉnh thuộc miền Trung của CHDCND Lào, có biên giới
tiếp giáp với Viêt Nam và Vương quốc Thái Lan. Với vị trí chiến lược quan trọng
cả về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng của cả nước nói chung và miền trung
của Lào nói riêng, tỉnh Savannakhet đang có từng bước phải triển mạnh với những
bước chuyển biến mới trong quá trình hội nhập, xứng đáng là trung tâm kinh tế -
văn hóa của các tỉnh miền trung.
Bộ máy nhà nước ở CHDCND Lào cũng giống như thiết chế của một số nhà
nước khác trên thế giới, Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó có HĐND cấp tỉnh
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu
ra, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương
đó; HĐND tỉnh có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương theo
quy định của pháp luật. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng,
Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây dựng củng cố và phát triển HĐND
cấp tỉnh. Vì thế, HĐND đã làm được nhiều việc có lợi cho nước, cho dân, đã thể
hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững chắc để nhân
dân xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh.
- HĐND tỉnh Savannakhet với tư cách là người đại diện về quyền làm chủ
nhân dân trong tỉnh. Những người đủ năng lực, phẩm chất trong nhân dân sẽ tham
gia vào HĐND của tỉnh và thông qua các đại biểu của nhân dân, HĐND trở thành
diễn đàn để người dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội của mình.
Thực tiễn hoạt động của HĐND từ khi ra đời đến nay thực sự là tài sản và kinh
nghiệm quý giá cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhândân.
- HĐND tỉnh Savannakhet là cầu nối giữa chính quyền Trung ương và cấp
trên với chính quyền tỉnh và các huyện trên địa bàn tỉnh, vừa bảo đảm sự tập trung
thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa đảm
bảo phát huy được nội lực của tỉnh. Thông qua Quốc hội và HĐND tỉnh, bằng
37
quyền dân chủ trực tiếp của mình, nhân dân thực hiện được quyền làm chủ trên
phạm vi cả nước và trước hết làm chủ ở ngay địa phương, cơ sở họ đang sinh sống.
Trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đó, Điều 77 Hiến pháp sửa đổi bổ
sung năm 2015 và Điều 9 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân năm 2015 đều xác
định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương
bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên"
[8, tr 66].
Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền rộng rãi của HĐND đảm bảo cho nó
thật sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm và toàn
quyền quyết định những vấn đề trọng đại ở địa phương trong khuôn khổ quy định
của Hiến pháp và pháp luật. HĐND tỉnh có vai trò nghiên cứu và công nhận các
văn bản pháp luật quan trọng của địa phương. Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản
của các cơ quan nhà nước cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm
thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng an ninh ở địa phương, về biện
pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp
trên giao cho[12, tr.5].
2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet
Ngày 20 tháng 3 năm 2016, cử tri tỉnh đã bỏ phiếu bầu HĐND các cấp, trong
đó có 11 đại biểu Quốc hội tại khu vực bầu cử số 13, 36 đại biểu HĐND tỉnh . Hiện
nay tổng số đại biểu là 47
- Trình độ đại biểu HĐND tỉnh Savannakhet
+ Trình độ chuyên môn: Sơ cấp 1 đại biểu, trung cấp 6 đại biểu, cao đẳng 9
đại biểu, đại học 15 đại biểu, trên đại học 5 đại biểu
+ Trình độ chính trị: sơ cấp 01 đại biểu, trung cấp 1 đại biểu, cao cấp và cử
nhân 9 đại biểu
- Về bộ máy cán bộ nhân viên của HĐND tỉnh Savannakhet có 72 người
Thường trực HĐND tỉnh có 07 người bao gồm Chủ tịch HĐND tỉnh, 2 Phó
Chủ tịch HĐND tỉnh và Ủy viên Thường trực HĐND tỉnh ( xem phụ lục 1)
38
Ban Pháp chế - An ninh và Quốc phòng có 13 thành viên ( 1Trưởng ban, 2
Phó trưởng ban và 10 thành viên) ( xem phụ lục 2)
Ban Kinh tế - Kế hoạch và Tài chính từ đầu nhiệm kỳ đến hiện nay gồm 07
thành viên ( Trưởng ban, Phó trưởng ban) ( xem phụ lục 3)
Ban Văn hóa - Xã hội và Dân tộc có 13 thành viên ( 1Trưởng ban, 2 Phó
trưởng ban và 10 thành viên) ( xem phụ lục 4)
Ngoài ra còn có bộ phận thư ký có đông số cán bộ nhân viên nhất với 26
thành viên và chia làm 4 tiểu Ban: tổng hợp - thông tin, Hành chính - Kế toán, Tổ
chức - Kiểm tra và tổ chịu trách nhiệm công việc bầu cử - đối ngoạ ( 1Trưởng ban,
2 Phó trưởng ban và 23 thành viên) ( xem phụ lục 5)
So với các nhiệm kỳ trước, chất lượng đại biểu được nâng lên cả về trình độ
và năng lực, thành viên các ban hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau rất thuận lợi
cho hoạt động giám sát. Mặc dù vậy một số các đại biểu có độ tuổi vẫn còn ở mức
khá cao.
2.1.3. Tổng quan về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet
Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tại mỗi kỳ họp và chương
trình công tác của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp, Thường trực Hội đồng nhân
dân, các Ban chủ động xây dựng chương trình công tác, trong đó có kế hoạch giám
sát, xác định nội dung chi tiết các lĩnh vực, các vấn đề trọng điểm, vấn đề bức xúc
liên quan đến chế độ, chính sách, đời sống an sinh xã hội của người dân, qua đó
chọn ra các chuyên đề khảo sát, giám sát mà xã hội đang quan tâm. Các đại biểu,
đặc biệt là các đại biểu chuyên trách nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật,
các báo cáo, thu thập thông tin thông qua tiếp xúc cử tri, cập nhật các phương tin
thông tin đại chúng về các vấn đề liên quan đến chuyên đề giám sát. Trước khi tiến
hành giám sát, Ban cần xây dựng kế hoạch giám sát thật chất lượng, đề cương đặt ra
phải sát với yêu cầu. Đồng thời, tổ chức họp Đoàn giám sát để bàn bạc, thống nhất
nội dung giám sát, các câu hỏi, các vấn đề đặt ra đối với các đơn vị được giám sát.
Tổ chức đi khảo sát thực tế, cập nhật những hình ảnh trong quá trình khảo sát và
giám sát. Sau khi giám sát xong, Ban sẽ họp Đoàn giám sát để thông qua dự thảo
39
báo cáo kết quả giám sát nhằm đưa ra những kiến nghị, đề xuất chính xác, phù hợp
trong khả năng thực hiện của các đơn vị và chuyển những kiến nghị vượt thẩm
quyền cho cấp trên. Sau đó, Ban sẽ tiếp tục theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực
hiện kiến nghị của các đơn vị và sẽ tái giám sát nếu cần thiết. Trong hoạt động giám
sát, các thành viên Ban, nhất là đại biểu chuyên trách chọn ra các vấn đề xã hội
quan tâm, các vấn đề sai sót, trì trệ trong thực hiện, chuyển các ý kiến chất vấn và
các hình ảnh ghi nhận qua giám sát gửi đến kỳ họp, để báo cáo và chất vấn những
sở, ngành, UBND giải trình thuộc trách nhiệm của mình. Từ đầu nhiệm kỳ tới nay,
có thể nói HĐND tỉnh Savannakhet đã có bước đổi mới toàn diện cả nội dung lẫn
hình thức, có sự chuyển biến, nâng cao chất lượng hoạt động rõ nét được Đảng bộ
và nhân dân rất đồng tình, tin tưởng và đánh giá cao. Trong quá trình hoạt động,
Thường trực và các Ban HĐND cũng đã thường xuyên phối hợp, trao đổi kinh
nghiệm, bổ trợ cho nhau về thông tin để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng
hoạt động thẩm tra, giám sát, đặc biệt là các ý kiến chất vấn, phản biện của các đại
biểu chuyên trách ngày càng sâu sắc hơn, chỉ ra những vấn đề hạn chế, yếu kém,
khuyết điểm cần khắc phục và được đơn vị được chất vấn tiếp thu nghiêm túc.
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet.
2.2.1 Hoạt động giám sát tại kỳ họp
Điều 21 Luật Tổ chức HĐND năm 2015 quy định, HĐND giám sát tại kỳ
họp thông qua các hình thức sau đây:
- Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, Ủy ban nhân dân, Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các
thành viên khác của UBND, thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân.
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu [12, tr11]
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, HĐND đã tổ chức 9 kỳ họp, trong đó có 2 kỳ họp
bất thường và 1 kỳ họp chuyên đề. Các kỳ họp được thực hiện theo đúng quy định
của Luật tổ chức HĐND năm 2015; các đại biểu về dự đạt khoảng 94 – 96%; kỳ
họp giữa năm diễn ra từ 3-4 ngày. Kỳ họp đã làm việc thể hiện sự đổi mới, dân chủ,
40
đoàn kết; các phiên họp đều có đài truyền hình của tỉnh truyền hình trực tiếp, báo
địa phương và báo Trung ương đưa tin.
Thứ nhất, về hoạt động xem xét báo cáo
Sơ đồ 2.1: Báo cáo xem xét tại kỳ họp
Báo cáo xem xét
tại kỳ họp
Báo cáo Báo cáo của Báo cáo của
Thường trực Viện trưởng của UBND
HĐND, các ban VKSND, Chánh
HĐND
án TAND
Hoạt động xem xét báo cáo là một hình thức giám sát trực tiếp rất quan trọng
của HĐND. HĐND xem xét thảo luận báo cáo công tác của Thường trực HĐND,
các Ban của HĐND, UBND, TAND và VKSND cùng cấp tại kỳ họp cuối năm. Tại
kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến các đại biểu HĐND,
khi cần thiết HĐND có thể xem xét thảo luận. Việc xem xét, thảo luận các báo cáo
hàng năm hoặc 6 tháng tại các kỳ họp cuối năm hay giữa năm được tiến hành theo
một trình tự chặt chẽ do luật định. Trong đó có thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh
luận của đại biểu HĐND đối với các đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND
tỉnh. Theo quyết định của Chủ tịch HĐND hoặc của người điều khiển phiên họp,
báo cáo của các đối tượng giám sát được chuyển cho các Ban của HĐND thẩm tra,
nghiên cứu trước. Trên cơ sở ý kiến tham gia, thảo luận báo cáo của các thành viên,
các Ban phải chuẩn bị báo cáo thuyết trình thẩm tra trước HĐND.
Việc HĐND xem xét, thảo luận các báo cáo được diễn ra theo một trình tự
nhất định: người đứng đầu các cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo; Trưởng ban
HĐND trình bày báo cáo thẩm tra; HĐND thảo luận; người đứng đầu cơ quan bị
giám sát trình bày báo cáo và có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà
41
HĐND quan tâm: HĐND ra nghị quyết về công tác về công tác của cơ quan đã báo
cáo khi xét thấy cần thiết.
Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám phải báo cáo về công tác của
mình là một hình thức giám sát quan trọng. trên cơ sở đó, HĐND có thể kiểm soát
tình hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên cũng như nghị quyết của HĐND trong thực tiễn đời sống xã hội; tăng cường
trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu UBND và các ban, ngành về công
tác của họ trước HĐND.
Tại HĐND tỉnh Savanakhet, thông thường mỗi kỳ họp có khoảng 20 - 25 báo
cáo. Do thời gian kỳ họp có hạn nên một số báo cáo không được trình bày tại kỳ
họp. có một số báo cáo dài nếu đọc toàn văn phải mất nhiều thời gian, vì vậy chủ
tọa kỳ họp cũng yêu cầu thủ trưởng các ngành đọc tóm tắt báo cáo; thời gian đọc
báo cáo chiếm khoảng 1/3 thời gian diễn ra kỳ họp. Thời gian dọc báo cao trong
các kỳ họp gần đây đã được rút ngắn mà dành nhiều thời gian cho việc thảo luận tại
các Tổ và thảo luận tại Hội trường.
Sau khi nghe báo cáo của các ngành, đại biểu HĐND sẽ về các Tổ để thảo
luận. Mỗi kỳ họp, đại biểu được chia thành 6 Tổ để thảo luận. Thành phần thảo luận
Tổ, ngoài các đại biểu ra còn có đại diện các đơn vị dự thảo luận như đại diện các
sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, Chủ tịch UBND , UBND các huyện, thành phố.
Dựa vào những giợ ý thảo luận Tổ do Thường trực UBND gửi đến, qua quá
trình hoạt động thực tiễn, qua nắm bắt thông tin trên các phương tiện thông tin đại
chúng, đồng thời qua việc thực thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, các đại
biểu và đại diện các cơ quan đơn vị được mời đã tích cức phát biểu ý kiến. Tại
phiên thảo luận Tổ, mỗi Tổ thường có từ 8 dến 13 ý kiến. việc đưa Tổ thảo luận đã
tạo điều kiện cho nhiều đại biểu được phát biểu ý kiến, tổng hợp cả 6 Tổ thảo luận
thường có 18 - 22 lượt đại biểu phát biểu ý kiến thể hiện quan điểm của mình về
những vấn đề nhất trí, không nhất trí với nội dung báo cáo của Thường trực UBND,
TAND, VKSND tỉnh về tất cả các mặt như đánh giá kết quả đã đạt được, những mặt
còn tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, phương hướng, các chỉ tiêu phấn đấu và các giải
pháp, yêu cầu bổ sung, hoàn chỉnh báo cáo cho phù hợp với tình hình thực tế, chỉ rõ
42
nguyên nhân và yêu cấu khắc phục những hạn chế, thiếu sót. Đồng thời cũng đưa ra
nhiều ý kiến về những vấn đề bức xúc, nổi cộm mà nhân dân và cử tri quan tâm, đề
nghị Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND và các ngành chức năng tiếp
thu, xem xét, giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm
bảo phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn. Mỗi tổ sẽ cử ra 2 đại biệu thay mặt Tổ phát biểu tại hội trường.
Phiên thảo luận tại hội trường, chủ tỏa kỳ họp linh hoạt điều hành gợi ý cho cá đại
biểu tập trung thảo luận những vấn đề mà các Tổ cùng chú trọng, những vấn đề có
ý kiến khác nhau cả những vấn đề mà các Tổ chưa phân tích rõ. Ngoài những đại
biểu đăng ký trước còn có những đại biểu thấy vấn đề nào cần phải làm rõ thì trực
tiếp xin chủ tỏa họp phát biểu ý kiến. mỗi phiên thảo luận Hội trường có từ 7 đến 10
ý kiến phát biểu và đều được truyền hình trực triếp cho nhân dân trong tỉnh theo rõ.
Các phiên thảo luận ngày càng sôi nổi hơn, không khí dân chủ thằng thắn, các đại
biểu dã bớt e dè hơn, đặc biệt việc thảo luận không chỉ tập trung vào một số đại biểu
có chức vụ mà số đại biểu trẻ, quần chúng cũng tham gia ý kiến tại Hội trường.
Tuy nhiên, qua giám sát các báo cáo tại kỳ họp cũng thấy được trong các báo
cáo đó còn những hạn chế. Một số báo cáo số liệu chưa chính xác, chưa thống nhất
với các ngành. Ví dụ, số liệu của sở Kế hoạch và Đầu tư đưa ra không khớp với của
Tổng cục thống kê, của Tòa án nhân dân tỉnh không phù hợp với Tòa án nhân dân
khu vực phía nam. Nhiều báo cáo còn gửi không đúng thời hạn theo Luật Tổ chức
HĐND năm 2013 quy định ( chậm nhất là 3 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp).
Nhiều báo cáo viết còn sơ sài, nội dung chung chung, chưa nêu ra được ưu điểm nổi
bật, hạn chế của ngành mình, các phương hướng cũng chưa rõ với các chỉ tiêu khá
cao không phù hợp với tình hình thực tế.
43
Thứ hai, hoạt động chất vấn
Hoạt động chất vấn là một hình thức giám sát khá chặt chẽ của HĐND. Hiệu
quả giám sát của HĐND có được nâng lên hay không, HĐND có mạnh hay không
phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn.
Tại điều 83 Hiến pháp năm 2015 quy định : “Đại biểu HĐND có quyền chất
vấn Chủ tịch HĐND, chủ tịch và các thành viên khác của UBND, Chánh án TAND,
VKSND và Thủ trưởng các cơ quan thuộc UBND. Người bị chất vấn phải trả lời
trước HĐND trong thời hạn do luật quy định” [8, tr8]
Một số quy định về trình tự, thủ tục chất vấn tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp
của đại biểu HĐND:
Đối với việc đặt câu hỏi chất vấn
+ Đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi
chất vấn và gửi đến Thường trực HĐND; Thường trực HĐND chuyển nội dung chất
vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của đại biểu HĐND để báo cáo
HĐND.
+ Thường trực HĐND dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời
chất vấn và báo cáo HĐND quyết định; ngoài câu hỏi chính, có thể nêu câu hỏi bổ
sung liên quan đến nội dung đã chất vấn để người bị chất vấn trả lời.
Đối với việc trả lời chất vấn: người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ
về các nội dung mà các đai biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm
cũng như biện pháp khắc phục.
Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động chất vấn cũng như rang buộc trách
nhiệm của đối tượng bị chất vấn, luật còn quy định khi đại biểu HĐND không hài
lòng với câu trả lời của người nào đó thì có quyền yêu cầu HĐND thảo luận và xem
xét trách nhiệm đối với người đó. HĐND có thể ra nghị quyết về việc trả lời chất
vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Thực chất hoạt động chất vấn là việc đại biểu HĐND đưa ra các câu hỏi chất
vấn cho các đối tượng bị chất vấn, nội dung của các câu hỏi này thường xoay quanh
các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa phương quan tâm thuộc lĩnh vực quản lý
trực tiếp hoặc có liên quan đến đối tượng bị chất vấn.
44
Sơ đồ 2.2.: Đối tượng chất vấn của HĐND cấp tỉnh
Đối tượng chất vấn của
HĐND cấp tỉnh
Chủ tịch UBND, Thường Viện
Chủ tịch các thành viên trực HĐND, trưởng
HĐND
UBND, thủ trưởng
các ban
VKSND,
các cơ quan chuyên HĐND Chánh án
môn của UBND TAND
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, HĐND tỉnh Savannakhet đã tổ chức 6 kỳ họp
thường lệ, 2 kỳ họp bất thường, 1 kỳ họp chuyên đề. Trong 6 kỳ họp thường lệ có 4
có phiên chất vấn và trả lời chất vấn, kỳ họp thứ nhất xác nhận tư cách đại biểu và
bầu cử chức danh của HĐND nên không có hoạt động chất vấn. Mỗi phần chất vấn
thường có 5 -10 ý kiến chất vấn. Các ý kiến này do các đại biểu HĐND tỉnh gửi đến
Thường trực HĐND theo phiếu chất vấn trước khi diễn ra kỳ họp khoảng 25 ngày.
Thường trực HĐND tỉnh sẽ căn cứ vào nội dung chất vấn để gưở đến các sở, ban
ngành, các cơ quan nhà nước có liên quan. Các đối tượng này sẽ chuẩn bị trả lời
bằng văn bản để trình bày tại kỳ họp. Chủ tọa kỳ họp linh hoạt điều hành phiên chất
vấn, sau mỗi câu trả lời chất vấn, chủ tọa đều có kết luận tóm lược những ý chính để
đại biểu nắm rõ hơn và có thể chất vấn thêm. Nếu phát hiện vấn đề nào cưa được trả
lời rõ, chưa thấy rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn được giao, các đại biểu đặt câu hỏi chất vấn trực tiếp để yêu cầu xác định
rõ trách nhiệm và biện khắc phục. Hoạt động chất vấn của nhiệm kỳ này đã sôi nổi
hơn hiệm kỳ trước. Nội dung chất vấn đã phong phú hơn; không khí dân chủ và có
sự thẳng thắn giữa người chất vấn và đối tượng bị chất vấn. Các phiên chất vấn tại
hội trường được truyền thanh, truyền hình trực tiếp, nội dung chất vấn cũng được
45
đăng báo và phát lại trên kênh truyền hình của tỉnh vào các thời điểm thích hợp để
cử tri toàn tỉnh theo dõi.
Mặc dù vậy, hoạt động chất vấn mới chỉ dừng lại ở việc chất vấn và trả lời
chất vấn bằng văn bản mà chưa có đối chất đến cùng một vấn đề cụ thể. Các đại
biểu chất vấn trực tiếp tại Hội trường hoặc đại biểu hỏi thêm để làm rõ trách nhiệm
của người trả lời chất vấn đã có nhưng không nhiều. Việc chất vấn chỉ tập trung vào
một số đại biểu chất vấn thủ trưởng một số cơ quan như Sở Giáo dục vả Thể thao,
Sở Tài nguyên và Môi trường , Sở Kế hoạch và Đầu tư... mà chưa mở rộng sang các
đối tượng chất vấn khác. Các câu hỏi chất vấn nhiều khi chỉ mang tính chất nắm bắt
thông tin hơn là quy trách nhiệm pháp lý, chưa đi sâu vào nội dung. Các văn bản trả
lời chất vấn còn chung chung, né tránh vấn đề , chưa đi thẳng vào vấn đề và chưa
đáp ứng được mong muốn của đại biểu cũng như cử tri.
Tóm lại, chất vấn là một nội dung quan trọng trong các kỳ họp của HĐND
các cấp. Thông qua chất vấn người đại biểu dân cử thể hiện rõ năng lực và bản lĩnh
chính trị của mình. Qua thực tế cho thấy kỳ họp nào có nhiều ý kiến chất vấn của
đại biểu và trả lời chất vấn tốt thì không khí của kỳ họp dân chủ và thẳng thắn. Khi
mối quan hệ chất vấn và trả lời chất vấn được đặt đúng lúc, đúng chỗ để xem xét
giải quyết trên cơ sở khách quan, xuất phát từ lợi ích của dân thì có tác dụng trong
việc giải quyết những mâu thuẫn, tồn tại, vướng mắc góp phần quan trọng vào việc
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địaphương.
Thứ ba, hoạt động giám sát thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do HĐND bầu
Sơ đồ 2.3: Các chức vụ do HĐND bầu
Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực, Trưởng ba, Phó trưởng ban,
thành viên các ban HĐND
Chủ tịch, Phó Chủ tịch, thành viên UBND
Thư ký kỳ họp
Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu là một hình
thức giám sát mới của HĐND được quy định trong Luật Tổ chức HĐND năm 2015.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay chưa có đại biểu nào vi phạm kỷ luật đến mức phải bỏ
46
hiếu tín nhiệm. Có ý kiến cho rằng, bỏ phiếu tín nhiệm là hệ quả của giám sát, song
thực chất đó là cơ sở để quy kết hệ quả, tức là tiền đề để đi đến việc áp dụng các
biện pháp chế tài giám sát.
Những chủ thể có quyền nêu ra vấn dề bỏ phiếu tín nhiệm là Thường trực
HĐND, các ban HĐND, đại biểu HĐND, Ủy ban Mặt trận Yêu nước cấp tỉnh. Việc
trình HĐND xem xét bỏ phiếu tín nhiệm chỉ thuộc thẩm quyền của Thường trực
HĐND.
Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trìn bày ý kiến của mình
trước HĐND, HĐND thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. trong trường hợp không
được quá nửa tổng số đại biểu HĐND tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới tiệu
để bầu ra có trách nhiệm trình HĐND xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi
nhiệm người không được HĐND tín nhiệm.
Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Savannakhet tại kỳ họp chủ
yếu được tiến hành dưới hai hình thức là xem xét báo cáo công tác và xem xét việc
trả lời chất vấn. Trong nhiệm kỳ này, HĐND tỉnh đã có phần nào thể hiện được vai
trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, giảm bớt tính hình thức nhằm
phát huy dân chủ, góp phần nâng cao chất lượng giám sát tại kỳ họp của HĐND
tỉnh Savannakhet nước CHDCND Lào.
2.2.2 Hoạt động giám sát ngoài kỳ họp
2.2.2.1. Hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh Savannakhet
- Tổ chức Đoàn giám sát
- Xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
- Xem xét kết quả giám sát của các Ban HĐND; tổng hợp kết quả của giám sát
trình HĐND
- Xem xét việc trả lời chất vấn trong trường hợp người bị chất vấn được HĐND
cho phép trả lời bằng văn bàn gửi đến Thường trực HĐND
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của
HĐND cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc hội,
Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật cơ quan
nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp để trình HĐND.
47
Căn cứ vào chương trình giám sát đã được HĐND thông qua, Thường trực
HĐND giao Văn phòng HĐND xây dựng kế hoạch, thành lập Đoàn giám sát, tiến
hành giám sát tại các cơ quan, đơn vị và các địa phương theo kế hoạch. Thường trực
HĐND xem xét cho ý kiến về nội dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám
sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và phân công thành viên của mình
tham gia Đoàn giám sát. Tại nhiều cuộc giám sát ở các địa phương, đơn vị Thường
trực HĐND đã trực tiếp chủ trì và có ý kiến kết luận. Qua quá trình giám sát, Đoàn
đã yêu cầu các cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản,
cung cấp thông tin có liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn đề mà
Đoàn giám sát quan tâm. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại
đến lợi ích của nhà nước, của tổ chức và cá nhân; Đoàn giám sát đã kiến nghị cơ
quan , tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi
ích của nhà nước, của tổ chức, cá nhân bị vi phạm; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi
vi phạm theo quy định của pháp luật.
Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND giữa 2 kỳ họp tập trung chủ yếu
vào tổ chức Đoàn giám sát và hoạt động xem xét việc giải quyết khiếu nại tố cáo
của công dân. Việc xem xét văn bản pháp luật của UBND cùng cấp, Nghị quyết
của HĐND cấp dưới mặc dù có tiến hành nhưng không thường xuyên.
Về hoạt động tổ chức Đoàn giám sát
Năm 2016:
Thường trực HĐND đã xây dựng chương trình hoạt động thành quý và
tháng, cùng với việc tổ chức, điều hòa,phối hợp với các ban HĐND triển khai tổ
chức các cuộc giám sát tại các cơ quan, sở, ngành và đơn vị trong tỉnh trên các lĩnh
vực kinh tế, ngân sách, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng và chấp hành pháp
luật ở địa phương. Từ tháng 5 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016, Thường trực
HĐND đã tổ chức 14 cuộc giám sát với các ngành ở địa phương để kiểm tra, đôn
đốc thực hiện nghị quyết HĐND tỉnh. Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND
đã tập trung váo các vấn đề như: tình hình thẩm địnhthẩm định, chấp thuận đầu tư
và quản lý dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh; tình hình thực hiện chính sách ưu đãi đầu
48
tư trực tiếp nước ngoài; tình hình thực hiện một số dự án phát triển nông nghiệp;
tình hình thực hiện các dự án giao thông; tình hình dự toán ngân sách và phân bố
nghân sách.
Sau các cuộc giám sát, Thường trực HĐND tỉnh đã thực hiện việc thông báo
ý kến kết luận và kiến nghị đến các đơn vị, cơ quan liên quan về những vấn đề cần
xử lý, tháo gỡ và bàn bạc với lãnh đạo UBND tỉnh để cùng phối hợp như:
- Xử lý vi phạm về sử dụng đất của một số dự án được cấp đất
- Quy hoạch lại khu vực khai thác khoáng sản huyện Sepon
- Về thực hiện chính sách ưu đãi vào phát triển nông nghiệp đã xuất hiện một
số vấn đề cần được sửa chữa để bổ sung cho phù hợp với thực tế
- Về thực hiện chương trình về giống lúa sản xuất an toàn và gieo trồng vụ
thu đông
- Về việc tạo công ăn việc làm và nâng cao tay nghề cho người lao động
- Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe cho nhân dân
Năm 2017:
Thực hiện Nghị quyết HĐND tỉnh về chương trình giám sát năm 2017,
Thường trực HĐND tỉnh đã xây dựng kế hoạch, nội dung giám sát và quyết định
thành lập Đoàn giám sát chuyên đề về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn
ngân sách tập trung và quản lý, sử dụng đất đai. Thường trực HĐND đã tập trung
chỉ đạo hoạt động của các đoàn, coi đây là công tác trọng tâm hoạt động giám sát
của Thường trực HĐND năm 2016. Các Đoàn giám sát đã tích cực triển khai thực
hiện theo nội dung, kế hoạch giám sát với 35 cuộc làm việc với các sở, ngành của
tỉnh có liên quan đến hai lĩnh vực gồm 10 huyện, thành phố, 3 Ban quản lý dự án và
một số chủ đầu tư, đơn vị nhà thầu, doanh nghiệp, dự án giao đất, kiểm tra thực hiện
tại một số công trình xây dựng cơ bản.
Qua giám sát về công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, Đoàn giám sát
nhận thấy đa số các chủ đầu tư đã thực hiện đúng quy trình thủ tục đầu tư theo các
quy định hiện hành, thời gian thẩm định dự án đầu tư đã cắt ngắn từ 40 ngày xuống
còn 30 ngày/dự án. Các thủ tục về đấu thầu, chỉ định thầu đều được thực hiện
nghiêm túc, công tác lập kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, mở thầu, xét thầu ,
49
công bố kết quả, phê duyệt kết quả đấu thầu đều được tiến hành đúng quy định. Tuy
nhiên, chất lượng nhiều dự án còn thấp, việc lập dự án chưa chi tiết, chất lượng
thẩm định chưa cao, chất lượng công tác tư vấn, thiết kế dự toán công trình còn
thấp, có 80% số dự án với công tác thiết kế, dự toán chưa đáp ứng được theo yêu
cầu của quy định hiện hành; nhiều công trình phải thay đổi hoặc bổ sung thiết kế,
dự toán nhiều lần.
Qua hoạt động giám sát, các Đoàn giám sát đã phát hiện được những việc
làm được, chưa được để từ đó đề xuất các kiến nghị với đơn vị chịu sự giám sát tiến
hành sửa đổi cho đúng với quy định của pháp luật hiện hành.
Năm 2018
Thường trực HĐND đã tiến hành giám sát chuyên đề về kết quả giải quyết
kết luận sau thanh tra và công tác quản lý, vệ sinh an toàn thực phẩm. Đoàn đã thực
hiện 25 buổi làm việc tại các sở ngành có liên quan tại một số chợ trên địa bàn
thành phố Kayson Phomvihan và các huyện lân cận, trong đó có một số huyện giáp
biên như huyên Nong, một số cơ sở chế biến, doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực
phẩm, trang trại chăn nuôi. Đoàn giám sát về công tác vệ inh an toàn thực phẩm đã
báo cáo kết quả giám sát tại cuộc họp cuối năm. Qua giám sát, Đoàn đã đưa ra nhận
định tổng quát về tình trạng công tác vệ sinh an toàn thực phậm trên địa bàn tỉnh
như sau:
Về tổng thể, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm của tỉnh Savannakhet chưa
được thực hiện một cách nghiêm túc; tuy chưa đến mức nghiêm trọng nhưng nhiều
loại hàng hóa thực phẩm được bày bán ở chợ như rau củ quả còn tồn đọng các loại
thuốc bảo vệ thực vật, riêng đồ hải sản, thịt gia súc gia cầm đông lạnh nhập qua
đường tiểu ngạch còn chứa chất bảo quản ở mức cao, ở các loại thức ăn được nướng
chin còn sử dụng phẩm màu…gây ảnh hưởng đến sức khỏe cho người sử dụng.
Đoàn giám sát chỉ ra nguyên nhân của tình trạng mất vệ sinh an toàn thực
phẩm như hiện nay xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của vấn đề an toàn thực
phẩm, quản lý nhà nước về vấn đề này còn nhiều bất, yếu kém, việc chấp hành chưa
nghiêm do chưa có chế tài cụ thể đối với các đối tượng vi phạm. Cán bộ chuyên
50
môn ở các đội quản lý thị trường vừa thiếu, vừa yếu, kinh phí cho hoạt động vệ sinh
an toàn thực phẩm chưa được bố trí đầy đủ.
Từ đó, Đoàn giám sát đưa ra một số ý kiến đẩy mạnh hoạt động truyên
truyền về vệ sinh an toàn thực phẩm, tang cường hoạt động quản lý nhà nước về an
toàn thực pẩm, có biện pháp xử lý ngay các cơ sở vi phạm làm mất vệ sinh an toàn
thực phẩm nghiêm trọng
Ngoài ra, cuối năm 2018 nhằm thực hiện Nghị quyết HĐND, Thường trực
HĐND tỉnh đã quyết định thành lập Đoàn giám sát để thực hiện việc giám sát
chuyên đề về công tác quản lý thuế. Qua giám sát, Đoàn đã đánh giá đúng thục
trạng công tác quản lý thuế, tình hình chấp hảnh pháp luật về thuế của các đơn vị và
người nộp thuế, kết quả thu nhập ngân sách trên địa bàn tỉnh trong 3 năm 2016 –
2018. Đồng thời chỉ ra những yếu kém, hạn chế trong công tác quản lý thu thuế,
kiến nghị với ngành thuế nhiều biện pháp đảm bảo thu đúng, thu đủ các loại thuế
phát sinh, góp phần tang ngân sách trên địa bàn tỉnh.
Đoàn đã giám sát về công tác quản lý thuế trên địa bàn tỉnh qua báo cáo thuế
của 11 chi cục thuế huyện, thành phố và 31 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, giám sát
trực tiếp trên 100 hộ kinh doan cá thể tại một số huyện, thành phố, cục thuế tỉnh,
cục thuế huyện.
Qua giám sát, Đoàn nhận thấy tình trạng thất thu thuế trên địa bàn tỉnh còn
xảy ra khá phổ biến, hoạt động gian lận thương mại, kinh doanh trốn thuế diễn ra
phức tạp với hành vi thủ đoạn tinh vi hơn. Theo báo cáo của chi cục quản lý thị
trường thì trong 2 năm 2016 -2018 đã phát hiện 153 vụ kinh doanh hàng lậu. Tình
trạng nợ thuế, nợ ngân sách còn diễn ra khá phổ biến với hơn 50% doanh nghiệp
còn nợ thuế. Công tác hoàn thuế còn chậm trễ, công tác quản lý thuế còn yếu kém…
Từ đó Đoàn giám sát đã đưa ra những kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ Tài chính,
Tổng cục Thuế, HĐND tỉnh, UBND tỉnh, ngành thuế tỉnh, UBND cấp huyện, cấp
bản của các đối tượng nộp thuế, từ đó nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế trên
địa bàn tỉnh.
Xem xét giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của công dân
Trong thời gian trước đây, hoạt động này còn nhiều hạn chế và mang tính
51
hình thức, Thường trực HĐND cấp tỉnh chủ yếu làm nhiệm vụ tiếp nhận xong và
chuyển đến các cơ quan hữu quan có trách nhiệm giải quyết, còn kết quả giải quyết
như thế nào thì hình như không biết và ít được quan tâm. Trong những năm gần
đây HĐND cấp tỉnh đã có bước cải tiến, đưa công tác này vào nề nếp. Thường trực
HĐND đã xây dựng quy chế tiếp công dân theo quy định của pháp luật, bố trí cán
bộ tiếp nhận và xử lý kịp thời đơn thư của công dân. Công dân đến khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị đều được cán bộ tiếp dân tiếp, hướng dẫn, giải thích đầy đủ, đúng
pháp luật với thái độ nhiệt tình có trách nhiệm. Đối với những nội dung khiếu nại,
tố cáo có cơ sở xem xét, tiến hành tiếp nhận đơn, hồ sơ để nghiên cứu chuyển và
đôn đốc cơ quan có thẩm quyền giải quyết, trả lời công dân theo quy định pháp
luật.
Thường trực HĐND tổ chức tiếp công dân theo lịch hàng tháng nhờ xác định
việc tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo phải gắn với hoạt động giám
sát của HĐND. Hoạt động này giúp Thường trực HĐND có điều kiện tìm hiểu,
nghiên cứu nắm bắt bản chất sự vật, góp phần đảm bảo cho công tác xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo đúng trình tự, thủ tục và hợp lý. Đối với đơn thư gửi trực tiếp,
Thường trực HĐND nghiên cứu kỹ từng vụ việc, chỉ đạo văn phòng phân loại và có
văn bản gửi cho chuyển cho cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết. Qua giám
sát, Thường trực HĐND có cơ sở giải thích cho công dân và kiến nghị những vấn
đề cần giải quyết bảo đảm đúng pháp luật. Đối với đơn thư thể hiện bức xúa của
công dân đã gửi nhiều lần, nhiều cơ quan thì giao cho văn phòng lập danh sách đôn
đốc, theo dõi kết quả giải quyết của các cơ quan và tổng hợp báo cáo gửi Thường
trực
Từ năm 2016 đến nay, Thường trực HĐND đã nhận các đơn thư khiếu nại tố
cáo của công dân cụ thể như sau:
Năm 2016
Thường trực HĐND đã tiếp nhận 42 đơn thư của công dân, đã chỉ đạo văn
phòng gửi đấn các cơ quan, cá nhân liên quan và giúp Thường trực HĐND phối hợp
với các cơ quan chức năng theo dõi, đôn đốc, giải quyết. Trong số đơn thư gửi đến
52
gồm có đơn thư khiếu nại về sai phạm quản lý đất đai và ngân sách ở cấp huyện,
giải quyết các chế độ chính sách…
Năm 2017
Thường trực HĐND tỉnh đã tiếp nhận 85 đơn thư của công dân gửi đến và
giải quyết các kiến nghị của 79 lượt công dân. Đến cuối năm cơ quan có thẩm
quyền mới giải quyết được 31/75 đơn (54,3 %). Đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND tỉnh trực tiếp tiếp công dân 5 ngày, trực tiếp giải thích, tiếp thu ý kiến và
đôn đốc việc giải quyết các kiến nghị của công dân. Thường trực HĐND tỉnh cùng
Tổ trưởng Tổ đại biểu HĐND tỉnh đã tổ chức 1 buổi làm việc trực tiếp tại UBND
thành phố Kayson Phomvihan để giải quyết đơn của 2 cử tri ở bản. Đồng thời đã rút
ra kinh nghiệm với các cơ quan chức năng của thành phố về quy trình cuộc tiếp xúc
cử tri, phương pháp điều hành buổi tiếp xúc, thành phần mời dự tiếp xúc. Thường
trực HĐND tỉnh đã trực tiếp gặp gỡ người khiếu nại để giải quyết và hướng dẫn
công dân thực hiện đúng quyền khiếu nại tố cáo theo luật định.
Năm 2018
Thường trực HĐND tỉnh đã tiếp nhận được 47 đơn thư khiếu nại, tố cáo của
công dân. Nội dung đơn công dân gửi đến hầu hết là khiếu nại, tố cáo . Trong số 47
đơn chỉ có 29 đơn đủ điều kiện chuyển. Thường trực HĐND cũng nhận được 7
công văn trả lời của các cơ quan chức năng đạt 24,1% số đơn đã chuyển. Như vậy,
từ năm 2016 đến năm 2018 các đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh đã trực
tiếp tham gia tiếp công dân, tiếp nhận các ý kiến, kiến nghị của cử tri, tuy nhiên số
buổi tiếp dân còn ít. Số đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Thường trực HĐND đã
được phân loại, nếu đủ điều kiện thì gửi cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Mức độ giải quyết và trả lời đơn thư của các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa cao,
chưa đáp ứng được nguyện vọng của cử tri trong tỉnh. Thường trực HĐND không là
cơ quan giải quyết trực tiếp các đơn thư khiếu nại, tố cáo nên cũng gặp không ít
những khó khăn. Thường trực HĐND tỉnh đã yêu cầu văn phòng bố trí chuyên viên
phù hợp, tổng hợp, theo dõi tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân gửi
đến Thường trực HĐND. Mặc dù vậy, đây là lĩnh vực vẫn còn gặp nhiều khó khăn
53
do các quy định của pháp luật chưa sâu rộng, chưa quy định rõ thẩm quyền, thiếu
các cơ chế đôn đốc, giải quyết các ý kiến và kiến nghị của nhân dân.
Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết
của HĐND cấp dưới trực tiếp. xem xét hoạt động giám sát của các ban HĐND
Đây là hình thức HĐND giám sát tính hợp tiến, hợp pháp của các văn bản
quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp và Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực
tiếp Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, tại các kỳ họp HĐND cũng như giữa hai kỳ
họp, Thường trực HĐND, các ban HĐND và từng đại biểu HĐND phải thường
xuyên thực hiện việc giám sát các văn bản thuộc thẩm quyền của mình nhằm có
những kiến nghị, đề xuất kịp thời. Các bước để HĐND xem xét tính hợp pháp của
văn bản được quy định như sau:
Đại diện của Thường trực HĐND trình văn bản quy phạm pháp luật có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên; HĐND thảo luận. Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã
ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn đề kiên
quan. Hệ quả của hoạt động này có thể có thể dẫn đến hai khả năng: HĐND ra nghị
quyết khi văn bản quy phạm pháp luật trên không trái với Hiến pháp, luật và văn bả
quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên , hoặc quyết định bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
Đối với hoạt động xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng
cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp, chủ yếu do Ban pháp chế - An ninh
và Quốc phòng thực hiện với sự tham gia của Thường trực HĐND. Tuy nhiên, từ
đầu nhiệm kỳ đến nay hoạt động xem xét văn bản quy phạm không được tiến hành
thường xuyên.
Để thực hiện vai trò chủ đạo, điều hòa phối hợp hoạt động của các Ban,
Thường trực HĐND tỉnh đã luôn quan tâm hoạt động giám sát của các Ban, dự các
cuộc họp của Ban, định kỳ hàng tháng tổ chức họp giao ban Thường trực HĐND
với các Ban và Văn phòng HĐND để tổ chức tốt các hoạt động giám sát, kịp thời
phát hiện các vấn đề cần thiết, kiến nghị các cơ quan Nhà nước khắc phục. Ngoài
54
ra, Thường trực HĐND còn xem xét việc trả lời chất vấn trong trường hợp người bị
chất vấn được HĐND cho phép trả lời bằng văn bản gửi đến Thường trực HĐND.
Hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp của Thường trực HĐND tập trung chủ
yếu vào hoạt động tổ chức Đoàn giám sát và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân. Các hoạt động này đều có đại diện các Ban HĐND tham gia.
2.2.2.2. Hoạt động của các Ban HĐND từ 2016 đến nay
Các Ban của HĐND là những cơ quan tham mưu giúp việc của HĐND. Căn
cứ vào Nghị quyết của HĐND tỉnh và chương trình kế hoạch hoạt động cụ thể của
HĐND, các Ban đã xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát đối với các lĩnh vực
phụ trách của mình. Về hình thức giám sát các Ban có thể tiến hành giám sát thường
xuyên theo định kỳ hoặc giám sát đột xuất các vấn đề nổi cộm bức xúc mà cử tri và
Nhân dân quan tâm.
Trong hoạt động giám sát, các ban của HĐND có nhiệm vụ giúp HĐND
giám sát hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, hoạt động
của TAND và VKSND tỉnh, giúp HĐND giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến
pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của HĐND tỉnh.
Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND năm 2015: Ban Kinh tế - Kế hoạch
và Tài chính phụ trách lĩnh vực kinh tế, ngân sách, khoa học công nghệ, tài nguyên
và môi trường; Ban Văn hóa - xã hội và Dân tộc phụ trách lĩnh vực y tế, giáo dục,
xã hội, văn hóa, thông tin, thể thao và chính sách tôn giáo; Ban Pháp chế - An ninh
và Quốc phòng phụ trách lĩnh vực thi hành pháp luật, quốc phòng, an ninh, trật tự
an toàn xã hội, xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.
Trước kỳ họp, các Ban có nhiệm vụ thẩm tra các báo cáo, đề án, tờ trình do
HĐND hoặc Thường trực HĐND phân công. Báo cáo thẩm tra của các Ban trình tại
kỳ họp đã khắc phục dần tính hình thức, giúp HĐND nắm rõ thực chất của UBND,
các cơ quan chuyên môn của UBND, VKSND, TAND trong 6 tháng đầu năm, hoặc
cả năm; là căn cứ để HĐND tỉnh thảo luận, thông qua các nghị quyết quan trọng,
55
quyết định sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn tỉnh.
Đến nay, báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh về cơ bản đã đáp ứng yêu
cầu như xác nhận những kết quả mà UBND, VKSND, TAND tỉnh đã đạt được;
đồng thời thể hiện được tính phản biện, chỉ ra được những hạn chế thiếu sót, tìm ra
được nguyên nhân và có những đề xuất kiến nghị yêu cầu UBND và các cơ quan
hữu quan khắc phục. Quá trình thẩm tra đã phát hiện những khuyết điểm của đề án,
tờ trình, dự thảo nghị quyết để kịp thời chỉnh sửa ngay từ giai đoạn chuẩn bị tờ
trình, giúp HĐND thông qua các văn bản đó có chất lượng. Sự phản biện trong báo
cáo thẩm tra sẽ giúp cho đại biểu HĐND nhìn nhận, đánh giá về các báo cáo một
cách khách quan, không chỉ thấy được những kết quả mà còn thấy được những hạn
chế, những khó khăn vướng mắc trong chỉ đạo và triển khai nhiệm vụ; không chỉ
đánh giá các đề án và dự thảo nghị quyết một cách xuôi chiều, mà còn thấy được
những vấn đề trái bất cập yêu cầu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Những ý kiến phản biện trong báo cáo thẩm tra của các Ban được nêu ra từ tình
hình thực tế, có dẫn chứng cụ thể nên tính thuyết phục cao; kiến nghị của các Ban
thể hiện rõ tinh thần xây dựng và quy rõ trách nhiệm đối với cơ quan chức năng
nên đã tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo và đông đốc thực hiện.
Giữa 2 kỳ họp của HĐND tỉnh, các Ban của HĐND tỉnh lựa chọn những vấn
đề nổi cộm, những vấn đề bức xúc mà cử tri và nhân dân toàn tỉnh quan tâm, xây
dựng kế hoạch, thành lập Đoàn giám sát, tiến hành giám sát chuyên đề, đi sâu xem
xét đánh giá, tìm ra nguyên nhân bất cập để đề xuất giải pháp khắc phục. Để nắm
được thực chất của vấn đề trước khi giám sát ở các sở, ngành có liên quan ở tỉnh,
các Ban của HĐND tỉnh tiến hành giám sát ở một số cơ sở trực tiếp triển khai
nhiệm vụ; giám sát cả ở những nơi triển khai thực hiện nhiệm vụ mức trung bình,
yếu và khá để đảm bảo việc đánh giá được khách quan và toàn diện. Với lịch trình
giám sát này, Đoàn giám sát sẽ nắm được tình hình thực tế diễn ra ở cơ sở, sau đó
giám sát ở các huyện, thành phố và các sở, ngành của tỉnh. Do vậy ý kiến của Đoàn
giám sát có căn cứ thực tiễn tính thuyết phục cao hơn. Bên cạnh đó, những vấn đề
nảy sinh ở cơ sở thường thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện hoặc các
56
ngành chức năng, Đoàn giám sát có điều kiện trao đổi và chất vấn trực tiếp để
UBND các huyện, thành phố và các ngành chức năng làm rõ và có biện pháp khắc
phục. Kết thúc đợt giám sát, các Đoàn giám sát đều có báo cáo kết quả giám sát. Từ
đầu nhiệm kỳ đến nay (tính đến hết năm 2018) các Ban HĐND tỉnh đã thực hiện
các cuộc giám sát như sau:
Bảng 2.1. Tổng số các cuộc giám sát từ đầu nhiệm kỳ đến năm 2018 của các
Ban HĐND
Ban Pháp chế - An Ban Ban Kinh tế - Kế Ban Văn hóa - Xã hội ninh và Quốc Năm hoạch và Tài chính và Dân tộc phòng
Đã 28 lần gửi thông báo Đã tổ chức 13 cuộc giám Đã thực hiện 12
đến các ban ngành liên sát tại 4 sở, ngành, 2 cuộc giám sát tại sở,
quan về tình hình hoạt huyện thành phố và 3 ngành và UBND
động, tổ chức thực hiện đơn vị trên lĩnh vực giáo các huyện , hoạt
2016 kế hoạch của mình dục, y tế, lao động, bảo động của các cơ
Đã tổ chức 12 cuộc hiểm xã hội, văn hóa quan tư pháp cấp
giám sát tại sở, ngành thông tin huyện tại thành phố
và các đơn vị trên lĩnh Kayson và huyện
vực kinh tế, ngân sách, Champhon về công
nông nghiệp, công tác tiếp dân, giải
nghiệp, giao thông vận quyết đơn thư khiếu
tải, đầu tư xây dựng cơ nại.
bản, quản lý đất đai
Đã 8 lần tham gia hoạt Đã thực hiện 22 cuộc Đã thực hiện 24
động giám sát chung giám sát về các chủ đề: cuộc giám sát về
với Đại biểu Quốc hội kết quả công tác văn các lĩnh vực; tình
trong việc theo dõi hóa xã hội, chương trình hình và kết quả
2017 kiểm tra việc tổ chức xã hội hóa giáo dục, phát công tác cải cách
thực hiện kế hoạch phát triển và quy định rõ tiêu thủ tục hành chính,
57
triển kinh tế, kế hoạch chuẩn, quy chế hoạt công tác tiếp dân,
nhân sách,sản xuất công động của các trường bán giải quyết khiếu nại
nghiệp thành hàng hóa công , nâng cao tay nghề tố cáo của công dân
và những ảnh hưởng cho người lao động… và việc thực hiện
của nó, với tổng cộng Đã 1 lần giám sát về các kết luận sau
80 lượt người tham gia công tác di dân tái định thanh tra..
Đã thực hiện được 16 cư cho nhân dân vùng Đã 10 lần tập trung
cuộc giám sát tại các chịu ảnh hưởng từ dự án giám sát việc tổ
đơn vị và địa phương về xây dựng thủy điện chức thực hiện Hiếp
các lĩnh vực: tình hình Xenalong và dự án trồng háp, luật, văn bản
đầu tư vào lĩnh vực cây ăn quả của công ty quy phạm pháp luật
nông nghiệp, kết quả SoukHung Huong ở trong lĩnh vực chịu
công tác khuyến nông, huyện Nong trách nhiệm.
vệ sinh an toàn thực
phẩm, tình hình các
trạm thu phí đường bộ
Đã 5 lần hoạt động Thực hiện 20 giám sát Đã thực hiện 22
giám sát và thúc đẩy kế về thực hiện chế độ cuộc giám sát về tỏ
hoạch phát triển nông chính sách đối với người chức bộ máy quản
2018 thôn, xóa đói giảm nghèo, người cao tuổi, lý sử dụng biên chế
nghèo gắn liền với kế tình hình tham gia bảo trên địa bàn tỉnh,
hoạch phát triển bền hiểm y tế của người dân, vấn đề cải cách
vững và phát triển kinh về công tác khám chữa hành chính và giải
tế quy mô vừa và nhỏ. bệnh cho trẻ em dưới 6 quyết đơn thư khiếu
Các ban đã thực hiện 15 tuổi, kết quả công tác nại, tố cáo của công
cuộc giám sát về việc chăm sóc giáo dục trẻ dân, kết quả công
triển khai đề án phát em… tác thi hành án dân
triển các khu du lịch, Đã thực hiện kiểm tra sự năm 2018
chợ thương mại tại các giám sát những ảnh Đã 1 lần tham gia
58
cửa khẩu với Việt Nam hưởng đến cuộc sống hoạt động giám sát
và Thái Lan, của người dân và vấn đề chung với Thường
Đã tham gia giám sát môi trường tại nhà máy trực QH đối với
chung với Ngành Kinh sản xuất giấy dán tường việc công nhận các
tế-Khoa học và Môi ở huyện Sepon văn bản pháp luật
trường trong việc thu và việc sử dụng chất
thập số liệu và nghe báo độc hại vượt quy
cáo của các thành phần định cho phép gây
liên quan đối với việc ảnh hưởng đến môi
sử dụng chât hóa học trường, xã hội và tự
của Nhà máy sản xuất nhiên ở huyện
dung dịch Axit Champhon và
Sunphuric ở huyện huyện Songkhon
Atsaphangthong; xuống
khảo sát diện tích dự án
khu kinh tế đặc biệt
Savan- Sepon
2.2.2.3. Hoạt động giám sát của các đại biểu HĐND cấp tỉnh
Đa số đại biểu HĐND tỉnh đã tham dự đầy đủ các kỳ họp của HĐND tỉnh, đã
tập trung nghiên cứu các báo cáo, đề án, tờ trình, dự thảo nghị quyết và báo cáo
thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh để có những thông tin cần thiết để tham gia thảo
luận và biểu quyết. Các đại biểu chuẩn bị những ý kiến có chất lượng để phát biểu
trong phiên thảo luận Tổ và thảo luận tại Hội trường, chuẩn bị câu hỏi chất vấn tại
kỳ họp, thể hiện rõ quan điểm của mình về những vấn đề nhất trí hoặc không nhất
trí với báo cáo, đề án, dự thảo nghị quyết, nêu rõ quan điểm về ý kiến trả lời chất
vấn của cơ quan chức năng, đồng thời chất vấn trực tiếp khi cơ quan chức năng trả
lời chưa thỏa đáng, chưa rõ.
Một số đại biểu HĐND tỉnh không nắm được đầy đủ thông tin về tình hình của
địa phương cũng như tâm tư, nguyện vọng của nhân dân nên ít tham gia thảo luận
59
và phát biểu ý kiến, ít hoặc không thực hiện quyền chất vấn; ýkiến của một số đại
biểu chưa tập trung vào những vấn đề trọng tâm, chưa nêu được các giải pháp thiết
thực. Trả lời chất vấn còn né tránh trách nhiệm, chưa dám nhìn thẳng vào sự thật,
đổ lỗi cho khách quan nhiều hơn là nhận trách nhiệm; giải pháp khắc phục
những hạn chế, yếu kém, chưa cụ thể, thiếu định lượng do vậy khó kiểm tra, đánh
giá kết quả. Một số tổ đại biểu sinh hoạt chưa đều, nội dung còn hạn chế, chưa nắm
chắc tình hình kinh tế - xã hội và tâm tư, nguyện vọng của nhân dân địa phương nơi
ứng cử để phản ánh tại kỳ họp, chưa tham gia nhiều vào hoạt động của
các ban. Công tác giám sát chưa đều, chủ yếu do Thường trực HĐND và
các ban của HĐND tỉnh tiến hành; việc tham gia hoạt động giám sát của các đại
biểu HĐND còn hạn chế, chủ yếu mới giám sát tại kỳ họp.
Giữa hai kỳ họp của HĐND tỉnh, các đại biểu làm việc kiêm nhiệm không tham
gia thành viên các Ban HĐND, đã chủ động giám sát thông qua hoạt động thực tiễn,
thông qua quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ. Vối các đại biểu chuyên trách,
các đại biểu tham gia thành viên các Ban, hoạt động giám sát được thể hiện rõ nét
hơn. Các đại biểu này tích cực tham gia Đoàn giám sát, nghiên cứu tài liệu liên quan
đến nội dung giám sát, có nhiếu ý kiến chất vấn các cơ quan chức năng tại các buổi
giám sát, tham gia ý iến xây dựng báo cáo kết quả giám sát, báo cáo thẩm tra của
các Ban HĐND tỉnh. Ngoài ra, các đại biểu trong Thường trực HĐND, Trưởng các
Ban của HĐND còn thực hiện giám sát thông qua việc tiếp dân, xem xét việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Hoạt động giám sát của các đại biểu còn được thể hiện rõ nét, có hiệu quả và
sát thực tiễn nhất là thông qua từng vị trí công tác mà các đại biểu giá sát việc thực
hiện Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết, của HĐND ngay ở địa phương, cơ quan
mình cư trú, công tác. Thông qua hoạt động này, các đại biểu phát hiện những vấn
đề tồn tại, hạn chế của các cơ quan, cá nhân, nhũng khó khăn vướng mắc của cử tri,
kịp thời kiến nghị với cơ quan có thẩm quyến xem xét, giải quyết.
60
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động giám sát
Để đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Savannakhet, chúng
ta phải dựa vào tình hình hoạt động của HĐND. Trên cơ sở những mặt làm được và
chưa làm được có thể nhận biết khả năng, mức độ tác động tích cực hay hạn chế của
công việc giám sát đến sự phát triển tình hình kinh tế, chính trị xã hội của địa
phương.
Về xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát
+ Hàng năm, Thường trực và các Ban HĐND tỉnh Savannakhet đã chủ động
xây dựng kế hoạch, chương trình giám sát tại kỳ họp cuối năm cho kế hoạch năm
sau; chương trình đó được kỳ họp cuối năm của HĐND thông qua bằng nghị
quyết. Nhìn chung việc xây dựng chương trình giám sát đã được các đại biểu căn
cứ vào yêu cầu thực tiễn cuộcsống.
Về tổ chức thực hiện chương trình giám sát
+ Trên cơ sở kế hoạch công tác, Thường trực và các Ban đã phân bố các đợt
giám sát phù hợp với từng giai đoạn trong năm. Chẳng hạn: giám sát trong lĩnh
vực xây dựng cơ bản chỉ vào mùa khô, mùa xây dựng, giám sát về lĩnh vực thu
ngân sách thường vào giữa năm và cuối năm, giám sát đột xuất thường tập trung
vào các vấn đề phát sinh trong đơn thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp. Để tranh thủ
các ý kiến và tăng cường tính dân chủ trong hoạt động giám sát, khi thành lập đoàn
giám sát HĐND đã mời các thành viên trong hệ thống chính trị cùng tham gia như
Mặt trận Xây dựng đất nước, các đoàn thể và các chuyên viên từ các phòng, ban
am hiểu về các lĩnh vực cần giám sát.
+ Để các cuộc giám sát mang lại hiệu quả thiết thực cũng như đảm bảo quy
trình đã đề ra, đoàn giám sát đã chủ động xây dựng nội dung, mục đích, yêu cầu
giám sát gửi trước cho các đơn vị chịu giám sát ít nhất 7 ngày.
+ Khi kết thúc các đợt giám sát bao giờ đoàn giám sát cũng có văn bản kết
luận chính thức về nội dung giám sát, sau khi có sự thảo luận nghiêm túc, thẳng
thắn giữa các bên. Trong kết luận đã chỉ ra những ưu điểm, tồn tại cần khắc phục
và đặc biệt đã có những kiến nghị đề xuất cho các cấp, các ngành có liên quan, cần
61
tập trung tháo gỡ, xử lý những vướng mắc của đơn vị, đối tượng được giámsát.
+ Sau giám sát Thường trực và các Ban HĐND đã theo dõi đôn đốc các đơn
vị liên quan thực hiện những nội dung mà đoàn giám sát kiến nghị và có báo cáo
cụ thể việc thực hiện của các đơn vị đó trong kỳ họp HĐND cuối năm. Thực tế,
trong thời gian vừa qua, cơ bản các nội dung kiến nghị đã được các cơ quan liên
quan nghiêm túc tìm biện pháp tháo gỡ khắc phục những vấn tồn tại yếu, kém mà
các đoàn giám sát đã chỉ ra.
Việc phối hợp trong công tác giám sát
Phối hợp là một trong những nội dung rất quan trọng để giám sát đạt kết quả
tốt. Vì vậy, HĐND tỉnh Savannakhet đã chú trọng đến sự phối hợp với các cấp, các
cơ quan, ban, ngành, các chuyên gia trong hoạt động giám sát của mình, nhằm tạo
điều kiện thuận lợi về nội dung thông tin, cơ sở vật chất phục vụ cho giám sát,
cũng như giúp HĐND có cách đánh giá khoa học, khách quan, chính xác các vấn
đề giám sát.
Vì vậy, có thể thấy được rằng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Savannakhet trong thời gian qua, có vai trò quan trọng trong phát triển đời sống
kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Các hình thức giám sát được tổ chức thực hiện đa dạng hơn thông qua việc
tổ chức giám sát theo chuyên đề được nhiều lĩnh vực như việc lấy phiếu tín nhiệm
hàng năm đối với các chức vụ do HĐND bầu.
- Nội dung chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp ngày càng có chất lượng
hơn, chất vấn và trả lời chất vấn đã phần nào đi vào trọng tâm phản ánh những vấn
đề bức xúc mà cử tri quan tâm.
- Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND và các Ban HĐND ngày càng
đi vào thực chất, đặc biệt giám sát chuyên đề và giám sát tại kỳ họp.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
- Hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND còn thiếuđồng bộ.
Luật tổ chức HĐND và UBND, và Quy chế hoạt động của HĐND cũng như một số
Nghị định của Chính phủ còn chưa thống nhất, văn bản hướng dẫn thi hành chưa
sửa đổi cho phù hợp với văn bản pháp lý cao hơn mới được ban hành.
62
- Một số quy định về nội dung, hình thức, đối tượng, chủ thể giám sát còn
chưa rõ ràng. Nhiều quy định về hình thức giám sát chưa được thực thi hoặc tính
khả thi còn thấp; hoạt động giám sát văn bản pháp luật chưa được thực hiện thường
xuyên.
- Việc xây dựng kế hoạch giám sát. Hoạt động xây dựng kế hoạch còn chậm,
nội dung giám sát một số cuộc có khi còn quá vĩ mô hoặc quá cụ thể, chưa bám sát
tình hình thực tế hoàn cảnh của địa phương, tính thời sự chưa cao.
- Việc xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND,
VKSND được thực hiện chủ yếu thông qua phiên thảo luận tại hội trường. Chính vì
vậy, dẫn đến việc bị giới hạn cả về thời gian lẫn nội dung báo cáo dẫn đến báo cáo
chưa được đi sâu vào vấn đề thường vẫn bị mang tính chất dàn trải, chung chung.
- Hoạt động xem xét VBQPPLcủa UBND tỉnh, nghị quyết HĐND cấp dưới
là hình thức giám sát quan trọng của HĐND tỉnh, đảm bảo cho việc ban hành
VBQPPL được thống nhất và chính xác. Tuy nhiên, trên thực tế tại Savannakhet,
hoạt động này mới chỉ dừng lại ở việc rà soát, kiểm tra những văn bản mà Thường
trực HĐND tỉnh nhận được và giao cho Văn phòng giúp việc thực hiện.
- Công tác phối hợp giữa Thường trực HĐND tỉnh với các BanHĐND và chính giữa
các Ban của HĐND với nhau trong hoạt động giám sát nhất là trong công tác thẩm
tra những nội dung có liên quan đến phạm vi theo dõi của nhiều Ban còn chưa chặt
chẽ và thường xuyên.
- Hoạt động chất vấn và xem xét trả lời chất vấn. Số đại biểu tham gia chất
vấn trực tiếp tại hội trường chưa nhiều, chỉ tập trung vào một số ít đại biểu hoạt
động chuyên trách.
- Một số vấn đề tiêu cực trong quản lý kinh tế, đầu tư xây dựng cơ bản gây
bức xúc trong cử tri và dư luận xã hội chưa được HĐND tỉnh kịp thời tổ chức đoàn
giám sát; chưa xem xét toàn diện, sâu sắc đối với một số báo cáo của các cơ quan
nhà nước; nhiều kiến nghị giám sát chưa cụ thể, chưa xác định rõ trách nhiệm của
các chủ thể liên quan sau giám sát. Việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các kiến nghị
sau giám sát có lúc chưa thật quyết liệt. Hoạt động giám sát công tác ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh và HĐND cấp huyện chưa được tiến hành
63
thường xuyên. Do chế tài xử lý các kiến nghị giám sát chưa rõ ràng và đủ mạnh nên
chủ yếu nhắc nhở là chính, từ đó làm giảm hiệu lực giám sát của HĐND các cấp.
Một số cơ quan, đơn vị được giám sát chưa tôn trọng và chấp hành nghiêm các kiến
nghị của HĐND.
Công tác tiếp dân, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
và kiến nghị của cử tri cũng còn một số tồn tại, hạn chế, đó là:
- Công tác xử lý đơn thư hiện nay vẫn chủ yếu là chuyển đơn đến cơ quan
chức năng để giải quyết theo quy định; số vụ việc Thường trực HĐND tỉnh có văn
bản yêu cầu cơ quan chức năng xem xét, phúc tra lại không nhiều.
- Các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài đối với các cơ quan hành
chính nhà nước, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị chậm giải quyết hoặc không trả lời
các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân do HĐND chuyển đến chưa đủ mạnh,
phần nào làm giảm tính hiệu lực và hiệu quả các kiến nghị của HĐND.
- Mặt khác, việc nắm thông tin cũng như tiếp cận với hồ sơ, tài liệu liên quan
đến quá trình giải quyết vụ việc cũng gặp không ít khó khăn do công dân chỉ gửi
đơn không kèm theo tài liệu hoặc nếu có gửi kèm thì hầu hết là những tài liệu có lợi
cho đương sự nên rất khó cho việc nghiên cứu, đánh giá việc giải quyết của cơ quan
chức năng, dẫn đến nhiều vụ việc mặc dù phát hiện có sai phạm nhưng không có cơ
sở để đề nghị phúc tra hoặc tổ chức giám sát theo quy định.
Kết luận sau hoạt động giám sát: Báo cáo thẩm tra còn sơ sài, ít có ý kiến trái
chiều, phần lớn còn thể hiện quan điểm đồng tình với các nội dung giám sát, các
kiến nghị đưa ra còn chung chung, chưa chỉ rõ được cơ quan, đơn vị chịu trách
nhiệm chính, chưa quy định cụ thể thời gian thực hiện kiến nghị, chưa có chế tài đủ
mạnh đối với các đơn vị không nghiêm túc thực hiện kiến nghị sau giám sát.
2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Thứ nhất: Các quy định của pháp luật - căn cứ pháp lý cho hoạt động giám sát
+ Hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND đã được sửađổi, bổ
sung khá nhiều nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, thiếu cụ thể, đặc biệt
thiếu hẳn những chế tài, biện pháp xử lý sau giám sát đối với các chủ thể bị giám
64
sát, ít có căn cứ pháp lý để xử lý các đối tượng giám sát không nghiêm chỉnh thực
hiện các kiến nghị sau giám sát.
+ Quy định phạm vi giám sát, hình thức giám sát quá rộng với nhiều chủ thể,
chưa phân định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi chủ thể với từng đối tượng
chịu sự giám sát cũng như sự phối hợp giữa các chủ thể giám sát dẫn tới sự chồng
chéo trong thực hiện.
+ Yêu cầu, kiến nghị của Thường trực, các Ban và của đại biểu HĐND tỉnh
ít có giá trị pháp lý bảo đảm thực hiện.
+ Các biện pháp pháp lý của HĐND tỉnh ít được thực hiện trên thực tế.
Thứ hai: Nguyên nhân từ năng lực, nhận thức và trách nhiệm thực hiện chức năng
giám sát của đại biểu HĐND
- Cơ quan thường trực của HĐND tỉnh chưa đủ lực do thiếu đại biểu chuyên
trách.
- Cơ cấu thành viên các ban HĐND đã có đổi mới cũng vẫn còn điểm chưa
hợp lý ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả của hoạt động thẩm tra.
- Về đại biểu HĐND tỉnh, việc chọn đại biểu của HĐND tỉnh còn chạy theo
cơ cấu nên trình độ, năng lực lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng không đồng
đều.
Nguyên nhân dẫn đến tính hình thức trong hoạt động giám sát của HĐNDcấp
tỉnh đó là trong hệ thống chính trị nước ta nhận thức về vị trí, vai trò của HĐND chưa
thật sự thống nhất (có quan niệm đề cao, có quan niệm hạ thấp), và dù có quan niệm
đề cao thì hiện nay vẫn chưa có cơ chế tốt nhất để thực hiện; chưa có sự phân quyền
thực sự đối với các cấp chính quyền.
65
Tiểu kết chương 2
Ở chương 2, luận văn đã nêu lên thực trạng hoạt động giám sát của HĐND
tỉnh Savannakhet, trong đó có quá trình hình thành của HĐND tỉnh; vị trí, nhiệm
vụ và cơ cấu của HĐND tỉnh Savannakhet CHDCND Lào.
HĐND tỉnh Savannakhet là cầu nối giữa chính quyền Trung ương và cấp
trên với chính quyền tỉnh và các huyện trên địa bàn tỉnh, vừa bảo đảm sự tập trung
thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa đảm
bảo phát huy được nội lực của tỉnh. HĐND tỉnh Savannakhet có 3 ban chính là:
Ban Pháp chế - An ninh và Quốc phòng có 13 thành viên; Ban Kinh tế - Kế hoạch
và Tài chính07 thành viên;Ban Văn hóa - Xã hội và Dân tộc có 13 thành viên,
ngoài ra còn có Ban thư ký
Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet
thông qua kỳ họp gồm có thực trạng về hoạt động xem xét báo cáo, hoạt động chất
vấn hoạt động giám sát thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ
chức vụ do HĐND bầu. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Savannakhet ngoài kỳ họp có Hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh Savannakhet;
xem xét giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của công dân ; xem xét văn bản quy phạm
pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp; xem xét
hoạt động giám sát của các ban HĐND và hoạt động giám sát của các đại biểu
HĐND cấp tỉnh
Trong thời gian trước đây, hoạt động giám sát còn nhiều hạn chế và mang
tính hình thức, Thường trực HĐND cấp tỉnh chủ yếu làm nhiệm vụ tiếp nhận xong
và chuyển đến các cơ quan hữu quan có trách nhiệm giải quyết. Những năm gần đây
HĐND cấp tỉnh đã có bước cải tiến, đưa công tác này vào nề nếp. Thường trực
HĐND đã xây dựng quy chế tiếp công dân theo quy định của pháp luật, bố trí cán
bộ tiếp nhận và xử lý kịp thời đơn thư của công dân.
Đa số đại biểu HĐND tỉnh đã tham dự đầy đủ các kỳ họp của HĐND tỉnh,
đã tập trung nghiên cứu các báo cáo, đề án, tờ trình, dự thảo nghị quyết và báo cáo
thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh để có những thông tin cần thiết để tham gia thảo
luận và biểu quyết.Việc xây dựng kế hoạch giám sát. Hoạt động xây dựng kế hoạch
66
còn chậm, nội dung giám sát một số cuộc có khi còn quá vĩ mô hoặc quá cụ thể,
chưa bám sát tình hình thực tế hoàn cảnh của địa phương, tính thời sự chưa
cao.Công tác phối hợp giữa Thường trực HĐND tỉnh với các BanHĐND và chính
giữa các Ban của HĐND với nhau trong hoạt động giám sát nhất là trong công tác
thẩm tra những nội dung có liên quan đến phạm vi theo dõi của nhiều Ban còn chưa
chặt chẽ và thường xuyên.
Ngoài ra, luận văn còn chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế
trong đó có các quy định của pháp luật - căn cứ pháp lý cho hoạt động giám sát và
nguyên nhân từ năng lực, nhận thức và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát
của đại biểu HĐND. Từ đó có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động giám sát của HĐND tỉnh Savannakhet sẽ được đề cập đến ở chương 3.
67
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH SAVANNAKHET CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động giám
sát của HĐND cấp tỉnh
Hệ thống pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động giám sát của HĐND
cấp tỉnh được hoàn thiện sẽ xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của HĐND cấp
tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Savannakhet nói riêng
Muốn đảm bảo chức năng giám sát của HĐND tỉnh Savannakhet thực hiện có hiệu
quả thì những quy định pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND phải được hoàn
thiện đầu tiên. Bởi lẽ nếu không có quy định cụ thể về quyền giám sát của HĐND,
thì sẽ không có cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng. Mặc
dù hiện nay trong Luật Tổ chức HĐND và Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã
có một chương trình quy định về chức năng giám sát của HĐND các cấp, song vẫn
còn rất chung, so với yêu cầu thực tiễn, chưa đủ cơ sở pháp lý để HĐND thực hiện
tốt chức năng của mình.
Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện cơ chế giám sát ở CHDCND Lào hiện nay,
từ nhận thức giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND với một phạm vi
đối tượng giám sát khá phong phú và phức tạp, chúng ta cần phải cụ thể hóa và áp
dụng có hiệu quả Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND.
- Trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật Tổ
chứcHĐND đã quy định một cách rõ ràng, đầy đủ về khái niệm giám sát của
HĐND. Nội hàm của khái niệm được thể hiện ở chủ thể giám sát, đối tượng chịu
giám sát, nội dung và phạm vi hoạt động giám sát của HĐND. Nói chung về nội
dung Luật giám sát của HĐND đã khá hoàn thiện ở một số vấn đề sau như:chủ thể
- Về trách nhiệm của các thành phần trong đoàn giámsát:
giám sát, đối tượng chịu giám sát
Hiện nay thành phần của các đoàn giám sát thường bao gồm các đại biểu
HĐND do một cơ quan của HĐND chủ trì cử ra, sự tham gia đại diện các cơ quan
nhà nước hữu quan, như Mặt trận xây dựng đất nước tỉnh, các tổ chức thành viên
68
và một số cán bộ có chuyên môn. Từ đây, đặt ra vấn đề lý luận và thực tiễn phải
xác định rõ trách nhiệm giám sát của các chủ thể thực hiện quyền giám sát và mức
độ tham gia đến đâu của các tổ chức, cá nhân khác, để đảm bảo tính pháp lý của
hoạt động giám sát. Do vậy trong luật giám sát của HĐND cần phải bổ sung thêm
nội dung này.
- Về trách nhiệm pháp lý của các đơn vị liên quan khi không thực hiện các
kết luận giám sát cần phải có hướng dẫn cụ thể về nội dung, mức độ xử lý như thế
nào để làm căn cứ là hết sức cần thiết. Có như vậy mới nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các đơn vị và đảm bảo uy tín cho HĐND.
Qua các vấn đề nêu trên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải chú
trọng yếu tố kỷ luật lập pháp đảm bảo tính cụ thể và mức độ khái quát hợp lý của
các quy phạm nhằm làm cho các quy định về giám sát của HĐND dễ hiểu, dễ áp
dụng, rõ ràng, minh bạch, không phải chờ đợi những văn bản có hiệu lực pháp lý
thấp hơn hướng dẫn giảithích.
3.2. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân nói chung và
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát nói riêng
Nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng về vai trò, vị trí của HĐND, về tầm
quan trọng của hoạt động giám sát của HĐND tỉnh, trên cơ sở đó tăng cường, đổi
mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với tổ chức và hoạt động của
HĐND. Cấp ủy đảng lãnh đạo công tác hiệp thương, lựa chọn giới thiệu những đại
biểu đủ năng lực, trình độ để thực hiện nhiệm vụ đại biểu theo luật định, đặc
biệt chú trọng việc quy hoạch, đào tạo, bố trí đại biểu có năng lực đảm nhiệm các
chức danh trưởng, phó các ban HĐND tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Cấp ủy đảng, lãnh đạo HĐND tỉnh thông qua việc định hướng nội dung hoạt
động trong từng thời gian cụ thể, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá
việc thực hiện của HĐND tỉnh, nhất là việc cụ thể hóa các chủ trương của cấp ủy
thành nghị quyết của HĐND cùng cấp; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm
túc các kiến nghị sau giám sát của HĐND; sử dụng kết quả giám sát của HĐND để
lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội và thực hiệncông tác cán bộ tại địa
phương.
69
Thực tiễn hoạt động của HĐND ở CHDCND Lào đã chỉ ra rằng, một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại, khuyết điểm trong tổ chức và
hoạt động của HĐND là do nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của của
HĐND các cấp, các ngành. Vì vậy, để xây dựng HĐND có được thực quyền như đã
quy định, trước hết phải nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của HĐND với chức năng
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Đây là vấn đề đặt ra không chỉ với
HĐND và mỗi đại biểu, mà còn là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức
kinh tế và tổ chức xã hội.
Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống
chính trị phải nhận thức sâu sắc vai trò của HĐND là tổ chức quyền lực thực sự của
nhân dân địa phương dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó nâng cao nhận thức trong
việc xây dựng cơ chế thực hiện và đảm bảo quyền lực của nhân dân, đổi mới
phương thức lãnh đạo đối với HĐND các cấp.
Theo Hiến pháp 2003, bộ máy nhà nước HĐND của CHDCND Lào bao
gồm 4 cấp hành chính: ấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp bản. Trong đó cấ
tỉnh và HĐND tỉnh có một vị trí rất quan trọng, là cầu nối truyền tải chính sách từ
Trung ương xuống địa phương và ngược lại. Chính vì vậy, trong bất kỳ nhà nước
nào, cấp trực tiếp dưới cấp Trung ương cũng luôn được đề cao, coi trọng. HĐND
cấp tỉnh là cơ quan chịu trách nhiệm quyết định các vấn đề quan trọng ở địa
phương, trong đó có cả cấp tỉnh, huyện, bản. Để HĐND đưa ra được các quyết định
phù hợp với pháp luật, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của tình hình thực tế ở địa
phương thì một chức năng rất quan trọng của HĐND cần được chú trọng là chức
năng giám sát. Có giám sát tốt mới thúc đẩy, kiểm tra để nghị quyết của HĐND
được thực hiện tốt và thông qua giám sát có đề xuất kiến nghị HĐND ban hành nghị
quyết.
Giám sát của HĐND không chỉ giúp cho chức năng quyết định của HĐND
mà còn giúp cho các cơ quan hữu quan, cơ quan, tổ chức bị giám sát nhận thấy vấn
đề còn tồn tại, cần khắc phục để hoàn thành tốt công tác của mình, đồng thời phát
hiện những kinh nghiệm tốt, những hoạt động tốt để phát huy. Không nên coi giám
sát của giúp cho các cơ quan hữu quan là chỉ đi tìm cái sai c ủa các cơ quan, tổ
70
chức, cá nhân để đối tượng bị giám sát có tâm lý lo sợ, phòng và chống đối, không
có sự hợp tác. Nhìn nhận giám sát của HĐND phải với góc độ cái chung, cái được
của bộ máy, của địa phương và của chính bản thân cơ quan, tổ chức bị giám sát.
Cần đặc biệt coi trọng hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh, bởi đây là cấp
trung gian giữa Trung ương và địa phương, là cấp cao nhất ở địa phương. Hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh luôn được đánh giá có hiệu lực, hiệu quả hơn
hoạt động của HĐND cấp huyện và cấp bản. Vì vậy, có nhận thức đúng vị trí, vai
trò của HĐND cấp tỉnh trong bộ máy nhà nước cũng như chức năng giám sát của
HĐND mới có thể đưa ra các giải pháp giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh cũng như tạo điều kiện để HĐND thực hiện
quyền giám sát của mình. Bản thân HĐND cũng phải thấy được tầm quan trọng của
hoạt động giám sát, từ đó thấy rõ trách nhiệm, tự đổi mới, tang cường hoạt động,
nâng cao hiệu lực giám sát của mình.
Để tăng cường nhận thức về HĐND, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh,
cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Đảng có nghị quyết quán triệt tới Đảng viên các cấp, trong đó tập trung
vào cấp tỉnh về vị trí, vai trò của HĐND tỉnh và nhiệm vụ của Đảng viên nhằm nâng
cao về tổ chức và hoạt động giám sát của HĐND tỉnh. Không chỉ qua các nghị
quyết của Ban chấp hành Trung ương mà cần có thêm nghị quyết của Bộ Chính trị
và của cấp ủy Đảng các tỉnh và thủ đô Viêng Chăn..
- Chính phủ thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn hoạt động của HĐND cấp
tỉnh, có chỉ thị để các cơ quan hành chính thực hiện nghiêm túc yêu cầu cùa HĐND
trong công tác giám sát
- Thường xuyên tuyên truyền về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trên
các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương. Đây cũng là một hình thức quan
trọng để đại biểu HĐND thấy được vai trò quan trọng của mình cũng như người dân
nhận thức đúng đắn vị trí của HĐND cũng như hoạt động giám sát của HĐND.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục chỉ đạo đánh giá việc thực hiện công tác
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND các cấp nhằm đánh giá, chấn
chỉnh việc tổ chức thực hiện; tiếp tục nâng cao nhận thức của các tổ chức, cán bộ,
71
đảng viên và nhân dân ở địa phương về vị trí, vai trò của HĐND; nâng cao trách
nhiệm của đại biểu HĐND, nhất là Đảng viên là đại biểu trong thực hiện nghị quyết
của Tỉnh ủy và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người đại biểu của dân đã được
pháp luật quy định.
3.3. Hoàn thiện các hình thức giám sát để nâng cao chất lượng giám sát của
Hội đồng nhân dân
Thứ nhất, cần tiến hành đổi mới hoạt động giám sát của HĐND tỉnh.
Cải tiến công tác chuẩn bị nội dung kỳ họp, quy định rõ thời hạn các dự thảo
báo cáo, đề án, nghị quyết phải chuyển đến cho Thường trực HĐND; các ban
HĐND tiến hành thẩm tra các báo cáo với những phân tích, đánh giávà thể hiện
rõ chính kiến; những văn bản nào chậm, chưa được thẩm tra dứt khoát không trình
ra kỳ họp.
Nâng cao chất lượng thảo luận tại các phiên họp toàn thể. Tăng cường quyền
chất vấn của đại biểu, hạn chế những chất vấn mang tính kiến nghị, thông tin và sự
việc không rõ; những người bị chất vấn phải trả lời rõ ràng, cụ thể, có tính thuyết
phục, không vòng vo, né tránh.
Xác định đúng nội dung giám sát, chọn đúng việc, sử dụng các công cụ thích
hợp theo chức năng, vai trò củaHĐND; lựa chọn những vấn đề bức xúc mà đa số cử
tri quan tâm, cụ thể là những chương trình, dự án có ảnh hưởng đến quyền lợi của
nhân dân, các vấn đề liên quan đến cải cách thủ tục hành chính, việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Cần chuẩn bị kỹ thành phần đoàn
giám sát, thời điểm tiến hành giám sát...;dành thời gian để trực tiếp nghe ý kiến cử
tri phản ánh về những lĩnh vực đang tiến hành giám sát. Quan trọng là huy động
được tất cả đại biểu tham gia hoạt động giám sát, khắc phục tình trạng phó thác
nhiệm vụ giám sát cho một vài đại biểu được coi là “có kiến thức chuyên môn”
trong một lĩnh vực cụ thể.
Thứ hai; tăng cường phối hợp giữa hoạt động giám sát của HĐND tỉnh với
giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Yêu nước và một số cơ
quan liên quan; phối hợp giữa Thường trực với các ban HĐND và giữa các ban
72
HĐND với nhau trong quá trình thực hiện các hoạt động giám sát theo chuyên
đề nhằm đạt kết quả toàn diện.
Để giám sát được hoạt động của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp
luật, HĐND tỉnh sử dụng các biện pháp mà pháp luật quy định như xem xét báo
cáo, chất vấn, kiểm tra thực tế, giám sát qua giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo,
thành lập Đoàn giám sát.Đây là những hình thức giữ vị trí cực kỳ quan trọng trong
toàn bộ hoạt động giám sát của HĐND. Hiệu quả giám sát của HĐND phụ thuộc rất
nhiều vào các hình thức giám sát này.
Thứ ba, hoàn thiện hình thức xem xét, thẩm tra báo cáo ,Nâng cao chất lượng xem
báo cáo
Xem xét báo cáo là hoạt động giám sát quan trọng. Đây là hình thức HĐND
xem xét tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc đánh giá các
báo cáo đó. Nên trong luật cần quy định cụ thể về chế độ báo cáo, hình thức báo
cáo, đặc biệt phải quy định trách nhiệm nếu báo cáo không phản ánh đúng thực
trạng hoạt động của các cơ quan, đơn vị đưa nhiều thông tin sai lệch hoặc thiếu
thông tin. Về phía các cơ quan lập báo cáo yêu cầu thông tin trong báo cáo phải đầy
đủ, khách quan phản ánh đúng thực trạng hoạt động cũng như những vấn đề trọng
tâm cần tập trung giải quyết. Đồng thời phải nêu những kết quả đạt được, những
khó khăn yếu kém tồn tại, từ đó đề ra các biện pháp giải quyết và kiến nghị đề xuất
việc giải quyết đó Khi báo cáo và báo cáo thẩm tra được trình ra HĐND, đại biểu
HĐND cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp ý kiến xác đáng và có thể nêu vấn đề
chất vấn để các cơ quan báo cáo giải trình trước HĐND. Việc thảo luận và thông
qua báo cáo tại kỳ họp của HĐND phải thể hiện trình độ độc lập của HĐND bằng
cách ra nghị quyết riêng về vấn đề đó. Các báo cáo phải được gửi trước tới đại biểu
HĐND theo quy định của pháp luật và phải được đăng tải trên các phương tiện
thông tin đại chúng trước kỳ họp, để đảm báo tính công khai, khách quan. Có như
vậy, kết luận bằng nghị quyết của HĐND mới thực sự là kết quả của việc sử dụng
hình thức xem xét báo cáo một cách có chất lượng. Việc xem xét các báo cáo tại kỳ
họp là khâu quyết định quá trình hiện thực hóa các quan điểm, quyết sách chính trị
của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước thành ý chí của nhân dân thông qua
73
hoạt động kỳ họp HĐND. Điểm mấu chốt quan trọng của việc xem xét các báo cáo
của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp và báo cáo của Chánh án TAND, Viện
trưởng VKSND tỉnh, các đề án về chính sách địa phương, nhất thiết phải thực hiện
đúng quy trình, phải xem xét, thông qua từng văn bản một với một thời gian hợp lý,
cần thiết và điều hành khoa học, không bị ràng buộc bởi thời gian mà bỏ qua quy
trình này. Để giảm tải thời gian cho kỳ họp, cần bổ sung quy chế làm việc quy định
rõ trách nhiệm của đại biểu, Tổ đại biểu trong việc nghiên cứu trước các tài liệu,
chuẩn bị ý kiến thảo luận, chất vấn của đại biểu HĐND, các Tổ đại biểu trước khi
đến kỳ họp. Tại kỳ họp, TTHĐND tỉnh nên dành thời gian thỏa đáng cho việc thảo
luận và gợi ý, xin ý kiến đại biểu về các dự thảo nghị quyết, không vì ảnh hưởng
thời gian mà thảo luận chung chung, thiếu hơi thở cuộc sống trong nghị quyết.
Xem xét, thẩm tra báo cáo là việc HĐND cấp tỉnh nhận xét, đánh giá kết quả hoạt
động của cơ quan nhà nước trên cơ sở báo cáo bằng văn bản của các cơ quan đó gửi
tới HĐND. Đây là một hình thức cung cấp thông tin giúp HĐND cấp tỉnh nắm được
chính xác, đầy đủ và kịp thời về tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước
trong phạm vi giám sát của HĐND cấp tỉnh. Hoàn thiện hình thức thẩm tra, xem xét
báo cáo cần được thể hiện trong việc phân tích, tổng hợp thông tin, xây dựng báo
cáo thẩm tra trình kỳ họp HĐND. Cần chắt lọc lựa chọn thông tin phù hợp để xây
dựng báo cáo, để tránh dàn trải. Từ thực tế ở cơ sở vói những thông tin hai chiều,
báo cáo thẩm tra cần thể hiện rõ quan điểm, về những vấn đề nhất trí và không nhất
trí, khắc phục tình trạng chép lại những số liệu, đánh giá của cơ quan trình báo cáo;
điều rất cần trong báo cáo thẩm tra là phải lựa chọn được những vấn đề tiêu biểu,
nổi cộm, đi sâu phân tích, đánh giá tìm nguyên nhân và đề xuất được giải pháp để
giải quyết. Quá trình xây dựng báo cáo thẩm tra cần thể hiện rõ sự tôn trọng hiện
thực khách quan, thể hiện rõ bản lĩnh khách quan, không né tránh, dám đưa vào báo
cáo những vấn đề gai góc, những vấn đề bức xúc đã được xác minh qua hoạt động
giám sát.
Thứ tư, hoàn thiện hình thức chất vấn.
Chất vấn là một hình thức giám sát quan trọng của HĐND, là hình thức biểu hiện
của quyền lực nhà nước. Thông qua hoạt động chất vấn, cơ quan dân cử thực hiện
74
sự kiểm tra, giám sát đối với cá nhân hoặc cơ quan nhà nước. Về hình thức hoạt
động chất vấn có thể hiểu đơn giản là hỏi và trả lời. Về bản chất là sự truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với người bị chất vấn. Tuy nhiên, hiện nay phiên chất vấn chưa
đạt được điều đó. Các câu hỏi chất vấn ít, kém chất lượng, mang tính hỏi để biết.
Cần phải có nhiều câu hỏi có chất lượng; cần thực hiện đầy đủ các hình thức tổ chức
cho đại biểu tiếp xúa cử tri theo quy định của luậ, theo chuyên đề… để đại biểu có
nhiều thời gian nắm bắt thông tin, nắm được tâm tư nguyện vọng của cử tri và đưa
ra câu hỏi chính xác. HĐND cũng cần bố trí cho đại biểu tham gia các Đoàn giám
sát của các Ban và Thường trực HĐND để đại biểu có điều kiện nắm rõ tình hình
của địa phương thông qua hoạt động giám sát.
3.4. Nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công chức của Hội đồng nhân dân
tỉnh
Nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy giúp việc cho Hội đồng nhân dân
Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh là cơ quan trực tiếp tham mưu và tổ chức
phục vụ hoạt động cho TTHĐND, các ban của HĐND và các đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh. Cần phải nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy tổ chức các
phòng, Ban. Cụ thể: thường xuyên kiện toàn bộ máy tổ chức theo hướng tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả; trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ công chức ngày
càng được nâng cao; có nhiều chính sách để thu hút người tài; có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng hàng năm; tạo mọi điều kiện tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị....để cán
bộ công chức làm việc; quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của cán
bộ công chức để họ yên tâm làm việc và cống hiến lâu dài cho sự phát triển của tổ
chức. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của các phòng Ban này có ảnh hưởng rất
lớn đến năng lực, hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh. Vì vậy, những chuyên viên
giúp việc cho HĐND tỉnh phải có chuyên môn sâu. Đặc biệt cần có đủ độ nhạy bén
về chính trị, kịp thời phát hiện, đề xuất lựa chọn những vấn đề phù hợp tham mưu
cho HĐND thực hiện chức năng giám sát. Về lý luận cũng như yêu cầu thực tiễn đặt
ra, các chuyên viên của HĐND phải có năng lực, trình độ không những chỉ tham
mưu cho HĐND nên giám sát những vấn đề gì, giám sát như thế nào, chứ không
phải chỉ là một cán bộ đơn thuần làm theo sự chỉ đạo của cấp trên như hiện nay.
75
Công tác tham mưu, tổng hợp: cần nâng cao chất lượng và trình độ chuyên môn của
cán bộ, chuyên viên Văn phòng, có kiến thức chuyên sâu về từng lĩnh vực, giỏi một
việc, biết nhiều việc; nắm vững các quy định của pháp luật về chức năng, thẩm
quyền của HĐND cấp tỉnh, đồng thời có khả năng tổng hợp thông tin tốt. Cần xây
dựng quy trình tham mưu, phục vụ cho từng công việc như quy trình tiếp xúc cử tri,
quy trình giám sát; Quy trình tổ chức phục vụ kỳ họp…để đảm bảo những nguyên
tắc, trình tự, thủ tục, đồng thời thống nhất trong công tác tham mưu, tổng hợp, giúp
lãnh đạo HĐND tỉnh trong công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của HĐND tỉnh.
Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động văn phòng giúp cho công
tác tổng hợp, cập nhật thường xuyên và hiệu quả. Ngoài ra, để đáp ứng được yêu
cầu trên, chúng ta phải có chính sách, chế độ phù hợp thu hút các cán bộ, công chức
giỏi của mọi lĩnh vực về giúp việc cho HĐND, có kế hoạch củng cố bộ phận trực
tiếp giúp việc cho các ban của HĐND. Trước hết yêu cầu chuyên viên giúp việc cho
các ban phải có chuyên môn về lĩnh vực ban đó phụ trách; đồng thời phải có một tỷ
lệ thích hợp số chuyên viên chuyên trách là người đã làm việc ở các lĩnh vực đó
trong thực tế. Trong điều kiện hiện nay, khi số đại biểu HĐND là thành viên các
Ban làm việc chuyên trách ít, thì đội ngũ cán bộ, chuyên viên của Văn phòng giúp
việc các Ban là rất quan trọng, góp phần đảm bảo hiệu quả hoạt động của Ban. Do
đó cần lựa chọn, bố trí chuyên viên đủ năng lực của Văn phòng tham mưu, giúp
việc chuyên trách cho các Ban (nên mỗi ban từ 3 đến 5 chuyên viên). Cần phân
công rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, đảm bảo mỗi công việc cụ thể của Ban đều
có chuyên viên phụ trách, theo dõi thực hiện. Cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, năng lực tham mưu của đội ngũ cán bộ, chuyên viên, động
viên, khen thưởng kịp thời.
Đối với cán bộ vừa tuyển dụng cần có kế hoạch đưa đi thực tế ở cơ sở, đồng
thời nên bố trí họ tham gia các buổi hội thảo, hội nghị nhằm bồi dưỡng kiến thức,
kinh nghiệm chuyên môn giám sát. Có như vậy bộ phận giúp việc của HĐND tỉnh
mới đủ khả năng phục vụ HĐND thực hiện tốt chức năng giám sát.
Ngoài ra, cần đáp ứng đầy đủ trang thiết bị thiết bị làm việc, phương tiện
phục vụ hoạt động của các Ban. Có quy định cụ thể về kinh phí cho hoạt động
76
chuyên môn của Ban như kinh phí nghiên cứu phục vụ công tác thẩm tra, giám sát,
thuê chuyên gia tham gia các hoạt động của Ban để nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động HĐND,
Thường trực, các Ban, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND.
Đồng bộ trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức. Đồng thời, động viên, khuyến khích đội ngũ công chức giữ ngạch cán sự và
tương đương và những công chức có trình độ cao đẳng, trung cấp học tập, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công tác.
Để đạt mục tiêu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của
HĐND tỉnh có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính
trị, có năng lực chuyên môn, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân,
đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ đáp ứng sự nghiệp phát triển của tỉnh và
đất nước. Tập trung thực hiện nhiệm vụ đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất
lượng đội ngũ; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ; đổi
mới công tác tuyển dụng công chức, viên chức; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Đặc biệt phải xác định công tác đánh giá, nhận
xét cán bộ, công chức, viên chức là vấn đề quan trọng, đánh giá đúng sẽ sử dụng
đúng cán bộ. Các cơ quan, đơn vị phải lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao
làm thước đo chính để đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ, công chức, viên
chức; khắc phục tình trạng đánh giá cán bộ, công chức, viên chức một cách chung
chung, cảm tính, chủ quan, lẫn lộn giữa điều kiện với tiêu chuẩn, coi bằng cấp, học
vị cao hơn phẩm chất, năng lực. Xây dựng quy chế buộc thôi việc, bãi miễn đối với
cán bộ, công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy
tín với nhân dân. Tổ chức tốt việc lấy phiếu tín nhiệm giữa nhiệm kỳ theo quy định
của Bộ Chính trị. Những cán bộ đạt phiếu tín nhiệm thấp có thể xem xét điều động
sang vị trí công tác khác. Đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị trong việc phân loại đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, hàng
năm theo nguyên tắc: Cấp trên đánh giá cấp dưới, người đứng đầu đánh giá những
người thuộc quyền quản lý, cấp trên thực tiếp đánh giá người đứng đầu.
77
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 10-NQ/TW (khóa IX) trong
những năm tới, Văn phòng sẽ triển khai, cụ thể hóa đồng bộ hệ thống các quan
điểm, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết vào nhiệm vụ công tác hàng năm,
trong đó tập trung vào việc: Tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ nhân viên; quan tâm, tạo điều kiện
cho cán bộ nhân viên được học tập nâng cao trình độ, tham gia các khóa bồi dưỡng,
nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng; thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với
người lao động; phối hợp với tổ chức Công đoàn chăm lo nâng cao đời sống văn
hóa tinh thần cho cán bộ nhân viên.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp của các
phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
trong thời gian tới cần hướng vào một số vấn đề trọng tâm sau đây:
Thứ nhất: Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ công chức
của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng. Từ việc nhận thức đúng đắn sẽ là cơ sở xây dựng chương trình,
kế hoạch cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng tại địa phương.
Có thể nói, ý thức của công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân
tỉnh, của các nhà quản lý trong việc học tập, cập nhật kiến thức, nâng cao kỹ năng
phục vụ trong công việc đang là yếu tố cản trở rất lớn đối với quá trình đào tạo, bồi
dưỡng hiện nay. Nhận thức của một số cán bộ, công chức hiện nay đang tồn tại
những cách nhìn không đúng về việc tham gia các khóa về đào tạo, bồi dưỡng,
chẳng hạn như xem đó chỉ là hoạt động bắt buộc theo quy định của nhà nước hay tư
tưởng học vì bằng cấp, chức vụ chứ không phải vì chính nhu cầu công việc của cán
bộ, công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh.
Do đó, cần nhận thức đúng về vai trò quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng.
vì tự thân nhà quản lý, đội ngũ cán bộ, công chức hiểu và làm sẽ tác dụng hơn là bị
ép buộc từ các quy định của nhà nước hay các yếu tố khác tác động từ bên ngoài
khác. Nhận thức đúng đắn và có động lực từ bên trong sẽ thúc đẩy cán bộ, công
chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh nỗ lực học tập, phấn đấu trước hết
78
vì bản thân mình, từ đó góp phần vào việc thực hiện tốt hơn công việc và nhiệm vụ
được giao.
Thứ hai: Rà soát lại tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức của các phòng ban Hội
đồng nhân dân tỉnh về số lượng, chất lượng theo từng nhóm chức danh, gắn với vị
trí công việc hiện tại của họ để xác định rõ những mặt hạn chế và yếu kém. Cần dựa
vào các tiêu chí nói trên để đào tạo, bồi dưỡng nhằm chuẩn hóa sử dụng lâu dài, hay
bổ sung, thay thế; chú trọng đến cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số, cán bộ,
công chức là nữ.
Trên cơ sở đó, cần tập trung hoàn thành mục tiêu nâng số lượng 80% cán bộ
chuyên trách và 90% công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh trên địa
bàn tỉnh đạt trình độ cao đẳng; Phấn đấu có 75% cán bộ chuyên trách đạt chuẩn
trung cấp lý luận chính trị và 60% công chức của các phòng ban Hội đồng nhân
dân tỉnh đạt sơ cấp chính trị trở lên.
Thứ ba: Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các phòng ban Hội
đồng nhân dân tỉnh là nhằm trang bị, củng cố và nâng cao kiến thức, năng lực thực
tiễn, điều hành và thực thi công vụ. Do đó, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phải kết
hợp trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng và nghiệp vụ tại cơ sở. Tập trung đào
tạo, bồi dưỡng kỹ năng công tác, ưu tiên các kỹ năng cán bộ, công chức còn yếu
như giao tiếp, tiếp dân, tham mưu, đề xuất giải quyết công việc, soạn thảo văn bản,
hòa giải.
Thứ tư: Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của địa phương cần gắn liền với xem xét
phân loại nhu cầu đào tạo của cán bộ, công chức của các phòng ban Hội đồng nhân
dân tỉnh. Xem xét nhu cầu nào là quan trọng, là cần thiết và trước mắt, nhu cầu nào
cần đào tạo ngay, nhu cầu nào có thể lùi lại. Đồng thời, cần có cơ chế đặc biệt tiếp
tục khuyến khích cán bộ, công chức không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng. Có thể
học dưới nhiều hình thức khác nhau như: Học tập trung, học ngoài giờ; học tại
chức, từ xa, liên thông…Đây là biện pháp giải quyết nhu cầu đào tạo đỡ tốn chi phí
nhất.
Thứ năm: Chú trọng đặc biệt vào chương trình và khâu biên soạn tài liệu đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh.
79
Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần được đổi mới theo hướng thiết thực,
sát với đối tượng và mục tiêu đào tạo. Hướng tới sửa đổi, bổ sung vào các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phù hợp theo từng chức danh, vị trí việc
làm.
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần xác định đến tính đặc thù của của cán
bộ, công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh để có kiến thức bổ trợ, tài
liệu cần được xây dựng phù hợp, gắn lý luận với thực tiễn, chú ý rèn luyện những
kỹ năng cần thiết nhất phục vụ cho công việc của cán bộ, công chức.
Thứ sáu: Cần đánh giá tổng quát khách quan và minh bạch chất lượng cán bộ,
công chức của các phòng ban Hội đồng nhân dân tỉnh sau đào tạo, bồi dưỡng đồng
thời nâng cao hiệu quả quản lý cán bộ, công chức chính sau đào tạo, bồi dưỡng từ
đó có những điều chỉnh kịp thời với hoạt động này tại địa phương.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết IX (khóa X) trong những năm
tới, HĐND tỉnh để triển khai, cụ thể hóa đồng bộ hệ thống các quan điểm, nhiệm vụ
và giải pháp để đưa Nghị quyết vào nhiệm vụ công tác hàng năm, trong đó tập trung
vào việc: Tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước tới toàn thể cán bộ, công chức của HĐND tỉnh; quan tâm, tạo điều
kiện cho cán bộ, công chức được học tập nâng cao trình độ, tham gia các khóa bồi
dưỡng, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng; thực hiện tốt các chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức; phối hợp với tổ chức Công đoàn chăm lo nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, công chức.
3.5. Nâng cao chất lượng tiếp công dân và xử lý, đôn đốc việc giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo
Hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của HĐND và đại
biểu HĐND đóng vai trò rất quan trọng trong việc gắn chặt mối quan hệ giữa nhân
dân với cơ quan Nhà nước nói chung và với HĐND, đại biểu HĐND nói riêng.
Thông qua việc tiếp công dân HĐND nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, những ý
kiến, kiến nghị của nhân dân, trên cơ sở đó HĐND xem xét, yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền giải quyết và trả lời công dân. Làm tốt vấn đề này góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của HĐND, đồng thời thể hiện rõ vai trò của HĐND là cơ quan
80
quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
địa phương.
Việc tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo cũng như việc theo dõi, đôn
đốc việc giải quyết cần được Thường trực HĐND tỉnh thể chế hóa thành quy định
về Quy trình tiếp nhận, trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri và kiến nghị sau giám sát
của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, trong đó quy định cụ thể một số nội
dung quan trọng như thời hạn và trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân, cơ quan có
thẩm quyền trong việc trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri cũng như trách nhiệm
giám sát của Thường trực HĐND, các Ban HĐND, các đại biểu HĐND đối với việc
giải quyết các kiến nghị này…, từ đó rút ngắn thời gian giải quyết, đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của công dân.
Các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được chuyển đến Thường trực
HĐND và trực tiếp nhận từ công dân, Thường trực HĐND chỉ đạo Ban Pháp chế
HĐND tỉnh bố trí cán bộ, chuyên viên vào sổ theo dõi, phân loại, chuyển đến các cơ
quan có thẩm quyền và theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết đơn thư theo
đúng quy định. Đối với những vụ việc phức tạp, Thường trực HĐND tỉnh cử cán bộ
trực tiếp đến cơ sở để xác minh, làm rõ và thu thập thêm tài liệu, chứng cứ có nội
dung liên quan, để trên cơ sở đó kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân.
Công tác giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân là
vấn đề mà Thường trực HĐND, các Ban HĐND và các đại biểu HĐND luôn quan
tâm thực hiện tốt, có sự kết hợp giữa các hình thức giám sát.
Hàng năm, TTHĐND cần đưa nội dung giám sát việc thi hành pháp luật về
khiếu nại, tố cáo vào chương trình giám sát thường xuyên, đặc biệt chú trọng giám
sát trực tiếp một số vụ việc nổi cộm, tồn đọng, kéo dài thông qua đơn thư khiếu nại,
tố cáo của công dân. Nội dung các cuộc giám sát phải được chuẩn bị chu đáo từ
việc tham mưu xây dựng, ban hành kế hoạch giám sát, thu thập thông tin, tài liệu,
chuẩn bị hồ sơ vụ việc đầy đủ. Phương thức giám sát phải từng bước đổi mới để
chất lượng giám sát ngày càng được nâng lên và có hiệu quả; hoạt động giám sát
ngày càng đi vào thực chất, phản ánh đúng thực tiễn, chỉ ra những sai sót, hạn chế
81
của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, được các cơ quan tiếp
thu, khắc phục.
Ngoài ra, Thường trực HĐND tỉnh thực hiện việc giám sát thông qua xem
xét các báo cáo của UBND tỉnh trình tại kỳ họp HĐND:
- Các báo cáo kết quả công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại tố
cáo là báo cáo định kỳ tại các kỳ họp HĐND tỉnh, được Ban của HĐND tỉnh thẩm tra
trước khi trình HĐND.
- Tại các kỳ họp HĐND, Thường trực HĐND có báo cáo kết quả giám sát
việc giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri tại kỳ họp trước; nhưng nhiệm kỳ tới,
Thường trực HĐND tỉnh nên yêu cầu UBND tỉnh báo cáo tổng hợp kết quả giải
quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri tại kỳ họp trước và phân công Ban của HĐND
tỉnh thẩm tra; đồng thời phân công các ngành, các địa phương trả lời các ý kiến,
kiến nghị của cử tri thông qua các buổi tiếp xúc cử tri ngay trong các phiên họp.
Trong các kỳ họp của HĐND tỉnh, phiên chất vấn và trả lời chất vấn được
Thường trực HĐND tỉnh nên thiết lập đường dây nóng, cử cán bộ theo dõi, tiếp
nhận để chuyển trực tiếp ý kiến kiến nghị, phản ánh của cử tri với chủ tọa kỳ họp.
Chủ tọa kỳ họp sẽ xem xét, phân loại các ý kiến và giao trực tiếp cho các cơ quan,
địa phương có thẩm quyền trả lời ngay tại phiên họp hoặc trả lời bằng văn bản. Việc
trả lời ý kiến, kiến nghị qua đường dây nóng và ý kiến các đại biểu trong phiên chất
vấn tại kỳ họp HĐND tỉnh sẽ thu hút sự quan tâm của đông đảo cử tri trong tỉnh,
mang lại những kết quả thiết thực, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cấp chính
quyền từ tỉnh đến cơ sở.
- Cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực giải quyết
khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, xác định
rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; quyền và trách
nhiệm của Thường trực HĐND, các Ban HĐND trong công tác tiếp công dân, đôn
đốc, kiểm tra, xem xét, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Có
chính sách động viên khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích tốt
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại,
82
tố cáo của công dân; kiên quyết xử lý những cán bộ công chức có hành vi né tránh,
đùn đẩy trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tăng cường công tác tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng, kinh
nghiệm về công tác tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân cho đại biểu HĐND và cán bộ công chức trực tiếp làm công tác
tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của cơ quan HĐND tỉnh.
Hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của HĐND và đại
biểu HĐND được quy định tại các văn bản pháp luật, trong đó đã quy định cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND
trong việc tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của HĐND và đại biểu
HĐND trong đó đã đề cao vai trò của Thường trực HĐND, đại biểu HĐND tỉnh từ
khâu tiếp công dân, đến tiếp nhận đơn, xử lý, chuyển đơn, đôn đốc, giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến HĐND tỉnh.
Trên cơ sở quy định của pháp luật, để hoạt động tiếp công dân ngày càng đi
vào nền nếp, mang lại hiệu quả thiết thực, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Thường trực
HĐND tỉnh phải kịp thời phối hợp với Đoàn ĐBQH tỉnh, UBND tỉnh, Ủy ban Mặt
trận xây dựng đất nước tỉnh ban hành Quy chế phối hợp trong hoạt động của HĐND
tỉnh, trong đó có nội dung phối hợp trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo của HĐND và đại biểu HĐND tỉnh; Thường trực HĐND tỉnh đã
chỉ đạo Văn phòng HĐND tỉnh tham mưu, giúp Thường trực HĐND tỉnh tiếp công
dân tại Trụ sở tiếp công dân của tỉnh; tiếp nhận, xử lý kiến nghị, đơn thư khiếu nại,
tố cáo của công dân gửi đến HĐND tỉnh; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo và kiến nghị của công dân gửi đến HĐND tỉnh. Cụ thể:
- Thường trực HĐND tỉnh không tổ chức tiếp công dân riêng, mà nên phối hợp với
lãnh đạo UBND tỉnh và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tổ chức tiếp công dân tại Trụ
sở tiếp công dân của tỉnh. Sau buổi tiếp công dân UBND tỉnh đều có văn bản thông
báo tới Thường trực HĐND tỉnh về kết quả tiếp công dân, nội dung khiếu nại, tố
cáo của công dân và giao trách nhiệm cho các cơ quan chức năng xem xét giải
quyết.Một số đại biểu HĐND tỉnh có thể tiếp công dân tại cơ quan, đơn vị công tác.
83
- Thường trực HĐND tỉnh phải thường xuyên chỉ đạo công tác tiếp nhận, phân loại,
chuyển đơn, theo dõi, đôn đốc các cơ quan, tổ chức giải quyết và trả lời công
dân. Giữa hai kỳ họp, Ban Pháp chế HĐND tỉnh thành lập đoàn giám sát chuyên đề
về khiếu nại tố cáo đối với những nơi nảy sinh các vấn đề bức xúc về khiếu nại tố
cáo. Qua giám sát chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, tồn tại và đưa
ra các kiến nghị, giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Sau giám sát đôn đốc các cơ quan chức năng thực hiện nghiêm chỉnh các kiến nghị
của đoàn giám sát.
Trước kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh chỉ đạo Ban Pháp chế - An ninh và
Quốc phòng HĐND tỉnh thẩm tra các báo cáo của UBND tỉnh, Viện kiểm sát nhân
dân, Toà án nhân dân cấp tỉnh về công tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân. Tại kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh đã chọn các nội dung bức xúc
trình HĐND tỉnh xem xét và chất vấn những vấn đề bức xúc hoặc những vụ việc cụ
thể mà cử tri quan tâm.
3.6. Tăng cường quan hệ giữa Hội đồng nhân dân tỉnh với các cơ quan ban
ngành, đoàn thể ở địa phương
Tăng cường mối quan hệ giữa HĐND với UBND, Ủy ban Mặt trận Xây
dựng đất nước và các đoàn thể nhân dân cùng cấp; xây dựng và tổ chức triển khai
thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Thường trực HĐND, UBND, Đoàn đại
biểu Quốc hội và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Xây dựng đất nước tỉnh. Theo
đó, mỗi cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của mình, đồng thời thực hiện đầy đủ những nội dung phối hợp với các cơ
quan khác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp
công dân, chuẩn bị nội dung kỳ họp HĐND, giám sát, xây dựng pháp luật, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân trên địa bàn tỉnh.
Tăng cường hơn nữa sự phối hợp hoạt động giám sát giữa Đoàn đại biểu
Quốc hội với HĐND và các cơ quan, đoàn thể ở địa phương. Tích cực tham gia các
Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các uỷ ban của Quốc hội đến giám
sát tại địa phương và việc tham gia hoạt động giám sát, trong việc tiếp xúc với cử tri
sẽ tạo điều kiện cho các đại biểu HDND để trao đổi thông tin về kiến thức pháp
84
luật, về tình hình chấp hành pháp luật nói chung, cũng như trao đổi về kinh nghiệm
trong hoạt động nhằm góp phần nâng cao chất lượng giám sát của HĐND. Thời
gian qua HĐND tỉnh Savannakhet đã chú ý đến vấn đề này, song cần phải tăng
cường hơn nữa. Cụ thể: Thứ nhất, tăng cường phối hợp với Mặt trận xây dựng đất
nước tỉnh và các tổ chức thành viên. Chẳng hạn như: mời Mặt trận xây dựng đất
nước tỉnh tham gia hoạt động giám sát cùng với các Ban để tăng thêm giá trị chức
năng tư vấn của các Ban đó. Từ đó nội dung giám sát có thể không phải đưa ra kỳ
họp HĐND nhưng vẫn được các cơ quan nghiêm chỉnh chấp hành. Thứ hai, tăng
cường phối hợp với các cơ quan ban ngành liên quan nhằm cung cấp thêm thông tin
cho giám sát. Ví dụ, Thường trực HĐND và các Ban của HĐND phải tham gia đầy
đủ các cuộc họp của UBND; yêu cầu các sở, ban, ngành nhất là cơ quan Tư pháp,
các cơ quan chuyên môn như sở Kế hoạch đầu tư, sở Tài chính, Ngân hàng nhà
nước, Kho bạc nhà nước... phải cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động hàng quý, hàng
tháng cho HĐND. Có như vậy, cùng với nguồn thông tin khác HĐND mới có đủ
căn cứ xác định các đối tượng và nội dung cần tập trung giám sát. Thứ ba, tăng
cường phối hợp với các đơn vị được giám sát để tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật
chất cũng như các nội dung, hiện trường phục vụ giám sát. Thứ tư, tăng cường phối
hợp với các chuyên gia về lĩnh vực được giám sát sẽ giúp cho HĐND nhìn nhận
đánh giá một cách khách quan chính xác các vấn đề giám sát. Thứ năm, tăng cường
phối hợp với các đoàn giám sát của Quốc hội. Khi có Đoàn đại biểu Quốc hội
xuống địa phương giám sát, Thường trực, các Ban của HĐND có thể kết hợp thực
hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, vừa tránh được chồng chéo, vừa tranh thủ được
trí tuệ của các đại biểu Quốc hội trong việc tháo gỡ những vướng mắc cho địa
phương, đồng thời giảm bớt việc gây phiền hà cho các đơn vị bị giám sát. Như vậy,
xuất phát từ chế độ làm việc, HĐND không thể sử dụng mệnh lệnh hành chính như
UBND hay các biện pháp cưỡng chế của ngành Tư pháp mà chỉ có thể đưa ra các
kiến nghị, đề xuất mang tính chất tư vấn.
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh là một khâu quan trọng trong cơ chế
giám sát nhằm đảm bảo và tăng cường pháp chế giữ vững trật tự xã hội và pháp
luật của Nhà nước. Cơ chế đó bao gồm một hệ thống các yếu tố tác động qua lại
85
với nhau từ giám sát tối cao của Quốc hội, HĐND, giám sát của Mặt trận Tổ quốc
và các thành viên của nó, giám sát của nhân dân, đến hoạt động kiểm sát của Viện
kiểm sát, thanh tra của các cơ quan ban ngành. Mỗi chủ thể có một nhiệm vụ giám
sát khác nhau nhưng tất cả đều có chung mục đích bảo đảm tăng cường pháp chế,
giữ vững trật tự xã hội pháp luật nhà nước. Do vậy, HĐND huyện cần chú trọng
đến sự phối hợp với các chủ thể giám sát khác, với các cấp, các ngành cũng như
các chuyên gia để tránh sự chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
giám sát.
Thời gian qua HĐND tỉnh Savannakhet đã chú ý đến vấn đề này, song
chúng ta cần phải tăng cường hơn nữa. Cụ thể:
Thứ nhất, tăng cường phối hợp với Mặt trận xây dựng đất nước huyện và
các tổ chức thành viên. Chẳng hạn như: mời Mặt trận xây dựng đất nước tham gia
hoạt động giám sát cùng với các ban để tăng thêm giá trị chức năng tư vấn của các
ban đó. Bởi vì khi thực hiện nhiệm vụ của mình các ban không có thẩm quyền độc
lập đưa ra các quyết định giám sát nên sự phối hợp tham gia của Mặt trận xây dựng
đất nước sẽ tăng thêm sức mạnh tư vấn trong các kết luận giám sát làm cho đối
tượng bị giám sát thấy rõ hơn hành vi của mình. Từ đó nội dung giám sát có thể
không phải đưa ra kỳ họp HĐND nhưng vẫn được các cơ quan nghiêm chỉnh chấp
hành.
Thứ hai, tăng cường phối hợp với các cơ quan ban ngành liên quan nhằm
cung cấp thêm thông tin cho giám sát. Chẳng hạn như TT HĐND phải tham gia
đầy đủ các cuộc họp của định kỳ của UBND; yêu cầu các phòng, ban, ngành nhất
là cơ quan Tư pháp, các cơ quan chuyên môn tổng hợp như kinh tế - hạ tầng, tài
chính, thuế, kho bạc... phải cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động hàng quý, hàng
tháng cho Hội đồng. Có như vậy, cùng với nguồn thông tin khác như do nhân dân
phản ánh, qua phương tiện thông tin đại chúng... HĐND mới có đủ căn cứ xác định
các đối tượng và nội dung cần tập trung giám sát.
Thứ ba, tăng cường phối hợp với các đơn vị được giám sát để tạo điều kiện
thuận lợi về cơ sở vật chất cũng như các nội dung, hiện trường phục vụ giám sát.
Khi báo cáo yêu cầu các đơn vị phải quán triệt quan điểm khách quan, trình bày
86
đúng thực trạng hoạt động của cơ quan đơn vị mình. Muốn làm tốt điều đó trước
hết phải thay đổi cách đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước theo hướng đi
nào thực chất hiệu quả của công việc, hạn chế bệnh hình thức đã tồn tại từ lâu. Mặt
khác trong quá trình phối hợp, HĐND phải chỉ rõ cho các đơn vị thấy rằng: giám
sát là để ngăn chặn tồn tại, giúp nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ, đó là động lực để
phát triển chứ không phải tìm tòi gây cản trở cho nhau.
Thứ tư, tăng cường phối hợp với các chuyên gia về lĩnh vực được giám sát
sẽ giúp cho HĐND nhìn nhận đánh giá một cách khách quan, chính xác các vấn đề
giám sát.
Thứ năm, tăng cường phối hợp với các đoàn giám sát của Quốc hội. Khi có
đoàn giám sát của Quốc hội xuống địa phương giám sát, Thường trực và các Ban
của HĐND tỉnh có thể kết hợp thực hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, vừa tránh
được chồng chéo, vừa tranh thủ được trí tuệ của các đại biểu tỉnh trong việc tháo
gỡ vướng mắc cho địa phương, đồng thời giảm bớt việc gây phiền hà cho các đơn
vị chịu giám sát.
Tóm lại, xuất phát từ chế độ làm việc HĐND, không thể sử dụng mệnh lệnh
hành chính như UBND hay các biện pháp cưỡng chế như ngành Tư pháp mà chỉ có
thể đưa ra các kiến nghị đề xuất mang tính chất vấn. Do vậy để nâng cao hiệu quả
giám sát thì giải pháp tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan ban
ngành và các tổ chức đoàn thể, trong hoạt động giám sát là việc làm hết sức cần
thiết.
Do vậy để nâng cao hiệu quả giám sát thì giải pháp tăng cường mối quan hệ
phối hợp với các cơ quan ban ngành và các tổ chức đoàn thể trong hoạt động giám
sát là việc làm hết sức cần thiết.
3.7. Bảo đảm điều kiện hoạt động giám sát của HĐND và các đại biểu HĐND
tỉnh
Tăng số lượng biên chế cho Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh đủ mạnh
và tạo điều kiện nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ, công chức trong việc thực
hiện nhiệm vụ tham mưu, phục vụ; đồng thời bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật
87
chất, trang thiết bị làm việc, kinh phí hoạt động, phương tiện đi lại phục vụ tốt các
hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát của HĐND tỉnh nói riêng.
Ủy ban thường vụ Quốc hội cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hướng
dẫn hoạt động của HĐND; tổ chức các lớp bồi dưỡng, các hội thảo, hội nghị để
nâng cao kỹ năng, trao đổi kinh nghiệm hoạt động của đại biểu HĐND. Hội
đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tăng cường mối quan hệ phối hợp hoạt
động với HĐND tỉnh, nhất là trong lĩnh vực giám sát.
Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ sử dụng kinh phí của
HĐND các cấp phù hợp với hoạt động đặc thù của HĐND như tổ chức kỳ họp, hoạt
động giám sát và tiếp xúc cử tri; hướng dẫn thực hiện chế độ kiêm nhiệm đối với
các chức danh trong HĐND không phải là cấp trưởng ban, chế độ khen thưởng đối
với các tổ chức và đại biểu HĐND.
Ngoài ra, một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả giám sát chưa cao
là do thiếu điều kiện vật chất và phương tiện thông tin cho các đại biểu. Trong điều
kiện xã hội ngày nay, nhu cầu cung cấp thông tin là rất cần thiết. Hơn nữa các đại
biểu HĐND cấp tỉnh, các cơ quan của HĐND muốn thực hiện tốt chức năng của
mình thì nhu cầu được đảm bảo về thông tin là một yêu cầu lớn càng phải được hỗ
trợ một cách đầy đủ nhất. Thông tin cần phải được cập nhật sâu, rộng, trong mọi
lĩnh vực giám sát. Để làm tốt nội dung trên cần phải tăng cường công tác thông tin,
lưu trữ và công tác tư liệu, đảm bảo đầy đủ về nội dung thuộc mọi lĩnh vực giám sát
của HĐND. Đồng thời việc cung cấp thông tin phải phù hợp với kế hoạch giám sát,
tránh tình trạng gần đến khi HĐND cấp tỉnh họp hoặc trong kỳ họp mới gửi tài liệu
cho đại biểu, vì vậy không đủ thời gian để đại biểu nghiên cứu, phân tích tài liệu đối
chiếu thông tin một cách kỹ lưỡng. Để tăng nguồn thông tin trong thời gian chuẩn bị
và diễn ra kỳ họp HĐND các cấp nên thành lập một số đường dây điện thoại để tiếp
nhận thông tin do cử tri phản ánh. Với biện pháp này HĐND sẽ nắm được bức xúc
của cử tri, kịp thời giải quyết, tránh hiện tượng xảy ra điểm nóng làm ảnh hưởng
đến ổn định an ninh, chính trị của địa phương.
Nên ứng dụng khoa học, công nghệ cho HĐND như thành lập các trang
website của HĐND, tiếp tục biên tập phát hành bản tin của HĐND mỗi quý một
88
cuốn. Đó sẽ là địa chỉ tin cậy để các đại biểu HĐND, cử tri và mọi người dân
nghiên cứu tham gia trao đổi, góp ý kiến cho HĐND hoạt động hiệu quả hơn. Về
điều kiện vật chất, đặc biệt là ở vùng xa đi lại khó khăn, Nhà nước cần có chính
sách đảm bảo cho HĐND thực hiện tốt chức năng của mình. Cần quan tâm hơn nữa
đến chế độ đãi ngộ, khen thưởng, quan tâm đến chế độ tiền tàu xe đi lại, phụ cấp
sinh hoạt phí cho đại biểu một cách hợp lý. Cùng với hoàn thiện quy định pháp luật
liên quan đến các điều kiện bổ trợ cho hoạt động của đại biểu HĐND cần thực hiện
kịp thời, đầy đủ chế độ, chính sách cho các đại biểu. Ngoài chế độ sinh hoạt phí cần
cung cấp kinh phí cho các đại biểu phục vụ hoạt động thu thập thông tin, tham vấn ý
kiến của các chuyên gia; chí phí công tác phí trong thời gian làm nhiệm vụ của
HĐND. Trang bị hệ thống kỹ thuật để phục vụ các kỳ họp, thay thế hình thức biểu
quyết giơ tay truyền thống bằng hình thức biểu quyết bấm nút điện tử, bảo đảm cho
các đại biểu độc lập khi biểu quyết các vấn đề. Do phần lớn các đại biểu HĐND
hoạt động kiêm nhiệm nên không thể nắm bắt hết mọi lĩnh vực, mọi vấn đề. Do đó,
việc thiết lập một cơ quan tham mưu, phục vụ chuyên nghiệp cho hoạt động của
HĐND là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của
HĐND. Để đạt được điều này cần thiết sắp xếp, kiện toàn lại tổ chức cơ quan giúp
việc cho hoạt động của HĐND bảo đảm hoạt động tham mưu có chiều sâu và kịp
thời. Hiện nay các chuyên viên Văn phòng HĐND chủ yếu tự học hỏi, làm việc theo
kinh nghiệm. Do đó, để nâng cao chất lượng tham mưu cần có chương trình, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ tham mưu, phục vụ cho hoạt động
của HĐND.
Tóm lại, các giải pháp nói trên đều rất cần thiết, mỗi giải pháp có một vai trò
riêng, khó có thể đánh giá giải pháp nào quan trọng nhất. Tuy nhiên, chúng chỉ đem
lại hiệu quả thiết thực nếu được tiến hành một cách đồng bộ, hợp lý và kiên quyết,
trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác
nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND hiện nay. Tuy nhiên, đối với tỉnh
Savannakhet nói riêng, giải pháp có tác động lớn nhất đó là nâng cao năng lực của
các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh, cụ thể là giải pháp nâng
cao năng lực của đại biểu HĐND, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của
89
thường trực HĐND, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của các Ban HĐND và
nâng cao chất lượng hoạt động cho tổ đại biểu và tổ chức giám sát của tổ đại biểu
HĐND tỉnh.
90
Tiểu kết chương 3
Nhà nước CHDCND Lào luôn quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt
động của HĐND các cấp nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng, trong đó có chức
năng giám sát. Hoạt động giám sát là một trong những chức năng quan trọng của
HĐND. Sự hình thành quyền giám sát của HĐND bắt nguồn từ sự vận dụng sáng
tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và
hoạt động của cơ quan chính quyền địa phương. Nhìn lại hoạt động giám sát của
HĐND các cấp nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng trong thời gian qua có thể
thấy, hoạt động giám sát của HĐND đã góp phần tích cực vào việc giải quyết các
kiến nghị của cử tri, các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; các vụ việc tiêu
cực, các vi phạm về quản lý trong các lĩnh vực khác nhau ở địa phương và những
vấn đề liên quan đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Hoạt động giám sát đã từng bước được cải tiến và đổi mới đạt hiệu quả cao. Thông
qua hoạt động giám sát những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân được giải
quyết kịp thời, giúp các cơ quan hữu quan tháo dỡ khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Dù đã có những tiến bộ rõ rệt, nhưng hiệu quả giám sát của HĐND
cấp tỉnh vẫn chưa thực sự xứng với vai trò, vị trí của HĐND, vẫn còn nhiều bất cập
hạn chế. Hệ thống pháp luật về giám sát, một số quy định còn thiếu tính khả thi, còn
nhiều bỏ ngỏ…cho nên, nhiều địa phương hoạt động giám sát mới chỉ ở mức chung
chung, thiếu chủ động, kiên quyết, còn nặng tính hình thức. Do đó, phải kết hợp
một cách đồng bộ các giải pháp trên, để phát huy hơn nữa sức mạnh của HĐND,
góp phần xây dựng bộ máy Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở CHDCND Lào giai
đoạn hiện nay.
91
KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế như hiện nay thì vấn
đề nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả giám sát của HĐND lại càng trở nên cấp
bách hơn nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng nhà nước
trong sạch, vững mạnh. Giám sát là một trong những chức năng chủ yếu của
HĐND. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự đổi mới một cách toàn diện, từ luật
pháp đến nhận thức của các cá nhân, tổ chức. Từ đổi mới nhận thức mới có đổi mới
về mặt ban hành pháp luật, bố trí đại biểu HĐND và đại biểu HĐND chuyên trách,
tạo điều kiện để HĐND thực hiện tốt chức năng giám sát của mình. Bên cạnh đó, đề
ra những giải pháp lâu dài và những giải pháp mang tính trước mắt để từng bước
nâng cao chất lượng giám sát của HĐND cấp tỉnh, từ đó nâng cao chất lượng hoạt
động giám sát của HĐND nói chung.
Thực tiễn cho thấy, trong nhiệm kỳ vừa qua HĐND tỉnh Savannakhet đã bám
sát các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cùng
sự nỗ lực phấn đấu của các đại biểu HĐND tỉnh, TTHĐND, các Ban của HĐND, bộ
máy giúp việc cho hoạt động của HĐND, sự phối hợp tốt với các cơ quan, đơn vị, tổ
chức có liên quan trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong
hoạt động của HĐND tỉnh nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Kết quả giám
sát của HĐND đã có tác dụng tích cực trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc tại
địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động giám sát vẫn còn tồn tại một số hạn
chế nhất định làm cho HĐND chưa thực sự phát huy vai trò là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương. Do đó, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động giám sát
của HĐND cấp tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Savannakhet nói riêng là một trong
những nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước của bộ máy chính quyền địa phương. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu
khoa học “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Savannakhet nước
CHDCND Lào” đã phần nào chỉ ra một số ưu điểm, hạn chế bất cập trong hoạt
động giám sát của HĐND tỉnh trong thời gian qua, đồng thời, mạnh dạn đưa ra một
số giải pháp, kiến nghị, đề xuất để hoạt động giám sát thực sự có hiệu quả, HĐND
92
thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, quyền lực và nguyện vọng của nhân dân trên
địa bàn tỉnh. Từ đó, củng cố niềm tin, thu hút sự quan tâm, theo dõi và tích cực
tham gia của nhân dân vào hoạt động giám sát của HĐND, góp phần làm cho hoạt
động giám sát của HĐND tỉnh ngày càng có chất lượng hơn, đảm bảo việc thực
hiện Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND ngày càng tốt hơn. Có như vậy
mới thực sự tạo ra cơ chế hữu hiệu bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân, một
tiền đề cơ bản để thực hiện dân chủ hóa toàn bộ bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn
cách mạng hiện nay. Giám sát của HĐND là hoạt động có mục đích, thường xuyên,
liên tục của HĐND nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra, phát hiện, uốn nắn việc tuân
theo pháp luật, thực hiện các nghị quyết của HĐND của TTHĐND, UBND, TAND,
VKSND cùng cấp; của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và của công dân ở địa phương theo quy định của pháp luật. Đề tài đã
xây dựng hệ thống mục tiêu, phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực và hiệu
quả hoạt động giám sát của HĐND trong thời gian tới. Trong đó dựa trên lý thuyết
hệ thống, đề tài đã nêu lên giải pháp quan trọng hàng đầu là đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo của đảng đối với HĐND, nhằm nâng cao nhận thức của hệ thống chính
trị về vai trò vị trí và tầm quan trọng của HĐND trong việc bảo đảm thực thi quyền
lực của nhân dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân. Từ đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của đảng để đổi mới tổ chức, cán bộ
và phương thức hoạt động của HĐND. Thực hiện đồng bộ được các giải pháp cụ thể
trên, kết hợp với nghiên cứu sâu và có định hướng lâu dài sẽ giúp phát huy được ưu
điểm của hoạt động giám sát của HĐND và khắc phục những nhược điểm của nó sẽ
góp phần vào việc xây dựng bộ máy Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Trên cơ sở những nghiên cứu về hoạt động của HĐND để đưa ra các yêu cầu
và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của HĐND có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc ứng dụng Luận văn vào hoạt động thực tiễn.
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Lào
1. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IV, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
2. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
3. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
4. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
5. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
6. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
7. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
8. Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2003; sửa đổi, bổ sung năm
2015.
9. Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luật tổ chức Quốc hội năm
2003 sửa đổi, bổ sung năm 2015.
10. Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
tối cao năm 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2015.
11. Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luật tổ chức Chính quyền địa
phương năm 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2015.
12. Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân tỉnh, 2015
13. Văn phòng Trung ương Đảng (2002), Việc áp dụng công nghệ thông tin vào
phát triển công tác văn phòng, Viêng Chăn.
14. Văn phòng Chính phủ (1996), Tiêu chuẩn về cán bộ, công chức Văn phòng
tỉnh, thành và huyện, Viêng Chăn.
94
15. Ban Kinh tế, Kế hoạch và Đầu tư HĐND tỉnh Savannakhet, Báo cáo tổng kết
các năm 2016, 2017 và 2018
16. Ban Pháp chế - An ninh và Quốc phòngHĐND tỉnh Savannakhet, Báo cáo tổng
kết các năm 2016, 2017 và 2018
17. Ban Văn hóa - Xã hội và Dân tộc HĐND tỉnh Savannakhet, Báo cáo tổng kết
các năm 2016, 2017 và 2018
Tài liệu tiếng Việt
18. Nguyễn Viết Bé (1998), Nhân dân lao động thực thi quyền lực chính trị thông
qua cơ quan dân cử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. BuaPhan VoRaChit (2007), Hoàn thiện bộ máy tổ chức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của văn phòng tỉnh Phong Sa Ly, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,
Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia.
20. Nguyễn Đăng Dung (1992), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
21. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Giáo trình hành chính văn phòng trong
cơ quan nhà nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Hà
Nội.
23. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Hiến pháp và luật Tổ chức nhà nước,
Hà Nội.
24. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Thanh tra, giải quyết khiếu nại hành
chính, Hà Nội.
25. Phạm Ngọc Kỳ (1995), Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Luận án tiến sỹ,
Viện Nhà nước và pháp luật.
26. Trần Thị Thanh Mai (2001), Đổi mới tổ chức bộ máy Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
27. Đồng Thị Thanh Phương, Nguyễn Thị Ngọc An (2008), Giáo trình
Quản trị Hành chính Văn phòng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
95
28. Lê Minh Quân (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Lưu Kiếm Thanh (2009), Nghiệp vụ hành chính văn phòng, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
30. Nguyễn Hữu Thân (2004), Quản trị hành chánh văn phòng, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
31. Nguyễn Quốc Thắng (2001), Hoàn thiện quy trình xem xét, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước trong hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
32. Văn Tất Thu (2011), Tổ chức và hoạt động của văn phòng bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Phạm Thị Tình (1998), Chức năng lập pháp của Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học luật Hà Nội.
34. Vanxay Sengdavong (2013), Tổ chức bộ mày của Văn phòng tỉnh PhongSaLy
nước CHDCND Lào, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính công, Học viện
Hành chính Quốc gia
35. Văn phòng Quốc hội - Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (2011), “Báo cáo
nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của Văn phòng Quốc hội”,Dự án tăng
cường năng lực của các cơ quan dân cử ở Việt Nam.
36. Viện Nghiên cứu lập pháp (2013), Hoạt động giám sát của Quốc hội, Nxb Lao
động, Hà Nội.
37. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Nhà xuất
bản Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng.
38. http://na.gov.la/
PL1
Phụ lục 1
Danh sách Ủy viên Thường trực HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018
Giới
Ngày tháng
Ghi
STT
Tên và họ
Chức vụ
tính
năm sinh
chú
Nam
1 KhamPhoi PHANTHACHONE
01.05.1956
Chủ tịch
Nam
2 KhamPhanh KHOUNSAVAT
03.01.1965
Phó Chủ tịch
Nam
3
PhuThon KEOPHOUVONG
01.07.1961
Phó Chủ tịch
Nam
4 VanhKham INTHISAK
01.01.1950
Ủy viên
BounTem XUANGSAYAVONG Nam
08.06.1950
Ủy viên
5
Nam
SangVan VONGVILAY
31.08.1964
Ủy viên
6
Nam
7 KhamDy SOUVANHNASAN
12.10.1965
Ủy viên
PL2
Phụ lục 2
Danh sách Cán bộ nhân viên Ban Pháp chế - An ninh và Quốc phòng
thuộc HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018
Ngày
Ghi
STT
Tên và họ
Giới tính
tháng
Chức vụ
chú
năm sinh
Nam
SangVan VONGVILAY
1
Trưởng Ban
Nam
SomPhone SOUTTHISOMBAT
2
Phó Truởng Ban
Nữ
KhamPheng VILAYTHONG
3
Phó Truởng Ban
TIỂU BAN PHÁP CHẾ
Nữ
LatDaVon KEOBOUTTRAVONG
4
Trưởng Tiểu Ban
Nữ
Seng Thong CHANHNITA
5
Phó Truởng Tiểu
Ban
Nữ
6 MomBounHak
XUANGSAYAVONG
Nam
7
ChamBo LATSABANDIT
Nam
8 YomMa PHENGKHAMMA
TIỂU BAN AN NINH – QUỐC PHÒNG
Nam
9
Trưởng Tiểu Ban
SiMon
SINGKONGCHANTHAVONG
Nam
Phó Truởng Tiểu
10 SoukSomPhon
Ban
KHAMPASEUTXAIYA
Nữ
11 NongSy OUNSAPHONG
Nữ
12 KhanThiChone XAISAAT
PL3
Phụ lục 3
Danh sách Cán bộ nhân viên Ban Văn hóa - Xã hội và Dân tộc
thuộc HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018
Ngày
Giới
tháng
STT
Tên và họ
Chức vụ
Ghi chú
tính
năm sinh
1 BounTem XUANGSAYAVONG Nam
Trưởng Ban
Truởng
Phó
2 KhamPhet KEOPHITHOUN
Nam
Ban
Truởng
Phó
3 ChanhSaMonSONPHONGPHAN Nam
Ban
TIỂU BAN VĂN HÓA – XÃ HỘI
4
PhoneSaVanh
Nam
Trưởng
Tiểu
Ban
XOUMPHONPHAKDY
5
SengMaNy PHOUDTILARD
Nam
Phó
Trưởng
Tiểu Ban
6
Sone SOULICHANH
Nam
7 Mee SOMMIXAI
Nam
8
PangKham LATXAVONG
Nam
TIỂU BAN DÂN TỘC
9 MiXai XAIYAVONG
Nam
Trưởng
Tiểu
Ban
Phó
Trưởng
10 BounTa SITTHISAK
Nữ
Tiểu Ban
11 SengThip KEOCHAIDY
Nữ
12 KhounMa MANISI
Nữ
13 LamPhone KHAMMIPHONE
Nữ
PL4
Phụ lục 4
Danh sách Cán bộ nhân viên Ban Kinh tế - Kế hoạch và Tài chính
thuộc HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018
STT
Tên và họ
Giới
Ngày
Chức vụ
Ghi
chú
tính
tháng năm
sinh
1
KhamDy SOUVANHNASAN
Nam
Trưởng Ban
2
SomXai KHAMYAIMANI
Nam
Phó Truởng Ban
3
KeoViengXai CHANHSAMAI Nữ
Phó Truởng Ban
TIỂU BAN KINH TẾ
4
MonPhet SOUPHANHTHONG Nam
Trưởng Tiểu Ban
5
ChanSaMone VONGXAISO
Nam
Phó Trưởng Tiểu Ban
6
ThipPhaPhon INSIXIENGMAI Nữ
Phó Trưởng Tiểu Ban
7
BeBi SISOMBAT
Nữ
8
KhamBay INTHISENG
Nữ
9
Peter MATNIVONG
Nam
10
KhatThaSon LATTANAVONG Nam
TIỂU BAN KẾ HOẠCH – TÀI CHÍNH
Trưởng Tiểu Ban
11
KeoViLai KHOTSOMBAT
Nữ
Phó Trưởng Tiểu Ban
12 MounMa PASOMSI
Nam
13
PhoutPanYa KHOTSOMBAT
Nữ
14
PhimSouDa HUNGHUANG
Nữ
15
ViPhaDa PHAXAISI
Nữ
PL5
Phụ lục 5
Danh sách Cán bộ nhân viên Ban Thư ký thuộc
Ghi
HĐND tỉnh Savannakhet năm 2018
STT
Tên và họ
Giới
Ngày
Chức vụ
chú
tính
tháng năm
sinh
VanhKham INTHISAK
Nam
1
Trưởng Ban
ThongSai INTHISENG
Nam
2
Phó Truởng Ban
PhouThone
Nam
3
Phó Truởng Ban
PHOUTTHAKHANTI
TIỂU BAN TỔNG HỢP – THÔNG TIN
BouaLom INTHITHAVONG
Nam
Trưởng Tiểu Ban
4
KhamMuen KHANTHAVONG Nam
5
Phó Trưởng Tiểu Ban
ThaNouSit SINGMAVONG
Nam
6
Phó TrưởngTiểu Ban
ChoLaChone
Nữ
7
SENGMANICHANH
ViengXai PHOMAVANH
Nam
8
KhounSanVanh MEKSAVANH Nữ
9
TIỂU BAN HÀNH CHÍNH VÀ KẾ HOẠCH
SiYa PHINMAVONG
Nữ
11
Trưởng Tiểu Ban
AnouSak XAIYAVONGSA
Nam
12
Phó Trưởng Tiểu Ban
SengOuThai MATTHAVONG
Nam
13
NaKhonePheng SIDALAVILAI Nam
14
VatSaNa
Nữ
15
CHANTHAVONGXAI
SoukSaMai INSIXIENGMAI
Nữ
16
SomPaSit MIXAIBOUA
Nam
17
SomDet MEKSAVANH
Nữ
18
PhetSaDa KEODUANGDY
Nữ
19
OlaPhan SOUKHOUMALAI
Nữ
20
PL6
TIỂU BAN TỔ CHỨC VÀ KIỂM TRA
KhanThong KHOMTHILAT
Nam
Trưởng Tiểu Ban
22
ThongDy PHOMMASENG
Nam
Phó Tr Tiểu Ban
23
KhamLa XANOULAT
Nam
24
BanThaHat BOUTCHAMPA
Nam
25
TỔ CHỊU TRÁCH NHIỆM CÔNG VIỆC BẦU CỬ VÀ ĐỐI NGOẠI
VanNaPhone VONGVICHIT
Nam
Tổ trưởng
26
Nữ
Phó Tổ trưuởng
SomPhoneSouk
27
VILAYPHOUMI
28
SomSaVanh THOULACHAN
Nữ